15| Đạt được một trạng thái tâm thức quân bình

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 11/4/2005.

15.1. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con

Con hãy để thày trình bày về cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi đấng Sáng tạo của con quyết định sinh tạo những cá thể hóa của chính ngài, một vấn đề khó xử hiện ra. Điều khó xử là làm sao quân bình được quan hệ giữa một cá thể của tổng thể và chính tổng thể để cá nhân không cảm thấy tách biệt khỏi tổng thể và hành động hạ giảm tổng thể thay vì khuếch trương tổng thể.

Đấng Sáng tạo của con có một trạng thái tâm tức bao trùm tất cả. Mọi vật trong thế giới hình tướng đều nằm trong tâm thức của ngài, vì ngài đã sinh tạo tất cả từ chính chất liệu của ngài, từ Bản thể và tâm thức của ngài. Giống như thế, tất cả những thứ do các người đồng-sáng tạo có tự nhận biết, là những cá thể hóa của đấng Sáng tạo, tạo ra đều được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế. Đấng Sáng tạo của con ở trong mọi thứ đã từng được tạo thành, do đó đấng Sáng tạo của con có nhận biết ngài là Tất cả và ngài ở trong tất cả. Nói rằng đấng Sáng tạo tạo ra hình tướng không đúng. Nói rằng đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một hình tướng thì đúng hơn. Đấng Sáng tạo khoác vào một hình tướng và khoác vào sự giới hạn mà không mất đi cái Tất cả của ngài. Khi một hình tướng được đem vào hiện thực, hình tướng này hiện hữu chính vì nó có một số đặc tính khiến nó khác biệt với:

  • Cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có hình tướng
  • Cái trống không trong đó chỉ có bóng tối và vì vậy không có hình tướng
  • Những hình tướng khác trong thế giới hình tướng

Cốt lõi của một hình tướng nào đó là nó được xác định bởi các đặc tính cá biệt khiến nó trở nên khác biệt. Nếu hình tướng này không có đặc tính nào, nó sẽ vẫn còn ở trong cái Tất cả và vì vậy nó sẽ không hiện hữu như một hình tướng khác biệt. Khi đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một sinh thể có tự nhận biết, sinh thể này nhất thiết phải có đặc tính cá biệt. Nếu sinh thể không có cá thể gì cả, nó sẽ không hiện hữu như một sinh thể khác biệt, nó sẽ vẫn không thể phân biệt ra khỏi cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Khi nói tới những hình tướng vô tri giác hay những sinh thể không có tự nhận biết (như thú vật), sự hiện hữu của các đặc tính cá biệt không gây vấn đề vì phân biệt khỏi cái Tất cả không bao giờ dẫn tới tách biệt khỏi Tất cả.

Nhưng với những sinh thể có tự nhận biết, thì một vấn đề có tiềm năng xảy ra, một loại bí ẩn xảy ra. Một sinh thể có tự nhận biết chỉ hiện hữu vì nó có nhận biết; nó biết nó đang hiện hữu. Cốt lõi của bản sắc của con là con hiện hữu như một sinh thể khác biệt với những đặc tính cá biệt và tiềm năng biểu hiện những đặc tính này qua quyền năng sáng tạo của con. Đây chính là điều con được thiết kế để làm, cụ thể là biểu hiện cá thể của con và qua đó đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế bất cứ nơi nào con ở, kể cả nơi hành tinh trái đất.

Con cũng được thiết kế để biểu hiện cá thể của con như một thành phần của Tất cả và một thành phần của Thân thể Thượng đế, là gia đình những người đồng-sáng tạo hiện hữu trong thế giới hình tướng. Con không được thiết kế để biểu hiện khả năng sáng tạo của mình như một người sống trong hư không. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con hầu nâng cao tổng thể trong đó con là một thành phần và con không bao giờ có thể tách biệt khỏi tổng thể đó. 

Con có thể sinh hoạt như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế chỉ vì con có trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Cách con biểu đạt trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con là một biểu hiện của tự nhận biết của con. Hình ảnh của con về mình quy định cách con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng chưa được biểu hiện. Nó cũng quy định con dùng quyền tự quyết như thế nào để quyết định biểu hiện hình tướng nào hay quyết định hình tướng nào con có thể và không thể biểu hiện. Khi ý niệm tự nhận biết của con thẳng hàng với thực tại của Thượng đế, tức là con là một phần của Tất cả và một phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất, thì biểu hiện cá biệt của con sẽ thẳng hàng với tổng thể.

Sự kiện con có trí tưởng tượng không giới hạn có nghĩa con có thể hình dung một ý niệm tự nhận biết tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế và tách biệt hay thậm chí đua tranh với những sinh thể tự nhận biết khác. Sự kiện con có quyền tự quyết không giới hạn có nghĩa là con có thể chọn chấp nhận là một hình ảnh giới hạn như thế về mình. Từ đó con có thể tạo ra một hình ảnh mới về mình dựa trên tách biệt thay vì dựa trên cảm nhận hợp nhất nguyên thủy khi con được sinh tạo.

Việc chuyện này có thể xảy ra là một khía cạnh không tránh được của quyền tự quyết và trí tưởng tượng của con. Chuyện con dùng khả năng sáng tạo của mình để tạo ra một hình ảnh hạn chế về mình như vậy, không phải là điều không thể tránh. Thượng đế làm tất cả những gì làm được để con có thể duy trì dễ dàng một hình ảnh về mình đúng đắn và xây dựng trên hình ảnh này để con trở nên hơn những gì con được thiết kế để trở thành, thay vì con tạo ra một hình ảnh về mình kém hơn những gì con đã được thiết kế để trở thành.

15.2. Người đồng-sáng tạo có thể tách mình ra khỏi tổng thể

Câu hỏi cốt lõi là làm sao một sinh thể có tự nhận biết tránh không hành xử như một người tách biệt khỏi Thượng đế, xa rời Thượng đế hay hành xử giống như mình là sinh thể tự nhận biết duy nhất trong vũ trụ hay chỉ có mình là quan trọng. Thày biết chắc con có thể thấy được tình trạng khó xử này. Thượng đế sinh tạo nhiều sinh thể có tự nhận biết để họ hành động như những người đồng-sáng tạo. Không sinh thể nào trong đó được sinh tạo như một ốc đảo. Không sinh thể nào được sinh tạo là con trai cưng có thể hành xử như một ông vua và tất cả những sinh thể có tự nhận biết còn lại chỉ là tôi mọi cho người duy nhất đó. Quả như Kinh thánh nói: “Thượng đế không tuân theo con người” (Acts 10:34). Đấng Sáng tạo yêu tất cả những đồng-sáng tạo của ngài với tình yêu vô hạn. Khi tình yêu vô hạn và vô điều kiện thì không thể có so sánh và do đó không có con trai hay con gái cưng. Mọi con đều được thương yêu với cùng một tình thương bởi vì dưới mắt Thượng đế mọi con đều giá trị như nhau, đều quan trọng như nhau. Làm sao khác được nếu mỗi sinh thể có tự nhận biết được tạo ra từ cùng chất liệu của đấng Sáng tạo và mỗi sinh thể là đấng Sáng tạo biểu hiện chính ngài như sinh thể cá biệt đó?

Một khi đấng Sáng tạo đã ban cho một sinh thể có tự nhận biết trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì người đồng-sáng tạo đó có thể tách mình ra khỏi tổng thể và bắt đầu hành xử như mình tách rời khỏi người khác, thậm chí coi mình quan trọng hơn người khác. Khi hành động tách biệt ra khỏi tổng thể, sinh thể tự nhận biết đã ăn vào “trái của sự biết thiện và ác” (Genesis 2:17), mà nghĩa thật là thiện và ác tương đối. Trong tâm thức nhị nguyên này, người ta có thể so sánh và do đó người đồng-sáng tạo có thể xây dựng hình ảnh về mình như người giỏi hơn hay có giá trị hơn người khác. Sinh thể đó xây dựng ý muốn cai quản người khác và kiểm soát tổng thể thay vì làm việc để khuếch trương tổng thể.

Khi một người đồng-sáng tạo chấp nhận hình ảnh nhị nguyên này về mình là thật, thì người ấy sẽ bắt đầu hành xử như thể hình ảnh này thật. Người đồng-sáng tạo có thể dần dần tập trung vào “thực tại” do tự mình tạo ra đến độ người ấy quên bản sắc thật của mình. Người đồng-sáng tạo, đã được thiết kế để luôn luôn giữ được ý thức mình là một cá thể hóa của Thượng đế, có thể đánh mất sự hợp nhất này, có thể đánh mất trạng thái Hồng ân này và do đó rơi vào một ý niệm bản sắc giới hạn như một sinh thể tách biệt, tách rời Thượng đế và tách rời Thân thể Thượng đế.

Chuyện này có thể xảy ra ngay khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Thượng đế không mong muốn bất kỳ con trai hay con gái nào của ngài lạc trong một ý niệm bản sắc kém hơn. Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng con chỉ nhận được vương quốc khi con thấy mình là con trai hay con gái của Thượng đế có khả năng và xứng đáng nhận vương quốc này. Nếu con mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc thấp kém trong đó con xem mình tách rời khỏi tổng thể và do đó con nghĩ hoặc là con không xứng đáng nhận sự dồi dài của Thượng dế hoặc con không được quyền nhận tất cả sự dồi dào đó, con không thể nhận trọn vẹn vương quốc. Thượng đế không muốn thấy điều này xảy ra, vậy thì làm sao có thể né tránh chuyện này đây? Trên thực tế không bao giờ có thể đoan chắc chuyện này không xảy ra. Cách duy nhất để đoan chắc con không thể bị mắc kẹt trong một bản sắc thấp là tước đi trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Nếu con không có khả năng tưởng tượng một trạng thái bản sắc giới hạn và nếu con không có ý chí để chấp nhận bản sắc này là thật thì con không thể bị lạc. Nhưng nếu con không có những khả năng sáng tạo này, con không thể phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế và do đó con không thể trở nên hơn nữa. Con không thể làm công việc gia tăng cường độ của ánh sáng Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không với ánh sáng. Trở nên hơn nữa và lấp đầy khoảng trống không chính là mục đích của sự hiện hữu của con.

