7 | Con đang sáng tạo sự hài hòa hay thiếu thốn?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 7/4/2005.

Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ có khả năng cung cấp sự dồi dào vô biên, ngay cả trên hành tinh nhỏ bé mà con gọi là trái đất này. Khi Thượng đế tạo ra trái dất, ngài chỉ giản dị tạo tác một nền móng. Sau đó ngài gửi con, và nhiều người đồng-sáng tạo khác, xuống thế giới này với mệnh lệnh nhân lên khả năng sáng tạo. Con ở đây để cai quản trái đất và xây dựng thêm trên nền móng của Thượng đế và đem lại cho thế giới này tất cả sự dồi dào mà con có thể tưởng tượng và chấp nhận. Khi con người sử dụng khả năng sáng tạo của mình thuận theo những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì họ sáng tạo một sự dồi dào bền vững. Họ làm việc này mà không tước đi sự dồi dào từ các phần khác của sự sống mà trái lại khuếch đại toàn thể dồi dào trên trái đất. Toàn Thân thể của Thượng đế sẽ được phóng đại trong tiến trình này. Khi con người sử dụng đúng khả năng sáng tạo của mình thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì vũ trụ của Thượng đế được thiết kế để cung cấp đủ dồi dào cho tất cả.

7.1. Nhiều điều kiện trên trái đất do con người tạo ra

Câu hỏi chủ yếu mà ta cần giải đáp là làm sao con, như một người sống trên hành tinh địa cầu, có thể học cách sử dụng khả năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với những nguyên lý mà Thượng đế đã dùng để thiết kế toàn thể vũ trụ. Khó khăn mà chúng ta đối diện là hành tinh địa cầu hiện nay không biểu lộ thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Thay vì xây dựng một lâu đài trên nền móng mà Thượng đế đã tạo lập, nhân loại qua bao ngàn năm đã chôn vùi của cải của mình vào lòng đất. Lực co thắt của Mẹ đã bắt đầu phá vỡ ngay cả nền móng mà Thượng đế xây dựng. Thày biết đây là một ý niệm mà những người đã lớn lên trong xã hội hiện đại khó chấp nhận. Nhiều người đã được dạy dỗ để tin vào phiên bản câu chuyện thành lập hành tinh do Thánh kinh đề ra cho rằng trái đất chỉ có mặt từ vài ngàn năm nay, rằng mọi thứ đều do Thượng đế tạo ra, rằng Thượng đế chỉ có thể tạo ra sự toàn hảo, và do đó tất cả mọi chuyện phải toàn hảo. Một số người khác đã lớn lên với thuyết tiến hóa của khoa học cho rằng sự tiến hóa chỉ đi theo một hướng, và sự sống đi từ những hình tướng thô sơ đến những hình tướng phức tạp hơn.

Vì có Luật Tự quyết nên rất có thể một nền văn minh con người tiến lên một cao điểm và sau đó dần dần tiêu mòn xuống một trạng thái thấp hơn. Nhiều sắc thái của sự sống trên trái đất đã bị tâm thức nhân loại ảnh hưởng. Điều này không những chỉ áp dụng cho xã hội loài người mà còn áp dụng cho cả đến chính Mẹ Thiên nhiên. Con có thực sự tin rằng một Thượng đế đầy lòng thương yêu, có trí tưởng tượng và ý chí tự do vô biên, lại chọn lựa tạo tác các con vi rút, vi khuẩn, vật ký sinh, côn trùng độc hay hóa chất độc hại có thể tàn phá cơ thể của con? Con có thực sự tin rằng Thượng đế đã tạo ra các căn bệnh vô số trên trái đất? Nếu Thượng đế không tạo ra chúng, thì ai đã tạo ra? Câu trả lời là: chính là nhân loại. Nhân loại cộng chung đã tạo ra tất cả các điều kiện bất toàn mà con thấy trên trái đất, ngay cả các bất quân bình trong thiên nhiên.

Mọi chuyện đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ mang vào một hình tướng khi nó được khuấy động bởi một tâm, một sinh thể có tự nhận biết có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là có trí tưởng tượng và ý chí tự do. Khi con chấp nhận sự kiện này thì con nhận ra là tất cả mọi chuyện trên trái đất đều là sản phẩm của một tâm có ý thức. Thiết kế nguyên thủy của trái đất do một nhóm đại diện Thượng đế, gọi là các Elohim, tạo ra. Các sinh thể này tạo ra một hành tinh tuyệt đẹp, và vẻ đẹp mà con thấy hiện nay trong thiên nhiên chỉ là một phản ánh phai mờ của vẻ đẹp nguyên thủy mà các Elohim đã tạo ra. Hành tinh mà họ tạo ra trong bản chất có cân bằng toàn hảo, do đó con không tìm thấy bệnh tật, động đất hay bão táp. Từ thuở sáng tạo nguyên thủy đó, các thế hệ con người, các nền văn minh nối tiếp nhau đã ảnh hưởng hành tinh này và kéo nó xuống một trạng thái thấp hơn thiết kế nguyên thủy. Chuyện này đã được thực hiện do quyền năng của tâm con người, qua đó họ đã áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật những hình ảnh bất toàn không thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng.

Con người đã đi xuống, hay sa ngã vào một trạng thái tâm thức trong đó họ không còn nhận biết trực giác hay có ý thức về các quy luật của Thượng đế, những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào trong những phần thâm sâu của họ. Điều này được minh họa bởi câu chuyện trong Thánh kinh mô tả sự Sa ngã , kể rằng Adam và Eve bị đuổi ra khỏi Vườn Địa đàng. Trái cây hiểu biết thiện ác là trái cây hiểu biết thiện ác tương đối. Khi con mất liên lạc với thực tại của Thượng đế, các quy luật của Thượng đế, thì chính con trở nên luật pháp theo nghĩa con không còn thanh gậy dẫn đường chỉ cho con thật giả tuyệt đối.

7.2. Con không được dồi dào vì mất liên lạc với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế

Tất cả những gì hài hòa với quy luật của Thượng đế đều lợi lạc cho tổng thể và bền vững, và ta có thể gọi chúng là thiện hay tốt lành. Những gì đứng bên ngoài những quy luật này đều có mầm tự hủy diệt và làm hại cho tổng thể, và do đó ta có thể gọi chúng là giả hay ác. Khi con người đánh mất thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối đó, thì họ quy định khái niệm thiện ác của riêng họ. Những khái niệm này không dựa trên thanh gậy hướng dẫn của quy luật Thượng đế. Chúng dựa trên những gì con người muốn tin và những gì một số người muốn là sự thật vì chúng giúp họ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của họ mà không đếm xỉa đến tổng thể. Vì con người đã quy định thiện ác để đáp ứng mục đích của họ nên họ cảm thấy việc thỏa mãn các ham muốn vị kỷ là điều hoàn toàn chính đáng.

