7 | Thay đổi cách con nghĩ mình là ai

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 23/4/2005.

7.1. Ý chí Thượng đế là ý chí của con

Trái tim yêu dấu của mẹ, trong chương này thày sẽ trao cho con một số giáo lý mà thày đặc biệt thiết kế để giúp con thanh tẩy những niềm tin bất toàn trong thể bản sắc của con. Có thể nói là tất cả những điều thày giảng cho tới nay đều liên quan đến việc thanh tẩy thể bản sắc, nhưng có một số điều thày chưa giảng giải chi tiết, và thày sẽ làm việc này ở đây. Khía cạnh quan trọng nhất của việc thanh tẩy thể bản sắc là khi con làm việc này thì con sẽ khám phá bản sắc thật của mình, con sẽ khám phá con thật sự là ai, như một sinh thể tự do trong Thượng đế, và được đấng Sáng tạo thiết kế ban đầu như một nối dài của chính ngài. Nội dung của thể bản sắc liên quan thẳng đến mục đích con tới vũ trụ vật chất để làm gì. Điều con tới đây để làm là biểu hiện của con người con thực sự là, có nghĩa là Sinh thể tâm linh đã gửi xuống một phần được cá nhân hóa của chính mình.  

Một trong những hiểu lầm thông thường trên trái đất là quan niệm ý chí Thượng đế bên ngoài, tách biệt và có khi đối chọi ý chí cá nhân của con. Đây là một ảo tưởng rất nguy hiểm và xảo quyệt đã ảnh hưởng nhiều người tầm đạo. Lẽ tất nhiên, ý chí Thượng đế luôn luôn đối nghịch ý chí của ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian hoàn toàn mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, tâm thức phát xuất từ ý niệm tách biệt khỏi Thượng đế. Từ trong bản chất họ coi họ đứng ngoài và đối chọi với ý chí Thượng đế.  

Ý chí của tự ngã, ý chí của ngã hữu diệt, sẽ luôn luôn cảm thấy bị gò bó bởi ý chí Thượng đế. Ngã hữu diệt sẽ tìm cách khiến con tin ảo tưởng cho rằng muốn tuân theo ý chí Thựơng đế, con cần phải từ bỏ ý chí của mình. Con cần phải buông bỏ ý chí của mình và tuân theo ý chí Thượng đế, và tùng phục bậc thẩm quyền cao này đang muốn kiểm soát con. Thậm chí ý tưởng này dẫn tới niềm tin rằng chỉ khi nổi loạn chống Thượng đế trong Vườn Địa đàng thì con người mới có được quyền tự quyết. Đây là cố gắng tối hậu biện minh cho sự hiện hữu của ngã hữu diệt bằng cách sử dụng lô-gíc nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô. Nó thực sự hàm ý là trước khi Adam và Eve ăn trái cấm, họ chỉ là những người máy. Nếu họ quả thật chỉ là người máy, thì làm sao họ lại có thể không tuân lệnh “lập trình” của họ?

Con được tạo ra với quyền tự quyết ngay từ lúc ban đầu, và khi con nổi loạn chống ý chí Thượng đế, con không giành được quyền tự do chọn lựa. Con đã đánh mất quyền tự do đó khi con trao nó cho ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian. Sở hữu lớn nhất của con là cá thể của mình, và con có một khát khao nội tại muốn phát biểu cá thể đó. Nếu ngã tách biệt và ông hoàng thế gian có thể khiến con tin rằng biểu lộ cá thể không tượng hợp với việc thuận theo ý chí Thượng đế, thì con sẽ là một ngôi nhà chia rẽ bên trong. Con có một khát khao nội tại muốn được trọn vẹn, mà con chỉ đạt được trọn vẹn bằng cách thuận theo ý chí Thượng đế, và con có khát khao nội tại phát biểu cá thể của mình. Nếu con tin hai điều này không thể tương hợp, thì con sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn và toại nguyện.

Chỉ có cách giải quyết duy nhất là con nhận ra mâu thuẫn có vẻ có giữa ý chí cá nhân của con và ý chí Thượng đế chỉ là một ảo tưởng nhị nguyên. Ảo tưởng này đã được nhiều tôn giáo chính thống củng cố, là những tôn giáo mô tả Thượng đế như một sinh thể giận dữ trên trời đang theo dõi từng cử động của con và sẵn sàng trừng phạt con khi con có gì sai trái. Tim thày nặng trĩu khi thấy nhiều người tâm linh chân thành bị mắc kẹt trong niềm tin vi tế ý chí Thượng đế đối chọi với ý chí của riêng họ. Niềm tin này khiến nhiều người tâm linh cảm thấy một nỗi oán giận vi tế đối với Thượng đế vì sự kiện họ đang sống. Họ có cảm tưởng Thượng đế đã ép họ phải sống, và do đó Thượng đế chịu trách nhiệm về các nỗi khổ và giới hạn của họ. Họ cảm thấy không làm chủ cuộc đời mình. Họ nghĩ Thượng đế đã tạo ra họ, cho họ quyền tự quyết, gửi họ xuống thế giới này,và giờ đây Thượng đế bỏ rơi họ vì họ đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ. Tất cả các niềm tin này đều phát xuất từ ngã hữu diệt, và chính ngã hữu diệt cũng không tin những điều này. Ngã hữu diệt sử dụng chúng để gây chia rẽ giữa con và cái Ta cao của con, giữa cái Ta Biết và bản sắc thật của con như một Sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là.

Thày hiểu rõ vì sao nhiều người tâm linh tin lời gian dối đó. Khi con có niềm tin nhị nguyên, bất toàn trong thể bản sắc, thì con giản dị không thể nhìn quá tầng thể bản sắc. Con không thể nhìn quá cõi vật chất và khám phá Sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là một cá nhân hóa của sinh thể đó. Lam sao con có thể chấp nhận ý chí Thượng đế quả thực là ý chí của con? Một trong những lợi ích lớn nhất của việc thanh tẩy thể bản sắc là con sẽ nhận ra và hoàn toàn chấp nhận ý chí của Thượng đế quả thật là ý chí của con, và ý chí của con là ý chí của Thượng đế. Để giúp con giải tỏa điều có vẻ bí ẩn này, con hãy để thày dẫn con đi một hành trình vượt quá không gian và thời gian.

