Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 5, 2009, trong loạt bài về các tia sáng bí mật.
Con hãy tưởng tượng, con yêu dấu, có rất đông người tụ họp để mừng ngày đản sinh của Phật, họ chờ đợi Phật sẽ xuất hiện một cách nào đó nhưng lại chẳng có gì xảy ra. Con có thấy chăng, con yêu dấu, là ngay trong từ ngữ, khái niệm Phật xuất hiện đã là một sự mâu thuẫn. Bởi vì tinh túy của lời dạy của Phật là tất cả mọi thứ đều là Phật tánh. Cho nên nếu Phật xuất hiện dưới một hình dạng cụ thể nào thì điều này sẽ chỉ củng cố cho cảm nhận tách biệt, cảm nhận rằng Phật đang ở kia chứ không ở đây.
Vì vậy khi con suy nghĩ về điểm này, con sẽ thấy là ngay việc thày đang nói chuyện thông qua một sứ giả hữu hình, đưa ra một thông điệp mà tai con nghe thấy – một thông điệp có thể nghe được, có thể đọc được và học hỏi sau này – đấy, ngay cả việc này cũng mang sẵn hiểm họa là người ta có thể cho rằng Phật chỉ có thể xuất hiện thông qua sứ giả này hay sứ giả khác hay dưới một hình dạng cụ thể nào đó, và Phật chỉ có thể nói chuyện qua cách này hay cách nọ.
Và như vậy con cũng thấy là các thày trong Đại đoàn Thăng thiên khi truyền giảng qua một sứ giả vỏ ngoài để cố đánh thức loài người, quả thật đã chấp nhận một rủi ro có cân nhắc. Thật vậy, đây chính là thử thách mà thày đã phải đối mặt sau khi nhập Niết bàn và cảm được tiếng gọi là mình cần bước ra ngoài giảng dạy. Vì mặc dù các thày đã nói đến thử thách của giọng nói kia bảo rằng sẽ chẳng ai hiểu được lời dạy, nhưng tại sao lại có chuyện không ai hiểu được chứ? À, con yêu dấu, mối nguy lớn nhất là người ta sẽ nhận diện một người đặc thù – một con người hiện thân ở một thời điểm và địa điểm đặc thù – như là Phật, và do đó họ bắt đầu thờ Phật dưới hình dạng đó.
Con thấy chăng, con yêu dấu, chân lý mà thày đã ngộ được – mà thày đã nhập một khi vào Niết bàn – là sự kiện tất cả đều sẵn là Phật tánh. Phật tánh cũng giống như điều mà đạo Cơ đốc thần bí gọi là Lời (Logos). Ban đầu có Lời, và Lời ở cùng Thượng đế, và Lời chính là Thượng đế, và không có Lời thì không có gì được tạo thành.
Đó, Phật tánh cũng vậy, con yêu dấu. Đó chính là nền tảng cho việc sinh tạo thế giới hình tướng. Đó là cái gì cơ yếu mà nếu không có thì không một hình tướng nào có thể được tạo ra. Cho nên một khi thày đã ngộ được điều này – một khi thày đã nhập một với Phật tánh là sự hợp nhất với mọi hình tướng – thì thày cũng thấy được là khi thày quay trở lại thế giới hình tướng và nhận diện mình là bậc giác ngộ, quả thực có một mối nguy rất lớn là những ai sẵn lòng lắng nghe thông điệp của thày, đặc biệt trong nhiều thế kỷ về sau, sẽ bóp méo thông điệp này đi và bắt đầu xây dựng một sự tôn sùng thần tượng quanh hình tướng cụ thể mà thày đã khoác vào như bậc giác ngộ.
Con yêu dấu, vì vậy mới có những người đạt được một tầm hiểu cao hơn về lời dạy của Phật đưa ra khái niệm: “Nếu gặp Phật trên đường thì hãy giết Phật.” Vì nếu con gặp ai đó mà con nhận diện là Phật bên ngoài con, chính điều này sẽ ngăn cản con ngộ ra là Phật cũng ở bên trong con. Và người kia mà con cho là đặc biệt, là người vượt trội hơn con một cách nào đó, thì chính người đó, thần tượng đó, đang đứng chặn đường dẫn con đến giác ngộ, đến sự tỉnh ngộ về sự thật rằng mọi sự sống là một – bởi vì tất cả đều đi ra từ cùng một tinh túy cho dù con có gọi đó là Phật tánh hay tâm thức Ki-tô hay là Lời.
1.1. Khái niệm tia bí mật nhằm thử thách đệ tử
Vì vậy con thấy đó, điều thày cố cho con qua bài giảng này là một cái hiểu tiếp nối theo những gì đã được các chân sư khác trên bảy tia đầu trao cho con, nó liên hệ thế nào với việc phục hồi sự chữa lành đích thực, và làm thế nào nó có thể cho con thêm một chìa khóa cho sự chữa lành cá nhân của con. Thật vậy trong bài này, thày đến thuyết giảng về tia sáng thứ tám, được gọi là tia của hòa nhập (integration). Nhưng tất nhiên đó là nhiều hơn vậy, bởi vì không tia sáng nào có thể được mô tả bằng một từ duy nhất.
Vậy con nhận ra là sau khi con đã vượt qua các khai ngộ của bảy tia đầu, con đạt đến một điểm mấu chốt khác, vì Mẹ Mary trong các bài giảng [ở Lourdes] đã đề cập đến hình số 8, nơi con khởi sự từ điểm đáy của phần dưới hình số 8 và lần lần bước lên xuyên qua ba tia sáng đầu để đến được điểm nối là tia thứ tư. Xong thay vì cho rằng mình cần tiếp tục đẩy mạnh theo trớn cũ, con phải đi xuống trở lại, con yêu dấu, con phải đi xuống cứu gỡ những thành phần của chính con vẫn còn kẹt lại trong tâm thức nhị nguyên, kẹt sau tấm màn của Maya và ảo tưởng.
