Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/4/2005.
5.1 Con là một quả cầu nhỏ trong quả cầu lớn
Trái tim yêu dấu của thày, đã đến lúc chúng ta cần nhìn kỹ hơn xem con thực sự là ai, nhìn cái Ta của con kỹ hơn. Trước đây, thày có nói là con được sinh tạo từ Bản thể Thượng đế. Thày nói rằng nguồn gốc bản sắc của con, nguồn gốc cái Ta của con, là sự nhận biết thuần khiết. Từ nhận biết thuần khiết này, cá thể của con được hình thành, và đây là điều có thể gọi là cái Ta Biết hay cái ta ý thức. Cái Ta Biết này là điều cho con cảm nhận là con hiện hữu, và con hiện hữu như một sinh thể riêng biệt. Cảm nhận hiện hữu là một trạng thái nhận biết rất thuần khiết và phổ quát, và thật sự nó không mang một đặc tính cá nhân nào. Ở cốt lõi của nhận biết này là cảm nhận con hiện hữu như một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, nhưng nhận biết của con lại tập trung vào một điểm đặc thù trong tổng thể đó. Thay vì con có tầm nhận biết bao trùm tất cả của Đấng Sáng tạo ra con – mà chúng ta có thể nói đang đứng ngoài tạo vật nhìn vào trong – thì con có một nhận biết cục bộ, địa phương. Con ở trong tạo vật, nhìn tạo vật từ bên trong, từ một vị trí quan sát nhất định bên trong tổng thể.
Chúng ta có thể so sánh điều này với điều thày đã đề cập trước đây về quá trình tạo dựng thế giới hình tướng. Đấng Sáng tạo rút mình khỏi một không gian nhất định và tạo ra một khoảng trống không. Ngài co mình lại thành một điểm dị biệt (singularity). Công việc của Đấng Sáng tạo là lấp đầy khoảng trống không, trước tiên qua việc định ra một quả cầu đứng riêng biệt với khoảng trống không, do chứa đựng một chút ánh sáng. Quả cầu này trở thành vũ trụ vĩ mô (macrocosm). Trong quả cầu này Đấng Sáng tạo hiện diện hằng thường, tuy nhiên giờ đây ngài rút mình từ một quả cầu nhỏ hơn và co lại thành một điểm độc nhất. Điểm này trở thành cái Ta Biết và quả cầu thì trở thành bình chứa cái ta của con, quả cầu cái ta của con. Con là một quả cầu bên trong quả cầu lớn hơn của tâm thức Đấng Sáng tạo, con là vũ trụ vi mô (microcosm) trong vũ trụ vĩ mô của Đấng Sáng tạo của con. Nhiệm vụ của con là nhân lên những gì con đã được Thượng đế phú cho con, nhân lên khả năng và vốn liếng của mình, để con có thể cai quản – trước hết cai quản quả cầu cái ta tức là vũ trụ vi mô, sau đó cai quản quả cầu lớn hơn tức là vũ trụ vĩ mô, có nghĩa là vũ trụ vật chất. Khi con đã cai quản quả cầu cái ta của con, đổ đầy nó với ánh sáng thuận theo các định luật của Thượng đế, con sẽ trở thành một sinh thể Ki-tô (Christed being), một sinh thể tâm linh bất tử. Điều này sẽ cho con uy lực để cai quản trái đất, thị hiện trong cõi vật lý vương quốc của sự sống dồi dào của Thượng đế. Con sẽ là ở dưới này tất cả những gì con là ở Trên – con sẽ là “Trên sao dưới vậy”. Điều này, và chỉ có điều này, mới đem lại vương quốc Thượng đế xuống trái đất.
Cái Ta Biết thật sự là cốt tủy của bản sắc cá nhân của con, tuy vậy nó là một trạng thái nhận biết thuần khiết. Nó có một nhận biết cá nhân nhưng nó không có những đặc tính cá nhân. Nó không thể tự biểu đạt trực tiếp trong thế giới hình tướng. Để tự biểu đạt, nó phải có một cá thể, một ý niệm bản sắc mà qua đó nó có thể biểu hiện. Một lần nữa, con hãy so sánh với chiếc máy chiếu phim. Nếu trên máy chiếu không có cuộn phim nào thì nó chỉ chiếu được lên màn hình một hình vuông ánh sáng màu trắng. Nó cần một cuộn phim để có thể chiếu ra những hình ảnh cụ thể sẽ làm dấy động và khiến cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng. Giống như một máy chiếu phim có thể chiếu ra hình ành xuyên qua bất cứ cuộn phim nào, thì cái Ta Biết cũng có khả năng tự biểu đạt xuyên qua bất kỳ ý niệm bản sắc nào. Cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với – và nó có thể tự đồng hóa như – bất cứ gì nó muốn. Nhiệm vụ của cái Ta Biết là xây dựng ý niệm bản sắc của nó, và Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn lựa tùy theo trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Thượng đế đã cho con quyền tự do “đặt tên” bản sắc của con, thậm chí đặt tên cả cho mọi thứ trên địa cầu tùy theo ý niệm bản sắc của con (Genesis 2:19).
Cái Ta Biết không khởi sự như một tờ giấy trắng. Nó có một nền tảng để từ đó xây dựng ý niệm bản sắc của nó, cụ thể là cá thể thiêng liêng neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ thường hằng nơi những rung động cao hơn ở cõi tâm linh, và cá thể của nó không thể nào biểu hiện trực tiếp trong vũ trụ vật chất. Cá thể của nó chỉ có thể được biểu đạt khi cái Ta Biết dùng cá thể này để xây dựng một ý niệm bản sắc giống như cuộn phim trong máy chiếu phim.
Quả cầu cái ta của con có một phần cao và một phần thấp. Phần cao ngụ nơi cõi tâm linh và chứa đựng Hiện diện TA LÀ của con. Phần thấp rung động trong quang phổ tần số của vũ trụ vật chất, và chính qua phần thấp này mà con tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Con hãy so sánh với con số “8”, hình số tám. Phần trên hình số tám ở cõi tâm linh, phần dưới ở trong cõi vật chất, và cái Ta Biết thì ở giữa, ngay điểm gặp gỡ, điểm eo. Chốc nữa thày sẽ cho con lời dạy chi tiết hơn về phần thấp của quả cầu cái ta của con, nhưng ngay bây giờ khái niệm quan trọng là cái Ta Biết điều khiển ánh sáng của Hiện diện TA LÀ để ánh sáng chảy xuyên qua một ý niệm bản sắc mà nó xây dựng. Ý niệm bản sắc này có thể dựa trên bất cứ gì cái Ta Biết đã cho phép đi vào phần thấp của quả cầu cái ta. Con có thể xây dựng ý niệm bản sắc này trên tảng đá của Ki-tô, tức cá thể neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ, hay trên cát lún của tâm thức nhị nguyên.
Đây là tại sao cái Ta Biết có khả năng trở thành nhiều hơn hay ít hơn những gì con đã được sinh tạo. Con có thể hoặc khuếch trương cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, hoặc xây dựng một bản sắc kém hơn những gì ngài hình dung cho con. Con có quyền tự do chọn bất cứ gì, nhưng con sẽ không tránh khỏi trải nghiệm những gì con đã chọn. Con sẽ nhìn thấy thế giới qua phin lọc của ý niệm bản sắc mà con xây dựng, và con sẽ tự biểu đạt theo bản sắc này. Bản sắc của con sẽ định đoạt những gì con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ, và tất nhiên điều này sẽ định đoạt những gì được phản chiếu cho con.