7.2. Con tới đây để biểu hiện một đặc tính của Thượng đế

Thời xa xưa có một Sinh thể tâm linh bất tử, ngụ trên cõi tâm linh, là cõi ở trên và vượt quá vũ trụ vật chất. Sau khi đấng Sáng tạo đã tạo ra bầu cõi vũ trụ vật chất, Sinh thể đó thấy là để tiến trình sáng tạo được tiếp tục thì phải có người đi xuống vũ trụ vật chất và đem lại ánh sáng của Thượng đế. Phải có người nhận lãnh vai trò đồng-sáng tạo để vũ trụ vật chất dần dần được lấp đầy bởi ánh sáng và qua đó trở thành một minh châu khác trên vương miện của Sinh thể của Thượng đế. Sinh thể tâm linh đó quyết định là quả thật vị ấy muốn góp phần vào tiến trình sáng tạo, quả thật muốn phụng sự đấng Sáng tạo bằng cách gửi một phần của vị ấy xuống vũ trụ vật chất để tỏa rạng ánh sáng của Thượng đế và nâng vũ trụ vật chất lên một tầng rung động cao hơn. Sinh thể tâm linh đó thấy rõ ràng là vị ấy là một phần nối dài, một cá nhân hóa, của đấng Sáng tạo là sinh thể đã khai mở toàn bộ tiến trình sáng tạo thế giới hình tướng. Sinh thể tâm linh cao đó quyết định gửi một phần của chính mình vào cõi vật chất. Một Sinh thể tâm linh bất tử không thể gửi toàn bộ bản thể của mình vào cõi vật chất. Vị ấy gửi một phần của bản thể vị ấy, một cá nhân hóa của vị ấy, và phần đó trở thành một dòng sống cá biệt. Dòng sống cá biệt đó không tách rời và không đối chọi với “cha” tâm linh của nó. Tuy nó có cá thể và quyền tự quyết, ý chí nguyên thủy của nó không tách biệt hay đối chọi với ý chí lớn hơn của nguồn cội tâm linh của nó và ý chí còn lớn hơn nữa của chính đấng Sáng tạo.

Con không được tạo ra trong trống không. Con không được tạo ra bởi một Thượng đế bên ngoài, xa cách đã dùng sức mạnh gửi con vào vũ trụ vật chất mà không cho con quyền chọn lựa. Con là một nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn, và con biểu hiện sự kiện Sinh thể tâm linh lớn hơn đó muốn vươn mình vào vũ trụ vật chất và đem lại ánh sáng và vương quốc Thượng đế để thay thế bóng tối đang bao trùm mặt đất. Sau khi con được tạo ra như một dòng sống cá biệt, con có chọn lựa hoặc đi xuống vũ trụ vật chất hoặc theo đuổi tăng trưởng trên cõi tâm linh. Vì con thấy rõ mục đích vì sao con được tạo ra, nên con chọn với lòng thương yêu đi xuống vũ trụ vật chất như một sứ thần của Sinh thể lớn hơn mà con là. Con không bị ép buộc phải tới đây. Sự việc con tới đây là kết quả một chọn lựa, và chọn lựa đó không do một sinh thể, ngoại lai lấy. Chính con, cái Ta Biết, đã lấy chọn lựa đó trong tâm thái thấy mình là một nối dài của Sinh thể lớn hơn mà con là.

Thầy biết là điều thày giảng có vẻ trừu tượng ở tầng tự nhận biết của con. Thày bảo đảm với con là khi con tăng trưởng tự nhận biết, khi con thanh tẩy các hình ảnh nhị nguyên khỏi thể bản sắc của con, thì con sẽ tới điểm thấy điều thày nói ở đây là sự thật. Con ở đây vì con đã chọn tới đây, và con đã chọn trong tình thương. Con ở đây vì con muốn ở đây. Thày biết là có nhiều khía cạnh của hoàn cảnh hiện thời của con không thẳng hàng với ý muốn và mục đích nguyên thủy khi con tới đây. Những bất toàn đó là kết quả của những chọn lựa mà cái Ta Biết đã lấy khi nó bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Một khi con tách cái Ta Biết ra khỏi các niềm tin nhị nguyên đó thì con sẽ quả thật trở về nhận biết rõ ràng vì sao con đã tới đây.

À con yêu dấu, thày bảo đảm với con là khi con kết nối lại với mục đích vì sao con tới đây, thì cuộc đời của con sẽ mang một chiều kích hoàn toàn mới. Con sẽ đạt được một lý lẽ sống sâu đậm và vui tươi sẽ giúp con thực sự kết nối với ý nghĩa nguyên thủy, mục đích nguyên thủy của tạo vật của Thượng đế. Con sẽ biết con là ai và vì sao con thực sự tới trái đất. Con sẽ biết con là phần nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn thể hiện một đặc tính đặc thù của Thượng đế. Con sẽ biết là con ở đây để đem một đặc tính đặc thù của Thượng đế xuống trái đất và qua đó con phục vụ như một mặt của viên kim cương của tâm Thượng đế sẽ thể hiện vương quốc Thượng đế trên hành tinh này. Lúc đó con sẽ kết nối lại với toàn thể Thân thể Thượng đế và thấy là con thuộc một làn sóng lớn những Sinh thể tới trái đất vì một mục đích cao. Điều này sẽ cho con ý niệm cuộc sống có mục đích, có ý nghĩa, có hướng đi thiêng liêng, và đây quả thật là sự thành tựu tối hậu mà tất cả các người tâm linh đều khao khát tự đáy lòng.

À con yêu dấu, tim thày nhói đau khi thấy có quá nhiều người trên trái đất tự hỏi cuộc sống có mục đích hay có ý nghĩa sâu xa chăng. Câu trả lời quá hiển nhiên và rõ ràng – một khi con đã vươn lên khỏi tâm thức nhị nguyên. Thày biết là khi còn bị mắc kẹt đằng sau tấm màn ảo tưởng tạo ra bởi tâm thức nhị nguyên, thì câu trả lời có vẻ hão huyền và không thể nắm bắt. Thày không có mong muốn nào mạnh hơn là thấy con, tất cả những người tâm linh, vươn lên khỏi tấm màn ảo tưởng đó – tấm màn năng lượng tà ác đó – để con được tự do biết mình thực sự là ai và lý do vì sao con tới vũ trụ này. Đó là lúc con có thể bắt đầu biểu hiện cá thể độc đáo của mình và đem lại món quà độc đáo của con cho hành tinh. Đây quả thật chính là nền tảng để trải nghiệm đời sống dồi dào.

