13 | Thức tỉnh khỏi ảo tưởng tập thể

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 10/4/2005.

13.1. Con có thể đồng-sáng tạo sự dồi dào với tâm thức Ki-tô

Thày muốn gom lại một số ý tưởng thày đã cho con trong các chìa khóa trước hầu thày có thể đưa ra một bức tranh mạch lạc hơn về những gì còn cần làm để biểu hiện cuộc sống dồi dào. Thày đã giải thích ý nghĩa thật của câu nói Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, là con đã được thiết kế để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được thiết kế để nhận liên tục đời sống dồi dào từ bên Trên. Con sẽ nhận cuộc sống dồi dào này dưới dạng một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục, chảy từ Hiện diện TA LÀ của con vào tâm ý thức của con. Sau đó con có thể điều khiển dòng chảy này để biểu hiện cuộc sống dồi dào trên thế giàn này. Khi làm vậy, con làm tròn vai trò người đồng-sáng tạo với Thượng đế và con nhân lên năng lượng và khả năng sáng tạo mà Thượng đế ban cho con. Lúc ấy con có thể cai quản, trước tiên là chính mình và sau đó cai quản vũ trụ vật chất qua đó con giúp biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.

Lý do vì sao hiện nay con không biểu hiện đời sống dồi dào là vì con đã quên vai trò nguyên thủy của con. Con đã mất ý niệm bản sắc thật của con là một đồng-sáng tạo với Thượng đế. Thay vào đó, con đã chấp nhận một bản sắc giả, một bản sắc giả hiệu như một người phàm sinh diệt và tách biệt khỏi Thượng đế. Thậm chí con có thể tin là không có Thượng đế, không có cõi tâm linh, không có Hiện diện TA LÀ và con hoàn toàn đơn độc trong một thế giới thù nghịch và quanh mình đầy những người tìm cách lấy của con những gì mà con tin là chính đáng thuộc về mình.

Hầu hết những người đang xung đột đều bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức tập trung vào mình hay ích kỷ. Con người quá tập trung vào mình đến độ họ không còn nhận thức để nhìn bức tranh rộng lớn hơn. Họ không còn nhận thức để quan tâm đến hậu quả hành động của họ trên người khác hay thậm chí họ không còn nhận biết cao hơn là họ là một thành phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất và mọi việc họ làm đều ảnh hưởng tổng thể. Họ cũng quá ư tập trung vào cuộc sống trong vũ trụ vật chất nên chẳng còn sức chú ý để xét tới cõi tâm linh và biết được họ có thể nhận được dồi dào trực tiếp từ bên Trên thay vì phải lấy bằng sức mạnh từ thế giới này.

Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào và khắc phục cảm giác đấu tranh đang làm nhiều người mắc kẹt trong xung đột triền miên để giành giật một số tài nguyên giới hạn, con phải vượt thăng trạng thái tâm thức ích kỷ và duy vật này. Con phải vươn lên trên trạng thái đó và giành lại bản sắc thật của con là con trai hay con gái của Thượng đế, xứng đáng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con hoàn toàn đủ khả năng đồng-sáng tạo cuộc sống dồi dào ngay đây trên trái đất này. Trạng thái tâm thức cao này là tâm thức dựa trên sự hợp nhất với nguồn cội của con thay vì tách biệt khỏi Thượng đế. Đây là sự hợp nhất mà Giê-su mô tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Ý của Giê-su là: “Ta và Hiện diện TA LÀ của ta là một.” Tâm thức mà Giê-su chứng minh là ý niệm bản sắc dựa trên thực tại của con người thật của con thay vì dựa trên hình ảnh con người giả của con. Dù chúng ta có thể gọi trạng thái tâm thức này bằng nhiều tên, thày muốn gọi nó là quả vị Ki-tô cá nhân hay tâm thức Ki-tô. Vai trò của Giê-su khi xuống trái đất là để chứng minh trạng thái tâm thức này.

13.2. Tâm thức Ki-tô là tiếp cận sự sống dựa trên dồi dào và tình thương

Trước khi chúng ta tiếp tục xem xét thật chính xác cách biểu hiện tâm thức Ki-tô, thày muốn mô tả chi tiết hơn ý nghĩa của tâm thức Ki-tô. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn của cõi tâm linh mà tần số đã được hạ độ rung và đã khoác vào một hình tướng. Thước đo chính xác về sự dồi dào mà con người sẵn có trên trái đất là lượng năng lượng tâm linh đã được hạ độ rung và hiện nay rung động trong quang phổ của tần số vật chất. Một số năng lượng đã được hạ xuống quang phổ tần số của chất vật lý và một số năng lượng vẫn hiện hữu như năng lượng tâm lý. Một số năng lượng được biểu hiện thành dồi dào vật chất trong khi một số vẫn còn là tiềm năng dồi dào có thể được biểu hiện thành dồi dào vật chất qua uy lực của tâm con người.

Chìa khóa tối hậu để gia tăng dồi dào trên trái đất để tất cả đều có thể chia sẻ cuộc sống dồi dào, là đem thêm nhiều năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Chỉ có người đạt được tâm thức Ki-tô mới có khả năng đem năng lượng từ cõi tâm linh vào cõi vật chất. Chỉ có người có tâm thức Ki-tô mới có thể là cánh cửa mở để ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này và đó là lý do tại sao Giê-su có thể nói về mình: “Ta là con đường, sự thật và sự sống” (John 14:6), “Ta là cánh cửa” (John 10:9) và: “Chừng nào ta còn có mặt trên thế gian này, ta là ánh sáng của thế gian” (John 9:5). Bất cứ ai đạt được tâm thức Ki-tô có thể nói y như vậy. Mọi người đều có tiềm năng đạt được tâm thức Ki-tô.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét những cách biểu hiện dồi dào mở ra cho những người không đạt được tâm thức Ki-tô. Nếu con người tin vào triết lý duy vật không có Thượng đế hay họ tin cái nhìn chính thống thờ phượng Giê-su như một trường hợp ngoại lệ thay vì là tấm gương, họ không có chọn lựa gia tăng tổng số năng lượng hiện có trong cõi vật chất. Họ chỉ có thể gia tăng dồi dào bằng cách lấy đi từ số lượng chất liệu vật chất và năng lượng tâm lý hiện có trong hệ thống năng lượng của trái đất.