Tuy nhiên một khi con đã làm vậy xuyên qua các các khai ngộ ở tia thứ năm, thứ sáu và thứ bảy, thì một lần nữa con đạt đến một điểm nối khác. Và giờ đây có thể nói là có một hình số 8 khác mà phần dưới tượng trưng cho bảy tia đầu. Và điểm nối này chính là tia thứ tám. Còn phần trên của hình số 8 tượng trưng cho những tia từng được gọi là tia bí mật. Và như vậy trước khi con có thể bắt đầu hiểu được và neo trụ vào các tia bí mật này thì con cần đi qua điểm nối, điểm eo ở tia thứ tám.
Đối với hầu hết mọi người, việc đi qua khai ngộ của bảy tia đầu sẽ được cảm nhận như một quá trình đường thẳng. Thật vậy, đa số sẽ khởi sự với tia thứ nhất, vượt qua một số sáng ngộ ở tầng đó, rồi đi lên tia thứ hai và cứ tiếp tục như vậy. Tuy nhiên khi con đến tia thứ tám, con phải thăng vượt tiến trình đường thẳng này, bởi vì con sẽ không thể hiểu được, không thể hòa điệu được với các tia bí mật qua tâm đường thẳng.
Con yêu dấu, tại sao các thày trong Đại đoàn Thăng thiên lại dạy về sự hiện hữu của những tia gọi là bí mật? Vì nếu các thày thật sự muốn giữ bí mật thì tại sao không im hơi lặng tiếng?
Con thấy đó, các thày có một mục đích khi tiết lộ thông tin là có những tia bí mật vượt quá bảy tia đầu. Tất nhiên về mặt dài hạn, mục đích là các thày không có ý định giữ mãi các tia này bí mật, và lý do các thày vào thời điểm đó đã chưa trao lời dạy đầy đủ hơn là vì, một phần, nhân loại vẫn chưa sẵn sàng cho các khai ngộ của tia bí mật. Phần khác là vì các đệ tử của chân sư thăng thiên cũng chưa sẵn sàng cho việc truyền bá giáo lý về tia bí mật. Con thấy không, con yêu dấu, bằng cách đưa ra một lời bí hiểm, phần nào trêu chọc nếu có thể gọi như vậy, về sự hiện hữu của các tia bí mật – mà thày xin nói ngay là có nhiều hơn năm tia – thì qua lời này các thày đang thử đệ tử của mình.
Phản ứng của đệ tử chính xác là gì khi các thày truyền rải khái niệm về tia bí mật? Họ đáp ứng thế nào? Họ nhìn sự việc ra sao? Một số trở nên tò mò quá đỗi, gần như bị ám ảnh muốn biết tia bí mật là gì, vì họ nghĩ nếu có cách nào họ có thể moi ra bí mật này thì mọi vấn đề của họ sẽ được giải quyết. Họ sẽ nắm được công thức bí mật sẽ cho họ những khả năng trội hơn một đệ tử trung bình và nhờ vậy họ nhảy qua mặt mọi người. Nhưng ai là người, cái gì là cái muốn nhảy qua mặt mọi người chứ? À, chỉ có thể là tự ngã bị kẹt trong nhị nguyên cứ so sánh mình với người khác.
Cho nên con có thấy sự thử thách cho đệ tử không? Vì thử thách là một quá trình không ngừng, và cũng là lý do tại sao Giê-su bảo rằng người đứng đầu sẽ trở thành người đứng chót và người đứng chót trở thành người đứng đầu. Những ai cho mình là đệ tử cao cấp, rằng mình có khả năng hòa điệu với các tia bí mật, thì họ nghĩ họ có thể biết được gì đó và hiểu được gì đó về các tia này. Và thật như thế, một số đã trở nên gần như ám ảnh về tia bí mật nhưng lại không chịu đi muốt các khai ngộ của bảy tia đầu. Trong khi đó, một số khác tuy nhận được thông tin về tia bí mật đã tập trung chú ý vào việc vượt qua khai ngộ của những tia đã được biết đến công khai, bởi vì suy cho cùng thì đây mới là công việc được đặt ra trước mọi người.
Không ai đã bảo là con phải bắt đầu với khai ngộ của tia bí mật trước khi con đi qua khai ngộ của bảy tia đầu. Và chắc chắn khi không có thông tin nào về tia bí mật được tiết lộ, thì đó phải là một chỉ dấu rõ ràng cho thấy là không một ai – dù mình nghĩ mình đã tiến cao đến chừng nào – đã sẵn sàng cho khai ngộ của tia bí mật. Và như vậy, con yêu dấu, những ai đã tập trung nỗ lực vào các khai ngộ được giao phó – đã đặt trọn tim mình, hồn mình và tâm mình vào công việc này – chính là những người đã vượt lên đầu, là những người sẽ nhận thêm giáo lý về tia bí mật, vì con đã sẵn lòng đương đầu với khái niệm tự ngã cũng như khái niệm khó hiểu và khó nắm bắt về tâm thức nhị nguyên.
1.2. Tự ngã có thể sống sót qua các khai ngộ của bảy tia
Con thấy đó, con rất có thể đi qua khai ngộ của bảy tia sáng mà vẫn chưa hoàn toàn buông bỏ được tâm thức nhị nguyên. Vẫn có thể còn một ngã tách biệt, một tự ngã, một nhân vật tâm linh đã xoay xở để ngụy trang và lẩn trốn, thích nghi với các điểm đạo của bảy tia đầu.