Con không thực sự tin rằng đời sống dồi dào chỉ có nghĩa là có tiền, phải không con? Thày bảo đảm với con là đời sống dồi dào thực sự đến từ việc con biết mình là ai và vì sao con tới hành tinh này, từ cảm nhận ánh sáng Thượng đế đang tuôn chảy qua bốn thể phàm của con. Đời sống dồi dào đến từ nhận biết tất cả khía cạnh của con người phàm của con đều thẳng hàng với mục đích nguyên thủy vì sao con tới đây. Mọi khía cạnh cuộc đời con biểu lộ mục đích đó và đóng góp vào việc thành tựu mục đích đó. Đây là trạng thái dồi dào tối hậu, cảm giác tối hậu con đang trôi theo Dòng sông sự Sống, là dòng sông của sự  tự thăng vượt vĩnh củu của Thượng đế nâng con lên các tầng càng ngày càng cao hơn, và qua đó nâng độ rung của toàn thể hành tinh.  

7.3. Con cần kết nối trở lại với ý chí Thượng đế

Thày có nói thể bản sắc là trụ điểm của ý niệm bản sắc của con, nhưng nó cũng là thể tập trung uy lực ý chí, uy lực quyết tâm, uy lực định hướng, uy lực chí hướng. Xung lực căn bản đằng sau việc con xuống cõi vật chất là một quyết định. Toàn  bộ dòng sống của con bắt nguồn từ một hành động thể hiện ý chí. Hành động ý chí này nối dài quyết định nguyên thủy của đấng Sáng tạo, rằng: “Ta muốn sáng tạo!”

Nếu con muốn thành công tối hậu trong việc biểu hiện cuộc sống dồi dào, thì con cần kết nối trở lại với ý chí cao hơn của con người con, ý chí vượt quá bất cứ gì có thể chứa đựng trong bốn thể phàm của con. Con phải kết nối với ý chí cao hơn ý chí của tâm ý thức của con. Nhiều người trên trái đất đã chân thành cố gắng chinh phục một thói quen phá hoại hay cải thiện đời sống một cách nào đó. Nhưng, sau một khoảng thời gian dài hoặc ngắn, họ hoặc bỏ cuộc hoặc trở về khuôn nếp cư xử cũ.

Nhiều người, đặc biệt những người tâm linh hơn trên hành tinh này, có thể thấy là có quá nhiều chuyện trên trái đất giản dị không đúng, có quá nhiều chuyện cần được cải thiện. Một số người đã có cố gắng chân thành cải thiện cuộc sống trên hành tinh, cải thiện một khía cạnh nào đó của xã hội. Nhiều người thấy là có lực chống cự thay đổi lạ thường, chống cự cải thiện, và do đó nỗ lực cải thiện của họ không đạt kết quả. Họ cảm thấy họ phải đấu tranh và đấu tranh, nhưng vẫn không đi đến đâu. Lúc nào cũng có lực chống cự mỗi bước họ muốn đi. Đây là sự chống cự đến từ tâm phản-Ki-tô, trụ trong ngã hữu diệt của từng cá nhân trên hành tinh, trụ trong tâm thức tập thể, ông hoàng thế gian và mọi lực – đang hiện thân hay không hiện thân – đang bị mắc kẹt trong tâm thức phản-Ki-tô.

một lực phản-ý chí trên hành tinh, đang tích cực chống lại ý chí của Thượng đế và sự thể hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất. Những lực chỉ có thể sống trong bóng của tăm tối không muốn con hay bất cứ ai khác đem ánh sáng Thượng đế xuống hành tinh này. Khi bóng của tâm thức nhị nguyên tan biến thì họ không còn chỗ lẩn trốn. Khi họ không thể lẩn trốn thì họ không đánh lừa được ai, họ không thể tiếp tục tồn tại trên hành tinh. Như một người tầm đạo chân thành, con không thể phớt lờ coi như lực phản-ý chí đó không có, vì nếu con làm vậy thì con không thể nâng mình lên khỏi nó.

Quyền năng sáng tạo của con tùy thuộc sức mạnh của ánh sáng tuôn chảy xuyên qua bốn thể phàm của con, sức mạnh của ành sáng mà tâm ý thức của con có thể sử dụng. Có một lực phản-ý chí trong cõi vật chất. Lực này chỉ sử dụng được năng lượng đã được mang vào cõi vật chất. Chúng ta hãy giả dụ lực này có thể sử dụng năng lượng khoảng 1000 Hz. Nếu tâm ý thức của con có khả năng điều khiển ánh sáng rung động ở tần số 500 Hz, thì làm sao con khắc phục được lực phản-Ki-tô có sức mạnh 1000 Hz? Hoàn toàn không có cách nào con có thể làm được. Con có thể có thiện ý cao nhất thế giới, con có thể có giáo lý tâm linh tốt, thậm chí kỹ thuật tâm linh tốt, nhưng nếu uy lực ý chí của con, sức mạnh quyết tâm mà con có thể gom góp với tâm ý thức, yếu hơn lực của phản-ý chí có mặt trong cõi vật chất, thì làm sao con có thể khắc phục được lực đó và tiến lên trong hướng con muốn đi? Lam sao con có thể thành công trong việc thay đổi xã hội và hành tinh, nếu con không thể đem vào một lực mạnh hơn lực phản-ý chí của tâm thức tập thể?

Cũng có một lực phản-ý chí trong cõi cảm xúc, cõi tư tưởng và cõi bản sắc. Ở mỗi tầng, lực này đạt được một sức mạnh nào đó. Để có thể khắc phục lực phản-ý chí đó, trên bình diện cá nhân và rộng lớn hơn, con cần mang vào một lực ý chí tích cực mạnh hơn lực phản-ý chí. Đây chỉ là chuyện toán học thông thường, và không cần phải là thiên tài mới làm được tính cộng. Nếu con có cộng hai và trừ bốn, và con cộng chúng lại, thì kết quả là gì? Kết quả là con vẫn ở số âm, như vậy làm sao con có được một thay đổi có số dương?