Chúng ta có thể lập ra một thang đo minh họa những ai gần tâm thức Ki-tô hay đã đi xuống thấp hơn tâm thức Ki-tô bao xa. Chúng ta hãy bắt đầu với người tiền sử sống trong hang động và trạng thái tâm thức mà y đại diện. Với người sống trong hang động, chúng ta thấy một sinh thể hoàn toàn đồng hóa với thân vật lý và đồng hóa với bản năng thấp của thân này. Người tiền sử sống trong hang động hầu như không xứng đáng với nhãn hiệu “con người” bởi vì y cư xử giống một con thú thông minh hơn là con người. Người tiền sử sống trong hang động không có mức nhận biết cao đủ để mường tượng là y có thể thay đổi môi trường. Do đó y sống như một con thú và thích nghi với hoàn cảnh, kiếm sống rất khó khăn bằng cách lấy những gì y cần từ Mẹ Thiên nhiên. Y dùng bằng sức mạnh để lấy mọi thứ để kiếm sống, như giết thú vật hay thu thập thức ăn sẵn có.

Khi y xung đột với những người tiền sử sống trong hang động khác, thì y chỉ có phản ứng duy nhất là bảo vệ bằng bạo lực của cải mà y cho là thuộc về mình. Không có thương thuyết, không có luật pháp hay thỏa thuận giữa những bộ lạc khác nhau hay những dân tộc khác nhau để phân chia đất đai và né tránh đụng độ. Ngay khi bị khiêu khích, bản năng thú tính của y bùng lên và y phản ứng với hội chứng đánh hay chạy điển hình của loài thú. Nếu không chạy được, y sẽ quay lại và đánh. Mức mà ngày nay các nhà khoa học coi là mức khởi đầu của chuỗi tiến hóa của nhân loại tiêu biểu cho mức thấp tuyệt đối của tâm thức Ki-tô. Người tiền sử sống trong hang động không phải là mức khởi đầu của nhân loại. Nó là điểm thấp mà con người rơi xuống khi họ lạm dụng khả năng sáng tạo của họ. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho trạng thái tâm thức thấp nhất theo nghĩa khả năng sáng tạo của con người, mà thế giới hiện đại biết được.

Từ giai đoạn người tiền sử sống trong hang động, con người đi trên một tiến trình tiến lên dần dần, họ gia tăng nhận biết cách dùng khả năng sáng tạo của họ để thay đổi hoàn cảnh và thậm chí tác động lên năng lượng. Một bước nhảy vọt lớn xảy ra khi con người học cách dùng lửa, gìn giữ lửa và kiểm soát lửa để làm dụng cụ. Một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học cách xây nhà của chính mình thay vì dựa vào các hang động tự nhiên. Thêm một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học được canh nông và do đó họ có thể dùng đất đai để sản xuất nhiều thức ăn hơn so với thức ăn đến từ săn bắn. Sự tăng trưởng về văn minh được chứng kiến trong 2,000 năm qua cũng tượng trưng cho sự tăng trưởng về nhận biết cách vũ trụ vận hành. Con người càng ngày càng có khả năng thay đổi môi trường thay vì thụ động thích nghi với môi trường. Phần lớn khả năng này tập trung vào việc học hỏi cách dùng chất liệu vật chất và học quy luật thiên nhiên và do đó họ tập trung vào sự thu hoạch dồi dào từ nguồn cung cấp có sẵn trong quang phổ tần số của vật chất vật lý.

Trong thế kỷ qua, con thấy con người gia tăng nhận biết về các dạng năng lượng tinh tế hơn, kể cả hiểu biết khoa học rằng vật chất là một dạng năng lượng. Con cũng thấy con người gia tăng hiểu biết về khía cạnh tâm linh của đời sống, đưa tới nhận biết mở rộng hơn về sự kiện tâm có một ảnh hưởng lớn trên mọi khía cạnh cuộc sống, như khoa tự giúp mình đã chứng minh. Con người ngày nay đã bước vào giai đoạn không còn giới hạn sự biểu hiện dồi dào chỉ từ chất liệu vật lý mà thôi. Con người bắt đầu biểu hiện dồi dào bằng cách dùng uy lực của tâm dù hiểu biết chính thức vẫn còn sơ khai. Nhiều người vẫn còn tập trung vào việc dùng tâm để khám phá những luật lệ sâu hơn của vũ trụ cho phép họ sử dụng vật chất tốt hơn. Càng ngày càng có thêm người tìm cách dò tìm tiềm năng tâm làm chủ vật chất qua đó họ có thể hoán chuyển năng lượng tâm lý thành chất liệu vật chất bằng cách hạ độ rung của nó và khoác vào hình tướng vật lý.

Khi nói tới sự gia tăng tâm thức con người, một khía cạnh là sự gia tăng nhận biết, gia tăng hiểu biết thế giới vận hành ra sao. Khi con gia tăng nhận biết, con biết cách dùng quy luật thiên nhiên giỏi hơn để có lợi cho con. Lúc đó con có thể bắt đầu tích cực thay đổi môi trường để nó thỏa mãn nhu cầu của con mà con không cần bỏ ra nhiều công sức. Như con thấy ngày nay trong xã hội loài người, sự gia tăng nhận biết này không phải là không có cạm bẫy. Nó không nhất thiết đem tới đời sống dồi dào hay trạng thái hạnh phúc và tâm an bình miên viễn. Cách sử dụng thiếu phân biện nhận biết mở rộng hơn của nhân loại có thể gây vấn đề có tiềm năng đe dọa sự sống còn dài hạn của loài người. Gia tăng nhận biết không đồng nghĩa với tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết là một phần của việc đạt tới tâm thức Ki-tô nhưng nó không phải là tâm thức Ki-tô trọn vẹn.

Gia tăng nhận biết về cách dùng quy luật thiên nhiên mà không kèm theo gia tăng hợp nhất với Thượng đế và mọi sự sống có thể kéo con ra xa khỏi tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết về thế giới vật chất không tự động tạo ra tâm thức Ki-tô. Nó có thể cung cấp nền tảng để một người tiến lên tâm thức Ki-tô nhưng không bảo đảm điều này sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con người có thể là cái bẫy nếu nó không được cân bằng bởi tình thương trong trái tim. Sự gia tăng nhận biết xảy ra trong tâm, nhưng tâm không cho con người khả năng yêu thương lẫn nhau và sống hòa bình với nhau. Con người đơn giản giỏi hơn trong việc lấy mọi thứ bằng sức mạnh trong khi chìa khóa thật để có dồi dào là vượt lên trên sức mạnh và biết rằng đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc. Con có thể đạt mọi chuyện con cần qua tình thương thay vì sức mạnh.