Khi con người không còn thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối, thì họ sẽ quy định thiện ác sao để đáp ứng mục đích của họ, mục đích vị kỷ của họ. Các nền văn minh khác nhau đã có những định nghĩa khác nhau về thiện ác. Trong đa số trường hợp, những gì không khế hợp với luật lệ do một thiểu số nắm quyền định ra bị gán nhãn hiệu ác. Chỉ những gì thẳng hàng với đòi hỏi của thiểu số cầm quyền mới được gán nhãn hiệu thiện hay chấp nhận được. Trong nhiều trường hợp, thiểu số cầm quyền hoàn toàn không đứng thẳng hàng với thực tại của Thượng đế và những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những gì họ gọi là thiện không tốt lành theo nghĩa tuyệt đối. Chúng chỉ tốt lành tương đối vì chúng chỉ tốt lành dựa trên định nghĩa vị kỷ của thiểu số cầm quyền, một định nghĩa không những chối bỏ các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà còn chối bỏ thực tại chỉ có những gì tốt lành cho tổng thể mới thực sự tốt lành cho cá nhân.

Con cần suy ngẫm – trong tim mình – khái niệm này xuất phát từ đâu. Câu chuyện Vườn Địa đàng minh họa là có một điểm Adam và Eve nhận ra là họ đã làm một điều gì đi ngược lại quy luật của Thượng đế. Nhưng thay vì trở về với Thượng đế và nhận tội và xin tha thứ, thì họ quyết định lẩn trốn Thượng đế (Genesis 2:8). Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, do đó con có quyền lẩn trốn Thượng đế nếu con muốn. Bởi vì Thượng đế tôn trọng các luật của ngài, và do đó tôn trọng chọn lựa tự quyết của con, nên Thượng đế không thể giúp con khắc phục ý niệm tách biệt đó. Nếu con muốn quay lưng lại Thượng đế, thì ngài sẽ cho phép con làm chuyện này và ngài sẽ không ép uổng con bằng bất cứ cách nào. Một khi con đã quay lưng lại Thượng đế, thì con có thể tiếp tục càng ngày càng xa rời Thượng đế trong tâm thức của con. Thượng đế sẽ không ép uổng con, Thượng đế sẽ không bắt con phải đối mặt với quyết định của mình. Thượng đế sẽ để con bước ra xa bao nhiêu cũng được nếu con muốn. Đó là lý do vì sao nhân loại đã có thể đi xuống một trạng thái tâm thức cực kỳ thấp mà con thấy trải bày hồi thời người tiền sử sống trong hang động, là một trạng thái không cao hơn loài thú bao nhiêu.

Thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại. Trước đó đã có nhiều nền văn minh đã đạt tới trình độ tinh xảo cao. Một số các nền văn minh đó vượt xa nền văn minh Tây phương hiện tại trên mặt công nghệ và văn hóa. Nhưng vì họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ nên họ dần dần đi xuống những trạng thái tâm thức và điều kiện sinh sống càng ngày càng thấp. Nếu con đã từng nghiên cứu các chuyện thần thoại, hay những gì các khoa học gia gọi là chuyện thần thoại, về các nền văn minh quá khứ, thì con sẽ biết thày đề cập đến các nền văn minh nào. Mặc dù một số chi tiết trong những câu chuyện còn sót lại từ các thời đó đã trở nên mờ tối với dòng thời gian, sự thật là đã có những nền văn minh quá khứ trên trái đất và thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại mà chỉ là một trong những điểm thấp mà nhân loại đã xuống tới.

Nếu con muốn thay đổi cuộc đời mình – để được cuộc sống dồi dào mà Thượng đế cống hiến vô điều kiện – thì con không thể thụ động và chờ đợi là Thượng đế sẽ làm hộ cho con. Con còn không thể dùng phương pháp cầu xin Thượng đế cho con cuộc sống dồi dào. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó con có quyền năng sáng tạo để thị hiện cuộc sống dồi dào bằng cách sử dụng các quyền năng đó.

Thượng đế sẽ không tạo ra đời sống dồi dào cho con; Thượng đế muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào cho chính mình. Thượng đế muốn con biết rằng con đã làm chuyện đó với quyền năng nội tại của mình – quyền năng của Thượng đế trong con – và con đã làm chuyện đó bằng cách đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Kết luận là lý do vì sao con chưa có đời sống dồi dào là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức, mà ta có thể gọi là trạng thái vô minh, nơi đó con mất liên lạc với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã sử dụng. Cách duy nhất để thoát khỏi cảm nhận thiếu thốn hiện tại và đạt được đời sống dồi dào là con thay đổi trạng thái tâm thức của mình.

7.3. Con đã dùng quyền tự quyết để tạo đời sống thiếu thốn

Con yêu dấu, thày muốn con bỏ ra vài phút để suy ngẫm về những phương pháp “làm giàu mau chóng” đang lan tràn trong xã hội Tây phương ngày nay. Con hãy xem xét là có biết bao nhiêu đạo sư đã hứa hẹn là nếu con theo phương pháp giản dị của họ hay đọc sách của họ, thì con sẽ tạo ra sự dồi dào và của cải tối hậu, và con sẽ có thể làm ra tiền nhiều vượt xa lý thường tình. Thày chắc chắn là nếu con nhận ra nhu cầu đem sự dồi dào vào cuộc đời của mình, thì con đã thử dùng một trong những phương pháp đó hoặc đã nghĩ chuyện theo chúng. Nếu con đã thử theo chúng, thì có lẽ con đã trải nghiệm là chúng không hiệu nghiệm.

Bây giờ thì thày giảng cho con là các phương pháp “làm giàu mau chóng” đó sẽ không bao giờ hiệu nghiệm trên đường dài. Thực tại giản dị là trạng thái thiếu thốn và đau khổ hiện nay của con là sự trải bày – trong vật thể vật lý – của những gì xảy ra trong tâm thức của con. Nếu con muốn thay đổi thực tại bên ngoài của con – thực tại được hình thành bởi Ánh sáng Mẫu-Vật – thì con cần trước tiên thay đổi thực tại nội tại của con, là thực tại của tâm thức của con, là những tâm ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Chỉ khi con theo trọn tiến trình thay đổi trạng thái tâm thức của mình một cách cơ bản và sâu thẳm, thì con mới thấy những cải thiện thật, chân chính và lâu bền trong hoàn cảnh bên ngoài của con.

Đây là một nguyên lý sâu sắc mà con cần hiểu nếu con muốn thể hiện đời sống dồi dào thật mà Thượng đế cống hiến con. Lý do vì sao con không có đời sống dồi dào thể hiện trong vật lý là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp, nơi đó con không sử dụng, con không có khả năng sử dụng, những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Điều các phương pháp “làm giàu mau chóng” hứa hẹn con là họ đã khám phá ra một ngõ tắt nào đó cho con của cải vật lý mà con muốn mà không cần thực sự thay đổi tâm thức của mình. Một số các phương pháp đó đề cập đến việc thay đổi tâm thức, nhưng chỉ một cách phiến diện. Họ tuyên bố là con chỉ cần theo một vài bước đơn giản, đọc một vài câu khẳng định đơn giản, thì của cải sẽ tức khắc tuôn chảy về hướng con.