Chuyện này được phép xảy ra. Bởi vì các thày trong tư cách thày tâm linh, không thể đòi hỏi đệ tử của mình phải sạch hẳn tự ngã. Các thày không thể đòi hỏi một trạng thái toàn hảo, và các thày không đòi hỏi bất cứ trạng thái toàn hảo nào. Cho nên đúng vậy, con được hưởng một thời kỳ có thể gọi là đặc ân khi con đi qua các khai ngộ của bảy tia đầu, qua đó con có thể vẫn còn một yếu tố tự ngã, vẫn còn một vai trò mà con đang đóng. Thậm chí con có thể tạo hẳn một vai trò cho việc tham gia đường tu tâm linh, qua đó con cố tạo dựng một nhân vật toàn hảo, một bộ trang phục toàn hảo, một vai tuồng toàn hảo trong vở kịch ăn khớp hoàn toàn vói môi trường tâm linh đặc thù của con.
Cho nên điều này đã khiến cho một số đệ tử tin rằng họ thuộc về tia thứ năm chẳng hạn – hay “tôi thuộc tia thứ bảy,” “tôi thuộc tia thứ nhất,” hay “tôi là ngọn lửa xanh,” hay “tôi là tình thương” hay điều này điều nọ. Và như thế họ xây dựng một nhân cách tâm linh dường như rất mạnh mẽ trên một tia sáng nào đó, thậm chí có thể là một niềm tự hào rằng mình đang có những đặc tính đó của tia sáng đó.
Giờ đây đệ tử đạt tới mức cần phải bước lên cao hơn và khởi sự cuộc khai ngộ của tia thứ tám. Nhưng như Mẹ Mary có nói trong bài giảng của thày, những gì đã giúp con thành công trong khai ngộ của bốn tia đầu sẽ không đưa con lên tia thứ năm. Con phải từ bỏ cái trớn đó, sự xông lên đó, và hạ mình xuống, quay trở lại giải quyết cho xong mọi thiếu sót.
Đấy, khi con vượt qua khai ngộ ở tia thứ bảy của tự do cũng vậy, để có thể bước vào khai ngộ của tia thứ tám, con sẽ lại phải đi qua một sự hàng phục toàn diện và vô điều kiện. Con không thể chuyển vào khai ngộ của tia thứ tám nếu con còn nhận diện mình như thuộc về một tia nhất định trong số bảy tia đầu. Cho nên bất kể động lượng nào con nghĩ con đã đạt được trên một tia nào đó, thì động lượng này phải hàng phục. Con phải buông bỏ cuộc sống đó để leo lên cao hơn và bước vào khai ngộ của tia thứ tám.
Con yêu dấu, đây là một điều cần thiết tuyệt đối. Vì con thấy không, trong bảy tia đầu con có thể bước lên cao hơn trong khi vẫn còn sót một chút tự ngã mà dường như con có thể che giấu khỏi mắt thày. Tất nhiên, ngược với những gì người ta có thể nghĩ về đường tâm linh, không gì có thể ẩn giấu khỏi các vị thày chân chính. Các thày trong Đại đoàn Thăng thiên vượt cao hơn mọi khía cạnh của tâm thức nhị nguyên, và điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là, con yêu dấu, sau khi đã nhìn xuyên thấu mọi khía cạnh của tâm thức nhị nguyên trong chính bản thể mình, tất nhiên các thày cũng có thể nhìn xuyên thấu nhị nguyên trong bản thể con.
Có rất nhiều đệ tử đã rơi vào ảo tưởng mà Giê-su nói đến: “Tại sao họ lại tin rằng những gì họ có thể giấu lẫn nhau cũng giấu được khỏi mắt Thượng đế?” Thậm chí có những người tiếp cận được một vị thày chân chính – dù là một sứ giả hay một đạo sư – nghĩ rằng họ đã giấu được gì đó khỏi mắt đạo sư. Trong một số trường hợp, họ giấu được như vậy là vì đạo sư không nhất thiết nhìn vào mọi chuyện xảy ra trong tâm thức họ, cho nên đệ tử có thể xây dựng một ý niệm tự ngã, một nhân cách nào đó, tưởng rằng nó có thể ăn gian mà vẫn vào được thiên đàng – một cách nào đó nó có thể lẻn vào tiệc cưới mà không mặc áo cưới. Nó tưởng là nó có thể ngụy trang tâm thức nhị nguyên để khoác vào một hình dạng toàn hảo, rập khuôn một số quy chuẩn tâm linh, đến độ Thượng đế phải cho nó vào vương quốc của ngài.
Nhưng con thấy đó, không phải vậy đâu. Tuyệt đối không phải vậy đâu. Con có thể bắt đầu một chu kỳ mới đi qua cả bảy tia sáng một lần nữa, và con vẫn có thể bước trên đường tu tâm linh khi con sẵn lòng đi qua các khai ngộ này. Nhưng có những người không chịu hạ mình xuống đi lại một lần nữa, cho rằng các khai ngộ này quá thấp đối với họ do tất cả những gì họ đã hoàn thành trong việc phụng sự vỏ ngoài, hay tất cả những khai ngộ nội tâm mà họ đã thực hiện trên bảy tia đầu. Và như thế họ bị kẹt lại trong vùng đất hoang nơi họ có thể phô trương đồ đẹp của họ, phô trường các “thành đạt” tâm linh của họ giống như một con công. Tuy nhiên, họ vẫn bị kẹt ở tầng mức đó và sẽ không lên được cao hơn cho đến khi họ chịu buông bỏ một cách vô điều kiện những thành tựu mà họ tưởng đã đạt được trên đường tu để bước vào khai ngộ của tia thứ tám.
1.3. Các khai ngộ của tia thứ tám
Tia thứ tám không dành cho kẻ nhát gan, vì ở tia thứ tám không gì có thể được che giấu. Ngay cả việc nhận biết tia thứ tám là gì, con cũng không thể làm được xuyên qua tâm thức nhị nguyên. Tất nhiên con có thể phóng chiếu một hình ảnh nhị nguyên lên các tia bí mật y như con có thể phóng chiếu một hình ảnh nhị nguyên lên bất cứ gì. Nhưng con sẽ không bắt gặp cho dù một hé thoáng về các tia bí mật xuyên qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên. Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây – con có thể hé thấy bảy tia đầu mặc dù con vẫn còn một số yếu tố tâm thức nhị nguyên. Con có thể, trong một thoáng, nhìn xa hơn tâm thức đó và thấy được đặc tính đích thực của một tia sáng là gì, con có thể hòa điệu với nó. Nhưng con không thể làm chuyện này quá bảy tia, con không thể làm chuyện này với tia thứ tám và cao hơn.