Điều này dẫn chúng ta tới khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô, chìa khóa thật của tâm thức Ki-tô, là xoay chuyển từ cách tiếp cận sự sống dựa trên thiếu thốn và sợ hãi sang cách tiếp cận dựa trên dồi dào và tình thương. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho một điểm thấp trong dòng tiến hóa trên cả hai phương diện, nhận biết của tâm trí về thế giới và khả năng yêu thương của con tim vượt lên trên tự ngã. Kể từ thời đó, con người đã gia tăng cả hai khả năng hiểu thế giới của tâm trí và khả năng yêu thương của con tim. Đáng tiếc là con tim đã không mở rộng nhanh như tâm trí. Ngày nay chúng ta thấy những người có khả năng sáng tạo công nghệ mới nhưng không có khả năng dùng nó một cách minh triết, kể cả khả năng chọn lựa không phải lúc nào cũng làm cái mà kỹ thuật có thể làm được.

13.3. Tình thương toàn hảo của Thượng đế sẽ xua tan mọi sợ hãi

Mọi xung đột của con người phát sinh từ tâm thức thiếu thốn. Trong trạng thái tâm này, cảm xúc chủ yếu là sợ hãi. Nó có thể là nỗi sợ không có đủ cho mọi người cho nên nếu tôi không lấy vật nào đó thì người khác sẽ lấy. Hoặc nếu tôi không bảo vệ những gì tôi có thì người khác sẽ lấy đi của tôi.

Trong tâm thức này, con sống trong một thế giới mà chung quanh đầy đe dọa. Khi con lúc nào cũng sợ mất mát thì bắt buộc con sẽ trở nên ích kỷ và nó ngăn chặn khả năng nghĩ tới hậu quả dài hạn của hành động của mình, nghĩ tới người khác hay nghĩ tới tổng thể. Giờ đây, chúng ta thấy tâm thức Ki-tô có hai đặc tính:

  • Một sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Điều này bao gồm sự nhận biết lớn hơn về quy luật thiên nhiên hướng dẫn sự trải bày của vũ trụ vật chất và những quy luật lớn hơn của Thượng đế cung cấp khung sườn trong đó các quy luật thiên nhiên vận hành.
  • Một sự gia tăng nhận biết con không phải là một cá nhân tách biệt khỏi tổng thể của tạo vật của Thượng đế hay tách biệt khỏi nguồn cội của con. Không người nào là một ốc đảo và để có thể thật sự hạnh phúc, con cần hiểu ra con chỉ cảm thấy hoàn toàn thỏa nguyện khi con thấy mình là một với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế trên trái đất.

Khi con xem mình là một cá nhân cô lập, tự động con rơi xuống tâm thức sợ hãi, tách biệt và thiếu thốn. Nếu con gia tăng nhận biết của tâm trí về quy luật thiên nhiên mà không khắc phục nỗi sợ của con, con sẽ không thể chuyển nhận biết của con thành cuộc sống dồi dào hơn. Con sẽ vẫn tiếp tục bị sợ hãi kìm siết và nhận biết của con đơn giản cho con thêm phương tiện mạnh mẽ hơn để lấy dồi dào từ người khác. Gia tăng nhận biết của con không gia tăng dồi dào trên thế giới, nó chỉ gia tăng căng thẳng và bạo lực trên thế giới.

Con chỉ có thể thăng vượt nỗi sợ làm con suy hoại này bằng cách nhận ra con là một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, con là một cá thể hóa của Thượng đế. Chỉ khi nào con hoàn toàn nhận ra và chấp nhận con là một phần của tạo vật của Thượng đế thì con mới tin Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc và con không cần phải sống trong thiếu thốn hay lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Khi con có được ý niệm bản sắc này, cảm nhận con là một với mọi sự sống và con là một với đấng Sáng tạo của con, con tự động trải nghiệm tình tương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Thượng đế có đối với con là một nối dài của ngài. Đây là tình thương toàn hảo sẽ xua tan mọi sợ hãi ra khỏi bản thể con. Khi con khắc phục sợ hãi, con sẽ tiếp cận cuốc sống dựa trên tình thương. Con có thể tuân theo mệnh lệnh của Giê-su thương yêu Thượng đế với tất cả con tim, tâm hồn và tâm của con và thương yêu người hàng xóm như chính mình (Mathhew 22:37).

Chìa khóa để trải nghiệm tình thương này là gì? À, phải chăng lời của Giê-su có hai nghĩa? Có thể nào chúng ta hiểu lời đó như sau: “Hãy thương yêu người hàng xóm của con như chính mình” không có nghĩa là con đơn giản thương yêu người hàng xóm giống như con thương yêu chính mình. Chúng ta có thể thấy chăng là nó có thể mang ý nghĩa thâm sâu hơn, nghĩa là con yêu thương người hàng xóm như chính con bởi vì con nhận ra người hàng xóm là con. Con nhận ra con và người hàng xóm đều là thành phần của cùng Thân thể Thượng đế và cả hai chúng con đều đến từ cùng một nguồn gốc. Con nhận ra cùng với Giê-su: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Để có thể thương yêu Thượng đế trọn vẹn với tất cả trái tim, tâm và hồn của con, con cần nhận ra Thượng đế không tách biệt khỏi con, Thượng đế là một phần của con vì con là một phần của Thượng đế. Con là một cá thể hóa của Thượng đế, do đó con yêu Thượng đế như chính con vì con nhận ra Thượng đế là cái ta thật của con, bản sắc thật của con. Điều này dẫn đến trạng thái hợp nhất với Thượng đế trong đó con không còn nghĩ cái ta vỏ ngoài, cái ý niệm bản sắc dựa trên tách biệt khỏi Thượng đế, là người hành động. Thay vào đó, con nhận ra cái ta cao, Hiện diện TA LÀ bên trong con là người hành động, là nguyên nhân đầu tiên, là nguồi cội của mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo.

Những ý tưởng này quả thực là mắt xích thiếu sót và chúng có thể giúp con bước ra khỏi tâm thức ích kỷ và tiến lên tâm thức Ki-tô. Đây là mắt xích thiếu sót có thể giúp con vươn lên từ tầng con thú thông minh lên tầng sinh thể tâm linh thật sự, một người đồng-sáng tạo thật với Thượng đế. Bước nhảy vọt này cũng lớn lao như bước nhảy vọt từ khỉ lên người mà khoa học không tìm ra mắt xích thiếu sót vì mắt xích đó là một sự nhảy vọt tâm thức.

Bây giờ chúng ta hãy trở lại ý tưởng con người có thể đi xuống mức thấp hơn rất nhiều tâm thức Ki-tô. Khi con xuống tới mức thấp nhất, con quả thực sống như một con thú, thích nghi với một môi trường nào đó và lấy bằng sức mạnh bất cứ sự dồi dào nào sẵn có trong môi trường. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào mình, vào sự sống còn và mong muốn của mình. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào vũ trụ vật chất, có nghĩa là con chỉ thấy vật chất mà mắt nhìn thấy và các điều kiện khác trong thiên nhiên có thể thỏa mãn các ước muốn của con. Con không có khả năng mường tượng là có điều gì đó mắt không thấy, có điều gì đó ở một cõi cao hơn, có thể thỏa mãn mong muốn của con. Con không thể mường tượng con có thể có điều con muốn từ một uy lực cao hơn sức mạnh vật lý.

