16 | Thỉnh cầu tâm thức Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, con kêu gọi Giê-su Ki-tô hãy giúp con khắc phục các ngã tách biệt đang ngăn cản con chấp nhận và trải nghiệm con đã là tâm thức Ki-tô rồi, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm thày là vị thày dễ kết nối nhất, vì thày là đại diện của tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, con sẵn lòng trải ngiệm tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, tâm thức một, thống nhất, hợp nhất mà từ đó mọi thứ được tạo thành.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Bất cứ con ở đâu trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương nơi con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm thày luôn luôn ở sát bên con, thày ở bên con khắp mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở. Con muốn nhập một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ để con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả, vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt?

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, con buông bỏ ảo tưởng là con đặc biệt, con đứng trên luật lệ của con người, đứng trên luật của Thượng đế, và con có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì con muốn mà không phải chịu hậu quả.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là thày ở đây để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, đúng thực là trạng thái tâm thức khi con trải nghiệm Ki-tô bên trong mình, và con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, con buông bỏ các hình ảnh mà Cơ đốc giáo đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh, vì con thấy các hình ảnh này ngăn cản không cho con kết nối với thày. Xin thày giúp con thấy các ngã tách biệt đang duy trì hình ảnh thày là người con duy nhất của Thượng đế và con là một tội đồ.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, để con có thể khắc phục các ngã tách biệt và chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, con có khả năng kết nối với thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là nếu không có tâm thức Ki-tô, thì không có cá nhân nào được tạo thành, hay nói đúng hơn, được sinh ra. Người Con duy nhất được sinh ra từ đức Cha là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con được sinh ra từ Thượng đế, con xuất phát từ tâm thức Ki-tô. Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không thì làm sao con có thể có tự nhận biết?

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô, con là một với tâm Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà con thấy trong thế giới hình tướng, thì đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, con sẵn lòng nhận ra là cái Ta Biết của con không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhận biết thuần khiết. Nhận biết thuần khiết là tâm thức Ki-tô vì không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Con có thể chưa là Ki-tô, nhưng con là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, con sẵn lòng tiến tới chỗ con có thể chấp nhận con là Ki-tô, con là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và con ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là trong cái một, con không mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, con sẵn lòng trở nên trung hòa để con không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà con muốn dòng chảy qua con phải tạo ra.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm vui hưởng Thánh linh tuôn chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì cả”.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là cái Ta Biết của con không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên Cao và nó chỉ chảy xuyên qua con mà thôi.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là nó chảy xuyên qua con vì con là tâm thức Ki-tô, và con là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con không trở thành một cái gì mà con không đang là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự?

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm nhận biết rằng điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có. Tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm có một phin lọc che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Con sẵn lòng đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con, và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, con sẵn lòng chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, con buông bỏ mọi ảo tưởng do sa nhân tạo ra với mục đích khiến con chối bỏ con xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ con đã là Ki-tô rồi và con xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con buông bỏ ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh này.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống. Con sẵn lòng chứng minh điều này để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm con là Ki-tô, và đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày. Vì con trải nghiệm Ki-tô trong Vương quốc Thượng đế bên trong con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm niềm vui mà thày LÀ, niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược. Vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược?

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con sẵn lòng trải nghiệm sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Đại thiên thần Michael, Astrea và Shiva hãy niêm phong sự kết nối của con với các vị thày tâm linh và Hiện diện TA LÀ của con. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong!  Amen.

15 | Con đã là tâm thức Ki-tô rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Con hãy xem xét chủ đề kết nối với các vị thày tâm linh. Mọi người trên trái đất dễ kết nối với vị thày tâm linh nào nhất? Đó chính là thày, Chân sư Thăng thiên Giê-su.

15.1. Tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi thứ và tất cả mọi người

Câu tuyên bố trên có thể khiến nhiều người nghe giật mình. Lẽ đương nhiên, những ai không theo Cơ đốc giáo sẽ nói: “Chúng tôi dính dáng gì đến Giê-su?” Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng cảm thấy rất khó kết nối với thày. Vì sao thày lại nói thày là vị thày dễ kết nối nhất? Bởi vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô cho mọi người trên trái đất, và tâm thức Ki-tô là gì? Thánh kinh nói gì về điều này? Không có nó thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Do đó, tâm thức Ki-tô là tâm thức hoàn vũ, cái tâm thức hoàn vũ, một, thống nhất, hợp nhất từ đó mọi thứ được tạo thành.

Điều này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Do đó, bất cứ con ở đâu trong cõi vật lý trên trái đất, cho dù hành tinh và địa phương con ở có dày đặc đến đâu, cho dù tâm thức của con có thấp đến đâu, thậm chí nếu con ở tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên trái đất, thì con vẫn đắm chìm trong tâm thức Ki-tô.

Con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con không thể xa rời tâm thức Ki-tô, và vì thày là vị chân sư đại diện tâm thức Ki-tô hoàn vũ trong một hình tướng cá thể, nên thày là vị thày dễ kết nối nhất vì không những thày luôn luôn ở sát bên con, thày còn ở bên con ở mọi nơi và bất cứ nơi nào con đang ở.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản con người không kết nối được với thày, chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Công cụ chính yếu mà sa nhân đã dùng để đạt mục đích này là gì? Dĩ nhiên đó là Cơ đốc giáo. Sự kiện thảm hại là Cơ đốc giáo đã góp phần nhiều hơn bất cứ nỗ lực nào khác trên trái đất vào việc ngăn cản con người kết nối với các vị thày tâm linh và với tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

15.2. Một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô hoàn vũ

Lẽ tất nhiên, quả thực là đa số con người không có khả năng kết nối với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đó là lý do họ cần một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô. Thày đầu thai xuống trái đất vào đầu Kỷ nguyên Song ngư để chứng minh cho tất cả mọi người trạng thái tâm thức khiến con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Đấng Cha ở đây là tâm thức Ki-tô hoàn vũ, và lẽ dĩ nhiên, đấng Sáng tạo, và lẽ dĩ nhiên, các chân sư thăng thiên.

Trước tiên, chính tâm thức Ki-tô là cái mà con, như đấng Con, như Mặt trời của Thượng đế, có thể hợp một với và do đó con biểu lộ và đại diện nó trên trái đất. Đây chính là mục đích của kiếp đầu thai của thày: để chứng minh cho tất cả mọi người là bất kể họ đang ở đâu trong cõi vật lý, bất kể tâm thức của họ đang ở mức nào, thì họ vẫn có thể kết nối và thực sự hợp một với tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Con cũng có thể là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô, như con đã thấy thày là một biểu hiện cá nhân của tâm thức Ki-tô.

15.3. Tâm Ki-tô là thực tại bên dưới mọi sự

Cơ đốc giáo đã được dùng như một công cụ, đặc biệt là ngay từ lúc khởi đầu có Giáo hội Công giáo, để phóng chiếu hình ảnh là con không thể đi theo gương thày, con không thể khoác vào tâm thức Ki-tô, con không thể là một với tâm thức Ki-tô, con không thể biểu lộ nó, vì chỉ có thày mới có thể làm việc này, vì thày là người quá đặc biệt. Trong tâm thức Ki-tô, không có ai “đặc biệt” cả.

Vì sao thày lại nói không có ai đặc biệt? Không có sinh thể nào đặc biệt hơn một sinh thể khác vì mọi sinh thể đều xuất phát từ tâm một của tâm thức Ki-tô và tâm của đấng Sáng tạo. Nếu tất cả mọi sinh thể đều xuất phát từ Bản thể của đấng Sáng tạo, thì làm sao bất cứ sinh thể nào lại có thể đặc biệt? Đây là điều con có thể thấy nếu con dùng lô-gíc của tâm Ki-tô. Lẽ tất nhiên, sa nhân đã dùng mọi sắc thái của tâm thức nhị nguyên để che giấu thực tại bên dưới mọi sự này. Như các con đã thỉnh cầu và như trong bài thỉnh mà các con vừa đọc, con có thể thấy là phương tiện chính của sa nhân là khiến một số người cảm thấy đặc biệt. Họ đứng trên luật lệ của con người, nhưng nhiều người còn nghĩ là họ đứng trên luật của Thượng đế, họ có thể dẹp các luật này sang một bên, làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả. Những hậu quả mà đa số con người phải gánh chịu không áp dụng cho họ.

Con thấy rất nhiều thí dụ của tâm thức này, và khi con đi vào trạng thái tâm thức muốn mình đặc biệt, thì con không thể kết nối với Giê-su Ki-tô. Vì thày không ở đây để giúp một số người cảm thấy đặc biệt bằng cách hạ người khác xuống. Thày ở đây, và tâm thức Ki-tô ở đây, để nâng mọi người vào Vương quốc của Thượng đế, và lẽ tất nhiên, vương quốc này đúng thực là trạng thái tâm thức khi con kết nối với Ki-tô bên trong mình. Con tới điểm con chấp nhận con là Ki-tô đang hiện thân trên trái đất. Đây là Vương quốc của Thượng đế trên bình diện cá nhân, và khi có đủ số người, một số lượng tới hạn những con người biểu lộ tâm thức này thì con có Vương quốc của Thượng đế thể hiện trên trái đất.

Lẽ tất nhiên, sa nhân đã làm tất cả những gì họ có thể làm để trì hoãn ngày này, nhưng họ không thể trì hoãn mãi mãi. Họ không thể ngăn chặn ngày này xảy đến vì có quá nhiều người đã mở tâm ra đón nhận một thực tại cao hơn, một viễn quan cao hơn vượt quá chủ trương của các giáo hội Cơ đốc giáo chính thức hay các triết lý khác, như thuyết khoa học duy vật, cộng sản, mác-xít hay những chủ thuyết khác. Các chủ thuyết này được đặc biệt tạo ra để che giấu cái một bên dưới mọi sự sống, chia rẽ con người thành nhiều nhóm, nâng một số nhóm lên như đặc biệt và hạ một số nhóm xuống. Đây là một mô thức mà con có thể thấy đằng sau nhiều lớp hóa trang. Mô thức này luôn luôn phát xuất từ tâm thức nhị nguyên, nhưng tối hậu đó là tâm thức sa ngã và các sa nhân đằng sau tâm thức đó, mà ta có thể gọi là các lực phản-Ki-tô, thậm chí là tâm phản-Ki-tô.

15.4. Hình ảnh giả của Ki-tô trong Cơ đốc giáo

Vì sao thày lại nêu lên những điều này khi chủ đề là cách kết nối với các vị thày tâm linh? Bởi vì nếu con đã từng có bất kỳ quá trình Cơ đốc giáo nào trong kiếp sống này, thì con cần xem xét những hình ảnh mà phiên bản Cơ đốc giáo của con đã phóng chiếu lên thày, một sinh thể tâm linh. Bất kể những hình ảnh này là gì, chúng đều ngăn cản không cho con kết nối với thày.

Con cũng có thể xem xét và nói: “À, tôi không có quá trình Cơ đốc giáo trong kiếp sống này.” Nhưng còn các kiếp trước thì sao? Con có thực sự nghĩ là con có thể đầu thai trên hành tinh này trong khoảng 2000 năm vừa qua mà không có kiếp nào dính dáng đến Cơ đốc giáo và hình ảnh giả của họ về Ki-tô? Thày bảo đảm với con là điều này không có xác suất cao đâu, và do đó tất cả các con đều sẽ được lợi lạc nếu con xem xét các hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã gán cho thày, và sau đó đập tan các hình ảnh này và khám phá các ngã tách biệt đang duy trì các hình ảnh đó.

Tác dụng của những hình ảnh này là gì? Đó là khi con đứng trước hình ảnh Giê-su rất đặc biệt vì Giê-su là người Con duy nhất của Thượng đế, thì có một phản ứng khởi lên trong con. Cho dù con có nhận ra phản ứng này một cách có ý thức hay không, nhưng cái Ta Biết của con cảm thấy là chuyện này không thể thực, không thể đúng. Cái Ta Biết có cảm nhận nó cũng là con của Thượng đế, nó cũng phát xuất từ tâm Một. Khi nó đứng trước lời tuyên bố rất mạnh mẽ, hình ảnh giả đó, thì con phải có phản ứng. Con phản ứng bằng cách tạo ra các ngã tiềm thức có khả năng giải quyết mâu thuẫn trong nội tâm con và dồn nén nó để con có thể sống với nó. Con không bị mâu thuẫn tràn ngập, thắc mắc tại sao Thượng đế lại tạo ra một người Con quá đặc biệt và tất cả các người khác ở địa vị thấp hơn.

Con sẽ được lợi ích nếu con nhìn vào các ngã này, moi chúng ra và con có thể dùng nhiều giáo lý và dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Con có thể dùng một số sách của thày để khám phá phản ứng của con với Ki-tô và hình ảnh của Ki-tô đã được đưa ra cho con. Sau đó, khi con tới chỗ nhìn thấy các ngã đó, con có thể tách mình ra khỏi chúng và buông bỏ chúng. Con có thể tới chỗ chấp nhận là con (cái Ta Biết mà con là) là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Ngã vỏ ngoài, các ngã vỏ ngoài, tự ngã không phải là phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo. Một khi con bắt đầu trải nghiệm con là một phần nối dài của Bản thể đấng Sáng tạo, thì con sẽ có thể mau chóng khắc phục các ngã tách biệt để con có thể chấp nhận con xứng đáng kết nối với thày, Giê-su, con có khả năng kết nối với thày, Giê-su. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể quyết định: con có sẵn lòng kết nối với thày, Giê-su, hay con chọn kết nối với một chân sư thăng thiên khác?

Lẽ đương nhiên, thày hoàn toàn không có phản ứng gì trước chọn lựa này, thày hoàn toàn không đòi hỏi con phải trung thành với thày. Nếu có một chân sư thăng thiên khác gần gũi hơn trong tim con, thì con nên tập trung vào vị chân sư đó. Con sẽ vẫn dễ kết nối với vị chân sư đó hơn khi con khắc phục những hình ảnh sùng bái Ki-tô. Vì con người có khuynh hướng chuyển các hình ảnh sùng bái này sang bất cứ vị chân sư thăng thiên nào khác, nhìn vị chân sư đó, nhìn các thày như đang ở “trên này” ngoài tầm với của con. Con quả thật khó kết nối với một sinh thể mà mình coi như ngoài tầm với của mình, phải không con?

15.5. “Tôi đã là tâm thức Ki-tô rồi”

Điều gì sẽ giúp con thu hẹp khoảng cách? Một khi con đã xem xét và khắc phục các ngã tách biệt được tạo ra để phản ứng lại Cơ đốc giáo, thì con có thể tiến thêm bước nữa. Thày đã nói gì ở đầu bài? Không có nó, không có tâm thức Ki-tô, thì không có gì đã được tạo thành, được tạo thành. Không có tâm thức Ki-tô thì không có con người nào đã được tạo thành được tạo thành, hay nói đúng hơn, không có gì đã được sinh ra được sinh ra. Vì các con nhớ là theo Kinh Tin kính Cộng đồng Nixêa (Nicene Creed) thì thày không được tạo thành (made) mà được sinh ra (begotten), người con duy nhất được sinh ra từ bản thể đức Cha, nhưng lẽ tất nhiên câu này không chỉ thày, Giê-su Ki-tô, mà chỉ tâm thức Ki-tô. Sự thực là tất cả các con đều sinh ra từ Thượng đế, các con đều xuất phát từ tâm thức Ki-tô, nhưng điều này có nghĩa gì? Điều này có một ý nghĩa rất thâm sâu mà con cần chiêm nghiệm để nắm bắt.

Con, cái Ta Biết, là gì? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ đâu? Con được tạo ra từ tâm thức Ki-tô, vì nếu không làm sao con có thể có tự nhận biết? Vì chỉ có tâm thức Ki-tô mới có tự nhận biết, do đó con đã xuất phát từ tâm Ki-tô rồi, con là tâm Ki-tô, con đã kết nối với tâm Ki-tô. Con là một với tâm Ki-tô. Con có thể thấy điều này bằng nhiều cách, và con có thể bắt đầu bằng cách thấy mình kết nối với tâm Ki-tô và dần dần tiến tới cảm nhận sâu đậm hơn con là một với tâm Ki-tô.

Sự xoay chuyển mà con trải nghiệm khi con đã khắc phục đủ số các ngã là con nhận ra: “Nhưng tôi là tâm thức Ki-tô, vì không có gì ngoài nó. Bất kể các hình tướng mà tôi thấy trong thế giới hình tướng, đằng sau mọi hình tướng, bên trong mọi hình tướng, là tâm thức Ki-tô. Khi tôi nhận ra cái Ta Biết của tôi không phải là các ngã tách biệt, không phải là tự ngã, không phải là nhân cách vỏ ngoài, thì tôi có thể trải nghiệm mình là nhận biết thuần khiết. Và nhận biết thuần khiết là gì? À, nó có thể là gì nếu không là tâm thức Ki-tô? Không có nhận biết nào ngoài tâm thức Ki-tô.” Con có thể nói: “Nhưng còn bản sắc tách biệt, sa nhân, tâm thức nhị nguyên thì sao?” Tâm thức sa ngã không phải là nhận biết, nó là phản-nhận biết. Con không nhận biết cái Một của mọi sự sống. Nhưng tâm thức Ki-tô vẫn còn ở trong con, vì con không thể trốn chạy tâm thức Ki-tô. Con có thể tạo một ảo tưởng trong tâm, nhưng ảo tưởng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi.

15.6. Các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân

Những người trong các con sẽ đạt tới tầng này trong kiếp sống này hay đã đạt tới rồi, sẽ được lợi ích nếu các con chiêm nghiệm các điều này và nhận ra là con đã là tâm thức Ki-tô rồi. Cái Ta Biết là tâm thức Ki-tô. Nhưng con hãy chú ý, thày không nói con là Ki-tô, thày nói con là tâm thức Ki-tô, và đây là một điểm quan trọng mà con cần chiêm nghiệm cho tới khi con hoàn toàn nhận ra con là tâm thức Ki-tô. Sau đó, con có thể chấp nhận: “Tôi là Ki-tô, tôi là Ki-tô Hằng sống đang hiện thân trong cõi vật lý, và tôi ở đây để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, cho các chân sư thăng thiên, cho dòng chảy của Thánh linh chảy xuyên qua tôi.”

Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là con mất đi ý niệm bản ngã của con, cá tính của con, vì con điều khiển dòng chảy đó, và con có thể càng ngày càng trung hòa hơn trong việc điều khiển dòng chảy. Làm như vậy sẽ khiến con càng ngày càng thêm hân hoan khi con trở nên trung hòa và không dính mắc vào kết quả đặc trưng mà dòng chảy qua con phải tạo ra. Thay vào đó, con chỉ giản dị vui hưởng sự trải nghiệm dòng chảy xuyên qua con, đi vào thế gian và tạo ra bất cứ kết quả nào mà nó tạo ra. Con yêu dấu, đây là một tầng cao hơn mà ta có thể gọi là quả vị Ki-tô cá nhân, là Ki-tô hành động, khi con là cánh cửa mở cho dòng chảy.

Cảm tưởng gần giống như con chỉ là nhân chứng của dòng chảy, vì con nhận ra: “Tự tôi, cái tôi vỏ ngoài, không làm được gì”. Thậm chí con còn nhận ra: “Tự tôi, cái Ta Biết, không làm được gì vì dòng chảy xuất phát từ trên cao và nó chỉ chảy xuyên qua tôi mà thôi. Nhưng nó chảy xuyên qua tôi vì tôi là tâm thức Ki-tô, và do đó tôi là trụ điểm trong thế gian này để tâm thức Ki-tô chảy xuyên qua.”

15.7. Khắc phục ảo tưởng tách biệt với Ki-tô

Đây là một xoay chuyển quan trọng mà con cần chiêm nghiệm. Thày không nói là tất cả các con đều sẵn sàng để thực hiện sự xoay chuyển này. Một số các con chưa sẵn sàng, và điều này, lẽ dĩ nhiên, hoàn toàn phải phép. Các con có thể tiếp tục sử dụng các dụng cụ và tiêu trừ các ngã đang chắn lối các con. Nhưng điều quan trọng cần ghi nhớ là thực tại, thực tại sâu thẳm, là con không trở thành một cái gì mà con không đang là ngay lúc này.

Thày biết là các thày đã cho các con hình ảnh và giáo lý về con đường tu, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Các thày có giảng về việc khoác vào tâm Ki-tô, khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân, trở thành Ki-tô Hằng sống. Đây là ngôn từ thích hợp cho một tầng đặc trưng của con đường tu khi con chưa sẵn sàng làm sự xoay chuyển đó vì con vẫn còn có quá nhiều các ngã đang níu kéo cái Ta Biết để nó tự đồng hóa với chúng và nhìn thế gian xuyên qua chúng.

Khi con tới gần và lên cao hơn tầng 96, thì con bắt đầu chiêm nghiệm sự xoay chuyển là con không trở thành cái mà con không là. Vì khi tâm thức Ki-tô ở trong tất cả mọi sự, và không có gì được tạo thành ngoài tâm thức Ki-tô, thì làm sao con có thể trở thành Ki-tô? Làm sao con chưa là Ki-tô rồi? Làm sao con có thể đã từng tách biệt khỏi cái ở khắp nơi và trong mọi sự? Con thấy chăng, vấn đề không phải là vượt qua một khoảng cách, trải qua một thay đổi. Vấn đề là thức tỉnh khỏi ảo tưởng cho rằng có khoảng cách, để tới điểm nhận ra con đã là, con lúc nào cũng đã là, tâm thức Ki-tô.

Lẽ tất nhiên, đúng là con có thể hiểu điều này bằng trí năng ở các tầng thấp của con đường tu, nhưng nếu con vẫn còn quá nhiều ngã níu kéo con nhìn thế gian và chính mình qua phin lọc của chúng, thì con không thể làm sự xoay chuyển tâm thức mà thày nói tới. Một lần nữa, con cứ tiếp tục đi trên con đường tu, sử dụng các dụng cụ và sẽ có một ngày con tới điểm sự xoay chuyển xảy ra. Con không thể khiến nó xảy ra, con không thể ép nó xảy ra, nhưng con chắc chắn có thể làm việc để tiến về hướng đó bằng cách khắc phục các ngã và chuyển hóa các năng lượng đang níu kéo con vào phản ứng.

Như các chân sư khác đã nói về các bí ẩn của con đường tu, thì đây cũng là một bí ẩn nữa. Ở một giai đoạn nào đó, con cần có hình ảnh là con đang trở thành cái gì con không đang là vì con chưa thể thấy mình là Ki-tô vào lúc đó. Con có hình ảnh là con đang đi trên con đường tu. Con đang tiến bước trên con đường tu, con đang chuyển hóa năng lượng, con đang tiêu trừ các ngã. Khi con tiêu trừ một ngã ở tầng 48 thì con lên tầng 49, và cứ tiếp tục như thế. Con tiến bước trên con đường tu, nhưng khi con đến những giai đoạn cao hơn của con đường tu, thì vấn đề là nhận ra điều con cần thực hiện là khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng là con đã từng tách rời, vì tách biệt là một ảo tưởng.

Có phải chăng là thày đã nói nhiều lần: Không có tâm thức Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành, do đó tâm thức Ki-tô ở trong mọi thứ và mọi người. Không có tách biệt trong thực tại. Không thể nào có, không bao giờ từng có, do đó tách biệt là một ảo tưởng chỉ có thể có mặt trong tâm của những người có tự nhận biết và có quyền tự quyết. Do vậy họ có chọn lựa sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng trong tâm bức màn, phin lọc, tấm lá chắn che giấu cái Một bên dưới mọi sự sống và khiến họ tập trung vào những ngã tách biệt và thân thể vật lý, coi mình là sinh thể tách biệt.

Một lần nữa, như các thày đã giảng, điều này nằm trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Luật Tự quyết hoàn toàn cho phép con người có trải nghiệm dùng quyền tự quyết như sinh thể tách biệt. Lẽ tất nhiên, khi con sử dụng ý chí của mình với tư cách một sinh thể tách biệt, thì ý chí của con không tự do, và con càng có thêm chọn lựa dựa trên tách biệt thì con càng giới hạn ý chí của mình, con càng giới hạn các chọn lựa mà con có thể có. Con bị nghiệp của mình đè nặng cho tới khi con bị đóng đinh trên thập tự và không còn nhúc nhích được nữa.

15.8. Chối bỏ Ki-tô

Tuy nhiên, đây thuộc vào những trải nghiệm mà con được phép có trên một hành tinh như trái đất. Chính thực là trong giai đoạn hiện nay của trái đất, một trong những mục đích của trái đất là cho con người trải nghiệm này. Con thấy có biết bao nhiêu người trên thế gian xây dựng ý niệm họ đặc biệt, nhiều khi dưới sự lãnh đạo của một hình thức độc tài, hoặc của một nhà lãnh đạo hay của một tổ chức như Giáo hội Công giáo. Họ khiến con người cảm thấy vì họ đi theo chế độ độc tài đó, vì họ tuân phục chế độ độc tài đó, nên họ đặc biệt khi so với những người không tuân phục.

Con thấy chăng là Ki-tô không bao giờ tuân phục bất cứ gì trên trái đất. Đó là điều thày đã chứng minh hai ngàn năm trước đây: rằng con không cần tuân phục. Con không có bổn phận tuân phục. Trái lại, con có quyền không tuân phục, con có quyền đứng lên không tuân phục bất cứ sự độc tài nào và để họ làm bất cứ gì họ muốn tới con và qua đó họ sẽ phải nhận sự phán xử của Ki-tô.

Đây là điều mà nhiều người đã làm. Đây là điều nhiều người đang làm hiện nay. Đó là những người đang phản đối sự độc tài dưới mọi hình thức, họ đang là Ki-tô hành động, dù họ không biết tới quan niệm Ki-tô hành động. Tuy nhiên, đó là điều họ đang làm. Họ không những chỉ đứng lên chống lại và đem lại sự phán xử tới kẻ độc tài, nhưng họ còn chứng minh cho mọi người thấy là ta có thể đứng lên chống những người đang là các lực phản-Ki-tô và tìm cách đàn áp con người.

Làm cách nào họ đàn áp con người? Họ chỉ có thể làm được chuyện này bằng cách khiến những người này chối bỏ họ có Ki-tô trong họ. Chỉ khi những người này thấy họ tách biệt với Ki-tô, với cái Một bên dưới mọi sự, thì họ mới có thể bị đàn áp và kiểm soát. Công việc của sa nhân luôn luôn nhằm khiến con người chối bỏ họ xứng đáng là Ki-tô, chối bỏ họ đã là Ki-tô rồi và họ xứng đáng biểu lộ Ki-tô trên thế gian này.

Các chế độ độc tài đó có thể không dùng danh từ Ki-tô, nhưng con hãy nhìn các tôn giáo, các triết lý chính trị và lẽ dĩ nhiên khoa học duy vật. Họ đều chối bỏ rằng Ki-tô ở trong con. Hoặc họ chối bỏ có cái gọi là Ki-tô, có cái gì ngoài thế giới vật chất. Đây là một sự chối bỏ, và con lúc nào cũng thấy là khi có sự độc tài, thì có một tập đoàn thượng tôn quyền lực. Vì làm sao con có chế độ độc tài nếu nhà độc tài và những người chung quanh y không đặc biệt? Nếu không như vậy thì không có độc tài, mà là dân chủ. Chế độ độc tài lúc nào cũng đưa ra ý niệm là có một số người đặc biệt và đa số dân chúng thuộc giai cấp thấp hơn, và do đó không thể chọn phản đối tập đoàn thượng tôn quyền lực. Dân chúng không có quyền và có thẩm quyền là Ki-tô hành động.

Như thày có nói, tổ chức đứng hàng đầu trong việc khiến con người chối bỏ Ki-tô trong họ là Cơ đốc giáo. Vì lý do này, việc con kêu gọi sự phán xử tôn giáo này là điều chính đáng, chính thày đã tuyên bố sự phán xử này nhiều lần. Đây là một công việc cần thiết vì mỗi lần con kêu gọi sự phán xử, thì có thêm tà lực bị tiêu trừ, có thêm nhiều người được giải thoát và có thể xét lại hình ảnh về Ki-tô mà Cơ đốc giáo đã cho họ từ thuở thơ ấu. Những hình ảnh này về Ki-tô quả thật xuất phát từ tâm phản-Ki-tô, vì sự thực tuyệt đối là Giáo hội Công giáo ngay từ khởi thủy đã bị các lực phản-Ki-tô chiếm hữu và kiểm soát. Giáo hội Công giáo vẫn còn như vậy cho tới ngày nay, và điều này được chứng minh bởi việc Giáo hội Công giáo đã không thể tự cải tổ. Mặc dù các vụ xâm phạm tình dục thiếu nhi được phơi bày, mặc dù tất cả các chuyện khác đang xảy ra, Giáo hội Công giáo vẫn không thể tự cải tổ.

À, các con yêu dấu, tâm thức Ki-tô có thể tự cải tổ vì tâm thức Ki-tô không đứng yên hôm qua, hôm nay và mãi mãi, vì tâm thức Ki-tô là lực liên tục của sự tự thăng vượt. Vì mục đích cuộc sống là gì? Đó là, như các thày đã giảng, con bắt đầu với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm và con dần dần thăng vượt ý niệm đó. Con với lên những tầng bản sắc càng ngày càng cao hơn, cho tới khi con tới ý niệm con là một với tâm Ki-tô, con là một với mọi sự sống. Con là một với đức Cha trên thiên đàng và con khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng mình là một cái ta bé nhỏ bị gò bó trong một khu vực địa phương rất eo hẹp trên hành tinh nhỏ bé gọi là địa cầu này. Thay vào đó, con trải nghiệm sự kết nối với tâm thức Ki-tô là cái Một của mọi sự sống.

Đây là điều mà sa nhân đã chối bỏ trong chính họ. Đây cũng là điều mà họ đang cố sức khiến tất cả mọi người chối bỏ. Các con, là các đệ tử trực tiếp của các thày, có tiềm năng khắc phục sự chối bỏ đó và chứng minh là con đã khắc phục nó, để mọi người có thể thấy là có chọn lựa khác. Quả thực có chọn lựa khác. Qua đó, con người thấy được vì sao thày đã đầu thai hai ngàn năm trước, thày đã chứng minh những gì, và họ tới điểm thấy Giê-su Ki-tô không là một ngoại lệ. Giê-su Ki-tô là một tấm gương cho tất cả mọi người, cho dù họ lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo hay không. Do đó, con có thể giúp con người khắc phục sự chối bỏ Ki-tô, thực sự là sự chối bỏ chính mình, chối bỏ mình là ai.

15.9. Ki-tô ở trong con

Bây giờ thày trở lại chủ đề của hội nghị này và con đường tu của con. Con là Ki-tô. Đó là lý do vì sao con có thể trải nghiệm là một với thày, Giê-su. Vấn đề không phải là con kết nối với thày, vì nếu con còn thấy mình ở dưới này trên trái đất và thày ở cao trên kia trên thiên đàng, thì con sẽ không thể kết nối. Thày không ở kia trên thiên đàng, thày ở khắp nơi. Thày ở ngay đây bên cạnh con, và nếu con còn tìm thày ở ngoài kia thì làm sao con thấy được thày? Nếu con nhìn qua một ống nhòm và tìm thày ở đằng xa, thì làm sao con có thể thấy là thày không những đang ở ngay cạnh con và còn ở trong con?

Vì Ki-tô ở đâu? Trong Vương quốc Thượng đế! Vương quốc Thượng đế ở đâu? Nó ở bên trong con. Đó là nơi con sẽ tìm thấy thày. Thày không lẩn trốn con. “Thày” không lẩn trốn “con”. Con lẩn trốn chính mình. Thày không tìm cách ép con phải ngưng lẩn trốn. Thày chỉ nói là khi con tới điểm chán ngán lẩn trốn, thì con sẽ khám phá ra thày ở bên trong con. Khi con không chối bỏ mình là Ki-tô, thì con sẽ tìm thấy thày như Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con yêu dấu, tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui mà thày LÀ. Niềm vui không phải là niềm vui nhân gian đối ngược với buồn khổ, mà là niềm vui Thiêng liêng không có đối ngược, vì làm sao cái ở khắp mọi nơi lại có thể có đối ngược? Sự thực là Ki-tô không có đối ngược. Phản-Ki-tô không phải là đối ngược của Ki-tô, phản-Ki-tô là đối ngược của một ảo tưởng nhị nguyên khác, một hình ảnh nhị nguyên của Ki-tô. Đây là cái mà phản-Ki-tô có thể chống đối. Phản-Ki-tô không thể chống đối Ki-tô thực.

Con thấy chăng, sa nhân đã làm gì? Họ đã tạo ra hình ảnh giả của Ki-tô và hình ảnh của ác ma chống đối Ki-tô. Cả hai hình ảnh đều không thực, vì trong thực tại không thể có tách biệt vì không có Ki-tô thì không có gì đã được tạo thành được tạo thành. Tới đây thì thày niêm phong các con trong niềm vui của Ki-tô và thày hy vọng là các con sẽ đem niềm vui này tới thế gian.

Thắp nến

Hỏi: Xin thày nhận xét về việc thắp nến ở nơi thờ phượng. Theo lời dạy của một chân sư thăng thiên, có nhiều biểu hiện tâm thức phản Ki-tô trong các nhà thờ. Vậy trong trường hợp này, việc thắp nến có thể hiệu quả không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 13/5/2023.

Thắp nến trong nhà thờ có thể hiệu quả trong việc thắp sáng một chỗ tối để con không bị vấp ngã khi con đi trong nhà thờ. Bảo rằng việc thắp nến có thể có bất kỳ tác dụng thần thánh nào, hay có thể làm gì đó cho một vị thánh hay cho Thượng đế, tất nhiên là chuyện hư cấu. Làm sao ta, trong tư cách một chân sư thăng thiên, lại cần đến một ai đó thắp nến cho ta trong bất kỳ nhà thờ nào trên trái đất? Làm sao ta lại có thể có nhu cầu này? Làm sao Mẹ Mary có nhu cầu người ta thắp nến cho thày trong bất kỳ nhà thờ Công giáo nào? Đó là chuyện hư cấu, nhưng một lần nữa, bất cứ gì cũng đều có thể mang lại một hiệu ứng giả dược (placebo).

Đối với những người tin đạo nói chung, thật không quan trọng nếu họ thắp nên hay không. Điều quan trọng hơn nhiều là nếu họ có thể nâng cao tâm thức cùng sự nhận biết của họ, nhưng có thể họ không có khả năng làm được như vậy. Nếu họ tin vào những chuyện vỏ ngoài thế kia – cho dù là nến hay nước thánh hay nghi lễ này nghi lễ nọ – thì điều này cho thấy là họ đang ở một tầng tâm thức chưa sẵn sàng tiếp nhận các giáo lý nội tâm mà ta đã giảng dạy cho đệ tử của ta. Họ vẫn bị vướng kẹt ở một mức cần đến những chuyện ngụ ngôn và những thứ vỏ ngoài, và do đó các chân sư thăng thiên không thể chạm được họ. Các thày thực sự không quan tâm gì đến những điều đó, nhưng tất nhiên khi con đặt câu hỏi như một học trò của chân sư thăng thiên thì thày phải nói: Đó là chuyện hư cấu. Nó không có tác dụng gì hết.

Các thày không bảo là con không nên thắp nến nếu con thích thú làm vậy. Nhưng con đừng bước vào tư duy cho rằng thắp nến sẽ khiến các thày ban cho con một loại hồng ân hay ân sủng nào đó. Nó không liên quan gì đến chuyện này. Các thày muốn con xoay chuyển tâm thức của con, và chính việc xoay chuyển tâm thức sẽ có tác dụng trên đời sống của con.

Ngay cả khi có người uống nước mà họ nghĩ là nước thánh rồi họ được chữa bệnh, không phải là nước đã chữa lành họ đâu. Lý do là vì họ đã xoay chuyển tâm thức, ít ra là nhất thời. Nhiều khi con sẽ thấy là loại chữa lành này không kéo dài và căn bệnh lại tái xuất hiện sau một thời gian. Điều các thày muốn nhìn thấy là một sự nâng cao tâm thức thường tồn, và đây chính là mục đích của tất cả mọi lời dạy của các thày.

Tâm thức quả cầu

Hỏi: Các chân sư yêu dấu, chúng con biết là các thày có tâm thức quả cầu (spherical consciousness) và con muốn hiểu tâm thức này biểu hiện thế nào trong hành động. Các thày nhìn trật tự thế giới như thế nào qua tâm thức quả cầu? Con cũng biết một tâm thức đường thẳng thật khó lòng nắm bắt được điều này. Có lẽ cũng giống như cố giải thích mạng internet là gì cho một người thời Trung cổ. Làm thế nào phát triển tâm thức quả cầu? Có thể nào so sánh nó với thần giao cách cảm, khả năng thấu thị, khả năng thông suốt mọi sự hay không? Có phải là khả năng cảm được người khác đang cảm thấy gì? Sự đồng cảm? Khả năng sáng tạo bằng tư tưởng để thay đổi diễn biến ngoại cảnh? Có thể nào phát triển tâm thức quả cầu trên trái đất một khi đạt đủ tâm thức Ki-tô hay tâm thức Phật?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Tất cả những thứ con nói đến – những cái gọi là khả năng siêu nhiên – không thuộc về trạng thái tâm thức quả cầu. Như con cũng đoán, thực tế là con không thể nắm bắt tâm thức quả cầu với một tâm thái đường thẳng. Ngay cả con cũng không thể hiểu bằng tâm thái đường thẳng. Khi nói đến tâm thức quả cầu, hoặc con trải nghiệm được, hoặc con không trải nghiệm được. Nhưng nếu con cố hiểu nó là gì bằng tâm đường thẳng thì con sẽ không đến gần hơn với trải nghiệm đó. Kỳ thực trong nhiều trường hợp, làm như vậy đã cản trở nhiều người có được trải nghiệm, vì họ quá chú tâm vào việc cố hiểu nó với tâm đường thẳng phân tích, quá chú tâm vào việc dán nhãn và mô tả, đến độ họ không thể có được trải nghiệm. Và tất nhiên, chỉ sự trải nghiệm trực tiếp mới xoay chuyển được tâm thức của con.

Nói vậy rồi, thật ra nhiều người trên thế giới và nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã bắt đầu phát triển được tâm thức quả cầu. Có thể nói tâm thức quả cầu là một tiến trình lâu dài, và khởi đầu của tâm thức quả cầu thực sự là khi con nhìn nhận là có điều gì đó để hiểu hay nắm bắt vượt khỏi tầm hiểu hiện thời lẫn tầng tâm thức hiện thời của con. Nói cách khác, các thày đã có nói về tâm trở thành một hệ thống khép kín, tự củng cố, tự chứng thực. Và cách giản dị nhất để diễn tả là bảo rằng cái tâm đó hiển nhiên không phải là tâm thức quả cầu. Khi tâm con đóng chặt nhưng con tưởng là con biết mọi chuyện, con không mở tâm ra để nắm bắt nhiều hơn những gì con biết, thì con không đang trải nghiệm tâm thức quả cầu.

Nhưng một khi con xoay chuyển và nhận ra có gì đó vượt khỏi mức tâm hiện thời của con, vượt khỏi thế giới quan hiện thời của con, thì con đang bắt đầu tiến vào tâm thức quả cầu. Con đang khuếch lớn tâm thức của con để nhận biết có gì đó nằm ngoài tâm con. Ngay cả việc lượng định là con không được làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con, cũng là một phần trong các giai đoạn đầu của tâm thức quả cầu. Con có lòng trắc ẩn với người khác. Con công nhận quyền hạn của người khác. Có một số giai đọan khác nhau qua đó con nhận biết càng ngày càng rõ hơn là có gì đó vượt khỏi tâm con, và tất nhiên con có thể nhận biết như vậy khi con đang đầu thai.

Con không thể trải nghiệm hoàn toàn những gì một chân sư thăng thiên trải nghiệm, nhưng con có thể ngày càng đến gần hơn với sự nhận biết rộng lớn là có gì đó vượt khỏi bốn thể phàm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài của con. Con nhận biết là có nhiều hơn để hiểu, và trên hết, con không ngừng mở rộng thêm ra, mở rộng nhận biết một cách lần hồi, từng bước một. Có thể nói là tất cả khởi sự với nhận biết đó, rằng có gì đó vượt khỏi mức hiện thời của con. Và sau đó, vấn đề chỉ còn là con sẵn lòng vươn lên cao đến đâu và mở rộng đến đâu để nhận biết những gì vượt khỏi tâm thức đường thẳng của con.  

Các thày có giảng là khi con hiện thân hay ngay cả khi con khởi sự như một dòng sống mới, con có một ý niệm nhận biết hạn hẹp, cục bộ, nhỏ như cái chấm. Con chỉ chú trọng đến chính mình và môi trường lân cận xung quanh con. Tâm thức quả cầu vượt quá sự tập trung vào bản thân, nó mở rộng ý niệm bản ngã của con, nhưng nó cũng nhận ra là luôn luôn sẽ có điều gì đó vượt khỏi ý niệm bản ngã mà con có khi chưa thăng thiên.

Tâm thức quả cầu không phải là một khả năng siêu nhiên nào đó, mà là một sự nhận biết rộng lớn hơn vượt khỏi bản ngã. Có nhiều người bước vào giáo lý tâm linh nghĩ rằng: “Ồ, tôi muốn có khả năng đó. Tôi muốn mình có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn, mình có thể thay đổi thế giới, mình có thể hiểu biết mọi chuyện.” Nhưng đây không phải là tâm thức quả cầu, và việc gắng sức đạt được khả năng này thường sẽ chặn đứng người đệ tử, bởi vì tại sao họ lại muốn vậy chứ? Là vì họ vẫn tự xem mình là một sinh thể tách biệt, họ vẫn muốn sự nhận biết hay khả năng làm những chuyện siêu nhiên đó trong tư cách một sinh thể tách biệt, để họ có thể nâng bản thân họ lên như một sinh thể tách biệt trong tâm họ hay trong tâm người khác.

Nhưng chừng nào con còn cố đạt những khả năng đó như một sinh thể tách biệt thì thật vậy, đó không phải là quả vị Ki-tô. Đây là con đường tay trái khi con cố trở thành một pháp sư ma thuật đen với một vài kỹ năng thao tác sự vật. Nhưng đây không là quả vị Ki-tô và chắc chắn cũng không phải là nhận biết quả cầu. Con chỉ càng ngày càng bị kẹt hơn vào ý niệm bản ngã tách biệt cục bộ.

Trực giác và trí thông minh

Hỏi: Xin các thày vui lòng giải thích tại sao con là một học trò của chân sư thăng thiên ở một mức tâm thức hay nhận biết tương đối, trong khi rất nhiều người khác trên thế giới không đặc biệt gì là người tâm linh nhưng trí thông minh cùng khả năng của họ lại cao hơn con nhiều? Làm thế nào một người có thể có mức nhận thức và nhận biết cao nhưng không nhất thiết một trí thông minh rộng lớn? Đâu là mối quan hệ giữa trí thông minh và tâm thức hay sự nhận biết? Và điều gì quy định trình độ thông minh của một người trong một kiếp sống nào đó? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có trình bày là không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa cái mà người đời gọi là trí thông minh và cái mà chúng tôi gọi là sự nhận biết tâm linh, hay chứng đạt tâm linh. Sự phát triển mức chứng đạt tâm linh vượt ra khỏi thế gian này. Quả ví Ki-tô vượt ra khỏi thế gian này. Và việc tăng trưởng các khả năng thế phàm không giống như việc bước chân trên đường tu tâm linh.      

Con sẽ thấy rất nhiều người trên thế giới có khả năng vượt bực, trí thông minh cao trội, hay có khả năng lãnh đạo quần chúng hay nắm giữ quyền bính trong tay, đều là sa nhân. Lý do là những người đó không có khả năng bước trên đường quả vị Ki-tô, cho nên thay vào đó, họ chú tâm vào việc phát triển các khả năng nhân phàm của họ, và họ sử dụng mọi phương tiện để đạt được điều này, kể cả cái mà chúng ta gọi là tà thuật.

Điều mà thế giới hiện nay – hay ít ra thế giới Tây phương – gọi là trí thông minh là việc sử dụng tâm trí thức, tâm phân tích đường thẳng có khả năng biện luận thuận hay chống bất kỳ vấn đề nào, như chúng tôi đã có nói. Hiển nhiên, nó cũng cho con một khả năng nào đó để hiểu biết một số lãnh vực như toán học hay các chủ đề khoa học nào khác. Nhưng đó là một khả năng thế phàm. Đó không phải là cái mà con cần thực sự để bước chân trên đường quả vị Ki-tô và hội đủ tư cách thăng thiên. Đây là lý do tại sao đối với hầu hết những người tâm linh, con đã không trở thành một người tâm linh chỉ trong kiếp này mà thôi, mà rất có thể con đã là một người tâm linh từ nhiều tiền kiếp rồi, cho nên con đã không thực sự cảm được từ trực giác sự thôi thúc để tập trung vào việc phát triển các loại khả năng thế phàm kia. Tại sao con lại phải làm vậy khi mục đích của con nằm vượt ngoài thế gian?

Con cần nhìn nhận khi con là một người tâm linh, việc phát triển các khả năng hay kỹ năng thế phàm không là chính yếu. Không có nghĩa là con không thể có những khả năng đó, và rất có thể con đã từng phát triển chúng trong các kiếp trước, nhưng đó không phải là mục tiêu chủ yếu của con. Mục tiêu chủ yếu của con như một người tâm linh trên đường quả vị Ki-tô là hòa điệu với tâm thức Ki-tô, với cõi tâm linh, với Hiện diện TA LÀ, và đây không phải là một khả năng phân tích trí thức. Đó là tại sao con chú tâm phát triển trực giác của con. Trong nhiều trường hợp, con càng có nhiều trực giác thì tư duy của con sẽ càng bớt phân tích trí thức đi. Và rất có thể con sẽ cảm thấy khó khăn khi phải nắm bắt các đề tài phân tích đường thẳng kia.

Điều có thể xảy ra là khi con còn trẻ, con đã khá thành thạo hiểu được các khái niệm khoa học, các khái niệm phân tích đường thẳng đó. Nhưng khi con càng tiến bước trên đường tu tâm linh thì con càng mất đi khả năng vận dụng trí năng để bao trùm các khái niệm đó – nếu có thể nói như vậy – vì con không thể thực sự tập trung tâm trí vào cấp độ tư duy đó nữa. Cách suy nghĩ của con, hay tâm con, không còn chú tâm hay không còn bị mắc kẹt trong cõi lý trí nữa. Con đang bước vào cõi bản sắc nơi con có một tầm nhìn trực giác hơn hẳn.

Các bộ kinh và khả năng thần thông

Hỏi: Gần đây con đã tham gia một khóa học video với một nhà chữa bệnh nổi tiếng sử dụng năng lượng. Bà ấy từng tổ chức rất nhiều khóa đào tạo tại Ấn Độ. Trong khóa học này, bà đã cho chúng con 20 bài kinh để tụng niệm và sử dụng cùng với thiền định. Bà tuyên bố là việc sử dụng như vậy sẽ giúp chúng con mở khả năng đặc biệt và dẫn đến sự thăng tiến tâm linh. Bà giảng rất nhiều về việc mở cửa cho 12 luân xa bên trên đầu chúng con và về các cuộc điểm đạo. Mặc dù con không tin các lời tuyên bố của bà rằng bộ kinh này sẽ đem lại khả năng đặc biệt, con đã cảm nhận được một năng lượng nào đó bên trên đầu con khi con sử dụng. Con tự hỏi không biết các chân sư có thể giải thích lịch sử của pháp môn này và liệu nó có hữu ích hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 13/11/2022.

Có rất nhiều kỹ thuật và dụng cụ có giá trị, theo nghĩa là chúng có thể đem lại tác động tích cực. Tất nhiên là có nhiều cách để thỉnh năng lượng, những năng lượng cao hơn là các bài thỉnh, bài chú mà chúng tôi các chân sư thăng thiên đã ban cho con. Con có các truyền thống của Ấn độ giáo và Phật giáo cùng các truyền thống khác ở phương Đông với nhiều kỹ thuật có giá trị. Chính con cũng đang đọc một số những bài kinh này khi con đọc câu Om Mani Padme Hum, câu Om Ah Hum, Vajra Guru Padme Siddhi Hum cùng những câu tụng và thần chú khác, cho nên việc này có thể có giá trị.

Tuy nhiên, con hãy lưu ý rằng mục đích của một kỹ thuật tâm linh chính đáng không thực sự là để sản xuất ra những khả năng siêu nhiên hay khả năng thần thông. Bởi vì không một vị thày tâm linh chân chính nào sẽ khuyến khích học trò mình làm như vậy, và không một vị thày tâm linh chân chính nào sẽ tìm cách thu hút những học trò mong muốn như vậy.

Ngược lại là đằng khác, hầu hết mọi vị thày tâm linh chân chính sẽ cố tránh những loại học trò như thế vì các vị ấy biết rằng họ chỉ đến học do lòng mong cầu một số hiện tượng vỏ ngoài sẽ nâng cao tự ngã, sẽ khiến họ cảm thấy cao trội hơn người khác, và thường khi họ sẵn sàng cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực.

Nhiều vị thày tâm linh già dặn, tiến hóa hơn sẽ lánh xa các loại học trò đó bằng cách không đưa ra những lời lẽ bảo rằng con sẽ tự động hay hầu như bảo đảm đạt được một số khả năng đặc biệt nếu con tập tành một số kỹ thuật. Rất ít người có thể phát triển những khả năng thần thông chân chính, và rất ít người đã đặt công việc này vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Đối với hầu hết mọi người, đây là một sự xao lãng trên con đường dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn.

Pháp tu quan sát khách quan

Hỏi: Xin thày Giê-su cho biết ý kiến về các lời dạy của ông Michael Singer. Ông nói rằng một cách hiệu quả để phát triển tâm linh là tu tập sự quan sát khách quan và dần dần phóng thích các samskara (hành uẩn), các dấu chân (imprint) của lý trí và cảm xúc của chúng ta. Chẳng hạn khi một tình huống khó khăn khởi lên, chúng ta có thể thư giãn trong trạng thái quan sát khách quan và cho phép các năng lượng đó được phóng thích. Sự phóng thích này sẽ biến hóa năng lượng để cho năng lượng thấp ban đầu như sự tức giận hay sợ hãi có thể nâng lên thành năng lượng cao. Ông Singer trình bày cách này như một pháp tu thường nhật mà qua đó cuộc sống hàng ngày có thể trở thành một nguồn phát triển tâm linh phong phú. Liệu có hạn chế đáng kể nào hay cạm bẫy tiềm tàng nào liên quan đến phương pháp này, hay đây là một đường tu hiệu quả?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 12/11/2022.

Các chân sư xin không có ý kiến về một vị thày hay một giáo lý đặc thù. Nhưng điều ta sẽ nói ở đây là tất nhiên, có một số vị – cho dù họ là đạo sư tâm linh hay là chuyên gia trong ngành tâm lý – đã khám phá những kỹ thuật có giá trị, những ý tưởng có giá trị, và họ đã tìm ra cách biểu đạt các ý tưởng này cho hấp dẫn đối với một số người. Ý tưởng về hành uẩn hay tâm ảnh trở ngược về đạo Phật, và tất nhiên đây là một ý tưởng chính đáng. Đó cũng giống như khi các thày giảng về hình tư tưởng, về ngã tách biệt, về phin lọc nhận thức của con. Các thày cũng có giảng về việc bước vào một tâm thái trung hòa. Nhưng ta sẽ nói là việc nhận thức điều này và phóng thích các năng lượng tuy có hữu ích, nhưng nó sẽ hiệu quả hơn nếu con phối hợp với việc đọc thỉnh, đọc chú, qua đó con thỉnh gọi ánh sáng tâm linh để giải thể năng lượng.

Có những người đã đạt đến một mức nơi họ có khả năng – bằng cách tập trung vào một số năng lượng và phóng thích chúng – dùng tâm mình để biến hóa năng lượng, nhưng hầu hết mọi người khác thì không thể làm được vậy, và do đó sẽ hữu hiệu hơn cho họ nếu họ dùng bài thỉnh và bài chú để biến hóa năng lượng. Nếu không thì kỳ thực con có thể rơi vào cái bẫy là nghĩ rằng con đã phóng thích tất cả những năng lượng đó – và trong một số trường hợp người ta có khả năng làm vậy thật – nhưng con lại phóng thích chúng vào môi trường chung quanh nơi chúng sẽ ảnh hưởng đến người khác và góp phần vào tâm thức tập thể, thậm chí còn nuôi béo con quái vật tập thể. Điều này có thể trở thành một cái bẫy sẽ cản trở sự tăng triển tâm linh của con.

Điều con thấy trong một số trường hợp là có những vị thày tâm linh có thể đưa ra một ý tưởng có giá trị, nhưng họ không luôn luôn hiểu được đầy đủ làm thế nào đem ý tưởng này vào thực hành. Nhiều vị thày không thật sự nhận thức tầm quan trọng của các năng lượng trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, cũng như những cách hiệu quả để biến hóa năng lượng.

Không phải là con không thể thay đổi năng lượng qua bốn tầng của tâm con, mà con không thể thực sự biến hóa năng lượng thành năng lượng cao hơn nếu con không tiếp cận một dạng năng lượng cao hơn. Và năng lượng này phải đến từ cõi thăng thiên, vì đây là cách duy nhất để nó đến với con. Con không thể chế tạo năng lượng này trong tâm con. Con có thể mở tâm ra tiếp nhận một dòng chảy từ cõi thăng thiên chứ con không thể chế tạo nó trong tâm con. Nếu con nghĩ con có thể thì đấy là một sự hiểu lầm.

Khía cạnh phân liệt của đường tu tâm linh

Hỏi: Các giai đoạn chót trước khi thăng thiên có vẻ như hơi mâu thuẫn vì chúng con vẫn còn tự ngã, và như Saint Germain có giảng, tự ngã có vẻ vẫn còn phục vụ như một cái neo hay một cơ chế an toàn để ngăn ngừa sự rút lui quá sớm của lực sống khi chúng con chưa sẵn sàng thăng thiên. Nhưng đồng thời, chúng con đang là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của mình biểu đạt trong thế giới, và chúng con sáng tạo xuyên qua Hiện diện TA LÀ. Điều này có vẻ hơi phân liệt tâm thần (schizophrenic) về mặt trải nghiệm. Câu hỏi của con là, liệu chúng con có biết chắc là mình đã sẵn sàng, hay khi nào mình sẽ sẵn sàng? Hay có thể chúng con bị lầm lạc trong phán đoán và làm sái hoàn toàn? Vì rốt cuộc, tự ngã vẫn còn đó.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Hãy cho ta trình bày theo cách thế này. Quyền tự quyết là quyền tự quyết. Trên lý thuyết, cho đến tầng 144 con vẫn có thể quyết định khởi sự một con đường đi xuống. Không có nhiều xác suất con sẽ làm vậy nhưng chuyện này vẫn có thể xảy ra. Con có thể bước vào một tâm thái cho rằng con đã sẵn sàng thăng thiên vì con đánh giá quá cao sự tiến bộ của mình. Nhưng một lần nữa, khả năng xảy ra như vậy không cao lắm. Nó có nhiều khả năng xảy ra hơn ở tầng 96, là khi con có thể nghĩ, hoặc con đã sẵn sàng thăng thiên, hoặc con đã có một trình độ quả vị Ki-tô nào đó và con bắt đầu sử dụng điều này để tự đề xướng mình như một sinh thể tách biệt, và do đó con bắt đầu đi xuống con đường tay trái, con đường hướng hạ.

Sự thật là khi con vươn lên cao hơn và vượt quá tầng 96, tự ngã ngày càng có ít ảnh hưởng trên con. Như các thày đã có nói, nó chỉ còn là một cái gì giữ con trong cơ thể vật lý, bởi vì nếu không có một loại ngã tách biệt nào đó thì con không thể hòa nhập với một cơ thể.

Con có thể nói theo một nghĩa nào đó – và các thày cũng đã đề cập – là khi con khởi sự ở tầng 144 và con đi xuống tầng 48, cứ mỗi tầng như thế con lại khoác vào một ảo tưởng, rồi lại thêm một ảo tưởng khi con cứ tiếp tục đi xuống. Những ảo tưởng đầu tiên mà con khoác vào thật ra là các ảo tưởng cho phép con, như cái Ta Biết, như một sinh thể vô hình tướng, hòa nhập với một cơ thể có hình tướng, và do đó con tới chỗ cảm thấy mình ở trong cơ thể và bốn thể phàm – không phải chỉ có cơ thể mà đầu tiên là thể bản sắc, xong thể lý trí, xong thể cảm xúc, rồi đến thể vật lý. Nhưng con phải khoác vào một số ảo tưởng để tự trải nghiệm mình đang ở trong cơ thể này, mình có một cảm giác nhận biết đã định vị chung quanh cơ thể – thật ra có thể nói là con có khả năng vận hành bộ máy của cơ thể.

Và cái này thì không thực sự gọi là tự ngã theo nghĩa truyền thống. Nó không khiến con ích kỷ mà nó chỉ khiến con hòa nhập với một cơ thể hầu con có thể thực sự xem mình như đang tồn tại trong cơ thể đó, đang nối kết với cơ thể đó, đang có khả năng điều khiển cơ thể và trải nghiệm thế giới xuyên qua cơ thể và hành động xuyên qua cơ thể. Đây không phải là cái gì con sẽ gọi là tự ngã theo nghĩa truyền thống, tức là ích kỷ và chỉ đặt trọng tâm vào chính nó.

Con càng vươn lên cao hơn thì con càng làm cho sự tập trung vào bản thân rơi rụng. Và cuối cùng con đạt tới điểm – và điểm này xảy ra trước tầng 144 – con không còn tập trung vào chính mình nữa, thậm chí con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt đến độ con phải tự nâng mình lên, trở thành danh tiếng, hay muốn làm chuyện gì quan trọng, vân vân.

Con lần lần rũ bỏ cảm nhận tập trung vào chính mình, cho nên tất nhiên càng ngày con sẽ càng ít khả năng lầm lạc để mà bắt đầu đi trở xuống. Điều này cũng có nghĩa là khi con khởi sự rũ bỏ sự tập trung vào bản thân, khía cạnh tâm thần phân liệt cũng biến mất. Ta cũng hiểu tại sao con có cảm giác phần nào đây là một tiến trình phân liệt. Như các thày đã có nói, có một giai đọan trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy phân liệt đôi chút. Nhưng con khắc phục nó, con thăng vượt nó khi con thăng vượt sự tập trung vào bản thân như một sinh thể tách biệt, và con bắt đầu hòa nhập nhiều hơn với Hiện diện TA LÀ của con, và sự phân liệt dường như tan biến mất.  

“Sinh ra từ nước” và “Sinh ra từ lửa”

Hỏi: Trong cuốn sách “Tự do khỏi Phàm linh Nội tại”. Đại thượng sư có dạy về hai thời điểm quyết định trên đường tu trên địa cầu. Thời điểm thứ nhất là khi chúng con phải để cho ngã chết đi, là cái ngã tạo ra khi chúng con ở giữa mức tâm thức thứ 48 và 96. Và thời điểm thứ nhì khi chúng con ở mức 144 và phải chọn lựa, liệu chúng con sẽ vun bồi cho cái ngã đã tạo ra giữa mức 96 và 144, hay chúng con sẽ buông bỏ ngã này và cũng để nó chết hầu thăng thiên.

Ở mức 96 khi chúng con để cho ngã chết, là cái ngã chú tâm vào việc phát triển cá thể của mình, Đại thượng sư gọi đó là “sinh ra từ nước”. Và khi chúng con để cho cái ngã tạo ra từ mức 96 đến 144 chết đi, chúng con được “sinh ra từ lửa” và được gia tốc vào thăng thiên. Nhưng “sinh ra từ nước” nghĩa là gì? Chúng con biết đó là không còn chú tâm vào việc phát triển ngã cá nhân nữa, mà chúng trọng vào việc nâng cao toàn thể. Và chúng con thực hiện được điều này khi chúng con mở tim ra cho ngọn lửa thần thánh của tình thương. Con nói vậy có đúng không?

Và “sinh ra từ lửa” là thế nào? Có phải là khi chúng con hiểu rằng mặc dù cái ngã mình tạo ra rất đẹp và là một linh thể ánh sáng, đó vẫn chưa là bản sắc cuối cùng của mình, vì bản thể mình luôn lưu động, luôn thăng vượt. Chúng con phải buông bỏ mọi điều chinh phục được vì không có giai đọan nào gọi là tối hậu. Không có quyền năng nào tách biệt khỏi tình thương, không có quyền năng nào kiểm soát hoặc sở hữu – không có “cái tôi” nào tách biệt khỏi mọi sự sống?


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Ta có thể trả lời câu hỏi của con bằng một chữ giản dị là “Phải”, vì con đã hiểu được ý tưởng cơ bản. Con hiểu được là Đại thượng sư đã sử dụng những từ “sinh ra từ nước”, “sinh ra từ lửa” do ta cũng đã sử dụng 2000 năm trước đây mà con có thể tra cứu trong Kinh thánh. Điều mà ta ám chỉ thời đó, nhưng không thể trình bày một cách đầy đủ, là có hai cách để được tái sinh.

Cách thấp hơn, hoặc giai đoạn đầu tiên trên đường tu, là khi con tái sinh từ cái ngã mà con đã tạo ra – như chúng tôi đã có đề cập – để tự tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Cái ngã này được tạo ra như một sự phản ứng đối với tâm thức tập thể. Và đây là tâm thức mà ta đã ví như nước. Con cũng có thể gọi đó là cõi tình cảm, nhưng ta không xác định đó là cõi tình cảm, mà là tâm thức bình thường nhất của con người, là mức tập thể của tâm thức. Đây cũng chính là mặt nước mà ta đã đi bộ trên đó để chứng tỏ là ta đã vươn lên cao hơn mức tâm thức đó để đạt được tâm thức Ki-tô.     

Vậy thì trước tiên, con buông bỏ ngã đó, và con tái sinh vào một ý niệm bản sắc cao hơn, rồi khi con đi lên tới mức 144, con phải quyết định tái sinh từ lửa, tức là ngọn lửa của thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con đã lập tức gỡ bỏ ngã – vì thật ra con đã lần hồi gỡ bỏ ngã này giữa hai mức tâm thức 96 và 144 – nhưng con lấy quyết định là dù con có chút ngã nào còn sót lại, dù con đã đạt được bất kỳ chứng ngộ nào trên đường tu tâm linh, dù con có được sự hiểu biết nào đi chăng nữa, thì con cũng sẵn sàng để cho ngọn lửa thăng thiên gia tốc nó, hầu con đạt tới một mức tâm thức cao hơn nữa.  

Nói cách khác, con có thể bảo rằng thử thách ở mỗi tầng tâm thức từ 96 đến 144 thật sự là liệu con có tin là con đã đạt được một điểm tối hậu nào đó, một mức tâm thức tối hậu nào đó hay chưa, hay là con nhìn nhận rằng có một cái gì đó cao hơn nữa. Điều này cũng liên hệ đến lời dạy của một vài chân sư khác, khi các thày nói rằng con không chấp nhận là con đã tới một mức tối thượng, hay con đã trở thành vô ngã, hay là bây giờ con đã giác ngộ.

Bởi vì khi nào con còn hiện thân trong thể xác, thì luôn luôn có một mức tâm thức cao hơn để đạt được – và đương nhiên là ở cõi thượng thăng cũng có những mức cao hơn, nhưng ở cõi thượng thăng con không cần bị tiêu hủy trong lửa để mà thăng lên. Trên cõi thượng thăng, thật sự không có gì để mà tiêu hủy, mà con chỉ đơn giản bước từ mức tâm thức này lên mức kế tiếp hoàn toàn không cố gắng, bởi vì không có gì cưỡng chống lại sự tăng trưởng của con.

Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?

Hỏi: Alexander Đại đế có phải là một sa nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Phải.

Kinh nghiệm chứng ngộ trên đường tới Damascus

Hỏi: Con đã đi trên đường tâm linh từ nhiều chục năm and mặc dầu con biết con đã có tiến bộ về tâm thức, đôi khi con có cảm giác con vẫn chưa đạt được tiềm năng của mình bởi vì con chưa bao giờ trải qua kinh nghiệm chứng ngộ như Paul trên đường tới Damascus. Con hình dung là rất nhiều vị thày tâm linh đã có kinh nghiệm này trong đời sống của họ. Liệu đây chỉ là một cái “ngã” đến từ một sự lập trình tập thể khiến cho con kỳ vọng một số trải nghiệm tâm linh hão huyền và phi lý, chẳng hạn như nhìn thấy chân sư hiện ra trước mặt con bất cứ lúc nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Những gì con gặp trên đường tu tâm linh là chuyện rất cá nhân, mỗi người mỗi khác. Và có một điều rất, rất quan trọng là con không được có sự phán đoán về giá trị của kinh nghiệm con trải qua, không được tạo ra hay gợi ra một tiêu chuẩn tương đối nào và bảo rằng, đã là một đệ tử tâm linh cao cấp thì con phải có một trải nghiệm nào đó.

Hiện có nguyên một nền văn hóa gọi là Thời mới với nhiều tổ chức tâm linh và thậm chí cả tôn giáo, cho rằng con phải có những trải nghiệm ly kỳ, tột đỉnh. Có nguyên cả một nhóm rất đông trong phong trào Thời mới bị kẹt trong cuộc tìm kiếm bất tận những loại trải nghiệm tột đỉnh như thế.

Nhưng khi con nhìn vào khái niệm kinh nghiệm tột đỉnh, con nhận ra là ngay trong định nghĩa, đó là kinh nghiệm cao nhất, không có gì cao hơn. Thế nhưng một số người không những muốn lặp lại kinh nghiệm tột đỉnh mà họ còn muốn có kinh nghiệm tột đỉnh cao hơn nữa. Và họ bắt đầu lập ra một bảng xếp hạng các kinh nghiệm tột đỉnh – cái này tột đỉnh hơn cái kia. Và điều này, tất nhiên, thật phản tác dụng cho sự phát triển tâm linh.

Nó kéo con vào một vòng tư duy ganh đua sẽ thực sự không thể đem lại tăng trưởng tâm linh cho con, bởi vì tăng trưởng tâm linh là gì? Là buông bỏ tự ngã, chứ không phải củng cố tự ngã. Và tự ngã thật là thích thú khi nó có thể sử dụng một kinh nghiệm tâm linh để bảo rằng: “Chắc hẳn tôi là một người tâm linh cao độ vì tôi đang có tất cả những kinh nghiệm này.”

Con phải vô cùng thận trọng về điểm này. Con phải nhận ra một điều rất, rất quan trọng ở đây. Mục đích của con đường tâm linh không phải là để có những trải nghiệm ly kỳ, tột đỉnh, mà để con thoát khỏi một số tin tưởng và khuôn nếp phản ứng, có thể gọi là những cái “ngã tách biệt” nếu con muốn, nơi bốn thể phàm của con.

Vậy thì cá nhân con cần gì để được tự do? Đối với một số người, họ cần môt kinh nghiệm nào đó và vì thế họ có kinh nghiệm này. Nhưng đối với rất nhiều người khác, họ có khả năng tiến bước một cách đều đặn, chậm rãi, tuần tự, và họ sẽ lần hồi buông bỏ được ảo tưởng của họ. Những người như thế không cần trải nghiệm vũ bão nào cả.  

Con cũng cần nhìn nhận là đã có những người từng trải qua những kinh nghiệm cải đạo đáng kinh ngạc như trên đường tới Damascus, và con có thể tự hỏi, có thật là Paul đã có một kinh nghiệm tâm linh? Hay đó là một kinh nghiệm cải đạo khi ông bỗng nhiên nhìn ra là mình đã đi lầm đường và từng làm những điều phản tác dụng?  

Con có thể tự hỏi: “Tại sao Paul lại có kinh nghiệm như thế?” Nếu con nhìn vào tình hình thực tế, con sẽ thấy ông đã từng đàn áp tín hữu Ki-tô, ông đã từng chống đối đạo Ki-tô. Nhưng trong sứ vụ thiêng liêng của Paul thì lại có phần định ra là ông phải trở thành một nhà truyền giáo phúc âm Ki-tô. Cho tới thời điểm đó, ông đã kháng cự lại sứ vụ thiêng liêng này của ông, và sự kháng cự ngày càng mãnh liệt hơn cho tới khi bỗng nhiên ông không thể chịu đựng được nữa. Một cái gì đó bị gãy trong ông và ông buông xuôi ngừng kháng cự. Có một sự khác biệt to lớn giữa tâm trạng chống cự trước đó với cảm giác tự do khi ông buông hết. Và một cách nào đó ông đã kinh nghiệm điều này.

Và con có thể thấy được, kinh nghiệm của ông có vẻ dữ dội là do sự tương phản giữa hai trạng thái cưỡng lại và buông bỏ. Chính độ mãnh liệt của kháng cự đã tạo ra tương phản. Nhưng rất nhiều người trong số các con không có vấn đề kháng cự như vậy đối với sự phát triển tâm linh, và đó là vì sao con tăng trưởng một cách vững bền hơn. Con không có tương phản.   

Con cũng phải nhìn nhận là ở những giai đọan đầu của đường tu tâm linh, không phải là hiếm có khi hành giả trải qua một kinh nghiệm tột đỉnh, một kinh nghiệm mãnh liệt, vì vẫn có tương phản giữa trạng thái tâm thức cũ của họ và trạng thái tâm thức cao hơn mà họ đang bước vào. Nhưng một khi con tiến xa hơn trên đường đạo, khi con tiến về hướng tầng tâm thức 144 và đã vượt qua tầng 96, con không còn cảm giác tương phản nào nữa bởi vì con đã đạt được tâm thức cao hơn rồi. Bây giờ khi tất cả chỉ là tiệm tiến thì làm sao còn tương phản được nữa?  

Ở tầng tâm thức 48, khi con khắc phục được sự kháng cự và con kinh nghiệm được, thoáng nhìn thấy được tầng 49, thì con cảm thấy tương phản rất lớn. Nhưng từ tầng thứ 102 lên 103, sự khác biệt sẽ ít hơn và không còn dữ dội nữa. Ngoài ra còn có sự kiện là ở những tầng tâm thức thấp hơn, một số hành giả cần có một kinh nghiệm không thể chối cãi mà tâm vỏ ngoài của họ không thể phủ nhận, không thể làm ngơ, không thể giải thích được. Một kinh nghiệm như vậy rất cần thiết cho những người đó trong hoàn cảnh của họ.    

Nhưng những hành giả đã chín chắn hơn trên đường tu thì không cần những loại kinh nghiệm như vậy. Khi con bước lên cao hơn, tương phản sẽ ngày càng ít đi, và đó là điều khá thông thường. Những bài học ngoạn mục, những trải nghiệm tột độ sẽ ngày càng thưa đi. Con thực sự đạt đến một điểm khi con bắt đầu sống trong tâm thức mà ta gọi là “Nước Trời” và Phật gọi là cực lạc. Khi đó tâm thức con quân bình, trung hòa và con không còn tương phản to lớn nữa.     

Con đường rộng và con đường hẹp

Hỏi: Trong bài Thuyết pháp trên Núi, Giê-su nói: “Hãy vào cửa hẹp. Vì cửa rộng và đường rộng dẫn đến hủy hoại, và những kẻ vào đó cũng nhiều. Còn cửa hẹp và đường hẹp dẫn đến sự sống, và những kẻ tìm được thì ít.” Xin các chân sư thăng thiên vui lòng cho chúng con, những đệ tử của chân sư thăng thiên, một lời dạy hiện đại về điểm này? Liệu có những pháp tu hoặc yêu cầu đặc thù nào sẽ giúp chúng con ở lại bên trong và băng qua cánh cửa hẹp mà Giê-su nói đến khi còn tại thế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Các thày đã cho con nhiều lời dạy về điều này. Đơn giản là có một sự khác biệt giữa con đường vỏ ngoài và con đường nội tâm, con đường công truyền và con đường tâm truyền. Con đường rộng, cánh cửa rộng, là cái mà hầu hết mọi người trên địa cầu đều đi theo qua các tôn giáo chính mạch, với lời hứa là khi con tuân thủ một vài quy luật vỏ ngoài, làm đúng một vài pháp tu vỏ ngoài, vâng lời giới tu sĩ vỏ ngoài, thì con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Ta sẽ đến và cứu con dùm con, ta sẽ làm mọi công việc cho con.

Đó là con đường rộng dẫn đến hủy hoại, bởi vì cánh cửa hẹp dẫn đến thăng thiên là con đường nội tâm biến đổi tâm thức của mình, thanh lọc tâm mình cho không còn khuôn nếp phản ứng nào, không còn tin tưởng sai lầm nào, không còn ngã tách biệt nào, không còn tự ngã nào. Hầu hết mọi người không biết đến sự hiện hữu của con đường này, hầu hết mọi người chưa sẵn sàng cho con đường này. Tất nhiên, các tôn giáo chính mạch đã bị sa nhân chiếm đoạt đến độ hiểu biết này không được phổ biến rộng rãi.

Như con có thể thấy qua số người quan tâm đến các giáo lý tâm linh không chính mạch, càng ngày càng có nhiều người thức tỉnh, tuy nhiên vẫn còn một khoảng cách rất lớn giữa những gì nhiều người đã sẵn sàng tiếp nhận và những gì được các tôn giáo chính mạch giảng dạy. Nói chung, cách đi theo con đường hẹp là con đi theo con đường tâm linh như các chân sư thăng thiên đã phác họa. Điều này không có nghĩa đây là con đường duy nhất. Chủ yếu đây là việc nhìn ra một điều gì đó trong bản thân mình và, một cách ý thức, quyết định vươn lên cao hơn. Và tất nhiên các thày đã ban truyền rất nhiều lời dạy về điều này. Ta khuyên những ai quan tâm hãy theo học khóa Con đường Tự điều ngự. Hãy khởi sự với bộ sách này, từ tầng 48 vượt lên đến tầng 96, rồi sau đó sử dụng những quyển sách khác mà các thày đã khuyên con dùng tiếp theo sau.

Cái ngã cho con cảm nhận liên tục

Hỏi: Con nhận ra là con có một cái ngã mà con gọi là “cái ngã tôi”. Nó không có đặc điểm nào cụ thể, nhưng nó cho con ý niệm rằng con là chính con chứ không phải là một ai khác hay một cái gì khác. Nó cho con một cảm nhận liên tục, tức là sau khi con đã thay đổi hình ảnh bản thân bao nhiêu lần, nó vẫn là con. Đã rất lâu con tin rằng đó là cái Ta Biết. Nhưng bỗng nhiên con nhận ra rằng ý niệm “mình là mình” chỉ là một cái ngã và nó cần chết đi. Và khám phá này khiến con kinh hãi suốt hai tuần lễ.

Thậm chí, con – hay đúng hơn, cái ngã đó – đã rất giận các chân sư thăng thiên. Con bị sốc bởi phản ứng của mình, bởi nỗi sợ và nỗi tức giận đó. Sau khi suy ngẫm về sự tình suốt mấy tuần, con nhận ra là điều con thấy rất có thể là tự ngã. Thưa nói vậy có đúng không? Phải chăng cảm nhận liên tục mà chúng ta có trên địa cầu phát xuất từ tự ngã? Con có cảm giác vấn đề này có gì nhiều hơn vậy, nhưng con không thấy rõ được. Xin thày vui lòng cho con một tầm nhìn cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Tự ngã có nhiều khía cạnh, và con sẽ nhận thấy là những giáo lý đầu tiên mà chúng tôi ban ra đã giảng dạy đặc biệt về tự ngã. Rồi sau đó chúng tôi đã chuyển sang việc giảng dạy về các ngã tách biệt. Lẽ tự nhiên, con có thể hỏi: Tự ngã là gì? À, đó là một tập hợp những cái ngã tách biệt. Nhưng đằng sau tất cả những cái ngã đó có cái ngã mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Điều con cần cẩn thận – khi con cảm thấy vấn đề này có gì nhiều hơn như vậy – là con phải nhận ra sự khác biệt giữa cái ngã đầu tiên mà con tạo ra sau khi con hiện thân vật lý trên một hành tinh như địa cầu, và cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Ngã đầu tiên mà con tạo ra chỉ đơn giản là một cái ngã cho phép con tự biểu đạt qua bốn thể phàm của con. Đây là cái ngã cho con cảm nhận mình liên tục, để khi con tăng triển trên đường tâm linh, con vẫn có ý niệm con là cùng một con người đang tăng triển, và đó là tại sao con không đánh mất ý niệm bản sắc của mình. Một số người bị mất ý niệm bản sắc khi họ tìm cách cưỡng ép sự tăng triển, và họ có thể trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc.

Vấn đề tinh tế ở đây là cái ngã mà con tạo ra sau khi bước vào nhị nguyên cũng cho con một cảm giác liên tục như là một sinh thể tách biệt. Khi con trải nghiệm cái ngã tức giận, cái ngã sợ chết, cái ngã oán giận các chân sư thăng thiên, đó chính là cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên. Theo thuật ngữ được sử dụng trong phong trào Summit Lighthouse, con có thể nói đó là cốt lõi của “Kẻ ngụ trên Ngưỡng cửa” (Dweller on the Threshold). Nó muốn ngăn cản con tăng triển và cầm giữ con lại. Thật đúng là ngã này phải chết đi.

Bây giờ trở về với ngã kia, cái ngã chỉ đơn giản cho phép con đầu thai trên một hành tinh như địa cầu và mang một ý niệm liên tục, đúng là ngã đó không phải là cái Ta Biết, mà là ngã đầu tiên được cái Ta Biết tạo ra, cho nên nó cũng là cái ngã chót mà cái Ta Biết sẽ từ bỏ. Đây là cái ngã chỉ đơn giản cho con một cảm nhận liên tục. Cũng đúng là nó cần chết đi, nhưng nó là ngã cuối cùng cần chết đi. Nó là cái Hồn ma (the Ghost) mà ta đã từ bỏ trên thập tự giá, và chính con cũng sẽ từ bỏ ở tầng tâm thức 144 trước khi con thăng thiên.

Con có thể nói rằng tự ngã, cái ngã sinh ra từ nhị nguyên, chống đối sự tăng triển của con. Nhưng cái ngã kia mà con đề cập và đem lại cho con cảm nhận liên tục, kỳ thực nó là một phần của sự phát triển của con, thậm chí là yếu tố giúp cho con phát triển. Con cần nó để hội nhập với bốn thể phàm của con, con cần nó để có cảm giác sống liên tục trên địa cầu. Và nó cũng là loại ngã cho con cái góc nhìn độc nhất vô nhị của con.

Đây là điểm chúng tôi đã cố giải thích trong buổi hội nghị về quả vị Ki-tô khi chúng tôi nói rằng hai người đạt đến cùng một trình độ quả vị Ki-tô mà vẫn có thể có những quan điểm khác nhau trên một số vấn đề. Bởi vì người này nhìn vấn đề từ góc nhìn này, trong khi người kia nhìn từ góc nhìn kia. Không phải là một người đúng, người kia sai. Không phải một người tốt giỏi hơn người kia, mà chỉ là những cách nhìn khác nhau.

Ta không đang bàn đến những loại quan điểm nhị nguyên mà ta nói rằng ngay cả khi con đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô nào đó, thì con vẫn mang một nhãn quan mà chúng tôi gọi là nhãn quan cục bộ, địa phương (localized). Cũng giống như tất cả các con đang thấy gì khi các con nhìn qua mắt vật lý của mình – người kia đang nhìn con và thấy con, nhưng con thì không thấy con mà lại thấy người kia. Chỉ là hai góc nhìn khác nhau chứ không có cái đúng cái sai – thật là vô nghĩa nếu áp dụng cách lượng định như vậy. Không có góc nhìn này tốt hơn góc nhìn kia, nhưng có một góc nhìn chỉ của riêng con.

Chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên, thậm chí cả trên một hành tinh tự nhiên, con bắt buộc phải nhìn cuộc sống từ một nhãn quan giới hạn, cục bộ. Và đó chính là cái ngã mà con đã tạo ra để cho con cái nhìn cục bộ đó khi con hiện thân. Đó là cái ngã chót mà con sẽ bỏ lại.

Mười Điều răn và các tầng tâm thức trên địa cầu

Hỏi: Con được biết qua các bài truyền đọc mới đây rằng các điều răn mà Thượng đế ban cho Môi-sê là từ một đợt truyền pháp xưa cũ và không còn áp dụng được trên địa cầu. Nhưng điều này có vẻ không thực tế từ quan điểm của phân biện Ki-tô. Xin một trong các thày làm rõ điểm này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 cho nước Nga – Vượt qua tâm thức hơn người và cảm nhận bất toàn, đau đớn và chú tâm ra ngoài bản thân. Đăng ngày 28/5/2021.

Cái nhìn đúng đắn về vấn đề này là Mười Điều răn đã được ban cho một mức độ tâm thức nào đó. Và ngày nay vẫn còn khá nhiều người trên địa cầu đang ở mức tâm thức này. Cho nên đối với những người này, Mười Điều răn vẫn còn xác đáng vì nó tương ứng với mức tâm thức của họ. Họ cần phải có những điều răn thật nghiêm nghị như thế – phải làm điều này hay phải làm điều kia – bởi vì đó là tất cả những gì họ có khả năng nắm bắt.

Nhưng đối với rất, rất nhiều người khác trên địa cầu, đặc biệt tại các nước mà chúng ta gọi là tiền tiến, những điều này không còn áp dụng được nữa vì họ đã thăng vượt mức tâm thức đó rồi. Họ không cần điều răn mà cần hiểu tại sao họ không được làm chuyện này mà cần làm chuyện kia. Đây là kết quả của sự tăng trưởng tâm thức. Và tất nhiên, có những mức cao hơn nữa khi con người nhận biết những điều đó qua trực giác, họ biết điều gì cần làm và điều gì không nên làm.

Cho nên như con thấy, có tầng mức của những điều răn. Có tầng mức của một số nguyên tắc đạo đức hay đạo lý hướng dẫn con người, mà trên hết là nguyên tắc không được làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình. Và có tầng mức cao hơn khi cá nhân mỗi người hòa điệu vào bên trong và cảm nhận đâu là cách cư xử đúng đắn nhất cho mình. Luôn luôn sẽ có nhiều cấp độ tâm thức như vậy, tuy rằng trong tương lai nhân loại sẽ tới mức không ai còn ở lại tâm thức Kinh Cựu ước nữa, và do đó không còn cần đến Mười Điều răn.

Khác biệt giữa nhận trách nhiệm về bản thân và kiểm soát đời mình

Hỏi: Các thày yêu dấu, trong quyển sách về Trò chơi của Tự ngã, thày nói chúng con nên nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm về đời mình, sáng tạo đời mình, quản lý đời mình, nhưng trong các bài truyền đọc khác thày lại nói là ở các tầng tâm thức Ki-tô cao hơn, chúng con không nên dùng quyền năng tâm lý để tạo ra đời mình, mà chúng con nên buông bỏ chính mình, xuôi theo dòng chảy và chấp nhận mọi chuyện sẽ xảy ra. Làm thế nào con có thể nhận ra hay hiểu ra đã đến lúc con phải buông bỏ ý muốn kiểm soát đời mình? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 27/5/2021.

Điều quan trọng là con cần tách rời hai khái niệm đó để con không trộn lẫn với nhau. Tự ngã là phương tiện kiểm soát chủ yếu. Đó là yếu tố chủ yếu trong tâm lý con muốn kiểm soát mọi chuyện. Đó là tại sao tự ngã bày ra một số trò chơi kiểm soát. Nhưng việc nhận lãnh trách nhiệm về bản thân thì khác. Nhận lãnh trách nhiệm về bản thân không có nghĩa là con kiểm soát mọi khía cạnh cuộc đời con, mà có nghĩa là con nhận trách nhiệm về tâm lý của mình và nhận ra rằng rất nhiều khía cạnh trong đời mình chính là các khuôn nếp tâm lý chưa giải quyết của mình đang trình chiếu ra bên ngoài.

Nhưng đồng thời con cũng nhìn nhận là rất nhiều điều kiện của đời con không phải là do tâm lý hay những chọn lựa của con, mà do con đang sống trong một cộng đồng với nhiều người khác, trong một quốc gia hay thậm chí do con sống trên một hành tinh phi tự nhiên. Vì vậy con không thể chờ đợi là khi con tăng triển quả vị Ki-tô của mình, con sẽ có thể kiểm soát mọi khía cạnh của đời con. Chắc chắn chính ta đã không kiểm soát được mọi khía cạnh của đời ta vì ta đã không ép buộc bất cứ ai phải treo ta lên thập tự giá, mà ta đã cho phép điều này xảy ra do ta thấy đó là một phần trong quả vị Ki-tô của mình.

Và đây chính là những gì xảy ra khi con tăng triển quả vị Ki-tô của con. Con tăng triển khả năng phân biện để biết được trong trường hợp nào con có thể sử dùng uy lực của mình để thị hiện một số tình huống, và trong trường hợp nào con cần bước lui lại và cho phép các sự cố trải bày ra. Cũng có thể nói là sẽ có một tầng cao hơn nữa của quả vị Ki-tô khi con không xét đến cả tình huống đặc thù nào phải cần xuất hiện, mà con chỉ đơn giản xuôi theo Dòng sông sự Sống, con chỉ cho phép các hoàn cảnh trài bày ra một cách tự nhiên mà không trù liệu đời mình phải đi về đâu.

Ta không nói rằng việc có mục tiêu là sai. Ở các tầng thấp hơn trên đường tu, có mục tiêu là một điều quan trọng cho dù là mục tiêu vật lý hay mục tiêu tâm linh. Nhưng khi con vươn lên cao hơn và cao hơn nữa, con ngày càng hòa điệu hơn, con càng trở thành một cánh cửa rộng mở hơn cho Hiện diện TA LÀ. Và thay vì con dùng tâm vỏ ngoài để quyết định những gì con muốn thị hiện, con cho phép Hiện diện chảy xuyên qua con và thị hiện những gì nó muốn thị hiện cho dù con không biết cái đó sẽ là gì với tâm vỏ ngoài.

Thiền định có phải là cách hay nhất để trải nghiệm Thượng đế?

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã thiết lập trang mạng này. Tôi đã học hỏi các giáo lý tâm linh từ nhiều năm và cũng đã thiền tập, nhưng chỉ từ khi tôi khám phá ra trang mạng của ông mà tất cả như ăn khớp lại với nhau. Tôi đang thực hành rất nhiều những bài nguyện tràng hạt và lời xác định cùng với cầu nguyện và thiền định. Và sau đây là câu hỏi của tôi cho thày Giê-su.

Thưa thày, quan tâm của con là mặc dù con cảm nhận được sự hiện diện của Thượng đế, con vẫn chưa có được trải nghiệm tiếp xúc trực tiếp. Con vẫn nghĩ là sự tiếp xúc này có nhiều khả năng nhất xảy ra trong lúc thiền tập. Con đã đọc quyển sách “Tự truyện của một Yogi” (Autobiography of a Yogi) và từ đó có cảm hứng muốn học Kriya Yoga. Theo tổ chức RSF (Self-Realization Fellowship) Giê-su từng nhận được điểm đạo trong pháp yoga này. Khóa học của SRF kéo dài 3 năm rưỡi là lớp nhập môn vào Kriya Yoga. Tuy nhiên trên trang mạng này, Giê-su có vẻ như không khuyến khích con đường thiền tập cho những người sống trong nền văn hóa Tây phương, hay là con có hiểu lầm gì chăng? Xin Giê-su vui lòng hướng dẫn con về sự hữu ích của cách thiền tập này trong mục đích kết nối với cái Ta Thượng đế nơi nội tâm. Hoặc liệu là có những kỹ thuật tâm linh nào khác hữu hiệu hơn? Con đã cầu nguyện và thiền quán để tìm trả lời cho câu hỏi này nhưng cho tới giờ con vẫn chưa có lời giải đáp.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 2/9/2011.

Trong thời gian 17 năm mà người ta gọi là “những năm biệt tăm”, ta quả là có chu du ở phương Đông và đã thử nghiệm cũng như học hỏi một số kỹ thuật tâm linh của phương Đông. Thật vậy, ta đã vô cùng cởi mở để học hỏi bất cứ điều gì có thể trợ giúp sứ vụ của mình, cho dù thuở đó ta không hiểu được hay không “thấy” được hoàn toàn đó là gì.     

Ta có được học một điều tương tự như Kriya Yoga, tuy nhiên nếu bảo rằng điều ta học là cùng một thứ – hay được chỉ dạy trong cùng một cách thức – như khóa học hiện nay của SRF thì sẽ không đúng lắm. Con cũng cần nhớ là ta đã được học rất nhiều kỹ thuật khác của phương Đông và do đó ở đây ta không có ý định hỗ trợ hay khuyến cáo bất kỳ kỹ thuật nào.   

Tất cả mọi sự phải thay đổi và tiến hóa theo thời gian, bởi vì sự thay đổi là cách vận hành nền tảng của hành tinh này – và lý do là vì tâm thức tập thể trên địa cầu vẫn còn tụt hậu so với nhịp tăng trưởng của phần còn lại của vũ trụ. Vì vậy, cho dù các đạo sư Ấn độ có khuynh hướng bảo rằng họ đã tìm lại được một kỹ thuật bị thất lạc, thật không có cách chi tách rời một kỹ thuật tâm linh với bối cảnh của nó, tức là với xã hội nơi kỹ thuật đó được sử dụng cũng như mức tâm thức tập thể vào thời đó. Điều này giải thích tại sao, nói chung, chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường không khuyên nhủ các học trò ở phương Tây sử dụng kỹ thuật thiền định của phương Đông.       

Ta cũng biết, một số người sẽ nắm ngay câu nói vừa rồi của ta để lý giải rằng ta không thật là Giê-su. Nhiều học trò của SRF có thể lý luận rằng bởi vì Yogananda đã từng làm việc với Giê-su đích thực, thì tất cả nội dung của trang mạng này cũng phải đồng ý hoàn toàn với những gì Yogananda đã nói – và nếu không, chỉ có nghĩa là trang mạng này không phải là do Giê-su đích thực. Và cũng vậy, tất nhiên, học trò của các phong trào khác hay đạo sư khác cũng sẽ làm y như thế.  

Tuy nhiên, cho những ai có tâm phân biện hơn, ta cần nói rõ là quả thực ta đã có làm việc với Yogananda. Nhưng những gì ta đã có thể truyền rải qua trung gian Yogananda phần lớn là kết quả của khả năng thăng vượt của chính ông đối với xuất xứ của ông, cũng không khác gì trang mạng này là kết quả của khả năng thăng vượt của sứ giả này đối với xuất xứ của Kim Michaels.      

Con thấy đó, một sinh thể thăng thiên đã thăng vượt MỌI xuất xứ trên địa cầu và luôn luôn tìm cách giúp cho mọi người làm tương tự, bắt đầu là với chính thế giới quan hiện thời của họ. Cho nên chúng tôi sẵn sàng làm việc với hầu hết những ai cũng sẵn lòng thăng vượt, và chúng tôi luôn luôn tìm cách trao truyền những điều khả dĩ giúp được một đoàn nhóm nào đó thăng vượt hệ tư tưởng hiện thời của họ.   

Điều khiến cho nhiều học trò tìm đạo chân thành không theo được sự hướng dẫn của chúng tôi gồm có hai điểm:

  • Niềm tin rằng chúng tôi trong Đại đoàn Thăng thiên có một chân lý toàn vũ, cố định và tuyệt đối ở trên đây mà chúng tôi đang cố gắng trao truyền dưới một dạng toàn vẹn, không pha loãng,
  • Niềm tin rằng trong quá khứ chúng tôi đã trao truyền nhiều phần của chân lý này, và do đó bất cứ gì mà một đạo sư hay một phong trào thốt ra sau này cũng nhất định PHẢI ăn khớp với những gì đã truyền dạy trước đây.   

Chính những điều tin tưởng đó đã khiến cho người ta bị kẹt lại trong lòng trung thành không đúng chỗ đối với một giáo lý vỏ ngoài, một đạo sư hay một phong trào vỏ ngoài. Điều này không những khiến cho sự tăng trưởng cá nhân của họ bị ngừng trệ, mà cả công việc toàn cầu nhằm nâng cao tâm thức nhân loại cũng phải chậm lại. 

Đó cũng là lý do có một xu hướng rõ rệt nơi các phong trào tâm linh mà bất cứ một học trò trung thực nào cũng nhận xét được, đó là hội chứng có thể gọi là “bùng lên rồi xẹp xuống”. Con có thể thấy một số phong trào tâm linh trải qua một giai đoạn bành trướng nhanh chóng đề rồi bị trì trệ, xong từ từ xẹp xuống. Giai đọan suy yếu này thường khởi sự khi người lãnh đạo qua đời hay rút lui, nhưng đôi khi nó bắt đầu ngay cả trước đó.  

Nguyên nhân hiện tượng suy yếu này nằm ở chỗ vị lãnh đạo hoặc đa số các học viên trong phong trào không có khả năng, hay không có ý muốn, sinh sôi các ta-lăng, nghĩa là nhân rộng các giáo lý và kỹ thuật được trao truyền. Con thấy không, có một định luật tâm linh dẫn dắt BẤT KỲ phong trào tâm linh nào.     

Ngược lại với sự suy nghĩ của nhiều học trò của chân sư thăng thiên, chúng tôi KHÔNG chỉ làm việc với một hoặc vài ba phong trào mà thôi. Chúng tôi làm việc với tất cả mọi học trò cho dù họ có ở đâu hầu gia tốc sự tăng trưởng nơi họ, và chúng tôi không có sự trung thành cố định với một giáo lý hay một phong trào nào. Có nghĩa là nếu quả thực một phong trào đang giúp được người ta thăng vượt các khuôn nếp tư duy cũ, thì chúng tôi sẽ trao một yếu tố nhân thêm cho phong trào đó.

Con lưu ý là điều này không có nghĩa là chúng tôi tán thành hay hỗ trợ bất cứ gì mà phong trào đó thực hiện hay giảng dạy. Đã từng có nhiều phong trào có giáo lý xa vời thực tế, thế nhưng nếu họ còn trợ giúp được người ta thăng vượt trình độ tâm thức cũ thì họ vẫn sẽ vẫn nhận được yếu tố nhân thêm – là yếu tố đã khiến cho phong trào đó tăng trưởng.  

Tuy nhiên, điều thường xảy ra là phong trào không thể duy trì mãi độ tăng trưởng, và lý do là vì quá nhiều học trò đã ngừng thăng vượt bản thân. Thay vào đó, họ sử dụng các giáo lý và các dụng cụ để củng cố cho thế giới quan của tự ngã, có nghĩa là bây giờ họ cảm thấy hơn trội người khác, họ cảm thấy họ sẽ được “cứu rỗi” mà không phải phơi bày tự ngã.  

Khi điều đó xảy ra, một đạo sư đích thực sẽ rời bỏ phong trào, và thậm chí trong nhiều trường hợp, sẽ bỏ cả hiện thân. Còn một đạo sư không mấy đích thực thì sẽ ở lại, nhưng phong trào nay rơi vào vòng chi phối của cái lực đứng đằng sau định luật thứ hai của nhiệt động học, cho nên sự hỗn loạn sẽ gia tăng cho đến khi phong trào bị tan vỡ hoặc từ từ suy thoái.

Cho nên điều ta muốn nói qua phần trình bày dài dòng này là cho con thấy tại sao một số đạo sư từ phương Đông đã thành công khi thiết lập phong trào tại Tây phương, và cũng vì lý do đó mà họ thường suy vi sau một thời gian. Lý do là vì trong đa số trường hợp, các đạo sư phương Đông không đủ thăng vượt xuất xứ của họ và không thể thích ứng giáo lý cùng kỹ thuật của họ với tư duy của người phương Tây.

Con thấy đó, trong hầu hết mọi trường hợp, một vị đạo sư Đông phương đến phương Tây với một cảm nhận vi tế về tính ưu việt của truyền thống tâm linh Đông phương. Vị đạo sư nghĩ rằng mình đến đây để đem lại một cái gì trội hơn, và do đó mình không có gì để học hỏi. Đó là tại sao con thấy các đạo sư phương Đông thường không mấy sẵn lòng thích nghi với tư duy người Tây phương.  

Thế nhưng khi một đạo sư phương Đông đến phương Tây, vị ấy gặp phải thử thách rất lớn trong khả năng thích ứng và linh động. Con thấy không, con sẽ không giúp ích cho bước tiến của nhân loại nếu con tìm cách biến các học trò tâm linh Tây phương thành những bản sao của học trò tâm linh Đông phương. Con sẽ CHỈ phát triển được nếu con rút tỉa những tinh túy thực sự phổ quát trong truyền thống tâm linh của mình, rồi biểu đạt nó trong một bối cảnh Tây phương. Trong số ít những kỹ thuật phương Đông đã chuyển giao thành công sang phương Tây thì có yoga, và lý do thành công của yoga là vì pháp môn này đã không nằm trong một khuôn khổ tập quyền mà trái lại được phép đa dạng hóa.      

Tình thế trở nên phức tạp hơn nữa do sự kiện hiện nay có nhiều học trò tâm linh đã chọn đầu thai tại phương Tây hầu trợ giúp sự thức tỉnh tâm linh của phương Tây. Nhưng suốt mấy tiền kiếp trước kiếp này, họ đã từng đầu thai tại phương Đông, và do đó chính họ đã chưa thăng vượt được truyền thống tâm linh của phương Đông. Họ bị thu hút bởi các đạo sư từ phương Đông, và một khi ở đây, họ cảm thấy không những truyền thống phương Đông quen thuộc hơn với họ mà lại còn cao trội hơn, và do đó không nên thay đổi.

Và như con thấy đó, mình thế nào thì mình sẽ thu hút thế nấy. Vị đạo sư nào mang sẵn niềm kiêu hãnh tâm linh về truyền thống phương Đông sẽ thu hút những học trò với cùng niềm kiêu hãnh đó, và cùng nhau họ sẽ củng cố lẫn nhau, và họ tạo ra một hệ thống khép kín bắt buộc phải suy thoái.

Trên căn bản, đây là cuộc thử thách vốn đã có từ ngàn đời, là làm thế nào cân bằng hai lực cơ bản của sáng tạo, tức là lực lan ra và lực co lại. Lực lan ra bảo con phải thăng vượt cái cũ, và lực co lại bảo con phải giữ đúng như truyền thống.     

Nếu con mất cân bằng trong sự lan ra, con sẽ mất hết phương hướng và mọi thứ sẽ vỡ tung trong một cuộc bành trướng vô kiểm soát. Nhưng nếu con mất cân bằng trong lực co lại, tất cả sẽ thu rút và sụp đổ từ bên trong.

Cho nên chìa khoá là cái nhìn Ki-tô, luôn luôn tìm cách vươn ra nhưng KHỒNG tìm cách khiến cho mọi người phải chấp nhận một chân lý tối cao. Ki-tô gặp gỡ mọi người ở chỗ họ đang đứng, rồi tìm cách giúp họ tăng triển từ đó. Và nếu ai đó không sẵn sàng thăng vượt cái cũ thì Ki-tô sẽ rút lui về – nếu họ không giết Ki-tô trước.

Điều này giải thích tại sao ta đã bỏ lại đệ tử của ta sau ba năm và tại sao Yogananda đã bỏ lại học trò của ông khi ông thấy rằng SRF đã đạt hết mức thăng vượt của nó. Đấng Ki-tô Hằng sống không hề trung thành với bất cứ cái gì trên địa cầu và luôn luôn hướng đến mức thăng vượt kế tiếp.

Bây giờ con đã có một nền tảng vững vàng hơn thì ta sẽ lần lượt trả lời câu hỏi của con:

“Tuy nhiên trên trang mạng này, Giê-su có vẻ như không khuyến khích con đường thiền tập cho những người sống trong nền văn hóa Tây phương, hay là con có hiểu lầm gì chăng?”

Ta không khuyến khích mọi người lao mình vào mà sử dụng thiền tập theo cách mà các đạo sư phương Đông thường trình bày, tức là xem đó là “giải pháp độc nhất cho mọi vấn đề”, là kỹ thuật tâm linh duy nhất mà họ sẽ sử dùng. Phương Tây là một môi trường vô cùng bận rộn, căng thẳng và hỗn loạn về mặt các năng lượng tâm lý mà con phải tiếp xúc trong đời sống hàng ngày. Ta KHÔNG khuyên bất cứ ai sử dụng một kỹ thuật nhằm làm cho tâm mình tĩnh lặng hay trống rỗng mà không đồng thời thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, chẳng hạn qua các bài chú, bài thỉnh của chúng tôi.

Con cần lưu ý là chúng tôi luôn luôn khuyến khích mọi người nên đi theo những thúc đẩy sáng ngộ nơi nội tâm mình. Nếu chẳng hạn con cảm thấy một sự thu hút mãnh liệt đối với Kriya Yoga, thì lý do là vì con có nhu cầu học hỏi một điều gì đó từ kinh nghiệm này. Có khi điều mà con cần học là pháp môn này không thích hợp với con, nhưng hầu hết mọi người sẽ không thể học được điều này nếu họ chỉ nghe theo người khác. Cho nên nếu con cảm thấy thu hút mãnh liệt thì con hãy bước theo – nhưng con cần tỉnh táo để tìm ra bài học tâm linh đích thực có thể nằm bên ngoài những gì ngoại tâm con có khả năng nghĩ tới ngay bây giờ.  

“Xin Giê-su vui lòng hướng dẫn con về sự hữu ích của cách thiền tập này trong mục đích kết nối với cái Ta Thượng đế nơi nội tâm. Hoặc liệu là có những kỹ thuật tâm linh nào khác hữu hiệu hơn?”

Con đang nói tới hai chuyện khác nhau ở đây – trước hết là một kỹ thuật có hệ thống, và sau đó là sự trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng. Con hãy lưu ý con đã nói gì ngay trước đó:

“Quan tâm của con là mặc dù con cảm nhận được sự hiện diện của Thượng đế, con vẫn chưa có được trải nghiệm tiếp xúc trực tiếp. Con vẫn nghĩ là sự tiếp xúc này có nhiều khả năng nhất xảy ra trong lúc thiền tập.”

Vấn đề ở đây là nhiều người tìm kiếm một kinh nghiệm về Thượng đế, nhưng họ lại cho rằng họ phải sử dụng một cách tiếp cận có hệ thống đề sản xuất ra, hay thậm chí “ép uổng”, kinh nghiệm đó. Giản dị là điều này không thể làm được. Cái vô hình tướng KHÔNG BAO GIỜ bị cưỡng ép vào BẤT CỨ hình tướng nào, do đó con cần tra vấn bất kỳ hình ảnh nào cho rằng Thượng đế phải ra làm sao hay một kinh nghiệm thần bí phải như thế nào.

Nhiều người nghĩ rằng họ đã có một trải nghiệm về Thượng đế do sử dụng một kỹ thuật nào đó hay ngay cả do ma túy. Nhưng điều họ làm là họ đã buộc bộ não và hệ thống thần kinh của họ phải sản xuất ra một trải nghiệm vượt xa kinh nghiệm bình thường của họ đến độ họ cho đó là Thượng đế.

Con có thấy được sự khác biệt tinh tế ở đây? BẤT KỲ một trải nghiệm nào mà con ép buộc sẽ được bộ não sản xuất ra, và nó sẽ xảy ra TRONG tâm con – và như vậy nó KHÔNG THỂ VƯỢT RA NGOÀI tâm con. Nhưng một kinh nghiệm đích thực về Thượng đế sẽ hoàn toàn và tuyệt đối vượt ngoài tâm con.    

Con có thấy việc dùng tâm làm phương tiện thăng vượt tâm là một chuyện bất khả thi hay không? Chuyện đó KHÔNG BAO GIỜ làm được. Con càng tập trung vào việc sử dụng tâm con thì con càng buộc cái ta thực của con vào với tâm – bởi vì chính sự chú tâm của con đã tạo ra một sợi dây buộc năng lượng khiến CON bị giam cầm trong tâm, mà chức năng của tâm thì vỏn vẹn chỉ là phương tiện tương tác với thế giới vật chất. Làm thế nào con có thể dùng phương tiện này để vượt ra ngoài thế giới vật chất?  

Cho nên chìa khóa để có một kinh nghiệm về Thượng đế là ngộ ra rằng không có gì mà con có thể LÀM sẽ đem lại kinh nghiệm đó.

Điều này không có nghĩa là con không nên dùng một kỹ thuật nào hết. Một kỹ thuật đúng đắn có thể giúp con tăng trưởng bằng cách làm thông sạch tâm con và cân bằng luân xa của con, và điều này sẽ khiến con kinh nghiệm Thượng đế dễ dàng hơn. Con càng giảm bớt sự hỗn loạn trong tâm con thì CON sẽ càng dễ giải phóng sự nhận biết của con khỏi tình trạng đồng hóa với tâm.

Một trong số những kỹ thuật hữu hiệu nhất hiện có là các bài chú các Elohim. Mặc dù chúng tôi đã không công bố một cách rầm rộ – cố tình như vậy – nhưng các bài chú này là một phương tiện chủ yếu để thông sạch và cân bằng tất cả mọi luân xa của con. Nhưng một lần nữa, điều này không có nghĩa là việc đọc những bài chú đó sẽ bảo đảm cho con một kinh nghiệm về Thượng đế.

Một kinh nghiệm thần bí không thể tiên đoán trước được bởi vì nó vượt khỏi mọi hình tướng. Cho nên con không thể định trước một kinh nghiệm thần bí phải như thế nào – nó sẽ khoác những hình dạng khác nhau tùy theo mỗi người.

Cho nên điều quan trọng là tập trung vào một kỹ thuật mà con ưa thích, nhưng không bao giờ cho phép kỹ thuật này trở thành một thói quen, một thông lệ. Đừng bao giờ cho phép mình rơi vào cái khuôn nếp với quá nhiều phong trào, là nghĩ rằng mình phải tiếp tục sử dụng một kỹ thuật suốt đời và điều này sẽ bảo đảm thành quả. Con cần phải thật nhạy bén khi cái ta cao hơn của con nhắc con nên chuyển sang một kỹ thuật mới, hay sử dụng kỹ thuật hiện thời một cách cao hơn.   

Con cũng cần bước ra khỏi cái tư duy tìm kiếm hay ngay cả mong muốn một kinh nghiệm thần bí. Nếu con mong muốn một điều gì, đó là vì con có sẵn một tâm ảnh là kinh nghiệm đó phải như thế nào, và làm như vậy cũng giống như con muốn ép uổng Thượng đế phải hiện ra trước mặt con dưới một dạng nào đó. Đây chính là “hình tạc vào đá”, và nó sẽ gần như chắc chắn ngăn chặn con kinh nghiệm được Thượng đế vô hình tướng.

Thay vào đó, con hãy tập trung vào việc nâng cao tâm thức hầu con có thể đóng góp tốt hơn trong công cuộc nâng cao mọi sự sống. Nói cách khác, nhiều người tầm đạo có ý hướng tốt thiện đã quá tập trung vào chính mình cũng như vào việc đạt được trải nghiệm tột đỉnh, đến độ họ biến thành những hệ thống khép kín. Con cần bước ra khỏi cái tư duy chú tâm vào bản thân quá mức, và cách duy nhất là con hãy đặt trọng tâm vào việc phụng sự người khác hay một mục đích cao rộng hơn – nhưng con hãy làm vậy một cách vị tha, quên mình, chứ không nhằm tâng bốc tự ngã.

Vì vậy con cần nỗ lực đạt đến một trạng thái hoàn toàn không dính mắc vào hình dạng mà trải nghiệm thần bí cần phải mang – thậm chí con không dính mắc luôn cả chuyện trải nghiệm. Nếu con làm được vậy thì rất có thể con sẽ thăng vượt được ngoại tâm và TỰ DƯNG trải nghiệm. Nhưng cũng rất có thể là con sẽ không có trải nghiệm thần bí nào hết, bởi vì nhiều người vẫn tinh tấn mà không cần trải nghiệm thần bí, hoặc họ chỉ có một lần trải nghiệm mà thôi.

Con sống trên địa cầu để hoàn thành một sứ vụ và hội đủ điều kiện thăng thiên. Địa cầu này còn xa mới là một môi trường lý tưởng để trải nghiệm sự hợp nhất với Thượng đế, Con chỉ có một thời gian nhất định để hội đủ điều kiện thăng thiên, nhưng một khi con đã thăng thiên, con sẽ có thời gian bất tận để trải nghiệm sự hợp nhất với Thượng đế. Con hãy đặt ưu tiên của con cho đúng.

Một hiểu lầm về cách vận hành của các kỹ thuật tâm linh

Hỏi: Thày Giê-su thân yêu, con ngày càng bối rối bởi nghịch lý sau đây: Trong khi ông Kim, sứ giả của thày, tiết lộ những hiểu biết vô cùng sâu sắc về bản chất của cõi thiêng liêng và Ki-tô, thì cùng lúc ông lại đưa cho chúng con những bài đồng dao vườn trẻ như là bí quyết để đạt được trạng thái bất nhị. Con đã thử đọc những bài này nhưng con thật không nghĩ là các Elohim đang chú ý. Con biết, vì con đã từng đạt được trạng thái bất nhị, và con không thể đạt được trạng thái này khi sử dụng những bài đồng dao vườn trẻ. Vấn đề có phải là con chăng (đương nhiên rồi, con biết)?

Câu hỏi thực sự của con: Từ khi trang mạng của thày được thiết lập, đã có ai báo cáo là mình đã đạt được sự kết hợp bất nhị đích thực với đấng Ki-tô Toàn vũ hay chưa? Một lần nữa, với tất cả sự kính trọng và yêu thương. David.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Ta có thể hiểu được nếu có người xem các bài chú, bài thỉnh mà các chân sư đưa ra chỉ là những bài đồng dao cho vườn trẻ. Ta cũng hiểu được nếu có người sử dụng những kỹ thuật của chúng tôi với kỳ vọng đạt được một trải nghiệm tâm linh. Tuy nhiên, ta không thể hiểu làm thế nào một người có thể dùng những bài đó với thái độ là chúng chẳng hơn gì bài đồng dao vườn trẻ, và ĐỒNG THỜI chờ đợi đạt được một trải nghiệm tâm linh. Đây là một sự hiểu lầm về cách vận hành của các kỹ thuật tâm linh.

Một người có thể ghét xe ô tô và nghĩ rằng xe ô tô chịu trách nhiệm đâm chết người, cày nát đất đai hay làm hâm nóng khí hậu. Nhưng khi người đó bước vào xe, vặn chìa khóa lên thì chiếc xe sẽ phải nổ máy. Lý do là vì công nghệ là một bộ máy cơ học sẽ chạy tốt cho đù người sử dụng có nghĩ gì về nó. Trái lại, một kỹ thuật tâm linh KHÔNG PHẢI là một bộ máy cơ học.

Những gì con bỏ vào một kỹ thuật tâm linh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những gì con lấy ra. Nếu con muốn một trải nghiệm thần thánh thì con hãy tiếp cận kỹ thuật đó với một thái độ tôn kính và thần thánh. Nếu con không làm được thì con hãy thừa nhận như vậy và không sử dụng kỹ thuật. Hãy tìm một kỹ thuật nào khác mà con có thể tiếp cận với một thái độ xây dựng hơn. Ngừng phóng chiếu nỗi nghịch lý nơi chính nội tâm con vào bất cứ gì ở ngoài con, và giải quyết vấn đề ở ngay gốc của nó. Con thử lắng nghe chính lời con nói: “Con ngày càng bối rối…” và sẵn lòng thừa nhận là nếu con không an bình, thì đây là vấn đề mà con cần giải quyết.

Các bài chú và bài thỉnh không được thảo ra đặc biệt để sản xuất những trải nghiệm bất nhị. Trải nghiệm bất nhị là một kinh nghiệm nội tâm. Một kinh nghiệm như thế xảy ra được là do cái Ta Biết được tạo bằng chính bản thể và tâm thức của Thượng đế. Vì vậy, cái Ta Biết không thể bao giờ đánh mất khả năng hòa điệu với một tầng thực tại vượt ngoài thế giới quan nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô và giác quan vật lý.

Cái Ta Biết có thể có nhiều loại kinh nghiệm bất nhị, và không phải bất cứ ai đọc chú hay đọc thỉnh với thái độ đúng đắn cũng có được một hình thức kinh nghiệm tâm linh, dù là trong khi đang đọc hay khi thiền định sau khi đọc.

Tuy nhiên, bài thỉnh và bài chú là những kỹ thuật rất tích cực, hướng ra ngoài, ngược lại với các kỹ thuật trầm tư, hướng vào bên trong. Cho nên chúng không được thiết kế để cho con kinh nghiệm bất nhị, mà là một dụng cụ để giải quyết những tin tưởng nhị nguyên cũng như thỉnh cầu và điều hướng năng lượng tâm linh.

Đương nhiên, khi con làm thông sạch cả bốn tầng của tâm con, con sẽ đạt sự rõ ràng hơn, và điều này sẽ mở đường cho những kinh nghiệm tâm linh đủ loại. Tuy nhiên, việc này có thể tốn nhiều năm trời, tùy vào lượng rác rưởi được chất nơi gác thượng của tâm con. Cho nên điều khôn ngoan là con nên tiếp cận mọi kỹ thuật tâm linh một cách không những kiên nhẫn, mà còn hoàn toàn không dính mắc vào bất kỳ hình thức trải nghiệm nào mà con có thể có qua việc sử dụng kỹ thuật tâm linh.

Lý do là vì một kinh nghiệm bất nhị không thể được sản suất tùy ý. Đó không phải là một sản phẩm cơ học từ việc sử dụng một kỹ thuật thần diệu, và hương vị của thiên đàng không thể đoạt được bằng vũ lực. Một kinh nghiệm bất nhị nên được xem như một món quà có thể được trao ra hay là không. Con không thể ép buộc kinh nghiệm đó, cho nên điều duy nhất con có thể làm được là khiến cho tâm mình càng bén nhạy càng tốt để nó nhận được kinh nghiệm. Và chỉ khi nào con hoàn toàn không dính mắc là món quà sẽ có được trao tặng hay không, thì con mới nhạy bén tối đa. Đó là tại sao Thiền đạo Phật nói đến sơ tâm, là tâm mở rộng ra những trải nghiệm tự phát thay vì đòi hỏi trải nghiệm phải xảy ra. Và đó cũng là vì sao ta đã từng nói: “Ai không nhận lãnh Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không thể vào được.” (Luke 18:17)

Nếu con dùng óc phân tích để thiết lập những điều kiện mà con nghĩ sẽ sản xuất ra trải nghiệm, con sẽ chỉ đẩy trải nghiệm đó đi xa khỏi con. Và nếu con dùng cảm xúc để thiết lập kỳ vọng là đúng lý con phải nhận được trải nghiệm – nghĩa là con sẽ cảm thấy bị thất vọng hay lừa bịp nếu nó không xảy ra – thì con đã ngăn chặn trải nghiệm trước khi nó có thể xảy ra.

Có nhiều người tầm đạo đã có những trải nghiệm bất nhị một cách tự nhiên khi lần đầu họ khám phá ra đường tu, hay ngay cả trước đó. Một số bị ám ảnh bởi chuyện trải nghiệm này, tưởng rằng mình phải có khả năng trải nghiệm mọi lúc. Điều này khiến họ không ngừng tìm kiếm những “trải nghiệm tột đỉnh”, không ngừng chạy đuổi theo một mục tiêu dường như vượt khỏi tầm tay. Và khi họ có được một số trải nghiệm, họ cảm thấy vẫn chưa đủ, và ngay lập tức họ lại bắt đầu thèm khát trải nghiệm tiếp theo sau. Thậm chí, một số bị còn mê mệt trong cuộc tìm kiếm trải nghiệm đến độ họ sử dụng những chất ma túy mà họ cho là sẽ giúp họ có trải nghiệm.

Con sẽ khôn ngoan nếu con nhìn trải nghiệm tâm linh như chỉ có một mục đích mà thôi, là chứng tỏ cho con rằng thật sự CÓ một trạng thái tâm thức vượt khỏi kinh nghiệm bình thường của con người phàm phu. Nó cho con thấy là con đường tâm linh là thực, và ở cuối đường có một phần thưởng. Do đó trải nghiệm tâm linh – ngay cả khi con chỉ có được một lần trong đời – cũng đủ là sự khích lệ để con tiếp tục bước đi trên đường tu suốt đời.

Một số người tầm đạo đã bị đánh lạc bởi một số đạo sư giả – và ngay cả một số đạo sư chân chính nhưng lầm lẫn – khi dựng lên kỳ vọng là mục đích của việc tu tập tâm linh là để luôn có những trải nghiệm bất nhị. Họ đã tạo dựng một hình ảnh của người thiền định ngồi trong một hang động trên núi Himalaya, không ngừng được hưởng cực lạc. Quả vậy, có một số ít vị với sứ mạng tâm linh trong hiện thân là cầm giữ sự cân bằng cho hành tinh địa cầu, và họ thiền định liên tục.

Nhưng đối với tuyệt đại đa số người tầm đạo – và chữ quan trọng ở đây là “tuyệt đại đa số” – đó không phải là Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Con không ở đây để được trải nghiệm tâm linh cho thỏa thích. Con ở đây để biểu lộ quả vị Ki-tô của mình bằng cách phụng sự tha nhân và giúp cho người khác tăng triển tâm linh. Khi con làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức của người khác và trong lọc hành tinh, đó là một công việc quan trọng hơn gấp bội chuyện trải nghiệm tột đỉnh.

Con hãy lưu ý điều ta nói ở đây. Có một quan niệm sai lầm cho rằng những trải nghiệm tột đỉnh sẽ dẫn đến phát triển tâm linh và nâng cao tâm thức con một cách thường trực. Thế nhưng nhiều người có trải nghiệm như vậy rồi gặp khó khăn rất lớn để hòa nhập nó vào đời sống hàng ngày cũng như trạng thái tâm thức bình thường của mình. Một số người cứ lắc lư qua lại giữa cuộc sống bình thường và cuộc chạy đuổi điền cuồng những trải nghiệm tột đỉnh, và họ rất khổ tâm trong cả hai cực đoan đó.

Sự thật là trải nghiệm tột đỉnh có thể gây hại cho sự tinh tấn tâm linh nếu con không nhìn nó theo cách ta đã mô tả ở trên. Như ta vừa nói, một số người vô cùng tập trung vào bản thân và không ngừng tìm kiếm trải nghiệm tột đỉnh kế tiếp. Một số khác trở nên kiêu hãnh, tưởng mình chắc là người tiến bộ tâm linh cao lắm do mình đã trải nghiệm cao như vậy trong quá khứ. Họ cảm thấy mình có quyền chờ đợi thêm nhiều trải nghiệm nữa, rồi họ bực tức khi trải nghiệm đó không hiện ra. Một thái độ như vậy chỉ có thể ngăn chặn sự tăng triển của con.

Thực tế là tất cả mọi người tầm đạo sẽ CHỈ tiến bộ xa hơn một mức nào đó nếu họ khắc phục được tính vị kỷ phát xuất từ tự ngã và bắt đầu giúp tha nhân hay giúp hành tinh một cách vô vị lợi. Tất nhiên, mỗi người đều có những trách nhiệm hàng ngày, cho nên các bài thỉnh của Mẹ Mary được soạn thảo để giúp con nâng cao tâm thức của hành tinh ngay khi con ngồi trong phòng mình.

Mục đích của Mẹ Mary lẫn của ta là trao cho mọi người những dụng cụ để họ có thể nâng cao tâm thức một cách hệ thống và tiến bộ một cách bền vững. Các kỹ thuật này được thiết kế để nâng cao tâm thức của con lần hồi, thay vì cho con một trải nghiệm vượt hẳn tâm thức hàng ngày đến độ con không làm sao thể nhập được. Dĩ nhiên là khi sử dụng các dụng cụ này, con có thể có được trải nghiệm tâm linh, nhưng khôn ngoan nhất là con không nên chờ đợi gì cả.

Mục đích thực sự là nâng cao tâm thức một cách thường trực để toàn bộ tâm trí tỉnh giấc trở thành một kinh nghiệm bất nhị. Tuy nhiên con hãy lưu ý, khi điều này bắt đầu xảy ra, có vẻ như con không còn trải nghiệm tột đỉnh nữa. Theo định nghĩa, một trải nghiệm tột đỉnh là một cái gì vượt khỏi kinh nghiệm bình thường của con. Cho nên điều có thể xảy ra là con thường trực ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn mà không hoàn toàn nhận thức có gì đang xảy ra. Con đã quá quen với trạng thái cao đó đến độ cái mà trước kia là một trải nghiệm tột đỉnh thì bây giờ con xem là bình thường, và dường như con không còn trải nghiệm tột đỉnh nữa. Vì vậy, nếu thỉnh thoảng con có thể nhìn lại bước tiến đáng kể mà mình đã đi qua so với tâm thức cũ, thì điều này sẽ rất hữu ích.

Nói cho cùng, trải nghiệm bất nhị nằm vượt khỏi nhị nguyên. Nếu sử dụng bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào mà lại chờ đợi hay đòi hỏi – thậm chí thèm khát – một trải nghiệm bất nhị, thì cái đó nằm trong phạm vi nhị nguyên. Làm sao con có thể dùng tâm nhị nguyên để sản xuất một trải nghiệm bất nhị? Cho nên con càng mong muốn trải nghiệm bất nhị thì xác suất xảy ra sẽ càng ít đi. Chỉ khi nào con bỏ sang một bên mọi kỳ vọng và đòi hỏi nhị nguyên của con, thì con mới có thể nhận được trải nghiệm bất nhị. Trong lãnh vực tâm linh, thái độ là tất cả. Những gì con gửi ra tấm gương vũ trụ sẽ là những gì được phản chiếu lại cho con.

[Ghi chú của Kim Michaels: Bản thân tôi đã có nhiều trải nghiệm bất nhị do đọc bài chú và bài thỉnh. Tôi đã thực tập những kỹ thuật này suốt hơn 25 năm qua và nhiều lần đã có trải nghiệm cao, đặc biệt khi tôi thiền định ngay sau khi thỉnh cầu năng lượng tâm linh. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy những bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary rất hiệu nghiệm để giúp tôi nhạy cảm hơn với trải nghiệm tâm linh, nhất là khi tôi đọc chầm chậm và trầm tư về lời đọc.]

Con đã đọc tất cả các bài cầu nguyện nhưng chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con đã cầu nguyện thành tín suốt năm qua trong khả năng tối đa một người đàn ông bình thường có thể làm được trong một ngày. Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con. Hơn thế con đã giới thiệu các bài cầu nguyện này với vợ và các bạn của con và họ cũng trải nghiệm giống như con.

Bây giờ đã tới lúc chúng con bỏ cuộc chăng? Hay nghiệp quả của chúng con quá nặng nề cho nên chúng con phải bỏ ra thêm nhiều thì giờ để cải thiện hoàn cảnh sống của chúng con (con sống ở Mumbai, Ấn độ).

Nếu chúng con bỏ trang mạng này, con không nghĩ chúng con sẽ có thể tin tưởng bất cứ cái gì khác về sau nữa. Chúng con sẽ không là người đồng sáng tạo mà là người lang thang trong vũ trụ này.

Xin thày cho chúng con và những người như chúng con những lời khuyên đúng lúc bằng không chúng con chẳng có gì để hy vọng. Chúng con là người Công giáo nên chúng con sẽ quay về nếp cũ đi nhà thờ mỗi ngày chủ nhật và khi chúng con rời cõi đời này thì chúng con có thể gặp thày và nói rằng ít ra con đã cố gắng hết sức để theo con đường của thày trên trang mạng này.

Con đã đặt nhiều câu hỏi trước đây nhưng Michaels là một rào cản và nếu con từ bỏ thày và trang mạng này, ông sẽ một phần chịu trách nhiệm về quyết định của con.

Chào thày
Eugene


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Con hỏi một câu hỏi quan trọng là khi nào thì ngừng dùng một kỹ thuật tâm linh. Câu trả lời ngắn gọn là không bao giờ bỏ, nghĩa là con không bao giờ để mình rơi vào khoảng trống. Con không bao giờ đi ngược lại, cảm thấy mình hoàn toàn đánh mất niềm tin và không còn hy vọng gì ở tương lai. Con chỉ ngừng một kỹ thuật khi con tìm ra một kỹ thuật tốt hơn thay thế nó.

D

Điều thày trình bày trên trang mạng này là một con đường tu có hệ thống dần dần dẫn con lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Khi con hoàn toàn thấu hiểu con đường này, con nhận ra là sự tiến triển không bao giờ ngừng. Khi con quyết tâm tăng triển liên tục, con nhận ra con không bao giờ bỏ cuộc. Con không bao giờ cho phép tự ngã hay các lực chống lại sự tiến triển của con khuynh loát con để con đi vào ngõ bí khiến con cảm thấy dường như cách duy nhất là con phải đi ngược lại.

Khi con quyết tâm tăng triển, con nhận ra con luôn luôn có lựa chọn tiến tới, tiến lên cao hơn. Cho nên khi con thấy một kỹ thuật không giúp ích cho con, thì con có hơn một cách để đáp ứng tình trạng này. Con không cần lý luận rằng con chỉ có một chọn lựa duy nhất là bỏ cuộc và trắng tay. Đấy chính thực là điều mà tự ngã của con và tà lực muốn con cảm thấy – chúng muốn ngừng sự tiến triển của con. Đây là lý do tại sao người ta nói nản chí là dụng cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ma quỷ.

Cho nên, quy tắc thật giản dị. Nếu con có một xung lực mạnh trong nội tâm bảo con đã đến lúc ngừng một kỹ thuật tâm linh và tìm một kỹ thuật khác thì lẽ tất nhiên con hãy làm theo. Nếu con không nhận được một xung lực như thế – xung lực mà con biết đến từ cái ta Ki-tô của con – thì con đừng ngưng kỹ thuật con đang tập. Thay vào đó con tìm cách cải thiện cách con dùng kỹ thuật này, kể cả cách con tiếp cận kỹ thuật đó hay các kỹ thuật tâm linh nói chung.

Sau đây là những lý do chính tại sao một kỹ thuật tâm linh không hiệu quả đối với con:

  • Kỹ thuật này không giá trị. Ví dụ, kỹ thuật này do các lực muốn lừa gạt con người truyền ra. Một trong những bài học chính thày trao trong trang mạng này là con cần phát triển phân biện để nhận được lóe sáng trực giác từ cái Ta Ki-tô của con. Từ đó con học cách phơi trần các kỹ thuật gian dối.
  • Kỹ thuật này không hiệu lực cho con. Một lần nữa, cách hay nhất để biết là nhận được lóe sáng trực giác từ cái ta Ki-tô của con.
  • Con đã vượt quá sự hữu dụng của kỹ thuật và con cần tìm một kỹ thuật mới nhưng tâm vỏ ngoài của con chưa mở ra để đi tìm. Một lần nữa, cách duy nhất để con biết là qua cái Ta Ki-tô của con, nhưng rất ít người vượt quá sự hữu dụng của một kỹ thuật sau một năm.
  • Kỹ thuật có một thời có giá trị – có nghĩa là nó được Đại đoàn Thăng thiên bảo trợ – nhưng ngày nay không còn giá trị nữa. Một lần nữa, cái Ta Ki-tô là người hướng dẫn tốt nhất, tuy rằng nói chung các thày sẽ tìm được cách để thông báo điều này.
  • Kỹ thuật có giá trị đối với con, nhưng con chưa thực tập lâu đủ để nhận thấy kết quả.
  • Kỹ thuật có giá trị đối với con nhưng con không tiếp cận nó đúng cách khi thực tập.

Các kỹ thuật trình bày trên trang mạng này – đặc biệt là các bài nguyện của Mẹ Mary – đều có giá trị và rất hiệu năng. Không kỹ thuật nào có thể đem lại kết quả như nhau cho tất cả mọi người, nhưng con hãy ngẫm câu nói sau: “Khi người đệ tử sẵn sàng, người thày sẽ xuất hiện.” Có một lý do khiến con bị thu hút bởi trang mạng này khi con gặp nó và cảm thấy sự thôi thúc nội tâm muốn dùng những kỹ thuật được cống hiến trong đó. Do đó, ta có thể suy luận rằng các kỹ thuật đó sẽ hữu hiệu cho con. Thày tha thiết khuyến khích con đừng bỏ cuộc và thay vào đó con suy ngẫm xem làm sao con cải thiện cách con sử dụng các kỹ thuật. Để giúp con làm việc này, thày sẽ dùng lá thư của con để đưa ra một số gợi ý.

Ý 1

Con nói: “Con đã cầu nguyện thành tín suốt năm qua trong khả năng tối đa một người đàn ông bình thường có thể làm được trong một ngày. Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Có một lý do khi thày nói, “Nhờ sự kiên nhẫn mà giữ được linh hồn mình.” Tuy thày khen con đã đọc các bài cầu nguyện trong trang mạng này trong suốt một năm, thày phải nói rằng một năm không lâu đủ để đa số có thể thấy được chuyển đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của họ. Nhiều người đã thực tập những kỹ thuật tâm linh có giá trị suốt mấy chục năm mà không thấy kết quả bên ngoài (nhưng họ cảm thấy nhiều kết quả trong nội tâm).

Ý 2

Con nói: “Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Như thày đã nói ở trên, con luôn phải cảnh giác tự ngã khuynh loát con để con đi vào chỗ kẹt nơi con cảm thấy dường như con phải lấy một quyết định đen hay trắng hay quyết định có-không. Tự ngã không muốn con tiếp tục dùng một kỹ thuật tâm linh có giá trị, cho nên khi con bắt đầu dùng một kỹ thuật có giá trị, nó sẽ tìm cách đưa con vào một hoàn cảnh khiến con nản lòng.

Một cách tự ngã đạt được điều này là gieo vào trong tâm con sự mong chờ là kỹ thuật tâm linh phải đem lại kết quả vật lý và đem lại kết quả này trong một khoảng thời gian nhất định. Rồi khi tới thời hạn mà kết quả vẫn chưa hiện ra, thì tự ngã sẽ bảo con rằng kết luận khả thi duy nhất là kỹ thuật không hiệu quả do đó con phải bỏ cuộc. Đây là trò lừa gạt xưa cũ và nhiều người đã rơi vào bẫy. Con đừng nhập theo họ.

Ý 3

Con nói: “Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Không có lý do chính đáng nào để cho rằng thực tập một kỹ thuật tâm linh sẽ và phải đem lại kết quả vật lý. Đây là mong chờ do tự ngã và tà lực chế ra và nó đã khiến cả triệu tín đồ tôn giáo cảm thấy các lời cầu nguyện của họ không được đáp trả – thậm chí còn khiến nhiều người mất đức tin nơi tôn giáo của họ hay nơi mọi tôn giáo. 

Như thày đã giải thích trong suốt trang mạng này, vũ trụ là một tấm gương. Hoàn cảnh vật lý mà con gặp giản dị là hình ảnh của chính trạng thái tâm thức của con được phản chiếu lại từ tấm gương. Nói cách khác, nguyên nhân là trạng thái tâm thức của con và hoàn cảnh bên ngoài của con chỉ là kết quả. Thày tin tưởng con thấy điều hiển nhiên là nếu con muốn thay đổi điều gì, thì con phải thay đổi nguyên nhân thay vì làm việc ở tầng hậu quả. Nếu con muốn thay đổi phim được trình chiếu trên màn ảnh, con đừng tìm cách thay đổi màn ảnh. Con hãy đi vào phòng chiếu phim và thay đổi cuộn phim trong máy chiếu.

Ý thày muốn nói là cách duy nhất để con thực sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con là thay đổi tâm thức của con. Cho nên, nếu con cầu nguyện hay thực tập một kỹ thuật tâm linh với mong chờ nó sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài một cách tự động chỉ nhờ vào thực tập này, thì con đang tìm cách làm điều không thể làm được. TẤT CẢ các kỹ thuật tâm linh có giá trị đều được thiết kế để giúp con thay đổi trạng thái tâm thức của con. Và khi con thay đổi tâm thức mình, hoàn cảnh bên ngoài sẽ thay đổi – khi tới lúc, vì chúng phải đi qua bốn tầng của vũ trụ vật chất.

Ý 4

Con nói: “Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Có một sự khác biệt cơ bản khi con bắt đầu một thực tập tâm linh với mục tiêu rõ rệt chuyển hóa tâm thức của mình thay vì mong chờ kết quả bên ngoài. Con sẽ thấy những kết quả tốt đẹp hơn hẳn. Những kết quả này là kết quả nội tâm nhưng chúng sẽ đáng kể đủ để con không còn nghĩ tới chuyện bỏ kỹ thuật này khi nó vẫn tiếp tục cải tiến trạng thái tâm của con.

Thực ra, tốt hơn là con thực tập một kỹ thuật mà không mong chờ kết quả vật lý. Chỉ khi nào con không dính mắc chuyện được hay không được kết quả vật lý thì kỹ thuật mới hoàn toàn hữu hiệu. Như vậy, chúng ta có thể nói là con chỉ đạt được kết quả vật lý tối đa khi con không còn mong chờ những kết quả này – con thực tập kỹ thuật với phần thưởng là nâng cao tâm thức của con.

Thày biết rất rõ là nhiều người bắt đầu cầu nguyện hay thực tập một kỹ thuật chính vì họ đau khổ do những hạn chế vật lý và điều thúc đẩy họ là thay đổi các hoàn cảnh này. Thày không tìm cách coi nhẹ đau khổ của con người hay coi thường động cơ của họ vì con phải bắt đầu với động cơ nào thích ứng với con. Nhưng nếu con thực sự muốn một kỹ thuật đạt hiệu quả, con phải muốn cải tiến động cơ của con khi con đã gia tăng nhận biết.

Cho nên, sau đây là một số động cơ cao hơn khi thực tập một kỹ thuật tâm linh:

  • Con nhận ra sự thật là tâm thức phải thay đổi trước khi hoàn cảnh bên ngoài có thể thay đổi. Do đó, con quyết định là mục đích chính của con khi dùng kỹ thuật là để nâng cao tâm thức.
  • Con cảm thấy an bình hơn, sáng suốt hơn và có nhiều năng lượng hơn sau khi thực tập một kỹ thuật và đây tự nó là phần thưởng rồi.
  • Khi con đọc một bài nguyện, con cảm nhận được ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy từ cái ta cao của con xuyên qua bản thể của con và đây cũng quá đủ động cơ để con tiếp tục thực tập.
  • Con nhận ra ánh sáng sẽ dần dần thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con.
  • Con nhận ra ánh sáng mà con thỉnh gọi cũng sẽ thay đổi hoàn cảnh của hành tinh và con khởi lên tình thương muốn giúp người khác và giúp chính Trái đất.
  • Con cảm thấy tình yêu đậm đà với Mẹ Mary và với mục tiêu của Đại đoàn Thăng thiên nên con không thể nào không đọc bài nguyện.

Chắc con đã thấy là thày đang mô tả một sự chuyển hóa dần dần rời xa những động cơ chú trọng vào mình và hướng tới những động cơ muốn cải thiện điều kiện của mọi sự sống. Đây là chìa khóa cốt yếu để đạt được kết quả tối đa từ bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào. Một kỹ thuật tâm linh có giá trị đơn giản sẽ không củng cố ham muốn của tự ngã của con. Kỹ thuật chỉ hữu hiệu khi con tách ra khỏi ham muốn của tự ngã và nối kết lại với ước muốn cao hơn của cái ta tâm linh của con.

Ý 5

Con nói: “Bây giờ đã tới lúc chúng con bỏ cuộc chăng? Hay nghiệp quả của chúng con quá nặng nề cho nên chúng con phải bỏ ra thêm nhiều thì giờ để cải thiện hoàn cảnh sống của chúng con (Con sống ở Mumbai, Ấn độ).”

Con phải luôn luôn nhận ra là khi con sống trong một vùng nào đó, không những con mang nghiệp quả cá nhân của mình mà còn mang thêm nghiệp quả của vùng. Có lý do vì sao con chọn đầu thai trong vùng đó và với nhiều người tâm linh một phần lý do là con muốn giúp cải thiện hoàn cảnh cho mọi nguời trong vùng đó. Nói cách khác, có thể con đã tình nguyện gánh bớt gánh nặng của nghiệp quả tập thể. Con đã thêm vào nghiệp quả cá nhân của con (nếu con có) một phần của nghiệp quả của vùng và chỉ khi nào nghiệp quả này được chuyển hóa con mới có thể cải thiện hoàn cảnh bên ngoài của con.

Do đó, có thể cần thời gian để chuyển hóa gánh nặng này. Có thể con cũng đã chọn không muốn mình hơn người khác trong vùng quá nhiều vì một phần của sứ vụ thiêng liêng của con là giúp họ bước lên bước kế tiếp. Điều này chỉ có thể tiết lộ ra khi con hòa điệu với cái Ta Ki-tô của con, để con bắt đầu nhớ lại sứ vụ thiêng liêng của mình.

Ý 6

Con nói: “Nếu chúng con bỏ trang mạng này, con không nghĩ chúng con sẽ có thể tin tưởng bất cứ cái gì khác về sau nữa.”

Đây chỉ có thể là tự ngã của con đang nói. Cái Ta Ki-tô của con không thể nào nói một câu như vậy. Đây đích thực là mưu đồ của tự ngã mà thày mô tả trong đoạn trước. Con giản dị nhận ra nó là mưu đồ của tự ngã và vứt nó đi như vứt một lời hoàn toàn gian dối.

Khi con thực sự dấn thân vào con đường tâm linh, con sẽ dần dần phát triển đức tin vào chính tiến trình tăng triển. Niềm tin bên trong này vượt quá kinh nghiệm của con với bất kỳ người thày, tổ chức, giáo lý hay kỹ thuật bên ngoài nào.

Nói cách khác, dù con thất vọng vì một kinh nghiệm bên ngoài, không có gì có thể lung lay niềm tin của con vào tiến trình tăng triển nội tâm. Nhiều người đã bị thất vọng bởi một số tổ chức bên ngoài và họ đã cho phép tự ngã dùng điều này làm cái cớ để bỏ chính con đường tu. Nhưng sự thật là chỉ có những chọn lựa của con mới có thể ngăn trở con tiến bộ trên con đường tu. Các người khác, tà lực hay tự ngã của con có thể ảnh hưởng các chọn lựa của con nhưng không ai có thể quyết định thay con.

Ý 7

Con nói: “Chúng con sẽ không là người đồng sáng tạo mà là người lang thang trong vũ trụ này.”

Đây là một phát biểu đáng chú ý phản ánh số phận của nhiều người tìm được một giáo lý hay kỹ thuật tâm linh và cho phép tự ngã của họ làm họ nản lòng. Quả thực có nhiều linh hồn là những kẻ lang thang – dù hoàn cảnh không giống y nhưng hậu quả lại tương tự – và họ từ chối không làm tròn vai trò được dự định là người đồng sáng tạo.

Thế nhưng đây là một chọn lựa họ đã chọn, và chọn lựa này phát sinh từ sự không muốn quyết tâm – một quyết tâm tuyệt đối mà tự ngã không thể lay chuyển nổi – quyết tâm tăng triển nội tâm không bị ảnh hưởng bởi điều kiện bên ngoài. Một ví dụ là không chịu tinh chỉnh cách mình tiếp cận kỹ thuật tâm linh, rồi tìm ra một cái cớ để buông bỏ thực tập thay vì thực tập cho tới khi tâm thức mình thật sự chuyển hóa và tự ngã bị thua, hay ít nhất tự ngã không còn là kẻ trị vì tối thượng cuộc đời của con.

Ý 8

Con nói: “Chúng con là người Công giáo nên chúng con sẽ quay về nếp cũ đi nhà thờ ngày Chủ nhật và khi chúng con rời cõi đời này thì chúng con có thể gặp thày và nói rằng ít ra con đã cố gắng hết sức để theo con đường của thày trên trang mạng này.”

Như thày đã nói, nếu con thực sự quyết tâm tăng triển, con không bao giờ đi lùi lại. Con không phải là người Công giáo vì không nhãn hiệu thế gian nào quy định được con. Con là con của Thượng đế, và con đường của con là vượt quá tất cả nhãn hiệu khiến con chối bỏ tiềm năng Ki-tô của con.

Nếu con nghĩ thày sẽ chấp nhận lời con tuyên bố rằng “ít ra con đã cố gắng hết sức để theo con đường của thày trên trang mạng này”, thì con không biết thày như một vị thày tâm linh. Con nghĩ xem, tại sao thày nói chỉ những ai sẵn sàng bỏ cuộc sống của họ để theo ta mới xứng đáng là học trò của ta?

Con có tiềm năng trở thành đệ tử của thày trong kiếp này. Nhưng để hoàn thành tiềm năng này, con phải từ bỏ tất cả ảo tưởng mà tự ngã của con dùng để giăng bẫy con chối bỏ tiềm năng Ki-tô của con. Cho tới khi con buông bỏ ảo tưởng cuối cùng, con chưa cố gắng hết sức mình.

Con hãy suy ngẫm hoàn cảnh người phú ông không chịu từ bỏ của cải để theo ta (Matthew 19:20-23). Điều này không chỉ áp dụng cho những ai có của cải vật chất. Nó áp dụng cho tất cả những ai có “của cải” trong tâm – nghĩa là dính mắc – mà họ chưa chịu từ bỏ. Và dính mắc đầu tiên hết là các ảo tưởng nhị nguyên của tự ngã khiến con người chối bỏ Ki-tô hay tiềm năng thăng vượt của họ bằng cách đi theo con đường nội tâm cho tới cuối. Mẹ Theresa từng nói, “Hãy cho cho tới khi đau đớn.” Ta nói, “Hãy buông bỏ cho tới khi không còn gì thế phàm để buông bỏ – và lúc đó buông bỏ luôn cả sự trống rỗng và để cho Ánh sáng Thượng đế lấp đầy con.”

Ý 9

Con nói: “Con đã đặt nhiều câu hỏi trước đây nhưng Michaels là một rào cản và nếu con từ bỏ thày và trang mạng này, ông sẽ một phần chịu trách nhiệm về quyết định của con.”

Một trong những ý mà ta cố truyền tải trên trang mạng này là ai cũng có một cái ta Ki-tô là cánh cửa mở giữa tâm ý thức của con và cõi tâm linh – kể cả Hiện diện TA LÀ của con và vị Chân sư Thăng thiên là người thày cá nhân của con. Khi con thật sự bắt đầu có sự liên lạc trực giác với cái ta Ki-tô của con, thì con thấy là không ai có thể đứng giữa con và Thượng đế. Đó là lý do vì sao ta nói vương quốc của Thượng đế ở trong con.

Khi con tăng triển trên con đường tâm linh, con cần chất vấn những giả định đến từ sự dạy dỗ của tôn giáo của con. Trong trường hợp của con là người gốc Công giáo, con cần vượt quá ý tưởng là chỉ có một người mới có thể giao tiếp với cõi tâm linh.

Thày đã cố gắng hết sức trên trang mạng Hãy hỏi Giê-su Thật để bảo đảm là mọi người không xem Kim như một thứ thay thế Giáo hoàng. Cho nên, ông không phải là rào cản giữa con và ta và ông không thể ngăn cản con tìm câu trả lời cho những câu hỏi của con ở bên trong con. Trên trang mạng này, ta trao truyền những giáo lý và dụng cụ thực tiễn để con mở rộng sự kết nối nội tâm của con – nếu con chưa có một sự kết nối nội tâm nào đó con sẽ không bao giờ nhận ra có điều gì có giá trị trên trang mạng này. Vậy con hãy chú tâm tìm câu trả lời bên trong con thay vì dùng người khác làm cái cớ để bỏ con đường tu.

Sự thật là con đường tu là con đường nội tâm – tất cả là giữa con và Thượng đế. Chìa khóa để đi trên con đường tu là con nhận ra con hoàn toàn chịu trách nhiệm các điều kiện bên trong của con, trạng thái tâm thức của con. Mọi chuyện đều là kết quả của những chọn lựa con đã lấy. Không ai có thể ép con lấy một số chọn lựa nào đó, nghĩa là không ai có thể ngăn cản con khắc phục những sai lầm quá khứ của con bằng cách lấy những chọn lựa tốt hơn thay thế chọn lựa cũ.

Chìa khóa thật của tăng triển là KHÔNG BAO GIỜ dùng bất kỳ điều kiện bên ngoài nào làm cái cớ để không tiến bước trên con đường tu – con phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cho hoàn cảnh và sự tăng triển của con. Nếu con cho phép tự ngã khiến con nghĩ rằng người khác chịu một phần trách nhiệm về quyết định CỦA CON, thì con chứng tỏ con chưa HOÀN TOÀN lãnh trách nhiệm cho con đường tu của mình. Như thế thì thái độ này trở thành chướng ngại lớn mà con phải vượt qua để có thể chọn một cách tiếp cận sẽ đem lại những kết quả con mong muốn.

Nghĩ rằng người khác phải chịu trách nhiệm cho sự cứu rỗi của mình là một ví dụ khác của di sản Công giáo, và ta đã trao rất nhiều giáo lý trên trang mạng này để giúp con buông bỏ gánh nặng đó, gánh nặng mà con không cần phải mang nữa.

Hãy bỏ lại lưới của con mà theo ta và ta sẽ biến con thành người chài con người.

Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt (Hebrews 12:6).

Ý 10

Như thày đã tìm cách giải thích trên khắp trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật, không có con đường máy móc, tự động bảo đảm con được cứu rỗi. Lý do là sự cứu rỗi, đời sống trường tồn là một trạng thái tâm thức chỉ đạt được khi con ngừng đồng hóa mình với tự ngã và bắt đầu đồng hóa mình là Sinh thể tâm linh mà con thực sự là. Như thế, kết quả trên con đường tu hoàn toàn tùy thuộc vào những chọn lựa của con, nghĩa là không lực nào chọn cho con được và không lực nào có thể ngăn cản con lấy những chọn lựa của con. Giấc mơ của con đường giả đưa tới cứu rỗi cho rằng con có thể thực tập một kỹ thuật bên ngoài và đạt thành quả mà không cần thay đổi chính mình, giấc mơ này rất tràn lan và được tự ngã con người và tà lực củng cố mạnh mẽ với mục tiêu ngăn cản loài người thăng thiên. Giấc mơ này đã được nhiều giáo lý và tôn giáo vỏ ngoài cổ xúy, kể cả Giáo hội Công giáo.

Theo góc nhìn của một vị thày tâm linh, thật đáng buồn khi chứng kiến những người chân thành tầm đạo nhưng bị lừa rơi vào cạm bẫy muốn tìm một kết quả bảo đảm và chán nản khi không đạt kết quả. Thày quả thực mong muốn thày có thể giúp tất cả những ai đã mở tâm ra với trang mạng này hiểu rằng đằng sau những mong muốn và chờ đợi vỏ ngoài có một con đường thật, và con đường này tràn đầy niềm vui và sự an bình vô tận khi con biết con đang trôi theo chính Dòng sông Sự sống.

Ngày nào con còn đi tìm kết quả mà điều kiện bên ngoài không cho phép hay kết quả tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài thì con chưa thực sự tìm thấy con đường bên trong. Với con đường bên trong, kết quả không tự động nhưng bảo đảm sẽ có, với điều kiện con sẵn sàng thăng vượt chính mình. Cho nên, chìa khóa thực là con sẵn lòng khám phá tất cả những giới hạn của con và con sẵn lòng vượt quá mỗi giới hạn mà con khám phá. Khi con tiếp cận đường tu như thế, con SẼ thấy ngay cả kết quả bên ngoài. Khi con sẵn lòng tìm kiếm trước tiên vương quốc của Thượng đế và sự công chính của Ngài, quả thực tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con, nếu con vẫn còn muốn chúng.

Chúng ta có thể nói rằng ngày nào còn cần thứ gì đó từ thế gian để cảm thấy mình trọn vẹn, thì con không thể có được điều đó. Nhưng ngay khi con hoàn toàn biết là trọn vẹn chỉ có thể đến từ bên trong, thì con có thể có bất cứ điều gì con muốn, bởi vì có hay không có một điều gì đó không ngăn cản con trọn vẹn. Kết quả quan trọng nhất của sự đeo đuổi một giáo lý tâm linh là nhận chân được rằng không điều gì trên thế gian này có thể ngăn cản con là cái con là.

Cái con là không tùy thuộc vào việc con có hay không có. Nó giản dị LÀ. Nhưng để LÀ, con phải ngừng quy định mình dựa trên những gì con có hay không có.

Thế thì các ngươi hãy nên LÀ trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn (Matthew 5:48).

Toàn hảo không có nghĩa là đứng yên, nó nghĩa là con trôi theo Dòng sông sự Sống luôn thăng vượt chính nó trong một vũ khúc hoàn vũ không bao giờ dứt, không đi theo vòng tròn mà theo một vòng xoáy đi lên. Con hãy tìm cách luôn tiến lên và con sẽ quên đi những ý tưởng bỏ cuộc. Giản dị là con BỎ đi ý muốn bỏ cuộc.

Liệu con đang nghe thấy tự ngã hay cái ta cao của con?

Hỏi: Làm thế nào con biết được giọng nói con nghe thấy có thực sự là vị thày nội tâm của con? Đôi khi con lo rằng đó có thể là tự ngã đang cố gạt con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Một câu hỏi rất hay, không có câu trả lời trắng đen. Thực tế đơn giản là hầu hết mọi người vẫn còn bị bao trùm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên đến mức họ nghe thấy nhiều “giọng nói” đang cố đánh lừa họ. Đó có thể là tự ngã của họ, hay có thể là tà lực từ ngoài đang tìm cách kéo họ ra khỏi đường tu tâm linh.

Thực tế đơn giản là không có cách tuyệt đối và máy móc nào để xác định là sự hướng dẫn mà con nhận được có thực sự đến từ cái ta Ki-tô của con và Đại đoàn Thăng thiên hay từ các thế lực thấp kém. Con chỉ có thể xác định sự chính đáng của những lời hướng dẫn này bằng cách xây dựng dần dần khả năng phân biện của riêng con, hầu con có thể nhận ra sự khác biệt đó chỉ duy qua việc cảm nhận độ rung của thông điệp hay độ rung của nguồn gốc thông điệp.  

Nếu con chưa có nhiều kinh nghiệm, rất có thể con sẽ nghe thấy nhiều loại giọng nói khác nhau. Do đó, con không nên nghe theo mà không suy xét bất kỳ ý tưởng hay lời hướng dẫn nào. Con cần luôn luôn lượng định trên căn bản lẽ thường tình. Hãy để ta cho con một vài gợi ý hầu giúp mọi người học cách phân biện, lọc lựa giữa hạt với trấu khi nhận được lời chỉ dẫn trong nội tâm.

  • Con hãy khởi sự bằng cách nhìn nhận là có những tà lực sẽ vô cùng thích thú trao cho con những lời hướng dẫn dối trá sẽ đưa con vào ngõ cụt trên con đường tâm linh. Để giảm thiểu tối đa rủi ro nhận được loại chỉ dẫn này, con hãy quyết tâm nỗ lực sử dụng biện pháp bảo vệ tâm linh. Bài nguyện ROS08 cho Đại thiên thần Michael được thiết kế đặc biệt để bảo vệ con khỏi những nguồn đó.
  • Hãy tu học các lời dạy tâm linh để cảm nhận được điều gì là chân thực dựa theo cách Đại đoàn Thăng thiên đã dẫn dắt loài người suốt nhiều thiên niên kỷ. Điều này sẽ giúp con lượng định xem một lời chỉ dẫn nội tâm có đứng thẳng hàng, có tương hợp với sự dẫn dắt vượt thời gian đó hay là nó bị trệch đi quá xa.    
  • Cố gắng khiến cho trực giác của con nhạy bén hơn và hòa điệu với cái ta Ki-tô của con, chẳng hạn bằng cách sử dụng kỹ thuật hòa điệu.
  • Luôn luôn dùng lẽ thường tình để lượng định lời chỉ dẫn mà con nhận được. Đặc biệt con cần cảnh giác bất kỳ lời chỉ dẫn nào rơi vào hai loại cạm bẫy chủ yếu trên đường tu, cụ thể là lòng sợ hãi và lòng kiêu mạn. Nếu lời chỉ dẫn đánh vào những nỗi sợ của con và tìm cách đẩy con vào những hành vi dựa trên sợ hãi, thì đó không phải là Đại đoàn Thăng thiên hay cái ta Ki-tô của con. Cũng vậy, nếu lời chỉ dẫn vuốt ve lòng kiêu hãnh của con và bảo sao con giỏi và tuyệt vời đến thế, hay sự cứu rỗi của cả vũ trụ tùy thuộc vào một hành động nào đó của con, thì nó không phát xuất từ một nguồn gốc cao.
  • Cũng nên lưu ý là các tà lực sẽ hung hãn tìm cách xúi giục con làm một chuyện gì đó, và điều này thường biểu hiện như một cảm giác bị ép buộc, khiến con cảm thấy mình nhất định phải ra tay. Cái ta Ki-tô hay Đại đoàm Thăng thiên sẽ không bao giờ tìm cách khuynh đảo con như vậy mà chỉ nỗ lực trao cho con một sáng ngộ hiểu biết sẽ giúp con tự ý lấy quyết định và chọn lựa tốt nhất. Tà lực sẽ vô cùng sung sướng nếu chúng có thể điều khiển cuộc đời của con. Còn Đại đoàn Thăng thiên sẽ không điều khiển đời con vì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, biết rõ là con sẽ chỉ  có thể bước vào trạng thái thăng thiên bằng cách tinh lọc khả năng chọn lựa đúng đắn của mình.
  • Nếu con nhận được một lời hướng dẫn có vẻ không ổn, cho dù là do nội dung hay rung động của nó, thì con hãy đừng theo đó mà ra tay hành động. Con hãy chỉ đơn giản cất nó lên kệ và hoàn toàn không dính mắc về sự kiện là nó có chân thực hay không. Con cứ tiếp tục tu tập tâm linh và chờ xem có sự hướng dẫn hay xác nhận nào hay không.
  • Trong một số trường hợp, con có thể nhận thêm những lời chỉ dẫn rất dai dẳng thúc giục con làm một chuyện gì đó. Nếu những lời đó có vẻ hung hãn hay xâm lấn, nó không đến từ một nguồn gốc cao. Nhưng nếu con đã cất một lời hướng dẫn lên kệ và sau một thời gian con lại nhận được một lời gợi ý nội tâm hay một sự xác nhận bên ngoài rằng đó là một lời chân chính, thì nói chung con có thể xem là nó bắt nguồn từ một cõi cao hơn. Trong trường hợp một quyết định quan trọng có tiềm năng thay đổi đời con, có lẽ con sẽ muốn buông nó ra vài lần trước khi bước vào hành động.

Một lần nữa, thật sự không có một cách tuyệt đối hay máy móc nào để xác định xem một lời hướng dẫn xuất phát từ nguồn cao hay nguồn thấp. Đơn giản là con không thể làm như vậy với tâm phân tích hay với tình cảm của con, bởi vì tâm vỏ ngoài sẽ nói cho con nghe những gì con muốn nghe. Rốt cuộc thì con chỉ có thể cảm nhận sự rung động, và điều này đòi hỏi con đạt được một mức độ hòa điệu nào đó với cái ta Ki-tô của con cũng như với Đại đoàn Thăng thiên.

Một khi con có sự hòa điệu này, con sẽ cảm nhận được rung động của cái ta Ki-tô của con hay của một chân sư thăng thiên, và như vậy con có được một khung tham chiếu sẽ cho phép con so sánh rung động của một lời chỉ dẫn và biết được nó đến từ đâu. Đây không phải là một tiến trình máy móc mà một tiến trình nghệ thuật. Nó sẽ không xảy ra ngay lập tức, nhưng néu con kiên trì sử dụng các dụng cụ mà ta đã trao truyền trên trang mạng này, con sẽ từ từ khai triển khả năng phân biện của con.

Ta cũng biết là một số người sẽ cảm thấy như thể ta đã không đưa ra một lời dạy rõ ràng lắm, nhưng lý do là vì quả vị Ki-tô không có một con đường máy móc để đi tới đó. Con đường dẫn đến quả vị Ki-tô đòi hỏi con chọn lựa bằng cách sử dụng sự hiểu biết, phân biện và khả năng viễn kiến của riêng con. Trong đa số các trường hợp, con sẽ có nhiều hơn một chọn lựa đúng đắn duy nhất, cho nên chọn lựa “phải” nhất cho con sẽ là chọn lựa thể hiện đúng nhất cá thể độc đáo của con.

Các thế lực bóng tối sẽ tìm cách khiến con phủ nhận cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. Nhưng các uy lực của ánh sáng sẽ nỗ lực giúp con biểu lộ cá thể đó. Thế lực bóng tối muốn con chắp nhận cái bản sắc do tự ngã phàm phu của con quy định. Uy lực của ánh sáng sẽ nỗ lực giúp con từ bỏ cái bản sắc giả tạo đó để nhận lấy bản sắc chân thực của con như một sinh thể tâm linh độc đáo.

Còn hay không còn tự ngã

Hỏi: Hình như 144 tầng tâm thức trên địa cầu có thể được chia ra làm ba cấp độ khác nhau: dưới tầng thứ 48, từ 48 đến 96, và từ 96 đến 144. Vậy nếu đúng như vậy, ở mỗi tầng mỗi chúng ta sẽ phải đối mặt với một mức điểm đạo tâm Ki-tô khác nhau. Trong lần điểm đạo về thử thách của Ki-tô, liệu chúng ta có thể đối mặt với sự thoáng hiện của toàn bộ cấu trúc của tự ngã thay vì chỉ thấy thêm một cái ngã phải cởi bỏ? Hay đây chỉ là thêm một ảo tưởng khiến chúng ta, sau khi đã nhìn thấy toàn cấu trúc của tự ngã, tin rằng chúng ta đã biết hết tất cả và không cần tiếp tục thách thức cái hộp tư duy của chúng ta về tâm thức Ki-tô?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/01/21.

Đây là ảo tưởng mà nhiều người đã rơi vào trong suốt thời gian qua, đặc biệt là những người đã đạt đến một địa vị nào đó là thày tâm linh, là thành viên của một tổ chức tâm linh, hay một địa vị trong một phong trào tâm linh, hoặc bất cứ gì khác. Có rất nhiều người như vậy tự cho mình, hoặc các môn đồ của họ hoặc chính họ cũng tin là họ không còn sót lại chút tự ngã nào. Đôi khi điều này không sai theo định nghĩa của họ về tự ngã, nhưng đó không có nghĩa là họ không còn chút tâm lý nào phải xem xét, bởi vì như chúng tôi có nói, cho mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức đều có một ảo tưởng, một cái ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng đó. Con cần phải tiếp tục xem xét khi nào con vẫn còn hiện thân.

Chúng tôi đã từng nói là con có khả năng vượt qua bất kỳ giới hạn nào miễn là con sẵn sàng xem xét nó. Nếu con khiến cho con tin rằng con không còn chút tự ngã nào hay tâm lý chưa giải quyết, và do đó con không cần phải xem đến tâm lý mình, thì con sẽ không vượt lên trên tầng tâm thức đó được. Con có thể đã đạt tới một tầng tâm thức khá cao, nhưng nếu con không vượt quá tầng này thì con sẽ không phát huy hết tiềm năng cao nhất của con. Rất có thể là con sẽ không thượng thăng đâu. Thực tế là khi con lên đến các tầng cao hơn của phân biện Ki-tô, con bắt đầu thấy rằng ở mỗi tầng có một cái ngã tách biệt nhất định cần được hóa giải. Con nhận ra là con vẫn còn sót lại một số ngã tách biệt. Điều này không làm con phiền hà; nó không có nghĩa là con cảm thấy con không thể biểu đạt được chính mình. Con nhận ra rằng luôn luôn có điều gì đó mà con cần xem đến – con luôn luôn xem xét cách phản ứng của con trước các tình huống. Nếu con sẵn lòng làm điều này, đó là lúc con sẽ thành công.

Bất cứ khi nào con ngừng lại ở một điểm, con sẽ không tiến xa hơn điểm đó. Chỉ giản dị vậy thôi.