Các tia bí mật có tên là bí mật chính vì đối với những ai trong tâm thức nhị nguyên, chúng sẽ mãi mãi bí mật. Đối với tự ngã, tia bí mật sẽ mãi mãi bí mật. Đối với ông hoàng của thế gian và các thày giả trên thế giới, tia bí mật sẽ mãi mãi bí mật.
Tại sao như vậy, con yêu dấu? À, nếu con vẫn còn một yếu tố tự ngã thì vì lý do gì con vẫn còn tự ngã đó chứ? Con đã bước chân trên đường tu tâm linh từ nhiều kiếp rồi. Suốt nhiều năm trong kiếp này, con đã học hỏi giáo lý, con đã thực hành nhiều pháp tu, con đã tiến bộ thật sự. Thế nhưng vẫn còn một yếu tố tự ngã.
Và tại sao con đã giữ tự ngã này với con? Con yêu dấu – và có thể con không thấy được chuyện này một cách ý thức – nhưng việc giữ tự ngã với con cho con một lợi thế mà con chưa sẵn sàng buông bỏ. Có một điểm lợi gì đó cho cái ta ý thức khi nó giữ tự ngã với nó. Có gì đó mà cái ta ý thức không cần phải làm. Có quyết định nào đó mà cái ta ý thức không cần phải lấy khi tự ngã vẫn còn đây – vì tự ngã sẽ lấy quyết định này giùm cái ta ý thức, hay nó sẽ giúp cái ta ý thức dễ biện minh hơn cho quyết định này. Và như vậy con thấy đó, trên bảy tia đầu có một số đặc tính của mỗi tia sáng mà tự ngã có thể nhận thức như một điểm lợi. Tự ngã có thể nhìn vào một tia đặc thù, phủ một lớp nhị nguyên lên đặc tính của tia sáng, và nó có thể thấy là nó dùng được lớp phủ này để cho nó một lợi thế nhất định.
1.4. Tự ngã nhìn bảy tia đầu như thế nào
Con yêu dấu, các thày đã cho con khái niệm về tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực nghịch nhau. Vậy hãy để thày cho con một tóm lược ngắn gọn về cách tâm thức nhị nguyên nhìn bảy tia đầu như thế nào.
Tia thứ nhất là tia của ý chí và uy lực. Hiển nhiên ở một đối cực nhị nguyên là những người có một ý chí rất mạnh. Tự ngã có thể thấy là bằng cách củng cố ý chí mạnh mẽ này nơi một đệ tử, nó có thể khiến y làm hầu như bất cứ gì nó muốn nhân danh một lợi ích cao cả nào đó. Do đó con thấy một số người trên đường tu có ý chí mãnh liệt, sẵn sàng bẻ cong ý chí của người khác phải đi theo mình. Họ gia nhập một tổ chức, nghĩ rằng họ biết rõ mọi chuyện phải được tổ chức ra sao, và họ bắt đầu bảo các thành viên kia, hay ngay cả những người lãnh đạo hay sứ giả, đáng lẽ phải làm thế nào trong quá khứ và sẽ phải làm thế nào từ giờ trở đi. Có những người luôn nghĩ là họ biết chuyện hơn, biết hơn cả chân sư thăng thiên, vì họ đã trói chặt vào tâm thức của các sa nhân nguyên thủy vốn nghĩ mình biết rõ hơn cả Thượng đế.
Ở đối cực bên kia là những người không có ý chí gì hết, không muốn lấy quyết định riêng, không muốn lên tiếng về bất cứ gì. Họ chỉ muốn xuôi theo dòng tâm thức đại chúng, kể cả tâm thức đại chúng trong một tổ chức tâm linh. Cho nên trong các tổ chức tâm linh có những người xem mình rất mạnh trên tia thứ nhất, và họ tin đây là một đức tính cần thiết, vì nói cho cùng, phải có người đứng ra lãnh đạo, chỉ thị những ai không muốn lấy quyết định cho riêng mình. Họ sử dụng quyền lực theo cách họ tin là chính đáng, nhưng họ không nhìn ra là họ hoàn toàn xa rời thực tế của tia thứ nhất – tức là có uy lực nhưng không bao giờ lạm dụng, tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết của người khác giống như các chân sư trên mọi tia sáng cũng tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Và như vậy, con thấy có mối quan hệ đồng phụ thuộc giữa những người đã tha hóa ý chí và khiến nó trở nên quá mạnh mẽ, với những người tha hóa ý chí bằng cách không muốn lấy bất cứ quyết định nào.
Tương tự như vậy ở tia thứ hai, có những người cho là họ biết mọi chuyện, hiểu mọi chuyện. Họ nghiên cứu học hỏi và có thể bàn hàng giờ về những chi tiết nhỏ nhặt nhất trên đường tu – như thày này nói thế này, thày kia nói thế kia, và mọi chuyện thật sự vận hành ra sao. Song song lại có những người không muốn học hỏi, không muốn hiểu, không muốn biết, nhưng muốn được chỉ bảo phải làm gì. Con tìm thấy những người này ngay cả trong các tổ chức của chân sư thăng thiên, và tất nhiên họ rất đông đảo trong các tôn giáo truyền thống. Họ muốn đi lễ nhà thờ mỗi chủ nhật và phải có mục sư hay linh mục giảng đạo cho họ từ trên bục cao, dạy dỗ họ như thể họ là trẻ con không biết gì.