Khi con gia tăng nhận biết, con học được là đằng sau các hiện tượng mà giác quan con quan sát có một bộ nguyên tắc chỉ đạo hay quy luật thiên nhiên. Khi con bắt đầu biết các quy luật này, con có thể dùng chúng để thỏa mãn các mong muốn của con mà chỉ bỏ ít sức hơn. Thậm chí con có thể tới điểm thỏa mãn các nhu cầu của con mà không dùng sức mạnh, không lấy từ người khác hay dùng sức mạnh để lấy từ Mẹ Thiên nhiên. Một số nền văn hóa đã chứng minh họ có thể sống hòa hợp toàn hảo với môi trường của họ, luôn luôn dùng tài nguyên tái tạo được và vì vậy họ có thể duy trì một nền văn hóa cả ngàn năm mà không cưỡng hiếp môi trường và không tiêu hủy khả năng hỗ trợ họ của môi trường.

Sống hòa hợp như vậy với thiên nhiên đòi hỏi con người có nhận biết về tổng thể nhưng nhận biết này không thể đến từ tâm trí mà chỉ có thể đến từ con tim. Những gì con thấy hiện nay trong xã hội Tây phương là sự gia tăng nhận biết về các quy luật thiên nhiên đi kèm theo nhiều khía cạnh đen tối. Rất có thể con người có thể dùng quy luật thiên nhiên để đạt được lợi thế tạm thời nhưng lại có những hậu quả lâu dài có tính cách hủy hoại cho chính họ hay các thế hệ mai sau. Công nghệ hiện đại đã tạo ra ô nhiễm có hậu quả lâu dài cho môi sinh và ngay cả cho gen của con người. Chỉ mới vài thập niên trước con người mới ý thức là một số hóa chất dùng để trừ những con sâu trùng làm phiền nhà nông cần thời gian dài để phân hủy và do đó những hóa chất này đi vào chuỗi thực phẩm, kết cuộc chúng đi vào thân thể con người đem lại nhiều hậu quả tiêu cực. Ngay cả ngày nay, con thấy con người ý thức nhiều hơn là ô nhiễm do công nghệ hiện đại gây ra có thể có những hậu quả trên khí hậu toàn cầu, khả dĩ gây ra những điều kiện khí hậu tàn khốc.

Công nghệ dựa trên sự hiểu biết thiên nhiên mà không kèm theo sự phát triển của con tim quả thực có thể cho con người một lợi thế tạm thời nhưng trong dài hạn, nó giảm thiểu lượng giàu có vật chất của hành tinh này. Loại công nghệ này là công nghệ dựa trên sức mạnh. Con người đã học được cách dùng quy luật thiên nhiên nhưng họ hành động với một trạng thái tâm thiếu thốn và sợ hãi, khiến họ muốn dùng sức mạnh để chiếm lấy thiên đường (Matthew 11:12). Vì họ dùng sáng tạo của họ một cách thiếu quân bình, Ánh sáng Mẫu-vật tạo ra môt lực đối nghịch ẽ rốt cuộc lấy đi sự an toàn mà họ cố xây dựng bằng sức mạnh.

Đây là bằng chứng rõ ràng là khi con người gia tăng nhận biết mà không cân bằng với gia tăng khả năng thương yêu cái gì lớn hơn tự ngã, thì họ sẽ không thăng vượt được trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi dẫn tới việc dùng sức mạnh. Con sẽ gia tăng quyền năng dùng sức mạnh và Mẹ Thiên nhiên sẽ phản ánh lại hành động của con qua dạng phản ứng ngược lại. Hành động mất quân bình của con càng mạnh bao nhiêu, phản ứng của Mẹ Thiên nhiên càng mạnh bấy nhiêu dưới dạng tai ương thiên nhiên. Đây đúng là những gì con đang thấy: tai ương là hậu quả của việc con người lạm dụng công nghệ. Bây giờ con thấy là nếu gia tăng nhận biết không kèm theo gia tăng tình thương và cảm nhận mình là một với mọi sự sống, thì nhân loại không tiến gần hơn việc biểu lộ tâm thức Ki-tô. Con người gia tăng quyn năng phá hoại và do đó con người gia tăng phản ứng của Mẹ Thiên nhiên, của chính Ánh sáng Mẫu-Vật.

13.5. Con sáng tạo phù hợp với quy luật Thượng đế

Tuy việc sử dụng công nghệ thiếu quân bình có thể tàn phá cõi vật chất vật lý, nhưng sự tăng trưởng nhận biết thiếu quân bình còn có hậu quả tàn khốc hơn nhiều. Ở giai đoạn tiến hóa thấp nhất của tâm thức nhân loại, con có những người chỉ ý thức sự hiện hữu của cõi vật lý, nghĩa là họ thấy chỉ có chất liệu vật lý là tài nguyên thỏa mãn mong muốn của họ. Nếu họ không phát hiện được một vật qua giác quan thì vật đó chẳng có giá trị gì và thậm chí còn không hiện hữu. Những người này chỉ có thể có được sự dồi dào từ năng lượng đã được biểu hiện sẵn như chất liệu vật lý, như vậy lẽ tất nhiên tiềm năng tích tụ dồi dào của họ bị giới hạn. Họ phải lấy cái gì đã biểu hiện sẵn là chất liệu vật lý và như vậy họ tự đặt họ trong vị thế ganh đua với tất cả mọi người khác cùng trình độ nhận biết với họ.

Khi con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thấp này, con ý thức rằng có nhiều sự dồi dào hơn so với những gì con mắt thấy được. Nhiều người biết đến tầm quan trọng của năng lượng vô hình. Nhiều người nhìn ra giá trị của hiểu biết cao hơn về việc tạo dồi dào từ những chất bị xem là vô giá trị. Hầu hết không có hiểu biết rõ ràng, có ý thức về năng lượng tâm lý, họ còn không có hiểu biết cơ bản mà thày đã cho con trong các chương trước. Một số đã học cách tác động lên năng lượng tâm lý một cách vô thức qua uy lực của tâm họ. Nhiều người trong số họ chỉ có hiểu biết hoàn toàn trí năng về sự kiện vật chất được làm từ năng lượng và tâm của họ có uy lực tác động lên năng lượng. Những người này quả thực không phát triển con tim, họ giản dị có nhận biết trí năng rộng lớn hơn về vũ trụ vật chất và những năng lượng thuộc vũ trụ này. Họ biết vũ trụ vật chất là nhiều hơn chất liệu vật lý và chìa khóa để tích tụ lượng dồi dào to lớn hơn là học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm.