Con yêu dấu, thày không tìm cách khiến con nản chí khi thày chỉ cho con điều này. Thày đang tìm cách giúp con thấy là để có tiến bộ thực trong đời, để biểu hiện cuộc sống dồi dào, con cần khám phá một nguồn uy lực ý chí mạnh hơn những gì có mặt trong thế gian. Nguồn uy lực ý chí này phát xuất từ việc con kết nối lại với con người thật mà con là, với sinh thể tâm linh lớn hơn mà con là một nối dài. Một khi con kết nối trở với Sinh thể tâm linh lớn hơn của con, thì con kết nối trở lại với mục đích nguyên thủy vì sao con đến đây, và do đó con tiếp nhận được toàn thể uy lực ý chí bắt nguồn từ tận đấng Sáng tạo. Tuyệt đối không có lực nào trên thế gian, không có lực nào do ngã hữu diệt, tâm thức tập thể hay ông hoàng thế gian tạo ra, có thể kháng cự uy lực ý chí của Thượng đế.

Uy lực ý chí của Thượng đế vượt quá xa hơn tất cả những gì hầu hết con người từng trải nghiệm nên con có thể bị cú sốc khi con kết nối với nó lần đầu. Ý chí Thượng đế tuyệt đối, không khoan nhượng, và nó không dung dưỡng suy luận nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô. Đó là lý do vì sao Thánh kinh nói là trong nó không có thay đổi, không có bóng hay đổi hướng (James 1:17). Ý chí Thượng đế đơn giản không tha hóa sự thực và không chấp nhận bất cứ lực nào chống đối việc thể hiện vương quốc Thượng đế. Khi con buộc mình vào ý chí của sinh thể lớn hơn của con, thì con sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào trên trái đất ngăn trở sự thành tựu của mục đích nguyên thủy khiến con tới đây. Đây chính là sức mạnh con cần có để đột phá lực phản-ý chí của ngã hữu diệt, lực phản-ý chí của những người chung quanh con, lực phản-ý chí của tâm thức tập thể và của ông hoàng thế gian.

Bản chất cơ bản của tâm phản-Ki-tô là tha hóa sự thực, tha hóa thực tại Ki-tô. Tất cả những gì bị tâm thức nhị nguyên ảnh hưởng là một tha hóa. Chiến thuật chủ của ông hoàng thế gian là tìm cách dụ dỗ, lừa lọc hay ép buộc con tha hóa sự thực. Làm sao con khắc phục khuynh hướng tha hóa và cám dỗ vi tế của suy luận nhị nguyên? Con chỉ khắc phục được nó bằng cách kết nối lại với một lực hoàn toàn vượt quá tha hóa, và lực đó là ý chí Thượng đế. Ý chí Thượng đế sẽ không tha hóa sự thực, do đó khi con kết nối trở lại với ý chí đó, con sẽ không tha hóa mục đích nguyên thủy vì sao con tới đây.

Con cần thay đổi để dòng sống của con kết nối trở lại được với ý chí Thượng đế. Việc này không thể thực hiện một sớm một chiều, và nó quả thực cần thời gian và nỗ lực. Con cần loại bỏ những niềm tin nhị nguyên đã khiến con tạo dựng một ý chí tách biệt, một ý chí tách biệt với ý chí nguyên thủy khiến con xuống vũ trụ này. Thày có ý định giúp con thoáng thấy uy lực của ý chí Thượng đế mà con có thể tiếp nhận. Khi con kết nối trở lại với uy lực Thượng đế, thật sự là uy lực của cái Ta của con, cái ta cao của con, quả thật con có thể quét phăng và khắc phục mọi lực chống đối việc biểu lộ khả năng sáng tạo của con, mọi chống đối từ ngã hữu diệt và ông hoàng thế gian.    

Bốn thể phàm của con tạo thành một cấu trúc có tầng cấp và tâm ý thức của con ở tầng thấp nhất của cấu trúc đó. Con không thể dùng tâm ý thức, là tâm trụ vào thể vật lý, để khắc phục lực phản-ý chí. Cái Ta Biết có thể tách ra khỏi tâm ý thức và kết nối lại với bản sắc thật của con. Nó có thể đem sự quyết tâm của ý chí Thượng đế xuống tầng tâm ý thức. Khi con có quyết tâm đó, thì con sẽ không cho phép bất cứ gì, ở bên trong tâm của con hay bên ngoài con, ngăn trở sự thành tựu của mục đích khiến con tới trái đất. Chỉ khi con có quyết tâm đó thì con mới có thể quét phăng đi sự chống đối sứ vụ thiêng liêng của con, sự chống đối lý do vì sao con hiện hữu.

7.4. Biểu hiện dồi dào bằng cách kết nối với cái Ta cao

Một lợi ích khác của việc kết nối với ý chí cao của con là con biết Thượng đế cho con quyền có mặt ở đây trên hành tinh trái đất và con có quyền biểu hiện và phát biểu tâm thức Ki-tô. Nhiều người tầm đạo chân thành có tình thương lớn với Thượng đế, nhưng họ e dè không muốn công nhận có tăm tối và xấu ác . Đây chỉ giản dị là một khía cạnh của khuynh hướng chạy trốn những gì có vẻ choáng ngợp. Một khi con kết nối trở lại với uy lực của ý chí Thượng đế, thì con sẽ không bao giờ sợ bất cứ lực nào của thế gian nữa. Con biết là chúng không thể so với uy lực Thượng đế và uy lực đó có thể bảo vệ con khỏi bất cứ lực thế gian nào.

Chỉ khi con có cái biết nội tại con được Thượng đế gửi đến đây để đem ánh sáng vào thế giới tăm tối này, thì con mới chống trả được mũi tấn công của ông hoàng thế gian sẽ thách thức con như y đã  thách thức và cám dỗ Giê-su. Ông hoàng thế gian có kiêu mạn và mù quáng tâm linh tối hậu nên nghĩ y sở hữu toàn thể thế giới vật chất. Y nghĩ tất cả mọi người trên thế gian thuộc về y và nằm dưới quyền kiểm soát của y. Điều y không muốn nhất là có một người hiện thân đạt được tâm thức Ki-tô. Khi đó con không những ra ngoài tầm kiểm soát của các lực thế gian, nhưng con cũng làm gương cho người khác. Đây là mục đích nguyên thủy của sứ vụ của Giê-su, và ông hoàng thế gian làm tất cả những gì y có thể làm để ngăn Giê-su hoàn thành sứ vụ của mình. Khi điều này không thành, y đổi chiến thuật và tìm cách tiêu hủy gương của Giê-su để không ai dám cả gan noi theo những gì Giê-su hứa và làm những gì Giê-su làm (John 14:12).