Và cũng thế ở tia thứ ba của tình thương, có những người đưa tình yêu đến một cực đoan nhị nguyên là tình yêu chiếm hữu, kiểm soát. Họ cho rằng việc kiểm soát rất tốt cho người bị kiểm soát, vì họ biết rõ đâu là điều tốt nhất cho người đó, cho nên nhân danh tình yêu, họ phải kiểm soát người đó. Tất nhiên lại có những người tha hóa tình yêu đến độ họ không thương yêu được bất cứ gì. Và nếu con không yêu gì hết – kể cả chính mình – làm sao con có thể đứng lên bảo vệ bất cứ gì, làm sao con có thể lên tiếng bảo vệ mình?
Ở tia thứ tư của tinh khiết, có những người trở nên vô cùng phán xét. Họ bảo chỉ có những hoạt động này là trong sạch, và những ai kiêng khem không làm những chuyện ô uế kia mới là đệ tử chân chính. Nhưng ở đối cực ngược lại là những người bước vào tu duy mà Giê-su gọi là tư duy xám. Những người này nghĩ: “Ồ, chẳng có gì thật sự quan trọng, chẳng có gì thật sự xấu xa. Không có hình thức âm nhạc nào tệ hơn một hình thức âm nhạc khác. Không có thức ăn nào tệ hơn loại thức ăn khác. Tôi có thể làm bất cứ gì tôi muốn, thật chẳng hề chi.” Và như vậy họ cứ thỏa thích làm bất cứ gì tình cờ đi vào đời họ mà không có chuẩn mực nào hết. Cả hai cực đoan, tất nhiên, đều không nhìn ra sự thật trong lời dạy rằng đối với người trong sạch thì mọi chuyện đều trong sạch. Nhưng câu này không có nghĩa là người trong sạch sẽ buông thả làm bất cứ chuyện gì có mặt trên hành tinh. Họ chỉ không dính mắc thôi. Họ không dùng ý chí vỏ ngoài để dằn lòng kiêng khem các hoạt động đó. Họ không nhất thiết bị khó chịu khi bước vào một nơi công cộng đang chơi một loại nhạc nào đó, nhưng họ cũng không đặc biệt tìm kiếm loại nhạc này. Họ chỉ giản dị bước qua mà không để cho nó dính vào mình.
Xong tất nhiên ở tia thứ năm của sự thật, một lần nữa lại có những người đưa sự thật đến một cực đoan nhị nguyên khi họ tin rằng chỉ có một sự thật duy nhất, hay đúng hơn, chỉ có thể có một cách diễn đạt duy nhất về sự thật. Đây là điều con thấy nơi những ai tin rằng chỉ có một bộ kinh đặc biệt nào đó – cho dù là Kinh thánh, kinh Qur’an, kinh Vệ Đà hay bất cứ bộ kinh nào khác – mới nắm được chân lý. Thậm chí có những người theo giáo lý của chân sư thăng thiên mà tin rằng chỉ có một sứ giả chân chính độc nhất, chỉ có một tổ chức chân chính độc nhất, và có thể nhét các chân sư vào một cái hộp tư duy xinh xắn, và các chân sư đã không truyền giảng cho ai khác trước hay sau tổ chức này. Trong khi đó ở đối cực bên kia là sự tha hóa của sự thật khi người ta bảo: “Ồ, không có gì là sự thật, vì triết lý nào cũng hay ho như triết lý nào.” Hoặc người ta đưa ra quan điểm bất khả tri (agnostic): “Làm sao chúng ta có thể biết cái gì là thật? Không ai có thể chắc chắn được.” Và như vậy một lần nữa, tôn giáo nào cũng tốt như tôn giáo nào, hoặc nữa, tất cả tôn giáo đều sai hết, bởi vì tất cả đều cho mình là đúng và lời tuyên bố này không thể nào đúng cho mọi tôn giáo.
Ở tia thứ sáu của an bình, có những người đưa sự thật đến mức cực đoan, tin rằng an bình chỉ có thể đạt được bằng cách trấn áp mọi quan điểm bất đồng, khống chế mọi khác biệt và cưỡng ép mọi người phải tuân theo lý tưởng mà mình đeo đuổi. Và ở đối cực ngược lại là điều con đã chứng kiến nơi phong trào hippie vào những năm 60, cho rằng mọi thứ đều tốt, rằng chẳng có gì là thật sự quan trọng. Hay như một số người thường nói: “Mọi chuyện tốt hết.” Nhưng nghĩa là gì chứ, con yêu dấu? Mọi chuyện có thể nào tốt hết chăng khi 2/3 nhân loại đang sống dưới mức nghèo đói? Làm sao có thể xem đó là tốt được? Vân vân.
Ngay cả trên tia thứ bảy của tự do cũng có những người làm tha hóa tự do và tin rằng tự do là một điều cần được bảo vệ chống lại mọi kẻ thù của tự do. Tự do này chỉ có thể đảm bảo một khi con tiêu diệt kẻ thù của con, giống như chính quyền Mỹ vừa rồi – chính quyền Bush – tin rằng họ chỉ có thể đảm bảo tự do của nước Mỹ bằng cách tiêu diệt những ai họ dán nhãn là kẻ thù của tự do. Thế nhưng ở phía bên kia của thang điểm, lại có những người cho rằng bất cứ gì cũng ổn thỏa, bất cứ gì cũng tốt thôi. Con có thể làm bất cứ gì con muốn mà vẫn thoát trừng phạt, bởi vì nói cho cùng, sau cuộc đời này thì làm gì có cuộc đời nào khác. Người ta chỉ sống đúng một kiếp, cuộc sống không có mục đích nào cả, và con chỉ là một con thú thông minh. Con có quyền làm bất cứ gì con muốn khi con còn ở đây vì con chỉ có một cơ hội sống mà thôi.
