Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2022, nhân dịp Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô.
TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama.
Một truyền rải chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình
Hòa bình là một ngọn lửa, một năng lượng, một tâm thức, một sinh thể – một sinh thể vũ trụ mà sự chứng đạt vượt khỏi tầng mức nơi ta đang đứng trong tư cách đức Phật cho trái đất. Sinh thể vũ trụ này đã được từ hóa (magnetized) đến địa cầu bởi các chân sư thăng thiên, bởi các con là đệ tử của chúng tôi và bởi sự xoay chuyển tâm thức vừa xảy ra do hệ quả cuộc xâm lăng nước Ukraine. Biến cố đó đã tạo ra một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể đến độ chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã khẩn khoản sinh thể vũ tru đó từ hóa sự hiện diện của thày trong cõi ê-the bên trên địa cầu và rải xuống một sự phát tỏa chưa từng có của Ngọn lửa Hòa bình.
Hiển nhiên ngọn lửa hòa bình này không có nghĩa là trên địa cầu sẽ tức khắc có hòa bình theo nghĩa hòa bình vật lý. Ý nghĩa thực sự là ngọn lửa sẽ phơi bày ra tất cả mọi năng lượng, mọi tâm thức, mọi sinh thể của phản hoà bình, cho nên có vẻ như ngọn lửa sẽ đem lại cái đối nghịch của hòa bình, nhưng điều này sẽ chỉ kéo dài một thời gian. Chúng tôi đã từng nói là địa cầu không thể cưỡng lại lực kéo hướng thượng của toàn bộ bầu cõi. Và địa cầu cũng không thể cưỡng lại Ngọn lửa Hòa bình Toàn vũ. Cho nên đây là một sự đặc miễn, một cơ hội cho một địa cầu đã được từ hóa bởi bao nhiêu người trên trái đất mong muốn hòa bình. Họ mong muốn một tương lai được hưởng thái bình khỏi tay những kẻ sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực.
Tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực
Thế nào là tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Đó là một chất độc tâm linh. Nó có mấy yếu tố. Thật ra nó khởi lên từ tất cả những chất độc kia, từ vô minh cho đến dục vọng, thèm muốn, tham lam, bởi vì tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực không bao giờ thấy đủ. Những người, những sinh thể sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực tạo ra điều gì? Họ tạo ra đau khổ, thường là cho người khác, nhưng họ luôn luôn tạo ra đau khổ cho chính họ. Những kẻ chủ mưu chiến tranh, chẳng hạn, không thể tránh tạo ra trong chính tâm họ và bốn thể phàm của họ một sự nhiễu loạn có thể sẽ nhanh chóng khiến họ không sao chịu đựng nổi. Đó là tại sao con thấy một số nhà lãnh đạo khởi sự chiến tranh đã trở nên điên loạn – trong nghĩa đen – và họ bước vào một tâm trạng hoàn toàn hoang tưởng, xa rời thực tế. Cho nên liệu con có thể nói được là khi một sinh thể bước vào tâm thức mong muốn hay sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực, thì sinh thể đó có còn quyền tự quyết, còn ý chí tự do nữa hay không? Hay chẳng phải là họ đã nộp quyền tự quyết của họ cho những con quái vật tập thể, những quỷ dữ hay sa nhân chỉ muốn gây rối loạn hoặc mưu toan chứng minh Thượng đế sai lầm? Liệu những người như thế có còn ý chí tự do hay không? Họ có một ý chí, nhưng ý chí đó không tự do.
Điều gì xảy ra trong tâm lý những người đi vào tâm thức sẵn sàng chiếm đoạt bằng vũ lực? Hiển nhiên, họ cũng bước vào tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là họ có thể dùng tiến trình lý luận nhị nguyên để biện minh cho hành động của mình, nhưng chỉ từ một góc cạnh nào đó thôi. Con thấy đó, sức mạnh hướng thượng của toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên là tâm thức Ki-tô đưa tất cả mọi thứ xích lại ngày càng gần hơn với duy nhất. Chắc chắn, duy nhất là một cái gì khó mường tượng cho những người đầu thai trên một hành tinh với vật chất dày đặc như địa cầu, nhưng dù sao đi nữa, trong vũ trụ có một hướng chuyển động đi lên. Khi con đi vào tâm thức chiếm đoạt bằng vũ lực, con không thể ở trong duy nhất. Bởi vì nếu con ở trong duy nhất, con sẽ nhận ra là nếu con lấy của người khác bằng vũ lực thì con cũng lấy từ chính con, và thử hỏi có ai lại điên rồ đến mức làm chuyện đó?
Trạng thái phi hòa bình và phi tự do
Các sinh thể đó đi ngược lại sức mạnh hướng thượng của vũ trụ và họ không thể nào không cảm thấy điều đó. Thường thường họ không cảm thấy một cách ý thức. Họ không nhận thức được tại sao họ lại có cảm giác đó, nhưng họ cảm được một sự nhiễu loạn. Họ liên tục ở trong tâm trạng phi an bình, bất ổn này. Họ không thể bình an trong tâm. Cuối cùng nó có thể khiến họ điên loạn – cho dù con có định nghĩa từ này như thế nào – nhưng trong trung hạn, họ sẽ rơi vào một tâm trạng hoang tưởng nơi họ không thể nhìn ra hậu quả việc làm của mình. Họ không có khả năng nhìn nhận hậu quả việc làm của họ. Tại sao thế? Bởi vì để có thể sống còn về mặt tâm lý trong trạng thái phi an bình đó, họ phải cố tìm ra trong tâm một cách biện luận hầu bênh vực cho hành động hung hãn bạo ngược của họ, và họ không thể nhìn nhận hậu quả vì hậu quả sẽ vô hiệu hóa cách biện luận đó. Họ bắt buộc phải đi vào tâm trạng hoang tưởng, phủ nhận thực tế, hầu sống còn trong tâm lý.
