Hỏi: Tại sao không có bằng chứng không thể chối cãi 100% rằng linh hồn tồn tại sau khi chết, mặc dù các nhà khoa học và tâm lý ngoại cảm đã cố chứng minh từ nhiều năm?
Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.
Lý do là vì hành tinh địa cầu hiện đang vận hành như là nơi trú ngụ cho nhiều dòng sống với một trạng thái tâm thức nhất định nào đó. Những dòng sống này muốn phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, hoặc họ muốn phủ nhận Thượng đế đang ở ngay đây với họ. Nói cách khác, họ muốn tiếp tục sống trong ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình.
Luật Tự quyết cho phép họ sống trong ảo tưởng này trong một thời gian, và đó là tại sao họ không bị ép buộc phải chấp nhận một thực tại cao hơn qua một bằng chứng bất khả phản bác (plausible deniability). Vì vậy, sẽ không có một bằng chứng tuyệt đối nào được đưa ra về sự hiện hữu của Thượng đế, về thực tế của cõi tâm linh, về sự tồn tại của linh hồn sau cái chết vật lý và nhiều câu hỏi khác tương tự.
Chừng nào mà con người còn ở trong tâm thức tách biệt thì họ sẽ còn nhìn cuộc sống qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên, và do đó sẽ không có bằng chứng nào 100% không thể chối cãi được. Cách đây 2000 năm khi ta bước chân trên địa cầu, ta đã từng làm cho người chết sống lại, đã chữa lành cho người bệnh tật, đã đi bộ trên mặt nước, đã biến nước thành rượu, thế mà vẫn có những người không tin ta là Đấng Cứu thế.
Sự thật đơn giản là tâm nhị nguyên luôn luôn có khả năng đặt vấn đề và nghi hoặc bất kỳ bằng chứng nào. Bởi vì tâm nhị nguyên tương đối, nó luôn tìm cách tạo ra một khuôn khổ cho phép nó tin những gì nó muốn tin, vì vậy nó cũng không tin những gì nó không muốn tin.
Cho dù ta đã làm nhiều phép lạ, ta vẫn không thuyết phục nổi các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đốc, các luật sĩ và thày tế lễ nơi nhà thờ đạo Do thái. Ta có thể cam đoan với con, dù có đưa ra bằng chứng nào đi nữa thì cũng không thể thuyết phục được những thày thông giáo, những người Pha-ri-si, người Sa-đốc, luật sĩ cùng các thày tế lễ của đền thờ khoa học ngày nay, thậm chí cả đạo Cơ đốc chính thống.
Con thấy đó, một khi một lớp người thượng lưu quyền lực đã chế ngự một lãnh vực nào đó, thì họ sẽ sử dụng một quy tắc mà chúng ta có thể gọi là đặc quyền đặt vấn đề, đặc quyền nhào nặn các vấn đề theo ý mình. Khi họ chiếm hữu được độc quyền này, và nếu họ chỉ biết suy nghĩ trong tâm nhị nguyên tương đối, thì họ sẽ quy định một khung chuẩn trong đó tất cả mọi tin tưởng căn bản của họ không thể bị bác bỏ. Lý do không thể bác bỏ được là vì các tin tưởng đó đã được định ra để luôn luôn cung cấp cho họ một lối thoát. Họ luôn luôn có cách bác bỏ bất cứ bằng chứng nào đi ngược lại các niềm tin căn bản của họ, đi ngược lại hệ tư tưởng của họ.
Chẳng hạn, đa số người đạo Cơ đốc chính thống sẽ kịch liệt phủ nhận thực tại của luân hồi, và do đó họ tin vào giáo điều rằng linh hồn không hiện hữu trước khi xác thân vật lý được thụ thai. Thật vậy, nếu con không tin là linh hồn có trước khi thụ thai, con sẽ không thể đưa ra được một chứng cớ không thể chối cãi nào về sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết. Nếu linh hồn có thể tồn tại độc lập với thể xác thì nó có thể tồn tại cả trước khi thể xác thụ thai lẫn sau khi chết.
Tương tự như vậy, giới lãnh đạo khoa học cũng quy định rằng bất cứ gì mà không thể được chứng minh qua dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, thì không thể hiện hữu. Nhưng linh hồn là một thực thể phi vật chất, vậy thì làm thế nào linh hồn có thể được phát hiện bởi một dụng cụ làm bằng vật chất đây? Con cũng biết là một kính hiển vi thông thường không thể phát hiện được hạt hạ nguyên tử cho dù ống kính có mạnh đến đâu. Lý do giản dị là vì kính hiển vi phải sử dụng ánh sáng thấy được, nhưng độ dài của sóng ánh sáng khiến cho hạt hạ nguyên tử không thể nào nhìn thấy được một cách trực tiếp.