5.2. Con có quyền chọn cái ta của con bất cứ lúc nào
Vậy chúng ta có ba khía cạnh của bản thể con. Chúng ta có phần cao của quả cầu cái ta, và phần này được lấp đầy bởi Hiện diện TA LÀ của con. Cái ta tâm linh này chứa đựng bàn mẫu thiêng liêng của con, là cá thể do Đấng Sáng tạo của con quy định và được ghi lại mãi mãi trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Sau đó chúng ta có cái Ta Biết, nằm ngay điểm eo giữa hai phần cao và thấp của quả cầu cái ta. Và chúng ta có phần thấp của quả cầu cái ta, là phần cái Ta Biết sử dụng để tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Trong phần thấp này có ý niệm bản sắc của con cư ngụ, là cuộn phim qua đó con phóng chiếu hình ảnh lên màn hình của cuộc sống, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tương tự như khoảng trống không, phần thấp bình chứa cái ta của con vẫn chưa đầy khi dòng sống của con bước vào hiện hữu. Vẫn còn chỗ trống, và nhiệm vụ của con chính là khiến nó đầy. Vấn đề đặt ra là con – nghĩa là cái Ta Biết – sẽ cho phép những gì đi vào bình chứa cái ta? Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn cách mình sẽ xây dựng ý niệm bản sắc của mình như thế nào.
Quyền tự do này là cơ hội tuyệt hảo để con trở thành nhiều hơn những gì con được sinh tạo, để xây dựng trên nền tảng mà Thượng đế đã thiết lập, để là nhiều hơn một con rô-bốt. Con làm được vậy bằng cách thể hiện ý niệm cái ta của mình trong thế giới hình tướng. Bằng cách diễn đạt khả năng sáng tạo của mình và chứng kiến kết quả, con bồi thêm nội dung cho bình chứa cái ta. Khi con làm vậy trong sự hòa hợp với định luật Thượng đế, con sẽ chỉ bồi đắp những yếu tố bền vững, bất diệt vào bình chứa cái ta. Những yếu tố này con có thể chuyển lên phần trên của quả cầu cái ta, và chúng được lưu trữ trong tâm Ki-tô – mà Giê-su từng gọi là kho báu của con tích lũy trên thiên đàng (Matthew 6:20).
Vì con có quyền tự quyết, con cũng có thể dùng khả năng sáng tạo của mình theo một cách lạc điệu với định luật cùng ý định sáng tạo của Thượng đế. Khi con làm vậy, con cũng sẽ bỏ thêm gì đó vào bình chứa cái ta nhưng cái này sẽ ở lại trong phần thấp của quả cầu. Con bỏ vào những yếu tố hữu diệt không có tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy mà con có thể tạo ra một cái ta hữu diệt, một ý niệm cá thể kém hơn những gì Thượng đế đã cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu.
Cốt lõi của bản sắc con, cái Ta Biết, độc lập với những nội dung có mặt hay không có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt lẫn cái ta hữu diệt, có nghĩa đó là một trạng thái nhận biết thuần khiết hoàn toàn tự đủ. Về việc biểu đạt khả năng sáng tạo của con trong thế giới hình tướng, cái Ta Biết không thể làm chuyện này một mình. Để tự biểu đạt, cái Ta Biết phải để cho ánh sáng của nó rọi chiếu qua nội dung bình chứa cái ta, vì chính nội dung này sẽ định đoạt những hình ảnh được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cái Ta Biết là một trạng thái nhận biết thuần khiết tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta đang có mặt trong quả cầu cái ta của nó. Cái Ta Biết có thể biểu đạt qua cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, tùy theo con đồng hóa với cái ta nào vào lúc đó.
Vì cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, có thể nói là nó không có ý niệm cá thể cố định nào, ý niệm bản sắc cố định nào. Cái Ta Biết là Bản thể thuần khiết của Thượng đế tập trung vào con như một sinh thể cá biệt, nhưng nó có tiềm năng đồng hóa với bất cứ gì. Nó được tạo ra như một thái cực đối với cái ta bất diệt của con, nhưng nó có thể đồng hóa với bất cứ gì nó chọn, kể cả cái Tất cả của Bản thể Thượng đế, cái ta bất diệt của con, cái ta hữu diệt của con hay bất cứ gì khác trong thế giới hình tướng. Cụ thể, nó có thể tự đồng hóa là một hòn đá nếu nó chọn như vậy. Cái Ta Biết là trụ sở của quyền tự quyết của con, trụ sở của khả năng chọn lựa của con. Con là những gì con xem mình là, con là những gì con chọn mình là – và con có thể thay đổi chọn lựa này bất cứ lúc nào.
Cái Ta Biết phải tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta nào đó, một ý niệm bản sắc cá nhân nào đó. Như thày vừa trình bày qua phúng dụ máy chiếu phim, phải có một cuộn phim để ánh sáng có thể rọi qua hầu có những hình ảnh khác biệt được chiếu lên màn hình. Hình ảnh trên cuộn phim là các đặc tính cá nhân, các tin tưởng và hình ảnh về bản thân có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết giống như người điều khiển máy chiếu quyết định cuộn phim nào được đặt vào máy. Con đã được sinh tạo như một cái ta bất tử, và con có thể bồi đắp cho cái ta bất tử này bằng cách biểu đạt chính mình qua những hình ảnh đồng điệu với quy luật Thượng đế. Nhưng ở một thời điểm trong quá khứ, cái Ta Biết đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, và nó đã cắn vào quả trái của hiểu biết về thiện ác. Khi nó làm vậy thỉ nó đã bỏ vào bình chứa cái ta một số nội dung, và nội dung này thì dựa trên “sự thật” tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô.
Lúc đầu, các yếu tố nhị nguyên không đến nỗi ảnh hưởng biểu đạt sáng tạo của con hay cảm nhận mình là ai. Chúng chưa thể che khuất hay làm lu mờ cái ta bất diệt của con. Nhưng khi con cứ tiếp tục thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con càng ngày càng bỏ thêm nhiều nội dung hữu diệt vào bình chứa cái ta, và lần hồi chúng bắt đầu che phủ cái ta bất diệt. Điều này khiến con trở thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, xong khi con ngày càng phân rẽ hơm, cái Ta Biết bắt đầu đặt trọng tâm nhiều hơn vào ý niệm cái ta nhị nguyên. Điều này củng cố cho cái ta hữu diệt và bồi thêm nhiều nội dung nhị nguyên hơn nữa. Tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng hạ, rốt cuộc dẫn đến một điểm tới hạn khi cái Ta Biết quyết định là, quả thực, mình là một sinh thể thế phàm hữu diệt thay vì một Sinh thể tâm linh bất diệt đang tự biểu đạt qua một hình tướng hữu diệt.
5.3. Con ở trong Nước Trời ngay lúc này
Cái Ta Biết sẽ luôn luôn là cái gì nó nghĩ nó là. Bất cứ lúc nào, cái Ta Biết cũng có thể lấy quyết định thay đổi ý niệm bản sắc của nó. Cái Ta Biết là sự cá thể hóa (individualization) của Bản thể Thượng đế, và Thượng đế đã tiết lộ cho Mô-sê tên gọi: “Ta sẽ là cái Ta sẽ là,” có nghĩa là Thượng đế giữ quyền thăng vượt chính mình mọi lúc và bất cứ lúc nào. Tương tự như thế, con cũng có quyền thay đổi bản sắc của con bất cứ lúc nào, và con có quyền tự thăng vượt hay tự thoái hóa.
Con có thể đã xây dựng một cá thể rất công phu phức tạp dựa trên các hình ảnh và tin tưởng nhị nguyên. Con có thể đã đồng hóa với cái ta hữu diệt đó suốt nhiều kiếp trước. Con có thể đã quên mất mình là một sinh thể tâm linh, mình có một cái ta bất diệt. Thậm chí con có thể tin rằng con không có cách chi thay đổi được ý niệm cái ta của mình hay vượt xa hơn cái ta hữu diệt. Bí ẩn thực sự của cuộc sống là, bất cứ lúc nào, con – nghĩa là cái Ta Biết – là cái con nghĩ con là. Bất cứ lúc nào con cũng có quyền năng xoay chuyển cảm nhận mình là ai. Ngay lúc này đây, con có sức mạnh của quyền tự quyết để quyết định một cách ý thức là con không còn tự đồng hóa với một sinh thể thế phàm hữu diệt nữa, mà con chấp nhận sự thật con là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tạm thời biểu đạt chính mình qua một hình dạng hữu diệt.