Có nghĩa là gì? Có nghĩa là giờ đây họ bước vào tâm trạng cùng cực của phi tự do. Họ có còn tự do nào nữa hay chăng khi họ không thể rút lại những chuyện bạo lực mà họ đã làm, không thể hủy bỏ hay tháo gỡ những hậu quả mà họ đã gây ra cho tha nhân? Và nếu họ nhìn nhận các hậu quả đó, dù chỉ là hậu quả trên nhân dân họ và chính họ, thì họ sẽ phải công nhận là cách biện minh của họ không sao đủ được.
Có nghĩa là trong tâm, họ sẽ phải nhìn nhận là mình sai lầm, nhưng nếu họ đã ở trong trạng thái cùng cực muốn cưỡng chiếm thì họ cũng tự coi mình là cao trội hơn, vì cái cho họ ý muốn nắm quyền lực cao nhất cũng chính là cái khiến họ cưỡng chiếm. Và nếu đã là một sinh thể cao trội hơn thì họ không thể sai lầm – hay đúng hơn, họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và do đó họ cũng không thể nhìn nhận là mình sai lầm. Họ không thể nhìn nhận thực tế của những gì đang xảy ra trên thế giới, và do đó họ hoàn toàn phi tự do.
Họ không thể thay đổi quan điểm, vì khi họ thay đổi quan điểm hay thay đổi cách hành động, họ sẽ phải thừa nhận là hành động nguyên thủy của mình là sai trái và cách biện minh cho hành động đó cũng sai trái. Cho nên họ đã sai lầm, và khi đã là một sinh thể cao trội thì họ không thể chịu đựng mình đã sai lầm, và vì thế họ phải phủ nhận. Trong sự phủ nhận toàn diện đó, họ đánh mất tất cả mọi tự do trong tâm.
Bề ngoài có vẻ như sa nhân có tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải cân nhắc những hậu quả cho người khác mà một người bình thường sẽ cân nhắc. Có vẻ như họ thường hay trốn tránh được hậu quả việc làm của họ vì họ khiến cho những ai đi theo họ phải gánh dùm nghiệp chướng. Nhưng khi con nhìn sâu vào tâm của sa nhân, con sẽ thấy ở tầm mức của tâm, họ là những sinh thể ít tự do nhất. Họ có vẻ tự do ở tầm mức hành động vật lý, nhưng họ ít tự do nhất ở tầm mức của tâm.
Những lãnh đạo không chịu nổi là mình sai
Từ khá lâu nay chúng tôi đã có đề cập đến các thiên thần sa ngã qua một đợt truyền pháp trước. Trong đợt truyền pháp này, chúng tôi nói đến các sinh thể sa ngã và đưa ra một số lời dạy rất thâm thuý về sa nhân. Lời dạy đó đã đi vào tâm thức tập thể, đã chạm được những ai có tâm cởi mở do họ đã nhìn vào lịch sử và tự hỏi tại sao trên địa cầu lại có loại lãnh tụ như vậy, những người thiếu hẳn lòng trắc ẩn hay quan tâm đến nỗi đau khổ của người khác. Hẳn lời dạy này đã chạm được các con, những học trò trực tiếp của chúng tôi. Các con đã suy ngẫm những ý tưởng đó, đã đọc thỉnh dựa trên những bài truyền đọc của chúng tôi, và tất cả đã tạo ra một động lượng hướng thượng – giờ đây được tăng cường và kết tinh do cuộc xâm lăng nước Ukraine – đến độ hành tinh đã đạt đến một khối lượng tới hạn (critical mass).
Hiện nay đã có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể khi có nhiều người hơn thấy được, nhận ra được, sự cần thiết phải hiểu biết tại sao ngay cả trong thế giới hiện đại vẫn có những loại lãnh đạo như thế, những lãnh đạo sẵn sàng hành động bạo lực rõ ràng, gây ra biết bao hậu quả khốc liệt cho nhân dân xứ họ cũng như các xứ khác. Hơn thế, họ không sẵn lòng công nhận hậu quả đó để mà thay đổi hành động, thay đổi quan điểm của mình. Họ không có lòng trắc ẩn. Họ xem thường hậu quả mà họ gây ra, tại sao chứ? Như ta vừa nói, vì họ không thể chịu đựng nổi là mình sai lầm, và đây chính là điểm mà nhiều người đã bắt đầu nhìn ra: sự xơ cứng hoàn toàn, sự thiếu vắng khả năng cùng thiện chí để chấp nhận là mình đã sai lầm, hay việc làm của mình đã không tối ưu mà lại còn gây tổn hại cho chính quyền lợi của mình.
Sự xơ cứng của các chế độ độc tài
Điều này dẫn đến sự tỉnh ngộ rằng các nền dân chủ là những xã hội có đủ khả năng cho phép một lãnh đạo sai lầm. Những xã hội đó có đủ khả năng cho phép người ta sai lầm. Người ta có đủ khả năng nhìn nhận là mình đã sai lầm, rồi dựa vào đó, thay đổi cách nhìn và cách làm của mình. Đây là một trong những khác biệt cơ bản giữa một chế độ độc tài và một thể chế dân chủ. Người lãnh đạo trong một chế độ độc tài không thể công nhận là mình sai lầm, người dân không thể công nhận là mình đã sai lầm về lãnh đạo độc tài của mình, và sự thể này tạo ra một sự xơ cứng ở mức cơ bản, có nghĩa là một chế độ độc tài không có khả năng thích ứng với những tình huống thay đổi. Họ phải tiếp tục hành xử y như trước mà cứ chờ đợi kết quả sẽ khác đi, và như con cũng biết Einstein đã từng nói, đó chính là một hình thức điên rồ. Họ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ cứ đi xuống mãi cho tới khi một biến cố xảy đến, một biến cố gây sốc đến độ nó sẽ đập tan sự phủ nhận của họ. Có thể biến cố đó là một thảm bại toàn diện như con thấy trong trường hợp Đức quốc xã. Đó có thể là sự phơi bày những dã man khủng khiếp như con thấy với Đức quốc xã và cuộc diệt chủng người đạo Do Thái. Hay đó có thể là hiểm họa một sự sụp đổ kinh tế toàn diện như con thấy trong trường hợp Liên Xô.