Nếu con chưa chán ngán những hứa hẹn rỗng tuếch này thì thày sẽ không ngăn cản con tìm trải nghiệm đó nếu con nghĩ con cần trải nghiệm đó. Thày là một bà Mẹ đầy thương yêu, thày là một đại diện của Mẹ Thượng đế. Thày mong muốn con được sự dồi dào thực sự không thể mua được bằng tiền bạc và cũng không thể mua bằng ngõ tắt. Thày cũng thương yêu Thượng đế Cha và Luật tự quyết của ngài. Trong căn bản, Luật Tự quyết quy định rằng nếu con tách mình khỏi Thượng đế thì Thượng đế không thể cho con hướng dẫn và do đó hậu quả của hành động của con trở nên vị thày của con. Con học hỏi qua những trải nghiệm của mình.

Luật Tự quyết quy định rằng nếu con cảm thấy cần một loại trải nghiệm nào đó, thì Thượng đế sẽ cho phép con tạo trải nghiệm đó cho mình. Nếu con vẫn cần trải nghiệm nghèo đói, giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau, thì thày là ai mà có thể chối bỏ luật Thượng đế và tìm cách ép con phải chấp nhận sự dồi dào của Thượng đế? Nếu con mong muốn sự dồi dào, nhưng không sẵn sàng làm những chuyện cần làm để thể hiện sự dồi dào của Thượng đế, thì thày là ai mà có thể ngăn cản con chạy theo các đạo sư giả chỉ cho con ngõ tắt? Nếu con cần trải nghiệm đi theo một đạo sư giả như thế – cho đến khi con quá thất vọng và rốt cuộc từ bỏ giấc mộng tìm được ngõ tắt và nói: “Phải có một cách hay hơn” – thì thày là ai mà có thể đứng cản lối không cho con có trải nghiệm đó? Nếu con đã tới điểm quyết định không còn muốn những giấc mơ và ngõ tắt rỗng tuếch đó nữa, không còn muốn trải nghiệm đau đớn, thiếu thốn và khổ đau, thì thày có thể cống hiến con một cái gì. Thày có thể cống hiến con một con đường chân thật qua đó con thay đổi hoàn toàn tâm thức của mình. Con có thể đem tâm thức mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng. Khi con làm vậy thì con đem dòng sống của mình vào sự hài hòa với toàn Thân thể của Thượng đế trên cả thiên đàng lẫn trần thế. Toàn thể vũ trụ vật chất và chính Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ vui mừng đáp ứng những mong muốn thật của con. Con sẽ thấy là sự dồi dào sẽ xảy đến không phải như một phép lạ, không phải từ một lực bên ngoài con, mà qua cách sử dụng đúng đắn – cách sử dụng hài hòa và cân bằng – quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con khi dòng sống của con bắt đầu hiện sinh.

7.4. Nhập một với Dòng sông sự Sống

Con đường mà thày cống hiến là con đường thật dẫn tới dồi dào thật, không phải là một ngõ tắt, không phải là một con đường mà con người thấy có vẻ đúng, nhưng đến cuối đường là cái chết (Proverbs 14:12). Chìa khóa để đi theo con đường thật là nhận ra con đường này không có mục đích đem lại của cải tạm thời trên trái đất. Mục đích của con đường thật là thay đổi thường trực, một thay đổi tâm thức thường trực khi con sửa đổi tâm thức để nó thẳng hàng với thiết kế nguyên thủy được lưu trữ trong tâm Thượng đế khi dòng sống của con được tạo sinh. Thượng đế muốn sáng tạo những người con trai hay con gái thật của Thượng đế, được tạo sinh theo hình ảnh của ngài và giống như ngài và các người con đó dùng những quyền năng sáng tạo hoàn toàn hài hòa với tổng thể. Con không những chỉ khuếch đại dòng sống của chính mình mà còn khuếch đại kinh nghiệm sống của mọi sự sống trên trái đất, và quả thực mọi sự sống trong toàn thể vũ trụ.

Đây là trạng thái tâm thức mà Giê-su đề cập đến khi nói rằng trừ phi con hấp thu thịt và máu của người Con trai duy nhất đã được tạo sinh bởi Cha, thì con không có sự sống trong mình (John 6:53). Ý nghĩa sâu của câu này là khi con sử dụng quyền năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì con đứng thẳng hàng một cách toàn hảo với mục đích của sự sống và những nguyên lý hướng dẫn của sự sống. Con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, con là một phần của Dòng sông sự Sống, là dòng nước luôn tuôn chảy, luôn tăng trưởng bao gồm tất cả những gì đấng Sáng tạo đã tạo tác. Con luôn luôn di chuyển cùng với Dòng sông sự Sống, con luôn luôn thăng vượt chính mình, nhân các khả năng của con và trở nên hơn nữa, qua đó con đem thêm dồi dào vào cuộc đời mình. Đây là định nghĩa thật của sự sống.

Định nghĩa tâm linh của sự sống không phải là thân thể của con có còn hô hấp hay không. Đây là định nghĩa nhân phàm, sinh diệt của sự sống. Định nghĩa tâm linh thật của sự sống là con thăng vượt chính mình và trở nên hơn nữa. Khi con trở nên hơn nữa thì con trải nghiệm cuộc sống dồi dào, con là một phần của dòng chảy dồi dào luôn luôn di động của Thượng đế, là Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông đó thì con mới có đời sống tâm linh thật sự. Khi con bước ra ngoài dòng sông đó – vì con tách mình ra khỏi cái ta cao của mình, khỏi cội nguồn của mình, khi quên đi những quy luật của đấng Sáng tạo ra mình – thì con đi xuống một trạng thái tâm thức gọi là tâm thức chết khi nhìn từ góc độ tâm linh. Con đã chết theo nghĩa tâm linh, và đây là ý nghĩa sâu của câu nói của Giê-su.

Một khi con đã rơi xuống một tầng trạng thái tâm thức thấp thì làm sao con có thể vươn trở lên lại và đặt mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế? Cái gì cho phép con lấy lại gia tài thật của mình, bản sắc thật của mình như một người con trai hay con gái của Thượng đế, và nối kết trở lại với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, với phần bên trong của dòng sống của con, nơi mà Thượng đế đã đặt những quy luật của ngài? Trung gian sẽ cho phép con leo từ cái chết trở lên cuộc sống vĩnh hằng là người Con duy nhất được tạo sinh của Cha. Thật là điều đáng buồn khi ta phải công nhận là hầu hết các giáo phái Cơ đốc giáo chính mạch đều đã hiểu lầm ý nghĩa tâm linh thật của nhiều lời dạy sâu sắc nhất của Giê-su. Vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên và ý niệm tách biệt, và vì họ không chịu khắc phục trạng thái tâm thức đó, nên họ đã suy luận là Giê-su đề cập đến chính mình, con người vỏ ngoài của Giê-su khi nói câu đó. Họ suy luận là con người Giê-su là con đường, sự thật, và sự sống và do đó là chìa khóa duy nhất dẫn tới cứu rỗi (John 14:6). Kỳ thực Giê-su không ám chỉ một sinh thể đặc biệt nào, thày nói đến người Con được tạo sinh thật sự của Cha, không phải là một con người mà là một trạng thái tâm thức hoàn vũ, là tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đây là trạng thái tâm thức mà Phúc âm của John gọi là Ngôi Lời. Ban đầu có Ngôi Lời, và Ngôi Lời là Thượng đế và chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.