Các dụng cụ mà khoa học đã phát minh ra cho tới giờ không có khả năng phát hiện linh hồn. Có một số dụng cụ phát hiện được năng lượng của linh hồn, tuy nhiên cho tới giờ vẫn chưa được giới khoa học chính mạch chấp nhận.
Như ta vừa trình bày, Thượng đế đơn giản không muốn nhân loại có bằng chứng không thể chối cãi về hiện hữu của ngài hay của cõi tâm linh. Thượng đế muốn đó là một vấn đề đức tin, bởi vì nó sẽ vận hành như một phin lọc, để lọc lựa ra những ai không sẵn sàng nhìn xa hơn tâm nhị nguyên và tự ngã của mình. Dù sao thì đây chính là những người sẽ không thể bước vào Nước Trời, bởi vì khi nào họ còn nhìn với tâm nhị nguyên và tự ngã thì họ không có hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô. Vậy sẽ ích gì để mà chứng minh sự thật của thiên đường cho những người không có hy vọng vào được thiên đường?
Người ta có thể bảo: “Nhưng nếu có bằng chứng không chối cãi, thì những người đó sẽ đổi ý chứ.” Tiếc thay, điều này không đúng, như được minh chứng qua việc các lãnh đạo tôn giáo đã chối bỏ ta. Đã từng có vô số ví dụ mà qua đó các chân sư thăng thiên đã đưa ra bằng chứng được nhiều người chấp nhận nhưng lại bị một số người khác bác bỏ. Giản dị, những kẻ bác bỏ bằng chứng như vậy vẫn chưa thật sẵn sàng cho con đường dẫn đến quả vị Ki-tô.
Nếu con đọc Kinh thánh, con sẽ thấy ta thường hay nói rằng những ai có tai để mà nghe thì hãy cố nghe. Có tai có nghĩa là mình cởi mở với Sự thật Hằng sống chỉ có thể biết được qua chiêm nghiệm trực tiếp trong tim. Nếu con không cởi mở thì sẽ không có một bằng chứng vỏ ngoài nào có thể mở được tâm con và tim con ra với chân lý. Và khi con không mở tâm với chân lý, thì con sẽ có khả năng, và con sẽ, chất vấn và xé bỏ mọi bằng chứng khả dĩ có được.
Ta đã thấy những người đứng chứng kiến ta khiến cho một người chết sống lại. Họ biết rõ và tin chắc là người đó đã chết. Họ thấy rõ người đó đứng dậy và bước đi trước mắt họ. Ấy vậy mà họ vẫn không tin là ta có điều gì đáng giá để mà dạy họ. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn, tâm nhị nguyên của họ lại khiến họ ngờ vực, khiến họ lý giải đủ cách, rồi họ phủ nhận điều mà chính họ vừa chứng kiến với đầy đủ giác quan của họ. Người Tây phương có câu tục ngữ “Thấy thì sẽ tin”, nhưng câu này chỉ đúng cho những ai có tâm mở và tim mở. Còn những ai đóng chặt sẽ nhanh chóng tìm được đủ mọi lý lẽ để bác bỏ điều mắt họ vừa nhìn thấy.
Đó là vì sao ta từng nói: “Tô-ma, vì người đã thấy ta, nên người tin. Phúc cho những ai chẳng từng thấy mà đã tin” (John 20:29)
Sự thật phũ phàng là với tư cách là người tầm đạo tâm linh, con cần nhận ra là có những người hiện không ở trong một trạng thái tâm thức khiến họ có thể được đánh thức về con đường tâm linh, như ta có giải thích ở nơi khác. Vì vậy, con nên thận trọng để không lãng phí thời gian cùng sức lực với những người như thế. Như ta có nói:
“Đừng đem đồ thánh cho chó, cũng đừng ném ngọc quý trước mặt heo, kẻo nó đạp dưới chân và quay lại cắn xé các người.” (Matthew 7:6)
Câu này nghe thật tàn nhẫn, nhưng thực tế là cuộc sống quá ngắn ngủi để mà lo chuyện giúp đỡ những ai không muốn tự giúp mình. Có quá nhiều người khác có tâm cởi mở, và đó là những người mà ta nói đến khi ta bảo các môn đệ của ta hãy lo nuôi nấng đàn chiên của ta. Những người còn lại, đơn giản là con sẽ phải bỏ họ lại đằng sau, như ta đã nói: “Hãy theo ta, và để cho kẻ chết đi chôn kẻ chết.” (Matthew 8:22)