15.3. Sự sống luôn luôn tự thăng vượt

Câu hỏi mà đấng Sáng tạo phải đối diện là làm sao con dùng khả năng sáng tạo của con môt cách an toàn nhất, có nghĩa là con sáng tạo mà không quên nguồn gốc của mình, cội nguồn của mình. Dù vấn đề này không có đáp án tuyệt đối vì con luôn luôn có quyền tự quyết, nó có một đáp án tuyệt đối theo nghĩa con không bao giờ mất tiềm năng giành lại bản sắc thật của con. Thượng đế đã thiết kế một cách tài tình để lúc nào con cũng có thể tìm về vương quốc của ngài cho dù con đã đi bao xa chăng nữa khỏi vương quốc trong tâm thức.

Đấng Sáng tạo Một bắt đầu tiến trình sáng tạo bằng cách tạo ra hai lực bổ túc. Lão giáo gọi hai lực này là Âm và Dương, nhưng thày muốn gọi chúng là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực có thể có vẻ như đối chọi nhau nhưng đây không phải là sự thật vô điều kiện. Dù chúng có vẻ như có hướng ngược nhau, chúng thật sự là những lực bổ sung nhau. Chúng không loại trừ lẫn nhau, chúng chỉ quân bình lẫn nhau. Chỉ khi hai lực này hoàn toàn quân bình thì một hình tướng bền vững mới được tạo ra.

Một cái gì bền vững có nghĩa gì? Chìa khóa là thấu hiểu chính mục đích của ssự áng tạo, cụ thể là gia tăng ánh sáng Thượng đế, mở rộng vương quốc Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không. Tăng triển không ngừng, thăng vượt không ngừng là mục tiêu. Vai trò của lực lan ra là thúc đẩy sự sáng tạo theo hướng đi ra ngoài, lan ra ngoài để nó không bao giờ đứng yên. Nó không bao giờ bị giới hạn trong một hình tướng nhất định nhưng luôn luôn tăng tưởng để hơn nữa.

Để có thể tạo ra bất cứ gì từ điểm dị đồng của đấng Sáng tạo, phải có một lực lan ra. Nếu lực lan ra là lực duy nhất, sự sáng tạo sẽ đơn giản là một sự bùng nổ liên tục trong đó không thể có được một hình tướng khác biệt nào. Lực co lại của Mẹ quân bình lực lan ra của Cha và khi có quân bình thì có thể tạo một hình tướng có thể vững bền. Hai lực sáng tạo cơ bản này đem lại nền tảng cho sự sáng tạo hình tướng. Chìa khóa cốt yếu cho sáng tạo thành công là sự quân bình đúng đắn giữa hai lực cơ bản này. Nếu lực lan ra quá mạnh, mọi hình tướng sẽ nổ tung. Nếu lực co lại quá mạnh, sự tăng trưởng sẽ dừng lại và rốt cuộc mọi hình tướng sẽ xập xuống và Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trở về trạng thái nền của nó. Phải có cái gì đó duy trì thế quân bình đúng đắn giữa hai lực này và bảo đảm là sáng tạo được bền vững mà không bao giờ đứng yên. Bền vững không đồng nghĩa với đứng yên, nó có nghĩa là vượt thăng liên tục. Tại sao thế? Bởi vì chính định nghĩa của sự sống là tăng trưởng, sự sống là cái gì luôn luôn trong tiến trình tự vượt thăng, mang nhiều thêm bản chất Thượng đế vào sự biểu hiện và do đó thay thế bóng tối trong khoảng trống không.

Lực lan ra và lực co lại không thể tự chúng tạo ra hình tướng. Lực lan ra sẽ luôn luôn lan ra và lực co lại sẽ luôn luôn co lại và nếu chỉ có một lực thì mọi hình tướng, mọi cấu trúc sẽ bị tan vỡ. Hầu tạo được một hình tướng, trước tiên hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng, như một hình tư tưởng. Hình tư tưởng này phải quân bình hai lực lan ra và co lại để hình tướng có thể vững bền trong một trạng thái sinh động trong đó hình tướng không đứng yên nhưng là một môi trường để tăng triển tiếp tục. Lực co lại của Mẹ có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-Vật. Chúng ta có thể so sánh nó như đại dương yên lặng không có sóng. Lực lan ra của Cha giống như ngọn gió thổi vào đại dương và khuấy động sóng. Những ngọn sóng trong đại dương ánh sáng vô tận là những gì hiện ra như hình tướng khác biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng khoác vào bất cứ hình tướng nào và một số những hình tướng này có thể hủy bỏ lẫn nhau giống như sóng đại dương có thể hủy bỏ lẫn nhau.

Cái gì quy định một hình tướng đặc thù được đem vào hiện thực? Những đặc tính của hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng trước khi hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cần có một khuôn đúc để lực lan ra của Cha tuôn chảy vào và khuấy động Ánh sáng Mẫu-vật khoác vào một hình tướng đặc thù thay vì là một sự bùng nổ bừa bãi. Lực lan ra lẫn lực co lại đều không thể tạo ra một hình tư tưởng như thế và dùng hình này để điều khiển lực lan ra đi tới Ánh sáng Mẫu-Vật. Một hình ảnh như thế chỉ có thể được giữ trong một tâm có tự nhận biết, một tâm có trí tưởng tượng để hình dung một hình ảnh và có ý chí để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tâm đó cũng phải có tự nhận biết, khiến nó biết nó hiện hữu và biết nó có khả năng dùng những lực sáng tạo cơ bản. Đấng Sáng tạo có tâm như thế nhưng đấng Sáng tạo không muốn tự mình tạo ra mọi sự. Đấng Sáng tạo quyết định biểu hiện chính mình như những sinh thể cá biệt có thể hành động như những đồng-sáng tạo. Những sinh thể này có khả năng của tâm để hình dung hình ảnh của một hình tướng chưa được biểu hiện và họ có thể phóng chiếu hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-vật. Khi lực lan ra của Cha chảy vào khuôn đúc, Ánh sáng Mẹ khoác lên hình tướng tương ứng. Tại sao những đồng-sáng tạo có khả năng này? Đó là vì họ được sinh tạo ra từ, họ là cá thể của, một khía cạnh khác của Thượng đế, một nối dài khác của Thượng đế, đó là cái mà Kinh thánh gọi là Ngôi Lời hay đấng Con trai duy nhất được sinh tạo từ đấng Cha, đầy ân huệ và lẽ thật (John 1:14).

15.4. Con sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế qua tâm Ki-tô

Nhiều người Cơ đốc đã tin rằng Giê-su Ki-tô là người Con trai duy nhất được sinh tạo từ Thượng đế hoặc Giê-su chính là Thượng đế ngay từ đầu. Ý tưởng này không đúng vô điều kiện. Vì mỗi sinh thể có tự nhận biết từng được sinh tạo đều là con trai hay con gái của Thượng đế, vì mọi vật từng được tạo ra đều đi ra từ Bản thể và tâm thức của Thượng đế, nên ta có thể xem tất cả đều là Thượng đế ngay từ đầu. Nhưng ngay lúc một hình tướng cá thể hay một sinh thể cá thể đi vào hiện hữu, thì nó mang vào những đặc tính riêng biệt và do đó nó không còn là cái Tất cả của Thượng đế nữa. Điều này áp dụng cho Giê-su Ki-tô và cũng như là con. Giê-su đi ra từ cái Tất cả của Thượng đế và thày đã là và đang là con trai của Thượng đế. Con cũng thế, con đi ra từ cái Tất cả và con cũng là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su còn xác nhận thày bình đẳng với mọi sự sống qua câu nói: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Nếu con đã lớn lên trong sự sùng bái thần tượng mà Cơ đốc giáo truyền thống cổ xúy, thì con có thể xem những lời của thày là miệt thị thần linh. Giê-su không bao giờ đặt mình tách rời người khác, thày cũng không bao giờ đặt mình cùng hàng với Thượng đế. Tại sao con nghĩ Giê-su nói: “Sao ngươi gọi ta là tốt lành, chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Giáo lý truyền thống xem Giê-su là Con trai duy nhất của Thượng đế được sinh tạo từ Thượng đế. Giê-su xem cái nhìn này là hình thức miệt thị thần linh tệ nhất và là sự nhạo báng toàn bộ sứ mạng của thày. Khi giáo hội truyền thống tạo ra giáo lý này, họ đã tách Giê-su khỏi mọi người khác và do đó thày trở thành một thần tượng thay vì là tấm gương. Giê-su không thích thấy tín đồ Cơ đốc nhảy múa chung quanh con bò con vàng này, thay vì thừa nhận sự thật là Giê-su đến để chỉ cho họ thấy họ có tiềm năng thật giành lại di sản thiêng liêng của họ. Khác biệt thực sự giữa con và Giê-su là Giê-su đã nhận ra và chấp nhận nguồn gốc của thày là một con trai của Thượng đế trong khi con vẫn chưa làm thế. Con quả thực có tiềm năng giành lại bản sắc thật của con bằng cách noi gương Giê-su và cho phép tâm này ở trong con, tâm dó cũng ở trong Giê-su Ki-tô (Philippians 2:5).