1.5. Sự tha hóa các tia sáng liên hệ thế nào với chữa lành
Cho nên con yêu dấu, 14 dạng tha hóa vừa kể – hai tha hóa cho mỗi tia trong bảy tia sáng – đều có một chức năng đặc thù. Chức năng này chính xác là gì và nó liên quan thế nào với sự chữa lành cá nhân? Con yêu dấu, con thử nhìn chữ “bệnh tật” mà xem [disease trong tiếng Anh là dis-ease, nghĩa gốc là không an lạc, không thoải mái]. Bệnh tật là điều gì kéo con ra khỏi an lạc.
Các thày đã cho con khái niệm Dòng sông sự Sống. Khi con ở trong Dòng sông sự Sống, cuộc sống an lạc thoải mái. Con xuôi chảy theo Dòng sông sự Sống. Như Giê-su đã nói: “Cha rất vui lòng ban cho con vương quốc.” Khi con tự điều chỉnh để thuận theo sự thật ẩn giấu trong câu nói đó, con dễ dàng xuôi chảy với cuộc sống. Mọi chuyện đến với con một cách dễ dàng, và điều này nghĩa là gì? Nghĩa là con không phải vật lộn. Con không phải vật lộn để đạt được bất cứ gì con thật sự mong muốn, bất cứ gì con thật sự cần đến như một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con – dù rằng khó mà lòng nói là con cần bất cứ gì, vì Sứ vụ Thiêng liêng không tùy thuộc vào việc con cần gì mà việc con để cho xuôi chảy.
Và như vậy, cái gì kéo con ra khỏi dòng chảy của Dòng sông sự Sống chính là nguyên nhân của bệnh tật. Cái đó cuối cùng sẽ rỉ xuyên qua ba thể cao của con – bản sắc thể, trí thể, cảm thể – xong nó bắt đầu trào xuống cơ thể vật lý nơi nó tác động đến chính các tế bào, các nguyên tử, thế là giờ đây cơ thể biểu hiện bệnh tật. Vì vậy các thày đã trao truyền một số lời dạy về mối liên hệ giữa các trạng thái tâm thức với bệnh tật. Nhưng con thấy không, nếu con thực sự đào sâu 14 dạng tha hóa mà thày vừa cho con, con sẽ thấy là mỗi chứng bệnh mà nhân loại biết đến dều có thể đặt ở đâu đó trên một trong những thang điểm, ở đâu đó giữa hai đối cực nhị nguyên là những dạng tha hóa của một tia sáng và các đặc tính của tia sáng này.
Tất cả mọi bệnh tật đều có thể đặt ở đâu đó trên dải quang phổ này. Và như vậy con thấy được là kỳ thực, bằng cách vượt qua các khai ngộ của bảy tia sáng đầu tiên – bằng cách thực sự giải quyết các bế tắc, các dính mắc, các tha hóa – thì con có thể chữa lành mọi bệnh tật mà con người biết đến. Như các thày đã nói trong bảy phần truyền giảng đầu, con làm vậy bằng cách thăng vượt chính tâm thức mà bệnh tật trình chiếu ra ngoài. Tuy nhiên, mục đích của thày khi đem lại cho con hiểu biết này là để giúp con nhận ra là các con, những người tâm linh, có thể không đang biểu hiện một chứng bệnh chỉ vì con bị kẹt trong một dạng tha hóa nhị nguyên của một tia sáng đặc thù.
Rất có thể con đang biểu hiện một chứng bệnh vì một lý do sâu xa hơn, cụ thể là để chứng tỏ cho mọi người trên thế giới thấy làm cách nào vượt lên trên, không chỉ một điều kiện nhất định nào đó, mà cả điều kiện rộng lớn của tâm thức nhị nguyên đã tạo ra sự vật lộn của cuộc sống. Điều thày đang giải thích ở đây có thể gọi là hai tầng mức khai ngộ khác nhau. Có rất nhiều người – hầu hết mọi người trên thế giới – vẫn còn ở một mức tâm thức có thể gọi là học trò. Họ đang học hỏi, họ đang nỗ lực tiến tới xuyên qua khai ngộ bảy tia, và họ có thể mang đủ loại bệnh tật biểu hiện trong cơ thể họ do họ bị kẹt, trong kiếp này hay những kiếp trước, vào một dạng tha hóa đặc thù của một trong bảy tia sáng. Họ không sẵn lòng bước lên cao hơn, buông bỏ dạng tha hóa đó, lời dối đó, dính mắc đó – con muốn gọi là gì cũng được. Và rốt cuộc cái đó thể hiện ra như bệnh tật trong cơ thể vật lý.
Tuy nhiên các con là người tâm linh, các con không ở đây vì là học trò. Các con ở đây vì là thày giáo. Và các con đã đến đây để chứng tỏ cho người khác thấy làm cách nào mình có thể vượt lên trên các điều kiện gây giới hạn nói trên, kể cả bệnh tật vật lý nhưng còn hơn thế, tức là tâm thức đứng đằng sau chứng bệnh, và xa hơn nữa là chính tâm thức phải tranh đấu vật lộn. Cho nên điều con cần nhìn nhận ở đây là một số các con quả thật đã qua được các khai ngộ của bảy tia đầu, nhưng con vẫn biểu hiện một chứng bệnh vì con đã nhận lấy một trạng thái tâm thức cao hơn, là nhiệm vụ giúp mọi người nhìn xa hơn tâm thức nhị nguyên.
1.6. Con ở đây để dạy điều gì?
Vì vậy điều sẽ giúp con hoàn thành sứ vụ của mình chính là con ý thức được tia sáng thứ tám và các tia bí mật tiếp theo, hầu con nhận ra là điều kiện của con – dù là một chứng bệnh vật lý hay một loại hạn chế tâm lý nào đó – cũng nằm trong sứ vụ của con. Nó có thể nằm trong sứ vụ của con theo nhiều cách khác nhau. Ở một đầu, có thể con đã chuốc lấy một căn bệnh để chứng tỏ cách vượt lên trên nó. Nhưng ở đầu kia, có thể con đã chuốc lấy căn bệnh để chứng minh là một người có thể sống một cuộc đời trọn vẹn, hạnh phúc và an bình trong khi phải chịu một điều kiện tưởng chừng sẽ khiến mình mất khả năng sinh hoạt.