Ông hoàng thế gian sẽ tìm cách khiến con tin rằng con không có quyền đạt quả vị Ki-tô trên thế gian này. Y sẽ đặc biệt tìm cách ngăn con thực thi quả vị Ki-tô bằng cách mang ánh sáng sự thật tới người khác và xã hội. Ông hoàng thế gian muốn tất cả mọi người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên mà không bao giờ nhận ra là có cái gì bên ngoài trạng thái tâm đó. Y sẽ dùng đủ mọi ý xảo quyệt để khiến con nghi ngờ khả năng của mình hay quyền được tỏa rạng ánh sáng của con. Một trong những mưu gian đó là ý tưởng cho rằng khi con là Ki-tô hành động thì con vi phạm quyền tự quyết của người khác. Nói cho cùng, đa số con người trên hành tinh có vẻ mãn nguyện với sự mê ngủ, và họ không muốn bị đánh thức và thấy thực tại tâm linh. Tuy điều này có vẻ đúng, nhưng sự thực là con người không thỏa mãn vì sâu trong tâm họ khao khát sự trọn vẹn, một khao khát không thỏa mãn được khi còn kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con người chỉ mê ngủ vì họ chưa bao giờ được chỉ cho thấy là có cái gì khác trạng thái tâm nhị nguyên, họ không bao giờ được chỉ một con đường khả thi dẫn tới một trạng thái tâm thức cao hơn.

Sự thực là chính ông hoàng thế gian đang vi phạm quyền tự quyết của con người. Sự kiện đơn giản là con người không thể có chọn lựa tự do nếu họ không biết tất cả những chọn lựa mà họ có thể có và hậu quả của mỗi chọn lựa. Nếu con người không biết là có cách khác ngoài cái chết tâm linh của tâm thức nhị nguyên, thì làm sao họ có thể chọn sự sống của tâm thức Ki-tô? Con có nghĩ chăng là hầu hết mọi người sẽ chọn sự sống, nếu họ thực sự hiểu hậu quả của chọn lựa?

Giê-su được Thượng đế gửi xuống với mục đích đặc biệt là đánh thức con người khỏi giấc ngủ tâm linh, cái chết tâm linh. Quả đúng là vì sức mạnh của thói quen và các niềm tin nhị nguyên nên nhiều người kháng cự không chịu thức tỉnh. Đó là lý do vì sao có nhiều người chối bỏ Giê-su thậm chí còn âm mưu chống lại thày. Điều này giải thích vì sao Giê-su đôi khi nói rất thẳng và mạnh mẽ để đâm thủng qua vách tường tù ngục của ngã hữu diệt của con người. Đây không phải là vi phạm quyền tự quyết của con người. Hành động này quả thật đã do Thượng đế chỉ thị vì Thượng đế không muốn con người mãi mãi ngủ quên. Thượng đế đã chỉ thị là con người được các thày tâm linh hướng dẫn và nêu gương. Trong thời đại hiện nay, Thượng đế muốn thấy một sự thức tỉnh tâm linh qui mô trên trái đất. Chuyện này sẽ chỉ xảy ra khi có một số đông người đi con đường dẫn tới quả vị Ki-tô và chứng minh là con đường này dẫn tới đời sống dồi dào. Chỉ khi con người thấy một người có quá khứ tương tự như họ biểu hiện đời sống dồi dào thì họ mới thức tỉnh thấy tiềm năng Ki-tô của chính họ. Mọi sinh thể trên thiên đàng rất mong muốn thấy mọi người trên trái đất thức tỉnh để có thể lấy chọn lựa thực sự tự do giữa cái chết tâm linh và sự sống tâm linh.

Con yêu dấu, con hãy nhận ra là trong số những người chống con tăng trưởng tâm linh có những người thân cận nhất của con. Đó là lý do vì sao Giê-su nói: “Và đối thủ của một người là những người trong nhà” (Matthew 10:36). Ý nghĩa là những người thân cận con nhất nhiều khi không muốn con tăng trưởng tâm linh. Họ có thể sợ mất con, họ có thể ghen tỵ với con hay họ không muốn thức tỉnh. Vì, nếu con có thể biểu hiện đời sống dồi dào, thì họ cũng vậy, nhưng muốn làm được vậy thì họ phải sẵn sàng thay đổi chính họ như con đã sẵn sàng thay đổi chính con. Nếu họ không chịu đối mặt khuynh hướng chạy trốn, họ sẽ tìm cách ngưng con đạt được tăng trưởng mà họ không thể phớt lờ.

Thày không nói con cần nhìn người khác như kẻ địch. Thày chỉ giản dị nói con cần nhận ra sự tăng trưởng của con sẽ gặp chống đối từ ngã hữu diệt của con và của người khác. Cách duy nhất để khắc phục sự chống đối có thể rất vi tế và thân ái này là con neo trụ vào ý chí cao hơn của chính Sinh thể của con chắc chắn đến độ con không để bất cứ điều kiện nào trên thế gian ngăn cản con là người con là và đem “ánh sáng tỏa rạng trước con người để họ thấy việc làm tốt lành của con, và vinh danh đấng Cha ở trên thiên đàng” (Matthew 5:16).

Con có hai cách để tìm cách biểu hiện cuộc sống dồi dào. Một là con đi từ bên dưới và làm công việc vươn lên bằng cách xuyên phá chống đối bằng uy lực của tâm ý thức của con. Khi con làm vậy thì con sẽ luôn luôn phải đánh nhau với phản-ý chí của ngã hữu diệt, người khác và ông hoàng thế gian. Con tự cho mình bản án phải sống vật lộn liên tục. Con có thể tiến bộ, con có thể biểu hiện một hình thức dồi dào nào đó, nhưng đó không phải là đời sống thực sự dồi dào mà Thượng đế mong muốn cho con.  

