Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.
TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao cho các con một bài nữa trong số các giáo lý mà thày có ý định trao truyền trong hội nghị này dưới chủ đề làm sao là Ki-tô Hằng sống hành động. Giờ đây các con yêu dấu, khi thày trao truyền quyển Chìa khóa cơ yếu đưa tới quả vị Ki-tô cá nhân, thì thày ở trước tình trạng mà thày có đề cập tới sáng nay, đó là các thày cần nhận ra con người đang ở tầng tâm thức nào – tâm thức tập thể ở tầng nào, các người tâm linh ở tầng nào, các giáo lý nào đã được trao truyền trước đây, giáo lý nào có thể trao truyền bây giờ. Thày đã trao truyền một khóa học với mục đích đi tới con người (ngay cả một số người có quá trình Cơ đốc giáo và do đó đã lớn lên với một cái nhìn truyền thống về Ki-tô và đạo Cơ đốc) và cho họ một giáo lý có thể giúp họ tiến gần hơn quả vị Ki-tô.
Khóa học đã giúp một số người đã sẵn sàng, nhưng lẽ dĩ nhiên vào lúc đó, không có khóa học nào có thể đưa những người chưa sẵn sàng vượt trở ngại và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô. Lý do là vì, như thày có giảng sáng nay, nếu con chưa chạm trán, thấy rõ ngã gốc và để cho nó chết đi, thì con không thể bắt đầu dám biểu lộ quả vị Ki-tô, vì con không có tự do biểu lộ nó.
5.1. Là Ki-tô nghĩa là gì
Bây giờ thì các thày đã trao truyền giáo lý về ngã gốc, nên lẽ dĩ nhiên các thày có thể giảng cho các con nhiều hơn về thế nào là Ki-tô Hằng sống. Trên căn bản, Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Có nghĩa là con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Đúng thực là khi con còn ngã gốc, thì như thày có giảng năm ngoái, nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Ta có thể nói là khi con còn ngã gốc, thì con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.
Khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp. Thậm chí con sẽ dùng giáo lý tâm linh để tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó. Do đó, con không thể thực sự là Ki-tô vì Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.
Nếu con không nối kết với cõi tâm linh thì con không thể là người trung gian. Mặt khác, nếu con không có tự do để biểu lộ bất cứ xung lực nào chảy qua đường dây nối kết đó, thì con cũng không thể là người trung gian, ít ra là con không thể là người trung gian hoàn toàn. Con có thể nói: “Vậy thì làm sao con người có thể đạt được phần nào quả vị Ki-tô khi chưa có giáo lý về ngã gốc?”
Ấy, lý do là, lẽ dĩ nhiên, không tuyệt đối cần thiết có giáo lý về ngã gốc để khắc phục được ngã gốc. Các thày đã trao cho các con dụng cụ gì để khắc phục ngã gốc? Nó dựa trên nguyên liệu chính trên con đường tâm linh: sự quán sát chính mình.
Qua các thời đại, đã có một số người, một số ít người, đã có thể sử dụng khả năng của cái Ta Biết bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại và quán sát chính nó, quán sát cái ngã vỏ ngoài, từ bên ngoài. Do đó, con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó, và do đó, con có thể, lẽ dĩ nhiên, biểu lộ một phần quả vị Ki-tô. Một số các con đã làm điều này trước khi con nhận được giáo lý này. Tuy nhiên, các thày trao truyền giáo lý này vì đã đủ túc số những người sẵn sàng nhận giáo lý và có thể sử dụng nó để gia tốc sự tăng triển của họ, và tới điểm, thay vì chỉ chợt thoáng có quả vị Ki-tô, thì họ có thể biểu lộ nó một cách liên tục hơn. Nhiều người trong các con đã đạt được một thành quả tâm linh nào đó trong những kiếp trước và đã thiết lập được đôi chút nối kết nội tâm. Do đó, con đã có thể đôi khi biểu lộ quả vị Ki-tô. Trong nhiều trường hợp, con đã không làm được đến mức tối đa, là điều con mong muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.
5.2. Món quà tiềm ẩn của Ki-tô
Bây giờ thì thày trao cho con một giáo lý giúp con tiến xa hơn trong việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Tất nhiên, thày giả sử một lần nữa là con học một cách nghiêm túc, và con đã dùng những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong quyển Các kiếp sống của tôi và quyển Chữa lành chấn thương tâm linh để bắt đầu khắc phục ngã gốc. Một khi con đã bắt đầu khắc phục ngã gốc thì con sẽ dễ hiểu những gì thày giảng ở đây.