Có một sự phân biệt vi tế ở đây. Thày đã nói với con về khái niệm đường tu và thày đã so sánh với một cầu thang hình xoắn ốc. Cầu thang xoắn ốc có nhiều bực riêng biệt, mỗi bực tượng trưng cho một quyết định dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con đi xuống một bước, con đã lấy quyết định chấp nhận một lời dối nhị nguyên nào đó và bỏ nó vào nội dung bình chứa cái ta của con, con biến nó thành một thành phần của cái ta hữu diệt của con. Điều này chuyển đổi cái ta đi chút xíu, và con rời xa hơn cái ta bất diệt, con dấn sâu hơn vào cái ta hữu diệt. Để đi lên cao hơn bực thang đó, con phải nhìn thấu ảo tưởng nhị nguyên đó và quyết định bỏ nó lại đằng sau, bằng cách chấp nhận sự thật của Ki-tô sẽ thay thế lời dối của phản Ki-tô, và như vậy con thoát khỏi ảo tưởng.
Hầu hết mọi người trên trái đất đã bước xuống nhiều bực trên chiếc cầu thang dẫn vào tâm thức nhị nguyên. Từ vị trí con đang đứng, thật không có đường tắt nào sẽ đưa con trở lên ý niệm cái ta bất diệt bằng một bước nhảy duy nhất. Không có cách nào mà tránh né tiến trình thay thế các chọn lựa nhị nguyên bằng chọn lựa dựa trên tảng đá của tâm thức Ki-tô. Làm như vậy sẽ tước đi quyền tự quyết của con và cắt ngang toàn bộ mục đích của sáng tạo, cụ thể là con tăng triển qua các chọn lựa mà con lấy. Nếu con đã bước xuống một số bực thang trên cầu thang xoắn ốc, con chỉ có thể đi lên bằng cách bước lên từng bực và thay thế ảo tưởng mà bực này tượng trưng bằng sự thật Ki-tô. Con phải làm điều này qua những chọn lựa ý thức mà chỉ có con mới có thể lấy.
Mỗi bước con đã đi xuống cầu thang xoắn ốc tượng trưng cho một lời dối nhị nguyên mà con đã bỏ vào bình chứa cái ta. Các lời dối này đang nằm trong bình chứa đó và chúng sẽ nằm yên ở đó cho tới khi con giải quyết chúng qua những chọn lựa tốt hơn. Cái Ta Biết có một nhận biết độc lập so với nội dung bình chứa cái ta. Ngay lúc này, con có thể chọn tái nối kết nhận biết ý thức của mình với cảm nhận thuần khiết của Bản thể con, với ý niệm nhận biết thuần khiết, với ý niệm cái ta thuần khiết mà con vốn thực là. Ý niệm cái ta thuần khiết của con đã không hề biến đổi khi con chọn tạo ra một cái ta hữu diệt và tạm thời đồng hóa với nó. Ý niệm cái ta thuần khiết của con vẫn hiện hữu trong dạng nguyên thủy của nó, và con có khả năng xoay chuyển ý niệm bản sắc để rời xa cái ta hữu diệt về hướng cái ta bất diệt. Đây là ý nghĩa thực trong lời dạy của Giê-su rằng một người phải tái sinh về mặt tâm linh, phải tái sinh trong Tánh linh (John 3:5) để có thể bước vào Nước Trời.
Mọi thứ đều được tạo thành từ chất liệu của Thượng đế, từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi thứ đã được tạo thành, mọi thứ trong thế giới hình tướng. Thượng đế ở ngay đây với con ngay lúc này, ngài có mặt ở mọi nơi, và do đó vương quốc Thượng đế thực sự đang ở đây với con. Nếu con sẵn lòng, con có thể xoay chuyển ý niệm cái ta của con, ý niệm bản sắc của con, để chấp nhận con đang ở trong Nước Trời rồi, ngay lúc này. Điều này sẽ không lập tức thay đổi nội dung bình chứa cái ta. Cũng không có nghĩa là con có thể lập tức thể hiện trong thế gian này cái ta bất diệt của con, cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn mang cái ta hữu diệt, cá thể người phàm đang che mờ cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn phải đi qua tiến trình vứt bỏ, một cách quy củ, các lời dối nhị nguyên đang cấu thành cái ta hữu diệt hầu con có thể tỏ lộ cái ta thiêng liêng của mình.
Nhưng khi đi qua tiến trình này, con không phải tiếp tục đồng hóa với cái ta hữu diệt. Con không phải tiếp tục nghĩ rằng, một cách nào đó, con không xứng đáng hay không có khả năng bước vào vương quốc Thượng đế vì con có cái ta hữu diệt này. Con không cần phải cảm thấy mình bị đày khỏi Nước Trời, đày khỏi Vườn Eden, và mình sẽ không thể bước vào Vườn cho tới khi mình sạch hết cái ta hữu diệt. Khi Giê-su nói rằng Nước Trời ở trong con, thày thực sự muốn nói Nước Trời là một trạng thái nội tâm, một trạng thái tâm thức. Thày muốn nói Nước Trời sẽ biểu hiện trong đời con khi cái Ta Biết tự đồng hóa ở trong Nước Trời. Ý niệm bản sắc này độc lập với nội dung bình chứa cái ta. Con có khả năng dời chuyển ý niệm cái ta xa khỏi một con người thế phàm bị tước mất sự sống dồi dào, bị chia cách khỏi Nước Trời. Con có khả năng xoay chuyển ý niệm cái ta và chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh, và không gì trong thế gian này có thể lấy đi bản sắc thực của mình. Con có thể chấp nhận là con đang ở trong Nước Trời ngay lúc này.
5.4. Mất cái ta hữu diệt, con được cái ta bất diệt
Con là một người tìm cầu tâm linh, và con vẫn biết con là nhiều hơn xác thân vật lý của con. Có một sinh thể lớn hơn, mà hầu hết mọi người đều gọi là linh hổn nhưng thật ra là cái Ta Biết. Cái Ta Biết tạm thời mặc vào cơ thể vật lý giống như thân con mặc vào một chiếc áo choàng. Cái ta hữu diệt mà con đã tạo ra có thể so với thân thể vật lý của con. Nó không phải là cái ta thực của con y như thân thể không thực là con. Nó chỉ đơn giản là một chiếc áo choàng mà cái ta thực của con đang mặc ngay lúc này. Con không thể lập tức vứt bỏ cái ta hữu diệt đó đi vì nó phải được giải thể từng bước một, từng quyết định một. Nhưng con có thể lập tức vứt bỏ ý niệm rằng con bị giam cầm, bị kẹt cứng trong cái ta hữu diệt. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quyết định bước đến cánh cửa nhà tù, kéo tay nắm và nhận ra là mặc dù cánh cửa có rất nhiều ổ khóa khác nhau, kỳ thực nó không khóa gì hết. Bất cứ lúc nào con cũng có thể mở cửa ra và được tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới, rằng con đang đứng ngoài nhà tù.
Có một sự khác biệt to lớn và cơ bản giữa việc nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù cái ta hữu diệt và nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù, con tưởng rằng con, nghĩa là cái Ta Biết, bị giới hạn trong nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù, con thấy rõ cái Ta Biết nhiều hơn nhà tù gấp bội. Con có thể so sánh nhà tù này với một cái hộp to bằng căn nhà, xây cất bằng gạch với một cánh cửa bằng thép. Khi con ở trong hộp, con tưởng thế giới là một cái hộp bằng gạch. Khi con ở bên ngoài, con thấy rõ bình chứa cái ta lớn hơn hộp rất nhiều. Hộp vẫn hiện hữu trong bình chứa cái ta của con nhưng con không bị hạn chế trong đó.