Cách duy nhất để con có được cuộc sống dồi dào đó là đi thằng lên đỉnh và kết nối lại với bản sắc thực của con, để uy lực của ý chí Thượng đế đem bốn thể phàm của con thẳng hàng với mục đích nguyên thủy của con. Qua đó, con sẽ khiến cuộc sống dễ dãi hơn nhiều. Một khi viễn quan của mục đích cao của con đã neo trụ trong thể bản sắc, thì con có nền móng vững chắc, con có thể xây nhà trên tảng đá của Ki-tô (Matthew 7:24). Tư tưởng của con sẽ hầu như tự động thẳng hàng với mục đích nguyên thủy của con. Khi tư tưởng thẳng hàng với mục đích nguyên thủy, thì cảm xúc sẽ không bị phân hóa và bị lôi kéo về mọi hướng bởi các ham muốn nhị nguyên thấp. Con sẽ không còn là một ngôi nhà phân hóa và con sẽ có ánh sáng Thượng đế tuôn chảy qua bốn thể phàm mà không bị pha loãng. Do đó uy lực sáng tạo của con sẽ gia tăng tới điểm việc đạt được các mục đích thật trong đời trở nên dễ dàng, hầu như không cần cố gắng.

Con yêu dấu, con hãy nhìn cuộc đời Giê-su. Thày không cần vật lộn để biến nước thành rượu. Thày chỉ cần đem tâm vỏ ngoài tập trung vào bên trong và đưa mình hoàn toàn thẳng hàng với mục đích tới trái đất của thày. Trong trạng thái trụ tâm đó, thày đưa ra một mệnh lệnh và – ngay tức khắc – nước được biến thành rượu. Giống như vậy, thày đã làm việc nhân bánh mì và cá đủ để 5,000 người ăn mà không cần cố gắng chút nào, không cần ra sức mua hay làm bánh đủ cho số đông người ăn. Đây là tiềm năng thật của con, và thày biết điều này có vẻ ngoài tầm tay của con hiện nay. Thày cho con viễn quan này để con thấy lợi điểm đi thẳng lên đỉnh và đem ý niệm bản sắc của con thẳng hàng với mục đích cao đã khiến con tới đây, Qua đó, ý chí của Sinh thể cao của con có thể lấy vai trò điều kiển, cai quản mỗi từng của bốn thể phàm của con.

Thày biết con quen phải vật lộn để có được những gì con cần. Thày muốn con xem xét quan niệm biểu hiện không cố gắng. Từ đầu khóa học này, thày đã nói là đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc của ngài. Ý chí của Thượng đế là con được đời sống dồi dào. Để có nó, con chỉ cần thẳng hàng với ý chí cao, quả thật là ý chí của chính cái Ta cao của con, cũng là ý chí của Thượng đế trong con. Khi bốn thể phàm của con thẳng hàng với lý do vì sao con là, thì uy lực Thượng đế sẽ tuôn chảy qua chúng và biểu hiện không cố gắng những gì cần có để thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con.

7.5. Con là mặt trời tỏa rạng ánh sáng vô điều kiện

Trái tim yêu dấu của mẹ, con cần làm gì để đem mình thẳng hàng với ý chí cao hơn của Sinh thể mà con là? Con cần sẵn sàng nhận ra có một lực phản-ý chí đã xâm nhập vào bốn thể phàm của con. Đây là cái mà thày gọi là ngã hữu diệt, và ngã hữu diệt có ý chí của riêng nó, một ý chí hoàn toàn xoay quanh chính nó. Con cần làm gì để thoát ra nhà tù của ý chí thấp đó? Con cần nghĩ xa hơn chính mình, có nghĩa là vượt quá cái ta chú tâm vào thân thể vật lý và ngã hữu diệt. Con là nối dài của một Sinh thể tâm linh lớn hơn và con tới đây với một mục đích cao hơn, một mục đích vĩnh cửu.

Nhiều người trên trái đất hoàn toàn đặt chú tâm vào chính họ và cả cuộc đời theo đuổi ham muốn vị kỷ thường xoay quanh thú vui của thân thể vật lý và các nhu cầu tức khắc của nó. Nhiều người không có dư chú tâm để nghĩ về những hậu quả dài hạn trên cuộc sống của họ, tỷ dụ như tự do tâm linh và phát triển. Nhiều người không còn dư chú tâm để xem xét  hành động của họ ảnh hưởng ra sao trên người khác, ngay cả các người thân thương nhất của họ. Họ có những hành động ích kỷ nhất mà không hề cảm thấy hối lỗi hay hối tiếc. Nhân loại không còn dư chú tâm để xem xét nếp sống tân thời ảnh hưởng hành tinh trái đất như thế nào và khả năng nuôi dưỡng sự sống trong dài hạn. Chỉ trong vòng vài thập niên gần đây con người mới xem xét ảnh hưởng của ô nhiễm trên môi trường, và họ chỉ làm vậy khi họ nhận ra hậu quả tai hại trên chính họ. Rất ít người đã nới rộng nhận biết để có tình thương chân chính đối với hành tinh đã cho nhân loại nền tảng để sống.

Con hãy tương phản tinh thần vị kỷ, hoàn toàn ích kỷ đó với viễn quan rộng lớn hơn của tâm Ki-tô, thấy cái một trong mọi sự sống vì nó biết mọi sự sống đến từ cùng một nguồn cội và là sự biểu hiện của Sinh thể Thượng đế. Sinh thể tâm linh đã gửi con xuống đây như một phần nối dài của ngài không có tầm nhìn hạn chế, nhân gian, vị kỷ này. Sinh thể đó hoàn toàn thẳng hàng với ý chí và viễn quan của đấng Sáng tạo, và do đó có một mục đích cao hơn khi gửi con vào cõi vật chất. Mục đích đó hoàn toàn thẳng hàng với viễn quan của Thượng đế khi tạo ra thế giới hình tướng, hành tinh trái đất và nhân loại. Nếu con muốn đạt hạnh phúc tối hậu, mãn nguyên tối hậu, và cảm nhận cuộc sống có mục đích tối hậu, con tự thân có giá trị, thì con cần nhìn quá ý niệm bản sắc hạn hẹp trụ vào ngã hữu diệt. Con cần kết nối trở lại với ý niệm cái Ta cao mà con thực sự là. Khi con làm vậy, con sẽ nhận ra con sẽ không bao giờ đạt được mãn nguyện tối hậu bằng cách theo đuổi ham muốn vị kỷ dính liền đến thân thể vật lý. Con sẽ chỉ thực sự mãn nguyện khi con với lên quá thân thể và cho ra từ Bản thể thực của con.

