15 | Bốn tầng của vũ trụ

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 19/4/2005.

Mọi thứ đều được tạo thành từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Đấng Sáng tạo của con tạo ra Ánh sáng Mẫu-Vật và ánh sáng này đã được dùng để tạo ra những bầu cõi trong bầu cõi, những thế giới trong thế giới, trải dài từ cấp độ cao nhất của tạo vật Thượng đế xuống tận vũ trụ vật chất. Khi mỗi bầu cõi tiếp theo được sinh tạo, Ánh sáng Mẫu-Vật lại được giảm độ rung xuống một phổ tần số khác. Trong mỗi bầu cõi như vậy, có nhiều tần số, nhiều tầng lớp khác nhau.

15.1. Bốn cõi rung động của vũ trụ vật chất

Vũ trụ vật chất được tạo thành từ ánh sáng tâm linh đã được hạ thấp độ rung xuống một phổ tần số nhất định. Trong phổ tần số này có bốn cấp độ tần số khác nhau, hay rung động khác nhau. Màu sắc của cầu vồng được tạo nên từ ánh sáng có màu sắc khác nhau. Các tia sáng có màu khác nhau là vì chúng rung động ở những tần số khác nhau. Có bốn cấp độ tần số cấu tạo vũ trụ vật chất. Khi ánh sáng tâm linh được hạ thấp rung động, trước tiên nó đi vào quang phổ cao nhất của cõi vật chất nơi nó khoác vào một hình tướng nào đó. Khi nó tiếp tục chảy xuống mỗi cấp độ kế tiếp, ánh sáng khoác vào – hay biểu hiện – hình tướng dày đặc hơn, cho tới khi cuối cùng nó khoác vào hình tướng dày đặc nhất, là loại hình tướng có thể được giác quan vật lý của con phát hiện.

Bốn tầng của vũ trụ vật chất tương ứng với bốn cõi, hay bốn thể, cùng nhau tạo thành toàn bộ vũ trụ. Vũ trụ vật lý khả dĩ được phát hiện bởi giác quan của con và các loại dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, chỉ là phần nổi của một tảng băng ngầm. Đó là cõi thấp nhất trong bốn cõi về mặt rung động, có nghĩa là những gì biểu hiện trong cõi vật lý chỉ là sản phẩm của những nguyên nhân được khởi động ở các cõi cao hơn. Như Shakespeare đã nói, giữa trời và đất còn nhiều thứ nữa, và cái nhiều hơn này chính là ba tầng còn lại của vũ trụ vật chất.

Sự thật này đã được con người biết đến từ hàng ngàn năm qua. Nó đã được người Ai Cập và Hy Lạp cổ đại biết đến, nó đã được Giê-su biết đến, và Giê-su đã giảng dạy sự thật này cho các tông đồ của thày khi thày trao cho họ những lời dạy cao hơn những gì thày có thể truyền đạt cho công chúng (Mark 4:34). Về sau, nó cũng được các nhà giả kim thời trung cổ và các nhà thần bí Cơ đốc giáo biết đến, là những người tu tập theo phiên bản riêng – một phiên bản tâm linh của đạo Cơ đốc – bên dưới sự dò xét của giáo hội chính thức. Thật đáng tiếc là khoa học hiện đại đã chế giễu chính nguồn gốc của mình, cụ thể là các nhà giả kim khi những vị này đưa ra khái niệm về bốn nguyên tố – mà họ gọi là lửa, khí, nước và đất – cùng với nguyên tố thứ năm, gọi là ê-the, tượng trưng cho cõi tâm linh. Thật ra khoa học đã có nhiều khám phá xác nhận sự hiện hữu của bốn tầng này của vũ trụ vật chất, nhưng cho đến giờ vẫn chưa có ai nối liền được những cái chấm đó để nhìn ra những điểm tương đồng giữa khoa vật lý, đặc biệt là vật lý lượng tử, với lời dạy của người xưa.

Một lần nữa, thày sẽ lại cho con một hình ảnh đường thẳng về một thực tại không hẳn là đường thẳng như tâm vỏ ngoài của con ưa thích. Thày xin con nhớ là còn nhiều điều nữa để hiểu, và những gì thày cho con ở đây chỉ là một hình ảnh đã được đơn giản hóa đôi chút. Sự kiện vũ trụ vật chất gồm bốn tầng cõi có thể được nhìn dưới nhãn quan toàn vũ lẫn cá nhân. Có bốn tầng trong vũ trụ nói chung, và cũng có bốn tầng trong chính bản thể con – theo nghĩa phần thấp của quả cầu cái ta của con. Thành phần của bản thể con được thiết kế để biểu đạt khả năng sáng tạo của con trong vũ trụ vật chất có bốn thể, và thể vật lý hay cơ thể chỉ là phần nổi của nguyên tảng băng. Để dùng một hình ảnh thị giác, con thử hình dung là cơ thể vật lý của con được bao quanh bởi một trường năng lượng vô hình, từa tựa như một thỏi nam châm được bao quanh bởi từ trường của nó. Trường năng lượng này có ba tầng riêng biệt, tương ứng với ba tầng của bản thể con nằm bên trên cơ thể vật lý về mặt rung động. Sự có mặt của một trường năng lượng như vậy xung quanh cơ thể đã được người ta biết đến từ hàng ngàn năm qua. Đó là nền tảng cho khoa học châm cứu cổ xưa, và ngày nay có những máy ảnh kỹ thuật số có khả năng khiến cho trường năng lượng hiện ra trên màn hình máy tính. Trong tương lai, ngành y khoa sẽ học cách sử dụng công nghệ này để chẩn đoán và ngăn ngừa bệnh tật trước khi bệnh lộ diện trên cơ thể vật lý.

Cơ thể vật lý của con không tạo ra trường năng lượng này, mà đúng hơn phải nói là trường năng lượng tạo ra cơ thể vật lý. Cơ thể chỉ đơn giản là phần nổi của tảng băng tức toàn bộ trường năng lượng của con. Trong phần thấp của bản thể con, đó là thành phần rung động trong phổ tần số có thể được phát hiện bởi giác quan vật lý và hầu hết dụng cụ khoa học. Cơ thể vật lý là sự trải bày – sự biểu diễn trong phổ tần số cấu tạo vật chất vật lý – của những hình ảnh được cầm giữ trong ba thể cao hơn.

15.2. Thể bản sắc

Hãy thử hình dung chúng ta đang ở phần thấp của cõi tâm linh, và chúng ta sắp sửa vượt qua một lằn ranh vô hình để du hành vào vũ trụ vật chất. Khi vượt qua lằn ranh đó, chúng ta bước vào tầng cao nhất của cõi vật chất. Đây là điều người xưa gọi là nguyên tố lửa. Một số giáo lý tâm linh gọi là tầng ê-the, hay cõi ê-the, và một số thì gọi là thể ký ức. Thày sẽ gọi đó là tầng bản sắc hay thể bản sắc. Ở tầng này của vũ trụ vật chất, năng lượng vẫn có độ rung khá cao, có nghĩa là năng lượng rất lỏng và linh hoạt, không đến nỗi dày đặc như những gì con có thể nhận thức bằng giác quan vật lý. Năng lượng càng lỏng thì con càng dễ thay đổi các hình ảnh và hình tư tưởng được tìm thấy ở tầng này. Rung động càng cao thì càng dễ thay đổi các hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật đã khoác vào.

Thể bản sắc là nơi ý niệm bản sắc cá nhân của con được lưu giữ. Đó cũng là nơi ý niệm bản sắc tập thể do nhân loại tạo ra được lưu giữ. Đó là nơi bản mẫu thấp của hành tinh trái đất và tất cả mọi điều kiện tìm thấy trên trái đất được lưu giữ. Ở mức cá nhân, con có một thể bản sắc, là trụ sở của ý niệm bản sắc của con, ý niệm con là ai. Nơi đó cũng lưu trữ thế giới quan cơ bản của con, mà một số người gọi là cái nhìn tổng quan của con (paradigm), tức là những niềm tin nền tảng mà con rất hiếm khi chất vấn.

Thể bản sắc này hình thành tầng cao nhất của phần thấp trong quả cầu cái ta của con, hay phần dưới của hình số 8. Cả bốn thể phàm của con hình thành một cỗ xe được tạo ra để cho phép con tự biểu đạt trong vũ trụ vật chất, và thể bản sắc là tầng cao nhất của cỗ xe này. Mọi khía cạnh của thể bản sắc được thiết kế để tạo thuận lợi cho con biểu đạt khả năng sáng tạo và bản sắc thiêng liêng của mình trong vũ trụ vật chất. Thể bản sắc được thiết kế để làm chiếc cầu nối, hay cửa ngõ, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Chỉ xuyên qua thể bản sắc thì con mới có thể duy trì nối kết với phần cao của bản thể mình, tức Hiện diện TA LÀ cư ngụ thường trực nơi cõi tâm linh và không thể đi xuống những năng lượng dày đặc hơn của vũ trụ vật chất.

Mặc dù thày gọi đó là thể bản sắc, nhưng bản sắc của con là nhiều hơn các hình ảnh được lưu trữ nơi thể bản sắc. Con là nhiều hơn hẳn những hình ảnh đó về chính con. Cái Ta Biết không bị giam trong thể bản sắc của con và quả thực nó có khả năng với lên cao hơn để tự đồng hóa với Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết chỉ cần đến thể bản sắc để tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Các hình ảnh về chính con được lưu trữ trong thể bản sắc thật sự là những hình ảnh liên quan đến cách thức cái Ta Biết có thể tự biểu đạt trong cõi vật chất. Ý niệm bản sắc mà con có trong thể bản sắc là một ý niệm dính liền với vũ trụ vật chất.

Nếu con có một ý niệm bản sắc hoàn toàn trong sạch, các hình ảnh trong thể bản sắc sẽ phản ánh bản sắc thiêng liêng được neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Khi đó, con sẽ thấy mình là một sinh thể tâm linh bất diệt đang tự biểu đạt trong cõi vật chất xuyên qua một cỗ xe thấp hơn tạm thời. Con sẽ thấy mình là một sinh thể vô biên, đang tự biểu đạt xuyên qua một bản sắc đã cá thể hóa và có giới hạn, chú mục vào một cơ thể vật lý – và tập trung quanh một cơ thể vật lý – trên một hành tinh đặc thù có tên là địa cầu. Con sẽ luôn luôn biết mình là nhiều hơn bản sắc này, và điểm này rất quan trọng để tránh bị mắc kẹt trong ý niệm bản sắc thấp dính liền với vũ trụ vật chất, với hành tinh địa cầu và với cơ thể vật lý. Nếu thể bản sắc của con tinh khiết, con sẽ luôn luôn biết mình là nhiều hơn bốn thể phàm của mình. Nhưng nếu thể bản sắc bị ô nhiễm bởi các hình ảnh nhị nguyên, thì một phần của cái ta hữu diệt sẽ chiếm giữ tầng này trong bản thể con và bắt đầu chi phối cách con tự nhìn mình như thế nào. Bởi vì thể bản sắc là tầng cao nhất trong con người phàm, cho nên ý niệm bản sắc của con sẽ tác động lên mọi chuyện xảy ra ở các tầng thấp hơn.