Giờ đây con yêu dấu, thày muốn con bước lui khỏi toàn bộ tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, đặc biệt là trong 17 thế kỷ vừa qua từ ngày Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập. Thày muốn con cố gắng bước lui khỏi tất cả những thứ đó – tất cả những diễn giải tân thời về Giê-su và ý nghĩa của Ki-tô. Con hãy bước lui lại và nhìn vào những điều mà con biết về cuộc đời của thày, chuyện gì đã thực sự xảy ra. Thày đã muốn hoàn thành chuyện gì? Thày thực sự muốn cho con người cái gì? Tuy những điều này không được mô tả rõ ràng trong Thánh kinh, nhưng ít ra cũng đã có một số gợi ý trong đó. Thày lúc nào cũng tìm cách cho con người trải nghiệm là có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ. Đó là một công việc rất khó khăn, ít ra thì đó là một công việc không thể hoàn thành một cách tuyệt đối, vì, như các thày đã giảng cho các con, trên trái đất có 144 tầng tâm thức.
Trong kiếp sống đó của thày, trong khoảng 3 năm thày truyền giáo, thày đã gặp những người thuộc đủ 144 tầng tâm thức, hay đúng hơn thì thày ít nhất đã gặp những người ở các tầng tâm thức thấp trong khi thày gặp vài người ở tầng 144. Thày có gặp một số vị đó trước khi thày bắt đầu 3 năm truyền giáo, nhưng trong thời gian thày truyền giáo ở Palestine, thì thày thực sự không gặp ai ở các tầng tâm thức cao. Tuy nhiên, khi con gặp một người ở tầng tâm thức thấp thì con không thể trao cho họ cùng giáo lý mà con trao cho người ở tầng tâm thức cao. Con không đạt được lợi ích gì khi con tìm cách trao cho những người ở dưới tầng 48 giáo lý mà con trao cho người ở trên tầng 48, vì họ sẽ không thể nào hiểu được. Con có nghe câu chuyện thày gặp một người đang khát nước và thày đã không tìm cách trao cho y một giáo lý tâm linh mà thày nhân danh Ki-tô trao một ly nước. Con thấy là thày thay đổi món quà để thích nghi với tầng tâm thức của con người. Tuy nhiên điều thày muốn nói và dạy cho con là có một điều Thánh kinh không nói tới và đa số người tâm linh thần bí thuộc nhóm Thời đại Mới cũng thực sự không hiểu. Đó là khi thày trao cho con người điều gì phù hợp với tầng tâm thức của họ, thày cũng trao cho họ một cái gì khác. Ngay cả khi thày cho một người ly nước lạnh, thày cũng trao cho họ từ thày điều gì đó nhiều hơn là nước. Cái nhiều hơn đó là gì vậy? Ấy thày sẽ trình bày điều này theo hai cách.
5.3. Con không thể hiểu Ki-tô
Nhiều người trong các con, là những người tâm linh, quen học một giáo lý và tìm cách hiểu giáo lý đó. Nếu con nhìn thành phần những người tâm linh và tín đồ các tôn giáo, thì con thấy là có nhiều người nghĩ rằng (đặc biệt là trong thời đại hiện đại này là thời có nhiều người bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ lý luận, duy lý, đường thẳng) vấn đề là hiểu giáo lý. Thày đồng ý là có câu ngạn ngữ: “Chân lý sẽ giải thoát con người”, và con người ngày nay lý giải là chân lý nghĩa là một hiểu biết. Con bị vướng kẹt trong một ảo tưởng, và một khi con có được hiểu biết xóa tan ảo tưởng, thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng. Tất nhiên điều này đa phần đúng. Con có thể vượt qua ảo tưởng bằng cách thấy chúng là ảo tưởng và do đó được giải thoát khỏi chúng.
Có một truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói rằng nếu con cầm trong tay một cái gì con nghĩ là con rắn thì con sợ, nhưng khi con thấy đó là một sợi dây thừng, thì cơn sợ tan biến đi. Câu truyện này có giá trị, nhưng tuy thày cũng muốn trao truyền hiểu biết qua các giáo lý, nhưng đây không phải là điều chính yếu mà thày muốn trao truyền. Thực ra, khi thày trao truyền một giáo lý, thì nó chỉ như một cỗ xe, giống như ly nước lạnh là một cỗ xe. Ly nước lạnh là cỗ xe đem lại món quà mà thày muốn trao cho một người ở một tầng tâm thức nào đó. Khi thày trao truyền bất cứ gì, thì đó là một cỗ xe cho món quà lớn hơn mà thày muốn trao. Món quà lớn hơn đó là gì? Ấy, đây là một câu hỏi mà con có thể đặt ra cho chính mình: “Tôi có thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích của tôi chăng? Tôi có thể hoàn toàn hiểu Ki-tô chăng?” Câu trả lời rất rất rõ và dứt khoát: “KHÔNG!” Con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô. Con có thể hiểu một số khía cạnh và đặc tính của Ki-tô. Con có thể hiểu sự tương phản giữa điều rõ ràng là phản Ki-tô và sự hiểu biết cao hơn về Ki-tô. Có một số chuyện con có thể hiểu, nhưng con không thể nào nắm bắt toàn bộ Ki-tô bằng cách hiểu. “Minh triết là điều chính yếu, và con hãy tìm cầu minh triết với tất cả sức hiểu biết của con.” Câu này có giá trị tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể đưa con đi quá tầng đó.