Vì xét cho cùng, cơ thể không thể nào hạn chế được Tánh linh trừ khi Tánh linh cho phép cơ thể làm vậy, hay trừ khi Tánh linh quyết định chấp nhận cơ thể như một giới hạn cho sự biểu đạt của mình. Cho nên đây là điểm nơi các con, những người tâm linh hơn – không phải những người bị kẹt trong niềm kiêu hãnh là mình biết hết mọi chuyện, mà ngược lại các con nhận ra là có nhiều điều hơn để biết, các con cảm thấy có gì mình chưa nắm bắt được, chưa nhìn thấy được mà lại rất mong mỏi nhìn thấy – à con yêu dấu, đây là điểm các con có thể được lợi lạc từ sự hiểu biết về tia thứ tám cùng các tia bí mật tiếp theo sau.
Đây chính là lý do tại sao các thày đã quyết định khởi sự tiết lộ thông tin về các tia này, hầu con có thể bắt đầu hòa điệu với chúng và đạt được một góc nhìn khác về đời mình, về sứ mạng của mình, về mục đích của mình khi ở đây – để con có thể đạt tới điểm khi chính con, tức là Tánh linh, được an lạc bất chấp những căn bệnh trong cơ thể muốn tước đi sự an lạc của mình.
1.7. Khai ngộ đặc thù của tia thứ tám
Vậy đâu là khai ngộ ở tia thứ tám? Đó là việc hòa nhập những hiểu biết mà con đã thu thập trên bảy tia đầu. Nhưng chính xác con sẽ hòa nhập những gì? Con đến một điểm eo, nhưng thế nào là một điểm eo, điểm nối?
Đó là điều các nhà khoa học của con gọi là điểm dị biệt. Một điểm dị biệt có thể được hình dung như một cái chấm cực kỳ nhỏ đến mức nó không có bề mặt trong không gian. Con cũng biết là một hình chụp in trên báo được tạo thành từ rất nhiều những cái chấm rất nhỏ, sát nhau đến độ mắt người không thể nhìn thấy. Rất có thể con đã thử nhìn hình chụp trên báo qua kính lúp để cố thấy được từng cái chấm riêng lẻ. Và điều con thấy là mỗi chấm có một diện tích trên mặt giấy – con có thể đo đường kính, chiều rộng của nó.
Nhưng một điểm dị biệt giống như một cái chấm nhỏ vô tận đến độ không có bề mặt. Nghĩa là gì? À con yêu dấu, không có bề mặt trong không gian nghĩa là không có gì để phân chia. Các thày đã cho con khái niệm là con có thể phân chia khoảng cách giữa số 0 và số 1 ra từng khoảng nhỏ càng ngày càng nhỏ hơn, và con có thể cứ tiếp tục chia mãi như vậy. Một điểm dị biệt không ăn nhập gì với khái niệm phân chia mãi mãi.
Một điểm dị biệt được tiếp cận qua một bước nhảy vọt lượng tử, khi con nhận ra là điểm dị biệt không hề có bề mặt cho nên cũng không thể được phân chia. Đối với bảy tia sáng, điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là khi con bước theo khai ngộ của bảy tia, con vươn lên cao hơn trong phần dưới của hình số 8, xong con đến điểm eo và con thấy cả bảy tia đi ra từ một điểm dị biệt. Có nghĩa là mặc dù con đã có thể thấy chúng hoàn toàn riêng rẽ, nhất là ở các tầng thấp hơn trên đường tu, thì giờ đây con thấy chúng xuất phát từ cùng một nguồn. Chúng khởi lên từ một điểm dị biệt.
Ngay cả bảo rằng chúng xuất phát từ ánh sáng trắng cũng không đúng, như khi con thấy ánh sáng trắng được lăng kính chia ra thành nhiều màu sắc của cầu vồng. Bởi vì màu trắng vẫn là một màu. Không, con ạ, chúng xuất phát từ một điểm dị biệt không có đặc tính, không có hình tướng. Và điểm dị biệt này chính là Lời, là Phật tánh. Đó là một thứ không có bề mặt trong không gian và vì vậy không thể được phân chia. Vì không thể phân chia nên nó không thể mang vào một hình tướng hay những đặc tính phân biệt nó với một thứ khác. Chính vì vậy mà mọi thứ là Phật tánh. Chính vì vậy mà không có Lời thì chẳng có gì được tạo thành.
Đây là điểm xoay chuyển, là sự xoay chuyển tâm thức chấn động mà con đạt đến ở tia thứ tám, khi con nhìn nhận là cả bảy tia đi ra từ cùng một chất liệu – Phật tánh, Lời, tâm thức Ki-tô, con muôn gọi thế nào cũng được. Và như vậy thì ảo tưởng tách biệt là đúng vậy đó – một ảo tưởng. Và khi con nhận ra tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo thành từ sự tương tác giữa bảy tia, xong con thấy cả bảy tia đều đến từ một chất duy nhất, thì mọi thứ trong thế giới hình tướng phải đi ra từ một chất duy nhất. Và do đó ở cùng cực, mọi sự phân chia đều không thực.
Thế thì con bắt đầu nhìn thấy những gì Phật nhìn thấy. Không phải vì Phật thấy mọi chuyện là Phật tánh thì Phật sẽ nhìn thế gian và nói: “Mọi chuyện đều tốt hết.” Không đâu, Phật nhìn với con mắt phân biện biết rõ cái gì an lạc và cái gì không an lạc – bệnh tật. Vì bất cứ gì khởi lên từ ảo tưởng tách biệt, bất cứ gì có thể đặt lên cùng thang điểm với hai đối cực nhị nguyên, bất cứ gì tách biệt khỏi dòng chảy của Dòng sông sự Sống, thì cái đó là bệnh tật.