Nhà hiền triết Hy Lạp Plato có nói đến một cõi của những hình dạng lý tưởng. Đây là những dạng kỷ hà thuần túy làm gạch xây cất cơ bản cho toàn bộ vũ trụ. Cõi Plato nói đến chính là cõi ê-the, hay bản sắc, trong dạng thuần khiết nhất. Ở tầng cao trên cùng của cõi bản sắc, quả thực con tìm thấy các hình dạng kỷ hà thuần túy đã được thiết kế ở một cõi cao hơn, là tâm Ki-tô hoàn vũ. Những hình dạng kỷ hà này được thiết kế để làm những viên gạch xây cất sẽ cống hiến cho những người đồng-sáng tạo với Thượng đế một khuôn khổ an toàn để họ có thể thử nghiệm quyền tự quyết của họ trong cõi vật chất. Khi con đồng-sáng tạo qua việc sử dụng các dạng kỷ hà thuần túy, tạo vật của con sẽ luôn luôn thuận hợp với quy luật Thượng đế. Con sẽ nhân lên, thay vì giới hạn, quyền năng sáng tạo của mình. Con có thể dùng các hình dạng thuần túy này để tạo ra một biểu hiện cá nhân hoàn toàn hài hòa với cái Tất Cả, hầu nỗ lực sáng tạo của con chỉ nâng cao mọi sự sống trên hành tinh và như vậy cũng giúp đem lại vương quốc của Thượng đế đến trái đất. Chỉ khi nào con người không còn nhìn thấy những dạng kỷ hà thuần túy này nữa, và thay vào đó nhìn thấy các hình dạng bất toàn do tâm nhị nguyên chế tạo, thì họ mới bắt đầu gây ra đau khổ và biến cuộc sống thành một cuộc vật lộn.

Trong một bài trước, thày đã có cho con hình ảnh một máy chiếu phim, có ánh sáng chiếu ra từ bóng đèn xuyên qua cuộn phim, và hình trên cuộn phim được chiếu lên màn ảnh. Thể bản sắc của con cấu tạo một cuộn phim, và bất kỳ hình ảnh nào con đã cho phép đi vào thể bản sắc của mình sẽ hình thành tầng biểu hiện đầu tiên của con trong thế giới vật chất. Đó không phải là tầng duy nhất nhưng đó là tầng đầu tiên, và nó sẽ làm cơ sở cho tất cả mọi thứ đến sau đó.

15.3. Thể lý trí, thể tình cảm, thể vật lý

Cái gì đến sau thể bản sắc? Một lần nữa, hãy tưởng tượng chúng ta đang du hành từ tầng thấp nhất của cõi tâm linh vào vũ trụ vật chất. Chúng ta vượt qua lằn ranh và đi vào cõi bản sắc, và một khi đi xuyên qua cõi này thì chúng ta lại gặp một lằn ranh khác. Khi chúng ta lại vượt qua thì chúng ta bước vào tầng kế tiếp, được người xưa gọi là nguyên tố khí. Đây cũng là tầng của tư tưởng, cho nên thày sẽ gọi là thể lý trí, trí thể, hay cõi trí.

Ở tầng này, con tạo ra những thiết kế cụ thể mà con muốn đem vào thị hiện. Thể bản sắc lập ra các nguyên tắc chung, cái khung sườn vòng ngoài cho những gì con có thể đem vào thị hiện – gần giống như nền móng của một căn nhà – xong ở tầng lý trí, con lấy các ý tưởng và hình tư tưởng nền tảng từ thể bản sắc và con khiến chúng trở nên cụ thể hơn bằng cách điền vào những chi tiết tỉ mỉ nhất. Con hình thành những hình ảnh trí năng cụ thể, con hình thành một đồ án chi tiết hơn kế hoạch tổng quát đã có trong thể bản sắc. Các năng lượng trong thể lý trí có độ rung thấp hơn và cũng dày đặc hơn năng lượng trong thể bản sắc. Chúng ít linh hoạt hơn, khó thay đổi hơn các hình tư tưởng trong thể bản sắc. Chúng đã khoác vào một cấu trúc rõ rệt hơn, một hình dạng lộ hiện hơn, cho nên con sẽ cần nhiều nỗ lực hơn để thay đổi tư tưởng của con so với ý niệm bản sắc của con.

Bây giờ chúng ta rời cõi trí vào cõi kế tiếp, và chúng ta bước vào cái người xưa gọi là nguyên tố nước, tương ứng với cảm xúc con người. Thày muốn gọi đây là cõi cảm xúc, hay thể cảm xúc, thể tình cảm, cảm thể. Thể cảm xúc của con là nơi con lấy các đồ án được hình thành trong thể lý trí và con phú cho chúng năng lượng sẽ làm chúng cử động. Điều này đem lại cho các kế hoạch trí năng của con sự chuyển động và phương hướng mà chúng cần để đột phá xuống tầng thấp nhất và khoác vào một biểu hiện vật lý. Tư tưởng của con tự thân nó không thể chuyển thành hành động vật lý vì nó chưa được khởi động, cũng từa tựa như cuộn phim trong máy chiếu nếu không di chuyển trong máy sẽ khiến cho hình ảnh trên màn hình đứng yên một chỗ.

Một số người rất giỏi nghĩ ra nhiều ý mới, nhưng họ có xu hướng ngồi một chỗ nghĩ ngợi không ngừng, nẩy lên hết ý này tới ý khác mà không bao giờ đem bất kỳ ý nào vào hành động. Đó là vì những người như vậy tập trung vào cõi lý trí và chưa phát triển khả năng đưa ý tưởng của mình vào cõi cảm xúc. Họ không thể góp năng lượng và lực đẩy cần thiết để đem những ý đó xuống tầng thứ tư là tầng của thị hiện vật lý. Và tầng này được người xưa gọi là nguyên tố đất, mà thày sẽ gọi là cõi vật lý. Cõi này là nơi chúng ta tìm thấy năng lượng đã thị hiện, hoặc dưới dạng vật chất vật lý, hoặc dưới dạng năng lượng vật lý là loại năng lượng con có thể phát hiện bằng giác quan hay sử dụng để sản xuất công việc vật lý. Một ví dụ điển hình của năng lượng vật lý là điện lực. Cõi vật lý cũng là nơi con lấy ý tưởng của mình được phú cho cảm xúc và chuyển thành hoạt động vật lý.

15.4. Dòng chảy năng lượng

Bây giờ chúng ta có hình ảnh một dòng chảy năng lượng từ phần thấp của cõi tâm linh xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Các điều kiện hiện ra trong cõi vật lý, chẳng hạn hoàn cảnh cá nhân của con trên trái đất này, không tự nhiên mà xuất hiện. Các điều kiện được tìm thấy trong cõi vật lý là kết quả của những nguyên nhân được khởi động nơi ba tầng cao hơn. Tất cả mọi thứ đều khởi sự như một ý tưởng tổng quan trong cõi bản sắc, rồi kết tinh lại trong cõi lý trí, nhận được động lượng trong cõi cảm xúc, trước khi cuối cùng khoác vào một hình dạng vật lý hay được chuyển thành một hành động vật lý. Vũ trụ là một tấm gương phản chiếu lại cho con những gì con gửi ra, và những gì con gửi ra là sản phẩm của nội dung trong bốn thể phàm của con.

Khi ánh sáng Thượng đế tuôn qua bốn tầng của tâm con, trước tiên nó sẽ mặc vào các hình ảnh được tìm thấy trong thể bản sắc của con. Xong ánh sáng tuôn vào thể lý trí nơi nó khoác vào những hình ảnh cụ thể hơn được vẽ ra trong tư tưởng, tức là các hình tư tưởng mà con lưu giữ ở tầng này. Như vậy thể lý trí hình thành thêm một cuộn phim mà ánh sáng sẽ chiếu qua, và các hình ảnh tổng quát, linh hoạt của thể bản sắc giờ đây sẽ mang hình dạng đặc thù hơn của tư tưởng. Sau đó, ánh sáng tuôn vào thể cảm xúc – lại thêm một cuộn phim nữa – nơi nó khoác vào các ham muốn được tích lũy trong thể này.

Thể cảm xúc của con là trung tâm của lòng ham muốn và nó cũng có tên là thể ham muốn. Ham muốn của con bồi thêm một cảm giác cấp bách cho các ý tưởng, thường khiến con cảm thấy: “Tôi phải có cái này.” Sự cấp bách này có thể khiến con sẵn lòng làm bất cứ gì để có được điều con muốn. Ham muốn của con cũng xác định cách thức con sẵn lòng đem ý tưởng của mình vào thế giới vật lý. Thể lý trí của con chứa đựng quá nhiều ý tưởng đến độ chúng không thể được đem hết vào hành động, cho nên điều gì sẽ định đoạt ý tưởng nào được hành sự? Nếu thể cảm xúc chứa đựng những tình cảm tiêu cực mãnh liệt như giận dữ chẳng hạn, những tình cảm này thường khiến con quên hết mọi thận trọng. Nếu con không thể kiểm soát cảm xúc thì làm sao con có thể hy vọng kiểm soát được hành vi của mình và nhờ đó tránh gây ra những hậu quả phiền phức cho mình? Lý tưởng nhất là con có thể chọn phản ứng tình cảm của mình trong mọi tình huống hầu tình cảm tiêu cực mãnh liệt không thể khiến con hành động ngược lại lợi ích lâu dài của con. Nhưng nếu con không có khả năng lựa chọn cảm xúc của mình, thường khi con sẽ cư xử như một con rô-bốt cứ nhắm mắt tuân theo sự lập trình tình cảm của mình.

Con nghĩ xem trái đất sẽ khác như thế nào nếu đa số con người có thể hiểu được quá trình mà qua đó mọi chuyện trong vũ trụ vật chất đi vào thị hiện và khoác vào những hình dạng cụ thể mà giác quan vỏ ngoài lẫn tâm vỏ ngoài có thể nhìn thấy. Bỗng nhiên mọi người sẽ có thể bắt đầu nhìn xa hơn dáng vẻ bề ngoài để thấy được nguyên nhân sâu xa đằng sau các hiện tượng khiến đời họ trở nên gay go vất vả. Khi họ bắt đầu hiểu làm thế nào các tầng cao hơn của chính tâm họ chi phối hoàn cảnh vật lý của họ, thì họ có thể vượt qua cảm giác mình là nạn nhân của các thế lực và tình huống vượt khỏi tầm kiểm soát của mình. Thay vì cảm thấy choáng ngợp hay bị cuộc đời đóng hộp, họ có thể khởi sự lãnh trách nhiệm cải thiện đời họ một cách ý thức.

15.5. Hành động ngắn hạn và nghiệp quả dài hạn

Việc đem vào thị hiện vật lý có hai tầm mức. Một tầm mức được thể hiện qua các hành động con làm. Một hành động vật lý không tự dưng xuất hiện từ hư vô, nó không bắt nguồn từ tầng cơ thể vật lý và bộ não vật lý. Hành động khởi đầu trong thể bản sắc, xong nó luân chuyển qua thể lý trí và thể cảm xúc, và chỉ sau đó nó mới chuyển thành một hành động dựa trên những chọn lựa mà con lấy với tâm ý thức. Những tùy chọn mà con thấy được qua tâm ý thức được định đoạt bởi nội dung trong ba thể cao của con. Chẳng hạn nếu con đồng hóa mình với một sinh thể phàm trần hữu diệt không có quyền hạn gì bên ngoài cơ thể vật lý, thì tư tưởng của con sẽ xoay quanh việc sử dụng cơ thể để tạo dồi dào, và ham muốn của con sẽ chú tâm vào việc thoả mãn nhu cầu của cơ thể. Các tùy chọn mở ra cho tâm ý thức của con sẽ bị giới hạn trong phạm vi vũ trụ vật chất, và con sẽ khó lòng nào nhìn thấy một cách sống nào khác không xoay quanh nhu cầu của cơ thể vật lý. Con sẽ nghĩ là sự sống dồi dào chẳng là gì hơn của cải vật chất và thú vui thể xác.