7.5. Ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô

Con yêu dấu, chúng ta bây giờ đã tới điểm thày có thể giải thích cho con ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô, người Con trai duy nhất được sinh tạo, Ngôi Lời. Việc đầu tiên trong công trình sáng tạo của đấng Sáng tạo là ngài tạo ra Ánh sáng. Ánh sáng là một chất không có hình tướng, nhưng nó có tiềm năng khoác vào bất kể mọi hình tướng. Nó khoác vào hình tướng không do quyền năng nội tại của nó, nhưng chỉ khi nó được tác động bởi một lực bên ngoài, một sinh thể có tự nhận biết và quyền năng sáng tạo.

Lúc ban đầu, Thượng đế đấng Sáng tạo là lực duy nhất tác động lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Lẽ tự nhiên, tất cả những gì đấng Sáng tạo tạo ra đều hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý cơ bản mà đấng Sáng tạo đã thiết kế để tạo vật của ngài được lâu bền. Ta không cần quan tâm là đấng Sáng tạo có thể tạo ra những gì vi phạm các nguyên lý, các quy luật của chính ngài. Sau khi đấng Sáng tạo đã tạo ra thiết kế cơ bản của vũ trụ thì ngài quyết định tạo ra một số sinh thể có tự nhận biết là các phần nối dài của ngài nhưng chưa có toàn thể quyền năng sáng tạo của một Thượng đế. Mục đích là đấng Sáng tạo sẽ trở nên hơn nữa qua việc tạo ra những phần nối dài của chính mình. Khi con thăng vượt chính mình và nới rộng nhận biết và quyền năng sáng tạo của mình thì con khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Thiết kế nguyên thủy là các sinh thể có tự nhận biết đó khởi sự với quyền năng sáng tạo giới hạn. Khi họ nhân khả năng của họ lên bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với quy luật của Thượng đế, thì Thượng đế sẽ tưởng thưởng họ. Như Giê-su có nói: “Tốt lắm, con là người giúp việc tốt và trung thành: con đã trung tín trong một số ít việc, ta sẽ cho con cai quản nhiều chuyện.” (Matthew 25:21). Ý nghĩa nội tại của câu nói này là khi con chứng tỏ ý muốn nhân lên khả năng của con bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì ngài sẽ ban cho con quyền năng sáng tạo lớn hơn. Con có thể nâng tâm thức và khả năng sáng tạo của mình cho tới khi con tới điểm thành tựu hoàn toàn mà Giê-su đề cập tới khi nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34).

Con đã được tạo ra với quyền năng sáng tạo giới hạn và một nhận biết giới hạn về toàn thể công trình sáng tạo của Thượng đế vì mục đích của Thượng đế là con du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng quyền năng sáng tạo của mình trên một hành tinh nhỏ bé, như trái đất. Con sẽ dần dần nâng khả năng sáng tạo và nhận biết cho tới khi con vĩnh viễn thăng lên khỏi vũ trụ vật chất và trở thành một sinh thể bất tử trên thế giới tâm linh. Từ đó con có thể tăng trưởng thêm nữa và quả thật, sự tăng trưởng này sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Khi Thượng đế tạo ra các sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và ý chí tự do thì chuyện có thể xảy ra là các sinh thể này đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hoặc vì họ lãng quên hoặc vì họ cố ý không tuân thủ. Nếu họ không thể đi ngược lại quy luật của Thượng đế, thì họ không thực sự có ý chí tự do. Như vậy chuyện có thể xảy ra là một dòng sống có thể tạo ra một điều gì không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế và do đó sẽ không chỉ đưa tới sự tiêu hủy của dòng sống đặc trưng đó mà còn có thể đưa tới sự tiêu hủy của nhiều dòng sống khác, tùy theo quyền năng sáng tạo của dòng sống đó. Để tránh chuyện này xảy ra, Thượng đế đã thiết lập vào thiết kế của vũ trụ một cơ chế an toàn khác. Thánh kinh gọi cơ chế an toàn này là Ngôi Lời hay là người con duy nhất được tạo sinh của Cha, nhưng thày lại muốn gọi là tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

Cơ chế an toàn này vận hành như sau. Dòng sống của con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con không có những quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo, con có quyền năng sáng tạo giới hạn hơn. Chúng chính yếu có cùng phẩm chất, nhưng không cùng số lượng với quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo. Điều khác biệt là đấng Sáng tạo là cái Tất cả và do đó ngài sáng tạo từ trong chính mình. Trong khi đó, con là một cá nhân do đó con không là, ít ra thì con chưa là, cái Tất cả. Con sáng tạo từ bên trong tạo vật mà đấng Sáng tạo đã tạo ra. Cơ chế an toàn của Thượng đế quy định là một người đồng-sáng tạo chỉ có thể tạo ra một cái gì bền vững khi người đó sáng tạo xuyên qua trung gian của tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là một nhận biết về các quy luật của Thượng đế không bao giờ bị tha hóa. Tâm thức Ki-tô lúc nào cũng là một với Cha và các quy luật của Cha. Khi Giê-su đạt được tâm thức Ki-tô thì thày kêu lên: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Khi con, như một dòng sống cá biệt, có nhận biết về cái Tất cả và những quy luật của Thượng đế, thì con nhận ra cá nhân mình không phải là người hành động thật, người tạo tác thật. Như Giê-su có nói: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30) và “nhưng Cha ở trong ta, ngài làm công việc” (John 14:10). Giê-su biết người làm việc thật, người sáng tạo thật không phải là con người vỏ ngoài, con người vật lý, thậm chí không phải là tâm vỏ ngoài, cái nhân cách được gọi là Giê-su Ki-tô. Người đang thực sự sáng tạo là phần cao hơn của bản thể của Giê-su, một cá thể hóa của Thượng đế được tập trung thành Hiện diện TA LÀ. Hiện diện đó sáng tạo bằng cách sử dụng năng lượng và các quy luật của Thượng đế để tạo ra hình tướng.

Tâm thức Ki-tô luôn luôn biết là tự nó không là quy luật, mà nó là một đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế, nó là một thành phần của một cái gì lớn hơn. Thượng đế đã thiết kế một số nguyên lý hướng dẫn sự tăng trưởng của mọi sự trong vũ trụ, và tâm thức Ki-tô biết rằng khi con sáng tạo một cách hài hòa với các nguyên lý đó, thì tạo tác của con sẽ bền vững và sẽ khuếch đại tổng thể. Khi con đánh mất nhận biết về các nguyên lý đó, thì lực co thắt của Đấng Mẹ sẽ khiến tạo vật của con tự tiêu hủy và điều này cũng có tiềm năng tiêu hủy một số phần khác của tổng thể.