Con cũng thấy đôi khi một chế độ độc tài có thể chuyển hướng và bước vào một vòng xoắn ốc hướng thượng. Con đã thấy Đế chế Anh đã phải tự xét mình như thế nào do tấm gương của Gandhi và phong trào bất bạo động, và vì thế họ đã chuyển đổi từ cách cư xử chuyên chế đối với Ấn Độ sang nhận thức là họ không thể tự xưng là một nền dân chủ ở trong nước mà lại hành xử độc tài ở ngoài nước. Con đã thấy nước Đức chuyển đổi từ một quốc gia độc tài dưới Hitler thành một quốc gia dân chủ. Gần đây con thấy nước Đức nhìn nhận là chính sách của họ đối với Nga và Putin là một sai lầm và họ sẵn sàng thay đổi. Con cũng thấy các nước dân chủ khác nhìn nhận là họ đã đánh giá sai về Putin cùng tình hình ở Nga và họ cũng sẵn sàng thay đổi theo đó. Nhưng con cũng thấy một số nước dân chủ chưa sẵn sàng làm chuyện đó.
Uyển chuyển có nghĩa là sống còn
Dù sao đi nữa, điều ta muốn nêu ra ở đây là ta đã từng đầu thai trên trái đất rất nhiều ngàn năm trước khi hiện thân là Phật Gautama. Ta đã không là Phật trong suốt thời gian đó – ta chưa chứng được tâm thức Phật nhưng ta đã đầu thai trong một thời gian rất dài. Ta thăng thiên cách đây 2500 năm và kể từ đó, ta đã là một chân sư thăng thiên trong tâm thức Phật. Ta có một kinh nghiệm rất dài, một cái nhìn vô cùng dài hạn về địa cầu. Điều này có nghĩa là khi nói về xã hội, ta biết cái gì có thể sống còn và cái gì không thể sống còn. Và quả thực, cái duy nhất có thể sống còn là khả năng thích nghi, tính linh hoạt uyển chuyển, sự sẵn lòng thay đổi. Không chỉ thay đổi chiều ngang mà thay đổi chiều dọc, thay đổi trong sự thăng vượt mức tâm thức cũ của mình.
Bất cứ ai có cái nhìn dài hạn như ta đều có thể thấy sự tiến bộ là một đòi hỏi tuyệt đối, không chỉ trên địa cầu mà khắp mọi nơi trong vũ trụ. Thăng vượt trạng thái cũ, tiến lên một trạng thái cao hơn, đó chính là nền tảng để sống còn. Con cũng có thể thấy được điều này khi con nhìn vào lịch sử, nhìn xem những xã hội đã ra đời và biến mất như thế nào. Con có thể nhìn vào các loài động vật và dòng tiến hóa. Tại sao loài khủng long lại tuyệt chủng? Vỉ chúng không thể thích nghi. Thật sự con có thể thấy, đây chính là một định luật tự nhiên. Tất nhiên, đây cũng là một định luật tâm linh nhưng con có thể nhìn hoàn toàn trung hòa và gọi đó là một định luật tự nhiên. Khi xã hội trở nên xơ cứng, thiếu uyển chuyển và từ chối thích ứng, xã hội đó sẽ không thể bền vững trong thời gian. Nó có một thời hạn, một thời điểm hết hạn. Điều gì khiến cho một xã hội trở nên xơ cứng? Khi người ta không thể nhìn nhận, không nhất thiết rằng mình sai lầm, mà người ta không thể nhìn nhận là mình có khả năng làm tốt hơn những gì mình đang làm.
Sự sụp đổ của các nền văn minh và sức kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ
Tiến tới cái tốt đẹp hơn là một định luật. Tất nhiên, dựa theo lịch sử ghi chép thì con không nhất thiết thấy được là đã từng có những thời đại trong quá khứ khi toàn bộ hành tinh rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khiến cho các nền văn minh bị sụp đổ. Một hành tinh như địa cầu hoàn toàn có khả năng rơi vào một vóng xoáy hướng hạ và đi ngược lại định luật tự nhiên của sự tự thăng vượt tuần tự. Nhưng hiển nhiên biến cố đó cũng đã gây ra sự sụp đổ cho các nền văn minh, sự hủy diệt của các nền văn hiến và dân số bị suy giảm xuống một mức rất thấp so với ngày nay. Tình trạng này tất nhiên không thể duy trì mãi, và đã tới một điểm khi không còn nơi nào thấp hơn để đi xuống và vòng xoáy hướng hạ đã chạm đáy.
Thế rồi lực kéo hướng thượng của phần còn lại của vũ trụ bắt đầu vực địa cầu lên trở lại, và lần hồi loài người lại đáp ứng, tạo nên một động lượng đi lên. Có những thế lực hoạt động chống lại một động lượng đi lên như vậy và chúng có thể phần nào thành công dựng lên những đế quốc tạm thời chặn đứng sự tăng trưởng. Và mặc dù đôi khi chúng có thể kéo dài cả ngàn năm nhưng chúng không thể tồn tại mãi mãi.