Tầm mức này của các hành động vật lý cá nhân của con là tầm mức cá nhân, hay ngay trước mắt, của nỗ lực sáng tạo, là tầm mức tập trung vào cơ thể vật lý, dẫn đến một hành động được thực hiện bởi cơ thể này, hay đúng hơn, được chính con thực hiện xuyên qua cơ thể này. Còn có một tầm mức khác nữa mà hầu hết mọi người không ý thức. Đó là tầm mức phi cá nhân, hay dài hạn, vì nó vượt ra ngoài cơ thể hiện tại và ngay cả kiếp sống hiện tại của con. Nó không dẫn đến một hành động vật lý trực tiếp, ít ra một hành động có ý thức. Đây là tầm mức qua đó tâm con liên tục áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật khi nó gửi hình tư tưởng vào tấm gương vũ trụ. Các hình ảnh này được Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày ra dưới dạng các tình huống vỏ ngoài mà con gặp trong đời.

Cho đến giờ thày có nói vũ trụ là một tấm gương và những gì con gửi ra sẽ được phản chiếu lại cho con. Chúng ta có thể nhìn tiến trình này từ một góc độ khác và nói rằng điều thực sự xảy ra là bốn tầng của tâm con áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật là ánh sáng rung động trong phổ tần số của vũ trụ vật chất. Các hình ảnh con giữ trong thể bản sắc tạo thành các thông số vòng ngoài cho hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào. Các hình ảnh này được tâm con áp đặt lên năng lượng rung động trong phổ tần số của cõi bản sắc, và chỉ sau khi năng lượng này khoác vào hình ảnh trong thể bản sắc thì nó mới được cống hiến cho tư tưởng sử dụng. Chính khi các hình ảnh bản sắc được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì ánh sáng được giảm độ rung, đi vào cõi lý trí. Khi nó đi vào cõi lý trí, nó đã mang sẵn một hình tướng dựa trên ý niệm bản sắc của con, và tư tưởng của con không thể thay đổi hình tướng này. Tư tưởng chỉ có thể làm việc trong phạm vi các thông số đã được ấn định ở tầng cao hơn.

Trong bước kế tiếp của tiến trình này, các hình ảnh con giữ trong thể lý trí sẽ kết tinh hình ảnh tổng quan từ thể bản sắc và khiến chúng trở nên đặc thù hơn. Một lần nữa, điều này áp đặt một hình tướng dày đặc hơn lên năng lượng và do đó lại giảm thiểu độ rung của năng lượng để nó đi vào cõi cảm xúc. Cảm xúc của con chỉ có thể xây dựng trên nền tảng những gì đã được tạo ra ở tầng lý trí, và cảm xúc không có quyền năng thay đổi tư tưởng. Các hình ảnh và ham muốn mà con giữ ở thể cảm xúc trao cho các hình ảnh từ lý trí một phương hướng quyết định, cũng như năng lượng cần thiết để đưa chúng xuống cõi vật lý. Đồng thời chúng cũng trao cho tư tưởng một cảm giác cấp bách, khiến con cảm thấy mình phải hành sự ngay lập tức. Cuối cùng, thành phần của tâm con tập trung ở cõi vật lý khiến cho các hình ảnh này càng cụ thể hơn nữa, cho đến khi chúng thị hiện dưới dạng những hoàn cảnh vỏ ngoài mà con phải đối mặt trong đời. Tiến trình này không được hoàn tất trong một kiếp sống, cho nên các điều kiện con đối mặt trong kiếp này không nhất thiết được sản xuất trong kiếp này. Chúng là kết quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong những kiếp trước khi con gửi ra các hình tư tưởng được lưu trữ trong bốn thể phàm của con trong những kiếp đó.

Thể bản sắc của con định đoạt những gì con nghĩ mình có thể làm. Chẳng hạn, nếu con nhận diện mình là một sinh thể phàm trần hữu diệt, con sẽ chỉ thấy được một số cách thức thị hiện dồi dào thôi. Tư tưởng của con sau đó sẽ chuyển đạt viễn quan này – hay sự thiếu viễn quan – thành một số chọn lựa cụ thể hơn về những gi con muốn thực hiện. Xong cảm xúc của con sẽ nói rõ những cách thức để đạt mục tiêu định ra ở các tầng cao hơn và thúc đẩy cho mọi thứ chuyển động. Đến khi năng lượng đến được tâm ý thức vỏ ngoài, nó đã khoác vào một hình tướng đặc thù và tâm ý thức của con sẽ có rất ít tùy chọn để thay đổi những gì đã được “khắc trên đá” ở những tầng cao hơn của tâm con. Đó là tại sao nhiều người cảm thấy mình chỉ có thể phản ứng đúng một cách trước một loại tình huống nào đó. Phản ứng của họ trước tình huống đặc thù – thậm chí cách họ đối phó với cuộc đời một cách chung chung – đã được định trước nơi các tầng cao hơn của tâm họ.

Con thử nghĩ xem biết bao người cảm thấy là họ bị kẹt cứng, như thể bị đóng hộp bởi những tình huống vượt khỏi tầm kiểm soát của họ. Họ cảm thấy chọn lựa của họ rất hạn chế và họ không có lối thoát. Biết bao lần con nghe người ta nói: “Tôi không có lựa chọn nào khác”? Tại sao chuyện cảm thấy không có chọn lựa nào xảy ra quá thường như vậy? Lý do thực là tâm vật lý của con chỉ có thể xây dựng trên nền tảng những gì đã được khởi động ở các tầng trên, và đây là tại sao người ta cảm thấy lựa chọn của mình thật hạn chế. Lựa chọn của họ chỉ hạn chế vì họ không nhìn quá được mức tâm vỏ ngoài. Họ không thấy là các lựa chọn mở ra cho tâm vỏ ngoài chỉ là sản phẩm của những gì xảy ra ở các tầng cao hơn của tâm họ. Họ có thể thay đổi các chọn lựa mở ra cho tâm vỏ ngoài bằng cách thay đổi hình ảnh mà họ cầm giữ ở các tầng cao hơn. Họ thật sự có khả năng thay đổi bất kỳ khía cạnh nào trong đời họ bằng cách thay đổi nội dung các tầng tâm cao.

15.6. Con là tác giả hoàn cảnh của con

Đối với nhiều người, điều này cần được quán chiếu. Kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài không muốn con biết, hiểu và chấp nhận những gì thày đang nói với con ở đây. Hai kẻ thù này đã cố gắng lập trình để cái Ta Biết tin rằng con là nạn nhân của những hoàn cảnh vượt ngoài kiểm soát của con. Chúng muốn con tin là hoàn cảnh vỏ ngoài mà con đối mặt trong cuộc sống không do con chế tạo, không là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong kiếp này hay trong tiền kiếp. Con không thể kiểm soát được các điều kiện bên ngoài, con là một nạn nhân bất lực của những sức mạnh vượt ngoài con và con không có khả năng ảnh hưởng những cảnh ngộ mà con đối diện ở đây trên trái đất. Chúng muốn con tin vào ảo tưởng này, và chúng muốn giữ con chặt trong ảo tưởng một cách vô hạn định. Lý do là chừng nào con còn tin mình là nạn nhân của những thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thì có một cái gì đó bên ngoài cái Ta Biết đang điều khiển đời con. Cái bên ngoài cái Ta Biết đó, tất nhiên, chính là cái ta hữu diệt lẫn ông hoàng của thế gian. Nếu con tin có gì bên ngoài cái Ta Biết có khả năng kiểm soát hoàn cảnh của con, thì cái ta hữu diệt và ông hoàng thế gian có ngay một lối vào để điều khiển con.

Thày hoàn toàn hiểu được là đối với nhiều người, hình ảnh họ là nạn nhân những thế lực hay hoàn cảnh bên ngoài vượt khỏi tầm kiểm soát của họ đã ăn sâu vào tâm thức họ, và đã được củng cố nặng nề bởi sự nuôi dạy khi họ lớn lên, đến độ họ rất khó lòng đâm xuyên qua được. Thày cũng biết là điều này có thể cần sự quán chiếu, sự điều chỉnh từ con. Có thể sẽ mất chút thời gian trước khi con có thể thấm nhập và chấp nhận hoàn toàn những gì thày đang nói với con. Thày hy vọng là con có thể phát triển thêm những gì thày vừa nói trước đó và phối hợp với hình ảnh thày cho con ở đây, hình ảnh rằng mọi chuyện trong đời con là sản phẩm của ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Các tình huống con trải nghiệm là sản phẩm của ánh sáng Thượng đế khoác vào hình dạng những hình ảnh mà con mang trong thể bản sắc, thể lý trí, thể cảm xúc và tâm vật lý của con. Những gì con trải nghiệm trong thế giới vật chất giống như một bộ phim được chiếu lên màn ảnh cuộc sống. Nội dung của phim được định đoạt bởi các hình ảnh, các cuộn phim, hiện hữu nơi các thể cao hơn của tâm con.

Cách duy nhất để con thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài và biểu hiện sự dồi dào mà con mong muốn là thay đổi các hình ảnh con giữ trong bốn thể phàm của con. Nếu con lấy ẩn dụ mà thày đã cho con về tấm gương, những gì con phóng chiếu vào gương chính là các hình ảnh trong bốn thể phàm. Vũ trụ chỉ có thể phản chiếu lại cho con những gì con đã phóng vào tấm gương vũ trụ. Cách duy nhất để thay đổi những gì quay trở lại con là thay đổi những gì con gửi ra, những gì con phóng vào tấm gương. Cách duy nhất để thay đổi những gì con gửi ra là thay đổi những gì ở trong con, thay đổi các hình ảnh mà con giữ nơi bốn tầng của tâm con.

Điều thày đang làm trong suốt khóa học này là thách thức một cách hệ thống các hình ảnh, hình ảnh nhị nguyên, mà hầu hết mọi người đều được dạy dỗ để chấp nhận, được lập trình để chấp nhận, bởi kẻ thù bên trong và kẻ thù bên ngoài. Khi con dùng khóa học này, con đã khởi sự tiến trình thách thức những hình ảnh con mang trong bốn tầng tâm con. Con đã bắt đầu tiến trình thanh lọc bốn tầng tâm con. Lời dạy và các bài thỉnh của thày tạo thành một tiến trình có hệ thống để thanh tẩy khỏi bốn tầng tâm con không chỉ các hình ảnh bất toàn mà cả các năng lượng tha hóa được lưu giữ nơi bốn tầng, do ánh sáng Thượng đế bị hạ thấp độ rung bởi các hình ảnh bất toàn này.

Hiểu biết là sức mạnh. Khi con nhận ra các điều kiện vỏ ngoài con phải đối diện là sản phẩm của những hình ảnh con giữ trong bốn tầng tâm con, bỗng nhiên con đạt được uy lực to lớn để thay đổi đời mình bằng cách đơn giản thay đổi chúng đi. Con không còn cần cảm thấy mình là một nạn nhân bất lực của những tình huống nằm ngoài khả năng thay đổi của mình. Con có thể bắt đầu cảm thấy mình làm chủ vận mạng của mình. Đối với nhiều người, điều này sẽ đòi hỏi một sự điều chỉnh lớn lao. Nhiều người đã lớn lên với ý tưởng mình là nạn nhân. Nhiều người trách cha mẹ, trách xã hội, trách vận rủi hay trách cả Thượng đế về những hoàn cảnh họ phải đối mặt trong đời, cho nên có thể họ sẽ khó khăn điều chỉnh để có thể chấp nhận là mọi hoàn cảnh mình đối diện, hoặc là sản phẩm của chính mình, hoặc do chính mình thu hút về mình qua các hình ảnh trong tâm mình. Thế là bỗng nhiên, mọi trách nhiệm được đặt lên vai con. Chính con là tác giả và cũng là người hoàn tất số mạng của con – không có ai khác đáng trách ngoài chính con.