Đáng tiếc thay, con người có thể gia tăng nhận biết về khả năng của tâm mà không gia tăng nhận biết về tổng thể bằng con tim. Con người có thể học cách tác động lên năng lượng tâm lý mà không gia tăng tình thương Thượng đế hay tình thương người anh em của mình. Họ có thể học cách tác động lên năng lượng trong khi họ vẫn còn hoàn toàn vị kỷ và ích kỷ. Một lần nữa, chúng ta hãy xét hai yếu tố cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô:

  • Một sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Nó bắt đầu với sự gia tăng hiểu biết về các quy luật thiên nhiên qua đó con có thể tích tụ dồi dào bằng cách sử dụng giỏi hơn chất liệu vật lý. Bước kế tiếp là học cách dùng tâm để sử dụng năng lượng tâm lý như là nền tảng để phát sinh dồi dào vật chất.
  • Một sự gia tăng nhận biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn và mình thương yêu tổng thể đó như chính mình. Như thế con có thể dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với quy luật của Thượng đế để con vừa gia tăng dồi dào cá nhân vừa gia tăng tổng lượng dồi dào. Con không lấy từ người khác nhưng con thêm vào tổng lượng dồi dào có mặt trên trái đất. Cuối cùng là con có khả năng đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật lý và đấy là nguồn gốc tối hậu của sự dồi dào.

Chỉ khi tiến hóa của tâm thức mang cả hai yếu tố, thì con mới có thể tiến hóa vượt lên trên ích kỷ và không rơi vào cạm bẫy dùng khả năng sáng tạo lớn lao hơn của con một cách ích kỷ. Có một số người trên trái đất đã đạt được một trình độ cao trong khả năng tác động lên năng lượng tâm lý. Họ đã đạt được khả năng khuynh loát người khác. Tư tưởng và tình cảm của con là những dạng năng lượng. Nếu một người đã thiện nghệ trong việc khuynh loát năng lượng lý trí và tình cảm, một người như thế có thể ảnh hưởng suy nghĩ và cảm xúc của con. Người đó có thể kiểm soát con qua trí thể và cảm thể của con. Nếu con muốn một ví dụ hiển nhiên của một người có khả năng đó, con hãy xem xét vì sao Adolph Hitler đã có thể khuynh loát một phần lớn dân chúng Đức để họ trở thành những rô-bốt vô tâm phục vụ cho mưu đồ quyền lực và kiểm soát của ông.

Trong thế giới ngày hôm nay có nhiều người có khả năng này và một số đã học cách dùng khả năng này đằng sau hậu trường để đại chúng không nhận diện ra họ. Một số trong những người này thậm chí còn dùng khả năng này để nổi danh. Đây là những người đã học được cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem vào quang phổ tần số vật chất nhưng độ rung chưa hạ xuống quang phổ tần số chất liệu vật lý. Năng lượng này vẫn hiện hữu như một tiềm năng có thể khoác vào hình tướng vật lý nhưng hình tướng thực thụ chưa được xác định. Khi một người đã học cách tác động lên năng lượng, người đó trở nên thiện nghệ trong việc điều khiển năng lượng biểu hiện thành hình tướng. Điều này cho phép một người như vậy tích tụ của cải vật chất lớn lao. Một phần, họ làm được bằng cách khuynh loát người khác làm công việc thật sự đem lại giàu có nhưng giàu có được tập trung trong tay của người giật giây đằng sau hậu trường.

Đấy là những người đã đạt một khả năng dùng tư tưởng làm chủ vật chất, dùng tâm làm chủ vật chất, cao nhưng họ vẫn chưa đạt được mức làm chủ con tim tương xứng. Họ không thấy họ là một với Thượng đế hay là một với các người khác. Họ thấy họ tách biệt khỏi Thượng đế, thường khi là chống lại Thượng đế. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả và một số trong nhóm người này thậm chí tin rằng họ nhiều uy quyền đến độ họ có thể khuynh loát quy luật của Thượng đế để không gặt những gì họ gieo. Một số thậm chí có mưu đồ công khai nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và tạo ra một thế giới trong đó Thượng đế không có mặt. Họ tìm cách dùng uy lực tâm của họ để kiểm soát tất cả những người khác trên hành tinh này hầu chứng minh thế giới này là một bầu cõi nơi Thượng đế không hiện hữu và nơi không cần tới một đấng Sáng tạo thông minh. Đây là một minh chứng rõ rệt về điều mà thày đã nói với con trước đây là khi con người không có kim chỉ nam dẫn đường tuyệt đối qua sự hiểu biết các quy luật của Thượng đế, các quy luật lệ đã được ghi sâu vào tâm họ, thì họ nghĩ họ có thể trở thành luật lệ cho chính họ. Họ dùng tâm tương đối và nhị nguyên để thiết lập luật lệ của chính họ về cái gì là tốt và xấu và trong sự mù quáng và ngạo mạn, họ nghĩ luật lệ tương đối của chính họ đã thay thế quy luật tuyệt đối của Thượng đế.

Con người có thể học cách dùng uy lực của tâm để tác động lên năng lượng tâm lý mà không mở rộng con tim để cho phép mình sử dụng năng lượng đem lợi lạc cho tổng thể. Con có thể tác động trên năng lượng để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn ích kỷ của con mà không xét đến hậu quả trên Thân thể Thượng đế trên trái đất và hậu quả trên Mẹ Thiên nhiên. Đây là loại người mà Giê-su nói tới: “Nếu vì vậy mà ánh sáng của ngươi tối, sự tối tăm này sẽ lớn biết là dường bao,” (Matthew 6:23) và: “Vương quốc của Thượng đế bị cưỡng ép và kẻ hung bạo muốn dùng bạo lực để chiếm lấy thiên đường” (Matthew 11:12). Nếu con đã học cách dùng năng lượng tâm lý với mục đích ích kỷ thì con biến năng lượng này thành bóng tối. Lượng bóng tối sẽ nhiều bằng lượng ánh sáng mà con tha hóa qua việc con dùng sức mạnh để lấy từ Thượng đế cái mà Thượng đế cho con vô điều kiện nếu con sẵn lòng vượt thăng ý niệm tách biệt với Thượng đế của con.