Và ngay cả nếu con nhìn vào lịch sử được ghi chép, con sẽ thấy tuổi thọ của những đế quốc như vậy rõ ràng ngày càng ngắn ngủi hơn. Đế chế La Mã sống sót được khá lâu. Đế chế Công giáo La Mã sống sót được một thời gian. Đế chế Nga hoàng, các vị vua tại Âu châu, các vương quốc châu Âu, cũng sống sót một thời gian, nhưng con thấy ngày càng ngắn hơn. Rồi con chứng kiến các lãnh tụ với tham vọng chinh phục toàn thế giới, như Napoleon thành công một thời gian nhưng không được bao lâu. Con thấy Hitler cũng thành công một thời gian nhưng rất ngắn ngủi. Con thấy là lãnh đạo càng hành xử bạo ngược bao nhiêu thì tuổi thọ của chế độ càng ngắn ngủi bấy nhiêu. Liên bang Sô viết sống sót được như vậy là vì họ tránh được chiến tranh lạnh trở nên quá nóng. Putin đã kéo dài được như vậy cũng là vì ông đã tránh vượt qua lằn ranh đó. Nhưng bây giờ lằn ranh đã bị vượt qua thì không có đường nào để quay trở lại được nữa.
Một nhận biết mới tại các quốc gia phi dân chủ
Đây là một điểm mà nhiều người có thể nhận biết và nắm bắt được, không những tại các nước dân chủ mà cả các nước phi dân chủ. Có một động lượng đang được vun đắp trong tâm thức tập thể, đó là: Rất, rất nhiều người tại các nước phi dân chủ đã hiểu ra – đột nhiên mà không cần suy nghĩ gì đặc biệt – rằng họ cũng đang mang các nhược điểm nói trên trong quốc gia của họ, trong chính quyền cũ và trong các chế độ độc tài. Họ bắt đầu thấy được là mình đang ở trong một vòng xoắn ốc tự hủy diệt không thể kéo dài lâu hơn. Và nếu xã hội của họ muốn tránh khỏi phần nào bị đổ vỡ thì phải có một sự thay đổi.
Có những người tại Trung quốc thấy được là một cuộc xâm lăng Đài Loan sẽ là một hành động tự sát đối với đảng Cộng sản và thiểu số tự tôn quyền lực Trung quốc. Có những người tại các nước Ả rập thấy được là không thể nào kéo dài tình trạng đạo Hồi chi phối chính quyền đến mức đó. Có những người tại một số nước khác thấy được là âm mưu của một số lãnh đạo nhằm khuynh đảo và phá hoại nền dân chủ, cũng như tự trao cho mình những quyền hạn vi hiến, là không bền vững. Thổ Nhĩ Kỳ là một ví dụ hiển nhiên của tệ trạng này. Đổi tên thôi thật không đủ mà cần đổi cả cách hành xử, có nghĩa là cần đổi người cầm đầu ở trên cùng.
Hẳn là có một động lượng như vậy đang được bồi đắp ở hạ tầng nhưng hầu như chưa được người ta nhìn thấy hay công nhận – một động lượng hướng tới việc nhận thức rằng đau khổ không phải là một điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Đau khổ phần lớn do con người tạo ra, và nó được tạo ra bởi những kẻ chiếm đoạt bằng vũ lực, những kẻ biện minh cho bạo lực và nhất định không thừa nhận là mình sai lầm. Chính sự xơ cứng đó, chính sự kháng cự lại nhu cầu phải thích nghi và thay đổi, là nguyên nhân thực sự của hầu hết mọi khổ đau có mặt trên địa cầu. Hay nói cách khác, đó là động lực chủ yếu làm khuấy động biển luân hồi.
Chìa khóa để khắc phục đau khổ con người
Như ta có nói, động lượng hướng thượng đã phần nào do các học trò của chân sư thăng thiên xây dựng lên, phần nào do rất nhiều Phật tử suốt 2500 năm qua đã cố gắng hiện thân những lời dạy mà ta truyền giảng, phần nào do rất nhiều tín hữu Cơ đốc đã cố gắng hiện thân những lời dạy của Giê-su, và phần nào cũng do rất nhiều người tại các nước dân chủ lẫn phi dân chủ đã suy ngẫm về sự khác biệt giữa chế độ độc tài và thể chế dân chủ. Họ đã suy ngẫm: “Tại sao lại có đau khổ con người? Đâu là nguyên nhân? Có thể làm gì được để giảm bớt, thậm chí loại bỏ, đau khổ con người? Có thể nào trừ hẳn mọi đau khổ con người?” Nhiều người đã đặt ra câu hỏi đó. Một số đã kết luận là chuyện đó không thể làm được, vì họ không thấy được làm thế nào. Nhưng một số đã suy ngẫm là chuyện đó phải có cách làm được. Họ có thể trực nhận, hoặc có thể họ biết được từ tiền kiếp, hay trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai, rằng có cách giảm bớt, loại bỏ, giải quyết đau khổ con người.
Nói cho cùng, chẳng phải đó là những gì Phật đã nói hay sao? Chẳng phải là những gì Giê-su đã nói? Chẳng phải là những gì nhiều tôn giáo khác và nhiều phong trào tâm linh khác cũng đã nói? Có cách vượt qua đau khổ. Một số sẽ bảo, người ta chỉ thoát được đau khổ sau khi nhắm mắt bỏ lại cõi đời này. Nhưng nhiều người khác, đặc biệt trong thời đại hôm nay, bắt đầu tự hỏi: “Hẳn là phải có cách nào thoát khỏi khổ đau ngay trong thế giới này chứ?” Điều mà nhiều người trong số đó bắt đầu cảm nhận là con người có khả năng thoát khỏi khổ đau không qua một phương thức vỏ ngoài, không bằng cách tạo dựng một xã hội lý tưởng hay không tưởng. Vì nói cho cùng, đau khổ xảy ra ở đâu? Con có thể bảo rằng nếu con ngã ngựa và gẫy chân thì có một cơn đau vật lý khiến con đau khổ. Nhưng đau khổ đó được trải nghiệm ở đâu? Trong tâm con. Khi con được tiêm một mũi thuốc tê để làm dịu cơn đau, liệu thuốc tê có ảnh hưởng gì trên cái chân gẫy của con? Hay là thuốc tê ảnh hưởng đến bộ não cảm nhận cơn đau vật lý?