15.7. Lấy lại quyền làm chủ đời mình

Khi thày nhìn trái đất ngày hôm nay, thày thấy hàng tỷ người bị kẹt ở ngay điểm này là không muốn nhận trách nhiệm hoàn toàn về bản thân mình. Họ không muốn nhìn nhận là họ có tiềm năng thay đổi mọi khía cạnh của đời họ, mọi khía cạnh trong hoàn cảnh của họ, bằng cách tự thay đổi bản thân, thay đổi các tin tưởng, thái độ và cách tiếp cận cuộc sống của mình. Thậm chí thày còn thấy nhiều người tầm đạo tâm linh bị kẹt lại ở mức này do không chịu nhận trách nhiệm một cách trọn vẹn và chung cuộc. Họ biết là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh và họ đã – một số trong hàng chục năm trời – tich cực đeo đuổi sự phát triển tâm linh bằng cách gia nhập nhiều tổ chức, học hỏi nhiều giáo lý và thực hành nhiều pháp tu nhằm gia tốc tăng triển tâm linh. Nhiều người trong số đó đã làm mồi cho cái bẫy do ông hoàng của thế gian giăng ra, cụ thể là con đường vỏ ngoài, con đường giả hiệu, con đường có vẻ đúng cho người phàm nhưng cuối cùng là con đường chết. Đây là con đường bảo rằng con không cần nhận trách nhiệm trọn vẹn và tuyệt đối về chính con, con không cần thật sự – một cách chân thành – thay đổi chính mình, thay đổi hình ảnh mình cầm giữ trong tầng sâu nhất của tâm mình. Con chỉ cần tin vào một số tín điều, tuân theo một số luật lệ vỏ ngoài và thực hành một số kỹ thuật vỏ ngoài, thì con sẽ tự động được cứu rỗi, con sẽ tự động biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn. Trong các chương trước, thày đã làm tất cả những gì thày có thể nghĩ đến để phơi bày sự sai lầm của lời dối này, và thày hy vọng con có thể chấp nhận đó là một sai lầm và con cũng hiểu tại sao nó sai lầm.

Chìa khóa để hiểu điều này là nhận ra các hình ảnh con giữ trong bốn tầng của tâm con không tự dưng xuất hiện từ hư vô. Con cai quản quả cầu cái ta của con, cái Ta Biết nắm quyền – hay đáng lẽ phải nắm quyền – điều khiển quả cầu cái ta của con. Cái Ta Biết được trù liệu để cai quản bốn thể phàm của con. Không gì có thể đi vào các thể này mà không có sự chấp thuận ý thức của con – trừ khi, tất nhiên, nếu con khước từ quyền lấy quyết định của mình và cho phép cái ta hữu diệt định đoạt những gì đi vào tâm con.

Bốn thể phàm của con là những cỗ xe để con biểu đạt trong cõi vật chất, nghĩa là chúng rung động trong cùng phổ tần số của vũ trụ vật chất. Hiện nay cõi vật chất chưa có đủ lượng ánh sáng và sự thật được tìm thấy ở cõi tâm linh. Điều này đặc biệt đúng đối với trái đất, một hành tinh khá tăm tối nhìn từ góc độ vũ trụ. Khi dòng sống của con bước xuống cõi vật chất trên hành tinh trái đất, bốn thể phàm được tạo ra như một cỗ xe để con biểu đạt trên hành tinh này. Ở nguyên thủy, các thể này hình thành một quả cầu được bảo vệ trong cõi vật chất. Nhưng thực tế hiện nay trên trái đất là con bị bao quanh bởi nhiều hình ảnh bất toàn và năng lượng tha hóa không ngừng tìm đường xâm nhập vào tâm thức con. Mặc dù các hình ảnh và năng lượng này có thể rất hung hãn, nhưng ở ban đầu con được trang bị một bức tường bảo bọc xung quanh con ngăn cản bất kỳ ý tưởng hay năng lượng tha hóa nào xâm nhập bốn thể phàm của con. Con có một hệ miễn dịch tâm lý cũng giống như con có một hệ miễn dịch vật lý. Không gì có thể đi vào bốn thể phàm mà không có sự ưng thuận của con. Con phải cho phép nó vào, và vì vậy tất cả những gì đã vào được là do con đã quyết định như thế. Có thể con đã lấy quyết định để cho cái ta hữu diệt làm người gác cổng cho vương quốc của con, tuy nhiên đó vẫn là một quyết định mà chính con đã lấy.

Con yêu dấu, thày biết rõ điều này đặt trách nhiệm lên vai con, nhưng nó cũng đem lại hệ quả tuyệt vời là đặt mọi quyền hạn trong tay con, hay đúng hơn trong tâm con. Nhận lãnh trách nhiệm cho đời mình không nhất thiết là một điều đáng ngại mà kỳ thực là một sự giải thoát. Khi con lãnh trách nhiệm đời con, con có thể giành lại quyền năng thay đổi đời con. Khi con nhận ra là không gì có thể đi vào bốn thể phàm của mình mà mình không đồng ý, lập tức con giành lại quyền thanh lọc bốn thể đó. Điều cũng đúng tương tự là không gì có thể ở lại trong các thể này mà không có con đồng ý. Nếu con phơi bày một ý tưởng nhị nguyên, một ý tưởng khởi lên từ tâm phản Ki-tô, và nếu con quyết định là con không muốn nó ở lại trong bản thể, thì nó sẽ bị trục xuất và được thay thế bởi sự thật Ki-tô mà con đã chọn thay vào lời dối của phản Ki-tô.

15.8. Quyền năng của tâm

Thày đã cố giúp con khắc phục mọi cảm giác tội lỗi, mọi xu hướng lên án bản thân về lỗi lầm của mình. Thày đã làm mọi cách mà thày có thể nghĩ ra để giải thích cho con là Đấng Sáng tạo không muốn con cảm thấy có tội về lỗi lầm của mình. Tại sao thày đã làm vậy? Thày biết rõ qua kinh nghiệm là có một điều hơn bất cứ gì khác ngăn cản con người nhận trách nhiệm về đời mình và số phận của mình, đó là xu hướng tự lên án, cảm thấy tội lỗi về lỗi lầm của mình. Để tránh nỗi đau tội lỗi và xấu hổ, họ từ chối không nhìn vào, không nhìn nhận lỗi lầm của mình, và tất nhiên điều này ngăn họ thoát ra khỏi lỗi lầm đó.

Việc con tự trách móc là một phóng chiếu của ông hoảng thế gian, từ tâm phản Ki-tô. Các lực này muốn dồn con vào một thế kẹt lưỡng nan tâm linh bằng cách trước hết đánh lừa, gạt gẫm để con phạm lỗi. Xong chúng cố khiến con cảm thấy tội lỗi vì con đã phạm lỗi đến độ con sẽ không bao giờ trở về được với Thượng đế, không bao giờ được cứu chuộc, không bao giờ được giải phóng khỏi những quyết định mình đã lấy trong quá khứ.

Khi con ngộ ra là tất cả những gì mình phải đối mặt, tất cả mọi khía cạnh trong cảnh ngộ của mình, là kết quả của những chọn lựa mình đã lấy, con nắm được uy quyền tuyệt vời là bất kỳ chọn lựa nào trong quá khứ cũng có thể được thay thế tức khắc bởi một chọn lựa tốt hơn trong hiện tại. Làm chuyện này vô cùng đơn giản một khi con hiểu làm cách nào, một khi con chấp nhận là mình có quyền năng, cái Ta Biết có quyền năng thay đổi bất kỳ quyết định nào mình đã lấy trong quá khứ. Con luôn luôn có quyền năng thay thế một quyết định không mấy tốt bằng một quyết định tốt hơn.

Không gì có thể lấy đi quyền năng này khỏi con, kể cả cái ta hữu diệt lẫn ông hoàng thế gian. Cái ta hữu diệt và ông hoàng thế gian đang cố hết sức khiến con tin rằng chúng có thể tước đi quyền năng này khỏi con hay con có thể đánh mất nó khi con phạm lỗi. Chúng làm vậy bằng cách khiến con cảm thấy con là nạn nhân của những lực vượt khỏi tầm kiểm soát của con và do đó con không có cách nào thay đổi một số điều kiện bằng cách chỉ đơn giản thay đổi tâm mình. Chúng  chế giễu khả năng thay đổi thế giới qua việc thay đổi chính mình, và trong xã hội duy vật ngày nay – vì chủ nghĩa duy vật chính là thiết kế của ông hoàng thế gian – chúng đã khá thành công khiến cho người ta mua món hàng nhạo báng của chúng.

Thày đã nghe người ta bàn về đề tài này từ hàng thế kỷ. Thày đã nghe từ những kẻ hoài nghi nghĩ ra đủ loại lý lẽ, thày đã nghe họ chế giễu, nhạo báng ý tưởng rằng con có khả năng thay đổi hoàn cảnh vỏ ngoài của mình bằng cách thay đổi tâm mình. Thày biết luận cứ của họ, thày biết nhạo báng của họ, thày đã nghe họ chê cười không ngưng nghỉ các ý tưởng thày đang trình bày cho con. Thế nhưng người ta thường nói: “Người nào cười chót hết là người cười hay hơn hết.” Thày có thể cam đoan với con là người biết sự thật Ki-tô sẽ là người cười chót hết. Một khi con thăng thiên vào cõi tâm linh và đã giải thoát khỏi mọi hạn chế hữu diệt, con sẽ thật sự ở trong vị thế có thể cười chót hết.

Suốt các thời đại đã có những người khám phá quyền năng của tâm mình, và họ đã dùng quyền năng này để thay đổi hoàn cảnh của họ cho tốt đẹp hơn. Một số đã dùng để thể hiện hoàn cảnh vật chất tốt hơn cho đến khi thỏa nguyện mong muốn. Một số đã dùng để tích lũy kho báu trên thiên đàng và thăng vượt cõi vật chất hoàn toàn, hầu họ có thể tiến tới chinh phục sự sống vĩnh hằng ở cõi tâm linh. Giê-su là một ví dụ điển hình của một người đã dùng quyền năng của tâm mình để thăng vượt vòng tử sinh, thăng vượt vòng luân hồi của đau khổ và đấu tranh. Chính thày đây cũng đã làm vậy, và ở cõi tâm linh có vô số sinh thể đã thăng thiên từ trái đất. Các thày có thể ngồi trên đây và nhìn xuống những kẻ hoài nghi đang chối bỏ quyền năng của chính tâm họ, và các thày có thể cười họ. Nhưng các thày không muốn cười các anh chị em chưa thăng thiên của mình. Các thày muốn lấy con đường từ bi, tìm cách soi sáng các anh chị em chưa thăng thiên để chính họ cũng biết làm cách nào họ có thể sử dụng quyền năng của tâm họ để giải thoát khỏi những vòng khổ ải, đau đớn và hạn chế dường như bất tận.

15.9. Giải tỏa rào cản trong bốn tầng của tâm

Con yêu dấu, ngay từ đầu khóa học này, thày đã nói là Cha rất vui lòng trao vương quốc cho con. Lý do duy nhất con không có dồi dào của Thượng đế biểu hiện trong đời mình là vì có cái gì đó đang ngăn chặn nó. Cái gì ngăn chặn dồi dào của Thượng đế? Đó là con đã tạo ra những khối chắn trong bốn tầng của tâm con, trong bốn thể phàm của con. Sự sống dồi dào chỉ có thể đến từ một nơi, nó phải đến từ cõi tâm linh xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Nếu con muốn sự sống dồi dào trải bày ra trong các hoàn cảnh vật lý trong đời con, thì sự sống dồi dào cùng với viễn quan tinh khiết của sự sống dồi dào được lưu trữ nơi Hiện diện TA LÀ, phải được cho phép tuôn chảy không cản trở, không pha loãng, xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất cho đến khi nó xuống đến cõi vật lý và được chuyển thành điều kiện vật lý. Con không có cách nào khác để có sự sống dồi dào mà Thượng đế mong muốn ban cho con.