Khi con ở trong tâm thức Ki-tô thì con không thể rơi vào trạng thái tâm thức thấp trong đó con tách mình ra khỏi Thượng đế và các quy luật của ngài, con quên mất những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào các phần nội tại của con và do đó con coi mình là quy luật. Với tâm thức Ki-tô, con không bao giờ tin vào hiểu biết của thiện ác tương đối qua đó con tự quy định các nguyên lý của riêng mình và nghĩ rằng con sẽ không chịu hậu quả khi con thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà không đếm xỉa đến ảnh hưởng trên tổng thể. Cơ chế an toàn này khiến con không thể mãi mãi quên mình là ai, mình từ đâu tới, và những quy luật mà đấng Sáng tạo đã quy định.  

Trạng thái tâm thức Ki-tô là trạng thái tự nhiên của mọi dòng sống do đấng Sáng tạo tạo ra. Vì Thượng đế đã ban cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết, chuyện có thể xảy ra là con quên mất trạng thái nhận biết tự nhiên này và qua đó con rơi vào tâm thức nhị nguyên, trạng thái tách biệt nơi con không còn biết cội nguồn thật của mình. Con cũng có thể tới điểm tin rằng con là một phàm nhân sinh diệt bị một Thượng đế đầy giận dữ kết tội phải sống một cuộc đời đầy đau đớn khổ đau và con không đủ uy lực nội tại để tự mình cải sửa tình trạng này.

7.6. Thế giới hình tướng cho phép con người đi ngược lại quy luật của Thượng đế

Sau đây là sự khác biệt chính yếu mà Thượng đế đã tạo ra khi ngài quyết định tạo ra các sinh thể có tự nhận biết. Ánh sáng Mẫu-Vật, Ánh sáng Mẹ, là cái mà các khoa học gia gọi là năng lượng. Năng lượng là một rung động và con có thể bắt đầu ở tầng rung động thấp của cõi vật chất và đi dần lên các tầng rung động cao hơn của cõi tâm linh cho tới khi con đạt tới rung động cao nhất của ánh sánh tinh khiết của chính Thượng đế. Ánh sáng đó có độ rung cao đến độ không thể có hình tướng nào hiện hữu. Không có hình tướng nào mà ta có thể phân biệt trong ánh sáng tâm linh thuần khiết. Làm sao hình tướng thành hình? Nó thành hình khi một tâm có tự nhận biết áp chồng một hình ảnh, một khuôn đúc lên ánh sáng thuần khiết và qua đó khiến nó mang vào một độ rung thấp hơn trạng thái nền của nó. Để làm chuyện này, sinh thể có tự nhận biết phải hình dung một hình tướng và sau đó dùng uy lực của tâm để áp chồng hình tướng đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Sau đây là cơ cấu an toàn cơ yếu. Chỉ khi dùng tâm thức Ki-tô, chỉ qua trung gian của tâm thức Ki-tô, thì người đồng-sáng tạo mới có thể áp chồng một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Chỉ một hình ảnh hài hòa với các quy luật của đấng Sáng tạo mới ảnh hưởng được Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều này bảo đảm là chỉ những người có tâm thức Ki-tô mới có thể tạo tác một cái gì cân bằng và bền vững. Ánh sáng Mẫu-Vật có tự trong nó một cơ chế an toàn khác, đó là nó luôn luôn muốn trở về trạng thái nền của nó. Khi một hình tướng được tạo ra trong sự hài hòa với các quy luật do đấng Sáng tạo quy định thì hình tướng đó thuộc Dòng sông sự Sống, có nghĩa là nó thuộc vào tiến trình tự thăng vượt không ngừng. Một hình tướng chỉ bền vững khi nó tự thăng vượt vì tăng trưởng là quy luật cơ bản của sự sáng tạo. Một hình tướng không hài hòa với các quy luật của Thượng đế, không tự thăng vượt và không có cân bằng giữa lực lan ra và lực co thắt, sẽ dần dần bị phá hủy bởi lực co thắt sẵn có trong Ánh sáng Mẫu-Vật, là lực đem tất cả các tạo vật không quân bằng trở về trạng thái nền. Tất cả các hình tướng được tạo ra dựa trên một hình ảnh khô chết, một hình ảnh không tự thăng vượt, sẽ không thể tránh bị lực co thắt hủy diệt. Chính lực co thắt khiến hình tướng có thể được tạo ra, nhưng nếu con dính mắc vào hình tướng – nếu con bắt đầu tôn thờ hình ảnh khô chết và từ chối tự thăng vượt – thì con bước ra ngoài Dòng sông sự Sống và rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt. Con chỉ có thể duy trì tình trạng bất quân bình đó trong một thời gian vì khi một hình tướng rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt – khi không được lực lan ra cân bằng – thì nó sẽ không thể tránh bị hủy diệt. Sự tha hóa của lực của Mẹ sẽ dẫn tới tự hủy diệt.

Trong những tầng cao nhất của vũ trụ tâm linh chỉ có những sinh thể có tâm thức Ki-tô hoàn toàn. Họ đã tạo ra những bầu cõi đẹp đẽ đến độ không ai trên trái đất có thể tưởng tượng nổi. Một số người có phước lành được ban thị giác tâm linh hay thần bí, hay đã trải qua kinh nghiệm cận tử, đã được thấy vẻ đẹp và sự toàn hảo của các cõi tâm linh hay ít ra là một số các cõi đó. Những ai chứng kiến được cảnh đó thấy rằng điều hiển nhiên là chỉ một sinh thể với một trạng thái tâm thức cao hơn rất nhiều trạng thái bình thường trên trái đất mới có khả năng tưởng tượng, hình dung những vẻ đẹp và sự toàn hảo như vậy. Con chỉ có thể tồn tại trên thiên đàng, trong cõi tâm linh khi con ở trong tâm thức Ki-tô. Trong thế giới thiên đàng con chỉ thấy những sinh thể ở trong tâm thức Ki-tô. Điều này không có nghĩa là các sinh thể trên thiên đàng không có tự do sáng tạo, vì sự thật là trong khuôn khổ quy luật của Thượng đế con không có giới hạn nào trong việc sử dụng quyền năng sáng tạo của mình.

Một sinh thể trên thiên đàng vẫn có thể chọn lựa đi ngược lại những nguyên lý sáng tạo mà đấng Sáng tạo của thế giới này đã quy định. Nếu sinh thể trên thiên đàng làm như vậy thì sinh thể đó không thể tiếp tục ở trên thiên đàng mà phải xuống một cõi thấp hơn. Đây chính là lý do vì sao cõi vật chất được thành hình. Sau khi Thượng đế và các đại diện của Thượng đế tạo ra một số tầng trên cõi thiên đàng thì đấng Sáng tạo thể hiện một tầng mới của tạo vật của ngài. Tầng này được cấu tạo bởi những năng lượng thấp hơn tất cả các năng lượng trong cõi tâm linh. Các sinh thể đã chọn đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế có thể cư ngụ nơi tầng đó. Những sinh thể này lúc đó có một nơi để thực thi những quyền năng sáng tạo của họ và nhận lãnh hậu quả của hành động của họ cho tới khi họ chán chê trải nghiệm bị giới hạn và rốt cuộc trở về với Thượng đế và nói: “Ôi đấng Sáng tạo của con, con muốn trở về nhà.”