Tâm ở trong Giê-su là tâm gì? Nó là tâm Ki-tô, là Con trai thật được Cha sinh tạo, Cha ở đây có nghĩa là đấng Sáng tạo. Trạng thái tâm thức này là một tâm hoàn vũ, một ý niệm nhận biết hoàn vũ do Thượng đế đấng Sáng tạo tạo ra để phục vụ một chức năng đặc biệt là chức năng làm trung gian giữa Thượng đế và tất cả những nối dài cá thể của ngài, chính là những đồng-sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của tâm Ki-tô là bảo đảm rằng không người đồng-sáng tạo nào có thể mất đi vĩnh viễn bản sắc thật của mình hay mất đi nhận biết về các quy luật Thượng đế. Tâm Ki-tô bảo đảm mọi hình tướng được tạo ra phù hợp với các quy luật Thượng đế và hình tướng nào không thẳng hàng với các quy luật này không thể tồn tại vô hạn định.

Khi Thượng đế sinh tạo ra con, ngài cho con một cá thể độc nhất. Đây là tiềm năng sáng tạo của con và khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, một cách tự nhiên con sẽ biểu hiện cá thể của con trong mọi vật mà con sáng tạo. Cá thể của con là món quà Thượng đế cho con và khi con cho phép ánh sáng của con tỏa chiếu, cá thể của con biểu hiện như món quà của con cho thế giới. Cá thể mà Thượng đế ban cho con quả thực đẹp đẽ và tuyệt vời vượt quá những gì hầu hết con người có thể chấp nhận với ý niệm bản sắc hiện nay của họ. Như Giê-su đã nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34), nghĩa là con đã được thiết kế với một vẻ đẹp và sự toàn hảo vượt xa mức bản sắc và nhận biết phàm phu. Con được sinh tạo để trở thành vô vàn hơn những gì con có thể chấp nhận hiện nay, và cá thể mà Thượng đế ban cho con không bao giờ mất được vì nó được ghi lại vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Con trai duy nhất do Cha sinh tạo là người gìn giữ cá thể thật của con, và đo đó tâm Ki-tô cũng là chìa khóa giúp con tìm lại bản sắc đó. Tâm Ki-tô là chìa khóa duy nhất cho sự cứu rỗi của con vì cứu rỗi có nghĩa là con khắc phục được ý niệm bản sắc giới hạn sinh ra từ tâm phản Ki-tô, tâm tách biệt khỏi nguồn cội của con. Để có được đời sống vĩnh cửu, con phải giành lại bản sắc sinh ra từ tâm Ki-tô, là tâm hợp nhất với nguồn cội của con.

Tâm Ki-tô cũng có vai trò hướng dẫn nỗ lực sáng tạo của con và bảo đảm là chúng luôn luôn thẳng hàng với các quy luật Thượng đế và có sự hài hòa giữa con và Thân thể Thượng đế. Không sinh thể tự nhận biết nào có thể tiếp cận ánh sáng thanh khiết của Thượng đế mà không đi qua tâm thức Ki-tô. Như Giê-su đã nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai tới được Cha ta mà không qua ta” (John 14:6). Tâm Ki-tô biết quy luật của Thượng đế và do đó nó có tiêu chuẩn tuyệt đối để lượng định xem hình tướng mà người đồng-sáng tạo hình dung hòa hợp với quy luật Thượng đế (thiện lành vô điều kiện) hay không hòa hợp với quy luật Thượng đế (xấu ác). Hầu sáng tạo một hình tướng, người đồng-sáng tạo phải hình dung hình tướng và sau đó cho phép uy lực của Thượng đế tuôn chảy qua hình tướng đó, qua đó hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-vật. Quyền năng sáng tạo hình tướng của con tùy thuộc vào cường độ và sức mạnh của ánh sáng thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Lực sáng tạo tối hậu là ánh sáng lan ra của Cha và khi con sáng tạo với ánh sáng này, con có quyền năng sáng tạo tối đa. Như Giê-su đã nói: “Con người không thể làm được nhưng đối với Thượng đế thì chẳng thế; bởi vì Thượng đế làm được mọi sự” (Mark 10:27). Hầu tiếp cận được quyền năng của Thượng đế, con phải có tâm Ki-tô và hình tư tưởng mà con hình dung phải hài hòa với các quy luật Thượng đế. Khi con hiện thân như một con người, tâm thấp của con phải trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ của con. Chính năng lượng tâm linh này trở thành lực đẩy mạnh đằng sau nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su đã nói: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì” (John 5:30) và: “Nhưng chính Cha ở trong ta làm những việc này” (John 14:10).

Khi con hình dung một hình tư tưởng dựa trên tâm Ki-tô, nó sẽ luôn luôn hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế. Như một cá nhân, con không phải là Tâm thức Ki-tô Hoàn vũ trọn vẹn, nhưng tâm thức này đã được cá thể hóa cho con. Như Giê-su đã nói: “Hãy lấy và ăn: đây là thân ta, vì các người mà bẻ ra: hãy làm điều này để nhớ ta (1Corinthians, 11:24). Qua tâm Ki-tô được cá thể hóa này, con có thể sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và do đó những gì con sáng tạo có uy lực tối đa. Đó là lý do tại sao Giê-su, qua tâm Ki-tô đã có uy lực vượt lên trên định luật thiên nhiên và làm những điều mà con người xem là phép lạ. Sự thực là Giê-su đã dùng quy luật cao hơn thay thế định luật thiên nhiên ma khoa học hiện đang hiểu.

Khi con đi theo tiến trình dùng tâm của đấng Con để tiếp cận quyền năng sáng tạo của đấng Cha và quy định hình tướng được phóng lên Ánh sáng Mẹ, sáng tạo của con sẽ khuếch trương tổng thể. Tâm Ki-tô Hoàn vũ sẽ ghi lại mãi mãi hành động thiện lành của con để chúng không bao giờ có thể bị mất. Đây là điều Giê-su gọi là kho tàng chứaở trên trời: “Nhưng hãy chứa kho tàng ở trên trời là nơi chẳng có sâu mối hay rỉ sét làm hư cũng chẳng có kẻ trộm phá vách vào mà lấy (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chọn hình dung một hình tướng không hòa hợp với quy luật Thượng đế và con có thể dùng ý chí để biểu hiện hình tướng này. Để có thể biểu hiện một hình tướng không toàn hảo, con không thể dùng ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Con chỉ có chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng kém hơn, cụ thể là năng lượng tâm lý đã được đem vào sẵn trong quang phổ tần số vật lý. Con vẫn có thể sáng tạo bằng cách dùng ánh sáng này do đó các thày giả nói đúng khi họ nói con có thể tích lũy giàu có đồ sộ bằng cách dùng uy lực của tâm. Sự sáng tạo này sẽ không bao giờ mạnh mẽ bằng những gì được sáng tạo qua tâm Ki-tô. Vì chúng được sáng tạo qua tâm phản Ki-tô, con không thể tránh là con sẽ gặt những gì con gieo: “Vì chúng đã gieo gió và sẽ gặt bão lốc” (Hosea 8:7).

15.5. Con thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở

Thượng đế muốn bảo đảm là cuộc thử nghiệm quyền năng sáng tạo của con sẽ trở thành một vòng xoáy đi lên, qua đó con sẽ tăng triển tự nhận biết và tăng triển nhận biết là cái ta của con là một với Tất cả. Mọi điều con làm hòa hợp với quy luật Thượng đế được ghi lại vĩnh viễn trong tâm Ki-tô. Nó trở thành thành đạt của con, động lượng của con mà con có thể dùng làm nền tảng vững chắc, giống như tảng đá Ki-tô, để gia tăng quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Dù kho tàng đó không bao giờ có thể bị mất, con có thể dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để tách mình khỏi chúng, thậm chí đến độ con hoàn toàn quên chúng và quên bản sắc thật của mình. Khi điều này xảy ra, hiển nhiên con không thể xây dựng trên nền móng của các hành động quá khứ của con và có thể nói rằng con bị bắt buộc phải bắt đầu lại từ đầu. Vì các hành động thiện lành quá khứ của con không thể nào mất, nên kho tàng của con lúc nào cũng còn đó và đợi con. Bất cứ lúc nào, con có thể quyết định ngưng vòng xoáy đi xuống đã tách con ra khỏi cái Ta thật của con. Con có thể bắt đầu đi theo con đường tâm linh sẽ giúp con có uy lực để giành lại bản sắc thật của con. Khi con làm vậy thì con sẽ lấy lại kho tàng mà con đã cất trên thiên đàng và dùng nó như nền tảng để khuếch trương quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Bản sắc thật của con, bản sắc được xây dựng trên tâm Ki-tô, không bao giờ bị mất. Bản sắc giả, bản sắc tách biệt được xây dựng trên tâm phản-Ki-tô, quả thật sinh diệt và do đó có thể bị mất. Con phải đánh mất nó thì mới giành lại được bản săc thực của mình.   

Khi Thượng đế tạo ra thế giới hình tướng này, ngài quy định một số nguyên lý chỉ đạo để bảo đảm hệ thống các thế giới này có thể phát triển vững bền, có thể phát triển mà không nổ tung hay không co lại thành trống không. Thượng đế thiết kế những nguyên lý này để bảo đảm lực lan ra của Cha không quá mạnh đến độ nó làm nổ tung vũ trụ trong một vụ nổ vĩ đại. Cùng một lúc, Thượng đế tạo ra những quy luật để bảo đảm lực co lại của Mẹ không ngừng lại sự lan tỏa của ánh sáng để lấp đầy khoảng trống không. Nếu chuyện này xảy ra thì lực co lại sẽ bắt đầu một chu trình co lại sẽ đem mọi hình tướng trở về cái hư không mà từ đó chúng khởi đầu.