Ta biết trên địa cầu có một giấc mơ rất xa xưa là con có thể đạt tới một trạng thái tâm thức cao tối hậu. Nhưng con yêu dấu, đó chỉ là một ảo tưởng mà các sinh thể sa ngã đã phóng chiếu lên, và được nhiều người tâm linh đầy thiện chí củng cố thêm vào. Con có thể thấy đa số các phong trào tâm linh hay tôn giáo đều có niềm tin như thế. Người đạo Cơ đốc sẽ bảo: “Giê-su không có tự ngã.” Người đạo Phật sẽ bảo: “Phật không có tự ngã.” Người đạo Hồi sẽ bảo: “Tiên tri của chúng tôi không có tự ngã.” Trong nhiều phong trào tâm linh khác cũng vậy – trong Summit Lighthouse, người ta tin rằng vị sứ giả không có tự ngã. Trong I AM Movement, người ta tin rằng các sứ giả không có tự ngã. Trong Thông thiên học, người ta tin rằng bà Blavatsky không có tự ngã, vân vân và vân vân.

Con hãy tự xem mình là may mắn khi con đang tham gia vào một sinh hoạt mà vị sứ giả ở đây không cảm thấy nhu cầu phải tuyên bố là mình không có tự ngã, và cũng không muốn người khác nghĩ như vậy. Đó là lý do chúng tôi mới có thể đưa ra những lời giáo lý này. Vì nếu không, con sẽ đến một điểm khi con không thể tiến xa hơn được nữa.

Sứ vụ thiêng liêng, hay tạo kết quả trong thế gian?

Hỏi: Có phải việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình trong kiếp này không là những việc mà mình phải hoàn thành trong thế gian? Nói cách khác, có sự khác biệt nào giữa việc muốn thực hiện một số thành quả trên địa cầu so với việc muốn làm tròn sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/1/2021.

Khi con hiểu một sứ vụ thiêng liêng là gì, con sẽ nhận ra rằng sứ vụ thiêng liêng quy định con sẽ thực hiện một số công việc và tạo ra một số thành quả trên địa cầu. Và đó là những điều mà con có khả năng thị hiện. Nếu không thì con đã không quy định những điều đó trong sứ vụ thiêng liêng của con, bởi vì không ai định ra mục tiêu thiếu thực tế cho mình trong kiếp sống này.

Nhưng ngoài điều đó ra, cũng có thể là sau khi con đầu thai, con quyết định bằng cái tâm vỏ ngoài là con muốn thực hiện một số kết quả vỏ ngoài nào đó. Và nếu điều này không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, nó sẽ trở thành một trở ngại cho việc hoàn thành sứ vụ, một trở ngại cho sự phát triển tâm thức của con, vá nó có thể trở thành một sao lãng dẫn con vào ngõ cụt. Sứ vụ thiêng liêng của con không đề ra những mục tiêu mà con không thể thực hiện được trong kiếp này. 

Sứ vụ thiêng liêng dành cho một kiếp sống nhất định. Trong đó cũng có thể có một số mục tiêu dài hạn, nhưng nó quy định mục tiêu cho một kiếp sống nhất định. Nó khả dĩ và thực tế. Nếu con quy định trong sứ vụ là con sẽ tự thăng vượt thì con sẽ muốn tự thăng vượt trong kiếp này.

Các chân sư có một trạng thái tâm thức quả cầu, phi địa phương

Hỏi: Làm thế nào các chân sư thăng thiên nối kết với chúng con khi chúng con hòa điệu với các thày trong tim mình? Chẳng hạn, nếu con thiền quán và thỉnh cầu thày Giê-su, liệu thày có sẽ bị ngắt quãng trong công việc thường nhật của thày nơi cõi thăng thiên khi thày phải vội chạy đến với con? Hay là nơi nhiệm sở của thày có nhiều sinh thể khác giúp việc cho thày? Luôn luôn có rất nhiều người tìm cách hiệp thông với thày Giê-su, vậy làm thế nào thày xử lý được việc này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Câu hỏi được đặt ra từ mức tâm thức mà các con hiện có trên địa cầu này, tức là một trạng thái tâm thức rất đường thẳng. Sự kiện có người đặt và thắc mắc về câu hỏi này rất dễ thông cảm, nhưng nó dựa trên thực tế là khi con đầu thai trên một hành tinh dày đặc như địa cầu, con không thể làm sao tưởng tượng hay mường tượng được cuộc sống của một chân sư thăng thiên là như thế nào, con không thể tưởng tượng nổi trạng thái tâm thức của các chân sư. Con ở trong một trạng thái tâm thức cục bộ (localized) đặt trọng tâm chung quanh thân xác vật lý của mình, cho nên con nghĩ là nếu có ai gọi con đến giúp họ, thì con sẽ phải đến với họ trong thế giới vật lý và toàn bộ tâm thức của con cũng đi tới đó cùng với xác thân vật lý của con.

Ta không mang xác thân vật lý. Ta không có một ý thức tâm thức cục bộ. Ta có một trạng thái tâm thức quả cầu (spherical) hay phi địa phương (non-local) cho nên ta có thể ở hai nơi cùng một lúc. Đúng hơn, ta có thể ở 2 triệu nơi khác nhau cùng một lúc. Ta có thể ở mọi nơi trong bầu cõi cục bộ của trái đất hầu giúp đỡ hàng triệu người cùng một lúc.

Ta không cần có người trợ giúp để gửi người trợ giúp đến mỗi người cần trợ giúp, vì ta có thể ở tất cả những nơi đó cùng một lúc. Điều này không gây xao lãng trong công việc bình thường của ta, mà kỳ thực đó chính là một phần trong công việc bình thường của ta.

Điều này không phải để nói là bất cứ ai thiền quán hay cầu nguyện về Giê-su đều sẽ đạt tới chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – một số sẽ đạt tới những sinh thể thấp hơn, một số sẽ đạt tới những kẻ mạo danh, điều này tùy thuộc rất nhiều vào mỗi cá nhân. Nhưng chắc chắn là có rất, rất nhiều người đã xây dựng được một mối nối kết nào đó với ta, trong số đó có những tín đồ Cơ đốc giáo và vì vậy họ có thể cảm nhận được sự hiện diện của ta. Và tất nhiên, ta có thể thị hiện sự hiện diện cuả ta với họ mà đồng thời vẫn có thể dành ra một phần hiện diện của ta để thực hiện những công việc khác trên cõi thăng thiên.

144 tầng tâm thức và đầu thai

Hỏi: Khi xác thân vật lý của một dòng sống qua đời và vị đó tái đầu thai trong một xác thân mới và một đời sống mới, liệu vị đó sẽ bắt đầu ở cùng mức tâm thức trong số 144 mức như đạt được trong kiếp trước đó hay không? Lý do con hỏi là vì con nghĩ một dòng sống phải đi qua 144 tầng tâm thức nhiều lần chứ không phải một lần duy nhất.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Trong đa số trường hợp khi một sinh thể tái đầu thai, người đó sẽ trở lại ở cùng một tầng tâm thức như trong kiếp trước đó. Cũng có một số sinh thể bị suy kém đi trong khi họ ở ngoài xác thân vì họ bị kẹt lại nơi cõi trung giới và họ bị kéo xuống một tầng tâm thức thấp hơn.

Nhưng ngược lại cũng có một số lớn những sinh thể là học trò tâm linh – dù là học trò của chân sư thăng thiên hay là hành giả tu tập theo những giáo lý tâm linh khác – đạt được tăng trưởng giữa hai kiếp đầu thai. Họ giải quyết tâm lý của họ, nhận được sự trợ giúp của các chân sư, và họ vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Kết quả là trong kiếp đầu thai mới, họ khởi sự ở một mức cao hơn kiếp trước có thể tới mấy bậc.

Ý tưởng rằng con phải kinh qua tất cả mọi tầng tâm thức nhiều lần như trên đường thẳng, không chính xác. Tất nhiên là sẽ có những người đạt đươc một mức nào đó rồi đứng yên ở đó một thời gian, hay họ bị tụt xuống trở lại. Đây không phải là một tiến trình đường thẳng mà qua đó một khi con đã đạt được một mức nào rồi thì con không thể đi xuống thấp hơn.

Có những người sẽ đi lên đi xuống nhiều lần, và vì vậy có những mức mà họ sẽ kinh qua nhiều lần. Tuy nhiên rất, rất hiếm khi những người đã đạt tới những tầng cao của quả vị Ki-tô mà đi ngược trở xuống.

Khi các nhân vật nổi tiếng chuyển tiếp vào cõi chết 

Hỏi: Xin thày giảng điều gì xảy ra cho một dòng sống nổi tiếng trên trái đất – như một ngôi sao nhạc pop hay lãnh tụ một quốc gia chẳng hạn – khi người đó rời khỏi cõi vật lý? Liệu y sẽ khó lòng bước về phía trước nếu có quá nhiều người nhắc nhở đến y, quá nhiều người bàn tán hay suy nghĩ về y? Liệu y sẽ bị ràng buộc về mặt tình cảm, vân vân? Nếu những người còn sống cứ bám chặt lấy y thì liệu điều này sẽ hạn chế khả năng của y để bước về phía trước?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô của con. Đăng ngày 13/1/2021.

À, con có thể thấy được rất nhiều người nổi tiếng khi họ rời khỏi màn ảnh cuộc đời thì trong nhiều trường hợp, họ đã gặp khó khăn bước tới trước mặt. Một lần nữa, đó là vì một số trong những người đó kỳ thực là sa nhân. Nhưng cho dù họ không là sa nhân thì họ cũng có lòng ham muốn được thần tượng hóa. Họ ham muốn được người đời kính trọng, được người ta xem mình là nhân vật quan trọng và mình để lại một di sản kế thừa nào đó.

Nếu một người mong muốn để lại di sản kế thừa thì thường thường y sẽ không thể đơn giản bỏ lại kiếp sống đó đằng sau. Y sẽ muốn ở nán lại để nhìn xem chuyện gì xảy ra, liệu người ta sẽ nói gì về mình, nói gì về sự nghiệp của mình, liệu họ sẽ than khóc, liệu họ sẽ đau buồn, liệu họ sẽ tiếp tục nghĩ tới mình và nhắc đến mình, vân vân. Trong nhiều trường hợp, điều này đã trì hoãn khả năng bước tới của dòng sống đó.

Điều quan trọng con cần nhận ra là một khi con đã rời khỏi một kiếp hiện thân thì con đã xong xuôi với kiếp đó. Điều con cần làm là con chỉ đơn giản buông bỏ mọi chuyện thuộc về kiếp đó, để hoặc con có thể chuyển sang kiếp kế tiếp và chuẩn bị cho kiếp kế tiếp, hoặc con sẽ thăng thiên. Đặc biệt nếu con muốn thăng thiên, tất nhiên con sẽ cần bỏ lại kiếp hiện thân đó đằng sau. Chỉ khi nào con bỏ lại mọi chuyện đằng sau thì con mới có thể thăng thiên.

Ý thức sở hữu liên quan tới gia đình

Hỏi: Con nghĩ là khắp nơi trong xã hội, người ta thường tin chắc rằng khi một người thân, một người mà chúng ta yêu thương qua đời, thì đó là một nỗi đau buồn lớn lao, không thể bù đắp được. Chúng ta cần học cách tách mình ra khỏi tin tưởng này để thay thế tin tưởng sai lầm bằng tin tưởng đúng đắn. Ngoài ra cũng có sự mất mát những người họ hàng hay bạn bè còn đang hiện thân. Bản thân con đã trải nghiệm nỗi sợ hãi và đau đớn này. Khi học tập giáo lý của các chân sư thăng thiên, con vẫn không có khả năng đương đầu với hoàn cảnh này, do một tin tưởng nào đó mà con vẫn chưa thể nhìn thấy. Con không sẵn sàng trực diện với hoàn cảnh đó, và khi nó xảy ra, con không hòa hợp và yêu thương. Niềm tin nào nằm đằng sau nỗi đau khổ khủng khiếp đó mà con người phải trải qua trên hành tinh địa cầu dày đặc này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Một lần nữa, đây là một niềm tin bắt nguồn từ sa nhân. Và con có thể thấy nó diễn bày ra ở nơi rất nhiều lãnh tụ trong quá khứ. Con thấy những lãnh tụ đã tự đặt mình vào vị thế quyền lực tối cao của một nhà độc tài, được dân chúng tôn thờ gần như là một vị thần. Thế nhưng họ biết rõ là mặc dù quần chúng xem mình là thần, khi nào họ còn ở trong một xác thân sinh diệt thì cũng sẽ đến lúc xác thân đó không thể duy trì sự sống, và họ sẽ phải chết. Nhưng họ không thỏa mãn với chuyện đạt được danh vọng tuyệt đỉnh chỉ trong một kiếp sống. Họ muốn để lại một sự nghiệp, một di sản. Và trong phần di sản đó, họ muốn mọi người vẫn phải gắn bó với họ, đến độ cảm thấy cái chết của họ là một mất mát không thể bù đắp. Họ muốn mọi người phải đau buồn thật lâu dài sau khi họ chết. Tất cả chỉ là chuyện xây đắp tự ngã mà thôi, xây đắp ý thức mình là một người thật đặc biệt. Chuyện đó khởi sự như thế đó.

Nhưng nó cũng đã được củng cố bởi một niềm tin khác, một lần nữa cũng do sa nhân truyền bá, mà con có thể tìm thấy trong câu nói thường tình: “Cha mẹ tôi là ông này bà nọ”, “Con cái tôi đã thực hiện được chuyện này chuyện kia”. Tất cả các con đều nói “cha mẹ của tôi, con cái của tôi, anh chị em của tôi”. Có một ý thức sở hữu nào đó liên quan đến gia đình. Và khi con lớn lên trên một hành tinh dày đặc như thế này, phần nào con cũng không thể tránh khỏi hấp thụ tinh thần đó. Tất nhiên, có một số nền văn hóa đưa cường độ sở hữu lên cao hơn nữa, khi người ta gần như thờ phụng gia đình của mình, và cấu trúc gia đình được xem là khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc sống con người.

Giờ đây khi con bước đi trên đường tu tâm linh và đạt tới những mức cao hơn của quả vị Ki-tô, đương nhiên con nhận ra con là một sinh thể tâm linh. Con đã sống rất, rất nhiều kiếp sống trên địa cầu này. Không phải lúc nào con cũng đã có cùng cha mẹ hay cùng anh chị em mà con đang có trong kiếp này, hay cùng những đứa con mà con có trong kiếp này. Đó không phải là cha mẹ của con, con cái của con – con không thuộc về họ và họ không thuộc về con. Đây chính là ý thức sở hữu mà con có thể bắt đầu tra vấn. Rồi con có thể nhận ra là gia đình không thể định nghĩa được con, và tất nhiên, con có quyền vượt ra khỏi gia đình con. Và con sẽ phải làm vậy hầu thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không thể ở lại trong vòng giới hạn của những gì mà gia đình xem là bình thường.

Hiển nhiên còn có một yếu tố khác nữa, đặc biệt là ở phương Tây nơi luân hồi đã bị phủ nhận từ khi Giáo hội Công giáo tuyên bố vào năm 553 rằng luân hồi là tà giáo. Cho nên đã có một chấn thương vô cùng sâu đậm đối với cái chết, khi người ta cho rằng con người chỉ có một kiếp sống mà thôi, một cơ hội duy nhất để bảo đảm sự cứu rỗi của mình. Sau khi con chết, con sẽ ra đi khỏi hành tinh này vĩnh viễn, hoặc con sẽ lên thiên đàng hoặc con sẽ xuống địa ngục. Điều này phóng chiếu ra ý tưởng là khi cha mẹ con qua đời, con sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ nữa. Và dĩ nhiên, trong nền văn hóa duy vật đã khởi lên, cha mẹ con sẽ ngừng tồn tại khi qua đời – con sẽ ngừng tồn tại khi con qua đời. Như vậy thì làm sao không cảm thấy mất mát cho được? Nó đi kèm với mất mát trong nhận biết cũng như mất mát về bản sắc. Mà sự nhận biết cá nhân chính là năng khiếu quý giá nhất mà con có được. Cho nên, một lần nữa, nếu con thấy cần, con nên tìm đọc một số cuốn sách đã được viết ra về trải nghiệm cận tử.

Qua trải nghiệm cận tử, rất nhiều người đã chứng kiến xác thân mình chết đi nhưng chính mình thì không ngừng hiện hữu, và họ đã tiếp tục có một cuộc sống ở một cõi khác. Nhiều người như vậy đã trở về, đã “sống trở lại”, và họ giải thích là không hề có đau buồn đối với người kinh qua cái chết. Họ không đau buồn do mình không sống nữa, mà ngược lại, họ thường cảm thấy nhẹ nhõm thanh thản. Họ được bao bọc trong tình thương, họ gặp lại những người thân trong quá khứ hoặc những vị hướng dẫn tâm linh của họ, và họ ở trong một cõi cao hơn, thú vị, khoan khoái hơn khi họ còn ở trên trái đất. Con thật không cần đau buồn giùm họ đâu, vì họ chẳng mất mát gì khi họ không còn sống trong cõi này.

Và khi con nhận ra điều đó, con cũng nhận ra: “Ừ nhỉ, mình đang đau buồn chuyện gì đây?” Trong nhiều trường hợp, con đau buồn không phải vì bản thân con cảm thấy đau buồn, cũng không phải vì cha mẹ con sẽ được khuây khỏa nhờ con đã đau buồn, mà bởi vì nền văn hóa của con đã tạo ra cái ý tưởng là con phải biểu lộ sự đau buồn vì như vậy sẽ chứng tỏ là con yêu thương cha mẹ con đến chừng nào. Và nếu con không làm vậy thì người ta sẽ chê trách con.

Vậy thì tại sao con đau buồn? Là để bảo vệ một bộ mặt mà văn hóa của con đòi hỏi nơi con. Và khi con bắt đầu nhìn ra điều này, con cũng có thể bắt đầu buông nó ra. Con có thể dùng các dụng cụ tâm linh của chân sư để phơi bày những cái ngã đó nơi chính con, và con chỉ cần nói: “Thôi vậy là đủ rồi. Tôi cho nó chết đi.” 

Không tức giận trước những chuyện chướng mắt

Hỏi: Trong cuốn sách “Christ is Born in You” (Ki-tô sinh ra trong con) có viết là con cần từ bỏ lòng tức giận khi bước chân trên con đường quả vị Ki-tô. Nhưng làm sao con có thể không tức giận khi con trông thấy người ta hiếp đáp trẻ nhỏ hay thú vật? Làm thế nào con có thể giải quyết được chuyện này trong tâm thức cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 8/1/2021.

Con phải khởi đầu bằng cách nhìn nhận con đang sống trên loại hành tinh nào. Con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất khó khăn. Quyền tự quyết đã được phép trải bày ra trên địa cầu, và nó đã trải bày ra ở một mức độ thật là cùng cực. Con cần nhìn vào thực tế này, và con cần lấy quyết định mình sẽ chấp nhận đây là loại hành tinh nơi mình sinh sống. Có rất nhiều chuyện xảy ra trên trái đất mà lẽ ra không nên xảy ra, cho nên nếu con tức giận mỗi khi con phải đối mặt với một chuyện như thế, con sẽ không thể bước chân trên đường tu Ki-tô. Cơn tức giận sẽ kéo con vào một phản ứng xúc cảm. 

Hiện có rất nhiều những lốc xoáy tình cảm ở quy mô của hành tinh và những lốc xoáy này sẽ chỉ đơn giản đánh bẫy con mắc kẹt vào đó, và con sẽ không thể tinh tấn. Sẽ tới một điểm khi con phải lấy quyết định trong ý thức: “Tôi không thể cho phép mình nổi giận vởi tất cả mọi chuyện đang xảy ra trên địa cầu.” Trên cơ bản, con cần làm việc với tâm lý con để đạt tới điểm con quyết định: “Tôi không muốn tức giận vì bất cứ chuyện gì trên địa cầu.” Và để làm được vậy, con cần nhận ra là trong kiếp này cũng như trong tiền kiếp, con đã có một số ngã tách biệt tin rằng sự tức giận là cần thiết và chính đáng.   

Con cần dùng các dụng cụ tâm linh từ sách “Healing your Spiritual Traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) cùng những cuốn sách khác* để nhận diện những ngã tách biệt đó, cho tới khi con đạt tới điểm con có thể để cho chúng chết đi. Sau đó con sẽ cảm thấy quyết định đó dễ hơn hẳn, nhưng dù sao thì con cũng cần lấy quyết định. Giản dị, con cần nói: “Tôi cần gì phải tức giận tất cả những chuyện xảy ra trên địa cầu? Làm thế nào cơn giận có thể giúp cho một tình trạng nào đó? Làm thế nào cơn giận có thể cải thiện được những điều kiện đó?”  

Thực tế là khi con tức giận, con sẽ tạo ra năng lượng tình cảm phát xuất từ sợ hãi, con sẽ bồi thêm sức cho các vòng lốc xoáy của hành tinh, và trong nhiều trường hợp, chính những lốc xoáy này áp đảo con người khiến cho họ hiếp đáp người khác, hiếp đáp thú vật hay làm nhiều hành vi khác rõ ràng là bất nhân. Con có muốn đóng góp vào vấn đề hay con muốn đóng góp vào giải pháp? Nếu con muốn đóng góp vào giải pháp, con cần sử dụng những dụng cụ mà các chân sư đã ban ra đễ khắc phục nỗi giận của mình và vươn lên khỏi tức giận.   

* [Những cuốn sách này gồm có: Healing Your Spiritual Traumas, Fulfilling Your Divine Plan, Fulfilling Your Highest Spiritual Potential, Making Peace with Being on Earth]

6.08 Giê-su, hãy chỉ con cách phân biện

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi Hiện diện TA LÀ của con, hãy chảy xuyên qua Hiện diện Ta Sẽ Là mà TA LÀ, và ban cho lời chú này quyền năng trọn vẹn. Con kêu gọi thày Giê-su yêu dấu hãy giúp con phân biện giữa thực tại và nhị nguyên, hầu con phơi bày mọi lời gian dối của rắn cùng ảo tưởng của tự ngã, kể cả …  [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

1.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

8.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

9.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm:

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con hoàn toàn chấp nhận cho quyền năng lời kêu gọi này được sử dụng để giải thoát Ánh sáng Mẫu-Vật, hầu ánh sáng phóng chiếu viễn quan toàn hảo của Ki-tô cho đời con, cho đời của mọi người cùng hành tinh. Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, việc đó đã xong! Amen.

Quả vị Ki-tô là sự buông bỏ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/12/2020. Bài này được truyền đọc trong Webinar 2020 – Tăng triển khả năng phân biện Ki-tô của bạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Chúng ta đã bàn về bốn tầng của tâm, là bốn thể phàm của con, và các sa nhân đã nỗ lực như thế nào để ngăn chặn khả năng phân biện Ki-tô của con ở các thể này bằng cách lôi kéo con vào những cơn lốc xoáy, những khuôn nếp phản ứng khác nhau. Nhưng tại sao chúng lại làm được điều đó? Tất nhiên, chúng làm được là vì con có cái xà trong chính mắt con, con có một số tâm lý chưa giải quyết – là điều hoàn toàn bình thường trên đường tâm linh. Chúng ta đã bàn về các cấp độ khác nhau trên đường tu, về 144 tầng tâm thức, và rõ ràng khi con lần đầu tiên tìm thấy đường tâm linh – bất kể lúc đó con đang ở tầng tâm thức nào trong kiếp đầu thai này – con cũng không thể nắm hết được những khai ngộ và ảo tưởng ở những tầng cao hơn, con không thể nhìn xa hơn tầng tâm thức bấy giờ của con.     

Cho nên, một khi con đã học cách nhận diện phần nào những gì sa nhân đang cố làm từ bên ngoài để phá hoại khả năng phân biện Ki-tô của con, thì con cần bắt đầu xem tới, đâu là những điều kiện bên trong đã khiến con dễ bị chúng thao túng đến thế. Và điều này, tất nhiên, có nghĩa là con cần bắt đầu xem xét tâm lý mình. Và ở đây con cần phân biệt một số chuyện. Ta biết nhiều người trong số các con đã theo học đợt truyền pháp này từ khá lâu và đã vượt qua chướng ngại này, nhưng ta vẫn muốn đưa ra cho những ai lần đầu đọc lời dạy này mà chưa theo dõi những bài dạy trước đây.

Ta đã từng so sánh chúng tôi, các chân sư, với những nhân viên bán xe cũ, chuyên môn nhử mồi xong đánh tráo. Chúng tôi quảng cáo một chiếc xe rẻ mạt, xong một khi con đã vào trong tiệm rồi, chúng tôi mới cố bán cho con một chiếc xe mắc tiền hơn. Nói cách khác, để khiến con đoái nhìn vào giáo lý của chúng tôi, chúng tôi phải đưa ra một cái gì hấp dẫn đối với mức tâm thức hiện tại của con cho dù mức đó là gì. Xong một khi con đã bắt đầu học hỏi giáo lý, chúng tôi cần đưa con lên tầng cao hơn của đường tu nơi con thực sự bắt đầu tinh tấn, là sự tinh tấn đặc trưng của một người đang mặc lên chiếc áo của quả vị Ki-tô cá nhân. Cho nên khi con nhìn vào cộng đồng tâm linh Thời mới nói chung, con sẽ thấy mỗi người đang ở một trình độ tâm thức khác nhau, mỗi người có một trọng điểm khác nhau, ý tưởng và kỳ vọng khác nhau về những điều mình có thể gặt hái trên đường tu tâm linh.

Rồi sẽ đến một điểm khi để tiến xa hơn trong phân biện Ki-tô, con sẽ cần xem xét: “Đâu là động lực đã khiến tôi đi theo con đường tâm linh? Tại sao tôi đã cất bước? Tại sao tôi đã đi cho tới điểm này? Tôi đã chờ đợi những gì từ đường tu?” Có lẽ con chưa từng tự hỏi như thế một cách ý thức – đa số hành giả tâm linh thì không. Thường họ tìm thấy một phong trào tâm linh, rồi phong trào đó, giáo lý đó vang dội với cái gì bên trong họ, và họ không nhận thức rõ ràng rằng sở dĩ họ đi theo như vậy là vì phong trào đã hứa hẹn là họ sẽ thỏa mãn được bất cứ kỳ vọng nào của họ về đường tu. Nói cách khác, đường tu sẽ đem lại gì cho họ? Phong trào hay giáo lý đã vang dội trong họ có hứa ở đâu đó là các kỳ vọng của họ sẽ được thỏa mãn. Cho nên điều rất quan trọng là con phải lui lại và xét xem kỳ vọng của con về đường tu là gì.

Đại đa số hành giả, và các con đã theo đợt truyên pháp này từ khá lâu, sẽ có thể nhìn ngược lại thời con lần đầu tiên ý thức đường tu và sẽ nhận diện được điều này trong tâm mình. Hầu hết các con đều có một kỳ vọng rõ rệt là đường tu sẽ làm gì đó cho mình, sẽ đem lại điều gì đó mà mình muốn hay cần trên địa cầu. Có những lợi lạc liên quan tới đời sống ở đây trên điạ cầu mà con sẽ có được, và con mong mỏi đời con sẽ trải ra như thế nào trong tương lai. Điều này không có gì sai trái – con không thể tránh khỏi đã suy nghĩ như thế, nhất là đối với những ai đã lớn lên trong một xã hội phi tâm linh, dù đó là xã hội tôn giáo hay phi tôn giáo. Các con đều đã được dạy dỗ, được lập trình để coi trọng trên hết đời sống trong vũ trụ vật chất.

Các sa nhân đã từ hàng ngàn năm cố gắng lập trình nhân loại để con người đặt trọng tâm trên hết vào cuộc sống thế gian. Tất nhiên, các tôn giáo cũng đưa cho con một lối thoát khỏi thế giới này, đoán chừng là con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Nhưng vì chuyện đó xảy ra sau kiếp này, đó không phải là điều mà hầu hết người theo đạo sẽ bỏ thời gian ra mà nghĩ đến – đâu là những yêu cầu để vào được Nước Trời, dù người ta định nghĩa Nước Trời là gì? Và một lần nữa, họ sẽ chỉ tập trung vào những gì tôn giáo họ có thể làm cho họ trong cuộc sống ngay đây trên trái đất. Khi con nhìn vào người tâm linh nói chung, con sẽ thấy họ có rất nhiều kỳ vọng khác nhau về những gì đường đạo sẽ đem lại cho họ. Chẳng hạn, một số người kỳ vọng họ sẽ chữa lành bệnh tật thể chất, một số kỳ vọng sẽ thị hiện rất nhiều tiền để mua sắm bất cứ gì mình muốn, một số kỳ vọng sẽ đạt được tâm hồn thanh thản và đời sống an lạc, có thể nơi một tu viện hẻo lánh. Một số sẽ kỳ vọng cả điều ngược lại là họ sẽ có quyền năng bước ra thế giới và tác động mạnh mẽ trên xã hội và người chung quanh.

Có rất nhiều kỳ vọng dưới nhiều hình thức khác nhau như vậy đối với mỗi người, và như ta vừa nói, chuyện đó không có gì sai trái. Con phải khởi sự ở một mức nào đó, mức tâm thức hiện tại của con. Thật là lô-gíc khi con sẵn sàng bước trên đường tu ở tầng tâm thức thứ 48, con cởi mở hơn với con đường tâm linh để thực sự phát triển tâm thức. Con sẽ có những kỳ vọng này và chúng sẽ theo con cho tới tầng 96. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần cứu xét kỳ vọng đó và bắt đầu tự hỏi: “Đi theo Ki-tô sẽ đòi hỏi tôi phải làm gì?”

Nếu con nhìn ngược lại cuộc đời của ta cách đây 2000 năm, nếu con đọc được giữa những hàng chữ, con sẽ thấy điều mà ta thực sự giảng dạy cho các đệ tử của ta và dân chúng nói chung là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Đi theo Ki-tô có nghĩa là đi theo một vị thày ở một mức tâm Ki-tô cao hơn mình, và như vậy con mới lần hồi khoác lên tâm Ki-tô. Con có thể đọc lại một số lời ta giảng thời đó và con thấy ta nói đến sự cần thiết phải sẵn sàng mất sự sống để theo Ki-tô. Con phải không bám mắc vào Mammon, con cần để cho những người chết đi chôn người chết. Nói cách khác sẽ tới một lúc, để bước theo Ki-tô con phải buông bỏ một cái gì đó. Điều này thực sự có nghĩa là tạm thời trên đường tâm linh, từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng đường tâm linh chỉ là chuyện hoàn thành một cái gì đó trong đời sống trên trái đất.

Ta không nói rằng đường tu sẽ không thực hiện được điều gì cho con. Điều ta muốn nói là giữa hai tầng 48 và 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng động lực chủ yếu khi theo đường tu là con kỳ vọng sẽ đạt được lợi lạc gì đó trong đời sống của con nơi vũ trụ vật chất. Bây giờ khi con tiến đến gần mức 96, con cần giải quyết kỳ vọng này bởi vì nó sẽ không đưa con xa hơn mức 96 đâu. Tới một điểm con phải bắt đầu nhìn nhận rằng mục đích thực sự của đường tu không phải là đạt được một lợi thế tạm thời trong thế gian này. Mục đích thực sự là đạt được sự sống vĩnh hằng vượt khỏi thế gian, và đây là một vấn đề rất khác với cái nhìn khi con mới khởi sự. Nó rất khác với cái nhìn mà hầu hết những ai theo tôn giáo đều có về sự cứu rỗi, hay thế nào là vào Thiên đàng cho dù mỗi tôn giáo có định nghĩa Thiên đàng là gì. Và sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng những tầng cấp cao hơn của tâm Ki-tô, những tầng tâm Ki-tô có ý thức hơn, sẽ đòi hỏi con bỏ lại mọi thứ.

Thật ra để bước lên những tầng mức cao đó của tâm Ki-tô, con sẽ phải đi qua một giai đoạn nơi con bỏ lại hết thứ này rồi tới thứ khác. Con lần lượt buông bỏ một ý niệm nào đó về sự sống, một kỳ vọng nào đó, một quan điểm nào đó, và một trong những điều con phải buông bỏ là sự mong đợi rằng đường tu sẽ đem lợi lạc gì cho con. Đó là tại sao con cần xem xét các kỳ vọng của con rằng đường tu sẽ làm gì cho mình, và mình sẽ có được gì nhờ nó. Nếu con chờ mong, chẳng hạn, là con sẽ thị hiện được vô số của cải, sẽ tới lúc con phải nhìn lại và tự hỏi tại sao con cần của cải bất tận như thế, con mong thực hiện được điều gì với nó, con sẽ có cảm giác thế nào khi con có của cải? Và con cần bắt đầu tự hỏi: “Ừ nhỉ, ngay cả nếu tôi có số tiền bất tận đó, nó có sẽ nhất thiết cho tôi cảm giác mà tôi đang tìm?”

Con hãy nhìn rất nhiều người giàu có đến độ họ không thể tiêu hết tiền, họ đang cảm thấy thế nào? Tâm trạng tâm lý của họ ra sao? Hầu hết đều không cảm thấy thoải mái, an bình, vì họ lo lắng kiếm tiền nhiều hơn cho dù họ không cần, hay họ lo lắng làm sao không bị mất tiền. Họ vẫn căng thẳng. Họ không an lạc. Họ không dùng tiền của họ để làm gì cho tha nhân, một điều mà bao nhiêu người tâm linh đều mơ ước làm được. Con nhìn thấy vậy và con nghĩ: “Chà, chắc chắn mình sẽ làm tốt hơn vì mình là người tâm linh.” Con sẽ làm tốt hơn nếu con bước lên cao hơn và nhận xét đơn giản: điều mà con đang tìm kiếm – cho dù đó là sự thay đổi vật lý, thành quả vật lý nào đó mà con mong có được do bước chân trên đường đạo – động lực khiến con đi tìm cái đó chỉ là để sản xuất ra một cảm giác nào đó trong tâm con.

Con cần bước lên và nhận ra rằng khi con đạt được những điều kiện vỏ ngoài như thế, con sẽ không tự động sản xuất được cám giác con tìm, bởi vì cảm giác xảy ra trong tâm lý con, mà tâm lý con, ít ra là ở các tầng cao của tâm Ki-tô, thì không lệ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Cảm giác bên trong, sự trải nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm sống của con, tất cả được định đoạt bởi những gì xảy ra trong bốn thể phàm của con. Vì vậy, dù con có nghĩ rằng sự giàu có sẽ sản xuất ra cảm giác bên trong mà con muốn, nhưng nó không thể làm được. Chỉ khi nào con làm việc trực tiếp với tâm lý của mình, giải quyết những gì đang chặn nghẽn cảm giác bên trong thì con mới có được cảm giác đó. Con có thể kỳ vọng là một ngày kia con sẽ đạt khả năng đi thuyết phục, truyền đạo cho người khác, sẽ cải thiện hành tinh và phục vụ mục tiêu của các chân sư. Đó có thể chỉ là những gì ngoại tâm con nhìn thấy, là cách ngoại tâm con nhìn thấy. Nhưng khi con nhìn vào sâu hơn, có một cảm giác ở đằng sau mà con đang mong có được, và cảm giác này sẽ không do khả năng vỏ ngoài đem lại. Nó chỉ có thể đạt được sau khi con giải quyết những yếu tố tâm lý đang ngăn chặn cảm giác, nếu đó là cảm giác thanh cao chứ không là cảm giác nào đó dựa trên sợ hãi.

Đấy, có một khúc rẽ trên đường đạo mà con sẽ không thể vượt qua cho tới khi con hoàn toàn nhìn nhận rằng bước kế tiếp của con là phải đặt trọng tâm vào việc giải quyết tâm lý của con. Một số người sẽ nhận ra điều này trước tầng 96, nhưng con cần phải nhận ra thì mới bước xa hơn tầng 96. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tới chỗ nhìn nhận rằng con phải buông bỏ mọi kỳ vọng, những kỳ vọng mà con đã ôm giữ từ khi con mới cất bước, những kỳ vọng đã là động cơ khiến con bỏ công sức ra cho đến mức này. Tất cả phải được bỏ lại.

Nhiều hành giả tâm linh, tuy tiếng là người chân thành tu tập theo một giáo lý hay một pháp môn, không sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng của mình. Họ bám chặt vào những kỳ vọng này và không thể buông ra. Tại sao như thế? Tại vì cái mà ta gọi là ngã gốc (primal self). Như các chân sư đã giải thích cặn kẽ trong sách “Healing your spiritual traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) và những quyển khác trong cùng bộ, đã có một thời điểm khi lần đầu tiên con gặp gỡ sa nhân và phải đối mặt với ý muốn vô hạn của chúng nhằm tiêu diệt con như một sinh thể tâm linh. Sự kiện đó đã khiến con bị cú sốc, bị tổn thương sâu sắc, và để đối phó với chấn thương này hầu tiếp tục sống và sinh hoạt trên hành tinh, con đã tạo ra một cái ngã gốc. Ngã gốc đó có chức năng chủ yếu là để kìm nén, che giấu nỗi đau của cái gọi là chấn thương nhập đời, chấn thương vũ trụ nguyên thủy. Ngã gốc được con tạo ra để phản ứng lại những gì xảy ra cho con trên điạ cầu khi con đối diện với sa nhân.

Đối với một vài người, sự kiện này đã xảy ra trên một hành tinh khác, nhưng dù sao thì lần đầu tiên con gặp sa nhân, con đã bị cơn sốc khi nhận ra là có ai đó đang hoàn toàn sẵn sàng tiêu diệt mình nếu họ có thể. Con cảm thấy đau đớn vô cùng vì con không thể tưởng tượng nổi có ai muốn tiêu diệt mình, bởi vì con là một người tích cực luôn muốn giúp mọi người và đưa hành tinh lên một tầm cao hơn. Con không thể tưởng tượng có ai cảm thấy bị đe dọa đến độ phải hủy hoại con. Và con đứng đó, con gặp sự kiện đó, con bị choáng váng, ngập tràn đau khổ khi sa nhân không ngừng tấn công con, buộc con đủ mọi thứ tội vạ trong đủ mọi hoàn cảnh vỏ ngoài khác nhau.

Ngã gốc được tạo ra để bù đắp cho cơn sốc, cho cảm giác mất mát – mất mát sự trong trắng của con – và trên hết để che giấu mất mát đó hầu con không phải sống lại nỗi đau đã trải qua, và hơn nữa để tạo lên niềm kỳ vọng là một ngày kia con sẽ tìm lại được tâm trạng trinh nguyên mà con đã mất. Con có khả năng trở lại cái tâm trinh nguyên ấy, nhưng con thấy không, ngã gốc đã sinh ra từ tình huống này. Nó không sinh ra từ tâm trinh nguyên của con. Ngã gốc thực sự không thể hiểu nổi tâm con trước khi chấn thương xảy ra, nó chỉ có thể đối tác với tâm trạng của con sau đó mà thôi. Ngã gốc không thể cảm thông được tâm Ki-tô, không thể cảm thấu được sự trong trắng chân thực là tâm của con trước sự cố. Ngã gốc định ra những mục đích mà dường như con phải đạt, nhưng đó không phải là mục đích thật, không là mục đích thực tế, không là muc đích có giá trị. Ngã gốc cũng không thể nhìn xa hơn cái tầng tâm thức nơi nó được sinh tạo, tất nhiên là gắn liền với địa cầu, cho nên nó không thể hiểu được tâm Ki-tô  Nó không thể hiểu rằng chỉ bằng cách vượt lên tâm thức cao hơn thì nó mới tìm được sự an bình nội tâm thực sự và lấy lại sự trong trắng.

Ngã gốc chỉ có thể đối tác với trái đất, và bởi vì nó nghĩ rằng một số điều kiện trên trái đất đã khiến con đánh mất trạng thái trinh nguyên, thì bắt buộc phải có những điều kiện khác trên trái đất sẽ giúp con lấy lại được trạng thái đó. Thế là nó bị kẹt cứng trong một vòng luẩn quẩn khiến nó đi tìm một trạng thái của tâm, một điều kiện nào đó trên địa cầu, dựa trên sự kỳ vọng rằng điều kiện này sẽ sản xuất ra một cảm giác không hề có trên địa cầu.

Tâm trong trắng nguyên thủy là cái mà con đã đem theo con trước khi con gặp sa nhân, tâm này không xuất phát từ những điều kiện trên địa cầu. Con đánh mất nó không phải vì con đã thực sự đánh mất nó, mà con chỉ đánh mất sự nhận biết về nó. Bởi vì cái Ta Biết bị cơn sốc nặng nề đến nỗi nó sinh tạo ra những cái ngã tách biệt này, khiến con bây giờ đứng trong ngã tách biệt, con nhìn ra ngoài qua phin lọc của ngã tách biệt, và đây là lý do con không thể thấy được là con chưa bao giờ đánh mất sự trinh nguyên, con chưa bao giờ đánh mất cái gì hết. Là sự nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con không thể mất gì được cả. Tâm trong trắng là sự kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, và sự kết nối này không thể nào đánh mất. Nó chỉ có thể bị bao phủ bởi những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tách biệt. Con không làm sao thấy được nối kết của con với Hiện diện TA LÀ chỉ vì con đứng trong ngã mà nhìn ra. Cách duy nhất để con lấy lại sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là đứng ra ngoài ngã.

Nhưng để đứng ra ngoài ngã, con phải nhìn ngã. Ngã gốc không thể hiểu nổi tiến trình này. Nó nghĩ là trên địa cầu có một số điều kiện đã khiến con mất một cái gì đó. Nó không biết rõ cái đó là gì, nhưng nó biết đại khái con đã mất gì đó. Nó đang cố giúp con lấy lại cái con đã mất. Nhưng nó nghĩ cách duy nhất là con phải có được một số điều kiện nào đó trên trái đất. Và đó là lý do tại sao khi lần đầu tiên con gặp đường tu tâm linh cho dù dưới hình thức nào – một lời dạy của chân sư hay bất cứ gì khác – thì ngã gốc có kỳ vọng rằng bằng cách theo đường tâm linh này, bất kể con định nghĩa đó là gì, con sẽ đạt được khả năng, quyền năng thay đổi hoàn cảnh bên ngoài để nó sản xuất ra cái điều kiện bên trong mà ngã gốc cho là mục đích cần đạt. Nhưng tiếc thay, trong cốt lõi, cái điều kiên mà ngã gốc thấy được đó không phải là một điều kiện thực tế. Điều mà con thực sự cần lấy lại là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và cái này thì không nằm trên trái đất và do đó không thể được sản xuất bởi bất cứ điều kiện nào trên trái đất.

Con có thể nhìn thấy rất, rất nhiều người đã đi theo một phong trào tâm linh nào đó rồi rút lui khỏi xã hội, ẩn cư nơi vùng hẻo lánh xa xôi nơi họ được che chắn khỏi sự nhộn nhịp hối hả của cuộc sống hàng ngày, và con có thể thấy nhiều người trong số họ tu tập những pháp môn thật khắc khổ suốt hàng chục năm trời trong khung cảnh đó. Nhưng rất, rất ít người đạt được sự tinh tấn mà họ mơ ước. Tại sao vậy? Bởi vì đa số giáo lý và phương pháp tâm linh trên địa cầu thường hứa hẹn những kết quả tự động, hứa rằng nếu con theo học giáo lý, thực hành những tu tập vỏ ngoài, thì con sẽ đạt được mục tiêu mà không cần xem xét tâm lý của mình.

Con hãy để ý câu vừa rồi. Đa số giáo lý tâm linh hứa hẹn con sẽ đạt được bất kỳ mục đích nào con mong muốn mà không cần xem xét đến tâm lý của mình. Các chân sư đã đưa ra những lời dạy vô cùng thâm sâu và chi tiết về ngã gốc cũng như về những cái ngã tách biệt khác tuôn ra từ đó, và lời dạy này trong tinh túy thật đơn giản. Ngã tách biệt, ngã gốc và mọi cái ngã riêng biệt khác luôn luôn phóng chiếu ra ý tưởng là con có một số vấn đề mà con phải giải quyết, một số điều kiện mà con phải đạt được. Nhưng kỳ thực, đây là một ảo tưởng. Khi nào con còn tin rằng có những điều mà con phải làm, những điều mà con phải đạt, hay những điều mà con phải giải quyết, thì con sẽ vẫn còn kẹt trong ngã đó. Và đây, cái chìa khoá để đi xa hơn một mức nào đó của tâm Ki-tô thực sự là phải giải hóa ngã gốc. Nhưng con không thể làm điều này chừng nào con còn cố giải quyết những vấn đề do ngã gốc định ra, hay có thể nói, giải quyết cái vấn đề đã định ra ngã gốc. Con cần bước tới điểm khi con có thể, trong tư cách cái Ta Biết, bước ra khỏi ngã gốc, nhìn thẳng vào nó và hỏi: “Đây có thực sự là một vấn đề không? Vấn đề này có bao giờ giải quyết được không? Và ngay cả khi giải quyết được thì tôi sẽ đạt được gì?”

Và con ngộ ra, con chiêm nghiệm ra sự thật rằng đó không phải là một vấn đề có thật, và con không hề được gì khi giải quyết nó. Ở điểm này, con sẽ tách ra khỏi ngã đó. Như các chân sư đã chỉ cho con cách thực hành và tu tập, con có thể để cho nó chết đi. Thay vì cố giải quyết vấn đề, con chỉ đơn giản để cho nó chết đi. Nói cách khác, điều mà ngã cũng như sa nhân phóng chiếu vào con chỉ là ý tưởng rằng con có thể đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi bằng cách giải quyết vấn đề vỏ ngoài. Nhưng các chân sư nói với con, con sẽ không bao giờ đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi cho tới khi nào con buông bỏ sự tìm cầu cách giải quyết vấn đề, tìm cầu cách sản xuất điều kiện vỏ ngoài. Con buông nó ra. Con để cho ngã chết. Con không tìm cách giải quyết bất cứ gì, bù đắp cho bất cứ gì hay đạt được bất cứ trạng thái nào. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết.

Con hãy đọc lại câu ta nói trước kia: “Can hệ gì tới ngươi? Còn con, hãy theo ta”. Ý nghĩa thật của câu này là sẽ có rất, rất nhiều điểm trên đường tâm linh khi con phải đối mặt với một ảo tưởng, một khai ngộ nào đó. Ảo tưởng là khi có những điều mình phải làm, những chuyện mình phải giải quyết. Nhưng thực sự điều con cần làm là nhận ra cái đó xuất phát từ một ngã tách biệt, và thay vì cố giải quyết, con từ bỏ mọi nỗ lực giải quyết. Con để yên cho ngã chết vì con đã ngộ được rằng việc bước theo chân Ki-tô quan trọng hơn gấp bội chuyện sản xuất một thành quả vỏ ngoài trên địa cầu.

Bây giờ, ta trở lại những gì ta đã nói về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Nếu con quan sát một cách vô tư những người tuyên bố theo Trump, con sẽ thấy họ bị xúc động mạnh mẽ. Họ dính mắc với Trump và hình ảnh mà ông phóng ra. Cái mà họ thật sự dính mắc là cái cảm giác mà ông đã cho họ, và họ tin rằng cách duy nhất để có được cảm giác này là qua Trump, qua việc ông là tổng thống, ông là người lãnh đạo. Những người này đang cố làm gì? Họ đang cố sản xuất ra một cảm giác, nhưng họ làm vậy qua trung gian một điều kiện trên địa cầu, và bây giờ họ phải đối diện với sự kiện điều kiện này có thể sẽ thay đổi và Trump sẽ không còn là tổng thống nữa. Làm sao thoát khỏi sự thể này? Chỉ bằng một cách là nhận ra có một cái gì hơn thế nữa, quan trọng hơn điều kiện vỏ ngoài đó đối với con. Nếu con là học trò của chân sư và con tin vào Trump, làm thế nào con sống tiếp được khi ông rời Nhà Trắng? Phải, chỉ bằng một cách là sẵn sàng tự nhủ: “Chuyện đó can hệ gì tới tôi? Vì tôi đi theo Ki-tô”.

Con nhận ra việc nâng cao khả năng phân biện Ki-tô của mình quan trọng hơn bất kỳ điều kiện nào bên ngoài, cho dù tổng thống có là ai. Quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc ai làm Tổng thống Hoa Kỳ. Nếu con nghĩ là nó tùy thuộc thì con chưa thực sự hiểu tâm Ki-tô là gì, và con cần học hỏi rất nhiều lời dạy của ta về tâm Ki-tô. Vậy làm thế nào con sống tiếp được từ điểm này trở đi? Chỉ bằng một cách là buông bỏ một cái gì đó, chỉ bằng cách nhận ra rằng cảm giác mà con mong muốn không thể phát xuất từ điều kiện bên ngoài mà từ sự kiện con làm việc trực tiếp với tâm lý của con. Đây là cốt lõi của giáo lý các chân sư trong đợt truyền pháp này. Nếu con đã đến mức không thể áp dụng những giáo lý này, đó là chọn lựa của con, và con hãy ra đi bình an, hoặc con cũng có thể ra đi không bình an nếu con muốn như vậy. Nhưng các chân sư không thể giúp những ai không sẵn lòng buông bỏ một cái gì.

Ta chỉ dùng sự kiện trên như một ví dụ, bởi vì dĩ nhiên có rất nhiều ví dụ khác. Con nhìn vào những người tâm linh nói chung, con nhìn học trò của chân sư trong các đợt truyền pháp trước hay ngay cả trong đợt này, con sẽ thấy rất nhiều người tới một điểm sẽ đụng phải một điều gì đó mà họ không sẵn lòng buông bỏ. Rồi hoặc là họ ngừng tiến bước trên đường tâm linh, hoặc họ bước vào con đường tay trái, con đường công truyền, nơi họ từ chối thay đổi một điểm gì đó trong tâm lý họ, họ từ chối từ bỏ một cái gì đó để theo Ki-tô. Họ đã không nói được: “Chuyện này can hệ gì tới tôi? Tôi đi theo Ki-tô, tôi sẽ đi theo Ki-tô,” mà ngược lại họ đã như người thanh niên kia nói với ta rằng: “Con muốn theo Giê-su lắm chứ, nhưng trước tiên con có thể đi chôn cha con được không?” Nói cách khác, họ có một việc gì đó trong thế gian mà họ phải làm trước khi đi theo Ki-tô, và như thế họ không thể nào theo Ki-tô vì lúc nào cũng sẽ có những công việc trong đời phải làm trước. Ta đã nói gì với thanh niên đó? “Hãy để cho kẻ chết đi chôn người chết”. Hãy để cho những ai bị kẹt trong tâm thức chết đối phó với mọi vấn đề mà họ tưởng họ phải cần đối phó. Con có thể từ chối đối tác với tất cả những vấn đề này, buông chúng đi, rồi cất bước cùng Ki-tô đi tới những tầng cao hơn của đường tu. Nhưng tất nhiên, tại sao họ không làm được? Bởi vì họ chưa chịu nhìn vào cái ngã gốc luôn nghĩ rằng nó phải sản xuất ra một cảm giác nào đó bằng cách sản xuất những điều kiện cụ thể ở đây trên địa cầu.

Có thể nói, đây là ảo tưởng ngàn đời. Đây chính là bí mật của con đường tâm linh nếu chẳng qua có một bí mật. Đây là bí mật vì có rất ít giáo lý nào thật sự tiết lộ với những lời thẳng thắn, rõ ràng như thế. Lý do một phần là vì, thực tế mà nói, việc nâng cao tâm thức tập thể trên địa cầu là một tiến trình chậm chạp, lần hồi. Không có ích gì đưa ra một giáo lý khi chưa có một số người sẵn sàng nắm lấy và đem ra thực hành. Nhưng dù sao đi nữa, cốt lõi của vấn đề là như sau: “Khi bảo rằng con người chưa sẵn sàng áp dụng giáo lý thì điều này có nghĩa gì?” Có nghĩa là con người chưa sẵn sàng nhìn vào bản thân mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình. Bao nhiêu tín đồ đạo Cơ đốc tự nhận là họ sùng tín ta, nhưng liệu họ có sẵn lòng đoái nhìn đến những lời ta đã dạy, chẳng hạn như phải nhìn vào cái xà trong mắt mình thay vì phán xét người khác theo cái giằm trong mắt người? Đây thực sự là một điều mà con phải buông bỏ, một trong những điều khó bỏ nhất khi con lên cao hơn tầng thứ 96. Con thấy không, các sa nhân là một ví dụ rõ ràng nhất của tình trạng tư duy này. Chúng từ chối nhìn vào bản thân, vào cái xà nơi mắt chúng, để chỉ tập trung vào cái giằm trong mắt người khác, luôn luôn vạch ra cái giằm đó, luôn luôn hướng ra bên ngoài và nghĩ rằng vấn đề nằm ở bên ngoài, rằng người khác có lỗi và cần phải thay đổi.

Các sa nhân bị mắc bẫy trong tâm thức này và không thể vượt ra ngoài cho đến khi chúng quyết định quay đầu lại. Nhưng dù quay đầu thì chúng cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để vượt qua được. Chúng đã tạo ra trên hành tinh này một con quái vật tập thể vô cùng hùng mạnh luôn cuốn hút mọi người vào tâm thức đó. Vì thế mà con luôn phán xét người khác. Có bao nhiêu trường hợp như thế, như khi con dựng lên ai đó thành con dê tế thần, đổ tội cho họ là nguyên nhân những vấn đề của con, và con tin rằng nếu con có thể loại trừ hay thay đổi con dê thì vấn đề của con sẽ giải tỏa. Vấn đề sẽ tự nhiên biến mất như trong phép lạ. Đây là một con quái vật tập thể vô cùng kiên cố, và một lần nữa, khi con lần đầu tiên gặp giáo lý của chân sư, con vẫn bị nó ảnh hưởng vì con đã lớn lên trong một môi trường lấy chuyện phê phán người khác làm chuẩn. Nó hoàn toàn tự nhiên và ta hoàn toàn thông cảm. Ta nói như vậy bất kể con đã lớn lên ở đâu với rất, rất ít ngoại lệ.

Trong xã hội có một chuẩn mực, một cách cư xử gọi là bình thường. Đó là cách cư xử tại Đan Mạch, người Đan Mạch là như thế, người Mỹ là như thế, người Pháp, người Đức, người Anh cũng là như thế, vân vân. Mọi quốc gia đều có chuẩn mực này, chuẩn mực mà một người tiếng là tốt lành trong xã hội phải tuân thủ, và con được nuôi nấng lớn lên để phê phán chính mình lẫn người khác dựa theo chuẩn này. Con có tuân thủ hay không tuân thủ? Có những áp lực và biện pháp được áp đặt lên những ai không tuân thủ. Cho nên thật là không thể tránh được khi con tìm thấy giáo lý các chân sư, con đã mang sẵn nguyên cái tâm thức này trong bốn thể phàm của con. Con mang những cái ngã đã được tạo ra để đáp ứng tình trạng đó, và có lẽ suốt nhiều kiếp đầu thai, rất có thể con đã củng cố cho nó lớn mạnh hơn. Những cái ngã này không ngừng lượng giá chính con, lượng giá người khác và mọi sự xảy ra chung quanh, nó phán xét tất cả. Cho nên chuyện gì xảy ra khi lần đầu con gặp giáo lý chân sư dạy về quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? Đúng vậy, những cái ngã này đồng loạt kêu lên: “Hoan hô! Đây hẳn là miền đất hứa, vì nếu chúng ta có thể đạt được quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô, chúng ta sẽ có một chuẩn mực tuyệt đối để phán xét mọi người”.

Trong hầu hết người tâm linh, có một cơ chế tâm lý vận hành. Con đã lớn lên trong một xã hội chắc là bị chi phối bởi một tôn giáo nào đó, hoặc cũng có thể bởi tôn giáo của chủ nghĩa duy vật khoa học. Con đã luôn cảm thấy con không thực sự muốn là một người duy vật, nhưng con cũng không làm sao theo được tôn giáo đang chiếm ưu thế. Cho nên con có cảm tưởng mình là một người đứng bên lề, bị ruồng bỏ. Con đã luôn cảm thấy mình bị phán xét bởi người ngoan đạo lẫn người duy vật, thậm chí cả người cộng sản tùy theo con lớn lên ở đâu. Con cảm thấy mình là người ngoài cuộc. Con bị người ta đánh giá vì con không theo một chuẩn mực nào. Cho nên để đối phó với sự thể, rất có thể vào thời thơ ấu hay trong những kiếp trước, con đã tạo ra những cái ngã, và những cái ngã này mong muốn bù đắp cho sự kiện con bị đánh giá.

Ngã thực hiện sự bù đắp bằng cách cố đạt một ấn tượng, một tin tưởng rằng cho dù con bị người ta đánh giá thì chính họ mới sai lầm vì chỉ có con là đúng vì con là một người tâm linh. Con hoàn toàn có lý khi là người tâm linh, và đây, có cả giáo lý của chân sư thăng thiên xác minh con có lý khi con là người tâm linh. Thật không tránh nổi những cái ngã này sẽ bắt đầu sử dụng giáo lý chân sư để phán xét người khác. Nếu họ không tin ý kiến này thì họ sai rồi. Họ không tin vào luân hồi thì họ phải sai thôi. Họ không tin điều này, không tin điều kia mà các chân sư giảng dạy, do đó họ ở một mức tâm thức thấp hơn mình. Một lần nữa, ta không trách móc ai cả. Chính ta cũng như vậy khi ta còn ở những mức thấp kém của đường tu, không phải trong kiếp đầu thai chót mà những kiếp trước đó. Tất cả chúng ta đều đã trải qua vấn đề này, đó là một phần không thể thiếu của đường tu tâm linh. Nhưng vấn đề là khi một số người tâm linh, thậm chí một số học trò của chân sư, không thể đứng riêng ra khỏi vấn đề. Họ không thể nhận diện cái ngã tách biệt này trong họ, những ngã tách biệt muốn phê phán mọi thứ, lại dùng cả giáo lý của chân sư để thiết lập, dưới mắt họ, một cái chuẩn tối hậu để phán xét mọi người.

Đây là một sự thể con thấy khắp mọi nơi, một phần của cái mà chúng ta có thể gọi là thân phận làm người. Con phớt lờ cái xà trong mắt mình và tim giằm trong mắt người, và con phê phán người khác một cách vô cùng khắc nghiệt dựa trên một chuẩn mực mà con coi là tuyệt đối. Có điều, hầu hết người tâm linh và nhiều học trò của chân sư chắc chắn mang kỳ vọng có thể tạo dựng một cộng đồng tâm linh dựa trên tình thương và tốt thiện. Cho nên con có trực giác là có thể có một cộng đồng tâm linh nơi sự phê phán sẽ vắng bóng. Bao nhiêu người kỳ vọng là khi họ tìm thấy giáo lý của chân sư, những ai theo giáo lý này sẽ không hề xoi mói mà sẽ hiền hòa, tương thân tương ái. Ta hiểu được con có kỳ vọng như thế, nhưng điều này không thực tế.

Vị sứ giả này, nhiều năm trước đây, có nghe tin về tổ chức Summit Lighthouse khi ông sống ở Đan Mạch. Dĩ nhiên ông đã dựng lên một kỳ vọng về cuộc sống tại Summit Lighthouse cũng như về những thành viên ở đó, dựa trên một cái nhìn từ xa, thấy được lý tưởng của giáo lý và nghĩ rằng mọi người theo giáo lý chắc hẳn là yêu thương và hiền hòa. Khi ông đến trụ sở của Summit Lighthouse tại Montana năm 1987, ông bàng hoàng. Chỉ sau ba ngày, giống như ba ngày mà – theo kinh sách – ta đã từng trải nơi địa ngục, ông ngồi xuống và phải lấy một quyết định. Hoặc ông phải ra đi, hoặc ông sẽ ở lại và tìm một giải pháp ổn thỏa. Một ý nghĩ đến với ông, mà ông nhận được trong ngoại tâm, là “Nhưng khoan đã, khi tôi bước qua cánh cổng này, làm gì có tấm bảng nào nói là phải bỏ tự ngã trước khi vào? Cho nên tôi đã không bỏ tự ngã của tôi ngoài cửa, và rất có thể mọi người khác cũng không ai bỏ tự ngã của họ ngoài cửa. Có nghĩa là mọi người trong đây vẫn đều mang tự ngã, tôi cũng vẫn mang tự ngã, vậy thì có lẽ kỳ vọng của tôi hơi thiếu thực tế đó. Có lẽ tôi thiếu thực tế khi tôi chờ đợi mọi người bước qua cánh cửa này bỗng nhiên trở thành toàn hảo, và chính tôi cũng trở thành toàn hảo khi tôi bước vào.” Đây chính là ý tưởng đã cho phép ông ở lại với cộng đồng và tinh tấn vượt bực trong thời gian 10 năm ông sống ở đó.

Một số ý tưởng tương tự cũng đã hữu ích cho nhiều người khác, nhưng cũng có những người không nhận ra được điều này, họ phản ứng một cách khác và bắt đầu phán đoán, hay họ tiếp tục phán đoán người khác và ngay cả chính họ mà không hề hay biết. Vì vậy con có thể thấy tại Summit Lighthouse, hồi đó cũng như bây giờ, có một không khí phán xét mà qua đó họ sử dụng các giáo lý của chân sư để tạo ra hình ảnh về một đệ tử lý tưởng của chân sư. Họ phán xét lẫn nhau dựa trên tiêu chuẩn đệ tử có tuân thủ các đòi hỏi vỏ ngoài này hay không: bạn là nhân viên à? Bạn là nhân viên của bộ phận nào? Bạn có đọc đủ số bài chú hay không? Có là người giao tiếp? Có đóng góp tài chánh cho nhà thờ? Có cư ngụ ở Glastonbury? Lái xe hiệu gì? Màu gì? Mặc áo màu gì? Ăn thức gì? Có kiêng ăn gì không, và vô số những chuyện khác. Cái gì đứng đằng sau khuynh hướng phán xét đó? Chính là ý tưởng cho rằng việc tuân thủ các nghi lễ và luật lệ vỏ ngoài sẽ tự động đưa con tới trạng thái tâm Ki-tô.  

Cho tới giờ, các chân sư đã ban cho con nhiều lời dạy để chất vấn ảo tưởng đó cho nên con phải đủ khả năng thấy được rằng sẽ tới lúc con sẽ không thể tiến bước cao hơn trong quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô cho tới khi con nhìn nhận một cách toàn diện và ý thức rằng quả vị Ki-tô không phải là sản phẩm của các điều kiện ngoại cảnh trên địa cầu. Quả vị Ki-tô không phải là chuyện đã đạt được gì, đã làm được gì, sở hữu cái gì, tu tập pháp môn nào, đọc được bao nhiêu bài chú. Những thứ đó không sản xuất ra quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô chỉ là một điều duy nhất mà thôi – nó không phải là những gì con đã thu được mà là những gì con đã bỏ lại. Con đã bỏ lại bao nhiêu cái ngã tách biệt? Bao nhiêu ảo tưởng con đã bỏ lại? Bao nhiêu kỳ vọng con đã bỏ lại? Bao nhiêu lần con đã đương đầu với một kỳ vọng, một vướng mắc, và đã tự nhủ một cách hoàn toàn chân thành: “Cái này can hệ gì đến tôi? Tôi sẽ đi theo thày!” Đó là chìa khóa duy nhất cho quả vị Ki-tô.

Con có thể là thành viên của một tổ chức tâm linh. Con có thể nhiệt thành tuân thủ một pháp môn tu tập suốt nhiều năm hay nhiều thập niên. Các chân sư đã thấy điều này rất nhiều lần rồi, nhưng con vẫn không tiến một bước nào về phía tâm Ki-tô chính vì con không chuyển dời tâm thức để nhận ra tâm Ki-tô là gì. Đây không phải là chuyện bám giữ vào cái này hay cái kia trên địa cầu, không là chuyện hoàn thiện cái này hay cái nọ, mà là chuyện buông bỏ. Rất, rất nhiều hành giả khi họ tìm thấy một con đường tâm linh, tập trung rất nhiều vào ý niệm chứng đạt tâm linh cũng như một số khả năng. Nhiều người mơ ước có được quyền năng thần thông, và thật tiếc thay, cuộc đời của ta đã phần nào kích động mơ ước này bởi vì ta đã thực hiện một số phép siêu phàm. Cho nên một số người cũng muốn làm giống thế, hoặc họ muốn chứng đạt được gì đó tùy theo định nghĩa của tổ chức hay giáo lý của họ, và tất cả là để biến cái mà họ đang có thành một cái gì hoàn hảo và tốt đẹp đến nỗi các chân sư phải trầm trồ: “Ồ, có đệ tử kia đã thật sự chứng đạt được cả bảy tia sáng, người ấy đã sẵn sàng thăng thiên rồi đấy.”

Con có thấy không, đường tu thật sự không phải là đạt được một khả năng nào đó, hay ngay cả kiến thức và sự hiểu biết, bởi vì con đường giả trá do các sa nhân phóng chiếu ra – và được nhiều hành giả ở một cấp bậc nào đó chấp nhận vì họ không biết làm gì khác hơn – chính là con đường nâng cao một khía cạnh nào đó của tự ngã, nâng cao một ngã tách biệt nào đó. Vì chúng ta đang bàn về phân biên Ki-tô, con có biết con có một cái ngã tách biệt rất mạnh mẽ khi con tìm thấy một con đường đã được thiết lập suốt nhiều kiếp sống do văn hóa phán xét gây ra? Như vậy, con có một cái ngã tách biệt với khả năng phán xét người khác, và bây giờ ngã này cảm thấy nó có thể áp dụng lời khuyên răn của ta là phải “phán xét theo lẽ công bình” bởi vì nó đinh ninh là nó không phán xét theo chuẩn mực của con người mà theo một chuẩn mực cao hơn. Thế là khi con tìm được giáo lý của chân sư, ngã này liền nói: “À, đây là cơ hội quá tốt cho tôi, tôi sẽ lấy lời dạy này, học tập thật kỹ, đem ra áp dụng, tôi sẽ hoàn thiện khả năng phán xét của tôi. Tôi sẽ chứng đạt chuẩn mực cao nhất của phán xét là phân biện Ki-tô, và tôi sẽ có khả năng phán xét như một chân sư phán xét.”

Nhiều học trò của chân sư tin rằng chỉ có chuyện hoản chỉnh cái ngã này, và khi họ có được sự phán xét tối thượng đó thì họ sẽ chứng đạt quả vị Ki-tô. Đây là quả vị Ki-tô, họ nghĩ như thế. Nhưng con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã. Nó sẽ không bao giờ lên được Thiên đàng. Dù cho khả năng phán xét của con có cao siêu biết mấy, nó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng. Con sẽ không bao giờ vào được Thiên dàng khi nào con còn lôi cái ngã này theo con. Nó không thể chui qua cánh cửa. Làm thế nào con vào được Thiên đàng? Chỉ bằng cách bỏ cái ngã này lại. Có nghĩa là gì? Nhiều học trò tâm linh mà chân sư đã thấy, trong đợt truyền pháp này cũng như những đợt trước, vẫn còn rơi vào cạm bẫy mà nghĩ rằng tâm Ki-tô là chuyện nhìn thế giới, nhìn hành động, nhìn ý nghĩ, nhìn mọi thứ hiện ra và xét đoán chúng dựa trên tiêu chuẩn là chúng đúng hay sai.

Các chân sư đã từng nói gì? Các sa nhân đã phải làm gì để phá nát cuộc sống trên hành tinh này? Chúng phải phóng chiếu ra một chuẩn mực về những gì phải xảy ra hoặc không được xảy ra, khiến loài người phải lượng định mọi thứ dựa trên giá trị đúng hay sai, thật hay giả. Những người này nghĩ rằng bằng cách lấy một lời dạy của chân sư rồi áp dụng và học tập, họ sẽ có thể hoàn thiện cái ngã phán xét ấy để nó nhìn vào mọi chuyện xảy ra trên địa cầu mà xét đoán. Cái này đúng hay sai? Là Ki-tô hay phản-Ki-tô? Nhưng đây là một ảo tưởng và ở tầng tâm thức thứ 96, con sẽ cần phải đương đầu với nó nếu con muốn bước lên những tầng cao hơn. Nếu không, con sẽ rơi vào vòng xoáy đi xuống của sự xét đoán và sẽ ngày càng xét đoán nhiều hơn, trong khi cứ đinh ninh mình là đấng Ki-tô Hằng sống đang xét đoán.  

Ta sẽ minh họa cho con thấy. Giả sử con đang ở một phi trường sầm uất. Đó là trước nạn dịch corona và phi trường đầy nghẹt người. Ai ai cũng nói năng, có loa phóng thanh, có nhạc, có đủ mọi loại tiếng động. Con bước vào đó và nghĩ: “Công việc của tôi là xét đoán xem những tiếng động này là của Ki-tô hay phản-Ki-tô”. Con sẽ làm gì? Con sẽ chú tâm lắng nghe từng tiếng động và con nghĩ rằng bằng cách phát triển khả năng phán xét tiếng động, con sẽ biểu hiện tâm Ki-tô. Nhưng tâm Ki-tô thực sự là gì? Tâm Ki-tô không phải là nghe và phán xét tiếng động đâu. Người có tâm Ki-tô là người nghe được sự im lặng vượt ngoài mọi tiếng động. Con có thể đứng giữa nơi ồn ào nhất cả hành tinh nhưng đằng sau tiếng động vẫn có im lặng. Tiếng động cần có không gian để hiện hữu, là không gian mà đức Phật cầm giữ cho địa cầu. Không gian này – tánh nhận biết im lặng đằng sau tiếng động – đó chính là tâm Ki-tô là phân biện Ki-tô tối hậu.

Đã có một thời, như ta có giải thích, khi con nhìn vào các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc, con sử dụng khả năng của mình để phân biện giữa những gì là ảo tưởng, là sự thao túng, là cơn lốc xoáy và tất cả những thứ đó. Ở cấp độ đó, có thể nói là con vẫn còn phán xét. Ít ra là còn lượng giá và phân tích. Đấy là một phần của tâm Ki-tô ở những bước đầu. Nhưng ta nói với con, sẽ tới một lúc khi con có thể bước lên những tầng cao hơn của tâm Ki-tô, hay con có thể đi xuống những tầng thấp hơn vì con tưởng rằng tâm Ki-tô chỉ là chuyện phán xét. Hãy trở lại ví dụ con đang đứng ở phi trường, với tiếng động khắp nơi và người ta qua lại thật náo nhiệt. Con sực nhớ ra là con đang đeo một cặp tai nghe chống ồn, úp chặt vào hai tai. Trên tai nghe có cái nút bật nhỏ xíu, và nếu con vặn nút đó lên, tai nghe sẽ khiến cho mọi tiếng ồn biến mất và con sẽ chỉ nghe thấy im lặng. Đấy, đó là những tầng cao của tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô. Đó là con đang đặt tâm con trong sự im lặng đằng sau tiếng động.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là con nhận ra điều quan trọng nhất cho con là lắng nghe im lặng. Làm sao con nghe được im lặng? Bằng cách lấy chú tâm ra khỏi tiếng động. Khi nào con còn tập trung vào tiếng động thì con không thể nghe thấy im lặng. Đâu là yếu tố hàng đầu lôi kéo con tập trung vào tiếng động? Đó là sự tin tưởng rằng con cần phải xét đoán xem tiếng động nào là tốt hay xấu, tiếng động nào là phải hay trái. Nhưng đến mức này, con sẽ nhận ra là sự phán xét một ý tưởng nào, một hiện tượng nào là đúng hay sai, không còn quan trọng nữa. Quan trọng hơn là chiêm nghiệm được sự im lặng, tâm Ki-tô. Một khi con bắt đầu chiêm nghiệm im lặng đó – mà đối với hầu hết mọi người sẽ không xảy ra thường xuyên trước khi con hóa giải được ngã gốc, và tuy nhiều người thoáng nghe được im lặng trước khi họ hóa giải ngã gốc, họ không có khả năng giữ vững được lâu – và sau khi con hóa giải ngã gốc, con sẽ chứng nghiệm im lặng đó, và bỗng nhiên nó trở thành điều quan trọng nhất, quan trọng hơn mọi sự xét đoán là ai sẽ là tổng thống hay đủ mọi chuyện khác mà người đời thường đem ra xét đoán.   

Và đây là lúc con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn tất cả những loại quan điểm vỏ ngoài. Như ta đã trình bày, có thể có hai học trò của chân sư đều tin rằng mình có một khả năng phân biện Ki-tô nào đó, và một người thì muốn Trump làm tổng thống và người kia ủng hộ một người khác làm tổng thống. Nhưng nếu cả hai bước lên một tầng cao hơn của tâm Ki-tô, họ sẽ bắt đầu thấy ai làm tổng thống không còn quan trọng gì nữa. Có nhiều thứ khác quan trọng hơn. Chẳng hạn, một điều quan trọng hơn là nếu họ đạt tới một sự hợp nhất nào đó nơi họ không còn bị ngăn cách bởi vấn đề ai sẽ làm tổng thống. Đây là một ví dụ hành giả có thể khắc phục cái ngã chỉ muốn phê phán tất cả. Đây là cách duy nhất cho con hay bất cứ ai kiến tạo được một cộng đồng mà nhiều người tâm linh vẫn mơ ước, một cộng đồng dựa trên tình thương, nhân ái và tương trợ.

Làm sao một cộng đồng có thể tương trợ nếu ai ai cũng luôn phê phán nhau? Làm thế nào có thể ngừng phê phán nhau nếu không ai chịu nhìn vào chính mình và nhìn vào cái ngã đang khiến mình phê phán mọi thứ, kể cả chính mình? Con phải đương đầu với ngã này, con phải nhận ra rằng không phải là chuyện đạt được khả năng phê phán tuyệt hảo, mà là chuyện để cho ngã chết đi hầu sánh bước với Ki-tô bước vào trong im lặng. Con muốn gì? Con muốn quả vị Ki-tô hay muốn sự phán xét của con người? Ta đã đặt trước mặt con sự sống và sự chết. Con hãy chọn sự sống nếu con muốn bước tiếp với ta. Còn không thì ta sẽ phải bỏ con lại đằng sau, và con có thể đi theo bất cứ đường nào mà con định ra dựa trên cái ngã phán xét đúng hay sai, Ki-tô hay phản-Ki-tô. Cái ngã này sẽ phê phán bất cứ gì đứng ra chất vấn thẩm quyền của ngã.

Con hãy chân thật với chính mình. Ta đã có nói, con tự nhận là học trò của chân sư, con đã bỏ thời gian học hỏi giáo lý của chân sư. Con thực sự muốn gì? Con muốn tinh tấn hay muốn bào chữa cho cái ngã không bao giờ vào được Nước Trời? Cái ngã xét đoán sẽ xét đoán bất kỳ giáo lý nào đứng ra tra vấn nó, kể cả giáo lý của chân sư, và nó sẽ xét định rằng giáo lý này không phải là của Ki-tô.

Các chân sư đã từng thấy những nhóm người đã tự thuyết phục mình và thuyết phục cả người khác rằng sứ giả này hay sứ giả kia không còn là sứ giả nữa bởi vì các chân sư sẽ không bao giờ nói ra điều đó. Họ đã rời bỏ tổ chức này hay tổ chức kia để đi theo đường riêng, tin chắc là họ biết rõ hơn cả vị sứ giả là sứ giả có nhận được thông điệp chính xác từ chân sư hay không. Nhưng đằng sau tất cả, họ nghĩ rằng – cái ngã xét đoán của họ nghĩ rằng – họ biết rõ hơn cả chân sư những gì chân sư muốn nói. Nhưng nếu lời ta nói phải phù hợp với sự xét đoán của ngã xét đoán, thì làm sao ta giúp được con thoát khỏi ngã tách biệt đây?    

Ngã nghĩ rằng nó có thể vào được Thiên đàng một khi nó biết phán xét tuyệt hảo, nhưng con yêu dấu, ta là một chân sư thăng thiên và ta biết ngã đó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng, và con cũng không vào được nếu con cứ bám víu vào nó. Cơ hội duy nhất cho ta giúp con thăng hoa là khiến con nhận ra ngã đó hầu con buông nó ra. Nhưng nếu con cho phép nó thuyết phục con rằng khi ta tra vấn nó thì không phải một chân sư đang nói chuyện với con, thì con tiêu rồi. Đối với ta, con đã tiêu mất. Ta không thể giúp con. Ta chỉ có thể tôn trọng quyền tự quyết của con và nói rằng, một lần nữa hành giả này đã chọn con đường tay trái tôn vinh ngã thay vì để cho ngã chết đi mà đi theo Ki-tô. Đối với những ai trong số các con làm điều này trong kiếp này, ta có thể cam đoan rằng con đã làm chuyện đó trong nhiều kiếp đã qua. Con sẽ tiếp tục chọn lựa làm như thế đến bao giờ nữa đây, cứ theo ngã tách biệt mà không theo Ki-tô? Con sẽ cần tới bao nhiêu lần nữa để chiêm nghiệm chuyện này không thể thành được? Vì thế mà cuối cùng con sẽ phải trở lại cuộc đời này trong một kiếp đầu thai nữa và một kiếp nữa và một kiếp nữa, trong khi những ai chịu buông bỏ ngã xét đoán sẽ thăng hoa. 

Ta phải làm gì thêm nữa đây để xuyên thủng những lớp phòng thủ kiên cố mà ngã tách biệt đã xây đắp chung quanh cái Ta Biết của con? Và con cần gì thêm nữa đây? Con hãy suy ngẫm câu hỏi này. Đâu là những rào cản mà ngã tách biệt đã dựng lên hầu cái Ta Biết không thể nghe thấy ta, hầu con không có tai để mà nghe, không có mắt để mà nhìn, khiến con không thể chiêm nghiệm được cái vượt khỏi tầm của ngã là sự im lặng vượt khỏi mọi tiếng động? Có sự sống vượt khỏi tầm của sự chết. Đó là tâm Ki-tô vượt khỏi cái mà con nghĩ là tâm Ki-tô, cái tâm thức phản-Ki-tô, tâm thức của cái chết, tâm thức của Sa-tăng.

Hôm nay con hãy chọn, chọn đi theo Ki-tô hay phản-Ki-tô. Ta cho con tự do hoàn toàn bởi vì nay ta đã làm tất cả những gì ta có thể nghĩ được để giúp con chọn sự sống, và vì vậy ta sẽ buông bỏ, bởi vì là một chân sư thăng thiên thì ta không vướng mắc liệu ta có cứu vớt được con hay không. Nhưng tất nhiên, ta sẽ cương nghị và tung ra ngọn lửa để giúp đâm thủng những phòng thủ bao trùm quanh cái Ta Biết của con.

Các chân sư có dạy rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết. Thật vậy, nó đi song song với sự im lặng. Chứng nghiệm im lặng là chứng nghiệm tỉnh giác thuần khiết, là sự chứng nghiệm rằng con là cái gì nhiều hơn tất cả những cái ngã bên ngoài. Cho nên con có thể bỏ chúng lại mà sẽ không chết, con sẽ không biến mất bởi vì con là, cái Ta Biết là, sinh thể nguyên thủy đã giáng thế từ Thiên đàng – và ta nói gì nhỉ? – không một người nào có thể thăng lên trở lại Thiên đàng ngoại trừ đó là người đã giáng thế từ Thiên đàng.  

Cái Ta Biết đã đi xuống trong sự tỉnh giác thuần khiết mà không có bất kỳ ngã tách biệt nào, vậy thì chỉ có cái Ta Biết mới thăng lên trở lại, và làm thế nào nó thăng trở lại? Bằng cách để cho tất cả ngã tách biệt chết đi. Bằng cách buông bỏ chúng hết. Tất cả bọn chúng phải chết đi để con có được sự sống vĩnh hằng.   

TA LÀ con đường, sự thật và sự sống vì TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Các chân sư làm việc với con người ở mức trực giác

Hỏi: Con có một người bạn là học trò của chân sư, được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt. Đôi khi anh ấy nghe thấy giọng nói trong đầu mình. Trong phần lớn đời anh, anh không bị hiện tượng này. Chỉ từ khi quan tâm đến những vấn đề huyền bí, anh bị thu hút bởi ý tưởng rằng tâm con người giống như một chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được làn sóng của nhiều đài phát thanh, nhiều mức rung động hay tầng cõi khác nhau. Anh bị thu hút bởi ý tưởng anh có thể bắt liên lạc với những sinh thể phi vật chất.

Sau đó anh bắt đầu nghe thấy giọng nói trong đầu bảo anh phải làm gì. Đời anh xuống dốc từ dạo đó. Cho tới khi anh tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên và anh bắt đầu tập bài cầu nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael, anh cũng quyết định anh không muốn nghe thấy chúng nữa. Các giọng nói bặt hẳn, nhưng sau vài năm chúng lại trở lại. Con đoán là vì anh bắt đầu muốn giao tiếp với các chân sư, có thể vì anh cho rằng anh đã tiến đủ để nghe thấy chân sư.

Cá nhân con không nghĩ là anh đang giao tiếp với các chân sư đích thực, nhưng anh biết hơn con. Có thể đó chỉ là những lực tâm linh thấp kém mà anh đang liên lạc. Bạn con tin chắc là người ta có thể nghe được chân sư nói chuyện với mình y như giọng nói bình thường. Con không nghĩ như vậy, vì theo kinh nghiệm bản thân, con chỉ cảm được tình thương của chân sư trong tim con, đôi khi là sự thôi thúc nhè nhẹ chứ không bao giờ có giọng nói. Tất nhiên, kinh nghiệm của con rất hạn hẹp, Người ta có thể nào nghe thấy chân sư như giọng nói trong đầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Không thể quả quyết rằng không ai có thể nghe được các chân sư theo như lời con, “một giọng nói trong đầu”. Có một số trường hợp con có thể nhận được một lời cảnh báo mà con nghe thấy như một giọng nói trong đầu. Nhưng tất nhiên, đó không phải là cách giao tiếp thông thường của các chân sư. Đó chỉ xảy ra trong một số tình thế nhất định, thường là một tình thế căng thẳng khi người ta nhận được cảnh báo rõ ràng là đừng làm chuyện này, phải làm chuyện kia. Khi đó, họ có thể cảm nhận đó là giọng nói trong đầu. Điều đó có thể xảy ra như vậy, hoặc cũng có thể cái ta Ki-tô của họ đang phóng chiếu ra một ý tưởng mà tâm họ biến đổi thành một giọng nói nghe được bằng tai.     

Rõ ràng là chúng tôi, các chân sư, không nói qua giọng nói như vậy, và đó là lý do chúng tôi phải nói qua trung gian một sứ giả để biến thành giọng mà con có thể nghe thấy. Và chúng tôi không nói chuyện trong đầu mọi người bởi vì – trên căn bản – đó là một sự vi phạm quyền tự quyết ngay cả khi người đó muốn vậy. Chúng tôi làm việc với con người trên một mức độ trực giác hơn, vì như vậy mỗi người sẽ nhiều tự do hơn trong chọn lựa.   

Ngắn gọn, chúng tôi có thể nói như sau: “Nếu con nghe thấy một giọng nói trong đầu bảo con phải làm một điều gì đó – hay không làm một điều gì đó – và nếu đó không phải là một tình huống khủng hoảng cấp bách, thì giọng đó không đến từ các chân sư thăng thiên.” Chúng tôi không tìm cách thiết lập quan hệ với con người mà cứ luôn luôn bảo họ phải làm điều này hay không làm điều kia. Chắc chắn chúng tôi không muốn, đặc biệt là trong những tình huống thường nhật, bảo con phải sống cuộc đời của con như thế nào. Chúng tôi không bảo con đi ra cửa hàng mua cái này hay không mua cái kia, bởi vì đó là trách nhiệm của con lấy những quyết định đó.

Tất nhiên là có những người mong muốn – có thể là một mong muốn có vẻ vô hại – giao tiếp với những sinh thể ở những cõi cao hơn. Trên thế giới có rất, rất nhiều người đồng bóng cũng có mong muốn có vẻ vô hại là giao tiếp với những sinh thể cao hơn, đem lại một số giáo lý có khả năng giúp ích nhân loại. Tuy nhiên nếu con đi vào sâu hơn trong tâm lý, những người đó có mong muốn làm người đặc biệt, mong muốn làm được những điều mà người khác không thể làm, mong muốn được người khác khâm phục và ngưỡng mộ. Có thể họ không ý thức được điều đó nhưng dù sao, đó cũng là một mong muốn không trong sáng.   

Hiển nhiên là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, sẽ không bao giờ đáp lại mong muốn đó. Nhưng trong các cõi bản sắc thấp, lý trí và ngay cả tình cảm, sẽ có những sinh thể sẵn sàng đáp lại nguyện vọng này. Và các sinh thể này sẽ cho người ta loại giao tiếp mà người ta mong muốn, bởi vì nhờ vậy mà các sinh thể này mới có thể bòn rút năng lượng của con người. Và nếu một người – chẳng hạn một người đồng bóng – được nhiều người hưởng ứng thì người đó cũng sẽ có thể khai thác năng lượng của những kẻ theo mình.

Trong trường hợp mà con đề cập, con có trực giác đúng đắn. Và cũng vậy, điều này nói chung cũng đúng đắn đối với nhiều người khác bảo rằng họ có kiểu giao tiếp này. Kiểu đó không đến từ các chân sư thăng thiên, bất kể họ tin tưởng như thế nào.

Giáo lý Advaita

Hỏi: Giáo lý của Advaita ở phương Đông gần gũi như thế nào với giáo lý cuả các chân sư thăng thiên về cái Ta Biết? Liệu có vị thày nào của Advaita đã thăng thiên trong 200 năm qua?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Các giáo lý của Advaita rất gần với giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng, không những về cái Ta Biết mà về cả nhị nguyên, bất nhị cũng như tư duy cuồng đại. Các giáo lý này không hẳn là đặc thù và cũng không liên hệ đến một số điều kiện cụ thể trên địa cầu như giáo lý mà chúng tôi đang giảng dạy. Tuy nhiên, các giáo lý này ngay từ đầu đã nhận được linh hứng từ các chân sư thăng thiên, và trong 200 năm qua, một số vị thày của Advaita đã thăng thiên, kể cả vị sau cùng là Ramana Maharshi.

Sức lôi cuốn chân chính

Hỏi: Về sức lôi cuốn hay khả năng hấp dẫn, có những người có mãnh lực này ở nhiều mức độ khác nhau, và có những nhà lãnh đạo thì có dư thừa và nhờ vậy họ điều khiển được người khác. Trong đời sống hàng ngày, có người có rất nhiều bạn bè hay bạn tình, trong khi có người lại không làm bạn được với ai vì thiếu thu hút và hấp dẫn. Vậy từ góc độ tâm linh, thế nào là sức lôi cuốn? Một người có thể nào kiểm soát được đặc tính đó? Liệu đặc tính đó có thể ghi vào sứ vụ thiêng liêng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần phân biệt giữa sức lôi cuốn của một người kiểm soát, và sự lôi cuốn của một người chứng đạt tâm linh đã hóa giải được tâm lý của mình. Sẽ đến một điểm khi con đã bước trên đường tu tâm linh và giải quyết tâm lý mình, thì ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên bắt đầu tỏa rạng xuyên qua con, tạo cho con một lực lôi cuốn dưới mắt những ai hòa điệu được với ánh sáng đó.   

Nhưng đối với một người không hòa điệu với bất cứ gì, thì họ có thể gặp một người tiến hóa tâm linh, thậm chí một bậc thày tâm linh, mà vẫn không cảm nhận được điều gì đặc biệt. Như trong Kinh thánh con cũng thấy, có những người gặp ta cách đây 2000 năm mà không thấy gì đặc biệt nơi ta. Trong khi đó lại có những người gặp ta và cảm nhận được một hào quang ánh sáng tỏa ra mạnh hơn trung bình. Có thể nói đây là khía cạnh chân chính của sự lôi cuốn.

Ngược lại, khía cạnh kia là sức lôi cuốn của nhiều sa nhân, là cái mà người ta thường gọi là sức thu hút, sức quyến rũ. Đó là vì sa nhân đã tập được cách kiểm soát người khác bằng tâm lý. Con thấy một số sa nhân gần như có khả năng thôi miên người ta đi theo và phục tùng mình. Hitler đã làm được chuyện này ở một mức độ khá cao, Mao cũng vậy. Riêng Stalin thì không có sức lôi cuốn, cho nên ông đã phải dùng đến lòng sợ hãi để buộc ai nấy phải vâng lời mình, mặc đù một số người cũng bị choáng ngợp bởi cường độ năng lực mà ông đã xây đắp chung quanh ông.

Điểm này dẫn đến việc xem xét khía cạnh thứ ba của sức lôi cuốn: giản dị đó là lòng tôn sùng, sự thờ phượng và thần tượng hóa được xây dựng lần hồi chung quanh một người nào đó. Thời xưa chuyện này ít xảy ra hơn. Nhưng với sự ra đời của các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, nó xảy ra nhiều hơn hẳn ngày hôm nay. Con cứ lấy một ngôi sao điện ảnh đã đóng một số phim, đã đoạt giải Oscar, đã được báo chí và truyền thông nói đến rất nhiều, thì ai nấy sẽ dựng lên một lòng tôn sùng và xem người đó là vô cùng đặc biệt.   

Thậm chí, diễn viên đó có thể tin là mình đặc biệt thật và bắt đầu hành xử y như một người rất đặc biệt. Tuy nhiên, có những người đã gặp mặt một số diễn viên như vậy thì hiểu ra họ cũng chỉ là con người giống như bất cứ ai khác. Con thấy, tất nhiên, có những sa nhân có khả năng thôi miên người khác, và song song con cũng thấy những người tiến hóa tâm linh với sức lôi cuốn chân chính. Nhưng cả hai, nhà lãnh đạo sa ngã lẫn nhà lãnh đạo tâm linh, đều có thể trở thành đối tượng cho sự sùng bái của thế gian khi người ta phóng chiếu một số đức tính hoàn toàn không thực tế lên họ.

Trong hai tổ chức Summit Lighthouse và I Am Movement, chúng tôi đã chứng kiến sự tôn sùng thần tượng to lớn chung quanh các vị sứ giả. Ngay cả trong phong trào này, chúng tôi cũng thấy một số người tôn sùng sứ giả này mặc dù ông đã không khuyến khích sự thể đó, đã lên tiếng, và những ai đã gặp ông và làm việc với ông cũng biết rõ là không có lý do gì để tôn sùng như vậy. Ông không tự xưng là ông có gì đặc biệt, ông không xem là mình cao hơn người khác vì ông là một lãnh đạo-đầy tớ.   

Cách đây 2000 năm, ta cũng như vậy. Nhưng ngay từ thời đó cũng đã có một sự phóng chiếu sùng bái nào đó. Tuy vậy, đó vẫn không là gì so với sự sùng bái đã được phóng chiếu lên bản thân ta từ khi Giáo hội Công giáo được thành lập, khi ta được nâng lên ngôi vị một đấng siêu phàm ngang hàng với Thượng đế. 

Vậy con hỏi, liệu việc phát triển khả năng lôi cuốn có thể ghi vào sứ vụ thiêng liêng của con hay không? Tại sao con lại muốn phát triển khả năng lôi cuốn chứ nhỉ? Nói cách khác, nếu con là một học trò tâm linh, tại sao con lại muốn sức lôi cuốn của sa nhân để khuynh loát người khác? Điều mà con mong muốn có lẽ là phát triển một lực lôi cuốn tự nhiên xuất phát từ sự tinh tấn tâm linh và giải quyết tâm lý. Điều này chắc chắn có thể là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con, nhưng trọng tâm của sứ vụ không phải là khả năng lôi cuốn. Đó có thể là một phụ phẩm, chứ không phải là mục đích. Đó không phải là một mục đích mà con ấn định cho con.

Chắc chắn có những người tâm linh, kể cả học trò của chân sư thăng thiên, ấp ủ  những giấc mơ xa vời là mình sẽ phát triển khả năng lôi cuốn quần chúng hầu mình có thể thu hút người ta theo mình, giống như họ đã thấy một số lãnh đạo tâm linh từng làm. Có người còn mơ ước mình đạt được thiên khiếu của Tánh linh để người ta phải ngất xỉu mỗi khi mình vẫy tay hay bước vào phòng, và người ta sẽ thấy tận mắt một số biểu hiện rồi tin rằng mình nói gì hay làm gì cũng là dấu hiệu mình là người đặc biệt. Nhưng đó không phải là điều mà chúng tôi khuyến khích nơi các đệ tử. Đó không phải là điều chúng tôi khuyến khích nơi bất cứ ai, bởi vì sùng bái có ích lợi gì đâu?  

Điều mà chúng tôi mong muốn lập ra là một giáo lý và một phong trào đặt nền tảng trên ý tưởng rằng mọi người đều có tiềm năng tâm linh, mọi người đều có tiềm năng tự thăng vượt. Cho nên nếu con là một sứ giả trong một phong trào đích thực của chân sư thăng thiên, con không là một người đặc biệt, con không đứng riêng ra như một người đặc biệt. Con là một tấm gương mà người khác có thể noi theo. Có thể con đã bước xa hơn nhiều người khác trên đường tu, nhưng điều này không có nghĩa là họ không thể bước đi trên cùng con đường đó và đạt cùng mức thành đạt tâm linh như con. Có thể là họ sẽ không làm y hệt những gì con đã làm, chẳng hạn như làm sứ giả, nhưng có nhiều việc khác mà họ có thể làm trong khuôn khổ sứ vụ thiêng liêng của họ.

Cho nên, thật sự, mục tiêu của một sứ giả đích thực cho chân sư thăng thiên là nâng cao mọi người lên mức tâm thức cao nhất và giúp họ đạt được mức đó. Ngược lại, mục tiêu của một thày giả là chỉ khiến cho y tiếp tục là người đứng đầu. Y sẽ là người lãnh đạo và sẽ luôn luôn là một người đặc biệt. Nhưng mục tiêu của một người lãnh đạo-đầy tớ thì khác. Trên cơ bản, đó là khiến cho minh trở thành dư thừa khi không còn ai cần đến mình nữa.

Về việc chìa má bên kia

Hỏi: Chìa má bên kia? Làm thế nào con chìa được má bên kia khi con bị người ta tấn công bằng lời nói hay bị làm nhục? Có phải là con nên giữ im lặng và rút ra khỏi tình huống nếu có thể, và để mặc cho nó như vậy? Con sẽ không tự vệ chút nào bằng cách không đáp trả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn trong lịch sử, có lẽ có ít lời phát biểu nào của ta mà lại bị hiểu lầm, bị diễn giải sai lạc như câu nói về việc chìa má bên kia. Vấn đề đã được đặt ra bởi cả những người chọn làm theo lẫn những người cãi lại không nên làm theo, và trong cả hai phe, hầu hết đều cho rằng chìa má bên kia có nghĩa là con không làm gì hết, con thụ động, hay con rút lui khỏi tình huống. Ở một mức tâm thức nào đó, đây quả là một cách diễn giải hợp lý.

Hãy thử nói thế này. Con bị người ta tấn công bằng lời nói và người kia đang phóng tới con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Con ở một tầng tâm thức nào đó và con mang nhiều cái ngã tách biệt khác nhau. Có nghĩa là cách trả lời duy nhất mà con có thể đối với tình huống là gửi trả lại những gì người ta gửi cho con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc đối đáp, con sẽ phóng ra một lập luận có thể dẫn đến cả chuyện xô xát bằng tay chân. Cho nên từ một góc cạnh không muốn tạo nghiệp tiêu cực, tốt hơn là con nên rút lui khỏi tình huống thay vì leo thang. Ở tầng mức tâm thức này, đó có thể là một cách diễn giải hợp lý: Thà rút lui còn hơn là leo thang một tình thế chỉ có thể dẫn đến một phương trình mang nhiều năng lượng tiêu cực và nhiều nghiệp hơn.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn tất nhiên là trong tình thế đó, con nhìn vào bản thân mình, con nhìn vào các phản ứng của mình, và nếu con tìm thấy một phản ứng không an bình thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, xong con rút lui khỏi tình huống để làm việc với ngã tách biệt này. Nhưng một khi con đã làm việc với các ngã tách biệt và để chúng chết đi, con sẽ đạt tới điểm con có khả năng bị người khác tấn công bằng lời nói, bị họ hiếp đáp, mà vẫn không có phản ứng nào bên trong con. Tới điểm đó, con không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng, nhưng con lên tiếng từ sự an bình, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con chỉ đơn giản lên tiếng từ nhãn quan trung hòa đó, và chính điều này cho phép con lên tiếng một cách hoàn toán khác lạ.   

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không đáp trả theo cách họ chờ đợi con đáp trả. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, người ta thường tấn công người khác bằng lời nói hay bằng bất kỳ cách nào khác, và người ta chờ đời sẽ nhận được một phản ứng ngược lại. Điều này luôn luôn xảy ra, và con có thể thấy chuyện này trong lịch sử thế giới, chẳng hạn tại vùng Trung Đông khi một bên tấn công bên kia thì bên kia phản công lại, thế là bên đã khởi đánh cảm thấy mình thật có lý: “Thật là hữu lý chúng ta tấn công bọn chúng, vì sự phản công của chúng cho thấy chúng là loại người tàn bạo, cho nên chúng xứng đáng bị tấn công.” Đây là cách người đời đáp trả.

Cho nên khi có ai đó tấn công con bằng lời nói, họ chờ đợi là con sẽ cãi lại, con sẽ tự vệ, con sẽ tấn công ngược lại, và nếu con không làm vậy mà lại nói chuyện từ một nhãn quan trung hòa, thì đôi khi họ không biết phải làm gì. Trong một số trường hợp, có những người sẽ được biến đổi bởi cách cư xử của con và họ thay đổi cách cư xử của họ. Trong một số trường hợp khác, sẽ không có tác dụng gì trên họ và họ sẽ tiếp tục hung hãn. Nhưng trong trường hợp này, con trở thành dụng cụ cho sự phán xử của Ki-tô, tức là người kia bây giờ sẽ nhận được phán xử Ki-tô do cách hành xử hung hãn của họ.

Chúng ta có thể nói là nếu người kia không thay đổi khi con đã lên tiếng từ trạng thái an bình và nhãn quan trung hòa, thì con không cần tiếp tục cho phép họ tấn công hay hiếp đáp con nữa. Sau đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên phát biểu một cách thật rõ ràng và bình tĩnh cái nhìn của con về cách hành xử của họ, rằng con không chấp nhận cách hành xử đó, con sẽ không cho phép mình phải chịu đựng nó, và do đó con sẽ rút lui nếu họ cứ tiếp tục. Đây chính là ý nghĩa của việc chìa má bên kia.

Nó có nghĩa là thay vì phản ứng lại với tâm thức phàm phu, với ngã tách biệt, con hành động với tâm thức Ki-tô từ tầm nhìn của Ki-tô. Cho dù con có rút lui khỏi một tình thế hay trở nên thụ động trong tình thế đó và người ta tiếp tục tấn công con – và điều này cũng có thể đem lại phán xử Ki-tô – nhưng con đem lại phán xử này từ một tầng cao hơn vì con đến từ trạng thái an bình.

Đưa má bên kia

Hỏi: Đưa má bên kia? Làm thế nào con đưa má bên kia ra trong một tình huống con bị người ta tấn công bằng lời nói hay đối xử vô lễ? Có phải đó là giữ im lặng trong hoàn cảnh đó và rút lui nếu có thể, và cứ để yên như vậy? Khi con không đáp trả lại thì con không tự bênh vực mình được chút nào.



Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Khi còn nhìn ngược dòng lịch sử, có lẽ ít lời dạy nào của ta đã bị hiểu lầm và bị diễn giải lầm như câu nói về “đưa má bên kia”. Câu hỏi đã được đặt ra bởi những người đã cố làm theo lẫn những người cho là họ không nên làm theo, và ở cả hai bên cuộc tranh luận, hầu hết ai ai cũng cho rằng việc đưa má bên kia có nghĩa là mình không làm gì cả, là mình thụ động, hay mình rút lui khỏi tình thế. Ở một mức tâm thức nào đó, cách diễn giải này quả là hữu lý.

Hãy thử nhìn thế này, con đang bị người ta tấn công qua lời nói và người kia phóng về phía con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Giả thử con ở một mức tâm thức với đủ loại ngã tách biệt trong con, nghĩa là cách đáp ứng tình thế duy nhất của con là gửi trả ngược về người kia những gì họ phóng tới con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc tranh cãi, con sẽ gây thêm tranh cãi thậm chí có thể dẫn đến xô xát tay chân. Cho nên đứng từ góc cạnh không muốn tạo nghiệp quả tiêu cực, sẽ tốt hơn nếu con rút lui khỏi tình thế thay vì leo thang. Ở một mức tâm thức nào đó, cách cư xử như vậy có thể là một cách diễn giải hữu lý – tốt hơn là con nên rút lui thay vì leo thang một tình huống chỉ có thể dẫn đến một phương trình với càng ngày càng nhiều năng lượng và nghiệp quả tiêu cực.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn trong một tình huống như vậy tất nhiên là con hãy tự xem xét mình, xem xét cách phản ứng của mình, và nếu con thấy mình đang có một phản ứng không bình an thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, cho nên con rút lui khỏi tình huống để làm việc trên ngã tách biệt đó. Nhưng sau khi con đã làm việc trên ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con đạt tới điểm là tuy con bị người ta tấn công qua lời nói và bị xỉ vả, con vẫn không có phản ứng nào trong con, và ở điểm đó con sẽ không nên giữ im lặng, con không nên rút lui mà con nên lên tiếng. Nhưng con lên tiếng từ sự bình an nội tâm của con, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con sẽ chỉ đơn giản nói lên từ một nhãn quan trung hòa, và chính điều này sẽ cho phép con lên tiếng một cách hoàn toàn khác.

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không phản hồi lại theo cách họ chờ đợi. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, khi người ta tấn công ai đó dù bằng lời nói hay cách nào khác, người ta thường chờ đợi một sự phản ứng nào đó. Và điều xảy ra – và con có thể thấy được điều này điễn ra trong lịch sử thế giới, như tại vùng Trung đông chẳng hạn – là một phe tấn công phe kia, rồi phe kia tấn công lại, thế là giờ đây phe đầu tiên cảm thấy là mình đã rất chính đáng: “Việc chúng tôi tấn công họ là chuyện chính đáng bởi vì phản ứng của họ cho thấy họ là những kẻ bạo lực hung hãn, và do đó họ xứng đáng bị chúng tôi tấn công”. Đây là cách người ta thường phản ứng.

Do đó khi có ai xỉ vả con, họ chờ đợi là con sẽ phản bác lại, con sẽ tự bênh vực, con sẽ buộc tội ngược trở lại, và nếu con không làm vậy mà lại lên tiếng từ một góc độ trung hòa, thì người kia có thể được biến đổi và họ thay đổi cách cư xử của họ.

Trong một số trường hợp khác, cư xử của con sẽ không ảnh hưởng được họ, và họ tiếp tục hung hãn. Trong trường hợp này, con trở thành công cụ cho sự phán xử của Ki-tô, và bây giờ họ sẽ nhận được phán xử của Ki-tô về hành vi hung hãn của họ.

Có thể nói là nếu người kia không được biến đổi do con đã lên tiếng từ một nội tâm an bình và một nhãn quan trung hòa, thì con không cần phải tiếp tục cho phép họ miệt thị hay tấn công con nữa. Khi đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên nói cho thật rõ và thật bình tĩnh những gì con nghĩ về cách cư xử của họ, rằng con không chấp nhận cách cư xử đó, rằng con sẽ không chịu đựng chuyện đó, và vì vậy con sẽ rút về nếu họ cứ tiếp tục như vậy. Đó là ý nghĩa việc chìa má bên kia.

Và ý nghĩa đích thực là thay vì đáp trả lại trong tâm thức phàm phu qua ngã tách biệt, con hành động trong tâm thức Ki-tô từ nhãn quan Ki-tô. Cho dù con có thể rút lui khỏi tình thế hay con trở nên thụ động và người ta tiếp tục công hãm con, điều này vẫn có thể đem lại phán xử của Ki-tô, và do con trụ vững trong tâm an bình, con đem lại sự phán xử đó ở một mức cao hơn hẳn.

Làm thế nào vượt qua khó khăn hòa điệu với chân sư

Hỏi: Con nhận thấy là khi con cố hòa điệu trực tiếp với một vị chân sư đặc thù, điều này đôi khi rất khó khăn. Chẳng hạn, kỹ thuật do thày Guru Ma đưa ra để hòa điệu với thày rất hữu ích, là hình dung ra một cánh đồng hoa cúc bất tận xong tập trung vào điểm vô tận. Xin các thày vui lòng khai triển đề tài này về những khó khăn hòa điệu tâm mình với các chân sư, và liệu có những kỹ thuật nào để việc đó dễ dàng hơn?


Kim Michaels: Đúng vậy, lời dạy đó được đưa ra trong cuốn sách “Don’t drink your own Kool Aid”. Nếu tôi nhớ không lầm, lời dạy mà ông đề cập về hoa cúc, đó là kỹ thuật đặc thù của thày Guru Ma.

Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Trước hết, đây là câu trả lời “mẫu” cho câu hỏi này. Hãy tìm xem có ngã tách biệt nào đang ngăn chặn sự hòa điệu của con, xong tìm cách khắc phục ngã tách biệt đó. Rất, rất nhiều người tâm linh – và điều này cũng liên hệ tới những gì chúng tôi vừa trình bày về tư duy thần tượng hóa con đường tâm linh, thần tượng hóa chân sư thăng thiên – nhiều người đã dựng các chân sư lên thành thần tượng và nghĩ sao chúng tôi quá toàn hảo. Chúng tôi như cao chót vót ở trên các con đến độ để các con hòa điệu được với chúng tôi, nó gần như đòi hỏi một nỗ lực siêu phàm hầu nâng tâm thức mình lên một mức tối thượng.

Nhưng như ta đã nói trong câu trả lời về quả vị Ki-tô, mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức đều có một cách biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ta là ai? Ta là vị đại diện của tâm thức Ki-tô cho trái đất. Có nghĩa là ta có khả năng tự biểu lộ ra cho mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng. Cho nên dù con có ở mức tâm thức nào đi nữa, ta cũng có thể – nếu con muốn dùng hình ảnh này – đi xuống tới mức của con, và do đó, con chỉ cần với lên tầng ở ngay trên con để nối kết với ta. Không như là con phải với lên nhiều tầng cao hơn, mà con chỉ cần vượt lên khỏi mức hiện thời của con thì con sẽ liên lạc được với ta. Và điều này, con đầy đủ khả năng làm được.

Câu hỏi đặt ra là liệu con có một cái ngã tách biệt đang ngăn chặn con không? Có thể đó là cái ngã tách biệt cho rằng con phải nâng cao tâm thức lên rất nhiều, nhưng cũng có thể là một ngã tách biệt nào khác liên quan đến cách con nhìn chân sư thăng thiên hay một vị chân sư cụ thể nào đó. Cũng có thể là một ngã tách biệt không muốn con nối kết, vì nó lo sợ chân sư sẽ phơi bày ra một khía cạnh của tự ngã của con. Trong một tổ chức trước của chân sư thăng thiên, biết bao nhiêu người đã sợ hãi “kẻ ngụ trên ngưỡng cửa” của mình bị vạch trần vì họ tưởng đó là điều mà các chân sư luôn luôn làm. Nhưng đó không phải là điều chúng tôi làm luôn luôn. Chúng tôi tỏ lộ qua rất nhiều cách khác nhau cho nhiều người khác nhau, tùy theo cách nào sẽ giúp người đó tăng trưởng lên mức tâm thức kế tiếp.

Chúng tôi không bao giờ tìm cách trừng phạt con. Chúng tôi không bao giờ tìm cách khiến con hổ thẹn. Chúng tôi không bao giờ muốn con cảm thấy mình tắc trách. Chúng tôi chỉ muốn giúp con tiến lên mức kế tiếp. Cho nên ta xin nói, con hãy xem xét mối quan hệ của con với các chân sư, xem xét cách con nhìn các chân sư và đặc biệt cách con nhìn chính con trong quan hệ với chân sư. Hãy nhìn xem con có cảm thấy miễn cưỡng điều gì không, có cảm thấy mình bất xứng, rồi con hãy làm việc trên cái ngã tách biệt đó, và mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn cho con.

Ngoài ra còn có một loại ngã tách biệt khác mà nhiều người mắc phải liên quan đến các sinh thể tâm linh. Và đây là toàn bộ cái tâm thức đã được nhiều tôn giáo dựng lên, cho rằng bất kỳ sinh thể tâm linh nào, bất kỳ vị thần nào, cũng đều phải là phiên bản của ông già Nô-en – hay nói cách khác, là một vị Thượng đế có khả năng thỏa nguyện mọi điều ước. Đây là Thượng đế mà nhiều người hoàn toàn phớt lờ trong đời sống hàng ngày, nhưng khi họ gặp phải vấn đề thì bỗng nhiên, đó là Thượng đế mà họ sẽ cầu nguyện, hay họ cầu nguyện đức Mẹ Mary, hay họ đi lễ và thắp nến ở nhà thờ. Và giờ đây họ cho rằng Mẹ Mary sẽ giải quyết vấn đề đó cho họ như trong phép lạ, để sau đó họ có thể phớt lờ tiếp. Đây không phải là cách hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Nếu con mang loại ngã tách biệt này, hay có lẽ đã lớn lên trong một môi trường như thế, thì đây cũng là một điều mà con phải cải sửa.    

Rồi đến lúc con phải tự hỏi: “Tại sao tôi lại cố hòa điệu với chân sư? Ý định của tôi là gì? Tôi muốn đạt được điều gì?” Và ở đây con có thể học từ những gì vị sứ giả này đã nói về bản thân khi ông nhận các bài truyền đọc từ chân sư. Ông có nói mấy lần là để nhận được bài truyền đọc, ông bước vào một trạng thái trung hòa. Ông không có ý định muốn chúng tôi làm gì hay nói gì đặc biệt. Ông không chờ đợi là chúng tôi sẽ làm bất cứ gì cho ông, ca ngợi ông, tâng bốc ông, hay bất cứ gì khác. Ông chỉ bước vào tâm trung hòa. Nếu con thực sự muốn hòa điệu với một chân sư thăng thiên, con cần làm việc trên ý định của con. Con đang cố đạt được gì đây?

Có thể có một ngã tách biệt muốn con được thêm vị thế, như được chân sư vỗ vai nếu chúng tôi hiện ra cho con hay nếu con nối kết được với chúng tôi. Con có thể dùng chuyện đó để khoe khoang với người khác. Chúng tôi đã chứng kiến bao học trò của chân sư làm chuyện này rất nhiều lần. Nó có thể cho con một cảm giác quan trọng, rằng con quan trọng hơn những người chưa bao giờ có được trải nghiệm nào với chân sư.

Nếu con có những loại ý định đó, nó sẽ ngăn chặn con trải nghiệm sự hiện diện của chúng tôi, vì nếu chúng tôi cho con trải nghiệm đó thì hóa ra nó chỉ củng cố cho ngã tách biệt, có phải vậy không? Tất nhiên cũng có những học trò mang ý định đó và cảm thấy là mình đã có một trải nghiệm với chân sư, nhưng kỳ thực trải nghiệm của họ là với những kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá. Bởi vì nếu con có bất kỳ ý định kiêu hãnh nào, con sẽ không thể nối kết được với chúng tôi, vì chúng tôi sẽ cản trở sự phát triển của con nếu chúng tôi cho con một trải nghiệm về sự hiện diện của chúng tôi. Đã có những lần chúng tôi trực tiếp rút lui khỏi một đệ tử vì đó là cách duy nhất để giúp cho đệ tử đó tăng trưởng. Cho nên đây cũng là một điều mà con có thể xem xét. Nhưng nếu con có thể đạt tới điểm con không còn muốn chúng tôi làm bất cứ điều gì, không muốn chúng tôi trả lời một câu hỏi nào, thì con có thể trung hòa.  

Ý tưởng muốn chúng tôi trả lời một câu hỏi cá nhân cho con, đặc biệt là muốn chúng tôi bảo con phải làm gì trong một tình huống nào đó, cũng là một điều thường khi sẽ chặn đứng sự hòa điệu của con. Không phải là chúng tôi không sẵn lòng giúp con trong một số hoàn cảnh, nhưng trong nhiều trường hợp, chúng tôi không muốn bảo con phải làm gì bởi vì đó chính là trách nhiệm của con phải quyết định lấy.

Đó là điều mà vị sứ giả này cũng đã học được trong những bước đầu trên đường tu, khi ông nhận ra là có những tình huống trong đời ông mà ông có trách nhiệm phải tự lấy quyết định. Chúng tôi sẽ không bảo con phải làm gì. Chúng tôi có thể cho con một khung tham chiếu, chỉ ra cho con một cách nhìn khác về tình huống. Nhưng chúng tôi chỉ có thể làm vậy khi con ở trong một trạng thái tâm trung hòa.

Cho nên một lần nữa con hãy nhìn đây, hãy khắc phục cái ngã đang muốn con được chỉ bảo mình phải làm gì, thường thường là vì nó sợ lầm lỗi. Vậy con sẽ nghĩ gì nếu một chân sư hiện ra trước mắt con và bảo con làm điều gì đó, chẳng hạn rút ra một con dao và cứa cổ đứa con của mình như đã xảy ra cho Abraham? Và cho dù con có làm gì thì con cũng sẽ không có lỗi vì chuyện đó là do một sinh thể tâm linh? Nếu có một bài học trong câu chuyện của Abraham, thì bài học đó đã không được Kinh thánh thuật lại chính xác, bởi vì không phải Thượng đế đã ra lệnh cho ông làm vậy, mà là một kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá đã bảo ông giết con ông. Và khi ông không nghe theo, đó chính là vì cái ta Ki-tô của ông hay Hiện diện TA LÀ của ông đã khuyên ông đừng làm theo. Nhưng ông đã chỉ có thể nghe được lời khuyên đó là vì ông sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài lệnh ban đầu.

Cho nên một lần nữa, nếu con muốn nghe thấy một giọng nói ầm ầm từ trên trời bảo con phải làm gì vì con sợ lầm lỗi, thì chúng tôi không thể hiện ra cho con, vì làm như vậy sẽ chỉ tăng cường cái tâm thức đó mà thôi. Cho nên nếu con đạt tới điểm con có thể nói thật giản dị là con muốn trải nghiệm sự hiện diện của một chân sư thăng thiên, hay có lẽ một chân sư đặc thù nào đó, thì con hãy đọc bài chú cho vị chân sư đó. Nhưng ngay sau khi con đọc xong, con hãy bước vào tâm trung hòa, nằm xuống, nhắm mắt lại, thư giãn ra và trung hòa – một trạng thái tâm trung hòa. Con càng trung hòa bao nhiêu thì xác suất sẽ càng lớn để con trải nghiệm một cái gì đó vượt khỏi mức tâm thức hiện thời của con.

Đó sẽ không phải là sự thị hiện tối hậu của vị chân sư đó. Đó sẽ là trải nghiệm mà con có khả năng chịu được ở mức tâm thức của con. Chúng tôi không thị hiện trong trải nghiệm tối hậu vì con người sẽ không chịu nổi. Nếu ta thị hiện trọn vẹn sự Hiện diện của ta ở đây ngay bây giờ, tất cả các luân xa của con sẽ thiêu cháy, kể cả luân xa của vị sứ giả này. Chúng tôi luôn luôn giảm bớt Hiện diện của mình xuống một mức mà con người có thể chịu được. Và đây là thêm một cạm bẫy nữa cho những ai mong muốn trải nghiệm tâm linh – nếu con luôn tìm cầu một trải nghiệm tột đỉnh, một trải nghiệm tối hậu nào đó, thì đó cũng là một điều sẽ ngăn cản con, và ngăn chặn chúng tôi thị hiện cho con. Không hẳn là nó ngăn chặn chúng tôi thị hiện, mà nó ngăn chặn con nhận ra là chúng tôi đang ở ngay đây, vì con không thể cảm thấy Hiện diện của chúng tôi khi con đang tìm cầu một cái gì khác. Cho nên nếu mọi chuyện chưa thành công, con hãy bước vào trung hòa, con hãy trung hòa. Và con sẽ chiêm nghiệm được một cái gì vượt khỏi mức tâm thức hiện thời của con.

Phí phạm thời gian trên đường tu tâm linh

Hỏi: Trong một kiếp sống nào đó, tại sao nhiều đệ tử phải mất quá nhiều thời gian để tìm thấy các chân sư thăng thiên? Rồi một khi chúng con tìm được các thày, tại sao lại khó khăn và mất nhiều thì giờ đến vậy để phát hiện và kích hoạt Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Tại sao mất nhiều thời gian như thế? Tại sao quá nhiều thời gian bị phí phạm qua cách đó trong một kiếp người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C, Hoa kỳ, năm 2019. Đăng ngày 9/12/2019.

Cách thực sự để nhìn vấn đề này là không có thời gian nào bị đánh mất. Con phải kinh qua một số trải nghiệm trước khi con sẵn sàng tìm ra giáo lý trong tâm thức vỏ ngoài của con. Cách nhìn thực tế là con nói: “Tôi đã cần đến những trải nghiệm mà tôi đã có trước khi tôi tìm thấy các lời dạy, đó là để tôi mở tâm ra cho việc tìm thấy lời dạy.” Đây là cách tiếp cận thực tiễn.  

Bây giờ nếu con đi trở ngược lại trước thời internet, thì từ một góc nhìn thực tế, việc tìm kiếm giáo lý của chân sư thăng thiên từng khó khăn hơn rất nhiều. Vào thời đó, việc tìm kiếm có thể tốn nhiều thời gian hơn đến độ con có thể đã sẵn sàng phát hiện giáo lý nhưng con vẫn không tìm thấy giáo lý trong cõi vật lý. Thời nay với mạng internet, chuyện này ít là vấn đề hơn nhưng tất nhiên vẫn có thể xảy ra. Nhưng nói chung, con vẫn cần nói: “Tôi đã cần đến trải nghiệm đó để tôi có thể sẵn sàng, cho nên tôi sẽ không lo lắng là mình đã phí phạm thời gian hay không.”

Giờ đây con đã tìm ra giáo lý, một lần nữa con lại cần nhận ra là không có thời gian bị lãng phí ở đây. Việc phát hiện giáo lý chỉ là bước đầu của một tiến trình rất dài. Con cần thời gian để thể nhập các lời dạy, để chữa lành bốn thể phàm của con, để khắc phục mọi ngã tách biệt, để thanh lọc các luân xa và bao nhiêu việc nữa. Thẳng thắn mà nói, khi con tìm ra giáo lý, con đã hoàn thành một yếu tố quan trọng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con rồi. Rất có thể là những gì con từng làm trước khi con tìm ra giáo lý cũng nằm trong Sứ vụ của con.

Con không thể giản dị bảo rằng chỉ khi nào con nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng của con trong ý thức thì con mới bắt đầu thực hiện Sứ vụ. Con đã bắt đầu từ tuổi thơ ấu rồi, vì con mang sẵn một cảm nhận nội tâm về Sứ vụ của con gồm có những gì, cho dù con không nhận biết ý thức hay con không thể diễn tả bằng lời nói.

Đa số những sự kiện xảy ra cho con trong kiếp này là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì Sứ vụ của con không chỉ là những gì con phải làm, mà còn là những trải nghiệm mà con có, cũng như bằng cách nào các trải nghiệm đó sẽ giúp con tăng triển. Điều quan trọng là con nên tránh bất kỳ cảm giác thất vọng nào là con đã tốn quá nhiều thời gian cho nên bây giờ con bị chậm trễ. Bởi vì cảm giác này thường khiến cho người ta rơi vào phản ứng mất cân bằng – mà sứ giả này đã mô tả – là con trở nên quá háo hức giành lại thời gian đã mất, con cố đền bù, thế là bỗng nhiên con phải đi cứu cả thế giới hay tự cứu chính mình trong vòng năm phút. Chuyện nó không xảy ra như vậy. Con vẫn cần kinh qua một tiến trình, và một phần của tiến trình này là nếm mùi một số trải nghiệm nào đó.

Các thày đã cố nói điều này nhiều lần: Không thể có chuyện tạo ra một chương trình hay ban ra một kiến thức nhất định sẽ lập tức thay đổi một con người. Ngay cả nếu con tưởng tượng các chân sư thăng thiên có thể thiết lập một khóa tu vật lý ở đâu đó, và giả dụ ta là vị thày trong khóa tu đó, vẫn không thể có chuyện con chỉ cần bước vào lớp học và ta ngồi đó dạy học, ta trao cho con kiến thức cùng hiểu biết, rồi sau một thời gian con bỗng giác ngộ.

Bởi vì để có thể thể nhập hiểu biết đó, con sẽ cần đến một số trải nghiệm nhất định, và trải nghiệm này sẽ tốn thời gian, nó là một tiến trình. Để khắc phục những cái ngã, con cần đến một trải nghiệm sẽ giúp con nhìn thấy ngã và nhìn thấy các khuôn nếp phản ứng của mình. Đây chính là hai khía cạnh Alpha và Omega: con nhận được giáo lý, nhưng cũng cần có trải nghiệm.

Một lần nữa, tại sao con lại nghĩ con đã phí thời gian? Thay vào đó, điều xây dựng hơn là nói rằng: “Tất cả chỉ là một phần của những trải nghiệm mà tôi cần. Làm thế nào tôi có thể sử dụng các lời dạy này tốt hơn từ giờ trở đi?”

Câu hỏi về Nikola Tesla

Hỏi: Nhà khoa học Tesla có sẽ trở lại đầu thai trong Thời Hoàng kim?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Washington D.C., Hoa Kỳ năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Dòng sống đã đầu thai như Nikola Tesla đã tái đầu thai rồi đó, và một lần nữa là một nhà khoa học. Chắc chắn ta sẽ không tiết lộ vị ấy là ai. Nhưng theo một nghĩa nào đó có thể nói rằng câu hỏi thật vô nghĩa, vì tất nhiên Tesla đã không trở lại là Tesla. Khi con đã trải qua một kiếp sống, cho dù kiếp sống này có trải ra như thế nào, thì con học hỏi từ kiếp sống đó, con tăng triển từ kiếp sống đó. Và nếu con thật sự tăng triển – và Tesla là một trong những dòng sống đang tăng triển – thì con đâu có muốn lặp lại kiếp sống vừa qua của con. Con muốn thăng vượt nó, con muốn đi xa hơn.

Điều xảy ra là với một số nhân vật nổi danh như vậy, loài người trong hiện thân thường tạo dựng một loại hình ảnh biểu hiện cách họ nghĩ về người đó như thế nào. Trong hầu hết mọi trường hợp, hình ảnh này hoàn toàn xa lạ với con người thực của người đó. Thật ra họ đâu muốn Tesla trở về mà họ muốn hình ảnh của Tesla trở về, để Tesla làm tiếp những gì hình ảnh này sẽ làm nếu như kiếp sống trước của ông không bị gián đoạn. Cách nhìn này thật không thực tiễn.

Con biết không, thật ra con cần để yên cho dòng sống các nhân vật nổi tiếng đó được tự do bước tới theo ý của họ trên hành trình tâm linh riêng của họ. Nhưng có những người đang đầu thai tạo ra một lực kéo mãnh liệt đến độ nó có thể tác động đến các dòng sống và ngăn trở dòng sống tiến bước.

Đối với riêng bản thân ta, chắc chắn đây đã có thể là một tình thế mà ta phải đương đầu nếu như ta nổi danh hơn trong kiếp chót của ta. Nhưng vì loài người chỉ thực sự biết đến ta hàng mấy thế kỷ sau, cho nên đó đã không hẳn là một vấn đề cho ta. Nhưng đúng là đã có những vị nổi danh với tiềm năng thăng thiên, nhưng do họ cảm thấy lực kéo mãnh liệt của những ai đã biết đến họ khi họ còn sinh tiền, cho nên họ không buông ra được để mà bước đi tiếp.

Là một sinh thể tâm linh nghĩa là gì?

Hỏi: Khi các chân sư thăng thiên nói chúng con là người tâm linh, các thày muốn nói chính xác là gì? Và tất cả mọi dòng sống đều cơ bản là Tánh linh. Làm thế nào các thày tìm được một người tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Qua từ “người tâm linh”, chúng tôi trước hết muốn nói là một người không tự đồng hóa mình với xác thân vật lý, với tâm vỏ ngoài hay với nhân cách. Con nhận ra con là nhiều hơn thân xác của con. Con sẽ không chết và biến mất và bị tiêu diệt khi bộ não chết. Con cũng là nhiều hơn nhân cách vỏ ngoài đã được nhào nặn khi con lớn lên trong một nền văn hoá và một hoàn cảnh gia đình đặc thù, và do đó con không bị hoàn toàn đồng hóa vào đó. Con càng vươn lên và vượt trên tâm thức vỏ ngoài đó thì con sẽ càng ít đồng hóa với xác thân và tâm vỏ ngoài, với văn hóa và nguồn gốc gia đình cùng đủ loại yếu tố khác.  

Và điều này có nghĩa, con bắt đầu nhận ra con là nhiều hơn cái mà hầu hết mọi người định nghĩa là một con người. Không phải con không là một con người nữa, con vẫn có một thể xác con người, nhưng con không còn hoàn toàn đồng hóa với một con người bị giới hạn trong cách định nghĩa của văn hóa con, cách định nghĩa rằng một con người chỉ có thể làm những điều này và không thể làm những điều kia. Con nhận ra là con có tiềm năng nâng cao tâm thức của con, chuyển vọt bản sắc của con hầu con không tự xem mình là một con người.

Sứ mạng của ta cách đây 2000 năm là gì? Điều ta đã cố giảng dạy là tất cả các con đều có tiềm năng Ki-tô. Tất cả các con đều có tiềm năng Ki-tô nhận ra là mình đến từ một nguồn cội cao hơn. Con không đến từ bụi và sẽ trở về với bụi. Và do đó con có tiềm năng nâng cao tâm thức, khoác lấy tâm Ki-tô và chuyển vọt ý thức bản sắc của mình. Và con đồng hóa, con tự nhận mình là một sinh thể tâm linh, là một đứa con của Thượng đế, là nhiều hơn cái định nghĩa hạn chế và hẹp hòi về con người.   

Tất nhiên, mọi thứ đều có thể bị tự ngã lạm dụng, và một số người tâm linh đã suốt nhiều năm tháng sử dụng lời dạy trên để tự đặt mình vào một địa vị tự hào tâm linh nơi họ cảm thấy vượt trội hơn người khác bởi vì họ mang danh là “người tâm linh”. Nhưng một lần nữa, không có gì mà các chân sư thốt ra mà không thể bị hiểu sai. Vậy đây là định nghĩa ngắn gọn của một sinh thể tâm linh: con không hoàn toàn tự đồng hóa là một con người. 

Truyền thống thần bí trong Giáo hội Chính thống và Giáo hội Công giáo

Hỏi: Cơ đốc giáo Chính thống (Giáo hội phương Đông) có khác biệt cơ bản với Công giáo (Giáo hội phương Tây hay Giáo hội La mã) là pháp tu thần bí gọi là Hesychasm (gốc chữ Hy lạp Hesychia có nghĩa là im lặng, là một pháp tu thần bí dựa trên một số kỹ thuật thiền định trong truyền thống Giáo hội phương Đông).

Khác với Công giáo đã đi theo con đường thiết lập thần học, Cơ đốc giáo Chính thống đã chọn con đường thần bí để trải nghiệm sự hợp nhất với Ki-tô qua kinh nghiệm tâm linh trực tiếp – là con đường tự thăng vượt của con người trong Ki-tô. Thày có nhận xét gì về góc nhìn so sánh giữa hai tôn giáo này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Ukraine năm 2019. Đăng ngày 2/11/2019.

Trong truyền thống Công giáo cũng có những khía cạnh thần bí. Ngay cả trong một số hội thánh Cơ đốc Tin lành, con cũng tìm thấy một số khía cạnh thần bí. Và dĩ nhiên, con có những nhà thần bí Cơ đốc trong truyền thống Công giáo đã đạt đến những mức tâm thức rất cao. Thần bí có thể được tìm thấy trong mọi tôn giáo nhưng không là chính mạch ở đâu cả.

Một điều con cần nhìn nhận ở đây là mặc dù có những điểm khác biệt giữa hai giáo hội Chính thống và Công giáo, Giáo hội Chính thống cũng vẫn bị tác động bởi cùng một tư duy đã lập ra Giáo hội Công giáo. Và con sẽ thấy là đã có một thời cả hai giáo hội đã phát triển song song với nhau theo cùng một cách thức trước khi phân ra làm hai.

Có rất nhiều khía cạnh tương đồng, hay cách suy nghĩ tương đồng, đã che khuất con đường thần bí đối với quần chúng nói chung. Luôn luôn đã có những người có khả năng nhìn vượt khỏi các giáo điều và các nghi lễ vỏ ngoài để tìm thấy con đường thần bí, tuy nhiên đối với quần chúng thì tất cả các giáo hội Cơ đốc đã che lấp thực tại mà ta giảng dạy cũng như thực tại của đường tu. Con có thể nói là các giáo hội thường thường đã được thiết lập để ngăn cản không cho quần chúng rộng lớn tìm thấy và bước đi trên con đường đích thực dẫn đến quả vị Ki-tô.

Đó chính là cách mà sa nhân đã định nghĩa các giáo hội đó. Nhưng sa nhân cũng biết là sẽ có một số người không xem đó là đủ, và họ sẽ tìm kiếm con đường thần bí. Cho nên điều mà sa nhân đã cố làm là cho phép những người như vậy bước đi trên con đường thần bí, nhưng họ vẫn phải nằm trong phạm vi của giáo hội vỏ ngoài, cho dù là Chính thống hay Công giáo. Đó là lý do con có khái niệm gọi là những nhà thần bí Cơ đốc.

Kỳ thực, nếu con đã là thần bí thì con là một sinh thể phổ quát. Con có khả năng bước vào truyền thống Cơ đốc hay truyền thống Ấn giáo hay truyền thống Phật giáo hay truyền thống Hồi giáo, mà vẫn thăng vượt được truyền thống đó. Con dựa vào nền tảng truyền thống đó mà vẫn bước đi trên con đường thần bí, nhưng con không thật sự là một nhà thần bí Cơ đốc hay thần bí Ấn giáo hay thần bí Phật giáo nữa. Bởi vì khi con càng bước xa hơn trên đường tâm linh, thì việc nhìn thấy tính phổ quát đằng sau mọi tôn giáo vỏ ngoài càng trở nên quan trọng hơn.

Một điều mà Giáo hội Công giáo, chẳng hạn, đã làm với một số những nhà thần bí đó là tâng họ lên thành bực thánh, qua đó giáo hội giành lấy quyền sở hữu họ và không để cho tính phổ quát của họ được tỏa sáng. Và trong nhiều trường hợp, các nhà thần bí không thể biểu hiện tính phổ quát này và cẫn coi mình là nhà thần bí Cơ đốc. Đây là điều mà chúng ta cần thăng vượt trong thời đại hôm nay. Chúng ta cần góp chung lại tất cả các nhà thần bí từ mọi nguồn gốc, và nhìn nhận rằng đằng sau tất cả những truyền thống vỏ ngoài đó, có một con đường phổ quát mà không một truyền thống nào có thể đóng khung hay sở hữu.

Chuyện này thật là giản dị. Ki-tô không hề cấp bằng sáng chế cho bất kỳ một tổ chức hay cá nhân nào trong thế giới con người.

Thời nay, tâm thức Ki-tô là sống xây dựng trong hoàn cảnh hàng ngày

Hỏi: Một khía cạnh của tâm thức Giê-su Ki-tô là làm phép lạ như biến nước thành rượu và đi bộ trên mặt nước. Tại sao thời nay không có ai làm những việc này? Chẳng phải đó là một khía cạnh quan trọng của tâm thức Ki-tô, là quyền năng của tâm trên vật chất hay sao?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Ta đã từng nói là cách đây 2000 năm tâm thức con người dày đặc hơn, cho nên mới có nhu cầu thực hiện những việc làm mà con gọi là phép lạ hầu đánh động sự chú ý của mọi người. Trong thời đại hôm nay, tâm thức đã cao hơn cho nên điều đó không còn cần thiết nữa. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thật sự không ưng thuận những cách biểu đạt đó nữa vì nó thường dẫn đến hiểu lầm. Thường khi nó khiến cho người ta sùng bái người có khả năng thực hiện “phép lạ”, và chính người đó thường bị rơi vào cảm tưởng mình là hơn người, hay bất cứ cảm giác nào khác. Ngoài ra cũng có một số pháp sư ma thuật có một khả năng nào đó sử dụng tâm để điều khiển vật chất – nếu con có thể gọi như vậy – nhưng họ lại dùng quyền năng này cho những mục tiêu vị kỷ.

Vì vậy ngày nay, các chân sư chủ trương một cách tiếp cận khác hẳn, qua đó việc thực hiện phép lạ không phải là trọng tâm. Kỳ thực, phép lạ mà chúng tôi mong muốn loài người thị hiện là sống một cuộc sống xây dựng trong hoàn cảnh hàng ngày của mình. Chúng tôi không tìm kiếm những việc làm phi thường, mà tìm kiếm những việc làm có vẻ bình dị nhưng lại được thực hiện với một tầm mức nhận biết phi thường. Ngày nay, chúng tôi không hề mong muốn giúp cho một ai đó thực hiện những loại phép lạ đó vì người đó sẽ được thần tượng hóa và sùng bái. Và chuyện này sẽ dẫn đến kết quả ngược lại những gì chúng tôi mong muốn, vì chúng tôi mong muốn khuyến khích cho thật thật nhiều người đạt được và biểu lộ được quả vị Ki-tô của mình. Đó là tại sao chúng tôi rất quan tâm khi có người sùng bài các vị thày tâm linh vì việc này thật không lành mạnh.

Làm thế nào nhận diện một thày giả

Hỏi: Liệu có sinh thể nào hiện đang giả mạo chính xác sự rung động của các chân sư thăng thiên hay không? Chẳng hạn như được mô tả trong sách “Những kiếp của tôi” khi Giê-su đã không nhận diện được người thày giả ở cõi bản sắc. Vậy làm thế nào phân biện và nhận ra họ thực sự là thày giả?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Vâng con yêu dấu, đúng là có khá nhiều sinh thể ở các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc đang tìm cách làm ra vẻ họ là chân sư thăng thiên hay họ tiến hoá cao hơn trình độ tiến hoá của họ. Làm thế nào để con phân biện? À, có một số chỉ dấu vỏ ngoài và ta đã có trao truyền một số lời dạy trên trang mạng này về cách nhận diện thày giả. Con có thể tìm kiếm một số chỉ dấu vỏ ngoài nhất định. Nếu họ cố tự đặt mình cao hơn mọi người khác, nếu họ cố thu hút những người sẽ theo họ một cách mù quáng và mù quáng vâng lời họ, thì đây là những dấu hiệu của một thày giả.

Nhưng sâu hơn bên trong, cách duy nhất thật sự để phơi bày sự thể này là như các thày đã đề cập nhiều lần, con phát triển khả năng trực giác của mình để con có thể đọc được độ rung động. Con có thể đạt tới điểm con có khả năng cầm lên một quyển sách trong tiệm sách, đọc một vài dòng hay một vài đoạn, và con có thể cảm nhận là sách này không dành cho con hay sách này không phải là một giáo lý cao. Nói cho cùng, đây là cách con có thể biết được. Tất nhiên, con cũng có thể nói là nếu con đã trải nghiệm sự rung động của một chân sư thăng thiên chân chính qua các bài truyền đọc của các thày hay các vị sứ giả khác nhau, thì trải nghiệm này cũng có thể cho con một khung tham chiếu.

Không dễ dàng mà có được khả năng phân biện vì như các thày có nói, con có quyền tự quyết chọn lựa, nhưng tầng tâm thức hiện thời của con giới hạn những chọn lựa mà con có thể nhìn thấy.

Cho nên con có thể nói là một thày giả luôn luôn có một hậu ý ẩn giấu, một thâm ý ích kỷ nào đó. Một chân sư thăng thiên không cần gì ở con. Các thày không có mong muốn thao túng con hay ràng buộc con với các thày hay với bất kỳ một sứ giả, một tổ chức nào, nhưng thày giả thì luôn luôn có một mong muốn ích kỷ; họ muốn một cái gì đó từ con. Có điều, nếu con có một cái ngã tách biệt mang một tính vị kỷ nào đó, thì con sẽ không có khả năng nhận diện tính này nơi người thày. Con sẽ không thể nhận diện là thày có một động lực ích kỷ nếu chính con chưa khắc phục được tính đó trong bản thân con, và đó là tại sao sự phân biện có thể khá khó khăn và tại sao nhiều đệ tử tâm linh với nhiều thiện ý đã bị thày giả lừa gạt suốt nhiều năm trời. Con có thể nói là thày giả có thể thao túng con là vì con mang một số điểm mù nhất định, và con có điểm mù là vì ở trong con có một cái ngã mà con chưa nhìn ra. Do đó con không thấy được đây là một mong muốn vị kỷ, và con cũng không thể nhận diện nét vị kỷ của người thày.

Nhưng dẫu sao, con có thể ngộ đạt rất nhiều bằng cách phát triển trực giác và tất nhiên làm việc trên các ngã tách biệt của mình, hầu con gia tăng sự phân biện. Và chắc chắn con có thể đạt tới điểm con chỉ cần nhìn thoáng qua hình chụp của một vị thày tâm linh đang hiện thân – nếu đó là một đạo sư đang hiện thân – và cảm nhận đó không phải là một vị thày chân chính hay chắc chắn không là vị thày thích hợp cho con. Con có thể biết được khi cầm lên một quyển sách hay đọc một điều gì đó trên internet.

Con yêu dấu, thật không khó lắm để phát triển khả năng cảm nhận một lời dạy xuất phát từ cõi lý trí vì lời dạy này thường vô cùng phức tạp, vô cùng rắc rối. Nói chung, một lời dạy như vậy nhằm tạo cảm tưởng cho người khác là nếu họ có thể hiểu được, hay ít ra nếu họ nghĩ là họ có thể hiểu được, thì điều này có nghĩa là họ thật cao cấp, họ cao cấp hơn người khác.

Cũng có thể có một số lời dạy vô cùng mập mờ, khiến con phải đọc câu văn tới mấy lần mà vẫn không chắc chắn ý tác giả muốn nói gì hay ý định của tác giả là gì. Những loại giáo lý như vậy thường hay thu hút người ta, vì khi giáo lý mập mờ thì nó cho phép tự ngã diễn giải theo bất cứ cách nào nó muốn. Khi đó, nhiều người sẽ có thể dùng giáo lý để chứng thực những gì họ muốn tin, và đây là tại sao một số sinh thể nơi cõi lý trí đưa ra những lời dạy thật tối nghĩa để ai nấy khó lòng hiểu được chính xác họ muốn nói gì.

Hiển nhiên, việc trao truyền một lời dạy tâm linh tự thân nó đã khó khăn vì việc truyền đạt sự nhận biết quả cầu của một chân sư thăng thiên qua ngôn từ đường thẳng thật là khó khăn. Đó là tại sao nếu con nhìn vào các lời dạy của chân sư thăng thiên qua thời gian, con có thể thấy là trong quá khứ, các thày đã mơ hồ, đã thiếu rõ ràng hơn. Nếu con xem các giáo lý trước đây, con sẽ khó lòng hơn hiểu được ý nghĩa một cách chính xác. Con sẽ thấy là ngày hôm nay, các thày đã cố gắng ngày càng trực tiếp hơn, ngày càng chính xác hơn, để ít ra con thấy rõ được điều các thày đang cố nói là gì, nhưng tất nhiên, các thày vẫn gặp phải sự giới hạn của ngôn từ.

Khi kundalini thức giấc tự phát

Hỏi: Thày Giê-su có dạy về con đường tuần tự nâng cao nhận biết, và thày cũng nói rằng tiến trình kundalini phải chậm và tuần tự. Khi kundalini thức dậy một cách tự phát, nó có thể gây ra nhiều triệu chứng nghiêm trọng. Tại sao có một số người trải nghiệm kundalini một cách tự phát khi họ chưa chuẩn bị và sẵn sàng? Các chân sư thăng thiên khuyến cáo họ làm gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Con yêu dấu, mặc dù đây có thể là chuyện bẻ cong ngôn từ, nhưng không có gì gọi là một sự thức dậy tự phát, theo nghĩa là mọi người đã từng sống qua nhiều kiếp đầu thai, và tuy con có thể không làm gì đặc biệt trong kiếp này để đánh thức nó dậy, nhưng chắc chắn con đã làm một điều gì đó trong tiền kiếp đưa con đến điểm con trải nghiệm một sự thức dậy trong kiếp này.

Tất nhiên là có những người đã từng có một trải nghiệm mà chúng ta có thể gọi là “thức dậy tự phát” – hay kundalini tự động khởi dậy – và trải nghiệm này đã khiến họ vô cùng lo lắng. Đâu là mục đích của trải nghiệm này? Trong một số trường hợp, chẳng có mục đích gì đặc biệt ngoài sự kiện là những người đó đã, trong một tiền kiếp, toan chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực khi họ sử dụng một loại phương pháp nào đó, hay thậm chí sử dụng cả ma thuật đen chẳng hạn, để cưỡng ép kundalini dâng lên hay để ép buộc sự tăng triển tâm linh của mình. Có nghĩa là trong kiếp trước, họ đã không có được sự đột phá mà họ mong muốn, và trong kiếp sau thì sự đột phá xảy ra cho dù họ đã quên mất mình làm gì trước đây.

Mục đích duy nhất của sự kiện này là họ cần trải nghiệm những gì có thể xảy ra khi họ chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực. Có thể họ không có được trải nghiệm đó trong tâm ý thức, nhưng ít ra sau kiếp đầu thai này, họ sẽ có thể làm việc với các vị hướng dẫn tâm linh của họ và họ suy ngẫm, rút tỉa bài học về trải nghiệm này.

Cũng có một số người đã cố gắng phát triển tâm linh trong một tiền kiếp và đạt đến một mức nào đó, rồi trong kiếp này họ quyết định sẽ đầu thai trong những hoàn cảnh hoàn toàn thiếu vắng yếu tố kích động sự phát triển tâm linh. Cho nên họ không sinh ra trong một môi trường tâm linh, họ không được tu học tâm linh, không nhận được bất kỳ hướng dẫn tâm linh nào, rồi đùng một cái, như thể một cách vô cớ, họ có một sự thức dậy tự phát hay một trải nghiệm tâm linh vô cùng mạnh mẽ. Giờ đây vấn đề là làm thế nào xử lý được tình trạng này. Trong trường hợp này, mục đích có thể là họ đã chọn làm như vậy vì họ muốn chứng tỏ là cho dù họ đã lớn lên trong một môi trường phi tâm linh, ho vẫn có khả năng xoay chuyển để trở thành một con người nhận thức tâm linh hơn.

Vị sứ giả này có biết đến một người phụ nữ tại Đan mạch lớn lên với cha mẹ hoàn toàn phủ nhận mọi con đường tâm linh, thậm chí còn có lối sống rất duy vật. Bà đã tự đào tạo thành một ký giả, viết nhiều bài từ một nhân sinh quan duy vật. Thế rồi một hôm khi đến thăm một nhà thờ ở Tây ban nha, bà bỗng chiêm nghiệm thấy được Giê-su – như thể bà nhận thức được chính ta đang đứng bên cạnh bà. Kinh nghiệm này xoay chuyển tâm thức bà một cách mãnh liệt đến độ bà bỏ ra nhiều năm trời để lãnh hội. Kỳ thực, bà có trải nghiệm kundalini thức dậy và điều này khiến bà rất bối rối. Bà nghĩ mình bị bệnh tâm thần, nhưng rốt cuộc bà viết một cuốn sách về kinh nghiệm này. Cho đến nay, cuốn sách đã tác động tích cực đến rất nhiều độc giả, khiến độc giả hiểu ra là thật sự người ta có thể lớn lên trong một nền văn hóa và một môi trường vô cùng duy vật, nhưng người ta vẫn có thể xoay chuyển để nhận thức tâm linh hơn. Đây có thể là trường hợp của một số người.  

Tất nhiên cũng có một số người chứng nghiệm kundalini thức dậy là vì trong sứ vụ thiêng liêng của họ có ghi là họ sẽ trở thành một vị thày tâm linh, cho nên con thấy có một số người đã viết sách, đã là thày tâm linh, và dưới mắt họ thì họ đã có một sự thức tỉnh tâm linh tự phát. Một lần nữa, đây lại là một sự hiểu lầm vì họ không ý thức được là trong những kiếp trước, chắc chắn họ đã làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức, dẫn họ tới điểm họ có khả năng “thức dậy tự phát”.

Trong một vài trường hợp, điều này có thể đem lại một hậu quả đáng tiếc là họ cho rằng thật sự họ không cần dạy cho đệ tử một con đường thức tỉnh tâm linh lần hồi, tuần tự từng bước một. Trên cơ bản, họ bảo con là con không thể làm bất cứ gì để thúc ép sự thức tỉnh tâm linh mà con chỉ cần ngồi chờ cho tới khi nó xảy đến. Hiển nhiên, nói như vậy sẽ không hữu ích lắm cho nhiều người, bởi vì nếu con không thức tỉnh tâm linh trong kiếp này thì không lẽ con cứ ngồi đó, hoàn toàn thoả mãn với tình trạng vô minh của mình và hy vọng rằng một ngày kia sự thức tỉnh sẽ ập tới?

Đa số những ai sẵn sàng tăng triển tâm linh sẽ cảm thấy là con đường tuần tự là con đường xây dựng hơn. Có một điểm vi tế ở đây, theo nghĩa là có một số vị thày tâm linh phủ nhận sự hiện hữu của một con đường tâm linh. Các vị thày đó nói rằng con không thể tạo ra một con đường máy móc sẽ dẫn con tới giác ngộ. Một số thày tâm linh đó là những sinh thể sa ngã chỉ đơn giản muốn ngăn cản không cho người ta cất bước trên đường tu. Nhưng một số vị thày đó không phải là sa nhân, và quả thực họ có lý từ một quan điểm nào đó.

Không có cách nào tạo ra một con đường máy móc để con – nếu con theo đúng một số bước chỉ dạy – sẽ được bảo đảm đạt đến thức tỉnh hay giác ngộ hay quả vị Ki-tô. Các chân sư thăng thiên đã nói nhiều lần đường tu không tự động, không máy móc. Tuy nhiên vẫn có khả năng tạo ra một con đường đưa con đến những tầng tâm thức cao hơn miễn là con không đi theo nó một cách máy móc, mà con nhận ra nhu cầu sử dụng và phát triển các khả năng trực giác của mình và nhìn xa hơn các giáo lý công truyền. Con không máy móc trong cách tu tập vỏ ngoài, mà trái lại con sẵn sàng mở tâm ra những chứng nghiệm tâm linh nhỏ hơn, lần hồi hơn, sẽ dẫn con đến những đột phá ngày càng lớn hơn.

Có một số người đã trải qua một chứng nghiệm thật dữ dội đưa đến một bước đột phá thật to lớn, nhưng đối với hầu hết mọi người, điều thực tiễn và xây dựng hơn hẳn là con có được rất nhiều những đột phá nho nhỏ, những chứng nghiệm “à ra thế” nho nhỏ, những trải nghiệm thần bí nho nhỏ sẽ lần lần dẫn con lên những tầng tâm thức ngày càng cao hơn.

Cũng có một số người khác đã phát triển tâm linh phần nào trong một tiền kiếp, nhưng khi bước vào kiếp này, họ lại phủ nhận khả năng tăng triển tâm linh. Cho nên con sẽ thấy một số người sống mấy chục năm trời trong sự phủ nhận tâm linh, rồi bỗng nhiên họ đột phá vì họ đã từng đạt đến mức này trong một tiên kiếp, và ngay cả sự phủ nhận cũng không đủ mạnh để trấn áp nó được. Mục đích ở đây, một lần nữa, có thể là để chứng tỏ là người ta vẫn có khả năng chuyển sang một nhận thức tâm linh hơn ngay cả khi người ta đã phủ nhận.

Điều quan trọng là con nhận ra đường tu không máy móc chút nào. Tuy nhiên điều cũng không kém quan trọng là con nhận ra đường tu có thật, và nếu con không tiếp cận nó một cách máy móc thì nó sẽ đem lại kết quả cho con.

Điều không xây dựng là con cứ ngồi đó mà chờ đơi một sự thức dậy tự phát, trong khi khắp bát cung vật lý đã có rất nhiều giáo lý và dụng cụ chỉ dẫn con tiến bước một cách tuần tự có hệ thống.

[Bài đọc thêm: Hiểu rõ năng lượng kundalini – một lời giải đáp của chân sư Giê-su]

Tiến hóa của một dòng sống sau khi đã theo sa nhân

Hỏi: Trong một bài truyền đọc của các chân sư thăng thiên có nói rằng nếu một người muốn đi theo sa nhân thì thể theo định luật tự quyết, họ sẽ phải theo sa nhân sau kiếp đầu thai. Con hiểu là vì lý do đó, nhiều dòng sống sẽ không có cơ hội tái đầu thai trên địa cầu. Vậy con xin hỏi về các dòng sống hiện đang đầu thai hay sẽ sinh ra trên địa cầu trong xác thân vật lý, phải chăng là họ đã tiến hóa nhiều hơn và họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời họ cũng như quốc gia của họ thay vì cứ đi theo sa nhân? Chẳng hạn, có thể nào một dòng sống đã lạm dụng quyền lực vào thời cai trị của Stalin, sẽ đi vào đầu thai với một ý muốn mãnh liệt chứng tỏ cho mọi người thấy rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ đem lại hòa bình và hạnh phúc?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 28/9/2019.

Không hoàn toàn là đúng khi con bảo rằng nếu một dòng sống quyết định đi theo sa nhân thì người đó không thể bước vào hiện thân trong kiếp kế tiếp. Đó là một vấn đề của từng cá nhân phải do Hội đồng Nhân quả quyết định. Cho nên điều có thể xảy ra là có những người đã từng đầu thai trước kia – chẳng hạn dưới thời chính quyền Stalin hay thời trị vì của Hitler – đang đầu thai ngày nay. Lẽ tự nhiên, một số những người đó vẫn ở trong một trạng thái tâm thức tương tự như trước, họ đã không tăng triển bao nhiêu giữa hai kiếp đầu thai, và do đó theo một cách nào đó, họ đang cố chứng minh tâm thức cũ của họ.

Có những ví dụ về các dòng sống đã không buông bỏ được niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản, và hoặc là họ đã tìm cách xây dựng lại chế độ đó, hoặc họ tìm cách chứng minh là nó chính đáng. Cũng có những dòng sống tìm cách chứng minh là không có điều gì xấu xa đã xảy ra trong quá khứ, rằng Stalin không đến nỗi tệ hại mà lại có ảnh hưởng tốt đẹp đến lịch sử nước Nga. Tất nhiên cũng có những dòng sống cho rằng sự tan rã của Liên Xô là tai họa địa chính trị to lớn nhất trong thế kỷ vừa qua, như Vladimir Purtin từng tuyên bố như vậy. Ông ta là ví dụ một người đã hiện thân trong một bối cảnh cộng sản trong tiền kiếp, và bây giờ ông tái đầu thai với niềm tin muốn dựng lại đế chế cũ.

Cũng có một số dòng sống như vậy đang đầu thai tại Trung quốc nơi cộng sản vẫn là chủ nghĩa nắm quyền, ít ra một cách chính thức. Con cũng có thể thấy những ví dụ, như chúng tôi đã có đề cập, một số người chủ mưu chính sách đàn áp người đạo Do thái dưới chế độ Quốc xã, hiện đang đầu thai tại Israel. Nói thật, một số những người đó đang hành xử đối với người Palestine y như họ đã từng hành xử với người đạo Do thái trong tiền kiếp của họ, chỉ khác một điều là lần này họ đầu thai làm người đạo Do thái.

Cho nên con thấy đó, vấn đề các dòng sống được trao cho một cơ hội mới như thế nào là một vấn đề vô cùng phức tạp. Do đó con không thể nói một cách chung chung là tất cả những dòng sống đang đầu thai hiện nay có một mức tâm thức cao hơn và họ sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân của họ. Điều chúng ta có thể nói được là hiện nay có nhiều dòng sống hơn đã đi vào hiện thân với trình độ tiến hóa cao hơn các thời kỳ trước. Nhưng điều này không có nghĩa là mọi người đang đầu thai đều ở một mức cao hơn.

Mặc cảm cứu tinh của các avatar

Hỏi: Trong quyển sách “Những kiếp của tôi” (My Lives), nhân vật chính kể rằng khi ông ta tham khảo các cố vấn tâm linh của ông về quyết định sẽ đến hành tinh địa cầu, sự suy nghĩ của ông phần nào không minh mẫn và điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình quyết định. Phần nào ông đã hình thành một mặc cảm rằng mình là cứu tinh. Con chỉ thắc mắc không biết tiến trình của Giê-su là thế nào khi thày tham khảo các cố vấn của thày để lấy quyết định tới địa cầu? Lúc đó thày có minh mẫn hơn nhân vật trong sách hay không, hay là thày cũng bị bối rối khi phải cân nhắc việc đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu? Ngoài ra, liệu Giê-su có tính viết một cuốn sách kể lại hành trình cư ngụ trên trái đất cùng những biến cố chính trong suốt các kiếp sống mà thày đã sống qua kể từ khi thày hiện thân lần đầu tiên cho tới khi thày thăng thiên?      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Điều ta muốn con rút tỉa từ cuốn sách “Những kiếp của tôi” và cũng là điều ta muốn nói ở đây, đó là: Hành tinh địa cầu là một phương tiện giáo dục. Có nghĩa là tất cả mọi người đã hiện thân vào cõi vật lý đã có nhu cầu học hỏi một điều gì đó qua sự kiện họ đến đây. Những chuyện kể về nhân vật chính trong sách không chỉ là câu chuyện về một dòng sống, mà là một tập hợp những suy nghĩ trăn trở của nhiều avatar về những động lực đã thúc đẩy họ đến địa cầu. Con cũng hiểu là một avatar không bắt buộc phải đến địa cầu bởi bất kỳ một nguyên do nghiệp chướng nào, mà đã chọn lựa đến đầu thai ở đây. Tất cả chúng ta, kể cả chính ta, là avatar đến đây đã mang một động lực mà chúng ta coi là hoàn toàn nhân từ, mà thật vậy trong một nghĩa nào đó, động lực đó hoàn toàn nhân từ.  

Tuy nhiên chúng ta cũng có một cái nhìn có phần thiếu cân bằng, chúng ta có một số khía cạnh của mặc cảm cứu tinh. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần phải học hỏi như nhân vật trong sách mô tả, là ông ta nhận ra rằng ông phải buông bỏ mặc cảm đó và hiểu rằng ông không đến đây để thay đổi một ai. Tất cả chúng ta phải kinh qua tiến trình này để rốt cuộc nhìn trái đất với tất cả những khuyết điểm, tất cả những khổ đau của nó để ngộ ra là mình sẽ hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Con nhận ra là con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, con chỉ ở đây để thay đổi chính con mà thôi. Tất nhiên, con cũng nhận ra là khi con ở đây và làm tất cả những chuyện này, khi con thay đổi chính mình, thì con cũng làm gương cho người khác noi theo nếu họ muốn.

Con phải đạt tới một điểm khi mà để thăng thiên, con phải làm hòa với quyền tự quyết, với khái niệm tự quyết, với cách quyền tự quyết được phép tương tác và diễn ra trên một hành tinh như địa cầu. Con có khả năng nhìn thẳng vào tất cả sự đau khổ mà không bước vào một phản ứng động cảm, và con nhìn xa hơn những nỗi đau khổ để thấy rằng đó là cách duy nhất mà quyền tự quyết có thể diễn ra. Vì khi con người xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, họ sẽ phải trình diễn tâm thức đó cho tới khi họ chán ngấy. Không những chỉ chán ngấy sự đau khổ (điều này nhiều người chán ngấy rất nhanh) mà họ chán ngấy cả cái tâm thức đã đem lại đau khổ.

Vậy con đạt đến một điểm khi con thực sự làm hòa với địa cầu như địa cầu đang là, và con thực sự cảm nhận được cho dù con đã đến địa cầu để đem lại thay đổi tích cực, bây giờ con có thể rời địa cầu cho dù con chưa đem lại được thay đổi đó.

Đây là một tiến trình mà tất cả chúng ta đều phải kinh qua. Trong một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả chúng ta đều có một phiên bản riêng về mặc cảm cứu tinh, bởi vì nếu không thì chúng ta đã không tình nguyện đầu thai ở đây. Cho nên tất cả chúng ta phải học cách vượt qua, và nhìn thấy điều gì đã thúc đẩy mỗi chúng ta đi đến phán đoán là trên địa cầu có những điều không ổn cần thay đổi.  

Một lần nữa, đây là một vấn đề tế nhị vì hiển nhiên trên địa cầu có rất nhiều khổ đau. Đương nhiên nhiều người bị cuốn trôi vào trong đó và đã không chọn lựa bước vào đó một cách ý thức – họ đã chọn lựa một cách vô thức. Dù sao thì quyền tự quyết vẫn là quyền tự quyết. Cho nên mặc dù chúng ta có thể đến đây và thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối, nhưng chúng ta không thể thao túng người khác để họ phải chấp nhận ngọn đèn của chúng ta vì lợi ích của họ.      

Về việc viết một cuốn sách kể ra chi tiết mọi kiếp đầu thai của ta, ta không có ý định này ngay bây giờ, một phần là vì tất nhiên ta đã sống qua rất nhiều kiếp và kể lại hết sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể làm được trong một cuốn sách. Phần khác là vì ta không muốn đặt quá nhiều trọng tâm vào bản thân mình ngoài những điều đã làm. Thật sự mục đích của cuốn sách “Những kiếp của tôi” là để làm xẹp bớt sự sùng bái thần tượng chung quanh con người của ta mà các giáo hội Cơ đốc giáo và ngay cả nhiều người trong các cộng đồng Thời mới vẫn có. Chúng tôi muốn đưa ra cho mọi người một lời dạy để giúp họ ngưng sùng bái chứ không sùng bái nhiều hơn.   