Vì mong muốn của Thượng đế là con có sự sống dồi dào, cho nên điều duy nhất có thể ngăn con có được dồi dào chính là một khối chắn, và khối chắn này bắt buộc phải nằm giữa cõi vật lý của trải nghiệm vật lý và cõi tâm linh nơi viễn quan của Thượng đế cư ngụ. Điều đang ngăn chặn sự sống dồi dào là cái gì đó nằm xen kẽ giữa viễn quan Thượng đế và trải nghiệm vật lý của con. Thày đã giải thích là nằm giữa trải nghiệm vật lý của con và viễn quan thuần khiết của Thượng đế có bốn tầng tâm con. Khi con loại bỏ khối rào cản trong bốn thể phàm của mình, thì viễn quan Thượng đế về sự sống dồi dào sẽ có thể biểu hiện thành thực tế vật lý cho con – nếu con chịu đảm nhiệm vai trò của mình.

Con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế. Con được thiết kế để với lên tầng mức Hiện diện TA LÀ và thấy được viễn quan dồi dào toàn hảo của Thượng đế dành cho con. Khi con nắm lấy viễn quan này, con có thể đem nó vào thể bản sắc, con có thể đặt toàn bộ ý niệm bản sắc của con, là bản sắc liên quan đến cách con tự biểu đạt trong cõi vật chất, trên nền tảng viễn quan dồi dào của Thượng đế. Xong con có thể đem viễn quan này xuống tầng mức của tư tưởng và làm cho nó cụ thể hơn bằng cách nối liền nó với các điều kiện con gặp trên trái đất. Sau đó, con có thể đem nó xuống tầng mức của cảm xúc và chuyển nó thành mong muốn, là mong muốn đích thực của Thượng đế sẽ không giới hạn mà sẽ chỉ nhân lên khả năng sáng tạo của con. Con có thể dùng những mong muốn này – vị thần linh đang sinh tạo xuyên qua con – để phú cho tư tưởng sức mạnh và phương hướng cần thiết hầu tư tưởng chuyển thành hành động vật lý và hoàn cảnh vật lý. Và như thế, con có thể đồng-sáng tạo sự sống dồi dào ngay đây trên hành tinh địa cầu.

Nếu con mang những khối chắn trong bất kỳ thể phàm nào, thì hoặc chúng sẽ bẻ quẹo, hoặc chúng sẽ chặn đứng toàn bộ sự biểu lộ, sự đi xuống của đời sống dồi dào, sự giáng thế của viễn quan thuần khiết của Thượng đế. Nếu cuộn phim trong thể bản sắc của con bị méo mó, cong queo, dơ bẩn, hay nếu cuộn phim chứa đựng hình ảnh bất toàn, thì những hình ảnh này hoặc sẽ che khuất, hoặc sẽ bóp méo viễn quan thuần khiết của bản sắc thiêng liêng và cá thể của con. Tương tự như vậy, các cuộn phim ở những tầng thấp hơn trong tâm con cũng có thể bóp méo hay chặn đứng viễn quan đó. Rốt cuộc con có thể rơi vào tình trạng là không một phần nào của viễn quan nguyên thủy mà Thượng đế dành cho con có thể xuống được tâm ý thức và cõi vật lý. Đời con trở thành một cuộc vật lộn thay vì một vòng xoắn ốc hướng thượng càng ngày càng dồi dào đúng theo thiết kế. Viễn quan thuần khiết của Thượng đế, viễn quan sự sống dồi dào, không thể bị biến đổi hay tiêu hủy bởi bất cứ gì trong cõi vật chất, cho nên viễn quan này vẫn tồn tại ở mức Hiện diện TA LÀ, vẫn được lưu trữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ. Tất cả những gì con cần làm là loại bỏ các rào cản khỏi bốn tầng tâm con để cái Ta Biết trở về ý niệm bản sắc đích thực, thay vì đồng hóa với một sinh thể phàm trần hữu diệt bị giam cầm trong một loạt những hoàn cảnh vượt khỏi tầm kiểm soát của nó. Khi con biết mình là ai và tại sao mình ở đây, con có khả năng thị hiện viễn quan toàn hảo đó của Thượng đế cho đời con, cho hành trình của con trong vũ trụ vật chất.

15.10. Tâm con ở tầng nào thì con tìm dồi dào ở tầng đó

Hãy để thày giải thích khái niệm này từ một góc nhìn hơi khác. Mọi người đều ở những tầng tâm thức khác nhau, và chúng ta hãy chuyển dịch khái niệm này vào bốn thể phàm. Cái Ta Biết – trong không gian và thời gian, trong cái ngay đây ngay bây giờ – là điều nó nghĩ nó là, có nghĩa là ý niệm bản sắc của con sẽ khoác vào các hình ảnh mà con tập trung chú ý. Một số người hoàn toàn tập trung vào vũ trụ vật chất và cơ thể vật lý của họ. Họ đã dần dà tự đồng hóa với thế giới vật lý và cơ thể vật lý mà thôi. Cái ta ý thức của họ đã quên mất, hay đã bỏ mất mọi ý niệm mình thực sự là ai, cụ thể mình là một sinh thể tâm linh vô biên bất diệt. Thay vào đó, cái ta ý thức của họ tự nhận diện là một cơ thể vật lý đang sống trong vũ trụ vật lý trên hành tinh trái đất. Họ tin tuyệt đối là cách duy nhất để biểu hiện sự sống dồi dào là xuyên qua việc lao động thân xác và vận dụng vật chất vật lý, tức là những gì họ có thể thấy được và chạm được qua giác quan của thân thể. Họ không có nhận thức gì – và do đó không có khả năng sử dụng – bất kỳ loại năng lượng nào cao hơn, thanh nhẹ hơn, mà thày có gọi là năng lượng tâm lý. Thậm chí nhiều người trong số họ còn không liên lạc được với chính cảm xúc của mình, và do đó không có khả năng dùng cảm xúc để thay đổi hành động vật lý và tìm ra những cách kiếm sống tốt hơn. Tương tự, họ cũng không liên lạc được với ý nghĩ của họ, không có khả năng dùng sức mạnh của tư tưởng để tìm những cách tốt hơn mà biểu hiện dồi dào.

Cuộc tìm kiếm dồi dào của họ bị giới hạn trong vật chất vật lý, trong các năng lượng đã sẵn được đem xuống tầng thấp nhất của vũ trụ vật chất là cõi vật lý. Họ chính là những người “phải làm lụng đổ mồ hôi trán mới có mà ăn” (Genesis 3:19). Nhiều người trong số họ lao lực cả đời bằng cách bán sức lao động của mình cho những ai trả giá cao nhất. Đây là những người làm thuê mà không bao giờ có cơ hội thu thập nhiều dồi dào hơn là một việc làm với lương cố định. Thày không bảo là chuyện này nhất thiết là sai, mà thày chỉ nói là chuyện này không bao giờ có thể giúp họ thị hiện một sự dồi dào lớn hơn những gì được áp đặt bởi thị trường lao động nơi họ sinh sống. Nhiều người trong số họ chơi xổ số với hy vọng một vận may sẽ biến họ thành người giàu có, thế nhưng họ không sẵn lòng thay đổi cách tiếp cận cuộc sống của họ để thị hiện nhiều dồi dào hơn.

Có những người cũng nhận ra là họ không thể thị hiện nhiều dồi dào hơn qua việc làm thuê. Một số đã cố tìm những cách khác để tích tụ dồi dào mà vẫn chỉ dùng đến năng lượng trong cõi vật lý. Mặc dù một số đã thành công làm giàu qua cách này, nhưng hầu hết thì không thể nào. Thật vậy, một số đã quay sang làm chuyện phi pháp như một cách chiếm đoạt bằng vũ lực những gì họ không thể kiếm được qua việc bán sức lao động. Những người này bị đồng hóa hoàn toàn với tầng thấp nhất của vũ trụ vật lý và họ vẫn chưa phát triển được khả năng với lên cao hơn tầng này.

Ở một mức nhận biết cao hơn, con tìm thấy những người nhận ra cuộc sống là nhiều hơn năng lượng của cõi vật lý. Có những năng lượng cao hơn, và bằng cách dùng năng lượng này họ có thể nâng cao cuộc sống và biểu hiện nhiều dồi dào hơn. Thày đã có nó tới năng lượng tâm lý là bất kể loại năng lượng nào vượt ngoài cõi vật lý nhưng bên dưới cõi tâm linh.

Bây giờ chúng ta có thể thấy là năng lượng tâm lý có thể chia làm ba cấp độ – có năng lượng tình cảm, năng lượng lý trí và năng lượng ở mức bản sắc. Một số người nhận biết được loại năng lượng tâm lý rung động ở phổ tần số cảm xúc và họ đã học được cách dùng nó trong đời sống. Cách họ làm là dùng chính cảm xúc của họ, và thường khi họ thị hiện dồi dào bằng cách quyến rũ, hay khuynh loát, cảm xúc của người khác. Con sẽ thấy điều này nơi nhiều nghệ sĩ hay diễn viên. Chẳng hạn một ca sĩ có thể trở nên nổi tiếng và tích tụ của cải vật chất to lớn qua việc sản xuất loại âm nhạc khơi dậy cảm xúc nơi người nghe. Cũng vậy, nhiều người lôi cuốn được tình cảm của người khác, và một ví dụ là các nhà chính trị có khả năng đạt quyền lực qua việc kích động cảm xúc của quần chúng xung quanh một mục tiêu cụ thể.

Hiển nhiên những người như vậy có một nhận biết về các năng lượng vi tế cao hơn là loại người đầu tiên. Họ thường có quyền lực trên những người thiên nhiều hơn về vật chất. Những người chú tâm vào cõi vật chất thường không nhận thức được cảm xúc của mình và không thể, một cách ý thức, chế tạo một cảm xúc đặc thù nào đó. Cho nên đúng vậy, những ai đã điều ngự được cõi cảm xúc có thể giúp người khác sản xuất một cảm xúc đặc thù và được trả tiền khi làm vậy. Tất nhiên họ cũng nắm quyền lực trên người kia xuyên qua cảm xúc, và họ có thể dễ dàng kích động người kia hành xử theo một cách nào đó.

Điều này thể hiện một mức độ nhận biết cao hơn, và việc sử dụng năng lượng tình cảm để thị hiện dồi dào không nhất thiết là sai trái. Nhưng nếu nhận biết của họ không đạt đến mức tâm Ki-tô, sẽ có nguy cơ rất lớn là họ có thể dùng năng lượng cảm xúc cho những mục tiêu vị kỷ. Vì họ không có nhận thức về cái Tất Cả, họ sẽ chỉ giản dị giật dây cảm xúc của người khác để đạt được những thứ họ muốn. Một ví dụ điển hình là nhân viên bán hàng khuynh loát khách hàng mua một món đồ đắt tiền để được nhiều hoa hồng. Một ví dụ cùng cực là Adolf Hitler, một tay thiện nghệ trong kỹ thuật khuynh đảo cảm xúc quần chúng. Ông ta không làm vậy từ mức tâm Ki-tô, mà ông đã dùng tâm phản Ki-tô để đạt mục tiêu của mình. Đó là tại sao ông đã dấy lên một lực đối nghịch mãnh liệt đến độ rốt cuộc nó đập tan tham vọng thống trị thế giới của ông. Suốt dòng lịch sử, một số tội ác tàn bạo nhất quả thật đã được gây ra bởi những kẻ học được cách thao túng năng lượng cảm xúc nhưng chưa đạt được sự điều ngự của con tim vốn chỉ xuất phát từ tâm Ki-tô.

Ở mức cao hơn kế tiếp, con gặp những người đã đạt được một trình độ nhận biết cao hơn về cõi lý trí và quyền năng của tư tưởng. Con thường tìm thấy những người như vậy trong các cơ sở giáo dục, trong số các nhà khoa học có khả năng trí tuệ cao độ và là chuyên gia sử dụng năng lượng tư tưởng. Nhiều người trong số này đã có thành tụu to lớn và nhận biết sâu sắc về cõi vật chất. Thậm chí con còn thấy nhiều triết gia hay nhả thần học với hiểu biết trí thức sâu rộng về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Một lần nữa, nếu không có nhận biết của tâm Ki-tô thì một số hiểm họa nghiêm trọng có thể hiện ra. Con sẽ thấy nhiều nhà khoa học phủ nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống, kể cả khía cạnh tâm linh của chính bản chất con người họ.