13.6. Điều tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể

Sự gia tăng nhận biết các khả năng sáng tạo của con là một phần trong việc đạt tới tâm thức Ki-tô. Nếu nhận biết này giới hạn trong tâm mà không được quân bình bởi sự phát triển của con tim thì có khả năng con người tha hóa khả năng sáng tạo của họ và dùng chúng cho những mục đích ích kỷ. Khi con đạt được tâm thức Ki-tô quân bình, khi sự gia tăng nhận biết sáng tạo của con được quân bình bởi tình yêu trong tim con, con sẽ chỉ dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với các quy luật của Thượng đế. Con sẽ không tìm cách thỏa mãn những ước muốn vị kỷ, ích kỷ vì con nhận ra con không phải là một cá nhân tách biệt. Con là một thành phần của Thượng đế và như vậy con là một thành phần của Thân thể Thượng đế. Điều gì tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể. Khi con khắc phục tâm thức sợ hãi tập trung vào tự ngã, con sẽ nhận ra không có mâu thuẫn giữa mong muốn cá nhân chân thực của con và điều gì tốt cho tổng thể Thân thể của Thượng đế trên trái đất. Con là một thành phần của tổng thể, do đó chỉ khi con khuếch trương tổng thể con mới thực sự được thỏa mãn.

Quả thực con có thể thỏa mãn các mong muốn cá nhân của con bằng một cách sẽ gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới và như vậy con cũng khuếch trương tổng thể. Khi con không gia tăng tình yêu trong tim con, tình yêu này cho con cảm nhận mình là một với tổng thể, con có thể bị mắc kẹt trong tâm mình. Lúc ấy con tin vào ý tưởng dối trá cho rằng con có quyền dùng uy lực tâm của con mà không đếm xỉa tới tổng thể. Khi con có tâm thức Ki-tô trọn vẹn, con cũng có nhận biết trọn vẹn mình là một nối dài của Thượng đế. Con có sự quân bình toàn hảo giữa mong muốn cá nhân và điều gì tốt cho tất cả mọi người khác. Con cũng biết cách thỏa mãn mong muốn cá nhân của con trong sự hài hòa với các quy luật Thượng đế, những quy luật được thiết kế để bảo đảm điều tốt nhất cho tổng thể. Sự quân bình này đạt được nhờ tâm Ki-tô vậy thì tâm nào đã cho phép con tác động lên năng lượng Thượng đế để sinh tạo hình tướng không thẳng hàng với quy luật Thượng đế? Chẳng phải nó là tâm phản Ki-tô? Chẳng phải chính tâm phản Ki-tô là tư duy cho phép một người tác động lên năng lượng nhưng không cho người đó tình yêu của con tim để dùng năng lượng phù hợp với quy luật Thượng đế?

Một số những vị thày giả trong lãnh vực phồn thịnh đã tìm ra cách tác động lên năng lượng tâm lý, qua đó dùng nó để khuynh loát người khác hay ngay cả tác động lên chất liệu vật lý hầu thu hút dồi dào về họ. Nếu những người này không gia tăng nhận biết của con tim, họ quả thực đang thu hút dồi dào qua tâm phản Ki-tô. Họ đang dùng uy lực của tâm họ để tác động lên năng lượng và cách này hoàn toàn không hi hòa với các quy luật Thượng đế, trong đó quy luật quan trọng nhất là Luật Tình thương đem lại sự hài hòa giữa cá nhân và tổng thể.

Con cần xem xét chủ đề này dù rằng thày ý thức là một số người cảm thấy khó chịu với chủ đề này vì nó có thể tạo sự sợ hãi. Không cần phải sợ các lực phản Ki-tô khi con biết cách chúng vận hành. Con chỉ sợ cái mà con không biết bởi vì nếu con không hiểu cách các lực đó đang tìm cach khuynh loát con thì làm sao con bảo vệ mình khỏi ảnh hưởng của chúng?  Khi con nhìn thấu suốt tư duy phản Ki-tô, con có thể tránh không cho những người kẹt trong tư duy này khuynh loát con hay cám dỗ con. Con có thể mắng ác ma giống như Giê-su khi thày bị cám dỗ sau khi thày rời sa mạc (Matthew 4:1). Chỉ bằng cách mắng tư duy phản Ki-tô đã thấm đẫm gần như mọi khía cạnh của đời sống trên hành tinh này, con mới có thể giải thoát mình khỏi tư duy này.

Làm sao con có thể hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô nếu con không giải thoát mình khỏi tư duy phản Ki-tô? Điều này giản dị không làm được. Như Giê-su đã nói, con không thể phục vụ hai chủ (Matthew 6:24). Con không thể phục vụ Thượng đế và Ma môn, con không thể phục vụ Thượng đế qua tâm thức Ki-tô lúc nào cũng tìm cách đem lại sự tốt lành nhất cho tất cả, và đồng thời phục vụ Ma môn, nghĩa là tâm thức ích kỷ, xuyên qua tâm phản Ki-tô.

Ngày hôm nay con phải chọn con sẽ phục vụ ai (Joshua 24:15), hoặc con phục vụ tâm thức của sự sống chính là tâm thức Ki-tô, hay con muốn phục vụ tâm thức chết là tâm thức phản Ki-tô. Thày nói, như Moses đã nói: “Con hãy chọn sự sống. Hãy chọn tâm thức Ki-tô là cánh cửa dẫn tới đời sống bất tử, đời sống vĩnh cửu của sự hợp nhất với cội nguồn của con và với mọi sự sống.” (Deuteronomy 30:19).

Trong suốt đời còn lại, con có thể tiếp tục gia tăng nhận biết của con về năng lượng tâm lý và cách tác động lên năng lượng này để tạo dồi dào vật chất cho cá nhân mình. Chừng nào con còn mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô, con bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Mọi hành xử của con sẽ không phù hợp với quy luật Thượng đế. Cái gì không phù hợp với quy luật Thượng đế tạo ra một xung lực mất quân bình, có nghĩa là chính Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tạo ra một xung lực đối chọi hầu duy trì quân bình trong vũ trụ.

Quả thực con có thể dùng tâm thức phản Ki-tô để tạm thời tích tụ dồi dào vật chất hay uy quyền trên trái đất này. Vũ trụ vật chất được thiết kế với một khoảng trì hoãn, có nghĩa là một sinh thể tự nhận biết có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình và tạo ra những hình tướng không phù hợp với quy luật Thượng đế. Vì yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ vật chất, những hình tướng thiếu quân bình như vậy sẽ không tự hủy hoại ngay tức khắc. Chúng có thể hiện hữu trong một thời gian và do đó con có thể dùng tâm phản Ki-tô để tạo ra dồi dào vật chất có thể kéo dài suốt quãng đời còn lại của con. Kinh thánh nói đúng khi nói rằng con gieo gì thì gặt nấy (Galatians 6:7). Kinh thánh cũng nói đúng khi nói rằng vẫn còn sự sống sau khi thân vật lý chết (Matthew 16:28). Điều này có nghĩa là nếu con không gặt hái điều con gieo khi xác thân vật lý còn sống thì chắc chắn dòng sống của con sẽ gặt hái điều con gieo trong tương lai.