Nhưng xa hơn cơn đau vật lý, tất nhiên còn có trải nghiệm tâm lý về nỗi đau, và đây chính là đau khổ. Cơn đau, nỗi đau vật lý, ngay cả khi được trải nghiệm bởi bộ não, không thật là đau khổ, bởi vì đau khổ không là cùng một thứ như cơn đau. Cơn đau có thể gây ra hay kích hoạt đau khổ, nhưng tự thân cơn đau không phải là đau khổ. Đau khổ là một trải nghiệm của tâm. Nó có thể bao gồm một số yếu tố nhưng luôn luôn có yếu tố này: “Đúng ra tôi không được cảm thấy cơn đau này. Đúng ra tôi không phải trải nghiệm điều kiện này. Đúng ra những người kia không được hành xử như vậy với tôi.” Luôn luôn trong tâm có một ý niệm rằng chuyện đó đúng lý không được xảy ra. Nhưng bởi vì nó đang xảy ra và con không thể làm cho nó biến mất, cho nên đó là cái gây ra đau khổ.
Nhiều người ít ra đã bắt đầu ngờ ngợ và cảm nhận được là đau khổ diễn ra trong tâm, có nghĩa là mặc dù nó có thể được những yếu tố bên ngoài kích hoạt, nhưng nguyên nhân thực sự của đau khổ phải nằm bên trong. Và điều này có nghĩa là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là làm việc trực tiếp trên tâm mình. Chắc chắn các xã hội dân chủ đã cố gắng tạo ra một môi trường nơi các công dân không phải trải nghiệm rất nhiều điều kiện vỏ ngoài thường hay gây ra đau khổ hay kích hoạt đau khổ. Có nhiều người lớn lên trong một xã hội dân chủ đã sống cả đời mà không phải trải nghiệm những loại tình huống vật lý khắc nghiệt đó. Thế nhưng nhiều người vẫn đau khổ. Họ đau khổ mặc dù họ không có lý do vật lý nào để đau khổ, nhưng họ có một lý do tâm lý gây ra đau khổ.
Các nền dân chủ đã chứng minh là cho dù người dân được cung cấp những điều kiện vật chất lý tưởng, điều này vẫn không loại bỏ được đau khổ. Giờ đây đã rõ ràng là cách duy nhất để loại bỏ đau khổ là phải làm việc trên tâm. Và như con cũng biết, đó chính là điều ta đã nói cách đây 2500 năm. Đó là điều Giê-su đã nói cách đây 2000 năm. Và đó cũng là điều mà Khổng Tử và Lão Tử cùng bao nhiêu vị sứ giả tâm linh khác đã nói rất nhiều lần trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Thường người ta đã không lắng nghe các vị đó, bởi vì mặc dù người ta có thể nghe được lời dạy vỏ ngoài nhưng người ta không thể hoàn toàn thể nhập được lời dạy. Nhưng ngày nay chúng ta đã tiến gần hơn đến một thời đại khi càng ngày sẽ càng có nhiều người có khả năng nắm bắt lời dạy, nắm bắt nội dung thực sự của lời dạy, và đó là: Chìa khóa để vượt qua đau khổ nằm trong tâm con người.
Con có thể toan tính tạo dựng một xã hội không tưởng, và con có thể toan tính tạo dựng một xã hội lý tưởng, nhưng con sẽ không bao giờ giảm thiểu được đau khổ. Con thấy được điều gì trong một xã hội dựa trên vũ lực với một chính quyền dựa trên vũ lực? Con thấy đau khổ ở một mức cao trong loại xã hội đó. Người dân trong Liên bang Sô viết rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào thời đó. Người dân ở Nga trước cuộc xâm lược rõ ràng đau khổ hơn người dân tại Tây Âu vào lúc đó. Người dân ở Nga sau cuộc xâm lược rõ ràng đang đau khổ hơn người dân tại Tây Âu.
Con thấy đó, trong một xã hội dựa trên vũ lực, với một chính quyền dựa trên vũ lực, người dân đau khổ hơn. Trong một quốc gia dân chủ, người dân đau khổ ít hơn, nhưng họ vẫn đau khổ. Và đau khổ của họ cũng khác. Họ không đau khổ do hệ quả của những điều kiện vỏ ngoài, nhưng giờ đây càng ngày họ sẽ càng đau khổ do những điều kiện tâm lý. Chúng tôi đã từng giải thích nguyên nhân của sự thể này, rằng những ai đã từng trải qua chấn thương trong tiền kiếp sẽ có xu hướng muốn đầu thai, nếu có thể, trong một quốc gia dân chủ nơi họ có cơ hội tốt hơn để giải quyết tâm lý chấn thương của họ.
Con không thể loại bỏ đau khổ bằng vũ lực
Nhưng dù sao thì điểm ta muốn nói ở đây là con cần tự hỏi, chủ yếu tại các nước dân chủ nhưng cũng ở mọi nước khác: Đâu là mục đích của xã hội chúng ta? Con có thể nhìn vào các chế độ độc tài và thấy được mục đích của độc tài là để cung cấp cho nhà độc tài cùng thiểu số thượng lưu quyền lực đang ủng hộ ông ta tất cả những gì mà họ thèm khát – cảm giác quyền lực, cảm giác mình cao trội, cảm giác mình đặc biệt, cảm giác mình giàu có, cảm giác mình có nhiều đặc quyền, bất kỳ … Nhưng toàn bộ xã hội đó đặt trên nền tảng sự tước đoạt bằng vũ lực mà thiểu số độc tôn quyền lực này đã áp đặt lên dân chúng.