5.4. So sánh hiểu và nắm bắt
Vì chúng ta đang sống trong thời đại trí năng, nên thày muốn trình bày là có sự khác biệt giữa hiểu và nắm bắt. Con có thể hiểu một điều gì đó một cách đường thẳng, phân tích mà không nắm bắt điều đó. Con có câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Ta không thể nhìn ra khu rừng nếu ta nhìn vào các cây.” Con quá chú tâm vào chi tiết và mất đi khả năng bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Tâm đường thẳng, phân tích hay có tác dụng đó trên con người.
Họ quá chú tâm vào các chi tiết được diễn tả bằng lời mà tâm đường thẳng có thể xử lý, phân tích, xếp loại, dán nhãn và xếp gọn ghẽ vào danh mục hay hộp trong kho tài liệu. Vì họ quá chú tâm vào các chi tiết, nên họ không thể bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, các khía cạnh. Con chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô. Nói cách khác, nắm bắt Ki-tô không phải chuyện hiểu, mà là chuyện trải nghiệm, con có thể nói đó là một tiến trình kinh nghiệm. Những điều thày trao truyền cho con người trong kiếp hiện thân, thày luôn luôn tìm cách trao cho họ món quà lớn hơn để họ có thể trải nghiệm là có cái gì vượt xa hơn tâm thức hiện tại của họ.
Ít ra là họ có thể trải nghiệm là thày ở trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Thày ở tầng tâm thức cao hơn, do đó việc ở tầng tâm thức cao hơn là điều khả thi. Lẽ dĩ nhiên, sự trải nghiệm của họ tùy thuộc tầng tâm thức của họ. Một người ở tầng tâm thức thứ 3 không thể nào thấu suốt và trải nghiệm Ki-tô ở mức độ hoàn toàn như một người ở tầng tâm thức 96. Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có thể trải nghiệm là có một bước ở trên tầng của mình, vì con lúc nào cũng có khả năng thấu suốt và trải nghiệm bước ở ngay trên tầng tâm thức của con. Thày tìm cách trao gì cho con người?
5.5. Ki-tô và quyền tự quyết
Đây là nơi con cần sử dụng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền vì thày không thể giảng hết trong một bài truyền đọc. Thày chỉ có thể nói những điểm nổi bật nhất, và con cần tìm những giáo lý giảng tường tận hơn, nếu có một vài khía cạnh mà con không hiểu thấu. Điều mà các thày đã giảng là quyền tự quyết có tính cách tuyệt đối, con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó.
Khi Thượng đế ban cho những phần nối dài của ngài quyền tự quyết, thì ngài không chế ra một tiêu chuẩn quy định thế nào là chọn lựa đúng và chọn lựa sai. Đấng Sáng tạo không có trong tâm ngài sự phán xét là con người phải sử dụng quyền tự quyết như thế nào. Do đó, đấng Sáng tạo ban con người quyền tự quyết, và con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó. Mục đích của đấng Sáng tạo khi làm vậy, lẽ dĩ nhiên, là để tạo ra những phần nối dài của ngài lúc đầu có, điều mà các thày đã gọi một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, và dần dần nới rộng nó ra cho tới khi nó trở thành sự trọn vẹn của tâm thức của đấng Sáng tạo. Mục đích tối hậu của đấng Sáng tạo là tạo ra các đấng Sáng tạo khác. Để có thể tăng triển tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, thì con bắt đầu như một người đồng-sáng tạo với một ý niệm bản ngã hạn hẹp và dần dần tăng trưởng nó lên.
Cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”
Để tiến trình này được trải bày, các người đồng-sáng tạo phải hoàn toàn có quyền tự quyết vì con phải được làm bất cứ chuyện gì con muốn làm, bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng, bất cứ chuyện gì con hình dung. Con cần được cho phép sáng tạo ra nó, trải nghiệm hậu quả và sau đó dần dần quyết định là con muốn một trải nghiệm càng ngày càng cao hơn. Đó là cách tiến trình này vận hành, đây là cách tiến trình tăng trưởng tâm thức vận hành. Con hiểu là các thày đã trao truyền những giáo lý rất thâm sâu, rất tinh vi về sự thành hình của các bầu cõi. Khi một bầu cõi được tạo ra, thì nó không thường hằng, các sinh thể trong đó không thường hằng, và đó là để họ được cơ hội làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết.
Giờ đây, lẽ tất nhiên làm sao con có quyền tự quyết? Đây là một điểm mà con người thường ngộ nhận vì họ bị sa nhân đánh lừa, vì sa nhân lúc nào cũng tìm cách gây nghi ngờ. Sa nhân muốn con tin rằng có quyền tự quyết có nghĩa là con làm bất cứ điều gì con muốn. Điều này đúng theo một cách nhìn nào đó. Khi con có quyền tự quyết, thì con có thể làm bất cứ điều gì con muốn, nhưng con sẽ làm chuyện này như thế nào? Ấy, con làm một chuyện bằng cách tạo ra một khuôn đúc trong tâm, phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng theo khuôn đúc. Lúc đó con trải nghiệm điều con sáng tạo, hay đúng hơn con đồng-sáng tạo.