8 | Thỉnh cầu phân biện Ki-tô về Sứ vụ Thiêng liêng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con phát triển phân biện Ki-tô và nhìn thấy trong con những gì đang ngăn cản Sứ vụ Thiêng liêng của con trải bày ra, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, hãy giúp con khắc phục bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều con đã kinh qua trong đời con. Hãy giúp con nhìn lại đời mình mà không xét đoán với tâm vỏ ngoài, rằng rất nhiều điều kinh qua đã không hẳn là tâm linh.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra những việc con từng làm là một phần của Sứ vụ của con, vì con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất giai đoạn công phu, là khi con chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, hãy giúp con nhận ra là con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn tiềm năng của con. Hãy giúp con xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt, để con vươn lên những tầng cao hơn và thấy được các khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức một cách lý thuyết. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức, cho nên con đã làm những gì con đã làm, vì trong tiềm thức con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để có thể dời chuyển tâm thức.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là khi con có một trải nghiệm khó khăn, con đã phản ứng lại ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại trải nghiệm đó với đôi chút hối tiếc. Cảm giác hối tiếc này xuất phát từ một cái ngã nội tại là một thành phần của ngã gốc.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra liệu con đã tạo ra ngã đó phần nào do một lời dạy tâm linh. Con đã diễn giải lời dạy và tạo ra cái ngã đang trách móc con, đang xấu hổ như thể con không đủ tốt, đang cảm thấy một người tâm linh đích thực không thể làm những gì con đã làm.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là các chân sư không nhìn con như con nhìn chính mình. Các thày không trách móc con như con đang tự trách móc, cho nên con luôn luôn có thể đến gần thày vì thày chỉ muốn giải thoát con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, hãy giúp con đạt được phân biện Ki-tô qua đó con trải nghiệm mình được tha thứ và cứu chuộc, và như vậy con có thể khắc phục bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là con đã nhận trách nhiệm cao độ về bản thân, nhưng có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực, bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, hãy giúp con thấy là sa nhân đã phóng chiếu ra là con có thể có một số chọn lựa mà con không thể nào khắc phục được qua chọn lựa khác hơn. Kỳ thực, con luôn luôn có thể lấy một chọn lựa mới sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, hãy giúp con thể nhập sự kiện là không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên hay tiến đến tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của con. Lý do là vì không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là mặc dù có những hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt kiếp này, nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Hãy giúp con nắm bắt và trải nghiệm Ki-tô đấng Cứu chuộc, là Ki-tô có khả năng biến con thành một sinh thể mới.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, hãy giúp con trải nghiệm là không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục, một khi con nhận ra Ki-tô không ở ngoài con. Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Con có khả năng vượt qua mọi sự việc của quá khứ, bằng cách sẵn lòng nhìn vào chính mình và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, hãy giúp con thấy cái ngã nội tại bảo con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con nhận ra là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho mình.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, hãy giúp con thấy điều đó ăn khớp như thế nào với lời dạy về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi hứng chịu chấn thương nhập đời. Hãy giúp con nhìn ra mình đã có quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Cho nên con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng nếu con không tái phạm một số chuyện thì con sẽ không bao giờ bị hành hạ nữa.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra cái ngã cứ năng động đánh giá xã hội nơi con sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn là gì. Xong nó định ra một chuẩn mực cho những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ được an toàn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì con phải làm hay không được làm. Hãy giúp con thấy đó là một chuẩn mực phản ứng.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra mục đích của việc Giê-su hiện thân là để trao cho con người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận tiềm năng của con là Ki-tô có thể hiện thân trong con khi con đạt được một mức tâm thức nào đó.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là khi Ki-tô bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian, Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Ki-tô không đi vào thế gian để cho con người một giáo lý tuyệt đối mà tìm cách giúp con người bước lên bước kế tiếp.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, hãy giúp con giải quyết ở mức cá nhân câu hỏi là con sẽ phải thích nghi tới đâu và con sẽ vượt xa hơn bao nhiêu? Con thấy việc thể hiện quả vị Ki-tô của con không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian, mà là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là để chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức là khả dĩ, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Con phải trầm mình vào một nền văn hóa, rồi vượt ra khỏi nó, hầu con chứng tỏ việc vượt ra khỏi là khả dĩ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, hãy giúp con thấy là quả vị Ki-tô rất cá nhân. Đó là tại sao con không thể tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Con đã đầu thai trong một hoàn cảnh đặc thù để chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, hãy giúp con thấy là ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện hàng ngày trong môi trường của con, và không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, hãy giúp con nhận biết và công nhận là con đã từng biểu hiện quả vị Ki-tô của mình trong nhiều tình huống rồi. Hãy giúp con chấp nhận là con thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu, và đây không nhất thiết là một điều gì xa vời, lý tưởng.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra cái ngã nội tại mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của con. Hãy giúp con khắc phục sự phóng chiếu cho rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó càng ngày càng lớn hơn. Nó xảy ra khi con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là trong hoàn cảnh đặc thù của con, không có chuẩn mực nào cho cách con phải thể hiện quả vị Ki-tô như thế nào. Ngay cả Sứ vụ Thiêng liêng cũng không là một chuẩn mực cho cách thể hiện quả vị Ki-tô của con.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là Sứ vụ Thiêng liêng không giống như một chiếc áo tù bó tay sẽ khiến cuộc đời con phải chạy theo một đường rày máy móc. Sứ vụ được lập ra để con nâng cao tâm thức. Con nâng cao tâm thức bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về một vấn đề, thì con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con không xác định con phải phản ứng lại các điều kiện như thế nào.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là con có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có nhiều tự do, nhiều chọn lựa hơn. Điều cầm giữ con lại là một cái ngã mang một nhận thức nào đó, và nhận thức này xoay quanh cách con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô là con không ở đây để làm nô lệ cho tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt tình huống – có nghĩa là con tìm được một cách nhìn cao hơn về đời mình và không quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, hãy giúp con có phân biện Ki-tô để nhìn thấy trong Sứ vụ của con khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, hãy giúp con phân biện Ki-tô để nhìn ra là đôi khi các mong muốn hay viễn quan của mình xuất phát từ ngã gốc. Ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù có thể khiến con ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra ngã gốc mang cảm nhận: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, nói gì, nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là con vẫn có mong muốn biểu đạt chính mình, nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Hãy giúp con nhìn ra là cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên trái đất đến từ ngã gốc.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, hãy giúp con khắc phục nhận thức của ngã gốc cho rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con tự biểu đạt. Hãy giúp con phân biện Ki-tô để nhìn ra không phải các điều kiện vỏ ngoài ngăn cản mình là chính mình, mà là ngã gốc.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, hãy giúp con chất vấn các rào cản đang bảo là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Hãy giúp con hòa điệu với cá thể tâm linh trong Hiện diện TA LÀ của con, và nhìn ra việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất có nghĩa là gì.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận và trải nghiệm là con có khả năng là chính mình trên địa cầu, và như vậy con khắc phục được mong muốn trốn chạy, cứ muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Hãy giúp con buông ảo tưởng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là Ki-tô không cần có những điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không có điều kiện lý tưởng nào để biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, hãy giúp con ngưng chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể là chính mình hay biểu hiện quả vị Ki-tô. Hãy giúp con hiểu: “Ồ, đáng lý tôi đã phải bắt đầu ngay nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là các điều kiện vỏ ngoài sẽ bắt đầu thay đổi một khi con quyết định mình sẽ khởi sự nơi mình đang đứng, và cả gan biểu hiện một sắc thái nào đó của cái ta cao hơn, ngay ở đây, ngay lúc này.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, hãy giúp con bước vào tâm thái cho phép các điều kiện vỏ ngoài thay đổi, cho tới điểm con không cảm thấy là chúng hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là để đạt đến các tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng, con cần xoay chuyển tâm thức và nhìn nhận rằng con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài bằng ngã vỏ ngoài cùng quyền năng của ngã vỏ ngoài. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 6

6.1. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là để nối kết lại với Ki-tô trong con, con cần quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ tự biểu đạt cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.2. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.3. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi, vì công dụng của chúng là để con chứng tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng qua đó con biểu hiện quả vị Ki-tô trong các điều kiện đó, hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.4. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là một khi con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, thì con không thể không làm tròn Sứ vụ của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng, con có khả năng vươn tới tầng 144 trong kiếp này hay không.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.6. Giê-su, hãy giúp con trải nghiệm là việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là mình sẽ không bị giam trong mức tâm thức này. Con sẵn lòng bước ra ngoài.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.7. Giê-su, hãy giúp con học cách sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.8. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển. Không có gì giới hạn con tiến bước nhanh bao nhiêu nếu con sẵn lòng.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.9. Giê-su, giờ đây con nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh. Cái Ta Biết của tôi không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Tôi có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của tôi. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà tôi hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

24 | Thỉnh cầu tự do khỏi ngã gốc (6 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con vượt lên trên ngã gốc của con. Xin các thày giúp con thấy ngã gốc đã pha màu cách con nhìn đời như thế nào, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con nối kết lại với chấn thương nhập đời mà con gánh chịu khi con xuống đầu thai lần đầu trên trái đất. Xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra một cái ngã tách biệt để đối phó với chấn thương này.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy ngã gốc là một ý niệm sâu thẳm về bản ngã mà hầu hết không ai thấy được. Nó bám chặt, nó ăn sâu, nó vi tế đến độ con xem nó là đương nhiên. Con nghĩ đây là cách duy nhất để kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã gốc cũng chỉ giống như các ngã khác mà con đã khắc phục. Nó dựa trên một ảo tưởng cho nên cách khắc phục nó là nhận diện nó là một cái ngã vỏ ngoài và sau đó quyết định không muốn mang nó trong mình nữa.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con có được một nhận biết rộng hơn về ngã gốc để con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Xin thày giúp con thấy ngã này từ bên ngoài thay vì nhìn cuộc sống xuyên qua cái ngã, từ bên trong cái ngã.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con chuyển đổi nhận thức và nhận ra ngã gốc không phải là con người thật của con. Nó là một cái ngã được tạo ra để đáp ứng lại một tình huống rất khó khăn, làm con bị chấn thương mạnh, xảy ra cho con trên trái đất. Con không mang nó theo con khi con tới đây.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã gốc được tạo ra với một mục đích đặc trưng, với một tầm nhìn đặc trưng. Do đó, nó có một vấn đề cố hữu và khi con nhìn từ bên trong cái ngã, con có cảm tưởng là con phải giải quyết vấn đề đó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy giải quyết vấn đề không phải là cách giúp con khắc phục ngã gốc. Ngay cả nếu con giải quyết được vấn đề mà ngã phóng chiếu ra, thì con vẫn không tự động khắc phục được cái ngã vỏ ngoài này.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con bắt đầu thấy là con sẽ không vượt lên trên ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề hay thay đổi điều kiện đã khiến con phản ứng lại và tạo ra ngã gốc.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con sẽ chỉ khắc phục ngã gốc khi con nhận ra nó là một ngã tách biệt, nó dựa trên một ảo tưởng và không có vấn đề nào cần giải quyết. Con cần giải quyết cơ cấu bên trong con khiến con nghĩ rằng cuộc sống của con trên hành tinh này, ý niệm bản ngã của con và việc con rời khỏi hành tinh này, tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào ở đây.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra một ngã gốc cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ. Xin thày giúp con thấy liệu ngã gốc của con có cảm thấy một nỗi buồn chung về cuộc sống, cảm thấy rất thất vọng và rất bị chấn động vì những điều kiện ở đây, cảm thấy mình quá bất lực không thay đổi được bất cứ điều gì, và do đó việc con tới đây đã là một sai lầm.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy ngã gốc của con là gì, cốt lõi của nó là gì, phản ứng và niềm tin đằng sau nó là gì. Xin thày giúp con nhận ra là ngã gốc đã cho con một cảm nhận gốc, một ý niệm gốc về trái đất và đời sống trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con nhận diện cảm giác và niềm tin đó để con thấy quyết định mà con đã lấy khi con gánh chịu chấn thương nhập đời, quyết định đó là: “Tôi không bao giờ muốn kinh nghiệm điều này nữa.”

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy điều mà con không muốn kinh nghiệm nữa. Xin thày giúp con thấy quyết định của con về điều gì con có thể làm và điều gì con muốn làm trên trái đất kể từ lúc đó – nghĩa là con sẽ tiếp cận cuộc sống như thế nào.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là chấn thương nhập đời đã cho con một cú sốc lớn đến độ con cảm thấy sứ vụ nguyên thủy của con khi xuống đây không thể hoàn thành được. Con cảm thấy con đã sai lầm khi tới đây vì con không thể đem lại thay đổi, con không thể thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con tới đây với ý định trong sáng nhất. Con giả định là nếu con người đang đau khổ, thì họ muốn thoát khỏi đau khổ. Khi con ở dưới này, con trải nghiệm trọn vẹn hiện thực tuyệt đối, không thay đổi được của quyền tự quyết. Con nhận ra là dù con biết cách khắc phục các vấn đề và giới hạn của nhân loại, nhưng con không làm gì được vì con người không hưởng ứng.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con bị cú sốc lớn khi nhận ra có một số sinh thể, các sa nhân, không muốn thay đổi và tìm cách tiêu diệt con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là điều đó đã khiến con lấy quyết định rằng: “Đáng lẽ tôi không nên tới đây, đó là một sai lầm, tôi chẳng làm được gì ở đây, tôi có mặt ở đây vô ích, tôi không thay đổi được sa nhân, tôi còn không thay đổi được con người vì họ không muốn thay đổi, họ không muốn vượt lên trên đau khổ của họ, họ còn không muốn lắng nghe tôi. Quả thực họ không muốn tôi ở đây.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là trải nghiệm này khiến con có nỗi bất mãn sâu xa. Ngay lúc sự bất mãn của con lên tới cùng cực, thì con lấy một quyết định là từ nay về sau con sẽ tiếp cận cuộc sống ra sao.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã lấy quyết định rằng: “Tôi sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết của con người.” Hoặc: “Tôi sẽ không bao giờ ép buộc ai. Tôi sẽ không bao giờ lấy quyết định ảnh hưởng tới người khác vì tôi không muốn ép buộc ai cả.” Hoặc: “Tôi sẽ không thách thức sa nhân.”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có lấy quyết định chống lại sa nhân; hay quyết định con muốn hiểu sa nhân và tại sao họ phản ứng như thế.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là các quyết định đó đã tạo ra một cái ngã đã pha màu cách con nhìn mình như thế nào như một sinh thể trên trái đất. Đây là cái ngã cuối cùng mà con có thể buông bỏ, và con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ nó từng phần một.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể tới điểm con cho ngã gốc chết đi và sau đó, con tái sinh trong một ý niệm bản sắc mới dựa trên hiểu biết mà con có lúc này và dựa trên sự việc con đã phần nào tiếp xúc được với Hiện diện TA LÀ của con.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể được tái sinh trong Ki-tô, tạo ra một cái ngã không phải là ngã vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và phản ứng lại trái đất. Đây là cái ta hoà điệu với Hiện diện TA LÀ và là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con. Nó đặt căn bản trên thực tại Ki-tô là con là một sinh thể tâm linh, là nhận biết thuần khiết không thể bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể vượt lên trên ngã gốc và tái sinh trong ý niệm bản sắc mới qua đó con thấy cuộc sống trên trái đất là điều tích cực. Giờ đây con có cái nhìn tích cực, một mục tiêu tích cực, một cảm nhận tích cực. Con không còn một vấn đề mà con nhất định phải giải quyết bằng được.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra một chuẩn mực cho phép con sống còn. Xin thày giúp con thấy liệu con có tìm ra một cách sống trên trái đất giúp con tránh được những cảnh huống khơi dậy cảm xúc mà con có khi trải qua chấn thương nhập đời của mình.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có tìm ra một cách ru ngủ ngã gốc vì con đã học cách tạo ra những hoàn cảnh bên ngoài không đánh thức nó dậy. Xin thày giúp con thấy là điều này không giúp con tới gần hơn điểm giải thoát khỏi ngã gốc.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm sẵn sàng nhìn vào ngã gốc vì con đã khắc phục cảm nhận có điều gì trong con mà con không muốn đối phó vì chuyện này khó quá.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là nếu con buông bỏ ngã gốc thì con sẽ cảm thấy mình bị chết. Xin thày giúp con thấy cái bị chết là cái “ngã” qua đó con nhìn mình như một sinh thể trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con đã phá vỡ phần lớn ngã gốc của mình và đã tạo ra một cái ngã mới. Xin thày giúp con thấy ngã gốc và buông bỏ nó. Xin thày giúp con cho ngã gốc chết đi.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con dời chuyển trọng tâm bản sắc của con từ ngã gốc sang cái ta mới mà con đã gày dựng bấy lâu nay. Xin thày giúp con bỗng nhiên thoát khỏi cái nhìn tiêu cực về cuộc đời và nhìn cuộc sống qua cái nhìn tích cực. Xin thày giúp con cho cái tiêu cực chết đi.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là chuyện xảy ra ở đây không phải là cái ta thật của con chết, nhưng có một cái “ta”, một cái ngã đúng thực chết. Cái ngã này sẽ chống trả không muốn chết. Nó sẽ phóng chiếu lên con là con sẽ chết khi nó chết. Xin thày giúp con xét lại quan điểm cái chết là một kẻ thù.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là cốt lõi bản sắc của con là Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh. Do đó, Hiện diện TA LÀ của con không thể chết, và vì cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện nên nó cũng không thể chết.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con kết nối với ý niệm nhận biết thuần khiết, ý niệm biết mình hơn cái ta vỏ ngoài, hơn bất cứ điều gì trên trái đất. Xin thày giúp con chuyển đổi nhận thức và nhận ra rằng con không thể chết.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái có thể chết chỉ là ý niệm cái “ta”, ý niệm cái ngã, ý niệm mình là ai. Bởi vì ý niệm bản ngã của con giới hạn nên con không mất mát khi cái ngã đó chết đi. Trái lại, đó là một thắng lợi cho con vì cái nhìn tiêu cực về mình đã chết, và con tái sinh trong cái nhìn tích cực.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là câu nói “kẻ thù cuối cùng mà mình chinh phục là cái chết” có nghĩa là cái chết không phải là kẻ thù của mình. Cái chết là bạn của mình. Cái chết là một dụng cụ giúp cho cái ngã giới hạn chết đi và nhờ vậy mình được tự do.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm thay vì sợ và kháng cự cái chết của ngã tách biệt, thì con cho phép nó xảy ra. Con đón mừng nó vì con nhận ra con sẽ tự do hơn sau cái chết của ngã tách biệt này. Đây là ý nghĩa đích thực của phục sinh.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy phục sinh không phải là phục sinh thân xác. Nó là một khai ngộ tâm linh, khi ta buông bỏ ngã gốc để được phục sinh tâm linh.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là trước khi con xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, con biết là cần có người đầu thai trên trái đất để làm cánh cửa mở cho uy lực của Thượng đế. Con tình nguyện làm chuyện này, nhưng con cũng có kỳ vọng là khi con làm việc phụng sự Thượng đế thì Thượng đế sẽ can thiệp không để điều gì quá tệ hại xảy ra cho con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con bị chấn thương nhập đời, thì con nhận ra chuyện này sẽ không xảy ra. Thượng đế sẽ không dùng phép lạ để giải cứu con khỏi hoàn cảnh rất khó khăn đó. Con phản ứng lại bằng cách tạo ra một ngã gốc giải thích tại sao Thượng đế đã không cứu con trong hoàn cảnh đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy toàn bộ thực tế của quyền tự quyết và nhận ra là Thượng đế sẽ không giải cứu con. Sau đó, thay vì tạo ra một cái ngã khác để đối phó với chuyện này, thì con nhận ra đó là một cái ngã không thật. Nó chỉ là một ảo tưởng và con thấy nó từ bên ngoài, và đó là lúc con “buông bỏ hồn ma.”

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, con buông bỏ cái ngã cho rằng nó đặc biệt và do đó nó được quyền nhận phép lạ từ Thượng đế vì nó đã phụng sự Thượng đế trên trái đất này. Con buông bỏ nó. Con buông bỏ nó và sau đó con tái sinh theo nghĩa tâm linh.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là khi con cho ngã gốc chết đi, thì con phải trải qua kinh nghiệm cảm thấy mình sẽ chết. Con cảm thấy con đang chết, nhưng con sẽ không biến đi.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm nhận diện ra ngã gốc, con biết nó cần phải chết đi, con biết bây giờ là đúng lúc và sau đó, thay vì chống lại cái chết của ngã gốc, thì con quy thuận. Con hàng phục. Con cảm thấy bình an trong lòng và con nói: “Hãy cho nó chết đi; bất chấp chuyện gì sẽ xảy ra. Xin ý cha được hoàn thành, không phải ý con.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, xin thày giúp con trải qua tiến trình đó tuy rằng con có thể cảm thấy như mình đang chết. Xin thày giúp con chuyển dời bản sắc của mình tới một cái ta mới, một cái ta được xây dựng trong Ki-tô để trở thành “một sinh thể mới trong Ki-tô.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con đã phá vỡ hầu hết ngã gốc của mình, con đã tạo dựng một cái ta mới và quả thực để ngã gốc chết đi không phải là một chuyện lớn lao nữa.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 6

6.1. Giê-su, xin thày giúp con đón mừng cái chết, đón mừng cái chết của ngã gốc. Xin thày giúp con đón mừng cái chết như người bạn của mình, ngưng chống lại nó, ngưng hờn trách hay chống cự nó. Xin thày giúp con đón mừng nó, không phải như sự chết mà là sự tái sinh, là một khởi đầu mới.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con không cần giải quyết vấn đề nào và không cần hoàn tất mục tiêu nào. Con chỉ cần ở đây là đã làm điều con tới đây để làm. Sự việc con là cái con là không lệ thuộc vào chọn lựa của người khác. Con không cần thay đổi chọn lựa của người khác để là cái con là.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là niềm tin cốt lõi của ngã gốc là sự việc con là chính mình, con là cái con là, không tốt đủ hay sai. Hành tinh này không muốn thấy điều đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là trước khi con xuống đây, con chờ đợi là mọi người sẽ đón mừng con. Khi con nhận ra là sa nhân và luôn cả hầu hết con người không đón mừng con, thì con quyết định là con không được phép là cái con là trên hành tinh này. Sự việc con là cái con là vẫn chưa đủ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là sau chấn thương nhập đời, con đã dồn nén không cho phép con là cái con là. Xin thày giúp con giành lại điều này, và không dính mắc tới ảnh hưởng mà con có trên hành tinh vì con không là cái con là để thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất. Con là cái con là vì nó đem lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện lớn lao nhất.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.6. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra niềm hỷ lạc lớn nhất mà con có thể có trên trái đất là con là cái con là trước mọi điều kiện trên hành tinh này. Con có thể đứng yên và không gì ảnh hưởng được con, giống như Phật ngồi dưới cội bồ đề đối mặt với quỷ dữ của Ma vương đang cám dỗ để thày phản ứng lại chúng.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.7. Giê-su, xin thày giúp con nhìn màn xiếc trên trái đất, nhìn vào quỷ dữ của Ma vương mà không phản ứng. Con vẫn tỏa chiếu ánh sáng của mình, vẫn sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mình, tương tác với người khác. Con cảm thấy dòng chảy, niềm hỷ lạc, khi con cảm thấy con đang biểu lộ cái con là trong mọi việc con làm. Bỗng nhiên rào cản giữa sinh hoạt tâm linh và không tâm linh trở nên hoàn toàn vô nghĩa vì tất cả trở thành sinh hoạt tâm linh.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.8. Giê-su, xin thày giúp con chú tâm là cái con là, với thái độ là bất cứ chuyện gì xảy ra, con chỉ nói “bất chấp chuyện gì xảy ra.” Con không có ý định gì, con không có ý muốn vỏ ngoài nào. Con cho phép cuộc sống trải bày ra. Đây là ở trong Dòng sông sự Sống. Đây là trôi theo Dòng sông sự Sống.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.9. Giê-su, xin thày giúp con biểu lộ một khía cạnh của quả vị Ki-tô bằng cách tham gia đời sống thường nhật với một thái độ và cách nhìn đời hoàn toàn tích cực.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

Thỉnh cầu viễn kiến về lối hành xử của con (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả mọi đại diện của Mẹ Thiêng liêng. đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con thấy là con liên hệ với chính mình, các chân sư thăng thiên và vũ trụ vật chất như thế nào. Xin các thày giúp con thấy những chờ mong vi tế đang kiềm chế sự tăng triển tâm linh của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con liên hệ ra sao với vũ trụ vật chất. Xin thày giúp con thấy lối hành xử của con khi con liên hệ với cõi vật chất. Xin thày giúp con thấy con chờ đợi những gì, con nghĩ chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra, con nghĩ chuyện gì phải xảy ra và không được xảy ra?

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy lối hành xử tâm linh của con, xin thày giúp con thấy là khi con gặp một số hoàn cảnh trong thế giới vật lý, thì dường như con bị kích hoạt để đi vào lối hành xử đó, khuôn nếp phản ứng đó.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con mặc nhiên đi vào một phản ứng xúc cảm đặc trưng cho rằng chuyện này không được xảy ra, chuyện này quả thật không đúng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là dù sự chờ đợi này có thể rất phải chăng nhưng thực tế là nó thật sự giới hạn mối liên hệ của con với cõi mẹ.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con lấy một số điều kiện trong xã hội, các điều kiện này có thể do con người tạo ra hay do sa nhân gây nên, và con phóng chiếu một chờ đợi dựa trên những điều kiện đó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con phóng chiếu lên cõi mẹ là cõi mẹ là như vậy, và kết quả này lúc nào cũng xảy ra. Xin thày giúp con thấy là sự phóng chiếu này ngăn trở con chấp nhận là một cái gì cao hơn có thể xảy ra.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con trở nên một tiên đoán tự trở thành hiện thực. Điều con chờ đợi nơi cõi mẹ là điều con gửi tới tấm gương hoàn vũ, và tấm gương chỉ có thể phản ánh lại con điều con gửi tới nó.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Con thấy là nếu con muốn tránh những hoàn cảnh như vậy, thì con phải xem xét lối hành xử của mình. Con sẵn sàng khám phá xem con chờ đợi chuyện gì phải xảy ra và chuyện gì không được xảy ra, và con sẵn sàng tự hỏi con có muốn mang theo những chờ mong này với con hay không, khi con biết rằng chúng sẽ trở nên những tiên đoán tự trở thành hiện thực.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Con sẵn sàng xem xét là con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch. Con đang sống trong một vũ trụ đang tìm cách hại con hay con đang sống trong một vũ trụ trong đó có một lực đang hết lòng hỗ trợ con, hỗ trợ sự tăng trưởng của con, hỗ trợ hạnh phúc của con, và giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình?

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là dù hành tinh này có tăm tối đến đâu thì cõi mẹ vẫn sẵn sàng hỗ trợ con và hỗ trợ sự tăng triển của con. Cõi mẹ chỉ có thể phản ánh lại con những gì con phóng chiếu ra ngoài. Nếu con muốn nhận được phản hồi khác, thì con phải thay đổi điều con phóng chiếu ra. Không có cách nào khác.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy lối hành xử của con khi con liên hệ với các chân sư thăng thiên. Xin thày giúp con thấy điều gì đã thúc đẩy con tìm hiểu giáo lý chân sư thăng thiên, và động lực này nói gì về cách con nhìn tiềm năng của việc liên hệ với các thày hay không liên hệ với các thày.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu quan niệm của con về các thày có dựa trên cách một số tôn giáo mô tả Thượng đế chăng. Xin thày giúp con giải thoát tâm mình khỏi điều đó bằng cách khám phá những chờ đợi, phàm linh nội tại, mà con chưa nhận ra và loại bỏ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có sẵn sàng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên, nhưng con không muốn các thày tới gần con quá chăng? Xin thày giúp con thấy liệu con có nói trong tiềm thức: “Con muốn giữ một khoảng cách vì con không muốn thày thấy con như con đang là ngay bây giờ.”

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, con sẵn sàng tiến lên cao hơn và nhìn vào lối hành xử của con đối với các chân sư thăng thiên, cách con liên hệ với các thày, điều con chờ đợi và không chờ đợi, điều con chờ đợi sẽ xảy ra và không xảy ra.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã có một hiểu biết cao hơn về con đường tâm linh, và bây giờ thì cách con nhìn các chân sư thăng thiên lúc ban đầu là một gánh nặng mà con đang kéo lê theo mình.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy điều đó và loại bỏ nó, và khắc phục sự chia rẽ trong bản thể của con, khi có điều gì kéo con về phía các thày và điều gì khác kéo con ra khỏi các thày. Con sẵn sàng tiến lên một bước nữa và liên hệ với các thày một cách mật thiết hơn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Con nói: “Con muốn nhiều hơn nữa. Con muốn liên hệ mật thiết hơn với các thày. Con muốn tương tác trực tiếp với các thày. Giê-su, thày có thể thỉnh thoảng nhìn con và nói cho con một số điều về chính con.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con tách mình ra khỏi cái ngã đang nghĩ là để liên hệ được với một vị thày cao xa như vậy thì con phải tới được một trình độ toàn hảo nào đó. Vì con chưa đạt tới trình độ đó, nên cái ngã đó muốn trốn tránh các thày. Xin thày giúp con tách mình ra khỏi cái ngã đang cảm thấy nhục nhã, tội lỗi, hay hổ thẹn khi thày thấy các bất toàn của con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con xoay chuyển tâm thức và nhận ra là con không bị đau đớn khi các thày nhìn vào con và chỉ cho con thấy vài điều. Các thày luôn luôn chỉ làm vậy với mục đích giúp con tăng triển và được tự do hơn. Nếu con tự do hơn thì con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy lối hành xử của mình và thấy liệu con vẫn còn mong muốn giữ khoảng cách với các chân sư chăng. Con có thể nói với cái ngã đó: “Tôi không cần bạn nữa. Tại sao bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đây. Tránh xa ra!”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Hình ảnh mà sa nhân đã phóng chiếu lên tâm thức tập thể từ mấy ngàn năm nay là Thượng đế là một Thượng đế thù địch. Do đó, bất cứ ai trên cõi tâm linh và là đại diện Thượng đế chắc chắn phải là một sinh thể thù địch.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra hình ảnh này trong chính mình, tách mình ra khỏi nó, đứng lui lại và buông bỏ nó. Xin thày giúp con cảm thấy tức khắc nhẹ nhàng hơn và nhận ra là các thày không phải là thù địch. Các thày không chực bắt lỗi con. Các thày không chực phơi bày con. Các thày không chực hạ nhục con.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, xin thày giúp con bước lui lại và thấy cảm xúc và phàm linh nội tại đang quy định lối hành xử của con, cách con liên hệ với các chân sư thăng thiên, cách con nhìn các chân sư, cách con nghĩ con có thể liên hệ với các thày. Xin thày giúp con thấy đây là phàm linh, chứ không phải con, đang cảm thấy như vậy. Xin thày giúp con đuổi phàm linh đi và chuyển đổi tâm mình.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Con nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn nếu một chân sư thăng thiên phơi bày một bất toàn trong tâm lý của tôi? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, vậy tại sao tôi lại tiếp tục nhìn vị chân sư và hy vọng là vị ấy sẽ không tới và khiến tôi hổ thẹn? Tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về việc này, hay nhục nhã, hay sợ hãi. Tại sao tôi lại cần cảm thấy như vậy?”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy con có chờ đợi được điều gì khi con trở thành một đệ tử chân sư thăng thiên. Xin thày giúp con thấy những chờ đợi được vinh danh, công nhận hay tuyên dương bởi các chân sư thăng thiên.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là điều con vừa sợ một người vừa muốn được người đó vinh danh là điều không hợp lý. Xác suất người đó vinh danh con so với xác suất người đó làm chuyện con sợ nhất và chê bai con như thế nào?

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con vượt lên trên mối liên hệ rất giả tạo với các thày đã khiến các thày không thể tới được con vì các thày không thể lại gần con một cách trực tiếp. Con muốn nhận được trải nghiệm trực tiếp và hướng dẫn nội tâm từ thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con vừa không sợ giáp mặt trực tiếp một chân sư thăng thiên, vừa không hy vọng được giáp mặt trực tiếp để được thêm hãnh diện và để tự ngã cảm thấy đặc biệt.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con liên hệ với các thày mà không có chờ đợi dựa trên sợ hãi hay dựa trên hãnh diện, để con có thể trung hòa, cởi mở và không có chờ đợi nào chắn lối phía con hay phía thày.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con giảm thiểu khoảng cách giữa con và các thày, khoảng cách trong tâm con, khoảng cách mà con phóng chiếu là có giữa con và các thày.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là các thày vượt quá không gian và thời gian, do đó thày lúc nào cũng ở bên con nếu con đặt chú tâm vào thày. Vấn đề không phải là con cần vượt qua một khoảng cách vật lý. Vấn đề chỉ giản dị là con loại bỏ tất cả những hình ảnh và chờ đợi trong tâm mình.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục phàm linh nội tại đang mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu xảy ra trong đời con, đang mơ ước có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với các thày sẽ bỗng nhiên thay đổi mọi chuyện và khiến người khác nhìn con là người đặc biệt.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục mọi phàm linh nội tại đang mơ ước có một diễn biến kỳ diệu qua đó các thày xuất hiện trên trời hay con nhận được Thánh linh và có quyền năng siêu nhiên.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con đã trải nghiệm là mình có Thánh linh khi con nói chuyện với người khác về một đề tài mà con thật sự coi là quan trọng, một đề tài gần kề với tim mình.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con ở trong trạng thái tâm trung hòa, không tìm cách thuyết phục hay cải đạo người khác một cách hung hãn, và cũng không mong muốn được công nhận. Con nói từ một tầng cao của bản thể của mình, và đó là một biểu hiện của Thánh linh.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, xin thày giúp con là cánh cửa mở để diễn đạt ý tưởng một cách khiến người nghe có thể hiểu các khái niệm và ý tưởng. Xin thày giúp con đi vào trạng thái tâm trung hòa và có khả năng nói chuyện với nhiều người có quá trình khác nhau.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, xin thày giúp con bước lui và khám phá vị chân sư thăng thiên gần con nhất. Xin thày giúp con tìm ra một cách mới để liên hệ với vị chân sư đó, để con giảm thiểu khoảng cách, lại gần hơn, có một trải nghiệm trực tiếp hơn.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con đã sẵn sàng có một trải nghiệm trực tiếp với một vị chân sư thăng thiên. Con nhận ra là vì các thày có thể nói chuyện xuyên qua một sứ giả, thì các thày cũng có thể tương tác trực tiếp với con, trong tâm và trái tim của con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy những gì con chờ đợi sẽ xảy ra khi một chân sư thăng thiên tới gần con hơn. Xin thày giúp con thấy là có một phần tự ngã của con đang sợ sẽ có những điều mà con phải thay đổi và từ bỏ.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là có một phàm linh đang phóng chiếu là khi con tiến cao hơn trên con đường tâm linh thì con phải từ bỏ một cái gì đó, và có một phàm linh đang chống đối điều đó. Xin thày giúp con nhận ra là chúng chỉ là phàm linh, chúng không phải là con. Giê-su, xin thày giúp con thăng vượt cả hai phàm linh đó và nhận ra rằng con chỉ cần giản dị xoay chuyển tâm để có thể vẫn vui hưởng cuộc đời vừa theo đuổi con đường tâm linh.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là nếu con không hoàn toàn chấp nhận con đang ở trong thân thể vật lý, nếu con không vui hưởng những sinh hoạt mà con có thể có với thân thể vật lý, thì con không thể bỏ trái đất lại đàng sau, con thực sự không thể thăng thiên.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đang nghĩ con đang sống trong một thân thể thân thiện hay thù nghịch. Xin thày giúp con thấy phàm linh đang nghĩ rằng thân thể vật lý là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là con đang sống trong một thân thể thân thiện có khả năng và mong muốn hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Xin thày giúp con hoặc chữa lành bệnh tật hoặc làm hòa với chúng để chúng không cản trở sự tăng triển tâm linh của con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, con muốn được tự do và con chấp nhận là thày cho phép con được tự do khỏi mọi ý kiến nhân gian. Con muốn được giải thoát khỏi máy chạy bộ cứ lôi cuốn con đi, vì có một phàm linh nội tại cảm thấy là ý kiến của nó luôn luôn bị đe dọa, và con cần phải đề phòng các mối đe dọa và tìm cách phản bác chúng.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, xin thày giúp con từ bỏ những ý kiến đang thực sự không khiến con thoải mái với chính mình và với thế gian. Chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang tương tác với các chân sư thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một thân thể thân thiện.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

12 | Thỉnh cầu sự an bình khi lên tiếng

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con an bình khi con lên tiếng về cách con nhìn cuộc sống, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Con nhìn nhận là trên đường tu có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần có sự tương tác giữa việc tiếp nhận giáo lý và việc thực hành, biểu đạt giáo lý và thu hoạch trải nghiệm.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm qua việc con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó, và con có quyền biểu đạt chính mình dựa theo tầng này – điều này không có gì sai trái và các thày không chê trách gì con. Các thày chấp nhận con cho dù con ở tầng tâm thức nào, và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp con thăng lên tầng kế tiếp.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Con nhìn nhận là con đã đạt đến một mức quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì con đã làm trước đây. Con sẵn lòng nhìn ra là đến một điểm trên con đường quả vị Ki-tô, con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Ở các tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được là con lên tiếng với mức nhận biết mà con đang có, với các ngã tách biệt mà con đang có. Chính nhờ làm vậy mà con nhận được sự phản hồi cho phép con thấy là con cần điều chỉnh cách tiếp cận của mình như thế nào.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Điều này rốt cuộc sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Liệu con có một cái nhìn thân thiện hay thù địch về chính mình? Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó nó cần được phép chết đi.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Việc khắc phục ngã gốc và các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình khi mình ở trên trái đất không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng, mà có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác. Mà con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho họ một khung tham chiếu mà họ không có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Con đã cho họ những gì họ không có trước đó. Con cho họ một nền tảng để chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Chọn lựa giùm người khác không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Con giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn. Con giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù ngươì ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng, con không bực tức, con không cảm thấy bị chối bỏ khi người ta không chấp nhận những gì con nói.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra. Con đã đem nó ra trước mọi người, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Con sẵn lòng kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng, thậm chí con cảm thấy mình không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Con không lên tiếng do con có một quan điểm mà con muốn người ta chứng thực.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Khi con lên tiếng, con chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận và cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng mình, cái hiểu của riêng mình, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Dù sa nhân có nghĩ gì, dù người khác có nghĩ gì, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền biểu đạt chính mình cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ con đã có và quá trình con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phản ứng lại. Con cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Khi người ta bác bỏ những gì con nói, điều này không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người ta chứng thực hay đồng ý. Cách họ phản ứng với những gì con nói thật không quan trọng gì với con.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Thay vì bảo điều gì là đúng hay sai, con trình bày về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm, một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con trình bày vấn đề mà không bảo là người khác đúng hay sai, không bảo là họ phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Như một sinh thể Ki-tô, con không có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong bất cứ tình thế nào. Cái nhìn bao quát của con là con muốn mọi người trở nên ý thức hơn để họ có thể chọn lựa nhận biết hơn.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Mục đích của con là nâng cao nhận biết, không phải là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên, và mục đích chủ yếu của các thày là nâng cao tâm thức chứ không phải là tạo ra một kết quả đặc thù.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Để lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, con cần chữa lành chấn thương nhập đời của con. Con cần khắc phục các ngã tách biệt đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Con sẵn lòng khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để mình cảm thấy dễ chịu hơn về chính mình, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Con sẽ không nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Con sẽ không nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt trong con. Con đã sống rất nhiều kiếp trên trái đất, đã tạo ra nhiều ngã tách biệt, và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Con chấp nhận là thày, Giê-su, đã cho phép con bỏ qua bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Con chấp nhận là con có thể bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Con muốn có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp quan hệ xung đột hay đối nghịch với người khác.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Thật không cần thiết con phải khích bác người khác để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Có rất nhiều người trong xã hội đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn. Điều cần thiết là một cái gì khác, một tiếng nói khác.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, hãy dạy con lên tiếng một cách khác hơn, bằng cách chia sẻ bản thân con, trình bày các hậu quả, ngay cả nói lên một tầm nhìn cao hơn, hay cho mọi người thấy một góc cạnh khác hơn về vấn đề.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, hãy dạy con cách nào con có thể giúp thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, qua đó chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, là luôn luôn mang hậu ý mô tả sự việc theo một cách trong khi tuyên bố là mình khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, hãy giúp con thấy cách nào con có thể đưa ra một giải pháp thay thế cho lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên đã chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay. Để phát biểu với một tiếng nói khác, con phải khắc phục các ngã tách biệt, và con đã có các dụng cụ để làm việc này.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, hãy giúp con thấy đây là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Thật ra đây là điều con mong muốn. Con không bao giờ muốn lên tiếng theo cách con đã từng lên tiếng, cách này luôn luôn cho con một phản ứng tiêu cực.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, hãy giúp con tìm một tiếng nói khác để lên tiếng, hầu con bắt đầu nhìn thấy nó. Con sẵn lòng làm việc trên bản thân con cho đến khi con tìm thấy tiếng nói nội tâm, tiếng nói đích thực của con. Và khi con tìm thấy, con nhất định sẽ lên tiếng.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con biết thày vui mừng được trải nghiệm con, và con biết thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào. Cho nên con từ bỏ mọi thái độ muốn trốn tránh thày.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Con quyết định mời thày đến trải nghiệm con, và quả thực con sẵn lòng trải nghiệm thày cùng niềm vui mà thày là. Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

10 | Thỉnh cầu viễn quan biểu lộ quả vị Ki-tô (5 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng đang ngăn cản con biểu lộ quả vị Ki-tô, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến con đã hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có một ngã rất quan tâm không muốn bị sai, và một khi nó đã tự thuyết phục là nó làm đúng, thì nó rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là rất khó giúp những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Xin thày giúp con thấy là con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã đó đã khiến con xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa hay bởi tôn giáo của con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên thì con phải lấy chọn lựa tự do đi qua cổng đó. Cái Ta Biết của con chỉ có thể lấy một chọn lựa tự do khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai đang ngăn cản con thăng thiên. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, con không thể thăng vượt nỗi sợ đó nếu con vẫn còn cái ngã không thể chất vấn lập trình cơ bản đã tạo ra nó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Xin thày giúp con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy điều thứ nhất ngăn cản con thăng thiên là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ. Điều kia là con là một người tốt muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con phá bế tắc bằng cách cho cái Ta Biết cảm hứng bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là cái ngã tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con, như cái Ta Biết, nhận ra là ngã đó không phải là con. Xin thày giúp con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Xin thày giúp con thấy là hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là tâm thức Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Xin thày giúp con ý thức điều này và thấy là con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con chỉ có thể được cứu rỗi khi con đạt được một tiêu chuẩn gần như siêu nhân. Ngã đó nghĩ rằng khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy việc Ki-tô đầu thai vào cõi trần có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt. Khi cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con, thì con có thể là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy con là Ki-tô hành động khi con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người, tỷ dụ như trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là chìa khóa để mở tâm, để là dụng cụ cho tâm thức Ki-tô biểu hiện, là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Xin thày giúp con thấy mọi hình ảnh cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng con cũng như là về thày khi thày hiện thân trên thế gian.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con, như cái Ta Biết, nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, nó chỉ cần một khe mở thì nó sẽ biểu hiện trong bát cung vật lý.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con để nó xảy ra.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì dòng chảy sẽ có mặt và con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con sẽ bị cám dỗ phân tích khi con cảm thấy dòng chảy của Tánh linh xuyên qua con. Xin thày giúp con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Xin thày giúp con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1.Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, và tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Xin thày giúp con nhận ra là: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Xin thày giúp con nhận ra là ngoài các ngã của con, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, và tìm cách hạ thấp nó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là các lực phản-Ki-tô muốn gieo nghi ngờ vào tâm con để con nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là lực phản-Ki-tô này có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Xin thày giúp con thấy là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Xin thày giúp con nhận ra lực này, biết nó có mặt, và nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này vì các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con tạo thói quen quay về hướng thày, hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con, chú tâm vào thày và nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con tìm ra thăng bằng tế nhị vì con không muốn nghĩ con không thể sai lầm và nhận ra là đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Xin thày giúp con học phân biện trường hợp một người phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, xin thày giúp con không phân tích mình quá đáng. Xin thày giúp con là cánh cửa mở, giữ tâm trung hòa, ở trong trạng thái tâm trung hòa để Tánh linh tự biểu lộ. Xin thày giúp con không đóng tâm mình nhưng cũng không phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy ý muốn giúp đỡ người khác có thể là một trở ngại trên đường quả vị Ki-tô. Xin thày giúp con tới điểm con không phản ứng lại người khác. Con quan sát, con học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của người khác. Con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy là một số người sẽ tới con với một ngã chưa được giải tỏa và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ muốn con công nhận giá trị của ngã đó, và có khi họ giận dữ khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Xin thày giúp con khắc phục cảm nhận con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia”. Xin thày giúp con khắc phục cảm nhận tách biệt.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, và con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Xin thày giúp con thấy là trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô và dùng giáo lý chân sư thăng thiên vào lãnh vực chuyên môn của con, là lãnh vực mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

6 | Thỉnh cầu sự chấp nhận của Ki-tô (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục mọi ảo tưởng và ngã đang ngăn cản con chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn ngã gốc, thì nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con bước lui khỏi tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, và thấy là điều thày thực sự muốn cho con người là trải nghiệm có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày hãy giúp con thấy là con không thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích, con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô vì có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, mà chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là để tiến trình này được trải bày, con phải hoàn toàn có quyền tự quyết, để con được làm bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng và sau đó trải nghiệm hậu quả. Con đồng-sáng tạo bằng cách tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con bằng cách thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó. Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại cùng những hậu quả.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1 Giê-su, xin thày giúp con thấy là để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ thì con cần làm một số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Một khi con đã chán ngán đồng-sáng tạo xuyên qua ngã tách biệt, thì tâm thức Ki-tô là trung gian giúp con vươn mình lên khỏi tâm vị kỷ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con làm hòa với luật tự quyết để con có thể chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm để có thể tăng triển.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà họ đang kinh qua. Xin thày giúp con làm hòa với sự việc đó để con được giải thoát khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Xin thày giúp con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người là sự nhận biết Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Xin thày giúp con khắc phục sự lập trình của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là Ki-tô vượt lên sa nhân và do đó các điều kiện của sa nhân không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện. Tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy tầm nhìn Ki-tô là những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Xin thày giúp con khắc phục ảo tưởng của sa nhân cho rằng trái đất rất quan trọng và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm tự đặt câu hỏi một cách ý thức: “Giê-su có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Xin thày giúp con trải nghiệm là thày có chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày gúp con thấy là ngã gốc chỉ có thể nghĩ là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con. Xin thày giúp con thấy đây là một lời gian dối của sa nhân.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, con mở tim đón nhận thày và con sẵn sàng tiếp nhận trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người. Thày có thể trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp trải nghiệm là thày, Giê-su, chấp nhận họ như họ đang là và không phán xét họ.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con làm công việc quét dọn bằng cách nhìn bất kỳ các ngã khác và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một chuẩn mực nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai”. Xin thày giúp con tách mình ra khỏi những ngã đó.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con ghi chặt trong tâm ý niệm phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là dù con thấy trình độ tâm thức của một người, nhưng khi con ở trong tâm Ki-tô thì con vẫn có thể tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, con sẽ để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó. Xin thày giúp con đi một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4 Giê-su, con sẽ chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận qua con. Xin thày giúp con trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của thày và chấp nhận là bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Và con quả thực mong muốn được tự do.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận sự thực tuyệt đối là nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi ngã nhị nguyên, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý mà con đã tạo ra xuyên qua ngã đó. Xin thày giúp con thấy là bất kể các ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể chọn khởi sự tiến trình thức tỉnh và để cho chúng chết đi.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này và trải nghiệm là thày chấp nhận con. Giê-su, con đình chỉ sự phán xét chính mình. Con ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con. Con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, con nói ở đây: “Tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét. Tôi hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.” Xin thày giúp con tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa và trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con biết là ngay lúc này thày đang đứng cạnh con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Giê-su, con quả thực sẽ chấp nhận món quà của thày.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

4 | Thỉnh cầu tự do khỏi ngã kiểm soát (4 phần)

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục mọi khuynh hướng ép buộc muốn kiểm soát thế giới, người khác và chính mình, kể cả… [đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, xin thày giúp con khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô. Xin thày giúp con thấy vì sao con chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, xin thày giúp con chấp nhận là các chân sư thăng thiên không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy là mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là giải thoát con. Xin thày giúp con thấy là một phần của tâm con sẽ nói: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy cơ cấu đang ngăn chặn con thể hiện quả vị Ki-tô là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, thì con bị một cú sốc, một chấn thương.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con đã chê trách mình vì đã phản ứng và nghĩ là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách để không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy. Xin thày giúp con thấy đó là một cái ngã hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Xin thày giúp con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái duy nhất ngăn cản con thể hiện quả vị Ki-tô là ngã gốc. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, xin thày giúp con thấy là ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Xin thày giúp con nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác thăng bằng nào đó. Nó làm công việc này bằng cách tạo ra một cơ chế phức tạp gồm nhiều cái ngã nhằm cho con cảm giác làm chủ cuộc sống của mình trên trái đất.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, xin thày giúp con bắt đầu nhìn vào khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, xin thày giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Xin thày giúp con tới điểm nhìn vào nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy đây là một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Con bị mắc kẹt vì cái ngã đó, nhưng khi con bắt đầu thấy sự hiện diện của nó, thì nó sẽ phản ứng như đây là chuyện sống còn của nó và khiến con không chấp nhận hiểu biết đó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, xin thày giúp con thấy cái ngã cảm thấy phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là cái ngã kiểm soát nghĩ rằng cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ để con yên. Cái ngã kiểm soát cảm thấy được an toàn nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất. Con đã sử dụng giáo lý để củng cố thế giới quan của ngã kiểm soát.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, con nhận ra là mục đích của con trong kiếp sống này là không thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Mục đích của con là hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Mục đích của con là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì con đã làm được cho tới nay.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, xin thày giúp con thấy khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy liệu con có tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới, ngay cả dùng giáo lý tâm linh để đặt mình vào hoàn cảnh cô lập và cách ly khỏi thế giới.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5 Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con nhìn nhận là con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con không cần ngã đó nữa nên có thể để nó chết đi. Con thấy là nó không muốn chết, và nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, xin thày giúp con giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, để con được bình an và cảm thấy một niềm tự do mới mà hiện nay con không thể tưởng tượng nổi.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, xin thày giúp con trải nghiệm con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, xin thày giúp con thấy là khi con tạo ra ngã gốc thì con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Xin thày giúp con nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1 Giê-su, con chọn vươn lên khỏi tâm thức chết, khỏi cái ngã kiểm soát nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Con chọn sự sống bằng cách nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại, thức tỉnh trở lại và biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, xin thày giúp con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, xin thày giúp con tới điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con và con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, xin thày giúp con thấy là một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu là vấn đề có thật, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, xin thày giúp con thấy ngã đó không thật và nói: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con sẽ theo thày, và để người chết đi chôn những vật chết.” Con sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, con nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và con đi với thày cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nương tựa cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con muốn sự sống, con không muốn cái chết, và con sẵn sàng mở vòng tay đón nhận giáo lý này. Con muốn tách mình ra khỏi ngã gốc, bỏ lại lưới đánh cá của nó để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ ngã đó lại đằng sau.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, xin thày giúp con thấy là con đã sẵn sàng và nói: “Đây chỉ là cái ngã kiểm soát muốn con nghĩ là con chưa sẵn sàng. Thực sự thì con đã sẵn sàng và rất mong muốn theo thày.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, con sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau cái cũ và đón nhận một ngày mới. Con sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên. Con sẽ không mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, vì con đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói ra nó. Amen.

11 | Lên tiếng từ một tâm thái an bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su, và ở đây thày muốn đưa ra một số nhận xét về một chủ đề có thể gây bối rối. Thày hiểu hoàn toàn là chủ đề này gây bối rối cho một số các con. Đó là chủ đề quả vị Ki-tô, làm thế nào con thực thi quả vị Ki-tô của con khi lên tiếng trên trái đất. Nếu con ở trong tư duy đường thẳng, con có thể nói là các lời dạy mới nhất mà các thày trao truyền – trong năm qua hay lâu hơn một chút – mâu thuẫn với giáo lý các thày đã trao truyền trước đây. Các thày đã nói là một phần của quả vị Ki-tô của con là lên tiếng, và bây giờ có vẻ như các thày lại bảo rằng con không nên lên tiếng và thay vào đó con nên làm việc trên các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt của con và khắc phục chúng.

Con yêu dấu, chìa khóa để giải quyết điều có vẻ bí ẩn như vậy là nhận ra con đường tâm linh có một số giai đoạn. Có một số tầng khai ngộ mà con kinh qua trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Các thày đã trao con một khóa học về tự điều ngự, và khoá học này được thiết kế để đưa con người từ tầng tâm thức thứ 48 lên tầng 96. Tầng 96 là điểm con bắt đầu thực thi quả vị Ki-tô, nhưng hiển nhiên, có một khoảng cách giữa tầng 96 với tầng 144. Con có thể thấy là tất nhiên, những gì con đạt được hay có khả năng đạt được ở tầng 96 chưa phải là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa cho đến tầng 144, con có khả năng thể hiện và biểu lộ – nếu có thể gọi như vậy – những trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô.

11.1. Khía cạnh trải nghiệm của quả vị Ki-tô

Điều này có nghĩa là khi các thày đưa ra một giáo lý áp dụng cho đệ tử ở tầng 96 hay khoảng đó, dĩ nhiên đây không phải là cùng giáo lý các thày sẽ đưa ra cho những ai ở các tầng cao hơn. Chẳng hạn như khi thày đưa ra khóa học về quả vị Ki-tô [Chìa khóa Chỉ đạo cho quả vị Ki-tô Cá nhân] cùng nhiều giáo lý lúc ban đầu trong đợt truyền pháp này, thì giáo lý đã được đưa ra cho tầng tâm thức khởi sự. Những gì các thày trao truyền bây giờ nhắm đến các tầng quả vị Ki-tô cao hơn, qua đó con cần nhìn nhận là trên đường tu tâm linh có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần một sự tương tác giữa một đằng là việc tiếp nhận giáo lý cùng sự hiểu biết, và đằng khác là việc thực hành, biểu đạt các giáo lý này và thu hoạch trải nghiệm. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm nào đó qua sự kiện con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Trong những giai đoạn sơ khởi của đợt truyền pháp này, điều mà thày cùng các chân sư khác đã bảo học trò làm là hãy đi ra ngoài và lên tiếng với tầm hiểu biết và nhận biết mà mình có lúc đó. Nhưng tất nhiên, các thày cũng dư biết là học trò sẽ bước ra với một khối lượng ngã tách biệt nào đó và sẽ cảm thấy một sự cưỡng bách phải lên tiếng. Các thày biết là một số đã rất bất đắc dĩ lên tiếng vì những ngã tách biệt mà họ đã vun trồng trong tiền kiếp bảo họ là chuyện lên tiếng thật nguy hiểm, thật không an toàn, và họ không nên lên tiếng gì hết.

Các thày biết là một số người khác lại có tham vọng lên tiếng, hoặc vì họ muốn làm việc gì quan trọng, hoặc họ muốn được các chân sư thăng thiên công nhận, được người khác hay thế giới công nhận, hay đủ loại động cơ khác mà con người có thể có. Các thày cũng biết mình cần phải trao giáo lý cho con người rồi để yên cho mọi người muốn dùng thế nào cũng được, vì cho dù họ có lên tiếng hay không, họ vẫn có được một số trải nghiệm sẽ giúp họ tiến bộ tới mức họ sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

Và đó là điều đã xảy ra. Đã có đủ số người vươn lên tới mức họ sẵn sàng nhận được giáo lý cao hơn mà các thày đang ban ra bây giờ. Chúng ta có thể nói là một khối tới hạn (critical mass) trong số các con đã vươn đến mức này, nhưng thày cũng ưa nói là một khối người không phán xét (uncritical mass) trong số các con đã vươn đến mức này vì các con đã vươn lên bằng cách khắc phục thái độ phán xét mà qua đó con cảm thấy phải chỉ trích, phải xét đoán, phải đánh giá mọi chuyện. Đây chính là điểm đặc trưng cho các tầng quả vị Ki-tô cao hơn.

11.2. Quả vị Ki-tô không là một tiến trình đường thẳng

Ở các tầng quả vị Ki-tô thấp hơn, con bắt đầu nhận biết là theo cách nhìn của con ở tầng này, có nhiều sự việc không phải lẽ trên trái đất. Chúng không phù hợp với tầm nhìn cao hơn, chúng không phù hợp với cách mọi chuyện nên diễn ra và chúng cần được thay đổi. Như các thày đã có nói về các avatar đến hành tinh này với cảm nhận mình phải thay đổi nhiều thứ trên trái đất, thì trong những giai đoạn sơ khởi của quả vị Ki-tô con thường bước ra với thái độ là con phải thay đổi một điều gì đó. Con phải khiến cho mọi người nhìn thấy những gì họ chưa thấy, con phải đem lại một sự khác biệt và tạo sự thay đổi.

Đây chính xác là thái độ nhiều avatar đã có khi đến trái đất. Kỳ thực con cần trải nghiệm này trong kiếp sống này để gắn kết lại với động lượng đó. Có những avatar khác đến trái đất mà không lên tiếng, họ không muốn lên tiếng và họ quyết định là họ không muốn lên tiếng trên hành tinh này. Một số những người này đã không bước ra lên tiếng, nhưng điều này vẫn cho họ trải nghiệm nhận được giáo lý và làm gì với giáo lý.

Tuyệt đối không có gì sai trái khi con làm vậy. Như các thày đã nói rất nhiều lần, con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó và con có quyền tự biểu đạt dựa theo tầng tâm thức này – không có gì sai trái và các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Như Nada đã giải thích cặn kẽ trong sách của thày, các thày chấp nhận con cho dù con có ở tầng tâm thức nào và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp được con thăng lên tầng kế tiếp.

Đương nhiên điều này không có nghĩa là các thày muốn con ở lại tầng thấp của quả vị Ki-tô cho đến mãn kiếp. Các thày muốn con có một trải nghiệm nào đó về các tầng thấp, thế rồi phối hợp với những lời dạy các thày đang cho con, các thày muốn giúp con vươn lên những tầng quả vị Ki-tô ngày càng cao hơn. Rồi sẽ tới điểm con đạt đến tầng quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì mình đã làm trước đó. Thày biết là một số người sẽ rơi vào một tư duy đường thẳng vì họ muốn nghĩ là nếu họ đã nhận được một giáo lý chân truyền từ một chân sư thăng thiên về quả vị Ki-tô, thì giáo lý này là tuyệt đối, do đó tất cả những gì họ cần làm là cứ việc đi theo cho đến hết kiếp này.

Thày biết có những người muốn nghĩ như vậy, nhưng đơn giản là họ không nắm bắt được ý nghĩa của quả vị Ki-tô trong tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ, và do đó thày không thể cung ứng cho họ. Các thày là chân sư thăng thiên có thể ban một số lời dạy cho những người mang tư duy này, nhưng nếu họ không lưu ý đến lời dạy, nếu họ không xoay chuyển thái độ của họ, thì theo quy luật – thậm chí cả Luật Tự quyết – các thày phải để yên cho họ và không tìm cách bắt họ nhìn ra những gì họ không muốn nhìn thấy.

Vì vậy cho nên các thày sẽ tập trung nỗ lực vào những ai sẵn lòng nhìn ra là trên con đường quả vị Ki-tô sẽ đến lúc con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này của quả vị Ki-tô. Đây không phải là một chuyện con làm chỉ một lần. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Thật ra ở những tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

11.3. Đặc tính tuần tự của quả vị Ki-tô

Điều các thày nói với con bây giờ với các giáo lý về avatar, về việc khắc phục chấn thương nhập đời, khắc phục các ngã tách biệt, là ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được – điều cần thiết vì đây là một phần của đường tu – là con lên tiếng với mức nhận biết mà con có, với các ngã tách biệt mà con có lúc đó. Ngay cả nếu nó khiến con bước ra ngoài và cư xử một cách hơi mất cân bằng, có thể quá mạnh mẽ, có thể quá ngoan cố, có thể quá “lửa xanh” (như Chân sư MORE gọi như vậy), thì cách hành xử này của con vẫn chấp nhận được vì con không thể làm gì khác hơn. Chính nhờ con làm vậy mà con nhận được sự phản hồi, con nhận được một khung tham chiếu cho phép con nhìn ra là có lẽ mình phải điều chỉnh cách tiếp cận của mình.

Đó chính là điều sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.” Trong bản chất, như các thày đã có giảng, điều này cũng giống như trường hợp một đứa trẻ mới học đi xe đạp phải cần đến hai bánh xe nhỏ ở hai bên (bánh xe tập) để giúp nó giữ thăng bằng. Phải tới một điểm đứa trẻ đã học được cách giữ thăng bằng trên xe đạp thì nó có thể vứt bỏ hai bánh xe tập đi. Nếu con thấy một người lớn đi xe đạp mà vẫn gắn bánh xe tập thì con sẽ nghĩ người này vẫn chưa nắm được một điều gì đó.

Đường tu tâm linh cũng tương tự như vậy. Đó là vì sao các thày đã nói là con cần xem xét phương thức vận hành của con [modus operandi, xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Con cần xét xem con nhìn trái đất như thế nào: Đây có là một hành tinh thân thiện hay thù địch? Cơ thể này thân thiện hay thù địch? Thượng đế thân thiện hay thù địch? Các chân sư thăng thiên là những vị thày thân thiện hay thù địch? Con cần xem xét những điều đó. Con cần nhìn vào bản thân. Thậm chí con có thể nói: “Tôi có một cái nhìn thân thiện hay một cái nhìn thù địch về chính mình?” Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó tất nhiên nó cần được phép chết đi.

Điều thày muốn cho con ở đây về quả vị Ki-tô và việc lên tiếng là như sau: Việc khắc phục ngã gốc của con, khắc phục tất cả hay hầu hết các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình với việc mình ở trên trái đất – là mục đích của chúng ta trong hội nghị này – không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng. Nhưng có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả nào đó. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác.

Con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho người khác một khung tham chiếu mà họ không đang có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này. Con cho họ những gì trước đó họ không có. Con cho họ một nền tảng để họ chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì. Đây không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn. Đó là tại sao điều cốt yếu là con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con sẽ tốn một chút thời gian, các thày cũng biết vậy, nhưng điều quan trọng là con bắt tay vào việc để vươn lên tới mức con có thể phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình khi con lên tiếng.

11.4. Phát biểu từ sự an bình nội tâm

Khi con làm vậy, con sẽ hoàn thành hai chuyện: Con sẽ giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn đối với những gì con nói. Và con sẽ giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù người ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng. Con không bực tức, con không cảm thấy mình bị chối bỏ khi người ta không tiếp nhận những gì con nói. Kỳ thực con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra, con đã đem nó ra trước công chúng, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Con yêu dấu, một số các con có thể cần phải kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng nếu con đã lên tiếng, để con chỉ nói rất ít. Sứ giả này có mô tả ông cảm nhận như thế nào: ông không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Dù vậy ông vẫn lên tiếng về đủ loại đề tài, nhưng ông không lên tiếng vì ông có một quan điểm mà ông muốn người ta chứng thực. Đây là điểm con cũng có thể đạt tới, và ở đây thày khuyên con nên xem xét hai điều khi con lên tiếng.    

Một là con có thể chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận, cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con có thể chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng con, cái hiểu của riêng con, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Điều này hoàn toàn khác với việc con đi ra bảo người khác là họ phải nghĩ gì hay tin gì và tìm cách thuyết phục hay cải đạo họ. Con chỉ đơn giản chia sẻ tiến trình của con, và như các thày có nói nhiều lần con yêu dấu, cho dù sa nhân có nghĩ gì, cho dù người khác có nghĩ gì và họ không muốn con làm phiền họ như thế nào, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con vẫn có quyền biểu đạt bản thân con cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ mà con đã có và quá trình mà con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phải phản ứng lại. Con có thể cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng. Đồng thời nó cũng không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người khác chứng thực hay đồng ý với con. Cách họ phản ứng lại những gì con nói thật không quan trọng gì với con. Đây là một khía cạnh của việc lên tiếng. Con hãy chia sẻ bản thân con, chia sẻ sáng ngộ của con, tiến trình của con. Hãy chia sẻ cái đó.

Còn cách kia để lên tiếng mà thày đề nghị với con là thay vì con trình bày điều gì là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ, con nói về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm hay một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con có thể làm vậy bằng nhiều cách. Chỉ lấy một ví dụ, hôm qua có một người hỏi sứ giả này về vấn đề người nhập cư vào châu Âu, và ông bày tỏ quan điểm đây là hậu quả của việc các nước giàu có ở Âu châu đã không làm đủ. Các nước này đã không sử dụng sự giàu có của mình để trợ giúp người dân châu Phi đạt được mức sống cao hơn ở ngay xứ họ. Cho nên thật sự các biến cố này đang ép buộc các nước giàu phải nhìn ra những gì họ không chịu nhìn thấy, để họ nhận lãnh trách nhiệm mà của cải của họ đã giao phó cho họ. Ông bày tỏ là thật ra tình thế đã bó buộc các nước giàu phải lấy một số chọn lựa. Hoặc họ có thể tiếp tục cho phép người di dân nhập cư với tất cả các hậu quả gây ra cho xã hội họ – họ sẽ làm gì đây với quá nhiều người như vậy? Liệu họ sẽ giam giữ hết trong “trại tập trung” hay họ sẽ tìm cách hội nhập, nhưng làm thế nào hội nhập quá nhiều người như vậy đến từ một nền văn hóa khác lạ? Rõ ràng là hầu hết các nước này sẽ hiểu ra là nếu họ cứ tiếp tục cho phép người di dân vào nước thì họ sẽ khiến cho các hệ thống hiện hữu của họ bị quá tải.

Hoặc vấn đề này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn hẳn, hoặc có một chọn lựa khác là họ phải tìm cách chặn đứng làn sóng di dân, và ở đây lại có hai chọn lựa. Họ có thể dùng lực lượng hải quân đem tàu vào Địa trung hải đánh chìm bất cứ thuyền bè nào chở người di dân từ Phi châu. Đây là một cách chặn đứng làn sóng, nhưng tất nhiên nó không phù hợp với cách nhìn của hầu hết các nước Âu châu về chính mình. Nếu đây không là một biện pháp khả thi thì đâu là chọn lựa duy nhất còn lại? Đó là xây dựng một cách giải quyết hoàn toàn mới mẻ, là đi đến các nước Phi châu và cải thiện mức sống ở ngay đó hầu người dân không còn muốn bỏ nước ra đi. Không phải là những ai sinh ra ở châu Phi đều có một mong muốn tối thượng và vô độ muốn di dân sang châu Âu. Hầu hết đều thích ở lại châu Phi hơn do họ đã quen với khí hậu nóng ấm, và họ thật không muốn đến sống ở những nước như Đan Mạch chẳng hạn nơi mùa đông thật ảm đạm lạnh lẽo. Họ thà ở lại xứ họ nếu họ có thể có được một mức sống tạm đủ. Đây chính là điều sẽ đòi hỏi các nước Âu châu, ngay cả Liên Âu, có một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và dành ra nguồn lực để thực hiện, thay vì như hiện nay chỉ có một chương trình viện trợ nước ngoài mang tính chất vá víu mà chẳng giải quyết được vấn đề.

Trên đây chỉ là một ví dụ về cách con có thể trình bày một vấn đề mà không bảo người khác đúng hay sai, không bảo người khác phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả. Đâu là hậu quả của sự việc đang xảy ra? Vì hẳn là ở đây có một tình trạng đang diễn ra. Chúng ta không thể búng ngón tay để làm cho nó biến mất, cho nên chúng ta sẽ đối phó như thế nào? Chúng ta tự nhìn mình như thế nào, và điều này có nghĩa thế nào đối với những chọn lựa mà chúng ta có thể chọn trong thực tế?

11.5. Ki-tô không có quan điểm cố định

Con có thể chuyển cách thức vừa rồi sang nhiều lãnh vực khác của xã hội bởi vì, con yêu dấu, con không nhất thiết – như một sinh thể Ki-tô – phải có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong tình thế này. Cái nhìn bao quát của con như một sinh thể Ki-tô ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô là con muốn mọi người – mọi người can hệ đến tình trạng này, ngay cả một xã hội hay một dân tộc hay Liên Âu hay Hoa Kỳ hay ai khác nữa – trở nên ý thức hơn để họ có thể có những chọn lựa nhận biết hơn. Và đó là mục đích của con: nâng cao sự nhận biết, chứ không cứ là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên. Cho nên con sẽ hòa nhập một cách tự nhiên vào mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức, chứ không phải tạo ra một kết quả đặc thù như Saint Germain đã nói mấy lần.

Đó là một số gợi ý rất sáng giá cho một số các con đang ở tầng mức này. Thày hoàn toàn nhận ra đây cũng là một thử thách cho con, vì để bước ra ngoài và lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, nó đòi hỏi con phải chữa lành chấn thương nhập đời của con. Nó đòi hỏi con phải khắc phục các ngã tách biệt đó đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác. Như các thày đã nói mấy lần, con cần khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Một lần nữa con yêu dấu, tại sao các thày đã không cho con những lời dạy này mười năm về trước? Bởi vì vào lúc đó, các thày chưa cho con các dụng cụ để con có thể thực hành lời dạy. Giờ đây các thày đã cho con các dụng cụ và đó là tại sao các thày cũng cho con lời dạy. Một lần nữa, các thày đã phải làm việc một cách tuần tự. Các thày làm vậy vì nhiều lý do và như các thày có giảng, các thày rất vui mừng có được một số lượng không phán xét trong các con đã vươn lên đến mức sẵn lòng tiếp nhận lời dạy, suy ngẫm lời dạy, học sách, áp dụng các kỹ thuật và thực sự bỏ ra nỗ lực mà nhiều các con đã bỏ ra để chữa lành chấn thương nhập đời đó.

Hãy đừng nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Đừng bị nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt khởi lên trong con. Sứ giả này đã làm việc trên tâm lý mình nhiều hơn hầu hết mọi người suốt 40 năm trời và ông đã khắc phục được chấn thương nhập đời của ông, nhưng ông vẫn có ngã tách biệt khởi lên. Lẽ tự nhiên nếu con đã sống nhiều, rất nhiều kiếp trên trái đất này, đã có rất nhiều trải nghiệm khó khăn trong nhiều kiếp, thì con đã tạo ra nhiều ngã tách biệt và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết. Vậy có sao đâu, con yêu dấu?

11.6. Con được phép không lên tiếng

Điều thày sẽ làm bây giờ với bài truyền đọc này là thày cho phép con bỏ qua một bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Thày cho phép con, nếu con muốn, bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Thày làm điều này vì thày muốn con có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp mà một số các con đã xây dựng, qua đó con đã phần nào xung đột hay ít ra có mối quan hệ đối nghịch với nhiều người khác. Con yêu dấu, thật không cần thiết con phải đi ra khích bác mọi người để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Nếu con nhìn quanh thế giới, con có thể thấy rất nhiều người ở ngoài kia đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn – rất nhiều người như vậy.

Nếu con cứ tiếp tục làm cùng một chuyện và mong đợi là kết quả sẽ khác đi thì con điên rồi đó. Đã có rất nhiều người lên tiếng kiểu này từ rất lâu nay. Chúng ta cần khác hơn. Chúng ta cần một tiếng nói khác. Chúng ta cần những người có khả năng phát biểu một cách khác, như thày vừa vạch ra, bằng cách chia sẻ chính bản thân của mình và trình bày các hậu quả. Nhưng vượt khỏi cả những thứ đó, chúng ta cần những cách lên tiếng khác, chẳng hạn khi con trình bày về một tầm nhìn cao hơn. Thay vì tạo ra cảm tưởng: “Đây là sự thật duy nhất, đây là những gì bạn phải tin, nếu không thì bạn ngu lắm,” thì con có thể nói: “Nhưng giả sử có một cách khác để nhìn sự việc này thì sao? Nếu như có một góc cạnh khác về vấn đề này thì sao? Thế còn điều kia, và thêm điều kia, và điều kia nữa thì sao?”

Đây có thể là một điều quá mới mẻ, quá khác lạ, quá hiếm khi áp dụng, đến độ người ta sẽ ngạc nhiên và bất chợt người ta sẽ nói: “Ừ nhỉ, đây là một điểm chúng ta chưa bao giờ nghe nói tới. Chúng ta lắng nghe xem.” Kỳ thực nó có thể đem vào hiện thực điều mà các thày đã có đề cập về nước Mỹ là các thày mong muốn thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, không những ở Mỹ mà ở mọi quốc gia. Chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, qua đó họ luôn luôn mang sẵn hậu ý muốn mô tả sự việc theo một cách mặc dù họ tuyên bố là họ khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Toàn bộ lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên này từng chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay, các thày mong muốn nhìn thấy nó được thay thế bởi một tiếng nói khác. Thẳng thắn mà nói, nếu chính các con không thể đưa ra tiếng nói khác biệt này thì ai đây sẽ có thể? Để lên tiếng với một tiếng nói khác, con phải khắc phục những ngã tách biệt kia, và các con đây là những người trên toàn hành tinh này đang đến gần nhất với mục tiêu đó. Thày không đang nói vậy để áp lực con mà để cho con một lượng định thực tế. Một số các con khi nghe hay đọc câu nói này của thày sẽ biết liền: “Phải, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Thật ra đây là điều tôi mong muốn. Tôi không bao giờ muốn lên tiếng theo cách tôi đã từng làm, cách này luôn luôn cho tôi một phản ứng tiêu cực. Tôi đã muốn tìm một tiếng nói khác để lên tiếng và giờ đây tôi bắt đầu nhìn ra. Chắc chắn tôi sẽ làm việc trên bản thân mình cho đến khi tôi tìm được tiếng nói nội tâm của tôi, tiếng nói đích thực của tôi. Và khi tôi tìm thấy, tôi sẽ lên tiếng. Tôi nhất định sẽ lên tiếng.”   

Với lời này, con yêu dấu, thày cảm ơn con đã dành sự chú ý, đã hiện diện ở đây hay trên làn sóng trực tuyến. Thày cảm ơn tất cả những ai đã đón nhận các lời dạy mới từ quyển sách Các kiếp của tôi trở đi và đã sẵn lòng đem ra áp dụng. Thày biết là nhiều người trong các con đã nghiệm thấy những tiến bộ to lớn. Một số các con còn bày tỏ là ngày hôm nay con không thể nào tin được mình đã đổi khác đến chừng nào so với một năm trước. Đây là niềm vui lớn nhất của các thày: nhìn thấy học trò của mình đón nhận giáo lý và sử dụng để vươn lên cao hơn, qua đó con cảm thấy mình có tiến bộ, mình có an bình. Sự kiện một số người đã ngộ đạt như vậy trong vòng một năm có nghĩa là tất cả các con cũng đều có thể làm được trong một thời gian vừa phải. Không có một người nào ở đây, không có một người nào đã đón nhận các lời dạy này mà không mang tiềm năng đạt được trạng thái an bình đó trong một thời gian tương đối ngắn – ngắn hơn rất, rất nhiều so với thời gian con đã bước chân trên đường tu tâm linh, ít ra đối với những ai đã bước chân được vài năm.

Lẽ tự nhiên, nếu con chỉ mới nhập cuộc vào tuần rồi thì sẽ không hẳn là như vậy. Dẫu sao thì con yêu dấu, các thày vô cùng phấn khích – nếu chúng ta có thể dùng từ này cho một chân sư thăng thiên không thể nào nản chí. Các thày rất vui mừng nhìn thấy tiến bộ mà tất cả các con đã có. Mặc dù một số các con có thể cảm thấy mình tiến bộ chưa đủ, nhưng thày có thể cam đoan với con là con đã có tiến bộ, và bước đột phá mà con đang tiến đến, nó gần hơn là con tưởng. Với lời này, con hãy nhận sự biết ơn của thày. Con hãy nhận Ngọn lửa Vui mừng của thày, vì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với các con theo cách này, được trải nghiệm các con, con yêu dấu. Trải nghiệm chính các con.

Đây là niềm vui lớn cho thày. Thày sẽ nói là tất nhiên con không nên nghĩ là khi thày phát biểu qua trung gian một người sứ giả, đây là thời điểm duy nhất thày có thể trải nghiệm con. Thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào nhưng thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết. Nếu con lấy nội dung bài thỉnh này cùng với bài truyền đọc trước về cách vận hành của con – mong muốn trốn tránh các chân sư – thì tất nhiên là thày sẽ tôn trọng. Kỳ thực, một số các con có thể được trợ giúp bằng cách quyết định mời thày đến trải nghiệm con. Có thể con sẽ chỉ cần, một lúc nào đó khi con yên lặng, nhắm mắt lại, trụ vào tim và nói: “Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.” Có lẽ khi làm vậy, con sẽ có thể trải nghiệm được thày và thày nghĩ việc này sẽ làm con vui.

9 | Đã đến lúc con biểu lộ quả vị Ki-tô

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, và thày tới đây hôm nay để trao truyền một phần nữa của những bài giảng mà thày dự định trao truyền trong hội nghị này chung quanh đề tài làm sao là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Giờ đây thì các con đã nhận được một bài giảng tuyệt vời và đa diện của Chân sư MORE sớm ngày hôm nay. Bài giảng đó quả thực có nhiều lớp, nhiều tầng cấp để các con suy ngẫm. Con thực sự có thể nói là bài giảng đó diễn tả đầy đủ con đường tâm linh. Nếu con thể nhập hoàn toàn mọi khía cạnh của bài giảng đó, thì câu hỏi là con có cần gì thêm nữa chăng.

9.1. Là Ki-tô mà không cuồng tín

Tất nhiên, vì Chân sư MORE là người trao truyền bài giảng, thì có thêm nữa có thể được trao truyền. Lẽ tự nhiên, giáo lý về ngã gốc cốt yếu cho việc là Ki-tô hành động. Con hãy hình dung một nhóm chiến sĩ Cơ đốc giáo tham dự Thập tự chinh đang ngồi trên yên ngựa bên ngoài một ngôi làng ở miền Trung đông. Họ đặt tâm vào trạng thái hỗn loạn và hầu như đồng thanh hét lên: “Đây là ý muốn Thượng đế!” Sau đó, họ rút kiếm, phi ngựa vào ngôi làng và giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tin rằng họ làm việc này nhân danh Ki-tô và để phục vụ Ki-tô. Họ có phải là Ki-tô hành động không? À, lẽ dĩ nhiên các con biết là không. Tuy nhiên con cần tự hỏi: “Làm sao tôi có thể là Ki-tô hành động mà không đi vào trạng thái tâm bất quân bằng vì quá hăng hái, quá nhiệt thành, gần như là cuồng tín?”

Chân sư MORE có nói đến các đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, và các đệ tử đã phản ứng như thế nào trong các tổ chức đó. Các thày đã thấy nhiều đệ tử trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến họ đã bước ra hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động, tuy rằng một số các đệ tử này tin chắc là họ đang biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tất nhiên các thày đã trao cho con chìa khóa cốt yếu để tránh phản ứng đó. Đó là con cần khắc phục ngã gốc và các ngã khác được tạo ra sau ngã gốc. Cái ngã nhất định cần an toàn, lẽ dĩ nhiên, có thể khiến con trở nên cuồng tín. Một khi con đã xây dựng ý niệm an toàn dựa trên một hệ thống hay niềm tin vỏ ngoài nào đó, thì con không muốn mất đi sự an toàn đó. Do đó, con trở nên cuồng tín chống trả tất cả những gì con nghĩ đang đe dọa ý niệm an toàn đó. 

Quả thật con cũng có thể có một ngã nữa, như các thày đã giảng, quan tâm không muốn bị sai, không muốn bị chứng tỏ là mình sai, muốn mình không bao giờ sai. Vì sa nhân cho con cảm tưởng là con sai trong kiếp đầu thai đầu, nên ngã đó lúc nào cũng muốn làm đúng. Một khi nó đã tự thuyết phục chính nó là nó đã làm đúng hay đang làm đúng, thì nó rất, rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai chăng.

9.2. Người tốt khó cứu rỗi nhất

Con yêu dấu, hai ngàn năm trước đây, thày có một lời tuyên bố khá bí hiểm là một tội đồ dễ được cứu rỗi hơn là một phú ông được vào thiên đàng. Lẽ tất nhiên, khi thày nói “phú ông” thì thày không nhất thiết chỉ một người có tiền của, nhưng là một người cảm thấy mình đã làm nhiều điều thiện. Điều nghịch lý mà ta có thể thấy nơi đạo Cơ đốc, các tôn giáo khác hay ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên, là đôi khi những người rất, rất khó giúp nhất là những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Con hãy nhớ lại lời Chân sư MORE nói về các đệ tử tin chắc là họ xứng đáng được một địa vị trong tổ chức tâm linh vì họ đã lâu năm tham gia tổ chức và chuyên cần theo đúng những thực tập vỏ ngoài và làm đúng mọi chỉ thị. Con có thể thấy một thí dụ, nhưng con cũng có thể vào các giáo đoàn Cơ đốc giáo và thấy những người suốt đời tin chắc là họ đang làm việc thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, họ đang theo lời răn của Ki-tô hãy thương yêu người láng giềng, hãy cư xử tốt với mọi người, hãy tham gia vào công việc từ thiện. Có nhiều vị linh mục Cơ đốc giáo, và nhiều tín đồ không phải là linh mục nhưng đã tham gia vào việc từ thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, cho rằng vì họ đã phụng sự, đã cư xử tốt và suốt đời làm nhiều điều tốt, nên họ bảo đảm sẽ được cứu rỗi trên căn bản những hành động vỏ ngoài đó.

Lẽ tất nhiên, thày có tuyên bố một số câu có thể được diễn giải để mở khóa hiểu biết là điều này không đúng. Vương quốc của Thượng đế ở bên trong ta. Cái gì ở bên trong ta? Đó là tâm hồn của con. Ấy, nếu con không giải quyết tâm lý, khắc phục tất cả các ngã, thì làm sao con vào được vương quốc? Con thấy chăng, điều này, một lần nữa, dính liền với bài giảng của Chân sư MORE về sự tha hóa của đạo Cơ đốc đã tạo ra con đường vỏ ngoài, giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động và bảo đảm. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo theo con đường vỏ ngoài này vì họ không có gì khác và hoàn toàn tin tưởng rằng một khi họ làm tất cả những điều vỏ ngoài đó thì họ đương nhiên sẽ được vào vương quốc sau kiếp sống này.

Đây không phải là mối quan tâm chính của bài giảng này của thày, thày chỉ nêu ra như một ví dụ. Mối quan tâm chính của thày, lẽ tất nhiên, là các đệ tử chân sư thăng thiên. Con cần nhận ra ở đây là một số các con, khi con gánh chịu chấn thương nhập đời hay các biến cố tạo nên chấn thương đó, thì sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm điều gì sai, hay con đã sai lầm khi có mặt trên trái đất, con đã sai lầm khi tới đây.

9.3. Không muốn bị sai

Chuyện luôn luôn xảy ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Như các thày có giảng, một khía cạnh của ngã gốc là con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm chuyện này nữa.” Con làm gì lúc đó? Con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai. 

Con yêu dấu, con đã làm gì sau đó? Qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa, bởi tôn giáo của con bằng cách làm việc từ thiện, giúp đỡ người khác, vân vân và vân vân. Lẽ tất nhiên, dựa trên con đường vỏ ngoài của đạo Cơ đốc, một số các con có động lượng từ các kiếp trước tin rằng nếu con làm các chuyện vỏ ngoài đó, nếu con phụng sự như vậy, thì con chắc chắn hội đủ điều kiện để thăng thiên.

Các thày đã nói đi nói lại điều gì? Khi con đứng trước cổng vào thiên đàng, nếu con muốn dùng hình ảnh đó (và các thày biết con cần một hình ảnh, nhưng đó chỉ là một hình ảnh) thì con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên và con phải chọn lựa đi qua cổng đó. Con phải lấy một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa tự do, con yêu dấu. Làm sao con, cái Ta Biết, lấy một chọn lựa tự do? Con chỉ làm được khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con. Cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai vì đã luôn luôn làm điều tốt, nó đang ngăn cản con thăng thiên – nếu con không buông bỏ được nó. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Lẽ tất nhiên, con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình. 

Con yêu dấu, con thấy chăng là các thày đã trao truyền giáo lý là các thày thương yêu con vô điều kiện. Các thày chấp nhận con vô điều kiện, nhưng nếu con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của các thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, cảm giác là có một số điều kiện sẽ khiến con bị sai, ngay cả ý niệm là con có thể sai. Con không thể thăng vượt ý niệm đó nếu con vẫn còn cái ngã đó, vì ngã đó không thể chất vấn lập trình cơ bản, ảo tưởng cơ bản đã tạo ra nó.

Cái ngã không thể chất vấn lập trình đó. Khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Con, như cái Ta Biết, có thể bước ra ngoài ngã và thày trao truyền giáo lý đặc trưng này để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên. Một là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ, lúc nào cũng đấu tranh với người khác, làm bất cứ điều gì con muốn mà không màng hậu quả. Nói cách khác con là một người mà một số các con gọi là người xấu. Có một điều khác ngăn cản con bước vào thiên đàng, đó là con là một người mà một số các con coi là người tốt, con muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không “đúng”, theo nghĩa nó không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó. Điều duy nhất có thể phá bế tắc là cái Ta Biết bằng cách nào đó được cảm hứng, được thúc đẩy để bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là một cái ngã, và chỉ có ngã đó tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng. Khi con, cái Ta Biết, nhận ra điều này, thì con nhận ra là ngã đó không phải là con. Con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên.

Vì sao con không thể mang nó theo con vào cõi thăng thiên? Vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế. Không ai có thể trở về thiên đàng trừ những ai đã xuống từ thiên đàng. Không có ngã nào – không có ai – có thể trở về thiên đàng trừ cái ta đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ. Chuyện thật giản dị như vậy đó. Đó chỉ là một cái ngã, nhưng thày cần con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nó chỉ là một ngã khác mà con cần buông bỏ. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động. Vì con đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Nói cách khác, hành động của con có tính chất vị kỷ. Hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là quả vị Ki-tô, không phải là tâm thức Ki-tô.

9.4. Con đã là Ki-tô hành động

Điều này đã được nói ra, và thày muốn đi sang phần khác. Thày nhận ra, như Chân sư MORE có nói, là mỗi khi các thày trao truyền một giáo lý, thì có nhiều người trong các con ngồi nghe, tìm hiểu giáo lý nhưng vẫn có cảm giác có một khoảng cách. Các thày đã trao truyền dụng cụ để con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, và khi con làm xong thì khoảng cách sẽ biến mất. Nhưng thày vẫn muốn đưa thêm vài nhận xét ở đây, vì thày muốn con nhận ra là tất cả các con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và đa số các con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Chỉ là con không ý thức điều này, và con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động. Con đã là Ki-tô hành động một số lần, có thể là với một số các con chỉ xảy ra một ít lần, nhưng tất cả các con đã từng là Ki-tô hành động. 

Điều này lại liên quan đến một khía cạnh khác của đạo Cơ đốc giả, đó là sự sùng bái vĩ đại được dựng lên chung quanh con người thày. Giê-su được đặt lên trên bệ cao như người Con của Thượng đế, một người sinh ra đã toàn hảo, vân vân và vân vân. Một con quái vật rất dũng mãnh đã được tạo ra trong tâm thức tập thể cho rằng muốn là Ki-tô thì con hầu như phải toàn hảo. 

Một số các con cũng đã tạo ra ngã đó, một ngã tương tự. Đúng thực là đa số các con phần nào có ý tưởng là con chỉ có thể được cứu rỗi, vào thiên đàng hay thăng thiên khi con đạt được tiêu chuẩn gần như siêu nhân đó. Do đó, con cảm thấy là khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ý niệm nguyên thủy về Ki-tô là gì? Ý nghĩa việc Ki-tô đầu thai, nhập vào xác thịt là gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt đó.

Như các thày đã giảng, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con. Khi điều đó xảy ra thì con là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con, để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con. Như thày có nói: “Tự ta không làm được gì, đó là cha ta (Hiện diện TA LÀ, Thánh linh) làm việc.” Nó làm việc khi con có cửa mở trong tâm thức của mình.

Như các thày có giảng, con không thể ép việc này xảy ra. Con thực sự không thể làm gì. Con không thể tạo ra một con đường máy móc tự động dẫn con tới điểm con là cánh cửa mở. Con không cần ép nó xảy ra, con chỉ cần ngưng không ép nó không xảy ra. Sự thực là nó mưa xuống cả người công chính lẫn người bất chính. Tánh linh lúc nào cũng tuôn xuống từ Trên cao. Như thày có nói: “Ta sẽ xin Cha ta và ngài sẽ gửi các con một đấng an ủi khác.” Khi thày thăng thiên, một phần động lượng của thày, Tánh linh của thày, được rải truyền xuống trái đất và nó vẫn tuôn xuống trong suốt hai ngàn năm qua. Con không cần hội đủ điều kiện nào để nhận nó, con cũng không thể ép nó tuôn qua con.

Tánh linh lúc nào cũng rải xuống. Con chỉ cần có cửa mở trong bốn thể phàm để Tánh linh có thể tuôn vào. Tất cả các con đã có lúc thoáng nhận, vì lý do nào đó, ngã vỏ ngoài được gạt qua bên, cái Ta Biết bước ra ngoài trạng thái tâm bình thường của nó, trạng thái đồng hóa với một ngã vỏ ngoài bình thường của nó, và bỗng nhiên có một cái gì khác tuôn vào. Cái “gì khác” đó, lẽ tất nhiên, là ý nghĩa thế nào là Ki-tô hành động. Đó là lúc con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người. Đa số con người chưa bao giờ trải nghiệm cái gì khác, cái gì cao hơn trạng thái nhận biết bình thường. Thày nói các con trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận, nhưng con cũng có thể trao tặng người khác bất cứ trải nghiệm nào vượt quá trạng thái tâm thức bình thường của họ. Đó là biểu đạt Ki-tô, đó là Ki-tô hành động.

9.5. Vượt lên trên hình ảnh cố định về Ki-tô

Việc đó có nhiều hình thức, con yêu dấu, và chìa khóa là mở tâm, là dụng cụ để tâm thức Ki-tô biểu hiện, đó cũng là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào. Các thày đã trao cho các con khái niệm là thày đã làm việc đó bằng nhiều cách. Thày đã trao cho một người một ly nước lạnh vì đó là gì người đó cần lúc đó, nhưng thày cũng trao cho người đó cảm giác y được chấp nhận, và đó là điều mà người ấy trước đó chưa từng có, và đó là phần phụ trội vượt quá ly nước.

Có quá nhiều đệ tử tâm linh, và đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đã dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Họ đã tạo ra một hình ảnh rất, rất, rất cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng họ cũng như là thày khi thày hiện thân trên thế gian. Nhiều người trong họ sẽ sững sờ nếu họ gặp thày khi thày hiện thân. Niềm tin của nhiều người sẽ bị lung lay, như niềm tin của nhiều Ki-tô-hữu bị lung lay nếu họ thấy thày như thày thực sự là lúc đó.

Điều con có thể làm được, là dùng cái Ta Biết để nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào. Con thấy trong kinh điển là có những người đã bài bác thày vì thày uống rượu, vì thày sinh ra ở Nazareth, vì thày đã làm chuyện này chuyện kia. Có những người đã bài bác thày vì hình dạng của thày, cách thày phục sức, cách thày cư xử, cách thày phát biểu.

Con yêu dấu, lúc nào cũng sẽ có người tìm thấy lỗi nơi người sứ giả, người đại diện Ki-tô. Điều này tất nhiên bắt nguồn từ sa nhân luôn luôn phán xét Ki-tô Hằng sống. Chính sa nhân và thái độ của họ đã tạo ra thái độ rất phán xét mà con tìm thấy nơi nhiều tổ chức tâm linh, kể cả, lẽ tất nhiên, các tổ chức mà Chân sư MORE đã phơi bày trong bài giảng trước. Con cần trung thực nhìn xem con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào, vì đó sẽ là một trong những lý do vi tế nhưng hữu hiệu nhất để đóng cửa không cho Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy. Thánh linh thổi nơi muốn, không phải nơi con muốn, không phải nơi ngã vỏ ngoài muốn và chắc chắn là không phải nơi sa nhân muốn nó tuôn chảy – vì sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy gì hết.

Điều bí ẩn đơn giản là con có thể nói là sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy và phần lớn họ đã thành công trong việc này. Vì sao Thánh linh không làm gì để cải sửa việc này, như một câu hỏi đã nêu lên hôm nay? “Vì sao Thượng đế không thay đổi kế hoạch của ngài để thuận theo ý kiến của tôi về vũ trụ?” Đó là cốt yếu của tâm thức sa ngã: “Vì sao Thượng đế không thay đổi để tôi không phải thay đổi?” Con có thể nói là Thánh linh đáng lẽ phải làm điều gì để giải tỏa tình trạng bế tắc mà sa nhân đã đặt hành tinh này vào.

Thánh linh tôn trọng quyền tự quyết, và do đó con có thể nói là câu: “Thánh linh thổi nơi nó muốn” không nói lên một hiểu biết đầy đủ. Câu này được đưa ra để cho thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Mặt khác, như thày vừa giảng, Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, vấn đề chỉ là khi không có khe mở thì nó không thể biểu đạt trong bát cung vật lý, và đúng thực là ngay cả trong cả ba bát cung trên cũng vậy.

Đó là lý do vì sao Thánh linh chờ dịp một người mở cửa để nó tuôn chảy. Khi cửa được mở thì dòng chảy có mặt. Các thày đã trao cho các con nhiều ý tưởng, nhiều dụng cụ, và khi con phối hợp với các dụng cụ về chấn thương nhập đời và ngã gốc, thì con sẽ có thể tiến bộ rất, rất đáng kể. Con có thể tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con chỉ đơn giản để nó xảy ra và con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì không những dòng chảy sẽ có mặt mà thêm nữa con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

9.6. Phân tích mình một cách quá đáng

Giờ đây, lúc khởi đầu con quả thực có thể thấy một số quan tâm khởi lên, và nhiều người trong các con đã có kinh nghiệm này. Con đứng trước một hoàn cảnh, và con cảm thấy có một dòng chảy khác thường xuyên qua con, khác với tâm thức bình thường của con. Sau đó, con phân tích và lượng định: “Tôi làm như vậy có được chăng? Đó có phải là biểu lộ cao nhất của Ki-tô chăng? Đó có thật là Ki-tô chăng? Tôi có nên không hành động như vậy chăng? Tôi có nên không nói điều đó chăng?”

Con cần phải sẵn sàng nhận ra là khi con bắt đầu dám biểu lộ mình nhiều hơn, thì con sẽ có những thách đố tương tự khởi lên sau đó. Lúc đó, con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Và con dùng công thức: nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi – con để nó chết đi, con yêu dấu.

Con thấy chăng, khi con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, thì tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Con sẽ tới điểm con nhận ra rằng: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”  

9.7. Không có biểu đạt Ki-tô tối hậu

Có một bước quan trọng trước khi con tới điểm đó, đó là con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Con yêu dấu, nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. 

Vậy điều này nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là khi con có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Đó là điều mà Chân sư MORE đã giảng sáng nay, là có một số đệ tử đã đi vào tâm thái phán xét, thực sự có nghĩa là họ đã dùng tâm phản-Ki-tô để tìm lỗi. Con có thể thấy là một số câu hỏi nêu lên chiều hôm nay được đặt với tầng tâm thức thực sự muốn tìm lỗi nơi giáo lý hay vị thày. Lẽ tất nhiên, đây là điều tâm phản-Ki-tô lúc nào cũng làm.

Con cần nhận ra ở đây là ngoài các ngã của con, mà con mang trong bốn thể phàm, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, tìm cách hạ thấp nó. Nó có hai mục đích. Con có một người đang là cánh cửa mở để Ki-tô biểu lộ và con có một hay nhiều người đang tiếp nhận sự biểu lộ đó. Các lực phản-Ki-tô, tâm phản-Ki-tô, muốn gieo nghi ngờ vào tâm những người đang nhận món quà để họ bắt đầu nghi ngờ và ngay cả bác bỏ nó. Nó muốn gieo nghi ngờ vào tâm người đang là cánh cửa mở và đang trao món quà để người đó nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và do đó có thể dần dần quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Con cần giản dị nhận ra là lực phản-Ki-tô này tất nhiên có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Con thực sự cần nhận ra là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Con chỉ cần nhận ra lực này, và biết nó có mặt. Nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Sau đó, con cần nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này, vì, như thày có giảng, các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Nếu con tìm cách trả lời một câu hỏi, thì bảy câu hỏi khác sẽ bật ra. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con. Khi con chưa hóa giải các ngã thì nó sẽ không đi xuyên qua con mà sẽ chạm một trong các ngã đó và phóng đại nó lên. Khi con đã hóa giải các ngã thì con chỉ để nó đi xuyên qua con. Như thày có nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.” Lúc ban đầu, con sẽ được trợ giúp nếu con quay về hướng thày và thực sự hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con và chú tâm vào thày. Con còn không chú ý tới nó nữa.

Giờ đây, tất nhiên đây là một thăng bằng tế nhị vì tự ngã của con muốn nghĩ là nó không thể sai lầm và do đó con không bao giờ cần chú ý đến các lời chỉ trích. Đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Con có thể tập phân biện trường hợp một người giản dị phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô. Con có thể tập nhận ra sự khác biệt. Một người có thể phản hồi để cho con thấy cách họ phản ứng ở tầng tâm thức của họ. Điều này có thể giúp con điều chỉnh cách con phát biểu khi con tiếp cận những người này, dựa trên hiểu biết về trình độ tâm thức của họ. Khi con cảm thấy là lời chỉ trích đơn giản phát xuất từ phản-Ki-tô đang tìm cách hạ bệ con, thì con chỉ để nó đi xuyên qua con.

Khi thày nói là con cần mở tâm đón nhận phản hồi của người khác, thì thày cũng nói điều này một cách thận trọng, vì con không nên phân tích mình quá đáng. Con cần là cánh cửa mở, cần giữ tâm trung hòa, cần ở trong trạng thái tâm trung hòa và để Tánh linh tự biểu lộ. Thành thực mà nói, đây chính là thách thức lớn nhất khi con bắt đầu có thêm quả vị Ki-tô. Con cần không đóng tâm mình nhưng cũng đừng phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát. Đây là một thăng bằng tế nhị. Thày phải đối đầu khó khăn này khi thày hiện thân trên trái đất, tất cả các thày đều gặp khó khăn này trước khi thăng thiên. Con cần đối mặt khó khăn này và giải quyết theo cách của riêng con vì (một lần nữa) không có một biểu hiện tuyệt đối của quả vị Ki-tô. Do đó, con cần nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai. Con không cần đi vào tư duy thắc mắc: “Làm vậy có sai chăng?”

Con cần buông bỏ tư duy này, con yêu dấu, và mặc dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con thực sự sẽ tới điểm con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

9.8. Muốn giúp người khác quá mức

Khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và rất muốn giúp đỡ người khác, thì việc này có thể là một trở ngại cho đường quả vị Ki-tô của con. Khi đó con có tâm thái: “Làm sao tôi có thể giúp người khác.” Vị sứ giả này đã có tâm thái này trong nhiều kiếp sống, kể cả kiếp này, ngay cả sau khi ông đã trở thành sứ giả. Làm sao ông có thể giúp người khác tốt nhất và làm sao ông không gây trở ngại cho Tánh linh thể hiện xuyên qua ông?

Suy ngẫm chuyện này tất nhiên là điều chính đáng, nhưng con phải tìm ra điểm cân bằng tế nhị. Con trước tiên cần làm việc để khắc phục các ngã vỏ ngoài của mình để con được giải thoát khỏi chúng và không cảm thấy bắt buộc phản ứng lại người khác. Con cần tới điểm con thực sự không phản ứng lại người khác và việc họ chấp nhận hay không chấp nhận những gì họ được cống hiến xuyên qua con. Con quan sát, con có thể học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng. Con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của họ vì con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Nhiều người sẽ tới con khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và họ mang một ngã chưa được giải tỏa, và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ đã dùng giáo lý trên con đường tâm linh để củng cố và công nhận giá trị của ngã đó. Giờ đây, họ tới con và họ muốn con cũng công nhận giá trị của ngã đó. Có khi họ giận dữ, có khi họ thất vọng, có khi họ bắt đầu tố cáo con không là đại diện thật của Ki-tô khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ. Con cần nhận ra điểm này. 

Con yêu dấu, thày nhận ra là một lần nữa các thày đã phóng tới con thật nhiều khái niệm. Con không cần chú tâm ngay lúc này đến tất cả những gì thày nói ở đây. Con cần tìm ra một điều trong bài truyền đọc mà con cảm thấy ứng dụng cho con ngay lúc này và con thể nhập điều đó. Con chấp nhận là các điều khác mà thày nói áp dụng cho người khác ở các tầng tâm thức khác. Có khi một số điều mà thày nói không còn áp dụng cho con vì con đã vươn lên trên tầng tâm thức đó. Có khi có những điều sẽ áp dụng cho con trong tương lai khi con đã vươn lên một tầng tâm thức nào đó.

9.9. Không có khoảng cách giữa con và Tánh linh

Như Chân sư MORE có nói, các thày bị giới hạn khi thuyết giảng bằng ngôn từ. Quả thực con cần tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Khi con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, khi con tới điểm mà Chân sư MORE mô tả là con không coi con đường tâm linh xoay quanh cá nhân mình, đó là lúc không còn cơ chế trong tâm con tìm cách lọc lựa những gì đến từ Tánh linh. Lúc đó ngay cả ý niệm là con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia” cũng không còn nữa. Tánh linh đang gửi đến con một cái gì tuôn chảy xuyên qua tâm con. Con có thể vượt qua cảm giác tách biệt. Nhiều người trong các con không thể nắm bắt điều thày đang giảng nhưng một số có thể. Tất cả các con rốt cuộc sẽ có thể nắm bắt điều đó.

Sẽ có một điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Do đó, con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, có dòng chảy và sau đó con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Vị sứ giả này đã nhiều lần được hỏi là ông trải nghiệm thế nào khi nhận một bài truyền đọc và ông đã tìm cách giải thích một cách tương tự. Không phải là ông thấy ông ở dưới đây, thày ở trên kia và thày đang rải truyền ngôn từ từ cõi thăng thiên, ông nghe được trong tâm và phát biểu ra. Không phải vậy, ông và thày đạt được trạng thái Hợp nhất, và ngôn từ tuôn chảy xuyên qua tâm vị sứ giả và ông nghe thấy chúng cùng lúc với khi chúng được nói ra, vì không có khoảng cách. Do đó, khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Trong tiến trình không có khoảng cách. Không có cấu trúc, không có cơ chế. Đó là một dòng chảy trực tiếp, một biểu đạt trực tiếp và con không phân tích nó trước khi nó xảy ra, vậy con cần gì phân tích khi nó đã xong? Con chỉ để nó tuôn chảy và sau đó để nó là như nó là, để con là như con là, để người khác là như họ là. Hãy để họ phản ứng theo cách họ phản ứng. Khi con trung hòa khi món quà được trao tặng, thì nó xứng đáng được trao tặng. 

Lẽ tất nhiên, người khác chỉ có thể nhận đầy đủ món quà khi họ trung hòa, nhưng trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, là cánh cửa mở để trao tặng món quà. Con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó. Đó là trách nhiệm của họ. Khi con đã thấy rõ điều này trong tâm mình, thì con có thể tránh các cám dỗ và phóng chiếu rất rất vi tế đến từ sa nhân muốn đem con tới điểm lần biểu đạt quả vị Ki-tô đó là lần cuối con cả gan để chuyện này xảy ra xuyên qua con.

9.10. Biểu lộ Ki-tô trên mạng

Thày thực sự có một điều nữa mà thày muốn trao truyền, đó là chúng ta đã tới điểm các thày đã trao truyền đủ giáo lý xuyên qua vị sứ giả này. Trong những người đang theo học giáo lý này, có một số mới gia nhập, một số khác đã học giáo lý này được một thời gian, nhưng các con đã sẵn sàng bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô một cách trực tiếp hơn. Lẽ tất nhiên, có rất, rất nhiều cách để làm việc này nhưng chắc chắn một trong những cách đó là qua mạng Internet.

Trong khóa học về quả vị Ki-tô của thày (sách Chìa khóa chính yếu để đạt quả vị Ki-tô cá nhân) thày đã đề ra cho những ai hoàn tất khóa học công việc viết lại câu chuyện cuộc đời mình. Với hiện tượng viết blog trong thời hiện đại, tại sao không viết câu chuyện này như một blog?

Tại sao không tạo ra một trang mạng hay một blog lấy giáo lý chân sư thăng thiên và áp dụng vào một lãnh vực cá biệt? Con cũng có thể lấy một lãnh vực cá biệt, tìm kiếm tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền liên quan đến lãnh vực đó, lấy ra tất cả những điều mà các thày đã nói và để các ý đó vào một trang mạng. Con có thể viết lại một cách trung hòa với ngôn từ của chính con để người đọc không cần phải tin các chân sư thăng thiên hiện hữu, hay con cũng có thể trích dẫn lời các thày nếu con ghi rõ xuất xứ. Có rất nhiều cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô, và qua đó tiếp xúc được nhiều người hơn là con có thể tiếp xúc tận mặt. Đây cũng có thể là một cách để con luyện tập cách con biểu lộ quả vị Ki-tô và quan sát những phản ứng khởi lên trong con. Con cũng có thể thành lập, nếu con muốn, một nhóm người để hỗ trợ lẫn nhau. Một số các con có kinh nghiệm dùng máy điện toán và có thể giúp những ai ít có kinh nghiệm, và do đó các con bắt đầu hỗ trợ lẫn nhau. Các con cũng có thể giúp lượng định lẫn nhau, phản hồi tới các người trong nhóm, và qua đó chia xẻ nhiều, nhiều điều. Con có thể tạo ra một hiện diện trên mạng Internet hiện chưa có, chưa bao giờ có mặt trên mạng vì các con tới từ những quá trình khác nhau nhưng cũng có những điểm tương đồng, một sự hợp nhất thâm sâu với những điều các con phát biểu, vì các con đã đạt được một trình độ sáng suốt và nguyên vẹn, đã chữa lành tâm lý và buông bỏ các ngã vỏ ngoài.

Đã đến lúc các thày khuyến khích các con làm công việc này. Lẽ tất nhiên các con có quyền tự quyết. Thượng đế không muốn con người bị ép buộc. Các thày không muốn các con tự ép buộc mình làm việc này nhưng quả thật là một số các con đã sẵn sàng làm việc này dưới hình thức nào đó. Đã đến lúc các con đứng lên và ngưng ý nghĩ là vị sứ giả là người duy nhất phải dựng lên các trang mạng. Con hãy nhận ra là con cũng có tiềm năng, kinh nghiệm và chứng đạt để làm một cái gì đó. Một lần nữa, con nên hiểu rõ. Điều con có thể biểu đạt lúc này không phải là biểu đạt tối hậu của Ki-tô, nhưng khi con biểu đạt nó bây giờ thì con có thể hoàn chỉnh nó. Nếu con không biểu đạt nó lúc này thì con sẽ không có cơ hội hoàn chỉnh và con sẽ không tiến triển.

Con hãy xem xét trở lại tình huống bữa tiệc cưới ở Cana. Lúc đó thày đứng trước một ngã rẽ trong cuộc đời. Thày sẽ bắt đầu sứ vụ công chúng của thày hay thày đình chỉ nó? Ấy, nếu lúc ấy Mẹ Mary không thúc bách thày, thì thày đã không làm được việc đó. Thày đang thúc bách con. Nếu thày không chấp nhận sự thúc bách của Mẹ Mary và cả gan tiến hành sứ vụ của thày, thì có chăng một tấm gương ở đầu thời Song Ngư để con người noi theo? Ấy, có thể là thày sẽ làm sau đó – có thể.

Con không thể biết ngày mai sẽ ra sao. Con chỉ có thể biết hiện tại, con chỉ có thể hành động trong hiện tại. Có thể bây giờ là “hiện tại”, là lúc con đứng lên và biến nước lã của tâm thức thế gian trong một lãnh vực nào đó của cuộc sống thành rượu của tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con!

Con yêu dấu, tới đây thì thày cảm ơn con đã chú tâm nghe bài giảng này, thày cảm ơn con đã sẵn sàng làm chiếc loa lan tỏa bài giảng này tới tâm thức tập thể của hành tinh, sẽ đem lại kết quả sâu rộng, vượt quá những gì con có thể biết với tâm vỏ ngoài. Quả thực, con có thể nói là sứ vụ công chúng của thày hai ngàn năm trước đây đã là cực alpha, và những gì các thày đang trao truyền qua tiến trình tiết lộ tuần tự này, không chỉ qua vị sứ giả này và còn xuyên qua nhiều vị sứ giả khác, là cực omega. Khởi đầu của thời đại Song ngư – kết cuộc của thời đại Song ngư, nhưng thực sự, thời Song ngư không thể tới kết cuộc trọn vẹn khi chưa có một biểu đạt công chúng của giáo lý thực của Ki-tô.

Con có thể là một thành phần của biểu đạt đó, một phần của làn sóng công chúng khi bỗng nhiên mọi người có cơ hội giáp mặt giáo lý thực của Ki-tô, một cơ hội mà họ không có được trong suốt thời Song ngư. Khi con người được nhận cơ hội đó, thì lúc ấy chung cuộc sẽ tới, không phải là chung cuộc của thế giới, mà là chung cuộc của thời Song ngư. Lúc ấy, hành tinh có thể hoàn toàn bước vào thời Bảo bình. Chúng ta có thể bắt đầu chú tâm xây dựng thời Hoàng kim của Saint Germain thay vì tìm cách đuổi kịp, cứ tìm cách hoàn tất tất cả những điều chưa được hoàn thành trong thời Song ngư.

Con có thể quan tâm là con đã sẵn sàng làm chuyện này chưa, con có xứng đáng làm việc này chưa. Những quan tâm này bắt nguồn từ ngã gốc và các ngã khác. Do đó, thày chỉ có thể nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta, và ta sẽ biến con thành người chài lưới đàn ông, đàn bà và trẻ em.”

5 | Chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao cho các con một bài nữa trong số các giáo lý mà thày có ý định trao truyền trong hội nghị này dưới chủ đề làm sao là Ki-tô Hằng sống hành động. Giờ đây các con yêu dấu, khi thày trao truyền quyển Chìa khóa cơ yếu đưa tới quả vị Ki-tô cá nhân, thì thày ở trước tình trạng mà thày có đề cập tới sáng nay, đó là các thày cần nhận ra con người đang ở tầng tâm thức nào – tâm thức tập thể ở tầng nào, các người tâm linh ở tầng nào, các giáo lý nào đã được trao truyền trước đây, giáo lý nào có thể trao truyền bây giờ. Thày đã trao truyền một khóa học với mục đích đi tới con người (ngay cả một số người có quá trình Cơ đốc giáo và do đó đã lớn lên với một cái nhìn truyền thống về Ki-tô và đạo Cơ đốc) và cho họ một giáo lý có thể giúp họ tiến gần hơn quả vị Ki-tô.

Khóa học đã giúp một số người đã sẵn sàng, nhưng lẽ dĩ nhiên vào lúc đó, không có khóa học nào có thể đưa những người chưa sẵn sàng vượt trở ngại và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô. Lý do là vì, như thày có giảng sáng nay, nếu con chưa chạm trán, thấy rõ ngã gốc và để cho nó chết đi, thì con không thể bắt đầu dám biểu lộ quả vị Ki-tô, vì con không có tự do biểu lộ nó.

5.1. Là Ki-tô nghĩa là gì

Bây giờ thì các thày đã trao truyền giáo lý về ngã gốc, nên lẽ dĩ nhiên các thày có thể giảng cho các con nhiều hơn về thế nào là Ki-tô Hằng sống. Trên căn bản, Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Có nghĩa là con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Đúng thực là khi con còn ngã gốc, thì như thày có giảng năm ngoái, nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Ta có thể nói là khi con còn ngã gốc, thì con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp. Thậm chí con sẽ dùng giáo lý tâm linh để tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó. Do đó, con không thể thực sự là Ki-tô vì Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Nếu con không nối kết với cõi tâm linh thì con không thể là người trung gian. Mặt khác, nếu con không có tự do để biểu lộ bất cứ xung lực nào chảy qua đường dây nối kết đó, thì con cũng không thể là người trung gian, ít ra là con không thể là người trung gian hoàn toàn. Con có thể nói: “Vậy thì làm sao con người có thể đạt được phần nào quả vị Ki-tô khi chưa có giáo lý về ngã gốc?”

Ấy, lý do là, lẽ dĩ nhiên, không tuyệt đối cần thiết có giáo lý về ngã gốc để khắc phục được ngã gốc. Các thày đã trao cho các con dụng cụ gì để khắc phục ngã gốc? Nó dựa trên nguyên liệu chính trên con đường tâm linh: sự quán sát chính mình.

Qua các thời đại, đã có một số người, một số ít người, đã có thể sử dụng khả năng của cái Ta Biết bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại và quán sát chính nó, quán sát cái ngã vỏ ngoài, từ bên ngoài. Do đó, con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó, và do đó, con có thể, lẽ dĩ nhiên, biểu lộ một phần quả vị Ki-tô. Một số các con đã làm điều này trước khi con nhận được giáo lý này. Tuy nhiên, các thày trao truyền giáo lý này vì đã đủ túc số những người sẵn sàng nhận giáo lý và có thể sử dụng nó để gia tốc sự tăng triển của họ, và tới điểm, thay vì chỉ chợt thoáng có quả vị Ki-tô, thì họ có thể biểu lộ nó một cách liên tục hơn. Nhiều người trong các con đã đạt được một thành quả tâm linh nào đó trong những kiếp trước và đã thiết lập được đôi chút nối kết nội tâm. Do đó, con đã có thể đôi khi biểu lộ quả vị Ki-tô. Trong nhiều trường hợp, con đã không làm được đến mức tối đa, là điều con mong muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

5.2. Món quà tiềm ẩn của Ki-tô

Bây giờ thì thày trao cho con một giáo lý giúp con tiến xa hơn trong việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Tất nhiên, thày giả sử một lần nữa là con học một cách nghiêm túc, và con đã dùng những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong quyển Các kiếp sống của tôi và quyển Chữa lành chấn thương tâm linh để bắt đầu khắc phục ngã gốc. Một khi con đã bắt đầu khắc phục ngã gốc thì con sẽ dễ hiểu những gì thày giảng ở đây.

Giờ đây con yêu dấu, thày muốn con bước lui khỏi toàn bộ tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, đặc biệt là trong 17 thế kỷ vừa qua từ ngày Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập. Thày muốn con cố gắng bước lui khỏi tất cả những thứ đó – tất cả những diễn giải tân thời về Giê-su và ý nghĩa của Ki-tô. Con hãy bước lui lại và nhìn vào những điều mà con biết về cuộc đời của thày, chuyện gì đã thực sự xảy ra. Thày đã muốn hoàn thành chuyện gì? Thày thực sự muốn cho con người cái gì? Tuy những điều này không được mô tả rõ ràng trong Thánh kinh, nhưng ít ra cũng đã có một số gợi ý trong đó. Thày lúc nào cũng tìm cách cho con người trải nghiệm là có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ. Đó là một công việc rất khó khăn, ít ra thì đó là một công việc không thể hoàn thành một cách tuyệt đối, vì, như các thày đã giảng cho các con, trên trái đất có 144 tầng tâm thức.

Trong kiếp sống đó của thày, trong khoảng 3 năm thày truyền giáo, thày đã gặp những người thuộc đủ 144 tầng tâm thức, hay đúng hơn thì thày ít nhất đã gặp những người ở các tầng tâm thức thấp trong khi thày gặp vài người ở tầng 144. Thày có gặp một số vị đó trước khi thày bắt đầu 3 năm truyền giáo, nhưng trong thời gian thày truyền giáo ở Palestine, thì thày thực sự không gặp ai ở các tầng tâm thức cao. Tuy nhiên, khi con gặp một người ở tầng tâm thức thấp thì con không thể trao cho họ cùng giáo lý mà con trao cho người ở tầng tâm thức cao. Con không đạt được lợi ích gì khi con tìm cách trao cho những người ở dưới tầng 48 giáo lý mà con trao cho người ở trên tầng 48, vì họ sẽ không thể nào hiểu được. Con có nghe câu chuyện thày gặp một người đang khát nước và thày đã không tìm cách trao cho y một giáo lý tâm linh mà thày nhân danh Ki-tô trao một ly nước. Con thấy là thày thay đổi món quà để thích nghi với tầng tâm thức của con người. Tuy nhiên điều thày muốn nói và dạy cho con là có một điều Thánh kinh không nói tới và đa số người tâm linh thần bí thuộc nhóm Thời đại Mới cũng thực sự không hiểu. Đó là khi thày trao cho con người điều gì phù hợp với tầng tâm thức của họ, thày cũng trao cho họ một cái gì khác. Ngay cả khi thày cho một người ly nước lạnh, thày cũng trao cho họ từ thày điều gì đó nhiều hơn là nước. Cái nhiều hơn đó là gì vậy? Ấy thày sẽ trình bày điều này theo hai cách.

5.3. Con không thể hiểu Ki-tô

Nhiều người trong các con, là những người tâm linh, quen học một giáo lý và tìm cách hiểu giáo lý đó. Nếu con nhìn thành phần những người tâm linh và tín đồ các tôn giáo, thì con thấy là có nhiều người nghĩ rằng (đặc biệt là trong thời đại hiện đại này là thời có nhiều người bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ lý luận, duy lý, đường thẳng) vấn đề là hiểu giáo lý. Thày đồng ý là có câu ngạn ngữ: “Chân lý sẽ giải thoát con người”, và con người ngày nay lý giải là chân lý nghĩa là một hiểu biết. Con bị vướng kẹt trong một ảo tưởng, và một khi con có được hiểu biết xóa tan ảo tưởng, thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng. Tất nhiên điều này đa phần đúng. Con có thể vượt qua ảo tưởng bằng cách thấy chúng là ảo tưởng và do đó được giải thoát khỏi chúng.

Có một truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói rằng nếu con cầm trong tay một cái gì con nghĩ là con rắn thì con sợ, nhưng khi con thấy đó là một sợi dây thừng, thì cơn sợ tan biến đi. Câu truyện này có giá trị, nhưng tuy thày cũng muốn trao truyền hiểu biết qua các giáo lý, nhưng đây không phải là điều chính yếu mà thày muốn trao truyền. Thực ra, khi thày trao truyền một giáo lý, thì nó chỉ như một cỗ xe, giống như ly nước lạnh là một cỗ xe. Ly nước lạnh là cỗ xe đem lại món quà mà thày muốn trao cho một người ở một tầng tâm thức nào đó. Khi thày trao truyền bất cứ gì, thì đó là một cỗ xe cho món quà lớn hơn mà thày muốn trao. Món quà lớn hơn đó là gì? Ấy, đây là một câu hỏi mà con có thể đặt ra cho chính mình: “Tôi có thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích của tôi chăng? Tôi có thể hoàn toàn hiểu Ki-tô chăng?” Câu trả lời rất rất rõ và dứt khoát: “KHÔNG!” Con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô. Con có thể hiểu một số khía cạnh và đặc tính của Ki-tô. Con có thể hiểu sự tương phản giữa điều rõ ràng là phản Ki-tô và sự hiểu biết cao hơn về Ki-tô. Có một số chuyện con có thể hiểu, nhưng con không thể nào nắm bắt toàn bộ Ki-tô bằng cách hiểu. “Minh triết là điều chính yếu, và con hãy tìm cầu minh triết với tất cả sức hiểu biết của con.” Câu này có giá trị tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể đưa con đi quá tầng đó.

5.4. So sánh hiểu và nắm bắt

Vì chúng ta đang sống trong thời đại trí năng, nên thày muốn trình bày là có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con có thể hiểu một điều gì đó một cách đường thẳng, phân tích mà không nắm bắt điều đó. Con có câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Ta không thể nhìn ra khu rừng nếu ta nhìn vào các cây.” Con quá chú tâm vào chi tiết và mất đi khả năng bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Tâm đường thẳng, phân tích hay có tác dụng đó trên con người.

Họ quá chú tâm vào các chi tiết được diễn tả bằng lời mà tâm đường thẳng có thể xử lý, phân tích, xếp loại, dán nhãn và xếp gọn ghẽ vào danh mục hay hộp trong kho tài liệu. Vì họ quá chú tâm vào các chi tiết, nên họ không thể bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, các khía cạnh. Con chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô. Nói cách khác, nắm bắt Ki-tô không phải chuyện hiểu, mà là chuyện trải nghiệm, con có thể nói đó là một tiến trình kinh nghiệm. Những điều thày trao truyền cho con người trong kiếp hiện thân, thày luôn luôn tìm cách trao cho họ món quà lớn hơn để họ có thể trải nghiệm là có cái gì vượt xa hơn tâm thức hiện tại của họ.

Ít ra là họ có thể trải nghiệm là thày ở trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Thày ở tầng tâm thức cao hơn, do đó việc ở tầng tâm thức cao hơn là điều khả thi. Lẽ dĩ nhiên, sự trải nghiệm của họ tùy thuộc tầng tâm thức của họ. Một người ở tầng tâm thức thứ 3 không thể nào thấu suốt và trải nghiệm Ki-tô ở mức độ hoàn toàn như một người ở tầng tâm thức 96. Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có thể trải nghiệm là có một bước ở trên tầng của mình, vì con lúc nào cũng có khả năng thấu suốt và trải nghiệm bước ở ngay trên tầng tâm thức của con. Thày tìm cách trao gì cho con người?

5.5. Ki-tô và quyền tự quyết

Đây là nơi con cần sử dụng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền vì thày không thể giảng hết trong một bài truyền đọc. Thày chỉ có thể nói những điểm nổi bật nhất, và con cần tìm những giáo lý giảng tường tận hơn, nếu có một vài khía cạnh mà con không hiểu thấu. Điều mà các thày đã giảng là quyền tự quyết có tính cách tuyệt đối, con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó.

Khi Thượng đế ban cho những phần nối dài của ngài quyền tự quyết, thì ngài không chế ra một tiêu chuẩn quy định thế nào là chọn lựa đúng và chọn lựa sai. Đấng Sáng tạo không có trong tâm ngài sự phán xét là con người phải sử dụng quyền tự quyết như thế nào. Do đó, đấng Sáng tạo ban con người quyền tự quyết, và con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó. Mục đích của đấng Sáng tạo khi làm vậy, lẽ dĩ nhiên, là để tạo ra những phần nối dài của ngài lúc đầu có, điều mà các thày đã gọi một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, và dần dần nới rộng nó ra cho tới khi nó trở thành sự trọn vẹn của tâm thức của đấng Sáng tạo. Mục đích tối hậu của đấng Sáng tạo là tạo ra các đấng Sáng tạo khác. Để có thể tăng triển tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, thì con bắt đầu như một người đồng-sáng tạo với một ý niệm bản ngã hạn hẹp và dần dần tăng trưởng nó lên.

Cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Để tiến trình này được trải bày, các người đồng-sáng tạo phải hoàn toàn có quyền tự quyết vì con phải được làm bất cứ chuyện gì con muốn làm, bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng, bất cứ chuyện gì con hình dung. Con cần được cho phép sáng tạo ra nó, trải nghiệm hậu quả và sau đó dần dần quyết định là con muốn một trải nghiệm càng ngày càng cao hơn. Đó là cách tiến trình này vận hành, đây là cách tiến trình tăng trưởng tâm thức vận hành. Con hiểu là các thày đã trao truyền những giáo lý rất thâm sâu, rất tinh vi về sự thành hình của các bầu cõi. Khi một bầu cõi được tạo ra, thì nó không thường hằng, các sinh thể trong đó không thường hằng, và đó là để họ được cơ hội làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết.

Giờ đây, lẽ tất nhiên làm sao con có quyền tự quyết? Đây là một điểm mà con người thường ngộ nhận vì họ bị sa nhân đánh lừa, vì sa nhân lúc nào cũng tìm cách gây nghi ngờ. Sa nhân muốn con tin rằng có quyền tự quyết có nghĩa là con làm bất cứ điều gì con muốn. Điều này đúng theo một cách nhìn nào đó. Khi con có quyền tự quyết, thì con có thể làm bất cứ điều gì con muốn, nhưng con sẽ làm chuyện này như thế nào? Ấy, con làm một chuyện bằng cách tạo ra một khuôn đúc trong tâm, phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng theo khuôn đúc. Lúc đó con trải nghiệm điều con sáng tạo, hay đúng hơn con đồng-sáng tạo.

Nếu con không trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, thì coi như con đã không lấy chọn lựa nào, con đã không thật sự thực thi quyền tự quyết. Nếu một chọn lựa không có hậu quả, thì đó không là một chọn lựa và con không thể học hỏi gì từ chọn lựa đó. Con chỉ có thể học hỏi bằng cách tạo ra một hậu quả và trải nghiệm hậu quả đó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một chọn lựa giới hạn con và khiến con khó chịu, thì đáng lẽ con không phải trải nghiệm hậu quả đó. Nếu con thực sự có quyền tự quyết, thì đáng lẽ con phải có khả năng tránh những hậu quả.

Con yêu dấu, đây là một điều mà sa nhân không hiểu thấu, và đa số con người, thành thực mà nói, cũng không hiểu thấu vì hành tinh này đã quá bị ảnh hưởng bởi sa nhân. Con lúc nào cũng có thể thoát khỏi hậu quả của những chọn lựa trước của con. Các thày đã từng nói: Bất cứ điều gì con tạo ra, con đều có thể sáng tạo lại cái mới. Con yêu dấu, mánh lới là: “Làm sao con phóng chiếu một khuôn đúc lên Ánh sánh Mẫu-Vật?”

Con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và con phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con ở trong một ý niệm bản ngã nào đó và phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con tạo ra một hậu quả đặc thù là một sự phóng chiếu ra ngoài của ngã đó. Điều mà sa nhân muốn con tin là con có thể tránh thoát hậu quả mà không cần tiêu hủy cái ngã. Sự thực là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con, nhưng cách duy nhất là con thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó . Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại và tạo lại cùng những hậu quả. Chuyện giản dị như vậy đó, con yêu dấu. Chuyện giản dị như vậy đó.

5.6. Tăng trưởng xuyên qua hậu quả

Làm sao con học hỏi? Làm sao con tăng trưởng? Con tăng trưởng bằng cách phác họa một cái ngã dựa trên ý niệm bản ngã hiện tại của con, có thể là một ý niệm bản ngã rất thu hẹp, như cái chấm, và vị kỷ. Con phóng chiếu xuyên qua ngã đó và con trải nghiệm hậu quả. Nếu con muốn có thêm các hậu quả đó thì con tiếp tục phóng chiếu xuyên qua cái ngã đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Khi con chán ngán kinh nghiệm đó thì con có thể bước ra ngoài cái ngã, hay ít ra con có thể mở rộng và tinh luyện ngã đó và tạo ra một kinh nghiệm cao hơn qua ngã mới. Đó là cách vận hành của đồng-sáng tạo. Sa nhân, lẽ dĩ nhiên, đã khiến con người quên đi cơ chế đó. Tuy nhiên, sự kiện đơn giản là: bất cứ gì con đồng-sáng tạo xuyên qua một ngã, thì con có thể thăng vượt bằng cách tạo ra một ngã mới và đồng-sáng tạo qua ngã đó. Sau đó, do những chu kỳ của thế giới vật chất, con sẽ trải nghiệm một hậu quả mới.

Thày cũng đã nói điều gì khác? Thượng đế không phán xét cách con thực thi quyền tự quyết trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nói cách khác, Thượng đế cho phép con đầu thai với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm qua đó con đương nhiên rất chú tâm vào chính mình. Lúc đó, con không có khả năng xem xét là các chọn lựa của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào, ảnh hưởng toàn thể hành tinh hay toàn thể vũ trụ như thế nào. Con không có sự nhận biết đó. Con chỉ chú tâm đến “tôi, đối với tôi, cho tôi.” Những gì tôi làm ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Khi con dần dần mở rộng ý niệm bản ngã của con, thì con càng ngày càng nhận biết các chọn lựa của con ảnh hưởng tổng thể như thế nào. Con càng ngày càng nhận biết là con đích thực là một phần của tổng thể. Do đó, con ảnh hưởng tổng thể, và tổng thể ảnh hưởng con.

Cách con tăng trưởng tâm thức, khi con tới tầng đó, là con tinh luyện ý niệm bản ngã của con để nó càng ngày càng trở nên một với tổng thể, càng ngày càng là Một. Con đi vào cái Một, thay vì chú tâm vào ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt và thăng thiên. Lúc đó, con trở nên một sinh thể thường tồn, và một khi bầu cõi có đủ túc số các dòng sống, các người đồng-sáng tạo đã tới được điểm đó, thì toàn thể bầu cõi sẽ trở nên thường tồn.

5.7. Xây dựng tâm thức Ki-tô

Con cần gì để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ? Ấy, trên cơ bản con cần trải nghiệm là con đã làm đủ, không nhất thiết là tất cả những gì con có thể làm một cách ích kỷ nhưng ít ra là số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó. Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Con đã được ban quyền tự quyết, con đã được ban một khoảng thời gian rất, rất dài để khám phá tất cả các ngõ ngách của sự ích kỷ, của lòng vị kỷ. Khi con đã chán ngán không muốn khám phá các ngõ ngách đó, thì con bắt đầu thăng vượt chúng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm con đi xuống, và khi con đi xuống thì con đi vào giai đoạn trầm mình. Con trầm mình vào trong môi trường, con xây dựng một cái ngã dựa trên môi trường đó. Sau đó, khi con bắt đầu thức tỉnh thì con bắt đầu mở rộng ý niệm bản ngã để nhận biết tổng thể thay vì chỉ nhận biết một phần rất nhỏ của tổng thể. Con làm việc này bằng cách trải qua giai đoạn trầm mình, tự đồng hóa mình với ngã tách biệt, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và trải nghiệm hậu quả. Sau đó, khi con đã chán ngán việc này thì con bắt đầu thức tỉnh. Con bắt đầu nhận biết các hậu quả của mình ảnh hưởng ra sao, đầu tiên là các người khác, sau đó là môi trường lớn hơn nơi con sống, và sau đó toàn bộ bầu cõi. Có thể nói đây là tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là trung gian giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa Tánh linh và vật chất, giữa cõi tâm linh và bầu cõi chưa thăng thiên. Tâm thức Ki-tô nhận biết là có một cõi tâm linh bên trên bầu cõi này. Nó cũng nhận biết bầu cõi là một tổng thể, mọi chuyện đều nối kết với nhau, mọi chuyện là Một. Ngay cả khoa học ngày nay đã nhận ra và chứng minh qua vô vàn thử nghiệm là toàn thể vũ trụ là một tổng thể tương liên. Chưa ai rút tỉa hệ luận triết lý của các khám phá khoa học này, nhưng khoa học đã chứng minh những điều đó. 

Đây là gì con thấy xuyên qua tâm thức Ki-tô – con nhận biết tổng thể. Giờ đây, khi con bắt đầu vươn lên trong tâm thức Ki-tô, thì tất nhiên con cũng bắt đầu có hiểu biết vỏ ngoài giúp con thấy sự tương phản giữa các ảo tưởng nhị nguyên, sự dối trá của sa nhân và nhận biết cao hơn của Ki-tô dựa trên nhận biết tổng thể, tức là tất cả đều nối kết với nhau.

5.8. Làm hòa với quyền tự quyết

Khi con bắt đầu nhận biết điều trên, thì con bắt đầu nhìn thấy rõ các ảo tưởng mà sa nhân đã tạo ra liên quan đến quyền tự quyết. Trong tiến trình này (và các thày đã trao truyền các dụng cụ tâm linh để đối phó với ngã gốc) con sẽ tới điểm làm hòa với quyền tự quyết. Con có thể chấp nhận quyền tự quyết, con cũng có thể làm hòa với việc con sống trên trái đất, con có thể chấp nhận trái đất như nó đang là ngay lúc này.

Làm sao con có thể chấp nhận trái đất trong trạng thái rất bất toàn hiện tại của nó? À, con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận quyền tự quyết, và chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại đang đầu thai trên trái đất. Chúng là sự trải bày của tâm thức tập thể. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm. Như thày có giảng, con cần trải nghiệm một số chuyện để có thể tăng triển. Khi con bước vào nhị nguyên, là chuyện phải xảy ra trên một hành tinh không tự nhiên, thì con cần phải thấy nó trải bày trong vật chất vì con không có khả năng học bằng tâm. 

Các thày có giảng là tất cả các con là sinh thể trải nghiệm. Đó là lý do các thày đã cho con tầm nhìn trong quyển Các kiếp sống của tôi là một số các con đã đầu thai trên trái đất trong một thời gian rất dài. Con có thể suy ngẫm, như thày có nói vào đầu năm, là tại sao cần nhiều thời gian như vậy? Đó là vì con cần có một số kinh nghiệm. Khi con bắt đầu hiểu luật tự quyết, con nhận ra là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà con thấy họ đang kinh qua. Con có thể tới điểm chấp nhận sự việc đó, làm hòa với sự việc đó. Do đó, con tự giải thoát mình khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Con có thể tới điểm nhận ra, như chính vị sứ giả này đã nhận ra, là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Con yêu dấu, chắc con cũng nhận ra là khi một người còn phóng chiếu rằng: “Tôi đau khổ vì những điều kiện bên ngoài”, thì các vị thày tâm linh không thể dạy người đó. Họ chỉ học được khi họ bắt đầu chịu xem xét là có thể có điều gì trong tâm họ đã ít nhất là một phần của sự đau khổ của họ. Con yêu dấu, những người không thể học từ một vị thày tâm linh cần thấy các điều kiện trải bày trong vật chất – dù họ không nhận ra và nhìn nhận là chính tâm thức của họ đã tạo ra các điều kiện đó. Đó là cách duy nhất khiến họ rốt cuộc chán ngán kinh nghiệm này và kêu lên cầu cứu.

Con yêu dấu, con có thể tới điểm nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất. Tuy nhiên, con chỉ có thể tới điểm này khi con đã bắt đầu khắc phục được ngã gốc vì trước đó, ngã gốc sẽ níu kéo con vào việc phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Do đó, con sẽ phán xét các điều kiện này xuyên qua ngã gốc. Lẽ tất nhiên, vì chính ngã gốc đã tạo ra chấn thương và khiến con đau khổ, nên nó chỉ thấy được là các điều kiện đó sai trái và không được xảy ra. Con thấy chăng, con không thể an bình với quyền tự quyết và các điều kiện trên trái đất nếu con nhìn xuyên qua ngã gốc, con chỉ làm được chuyện này khi con bắt đầu tách mình ra khỏi nó.

5.9. Sự chấp nhận của Ki-tô

Con yêu dấu, khi con tới điểm làm hòa với luật tự quyết, thì con cũng tới điểm khác là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người. Đó là, con có thể hiểu được là Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Các con cần chiêm nghiệm để có thể hoàn toàn thấu hiểu điều này vì con đã bị lập trình trong suốt 17 thế kỷ của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Thày nhắc lại một lần nữa. Con đã bị sa nhân lập trình trong 17 thế kỷ để tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện và các điều kiện này được quy định ở đây trên trái đất – có nghĩa đó là những điều kiện có thể hiểu được bằng tâm nhị nguyên, tâm đường thẳng, thậm chí là tâm sa ngã. Lẽ tất nhiên, Ki-tô vượt lên trên tâm đó và do đó các điều kiện đó không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện và tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tâm Ki-tô biết đây không phải là loại hành tinh duy nhất, và có hàng tỷ hành tinh khác. Nó có tầm nhìn rộng lớn hơn và biết rằng những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé tên là trái đất này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Khi con ở trên trái đất, con muốn nghĩ rằng (vì sa nhân muốn con nghĩ là trái đất rất quan trọng) trái đất có lẽ là hành tinh duy nhất có sự sống trong toàn thể vũ trụ và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Trên thực tế, khi con có tâm Ki-tô thì con có tầm nhìn rộng lớn hơn và thấy rằng những chuyện đang xảy ra trên trái đất không ảnh hưởng toàn thể vũ trụ vì hành tinh này quá bé nhỏ và không thể kéo toàn thể vũ trụ xuống theo với nó, vì có hàng tỷ hành tinh khác đang theo một vòng xoáy đi lên. Chuyện đang xảy ra trên trái đất được phép xảy ra vì các dòng sống đang đầu thai trên trái đất chưa chán ngán kinh nghiệm họ đang có trên trái đất.

Giờ đây, khi con có tầm nhìn đó, khi chính con bắt đầu trải nghiệm chuyện đó, thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi: “Ki-tô hay Giê-su (nếu con muốn mật thiết hơn) có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Khi con tự hỏi mình như vậy, và khi con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, thì con có thể trải nghiệm là, đúng vậy, thày, Giê-su Ki-tô, chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thậm chí có một số trong các con đã gặp thày 2000 năm trước, khi các con có tâm thức thấp hơn ngày nay rất nhiều, nhưng thày lúc đó đã chấp nhận con. Trong 2000 năm qua, một số các con đã mang trong mình cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo. Khi con còn nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc của ngã gốc, thì con sẽ không thể khắc phục được ảo tưởng đó. Con sẽ nghĩ (vì ngã gốc chỉ có thể nghĩ như vậy), là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con – nhưng đây là một lời gian dối của sa nhân.

Khi con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi một cách có ý thức. Lúc đó, nếu con mở tim đón nhận thày thì thày sẽ cho con (tùy khả năng tiếp nhận của con) trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người 2000 năm trước đây, và thày muốn trao cho mọi người ngày hôm nay.

5.10. Trao cho người khác sự chấp nhận của Giê-su

Thày đang không đầu thai trong cõi vật chất, vậy làm sao thày trao cho mọi người trải nghiệm này? Thày chỉ có thể vì co. trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Thế nào là Ki-tô đang hành động? Ấy, điều này có nhiều nghĩa, lẽ tất nhiên, nhưng điều thày muốn trình bày trong bài giảng này, là điều đó có nghĩa con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp (bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào) trải nghiệm là con chấp nhận họ như họ đang là và con không phán xét họ.

Giờ đây, thày biết là dù con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, con vẫn còn những cái ngã khác, như các thày đã giảng, mà con đã tạo ra trong những kiếp sống tiếp theo sau kiếp sống đầu. Điều này có nghĩa là nhiều người trong các con cần làm công việc quét dọn và nhìn vào các ngã này và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một tiêu chuẩn nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai, vì có những chuyện chắc chắn đúng và những chuyện chắc chắn sai, phải có chân lý và phải có dối trá, phải có sự sai trái.” Phải có chuyện này và phải có chuyện kia. Con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi những ngã đó vì con cần ghi chặt trong tâm ý niệm duy nhất sau đây: phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Sa nhân không thể có phân biện Ki-tô. Họ muốn con nghĩ rằng con có thể mài dũa phán xét nhị nguyên tới điểm nó cho con vào nước Trời. Chính một số sa nhân đã tin như vậy. Chuyện này không thể xảy ra! Con có thể dùng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền về sa nhân và sự sa ngã và thấy là chuyện này không thể xảy ra.

Phân biện Ki-tô – đúng vậy, có một chân lý tuyệt đối mà phân biện Ki-tô biết. Do đó, phân biện Ki-tô có thể thấy các sai lầm và dối trá. Khi con gặp một người và con có phân biện Ki-tô, thì con có thể thấy là người đó đang ở một tầng tâm thức rất ích kỷ. Người đó có thể tin nhiều ảo tưởng, người đó có thể đang làm một số hành động rõ ràng xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, sau đây là sự nhận biết cốt yếu: dù con thấy trình độ tâm thức của một người, dù con thấy hành động của họ, nhưng con vẫn có thể (khi con ở trong tâm Ki-tô) tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

5.11. Thượng đế chỉ muốn giải thoát con người

Trong một số trường hợp, khi cái Ta Biết của người đó trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của con, thì cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi các ngã thấp kém và ít ra là trong một khoảnh khắc, kết nối trở lại và trải nghiệm nó là một sinh thể vô điều kiện, nó là một sinh thể không hình tướng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào có hình tướng. Con yêu dấu, bất kể con nghĩ gì, hậu quả của việc thực sự làm hòa với luật tự quyết là con nhận ra là Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Thượng đế chỉ có một mong muốn: đó là giải thoát con người.

Điều này có nghĩa là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Do đó, người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là. Thày còn không muốn con chấp nhận người khác với tâm vỏ ngoài. Thày muốn con bỏ tâm vỏ ngoài sang một bên để có thể là cánh cửa mở giúp họ nhận được một xung lực chấp nhận từ thày. Con có chịu để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó? Lúc đó con sẽ có thể bước một bước vĩ đại, một bước quyết định, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Một lần nữa, điều này không có nghĩa con chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác đang làm. Không có nghĩa là con không thách đố người khác. Không có nghĩa là con không phơi bày, một cách bình tĩnh và thẳng thắn, cho họ thấy những gì họ đang làm. Vượt lên trên tất cả các hành động này là sự chấp nhận.

Giờ đây, nếu con xem quyển sách Những kiếp sống của tôi, thì con thấy nhân vật trong quyển sách gặp Lucifer khi y trải qua sự phán xử cuối cùng, và nhân vật đã rốt cuộc có thể biểu lộ tình thương vô điều kiện tới Lucifer. Đây là điều duy nhất đã thực sự khiến tâm của Lucifer xoay chuyển. Giờ đây, lẽ tất nhiên, con nhận ra – thày tin như vậy – là các thày đã dùng tên Lucifer trong quyển sách vì đây là tên mà đa số con người đã gán ghép cho các thiên thần sa ngã và các sinh thể tăm tối. Điều này không có nghĩa là, trong suốt chiều dài lịch sử của hành tinh này, không có nhiều sinh thể đã dùng tên Lucifer và đã bị đem ra phán xử ở những thời điểm khác với những gì được mô tả trong quyển sách. Một lần nữa, con đừng quá chú tâm vào những điểm vỏ ngoài đó. Con hãy nhìn quá những điểm vỏ ngoài và nhận ra là điểm quan trọng trong quyển Những kiếp sống của tôi là câu chuyện được kể và biểu tượng của nó. Con yêu dấu, nếu Lucifer xứng đáng được chấp nhận vô điều kiện, thì chắc hẳn tất cả các sinh thể mà con có thể gặp trong phần còn lại của kiếp sống này cũng xứng đáng như vậy.

5.12. Đình chỉ phán xét

Một lần nữa, con có chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận từ thày? Lẽ tất nhiên, muốn làm vậy thì con cần trước tiên trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có, ngay cả với khuynh hướng phán xét mà con có thể đang có. Thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này. Thày không hề muốn trách mắng con, trừng phạt con, khiến con cảm thấy khổ tâm. Thày chỉ mong muốn cho con sự chấp nhận vô điều kiện rằng bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Đây là mong muốn duy nhất của Ki-tô. 

Sẽ có nhiều người không thể chấp nhận những gì thày vừa nói vì họ vẫn còn bị giam hãm trong tâm phán xét và ý nghĩ cho rằng khi con đã làm một chuyện gì rất xấu, tỷ dụ như giết hàng triệu người, thì con xứng đáng bị trừng phạt. Con yêu dấu, con không cần bị Thượng đế trừng phạt vì con đã tự trừng phạt chính mình. Để có thể giết hàng triệu người, con đã phải đặt mình vào trạng thái tâm thức tạo nơi con đau khổ cùng cực. Do đó, khi con còn ở trong trạng thái tâm thức đó, như sa nhân đã ở trong một thời gian rất, rất dài, thì con đã tự trừng phạt chính mình. Thượng đế có lý do gì trừng phạt thêm khi Thượng đế thấy là hành động đó được tạo ra bởi một cái ngã không thật?

Con lại nhận ra là: quyền tự quyết là quyền tự do lựa chọn vì con lúc nào cũng có thể vươn lên trên những gì con tạo ra trước đó. Con không bao giờ có thể lấy một chọn lựa ngăn cản con lấy những chọn lựa mới. Điều này sẽ đi ngược lại những gì nhiều người trong các con đã trải nghiệm. Con đã trải nghiệm lấy một chọn lựa ở khoảng đầu cuộc đời, và việc đó đã tạo ra hậu quả vẫn còn ảnh hưởng con mấy chục năm sau đó. Tuy nhiên, con yêu dấu, con vẫn có chọn lựa tách mình ra khỏi cái ngã xuyên qua đó con đã lấy những chọn lựa đầu.

Con yêu dấu, sau đây là một sự thực tuyệt đối: nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi tâm thức đó, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý. Nhiều người trong các con sẽ không có khả năng hoàn toàn khắc phục cái ngã trước, nhưng con sẽ có thể vươn mình lên cao hơn rất nhiều nên con sẽ nhìn hậu quả một cách khác. Do đó, con không bị chúng làm con đau khổ như lúc trước.

Con yêu dấu, như thày có nói, con có thấy chăng là sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một quyết định mà con không thích, thì nếu con thực sự có quyền tự quyết, và nếu quyền tự quyết đó cho con quyền hoàn toàn tự do hành động, thì con đáng lẽ không phải gánh chịu những hậu quả. Như thày có nói, con vẫn có quyền tự quyết dù con đã lấy rất, rất nhiều chọn lựa trong những kiếp trước và con đã tạo ra ý niệm bản ngã mà con hiện có. Con có thể nói: “Nhưng ý niệm bản ngã này có rất ít chọn lựa, bị giới hạn rất nhiều trong việc chọn lựa.” Và điều này đúng. Con đã tạo ra một cái ngã giới hạn, và nó có ít chọn lựa, vì con yêu dấu, cứ mỗi lần con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm thì con giới hạn những chọn lựa mà con có thể thấy. Con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã đó và nó loại bỏ đi những chọn lựa khác.

Nhưng bất kể cái ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể khởi sự tiến trình thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh khỏi sự đồng hóa với các ngã đó, và do đó, để cho chúng chết đi từng ngã một – loại bỏ các phàm linh nội tại đó.  Chọn lựa đó con lúc nào cũng có và khổng thể nào đánh mất. Những người trong các con đã chấp nhận trải qua tiến trình đó, như một số các con đã làm, thì biết là tự do của con đã tăng trưởng và con hiện nay nhìn đời một cách khác hơn cách con nhìn đời vài năm trước đây.

Thày khuyến khích con xem xét mình phản ứng ra sao với bài giảng này. Nếu con vẫn nghĩ là con vẫn chưa hoàn toàn nắm được nó, con chưa thể hoàn toàn chấp nhận nó, nếu con vẫn cảm thấy nỗi đau bị giới hạn và con không chắc điều thày nói chính thực là sự thực, thì con nên tìm hỏi những người đã đi xa hơn con trên tiến trình này. Con hãy nói chuyện với các vị đó, lắng nghe họ, xin họ giải thích những thấu hiểu nào đã giúp họ. Lúc đó, có thể con sẽ thấy là họ đã cho con cảm hứng để tiến bước kế tiếp trên con đường tu, giúp con tới điểm con được tự do. Con đã làm hòa với việc mình ở trên trái đất, nhưng đầu tiên hết, hơn tất cả mọi thứ, con có thể tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này. Con sẽ không cảm thấy mình toàn hảo hay mình không cần tăng trưởng nữa, nhưng con có thể chấp nhận mình vì con đã trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày xin con đình chỉ sự phán xét chính mình, và ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con – và vì con phán xét mình bất toàn, nên thày không thể nào chấp nhận con. Xin con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không? Do đó, con đặt mình trong trạng thái tâm nói rằng: “Ồ, tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét, và do đó tôi phải hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.”

Con có thể làm việc trên vấn đề này, và tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa. Nếu con có thể trung hòa thì con sẽ trải nghiệm là thày chấp nhận con. Tại sao vậy? Vì ngay lúc này thày đang đứng cạnh mỗi người chúng con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Thày cống hiến sự chấp nhận của thày, con yêu dấu. Nếu con không trải nghiệm được sự cống hiến của thày, thì lý do chỉ có thể là con bác bỏ nó, hoặc có ý thức hoặc vô thức. Món quà của thày đã được trao ra. Con có chấp nhận nó chăng? Vậy bây giờ, thày cảm ơn con đã chấp nhận, thày cảm ơn con đã lắng nghe bài giảng này và là dụng cụ để lan tỏa nó vào tâm thức tập thể.

3 | Khắc phục khía cạnh kiểm soát của ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, hay như đôi khi ta nói, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Tại sao đôi khi thày nói Giê-su và đôi khi thày nói Giê-su Ki-tô? Không có lý do nào cả, các con yêu dấu, ngoài chuyện thày cảm thấy muốn biểu lộ mình ra sao vào lúc đó.

Vì sao một số các con lại đặt chú tâm và tìm hiểu tại sao đôi khi thày làm điều này và đôi khi thày nói điều kia? Đó là, vì con đã bị cú sốc khi gặp gỡ sa nhân, con đã tạo ra một cái ngã trong thể bản sắc muốn cảm thấy nó có sự hiểu biết nào đó về thế giới và thế giới vận hành ra sao để nó có thể cảm thấy an toàn.

3.1. Bao nhiêu người đã biểu lộ quả vị Ki-tô?

Các con yêu dấu, câu hỏi mà thày muốn nêu ra với các con trong bài giảng này là như sau. Đã từ nhiều thập niên nay, các thày là chân sư thăng thiên đã trao truyền giáo lý qua trung gian một số vị sứ giả được bảo trợ và có khả năng nhận truyền đọc trực tiếp từ các thày. Ngay từ lúc khởi đầu của đợt truyền giáo của Lời Hằng sống này, các thày đã trao truyền giáo lý là thày không phải là một thần tượng và là một ngoại lệ như đạo Cơ đốc chính mạch đã mô tả thày. Trái lại, thày đáng lẽ phải là tấm gương cho thấy tiềm năng mà tất cả mọi người đều có. Giờ đây, nếu con nhìn trở lại suốt mấy chục năm trao truyền giáo lý, thì con thấy là các thày đã thu hút trong khoảng thời gian đó nhiều triệu người đã (ít nhất ở một trình độ nào đó) học hỏi giáo lý của các thày. Khi con nhìn trở lại sự kiện này, thì câu hỏi đặt ra là: “Có bao nhiêu người đã có thể dùng giáo lý mà các thày trao truyền để thể hiện và biểu lộ một phần quả vị Ki-tô? Bao nhiêu người đã có thể khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô?” Đây là câu hỏi mà thày muốn các con suy ngẫm, thậm chí thảo luận trong hội nghị này, và dĩ nhiên, sau đó nữa.

Đây không phải là một câu hỏi chung chung vì sao đã không có nhiều người hơn làm việc này. Lẽ dĩ nhiên, như các con ở đây cũng biết, mục đích là xem xét chính mình. Câu hỏi cũng là: “Vì sao tôi chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn?” Giờ đây, con yêu dấu, thày muốn các con biết, vì một số các con chưa hoàn toàn chú ý việc này, là các thày đã (quả thực là ngay từ lúc khởi đầu nhưng đặc biệt là trong những năm gần đây) tìm cách giúp các con xoay chuyển tâm thức của mình.

3.2. Tự do khỏi tâm phán xét

Con thấy chăng, con yêu dấu, là sa nhân đã từ muôn thuở, nhưng đặc biệt là qua các giáo hội Cơ đốc chính mạch, tạo ra quan niệm tội lỗi. Con không toàn hảo vì lý do mơ hồ nào đó, và Thượng đế là một đấng giận dữ trên trời sẽ phán xử con và hoặc sẽ đày con xuống đia ngục hoặc đưa con lên thiên đàng. Họ còn tìm cách phóng chiếu là thày, trong tư cách Ki-tô Hằng sống hay Ki-tô Hành tinh, đang phán xét các con và sẽ hoặc giơ ngón cái lên để cho con vào thiên đàng hay hạ ngón cái xuống để đày con xuống đia ngục. Các thày đã tìm cách giúp con thấy là đây không phải là sự thật.

Trong hai năm vừa qua, đặc biệt là các vị Chân sư Nữ và chính yếu là Mẹ Mary, đã tìm cách giúp con thấy là các thày hoàn toàn không phán xét con, và điều chắc chắn là các thày không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình. Thày muốn con rất rất rất rõ trong tâm là thày không muốn trao truyền giáo lý này và nêu câu hỏi kia ra vì thày muốn con phán xét chính mình và cảm thấy hổ thẹn vì con đã không biểu hiện một trạng thái cao hơn của quả vị Ki-tô. Mục đích của Ki-tô Hằng sống là gì? Mục đích của thày, như Ki-tô Thăng thiên, là gì? Mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là gì? Con yêu dấu, các thày chỉ có một mục đích duy nhất. Thày xin các con hãy ghi chặt trong tâm là các chân sư thăng thiên chỉ có một mục đích duy nhất. Đó là giải thoát con. Tâm con sẽ nói ngay tức khắc: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

3.3. Làm cách nào truyền ra giáo lý

Con yêu dấu, con hiểu chăng là các thày trên cõi thăng thiên luôn luôn giám sát hiện trạng hành tinh? Các thày có tầm nhìn rất dài hạn, và trong một thời gian rất dài, các thày bị giới hạn trong những gì các thày có thể làm, giáo lý nào có thể truyền ra. Con có hiểu chăng là nếu con nhìn lại giáo lý mà các thày đã trao truyền từ gần một thế kỷ vừa qua, thì con có thể tự hỏi: “Tại sao các giáo lý này không được trao truyền sớm hơn?” Ấy, chính thực là các giáo lý đó đã được trao truyền sớm hơn, nhưng trong một khung cảnh riêng tư, thường là bí mật.

Lúc trước không có cách nào trao truyền các giáo lý đó một cách công cộng. Nguyên do một phần là vì sa nhân đã thành công trong việc hủ hóa Cơ đốc giáo và biến Cơ đốc giáo thành dụng cụ chính yếu để thực sự che giấu giáo lý chân thực của Ki-tô, và giáo lý đó có mục đích giải thoát con người. Suốt nhiều thế kỷ, ở Châu Âu và các nơi khác, không thể nào giảng công cộng các giáo lý mà các thày đang trao truyền. Lẽ dĩ nhiên, cũng có thêm khía cạnh hoàn toàn thực tiễn, thực dụng là làm sao phân phối giáo lý.

Các con có lẽ cũng biết là trong thập niên 1930 các thày có bảo trợ một tổ chức tên là Phong trào TA LÀ (I AM Movement). Khi con nhớ lại thời đại đó, là một điều mà những người trong các con đã lớn lên trong thời đại mạng Internet khó lòng mường tượng, thì con thấy là phương tiện truyền thông chính yếu của thời đó là hệ thống bưu điện. Sa nhân đã làm được chuyện gì? Họ đã khiến chính phủ liên bang Hoa Kỳ ngăn chặn không cho Phong trào TA LÀ, ít nhất là trong một thời gian, sử dụng hệ thống bưu điện. Con thấy là chỉ sau khi mạng Internet ra đời thì các thày mới có cơ hội tốt hơn để trao truyền giáo lý và đem giáo lý tới một cử tọa rộng lớn hơn.

3.4. Điều gì ngăn chặn quả vị Ki-tô

Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng luôn luôn giám sát tâm thức tập thể và sự tăng triển của tâm thức tập thể. Trong hầu hết mọi thời đại đều có một số người, một số ít cá nhân, đã mở tâm đón nhận giáo lý dạy cách giải thoát chính mình. Nhưng chỉ trong một hoặc hai thập niên cuối tâm thức tập thể mới lên tới mức để các thày có thể trao truyền các giáo lý thật sự rất tiên tiến và tinh vi mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, khởi đầu bằng chủ đề tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại cho đến các giáo lý cuối liên quan đến chấn thương nhập đời.

Giờ đây con yêu dấu, thày Quân Âm đã cho các con nhiều chìa khóa quan trọng trong bài truyền đọc, mà thày khuyên các con nên nghiên cứu nhiều lần, nhưng thày sẽ xây dựng thêm trên nền móng mà Quan Âm đã thiết lập. Một lần nữa, câu hỏi: Có nhiều người đã được nhận giáo lý vỏ ngoài là Giê-su Ki-tô không phải là một ngoại lệ mà là một tấm gương mà mọi người có thể noi theo nếu họ chịu chuyên cần áp dụng giáo lý. Nhiều người trong số các người đó cũng đã được trao truyền một số dụng cụ tâm linh thực tiễn như: cầu thỉnh ánh sáng tím, các bài chú và các dụng cụ khác mà họ có thể sử dụng. Vì sao rất nhiều người đã không thể nhập và áp dụng giáo lý và dụng cụ tới điểm họ thể hiện được quả vị Ki-tô? Một lần nữa, thày không trách cứ ai, con yêu dấu. Thày không trách cứ, thầy cũng không nói là con đáng lẽ phải thể hiện một trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô. Các thày chỉ muốn có một cuộc nói chuyện để xem xét một cách bình tĩnh và vô tư cơ cấu đang ngăn chặn con người thể hiện quả vị Ki-tô.

Lẽ dĩ nhiên, lý do vì sao các thày đã rất thận trọng và tuần tự trao truyền các giáo lý vì chúng đều liên quan tới điều mà các thày nay gọi là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Nói cách khác, dù con là một cư dân nguyên thủy của trái đất hay con đã tới đây từ một thế giới khác, một hành tinh khác, có thể là một hành tinh tự nhiên, thì đề tài này cũng áp dụng cho con. Sự kiện đơn giản là (và các thày đã nói điều này nhiều lần nhưng thày lặp lại ở đây): khi con đầu thai lần đầu trên một hành tinh như trái đất (kể cả các con đã đầu thai ở đây nhiều lần rồi) và giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, muốn hành hạ con và người khác, thì con bị một cú sốc, một chấn thương. Chuyện này đã xảy ra cho tất cả chúng ta đã từng đầu thai trên trái đất.

3.5. Chê trách mình vì đã phản ứng

Một lần nữa, không ai chê trách ai, không có lý do gì để cảm thấy tiếc nuối, nhưng một số các con, nhiều người trong các con, vẫn tự chê trách mình. Con yêu dấu, con vẫn nghĩ, như vị sứ giả này vẫn nghĩ cho tới khi ông nhận được giáo lý về ngã gốc vào tháng 12 vừa qua, là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách nào đó để tới đây như một avatar mà không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy, và thày cần con tới điểm thấy một cách có ý thức cái ngã đó, thấy nó là một cái ngã, thấy nó hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Thày cần con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn. Ngã đó cũng là cái ngã sẽ lấy giáo lý mà thày đang trao truyền và nói: “Tôi đáng lẽ phải thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn, và tại sao tôi đã không làm vậy?”

Ấy, con yêu dấu, vì sao con đã không thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn? Con đã không làm được vì con trước đây không có hiểu biết và các giáo lý để đối phó với ngã gốc. Điều duy nhất nào, điều tuyệt đối duy nhất nào, đã ngăn chặn người tầm đạo chân thành biểu lộ quả vị Ki-tô? Con hãy ghi nhận! Thày không nói tất cả mọi người vì khi con nhìn vào tập thể con người trên trái đất, thì họ có nhiều cái ngã khác nhau ở nhiều trình độ khác nhau. Thày muốn nói tới những người tầm đạo chân thành đã nghiên cứu giáo lý của các thày, đã áp dụng giáo lý, có khi suốt nhiều năm. Điều duy nhất nào đã ngăn cản con là Ki-tô Hằng sống đang hành động? Ấy, điều duy nhất đó là ngã gốc.

Quân Âm đã thuyết giảng đề tài này, và thày sẽ tiến thêm bước nữa. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu (hay ít nhất là khi con lần đầu nhận ra là họ có khả năng làm ác vô giới hạn, họ không có giới hạn hay lằn ranh nào ngăn cản họ làm hại người khác hay giới hạn hình thức tàn phá và đau khổ mà họ tạo ra) thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

3.6. Con đã tạo ngã gốc như thế nào

Tình trạng của con như sau: lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con không thể rút mình ra khỏi thân thể vật lý, con không thể giản dị bước lui lại và nói: “Ồ, tôi không muốn ở trên hành tinh này nữa, tôi cởi bỏ thân thể vật lý này và tôi trở về hành tinh nơi tôi ở trước kia.” Con không thể làm việc này được! Con ở đây, con ở trong thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể (các thày đã gọi họ là sa nhân, con có thể đã thấy họ như cái gì khác) sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và tiêu diệt con hay các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con làm sao giải quyết vấn đề này? Ấy, con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc. Như thày Quan Âm có giảng, ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Con cũng nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Điều thày muốn nói là: trước khi con gặp gỡ sa nhân, con cảm thấy tương đối an toàn. Con có một cảm nhận thăng bằng, một cảm nhận liên tục, một cảm giác tin tưởng nơi cuộc sống, tin tưởng vào tương lai. Khi con gặp gỡ sa nhân và thấy họ không có giới hạn nào cho ý muốn làm điều ác, thì con bỗng nhiên đánh mất đi điều mà ta có thể gọi là sự ngây thơ của tuổi thơ. Con mất đi cảm giác an toàn, an ninh, thăng bằng nội tại. Mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác an toàn, một cảm giác thăng bằng nào đó, và nó làm công việc này thế nào? Nó làm công việc này bằng nhiều cách. Nó tạo ra nhiều cái ngã, tùy theo nội dung tâm lý của riêng cá nhân con, tùy theo những gì con trải nghiệm, không những trong kiếp đầu thai đầu khi con gặp gỡ sa nhân và còn trong những kiếp sau đó. Nó là một cơ chế khá phức tạp, tuy nhiên điều thày muốn trao truyền là có một khía cạnh của ngã gốc muốn tạo cảm giác an toàn, thăng bằng, phần nào làm chủ cuộc sống và cuộc sống của con trên trái đất.