Rõ ràng là khi con có một xã hội dựa trên vũ lực nơi đa số dân chúng gần như làm nô lệ cho một thiểu số thượng lưu, thì dân chúng sẽ phải khổ đau. Sẽ không thiếu gì những điều kiện bên ngoài khiến cho dân chúng khổ đau vì họ sẽ cảm thấy là chuyện đó không phải phép, rằng đúng ra họ phải có một cuộc sống tốt đẹp hơn, đúng ra họ không được bị kềm kẹp đến như vậy, đúng ra họ không được bị chà đạp, vân vân. Nhưng như ta vừa giải thích, thật sự không có ai đau khổ bằng chính nhà độc tài cùng nhóm tay sai của ông ta. Họ mới là những người đau khổ nhiều nhất.
Con có thể nói được như thế này: Một xã hội dựa trên vũ lực không phải là một xã hội có mục đích chấm dứt, hay ngay cả giảm thiểu, đau khổ của con người, và cho dù nó có muốn biết mấy thì nó cũng sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu đó. Con không thể loại trừ đau khổ bằng vũ lực. Vũ lực sẽ chỉ tạo thêm đau khổ. Và tất nhiên, đau khổ cũng tạo thêm vũ lực, bởi vì những người có tư duy đó sẽ nghĩ rằng nếu họ đang đau khổ thì hẳn phải có một nguyên do vỏ ngoài nào đó, và nếu họ dùng vũ lực để tiêu diệt nguyên do đó thì họ sẽ hết đau khổ. Thế nhưng nỗ lực tiêu diệt nguyên do sẽ chỉ gây ra thêm nhiều khổ đau, và như thế họ rơi vào cái vòng xoắn ốc không bao giờ ngừng lại mà sẽ chỉ ngày càng cuồng nhiệt hơn, cho tới khi họ không thể sống còn về mặt tâm lý, thậm chí cả về mặt vật lý.
Con không thể loại bỏ đau khổ qua phúc lợi vật chất
Khi con nhìn vào các nền dân chủ, con có thể nói được điều gì về dân chủ? Con có thể nói đó là những xã hội có mục đích giảm thiểu tối đa đau khổ con người, giảm thiểu tối đa đau khổ của quần chúng nói chung. Thậm chí con có thể nói rằng mục đích cao hơn của một nền dân chủ là loại bỏ đau khổ con người. Nhưng điều chúng tôi đang chỉ ra cho con qua loạt bài giảng này là điều đó không thể nào thực hiện được, bất kể xã hội vỏ ngoài mà con tạo dựng có tốt đẹp đến đâu. Bất kể các điều kiện vật chất có tốt đẹp thế nào, bất kể người dân có tự do chừng nào, bất kể cuộc sống có dễ dàng biết mấy, thì điều đó cũng không loại bỏ được khổ đau bởi vì nguyên nhân đau khổ nằm trong nội tâm. Như chúng tôi đã có nói, bước lô-gíc kế tiếp cho các nền dân chủ tân tiến là cần chú tâm vào sức khỏe tâm lý, phúc lợi tâm lý, thay vì phúc lợi vật chất.
Đây rõ ràng là thêm một bước tiến, một bước lô-gíc và tự nhiên trong tiến trình mà các nền dân chủ hiện đại đi qua – ít ra là các nền dân chủ đã phát triển cao nhất trong tiến trình dân chủ. Một lần nữa, điều này không có nghĩa là họ phải công nhận một giáo lý tâm linh hay sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, nhưng họ thực sự cần khám phá ra một số nguyên lý phổ quát về tâm lý con người rồi đem ra áp dụng.
Con có thể nói giống như các thày cũng đã nói, vấn đề quan trọng thực sự cho dân chủ là con người, chứ không phải là tư tưởng, hay lý thuyết, hay chủ nghĩa. Điều thực sự quan trọng cho dân chủ là quần chúng nói chung, chứ không phải một thiểu số thượng lưu. Và một bước cao hơn trong mục đích của dân chủ chính là giảm thiểu nỗi khổ đau của dân chúng. Hiển nhiên, đây là một điểm mà càng ngày sẽ càng có nhiều người xét đến, nắm bắt, công nhận, rồi họ sẽ nói đến, sẽ viết lách. Là học trò trực tiếp của chúng tôi, các con là một thành phần của tiến trình này khi các con nâng cao tâm thức của mình, khi các con đọc thỉnh đọc chú, khi các con tu học giáo lý, nhưng ngoài các con ra thì còn rất, rất nhiều người khác.
Tạo vòng xoáy hướng thượng cho mọi người
Như chúng tôi có giảng mấy lần trong các đợt truyền pháp trước, học trò của chúng tôi đã có nhu cầu cảm thấy chỉ có mình mình đang cứu nguy địa cầu cho Saint Germain. Nhưng như con đủ trưởng thành để nhận ra, đó chỉ là một cái nhìn ngây thơ. Muốn thay đổi thế giới phải cần đến rất, rất nhiều người. Con có thể là người đi tiên phong, là mũi nhọn của ngọn giáo, nhưng con không thể làm chuyện đó một mình. Thật là ngây thơ mà nghĩ như vậy. Cho nên mấy lần rồi chúng tôi đã yêu cầu các con xoay chuyển, tức là các con không làm những gì con đang làm để nâng mình lên thành người đặc biệt, vì khi con mang tư duy đó thì con sẽ rất dễ dàng mở cửa ra cho chất độc tâm linh của ganh tị và ghen ghét. Chất độc này khiến con làm gì? Con muốn chỉ có mình con thực hiện một điều gì tích cực cho Saint Germain. Con không muốn mọi người ở ngoài kia hoà điệu với tư tưởng của các chân sư rồi đem ra áp dụng vì họ sẽ tước mất công lao của con. Trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên đã có lối tư duy như thế, cũng như trong nhiều phong trào tôn giáo lẫn tâm linh.