Thày nói điều này cho con vì mấy lý do. Một lý do là vì nếu con có thể chấp nhận ý niệm bản sắc rộng lớn hơn của con và được tái sinh trong cái ta lớn này, con sẽ lập tức bắt đầu cảm thấy một sự nối kết chặt chẽ hơn với cái Tất cả của Thượng đế. Điều này sẽ khiến đường tu của con vui thú hơn rất nhiều, an bình hơn rất nhiều. Cũng từa tựa như thay vỉ con có món nợ và cảm thấy mình không có đồng nào tiêu pha, thì con dư giả tiền bạc cất trong ngân hàng.
Thày cũng nói điều này với con vì một lý do rất thực tiễn. Khi con ở trong hộp bằng gạch, con nghĩ đó là cái ta thực của con, cá thể thực của con. Trong tiềm thức, con biết con là một sinh thể tự nhận biết đúng lý phải đồng-sáng tạo qua việc biểu đạt cá thể của mình. Con không thể chịu nổi ý nghĩ mình không có cá thể nào để biểu đạt. Nếu con cho rằng cái ta hữu diệt là cá thể duy nhất của mình, thì con sẽ dính mắc tình cảm với mỗi khía cạnh của cái ta hữu diệt đó, với mỗi viên gạch của cái hộp đó. Nếu một vị thày tâm linh đến bảo con là con phải vứt bỏ một viên gạch đi, con sẽ không chịu hay không thể làm được vậy, vì con có cảm tưởng là nếu con buông một phần của cái ta hữu diệt thì con cũng đánh mất một phần cá thể của mình. Sự phân biệt vi tế là cái ta hữu diệt hoàn toàn dựa trên, được xây bằng lời dối nhị nguyên từ tâm phản Ki-tô. Mỗi lời dối như vậy là một viên gạch cấu tạo cái hộp đang giam giữ con. Để loại bỏ cái hộp khỏi bình chứa cái ta, con phải đục bỏ từng viên gạch một cách hệ thống và quăng nó đi. Với mỗi viên gạch con vứt bỏ, con thăng lên một bực trên cầu thang xoắn ốc.
Nếu con nhìn cuộc sống từ bên trong hộp, con sẽ nghĩ mỗi viên gạch là một phần không thể thiếu, không thể thay thế của cá thể thực của con. Nếu con mất tất cả gạch, con sẽ là con số không, con sẽ là một vỏ rỗng, con sẽ là một lỗ đen không chút cá tính. Nỗi sợ lớn nhất của bất kỳ sinh thể tự nhận biết nào là đánh mất ý niệm bản sắc của mình, cho nên con sợ buông ra các lời dối nhị nguyên mà con tưởng là một phần của cá thể con. Đây chính là điều sẽ biến đường tu thành một cuộc vật lộn, một con Đường Thương khó, khi tâm vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép tâm tiềm thức phải buông bỏ một viên gạch của cái hộp. Tâm tiềm thức bám chặt lấy viên gạch đó như là chuyện sống chết, và đây là điều tâm tiềm thức, cái ta hữu diệt của con tin chắc như vậy. Đây là vì sao quá nhiều người, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các đạo khác và phong trào Thời mới, luôn luôn vật lộn trong một trận chiến gian nan liên tục. Với tâm vỏ ngoài, họ nhận ra là họ cần thay đổi đời họ, và họ đã dùng một giáo lý tâm linh vỏ ngoài nào đó để tạo dựng một tâm ảnh về con người mà họ cần là hầu được cứu rỗi, hay trở thành con người tâm linh mà họ muốn trở thành. Tâm vỏ ngoài tìm cách ép uổng tâm ảnh này lên tâm tiềm thức, hầu tâm ảnh có thể thay thế ý niệm cái ta hiện thời của họ. Phần tiềm thức trong tâm họ cưỡng lại chuyện này, vì vậy trong bản thể họ luôn luôn có sự vật lộn, một cuộc chiến biến họ thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, một ngôi nhà xây trên cát. Đây là tại sao nhiều người tìm kiếm tâm linh cảm thấy mình tiến bộ rất ít, tại sao mình cảm thấy như thể mỗi lần mình tiến lên một bước thì có gì đó kéo mình trở ngược lại một hai bước.
Con có quyền tự quyết, cho nên con hoàn toàn có quyền tiếp tục vật lộn cho đến hết kiếp, thậm chí trong nhiều kiếp sống, nếu đó là điều con muốn. Thày không có mong muốn bảo con phải bước theo đường đời của con như thế nào. Nhưng thày mong muốn nói với con là đường tu tâm linh, con đường đến sự sống dồi dào, con đường đến cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu, không cần phải là một cuộc vật lộn. Con có khả năng bước ra ngoài cái hộp của cái ta hữu diệt. Khi con bước ra ngoài, con thấy và con biết con là nhiều hơn cái ta hữu diệt. Con vẫn còn cái hộp bằng gạch đó trong bình chứa cái ta, nhưng vì con biết con là nhiều hơn hộp, vì con nhìn thế giới từ ngoài hộp, con không còn dính mắc tình cảm nào nữa với từng viên gạch cấu thành cái hộp. Con thừa biết là nếu con vứt bỏ một viên đi, con không hề mất ý niệm bản sắc của con. Vứt bỏ một viên gạch không còn là vấn đề sinh tử nữa. Con không cần đánh nhau để cố giữ gạch vì con biết chúng không là một phần của con người thực của con. Khi con ngộ ra sự thật này, việc buông bỏ các viên gạch dễ hơn quá đỗi. Giờ đây con có thể buông chúng nhanh hơn gấp bội, với ít khổ não và đau đớn hơn gấp bội. Thay vì cảm thấy như thể mình sắp chết mỗi khi mình bỏ một viên gạch, con cảm thấy con sắp được sống dồi dào hơn với mỗi viên gạch mà con vứt bỏ, với mỗi viên gạch không còn nặng gánh trên hành trình leo núi của con.
A con yêu dấu, con có cảm được sự khác biệt to lớn điều này sẽ đem lại trong đời con? Con có cảm được là chỉ bằng một bước tái sinh tâm linh, con có thể xoay chuyển mọi chuyện trong đời mình? Khi con đi qua ngưỡng cửa nhà tù và bước ra ngoài cái ta hữu diệt của mình, mọi chuyện trong đời con sẽ thay đổi – trong nghĩa đen. Cách con nhìn mọi thứ sẽ thay đổi. Toàn bộ quan điểm của con về cuộc sống sẽ thay đổi trong bản chất, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ khuếch đại muôn phần. Mặc dù sự mở rộng này có thể là một thay đổi to lớn lúc đầu, con sẽ nhanh chóng bắt đầu cảm thấy là mình đã về nhà và mọi chuyện đúng ra phải như thế này. Ý niệm cái ta tự nhiên của con chính là sinh thể tâm linh thuần khiết mà con là. Thật không tự nhiên chút nào khi ý niệm cái ta bị giam trong một cái hộp nhỏ xíu bằng gạch, cho nên khi con bước ra ngoài hộp, cụ thể con sẽ cảm thấy như mình về nhà. Và quả thực con đã về nhà, con đã về nhà là vương quốc của Cha con, tức là ý niệm cái ta mà Cha con đã dành sẵn cho con ngay từ ban đầu.