Con yêu dấu, một lần nữa các thày không chê trách con. Các thày không nói các điều này sai trái. Các thày không nói là đáng lẽ con không nên làm như vậy – tất cả chúng ta đều đã làm như vậy.  Con có thể làm gì khi bị cú sốc khi gặp gỡ nhũng sinh thể sẵn sàng làm bất cứ gì để tiêu diệt mình? Điều con nay có thể làm, và con đã có giáo lý để làm việc này, là con bắt đầu nhìn vào ngã gốc, khía cạnh của ngã gốc muốn an toàn, muốn kiểm soát.

3.7. Kiểm soát thế giới để cảm thấy an toàn

Ta có thể nói một cách thật thẳng thắn là khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn. Nếu con nhìn một cách thành thực, thì con thấy đây là động lực thúc đẩy rất nhiều sa nhân. Họ cảm thấy không an toàn một cách cơ bản, và vì họ không bao giờ trở về được với cái một (trừ phi họ quay đầu đi ngược lại, là điều mà họ không chịu làm) nên họ không thể khắc phục cảm giác không an toàn, và đó là lý do họ phải có kiểm soát tối hậu.

Vì sao Stalin lại sẵn sàng giết hại hàng triệu người? Vì y có nhu cầu kiểm soát đó. Điều này chỉ cho con thấy là y có một nỗi sợ hãi rất lớn, và do đó y có một trình độ tâm linh rất thấp. Nếu con cần giết người khác để cảm thấy được an toàn, thì dĩ nhiên con có một nỗi sợ khủng khiếp, và nỗi sợ này làm chủ đời con. Do đó, bất kể thế giới thấy con như thế nào, con là một sinh thể bất lực. Con bên ngoài có thể có nhiều quyền lực, nhưng trong nội tâm thì con bất lực. Stalin là một trong những sinh thể bất lực nhất mà con thấy trong lịch sử cận đại. Lẽ dĩ nhiên, Hitler cũng bất lực như vậy, và Mao Trạch Đông còn bất lực hơn cả hai người kia nữa.

Con thấy những điều này và do đó con cần nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền giáo lý này, để giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Con có thể tới điểm nhìn vào nó, thấy nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Giờ đây con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên biết rất rõ là các thày phải giữ một cân bằng tế nhị khi hành xử. Để giải thoát các con, các thày cần làm hai chuyện. Thứ nhất, các thày cần giúp con thấy là con không tự do. Điều này có thể khiến con rất rất bức xúc. Con có biết vì sao con lại bức xúc? Ấy, con cảm thấy bức xúc vì cái ngã kiểm soát mà con đã tạo ra để có được cảm giác an toàn và thăng bằng, cần cảm thấy nó có một hiểu biết cơ bản về cách hành tinh này vận hành.

Lẽ dĩ nhiên, con bị mắc kẹt vì cái ngã đó. Chính cái ngã đó đã giam hãm con hơn bất cứ gì khác. Khi các thày bắt đầu phơi bày sự hiện diện của cái ngã đó, thì nó sẽ phản ứng ra sao? Nó sẽ coi việc phản bác lời giảng của các thày là chuyện sống còn của nó, để con không chấp nhận điều các thày nói, không coi điều các thày nói là quan trọng, không đem ra áp dụng điều các thày nói. Con có thể nhìn vào chính mình, và một thử nghiệm rất tốt là con lấy quyển Các cuộc đời của tôi và xem xét con phản ứng ra sao với quyển sách đó. Quyển sách càng khiến con bức xúc bao nhiêu, thì càng chứng tỏ là con có cái ngã đã quen cảm thấy, có thể qua nhiều kiếp sống, là nó phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.  

3.8. Khắc phục cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn

Giờ đây con yêu dấu, ta có thể coi là cái ngã đó có phần đúng. Điều kiện chính yếu nào khiến con không được an toàn trên trái đất? Đó là sa nhân. Vì sao họ lại tấn công con? Vì sao họ tìm cách tiêu diệt con? Đó là vì nỗi sợ cơ yếu nhất, lớn nhất của họ là có ai trở thành Ki-tô Hằng sống, có ai dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là nỗi sợ cơ yếu nhất của họ. Do đó, khi có ai tới hành tinh này hay đã nâng mình lên một trình độ nào đó của quả vị Ki-tô, thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt người đó và ngăn chặn không để người đó biểu hiện quả vị Ki-tô.

Chuyện gì xảy ra khi con giáp mặt sa nhân và trải nghiệm là họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì trong khả năng họ để tiêu diệt cá nhân con? Con bị một cú sốc, một chấn thương, và kết quả là con tạo ra một khía cạnh của ngã gốc muốn kiểm soát. Một lần nữa, điều này dễ hiểu. Con ở trong cõi vật lý, con trải nghiệm là có người muốn giết con, muốn tra tấn, chê bai, hạ nhục con, làm tất cả gì họ có thể làm để hủy hoại con. Con không thể ra khỏi thân xác này. Con có thể không có khả năng rời xa họ. Con có thể làm gì để có thể sống sót trong tư tưởng và cảm xúc không những trong kiếp sống này mà còn trong các kiếp sống tới? Ấy, cái ngã kiểm soát nhận ra rất nhanh là theo nhận thức của nó, cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ không đụng đến con, và nhận định này đúng. Nếu con không thách thức sa nhân, họ sẽ để con yên. Con nhận ra ở đây là cái ngã kiểm soát đã tạo được cảm nhận là nó sẽ được an toàn, an ninh nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Một số các con đã sống với cảm giác an ninh này trong nhiều, nhiều nhiều kiếp. Đúng thực là tất cả các con đều có ít nhiều cảm giác an ninh. Không phải tất cả các con đều có cảm giác này suốt nhiều kiếp vì một số các con đã phải chịu cảnh chiến tranh hay biến cố chấn thương khác trong một kiếp gần đây. Do đó con không có được cảm giác an ninh trong suốt một khoảng thời gian dài, nhưng một số khác đã có được cảm giác an ninh trong một thời gian rất dài. Chuyện gì xảy ra khi các thày trao truyền giáo lý về ngã gốc và quả vị Ki-tô? Điều xảy ra, như Quan Âm đã giảng, là con trải qua một giai đoạn sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất.

Con cũng có thể lấy giáo lý mà các thày đã trao truyền và sử dụng nó để củng cố một thế giới quan nào đó. Một lần nữa, ta trở lại câu hỏi ở trên: vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý này đã mấy thập niên mà có quá ít người đã có thể biểu lộ quả vị Ki-tô? Đó là vì đa số những người theo giáo lý chân sư thăng thiên đã không thách thức khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, cái ngã kiểm soát. Họ không bao giờ thách thức nó. Một phần là vì họ không có giáo lý vì các thày đã phải tiến hành một cách tuần tự và dần dần xây dựng cơ sở giáo lý. Một lần nữa, thày không chê trách ai cả. Thày không có cảm nghĩ: “Ồ, họ đáng lẽ phải có khả năng làm chuyện này.” Thày chỉ đơn giản mô tả chuyện đã xảy ra để các con nào mở tâm đón nhận có thể hiểu và vươn lên cao hơn.

3.9. Trì hoãn biểu hiện quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, con người đã làm gì với giáo lý chân sư thăng thiên? Họ đã tạo ý niệm là: “Đúng rồi, tôi thấy là Giê-su đã đầu thai để là một tấm gương và tôi thấy là tôi có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô.” Trong những đợt truyền giáo trước, các đệ tử chú tâm nhiều hơn đến việc hội đủ điều kiện để thăng thiên, giống như con thấy nhiều người trong các phòng trào Cơ đốc giáo chú tâm vào việc được cứu rỗi. Nói cách khác, các thày có giảng trước đây là giáo hội Công giáo đã từ khởi thủy quy định mục đích cuộc sống trên trái đất là chịu đau khổ, rằng con chỉ là một tội đồ, con không có tiềm năng là Ki-tô trên trái đất, điều con cần quan tâm là chuyện gì xảy sau kiếp sống trên trái đất để con có thể được cứu rỗi và lên thiên đàng. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã giản dị lấy giáo lý của các thày và xây dựng ý niệm là mục đích chính yếu của đệ tử chân sư thăng thiên là hội đủ điều kiện thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, chuyện này xảy ra ở cuối hay sau kiếp sống này.

Quan niệm này, một lần nữa, lại dùng giáo lý để trì hoãn việc là Ki-tô, trì hoãn việc trải qua một thay đổi quyết định. Con như nói rằng: “Ồ, tôi chỉ cần kêu gọi đủ ánh sáng tím trong phần còn lại của cuộc đời để quân bằng ít nhất 51 phần trăm nghiệp, và sau đó tôi sẽ thăng thiên sau kiếp sống này và tôi sẽ không phải là Ki-tô, tôi không phải thách thức sa nhân.” Một lần nữa, thày không chê trách ai mà chỉ muốn có một cuộc thảo luận thẳng thắn, trực tiếp, giản dị về chuyện gì xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, các thày đã bắt đầu trao truyền một số giáo lý xuyên qua vị sứ giả này, thực sự là ngay từ đầu, đã rất thách thức và đi xa hơn những gì được truyền giảng trong các đợt truyền giáo trước, như: tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại. Nếu con nhìn tiến trình trao truyền giáo lý qua vị sứ giả này, thì con thấy đã có một số giai đoạn trong đó các thày đã nâng giáo lý lên một tầng cao hơn. Một số các đệ tử đã từng tham gia các đợt truyền giáo trước đã không chịu được các giáo lý mới này. Họ đã làm gì? Ấy, họ đã phải dựng lên một loại kịch bản cho họ một cớ để rút lui, thậm chí nói vị sứ giả đã trở thành một sứ giả giả, đã không còn được các thày ủy quyền, hay một số điều khác.

Tất cả các chuyện này đều bắt nguồn từ sự kiện các giáo lý đó thách thức ý niệm an ninh của ngã kiểm soát của các người đó. Họ đã dùng các giáo lý trước để củng cố ý niệm họ làm chủ tình hình. Giờ đây thì các thày trao truyền giáo lý mới làm xáo trộn ý niệm làm chủ tình hình nơi một số người. Họ đã tới điểm, ít ra là trong tiềm thức, nhận ra là họ thực sự không thể chấp nhận giáo lý này và đồng thời bảo tồn ý niệm làm chủ tình hình của họ. Giáo lý đã thách thức một trong những ảo tưởng mà họ đã sử dụng để xây dựng ý niệm họ làm chủ tình hình.

Họ tới điểm bắt buộc phải chọn lựa: Con nóng hay lạnh? Con có sẽ theo Ki-tô Hằng sống hay không? Họ đã chọn không theo và họ cần tìm ra một bào chữa, và bào chữa tiện lợi là (giống như trong các đợt truyền giáo trước): “Ồ, vị sứ giả đã không còn được các thày ủy quyền, ông ấy hay bà ấy đang trao truyền giáo lý giả, các chân sư không còn bảo trợ tổ chức này nữa, các chân sư không bao giờ có thể nói những chuyện như vậy, các chân sư không bao giờ nói thẳng là không nên ăn đường.” Vân vân và vân vân. Các thày đã thấy những lời bào chữa này từ đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên nay. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không có ý niệm chuyện gì đáng lẽ phải làm và đáng lẽ không được làm, nhưng các thày phải nói là với tầm nhìn từ cõi thăng thiên, các thày đã tới điểm thấy cái ngã nhân gian, cái ngã kiểm soát này, hành xử quá nhiều lần nên đã đến lúc các thày đơn giản nêu vấn đề một cách thẳng thắn và công khai để không ai có thể giải thích bẻ quẹo đi.

3.10. Mục đích kiếp sống này của con là gì?

Sự kiện đơn giản là: khi thày hiện thân trên trái đất trong một thân thể vật lý, thì thày đã nhiều lần thách thức con người. Một lần nữa, con nhận ra là thày chỉ có ba năm và thày phải thách thức con người: họ muốn theo thày và vươn lên cao hơn, hay họ ở lại nơi họ cảm thấy an ninh, an toàn. Một lần nữa, thày phải làm công việc này ở đây. Một lần nữa, thày sẽ không chê trách ai, thày sẽ không nói con phải làm gì và không được làm gì. Ở đây, con cần nhận ra, con cần quyết định là mục đích của con trong kiếp sống này là gì. Con có thể quyết định là con thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Con có thể tiếp tục thực hành giáo lý ở tầng đó, nhưng con cần tự hỏi phải chăng mục đích mà con muốn hoàn thành, điều mà các thày đã gọi vào đầu mùa hạ, là tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con? “Mục đích của tôi có phải chăng là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì tôi đã làm được cho tới nay?” Nếu đây là mục đích của con, và một lần nữa thày không chê trách con, thày còn không nói là nếu đây không phải là mục đích của con, thì con nên rút lui khỏi giáo lý. Con vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu giáo lý bằng bất cứ cách nào con muốn. 

Điều mà thày cần trải bày trước mắt con là: con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Chuyện này không thể làm được, con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Con có câu ngạn ngữ trong ngôn ngữ Hoa Kỳ: “An toàn hơn ân hận,” nhưng câu này do sa nhân đề ra vì Ki-tô vừa không an toàn vừa không ân hận. Đó là một trạng thái tâm thức mà con chỉ đạt được khi con nhìn vào khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, sẵn sàng nhìn nó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi, như các thày đã giảng và cho con dụng cụ để làm. Một lần nữa, các thày không định ra một mục đích mà các con không thể đạt được vì các thày đã rất thận trọng, đã đi từng bước trong việc trao truyền giáo lý và dụng cụ, để con có thể thành công.  

3.11. Con người đã làm gì để được cảm thấy an toàn

Con yêu dấu, nếu con nhìn ngược dòng lịch sử, thì con thấy có một số người đã rất thiện xảo trong việc kiểm soát ngoại cảnh của họ để được cảm thấy an toàn, đến độ họ đã tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới. Tỷ dụ, con có thể thấy là thời Trung cổ, có nhiều vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc đã thành công trong việc đạt được địa vị cao và sống một cuộc đời thoải mái, đặc quyền. Họ đã xây các bức tường dày và có đạo quân bao bọc chung quanh họ và họ đã sống trong tháp ngà và cảm thấy an toàn vì họ đã tự cô lập và cách ly khỏi những gì xảy ra trên thế giới. Họ không thực sự thấy sự thống khổ của thần dân họ, những người đang gìn giữ nếp sống của họ, giúp họ được cảm thấy an toàn.

Con thấy có những người đã dùng giáo lý tâm linh để xây dựng một tu viện hay một loại tịnh thất tâm linh nơi họ sống, một lần nữa, cô lập và cách ly khỏi thế gian. Một số các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Đây có thể là một hành động xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nếu đó là cái ngã kiểm soát của con mong muốn được cảm thấy an toàn, thì nó không còn giúp con tăng triển nữa.

Thày muốn con ngẫm nghĩ chuyện sau đây. Nếu con đọc Phúc âm Tô-ma (Gospel of Thomas) thì con thấy trong đó có nói là con sẽ tới điểm con có được một số hiểu biết và sau đó con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con vượt qua sự xáo trộn thì con sẽ cai quản tất cả, nghĩa là chính tâm mình. Con sẽ là một vị điều ngự, con sẽ có tự điều ngự.

Điều thày đang cho con là hiểu biết con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình. Khi thày trao cho con hiểu biết này, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa – và mạng sống của nó quả thực bị đe dọa. Khi con thấy là con không cần ngã đó nữa, thì con có thể để nó chết đi, và nó sẽ chết đi. Nó không muốn chết, do đó nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó. Con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con dùng các giáo lý và dụng cụ tâm linh để giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, thì con sẽ được bình an. Lúc đó, con sẽ cảm thấy tự do, và con sẽ có một cảm giác tự do mới mà hiện nay con không thể tượng tượng nổi.

3.12. Con an toàn như một sinh thể vô hình tướng

Làm sao con tới được điểm đó? Ấy, các thày đã trao cho các con biết bao nhiêu giáo lý về cái Ta Biết. Tầm quan trọng của giáo lý đó là: con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Các thày có nói là để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này. Điều đã xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời là con đã tạo ra ngã gốc và con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Nếu con thực sự dùng các giáo lý về cái Ta Biết, thì con có thể nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Con có thấy chăng điều thày đang cống hiến con? Thày đang bày ra trước mặt con sự sống và cái chết. Thày đang bày ra trước mặt con hai chọn lựa. Một bên là tâm thức chết, do cái ngã kiểm soát đại diện, nó nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Nó thực sự nghĩ là cách duy nhất để được an toàn (tối hậu) trong thế giới này là kiểm soát toàn bộ thế giới. Đó là cái chết, vì lẽ dĩ nhiên, con sẽ không bao giờ kiểm soát được thế giới hoàn toàn. Không một cá nhân nào sẽ có thể làm được điều này.

Chọn lựa kia là sự sống. Đó là con nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại. Con cần thức tỉnh trở lại. Con cần biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng. Lúc đó, con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và con yêu dấu, chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân. 

Con yếu dấu, thày không muốn chỉ trích bất cứ cá nhân nào, nhưng con thấy là trong quá khứ có những người đã quá quan tâm bị sa nhân tấn công hay tiêu diệt, nên họ lúc nào cũng muốn tự bảo vệ họ khỏi nguy cơ đó. Làm sao con có thể sống như vậy lâu dài? Lúc nào cũng lo bảo vệ mình là một căng thẳng quá lớn, và trong thời đại này, hy vọng là con sẽ không bị sa nhân giết hay tra tấn, vì con người đã vượt qua giai đoạn này. Ta có thể nói là ngày nay, con có thể biểu lộ quả vị Ki-tô an toàn hơn trong quá khứ. Tuy nhiên, con vẫn cần tới được điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con. Đó là lúc con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Làm sao con có thể thở thành Ki-tô hành động? Ấy, con không thể là Ki-tô hành động khi con còn cái ngã kiểm soát trong thể bản sắc, nó cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ khiến con mất an toàn và nó sợ chuyện gì có thể xảy ra nếu con biểu hiện quả vị Ki-tô.

3.13. Khắc phục nhu cầu an toàn

Con yêu dấu, con cần tìm ra cách khắc phục ý muốn kiểm soát thế giới để thỏa mãn nhu cầu an toàn. Đây là điều mà thày đã giúp con nhận thức. Như thày đã nói, các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về ngã gốc, và cách khắc phục nó. Nếu con sử dụng giáo lý đó, nếu con sẵn sàng buông bỏ ngã gốc, nếu con sẵn sàng bị xáo trộn tạm thời cho tới khi con áp dụng giáo lý, thì con sẽ tới điểm con được giải thoát.

Như các thày có nói trước đây, một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Nó được thiết kế với một lập trình và một cấu trúc để giải quyết vấn đề đó. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con là vấn đề có thật, vấn đề đó hiện hữu, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề. Cái ngã kiểm soát đó sẽ phóng chiếu tới con là: “Cái ác có thật, có một nguy cơ thật, con có thể bị hành hạ, con cần cảm thấy an toàn, con cần phải làm điều gì đó để cảm thấy an toàn.” Con yêu dấu, có điểm (mà ngay Thánh kinh cũng đã đề cập) mà thày nói với người muốn chôn cất thân sinh: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con hãy theo ta, và để người chết chôn cất người chết.” 

Con có sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn chăng? Nếu có, thì con hãy nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và để thày dẫn con đi cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nơi cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Con yêu dấu, con muốn gì, cái chết hay sự sống? Đây không phải là một chọn lựa được-hết-hay-mất-hết, như thày đã nói. Thày nhận ra là một số người chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này. Con có thể cần thời gian trước khi cảm thấy sẵn sàng. Nếu như vậy thì con hãy tiếp tục học hỏi giáo lý và áp dụng giáo lý trong phạm vi khả thi. Nhưng một số các con đã sẵn sàng để bước lên một tầng cao hơn.

Con không thể, con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể sánh vai đi cùng thày, con không thể nắm tay thày khi con chưa bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, cái ngã kiểm soát nhất định cần cảm thấy nó làm chủ thế gian. Do đó, nó không thể bỏ lại lưới đánh cá để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ lại tất cả đằng sau. Con không cần bỏ lại tất cả đằng sau theo nghĩa vỏ ngoài, nhưng con cần bỏ ngã đó lại đằng sau. Đó là điều duy nhất ngăn trở con biểu lộ quả vị Ki-tô.

3.14. Các chân sư phải giữ cân bằng tế nhị

Con yêu dấu, các thày luôn luôn phải giữ một cân bằng tế nhị. Con có thể tiếp nhận được tới đâu? Điều gì con không thể chấp nhận? Con sẵn sàng nhận điều gì? Con không sẵn sàng nhận điều gì? Khi thày hiện thân trên trái đất, có nhiều lần thày đã thách thức con người một cách rất trực tiếp. Các thày đã kể câu chuyện là thày đi tới trước mặt một số đệ tử và nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta.” Sau đó, thày quay lưng lại và bước đi, và nếu họ không đi theo thày thì họ đã lỡ cơ hội. Đây không phải là cách các thày ứng xử bây giờ với các giáo lý này. Các thày nhận ra là các con có thể cần thì giờ để thể nhập giáo lý, để hoàn toàn đón nhận một số giáo lý. Các thày không muốn tạo ra hình ảnh là tất cả các con đều phải sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô ngay hôm nay. Các thày nhận ra là một số các con cần phải qua một số bước.

Thày hy vọng là các con cũng nhận ra là các con cũng cần giữ một cân bằng tế nhị. Con phải nhận ra là con theo các giáo lý này vì con muốn tăng triển trên con đường tâm linh, nhưng có một khía cạnh của ngã vỏ ngoài, là ngã gốc, không muốn con tăng triển. Đúng, có những lúc con có thể nói: “Con chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, con cần thêm thì giờ, con cần qua một số bước trước khi con hoàn toàn đón nhận nó.” Con cũng sẽ tới điểm con cần nói: “Có phải chăng là cái ngã kiểm soát của tôi muốn tôi nghĩ là tôi chưa sẵn sàng? Thực sự thì tôi đã sẵn sàng, vậy câu hỏi là: ‘Tôi có chịu làm hay không?’” Có lúc con cần đốc thúc mình, có lúc con cần bước lui lại, nhìn vào gương và nói: “Tôi đang ở đâu trên con đường tâm linh? Phải chăng là tôi đã để cái ngã kiểm soát cho tôi cảm giác là tôi sẽ thoải mái nếu tôi ở lại tầng này và không đi xa hơn nữa? Phải chăng tôi đã sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau một cái gì đó, và hoàn toàn đón nhận một ngày mới? Phải chăng tôi đã sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên?” Một số các con vẫn có thể cần theo một giáo lý vỏ ngoài, nhưng cũng có một số đã sẵn sàng để nói: “Tôi có nên mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, hay tôi đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên?”

Một giáo lý lúc nào cũng được trao truyền ở nhiều tầng khác nhau. Ta có thể nói là lúc nào cái ngã kiểm soát của con cũng có một cớ để không áp dụng giáo lý. Con là người quyết định, con có trách nhiệm lượng định: “Lúc nào thì tôi chưa sẵn sàng và lúc nào thì đây chỉ là một cái cớ mà ngã kiểm soát dùng để nói tôi chưa sẵn sàng.”

Đến đây thì thày đã trao truyền những gì thày muốn trao truyền lúc này. Thày cảm ơn các con đã chú ý nghe, đã sẵn sàng chịu đựng một bài giảng, lẽ dĩ nhiên, sẽ gây xáo trộn. Con yêu dấu, con có thật sự chờ đợi là con tới một hội nghị với chủ đề “Là Ki-tô Hằng sống” mà không bị xáo trộn chăng? Bởi vì nếu con chờ đợi như vậy, thì con nên nhìn vào cái ngã đó và nói: “Ồ, bây giờ thì tôi thấy bạn rồi. Tôi không phải là bạn.”

Đây có thể là bước khởi đầu để con tách mình ra khỏi cái ngã đó, và nhận ra là cái ngã đó, lẽ dĩ nhiên, có một chờ đợi không thực tế về ý nghĩa của quả vị Ki-tô. Nó nghĩ con có thể là Ki-tô mà không cần thách thức sa nhân, hay đúng hơn là không cần thách thức ý niệm làm chủ tình hình của ngã kiểm soát. Con yêu dấu, chuyện này không thể xảy ra. Thày đã nói như vậy trước đây. Thày sẽ nói lại một lần nữa, vì thày cần nói cho tới khi con chợt hiểu ra: “Con không thể thờ hai chủ.” “Từ nay về sau, con muốn thờ chủ nào?”

15 | Phán xử của Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su.  Ý định của thày trong bài giảng này là trao cho con một số lời dạy sẽ không áp dụng cho mọi người, chắc chắn không cho tất cả mọi người có thể tìm thấy lời dạy này hiểu theo nghĩa rộng. Nó sẽ áp dụng cho nhiều người trong số các con, và thày khuyên con không nên ngồi đây và dùng tâm vỏ ngoài để xét đoán xem nó có áp dụng cho con hay không. Con không thể biết được điều này với tâm vỏ ngoài và con không nhất thiết có thể biết được ở mức nhận biết hiện thời của con. Con sẽ biết được khi con vươn lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và có được một tầm nhìn rõ ràng hơn về các tầng cao hơn này.

15.1. Những người làm ngơ hay phủ nhận các thế lực bóng tối

Con yêu dấu, nếu con nhìn hành tinh địa cầu hôm nay, con có thể thấy như các thày vừa đề cập, là có rất nhiều nhóm người khác nhau ở nhiều tầng tâm thức khác nhau, với nhiều hệ thống tín ngưỡng cùng nhiều thế giới quan khác nhau. Tuy nhiên, điều thày muốn con lưu ý ở đây là có một thành phần trong lãnh vực tâm linh – những người trong phong trào Thời Mới, thần bí, huyền bí, với tâm cởi mở – tin rằng hoặc không có bóng tối, không có thế lực bóng tối, hoặc trong cương vị là người tâm linh họ không nên chú ý tới các thế lực đó, vì làm như vậy sẽ trao cho chúng quyền năng.

Lẽ tự nhiên, các thày đã ban cho con qua đợt truyền pháp này nhiều lời giảng về các sinh thể sa ngã. Các thày đã cho con những lời dạy về khái niệm avatar, về sự kiện con đã đến địa cầu và đã phải hứng chịu chấn thương từ sa nhân như thế nào. Vậy thì liệu điều người ta bảo có đúng hoặc có thật hay chăng, rằng tà lực không hiện hữu hay con không nên chú ý đến chúng? Đây là một vấn đề tế nhị, theo nghĩa là trên địa cầu chỉ có một ít người không cần chú ý đến tà lực.

Trên thực tế, bất cứ ai là avatar đều phải lưu ý đến việc tìm hiểu sa nhân và những điều chúng làm, vì chúng chính là những kẻ đã tấn công con khi con đến với sứ mạng này, chúng là kẻ đã khiến con tạo ra ngã gốc của con. Chừng nào con còn không sẵn lòng nhìn vào sự hiện hữu của tà lực và cách chúng đã chi phối con như thế nào trong quá khứ, thì con không thể thoát ra khỏi ngã gốc. Và nếu con không thoát ra khỏi ngã gốc thì con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.  

Thực tế đáng buồn là có đến hàng chục ngàn, ngay cả hàng trăm ngàn người trong lãnh vực Thời Mới có một tiềm năng cao trong Sứ vụ của mình, nhưng chừng nào họ còn duy trì thái độ là họ phài làm ngơ trước tà lực và không để ý đến chúng, thì họ vẫn tự cắt đứt khỏi việc hoàn thành tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ của họ. Họ đã đạt đến một trình độ nào đó và có thể họ cảm thấy rất thoải mái ở mức đó, phần nào vì họ có cảm giác: “Làm gì có tà lực nào đang tấn công tôi.” Tất nhiên, tà lực không đang tấn công họ vì họ không là mối đe dọa cho tà lực.

15.2. Điều tà lực sợ nhất

Vậy cái gì là mối đe dọa cho tà lực? Đâu là điều chúng cực kỳ muốn tránh? À, điều chúng muốn tránh là có người đang đầu thai vật lý vươn lên tới mức có thể nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy mình có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất. Đây là điều chúng sợ hãi tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể nào cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra đối với nhiều người trong các con, cũng như đối với một số những ai tìm được lời dạy này trong phạm vi rộng lớn hơn, khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại sự phán xử của Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Khi con nhìn vào cuộc đời của thày, con sẽ thấy thày đối đầu với sa nhân như thế nào, và con có thể nhìn vào chính con ngày nay và suy ngẫm xem điều này có nghĩa gì đối với con hôm nay.

Không nhất thiết phải giống như những gì con thấy trong đời thày, mà có nghĩa là con cần đạt tới điểm con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Con nhận xét điều đó bên trong con – chứ không phải vì thày đang nói với con hay vì con đang đọc bài truyền đọc này. Thày không muốn con đọc bài này rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ lên đường tham gia cuộc thánh chiến, vạch mặt sa nhân, thách thức sa nhân.” Nó phải đến từ bên trong, và con yêu dấu, nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết được chấn thương nhập đời mà sa nhân đã sử dụng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

15.3. Con bị chấn thương nhập đời quy định

Con hiểu chứ, con yêu dấu, có một cơ chế có thể khởi động ngay cả khi con đã có các lời dạy mà con đã nhận được cho tới giáo lý về chấn thương nhập đời. Gần như thể trong cương vị một đệ tử tâm linh, con bước vào một tâm thái cho rằng chỉ cần đạt được ngày càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh, ngày càng nhiều hiểu biết hơn về tự ngã, về tâm lý, về cách chữa lành tâm lý của mình. Gần như thể con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng nếu con nhìn kỹ ngã này, nó cũng nghĩ rằng sự đột phá tối hậu vẫn nằm đâu đó trong tương lai. Một ngày nào đó, đột phá sẽ xảy đến nếu con cứ tiếp tục làm những gì con đang làm bây giờ. Như bào huynh yêu dấu của thày, Saint Germain, có nói: Có một thời con đã tiến bộ một cách tiệm tiến, và cũng có những thời khi con cần thực hiện một xoay chuyển cách mạng trong tâm thức.

Xoay chuyển cách mạng mà con cần thực hiện nếu con muốn bước lên một tầng cao hơn, là nhìn nhận rằng điều quy định con như một sinh thể hiện thân trên địa cầu chính là chấn thương nhập đời của con. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên. Tất cả những thứ khác mà con có thể đã làm – các loại liệu pháp khác nhau, tu học những giáo lý khác nhau, thực hành các dụng cụ tâm linh – đều đã giúp đem lại cho con một sự thay đổi tiệm tiến, và con đã có tinh tấn khi làm vậy. Nhưng chúng sẽ không thực sự xoay chuyển tâm thức của con vì chúng không động đến chấn thương nhập đời – như thể chúng chỉ chạy vòng quanh chứ không đâm thẳng vào vấn đề. Đó là tại sao con cần làm cuộc xoay chuyển và nhận ra là đã đến lúc con biết rõ từ bên trong (vì con nhận diện được sự thật trong lời dạy các thày) rằng bước kế tiếp của con là nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời này. Con không thể cứ đi vòng quanh, con không thể cứ tránh né vấn đề. Con không thể đặt trọng tâm vào điều gì khác, con không thể nghĩ rằng nếu con cứ tiếp tục đọc thỉnh và học hỏi giáo lý thì một ngày kia, đùng một cái, chuyện đó sẽ xảy ra. Nó sẽ không xảy ra. Có thể con cần phải lấy một quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Quyển sách Các kiếp của tôi có mô tả một cách như vậy, và lẽ tự nhiên, sa nhân có nhiều cách khác nhau để làm chuyện đó. Một số các con đã hứng chịu chấn thương nhập đời khi thiện ý của con bị sa nhân gạt gẫm, con bị chúng lừa dối xong bị chúng phản bội. Nhiều loại cảnh huống khác cũng có tác động. Cho tới khi con phát hiện chấn thương nhập đời đó, con sẽ không thể thực sự hiển thị và chấp nhận quả vị Ki-tô của mình, con không thể chấp nhận mình là Ki-tô trên địa cầu. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì trong cốt lõi, sa nhân đã làm gì khi chúng gây chấn thương nhập đời cho con? Phải, chúng đã tạo ra một sự phân rẽ trong bản thể con, trong bốn thể phàm của con. Cốt lõi của sự phân rẽ này không hẳn là lòng sợ hãi cho dù con có thể nghĩ vậy. Cốt lõi của sự phân rẽ này là lòng ngờ vực. Kẻ thù quỷ quyệt nhất trên đường tu tâm linh kỳ thực là lòng ngờ vực.

15.4. Khắc phục nỗi ngờ vực cốt lõi

Con đã đến đây như một avatar với ý định tốt đẹp nhất, thế rồi sa nhân giáng chấn thương đó lên con, và bỗng nhiên con bắt đầu nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Liệu tôi có quyền đến đây chăng? Ở đây người ta có đón nhận tôi chăng? Liệu tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Liệu tôi có cần biến thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?” Tất cả những nghi vấn như vậy, gần như vô số những nỗi ngờ vực đủ loại.

Trong nhiều trường hợp, con thấy điều đó bên trong con, rằng con có thể tự nghi ngờ rất nhanh chóng. Điều này cũng có mặt tốt của nó, theo nghĩa là con có tâm cởi mở, con cởi mở để nhìn vào bản thân và tự thay đổi. Đây là một điểm tích cực đã giúp con tăng triển trên đường tu. Nhưng con cũng phải nhìn nhận một mối nguy tiềm tàng vì con thấy có những người trên địa cầu với tâm hoàn toàn khép kín. Họ tin tuyệt đối là họ đúng, và ít ra trên bề nổi, họ có vẻ không có chút nghi ngờ gì là họ đúng. Tất nhiên ở mức thật sâu thẳm, ai ai cũng đều mang những nỗi nghi ngờ khác nhau, nhưng nhiều người vẫn đưa ra được một bộ mặt, một nhân cách, qua đó họ phóng chiếu ra bên ngoài rằng họ đúng và họ biết là họ đúng, và hình như họ không có nghi vấn nào hết.

Một số các con quen biết những người như vậy, và một số các con đã ngồi đó tự hỏi: “Làm thế nào họ có thể tự tin đến thế? Tại sao tôi lại nghi ngờ chính mình đến như vậy?” Nhiều các con sẽ nhận ra là mình mang khuynh hướng tự ngờ vực đó – đặc biệt khi con phải chạm trán với những người có tính tình gọi là vô cùng quyết đoán, áp đảo. “Ồ, hay là có lẽ họ đúng chăng?” Thế là bỗng nhiên con rơi vào một vòng luẩn quẩn trong tâm, và vòng luẩn quẩn này được tạo ra bởi tâm đường thẳng, tâm phân tích.

Tâm phân tích có khả năng làm gì chứ? Nó luôn luôn có thể nghĩ ra đủ loại luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ đề tài nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề. Khi con mang khuynh hướng nghi ngờ đó, tâm phân tích của con luôn luôn có thể đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, hay có lẽ con không nên lên tiếng. Có lẽ con không nên thách thức người đó? Lỡ rốt cuộc họ đúng thì sao? Hay có lẽ họ được quyền xử sự như vậy, và có lẽ con nên bỏ qua và tuân phục họ, hay con nên rút lui và để yên cho họ mà không thách thức họ?

Con hiểu điều thày vừa nói ở trên: Mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng. Chúng đã làm gì chứ? Với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã mưu toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng. Điều chúng tuyệt đối không muốn là con đạt tới một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những gì con nghi ngờ về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con. Chỉ khi nào con xem xét nỗi nghi ngờ thì con mới thấy là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng đó là một ảo tưởng. Tại sao đó là một ảo tưởng? Vì nó nhị nguyên, có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Khi con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực, thì con thấy được đối cực của quan điểm đã khiến con ngờ vực. Khi đó con thấy là con cũng có thể nghĩ ra những quan điểm chính đáng để hỗ trợ cho đối cực này, và đó là lúc con thấy không một quan điểm nào trong số đó là thực tại tối hậu.

15.5. Lựa bỏ nỗi nghi ngờ hiện sinh

Con có hiểu chăng, con yêu dấu? Sa nhân chỉ có thể hoạt động trong nhị nguyên. Nhị nguyên luôn luôn là một đối cực. Làm sao sa nhân có thể khoác vào bất kỳ dáng vẻ thẩm quyền nào? Làm sao chúng khiến người ta tin rằng đây có một quan điểm, một quan điểm nhị nguyên, và đó là chân lý tuyệt đối? À, chúng chỉ làm được vậy bằng cách phớt lờ đối cực nhị nguyên ngược lại, bằng cách giảm giá trị của nó, che giấu nó và khiến cho mọi người làm ngơ hay nghi ngờ nó. Và như vậy, chúng tâng một đối cực lên thành chân lý tuyệt đối. Đôi khi chúng cũng gán cho đối cực ngược lại là xấu ác, và tất nhiên, con có thể thấy sự thể này khắp thế giới khi người ta khêu lên: đúng và sai, sự thật và dối trá, tư bản và cộng sản, Cơ đốc giáo và mọi tôn giáo khác, vân vân và vân vân. Quá nhiều đối cực nhị nguyên với một bên hoàn toàn tốt và bên kia hoàn toàn xấu.

Khi con nhìn thấy điều này ở mức cá nhân trong chính chấn thương nhập đời của mình, nhìn thấy làm thế nào con đã khoác vào một tin tưởng nhất định đã khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây – và sau đó con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống hoài hoài – thì con có thể lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể của tôi.” Điều quan trọng nhất con có thể lựa bỏ ở những tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng là cái chúng ta có thể gọi là sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt nơi đây.

Con yêu dấu, một trong những mô thức thông thường do sa nhân tạo ra (là một mô thức mà sứ giả này chưa nhận ra một cách ý thức cho đến khi thày ban lời dạy này) là khiến con nghĩ rằng, vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu (trong cảnh huống đã gây ra chấn thương nhập đời), cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Nói cách khác, con nghĩ là mình phải toàn hảo, và nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng. Nhiều người trong các con có thể nhận diện ra nét này.

Sứ giả này đã có một trải nghiệm lý thú khi lái xe đến hội nghị này. Trong cuộc trò chuyện và không suy nghĩ gì trước, ông nói: “Bạn biết đấy, thật ra tôi chưa bao giờ phát hiện ra điều gì xấu ác trong con người tôi.” Xong ông ngừng lại, giật mình bởi câu nói của mình, vì ông chưa từng nghĩ đến chuyện đó trước đây. Sự thật là tuy ông đã sẵn lòng quan sát bản thân, đã nhìn sâu vào tâm lý mình, ông chưa bao giờ khám phá một yếu tố xấu ác nào trong bản thể của ông. Điều này cũng đúng cho hầu hết các con và hầu hết những ai sẽ đọc bài giảng này. Con yêu dấu, điều này cũng đúng cho mỗi avatar. Trong bản thể của con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã kinh qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Vì vậy, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? À, có nghĩa con không phải là một sinh thể sa ngã. Con không giống như các sinh thể sa ngã. Cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế nào đó, con có quyền thách thức sa nhân.

15.6. Làm thế nào thách thức sa nhân

Con có quyền, không nhất thiết là đứng lên buộc tội chúng sai trái, vì sa nhân rất thích tạo ra một trận chiến nhị nguyên khi có một người bảo: “Bạn sai rồi!” và một người khác lập tức có phản ứng bênh vực, cãi lại: “Không, chính bạn mới sai chứ!” Thế là nổ ra một tranh chấp dai dẳng sẽ không bao giờ ngừng lại.

Thật ra đây không phải là chuyện thách thức sa nhân bằng cách bảo chúng sai. Cách thực sự để thách sa nhân là nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức mà bạn đang có.” Vậy đâu là giải pháp thay thế? Nói cho cùng và theo nghĩa phổ quát nhất, đó chính là Ki-tô, tâm thức Ki-tô là giải pháp thay thế cho tâm thức sa ngã.

Đương nhiên, điều này có thể được diễn đạt nhiều cách khác nhau. Con có thể bước vào bất kỳ lãnh vực nào của cuộc sống, và một khi con lên những tầng cao hơn đó của Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phát triển được sự phân biện Ki-tô giúp con bước vào – và nhiều người trong các con sẽ thấy là kỳ thực mình có khả năng làm vậy. Nó khởi sự với một khả năng đọc được rung động. Trong các cuộc bàn luận tại đây, nhiều người đã bày tỏ là ở một thời điểm nào đó, con đã tìm được một giáo lý tâm linh hay một đạo sư hay một ý tưởng nào đó, và con chỉ cảm nhận: “Ồ, tôi không mặn mà cái này. Tôi sẽ không bước vào cái này.” Đây là khởi đầu của phân biện khi con có khả năng đọc được độ rung.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nói ra bằng lời tại sao con cảm thấy như vậy hay cảm giác đó là gì, nhưng khi con bước lên cao hơn trong quả vị Ki-tô, con sẽ bắt đầu có khả năng diễn tả điều đó qua lời nói. Con bắt đầu có thể bước vào gần như mọi khía cạnh cuộc sống, hay ít ra những lãnh vực mà con hiểu biết thành thạo, và con có thể nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Con không cần phải công khai lên án cái đó là xấu ác hay sa ngã hay bất cứ gì khác. Con tìm được cách dùng ngôn từ mà mọi người có thể liên hệ và chấp nhận. Con có thể bày tỏ đó không phải là quan điểm cao nhất mà có một giải pháp thay thế. Đây là một cách thách thức tâm thức sa ngã.

15.7. Ứng phó với những tấn công cá nhân

Đối với một số các con, điều cũng có thể xảy ra ở một mức cá nhân hơn là con gặp những người hoặc là sa nhân, hoặc có tâm thức sa ngã, và con thách thức họ trực tiếp. Một số các con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của mình. Con yêu dấu, không cần phải thách thức sa nhân bằng cách nhảy vào xung đột nhị nguyên với họ. Kỳ thực, cách xây dựng hơn, ít ra trong một thời gian, có thể là khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, vì sẽ dễ dàng hơn nếu con giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân (impersonal). Con thấy đó, con yêu dấu, khi sa nhân cảm thấy họ bị thách thức, họ sẽ làm gì chứ? Luôn luôn họ sẽ buộc tội ngược lại. Con có thể nói với họ: “Tôi không đồng ý với những ý tưởng bạn đưa ra,” nhưng bản năng của sa nhân sẽ khiến họ tấn công con một cách cá nhân.

Làm thế nào ứng phó với một cuộc tấn công cá nhân mà con có thể gặp, như chẳng hạn sứ giả này chắc chắn đã từng gặp rất nhiều lần? À, chừng nào con còn mang ngờ vực đó trong bản thể của con thì việc ứng phó sẽ rất khó khăn. Là người với tâm cởi mở, tự nhận biết và tự xem xét, khi có ai nói gì đó về con thì con luôn luôn cân nhắc: “Có thể nào họ đúng chăng? Tôi có cần thay đổi hay không? Tôi có quá hung hãn hay không? Tôi có như thế này, tôi có như thế kia?” Một lần nữa, làm thế nào con loại bỏ được ngờ vực chứ? À, chỉ bằng mỗi một cách là nhìn vào chấn thương nhập đời của con.

Khi con đạt tới điểm nhận ra là mình có quyền được ở đây và trong bản thể con không có gì xấu ác, thì con không thách thức người khác để hạ thấp hay chỉ trích họ, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là. Thật ra con có thể đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đứng lên bới móc: “Đâu là những điều sai trái, những điều xấu xa, những ý tưởng sai lầm, đâu là những chuyện tôi có thể thách thức?” Con chỉ đơn giản là chính con. Con bắt đầu biểu đạt chính con, những gì con biết, những sáng ngộ mà con có, những kinh nghiệm mà con đã nhận được. Khi làm vậy tất nhiên, con sẽ thách thức tâm thức sa ngã, và đôi khi con sẽ gặp chính các sa nhân cảm thấy con đã tấn công cá nhân họ vì họ luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách duy nhất để thực sự ứng phó là con không xem cách phản ứng của họ nhắm vào cá nhân con, bởi vì một lần nữa, con không làm chuyện này do một thâm ý cá nhân – có đúng không con? Con có thể nhìn nhận khi con nhìn lại đời mình, là khi con nói ra điều gì hay bày tỏ một quan điểm, con muốn người khác đồng ý với con vì như vậy con sẽ cảm thấy mình được xác chứng. Nếu họ bất đồng với con thì vết thương mà con mang bên trong được khơi dậy, nỗi bất an, nỗi ngờ vực, rồi con sẽ đau lòng. Con mang thâm ý cá nhân mong muốn người khác đồng ý với con hầu con không phải cảm thấy đau lòng. Đó là ý thày muốn nói qua từ “thâm ý cá nhân” đối với một avatar.

Con yêu dấu, một avatar không có thâm ý cá nhân giống như sa nhân là hà hiếp người khác để được lợi lộc. Đây có thể gọi là thâm ý cá nhân tổn thương của một avatar, là khi con tìm cách thay đổi người khác để bù đắp cho vết thương của con. Tất nhiên, một khi con loại bỏ được vết thương này thì con không cần làm vậy nữa. Thậm chí con không làm vậy nữa với thái độ là mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Như các thày đã nói, con đạt tới điểm con chỉ đơn giản là chính mình, con tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, con đồng sáng tạo, và chính điều này sẽ thách thức sa nhân.

15.8. Thực hiện cuộc xoay chuyển Ki-tô

Tuy nhiên như các thày cũng đã nói, có thể sẽ tới những điểm một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con đã tiêu hủy năng lượng, con đã buông bỏ ngã tách biệt đó, có lẽ cả ngã gốc, nhưng vẫn có một cái ngã tách biệt khác cứ suy nghĩ rằng con không được thách thức, hay không được trực diện, hay không được nhẫn tâm, hay bất kỳ ý tưởng nào đại loại như vậy. Nói cách khác, con đã thật sự sẵn sàng để bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có cái ngã tách biệt kia ở bên trong đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy bởi một lý do nào đó.    

Có lẽ con nghĩ: “Tôi là một người tâm linh, tôi phải hiền từ hòa nhã với mọi người,” như nhiều người thiện tâm trong lãnh vực Thời Mới thường nghĩ vậy. Con cần sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?” Xong con nhìn ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm một cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng hay xúc phạm người khác.”

Con yêu dấu, các thày đã có nói, quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hoặc mình cảm thấy thoải mái. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu khắp các lối đường bụi bặm của đất Palestine, thỉnh thoảng thày có gặp những người cảm thấy vô cùng khó chịu chỉ do Hiện diện của thày, vì ánh sáng mà thày tỏa rạng đã khuấy động những con quỷ bên trong họ – nếu có thể nói như vậy – và bỗng nhiên những con quỷ này la lớn, hét vào mặt thày. Thày không bảo là điều này sẽ nhất thiết xảy ra cho con, nhưng con cần nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Con cần đạt tới điểm con không dùng phản ứng của người khác để mà nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Một lần nữa, con đạt tới điểm là con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là con người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng lại theo mức tâm thức của họ. Rồi một lần nữa, con có quyền tiếp tục là con người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì. Phản ứng của họ là gì chứ? Nói cho cùng, đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Có thể họ mang một khuôn nếp tâm lý, có thể họ mang một số phàm linh nội tại, có thể họ mang những con quỷ đang kiểm soát họ và khiến họ phản ứng như vậy cho nên họ không đang chọn lựa một cách ý thức. Nói cho cùng, khi con nhìn ngược trở lại quá trình của dòng sống đó, dòng sống của họ đã làm một số chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con yêu dấu, đó là quyền tự quyết của họ, không phải quyền tự quyết của con. Con không có thẩm quyền gì trên quyền tự quyết của họ. Khi con hoàn toàn công nhận là con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của một người khác thì con cũng công nhận là con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

15.9. Lý tưởng Bồ tát

Và đây là điểm con cần nhận ra là với tư cách một avatar, nhiều người trong các con đã đến đây vì con đã nhìn vào địa cầu, nhìn vào đau khổ trên trái đất và có lòng trắc ẩn đối với những ai đang bị khổ đau. Đây là một lý tưởng được diễn tả tại phương Đông, đặc biệt liên quan đến thày Quan Âm, qua lý tưởng Bồ tát. Truyện được kể ở phương Đông là Quan Âm đã đạt tới điểm thày hội đủ tư cách thăng thiên – hay Niết bàn theo cách gọi như vậy – và thày đã có thể rời khỏi địa cầu. Nhưng khi thày sẵn sàng bỏ lại địa cầu, thày đã ngoái nhìn lại một lần chót và nghe thấy tiếng than khóc của thế gian, của những người đang đau khổ, và thày quyết định ở lại với trái đất để cứu giúp loài người vượt qua khổ đau. Đó chính là lý tưởng Bồ tát của một người đã đủ tư cách thăng thiên nhưng vẫn chọn ở lại với địa cầu. Nhưng câu chuyện trên có thể dễ dàng được chuyển sang trường hợp của nhiều avatar cũng đã quyết định đến địa cầu vì đã nghe thấy tiếng than khóc và nhìn thấy đau khổ của thế gian.

Các thày đã trao cho con những gì? Sứ giả này đã ngộ ra điều gì khi suy nghiệm các giáo lý về chấn thương nhập đời? Đó là con, như một avatar, chưa ở trong trạng thái tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con có một mức tâm thức cao hơn ở đây, con đến từ một hành tinh tự nhiên. Một lần nữa, trong bản thể con không có xấu ác, nhưng con vẫn mang một điều gì đó chưa giải quyết, một điều gì đó mà con chưa học xong. Đâu là điều mà con chưa học? À, đó là bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách lớn nhất mà con có thể gặp.

Con yêu dấu, con có thể lập luận rằng vấn đề duy nhất của sa nhân là chúng đã không hoàn toàn trải nghiệm và chấp nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Chúng vẫn cố tìm những cách thức để khuynh đảo quyền tự quyết, quyền tự quyết của người khác, hay tìm cách căng rộng quyền tự quyết của chúng ra – sa nhân tưởng như vậy – để nó cho chúng nhiều tự do hơn, vì chúng không hiểu là chúng đã có tự do tuyệt đối rồi.

Con hiểu chứ con? Một số sa nhân sẽ không nhìn nhận là chúng đang có quyền tự quyết tuyệt đối. Chúng đã tạo ra trong tâm tấn tuồng cuồng đại cho rằng Thượng đế đang hạn chế quyền tự quyết của chúng, cho nên cách duy nhất để biểu lộ quyền tự quyết là nổi loạn chống lại ngài, bằng cách làm ngược lại những gì ngài muốn chúng làm. Chúng chỉ không chịu nhìn nhận là thượng đế đó – thượng đế muốn chúng làm cái gì đó – chính là sự tạo dựng của chúng chỉ hiện hữu cho tâm chúng. Trong khi đó thì Đấng Sáng tạo đích thực đã nói rằng: “Con có quyền tự quyết hoàn toàn.” Một trong những thử thách lớn nhất cho một sinh thể tự nhận biết, cho dù sa ngã hay không sa ngã, là nhìn nhận bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Là một avatar, con đã chưa nắm bắt được toàn bộ bản chất tuyệt đối của tự quyết. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy người ta đau khổ, con chỉ có thể lý luận là có gì đó đã bị lệch lạc, hư hỏng, do họ đã chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ của con, nhiệm vụ mà chính con đã tự giao phó, là con sẽ đi xuống giúp họ có những chọn lựa đúng hơn – không phải bằng cách thao túng họ mà qua nhiều cách khác. Nhiệm vụ của con như một avatar có phải là đến đây và làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của người khác hay không?

15.10. Sự khác biệt cơ bản của quyền tự quyết

Tuyệt đối là không! Theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Điều này có nghĩa chăng là con không thể giúp được ai? Không, không có nghĩa như vậy. Có một sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ. Đây là một khác biệt cơ yếu.   

Nó không có vẻ gì là một khác biệt lớn lắm, nhưng một khi con suy nghiệm ý tưởng này trong tâm và thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm, con có thể đạt tới điểm thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng mà Saint Germain nói đến. Bỗng nhiên con ngộ ra khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào. Điều đó, con yêu dấu, sẽ là thử thách lớn nhất của con như một avatar trên địa cầu. Con sẽ phải sẵn lòng làm những gì Saint Germain đã nói đến: Nhìn nhận là mình đã sai lầm. Không cứ là con đã sai trái – sai trái trong nghĩa xấu xa, tà ác – khi con đến địa cầu. Nhưng con phải nhìn nhận là thái độ mà con đã có, đã đưa con tới trái đất, cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con phải sẵn lòng nhìn nhận điều này vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó trong tư cách một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu, hay sự thành công của mình trên địa cầu, là để thay đổi một ai khác, thay đổi các chọn lựa tự quyết của họ, thì con không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ nào khác mà con phải làm, một vấn đề nào khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại nào khác mà con phải hoàn tất. Nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi, con yêu dấu. Đó là một trong những điều các thày muốn chỉ ra cho con thấy trong quyển sách Các kiếp của tôi, khi thày đã bỏ ra hai triệu năm trời để vượt qua cái ảo tưởng đã đưa thày tới đây. Nó có thể kéo dài lâu hơn thế nữa.

15.11. Trong Sứ vụ của con có việc thăng thiên hay không?

Con cần nhận diện là nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có khả năng con sẽ thăng thiên sau kiếp này, thì việc thăng thiên sẽ đòi hỏi ở con những gì? Đôi khi, và đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các đệ tử có một cái nhìn gần như máy móc về thăng thiên. Con nghĩ là nếu con làm việc này và làm việc kia, và nếu con hiểu điều này và hiểu điều kia thì đùng một cái, con sẽ thăng thiên! Một lần nữa, sẽ không bao giờ có chuyện “đùng một cái”. Thăng thiên sẽ cần gì? Sẽ cần (như sứ giả này đã nhìn thấy trong một ánh chớp trực giác cách đây nhiều năm) là con đạt tới điểm con đứng trước cánh cổng đó. Trước khi con có thể bước qua cổng, con phải ngoái nhìn lại trái đất. Thày cũng biết có những truyện kể rằng những ai ngoái nhìn lại sẽ biến thành cột muối, nhưng điều này sẽ không xảy ra khi con ở mức thăng thiên. Con phải nhìn lại. Con phải nghe thấy tiếng than khóc của thế gian. Xong con phải duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại?”

Chỉ khi nào con nhận ra là không còn gì trong bản thể mình đang níu kéo mình ở lại trái đất, chỉ khi đó con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!” Sau đó con có thể thăng thiên, nhưng đây là một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn có ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Bây giờ có một điểm nữa. Các thày công nhận là mỗi khi các thày ban ra một lời dạy, nó có thể khiến cho một số người diễn giải theo một cách hơi thiếu quân bình. Các thày đã ban ra rất nhiều lời dạy về thăng thiên, và suốt nhiều thập niên nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã mang ý tưởng là điều duy nhất thực sự quan trọng, điều duy nhất mà con thực sự phải làm như một đệ tử của chân sư, là nỗ lực đạt đến thăng thiên. Con cần thăng thiên càng nhanh càng tốt, chắc chắn sau kiếp này nếu có thể hay trong kiếp tới. Đây là trường hợp cho một số các con nhưng không phải cho tất cả các con.

Chúng ta đang sắp sửa đem lại được gì cho hành tinh này? Thời đại Hoàng kim của Saint Germain! Có những sinh thể đang đầu thai, kể cả các avatar, muốn góp phần trong công cuộc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra toàn bộ trước khi con mãn kiếp sống hiện thời, ngay cả nếu con vẫn còn trẻ tuổi vào lúc này. Có thể một số các con đã không thảo vào Sứ vụ của mình việc thăng thiên sau kiếp này vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim. Điều này, con chỉ có thể thấy được một khi con lên đến các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, và một lần nữa, con chỉ thấy được nó rõ ràng một khi con giải quyết chấn thương nhập đời.

Con hãy công nhận điều này, con yêu dấu: Nhiều avatar, do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì họ nghĩ họ sẽ tránh xa khỏi chấn thương nhập đời của họ. Tất nhiên là khi con thăng thiên, con sẽ rời xa khỏi chấn thương nhập đời, nhưng con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào nó và trực diện với nó. Có một cơ chế trốn chạy là khi người ta cảm thấy: “Ồ, đương đầu với chấn thương nhập đời thật quá sức của tôi, cho nên tôi sẽ chỉ tập trung vào chuyện thăng thiên, và tôi chắc chắn tôi có thể làm được mà không phải giáp mặt với chấn thương nhập đời.” Chuyện này không thể làm được, con ạ!

Một lần nữa, điều gì sẽ giúp con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain? Điều gì sẽ cho phép con trải nghiệm và thực sự vui hường nó được? Đó là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Không có nghĩa là khi con giải quyết chấn thương nhập đời thì con sẽ tự động thăng thiên hay con sẽ phải thăng thiên. Con ạ, con có thể chọn ở lại trái đất và nói: “Thày biết đó, con đã phải vật lộn với chấn thương nhập đời này suốt hai triệu năm qua, chắc chắn con sẽ muốn được kinh nghiệm hành tinh này mà không có nó.” Thật không có gì sai trái nếu con chọn như vậy, con yêu dấu – ngay cả nếu con có thể tùy chọn thăng thiên hay không.

Tất nhiên như các thày đã nói trong các đợt truyền pháp trước, cũng đúng là khi có ai thăng thiên thì điều này sẽ tác động tích cực đến địa cầu. Sự thăng thiên sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Chắc chắn khi có ai giải quyết được chấn thương nhập đời và bắt đầu biểu đạt quả vị Ki-tô của mình thì điều này cũng tác động tích cực nếu con ở lại trong hiện thân. Một lần nữa, đây không phải là một điều ép buộc cho con. Đã có những đệ tử của chân sư gần như cảm thấy mình bị buộc phải thăng thiên, hay phải nỗ lực thăng thiên vì họ phải làm vậy để giúp địa cầu. Nhưng con có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Con yêu dấu, nếu ngày mai tất cả các con đều thăng thiên hết thì sẽ còn ai nữa để đem lại Thời Hoàng kim đây? [Có người trong cử tọa trả lời “Chúng con!”] Không, vì con sẽ thăng thiên, và một khi con thăng thiên, con sẽ không thể đem nó vào thị hiện vật lý.

15.12. Thăng thiên hay không thăng thiên

Con yêu dấu, đã từng có những thời đại trước trên trái đất (các thày đã có giảng về các giống dân gốc và những điều tương tự), đã từng có những chu kỳ khi một nền văn minh dần dần vươn lên một trình độ rất cao và có một nhóm dòng sống đã đóng góp đắc lực để đưa nền văn minh lên mức đó. Lý do họ đã góp phần nâng cao nền văn minh là vì họ cũng đã nâng cao tâm thức của họ và bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên khi làm vậy, họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Họ có sự chọn lựa tự quyết: thăng thiên hay không thăng thiên. Đã xảy ra những trường hợp khi quá nhiều dòng sống già dặn đó chọn thăng thiên cùng một lúc, đến độ sau khi họ bước ra khỏi hiện thân thì nền văn minh đã rất nhanh chóng rơi vào một vòng xoáy hướng hạ và sụp đổ. Có thể nói là đã không có đủ số người đầu thai để cầm giữ sự cân bằng tâm linh và duy trì nền văn minh trong vòng xoáy hướng thượng. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là sa nhân đã có thể dọn tới, nắm giữ quyền bính và kéo nền văn minh đi xuống.    

Con phải thận trọng và nhìn nhận là luôn luôn có một thế quân bình cần tìm ra. Một lần nữa, các thày không đang nhìn trở ngược lại và trách cứ những người kia đã chọn thăng thiên. Họ có quyền chọn như vậy, và đó chính là sự thử thách cho những ai nhìn vào những ví dụ đó mà vẫn còn ở tầng thấp hơn. Liệu họ sẽ bước lên và lấp đầy khoảng trống, hay là họ sẽ cho phép sa nhân đi vào chiếm lấy khoảng trống? Đó đã là chọn lựa và thử thách cho những người đó. Sự việc đã trải bày ra thế nào thì cũng hoàn toàn tốt thôi.

Thày chỉ giản dị nói với con là trong tư cách một đệ tử chân sư thăng thiên, con không cần phải dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Chắc chắn con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và nhờ vậy cũng có nhiều khả năng hơn để là một cánh cửa mở.

15.13. Sứ vụ Thiêng liêng đã không bị ép buộc lên con

Quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Con thấy đó, thật quan trọng khi con đến được điểm này vì, con yêu dấu, để hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con phải khắc phục ý niệm là có gì đó ép buộc lên con. Thậm chí con có thể có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, đã học giáo lý của các thày, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con. Có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình! Đó là điều mà ngã này cảm nhận.

Con cần nhận diện liệu con có mang khuynh hướng này hay không, xong con cần xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.” Con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình cho tới khi con chấp nhận nó một cách trọn vẹn và tuyệt đối. Nói cách khác, con không thể cảm thấy là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ con ở đây và thấy rõ kiếp hiện thân vật lý và mọi chuyện trên địa cầu khó khăn đến chừng nào, thì con đâm ra nghi ngờ là con có thể làm tròn hay đương nổi các chọn lựa đó. Thậm chí, con còn không chắc chắn là mình sẵn lòng thực hiện các chọn lựa này, cho nên bên trong con cảm thấy một xung đột nào đó, gần như thể con là – như thày từng nói cách đây 2000 năm – “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Nếu bên trong con có phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ Thiêng liêng mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một ngã tách biệt với ý chí khác hơn, thì con cần xem xét nó. Con không thể làm tròn tiềm năng cao nhất của Sứ vụ chừng nào con còn kéo lê cái ngã này theo con.

Một lần nữa, con cần làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào nó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét nó, tôi sẵn sàng bước sâu vào trong đó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.” Rồi con nhìn ra tính không thực của lý do và con nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi nhìn thấy đây là chọn lựa của ngã tách biệt, vì bất kể những gì đã tạo ra ngã tách biệt – một chấn thương, một tin tưởng sai lầm, bất kể – thì bây giờ tôi đã thấy nó rồi và tôi chọn để cho nó chết. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.” Chỉ khi nào con buông ngã tách biệt này thì con mới có thể thực sự vươn đến đó. Và chỉ khi đó con mới có thể ôm lấy Sứ vụ của mình – ôm một cách trọn vẹn.

Con yêu dấu, khi con nhìn lại cuộc đời của thày cách đây 2000 năm, nếu con thực sự thành thật, con sẽ có thể thấy thày là Ki-tô Hằng sống, nhưng theo một cách nào đó, thày là Ki-tô Hằng sống bất đắc dĩ. Chẳng hạn con thấy trong tình thế trước các biến cố dẫn đến việc thày bị bắt và đóng đinh, thày ngồi trong Vườn Gethsemane. Có người bảo rằng những giọt mồ hôi thày đổ ra là máu và có người thì bảo là không, nhưng chuyện này không phải là vấn đề. Vấn đề là thày đã thốt lên: “Cha ơi, nếu đây là ý muốn của Cha, hãy cho chén này lìa khỏi con.” Tuy vậy, sau đó thày lại nói: “Song không theo ý muốn của con mà theo ý muốn của Cha.”

Điều này cho con thấy gì? Rằng ngay cả thày đây, ở mức quả vị Ki-tô mà thày đã chứng được, vẫn còn phân rẽ trong bản thể mình khi thày cảm thấy có một ý muốn của thày và có một ý muốn cao hơn. Phải chăng Thượng đế đang ép buộc lên thày? Không, chính thày đã chọn lựa như vậy khi thày lập ra Sứ vụ của mình. Thày đã chọn lựa, nhưng vẫn có một thành phần trong cái ta vỏ ngoài của thày, trong nhân cách vỏ ngoài của thày, một cái ngã tách biệt vẫn chưa hoàn toàn ôm lấy và chấp nhận chọn lựa đó. Ý thày muốn nói là thế này: Điều đó, tất nhiên, cũng hoàn toàn tốt thôi. Nó xảy ra 2000 năm về trước vào một thời tâm thức dày đặc hơn rất nhiều. Khi đó thày là một trong những người đi tiên phong chứng tỏ tâm thức Ki-tô. Điều đó tốt hoàn toàn vào thời buổi đó, nhưng trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng bước lên cao hơn nữa, tiềm năng khắc phục sự phân rẽ đó trong bản thân mình và ôm lấy trọn vẹn Sứ vụ của con.

Hiển nhiên đây là điều thày mong muốn nhìn thấy nơi con, con yêu dấu. Liệu điều này có nghĩa là con sẽ hiển thị một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày cách đây 2000 năm hay chăng? “Đúng vậy! Có thể nghĩa là vậy cho con đó!” Con không nghĩ đó là điều thày mong muốn cho con sao? Con yêu dấu, con có nghĩ là thày – chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – lại mang chút tham vọng của tự ngã bảo rằng: “Ta đã từng là người chứng tỏ quả vị Ki-tô trên trái đất và ta không muốn bao giờ có người qua mặt được ta” hay sao?

Thày muốn con hoàn thành những công việc lớn lao hơn thày thuở trước – thày đã nói vậy cách đây 2000 năm. Thật không phải là vấn đề của thày nếu con đã không tin thày! Thày an bình với chuyện đó, thày phó mặc cho quyền tự quyết của con, và thày chỉ muốn chỉ ra cho con thấy đây là cách nhìn của thày. Thật sẽ là niềm vui tột cùng cho thày được chứng kiến nhiều người – một vạn người – hiển thị một tầng của quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể hiển thị cách đây 2000 năm, cho dù như thày vừa nói, họ có biểu lộ quả vị Ki-tô đó qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Con yêu dấu, thật là niềm vui tột cùng cho thày được trao con bài giảng này và thật sự được thấy những xoay chuyển tâm thức nơi những ai đã hấp thụ được. Thày sẽ vui mừng biết mấy được thấy nó lan tỏa ra như những vòng tròn trên mặt nước, giúp cho ngày càng nhiều người hơn đạt tới mức chấp nhận hoàn toàn tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình – chấp nhận trọn vẹn các chọn lựa của chính mình.

7 | Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày mong muốn nói chuyện với con về đề tài quả vị Ki-tô và mối liên hệ với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày đã giảng dạy cho con về điều mà chúng ta có thể gọi là “giai đoạn công phu” (work phase) trong Sứ vụ của con. Khi con bước vào kiếp đầu thai – nếu con là một học trò tâm linh già dặn – con biết là con có một số công việc cần làm liên quan đến việc cân bằng nghiệp quả, thu nhận sáng ngộ và kinh qua những trải nghiệm sẽ xoay chuyển tâm thức của con. Là một học trò tâm linh chín chắn hơn, thường khi con sẽ dự định hoàn tất sớm sủa giai đoạn công phu này trong đời mình hầu con có thể tiến bước tương đối nhanh chóng và chuyển sang các giai đọan khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

7.1. Làm cho xong giai đoạn công phu

Điều xảy ra khá thường là trong những thập niên đầu trong đời, các con thường rất bận rộn, miệt mài trong các mối quan hệ, trong việc nuôi con, kiến tạo sự nghiệp, bỏ sức ra làm việc… tất cả những thứ đó. Như thể đó là một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) mà qua đó con cảm thấy mình phải làm tất cả những thứ đó và phải làm ngay lập tức. Thật ra đó cũng không đến nỗi là ám ảnh vì đơn giản con chỉ mong muốn làm cho xong hầu con có được tâm trí minh mẫn, có lẽ một cơ hội trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình, để con tập trung nhiều hơn vào các giai đoạn sau.

Đối với đa số các con, một cách để cân bằng nghiệp quả là qua các mối quan hệ. Đó là tại sao con thường thấy người ta lập gia đình khá sớm và cũng có con khá sớm. Có thể con sẽ có nhiều hơn một mối quan hệ. Đó có thể là những quan hệ rất nồng nàn mãnh liệt. Đây là một trải nghiệm con muốn kinh qua nhanh chóng. Con rất muốn bước qua nhanh chóng mặc dù con không hiểu điều này một cách ý thức.

Đối với nhiều người, một giai đoạn khác sẽ đến, thường là khi con tìm ra một giáo lý tâm linh. Con nhận ra là có một con đường tâm linh và con cất bước trên con đường đó. Rất nhiều người cũng trở nên vô cùng nhiệt tình và chuyên tâm khi bước đi trên con đường này. Cho dù giáo lý tâm linh là gì, họ cũng học tập một cách háo hức, thực hành bất kỳ dụng cụ hay kỹ thuật nào được ban truyền. Gần như có thể nói là họ làm vậy một cách ám ảnh cưỡng chế, bởi vì đây là điều họ cần làm để vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

7.2. Không cần tiếc nuối

Một kết luận con có thể rút tỉa từ hiểu biết trên là tất cả các con tuyệt đối không có lý do gì để cảm thấy bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều mình đã kinh qua trong đời mình. Con có thể nhìn lại đời con và con có thể xét đoán với tâm vỏ ngoài là rất nhiều chuyện con đã kinh qua không hẳn là tâm linh. Những chuyện đó không mấy hài hòa mà lại quá sôi nổi, nồng nhiệt. Con có thể nhìn lại rồi tiếc nuối: “Ước gì tôi đã không làm điều đó.”

Con yêu dấu, tại sao con làm những việc con đã làm? Con đã kinh qua trải nghiệm đó vì đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho dù nó mang ý nghĩa gì đối với cá nhân con, con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất cái mà các thày gọi là giai đoạn công phu trong Sứ vụ Thiêng liêng. Các thày cũng có thể gọi đó là giai đoạn chuẩn bị, vì con đang chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn trong Sứ vụ của con. Như các thày đã nói, con đơn giản nhận ra là con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó trong kiếp này nhưng con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn. Cho nên con muốn xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt để có thể vươn lên những tầng cao hơn. Chỉ khi nào con đến được những tầng cao hơn đó thì con mới bắt đầu nhìn thấy những khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ của con.

Điều các thày đã nói là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức của mình một cách lý thuyết và trí thức. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức. Tại sao con làm những việc con đã làm? Vì trong tiềm thức, con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để con có thể dời chuyển tâm thức của con.

Con yêu dấu, cho dù các trải nghiệm đó là gì thì một cách nào đó, chúng cũng đã chuyển dời tâm thức của con. Thày biết là hầu hết các con sẽ nhìn lại đời mình và nói: “Nhưng cũng đã có một số trải nghiệm khó khăn đến độ tôi bị rơi vào một vòng xoáy tiêu cực, và trong nhiều năm trời, nó đã khiến tôi bị trầm cảm hay bị xáo trộn hay bị khổ tâm.”

7.3. Dời chuyển ra khỏi tiếc nuối

Vâng, con yêu dấu, nhưng khi con sẵn lòng nhìn ngược lại và sử dụng các dụng cụ thày đã ban cho con, thì con sẽ có thể khắc phục nó và thực hiện cuộc xoay chuyển mà con đã trù liệu cần xảy ra qua trải nghiệm đó. Và một khi con xoay chuyển, con yêu dấu, trải nghiệm sẽ không quan trọng nữa. Thày cũng biết là một trải nghiệm đau thương có thể tích tụ năng lượng trong bốn thể phàm của con. Tuy nhiên, con đã có các dụng cụ để chuyển hóa nó và nhờ vậy để cho nó ra đi. Nhiều lần, con yêu dấu, con không nhận ra là khi con có trải nghiệm như vậy, con đã phản ứng ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây khi con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại quá khứ với đôi chút hối tiếc. Có thể là từ cảm nhận của người học trò tâm linh mà con muốn trở thành, con đã không nên làm điều đó. Con yêu dấu, cảm giác nuối tiếc đó – khi con tự trách móc hay xấu hổ – xuất phát từ một cái ngã nội tại thường là một thành phần của tập hợp ngã gốc.

Nếu con có thể nhận diện là con đang nhìn lại quá khứ với lòng nuối tiếc hay cảm giác tiêu cực, thì con cần biết đó là một cái ngã nội tại. Đó là một ngã tách biệt và thật ra nó có thể phần nào được tạo ra bởi một giáo lý tâm linh mà con đã tiếp nhận. Vì một lý do nào đó, con đã diễn giải giáo lý đó và con đã tạo ra cái ngã đang trách móc ngã, đang cảm thấy xấu hổ như thể mình không đủ tốt, và cảm thấy (như nhiều các con có thể cảm thấy) rằng một người tâm linh đích thực đã không thể nào làm chuyện đó – nhưng chính con lại làm chuyện đó. Con cho rằng sự kiện con hành xử như vậy có nghĩa là bây giờ con đã vĩnh viễn đánh mất cơ hội, con sẽ không bao giờ chuộc lỗi được trong kiếp này và do đó kiếp này bị lãng phí. Con không thể làm gì khác hơn là ngồi đó trong buồng tối mà khóc cho đến mãn kiếp.

Con yêu dấu, thày có vẻ đang nói đùa, nhưng những ai cảm thấy mình đã làm chuyện gì tồi tệ đến độ mình không thể là người tâm linh chân chính, thường nghĩ là mình không thể nào đến gần các chân sư thăng thiên, bởi vì chắc chắn các thày sẽ lên án con y như con đang lên án chính mình. Biết bao nhiêu lần các thày đã nói với con là các thày không nhìn con như con nhìn chính con? Các thày không trách móc con như con đang tự trách mình.

Điều thày muốn nói với con ở đây là như sau: “Con yêu dấu, đừng bao giờ cho rằng một chân sư thăng thiên sẽ lên án con về bất cứ điều gì con đã làm.” Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất – là giải thoát con. Các thày sẵn sàng giúp con giải thoát khỏi bất cứ gì từ quá khứ của con.

7.4. Quả vị Ki-tô và tha thứ

Đây là một trong những khía cạnh của quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu có khả năng mà các thày gọi là phân biện Ki-tô, con sẽ đạt tới điểm trải nghiệm là mình có thể được tha thứ, được cứu chuộc. Con có khả năng khắc phục, vươn lên cao hơn bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này. Thật ra thày có thể nói với con là có nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, thậm chí cả những người đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist), đã hiểu rõ điều này hơn cả nhiều người trong phong trào Thời Mới hay học trò của chân sư thăng thiên. Phần nào, đó là vì những người Cơ đốc đó không mang khái niệm là do họ bước trên đường tu cho nên họ cần nắm trách nhiệm xem xét tâm lý của mình và buông bỏ những gì cần buông. Dù vậy, họ vẫn trải nghiệm được thực tại là Ki-tô có khả năng cứu chuộc họ khỏi mọi tội lỗi, và họ chấp nhận như thế.

Nhưng các con thì khác, các con có một mức độ trách nhiệm cao hơn về bản thân. Điều này rất tốt, nhưng con cần nhận ra là trong con có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo. Con nghĩ có một số chuyện đáng lẽ con đã không được làm và con sẽ không thể được tha thứ hay cứu chuộc. Nói cách khác, con sẽ không bao giờ vượt lên cao hơn cái đó.

Tất nhiên, ngã đó dựa trên sự kiện là ngay từ khi sa nhân bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã phóng chiếu vào tâm thức tập thể ý tưởng là có một số chọn lựa tự quyết của con sẽ không thể được khắc phục qua những chọn lựa khác hơn. Một lần nữa như các thày đã giảng nhiều lần, quyền tự quyết cho phép con chọn lựa bất cứ gì con muốn bất cứ lúc nào – có nghĩa là bất cứ lúc nào, con cũng có thể lấy một chọn lựa sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ. Không bao giờ con lấy một chọn lựa mà không có khả năng tránh khỏi hậu quả của nó qua một chọn lựa mới. Đấy, thày biết rất rõ là ngay lập tức sẽ có một phần trong bản thể con phản bác lại là trong bát cung vật lý, có thể vào thời trẻ con đã có những chọn lựa mang lại hậu quả mà con không thể thay đổi chỉ qua một chọn lựa mới.

7.5. Điều kiện vật chất không thể ngăn cản tâm thức xoay chuyển

Phải, con yêu dấu, điều đó đúng. Tuy nhiên, bao nhiêu lần các thày đã nói với con là không có một điều kiện vật chất nào mà con có thể đem theo con lên cõi thăng thiên? Do đó, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên. Cũng vậy, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con cứ tiến lên tới tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng, vì thật sự không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức của con. Chính sự chuyển đổi tâm thức sẽ đưa con tới mức có thể thăng thiên.

Điều này dẫn con tới điểm con có thể bước vào các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng. Tất cả chỉ là vấn đề dời chuyển tâm thức. Con nhìn nhận là một mặt, do độ dày đặc của cõi vật chất, một số nguyên tắc cơ học sẽ vận hành ở đây. Có một số việc con làm mang hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt phần đời còn lại của con – điều này hoàn toàn đúng. Nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Đây là điều mà con khởi sự trải nghiệm khi con bắt đầu có phân biện Ki-tô, và con mở tâm ra để thực sự nắm bắt, trải nghiệm, khía cạnh này của Ki-tô – là Ki-tô đấng Cứu chuộc theo cách gọi của người Cơ đốc giáo. Con có thể gọi một tên khác. Con có thể gọi đó là Ki-tô với khả năng nâng con lên cao hơn bất cứ gì của quá khứ, hay Ki-tô với khả năng biến con thành mới, như ngay cả Paul cũng bảo: con trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô.

Đây là một sự xoay chuyển quan trọng mà con có thể thực hiện khi con nhận ra có sa nhân hiện diện trên hành tinh. Chúng ngăn chặn con một cách rất hung hãn để con không đạt tới các giai đoạn cao trong Sứ vụ Thiêng liêng, đặc biệt là việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Công cụ chính của chúng là phong chiếu ý tưởng là con có thể có một số chọn lựa mà con sẽ không bao giờ vượt qua nổi. Đây là một lời gian dối tuyệt đối, hoàn toàn đi ngược lại khái niệm tự quyết. Vì thế con cần có phân biện này. Và đến đây, con yêu dấu, chúng ta chuyển sang một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô, hay phân biện Ki-tô, mà nhiều người trên thế giới vẫn chưa thực sự nhìn thấy.

7.6. Con không cần một vị cứu tinh từ ngoài

Một lần nữa, đây là vì các sa nhân đã làm đủ mọi cách để phá hỏng sứ mạng mà thày đã khởi xướng cách đây 2000 năm. Chúng đã làm mọi cách để khiến mọi người hiểu lầm khái niệm Ki-tô. Với việc thành lập Giáo hội Công giáo và kể từ đó, chúng đã phóng chiếu hình ảnh Ki-tô là một đấng cứu tinh sẽ đến cứu con trong tư cách một lực bên ngoài. Và do đó con không có uy lực bên trong, hay khả năng ở bên trong, để nâng cao tâm thức mình cho tới mức có thể thăng thiên.

Đây là một sự lật ngược toàn diện thông điệp mà thày đã ban truyền. Một lời xuyên tạc hoàn toàn. Cho nên như thày có nói, hầu hết các giáo hội Cơ đốc ngày nay rõ ràng đều dựa trên những lời gian dối của phản Ki-tô – ngay từ thời thành lập, nhưng đây là một vấn đề bên lề.

Điều thày muốn đưa ra là như sau: Không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục khi con nhận ra rằng Ki-tô không phải là một cứu tinh bên ngoài. Ki-tô không ở ngoài con; Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Nếu con muốn thấy Ki-tô như một cứu tinh thì Ki-tô là vị cứu tinh nội tại. Do đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận là con có khả năng thực sự vượt qua tất cả mọi sự việc của quá khứ, nếu con sẵn lòng nhìn vào bản thân và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Chẳng hạn, nhiều người trong các con đang bước trên đường tâm linh và đã nhận trách nhiệm về bản thân mình, các con có một cái ngã nội tại bảo rằng con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con yêu dấu, có một tâm thức rất, rất hung hãn trên thế giới – một lần nữa, do sa nhân tạo ra cách đây hàng ngàn năm và trước đó nữa – muốn quy định những lằn ranh, những cách xét đoán, những chuẩn mực về cách hành xử của con người. Một phần của quả vị Ki-tô là đạt đến nhận thức là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho bản thân mình.

Các thày đã nói đến những tiêu chuẩn vỏ ngoài mà xã hội áp đặt lên con, nhưng bây giờ thày đang nói về những tiêu chuẩn nội tại mà chính con đã tạo ra, rất có thể suốt nhiều kiếp sống như một người tâm linh. Con cần xem xét điều này và con cần nhìn xem nó ăn khớp thế nào với những lời dạy mà các thày đã ban ra về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi con hứng chịu chấn thương nhập đời. Có một điều gì khiến con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Do đó, con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng có một điều gì đó con làm đã khiến cho sa nhân hành hạ mình, và nếu con không bao giờ tái phạm thì có thể con sẽ không bao giờ bị hành hạ như vậy nữa.

7.7. Các chuẩn mực nội tại của con

Và điều này dẫn đến việc con tạo ra một chuẩn mực rằng con phải là người như thế nào. Kể từ đó, con yêu dấu, ở trong con đã có một cái ngã – trong bất kỳ hoàn cảnh nào khi con đầu thai trên địa cầu, trong tuổi thơ ấu lẫn tuổi thanh niên – cứ năng động rà xét xã hội nơi con sống, đánh giá xã hội để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn, những phép tắc. Xong nó định ra một khuôn khổ, một mô thức, một chuẩn mực quy định những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ an toàn, con sẽ yên ổn, con sẽ được chấp thuận.

Đây là điều mà hầu hết các con – thật ra thày phải nói tất cả các con – đã làm ở một điểm nào đó. Mặc dù một số các con đã bắt đầu khắc phục được, tất cả các con đã chụp lấy nó và chuyển nó vào đường tu tâm linh khi con tìm ra đường tu. Nhìn lại các đợt truyền pháp trước, các thày có thể thấy nhiều học trò đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì họ phải làm hay không được làm.

Con yêu dấu, con sẽ nhìn nhận ở đây, đó là một chuẩn mực phản ứng – con đang phản ứng lại các điều kiện trong thế giới vật chất. Điều này có thể hiểu được, nhưng đâu là mục đích của việc Giê-su hiện thân chứ? Có phải là để phục tùng các điều kiện của thế gian như sa nhân muốn Ki-tô làm? Hay là để trao cho mọi người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất? Đương nhiên là câu trả lời thứ hai. Tuy vậy, đây là một sự cân nhắc và phân biện con phải tinh tế lắm mới nhìn ra được, vì như Kinh thánh cũng nói, khi Ki-tô bước vào hiện thân thì Ki-tô cũng bước vào thế giới vật chất.

7.8. Sự hiện thân của Ki-tô

Bây giờ thày muốn đưa ra một vài nhận xét về khái niệm Ki-tô hiện thân. Hiển nhiên, các tín đồ Cơ đốc giáo đã một lần nữa làm cho chuyện này rối beng khi bảo rằng cách đây 2000 năm, thày đã là hiện thân duy nhất của Ki-tô – trên thiên đàng có một đấng Ki-tô tuyệt đối, hoàn vũ nào đó đã chọn hiện thân trong hình dạng nhân thế của thày. Sự thật mà các thày đã trao cho con, cả trong cuốn sách chót về Những kiếp của tôi lẫn các giáo lý khác, là quả thật có một tâm thức Ki-tô hoàn vũ nhưng không phải vì vậy mà tâm thức Ki-tô hoàn vũ có thể hiện thân bất cứ lúc nào cũng được. Nó đòi hỏi phải có một con người trong hiện thân đã nâng cao tâm thức của mình lên tới mức bỗng nhiên tâm Ki-tô hoàn vũ có thể khởi sự tỏa rạng qua người đó.

Con cũng có tiềm năng cho Ki-tô hiện thân trong con khi con đạt đến mức tâm thức đó. Điều này quan trọng vì mấy lý do. Quan trọng hơn cả là vì nó chứng tỏ rằng khi Ki-tô hiện thân – nếu có thể nói như vậy – hay bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian này, thì Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Khi thày xuất hiện cách đây 2000 năm tại Israel, thày đã hóa thân là một đứa trẻ trong kiếp hiện thân đó. Thày đã lớn lên trong môi trường đó, đã hấp thụ phần lớn môi trường đó, và tất nhiên rất nhiều điều thày nói ra được thích ứng với tín ngưỡng và thế giới quan của con người thời đó. Một thế cân bằng cần được tìm thấy, qua đó Ki-tô không đi vào thế gian để cho mọi người một giáo lý tuyệt đối vì họ sẽ không thể liên hệ với nó. Ki-tô phải thích nghi, như con thấy trong câu chuyện người đàn ông khát nước, khi thay vì cho ông ta một bài thuyết giảng tâm linh thì thày đã cho ông một ly nước lạnh.

Như các thày đã giảng, đây là nguyên tắc Ki-tô đến gặp gỡ con người ở ngay điểm tâm thức của họ và trao cho họ một cái gì có khả năng nâng họ lên bước kế tiếp, và – mong thay – cái đó sẽ dẫn họ vào con đường sẽ tiếp nối mãi cho tới điểm thăng thiên. Một mặt con có thể thấy là Ki-tô tự biểu hiện (tức hiện thân) trong thế gian, và ở một mức nào đó, Ki-tô cũng thích nghi với các điều kiện trong thế gian.

Câu hỏi mà tất cả các con cần giải quyết về mặt cá nhân là: “Tôi sẽ thích nghi tới đâu và tôi sẽ vượt xa hơn bao nhiêu?” Khi con bắt đầu đạt đến những tầng của Sứ vụ Thiêng liêng nơi con sẵn sàng (con bắt đầu) thể hiện quả vị Ki-tô của mình, thì việc thể hiện quả vị Ki-tô không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian. Đó là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Con hiểu điều thày đang nói chứ? Làm thế nào con có thể chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức nào đó là khả dĩ? À, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Đó là tại sao con đã đầu thai trong một gia đình, một quốc gia, một nền văn hóa nào đó. Con trầm mình vào đó một thời gian. Xong khi con sẵn sàng khởi sự biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, con vượt khỏi mức đó. Không phải việc biểu hiện quả vị Ki-tô là sự trầm mình vào nền văn hóa đó đâu, mà là vượt ra khỏi nó. Một lần nữa tất nhiên, con không ở đây để vượt quá cao đến độ người ta không thể kết nối với con, mà con ở đây để chứng tỏ rằng việc vượt ra khỏi là điều khả dĩ, rằng có một cái gì đó vượt ra khỏi.

7.9. Quả vị Ki-tô là một cái gì cá nhân

Quả vị Ki-tô là gì? Nó rất cá nhân. Đó là tại sao một trong những điều tệ nhất mà con có thể làm cho bản thân mình là nhìn vào cuộc đời của thày rồi sử dụng để tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Nhiều người đã làm điều này. Các tín đồ Cơ đốc hiển nhiên đã làm điều này, nhưng nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng đã làm một chuyện tương tự. Con thấy đã có những tổ chức của chân sư thăng thiên mà trong đó mọi người đều chú tâm vào việc tự phán xét lẫn phán xét người khác để xem ai nấy có tuân thủ chuẩn mực đó hay không – một chuẩn mực mà họ nghĩ các chân sư đã quy định.

Trong quả vị Ki-tô không hề có chuẩn mực. Đây là điều con cần nắm bắt trước khi con có thể thực sự bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Tất cả tùy vào mỗi cá nhân. Con đã đầu thai trong một hoản cảnh đặc thù, đã khoác vào một số điều kiện, một tâm thức tập thể nào đó từ gia đình, quốc gia, vân vân. Biểu hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó. Lúc đầu, nó sẽ không cao hơn nhiều lắm, mà nó sẽ cao hơn một chút để ai nấy vẫn có thể liên hệ với con.

Khi con tiến hơn, có thể con sẽ lên cao hơn và cao hơn nữa. Có thể con sẽ tới một điểm khi những ai đã từng lớn lên cùng với con không còn liên hệ được với những gì con biết và hiểu về cuộc sống, và đây là một chuyện khác. Điều thày đang cố chỉ cho con thấy ở đây là nhiều người trong các con có một cái nhìn lý tưởng, lãng mạn, xa vời về thế nào là biểu hiện quả vị Ki-tô. Kỳ thực ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện trong môi trường hàng ngày. Có thể đó chỉ là một cách làm tốt hơn, một cách nhìn khác hơn về một số chuyện, là không quá coi trọng một số sự việc, không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng. Chẳng hạn con có thể vui sống hơn người khác, hay con không đến nỗi bị ám ảnh cưỡng chế về một số khía cạnh trong văn hóa của mình, như con không ghét bỏ những ai sống bên kia biên giới, hay bên kia đường, hay bên kia bất cứ gì khác.

Con có thể chứng tỏ một phương cách khác, một cách nhìn khác, và đó là một khía cạnh trong quả vị Ki-tô của con ở khởi đầu. Nhiều người trong các con có thể nhìn lại đời mình và nhận thấy: “Nhưng trong phần lớn đời tôi, tôi đã chẳng làm vậy hay sao?” Và con nói đúng – con đã làm vậy. Nhiều người trong các con đã làm vậy. Thày chỉ mong giúp con nhận biết về điều đó và nhìn nhận rằng đó là một biểu hiện của quả vị Ki-tô của con. Khi con công nhận là con đã có biểu hiện quả vị Ki-tô thì con sẽ dễ dàng hơn chấp nhận là mình thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu và đó không nhất thiết là một điều gì xa vời, như cách nhìn lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã dựng lên về cuộc đời của thày.

Bây giờ nếu con lấy cuốn sách Những kiếp của tôi cùng với những gì thày đã giảng trong các bài truyền đọc và vấn đáp khác, con sẽ thấy cuộc đời của thày không có gì giống như cái lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã tạo ra. Thày có nói trước đây là con đã rất có thể suy luận rằng điểm kết liễu đời thày đã là một thất bại toàn diện. Thật sự thày đã hoàn thành được việc gì trong đời sống vỏ ngoài chứ? Thậm chí thày đã không thu hút được cả những môn đệ có khả năng nắm bắt thông điệp mà thày đã đến để ban truyền.

Thày không đang cố hạ thấp những gì đã xảy ra, mà thày đang cố khép lại khoảng cách mà nhiều người trong các con đang có trong tâm mình. Con có cái ngã nội tại đó mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình, đến độ con sẵn sàng tin vào sự phóng chiếu rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được. Thày đang cố chỉ cho con thấy rằng làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó có thể ngày càng lớn hơn. Con cần công nhận là nó không thể xảy ra đùng một cái. Nó chỉ có thể xảy ra bằng cách con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

7.10. Sứ vụ Thiêng liêng và tự quyết

Con yêu dấu, vậy thì làm Ki-tô có nghĩa là gì? Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình có nghĩa là gì? Một lần nữa, trên thế giới có một tâm thức do sa nhân tạo ra muốn chụp lấy mỗi ý tưởng, mỗi khái niệm, và thu hẹp nó xuống một chuẩn mực đường thẳng hầu tâm phân tích có thể phân loại và dán nhãn.

Có một vị trong số các con vừa chia sẻ là khi anh ấy đến dự hội nghị này thì có người đã hỏi anh: “Giáo lý mà bạn đang tu tập là gì chứ?” Anh đã không thể tìm ra một cái tên vì các thày đã cố tình không đặt tên. Đó là một ví dụ người ta bị tâm thức của sa nhân ảnh hưởng mà không hay biết, và tâm thức này khiến họ luôn luôn muốn gắn nhãn cho mọi sự. Họ luôn luôn muốn gọi tên để họ có thể phân loại, và thế là cái đó giờ đây phải đi vào khuôn mẫu. Tất nhiên, đây chính là điều mà sa nhân đã toan tính làm với Ki-tô, nhưng thực tế của Ki-tô là Ki-tô không bao giờ tuân theo một mẫu mực nào.

Vậy có tiêu chuẩn nào quy định cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào trong hoàn cảnh đặc thù của con hay không? Không, không có. Tuy nhiên, điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có điều gì được quy định về quả vị Ki-tô không? Liệu Sứ vụ Thiêng liêng giống như một chuẩn mực về cách con phải cư xử trong kiếp này và do đó cũng về cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của mình?

Quyền tự quyết có vai trò gì trong Sứ vụ Thiêng liêng? Liệu Sứ vụ của con có giống như một chiếc áo tù bó tay bó chân hay không? Trong những năm đầu của đời con, con không nhận thức về Sứ vụ của mình cho nên con khá rộng tay làm bất cứ gì con muốn. Rồi tới một điểm có sự chờ đợi là con sẽ bước vào nhận thức về Sứ vụ của mình, và khi đó có vẻ chọn lựa duy nhất còn lại cho con là: “Liệu tôi sẽ mặc vào chiếc áo tù này hay tôi không mặc vào?” Nếu con quyết định mặc vào chiếc áo bó tay của Sứ vụ Thiêng liêng thì phần đời còn lại của con sẽ đi theo một đường rày máy móc vì giờ đây con sẽ chỉ biết tuân theo Sứ vụ đã được vạch ra cho con. Chuyện đó, tất nhiên, không phải là ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đầu tiên các thày đã nói rằng chính con là người chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con. Rồi sau mấy thập niên giảng dạy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, các thày đã thấy nhiều học trò diễn giải theo nghĩa Sứ vụ là do một đấng thần thánh nào đó thảo ra, và bây giờ đấng này đang cố áp đặt nó lên con để biến con thành một con múa rối. Đây chính là tại sao một số sa nhân đã tạo ra ý tưởng là con chỉ có thể giành được quyền tự quyết bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế. Có những sa nhân cả quyết rằng chỉ khi chúng nổi loạn và từ chối thăng thiên thì chúng mới thực sự có được quyền tự quyết. Hiển nhiên đây là một ảo tưởng, vì thử hỏi ý chí tự do của con sẽ tự do tới đâu nếu con đang phản ứng lại một cái gì khác? Ý chí đó sẽ tự do y hệt như khi con tìm cách tuân theo cái khác đó. Ý chí của con sẽ chỉ tự do một khi con chọn lựa từ bên trong.

Không cần đi sâu hơn vào một cuộc thảo luận triết lý, thực tế ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con không hề vạch ra cách con phải sống cả đời mình như thế nào trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Các thày đã nói là kỳ thực, con sẽ không bao giờ có được một tầm nhìn rõ ràng về toàn bộ Sứ vụ của mình, mà con sẽ chỉ nhìn thấy từng giai đoạn một – tại sao như vậy? À, bởi vì nếu có một Sứ vụ thật chi tiết và nếu con thấy được nó toàn bộ, thì nó sẽ giống như một con đường máy móc. Con sẽ chỉ giản dị bước hết bước này tới bước khác và đi theo đúng như vậy. Sự thật là Sứ vụ của con được lập ra, như các thày đã giảng, để trên hết nâng cao tâm thức của con, và làm thế nào con nâng cao tâm thức chứ? Bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con chọn lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định. Khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về vấn đề, đó là khi con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con xác định hoàn cảnh mà con cần bước vào để trải nghiệm một điều kiện nhất định, nhưng nó không xác định con phải phản ứng lại điều kiện đó như thế nào. Cái đó là chọn lựa của con.

7.11. Thăng vượt nhận thức của con

Con yêu dấu, con cần thận trọng ở đây. Nhiều người trong các con đã tưởng tượng là Sứ vụ Thiêng liêng định rõ một số điều kiện vỏ ngoài. Ví dụ, con sẽ phải gặp gỡ và kết hôn một người nào đó và có X đứa con. Dựa theo đó thì nhiều người trong các con nghĩ rằng nếu con không gặp người đó – hay nếu con gặp nhưng lại quyết định không kết hôn – thì con không làm tròn Sứ vụ của mình. Sứ vụ Thiêng liêng không như vậy, nó không rõ ràng, đặc thù như vậy. Sứ vụ Thiêng liêng là để con xoay chuyển tâm thức của con.

Đối với mọi điều kiện vỏ ngoài, con có rất nhiều chọn lựa. Phải, ở những giai đoạn đầu, trong giai đoạn công phu của Sứ vụ Thiêng liêng, nhiều khi con mang nghiệp với một người nào đó và cách nhanh nhất để giải quyết nghiệp quả là có mối quan hệ với người đó. Cho nên con có thể nói: “Được, thật ra tôi đã quyết định là tôi muốn ở trong quan hệ này, cho nên khi tôi xuống đây đầu thai, đó chính là điều tôi phải làm.” Tuy vậy, con có một phạm vi chọn lựa rộng lớn trong cách đáp ứng với tình huống đó: Con sẽ ở lại bao lâu trong quan hệ, con sẽ phản ứng thế nào với mối quan hệ, vân vân. Một khi con tiến xa hơn giai đoạn công phu này và không còn phải đương đầu quá nhiều với các điều kiện nghiệp quả nữa, thì con bắt đầu bước vào giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ của con.

Đột nhiên, con có rất nhiều chọn lựa khác hơn. Có nghĩa là, ví dụ, không chỉ có một nghề nghiệp, một loại việc làm hay sự nghiệp mà con có thể có. Ngay cả khi con chọn một nghề nghiệp nhất định thì con cũng không chỉ có một cách đeo đuổi duy nhất. Đời con không giống như một đường rày. Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một con đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa, nhiều phương thức trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Con yêu dấu, điều thày nói ở đây áp dụng cho các học trò tâm linh ở những tầng cao hơn. Lẽ tự nhiên, rất nhiều người ở những mức tâm thức thấp hơn bị chi phối nhiều hơn bởi các tình huống nghiệp tạo, cho nên những chọn lựa trong tiền kiếp đã tạo ra các hậu quả đang giới hạn chọn lựa của họ trong kiếp này. Con có thể đi xuống một tầng tâm thức nơi con gặp những người có rất ít chọn lựa ý thức mở ra cho họ. Phải chăng đó là điều kiện vỏ ngoài đang giới hạn họ, hay là tâm thức của họ bị giới hạn đến độ họ không sẵn lòng vượt ra khỏi cách nhận thức cố hữu của họ về thế giới?

Điều thày nói với con ở đây là con cũng có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có được nhiều tự do hơn, nhiều chọn lựa hơn. Đâu là cái đang giữ con lại? Cái gì khiến con đôi khi có cảm tưởng Sứ vụ Thiêng liêng là một chiếc áo tù bó tay, hay đời con hoàn toàn bị ngoại cảnh định đoạt? Đó là vì con mang một cái ngã nhất định đang có một nhận thức nhất định, và nhận thức này xoay quanh việc con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Đâu là một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô? Là khi con nhận ra là con không ở đây để làm nô lệ cho những tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt chúng, và điều này không có nghĩa là, chẳng hạn, nếu con có con cái, con sẽ bỏ rơi chúng, đào tẩu lên núi Himalaya và ngồi trong hang đá. Không, nó có nghĩa là con vượt thăng cách nhìn, cách tiếp cận, cách phản ứng của mình đối với việc có con, hầu con tìm ra một cách nhìn cao hơn không bị quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

7.12. Làm thế nào thực sự thay đổi đời mình

Điểm này khơi lên một đề tài khác mà nhiều người trong các con thắc mắc: “Làm thế nào con có thể thực sự thay đổi đời mình? Làm thế nào con có thể có được những điều kiện tốt đẹp hơn? Con muốn làm chuyện này, con muốn làm chuyện kia. Con muốn nhiều tiền hơn hay việc làm tốt hơn vì con rất muốn được tự do đi du lịch đây đó, gặp gỡ người ta, thăm nhiều nền văn hoá khác nhau, cái này cái nọ” (đây thật sự là ước muốn của nhiều người).

Thế là bây giờ chúng ta đến với chủ đề là làm thế nào thay đổi tình huống vỏ ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho viễn quan hay mong muốn của mình. Đây là một chủ đề rất phức tạp mà thày sẽ không đưa ra một lời giảng chung cuộc, vì thày Saint Germain cũng có một vài điều muốn nói, và cả các chân sư khác nữa. Điều thày muốn cho con là phân biện Ki-tô đi theo hai đường.

Trước hết, phân biện Ki-tô có thể cho con một viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng là con có khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn. Đây là một viễn quan về những gì có thể xảy ra, nhưng mặt khác cũng có khía cạnh omega về điểm này: Phân biện Ki-tô cũng có thể cho con viễn quan là đôi khi kỳ thực, mong muốn hay viễn quan của con dựa trên ngã gốc. Như chân sư MORE đã nói, ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù, và cơ chế này đôi khi đem lại cho người tâm linh một ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Thật ra phản ứng này đến từ ngã gốc. Một khía cạnh của điều này là khi con đến hành tinh này như một avatar, con đến với một thái độ tích cực mong muốn đem lại một thay đổi tích cực. Rồi con cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ, trấn áp. Thế rồi con tạo ra ngã gốc và kể từ đó con đã cảm thấy: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, sẽ nói gì, sẽ nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Con vẫn có mong muốn tự biểu đạt nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Điều mà phân biện Ki-tô có thể giúp con là khiến con nhìn ra cảm nhận đó đến từ ngã gốc – cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên địa cầu. Lý do là vì ngã gốc giống như một chiếc máy tính. Nó không có khả năng tự nhận biết. Nó không thể nghĩ cái gì là đúng hay sai. Ngã gốc dựa trên nhận thức rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con biểu đạt chính con. Kỳ thực, một khi con có phân biện Ki-tô, con sẽ thấy rõ không phải các điều kiện vỏ ngoài đang ngăn cản mình là chính mình, mà ngã gốc.

Khi con đến trái đất lần đầu tiên, có lẽ cách đây rất lâu, con đã có sẵn một mức nhận biết nào đó. Mặc dù mức đó có thể cao hơn đa số cư dân trên địa cầu vào thời ấy, đó vẫn chưa phải là mức tối hậu. Ngay cả nếu con đến từ một hành tinh tự nhiên, đó cũng chưa phải là mức tối hậu. Kể từ đó, con đã tăng triển về mặt tâm thức cho dù con có thể không hay biết một cách ý thức. Nhưng con đã có tăng triển, và đó là tại sao các thày đã nói là con có khả năng đi ngược dòng thời gian và tái trải nghiệm chấn thương nhập đời của mình với một phản ứng khác hơn trước. Đó là cách con có thể gạt bỏ ngã gốc, và các thày đã cho con dụng cụ để làm việc này.

Khi con làm vậy, điều thật sự bắt đầu xảy ra là giờ đây con lần lần khởi sự chất vấn tất cả những rào cản đó (mà con mang trong bốn thể phàm) đang bảo con là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Sau đó con có thể bắt đầu xem xét và hòa điệu với: “Tôi thực sự là ai? Đâu là cá thể tâm linh của tôi trong Hiện diện TA LÀ? Đâu là ý nghĩa của việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất?” Bỗng nhiên, con yêu dấu, một khi con bắt đầu chấp nhận và trải nghiệm rằng con có khả năng là chính mình trên địa cầu, con sẽ khắc phục được mong muốn trốn chạy nói trên, luôn luôn muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Đó là cái mong muốn cứ nghĩ rằng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

7.13. Không có điều kiện lý tưởng cho quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, các thày đã có nói là có một tâm thức khiến con nghĩ là khi nào con hội được điều kiện vỏ ngoài lý tưởng thì khi đó con mới có thể là Ki-tô. Nhưng Ki-tô không cần điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không hề có điều kiện lý tưởng để biểu hiện quả vị Ki-tô. Nếu con cứ ngồi đó chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô hay là chính mình, thì con sẽ phải chờ đến mãn kiếp – và nhiều kiếp kế tiếp nữa – trước khi con chợt hiểu ra: “Ồ, đáng lý ra tôi đã phải bắt đầu ngay ở nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Và đó cũng chính là cách mà các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu thay đổi khi con quyết định là con sẽ khởi sự ngay nơi con đang đứng và cả gan biểu hiện một sắc thái đó của cái ta cao hơn ngay ở đây, ngay lúc này. Đó là điều mà vị sứ giả này đã quyết định năm 2002. Đó là tại sao, một cách lần hồi, các điều kiện vỏ ngoài của ông đã thay đổi đến mức ông đã có thời gian lẫn sự tự do để tập trung vào công việc ông đang làm, thay vì phải đi làm kiếm sống, vân vân.

Những điều tương tự có thể xảy ra cho nhiều người trong số các con. Không nhất thiết theo cùng một cách nhưng chắc chắn theo cách là các điều kiện vỏ ngoài sẽ lần hồi thay đổi để con có thể cảm thấy chúng không đang hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt. Nó có thể xảy ra như vậy khi con đạt tới những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng để đạt đến mức đó sẽ đòi hỏi những gì?  

Nó đòi hỏi con xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu. Như lời thày đã dạy cách đây 2000 năm, con nhìn nhận: “Con không thể làm gì được một mình, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều khả dĩ.” Đó là cách thày đã diễn tả vào thời đó, nên con hãy để thày diễn đạt lại dựa theo giáo lý các thày đã cho con: “Với ngã vỏ ngoài và quyền năng của ngã vỏ ngoài, con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, bằng cách nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.”

Để nối kết lại với Ki-tô trong con và bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, điều này sẽ đòi hỏi những gì? Con yêu dấu, nó đòi hỏi nơi con một quyết định có ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ biểu đạt chính mình cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.” Sau đó, một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, lần hồi điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Có thể một số các con cũng sẽ nhận thấy là thật ra, có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi vì công dụng của chúng là để con bày tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây không chỉ là chuyện thoát ra khỏi một số điều kiện mà con không ưa, vì chúng có thể là một phần của quả vị Ki-tô của con. Thật ra, có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con biểu hiện quả vị Ki-tô trong những điều kiện đó hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Một lần nữa, đây là một điểm phân biện tinh tế. Con yêu dấu, đây cũng là sự kiện khi con vươn lên cao hơn và khắc phục cơ chế đền bù – các dính mắc, như các thày cũng gọi như vậy – thì con có nhiều chọn lựa hơn. Chẳng hạn, ở một điểm nào đó con có thể chọn: “Không, tôi không muốn gặp điều kiện này nữa, tôi đã trải nghiệm nó đủ rồi,” hoặc “Tôi không muốn ứng phó với loại người này nữa. Tôi đã chứng tỏ có một tâm thức khác hơn trạng thái tâm thức của họ và tôi không muốn cứ làm mãi chuyện này cho đến hết kiếp này. Tôi muốn bước sang một cái gì khác.”

Con yêu dấu, con có rất, rất nhiều chọn lựa khác nhau. Không chỉ có một cách duy nhất để hoàn thành Sứ vụ của con và cũng không phải là nếu con không làm theo cách đó thì con sẽ không làm tròn Sứ vụ của mình. Đây không phải là chuyện “tất cả hay không có gì”. Nó không đen trắng.

7.14. Con không thể thất bại trong Sứ vụ

Miễn là con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu, con không thể không làm tròn Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể. Không có gì bất di bất dịch. Trước khi con đầu thai và lập ra Sứ vụ Thiêng liêng, con đã lượng định – dựa trên tâm thức con mang trong kiếp trước – những gì con có thể vươn tới trong kiếp này một cách thực tế nhất. Nhưng nếu con sẵn lòng, nếu con thật sự chuyên tâm và áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền, thì con còn có thể vươn lên cao hơn nữa. Nhiều các con có khả năng vươn lên cao hơn mức được định ra trong Sứ vụ của mình.

Một số các con đã không định ra trong Sứ vụ là mình sẽ có thể vươn tới tầng 144 trong kiếp này, nhưng một số các con có khả năng làm được điều này nếu con thực sự chuyên tâm và bước xa hơn, bởi vì việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi gì chứ? Nó chỉ đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là con sẽ không bị giam hãm trong mức tâm thức này, sẵn lòng bước ra ngoài. Con sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.” Không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển.

Tuy nhiên sẽ có một giới hạn, là con cần một cảm giác liên tục, cho nên con không thể tự dưng chuyển vọt lên một mức quá cao so với mức hiện tại của con. Con không thể nhảy bước. Một số học trò tâm linh trở nên rất nóng lòng và muốn giác ngộ ngay bây giờ, trong vòng năm phút, nhưng điều này không thể làm được ngay lập tức. Con phải đi qua tất cả 144 tầng tâm thức. Con không thể nhảy từ tầng 120 lên tầng 133. Không thể được. Con sẽ đánh mất ý niệm bản sắc, ý niệm liên tục của con, và thật ra nó có thể dẫn đến bệnh tâm thần và chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều con cần nhìn nhận ở đây là con cần đi qua tất cả mọi bước, vì thật sự nếu con sẵn lòng thì không có gì sẽ giới hạn tốc độ tiến bước của con.

Con yêu dấu, lẽ tự nhiên thày có thể tiếp tục nói mãi và giảng thêm nữa về đề tài này. Các thày đã cho con nhiều giáo lý mà con có thể tu học và áp dụng trong nhãn quan mà thày vừa trao cho con về Sứ vụ Thiêng liêng và quả vị Ki-tô. Bí quyết thực sự ở đây là con đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh.” Cái Ta Biết là tên gọi mà các thày đã dùng cho sự nhận biết thuần khiết để chỉ rõ là con không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Đó là lý do tại sao con có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của con. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà con hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.

23 | Thoát khỏi ngã gốc của con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 3 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày muốn con nghĩ tới nhiều tín đồ Cơ đốc đang ngồi thờ phượng trong giáo đường của họ vào một buổi sáng Chủ nhật khắp nơi trên thế giới. Nhiều người trong họ thuộc về một giáo hội đặc thù và họ tin rằng giáo hội của họ có sự diễn giải chân chính về cuộc đời của thày và có khi còn là diễn giải chân chính duy nhất.

Nhiều người trong những tín đồ Cơ đốc này cho rằng họ diễn giải Kinh thánh theo nghĩa đen. Họ tuyên bố là họ diễn giải Thánh kinh theo nghĩa đen. Giờ đây, con yêu dấu, thày có thể chứng minh họ sai chỉ qua vài câu. Tất cả các con đều biết câu trích dẫn lời thày nói trong Thánh kinh: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nhưng ai vì ta mà mất mạng sống mình thì sẽ được sự sống thật, sự sống trường cửu.” Con yêu dấu, nếu con tuyên bố diễn giải thánh kinh theo nghĩa đen, thì câu hỏi là: “Vậy thì tại sao con chưa kết liễu mạng sống mình?”

Nếu con vẫn còn sống thì sự thật giản dị là con đã không hiểu theo nghĩa đen tất cả mọi câu trong Thánh kinh. Nếu con không hiểu theo nghĩa đen một câu nói (vì con đã không bỏ mạng sống mình để đi tìm đời sống vĩnh cửu), vậy thì tại sao con không hiểu câu nói đó theo nghĩa đen? Lẽ dĩ nhiên đó là vì con nhận ra ý của câu này không thể hiểu theo nghĩa đen được. Nếu có một câu không nên hiểu theo nghĩa đen, thì phải chăng nhiều câu khác cũng thế? Còn hơn thế nữa, phải chăng là tất cả những câu nói của thày không nên hiểu theo nghĩa đen?

Ngay cả Thánh kinh cũng chứng minh là thày giảng giáo lý thấp hơn cho đại chúng và giáo lý cao hơn cho các tông đồ của thày. Có khó lắm không để thấy là thày đã dạy một giáo lý có thể hiểu ở nhiều trình độ khác nhau vì thày chờ đợi là các con dùng giáo lý để gia tăng sự hiểu biết, để nâng cao sự nhận biết của các con? Khi làm như thế, con sẽ hiểu được ý nghĩa sâu sắc hơn đằng sau những lời thày nói. Cho nên, những ai hiểu Thánh kinh theo nghĩa đen đang không đi trên con đường tu, con Đường Đạo mà thày đã phác họa. Có khó lắm chăng để thấy điều này, con yêu dấu?

23.1. Những cái ngã của con bị kẹt trong một nhận thức đặc thù

Lẽ dĩ nhiên thày biết là tất cả các con có thể thấy được điều này vì nếu không thì các con đã không theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày nêu lên điều này bởi vì ngay cả những người trong các con đã mở tâm đón nhận giáo lý của các thày, các con quả thực cũng nhận ra có những phần trong tâm thức mình đã hiểu một số điều theo nghĩa đen. Thày đã nói tới những cái ngã mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại những kinh nghiệm con trải qua trong thế gian này. Con yêu dấu, có thể nói một cái ngã như thế bị kẹt trong một trạng thái tâm thức mà con thấy nơi nhiều tín đồ Cơ đốc giáo cực chính thống.

Cái ngã được tạo ra cho một mục đích đặc thù và nó chỉ có thể nhìn cuộc đời (hay nhìn một khía cạnh đặc thù của cuộc đời) theo cách nhìn được quy định khi nó được tạo ra. Nó giống như cái máy cứ giản dị lặp đi lặp lại cùng một khuôn nếp. Giáo lý mà các thày trao truyền ở đây lẽ dĩ nhiên không dành cho người mới bắt đầu tu, ngay cả những người mới bắt đầu tu theo giáo lý của các chân sư thăng thiên. Nó được trao truyền đặc biệt cho những người đã tiến lên những tầng cao hơn. Giáo lý thày trao truyền trong lần truyền giảng này đặc biệt dành cho những người đã đọc quyển sách mà các thày đã trao truyền (Các Kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) và do đó họ đã sẵn sàng đối phó với các khai ngộ này vì họ nhận ra họ là một avatar đã đầu thai trên trái đất. Thày yêu cầu con, nếu con cảm thấy mình chưa tới tầng mức này, thì con để qua bên giáo lý này và tìm hiểu một số giáo lý khác cho tới khi con cảm thấy mình sẵn sàng học nó. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng và đó là lý do tại sao các thày không giữ lại giáo lý này.

Các thày đã trao truyền cho các con một số giáo lý về những cái ngã mà con đã tạo ra, những khía cạnh của tự ngã, những phàm linh nội tại. Đầu năm nay, thày có nói tới cách hành xử của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên. Thày đã nói con nhìn thế giới vật chất như thế nào và tất cả những giáo lý này là dụng cụ để giúp con khám phá ra con đã tạo ra những cái ngã nào bên trong con và chúng vẫn còn ở đó và con vẫn còn mang chúng bên trong con. Chúng là gánh nặng đè lên con, kiềm giữ con lại trên nhiều khía cạnh. Ví dụ như chúng có thể khiến cho tư tưởng của con đi vào những khuôn nếp lặp đi lặp lại. Chúng có thể khởi động một phản ứng xúc cảm khi con ở trong một số tình huống nào đó. Xúc cảm này có thể là sợ hãi, có thể là mắc cở hay hổ thẹn. Nó có thể là giận dữ; nó có thể là nhiều xúc cảm khác. Mỗi người mỗi khác, nhưng điểm chính là con nhận ra có một khuôn nếp được lặp đi lặp lại. Con yêu dấu, con lưu ý điều sau: Cái Ta Biết của con, cốt lõi của bản thể con là một sinh thể sáng tạo.

Nó muốn luôn luôn tiến lên và trải nghiệm cái mới. Đó là lý do tại sao con tới đây ngay từ đầu. Sau khi đã sống trên các hành tinh tự nhiên một thời gian dài, con muốn trải nghiệm cái gì mới, cái gì khác. Một lần nữa, điều này không có gì sai trái. Hiếu kỳ có thể giết con mèo nhưng các con không phải là mèo. Hiếu kỳ là điều hoàn toàn tự nhiên đối với một sinh thể đang mở rộng tự nhận biết của nó. Làm sao con có thể mở rộng tự nhận biết nếu con không hiếu kỳ về những gì ở bên ngoài ý niệm bản ngã hiện hành của con?

Con nhận ra ở đây là cốt lõi của bản thể con là hiếu kỳ, thích tiến sang chuyện khác, thích trải nghiệm những cái mới. Điều này có nghĩa là bất cứ khi nào con thấy có một khuôn nếp lặp đi lặp lại trong bốn thể phàm của mình, thì con biết đây không phải là cái ta thật của con. Con cũng biết là nó kiềm giữ con lại và có thể là nó khiến cho cái ta thật của con cảm thấy bực bội, bất toại nguyện, không vui khi phải ở đây.

23.2. Sự tạo thành của cái ngã tách biệt đầu tiên của con

Giờ đây, khi thày nói điều này, lẽ dĩ nhiên chúng ta cần phân biệt. Chúng ta cần tự hỏi: “Nếu cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, thì có thể nào cái Ta Biết thực sự cảm thấy không vui, nóng giận, bực bội chăng?” Câu hỏi này không có câu trải lời giản dị, đường thẳng. Lý do là vì con đã đầu thai trong một thời gian rất dài và do đó con đã tạo ra những cái ngã vi tế đến độ con bây giờ không thể thấy được sự khác biệt giữa cái Ta Biết và những cái ngã này.

Đó là lý do tại sao các thày đã bắt đầu nói với các con về một số ngã có tính cách phiến diện hơn và con có thể thấy rất dễ dàng là những ngã này liên quan tới những tình huống đặc thù hay khía cạnh đặc thù của cuộc sống. Con nhìn ra những ngã phiến diện này dễ hơn, con nhận diện chúng là ngã tách biệt và chúng không phải là cái ta thật của con. Trước đây các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời mà con gánh chịu khi con xuống đầu thai lần đầu trên trái đất, thì bây giờ các thày đã sẵn sàng trao cho các con sự hiểu biết là khi các con trải qua chấn thương nhập đời này, thì con tạo ra một cái ngã. Nó không phải là cách cơ bản con liên hệ với trái đất nhưng là cách cơ bản con liên hệ với trái đất sau khi bị chấn thương. Nói cách khác, để có thể đối phó với chấn thương, con tạo ra cái ngã tách biệt đầu tiên này. Chúng ta có thể nói ý niệm bản ngã mà con có trước khi bị chấn thương, ý niệm bản ngã mà con tạo ra khi con tạo ra bốn thể phàm của con, nó đã chết đi vì con bị chấn thương nhập đời.  

Con lưu ý là các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày sẽ tóm tắt ở đây. Để có thể đầu thai lần đầu trên một hành tinh dày đặc như trái đất, con tạo ra (với sự nhận biết mà con có trước khi con tới đây) thể bản sắc, thể lý trí, thể tình cảm và cuối cùng là thể vật lý (nghĩa là cái tâm liên quan tới thể vật lý). Ba thể cao được tạo ra dựa trên viễn quan về trái đất mà con có trước khi con thật sự kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất. Nó là một cái ngã phần nào có tính cách lý thuyết. Sau đó, con đi xuống với ý định tốt nhất, với cái ngã con đã tạo ra với những mong chờ về những gì con muốn làm, về những gì con có thể gặp, về hậu quả của sự hiện diện của con ở đây. Sau đó, con trải nghiệm chấn thương nhập đời khi con gặp các sa nhân, và cái ngã nguyên thủy chết đi. Một cái ngã mới được tạo ra khi con phản ứng lại sa nhân và các điều kiện trên trái đất. Ta có thể nói là quả thực cái Ta Biết không thể cảm thấy buồn phiền, bực dọc hay bất toại nguyện khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết. Trong nhận biết thuần khiết không có cảm xúc tiêu cực, cũng không có bất cứ cảm xúc nào được gọi là cảm xúc tích cực trên trái đất. Trong nhận biết thuần khiết con chỉ giản dị quan sát. Nếu con có thể trụ mình vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con có thể chỉ quan sát trái đất. Con không lượng định, phê phán. Không có phán xét giá trị, không có cái phải là hay cái không được là: Con chỉ quan sát.

Đây là trạng thái tâm thức mà Phật đã chứng minh khi thày đạt sáng ngộ cuối cùng khi thày ngồi thiền định dưới cội cây Bồ đề, và quỷ sứ của Ma vương lại gần và tìm cách khích động thày phản ứng lại chúng một cách nào đó. Thày trụ trong tâm không dính mắc, thày đứng ra ngoài các khuôn nếp phản ứng bằng cách ở trong nhận biết thuần khiết trong đó thày thấy chuyện gì đang xảy ra trên trái đất nhưng chỉ quan sát mà không phản ứng.

Giờ đây lẽ dĩ nhiên, con yêu dấu, con không ở đây để ngồi dưới một gốc cây và chỉ quan sát. Con ở đây để tham gia vào cuộc sống trên trái đất. Con cần gì để có thể tham gia vào cuộc sống? Con cần một thể bản sắc, một thể lý trí, một thể tình cảm và một thể vật lý. Hệ quả là con có một cái ngã và điều này nghĩa là con có thể bước lui ra khỏi cái ngã đó, đi vào nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết và chỉ quan sát. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là điều con làm trong đời sống thường nhật thực tiễn. Ngay lúc con chú ý bên ngoài để thực sự tham gia vào cuộc sống trên trái đất này, thì con (như là cái Ta Biết) đang trải nghiệm cuộc sống qua cái ngã mà con tạo ra. Đó là lý do tại sao cái Ta Biết có thể kinh nghiệm sự bực bội, thất vọng, cảm giác bị ruồng bỏ.

Trên mặt lý thuyết đây không phải là cái Ta Biết. Những cảm xúc này không ở trong cái Ta Biết nhưng cái Ta Biết đang kinh nghiệm cuộc sống qua cái ngã đó. Đó là lý do tại sao đây là một ý niệm sâu thẳm về bản ngã mà hầu hết không ai thấy được. Ngay cả những người đã đi trên con đường tu một thời gian khá dài cũng không thấy được điều này vì đây quả thực là cái ngã cơ bản mà họ đã tạo ra sau khi tới đây. Nó là cái ngã sinh ra sau khi cái ngã đầu tiên chết đi. Nó bám chặt, nó ăn sâu, nó vi tế đến độ con xem nó là đương nhiên. Con nghĩ đây là cách duy nhất để kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất.

23.3. Con đã buông bỏ những cái ngã khác

Các thày đã trao truyền cho con khái niệm về những cái ngã phiến diện hơn liên quan tới một điều kiện đặc thù. Mục đích là giúp con nhận ra con đã thấy một số các ngã này. Con đã đi trên con đường tâm linh, ngay cả nếu con chỉ mới đi trong một thời gian ngắn (và ở đây thày không nói tới chuyện con tìm thấy những giáo lý đặc thù này vì nhiều người trong các con đã đi trên con đường tu nhiều năm trước khi con tìm thấy các giáo lý này). Nếu con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã thấy một số các ngã vỏ ngoài này, con đã tách mình ra khỏi chúng và con đã buông bỏ chúng.

Con đã quen thuộc với tiến trình buông bỏ đó. Một khi con nghĩ về nó và xem xét đường tu của mình, con nhận ra là con đã buông bỏ một số ngã này (có thể là con buông bỏ một cách không có ý thức). Ngày hôm nay con không phản ứng giống như trước khi con tìm thấy con đường tâm linh. Con đã thăng vượt một số khuôn nếp phản ứng, con đã bỏ chúng lại đằng sau, và đó là vì con đã vượt lên trên những cái ngã vỏ ngoài này. Điều thày muốn nói ở đây là một cái ngã vỏ ngoài là một cái ngã vỏ ngoài. Con có thể có một cái ngã vỏ ngoài liên quan tới cách con hành xử với những người nổi giận với con. Lẽ dĩ nhiên nó là một cái ngã vỏ ngoài đặc thù hơn cái ngã con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời, nhưng trên căn bản cả hai đều được tạo ra theo cùng một cách.

Cả hai đều dựa trên một ảo tưởng cho nên cách khắc phục chúng quả thực là một. Con nhận ra nó là một cái ngã vỏ ngoài và con quyết định con không muốn mang nó trong mình nữa. Sau đó con có thể buông bỏ nó. Tuy nhiên với cái ngã mà con tạo ra trong chấn thương nhập đời vũ trụ, mà chúng ta có thể gọi là ngã gốc, thì lẽ dĩ nhiên buông bỏ nó khó hơn vì nó vi tế hơn.

23.4. Cái ngã mà con có trong kiếp đầu thai đầu tiên

Khi thày nói con xuống đầu thai với một cái ngã mà con đã tạo ra trước khi con kinh nghiệm cuộc sống trên trái đất và cái ngã này chết đi và con tạo ra một cái ngã khác, thì điều này thực sự có nghĩa gì? Ấy, điều này có nghĩa, con yêu dấu, là khi cái ngã trước của con chết đi, con mất đi khung tham chiếu mà cái ngã này có thể cho con. Nói cách khác, cái ngã mà con có khi con xuống đây được tạo ra với tầm nhìn của con từ một cõi cao hơn, dựa trên cuộc sống của con trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này không đầy đủ vì nó không biết cuộc sống ở đây ra sao. Điều nó biết là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một dạng sống tốt hơn; có một cái gì khác. Khi con trải qua chấn thương và cái ngã đó chết đi, con mất đi khung tham chiếu này, ít nhất là trong tâm ý thức của con.

Điều này có nghĩa là từ lúc đó con bắt đầu nghĩ và kinh nghiệm là cách duy nhất để nhìn cuộc sống là cách con đang nhìn cuộc sống qua cái ngã mới, cái ngã gốc mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chấn thương nhập đời và các điều kiện trên trái đất. Do đó nhận diện cái ngã này khó hơn nhận diện những cái ngã phiến diện hơn. Con phải làm việc nhiều hơn nhưng các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ cho các con. Dụng cụ của Mẹ Mary để giúp con tiếp cận chấn thương nhập đời là một dụng cụ tuyệt diệu giúp con có một nhận biết, một nhận biết rộng hơn về cái ngã mà con đã tạo ra để con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Có thể nói là con có thể bắt đầu thấy ngã này từ bên ngoài thay vì con nhìn cuộc sống xuyên qua cái ngã, từ bên trong cái ngã.

23.5. Buông bỏ cái ngã thâm sâu

Thày tin là con cũng thấy sự thật hiển nhiên là ngày nào con còn ở trong một cái ngã, thì con không thể thấy cái ngã đó. Nếu con mang cặp mắt kính màu vàng và con không biết mình đang mang kính thì con không thể thấy cặp kính này. Để có thể thấy được cái ngã, thì con phải bước ra bên ngoài nó. Lẽ dĩ nhiên, mục đích của các thày là dẫn con theo một tiến trình trong đó con dần dần buông bỏ tất cả những phàm linh và ngã phiến diện cho tới khi con tới điểm cái ngã duy nhất còn lại là ngã gốc. Khi con đã đi qua tiến trình này, thì con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra con có một ngã gốc. Nó vi tế hơn các ngã khác nhưng nó vẫn chỉ là một cái ngã được tạo ra theo cùng một cách. Sau đó con có thể bắt đầu nhận ra nó không phải là con người thật của con. Nó là một cái ngã được tạo ra để đáp ứng lại một tình huống rất khó khăn, làm con bị chấn thương mạnh, xảy ra cho con trên trái đất.

Một lần nữa các thày hoàn toàn không trách cứ con. Các thày đã từng đầu thai; các thày đã tạo ra một ngã gốc khi phản ứng lại chấn thương nhập đời trên hành tinh này. Các thày chỉ có mặt ở đây để chứng minh cho các con thấy là các thày đã khắc phục cái ngã gốc đó và do đó các con cũng làm được. Điều mà một người đã làm được thì tất cả đều có thể làm được.

Vậy thì làm sao con khắc phục cái ngã gốc được? Ấy, như các thày đã nói trước đây, chìa khóa là con nhận ra là bất cứ mọi cái ngã đều được tạo ra với một mục đích đặc trưng, với một tầm nhìn đặc trưng. Do đó, chúng ta có thể nói là trong cốt lõi, cái ngã có một vấn đề nào đó. Nó có một vấn đề cố hữu và khi con nhìn từ bên trong cái ngã, vấn đề này phải được giải quyết một cách nào đó. Các thày đã nói là các con có thể đã tới đây với ý định tạo ra một sự thay đổi bên ngoài nào đó trên trái đất. Sau đó khi con tạo ra một cái ngã dựa trên những gì xảy ra cho con trên trái đất, cái ngã này có thể phóng chiếu ra hay nó có thể thấy một vấn đề đặc trưng nào đó ở đây trên trái đất nhất định phải được giải quyết. Như thày có nói, nếu vấn đề là chiến tranh, thì phải loại trừ chiến tranh ra khỏi trái đất trước khi con có thể giải quyết vấn đề.

Lẽ dĩ nhiên đây không phải là cách giúp con khắc phục một cái ngã như thế. Ngay cả nếu con giải quyết được vấn đề mà cái ngã phóng chiếu ra, như loại trừ tất cả chiến tranh, thì con vẫn không tự động khắc phục được cái ngã vỏ ngoài này. Bí quyết ở đây là con bắt đầu nhận ra là con sẽ không vượt lên trên ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề hay thay đổi điều kiện đã khiến con phản ứng lại và tạo ra ngã gốc.

Con sẽ chỉ khắc phục nó khi con nhận ra nó là một ngã tách biệt, nó dựa trên một ảo tưởng và không có vấn đề nào cần giải quyết. Điều này lẽ dĩ nhiên không đơn giản. Đúng là có chiến tranh trên trái đất. Đúng là các chân sư thăng thiên muốn loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, và tất cả các con cũng vậy. Nó là một vấn đề thật, nhưng con không thể giải thoát khỏi ngã gốc bằng cách giải quyết vấn đề ở bên ngoài. Nó chỉ làm được bằng cách giải quyết cơ cấu bên trong con khiến con nghĩ rằng cuộc sống của con trên hành tinh này, ý niệm bản ngã của con và việc con rời khỏi hành tinh này, tùy thuộc vào bất kỳ điều kiện nào ở đây.

Một lần nữa chúng ta có thể xem xét những gì thày nói, trích dẫn từ thánh kinh: “Ông Hoàng Thế gian tới và không nắm được gì nơi ta.” Câu này có nghĩa gì? Nó có nghĩa là không có lực nào trên trái đất có sức thu hút trên con khiến con phải làm điều gì đó, phải thay đổi điều gì đó, phải giải quyết điều gì đó ở đây. Không có lực nào có thể ra lệnh cho con là con phải phản ứng theo kiểu nào đó, con phải có cảm xúc như thế nào đó.

23.6. Cảm nhận của ngã gốc

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên là không phải tất cả các con đều đã tạo ra một ngã gốc có mục đích giải quyết một vấn đề nào đó. Một số các con đã tạo ra một ngã gốc cảm thấy mình bị sa nhân hoàn toàn bác bỏ. Một số các con đã tạo ra những cái ngã cảm thấy một nỗi buồn chung về cuộc sống, cảm thấy rất thất vọng và rất bị chấn động vì những điều kiện ở đây, cảm thấy mình quá bất lực không thay đổi được chúng, cho nên việc mình tới đây không có ý nghĩa gì và không đạt được mục đích gì. Việc mình tới đây đã là một sai lầm.

Mỗi người trong các con phải dùng các dụng cụ của các thày, dùng bài tập của Mẹ Mary, để chiêm nghiệm xem ngã gốc của mình là gì. Cốt lõi của nó là gì? Phản ứng là gì? Niềm tin là gì? Sau đó, con cần nhận ra là ngã gốc đã cho con một cảm nhận gốc, một ý niệm gốc về trái đất và đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên ý niệm này không đẹp đẽ cho nên con biết đáng lẽ nó phải khác. Như thày đã nói, dù là cái ngã nguyên thủy của con đã chết, một số các con vẫn có thể còn cảm nhận là có một lối sống khác với lối sống trên trái đất, có một cõi khác nơi, ví dụ, chiến tranh không có mặt.

Con cảm thấy một sự bất an nào đó, một sự căng thẳng nào đó. Có điều gì đó sai, có điều gì đó làm con bất an. Con cần tới được điểm con nhận diện chính xác cảm giác đó, niềm tin đó vì, như các thày đã nói với con, khi con gặp chấn thương nhập đời thì con lấy một quyết định. Đây có thể là một quyết định khó có thể diễn tả chính xác bằng lời. Như được nói trong quyển sách, con đã lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn kinh nghiệm điều này nữa.” Điều chính xác nào con không muốn kinh nghiệm nữa? Con cũng đã lấy quyết định điều gì con có thể làm và điều gì con muốn làm trên trái đất kể từ lúc đó – nghĩa là con sẽ tiếp cận cuộc sống như thế nào. Ở đây con cần nhận ra một sự vận hành cơ bản.

23.7. Sa nhân phá hoại sứ vụ của con

Có nhiều sa nhân đang đầu thai mà có thể con đã gặp họ nhưng họ không ý thức điều này. Các sa nhân ở cõi bản sắc chắc chắn ý thức điều này. Họ biết về các avatar, họ biết đã có nhiều sinh thể tới trái đất để nâng hành tinh này lên. Họ biết rằng sự thống trị trái đất của họ tùy thuộc họ có phá hoại được sứ vụ của các avatar này không hay ít nhất trì hoãn được sứ vụ đó. Điều họ thực sự muốn làm là cho con một cú sốc lớn đến độ con cảm thấy sứ vụ nguyên thủy của con khi xuống đây không thể hoàn thành được. Do đó con cảm thấy con đã sai lầm khi tới đây vì con không thể đem lại thay đổi. Con không thể thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất.

Nhiều người trong các con khi trải qua chấn thương nhập đời vũ trụ đã bị cú sốc vì các con tới đây với ý định trong sáng nhất. Điều này có nghĩa là các con thấy mọi người trên trái đất đang đau khổ, tỷ dụ vì có chiến tranh trên trái đất. Con giả định là nếu con người đang đau khổ, thì họ muốn thoát khỏi đau khổ và do đó họ muốn khắc phục chiến tranh. Con xuống đây và con nghĩ lẽ hiển nhiên con người muốn khắc phục chiến tranh. Khi con đề nghị cách thực hiện điều này, thì con chờ đợi là mọi người sẽ tiếp nhận một cách tích cực.

Khi con ở trên hành tinh tự nhiên, con quen thấy mọi người đều muốn cải thiện cuộc sống của họ. Sau đó, con xuống trái đất và con nhận ra hai điều. Trước tiên, có những người trên trái đất không muốn thay đổi, họ không muốn khắc phục đau khổ của họ; họ không muốn từ bỏ chiến tranh hay bất cứ điều gì khác. Họ không muốn thay đổi. Sau đó, khi con ở dưới này, con trải nghiệm trọn vẹn hiện thực tuyệt đối, không thay đổi được của quyền tự quyết. Trước đây, khi con nhìn xuống trái đất từ trên cao, con không thực sự hiểu thấu điều này. Tất cả chúng ta thật sự không hiểu thấu rằng nếu con người trên trái đất không muốn từ bỏ chiến tranh, thì con không ép họ được. Khi con ở dưới này, thì con nhận ra (và đây thường là cú sốc lớn nhất) là dù con biết cách khắc phục các vấn đề và giới hạn của nhân loại, nhưng con không làm gì được vì con người không hưởng ứng.

23.8. Cú sốc khi gặp sự chống đối thay đổi

Lẽ dĩ nhiên con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Quả thực là con không muốn đi ngược lại quyền tự quyết của họ, nhưng trước khi con tới đây, con giản dị nghĩ nếu con chỉ cho họ con đường thoát khỏi lầm than, thì họ sẽ muốn theo con đường này. Con bị cú sốc khi nhận ra có một số sinh thể, các sa nhân, không những không muốn thay đổi mà còn tìm cách tiêu diệt con. Trong một số trường hợp con có thể đối phó với điều này, nhưng con cũng nhận ra là đại đa số người trên hành tinh này không muốn tiêu diệt con, họ chỉ không muốn dính dáng tới con. Họ không muốn lắng nghe con, họ không muốn thay đổi.

Khi con kinh nghiệm điều này, thì con rất dễ (và chúng ta đều đã làm như thế) lấy quyết định (quyết định này hơi khác tùy theo mỗi cá nhân) rằng: “Đáng lẽ tôi không nên tới đây, đó là một sai lầm, tôi chẳng làm được gì ở đây, tôi có mặt ở đây vô ích, tôi không thay đổi được sa nhân, tôi còn không thay đổi được con người vì họ không muốn thay đổi, họ không muốn vượt lên trên đau khổ của họ, họ còn không muốn lắng nghe tôi. Quả thực họ không muốn tôi ở đây.”

Trải nghiệm này khiến con có nỗi bất mãn sâu xa. Tại sao tôi ở đây? Tôi ở đây để làm gì? Ngay lúc sự bất mãn của con lên tới cùng cực, thì con lấy một quyết định là từ nay về sau con sẽ tiếp cận cuộc sống ra sao. Mỗi người sẽ biểu hiện quyết định đó thành lời khác nhau và đó là lý do tại sao con cần khám phá ra quyết định của riêng mình. Một ví dụ chung chung là con có thể quyết định rằng: “Tôi sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết của con người.” Hoặc: “Tôi sẽ không bao giờ ép buộc ai. Tôi sẽ không bao giờ lấy quyết định ảnh hưởng tới người khác vì tôi không muốn ép buộc ai cả.” Hoặc: “Tôi sẽ không thách thức sa nhân.” Hoặc con có thể lấy quyết định, như quyển sách đã mô tả, là con sẽ chống lại sa nhân; hay quyết định là con muốn hiểu sa nhân và tại sao họ phản ứng như thế.

23.9. Tái sinh trong Ki-tô

Các quyết định đó đã tạo ra một cái ngã đã pha màu cách con nhìn mình như thế nào như một sinh thể trên trái đất. Đây là cái ngã cuối cùng, cái ngã gốc, mà con có thể buông bỏ, và con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ nó từng phần một. Con có thể tới điểm con cho cái ngã đó chết đi và con tái sinh trong một ý niệm bản sắc mới dựa trên hiểu biết mà con có lúc này và dựa trên sự việc con đã phần nào tiếp xúc được với Hiện diện TA LÀ của con. Do đó con có thể được tái sinh trong Ki-tô vì đây không phải là một cái ngã vỏ ngoài dựa trên sợ hãi và phản ứng lại trái đất. Đây là cái ta hòa điệu với Hiện diện TA LÀ hay là nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, cá thể của Hiện diện TA LÀ của con, và thực tại Ki-tô là con là một sinh thể tâm linh, là nhận biết thuần khiết không thể bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi bất cứ điều gì trên trái đất.

Lúc ấy, con có thể vượt lên trên ngã gốc và tái sinh trong ý niệm bản sắc mới qua đó con thấy cuộc sống trên trái đất là điều tích cực. Giờ đây con có cái nhìn tích cực, một mục tiêu tích cực, một cảm nhận tích cực. Điều này không có nghĩa là con có một vấn đề mà con nhất định phải giải quyết bằng được. Con nhận ra sự có mặt của con ở đây có ý nghĩa vì chỉ vỏn vẹn con có mặt ở đây là con đang tỏa chiếu ánh sáng vào tăm tối. Con đang cho mọi người một tấm gương là có một cách sống khác với tâm thức nhị nguyên, khác với đau khổ, khác trạng thái tâm loạn động như tâm của mọi người.

23.10. Khi cái bất thường trở thành bình thường

Mọi người trên trái đất đều không vui, bất toại nguyện và xáo trộn trong tâm: điều này hoàn toàn thật. Nhưng để có thể sống được thì mọi người tới điểm xem trạng thái mất quân bình là bình thường. Đó là lý do tại sao chế độ cộng sản sống còn lâu như vậy. Hầu hết mọi người chấp nhận đó là tình trạng bình thường để họ có thể sống được với nó và do đó họ có thể sống còn. Điều này không có nghĩa là họ bằng lòng với chế độ này. Điều này không có nghĩa là họ đang tăng triển nhưng họ có thể sống còn. Lẽ dĩ nhiên con cũng đã làm như thế: con đã tạo ra một chuẩn mực cho phép con sống còn. Con đã tìm ra một cách sống trên trái đất giúp con tránh được những cảnh huống khơi dậy cảm xúc mà con có khi trải qua chấn thương nhập đời của mình.

Gần giống như là con đã tìm ra một cách ru ngủ ngã gốc, cho nó bị hôn mê, vì con đã học cách tạo ra những hoàn cảnh bên ngoài không đánh thức nó dậy. Quả thực con có thể sống như vậy trong vài kiếp và con có thể tiến bộ trong việc vứt bỏ một số ngã vỏ ngoài nhưng con thật sự chưa bao giờ chạm vào ngã gốc. Có những trường hợp đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý của các chân sư thăng thiên vài thập kỷ và họ đã có tiến bộ nhưng họ còn chưa bắt đầu nhìn vào ngã gốc.

Một lần nữa không nhất thiết chuyện này là sai trái. Con không thể nhìn vào ngã gốc khi con chưa sẵn sàng. Nhưng con sẽ tới điểm quả thực dậm chân tại chỗ nếu con không bắt đầu nhìn vào ngã gốc. Con sẽ không tăng triển, có thể cho tới cuối kiếp sống này, bởi vì con có cảm nhận là có điều gì trong con mà con không muốn chạm tới, con không muốn đối phó – vì chuyện này khó quá.

23.11. Chuyển đổi đồng hóa mình với ai

Con có thể có cảm nhận là con biết mình đã buông bỏ nhiều cái ngã khác và làm điều này không có vấn đề. Cái ngã này, con cảm thấy không bỏ nó được vì con cảm thấy mình sẽ chết nếu bỏ nó. Con sẽ chết. Con yêu dấu, đúng thế. Con sẽ chết. Cái “ngã” qua đó con nhìn mình như một sinh thể trên trái đất, cái ngã đó sẽ chết. Điều này không có nghĩa là cái ta thật của con sẽ chết vì con sẽ tái sinh trong một cái ta mới mà con sẽ phải tuần tự tạo ra, lẽ dĩ nhiên. Con thấy là các thày hoàn toàn ý thức, con yêu dấu, là điều mà các thày yêu cầu con làm ở đây (trong các giáo lý gần đây về chấn thương nhập đời và hành trình của các con trên trái đất) là một việc làm rất, rất phức tạp. Con không thể phất tay một cái là làm xong. Con cần nhiều thời gian, một số năm, có khi vài thập kỷ vì con sẽ dần dần phá bỏ cái ngã cũ và đồng lúc con cũng tạo ra một cái ta mới.

Đây là một việc làm phức tạp, nhưng việc này có thể làm được và con đã trong tiến trình làm việc này. Những gì thày mô tả ở đây nghe rất lớn lao nhưng nó không lớn lao như thế. Khi con đi trên con đường tu, con buông bỏ một số ngã phiến diện, con cũng tạo ra một ý niệm bản ngã mới dựa trên một tầm nhìn tích cực, dựa trên sự hiểu biết của con về giáo lý. Không phải là con phải hoàn toàn phá vỡ ngã gốc và nó chết đi và con không còn gì cả – và sau đó con có thể bắt đầu xây dựng lại một cái ta mới. Mọi chuyện không xảy ra như thế. Con phá vỡ cái cũ và con tạo ra cái mới cùng một lúc.

Điều gì có thể mang lại sự chuyển đổi nơi con? Ấy nó giản dị như thế này. Thày không nói là tất cả các con đều làm được ngay bây giờ nhưng sẽ tới lúc con đã phá vỡ phần lớn ngã gốc của mình. Con đã tạo ra một cái ngã mới, nhưng trong bản thể của con vẫn còn một điểm nơi con đồng hóa mình với ngã gốc. Con vẫn nhìn cuộc sống trên trái đất qua ngã gốc này. Khi thày nói cho ngã gốc chết đi, thì đó là điểm con nhìn thấy nó, con thấy cái ngã đó và con có thể buông bỏ nó. Con có thể cho ngã gốc chết đi. Đó là lúc thày nói con tái sinh.

Điều thật sự xảy ra là trọng tâm bản sắc của con, trung tâm bản sắc của con, dời chuyển từ ngã gốc sang cái ta mới mà con đã gày dựng bấy lâu nay. Bất thình lình, con thoát khỏi cái nhìn tiêu cực về trái đất và cuộc sống trên trái đất và bây giờ con nhìn cuộc sống qua cái nhìn tích cực. Con nhìn mình với cái nhìn tích cực. Con không còn cái nhìn tiêu cực về điều gì con làm được hay không làm được trên trái đất, tại sao con ở đây và con đã ngu xuẩn khi tới đây – điều này và điều kia. Nó không còn nữa. Nó đã chết.

23.12. Khi chết là đồng minh của con

Con yêu dấu, con hiểu là có một câu trích từ thánh kinh nói rằng kẻ thù cuối cùng mà chúng ta chinh phục là cái chết. Câu này không chỉ cái chết vật lý. Tất cả các con đều là người tâm linh, các con đều nhận ra là các con đã từng sống trước đây và các con đều đã kinh nghiệm nhiều lần là thân xác vật lý chết đi nhưng con thì vẫn tồn tại. Thân xác có thể tới, có thể đi nhưng ta tồn tại mãi mãi. Chuyện xảy ra ở đây không phải là con chết (cái ta thật của con không chết) nhưng có một cái “ta”, một cái ngã đúng thực chết. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này sẽ chống trả không muốn chết. Nó không có tự nhận biết nhưng nó có đủ tâm thức để chống lại cái chết. Lẽ dĩ nhiên nó sẽ phóng chiếu lên con là con sẽ chết khi chết. Đó là lý do tại sao con cần tới điểm xét lại quan điểm của mình về cái chết. Cái chết có thực là kẻ thù không?

Khi con nhận ra là cốt lõi bản sắc của mình là Hiện diện TA LÀ, ở trên cõi tâm linh, một cõi vượt lên trên thời gian và không gian, thì con biết là Hiện diện TA LÀ của con không thể chết. Các thày đã nói nhiều lần với các con là cái Ta Biết là một nối dài của Hiện diện nên nó cũng không thể chết. Khi con bắt đầu kết nối với ý niệm nhận biết thuần khiết đó (ý niệm biết mình hơn cái ta vỏ ngoài, hơn bất cứ điều gì trên trái đất), con có thể chuyển đổi nhận thức và nhận ra rằng con không thể chết. Cái có thể chết chỉ là ý niệm cái “ta”, ý niệm cái ngã, ý niệm mình là ai. Bởi vì ý niệm bản ngã của con giới hạn, nên con có thật sự mất mát chăng khi cái ngã đó chết đi? Hay đó là một thắng lợi cho con vì cái nhìn tiêu cực về mình đã chết, và con tái sinh trong cái nhìn tích cực? Nói cách khác, con tự do hơn sau khi cái ngã chết đi.

Kẻ thù cuối cùng mà mình chinh phục là cái chết, câu này nghĩa là gì? Nó nghĩa là con nhận ra cái chết không phải là kẻ thù của mình. Cái chết là bạn của mình. Cái chết là một dụng cụ giúp cho cái ngã giới hạn chết đi và nhờ vậy mình được tự do. Lẽ tự nhiên hầu hết mọi người chống cự lại cái chết vì họ quá đồng hóa họ với thân xác của họ và ngay cả thân xác cũng có nhận biết của nó, được gọi là bản năng sinh tồn khiến nó chống cự lại cái chết. Con biết là con sẽ không chết khi cái ngã tách biệt chết. Chúng ta không nói chuyện ở đây về cái chết vật lý. Chắc chắn đây không phải là giáo phái tự vận cuồng tín. Các con yêu dấu, chúng ta nói là con sẽ tới điểm thay vì sợ chết, sợ và chống cự cái ngã tách biệt chết, thì con cho phép nó xảy ra. Con đón mừng nó vì con nhận ra con sẽ tự do hơn sau cái chết của ngã tách biệt này. Đây là ý nghĩa đích thực của phục sinh.

23.13. Phục sinh đích thực

Phục sinh không thực sự là phục sinh thân xác như một số tín đồ Cơ đốc mơ tưởng. Trên căn bản nó là một khai ngộ tâm linh. Nó là điều con thấy khi thày đang bị treo trên cây thập tự và lúc đầu thày kêu lên: “Ôi Thượng đế, ôi Thượng đế, sao ngài lại bỏ rơi con?” Tại sao thày đã hành động như thế? Bởi vì cho tới lúc đó, thày có một cái ngã nghĩ rằng một cách nào đó Thượng đế sẽ làm phép lạ, gửi các thiên thần xuống giải cứu thày để thày không phải chết trên cây thập tự. Sau đó thày vẫn bị treo ở đó và thày nhận ra đây là một ảo tưởng. Có một cái ngã tách biệt mang ảo tưởng này. Quả thực nó là cái ngã tách biệt mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Nó là cái ngã tách biệt gốc của thày.

Trước khi thày xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, thày biết rất rõ tự thân mình không làm được điều gì cả. Thày biết rất rõ là cần có người đầu thai trên trái đất để làm cánh cửa mở cho uy lực của Thượng đế làm việc trong cõi vật chất của hành tinh này. Thày tình nguyện làm chuyện này, nhưng thày cũng đã xây đắp kỳ vọng là khi thày làm việc phụng sự Thượng đế thì Thượng đế sẽ can thiệp không để điều gì quá tệ hại xảy ra cho thày. Do đó, khi chuyện quá sức tệ hại xảy ra, thì Thượng đế sẽ tới và giải cứu thày bằng một phép lạ nào đó.

Đó là cái ngã thày đã xây dựng, đó là cái ngã thày đã có khi đầu thai. Sau đó, khi thày bị chấn thương nhập đời, thì thày đích thực nhận ra chuyện này sẽ không xảy ra. Thượng đế sẽ không dùng phép lạ để giải cứu thày khỏi hoàn cảnh rất khó khăn khiến thày bị chấn thương nhập đời. Thày phản ứng lại bằng cách tạo ra một ngã gốc giải thích tại sao Thượng đế đã không cứu thày trong hoàn cảnh đó. Đồng thời, thày cũng không thật sự chấp nhận thực tế của quyền tự quyết và Thượng đế không thể nào can thiệp vào quyền tự quyết và do đó trong một số trường hợp Thượng đế sẽ không thể nào giải cứu thày. Thày không chấp nhận điều này cho nên thày vẫn kỳ vọng là nếu thày thật sự, thật sự cần được giải cứu thì Thượng đế sẽ cứu thày.  

Cái ngã gốc của thày phải chịu tin là, thôi thì trong hoàn cảnh đó, dù nó tạo chấn thương tâm lý mạnh cho thày, thày quả thực không cần được giải cứu vì thày có thể đối phó được với chuyện đó. Nhưng nếu có một hoàn cảnh mà thày thật sự cần thì Thượng đế sẽ giải cứu thày. Nhiều nhiều năm sau đó, trong kiếp đầu thai cuối cùng của thày, thân xác thày đang bị treo trên cây thập tự và bỗng nhiên thày đối mặt với ngã gốc và kỳ vọng đây là một trong những cảnh huống mà thày thật sự, thật sự cần được giúp và bây giờ Thượng đế sẽ giải cứu cho thày. 

Lần đầu tiên thày thấy thực tế, toàn bộ thực tế của quyền tự quyết. Thày thật sự thấy nó và thày nhận ra là Thượng đế sẽ không giải cứu thày. Sau đó, thay vì tạo ra một cái ngã khác để đối phó với chuyện này, thì thày bỗng nhiên nhận ra đó là một cái ngã không thật. Nó chỉ là một ảo tưởng và thày thấy nó từ bên ngoài, và đó là lúc, như trong thánh kinh nói, thày “buông bỏ hồn ma.” Thày buông bỏ cái ngã cho rằng nó đặc biệt và do đó nó được quyền nhận phép lạ từ Thượng đế vì nó đã phụng sự Thượng đế trên trái đất này. Thày buông bỏ nó. Thày buông bỏ nó và sau đó thân xác thày chết đi nhưng điều thật sự quan trọng trong cảnh huống này là thày tái sinh theo nghĩa tâm linh. Cái ngã tách biệt, ngã gốc chết đi và thày tái sinh. Sau đó, thày không cần phải đầu thai trở lại trên trái đất nữa. Thày có thể từ bỏ trái đất. Dù rằng sau đó, thày được phép thị hiện một thân vật lý, điều này chính là để khởi động phong trào Cơ đốc và để khắc phục một số mong muốn vỏ ngoài không liên quan tới ngã gốc của thày. Tiến trình thật sự là việc cho phép cái ngã chết đi và con yêu dấu, có thể nói là khi con cho ngã gốc chết đi, con phải trải qua kinh nghiệm cảm thấy mình sẽ chết. Con cảm thấy con đang chết.

23.14. Chấp nhận cái chết

Giờ đây, con sẽ thấy, nếu con đã đọc về các kinh nghiệm cận tử, là có nhiều người đã trải qua kinh nghiệm cận tử trong một hoàn cảnh rất nguy hiểm, tạo chấn thương tâm lý. Trong một khoảng thời gian, bản năng sinh tồn của họ khiến họ chống cự lại và không chịu rời bỏ thân xác. Sau đó, họ tới điểm bỗng nhiên cảm thấy một sự bình an nội tâm và lúc đó họ buông bỏ thân xác và nói: “Bất chấp chuyện gì xảy ra.” Trong sự phó thác này, họ rời bỏ thân xác. Sau đó, họ có kinh nghiệm cận tử và trở về và kể lại câu chuyện. Con có thể tới điểm nhận diện ra ngã gốc, con biết nó cần phải chết đi, con biết bây giờ là đúng lúc. Sau đó, thay vì chống lại cái chết của ngã gốc, thì con quy thuận. Con hàng phục. Con cảm thấy bình an trong lòng và con nói: “Hãy cho nó chết đi; bất chấp chuyện gì sẽ xảy ra” hay “Xin ý cha được hoàn thành, không phải ý con.”

Con chỉ cho phép nó xảy ra và con cho phép mình trải qua tiến trình, trong đó mình cảm thấy như mình đang chết, giống như mình đang buông bỏ cái gì đó. Đó là vì con đang buông bỏ thật sự. Lẽ dĩ nhiên con kinh nghiệm là sau khi con buông bỏ cái ngã tách biệt này, con không biến mất, con vẫn còn tự nhận biết. Đấy là lúc con có thể chuyển dời bản sắc của mình tới một cái ta mới, một cái ta được xây dựng trong Ki-tô và con trở thành, như Paul đã diễn tả, “một sinh thể mới trong Ki-tô.”

Không phải tất cả các con đều làm được điều này trong khoảnh khắc. Thày không yêu cầu con làm điều này sau khi nghe hay đọc bài truyền đọc này. Thày yêu cầu con chiêm nghiệm tiến trình này, nhận biết tiến trình này. Khi con tới điểm đã sẵn sàng vì con đã phá vỡ hầu hết ngã gốc của mình, con đã tạo dựng một cái ta mới và quả thực để ngã gốc chết đi không phải là một chuyện lớn lao nữa (nó chỉ là chuyện chuyển dời tâm thức khi con đưa trọng tâm bản sắc của con rời khỏi ngã gốc để chuyển sang cái ta mới), thì lúc đó con không chống cự lại tiến trình. Con cảm thấy: “Ồ, tôi sẵn sàng rồi” và con giản dị buông bỏ. Con đón mừng cái chết. Con đón mừng cái chết của ngã gốc. Con đón mừng cái chết như người bạn của mình. Con ngưng chống lại nó. Con ngưng hờn trách hay chống cự nó. Con đón mừng nó, không phải như sự chết mà là sự tái sinh, là một khởi đầu mới. 

23.15. Hoàn tất lý do con tới trái đất

Con yêu dấu, đấy là lúc con thật sự có thể bắt đầu hoàn tất lý do nguyên thủy tại sao con xuống trái đất. Con không hoàn tất nó bằng cách làm điều gì, bằng cách thay đổi điều gì, bằng cách thay đổi người khác. Con hoàn tất lý do đó chỉ bằng cách con là cái con là và tỏa chiếu ánh sáng, sinh thể, tâm thức và khuôn đúc của cá thể mình. Con không cần giải quyết vấn đề nào và không cần hoàn tất mục tiêu nào. Con nhận ra rằng con chỉ cần ở đây là đã làm điều con tới đây để làm. Con cảm thấy mãn nguyện khi làm vậy vì sự việc con là cái con là không lệ thuộc vào chọn lựa của người khác. Con không cần thay đổi chọn lựa của người khác để là cái con là.

Có thể là con nhận ra, cái ngã gốc đã làm gì? Niềm tin cốt lõi của ngã gốc là gì? Con yêu dấu, nó tin là sự việc con là chính mình, con là cái con là, không tốt đủ. Hoặc như thế là sai trên hành tinh này. Hành tinh này không muốn thấy điều đó.  Nói cách khác, trước khi con xuống đây, con chờ đợi là con chỉ cần tới đây và là cái con là thì mọi người sẽ đón mừng con. Sau đó, con nhận ra là sa nhân và luôn cả hầu hết con người không đón mừng con, chào đón con, chấp nhận con. Con quyết định là hình như con đáng lẽ không nên là cái con là, con không được phép là cái con là trên hành tinh này. Hoặc sự việc con là cái con là vẫn chưa đủ.

Có thể nói là tất cả những gì con đã làm, tất cả những gì đã xảy ra cho con sau chấn thương nhập đời, là con đã dồn nén không cho phép con là cái con là. Đây là điều con có thể giành lại, và khi con giành lại, con sẽ có ảnh hưởng trên trái đất. Con sẽ không dính mắc tới ảnh hưởng này vì con không là cái con là để thay đổi bất cứ điều gì trên trái đất. Con là cái con là vì nó đem lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện lớn lao nhất.

Con nhận ra niềm hỷ lạc lớn nhất mà con có thể có trên trái đất là con là cái con là trước mọi điều kiện trên hành tinh này. Con có thể đứng yên và không gì ảnh hưởng được con, giống như Phật ngồi dưới cội bồ đề đối mặt với quỷ dữ của Ma vương đang cám dỗ để thày phản ứng lại chúng. Con có thể nhìn màn xiếc trên trái đất, con có thể nhìn vào quỷ dữ của Ma vương mà không phản ứng. Con vẫn tỏa chiếu ánh sáng của mình, vẫn sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật của mình, tương tác với người khác, đi làm, nuôi dạy các con, hay bất cứ điều gì khác. Con cảm thấy dòng chảy, niềm hỷ lạc, khi con cảm thấy con đang biểu lộ cái con là trong mọi việc con làm. Bỗng nhiên rào cản giữa sinh hoạt tâm linh và không tâm linh trở nên hoàn toàn vô nghĩa vì tất cả trở thành sinh hoạt tâm linh. 

Mọi sự đều biểu hiện cái con là. Mọi sự đều mang lại cho con niềm hỷ lạc và mãn nguyện, không còn cái đúng cái sai, hay cái này cái kia. Đây là cách con có thể mang lại ảnh hưởng lớn nhất cho hành tinh này vì nó sẽ kéo tâm thức tập thể lên. Nó sẽ gây cú sốc cho người khác, những người mở tâm để thấy là có một cách sống khác với cách sống mà họ xem là bình thường của con người.

Một lần nữa con không dính mắc chuyện người khác có làm hay không làm. Con không dính mắc chuyện này. Con chỉ chú tâm là cái con là và con vui hưởng làm như thế. Sau đó, con có thái độ là bất cứ chuyện gì xảy ra, con chỉ nói “bất chấp chuyện gì xảy ra.” Con không có ý định gì, con không có ý muốn vỏ ngoài nào. Con chỉ cho phép cuộc sống trải bày ra. Đây là, như các thày đã nói trước đây, ở trong Dòng sông sự Sống. Đây là trôi theo Dòng sông sự Sống. Con yêu dấu, đây đích thực là chứng minh quả vị Ki-tô. Nó có vẻ không lớn lao như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo hay ngay cả đệ tử chân sư thăng thiên mường tượng, chẳng hạn như con phải làm tất cả những phép lạ kia hay làm tất cả những biểu hiện thấy rõ kia.

Con yêu dấu, một khía cạnh rất quan trọng, rất cao của quả vị Ki-tô (và lẽ dĩ nhiên có nhiều khía cạnh khác) là con có thể tham gia đời sống thường nhật với một thái độ và cách nhìn đời hoàn toàn tích cực. Phải chăng đây là chứng minh quả vị Ki-tô, con yêu dấu? Đích thực, nó .

Đây là điều mà thày đã không làm trong kiếp đầu thai cuối cùng, thày đồng ý với con. Nhưng phải chăng thày có nói là các con sẽ hoàn thành những việc lớn lao hơn thày? Đây là một ví dụ của những việc lớn lao hơn mà thày chưa đủ khả năng điều ngự để hoàn thành 2,000 năm về trước – con có thấy vậy chăng.

22 | Giải thoát mình khỏi những ham muốn bất khả thi

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 12 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và thày có mặt ở đây để trao cho các con bài giảng về lòng tự trọng đặc biệt dành cho những người trong các con mà các thày chọn gọi là avatar. Các thày đã chọn chữ này vì nhiều lý do, những lý do đã được các con biểu hiện khi phản ứng lại chữ này hay khái niệm này. Tất cả những điều các thày làm đều có mục đích nâng cao tâm thức con người, và đôi khi các thày phải làm chuyện này bằng cách khiêu khích, hay thách thức một số hình ảnh và niềm tin của con người. Thực vậy, con thấy thày đã làm điều này nhiều lần khi thày sống trên trái đất và gặp các thày thông giáo và Pha-ri-si và những cá nhân hay nhóm người khác có tâm khép kín.