Vũ trụ vật chất quả thật đã được các đại diện của Thượng đế tạo ra, và họ đã sử dụng tâm thức Ki-tô để hình dung một tạo vật cân bằng và hài hòa. Sau đó họ áp chồng viễn quan đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật qua đó nó mang vào một rung động thấp hơn tất cả các rung động có thể tìm thấy trong cõi tâm linh. Mặc dù vũ trụ vật chất được tạo ra bởi những sinh thể có tâm thức Ki-tô toàn hảo, nhưng vũ trụ vật chất được thiết kế để những sinh thể không hoàn toàn có tâm thức Ki-tô có thể sinh sống nơi đó. Đó là lý do vì sao Ánh sáng Mẫu-Vật được dùng để tạo ra vũ trụ này có thể được uốn nắn dễ dàng thành hình tướng không đứng thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những hình tướng này sẽ không tự hủy diệt ngay tức khắc như khi trên cõi tâm linh. Chúng có thể tồn tại tạm thời và sẽ chỉ bị tiêu hủy sau một khoảng thời gian.

Đây là một khái niệm rất vi tế mà thày biết nhiều người sẽ coi là trừu tượng. Các con sẽ được lợi lạc khi kéo giãn tâm mình để hiểu nó. Trên cõi tâm linh, trí thông minh nội tại trong Ánh sáng Mẫu-Vật khiến các hình tướng bất toàn và bất quân bình không thể nào tồn tại trong bất cứ khoảng thời gian nào. Bất cứ gì không hài hòa với quy luật Thượng đế sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc do lực co thắt của Mẹ. Trong vũ trụ vật chất, lực co thắt của Mẹ đã được điều chỉnh để các hình tướng bất toàn không tự hủy diệt ngay tức khắc, chúng quả thật có thể tồn tại một thời gian. Các khoa học gia đã khám phá ra quy luật này và gọi nó là định luật thứ nhì của nhiệt động học, cho rằng tất cả các hình tướng bất toàn rốt cuộc sẽ tan rã. Vũ trụ cho phép các sinh thể tự nhận biết đã vì vô minh hay cố ý đi xuống những tầng tâm thức thấp có cơ hội học hỏi bằng cách trải nghiệm hậu quả của hành động của họ. Những sinh thể này sẽ không thể tránh tạo ra những thứ không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Khi họ làm vậy thì họ sẽ không tạo ra cuộc sống dồi dào mà con tìm thấy trên cõi tâm linh. Họ sẽ tạo ra tình trạng thiếu thốn và giới hạn. Thượng đế hy vọng là khi các sinh thể này trải nghiệm những giới hạn, đau đớn và khổ đau mà họ đã tạo ra, thì họ sẽ rốt cuộc chán ngán trải nghiệm đó và do đó tự nguyện trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế.

Giờ đây thì chúng ta thấy sự khác biệt. Nếu một sinh thể trên cõi tâm linh quyết định nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế thì tất cả những gì sinh thể đó tạo ra sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Nếu sinh thể đó không có nơi nào khác để đi tới thì sinh thể đó sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó sẽ học được gì từ trải nghiệm đó? Nếu sinh thể đó bị hủy diệt, thì không thể có sự học hỏi. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó một sinh thể có thể đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà không tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó có thể tồn tại, tiếp tục có nhận biết. Sinh thể đó có thể hiện hữu trong cõi vật chất, và trong vũ trụ đó sinh thể đó sẽ trải nghiệm quả trái của hành động của mình, sẽ gặt những gì y đã gieo. Khi làm vậy thì sinh thể đó có tiềm năng học hỏi rằng khi y tuân theo các quy luật của Thượng đế thì y sẽ khuếch đại cuộc sống của mình và cuộc sống của tất cả các sinh thể khác. Khi y đi ngược lại những quy luật này, y giới hạn chính cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác. Luật Tự quyết được tôn trọng vì sinh thể có tiềm năng đi ngược lại các quy luật của Thượng đế, và qua đó trải nghiệm sự đau đớn, giới hạn và thiếu thốn, cho tới khi y chán ngán trải nghiệm đó và quyết định trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và tái tạo cuộc sống dồi dào là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế.

Sự khác biệt quan trọng là nếu con muốn tạo cái gì bền vững và nâng cao cuộc sống của mình và cuộc sống của mọi người trên trái đất, thì con phải sáng tạo từ tâm thức Ki-tô. Khi con không sáng tạo từ tâm thức Ki-tô, thì những gì con sáng tạo sẽ giới hạn quyền năng sáng tạo của con và khiến con trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau. Đau đớn và khổ đau xảy ra vì những gì con sáng tạo với trạng thái tâm thức thấp sẽ không tự thăng vượt. Chúng sẽ dựa trên một hình ảnh khô chết, là một hình ảnh không tăng trưởng. Nó không thể bền vững – nó sẽ không có sự sống vĩnh viễn – và do đó lực co thắt của Mẹ sẽ bắt đầu phá vỡ các hình tướng mà con đã tạo ra. Mặc dù tiến trình này sẽ mất một chút thời gian, nhưng nó là một tiến trình không thể tránh được và không thể đảo ngược được khi con ở trong trạng thái tâm thức thấp. Con chỉ có thể đảo ngược nó khi con vươn lên tâm thức Ki-tô.

Trên cõi tâm linh, các khái niệm không gian và thời gian không giống như trên trái đất. Khi con ở trên thiên đàng thì con ở trong tâm thức Ki-tô, và trong tâm thức Ki-tô con thấy mình là một với cái Tất cả. Khi con là một với cái Tất cả, thì có thể nói là con ở mọi nơi trong tâm thức của Thượng đế. Nếu con, như một dòng sống cá biệt, có tiềm năng mở rộng nhận biết của mình và ở khắp nơi trong tâm thức của Thượng đế, thì lẽ tất nhiên khái niệm không gian mang một ý nghĩa khác. Trên trái đất con trải nghiệm không gian như một giới hạn. Ý niệm tự nhận biết của con tập trung vào thân thể vật lý của con, hiện đang sống trên hành tinh gọi là trái đất, một hành tinh giống như một giọt nước trong đại dương vô tận. Khi con còn đồng hóa mình với thân thể thì ý niệm bản sắc của con bị giới hạn bởi không gian. Nó chỉ hiện hữu “ở đây”, nó tập trung vào thân thể đang ở trên hành tinh, và do đó con không thể ở mọi nơi cùng một lúc. Đây quả thật là một giới hạn trong tâm con thay vì là một giới hạn thật và không thể tránh. Thân thể vật lý của con không thể ở khắp nơi trong vũ trụ vật lý, nhưng tâm con không bị giới hạn bởi thân vật lý.