Nhiều đạo sư vẫn còn mong muốn nâng cao bản thân mình và họ truyền mong muốn đó cho đệ tử của họ. Chúng tôi yêu cầu các con hãy bước lên một mức trưởng thành cao hơn, buông nó ra để nắm lấy viễn kiến rằng tất cả những ai có tiềm năng hòa điệu với các ý tưởng nói trên, tiềm năng đem vào thực hiện và thay đổi thế giới, sẽ ra tay làm chuyện đó. Họ sẽ đạt được thành công tối đa như trong sứ vụ thiêng liêng của họ. Bởi vì thật sự, con yêu dấu, khi con đạt đến một mức cao hơn của quả vị Ki-tô, con sẽ thấy việc người khác hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của họ hiển nhiên không thể ngăn trở chính sứ vụ thiêng liêng của con. Ngược lại là đằng khác, người khác càng thành công bao nhiêu thì chính con cũng thành công bấy nhiêu, vì con là một phần của tổng thể, và chỉ bằng cách nâng cao tổng thể đó thì con mới nâng cao chính con một cách tối đa. Điều này con sẽ thấy là chuyện đương nhiên một khi con đạt đến một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Con hiểu ra cái quan trọng nhất không phải là con như một sinh thể tách biệt. Cái quan trọng nhất là cái ta rộng lớn hơn của tất cả những ai đã bước vào vòng xoáy hướng thượng. Nói cho cùng, đó là toàn bộ nhân loại, vì tất cả mọi người đều có thể được vòng xoáy hướng thượng đó kéo lên, ngay cả khi họ chưa tích cực neo chặt và chưa gia tốc vòng xoáy đó.
Thành công to lớn của hội nghị này
Hội nghị này – và ta không nói điều này để khiến con cảm thấy mình đặc biệt, nhưng con xứng đáng nhận được một sự lượng định thực tiễn – hội nghị này đã có một tác động đáng kể do thời điểm của nó. Do sự xoay chuyển, sự thức tỉnh mà liều thuốc gây sốc của Putin đã kích hoạt, hội nghị này, các bài truyền đọc của chúng tôi, những lời kêu gọi của các con, nỗ lực thể nhập và lắng nghe bài truyền đọc của các con, đã có một tác dụng to lớn hơn rất nhiều so với bình thường.
Con có thể nói: “Nhưng các thày đã có thể, nói chung, ban ra cùng những bài giảng này cách đây sáu tháng.” Các con đã có thể đọc, không cùng những bài thỉnh nhưng những bài thỉnh quyền năng hơn, và chúng ta đã có thể tổ chức một hội nghị về dân chủ và quả vị Ki-tô vào mùa thu [Bắc bán cầu]. Nhưng bởi vì tâm thức tập thể lúc đó ở trong một tình trạng bế tắc cho nên một hội nghị vào thời điểm đó sẽ không thể nào có được tác dụng mà nó có bây giờ. Trong hội nghị này, các con đã tác dụng thật to lớn để định hướng một tâm thức tập thể bị lâm vào rối loạn – một tâm thức tập thể chứa đựng rất nhiều năng lượng nhưng lại thiếu sót một hướng đi. Tuy đã có một đường hướng nào đó vì như chúng tôi có nói, quả thật các quốc gia dân chủ đã phản ứng ở mức độ cao hơn là chúng tôi chờ đợi, nhưng hướng đi vẫn thiếu sót và các con đã cống hiến được một lực đẩy. Lực đẩy này, nếu người ta chịu nắm lấy, có thể sẽ kết tụ thành những viễn quan mới, những đường hướng mới và một niềm quyết tâm mới. Về điểm này, các con xứng đáng được chúng tôi biết ơn.
An bình đến từ thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được”
Có lẽ con đã nhận diện ra chúng tôi là những sinh thể uyển chuyển, linh hoạt tột bậc. Điều này sẽ khiến cho một số hoc trò của chúng tôi ngạc nhiên vì họ tưởng chúng tôi bất biến. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi bình đẳng ở mức tâm thức của mình mặc dù vẫn luôn luôn tự thăng vượt như chúng tôi đã có nói. Nhưng chúng tôi uyển chuyển một cách vô biên trong việc giúp đỡ loài người trên địa cầu. Bất kỳ trong hoàn cảnh nào, bất kỳ chuyển đổi nào trong các điều kiện trên địa cầu, chúng tôi cũng luôn luôn tìm cách tận dụng để khởi xướng tăng triển. Chắc chắn chúng tôi sẽ ưa thích hơn nếu cuộc chiến này đã không xảy ra. Nhưng giờ đây nó đã xảy ra thì chúng tôi không nhìn cuộc chiến với chút tiếc nuối nào. Chúng tôi nói:”Làm thế nào giúp được mọi người tiến tới tử điểm này? Làm thế nào biến nó thành một cái gì tích cực, biến nó thành một cơ hội tăng triển sẽ thực sự đem lại tăng triển, để đưa hành tinh và những xã hội có thiện ý đó xích lại gần hơn với Thời đại Hoàng kim của Saint Germain?”