Các con yêu dấu, quả thực các quốc gia trước kia nằm dưới gông cùm cộng sản cần làm điều gì đó để gia tăng lòng tự trọng của dân chúng, nhưng ở đây thày muốn đi xa hơn và nói với các con nào đã tới trái đất với một mục đích đặc trưng, không phải do nghiệp quả bắt con xuống đây hay vì hành tinh của con đã thăng thiên và con không thăng theo được. Con tới đây với một mục đích đặc trưng là con muốn là cánh cửa mở, là tấm gương chỉ cho mọi người thấy có một tâm thức khác, không phải là tâm thức đang ngự trị trên hành tinh này. Khi con tới đây, có thể là con có một ý định nào đó, một mục đích nào đó, một ý niệm nào đó về điều con muốn thay đổi trên trái đất.

22.1. Lòng tự trọng tương đối

Điều thày mong con nhận ra ở đây là khi các thày nói tới lòng tự trọng theo nghĩa vỏ ngoài, thì đối với người thế gian, lẽ dĩ nhiên, tất cả mọi người rất cần có lòng tự trọng vì họ thường hoạt động tốt hơn trong cuộc sống của họ so với khi họ không có lòng tự trọng hay có lòng tự trọng rất thấp. Bây giờ, ta có thể nói là mọi người đều có lòng tự trọng. Nó chỉ là chuyện họ thấy họ như thế nào, họ định nghĩa họ như thế nào. Họ định nghĩa họ một cách tích cực hay tiêu cực? Tuy nhiên, điều chúng ta có thể nói về hầu hết mọi người trên thế gian là họ có một lòng tự trọng tương đối vì nó liên quan tới một điều gì đó thuộc về thế gian. Nếu con là một lực sĩ nhảy xa, thì lòng tự trọng của con có thể liên quan tới chuyện con nhảy được bao xa. Nếu con là một thương gia, lòng tự trọng của con có thể liên quan tới số tiền con có hay số tiền con thu nhập.

Con thấy là nhiều người trên thế gian đã tạo ra lòng tự trọng tương đối dựa trên một thước đo liên quan tới thành quả nào đó của họ trong thế gian. Giờ đây, điều này không nhất thiết là sai trái hay dở. Đây là một giai đoạn cần thiết trong tiến trình phát triển của một sinh thể. Các thày có nói là một trong những mong muốn cơ bản của con người là họ nỗ lực làm điều gì đó và họ nhận lãnh kết quả tốt, hay một sự thưởng công cho cố gắng của họ. Con có thể nói là một biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản này là con tạo ra lòng tự trọng dựa trên một thang điểm đo lường thành quả của con. Lẽ tự nhiên, thành quả của con càng cao trên thang điểm này, lòng tự trọng của con càng nhiều. Chúng ta có thể gọi nó là lòng tự trọng cao theo ý nghĩa thế gian.

Giờ đây, có những người khác có một dạng tự trọng thấp kém. Thay vì so sánh thành quả của họ với những mục đích mà họ đặt ra, họ luôn luôn so sánh mình với người khác. Họ thành công hơn hay kém hơn người khác? Họ có nhiều hơn hay ít hơn người khác? Ta có thể nhìn đây vẫn là sự biểu hiện của lòng mong muốn cơ bản nỗ lực làm việc và gặt hái sự thưởng công. Nhưng rõ ràng đây là lòng tự trọng thấp kém hơn so với trường hợp con làm việc và chỉ so sánh mình với mình, nhưng nó vẫn chưa phải là lòng tự trọng có tính cách phá hoại.

22.2. Lòng tự trọng và địa vị

Giờ đây con có một loại tự trọng khác không liên quan tới thành quả nhưng liên quan tới địa vị của con trong một thứ bậc giả tạo do con người dựng lên. Tỷ dụ, con có thể có ý niệm là vì con là hoàng đế hay vua, con cao hơn người khác vì con ở địa vị đó. Con có thể có ý niệm là vì con có chức vụ nào đó trong guồng máy nhà nước, con cao hơn người dân thường. Con thấy được là loại tự trọng này không gắn liền với thành quả mà gánh liền với địa vị.

Giờ đây, trong một số trường hợp, lẽ dĩ nhiên để đạt tới chức vụ đó con phải nỗ lực, nhưng tầng thấp nhất của dạng tự trọng này gắn liền với một chức vụ mà con ngẫu nhiên có được qua sự thừa hưởng, qua việc tự cho mình quyền lực, hay bằng cách dùng bạo lực, lừa dối hay cách nào khác. Một khi con đạt được địa vị đó, con nghĩ rằng không có điều gì có thể thách thức địa vị của con và những người ở dưới con không thể thách thức địa vị này. Con thấy là dạng tự trọng này là tự trọng của sa nhân. Lẽ tự nhiên, họ cũng có một ý niệm tự trọng vì họ có quyền lực lớn. Như vậy lòng tự trọng mà họ có liên quan tới thành tích của họ, nó vẫn rõ ràng là một nguồn tự trọng thấp kém khi thành tích của người đó được đo lường dựa theo khả năng dùng quyền lực áp chế người khác.

22.3. Mâu thuẫn trong chữ tự trọng

Nếu chúng ta vượt lên trên tầng mức này, chúng ta có thể thấy là khi chúng ta nói về các avatar, khi chúng ta nói về những người tâm linh đang đi một cách ý thức trên con đường tâm linh (con đường nội tâm chân chính dẫn tới thăng thiên), thì chúng ta cần chú ý tới ý nghĩa cao hơn của lòng tự trọng. Chúng ta cần tự hỏi phải chăng có sự mâu thuẫn trong chữ “tự trọng.” Giờ đây, như Chân sư MORE đã nói tối hôm qua: “Có thể nào con thực sự nóng giận một cách không đặc trưng, hay con cần một đối tượng?” Cũng vậy, con có thể nói: “Có thể nào con thực sự cảm thấy trọng điều gì đó nếu con không có đối tượng để trọng?”

Tự trọng là gì? Nhiều người chưa định nghĩa từ này. Họ nghĩ rằng họ hiểu nghĩa của nó. Con quý trọng mình. Con nghĩ con là người tốt hay người có khả năng. Con cảm thấy thoải mái về mình, bất kể cái mình đó là gì. Cái ta được coi trọng là ai? Là người tâm linh con có thể thấy rõ ràng là đối với hầu hết mọi người trên thế gian, cái ta đó không phải là bản thể nội tâm, cái Ta Biết, bản thể thật của họ đang được quý trọng vì lòng tự trọng liên quan tới điều gì đó trên thế gian, do đó cái ta được trọng không thể nào là cái ta thật của họ. Nó chỉ có thể là cái ngã vỏ ngoài, một phần của cái ngã vỏ ngoài.

Ví dụ, con có thể nói là người lực sĩ nhảy xa đã quy định và tạo ra một cái ngã và khi anh nhảy được xa, cái ngã đó cảm thấy thoải mái, cảm thấy nó có khả năng, cảm thấy nó cao hơn người, hoặc cảm thấy bất cứ điều gì – nhưng nó là cái ngã vỏ ngoài. Kỳ thực, chuyện con nhảy được bao xa ngoài sân vận động có tầm quan trọng tâm linh nào chăng? Con thấy rất đông người trong xã hội đã tạo ra những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tương đối, những cái ngã liên quan tới một điều kiện đặc thù trên thế gian. Khi họ sống theo những điều kiện này tới một mức nào đó, họ có thể cảm thấy thoải mái về mình và họ có thể cảm thấy mình có một giá trị nào đó. Họ có lòng tự trọng nào đó trong tâm họ và có thể cũng được sự tôn trọng trong tâm người khác.

Lẽ tự nhiên, các thày không mong muốn các con là những đệ tử trực tiếp của các thày bị hạn chế bởi dạng tự trọng này. Các thày mong muốn các con đạt được một tầng cao hơn của lòng tự trọng thật sự đến từ nội tâm và không liên quan tới thành tích của con hay địa vị trên trái đất. Quả thật, khi con xem xét thông điệp trong cuốn sách mới nói về sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và trái đất, thì con có thể thấy là nếu lòng tự trọng của mình liên quan tới bất cứ điều gì trên một hành tinh thấp như thế này thì quả thực đây không phải là một dạng tự trọng cao mà con có thể có được. 

22.4. Một dạng tự trọng tâm linh

Các thày mong các con vượt lên trên lòng tự trọng vỏ ngoài, tương đối, thế gian, và đạt một dạng tự trọng cao hơn. Bây giờ, lẽ tự nhiên là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con không có viễn quan và hiểu biết hoàn toàn rõ ràng về mục đích của đường tu và nó dẫn con tới đâu. Trong nhiều trường hợp con chú tâm vào con đường vỏ ngoài nhiều hơn là con đường bên trong. Trong nhiều trường hợp, các đệ tử tâm linh tạo ra một dạng ngã vỏ ngoài khác. Thay vì liên quan tới điều gì đó trong thế gian vật chất, thì nó liên quan tới thành tích của họ trên con đường tâm linh theo cái hiểu của họ.

Bây giờ, một lần nữa, điều này không quá tiêu cực. Nó chỉ biểu hiện sự kiện là khi con bắt đầu tìm thấy con đường tâm linh, thì con dùng động lực này để nỗ lực và gặt hái thành quả để quy định thế nào là một đệ tử tốt, thế nào là tiến bộ trên đường tu, thế nào là nỗ lực để tinh tấn. Con dùng nó để quy định một cái ngã và một cách để lượng định con đang ở đâu trong thành quả của con, và sau đó con có thể cảm thấy thoải mái với mình hay không thoải mái lắm với mình dựa trên tiêu chuẩn này. Đây lẽ dĩ nhiên là một giai đoạn con cần đi qua và sau đó con vượt thăng lên một dạng tự trọng cao hơn.

22.5. Lòng tự trọng tiêu cực

Trước khi thày nói sang phần này, thày muốn nói tới sự kiện là cũng có những người đã quy định một cái ngã mà thày gọi là tiêu cực và điều này khiến họ có lòng tự trọng tiêu cực. Nói cách khác, con có thể có lòng tự trọng mà các thày gọi là tích cực trong đó thành quả của con có thể cao hay thấp, nhưng các con vẫn không phải là người hoàn toàn thất bại. Mặt khác, con thấy chăng, lẽ dĩ nhiên, trong thế gian có nhiều người đã quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực trong đó họ thấy là có điều gì sai trái với họ. Đây không phải là chuyện cao hơn hay thấp hơn, đây là chuyện họ cảm thấy họ thấp hay thấp hơn nhiều.

Một trong những hệ quả của chế độ cộng sản là nhiều người có lòng tự trọng tiêu cực cho rằng họ chỉ có thể dở như vậy hay tệ hơn. Nhiều tín đồ Cơ đốc cũng như thế, họ cảm thấy họ là người tội lỗi và do đó họ quy định một ý niệm bản ngã tiêu cực. Một lần nữa, cảm nhận này cũng có thể có một thang điểm trong đó con có thể cảm thấy con là người tội lỗi, nhưng một số người tội lỗi tệ hơn người khác do đó có thể là con không tệ như những người kia đã làm chuyện này chuyện nọ. Điều này vẫn rất tương đối. Con thấy nhiều thí dụ như thế trên thế gian, nhưng điều thày muốn chỉ cho các con là một số trong các con là những avatar và người tâm linh cũng đã từng, thường khi là trong các kiếp trước, quy định một cái ta tiêu cực như thế trong đó các con cảm thấy mình có gì đó sai trái. Con cảm thấy là con đã phạm một lỗi lầm trong quá khứ hay có điều gì đó sai trái về mình, và do đó trên thang điểm này, con không thể thực sự cảm thấy mình ở quá điểm trung bình. Lúc nào con cũng ở trong phần tiêu cực và vấn đề chỉ là con thấp bao nhiêu, con cảm thấy mình sai trái bao nhiêu.

Nhiều người trong các con đã tạo ra những cái ngã này vì các con gặp những hoàn cảnh trong đó con cảm thấy mình đã thất bại không đạt được mục tiêu của mình. Nói cách khác, con có một mục tiêu nào đó nhưng con hoàn toàn thất bại không đạt được mục tiêu này và do đó con quyết định là tự thân con sai trái hay có khuyết điểm nào đó. Sau đó điều này tạo ra những ngã tiêu cực không thể cho con lòng tự trọng mà chỉ có thể cho con điều ngược lại. Lẽ dĩ nhiên con có thể tạo ra những ngã tiêu cực này qua nhiều cách, nhưng điều thày thực sự muốn nói tới là trong nhiều trường hợp, con đã tạo ra những ngã tiêu cực này vì con đã tương tác với các sa nhân. Đây là chỗ con cần hiểu mối tương tác giữa một avatar và một sa nhân như thế nào. Lẽ tự nhiên, cuốn sách mới mô tả đề tài rất, rất rõ và chi tiết, nhưng nó chưa đi sâu vào tâm lý, ít nhất là ở khía cạnh mà thày muốn nói tới ở đây.

22.6. Muốn được sa nhân chấp nhận

Giờ đây, ở một mức hời hợt hơn, chúng ta có thể nói là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên, con chưa từng, chưa bao giờ gặp một ai chỉ trích con hay hạ thấp con. Con chỉ gặp những người khuyến khích con và cho con phản hồi tích cực. Điều này không có nghĩa là các vị thày hay ngay cả những người ngang hàng với con trên một hành tinh tự nhiên luôn luôn đồng ý với con về những gì con đang làm, hay nghĩ rằng điều đó là điều hay nhất có thể làm được. Họ luôn luôn cho con phản hồi là con có thể làm hay hơn như thế nào, họ không nói con hay điều con làm có gì sai trái. Con chưa bao giờ gặp chuyện như thế. Ở trên một hành tinh tự nhiên con đã xây dựng sự chờ đợi là khi con làm điều gì tích cực cho người khác, ít nhất là họ không tiêu cực về chuyện này, nhưng có nhiều xác suất là họ cảm kích về điều con làm cho họ. Nói cách khác, khi ý định của con tốt lành, họ không hạ thấp con vì họ nhận ra là con đã hành động với ý định tốt lành nhất.

Có thể nói là nó tạo ra cho con một chờ đợi và ngay cả một mong muốn là người khác sẽ tán thành con và chấp nhận con, và chấp nhận là con có ý định tốt. Có thể nói đây không thực sự là cái mà chúng ta gọi là “lòng mong muốn” trên trái đất. Đó chỉ là vì với những gì con trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên, con có một chờ đợi tự nhiên là khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất (và lẽ dĩ nhiên là con chỉ có ý định tốt lành trên một hành tinh tự nhiên), thì họ sẽ chấp nhận con và chấp nhận nỗ lực của con một cách tích cực. Họ có thể đề nghị một cách làm hay hơn, nhưng họ sẽ không hạ thấp con hay chỉ trích con vì con đã có ý tốt lành.

Khi con tới một hành tinh như trái đất và con gặp các sa nhân, con cũng tới đây với ý định tốt lành nhất. Những gì con làm cũng được làm với ý định tốt lành nhất, nhưng khi đó con trải nghiệm là sa nhân không chấp nhận con, không chấp nhận ý định của con, không trân quý bất cứ điều gì con làm. Họ hạ thấp con khi con làm bất cứ điều gì, và ngay cả vì con là con. Dù con không bị hình thức tra tấn cùng cực đã được mô tả trong quyển sách, con vẫn trải nghiệm hiện tượng này. Con sẽ gặp sa nhân trên hành tinh và con sẽ trải nghiệm là họ không chấp nhận con, không tán thành con. Lúc đầu con sửng sốt. Con không thể hiểu được điều này, nhưng có một số avatar sau đó, có thể là trải qua một số kiếp sống, từ từ gày dựng ý muốn được sự tán thành của sa nhân. Con thấy chăng, con yêu dấu, Portia có nói là có một số ít nỗ lực trên trái đất này vô bổ hơn là đi tìm sự tán thành của cái ngã nam tính, nhưng có một nỗ lực vô bổ hơn, đó là nỗ lực tìm sự tán thành của sa nhân. Nhiều người trong các con có vết thương sâu thẳm khi đi tìm sự tán thành của sa nhân, không nhận được nó mà còn nhận được cái ngược lại. Trong nhiều trường hợp, nó càng khiến con hăng hái hơn muốn tìm sự tán thành của sa nhân, muốn hiểu họ. Làm sao con có thể thực sự làm cho họ hài lòng, làm sao con có thể làm điều gì mà họ tán thành, làm sao con có thể giúp họ?

22.7. Tìm cầu cái bất khả thi

Con có thể rơi vào vòng xoáy tìm cầu điều này và lúc đầu con không nhận ra sự tìm cầu này bất khả thi. Nó có thể mang lại cho con những vết thẹo và gánh nặng tâm lý sẽ từ lần phát triển thành những cái ngã tiêu cực. Cái ngã không đáp ứng một cách thuận lý nhưng nó phản ứng lại những cảm xúc bị hạ thấp lần nữa và lần nữa và lần nữa. Đây là một cái ngã đầy cảm xúc chỉ có thể có lòng tự trọng tiêu cực và vấn đề chỉ là nó tiêu cực đến chừng nào. Nói cách khác, có thể có những lúc sa nhân chỉ phớt lờ con và điều đó dẫn tới một mức tự trọng tiêu cực nào đó. Có những lúc khác sa nhân trực tiếp chỉ trích con, hạ thấp con hay giết con và điều này làm cho con bị một mức tự trọng sâu và thấp hơn trên thang điểm tiêu cực.

Nhiều người trong các con có những cái ngã này vẫn còn lởn vởn trong bốn thể phàm, thường là ở trong thể tình cảm. Đây có thể là những cái ngã rất thô, rất nhạy cảm. Con có thể thấy được trong kiếp này con đã rất nhạy cảm với chuyện người khác, cha mẹ, thày cô, anh chị em hay ai ai đó tán thành hay không tán thành con. Do đó, con đã bị tổn thương nhiều lần vì những gì người khác đã làm hay không làm đối với con. Có thể là con không gặp hay có gặp sa nhân trong kiếp này, nhưng họ không đối xử tàn ác khốc liệt đối với con như được mô tả trong quyển sách. Nhưng họ vẫn đã phớt lờ con hay hạ thấp con một cách nào đó. Những cái ngã này của con, lẽ dĩ nhiên, có thể bị tổn thương bởi những người khác không riêng gì sa nhân. Những cái ngã này rất nhạy cảm với sự tán thành của người khác cho nên bất cứ ai cũng có thể khuấy động chúng lên và khiến cho con có một niềm tự trọng tiêu cực.

Lẽ tự nhiên, mong muốn của các thày là giúp con khắc phục được điều này, buông bỏ các ngã này và nhận ra chúng chỉ là những ngã tách biệt. Chúng chỉ giản dị là những ngã vỏ ngoài đã được tạo ra và chúng không phải là con (như chân sư MORE đã nói). Khi con nhận ra chúng là những vật thể (con cũng có thể gọi chúng là những khía cạnh của tự ngã, con có thể gọi chúng là “phàm linh nội tại”, con có thể gọi chúng là những “cái ngã”, gọi tên gì không quan trọng), nhưng khi con thấy điều này và con có thể tách mình ra khỏi chúng, thì con có thể bắt đầu buông bỏ chúng.

Lẽ dĩ nhiên, có thể có năng lượng còn bị tồn đọng trong con và con có thể được lợi lạc khi đọc các bài thỉnh và bài chú để chuyển hóa năng lượng. Điểm mấu chốt là con cần tới điểm nhận ra các ngã này đã được tạo ra từ một ảo tưởng. Ảo tưởng nào của con đã dẫn con tới chuyện tạo ra những ngã này khi con phản ứng lại sa nhân? Ấy, ảo tưởng căn bản là chờ đợi mọi người chấp nhận con khi con làm điều gì cho người khác với ý định tốt lành nhất. Họ sẽ tán thành con, dù họ không tán thành tất cả mọi chuyện con làm.

22.8. Sa nhân sẽ không bao giờ tán thành các avatar

Con yêu dấu, con cần tới điểm nhìn nhận là trên cơ bản một sa nhân sẽ không thể nào tán thành một avatar. Điều này không thể nào làm được. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar ngày nào họ còn ở trong tâm thức sa ngã. Họ chỉ có thể thấy các avatar là mối đe dọa vì họ cảm thấy được trong tiềm thức là người avatar có nhiều ánh sáng hơn họ và vì thế họ cảm thấy bị đe dọa. Vì bản chất sa nhân là vậy nên họ phải cảm thấy bị đe dọa và do đó họ sẽ không bao giờ chấp nhận hay tán thành một avatar. Con cần tới điểm nhận ra là khuôn nếp con có ở các hành tinh tự nhiên và con mang theo tới trái đất giản dị là không thích hợp với một hành tinh như thế này. Do đó, con phải cố gắng một cách ý thức chấp nhận điều này và con sẽ giản dị buông bỏ mong muốn này, chờ đợi này khi con ở trên trái đất.

Sa nhân có tán thành con hay không thực sự không quan trọng ở tầm kích hoàn vũ (ở tầm kích sự tăng triển tâm linh và thăng thiên của con). Sa nhân tuyệt đối không có quyền năng gì trong sự thăng thiên của con. Việc họ không tán thành con không ngăn trở con thăng thiên. Việc họ tán thành con không giúp con thăng thiên. Việc họ không tán thành con có thể ngăn trở con thăng thiên nếu con chấp nhận nó, đem nó vào bên trong mình và nuôi cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra. Đây không phải là sa nhân quy định điều đó, đây chính là phản ứng của con đối với sa nhân. Không một sa nhân nào có thể ngăn trở sự thăng thiên của con một cách trực tiếp. Họ chỉ có thể làm được điều này nếu con cho họ quyền lực nào đó trên bản thể của con qua việc tạo ra những cái ngã phản ứng lại họ.

22.9. Những chờ đợi thiếu thực tế của con về trái đất

Khi con nhận ra điều này, con có thể thấy được là gần như con không thể tránh khỏi, như được mô tả trong quyển sách, là khi con ở trên một hành tinh tự nhiên và con nhìn trái đất và con quyết định tới trái đất, con sẽ có một số chờ đợi thiếu thực tế, không những về cuộc sống trên hành tinh này, mà cũng về phản ứng của con đối với trái đất. Con cần nhận ra đây là những chờ đợi thiếu thực tế và do đó con cần buông bỏ chúng. Chúng dựa trên cuộc sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên chúng là những chờ đợi phải chăng nhưng con đâu sống trên một hành tinh tự nhiên, phải không con? Thày giả định là không một ai trong chúng con nghi ngờ chuyện này. Con có thể thấy là những mong chờ này không thực tế ở đây. Giản dị là con phải buông bỏ chúng, và con buông bỏ được khi con thấy một cách ý thức thực chất của chúng và con hiểu những giáo lý các thày đã trao cho các con, trong quyển sách cũng như trong các bài truyền đọc ở đây.

Đây là chuyện mong chờ thiếu thực tế là sa nhân sẽ phản ứng với con như thế nào. Bây giờ, có một tầng mong chờ khác vì lẽ dĩ nhiên con cũng có mong chờ là con sẽ phản ứng như thế nào với sa nhân và cuộc sống nói chung trên trái đất. Những mong chờ này vi tế hơn, và chúng liên quan tới điều mà thày nói trước đây là con có một mong muốn nào đó, một lý do nào đó để tới đây. Con muốn đem lại thay đổi tích cực trên hành tinh. Con thấy chăng, con yêu dấu, giống như những người đã tạo ra một thang điểm đo lường họ nhảy bao xa trên sân vận động và họ đã tạo ra một cái ngã để đo lường lòng tự trọng của họ dựa trên thành quả nhảy của họ, thì con như một avatar cũng có thể đã tạo ra một cái ngã đo lường thành quả của mình trong việc hoàn thành mục tiêu mà con có trong tâm trước khi con tới đây?

Ví dụ, nhiều người trong các con chờ đợi là dù con đã biết đây là một hành tinh thấp và ở đây có chiến tranh và tra tấn và đủ loại tàn sát và đảo điên, con vẫn có thể giữ tâm mình tích cực và con sẽ không rơi vào vòng xoáy phản ứng tiêu cực với sa nhân hay các điều kiện trên trái đất. Như Chân sư MORE đã nói, con nghĩ là con sẽ không nổi giận, sẽ không sợ, sẽ không phản ứng tiêu cực, sẽ không giao chiến với sa nhân, và vân vân. Vì, như Chân sư MORE đã nói, tất cả chúng ta khi tới trái đất đều đã rơi vào khuôn phản ứng lại sa nhận, đều bị sốc, thì có thể an toàn mà nói là tất cả chúng ta đều thất bại, dựa trên sự mong chờ đó. Chúng ta đều đã phản ứng khác với những gì chúng ta nghĩ chúng ta sẽ phản ứng trước khi tới đây – thày cũng vậy, hy vọng là cuốn sách đã chứng minh điều này.    

22.10. Các kỳ vọng của con khi tới trái đất 

Một lần nữa, con phải nhìn chuyện này và nói: “Đây rõ ràng là một chờ đợi thiếu thực tế và tôi cần buông bỏ nó.” Sau đó, còn sự chờ đợi vi tế hơn, liên quan tới điều con hy vọng sẽ hoàn thành, các kết quả con hy vọng thấy được trên trái đất, các thay đổi con hy vọng tạo ra được. Không thể tránh được chuyện con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy nó đã thất bại vì không đạt được mục đích khi tới đây. Con không tạo được kết quả mà con hy vọng tạo được, con đã không thấy được một sự thay đổi tích cực.

Con có cái ngã một phần nào tương đương với cái ngã mà nhiều người trên thế gian có khi họ đo lường thành quả của họ dựa trên một tiêu chuẩn. Chỉ khác là tiêu chuẩn của con rất, rất khác. Con có thể nói là các chân sư thăng thiên muốn nâng cao trái đất và cách duy nhất để thực sự nâng cao trái đất là có một số avatar xuống đầu thai trên trái đất và giúp nâng cao tâm thức tập thể. “Vậy phải chăng chúng con có mặt ở đây để đem lại thay đổi tích cực? Phải chăng chờ đợi đem lại sự thay đổi tích cực là một chờ đợi thuận lý?”

Nhìn dưới một góc độ nào đó, các thày có thể nói: “Đúng, đúng, đúng, điều này thuận lý.” Vấn đề là nếu con đã tạo ra một cái ngã cảm thấy đã thất bại nếu chưa tạo ra sự thay đổi mà con mường tượng, thì lúc đó con có một cái ngã ngăn chận con đạt được lòng tự trọng thực mà các thày muốn con đạt được. Cái ngã này giản dị kéo con xuống một cái nhìn tiêu cực về mình, về trái đất, về lý do con tới đây, về thành quả của con ở đây và do đó con không thể đạt được lòng tự trọng thật sự. Thêm vào đó, ngày nào con còn có cái ngã này, con không thể rời hành tinh này vì con sẽ cảm thấy không thể rời nơi này với cái nhìn tiêu cực về lý do con tới đây. Cho tới khi con hoàn thành mục đích khi con tới đây, thì con không rời nơi này được.

22.11. Những chờ đợi ngăn chận con thăng thiên

Điều này co thể trở thành một vấn đề thật liên quan tới sự thăng thiên và tiến triển tâm linh của con vì sự thay đổi mà con hình dung trước khi tới đây nói chung là sự nâng cao tâm thức. Hầu hết các con cũng có một mục đích đặc thù là muốn trái đất thăng vượt một sự biểu hiện tiêu cực nào đó. Nhiều người trong các con muốn trái đất thăng vượt chiến tranh, nhiều người khác muốn trái đất thăng vượt tra tấn. Đối với mỗi biểu hiện tiêu cực, có một số avatar muốn tới đây và thấy trái đất vượt lên trên biểu hiện này.

Giờ đây con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng các chân sư thăng thiên muốn loại chiến tranh ra khỏi trái đất, đúng không?” Vâng, đúng – lẽ dĩ nhiên các thày muốn điều này. Nhưng các thày không nhìn tiến trình đó giống như các con có khuynh hướng nhìn khi các con đầu thai ở đây. Con thấy chăng, con yêu dấu, như các thày đã cố gắng giải thích, các thày tôn trọng quyền tự quyết. Các thày nhận ra rằng muốn loại chiến tranh khỏi trái đất thì phải bứng một số sa nhân ra khỏi trái đất. Các thày không thể bứng các sa nhân đi cho tới khi có đủ túc số cư dân nguyên thủy trên trái đất – những cư dân này khởi thủy đã mời sa nhân tới (một cách vô thức lẽ dĩ nhiên, nhưng họ đã mời sa nhân tới) – nâng cao tâm thức của họ và từ bỏ tâm thức đã khiến sa nhân tới đây vì lúc đó cửa được mở cho họ.

Các thày biết rất rõ là loại trừ chiến tranh khỏi trái đất cần tới chọn lựa tự do của nhiều người trong số các cư dân nguyên thủy trên trái đất. Các thày trao cho các con một giáo lý giúp các con nhận ra điều này và như vậy con thấy được một điều rất, rất giản dị. Thày đã nói là không thể nào làm cho sa nhân tán thành avatar, nhưng đồng thời cũng không thể nào làm cho sa nhân từ bỏ hành động hiếu chiến của họ. Con có thể thấy là nếu con muốn loại trừ chiến tranh trên trái đất, thật là vô bổ nếu con chờ đợi làm được điều này bằng cách thay đổi sa nhân.

Mặt khác, trước khi con tới đây con cũng đã thấy là hầu hết cư dân nguyên thủy trên trái đất có trình độ tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Vậy con có thể thấy là khi con chờ đợi loại trừ chiến tranh khỏi trái đất, thì con để sự thành hay bại của sứ vụ của con lệ thuộc vào quyền tự quyết của những sinh thể ở tầng tâm thức thấp hơn con nhiều khi con tới đây. Con yêu dấu, làm như vậy có minh triết chăng? Có minh triết chăng khi con gắn liền thành quả của con, và do đó lòng tự trọng của con, với chọn lựa của ai khác không phải là con? Lẽ dĩ nhiên điều này thiếu minh triết.

Lòng tự trọng của con chỉ nên dựa trên những yếu tố bên trong con mà thôi. Những yếu tố này chính là cách con nhìn mình, cách con nhìn thành quả hay hành động của mình trên trái đất. Con thấy chăng, vì con tạo ra sự chờ đợi thiếu thực tế là con chỉ cần tới đây thì ngay lập tức con có thể nâng mọi người lên và đem lại thay đổi (hay đem lại bất cứ điều gì khác mà con mường tượng trong tâm mình), cho nên con không thể né tránh chuyện con thất vọng khi nhận ra rằng hành tinh này dày đặc hơn nhiều và không thể nào làm được chuyện con chỉ cần tới đây là có thể đem lại thay đổi, dù là con có ý định tốt lành nhất. 

Con thất vọng vì con đã gắn liền sự chờ đợi của con với quyền tự quyết của những người ở trong một trạng thái tâm thức rất thấp, rất nhị nguyên. Con không thể tránh được thất vọng và con cần thấy điều này để con có thể tách mình ra khỏi những cái ngã này và nói: “Tôi không thể cho phép lòng tự trọng của tôi tùy thuộc những cái ngã bị dính vào sự chọn lựa của những sinh thể ở một trạng thái tâm thức thấp. Tại sao tôi lại muốn lòng tự trọng của mình bị gắn liền với chọn lựa của những người trong tâm thức nhị nguyên?”

Lẽ dĩ nhiên, thày không chê trách con khi nói rằng con tạo ra những cái ngã đó bởi vì, như các thày đã nói nhiều lần, trong sứ vụ của các con, các con cần trải qua giai đoạn trầm mình và xác định mình là một con người. Trong tiến trình này, con không tránh được chuyện tạo ra những cái ngã đó. Điều con cần nhận ra là bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn và con đang nghĩ tới chuyện có thể thăng thiên trong kiếp này, thì con cần xem xét những cái ngã này. Con cần nhìn thấy tại sao chúng được tạo ra, con cần nhìn thấy chúng dựa trên một ảo tưởng và một chờ đợi thiếu thực tế để con thấy được con không cần mang những loại ngã này theo con nữa. Con có thể dùng những dụng cụ để buông bỏ chúng, nhưng trước tiên hết, con cần nhận ra là chúng cần phải ra đi.

22.12. Lòng tự trọng đến từ con là ai

Con yêu dấu, lòng tự trọng thật sự là gì? Nó phải là lòng tự trọng không dựa vào bất cứ điều gì bên ngoài con. Như các thày đã nói nhiều lần, cái ta vỏ ngoài của con, bốn thể phàm của con không phải là cái ta thật của con. Dù rằng con có một số tình trạng, một số ngã trong bốn thể phàm của con, lòng tự trọng thật không thể dựa trên chúng. Lòng tự trọng đến từ đâu? Con cần thấy rằng thế gian có một cái nhìn về lòng tự trọng, một khái niệm về lòng tự trọng không phải là lòng tự trọng cao vì, như thày đã nói, nó liên quan tới điều gì đó trên thế gian. Ngay cả những cái ngã con đã tạo ra dựa trên những chờ đợi của con khi tới đây cũng liên quan tới thế gian này và liên quan tới những gì con đạt được hay không đạt được. Con cần nhận ra ở đây là một avatar như con, một đệ tử tâm linh đã đạt tới những giai đoạn đầu của quả vị Ki-tô, không thể cố gắng đạt được (con không thể chờ đợi là con phải có) loại tự trọng mà con người có trên thế gian.

Vậy thì con làm được gì? Ấy, con có thể tự hỏi: “Cái ta, cái ta thật, cốt lõi của bản thể của tôi là gì?” Các thày đã trao cho các con nhiều giáo lý về đề tài này. Các thày đã trao cho các con giáo lý thật hay trong sách của Guru Ma về tin tưởng những điều nguy hiểm (sách tên là Đừng Mù Quáng Tin Những Giáo Điều Nguy Hiểm, Don’t Drink Your Own Kool-Aid). Con có thể nghiền ngẫm và dùng những giáo lý này để từ từ nhìn lên trên ý niệm bản sắc, ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong thế gian này.

Con có thể tới điểm mà con đi vào thể bản sắc của mình và con bắt đầu tra vấn và thách thức ý niệm bản ngã mà con đã tạo dựng trong cuộc hành trình của con trên hành tinh này và con càng ngày càng nhận ra: “Đây không phải là cái ta thật của tôi, nó không phải là cái tôi thật sự là.” Rồi con tới điểm nhận ra con kết nối với cái gì khác, khi cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, như các thày đã nói nhiều lần. Con có thể bắt đầu nghiền ngẫm ý nghĩa của điều này và trong cuốn sách mới (Các Kiếp của Tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su) có nhiều chìa khóa quan trọng và như người sứ giả đã mô tả, những chìa khóa này đã giúp ông hiểu rõ hơn. Dù ông đã nhận được những giáo lý được trao truyền trước đó về đề tài này, trong sách vẫn còn những điều giúp ông nắm vững hơn.

Đích thực là cái ta thật không thể được quy định bằng bất cứ thứ gì trên thế gian này. Đó là lý do tại sao con có thể nhận ra là cái ta thật không cần bất cứ điều gì từ thế gian này – bất cứ sự tán thành nào, bất cứ thành quả nào, bất cứ kết quả nào – để cảm thấy thoải mái về mình. Cái ta thật, cái Ta Biết, có khả năng cảm thấy thoải mái về mình khi nó nhận ra nó là ai và nó là gì. Con là một nối dài của Hiện Diện TA LÀ, một sinh thể tâm linh, bất kể con có thể thấy được nó là gì ngay lúc này, bất kể con có thể mường tượng nó là gì. Thày biết điều này khó hiểu. Điều này khó hiểu bằng khái niệm, vì khi các thày cho các con khái niệm về cái Ta Biết, thì các thày muốn khiến tâm đường thẳng và phân tích của con bị bối rối vì nó không thể nghĩ ra được Cái Ta Biết là gì. Tâm đường thẳng không thể liên hệ cái Ta Biết với bất cứ điều gì nó quen thuộc trên trái đất này. Khi con nhận ra con không phải là bất cứ điều gì được quy định trên trái đất, con có thể thấy lòng tự trọng của mình không gắn liền với bất cứ điều gì trên trái đất, nó đến từ sự kiện con hiện hữu. Vì sự kiện con hiện hữu, con có giá trị. Con được quý trọng. Con xứng đáng được quý trọng. Con thấy chăng, con yêu dấu, lòng tự trọng thật không thể có mặt ngày nào con còn có một vật thể đối tượng, một cái ngã và con đang quý trọng vật thể đó.

22.13. Làm sao thỏa mãn một ước muốn

Do đó, chúng ta có thể nói rằng khi con tới được điểm nhận biết này, khái niệm lòng tự trọng phai mờ đi. Khi con thấy không còn cái ngã thì đâu cần lòng tự trọng nữa. Con chỉ trải nghiệm con như con là. Con còn không quan tâm tới bất cứ dạng tự trọng nào, bất cứ thang điểm cao và thấp nào, bất cứ so sánh nhị nguyên nào. Nó chỉ phai mờ đi.

Thày biết thày đang đặt cho các con một mục đích mà một số trong các con cần thời gian để nhận ra. Thày muốn con biết là không chỉ riêng lòng tự trọng mà nhiều khái niệm khác mà con có trên đường tâm linh, sẽ phai mờ đi khi con tới những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Chúng mất đi ý nghĩa vì con nhận ra chúng chỉ có ý nghĩa ở tầng tâm thức thấp hơn. Ở tầng tâm thức cao hơn, chúng không còn ý nghĩa đặc biệt nào, chúng không quan trọng gì cả, chúng không kéo hút con. Con có thể nói, một lần nữa để tâm đường thẳng bị bối rối, là cách duy nhất để đạt được lòng tự trọng thật là tới được điểm là con không cần lòng tự trọng nữa. Con không có nhu cầu được quý trọng.

Có thể nói là cách duy nhất để thỏa mãn những mong muốn của con là tới được điểm con vượt thăng những mong muốn đó và con không còn mong muốn nữa. Đây không phải là vấn đề thỏa mãn nó – đây là vấn đề vượt thăng nó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ – và đây là một trong những cách chính họ giam con trong một khuôn nếp phản ứng – là con mong muốn một điều gì và con cần đạt được điều con mong muốn. Nếu con mong có lòng tự trọng, con cần đạt được lòng tự trọng. Làm sao con đạt được lòng tự trọng? Bằng cách con nhảy xa hơn bất cứ ai khác. Khi tiêu chuẩn này đạt được, thì con sẽ có lòng tự trọng.

Đây không phải là sự thật. Con sẽ không bao giờ, không bao giờ cảm thấy lòng tự trọng thật bằng cách thỏa mãn bất cứ mong muốn nào – đích thực là con không bao giờ có thể thỏa mãn bất cứ mong muốn nào. Con chỉ thực sự trọn vẹn, cảm thấy thật sự thoải mái về chính mình, khi con thăng vượt mong muốn và con không còn cảm thấy mình thiếu thốn nữa. Con sẽ có lòng tự trọng khi con không còn kinh nghiệm mình thiếu lòng tự trọng nữa, nhưng điều này chỉ thành tựu được khi con thăng vượt lòng mong muốn, ngay cả mong muốn có một cái ta có thể được quý trọng.

Cái Ta Biết, khi nó nhận ra nó là nhận biết thuần khiết, không có nhu cầu được quý trọng nữa. Kỳ thực là nó không còn thấy nó là một cái ta nữa. Đúng đấy, thày đang cho con những khái niệm khó hiểu, tinh tế. Cách duy nhất để khắc phục điều này là làm cho tâm đường thẳng và phân tích bối rối để con thoát ra khỏi nó và con trải nghiệm được điều gì cao hơn. Đây là trải nghiệm thày muốn con có. Là một chân sư thăng thiên, lẽ dĩ nhiên thày muốn hướng dẫn con đi từng bước cho tới khi con sẵn sàng có trải nghiệm này vì các ảo tưởng đã từ từ phai mờ đi cho tới khi không còn ảo tưởng nữa và con vụt thoát ra khỏi ý niệm bản ngã giới hạn đó và nó chỉ không còn nữa.

Con yêu dấu, thày đã trao truyền cho con điều thày muốn trao truyền trong kỳ này nhưng thày muốn nói thêm nữa về một số chủ đề đã được nêu lên trong hội nghị này. Thày sẽ làm tròn lời hứa của Chân sư MORE là thày sẽ cho con một số ý tưởng về cách cho cái ngã chết đi. Chủ đề này thày sẽ dành cho ngày mai để con có thể xin, nếu con muốn, tới trung tâm nhập thất của vị chân sư nào con muốn, nhưng thày đề nghị con tới trung tâm ở trên Arabia. Thày sẽ hướng dẫn các đệ tử nào muốn tới đó kết hợp những khái niệm mà thày đã trao cho các con để con được chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận những gì thày sẽ trao truyền ngày mai.

Thày chúc các con một buổi tối an lành và thày cám ơn các con đã luôn luôn chú tâm vui vẻ. Thày luôn luôn cảm thấy một niềm vui lớn lao khi tương tác với những đệ tử đầy lòng hăng hái học hỏi như các con.

15 | Phân biện vi tế giữa Ki-tô và phản-Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 11 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao truyền một giáo lý ít khi được trao truyền trên hành tinh này, ít khi được đệ tử các phong trào tâm linh hay tôn giáo hiểu thấu. Thày trao truyền bài giảng này vì các con là đệ tử khắp nơi trên thế giới đã đạt được một trình độ tâm thức giúp các con bắt đầu nghiền ngẫm chủ đề này trong tâm, và có thể thảo luận với nhau dựa trên kinh nghiệm của mình khi học một số giáo lý và tham gia một số phong trào tâm linh.

15.1. Biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô

Các con yêu dấu, thày bây giờ bắt đầu bằng cách hỏi các con nghĩ tới hình thức dày đặc nhất, khắc nghiệt nhất, cực đoan nhất của phản-Ki-tô mà con có thể tưởng tượng. Lẽ đương nhiên, nhiều người trong các con sẽ nêu lên những thể hiện của tà ác, như giết chóc quy mô hay một số hành động tàn bạo, mà con người đã kết đọng xuống trái đất. Lẽ dĩ nhiên, đây là một sự trải bày, một biểu hiện của tâm phản-Ki-tô, nhưng thực ra thì chúng không phải là biểu hiện khắc nghiệt nhất của tâm phản-Ki-tô.

Con yêu dấu, con thấy là khi nhiều người nghe nói về các khái niệm Ki-tô, quả vị Ki-tô hay tâm thức Ki-tô, thì họ làm một điều mà các thày đã nói tới nhiều lần: họ phóng chiếu hiểu biết hiện tại, tâm thức hiện tại của họ lên các khái niệm đó. Họ nhìn quả vị Ki-tô qua phin lọc của hiểu biết hiện tại của họ. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều tự nhiên; con không thể làm gì khác. Những người trong các con đã sẵn sàng thì có thể bắt đầu nhận ra là Ki-tô là một nguyên lý chỉ có một mục đích duy nhất, đó là bảo đảm con không thể nào tách biệt khỏi cội nguồn của mình, khỏi đấng Sáng tạo, một cách thường trực hay tuyệt đối.

Ki-tô cần thiết vì con được ban quyền tự quyết. Như thày Lanello đã nói quá hay: “Quả là một sáng kiến thần tình của đấng Sáng tạo!” Bởi vì con được ban quyền tự quyết, nên con được cho cơ hội bước ra khỏi cái Một. Do đó, thực sự không có gì giới hạn con rời cái Một xa chừng nào. Một khi con đi vào tách biệt và tạo ra thế giới quan của mình (mà con tin là tuyệt đối) thì con sẽ cứ tiếp tục trôi theo vòng xoáy đi xuống, càng ngày càng ăn sâu vào thế giới quan của mình. Ki-tô là nguyên lý bảo đảm là khi con đã chán ngán kinh nghiệm đó, khi con mong muốn và sẵn sàng đi ngược trở lại (bắt đầu đi trở lại về hướng cái Một) thì Ki-tô sẽ có mặt dưới bất cứ hình thức nào mà con có thể thấu hiểu ở trình độ tâm thức mà con có khi con quay đầu và muốn trở về cái Một.

Điều này có nghĩa là Ki-tô là nguyên lý tăng triển, tăng triển liên tục. Như các thày đã nói nhiều lần, không có gì tối hậu trên trái đất, không có trạng thái tâm thức tối hậu trên trái đất. Ki-tô và tâm thức Ki-tô là một tiến trình liên tục mà chung cuộc là dẫn con tới thăng thiên, nhưng lẽ dĩ nhiên, con có thể tiếp tục tăng triển khi con ở trên cõi thăng thiên. Đây là điểm quan trọng nhất mà con nên hiểu về tâm thức Ki-tô: đó là sự liên tục của nó. Nó luôn luôn, đều đặn và dần dần kéo con thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình cho tới khi con tới tầng tâm thức mà bước thăng vượt kế tiếp là thăng thiên.

Đây là một nguyên lý mà rất ít người đã hiểu. Đại đa số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, chưa sẵn sàng hiểu thấu nguyên lý này. Nhiều người trong các con đã sẵn sàng, và đó là lý do vì sao thày trao truyền bài giảng này. Lý do khác là vì các con có khả năng giữ quân bình, có thể nói là các con có thể là điện cực giúp gửi nguyên lý này tới tâm thức tập thể. Có lẽ con nhớ câu chuyện đám đông đầy giận dữ sắp sửa ném đá chết một phụ nữ, và lúc đó thày lấy một cây gậy và vạch một đường trên cát. Ấy, có thể nói là qua bài giảng này thày cũng vạch một đường trên cát và nói: “Bây giờ là lúc bước qua đường này và tiến tới một hiểu biết cao hơn về quả vị Ki-tô.”

Để minh họa diều thày muốn nói, thì chúng ta hãy trở về ý niệm đâu là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất. Khi thày nói “biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô” thì nay con có thể hiểu câu này thực sự nghĩa là: “Điều gì ngăn cản con người tăng triển, tiếp tục tăng triển?”

Con hẳn nhớ là trong Thánh kinh, có một câu nói được gán cho thày, như sau: “Ta mong con hoặc nóng hoặc lạnh, nhưng vì con âm ấm nên ta sẽ nhổ con ra khỏi miệng ta.” Có một số người đang đi về một hướng và họ đang tách rời khỏi cái Một. Có một số người khác đi ngược lại và họ đang đi về hướng cái Một, nhưng đa số con người trên trái đất không đi về hai hướng đó. Họ giản dị không di động và đây là biểu hiện khắc nghiệt nhất của phản-Ki-tô trên trái đất, khi con xem xét điều gì ngăn chặn sự tăng triển của con người.

15.2. Những người không di động

Bây giờ, thày Gura Ma có nói là con có thể có một số điểm cố định trong tâm khiến tâm con có thể chuyển động và con đang thu thập dữ kiện mới, nhưng con không chuyển đổi lên một tầng cao hơn, vì tâm con giống như một cỗ máy chạy bộ đang chuyển động (có lẽ rất nhanh) nhưng không đưa về đâu cả. Nó không di động khỏi chỗ nó đang đứng và đây là cách rất nhiều người trên trái đất bị mắc kẹt ở một điểm và không thực sự di chuyển. Bây giờ thì ta có thể nhìn sự kiện trên bình diện thế giới. Lẽ dĩ nhiên, ở nhiều khu vực trên thế giới, đa số dân chúng đang di động một cách nào đó. Không có nghĩa là họ đang đi trên đường quả vị Ki-tô một cách có ý thức, nhưng họ đang di động.

Lý do vì sao thày nói là việc con đang tách rời khỏi cái Một vẫn tốt hơn là nếu con đứng yên, là vì khi con di động thì lúc nào con cũng có thể đổi hướng. Nếu con đang tách rời khỏi cái Một nhưng đổi hướng đủ thì con sẽ bắt đầu đi ngược trở lại. Nếu con đứng yên thì con không thể đổi hướng vì con không đang đi về hướng nào cả – không có hướng đi nào cả.

Con yêu dấu, khi con nhìn vào hiện trạng trái đất thì con thấy là ở nhiều quốc gia trên thế giới có nhiều nhóm đông người đang ở trong trạng thái tâm thức không di động. Một cách để nhận ra điều này là nhìn vào những người sinh ra và lớn lên trong một nếp sống nào đó, một nền văn hóa nào đó, một quốc gia nào đó, sau đó họ tìm một việc làm (thường là một việc làm khá máy móc) và giản dị muốn tiếp tục làm việc đó cho đến hết đời. Họ thường sống trong cùng căn nhà, cùng chung cư, và họ làm rất ít để cải thiện môi trường bên ngoài của họ. Cuộc đời của họ giản dị ở thế bế tắc. Họ muốn một sự ổn định nào đó, họ muốn ở nơi họ cảm thấy thoải mái, và tiếp tục làm cùng một việc năm này qua tháng nọ.

Bây giờ, con yêu dấu, cuộc đời là một cơ hội quý báu. Nó là một cơ hội để con bảo đảm con rời bát cung vật lý với một tầng tâm thức cao hơn khi con đi vào. Có câu nói bình dân là con không thể đem gì theo mình, ý nói là con vào đời trần trụi và con lìa đời cũng trần trụi, và con không thể đem theo bất kỳ sở hữu vật chất nào. Điều này không đúng, con yêu dấu, vì con có thể mang theo sự tăng triển tâm thức. Con mang nó theo con khi đầu thai lần tới. Do đó, con có thể sinh ra trong hoàn cảnh tốt hơn, và có cơ hội tăng triển tốt hơn. Nếu con lại tận dụng cơ hội thì con sẽ tiếp tục đi theo vòng xoáy hướng thượng.

Bài giảng này không đặc biệt chú tâm vào nước Nga, nhưng vì chúng ta đang ở trên nước Nga nên thày sẽ lấy nó làm thí dụ. Nếu con đi ngược trở về thời kỳ trước cuộc cách mạng cộng sản, cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc, thì con thấy, như các thày có nêu lên, là vua Peter Đại Đế đã cố gắng nâng nước Nga lên một tầng cao hơn. Thời đó, có nhiều người trong giới quyền quý chống đối, nhưng cũng có nhiều người dân không tích cực chống đối – họ chỉ không động đậy. Họ không muốn động đậy. Con sẽ thấy đây là một trở ngại lớn cho sự tăng triển. Thày Lanello có bài giảng hùng hồn về vị Nga hoàng cuối và ông đã bỏ lỡ cơ hội ra sao, nhưng ta cũng phải nói là ông phải đương đầu với một tình hình rất khó khăn vì nhiều người trong dân chúng không chịu động đậy. Giống như là họ lớn lên để ở một đia vị nào đó trong xã hội, họ nghĩ họ phải giống cha mẹ họ, phải cố gắng làm một loại công việc nào đó và sống trong một căn nhà thuộc loại nào đó. Một khi họ đạt được điều này, thì họ sẽ tiếp tục ở đó cho đến cuối đời.

15.3. Ngay cả phản-Ki-tô cũng có thể đưa tới tăng triển

Con thấy là trên khắp thế giới có những thành phần đông đúc dân chúng không di động và không muốn di động. Bây giờ thì các con phải cẩn thận tìm một hiểu biết cao về điều thày đang giảng. Khi con có một dân tộc bị đóng băng (đóng băng vào một thời điểm), thì điều gì có thể kéo họ ra khỏi trạng thái cô-ma, trạng thái ngủ sâu mùa đông đó? Con yêu dấu, điều gì có thể kéo họ ra? Ấy, các chân sư thăng thiên và những người đại diện của các thày không thể làm chuyện này vì chúng tôi tôn trọng quyền tự quyết. Các thày sẽ không áp đặt người khác, các thày sẽ không xâm phạm họ. Lẽ tự nhiên, các thày có cho con hiểu là các thày không coi cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc là một phát triển tích cực, và chắc chắn là những gì xảy ra sau đó lại càng không tích cực. Nhưng con hãy lắng nghe kỹ. Khi con có một dân tộc đã bị đóng băng vào một thời điểm, thì ngay cả một thay đổi tàn bạo do sa nhân đề xướng cũng có thể trong một thời gian ngắn đem dân tộc đó tới gần quả vị Ki-tô hơn, hay ít ra là cho họ một cơ hội.

Con hiểu là khi một nhóm dân không di động, thì không ai có thể làm gì được. Họ không tiến tới gần cái gì cả. Bất cứ thay đổi nào bắt buộc họ phải đối diện một tình hình mới, lay động họ ra khỏi lối suy nghĩ cũ, và ngay cả bắt buộc họ thay đổi lối sống, thì quả thực là một cơ hội cho những người đó.

Bây giờ, thày không nói là Lê-nin và nhóm Bôn-sê-víc đại diện Ki-tô. Thày chỉ đang nói là họ đóng vai trò lay động người dân Nga nhiều hơn là Nga hoàng đã làm được, vì Nga hoàng không sẵn sàng giết nhiều đồng bào của mình bằng nhóm Bôn-sê-víc. Thày không thừa nhận sự giết chóc, thày không bào chữa cho nó. Thày chỉ muốn nói là trong một hệ thống khép kín, con người sẽ thu hút điều gì làm xập hệ thống – và điều này cho họ cơ hội để chuyển bước đi tiếp vì họ đã không sẵn sàng tự họ làm điều này.

Con cần nhận ra ở đây một nguyên lý rất quan trọng: đứng yên là kẻ địch tệ hại nhất của Ki-tô vì nó trái ngược với tăng triển. Điều này có nghĩa là có một số người đã phần nào hòa điệu được với nhu cầu thay đổi, và họ làm việc để đem lại thay đổi dựa trên tâm thức của họ và tâm thức tập thể của quốc gia đó. Trong sự hòa điệu dó – con hãy cẩn thận nghe kỹ – họ không đại diện Ki-tô, nhưng họ quả thực cùng hướng với tâm Ki-tô vì tâm Ki-tô cũng muốn mang lại thay đổi. Tâm Ki-tô dĩ nhiên không muốn đem lại thay đổi bằng vũ lực và bạo hành, nhưng khi con người không chịu đáp ứng, thì tâm Ki-tô sẽ đứng lui lại và để cho những người bị kẹt trong tâm phản-Ki-tô làm những chuyện mà họ lúc nào cũng muốn làm: đó là kiểm soát, gây xáo trộn hay tàn phá.

Đó không phải là vì tâm Ki-tô muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng là vì tâm Ki-tô luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết của con người. Khi con người không chịu tự mình chuyển động bằng cách lấy chọn lựa của mình, thì tâm Ki-tô phải bước lui lại và để cho Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học hay Quy luật Nhân quả trải bày. Lúc đó, những người đó phải đối mặt một hoàn cảnh ép buộc họ ra khỏi hộp tư tưởng, ra khỏi sự ù lì, không muốn thay đổi của họ.

15.4. Cách mạng Bôn-sê-víc và Stalin

Có một khoảng thời gian trong đó những người đem lại cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc đã phần nào đứng cùng hướng với tâm Ki-tô. Thày biết điều này sẽ khiến nhiều người, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, ngạc nhiên. Một lần nữa, con hãy cẩn thận: thày không nói là họ đại diện Ki-tô, nhưng họ cùng hướng với mục tiêu của Ki-tô, là đặt con người vào một hoàn cảnh khiến họ bị ép buộc phải tăng triển vì họ không chịu tự mình tăng triển. Điều con cần nhận ra là giai đoạn đó (khi họ cùng hướng với tâm Ki-tô) không kéo dài. Nếu con nghiên cứu lịch sử cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc thì con thấy là họ rất mau chóng tha hóa và càng ngày càng sẵn sàng dùng bạo lực, càng ngày càng sẵn sàng đàn áp con người, đàn áp chống đối, đàn áp mọi hình thức tự do ngôn luận. Họ đã làm những gì sa nhân luôn luôn làm: họ trở nên vô cảm với con người. Lẽ dĩ nhiên, điều này đưa tới tình trạng Lê-nin rơi vào một vòng xoáy hướng hạ khiến ông đau ốm và chết, và Stalin lên thay thế.

Đây là chỗ con cần phân biện: Stalin không bao giờ thẳng hàng với tâm Ki-tô. Stalin không bao giờ ép buộc dân chúng phải đối mặt một hoàn cảnh khiến họ phải suy nghĩ lại cách họ sống và nhìn cuộc đời. Stalin chỉ giản dị củng cố vòng xoáy hướng hạ mà người khác đã kéo dân tộc Nga vào, và ông đã thiết lập mình thành nhà độc tài tối hậu, và từ điểm đó thì không còn tăng triển nữa. Tiềm năng tăng triển không còn nữa vì ông tạo ra một triều đại khủng bố đã bóp nghẹt mọi ý muốn của người dân muốn xem xét lại, mọi óc phê bình chỉ trích, mọi ý muốn cải thiện nơi người dân. Đó là lý do vì sao con thấy là rất rất nhanh sau khi Stalin lên nắm quyền thì người dân lại rơi vào trạng thái ù lì. Ta có thể nói là trạng thái ù lì này sâu đậm hơn trước vì mọi người đều nghĩ rằng phản đối chế độ hoàn toàn không lợi ích gì vì mình sẽ chỉ bị giết. Sau đó, họ cũng lấy quyết định (dĩ nhiên là trong tiềm thức): cố gắng cải thiện bất cứ gì đều vô ích, vì cuộc sống sẽ giản dị không thay đổi. Họ nay sống trong Liên bang Sô viết và người dân bình thường không thể làm gì khác ngoài việc tìm cách để cuộc sống tạm chịu được.

Con thấy là Stalin đã ép người dân Nga vào một tình trạng cô-ma, ù lì sâu đậm hơn, khiến họ không muốn thay đổi, không muốn cải thiện bất cứ gì. Con thấy là hiện nay vẫn còn nhiều người Nga có thái độ đó. Con chỉ cần bước ra và nhìn các khu vực ở Nga có những chung cư hay nhà cửa không được bảo trì, là chỉ dấu rõ rệt là những cư dân ở đó đã bỏ cuộc. Họ còn không màng giữ sạch môi trường, họ không muốn làm đẹp hay cải thiện bất cứ gì. Họ đã chấp nhận là họ sống một cuộc đời bất di dịch, họ có một lợi tức bất di dịch và họ không thể làm gì để thay đổi sự kiện này – đó là điều họ nghĩ. Đây là một thí dụ của sự ù lì rất rất dày đặc, rất rất nặng nề đã khiến mọi nỗ lực thay đổi nước Nga bị kéo lại, bị kéo xuống.

15.5. Sự giải thể của Liên bang Sô viết

Bây giờ thì thày muốn tới giai đoạn Liên bang Sô viết giải thể. Đây lại là một diễn biến chấn động khác. May thay, lần này không có bạo động và đổ máu quy mô. Đối với nhiều người, đây là một diễn biến khiến họ bị sốc hơn là cuộc Cách mạng Bôn-sê-víc vì quả thật có người nghĩ rằng Liên bang Sô viết sẽ tồn tại mãi mãi, ít ra là trong suốt cuộc đời họ. Do đó, họ nghĩ không có gì có thể giúp họ cải thiện điều kiện sống của họ và tìm cách cải thiện là chuyện vô ích – nên họ chỉ muốn sống một cuộc đời thoải mái trong khuôn khổ chế độ.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên là một số đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước đã nói Gorbachev là một sa nhân. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian trong đó ông cùng hướng với tâm Ki-tô vì ông nhận ra nhu cầu thay đổi và tìm cách đem lại thay đổi. Thày không nói là ông đại diện Ki-tô, nhưng ông cùng hướng với tâm Ki-tô. Boris Yeltsin cũng cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông giải thể Liên bang Sô viết. Một lần nữa, thày không nói là ông đạt được một tầng tâm thức Ki-tô nào đó hay đại diện Ki-tô. Thày chỉ nói là ông cùng hướng với tâm Ki-tô khi ông thấy nhu cầu thay đổi sẽ ép dân Nga ra khỏi trạng thái cô-ma.

Đúng thực là Yeltsin nhận ra một điều mà Gorbachev không bao giờ nhận ra, đó là dân Nga đang ở trong trạng thái cô-ma và chủ thuyết cộng sản đã quả thực có tác dụng đưa con người vào trạng thái cô-ma, khi ông nhận ra rằng người dân Nga không đang làm những điều mà người dân trung bình ở đa số các nước Tây phương đang làm. Họ đang tìm cách cải thiện đời sống vật chất của họ bằng cách làm việc nhiều hơn, cải thiện điều kiện sinh sống, nhà cửa, nhà chung cư, mua xe lớn hơn và điều này điều nọ. Ý tưởng này chắc chắn cùng hướng với tâm Ki-tô vì những người đó thấy nhu cầu thay đổi.

15.6. Nhóm tài phiệt

Bây giờ thì con hãy xem xét tình hình trong những năm ngay sau Liên bang Sô viết giải thể. Lúc đó một phần lớn dân chúng, đại đa số dân chúng, vẫn còn trong trạng thái cô-ma, và đã ở trong trạng thái cô-ma trong suốt thời kỳ Sô viết. Họ đã ở trong trạng thái này suốt đời họ. Lúc đó họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh. Họ bị ép buộc phải suy nghĩ lại một số chuyện, nhưng họ ở trong trạng thái bị sốc mạnh đến độ họ vẫn chưa chuyển động và không biết phải hành xử ra sao trước tình thế mới. Con thấy gì lúc đó? Con thấy là có một số người nhận ra cơ hội tốt và họ bước ra thành lập một số thương vụ. Họ bắt đầu tiếp thu kỹ nghệ dầu khí, tạo ra những cơ sở thương mại càng ngày càng lớn, và trở nên nhóm được gọi là “nhóm tài phiệt”.

Con có thể xem xét tình hình và thấy là những người đó đã thu thập được tài sản đồ sộ, họ đã không đếm xỉa đến tình trạng khó khăn của người dân, họ tránh đóng thuế, họ dùng hối lộ khi họ muốn, và đặt mình vào thế thượng tôn như tiểu Nga hoàng không bao giờ bị trừng phạt. Nếu con trở lại những năm ban đầu đó, thì con thấy đa số người Nga không sẵn sàng có tinh thần sáng kiến chủ động có thể giúp nền kinh tế tiến lên. Những người trong guồng máy chính quyền cũng không làm được chuyện này vì (như sự việc nền kinh tế Liên bang Sô viết bị suy thoái đã chứng minh) nhà nước và những người trong guồng máy nhà nước không có khả năng cải tổ nền kinh tế và đẩy nó đi lên. Họ có đầy đủ quyền lực để làm chuyện này nhưng họ đã không làm được. Gorbachev nhận ra điều này, tìm cách thay đổi, mong có thể tạo nền móng ổn định cho nền kinh tế Liên bang Sô viết và tránh giải thể Liên bang Sô viết, nhưng điều này không thể làm được. Tuy nhiên, đây là một sự di động về một hướng nào đó, đó là một cố gắng khiến bánh xe chuyển động, nhưng ông không thành công, không khắc phục được sự chống đối trong guồng máy nhà nước, và không làm cho họ có sáng kiến chủ động được.

Tình hình lúc đó như thế nào? Người dân không có tinh thần sáng kiến chủ động. Nhà nước không có tinh thần sáng kiến chủ động. Cần có ai đó có tinh thần sáng kiến chủ động để làm nền kinh tế chuyển động, và một số người đã có khả năng làm việc này. Ngay cả nhóm tài phiệt cũng đã, trong một khoảng thời gian, cùng hướng với tâm Ki-tô vì họ đã mang lại thay đổi. Khi một dân tộc ở trong trạng thái cô-ma như vậy thì gần như bất cứ thay đổi nào cũng hơn là không thay đổi. Con lúc nào cũng có thể trở ngược lại và phân tích tình hình và nói: “Cách mạng Bôn-sê-víc có phải là một thay đổi tốt hay chăng?” Ấy, nó đúng là một thay đổi tốt trong một khoảng thời gian ngắn vì nó đem lại một sự hồi phục và ép mọi người phải suy nghĩ trở lại. Lẽ dĩ nhiên, sau đó nó đi vào vòng xoáy đi xuống và không còn là một thay đổi tốt nữa. Đây cũng là chuyện đã xảy ra với nhóm tài phiệt.

Có một khoảng thời gian trong đó họ đã giúp nền kinh tế tiến tới. Sau đó, họ sang giai đoạn cảm thấy họ kiểm soát được nền kinh tế. Đây là điều luôn luôn xảy ra với sa nhân hay những người bị mắc bẫy sa nhân: họ tìm cách củng cố tầm kiểm soát của họ. Thay vì chia sẻ tài sản với dân chúng, thì họ tìm cách củng cố sự kiềm tỏa nền kinh tế của họ. Lúc đó thì họ không còn cùng hướng với tâm Ki-tô nữa, và họ không còn phụng sự sự tăng trưởng của đất nước.

Điều may mắn là trong khoảng thời gian đó, có nhiều người trong dân chúng đã tiến lên tới điểm họ sẵn sàng và có khả năng lấy sáng kiến chủ động. Con thấy được sự chuyển động trong nền kinh tế nước Nga với một số thương vụ mới mọc lên, một số thương vụ tầm cỡ nhỏ mọc lên, vân vân. Nhưng sự chuyển động này vẫn chậm hơn tiềm năng, vì hai yếu tố. Một là sự ù lì của nhiều thành phần dân chúng, và hai là ảnh hưởng của nhóm tài phiệt. Nhóm này, sau thời gian đầu tạo tăng trưởng, đã quay về khuynh hướng muốn kiểm soát nền kinh tế và lúc đó đã thực sự ngăn trở sự tăng trưởng kinh tế.

15.7. Nhóm tư bản sơ khai

Con yêu dấu, con thấy là cùng chuyện đã xảy ra tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19 khi cuộc cách mạng kỹ nghệ, những cải thiện kỹ thuật và phát minh mới, đã đem lại cơ hội mới để nâng nền kinh tế lên một mức cao hơn. Đa số những người lớn lên trong nông trại không có khả năng có sáng kiến chủ động. Nhà nước cũng không làm được vì trong thể chế chính trị Hoa Kỳ nhà nước không có quyền hạn đó. Một nhóm nào đó cần có sáng kiến chủ động, và nhóm này về sau được gọi là nhóm tư bản sơ khai.

Các con đều biết tên họ. Có lẽ các con cũng đều biết họ là sa nhân. Trong một khoảng thời gian, họ cùng hướng với tâm Ki-tô nhưng không đại diện tâm Ki-tô. Họ đem lại thay đổi bằng cách duy nhất có thể xảy ra lúc đó. Lẽ dĩ nhiên, sau đó tới giai đoạn nhóm tư bản này (giống y như nhóm tài phiệt ở Nga) muốn kiểm soát nền kinh tế. Họ muốn tạo ra thế độc quyền, mà từ lúc đó cho đến ngày nay, họ đã là một lực ngăn trở và kiềm giữ sự tăng triển kinh tế. Nhưng Hoa Kỳ cũng mau chóng tới điểm có nhiều người dân sẵn sàng có sáng kiến chủ động và đứng ra thành lập thương vụ của họ, và đây chính là yếu tố duy nhất giúp nền kinh tế không sụp đổ. Đây là điều đã duy trì sự tăng trưởng kinh tế mà các con đã thấy.

15.8. Nguyên lý Ki-tô là thay đổi

Điều thày muốn chỉ cho các con thấy ở đây là nguyên lý tâm thức Ki-tô không phải như đa số thường nghĩ, kể cả các đệ tử chân sư thăng thiên. Tâm thức Ki-tô là cái đem lại thay đổi ở một tầng nào đó. Đó là tâm thức Ki-tô. Nó đem lại thay đổi vì thay đổi cho con người cơ hội chọn lựa: họ muốn đi theo vòng xoáy đi lên, hay họ muốn lui về trạng thái cô-ma, và do đó phải củng cố nó và đi vào vòng xoáy đi xuống? Tâm thức Ki-tô phơi bày chọn lựa đó. Khi một nhóm người ở trong tình trạng bế tắc, thì tâm thức Ki-tô không thể làm điều này với những người đại diện tâm Ki-tô vì những người này không thể vi phạm quyền tự quyết. Do đó tâm thức Ki-tô chỉ có thể làm xuyên qua những người trong tâm phản-Ki-tô vì họ sẵn sàng vi phạm quyền tự quyết.

Con có thể nói: “Ấy, sao có thể nói là tâm Ki-tô đem lại thay đổi đó?” Như thày có nói, thực sự không phải là tâm Ki-tô làm điều này, nhưng tâm Ki-tô đứng lui ra và cho phép cơ chế mà các thày gọi là Quy luật Nhân quả hay Quy luật thứ Nhì của Nhiệt động học làm công việc của nó. Đây là cơ chế an toàn được thiết kế trong vũ trụ vật chất, chính là để con người không thể rơi vào tình trạng thoải mái và ở đó mãi mãi và không tăng triển. 

15.9. Đệ tử chân sư thăng thiên và quả vị Ki-tô

Bây giờ các con cần nhận ra một cơ chế áp dụng vào trường hợp các đệ tử chân sư thăng thiên. Từ lúc các thày bắt đầu giảng về chân sư thăng thiên, và đặc biệt về con đường quả vị Ki-tô, thì các thày đã giảng bài cho các đệ tử có một trình độ tâm thức cao hơn con người trung bình. Đệ tử của các thày không ở trong tình trạng cô-ma, họ không ở trong tình trạng ù lì khiến họ không muốn tăng trưởng. Nhưng điều này không có nghĩa, con yêu dấu, là con cần có một tâm thức cao để có thể nhận ra một giáo lý chân sư thăng thiên vỏ ngoài. Con cần có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, nhưng điều này không có nghĩa là con đã tới gần quả vị Ki-tô toàn vẹn. Các đệ tử sẽ nhìn khái niệm quả vị Ki-tô qua phin lọc của tầng tâm thức hiện tại của họ, và họ sẽ hiểu những gì họ có thể hiểu. Sau đó, họ sẽ tạo ra hình ảnh và phóng chiếu hình ảnh này lên nó.

Một trong những hình ảnh mà rất rất nhiều đệ tử đã tạo ra trong nhiều thập niên là quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, điều này xảy ra một phần vì giáo hội Công giáo đã, như thày đã giảng nhiều lần, nâng thày lên địa vị người con duy nhất của Thượng đế, đã toàn hảo ngay từ lúc ban đầu, và do đó được đặt trên bệ cao ngoài tầm với của con người. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tiếp thu khái niệm này, rõ ràng do sa nhân tạo ra, và phóng chiếu nó lên quả vị Ki-tô. Họ nghĩ rằng quả vị Ki-tô có tính chất có-không. Hoặc con không có quả vị Ki-tô, hoặc con có nó – và nếu con có nó thì con là người toàn hảo.

Ý kiến này thực sự không xây dựng vì hình ảnh của sự toàn hảo thông thường nhất trên trái đất là một cái gì không cần thay đổi. Tại sao một cái gì đã toàn hảo lại cần thay đổi? Điều này có nghĩa sự toàn hảo là một trạng thái bất động, và đó là lý do thày nói với các con: quan niệm toàn hảo này hoàn toàn không dính dáng gì đến quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là sự tự thăng vượt liên tục, sự tự thăng vượt luôn luôn di động. Nó không bao giờ đứng yên. Tâm Ki-tô không bao giờ đứng yên và đó là lý do vì sao nó không tương hợp với khái niệm toàn hảo hiện tại. Bây giờ thì con có thể có một khái niệm khác của sự toàn hảo là khái niệm toàn hảo năng động, nghĩa là con luôn luôn sẵn sàng xem xét chính mình và thăng vượt trạng thái tâm thức của mình. Đó là cách con có thể, như tông đồ Paul có nói, “trở nên toàn hảo trong Ki-tô.” Điều quan trọng ở đây là quả vị Ki-tô không bao giờ, và sẽ không bao giờ đứng yên. Không có trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu.

15.10. Đệ tử tâm linh không cùng hướng với Ki-tô

Tại sao hiểu chuyện này lại rất quan trọng? Ấy, đó là vì thày vừa khiến con nhận ra một sự kiện chấn động – ít ra là cho một số các con – là những người mà con cho là sa nhân có thể trong một số trường hợp cùng hướng với tâm Ki-tô. Bây giờ thì chúng ta cần đi sang đầu kia của quang phổ và xem xét sự kiện nhiều người đã đạt được một trình độ nhận biết tâm linh, và ngay cả đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng trong một số trường hợp, lại có thể hoàn toàn không cùng hướng với tâm Ki-tô.

Nếu con sẵn sàng nhìn một cách trung thực thì con thấy là nhiều tổ chức tâm linh đã kết đọng (precipitated) nhiều sự tàn bạo đáng kể. Một lần nữa, chúng ta có thể trở lại trường hợp giáo hội Công giáo vì nó là một thí dụ hàng đầu. Sự việc quá hiển nhiên nên ta khó không đề cập tới nó. Phong trào Cơ đốc giáo đã có thời nào cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Có. Giáo hội Công giáo có thời nào đã cùng hướng với tâm Ki-tô chăng? Ấy, đây là một câu hỏi vi tế hơn. Điều ta có thể nói là giáo hội Công giáo đã từng kết đọng sự tàn sát người Cathars, tòa án dị giáo (inquisition), các cuộc thánh chiến, vân vân. Rõ ràng là những hành động này không cùng hướng với tâm Ki-tô. Vì sao một phòng trào do chính thày khởi xướng và lúc ban đầu cùng hướng với tâm Ki-tô, lại có thể tha hóa đến độ kết đọng những sự tàn bạo đó, hiển nhiên là biểu hiện của tâm phản-Ki-tô? 

Lấy thí dụ khác, làm sao có thể xảy ra chuyện có những đạo sư bỗng nhiên trở nên nổi tiếng, thu hút nhiều người theo, rồi bỗng nhiên phong trào của họ bắt đầu suy thoái, và nhiều hình thức bạo hành bị phơi bày? Nguyên một phong trào, chỉ vài năm trước đang lành mạnh và cường thịnh, có thể suy thoái và ngay cả hoàn toàn tan biến. Tại sao một tổ chức chân sư thăng thiên (sau khi đã được các chân sư thăng thiên bảo trợ, đã có đệ tử hăng say đi trên con đường quả vị Ki-tô) lại có thể tới điểm mà các chân sư thăng thiên phải ngưng bảo trợ, đứng lui ra và nhìn nó đi vào suy thoái? Nó trở nên càng ngày càng bảo thủ, càng ngày càng cứng ngắc, càng ngày càng chú trọng con đường vỏ ngoài, càng ngày càng chú trọng nghi lễ, quy tắc, luật lệ. Tình trạng tới chỗ đa số thành viên của tổ chức không còn tăng trưởng tánh Ki-tô của họ. Họ thoải mái, nhưng không tăng trưởng. Họ có thể tự coi mình thánh thiện hơn người khác và cảm thấy hơn những người không phải là đệ tử chân sư thăng thiên, nhưng họ không còn tăng trưởng tánh Ki-tô. Họ đã đình trệ, họ đã đứng yên.

Làm sao một người đã phần nào cùng hướng với tâm Ki-tô và, tỷ dụ, nhận ra nhu cầu thay đổi, lại một thời gian sau đó sẵn sàng dùng bạo lực để đem lại sự thay đổi đó? Con đã thấy trong lịch sử có nhiều nhà lãnh đạo đã thấy nhu cầu thay đổi, đã làm việc để đem lại thay đổi, nhưng sau đó lại xoay chuyển. Như thể là lúc đó họ sẵn sàng dùng vũ lực và uy quyền để củng cố địa vị khiến mọi chuyện bị hư hỏng và rơi vào một chu kỳ bạo lực ngày càng đi xuống.

Câu hỏi thực sự ở đây là: “Có thể nào một người đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng vẫn chọn lựa đi ngược lại, bắt đầu rơi vào vòng xoáy hướng hạ dẫn họ xuống thấp hơn rất nhiều tầng tâm thức mà họ đã đạt được? Câu trả lời là: “Có.” Cho tới lúc con thăng thiên, con vẫn có thể bắt đầu đi ngược lại.

15.11. Sinh thể Ki-tô bị phản-Ki-tô lừa

Thày có đề cập tới giai đoạn con tới tầng 96 và phải đối mặt một quyết định rất quan trọng, đó là con có thực sự tới điểm nhận ra: “Tôi không phải là trụ điểm.” Hoặc con bắt đầu phụng sự tổng thể với tinh thần vị tha; hoặc con chú tâm hơn vào chính mình, cố gắng tăng trưởng thêm bất cứ ước muốn nào mà con có, có thể là muốn cảm thấy mình đang làm việc gì quan trọng, hay cảm thấy mình lịch duyệt hơn người khác, hay bất cứ ước muốn gì khác. Chắc chắn là khi con đã lấy quyết định và hiểu rằng quả vị Ki-tô là khắc phục cái ngã vỏ ngoài, thì con khó đi giật lùi. Như thày có nói trong nhiều bài giảng (ở cả Hàn Quốc lẫn Hòa Lan), là từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể đã đạt được một phần quả vị Ki-tô nhưng bỗng nhiên, vì một lý do cá nhân nào đó, con không muốn tăng triển nữa, con không muốn đi xa hơn nữa. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào và tra vấn, và do đó con đình trệ. Con cũng có thể đi giật lùi.

Điều này cũng giải thích hiện tượng các lãnh tụ được xem là có sức lôi cuốn mà con thấy trong lịch sử. Nhiều người nhìn vào các nhà lãnh tụ đó và nghĩ: “Người này có cái gì đó. Người này có đôi chút Ánh sáng! Tôi nghĩ hào quang người này có cái gì chân chính.” Họ bị thu hút vì họ nhận ra người đó có cái gì chân chính. Sau đó, ta có thể thấy rõ là có một điểm người lãnh tụ đó bắt đầu đi xuống và dẫn thần dân xuống vực thẳm. Một số người đã hỏi, và nhiều người hơn phải hỏi: “Làm sao chuyện này có thể xảy ra?”

Ấy, con yêu dấu, chuyện này có thể xảy ra vì quả vị Ki-tô là sự liên tục, nhưng con có thể tới một tầng nào đó của quả vị Ki-tô và dùng những gì con đạt được để đem lại một hoàn cảnh bên ngoài dựa trên một viễn quan mà con có, tỷ dụ là nâng mình lên thành lãnh tụ một quốc gia hay một phong trào tâm linh. Lúc đó, vì con đã thiết lập mình vào địa vị đó nên con không còn sẵn sàng tăng triển nữa, con không sẵn sàng tiến bước. Có một điểm cố định trong tâm thức mà con không chịu nhìn vào. Lúc đó, điều đương nhiên xảy ra là trái đất được liên tục kéo lên bởi sự gia tốc của toàn thể vũ trụ và tâm thức tập thể được nâng lên.

Khi con đứng yên thì con phải đối mặt lực đang kéo con phải thay đổi đó, và nếu con không chịu thay đổi thì con phải chống kháng lực thay đổi đó. Điều này có nghĩa là thay vì đạt và biểu lộ một tầng quả vị Ki-tô, thì con lúc đó trở nên một hệ thống khép kín.

Lúc đó, con mất quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là sự kết nối với tổng thể, và tổng thể luôn luôn gia tốc. Khi con từ chối gia tốc, thì con phải bắt buộc mất sự kết nối với tâm Ki-tô. Con lúc đó đi vào vòng xoáy muốn bảo tồn quyền lực, bằng cách càng ngày càng cực đoan và cuồng loạn. Tình trạng này nhất thiết dẫn tới suy thoái. Sẽ có người cảm thấy được điều này và họ sẽ ra đi. Sẽ có người khác chống đối và một số chuyện có thể xảy ra. Con thấy hiện tượng này xảy ra nhiều lần nơi các phong trào tâm linh. Con cũng thấy hiện tượng này trong thế kỷ vừa qua nơi một số phong trào, kể cả một số phong trào chân sư thăng thiên. Con thấy một giai đoạn tăng triển ban đầu, sau đó mức độ tăng triển chậm lại một cách vi tế, và không lâu sau đó thì sự ù lì xảy ra. Ấy, ù lì là một từ khác để chỉ cái chết.

15.12. Xem xét các tổ chức chân sư thăng thiên

Đây là một bài giảng quan trọng cho những ai đang đi trên con đường tâm linh. Bài này đặc biệt quan trọng cho những ai đã và đang tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên. Con có thể dùng bài giảng này để nhìn vào các tổ chức đó và suy ngẫm chuyện gì đã xảy ra, suy ngẫm kinh nghiệm riêng của mình và đạt được một tầm nhìn cao hơn. Con có thể dùng bài giảng này để giúp con tăng triển bằng cách quay lại, nhìn vào chính mình và nói: “Tôi có điểm cố định nào trong tâm thức của mình? Tôi đã có dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố các điểm cố định đó chăng?”

Như thày có giảng tại Hòa Lan, con tự hỏi: “Tôi có đang dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố quan niệm của tôi về các chân sư thăng thiên, lối hành xử tâm linh của tôi, và tôi đã bị mắc kẹt trong đó?” Sau đó, con có thể nhìn gương các tổ chức đó, các nhà lãnh đạo đó, và con nói: “Tôi bây giờ đã thấy chuyện gì xảy ra, và tôi không muốn rơi vào cạm bẫy đó. Tôi muốn tiếp tục tăng triển, và điều này đòi hỏi gì? Ấy, nó đòi hỏi tôi phải luôn luôn sẵn sàng  nhìn vào chính mình, nhìn vào các điểm cố định đó, nhìn vào những nơi tôi bị mắc kẹt, và tôi phải ngưng phóng chiếu là lỗi tại người khác. Tôi nhận lãnh trách nhiệm, và tôi nhận ra là tăng triển tâm linh của tôi, quả vị Ki-tô của tôi, là trách nhiệm của riêng tôi.”

“Tôi có thể có một vị đạo sư, tôi có thể có một vị thày nhưng vị thày không thể thay tôi chuyển đổi tâm thức của tôi – chỉ có tôi mới làm được chuyện này, do đó tôi không bị giới hạn bởi bất cứ vị đạo sư nào, bất cứ vị thày nào, bất cứ giáo lý nào, bất cứ tổ chức vỏ ngoài nào. Nếu tôi cảm thấy tôi đang không tăng triển, thì thay vì phóng chiếu là người khác chịu trách nhiệm về sự không tăng triển này, thì tôi có thể xoay chuyển, nhận trách nhiệm và nói: “Nhưng tôi không bị giới hạn bởi bất cứ ai hay bất cứ điều gì trên trái đất cả! Không có điều gì bên ngoài tôi có thể ngăn tôi xoay chuyển tâm thức của mình, chỉ cần tôi sẵn sàng nhìn vào chính mình.”

15.13. Quả vị Ki-tô và ảo tưởng toàn hảo

Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu chuyển đổi quan niệm về quả vị Ki-tô và không cố gắng đạt được trạng thái toàn hảo nào đó. Con yêu dấu, con hãy nghe thày tuyên bố một cách rất rất rõ ràng. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã trở nên rất chân thành, rất nghiêm túc trong việc tu tập, đọc bài chú, đọc bài thỉnh, đi những bước khác, rất chú tâm, rất nghiêm túc. Có một giai đoạn làm như vậy hoàn toàn cùng hướng với tâm Ki-tô vì con cần giải thoát mình khỏi tâm thức tập thể và sức hút của nó. Nhưng sẽ có lúc con tới giai đoạn khác khi sự chú tâm vào những công việc vỏ ngoài đó có thể ngăn trở con đi vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nói: “Điều gì trong tôi cần thay đổi?”

Con có thể, tỷ dụ, quá chú tâm vào việc thay đổi thế giới, đến độ con không nhìn vào chính mình. Con hãy cẩn trọng và nhận ra là có nhiều đệ tử có viễn quan là có một trạng thái tâm thức cao hơn và họ chân thành cố gắng đạt được trạng thái đó, nhưng họ vẫn chưa buông bỏ ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

15.14. Tinh thần sùng bái và cấp bậc trong các tổ chức tâm linh

Nhiều người trong số các người đó – như đã xảy ra trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên – đã tôn sùng người sứ giả, vì họ nghĩ là để trở thành sứ giả thì người đó phải đạt được một phần quả vị Ki-tô và do đó đã “hầu như toàn hảo trên mọi phương diện”. Ấy, con yêu dấu, chỉ có Mary Poppins mới hầu như toàn hảo trên mọi phương diện. Không có một người nào đã từng như vậy và sẽ không có ai như vậy. Con cần nhận ra vấn đề thực khi con tôn sùng vị sứ giả hay vị đạo sư, và ngay cả tôn sùng Giê-su, thì sự sùng bái đó duy trì hình ảnh quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo.

Các thày đã thấy rất rất nhiều đệ tử thành tâm cố gắng đạt quả vị Ki-tô, nhưng tự ngã của họ đã đánh lừa họ và khiến họ nghĩ là một khi họ đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô thì họ không còn cần nhìn vào chính họ và tâm lý của họ. Họ không cần thay đổi nữa, họ không cần nghe bất cứ ai thấp hơn họ. Họ nghĩ rằng khi họ đạt được một phần nào đó của quả vị Ki-tô thì họ được một cấp bậc, họ nghĩ rằng những ai đạt được một phần của quả vị Ki-tô bỗng nhiên hơn những người dưới họ và do đó không cần nghe những người này. Họ không cần chú ý tới những người này khi những người này cho họ biết những điều họ cần nhìn nơi chính họ.

Đây là lý do vì sao sự tăng triển của con ngưng lại, và bỗng nhiên sự ù lì đóng rễ vì lúc đó con đã tới một địa vị nào đó trong tổ chức tâm linh, hay ngay cả trạng thái trong tâm mình, khi con cảm thấy thoải mái và không nghĩ mình cần tăng triển nữa. Nhiều người đệ tử đó nhận ra là họ chưa đạt được trạng thái tối hậu của quả vị Ki-tô vì chỉ có vị sứ giả là đã đạt được trạng thái này. Họ đã tạo ra một niềm tin vi tế cho rằng: “Ồ, người sứ giả thuộc vào một thành phần khác, giống như Giê-su vậy.” Họ nghĩ họ sẽ không bao giờ đạt được mức đó, nhưng họ cũng đã đạt được một tầng nào đó và do đó họ chắc chắn cao hơn những đệ tử khác trong tổ chức.

Khi con có một cấp bậc nhân gian như vậy, thì một tổ chức có thể bị đứng dừng lại. Chỉ yếu tố này thôi cũng có thể khiến một tổ chức tâm linh đứng dừng lại, nếu nó không được nhận ra và giải quyết. Nó có thể khiến những người bên dưới cảm thấy không có chỗ để họ biểu lộ quả vị Ki-tô của họ. Họ có hai chọn lựa: hoặc họ ngưng tăng triển về hướng quả vị Ki-tô để không quấy rầy những người ở trên và gây khó khăn cho họ, hoặc họ rời tổ chức và biểu lộ quả vị Ki-tô của họ nơi khác. Nếu những người sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô rời tổ chức, thì tổ chức không thể tiếp tục tăng trưởng. Điều này rất đơn giản, và đã xảy ra với nhiều tổ chức được chân sư thăng thiên bảo trợ. Thày không cần nêu danh những tổ chức này vì những người trong các con đã từng tham gia một tổ chức chân sư thăng thiên có thể rõ ràng nhận ra mô thức nếu con muốn.

15.15. Định nghĩa quả vị Ki-tô bằng phản-Ki-tô

Vấn đề thực ở đây là ý niệm quả vị Ki-tô là một trạng thái toàn hảo đã đến từ tâm phản-Ki-tô. Ở mức độ cá nhân thì nó tới từ tự ngã của con, và lý do là vì các lực phản-Ki-tô luôn luôn tìm cách ngăn cản không cho con thăng thiên. Họ biết là họ có tiềm năng ngưng con lại mỗi tầng trước tầng 144. Họ luôn luôn tìm cách dẫn con tới điểm con nghĩ con không cần tăng triển nữa, con không cần thăng vượt nữa, con không cần tiến lên tiếp. Do đó, có điểm cố định đó trong tâm thức con, ảo tưởng cuối cùng, như Hilarion có nói, mà con không chịu nhìn vào. Nếu con không chịu nhìn vào nó, thì con không thể buông bỏ nó, và do đó con vĩnh viễn bị mắc kẹt trong ảo tưởng đó.

Con yếu dấu, con không được danh dự gì khi con đạt tầng tâm thức 143 và ngừng ở đó. Tình trạng này rất rất bi thương. Các thày chưa bao giờ thấy chuyện này, nhưng nếu nó xảy ra, thì tình trạng này rất bi thương. Thật ra nó cũng gần bi thương như tới tầng tâm thức 77 và ngừng ở đó. Điều các thày luôn luôn muốn là các con thăng thiên, mà con không thể thăng thiên từ tầng 77 hay tầng 143! Con chỉ có thể thăng thiên từ tầng 144, và ngay lúc đó con vẫn cần thăng vượt ảo tưởng cuối cùng đó.

Con yêu dấu, bài giảng này đã dài. Bài giảng này có thể đã khiến con bị sốc. Thày đã nói điều thày cần nói, và thày cảm ơn các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở để tỏa sáng bài giảng này tới tâm thức tập thể. Con có thể nghĩ là thày đã không nói nhiều đến nước Nga, nhưng thày bảo đảm là thày đã tỏa sáng năng lượng và xung lực vào tâm thức tập thể của nước Nga, đủ để xoay chuyển nước Nga vào một vòng xoáy hướng thượng – nếu có đủ người sẵn sàng đứng cùng hướng với những xung lực đến từ tâm Ki-tô. Do đó, thày đã đóng góp vào vòng xoáy hướng thượng và việc thể hiện thời đại hoàng kim trong đất nước tươi đẹp và yêu dấu này.

Lối hành xử tâm linh của con

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 4 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiêng Giê-su Ki-tô, và thày muốn bắt đầu bằng một lời thú nhận. Các thày, những chân sư thăng thiên có phần nào giống như những người bán xe cũ dùng một kỹ thuật bán hàng gọi là “dụ và chuyển”. Cách họ làm là trưng một tấm bảng lớn trong bãi đậu xe quảng cáo một kiểu xe đang bán rất rẻ, và sau đó, khi khách hàng tới hỏi thì họ nói: “Thật không may là chúng tôi đã bán chiếc xe cuối rồi, nhưng chúng tôi có một xe kiểu khác mà chúng tôi có thể bán cho quý vị với giá tốt.” Các thày có đôi phần phải làm như vậy, và thày muốn giải thích vì sao lại như vậy.

11.1. Vì sao ngày nay quá ít tín đồ Ki-tô giáo nghe lời Giê-su giảng

Bây giờ thì con có thể đặt một câu hỏi giản dị. Ở đây có một nhóm người không những tin thày là Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô đang nói qua trung gian một người sứ giả, nhưng các con còn trải nghiệm trong tim mình bằng chứng sống của sự việc đó. Vì sao lại không có hàng ngàn hay hàng triệu người tự coi là tín đồ Cơ đốc giáo chịu nghe Giáo lý Hằng sống của thày? Lý do là vì họ đã tạo nên nhiều hình ảnh, chờ đợi, điều kiện trong tâm khiến họ phải vượt lên trên các điều này để có thể chấp nhận là: 1) thày vẫn đang hiện hữu trên một cõi cao; 2) thày sẵn sàng nói chuyện với nhân loại; và 3) thày đang nói chuyện với nhân loại. Tuy nhiên, họ không chịu buông bỏ các điều kiện đó, và điều này có nghĩa là chúng tạo nên một phin lọc. Nếu thày muốn nói chuyện với họ, thì thày phải tuân theo các điều kiện này thì họ mới chấp nhận điều thày nói, và ngay cả là thày đang nói điều gì đó.

Lẽ tự nhiên, thày hoàn toàn không thể tuân theo các điều kiện của người Công giáo, Cơ đốc giáo cực truyền thống hay Lutheran mà vẫn nói được điều gì mới. Họ quá chú tâm vào quá khứ, vào điều mà họ tin là đã được nói trong quá khứ, vào những gì giáo hội của họ đã diễn giải suốt nhiều thế kỷ. Có quá nhiều lớp vỏ diễn giải, hay phải nói là bóp méo, những lời giảng và giáo lý nguyên thủy của thày nên đa số tín đồ Cơ đốc giáo đã bị mắc kẹt trong đó, và họ cho rằng nếu thày không làm theo những điều kiện mà giáo hội của họ đã quy định, thì thày không thể là Giê-su thật. Nếu thày phải tuân theo tất cả các điều kiện này, thì thày sẽ nói gì? Không một lời nào cả, con yêu dấu, vì họ không muốn và không cần thày nói bất cứ điều gì. Họ thỏa mãn với những diễn giải mà họ có. Con thấy chăng, đây là tình trạng khó xử căn bản mà các thày đối mặt trên trái đất.

Làm sao các thày, là chân sư thăng thiên, có thể giúp những người chưa thăng thiên? Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đủ để con vào thiên đàng, vào cõi tâm linh, thì các thày không cần làm gì cả. Nếu trình độ tâm thức hiện nay của con đã đủ để con vào thiêng đàng, thì tại sao con lại chưa ở trong thiêng đàng?

Sự kiện đơn giản là trình độ tâm thức hiện nay của con chưa đủ. Nếu các thày có thể giúp con thì các thày phải cho con một điều gì vượt quá hộp tư duy hiện tại của con, phin lọc hiện tại của con. Nếu con dùng phin lọc hiện tại của mình để bác bỏ bất cứ điều gì vượt quá phin lọc, thì các thày bị kẹt cứng. Các thày phải tuân thủ Luật Tự quyết. Các thày không thể ép buộc con.

Điều này thật sự có nghĩa là khi các thày tìm cách giúp nhân loại – và lẽ dĩ nhiên các thày tìm cách giúp tất cả mọi người bằng cách này hay cách khác – thì các thày cần nhìn vào một nhóm người và xem xét trình độ tâm thức của họ. Các thày cần xem xét hình ảnh mà họ có về thế gian, quan điểm của họ về thế gian. Các thày cần xem xét những chờ mong của họ và các thày không tìm cách trao cho họ chân lý cao nhất hay tối hậu. Các thày chỉ giản dị xem bước kế tiếp của họ là gì. Bước kế tiếp trong tiến trình tiến hóa của họ là gì, và các thày có thể làm gì để giúp họ nhảy vọt lên tầng kế tiếp?

Rất có thể là có 143 tầng tâm thức trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Điều này không giúp ích gì cho họ vì họ không thể nhảy vọt từ tầng thứ nhất lên tầng thứ 144 – họ phải nhảy từ tầng thứ nhất lên tầng thứ hai, hay là từ tầng 48 lên tầng 49. Các thày phải để ý chuyện này, và đây là lý do vì sao thày so sánh với chiến thuật dụ và chuyển.

Các con hiểu rằng để bất cứ ai có thể làm điều gì mới, điều gì khác, để bất cứ ai có thể chấp nhận một giáo lý nào đó – về phương diện tâm linh, thần bí hay bất cứ gì khác – thì họ cần một động lực thúc đẩy. Động lực đó tùy thuộc trình độ tâm thức hiên tại của họ, cách họ nhìn thế giới, những gì họ chờ mong lúc đó. Điều gì thúc đẩy con người? Họ muốn được điều gì mà họ đang không hiện có? Các thày có thể dùng điều này để cho họ một ý tưởng, một giáo lý, có thể giúp họ đi bước kế tiếp chăng? Đây là điều mà các thày phải làm với tất cả mọi người, con yêu dấu.

Như Đức Khrisna có nói hôm qua, có những người chỉ sẵn sàng sùng kính, đi theo con đường sùng kính, do đó thày Krishna không tìm cách dạy họ một giáo lý mà họ không thể hiểu. Thày chỉ giản dị phản ánh lại sự sùng kính mà họ hướng tới thày, và trên đường dài điều này sẽ giúp họ tiến lên tầng kế tiếp. Sau đó, trong một kiếp tương lai nào đó, họ sẽ có thể hiểu một giáo lý cao hơn, nhưng các thày không tìm cách cho mỗi người hơn những gì mà các thày lượng định họ có thể tiếp nhận.

11.2. Đối phó với nghi ngờ trên con đường quả vị Ki-tô

Lý do vì sao thày nói với các con những chuyện này là vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, và chúng sẽ giúp con đi trên con đường của quả vị Ki-tô. Khi con đã đi trên con đường tu một thời gian, thì con đã tiến triển, con đã nâng tâm thức mình lên trên trình độ mà con có khi con tìm ra giáo lý và bắt dầu áp dụng nó. Con sẽ tới điểm con sẽ được lợi lạc nếu con bước lùi lại, nhìn vào chính mình, nhìn vào con đường tu của mình, và nói: “Điều gì đã thật sự thúc đẩy tôi đi vào và áp dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên? Tôi đã mong muốn điều gì, tôi đã mong chờ điều gì, tôi chờ đợi điều gì khi tôi bắt đầu đi vào con đường tu?”

Nếu con làm chuyện này, thì tất cả các con sẽ khám phá là mình có một thúc đẩy nào đó, có một điều nào đó mà mình muốn đạt được khi đi vào con đường tâm linh. Khi con tìm ra giáo lý lần đầu, thì có lẽ động lực thúc đẩy con không phải là thăng thiên hay biểu hiện quả vị Ki-tô. Con có lẽ có một động lực nào khác – có thể là tìm hiểu biết, có thể là tìm chữa lành, có thể là tìm quyền năng đặc biệt, có thể là tìm sự sung túc, hay điều nào khác. Con người có đủ loại động lực khác nhau, và thày chắc chắn không chỉ trích, hạ thấp hay ngay cả lượng giá những động lực đó. Con phải bắt đầu ở điểm con ở lúc đó, và dùng động lực mà con có lúc đó để học và áp dụng giáo lý. Sau khi con đã làm như vậy một thời gian, thì con có thể bước lui lại, nhìn vào chính mình và nói: “Động lực nguyên thủy của tôi là gì, tôi chờ đợi chuyện gì sẽ xảy ra?” Sau đó, con có thể nói: “Dựa trên hiểu biết cao hơn mà tôi có ngày nay, hiểu biết cao hơn về con đường tâm linh, dựa trên sự kiện là tôi ngày nay đã lên một tầng tâm thức cao hơn (và lẽ dĩ nhiên con cần nhìn nhận là con đã lên một tầng tâm thức cao hơn), thì bây giờ tôi nghĩ gì về động lực đã thúc đẩy tôi? Nó có phải là động lực mà tôi có bây giờ, hay là tôi nay đã phát triển một động lực cao hơn vì bây giờ tôi thấy là con đường tu có nhiều sắc thái hơn những gì tôi có thể thấy khi tôi bắt đầu? Có một mục đích khác, một mục đích cao hơn mà tôi bây giờ có thể thấy, mà lúc đó tôi không thể thấy.”

Lý do vì sao chuyện này trở nên quan trọng là vì nếu con không xem xét động lực của mình thì đâu đó trong bốn thể phàm của con vẫn còn một phàm linh nội tại, một khuôn đúc, một động lượng mang động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của con. Sau một thời gian, điều có thể xảy ra cho một số đệ tử là họ bắt đầu nhận ra là động lực nguyên thủy của họ không phải là động lực cao nhất. Chính thực là động lực đó không thực tiễn vì nó không dựa trên tính chất thực của con đường tâm linh. Trong một phần nào đó của bản thể người đệ tử, họ nhận ra là động lực và chờ mong nguyên thủy là một giấc mơ không thể nào thành tựu được. Vì họ chưa xem xét phàm linh đó (phàm linh đang giữ chặt sự chờ mong đó, chờ để nó được thực hiện) nên họ chưa giải quyết được nó và buông bỏ nó.

Sẽ có một phàm linh bắt đầu cảm thấy chán nản, thất vọng và bất toại nguyện vì nó bắt đầu nghi ngờ là chờ mong nguyên thủy có thể sẽ không bao giờ thành tựu. Nó có thể khởi lên đủ loại suy nghĩ và ngờ vực, và lẽ dĩ nhiên các tà lực có thể nhân đó phóng chiếu nghi ngờ vào tâm con: “Con đường tâm linh có dẫn tới thành công chăng? Điều này có thực sự đúng không? Con có thể thành công trên con đường tâm linh không, hay chỉ có người khác thành công thôi? Hay chỉ có một số rất nhỏ thành công thôi? Phải chăng là những người tu thành công rất đặc biệt và điều này không áp dụng cho tôi?” Tất cả những ý tưởng đó có thể khởi lên.

Tất cả các con có lẽ đều đã có một hình thức nào đó của những nghi ngờ này phóng chiếu vào tâm mình. Điều con có thể làm là xem xét động lực nguyên thủy, chờ mong nguyên thủy của mình. Sau đó, con có thể thấy: “Động lực đó, chờ mong đó có thiết thực hay chăng, dựa trên những điều mà bây giờ tôi thấy, bây giờ tôi hiểu, dựa trên những gì tôi đã trải nghiệm, dựa trên sự kiện tôi bây giờ đã thấy một mục đích mới, và do đó tôi thực sự đã có một chờ mong mới cao hơn?” Sau đó, con có thể nhìn vào phàm linh nguyên thủy và nhận ra là nó vẫn còn đó. Khi con xem xét động lực của riêng con, thì con có thể thấy là nó hoặc không thiết thực hoặc có lẽ ấu trĩ hay thiếu sót. Con có thể tới điểm giải quyết vấn đề khi con nhận ra: “Nhưng tôi không còn nhìn con đường tâm linh như vậy nữa. Tại sao tôi lại chờ đợi kết quả đó trên con đường tu khi tôi bây giờ biết rất nhiều hơn về con đường tu?” Sau đó, con có thể cho phép mình đi vào phàm linh và xua đuổi nó một cách có ý thức. Con có thể nói: “Bớ Satan, hãy đứng ra đằng sau ta.” hay giản dị hơn: “Tôi không còn cần bạn trong cuộc đời tôi nữa.” Lẽ dĩ nhiên con có thể đọc chú đọc thỉnh tới bất cứ vị chân sư nào để xin việc này, khi con nhận ra nó: Astrea, Đại thiên thần Michael, hay chính thày, hay bất cứ vị chân sư nào khác để tiêu trừ thực thể đằng sau nó. Con có thể kêu gọi các thày giúp con thấy phàm linh, thấy chờ mong mà con có lúc trước, và thấy các điều đó cho biết gì về cách con nhìn con đường tâm linh lúc đó.

11.3. Giảng dạy cho nhiều trình độ tâm thức khác nhau

Tại sao việc này lại quan trọng? Nó quan trọng cho chính con, vì lẽ đương nhiên, khi con có một phàm linh nội tại đang giữ chặt một động lực không còn ứng dụng cho con nữa, thì tâm con có sự chia rẽ và nó sẽ kéo con lại. Điều quan trọng khác là đa số các con, trước khi con đầu thai ở kiếp này, đã đạt tới một tầng của con đường tu nơi con không còn hoàn toàn lo giải quyết các vấn đề cá nhân của mình nữa, mà có khả năng và ý muốn đảm đương một số vấn đề của tập thể.

Nhiều người trong các con đã chọn đầu thai vào một môi trường để mang vào một chờ đợi về Thượng đế, tôn giáo, và tâm linh là một khuôn nếp trong tâm thức tập thể. Lẽ dĩ nhiên, có một phàm linh hay quái vật đằng sau khuôn nếp đó, nhưng con đã chọn mang nó vào để, khi con nâng mình lên khỏi nó và giải quyết tâm thức, niềm tin, chờ đợi, thì con sẽ giúp nâng tâm thức tập thể lên. Lẽ đương nhiên, chỉ khi nào con nâng được tâm thức của mình lên khỏi khuôn nếp, thì con mới nâng được tâm thức tập thể lên.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhận ra vì sao thày đã ví các chân sư thăng thiên với những người bán xe cũ. Khi các thày trao truyền một giáo lý, thì các thày nhắm vào một nhóm người nào đó. Các thày xem xét tâm thức của họ đang ở tầng nào: “Họ sẵn sàng nhận giáo lý nào, họ chờ đợi những gì, động lực nào thúc đẩy họ?” Các thày biết là muốn thu hút những người đó vào giáo lý, thì các thày phải cho họ cái gì khế hợp với động lực mà họ có ngay lúc này ở tầng tâm thức hiện tại của họ. Các thày cũng biết đây không phải là hiểu biết tối hậu về con đường tâm linh và con đường dẫn tới thăng thiên.

Đó là lý do vì sao các thày biết là các thày cần dẫn đệ tử vào và dần dần trao cho họ giáo lý cao hơn để họ có thể thích nghi và gia tốc, xoay chuyển tâm thức và dần dần nâng động lực lên. Lúc đó, họ nhận ra rằng điều đã dẫn họ vào giáo lý là điều họ có thể tiếp nhận lúc đó, nhưng bây giờ thì họ đã sẵn sàng nhận một cái gì cao hơn nhiều nữa, vì bây giờ họ hiểu biết nhiều hơn nhiều về con đường tâm linh. Khi con giải tỏa chờ mong ban đầu, con không cảm thấy thất vọng, con không cảm thấy bị lừa gạt. Con thực sự nhận ra nhu cầu dùng một phương pháp như vậy trên một hành tinh như trái đất, và do đó con chỉ giản dị nói: “Các chân sư đang muốn trao truyền điều gì cho tôi lúc này? Tôi sẵn sàng đón nhận điều gì lúc này?”

11.4. Lối hành xử tâm lý của con

Con có thể tiến thêm bước nữa và nhận ra một điều khác. Trong hệ thống đối phó nạn phạm pháp tại nhiều quốc gia, tỷ dụ như tại Hoa Kỳ, cảnh sát tìm cách phân loại những kẻ phạm pháp dựa trên điều mà họ gọi là “lối hành xử” (modus operandi) của họ. Lý do là họ đã khám phá là phạm nhân là những con người hành xử theo thói quen, và khi họ đã phạm một tội ác, thì họ có khuynh hướng gây tội theo cùng một kiểu. Khi cảnh sát nghe tới một tội ác đã diễn ra theo một lối hành xử nào đó, thì họ thường biết phạm nhân nào có xác suất phạm tội đó. Họ có thể tìm xem người đó ở đâu vào lúc đó, và họ có thể bắt được can phạm dựa trên điều tra đó. Bây giờ, lẽ dĩ nhiên các con không là phạm nhân, con yêu dấu, nhưng tất cả mọi người đều có một cái mà ta có thể gọi là lối hành xử tâm lý.

Lẽ đương nhiên, các thày đã đề cập đến chuyện này khi các thày giảng về tự ngã, về các phàm linh nội tại, nhưng thày sẽ chỉ giản dị giảng dưới một góc độ khác. Điều mà thày muốn con làm là (không nhất thiết là làm ngay bây giờ và ở đây, nhưng một khi con về nhà và thấm nhập những điều con học được từ hội nghị này) là bước lui lại và xem xét: “Tôi liên hệ như thế nào với vũ trụ vật chất, với cõi vật chất? Lối hành xử của tôi ra sao khi tôi liên hệ với cõi vật chất? Tôi chờ đợi những gì? Tôi nghĩ chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Tôi nghĩ chuyện gì phải xảy ra và không được xảy ra?” Nếu con sẵn sàng làm bài tập này, và nếu con muốn thì cũng thỉnh thoảng xin các thày giúp, thì con có thể thấy là con có một lối hành xử nào đó khi con liên hệ với thế giới vật lý. Khi con gặp một số hoàn cảnh trong thế giới vật lý, thì dường như con bị kích hoạt để đi vào lối hành xử đó, khuôn nếp phản ứng đó.

Vị sứ giả này có cho biết là ông ít khi nổi cáu, nhưng ông lại nổi cáu mỗi khi ông làm chiếu khán vào nước Nga hay khi ông bị phạt vì đậu xe trái phép. Điều này cho thấy ông có một số chờ đợi chuyện gì phải xảy ra cho ông trong vũ trụ vật lý. Khi một chuyện tương tự xảy ra, thì thay vì nhìn vào hoàn cảnh giống như ông bình thường nhìn vào đa số các hoàn cảnh, thay vì giữ tâm không dính mắc, thì ông mặc nhiên đi vào một phản ứng xúc cảm đặc trưng cho rằng chuyện này không được xảy ra, chuyện này quả thật không đúng, và ông đáng lý phải được quyền đậu xe ngoài một cửa tiệm trong vòng 10 phút mà không bị phạt. Con yêu dấu, sự chờ đợi này có thể rất phải chăng nhưng thực tế là nó thật sự giới hạn mối liên hệ của con với cõi mẹ.

Con lấy một số điều kiện trong xã hội, các điều kiện này có thể do con người tạo ra hay do sa nhân gây nên, và con phóng chiếu (tạo ra) một chờ đợi dựa trên những điều kiện đó. Con phóng chiếu lên cõi mẹ là cõi mẹ là như vậy, và kết quả này lúc nào cũng xảy ra. Phóng chiếu này có hậu quả gì? Nó ngăn trở con làm theo lời dạy của Saint Germain vì con không chấp nhận là một cái gì cao hơn có thể xảy ra. Con thực sự trở nên cái mà các thày đã nói tới: một tiên đoán tự trở thành hiện thực. Điều con chờ đợi nơi cõi mẹ là điều con gửi tới tấm gương hoàn vũ, và như các thày đã nói nhiều lần, tấm gương làm được gì khác ngoài việc phản ánh lại con điều con gửi tới nó? Con thấy là nếu con muốn tránh những hoàn cảnh như vậy, thì con phải xem xét lối hành xử của mình. Con liên hệ với cõi vật chất như thế nào? Sau đó, con cần khám phá con chờ đợi chuyện gì phải xảy ra và chuyện gì không được xảy ra. Sau đó, con cần tự hỏi con có muốn mang theo những chờ mong này với con hay không, khi con biết rằng chúng sẽ trở nên những tiên đoán tự trở thành hiện thực.

Điểm cốt yếu là: Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch? Con đang sống trong một vũ trụ đang tìm cách hại con hay con đang sống trong một vũ trụ trong đó ít nhất có một số lực đang hết lòng hỗ trợ con, hỗ trợ sự tăng trưởng của con, hỗ trợ hạnh phúc của con, và giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình? Nếu con nghe bài vị sứ giả này phát biểu rằng ông cảm thấy cuộc sống tuyệt vời và có một chờ đợi tích cực về tương lai, thì con thấy là ông thường tin rằng ông sống trong một vũ trụ thân thiện. Nhưng khi ông xin chiếu khán vào nước Nga, thì ông không nghĩ nhân viên lo chiếu khán của nước Nga thân thiện với ông hay hỗ trợ ông, và đó là lý do vì sao ông thể hiện sự trục trặc mà ông gặp phải. Thày không nói là nước Nga có thủ tục cấp chiếu khán hợp lý. Nó thật sự quá phức tạp và chỉ có tác dụng gây tổn thương cho chính nước Nga, nhưng đây không phải là vấn đề. Vấn đề là vị sứ giả này đã có phản ứng như vậy vì ông, ở một tầng nào đó của bản thể của ông, tin rằng nước Nga không phải là một nước thân thiện. Điều này phần nào liên hệ đến một biến cố bi thảm mà ông gặp trong một kiếp trước, nhưng tuy vậy nó cho thấy là con có những lối hành xử về những gì mình chờ đợi. Bây giờ, liên quan đến chuyện bị phạt vì đậu xe trái phép, thì ông không chờ đợi là cơ quan công quyền hay thư lại thân thiện với ông hay có mặt để hỗ trợ ông. Ông chờ đợi là liên hệ với cơ quan thư lại không thoải mái và các cơ quan này hay gây khó dễ cho người dân một cách không cần thiết. Con yêu dấu, con có thể nói điều này đúng. Nhưng câu hỏi mà ta phải đặt cho vị sứ gỉả này là: “Ông có muốn mang theo chờ đợi này suốt đời hay không, hay ông muốn bỏ chúng lại đằng sau?” Câu hỏi mà con nên đặt ra cho mình là: “Tôi có lối hành xử nào? Tôi chờ đợi gì nơi vũ trụ vật lý? Nó có thân thiện chăng? Nó có đang hỗ trợ tôi chăng, hay có gì đang tìm cách hại tôi?”

11.5. Ảnh hưởng của tà lực

Lẽ đương nhiên thày hiểu là khi thày nói như vậy thì có thể gây hoang mang cho các con, vì các thày đã giảng về tà lực, và chúng đang tìm cách hại con, con yêu dấu. Nhưng đây không phải là điều thày muốn nói; thày muốn nói là con phải biết phân biệt. Con nhận ra là có tà lực, con nhận ra là có những người không có thiện ý, nhưng điều thày muốn nói là cách con nhìn cõi mẹ, vũ trụ vật lý nói chung. Điều thày muốn nói là: con đừng lấy sự kiện có sa nhân trên hành tinh này, con đừng lấy tất cả những khuấy động mà họ đã tạo ra, con đừng phóng chiếu những việc này lên cõi mẹ và nói: “Cõi mẹ là như vậy đó.” Con đừng nói là cõi mẹ đối xử với con như sa nhân đối xử với con. Các thày đã nói trước đây: Các con đừng nhìn các thày như các con nhìn sa nhân. Các con đừng nghĩ các thày nhìn các con như sa nhân nhìn các con. Các con đừng nghĩ các thày suy nghĩ giống như sa nhân. Con hãy làm giống như vậy với cõi mẹ. Con đừng đặt lên cõi mẹ những chờ đợi mà con có dựa trên những gì sa nhân đã làm.

Lẽ dĩ nhiên sa nhân vẫn còn ở đây, lẽ dĩ nhiên có nhiều chuyện không phải đang xảy ra trên trái đất, và các thày muốn các con đọc chú đọc thỉnh về các vấn đề này. Thày ở đây chỉ nói đến liên hệ cá nhân của con với cõi mẹ, với vũ trụ vật lý. Con đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay con nghĩ trái đất tăm tối quá và vũ trụ, cõi vật lý, là kẻ thù địch của con? Thày có thể bảo đảm với con là dù hành tinh này có tăm tối đến đâu thì cõi mẹ vẫn sẵn sàng hỗ trợ con và hỗ trợ sự tăng triển của con. Cõi mẹ chỉ có thể phản ánh lại con những gì con phóng chiếu ra ngoài. Nếu con muốn nhận được phản hồi khác, thì con phải thay đổi điều con phóng chiếu ra. Không có cách nào khác.

11.6. Cách con liên hệ với các chân sư

Bây giờ thì con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét lối hành xử của con khi con liên hệ với các chân sư thăng thiên. Con có thể trở về lần đầu tiên khi con nghe đến giáo lý chân sư thăng thiên, và xem điều gì đã thúc đẩy con tìm hiểu giáo lý đó. Động lực này nói gì về cách con nhìn các thày, cách con thấy tiềm năng của việc liên hệ với các thày hay không liên hệ với các thày? Sau đó, con có thể khám phá là con có một số chờ đợi, một số quan niệm về các thày. Nhiều người trong các con sẽ khám phá là quan niệm của con về các thày dựa trên cách một số tôn giáo mô tả Thượng đế. Nhiều người trong các con có quan niệm về các chân sư thăng thiên dựa trên cách tín đồ Cơ đốc đã thần tượng hóa thày và đặt thày lên một bệ cao, quá tầm với của con, như là người con duy nhất của Thượng đế. Lẽ dĩ nhiên, với đa số các con đây không phải là sự chờ đợi của riêng con. Đây là một điều mà con đã tình nguyện mang vào để giúp nâng tâm thức tập thể lên, nhưng để có thể nâng tâm thức tập thể lên, thì con phải giải thoát tâm mình khỏi quan niệm đó. Con có thể vẫn còn một số chờ đợi, một số phàm linh nội tại, mà con chưa nhận ra và loại bỏ.

Điều này lại liên quan đến chiến thuật dụ và chuyển. Các thày biết con người chờ đợi những gì; các thày biết họ có thể nhìn các thày như thế nào. Khi các thày trao truyền một giáo lý chân sư thăng thiên, thì các thày phải thích nghi nó với những động lực và chờ đợi của con người, và do đó các thày tự bày tỏ mình một cách nào đó. Một số trong các con biết là trong thế kỷ vừa qua các thày đã bảo trợ một số tổ chức và trao truyền một số giáo lý, vậy nếu các con trở về tìm hiểu các giáo lý đó, thì các con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày đã bày tỏ mình một cách nào đó. Cách các thày bày tỏ mình đã theo một tiến trình qua các phong trào và giáo lý. Điều mà các thày trao truyền ngày nay là một trình độ hiểu biết cao hơn, vì các thày muốn cho các con thấy là khoảng cách giữa các con và các thày nhỏ hơn điều mọi người thường nghĩ.

Trong một số tổ chức trong quá khứ, các đệ tử đã đặt các chân sư thăng thiên lên một bệ cao hơn họ rất nhiều. Lẽ đương nhiên, các thày hiểu nhu cầu của con người, các thày hiểu những chờ đợi của họ. Các thày hiểu là nhiều người muốn tiến tới gần cõi tâm linh nhưng không gần quá. Vì lẽ gì mà 1.3 tỷ tín đồ Cơ đốc không muốn nghe Giáo lý Hằng sống của thày mà chỉ muốn nghe đức Giáo hoàng? Ấy, đó là vì họ không thực sự muốn lại gần sinh thể tâm linh hằng sống mà thày là. Họ không muốn giáp mặt Bản thể của thày vì như vậy họ sẽ phải thay đổi. Các thày cũng biết là nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã tới một tầng tâm thức khiến họ sẵn sàng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Họ muốn học giáo lý của các thày, họ muốn trải nghiệm các bài truyền đọc, nhưng họ không muốn các thày tới gần họ quá.

Dường như là các đệ tử đó muốn giữ một khoảng cách và họ nói: “Con muốn ngồi ở cuối lớp và học các thày từ xa xa.” Điều họ thực sự nói là: “Con muốn giữ một khoảng cách vì con không muốn thày tới và nhìn vào con. Con không muốn thày thấy con như con đang là ngay bây giờ. Thày hãy để con ngồi trong bóng tối để con có thể giả vờ là thày không thấy được con.” Đây là tất cả những gì họ sẵn sàng làm, và thày đang khôi hài, nhưng thày thật sự không hề muốn chê bai họ. Thày hiểu nhu cầu của họ; thày tôn trọng nhu cầu của họ. Thày cũng đang trao truyền một giáo lý cho những đệ tử đã sẵn sàng tiến lên cao hơn, đây là những người sẵn sàng nhìn vào lối hành xử của mình đối với các chân sư thăng thiên, cách họ liên hệ với các thày, điều họ chờ đợi và không chờ đợi, điều họ chờ đợi sẽ xảy ra và không xảy ra.

Nếu con xem xét chuyện này, thì con sẽ nhận ra là con thực sự đã có một hiểu biết cao hơn về con đường của quả vị Ki-tô. Do đó, động lực nguyên thủy của con, cách con nhìn các chân sư thăng thiên lúc ban đầu, nay là một gánh nặng mà con đang kéo lê theo mình. Nó không còn thích ứng với trình độ hiểu biết hiện tại của con. Nếu con thấy nó thì con có thể loại bỏ nó, và con không còn sự chia rẽ trong bản thể mình khi có điều gì kéo con về phía các thày và điều gì khác kéo con ra khỏi các thày. Sau đó, con tiến lên một bước nữa và liên hệ với các thày một cách mật thiết hơn.

Vị sứ giả này mô tả là ông đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên và thực hành miên mật trong hơn 15 năm, và một ngày kia ông bỗng nhiên tới điểm nhìn hình ảnh các thày và nói: “Con muốn nhiều hơn nữa. Con muốn liên hệ mật thiết hơn với các thày. Con muốn tương tác trực tiếp với các thày.” Các con đều có tiềm năng lấy một quyết định tương tự. Thày không muốn con lấy quyết định đó với tâm vỏ ngoài, nhưng thày muốn con, với tâm vỏ ngoài, xem xét mình đang ở đâu trên con đường tu. Con sẵn sàng làm điều gì? Con có sẵn sàng tiến lên một tầng cao hơn chăng? Con có sẵng sàng tới gần hơn một chút và nói: “Giê-su, thày có thể thỉnh thoảng nhìn con. Thày có thể tới nói con một số điều, nhưng thày đừng nói nhiều quá, quá mức mà con có thể chịu đựng.” Thày bảo đảm với con là các thày sẽ đáp ứng nguyện vọng này, vì thật ra các thày làm gì khi các thày có đệ tử, có một liên hệ thày-trò với một đệ tử? Con đường tâm linh, con đường của quả vị Ki-tô là gì? Nó hoàn toàn là tiến trình đi vào hợp nhất.

11.7. Con Đường Hợp nhất

Rốt cuộc thì con đường tu là cái Ta Biết đi vào hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Như một bước chuyển tiếp, các thày cống hiến một con đường trên đó khi con có một giáo lý vỏ ngoài con có thể hiểu các thày dễ dàng hơn là con hiểu Hiện diện TA LÀ. Con đường thực sự của các chân sư thăng thiên là con nhập một với các thày, hay ít ra là với vị thày gần tim con nhất. Con thấy là khi con lần đầu tìm ra giáo lý, thì con có thể vẫn còn mang theo khuynh hướng thờ kính của Cơ đốc giáo muốn đặt vị thày lên một bệ cao. Do đó, con có thể đã nghĩ là để liên hệ được với một vị thày cao xa đó thì con phải tới được một trình độ toàn hảo nào đó. Con cảm thấy là con chưa đạt tới trình độ đó, và đó là lý do vì sao con chỉ muốn ngồi ở cuối lớp để vị thày không thể nhìn thấy con và con có thể lẩn trốn vì con sẽ cảm thấy điều gì đó – nhục nhã, tội lỗi, hổ thẹn, hay bất cứ cảm giác nào khác – khi vị thày thấy các bất toàn của mình. Lẽ đương nhiên các thày cho phép con làm như vậy, nhưng nhiều người trong các con đã tới điểm có thể xoay chuyển tâm thức. Con nhận ra là con không bị đau đớn khi các thày nhìn vào con và chỉ cho con thấy vài điều. Các thày luôn luôn chỉ làm vậy với mục đích giúp con tăng triển và được tự do hơn. Nếu con tự do hơn thì chuyện gì xảy ta? Con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình.

Khi con còn ngồi ngoài xa xa và muốn giấu giếm điều gì với các thày, thì con cũng giấu giếm cái đó với chính con.Nếu con giấu giếm điều gì đó với chính mình thì con không thể khắc phục nó. Điều mà con giấu giếm sẽ khiến con cảm thấy không vui với chính mình một cách nào đó. Chỉ khi nào con nhìn vào nó và khắc phục nó thì con mới sẽ thoải mái với chính mình. Đây là điều giản dị, là lô-gíc giản dị.Thày biết rằng 99.999999 phần trăm con người trên trái đất không nghĩ điều này giản dị, nhưng nó thực sự giản dị, ít ra là khi con đã tới tầng tâm thức hiện tại của con. Con có thể tới điểm con nhìn lối hành xử của mình và con thấy là con vẫn còn mong muốn giữ khoảng cách với các chân sư. Con có thể nói với nó: “Tôi không cần bạn nữa. Tại sao bạn vẫn còn lẩn quẩn ở đây. Tránh xa ra!”

Sau đó, con có thể xoay chuyển và bắt đầu hỏi mình một câu đơn giản: “Tôi muốn theo loại chân sư nào? Một chân sự thân thiện hay một chân sư thù địch?” Lúc đó, con nhận ra là hình ảnh mà sa nhân đã phóng chiếu lên tâm thức tập thể từ mấy ngàn năm nay là Thượng đế là một Thượng đế thù địch. Do đó, bất cứ ai trên cõi tâm linh và là đại diện Thượng đế chắc chắn phải là một sinh thể thù địch. Ngay cả trong một số tổ chức chân sư thăng thiên quá khứ, con có quan niệm là, tỷ dụ, thày El Morya hay Serapis Bey là người trọng kỷ luật nghiêm khắc. Họ giống như các thày giáo cổ lỗ chỉ tìm cớ để phát mông học trò. Thày El Morya không cầm trong tay một cây gậy để đánh đệ tử. Thày chưa bao giờ làm vậy, và sẽ không bao giờ làm vậy.

Con thấy chăng, hình ảnh trong tâm thức tập thể của một người thày giáo thù địch chỉ chực kỷ luật con (hay phơi bày những tật xấu của con hay khiến con cảm thấy tội lỗi vì có điều gì bất toàn) không phải là điều các thày thực sự là. Nó hoàn toàn xa vời sự thực các thày là. Khi con nhận ra hình ảnh này trong chính mình, thì con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó. Con có thể đứng lui lại và thấy nó, và sau đó con thực sự buông bỏ nó.

Con sẽ tới điểm – con có thể cần đọc một số bài thỉnh và cầu thỉnh sự chuyển hóa năng lượng, con có thể cần xin các thày trợ giúp để thấy nó – con chỉ giản dị buông bỏ nó. Con cảm thấy tức khắc nhẹ nhàng hơn và bỗng nhiên nhận ra là các thày không phải là thù địch. Các thày không chực bắt lỗi con. Các thày không chực phơi bày con. Các thày không chực hạ nhục con.

11.8. Vì sao con sợ các chân sư

Thày biết là một số người sẽ lấy bài giảng này và cảm thấy là thày đang phơi bày điều gì không phải trong tâm lý của họ. Một lần nữa, họ sẽ phóng chiếu hình ảnh là thày đang chực phơi bày điều gì đó trong con. Lẽ đương nhiên, có thể nói là thày đang làm chuyện đó, nhưng thày đang không phơi bày một chuyện để khiến con cảm thấy nhục nhã hay hổ thẹn. Thày chỉ muốn giải thoát con. Đây là lúc con có thể tiến lên một bước nữa, và khi con nhìn vào hình ảnh mà con có về các vị thày tâm linh và con chờ đợi họ sẽ làm gì và không làm gì, thì con có lẽ sẽ nhận ra khía cạnh tiêu cực của cái nhìn đó. Tỷ dụ, con có thể nghĩ là các thày sẽ phơi bày điều gì đó trong con, và con có thể xem xét con có nỗi sợ nào liên quan đến việc đó.

Nếu thày lôi một trong các con lên đây và nói là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con, thì con sẽ cảm thấy thế nào? Bây giờ, tất cả các con hãy lấy vài phút để thử làm bài tập này. Con hãy tưởng tượng mỗi người trong các con bị lôi lên đây đứng trước một nhóm người, và thày nói rất thẳng là con có khuynh hướng nào đó trong tâm lý của con. Con sợ điều gì? Con cảm thấy thế nào? Con có cảm thấy nhục nhã không? Con có cảm thấy hổ thẹn không? Cảm giác của con là gì? Ấy, con yếu dấu, cảm giác đó chính là điều đang kềm giữ con trên con đường tu. Đó chính là một phần của cái đang ngăn cản con tương tác với các thày. Điều thày muốn nói ở đây là: Con có thể bước lui lại và nói: “Tôi đang cảm thấy như vậy, hay đây là một phàm linh nội tại quy định lối hành xử của tôi, cách tôi liên hệ với các chân sư thăng thiên, cách tôi nhìn các chân sư, cách tôi nghĩ tôi có thể liên hệ với họ như thế nào? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, hay đây là tôi cảm thấy như vậy?” Con có thể nhận ra: “Nhưng đây không phải là tôi, đây là phàm linh!” Sau đó, khi con đuổi phàm linh đi và đọc bài thỉnh về việc này, thì con có thể chuyển đổi tâm mình.

Thí dụ, nếu con cảm thấy hổ thẹn nếu một chân sư thăng thiên phơi bày một bất toàn trong tâm lý của con, thì con có thể nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn? Tại sao tôi lại phải làm vậy? Đây là phàm linh cảm thấy như vậy, vậy tại sao tôi lại tiếp tục nhìn vị chân sư và hy vọng là vị ấy sẽ không tới và khiến tôi hổ thẹn? Tôi không cần cảm thấy hổ thẹn về việc này, hay nhục nhã, hay sợ hãi, hay bất cứ gì khác. Tại sao tôi lại cần cảm thấy như vậy?” Sau đó, con có thể dần dần chuyển đổi tâm thức tới điểm con nhận ra là các thày không chực làm con hổ thẹn. Các thày chỉ chực giải thoát con để con cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ dĩ nhiên, con không cảm thấy thoải mái với chính mình khi con lúc nào cũng sợ bị hổ thẹn.

11.9. Con chờ đợi dược điều gì

Sau đó, con có thể tiến thêm bước nữa và xem xét là con có lẽ cũngchờ đợi được một số điều khi con trở thành một đệ tử của chân sư thăng thiên. Rất, rất nhiều đệ tử chờ đợi là sẽ được các chân sư thăng thiên bằng một cách nào đó vinh danh, công nhận hay tuyên dương. Trớ trêu thay, có trường hợp đệ tử của một tổ chức chân sư thăng thiên về trước đặt các chân sư lên trên một bệ rất cao và lại có một mối liên hệ với các thày dựa trên sợ hãi. Cùng lúc, rất rất nhiều đệ tử có mong muốn không cưỡng được muốn đựơc các thày vinh danh và công nhận trước công chúng.

Đây là một trạng thái tâm lý rất phức tạp trong đó con vừa sợ hãi vừa hy vọng được vinh danh. Có hợp lý chăng khi con vừa sợ một người vừa muốn được người đó vinh danh? Xác suất người đó vinh danh con so với xác suất người đó làm chuyện con sợ nhất và chê bai con như thế nào? Mối liên hệ giữa người đệ tử đó và các thày trở nên rất, rất giả tạo và các thày hầu như không thể tới được họ vì các thày không thể lại gần họ một cách trực tiếp. Các thày không thể cho họ một trải nghiệm, các thày không thể cho họ hướng dẫn nội tâm vì họ bị mắc kẹt trong thế kéo-đẩy đó. Lẽ dĩ nhiên, nếu con vào nhiều giáo đoàn Cơ đốc hấy đó là cách họ nhìn Thượng đế, đó là cách họ nhìn thày. Đó là lý do có nhiều tín đồ Công giáo nghĩ rằng họ liên hệ với Mẹ Mary thoải mái hơn là với thày vì Mẹ Mary không có vẻ đe dọa như thày. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tôn giáo khác.

Một lần nữa, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và con nhận ra khuôn nếp này nơi con, thì tại sao con lại có nó? Nó có phải của con chăng? Rất có thể là con đã tiếp nhận nó từ tâm thức tập thể. Con hãy xem xét nó, làm việc trên nó, tiến tới điểm con vừa không sợ giáp mặt trực tiếp một chân sư thăng thiên, vừa không hy vọng được giáp mặt trực tiếp để được thêm hãnh diện và để tự ngã cảm thấy đặc biệt. Khi con tới điểm có thể liên hệ với các thày mà không chờ đợi phía này hay phía kia, không chờ đợi dựa trên sợ hãi hay dựa trên hãnh diện, thì con có thể trung hòa. Con có thể mở lòng ra. Không có chờ đợi nào ngăn trở con. Khi con chỉ mở lòng ra, thì con sẽ trải nghiệm Hiện diện của các thày trực tiếp hơn rất nhiều bất cứ gì con trải nghiệm trước đó, và lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi con.

11.10. Làm sao Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con

Bây giờ là dịp lễ Hạ trần (Pentecost) và các con đều biết câu chuyện là, sau khi thày rời bỏ cõi vật lý, các tông đồ của thày đều rất hoang mang, không biết phải làm gì, không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Lúc đó, họ hội họp và bỗng nhiên có sự chuyển đổi trong tâm thức họ, và họ tới tình trạng được mô tả là “hiệp ý ở cùng một nơi”. Họ thực sự tới điểm mà thày vửa mô tả, tức là thay vì có những chờ đợi dựa trên sợ hãi (là mọi chuyện kết thúc ở đây và không có gì sẽ xảy ra sau đó) và những chờ đợi dựa trên kiêu mạn (là họ sẽ được nâng lên và sẽ là những người lãnh đạo phong trào), thì đa số (không phải tất cả, nhưng đa số) tới điểm chỉ trung hòa, chỉ mở lòng ra. Chính điểm trung hòa đó, điểm không chờ đợi đó, đã là cửa mở cho cái được mô tả là Thánh linh tuôn xuống.

Bây giờ, một lần nữa con có thể hỏi: “Các thày đã làm gì với giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này?” Các thày đã tháo gỡ những hình ảnh mà con người có về các chân sư thăng thiên dựa trên các đợt truyền giáo trước. Các thày đã thực sự lấy mình xuống khỏi bệ cao. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên, các thày đã không tìm cách làm điều này một cách vật lý. Các thày đã tìm cách giảm thiểu khoảng cách trong tâm các con, khoảng cách mà con nghĩ có đó, mà con phóng chiếu là có giữa các con và các thày. Lẽ dĩ nhiên các thày vượt quá không gian và thời gian, do đó thày lúc nào cũng ở bên con nếu con muốn thày, nếu con đặt chú tâm của con vào thày. Vấn đề không phải là con cần vượt qua một khoảng cách vật lý. Vấn đề cũng không phải là vì thày ở quá cao trên con trên phương diện khoảng cách hay ngay cả rung động, lẽ dĩ nhiên là thày cao hơn con, nhưng thày vẫn ở bên con. Vấn đề không phải là con cần vượt qua vực thẳm đó. Con chỉ cần giản dị loại bỏ tất cả những hình ảnh và chờ đợi trong tâm con.

Các thày có đệ tử chân sư thăng thiên đang đứng, nói một cách biểu tượng, với đôi mắt dán vào ống viễn kính khổng lồ vì họ nghĩ các thày ở rất, rất xa đâu đó trong không gian. Họ cần chiếc ống viễn kính khổng lồ để thấy được các thày, và chiếc ống viễn kính khổng lồ đó là sự hiểu biết cầu kỳ bằng trí năng mà họ có về giáo lý. Điều các thày đang làm là các thày đợi họ rời mắt khỏi ống viễn kính rồi nói: “Ồ, các thày đang ở đây!”. Thày đã ở đây suốt 2000 năm qua bên cạnh họ mà họ không thèm để ý tới vì họ đã tìm thày ở ngoài xa, xa kia. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều các thày mong muốn nơi tất cả các con, là những người đã đi theo con đường của các thày từ rất lâu, là những người đã dấn thân đi vào con đường của quả vị Ki-tô.

11.11. Quả vị Ki-tô và phép lạ

Một lần nữa, chúng ta hãy hạ những chờ đợi xuống. Các con có nghe các câu chuyện là khi thày hiện thân thì thày đã làm nhiều phép lạ. Con có nhân loại trong 2000 năm đã tạo ra những phàm linh tập thể rất rất dũng mãnh và rất rất cầu kỳ là được sống vào thời Giê-su quả là một sự kỳ diệu đặc biệt. Nếu con trở ngược về thời đó và xem xét thực tại lúc đó, thì con sẽ thấy là đa số các tông đồ của thày lúc đó giống như những người đang dán mắt vào ống viễn kính. Tuy họ theo thày và tương tác với thày mỗi ngày, họ ít khi trực tiếp để ý tới thày vì họ nhìn thày với quá nhiều chờ đợi. Con thấy một thí dụ nơi câu chuyện liên quan đến Peter khi thày nói: “Bớ Satan, hãy đứng sau lưng ta.” Thày lúc đó muốn tạo một cú sốc để Peter ra khỏi các chờ đợi của ông và thực sự liên hệ với thày một cách trung hòa. Đa số những người mà thày gặp gỡ hồi đó còn không để ý sinh thể nào đang đứng bên cạnh họ. Họ không nhận ra là thày có một trạng thái tâm thức cao hơn.

Điều thày muốn nói là hình ảnh hoang tưởng mà tín đồ Cơ đốc giáo đã tạo ra là thời đó đặc biệt tuyệt vời như thế nào, ấy, chuyện ấy không bao giờ có thực. Có rất nhiều người không để ý, thí dụ là có cả những người đã thấy thày đi trên nước nhưng sau đó họ không tin điều họ đã chứng kiến. Như các thày đã nói, tâm thức tập thể thời đó dày đặc đến nỗi cần một diễn biến kỳ diệu để họ chú ý.

Một lần nữa, nếu con xem lại tình hình vào dịp lễ Hạ thân, thì nhiều tín đồ Ki-tô giáo đã tạo nên hình ảnh cầu kỳ là nhiều tông đồ đã nói với những ngôn ngữ lạ. Họ bỗng nhiên dùng những ngôn ngữ khác để người khác có thể hiểu họ. Ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng nhìn biến cố này như một diễn biến kỳ diệu. Họ nghĩ, giống như những người theo phái Hạ thân (Pentecostal), là các tông đồ lúc đó dùng ngôn ngữ của thiên thần. Hay họ nghĩ, như một số tín đồ Cơ đốc khác, là có người bị Thánh linh làm té ngã và người họ bị lay động mạnh và họ phải được khiêng ra ngoài, hay những chuyện tương tự. Các đệ tử chân sư thăng thiên vẫn còn lối hành xử đó, phàm linh tập thể đó, khiến họ mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu.

Có người mơ ước thấy một diễn biến kỳ diệu xảy ra trong cuộc đời họ, họ mơ ước có một cuộc gặp gỡ kỳ diệu với các thày sẽ thay đổi mọi chuyện. Một số mơ ước có một diễn biến kỳ diệu sẽ khiến người khác nhìn họ là người đặc biệt. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong các thập niên qua đã mơ ước có một diễn biến kỳ diệu qua đó các thày xuất hiện trên trời hay chính các đệ tử nhận được Thánh linh và họ có thể khiến người khác té ngã hay họ có thể chữa lành người khác. Họ có thể làm tất cả những chuyện này để có bằng chứng vật lý là các chân sư thăng thiên có thật, và qua đó hàng triệu người sẽ cải đạo và tin vào chân sư thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, các đệ tử đó là những người đã đem lại việc đó và do đó họ sẽ được nâng lên và tuyên dương. Các đệ tử chân sư thăng thiên cũng mang theo tư duy đã được tín đồ Ki-tô giáo tạo ra suốt 2,000 năm qua khi họ mơ ước là họ đặc biệt và sẽ được nâng lên. Các con đã lấy tư duy này, chuyển nó sang các chân sư thăng thiên và phóng chiếu lên các thày. Các con nghĩ là nếu các con nhận được Thánh linh thì một diễn biến kỳ diệu sẽ xảy ra. Có thể là sẽ có một diễn biến trong đó mọi người bỗng nhiên nói ngôn ngữ lạ, và tất cả bỗng nhiên có khả năng nhận bài truyền đọc, hay bất cứ điều gì khác mà họ tưởng tượng. Một đàng thì thày không muốn đặt giới hạn vào chuyện có thể xảy ra. Thánh linh có thể biểu hiện nhiều cách, nhưng thày muốn các con có một nhận định thiết thực. Trong thời đại tân thời này, các thày không làm phép lạ vì nhân loại đã tiến lên một tầng tâm thức khiến các thày có thể khiến họ chú ý bằng cách khác. Các thày không muốn cải đạo tất cả mọi người và khiến họ công nhận các chân sư thăng thiên. Các thày sẽ không tạo ra một biểu hiện không thể chối cãi được vì Luật Tự quyết đã rõ ràng: con người phải có quyền chối bỏ với lý do khả tín. Con người phải có thể dễ dàng chối bỏ sự hiện hữu của các thày, do đó các thày sẽ không thể hiện một bằng chứng không thể chối cãi được.

11.12. Con có Thánh linh chăng?

Ngay cả chuyện Thánh linh sa xuống, các thày sẽ không tạo ra một diễn biến ngoạn mục, con yêu dấu. Các thày mong muốn là mỗi người trong các con đều trải nghiệm là mình có Thánh linh. Con có nhiều xác suất trải nghiệm điều này khi con nói chuyện với người khác về một đề tài mà con thật sự coi là quan trọng, một đề tài gần kề với tim mình. Con có thể nhận thấy là có lúc giọng nói của con thay đổi đôi chút, rung động của con thay đổi, và con nói với rất, rất nhiều chân thành. Con yêu dấu, con lúc đó cũng trong trạng thái tâm trung hòa. Con không đang tìm cách cải đạo người khác một cách hung hãn, con không mong muốn được công nhận để con không phải cảm thấy bị ruồng bỏ. Con chỉ giản dị nói từ một tầng cao của bản thể của mình, và đó là một biểu hiện của Thánh linh.

Bây giờ thì câu chuyện các tông đồ nói bằng ngôn ngữ lạ mà trước đó họ không biết, chính thực không có thật. Đây là điều mà con người chỉ có thể phóng chiếu lên diễn biến đó với tâm đường thẳng của họ. Sự thực sâu thẳm hơn là một số tông đồ được thấm đẫm bởi Thánh linh và do đó họ có thể diễn đạt ý tưởng Cơ đốc giáo là gì qua một cách khiến người có quá trình khác nhau có thể hiểu các khái niệm và ý tưởng. Đây là một trong những biểu hiện chính của Thánh linh mà thày muốn các con cố đạt được. Con có thể đi vào trạng thái tâm trung hòa và có khả năng nói chuyện với nhiều người có quá trình khác nhau. Thay vì cho họ một chân lý tuyệt đối, mà với tâm vỏ ngoài con nghĩ là họ cần biết, thì con cho họ đúng những gì họ cần để tiến bước kế tiếp trên con đường tu của họ. Con có thể không biết điều này với tâm vỏ ngoài của mình, con có thể không biết vì sao con lại nói điều đó với họ, con chỉ cảm thấy dòng chảy và con tuôn theo dòng chảy.

Đây là một biểu hiện Thánh linh lợi ích hơn một trình diễn ngoạn mục rất nhiều. Bây giờ thì con có thể nói: “Vậy thày đang không làm một trình diễn ngoạn mục hay sao?” Ấy, điều này cũng có phần đúng. Nhưng điều thày đang làm có ngọan mục như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên chờ đợi, hay nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chờ đợi chăng? Không, không đâu. Các thày đang cố cho các con một cái gì vượt quá trình độ tâm thức bình thường, nhưng không vượt quá xa đến độ nó củng cố nơi con ý niệm xa cách. Các thày biết là bất cứ điều gì các thày làm cũng sẽ củng cố ý niệm xa cách nơi một số người, nhưng con hãy để ý xem có bao nhiêu giáo lý mà các thày bao năm qua đã trao truyền qua vị sứ giả này đã được thiết kế đặc biệt để giảm thiểu sự xa cách mà các con phóng chiếu là có giữa các thày và các con.

11.13. Vị chân sư nào gần với con nhất?

Thày sẽ luôn luôn ở bên conconconconcon, mỗi người và tất cả các con. Thày luôn luôn ở bên con, và vị chân sư thăng thiên nào gần tim con nhất cũng vậy. Vị chân sư nào gần tim con nhất? Con yêu dấu, thày không có ganh tỵ, thày không mong muốn độc quyền. Sự việc có một vị chân sư khác gần tim con hơn không khiến thày cảm thấy bị tổn thương. Tại sao vậy? Vì thày và vị chân sư đó là một.

Con hãy tìm ra vị chân sư gần tim mình nhất. Con hãy bước lui khỏi cuộc sống bận rộn thường nhật của con. Con hãy bước lui khỏi những bận rộn của con trong việc tu tập, với việc học giáo lý, đọc cầu thỉnh. Con hãy dành thì giờ để ngồi xuống và xem xét: “Tôi đang liên hệ với các chân sư thăng thiên như thế nào? Đây là vị thày mà tôi cảm thấy gần nhất. Làm sao tôi có thể tìm ra một cách mới để liên hệ với vị chân sư đó để tôi có thể giảm thiểu khoảng cách, lại gần hơn, có một trải nghiệm trực tiếp hơn?” Con cũng có thể tự hỏi: “Tôi có sẵn sàng để có một trải nghiệm trực tiếp hơn với một chân sư thăng thiên chăng?” Nếu con chưa sẵn sàng, thì một lần nữa thày không chỉ trích, thày không phán xét, thày không lên án. Thày hoàn toàn hiểu là ai nấy đều cần có thời gian trước khi sẵn sàng. Con thấy chăng, con yêu dấu, con đang ở đây vì khi con trải nghiệm một bài truyền đọc, thì con có một ý niệm hiện thực là các chân sư thăng thiên có thật. Các thày có thể nói chuyện với con. Thày chỉ muốn con xoay chuyển tâm mình để nhận ra rằng vì các thày có thật và có thể nói chuyện xuyên qua một sứ giả, nên các thày cũng có thể tương tác trực tiếp với con, với riêng con, trong tâm và trái tim của con.

Nếu con đã sẵn sàng làm chuyện này, thì có lẽ đã đến lúc con mạnh dạn bước ra, thẳng thắn hơn và tìm một cách khác để liên hệ với các thày. Có lẽ con xem xét lối hành xử của mình, như thày đã nói ở đầu bài, khi con liện hệ với các thày. Con có thể tự hỏi: “Dựa trên những chờ đợi hiện tại của tôi, thì tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi một chân sư thăng thiên tới gần tôi hơn?” Con sẽ thấy là nhiều khi có một phần tâm con, một phần tự ngã của con, thực sự sợ những thay đổi mà con sẽ phải đối mặt khi chuyện đó xảy ra, và đây có thể là một lãnh vực mà con có thể cần thì giờ để giải quyết vấn đề.

11.14. Con cần phải từ bỏ cái gì?

Đối với đa số các con, đây không phải là một điều mà con có thể giải quyết trong năm phút. Khi con tới một mức nào đó, thì điều lợi ích là con suy nghĩ và chiêm nghiệm về điều này: “Tôi nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra trong cuộc đời của tôi?” Sẽ có một phần bản thể của con sợ một số thay đổi vỏ ngoài sẽ phải xảy ra, một số chuyện mà con phải từ bỏ, và những điều tương tự. Nếu con nhìn những việc này một cách trung thực thì con dần dần sẽ bắt đầu thấy các nguyên nhân đằng sau, thấy những chờ đợi tiềm ẩn của con. Con có thể bắt đầu xem xét chúng. Con có thể bắt đầu bằng cách so sánh chúng với giáo lý của các thày. Con có thể bắt đầu suy ngẫm xem là con có mang chờ đợi đó từ tâm thức tập thể, hay đó là một phần của tự ngã của con. Con có thể dần dần tới điểm con thấy rõ con đang đứng ở đâu vào lúc này. Con có thể nhận ra rằng: Đúng là có một phần tự ngã đang sợ hãi và không muốn thay đổi vì có một phần nào đó trong cuộc đời của con mà con không muốn từ bỏ.

Bây giờ thày muốn cho con một thí dụ đơn giản. Có một vị đệ tử ở Hàn Quốc hỏi là vị ấy có thể là một đệ tử chân sư thăng thiên mà vẫn tham dự họp mặt ăn uống và uống rượu khi tụ họp chăng. Vị đó không chịu từ bỏ những chuyện này vì uống ượu khi hội họp là một phần quan trọng của gia đình và nền văn hóa của vị ấy. Đây chỉ là một thí dụ của một chờ đợi mà con có thể có. Nếu con muốn, thì con có thể xem xét nó. Con có thể nhìn vấn đề từ nhiều phía. Con cũng có thể tới điểm con nhận ra con không mất mát gì khi từ bỏ chuyện đó vì con thực sự đã sẵn sàng tiến lên một tầng khác.

Một số người trong các con đã tới điểm có quyết định tự phát từ bỏ uống rượu, nhưng đây chỉ là một thí dụ. Con đừng đặt hết tâm trí vào việc này vì có nhiều chuyện khác mà con có thể nghĩ con cần từ bỏ. Con yêu dấu, con lúc nào cũng có thể tìm ra một cách khác để nhìn vấn đề mà không bị bắt buộc phải từ bỏ một sinh hoạt vỏ ngoài.

Thày muốn cho con một thí dụ khác là trong các đợt truyền giáo trước, có nhiều đệ tử cảm thấy là sau khi họ đã theo học giáo lý chân sư thăng thiên, thì họ không thể liên hệ với những người không theo giáo lý. Nhiều người gặp khó khăn liên hệ với người phối ngẫu của họ, và rất nhiều vụ ly dị đã xảy ra vì lý do này. Các thày không bao giờ muốn thấy chuyện này xảy ra, nhưng đó là nền văn hóa của tổ chức đó. Lý do là vì họ có một cái nhìn trắng-đen hơn về con đường tu: con hoặc ở trong hoặc ở ngoài. Hoặc con hoàn toàn ở trong, và con phải theo tất cả các luật lệ của tổ chức, hoặc con ở ngoài. Nếu con có một người phối ngẫu không chịu ở trong, thì con không thể liên hệ với vị đó, và từ đó xung đột nảy sinh. Thực tế là nếu con xoay chuyển tâm thức, nếu con thay đổi cách nhìn trắng-đen về con đường tu và về các chân sư đầy lòng phán xét, thì con có thể dễ dàng, hoặc ít ra là với thời gian con có thể tìm một cách để liên hệ với người phối ngẫu đang không đi trên con đường tâm linh hay đang không theo học giáo lý chân sư thăng thiên.

11.15. Lối hành xử của con liên quan đến tình dục

Con có thấy chăng, vấn đề không chỉ giản dị là nghĩ hay nhận ra là có một phần tự ngã của mình đang nghĩ: Nếu tôi lại gần các chân sư hơn, thì liệu tôi có sẽ phải từ bỏ điều này hay điều nọ. Nhiều người trong các con có thể sợ phải từ bỏ tình dục, chẳng hạn. Thành thật mà nói thì đây có lẽ là nỗi sợ lớn nhất của các đệ tử trên con đường tâm linh.

Một cách nhìn khác là luôn luôn xem xét chính mình, xem xét lối hành xử của mình liên quan đến tình dục. Con hãy xem xét lối hành xử của con liên quan đến tình dục, và xem nó tương tác ra sao với lối hành xử của con liên quan đến con đường tâm linh. Con có thể thấy là con có hai phàm linh đang chống đối nhau. Sau đó, con hãy nhận ra là có một phàm linh đang phóng chiếu là khi con tiến cao hơn trên con đường tâm linh, thì con phải từ bỏ tình dục. Và có phàm linh kia thét lên rằng: “Không, bạn không thể làm vậy!” Sau đó, con có thể tới điểm nhận ra là chúng chỉ là phàm linh, chúng không phải là con – và con có thể thăng vượt chúng, con yêu dấu. Con có thể thăng vượt cả hai phàm linh đó, và nhận ra rằng khi con xoay chuyển tâm, thái độ của con về tâm linh và thái độ của con về tình dục và sự tương tác giữa hai thái độ đó, thì con có thể vẫn vui hưởng tình dục vừa theo đuổi con đường tâm linh.

11.16. Hãy chấp nhận ở đây trước khi con rời nơi này

Con có thể tới điểm con gần hội đủ điều kiện để thăng thiên nhưng con đã đi theo con đường tu khổ hạnh và rút lui khỏi sinh hoạt trần thế. Nếu con không hoàn toàn chấp nhận con đang ở trong thân thể vật lý, nếu con không vui hưởng những sinh hoạt mà con có thể có với thân thể vật lý, thì con không thể bỏ trái đất lại đàng sau, con thực sự không thể thăng thiên. Con có thể nói là thực sự có nhiều tà lực, tà thể hay ác quỷ đang tìm cách dùng động lực tình dục để dụ dỗ con người vào nhiều vòng xoáy hướng hạ để hút năng lượng của họ. Chắc hẳn là có một lúc ta phải áp dụng kỷ luật để không bị lôi kéo vào những vòng xoáy tiêu cực đó. Đó là lý do vì sao các phong trào tâm linh truyền thống đã nói rằng người tâm linh phải từ bỏ tình dục. Một số trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước và đã có nhu cầu tuân theo kỷ luật này. Lúc nào con cũng có thể tiến lên một tầm nhìn khác và nói: “Tôi đang sống trong loại thân thể nào? Một thân thể thân thiện hay thù nghịch?”

Con sẽ thấy là rất rất nhiều người tâm linh thực sự nghĩ rằng thân thể vật lý là thù nghịch của sự tăng triển tâm linh của họ. Sau đó, con có thể làm việc trên đề tài này, xem xét nó, và con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con đang sống trong một thân thể thân thiện. Khi con đang ở trong thân thể này, thì có một số sinh hoạt con có thể làm với thân thể đó, và thực sự không tội lỗi hay phản-tâm linh khi con vui hưởng các sinh hoạt đó. Sinh hoạt này có thể là có tình dục, hay ăn một bữa cơm ngon, hay tương tác với người không theo một giáo lý tâm linh nhưng vẫn là người tốt. Họ thuộc vào gia đình của con và con vui hưởng ở gần họ. Đâu có lý nào chuyện này là phản-tâm linh khi con nhìn nó từ một góc độ trung hòa và không bị mắc kẹt trong lối suy nghĩ trắng-đen?

Con cũng có thể tiến thêm bước nữa và xem xét sức khỏe vật lý của mình, và có thể bắt đầu tự hỏi: “Tôi đang sống trong một thân thể thù nghịch hay thân thiện?” Nếu con đang bị một căn bệnh dằn vặt thì con vẫn có thể (nếu con muốn) làm việc trên thái độ mà con có đối với thân thể vật lý. Lối hành xử của con là gì? Con chờ đợi chuyện gì có thể xảy ra và không thể xảy ra? Con thực sự nghĩ gì về thân thể vật lý này, đặc biệt là liên quan đến sự tăng triển tâm linh của mình? Con có thể tới điểm chấp nhận là con đang sống trong một thân thể thân thiện có khả năng và mong muốn hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Một số trong các con sẽ thấy là điều này có thể đem lại sự chữa lành của một số căn bệnh mà trước đó con không thể khỏi được. Một số khác có thể không được chữa lành trên mặt vật lý nhưng có thể tìm ra cách để làm hòa với căn bệnh để nó không cản trở sự tăng triển tâm linh của mình.

11.17. Cách dùng bài truyền đọc này

Một lần nữa, đây lại là một trong những bài truyền đọc trong đó các thày đưa ra rất nhiều ý để các con suy ngẫm. Lẽ đương nhiên, các thày làm như vậy vì các con không hay tụ tập như một đám đông. Các thày cũng làm vậy vì nhiều người trong nhóm này đã tới một trình độ trên con đường của quả vị Ki-tô khiến con sẵn sàng đón nhận giáo lý này hay ít ra là một phần trong đó. Một lần nữa, con không cần về nhà và đọc lại bài truyền đọc và xem xét từng điểm mà thày trao truyền, và nghĩ rằng con phải học tập và áp dụng tất cả mọi điểm cùng một lúc. Con cần tìm ra một điều gì, một điều trong bài giảng hấp dẫn con ở tầng hiện tại của con. Sau đó, con dùng nó, con thể nhập với nó và con dùng nó để tiến lên một tầng cao hơn. Sau đó, con có thể đọc lại bài giảng và tìm xem có điều gì khác cho con chăng.

Bây giờ, thày khuyến khích học tập bài truyền đọc mà thày trao truyền ở Hàn Quốc về quả vị Ki-tô và bài truyền đọc của Phật Gautama ở Hàn Quốc (hai chương trước chương này) và thấy là hai bài đó tạo nên phần alpha trong khi bài này là phần omega, một cái nhìn thực tiễn và thiết thực hơn.

11.18. Giữ trung hòa để Tánh linh tuôn chảy

Điều thày muốn nói trước khi chấm dứt bài này là: Thánh linh thổi nơi nó muốn, như có nói trong Thánh kinh. Câu này thực ra không thể hiện cái nhìn cao nhất về đề tài này. Thánh linh không thổi nơi nó muốn; nó chỉ thổi, nó thổi không ngừng và nó tuôn chảy không ngừng. Lý do vì sao câu nói đó được trao truyền lúc đó là vì nhiều người thời đó không hiểu được tại sao có lúc một người nhận được dòng chảy của Thánh linh, có lúc là một người khác, và có lúc không ai nhận được. Họ không hiểu tại sao vì họ nhìn vấn đề với tâm vỏ ngoài.

Ngay cả các tông đồ của thày có khuynh hướng dùng tâm vỏ ngoài và tạo ra một cấp bậc trong nhóm tông đồ, một loại xếp hạng ai cao nhất, ai là người tinh tiến nhất. Điều không may là Peter thường nghĩ ông là người cao nhất, trong khi sự thực ông là người có tâm thức thấp nhất trong các tông đồ. Những lượng giá vỏ ngoài này quả thực đã ngăn chận dòng chảy của Thánh linh vì chìa khóa để nhận dòng chảy của Thánh linh là giữ tâm trung hòa, mà các con đều có thể trau dồi và đều đã có trải nghiệm trong một thoáng. Nó gần giống như khi con đứng yên và không có gì kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể gọi đây là trạng thái nhận biết thuần khiết, nhưng con trung hòa. Con đang tương tác với người khác, nhưng con không phán xét là người đó phải được nghe gì và phải chấp nhận cái gì. Con không mong muốn cải đạo người đó. Con còn không có cả mong muốn giúp người đó. Con không có chờ đợi cá biệt nào về điều gì phải được nói ra, chuyện gì phải xảy ra, và người kia phải phản ứng ra sao. Con chỉ trung hòa và đó là lúc con là cánh cửa mở. Đó là lúc Thánh linh có thể tuôn chảy xuyên qua con, con yêu dấu.

Khi con xem xét hiện tượng truyền đọc và số đông những người tiếp xúc với cõi trên (channeller), thì con thấy là những người không giữ tâm trung hòa chỉ hòa điệu được với các cõi thấp – cõi cảm xúc, cõi lý trí, phần thấp của cõi bản sắc. Những điều được trao truyền qua họ có thể có vài ý niệm chân chính, nhưng cũng có những ý niệm méo mó và không có rung động giải thoát con người. Một người sứ giả hay một người tiếp xúc với cõi trên càng trung hòa thì thông điệp có thể truyền qua họ càng thuần khiết. Khi con nghe hay đọc một bài truyền đọc, tâm con càng trung hòa thì các lóe sáng hiểu biết mà con nhận được càng sâu sắc.

Một sắc thái khác của Thánh linh là con không nhất thiết nói nhưng con cũng nhận một số lóe sáng hiểu biết rõ ràng bắt nguồn từ phần cao của tâm con hay từ các thày. Đây là một hình thức dòng chảy bên trong của Thánh linh và khi con nói ra thì đó là phần chảy bên ngoài của Thánh linh, nhưng cả hai khía cạnh đều thuộc vào con đường tu của con.

Như các thày đã nói, sẽ có một điểm khi quả vị Ki-tô mà không được thể hiện thì không phải là quả vị Ki-tô. Con phải tiến lên cao hơn và thay vì chỉ học hỏi và hội nhập giáo lý, thì con bắt đầu ban phát nó ra. Đó là lúc con trải nghiệm dòng chảy alpha và omega của Thánh linh, là khi con nhận được lóe sáng hiểu biết và con dùng chúng để giúp người khác. Con sẽ nhiều lần thấy rằng khi con nói chuyện với người khác, con bỗng nhiên có một số ý tưởng mà trước đó con không có. Con bỗng nhiên có một lóe sáng hiểu biết mà trước đó con không có. Đó là dòng chảy của Thánh linh. Nó không phải là một biểu diễn ngoạn mục. Nó không phải là một biến cố kỳ diệu. Nó chính thực là điều gì mà tất cả các con đều đã trải nghiệm. Thày chỉ giản dị nói rằng khi con nhận ra chúng một cách có ý thức, khi con theo những gợi ý mà thày giảng trong bài này, thì con có thể gia tăng những lúc con có trạng thái tâm trung hòa.

11.19. Con có cần phải có ý kiến không?

Một số các con có thể phải làm việc để đạt tâm trung hòa vì nó đòi hỏi con giải thoát mình khỏi một số chuyện bên ngoài đang tìm cách lối kéo con vào một khuôn nếp phản ứng. Có thể là một số các con cần đi qua một tiến trình trong đó con xem xét một điều rất đơn giản: “Trên cương vị một con người, tôi có cần có ý kiến không?” Đa số các con được dạy dỗ là con phải có ý kiến. Con phải có ý kiến về đảng phái chính trị này hay đảng phái kia, về vấn đề này hay vấn đề kia. Con có thể tới điểm con nhận ra là đại đa số ý kiến con người đến từ các phàm linh nội tại của họ, và các phàm linh này chịu ảnh hưởng của các phàm linh tập thể.