Nếu con không trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, thì coi như con đã không lấy chọn lựa nào, con đã không thật sự thực thi quyền tự quyết. Nếu một chọn lựa không có hậu quả, thì đó không là một chọn lựa và con không thể học hỏi gì từ chọn lựa đó. Con chỉ có thể học hỏi bằng cách tạo ra một hậu quả và trải nghiệm hậu quả đó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một chọn lựa giới hạn con và khiến con khó chịu, thì đáng lẽ con không phải trải nghiệm hậu quả đó. Nếu con thực sự có quyền tự quyết, thì đáng lẽ con phải có khả năng tránh những hậu quả.
Con yêu dấu, đây là một điều mà sa nhân không hiểu thấu, và đa số con người, thành thực mà nói, cũng không hiểu thấu vì hành tinh này đã quá bị ảnh hưởng bởi sa nhân. Con lúc nào cũng có thể thoát khỏi hậu quả của những chọn lựa trước của con. Các thày đã từng nói: Bất cứ điều gì con tạo ra, con đều có thể sáng tạo lại cái mới. Con yêu dấu, mánh lới là: “Làm sao con phóng chiếu một khuôn đúc lên Ánh sánh Mẫu-Vật?”
Con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và con phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con ở trong một ý niệm bản ngã nào đó và phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con tạo ra một hậu quả đặc thù là một sự phóng chiếu ra ngoài của ngã đó. Điều mà sa nhân muốn con tin là con có thể tránh thoát hậu quả mà không cần tiêu hủy cái ngã. Sự thực là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con, nhưng cách duy nhất là con thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó . Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại và tạo lại cùng những hậu quả. Chuyện giản dị như vậy đó, con yêu dấu. Chuyện giản dị như vậy đó.
5.6. Tăng trưởng xuyên qua hậu quả
Làm sao con học hỏi? Làm sao con tăng trưởng? Con tăng trưởng bằng cách phác họa một cái ngã dựa trên ý niệm bản ngã hiện tại của con, có thể là một ý niệm bản ngã rất thu hẹp, như cái chấm, và vị kỷ. Con phóng chiếu xuyên qua ngã đó và con trải nghiệm hậu quả. Nếu con muốn có thêm các hậu quả đó thì con tiếp tục phóng chiếu xuyên qua cái ngã đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Khi con chán ngán kinh nghiệm đó thì con có thể bước ra ngoài cái ngã, hay ít ra con có thể mở rộng và tinh luyện ngã đó và tạo ra một kinh nghiệm cao hơn qua ngã mới. Đó là cách vận hành của đồng-sáng tạo. Sa nhân, lẽ dĩ nhiên, đã khiến con người quên đi cơ chế đó. Tuy nhiên, sự kiện đơn giản là: bất cứ gì con đồng-sáng tạo xuyên qua một ngã, thì con có thể thăng vượt bằng cách tạo ra một ngã mới và đồng-sáng tạo qua ngã đó. Sau đó, do những chu kỳ của thế giới vật chất, con sẽ trải nghiệm một hậu quả mới.
Thày cũng đã nói điều gì khác? Thượng đế không phán xét cách con thực thi quyền tự quyết trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nói cách khác, Thượng đế cho phép con đầu thai với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm qua đó con đương nhiên rất chú tâm vào chính mình. Lúc đó, con không có khả năng xem xét là các chọn lựa của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào, ảnh hưởng toàn thể hành tinh hay toàn thể vũ trụ như thế nào. Con không có sự nhận biết đó. Con chỉ chú tâm đến “tôi, đối với tôi, cho tôi.” Những gì tôi làm ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Khi con dần dần mở rộng ý niệm bản ngã của con, thì con càng ngày càng nhận biết các chọn lựa của con ảnh hưởng tổng thể như thế nào. Con càng ngày càng nhận biết là con đích thực là một phần của tổng thể. Do đó, con ảnh hưởng tổng thể, và tổng thể ảnh hưởng con.
Cách con tăng trưởng tâm thức, khi con tới tầng đó, là con tinh luyện ý niệm bản ngã của con để nó càng ngày càng trở nên một với tổng thể, càng ngày càng là Một. Con đi vào cái Một, thay vì chú tâm vào ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt và thăng thiên. Lúc đó, con trở nên một sinh thể thường tồn, và một khi bầu cõi có đủ túc số các dòng sống, các người đồng-sáng tạo đã tới được điểm đó, thì toàn thể bầu cõi sẽ trở nên thường tồn.