Làm sao những người như vậy có thể vượt quá được tầng lý trí? Họ không thể vượt quá được tầng này, và đó là tại sao con thấy họ, suốt một kiếp sống, vẫn cứ tiếp tục là người trí thức và cuối cùng thì họ tiếp tục là kẻ bất mãn. Đa số sẽ lập tức bác bỏ lời nhận định này, và họ sẽ bảo là họ hoàn toàn thỏa mãn với cuộc đeo đuổi trí thức của họ. Nhưng nếu con có thể nhìn vào tâm lý của họ, con sẽ thấy có gì đó đang ăn mòn hạnh phúc của họ, có gì đó thiếu sót trong đời họ. Họ biết là có gì thiếu sót nhưng họ không biết cái đó là gì, bởi vì họ không chịu với lên cao hơn tầng lý trí để nhìn nhận bản sắc thực của họ là một sinh thể tâm linh. Vấn đề ở đây là trí năng rất giỏi biện minh cho quan điểm của mình và thuyết phục người khác, và điều này cho họ một cảm giác uy quyền sẽ đánh bẫy họ trong niềm tin là họ luôn luôn đúng, và bên ngoài lý luận trí thức thì không hề có sự thật nào cả. Nếu những người như vậy không có phân biện Ki-tô, không có cách chi con giúp được họ nhìn ra các giới hạn của lý luận nhị nguyên.

Các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước có một hiểu biết trí thức lớn rộng về thần học, nhưng họ không sẵn lòng với lên tâm Ki-tô. Đó là tại sao họ không thể nhận diện Ki-tô Hằng sống khi thày xuất hiện ngay trước mặt họ bằng xương bằng thịt. Thay vì nhận ra Ki-tô trong Giê-su thì họ lại đàn áp thày và âm muu để thày bị giết hại. Họ không muốn thày làm xáo trộn sự yên ổn của họ trong khi họ kiểm soát được mọi chuyện và nhét được nguyên vũ trụ vào chiếc hộp tư duy của họ. Một người rất có thể tập trung vào tầng tư tưởng mà vẫn không nhận biết được những gì ở trên, đồng thời không điều ngự được những gì ở dưới. Đó là tại sao con thấy nhiều nhà trí thức không điều ngự được cảm xúc của mình để có thể chuyển ý tưởng của mình thành hành động.

Khi con vượt quá tầng lý trí, con bước vào tầng bản sắc. Đây là tầng cao nhất của cõi vật chất, và hầu hết mọi người trên hành tinh địa cầu hoàn toàn không hay biết gì về tầng này cùng tầm quan trọng của nó. Tại sao họ lại không biết đến cõi bản sắc? Các hình ảnh được lưu giữ trong thể bản sắc chính là nền tảng cho sự biểu đạt của con trong vũ trụ vật chất, nền tảng cho cách con nhìn mình và nhìn cuộc sống như thế nào. Nếu con thấy mình, nếu cái Ta Biết thấy nó là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tự biểu đạt xuyên qua bốn thể phàm, thì có khả năng là con nhận biết được thể bản sắc của con vì con biết con là nhiều hơn nội dung của thể này. Nếu vậy thì con có quyền năng thay đổi các hình ảnh trong thể bản sắc theo viễn quan toàn hảo của tâm Ki-tô. Nếu con đã mất ký ức về bản sắc thật của mình như một sinh thể tâm linh, nếu con nhận diện mình như một sinh thể vật chất, thì đơn giản con sẽ không thể nhận biết được thể bản sắc cùng khả năng thay đổi ý niệm bản sắc của mình dựa theo bất cứ gì vượt khỏi vật chất. Con không thể có quyền năng thay đổi ý niệm bản sắc một cách ý thức, và lý do là vì nếu con thấy mình là một sinh thể hũu diệt thì chính bản sắc này vượt ra ngoài mọi chất vấn. Bản sắc của con sẽ bị giam trong các hình ảnh được lưu trữ trong thể bản sắc và con sẽ coi chúng là đương nhiên. Bản sắc của con sẽ dựa trên những hình ảnh và tin tưởng mà con nghĩ không thể được chất vấn, không nên chất vấn hay không cần chất vấn bởi vì chúng đúng tuyệt đối. Con xem chúng như lời sấm, con xem chúng là sự thật không thể sai lầm, bất di bất dịch.

Con không tin là có hiểu biết nào lớn hơn ngoài các hình ảnh đã được lập trình vào thể bản sắc của con bởi cái ta hũu diệt và ông hoàng của thế gian. Con đã hoàn toàn mắc kẹt trong ảo tưởng mình là một con người giới hạn, hũu diệt. Vì con không thể sống mà không có một ý niệm bản sắc, cho nên việc chất vấn ý niệm bản sắc có thể khiến con mất chân đứng, mất nền tảng trong cuộc sống. Con không thể chất vấn các tin tưởng trong thể bản sắc chừng nào con còn nghĩ là không có gì khác vượt quá hình ảnh đó về bản thân. Chìa khóa để phá vỡ bế tắc này là nhận ra có gì đó nhiều hơn cái bản sắc được tìm thấy trong thể bản sắc của con.

Trong thời đại hôm nay, nhiều người đã có được một nhận thức sâu sắc hơn về cuộc sống và thế giới vật chất, kể cả nhận thức lớn hơn về năng lượng tâm lý. Nhận thức lớn hơn này và khả năng sử dụng năng lượng tâm lý không nhất thiết tương đương với việc đạt được tự do tâm linh thật sự và sự sống dồi dào. Có hiểm họa là người ta có thể dùng cái biết về năng lượng tâm lý để đoạt những thứ mình muốn bằng vũ lực, đoạt nó từ người khác, thường thường qua việc khuynh loát tư tưởng hay cảm xúc của người khác. Khi làm vậy, họ khóa chặt mình vào con đường giả, con đường có vẻ đúng cho người phàm nhưng lại dẫn đến cái chết tâm linh. Cách duy nhất để tránh mắc vào bẫy này, cái bẫy do cái ta hữu diệt và ông hoàng của thế gian giăng ra, là với lên cao hơn vũ trụ vật chất và nhận ra là có gì đó vượt khỏi tâm nhị nguyên, vượt khỏi tâm phản Ki-tô.

Cách duy nhất để thoát ra khỏi nhà tù do các thế lực thế gian tạo ra là với lên cái hiểu cao hơn của tâm Ki-tô. Con chỉ có thể tìm thấy cái hiểu cao hơn này bằng cách với ra ngoài vũ trụ vật chất, và để làm vậy, con phải sẵn lòng thách thức các hình ảnh trong thể bản sắc của con bảo rằng con không là gì hơn một người phàm trần hữu diệt.

Hầu hết mọi người đều bị kẹt lại ở các tầng vật lý, cảm xúc hay lý trí, và họ sẽ không bao giờ vượt quá tầng của họ cho đến khi họ chịu chất vấn những gì mà cho tới giờ họ xem là vượt ngoài mọi chất vấn. Họ sẽ không vượt lên được cho tới khi họ sẵn lòng thách thức chính những ý tưởng cùng tin tưởng mà cho tới giờ họ xem là đương nhiên, là những sự thật không thể sai lầm, không thể hoặc không nên tra vấn. Chỉ khi nào con sẵn lòng thách thức niềm tin rằng con là một sinh thể hữu dỉệt, hay con là một kẻ có tội khốn nạn, thì con mới có thể tiếp xúc với tâm Ki-tô và nhận được sự thật rằng con là một sinh thể tâm linh bất diệt, một người đồng-sáng tạo với Thượng đế của con. Chỉ khi đó con mới thoát khỏi được cái bẫy của tình trạng hữu diệt, là điều mà Kinh thánh thật sự nói đến qua câu “sự chết là kẻ thù cuối cùng” (1Corinthians 15:26). Đây là cái bẫy của con đường giả trá dẫn đến cái chết tâm linh thay vì sự tự thăng vượt vĩnh cửu khi con chảy với Dòng sông sự Sống và không ngừng đồng-sáng tạo với Thượng đế.

15.11. Không từ dưới đi lên, mà từ trên đi xuống

Những gì thày đang nói với con ở đây chính là tinh túy của sự sống, tinh túy của việc thị hiện sự sống dồi dào. Thày biết là những ý tưởng này có vẻ hơi trừu tượng, nhưng trong các chương kế tiếp thày sẽ trình bày thực tiễn hơn cho con. Điều thày muốn đạt được trong chương này là giúp con hiểu rằng bí mật thật sự của việc thị hiện dồi dào là con cần khuếch trương sự nhận biết về bốn thể phàm của con. Thật quan trọng con hiểu được sự thật sau đây, là một sự thật thường bị các đạo sư về thịnh vượng trên thế giới bỏ qua.

Người ta thường nghĩ là để thanh lọc bốn thể phàm, con nên bắt đầu từ dưới đi lên. Dù sao thì thày cũng đã nói, vấn đề thực sự trên trái đất là con người đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Điều này đã xảy ra vì họ ta đã từ từ làm ô nhiễm bốn thể phàm của mình bằng những hình ảnh bất toàn cho đến khi cái ta ý thức của họ bắt đầu tự đồng hóa với cơ thể vật lý vá cõi vật lý. Ý niệm bản sắc của họ dần dà bị hạ thấp xuống mức vật lý, cho nên con có thể nghĩ là con cần khởi sự ở nơi con đang đứng và làm việc từ dưới đi lên.

Con sẽ làm giống như nhiều người đang làm trong thế giới ngày nay. Con sẽ tìm cách thanh lọc và tăng thể lực cho cơ thể vật lý qua nhiều cách khác nhau. Ở ngoài kia có rất nhiều phương pháp tập tành cơ thể, chẳng hạn như chế độ ăn uống, tập thể dục hay làm sạch cơ thể cho không còn độc tố. Nhiều người đã có tiến bộ qua việc thanh tẩy thể xác, cho nên thày không đang bảo là con không nên chăm sóc cơ thể. Thế nhưng động cơ và mục tiêu đằng sau nỗ lực tập tành mới quan trọng hơn cả.

Con có thể cho rằng để tìm lại ỵ niệm bản sắc đích thực của mình, con sẽ bắt đầu với việc thanh lọc cơ thể. Xong đến bước kế tiếp, con sẽ học cách làm chủ cảm xúc của con, rồi đến tư tưởng, và chỉ sau đó con mới bắt đầu thay đổi ý niệm bản sắc. Đây là con đường có vẻ đúng đắn cho một người phàm vì nó có vẻ quá hợp lý và lô-gích. Mặc dù con có thể tiến bộ đôi chút theo cách này, nhưng con sẽ tiến rất chậm và con sẽ không thể tiến xa hơn một mức nào đó. Thanh lọc cơ thể, cảm xúc và tư tưởng, thậm chí cả làm việc với ý niệm bản sắc của mình, cũng sẽ không tự động biến con thành một sinh thể Ki-tô. Nó có thể biến con thành một sinh thể phàm trần vô cùng tinh xảo và mạnh mẽ, có khả năng tạo ra một số hiện tượng nào đó – kể cả của cải vật chất – nhưng sinh thể này sẽ không thấy bất cứ lý do nào để buông bỏ cảm giác là mình tự chủ bằng cách quy hàng tâm Ki-tô.