Con thấy có rất nhiều trường hợp hai người có ý kiến đối ngược về một vấn đề, nhưng đây chỉ giản dị là có hai phàm linh đang tranh luận qua hai người đó. Con có thể tới điểm con tự hỏi: “Đây có phải là cách tôi muốn tương tác với người khác chăng, bằng cách luôn luôn bày tỏ ý kiến của mình và tìm cách thay đổi ý kiến người kia? Có thể nào tôi tới điểm tương tác với người khác nhưng tâm tôi trung hòa và do đó tôi mở lòng ra để nói một điều không phải là ý định đã định trước, nhưng là một điều tới từ một nguồn cao hơn, có thể sẽ khai ngộ tôi và có thể khai ngộ người kia, nhưng không đến từ một ý định từ tâm có ý thức của tôi. Tôi chỉ để cho chuyện đó xảy ra?”

Đã có nhiều người qua các thời đại đã dùng nhiều nỗ lực, nhiều nghi thức để nhận được Thánh linh. Có những phù thủy đen đã tìm cách tạo ra một phương pháp, hoặc một dụng cụ có thể giúp họ nhận được một cách máy móc dòng chảy của Thánh linh. Họ chưa bao giờ nhận được dòng chảy của Thánh linh. Họ có thể nhận được dòng chảy của một số phàm linh tập thể có vẻ rất dũng mãnh, nhưng đó không phải là Thánh linh. Con không thể ép Thánh linh. Đó cũng là lý do vì sao có câu nói là Thánh linh tuôn chảy nơi nó muốn. Con yêu dấu, con không thể ép nó, nhưng con có thể nhận nó.

Mấu chốt là muốn nhận nó thì phải có khoảng trống. Nếu tâm con chứa đầy ý kiến thì có thể không còn chỗ để Thánh linh biểu hiện. Thày muốn giải thoát các con. Thày muốn cho phép con được tự do khỏi mọi ý kiến nhân gian. Con thực sự có thể cảm thấy là khi con buông bỏ những ý kiến đó, thì giống như con được giải thoát khỏi một máy chạy bộ cứ lôi cuốn con đi. Bỗng nhiên tâm con không cần phải cảm thấy là ý kiến này luôn luôn bị đe dọa và con cần phải đề phòng các mối đe dọa. Khi con đọc điều gì trên mạng Internet có thể đe dọa ý kiến đó thì con cảm thấy bất an. Hay khi con gặp người nào có ý kiến khác thì con phải đi vào một cuộc tranh luận và tìm cách khiến họ đổi ý. Bất thình lình con không cảm thấy bị mất năng lượng nữa và con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình là đã buông bỏ ý kiến nhân gian đó.

Thày có thể bảo đảm là con có lẽ sẽ gặp một người quen con từ lâu nhìn con và nói: “Bạn sao kỳ vậy, tại sao không còn ý kiến gì nữa?” Con hãy xem họ cảm thấy thế nào về chính họ và con cảm thấy thế nào về chính mình, và nói: “Tôi muốn mình ở đâu, trong tâm người đó hay trong tâm mình?” Sau đó, con sẽ dễ dàng buông bỏ tất cả các ý kiến đang không khiến con thoải mái với chính mình, không khiến con thoải mái với thế gian. Chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một vũ trụ thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang tương tác với các chân sư thân thiện, chúng không giúp con cảm thấy con đang sống trong một thân thể thân thiện.

Con hãy nghĩ xem: nếu mục đích của con là cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, với các chân sư thăng thiên, với thế giới vật chất và với thân thể vật lý của mình, thì con hãy xem xét những gì đang lôi kéo sự chú ý của con và tự hỏi chúng có đang giúp con cảm thấy thoải mái hơn hay không. Nếu nó không khiến con cảm thấy thoải mái hơn, thì thày cho phép con buông bỏ nó. Thày bảo đảm là nếu một điều gì không giúp con cảm thấy thoải mái hơn với chính con, với thế giới nơi con sống và với các chân sư, thì điều đó không giúp con tăng triển tâm linh. Nó không giúp con tiến về hướng quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, nếu con nhận thấy là con đang nhấp nhỏm một chút trên ghế và cảm thấy khó ngồi yên, thì đó giản dị là vì chúng ta đã tới điểm thày đã trao truyền cho con tối đa mà con có thể nhận. Mặc dù thày mong thày có thể tiếp tục nói thêm một hay hai tiếng nữa, thày nhận ra sự kiện đơn giản là vũ trụ vật lý đặt ra một số giới hạn cho sự tương tác kiểu này giữa chúng ta. Vũ trụ vật lý không đặt giới hạn lên cách con và thày, hay một vị chân sư khác, có thể tương tác trực tiếp trong tâm của con. Các thày không muốn các đệ tử chân sư thăng thiên mãi mãi nghĩ rằng cách duy nhất mà họ tương tác với các chân sư thăng thiên là xuyên qua một vị sứ giả hay một giáo lý vỏ ngoài. Các thày muốn tất cả các con tới được điểm có tương tác trực tiếp với các thày trong trái tim mình và trong tâm mình,

Tới đây thì thày cảm ơn các con, thày cảm ơn các con từ đáy lòng đã hội họp nơi đây nhân ngày lễ Hạ thiên này. Thày bảo đảm với các con là những lời kêu gọi của Mẹ Mary là các hội nghị này quan trọng không vô ích, là điều Mẹ Mary có thể sẽ nói với các con sau khi các con đã giải quyết nhu cầu của thân thể vật lý.

Do đó, con yêu dấu, thày cảm ơn các con một lần nữa. Thày bảo đảm với con là thày tri ân và rất vui mừng có một nhóm đệ tử sẵn sàng để cho thày nói một cách tự do và cởi mở như thế này. Nếu thày đã làm được chuyện này trong 2000 năm vừa qua thì thế giới thật sự đã khác ngày nay.

Hiểu tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5 tháng 5 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày đã không có ý định nói trong hội nghị này vì lần trước thày đã có dịp nói ý mình. Nhưng vì các con đã hỏi vị sứ giả nhiều câu hỏi về quả vị Ki-tô, nên thày quyết định là các con sẽ được lợi lạc nếu thày thuyết giảng về đề tài này.

9.1. Mối đe đọa lớn nhất cho tà lực

Các con yêu dấu, điều đầu tiên hết mà chúng ta cần nhìn nhận là quả vị Ki-tô cá nhân, tức là khi con mang vào mình tâm thức Ki-tô, là mối đe dọa lớn nhất cho tà lực và các thày giả trên hành tinh này. Do đó, họ đã làm tất cả mọi điều mà họ có thể nghĩ được để ngăn chặn con người biết về quả vị Ki-tô, thấy là đạt quả vị Ki-tô là một điều thiết thực mà họ có thể làm được, và hiểu tiến trình thành tựu quả vị Ki-tô và nó nghĩa là gì.

Tà lực đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để tạo ra đủ loại mưu mô làm lạc hướng, dựng lên những mục đích tâm linh khác có thể dẫn tới một trạng thái nhận biết cao hơn nhưng không đe dọa họ nhiều bằng quả vị Ki-tô. Họ cũng đã làm mọi điều mà họ có thể nghĩ ra để định nghĩa quả vị Ki-tô theo cách khiến người hành giả muốn đạt được hay cố gắng đi tới một mục đích tối hậu và rồi bỗng nhiên nghĩ rằng họ đã đạt được mục đích và không cần tiến xa hơn nữa.

9.2. Không có trạng thái tối hậu

Con yêu dấu, điều quan trọng nhất mà con có thể nhận ra về quả vị Ki-tô là nó là một tiến trình liên tục. Con có thể đạt quả vị Ki-tô khi còn đang hiện thân, nhưng không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu mà con có thể đạt khi đang hiện thân. Chúng ta có thể nói không có một trạng thái quả vị Ki-tô tối hậu theo nghĩa là không có trạng thái tâm thức nào tối hậu, có thể ngoại trừ tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ngay cả nó cũng thăng vượt chính nó khi nó sáng tạo. Con cần nhận ra ở đây là không có một trạng thái tối hậu.

Cuộc sống, sự nhận biết, sự tự nhận biết là một tiến trình liên tục. Khả năng tự thăng vượt lúc nào cũng có. Chưa từng có – chưa từng có – một trạng thái bất động trong thế gian. Chưa từng có một trạng thái bất động trong thế gian và sẽ không bao giờ có. Chưa bao giờ có cái khởi đầu và sẽ không bao giờ có cái chấm dứt. Có thể có một khởi đầu và chấm dứt của một chu kỳ, nhưng không có cái khởi đầu tối hậu mà trước đó không có gì cả. Có cái khởi đầu của thế giới hình tướng của chúng ta khi đấng Sáng tạo hiện hữu trong chính ngài nhưng đấy không phải là cái khởi đầu tối hậu, bởi vì chưa bao giờ đã có cái khởi đầu tối hậu. Sẽ không bao giờ có cái chấm dứt tối hậu.

9.3. Con không thể hiểu quả vị Ki-tô

Đây là điều mà tâm đường thẳng thấy rất khó lãnh hội và đó là lý do vì sao con cần hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Tuy nhiên, con có thể tới chỗ hiểu được là con không thể hiểu quả vị Ki-tô. Khi con hiểu là con không thể hiểu quả vị Ki-tô và tại sao con không thể hiểu quả vị Ki-tô, thì lúc ấy con có thể bắt đầu nắm được đôi chút thoáng biết quả vị Ki-tô là gì.

Con cần nhận ra ở đây là đa số con người trên trái đất đã bị lập trình để suy nghĩ qua tâm đường thẳng, tâm phân tích và duy lý. Tâm này không thể hiểu, nắm bắt và xử lý quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô vượt lên trên những gì tâm đường thẳng có thể xử lý. Đó là lý do vì sao con cũng cần hiểu là cách con nhìn quả vị Ki-tô ngay bây giờ không phải là cách tối hậu nhìn quả vị Ki-tô. Dù thày là một chân sư thăng thiên, thày vẫn không thể cho con một bài thuyết trình tối hậu về quả vị Ki-tô vì quả vị Ki-tô là một tiến trình nâng cao tâm thức dần dần.

Các thày đã cho các con kiến thức về 144 tầng tâm thức có thể có được trên trái đất. Như vậy chúng ta có thể nói quả vị Ki-tô là tiến trình qua đó con bắt đầu từ tầng 48 và dần dần nâng tâm thức lên tầng 144. Khi tới tầng 144 thì con đạt được mức cao nhất của quả vị Ki-tô mà có thể đạt được trên trái đất trong tình trạng hiện nay.

Điều này có nghĩa là, con yêu dấu, khi con bắt đầu ở tầng 48 thì con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, nhưng đó không phải là hiểu biết trọn vẹn. Khi con tăng triển tới các tầng tâm thức cao hơn thì sự hiểu biết và trải nghiệm của con về quả vị Ki-tô sẽ thay đổi. Con sẽ không nắm biết được trọn vẹn quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt tầng 144. Do đó, con thấy được là không thể đưa ra một định nghĩa về quả vị Ki-tô mà những người ở nhiều tầng tâm thức khác nhau từ 48 tới tầng 144 có thể hiểu được.

Tại sao thày nói là bắt đầu từ tầng 48? Bởi vì những người ở dưới tầng 48 không thể hiểu được quả vị Ki-tô. Lẽ dĩ nhiên họ có thể nghe tới khái niệm quả vị Ki-tô. Họ cũng có thể quyết định là họ muốn đạt quả vị Ki-tô, nhưng họ không thể hiểu quả vị Ki-tô thực sự nghĩa là gì. Do đó, họ có thể tạo một nhận thức lý trí, duy lý, đường thẳng về quả vị Ki-tô là gì. Họ còn có thể nghĩ rằng họ đang tiến triển trên đường tới mục đích đó nhưng không phải vậy đâu, con yêu dấu. Con có thể nâng cao tâm thức từ tầng thấp nhất lên tới tầng 48, và như vậy con đang tiến bộ theo nghĩa tâm linh nhưng con còn chưa bắt đầu tiến trình mang vào quả vị Ki-tô.

Lý do là vì con còn quá dính chặt vào tâm vỏ ngoài. Tâm này nghĩ rằng nó có thể hiểu mọi chuyện bằng cách tạo nên những nhãn hiệu, và sau đó thêm phán xét giá trị vào nhãn hiệu mà họ đã tạo ra dựa trên tư duy nhị nguyên. Rồi sau đó họ nghĩ họ có thể định nghĩa quả vị Ki-tô dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài. Họ nghĩ họ có thể lập ra một danh sách và nói rằng: “Khi tôi hội đủ một tiêu chuẩn thì tôi sẽ đánh dấu là đã làm xong. Sau đó tôi sang tiêu chuẩn tới, và đánh dấu đã làm xong. Khi tôi đến cuối danh sách và đã đánh dấu hết mọi tiêu chuẩn, thì tôi đạt được quả vị Ki-tô.” Đó là lý do duy nhất những người ở dưới tầng tâm thức 48 có thể nhận định về quả vị Ki-tô.

Có nhiều thày giả trên thế giới chỉ cho con một con đường tu dẫn tới một mục đích nào đó. Họ có thể không gọi đó là quả vị Ki-tô, họ có thể gọi đó là nhận biết cao, tâm thức toàn vũ, giác ngộ hay bất cứ gì khác. Nhưng đấy là một con đường tu máy móc, con đường tu vỏ ngoài. Qua việc thực hành một số bài tập hay nghi lễ, hay học giáo lý, nhớ thuộc lòng, họ nghĩ rằng họ có thể hội đủ điều kiện để lên thiên đàng khi họ làm tròn một số tiêu chuẩn được quy định trên trái đất.

9.4. Bắt đầu quả vị Ki-tô

Giờ đây, con yêu dấu, khi con đi cao hơn tầng tâm thức 48, con có thể bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô. Có thể lúc đó con vẫn còn nhiều hiểu lầm về quả vị Ki-tô nhưng để có thể đi quá tầng 48, con đã có đức tính cốt yếu để bắt đầu tiến trình quả vị Ki-tô, đó là sự sẵn sàng lắng nghe trực giác của mình, ngay cả khi tâm duy lý, đường thẳng nói với con điều gì khác. Nói cách khác, chuyện xảy ra ở tầng 48 là con bắt đầu nghe theo trực giác của mình trong một số tình huống và do đó, con phớt lờ, bỏ qua một bên hay vô hiệu hóa tâm duy lý, đường thẳng, suy luận, lý trí và phân tích của mình.

Tất cả các con đang ở đây sẽ thấy – và tất cả các con đều ở trên tầng tâm thức 48 vì nếu không thì các con không ở đây – là con đã lấy quyết định đi vào con đường tâm linh. Bạn bè và gia đình con khó thông cảm con vì họ suy luận một cách duy lý, đường thẳng là con không nên làm điều con đang làm, con không nên tin hay chấp nhận những điều con đang chấp nhận. Có thể là con không thể cho họ một hiểu biết duy lý và đường thẳng mà họ có thể chấp nhận, vì sao con đang làm những chuyện con đang làm. Con giản dị biết đây là chuyện đúng cho con.

Như thế, đây là cốt yếu của quả vị Ki-tô giữa tầng 48 và 96. Con nâng tâm thức bằng cách dùng Bảy Tia Sáng như các thày đã mô tả trong khóa học tự điều ngự, là một con đường tuần tự do các Thượng sư hướng dẫn. Khi con tu như vậy thì con gia tăng trực giác, thực sự là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con và với các chân sư thăng thiên. Điều này có nghĩa là con càng ngày càng muốn lờ đi tâm duy lý của mình, cũng như những thúc đẩy, phóng chiếu đến từ bên ngoài, như từ người khác (như gia đình hay bạn bè), xã hội, tâm thức đại chúng, tà lực hay bất cứ gì khác.

Khi con lên cao hơn, sẽ có nhiều phóng chiếu hơn nhưng con càng ngày càng giỏi hơn trong việc không để chúng ảnh hưởng mình. Khi con tiến về hướng tầng 96, con gia tăng khả năng đọc sự rung động, đọc mức độ năng lượng của một người đang nói chuyện với con, của một ý tưởng đến với con hay ngay cả những phóng chiếu mà các lực thấp đang phóng tới con. Con tiến bộ hơn trong việc đọc mức độ rung động, và con giỏi hơn trong việc cảm nhận nó ở dưới một mức nào đó hay ở trên mức đó.

9.5. Học cách đọc rung động

Bây giờ, con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây là khi con đi lên trên tầng tâm thức 48, thì con đã thiết lập được trong chính bản thể của mình, trong tim mình, một sự rung động nào đó mà con biết là cao hơn sự rung động dựa trên sợ hãi của thế gian. Đây là sự rung động cao nhất mà con có thể nhận ra với tầng mức tâm thức của con. Tỷ dụ như ở tầng 48, con có một mức rung động nền nào đó mà con có thể nhận ra. Do đó, con nhận ra được là có một số thứ rung động rõ ràng ở dưới mức này và một số thứ khác rung động trên mức này. Cũng có thể con thấy khó nhận ra các rung động quá cao trên mức này. Cũng có thể, con gặp khó khăn phân biệt giữa rung động nền của con và các rung động thấp hơn nó một chút, nhưng con có thể cảm nhận rõ ràng sự khác biệt giữa rung động nền của con và rung động rất thấp dưới nó.

Bây giờ khi con lên các tầng cao hơn hướng tới tầng 96, con có thể nhận ra những rung động cao hơn. Điều này có nghĩa là giờ đây con có thể nhận ra những rung động càng ngày càng cao hơn. Lẽ dĩ nhiên, con không quên rung động nền mà con có ở tầng 48 và do đó bây giờ con có thể nhận ra một dải rung động cao ngày một rộng hơn. Điều này cũng có nghĩa là con giỏi hơn trong việc phân biệt những rung động thấp hơn tầng 48 một chút, và do đó tà lực càng lúc càng khó lừa được con.

Con sẽ tới một điểm đạt tới tầng 96, khi ấy con đạt được khả năng đọc bất kỳ rung động nào mà sa nhân phóng tới con từ dưới tầng 48. Nói cách khác, con không thể bị lừa bởi một rung động ở dưới tầng 48, dù nó được ngụy trang tài tình đến đâu chăng nữa. Con có thể tự mình nhận ra rung động đó. Điều này không có nghĩa là con đã đạt được trọn vẹn quả vị Ki-tô. Thực sự thì đây là giai đoạn sơ bộ của quả vị Ki-tô, và tiến trình thực sự đạt quả vị Ki-tô cá nhân – trở thành Ki-tô Hằng sống (Living Christ) – bắt đầu trên tầng 96.

9.6. Khai ngộ tại tầng 96

Tuy nhiên ở tầng 96, con đối mặt với một khai ngộ quyết định, và con thấy thày trải qua khai ngộ này khi thày bắt đầu sứ mệnh của thày. Thánh kinh không mô tả rành rọt sự việc này nhưng con thấy hoàn cảnh bữa tiệc cưới ở Cana, khi mẹ của thày phải thúc đẩy thày biến nước thành rượu và như thế ra mặt khởi sự sứ mệnh công chúng của thày. Trong Thánh kinh cũng có một số ám chỉ khác, như lễ rửa tội do Giăng Báp-tít (John the Baptist), và một số ám chỉ vi tế khác.

Điều thày muốn nói ở đây là khi con tới tầng 96, con đối mặt với một quyết định hệ trọng. Con có thể tiếp tục theo đuổi sự tăng triển tâm linh để nâng mình và trạng thái tâm thức của mình lên cao hơn, hay con có thể chọn lựa là kể từ điểm này trở đi, con theo đuổi sự tăng triển tâm linh không phải để tự nâng mình lên mà để phụng sự và nâng toàn thể lên.

Sự khác biệt trông có vẻ vi tế. Nó có vẻ vi tế vì nó thực sự vi tế. Trên thực tế, hầu hết mọi người ở dưới tầng 96 sẽ không hiểu được sự vi tế này và những người dưới tầng 48 thì sẽ không hiểu được gì cả. Họ còn không thể thấy được tại sao phải có chọn lựa đó. Con yêu dấu, quả vị Ki-tô ở các tầng cao của tâm thức không chú trọng vào việc nâng cao tâm thức của mình, nâng cao cái ta của mình. Con hiểu chăng, con yêu dấu, là giữa tầng tâm thức 48 và 96, con nâng cao cá thể của mình, như con thấy nó lúc đó, vượt lên trên sức hút của tâm thức đại chúng?

Như tình trạng tâm thức đại chúng hiện nay trên trái đất, không cách chi con có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao nếu con bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể. Do đó ở tầng 48, con nhận ra là con có tiềm năng, với tư cách một cá nhân, nâng mình lên cao hơn tâm thức đại chúng. Ở tầng 48, con có một ý niệm bản ngã nào đó, một ý niệm bản sắc nào đó, một hiểu biết trí năng mình là ai, một hiểu biết tình cảm mình là ai và một hiểu biết vật lý có ý thức mình là ai. Như con thấy mình là ai ở tầng 48, đó là cái ta mà con bắt đầu nâng lên.

Giờ đây, lẽ dĩ nhiên, cái ta này thay đổi khi con tiến về hướng tầng 96, nhưng trên căn bản con vẫn còn xem mình là một cá thể đang đi trên con đường tâm linh và đang nâng cao tâm thức của mình. Đây là điều không tránh được, đây là điều cần thiết – và điều này không có gì sai trái – là con có một động cơ thúc đẩy con muốn nâng mình lên cao hơn, muốn con đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Tuy nhiên, điều này cũng tạo cơ hội để các thày giả ảnh hưởng con một cách vi tế. Họ đã làm điều này, ví dụ bằng cách mô tả quả vị Ki-tô, giác ngộ hay tâm thức toàn vũ như một trạng thái siêu nhiên giúp con đạt được quyền năng siêu nhiên, như biến nước thành rượu, đi trên nước hay làm người chết sống lại – hoặc bất kỳ điều gì khác. Họ khiến con nghĩ con sẽ trở thành một siêu nhân với quyền năng siêu nhiên. Có nhiều người mong muốn có quyền năng như thế và mong muốn bước ra ngoài chứng minh những quyền năng này với người khác. Họ có thể có thiện ý muốn thu hút người khác vào con đường tâm linh, nhưng đằng sau đó luôn luôn có thúc đẩy vị kỷ muốn nâng mình lên cao hơn người khác. Nói cách khác, khi con đi trên con đường tu từ tầng 48 lên 96, thì lúc nào con cũng còn một yếu tố vị kỷ.

Khai ngộ mà con đối mặt ở tầng 96 là: Con có sẵn sàng buông bỏ ham muốn tăng trưởng đến từ cái ta không? Con có sẵn sàng bước lên một động lực cao hơn và nhận ra rằng mục đích thật sự của sự thăng thiên là bây giờ con sẽ bắt đầu tháo dỡ cái ta mà con đã sử dụng như cỗ xe để tiến lên từ tầng 48 tới tầng 96?

Bây giờ con có thể so sánh điều này với hỏa tiễn không gian có hai tầng, con yêu dấu. Tầng đầu có động cơ với một bình nhiên liệu vĩ đại cần thiết để đưa hỏa tiễn vượt khỏi hấp lực của trái đất. Con cần có cái ta đó giữa tầng 48 và tầng 96. Thày không khiển trách ai hết. Việc này không có gì sai trái cả. Việc này cần thiết, nhưng như con thấy với trường hợp hỏa tiễn, một khi đã đi vào không gian, thì nó không cần động cơ khổng lồ và bình nhiên liệu đó nữa bởi vì chúng chỉ cần thiết để đưa tới giai đoạn thứ nhì. Do đó, hỏa tiễn phải tách ra và để chúng rơi xuống.

Sự khác biệt cốt yếu ở tầng 96 là sự khác biệt giữa những người hiểu được điều này và những người không hiểu. Có những người ở tầng 96 tiếp tục tìm cách nâng mình lên. Và có những người thấy được nhu cầu buông bỏ cái ta mà họ có ở tầng 96. Điều này không có nghĩa là họ có thể buông bỏ nó ngay tức khắc bởi vì con luôn luôn cần một sự liên tục nào đó để sinh hoạt trong cõi vật chất. Do đó, điều mà thày muốn nói là một khi con tới tầng 96 và hiểu được giai đoạn cao của quả vị Ki-tô là gì, thì con đi vào một tiến trình dẫn con từng bước một từ tầng 96 lên tầng 144. Tiến trình này không có mục đích nâng cao chính mình, cho mình một số khả năng đặc biệt nào đó, nâng mình lên cao hơn người khác. Nó thực sự là tiến trình tháo dỡ cái ta chia cách con khỏi người khác.

9.7. Cái nhìn cấp tiến về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng, con yêu dấu, việc con cần một cái ta để kéo mình lên trên tâm thức đại chúng có vẻ là một sự mâu thuẫn. Vì sau đó, một khi đã làm xong điều này, thì con lại cần tháo dỡ cái ta đó và cố gắng hợp nhất với tất cả mọi người. Sự thực là khi con còn bị ảnh hưởng bởi tâm thức đại chúng, thì con không hợp nhất với người khác, con không hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, con không hợp nhất với các chân sư thăng thiên. Con chỉ giản dị ở trong trạng thái máy móc trong đó các sa nhân tìm cách khiến cho mọi người đều giống nhau. Trạng thái đó, con yêu dấu, không phải là hợp nhất.

Trạng thái đó có thể gọi là giống nhau, nhưng nó không là hợp nhất. Con thấy chăng, hợp nhất theo nghĩa tâm linh là khi con nhận ra cá thể tâm linh thiêng liêng của con nhưng cá thể tâm linh này không kéo con tách biệt khỏi người khác. Các thày là chân sư thăng thiên nhìn nhận cá thể của mình. Thày nhìn nhận cá thể của mình khác với cá thể của thày MORE hay cá thể của thày Saint Germain, nhưng các thày không xung đột hay ganh đua với nhau. Các thày đạt được một mức hợp nhất mà con không thể nào hiểu được trong trạng thái chưa thăng thiên. Nhưng con có thể bắt đầu hiểu được khi con tiến gần tầng 144.

Có hai giai đoạn chính của quả vị Ki-tô và đó là lý do vì sao khi con ở dưới tầng 96, con có một cái nhìn nào đó về quả vị Ki-tô, một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô. Một khi con lên trên tầng 96, con bắt đầu nhận là nó nhiều hơn thế nhiều. Nó thực sự là cái gì đó hoàn toàn khác với cái con nghĩ ở tầng tâm thức trước đó của con. Điểm cực kỳ – cực kỳ – quan trọng là khi con đang ở bất cứ tầng nào, thì con, một cách có ý thức, lấy thái độ là ở tầng hiện tại của con, con không thể hiểu trọn vẹn quả vị Ki-tô là gì. Do đó, con không nhìn một định nghĩa hay quan niệm đặc thù nào về quả vị Ki-tô và nói: “Đây là quả vị Ki-tô” và do đó con đóng tâm lại với cái nhìn cao hơn, hiểu biết cao hơn, trải nghiệm cao hơn.

Trong khi con ở dưới tầng 96, con sẽ vẫn còn nghĩ quả vị Ki-tô là cái gì con có thể hiểu được. Thày yêu cầu con ý thức là dù con có thể có một hiểu biết nào đó về quả vị Ki-tô, con sẽ tới một điểm mà hiểu biết này cần phải đào thải. Bây giờ, thay vì hiểu quả vị Ki-tô, con chú tâm vào việc trải nghiệm nó. Có sự khác biệt giữa hiểu và trải nghiệm theo nghĩa là khi con hiểu một điều gì, con nhìn nó từ bên ngoài. Con nói: “Quả vị Ki-tô ở trên kia và tôi hiểu nó là cái gì, và tôi đang hiểu làm sao tôi có thể lại gần nó.” Điều này ngụ ý là con chưa tới chỗ đó.

9.8. Trải nghiệm quả vị Ki-tô

Khi con đi tới tầng 96 và con lấy quyết định một cách ý thức là con xoay chuyển khỏi sự chú tâm vào chính mình, để chú tâm vào cái gì vượt quá cái ta, thì lúc ấy con bắt đầu trải nghiệm quả vị Ki-tô. Một lần nữa điều này không có nghĩa là con trải nghiệm trọn vẹn quả vị này, nhưng con trải nghiệm quả vị Ki-tô ở một giai đoạn nào đó. Đây là lúc, như sứ giả này đã mô tả, con cần tới điểm sẵn sàng chấp nhận một cách ý thức là con đã đạt được một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Nếu con không chấp nhận điều này thì con thực sự không thể nào bắt đầu tiến trình trải nghiệm những biểu hiện ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô.

Con có thể nghĩ con là Ki-tô ở dưới tầng 96, và các thày luôn luôn thấy một số đệ tử nghĩ rằng họ có thể tuyên bố là họ đã đạt được quả vị Ki-tô trong khi họ vẫn còn dưới tầng 96 hay ở tầng 96. Con yêu dấu, họ tuyên bố như thế với tâm vỏ ngoài và đây không phải là điều thày đang nói ở đây. Thày nói tới một sự chuyển hóa vi tế không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đây không phải là việc quyết định với tâm vỏ ngoài nhưng là nhận ra rằng con cũng không thể chối bỏ quả vị Ki-tô.

Con nhận ra rằng lúc nào trong tự ngã con người cũng có sự tương tác giữa cảm nhận tự ti và tự tôn. Con nhận ra rằng có một khuynh hướng, có một yếu tố trong tự ngã muốn thổi phồng tầm quan trọng của nó. Do đó, con nhận ra là những người bị ảnh hưởng bởi khía cạnh này của tự ngã sẽ tuyên bố họ là Ki-tô trước khi họ thực sự sẵn sàng cho quả vị đó, trước khi họ quyết định ngừng tập trung vào cái ta. Họ tìm cách dùng quả vị Ki-tô như một cách để nâng cái ta tách biệt lên một vị thế tối hậu nào đó.

Mặt khác con cũng thấy có những người bị kẹt trong khía cạnh tự ti của tự ngã và nghĩ rằng họ không được công nhận là họ đã đạt được một giai đoạn nào đó của đường tu. Họ phải khiêm cung, họ không được gây chú ý tới họ. Họ quá quan tâm cần tránh kiêu mạn đến độ rơi vào đối cực là rất khiêm cung và không tuyên bố mình đã đạt được bất cứ giai đoạn nào. Con thấy chăng, kiêu mạn có thể biểu hiện dưới cả hai dạng tự ti tự tôn.

9.9. Công nhận quả vị Ki-tô

Khi con nhận ra điều này, con nhận ra rằng con cần xem xét mình, xem xét tâm lý mình, xem xét cả hai khía cạnh của tự ngã, khía cạnh tự ti, khía cạnh tự tôn, để nhận thấy chúng đã ảnh hưởng cái ta của con ra sao. Và khi con đi qua tiến trình phơi bày động lực này của tự ngã, thì con sẽ tới một điểm con nhìn thấu suốt và con nhận ra con hơn nó. Đây không phải cái con là, nó không quy định con. Rồi con nhận ra là con thực sự muốn hoàn toàn vượt lên trên động lực của tự ngã vì con muốn là một với Hiện diện TA LÀ của con, con muốn là một với vị chân sư thăng thiên thân thiết nhất trong tim con. Con muốn điều này hơn bất kỳ vị thế nào con có thể có được trên trái đất.

Đó là lúc con tới được sự nhận biết nội tâm tự phát là con không thể nào tuyên bố mình có quả vị Ki-tô quá sớm, nhưng con cũng không thể chối bỏ nó, phớt lờ nó, quá tầng tâm thức thực sự của con. Lúc đó, con nhận ra rằng con cần công nhận là con đã tiến bộ trên con đường tâm linh, con đã đạt được một tầng tâm thức nào đó. Con đã đạt một tầng của quả vị Ki-tô ở trên tầng 96 bởi vì con nhận ra rằng con không còn chú tâm tới cái ta tách biệt. Con còn một số khía cạnh của cái ta này nhưng con không chú tâm tới chúng. Nó không quy định con, nó không quy định con đường tu của con.

Đó là lúc con công nhận con đã đạt được một tầng nào đó của quả vị Ki-tô, nhưng con cũng công nhận đó không phải là mức cao nhất của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng giữa tầng 96 và 144, có một tiến trình không giống điều nhiều người nghĩ. Đây không phải là giai đoạn con đạt được khả năng siêu nhiên nào đó. Khả năng siêu nhiên không phải là một phần cốt yếu của quả vị Ki-tô. Có những người đã đạt quả vị Ki-tô, đã hội đủ tư cách để thăng thiên nhưng chưa bao giờ biểu lộ bất kỳ khả năng siêu nhiên nào, chưa bao giờ có ai nhận ra họ. Những người dưới tầng 48 còn không thể nào nhận ra người ở các tầng cao hơn, và hầu hết những người dưới tầng 96 cũng không thể nhận ra họ một cách dễ dàng.

Ở giai đoạn này, con không chú tâm vào thế gian theo nghĩa là con không chú tâm vào việc sống theo hình ảnh hay chờ đợi nào đó của thế gian. Con không tìm cách khiến thế gian nể phục. Con không đi tìm sự công nhận của thế gian. Con đã đạt được cái mà con có thể gọi là một ý niệm cao về sự tự túc tâm linh khi con không cần sự công nhận hay chứng thực của người khác hay của thế gian. Con không cần người khác chứng thực vì con có sự chứng thực từ bên trong qua trải nghiệm hợp nhất cao hơn so với trước kia. Con vẫn còn nhớ cảm nhận khi con chưa trải nghiệm mình là một với Hiện diện TA LÀ của con, hay với các chân sư thăng thiên, và cảm nhận hiện tại khi con có sự hợp nhất này. Do đó con không nhìn mức độ hợp nhất như một mục tiêu lý thuyết mà con nhìn từ phía xa. Con đang trải nghiệm sự hợp nhất này và con trải nghiệm rằng khi con tiếp tục xem xét mình và thấy thêm những hạn chế, thêm những tin tưởng hạn chế và con buông bỏ chúng, thì khi đó con đạt được một mức độ hợp nhất cao hơn.

9.10. Liên tục quan sát mình

Con nhận ra rằng con đường từ tầng 96 lên tới tầng 144 thực sự là con đường liên tục quan sát mình. Trong mọi hoàn cảnh, con quan sát phản ứng của mình. Mỗi khi con nhận thấy một phản ứng mà con biết rung động thấp hơn tầng rung động nền mà bây giờ con đã nhận ra, thì con xem xét nó với tâm cởi mở và chân thật. Con không tìm cách che giấu nó với chính mình, con không tìm cách biện minh cho nó. Con cũng chẳng lên án mình vì con đã vượt quá nhu cầu lên án mình theo bất cứ kiểu nào. Con không tìm lỗi của người khác, con không tìm lỗi của chính mình, con không phán xét với sự phán xét giá trị nhị nguyên. Con chỉ giản dị quan sát. Con quan sát là ở đây đang có cái gì hạn chế con và con nhìn xem nó là gì cho tới khi con khám phá ra cách nó vận hành. Sau đó con nhận ra con đã cho cái ta đó chết đi như thế nào và con vươn lên một tầng cao hơn.

Con thấy chăng, con yêu dấu, ở dưới tầng 96, con cố gắng đạt quả vị Ki-tô dựa trên một cái nhìn của cái ta vỏ ngoài. Nó dựa trên việc nâng mình lên khỏi sức hút của tâm thức đại chúng. Giờ đây khi con đi quá tầng 96 và trên thực tế, để có thể đi quá tầng 96, con cần đạt được khai ngộ mà thày đã mô tả khi thày nói là nếu con muốn cứu mạng sống của mình thì con sẽ mất nó, nhưng những ai sẵn lòng chịu mất mạng sống của mình để phụng sự thày thì họ sẽ tìm được nó. Câu này có nghĩa là giờ đây con bắt đầu buông bỏ một số khía cạnh của đời sống của mình, nghĩa là cái ta vỏ ngoài, cái ta đã đưa con tới tầng 96. Con cần để cho một số yếu tố của cái ta này chết đi vì con trải nghiệm (con cảm nhận, con thấy) là chuyện quan trọng hơn là con tiến một bước cao hơn trong tiến trình hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, hay hợp nhất với vị chân sư thăng thiên nào thân thiết nhất trong tim con. Vị này có thể là thày; vị này có thể là một chân sư nào khác mà con muốn. Đây là một tiến trình hợp nhất và con chỉ đạt được hợp nhất với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, bằng cách cho cái ta vỏ ngoài chết đi từng bước một, từng yếu tố một, từng phần nhỏ một.

9.11. Chết liên tục

Ta có thể nói đây là một tiến trình chết liên tục vì con đang chết đi khỏi thế gian. Con đang cho phép cái ta thế gian chết đi để khi ông hoàng của thế gian tìm đến, thì y sẽ thấy trong con càng ngày càng ít chuyện để nắm, cho tới khi cuối cùng thì y không tìm thấy bất cứ gì nữa. Con đã cho phép cái ta thế gian này chết đi, và nó không còn gì nữa hết. Ở điểm đó, chẳng còn gì giữ con hiện thân và đó là lý do vì sao con đi vào tiến trình thăng thiên. Điều quan trọng mà con cần ghi nhớ là vấn đề là cho cái ta vỏ ngoài chết đi.

Bây giờ con yêu dấu, thày gọi nó là một hình thức chết vì hầu hết mọi người xem cái chết như một giai đoạn cuối cùng khi cái gì đó biến mất, cái gì đó chết đi, cái gì đó không còn nữa. Đây đúng là điều xảy ra cho cái ta vỏ ngoài của con: nó chết đi. Có một cái ta nào đó, một yếu tố nào đó của nó, và như thày Hilarion đã giải thích trong sách của thày (Khai ngộ Thần bí về Viễn quan) có một ảo tưởng nào đó ở mỗi tầng tâm thức. Chúng ta cũng có thể nói là có một cái ta mà con cần cho chết đi tại tầng 96 để con có thể lên tầng 97. Sau đó có một cái ta ở tầng 97 mà con cho phép chết đi để có thể lên tầng 98 và tiếp tục như vậy. Điều này có tính chất chung cuộc.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con cũng làm điều này giữa tầng 48 và tầng 96, nhưng con không ý thức về nó trong hầu hết trường hợp. Khi con đi quá tầng 96 và lấy quyết định đầu tiên cho cái ta chết đi, thì con càng ngày càng ý thức tiến trình đó. Con thấy là có cái gì đó thật sự chết đi. Nó không còn nữa, con buông bỏ nó hoàn toàn. Ở điểm này, con bắt đầu nhận ra là cái chết không phải là điều gì xảy ra tới con mà con không kiểm soát được. Cái chết thực sự là do con ý thức buông bỏ cái ta không còn giúp ích con nữa. Nó là một tiến trình mà con kiểm soát được, con yêu dấu. Con để cái ta đó chết đi một cách có ý thức và con thấy đây là hành động chung cuộc vì cái ta không còn nữa sau khi con buông bỏ nó.

9.12. Hình ảnh mỹ lệ về quả vị Ki-tô

Con thấy chăng con yêu dấu, có nhiều người nghe hay đọc bài giảng này và cảm thấy thất vọng vì bỗng nhiên những điều thày mô tả về quả vị Ki-tô nghe không mỹ lệ như họ đang mường tượng. Điều này chứng minh là con đã phần nào chấp nhận một trong những hình ảnh giả mà các thày giả đưa ra về ý nghĩa của các trạng thái tâm thức cao.  

Có một khía cạnh mà thày đặc biệt muốn con lưu ý. Một điều điển hình của các phong trào tâm linh (hoặc là các tôn giáo lớn hay các phong trào tâm linh nhỏ hơn xoay chung quanh một vị đạo sư) là họ thường tôn vinh người lãnh đạo phong trào như một người cao hơn những người khác. Ví dụ con có thể thấy một số tổ chức tâm linh hiện đại do một người nào đó khởi xướng và những người trong phong trào nghĩ rằng người này đã giác ngộ. Họ thường có một cái nhìn không được rõ ràng về thế nào là giác ngộ, nhưng họ nghĩ rõ ràng là người giác ngộ cao hơn những người khác.

Nếu giác ngộ có một ý nghĩa nào đó như một khái niệm, thì nó đồng nghĩa với quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô là gì? Nó là, khi con càng ngày càng tới gần tầng 144 hơn, con bắt đầu nhận ra là bên dưới mọi hiện tượng thế gian là cái một. Điều này có nghĩa là trước tiên con thấy con là một với Hiện diện TA LÀ của mình, và một với các chân sư thăng thiên ở trên con. Con thấy con là một phần của dòng năng lượng tuôn chảy không ngừng từ Tánh linh – phần trên của hình số tám. Sau đó, khi con càng tới gần điểm nối ở giữa hình số tám, thì con bắt đầu thấy con là một với tất cả những gì ở dưới, không phải là với sa nhân, với tâm thức nhị nguyên, nhưng là một với những nối dài có tự nhận biết của Thượng đế, những đứa con trai con gái của Thượng đế. Con thấy con là một với tất cả mọi người. Khi con tiến gần hơn tới trạng thái là một, thì mọi phê phán giá trị, mọi so sánh hoàn toàn phai mờ đi, con yêu dấu.

Nghĩa là, chúng ta cần nói là khi con tiến gần tầng tâm thức 144, thì lẽ dĩ nhiên con ở một tầng tâm thức cao hơn những người đang ở tầng 48 chẳng hạn. Lẽ tự nhiên, nhờ quyết chí nỗ lực con đã nâng mình lên, cao hơn tầng 48 rất nhiều. Điều này không có nghĩa là giờ đây con xem mình hay hơn hay quan trọng hơn người khác. Ngược lại, những phán xét giá trị của con phai mờ đi và chuyện so sánh mình với người chẳng còn ý nghĩa gì. Trên thực tế, ngay cả việc so sánh mình theo bất cứ thang giá trị nào cũng trở nên vô nghĩa. Con càng lúc càng không chú ý tới chuyện mình đang ở đâu trên thang tâm thức. Con chỉ giản dị chú tâm mình là chính bản thể mình, biểu lộ Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con bắt đầu thấy nó rõ hơn và con phụng sự người khác, phụng sự đại nghĩa nâng cao mọi sự sống của các chân sư thăng thiên. Đây là chú tâm của con.

Con hiểu chăng, con yêu dấu, một người càng giác ngộ thì càng không muốn người khác xem mình đã giác ngộ vì người khác sẽ xem người đã giác ngộ cao hơn họ. Con nhận ra là nếu người khác xem con cao hơn họ, họ không thể xem con là một tấm gương mà họ theo được. Họ thấy có một khoảng cách giữa con và họ và vì thế con không thể cho họ cảm hứng trọn vẹn để họ đi theo con đường mà con đã đi. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi một người đặt mình cao hơn người khác một cách cơ bản, thì người đó không thể nào đã giác ngộ. Nếu người đó đã giác ngộ, thì người đó sẽ không muốn người khác đặt họ lên trên bệ cao. Thay vào đó, người giác ngộ sẽ làm tất cả đủ mọi điều để tránh mọi người thấy có khoảng cách. Người giác ngộ muốn mọi người thấy rằng tất cả đều có tiềm năng đi theo cùng con đường tu và đạt được những tầng tâm thức cao. Ở đây, tất cả mọi so sánh, tất cả mọi phê phán giá trị, phai mờ đi và kết quả là con đạt được bình an nội tâm càng ngày càng lớn hơn. Con không phải đáp ứng chờ đợi nào của thế gian. Con không phải cố gắng đạt được điều gì. Con không phải lên án mình vì điều gì mình đã làm. Con không phải phê phán hay đánh giá người khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, khi thày nói: “Ta đến đây để phán xử,” thì thày không muốn nói là thày đến để phê phán và đánh giá và chỉ trích người khác. Câu đó có nghĩa là thày đến để cho phép người khác phán xử chính họ qua cách họ đối xử với thày. Phán xử tối hậu là họ đã giết xác thân vật lý của thày qua đó họ tìm cách giết Ki-tô Hằng sống.

Ngày nay may thay, chúng ta sống trong một thời đại mà sa nhân thấy giết Ki-tô Hằng sống càng ngày càng khó khăn hơn, và do đó lẽ dĩ nhiên con không phải trải qua kinh nghiệm này – thày thành thật hy vọng điều đó cho con. Con hiểu ý ở đây là thày không đến để phê phán và chỉ trích và đánh giá bất cứ ai, như nhiều người nghĩ. Như các thày có nói trước đây, các thày là chân sư thăng thiên không ngồi ở trên này để theo dõi từng hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ và cảm xúc của các con. Các thày không chỉ trích, lên án, đánh giá và phê phán con, con yêu dấu. Các thày chỉ tìm cách nâng con lên.

9.13. Nâng người khác thay vì chính mình

Đây là điều con làm khi con tiến càng ngày càng gần tầng 144. Con càng ngày càng bớt quan tâm đến việc tạo cảm tưởng là con cao hơn người khác. Con thực sự càng ngày càng quan tâm đến việc giúp người khác nâng cao tâm thức của họ. Con quan tâm chuyện nâng người khác lên hơn là nâng cao chính mình, và do đó con làm những gì con làm được để tránh chuyện người khác đặt con lên bệ cao.

Con yêu dấu, đây là những ý nghĩ của thày cho lần này. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là giáo lý cuối cùng về quả vị Ki-tô, nhưng đây là những điều mà thày xét sẽ hữu ích cho các con, dựa trên những câu hỏi của các con và của nhiều người trên thế giới. Do đó, thày cảm ơn các con đã lắng nghe và đã là cánh cửa mở, vì một lần nữa, thày có thể dùng luân xa các con để lan tỏa một xung lực đi vào Hàn Quốc và thế giới – đi vào tâm thức đại chúng của thế giới – để tới những ai có tiềm năng đứng ra và nhìn nhận quả vị Ki-tô của mình và bắt đầu bước lên các giai đoạn cao hơn tầng 96.      

Các con yêu dấu, thày muốn nói lên lòng biết ơn sâu xa của thày đối với các con ở Hàn Quốc, đã học giáo lý của các thày, đã đọc các bài thỉnh và đã là công cụ hữu hiệu mang lại những thay đổi mà các con đã thấy trong mười tháng vừa qua kể từ lần hội nghị trước và lẽ dĩ nhiên ngay cả trước lần hội nghị đó. Các thày biết ơn các con và các con yêu dấu, các thày quả thực ghi nhận nỗ lực của các con. Lẽ dĩ nhiên, các thày không tìm cách khiến các con cảm thấy mình hơn người khác nhưng các con yêu dấu, các con hiểu là khi các con đã vượt qua động lực tự ti-tự tôn, thì chuyện nhìn nhận các con đã nỗ lực, và nỗ lực ấy tạo ra thành quả và các con đã đem lại sự thay đổi trong đất nước của các con qua những gì các con đang làm, là chuyện có giá trị. Do đó, lẽ dĩ nhiên, các con có thể tiếp tục đem lại thay đổi. Khi các con vươn lên các tầng tâm thức cao hơn, các con có thể đem lại nhiều thay đổi hơn nữa. Lẽ dĩ nhiên, khi các con đi lên về hướng tầng 96, thì các con càng ngày càng là cánh cửa mở cho xung lực và năng lượng của Hiện diện TA LÀ của các con và các chân sư thăng thiên. Chính dòng năng lượng tuôn chảy xuống này sẽ đem lại sự thay đổi tối hậu nâng trái đất vào thời đại hoàng kim.

Con có thể nói rằng khi con tiến càng ngày càng gần quả vị Ki-tô trọn vẹn ở tầng 144, thì con càng ngày càng là cánh cửa mở để lan tỏa tâm thức của thời đại hoàng kim vào thế giới. Trong nhiều trường hợp, điều này có nghĩa là có thể con càng ngày càng cần làm ít đi ở bên ngoài và đó là lý do vì sao con thấy một số người đã rút về hang động và ngồi đó để giữ quân bình tâm linh. Lẽ dĩ nhiên, trong thời đại này, điều rất quan trọng là hầu hết những người đang cố gắng đạt quả vị Ki-tô cần tích cực tham gia vào xã hội và như thế, các con trở thành những tấm gương. Như các thày đã nói nhiều lần, khuôn đúc có một người được xem là tấm gương là một hiện tượng của thời Song ngư và trong thời Bảo bình chúng ta cần nhiều người làm gương.

Đó là lý do vì sao một tổ chức của thời đại Bảo bình không tôn vinh một người lãnh đạo lên vị thế tối cao nhưng thấy rằng tất cả mọi người đều có tiềm năng làm gương và làm cánh cửa mở. Vì thế, con yêu dấu, thày biết ơn các con đã chịu làm cánh cửa mở để thày truyền xuống ánh sáng ngày hôm nay.

Cái nhìn quân bình về tiền bạc

Hỏi: Thưa vâng, con đồng ý là tốt hơn hết nên cất giữ kho báu của mình trên thiên đàng thay vì đeo đuổi của cải vật chất. Nhưng điều con nhận thấy là những người chân chính bước theo chân Giê-su Ki-tô đều rơi vào vòng kiểm soát và thao túng của những kẻ có tiền. Họ bị ràng buộc vào năng lượng tiêu cực của những kẻ này vì họ cần sự giúp đỡ vật chất từ những loại người đó. Con biết điều gì đang xảy ra: những dòng sống tốt thiện bị chúng lạm dụng. Cho nên có quan trọng hay chăng là chúng con có một nguồn thu nhập và tài lực vật chất phải chăng để chúng con không phải tuân theo luật lệ của người khác và bị thao túng trong cõi vật lý? Người ta hay bảo: “Chủ nhân trong nhà mới có quyền đặt luật lệ trong nhà mình, v.v…” và người đó cũng kiểm soát mọi năng lượng trong nhà. Nếu một hành giả tâm linh có một nguồn vật chất nào đó, liệu nó có sẽ bảo vệ cho người đó không bị kẻ khác xâm phạm quyền tự do cầu nguyện theo ý mình trong ngôi nhà của mình?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đồng ý với những gì con nói. Con đã đưa ra một số điểm hữu lý. Nhiều tín hữu Cơ đốc đã hiểu lầm lời dạy của ta rằng con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng.

Tiền bạc tự thân nó không có gì sai trái. Tiền bạc chỉ đơn giản là biểu tượng vật chất  cho năng lượng của Thượng đế. Ý định của Thượng đế là năng lượng phải lưu thông, và tiền bạc cũng vậy.

Điều sai trái là sự dính mắc vào tiền bạc. Sự dính mắc vào tiền bạc đã ảnh hưởng sâu xa hầu hết mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này. Khi con người dính mắc với tiền bạc, thực sự họ sẽ rất khó lòng bỏ dính mắc để theo đuổi sự phát triển tâm linh.

Hãy cho phép ta nhắc lại một lời dạy của ta: “Trước hết hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài, và mọi thứ khác sẽ được thêm vào cho con.” Ngoài những ý nghĩa khác, câu này còn có nghĩa là con không bao giờ được đặt bất cứ khía cạnh nào của đời sống trước sự phát triển tâm linh. Nhiều người, dù là họ có tiền hay không có tiền, bị vướng mắc vào tiền bạc, hoặc những thú vui của thế gian có thể mua được bằng tiền bạc, đến độ họ đặt mục tiêu kiếm tiền lên trên mục tiêu tăng trưởng tâm linh.    

Ta không có vấn đề gì với những người tâm linh sở hữu một số tiền vừa phải hầu mang lại sự độc lập và tự do cá nhân cho họ. Tuy nhiên, ta phải cảnh báo mọi người rằng điều cực kỳ quan trọng là phải kiếm tiền mà không vi phạm các quy luật và chuẩn mực tâm linh. Điều này vô cùng khó khăn trong thế giới hiện nay vì toàn bộ hệ thống tài chánh đã bị thao túng tới một mức độ mà việc sở hữu tài sản lớn lao khó lòng nào không vi phạm quy luật của Thượng đế. Hơn nữa, việc sở hữu một số tiền lớn gần như luôn luôn dẫn đến sự dính mắc với tiền bạc.

Vì vậy, tốt hơn là con nên có it tiền hơn là kiếm tiền mà làm tổn hại đến sự phát triển tâm linh của con. Điều này không có nghĩa là ta muốn mọi người phải sống nghèo đói, mà đơn giản là ta không muốn mọi người đặt việc kiếm tiền cao hơn việc tìm kiếm tâm linh.

Ta thấy nhiều tín hữu Cơ đốc giáo đã bước vào tâm thức gạt sang một bên sự tìm kiếm tâm linh cá nhân và thay vào đó họ đã tập trung vào việc kiếm tiền và của cải vật chất. Nhiều người đi lễ nhà thờ mỗi chủ nhật một cách siêng năng, và họ nghĩ rằng một cách nào đó khi họ đi lễ, đóng góp vào quỹ chung hay tặng tiền cho cộng đoàn, họ có thể bù lại sự thiếu vắng tâm linh trong tim họ.

Hãy để ta nhắc con lời dạy của ta rằng một người không lợi lộc gì khi nắm được cả thế giới mà lại đánh mất linh hồn của mình. Hãy để ta nhắc con câu chuyện ngụ ngôn của người đàn ông kia đi dự tiệc cưới mà không mặc quần áo cưới. Tiệc cưới biểu tượng cho tâm thức Ki-tô, quả vị Ki-tô cá nhân mà mọi người phải đạt được trước khi bước vào Nước trời.

Nếu con nghĩ là con có thể bỏ qua nhu cầu khoác lên quả vị Ki-tô cá nhân của con và mua được vé vào cửa thiên đàng bằng cách tặng tiền cho một giáo hội vỏ ngoài, thì ta phải nói với con là con đang làm hại dòng sống của con. Thượng đế không tôn trọng cá nhân, bất kể địa vì mà cá nhân đó nắm giữ trong một tổ chức hay một hệ thống nào của con người. Con không thể mua vé vào cửa thiên đàng. Thật không may, nhiều người giàu có đã quá quen thói mua chuộc bất cứ gì mà họ ham muốn trên trái đất đến độ họ cũng tưởng là tiền bạc sẽ mở cửa thiên đàng. Điều này hoàn toàn không đúng. Đây thật sự là một trong những ảo tưởng  nguy hiểm nhất trong thế giới này.

Một lần nữa, như ta đã nói nhiều lần trên trang mạng này, sự quân bình là chìa khóa cho sự phát triển tâm linh đích thực. Có những con đường có vẻ đúng đắn cho con người nhưng lại là con đường dẫn đến sự chết. Thật ra có hai con đường có vẻ đúng đắn cho con người, đó là hai đối cực do cái tâm nhị nguyên tương đối tạo ra. Tâm nhị nguyên khiến cho con người suy nghĩ theo cách trắng đen rồi đẩy mọi thứ đến cùng cực.

Trong lãnh vực tiền bạc, cả hai con đường nghèo đói khốn khổ lẫn giàu có thừa thãi đều là cực đoan. Nhiều tín hữu Cơ đốc đã dùng lời dạy của ta về con lạc đà với người giàu có để đeo đuổi sự nghèo túng tột cùng. Nghèo đói sẽ không nhất thiết đưa con vào thiên đàng, y hệt như tiền bạc cũng không đưa con vào, hoặc ngăn cản con vào thiên đàng.

Điều sẽ đưa con vào thiên đàng là tâm thức Ki-tô. Đối với một số người, sự nghèo khó có thể là một con đường để đạt tâm thức Ki-tô bởi vì khi không có tiền của, nó có thể cho mình cảm giác tự do không bị ràng buộc vào vật chất. Tuy nhiên, nếu con có của cải vừa phải, nếu con không bị vướng mắc, nó cũng cho con sự tự do để con theo đuổi phát triển tâm linh.

Con đường chân chính là con đường trung đạo. Đó là khi con người cố gắng chu toàn những bổn phận thế gian của mình mà không bị bám mắc vào tiền bạc hoặc các thú vui của thế gian. Con hãy đi tìm trung đạo trong mọi thứ, kể cả mọi thứ liên quan đến tiền bạc.

Khi ta còn bước chân trên mặt đất, ta đã có nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống.” Thừ thuở đó, ta đã tăng trưởng, và hôm nay ta nói: “Ta là trung đạo, sự thật và sự sống.”

Giáo hoàng John Paul đã, hay sắp, được thăng thiên?

Hỏi: Kính thưa Giê-su, Giáo hội Công giáo đang đẩy nhanh tiến trình phong thánh cho cố Giáo hoàng John Paul II. Nhưng trên trang mạng này, hình như thày không xem những việc làm thế gian như vậy có tầm quan trọng trong cõi tâm linh. Liệu John Paul II đã hội đủ điều kiện để thăng thiên, và liệu ông đang là, hay sắp là, một chân sư thăng thiên?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Hãy để ta cho con một tầm nhìn để con có thể so sánh. Sau kiếp hiện thân là Moses (Môi-se), Moses đã không thăng thiên ngay. Ông đã phải tái đầu thai để quân bình một số nghiệp quả mà ông đã tạo ra, và ông cũng cần vượt qua khuynh hướng hay phản ứng nóng giận trong một số tình huống. Thánh Paul (sứ đồ Phaolô) đã không thăng thiên ngay sau kiếp đó mà phải tái đầu thai để giải quyết một số vấn đề tâm lý và quân bình nghiệp quả.

Ta nói những điều này để con thấy là nhiều người được xem là lãnh tụ lớn lao, hay những bậc thánh, đã không nhất thiết thăng hoa ngay sau kiếp đầu thai làm nhân vật lịch sử nổi tiếng. Lý do là vì khi con lãnh đạo một tổ chức rộng lớn hay một quốc gia, những quyết định của con ảnh hưởng đến hàng triệu hay hàng tỷ người, và con dễ dàng tạo ra những nghiệp chướng sẽ cần thời gian để quân bình. 

Con cũng dễ dàng bị cuốn hút vào trách vụ của con đến độ con không còn thì giờ hay chú tâm để giải quyết những vấn đề tâm lý của con. Và thật vậy, một số dòng sống lý luận rằng vì họ được giao phó một địa vị quan trọng trong xã hội loài người thì họ không cần phải tu sửa tâm lý của họ. Một số người khác thì gạt các vấn đề tâm lý sang một bên vì sứ mạng thế gian của họ có vẻ quan trọng hơn sứ mạng tổng quát là thực hiện sự thăng thiên.

Trong trường hợp của John Paul II (Gioan Phaolô đệ nhị), quả là sứ vụ thiêng liêng của ông có bao gồm việc lãnh đạo Giáo hội Công giáo và cố gắng trở thành giáo hoàng. Tuy nhiên, sứ vụ thiêng liêng của ông cũng bao gồm việc tiếp tục tiến trình đưa Giáo hội Công giáo vào thế kỷ thứ 21 mà Giáo hoàng John 23 đã khởi đầu.  

Nếu con nghiên cứu cuộc đời của John 23, con sẽ thấy ông có viễn kiến thật rõ ràng rằng cơ cấu lãnh đạo tập quyền của Giáo hội Công giáo đã lỗi thời và cần được cải tổ. Ông cũng biết là có nhiều học thuyết của đạo Công giáo cần được duyệt sửa, không chỉ để phản ánh thời đại mới mà phản ánh sự thật trong giáo lý tâm truyền của ta mà ông thấu hiểu. Con thấy được là John 23 thật sự đã bị các phần tử bảo thủ trong giới lãnh đạo Giáo hội bài bác là người chuộng tân thời. Kỳ thực, ông gần gũi với giáo lý chân truyền của ta – và nhu cầu kiến tạo một giáo hội hiện đại phản ánh những gíáo lý đó – hơn giới lãnh đạo Công giáo bảo thủ rất nhiều.

Ta không có ý nói là ta hay Mẹ Mary đồng ý với tất cả những gì xảy ra trong hội nghị mang tên Cộng đồng Vatican II, nhưng ta nói rằng hội nghị này là một bước đầu cần thiết trong một tiến trình đã có thể dẫn tới việc cải tổ toàn bộ Giáo hội Công giáo và biến Giáo hội thành một tổ chức sống động, bền vững với tiềm năng đóng góp trong chu kỳ tâm linh kế tiếp.

Nếu tiến trình này đã được tiếp tục trong tinh thần của Giáo hoàng John 23 thì đến nay rất nhiều tiến bộ đã có thể đạt được.Con đã không phải chứng kiến số lượng tín hữu suy giảm trầm trọng như đã xảy ra trong những thập niên qua. Đáng lý con cũng đã được thấy một giáo hội có khả năng gấp bội để giải quyết vụ tai tiếng lạm dụng tình dục, thay vì che đậy và mong rằng vấn đề sẽ biến mất nếu mình cứ ngồi ì làm ngơ.

Ta phải nói là Mẹ Mary đã hỗ trợ mạnh mẽ cho Giáo hoàng John 23 và các nỗ lực của ông nhằm cải tổ Giáo hội Công giáo. Ta cũng có thể nói thêm là John 23 đã thăng thiên sau kiếp đầu thai đó – không hoàn toàn là do những gì ông đã thực hiện trong kiếp đó, mà do ông đã chứng đạt cao độ trước kiếp đầu thai cuối cùng này. Ông đã thể nhập các giáo lý tâm truyền của ta cũng như Ngọn lửa Hòa bình của Thượng đế nơi chính ông, đến độ nhiều người cảm được sự Hiện diện của Hòa bình bao quanh ông.     

Ta nói với con những điều này để con có một tầm nhìn về John Paul II và triều giáo hoàng của ông. Con sẽ thấy ông là một giáo hoàng vô cùng bảo thủ. Trong cuộc sống riêng tư, ông có những khuynh hướng thần bí, nhưng ông cảm thấy rất khó mà chuyển cảm hứng thần bí thành hành động nhằm hiện đại hóa Giáo hội cho theo đúng giáo lý chân truyền của ta.

Một phần do vụ mưu toan ám hại và phần khác do ông đã lớn lên trong một cộng đồng bảo thủ tại Ba lan, ông quyết định giữ kín những khuynh hướng thần bí này, và ông tự biến mình thành một nhà quản lý tiếp nối chủ trương mà các tấm gương bảo thủ của ông coi là chủ trương chính đáng duy nhất cho Giáo hội. Ông cũng sử dụng nhu cầu chống lại chủ nghĩa cộng sản như là cái cớ để không cải tổ Giáo hội, và như vậy ông đã làm mồi cho cái xu hướng ngàn đời là cho phép một kẻ thù vỏ ngoài đánh lạc hướng mình để không còn chiến đấu kẻ thù bên trong. Điều này vô cùng đáng tiếc, và rõ ràng là không đúng với sứ vụ thiêng liêng mà ông cùng với các vị thày tâm linh của ông đã thảo ra trước khi ông đầu thai. Tuy rằng các hành động của Giáo hoàng đã có tác động vỏ ngoài là đẩy mạnh sự chống đối đối với chủ nghĩa cộng sản, nhưng nguyên nhân thực sự cộng sản đã sụp đổ một phần là do các mâu thuẫn nội tại của chính chủ nghĩa cộng sản, và phần khác là do sự cầu nguyện kiên trì của rất nhiều học trò của Saint Germain.    

Mặc dù John Paul có một đời sống tâm linh tốt đẹp, mặc dù ông hoàn thành được nhiều điều tốt đẹp, nhưng trong kiếp hiện thân đó, ông đã tạo ra nhiều nghiệp quả hơn là ông đã cân bằng. Con thấy không, nghiệp không nhất thiết là những việc con làm mà người đời xem là tốt hay xấu, mà con có thể gây ra nghiệp do sự thiếu sót, tức là con không làm xong một công việc quan trọng mà con có tiềm năng hoàn thành.     

John Paul thực sự đã có tiềm năng lớn lao – lớn lao hơn bất cứ một cá nhân nào khác trong lịch sử cận đại – để chuyển đổi Giáo hội Công giáo thành một tổ chức tâm linh hiện đại, nhưng ông đã không làm được trên hầu hết các phương diện. Điều này tạo ra một cái nghiệp khiến ông phải trở lại thế gian để quân bình. Thêm vào đó, ông tạo ra nghiệp quả nghiêm trọng khi trong tư cách người lãnh đạo tối cao của Giáo hội, ông đã không đối phó với vụ tai tiếng lạm dụng tình dục một cách công khai và quyết liệt.

Vì ông là người độc nhất có quyền hạn chỉ đạo chủ trương của Giáo hội về vấn đề này, nên ông phải gánh chịu một phần lớn nghiệp chướng mà mỗi linh mục tạo ra. Mặc dù cá nhân ông không phạm lỗi lạm dụng nhưng ông đã có thể ngăn chặn, và có thể làm nhiều hơn để ngăn chận những vụ lạm dụng tương lai. Ông cũng đã có thể làm rất nhiều hơn trong cách xử lý vấn đề hầu cải thiện hình ảnh của Giáo hội thay vì phá tan phần lớn uy tín của Giáo hội.   

Do đó John Paul sẽ không trở thành một chân sư thăng thiên cho tới khi ông tái đầu thai và quân bình nghiệp quả. Thêm vào đó, dòng sống của ông mong muốn mãnh liệt được chuộc lỗi và được có cơ hội thứ nhì để cải tổ Giáo hội Công giáo.   

Mặc dù John Paul đã dang tay đón nhận người đạo Do Thái, ông không hoàn thành được tiềm năng của triều giáo hoàng của ông để biến cải Giáo hội Công giáo thành một tổ chức tâm linh phổ quát hơn. Làm như vậy sẽ đòi hỏi phải cải tổ toàn diện các học thuyết Công giáo cũng như cơ cấu lãnh đạo, trao quyền tự quản cho các lãnh đạo Công giáo địa phương để họ có thể thích ứng với điều kiện ở mỗi quốc gia.

Vì vậy mà John Paul đã không thăng thiên được. Ta nói cho con những điều này để con thấy thực tế là con không thể đánh giá mọi người theo cùng một tiêu chuẩn. Mỗi người đều có một sứ vụ độc nhất, và tùy theo sứ vụ của con, nhiều khi một cuộc sống gọi là tốt thiện vẫn chưa đủ. Đó là tại sao ta đã nói, trừ khi đạo đức của con vượt trội đạo đức của các thày thông giáo và người Pha-ri-si thì con không vào được thiên đàng.   

Ta không muốn nói là John Paul là một thày thông giáo, một người Pha-ri-si hay một kẻ đạo đức giả. Ông quả thực là người chính trực trong các vấn đề vỏ ngoài, nhưng ông không có chính trực để luôn luôn trung thực với viễn quan nội tâm cao nhất của ông. Và ông không mở tâm ra để nhớ lại trong ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình. Sự mở tâm này là cách duy nhất để bảo đảm kiếp sống này của con đạt được tiềm năng cao nhất.

Ta hiểu là khi một dòng sống bước vào những năng lượng dày đặc của địa cầu, thật là dễ dàng quên đi sứ vụ thiêng liêng của mình. Tuy nhiên, bất kỳ dòng sống nào cũng có thể, bằng cách giữ cho con tim và tâm trí mình mở rộng, tái khám phá sứ vụ thiêng liêng của mình. Vấn đề là khi mình dùng một hệ thống tín ngưỡng vỏ ngoài để nhận lấy những niềm tin đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng, mình thường không muốn biết sứ vụ đó là gì. Lý do là nếu mình nhớ lại sứ vụ thì mình sẽ phải thay đổi cuộc sống một cách lớn lao đến nỗi những gì mà tâm vỏ ngoài đã chọn làm sự thật tuyệt đối có thể bị tổn thương. Vì vậy, thường là trong tiềm thức, dòng sống thà là bịt tai không biết, để mình không phải có những thay đổi to lớn mà mình không mong muốn. Đây là trường hợp của John Paul và đó là lý do khiến ông đã không hội đủ điều kiện để thăng thiên.  

Ta biết những tiết lộ này sẽ gây ngạc nhiên, thậm chí buồn phiền, cho một số người, nhưng ta hy vọng là những người còn lại sẽ sử dụng thông tin này để mở rộng hiểu biết về tầm quan trọng to lớn của việc ghi nhớ trong ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình, cũng như dồn mọi nỗ lực và khả năng để hoàn thành sứ vụ đó. Không những con sẽ tạo thêm nghiệp quả khi con không hoàn thành sứ vụ, mà con còn tạo cho dòng sống của con một cảm giác tiếc nuối cơ hội đã mất, khiến con rất khó từ bỏ địa cầu.  

Nói cách khác, không hoàn thành được sứ vụ có thể khiến dòng sống của con mong muốn mãnh liệt trở lại địa cầu để sửa lỗi, đến nỗi con không còn muốn thăng thiên. Cho nên ta hy vọng con sẽ sử dụng các dụng cụ tu tập được đăng tải trong Hộp Dụng cụ, kể cả các bài nguyện tràng hạt của Me Mary và bài chú Đại chỉ đạo Thiêng liêng, hầu con có thể tái phát hiện sứ vụ thiêng liêng của mình và hoàn thành đầy đủ.

Con hãy nhớ là con phải hoàn thành sứ vụ cá nhân dành riêng cho con. Cho nên con đừng để ác quỷ dụ dỗ rằng, “Kìa, nếu một người tâm linh như đức Giáo hoàng mà không hội đủ điều kiện để thăng thiên thì tôi có hy vọng gì?” Thật sự không một ai biết được mức chứng đạt của mình, và do đó con luôn luôn phải sống như thể con có cơ hội thăng thiên trong kiếp này. Đừng rơi vào cái bẫy nghĩ rằng con phải làm được điều công ích gì, hay việc vỏ ngoài gì lớn lao để được thăng thiên. Con hãy nhờ lời ta dạy rằng chỉ những ai trở thành trẻ nhỏ mới vào được thiên đường. Hãy tập trung hoàn thành sứ vụ thiêng liêng cá nhân của con. Hãy dùng tấm gương của người khác để tự khích lệ, nhưng đừng dùng ví dụ của người khác để khiến mình nản lòng. Con đường của con là độc nhất, và con chỉ có thể biết được sứ vụ thiêng liêng của con bằng cách đi vào bên trong và liên lạc với cái ta Ki-tô của con.

Hitler đã lên thiên đàng?

Hỏi: Con đọc được tài liệu từ người đồng bóng có nội dung rằng Hitler đã lên thiên đàng. Điều này con cảm thấy là không phải, nhưng con xin thày cho biết ý kiến.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu con muốn dùng thuật ngữ hoàn toàn kỹ thuật, con có thể nói là câu trên chính xác. Sau cái chết của cơ thể vật lý của ông ta, dòng sống của Adolf Hitler quả là đã được đem lên thiên đàng. Tuy nhiên, dòng sống đó được đưa tới một tầng cấp của cõi tâm linh gọi là Tòa án Lửa thiêng. Đây là nơi mà những dòng sống nhận được sự phán xét cuối cùng. Phán xét cuối cùng là cơ hội chót để quỳ gối trước thực tại của Thượng đế.   

Phán xét này chỉ được ban ra cho những dòng sống đã liên tục phủ nhận Thượng đế nơi chính mình cũng như nơi người khác, và đã nổi loạn chống lại ý muốn của Thượng đế suốt nhiều kiếp sống. Dòng sống được ban cho một bản duyệt xét thật minh bạch về cuộc nổi lọan đó chống lại Thượng đế và một cơ hội cuối cùng để quỳ gối rồi cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn nó trở về Thượng đế. 

Nếu dòng sống từ chối quỳ gối, nó sẽ bị xóa sạch bởi ngọn lửa thiêng. Đây là điều mà Sách Khải huyền gọi là hồ lửa. Dòng sống của Adolf Hitler quả là đã từ chối quỳ gối và đã bị xóa sạch trong ngọn lửa thiêng. Vì vậy, dòng sống đã từng là Adolf Hitler trong kiếp đầu thai chót của nó trên địa cầu, không còn nữa. Ta cho rằng đây không hẳn là cách diễn giải mà hầu hết mọi người nghĩ tới khi đọc câu nói rằng Hitler đã lên thiên đàng. 

Ghi chú: Xin xem một câu trả lời khác ở đây.

Lời dạy của Eckhart Tolle về tự ngã

Hỏi: Con muốn biết thày Giê-su nghĩ gì về những lời dạy của Eckhart Tolle. Con cũng hiểu có lẽ thày đã nhận được rất nhiều câu hỏi về vị thày này hay giáo lý kia, nhưng con xin hỏi cụ thể vì trong thông điệp thày Giê-su gửi ra tại Thụy điển, thày có khuyên chúng con học tập những giáo lý khác về tự ngã. Và Eckhart Tolle đã viết hai cuốn sách, “Quyền nâng của Ngay bây giờ” (The Power of Now) và “Một Địa cầu Mới” (A New Earth). Cả hai quyển đều nói rất nhiều về tự ngã và tâm thức nhị nguyên.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta xem Eckhart là một vị thày tâm linh đích thực. Ông đang làm những gì mà ông rất nên làm, tức là giảng dạy dựa trên xuất thân, kinh nghiệm và trạng thái tâm thức của ông. Nếu độc giả của trang mạng này cảm thấy có sự nhắc nhở nội tâm muốn tìm hiểu sách của ông thì tất nhiên các con nên đi theo tiếng gọi đó. Tuy nhiên, sẽ không tới mức ta khuyên nhủ mọi người đọc sách của ông, và ta sẽ trình bày tại sao một số người cần tiếp cận sách một cách thận trọng.

Eckhart mô tả khi ông có một sự chứng ngộ tâm linh tự dưng phóng ông vào một trạng thái tâm thức cao hơn. Ông giảng dạy dựa theo kinh nghiệm này, và trên căn bản, ông bỏ qua nhu cầu phải đi theo một con đường tuần tự, có hệ thống. Ông cố gắng đưa độc giả của ông kinh qua một trải nghiệm giống như ông, và ông làm vậy bằng cách chia sẻ những sáng ngộ mà ông đã có sau trải nghiệm đột phá của ông.

Giả thuyết cơ bản là nếu mọi người nhận được những sáng ngộ đúng đắn, họ cũng sẽ có một sự tỉnh ngộ tự phát như ông đã có. Điều này quả là có thể xảy ra, nhưng chỉ với những người đã đạt gần tới mức tâm thức mà Eckhart đã có trước khi ông ngộ. Nhưng đại đa số con người trên hành tinh này chưa ở mức đó, và vì vậy không có khối lượng sáng ngộ nào có thể đánh thức họ một cách “tự phát”.

Hãy cho ta nói rõ là ta không bảo mọi người đừng đọc sách của Eckhart. Đơn giản, ta chỉ nói rằng ta chờ đợi các độc giả của trang mạng này sẽ sử dụng những nội giác mà họ nhận được ở đây khi họ tìm hiểu bất cứ giáo lý tâm linh nào. Và ta chờ đợi mọi người sẽ cố gắng hết sức để lắng nghe lời dạy của ta về nhu cầu giữ sự cân bằng. Nếu con chưa thấy được là ta rất thường giảng về cân bằng thì ta khuyên con nên đọc lại trang mạng này và lưu ý ta thường mô tả cân bằng là điều kiện tiên quyết để thực sự phát triển tâm linh. Ta đặc biệt khuyên con đọc hai bài giảng của ta về tự ngã, có nói đến tư duy trắng đen và tư duy xám.   

Nói vậy rồi, thật không thể chối cãi Eckhart đã ban ra nhiều hiểu biết rất giá trị về tự ngã và tâm thức nhị nguyên. Các hành giả ở mọi trình độ có thể được lợi ích từ những hiểu biết này, nhưng con cần thực tế và đừng bỏ dở cách phát triển tâm linh có hệ thống, hơn là đuổi theo một chứng ngộ kỳ diệu sẽ thình lình biến con thành một sinh thể giác ngộ. Tốt hơn con nên tiếp tục tu tập cho có phương pháp rồi để mặc cho sự khai ngộ tự dưng xảy đến – tự dưng. Cố gắng chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực chưa bao giờ đưa ai ra khỏi tầm tay của tự ngã.

Sách “Bắt chước Ki-tô” của Thomas a Kempis

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con đang đọc quyển “Bắt chước Ki-tô” (The Imitation of Christ) của Thomas a Kempis và con xin thày vui lòng cho biết quyển sách này có còn xác đáng trong bối cảnh những giáo lý mà thày ban ra hiện nay.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây là một quyển sách tuyệt diệu, và thực sự Thomas a Kempis đã là một trong những sứ giả của ta. Trong sách có quá nhiều lời dạy vượt thời gian đến mức nó vẫn xác đáng cao độ ngay cả ngày hôm nay.

Một trong những chủ đề chính của quyển sách là bất cứ ai cũng đều có khả năng hiệp thông trực tiếp với Thượng đế. Đây chính là thông điệp mà ta đang nỗ lực trình bày trên trang mạng của ta. Hiển nhiên đó không phải là điều ngẫu nhiên. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã cố gắng giúp con người hiểu được cùng thông điệp đó từ hàng ngàn năm rồi. Trong Thời đại Bảo bình, điều quan trọng hơn bao giờ hết là con người cần hiểu thông điệp này, bởi vì con người trong thời đại mới có cơ hội lớn hơn bao giờ hết để hiệp thông trực tiếp với Thượng đế.

Khi con đọc “Bắt chước Ki-tô”, con hãy đừng quên rằng sách đã được viết cách đây sáu thế kỷ. Sách được viết ra vào một thời kỳ chủ yếu Công giáo và được viết cho nền văn hóa đó. Vì vậy trong sách có nhiều điều không thể nói ra được vì sẽ vượt quá xa học thuyết của giáo hội. Vào thời điểm đó, làm như vậy đã có thể khiến cho tác giả bị đàn áp và nhiều người quá sợ hãi sẽ không dám đọc. Thật ra, hồi đó đã có một số người cho rằng quyển sách cấp tiến quá mức. Và ngày nay một số người đạo Cơ đốc vẫn còn nghĩ như vậy.

Và con cũng nên nhớ là sách được viết vào thời gọi là Thời đại Đen tối. Đó là một thời kỳ khi cuộc sống khó khăn hơn nhiều so với hầu hết mọi người đang sống tại phương Tây ngày nay. Vì thế, sách có xu hướng tập trung vào sự khổ đau và những vất vả trong đời sống nhiều hơn là thời nay.

Dù sao đi nữa, quyển sách là một ví dụ cho thấy một người có khả năng nâng cao tâm thức mình và phụng sự trong vai trò sứ giả cho các chân sư thăng thiên. Đó là một nguồn cảm hứng tuyệt vời sẽ giúp cho bất cứ ai hiệp thông với Thượng đế.

Âm nhạc để phát huy tâm linh

Hỏi: Con đang có chút mâu thuẫn về nhạc rock. Con chơi đàn guitar và thấy đó là một phương tiện biểu đạt rất sáng tạo. Con vẫn vô cùng thích thú khi chơi những bản nhạc nổi tiếng như của The Who, Led Zeppelin, The Rolling Stones, The Doors và Kiss. Con thấy khi chơi, con cảm thấy vui sướng và hạnh phúc. Con chỉ thắc mắc làm thế nào việc liên tục lắng nghe những ban nhạc này sẽ giúp con phát triển tâm linh (qua Ki-tô). Thày có cảm nghĩ gì về nhóm nào hay loại nhạc nào có thể làm trì trệ sự tăng trưởng tâm linh của con?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Con nói là con có mâu thuẫn về nhạc rock. Lý do là vì khả năng trực giác của con đang nói với con rằng có điều gì đó mà con chưa hiểu hay chưa nhìn thấy về loại nhạc này cũng như về tác động của âm nhạc nói chung. Ta thực sự khuyên con nên lắng nghe sự nhắn nhủ nội tâm này. Con hãy nỗ lực mở rộng trực giác của con và tham gia học hỏi về âm nhạc và sự tác động của âm nhạc.

Nhiều nền văn hóa cổ xưa có lời dạy về tác động của âm nhạc, cả tốt lẫn xấu. Một số văn hóa cổ xưa tin rằng cách nhanh chóng nhất để phá nát một xã hội là chơi loại nhạc sai lầm. Ngay cả khoa học hiện đại cũng bắt đầu hiểu ra là âm nhạc có tác động sâu xa trên con người. Nghiên cứu khoa học cho thấy trong khi nhạc cổ điển có thể giúp cây cối phát triển tốt hơn thì nhạc rock lại có tác đụng ngược lại. Con cũng có thể tìm thấy những nghiên cứu về tác dụng của âm nhạc trên việc học vấn.

Bằng cách tìm hiểu về các loại tác động của âm nhạc, con sẽ cho trực giác của con cơ hội hoạt động và đó sẽ là nền tảng để con nhận được thêm trực nhận từ bên trong.  

Tuy nhiên ta sẽ cho con mốt số gợi ý để con suy ngẫm. Như được trình bày khắp trang mạng này, ngay cả khoa học hiện đại cũng công nhận rằng mọi thứ đều là năng lượng. Như chúng tôi mô tả, chung quanh cơ thể con người có một trường năng lượng. Trường năng lượng này được kết nối với tâm. Thật không khó khăn gì để thấy được là sóng âm thanh do âm nhạc phát ra là những sóng năng lượng và chúng có thể ảnh hưởng lên trường năng lượng của con người.

Trong trường năng lượng của con người có một số trung tâm năng lượng, thường gọi là luân xa. Có cả thảy bảy trung tăm năng lượng chính, nằm dọc theo cột sống. Trung tâm năng lượng thấp nhất là luân xa gốc, cao nhất là luân xa đỉnh đầu, và ở giữa là luân xa tim.

Dòng sống của con, và ngay cả cơ thể vật lý, được nuôi dưỡng bởi một dòng năng lượng chảy xuống từ cái ta tâm linh vào trường năng lượng. Năng lượng này đi vào trường qua luân xa tim và một phần năng lượng chảy xuống luân xa gốc. Điều gì xảy ra cho năng lượng sau đó được định đoạt do sự chú ý của con. Chính sự chú ý hướng dẫn dòng chảy của năng lượng qua năng trường của con.

Cái gì kiểm soát sự chú ý của con? Chú ý bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những sở thích cá nhân của con. Nói cách khác, con yêu thích gì nhất thì con sẽ tập trung chú ý vào đó nhiều nhất, và vì thế nó sẽ nhận được nhiều năng lượng nhất của con. Hiển nhiên luân xa tim là trung tâm tình yêu trong con người con. Do đó, luân xa tim của con là chìa khóa kiểm soát năng lượng sẽ đi về đâu. Con cần phải bảo đảm con yêu thích những thứ sẽ giúp con tăng triển. 

Nếu con yêu thích những đồ vật của thế gian, năng lượng của con sẽ biểu đạt chủ yếu qua ba luân xa thấp, qua đó con sẽ trao cho năng lượng một rung động gần với độ rung của vũ trụ vật chất. Điều này cuối cùng sẽ tạo ra một vòng xoáy năng lượng mà từ lực sẽ lôi kéo các ý nghĩ và cảm xúc của con về đó. Nói cách khác, con càng đổ nhiều năng lượng vào những ham muốn đồ vật thế gian thì năng lượng đó sẽ càng kéo mạnh ý nghĩ và cảm xúc, buộc chặt con hơn với đồ vật thế gian.  

Ta không nói rằng điều này nhất thiết là sai trái. Một dòng sống có thể có ham muốn chính đáng trải nghiệm những sinh hoạt của vũ trụ vật chất. Tuy nhiên chúng ta đều biết nhiều người bị mê mải trong đủ loại ham muốn vật chất đến độ cả đời họ bị tiêu hao trong nghiện ngập.

Một dòng sống thường trải qua nhiều kiếp sống đeo đuổi các ham muốn đồ vật thế gian. Tuy nhiên hầu hết mọi dòng sống cuối cùng đều sẽ đạt tới một điểm khi họ cảm thấy cuộc đời không chỉ là chuyện hưởng thụ thế giới vật chất mà phài là gì nhiều hơn. Đây là điểm khi nhiều dòng sống khởi sự tiến trình thức tỉnh tâm linh. Và ở điểm đó, con có thể đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm linh của con bằng cách nhận thức rõ hơn con sử dụng năng lượng như thế nào. Nói cách khác, nếu con tiếp tục đổ năng lượng vào vòng xoáy đang buộc chặt con vào thế giới vật chất, con sẽ làm trì trệ bước tiến tâm linh của con. 

Nếu con muốn đẩy mạnh phát triển tâm linh, con cần khởi sự yêu thích những thứ của Tánh linh. Khi yêu thích những “đồ” tâm linh, con sẽ hình thành một cục nam châm trong luân xa tim, và nó sẽ lôi kéo năng lượng lên qua luân xa tim và biểu đạt những năng lượng này qua ba luân xa cao. Điều này cuối cùng có thể sẽ mở luân xa đỉnh đầu, là chìa khóa cho sự giác ngộ tâm linh.

Khi con bắt đầu hiểu hơn về dòng năng lượng, con thấy rõ là nếu con thực sự muốn tăng trưởng tâm linh, con cần nghe và chơi những loại nhạc sẽ khiến năng lượng con chảy qua các luân xa cao thay vì các luân xa thấp. Ta nghĩ hầu hết mọi người, bằng cách nỗ lực gia tăng trực giác và nhậy cảm, sẽ có khả năng cảm nhận được năng lượng của mình đang chảy về đâu khi họ nghe hay chơi nhạc. Ta nghĩ đại đa số sẽ nhanh chóng nhận ra là nhạc rock, nhạc jazz, nhạc rap và những hình thức nhạc nghịch tai khác sẽ ép buộc năng lượng chảy xuống các luân xa thấp, đặc biệt là luân xa gốc.    

Xin con hiểu một điểm quan trọng. Biểu đạt năng lượng qua các luân xa thấp sẽ dễ dàng mang lại cho con một cảm giác thích thú. Tuy nhiên, việc mang lại cảm giác vui sướng và sảng khoái không nhất thiết có nghĩa là sinh hoạt đó đang gia tăng sự phát triển tâm linh. Điều làm con cảm thấy dễ chịu chỉ là năng lượng tuôn qua luân xa. Cho nên cảm giác dễ chịu không nhất thiết có nghĩa là con đang thăng tiến tâm linh. Nói cách khác, con cần mở mang một khả năng phân biện nào đó hầu con có thể xác định xem năng lượng đang chảy lên luân ca cao hay chảy xuống luân xa thấp. 

Về mặt này, ta phải nói là tại hầu hết các quốc gia Tây phương, có một thành kiến cho rằng nếu có điều gì cảm thấy dễ chịu thì điều đó không thể sai trái. Ta hy vọng là con thấy điều này không cứ là đúng đối với một người quan tâm đến phát triển tâm linh. Nói cách khác, sự kiện một số loại nhạc khiến con vui vẻ hạnh phúc không nhất thiết có nghĩa là nhạc đó sẽ giúp con tiến triển tâm linh. Cho nên nếu sự phát triển tâm linh là quan tâm chủ yếu của con, con cần phải tìm những loại nhạc đưa năng lượng con đi lên thay vì đi xuống.

Ví dụ loại âm nhạc đó là rất nhiều các soạn giả cổ điển, như Mozărt, Beethoven và Handel. Cũng có một số loại nhạc Thời mới nâng năng lượng lên cao. Ấn độ có một truyền thống âm nhạc cổ xưa nhằm giúp hành giả có trải nghiệm tâm linh.

Ta có thể nói với con là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, vô cùng mong muốn mang đến những thể nhạc mới sẽ hấp dẫn giới trẻ như nhạc rock ngày nay nhưng lại khiến cho năng lượng của con người chảy lên thay vì tập trung xuống các luân xa thấp.

Ta khuyên con nên gia nhập một chương trình tìm hiểu âm nhạc và tăng trưởng khả năng nhậy cảm của con. Nếu con có thắc mắc gì thêm, con hãy cứ tự nhiên hỏi ta vì đây là một chủ đề rất quan trọng, không những cho cá nhân con mà cho nhân loại nói chung. Con nên cần nhắc xem con có thể hướng dòng sáng tạo của con về loại âm nhạc giúp nâng năng lượng vào các luân xa ở trên.

Một kỹ thuật thiết thực để nâng năng lượng tình dục lên tim

Hỏi: Giê-su yêu dấu, xin thày chỉ con một số kỹ thuật để chuyển hóa năng lượng tình dục. Chẳng hạn, để sử dụng năng lượng tình dục hầu mở tim.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Để mở đầu, ta xin nói là ngược với lời phán của rất nhiều giáo hội kể cả nhiều giáo hội Cơ đốc giáo, không có gì tội lỗi hay sai trái trong sự kết hợp tình dục giữa một người nam và một người nữ. Quan hệ tình dục trong tình yêu tinh khiết không phải là tội lỗi và cũng không làm tha hóa năng lượng của Thượng đế.

Nói như vậy nhưng ta cũng phải nhấn mạnh là trong thế giới ngày nay, thật là khó lòng giữ được cho quan hệ tình dục trong sạch. Đó là vì ngành quảng cáo mà một số tà lực ảnh hưởng và hỗ trợ mạnh mẽ, đã không ngừng tràn ngập nhân loại với những hình ảnh, những khêu gợi và ngay cả những năng lượng tinh vi nhằm gia tăng lòng ham muốn tình dục nơi con người. Hơn nữa, do hệ quả của sự lan tràn này cùng nhiều hình thức lâp trình xã hội khác, nhiều người đã nảy sinh ra thái độ cho rằng mình có quyền có quan hệ tình dục một cách vô giới hạn.    

Vì vậy, nếu con muốn giữ cho quan hệ tình dục của con được trong sạch, hay nếu con không có quan hệ tình dục, con cần phải tự vệ, con cần phải bảo vệ trường năng lượng của con cũng như trí thể và cảm thể của con chống lại chiến dịch công kích liên tục của năng lượng và khêu gợi tình dục.

Vòng đai phòng thủ của con phải bắt đầu với một quyết định. Con phải nhận ra là con đang bị công kich một cách dữ dội, thâm độc, bởi các khêu gợi tình dục, và con phải lấy quyết định là con sẽ không để cho người ta lập trình con bằng cách đó. Do đó, con phải quyết định là con sẽ lánh xa khỏi các khêu gợi đó khi có thể.  

Điều cực kỳ quan trọng là con sử dụng các dụng cụ tâm linh thích hợp để bảo vệ trường năng lượng cá nhân của con (trường năng lượng bao quanh cơ thể con) bằng cách xây dựng một lá chắn làm bằng năng lượng tâm linh cao tần bao quanh. Các chân sư đã có trao cho các con một số kỹ thuật bảo vệ, và có một kỹ thuật khác rất hữu hiệu là bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael.

Khi ta bảo là tự thân tình dục không có gì sai trái, ta không hề muốn nói là người ta có thể có tình dục một cách vô hạn mà không phải trả giá. Sống trong vũ trụ vật chất, con phải quyết định sử dụng tốt nhất các nguồn năng lực luôn luôn giới hạn mà con có. Nếu con dành thời gian cho một hoạt động nào đó, con sẽ không thể dành cùng thời gian đó cho một hoạt động khác. Nếu con bỏ thời gian và sức lực vào tình dục, con sẽ không thể bỏ thời gian và sức lực vào những hoạt động nhằm tinh tấn tâm linh.

Một trong những nhìn nhận quan trọng nhất về tình dục là ham muốn tình dục gồm có hai loại. Cái tâm thấp kém, cũng gọi là tâm phàm phu hay tâm xác thịt, giống như một cái máy tính điều hành cơ thể vật lý. Một trong những chức năng của máy tính xác thịt này là bảo đảm sự sống còn của cơ thể, trong đó có cả việc truyền giống. Vì vậy, tâm xác thịt đã được lập trình để luôn luôn muốn quan hệ tình dục.

Nhiều người đã đầu hàng trước ham muốn này và nguyên cuộc đời của họ chỉ xoay quanh tình dục. Hoặc là họ đang có quan hệ tình dục, hoặc họ đang tìm cách có quan hệ, hoặc họ đang cảm thấy ham muốn quan hệ. Điểm mấu chốt là  ham muốn tình dục của tâm xác thịt là một ham muốn vô độ. Cho dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa thì vẫn không đủ cho nó.

Nếu con nhượng bộ ham muốn vô độ này, con sẽ mở toang cánh cửa trường năng lượng cá nhân của con ra cho những khêu gợi của thế giới bên ngoài. Con cũng sẽ làm mồi cho một số thế lực thấp kém đang tìm cách xâm nhập trường năng lượng của con. Ta đã mô tả chi tiết hơn những tà thể đó trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is Born in You). Những thế lực này có những ham muốn tình dục không bao giờ có thể thỏa mãn và chúng sẽ cố phóng chiếu ham muốn này lên con. Nếu con nhượng bộ, đời con sẽ bị tiêu hao bởi ham muốn tình dục vô hạn.

Loại thứ hai, khi một dòng sống lần đầu tiên giáng xuống vũ trụ vật chất, con có mong muốn trải nghiệm rất nhiều thứ với thề xác vật lý của con, và điều này bao gồm cả tình dục. Tự thân nó, ham muốn này không có gì là sai trái hay tội lỗi. Tuy nhiên, điều thiết yếu cần nhận ra là ham muốn tình dục của dòng sống là một ham muốn khã dĩ thoả mán được. Nói cách khác, một dòng sống thực sự có thể cảm thấy mình đã đủ quan hệ tình dục và quyết định mình muốn dành ra thời gian và sinh lực để theo đuổi những mục đích tâm linh hơn.

Thật là bình thường nếu trong chiều dài cuộc đời, dòng sống dần dần mất đi khao khát tình dục của mình và bắt đầu chuyển trọng tâm vào các sinh hoạt tâm linh. Cũng có nhiều dòng sống đã vượt qua ham muốn tình dục trong những kiếp trước và vì vậy họ sẵn sàng từ bỏ một cách vĩnh viễn.

Điều quan trọng nhất trước khi con tìm cách chuyển hóa năng lượng tình dục là con phải lấy quyết định về thái độ của con trong vấn đề này. Một khi con đã có một quyết định nội tâm cương nghị về thái độ trước tình dục, cũng như con đã quyết định là con có muốn quan hệ hay không, thì con mới có hy vọng thoát được những công kích từ bên ngoài cùng những ham muốn vô hạn của tâm xác thịt.

Một trong những sai lầm to lớn mà quá nhiều người có đạo phạm phải, đặc biệt nhiều vị tu sĩ, nữ tu và linh mục của Giáo hội Công giáo, là họ không bao giờ có một quyết định tiên khởi như thế. Họ chỉ đơn giản suy nghĩ với cái tâm vỏ ngoài của họ là bởi vì giáo hội đã phán rằng tình dục là tội lỗi, cho nên họ sẽ phải cố gắng dồn nén mọi thèm muốn tình dục xuống. Đối với hầu hết mọi người, đây sẽ là một trận chiến cực kỳ cam go và một số sẽ bị đánh bại. Điều này được thể hiện rõ ràng qua các vụ lạm dụng tình dục của các linh mục Công giáo.

Điều ta muốn nói ở đây là trước khi con làm bất cứ gì để sử dụng một kỹ thuật chuyển hóa năng lượng tình dục, con phải nỗ lực đi đến một trạng thái minh mẫn nội tâm về thái độ của con đối với tình dục. Để đạt được minh mẫn nội tâm này, con hãy dùng kỹ thuật hòa điệu nội tâm mà ta đăng tải trên trang hộp dụng cụ tâm linh. Con hãy cố gắng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và với chính ta. Đừng sợ đến với ta và hỏi ta về tình dục. Ngược với những gì bao nhiêu tín đồ Cơ đốc có vẻ tin tưởng, thái độ của ta đối với tình dục hoàn toàn tự nhiên và thoải mái. Không có đề tài nào cấm kỵ đối với ta. Con có thể hỏi bất cứ điều gì và ta sẽ trả lời. Cái ta Ki-tô thiêng liêng của con, và chính ta, sẽ vô cùng vui mừng giúp con rọi sáng và giải quyết thái độ của con với tình dục.  

Một khi con đã sáng suốt trong nội tâm, con hãy áp dụng kỹ thuật sau đây để nâng năng lượng tình dục lên mức của trái tim.

Một kỹ thuật

Như đã nêu ở nhiều nơi trên trang web này, khoa học đã chứng minh là mọi thứ đều tạo bằng năng lượng. Trường năng lượng của con có một số trung tâm, thường gọi là luân xa. Khi con biểu hiện năng lượng lý trí hay tình cảm, con biểu hiện qua các trung tâm năng lượng này. Một trong các trung tâm nằm ở gốc cột sống ở cùng độ cao với bộ sinh dục, thường gọi là luân xa gốc trong các giáo lý bí truyền.

Khi con tiếp xúc với những năng lượng khêu gợi từ bên ngoài, năng lượng thường đi vào và làm ô nhiễm luân xa gốc của con. Cũng vậy, các ham muốn của tâm xác thịt cũng có thể làm ô nhiễm luân xa gốc. Điều này có thể khiến cho luân xa gốc bị đổi màu, và đối với nhiều người, luân xa sẽ phát ra ánh sáng màu đỏ hay màu cam. Khi luân xa gốc thuần khiết, nó phát ánh sáng trắng tinh.

Mỗi khi con cảm thấy có kích thích vật lý, kích thích này khởi đầu ở luân xa gốc. Nó khởi sự quay và phát ra năng lượng tình dục tha hóa, khiến cho các bộ phận vật lý bị kích động. Nói cách khác, sự kích động vật lý luôn luôn khởi sự với năng lượng ở luân xa gốc. Nếu con muốn chuyển hóa năng lượng tâm linh, con phải làm cho năng lượng dâng từ mức luân xa gốc lên đến trung tâm năng lượng ở giữa ngực, thường gọi là luân xa tim.  

Kỹ thuật hình dung:

Ngay sau khi con cảm thấy bất kỳ loại kích thích tình dục nào, con hãy lấy quyết định chặn đứng năng lượng chảy vào cơ quan sinh dục.

Tập trung sự chú ý vào luân xa gốc và hình dung nó bắt đầu quay nhanh hơn và ném bật ra mọi năng lượng bất toàn, và nó bắt đầu phát ra ánh sáng trắng tinh. Để giúp con hình dung, con có thể hình dung chính ta, hay Mẹ Mary, đứng trên luân xa gốc. Một số chân sư thăng thiên có liên hệ với một số loại ánh sáng tâm linh, và Mẹ Mary thì dụng công với ánh sáng màu trắng, cũng gọi là Ánh sáng Mẹ, của luân xa gốc. Cho nên Mẹ Mary sẽ vô cùng sẵn sàng giúp con hoán chuyển năng lượng tình dục.

Khi con cảm thấy luân xa gốc phát ra ánh sáng màu trắng, con hãy hình dung ánh sáng trắng này dâng lên tới luân xa tim, được biểu đạt qua luân xa này như là ánh sáng màu hồng của tình thương. Con có thể hình dung luăn xa tim như một đóa bông hồng với 12 cánh hoa. Bông hồng quay tròn, tỏa ra một ánh hồng dịu rất đẹp.

Con hãy chú tâm vào một đấng tâm linh, có thể là Thượng đế, Mẹ Mary, chính ta hoặc một đấng tâm linh nào khác tùy ý con, và con hãy gửi tình yêu mãnh liệt về đấng ấy.

Con hãy hình dung là con bắt liên lạc với vị thày tâm linh và thiết lập một dòng chảy hình số 8 giữa con và vị thày. Con đang nâng năng lượng từ luân xa gốc lên mức của luân xa tim, và con gửi năng lượng này lên vị thày. Vị thày sẽ gửi trả năng lượng lại xuống luân xa tim của con nơi nó sẽ nối kết thành một dòng chảy hình số 8 xuống đến luân xa gốc.

Con hãy hình dung dòng chảy hình số 8 này giữa con và vị thày cho tới khi con cảm thấy mọi năng lượng ô uế đã được thanh lọc.

Một khi con bắt đầu thực tập kỹ thuật này đều đặn, nó sẽ trở thành gần như tự động. Con sẽ có thể thực hiện ở mọi nơi chỉ trong vài giây, và con sẽ ngạc nhiên trước kết quả đạt được. Tuy nhiên, không một kỹ thuật tâm linh nào có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Do đó, trước tiên con phải làm rõ thái độ của con đối với tình dục và có một quyết định nội tâm cương quyết đối với mối quan hệ của con với tình dục. Đây là một quyết định mà chỉ có con lấy được.

Những ham muốn chính đáng không dẫn đến nghiện ngập

Hỏi: Thưa Giê-su, xin thày vui lòng nhận xét về những ích lợi sức khỏe tiềm tàng của việc uống rượu đỏ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta có biết về một số nghiên cứu khoa học cho thấy uống rượu vang đỏ có thể ngăn ngừa bệnh tim. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó có xem xét đến hậu quả tiêu cực của việc uống nhiều rượu trên cơ thể trong những khía cạnh khác hay không?

Trên địa cầu có rất nhiều loại thực vật được Thượng đế đặt sẵn ở đây để con người dùng làm thuốc. Con người sẽ được ích lợi rất nhiều nếu sử dụng những phương thuốc tự nhiên này để chữa bệnh và chấm dứt sự tham lam của ngành dược phẩm.

Điều ta muốn nói là trong nho đỏ có những chất hóa học rất lợi ích cho sức khỏe. Vấn đề là để hưởng những ích lợi này, con phải tiêu thụ thật nhiều nho đỏ. Nếu con uống rượu để cung cấp đủ lượng nho, chất rượu sẽ làm hại sức khỏe của con. Nó cũng có thể gây ra nghiện ngập và chắc chắn sẽ tác động tiêu cực trên những khả năng tâm linh của con. Vì vậy, ta thực sự khuyên con nên ăn nho tươi, nho khô hay uống nước ép nho.

Ta biết là một số người đã ham uống rượu từ lâu và họ luôn tìm những lý do chính đáng để có thể thoả mãn ham muốn của họ. Xu hướng con người nói chung là luôn tìm cách bào chữa cho những việc mình làm do lòng ham muốn. Và những người đó sẽ dùng các nghiên cứu khoa học để biện minh cho việc uống rượu của mình.

Lời khuyên của ta là nếu con ham muốn uống rượu, con nên công nhận lòng ham muốn này thay vì tìm cách che đậy và nói rằng con chỉ uống bởi vì lợi ích cho sức khỏe. Một khi con nhìn nhận ham muốn uống rượu thì con mới có thể khởi sự có được những sự chọn lựa trí tuệ về lòng ham muốn đó.

Một chọn lựa mà con có là nhìn nhận rằng có nhiều ham muốn không phải là của con. Những ham muốn này đã được phóng chiếu vào tâm và cảm thể của con bởi những thế lực của thế gian, với động lực không trong sáng trong nhiều trường hợp. Ta có thể cam đoan với con là Thượng đế đã không đặt rượu vào hành tinh này. Ngược với sự cả quyết của một số người, rượu không bao giờ có thể phát huy sự phát triển tâm linh của con. Thật ra, ngay cả một lượng rượu rất nhỏ cũng sẽ làm cùn các khả năng tâm linh. Nó sẽ làm giảm trực giác của con, khiến con khó chiêm nghiệm nội giác và cảm quan tâm linh.

Cho nên một người tầm đạo thực tâm sẽ khôn ngoan kiêng cữ tất cả mọi loại rượu. Điểm này cũng áp dụng cả cho việc dùng rượu thánh trong nghi lễ. Thuở xưa, người ta thật khó bảo quản nước nho ngoài mùa nho, và do đó rượu là cách thực tiễn duy nhất. Thời nay nhờ công nghệ, nước ép nho có thể được dọn ra bất cứ khi nào trong năm, và do đó không còn lý do gì để dùng rượu trong những lễ thánh.

Ta không đang nói là mọi người phải kiêng rượu. Nhiều người có mong muốn trải nghiệm một số thú vui của thế gian, kể cả thức ăn ngon kẻm với rượu vang. Đây có thể là một ham muốn chính đáng. Nhưng ta phải nói với con là một ham muốn như vậy không bao giờ dẫn đến nghiện ngập. Không ai có mong muốn say túy lúy rồi thức dậy với cơn đau đầu, hay lãng phi đời mình trong nghiện ngập. Vì vậy, nếu con uống rượu vì lòng ham muốn, con sẽ uống chừng mực.

Một khi con vượt qua lằn ranh vi tế giữa việc thưởng thức rượu và nghiện rượu, con có thể chắc chắn là con không còn đi theo một ham muốn đích thực ở bên trong nữa. Thay vào đó, dòng sống của con đang bị lợi dụng bởi những thế lực của thế gian muốn ngăn cản sự phát triển tâm linh của con.

Một ham muốn đích thực là một ham muốn có thể thỏa mãn. Con có thể cảm thấy thoả thuê, no đủ, khi con thưởng thức rượu trong một bữa cơm mà không bị xỉn. Và ham muốn này cũng có thể thỏa mãn trong dài hạn bằng cách vĩnh viễn bỏ lại mọi ham muốn uống rượu một khi con đã ngộ ra là việc gìn giữ khả năng tâm linh cho nhậy bén quan trọng hơn là việc hưởng thụ những thú vui giác quan.

Điều ta muốn nói là ở một mức nào đó trên đường phát triển của dòng sống, việc thưởng thức rượu một cách chừng mực có thể chấp nhận được. Nhưng khi dòng sống trưởng thành hơn, điều tự nhiên là nó sẽ bắt đầu tập trung chú ý nhiều hơn vào thế giới tâm linh. Và khi làm vậy, nó sẽ buông bỏ một cách tự nhiên mọi ham muốn dùng rượu.

Nguyên nhân tâm linh của béo phì

Hỏi: Người béo sẽ có xuống địa ngục không? Tham ăn là gì? Con biết tham ăn là sai trái, một cái tội, nhưng một người tham ăn cụ thể là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một số người béo sẽ xuống địa ngục, và một số người béo sẽ lên thiên đàng. Hay nói cách khác, số cân của một người không phải là yếu tố quyết định người đó sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục.

Và nhân tiện đang nói, địa ngục không phải như đa số các tín hữu đạo Cơ đốc hình dung. Địa ngục là một trạng thái tâm thức phát xuất từ ảo tưởng cho rằng người ta có thể tạo ra một nơi tách biệt khỏi Thượng đế. Vì vậy địa ngục không có thực. Nó chỉ có thực cho tới khi nào dòng sống còn tiếp tục làm tha hóa năng lượng của Thượng đế nhằm duy trì ảo tưởng rằng mình tách biệt khỏi Thượng đế.  

Ta định nghĩa tham ăn là một chứng rối loạn, là một sự mất cân bằng tâm lý nằm ở mép ranh giới với bệnh tâm thần, và có khả năng trở thành bệnh tâm thần thực thụ. Cho nên người tham ăn là một người đã mất kiểm soát việc ăn uống và không thể ngừng ăn, ngay cả khi nó tàn phá cơ thể vật lý của mình.

Ngược với kiến thức thông thường, bệnh béo phì hay tham ăn không phải là một tình trạng di truyền, mặc dù một người có thể có khuynh hướng béo phì do di truyền. Tất cả mọi sự xảy ra trong cơ thể vật lý đều có một đối tác tâm lý, vì thế tham ăn cũng có một nguyên nhân tâm lý. Có hai lý do chính khiến một người có xu hướng ăn quá nhiều.

Một lý do là vì người đó mang những vết thương tình cảm và vì vậy cảm thấy mình có nhược điểm dễ bị ngoài đời tấn công. Trong một nỗ lực của tiềm thức nhằm cách ly bản thân khỏi thế gian, dòng sống thầm mong mình lên cân trong tiềm thức. Thêm cân tạo ra một lớp cách nhiệt và trong tiềm thức dòng sống cảm thấy an toàn. Điều này khiến cho dòng sống đó cảm thấy như mình có thể chui vào trong vỏ của mình và ẩn nấp khỏi thế gian.  

Dạng béo phì này, hay tham ăn, có thể được khắc phục qua việc trị liệu tâm lý, qua những hình thức trị liệu truyền thống, hoặc một số liệu pháp mới vừa xuất hiện trong mấy thập niên qua. Nếu nỗ lực một cách nghiêm túc, bệnh nhân có thể khắc phục ý muốn cách ly bản thân với thế giới, dẫn đến sự giảm cân đáng kể. Một kết quả khác là chế độ ăn uống sẽ lành mạnh hơn, hỗ trợ cho tiến trình giảm cân.     

Tuy nhiên, những trường hợp tham ăn nghiêm trọng là một hình thức nghiện ngập. Như bất cứ bệnh nghiện hóa học nào khác, nó rất khó bỏ. Một lần nữa, một bệnh nghiện, ngay cả hóa học, cũng không khởi đầu do một nguyên nhân vật lý mà một nguyên nhân tâm lý, và khi bệnh nghiện hóa học đã bám chắc thì nó mới tràn xuống cơ thể vật lý.  

Trong bệnh tham ăn, nó bắt đầu với mong muốn được bảo vệ như ta vừa mô tả ở trên. Tuy nhiên trong những trường hợp nghiêm trọng, nó không chỉ là dòng sống mang vết thương tâm lý. Điều có thể xảy ra là những vết thương tâm lý này đã khiến cho dòng sống kéo hút những tà thể ở bên ngoài, có thể dưới dạng những hồn không xác – tức là những người đã qua đời nhưng dòng sống chưa bước vào cõi ánh sáng như hầu hết các dòng sống khác. Con có thể tìm thấy một số cuốn sách mô tả hiện tượng này, như một số sách về các trải nghiệm cận tử (near-death experiences). Dòng sống cũng có thể bị ám bởi một tà thể ác ý, chẳng hạn như một con quỷ.  

Đối với những người mắc bệnh tham ăn trầm trọng, hay béo phì trầm trọng, ta khuyên họ nên tìm hiểu hiện tượng này một cách sâu xa và khách quan, và áp dụng những kỹ thuật đúng đắn để khắc phục mọi sự can thiệp từ bên ngoài cũng như những vết thương của mình. Việc này gồm có cả việc bảo vệ tâm linh, như được trình bày trong trang Hộp Dụng cụ. 

Giáo lý nền tảng về tình dục và đồng tính luyến ái

Hỏi (Kim Michaels): Thưa thày Giê-su, gần đây người ta chú ý rất nhiều đến vấn đề đồng tính luyến ái, kể cả sự kiện một số tiểu bang tại Hoa kỳ có thể công nhận hôn nhân đồng tính, giáo hội Episcopal có thể bầu lên một vị giám mục đồng tính và Tối cao Pháp viện có thể bác bỏ luật chống dâm loạn của tiểu bang Texas. Gần đây, có một tham dự viên đặt câu hỏi là liệu linh hồn của anh đã được Thượng đế sinh tạo ra như một linh hồn đồng tính hay không. Một số khuôn mặt đồng tính nổi tiếng có tuyên bố rằng Thượng đế đã sinh tạo ra họ như là người đồng tính. Thày có nhận xét gì về điều này?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đón nhận cơ hội được bình luận về một đề tài đã gây rất nhiều bối rối và chia rẽ trong xã hội. Sự chia rẽ và hiềm khích thật là không cần thiết và chỉ có thề xoa dịu được qua sự hiểu biết đúng đắn. Ta có thể nói với con một cách tuyệt đối chắc chắn là Thượng đế không bao giờ tạo ra linh hồn nào là một linh hồn đồng tính luyến ái. Lý do là vì Thượng đế không tạo ra linh hồn.

Để hiểu được điều này, con cần suy ngẫm những giáo lý của ta về mối quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và cỗ xe 4 lớp hay cỗ xe linh hồn. Một khi con lãnh hội những giáo lý này, con sẽ thấy Hiện diện TA LÀ không chỉ là nam hay là nữ mà mang sẵn cả hai phẩm cách. Cũng vậy, cái Ta Biết không là nam hay nữ bởi vì nó là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không mang một sự phân biệt nào cả – nó đã được tạo ra để làm cánh cửa mở, làm tấm kính trong suốt cho Hiện diện TA LÀ.

Cho nên toàn bộ vấn đề tình dục của con người chỉ hiện diện ở cấp độ của cỗ xe linh hồn gồm có 4 lớp. Và như ta đã giải thích, cỗ xe này không do Thượng đế tạo ra: nó do cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu đạt qua trung gian một thân xác vật lý. Hơn nữa, đối với hầu hết mọi người, cỗ xe linh hồn được con người tạo ra do họ đã chọn bước vào tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con chỉ có thể xem mình là một sinh thể tách biệt bằng cách bước vào tấm màn của nhị nguyên – có nghĩa là bây giờ con nhìn mọi thứ như là những đối cực nhị nguyên hay những cặp đối lập với nhau.    

Ở đây con cần bén nhậy mà nhận ra một sự phân biệt vi tế. Chúng tôi đã có giảng rằng hầu tạo ra thế giới hình tướng khác biệt, Đấng Sáng tạo nhất nguyên đã tự biểu hiện thành hai thái cực. Chúng tôi đã gọi đó là lực lan ra và lực co lại, nhưng để mọi người có thể nắm bắt khái niệm này dễ dàng hơn, chúng tôi cũng có gọi đó là nam và nữ. Con cần lưu ý, ngôn từ trên địa cầu không phải lúc nào cũng có khả năng bộc lộ đầy đủ những khái niệm tâm linh như thế, có nghĩa là con không thể chuyển bừa bãi khái niệm tình dục của con người vào hai thái cực cơ bản của Thượng đế. Và đương nhiên, Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ hoàn toàn vượt khỏi mọi ý niệm giới tính của con người.       

Con cũng cần lưu ý rằng bản chất của tâm thức nhị nguyên và tự ngã là luôn luôn muốn ép uổng đặc tính của con người vào Thượng đế. Tự ngã sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng một tâm ảnh về thế giới, rồi phóng chiếu tâm ảnh đó lên mọi thứ. Tự ngã tìm kiếm sự minh chứng tối hậu cho tâm ảnh của nó bằng cách phóng chiếu tâm ảnh này lên Thượng đế, và nó bảo rằng chính Thượng đế đã tạo ra tâm ảnh đó, hay rằng tâm ảnh không phải là tâm ảnh mà chính là thực tại của Thượng đế. Đây chính là cơ sở của hầu hết mọi tôn giáo cũng như của mọi xung đột giữa các tôn giáo.

Cho nên quả thực là có hai thái cực, nhưng tự ngã và tâm thức nhị nguyên không thể nhìn ra được hai thái cực đó trong dạng thuần khiết. Tâm thức nhị nguyên chỉ làm được một chuyện là làm tha hóa hai phẩm cách đó, nghĩa là thay vì bổ sung cho nhau thì bây giờ cả hai có vẻ chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Rồi tự ngã phóng chiếu hai đối cực tha hóa này lên nguyên bản mà cứ tưởng đó thật sự là bản chất của Thượng đế.    

Vì vậy, đúng là có hai thái cức thiêng liêng, nhưng cả hai đều vượt khỏi và vượt lên trên mọi ý niệm giới tính của con người. Điều này có nghĩa là con không thể hiểu được trọn vẹn tình dục con người trừ khi con cũng hiểu biến cố sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, và sự sa ngã này đã tác động sâu đậm như thế nào lên mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu.

Như chúng tôi có giảng dạy, ở nguyên thủy, địa cầu do các Elohim tạo ra vốn ở một trạng thái cao hơn, tinh khiết hơn so với bây giờ. Ngay cả vật chất cũng không dày đặc, nghĩa là những thể mà các con gọi là vật thể vật lý cũng không dày đặc như bây giờ. Khái niệm Vườn Eden biểu tượng cho một trạng thái nơi các dòng sống có thể đáp ứng mọi nhu cầu của mình duy qua quyền năng của tâm mình. 

Trong trạng thái nguyên thủy đó, xác thân không có bộ phận sinh dục. Xác thân nguyên thủy được tạo bằng năng lượng cao tần hơn cơ thể vật lý của các con, và xác thân được làm bằng năng lượng tuy là vẫn có thể chất. Vào thời đó không có nhu cầu tạo ra xác thân mới ở cùng một độ rung, bởi vì “vật chất” – hay thể chất – rất thanh nhẹ, và vì vậy chỉ cần vận dụng quyền năng tâm trí là có thể tạo ra xác thân mới. Các dòng sống trong Vườn Eden vẫn khác biệt trong phẩm cách nam và nữ, tuy nhiên điều này vượt ngoài mọi giới tính vật lý.    

Sau khi sa ngã vào nhị nguyên, vật chất đặc lại – theo đúng nghĩa đen như vậy. Cùng lúc, các dòng sống đi vào nhị nguyên cũng đánh mất quyền năng tâm trí đang cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu sinh sống cho mình. Sự kiện này được phác họa qua câu chuyện của Adam và Eva bị đuổi ra khỏi Địa đàng, và thay vì được tha hồ hái quả trên cây thì bây giờ họ phải “đổ mồ hôi trán” mà tự nuôi lấy thân mình.      

Quá trình sa ngã này khá phức tạp, cho nên để khỏi lạc đề, ta sẽ nói giản dị là chỉ sau khi bị sa ngã vào nhị nguyên, con người mới phải khoác lấy cái xác thân dày đặc mà ngày nay các con gọi là cơ thể vật lý. Xác thân này có bộ phận sinh dục do quá trình tiến hóa, như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày. Nói cách khác, chỉ do sự sa ngã vào tâm thức nhị nguyên mà cơ thể vật lý mới được tạo ra nơi cõi vật lý, và do đó sự sinh sản vật lý mới trở nên cần thiết.

Sự thay đổi này tác động sâu xa đến tình trạng của cái Ta Biết, bởi vì bây giờ nó phải tạo ra một cỗ xe linh hồn thì nó mới hội nhập được với cơ thể vật lý dày đặc đó. Trước khi sa ngã, hoàn toàn không có nhu cầu một cỗ xe linh hồn mang giới tính nam hay nữ. Nhưng sau cuộc sa ngã thì sự phân biệt thành cơ thể nam hay nữ trở thành yếu tố định đoạt cơ thể con người.    

Như ta có giảng dạy, con có bốn tầng của tâm, bốn thể phàm. Thể cao nhất là thể bản sắc nơi con xác định ý niệm cơ bản về cái ta của con trong thế giới vật chất. Cho nên sau khi sa ngã, sự phân biệt giữa nam và nữ đã nằm sẵn ngay nơi tầng bản sắc. Hệ quả là ngay khi dòng sống bước vào hiện thân vật lý, nó bắt đầu tự nhận diện nó thuộc về giới tính nào rồi. Chẳng hạn, một dòng sống có thể sống nhiều kiếp trong một cơ thể nam giới. Có nghĩa là đối với một dòng sống tương đối “mới”, giới tính sẽ trở thành một thành phần chủ yếu trong bản sắc của nó, và nó thường sẽ tự nhận mình là một linh hồn có giới tính nam hay nữ.

Con hãy ghi nhận một điểm sâu sắc ở đây. Sự kiện cơ thể có sự khác biệt giữa nam và nữ có thể là một điểm gợi ý cho con về tâm thức nhị nguyên. Như ta đã nói, tâm thức nhi nguyên đã làm tha hóa hai thái cực thiêng liêng nguyên thủy, tạo ra sự mất cân bằng. Sự tha hóa này được thể hiện trong cơ thể qua bộ phận sinh dục nam và nữ, và sự sống mới chỉ có thể ra đời khi cả hai cơ thể nam lẫn nữ kết hợp với nhau. Ý nghĩa sâu kín là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con trở thành một sinh thể không trọn vẹn. Trong nhị nguyên, con sẽ không bao giờ được trọn vẹn, và đó là lý do người ta luôn luôn cảm thấy lẻ loi, thiếu sót. Sự kiện con phải kết hợp với một cơ thể khác phái để tạo ra sự sống mới là biểu tượng cho con thấy con phải tìm được một sự cân bằng thiêng liêng giữa hai phẩm cách nam và nữ hầu đạt đến trạng thái viên mãn tạo sinh ra sự sống mới trong tâm thức Ki-tô. Con cần kết hợp lại hai thứ mà con hiện xem là đối cực và giải quyết sự xung đột giữa cả hai. Cho tới khi nào con còn thiếu cân bằng thì con sẽ không thể thăng vượt đươc cõi vật lý, là nơi con phải làm lụng “đổ mồ hôi trán”.

Mục đích cuộc sống là tăng trưởng tâm thức, dẫn đến những tầng ngày càng cao hơn trong tâm thức Ki-tô, cho đến khi con sẽ thượng thăng vĩnh viễn khỏi địa cầu. Một khía cạnh của tiến trình tăng trưởng này là con phải thăng vượt ý niệm bản sắc thế phàm, tất nhiên kể cả tình dục con người. Ta cũng biết chúng tôi thường hay hiện ra là chân sư thăng thiên nam hay nữ, và nói chung chúng tôi hay chọn biểu hiện những đặc tính chủ yếu là nam hay nữ. Tuy nhiên những đặc tính này của chúng tôi vượt khỏi mọi giới tính nơi trần thế, và điều này có nghĩa là con phải thăng vượt tình dục nhị nguyên của con người thì con mới thăng thiên được.

Nói cách khác, con có thể khoác một cơ thể nam trong kiếp chót của con trước khi thăng thiên, nhưng con sẽ không thăng thiên được nếu con tự xem mình là một linh hồn phái nam. Con sẽ chỉ thăng thiên khi nào con đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa hai phẩm cách thiêng liêng nam và nữ hầu con không đồng hóa với một phẩm cách nào. Vậy thì làm thế nào con sẽ đạt được sự cân bằng này? Phải rồi, bằng cách con thăng vượt mọi khái niệm nhị nguyên thế phàm của nam lẫn nữ.

Khi dòng sống trưởng thành hơn, y sẽ phải tu thân để khắc phục sự đồng hóa nguyên thủy của y với một giới tính. Có nghĩa là một dòng sống đang trưởng thành sẽ sống qua một giai đoạn khi y sẽ luân phiên đầu thai trong cơ thể nam và nữ. Một số dòng sống sẽ thay đổi giới tính mỗi kiếp đầu thai, trong khi đó thì một số khác sẽ đầu thai ba kiếp liền trong một giới tính rồi mới thay đổi. Nhưng con nắm được vấn đề chứ, phải không? Mục đích là để giúp con vượt qua sự tự đồng hóa với tình dục con người hầu con không định nghĩa bản sắc của mình dựa trên giới tính nữa, mà con xem mình là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi giới tính con người – mặc dù con vẫn tự biểu đạt qua trung gian một cơ thể nam hay nữ.  

Vấn đề là đối với một số dòng sống, việc vượt qua giới tính của mình tương đối dễ dàng, trong khi đối với một số khác, việc này khó hơn nhiều. Thật ra đối với một số dòng sống, đó sẽ là việc cuối cùng họ sẽ phải vượt qua trước khi thăng thiên. Có nghĩa là, chẳng hạn, sẽ có khả năng một dòng sống khoác lấy một cơ thể nam trong khi chưa buông bỏ được sự đồng hóa với một linh hồn nữ. Nói cách khác, họ mang cơ thể nam nhưng vẫn duy trì sự hấp dẫn tình dục đối với cơ thể nam mà họ đem theo từ tiền kiếp. Điều này dẫn đến một số vấn đề mà họ gặp phải trong tình dục, từ lưỡng tính (bisexuality), đổi giới tính (transsexuality) cho đến đồng tính (homosexuality).    

Điều khiến cho toàn bộ cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái trở nên rắc rối là vì trong một thời gian rất dài, những người theo tôn giáo đã định nghĩa đồng tính là một tội lỗi. Điều này khiến cho một số dòng sống phải cố bênh vực sự đồng tính của mình, một phần vì họ nhận ra là họ đã sinh ra với khuynh hướng đó, và phần khác là do lòng tự ái không muốn buông bỏ tình trạng này. Nhưng điều ta muốn nói ở đây là để tăng trưởng tâm linh và thăng thiên, con phải vượt lên trên TẤT CẢ mọi loại tình dục của con người. Cho dù con đồng tính hay dị tính (heterosexual), thì con vẫn phải bỏ lại đằng sau cái xu hướng tự nhận diện mình theo giới tính của cơ thể vật lý. Và khi nào con còn tìm cách biện hộ cho tình dục của con trong một cuộc tranh cãi nhị nguyên chống lại người khác – và những người này thì cũng bị kẹt trong nhị nguyên y như con – con sẽ không thể bỏ nó lại đằng sau.  

Con không thể thăng vượt một cái gì mà con cố bênh vực. Con chỉ có thể thăng vượt được một cách mà thôi, là buông bỏ tất cả mọi sự đồng hóa với một điều kiện nào đó. 

Kim Michaels: Đây là một lời giải thích vô cùng thâm sâu về một vấn đế đã khiến cho rất nhiều người đạo Cơ đốc bị bối rối. Vì họ nghĩ rằng linh hồn là do Thượng đế tạo ra, cho nên họ không thể hiểu được tại sao họ lại đồng tính nếu quả thật ngài đã không tạo ra người đồng tính? Điều này cũng giải thích tại sao nhiều người tin rằng họ có thể sinh ra là người đồng tính.

Giê-su: Sự lầm lẫn này bắt nguồn từ sự kiện giáo hội Cơ đốc chính thống cách đây 1500 năm đã quyết định nghiêm cấm và xem là tà giáo ý tưởng bảo rằng linh hồn đã tồn tại từ trước. Cho nên suốt 1500 năm trời, nền văn hóa phương Tây đã bị chi phối bởi một hệ tư tưởng, một hệ tín ngưỡng, bác bỏ luân hồi và đầu thai. Như ta có giải thích ở nhiều nơi trên trang mạng này, đây là một quyết định chính trị sai lầm đã gây ra biết bao nhầm lẫn trong thế giới phương Tây. Sự thật giản dị là nếu con không chấp nhận linh hồn đã tồn tại rất lâu trước khi nó hiển thị trong kiếp đầu thai này, thì sẽ có rất nhiều câu hỏi mà con không thể tìm được lời giải đáp ổn thỏa. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong vô số những câu hỏi như thế.

Có một sự hiểu lầm rất phổ biến về đồng tính cũng như về rất nhiều điều kiện khác của con người, cho rằng – trong một nghĩa nào đó – con người là nạn nhân của các điều kiện đó. Quá nhiều người tin rằng điều kiện đó là kết quả của một số yếu tố vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, là điều kiện bị áp đặt từ bên ngoài, và bây giờ mình không có chọn lựa nào khác hơn là phải chung sống với nó.

Đây là một lời ngụy biện. Đây là một lời gian dối. Đây là một trong những lời gian dối hiểm độc nhất có thể tìm thấy trên địa cầu – là lời gian dối rằng con người là nạn nhân của một số thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thay vì chính mình là tác giả của số phận của mình.   

Một trong những điểm chủ yếu mà ta cố gắng trình bày trên trang mạng này là chính con người do sự chọn lựa của mình đã tạo ra những điều kiện hiện tại. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết, đơn giản là ngài sẽ không thể thay đổi được tình trạng khốn khổ hiện nay trên địa cầu. Nổi khốn khổ này chỉ có thể được xóa bỏ một khi con người, một cách ý thức và cố tình, khởi sự có được những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ.

Rõ ràng, hầu hết mọi người đều không ý thức được những chọn lựa mà mình đã có trong quá khứ, và do đó họ không thấy được là họ đã tạo ra hoàn cảnh hiện thời của họ. Ta vô cùng thương cảm loài người và ta hiểu rõ tại sao con người lại cảm thấy mình là nạn nhân. Tuy nhiên mục đích của trang web này – cũng như của mọi giáo lý tâm linh chân truyền khác – là để giúp con người bước lên cao hơn trong tâm thức. Sự thật tàn bạo là con không thể tăng triển tâm linh khi nào con vẫn còn xem con là nạn nhân.    

Con chỉ có thể tăng triển bằng cách nhận ra rằng con có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Nhưng sự công nhận này chỉ đến được khi nào con chấp nhận rằng hoàn cảnh của con là kết quả những lựa chọn đã qua bởi cái Ta Biết của con. Chỉ khi nào con chấp nhận điều này thì con mới có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Con có thể làm được chuyện này bằng cách lựa chọn tốt hơn, và chìa khóa để chọn lựa tốt hơn là giải quyết những tin tưởng lầm lạc cùng những vết thương tâm lý đã khiến con có những chọn lựa gây giới hạn trong quá khứ.  

Kim Michaels: Như vậy có phải chăng là thày nói rằng nếu không chấp nhận luân hồi và đầu thai thì sẽ không thể giải thích được nguyên nhân của đồng tính?

Giê-su: Đồng tính luyến ái phát xuất từ một lựa chọn của cái Ta Biết. Lựa chọn này đã không xảy ra trong bụng mẹ hay ngay cả trong kiếp này, mà đã xảy ra cách đây rất lâu, và đối với hầu hết mọi dòng sống, lựa chọn đó đã xảy ra ngay sau khi dòng sống nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn luôn luôn là một tiến trình lần hồi. Nó lần hồi đến độ đa số dòng sống không nhận thức được là nó đang diễn ra. Thực tế là một số dòng sống hiện vẫn chưa nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên, nhiều dòng sống sẽ trải qua một giây phút sáng ngộ khi họ nhận ra rằng họ đã đánh mất một cái gì đó mà trước kia họ vốn có. Họ có một “kinh nghiệm chấn động” khi họ nhận ra là họ đã bị rớt khỏi trạng thái ân sủng, và vấn đề giờ đây là họ phải cần làm gì để đáp ứng lại trải nghiệm đó.     

Khi một dòng sống nhận ra làm mình đã sa ngã, y có thể phản ứng nhiều cách. Một số dòng sống sẽ nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và họ cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn họ tới một trạng thái tâm thức cao hơn nơi họ bắt được liên lạc ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đây chính là con đường tâm linh mà ta mô tả suốt trang mạng này.

Một số dòng sống khác sẽ từ chối nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình, khiến họ phản ứng lại bằng hai cách, và cả hai cách đều có thể dẫn đến đồng tính luyến ái. Trong cách thứ nhất, một số đổ lỗi cho khía cạnh nữ trong bản chất của mình đã khiến cho mình sa ngã. Một trong những đặc tính của khía cạnh nữ là giúp con thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, thế nhưng khi con thích nghi quá trớn, con có thể làm tổn hại đến cá thể thiêng liêng của con, và đây chính là lý do khiến cho nhiều dòng sống rơi vào nhị nguyên. Sự thể này phát triển thành sự thù ghét khía cạnh nữ của Thượng đế, thù ghét Mẹ, và được trình chiếu ra thành sự thù ghét phụ nữ nói chung, hay một hình thức nhẹ hơn là sự cảm nhận tiêu cực về phụ nữ.

Sự thù ghét khía cạnh nữ này khiến cho cỗ xe linh hồn bị vỡ đôi. Linh hồn không thể viên mãn và quân bình được nếu không có sự phân cực đúng đắn giữa hai yếu tố nam và nữ trong bản chất của nó.   

Một số dòng sống dần dần cảm thấy ghê tởm nữ giới và họ thường chọn đầu thai làm người nam giới đồng tính. Một số khác nảy sinh mong muốn trừng phạt hay khuất phục nữ giới, và họ thường đầu thai làm những người nam dị tính có khuynh hướng săn lùng tình dục hoặc đề cao phái nam quá đáng. Trong những trường hợp cùng cực, họ có thể trở thành kẻ hiếp dâm hay thậm chí kẻ giết người hàng loạt. Hoặc đỡ hơn một chút, họ trở thành những kẻ săn lùng tình dục, sử dụng phụ nữ làm nô lệ cho mình – không cứ là để thoả mãn tình dục tức thì mà để trừng phạt phụ nữ. Xuyên qua các thời đại, tệ trạng này đã gây ra không biết bao nhiêu sự lạm đụng đối với phụ nữ.    

Trong cách thứ nhì, một số dòng sống cũng nhận ra rằng chính khía cạnh nữ của họ đã sa ngã, nhưng họ lại đổ lỗi cho khía cạnh nam của họ. Họ cho rằng khía cạnh nam này đáng lý đã phải ngăn chặn được khía cạnh nữ chạy theo thế gian. Và họ trở nên căm thù Cha, hay khía cạnh nam củaThượng đế. Họ đeo đuổi mong muốn trừng phạt khía cạnh nam, và điều này thường biểu hiện qua ý muốn trừng phạt phái nam hay bắt đàn ông phải nhận lỗi.

Một số những dòng sống này chọn đầu thai trong một cơ thể nữ và trở thành đồng tính nữ. Họ biểu lộ lòng căm thù đối với phái nam bằng cách quan hệ tình dục với phái nữ. Nhưng cũng có một số khác chọn đầu thai làm người nữ dị tính, và họ bỏ ra cả đời tìm cách trừng phạt hoặc khuất phục đàn ông. Họ thường sử dụng tình dục hay một số phương thức tâm lý nào khác để khiến cho đàn ông cảm thấy mình thấp kém hơn, hay mình có lỗi. Suốt dòng lịch sử, tệ trạng này đã gây ra rất nhiều thù nghịch giữa hai phái cũng như rất nhiều lạm dụng, chủ yếu là sự lạm dụng tâm lý đối với phái nam.     

Con cần lưu ý là nhiều dòng sống đã cư ngụ trên địa cầu này từ rất lâu đời, cho nên họ đã cơ hội phát triển những nét tâm lý vô cùng phức tạp, qua đó họ đã chôn vùi phản ứng của họ đối với biến cố sa ngã dưới nhiều lớp tin tưởng và vết thương tâm lý. Cho nên khi một người tự xem mình là đồng tính thì điều này cũng có thể mang nhiều yếu tố khác nữa. Và như ta giải thích ở trên, yếu tố thông thường nhất là sự bối rối, lầm lạc của dòng sống đối với bản sắc giới tính của mình, phát xuất từ một bản sắc đã bị đông cứng lại từ nhiều tiền kiếp.   

Nguyên nhân của đồng tính phức tạp hơn mọi điều có thể được trình bày trừ khi viết ra thành nguyên một bộ sách. Cho nên mục đích chính của ta ở đây là chỉ ra cho con thấy rằng cái tiến trình khiến cho một dòng sống tự xem mình là đồng tính đã khởi đầu từ rất lâu trước kia khi y lần đầu tiên phản ứng lại sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.   

Kim Michaels: Vậy có vẻ như đồng tính luyến ái đã không do Thượng đế sinh tạo và do đó không phải là một điều tự nhiên. Thày nghĩ gì khi nhiều người theo Cơ đốc giáo chính thống gán cho đó là một tội lỗi, một chuyện ghê tởm, và họ còn cố khiến cho người đồng tính cảm thấy mình có tội?

Giê-su: Một trong những diễn biến đáng buồn nhất trong 2000 năm qua là sự kiện có quá nhiều giáo hội Cơ đốc đã quên mất – và rời bỏ – một trong những tinh túy trong giáo lý tâm linh của ta, đó là tình thương vô điều kiện. Ta đã chẳng bảo mọi người đạo Ki-tô phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình hay sao? Ta đã chẳng khuyên họ hãy đừng phán xét? Vậy thì tại sao nhiều tín hữu Cơ đốc lại phán xét anh chị em của mình và gán cho họ một tội nặng hơn cả mọi tội khác?    

Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, Giáo hội Công giáo sơ khai đã không đi đúng chủ ý cùng giáo lý nguyên thủy của ta. Vì lý do chính trị, rất nhiều điểm đã bị loại bỏ khỏi giáo lý nguyên thủy của ta, và vì thế Giáo hội không còn khả năng giải đáp rất nhiều câu hỏi mà các tín hữu đặt ra về cuộc sống tâm linh. Các giáo điều chính thống, tự nhận là không thể sai sót, thật sự đã không đem lại được nhiều câu trả lời cho người tầm đạo. Vì lý đo đó, Giáo hội đã rời xa viễn kiến ban đầu của ta về một giáo hội sẽ đem lại những lời giải xác thực và chân chính cho mọi người. Thay vào đó, Giáo hội chỉ đưa ra được một số giáo điều, rồi lại tìm cách doạ nạt để không ai còn dám đặt ra những câu hỏi mà giáo điều chính thức không có khả năng giải thích.

Dần dà, tình trạng này dẫn đến một không khí sợ hãi đầy mặc cảm tội lỗi trong giáo hội. Hiển nhiên điều này đã có nhiều tác dụng tiêu cực, và trong bối cảnh đó, hậu quả là các giáo hội Cơ đốc đã không có phương cách hữu hiệu nào để giúp đỡ người đồng tính. Thay vào đó, giáo hội chỉ còn cách gắn một cái nhãn tội lỗi tày trời cho họ, rồi tìm cách dùng sợ hãi và mặc cảm tội lỗi để khiến họ phải bỏ đi những hành vì đồng tính vỏ ngoài của mình. Tất nhiên, cách trấn áp như vậy không làm gì để giúp cho người đồng tính giải quyết sự mất cân bằng nội tâm đã gây ra đồng tính.

Như ta trình bày ở trên, vấn đề chủ yếu với đồng tính luyến ái là dòng sống không đạt được sự quân bình đúng đắn, sự phân cực đúng đắn, giữa hai khía cạnh nam và nữ, và như vậy, y tự nhận diện mình dựa trên giới tính của cơ thể vật lý. Đúng là đồng tính là một tình trạng bất thường không được Thượng đế tạo ra, và do đó, việc lợi ích nhất cho dòng sống là cố gắng chữa lành. Tuy nhiên sự chữa lành đích thực chỉ có thể xảy ra một khi có sự hiểu biết, tức là khi dòng sống khởi sự tìm hiểu quá trình đã dẫn đến trạng thái tâm thức hiện tại rồi lấy một quyết định ý thức rằng mình sẽ nhận trách nhiệm về tình trạng đó và có những chọn lựa để mà cải thiện tình trạng.   

Ngược lại với chủ ý nguyên thủy của ta, hầu hết mọi giáo hội Cơ đốc đã không có khả năng đem lại được một sự hiểu biết cao hơn về cuộc sống tâm linh, do đó đã không làm sao giúp chữa lành tín hữu của mình, cho dù là trong vấn đề đồng tính hay bất cứ một vấn đề mất cân bằng nào khác gây đau khổ cho con người – kể cả những khổ đau nơi những người bị mất cân bằng trong tình dục dị tính. Thay vào đó, các giáo hội Cơ đốc đã tung đòn sợ hãi pha trộn với mặc cảm tội lỗi, khiến cho con người phải kìm nén sự mất cân bằng của mình, hay thậm chí phủ nhận cả sự mất cân bằng đó.    

Hãy cho phép ta nói thật rõ như ta vẫn làm suốt trang mạng này: con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi là dòng sống phải đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Để đạt được tâm thức này, y phải vượt qua những vết thương tâm lý cùng những tin tưởng sai lầm đã tạo ra vết thương đó ở ban đầu. Công việc này chỉ có thể hoàn thành qua sự hiểu biết ý thức, mà nhờ đó y có thể có những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ. Sự hiểu biết ý thức này, tiến trình chữa lành ý thức này, không có hy vọng nào xảy ra khi nào y vẫn còn làm ngơ hay phủ nhận những mất cân bằng của mình.

Hàng triệu tín đồ đạo Cơ đốc đã khiến mình tin rằng họ sẽ tự động được cứu rỗi bằng cách gia nhập một hội thánh vỏ ngoài, tin tưởng vào một giáo lý vỏ ngoài và tuân thủ các lề lối của giáo hội. Đây là một lời gian dối. Như ta đã giải thích nhiều lần, không hề có sự cứu rỗi nào xảy ra một cách tự động.  

Thực tế đáng buồn là hàng triệu tín đồ Cơ đốc cũng mang cùng những mất cân bằng giữa khía cạnh nam và nữ y hệt như những người công khai đồng tính luyến ái. Rất nhiều những tín đồ này đã chỉ đơn giản dồn nén hay phủ nhận những mất cân bằng đó. Ta đã nhìn thấy quá nhiều nam tín hữu đạo Cơ đốc lên án kịch liệt sự đồng tính nơi người khác, nhưng chính họ lại không nhận ra sự căm ghét phụ nữ ở nơi họ khiến họ đã lấn át hay thậm chí ngược đãi vợ mình. Họ cho rằng bởi vì họ có một đời sống ngoan đạo bề ngoài thì họ không hề mang tội lỗi. Nhưng sự thật là chính họ cũng mang cùng sự mất quân bình như những người mà họ lên án.   

Ta thấy nhiều phụ nữ đạo Cơ đốc cũng công khai lên án người đồng tính, thế nhưng họ cũng bị mất quân bình khi họ khuynh đảo chồng mình qua mặc cảm tội lỗi hay sự từ chối chiếu cố tình dục. Quả thật đây là một ví dụ của những kẻ không thấy được cái xà trong mắt mình.

Kim Michaels: Còn phe bên kia cuộc tranh luận thì thế nào, chẳng hạn như phong trào đòi quyền cho người đồng tính, hay người tranh đấu để xã hội công nhận đồng tính luyến ái là bình thường, hợp pháp?

Giê-su: Ta đã nỗ lực giảng giải qua sự hiểu biết cao hơn và không sử dụng sợ hãi hay mặc cảm tội lỗi, rằng đồng tính không phải là do Thượng đế tạo ra. Vì vậy, đồng tính không là chuyện tự nhiên, và sẽ thật là đáng tiếc nếu đồng tính trở thành một chuyện bình thường trong xã hội, hay xã hội xem đó là chuyện bình thường.

Sự thật đơn giản, một sự thật mà không một luận lý nào của con người có thể thay đổi được, là dòng sống sẽ được lợi ích nhất nếu y chữa lành sự mất cân bằng đã tạo ra tình trạng đồng tính (cũng như mọi sự mất cân bằng khác).

Việc tranh đấu cho đồng tính luyến ái được công nhận là một lối sống bình thường hay tự nhiên, sẽ không giúp cho dòng sống chữa lành. Nó sẽ chỉ khiến cho y càng trở nên cố định trong lối sống của mình và đi giật lùi trên con đường tâm linh. Ta là một vị thày tâm linh, và ta không tán thành bất kỳ biện pháp nào sẽ ngăn trở bước tiến tâm linh của con người.

Kim Nichaels: Thày nghĩ gì về lời tuyên bố của một số tín hữu Cơ đốc cho rằng đồng tính là một cái tội sẽ bị Thượng đế trừng phạt?

Giê-su: Nếu con đọc kinh Cựu ước, con sẽ tìm thấy trong đó có những nhóm người đã đánh mất sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng về các Quy luật của Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, Thượng đế đã phải phái xuống một vị tiên tri để đánh thức họ dậy hầu họ nhìn thấy cách cư xử điên rồ của họ, nhưng bởi vì trạng thái tâm thức của con người thời Cựu ước không cao lắm, cho nên vị tiên tri thường phải bảo rằng nếu họ không thay đổi cách sống thì họ sẽ bị Thượng đế trừng phạt.

Như ta có giải thích ở nơi khác, đời sống tâm linh trên hành tinh này đã có tiến bộ, và con người thời nay lẽ ra phải hiểu biết rành mạch hơn về các quy luật tâm linh cũng như vật chất mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo vũ trụ. Nếu con người phát triển được hiểu biết này thì họ cũng sẽ nhận ra rằng Thượng đế không hề trừng phạt con người. Chính con người tự trừng phạt mình do đã vi phạm luật của ngài. Và con người vi phạm các quy luật này vì họ đã bước xuống một trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi họ không còn nhận rõ được các quy luật này nữa. Họ không thấy được là lợi ích lớn nhất cho họ – là chính tư lợi của họ nếu họ sáng suốt – là họ cần tuân thủ các quy luật đó.

Nhưng vì họ đã bước xuống nhị nguyên, họ cứ tưởng rằng họ có thể định đoạt mọi thứ theo cách nhìn tương đối của họ. Họ mất hẳn liên lạc với các quy luật thiêng liêng mà cứ đinh ninh rằng mình sẽ không bị hề hần gì khi mình vi phạm luật của Thượng đế. Khi con người chìm sâu hơn vào trạng thái tâm thức này, họ thường bắt đầu dựng lên một hệ tư tưởng đi ngược lại quy luật Thượng đế, và họ cảm thấy hệ tư tưởng này cũng hữu lý lắm chứ. Nhưng hệ quả cùng cực là khi họ khiến cho xã hội phải chính thức công nhận một hệ tư tưởng không phù hợp với quy luật Thượng đế.   

Con cần lưu ý, chuyện này có thể xảy ra cho bất kỳ nhóm người nào. Chẳng hạn, một quy luật của Thượng đế là luật yêu thương. Như ta trình bày ở trên, nhiều tín hữu Cơ đốc đã quên mất và đi lạc khỏi quy luật này, và vì vậy họ đã dựng lên một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, mặc cảm và xét đoán. Nhưng ở phía bên kia cũng có một nhóm người tuy hiểu được quy luật yêu thương, nhưng lại không hiểu rõ một số quy luật khác, để rồi nhân danh tình thương, họ bắt đầu tin rằng xã hội phải dung thứ hầu hết mọi loại hành vi cư xử.  

Điểm ta muốn nói là đồng tính luyến ái không phải là tự nhiên, và do đó nó không phù hợp với các quy luật củaThượng đế. Hiển nhiên, một xã hội có thể đi ra ngoài quy luật Thượng đế để mà ban hành những đạo luật dân sự vi phạm trực tiếp luật của Thượng đế. Phải, điều này đã từng xảy ra với rất nhiều xã hội trong quá khứ, tuy nhiên ta cần nói rõ với con rằng tất cả mọi xã hội làm như vậy đã đều tự hủy diệt. Con không thể xây dựng một xã hội ổn định và lâu dài trừ khi xã hội đó hòa hợp với quy luật của Thượng đế. Nếu con đi ngược lại thì chắc chắn có ngày con sẽ phải thức tỉnh để đối mặt với một sự thật phũ phàng, và xã hội của con sẽ bắt đầu tự hủy – hoặc từ bên trong, hoặc từ bên ngoài do kẻ ngoại xâm. Đây chính là lý do mà nhiều xã hội chẳng hạn như Đế quốc La Mã, đã phải sụp đổ dưới sức nặng của chính nó khi nó lạm dụng quy luật và năng lượng của Thượng đế.   

Tuy nhiên con cũng cần lưu ý quy luật cơ bản nhất của Thượng đế, là quyền tự quyết. Mọi dòng sống đều bước đi trên con đường trở về với Thượng đế. Họ bước đi bằng cách thực hiện quyền tự quyết của mình, và đối với một số dòng sống, họ đã dùng quyền tự quyết để tự nhận mình là người đồng tính. Như ta đã giải thích, đây là một tình trạng mất quân bình, nhưng hầu hết mọi người khác cũng đều ở trong một tình trạng mất quân bình nào đó. Cho nên ta sẽ không như hầu hết người đạo Cơ đốc định nghĩa đồng tính luyến ái là một tội lỗi – chứ chưa nói đến một tội tày trời.

Một lần nữa, mọi người đều có toàn quyền đi những bước mà họ cần đi để vượt thăng một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu một dòng sống cần xem mình là người đồng tính trong một hay vài ba kiếp, thì điều này không có gì tệ hơn hay tốt hơn rất nhiều những sự mất cân bằng khác của con người. Tự ngã luôn luôn định nghĩa những ai khác mình đều là xấu cả, và cho tới khi mình nhìn thấu được và vượt qua xu hướng này thì con người không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là tại sao ta bảo mọi người đừng nên xét đoán dựa trên vẻ ngoài. Đồng tính luyến ái chỉ đơn giản là một vẻ ngoài mà cái Ta Biết đã chọn khoác lên, và rốt cuột thì hầu hết mọi dòng sống cũng sẽ có ngày chọn cởi nó ra.   

Kim Michaels: Vậy thì hình như thày đang nói rằng cả hai bên đều không nắm được sự thật trọn vẹn trong vấn đề này?

Giê-su: Như ta có giải thích trong bài giảng về sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, gần như bất kỳ cuộc tranh luận nào cũng bị phân ra làm hai đối cực. Trong nhiều trường hợp, cả hai đối cực đều do các thế lực muốn thao túng xã hội định đoạt. Vấn đề là rất nhiều người tốt lành lại bị rơi vào bẫy của một trong hai đối cực, và điều quan trọng là con cần hiểu tại sao.

Ta muốn nói thật rõ là ta không hề lên án hay xét đoán một ai cho dù cách cư xử bề ngoài hay những tin tưởng của họ có là gì đi nữa. Do đó ta không lên án hay phán xét những ai tham gia vào cuộc tranh luận này, bất kể họ đứng bên phe nào. Nhưng ta cũng thấy rất rõ rằng cả hai bên đều tiếp cận vấn đề này một cách mất quân bình. Sự thể này xảy ra là vì có quá nhiều người không đạt được sự quân bình đúng đắn giữa ba phẩm cách cơ bản của Thượng đế, là quyền năng, minh triết và tình thương.

Ta đã có nói về sự kiện nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đi trệch ra ngoài quy luật của tình thương. Điều xảy ra cho nhiều người là họ đã phát triển một sự hiểu biết và một lòng tôn sùng khía cạnh quyền năng của Thượng đế. Họ tôn sùng các quy luật của Thượng đế và họ mong muốn xã hội phải tuân thủ các quy luật này y như cách của họ nhìn xuyên qua giáo lý hiện thời của đạo Cơ đốc. Nhưng tiếc thay, họ không nhận ra là giáo lý này thật thiếu sót, và trong nhiều trường hợp lại còn không phù hợp cả với quy luật của Thượng đế, mà rõ ràng nhất là tình yêu của Thượng đế. Những tín hữu này thấy rõ đồng tính vi phạm luật Thượng đế – một quan điểm đúng đắn – nhưng bởi vì họ không đủ tôn sùng tình yêu Thượng đế, cho nên họ biến quan điểm của họ thành một thái độ phán xét đối với những ai công khai nhìn nhận xu hướng đồng tính của mình.

Ở bên kia cuộc tranh luận, con cũng tìm thấy nhiều người tốt lành đã phát triển một sự hiểu biết sâu xa và sự tôn sùng khía cạnh tình yêu Thượng đế. Họ thực sự hiểu được nhu cầu phải yêu thương người lận cận như chính mình. Thế nhưng vì không đủ lãnh hội khía cạnh quyền năng của Thượng đế, cho nên họ cũng rơi vào cái bẫy là cứ đinh ninh rằng tình thương vô điều kiện có nghĩa là sự chấp nhận bừa bãi mọi cách hành xử trong đời. Họ nghĩ rằng họ phải dung thứ mọi người cho dù người đó đang rõ ràng vi phạm quy luật Thượng đế.

Cách duy nhất có tiềm năng kéo cuộc tranh luận ra khỏi hai đối cực nói trên và đưa trở về điểm thăng bằng là phải có nhiều người hơn phát triển được sự tôn sùng đối với khía cạnh minh triết của Thượng đế. Chính qua khía cạnh này mà con người mới có khả năng phát triển một sự hiểu biết cho phép họ đứng ngoài cả hai cực đoan. Vì thế mới có câu vô cùng quan trọng: “Hãy sử dụng mọi thứ mà con có để được sự hiểu biết” (Proverbs 4:7).

Một cách tiếp cận cân bằng cho vấn đề này là nhìn nhận đồng tính luyến ái là một điều không tự nhiên. Đó là một tình trạng gây ra bởi sự mất quân bình nơi dòng sống. Không một dòng sống nào có thể đạt được hạnh phúc tối hậu và sự viên mãn tâm linh khi còn duy trì sự mất quân bình đó. Vì vậy, một dòng sống chân thành nỗ lực phát triển tâm linh cần phải nhìn nhận là mình có nhu cầu chữa lành sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ của mình. Một khi đã nhìn nhận và chấp nhận, con cũng sẽ nhận ra cùng sự mất quân bình đó nơi nhiều dòng sống khác chứ không cứ chỉ nơi những người đồng tính công khai. Thật ra, nhiều dòng sống không có khuynh hướng đồng tính cũng bị mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ.   

Một khi con hiểu ra điều này, con cũng sẽ hiểu là việc kiến tạo một xã hội nơi đồng tính luyến ái được công nhận hay hợp pháp hóa, không phải là việc đúng đắn. Tuy nhiên con cũng nhận ra rằng một xã hội phán xét, lên án hay phân biệt đối xử đối với các xu hướng tình dục của con người, cũng không đúng đắn. Nói cách khác, một xã hội lý tưởng sẽ không hợp pháp hóa và cũng không phân biệt đối xử người đồng tính.  

Ta thừa biết việc kiến tạo một xã hội như vậy có vẻ rất khó khăn. Nhưng nó khó khăn chỉ vì còn quá nhiều người bị mắc kẹt trong cái nhìn tương đối của tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, là một vị thày tâm linh, ta phải chỉ ra cho con thấy rằng giải pháp đích thực duy nhất cho các vấn đề mà nhân loại đang phải đối diện là phải phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự sống cũng như về bản chất tâm linh của mỗi con người. Sự hiểu biết cao hơn này là hy vọng duy nhất để xây dựng một thời đại tốt đẹp hơn, và đồng thời cũng ngăn cản nhân loại hủy diệt chính mình.

Kim Michaels: Con hiểu được quan tâm của thày là nhiều người bị rơi kẹt vào hai cực đoan. Tuy nhiên đối với con, dường như vấn đề trong cuộc tranh luận này không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết. Hình như có những người trong cả hai phe đều không sẵn lòng muốn đạt được hiểu biết cao hơn.

Giê-su: Đúng là như vậy. Quả thực là có những người không muốn thay đổi quan điểm cũng như lối sống của mình. Một số người sùng đạo không sẵn lòng thay đổi ý muốn phán xét mọi người theo tiêu chuẩn mà họ đã định ra. Họ tin như đinh đóng cột rằng tiêu chuẩn của họ là tiêu chuẩn của Thượng đế, vì thế cho nên họ hoàn toàn có lý khi phán xét mọi người theo tiêu chuẩn đó. Đây là cùng những người đã đóng đinh ta 2000 năm trước đây. Họ là những kẻ đặt luật không chịu bước vào con đường trung đạo của tâm thức Ki-tô, đồng thời lại muốn ngăn cản người khác bước vào.

Ta có thể nói cho con là có một số dòng sống đã từng giữ những chức vụ quyền lực trong đạo Do thái cách đây 2000 năm và đã sử dụng quyền lực nảy để đóng đinh ta. Ngày nay, cùng những dòng sống đó đang giữ chức vụ quyền lực trong các giáo hội Cơ đốc, và bây giờ họ sử dụng cách diễn giải của họ về giáo lý của ta để biện luận cho thái độ phán xét của họ.

Còn ở phe bên kia cuộc tranh luận, con sẽ tìm thấy những người biết rõ rằng đồng tính vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng họ không hề có ý muốn thay đổi lối sống hay đạt được sự hiểu biết cao hơn. Ngược lại là đằng khác, họ chọn lối sống đống tính như một hành vi thách thức Thượng đế, và họ muốn tiếp tục lối sống đó. Họ còn tuyển mộ thêm người mới vào làm miếng mồi ngon cho cuộc săn lùng tình dục của họ. Rồi họ muốn xã hội phải công nhận là họ được quyền sống công khai như vậy và trưng bày sự đồi trụy tình dục của họ.

Ta dư biết có những người như vậy, và ta dư biết tâm lý cùng phương thức hoạt động của họ. Ta cũng biết rõ ta không có nhiều hy vọng chạm được những người đó qua trang mạng này. Cho nên quan tâm lớn nhất của ta qua trang mạng này là cố chạm được những dòng sống có thể chạm được, là những dòng sống sẵn lòng đi tìm một sự hiểu biết cao hơn.  

Kim Michaels: Luật Tự quyết liên quan thế nào đến điều đó? Ý con muốn nói là, liệu một linh hồn có được quyền do Thượng đế ban cho để chọn lối sống đồng tính luyến ái?

Giê-su: Ta có nói suốt trang mạng này rằng Luật Tự quyết là định luật tối thượng cho vũ trụ vật chất. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho mọi người, và do đó họ có quyền làm bất cứ gì họ muốn, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con chỉ có quyền tự quyết nếu con có thể hoàn toàn tự do chọn lựa bất cứ điều gì mà con có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, Luật Tự quyết không đứng một mình. Luật Tự quyết được ban ra trong thế thái cực với một định luật khác, là Luật Nhân quả. Đây là quy luật mà trong Kinh thánh có nói đến qua câu “người nào gieo gì thì sẽ gặt nấy”. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả.  

Theo Luật Tự quyết, một người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Theo Luật Nhân quả, không một người nào có thể thoát khỏi hậu quả do hành vi của mình gây ra. Như ta vẫn cố giải thích trên trang mạng này, mọi hành vi con làm đều được làm với năng lượng của Thượng đế. Mỗi khi con bước vào một ý tưởng, một cảm xúc hay một hành động, thì con cũng đang thay đổi phẩm chất, con đang tô màu năng lượng thuần khiết đó, con đang thay đổi độ rung của năng lượng Thượng đế.

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình” (Save Yourself), ta có giảng dạy sâu sắc hơn về ý nghĩa thực sự của tội lỗi. Ta khuyên con nên tìm hiểu lời dạy đó. Ở đây, ta sẽ chỉ giải thích ngắn gọn rằng ý nghĩa nguyên thủy của từ “tội lỗi” là “bắn hụt đích, thiếu tiêu chuẩn” (missing the mark). Có nghĩa là nếu con thay đổi năng lượng Thượng đế khiến cho độ rung xuống thấp hơn một mức nào đó, thì năng lượng sẽ “bắn hụt”, sẽ không đủ tiêu chuẩn, và không thể thăng vượt để trở về Thượng đế. Bất kỳ một năng lượng nào đi xuống thấp hơn một độ rung nhất định đều là một “tội lỗi”, cho dù năng lượng đó được tạo ra do đồng tính luyến ái hay bất kỳ loại hành vi nào khác của con người.

Cho nên một dòng sống được quyền – là quyền do Thượng đế ban cho – để thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên điều không thể tránh được là y sẽ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và sẽ gặt hái hậu quả, tức là nghiệp quả của hành động của y. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng đồng tính là một việc đúng đắn hay có thể chấp nhận. Đồng tính là một vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng bởi vì dòng sống có quyền tự quyết, y vẫn có quyền vi phạm luật Thượng đế và trải nghiệm hậu quả của chọn lựa đó.

Kim Michaels: Vậy xã hội có nên công nhận quyền thực hành đồng tính luyến ái hay không?

Giê-su: Đây là một câu hỏi phức tạp. Trong một xã hội lý tưởng, đồng tính luyến ái sẽ được nhìn nhận là một tình trạng mất cân bằng. Tuy nhiên xã hội đó cũng sẽ có một nền văn hóa cho phép người ta công khai nhìn nhận khuynh hướng đồng tính của mình mà không bị lên án. Song song, những người này cũng sẽ được giúp đỡ để đạt sự hiểu biết và giải quyết khuynh hướng của mình hầu tiến bước trên con đường phát triển tâm linh cá nhân. Họ cũng sẽ nhận được giúp đỡ để hiểu rõ hậu quả của sự chọn lựa lối sống đồng tính, trên phương diện nghiệp quả cũng như tác động tâm lý và tâm linh. Nếu họ từ chối được giúp đỡ thì họ vẫn được phép thực hành đồng tính trong nhà riêng của họ, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.   

Một xã hội lý tưởng sẽ không công nhận trong luật pháp quyền thực hành đồng tính. Đó sẽ chỉ là một điều mà người ta có thể làm nơi nhà riêng của mình, và xã hội sẽ không can thiệp vào đời sống riêng tư đó miễn là nó diễn ra trong sự đồng ý của những người trưởng thành. Miễn là nó được giữ trong phạm vi nhà riêng, xã hội sẽ cho phép lối sống đồng tính mà sẽ không lên án cũng như không công nhận trong luật pháp.   

Nhưng tất nhiên, không một quốc gia nào trên thế giới hiện là một xã hội lý tưởng, cho nên không thể có giải đáp dứt khoát nào cho từng quốc gia trong từng thời điểm để giải quyết vấn đề đồng tính. Giải pháp này sẽ được định đoạt trong khuôn khổ nền văn hóa của xã hội đó, bởi vì không một xã hội nào có khả năng nhìn ra ngoài nền văn hóa hiện tại của mình.   

Nhưng quan tâm hàng đầu của ta không phải là định ra cho xã hội phải giải quyết vấn đề đồng tính như thế nào. Quan tâm hàng đầu của ta là giúp cho mọi xã hội đạt đến một nền văn hóa tâm linh, mà qua đó xã hội sẽ dễ dàng giải quyết được mọi vấn đề trong sự hài hòa với quy luật của Thượng đế. Điều mà ta mong muốn được thấy là mọi xã hội đều tiến tới một sự hiểu biết sân sắc hơn về bình diện tâm linh của cuộc sống, rồi sử dụng sự hiểu biết này để ảnh hưởng cách giải quyết bất kỳ vấn đề nào gặp phải.     