5.7. Xây dựng tâm thức Ki-tô
Con cần gì để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ? Ấy, trên cơ bản con cần trải nghiệm là con đã làm đủ, không nhất thiết là tất cả những gì con có thể làm một cách ích kỷ nhưng ít ra là số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó. Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Con đã được ban quyền tự quyết, con đã được ban một khoảng thời gian rất, rất dài để khám phá tất cả các ngõ ngách của sự ích kỷ, của lòng vị kỷ. Khi con đã chán ngán không muốn khám phá các ngõ ngách đó, thì con bắt đầu thăng vượt chúng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm con đi xuống, và khi con đi xuống thì con đi vào giai đoạn trầm mình. Con trầm mình vào trong môi trường, con xây dựng một cái ngã dựa trên môi trường đó. Sau đó, khi con bắt đầu thức tỉnh thì con bắt đầu mở rộng ý niệm bản ngã để nhận biết tổng thể thay vì chỉ nhận biết một phần rất nhỏ của tổng thể. Con làm việc này bằng cách trải qua giai đoạn trầm mình, tự đồng hóa mình với ngã tách biệt, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và trải nghiệm hậu quả. Sau đó, khi con đã chán ngán việc này thì con bắt đầu thức tỉnh. Con bắt đầu nhận biết các hậu quả của mình ảnh hưởng ra sao, đầu tiên là các người khác, sau đó là môi trường lớn hơn nơi con sống, và sau đó toàn bộ bầu cõi. Có thể nói đây là tâm thức Ki-tô.
Tâm thức Ki-tô là trung gian giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa Tánh linh và vật chất, giữa cõi tâm linh và bầu cõi chưa thăng thiên. Tâm thức Ki-tô nhận biết là có một cõi tâm linh bên trên bầu cõi này. Nó cũng nhận biết bầu cõi là một tổng thể, mọi chuyện đều nối kết với nhau, mọi chuyện là Một. Ngay cả khoa học ngày nay đã nhận ra và chứng minh qua vô vàn thử nghiệm là toàn thể vũ trụ là một tổng thể tương liên. Chưa ai rút tỉa hệ luận triết lý của các khám phá khoa học này, nhưng khoa học đã chứng minh những điều đó.
Đây là gì con thấy xuyên qua tâm thức Ki-tô – con nhận biết tổng thể. Giờ đây, khi con bắt đầu vươn lên trong tâm thức Ki-tô, thì tất nhiên con cũng bắt đầu có hiểu biết vỏ ngoài giúp con thấy sự tương phản giữa các ảo tưởng nhị nguyên, sự dối trá của sa nhân và nhận biết cao hơn của Ki-tô dựa trên nhận biết tổng thể, tức là tất cả đều nối kết với nhau.
5.8. Làm hòa với quyền tự quyết
Khi con bắt đầu nhận biết điều trên, thì con bắt đầu nhìn thấy rõ các ảo tưởng mà sa nhân đã tạo ra liên quan đến quyền tự quyết. Trong tiến trình này (và các thày đã trao truyền các dụng cụ tâm linh để đối phó với ngã gốc) con sẽ tới điểm làm hòa với quyền tự quyết. Con có thể chấp nhận quyền tự quyết, con cũng có thể làm hòa với việc con sống trên trái đất, con có thể chấp nhận trái đất như nó đang là ngay lúc này.
Làm sao con có thể chấp nhận trái đất trong trạng thái rất bất toàn hiện tại của nó? À, con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận quyền tự quyết, và chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại đang đầu thai trên trái đất. Chúng là sự trải bày của tâm thức tập thể. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm. Như thày có giảng, con cần trải nghiệm một số chuyện để có thể tăng triển. Khi con bước vào nhị nguyên, là chuyện phải xảy ra trên một hành tinh không tự nhiên, thì con cần phải thấy nó trải bày trong vật chất vì con không có khả năng học bằng tâm.
Các thày có giảng là tất cả các con là sinh thể trải nghiệm. Đó là lý do các thày đã cho con tầm nhìn trong quyển Các kiếp sống của tôi là một số các con đã đầu thai trên trái đất trong một thời gian rất dài. Con có thể suy ngẫm, như thày có nói vào đầu năm, là tại sao cần nhiều thời gian như vậy? Đó là vì con cần có một số kinh nghiệm. Khi con bắt đầu hiểu luật tự quyết, con nhận ra là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà con thấy họ đang kinh qua. Con có thể tới điểm chấp nhận sự việc đó, làm hòa với sự việc đó. Do đó, con tự giải thoát mình khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.
Con có thể tới điểm nhận ra, như chính vị sứ giả này đã nhận ra, là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.
Con yêu dấu, chắc con cũng nhận ra là khi một người còn phóng chiếu rằng: “Tôi đau khổ vì những điều kiện bên ngoài”, thì các vị thày tâm linh không thể dạy người đó. Họ chỉ học được khi họ bắt đầu chịu xem xét là có thể có điều gì trong tâm họ đã ít nhất là một phần của sự đau khổ của họ. Con yêu dấu, những người không thể học từ một vị thày tâm linh cần thấy các điều kiện trải bày trong vật chất – dù họ không nhận ra và nhìn nhận là chính tâm thức của họ đã tạo ra các điều kiện đó. Đó là cách duy nhất khiến họ rốt cuộc chán ngán kinh nghiệm này và kêu lên cầu cứu.