Khi con ở trong cõi tâm linh, con là một phần của Dòng sông sự Sống đang di động không ngừng và là toàn thể tạo vật của Thượng đế, là Bản thể của Thượng đế. Khi con di động cùng với Dòng sông sự Sống thì thời gian không có cùng nghĩa với thời gian trên trái đất. Trên trái đất, thời gian là một giới hạn khiến con trụ vào giây phút hiện tại. Thời gian đặt giới hạn cho cuộc sống của con vì thân thể vật lý dày đặc của con bị giới hạn trong khoảng thời gian mà nó có thể tiếp tục hiện hữu. Như Giê-su đã cố gắng cho nhân loại thấy, cái chết thậm chí là một ảo tưởng mà ta có thể khắc phục qua tâm thức Ki-tô.   

Ta có thể nói là những tọa độ của thời gian và không gian tối hậu không có thật. Chúng là sản phẩm của sự kiện vũ trụ vật chất cho phép các sinh thể tự nhận biết sáng tạo những gì không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Con càng tách mình ra khỏi sự thẳng hàng là Một với Thượng đế và thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế, thì con càng giới hạn mình, con càng giới hạn nhận biết của mình vào một địa điểm trong không gian. Con càng tách mình khỏi sự nhận biết mà các dòng sống đã có trước khi có sự Sa ngã và con càng xa rời Dòng sông sự Sống thì con càng giới hạn mình vào một lúc trong thời gian và ý niệm bản sắc của con càng tập trung vào thân thể vật lý và cuộc đời quá ư ngắn ngủi. Cuộc sống của thân thể vật lý ngắn đến độ chỉ cần dùng lý thường tình cũng thấy là không thể nào Thượng đế lại có thể thiết kế để con chỉ sống 70 năm và sau đó ngưng hiện hữu như một sinh thể có tự nhận biết.

7.7. Con lúc nào cũng có thể trở về với Thượng đế

Thày cố ý khởi đầu với một số khái niệm rất khó và trừu tượng vì chỉ khi con thiết lập một nền móng thì con mới thực sự có thể giải thoát mình khỏi tâm thức nhị nguyên đang ngăn cản con có được cuộc sống dồi dào. Để thoát được tâm thức nhị nguyên đó, con cần có tầm nhìn rộng hơn mà trên trái đất này giáo hội Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật không cung cấp. Để thiết lập một nền móng thích đáng cho phép con theo con đường mà thày cống hiến thì thày phải cho con tầm nhìn rộng hơn. Thày phải mang con ra khỏi khu rừng để con có thể thấy quá các thân cây và thấy toàn khu rừng – và do đó hiểu được là thế giới của con đã được tạo ra với mục đích gì. Con hiểu được là dòng sống của con, tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con, không chỉ giới hạn vào thế giới vật chất với những giới hạn, đau đớn và khổ đau. Con có một chọn lựa khác. Con có cơ hội vượt lên trên những giới hạn của tâm thức hiện tại, ý niệm bản sắc hiện tại của con. Con có thể vươn lên cao hơn và xây dựng một ý niệm bản sắc mới thẳng hàng với thiết kế thật của bản thể con.

Con yêu dấu, con cảm được sự thiết tha của thày chăng? Điều thày muốn truyền giảng cho con là nhân loại có một hiểu biết rất giới hạn về nguồn gốc của mình, một hiểu biết không bao gồm thực tại của con người mà con là. Khoa học và đa số các tôn giáo hiện nay đều không cho con một hiểu biết thực con là ai, con từ đâu tới và tại sao con ở đây. Nếu con không biết con là ai thì làm sao con có thể hiểu được mục đích con tới trái đất là gì? Nếu con không biết mục đích này, thì làm sao con có thể hy vọng đứng thẳng hàng trở lại với những ước muốn nguyên thủy đã khiến con tới vũ trụ này?

Thày đã cho con biết về Luật Tự quyết. Trái với hình ảnh một Thượng đế giận dữ và muốn trừng phạt mà một số tôn giáo đã mô tả, Thượng đế không giận dữ và không bao giờ trừng phạt ai. Đấng Sáng tạo có tình thương vô điều kiện đối với từng người con trai con gái của ngài, và tình thương vô điều kiện này có thể thấy rất rõ trong Luật Tự quyết cho phép con đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo nguyên thủy, thiết kế nguyên thủy mà đấng Sáng tạo có trong tâm ngài khi ngài tạo tác thế giới hình tướng, khi ngài tạo tác con. Chỉ một Thượng đế thương yêu vô điều kiện mới cho phép con đi ngược lại những quy luật của ngài qua đó con chối bỏ cuộc sống dồi dào và tạo ra trạng thái đau đớn và khổ đau thấp hơn rất nhiều những gì đấng Sáng tạo đã hình dung cho con.

Nếu Thượng đế quả thật là một bạo chúa giận dữ thì ngài đã ngăn cản không cho con làm như vậy. Nếu Thượng đế quả thật là một Thượng đế trừng phạt thì ngài đã trừng phạt con bằng cách tiêu hủy con ngay giây phút con bước ra ngoài các quy luật của ngài. Thượng đế của con là một Thượng đế thương yêu. Tình thương nguyên thủy của Thượng đế cho con, được giữ trong tim Thượng đế, không bị giảm thiểu chút nào bởi sự kiện con tạm thời chọn lựa quay lưng lại Thượng đế, chối bỏ cuộc sống dồi dào và thay vào đó tạo cho mình trạng thái giới hạn và khổ đau. Thượng đế thương yêu con y như lúc dòng sống của con được sinh tạo lúc ban đầu. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và bất kể những gì con đã làm trên trái đất, con sẽ không bao giờ mất đi tình thương đó.

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chối bỏ tình thương của Thượng đế. Vì con có trí tưởng tượng vô biên, con có thể tạo ra một hình ảnh giả về Thượng đế mô tả ngài như một Thượng đế giận dữ và trừng phạt, và con có thể chấp nhận hình ảnh này là sự thực tuyệt đối về Thượng đế. Con có thể chấp nhận là con không xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế và con bị kết án phải sống mãi mãi trong trạng thái giới hạn và khổ đau hiện tại, trạng thái tách biệt khỏi tình thương và sự dồi dào của Thượng đế. Đây là quyền của con, nhưng ngay khi con quyết định là con không muốn nắm giữ ý niệm bản sắc giới hạn đó nữa, không muốn chối bỏ sự dồi dào của Thượng đế nữa, thì Thượng đế sẵn sàng đưa con trở lại vương quốc của ngài và cho con cuộc sống dồi dào mà lúc nào con cũng được quyền có. Con chỉ cần theo những nguyên lý sáng tạo của ngài để thể hiện sự dồi dào đó vào trải nghiệm sống của con.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Thượng đế đã cho con quyền đi ngược lại các quy luật của ngài nếu con muốn. Thượng đế thậm chí thiết kế cả một vũ trụ để con có thể đi ngược lại các quy luật của ngài mà vẫn giữ được nhận thức và ý niệm cá thể, qua đó con có thể trải nghiệm hậu quả của hành động của mình, trải nghiệm thực tại giới hạn mà con đã tạo ra cho mình. Mặc dù Thượng đế cho phép chuyện này, nhưng Thượng đế lúc nào cũng giữ niềm hy vọng là – một ngày kia – con sẽ quyết định ngưng trốn chạy sự dồi dào của ngài. Con sẽ ngưng giới hạn chính mình. Con sẽ ngưng chối bỏ tiềm năng sáng tạo của mình, tiềm năng thiêng liêng trở thành một Thượng đế thực sự, một người đồng-sáng tạo thực của Thượng đế. Thượng đế hy vọng là con sẽ trở về nhà và trở thành một người đồng-sáng tạo có ý thức của Thượng đế để con biết mình là ai, con từ đâu tới. Con thực thi những quyền năng sáng tạo của mình một cách có ý thức với mục đích không chỉ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà còn khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế qua đó con là một phần của Dòng sông sự Sống, là cái gì thực sự quá diệu vợi đến độ nó vượt quá tầm hiểu biết của đa số con người trên trái đất.