13.7. Con phải tích cực đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Nếu con đã lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc truyền thống, thì con đã bị lập trình để tin rằng con chỉ có một kiếp sống duy nhất ở đây trên trái đất. Ý tưởng hư giả này đã đi vào đạo Cơ đốc qua ảnh hưởng của những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô nhìn cá nhân tách biệt khỏi tổng thể cho nên tâm phản Ki-tô là nguồn gốc của mọi ích kỷ. Một người càng bị mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô thì người đó càng ích kỷ và ví dụ tối hậu là tâm thức của người tiền sử sống trong hang động. Khi con chỉ chú trọng tới mình, con không thể nhìn quá những mong muốn ngắn hạn của con, do đó con không thể chấp nhận ý tưởng là hành động của con có những hậu quả mà con không tránh được. Một người cực kỳ vị kỷ không thể nào chấp nhận sự thật là họ sẽ chắc chắn gặt hái trong một kiếp tương lai những gì họ gieo trong kiếp này. Đó là lý do tại sao chân lý về tái sinh bị loại bỏ khỏi Cơ đốc giáo chính thống như Giê-su đã giảng chi tiết trong sách của thày [The Mystical Teachings of Jesus, Những Giáo lý Thần bí của Giê-su].

Ngay cả Cơ đốc giáo chính thống cũng dạy là linh hồn vẫn còn sống sau khi xác thân vật lý chết đi. Cơ đốc giáo chính mạch không thể giải thích sự kiện có những em bé sinh ra với tật nguyền trong khi có những em khác hoàn toàn lành mạnh. Nếu theo giáo lý chính thống thì không có lời giải thích hợp lý nào cho sự kiện mà ta có thể quan sát này. Điều này đã khiến nhiều tín đồ Cơ đốc suy luận phải có một Thượng đế bất công trừng phạt trẻ thơ vô tội mà có vẻ chẳng có lý do gì cả. Sự thật là Thượng đế không hề trừng phạt bất cứ ai. Thượng đế giản dị đã thiết lập một vũ trụ vận hành như một tấm gương phản ánh lại cho con những gì con gửi ra ngoài. Khi con dùng khả năng sáng tạo của con không phù hợp với quy luật Thượng đế, con tạo một hành động mất quân bình. Hầu duy trì quân bình trong vũ trụ, tấm gương vũ trụ sẽ tạo ra một phản ứng ngược lại. Phản ứng này sẽ không hủy bỏ ngay lập tức hành động của con. Có một yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ và lý do là giúp con có thêm cơ hội để học hỏi.

Nếu không có khoảng trì hoãn, nhiều hành động của con sẽ tạo một phản ứng trả về sẽ giết con chết tức khắc. Vì có trì hoãn, con có thể làm lỗi mà không hủy hoại mình ngay tức khắc và nếu bị hủy hoại thì con mất đi cơ hội học hỏi. Con được cho thời gian giữa lúc con làm lỗi và dòng xung lực quay ngược về con từ vũ trụ. Con có thể tăng trưởng nhận biết để khi phản ứng trở về với con, con đã vượt thăng tâm thức đã tạo ra hành động nguyên thủy. Nếu con đã vượt lên trên tâm thức này, Thượng đế có chọn lựa để qua bên hay giảm thiểu phản ứng của vũ trụ để con tiếp tục có cơ hội tăng triển trong kiếp sống hiện thời của con mà không bị gián đoạn bởi hành vi từ một kiếp trước. Điều này hoàn toàn có lý khi con nhận ra là ước muốn duy nhất của Thượng đế là con tăng trưởng qua sự thăng vượt không ngừng trạng thái tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con. Thượng đế không phải là Thượng đế giận dữ và trừng phạt mà biết bao nhiêu tôn giáo đã mô tả.

Những hoàn cảnh mà con kinh nghiệm trong kiếp sống này không phải là sự trừng phạt của Thượng đế và cũng không phải là kết quả của trò chơi may rủi. Chúng là hậu quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong một kiếp trước qua những chọn lựa của con trong những kiếp đó. Hoàn cảnh hiện nay của con không do Thượng đế tạo ra; nó do chính tự ngã của con tạo ra và như thế con đang gặt những gì con đã gieo trong quá khứ. Nếu con không nhận ra điều con trải nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những nguyên nhân con đã khởi động trong quá khứ, làm sao con khắc phục được cảm giác con là nạn nhân của những lực ngoài tầm kiểm soát của con? Con được sinh ra để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được sinh ra để trải nghiệm dồi dào trong cuộc sống, con không thể thụ động ngồi chờ Thượng đế đặt dồi dào vào lòng con. Con phải đảm nhận một vai trò tích cực và đứng thẳng hàng với các quy luật Thượng đế, với Hiện diện TA LÀ của con, để con có thể thành cánh cửa mở cho ánh sáng Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy xuống thế giới này và biểu hiện sự dồi dào.

Hầu hết người trên thế giới ngày nay, dù được nuôi dạy trong một tôn giáo chính thống hay khoa học duy vật, đã được lập trình để tin rằng họ là nạn nhân của những lực vượt quá tầm kiểm soát của họ. Hoặc họ là nạn nhân của một Thượng đế giận dữ và phán xét hay nạn nhân của luật thiên nhiên ngoài tầm kiểm soát của họ. Ngày nào con còn trong trạng thái tâm thức này và tin rằng con là nạn nhân bất lực của những lực ngoài tầm kiểm soát của con, thì làm sao con có thể thành một đồng-sáng tạo và biểu hiện sự dồi dào trong đời sống của con qua những nỗ lực của con? Tất cả những gì con làm được là theo phương cách thụ động và hy vọng một phép lạ nào sẽ biểu hiện sự dồi dào trong cuộc đời của con.

Chính tư duy này đã khiến nhiều người rơi vào tròng của những vị thày giả hứa hẹn một kế hoạch làm giàu nhanh chóng. Khi con nghĩ chọn lựa duy nhất của con để đem lại sự dồi dào là tìm con đường tắt đem lại dồi dào qua một phép lạ kỳ diệu, thì con dễ bị lung lay bởi những lời hứa hẹn trống rỗng của những người tự nhận là họ đã tìm ra ngõ tắt như thế. Con sẽ là con mồi dễ bắt cho những kẻ tự nhận là họ có thể dạy con cách dùng tâm để thu hút sự dồi dào. Họ sẽ không cho con biết những hậu quả dài hạn hay nói cho con là hệ thống của họ sử dụng tâm phản Ki-tô.