Con yêu dấu, con có thể tới điểm nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất. Tuy nhiên, con chỉ có thể tới điểm này khi con đã bắt đầu khắc phục được ngã gốc vì trước đó, ngã gốc sẽ níu kéo con vào việc phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Do đó, con sẽ phán xét các điều kiện này xuyên qua ngã gốc. Lẽ tất nhiên, vì chính ngã gốc đã tạo ra chấn thương và khiến con đau khổ, nên nó chỉ thấy được là các điều kiện đó sai trái và không được xảy ra. Con thấy chăng, con không thể an bình với quyền tự quyết và các điều kiện trên trái đất nếu con nhìn xuyên qua ngã gốc, con chỉ làm được chuyện này khi con bắt đầu tách mình ra khỏi nó.
5.9. Sự chấp nhận của Ki-tô
Con yêu dấu, khi con tới điểm làm hòa với luật tự quyết, thì con cũng tới điểm khác là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người. Đó là, con có thể hiểu được là Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Các con cần chiêm nghiệm để có thể hoàn toàn thấu hiểu điều này vì con đã bị lập trình trong suốt 17 thế kỷ của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.
Thày nhắc lại một lần nữa. Con đã bị sa nhân lập trình trong 17 thế kỷ để tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện và các điều kiện này được quy định ở đây trên trái đất – có nghĩa đó là những điều kiện có thể hiểu được bằng tâm nhị nguyên, tâm đường thẳng, thậm chí là tâm sa ngã. Lẽ tất nhiên, Ki-tô vượt lên trên tâm đó và do đó các điều kiện đó không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện và tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.
Tâm Ki-tô biết đây không phải là loại hành tinh duy nhất, và có hàng tỷ hành tinh khác. Nó có tầm nhìn rộng lớn hơn và biết rằng những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé tên là trái đất này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Khi con ở trên trái đất, con muốn nghĩ rằng (vì sa nhân muốn con nghĩ là trái đất rất quan trọng) trái đất có lẽ là hành tinh duy nhất có sự sống trong toàn thể vũ trụ và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.
Trên thực tế, khi con có tâm Ki-tô thì con có tầm nhìn rộng lớn hơn và thấy rằng những chuyện đang xảy ra trên trái đất không ảnh hưởng toàn thể vũ trụ vì hành tinh này quá bé nhỏ và không thể kéo toàn thể vũ trụ xuống theo với nó, vì có hàng tỷ hành tinh khác đang theo một vòng xoáy đi lên. Chuyện đang xảy ra trên trái đất được phép xảy ra vì các dòng sống đang đầu thai trên trái đất chưa chán ngán kinh nghiệm họ đang có trên trái đất.
Giờ đây, khi con có tầm nhìn đó, khi chính con bắt đầu trải nghiệm chuyện đó, thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi: “Ki-tô hay Giê-su (nếu con muốn mật thiết hơn) có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Khi con tự hỏi mình như vậy, và khi con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, thì con có thể trải nghiệm là, đúng vậy, thày, Giê-su Ki-tô, chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.
Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thậm chí có một số trong các con đã gặp thày 2000 năm trước, khi các con có tâm thức thấp hơn ngày nay rất nhiều, nhưng thày lúc đó đã chấp nhận con. Trong 2000 năm qua, một số các con đã mang trong mình cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo. Khi con còn nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc của ngã gốc, thì con sẽ không thể khắc phục được ảo tưởng đó. Con sẽ nghĩ (vì ngã gốc chỉ có thể nghĩ như vậy), là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con – nhưng đây là một lời gian dối của sa nhân.
Khi con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi một cách có ý thức. Lúc đó, nếu con mở tim đón nhận thày thì thày sẽ cho con (tùy khả năng tiếp nhận của con) trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người 2000 năm trước đây, và thày muốn trao cho mọi người ngày hôm nay.
5.10. Trao cho người khác sự chấp nhận của Giê-su
Thày đang không đầu thai trong cõi vật chất, vậy làm sao thày trao cho mọi người trải nghiệm này? Thày chỉ có thể vì co. trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.
Thế nào là Ki-tô đang hành động? Ấy, điều này có nhiều nghĩa, lẽ tất nhiên, nhưng điều thày muốn trình bày trong bài giảng này, là điều đó có nghĩa con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp (bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào) trải nghiệm là con chấp nhận họ như họ đang là và con không phán xét họ.
Giờ đây, thày biết là dù con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, con vẫn còn những cái ngã khác, như các thày đã giảng, mà con đã tạo ra trong những kiếp sống tiếp theo sau kiếp sống đầu. Điều này có nghĩa là nhiều người trong các con cần làm công việc quét dọn và nhìn vào các ngã này và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một tiêu chuẩn nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai, vì có những chuyện chắc chắn đúng và những chuyện chắc chắn sai, phải có chân lý và phải có dối trá, phải có sự sai trái.” Phải có chuyện này và phải có chuyện kia. Con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi những ngã đó vì con cần ghi chặt trong tâm ý niệm duy nhất sau đây: phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.