Kim Michaels: Xin thày giải thích đồng tính luyến ái làm tha hóa năng lượng như thế nào?

Giê-su: Thượng đế đã tạo ra hai thái cực cơ bản, là hai yếu tố lan ra và co lại, nam và nữ, dương và âm. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hoà, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh này của Thượng đế. Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự biểu đạt của một nguyên lý tâm linh.

Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của chúng ta đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.   

Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ. Ta cũng biết là một số cặp đồng tính có cảm giác là họ đạt được kết hợp như thế, và ta cũng biết là một số cặp đồng tính yêu thương nhau thanh khiết. Nhưng ta phải nói với con rằng tình dục đồng tính không bao giờ có thể tạo được kết hợp tâm linh đích thực. Cho nên điều không thể tránh được là tình dục đồng tính sẽ bắt buộc làm tha hóa năng lượng Thượng đế.

Đương nhiên, nếu hai người đồng tính thương yêu nhau thanh khiết, độ tha hóa sẽ không đến nỗi nghiêm trọng như trong một quan hệ với lý do thấp kém. Tuy vậy, nếu hai người đồng tính thực sự yêu nhau thì có thật là họ cần đến quan hệ tình dục vật lý để biểu lộ tình yêu đó hay không? Quan hệ khác giới có khả năng sử dụng đúng đắn năng lượng của Thượng đế, nhưng quan hệ đồng tính sẽ đơn giản không có tiềm năng đó, tương tự như hai cơ thể cùng phái không thể nào sinh tạo một đứa bé. Sự sáng tạo chỉ có thể xảy ra trong kết hợp hài hoà giữa hai thái cực nam và nữ. Điều này cũng giải thích tại sao một dòng sống không thể đạt được phát triển tâm linh tối đa cho đến khi y cân bằng được hai yếu tố nam và nữ.

Kim Michaels: Một số người cho rằng người đồng tính thường là người tâm linh hơn. Một số cũng nói rằng chỉ khi nào họ nhìn nhận sự đồng tính thì họ mới có thể tinh tấn tâm linh. Một số còn cho rằng nhiều nhà thần bí vĩ đại nhất khắp các thời đại đều là người đồng tính. Thậm chí một số vị thày tâm linh còn bảo rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn, và là một chặng đường cần thiết trên hành trình tâm linh của linh hồn. Xin thày có bình luận gì không?

Giê-su: Nếu con lãnh hội những gì ta đã giải thích ở đầu lời giải đáp này, thì rõ ràng đồng tính không phải là một giai đoạn phải có trên hành trình phát triển tâm linh. Ta cũng biết là có những giáo lý tâm linh tìm cách tôn vinh hay biện minh cho đồng tính. Nhưng đó chỉ là một sự hiểu lầm vô tình họăc là một âm mưu cốt ý để đánh lừa mọi người.

Như ta giải thích ở trên, một dòng sống tân lập thường hiện thân trong những cơ thể cùng giới tính suốt nhiều kiếp sống, và điều này có nghĩa là y sẽ lần hồi tự nhận diện là một dòng sống nam hay nữ. Khi dòng sống già dặn hơn, y có nhu cầu phải vượt qua sự đồng hoá đó, có nghĩa là y sẽ bắt đầu hiện thân trong cả hai loại cơ thể nam và nữ. Cho nên nếu chỉ dựa trên nhận xét này thì quả thực cũng đúng là nhiều người đồng tính là những dòng sống già dặn hơn người bình thường.

Tuy nhiên, điều cũng đúng không kém là một dòng sống không cần phải trở thành đồng tính để thăng vượt sự đồng hóa với giới tính của cơ thể. Thật ra, hầu hết dòng sống đều có thể thực hiện việc này mà không cần trở thành đồng tính. Ta cũng biết là có một số vị thày tâm linh dạy rằng đồng tính luyến ái là điều tự nhiên, hoặc là một giai đoạn cần thiết trên đường phát triển của dòng sống, tuy nhiên đây đơn giản là một lời dạy sai lầm.

Mặc dù thật là không sai khi nói rằng nhiều người đồng tính trưởng thành hơn những kẻ lên án đồng tính, tuy nhiên họ không thật sự trưởng thành trong ý nghĩa là họ vẫn còn mang một sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ. Thật ra, nếu một người đồng tính thật sự trưởng thành tâm linh, thì người đó sẽ cố gắng thăng vượt mọi tình dục thay vì bênh vực đồng tính. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng người ta không nên cố giúp xã hội vượt qua nạn kỳ thị đồng tính. Tuy nhiên, một dòng sống già dặn tâm linh sẽ nỗ lực đem lại sự khoan dung đối với người đồng tính chứ sẽ không cố tâng bốc đồng tính lên địa vị cao thượng.       

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình”, chúng tôi có giảng rất chi tiết về lý do một dòng sống thường chọn đầu thai trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Lý do chính là vì những tình huống như vậy có thể bắt buộc y phải đương đầu với một số bế tắc tâm lý. Chỉ bằng cách giải quyết các bế tắc này mà y mới có thể tinh tấn tâm linh. Ta có giải thích là đồng tính luyến ái là một sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống. Một số dòng sống đã đạt đến một điểm khi họ không thể tiến thêm cho tới khi họ giải quyết được sự mất cân bằng này. Do đó, đúng là một số dòng sống sẽ chọn đầu thai làm người đồng tính để tự buộc mình phải giải quyết vấn đề tình dục và sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ. Tuy nhiên, họ làm điều này không phải vì họ tin rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn hay tâm linh hơn. Họ làm như vậy giản dị như là một phương cách để giúp mình giải quyết các mối mất cân bằng và nhờ vậy vượt qua mọi ý niệm tình dục con người.

Ta có thể nói thật rõ ràng là trên thiên đàng không có người đồng tính nào cả – mặc dù một số người có vẻ tin như vậy. Con không thể bước lên thiên đàng khi con vẫn còn sự mất cân bằng giữa hai khiá cạnh nam và nữ trong dòng sống của con. Khi nào còn đạt được sự cân bằng đúng đắn, con sẽ vượt thăng mọi ý niệm tình dục phàm thế.

Cho nên cũng đúng là một số người đồng tính là người tâm linh hơn bình thường. Tuy nhiên, họ không là người tâm linh bởi vì họ đồng tính. Họ đã chọn đầu thai làm người đồng tính vì ý chí mãnh liệt muốn tiến bước trên đường tu tâm linh, và họ nhìn ra điều đang ngăn chặn bước tiến của họ là sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ.

Điều này cũng đúng cho những nhà thần bí đã bước vào đời như người đồng tính. Con sẽ thấy đa số những nhà thần bí này rốt cuộc đã tiến vượt khỏi mọi vấn đề tình dục. Đơn giản, nhu cầu biểu hiện tình dục vật lý dần dần tan biến và họ khởi sự tập trung toàn bộ sự chú ý vào phương diện tâm linh của cuộc sống.

Và cũng đúng là nếu dòng sống đã đầu thai làm người đồng tính với mục đích dứt khoát chữa lành, thì y sẽ không thể chữa lành bằng cách làm ngơ hay phủ nhận khuynh hướng đồng tính của mình. Chỉ khi nào mình nhìn nhận vấn đề một cách ý thức thì mình mới có hy vọng giải quyết được. Tuy nhiên ta cũng phải đưa ra một lời cảnh báo về điểm này.

Trong thế giới ngày nay, con tìm thấy một số địa hạt, lãnh vực hay nền văn hóa xem đồng tính là một chuyện bình thường hay tự nhiên. Có những thế lực rất hùng hậu đang tìm cách đưa đẩy xã hội công nhận đồng tính là chuyện bình thường, và cho tới nay họ đã xâm nhập sâu rộng vào giới truyền thông. Vấn đề với hoạt động này là những dòng sống đã đầu thai với ý định chữa lành có thể bị lôi kéo vào văn hóa đó. Và họ có thể cho rằng khuynh hướng đồng tính của họ là bình thường và do đó họ nên thực hành đồng tính thay vì cố giải quyết.

Nói cách khác, một nền văn hóa chấp nhận đồng tính một cách thiếu phân biện và thiếu sự hiểu biết về nguyên nhân tâm linh của đồng tính, có rủi ro làm thui chột cơ may của dòng sống đạt được mục tiêu tăng trưởng tâm linh. Y có thể bắt đầu tự nhận mình là một linh hồn đồng tính, rồi từ chối đương đầu với sự mất cân bằng của mình. Nói cách khác, thay vì tăng trưởng tâm linh, dòng sống ngày càng chai cứng hơn trong sự mất cân bằng. Và dưới góc nhìn của một vị thày tâm linh, điều này là điều đáng tiếc hơn cả.

Mặc dù cũng đúng là một số dòng sống sẽ tăng triển tâm linh khi nào đã nhìn nhận một cách ý thức khuynh hướng đồng tính của mình, nhưng thật là không đúng khi bảo rằng y nhất thiết phải hành sự đồng tính. Con hoàn toàn có khả năng giải quyết sự mất cân bằng đã gây ra đồng tính mà không cần đeo đuổi lối sống đồng tính.   

Thật ra, nếu con thật muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con tránh hẳn bước vào một quan hệ đồng tính. Nếu con có quan hệ đồng tính, con sẽ khiến cho năng lượng Thượng đế bị tha hóa, và nó sẽ tạo ra một từ lực – trong nghĩa đen – lôi con ra khỏi sự tăng trưởng tâm linh của con. Việc bước vào một mối quan hệ đồng tính cũng khiến con càng mong muốn bênh vực cách hành xử cuả mình rồi càng lún sâu vào một trạng trái tâm thức mất quân bình.  

Cho nên lời khuyên của ta là nếu con có những khuynh hướng đồng tính, con nên nhìn nhận khuynh hướng này. Tuy nhiên, thay vì tìm cách tự biện minh hay tham gia vào một quan hệ đồng tính, con nên tìm cách giải quyết qua những phương tiện tâm lý và tâm linh.

Có nhiều kỹ thuật tâm lý có thể giúp con giải quyết sự mất cân bằng trong cỗ xe linh hồn. Trong những thập niên qua, nhiều kỹ thuật mới đã được trao truyền nhưng chưa được giới chức năng trong ngành tâm lý chính thống công nhận. Thế nhưng bất cứ ai với tâm mở rộng cũng sẽ tìm được những kỹ thuật sáng giá có khả năng thực sự chữa trị sự mất quân bình tâm linh. Đối với những người thiên về tâm linh, có nhiều kỹ thuật tâm linh có thể trợ giúp họ, chẳng hạn cụ thể là kỹ thuật hoà điệu nội tâm với cái ta Ki-tô của mình.  

Có một nguyên tắc giá trị rộng khắp là nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con phải thăng vượt khuynh hướng của tâm phàm là biện hộ cho những điều bất toàn, mà ngược lại con hãy nương theo chân tâm để nâng mình lên sự toàn vẹn.   

Kim Michaels: Con chắc chắn sẽ có một số người đặt vấn đề là làm thế nào thày có thể dạy về tình thương vô điều kiện mà đồng thời lại có lập trường kiên quyết như vậy chống lại đồng tính luyến ái. Họ sẽ cảm thấy rằng nếu thày yêu thương người đồng tính một cách vô điều kiện thì thày cũng nên thể hiện sự khoan dung đối với hoạt động tình dục của họ.

Giê-su: Tất nhiên là sẽ có những người nghĩ như vậy, và lý do là bởi vì họ bị kẹt trong sự tương đối và những điều kiện của tâm thức nhị nguyên. Kết quả là họ không lãnh hội, không thể nhập được tình thương vô điều kiện.  

Yêu thương vô điều kiện không có nghĩa là chấp nhận mọi điều kiện một cách mù quáng. Ta yêu thương mọi dòng sống trên địa cầu với một tình yêu vô điều kiện. Bởi vì tình yêu của ta vô điều kiện cho nên ta muốn thấy mọi dòng sống đều trở về nhà cùng Thượng đế. Tuy nhiên, bởi vì ta không mắc kẹt trong sự tương đối của tâm nhị nguyên, ta thấy rõ vô số những điều kiện đang ngăn cản dòng sống trở về nhà Thượng đế. Hơn vậy nữa kìa, ta thấy rõ những điều kiện này là mối đe doạ đem lại cái chết cho rất nhiều dòng sống trên trái đất.  

Liệu đó có phải là tình thương vô điều kiện nếu ta cứ đứng dõi nhìn một dòng sống bước tới hủy diệt mà không tìm cách báo động? Ta không nghĩ vậy. Làm thế nào ta có thể báo động dòng sống đó mà không chỉ rõ cho y thấy được những điều kiện sẽ dẫn đến hủy diệt? Làm thế nào ta có thể yêu thương vô điều kiện mà đồng thời lại dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống?

Tình thương vô điều kiện hoàn toàn không nhân nhượng khi tận tụy lo cho sự tăng triển và cứu rỗi của dòng sống. Chỉ có tình thương có điều kiện mới rơi vào một trong hai cực đoan. Cực đoan thứ nhất là định ra một loạt những lề lối vỏ ngoài rồi bảo rằng bất cứ ai không làm đúng lề lối đó không xứng đáng được yêu thương. Và cực đoan thứ hai là dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống mà lại gọi sự thông đồng đó là tình yêu đích thực. Cả hai cực đoan này chính là tình thương có điều kiện, và nó khởi lên từ sự tương đối của trạng thái tâm thức thấp kém. Chỉ một tình thương dựa trên nền tảng của phân biện Ki-tô mới có thể vô điều kiện.

Tình yêu vô điều kiện có nghĩa là ta yêu thương dòng sống cho dù y đã có làm gì hay đang có trạng thái tâm thức như thế nào. Nhưng chính vì yêu thương mà ta không muốn nhìn thấy dòng sống cứ mắc kẹt hoài trong trạng thái tâm thức đó. Ta muốn thấy dòng sống tiến bước về phía tâm thức Ki-tô bởi vì đó là cách duy nhất để dòng sống đạt đến cứu rỗi.

Bởi vì ta yêu thương vô điều kiện cho nên ta mới tận tụy một cách không nhân nhượng đối với sự tăng trưởng của dòng sống. Và do đó ta cũng không nhân nhượng đối với bất kỳ điều kiện nào sẽ khiến cho sự phát triển của dòng sống bị thui chột.

Thượng đế không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta hoàn toàn không muốn thấy dòng sống nào xem mình là người có tội, hay có mặc cảm tội lỗi về một số chọn lựa mà y đã có trong quá khứ. Chúng tôi chỉ có một mong muốn là nhìn thấy dòng sống rời khỏi tình trạng tâm thức hiện tại và tiến bước về một thế cân bằng, toàn vẹn.

Chúng tôi không lên án người đồng tính. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi sẽ chấp nhận đồng tính là bình thường hay tự nhiên. Chúng tôi nhìn thấy đó là một trong rất nhiều sự mất cân bằng đang ngăn cản dòng sống trở về nhà. Chúng tôi mong muốn mọi dòng sống giải quyết được những điều mất cân bằng đang ngăn cản họ trở về căn nhà nơi họ sẽ ôm chầm lấy vòng tay yêu thương của Thượng đế Cha/Mẹ.

Chính vì yêu thương vô điều kiện mà ta mới phân biện rõ ràng giữa dòng sống và hiện trạng tình dục nhất thời của dòng sống. Cho nên ta sẽ không bao giờ rơi vào lỗi lầm đồng hóa dòng sống với hiện trạng tình dục của y – cho dù là đồng tính hay dị tính. Yếu tố đã khiến cho dòng sống tự đồng hóa với tình dục của mình là vì y đã đánh mất tình yêu vô điều kiện. Và trong tình yêu có điều kiện của y, dòng sống thường sẽ phóng chiếu ra là tình yêu của ta đang đặt ra một số điều kiện bởi vì tình yêu của ta không ăn khớp với hình ảnh nhị nguyên mà y có về tình yêu. Thế nhưng là một vì thày tâm linh, ta không thể giúp cho mọi người giải thoát bằng cách chiều theo tâm ảnh của họ – ta chỉ có thể giúp họ bằng cách thách thức tâm ảnh của họ.

[Đọc thêm về bài giảng về cách thức thăng hoa năng lượng tình dục]

Giáo lý trên trang mạng này có là giáo lý huyền bí?

Hỏi: Kính thưa thày Giê-su, con đã nói chuyện với nhiều người và cho họ thông tin về những cuốn sách cùng trang mạng này. Con đã rất cởi mở và trung thực với họ nhưng hầu hết đều nói với con là con đang đọc bài vở liên quan đến huyền bí. Trong hầu hết các giáo phái đạo Cơ đốc, huyền bí bị xem là thuộc về Sa-tăng và nên tránh xa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu ra câu hỏi rất quan trọng này. Ta xin khởi đầu bằng một số định nghĩa thông dụng của từ “huyền bí” (occult) trong từ điển:

Huyền bí:

  • Liên quan đến, hoặc giao tiếp với, các ảnh hưởng hay hiện tượng siêu nhiên.
  • Vượt ra ngoài lãnh vực nhận thức hay lãnh hội của con người.
  • Chỉ những người đã nhập môn mới có thể truy cập.
  • Che khuất khỏi tầm nhìn bình thường, ẩn giấu, bí mật.

Nếu con đọc Tân Ước với định nghĩa trên, con sẽ thấy mọi khía cạnh của giáo lý ta như được ghi lại trong Kinh thánh, đều liên quan đến siêu nhiên. Phần lớn những lời của ta vượt ra ngoài phạm vi hiểu biết của con người và không thể được lãnh hội bằng lý trí nhị nguyên tương đối, là trạng thái tâm thức bình thường của hầu hết mọi người. Con cũng thấy được là ta đã trao cho các môn đệ của ta một số giáo lý cao cấp mà ta không tiết lộ cho đại chúng [Mark 4:34].  

Cho nên, người ta rất có thể nói rằng tất cả mọi điều đã được ghi lại về ta trong kinh điển chính thức đều có thể được sử dụng để gọi ta là một vị thày huyền bí. Đây chính là nhãn hiệu mà những người đạo Do Thái chính thống đã gán cho ta khi họ đưa ta ra xét xử và đóng đinh ta trên thập tự giá. Tất nhiên là họ dùng những từ khác, nhưng cốt lõi của lập luận của họ là ta đã vượt ra ngoài các giáo lý chính thống và do đó ta không thuộc về sự thật, không thuộc về ánh sáng, không thuộc về Thiên Chúa. Kết quả là họ buộc tội ta là thuộc về quỷ.

Ta có thể cam đoan với con là nếu thuật ngữ này đã có vào thời đó, thì những người đạo Do Thái chính thống đã gọi ta, Giê-su Ki-tô, là tên cầm đầu một môn phái Thời Mới (New Age) vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ tìm thấy rất nhiều “chứng cớ” trong những lời ta đã nói để kết tội ta. Như khi ta bảo tín hữu phải rời bỏ công việc và gia đình để đặt ta trên hết và trước hết. Như khi ta bảo tín hữu phải sẵn sàng bỏ đời sống vì ta. Con có thấy không, hẳn các phong trào chống đối các môn phái sùng tín (anti-cult movements) thời nay sẽ quá đỗi vui mừng mà chụp lấy những lời tuyên bố đó của ta? Và con có thấy họ sẽ tố cáo ta và gán ghép cho ta tội làm bạn với ma quỷ như thế nào không?

Con cũng thấy đó, ngay cả những chức sắc của đạo Cơ đốc chính thống hay chính mạch, là những người tự nhận là đại diện của ta trên trái đất, đã sử dụng tư duy sợ hãi để dựng lên ý tưởng rằng bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đạo Cơ đốc chính thống đều là huyền bí, và tất cả mọi điều huyền bí đều thuộc về quỷ. Thật là sai lầm khi bảo rằng mọi điều huyền bí thuộc về quỷ. Huyền bí chỉ đơn giản là điều gì đó vượt khỏi khả năng hiểu biết bình thường của con người, và điều này cũng áp dụng cho Thượng đế. Con có cho rằng Thượng đế thuộc về quỷ hay không?

Kỳ thực, đạo Cơ đốc đã bị biến thành cùng một loại tôn giáo phát xuất từ sợ hãi y như đạo Do Thái chính trống khi trước đã đóng đinh ta trên cây thập tự. Cái nhìn sợ hãi này được đẩy xa đến độ nếu ngày hôm nay ta hiện ra trong một xác thân vật lý và giảng dạy giáo lý tâm truyền chân thực của ta, thì nhất định ta sẽ bị những người đạo Cơ đốc chính thống trù dập. Họ sẽ gán tội cho ta là của quỷ hay bôi nhọ ta là một tên cầm đầu môn phái sùng tín. Và thật vậy, đây là cách mà một số người trong số họ đã gọi những lời dạy của ta đưa lên trang mạng này.

Như ta có trình bày trong quyển sách “Cái đến thầm kín của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ), những ai có cái nhìn sợ hãi về tôn giáo sẽ bác bỏ bất cứ điều gì vượt ra ngoài giáo lý chính thống. Họ làm vậy bằng cách tạo ra một nhãn hiệu giả tạo, rồi tuyên bố bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý đều mang nhãn hiệu đó, và do đó ta thuộc về quỷ.   

Đây là một cách nhìn thật thiếu chín chắn về tôn giáo, và nó bắt nguồn từ sợ hãi. Nó cũng bắt nguồn từ sự từ chối trách nhiệm để trở thành một người với tâm Ki-tô, hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình, hầu phân biện được thế nào là của Thượng đế và thế nào không của Thượng đế. Thật đáng buồn khi nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc chính thống cho rằng họ đại diện ta trên trái đất, rằng họ đang bước chân theo ta, nhưng họ lại từ chối khoác vào tâm Ki-tô và phân biện giáo lý tâm truyền chân thực cùa Giê-su Ki-tô với những tín điều công truyền trông chằng khác gì những nấm mồ được tô trắng nhưng chứa đầy xương người chết.   

Khi con khoác vào tâm Ki-tô, con sẽ dễ dàng phân biện được cái gì là của ánh sáng và cái gì là của bóng tối. Điều này sẽ cho phép con nhìn xuyên thấu các giáo điều nhân tạo nông cạn. Người tìm kiếm tâm linh chân thành cần phải nhận ra là ác quỷ có một mục tiêu rõ ràng. Nó tìm cách đánh lừa những kẻ phụng sự tốt nhất của ta trên trái đất. Nó không quan tâm gì đến những người hoàn toàn bị bao trùm trong tâm nhị nguyên bởi vì những người này đã nằm trọn trong tay nó rồi. Quan tâm chủ yếu của ác quỷ là đánh lừa những ai đã hé thấy được chân lý nhưng chưa thể hiện được tính phân biện Ki-tô sẽ giúp họ nhìn thấu qua những dối gian vi tế của ác quỷ.    

Đây chính là loại người mà con gặp trong đạo Cơ đốc chính thống. Họ đã thấy được sự thực trong giáo lý của ta và họ có tiềm năng vươn lên một tầm mức cao hơn. Nhưng vì họ không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ hãi của mình, họ vẫn bị tê liệt bởi nỗi sợ hãi đó. Điều này tất nhiên là cái mà ác quỷ mong muốn. Cách duy nhất để con người tìm được tự do là sẵn sàng trải qua một giai đoạn khó khăn tìm cách thiết lập sự hòa điệu nội tâm trực tiếp với ta và cái ta Ki-tô của họ. Và hiển nhiên, toàn bộ mục đích của trang mạng này là giúp họ thực hiện được điều này.

Thực tế đáng buồn là nhiều người đạo Cơ đốc từ chối sử dụng khả năng phân biện của mình, từ chối đoái nhìn tới bất cứ gì đi ra ngoài giáo lý chính thống. Điều này có thể là khôn ngoan đối với một số người, vì nếu họ chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đường tâm linh của họ và dồn hết sức đào sâu sự hoà điệu với cái ta Ki-tô, thì họ chưa có khả năng nhìn thấu dối gạt của ác quỷ, và vì vậy họ có thể sẽ an toàn hơn nếu họ tạm thời ở lại với tôn giáo truyền thống. Nếu con xem bài giàng của ta về các cấp độ tinh tấn, con sẽ hiểu rằng một số dòng sống bị bối rối và tổn thương đến mức họ cần đến sự ổn định bên ngoài của một hệ thống tín ngưỡng truyền thống hầu được chữa lành.

Tuy nhiên, thời nay cũng có nhiều dòng sống nếu muốn tiến bước xa hơn sẽ cần phải nâng tâm thức mình lên cao hơn. Những người này cần bước vào giai đọan làm người tầm đạo tâm linh, mở tâm mình ra những ý tưởng vượt ngoài học thuyết chính thống. Nếu họ không thực hiện bước này, họ sẽ ngừng lại và sẽ trở thành tù nhân của ác quỷ mà chính họ đã tìm cách trốn tránh bằng cách trú ẩn trong một giáo hội Cơ đốc. Nói cách khác, sẽ tới một điểm khi dòng sống không thể tiến lên khi họ ở lại với một tôn giáo bị bao phủ bởi sợ hãi. Nếu muốn tiến bước, họ sẽ phải nhận lấy rủi ro và mở tâm ra những tư tưởng mới. Tất nhiên là có nguy cơ mở tâm ra với những ý tưởng sai lầm, thế nhưng thực tế cốt yếu của cuộc sống là nếu con sợ té ngã thì con sẽ không bao giờ biết đi. Trong một bài giảng vô cùng quan trọng, ta có giải thích là mọi tôn giáo có thể trở thành một cái bẫy ngăn chận con tìm được cứu rỗi.  

Dĩ nhiên ta hiểu rõ nhiều dòng sống đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan mà con thấy nơi những người bạn đạo của con. Họ cần phải tiến về phía trước và mở tâm mình ra để hiểu biết cao hơn về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, nhưng họ không thể hoàn toàn ngừng bám vào cái nhìn đầy sợ hãi của tôn giáo. Đó là tại sao họ phải níu lấy đạo Cơ đốc chính thống dường như đang cho họ một nơi trú ẩn an toàn. Đó là tại sao ta đã phát hành trang web này cùng các cuốn sách. Mục đích của ta là cung cấp cho những tín đồ Cơ đốc đó một lối thoát hầu họ có thể mở tâm ra đón nhận ý tưởng mới mà không phải tiếp xúc với những ý tưởng giả trá. Dĩ nhiên là các chân sư thăng thiên cũng đang dùng một số phương pháp khác để đem vào thế giới nhiều loại giáo lý tâm linh chân thực cho thời đại này.  

Tiếc thay, trong vũ trụ vật chất này không thể có gì bảo đảm được kết quả. Tình thế khó xử của ta rất dễ hiểu. Để giúp cho mọi người nâng cao tâm thức, ta phải cho họ những giáo lý đi xa hơn giáo điều chính thống. Nhưng chính vì trang mạng này và các cuốn sách của ta chứa đựng những ý tưởng đi xa hơn giáo điều chính thống mà ta có thể đoán trước được một số tín đồ Cơ đốc sẽ gọi giáo lý này là huyền bí, thậm chí còn thuộc về quỷ. Ngay cả ta cũng không có giải đáp cho bài toán này. Ta chỉ có thể cúi mình tôn trọng quyền tự quyết của mỗi người và chờ cho đến khi họ có được một quyết định sáng suốt hơn.   

Nếu con cảm thấy có sự thúc giục nội tâm muốn tìm cách giúp những người bạn của con mở tâm ra với sự hiểu biết cao hơn, kể cả đưa cho họ xem lời dạy mà ta vừa cho con, thì chắc chắn ta sẽ biết ơn sự giúp đỡ của con trong vấn đề này. Chỉ có một điều là con phải chắc chắn là con không bị vướng mắc vào kết quả của việc làm của con, như ta đã giải thích trong phần chót của quyền “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is born in you). Con hãy trình bày sự thật trong khả năng của con, xong hãy để họ tự do chọn lựa hướng đi của họ. Là một người đại diện cho Ki-tô, con không bao giờ được tìm cách ảnh hưởng sự chọn lựa của người khác. Đó là cách làm của ác quỷ và nó đã làm vậy từ khi nó nổi loạn chống lại Thượng đế, nhưng đó chưa bao giờ là cách của Ki-tô.

Con có thấy chăng là ác quỷ có thể chiến thắng bằng hai cách? Một là đánh lừa con đi theo con đường tay trái tà đạo. Và cách kia là khiến con sợ ác quỷ đến nỗi con không dám mở tâm ra cho bất cứ gì mới. Nếu con sợ huyền bí đến độ không dám nhìn ra ngoài giáo điều chính thống thì con đã cho phép ác quỷ kiểm soát con qua sự sợ hãi. Nếu các đệ tử của ta thời đó cũng có cái nhìn sợ hãi như nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay thì làm thế nào đạo Cơ đốc đã ra đời? Những người đạo Do Thái chính thống đã có thể giết nó ngay khi họ giết ta!  

Con không là một sinh thể tình dục mà một sinh thể tâm linh

Câu hỏi 1: Giê-su thân yêu, con biết không có đề tài nào là cấm đoán và thày sẵn sàng trả lời về bất cứ vấn đề nào,,, cho nên con mới xin hỏi… một số người bảo rằng thủ dâm là một tội lỗi (vì đó là một dạng dục vọng, điều thày gọi là ngoại tình) trong khi có người lại bảo rằng chuyện đó tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng… Con sẽ biết ơn nếu thày có thể cho con biết quan điểm của thày từ góc cạnh một vị thày tâm linh. Vậy thủ dâm có ích lợi, hay ngay cả cần thiết, cho sự tăng triển của dòng sống hay không? Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào để loại bỏ căng thẳng? Con sẽ rất mừng nếu thày vui lòng nhận xét về chủ đề gây tranh cãi này.

Câu hỏi 2: Xin thày giúp chúng con với vấn đề sau đây vì con chưa rõ ràng về một khía cạnh của tình dục là thủ dâm. Con xin có câu hỏi này: Có thật là khi thủ dâm, năng lượng bị làm cho tha hóa hay không? Nếu như con có quan hệ tình dục trong hôn nhân và có quan hệ trong sự yêu thương, con được học là trong trường hợp này, con không làm tha hóa năng lượng. Vậy đâu là sự khác biệt? Xin thày giải thích tại sao một dòng sống lại bị thu hút bởi cách thỏa mãn này đến như vậy? Xin thày cho chúng con một lời dạy cặn kẽ sẽ làm rõ toàn bộ vấn đề này cùng những sáng ngộ để giúp chúng con giải quyết khía cạnh này của cuộc sống.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Chắc chắn không có câu hỏi nào là cấm kỵ, mặc dù có những người sẽ muốn ta không đề cập đến một số đề tài. Việc không sẵn lòng xem xét một đề tài nào đó thường là do người đó không sẵn sàng xét lại quan điểm của mình về đề tài đó. Trong bài giảng của ta về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái, ta đã có đưa ra lời dạy sau đây:

[bắt đầu trích dẫn] “Thượng đế có một bản chất kép, tức là yếu tố nam và nữ, âm và dương. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hòa, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

“Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh đó của Thượng đế. Điều này thấm xuống tới cõi vật chất, và đó là tại sao một dòng sống con người có một khía cạnh nam và một khía cạnh nữ, và tại sao cơ thể con người có nam và nữ.

“Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự trải bày của một nguyên lý tâm linh.

“Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của con đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng lên trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

“Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.

“Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ.” [kết thúc trích dẫn]

Ta nghĩ, điều hiển nhiên trong những lời nói trên cũng áp dụng cho việc thủ dâm. Khi không có hai thái cực nam và nữ, sẽ không có khả năng cho năng lượng tuôn ra có thể được phú cho một rung động cao hơn. Nói cách khác, thủ dâm luôn luôn làm tha hóa năng lượng.

Thêm vào đó ta cũng có nói: “Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết.” Yếu tố quyết định ở đây là liệu hai đương sự đang cố nhận vào hay là cho ra? Liệu họ có tìm cách thỏa mãn cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên, hay là họ tìm cách thỏa nguyện dòng sống? Liệu họ tìm sự thoả mãn cho phàm ngã hay cho cái ta rộng lớn hơn?

Một dòng sống có thể mong muốn kết hợp tình dục một cách chính đáng. Tuy nhiên, mong muốn này không tập trung vào cơ thể vật lý và không bị kích động bởi tâm nhị nguyên. Đó thực sự là một mong muốn kết hợp với cái gì đó ở ngoài nó, và để trải nghiệm kết hợp này, dòng sống phải nhìn ra ngoài bản thân.

Điều ta muốn nói là mặc dù dòng sống có thể mong muốn kết hợp với một người khác phái, mong muốn này sẽ không biểu đạt qua ham muốn thủ dâm. Do đó, thủ dâm luôn luôn bị kích động bởi cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên. Nó luôn luôn là một mong muốn tập trung vào chính mình, tìm thỏa mãn cho chính mình mà không có sự hiến dâng của cái ta. Có thể nói là dòng sống không hề có mong muốn thủ dâm, nghĩa là khi một người cảm thấy mong muốn như vậy, đó là vì dòng sống đã rút đi và tâm ý thức của người đó đã đầu hàng dục vọng của cơ thể và cảm thể.

Trên thế giới có nhiều người gần như sống trọn đời chỉ để đi tìm thỏa mãn cho các ham nuốn thấp kém. Nhưng đối với người bước trên đường tu tâm linh, điều quan trọng là vươn lên trên ham muốn thấp kém đó. Con phải làm im bặt tíếng gọi inh ỏi của ham muốn trần tục và nhị nguyên để con nghe được giọng nói nhỏ nhẹ của mong muốn đích thực của dòng sống.

Hãy để ta nói thật rõ là thủ dâm không cần thiết, và nó không lành mạnh cho sự tăng triển của dòng sống. Vấn đề ở đây là khi con nhượng bộ các ham muốn nhị nguyên, con tự đặt mình trên một cầu tuột, và trọng lực của tâm thức tập thể sẽ không ngừng kéo con tuột xuống thấp hơn. Nhiều người cứ tuột xuống ngày càng sâu hơn trong suốt một kiếp, nhưng con là người tầm đạo tâm linh, con không thể cho phép mình làm điều đó. Cốt lõi của phát triển tâm linh là con đi lên hướng kia, con khắc phục trọng lực của tâm thức tập thể. Tâm thức này vô cùng mạnh mẽ về mặt tình dục, và con người có thể làm gần như bất cứ gì để biện minh cho ham muốn tình dục của mình.

Ý tưởng bảo rằng thủ dâm là “tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng” là một ví dụ điển hình của loại “biện minh” đó khởi lên từ tâm thức tập thể. Cách nó lý luận là bảo rằng vì Thượng đế đã sinh tạo chúng ta với bộ phận sinh dục, thì sẽ chỉ là tự nhiên nếu chúng ta bày tỏ dục tính của mình, và nếu mình không có bạn tình thì thủ dâm là một cách tự nhiên để giải tỏa căng thẳng. Lời gian dối ở đây là sự kiện ham muốn nhị nguyên sẽ không bao giờ chấm dứt, nó giống như một lỗ đen không bao giờ có thể lấp đầy. Cho nên con có thể bỏ ra nguyên một kiếp người để cố thỏa mãn ham muốn nhị nguyên mà vẫn không làm được. Đó là một cuộc tìm cầu vô vọng rốt cuộc sẽ nuốt trọn sự sống của con.

Thật ra thủ dâm có thể giảm căng thẳng một cách nhất thời, nhưng về lâu về dài, nó sẽ chỉ củng cố chính cái ham muốn nhị nguyên đã tạo ra căng thẳng. Nói cách khác, một khi con nhượng bộ ham muốn nhị nguyên, thì con tạo ra một vòng xoáy tự nó bồi thêm sức mạnh sẽ kéo con đi xuống tới mức mà con cho phép nó kéo con xuống. Nếu nỗ lực giảm bớt căng thẳng của con chỉ dẫn đến nhiều căng thẳng hơn thì sự giải tỏa nằm ở đâu? Trên thực tế, nó dẫn đến nghiện ngập thay vì tự do.

Ta cũng biết hầu hết người trẻ đều có thời điểm khi họ bắt đầu khám phá cơ thể của mình, và họ rơi vào thủ dâm. Đây không nhất thiết là một quan tâm lớn của ta, nhưng vấn đề là một khi con bắt đầu trượt xuống cầu tuột, thủ dâm sẽ nhanh chóng trở thành một chứng nghiện. Cơ thể con bắt đầu bảo con là nó không thể sống tiếp mà không có tình dục, và nó làm đời con khốn khổ nếu nó không được thỏa mãn.

Thực tế sinh học là nếu con không ăn, không uống hay không ngủ, cơ thể con sẽ chết. Nhưng con có khả năng sống nguyên một kiếp mà không có quan hệ tình dục. Điều ta muốn nói là tình dục không phải là một nhu cầu sinh tồn, và quả thật con có thể sống mà không có chút nào. Ta chỉ muốn nói là khi con là người tâm đạo tâm linh, con cần nhìn thật rõ là con không được cho phép các ham muốn tình dục khởi lên từ tâm nhị nguyên cai quản đời con. Con cần điều ngự cơ thể và tâm nhị nguyên thay vì để cho chúng điều khiển đời con.

Công việc này bắt đầu với một quyết định cương quyết, và con đã từng có nhiều quyết định có thể giúp con. Chẳng hạn, ta tin tưởng là đối với những ai cởi mở với trang mạng này, việc cưỡng dâm không phải là một cách chính đáng để giảm bớt căng thẳng của ham muốn tình dục. Cho nên con đã từng có những quyết định cương quyết về những cách cư xử mà con không thể chấp nhận để thỏa mãn tình dục. Đơn giản, con chỉ cần thêm thủ dâm vào danh sách đó. Ta không có vấn đề gì với những cặp sống với nhau trong một mối quan hệ cam kết, nơi cả hai người đều thoả mãn ham muốn tình dục của nhau một cách yêu thương và cân bằng. Do đó, ta khuyến khích mọi người hãy quyết định cách đó là cách duy nhất có thể chấp nhận được để toại nguyện ham muốn tình dục của mình.

Hậu quả của quyết định này là nếu con không đang ở trong một mối quan hệ bền chặt thì con sẽ không thể toại nguyện ham muốn tình dục của con, và do đó con cần tìm những cách khác để giải quyết các ham muốn đó – và ta sẽ nhận xét về điểm này trong phần sau. Điểm ta muốn nói ở đây là một khi con lấy được quyết định chắc chắn thì con đã đi được hơn nửa đường. Lý do hầu hết mọi người không ngừng bị quấy rầy bởi cám dỗ tình dục là vì họ chưa lấy quyết định chắc chắn, cho nên thật là quá dễ cho tâm nhị nguyên và tà lực cám dỗ họ. Và một khi ho mở tâm ra cho cám dỗ ấy, áp lực sẽ không ngừng gia tăng cho đến khi họ không thể chịu được nữa. Một cái gì đó bị gẫy, và thường thường đó là ý chí của họ. Con cần tránh đến gần điểm đó, điểm không thể quay trở về.

Điều này dẫn đến môt câu hỏi khác của con: “Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào loại bỏ căng thẳng?” Cách tốt nhất để đối phó với căng thẳng là không để nó tăng trưởng tới điểm tới hạn – có nghĩa là khi đó, con không thể kiểm soát được nó nữa. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con sống được là vì con nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Năng lượng này, sinh lực này, nhập vào trường năng lượng của con qua Căn phòng Mật thất ở luân xa trái tim. Từ đó nó được phân phối ra các luân xa khác, kể cả trung tâm năng lượng thường gọi là luân xa gốc.    

Dòng chảy tự nhiên của năng lượng là dòng sinh lực dâng lên qua cả bảy luân xa chính, nhưng năng lượng có thể được chuyển hướng tới bất kỳ luân xa nào. Chẳng hạn khi một người có một ham muốn tình dục trụ vào bản thân và cơ thể, một phần sinh lực sẽ được đưa về luân xa gốc. Một ham muốn vị kỷ luôn luôn khiến cho luân xa quay ngược chiều và năng lượng bị giảm độ rung, dẫn đến năng lượng bị tồn đọng trong luân xa. Đó chính là cảm giác kích thích nơi các cơ quan sinh dục, nhưng khi năng lượng tích tụ thêm, cảm giác kích thích biến thành sự căng thẳng, và căng thẳng có thể trở nên rất khó chịu.

Khi năng lượng dồn thêm, luân xa bị đổi màu sắc, và đó là tại sao con thấy nhiều giáo lý tâm linh và Thời mới vẽ hình luân xa gốc màu vàng cam hay đỏ sẫm. Khi luân xa gốc quay đúng chiều và tinh khiết, nó tỏa ra ánh sáng màu trắng.

Là người tầm đạo tâm linh, con cần học cách nhận diện cảm giác khi năng lượng tích tụ trong các luân xa của mình, và đối với luân xa gốc, điều này rất dễ học hỏi vì nó có triệu chứng vật lý. Bước đầu tiên dẫn đến việc kiểm soát trường năng lượng của mình là tránh mọi chuyện có thể dẫn đến kích thích tình dục. Nói cách khác, nếu con là người tầm đạo tâm linh, con không vui thú trong phim ảnh khiêu dâm và con tránh những trò chuyện lộ liễu tình dục. Ta phải nhìn nhận là trong xã hội Tây phương ngày nay, con liên tục bị truyền thông và quảng cáo dội bom với những hình ảnh khiêu dâm lộ liễu, thế nhưng con có thể học cách để cho chúng lướt bay qua mà không ảnh hưởng được con. Đơn giản là con từ chối cho chúng sự chú ý trực tiếp, vì chính sự chú ý của con sẽ phóng đại ham muốn tình dục. Điều ta muốn nói là nếu con muốn tránh bị phỏng thì con không cố tình đổ dầu vào lửa.

Con cũng sẽ đạt được nhiều kết quả bằng cách thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, và bài chú Đại thiên thần Michael là đề nghị hàng đầu của ta. Con hãy kêu gọi sự bảo vệ cho cảm thể và luân xa gốc của con. Có vô số thế lực bóng tối tìm cách thổi phồng ham muốn tình dục của con để lừa gạt con vào chuyện làm tha hóa năng lượng. Các thế lực này đứng trực tiếp sau lưng toàn bộ ngành công nghiệp tình dục, kể cả ngành làm phim và quảng cáo. Cho nên con cần kiên quyết bảo vệ trường năng lượng của con chống lại mọi xâm phạm của chúng.

Ta cũng khuyên con dùng bài chú để Astrea để cắt con ra khỏi mọi ràng buộc với tà lực và thanh tẩy luân xa gốc của con. Tất nhiên, con cũng có thể dùng các bài thỉnh Mẹ Mary hay ngọn lửa tím để biến hóa mọi năng lượng tha hóa đã sẵn tồn đọng trong luân xa gốc và cảm thể. Có thể con cũng muốn xem lại những bài giảng của ta về cách làm thế nào đương đầu với nghiện ngập, bởi vì đối với nhiều người, ham muốn tình dục đã trở thành một chứng nghiện suốt đời.

Bước kế tiếp là không những con học cách cảm thấy dòng chảy của năng lượng qua các luân xa, mà con cũng học cách kiểm soát dòng năng lượng đó. Đây là một khả năng thiết yếu cho mọi người tâm đạo nghiêm túc, và một lần nữa, năng lượng tình dục là cách tu tập toàn hảo. Con cần học cách ngăn chặn một cách ý thức để không cho sinh lực chảy xuống luân xa gốc và các cơ quan tình dục. Và con cần học cách lật ngược dòng chảy sau khi nó đã bắt đầu chảy sai chiều.

Đối với một người có trực giác, việc trên không khó khăn như nó có vẻ. Nhưng sẽ hữu ích cho hầu hệt mọi người nếu họ sử dụng một kỹ thuật, và ta đã ban truyền một kỹ thuật như vậy ở một nơi khác. Tuy nhiên, con cũng có thể dùng nhiều hình thức của Yoga và Tai Chi cho mục tiêu này.

Hãy để ta kết thúc và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lấy quyết định rõ ràng. Hầu hết mọi người đều lớn lên với một cái nhìn mơ hồ và mâu thuẫn về tình dục. Nếu con có thể giải tỏa phần nào sự bối rối đó – và trong bài này ta đã cho con một số lời dạy có thể giúp con – con có thể đạt tới mức là con lấy quyết định cương quyết mình sẽ biểu lộ tình dục như thế nào. Một khi con nối kết với mong muốn của dòng sống về tình dục, con sẽ có nền tảng tốt đẹp nhất để làm chủ những ham muốn tình dục khởi lên từ cơ thể và cảm thể.

Như luôn luôn, ta khuyến khích con có một thái độ sống tích cực. Đối với nhiều người tâm linh, tình dục đã là một nguồn hổ thẹn, bối rối và nhiều cảm xúc tiêu cực khác, và thường khi điều này ngăn trở phát triển tâm linh. Thay vào đó, con hãy dùng tình dục để phát huy sự tăng trưởng tâm linh và học cách điều khiển năng lượng chảy qua các luân xa. Một khi con điều ngự được các năng lượng đó, con sẽ nhận chân được cái đẹp của cơ thể con người mà không cảm thấy ham muốn tình dục. Nói cách khác, tình dục không còn sai khiến đời con nữa. Cái hướng dẫn đời con là cuộc tìm kiếm tâm linh của con. Con đã quyết định là đối với con, sự tinh tấn tâm linh quan trọng hơn nhiều so với sự thỏa mãn tình dục. Con đã khám phá ra rằng con không phải là một sinh thể tình dục mà là một sinh thể tâm linh.

Động đất ở Trung quốc có là quả báo cho việc chiếm đóng Tây Tạng?

Hỏi: Thưa thày Giê-su, nữ diễn viên người Mỹ Sharon Stone đã đưa ra nhận xét trong liên hoan điện ảnh Cannes rằng trận động đất xảy ra gần đây ở Trung quốc [năm 2010] có thể là quả báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với dân tộc Tây Tạng. Xin thày cho biết quan điểm của thày về việc này. Ngoài ra, tại sao lời tuyên bố của cô Sharon Stone lại gây ra quá nhiều tức giận và chế nhạo đến vậy?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước tiên, hãy để ta nói cho thật rõ: Để có thể có một sự xoay chuyển trong tâm thức tập thể thì điều tuyệt đối cần thiết là những ai ở một địa vị được công chúng lắng nghe phải có can đảm lên tiếng, phải can đảm đưa ra những nhận xét tạo xốc hầu mọi người có thể suy nghĩ vượt ra khỏi hộp tư duy hiện thời. Trong nhãn quan này, thật không mấy quan trọng nếu các lời tuyên bố có thể được xem là chính đáng và thận trọng hay không – cho dù chúng có thể xác thực theo một nghĩa tối hậu nào đó. Bởi vì mục đích của lời tuyên bố là để lay chuyển mọi người, lay chuyển những ai có tâm chưa hoàn toàn khép kín để họ suy nghĩ một cách mới mẻ về một vấn đề.

Cho nên ta phải khen ngợi Sharon Stone và một số diễn viên danh tiếng khác như Richard Gere và Harrison Ford, đã có can đảm hỗ trợ đức Đạt lai Lạt ma cùng chính nghĩa của người Tây Tạng, đến độ họ phải chịu thiệt hại trong sự nghiệp cùng thu nhập của họ. Thật là một thực tế đáng buồn trên hành tinh này khi những ai có điều gì quan trọng để nói lên thường khó lòng được giới truyền thông lắng nghe, trong khi một số nhân vật nổi tiếng khác lại được báo chí đăng tải rầm rộ những lời nói nông cạn nhất. Vì vậy thật vô cùng cần thiết và đáng khen khi có những người đã đạt được tư thế nổi danh lên tiếng về một chính nghĩa có thể đem lại sự thay đổi.

Bây giờ hãy để ta trả lời câu hỏi, liệu trận động đất gần đây có phải là quả báo cho cách chính quyền Trung quốc đối xử với người Tây Tạng hay không. Trước hết, Sharon Stone đã can đảm bày tỏ công khai ý tưởng rằng một thảm họa thiên nhiên quả thực có thể là hậu quả của hành vi con người – một ý tưởng rất dễ đoán trước là cô ta sẽ bị người ta chế nhạo tại phương Tây. Bởi vì như Mẹ Mary có giảng, nhân loại rất cần thức tỉnh nhìn ra sự thật là có một mối liên hệ giữa trạng thái tâm thức loài người và các tai họa “tự nhiên”.

Tất nhiên một quốc gia có thể phải nếm mùi thiên tai do hành vi của kẻ lãnh đạo quốc gia đó, như được thấy qua ví dụ trận bão Katrina ở Hoa Kỳ [năm 2005]. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể này, thật không chính xác khi bảo rằng trận động đất này là quả báo cho cách hành xử của Trung quốc chống lại Tây Tạng. Đây là một trường hợp mà cô Sharon Stone, mặc dù ý định của cô rất tốt, đã quá chú mục nhìn thế giới từ góc cạnh của cô và đặt dân tộc Tây Tạng ở ngay trung tâm cái nhìn đó.

Sự thật là trận động đất gần đây ở Trung quốc không phải là quả báo cho cách hành xử của chính quyền đối với dân tộc Tây Tạng mà đối với một tập thể khác – một tập thể thường bị phương Tây lãng quên khi nhìn vào Trung quốc. Và nếu con bị khó khăn không nhận diện ra tập thể này, thì điều đó càng chứng minh điểm ta muốn nói. 

Sự thật là trận động đất vừa rồi là nghiệp báo cho cách đối xử của chính quyền Trung quốc đối với chính dân tộc Trung quốc!

Hiển nhiên chính quyền Trung quốc đã đàn áp người dân Tây Tạng, nhưng chẳng phải là họ cũng đã đàn áp chính nhân dân họ ở cùng một mức độ hay sao? Liệu người dân Trung quốc không xứng đáng được thương xót và giúp đỡ một cách bình đẳng để họ tự do hay sao?

Nếu điều này đã rõ thì ta sẽ nhận xét thêm về câu hỏi, liệu có bất công hay không khi người dân Trung quốc phải hứng chịu hậu quả những hành vi của chính quyền họ – khi chính quyền này áp bức họ. Thực tế là ở mọi quốc gia, chính quyền là sự thể hiện của tâm thức quần chúng. Cho nên một nước không thể có chính quyền áp bức trừ khi trong tâm thức quần chúng cũng có một xu hướng phục tùng, không chịu lãnh trách nhiệm về cuộc sống của mình lẫn về đất nước của mình.

Do đó ngay cả ở các quốc gia độc tài nhất vẫn có một mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa kẻ cai trị áp bức và quần chúng chấp nhận áp bức. Chỉ khi nào có một túc số tới hạn những con người quyết định nhận lãnh trách nhiệm về vận mạng của mình – và họ vươn lên cao hơn cái tâm thức đã khiến cho kẻ áp bức nắm được chính quyền – thì mới có một sự xoay chuyển quyết định trong hình thức chính quyền.

Và chót hết, ta sẽ nhận xét thêm về lý do tại sao lời tuyên bố của Sharon Stone lại gây ra nhiều tức giận tại Trung quốc và nhiều chế nhạo tại phương Tây đến như vậy. Lý do thật giản dị là vì ở cả hai vùng này của thế giới, có một tỷ lệ rất cao đã được nuôi dạy trong triết lý duy vật, một triết lý phản tâm linh. Theo đó, con người có thể tránh né hậu quả việc làm của mình, hoặc hành động của một người không có hậu quả gì hết ngoại trừ những gì thấy được ngay lập tức.

Như thày Maitreya có giải thích trong sách của thày [Master Keys to Spiritual Freedom], việc phủ nhận hậu quả như vậy là sự biến thái tha hóa cùng cực của quyền tự quyết. Thượng đế đã cho phép địa cầu – do độ dày đặc của vật chất ở đây – trở thành một hành tinh nơi con người có thể phủ nhận sự hiện hữu của ngài, và qua đó cũng phủ nhận các định luật của ngài. Điều này là để cho phép những dòng sống nào muốn tách biệt khỏi Thượng đế có cơ hội làm như vậy, với hy vọng là rốt cuộc họ sẽ chán chê chuyện đó và quay trở về với thực tại.

Thế nhưng một số những người đó đã tự thuyết phục mình – và cũng đang nỗ lực thuyết phục mọi người khác trên địa cầu – rằng thật ra không có Thượng đế, cho nên họ mới có cái mà họ tưởng là tự do tối hậu, tức là tự do làm bất cứ gì họ muốn mà không phải gánh chịu bất kỳ hậu quả nào. Tuy nhiên như thày Maitreya giải thích, nếu không có hậu quả thì cũng không có quyền tự quyết, bởi vì nếu chọn lựa của con không mang lại hậu quả thì kỳ thực con đã không chọn lựa gì hết.

Vì vậy thực tế trên địa cầu là sẽ có một thành phần trong quần chúng bác bỏ kịch liệt sự kiện hành vi của con người có thể đem lại hậu quả cho thân thể của hành tinh, hoặc hành tinh có thể đáp trả lại hành vi của con người qua các thiên tai. Những người đó sẽ chế nhạo một cách ác độc bất cứ ai lên tiếng phản đối thế giới quan ích kỷ và tương đối của họ, và họ càng ích kỷ bao nhiêu thì sự chế nhạo sẽ càng cuồng nhiệt bấy nhiêu. Bởi vì CHỈ CÓ lòng ích kỷ mới có thể khiến cho con người từ chối xét xem hành động hay trạng thái tâm thức của mình có thể đem lại hậu quả tác động đến những thành phần khác của sự sống. Tất nhiên, chỉ có lòng ích kỷ đã khiến cho các dòng sống đó muốn tách rời khỏi Thượng đế cùng Thân thể của ngài.

Nhưng những ai đã bắt đầu khắc phục được lòng ích kỷ của mình cũng đã bắt đầu nhìn ra là mọi người trên trái đất đều là một phần của cùng một tổng thể rộng lớn, cho nên họ đang vượt ra khỏi tâm thức của Cain để nhìn nhận rằng quả thực họ là người canh giữ cho anh em mình. Và do đó, thật là chính đáng để có một phong trào “Tây Tạng tự do”, nhưng cũng chính đáng không kém là có một phong trào “Trung quốc tự do”. Bởi vì nếu con có thể giải phóng dân tộc Trung quốc khỏi cái tâm thức áp bức-phục tùng kia, thì con có nghĩ là vấn đề Tây Tạng cũng sẽ được giải quyết cùng một lượt hay không?

Về khía cạnh này, điều vô cùng quan trọng là người tâm linh cần nâng cao cách hiểu của mình về nghiệp quả để vượt ra khỏi truyền thống xem nghiệp quả là sự trừng phạt. Nếu con có một quả bóng và cứ thổi thêm hơi vào quả bóng thì cuối cùng nó sẽ nổ tung, nhưng liệu quả bóng nổ có phải là sự trừng phạt của một Thượng đế tức giận hay không? Không. Kỳ thực nhân loại đang không ngừng đổ thêm năng lượng ở tần số thấp vào trường năng lượng của thân thể hành tinh, và một khi áp suất trở nên quá lớn thì một cái gì đó phải nổ tung để giải áp. Vì nếu áp suất không được giảm bớt một cách lần hồi qua các pháp tu tâm linh – ví dụ như các bài chú hay bài thỉnh của Mẹ Mary – thì nó sẽ bùng nổ dữ dội và nhiều người sẽ bị thiệt hại.

Và mặc dù người ta có chiều hướng chú tâm vào những thiệt hại cho con người, đây vẫn không phải là một sự trừng phạt. Đây chỉ là kết quả không thể tránh khỏi của hành vi con người. Và vì vậy nghiệp quả luôn luôn là một vị thày – nghiệp quả chỉ duy nhất là một vị thày. Nghiệp quả là một nỗ lực nhằm dạy dỗ con người rằng mọi hành động, kể cả những “hành động” tâm lý, đều mang hậu quả. Cho nên luôn luôn có sự mong mỏi là một khi con người nếm mùi hậu quả thì họ sẽ thức tỉnh, sẽ nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và quyết định thay đổi.

Tất nhiên trong nhiều trường hợp, chính cái tâm thức đã khiến cho con người tạo nghiệp sẽ ngăn cản họ thấy được nghiệp báo như một bài học. Khi nào con người còn bịt tai không muốn nghe các vị thày tâm linh của mình, thì không còn cách nào khác để dạy cho họ ngoài việc cho phép họ gặt hái nghiệp báo – hết lần này tới lần khác cho đến khi họ bắt đầu tự hỏi: “Không hiểu có cách nào khác hay hơn chăng? Có phải chính tôi là người phải thay đổi? Đâu là cái xà trong mắt tôi mà tôi chưa nhìn thấy?”

Nhân loại đã tạo ra mọi sự mất quân bình trong thiên nhiên như thế nào

Hỏi: Chỉ bây giờ những thay đổi trên trái đất mới bị coi là thảm họa khi nhà cửa bị phá hủy. Bỗng nhiên Thượng đế muốn chúng ta chú ý. Đó là những dấu hiệu, là quả báo? Làm sao có thể như vậy được khi thiên tai đã từng xảy ra trên địa cầu trước khi cả có nhân loại để mà chứng kiến? Nếu chúng ta nhìn sang Mộc tinh, có một đám mây đỏ khổng lồ bao chung quanh, đó chính là một trận bão khổng lồ. Rồi trên Hoả tinh cũng có bão táp, còn Kim tinh thì nóng và độc hại… Những chuyện đó xảy ra khắp nơi trong thiên nhiên, thậm chí chúng ta còn có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chúng… nhưng trời đất, chúng ta xây lên một căn nhà xong nó bị tàn phá, thì chúng ta gọi ngay đó là Thượng đế đang muốn lôi kéo sự chú ý của chúng ta để bảo chúng ta là xấu ác. Không hiểu sao chứ có lẽ chúng ta chưa có đủ công nghệ để xây cất nhà cửa cho vững chắc hầu chịu được những thay đổi liên tục đó, chứ chuyện này thật sự chẳng dính dáng gì tới đạo đức với tâm linh gì hết.      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một trong những mục đích của ta với trang mạng này là tạo cảm hứng cho những ai có tâm cởi mở về mặt tâm linh nhìn xa hơn tâm thức nhị nguyên. Trạng thái tâm thức này khiến cho con người xem mình là những sinh thể tách biệt khỏi tổng thể mà họ là thành phần. Trong tâm họ, họ tạo ra đủ loại những ngăn tủ được chia cách bởi hàng rào, và điều này cho họ một cái cớ để họ chối bỏ trách nhiệm của họ.

Chẳng hạn, những người bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên đã tạo ra một ngăn tủ gọi là “Thiên nhiên” và một ngăn khác gọi là “Hoạt động con người”. Họ coi hai cái ngăn đó là tách biệt, với rất ít hoặc không có chút tương tác nào với nhau. Cho nên khi một trận động đất xảy đến, họ sẽ bảo đó là kết quả của một “tiến trình thiên nhiên”, và vì vậy các hoạt động, cách hành xử hay trạng thái tâm thức của họ không thể nào liên quan gì tới động đất. Nó cho họ một cái cớ để cứ tiếp tục lối sống cũ mà không chịu xét xem liệu họ có cần thay đổi chính bản thân họ hay không.

Trong tư duy tách biệt đó, họ đã tạo ra những công nghệ cô lập họ khỏi thiên nhiên. Rồi khi một trận động đất xảy đến tàn phá căn nhà của họ, họ lại đi tìm một công nghệ nào khác để bảo vệ họ tốt hơn – và như vậy họ lại càng tự cô lập thêm nữa với thiên nhiên – thay vì suy nghĩ rồi có lẽ hiểu ra là mình cần thay đổi cách nhìn của mình và làm việc với Mẹ Địa cầu thay vì làm việc chống lại Mẹ Địa cầu.

Cũng trong tư duy tách biệt, có những người khác đã tạo ra một ngăn tủ gọi là Thượng đế, mà họ xem là một ông thần giận dữ ở trên trời. Cho nên họ chỉ có khả năng lý luận là nếu một thiên tai đem theo một thông điệp, thì đó nhất định phải là một thông điệp từ ông thần giận dữ kia ở trên trời đang cố nói với họ là họ xấu ác. Họ sẽ không thấy được Thượng đế đích thực ở ngay trong chính họ, chỉ đang cố dẫn dắt họ đến mức nhận ra ích lợi lớn nhất của họ trong giác ngộ. 

Chừng nào con người còn bị kẹt trong cách nhìn cuộc sống với những ngăn tủ cứng ngắc như vậy, chừng nào họ còn từ chối tìm hiểu các nguyên nhân sâu xa hơn – để rốt cuộc ngộ ra tính tương kết của mọi sự sống – thì ta sẽ không thể giúp họ được. Thế nhưng đối với những ai sẵn lòng nhìn sâu hơn dáng vẻ bề ngoài, ta sẽ có thể gợi ra một cách thức để họ lần hồi mở rộng tâm ra.

Khoa học đã chứng minh rằng tất cả mọi thứ đều là năng lượng, và điều này đã thiết lập khả năng có sự kết nối giữa tâm và vật chất, kết nối giữa các tiến trình tự nhiên và các hoạt động của con người. Để dễ suy luận, chúng ta hãy thử lấy ví dụ là có một tiến trình tự nhiên nào đó đã gây ra căng thẳng trong vỏ trái đất. Sự căng thẳng này không chỉ là căng thẳng vật lý, mà còn có một tầng cấp nhân quả sâu xa hơn, cụ thể là sự tương tác giữa các sóng năng lượng với nhau.   

Theo thuyết tương đối của Enstein, trên lý thuyết hoàn toàn có khả năng là các sóng năng lượng do tâm con người sản xuất có thể tương tác với những sóng năng lượng đang tạo ra căng thẳng trong vỏ trái đất. Như vậy, các làn sóng tư tưởng có tiềm năng gia tăng lực căng thẳng hiện hữu, với kết quả là nó gây ra động đất ở một thời điểm hay một địa điểm nào đó. Nó có thể gia tăng cường độ của một trận động đất, hoặc thậm chí nó có thể kích họat một trận động đất thay vì chỉ lần lần giải tỏa lực căng thẳng mà không gây ra bất kỳ thiệt hại nào trên mặt đất.

Đúng là cái gọi là những tiến trình tự nhiên đã hiện hữu từ hàng triệu năm rồi, nhưng đâu là bằng chứng cho thấy chúng đã tàn phá dữ dội như ngày nay? Làm sao con biết được những tiến trình như vậy đã không diễn ra một cách lần hồi đến độ chúng không gây ra nhiều tàn phá trên mặt đất? Nếu một tiến trình đủ chậm, rất có thể nó sẽ không phá sập một căn nhà. Hoặc người ta sẽ có thì giờ dọn đi nơi khác hay điều chỉnh cách khác để không ai bị thiệt mạng. Liệu có khả năng hay chăng là những gì người ta gọi là thiên tai đã không hề xảy ra khi loài người chưa có mặt?

Mặc dù đó không phải – chưa phải – là khoa học chính mạch, chuyện này không vượt ra ngoài tầm hiểu của những người có khuynh hướng tâm linh, đặc biệt những người cởi mở đối với các giáo lý Thời mới. Nếu các ý tưởng này mới mẻ đối với con, có thể con sẽ cần một chút thời gian để tâm trí con thích nghi với thế giới quan rộng mở này. Có thể con cũng cần thời gian để cảm xúc của con chấp nhận phần trách nhiệm lớn hơn khi con nắm được hiểu biết này. Con phải sẵn lòng chấp nhận rằng các ý tưởng, cảm xúc và hành động của con có những hậu quả vô cùng xa rộng, và điều này có thể là một bài học rất khó nuốt đối với một số người đến độ họ sẽ kháng cự lại với tất cả lòng xúc động của họ.     

Nhưng một khi con làm quen hơn với thế giới quan rộng mở đó, con sẽ có thể đưa nó đi xa hơn nữa. Bằng cách chứng mình rằng tất cả mọi thứ được cấu tạo bằng năng lượng, Einstein cũng chứng minh là mọi thứ nối kết với nhau. Nói cách khác, ở tầng cấp của vật chất hữu hình, thiên nhiên và con người có thể có vẻ tách biệt, nhưng ở tầng cấp sâu hơn của năng lượng, cả hai đều là thành phần của một tổng thể rộng lớn – tấm thảm liên tục của năng lượng.  

Như nhiều người có ý thức về môi trường và tâm linh đã bắt đầu nhận ra, con người không thể đơn giản vứt bỏ trách nhiệm của mình và cho rằng mình có thể làm bất cứ gì mình muốn trên hành tinh này. Nhiều người đang ngộ ra rằng các hành động của con người có thể mang hệ quả toàn cầu, nhưng ta có thể cam đoan với con là tâm con người còn có ảnh hưởng mạnh mẽ hơn thế rất nhiều trên hệ năng lượng của hành tinh trái đất.

Sẽ tới một ngày khi các nhà khoa học chấp nhận – như một số đã nhận ra rồi – rằng tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ tâm thức. Các nhà vật lý lượng tử đã hiểu ra rằng tâm thức có khả năng ảnh hưởng tầng cấp cơ bản nhất của vật chất, tức các hạt cơ bản. Họ đang nghiêm túc xem xét câu hỏi: “Liệu vũ trụ có mặt hay chăng khi không có ai nhìn?” Nói cách khác, tâm thức là thực tại nền tảng, nó đứng đằng sau cả năng lượng.

Một ngày kia người ta sẽ nhìn nhận sự thật hiển nhiên rằng những viên gạch cơ bản của vũ trụ vật chất là thông tin. Chính thông tin nói rõ cho sóng năng lượng thuần khiết cách hình thành hạt cơ bản, và nó nói rõ cho hạt cơ bản cách hình thành nguyên tử. Nó cũng nói rõ cho nguyên tử cách hình thành phân tử, và nó nói rõ cho phân tử cách hình thành mọi thứ có mặt trong quang phổ vật chất. Do đó, căn nguyên tối hậu của mọi hiệu ứng vật chất mà chúng ta thấy trong thiên nhiên chính là những gì xảy ra ở tầng cấp tâm thức.

Không có gì có thể hiện hữu như một “vật” mà không hiện hữu trước tiên như một ý tưởng – tức là một số thông tin có sự tổ chức – trong một cái tâm có khả năng tự nhận biết. Một ngày kia điều này sẽ trở thành hệ thuyết cơ bản của khoa học, và các nhà khoa học bấy giờ sẽ nhìn lại triết lý duy vật ngày hôm nay chẳng khác gì chính con nhìn lại triết lý xưa kia cho rằng trái đất này bằng phẳng.

Một khi con điều chỉnh thế giới quan của con với thực tại rằng tất cả đều là tâm thức, con sẽ bắt đầu khắc phục được cái nhìn cuộc sống chia ra thành từng ngăn tủ. Con sẽ nhận ra là các tình huống vật lý vỏ ngoài mà con gặp chỉ đơn giản là những cái quả của cái nhân trong chính tâm con. 

Có thể con sẽ bắt đầu chấp nhận là con thu hút về phía con những hoàn cảnh phản ánh trạng thái của tâm con, nhưng sẽ tới một điểm khi con bắt đầu nhìn ra là thật sự chính con là người tạo ra thực tại của con. Điều này sẽ mở ra cho con cái biết – như các giáo lý Thời mới đã diễn tả theo nhiều cách khác nhau – rằng tập thể loài người đã tạo ra các điều kiện hiện hành trên trái đất.  

Con sẽ chịu đưa hiểu biết này đi bao xa? Liệu con sẽ chấp nhận là các vị đại diện của Thượng đế đã tạo ra một hành tinh xinh đẹp, hoàn toàn cân bằng, hài hòa và trù phú trong thiên nhiên, nhưng sau đó loài người – bằng cách chìm xuống tâm thức tách biệt và nhị nguyên – đã tạo ra TẤT CẢ những sự mất cân bằng đã dẫn đến những tai họa thiên nhiên, thời tiết khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, thậm chí cả bệnh tật?

Liệu con sẽ chấp nhận là ở ban đầu, trái đất đã được tạo ra từ những năng lượng không dày đặc như vật chất ngày nay, và chính sự “dày đặc hóa” của tâm thức nhân loại đã khiến cho năng lượng cũng bị dày đặc theo, để trở thành cái mà ngày nay hiện ra như vật chất rắn đặc? Liệu con sẽ chấp nhận là tiến trình này đã diễn ra trên một thời gian rất dài và các sinh thể tự nhận biết đã tác động lên hành tinh này từ những thuở xa xưa mà khoa học chưa biết đến?   

Kỳ thực, các dòng sống tương tự như những dòng sống mà các con đang hiện thân trong cơ thể vật lý, đã từng ảnh hưởng hành tinh này trước cả khi cơ thể con người được thành hình. Trong quá khứ xa xôi, các dòng sống đó đã hiện thân trong những cơ thể thanh nhẹ hơn, và đó là tại sao người ta không tìm ra vết tích hóa thạch nào về họ hay về những nền văn minh của họ.

Lịch sử tác động của tâm các sinh thể tự nhận biết đó – mà con có thể gọi là con người hay một cái tên nào khác – trên hành tinh này đi trở ngược về một quá khứ vô cùng xa xôi. Thật là ngây thơ nếu cho rằng những sinh thể như thế chỉ mới sống trên hành tinh này trong vòng 10 hay 30 ngàn năm qua. Thời gian thực sự, như thày Maitreya giải thích trong sách của thày, là 2,5 tỷ năm.

Tương tự như vậy, các điều kiện được thấy trên các hành tinh khác cũng đã được tạo ra bởi các sinh thể tự nhận biết ở đó. Hiện nay các sinh thể này không hiện hữu trong cùng một quang phổ tần số như loài người. Nhưng dù sao đi nữa, các điều kiện vật lý ở các hành tinh đó vẫn là do các sinh thể tự nhận biết tạo ra khi họ sử dụng quyền năng sáng tạo của họ trong quan hệ với hành tinh của họ.

Tất cả những ý tưởng nói trên sẽ rất khó chấp nhận đối với những ai còn bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt, nhưng đôi khi các nhà khoa học có sử dụng một lập luận để chứng minh sự hiện hữu của những loài sinh thể thông minh ngoài trái đất, và lập luận này cũng hữu ích ở đây. Họ bảo rằng nếu loài người là loài thông minh duy nhất trong nguyên vũ trụ bao la thế này, thì thật là một sự phí phạm không gian khủng khiếp. Nếu theo các nhà khoa học, địa cầu đã 4,5 tỷ năm tuổi, và nếu con người mới chỉ hiện diện ở đây được 30 ngàn năm, thì quả thực đó cũng là một sự phí phạm thời gian khủng khiếp.

Ngay từ khởi đầu, địa cầu đã được thiết kế như một môi trường học hỏi cho sự sống thông minh, tự nhận biết. Một số sinh thể đã tới đây, đã học xong bài học của họ và đã thăng lên những tầng cõi cao hơn. Một số khác đã tới đây, đã không học được bài học, và thay vào đó, đã kẹt lại ở đây. Vậy bài học đó là gì?  

  • Con là một vị đồng sáng tạo cùng với Thượng đế.
  • Con có quyền tự quyết để sáng tạo bất cứ gì con muốn.
  • Con sáng tạo qua quyền năng của tâm con. Các hình ảnh mà con cầm giữ trong tâm được phóng chiếu lên năng lượng cấu tạo vật chất.
  • Con không thể tránh khỏi việc trải nghiệm những gì con đã sáng tạo vì vũ trụ vật chất sẽ trình chiếu ra những hình ảnh mà con giữ trong tâm. Tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu về con các tâm ảnh đó dưới dạng vật chất.
  • Nếu con tạo ra sự mất cân bằng trong quang phổ vật chất, con sẽ không thể đi đâu khác cho tới khi con phục hồi cân bằng.
  • Con không thể phục hồi cân bằng cho đến khi con vươn lên cao hơn mức tâm thức đã khiến con tạo ra sự mất cân bằng.   

Con người đã tạo ra tất cả những khốn khổ hiện có mặt trên hành tinh này, kể cả các thiên tai cùng tất cả mọi sự mất cân bằng trong thiên nhiên. Bằng cách từ chối nhận lãnh trách nhiệm của mình, họ sẽ ở lại trong tâm thức tách biệt và sẽ tiếp tục tạo thêm nhiều khốn khổ hơn nữa. Nhưng bằng cách vươn lên cao hơn trạng thái tâm đó, họ có khả năng tạo dựng một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và phục hồi sự cân bằng nguyên thủy cho hành tinh đang cung cấp cho họ một môi trường thăng tiến tâm linh. Con phải chọn giữa Là hay Không Là. Con hãy chọn sự sống!

Giáo lý nền tảng về các khía cạnh tâm linh của tình dục

Hỏi: Giê-su thân yêu, sự sa ngã của loài người đã xảy ra khi giống dân gốc thứ tư hiện thân, tức là luân xa gốc trên sống lưng. Rõ ràng hành tinh này đang gặp rất nhiều vấn đề với tình dục bị lạm dụng. Không hiểu thày có lời khuyên gì về việc khắc phục các năng lượng bị lạm dụng? Làm thế nào con người có thể khắc phục sự nghiện ngập tình dục, đặc biệt là khi nó quá phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đã có nhận xét về vấn đề này khi trả lời một số câu hỏi khác trong phần này, và lời nhận xét của ta vẫn xác đáng. Ta cũng khuyên con nên xem câu trả lời của ta về cách chiến đấu một chứng nghiện kéo dài suốt đời. Tuy nhiên, ta muốn nhân cơ hội này giảng dạy sâu xa hơn về vấn đề tình dục. Ta hiểu rõ đây là một vấn đề cho nhiều người thực sự tâm linh, cho nên hãy để ta cho con một số lời giảng có thể giúp con hiểu sâu hơn.

Như ta đã giải thích ở nơi khác, dòng sống của con được sinh tạo ở ban đầu bởi cha mẹ tâm linh của con. Con được tạo ra là một cá thể của Thượng đế, và cá thể độc đáo của con được biểu lộ và neo trụ nơi cái ta tâm linh của con, hay Hiện diện TA LÀ. Ở một thời điểm nào đó, dòng sống của con đã quyết định là nó muốn trải nghiệm vũ trụ vật chất từ bên trong, và nó muốn đóng góp vào việc đồng sáng tạo khía cạnh này của tạo vật Thượng đế. Sau đó dòng sống của con đã tạo ra một phần nối dài của chính nó, là cái Ta Biết.

Điều quan trọng cần hiểu trong bối cảnh này là cái Ta Biết không bao giờ được tạo ra để lẻ loi một mình. Nó được tạo ra như là một phần nối dài của cái ta tâm linh, và trong nghĩa đen, nó được trù hoạch là một hành tinh quay quanh mặt trời của cái ta tâm linh của con. Tuy nhiên, cái Ta Biết được phú cho một ý niệm hiện hữu cá nhân, và cái Ta Biết có quyền tự quyết. Do đó, cái Ta Biết có thể thay đổi ý niệm bản sắc hầu nó không tự xem mình là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Đây chính là điều đã xảy ra trong tiến trình mà Kinh thánh mô tả là sự Sa ngã của con Người, và như ta có giải thích khắp trang mạng này, đó là sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Để dùng một ẩn dụ thiên văn, người ta có thể ví như hành tinh của cái Ta Biết đã ngừng quay trên trục của nó. Con cũng biết là nếu trái đất ngừng quay, có một mặt của trái đất sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Nếu con sống trên mặt đó của hành tinh, rất có thể con sẽ không có ý niệm gì về ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt kia. Đây chính là điều đã xảy ra trong nghĩa đen cho hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu. Họ đã quên mất mặt trời của cái ta tâm linh.

Tuy nhiên, sự lãng quên này chỉ hiện hữu trên bề mặt của tâm thức. Cái Ta Biết không bao giờ có thể quên được là nó đã được tạo ra như là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Cho dù cái Ta Biết có thể xây dựng một ý niệm bản sắc tách biệt, nó không bao giờ có thể cảm thấy trọn vẹn và toàn vẹn trong ý niệm bản sắc đó. Cái Ta biết chỉ có thể cảm thấy trọn vẹn khi nó nối kết với Hiện diện TA LÀ một cách ý thức. Do đó, cho dù cái Ta Biết đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi sâu thẳm nó vẫn khát khao được trọn vẹn, nó vẫn mang một cảm giác sâu sắc là cuộc sống của nó thiếu sót một cái gì.

Khi con hiểu điều này, con nhận ra là hầu hết ý nghĩ, cảm xúc và hành vi mà con người khoác vào trong cuộc sống, đều liên quan đến cảm nhận sâu sắc của cái Ta Biết là mình lẻ loi, hay mình thiếu sót, thiếu trọn vẹn. Nếu con xem bài giảng của ta về các trình độ phát triển tâm linh, con có thể nói là khi con người càng xuống thấp trong tâm thức bao nhiêu thì họ sẽ càng cảm thấy lẻ loi bấy nhiêu. Thế nhưng vì họ không thể, hay không muốn, nhìn nhận đời sống tâm linh của mình, họ không có cách nào giải quyết cảm nhận lẻ loi này. Thay vào đó, họ chỉ có chọn lựa duy nhất là che đậy cảm nhận lẻ loi và thiếu sót đó.   

Và điều này dẫn đến đủ loại niềm tin và hành vi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của mình khỏi cảm giác trống rỗng sâu sắc bên trong. Nó cũng dẫn đến một số tin tưởng được trù liệu để khiến cho con người cảm thấy mình không cần thay đổi đời mình, rằng mình vẫn yên ổn, tốt đẹp, hay mình không có cách nào thoát ra khỏi cảm giác trống rỗng đó. Những tin tưởng và hành vi như vậy có thể rất nhanh chóng dẫn đến đủ loại những chứng nghiện ngập đủ thứ đồ vật của thế gian, từ chất hóa học cho đến của cải, quyền lực và tình dục.

Nhân tiện cũng cần nói là rất nhiều những chứng nghiện này được khuyến khích, thậm chí được bày ra, bởi một số tín ngưỡng chính thống hay cực chính thống. Những hệ thống tín ngưỡng khép kín như vậy được thiết kế để ngăn cản con người không thể nhận ra và giải quyết sự trống rỗng nội tâm của mình, để giữ cho con người bị kẹt lại trong thế giới vật chất thay vì thăng vượt thế gian và kết hợp lại với cái ta tâm linh của mình.

Bất cứ loại hệ thống tín tưởng hay hệ thống hành xử nào mà đưa con người vào một tình trạng nghiện ngập, dù là về mặt tình cảm hay vật lý, luôn luôn nhận được sự hỗ trợ và củng cố từ các thế lực bóng tối đang tìm cách kiểm soát loài người. Đó là tại sao việc phá bỏ một chứng nghiện thật là một trận chiến sống còn – sống còn tâm linh – của dòng sống. Điều ta cố giải thích ở đây là đối với những ai đã rơi sâu xuống tư duy nhị nguyên, nghiện ngập như vậy chủ yếu là do đã từ chối không chịu đối mặt với nhu cầu tái nối kết cái Ta Biết với Hiện diện TA LÀ. Người đó cố gạt sang một bên nhu cầu cải sửa bản thân một cách đích thực và biến đổi tâm linh.

Khi con người vươn lên những tầng nhận biết cao hơn, họ sẽ bắt đầu nhìn nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Họ ý thức hơn là dòng sống của mình không trọn vẹn và cần phải tìm lại trọn vẹn. Kết quả là họ bắt đầu nhận ra là thế gian này không giúp cho mình cảm thấy trọn vẹn. Lần hồi, điều này giúp họ khắc phục sự nghiện ngập đối với những thứ vỏ ngoài, và họ bắt đầu chú tâm hơn vào các nhu cầu tâm linh của dòng sống. Họ không còn cảm thấy phải che đậy cảm nhận lẻ loi nữa, mà cảm được nhu cầu phải thật sự giải quyết nỗi lẻ loi đó. Thế nhưng ở những bước đầu của tiến trình tăng trưởng này, gần như không thể tránh được là dòng sống sẽ lý luận rằng vì mình cảm thấy không trọn vẹn, cho nên mình phải cần đến một thứ gì đó từ ngoại cảnh, từ bên ngoài mình, để trở thành trọn vẹn. Vì vậy, dòng sống sẽ xả thân đi tìm một thứ gì đó màu nhiệm sẽ tự dưng biến mình thành toàn vẹn.

Một trong những tìm kiếm này là đi tìm một người bạn đời toàn hảo, kể cả một người bạn tình toàn hảo. Trong giao phối tình dục, nhiều người trải nghiệm được những thoáng hiện của sự trọn vẹn nội tâm. Đây là một tiến trình tự nhiên, và nếu sử dụng đúng đắn, nó có thể giúp cho dòng sống hàn gắn cảm nhận lẻ loi của mình. Rất tiếc, như ta đã có giải thích trong một bài giảng khác, bất cứ gì trong thế gian này cũng là con dao hai lưỡi. Cho nên điều gì có thể là một dụng cụ giải thoát dòng sống cũng có thể trở thành một cái bẫy cho dòng sống, và điểm này đặc biệt đúng trong vấn đề tình dục.

Vấn đề sẽ xảy ra khi người tầm đạo bắt đầu tin rằng sự kết hợp tình dục là cần thiết cho trải nghiệm trọn vẹn. Nó có thể dẫn tới sự dính mắc tình cảm đối với tình dục, và nó có thể trở thành một bệnh nghiện tâm linh. Ta cũng biết đây là một sự phân biệt tinh tế, nhưng cái mà ta gọi là nghiện ngập vỏ ngoài là một hành vi nhằm che đậy cảm nhận thiếu toàn vẹn của dòng sống. Nói cách khác, nó khiến dòng sống bị tê cóng, mất cảm giác. Còn nghiện ngập tâm linh là khi dòng sống cảm thấy sự toàn vẹn của mình tùy thuộc vào một hoạt động nào đó. Nhân tiện, hoạt động tôn giáo cũng có thể trở thành một loại nghiện ngập tâm linh như thế, nhưng vì chủ đề ở đây là tình dục cho nên ta sẽ không bàn thêm về chuyện này.

Ý ta muốn nói là đối với rất nhiều người thật sự tâm linh, tình dục trở thành một chứng nghiện tâm linh. Họ thực sự bắt đầu tin rằng chìa khóa cho sự trọn vẹn nội tâm là tìm ra người bạn đời toàn hảo, và điều này khiến cho nhiều người suốt đời đi tìm một người phối ngẫu toàn hảo và tình dục toàn hảo. Hầu hết những người này không bị nghiện tình dục theo nghĩa nghiện vật lý. Họ không thật sự nghiện tình dục theo nghĩa truyền thống. Tuy nhiên, họ có ham muốn sâu sắc được cảm thấy trọn vẹn, nối kết, và họ tin tình dục là phương cách – có lẽ phương cách duy nhất – để thực hiện ham muốn này.

Đây là một điểm tinh tế có thể cần chút suy ngẫm. Khi dòng sống tăng trưởng tỉnh giác tâm linh, y sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn là mình không trọn vẹn, và y sẽ phát triển ý muốn khắc phục cảm giác này. Nếu y chưa hiểu được hoàn toàn là sự trọn vẹn tối hậu chỉ có thể trải nghiệm trong kết hợp với Hiện diện TA LÀ, thì y có thể tin rằng bí quyết để trọn vẹn là trải nghiệm kết hợp với một phần khác của sự sống, tức là với một người khác.

Hiển nhiên, kết hợp tình dục là một cách mãnh liệt để trải nghiệm hợp nhất với một người khác. Vì dòng sống mong muốn trọn vẹn rất mạnh mẽ, y có thể phát triển mong muốn kết hợp tình dục cũng mạnh mẽ như vậy. Những người như vậy muốn càng nhiều tình dục càng tốt, có khi với nhiều bạn tình khác nhau. Có những người mong muốn kết hợp với sự sống mạnh mẽ đến độ họ muốn kết hợp với bất cứ ai có vẻ hấp dẫn đối với họ. Họ tin rằng tình dục sẽ đưa họ đến gần hơn với trọn vẹn. Nói cách khác, tình dục không được dùng để che đậy hay đánh lạc hướng mong muốn trọn vẹn, mà bây giờ nó được dùng như một công cụ để tạo ra cảm giác trọn vẹn.

Và sau đây là điểm thực sự tinh tế. Ở một số giai đoạn trên đường tu tâm linh, điều này có thể đem lại một số tác dụng hữu ích. Nếu dòng sống tham gia vào tình dục với ý muốn chân chính đạt được trạng thái trọn vẹn, thì tình dục quả là có thể giúp cho y chữa lành. Qua kết hợp tình dục, đặc biệt là trong tình yêu và quan tâm đích thực đối với người bạn tình, dòng sống có thể được chữa lành và vượt qua cảm giác lẻ loi. Y cũng có thể bớt tập trung vào bản sắc nhị nguyên đã được xây dựng sau cuộc sa ngã. Đây thật sự là tiềm năng có được một hôn nhân thành công, qua đó cả vợ lẫn chồng đều đạt đến kết hợp tâm linh cao nhất.

Tuy nhiên khi dòng sống tiến xa hơn trên đường tu tâm linh, sẽ tới một điểm khi y cần thăng vượt cách hiểu và sử dụng tình dục như một công cụ kết hợp. Như ta đã nói, ở những giai đọan đầu tiên của đường tu, gần như không thể tránh khỏi dòng sống sẽ tin là mình cần một điều gì đó từ bên ngoài để trở thành trọn vẹn. Điều này có phần đúng theo nghĩa là dòng sống sẽ chỉ đạt được trọn vẹn qua sự kết hợp với Hiện diện TA LÀ. Ảo tưởng vô cùng tình tế ở đây khiến cho nhiều người thực sự tâm linh bị mắc bẫy là họ tin rằng Thượng đế, hay cái ta tâm linh, nằm ở đâu đó bên ngoài bản thân họ. Ảo tưởng này chính là ảo tưởng khó khắc phục nhất đối với bất kỳ người tầm đạo nào.

Nhiều dòng sống đã tinh tấn rất nhiều trên đường tu tâm linh, nhưng tiếc thay, họ tới một ngưỡng cửa mà nếu không vượt qua thì họ sẽ rất khó lòng bước tiếp. Cách duy nhất để vượt xa hơn ngưỡng cửa này là phải ngừng tìm kiếm cái gì đó bên ngoài chính mình. Con cần khắc phục mọi sự dính mắc, mọi ràng buộc, mọi lệ thuộc vào bất cứ gì mà con nhận thức là ở ngoài con. Con cần nhận ra bí quyết của sự trọn vẹn được tìm thấy bên trong chính con.  

Như ta đã nói ở trên, cái Ta Biết được tạo ra như phần nối dài của cái ta tâm linh. Một phần nối dài của cái ta tâm linh không đứng riêng rẽ, không tách biệt khỏi cái ta tâm linh. Đây là vấn đề của thế giới hình tướng, vì trong thế gian này, con thấy hình tướng khác nhau là tách biệt. Ngay cả ẩn dụ mà ta vừa cho con về cái Ta Biết như một hành tinh quay quanh mặt trời cũng đề cao cái nhìn tách biệt này. Cho nên chúng ta có thể nghĩ đến một mô thức khác hơn, là cái Ta Biết được xem như một con sóng trên đại dương của cái ta tâm linh. Nói cách khác, cái Ta Biết không bị tách rời khỏi cái ta tâm linh y như con sóng không thể tách rời khỏi đại dương.

Điểm cốt yếu ở đây là con không thể đạt tới sự trọn vẹn tối hậu khi nào con còn nghĩ sự trọn vẹn tùy thuộc vào một cái gì bên ngoài chính con. Chìa khóa của trọn vẹn là ngừng xem mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình, nghĩa là cả cái ta tâm linh lẫn Thượng đế. Cảm nhận tách biệt chỉ hiện hữu trong tâm con, cho nên nơi duy nhất mà con khắc phục được nó là trong tâm con. Con phải vượt qua ảo tưởng là mình đã từng tách rời khỏi cái ta tâm linh của mình. Con phải nhìn ra chìa khóa để tiếp xúc với cái ta tâm linh, chìa khóa để đạt đến kết hợp với cái ta tâm linh đó, là hướng sự chú tâm vào bên trong chính mình và ngừng hướng nó ra ngoài. Con phải ngừng đi tìm hòn đá giả kim, hay chiếc gậy thần sẽ bỗng nhiên khiến con cảm thấy mình là một với Thượng đế. Hòn đá giả kim không hiện hữu bên ngoài con, nó nằm ngay trong con – đó là cái ta Ki-tô của con.

Cho nên điều ta muốn nói là đối với nhiều người thực sự tâm linh, kết hợp tình dục rốt cuộc có thể trở thành một cái bẫy ngăn cản họ nhìn vào bên trong chính họ, vì sự chú ý của họ luôn hướng về người bạn đời. Nhiều người tâm linh trực nhận một mục đích chính đáng đằng sau ham muốn kết hợp tình dục, và điều này khiến họ rất khó lòng khắc phục ham muốn tình dục. Họ cảm thấy là họ sẽ đánh mất một cái gì đó thật quan trọng nếu họ bỏ hẳn, và điều này tạo ra một xung đột nội tâm khiến cho chuyện khắc phục ham muốn tình dục gần như là vô phương.

Con hãy lưu ý một điểm thiết yếu. Khi nào mà con còn một mâu thuẫn nội tâm về bất cứ khía cạnh nào của đường tu tâm linh, con sẽ không thể bước tới trên đường tu. Con sẽ kẹt lại ở bước đó cho tới khi con giải tỏa mâu thuẫn và đạt được sự rõ ràng bên trong và mục đích nhất quán. Điều này chỉ có thể đạt được qua viễn quan của con mắt đơn thuần trong tâm Ki-tô. Hẳn con có nhớ lời nói của ta là nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con tràn đầy ánh sáng. Một nhà bị phân rẽ lẫn nhau không thể tiến bước trên đường tu.

Để vượt qua bế tắc, con cần đạt tới điểm nhận ra là việc từ bỏ tình dục không phải là một mất mát, vì thay vào đó, con sẽ thu được một cái gì quan trọng và thoả nguyện hơn gấp bội. Con cần xem xét nội tâm và quyết định ưu tiên thực sự của mình là gì. Con mong muốn sự toàn vẹn bên trong của cái Ta Biết đến chừng nào? Con cần quyết định là cho dù tình dục có tuyệt vời đến đâu thì con vẫn muốn một cái gì khác nhiều hơn. Con khao khát một điều gì sâu xa hơn, đó là cảm giác hòa nhập với cái ta tâm linh của mình, và ta có thể cam đoan với con là nó tuyệt diệu và đầy ắp hơn tất cả những gì con có thể trải nghiệm trong tình dục. Con phải ngừng săn đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng, và thay vào đó, hướng chú tâm vào bên trong.

Đây là điểm mà ta đã cố giảng trong câu nói thuở trước, là trước tiên con hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài, thì sau đó mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con. Vương quốc Thượng đế chính là tâm thức Ki-tô, mà con sẽ chỉ đạt được qua sự kết hợp với cái ta Ki-tô của con, là vị trung gian giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô nằm bên trong chính con, và bí quyết để giữ liên lạc với cái ta Ki-tô là hướng chú ý của mình vào trong. Khi con bắt được liên lạc với cái ta Ki-tô cùng sự công chính – có nghĩa là sử dụng đúng đắn quyền tự quyết và sự chú ý của mình – thì tất cả mọi thứ khác, có nghĩa là ý thức kết hợp tối thượng với cái ta Ki-tô, sẽ được bồi thêm cho con. Thật sự đó là niềm vui của Thượng đế ban cho con vương quốc của sự hợp nhất tâm linh. Nhưng chìa khóa của vương quốc là ở trong con.

Cho nên điểm cơ bản của bài giảng dài dòng này là cách tối hậu để khắc phục nghiện ngập tình dục là một chiến lược gồm hai mũi dùi:

  • Con hãy sử dụng mọi dụng cụ mà con có để tự giải phóng khỏi các thế lực bên ngoài đang tìm cách đánh bẫy con vào chứng nghiện tình dục, như được mô tả ở nơi khác.
  • Một khi con đã có nỗ lực chân thành để vươn lên khỏi sức kéo hướng hạ của các tà lực và tâm thức tập thể, con hãy nhìn nhận rằng mong muốn kết hợp tình dục của mình khởi lên từ mong muốn toàn vẹn của cái Ta Biết. Nhìn nhận rằng mong muốn đó không thể được thỏa mãn qua kết hợp tình dục, và do đó, con hãy hướng chú ý tìm kiếm sự kết hợp với cái ta Ki-tô, thay vì kết hợp với một người khác.

Sự nghiện ngập tình dục có thể khởi lên từ một mong muốn đích thực, là mong muốn toàn vẹn nội tâm, thế nhưng vì con tìm nó trong tình dục, con sẽ bảo đảm mục tiêu đó sẽ không bao giờ hiện thực. Không một người nào – không một cái gì từ thế gian này – có thể thay thế được cái ta tâm linh của con. Có rất nhiều vật thay thế có thể che đậy cảm giác thiếu trọn vẹn, nhưng không một vật thay thế nào có thể thực sự đem lại cho con sự trọn vẹn. Do đó, con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế.

Nhận xét của Giê-su về phim của Mel Gibson “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”

Hỏi: Thưa thày Giê-su, thày có thể cho con sáng ngộ gì về bộ phim mới của Mel Gibson được phát hành năm 2004 “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”? Liệu thày có xem phim này là một cản trở cho thông điệp của thày vì thày sẽ trở thành thần tượng cho hàng triệu người? Hay liệu phim này cần thiết để tăng cường cho thông điệp của thày? Đây có phải là một mô tả chính xác về sự Đóng đinh của thày hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu ta được yêu cầu làm cố vấn cho một bộ phim về đời ta, điều đầu tiên ta sẽ làm là đổi tiêu đề từ “Khổ nạn” thành “Phục sinh”. Chắc chắn ta không hài lòng là đạo Cơ đốc chính thống đã đặt chú ý và trọng tâm quá đáng như vậy vào sự kiện ta bị đóng đinh, và do đó đã bỏ qua sự kiện quan trọng hơn rất nhiều là ta đã phục sinh.

Phải, ta đã bị đóng đinh và hành quyết. Tuy nhiên, hàng ngàn người khác cũng đã bị hành quyết tương tự như vậy mà hầu như chẳng có ai chú ý. Lý do là vì, tất nhiên, việc một người bị đóng đinh chẳng quan trọng gì trong lịch sử thế giới. Vậy tại sao lại xem trọng sự kiện ta bị đóng đinh? Nó thật chẳng quan trọng gì hơn việc đóng đinh một người nào khác bị hành quyết theo lối ác độc này. “Hễ các người đã làm chuyện này cho một kẻ hèn mọn này là anh em của ta, thì các người cũng đã làm cho chính ta” (Matthew 25:40). Cho nên khi con bỏ qua sự hành quyết ác độc đối với từng nấy người, thì con cũng bỏ qua nỗi khổ của họ, là chính nỗi khổ của ta.

Điều ta cố giúp mọi người nhìn ra ở đây là việc ta bị đóng đinh không quan trọng hơn, hay kém quan trọng hơn, hàng ngàn người khác bị đóng đinh. Trải nghiệm của ta chỉ khác hơn ở chỗ là ta đã được phục sinh sau khi bị đóng đinh và ta đã hiện ra trước mặt các tông đồ trong một cơ thể phục sinh. Điều này quan trọng vì khi được hiểu chính xác, nó chứng minh là mọi người đều có thể bước trên một con đường sẽ dẫn họ đến tâm thức Ki-tô. Và khi họ đạt đến tâm thức Ki-tô đó, họ có thể chiến thắng mọi thế lực của vũ trụ vật chất, kể cả chính cái chết.

Thông điệp chủ yếu của đời ta không phải là lời tuyên bố được nhắc đi nhắc lại là ta đã chết trên thập tự giá để trả thay cho tội lỗi loài người, mà thông điệp chủ yếu là mặc dù người ta đã giết chết thân thể vật lý của ta, họ đã không thể giết được ta vì ta là nhiều hơn cơ thể và ta có thể sống còn sau khi cơ thể qua đời. Đây quả thực là thông điệp đáng lý phải được “hô lớn từ mọi mái nhà” cũng như trên màn hình chiếu phim.

Mọi con người đều có tiềm năng bước theo chân ta và làm những công việc ta đã làm. Và chìa khóa để bước theo chân ta là áp dụng cùng một cách tiếp cận đối với tôn giáo mà ta đã chứng tỏ trong suốt đời mình, là đi muốt tiến trình biến hóa tâm thức mà ta đã trải nghiệm. Đó mới đúng là thông điệp chủ yếu của đạo Cơ đốc, và như ta đã từng nói, ta mong muốn mọi hình ảnh của Ki-tô bị đóng đinh được gỡ bỏ khỏi các nhà thờ Cơ đốc và được thay thế bằng hình ảnh của Ki-tô phục sinh.

Cho nên đúng vậy, bộ phim này có tiềm năng là một cản trở cho thông điệp mà ta muốn gửi ra trong thời đại này. Nếu phim này trở nên thịnh hành trong quần chúng, quả là nó có thể tăng cường cho sự trọng tâm quá mức dành cho việc ta bị đóng đinh và đau đớn trên thập tự giá, một trọng tâm đã được củng cố suốt 2000 năm qua. Ta đã có bình luận về chủ đề “Chúa hiến thân cho loài người” ở một nơi khác cho nên như vậy cũng đủ rồi.

Khi con xem một bộ phim, con rất nên chú ý đến mức độ năng lượng của mình trước và sau khi xem phim. Nếu con nhận thấy mức năng lượng giảm xuống, con có thể chắc chắn là phim đã hút cạn năng lượng tích cực của con. Đại đa số các nhà làm phim không nhận thức rõ về sản phẩm của mình, nhưng những loại phim như vậy luôn luôn bị tà lực ảnh hưởng vì tà lực dùng bộ phim để đánh cắp năng lượng tích cực của người xem. Điều này đặc biệt đúng với các loại phim gây sốc cho khán giả qua các hình ảnh khủng khiếp, tình dục hay bạo lực.

Ta nghĩ người xem phim “Cuộc Khổ nạn” nếu họ chú ý đến mức năng lượng của mình, sẽ nhận thấy họ bị rút cạn hết năng lượng sau khi xem phim. Lý do thật đơn giản. Phim này chú tâm quá đáng vào nỗi đau đớn của ta trước và trong khi bị đóng đinh. Nói thật, ta thà không có tín hữu Cơ đốc nào nhìn thấy những hình ảnh của một người bị đóng đinh với thân thể đầy máu được trình bày là Giê-su Ki-tô.

Đó thật không phải là một cách mô tả chính xác về cách hành quyết này. Hiển nhiên là có chút máu nhưng không nhiều lắm. Những hình ảnh như vậy chỉ nhằm tạo chấn động cho người xem khiến họ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, rồi năng lượng này bị bọn quỷ dữ, tà thể cùng các linh hồn không xác hút lấy, vì chúng sống còn nhờ năng lượng tha hóa. Thẳng thắn mà nói, các rạp chiếu phim thường là vùng sinh sôi cho những loại sinh thể thấp kém đó, đặc biệt những rạp chiếu các bộ phim kinh hoàng, phim khiêu dâm và phim bạo lực giết chóc. Ta lượng định phim này là một loại phim nửa chừng giữa phim bạo lực và phim kinh hoàng.

Cho nên, không, bộ phim này không phải là một mô tả xác thực về sự đóng đinh. Đương nhiên, việc ta bị xét xử công khai và bị đóng đinh không là một trải nghiệm thú vị gì. Chính vì vậy mà vào buổi tối trước đó, ta đã băn khoăn đến độ xin Thượng đế lấy chén khỏi tay ta. Dẫu sao thì khi ta quy phục Thượng đế qua những lời: “Dẫu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con,” (Luke 22:42) thì ta đạt được một trạng thái an bình nội tâm sẽ theo ta trong suốt trải nghiệm.

Con sẽ nhận thấy là những ai trải qua hoàn cảnh khắc nghiệt tột cùng thường có một cảm giác bình an nội tâm với rất ít đau đớn, khó chịu. Các nhà khoa học giải thích sự kiện này là do các hóa chất trong bộ não tạo ra. Đúng là hóa chất có một vai trò nào đó, nhưng điều quan trọng hơn nhiều là trạng thái an bình nội tâm của dòng sống. Chính sự an bình nội tâm giúp cho hóa chất được phóng thích, chứ không phải hoá chất chế tạo được sự an bình nội tâm. Cho nên ta ở trong một trạng thái an bình như vậy trong toàn bộ cuộc trải nghiệm, và vì vậy ta đã không đến nỗi bị đau đớn như nhiều tín hữu Cơ đốc tưởng tượng. Chắc chắn ta đã không đau đớn như được mô tả trong phim.

Trong thời gọi là Thời kỳ Tăm tối [khoảng từ năm 500 đến 1000 SCN], việc người ta đồng cảm với nỗi khổ của Ki-tô là một chuyện tự nhiên, vì đời sống của họ thật cùng khốn, đau khổ. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, các chân sư thăng thiên luôn luôn cố gắng tiếp cận con người qua một thông điệp tâm linh có khả năng giúp họ vươn lên cao hơn, và để chạm được họ, các thày phải đến gần họ với một thông điệp phù hợp với trạng thái tâm thức của họ lúc đó. Nếu họ đang trải qua nhiều đau khổ và nếu họ thấy được một vị sáng lập tôn giáo cũng phải nếm đau khổ, thì điều này quả thực có thể giúp họ mở tim ra nhận lấy thông điệp tâm linh.

Đó là một cách phải chăng để con người mở tim ra với Ki-tô trong những thời kỳ họ phải chịu rất nhiều khổ đau. Tất nhiên trong thế giới ngày nay vẫn còn những người bị khổ suốt đời, và họ có thể được giúp qua việc nếm trải khổ nạn của ta trên thập tự giá. Nhưng dẫu sao, thông điệp chính yếu vẫn nên là: qua việc nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, con sẽ vượt qua đau khổ, sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con và đem lại vương quốc Thượng đế trên trái đất. Không bao giờ thông điệp của các chân sư là con người phải tiếp tục đau khổ cả đời mình rồi sau đó mới được hưởng vương quốc Thượng đế sau khi chết. Mục đích của các thày là chấm dứt đau khổ ngay trên trái đất và đem Nước Trời vào thế gian này.

Ta hoàn toàn thông cảm là trong thế giới hôm nay có nhiều người đã trải qua rất nhiều đau khổ, kể cả chính Mel Gibson. Rồi điều này khiến họ nhận diện chính họ trong ta, vì ta cũng đã đau khổ. Tuy nhiên, điều xảy ra cho nhiều người là đau khổ tạo ra những vết thương cảm xúc trong cỗ xe linh hồn. Cho nên nếu họ tập trung vào khổ nạn của ta trên thập tự giá mà không hiểu thông điệp rằng họ có khả năng vươn lên khỏi đau khổ, thì việc tham gia đạo Cơ đốc sẽ không giúp họ tăng triển tâm linh.

Trái lại, việc tham gia vào đạo Cơ đốc có thể làm thui chột sự tăng triển tâm linh của họ, khiến họ cảm thấy mình phải chịu khổ đau vì chính ta đã khổ đau. Thật là một cách suy luận méo mó xuyên tạc đến độ nó thách thức khả năng hiểu của ta. Vậy mà vẫn có những dòng sống bị thương tích quá nặng đến mức họ không chịu buông những vết thương đó ra. Họ bám lấy vết thương vì vết thương đã trở thành một phần trong ý niệm bản sắc của họ, và họ không thể tưởng tượng là họ có thể được chữa lành khỏi vết thương. Cho nên một cách nào đó, họ biến khổ nạn của ta trên thập tự giá cùng cái chết của ta do khổ nạn đó thành một lời biện minh là họ không được chữa lành vết thương và bước lên một tầng cao hơn. Thậm chí họ còn cố dùng tấm gương của ta để xúi giục người khác thương xót họ, thương xót nỗi đau của họ.

Như ta vừa nói, thông điệp ở trung tâm cuộc đời của ta là: Con không phải khổ đau. Khi con bước theo chân ta và để cho cái tâm ở trong Giê-su Ki-tô bước vào trong con, con có thể khắc phục đau khổ con người và đạt được an bình nội tâm. Thậm chí con có thể thay đổi cả những hoàn cảnh vỏ ngoài đã tạo vết thương trong con. Con nghĩ tại sao ta đã chữa lành người bệnh tật và vực người chết sống lại nếu không phải là để minh chứng tâm thức Ki-tô có quyền năng trên mọi điều kiện vật lý? Con nghĩ tại sao ta đã chứng tỏ là một người với tâm thức Ki-tô có thể chinh phục chính cái chết nếu không để minh chứng là mọi người đều có tiềm năng chinh phục cái chết?

Cho những ai đang đọc dòng chữ này, hãy để ta đưa ra một lời khuyên nhủ. Xin con đừng cảm thấy mình có nghĩa vụ đi xem phim này chỉ vì dường như đây là một bộ phim về Giê-su Ki-tô và con cảm thấy mình phải biết rõ ta đã phải khổ đến chừng nào vì con. Con tuyệt đối không có bổn phận đi xem một bộ phim trưng bày nỗi khổ mà ta không hề trải nghiệm, một bộ phim mô tả việc ta bị đóng đinh thật thiếu chính xác. Và như vậy ta cho phép con được tự do không có bất kỳ cảm giác nghĩa vụ nào mà con có thể có.

Ta làm vậy vì ta biết rõ nhiều tín hữu Cơ đốc sẽ cảm thấy mình có bổn phận phải xem phim này chỉ vì bộ phim nói về ta. Nhưng như ta đang cố giải thích, phim này thực sự không phải về ta. Phim này là về một hình ảnh sai lạc đã được đạo Cơ đốc truyền thống củng cố từ 2000 năm qua. Và những hình ảnh được trình chiếu suốt bộ phim không phát xuất từ một viễn quan chân chính mà từ sự hư cấu của những người mang một quan niệm mất cân bằng về đau khổ.

Ta cũng biết là nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc, kể cả Tòa thánh Vatican, sẽ tuyên bố là phim này trình bày sự kiện đóng đinh đúng y như thực. Một số sẽ nói như vậy vì họ tin thật như thế. Một số sẽ nói như vậy vì họ nhìn thấy một cơ hội chính trị để quay sự chú ý của mọi người về cái họ tin là quan điểm đúng đắn duy nhất về Ki-tô, tức chính quan điểm của họ.

Ta buồn là Vatican đã bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với bộ phim, nhưng ta không ngạc nhiên. Rõ ràng, như đã được giải thích nơi khác, là Giáo hội Công giáo đã che khuất thông điệp đích thực của ta cho nên ta không ngạc nhiên khi chính đức Giáo hoàng cầm giữ một hình ảnh không thật về việc ta bị đóng đinh. Dù sao thì ta cũng không thấy được lý do tại sao người Công giáo phải có bổn phận đi xem phim này.

Ta không đang nói là con không nên xem phim, mà ta nói là con nên thoát ra khỏi mọi bó buộc phải xem phim. Con cần lắng nghe các sáng ngộ từ cái ta Ki-tô của con. Nếu con cảm thấy một sự thôi thúc nội tâm muốn xem phim, bằng mọi cách con hãy làm theo.

Tuy nhiên, ta rất khuyên con nên sử dụng các bài tập về sự bảo vệ tâm linh trước khi xem phim. Ta cũng rất khuyên con nên hình dung một quả cầu ánh sáng trắng tinh bao bọc con trong suốt thời gian xem phim, và con rất cẩn thận để không rơi vào những loại cảm xúc tiêu cực do xem phim.

Con hãy quan sát thật kỹ bộ phim làm thế nào để gia tăng tác động gây hết cơn sốc này đến cơn sốc khác cho đến khi người xem không còn khả năng giữ được tâm an bình nữa. Họ bị rơi vào một trạng thái chấn động lẫn chấn thương khiến họ mở toang ra với các thế lực muốn đánh cắp năng lượng của họ.

Con hãy dùng sự nhận biết của mình để tránh trở thành một nạn nhân cho sự thao túng tinh vi của phim này. Hãy tránh bị làm mồi cho mong muốn thương xót ta – vì nói cho cùng, dường như ta đang làm tất cả những chuyện này vì con – đến độ con bị đánh lừa và cảm thấy con phải mở tâm ra cho các hình ảnh hung bạo trong phim. Đây rõ ràng là một mưu toan lợi dụng tình yêu chân thực mà một số người có đối với ta, cùng ý thức bổn phận sai lạc mà nhiều người hơn nữa có đối với ta. Nó đánh lừa con để con mở tâm tiềm thức ra đón nhận thông điệp ẩn giấu bên dưới của bộ phim, và ta khuyên con chú ý đến thông điệp này. Con sẽ ngạc nhiên trước những tiết lộ mà cái ta Ki-tô của con có thể cho con nếu con lắng nghe nó với tâm cởi mở.

Ta không bảo là Mel Gibson đã làm việc này một cách ý thức. Ông chỉ đơn giản chạm vào mạch, và bị mắc bẫy, cái động lượng từ ngàn năm nhằm đưa ra một hình ảnh sai lạc về Ki-tô hầu ngăn cản mọi người bước theo gương của ta. Kết quả là bộ phim mang một thông điệp rất phá hoại. Đó là một thông điệp giả dối, và ta khuyên con nên coi chừng nó và tránh bị nó đánh bẫy.

Cho nên nếu con muốn coi phim này, con hãy xem đó như một trải nghiệm giáo dục. Con lắng nghe cái ta Ki-tô của con để học được bài học cụ thể mà cái ta Ki-tô muốn con học từ việc xem phim. Bài học này sẽ hơi khác đối với mỗi người.

Ý định sát nhân đối với Công nương Diana và sự cưỡng chống thay đổi tại Anh

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con xin thày nhận xét về cái chết của Công nương Diana đã tác động mạnh mẽ lên nhiều người, và câu hỏi chưa được giải tỏa là liệu Công nương đã bị giết hại hay đã thiệt mạng do tai nạn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ở thời điểm này ta không mong muốn bình luận liệu Công nương Diana có bị ám hại hay gặp tai nạn. Điều ta sẽ nhận xét là mọi chuyện xảy ra trong cõi vật lý đều là sự diễn bày của một điều kiện trong tâm thức. Cho nên điều con sẽ thấy là Công nương Diana đã trở thành biểu tượng cho một yếu tố mà các chân sư khác đã có đề cập, đó là khả năng đổi mới chế độ quân chủ. Và như vậy, ta có thể cam đoan với con là tại Anh có một thiểu số tự tôn quyền lực – không chỉ là chế độ quân chủ mà là cả những người tự xem mình thuộc tầng lớp quý tộc cũ. Họ sẽ vui mừng muốn thấy Diana biến mất vì bất cứ lý do nào.

Điều mà nhiều người đã bắt mạch, đã trực nhận được là khi họ cảm thấy quả thực có một ý định sát nhân đối với Diana. Có một thực tế ở đây: Nếu ý định sát nhân này không có mặt thì có thể Diana đã vẫn còn sống. Nhưng con thấy đó, một ý định sát nhân trong tâm thức có khả năng thị hiện trong cõi vật lý qua nhiều cách khác nhau. Và không nhất thiết phải có một âm mưu cố tình giết hại một ai đó, vì ý định này có thể dễ dàng kết tụ thành một tai nạn.

Cho nên ấn tượng mà ta muốn trao cho con là như sau: Có thật sự quan trọng lắm hay không nếu đó là một cuộc ám hại hay một tai nạn? Câu hỏi lớn hơn cần được đặt ra là ý định ám sát đó phát xuất từ đâu. Xong con cần tra vấn xem gốc rễ của ý định đó có thể nào được phép lẩn trốn lâu thêm nữa hay không, hay nó phải được phơi bày ra để mọi người thấy rõ nó là gì – một thế lực phản ứng đang tìm cách giam giữ người dân Anh trong cái bẫy của truyền thống quá khứ, thay vì cho phép tất cả các thể chế cùng cơ chế của xã hội Anh được đổi mới.

Các con là những người tâm linh, các con đừng trở nên dính mắc hay bị mù quáng bởi dáng vẻ vật lý. Hãy nhìn vượt lên trên và nhận ra là con KHÔNG đang chiến đấu chống lại một số người nào đó trong thiểu số thượng lưu quyền lực, mà con đang cố gắng giúp mọi người khắc phục một trạng thái tâm thức nhất định. Đây chính là muc đích của con – một sự chuyển hóa trong tâm thức.

Và khi con tìm kiếm trước tiên vương quốc của Thượng đế – TỨC LÀ sự chuyển hóa trong tâm thức – thì mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con, kể cả những thay đổi trong cõi vật lý. Cho nên trong tư cách là người tâm linh, con đừng tự buộc mình vào tất cả những vấn đề đang chiếm trọn tâm trí của những ai chưa thức tỉnh tâm linh. Con hãy lánh xa khỏi chúng và tập trung vào việc chuyển đổi tâm thức.

“Khóa học về Phép lạ” có đến từ các chân sư?

Hỏi: Cách đây vài năm, con bắt đầu quan tâm đến việc đọc và tìm hiểu quyển Khóa học về Phép lạ (A Course in Miracles), rồi đột nhiên con mất hứng thú và quyết định không theo đuổi lời dạy này nữa. Về sau có một đệ tử của chân sư thăng thiên nói cho con biết là lời dạy đó chỉ chính xác (hay xác thực) được 90%. Vậy trên thực tế, liệu khóa học đó có chứa đựng những lời dạy chân truyền của các chân sư thăng thiên không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Khóa học về Phép lạ (KHPL) quả thực có chứa đựng những ý tưởng chân chính, tương tự như rất nhiều lời dạy tâm linh hay tôn giáo khác. Nhiều người, đặc biệt trong phong trào Thời Mới, đã dùng khóa học này để phát triển một tầm hiểu biết sâu sắc hơn về con đường tâm linh cũng như về các giáo lý tâm truyền đích thực của ta. “Nhờ trái mà con biết được cây”, và KHPL đã có giúp được nhiều người.

Con nói đúng, khóa học không chính xác 100 %, nhưng ta có thể nói với con là không một giáo lý tâm linh nào được tìm thấy trong thế giới vật chất chính xác 100 %.

Môt lời dạy tâm linh luôn luôn được ban ra qua trung gian tâm thức của một người đang đầu thai. Cho nên không thể tránh khỏi lời dạy sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức của người giữ vai sứ giả. Trong một số trường hợp như đã giải thích ở nơi khác, ý định cá nhân của sứ giả có thể tô màu lời dạy tâm linh hay thậm chí bẻ cong thông điệp. Tuy nhiên, ngay cả khi sứ giả không mang hậu ý thì nội dung của tâm thức người đó cũng sẽ ảnh hưởng đến lời dạy.

Chẳng hạn khi ta phát biểu qua trung gian ông Kim Michaels, ta phải dùng những từ cùng khái niệm có sẵn trong vốn từ vựng và tâm thức của ông. Ta sẽ rất khó lòng ban ra xuyên qua ông một bài giảng đầy ý nghĩa về một đề tài mà ông không hiểu biết gì. Nói cách khác, sứ giả càng hiểu rõ một đề tài thì lời dạy tâm linh được truyền đạt qua sứ giả sẽ càng sâu sắc và phong phú. Và sứ giả càng không có ý định cá nhân thì lời dạy sẽ càng thuần khiết.

Vị sứ giả đã truyền đạt Khóa học về Phép lạ không phải là một người quan tâm đến tâm linh. Hệ thống tin tưởng của bà dựa trên chủ nghĩa duy vật khoa học. Đây không nhất thiết là một bất lợi vì nó khiến cho khóa học hấp dẫn hơn đối với những người trong cùng tâm thái đó. Tuy nhiên vì sứ giả không có kiến thức vỏ ngoài, hay một tầm hiểu biết nội tâm sâu xa về các khái niệm tâm linh, cho nên bà bị giới hạn trong những gì có thể truyền đạt. Ta không hề nói điều này để chỉ trích vị sứ giả, bởi vì bà thực sự xứng đáng được khen ngợi do đã cống hiến khóa học này, đã sẵn sàng bỏ qua một bên lòng hoài nghi của mình để vẫn đưa ra tài liệu này. Ta chỉ đơn giản nói lên một sự thật hiển nhiên.

Mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng là đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Nếu sứ giả KHPL đã hoàn toàn đón nhận sự chuyển hóa tâm thức này, thì khóa học đã có thể sâu sắc và thuần khiết hơn. Cho nên điều quan trọng cho những ai học KHPL là nhận ra sự cần thiết phải vượt xa hơn KHPL – như nhiều người quả thực đã làm.

Điều ta muốn nói ở đây là một số ý tưởng trong KHPL không hoàn toàn chính xác hay đầy đủ. Có một số phần thiếu sót có thể gây bối rối nơi các học trò thiếu kinh nghiệm. Thêm vào đó, điều quan trọng là phải nhận ra rằng KHPL tự thân nó không hoàn chỉnh. Đây chỉ là thêm một trường hợp tiết lộ tuần tự, và các học trò KHPL có thể sẽ được lợi lạc nếu họ học hỏi từ những nguồn khác.

Lấy ví dụ một ý tưởng không mấy chính xác khi KHPL nói rằng thế giới vật chất không có thật, rằng nó không do Thượng đế tạo ra vì Thượng đế vượt khỏi thời gian lẫn không gian. Vì vậy theo KHPL, thế giới là sản phẩm của nhận thức, của tự ngã tin rằng mình tách biệt khỏi Thượng đế. Mặc dù có một sự thật trong ý kiến bảo rằng thế giới bị chi phối bởi nhận thức con người, nhưng thật không chính xác khi nói rằng thế giới hoàn toàn do nhận thức của tự ngã tạo ra.

Hành tinh địa cầu đã được bảy sinh thể tâm linh tạo dựng, mà Kinh thánh gọi là các Elohim. Các Elohim đã tạo ra một hành tinh cân bằng hoàn hảo, và khuôn đúc cơ bản của các Elohim đã không hề suy xuyển trong bản chất. Tuy nhiên sau khi loài người rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn thì con người – qua trung gian quyền năng sáng tạo của tâm – đã tạo ra một lớp phủ bất toàn che lấp phần lớn khuôn đúc nguyên thủy của các Elohim.

Nói cho cùng, lớp phủ này không thực, vì nó không khế hợp với các định luật của Thượng đế cho nên nó không thể bền vững. Nhưng trong tạm thời, nó vẫn thực theo nghĩa là nó được tạo ra từ năng lượng tha hóa. Năng lượng này sẽ không tự dưng biến mất cho dù mọi người đột nhiên đạt được tâm thức Ki-tô. Các điều kiện bất toàn hiện thời đã được dựng lên qua thời gian bởi việc tha hóa năng lượng và vì vậy cũng sẽ cần thời gian lẫn nỗ lực để thay đổi độ rung của năng lượng và trở về trạng thái thuần khiết nguyên thủy.

Nói cách khác, mặc dù điều thiết yếu cho mọi người là thoát khỏi cảm nhận tách biệt khởi lên từ tự ngã, nhưng điều này sẽ không khiến cho thế giới vật lý biến mất, và tự thân nó sẽ không đưa địa cầu trở về trạng thái thuần khiết ban đầu. Thế giới vật lý đã được Thượng đế sinh tạo như phần nối dài của Bản thể ngài. Nó được trù hoạch để trở thành phần nối dài của Vương quốc Thượng đế, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi các cá thể của ngài – chẳng hạn như con người – trở nên hoàn toàn ý thức về vai trò dự trù của mình là đồng sáng tạo cùng với Thượng đế. Nói cách khác, mục đích của sự tăng triển tâm linh không phải để khiến thế gian biến mất mà là nâng cao thế gian – bằng cách nâng cao sự rung động – để nó trở thành một cơ ngơi xứng đáng trong căn nhà của Cha.

Về phần sau trong câu hỏi của con, mục đích thực sự của một lời dạy tâm linh là giúp con thiết lập mối liên lạc với vị thày nội tâm của con, cái Ta Ki-tô của con. Một khi con bắt được liên lạc, con nên cho phép cái Ta Ki-tô hướng dẫn con đến những giáo lý tâm linh khác sẽ giúp con tiến bước. Chừng nào con bước theo sự chỉ đạo nội tâm thì con sẽ tiến bộ tối đa. Chỉ khi nào con cho phép mình dính mắc với một giáo lý vỏ ngoài thì bước tiến của con sẽ chậm lại hay thậm chí dừng lại.

Con mô tả là đầu tiên con đã quan tâm đến KHPL xong con đã mất hứng thú. Câu hỏi cốt yếu ở đây là liệu sự quan tâm sơ khởi của con đến từ nội tâm hay từ một ảnh hưởng bên ngoài, và sự mất hứng thú đó của con đến từ chỉ đạo nội tâm hay từ một ảnh hưởng bên ngoài? Như ta vừa nói, con hãy luôn luôn cố gắng bước theo sự thôi thúc từ bên trong.

Cũng hãy cho phép ta nói rằng việc gán ghép một con số chắc nình nịch để lượng định độ thuần khiết hay độ xác thực của một lời dạy tâm linh là một chuyện rất khó khăn. Nó tùy thuộc phần lớn vào tiêu chuẩn mà con sử dụng để đánh giá lời dạy. Dẫu sao thì một học trò chưa kinh nghiệm sẽ lợi lạc hơn nếu học hỏi một giáo lý có độ thuần khiết và xác thực cao. Lý do là vì người đó chưa phát triển đủ khả năng phân biện để có thể phân biệt giữa một tư tưởng chân chính với một quan điểm đã bị bóp méo hay sai lạc. Cho nên giáo lý càng thuần khiết bao nhiêu thì nó sẽ càng hữu ích bấy nhiêu cho học trò.

Đến khi học trò đã chín chắn hơn và bắt đầu phát triển được khả năng hòa điệu nội tâm, vấn đề giáo lý thuần khiết cũng bớt quan trọng. Giờ đây học trò đã phát triển phần nào sự phân biện nội tâm, cho nên có khả năng học hỏi một lời dạy mà vẫn tách ra được những lời chân lý, rút tỉa ra các ý tưởng chân chính hữu dụng trong khi bỏ lại mọi ý kiến không xác thực.

Duy trì hay phá vỡ vòng xoắn bạo động trong xã hội

Hỏi: Với ý muốn mở toang biên giới phía Nam của người tổng thống mới của nước Mỹ (và Quốc hội) để khuyến khích ân xá, nhiều người Mỹ đã bị đả thương, tra tấn tàn bạo, hãm hiếp hay giết chết. Và ngay cả bị bắt cóc.

Sự kiện mới nhất là tin tức hàng đầu trên truyền thông là vụ việc “hai côn đồ” xâm nhập một căn hộ ở Oklahoma để hãm hiếp và cướp một phụ nữ. Bà la lên. Và bà bị bảo là nếu la thêm một lần nữa thì sẽ chết. Nạn nhân có súng trong ví tiền mình, bà lấy được ví và bắn hai kẻ xâm nhập nhà mình. Một người bị chết và người kia bị thương.

Bà sau đó được một nhà báo phỏng vấn, và giải thích gia đình bà là một gia đình tin vào sự tự cường và can đảm. Bà nói “tôi chọn giấu trong mình một khẩu súng, vì cho dù tôi biết ơn vô vàn sự bảo vệ của cơ quan cảnh sát, tôi nhận ra là họ không phải là Thượng đế, do đó họ không thể nào có mặt ở mọi nơi cùng một lúc.”

“Hoàn cảnh đưa tới tử vong có thể xảy ra trong nháy mắt”, bà nói. “Nếu bạn không chủ động chuẩn bị trước… bạn có thể là một mục tiêu yếu ớt quá dễ tấn công.”

Là một thành viên tài trợ cho Hội Súng trường Quốc gia (National Rifle Association NRA), bà nói bà mang súng trong người hơn bán thập niên qua, nhưng bà chưa bao giờ mường tượng rằng bà phải dùng nó để bảo vệ mạng sống mình. Nhưng bà mừng là bao nhiên năm luyện tập đã giúp bà đúng lúc tự cứu được mình không bị thương tích hay bị chuyện khác có thể tồi tệ hơn nữa.

Với chính quyền mới ở D.C. Giê-su có ý kiến gì – quy luật gì – cho những người công dân có trong tay vũ khí để tự bảo vệ trong chính nhà mình? Câu hỏi đặc biệt liên quan đến những người có ý thức tâm linh và có “vũ khí” nhưng cũng có ý thức về lời dạy “chìa má bên kia”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 18 tháng 11 năm 2012.

Con đường tu có nhiều giai đoạn. Ở các giai đoạn thấp, có thể chấp nhận được – và cũng không thể tránh được – là người học viên lấy một số hình tư tưởng đè lên con đường tu, thậm chí đè lên giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con phải bắt đầu ở một chỗ nào đó, và con bắt đầu bằng cách con nhìn con đường tu qua phin lọc của trạng thái tâm thức hiện thời của con. Tuy nhiên, làm như thế chỉ dẫn con tới một mức nào đó, và sẽ tới một điểm trên con đường tu của tất cả mọi người khi con phải tự hỏi mình một câu hỏi quan trọng: “Tôi có muốn thăng thiên trong kiếp này chăng, hay tôi muốn ở lại chỗ thoải mái này trong vô số kiếp tương lai nữa?”

Nếu con quyết định muốn thăng thiên, thì con phải nhận ra rằng con không thăng thiên được nếu con còn bám giữ các hình tư tưởng của con. Điều giản dị là con không thể mang cái hộp tư duy của con vào trạng thái tâm thức thăng thiên, vì thăng thiên chính là tiến trình thăng vượt tất cả những hình tư tưởng khiến con thấy dường như con tách biệt khỏi vương quốc Thượng đế. Do đó, nếu con thật sự muốn thăng thiên, con phải vượt lên trên những hình tư tưởng yêu quý nhất của con và nối kết mình với THỰC TẠI của các chân sư thăng thiên.

Đối với hầu hết mọi người, điều này đòi hỏi họ phải đi qua một tiến trình chất vấn một cách hệ thống các hình tư tưởng của mình và so sánh chúng với THỰC TẠI mà chúng tôi giảng dạy. Một phần không tránh khỏi của tiến trình này là con phải đi tìm những mâu thuẫn trong chính các tin tưởng của con hay mâu thuẫn giữa các tin tưởng của con và giáo lý của chúng tôi. Khám phá ra – và nhìn nhận – những mâu thuẫn đó có thể khó khăn và nó cũng có thể làm con đau lòng. Nhưng sự khó khăn và đau lòng tương ứng với mức độ dính mắc với các hình tư tưởng hiện hành của con.

Điều ta muốn nói ở đây là sẽ có một khúc quanh nơi con phải chuyển từ con đường tu vỏ ngoài để bước vào con đường tu nội tâm. Con đường tu vỏ ngoài là khi con học hỏi giáo lý của chúng tôi và con hiểu nó bằng trí năng. Có nhiều học viên trên con đường tu vỏ ngoài đã học hỏi giáo lý của chúng tôi nhiều thập niên – và họ có một kiến thức xuất sắc về nó – nhưng họ không có khả năng áp dụng giáo lý trong chính cuộc sống họ. Do đó, những học viên này tin chắc họ là một trong những học viên xuất sắc nhất của chúng tôi, trong khi chúng tôi thấy rõ sự thực là họ vẫn còn kẹt cứng trong con đường tu vỏ ngoài.

Tại sao một số người bị kẹt trong con đường tu vỏ ngoài? Vì họ không chịu công nhận là có sự khác biệt giữa những hình tư tưởng khiến họ cảm thấy thoải mái và thực tại của giáo lý của chúng tôi. Và do đó, họ không chịu nhận ra sự thực sâu xa là nếu họ muốn bước vào con đường tu nội tâm, họ phải bỏ lại đằng sau ước muốn các chân sư thăng thiên xác nhận các hình tư tưởng của họ. Các con phải bỏ lại đằng sau ước muốn Thượng đế và các chân sư thăng thiên tuân theo cái hộp tư duy của các con.

Như ta đã chứng minh 2000 năm trước đây – cũng như các anh chị em của ta cũng đã chứng minh như thế trong kiếp sống của họ – chúng tôi sẽ KHÔNG BAO GIỜ tuân theo hộp tư duy của con người. Bởi vì làm sao chúng tôi có thể giải thoát các con khỏi hộp tư duy của các con khi chúng tôi tuân theo nó? Cách DUY NHẤT để chúng tôi giải thoát các con là cho các con một khung tham chiếu cho con thấy rằng – nếu con có mắt để thấy – thực tại nằm bên ngoài cái hộp tư duy của con và nó không tuân theo hộp tư duy này.

Nếu một học viên chịu đau lòng và nhìn nhận những mâu thuẫn trong các hình tư tưởng của mình thì học viên đó sẽ rốt cuộc nhận ra điểm chuyển đổi từ con đường tu vỏ ngoài sang con đường tu nội tâm. Đó là sự nhận biết khuynh hướng lấy hình tư tưởng của mình đè lên Tánh Linh chính là tâm thức sa ngã. Và không ai có thể thăng thiên được, mà cũng không được nhận là học trò chân chính của các chân sư thăng thiên khi người đó còn dính vào – và thêm nữa, dụ chúng tôi xác nhận – tâm thức sa ngã.

Con hãy lưu ý điểm vi tế ở đây. Con đầu thai trên trái đất để con thử nghiệm khả năng đồng sáng tạo của con. Con đồng sáng tạo bằng cách nào? Con đồng sáng tạo bằng cách hình thành một hình tư tưởng và con dùng khả năng của tâm để phóng chiếu hình đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật được kiến tạo như một môi trường an toàn – một bãi chơi cát tâm linh – nơi con có thể thử nghiệm mà không gây tổn thương nặng nề cho chính mình, cho người khác hay cho bãi cát. Do đó, con được quyền lấy hình tư tưởng đè lên Ánh sáng Mẫu-Vật, ngay cả những hình tư tưởng hình thành dựa trên tâm thức nhị nguyên. Ánh sáng Mẫu-Vật đã nguyện sẽ khoác lên bất cứ hình tướng nào mà con phóng chiếu lên nó để con được phản hồi điều con đã sáng tạo.

Nói cách khác, con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con sẽ chịu những quả mà con đã gieo, nhưng con không vi phạm Quy luật Tự Quyết hay Quy luật Nhất nguyên. Điều PHẠM luật là khi con bắt đầu phóng hình tư tưởng của mình lên những sinh vật có tự nhận biết và quyền tự quyết khác. Tìm cách ép buộc người khác tuân theo hình tư tưởng của mình chính thực là tâm thức sa ngã, và ta đã đề cập tới tâm thức này khi ta nói với Peter: “Satan, hãy đứng lui ra đằng sau ta, ngươi xúc phạm đến ta. Vì ngươi không thưởng thức những điều của Thượng đế mà chỉ thưởng thức những điều của con người.”

Khi con lấy hình tư tưởng của mình đè lên giáo lý của các chân sư thăng thiên, của Thượng đế, thì con vi phạm Quy luật Nhất nguyên, được thể hiện qua lời răn cơ bản nhất của Thượng đế, là con không được có thần nào khác trước Thượng đế thực. Và khi con chấp nhận một hình tư tưởng – hình này đương nhiên do tâm thức sa ngã tạo ra – thì hình tư tưởng đó trở thành vị thần hay thượng đế của con. Con KHÔNG BAO GIỜ có thể nâng tâm thức của mình lên cao hơn hình tư tưởng mà con có về Thượng đế. Con sẽ là thần dân của “thượng đế” của con, dù đó là một hình tư tưởng hay Thượng đế thực.

Tinh túy của tâm thức sa ngã là nó là một sự hủ hóa của khía cạnh Alpha và Omega của Thượng đế. Nó hủ hóa khía cạnh Alpha qua tính ngạo mạn tâm linh khiến con người nghĩ rằng Thượng đế sẽ tuân theo hình tư tưởng của họ. Và nó hủ hóa khía cạnh Omega bằng cách áp đặt hình tư tưởng của họ lên người khác, thậm chí còn nghĩ rằng nếu họ có thể khiến cho tất cả mọi người xác nhận các niềm tin của họ, thì ngay cả Thượng đế cũng phải chấp nhận họ.

Ta tin rằng một số các con sẽ hiểu ý của ta, trong khi một số khác sẽ tiếp tục bị tâm thức sa ngã làm cho mù quáng và lấy cách giải thích trí năng của họ đè lên trên lời ta nói và khiến cho HỌ cảm thấy không cần phải nghe theo lời của ta. Và như vậy họ lại đi thêm một chu kỳ nữa trong tâm thức sa ngã thay vì thật sự thể nhập giáo lý của ta rằng chỉ có ai trở thành trẻ thơ mới có thể bước vào vương quốc. Trở thành trẻ thơ có nghĩa là khắc phục được mong muốn lấy hình tư tưởng của mình đè lên trên vị thày tâm linh, bắt thày mình công nhận những tin tưởng hiện hành của mình thay vì để cho vị thày giúp mình vượt thăng chúng. Nó có nghĩa sẵn lòng đặt câu hỏi mở, đặt câu hỏi để tìm hiểu thực tại con là ai thay vì phóng chiếu một hình tư tưởng qua câu hỏi.

Một ví dụ về tâm thức này là câu hỏi ở trên. Trước tiên, có một số luận cứ phơi bày rõ ràng các tin tưởng hiện hành của vị này, cho rằng việc mang súng trong người là cần thiết và phải lẽ. Sau đó, ở đoạn cuối có một câu hỏi ngắn, nhưng hiển nhiên là câu hỏi CHỈ để ta xác nhận kết luận đã có sẵn của người hỏi. Đâu rồi tính ngây thơ của trẻ nhỏ chỉ đơn thuần hỏi trước khi có câu kết luận sẵn? Các chân sư thăng thiên có thể dạy được một người như thế chăng? Nó tùy thuộc xem vị ấy có sẵn sàng chịu nỗi đau đớn khi nhận ra thế giới quan của mình đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi tâm thức sa ngã. Điều này giải thích sự mâu thuẫn lớn dù chỉ trong một lá thơ ngắn.

Hãy để ta chỉ ra một mâu thuẫn quá hiển nhiên mà đa số phải thấy được. Trước tiên hết, chúng ta được giải thích là có một phụ nữ bị đe dọa. Bà rút súng và bắn hai người, một người bị tử vong. Tuy thế, ở đoạn cuối chúng ta có câu hỏi: “Câu hỏi này đặc biệt liên quan tới những người có ý thức tâm linh và có “vũ khí” nhưng ý thức về lời dạy “chìa má bên kia.”

Điều này ngụ ý là trong tâm người hỏi, người ta có thể mang súng trong người và đồng thời chìa má bên kia, thậm chí là người phụ nữ bắn hai người thực sự đang chìa má bên kia khi hành động như thế.

Khi đối mặt với chuyện như thế này, ta cảm thấy muốn nói có những lúc chân sư thăng thiên giản dị muốn bỏ trái đất và cất bước tiến lên những tầng vô biên của Bản thể Thượng đế. Và điều này có thể xảy ra đặc biệt khi chúng tôi thấy có học viên không thể nhập được những lời dạy cơ bản nhất của chúng tôi. Làm sao một người vừa có thể mang súng vừa chìa má bên kia được? Làm sao KHÔNG thấy được mâu thuẫn này? Lẽ dĩ nhiên, ta không sắp sửa bỏ trái đất lại đằng sau, nhưng ta muốn nói rằng ngay cả chân sư thăng thiên cũng có tình cảm, dù tình cảm này không giống tình cảm mà chúng tôi có khi còn hiện thân.

Bây giờ ta hoàn toàn nhìn nhận rằng con người có quyền tự quyết. Con có quyền mang súng (nếu quốc gia của con cho phép điều đó). Nhưng nếu con làm thế, thì sau kiếp này con đừng tìm ta hỏi tại sao con không thăng thiên? Con thấy chăng, nếu muốn thăng thiên, con phải hoàn toàn thể nhập và sống lời răn dạy của ta là con không chống lại tà ác nhưng con chìa má bên kia. Ta muốn dạy gì qua lời răn này? Ta muốn dạy là một trong những điều chính ngăn cản con người thăng thiên là khi họ bị mắc kẹt vào những vòng xoắn nghiệp quả cứ được lặp đi lặp lại hoài. Trong trường hợp này, người phụ nữ mang súng đã bị mắc kẹt vào nhiều vòng xoắn như thế trong những kiếp trước, ngay cả với hai người tấn công bà – và không phải kiếp nào bà cũng là nạn nhân. Bà đạt được gì khi rút súng bắn hai người mà bà đã tấn công trong một kiếp trước? Bà chỉ tiếp tục vòng xoắn nghiệp quả và sẽ phải đầu thai gặp lại hai người này nữa.

Vòng xoắn này phải kéo dài bao lâu nữa, làm sao con có thể phá vỡ vòng xoắn nghiệp quả? Vòng xoắn sẽ tiếp tục hoài cho tới khi một bên lấy quyết định ĐÁP ỨNG LẠI BẠO ĐỘNG BẰNG BẤT BẠO ĐỘNG.

Con hiểu ý thày chưa? Nếu con thực sự muốn thăng thiên, thì con PHẢI phá vỡ các vòng xoắn nghiệp quả của con, và cách DUY NHẤT để phá vỡ là con không chống lại tà ác mà chìa má bên kia. Lời răn dạy của ta không nói cho những ai không quan tâm đến chuyện thăng thiên lên cõi tâm linh. Ta nói cho những ai muốn thăng thiên và sẵn lòng làm bất cứ điều gì cần làm để có thể thăng thiên.

Có phải là ta đang nói là con phải sẵn lòng để người khác giết hay đả thương mình? Đúng vậy, đó chính là điều ta muốn nói, và đó chính là điều ta đã nói 2000 năm trước. Sự kiện Ki-tô giáo nói chung không hiểu lời ta nói không có nghĩa là nó không có giá trị. Nếu con thực sự muốn thăng thiên, sự an toàn, sự thoải mái và ngay cả mạng sống vật lý của con trở nên thứ yếu. Con thực sự sẵn lòng làm bất cứ điều gì cần làm để phá vỡ vòng xoắn nghiệp quả và tiến gần hơn tới thăng thiên. Con sẵn lòng mất mạng sống mình để tìm được sự sống vĩnh hằng.

(Lưu ý là ta không nói ở đây rằng trong ví dụ cụ thể này, người phụ nữ sẽ hội đủ điều kiện thăng thiên nếu bà không dùng súng của bà. Bà sẽ phá vỡ được vòng xoắn nghiệp quả đó, nhưng bà còn phải đi một đoạn đường dài trước khi có thể thăng thiên.)

Bây giờ, khi ta nói con phải SẴN SÀNG mất mạng sống mình, ta không nhất thiết nói là con SẼ mất mạng sống mình. Bởi vì nếu con thật sự sống lời răn không chống lại tà ác, thì con sẽ làm gì? Con sẽ phóng vào tấm gương vũ trụ một xung lực bất bạo động, và tấm gương sẽ phản chiếu lại cho con điều gì? Trừ phi con có nghiệp quả rất nặng từ các kiếp trước, chuyển đổi tâm thức như vậy sẽ bảo đảm con không phải rơi vào những hoàn cảnh giống như được mô tả. Như thế, chúng ta có thể nói nhại theo câu nói xưa của Henry Ford; “Dù bạn nghĩ bạn cần cây súng hay bạn không cần cây súng – bạn đều đúng!”

Hãy lưu ý là người phụ nữ đã mang súng hơn nửa thập niên và lưu ý tới văn hóa gia đình bà. Bà đã gửi xung lực gì vào tấm gương vũ trụ? Và tấm gương đã phản chiếu lại gì: đúng y điều bà nói bà muốn. Như vậy, trong câu hỏi ở trên, con thấy được môt mâu thuẫn khác cho thấy người hỏi chưa thâm nhập giáo lý sâu rộng của chúng tôi về tấm gương vũ trụ.

Điểm rộng lớn hơn mà ta muốn nói ở đây là khi con bị dính mắc vào ý muốn quan điểm của mình được công nhận – và không sẵn sàng chịu xem xét mình một cách lương thiện – tâm con trở thành một hệ thống đóng kín và con sẽ không tránh được có mâu thuẫn trong đó.  Con sẽ không nhìn thấy các mâu thuẫn đó, thậm chí còn thấy chúng được một số ý tưởng và sự việc xác nhận – và do đó con dần dà bị giam chặt hơn vào hộp tư duy của mình cho tới khi điều duy nhất giải thoát được con là định luật thứ hai của nhiệt động học tạo ra một khủng hoảng ghê gớm đến độ con phải quyết định mở tâm ra và hỏi như một em bé nhỏ.

Con có thấy chăng là đối với những kẻ đã đi vào tư duy cuồng đại và coi thế giới như một nơi nguy hiểm, thì họ sẽ nhìn một sự vụ kể trên như một xác nhận tâm thức cần mang súng là đúng? Và điều đó sẽ củng cố thông điệp mà những người như thế gởi tới tấm gương vũ trụ. Nó sẽ khiến cho tâm họ đóng kín thêm, như con thấy trong ví dụ người phụ nữ bắn hai người kia. Thày có thể bảo đảm với con rằng không người nào có thể giết một người khác mà không cảm thấy phải tra vấn động lực và hành động của mình. Trong trường hợp này, động lực quán xét mình có thể bị dẹp qua bên vì văn hóa gia đình của người phụ nữ và vì triết lý của Hội Súng trường Quốc gia NRA.

Người phụ nữ cũng cho chúng ta một ví dụ rõ ràng là con người sẽ dán nhãn người khác là tồi tệ để biện minh cho hành động của mình. Có bằng cớ nào cho thấy là hai người đàn ông thực sự có ý định hãm hiếp người phụ nữ? Có bằng cớ nào cho thấy là họ sẽ thật sự thực thi lời đe dọa giết bà? Có vẻ là hai người đàn ông không có súng, bởi nếu họ có súng họ đã có thể bắn người phụ nữ trước khi bà bắn cả hai người. Như vậy câu chuyện mà chúng ta có ở đây là một người phụ nữ sống trong một trạng thái lo sợ thường trực. Chính nỗi sợ của bà đã kết đọng thành hoàn cảnh khiến bà cảm thấy bị đe dọa. Nhưng thay vì dùng hoàn cảnh này để đối mặt – và qua đó khắc phục – nỗi sợ của mình, bà hành động theo nỗi sợ của mình và bắn hai người đàn ông không có súng. Qua đó bà chứng minh là trong tâm tràn đầy sợ hãi của bà, việc giữ tài sản vật chất của mình quan trọng hơn giữ mạng sống của hai người đồng loại của mình.

Con có thấy chăng những người cùng một thái độ có thể bị cuốn hút chung với nhau vào một nhóm nghiệp quả tạo nên một vòng xoắn tiêu cực trong đó họ củng cố các hộp tư duy của nhau cho đến khi tất cả đều bị giam kẹt cứng và chỉ thoát ra được khi trường đời cay đắng cho họ đúng cái gì họ đòi – một cuộc đụng độ bạo động với những người bị giam trong cùng tâm thức cuồng đại như họ? Hội Súng trường Quốc gia NRA là một ví dụ rõ ràng – giống như nhiều hội khác trong xã hội Mỹ – của một nhóm được thành lập để biện minh – và do đó duy trì – vòng xoắn nghiệp quả bạo động đã kéo dài, trong trường hợp này, từ thời Atlantis. Nó dính tới vòng xoắn những người tân bảo thủ (neo-conservatives) đã duy trì cuộc chiến tranh ở Iraq đồng thời cảm thấy cuộc chiến này hoàn toàn chính đáng để lan truyền tự do và dân chủ – và ngay cả Cơ đốc giáo – trên thế giới.

Con thấy được chăng là BẤT CỨ nỗ lực lan truyền tự do và Cơ đốc giáo bằng bạo lực không thể đến từ ta hay không thể nào được ta ủng hộ?

Dù ta tin rằng ta đã trình bày được ý đại cương của ta, hãy cho phép ta nêu ra một số câu hỏi mà mọi người có thể đặt ra khi nhìn vào hoàn cảnh giống như thế này. Con hãy xem câu nhận xét sau: “Nếu ta không chủ động chuẩn bị trước… ta có thể là một mục tiêu yếu ớt quá dễ tấn công.” Đây là ví dụ điển hình của cách suy nghĩ đen trắng đã là nguyên nhân của hầu hết các vòng xoắn nghiệp quả. Trong tâm người này, thế gian là một chốn nguy hiểm có kẻ xấu ác ẩn náu rình rập ở mỗi đầu ngõ. Do đó, chỉ có hai chọn lựa: hoặc ta phải sẵn sàng giết người khác hoặc ta mời người khác giết mình.

Nhưng sự thật sâu xa của tấm gương vũ trụ là chính khi mình cảm thấy bị đe dọa là lúc mình sẽ bị đe dọa. Nói cách khác, sự đe dọa bắt đầu trong tâm và mình phải khắc phục nó trong tâm. Khi con cảm thấy có nhu cầu phải “chủ động chuẩn bị trước” là con biến mình thành mục tiêu bị tấn công, vì con đang nói cho tấm gương vũ trụ là con muốn sống trong một thế giới nơi đó tà ác ẩn náu rình rập ở mỗi đầu ngõ.

Bây giờ hãy xem câu nói này: “Tôi chọn giấu trong người một cây súng, vì dù tôi rất là biết ơn sự bảo vệ của cơ quan cảnh sát, tôi biết là họ không phải là Thượng đế, do đó không thể có mặt ở khắp mọi nơi cùng một lúc.” Tuy bà có vẻ nói là bà tin nơi Thượng đế, nhưng Thượng đế này không thể có mặt khắp mọi nơi cùng một lúc. Bởi vì nếu bà tin vào sự bảo vệ của Thượng đế, tại sao bà lại cần mang súng trong người? Lẽ dĩ nhiên, ý nghĩa sâu xa là nếu con thực sự tin vào sự bảo vệ của Thượng đế con sẽ không cảm thấy cần mang súng trong người. Và khi con thật sự tin tưởng như vậy, con sẽ khiến Thượng đế có thể bảo vệ con, trong khi hành động mang súng trong người sẽ ngăn không cho Thượng đế bảo vệ con. Lý do là khi mang súng con đang gián tiếp nói là con không muốn sự bảo vệ của Thượng đế, vì con muốn dựa vào các phương tiện vật chất để bảo vệ mình. Có nghĩa là con thật sự nói là con không tin Thượng đế có thể bảo vệ con chống lại một mối đe dọa vật chất.

Ta tin rằng ta đã nói rõ ràng là nếu con là một người có ý thức tâm linh và con đã thể nhập giáo lý chìa má bên kia, con không thấy có nhu cầu mang súng trong người hay bất cứ khí giới có thể giết người nào. Và con cũng không thấy có nhu cầu giữ súng trong nhà mình để tự vệ.

Sau khi đã nói những điều trên, các chân sư thăng thiên chúng tôi cũng có cái nhìn thực tế và thực tiễn. Do đó, chúng tôi biết có một số môi trường tập trung nhiều người có tâm lý xáo trộn nặng hay ý đồ không trong sạch. Và tuy ta khuyên những người có ý thức tâm linh nên tránh xa những môi trường như thế, ta biết rằng có những trường hợp nhiệm vụ tâm linh của con đòi hỏi con phải làm việc trong một môi trường như thế. Do đó, lời khuyên của ta là trước hết con phải khắc phục được mọi nỗi sợ hãi và thật sự sống với tâm thức chìa má bên kia. Một khi con đã trở nên thực sự bất bạo động trong tâm của con – đặc biệt là trong thể tình cảm – có thể là con sẽ có sự thôi thúc từ nội tâm phải mang trong người một vũ khí phòng thủ không gây chết người hoặc con cần học một phương pháp tự vệ không gây chết người.

Ta tin rằng một số các con thấy được điểm vi tế mà ta truyền tải. Ta đưa ra quy luật chung là không mang trong người bất cứ loại vũ khí gây chết người nào. Nhưng ta KHÔNG nói rằng một người có ý thức tâm linh không được bảo vệ mình. Ta cũng muốn nói rất rõ rằng tự vệ trong trạng thái sợ hãi sẽ tạo nghiệp. Tuy nhiên, một khi con đã vượt thăng nỗi sợ hãi, con có quyền dùng một kỹ thuật tự vệ không gây chết người, vì như thế con có thể dạy người kia một bài học mà không tạo nghiệp cho mình. Tuy nhiên, nếu con muốn tránh tạo nghiệp thì con phải thoát khỏi nỗi sợ hãi, vì như thế con có thể nhận được chỉ thị rõ ràng từ cái ta cao hơn của con thay vì nghĩ rằng một sự thôi thúc dựa trên sợ hãi đến từ cái ta cao hơn của con. Nói cách khác, chỉ khi nào con sẵn sàng lúc nào cũng chìa má bên kia, thì con mới có được sự phân biện lúc nào con không phải chìa má bên kia. Những ai không sẵn lòng buông bỏ mọi khuynh hướng phản ứng bằng bạo lực sẽ giản dị không có được khả năng phân biện này và do đó họ sẽ tạo nghiệp khi dùng bất cứ hình thức bạo lực nào.

Ta muốn nói rõ là ngoại trừ những trường hợp đặc biệt kể trên, tốt hơn hết là những người có ý thức tâm linh nên tu tập để vượt lên trên tâm thức dựa trên sợ hãi và tin rằng họ sẽ không gặp những hoàn cảnh bạo động. Và nếu con có phải gặp hoàn cảnh như thế, thì con hãy xem đây là nghiệp quả của con và đó là cơ hội để con chứng minh là con đã vượt lên trên tâm thức sợ hãi đã khiến con thấy cần dùng bạo lực để đáp trả bạo lực. Với thời đại bảo bình ló dạng, thì việc từ bỏ tư duy “ăn miếng trả miếng, mắt trả mắt, răng trả răng” của Cựu ước kinh càng quan trọng hơn nữa. Và như đã nói ở trên, điều này CHỈ làm được bằng cách thực sự chìa má bên kia.

Đề cập tới thời đại Bảo bình, ta sẽ để huynh đệ của ta, thày Saint Germain, đưa ra lời kết luận.

Câu trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels

Con đâu có thực sự tin rằng trong Thời đại Hoàng kim người ta có nhu cầu mang súng trong người phải không? Chắc chắn là Thời đại Hoàng kim sẽ đưa đến một xã hội trong đó không còn những mối đe dọa khiến con người cảm thấy cần tự vệ. Và điều này có nghĩa là chúng ta đang nói tới một xã hội đã vượt thăng tội phạm.

Hiện tại ta có thể nghĩ chuyện nhân loại vượt thăng được tội phạm là điều không thể làm được. Nhưng thực ra điều này rất khả thi. Một trong những tiến bộ lớn giúp loại bỏ tội phạm là công nghệ cho phép xã hội đọc được hồ sơ Akasha. Hồ sơ này lưu trữ những “hình ảnh” hay dữ liệu ghi lại mọi hành động đã xảy ra, và khi xã hội có thể đọc được, thì không ai có thể chạy tội được nữa, vì hành động phạm tội sẽ được phơi bày trên màn ảnh cho tất cả mọi người thấy. Và khi khả năng chạy tội không còn nữa, thì động cơ phạm tội lẽ tự nhiên sẽ sút giảm rất nhiều.

Tuy nhiên công nghệ nào cũng có thể bị lạm dụng, do đó ta sẽ không gửi xuống công nghệ này cho tới khi tâm thức được nâng cao đáng kể. Như Giê-su đã giải thích rất hùng hồn, mọi vấn đề được tạo ra trong tâm con người, và do đó mọi đáp án cũng phải bắt đầu trong tâm.

Vậy thì chúng tôi trông cậy vào ai để là những người tiên phong cho việc xoay chuyển tâm thức tập thể? Lẽ dĩ nhiên là những người có ý thức tâm linh, đặc biệt là những người sẵn lòng đi xa hơn ý thức tâm linh để đi tới tỉnh giác. Do đó, nếu xã hội muốn xoay chuyển vượt lên tội phạm, thì một số người phải bắt đầu xoay chuyển tâm thức cá nhân của họ vượt lên trên tâm thức kết đọng nên tội phạm. Và điều đó có nghĩa là một số người phải dám sống như không có mối đe dọa từ tội ác.

Một số người phải sẵn lòng trở nên hoàn toàn không bạo động, không hung hãn, không mạnh bạo trong tâm để cho người khác một khung tham chiếu khác xa tư duy duy trì bạo lực. Ta tin rằng một số trong các sẽ thấy đây là một phần sứ vụ của mình. Và ta tin rằng một số trong các con sẽ thấy là khi cần chứng minh cụ thể đáp ứng lại bạo động bằng bất bạo động, thì các con sẽ đón mừng cơ hội làm chuyện này. Và bất kể chuyện gì xảy ra trong thế giới vật chất, con sẽ nhìn quá các hooàn cảnh vật chất và chú tâm để cho ánh sáng rọi chiếu xuyên qua con, ngay cả trong những trường hợp hầu hết người khác sẽ khóa dòng ánh sáng – để cho tâm thức sa ngã thuyết phục họ là trong hoàn cảnh này hay hoàn cảnh nọ, con người không thể hay không nên là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế.

Thời đại Hoàng Kim sẽ là một thực tại hiển bày khi đủ túc số người sẵn lòng chứng minh là KHÔNG có hoàn cảnh nào mà con người không thể hay không nên là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế.

Một lời nói cuối, nếu Hoa Kỳ muốn trở nên một trong những nước tiên phong cho Thời đại Hoàng kim, thì các đạo luật hiện hành về súng ống phải được thay đổi. Không có quốc gia dân chủ nào khác cho phép người dân tự do có súng như Hoa Kỳ. Và không có quốc gia dân chủ nào khác trong đó người dân nghi ngờ chính quyền của họ như Hoa Kỳ – nghĩa là người dân nghĩ rằng họ cần có súng để bảo vệ họ khỏi chính chính quyền của họ. Có một sự liên quan ở đây là Hoa Kỳ sẽ không có được một chính phủ khá hơn nếu người dân còn cư xử như họ là đối thủ của chính quyền và thay vào đó họ quyết định xem họ là một phần của chính quyền. Người dân phải xem mình là một phần của đáp án thay vì phóng chiếu là vấn đề chỉ hiện hữu ở bên ngoài họ.

Do đó, không tránh được là sẽ có lúc các đạo luật về súng ống tại Hoa Kỳ sẽ chặt chẽ hơn, như con thấy ở hầu hết các quốc gia dân chủ khác. Ta thấy người có ý thức tâm linh không cần phải tốn tài nguyên (tiền bạc và năng lượng tâm trí) để chống lại xu hướng này. Lẽ dĩ nhiên, con có thể tìm thấy những thí dụ có người thoát chết hay không bị tổn thương nhờ mang súng, nhưng con cũng có thể tìm thấy rất nhiều trường hợp người dùng súng hành động điên rồ. Do đó, hãy trả lại cho Caesar những gì thuộc về Caesar và trả lại cho Thượng đế những gì thuộc về Thượng đế.

Điều ta muốn nói là các con tập trung tài nguyên tâm trí của mình nơi con có thể gặt hái được hiệu quả mạnh nhất – đó là vượt thăng tâm thức dựa trên sợ hãi và bước vào tâm thức thời đại hoàng kim. Trong trạng thái tâm này, Thời đại Hoàng kim là một thực tại hiển thị và con sống một cách tương xứng, nghĩa là con tin ánh sáng sẽ chu toàn mọi nhu cầu của con, thay vì nghĩ rằng có một số việc trong đó phương tiện vật chất quan trọng hơn Ánh sáng của Thượng đế. Tâm thức thời đại hoàng kim nghĩa là con sẽ không bao giờ cho phép bất cứ điều gì thuộc về thế giới vật chất có quyền lực trên Tánh linh của con.

Hành động tàn ác của con người có làm tan vỡ tim Thượng đế?

Hỏi: Vài năm trước đây, khi học sinh tại Dunblane, Scotland, bị giết hại dã man, con có nghe ai nói, “Thượng đế đã làm gì để ngăn cản chuyện này?” thì có một người khác trả lời, “Tim Thượng đế là trái tim đầu tiên bị tan vỡ.” Câu nói đó có đúng không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Câu nói rằng tim Thượng đế là trái tim đầu tiên bị tan vỡ, giản dị là không đúng. Ta biết điều này nghe có vẻ khắc nghiệt, vì vậy con cho phép ta giải thích. Trước hết, như ta có giảng khắp trang mạng này, Thượng đế đã không tạo ra những đau khổ mà con thấy trên địa cầu. Đau khổ là do con người tạo ra khi con người lạm dụng quyền tự quyết của mình và rơi vào một trạng thái tâm thức nhị nguyên. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết của ngài, cho nên ngài đã cho phép sự thể này diễn ra. Và mặc dù các hành động tàn ác hoàng toàn không phù hợp với ý muốn Thượng đế cũng như ý định của ngài cho hành tinh này, giản dị là ngài phải chờ cho đến khi nào con người quyết định ngừng tạo ra những điều kiện dẫn đến đau khổ.     

Khi con nghĩ về Thượng đế trong ý nghĩa cao nhất, đơn giản là Đấng Sáng tạo không nhìn thấy những điều kiện bất toàn trên hành tinh địa cầu. Như Kinh thánh có viết, Thượng đế không thể bị nhạo báng [Galatians 6:7] và mắt ngài không thể nhìn vào sự gian ác [Habakkuk 1:13]. Tuy nhiên, các vị đại diện của ngài, tức là chúng tôi các chân sư thăng thiên, quả là thấy được mọi điều kiện diễn ra trên trái đất.   

Xin con hãy cố hiểu, khi chúng tôi trở thành chân sư thăng thiên, chúng tôi đã bỏ lại tự ngã phàm phu và tâm nhị nguyên. Do đó, chúng tôi cũng bỏ lại phía sau những cảm xúc thấp kém, nhị nguyên và vị kỷ khởi lên từ các khía cạnh đó của tâm phàm. Ta không đang nói là các chân sư thăng thiên không có cảm xúc, nhưng cảm xúc của chân sư khác với cảm xúc của con người. Vì lẽ đó mà trái tim của chân sư không thể tan vỡ ra. Chúng tôi không cảm thấy sự mất mát không thể cứu vãn mà con người cảm thấy khiến trái tim con người như muốn bể ra tan tành. Đó là vì khi là chân sư thăng thiên thì cũng biết rõ thật sự chẳng có mất mát nào là không thể cứu vãn.

Con hẳn cũng biết đằng sau mọi hình dáng bên ngoài trải bày trên trái đất, có thực tại vô biên của Thượng đế. Sự thể trên địa cầu có vẻ trông như thật, nhưng nó không thật một cách tối hậu và nó không thường hằng. Nó chỉ là sự thị hiện tạm thời mà tâm thức tập thể của nhân loại đã phóng chiếu lên màn ảnh của cuộc sống. Nếu con thay đổi cuộn phim trong máy chiếu – tức là tâm con người – con cũng sẽ thay đổi hình dạng trên màn ảnh.

Ta hy vọng con thấy được là các chân sư thăng thiên có nhiệm vụ giúp mọi người tăng triển lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Phần quan trọng nhất của nhiệm vụ làm thày tâm linh là không bao giờ, không bao giờ được cho rằng các điều kiện bất toàn là thực và thường hằng. Cho nên khi chúng tôi nhìn vào một tai họa xảy ra trên trái đất, chúng tôi biết là nó đang xảy ra nhưng chúng tôi cũng khẳng định, về mặt tối hậu, rằng nó không thực và không thường hằng.

Do đó mối quan tâm đầu tiên và trên hết của chúng tôi là giúp cho con người bỏ lại các điều kiện bất toàn đó để xích lại gần hơn với sự toàn hảo của Thượng đế, có nghĩa là sự toàn hảo của tâm thức Ki-tô. Chúng tôi không bao giờ cho phép mình cảm thấy đồng tình với con người, vì sự đồng tình sẽ chỉ đơn giản khuếch đại các cảm xúc bất toàn. Nhưng chúng tôi cảm thấy thương yêu và từ bi, trong ý nghĩa là chúng tôi nhận rõ con người đang trải qua đau khổ. Hơn thế nữa, chúng tôi cũng nhận ra là cho dù các điều kiện có vẻ khó khăn tới đâu thì con người vẫn có tiềm năng vươn lên khỏi mọi điều kiện.