Nếu con muốn có một hình ảnh sống động của những gì thày đang nói, thì con hãy xem xét mặt trời. Mặt trời được thiết kế để tỏa rạng ánh sáng, ánh sáng đem lại sự sống cho tất cả mọi thứ trên trái đất. Mặt trời làm việc này vô điều kiện. Mặt trời không nhìn xuống nhân loại trên trái đất và phán xét xem họ có nhận ánh sáng của nó với tâm thái thích nghi chăng. Như Giê-su có nói: “Con là con của đấng Cha trên thiên đàng: vì ngài khiến mặt trời mọc cho người ác và người thiện, và gửi mưa xuống cho người công chính và người bất chính” (Matthew 5:45). Mặt trời cho vô điều kiện. Nó cho mà không chờ đợi nhận gì lại, và nó cho mà không kèm theo điều kiện về cách con người nhận tặng vật của nó. Mặt trời được mãn nguyện, vui sướng khi tỏa rạng ánh sáng. Chính sự cho ra là nguồn của mãn nguyện, không phải sự nhận vào.

Nếu mặt trời có cùng trạng thái tâm thức vị kỷ mà đa số con người có ngày nay, thì mặt trời sẽ bắt đầu bằng cách đặt điều kiện để cho ánh sáng. Nó sẽ nói: “Nếu con người không nhận tia nắng của tôi một cách đúng đắn, thì tôi sẽ không cho ánh sáng cho những người đó”. Thái độ này sẽ khiến mặt trời loại bỏ một số khu vực và không tỏa ánh sáng đến các khu vực đó. Điều này có ảnh hưởng gì trên cảm nhận mãn nguyện của mặt trời? Mặt trời được mãn nguyện khi tỏa ánh sáng. Khi mặt trời ngưng tỏa ánh sáng, thì nó sẽ không cảm thấy mãn nguyện nữa, nó sẽ không hạnh phúc nữa. Con người thật của con, Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết của con, được thiết kế để là mặt trời tâm linh tỏa rạng ánh sáng Thượng đế xuống trái đất. Hiện diện TA LÀ của con hạ độ rung của ánh sáng Thượng đế và gửi ánh sáng đó xuống bốn thể phàm của con dưới sự điều khiển của cái Ta Biết để chúng thẳng hàng với mục đích nguyên thủy khiến con xuống trái đất.

Con được thiết kế để là một ống dẫn cho ánh sáng Thượng đế tuôn chảy xuống và sau đó tỏa rạng trên trái đất. Đây là cách đem ánh sáng Thượng đế vào cõi vật chất, qua đó nâng độ rung của toàn vũ trụ và đổ đầy ánh sáng vào đó để nó trở thành một bầu cõi khác của cõi tâm linh – đúng theo viễn quan và kế hoạch của Thượng đế. Vai trò của con là hướng ánh sáng Thượng đế vào những điều kiện đặc trưng trên trái đất để phóng đại chúng, gia tốc các điều kiện đó và giúp chúng thăng vượt trạng thái bất toàn hiện tại. Con ở đây để giúp mọi chuyện trên trái đất trở nên hơn nữa, và khi con làm vậy thì con trở nên hơn nữa. Con ở đây để tỏa ánh sáng của con, và trong việc cho ánh sáng con nhận được mãn nguyện tối hậu. Chuyện gì xảy ra khi con ngưng không cho ánh sáng, con ra điều kiện nếu con người đối xử với con một cách nào đó, hay con người không cho con phản hồi mà con muốn, thì con sẽ khóa ánh sáng? Khi con khóa dòng chảy ánh sáng xuyên qua con, thì con cũng lấy đi sự mãn nguyện của chính con. Nếu con hoàn toàn tắt dòng ánh sáng, thì con sẽ không còn cảm giác mãn nguyện hay cuộc đời có ý nghĩa nữa và cuộc đời của con là một cuộc vật lộn liên tục.

Cuộc sống dồi dào là gì? Đó là ánh sáng Thượng đế tuôn chảy mà không bị pha loãng hay bị cản trở xuyên qua bốn thể phàm, phóng đại mọi thứ mà nó gặp. Qua đó, con được vây quanh bởi dồi dào. Con sẽ không chờ nhận dồi dào từ dưới này, con sẽ chủ động sản xuất dồi dào bằng cách để ánh sáng từ Trên gia tốc mọi thứ mà con gặp. Con sẽ nhân các tài năng của con, và khi con cảm thấy ánh sáng tuôn chảy qua con, thì con sẽ có cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác dồi dào và nuôi dưỡng tối hậu. Khi con khóa dòng ánh sáng đó – bằng cách chấp nhận niềm tin nhị nguyên quy định con sẽ cho với điều kiện nào – con tự mình tước đi đời sống dồi dào, con tự mình tước đi cảm giác mãn nguyện, trọn vẹn. Con quả thực khiến mình nghèo hơn vì con không còn cảm thấy dòng chảy ánh sáng là chìa khóa của hạnh phúc và dồi dào.

Khi con khóa dòng chảy của ánh sáng Thượng đế xuyên qua bốn thể phàm của con, thì con không gửi xung lực năng lượng dồi dào vào tấm gương vũ trụ. Tấm gương vũ trụ giản dị không thể phản chiếu lại con đời sống dồi dào dưới dạng điều kiện vật lý. Cách duy nhất để thực sự biểu hiện đời sống vật chất dồi dào là trước tiên tái thiết lập đời sống dồi dào tâm linh mà con được thiết kế để có. Khi con nghe theo lời khuyên của Giê-su tìm trước vương quốc Thượng đế và sự công chính – có nghĩa là cách dùng đúng đắn năng lượng Thượng đế – thì mọi thứ sẽ được cộng thêm vào cho con (Matthew 6:33) vì vũ trụ vật chất không thể làm gì khác ngoài việc phản chiếu lại con sự dồi dào mà con phóng ra.