Sa nhân không thể có phân biện Ki-tô. Họ muốn con nghĩ rằng con có thể mài dũa phán xét nhị nguyên tới điểm nó cho con vào nước Trời. Chính một số sa nhân đã tin như vậy. Chuyện này không thể xảy ra! Con có thể dùng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền về sa nhân và sự sa ngã và thấy là chuyện này không thể xảy ra.
Phân biện Ki-tô – đúng vậy, có một chân lý tuyệt đối mà phân biện Ki-tô biết. Do đó, phân biện Ki-tô có thể thấy các sai lầm và dối trá. Khi con gặp một người và con có phân biện Ki-tô, thì con có thể thấy là người đó đang ở một tầng tâm thức rất ích kỷ. Người đó có thể tin nhiều ảo tưởng, người đó có thể đang làm một số hành động rõ ràng xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, sau đây là sự nhận biết cốt yếu: dù con thấy trình độ tâm thức của một người, dù con thấy hành động của họ, nhưng con vẫn có thể (khi con ở trong tâm Ki-tô) tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.
5.11. Thượng đế chỉ muốn giải thoát con người
Trong một số trường hợp, khi cái Ta Biết của người đó trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của con, thì cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi các ngã thấp kém và ít ra là trong một khoảnh khắc, kết nối trở lại và trải nghiệm nó là một sinh thể vô điều kiện, nó là một sinh thể không hình tướng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào có hình tướng. Con yêu dấu, bất kể con nghĩ gì, hậu quả của việc thực sự làm hòa với luật tự quyết là con nhận ra là Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Thượng đế chỉ có một mong muốn: đó là giải thoát con người.
Điều này có nghĩa là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Do đó, người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là. Thày còn không muốn con chấp nhận người khác với tâm vỏ ngoài. Thày muốn con bỏ tâm vỏ ngoài sang một bên để có thể là cánh cửa mở giúp họ nhận được một xung lực chấp nhận từ thày. Con có chịu để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó? Lúc đó con sẽ có thể bước một bước vĩ đại, một bước quyết định, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.
Một lần nữa, điều này không có nghĩa con chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác đang làm. Không có nghĩa là con không thách đố người khác. Không có nghĩa là con không phơi bày, một cách bình tĩnh và thẳng thắn, cho họ thấy những gì họ đang làm. Vượt lên trên tất cả các hành động này là sự chấp nhận.
Giờ đây, nếu con xem quyển sách Những kiếp sống của tôi, thì con thấy nhân vật trong quyển sách gặp Lucifer khi y trải qua sự phán xử cuối cùng, và nhân vật đã rốt cuộc có thể biểu lộ tình thương vô điều kiện tới Lucifer. Đây là điều duy nhất đã thực sự khiến tâm của Lucifer xoay chuyển. Giờ đây, lẽ tất nhiên, con nhận ra – thày tin như vậy – là các thày đã dùng tên Lucifer trong quyển sách vì đây là tên mà đa số con người đã gán ghép cho các thiên thần sa ngã và các sinh thể tăm tối. Điều này không có nghĩa là, trong suốt chiều dài lịch sử của hành tinh này, không có nhiều sinh thể đã dùng tên Lucifer và đã bị đem ra phán xử ở những thời điểm khác với những gì được mô tả trong quyển sách. Một lần nữa, con đừng quá chú tâm vào những điểm vỏ ngoài đó. Con hãy nhìn quá những điểm vỏ ngoài và nhận ra là điểm quan trọng trong quyển Những kiếp sống của tôi là câu chuyện được kể và biểu tượng của nó. Con yêu dấu, nếu Lucifer xứng đáng được chấp nhận vô điều kiện, thì chắc hẳn tất cả các sinh thể mà con có thể gặp trong phần còn lại của kiếp sống này cũng xứng đáng như vậy.
5.12. Đình chỉ phán xét
Một lần nữa, con có chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận từ thày? Lẽ tất nhiên, muốn làm vậy thì con cần trước tiên trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có, ngay cả với khuynh hướng phán xét mà con có thể đang có. Thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này. Thày không hề muốn trách mắng con, trừng phạt con, khiến con cảm thấy khổ tâm. Thày chỉ mong muốn cho con sự chấp nhận vô điều kiện rằng bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Đây là mong muốn duy nhất của Ki-tô.
Sẽ có nhiều người không thể chấp nhận những gì thày vừa nói vì họ vẫn còn bị giam hãm trong tâm phán xét và ý nghĩ cho rằng khi con đã làm một chuyện gì rất xấu, tỷ dụ như giết hàng triệu người, thì con xứng đáng bị trừng phạt. Con yêu dấu, con không cần bị Thượng đế trừng phạt vì con đã tự trừng phạt chính mình. Để có thể giết hàng triệu người, con đã phải đặt mình vào trạng thái tâm thức tạo nơi con đau khổ cùng cực. Do đó, khi con còn ở trong trạng thái tâm thức đó, như sa nhân đã ở trong một thời gian rất, rất dài, thì con đã tự trừng phạt chính mình. Thượng đế có lý do gì trừng phạt thêm khi Thượng đế thấy là hành động đó được tạo ra bởi một cái ngã không thật?