Khi con rơi vào trong đó thì nó chỉ có thể kéo con ra khỏi an lạc. Con được ban cho quyền tự quyết, như các thày đã giảng trong các bài trước. Con có quyền tuyệt đối tạo dựng cho mình bất cứ trải nghiệm nào con mong muốn. Và trong một khuôn khổ khá rộng rãi về thời gian lẫn không gian, con có thể tiếp tục có trải nghiệm này bao lâu cũng được cho đến khi con nhàm chán. Chỉ có con mới có thể quyết định khi nào đủ là đủ.
Nhưng cái bẫy, tất nhiên, là một khi con tạo ra một trải nghiệm dựa trên tâm thức nhị nguyên thì con cũng trải nghiệm điều kiện đó, hoàn cảnh đó, xuyên qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là con chỉ có thể thấy nó theo một cách nhị nguyên. Có nghĩa là sẽ có cái gì đó chống lại điều kiện của con, trạng thái tâm con, cho nên bắt buộc cuộc sống phải biến thành vật lộn. Đây chính là ý nghĩa đích thực về Tứ diệu đế cùng với khái niệm rằng cuộc sống là đau khổ. Cuộc sống được trải nghiệm qua phin lọc nhị nguyên là đau khổ, vì cài sẵn trong trạng thái tâm thức nhị nguyên là cuộc vật lộn không bao giờ ngưng nghỉ. Nó sẽ không bao giờ ngưng nghỉ chừng nào con còn nhìn thế giới, chừng nào con còn trải nghiệm thế giới, xuyên qua phin lọc đó.
1.8. Hãy biết con là HƠN NỮA
Vì vậy ở tia thứ tám, con phải đạt tới điểm nhìn thấy trọn vẹn con là nhiều hơn bất kỳ trải nghiệm nào mà con đã có hay có thể có trong thế giới hình tướng. Con là một Tánh linh bất diệt. Con là cái các thày đã gọi là cái ta ý thức, như một phần nối dài của Bản thể Đấng Sáng tạo.
Làm sao con sẽ có thể hòa nhập sự hiểu biết và thành tựu mà con đã thu hoạch trên bảy tia đầu nếu con không đạt tới điểm ngộ ra là cái ta thực của con, cốt lõi của bản sắc con, cái Ta Biết của con khởi lên từ điểm dị biệt đó, và nhờ vậy nó mang tiềm năng khuếch trương vượt xa tầm nhìn địa phương mà con đã có cho tới giờ?
Con sẽ học được gì ở tia thứ tám khi con hòa nhập bảy tia đầu? Con thấy đó, qua bảy tia đầu con đã nhìn cuộc sống xuyên qua lăng kính của một tia đặc thù và các đặc tính của nó. Nhưng ở tia thứ tám, con bước lui lại khỏi cả bảy và con nhìn thấy bức tranh rộng lớn. Viễn quan rộng lớn. Con thấy thực tại bao trùm toàn bộ tấm thảm của cuộc sống, của hơi thở vào và hơi thở ra của Thượng đế, của các chu kỳ vũ trụ, của mục đích cao rộng trong việc tăng trưởng tự nhận biết, là mục đích duy nhất đằng sau thế giới hình tướng.
Và giờ đây con thấy lý do thật sự tại sao con ở đây, trong tư cách một sinh thể trưởng thành về mặt tâm linh, là để giúp đánh thức loài người thức dậy trong viễn quan rộng lớn này. Giúp họ nhìn ra cuộc sống là nhiều hơn, rằng có một cách khác ngoài sự vật lộn, một trạng thái tâm thức khác hơn. Và giờ đây con có thể bắt đầu thấy được, theo cách Giê-su diễn tả, sự cần thiết từ bỏ đời sống của mình cho một người bạn. Bởi vì con mang trong con tình thương rộng lớn đã khiến con sẵn lòng bước vào hiện thân – hay có lẽ trở về hiện thân sau khi đã hội đủ điều kiện thăng thiên, và một phần của con đã thăng thiên nhưng con lại quay trở về như cái ta ý thức mà con là.
Và như vậy con đã đến đây để chứng tỏ qua tấm gương của mình làm cách nào để là HƠN NỮA, làm thế nào để an lạc trong Dòng sông sự Sống, làm thế nào để xuôi chảy thay vì chống cự ngược dòng. Có rất nhiều chứng bệnh khác nhau, nhưng vượt trên mọi chứng bệnh đặc thù là căn bệnh bao quát – sự không an lạc khi con nhìn cuộc sống như một cuộc giao tranh mà cứ đinh ninh là không thể có cách sống nào khác. Nếu ai ai cũng giao tranh thì làm sao biết được có một cách tốt hơn, làm sao biết được là có gì HƠN NỮA, trừ khi có ai đó bước vào hiện thân và chứng tỏ rằng HƠN NỮA là một con đường mà người ta không thể làm ngơ, không thể phủ nhận? Vì chính con đang chứng tỏ quá rõ ràng đến độ một số người sẽ hiểu.
Con yêu dấu, thày kết thúc bài giảng này ở đây, một bài giảng tiếp nối theo lời dạy của các thày về sự chữa lành. [Ở điểm này, Gautama trao một số lời dạy không liên hệ, sau đó thày kết luận] Với lời này, thày đã giảng xong, nhưng thày sẽ lại nói chuyện với con vào ngày mai, và chúng ta sẽ bắt đầu nói về tia sáng được biết đến trước đây như tia sáng bí mật thứ nhất, nhưng kể từ nay sẽ được biết đến như tia thứ chín, con yêu dấu. Thày chúc con một buổi tối an vui.