7.6. Con và tất cả đều là thân thể Thượng đế

Thượng đế đã tạo ra vũ trụ như một tổng thể duy nhất, liên kết. Trong mẫu thiết kế nguyên thủy của Thượng đế không có xung đột, không có mâu thuẫn giữa các dòng sống cá biệt và tổng thể. Điều đã xảy ra trên trái đất là hầu hết các dòng sống cư ngụ ở đây đã rơi vào tâm thức nhị nguyên. Với tâm thức tách biệt này, họ đã tạo ra một số hầu như bất tận xung đột giữa các cá nhân, các nhóm người, các quốc gia, thậm chí cả xung đột giữa nhân loại và Mẹ Thiên nhiên. Những xung đột này phát xuất từ một đặc tính chính của tâm phản-Ki-tô, đó là tinh ích kỷ. Tính ích kỷ được tạo ra khi một dòng sống cá biệt tách mình ra khỏi cội nguồn của nó và quay lưng lại Thượng đế. Nếu con không kết nối một cách có ý thức với cội nguồn của con, thì con không thể nhận ra là các anh chị em của con đều đến từ cùng một nguồn cội.

Con hãy xem xét lời của Giê-su: “Nếu con đã làm điều gì tới người thấp nhất trong con cháu ta, thì con đã làm điều đó tới ta” (Matthew 25:40). Đây là lời tuyên bố của một Sinh thể biết rằng mình không phải là một ốc đảo, mình không sống trong khoảng trống không, mình không phải là sinh thể duy nhất có tầm quan trọng. Đây là lời tuyên bố của một sinh thể kết nối với cội nguồn và nhận ra mình là một nối dài của Thượng đế. Tất cả mọi thứ khác, kể cả tất cả người khác, cũng đều là nối dài của Thượng đế. Khi con có nhận biết mở rộng này thì con nhận ra con thực sự là một phần của Thân thể Thượng đế. Qua sự kết nối với nguồn cội, con kết nối với cả mọi thành phần khác của Thân thể Thượng đế. Những gì con làm tới người khác, con thực sự đã làm tới chính mình.

Trong bài này thày đã nhấn mạnh hình ảnh vũ trụ là tấm gương phản chiếu lại con những gì con phóng ra. Thày có nói là vũ trụ sẽ làm tới con những gì con làm tới người khác. Tuy câu này đúng, nhưng có một hiểu biết cao hơn. Hiểu biết cao hơn là người khác không tách biệt khỏi con vì họ là một phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất, và con cũng là một phần của thân thể đó. Ta có thể đi xa hơn câu nói vũ trụ làm tới con những gì con làm tới người khác và nói là con đang làm tới chính mình những gì con làm tới người khác vì người khác là một phần của cái Ta lơn hơn của con, là Thân thể Thượng đế. Những gì con làm tới Mẹ Thiên nhiên, con cũng làm tới chính mình vì hành tinh vật lý cũng là một phần của sáng tạo của Thượng đế. Khi một phần của con vẫn còn chú tâm vào hành tinh này, thì chuyện gì xảy ra cho tổng thể sẽ ảnh hưởng tới thành phần cá biệt hiện đang là trung tâm điểm của ý niệm bản sắc của con.

Cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với và như bất cứ gì mà nó có thể nghĩ tới. Cái Ta Biết có thể trụ vào tự ngã – khi nó tự đồng hóa với ngã hữu diệt – hay nó có thể trụ vào Thượng đế – khi nó tự đồng hóa như sinh thể tâm linh là một với cái Tất cả của Thượng đế. Tác dụng lớn nhất của việc thanh tẩy thể bản sắc là con có thể nhìn quá sự ích kỷ của ngã hữu diệt. Con có thể nhìn quá ý niệm tách biệt bắt nguồn từ ông hoàng thế gian. Con thậm chí có thể nhìn quá bản sắc của mình như một sinh thể cá biệt. Con có thể nhìn thấy là con hơn dòng sống cá biệt vì dòng sống cá biệt của con là một phần của một tổng thể lớn hơn, là cái Tất cả của tâm thức Thượng đế. Cái Ta Biết là một biểu lộ của cái Tất cả đó, và nó có khả năng tái hợp với cái Tất cả, ngay khi nó vẫn còn đang chú tâm qua một thân thể vật lý trên một hành tinh rất bé nhỏ trong một vũ trụ rất bao la.

Ấy con yêu dấu, quá nhiều tín đồ Thiên chúa giáo không chịu nghe lời dạy của Giê-su: “Con là Thượng đế” (John 10:34). Quả thực con là Thượng đế theo nghĩa cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa với cái Tất cả, chính là Thượng đế. Khi cái Ta Biết làm vậy thì con trải nghiệm cảm giác tối hậu trọn vẹn, vui sướng, hân hoan.   

Con không chỉ giản dị biết con là ai – con sẽ người con là. Lúc đó con đạt được trạng thái mà người Hy Lạp cổ gọi là “gnosis” (ngộ nhập) nghĩa là không còn khoảng cách, khác biệt, tách biệt, giữa người biết và cái được biết. Từ ngàn xưa con người đã đưa ra nhiều luận thuyết về Thượng đế và bản chất của Thượng đế. Nhiều người tâm linh và tôn giáo đã trọn đời đặt cho mình mục đích biết Thượng đế, nhưng khái niệm biết hàm ý có khoảng cách. Khái niệm con có thể biết cái gì mà con không trải nghiệm có hàm ý là con ở đây và Thượng đế ở chỗ kia khác. Con tìm cách kết nối với Thượng đế xa cách đó, và trong tâm con xây dựng một hình ảnh vị Thượng đế xa cách đó như thế nào, nhưng con vẫn tách biệt khỏi Thượng đế đó. Con chắc còn nhớ là bản chất của phản-Ki-tô là sự tách biệt với Thượng đế. Ông hoàng thế gian có thể dùng lòng ao ước chân thành muốn biết Thượng đế như một dụng cụ để củng cố hình ảnh Thượng đế xa cách. Sẽ có một lúc một người tầm đạo chân thành phải thăng vượt ngay cả ước muốn biết Thượng đế, thăng vượt khái niệm biết cái gì mình không là.

Khi con còn tách biệt với Thượng đế, thì con không thể thực sự biết Thượng đế, con không thể biết Thượng đế như thế nào, con cảm thấy thế nào khi là Thượng đế. Đây là ý tưởng mà thày để lại cho con để con suy ngẫm: “Cách duy nhất để biết Thượng đế, là Thượng đế!”