Con lại nhận ra là: quyền tự quyết là quyền tự do lựa chọn vì con lúc nào cũng có thể vươn lên trên những gì con tạo ra trước đó. Con không bao giờ có thể lấy một chọn lựa ngăn cản con lấy những chọn lựa mới. Điều này sẽ đi ngược lại những gì nhiều người trong các con đã trải nghiệm. Con đã trải nghiệm lấy một chọn lựa ở khoảng đầu cuộc đời, và việc đó đã tạo ra hậu quả vẫn còn ảnh hưởng con mấy chục năm sau đó. Tuy nhiên, con yêu dấu, con vẫn có chọn lựa tách mình ra khỏi cái ngã xuyên qua đó con đã lấy những chọn lựa đầu.
Con yêu dấu, sau đây là một sự thực tuyệt đối: nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi tâm thức đó, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý. Nhiều người trong các con sẽ không có khả năng hoàn toàn khắc phục cái ngã trước, nhưng con sẽ có thể vươn mình lên cao hơn rất nhiều nên con sẽ nhìn hậu quả một cách khác. Do đó, con không bị chúng làm con đau khổ như lúc trước.
Con yêu dấu, như thày có nói, con có thấy chăng là sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một quyết định mà con không thích, thì nếu con thực sự có quyền tự quyết, và nếu quyền tự quyết đó cho con quyền hoàn toàn tự do hành động, thì con đáng lẽ không phải gánh chịu những hậu quả. Như thày có nói, con vẫn có quyền tự quyết dù con đã lấy rất, rất nhiều chọn lựa trong những kiếp trước và con đã tạo ra ý niệm bản ngã mà con hiện có. Con có thể nói: “Nhưng ý niệm bản ngã này có rất ít chọn lựa, bị giới hạn rất nhiều trong việc chọn lựa.” Và điều này đúng. Con đã tạo ra một cái ngã giới hạn, và nó có ít chọn lựa, vì con yêu dấu, cứ mỗi lần con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm thì con giới hạn những chọn lựa mà con có thể thấy. Con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã đó và nó loại bỏ đi những chọn lựa khác.
Nhưng bất kể cái ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể khởi sự tiến trình thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh khỏi sự đồng hóa với các ngã đó, và do đó, để cho chúng chết đi từng ngã một – loại bỏ các phàm linh nội tại đó. Chọn lựa đó con lúc nào cũng có và khổng thể nào đánh mất. Những người trong các con đã chấp nhận trải qua tiến trình đó, như một số các con đã làm, thì biết là tự do của con đã tăng trưởng và con hiện nay nhìn đời một cách khác hơn cách con nhìn đời vài năm trước đây.
Thày khuyến khích con xem xét mình phản ứng ra sao với bài giảng này. Nếu con vẫn nghĩ là con vẫn chưa hoàn toàn nắm được nó, con chưa thể hoàn toàn chấp nhận nó, nếu con vẫn cảm thấy nỗi đau bị giới hạn và con không chắc điều thày nói chính thực là sự thực, thì con nên tìm hỏi những người đã đi xa hơn con trên tiến trình này. Con hãy nói chuyện với các vị đó, lắng nghe họ, xin họ giải thích những thấu hiểu nào đã giúp họ. Lúc đó, có thể con sẽ thấy là họ đã cho con cảm hứng để tiến bước kế tiếp trên con đường tu, giúp con tới điểm con được tự do. Con đã làm hòa với việc mình ở trên trái đất, nhưng đầu tiên hết, hơn tất cả mọi thứ, con có thể tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này. Con sẽ không cảm thấy mình toàn hảo hay mình không cần tăng trưởng nữa, nhưng con có thể chấp nhận mình vì con đã trải nghiệm là thày chấp nhận con.
Một lần nữa, con yêu dấu, thày xin con đình chỉ sự phán xét chính mình, và ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con – và vì con phán xét mình bất toàn, nên thày không thể nào chấp nhận con. Xin con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không? Do đó, con đặt mình trong trạng thái tâm nói rằng: “Ồ, tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét, và do đó tôi phải hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.”
Con có thể làm việc trên vấn đề này, và tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa. Nếu con có thể trung hòa thì con sẽ trải nghiệm là thày chấp nhận con. Tại sao vậy? Vì ngay lúc này thày đang đứng cạnh mỗi người chúng con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Thày cống hiến sự chấp nhận của thày, con yêu dấu. Nếu con không trải nghiệm được sự cống hiến của thày, thì lý do chỉ có thể là con bác bỏ nó, hoặc có ý thức hoặc vô thức. Món quà của thày đã được trao ra. Con có chấp nhận nó chăng? Vậy bây giờ, thày cảm ơn con đã chấp nhận, thày cảm ơn con đã lắng nghe bài giảng này và là dụng cụ để lan tỏa nó vào tâm thức tập thể.