Con không thể đạt được tiến bộ tối hậu bằng con đường này. Lý do là vì tâm ý thức của con không thể thay đổi cảm xúc của con – nó chỉ có khả năng kềm nén cảm xúc. Cũng vậy, thể tình cảm của con không thể thay đổi tư tưởng của con – nó chỉ có khả năng lựa ra những ý tưởng phù hợp với ham muốn của nó xong tìm cách ngăn chặn các ý tưởng còn lại. Thể lý trí của con không thể thay đổi ý niệm bản sắc của con – nó chỉ có khả năng che phủ bản sắc này bằng một hình ảnh trí năng. Đơn giản là con sẽ chỉ tìm cách tạo ra bằng tâm ý thức một chương trình máy tính có khả năng áp đảo các chương trình ở những tầng cao hơn của tâm con. Điều này sẽ chỉ gia tăng sự phân rẽ và căng thằng nội tâm, cho nên một cách tiếp cận hay hơn gấp bội là con khởi sự từ trên và loại bỏ các chương trình đang giới hạn con.

Nếu con tìm cách kềm nén các ý nghĩ và cảm xúc sâu hơn, con sẽ đi theo con đường vòng vèo nhất dẫn con vào ngõ cụt, và ngõ cụt này là con tìm cách hoàn thiện cái ta hữu diệt mà cứ tưởng là một khi nó đáp ứng một chuẩn mực toàn hảo nào đó, một chuẩn mực dựa trên tâm nhị nguyên, thì nó sẽ được chấp nhận trong mắt Thượng đế và nhờ vậy có thể làm cỗ xe đưa con lên thiên đàng. Trong các chương trước, thày đã bỏ ra rất nhiều thì giờ trình bày về sự cần thiết phải để cho ý niệm bản sắc hữu diệt chết đi. Đó là để giúp con tránh không rơi vào cạm bẫy cứ cố hoàn thiện ý niệm bản sắc đó theo một chuẩn mực nhị nguyên, một chuẩn mực sẽ không bao giờ chấp nhận được trong mắt Thượng đế vì nó không dựa trên tâm Ki-tô.

Chìa khóa thực sự cho sự sống dồi dào là ngộ ra sự thật thày đã nói với con, cụ thể là trung tâm cuộc sống của con là cái Ta Biết cùng những quyết định con lấy. Cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với, và tự đồng hóa như, bất cứ gì nó nghĩ đến, dù là trong thế gian này hay vượt khỏi thế gian. Chìa khóa thực sự cho dồi dào là nhận biết được cái Ta Biết, nhận biết được rằng con là những gì con nghĩ con là. Thay vì làm việc từ dưới đi lên xuyên qua bốn thể phàm và có thể bị kẹt lại ở bất cứ tầng nào nơi con đạt được một khả năng thiện nghệ nào đó mà con không sẵn lòng buông bỏ, thì con có thể ngay lập tức xoay chuyển ý niệm bản sắc của con. Con có thể đi thẳng vào thể bản sắc và bắt đầu chất vấn, thách thức cái ý niệm bản sắc giới hạn đã được lập trình vào đó qua tâm phản Ki-tô. Con có thể bắt đầu với lên sự thật cao hơn của tâm Ki-tô bằng cách nối kết với cái ta Ki-tô của con và nhận được sự thật này ở một mức độ cá nhân. Khi con dùng chía khóa của hiểu biết ở ngay trong con, con có thể lập tức bắt đầu thay đổi ý niệm bản sắc của con. Một khi con thay đổi ý niệm bản sắc, không thể tránh là con sẽ bắt đầu thay đổi tư tưởng, rồi cảm xúc của con sẽ bắt đầu thay đổi, và như vậy các hành động vật lý cũng thay đổi theo.

Nhiều người tin rằng để cải thiện đời họ, họ cần thay đổi cách cư xử. Họ cố dùng ý chí có ý thức, hay một hệ thống vỏ ngoài nào đó, để thay đổi cách cư xử. Mặc dù việc thay đổi cách cư xử là một chuyện khả thi, thay đổi này có một cái giá phải trả, vì con vẫn đang dùng tầng thấp của tâm con, cái tâm ý thức, để thay đổi cách cư xử. Con vẫn đang tìm cách sử dụng ý niệm nhận biết hạn chế của con để thay đổi cư xử vỏ ngoài, nhưng con không làm gì để thật sự thay đổi thực tại nội tâm là cách con tự nhìn mình như thế nào. Con nghĩ con có thể thay đổi một vài khía cạnh trong cách cư xử của con rồi đạt được một kết quả vỏ ngoài. Một số kết quả có thể đạt được, nhưng con sẽ không bao giờ vượt quá được mức này, và đời con biến thành một cuộc vật lộn gian nan, luôn luôn tìm cách kỷ luật hành vi của mình. Con đang tìm cách dùng tâm nhị nguyên để sửa đổi tâm nhị nguyên, con đang tìm cách giải quyết một vấn đề từ cùng mức tâm thức đã tạo ra vấn đề. Thay vì vượt qua cuộc đấu tranh, con chỉ giản dị gia tăng sự phức tạp và cường độ của cuộc đấu tranh. Con vẫn là một ngôi nhà bị phân rẽ, và con vẫn tiếp tục đánh nhau với các thế lực đang kéo con ra mọi hướng.

Sự thật là hành vi của con là sản phẩm của cảm xúc, cảm xúc là sản phẩm của ý tưởng, và ý tưởng là sản phẩm của ý niệm bản sắc. Nếu con tìm cách thay đổi hành vi mà không thay đổi cảm xúc, con chỉ làm vậy được bằng cách dùng vũ lực để kềm nén những cảm xúc đã thôi thúc con có những hành vi mà con đang cố thay đổi. Đây là thế kẹt tiến thoái lưỡng nan mà Paul đã nói đến qua câu: “Điều lành tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều dữ tôi không muốn thì tôi lại làm” (Romans 7:19). Đây là vấn đề nan giải muôn thuở của con người, tức là con quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con muốn thay đổi cách cư xử, nhưng thể cảm xúc của con lại không ngừng thôi thúc con tiếp tục cách cư xử cũ, và đó chính là lý do con đã bước vào khuôn nếp cư xử đó.

Chẳng hạn con thấy nhiều người bị nghiện rượu hay nghiện ăn. Họ quyết định với tâm vỏ ngoài là họ muốn ngừng uống rượu hay ngừng ăn thái quá. Nhưng thể cảm xúc liên tục bảo họ là họ muốn uống rượu, muốn ăn, cho nên họ phải liên tục chiến đấu với chính họ. Cách tiếp cận thực sự để thay đổi cư xử của mình là nhận ra cư xử này khởi lên từ một số cảm xúc, cho nên mình cần thay đổi cảm xúc trước khi cố thay đổi cư xử. Cảm thể của con không là tầng cao nhất trong bản thể con vì cảm xúc khởi lên từ ý tưởng. Con phải thay đổi ý tưởng trước khi con có thể thay đổi cảm xúc – nhưng chờ đã – ý tưởng của con vẫn không phải lả nguyên nhân gốc rễ bởi vì ý tưởng khởi lên từ ý niệm bản sắc. Cách duy nhất để thực sự thay đổi ý tưởng là thay đổi ý niệm bản sắc.

Con không thể làm việc hiệu quả từ dưới đi lên. Sẽ hiệu quả hơn và mạnh mẽ hơn gấp bội nếu con đi thẳng lên trên cùng và bắt đầu với ý niệm bản sắc của con, rồi sau đó tất cả các tầng dưới của tâm con sẽ cứ thế nối đuôi theo. Tâm ý thức nằm thấp hơn thể cảm xúc, cho nên nó có quyền lực giới hạn trên cảm xúc của con. Cách hiệu quả duy nhất để thay đổi cảm xúc là thay đổi tư tưởng. Cách thay đổi tư tưởng là thay đổi ý niệm bản sắc. Cho nên vấn đề nằm ở chỗ là tâm ý thức – tâm tùy thuộc vào bộ não vật lý – có rất ít quyền năng để thay đổi ý niệm bản sắc. Giải pháp hữu hiệu duy nhất là cái Ta Biết tách mình ra khỏi tâm ý thức và tái lập bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh. Sinh thể này nằm bên trên, nằm vượt khỏi bất kỳ nội dung nào trong bốn thể phàm và do đó nó có quyền năng thay đổi nội dung này.

15.12. Con không phải là anh lính quèn

Để lấy một minh họa, con hãy tưởng tượng một nhóm khoa học gia ngồi trong rạp chiếu phim. Họ nhìn hình ảnh trên màn hình và quyết định là họ muốn hiểu rõ các hình ảnh này được sản xuất từ đâu và tại sao chúng lại có hình dạng như thế. Vì họ là nhà khoa học duy vật cho nên họ chỉ nhìn vào màn hình. Họ không cởi mở với ý tưởng lả hình ảnh trên màn hình có thể không được sản xuất ở mức màn hình mà được chiếu lên màn hình từ một nơi khác, từ một mức thực tại cao hơn. Họ mổ xẻ màn hình, xem nó được xây dựng thế nào, đồng thời họ cũng mổ xẻ các hình ảnh cùng hình dạng của chúng, cố tìm xem chúng có thay đổi theo một khuôn mẫu nào không. Họ đinh ninh là nếu họ hiểu được cách hình ảnh biến đổi thì họ sẽ biết tại sao chúng lại khoác vào hình dạng đó.

Liệu con có thể thực sự hiểu được hình ảnh trên màn hình chiếu bóng mà chỉ xem xét màn hình không thôi? Quan trọng hơn, liệu con có thể nào thay đổi hình ảnh xuất hiện trên màn hình bằng cách chỉ làm việc ở mức màn hình? Đúng là con có thể thay đổi hình ảnh bằng cách sơn màn hình màu đen, và khi đó con không còn thấy hình ảnh sáng sủa nào nữa. Nhưng làm vậy vẫn không thay đổi những gì được chiếu lên màn hình từ máy chiếu phim. Để thực sự thay đổi hình ảnh xuất hiện trên màn hình, con phải đi vào phòng chiếu phim và thay cuộn phim trên máy chiếu.

Trong bản thể con có bốn cuộn phim: cơ thể vật lý, thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc. Chúng làm việc cái này nối theo cái kia. Hình ảnh vật lý là sản phẩm của hình ảnh cảm xúc, hình ảnh cảm xúc là sản phẩm của hình ảnh lý trí. Con có thể cố thay đổi mãi không thôi các hình ảnh cảm xúc mà vẫn không có tác dụng gì trên các hình ảnh lý trí. Nếu con tự nhận diện mình là một kẻ có tội ngay trong bản chất, như nhiều người đạo Cơ đốc được dạy dỗ, thì có một số ý tưởng con sẽ không bao giờ chấp nhận. Mọi ý tưởng của con sẽ bị giới hạn trong khuôn khổ ý niệm bản sắc của con, nghĩa là con sẽ chỉ có thể nghĩ mình là một kẻ có tội rất cần đến một vị cứu tinh từ ngoài. Không thể tránh được là điều này sẽ khiến cảm xúc của con cũng bị giới hạn trong một khuôn khổ, và con có xu hướng cảm thấy bất lực hay bị tê liệt, luôn luôn tìm kiếm ai đó sẽ đến cứu mình hay bảo mình phải làm gì. Và một lần nữa, điều này sẽ hạn chế hành động của con, con sẽ có khuynh hướng đi theo một lãnh đạo hay một giáo hội vỏ ngoài, con sẽ ngại làm những hành vi vượt ngoài khuôn mẫu. Người ta có thể sống cả đời như vậy trong một bộ áo tù bó chặt tay chân mà tiến bộ rất ít.