Trong khuôn khổ những nguyên lý sáng tạo do Thượng đế quy định, con có tự do không giới hạn để sáng tạo hình tướng. Là một đồng-sáng tạo với Thượng đế, sáng tạo của con không bị giới hạn bởi quy luật Thượng đế. Quy luật Thượng đế không giới hạn tự do sáng tạo của con. Chúng là một khung sườn, là những nguyên lý chỉ đạo để con có thể sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không phá hủy chính mình hay các đồng-sáng tạo khác. Quy luật Thượng đế được thiết lập để bảo đảm con có thể dùng sự sáng tạo của con để khuếch trương tổng thể bằng cách mở rộng và tăng cường dộ ánh sáng của Thượng đế. Con nghĩ lại thày đã mô tả tiến trình sáng tạo như thế nào. Khi Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới trong khoảng trống không, thì bầu cõi này không được Ánh sáng Thượng đế hoàn toàn lấp đầy. Sau đó những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết được gửi xuống bầu cõi này để nhân lên khả năng của họ và cai quản bầu cõi, qua đó họ lấp đầy bầu cõi với ánh sáng. Sau đó bầu cõi này có thể dùng làm nền móng để mở rộng sáng tạo bầu cõi kế tiếp. Con cần nhận ra là lấp đầy một bầu cõi với ánh sáng không có nghĩa là lấp đầy nó với ánh sáng chưa được phân biệt. Một bầu cõi được lấp đầy với những hình tướng đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế nhưng chúng biểu hiện sự sáng tạo của những người đồng-sáng tạo cư ngụ trong bầu cõi đó.

Con được sinh ra để biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã ban cho con bằng cách sáng tạo những hình tướng sẽ thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở. Quả thực con có sáng tạo không giới hạn và không nỗ lực nào của con bị lãng phí. Chúng sẽ trở thành một phần của vương quốc trường tồn của Thượng đế sẽ hiện ra khi bầu cõi đạt tới một cường độ ánh sáng nào đó. Khi chuyện này xảy ra, bóng tối còn lại sẽ ít oi đến độ nó không thể che mờ thực tại bên dưới là mọi sự đã được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế, từ ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Hiểm nguy các sinh thể có tự nhận biết bị mắc kẹt trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế sẽ không còn nữa. Làm sao họ cảm nhận tách biệt được khi chung quanh họ là những hình tướng tỏa rạng ánh sáng của Thượng đế và biểu lộ sự hài hòa của quy luật Thượng đế?

Bởi vì trong vũ trụ vật chất không đủ ánh sáng, ít nhất là trên trái đất, ta không thể thấy, ít nhất là qua giác quan vật lý, là mọi thứ đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Con không thể trực tiếp thấy là Thượng đế là nguyên nhân, nguyên nhân tiên khởi, đằng sau mọi hình dáng. Đó lý do tại sao một sinh thể có tự nhận biết có thể bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt, nghĩ rằng nó tách biệt khỏi dồi dào của Thượng đế. Khi cường độ của áng sáng được nâng lên trong hành tinh này, con sẽ thấy được ánh sáng tâm linh tỏa rạng từ mọi hình tướng và những hình tướng này hài hòa với quy luật Thượng đế. Vương quốc Thượng đế sẽ được thiết lập trên trái đất và hành tinh này sẽ trở thành ngôi sao tỏa rạng Ánh sáng Tự do, tự do khỏi tâm thức chết.

Thiết kế của bản thể con là con trở nên cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế hầu ánh sáng được khuếch trương trong thế giới này. Khi ánh sáng Thượng đế được khuếch trương, con sẽ phóng đại mọi sự sống qua các nỗ lực sáng tạo của con. Không có xung độ giữa con, một cá nhân, với các cá nhân khác. Các nỗ lực sáng tạo của con khuếch trương ánh sáng và do đó con gia tăng lượng dồi dào có mặt trên thế giới. Con phục vụ để phóng đại mọi thành phần trong thế giới này, kể cả tất cả những đồng-sáng tạo khác. Khi làm vậy, con cũng phóng đại cái ta thật của con, chính là toàn thể Thân thể Thượng đế, được hợp nhất qua thân và huyết (là tâm thức) của Ki-tô.

Thày biết những ý tưởng này có vẻ trừu tượng và khó nắm bắt cho tâm vỏ ngoài của con. Thày nhắc con là việc mở rộng tâm có nhiều giá trị lớn. Thày cũng nhắc nhở con là điều con không thể nắm bắt với tâm trí, con luôn có thể nắm bắt với con tim. Mục đích của thày trong khóa học này không phải chỉ cho con hiểu biết trí năng. Mục đích của thày là giúp con tiến lại gần hơn tâm thức Ki-tô, có nghĩa là thày có mục đích mở rộng cả sự hiểu biết của con lẫn khả năng yêu thương của trái tim con. Thày cho con nhiều khái niệm có vẻ khó nắm bắt với tâm trí, là cách nhìn đời theo đường ngang và đường thẳng là đặc tính của tâm trí, nhưng những khái niệm này có thể nắm bắt bằng cái nhìn quả cầu, đường dọc và không đường thẳng của con tim.

15.6. Tâm Ki-tô nối kết cá nhân với Tất cả

Bây giờ con hãy để thày mô tả thêm tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô quả thực là một nối dài của tâm Thượng đế. Chức năng của nó là phục vụ như mối dây kết nối giữa đấng Sáng tạo và các đồng-sáng tạo có tự nhận biết của ngài. Tâm Ki-tô có một mục đích đặc thù, một điểm tập trung đặc thù, đó là cho cá nhân sức mạnh để duy trì và mở rộng ý niệm bản sắc của mình như là một thành phần của Tất cả, nối kết với Tất cả cho tới khi sinh thể cá biệt có tự nhận biết đó phát triển thêm tự nhận biết và nhận ra cái Ta cao của mình là cái Tất cả. Điều này không có nghĩa là cá nhân mất đi tính cá biệt của nó mà có nghĩa là cá nhân nhận ra nó là cái Tất cả của đấng Sáng tạo được biểu hiện và tập trung qua cá thể của nó. Sinh thể cá nhân có tự nhận biết không còn nhìn thế giới và cuộc sống dưới tầm nhìn giới hạn của nhận biết cá nhân của nó. Nó nhìn cuộc sống dưới tầm nhìn mở rộng của đấng Sáng tạo, tỏa rạng xuyên qua cá thể của nó.

Để minh họa điều này, con hãy tưởng tượng con lớn lên trong một căn phòng không có cửa sổ. Căn phòng có một cánh cửa với một lỗ nhìn nhỏ qua đó ánh sáng mặt trời có thể chiếu vào. Con không bao giờ thấy được toàn bộ mặt trời; con chỉ thấy một tia sáng nhỏ, riêng lẻ của mặt trời. Nếu con đã lớn lên trong một căn phòng như vậy, tầm nhìn của con về mặt trời sẽ bị quy định bởi điểm quan sát của con. Con có thể tin rằng không có mặt trời hoặc tia sáng đơn lẻ đó tự nó hiện hữu. Một khi con mở cửa và bước ra ngoài ánh sáng mặt trời, con sẽ có được một nhận biết mở rộng hơn về mặt trời và sức mạnh thật của nó. Giờ đây con sẽ nhận ra mặt trời mạnh hơn tia sáng nhỏ trong phòng rất nhiều. Con sẽ nhận ra tia sáng quả thực đến từ mặt trời và không thể nào hiện hữu nếu không có mặt trời. Nhưng con vẫn thấy mặt trời ở rất xa.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con du hành đến chính trung tâm của mặt trời và nhìn thái dương hệ từ chỗ đó. Con sẽ không còn bị giới hạn bởi ấn tượng ban đầu tiên mặt trời, như tia sáng nhỏ chiếu qua cánh cửa. Giờ đây con trải nghiệm toàn bộ mặt trời, tuy thế con không mất đi nhận biết của con về tia sáng đơn lẻ. Con sẽ nhận biết là tia sáng đơn lẻ quả thực là một nối dài của chính mặt trời. Quả thực là mặt trời đã tỏa sáng qua lỗ nhỏ của cánh cửa, mặt trời biểu hiện chính nó là một tia sáng đơn lẻ. Không có sự tách biệt thật sự giữa nguồn gốc của ánh sáng và tia sáng đơn lẻ. Giới hạn duy nhất là kích thước của lỗ qua đó ánh sáng tỏa chiếu qua. Nếu con mở rộng kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, lượng ánh sáng có thể tỏa chiếu qua bản thể của con không bị giới hạn nào hết.

Khi Thượng đế sinh tạo con như một sinh thể cá biệt, con không được ban cho sự nhận biết trọn vẹn về mặt trời, có nghĩa là tâm thức của cái Tất cả của Thượng đế. Con được sinh tạo như một sinh thể cá biệt với một tia sáng tỏa chiếu qua tâm thức con. Trong trạng thái tâm thức giới hạn của con, lẽ tự nhiên là con nhìn mình là một sinh thể cá biệt, khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế. Con không đủ tự nhận biết để đồng hóa mình là một với cái Tất cả của Thượng đế, là một nối dài của cái Tất cả của Thượng đế.