13.8. Chỉ có hợp nhất với Thượng đế mới đem lại dồi dào vô tận của Thượng đế.

Mục đích của khóa học này là cống hiến cho con một con đường chân chính và khoa học dẫn tới dồi dào bền vững. Mục tiêu của thày không phải là chỉ con đường tắt dẫn tới dồi dào tạm bợ. Mục đích của thày là chỉ con đường chân chính dẫn tới đời sống dồi dào có thể duy trì mãi mãi nếu con tiếp tục ở trong tâm thức Ki-tô. Đó là lý do tại sao thày cần phơi bày sự dối trá không những của các vị thày giả mà còn của toàn bộ tư duy phản Ki-tô đang ngăn cản con làm tròn vai trò đúng đắn của con. Vai trò đúng đắn của con là người đồng-sáng tạo có ý thức có thể với lên cõi tâm linh và đem xuống nhiều năng lượng tâm linh hơn vào quang phổ tần số vật chất. Đây là cách duy nhất để gia tăng lượng dồi dào sẵn có trên trái đất và đơn giản là chuyện này không làm được qua tâm phản Ki-tô. Những người với tư duy phản Ki-tô không thể với lên cõi tâm linh. Khi con bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt khiến con chối bỏ sự hợp nhất của con với Thượng đế, thì làm sao con thiết lập được sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế? Điều này không thể làm được cho nên tâm phản Ki-tô không bao giờ có thể với lên cao hơn quang phổ tần số vật chất. Đời đời kiếp kiếp nó bị kết án phải lấy dồi dào từ thế gian này cho nên nó phải lấy bằng sức mạnh.

Ta có thể nói Thượng đế đã thiết lập một cơ chế an toàn khác trong thiết kế vũ trụ của ngài. Uy lực sáng tạo tối hậu là đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Điều này đơn giản không thể làm được bởi cái tâm bị mắc kẹt trong ích kỷ và có khuynh hướng dùng năng lượng tâm linh cho những mục đích vị kỷ. Tâm đó có thể tác động trên năng lượng tâm lý nhưng không thể tiếp cận năng lượng tâm linh. Chỉ có tâm đã khắc phục được ích kỷ qua cảm nhận hợp nhất với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế mới tiếp cận được sự dồi dào vô tận của Thượng đế.

Ngay cả những người đã đạt được một trình độ cao trong việc làm chủ năng lượng tâm lý vẫn chưa đạt được khả năng với lên cõi tâm linh và tải xuống nhiều năng lượng Thượng đế hơn. Họ thiện xảo trong việc tích tụ dồi dào bằng cách thu hút nguồn năng lượng tâm lý, là năng lượng cao hơn và dồi dào hơn chất liệu vật lý nhưng thấp hơn năng lượng tâm linh. Những người như vậy có thể biểu hiện nhiều dồi dào hơn là nếu họ chỉ làm việc ở tầng chất liệu vật lý. Con đừng lầm tưởng nghĩ rằng họ có sự điều ngự tâm linh chân chính hay họ có tâm thức Ki-tô. Dù những thành đạt của họ có vẻ đáng nể phục nhìn từ góc độ vỏ ngoài, nhưng chúng chẳng là gì cả dưới ánh sáng của sự thật Thượng đế. Đó là lý do vì sao Giê-su cảnh giác chúng ta đừng theo những tiên tri giả (Matthew 7:15) sẽ tới dưới danh hiệu Giê-su, một số trong họ có thể phô trương những dấu hiệu và điều kỳ lạ nhưng dưới bề ngoài đó họ là loài sói hung dữ vì trong tim họ không có tình thương.

Những người như vậy chẳng làm chút gì để gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới này. Họ đơn giản học được cách tác động lên năng lượng tâm lý đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Họ chỉ làm được chuyện này qua sức mạnh, có nghĩa là hoặc họ lấy năng lượng tâm lý từ người khác hoặc họ dùng năng lượng tâm lý để khuynh loát người khác làm công việc vật lý và sau đó cướp hoa trái lao động của những người này cho giới thượng lưu quyền lực. Đó là lý do tại sao sự tranh giành quyền lực thật sự trên trái đất là tranh giành năng lượng, kể cả năng lượng tâm lý.

Một lần nữa, con có hai cách để biểu hiện sự dồi dào. Con thực sự có thể theo những vị thày giả và dùng tư duy phản Ki-tô tạo ra dồi dào vật lý tạm bợ cho chính mình. Con có thể tích lũy của cải đồ sộ trong kiếp sống này qua cách đó. Con yêu dấu, thày giản dị nói sự thật cho con ở đây, thày hoàn toàn trung thực với con. Một số những vị thày giả ngoài kia đã quả thực nói sự thật khi họ nói họ đã khám phá một hệ thống để con có thể biểu hiện sự dồi dào bằng uy lực của tâm. Ta có thể nói họ không phải là thày giả theo nghĩa thấp là họ đưa ra một hứa hẹn giả. Họ nói với con rằng họ có một hệ thống có thể giúp con biểu hiện giàu có và lời tuyên bố đó là thật. Họ không cho con biết hậu quả lâu dài của cách làm này. Họ không nói với con là nếu con làm theo hệ thống của họ, con sẽ buộc mình vào tâm thức phản Ki-tô và con không thể tránh gặt những gì con đã gieo trong kiếp này hoặc trong một kiếp tương lai.

Thày ở đây để nói với con là có một chọn lựa khác là con có thể biểu hiện dồi dào mà không mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Đây là chìa khóa chân chính, không phải là chìa khóa cho sự dồi dào vật lý tạm bợ mà là chìa khóa cho đời sống dồi dào trường tồn, cho đời sống vĩnh cửu. Đây là chìa khóa dẫn con bước ra ngoài cái chết, vượt lên trên tâm thức chết để đi vào đời sống trường cửu của tâm thức Ki-tô. Khi con đạt được tâm thức hợp nhất này, chính là vương quốc Thượng đế, mọi thứ khác quả thực sẽ được cộng thêm cho con (Matthew 6:33).

Con yêu dấu, thày giả định là nếu con đang học khóa học này, con đã biết trong tim mình rằng con không hề muốn học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm thức phản Ki-tô. Con biết rất rõ con muốn về nhà nơi vương quốc đấng Cha và do đó con không tìm đường tắt. Thày tới con với tình thương lớn lao và thày chìa tay ra để thày có thể dẫn con và cho con một sự hiểu biết rộng lớn hơn về cách khắc phục tâm thức phản Ki-tô và biểu hiện tâm thức Ki-tô. Trong các chương tới, thày sẽ giải thích làm cách nào con đi theo tiếng gọi của Paul: “Hãy để cho tâm đó ngự trong con mà cũng chính đã là tâm Giê-su Ki-tô” (Philippians 2:5).