Tất nhiên đây cũng là một thái độ mà các con là học trò của chúng tôi có thể khoác vào. Vị sứ giả này, như ông có chia sẻ, đã bị chấn động khi cuộc chiến bùng nổ, nhưng ông đã làm việc trên bản thân cùng tâm lý của ông, và ông đã thay đổi thái độ. Một ý tưởng đã giúp cho ông là khi con nhìn vào trái đất ngày nay, con có thể thấy các điều kiện hiện hữu trên hành tinh kém xa những gì sẽ hiện hữu trong Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Chúng tôi đã ban ra nhiều lời dạy về Thời đại Hoàng kim của Saint Germain, đủ để con thấy được là các điều kiện hiện hữu trên điạ cầu ngay bây giờ rất, rất thấp kém so với Thời Hoàng kim, và điều này có nghĩa là những cuộc thay đổi to lớn sẽ cần diễn ra trước khi thời đại đó có thể thực sự bắt đầu thị hiện.
Sứ giả này đã hiểu ra là cho tới giờ, ông đã có thái độ, có tư duy, ông đã hy vọng, đã mong mỏi, đã cầm giữ viễn kiến rằng những thay đổi đó sẽ diễn ra lần hồi và tuần tự, để không có những biến động quá lớn, chẳng hạn như chiến tranh, như bệnh dịch corona, như một sự sụp đổ kinh tế hay những biến cố khác giống như vậy. Ông cứ hy vọng sẽ được thấy cùng một loại tăng trưởng như ông đã chứng kiến gần như suốt đời và hầu hết các con cũng đã chứng kiến gần như suốt đời trong thế giới dân chủ tân tiến – tức là một sự phát triển lần hồi và ổn định không có cú sốc lớn.
Ông hy vọng như vậy. Nhưng khi ông xem xét tư duy đó, ông mới nhận ra: “Nhưng nếu sự thay đổi lớn lao cần thiết đó chỉ diễn ra thật tuần tự, thì chẳng phải là nó sẽ tốn rất nhiều thời gian trước khi thời hoàng kim có thể thị hiện hay sao?” Điều này đã khiến ông xoay chuyển tư duy, và ông nói: “Nếu vậy thì tôi có thể chấp nhận một số biến động to lớn, một số biến cố dữ dội có khả năng xoay chuyển tư duy, hầu chúng ta có thể biểu hiện thời hoàng kim sớm sủa hơn.” Tất cả các con đều có thể làm giống như vậy, không những vì nó sẽ gia tốc sự tăng triển bởi con không mang một viễn kiến khuyến khích sự tăng triển chậm chạp, mà cũng vì chính con có thể đạt được một niềm an bình lớn hơn khi các biến cố đó xảy ra.
Ta hoàn toàn không có ý giảm thiểu nỗi đau khổ của người dân Ukraine. Ta không đang nói rằng nếu con sống tại Ukraine thì con phải giữ được an bình giữa tất cả những gì đang xảy ra. Nhưng có rất nhiều các con, hầu hết các học trò của chân sư đang sống tại các quốc gia hòa bình hơn, các con có thể chọn lấy một trạng thái tâm an bình hơn. Các con chọn lấy thái độ “bất cứ gì xảy ra cũng được” thay vì lòng sợ hãi: “Ồ, chuyện này không được xảy ra, hay chuyện kia không được xảy ra.” Có nghĩa là khi một biến động lớn xảy đến, con sẽ không bị mất an bình. Con sẽ không bước vào trạng thái nhiễu loạn khi con nghĩ, giống như ngay cả sứ giả này trong những ngày đầu của cuộc chiến cũng nghĩ: “Ồ, chuyện này đúng lý không được xảy ra. Làm sao nó đã xảy ra được? Chuyện này không được xảy ra.” Thay vào đó, con bước vào thái độ: “Vậy à, chuyện đó đã xảy ra, làm thế nào chúng ta có thể dùng nó một cách tối ưu? Làm thế nào chúng ta có thể biến nó thành một bước tăng triển?” Làm như vậy sẽ giúp con đối mặt dễ dàng hơn với thời gian còn lại của con trong kiếp hiện thân.
Lời đề nghị của Gautama
Có thể sẽ có những sự xoay chuyển rất mãnh liệt. Chúng tôi không bao giờ nói rằng những cuộc xoay chuyển như vậy sẽ không xảy ra. Nhưng chúng tôi đã cố làm việc để đạt đến một nhịp tăng triển đều đặn hơn không đòi hỏi những cú sốc quá lớn trong Trường đời Cay đắng. Các con là những học trò trực tiếp, các con không ở trong Trường đời Cay đắng, cho nên các con có thể cố gắng đạt được một trạng thái tâm không bị xáo trộn khi người khác phải nhận chịu những cú giáng đó. Tâm này, ta mong muốn con có được. Ta hy vọng hội nghị này đã giúp con xích lại gần hơn với trạng thái an bình đó. Nếu không, ta trao cho con Ngọn lửa An bình Toàn vũ của ta sẽ dẹp yên những ý nghĩ lăng xăng đó. Con hãy đọc bài chú của ta, hay con có thể chỉ đọc đoạn lặp lại, gồm có bốn câu. Con có thể học thuộc lòng đoạn này rất nhanh chóng và con hãy đọc khi cảm thấy nhiễu loạn. Con hãy đọc khi con nằm trên giường vào buổi tối và thấy mình khó ngủ. Con chỉ cần lặp lại đoạn điệp khúc trong bài chú của ta:
Gautama, Lửa Hoà bình Hoàn vũ,
Chấm dứt hẳn bao ý nghĩ lăng xăng,
Thày với con tỏa ra niềm thanh thản
Cho Biển động Luân hồi được yên lắng.
Ta giữ viễn kiến cho con là biển luân hồi sẽ được yên lắng trong tâm con. Và như vậy, ta niêm con trong Ngọn lửa Hòa bình Hoàn vũ của ta cũng như ngọn lửa biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên mà con đã lắng nghe hay đã cầu thỉnh trong suốt dịp hội nghị tuyệt vời này.