Nếu mô tả điều này với từ ngữ đường thẳng mà thày đã có nói là không cho con một hình ảnh chính xác về thực tại Thượng đế, ta có thể nói là con được sinh tạo như một cá thể nhưng con có nhận biết con được sinh tạo bởi Thượng đế. Con thấy mình là một sinh thể cá biệt nối kết với một Thượng đế xa xăm. Sự nối kết của con với Thượng đế không ở ngoài con; nó ở bên trong con dưới hình dạng Hiện diện TA LÀ của con. Con coi mình như một hành tinh quay chung quanh quỹ đạo mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con và được lực hấp dẫn của Hiện diện TA LÀ giữ trong một quỹ đạo ổn định. Dù con có nhận biết rõ ràng về Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn chưa có thể thấy Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con có khái niệm Thượng đế là một Sinh thể xa xăm vượt lên trên trải nghiệm trực tiếp của con.

Con được sinh ra với một nhận biết giới hạn tập trung vào hình tướng cá biệt của mình. Con nghĩ mình được Thượng đế sinh tạo và gửi xuống thế gian này. Con được sinh ra để mở rộng nhận biết của con cho tới khi con nhận ra đấng Sáng tạo không tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Thượng đế là Tất cả ở trong Tất cả và do đó con không được sinh tạo bởi một Thượng đế xa xăm và gửi vào một thế giới trong đó không có Thượng đế. Thượng đế ở ngay đây với con và do đó khái niệm con được sinh tạo bởi Thượng đế quá giới hạn, quá đường thẳng. Sự thực là Thượng đế đang biểu hiện chính ngài như là sinh thể cá biệt của con. Con là Thượng đế biểu lộ chính ngài như sinh thể cá biệt của con. Đó là lý do tại sao Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con (Luke 17:21). Tiến trình thức tỉnh thấy bản sắc thật của con có nhiều giai đoạn:

  • Con bắt đầu thấy mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con là nguồn cội sự sống của con
  • Con nhận ra ánh sáng tỏa xuyên qua Hiện diện TA LÀ là ánh sáng, uy lực của đấng Sáng tạo.
  • Con nhận ra là đấng Sáng tạo ở khắp nơi trong tạo vật và do đó ánh sáng của Thượng đế có tiềm năng tỏa sáng từ bất cứ điểm nào của tạo vật
  • Cuối cùng con tới sự nhận biết là ánh sáng không đến từ một nguồn xa xăm mà nó đến từ bên trong cái Ta của con. Lúc đó con trở thành một Sinh thể tự đầy đủ tỏa chiếu ánh sáng Thượng đế từ bên trong con, giống như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng từ bên trong chính nó

Sau khi con được sinh tạo như một dòng sống cá biệt, con đi xuống năng lượng dày đặc hơn của vũ trụ vật chất. Cái cho phép con có được và duy trì nhận biết ý thức về Hiện diện TA LÀ của con sau khi con xuống là tâm thức Ki-tô, Con trai duy nhất được Cha sinh tạo ra. Tâm thức này được Kinh thánh gọi là Ngôi Lời và như Kinh thánh nói, mọi thứ được sinh tạo từ Con trai của Cha, từ tâm thức Ki-tô và được quy định qua Ngôi Lời. Mọi thứ từng được tạo ra bởi một đồng-sáng tạo có tự nhận biết đã đi ra từ tâm thức Ki-tô, nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi hình tướng từng được tạo ra. Không có ngài, không có cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Con, chẳng điều chi đã được làm ra được làm ra (John 1:3).

Con không bao giờ mất đi được tiềm năng lấy lại tâm thức Ki-tô. Dù con xuống thấp tới đâu trong tâm thức, con luôn có tiềm năng giành lại sự kết nối với Thượng đế và bản sắc thật của con. Con không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi tâm thức Ki-tô vì nó ở trong mọi thứ, ngay cả ở trong những hình tướng không toàn hảo và không hài hòa với quy luật Thượng đế. Đó là lý do tại sao Giê-su nói đá cũng kêu lên để bênh vực Ki-tô (Luke 19:40). Một chức năng của tâm thức Ki-tô là bảo đảm những người đồng-sáng tạo không bao giờ có thể bị lạc trong tạo vật, không bao giờ có thể bị xa rời khỏi Thượng đế đến độ không có khả năng về nhà. Con không bao giờ có thể rời xa tâm thức Ki-tô do đó cảm nhận tách biệt sẽ luôn là một ảo tưởng chỉ có mặt trong tâm con. Bất cứ lúc nào, con cũng có thể bắt đầu đi trên con đường dẫn con thay thế ảo tưởng này với sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). 

15.7. Kế hoạch thiêng liêng cho sự tăng trưởng của trái đất

Thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho dòng sống của con là con bắt đầu như một sinh thể cá biệt với tự nhận biết giới hạn. Con bắt đầu như một cá thể có kết nối với Thượng đế nhưng khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế mà không tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế. Có sự khác biệt giữa có sự kết nối với cái Tất cả của Thượng đế ngược lại với tách biệt khỏi cái Tất cả bởi một rào cản không đâm thủng được. Trong trường hợp đầu, con có thể mở rộng sự kết nối và cuối cùng đạt được sự tự nhận biết mình là một với Tất cả. Trong trường hợp thứ nhì, con không có chọn lựa nào cả để trở về hợp nhất với Tất cả. 

Khi con sử dụng các quyền năng sáng tạo của con, khi con dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con, con sẽ dần dần tăng trưởng tự nhận biết. Con cũng tăng trưởng nhận biết về cách vũ trụ và các quy luật của Thượng đế vận hành. Thượng đế đã ghi khắc quy luật của ngài trong các phần sâu trong con, nghĩa là cái ta ý thức của con có thể biết các quy luật này qua tâm Ki-tô. Khi dòng sống của con bắt đầu hành trình của nó trong vũ trụ vật chất này, con không có một sự nhận biết ý thức về các quy luật của Thượng đế. Tâm vỏ ngoài của con, tâm lý luận của con không có hiểu biết về các quy luật của Thượng đế. Làm sao con tuân theo quy luật của Thượng đế được? Con làm được bằng cách dùng khả năng trực giác của con tim qua đó con hòa điệu được với Tâm Ki-tô Hoàn vũ và con tuân thủ các quy luật này mà không có sự nhận biết có ý thức về cách chúng vận hành. Khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, con sẽ dần dần mở rộng sự nhận biết của con về các quy luật Thượng đế. Con sẽ xây dựng sự hiểu biết có ý thức tại sao các quy luật vận hành thế đó, tại sao tuân thủ quy luật có lợi nhất cho con và làm sao các quy luật này quân bình các nỗ lực sáng tạo cá nhân của con với sự tốt lành cho tổng thể.

Khi con tăng trưởng tự nhận biết, dần dần con có thể nhìn vượt lên trên ý niệm cái ta cá nhân của mình. Không những con hòa điệu với sự nhận biết rộng lớn hơn về quy luật Thượng đế, con cũng bắt đầu mở rộng nhận biết về Thân thể Thượng đế, nghĩa là các đồng-sáng tạo khác. Con bắt đầu nhìn quá những ý muốn cá nhân của mình và nhận ra các đồng-sáng tạo khác không tới hành tinh này chỉ để thỏa mãn các ước muốn cá nhân của họ. Có một kế hoạch thiêng liêng để đem đến sự tăng trưởng của trái đất và kế hoạch này có sự hài hòa toàn hảo giữa cá nhân và sự tốt lành cho tập thể. Bằng cách đứng thẳng hàng với kế hoạch thiêng liêng cho Thân thể Thượng đế, con sẽ được toại nguyện hơn khi thấy những nỗ lực cá nhân của mình tăng cường và khế hợp với kế hoạch lớn hơn cho trái đất và nhân loại. Điều này sẽ cho con sự toại nguyện lớn hơn bất cứ nỗ lực cá nhân nào.

Khi con hiểu và tôn trọng người khác hơn, con tăng triển khả năng yêu thương người hàng xóm như chính mình. Quan hệ của con lúc đó sẽ dựa trên tình thương và dồi dào thay vì sợ hãi và thiếu thốn. Khi con quý trọng quy luật và tạo vật của Thượng đế nhiều hơn, dần dần con bắt đầu yêu Thượng đế với tất cả trái tim, tâm hồn và tâm trí của con (Luke 10:27). Khi con tiếp tục đồng-sáng tạo với Thượng đế và mở rộng tự nhận biết của con, con dần dần nhận ra cái ta thật của con là Hiện diện TA LÀ của con, là một cá thể của đấng Sáng tạo của con. Con bắt đầu nhận ra là, như Giê-su thốt lên, “Ta vCha ta là một” (John 10:30). Con bắt đầu nhận ra là Cha con đã làm việc cho tới nay (John 5:17) bằng cách sinh tạo thế giới hình tướng như một môi trường cho sự biểu lộ sáng tạo của con. Con phải làm việc để nhân lên khả năng của con và cai quản chính ý niệm bản ngã của con. Khi con đã cai quản cái ta của con, thì con có thể cai quản hành tinh nơi con sống và giúp biến hành tinh này thành vương quốc Thượng đế, một bầu cõi được lấp đầy bởi ánh sáng và sự toàn hảo của Thượng đế, thay thế bóng tối bao trùm mặt đất.

15.8. Mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng

Cốt lõi của tâm thức Ki-tô có thể gói ghém trong một chữ và chữ này là “quân bình”. Tâm thức Ki-tô quân bình lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ qua đó các hình tướng bền vững được tạo ra, là những hình tướng quân bình toàn hảo với quy luật Thượng đế. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa một cá nhân đồng-sáng tạo và Thân thể Thượng đế, để có hài hoà toàn hảo giữa cá nhân và tổng thể. Tâm thức Ki-tô cho cá nhân đồng-sáng tạo sức mạnh để tuân thủ quy luật của Thượng đế và qua đó cá nhân dùng những khả năng sáng tạo một cách giúp khuếch trương toàn thể tạo vật và không tác động tiêu cực gì cả trên bất cứ phần nào của sự sống. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa người cá nhân đồng-sáng tạo và đấng Sáng tạo để người đồng-sáng tạo không bao giờ bị lạc trong thế giới của các hình tướng được tạo ra.