Vì đây là một điểm quan trọng đến vậy nên thày sẽ cho con thêm một minh họa. Hãy tưởng tượng có vị tổng thống của một nước kia quyết định tuyên chiến với một nước khác. Quyết định này được chuyển xuống cấp tham muu quân sự để quyết định thời điểm cùng địa điểm tổng quát của chiến dịch. Kế hoạch tổng quát này sau đó được chuyển xuống cấp sĩ quan để quyết định mọi chi tiết cuộc tấn công, đánh cụ thể mục tiêu nào và giờ nào, đơn vị nào sẽ tham chiến và thiết bị nào được sử dụng. Cuối cùng lệnh tấn công được thi hành ở mức mỗi đơn vị, và giờ đây chúng ta có một anh lính đứng giữa một trận chiến lớn. Anh ta có thể không thích lắm hoàn cảnh của mình, và anh cảm thấy mình không có chọn lựa nào để thay đổi hoàn cảnh này. Lý do là vì hoàn cảnh của anh là sản phẩm của nguyên một chuỗi quyết định ở những cấp lãnh đạo cao hơn. Hoàn cảnh của người lính không thể được thay đổi ở mức người lính, mà chỉ có thể thay đổi cơ bản ở một cấp cao hơn.

Tổng thống tượng trưng cho thể bản sắc của con, bộ tham muu là tư tưởng của con, sĩ quan là cảm xúc và anh lính riêng lẻ đó là tâm ý thức của con. Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng anh ấy không muốn chết. Chắc chắn anh có thể có một số biện pháp để tự bảo vệ, kể cả việc nâng cao kỹ năng chiến đấu để tiêu diệt quân địch trước khi chúng giết anh. Anh có thể đạt một số thành quả bằng cách làm việc ở mức của anh, kể cả việc dùng vũ lực để tự vệ, tiêu diệt người khác. Nhưng dù anh có làm gì ở mức của mình, việc này sẽ không ảnh hưởng gì đến cấp sĩ quan cùng kế hoạch của họ cho trận đánh sắp tới, hay ảnh hưởng ban tham muu và chiến lược của họ cho toàn bộ chiến dịch. Nó sẽ không ảnh hưởng gì đến tổng thống cùng quyết định khai chiến của ông ta. Anh lính bị kẹt cứng, và anh không có cách nào thực sự nắm lấy vận mạng của anh.

Làm thế nào anh thay đổi được tình trạng này đây? Trên lý thuyết, anh có thể cố đi từ đưới lên xuyên qua mỗi cấp trong hệ thống. Anh có thể thuyết phục các sĩ quan rút đơn vị của anh ra khỏi trận chiến, nhưng chính họ có nhiệm vụ thi hành kế hoạch tổng thể, và nếu họ cần đến đơn vị của anh thì anh sẽ không thành công. Xong anh có thể cố liên lạc với ban tham muu, xin họ thay đổi chiến lược, nhưng điều này sẽ cản trở quyết định của tổng thống, và một lần nữa anh sẽ gặp chống đối.

Cách tối hậu để người lính này nắm lấy vận mạng của mình và sống sót là đi thẳng lên tổng thống và yêu cầu ông ta ngừng cuộc chiến. Ngay khi tổng thống quyết định thì bộ tham muu lẫn các sĩ quan sẽ phải tuân lệnh, và anh lính được tự do trở về nhà. Kịch bản này thích hợp, vì điều ngăn con không có được sự sống dồi dào chính là cuộc chiến diễn ra giữa các thành viên bên trong con (Romans 7:23). Con hãy tưởng tượng anh lính kia rút ra khỏi chiến trường và đi đến dinh tổng thống. Khi anh bước vào văn phòng tổng thống, anh khám phá là không có ai ngồi đó, ghế tổng thống trống trơn. Trong một chớp, anh ngộ ra là không có tổng thống, và bộ tham mưu cùng các sĩ quan chỉ tiếp tục đánh nhau vì lý do đơn giản là chẳng có ai để ngừng cuộc chiến. Họ chỉ thi hành mệnh lệnh nhưng chưa bao giờ họ chất vấn xem có còn tổng thống ở đó hay không để xác nhận mệnh lệnh. Họ chưa bao giờ dám chất vấn cấp trên trong nguyên hệ thống chỉ huy, hay chất vấn tại sao chiến tranh lại khởi sự.

Thoạt tiên anh lính của chúng ta bị sốc, nhưng sau đó anh nhận thấy một tấm biển nhỏ trên ghế tổng thống. Anh bước lại gần và đọc: “Nếu bạn đã vào được phòng này thì bạn có tiềm năng trở thành vị tổng thống tới. Nếu bạn muốn chấm dứt cuộc chiến, bạn là người độc nhất có khả năng làm vậy, nhưng bạn phải sẵn lòng nắm quyền chỉ huy.” Nếu con muốn cuộc chiến giữa các thành viên trong con chấm dứt, con phải sẵn lòng bước lên nắm lấy quyền chỉ huy bốn thể phàm của con. Con phải ngồi vào ghế tổng thống và lãnh trách nhiệm về tình hình. Con chỉ có thể làm vậy khi cái Ta Biết tách mình ra khỏi mọi dính mắc với các thể thấp, ngừng hạn chế mình trong bất kỳ tầng thấp nào – ngừng cho mình là anh lính quèn. Con phải đi thẳng lên thể bản sắc của con, thiết lập một bản sắc đúng đắn dựa trên sự thật Ki-tô và tự đặt mình vào vị trí chỉ huy tối cao của bản thể mình. Khi đó, con có thể chấm dứt cuộc chiến và binh lính có thể trở về nhà ở Vườn Eden.

15.13. Con đang góp phần vào một kế hoạch vĩ đại

Nếu con muốn đạt thành quả tối hậu, nếu con muốn tăng triển tối đa, con cần thách thức ý niệm bản sắc rằng con là một người phàm trần hữu diệt, con là một kẻ có tội khốn nạn, và không có gì con có thể làm để mang lại sự cứu rỗi cho bản thân và thị hiện sự sống dồi dào. Con cần thách thức tất cả mọi hạn chế đã được lập trình vào trong con bởi cái ta hữu diệt của con, bởi tâm phản Ki-tô, bởi gia đình, giáo hội và nhà nước. Khi con thách thức các hình ảnh này và bắt đầu nhận ra quả thực mình là một sinh thể tâm linh vô biên đang ở đây không chỉ để hưởng đời sống vật chất sung sướng, mà còn đến đây với một sứ vụ tâm linh quan trọng, thì toàn bộ tầm nhìn của con về cuộc sống sẽ bắt đầu thay đổi. Con sẽ có một cảm nhận sâu sắc hơn về chí hướng, về ý nghĩa, về cuộc đời như một cơ hội tuyệt vời để biểu lộ khả năng sáng tạo của mình và trở nên nhiều hơn nữa trong thiết kế mà Đấng Sáng tạo đã dành cho con.  

Điều này sẽ đem lại biến đổi to lớn và cơ bản trong mọi khía cạnh đời con vì nó sẽ thay đổi cách con nhìn mọi chuyện. Khi con bắt đầu kinh qua thay đổi này, con sẽ thấy cảm giác vật lộn dần dần giảm bớt cho đến khi nó biến mất hoàn toàn. Sẽ tới một điểm khi thay vì cảm thấy cuộc sống là một gánh nặng bị ép buộc lên con, con bắt đầu cảm thấy cuộc sống quả thật là một cơ hội to lớn mà chính con đã nắm lấy bởi vì dòng sống của con, cái Ta Biết, đã thực sự mong muốn đi vào cõi vật chất để đem sự toàn hảo của viễn quan cao hơn của con vào cõi này. Con đích thực đã muốn đến đây vì con muốn góp phần vào kế hoạch vĩ đại đem vương quốc Thượng đế đến hành tinh địa cầu. Con muốn góp phần đổ đầy ánh sáng và sự thật vào bầu cõi này của vũ trụ vật chất để bóng tối không còn nữa và tất cả mọi thứ chỉ phản ánh sự toàn hảo được cất giữ trong tâm Ki-tô hoàn vũ.

Con yêu dấu, nếu con đi vào cốt lõi của bản sắc con, tức là bản sắc tâm linh vượt khỏi ý niệm bản sắc vật chất, con sẽ khám phá đó chính là lý do con ở đây. Con ở đây vì con yêu sinh thể mà con là, và con mong muốn chia sẻ sinh thể mà con là, một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Cuộc sống không phải là một gánh nặng, cuộc sống không phải do Thượng đế áp đặt lên con, một ông thần nóng giận trên trời muốn trừng phạt con bằng cách bắt con phải đau khổ. Cuộc sống là một cơ hội, cuộc sống là một chọn lựa. Ở một thời điểm trong quá khứ xa xôi, chính con đã chọn bước xuống cõi vật chất này để đem ánh sáng vào bóng tối. Thày cũng biết là giữa giây phút vượt thời gian đó và giây phứt hiện tại trong thời gian và không gian, con đã quên bẵng mất tại sao con đến đây.

Nếu con chịu bỏ nỗ lực thách thức ý niệm bản sắc giới hạn của mình, con có thể – trong một thời gian ngắn không ngờ – được tái sinh trong nhận biết nguyên thủy rằng con là ai và tại sao con đến đây. Khi đó, mọi cảm nhận vật lộn sẽ tan biến giống như sương tan trong tia nắng bình minh. Bỗng nhiên con sẽ bắt đầu nhìn thấy mặt trời của bản thể cao của con, mặt trời của Hiện diện TA LÀ, chiếu xuyên qua tất cả mọi tầng của tâm con. Khi mặt trời này bắt đầu rọi sáng xuyên qua bốn thể phàm, nó sẽ làm tan chảy bóng tối cùng mọi giới hạn, và cảm giác vật lộn cũng sẽ theo chân biến mất. Nó tan biến như thể nó chưa bao giờ hiện hữu, và đời con sẽ khoác vào một ý nghĩa và hướng đi hoàn toàn mới.

Bỗng nhiên con sẽ nối kết lại với thực tại cuộc sống, rằng cuộc sống là an lạc – cuộc  sống là dòng chảy liên tục của tình thương Thượng đế, niềm vui Thượng đế, hạnh phúc Thượng đế đang xuôi chảy đằng sau mọi hình tướng bề mặt được lưu trữ trong bốn phần thấp của tâm con. Con có thể lao mình vào dòng chảy của sự sống và chạm được niềm vui tái ngộ với cái Tất Cả của Thượng đế, niềm vui góp phần vào đồ án vĩ đại là sự trải bày của công trình sáng tạo của Thượng đế. Đây là tấm thảm của sự sống, nó tráng lệ đến độ không ai có thể tham gia vào đó mà không cảm thấy kinh ngạc lẫn biết ơn, biết ơn là mình được chứng kiến sự trải bày của thiết kế vĩ đại này từ một góc nhìn cá nhân, đặc biệt.

Ôi con yêu dấu, cuộc sống là niềm vui. Đây là thực tại đằng sau mọi sự vật lộn của con người trên hành tinh này. Thày không có mong muốn nào mạnh hơn là giúp mỗi người trên hành tinh nhìn xa hơn cảm giác vật lộn đó và cho phép một tia nắng của mặt trời bản thể cao của họ rọi xuyên qua. Tia nắng này sẽ xua tan cảm giác đấu tranh để họ có thể nối kết lại với niềm vui đích thực là chính bản thể họ. Con yêu dấu, thày biết chuyện này nghe có vẻ bất khả thi từ tâm thái hiện thời của con, nhung thày xin nói với con là nó có vẻ bất khả thi chỉ vì tia nắng của mặt trời Hiện diện TA LÀ đang bị ngăn chặn bởi các hình ảnh bất toàn và năng lượng tha hóa được cầm giữ trong bốn tầng của tâm con. Nếu con bước theo chân thày và sử dụng những dụng cụ để thanh lọc bồn thể phàm, thày có thể cam đoan với con là một ngày con sẽ thấy được một tia nắng rọi chiếu qua tâm thức, nó sẽ cho con bằng chứng không thể chối cãi là, thật vậy, cuộc sống là nhiều hơn những gì hầu hết mọi người trên hành tinh này trải nghiệm. Cho nên con hãy đi theo thày khi thày vươn lên cao hơn, và con với thày, mình cùng nhau chạm mặt trời.