5.5. Cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn
Con yêu dấu, thày không biết có thể nói gì hơn để thuyết phục con những lời này là sự thật. Khi thày nhìn loài người như thày đã quan sát suốt 2000 năm qua và hơn nữa, thày thấy được là hầu hết mọi người trên hành tinh đều kẹt cứng trong những chiếc hộp nhỏ xíu bằng gạch. Mỗi người đã giới hạn ý niệm cái ta của mình trong chiếc hộp nhỏ cấu tạo cái ta hữu diệt của họ. Một số còn không biết là có một cánh cửa. Một số khác biết là có cửa nhưng họ tin chắc là cửa bị khóa, và họ không buồn bỏ công ra để thử xem chuyện này có thật hay không. Họ tin là họ không có cách chi thoát ra khỏi hộp. Một số còn tin là họ không có nhu cầu trốn thoát – họ đã tôn cái ta hữu diệt, và trong một số trường hợp ông hoàng của thế gian, lên làm kẻ cai trị đền thờ của họ. Một số đã thức tỉnh là họ có thể mở các ổ khóa để cuối cùng mở cửa, nhưng họ vẫn tin là họ sẽ bị kẹt bên trong cho đến khi ổ khoá cuối cùng được mở.
Thày đã hợp nhất với tâm thức cùng Bàn thể của khía cạnh Mẹ của Thượng đế. Như Giê-su đã nói: “Và vua phán, mỗi lần các con làm như vậy cho người anh em bé nhò nhất của ta, thì các con đã làm cho chính ta vậy” (Matthew 25:40). Là Mẹ Thượng đế, thày cảm thấy cùng một tình thương cho mỗi người và mọi người trên trái đất này. Thày không mong gì hơn được nhìn thấy mỗi người và mọi người trong các con thoát ra khỏi nhà tù đang giam con trong bóng tối. Thày không mong gì hơn nhìn thấy con mờ cửa nhà tù và chạy ra ánh nắng rực rỡ, lòng tràn ngập niềm tự do quá mới đến độ con bật cười, hét lên sung sướng, chẳng khác gì trẻ nhỏ chạy vui trên đồng cỏ nở hoa trong ánh nắng rực rỡ của ngày xuân đầu tiên.
Mong muốn lớn nhất của thày là được thấy mọi người thoát khỏi nhà tù của tâm mình, thoát khỏi những cái hộp nhỏ bằng gạch, và ngộ ra mình thực sự là ai. Thày không muốn thấy con người cố leo lên cầu thang xoắn ốc mà mỗi bực phải giao chiến với con rồng của cái ta hữu diệt, giống như thánh George đánh nhau với rồng vậy. Thày muốn thấy con tách mình ra khỏi, tách cái Ta Biết ra khỏi cái ta hữu diệt để con có thể bước lên mỗi bực trên cầu thang xoắn ốc với niềm vui, với cảm giác an bình đến từ sự nhận biết rằng những gì con bỏ lại đều là không thực. Đây là niềm vui biết rằng mỗi lần con buông bỏ một lời dối nhị nguyên thì con cũng tiến một bước gần hơn trạng thái tự do biểu hiện cá thể thiêng liêng của mình.
Khi con biết điều này thì việc buông bỏ các hạn chế cũ, buông bỏ ý niệm cái ta hữu diệt, sẽ không gắn liền với nỗi sợ mất mát mà gắn liền với niềm vui thu hoạch. Thay vì cảm thấy mình bị mất gì đó, con nhận ra là kỳ thực con đang được gì đó – ý niệm cái ta cũ được thay thế bằng một ý niệm cái ta lớn hơn, đẹp hơn. A con yêu dấu, chính cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn, và cảm nhận vật lộn thì khởi lên từ sự dính mắc tình cảm của con với cái ta hữu diệt. Dính mắc này khởi lên từ nỗi sợ rằng nếu con mất đi một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ không có gì để thay vào chỗ đó. Đây là một niềm tin chỉ có mặt khi con nhìn cuộc đời từ bên trong chiếc hộp cái ta hữu diệt. Ngay khi con mở cửa tù ra và bước vào ánh nắng rực rỡ của Hiện diện TA LÀ của con, con sẽ thấy là khi con thay thế một phần của cái ta hữu diệt, khi con buông bỏ một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ làm lộ ra phần tương ứng của cái ta bất diệt từng bị ảo tưởng hữu diệt che mờ. Con không mất gì hết trong quá trình này, mà con chỉ được một cái gì đẹp hơn, sáng giá hơn vô lượng – và đây chính là ý nghĩa thật sự của sự sống dồi dào. Con có thể có tất cả của cải trên thế gian, nhưng chừng nào con còn kẹt trong chiếc hộp của cái ta hữu diệt, con sẽ không bao giờ có được sự sống dồi dào, con sẽ không bao giờ thoát khỏi nỗi sợ thiếu thốn. Đây là ý nghĩa thật sự của lời dạy của Giê-su: “Người nào được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì?” (Mark 8:36). Chỉ có một cách để đạt sự sống dồi dào, đó là bước ra ngoài chiếc hộp của cái ta hữu diệt, và nhờ vậy con tìm được sự dồi dào mà Thượng đế cho con miễn phí, vì ngài rất vui lòng ban cho con vương quốc của ngài.
Việc bỏ lại một đồng của cái ta hữu diệt thật là đáng tiền vì thay vào đó con nhận được bạc triệu của cái ta bất diệt. Con trở nên sẵn lòng, thậm chí con còn háo hức muốn phơi bày những lời dối của cái ta hữu diệt. Con trở nên sẵn lòng với tới sự thật của tâm Ki-tô sẽ thay thế lời dối của tâm phản Ki-tô. Con đã khắc phục nỗi sợ không dám xem xét các ảo tưởng của phản Ki-tô. Con không còn sợ việc phơi trần các lời dối nhị nguyên của cái ta hữu diệt vì con không còn đồng hóa với chúng nữa.
5.6. Con có khả năng là Ki-tô Hằng sống
Điều ngăn cách con với sự sống dồi dào chỉ là một sự xoay nhẹ chiếc la bàn của nhận thức, la bàn của cái ta. Con cần dời ý niệm cái ta xa khỏi cái ta hữu diệt và chấp nhận cái Ta lớn hơn mà con là. Một khi con đã xoay chuyển như vậy, con đường đi lên trở nên dễ dàng vì giờ đây con nhận ra với Giê-su: “Ách của ta dễ chíu, gánh của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30). Đó là khi con khắc phục nỗi sợ ngăn cản hầu hết mọi người thực hành một trong những câu quan trọng nhất của Giê-su. Có lẽ con nhớ Giê-su có nói: “Nếu ai muốn đi theo ta thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập tự giá của mình mà đi theo ta” (Matthew 16:24). Nhiều tín đồ Cơ đốc đã đọc câu này mà không hiểu được ý nghĩa, cho nên họ đã nhắm mắt làm ngơ hay đã bác bỏ nó với một đường lý luận nhị nguyên.
Khi Giê-su bảo từ bỏ chính mình, thày muốn nói đến những người đã tự đồng hóa với cái ta hữu diệt. Cái ta mà con từ bỏ để đi theo Giê-su không phải là cái ta thực; đó là cái ta hữu diệt. Con từ bỏ nó bằng cách chối bỏ nó là cái ta thực, bằng cách chối bỏ niềm tin là nó có bất kỳ uy quyền gì trên con, bằng cách chối bỏ ảo tưởng là cái ta hữu diệt có thể ngăn con đi theo Ki-tô. Con nhận ra và chập nhận sự thật là cái ta hữu diệt, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên trong, lẫn các thế lực của thế gian này, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên ngoài, không thể nào ngăn con đi theo Ki-tô. Không gì có thể ngăn chặn con, ngoại trừ những gì con cho phép cản đường con do con đồng hóa với nó hay sợ không dám nhìn nó.