Bất cứ hình tướng nào được quy định bởi và qua tâm thức Ki-tô đều là một hình tướng toàn hảo. Nó là một hình tướng hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế, đó là tất cả người đồng-sáng tạo individualizatăng trưởng môt cách hài hòa với nhau để mọi sự sống đều trở nên hơn nữa. Chính qua tâm thức Ki-tô mà con có thể đi theo tiếng gọi của Giê-su: “Cho nên các người nên toàn hảo, giống như Cha các người trên trời, là Hiện diện TA LÀ của con, toàn hảo” (Matthew 5:48).

Sự toàn hảo mà thày nói tới không phải là loại toàn hảo mà hầu hết hình dung. Nhiều người tin vào ý tưởng nhị nguyên, ý tưởng tôn sùng rằng nếu điều gì đó toàn hảo, nó không bao giờ có thể thay đổi. Toàn bộ mục đích của sự sáng tạo vũ trụ này là sáng tạo một bầu cõi trong khoảng trống không và dần dần lấp đầy khoảng trống không đó với ánh sáng Thượng đế cho tới khi ánh sáng có thể lan rộng và lấp đầy một phần của khoảng trống không. Mục đích thực sự của sự sáng tạo, mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng, mở rộng không ngừng, thăng vượt không ngừng.

Thế giới hình tướng hiện hữu vì Thượng đế muốn hơn nữa. Ý muốn hơn nữa là động lực đằng sau mọi sáng tạo và có sẵn trong mọi tạo vật. Ý tưởng truyền thống về thiên đàng như một nơi đứng yên trong đó các thiên thần ngồi trên cụm mây hồng dạo đàn hạc miên viễn hoàn toàn xa với thực tại sôi động và năng động của Thượng đế. Thiên đàng là một nơi năng động hơn trái đất rất nhiều vì tất cả những Sinh thể trên thiên đàng đều đang liên tục làm việc để phát triển ánh sáng của Thượng đế với mục tiêu trở nên nhiều hơn trong Thượng đế, nhiều hơn trong Tất cả.

Động lực muốn hơn nữa cũng được thiết kế sẵn trong tâm thức Ki-tô và do đó tâm Ki-tô liên tục thúc đẩy những cá nhân đồng-sáng tạo để họ thực thi khả năng sáng tạo và mở rộng sự tự nhận biết của họ. Tâm thức Ki-tô thúc đẩy con trở nên hơn nữa, mở rộng tự nhận biết của con cho tới khi con đạt được trọn vẹn tâm thức Thượng đế và biết con là một cá thể của Tất cả, biết con không tách biệt khỏi Thượng đế. Thay vào đó, con là Thượng đế đang tự biểu hiện chính mình qua ý niệm cái ta cá nhân của con.

Sự toàn hảo mà thày nói tới không đứng yên, không là một hình tượng khô chết. Nó năng động, nó tăng trưởng liên tục, luôn luôn trở nên hơn nữa trong sự toàn vẹn của Thượng đế. Thày có nói trước đây với con là lực co lại của Mẹ được thiết kế có sẵn trong chính Ánh sáng Mẫu-vật. Lực co lại này sẽ luôn tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-vật về trạng thái cơ bản của nó nơi đó không hình tướng nào hiện hữu. Ta có thể nói lực co lại liên tục tìm cách phân hủy bất cứ hình tướng nào. Thượng đế không có ý định là mọi hình tướng đều phải phân hủy và trở thành không gì cả để vô hiệu hóa nỗ lực của các đồng-sáng tạo. Ý định của Thượng đế là không hình tướng nào đứng yên, không hình tướng nào trở nên trường tồn. Thượng đế muốn hình tướng năng động, có nghĩa là hình tướng nào cũng là nền tảng cho sự tăng trưởng thêm nữa. Thậm chí một hình tướng toàn hảo cũng phải được thăng vượt và dùng làm nền tảng để biểu thị một hình tướng cao hơn.

Tâm thức Ki-tô cho người đồng-sáng tạo sức mạnh để thiết kế một hình tướng hoàn toàn hài hòa với ý định sáng tạo của Thượng đế. Không hình tướng nào sẽ trường tồn bởi vì lực co lại của Mẹ sẽ phân hủy bất cứ gì đứng yên, bất cứ gì trở thành một hệ thống đóng như định luật thứ nhì của nhiệt động học nói. Chìa khóa để bảo đảm cho nỗ lực sáng tạo của con không bị phân hủy là gì? Chìa khóa là con ở trong tâm thức Ki-tô và con không bao giờ muốn đứng yên hay duy trì một hình tướng đặc thù. Con liên tục sáng tạo hình tướng mới tốt đẹp hơn, như thế con ở trong Dòng sông sự Sống là lực sáng tạo luôn luôn tuôn chảy, chính khía cạnh Đấng Sáng tạo của Thượng đế.

Khi con ở trong dòng chảy của sự sống, con không dính mắc vào bất kỳ hình tướng đặc thù nào. Con không mong muốn hình tướng này trường tồn, con chỉ có mong muốn duy nhất dùng hình tướng đó làm bàn đạp để mở rộng khả năng sáng tạo của con. Con không bao giờ chờ đợi con có thể sáng tạo một điều gì trở nên trường tồn. Con không bao giờ nghĩ khi một hình tướng được thay thế bởi một hình tướng khác cao hơn, nỗ lực sáng tạo cua con bị lãng phí. Con nhận ra nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ bị lãng phí khi con còn ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Con tập trung vào tiến trình sáng tạo thay vì kết quả của sự sáng tạo là một hình tướng đặc trưng. Con tập trung vào hành trình thay vì nơi đến vì con nhận ra cuộc sống là một hành trình không bao giờ dứt.

15.9. Con ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt

Để minh họa điều này, con hãy xem xét một hạt lúa mì được để vào lòng đất. Có vẻ như hạt lúa bị lạc mất dưới đất nhưng sau một thời gian nó trổ mầm. Mầm lúa đẹp tươi nhưng có nhà nông nào lại muốn hạt mầm cứ ở yên như thế? Khi hạt mầm lớn lên thành cây, hình dạng của hạt mầm bị mất đi nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi; nó đơn giản chuyển hóa sang một giai đoạn mới, một hình dạng mới. Cây đẹp tươi với lá xanh nhưng cuối cùng nó biến thành một thân cây có hạt và nó đổi màu vàng. Cây xanh không còn nữa nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi. Khi người ta gặt hái lúa mì, thân cây mất đi nhưng một số hạt trở thành hạt giống cho mùa gặt năm sau và một phần của nó được dùng làm thức ăn nuôi dưỡng cho con người, những người này phục vụ như những đồng-sáng tạo trên trái đất với tiềm năng khuếch trương sự sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của nỗ lực sáng tạo thúc đẩy một hạt lúa mì nảy mầm và phát triển không phải là để sản xuất hạt mầm, cây xanh hay cây trưởng thành và duy trì hình dạng này mãi mãi. Mục đích của nỗ lực sáng tạo là thúc đẩy chính tiến trình sự sống, một tiến trình luôn mở rộng và khuếch trương tổng thể của sáng tạo của Thượng đế.

Như một người đồng-sáng tạo con không được thiết kế để dính mắc vào bất kỳ hình tướng nào cho dù nó đẹp biết bao chăng nữa hay cho dù tốn bao nhiêu công sức để tạo ra nó. Con được sinh ra để là một thành phần của Dòng sông sự Sống qua đó con liên tục dùng một hình tướng để làm bàn đạp cho một sự thành đạt sáng tạo cao hơn. Con được thiết kế để làm như thế và chỉ khi con ở trong dòng chảy của sự sống thì con mới thật sự cảm thấy mãn nguyện và sống động. Tâm thức thăng vượt liên tục là tâm thức của sự sống. Sự dính mắc vào một hình tướng và nỗ lực giữ nguyên một hình tướng là tâm thức chết, tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô khiến các sinh thể có tự nhận biết mắc kẹt trong một ý niệm bản ngã giới hạn và từ chối không thăng vượt nó. Họ kéo họ ra khỏi dòng chảy của sự sống và lực co lại của Mẹ sẽ ngay tức khắc bắt đầu phân hủy cái mà họ tìm cách nắm giữ, tìm cách sở hữu.

Đây là ý nghĩa sâu xa đằng sau lời nói của Giê-su: “Vì ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất nó, còn ai vì ta mà mất sự sống của mình thì sẽ tìm lại sự sống” (Matthew 16:25). Nếu con tìm cách bám giữ một ý niệm bản sắc giới hạn và từ chối không thăng vượt nó, lực co lại của Mẹ sẽ chắc chắn lấy đi ý niệm về sự sống này. Nếu con sẵn lòng bỏ đi ý niệm sự sống đứng yên này, cái hình tượng khô chết đó, để có thể vượt thăng giai đoạn đó và đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn, thì con ở trong tâm thức Ki-tô. Qua tâm thức Ki-tô này, qua sự thăng vượt liên tục này, con sẽ ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt và do đó con có đời sống vĩnh cửu.

Hình thức thật duy nhất của đời sống vĩnh cửu không phải là một trạng thái đứng yên nhưng là một trạng thái năng động của thăng vượt liên tục. Vì con có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết, nên con là người mà con nghĩ con là. Thượng đế đã cho con quyền tạo ra bất cứ ý niệm bản sắc nào mà con muốn, ngay cả ý niệm con là người tội đồ sinh diệt. Nhưng Thượng đế không cho con quyền ở lại mãi mãi trong ý niệm bản sắc đó vì điều đó có nghĩa là con sẽ bị bỏ lại đằng sau dòng chảy sáng tạo của Thượng đế. Tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con bị mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc giới hạn, ngăn cản không cho con đời sống dồi dào? Nếu con tìm cách giữ lại một ý niệm bản sắc giới hạn, con sẽ không thể tránh mất nó. Nếu con sẵn sàng muốn tăng trưởng, con sẽ không bao giờ mất đi ý niệm bản ngã của con.