Con yêu dấu, thày ở đây như là một đại diện của Thượng đế Cha. Trong quá khứ thày đã chọn xuống trái đất và khoác vào một thân thể vật lý dày đặc. Thày đã chọn thăng thiên trở lại vào cõi tâm linh để chứng minh là con người có thể nâng mình lên trên các giới hạn nhân phàm, kể cả kẻ thù cuối cùng gọi là cái chết. Vì thày đã chọn hòa nhập với tâm thức của Mẹ Thượng đế, nên thày tới đây như là bà Mẹ thương yêu không có ước mong gì hơn là thấy các con của mình được hưởng những điều tốt lành nhất. Đó là lý do vì sao thày đã tới đây để cống hiến con một con đường chân chính, thật và lâu bền vĩnh viễn có thể dẫn con trở về vương quốc của Cha, là vương quốc, như Giê-su đã nói, ở bên trong con và chính là tâm thức của con. Quả thực tâm thức chính là nơi con quyết định là con sẽ trải nghiệm cuộc sống dồi dào của vương quốc Thượng đế hay con sẽ trải nghiệm cuộc sống không mấy dồi dào tạo ra bởi những người đã đánh mất nhận biết về vương quốc Thượng đế, đánh mất nhận biết về bản sắc thật và quyền năng sáng tạo của họ. Thay vì là những người đồng-sáng tạo có ý thức của vương quốc dồi dào của Thượng đế, thì họ đã trở nên những người đồng-sáng tạo vô ý thức của vương quốc thiếu thốn.

Thượng đế đã cho con quyền năng sáng tạo vô biên, theo nghĩa là con không thể khóa nó lại. Ngay cả khi con đánh mất nhận biết về các quy luật của Thượng đế, thì con vẫn tiếp tục đồng-sáng tạo và đó là lý do vì sao luật pháp tại đa số các quốc gia có câu: “Không thể viện cớ không biết luật”. Ngay cả khi con không biết các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con vẫn sáng tạo qua quyền năng của tâm. Khi con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình ảnh bất toàn và bất quân bình, thì con áp chồng những hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày những hình ảnh này, và đó là lý do vì sao con trải nghiệm giới hạn, đau đớn và khổ đau trong thế giới vật lý trên trái đất.

Thày đã cho con hình ảnh tổng quát về thực tại đời sống trên trái đất. Thể nào cũng có nhiều chi tiết cần được bổ sung. Nếu con chịu chiêm nghiệm điều thày giảng ở đây và ở trong những chìa khóa kế tiếp, thì con sẽ thấy vươn lên trên tất cả các giới hạn nhân phàm là điều khả thi. Điều khả thi là con bước ra ngoài sa mạc của giới hạn nhân phàm cho tới khi con đứng bên bờ Dòng sông sự Sống, là dòng dồi dào luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế. Điều khả thi là con buông bỏ, từ bỏ hoàn toàn trạng thái tâm thức giới hạn dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Con một lần nữa lại có thể trầm mình vào Dòng sông sự Sống và trở thành một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Khi đó không có nghĩa là con mất đi cá tính của mình. Ngược lại, con lấy lại cá tính thật của mình – thay vì cá tính giả có giới hạn mà con đã tạo dựng trong hành trình trên trái đất. Một khi con giành lại cá tính thật của mình thì con biết con không phải là một người phàm, giới hạn, sinh diệt, là một người mà bản chất là tội đồ. Trái lại con thực sự là một con trai hay con gái của Thượng đế và con có tiềm năng đồng-sáng tạo vương quốc của Thượng đế ngay đây trên trái đất. Con không những sẽ khuếch đại cuộc sống của riêng mình mà còn khuếch đại cuộc sống của tất cả mọi người cho tới khi hành tinh này được nâng lên và trải bày cùng một sự toàn hảo, cân bằng và hài hòa mà ta tìm thấy trên cõi tâm linh. Đây là ý nghĩa thật của câu đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất.

Nếu con mở tâm đón nhận những lời giảng của thày, thì có sác xuất rất cao con đã xuống trái đất với mục đích đặc trưng đem lại vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này. Con tới đây không phải vì con đã nổi loạn chống lại ý chí của Thượng đế trong một cõi khác, nhưng con tới đây vì con mong muốn đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất. Con tới đây với một sứ mệnh cứu vãn, để là một tấm gương cho những anh chị em của con đã nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và do đó đi lạc đường. Con tới đây với lòng thương yêu muốn thấy Ánh sáng Mẫu-Vật được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn mà sa nhân đã áp chồng lên nó, để Ánh sáng Mẫu-vật được tự do trải bày sự toàn hảo và vẻ đẹp mà con biết là tiềm năng thật của nó.

Con yêu dấu, nếu con vì lòng thương yêu mà tới đây thì con sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Nếu con tới đây vì những lý do khác, nhưng đã chán ngán đi ngược lại quy luật của Thượng đế và đã kết nối lại với tình thương Thượng đế trong lòng mình, thì con cũng sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Con sẽ biết điều này nếu con chú tâm vào tim mình và cảm thấy một sự khuấy động, một rung động, thậm chí những làn sóng ánh sáng tràn vào con và chứng minh cho con là những lời thày nói trong khóa học này, những lời nói bên ngoài con, đang rung động hoàn toàn cộng hưởng với điều gì đó trong tim con.

Trong các bài kế tiếp, thày sẽ giảng cái đó là cái gì nhưng bây giờ thì thày yêu cầu con chú tâm vào điểm giữa ngực, cùng độ cao với trái tim vật lý của con, và cảm nhận là những lời thày giảng đã khuấy động điều gì đó nơi con. Nếu con cảm thấy sự khuấy động này, thì con biết là con đã trên đường trở về sự toàn vẹn của người đồng-sáng tạo có ý thức mà con đã được thiết kế để là ngay từ thuở ban đầu. Con sẽ biết con đường mà thày cống hiến là thật. Khi chúng ta đi tiếp vào những chương kế tiếp thì con sẽ thấy con đường đó trải bày ra. Điều này sẽ cho con một niềm hy vọng mới, một hướng đi mới, một mục đích mới, và cảm nhận lòng thương yêu đấng Sáng tạo, tất cả sự sống và cái Ta của con như một thành phần của Dòng sông sự Sống.