Bây giờ con cũng có thể nhìn ra ý nghĩa câu “hãy vác thập tự giá của mình và đi theo Ki-tô”. Thập tự giá là một biểu tượng cho cái ta hữu diệt được cấu tạo bởi nhiều lời dối nhị nguyên mà con đã dần dà chấp nhận. Chúng hình thành một cấu trúc trong thế giới vật chất, và cái Ta Biết bị đóng đinh – bị giữ mải mê – vào cây thập tự. Thập tự giá có bốn nhánh, và như thày sẽ giải thích chốc nữa, điều này tượng trưng cho bốn tầng cấp của dải tần số vật chất mà chúng ta có thể gọi là bốn thể phàm của con. Mỗi thể phàm đã bị các lời dối nhị nguyên làm cho ô nhiễm. Vác thập tự giá của mình có nghĩa là con sẵn lòng tham gia vào tiến trình thanh lọc một cách hệ thống mỗi thể phàm của con cho không còn lời dối nhị nguyên nào khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Khi con khắc phục các lời dối này, khi con khắc phục cho đến kẻ thù cuối cùng của cái chết – bởi vì con cho phép cái ta hữu diệt của con được chết trên cây thập tự – con sẽ được phục sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô. Con sẽ không còn là một người đi theo Ki-tô nữa, mà con là Ki-tô Hằng sống ngay nơi con đang đứng. Như Giê-su đã chứng tỏ, con có khả năng là Ki-tô Hằng sống ngay đây trên trái đất.
Khi con đạt được trạng thái tâm thức này, con không còn đi theo đường tu tâm linh với mục đích tăng triển cá nhân mình nữa. Giờ đây con đã đạt được sự nhận biết lớn hơn rằng con là một với tổng thể, với Thân thể Thượng đế trên trái đất. Bằng cách là Ki-tô Hằng sống hiện thân trên trái đất, con có thể phụng sự như một cánh cửa mở để đem ánh sáng Ki-tô vào tâm thức tập thể của nhân loại. Con có thể giúp thanh lọc bốn thể phàm của tâm thức đại chúng, giúp người khác khám phá và đi theo đường tu tâm linh dễ dàng hơn. Khi đó con có thể nói cùng với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi trái đất, ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta” (John 12:32).
Đó là lý do Giê-su đã đến địa cầu. Thày đã gánh lấy tội lỗi của thế gian, nhưng đâu là tội lỗi của thế gian? Tội lỗi của thế gian là những lời dối nhị nguyên mà con người đã chấp nhận và bây giờ đã trở thành một thành phần của tâm thức tập thể. Giê-su đã gánh lấy một khía cạnh đặc thù của những lời dối nhị nguyên này, là xu hướng của con người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng, các thày giả, những kẻ đã nổi loạn chống lại Thượng đế và đã đến trái đất để đánh lừa loài người hầu chứng minh là họ biết hơn cả Đấng Sáng tạo. Đó là những con rắn, đó là những thế lực của phản Ki-tô đã âm mưu điều khiển loài người trong một thời gian rất dài. Giê-su đã khoác lấy chính xu hướng này, là xu hướng mù quáng đi theo kẻ cầm đầu mà không chịu lãnh trách nhiệm về đời mình và con đường của mình. Suốt 2000 năm qua thày đã gánh lấy tội lỗi đó, trạng thái tâm thức nhị nguyên đó, mong rằng loài người sẽ dùng giáo lý của thày để biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, để mài sắc khả năng phân biện cá nhân của mình, hầu nhìn thấu các lời gian dối do các lãnh đạo mù đó chủ xướng.
Vì lãnh đạo mù đã xâm nhập đạo Cơ đốc, hầu hết mọi người vẫn chưa có cái hiểu ý thức về sự hiện hữu của lớp lãnh đạo mù và làm thế nào tâm thức nhị nguyên của họ đã ảnh hưởng mọi khía cạnh cuộc sống trên trái đất. Nếu con không nhận ra là con bị kẹt trong một ảo ảnh thì làm sao con có thể thoát khỏi ảo ảnh đó? Do sứ vụ của Giê-su, hàng triệu người trên trái đất đã được chuẩn bị để có thể rất mau chóng giải thoát mình khỏi ảo ảnh nhị nguyên này và ngộ ra mình đã là người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng. Trên hành tinh này có một tiềm năng thực sự cho một sự thức tỉnh hàng loạt, qua đó hàng triệu người sẽ đạt được nhận biết mới về khía cạnh tâm linh của cuộc sống cùng con đường chân chính đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Điều này có thể xảy ra một sớm một chiều, và chắc chắn có thể xảy ra trong vòng một chục năm.
Nếu quả thật điều này xảy ra, con sẽ thấy hành tinh này thay đổi sâu đậm. Con sẽ thấy hành tinh địa cầu bước vào một thời đại hoàng kim của tự do lớn hơn, cả tự do vật chất lẫn tinh thần, và của dồi dào lớn hơn, cà dồi dào vật chất lẫn tinh thần. Đây là tiềm năng thật sự của thời đại hôm nay. Đây là một tiềm năng rất gần trở thành hiện thực vật lý, nhưng sẽ không thể là một hiện thực cho đến khi một khối người tới hạn (critical mass) chấp nhận đó là một hiện thực vật lý. Để chấp nhận vương quốc Thượng đế là một thực tại biểu hiện trên trái đất, con phải trước tiên chấp nhận vương quốc Thượng đế như một thực tại trong chính tâm thức và bản thể của con. Mục đích khóa học này không chỉ là để giúp con có được sự sống dồi dào cho con, mà giúp con nhìn ra là con đang ở đây để làm người tiên phong cho một thời đại hoàng kim sẽ đem lại sự sống dồi dào cho mọi người, bằng cách vĩnh viễn trục xuất những kẻ cầm đầu mù quáng – cùng với tâm thức tách biệt và thiếu thốn của họ – ra khỏi hành tinh.
5.7. Hoàn thành sứ vụ của Giê-su
Giê-su có nói: “Ta đã đến thế gian để phán xử, để những ai không thấy thì có thể thấy, còn ai đang thấy thì hóa mù” (John 9:39). Phán xử là một cơ hội để một người đứng trước một chọn lựa có thể chọn là ngày hôm nay mình sẽ phục vụ cho ai. Chọn lựa thực sự là liệu người đó sẽ phục vụ tâm Ki-tô hay tâm phản Ki-tô. Mọi khía cạnh cuộc sống trên hành tinh này đã bị tâm phản Ki-tô ảnh hưởng, với hậu quả là hầu hết mọi người không có chọn lựa nào giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô. Tất cả những gì họ đã được dạy dỗ để tin tưởng đều bị tâm phản Ki-tô chi phối. Làm sao họ có được cơ hội chọn lựa sẽ phục vụ ai đây? Họ sẽ chỉ có được cơ hội này khi họ gặp một người thể hiện được một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn họ. Khi gặp người này, họ chợt nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, họ nhận ra có một trạng thái tâm thức cao hơn. Đây chính là điều xảy ra khi người đời gặp Giê-su.
Thày đã bước chân với Giê-su rất nhiều lần, và thày đã thấy người ta phản ứng thế nào khi gặp Giê-su. Hiển nhiên là có nhiều loại phản ứng, nhưng thày có thể nói là rất ít người có thể gặp Giê-su bằng xương bằng thịt mà vẫn thờ ơ. Gần như ai ai cũng cảm được có gì đặc biệt nơi Giê-su, không phải là con người vỏ ngoài có gì đặc biệt mà họ cảm thấy Giê-su đã đạt được tâm thức Ki-tô, Giê-su là cánh cửa mở cho Ánh sáng Ki-tô hoàn vũ chiếu rọi vào bóng tối của thế gian. Khi gặp Giê-su, ký ức nội tâm của họ được đánh thức, và giờ đây họ có cơ hội nhìn nhận ký ức nội tâm này và cất bước trên con đường dẫn vể nhà. Một số đã chọn phủ nhận ký ức đó hay dùng một đường lý luận nhị nguyên để bác bỏ nó, nhưng ít ra họ đã có một cơ hội.