Con sẽ không bao giờ có thể duy trì một ý niệm bản sắc đặc thù, nhưng con có thể duy trì một ý niệm bản sắc liên tục thay đổi, độc lập với mọi hình tướng đã được tạo ra. Đây là ý niệm bản sắc thật của con, vượt lên trên mọi thứ trên thế gian này. Đấng sáng tạo vượt lên trên tạo vật của ngài. Giống vậy, một người đồng-sáng tạo vượt lên trên tạo vật của nó, vượt lên trên ngay cả thế giới hình tướng. Con được tạo ra như một nối dài của đấng Sáng tạo và do đó con hơn bất kỳ hình tướng nào mà con đã tạo ra trong thế giới này. Con hơn bất kỳ ý niệm bản sắc nào mà con đã tạo ra sau khi con mất đi kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và xem mình như một sinh thể tách biệt. Thượng đế cho phép con tách biệt khỏi ngài nhưng vì Thượng đế thương con vô điều kiện, nên Thượng đế không chấp nhận để bất cứ điều kiện nào giữ con vĩnh viễn tách biệt khỏi ngài. Thượng đế sẽ không cho phép bất cứ điều kiện nào khiến con vĩnh viễn mắc kẹt vào trạng thái tách biệt, lúc nào cũng kém hơn sự trọn vẹn của đời sống dồi dào.

15.10. Con phải thay đổi hoàn cảnh bên trong của con

Con yêu dấu, con hãy để thày một lần nữa cho con một khái niệm có thể khó nắm bắt với tâm đường thẳng nhưng có thể nắm bắt với con tim. Vũ trụ vật chất có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Như con biết có ba yếu tố căn bản cho phép con xem một cuộn phim. Một là màn hình và phim được chiếu lên nó, hai là cuộn phim trong máy chiếu phim và ba là ánh sáng đến từ bóng đèn trong máy chiếu phim. Bóng đèn trong máy chiếu phim có thể so sánh như lực lan ra của Cha, là động lực đằng sau sự sáng tạo mọi hình tướng. Đấy là ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Màn ảnh so sánh như Ánh sáng Mẫu-vật sẽ phản ánh lại bất cứ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó bởi máy chiếu phim. Cuộn phim so sánh như tâm thức người đồng-sáng tạo.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con đi vào một rạp chiếu phim để xem phim và hình đầu tiên của phim cứ lặp đi lặp lại hoài. Dù có một cuộn phim trong máy chiếu phim và cuộn phim đang di động nhưng mỗi hình trên cuộn phim đều giống nhau. Lẽ đương nhiên điều này không tạo nên một phim, nó tạo nên một hình đứng yên không bao lâu làm mọi người chán ngán. Điều làm nên một phim là mỗi hình trên cuộn phim khác hình trước một chút và sự kiện này cho con ảo tưởng con đang xem phim cho dù sự thật là con đang xem một bộ hình đứng yên. Bộ hình đứng yên đơn lẻ này giản dị được phóng chiếu lên màn ảnh với một tốc độ nối đuôi nhau nhanh đến độ mắt của con bị lừa và nghĩ là nó đang xem một phim liên tục.

Cuộc sống trong vũ trụ vật chất rất giống một phim. Hoàn cảnh bên ngoài con đang đối diện ngay bây giờ là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong quá khứ và đang lấy trong hiện tại. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả một hình tư tưởng mà con giữ trong tâm và phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống. Trong máy chiếu phim, một hình ảnh mới được phóng ra nhiều lần mỗi giây. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả của sự kiện nhiều lần mỗi giây, tâm con phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật. Mỗi lúc con đều có cơ hội thay đổi hình ảnh con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-vật. Nếu con không thay đổi hình ảnh, nếu con lấy vào mình một hình ảnh khô chết, con sẽ tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh và đó là lý do tại sao cuộc đời con có vẻ không bao giờ thay đổi.

Đó là lý do tại sao con gặp đi gặp lại cùng một vấn đề và tại sao có vẻ như cuộc đời con giống như một cuộc vật lộn không bao giờ dứt. Nếu hiện nay con ở trong một hoàn cảnh đem lại khổ đau cho con, lý do là con đang phóng chiếu một hình ảnh giới hạn, không hoàn hảo lên màn hình cuộc sống. Con đang phóng chiếu một hình ảnh không được tạo ra từ tâm thức Ki-tô và do đó nó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, là những quy luật được thiết kế để ban cho con đời sống dồi dào. Nếu hoàn cảnh của con không thay đổi, nếu dường như con đang bị kẹt trong những giới hạn mà con không vượt qua nổi, lý do là vì con đang phóng chiếu lặp đi lặp lại cùng một hình ảnh lên màn hình cuộc sống. Giải pháp duy nhất, cách duy nhất để con cải thiện hoàn cảnh của con là con phải thay đổi hình ảnh trong tâm con. Con phải bước ra ngoài trạng thái tê liệt tâm linh đang khiến tâm con, gồm trí tưởng tượng, quyền tự quyết và ý niệm bản sắc của con, bị mắc kẹt trong cùng một hình ảnh khô chết và như vậy con vi phạm điều răn thứ nhì (Exodus 20:40). Con phải biến những hình ảnh trong tâm con thành một cuộn phim để cuộc sống của con trở thành một bộ phim dần dần tiến tới một chung cuộc vui vẻ.

Albert Einstein định nghĩa điên khùng là tiến trình trong đó con cứ làm cùng một chuyện cũ nhưng chờ đợi kết quả khác đi. Trong bối cảnh chúng ta đang bàn, điều này có nghĩa là con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình tư tưởng nhưng làm sao đó, con chờ đợi bỗng nhiên một ngày màn hình sẽ trình chiếu một hình khác. Einstein là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của mọi thời vì ông đã hiểu cốt lõi của của các định luật thiên nhiên. Ông đã hiểu điều mà thày nói trước đây, ấy là vũ trụ là một tấm gương. Nếu con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ, không thể tránh được chuyện vũ trụ sẽ tiếp tục phản ánh lại con cùng một hoàn cảnh bên ngoài. Nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi hoàn cảnh bên trong của con. Nếu con muốn thay đổi điều đang được phóng chiếu lên màn hình cuộc đời con, con phải bảo đảm hình ảnh trong tâm con được quy định bởi tâm thức Ki-tô và không bởi tâm thức phản Ki-tô.

15.11. Hậu quả khi xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô

Chúng ta có thể hiểu thêm một điều từ hình ảnh của rạp chiếu phim giống như cuộc đời của con. Động lực trong máy chiếu phim là lực lan ra của Cha. Trước đây thày có so sánh lực lan ra này với một dòng chảy ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua Hiện diện TA LÀ của con và sau đó qua tâm con. Tâm con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đó, và chính hình ảnh này được phóng chiếu lên màn hình như ngoại cảnh mà con trải nghiệm trên trái đất. Lực đẩy đằng sau sự hiện hữu của con là ánh sáng Thượng đế. Nếu con tắt bóng đèn trong máy chiếu phim thì chuyện gì xảy ra? Phòng chiếu phim sẽ tối đen. Nếu con đánh mất nối kết với Hiện diện TA LÀ của con thì tâm con bị cắt khỏi nguồn ánh sáng nguyên thủy của nó. Nếu con giảm kích thước của sự kết nối với Hiện diện của con, thì giống như con hạ cường độ ánh sáng  trong máy chiếu phim.

Điều này không có nghĩa là con tự hủy hoại ngay tức khắc hay con không thể sáng tạo hình tướng nữa. Nó có nghĩa là con không thể phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống nữa bằng cách dùng ánh sáng tinh khiết của Thượng đế đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Giờ đây con bị ép buộc phải phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống bằng cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem sẵn vào quang phổ tần số vật chất. Ánh sáng này có độ rung thấp hơn, do đó nó không có cùng mãnh lực với ánh sáng tinh khiết đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ phải cần nhiều năng lượng và nhiều nỗ lực hơn để phóng chiếu hình ảnh lên màn hình cuộc sống bằng cách dùng ánh sáng có độ rung thấp hơn. Điều này giới hạn khả năng sáng tạo của con và sẽ biến cuộc đời con thành một cuộc vật lộn.

Động lực đằng sau những nỗ lực sáng tạo của con là dòng năng lượng chảy xuyên qua tâm con, giống như ánh sáng chiếu xuyên qua máy chiếu phim. Khi con có một phần tâm thức Ki-tô, con có thể nhận ánh sáng có tần số cao trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con. Giới hạn duy nhất cho quyền năng sáng tạo của con là kích thước ống dẫn kết nối ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con có ánh sáng thuần khiết này tuôn chảy qua con, thì sự sáng tạo của con không cần nỗ lực vì chính ánh sáng làm công việc. Con nhận ra sự thực của câu nói của Giê-su: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30).

Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con phải lấy năng lượng tâm lý từ cõi này trước khi con có thể sáng tạo bất cứ gì. Nếu con không hiểu tiến trình lấy năng lượng tâm lý và dùng nó để sáng tạo hình tướng, quyền năng sáng tạo của con lại bị giảm thấp hơn nữa và giờ đây con phải tích lũy dồi dào chỉ bằng cách làm việc với chất liệu vật lý. Trong cả hai trường hợp, con phải lấy năng lượng từ một nguồn cung cấp hữu hạn, thường có nghĩa là con phải cạnh tranh với người khác để lấy năng lượng dó. Con phải lấy những gì con cần bằng sức mạnh và điều này chắc chắn giam hãm con trong cỗ máy chạy kéo con vào chuỗi hành động và phản ứng, dùng sức mạnh và bị lực phản công lại.

Sự vât lộn này sẽ tiếp tục cho tới khi con thiết lập lại sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và kết nối này là cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi con khắc phục ý niệm tách biệt và thiết lập lại ý niệm hợp nhất với nguồn cội của con, cuộc đời con không còn là một cuộc vật lộn nữa. Uy lực của ánh sáng Thượng đế giờ đây có thể tuôn chảy xuyên qua tâm con mà không bị cản trở và như thế Cha con có thể làm việc cho đến bây giờ và con cũng làm việc (John 5:17). Như Giê-su đã nói: “Với Thượng đế mọi chuyện đều làm được” (Matthew 9:16), và do đó mọi cảm giác vật lộn đều bỏ lại đằng sau con. Lúc ấy con có thể nói cùng với Giê-su: “Vì ách của ta dễ chịu và gánh nặng của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30).

Con hãy nhớ là ngay cả khi con đã nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, thì con vẫn không thể đứng yên, con không thể sáng tạo một hình tướng và chờ đợi nó hiện hữu vô hạn định. Mục đích cửa đời sống, định nghĩa đích thực của đời sống là thăng vượt liên tục. Con phải liên tục cập nhật và cải thiện các hình tư tưởng trong tâm con. Khi con làm thế, khi con chứng tỏ sự trung tín trong một số việc nhỏ, Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều ánh sáng hơn, sẽ cho phép con sáng tạo nhiều dồi dào hơn nữa và những hình tướng đẹp hơn và toàn hảo hơn nữa.

Khi con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, hay đúng hơn bởi vì con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, con không ở trong trạng thái đứng yên. Con liên tục tăng trưởng, liên tục thăng vượt. Con toàn hảo giống như Cha con trên trời toàn hảo (Matthew 5:48) vì con liên tục trở nên hơn nữa giống như Thượng đế liên tục trở nên hơn nữa qua con.

15.12. Con sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo

Vì Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng vô hạn, chuyện có thể xảy ra là con dùng trí tưởng tượng của mình để hình dung những hình tướng không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế. Chuyện có thể xảy ra là con xây dựng một ý niệm bản ngã không phản ánh thiết kế nguyên thủy cho dòng sống của con. Thay vì xem mình là con trai hay con gái của Thượng đế, con có thể bắt đầu xem mình là một sinh thể tách biệt khỏi Thượng đế, thậm chí là một sinh thể bị Thượng đế bỏ rơi hay bị đuổi ra khỏi thiên đàng. Thậm chí con có thể xây dựng hình ảnh con chống đối Thượng đế và con ghét mọi thứ mà Thượng đế tượng trưng, bao gồm luôn cả những quy luật của Thượng đế mà con xem là một giới hạn cho tự do sáng tạo của mình.

Khi con dùng uy lực ý chí của con để chấp nhận một tự nhận biết giới hạn như thế là thực, ngay cả nó là thực tại khả dĩ duy nhất, con có thể dần dần đưa mình vào một trạng thái tâm thức trong đó con không còn có thể quy định những hình tư tưởng dựa trên tâm thức Ki-tô. Tất cả những hình tư tưởng được giữ trong tâm con được quy định bởi tâm thức  phản Ki-tô, tâm thức tách biệt khỏi Thượng đế và tách biệt khỏi tổng thể. Điều này khiến cho hình tư tưởng của con càng ngày càng tập trung vào mình, càng ngày càng ích kỷ. Lúc ấy con mất đi nhận biết về tổng thể và con mất đi sự quan tâm hành động của mình ảnh hưởng người khác ra sao. Điều này có thể trở thành một vòng xoáy đi xuống dần dần kéo con xuống thấp hơn tiềm năng sáng tạo thật của con, tiềm năng thiêng liêng thật của con.

Quả thực không có giới hạn nhất định nào về việc một sinh thể tự nhận biết có thể đi xuống thấp dưới tầng mức tâm thức Ki-tô bao xa. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng không giới hạn. Chỉ có một giới hạn duy nhất là Thượng đế không cho con được thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô mãi mãi. Ngay khi con ăn vào trái của hiểu biết về tốt và xấu, con mất đi sự sống vĩnh cửu của tâm thức Ki-tô. Lúc đó con phải chịu những định luật thấp hơn của sinh diệt mà định luật thứ nhì của nhiệt động học chỉ là một phần. Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con không còn ở trong dòng chảy miên viễn của Dòng sông sự Sống. Con chịu sự khống chế của định luật thời gian và không gian và những luật này sẽ giới hạn con ở một nơi nhất định trong không gian và chúng sẽ giới hạn con ở một nơi nhất định trong thời gian.

Không gian và thời gian, theo định nghĩa là những khái niệm giới hạn, con không thể ở mọi nơi trong không gian và con không thể hiện hữu mãi mãi trong thời gian. Ý niệm bản ngã giới hạn, là hậu quả của việc con tham gia vào tâm phản Ki-tô, không thể hiện hữu đời đời. Sẽ tới một ngày con phải chọn tùng phục ai, con phải chọn muốn trở về tâm thức Ki-tô và đời sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô hay con muốn tiếp tục giới hạn ý niệm bản sắc của mình theo tâm thức phản Ki-tô. Ý niệm bản sắc này chắc chắn phải chết. Đây chính là ngày phán xét được nói tới trong Kinh thánh (Matthew 10:15). Nếu con từ chối tăng trưởng về hướng tâm thức Ki-tô, nếu con từ chối thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn của con thì cơ hội để con thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô sẽ chấm dứt trong cái mà Kinh thánh gọi là cái chết thứ nhì (Revelation 2:11).

Thiết kế nguyên thủy của dòng sống của con không bao giờ có thể mất được. Thiết kế này được bảo tồn muôn thuở trong tâm Ki-tô, Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tiềm năng con được cứu rỗi, được chuộc lại, được trở về trạng thái trước kia của con, được trở về với Hồng ân, được trở về thiên đàng, không bao giờ có thể bị mất. Dù con đã làm gì chăng nữa trong thế gian này, dù con đã đi xuống dưới tầng mức tâm thức Ki-tô bao xa chăng nữa, con vẫn có tiềm năng quay đầu lại và bắt đầu hành trình đi lên sẽ đưa con về với tâm thức Ki-tô. Một chức năng của tâm thức Ki-tô là giữ cái mà ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Đây là hình ảnh được giữ trong tâm của đấng Sáng tạo thuở ban đầu khi ngài sinh tạo dòng sống của con. Đây là khái niệm quy định cá thể của con, những món quà cá biệt mà đấng Sáng tạo của con ban cho con khi ngài lần đầu tiên hình thành con. Những đặc tính này ở đây, niêm trong tâm thức Ki-tô. Nếu con sẵn lòng thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn mà con đang có, thì con có thể khám phá niệm tinh khôi này. Con có thể khôi phục lại ý niệm bản ngã, ý niệm bản sắc của con bằng cách một lần nữa hợp nhất với niệm tinh khôi. Con là cái con nghĩ con là, cho nên nếu con có thể hình dung và chấp nhận niệm tinh khôi, con sẽ là sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo.

Hành tinh trái đất lúc ban đầu được tạo ra trong một trạng thái toàn hảo cao hơn những gì được biểu hiện hiện nay. Con người đã đem hành tinh này xuống thấp hơn nhiều trạng thái toàn hảo nguyên thủy, tuy thế thiết kế nguyên thủy vẫn hiện hữu trong niệm tinh khôi trong tâm thức Ki-tô. Chuyện rất có thể xảy ra là một lượng người tới hạn có thể nâng cao tâm thức họ tới tầng mức Ki-tô và do đó họ phục vụ như những cánh cửa mở để đem niệm tinh khôi đó vào hiển thị vật lý trở lại. Hoàn cảnh hiện nay trên trái đất không gì khác hơn cuộn phim chiếu lên màn ảnh cuộc sống qua tâm thức tập thể của nhân loại. Hầu hết con người trên hành tinh này hiện nay tin vào ảo tưởng là không có hình ảnh nào khác khả thi hay thiết thực. Nếu có một số nhỏ con người từ chối không tin vào ảo tưởng đó và đặt viễn quan của họ về trái đất thẳng hàng với niệm tinh khôi, thì Ánh sáng Mẫu-vật sẽ hân hoan trình chiếu niệm tinh khôi này thay vì khái niệm hiện thời chịu ảnh hưởng quá lớn của tâm phản Ki-tô.

Nếu con cảm thấy những giáo lý thày trao truyền trong khóa học này khuấy động điều gì đó sâu trong trái tim của con, thì rất có thể là con đã xuống đầu thai trong lúc này vì con muốn trở thành một trong những sinh thể Ki-tô có thể giúp nâng trái đất khỏi những hạn chế hiện nay của nó và đem nó vào thời đại hoàng kim trong đó tất cả mọi người cùng chia sẻ cuộc sống dồi dào. Thày sẽ nói thêm về ý tưởng này trong các chương kế tiếp [xem Quyển Hai và Quyển Ba], nhưng bước kế tiếp là chúng ta cần hiểu nhiều hơn làm thế nào những sinh thể tự nhận biết đã đi xuống một ý niệm bản ngã hạn chế dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Khi hiểu con đã đánh mất Hồng ân của tâm Ki-tô nhu thế no, thì con cũng sẽ khám phá chìa khóa để lấy lại trạng thái Hồng ân này.