Khi họ gặp ánh sáng từ cao rọi xuyên qua Giê-su, họ có cơ hội chọn lựa, hoặc quay đầu lại và phụng sự ánh sáng đó, hoặc cứ tiếp tục phục vụ bóng tối của tâm phản Ki-tô. Liệu họ có sẵn lòng nhìn nhận rằng nếu Giê-su đã có thể đạt được quả vị Ki-tô thì có lẽ chính họ cũng có thể? Hay họ sẽ chối bỏ là họ có tiềm năng khoác vào tâm Ki-tô và cho phép tâm này ngụ trong họ vì tâm này cũng ngụ trong Ki-tô Giê-su (Philippians 2:5)? Đây là chọn lựa chân thực mà con người trong thời đại này phải đối mặt. Liệu họ sẽ tiếp tục đi theo các lãnh đạo giả của phản Ki-tô, hay rốt cuộc họ sẽ tách mình ra khỏi nhị nguyên và bước theo sự thật Ki-tô?
Con yêu dấu, con phải đối mặt với chọn lựa này ở mức cá nhân, và thày đã làm tất cả những gì thày có thể nghĩ tới để giúp con dễ chọn lựa hơn, là con chọn chấp nhận tiềm năng Ki-tô của mình, cất bước trên con đường Ki-tô, chối từ cái ta hữu diệt của mình, vác cây thập tự của mình và noi theo gương Giê-su. Khi con đi theo con đường này và khoác vào một phần lớn hơn của quả vị Ki-tô của mình, đến lượt con thật sự trở thành công cụ cống hiến cho người khác cùng chọn lựa đó. Mỗi người đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết, cho nên con và mọi người đều có quyền chối bỏ con đường quả vị Ki-tô hay tiềm năng đi theo con đường này. Dù người khác có chấp nhận hay chối bỏ tiềm năng cùa họ, đây không phải là quan tâm của con. Vai trò của con là cống hiến cho họ cơ hội chọn lựa, xong con để yên cho họ quyết định họ muốn làm gì với chọn lựa. Để có thể cống hiến chọn lựa cho họ, chính con phải tự thân bước trên con đường này và thể hiện một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó cho phép người khác cảm được nơi con có gì khác lạ, rằng con có gì đó mà họ không có. Cái con có chính là ánh sáng lớn hơn của đứa Con Thượng đế (the Son of God), của Mặt trời Thượng đế (the Sun of God).
Khi họ cảm được ánh sáng này, nó sẽ đánh thức lại trong họ ký ức nội tâm là cuộc sống có gì nhiều hơn, và nhiều người trong số họ sẽ nhận chân được ký ức này. Họ sẽ nhìn con và nói: “Bạn không khác tôi bao nhiêu. Nếu bạn có thể trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng Thượng đế thì có lẽ chính tôi cũng có thể?” Giê-su đã đến hành tinh này để chứng tỏ qua tấm gương của mình con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Vì các thày giả đã thâm nhập đạo Cơ đốc và biến Giê-su thành một thần tượng, rất ít người trên hành tinh đã làm theo gương của thày. Đó là vì sao thời đại hôm nay rất cần đến những người sẵn lòng nhìn thấu giáo điều tôn thờ thần tượng mà thày giả đã xây dựng và thay vào đó bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân.
Chỉ khi nào hàng triệu người làm như vậy thì trong tâm thức tập thể mới có thể có một sự thức tỉnh. Người ta có thể chấp nhận con đường quả vị Ki-tô vì con đường này được chứng minh cho họ qua tấm gương của những người cũng giống như họ. Quá nhiều người đã lớn lên và được dạy dỗ để thấy Giê-su rất khác mình, và họ không thể nhận ra chính họ trong con người Giê-su. Làm sao họ có thể chấp nhận câu nói của thày rằng những ai tin thày sẽ làm được những công việc thày đã làm (John 14:12)? Làm sao họ có thể xem thày là một tấm gương để noi theo nếu thày quá khác họ – nào thày sinh ra từ một nữ đồng trinh, nào thày chính là Thượng đế ngay từ đầu, nào thày có thể làm tất cả những phép lạ kia mà họ không thể làm?
Âm mưu của các thày giả là phá hoại sứ vụ của Giê-su. Thày đang ở đây, đang trao cho con khóa học này, vì thày yêu con và thày yêu Giê-su. Thày muốn thấy sứ vụ của Giê-su trở thành một chiến thắng trên hành tinh này. Thày muốn thấy điều đó vì tình yêu vô biên của thày cho Giê-su, nhưng xin con chấp nhận là thày không yêu Giê-su nhiều hơn con. Vì tình yêu của thày cho con nên thày cũng muốn thấy con khám phá sự thật về sứ vụ của Giê-su để con có thể bước chân theo và giải thoát mình khỏi tâm phản Ki-tô. Thày muốn con được tự do khỏi kẻ thù bên ngoài tức ông hoàng của thế gian, lẫn kẻ thù bên trong tức cái ta hữu diệt của con.
Tình yêu của thày vô điều kiện, và thày sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào giam con lại trong cái ta hữu diệt này. Thày đã đến để trao con một khóa học chứa đựng sự thật có khả năng giài thoát con, nếu con đón nhận nó và cho phép nó tác động giống như chất men sẽ nâng cao toàn bộ tâm thức của con (Matthew 13:33). Nếu con chấp nhận sự thật mà thày cho con, sự thật này quả thực sẽ giải thoát con khỏi mọi lời dối của phản Ki-tô. Đây không chỉ là một lời hứa suông. Đây là thực tế!
Vấn đề hầu hết mọi người phải đối mặt là họ đã lớn lên trong một thế giới đầy rẫy tin tưởng nhị nguyên. Họ sống trong nhà tù con người phàm và họ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ gì bên ngoài nhà tù. Họ sống trong một cái hộp bằng gạch hoàn toàn tăm tối và họ nghĩ không có gì khác hơn bóng tối. Khi con mở cửa tù ra và ánh sáng rực rỡ của mặt trời chiếu rọi qua cánh cửa, ảo tưởng cho rằng chỉ có bóng tối sẽ lập tức tan biến.
Bóng tổi không có thực thể trong Thượng đế. Cái gì không có thực chất bất diệt không thể có quyền lực nào trên con vì con là một sinh thể tâm linh bất diệt. Nó chỉ có thể ảnh hưởng con chừng nào con nghĩ nó có thực chất. Ngay khi ánh sáng Ki-tô đi vào bản thể con và xua tan ảo tưởng cho rằng không có gì khác hơn nhị nguyên, con sẽ giải thoát khỏi ảo tưởng đó. Đây không phài là chuyện mơ mộng ao ước, mà là một thực tế con có thể chứng minh bằng cách đi vào một căn phòng tối và bật đèn lên.
5.8. Đem ánh sáng vào bóng tối
Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Mục đích của cuộc sống là đem ánh sáng vào bóng tối của khoảng trống không. Khoảng trống không nguyên thủy không có gì trong đó và vì thế nó tối. Bóng tối này không thiện mà cũng không ác, nó chỉ đơn giản là sự thiếu vắng ánh sáng. Nó không là cùng một thứ với điều con người gọi là ác. Vì con người đã thử nghiệm với quả trái của hiểu biết về thiện ác, cho nên họ đã tạo ra một tình trạng có hai đối cực tương đối che khuất cả ánh sáng của Thượng đế lẫn bóng tối nguyên thủy của khoảng trống không. Loài người, bị cầm đầu bởi lãnh đạo mù là các thày giả, đã bị lừa gạt để mà tạo ra những hình ảnh tương đối, nhị nguyên, của riêng mình về thiện và ác. Ác có vẻ tối tăm và thiện có vẻ sáng sủa, và đó là tại sao Paul mới nói: “Chính Satan cũng hóa thành một thiên thần ánh sáng” (2Corinthians 11:14). Cả hai đối cực tương đối này đều không thể hiện thực chất của ánh sáng Thượng đế lẫn bóng tối của khoảng trống không. Cả hai đều không có thực tế tối hậu nào vì chúng chỉ hiện hữu như những hình ảnh tạm thời được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật bởi các sinh thể tự nhận biết đang mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô.
Vì con người bị lừa dối nên họ đã dần dần tin rằng cái ác là một thực tế hiển hiện, rằng nó tồn tại thực sự như là đối nghịch của Thượng đế. Họ đã dần dần tin rằng những gì được các thẩm quyền tôn giáo hay chính trị định nghĩa là thiện cũng thật sự là thiện trong thực tại của Thượng đế. Đây chẳng qua là một màn ngụy trang. Cả thiện lẫn ác khởi lên từ tâm thức nhị nguyên đều không có thực tế tối hậu nào. Điều con người gọi là ác chỉ đơn giản là một ảo tưởng khi ánh sáng Ki-tô vắng mặt. Ngay cả điều con người gọi là thiện cũng chỉ là cái thiện tương đối, đó cũng là một ảo tưởng khi cái thiện lớn hơn vắng mặt, cái thiện tuyệt đối của tâm Ki-tô. Con người đã bị mắc kẹt vào một trò chơi bất tận dựa trên ảo tưởng là có một cuộc chiến giữa thiện và ác trên hành tinh này. Nhưng trận chiến chỉ diễn ra giữa cái thiện tương đối và cái ác tương đối, và cả hai lực này đều do tâm thức nhị nguyên quy định. Chúng không có thực tế nào, chúng không có lẽ thật nào trong chúng, chúng không có sự sống nào trong chúng. Đằng sau các ảo tưởng này, đằng sau các ảo ảnh hiện ra trong sa mạc, là thực tại của Thượng đế neo trụ hằng thường trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tâm thức phản Ki-tô không thật sự đối chọi với tâm Ki-tô vì sự thật Ki-tô không hề có đối nghịch.
Các thế lực phản Ki-tô tin là họ đối nghịch với tâm Ki-tô, nhưng sự đối nghịch này chỉ hiện hữu trong tâm họ. Nó chỉ có thể hiện hữu vì họ bám vào cái ta hữu diệt sinh ra từ sự tách biệt với cái Tất cả. Đối với Thượng đế thì không có thực tế nào trong họ, không có sự sống nào trong họ. Tất cả mọi thứ họ đã gầy dựng trên trái đất giống như Tháp Babel. Họ tìm cách cưỡng chiếm thiên đàng bằng cách xây dựng một tòa tháp cao tới tận trời, nhưng đó chỉ là một ngôi nhà xây trên cát. Chắc chắn nó sẽ sụp đổ vì lực co lại của Đấng Mẹ sẽ hủy diệt nó, y như mọi thứ khác không thẳng hàng với thực tại của Thượng đế cũng bị hủy diệt.
5.9. Bước ra khỏi tâm thức vật lộn
Con có thể tiếp tục trò chơi quanh co, trò chơi nhị nguyên này, qua đó con có thể nghĩ mình là một người tâm linh hay mộ đạo đang rõ ràng chiến đấu về phe Ki-tô bằng cách đánh nhau với các thế lực mà con tin là xấu ác. Kỳ thực con chỉ là một con tốt trong ván cờ nhị nguyên của phản Ki-tô nơi không bên nào đại diện cho sự thật tuyệt đối của Ki-tô. Nhiều người sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này. Họ sẽ khó lòng thừa nhận là những gì họ đã luôn luôn tin tưởng là đại nghĩa cao cả thật ra có thể là một ảo tưởng dựa trên tâm phản Ki-tô. Nhiều người cũng sẽ khó lòng tin rằng một người tâm linh không nên chiến đấu chống lại cái ác của con người. Tại sao con nghĩ Giê-su lại nói: “Nhưng ta nói với con, đừng chống cự cái ác. Trái lại, nếu có ai tát con bên má phải, con hãy quay má trái luôn cho họ” (Matthew 5:39)? Giê-su đang bảo những ai theo thày hãy vươn lên cao hơn trò chơi nhị nguyên của thiện ác tương đối. Khi con chiến đấu với cái ác của con người, con chỉ tự nhốt mình chặt hơn vào trạng thái tâm thức nhị nguyên.
Con có thể tiếp tục trò chơi này cho đến mãn kiếp và thêm nhiều kiếp nữa. Khi con mệt mỏi cuộc đấu tranh bất tận này, thày sẽ ở đó để chỉ cho con thấy là có một cách khác. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi cuộc vật lộn nhị nguyên không bao giờ chấm dứt giữa hai thế lực, vì cả hai đều không thuộc về Thượng đế. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi mọi cuộc vật lộn bằng cách đưa con vượt khỏi các lực đối chọi và nhập vào cái một của tâm Ki-tô nơi không có phân rẽ, không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17). Mọi thiện ác tương đối được thay thế bởi ánh sáng thuần đơn của Mặt trời Thượng đế.
Giê-su đã đến để cống hiến loài người con đường này 2000 năm về trước. Giê-su đang ở đây ngày hôm nay để cống hiến con đường này cho con. Như thày vẫn nói: “Ta sẽ ở với con luôn luôn, ngay cả đến ngày tận thế” (Matthew 28:20). Ngày tận thế không có nghĩa là trái đất sẽ không còn tồn tại, như nhiều người Cơ đốc tin tưởng. Ngày tận thế có nghĩa là sự chấm dứt nhị nguyên, sự tận cùng của nền thống trị của nhị nguyên trên hành tinh này. Ngày tận thế có nghĩa là thời điểm có một số người tới hạn thăng lên tâm thức Ki-tô. Họ đòi lại trái đất cho Ki-tô để Thượng đế có thể trục xuất ông hoàng của thế gian khỏi thế gian. Ki-tô sẽ hiện ra như vị vua sẽ mãi mãi ngự trị trên trái đất vì trái đất giờ đây đã trở thành vương quốc của Thượng đế.
Con có thể là một người đi tiên phong cho sự kiện này, nhưng con chỉ có thể làm vậy nếu con sẵn lòng vác cây thập tự của mình và thanh lọc bản thể mình một cách hệ thống cho không còn lời dối nào của phản Ki-tô. Nếu con sẵn lòng đi theo con đường chân truyền này thì thày sẽ sẵn lòng nắm tay con và đồng hành với con trên mỗi bước cuộc hành trình. Con đường này không phải là con Đường Thương khó, không phải là một cuộc chiến đấu bất tận. Con đường chân truyền của Ki-tô là con đường tình thương, con đường an lạc, con đường tự do, con đường của sự sống dồi dào. Con có khả năng thoát khỏi cảm nhận vật lộn bằng cách xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình xa khỏi cuộc chiến đấu nhị nguyên.
Một số người đã sẵn sàng làm cuộc xoay chuyển này, và họ có thể làm vậy tức khắc. Thật sự con chỉ cần một quyết định, và con không thể lấy quyết định nào trong quá khứ cũng như trong tương lai. Con chỉ có thể lấy quyết định trong hiện tại, nghĩa là con có thể lấy quyết định từ bỏ cuộc chiến đấu bất cứ lúc nào. Con sẽ không thoát khỏi cuộc chiến cho đến khi con quyết định là con còn không chấp nhận hình ảnh cuộc sống là một cuộc chiến. Con không thể lấy quyết định này cho đến khi con quyết định là con lấy quyết định ngay bây giờ.
Thày biết rõ là đối với một số người, thời điểm họ có thể lấy quyết định này vẫn chưa đến. Lý do là vì họ vẫn quá đồng hóa với cái ta hữu diệt. Nếu đây là trường hợp của con, đừng sợ hãi. Trong phần còn lại của khóa học này, thày sẽ cho con những dụng cụ cần thiết để con tự giải thoát khỏi ách thống trị của cái ta hữu diệt này, hầu con có thể chấp nhận tự do của mình, là sự tự do con chưa hề mất bao giờ, mà trái lại vẫn luôn thuộc về con để con đòi lại trong hiện tại vĩnh cửu – tức là giây phút độc nhất hằng có.