Thêm vào đó, chúng tôi liên tục trụ neo trong tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, và nhờ vậy, chúng tôi chứng nghiệm thực tại hằng sống – thực tại như đang hít thở – rằng tình yêu vô điều kiện của Thượng đế có tiềm năng tiêu hủy tất cả mọi điều kiện và cảm xúc bất toàn trên địa cầu. Chúng tôi không ngừng cống hiến tình yêu vô điều kiện này cho loài người, không ngừng nỗ lực làm cánh cửa mở, làm chiếc cầu, để tình yêu vô điều kiện có thể chảy xối qua vào trái tim và tâm trí con người.

Do đó, ta hy vọng con hiểu được là chúng tôi không nhìn các hành động tàn bạo đó giống như con người nhìn. Điều này không có nghĩa là chúng tôi không nhạy cảm, hoặc chúng tôi mong cho nó xảy ra, mà có nghĩa là chúng tôi có một sự nhạy bén cao hơn cho phép chúng tôi luôn luôn cảm được tình thương vô điều kiện. Cho nên chúng tôi không ngừng với tay ra từng người để giúp người đó nâng cao tâm thức của mình.     

Vì vậy khi một diễn biến xảy ra, chẳng hạn một vụ tấn công khủng bố, các chân sư thăng thiên không phán xét con người như con người phán xét. Nói cách khác, chúng tôi quan tâm đến việc trợ giúp cả các nạn nhân cũng như kẻ khủng bố như nhau, để họ đều vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Tiếc thay, thường thì cả hai bên đều từ chối sự trợ giúp của chúng tôi.  

Các nạn nhân của vụ tấn công khủng bố thường cảm thấy oán giận Thượng đế vì họ đặt vấn đề là tại sao ngài lại để cho chuyện đó xảy ra. Thậm chí, họ không sẵn lòng xét xem là có thể chính họ đã đồng sáng tạo những điều kiện gây ra diễn biến. Vì vậy, họ không thể mở tim ra để tiếp nhận tình yêu và sự tha thứ vô điều kiện mà chúng tôi sẵn sàng đổ vào tâm họ bất cứ lúc nào. Kết quả là họ thường bị kẹt lại trong những cảm xúc tiêu cực ngăn cản họ tiến bước tâm linh. Ước gì họ có thể mở trái tim và tâm trí ra thì chúng tôi đã có thể tràn ngập họ với tình yêu vô điều kiện, và họ sẽ tức khắc tha thứ được và bước tới.

Con thấy đó, tha thứ là chìa khóa cho tự do tâm linh. Cho đến khi nào con còn giữ nỗi hằn học đối với bất kỳ dạng sống nào hay đối với Thượng đế, đơn giản là con sẽ không thể thoát khỏi quá khứ và bước về phía trước. Con không thể rời khỏi địa cầu và nhập vào vương quốc thiên đàng – vì ở đó không thể có hiềm khích hoặc bất kỳ một cảm xúc tiêu cực nào. Chỉ khi nào con đã hoàn toàn tha thứ bản thân con, tha thứ mọi người khác cũng như Thượng đế, thì con mới được tự do bước lên cao hơn trong tâm thức.

Vì vậy bằng cách không tha thứ, con đang làm hại chính con. Đây là điểm mà nhiều người không hiểu được, và đó là tại sao họ không thể tuân theo lời dạy của ta là hãy tha thứ bảy mươi lần bảy. Con hãy suy ngẫm ta đã bảo mọi người phải thương yêu kẻ thù mình ra sao. Ta có nói, nếu con chỉ thương được những ai thương con, thì có gì đặc biệt đâu? Bất cứ ai cũng làm được chuyện đó. Nếu con chân thành bước trên đường tu tâm linh, con phải học cách yêu thương những ai thù ghét con và tha thứ những ai làm hại con.

Ta hoàn toàn cảm thông gia đình các nạn nhân cảm thấy vô cùng đau buồn trước vụ thảm sát cũng như sự mất mát những người thân yêu. Thế nhưng một khi sự kiện đã xảy ra, thì không đau buồn nào hay cảm xúc tiêu cực nào có thể quay ngược được bánh xe thời gian. Chính những cảm xúc tiêu cực đó sẽ luôn luôn kìm hãm sự tăng triển tâm linh của con. Cho nên nếu con thực sự muốn tăng triển tâm linh, điều quan trọng nhất là con hãy bỏ lại những cảm xúc tiêu cực đó và vươn lên cao hơn trong tâm thức.

Đáng buồn thay, rất nhiều nạn nhân các sự kiện tàn ác không sẵn lòng vươn lên cao hơn; họ muốn ở lại trong cảm xúc tiêu cực của oán giận, trách cứ, đau buồn hay tủi thân. Tất nhiên, đây là chon lựa của họ, nhưng là chân sư thăng thiên thì chúng tôi không thể cho phép mình cảm thấy đồng tình với những ai có chọn lựa như vậy. Chúng tôi có thể cảm thấy từ bi, và chúng tôi có thể thông cảm nỗi khó khăn để họ buông bỏ. Tuy nhiên, thật là dễ cảm thương cho một người cứ bám vào một đồng xu khi có người đứng bên cạnh trao tận tay cho họ một triệu đô la. Thật là dễ dàng làm sao để cảm thương cho những ai cứ bám lấy một đồng xu đau buồn nhân thế khi chúng tôi đang sẵn lòng trao cho họ một triệu đô la là tình yêu và tha thứ của Thượng đế.      

Đương nhiên, những kẻ khủng bố cũng sẽ khó lòng chấp nhận tha thứ để bước lên cao hơn. Thường thường, họ sẽ lo bám giữ ảo tưởng là hành động khủng bố của họ đúng đắn và chính đáng dưới mắt Thượng đế, thậm chí họ sẽ không thể chấp nhận họ cần được tha thứ. Nếu họ không thể xin tha thứ thì làm sao họ có thể chấp nhận tha thứ? Hệ quả đáng tiếc khi cả hai bên của cuộc xung đột đều không sẵn lòng nhận lấy sự tha thứ vô điều kiện của Thượng đế, là cả hai bên đều tạo ra một vòng xoáy ốc nghiệp báo với nhau. Chuyện này có thể tiếp diễn hàng thế hệ hay hàng thế kỷ. Thực tế là vụ khủng bố tại Madrid vừa rồi là hậu quả của vòng xoáy nghiệp báo đã được tạo ra giữa người Hồi giáo và người Tây ban nha vào thời người Hồi chiếm đóng Tây ban nha cũng như các cuộc Thập tự chinh.   

Chúng tôi các chân sư thăng thiên không mong muốn gì hơn là được chứng kiến những vòng xoáy đó tan biến, tiêu hủy bởi tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Tuy nhiên muốn cho điều này xảy ra, phải có một túc số đủ những người ở cả hai bên của vòng xoáy nghiệp báo chấp nhận tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, hầu cho phép tình yêu đó tuôn chảy vào tim mình và tiêu hủy mọi sổ sách của quá khứ cũng như mọi cảm xúc tiêu cực.  

Tình yêu vô điều kiện của Thượng đế giống như hạt mưa rơi đổ xuống người công chính lẫn người bất chính. Nếu con có thể chấp nhận trọn vẹn sự tha thứ của Thượng đế ngay giây phút này cho bất kỳ lầm lỗi nào mà con đã phạm, thì tức khắc con sẽ được tha thứ. Sẽ vẫn còn một số năng lượng tha hóa nào đó, hay nghiệp quả, cần được tiêu hủy. Tuy nhiên, tự thân sự tha thứ thì sẽ xảy ra tức thì ngay khi con chấp nhận tha thứ. Đây là sự thật mà hầu hết mọi người không tài nào chấp nhận nổi, và đó cũng chính là lý do tại sao ai nấy cứ tiếp tục tạo ra nghiệp quả thay vì bỏ lại đằng sau mọi bất toàn của con người.   

Mẹ Teresa có đã trở thành một sinh thể thăng thiên?

Hỏi: Thày Giê-su, xin thày nói về Mẹ Teresa. Mẹ Teresa có đã trở thành một sinh thể thăng thiên hay chưa, theo nghĩa là dòng sống của Mẹ đã hoàn tất cuộc hành trình trong đời hay chưa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một dòng sống phải hội đủ một số yêu cầu trước khi có thể đi qua nghi thức thăng thiên. Một số yêu cầu này cần được hoàn thành khi dòng sống còn đang hiện thân vật lý, và Mẹ Teresa quả thực đã hoàn tất các yêu cầu này. Do đó, dòng sống của Mẹ Teresa không phải trở lại một kiếp đầu thai mới.

Nhưng vẫn còn một số yêu cầu có thể được hoàn tất nơi cõi tâm linh, và dòng sống của Mẹ Teresa hiện đang nỗ lực chu toàn các yêu cầu này. Khi nào hội đủ, dòng sống của Mẹ sẽ bước vào nghi thức tâm linh của thăng thiên. Ta tiên liệu điều này có thể xảy ra trong một chục năm nữa hay ít hơn.

Điều mà Mẹ Teresa chưa hoàn tất là các yêu cầu về việc giải quyết tất cả mọi vết thương, hay niềm tin gây giới hạn, trong tâm lý. Nói cách khác, có những nghiệp quả mà con mang đối với người khác, được tạo ra qua những việc con đã làm trong kiếp này hay những kiếp trước. Mẹ Teresa đã đáp ứng đầy đủ những yêu cầu này do Mẹ đã hiến dâng cả cuộc đời để phụng sự tha nhân.

Nhưng thêm vào đó còn có những nghiệp quả đối với chính mình, tức là trạng thái tâm thức của mình. Một số nghiệp này có thể được giải tỏa trong lúc dòng sống không đang đầu thai vật lý, và Mẹ Teresa chưa hoàn tất xong phần này vì Mẹ chưa giải quyết được mối quan hệ của Mẹ với Thượng đế. Sự thể này phần nào là do Mẹ đã tuân thủ giáo lý Công giáo một cách nghiêm ngặt, và khi làm vậy thì rất khó lòng giải quyết quan hệ của mình với Thượng đế.

Quả thực Mẹ Teresa đã nêu một tấm gương sáng ngời của một người đã hiện thân được lời dạy của ta, là yêu thương người lân cận như chính bản thân mình. Mẹ đã hoàn thành sứ vụ cá nhân cũng như thiên hướng của mình, và Mẹ đã làm đúng những gì Mẹ cần phải làm trong đời mình. Kết quả là Mẹ đã hội đủ những đòi hỏi vỏ ngoài của thăng thiên và không cần trở lại địa cầu.

Tuy nhiên, một điều rất quan trọng mà con cần hiểu là không phải ai ai cũng có cùng sứ vụ hay cùng loại sứ mệnh như Mẹ Teresa. Nói cách khác, một số người sẽ hành xử phải lẽ nếu họ tích cực noi gương cuộc đời của Mẹ, nhưng đối với một số người khác, làm như vậy sẽ không phải. Mỗi người đều có sứ vụ riêng và cần đi theo con đường riêng của mình.

Chẳng hạn, hãy cho ta nêu ra là nếu mọi người đều có cùng một cách tiếp cận giáo hội vỏ ngoài giống như Mẹ Teresa thì Giáo hội Công giáo sẽ có rất ít hy vọng đổi mới. Như đã được giải thích khắp trang mạng này, đặc biệt bởi Mẹ Mary yêu dấu của ta, thực sự Giáo hội Công giáo đang có một nhu cầu cải cách rất cấp bách.

Mẹ Teresa đã không tham gia vào bất kỳ nỗ lực nào để cải tổ Giáo hội, và nếu Mẹ làm vậy thì Mẹ đã gây thiệt hại cho sứ mạng cá nhân của Mẹ. Tuy nhiên, điều quan trọng là người khác không nên theo đó mà suy luận rằng họ cũng phải chấp nhận Giáo hội như Mẹ đã chấp nhận.

Nếu con phân tích kỹ lưỡng cuộc đời của Mẹ Teresa, con sẽ thấy là Mẹ đã sẵn sàng đi theo tiếng gọi của Thượng đế khi ngài nhủ thầm bên trong tim Mẹ. Nếu Mẹ không đi theo tiếng gọi nội tâm đó thì Mẹ đã trở thành một nữ tu Công giáo chẳng khác gì mọi nữ tu khác và Mẹ cũng đã không bao giờ khởi xướng được sứ vụ của Mẹ tại Calcutta. Chính trên đường lên núi Himalaya mà Mẹ đã nghe thấy tiếng gọi của Thượng đế bảo Mẹ đến Calcutta phục vụ cho những kẻ nghèo nhất trong số người nghèo. Trong một trường hợp như vậy thì nhiều tín hữu Công giáo chính thống, hoặc sẽ làm ngơ trước lời gọi đó, hoặc sẽ phản ứng với lòng sợ hãi và gán cho đó là lời của ác quỷ. Nhưng Mẹ Teresa thì không – Mẹ đã có can đảm nghe theo tiếng gọi, và đó là tại sao Mẹ đã hoàn thành được sứ mạng cá nhân của mình.

Tiếng gọi Thượng đế mà Mẹ Teresa nghe được chính là lời gọi của một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên là vị thày cá nhân của Mẹ. Thày được biết đến trong một số tổ chức tâm linh dưới danh xưng El Morya hay Chân sư MORE.

Khi suy ngẫm về cuộc đời của Mẹ Teresa, ta mong muốn mọi người rút tỉa được bài học là họ cần đi theo giọng nói nơi nội tâm của riêng mình. Thay vì suy luận rằng họ phải sống cụôc đời vỏ ngoài như Mẹ Teresa đã sống, họ nên học hỏi từ tấm gương của Mẹ là đi theo tiếng gọi bên trong. Nếu tiếng gọi bên trong bảo con đi đến Calcutta và phục vụ những kẻ nghèo nhất trong số người nghèo, thì bằng mọi cách, con hãy làm điều đó. Nhưng nếu tiếng gọi bên trong bảo con làm gì khác thì con hãy bước theo hướng đó.

Và nếu giọng nói nội tâm bảo con nên lên tiếng chống lại hiện trạng trong Giáo hội Công giáo và biến đổi Giáo hội thành một giáo hội hằng sống, thì con hãy làm theo tiếng gọi đó bằng mọi cách. Nếu không có ai đứng lên phản đối những sự lạm dụng quyền lực đang diễn ra trong Giáo hội Công giáo thì sẽ rất ít hy vọng cải hóa được Giáo hội. Và như Mẹ Mary đã giải thích, sự phán quyết của Thượng đế có thể vô cùng nhanh chóng.

Ghi chú: Mấy năm sau câu trả lời nói trên, chân sư thăng thiên Mẹ Mary đã ban ra một câu trả lời cập nhật hơn. Xin đọc ở đây.

Ngoài ra còn có một loạt đối thoại giữa chân sư Giê-su và ông Kim Michaels về “bóng tối nội tâm của Mẹ Teresa” mà bạn có thể tham khảo (chưa dịch sang tiếng Việt)

Cho phép tự ngã lừa mình chối bỏ lời dạy sẽ giải thoát mình khỏi tự ngã

Hỏi: Một người tầm đạo chín chắn cần đáp ứng thế nào khi gặp những lời dạy trên trang mạng này thách đố các niềm tin sẵn có của mình và người đó không đồng ý với lời dạy? Con nhận thấy là những người bạn mà con đã giới thiệu trang mạng này, thường chụp lấy một chi tiết nhỏ nhặt nào đó mà họ không thích rồi sử dụng để bác bỏ toàn bộ trang mạng. Xin thày vui lòng bình luận về cách hành xử này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Con hãy cho phép ta nói thật rõ là những ai đọc trang mạng này KHÔNG NÊN hiểu lầm những lời giảng của ta ở đây là những điều mà họ phải chấp nhận không suy xét, và họ cũng không nên đọc từng chữ như thể đó là thánh thư bất khả sai lầm. Như ta đã cố giải thích, mục đích của bất kỳ lời dạy chân truyền nào cũng là trao cho học trò một bàn đạp để giúp họ vươn lên trên giáo lý vỏ ngoài hầu chạm được Tánh linh của Sự Thật – các chân sư thăng thiên – mà từ đó lời dạy đã đi ra. Lời dạy tựa như một sợi dây cứu sinh nhằm dẫn con đến cội nguồn của lời dạy.

Ý ta muốn nói là con nên luôn luôn cố gắng vượt xa hơn từ ngữ vỏ ngoài của lời dạy để chạm được một hiểu biết nội tâm sẽ đưa con lên cao hơn lời dạy. Nhiệm vụ của một vị sứ giả là truyền đạt một lời dạy thuần khiết nhất có thể. Còn nhiệm vụ của đệ tử là vượt ra khỏi lời dạy vỏ ngoài, và khi làm vậy, đệ tử cũng thăng vượt những nét thiếu thuần khiết trong lời dạy. Chừng nào con nối kết với nguồn cội thì tất cả những bất toàn đó trong lời dạy đều không quan trọng. Nhưng nếu con không tìm đến nguồn cội thì ngay cả một lời dạy toàn hảo – nếu có gì có thể toàn hảo được – cũng sẽ không đảm bảo được sự cứu rỗi của con.

Như luôn luôn, nguy cơ tiềm tàng cho con chính là hai đối cực của tự ngã:

  • Một là đệ tử với tư duy đen-trắng sẽ thần tượng hóa sứ giả cũng như giáo lý, cho rằng đó là giáo lý cao nhất và luôn luôn đúng. Vì vậy họ không bao giờ được cả gan nghĩ xa hơn những gì được trình bày trong giáo lý.   
  • Hai là đệ tử vẫn còn bị chi phối bởi lối tư duy xám. Họ sẽ bảo rằng không một lời dạy nào có thẩm quyền gì đặc biệt, cho nên họ sẽ nghĩ ra một cách diễn giải riêng của họ để khiến lời dạy có vẻ nói lên những gì họ muốn nghe.  

Cách thoát ra khỏi hai đối cực đó là nhận ra điều mà ta vừa nói ở trên. Con phải sử dụng lời dạy duy như một bàn đạp, một bực thang để với lên nguồn cội của lời dạy. Các chân sư thăng thiên đứng trên tư duy đen-trắng lẫn tư duy xám. Cho nên nếu con không nhìn xa hơn trạng thái tâm thức hiện thời của con, thì đơn giản con sẽ không thể nào liên lạc được với chúng tôi. Con sẽ bị kẹt lại trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con sẽ dùng cách diễn giải của con về lời dạy vỏ ngoài để biện minh tại sao con đã không bước lên cao hơn.

Về điểm này, con hãy cho phép ta nói lên một điều thật rõ ràng. Nếu con thấy mình cứ phân tích, xét đoán hay chỉ trích một giáo lý hoặc vị sứ giả truyền đạt giáo lý đó – đặc biệt nếu con cứ nghĩ là mình biết rõ giáo lý phải được trình bày ra sao – thì ngay lập tức con nên xem đó là một dấu hiệu hiểm nghèo. Con có thể LUÔN LUÔN chắc chắn là những ý tưởng như vậy xuất phát từ tự ngã của con cùng các tà thể mà ta đã mô tả trong một câu trả lời khác, tức bọn Phá rối (the Spoilers). Cho nên con cần nhận ra yếu tố khiến con dễ bị năng lượng của bọn Phá rối tấn công chính là một số tin tưởng nhị nguyên mà con có. Con càng dính mắc vào các tin tưởng này thì phản ứng động cảm của con đối với lời dạy sẽ càng dữ dội.

Người đệ tử thiếu minh triết sẽ sử dụng các điểm bất toàn mà họ thấy nơi người khác (thật ra là những điều mà chính tự ngã của họ đã phóng chiếu lên người khác) để không thay đổi bản thân. Còn đệ tử minh triết sẽ luôn luôn tìm kiếm cái xà trong mắt mình, chào đón bất kỳ cơ hội nào để nhìn thấy nó và nhổ nó ra. Cho nên khi người đệ tử minh triết tìm thấy một lời dạy trên trang mạng này hay bất kỳ một giáo lý tâm linh nào khác thách đố niềm tin cố hữu của mình, thì người đó sẽ cân nhắc câu hỏi: “Có phải sự kháng cự của tôi đối với lời dạy này phát xuất từ sự dính mắc vào một ảo tưởng nào hay chăng?” Nếu phát hiện được một dính mắc như vậy thì người đó sẽ luôn luôn phơi bày nó rồi buông nó ra. Nhưng một đệ tử thiếu minh triết sẽ tim thấy sai khuyết nơi sứ giả cùng thông điệp của sứ giả để rồi sử dụng như một lý cớ mà bỏ qua dính mắc của mình.

Là một đệ tử minh triết, con cần luôn luôn cố gắng phơi bày tự ngã, và một trong những cách tốt nhất là xét xem có những mâu thuẫn hay bất nhất nào trong các niềm tin, lời nói hay hành động của mình. Lý do là vì tự ngã luôn luôn phóng chiếu quan điểm của nó lên người khác, và do vậy, nó thường hay chỉ trích sai lầm mà nó thấy nơi người khác chính vì nó đang mang sai lầm đó nơi nó. Tự ngã sẽ buộc tội người khác có những hành xử mà chính nó đang hành xử với người khác – cũng như với con.   

Chẳng hạn, có một số đệ tử tâm linh đã tập trung vào một hình ảnh sai lầm về tình thương khi xem tình thương là phải luôn luôn dịu dàng nhu hòa, và họ nghĩ họ không bao giờ được thách đố một ý tưởng hay quan điểm nào. Thế nhưng họ không nhìn ra là họ đã trở nên phê phán đối với những người thẳng thắn hơn họ.

Những ai bị mù quáng bởi tư duy xám rất dễ rơi vào kiểu phê phán đó. Chẳng hạn, họ khoác vào thái độ cho rằng một vị thày tâm linh chân chính phải tỏ ra yêu thương độ lượng đối với mọi hoàn cảnh con người. Họ thật sự tin rằng cách duy nhất để là một người yêu thương là không bao giờ được thách thức một ai vì làm như vậy là phê phán. Nhưng điều mà họ không nhìn thấy là chính họ mới đang vô cùng phê phán đối với những ai không tuân theo cách định nghĩa của họ về thế nào là thương yêu. Nói cách khác, nhiều người tầm đạo chân thành cho rằng họ hoàn toàn yêu thương, nhưng họ lại rất phê phán đối với những ai họ dán nhãn là không yêu thương.

Đây rõ ràng là một sự mâu thuẫn, và một người đang bắt đầu vượt lên trên tư duy xám sẽ phải có khả năng sử dụng những lời dạy này để nhanh chóng buông bỏ các trò chơi đó của tự ngã. Do đó, những người tầm đạo già dặn hơn phải có khả năng vượt trên xu hướng của tự ngã vốn cứ chọn ra một chi tiết mà nó không ưa, rồi sử dụng như cái cớ để khiến con bác bỏ toàn bộ giáo lý.

Trang web của chúng tôi thực sự có những lời dạy có thể giúp mọi người thoát tự ngã của mình. Nhưng nếu con cho phép tự ngã đánh lừa con gạt bỏ lời dạy thì hiển nhiên lời dạy không thể giải thoát được con. Ta đã chứng kiến những người tâm linh làm vậy từ thời ta bước trên địa cầu 2000 năm trước đây. Riêng bản ngã thì con không lạ gì nó. Các luận cứ mà nó dùng có thể thế này hay thế khác, nhưng cái cơ chế thì luôn luôn không thay đổi.

Tà lực dùng tình dục ngoài hôn nhân như thế nào để đánh cắp năng lượng?

Hỏi: Thày và huynh yêu dấu, tình dục ngoài hôn nhân có hậu quả như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Như ta có giải thích ở một nơi khác, hôn nhân là một lời hứa thiêng liêng với sự chứng giám của Thượng đế và do đó cần được coi trọng. Khi con kết hôn, con hứa là mình sẽ chung thủy với người bạn đời của mình, và chỉ với người đó mà thôi – hay ít ra đó là ý nghĩa lời hứa mà con cần hứa. Nếu con có quan hệ tình dục bên ngoài hôn nhân thì rõ ràng con đang bội ước, và do đó con sẽ tạo ra nghiệp quả.

Như ta giải thích trong câu trả lời trước, hầu hết mọi người không hiểu rõ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, kể cả về những điều xảy ra ở mức năng lượng khi con có quan hệ tình dục. Suốt trang mạng này, ta đã giải thích rằng trong mọi việc mà con làm, con đều sử dụng năng lượng, cho nên mọi khía cạnh đời sống cần được hiểu như là một sự trao đổi năng lượng. Ai ai cũng biết là quan hệ tình dục có tiềm năng lây truyền bệnh tật như thế nào, thế nhưng tiềm năng trao truyền năng lượng còn lớn hơn như vậy nữa.  

Khi có quan hệ tình dục, trường năng lượng của cả hai người trở nên hòa quyện với nhau rất chặt chẽ. Ở điểm cực khoái, ánh sáng được phóng ra từ các trung tâm năng lượng trong năng trường của con, đặc biệt là từ trung tâm năng lượng thấp, thường được gọi là luân xa gốc. Con cảm thấy khoái lạc vì luân xa được thiết kế đề truyền năng lượng. Cảm giác thích thú thường khiến cho khả năng trực giác bị cùn nhụt đi, và nó ngăn cản con nhận thấy hai năng trường gắn chặt với nhau đang mở cửa ra để con nhận năng lượng từ người kia, thậm chí nhận cả năng lượng từ bên ngoài. Cảm giác thích thú có thể khiến con đui mù trước những nguy cơ tiềm tàng, hay nó khiến con không muốn thừa nhận những nguy cơ đó.    

Ai ai cũng biết là nếu con có quan hệ tình dục chỉ với một người duy nhất, con sẽ ít khả năng lây nhiễm bệnh tật hơn là khi con quan hệ với nhiều người, và điều tương tự cũng xảy ra đối với năng lượng. Nếu con có quan hệ với nhiều hơn một người, nguy cơ nhận năng lượng ô uế sẽ nhân lên. Đương nhiên khi hai người đều chung thủy với nhau, nguy cơ truyền nhiễm bệnh tật sẽ tối thiểu, và năng lượng ô uế cũng thế. Trong một hôn nhân chung thủy, cả hai người đều có khả năng xây dựng một bức tường năng lượng bao bọc quanh mình, và điều này giúp cho hai vợ chồng có thể có quan hệ mà không tạo sơ hở cho các năng lượng ô nhiễm từ ngoài.    

Tuy nhiên nếu con không giữ được lời hứa của con, có nhiều xác suất con sẽ đem năng lượng ô uế vào hôn nhân, và điều này sẽ phá vỡ vòng đai bảo vệ hôn nhân. Năng lượng đó cũng có thể được truyền sang người phối ngẫu của con, và nếu người đó tin rằng con chung thủy, người đó sẽ không đề phòng và, trong tiềm thức, sẽ mở cửa ra để nhận lấy năng lượng đó. Đây là một sự xâm phạm quyền tự quyết của người phối ngẫu, và khi làm vậy, con sẽ tạo nghiệp. Thêm vào đó, trong tiềm thức, người bạn đời của con sẽ cảm thấy có điều gì không ổn, dẫn đến những hậu họa phức tạp khi lòng tin cậy là nền tảng của mọi quan hệ thành công bị phá vỡ.    

Cũng trong câu trả lời trước, ta có giải thích là hôn nhân có tiềm năng tạo ra sự kết hợp thiêng liêng giữa vợ chồng. Nhưng khi con phá vỡ lòng tin cậy qua một cuộc ngoại tình và cài đặt những năng lượng “ngoại lai”, con tiêu diệt tiềm năng này. Giản dị là con không thể có sự kết hợp cao nhất với hai đối tác cùng một lúc, cho nên rất có thể con sẽ không có kết hợp tối ưu với cả hai người.  

Con cũng nên khôn ngoan nhìn nhận là con đang sống trong một thế giới chất chứa năng lượng ô uế khắp chung quanh. Con hãy hình dung năng trường của con như một quả cầu ánh sáng bảo vệ con khỏi năng lượng ô uế đó. Nếu năng trường con có lỗ hổng, năng lượng chung quanh sẽ được dịp xối vào trong năng trường. Có nhiều loại sinh hoạt có khả năng mở năng trường con ra, đặc biệt là quan hệ tình dục. Điều phải hiển nhiên với con là khi hai năng trường được hòa quyện vào nhau trong hành động tình dục, nó có thể khiến cho con mở cửa ra để tiếp nhận năng lượng từ ngoài, với hệ quả nhiều hay ít tùy theo thái độ và cảm xúc của con khi con có quan hệ.

Khi con quan hệ ngoài hôn nhân, gần như bắt buộc con sẽ có những cảm xúc ô uế – có thể là trong tiềm thức mà con không nhận ra. Con dư biết là con đang vi phạm lời hứa hôn nhân của con, và điều này sẽ mở trường năng lượng của con ra cho năng lượng ô uế. Sẽ tồi tệ hơn nữa nếu con có quan hệ chỉ để thỏa mãn một thèm muốn thể xác, hay vì con đang bực dọc người phối ngẫu và đổ lỗi cho người đó không đáp ứng được nhu cầu của con. Sự thật đơn giản là ngoại tình luôn luôn khiến con trở thành con mồi cho năng lượng ô uế. Gần như ai ai cũng đều biết rõ – ở mức nội tâm – rằng việc bội ước lời hứa hôn nhân là sai trái, cho nên để có thể bội ước, con phải bịt miệng tiếng nói của cái ta Ki-tô của con, và hành động này sẽ vô hiệu hóa sự bảo vệ mà cái ta Ki-tô bình thường cung cấp cho con.       

Tất nhiên, nó sẽ khiến con dễ bị các thế lực bóng tối thao túng. Các tà lực này tìm cách đánh cắp năng lượng tích cực của con, và chúng sẽ cố gắng cài đặt năng lượng tiêu cực vào năng trường của con hầu khuynh loát con thêm nữa. Con cần biết sự thật đơn giản là hầu hết mọi người sẽ không bội ước hôn nhân của mình trừ khi bị tà lực thao túng.

Như ta đã giải thích trong bài giảng về các tầng cõi của vũ trụ, các tà lực hoạt động ráo riết nhất ở mức độ cảm thể con người. Tình cảm con người thường rất linh hoạt và do đó việc thao túng cảm thể là chuyện dễ dàng. Con thấy rõ, giữa cảm thể và thèm khát tình dục, có một sự nối kết rất sâu xa.

Ta có thể cam đoan với con là các tà lực trên hành tinh này sử dụng rất nhiều phương thức để kích động thèm muốn tình dục một cách giả tạo. Điều này được chúng ra tay thực hiện, một cách công khai và ngang nhiên, trong nhiều hình thức quảng cáo cũng như nhiều lãnh vực khác của đời sống. Mục đích của chúng là khuynh loát cho con người luôn luôn thèm khát và không bao giờ no đủ. Trước tiên, tà lực sẽ đưa vào trí thể con niềm tin rằng mình có quyền có quan hệ tình dục và những quan hệ này hoàn toàn không mang hậu quả tiêu cực nào hết. Một khi con tin vào điều này rồi thì thật quá dễ dàng để hướng năng lượng tình dục vào cảm thể của con và tạo ra một ham muốn tình dục vô độ không bao giờ thỏa mãn được.

Ta cũng có giải thích khắp trang mạng này là hầu hết mọi người trên địa cầu đều đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và ở mức đó, mọi thứ đều có vẻ tương đối. Điều này phát sinh ra một loạt những ham muốn nhị nguyên mà bản chất khác hẳn với những mong muốn đích thực của dòng sống. Nói cách khác, dòng sống có thể có mong muốn chính đáng được trải nghiệm sinh hoạt của thế gian, kể cả tình dục. Tuy nhiên, các mong muốn của dòng sống luôn luôn có hạn và do đó có thể được thỏa mãn trọn vẹn, có nghĩa là việc kết hôn và quan hệ tình dục với người phối ngẫu có khả năng đáp ứng hoàn toàn nhu cầu tình dục của dòng sống.  

Nhưng rõ ràng đây không phải là điều mà các tà lực muốn chứng kiến. Chúng không muốn con được thỏa mãn trong hôn nhân vì như vậy chúng sẽ không thể thao túng con. Cho nên chúng sẽ khơi dậy trong cảm thể con những thèm khát nhị nguyên vô độ không thể thỏa mãn. Những thèm khát này, trong nghĩa đen, là những cái hố không đáy, không thể nào đổ đầy. Con có thể hình dung thèm khát nhị nguyên giống như một cơn bão xoáy trong cảm thể đang cuốn hút tất cả vào với nó. Dù cho con có đổ bao nhiêu năng lượng vào bão xoáy, con cũng không bao giờ lấp đầy nó được. Nói cách khác, một khi con cho phép sự thèm khát tình dục tích tụ và bành trướng trong năng trường của con, con sẽ không bao giờ có được cảm giác con đã thỏa mãn. Dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa, con vẫn sẽ luôn luôn cảm thấy mình cần nhiều hơn. Nhiều người đã bỏ ra cả đời và sinh lực của mình để chạy đuổi theo trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh.

Tất nhiên, đây chính là điều mà tà lực mong muốn vì bây giờ chúng có thể thao túng con và bòn rút năng lượng của con. Điều ta muốn nói là con bị các tà lực liên tục dội bom với đủ loại kích thích tố nhằm tạo ra cơn bão xoáy tình dục trong cảm thể của con. Con hẳn cũng biết câu nói quen thuộc rằng “tình dục bán hàng rất chạy”, và thật vậy, tình dục được ngành quảng cáo sử dụng một cách thiện nghệ và vô lương tâm để bán sản phẩm đủ mọi loại. Nhưng đằng sau hoạt động kinh doanh là thực tế phức tạp của những tà lực sử dụng sự thèm khát tình dục vô độ để thao túng loài người.

Chính sự thèm khát tình dục vô độ này, một sự thèm khát giả tạo được dựng lên qua sự khuynh loát, khiến cho nhiều người cảm thấy nhu cầu tình dục của mình không được người bạn đời của mình thỏa mãn. Và điều này phát sinh ra ham muốn ngoại tình. Và như ta đã cố giải thích, nếu con nhượng bộ ham muốn này, con sẽ mở cửa ra cho tà lực vào thao túng con, và chúng sẽ không ngừng vắt kiệt năng lượng của con cho tới khi con không còn một giọt, hoặc cho tới khi con quyết định là con đã chán ngấy.     

Đâu là cách hay nhất để con tự bảo vệ khỏi hình thức bóc lột này? Đó là quyết định kiên quyết rằng khi con kết hôn với người bạn đời của con, con đã có một lời hứa thiêng liêng là mình sẽ chung thủy với người đó. Nếu quyết định của con kiên quyết, các tà lực sẽ khó lòng tìm được một lối vào trong tâm thức của con. Quyết định này sẽ thiết lập một vòng đai bảo vệ tâm linh chung quanh hôn nhân của con khiến cho tà lực rất khó lòng thao túng con lẫn người phối ngẫu của con. Và tất nhiên khi con làm vậy, con cũng sẽ gia tăng xác suất cuộc hôn nhân của con sẽ hạnh phúc.

Ta không nói rằng tự thân quyết định chung thủy sẽ đủ để bảo vệ hoàn toàn cho con khỏi tà lực, nhưng đó là một bước vô cùng quan trọng để con thiết lập sự bảo vệ này. Thêm vào đó, con nên sử dụng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh, như được đăng tải trong phần dụng cụ tâm linh của trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng có thể được dùng để bảo vệ hôn nhân của con. Trong thế giới ngày nay, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con xem như mọi khía cạnh đời sống của con đều đang bị các tà lực tấn công, trong đó có hôn nhân của con. Do đó điều thận trọng là con nên kêu gọi sự bảo vệ cho con, người bạn đời của con cùng sự kết hợp thiêng liêng là hôn nhân của con.  

Tất nhiên, dù con có kêu gọi bất kỳ sự bảo vệ tâm linh nào, thì việc ngoại tình sẽ phá vỡ ngay lớp bảo vệ đó. Do đó, ta hết sức khuyến khích con hãy chung thủy với lời hứa của mình. Sẽ thật là đáng tiếc nếu con phá vỡ cuộc hôn nhân chỉ vì một ham muốn tình dục nhị nguyên. Con hãy bảo vệ quyền có mối quan hệ thiêng liêng với người bạn đời của con mà không bị tấn công bởi các thế lực cám dỗ bên ngoài. Con hãy sử dụng các dụng cụ tâm linh để không cho phép các ham muốn tình dục sai khiến đời mình, như ta chỉ dẫn ở đây.  

Tại sao người xấu có tiền và người tốt thì không?

Hỏi: Con thấy trên thế giới đang có sự thể này xảy ra. Tại sao những người bước đi theo Giê-su Ki-tô bằng cả trái tim, tâm trí lẫn tâm hồn và đang sống một cuộc đời trong sạch đạo đức, lại rất khó khăn chu toàn một nếp sống thịnh vượng về mặt vật chất? Trong khi đó, những kẻ đi ngược lại đạo đức và sống một cuộc đời không đẹp lòng Thượng đế lại giàu có? Sự thể này tạo ra sự xung đột giữa các dòng sống về các quy luật của Thượng đế. Con có biết tới luật nghiệp quả và sự thật về đầu thai và tiền kiếp. Còn có lý do nào khác để giải thích tại sao sự thể này lại xảy ra?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta hoàn toàn hiểu được tại sao những tình trạng mà con mô tả khiến cho nhiều người bị bối rối, thậm chí bực dọc. Tuy nhiên, lý do khiến cho bao nhiêu người bị bối rối là vì các tôn giáo chính trhống trên thế giới đã không trình bày các quy luật của Thượng đế một cách trọn vẹn. Do đó nhiều người đã lớn lên với một sự hiểu biết thiếu sót về quy luật của Thượng đế.

Đúng như con mô tả, một phần lớn những tình cảnh đó là do các hành vi của mỗi người gây ra trong tiền kiếp. Con cũng nói đúng khi con cho rằng đó không phải là lời giải thích đầy đủ.

Quy luật tối thượng của vũ trụ này là Luật Tự Quyết. Thượng đế đã ban cho mọi con người quyền tự quyết, và cả Thượng đế lẫn các chân sư thăng thiên sẽ không can thiệp vào quyền tự quyết. Điều mà hầu hết mọi người không hiểu là có nhiều người trên điạ cầu, cũng như nhiều tà lực ở các tầng thấp của vũ trụ do Thượng đế sinh tạo, không hề có mảy may ân hận nào khi họ xâm phạm quyền tự quyết của con người. Những thế lực đó thường sử dụng những người đang đầu thai, cụ thể là những ai sẵn sàng “bán linh hồn” của mình hầu đoạt được mối lợi tạm thời trong thế gian.  

Trong một thời gian rất dài, thế liên minh vô đạo này giữa những con người đang đầu thai và những tà lực không xác đã tạo ra một tình thế trên địa cầu khác rất xa với viễn quan và ý định ban đầu của Thượng đế. Con phải hiểu rằng mỗi con người luôn không ngừng sáng tạo. Con sáng tạo qua quyền năng của sự chú tâm. Có một dòng năng lượng tâm linh tuôn xuống từ Hiện diện TA LÀ vào tâm thức phàm nhân của con. Con hướng năng lượng tâm linh này qua quyền năng sự chú tâm của con. Và như thế, con tạo ra những hình ảnh và hình tướng mà chú tâm của con sẽ ngụ lại trong đó. Nói cách khác, Thượng đế đã không tạo ra sự bất công hiện thời trên địa cầu mà con người đã tạo ra các điều kiện đó.

Từ hàng ngàn năm nay, những thế lực không nể nang gì tới các quy luật của Thượng đế đã thao túng để khiến con người chú tâm vào những hình ảnh và hình tướng bất toàn. Một khía cạnh của sự thể này là quần chúng nói chung đã bị thao túng để mà chấp nhận ý tưởng là một nhóm thượng lưu ít ỏi có quyền tích lũy một số của cải và quyền lực to lớn quá độ. Và một khía cạnh khác là nền kinh tế đã bị thao túng tới độ con khó lòng nào phát đạt được nếu con lương thiện, đạo đức. Nhiều người thường cảm thấy bị bắt buộc phải vi phạm các quy luật tâm linh nếu muốn tiến thân trong cuộc sống.  

Do đó, con hiện có một tình trạng trên trái đất là con người đã tạo ra một thực tế nơi một số quy luật của Thượng đế đã bị tạm thời đình chỉ. Nhưng không ai có thể nhạo báng Thượng đế, vì Thượng đế biết rõ là mọi năng lượng được sử dụng trên trái đất cuối cùng sẽ biến hoá trở lại trạng thái thuần khiết của nó. Tuy nhiên trong khi chờ đợi, một số người và một số thế lực đã thành công tạo ra một thế giới nơi các quy luật và công lý của Thượng đế không được biểu hiện một cách trọn vẹn.

Qua sự thao túng này, các tà lực đã tránh được một số hậu quả của hành vi của chúng, vì chúng đã thao túng để quần chúng nói chung phải nhận chịu một số những hậu quả này, một số những nghiệp quả này. Chẳng hạn, điạ cầu đang chứng kiến của cải và quyền lực bị tập trung trong tay một số rất ít người. Sự tập trung của cải và quyền lực như thế không phù hợp với quy luật hay ý định của Thượng đế. Thế nhưng nếu một phần lớn nhân loại cứ lựa chọn là mình sẽ chấp nhận tình trạng hiện nay thay vì hành động để thay đổi hiện trạng, Thượng đế sẽ không thể nào can thiệp vào các chọn lựa tự quyết của con người. Một bất công rõ ràng khác là một số quốc gia đã tập trung của cải và quyền lực khổng lồ trong khi nhiều quốc gia khác lại có người phải chết đói hay sống cảnh nghèo khổ cùng cực. Đương nhiên, điều này không phù hợp với viễn quan và công lý của Thượng đế.

Cách duy nhất để thay đổi tình trạng này và đưa trái đất trở về trong khuôn khổ quy luật và công lý của Thượng đế là có đủ số người trong nhân loại nâng cao tâm thức của mình bằng cách bước trên đường quả vị Ki-tô cá nhân. Đây là điều mà ta mong muốn chứng kiến trong những thập niên sắp tới và cũng là lý do ta đã cho thiết lập trang web của ta và phát hành quyển sách về quả vị Ki-tô cá nhân.  

Nếu có đủ túc số những người này – và chúng ta nói đến hàng triệu người – nỗ lực chân thành để thể hiện quả vị Ki-tô cá nhân cao độ, họ sẽ trở thành, trong nghĩa đen, những cánh cửa mở mà qua đó Thượng đế sẽ có thể “phế bỏ những kẻ có quyền khỏi ngôi của họ và nâng cao những kẻ ở dưới”. Hành động này sẽ tái lập công bằng của Thượng đế.

Còn một nguyên nhân nữa đã dẫn đến tình trạng mà con mô tả. Nó liên quan đến lời dạy của ta rằng con có thể nhận phần thưởng trên thiên đàng hoặc là con nhận phần thưởng dưới thế gian. Matthew 6:1 có viết: “Hãy lưu ý rằng các con không bố thí trước mặt người ta để cho người ta thấy mình, bởi vì nếu không, con sẽ không nhận được phần thưởng từ Cha con ở trên trời”.

Một số người đã rơi vào trạng thái tâm thức duy vật và họ không hiểu gì về Nước Trời. Họ đã tập trung tất cả chú ý của họ vào việc giành lấy những thú vui của thế gian. Trải qua bao nhiêu kiếp sống, các dòng sống đó đã phát triển các kỹ năng thu thập của cải vật chất hay quyền lực và vì thế, họ có vẻ thành công phát đạt trong thế gian.  

Ngược lại, những ai đã đạt đến trạng thái tâm thức tâm linh thì chủ yếu không quan tâm đến việc hưởng thụ vui thú thế gian. Vì thế những dòng sống này đã không thu hoạch được kỹ năng cần thiết và họ thường không thành tựu trong thế giới kinh doanh hay tung hoành nơi các hành lang của quyền lực. Thế nhưng, như câu thành ngữ quen thuộc vẫn nói, con không thể đem nó theo sang thế giới bên kia. Dù con có thu thập bao nhiêu của cải hay quyền lực, con cũng sẽ không thể mang nó theo con khi con rời cõi đời này. Trái lại, con mang theo được những thành tựu tâm linh mà con đã lãnh hội.

Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho con người. Nếu một dòng sống chọn cách sử dụng năng lượng và chú tâm của mình để trở nên giàu có và quyền lực, nó sẽ bỏ ra tất cả sức lực của nó để cố đoạt được những thứ đó. Và như vậy, các thú vui đó là sẽ là phần thưởng duy nhất của nó. Nếu nó sử dụng toàn bộ năng lực của nó để đeo đuổi của cải vật chất, nó sẽ không thể tích lũy kho báu trên thiên đàng và nó sẽ không nhận được phần thưởng nào trong cõi tâm linh.

Ngược lại, nếu dòng sống tập trung chủ tâm của mình vào đời sống tâm linh, chắc chắn nó sẽ tích tụ kho báu trên thiên đàng. Vì thế phần thưởng của nó sẽ ở trên cõi thiên đàng. Nó sẽ ở một vị trí tốt đẹp trong vương quốc của Cha ta hơn là những kẻ không có của cải gì trên thiên đàng.

Con nghĩ tại sao ta lại nói rằng kẻ giàu có sẽ khó vào Nước Trời hơn là con lạc đà chui qua lỗ kim? Là vì những kẻ bám mắc vào vật chất của thế gian sẽ không có khả năng sử dụng quyền tự quyết của mình để chọn con đường tâm linh dẫn đến tâm thức Ki-tô. Và đương nhiên, những kẻ như thế sẽ kẹt lại trong thế gian suốt nhiều kiếp sống.

Chắc con còn nhớ câu ta nói rằng kẻ đứng đầu sẽ là kẻ sau chót và kẻ sau chót sẽ là kẻ đứng đầu? Trong cõi tâm linh, những ai đứng đầu trong thế gian vật chất sẽ đứng chót, và những ai đứng chót trong thế gian vật chất – tức là những người tâm linh – sẽ là kẻ đứng đầu trong cõi thiên đàng.

Tất cả đều quay trở lại câu này: “Ngay hôm nay, con hãy chọn con sẽ phục vụ cho ai”. Con không thể phục vụ hai người chủ. Con không thể cùng một lúc phụng sự Thượng đế (phát triển tâm linh) và thế gian (các thú vui trần thế). Mỗi dòng sống sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng của mình. Vấn đề duy nhất là con muốn loại phần thưởng nào, con muốn phần thưởng trên địa cầu hay trên thiên đàng. Nếu con muốn phần thưởng cao nhất thì con hãy cất bước ngay trên con đường quả vị Ki-tô và theo chân ta.  

Ăn thịt có sai quấy không?

Hỏi: Ăn thịt có sai quấy không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/20212.

Như ta có giải thích ở nơi khác, sẽ có một ngày khi tâm thức tập thể của nhân loại tăng triển tới một mức độ chỉ còn một số ít người dùng thịt mà thôi. Tuy nhiên, điều kiện này còn lâu nữa mới đạt được. Do đó ngay bây giờ, điều không thể tránh khỏi và cũng là điều cần thiết, là một phần lớn của nhân loại tiếp tục dùng thịt. Vậy nếu nhìn lý tưởng thì phải nói ăn thịt là điều sai trái. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện tại, việc ăn chay không thích hợp cho mọi người.   

Chế độ ăn uống là một vấn đề rất cá nhân. Đối với một số người, ăn chay là đúng đắn, nhưng đối với những người khác, việc ăn chay có thể là một chế độ ăn uống quá khắt khe cho mức phát triển tâm linh hiện thời của họ. Đối với một số người đã tiến cao về tâm linh, điều này có thể phản tác dụng và ngăn cản họ hoàn thành một cách hữu hiệu những công việc mà họ đã đến đây để thực hiện.   

Muhammad, một tiên tri đích thực bị một văn hóa hiếu chiến ảnh hưởng

Hỏi: Con đã đọc rất nhiều về đạo Hồi và con muốn biết Muhammad có phải là một vị tiên tri đích thực do Đấng Cao nhất gửi xuống?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta đã có nhận xét về đề tài này ở một nơi khác. Câu trả lời ngắn gọn là Muhammad là một vị tiên tri đích thực nhận được giáo lý từ Đại thiên thần Gabriel. Tuy nhiên ngay từ đầu, giáo lý tâm linh của đạo Hồi đã bị ảnh hưởng bởi một nền văn hóa hiếu chiến. Yếu tố này đã biến đạo Hồi thành một tôn giáo hiếu chiến, và đó không bao giờ là ý định của các chân sư thăng thiên.

Hãy để ta bàn thêm một chút về cụm từ “tiên tri đích thực”. Nhiều người có khuynh hướng thần tượng hóa khi họ nhìn các vị lãnh đạo tâm linh, kể cả chính ta. Họ cho rằng nếu có ai là một vị lãnh đạo tâm linh chân chính thì hẳn vị đó phải là một người đặc biệt. Vị đó khác hẳn mọi người khác đến độ không ai có thể sánh bằng, không ai có thể làm được những gì vị đó đã làm. 

Theo ta, định nghĩa của một tiên tri đích thực là một người có khả năng nâng cao tâm thức của mình vượt lên trên tâm thức thấp hơn là tâm nhị nguyên. Bằng cách tiếp xúc với cái ta Ki-tô, người đó có thể phụng sự như một công cụ để đem lại giáo lý tâm linh trực tiếp từ các chân sư thăng thiên.

Như ta có giải thích ở nơi khác, chúng tôi, các chân sư, sẽ không chiếm đoạt tâm trí của một ai. Do đó, khi chúng tôi phát biểu qua trung gian tâm thức của một người đang đầu thai, điều không thể tránh khỏi là thông điệp của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức người đó. Sự thể này không nhất thiết có gì sai trái, nhưng thông điệp hẳn là sẽ bị tác động. 

Ít nhất, thông điệp sẽ phải diễn đạt qua những ngôn từ, khái niệm và hình ảnh quen thuộc với người tiên tri. Điều này có thể thấy rõ trong số các vị tiên tri của Kinh Cựu ước. Riêng ta cũng vậy, con có thể dễ dàng nhận thấy ta giảng dạy bằng những lời nói và hình ảnh quen thuộc với người dân sống trong một nền văn hóa và một thời điểm đặc thù. Điểm chính yếu mà ta muốn con hiểu là ngay cả khi một người là một nhà tiên tri đích thực, con không bao giờ nên nghĩ rằng thông điệp được gửi qua vị đó là chân lý duy nhất về Thượng đế, hoặc là cách duy nhất để biểu đạt một lời dạy tâm linh.   

Suốt các thời đại, một số chân sư thăng thiên đã cộng tác với nhiều người đang hiện thân để truyền rải giáo lý tâm linh. Những giáo lý này luôn luôn được điều chỉnh để phù hợp với tâm thức của người nhận giáo lý. Điểm quan trọng là chúng tôi, các chân sư, đã không bao giờ tìm cách đưa ra một “tôn giáo đích thực duy nhất”.

Ý niệm có một tôn giáo đích thực duy nhất là một sự áp đặt của tâm thức phàm phu, của tâm thấp kém. Ý niệm này không phát xuất từ cõi tâm linh mà nó phát xuất từ con người cũng như từ những sinh thể phi vật chất đang mưu chống lại ý muốn của Thượng đế. Do đó, bất cứ khi nào có một tôn giáo nào tự xưng mình là tôn giáo đích thực duy nhất, thì lời tuyên bố đó không phát xuất từ các chân sư thăng thiên.

Ta biết rằng hàng triệu người, từ nhiều tôn giáo khác nhau, sẽ phản đối câu nói vừa rồi của ta. Nhưng không có luận lý nào của con người có thể thay đổi được thực tại của Thượng đế. Thượng đế không thể bị nhạo báng và ngài không vị nể một ai.

Bây giờ ta xin bàn về câu con hỏi là Muhammad có do “Đấng Cao nhất” gửi xuống không. Vì sùng bái thần tượng cho nên con người có khuynh hướng cho rằng một tiên tri đích thực phải nói lời nói trực tiếp của Thượng đế, và toàn bộ cuộc đời của vị tiên tri đã được định trước bởi một quyền lực cao hơn.  

Trong thực tế, Muhammad là một người đàn ông, và tương tự như bất kỳ tiên tri nào khác (kể cả chính ta), ông đã phải nâng cao tâm thức mình hầu phụng sự như một tiên tri. Để nâng cao tâm thức, ông phải trải qua một tiến trình tăng trưởng tâm linh. Ta không nói rằng bất cứ ai cũng đã có thể làm được như Muhammad, tuy nhiên không có gì bảo đảm là ông sẽ thành công đi muốt được tiến trình trở thành tiên tri. Ông đã phải có những quyết định để nâng cao tâm thức, và trong tiến trình này ông phải sẵn sàng bỏ lại một số tin tưởng cố hữu. Đây là một tiến trình hoàn toàn tùy thuộc vào quyền tự quyết của ông.

Mặc dù Muhammad quả là đã nâng cao tâm thức nhưng ông đã không hoàn toàn từ bỏ được một số yếu tố văn hóa, và điều này đã tác động đến các giáo lý được truyền dạy qua ông. Ảnh hưởng này đã phần nào dẫn đến sự kiện đạo Hồi trở thành một tôn giáo hiếu chiến. Tuy nhiên, phần lớn những điều được thêm vào sau này không phải là trách nhiệm của ông. Tương tự như vậy, người ta cũng đã thêm vào nhiều thứ trong đạo Cơ đốc mà ta không yêu cầu cũng như không muốn chịu trách nhiệm.     

Một cái nhìn xây dựng hơn về sự tức giận

Hỏi: Con đã đi trị liệu để chữa lành một số sự việc đau buồn mà con đã trải qua khi còn nhỏ. Con đi khám một bác sĩ trị liệu gestalt rất giỏi. Cũng như con, bác sĩ này đồng ý với rất nhiều giáo lý trên trang mạng này. Gần đây, con đã nhận được một số thông điệp lẫn lộn từ vũ trụ. Rất nhiều những kỹ thuật hiện đại được dùng để chữa trị tâm lý khuyến khích người bệnh đi vào bên trong và cảm nhận sự giận dữ đã bị kìm nén trong nhiều năm. Con nghe nói, đôi khi sự tức giận là điều lành mạnh, đó là một phần của cuộc sống làm người. Cũng có sự cần thiết cho những người đã làm mình tổn thương biết rằng mình tức giận về hành vi của họ một cách lành mạnh. Nhận thức hiện tại của con hoàn toàn phù hợp với điều đó. Tực giận thực sự là gì? Nếu tức giận không lành mạnh thì tại sao cảm xúc này lại “dính chặt” vào bản thể mình? Nói cách khác, tại sao chúng ta là con người lại có tức giận nếu đó là một cảm xúc không lành mạnh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Hãy cho ta bắt đầu với lời khen ngợi con đã đi trị liệu. Như ta đã nói trước đây, nếu những hình thức trị liệu hiện đại đã có 2000 năm trước đây thì ta đã bảo tất cả các môn đệ của ta gia nhập một hình thức trị liệu nào đó rồi. Những chướng ngại và vết thương trong tâm lý là một trong những cản trở chính yếu trong việc phát triển tâm linh, cho nên nếu mình đã có sẵn các phương tiện để chữa lành những vết thương đó thì tại sao lại không dùng? Không dùng cũng giống như từ chối uống thuốc penicillin để chữa bệnh viêm phổi vậy. 

Ta hiểu sự bối rối của con về sự tức giận, vì vậy hãy để ta chia sẻ một số suy nghĩ về đề tài này với con. Trước hết, các kỹ thuật trị liệu hiện đại khuyến khích người bệnh đi vào bên trong và tiếp xúc với nỗi tức giận bị kềm nén, đó là một điều đúng đắn. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần nhớ rằng tất nhiên mục đích để làm như vậy không phải là để khiến cho người đó trút giận lên người khác. Nói cách khác, mục đích của các hình thức trị liệu này không phải để khiến con nổi cơn thịnh nộ và hành hung bất cứ ai con gặp, mà để giúp con chạm được những cảm xúc bị đè nén bên trong hầu con nhận diện chúng và từ đó giải quyết chúng một cách xây dựng. Có một sự khác biệt hiển nhiên giữa việc trút giận lên đầu người khác và việc cho họ biết là mình tức giận hành vi của họ.

Cảm giác, hay cảm xúc, có thể được mô tả như là năng lượng đang chuyển động. Nếu con học tập bài giảng của ta về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy ta nói về cảm thể. Cảm thể có chức năng lấy xuống những ý tưởng được hình thành trong trí thể và khiến chúng chuyển động hầu chúng có thể thị hiện trong cõi vật chất. Do đó, chức năng của cảm xúc là tuôn chảy, và nếu con cố kềm nén cảm xúc lại, con sẽ làm nghẽn dòng chảy tự nhiên của năng lượng qua tâm thức con. Điều này sẽ chắc chắn tạo ra một số vấn đề tâm lý khác nhau, và người bệnh sẽ hưởng lợi rất nhiều nếu sử dụng kỹ thuật trị liệu để bước vào bên trong và giải hóa những điểm tắc nghẽn hầu năng lượng cảm xúc tuôn chảy lại tự nhiên. 

Vấn đề với cảm xúc là chúng chỉ đơn giản tạo ra sự chuyển động cho bất cứ gì đi vào cảm thể từ trí thể. Nói cách khác, cảm thể không phân biệt, nó không phân biện là điều đó có tốt hay xấu, đúng hay sai, xây dựng hay hủy hoại bản thân. Cảm xúc chỉ đơn giản tác động bất cứ gì đi vào cảm thể từ trí thể. Đó là tại sao con cần phải có một sự kiểm soát nào đó, bằng cái tâm ý thức, trên cảm xúc của con.

Trong một số tình huống, sự biểu lộ tức giận có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, và do đó việc kềm chế tức giận trong trường hợp này là giải pháp ít tệ hơn. Vấn đề xuất hiện khi người ta liên tục kềm chế tức giận thay vì tìm cách giải quyết nguyên nhân của tức giận trong trí thể, và có thể cả trong bản sắc thể là thể ether nơi neo giữ bản sắc của con.

Sự thật đơn giản là cho dù tức giận là một cảm xúc nhưng tức giận không phát xuất từ cảm thể. Nó phát xuất dưới hình thức những ý tưởng trong trí thể, đặc biệt là những ý tưởng khiến con nghĩ rằng cuộc sống phải như thế này hay như thế khác, và nếu tình huống bên ngoài không đúng như mong đợi thì nhất định phải có điều gì đó không ổn. Những ý tưởng này có thể khiến con nghĩ rằng nếu thế gian không đối xử với con theo cách mà con nghĩ con phải được đối xử, thì một sự bất công đã xảy ra và có ai đó phải là người đáng trách. Rồi điều này tạo ra ý tưởng là có người nọ là người đáng trách, và cảm xúc tức giận được xối ra khiến con muốn trừng phạt hay tìm cách trả đũa người đó.    

Vấn đề là hầu hết mọi người không hiểu cảm xúc xuất phát từ ý tưởng như thế nào. Họ chưa học cách tiếp cận với trí thể và khám phá tiến trình hình thành ý tưởng. Họ chưa nỗ lực xem xét những tin tưởng và thái độ nền tảng của họ đối với đời sống và nhìn xem những thái độ này khởi sinh ra ý tưởng cụ thể như thê nào, là những ý tưởng sẽ gây ra một số cảm xúc nhất định, ví dụ như tức giận. Nói cách khác, hầu hết mọi người đều không hiểu rõ những gì xảy ra ở mức tiềm thức trong tâm mình, mà cả cảm thể lẫn trí thể thì đều nằm bên dưới mức nhận biết ý thức của đa số con người. Cho nên điều xảy ra cho hầu hết mọi người là khi họ trải nghiệm một tình huống đi ngược lại sự chờ đợi của mình, họ sẽ không thấy được những ý tưởng đã kích hoạt cảm xúc. Họ chỉ đơn giàn trải nghiệm cảm thể của họ nổi lên đùng đùng và họ cảm thấy tức giận.  

Nhưng ngay lúc đó, cơn giận đã được sản sinh, ngọn lửa đã bùng lên và con chỉ còn cách cố gắng dập tắt ngọn lửa. Tâm ý thức của con nay sẽ phải chọn lựa nó sẽ làm gì với cơn tức giận. Một số người không đủ tự chủ để tránh khỏi bộc lộ cơn tức giận qua hành vi, vì vậy họ sẽ phản ứng đủ mọi cách. Hành vi của họ sẽ gây ra phản ứng tiêu cực từ người khác, phản hồi lại trên họ. Điều này có thể tạo ra một vòng xoáy tiêu cực ngày càng tạo thêm tức giận. Khi năng lượng động cảm không ngừng chồng chất, một xoắn ốc năng lượng hình thành trong trường năng lượng của con, trong cảm thể của con. Rốt cuộc, xoắn ốc này có thể mãnh liệt đến nỗi nó sẽ áp đảo mọi nỗ lực của con nhằm kiểm soát nó, và đó là khi con hoàn toàn mất tự chủ. Đây là nguyên nhân khiến cho một số người mắc phải bệnh tức giận kinh niên mà họ không làm sao kềm giữ.    

Một số người khác, thường noi theo lời dạy và thái độ của tôn giáo mình, tin rằng việc có cảm xúc hay biểu lộ cảm xúc tức giận luôn luôn là điều sai trái. Do đó họ vận dụng tất cả sức mạnh ý chí của họ để cố kìm nén tức giận. Một số sẽ làm điều này thành công trong một thời gian, nhưng một lần nữa, một xoắn ốc năng lượng lại bắt đầu hình thành trong tâm tiềm thức và cuối cùng nó sẽ trở nên mãnh liệt đến độ chính ý chí có ý thức của họ cũng không thể cầm giữ được. Một số người có khả năng tự chủ mạnh mẽ đến mức họ có thể kềm nén sự tức giận suốt một đời người, thế nhưng làm như vậy sẽ tác động lên tinh thần và cơ thể họ bằng nhiều cách. Rất nhiều bệnh tật chỉ đơn giản là hiệu ứng vật lý của những cảm xúc bị đè nén, kể cả tức giận. Điều ta muốn nói là cách đối phó của nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, cụ thể là kềm chế mọi sự tức giận, không phải là cách lành mạnh nhất. 

Có hai điều con có thể làm để có được một cách tiếp cận xây dựng đối với sự tức giận. Điều đầu tiên là sử dụng một số kỹ thuật trị liệu hiện đại để phơi bày nỗi tức giận bị kềm nén và giải tỏa những cảm xúc này vĩnh viễn. Điều này có nghĩa là con biểu lộ tức giận cách nào để không gây ra vòng xoáy tiêu cực giữa con và người khác. Nói cách khác, trút giận lên người khác thật là không lành mạnh, trong khi điều lành mạnh là bày tỏ niềm tức giận trong một khung cảnh được quản lý. Một số kỹ thuật chữa bệnh hiện đại, kể cả trị liệu gestalt, có thể giúp con chạm được nỗi tức giận của mình và bày tỏ ra trong một cách khả dĩ tái lập lại dòng chảy năng lượng xuyên qua cảm thể của con.    

Vấn đề với những kỹ thuật trị liệu đó là mặc dù việc biểu lộ tức giận có thể giúp con tái lập một dòng chảy năng lượng đúng đắn, nỗi tức giận vẫn phóng ra một khối năng lượng tha hóa. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, có một dòng năng lượng xối chảy liên tục từ cái ta tâm linh của con xuống các tầng cấp của tâm con. Khi con bước vào những ý tưởng và cảm xúc tiêu cực, con làm cho năng lượng bị tha hóa và năng lượng này sẽ ở lại trạng thái tha hóa này cho tới khi con làm gì đó để khiến nó thanh khiết trở lại.    

Chính năng lượng tha hóa này tích tụ trong trường năng lượng của con tạo ra cái xoắn ốc tiêu cực khiến cho dòng chảy năng lượng bị tắc nghẽn. Vì vậy khi việc điều trị giải toả được chỗ nghẽn này thì đó là một điều rất tốt, tuy nhiên việc biểu lộ tức giận không hề biến hóa năng lượng tiêu cực. Do đó, điều sẽ vô cùng ích lợi cho con, cho nhân loại nói chung và cả cho toàn thể hành tinh, nếu các nhà trị liệu hiện đại hiểu biết hơn về nhu cầu phải biến hóa năng lượng tiêu cực. Đây chính là lý do tại sao các chân sư thăng thiên đã ban ra một số kỹ thuật tâm linh để biến hóa năng lượng, kể cả Ngọn lửa Tím và những bài cầu nguyện tràng hạt mà con có thể tìm thấy trong trang dụng cụ tâm linh. Do đó ta mạnh mẽ khuyến cáo mọi người nên phối hợp việc trị liệu với các kỹ thuật nhằm biến hóa năng lượng. Làm vậy sẽ đẩy nhanh rất nhiều tiến trình chữa lành bệnh và đem lại kết quả tốt đẹp hơn.    

Bây giờ ta sẽ nói đến bước thứ nhì của tiến trình chữa lành bệnh. Như ta đã trình bày, cảm xúc của con phát xuất từ ý tưởng. Nếu con thực sự muốn chữa lành tâm lý mình, thật là không đủ nếu con chỉ chạm được nỗi tức giận, biểu lộ tức giận và biến hóa năng lượng tiêu cực do tức giận sản sinh ra. Sau khi con đã đi qua tiến trình giải quyết nỗi tức giận và tái lập một dòng chảy năng lượng đúng đắn xuyên qua cảm thể, con cần bước lên tầng mức kế tiếp, đó là đi vào trí thể và phát hiện những ý tưởng và thái độ đã dẫn tới tức giận. Xong con cần nhận ra là những ý tưởng đó khởi lên từ một số quyết định mà con đã từng có về cách con nhìn bản thân mình, về cách con nhìn Thượng đế và cách con nhìn quan hệ của con với Thượng đế. Khi con phơi bày những ý tưởng này, con mới có thể khởi sự thay thế các quyết định đã gây ra giới hạn và dẫn tới tức giận bằng những quyết định tốt hơn.  

Những điều ta đang nói ở đây là một tiến trình để làm chủ moi bộ phận của bản thân con, kể cả trí thể và ý thức bản sắc của con. Tiến trình này thực sự là con đường đưa đến quả vị Ki-tô cá nhân, và khi con bước đi trên con đường này, con sẽ lần hồi thay thế mọi thái độ và tin tưởng gây giới hạn bằng những tin tưởng cao hơn. Ở cuối tiến trình đó, con sẽ hoàn toàn điều ngự được bản thân, hầu con có thể đáp ứng bất cứ điều gì xảy ra trong thế gian mà không phản ứng theo cách sai khiến của những bế tắc trong cảm thể, những quyết định gây giới hạn trong trí thể hay ngay cả cái ý thức bản sắc hạn hẹp trong thể ether. Khi đó, con sẽ thực sự sống đúng với câu nói rằng ông hoàng của thế gian cứ việc tới nhưng y sẽ không cầm được bất cứ gì nơi con hầu thao túng hay kiểm soát được con.    

Khi con đạt được sự tự do nội tại này, con sẽ không bao giờ cảm thấy tức giận phàm phu mà hầu hết mọi người đều trải qua. Đó là một hình thức tức giận luôn luôn xuất phát từ một cảm nhận bất công hay một cảm nhận trách móc. Phải có ai đó đã làm điều gì sai trái và họ xứng đáng bị trách cứ về hành vi của họ, và con sẽ cho họ biết điều đó một cách không chối cãi. Hình thức tức giận này luôn luôn nẩy sinh từ một ý muốn trừng phạt một ai đó, qua một biện pháp vật lý hay một biện pháp tình cảm để khiến họ phải đau khổ vì cách họ đã đối xử với con – kể cả việc con tự trừng phạt và tự khiến mình đau khổ vì những lỗi lầm mà dường như con đã phạm vào.     

Nhân tiện đây cũng nói thêm, nếu một nỗi tức giận không nhắm vào một người nào nhất định (chẳng hạn như vì sợ hãi) cuối cùng nó sẽ chĩa trở về con. Đó là tại sao nhiều người đã từng bị lạm dụng hồi còn nhỏ thường hay cảm thấy một niềm tức giận – thường che giấu – đối với chính mình. Những người này cần nỗ lực tha thứ bản thân mình và biến hóa nỗi tức giận.

Quả thật, con hoàn toàn có khả năng thoát khỏi sự tức giận phàm phu. Nhưng con cũng nên biết tới những nhận xét của ta về sự khác biệt giữa tức giận phàm phu và sự thịnh nộ thần thánh.

Cuối cùng, hãy cho ta nói rằng sự tức giận không “dính chặt” vào con người tâm linh của con hay vào cái Ta Biết. Nó chỉ dính chặt vào tâm nhị nguyên mà thôi. Cho nên chìa khóa để vượt qua tức giận phàm phu là vươn lên khỏi trạng thái tâm thức đó, gạt bỏ con người cũ của tâm nhị nguyên và bước vào con người mới của tâm Ki-tô. Đó chính là tiến trình mà ta giảng dạy suốt trang web này.

Điều thiết yếu trong lành bệnh và cầu nguyện là sự chấp nhận

Hỏi: Con có thấy nhiều người cầu nguyện đạt được kết quả kỳ diệu cho người mà họ cầu nguyện. Tuy nhiên họ vẫn theo các tổ chức truyền thống và những tư tưởng mà thày nói là lầm lạc. Có thể nào họ vẫn nối kết được với cái ta Ki-tô bất chấp những lời dạy sai lầm, và chúng con có nên đối chất họ với những ý tưởng mới hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Nếu con nhìn vào những phép lạ của ta như được mô tả trong thánh thư, con sẽ thấy ta đã chữa lành cho những người xuất thân từ nhiều thành phần và nhiều tín ngưỡng khác nhau. Con cũng sẽ thấy rằng yếu tố chính trong việc chữa lành bệnh mà ta đã thực hiện là đức tin của người được chữa lành. Con sẽ thấy có những trường hợp ta không chữa được ai cả hoặc chỉ chữa được một vài người. Lý do là vì những người này không có đủ đức tin để đem lại sự lành bệnh trong họ.   

Điều này sẽ giúp con hiểu rằng yếu tố thiết yếu để thấy thành quả chữa bệnh là đức tin của riêng con nơi Thượng đế hay một sinh thể tâm linh nào khác. Đức tin là một trạng thái nội tâm, một phẩm chất của trái tim. Đức tin không nhất thiết liên quan tới tư cách là thành viên của một tổ chức vỏ ngoài hay sự tuân thủ những tin tưởng vỏ ngoài là những tin tưởng được lưu giữ chủ yếu trong tâm. Chắc chắn có nhiều người thuộc các giáo phái đạo Cơ đốc hay những đạo khác đã cổ xúy cho những tín điều thiếu sót, sai lầm, thậm chí giả trá. Tuy nhiên nếu họ có phẩm chất đức tin bên trong, là đức tin như trẻ thơ mà ta đã nói là chìa khoá để bước vào Nước trời, thì lời cầu nguyện của họ có thể được hồi đáp và thực sự đem lại kết quả kỳ diệu.

Hẳn con có nhớ câu trong Kinh thánh nói rằng đức tin là thực chất của những điều trông mong, là bằng cớ của những điều chưa thấy (Hebrews 11:1). Sự thật đằng sau câu đó là kết quả kỳ diệu luôn luôn đã sẵn hiện hữu như một tiềm năng tâm linh. Tuy nhiên để trở thành một hiện thực, tiềm năng tâm linh phải được đem vào vũ trụ vật chất từ cõi tâm linh. Để thị hiện trong vũ trụ này, kết quả cụ thể phải đi qua một ngưỡng cửa giữa thế giới tâm linh và thế giới vật chất. Ngưỡng cửa này chính là tâm thức Ki-tô, nhưng đối với một người chưa đạt quả vị Ki-tô, việc chữa lành bệnh có thể thông qua tâm Ki-tô của ta, của Mẹ Mary hay một vị thánh mà người đó đang cầu nguyện. Tuy nhiên, để cho thành quả được thị hiện, người đó phải giữ vai trò làm neo trong vũ trụ vật chất, và điều này có thể xảy ra qua trái tim người đó có đức tin hồn nhiên như trẻ nhỏ.

Trong mọi lãnh vực của đời sống đều có những con người nối kết chặt chẽ với cái ta Ki-tô của mình. Con có thể tìm thấy họ trong rất nhiều tôn giáo không phải là đạo Cơ đốc, thậm chí cả trong số những người theo thuyết vô thần hay bất khả tri. Như ta có trình bày khắp trang mạng của ta, tâm thức Ki-tô không phải là kết quả máy móc của việc gia nhập một giáo hội nào hay tin vào một tín điều vỏ ngoài nào. Đó là một phẩm chất bên trong, phẩm chất của trái tim. 

Chúng ta có thể mô tả đức tin một cách khác. Như các chân sư giảng dạy, quy luật cơ bản của vũ trụ vật chất là quyền tự quyết. Do đó, ta không thể chữa lành cho một người nếu người đó không muốn, tức là không những ta không thể đi ngược lại ý chí có ý thức của họ – bởi vì có ai mà không muốn mình hết triệu chứng bệnh tật? – mà cả ý chí trong tiềm thức họ nữa. Nhiều người giống như một căn nhà bị phân rẽ, nghĩa là họ có những tin tưởng trong tiềm thức ngăn cản họ lành bệnh.   

Cho nên chúng ta có thể nói, đức tin là khi con đã khắc phục sự phân rẽ bên trong này để tim con được thuần khiết. Và từ đó con nhận biết – là sự nhận biết nội tâm vượt khỏi mọi lý luận của lý trí – rằng Tánh linh có quyền năng trên vật chất, có nghĩa là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên thực sự có quyền năng thay đổi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu.

Câu hỏi cốt lõi trong việc chữa lành là liệu con có thực sự và hoàn toàn tin rằng những gì con cầu nguyện có thể thị hiện và được thị hiện hay không. Con sẽ thấy là đôi khi ta hỏi một người: “Con có tin là ta có quyền năng làm chuyện này không?” Và chỉ khi nào họ tin như vậy thì họ mới có khả năng chấp nhận việc chữa lành có thể thành công. Ta không có thẩm quyền đi ngược lại ý chí tự quyết của con. Cho nên nếu con xin lành bệnh mà không hoàn toàn chấp nhận điều đó là khả dĩ, tâm tiềm thức của con sẽ vô hiệu hóa những lời cầu nguyện ý thức của con. Thật ra, lời cầu nguyện từ một cái tâm phân rẽ sẽ không tới được cõi tâm linh bởi vì lời đó đã bị tâm của họ bác bỏ.

Con có hỏi liệu con có nên đối chất người ta với những lời day của ta trên trang mạng này. Đây là một câu hỏi không có câu trả lời chung chung. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của cá nhân người đó. Một số người có đức tin hồn nhiên như trẻ nhỏ khiến sự kiện họ tin vào một vài giáo điều sai lầm cũng không quan trọng lắm. Tuy nhiên đối với nhiều người khác, họ sẽ được lợi ích rất nhiều nếu họ được khai sáng và nhận được một hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới tâm linh.

Khi giao tiếp với người khác, ta khuyên con nên nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của con. Điều ta muốn nói ở đây là con không bao giờ được quyết định với tâm vỏ ngoài rằng con có nhu cầu phải cải đạo bất cứ ai để họ theo một tín ngưỡng nào đó. Thay vào đó, con hãy đặt trung tâm vào tim con, và nếu con nhận được lời nhắc nhở từ bên trong là con nên chia sẻ một ý tưởng nào đó với họ, thì bằng mọi cách, con hãy làm, và làm trong tình thương.

Nếu con quan tâm đến việc quảng bá giáo lý, ta thực sự khuyên con nên học tập quyển “Cái đến huyền bí của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ). Quyển sách giải thích một cách tường tận sự khác biệt giữa việc tiếp cận tôn giáo trong sợ hãi hay trong tình thương. Con sẽ thấy nhiều nhà truyền giáo, kể cả những nhà truyền giáo đạo Cơ đốc, có cách rao giảng phúc âm dựa trên sợ hãi. Họ tìm cách cải đạo người khác bằng cách đánh vào nỗi sợ hãi của con người là mình sẽ bị đày xuống địa ngục hay không được cứu rỗi. Cách đó không phải là cách của ta. Ta tiếp cận trong tình yêu thương. Khi con làm như ta, con sẽ không bị thúc đẩy bởi động lực sợ hãi và do đó con không quyết định với tâm vỏ ngoài những gì người khác phải tin hay không tin. 

Con không tìm cách thuyết phục họ là con có lý. Thay vào đó, con hòa điệu với cái ta Ki-tô của con, và mục đích của con là giúp họ đạt được bước kế tiếp trên con đường tâm linh của họ, bất kể bước đó là gì. Con chỉ cố giúp họ có được một hiểu biết cao hơn vượt khỏi mọi quan điểm vỏ ngoài, trí thức, phát xuất từ sợ hãi, về những điều mà họ cần hiểu. 

Rốt cuộc thì một đức tin nội tâm nơi Thượng đế phát xuất từ tình thương quan trọng hơn nhiều so với việc tuân thủ một số ý tưởng vỏ ngoài phát xuất từ sợ hãi, bất kể những ý tưởng này có đúng đến đâu. Và tất nhiên, nếu con có được cả đức tin lẫn cái hiểu đúng đắn, thì đó là điều lý tưởng cho một người tầm đạo tâm linh.

Chữa lành bằng Thánh linh hay phàm linh thấp kém?

Hỏi: Thày Giê-su có thể vui lòng cho con biết những hiện tượng chữa lành bệnh được chiếu trên truyền hình trong các chương trình Tin Lành (evangelistic) có phải là do thày chữa lành? Những sự việc đó có thật không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta không thể cho con một câu trả lời chung cho câu hỏi này. Sự thật là chính ta và một số các chân sư thăng thiên khác sẽ hợp tác với bất cứ cá nhân nào đạt được một trình độ tâm thức Ki-tô nào đó. Do đó, chúng tôi có làm việc với một số nhà truyền giáo và người chữa bệnh truyền giáo, nhưng chúng tôi không làm việc với tất cả. Ngay cả khi chúng tôi cộng tác với một người, chúng tôi cũng không nhất thiết cộng tác luôn luôn.

Ở vài nơi trên trang mạng này, ta có so sánh tâm con người như nút quay trên máy thu thanh. Con có thể quay nút và điều chỉnh tần số các đài phát thanh mà con muốn bắt, thì cũng như vậy, con có khả năng quay nút trong tâm con và hòa điệu với những tầng mức thực tại khác nhau. Một số tầng mức này ở trong cõi tâm linh, và khi con hòa điệu vào đó, con trở thành một phương tiện của các chân sư thăng thiên và có thể phụng sự các thày trong một số khả năng. Tuy nhiên, tâm con cũng có thể đồng điệu với những tầng mức thấp kém hơn không ở trong cõi tâm linh. Ở những tầng này là các sinh thể thấp kém và khi con mở cửa tâm thức con cho chúng, con có thể trở thành công cụ của chúng, như ta đã có dịp trình bày chi tiết hơn nơi khác. 

Vấn đề khiến cho nhiều người bị gạt gẫm là các sinh thể ở các cõi thấp kém dư khả năng tạo ra nhiều hiện tượng, chẳng hạn như nói ngữ kỳ lạ (speaking in tongues) hoặc chữa bệnh. Đây là một sự kiện nói chung không được các tín hữu Cơ đốc Tin lành (evangelistic Christians) biết đến hay nhìn nhận. Nhiều người trong số những tín hữu đó tin rằng bất cứ điều gì họ làm trong buổi lễ nhà thờ, bất cứ gì họ làm nhân danh ta, đều thuộc về ánh sáng. Họ tin rằng bất cứ khi nào có hiện tượng xảy ra thì đó phải là biểu hiện của một thực tại tâm linh chân chính. Không nhất thiết là như vậy.

Có một số nhà thờ truyền giáo sử dụng những kỹ thuật khác nhau, kể cả nhạc rock, để đưa hội chúng vào một trạng thái tâm thức biến đổi. Như ta đã nói, tâm con người tương tự như chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được nhiều đài khác nhau. Cho nên thật là không khó gì quay nút của tâm và sản xuất ra một trạng thái tâm thức biến đổi. Câu hỏi đặt ra là liệu người đó hòa điệu tâm mình với cõi tâm linh hay với một cõi thấp kém.

Nếu người đó không có một trình độ phân biện Ki-tô nào đó, họ sẽ vô cùng khó khăn lượng định được mình đang hòa điệu với cõi tâm linh hay một cõi thấp hơn. Sự khó khăn này càng tăng lên gấp bội nếu họ tin rằng bất cứ một trạng thái tâm thức biến đổi nào cũng đều phải thuộc về ánh sáng. Sự chấp nhận mù quáng kiểu đó thật là nguy hiểm và có khả năng tạo ra những trải nghiệm và hiện tượng không thuộc về ánh sáng. Có những nhà truyền giáo là kẻ lãnh đạo mù cho những hội thánh mù.

Hãy cho phép ta chia sẻ quan tâm chính yếu của ta về đạo Cơ đốc truyền giáo Tin Lành. Có rất nhiều giáo hội truyền giáo tuyên bố làm việc với Thánh linh (Holy Spirit), Họ tuyên bố trải nghiệm nhiều trạng thái tâm thức và hiện tượng hữu hình khác nhau và đó là biểu hiện của Thánh linh. Sự thật quan trọng nhất  mà con có thể hiểu được về Thánh linh là câu, “Thánh linh muốn thổi đâu thì thổi”.

Sự thật đằng sau câu này là Thánh linh không tôn trọng những tin tưởng và quan điểm của con người khi các tin tưởng và quan điểm này không đứng thẳng hàng với thực tại và chân lý của Thượng đế. Và con nay đã thấy được, có hai điều kiện phải hội đủ trước khi một người có thể tiếp xúc thực sự với Thánh linh. Người đó cần có chút thông hiểu về sự thật để có khả năng phân biện giữa Thánh linh và các loại linh thể thấp kém – ta muốn nói một sự thông hiểu chân lý đích thực chứ không phải một cách diễn giải nhân tạo nào đó. Và người đó cũng phải có tâm trí và con tim mở rộng hầu sẵn sàng nhập vào dòng Tánh linh. Nếu con đã có sẵn một số tin tưởng chắc nịch và cố định về Thượng đế và nếu con tìm cách ép uổng Thánh linh vào cái hộp tư duy của con, thì con không có hy vọng làm việc với Thánh linh chân thực đâu.      

Khi con áp dụng vào đạo Cơ đốc Tin Lành, con sẽ thấy nhiều người trong số đó cả quyết là họ làm việc với Thánh linh, thế nhưng đồng thời họ lại có một cách tiếp cận đạo Ki-tô vô cùng cứng nhắc, cực chính thống (fundamentalist) và hiểu kinh điển theo nghĩa đen (literal). Họ tin rằng Thánh kinh là lời Thượng đế sát từng chữ – điều này không nhất thiết là đúng đắn như ta đã có dịp trình bày ở nơi khác. Điều ta muốn nói là nhiều người trong phong trào truyền giáo đã tạo ra những cái hộp hẹp hòi trong tâm họ đến độ không còn chỗ nào cho Thánh linh thổi vào nữa.  

Nhiều người trong số đó tin mình đang làm việc với Thánh linh và họ có thể chỉ ra đủ loại hiện tượng để làm bằng chứng. Vấn đề là do những cái hộp tư duy hạn hẹp mà họ đã dựng lên chung quan tâm họ, họ không cởi mở với sự phân biện đích thực chỉ có thể đến được từ tâm Ki-tô. Vì thế họ không có phân biện chân chính và không làm sao phân biệt được Thánh linh với một phàm linh thấp kém hơn. Kết quả là rất nhiều những hiện tượng mà họ rao giảng, kể cả việc chữa bệnh, không là việc làm của Thánh linh mà của các phàm linh thấp kém đội lốt Thánh linh. 

Điều này khiến ta rất quan tâm. Lý do là vì có rất nhiều người trong phong trào truyền giáo là những người tâm linh có thiện chí thực sự và là người tìm kiếm Thượng đế. Tiếc thay, phong trào này cũng như tư duy cực chính thống của nó, khiến cho họ bị kẹt vào một hộp tư duy xơ cứng, và do những giới hạn của hộp tư duy, họ không làm sao tiếp xúc được với Thánh linh. Trong mong muốn rạo rực muốn trải nghiệm Tánh linh, họ mở cửa ra cho các loại phàm linh thấp kém. Vì họ quá ước ao Tánh linh, họ dùng vũ lực để cố chiếm thiên đàng, nhưng họ lại không chịu trải qua một tiến trình buông bỏ mọi định kiến và mọi điều tin tưởng sẵn có. Sự buông bỏ này, sự quy hàng này trước sự thật của Ki-tô – đối lại với “sự thật” nhân tạo của phàm phu – mới là điều thiết yếu để nhận được quyền năng của Thánh linh. Nếu con không để cho Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, con không thể nhận được trọn vẹn quyền năng của Tánh linh.        

Nói vậy rồi, ta xin nói rõ thêm là trong phong trào tuyền giáo Tin Lành có rất nhiều người có một mức độ tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô nào đó. Những người này đã có làm việc với Thánh linh và có thể thị hiện một số hiện tượng chân thực, kể cả chữa lành bệnh. Cũng có một số người có khả năng hòa điệu với Thánh linh trong một thời gian ngắn nhưng chưa hẳn phát triển được tánh phân biện đích thực. Cho nên thật là hên xui may rủi với họ. Đôi khi họ làm việc với Thánh linh, và có những lúc khác họ làm việc với các phàm linh thấp kém.

Ta có thể xác nhận với con là trong phong trào truyền giáo Tin Lành có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên, để tiềm năng này trở thành hiện thực và phong trào trở thành một công cụ chân chính cho Thánh linh và các chân sư thăng thiên, cần có một túc số những người sẵn lòng từ bỏ cách tiếp cận tôn giáo vỏ ngoài, từ bỏ cách tiếp cận cực chính thống. Họ cần nỗ lực sốt sắng đạt được phân biện Ki-tô sẽ cho phép họ gạt bỏ các làn sóng của phàm linh thấp kém để bắt được làn sóng của Thánh linh đích thực.

Nếu điều này xảy ra, con sẽ thấy luồng Thánh linh tuôn trào xuống mạnh mẽ, và các chân sư thăng thiên sẽ làm việc được với nhiều người trong phong trào truyền giáo. Sự thể ngày hôm nay là phong trào này mới thể hiện được khoảng 5% tiềm năng của họ để làm công cụ cho Thánh linh. Vậy con có thể phỏng đoán 95% những sự việc chữa bệnh và hiện tượng mà phong trào truyền giáo rao truyền là không xác thực và không đến từ Thánh linh. Ta mong muốn nhìn thấy con số này lật ngược, nhưng điều đó sẽ đòi hỏi một sự thay đổi tâm thức, một sự thay đổi con tim trong số các thành viên và lãnh đạo của phong trào. Có sẽ xảy ra hay không? Ta không trả lời được câu hỏi này.

Liên quan đến câu hỏi liệu việc chữa lành bệnh có thật hay không, ta xin nói là sự chữa lành đích thực đòi hỏi hai điều. Trước tiên phải có sự can thiệp của Thánh linh đích thực chứ không phải của một phàm linh thấp kém. Có thể là một phàm linh thấp hơn có khả năng loại bỏ những triệu chứng thể chất khỏi một người, nhưng theo mực của ta, đó không phải là chữa lành thực sự, Yếu tố thứ hai của việc chữa trị, người bệnh phải nâng cao tâm thức mình lên một mức cao hơn. Khi ta chữa bệnh cách đây 2000 năm, con có thể đọc trong kinh điển rằng chính đức tin của bệnh nhân đã là yếu tố quyết định trong việc chữa bệnh. Một số người được chữa khỏi chính vì họ có đức tin rất cao.      

Nhưng như được giải thích ở một nơi khác, chu kỳ tâm linh đã quay sang một chu kỳ mới. Ngày nay, đức tin vào một quyền năng bên ngoài không còn đủ nữa. Điều cần thiết thời nay là phải hiểu biết rằng mọi điều kiện trong cuộc sống đều phản ánh những điều kiện trong tâm thức. Nói cách khác, một căn bệnh thể chất bắt nguồn từ một tình trạng trong tâm thức, và tình trạng này phát xuất từ một tin tưởng sai lầm về chính bản thân mình và Thượng đế. Để thực sự chiêm nghiệm sự lành bệnh vật lý, lành lặn các triệu chứng trong thể xác, con phải đi sâu vào tiềm thức cuả con và giải quyết tin tưởng sai lầm ở đó.  

Đây là thêm một lý do khiến cho phong trào truyền giáo Tin lành gặp phải vấn đề. Để thật sự giải tỏa tin tưởng sai lầm về Thượng đế, con phải nhìn vượt ra khỏi hầu hết những cái hộp tư duy đang trổi nổi quanh khắp thế giới ngày nay, kể cả những hộp tư duy do đạo Cơ đốc Tin lành hoặc đạo Cơ đốc cực chính thống sản xuất ra. Nếu con không sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài những hộp đó, con sẽ không thể chữa lành thật sự và rất có thể con cũng không mở tâm ra được với Thánh linh. Thay vào đó, nhiều người mở tâm ra với các phàm linh thấp kém, và các phàm linh này chẳng có vấn đề gì tạo ra một sự lành bệnh vật lý mà không giải quyết tâm thức. Lý do chỉ là vì các phàm linh thấp kém muốn giữ con người kẹt cứng vào những tin tưởng giới hạn của họ.

Sự thiếu vắng giải pháp nội tâm sẽ giúp con hiểu tại sao con thường thấy những người vừa được chữa bệnh trong buổi lễ nhà thờ lại bị bệnh tái phát ngay sau đó. Nếu con không đi vào tâm lý và giải tỏa các tin tưởng giả tạo đã gây bệnh thì việc chữa lành sẽ không thể lâu dài. Đây là một sự thật thường không được các tín hữu Cơ đốc giáo nhìn thấy, và lý do là vì họ không sẵn sàng nhìn xa hơn hộp tư duy của họ.

Cũng cho phép ta nói thêm, nhiều người mang bệnh tật như là một cách để giữ quân bình cho các điều kiện của thế giới. Một căn bệnh như vậy sẽ không nhất thiết được chữa lành, ngay cả khi người đó có liên hệ đích thực với Thanh linh và đã giải quyết mọi tin tưởng sai lầm của mình. Sự giải thích nằm ở chỗ dòng sống đó đã tình nguyện mang vào mình một số năng lượng tiêu cực của thế giới (như ta đã từng mang tội lỗi cho thế giới) và do đó căn bệnh sẽ không chữa lành qua Thánh linh. Nó có thể được chữa lành qua một số kỹ thuật tâm linh, chẳng hạn như cầu thỉnh Ngọn lửa Tím như được mô tả ở nơi khác. Khi một căn bệnh bắt nguồn từ sự tình nguyện của một dòng sống nhằm gánh vác năng lượng tha hóa cho thế gian, cách duy nhất để chữa lành là biến hóa năng lượng tha hóa trở về sự tinh khiết nguyên thủy.

Giáo lý nền tảng về nuôi con

Hỏi: Con đã nghiên cứu những cách hiểu khác nhau về cách nuôi nấng, sửa đổi, trừng phạt trẻ con. Kinh Cựu ước trong Thánh kinh chủ trương hình phạt bằng roi gậy hay thể xác. Con không tìm thấy điều gì trong Tân ước. Thưa Giê-su, lời dạy của thày về đề tài này là thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Hãy làm cho con cái của con như con muốn con cái của con làm cho con. Đó là câu trả lời từ Tân ước.

Câu trên liên quan thế nào với hình phạt thể xác? Thực tế đơn giản là một trong những bổn phận của cha mẹ là dạy cho con mình thiết lập ranh giới trong cách cư xử của chúng. Nếu con suy ngẫm điều này, con sẽ nhận ra là một trong những đặc điểm của trẻ con là chúng phải học cách tìm sự quân bình đúng mức giữa các thèm muốn ngắn hạn vị kỷ của chúng với những ham muốn dài hạn mà sự thực hiện tùy thuộc vào khả năng hòa nhập của chúng với người chung quanh. Điều này có nghĩa là trẻ con cần học cách hạn chế ham muốn ngắn hạn hầu tránh cho ham muốn dài hạn không thể thành hình. Có thể nói đó là bài học căn bản của cuộc sống – con có muốn một phần thưởng tạm thời trong thế gian hay là phần thưởng vĩnh hằng ở thiên đàng?

Khi trẻ con còn nhỏ, chúng không thể học được bài học này qua khả năng lý luận vì các khả năng này chưa phát triển đầy đủ. Vì vậy chúng cần học hỏi nhờ cha mẹ giữ vai trò người hướng dẫn thương yêu lập ra những hạn chế nghiêm minh và thích hợp cho những cư xử ích kỷ của chúng. Con thử nghĩ xem, đây chính là điều mà con mong muốn cha mẹ mình đặt ra cho mình và vì vậy đó cũng là điều mà con cần làm đối với con cái của con.   

Sự dạy dỗ về các giới hạn phải khởi sự thật sớm, ngay từ khi đứa trẻ còn bú sữa. Con cần dạy trẻ thơ là mẹ nó không thể phục dịch cho nó 24 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên, cái khó là làm như vậy một cách yêu thương để đứa trẻ không bao giờ cảm thấy bị bỏ rơi. Ta hiểu đây là một điểm quân bình rất tế nhị và không thể áp dụng một quy tắc trắng đen nào được. 

Điều quan trọng nhất mà cha mẹ cần hiểu về con mình là mỗi đứa trẻ là một cá thể độc nhất. Đứa trẻ không phải là một dòng sống non nớt mà là một dòng sống đã già tuổi với một tâm lý vô cùng phức tạp được nhào nặn suốt rất nhiều kiếp sống. Do đó, con không thể đặt ra một hệ thống nuôi nấng con cái hay những quy luật trắng đen áp dụng cho mọi đứa trẻ. Đây là điều sai lầm to lớn của một số nhà giáo dục và tâm lý hiện đại về trẻ em. Họ cố đeo đuổi mục đích hão huyền để tìm ra một hệ thống giáo dục tối hậu, một loại máy điều khiển tâm trí trong đó họ có thể nhét mọi trẻ em ở đầu này rồi biến chúng thành những công dân mẫu mực ở đầu bên kia. Một hệ thống như vậy thật sự không thể có, và lý do là vì Thượng đế đã ban cho mỗi dòng sống một sắc thái độc nhất vô nhị.

Cho nên mỗi đứa trẻ phải được đối xử như một cá thể độc đáo, và lý tưởng điều này chỉ có thể làm được khi cha mẹ có khả năng trực giác nhậy bén, nghĩa là cha mẹ đã đạt được một trình độ tâm Ki-tô tương đối. Và qua đó, cha mẹ có khả năng hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình và nhận được sự hướng dẫn nội tâm về cách đối xử với một đứa trẻ đặc thù trong một hoàn cảnh đặc thù. Như vậy cha mẹ mới làm tròn được chức năng của mình là trở thành người thày tâm linh dẫn dắt sự tiến hoá của con mình một cách trìu mến, cho tới khi nó có thể bắt đầu làm như vậy qua sự hòa điệu nơi chính nội tâm của nó.

Về vấn đề hình phạt thể xác, điều quan trọng là cha mẹ cần thiết lập những giới hạn phù hợp cho cách cư xử ích kỷ của con mình. Đối với một số đứa trẻ, hình phạt thể xác sẽ cần thiết trong khi rất nhiều đứa khác thì sẽ không bao giờ cần phải đánh đòn. Nếu cần thiết, việc này có thể làm từ 2 tuổi trở đi, có khi phải sớm hơn một chút. Đây là lý do tại sao người ta hay nói đến tuổi lên 2 “khủng khiếp”, vì ở tuổi này đứa trẻ phải học cách thiết lập những giới hạn cho hành vi của nó. Nếu nó không học ở tuổi này, nó sẽ vô cùng khó khăn thiết lập ranh giới vào tuổi dậy thì – và ở tuổi đó, cha mẹ đã mất đi cơ hội dạy con về giới hạn. Một thiếu niên khó khăn ở tuổi dậy thì thường sinh ra ở tuổi lên 2.

Hiển nhiên, ta không chủ trương đánh đòn mạnh tay khi đứa trẻ còn nhỏ. Đúng hơn, ta không chủ trương trừng phạt gay gắt đối với bất cứ tuổi nào, dù là thể xác hay là không. Điều quan trọng cần hiểu rõ là vai trò của cha mẹ là thiết lập giới hạn cho cách cư xử ích kỷ của con mình. Mục đích cha mẹ không được bao giờ là trừng phạt đứa trẻ.

Có sự khác biệt căn bản giữa việc thiết lập giới hạn nghiêm minh với việc trừng phạt. Việc thiết lập giới hạn đến từ một động lực trong sáng, thương yêu hầu giúp đứa trẻ phát triển. Nhưng trừng phạt đến từ một động lực không trong sáng, không thương yêu, khi cha mẹ trút hết những bực bội của mình lên đầu đứa trẻ. Điều này không bao giờ chính đáng, và ta nói rõ: KHÔNG BAO GIỜ. Cá nhân con có trách nhiệm phải học cách đương đầu với sự bực bội của chính con mà không trút lên người khác.

Ta công nhận việc nuôi dạy con cái không phải là một chuyện dễ dàng và nó thường hay gây ra bực bội. Tuy nhiên khi con đảm nhận trách nhiệm có con, con phải xem đó là một cơ hội đặc biệt để con đẩy mạnh sự phát triển tâm linh của con. Hiếm có hoạt động nào của con người mà đem lại cho con một cơ hội phát triển tâm linh lớn hơn việc nuôi con. Lý do là việc nuôi con tạo cho con một cơ hội độc đáo để con học cách bỏ tự ngã sang một bên và đặt mình vào vai trò làm kẻ phục dịch cho người khác. Đây thật sự là một cơ hội độc nhất để con tự giải phóng khỏi vòng nô lệ của tự ngã phàm phu và vươn lên quả vị Ki-tô. Ta có nói đến điều này trong những câu sau:

“Các môn đồ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn hết trong số mình. Và Giê-su biết ý trong lòng họ, bèn dẫn một đứa trẻ đến gần mình, nói rằng: Ai nhân danh ta nhận đứa trẻ này thì cũng nhận chính ta, và ai nhận chính ta thì cũng nhận Đấng đã sai ta, vì kẻ nào hèn mọn nhất trong số các người thì mới là kẻ lớn.” (Luke 9)  

Điều ta muốn nói là người ở mức tâm Ki-tô cá nhân cao nhất luôn tự xem mình là đầy tớ của mọi người, kể cả con cái của mình. Sẽ quý giá biết mấy cho các bậc cha mẹ thời nay nếu họ có những nỗ lực chân thành để bỏ hẳn cách suy nghĩ lâu đời là cha mẹ sở hữu con mình. Con cái của con không phải là tài sản của con và con không thể đối xử với chúng bất cứ cách nào.

Tuy nhiên, chúng là trách nhiệm của con. Hầu làm tròn trách nhiệm đối với con mình cũng như đối với chính mình như một hành giả tâm linh, con cần học bài học mà ta vừa đề cập là dạy dỗ con cái. Con cần học cách gạt bỏ những ham muốn ích kỷ của con và đặt ranh giới cho tự ngã của con. Hiển nhiên, điều này không có nghĩa là con tự biến mình thành nô lệ cho tự ngã của chúng, và đó là tại sao con cũng cần đặt ranh giới cho chúng. Con có thể làm được điều này bằng cách nhận ra là con sẽ phục vụ con mình tốt nhất nếu con phụng sự Thượng đế ở trong con lẫn ở trong chúng. Cho nên mục đích trong quan hệ của con với đứa trẻ phải là sự tăng trưởng tâm linh của tất cả mọi người. Người chủ của gia đình thực sự phải là tâm Ki-tô.

Nếu con có thể nuôi dạy con cái trong cách nhìn này, con sẽ tránh được rất nhiều sự bực bội của nghề làm cha mẹ. Con sẽ có thể tránh được cái bẫy nguy hiểm nhất là tích tụ những tình cảm và năng lượng tiêu cực trong mối quan hệ với con mình. Khía cạnh độc hại nhất của việc nuôi con là tạo ra một vòng xoáy ốc suy bại với đứa con, khiến con lần hồi tích tụ quá nhiều năng lượng tình cảm tiêu cực đến độ con không làm sao vượt qua được nữa để mà quan hệ bình thường với con mình.

Nhưng nếu con có thể đứng ở bên trên vòng xoáy tiêu cực – và con chỉ có thể làm được bằng cách giữ sự tỉnh thức tâm linh và sử dụng những dụng cụ bảo bọc tâm linh thích hợp cho con và con cái – thì việc nuôi con có thể là một cơ hội tuyệt vời để tăng trưởng. Hầu tận dụng cơ hội này, con cần bắt đầu với kỷ luật bản thân và học cách đặt ranh giới cho những ham muốn ích kỷ của mình. Sau đó con cần dùng nền tảng đó để thiết lập những lằn ranh cho con cái. Khi con làm được điều này thành công, con sẽ có thể tận hưởng một mối quan hệ tích cực với con mình gần như suốt đời.    

Ta không nói là người ta có thể làm cha mẹ mà không có những bực bội. Đòi hỏi như vậy quả là không thực tế trong thời đại hôm nay khi mà quá ít bậc cha mẹ đạt được quả vị Ki-tô cá nhân và hầu hết trẻ con sinh ra với những vết thương tâm lý từ nhiều tiền kiếp. Cho nên ta không đang cố thiết lập một lý tưởng cao vời vợi mà không ai có thể theo kịp. Ta chỉ đơn giản cố gợi ý cho con để giúp con đáp ứng các thử thách của việc nuôi con. Ta cũng xin nói là quá nhiều tín đồ Cơ đốc giáo đã tìm cách dùng cuộc đời của ta để dựng lên một thần tượng về một gia đình lý tưởng mà không một người nào có thể sánh bằng. Ta không mong muốn thần tượng này tồn tại vì ta không muốn cuộc đời của ta bị sử dụng để khiến cho nhiều người cảm thấy thiếu sót hay tội lỗi.      

Cha mẹ của ta không phải là cha mẹ toàn hảo, và ta thì không là đứa con toàn hảo. Làm cha mẹ là một kinh nghiệm học hỏi, và nếu ngay từ đầu con đã toàn hảo rồi thì còn cần học gì nữa đây? Do đó con cần bước vào việc nuôi con với thật nhiều lòng tha thứ đối với chính mình và đối với con mình. Đừng kỳ vọng là mình sẽ là bậc cha mẹ toàn hảo và đừng kỳ vọng con mình sẽ là đứa con toàn hảo. Thật ra, nếu con có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn nhân tạo về cách làm cha mẹ hay cách làm con, thì con sẽ khiến cho công việc của con dễ dàng hơn gấp bội, cho con và cho con cái của con. Sự kỳ vọng chính là mầm mống của bực bội.

Cuối cùng, ta muốn nói là nhiều bậc cha mẹ chọn sinh ra đời những dòng sống mà họ đã mang nghiệp nặng từ những kiếp trước. Chính nghiệp chướng này khiến cho vòng xoáy tiêu cực có nhiều xác suất thành hình và con thấy được điều này trong rất nhiều gia đình ngày nay. Để vượt qua nghiệp quả giữa cha và mẹ cũng như giữa cha mẹ và con cái, tất cả các bậc cha mẹ cần siêng năng nỗ lực biến hóa năng lượng tiêu cực trong gia đình. Cách hữu hiệu nhất để làm điều này là sử dụng các bài thỉnh và bài chú Mẹ Mary trong trang mạng này.

Cũng cần lưu ý là trong thế giới ngày nay, gia đình đang bị công hãm một cách tới tấp tại hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở phương Tây. Cuộc tấn công này là mưu mô của các tà lực. Chúng muốn hủy diệt gia đình mà trong hàng ngàn năm đã là cột trụ của xã hội. Vì vậy, điều vô cùng quan trọng đối với tất cả các bậc cha mẹ là cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh cho bản thân lẫn cho con cái.

Tại sao con cái hư hỏng mặc dù được chăm sóc yêu thương?

Hỏi: Tại sao một số đứa trẻ trở nên hư hỏng bất kể sự chăm sóc, sự dạy dỗ tôn giáo và đạo đức cũng như tình yêu mà chúng nhận được trong đời chúng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Một câu hỏi rất quan trọng với những hệ quả thật sâu xa. Câu trả lời đơn giản cho câu hỏi của con là một đứa trẻ là nhiều hơn một thân xác vật lý. Mỗi đứa trẻ là một dòng sống, và dòng sống đó không tự dưng xuất hiện từ hư vô vào lúc thụ thai hay khi thân thể chào đời. Như ta có giải thích ở nơi khác, dòng sống thật ra đã hiện hữu từ rất lâu bởi vì luân hồi và đầu thai là một thực tế – bất kể sự lên án của đạo Cơ đốc chính thống.  

Khi con chấp nhận thực tế của luân hồi, con hiểu ra là dòng sống của đứa con của con có thể đã rất lớn tuổi. Dòng sống này có thể đã sống rất nhiều kiếp và đã xây dựng một tâm lý vô cùng phức tạp cũng như một mạng lưới chằng chịt những nghiệp quả và năng lượng tha hóa. Con nhìn ra là dòng sống của đứa con có thể đã đầu thai trong kiếp này với một hành trang nặng trĩu những vấn đề chưa giải quyết từ tiền kiếp. Trong một số trường hợp, một dòng sống có thể nặng gánh và bị tổn thương bởi trải nghiệm quá khứ đến độ không một tình yêu nào, không sự chăm sóc và hướng dẫn nào từ cha mẹ hay từ cộng đồng xã hội sẽ hoàn toàn chữa lành được nó.

Có nhiều người hiện thân trong kiếp này với những vết thương trầm trọng đến nỗi họ có rất ít hy vọng hoàn toàn chữa lành trong một kiếp sống. Tuy nhiên, họ vẫn có cơ hội để thăng tiến và điều hay nhất con có thể làm để giúp đỡ dòng sống là tiếp tục biểu hiện tình yêu thương, tìm cách giúp nó chữa lành các vết thương tâm lý cũng như mở rộng sự hiểu biết của nó về cuộc sống. Sẽ đặc biệt hữu ích nếu dòng sống hiểu ra rằng mỗi người, rốt cuộc, là người trách nhiệm về hoàn cảnh của mình vì chính mình đã tạo ra thực tế đó. Tuy nhiên con sẽ khó lòng khiến cho một dòng sống đã tổn thương chấp nhận sự thật này như ta đã từng trình bày trong một bài giảng quan trọng trước đây.  

Điều quan trọng là phải thực tế và nhận ra rằng một số dòng sống bị tổn thương  đến mức chúng sẽ chỉ đạt được tiến bộ hạn chế hoặc không tiến bộ gì hết. Thật ra, một số dòng sống sẽ còn tăng cường thêm cái vòng xoáy đã kéo chúng đi xuống từ nhiều kiếp đã qua, và chúng sẽ không ngóc đầu thoát ra nổi cho tới khi chúng chạm tới một cái đáy. Ta hoàn toàn thông cảm những cha mẹ cảm thấy vô cùng chán nản và vô vọng khi con mình gạt bỏ mọi cố gắng giúp đỡ và hàn gắn của mình. Ta thấu cảm nỗi đau đớn của hàng triệu bậc cha mẹ đã đem đứa bé vào đời với niềm kỳ vọng to lớn nhất, đã cố hết sức thương yêu và chữa lành cho nó. Ta hiểu rõ những cha mẹ phải trải qua nỗi đau khổ nhìn thấy con mình đập tan những kỳ vọng này và không ngừng chọn con đường thấp nhất trong mỗi tình huống.

Ta cảm được điều này đã làm cho cha mẹ vô cùng đau đớn, buồn nản. Tuy nhiên, ta phải nói một điều vô cùng quan trọng là cha mẹ phải vượt qua nỗi buồn khổ này về con mình cũng như sự thất vọng khi con mình chối bỏ mình. Để vượt qua hoàn toàn sẽ đòi hỏi hai nhận thức.

Nhận thức thứ nhất là hầu hết mọi nền văn hoá thời nay đều có một sự hiểu biết hạn chế về thực tại của Thượng đế. Nếu con đã lớn lên trong một văn hóa không nhìn nhận thực tế của luân hồi, điều gần như không thể tránh khỏi là con đã được dạy dỗ một số chờ đợi và thái độ vô cùng thiếu thực tế về việc có con và nuôi con. Tại Tây phương, người ta thường cho rằng bậc cha mẹ phải yêu thương con mình bất kể đứa con xử sự thế nào.

Nói chung thì điều này cũng đúng thôi, nhưng nó chỉ đúng nếu con nhận ra tình thương đích thực là tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Tình thương này không phải là tình thương chiếm hữu và vị kỷ mà hầu hết mọi người có khả năng cảm được và thể hiện. Khi con chỉ cảm thấy tình thương vị kỷ, cha mẹ sẽ không thể tránh khỏi khởi lên một ý thức sở hữu về con mình. Từ đó dẫn đến một loạt những sự chờ đợi rằng con mình phải sống theo những tiêu chuẩn của mình và của xã hội.    

Sự thể này dẫn đến những cố gắng không cần thiết nhằm kiểm soát con mình, gây ra nhiều sự xung đột giữa cha mẹ và con cái do đứa con nổi loạn chống lại sự kềm chế của cha mẹ, với hệ quả là càng có thêm nhiều sự bực dọc và đau lòng cho cha mẹ và sự giận dữ cho con cái. Đây là một môi trường mất cân bằng và tồi tệ mà những người tâm linh phải cố thoát ra, thăng vượt.  

Điều này dẫn đến nhận thức thứ hai. Để thăng vượt môi trường tồi tệ trong quan hệ với con cái, con cần nhận ra và chấp nhận rằng đứa trẻ không phải là con của mình. Con đã không sinh tạo đứa trẻ đó ra từ chính con hay từ hư vô. Con không có quyền sở hữu nào trên dòng sống của nó. Đứa con của con là một cá nhân hoàn toàn biệt lập, và với tư cách đó, nó có quyền – là quyền tuyệt đối do Thượng đế ban cho nó – để sử dụng quyền tự quyết của nó theo cách hiểu của nó và gặt hái hậu quả từ những chọn lựa của nó. 

Khi con có thái độ sở hữu đối với con cái, con sẽ tìm cách kiểm soát những chọn lựa của dòng sống đó và con còn có thể ngăn cản nó trải nghiệm hậu quả những chọn lựa này. Khi con vượt lên trên tình yêu chiếm hữu và ôm lấy tình yêu của Thượng đế, con sẽ không cố kiểm soát đứa trẻ nữa mà chỉ cố giáo dục, hướng dẫn đứa trẻ. Nhưng con làm điều này trong tinh thần tôn trọng không khoan nhượng đối với quyền tự quyết của nó, và nếu nó không nghe theo lời khuyên của con, con sẽ cho phép nó trải nghiệm hậu quả chọn lựa của nó.

Ta không đang nói là con phải để yên cho nó làm điều gì có thể đe dọa mạng sống hay sự an toàn của nó. Điều ta muốn nói là khi đứa trẻ lớn lên, con sẽ cho nó ngày càng nhiều tự do hơn, và sẽ đến một lúc con sẽ chỉ giản dị để cho nó sống cuộc đời nó muốn. Điểm này đặc biệt quan trọng đối với một dòng sống bị tổn thương.

Điều này dẫn chúng ta đến khái niệm là với tư cách cha mẹ, con không có bổn phận phải dành toàn bộ đời mình xoay quanh con mình. Một bậc cha mẹ không bắt buộc phải chăm sóc con mình suốt đời của nó. Để hoàn toàn nắm được điều này, con cần nhận ra hai lý do căn bản vì sao cha mẹ lại chọn đem vào đời một dòng sống nào đó. 

Trước khi dòng sống của con bước vào kiếp hiện thân này của con, con đã gặp gỡ các vị cố vấn tâm linh của con nơi một cõi cao hơn và con đã lên kế hoạch cho kiếp sống tới. Trong kế hoạch này, con hoạch định những dòng sống nào mà con muốn trao cho cơ hội sống bằng cách cho chúng trở thành con mình. 

Tất nhiên, hầu hết mọi cha mẹ đều muốn nghĩ rằng con mình là đứa trẻ toàn hảo. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều cha mẹ sẽ chọn, trước khi mình đầu thai, sinh ra một hay nhiều đứa trẻ đã bị tổn thương trầm trọng. Có hai lý do căn bản tại sao cha mẹ lại chọn sinh con là một dòng sống tổn thương:

  • Một lý do là vì cha mẹ có nghiệp quả với đứa trẻ trong tiền kiếp. Cha mẹ chọn đứa này như một cách để trả nợ dòng sống đó.
  • Lý do kia là cha mẹ đã từng có sự nối kết tích cực rất lâu đời với đứa trẻ. Vì vậy cha mẹ chọn sinh ra dòng sống tổn thương này vì yêu thương và muốn giúp nó. 

Trong trường hợp đầu, có thể nói là quan hệ giữa cha mẹ và đứa trẻ xem như một quan hệ trao đổi. Cha mẹ mang nợ nghiệp quả đối với đứa trẻ gần giống như nợ tiền ngân hàng vậy. Khi nợ trả xong, cha mẹ đã làm tròn bổn phận của mình với đứa con.

Điều ta muốn nói ở đây là trong một mối quan hệ như vậy, không nhất thiết phải có tình thương giữa dòng sống của cha mẹ và dòng sống của đứa con. Thật ra có thể có rất nhiều tình cảm tiêu cực mang theo từ tiền kiếp. Tiềm năng cao nhất cho tình cảnh này là cả đứa con lẫn cha mẹ đều vượt qua được những tình cảm tiêu cực đối với nhau, làm việc để giải quyết tâm lý bị tổn thương, cân bằng nghiệp quả với nhau và xây dựng một mối quan hệ tích cực, yêu thương.

Tiếc thay, điều này hiếm khi xảy ra khi đứa con là một dòng sống tổn thương. Lý do chính là sự thiếu vắng hiểu biết tâm linh trong nền văn hóa Tây phương. Vì không nhìn cuộc sống như là một cơ hội tăng triển tâm linh, cả đứa con lẫn cha mẹ thường hay tăng cường, củng cố tình cảm tiêu cực của mình. Điều này thật đáng tiếc vì nó có thể ngăn cản mọi người cân bằng nghiệp quả với nhau.

Là một bậc cha mẹ tỉnh thức tâm linh, điều tốt nhất mà con có thể làm trong tình cảnh này là con thay đổi thái độ của con đối với con cái, quyết tâm nỗ lực hàn gắn các tình cảm tiêu cực của mình cũng như những vết thương tình cảm của mình đối với nó. Rồi con cố hết sức giúp đỡ nó hầu con cân bằng nghiệp quả của con đối với nó. Việc này có thể gồm cả sự thực tập tâm linh, chẳng hạn đọc các bài chú và bài thỉnh nhằm biến hóa nghiệp chướng.

Nếu con khắc phục được các tình cảm tiêu cực của mình và cân bằng mọi nghiệp quả với đứa con, thực sự con đã làm tròn bổn phận tâm linh của con đối với nó. Nếu nó vẫn không phản hồi một cách tích cực đối với con, điều hợp lý nhất có thể là con chỉ đơn giản cắt đứt quan hệ với đứa con.

Xin con đừng hiểu lầm điều ta đang nói. Ta biết rõ có nhiều cha mẹ trốn tránh trách nhiệm đối với con mình. Xin con đừng hiểu sai và diễn giải rằng ta dung túng lối hành xử như thế. Ta không tán thành bất cứ ai trốn chạy trách nhiệm của mình trong đời sống. Điều ta muốn nói ở đây là con có thể thực sự đạt tới một điểm khi trách nhiệm của con đối với con cái đã làm xong và tốt hơn hết mỗi người nên đi đường riêng của mình.   

Nếu đứa trẻ không tỏ ra sẵn sàng bỏ lại đằng sau những tình cảm tiêu cực của nó đối với con, không chịu học hỏi từ con hay được bổ ích từ bất cứ điều gì con cho nó, thì điều hợp lý là con có thể nói: “Con hãy tự lo lấy. Bố mẹ phải sống tiếp cuộc đời bố mẹ, và nếu con không chịu bỏ những chuyện đó lại, bố mẹ sẽ bỏ con lại đằng sau.” Điểm này chính là phần nào ý nghĩa một số lời ta dạy cách đây 2000 năm khi ta đưa ra những câu nói thật thẳng thắn mà quá nhiều người lại hiểu lầm: 

“Ta đến để phân rẽ con trai với cha của nó, và con gái với mẹ của nó, và con dâu với mẹ chồng của nó” (Matthew 10:35).

“Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không xứng đáng với ta, và ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì không xứng đáng với ta” (Matthew 10:37).

Ý nghĩa đằng sau hai câu trên là mục đích cuộc đời con là bước tiếp con đường tâm linh và thể hiện tâm Ki-tô của con. Nếu con đã trả hết món nợ nghiệp chướng và nếu con cái đã trở thành một gánh nặng ngăn trở đường tâm linh của con, điều hợp lý có thể là con phải bỏ con cái lại đằng sau và tiếp tục đường con.

Ta cũng hiểu nhiều người sẽ thấy những câu trên rất khiêu khích, thế nhưng đó là sự thực. Một người tỉnh thức tâm linh sẽ không bỏ rơi một đứa trẻ. Tuy nhiên, con có thể bước đi khi con đã làm tròn trách nhiệm của con với nó vì con nay nhận ra là con cũng có một trách nhiệm đối với dòng sống của con. Nếu đứa con không sẵn lòng tiến bước về phía trước thì có ích gì con ngừng tiến bước trên đường tâm linh của con vì một ý thức giả tạo về nghĩa vụ của con với đứa trẻ? Tại sao con lại kềm hãm tiến bộ của con nếu con không giúp gì được nó? Hai điều sai không tạo nên một điều đúng.     

Để hiểu điều này hoàn toàn, một lần nữa con cần nhìn vào sự kiện đứa con là một dòng sống hoàn toàn biệt lập có ý chí tự do của nó. Khi con đem nó vào đời, con có một số trách nhiệm cho nó một khởi đầu tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Nhưng sẽ đến một điểm khi đứa con phải rời tổ và nhận lấy trách nhiệm đời nó. Khi nó đủ lớn để tự quyết định, hoặc khi nó đạt đến điểm hoàn toàn nổi loạn hay chối bỏ con là cha mẹ nó, con không còn trách nhiệm về những chọn lựa của nó nữa. Về điểm này thì thật sự con chưa bao giờ trách nhiềm về chọn lựa của nó mặc dù khi nó còn nhỏ, con có trách nhiệm giúp nó có những chọn lựa cao nhất.

Điều ta nói với con ở đây là đối với một người tầm đạo, điều tuyệt đối thiết yếu là con phải nhận ra được, và hoàn toàn chấp nhận, rằng con không chịu trách nhiệm về chọn lựa của bất cứ ai. Con trách nhiệm về cuộc đời của con và những chọn lựa của con. Con không trách nhiệm những chọn lựa của người khác. Con có thể cố giúp họ lấy những chọn lựa tốt nhất nhưng con không được rơi vào cái bẫy tìm cách chọn lựa cho họ.    

Nếu tất cả mọi người đều hiểu được chân lý sâu xa của câu trên, khoảng 80 phần trăm mọi cuộc xung đột và vấn nạn mà chúng ta đang chứng kiến trên hành tinh này sẽ được giải quyết vô cùng nhanh chóng, bởi vì những vấn đề đó thật sự khởi lên do cảm nhận sai lầm là mình chịu trách nhiệm những chọn lựa của người khác. 

Trước khi ta đi lạc đề, hãy cho phép ta trở về với tình cảnh khi con chọn đưa vào đời một dòng sống bị tổn thương do lòng yêu thương dòng sống đó. Trong trường hợp này, con đã có sẵn tình yêu thắm thiết đối với nó, và điều quan trọng là con nuôi dưỡng tình yêu này cho dù đứa con bị tổn thương tới mức nó không có khả năng đáp lại trọn vẹn tình yêu của con. Trong một mối quan hệ như vậy, điều quan trọng là con không cho phép tình yêu của con biến thành ý thức trách nhiệm giả tạo mà ta vừa mô tả. Thay vào đó, con hãy cảm nhận lòng từ bi và nhận ra được là các vết thương của đứa con có thể gây ra một số hạn chế cho mối quan hệ.   

Như ta có giải thích ở trên, đứa con của con có thể quá tổn thương đến nỗi nó không có triển vọng được chữa lành hoàn toàn trong một kiếp sống. Vì vậy, rất có thể nó sẽ không có khả năng trở thành một công dân mẫu mực trong tiêu chuẩn của xã hội và nền văn hóa của con. Nếu con có thể tránh được ý thức trách nhiệm giả tạo, con có thể để yên cho nó sống cách sống hay nhất của nó mà không đòi hỏi hay kỳ vọng bất cứ gì mà nó không thể làm được do vết thương mà nó mang.  

Nhờ vậy con có thể tránh được cảm giác buồn lòng hay bị hất hủi, và thay vào đó, nhìn con mình như một dòng sống bị thương tích mà con cố yêu thương và giúp đỡ trong khả năng đón nhận của nó. Nói cách khác, con không cố ép buộc tình yêu hay sự giúp đỡ của con lên nó, mà ngược lại con chỉ ban ra những gì phù hợp với khả năng tiếp nhận hạn chế của nó.

Nếu con giữ được thái độ này, con sẽ có thể bồi đắp một mối quan hệ xây dựng với con mình kéo dài suốt cuộc đời của nó. Trong trường hợp này, con sẽ có thể lần hồi giúp nó hàn gắn vết thương và tinh tấn vượt bực trong kiếp này. Đây quả thực sẽ là một thành quả vô cùng tốt đẹp cho dù đời nó vẫn kém rất xa những tiêu chuẩn của xã hội hay mực thước tâm linh. Con thấy đó, con người không cần phải sống một cuộc đời toàn hảo để tinh tấn về tâm linh. Thượng đế không phán xét như con người phán xét.

Vượt qua nỗi ân hận đã phá thai – hoặc bất kỳ lỗi lầm nào khác

Hỏi: Xin Thượng đế phù hộ cho thày. Con đã làm theo lời dạy của Joel Goldsmith đã dẫn đường con trở về với con người thật của con – đó là một ơn phúc đã đem lại cho con một chút an bình. Tuy nhiên khi con còn trẻ, con đã một lần phá thai. Con đã cầu nguyện rất nhiều, nhưng con vẫn cảm thấy tội lỗi vô cùng về quyết định đó. Làm thế nào con có thể tha thứ cho chính mình và được tha thứ? Có thêm điều gì nữa mà con có thể làm để ăn năn?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Trái tim yêu dấu của thày, cảm ơn con đã cho ta cơ hội để bình luận về cách thức vượt qua sự ân hận khi mình phạm phải bất kỳ lầm lỗi nào. Lời dạy sau đây có thể áp dụng cho mọi người cũng như bất kỳ loại lỗi lầm nào.

Quả là có thêm một điều nữa mà con có thể làm, đó là chấp nhận rằng Thượng đế thương yêu con với một tình thương vô điều kiện, và do đó ngài đã tha thứ cho con rồi!

Điều đang cản trở con trải nghiệm sự tha thứ đó là vì con đã không hoàn toàn chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế. Cho nên điều con có thể làm là chấp nhận rằng ngài đã tha thứ con, và ta, Giê-su Ki-tô, cũng đã tha thứ con. Vì vậy, việc còn lại là con cần tha thứ cho chính con.

Ta biết, bảo một ai đó phải tha thứ chính mình cũng gần giống như bảo một người mù phải mở mắt ra mà nhìn. Tuy nhiên, sự thật sẽ giải phóng con, cho nên con hãy để ta chia sẻ một số ý nghĩ để con suy ngẫm, vì điều này có thể giúp con tha thứ cho bản thân.

Nếu con đọc bài giảng của mẹ yêu dấu của ta, con sẽ thấy Mẹ Mary giải thích là trên địa cầu có một thế lực thèm khát chứng minh là Thượng đế sai trái, chứng minh là Thượng đế đã sai lầm khi ban cho loài người quyền tự quyết. Thế lực này – đúng hơn, một trạng thái tâm thức – sẽ làm đủ mọi cách để khiến cho người ta lạm dụng quyền tự quyết của mình hầu tách mình ra khỏi Thượng đế.

Con thấy đó, khi Thượng đế ban quyền tự quyết cho các dòng sống, ngài cũng phải cho họ cơ hội đề họ vi phạm quy luật của ngài – vì nếu không thì đâu phải là quyền tự quyết thực sự? Khi trao cơ hội này cho họ, ngài mong họ sẽ thử nghiệm quyền tự quyết của mình, sẽ dần dần hiểu ra lợi ích lớn nhất của họ, và cũng là tình thương cao nhất của họ, là góp phần đồng sáng tạo vũ trụ trong khuôn khổ viễn quan và hoạch định tổng thể của ngài. Quả thực, Thượng đế mong rằng sau khi gửi các dòng sống vào thế giới hình tướng, họ sẽ tự nguyện quyết định xây dựng sự hợp nhất với ngài.

Cho nên mục tiêu hàng đầu của các thế lực chống đối hoạch định của Thượng đế là khiến cho con người tách mình ra khỏi Thượng đế và bị kẹt lại trong một trạng thái tâm thức xem mình là tách biệt khỏi Thượng đế. Để thực hiện ý đồ này, chúng đã gài vô số những cái bẫy trên hành tinh địa cầu. Những cái bẫy này nhắm vào mục tiêu trên hết là khiến cho con người thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế.

Rất nhiều cái bẫy là để khiến con người vi phạm quy luật Thượng đế. Chúng thực hiện chuyện này qua vô số những lời gian dối tạo ra cảm giác rằng chuyện vi phạm quy luật Thượng đế là cần thiết, chính đáng hay có thể chấp nhận được. Chính trạng thái tâm thức này là thế lực ẩn núp đằng sau việc hợp pháp hóa phá thai. Chủ ý là tạo ra một tư duy lôi kéo giới phụ nữ tin rằng mình có quyền quyết định vận mạng của mình, và để có thể tự quyết định, việc lấy đi mạng sống của đứa con trong bụng là một điều có thể chấp nhận được. Như ta đã giải thích trong bài giảng về phá thai, việc phụ nữ quyết định vận mạng của mình quả là một điều chấp nhận được, nhưng không đến mức lấy đi mạng sống của một thai nhi.

Một trong những lập luận tinh vi được sử dụng bởi các thế lực tìm cách gài bẫy con người là bảo rằng một thai nhi chẳng qua chỉ là một cục mô. Nhưng như con đã trải qua ngay trong bản thân, rất nhiều phụ nữ đã phá thai đều trải nghiệm nhiều mức độ đau buồn, hối hận và mất mát khác nhau. Sự kiện này chứng minh một cách không thể nghi ngờ rằng một thai nhi không chỉ là một cục mô, và đó là tại sao một người mẹ nhạy cảm biết rõ việc phá thai đã lấy mất cơ hội cho một dòng sống được hiện thân.

Con có thấy được âm mưu vi tế ở đây? Mặc dù trong cuộc tranh luận về phá thai có nhiều ý đồ đen tối, nhưng chủ ý ở đây là đánh lừa người mẹ lấy đi mạng sống của đứa trẻ trong bụng qua sự thiếu hiểu biết hoặc thiếu mẫn cảm. Vậy bây giờ chúng ta hãy xét xem chuyện gì xảy ra cho một phụ nữ đã phá thai. Trên cơ bản, có hai cách phản ứng.

Ta có thể cam đoan với con là mỗi phụ nữ đã phá thai sẽ đều kinh nghiệm một giây phút sự thật khi cô ấy nhận ra là mình đã lầm lỗi. Tuy nhiên cũng có những phụ nữ hầu như không nhận ra giây phút sự thật này, hoặc họ nhanh chóng gạt nó sang một bên đến độ họ bảo là không thể nhớ rõ. Nhưng ta có thể bảo đảm với con là nếu chân thành xem xét nội tâm, bất kỳ người mẹ nào cũng sẽ nhận ra là mình quả thực đã có một giây phút sự thật trước khi, hay sau khi, phá thai. Điều tương tự cũng xảy ra cho bất kỳ loại lầm lỗi nào mà một người có thể phạm vào. Luôn luôn có một giây phút sự thật.

Khi một phụ nữ chối bỏ giây phút sự thật đó, cô ấy chỉ có thể làm vậy bằng cách khoác lấy một tư duy vô cảm đối với sự sống. Cô ấy chỉ có thể làm vậy bằng cách chối bỏ sự nối kết của mình với đứa thai nhi trong bụng mình. Cô ấy chỉ có thể chối bỏ sự nối kết này bằng cách chối bỏ nối kết với mọi sự sống, đặc biệt là với chính Mẹ Thiêng liêng. Cho nên điều ta muốn nói là qua sự chối bỏ nối kết với sự sống, cô ấy đã tách mình ra khỏi Thượng đế. Cô ấy nghĩ là mình tách biệt khỏi Thượng đế và do đó cũng tách biệt khỏi mọi sự sống. Đó là tại sao cô ấy mới có thể chối bỏ ý tưởng rằng việc phá thai lấy đi sự sống.

Một khi một phụ nữ chấp nhận phản ứng này, các thế lực bóng tối đã chiến thắng, vì cô ấy đã tự tách mình ra khỏi Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, cô ấy sẽ cố gắng bào chữa cho quyết định phá thai, và khi làm vậy, cô ấy càng khiến cho ý niệm tách biệt khỏi Thượng đế trở nên kiên cố hơn. Thậm chí cô ấy có thể bỏ sức ra để thuyết phục người khác rằng việc phá thai là phải lẽ, và như vậy cô ấy sẽ khiến cho những người này xem mình là tách biệt với Thượng đế. Giản dị là cô ấy chỉ đang nuôi sống lời dối trá đã khiến mình phạm lỗi ngay từ đầu.

Bây giờ hãy nhìn đến cách phản ứng thứ nhì, là người phụ nữ quyết định nhìn nhận giây phút sự thật của mình. Cô ấy thừa nhận mình đã lầm lỗi, và đây là cơ hội cho cô ấy tự giải thoát khỏi lời gian dối cùng các tà lực. Hiển nhiên, một phụ nữ chỉ có thể quyết định như thế nếu đã nhận ra là mình có sự nối kết với sự sống. Khi công nhận sự nối kết này thì cô ấy cũng công nhận nối kết của mình với Thượng đế. Và tất nhiên, điều này hoàn toàn trái ngược với mong muốn của các tà lực. Tuy vậy. chúng chưa thua trận trong cuộc chiến giành lấy dòng sống của cô ấy đâu, mà chỉ có nghĩa là các tà lực bây giờ phải tung ra Kế 2.

Kế hoạch chủ yếu của tà lực là khiến cho con người chối bỏ sự nối kết của mình với Thượng đế và từ đó phủ nhận là mình đã từng sai lầm. Nếu tà lực không thể ngăn cản con nhìn nhận mình đã lầm lỗi, thì chúng phải thay đổi kế sách. Kế sách mới là tạo cho con một cảm giác tội lỗi, cảm nhận mình là người có tội khủng khiếp đến độ mình sẽ không bao giờ hàn gắn lại được với Thượng đế.

Đối với con là một bà mẹ đã phá thai, tà lực sẽ phóng chiếu vào tâm trí và cảm thể của con ý tưởng và cảm giác là con đã phạm một tội lỗi nghiêm trọng đến nỗi con sẽ không bao giờ, không bao giờ bù đắp được. Chúng cố tình làm vậy để khiến con cảm thấy con sẽ không bao giờ có thể được chấp nhận trong mắt Thượng đế, để con tự tách ra khỏi ngài do thấy mình không xứng đáng được kết nối với ngài. Nói cách khác, chúng cố đảm bảo rằng mặc dù con đã nhìn nhận lỗi lầm, con vẫn không bao giờ thoát ra được lỗi lầm đó.

Con có thấy điều ta nói chăng? Kế đầu của chúng là khiến cho con phạm lỗi rồi phủ nhận mình phạm lỗi, và như vậy con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm bởi mình bị kẹt cứng trong tâm thức đã khiến mình phạm lỗi. Nếu kế đó không thành công vì con đã nhìn nhận mình phạm lỗi, thì tà lực sẽ ra tay để bảo đảm là con cảm thấy tội lỗi đến mức con vẫn không thể thoát khỏi lỗi lầm của con. Chúng sẽ khiến cho con cảm thấy con không bao giờ có thể chuộc lại tội của con. Nói cách khác, âm mưu của chúng ở đây là đánh lừa con khiến con lầm lỗi và vi phạm quy luật của Thượng đế, xong rồi chúng lại đánh lừa con để con không thể thoát khỏi lầm lỗi, thoát khỏi cái tâm thức, cái lời gian dối đứng đằng sau.

Con có thấy âm mưu này tinh vi, nham hiểm đến mức nào không? Con có thấy hàng tỷ người đã bị chúng lừa gạt qua âm mưu này cùng vô số những biến thể của nó hay không? Con có thấy đây không bao giờ là hoạch định của Thượng đế khi ngài ban quyền tự quyết cho những đứa con của ngài?

Thượng đế hoàn toàn không mong muốn nhìn thấy con bị lạc lối trong một trạng thái tâm thức chối bỏ sự hợp nhất với ngài. Ngài chỉ có một mong muốn là thấy con nhận ra sự trọn vẹn của con là đứa con của ngài, một đứa con luôn mang tiềm năng là một với ngài, là người đồng sáng tạo với ngài, và là chính ngài trong vũ trụ vật chất này. Cho nên Thượng đế không bao giờ muốn con rơi vào tâm thức thấp kém xem mình tách biệt với ngài. Vì vậy, một khi con rơi vào trạng thái tâm thức đó thì ngài chỉ có một mong muốn duy nhất, đó là nhìn thấy con vươn lên khỏi tâm thức đó và chấp nhận bản sắc đích thực của mình là một đứa con hoàn toàn vô tội trước Thượng đế.

Con thấy đó, khi Thượng đế ban cho con quyền tự quyết, ngài cũng ban cho con quyền được thử nghiệm trong khuôn khổ những quy luật tự nhiên đang giữ vững vũ trụ. Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, mọi thứ trong thế giới này đều được tạo bằng năng lượng. Năng lượng là một hình thức rung động, và rung động thì có thể được biến đổi dễ dàng. Vũ trụ vật chất giống như một bãi chơi vũ trụ bằng cát nơi con có quyền xây bất kỳ lâu đài nào con muốn. Một số lâu đài bằng cát đó sẽ không đẹp lắm, nhưng con đâu có thay đổi chất cát, con chỉ đơn giản cho nó một hình dạng xấu xí. Để xóa bỏ lỗi lầm đó, con chỉ cần san bằng lâu đài đã xây và khởi sự xây đắp một lâu đài mới đẹp hơn.

Khi con có một chọn lựa bất toàn và vi phạm quy luật Thượng đế, con đã kéo thấp rung động của một phần năng lượng của ngài xuống. Con làm chuyện này qua quyền năng của tâm con. Nhưng chính sự kiện tâm con đã có quyền năng kéo thấp độ rung của năng lượng Thượng đế cũng chứng minh cho con thấy là tâm con cũng có quyền năng nâng cao độ rung của năng lượng Thượng đế.

Nói cách khác, không có một lỗi lầm nào con có thể làm trong vũ trụ này mà không thể được xóa bỏ toàn diện. Một lỗi lầm chỉ giản dị là năng lượng bị dùng sai, và một khi con nâng độ rung của năng lượng đó lên, lỗi lầm của con được xóa sạch vĩnh viễn. Con có hiểu điều ta nói chăng? Ta đang thực sự nói rằng con người không thể nào gây ra một lỗi lầm vĩnh viễn. Mọi việc con làm trong vũ trụ tạm bợ này cũng sẽ chỉ là một thị hiện tạm bợ, và vì vậy nó có thể được xóa bỏ.

Nếu con làm lỗi, Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi vì đã mắc lỗi. Ngài muốn con nhìn nhận và thừa nhận là con đã làm lỗi, rồi con học được bài học để chọn lựa tốt hơn trong tương lai. Có nghĩa là con phải học cách nhìn thấu và vứt bỏ lời gian dối nham hiểm đã khiến con lầm lỗi.

Một khi con đã học được bài học đó và thật sự vứt bỏ niềm tin hoặc tâm thức đã khiến con làm lỗi, thì việc cảm thấy mình tội lỗi hoàn toàn không mang mục đích xây dựng nào nữa. Thượng đế đã ban cho con sự tự quyết. Ngài đã trao cho con quyền thử nghiệm sự tự quyết đó, ngay cả đến mức vi phạm những quy luật tự nhiên. Ngài làm vậy vì muốn con có cơ hội học được rằng lợi ích lớn nhất cho con là tuân theo quy luật của ngài, và thật ra đó cũng là điều mà dòng sống của con ưa thích làm. Cho nên Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi sau khi mình phạm lỗi. Ngài chỉ đơn giản muốn con cứ tiến bước và học được bài học của lỗi lầm, hầu con vươn lên cao hơn trong tâm thức.

Các tà lực đang cố sức đánh bẫy con vào một trạng thái tâm thức khiến con xem mình tách biệt khỏi Thượng đế. Một cách mà chúng sử dụng là tạo ra toàn bộ cái tâm thức tội lỗi và cảm thấy tội lỗi. Cái tâm thức bảo rằng con không bao giờ có thể được cứu chuộc sau khi đã phạm lỗi không đến từ Thượng đế, và trong bản chất, nó rõ ràng là phản-Ki-tô. Một thông điệp quan trọng nhất của sự đầu thai trên địa cầu là con người có thể được cứu chuộc và sạch mọi lỗi lầm. Con có thể sạch lỗi lầm tới độ lỗi lầm như chưa từng xảy ra bao giờ. Tiếc thay, nhiều người đã làm mồi cho tâm thức của rắn cho nên họ tưởng là mình không thể thật sự được cứu chuộc, và điều này sẽ ngăn chặn họ thực sự chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Một lần nữa, sự quỷ quyệt của tà lực vô cùng to lớn. Nếu chúng không thể gài bẫy con bằng một cách, thì chúng sẽ cố gài bẫy con bằng cách khác. Cho nên điều ta nói ở đây không có nghĩa là con người không nên xem nhẹ khi mình phạm lỗi, hoặc gạt nó sang một bên như là chuyện không đáng kể. Nếu con làm vậy, con sẽ phạm thêm nhiều sai lầm nữa, và cái tâm thức đã gây ra sai lầm sẽ chỉ ăn sâu hơn thêm. Nhưng chính đó là tâm thức đã khiến con mất liên lạc với cái ta tâm linh của con. Vì vậy, mọi người cần cảnh giác là có những chọn lựa đúng đắn cũng như có những chọn lựa không mấy đúng đắn.

Khi con chọn vi phạm quy luật Thượng đế, con đang thực sự làm hại chính con đó. Khi người ta hiểu thực sự mình đang làm gì thì không có ai lại cố tình làm hại chính mình. Thật là không có cách chi con sẽ làm hại chính con nếu con thật biết con đang làm gì. Đó là tại sao con cần cảnh giác và cần thẩm định mọi chọn lựa của mình. Con cần liên tục cố gắng mở rộng tầm hiểu biết – “Hãy dùng hết sức mình để lấy được sự thông sáng” – hầu con có thể nhận ra bằng trực giác một chọn lựa bất toàn.

Hãy cho ta phác họa kịch bản lý tưởng khi con phải đối phó với một lỗi lầm. Mỗi lần con có chọn lựa bất toàn, luôn luôn sẽ có một giây phút sự thật. Con hãy tỉnh giác và nhìn nhận là con đã làm lỗi, xong con cố đạt tới sự hiểu biết sáng suốt nhất là lỗi lầm đã xảy ra như thế nào và tại sao. Con hãy học cách nhìn thấu lời gian dối đứng đằng sau lỗi lầm. Rồi con quyết định con sẽ không lặp lại lỗi lầm. Lý tưởng là con quyết định bỏ lại phiá sau cái tâm thức, lời nói dối đã khiến con phạm lỗi.

Khi con làm như vậy, mỗi lỗi lầm của con trở thành một bực thang dẫn con đến gần hơn với tâm thức Ki-tô. Đây là điều mà Thượng đế muốn xảy ra cho con. Đây là điều chính ta cũng muốn xảy ra cho con. Ta vẫn biết, hầu hết mọi người đều đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và họ cần đi theo một con đường tuần tự dẫn họ tới tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Vì vậy, ta vô cùng mong muốn thấy mọi người có thái độ đúng đắn, nghĩa là mỗi lỗi lầm sẽ đưa họ xích lại gần hơn với tâm thức Ki-tô. Và như vậy, con sẽ chỉ có thể thắng lợi, và tà lực sẽ không còn nắm giữ được con nữa. Ông hoàng của thế gian này cứ việc đến nhưng không thể nắm được gì nơi con.

Quá nhiều người đã hiểu lầm câu nói đó của ta. Câu đó không có nghĩa là con phải là người toàn hảo hay phải đạt được trọn vẹn tâm thức Ki-tô thì ác quỷ mới không nắm được gì nơi con. Nó có nghĩa là con cần giữ một thái độ sẵn lòng học hỏi từ lỗi lầm và vứt bỏ lời gian dối, vứt bỏ tâm thức thấp kém là nguồn gốc của mọi lỗi lầm. Con sẵn lòng nhìn nhận lầm lỗi mà không cảm thấy tội lỗi. Giản dị là con học bài học của lầm lỗi và tức khắc bước lên cao hơn trên đường tu tâm linh. Mỗi ngày con để cho một phần của ngã pham phu chết đi, như Paul đã nói. Con bỏ lại con người cũ là tâm nhị nguyên, và con khoác vào tâm Ki-tô. Khi con giữ được thái độ này, ác quỷ sẽ không thể nắm được gì nơi con khi nó lợi dụng lỗi lầm của con để đánh lừa con. Rất có thể là con vẫn còn sót lại một số tin tưởng sai lạc sẽ khiến con lầm lỗi, nhưng mỗi lầm lỗi là một bàn đạp, một bực thang để con tinh tấn.

Con có thấy được điểm quan trọng ở đây chăng? Ta không hề nói rằng việc phá thai là một chuyện đúng đắn. Ta nói rằng phá thai là một lỗi lầm, nhưng đó không phải là một lỗi lầm mà con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Quả thực là con có khả năng tự giải thoát, và bước đầu tiên là nhìn nhận mình đã làm lỗi. Bước thứ nhì là thực sự từ bỏ cái tâm thức đã khiến con làm lỗi. Con thực sự vứt lại niềm tin sai lầm, lời gian dối đã khiến con làm lỗi. Một khi con đã nhìn thấu và bỏ lại lời gian dối đó, con phải biết rằng ngay lúc đó, Thượng đế đã tha thứ cho con rồi. Hiểu được vậy sẽ dẫn con tới bước kế tiếp, là con cần quyết định một cách ý thức là mình hoàn toàn chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế. Mình sẽ bước tới mà không còn bị cảm giác tội lỗi cầm chân lại.

Sau khi đi qua tiến trình biến đổi nội tâm nói trên, con sẽ cần nhận ra là một số lầm lỗi cũng mang một số hậu quả vượt ngoài tâm con. Nếu lầm lỗi đã ảnh hưởng đến những thành phần khác của sự sống, con đã tạo nghiệp dưới dạng năng lượng tha hóa. Để con thực sự thoát khỏi lỗi lầm đó, các hậu quả của hành động của con cần được hóa giải. Nói cách khác, việc phá thai mang những hậu quả cho dòng sống đã có thể được hiện thân khi con có mang. Con có khả năng bù đắp cho sự thể này bằng nhiều cách, như ta đã có giải thích trong bài giảng về phá thai.

Có thể con sẽ mất thời gian để hóa giải những hậu quả tiêu cực đó, và một phụ nữ nhạy cảm sẽ biết được trong trực giác là mình chưa trả được món nợ của mình đối với sự sống. Điều này có thể khiến con vẫn bám lấy một cảm giác tội lỗi cho dù điều này thật là không cần thiết. Như ta đã cố giải thích, con không cần phải cảm thấy tội lỗi một khi con đã từ bỏ tâm thức, lời gian dối, đã gây ra lỗi lầm.

Một khi con đã làm vậy, con cần cho phép mình cảm thấy mình đã sạch tội. Nếu con chưa cảm thấy mình sạch tội thì điều này cho thấy con đang bị các tà lực công hãm, và chúng đang phóng chiếu cảm giác tội lỗi vào tâm trí và cảm thể của con. Nếu con tìm hiểu bài giảng của ta về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy trong cảm thể của nhân loại có rất nhiều lực tha hóa. Vì thế, thật là dễ dàng cho tà lực sử dụng lỗi lầm của con để phóng chiếu cảm giác tội lỗi vào cảm thể con.

Lời khuyên của ta cho con cũng như cho tất cả những ai đã lầm lỗi và tưởng không có lối thoát, là suy ngẫm những điều ta vừa nói ở đây. Ta mạnh mẽ khuyên con nên sử dụng các dụng cụ bảo vệ tâm linh trên trang mạng này để kêu gọi cho tâm trí cùng cảm thể của mình được niêm phong khỏi mọi tà lực đang phóng chiếu tội lỗi, sợ hãi cùng đủ loại cảm xúc tiêu cực khác vào con. Ta khuyên con nên sử dụng lời thỉnh cầu phán xét tà lực, và con nên kêu gọi Đại thiên thần Michael trói chặt và tiêu hủy các tà lực đang tấn công cá nhân con. Ta cũng khuyên con nên sử dụng ngọn lửa tím để tiêu hủy mọi nghiệp chướng cùng mọi năng lượng tha hóa phát sinh từ lỗi lầm.

Chót hết, ta khuyên con nên sử dụng kỹ thuật hòa điệu nội tâm để hiểu biết sâu sắc về lời gian dối đã khiến con phạm lỗi. Con cũng có thể dùng kỹ thuật đó để trao cảm giác tội lỗi của con cho ta. Giản dị là con hãy hình dung con bước vào khu vườn và ngồi xuống đối diện ta. Xong hình dung con nắm lấy cảm giác tội lỗi của mình, hoặc bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác, rồi nhồi nhét nó vào một quả bóng thật chặt. Rồi con hãy hình dung con cầm bóng ném nó vào trái Tim Thánh của ta, nơi nó lập tức được tình thương vô điều kiện và vô bờ bến của ta tiêu hủy. Con hãy thực tập như thế mỗi ngày một lần, cho đến khi con hết hẳn mọi cảm giác tội lỗi. Ta cam đoan với con là việc đọc nhiều bài thỉnh Mẹ Mary cũng là một cách hữu hiệu để cân bằng nghiệp quả, biến hóa năng lượng tiêu cực, kể cả năng lượng tội lỗi.

Để kết luận, con hãy luôn luôn ghi nhớ rằng con đang sống trong thế giới là một bãi chiến trường giữa hai thế lực đối nghịch. Dòng sống của con là sợi dây thừng mà cả hai bên đều đang cố sức kéo để giành chiến thắng về phe mình. Một bên sợi dây thừng là tất cả những tà lực của địa ngục và sự chết, đang lôi kéo dòng sống của con, ngăn không cho con tăng trưởng. Bên kia là toàn thể các chân sư thăng thiên đang kéo dòng sống của con lên ngày càng cao hơn để con tăng trưởng.

Tuy nhiên, khác với trò chơi kéo co bình thường, rõ ràng có một đội mạnh hơn đội kia vô hạn. Đội của chân sư thăng thiên có năng lực kéo con lên cao bất cứ lúc nào. Vấn đề là các chân sư có một điểm bất lợi thường khiến cho sức mạnh của mình bị vô hiệu hóa, và điểm bất lợi này là những quyết định mà con lấy trong cách con nhìn bản thân con. Nếu con rơi vào lời gian dối của tà lực bảo con là một đứa tội lỗi đốn mạt phải bị dằn vặt đời đời, thì con sẽ trao cho đội kia một lợi thế thái quá cho phép chúng lôi con xuống.

Cho nên con hãy quyết định là con sẽ học cách nhìn thấu lời gian dối của chúng và cho phép các chân sư thăng thiên là anh chị của con kéo con lên cao hơn. Ta chẳng có nói là nếu ta được thăng lên, ta sẽ kéo tất cả mọi người lên với ta hay sao? Con nghĩ là ta nói đùa? Ta có uy lực kéo con lên vào vương quốc của Cha chúng mình miễn là con cho phép ta. Đơn giản, con hãy buông bỏ cảm giác tội lỗi đang buộc chặt con vào tâm thức địa ngục.

Giải thích khái niệm Thượng đế cho trẻ nhỏ

Hỏi: Thế nào là cách giản dị nhất để giải thích khái niệm Thượng đế cho một đứa trẻ nhỏ hay một người không tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Có sự khác biệt khá lớn giữa một trẻ nhỏ và một người lớn không mấy tâm linh. Khác biệt chính là hầu hết mọi đứa trẻ đều rất tâm linh, một thực tế mà, buồn thay, hầu hết người lớn đều không nhìn thấy. Nhiều người lớn thường nghĩ rằng vì trẻ nhỏ không hiểu được các khái niệm và ngôn ngữ của người lớn, chúng không có khả năng tâm linh tinh tế. Đây là một sự hiểu lầm đáng buồn mà ta đã cố chỉnh lại qua câu nói rằng trừ khi con trở thành một trẻ nhỏ, con không thể bước vào vương quốc Thượng đế.

Hầu hết trẻ nhỏ đều mang sẵn một tinh thần tâm linh khiến chúng rất dễ hiểu được và chấp nhận Thượng đế như một Hiện diện luôn luôn ở bên chúng. Cho nên ta sẽ nói thế này cho một đứa bé:

“Con hãy nhắm mắt lại và con sẽ cảm thấy Thượng đế ở với con trong tim con. Khi con đi vào trong tim con, con sẽ luôn luôn cảm được sự hiện diện của Thượng đế bên con. Thượng đế ở đây để bảo vệ con. Thượng đế ở đây để dỗ dành con. Thượng đế ở đây để chỉ cho con làm gì. Con luôn luôn tìm được Thượng đế trong tim con và ngài sẽ luôn luôn hướng dẫn bước con đi trong đời. Vậy Thượng đế giống như một người con không nhìn thấy, luôn luôn ở bên con.”

Khi con cố giải thích Thượng đế cho một người lớn không có khuynh hướng tâm linh, con đối mặt với một tình thế hoàn toàn khác. Do nhu cầu, cách diễn đạt của con phải phù hợp với những tin tưởng, hoặc sự thiếu vắng tin tưởng,  của người đó. Tuy nhiên nói chung, ta sẽ sử dụng những ý tưởng sau đây.  

Hãy đơn giản nhìn vào khoa học. Albert Einstein đã chứng minh là mọi thứ đều được tạo bằng năng lượng. Năng lượng là một rung động và khoa học đã cho chúng ta thấy có nhiều mức độ rung động khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta biết có ánh sáng mà mắt có thể nhìn thấy và cũng có nhiều loại tia sáng khác mà mắt không thể nhìn thấy. Einstein đã giúp chúng ta hình dung vũ trụ là một tấm thảm liên tục những tần số năng lượng khác nhau, trong đó có một số mà chúng ta không thể phát hiện được bằng giác quan hay bằng dụng cụ khoa học. 

Thật là thú vị khi nhận thấy thế giới quan này ăn khớp với những gì những người tâm linh đã nói từ hàng ngàn năm trước đây, cụ thể là có cái gì đó vượt khỏi vũ trụ vật chất. Họ gọi đó là thế gới tâm linh, hay cõi tâm linh, nhưng con cũng có thể dễ dàng gọi đó là một dải tần số nơi có những độ rung cao hơn năng lượng của thế giới vật chất. 

Nói cách khác, ngay cả khoa học hiện đại cũng đang chỉ ra một cái gì đó có thể hiện hữu vượt ngoài vũ trụ vật chất. Khoa học đã mở ra khả năng có thể có những sinh thể trí tuệ hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Những sinh thể này có thể là những gì mà người tâm linh thường gọi là Thượng đế hay thiên thần.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhìn vào các khám phá của cơ học lượng tử. Ngành vật lý này đã chứng minh là mỗi khi chúng ta quan sát điều gì, chẳng hạn một hạt hạ nguyên tử, điều mà chúng ta quan sát sẽ bị tâm thức của chính chúng ta ảnh hưởng một cách cơ bản. Nói cách khác, các nhà khoa học nay đã chứng minh là mọi điều chúng ta quan sát đều bị tâm thức chúng ta ảnh hưởng.

Thậm chí có cả những nhà khoa học tin rằng tâm thức chúng ta giúp tạo ra thực tại vật lý. Nói cách khác, một số khoa học gia suy đoán rằng nếu không có ai đang đứng nhìn thì mặt trăng không có ở đó. Họ bắt đầu hiểu ra là tâm thức của một người có khả năng ảnh hưởng vũ trụ vật chất. Lý do là vì tâm thức là năng lượng mà vật chất cũng là năng lượng. Tuy nhiên, lỡ năng lượng là một dạng của tâm thức thì sao?

Điều này không khó hiểu lắm đâu khi chúng ta nhận ra rằng tất cả đều là năng lượng. Sự kiện mọi thứ đều là năng lượng đã lật đổ cái hàng rào ngăn chia vật chất với tâm thức. Có nghĩa là cái khái niệm bảo rằng tâm ở trên vật nay đã mang một ý nghĩa mới, một ý nghĩa được ngành vật lý tân tiến nhất hỗ trợ.

Hầu hết mọi người không thể hoàn toàn chấp nhận ý tưởng đó vì họ không thể chấp nhận tâm thức con người có thể tạo ra toàn bộ vũ trụ, và do đó, hầu hết đều gạt bỏ hệ quả triết lý của các khám phá của ngành vật lý. Thế nhưng có một giải pháp khác ngoài việc gạt bỏ các ý tưởng đó. Giải pháp này là nhận ra rằng tâm thức chỉ đơn giản là một hình thức năng lượng, và do đó tâm thức đã phải đóng góp trong việc tạo ra vũ trụ vật chất. 

Tất nhiên, toàn bộ vũ trụ không thể chỉ do tâm thức con người tạo ra. Bởi vì nói cho cùng, làm thế nào con người có thể tạo ra được một hành tinh đã hiện hữu hàng tỷ năm trước khi con người đầu tiên xuất hiện? Một cách giải thích khả dĩ là vũ trụ được tạo ra bởi những sinh thể trí tuệ không hề bị giới hạn trong một thân xác vật lý. Những sinh thể này cư ngụ nơi một cõi cao hơn, một dải tần số cao hơn. Đó là những sinh thể tâm linh mà một số người gọi là Thượng đế.

Những sinh thể trí tuệ đó đã có thể dùng tâm thức của họ để tạo ra vũ trụ vật chất kể cả xác thân vật lý của con người. Những dòng sống của chúng ta sau đó đã đi vào những xác thân này và sử dụng làm phương tiện để trải nghiệm cuộc sống, học hỏi nhiều hơn về chính chúng ta cũng như mối liên hệ của chúng ta với cội nguồn tâm linh chúng ta.

Vì thế Thượng đế là một dạng trí tuệ cao hơn, một dạng tâm thức cao hơn. Tâm thức Thượng đế có thể không khác gì tâm thức chúng ta trên căn bản, nhưng Thượng đế có sự nhận biết rộng lớn hơn về bản thể của ngài và một khả năng sáng tạo rộng lớn hơn chúng ta hiện thời.

Giáo lý nền tảng về các quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Con xin thày Giê-su giúp con hiểu rõ hơn về nghiệp quả mà vợ con phải gánh chịu khi cô ấy bị chứng bệnh tâm thần được mô tả là rối loạn lưỡng cực – tên gọi chính thức là bệnh trầm cảm cuồng điên. Con cho rằng cũng có phần nào nghiệp quả của con vì con đã quyết định chăm lo cho cô ấy trong những lúc rất khó khăn… Nhiều khi con cảm thấy bất lực đến độ con không còn cách nào khác hơn là trao hết mọi tình cảm của con cho Thượng đế, và vững tin là con sẽ có dịp hiểu sâu hơn tại sao chứng bệnh đôi khi tàn hại này lại đến với gia đình con… chúng con đã quá mệt mỏi… về lý trí lẫn tình cảm… nhưng về tinh thần thì cảm ơn Chúa… có cái gì đó mà chúng con chưa hiểu được… con có thể cảm được nhưng không biết đó là gì…   

Suốt 23 năm chung sống với nhau, cô ấy đã phải nhập viện mấy lần… có lúc phải buộc chặt cả hai chân hai tay, và có những lúc con không còn nhận ra cô ấy, dường như cô ấy không còn là chính mình… không còn đối xử với chúng con như khi còn thực là cô ấy… yêu thương và từ bi… đúng hơn, cô ấy có thể đổi ngược lại hoàn toàn chỉ trong phút chốc…

Chúng con có thể làm gì để giúp cô ấy, và cô ấy có thể làm gì để tự giúp mình thoát khỏi cái vòng độc hại này? Con biết là ông (Kim Michaels) quen biết Giê-su, và con xin lỗi nếu dạo sau này con đã yếu đuối… nhưng con muốn bỏ lại và bước đi đường con… trừ khi kinh nghiệm này là để nhằm đào tạo lòng kiên nhẫn, sự kiên trì, đức tin cho những công việc lớn hơn sau này… Con chỉ mong ước được hiểu sâu sắc hơn hầu con có thể giúp ích một cách tối ưu mà không khiến cho căn bệnh trầm trọng hơn… con cảm thấy là chúng con đang làm điều đó để giữ sự bình an… nhưng điều này thực sự không phải lẽ. Bao nhiêu năm trời đi khám bác sĩ đã không giúp được gì nhiều vì bác sĩ thấy rõ tình trạng ngày sẽ càng tồi tệ hơn với tuổi tác, và họ cũng tin rằng chỉ có dược phẩm mới giữ được cho cô ấy tương đối “bình thường”… cô ấy vẫn uống thuốc đấy… nhưng thuốc lại khiến cho có lúc lên lúc xuống, chưa kể những vấn đề khác do phản ứng phụ gây ra… Con xin cảm ơn mọi sự giải thích…  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta cảm ơn sự thành thực và cởi mở của con và ta cũng cảm ơn con đã đặt một câu hỏi chạm đến rất nhiều đề tài quan trọng.

Hãy để ta bắt đầu với vấn đề nghiệp quả. Như ta có giải thích ở một nơi khác, điều quan trọng đối với tất cả mọi người tầm đạo thời nay là phải hiểu rõ thực tế của luân hồi và nghiệp quả. Nếu con không hiểu quá khứ ảnh hưởng hiện tại của con như thế nào, làm sao con có thể vượt qua quá khứ và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn? Nhưng cũng không kém quan trọng là con cần có hiểu biết đúng đắn về nghiệp quả, và điều đặc biệt quan trọng là tránh rơi vào cái bẫy xem nghiệp quả là một hình phạt hay một điều gì không thể tránh khỏi.  

Một số người đã kết hợp hai ý tưởng lại với nhau, một là những giáo lý từ phương Đông về định mệnh và nghiệp quả, và hai là ý tưởng rằng con người phải hy sinh hay đau khổ để trả giá cho tội lỗi mà mình đã phạm. Và như vậy, họ lý giải rằng nếu có điều gì không hay xảy ra cho họ thì nhất định lý do phải là nghiệp xấu từ những kiếp trước. Và nếu họ cứ ráng chịu đựng khổ đau thì họ sẽ trả hết nghiệp và cuối cùng sẽ được giải thoát. Đây là một ngụy biện thật nguy hại đã khiến cho biết bao hành giả tầm đạo chân thành kéo dài đau khổ của mình một cách vô ích.

Mọi thứ trong vũ trụ đều có mục đích và một mục đích duy nhất mà thôi, là giúp con tăng triển. Thượng đế không hề có ý muốn trừng phạt các lỗi lầm đã qua của con, cho nên điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra sự thật rằng nghiệp quả không phải là một hình thức trừng phạt. Nghiệp quả là một cơ hội để tăng triển và con luôn luôn phải nhìn vấn đề như thế. Con thử nghĩ xem, tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con đau khổ, và làm thế nào đau khổ lại có thể bù đắp cho những lỗi lầm đã qua? Thượng đế chỉ mong muốn con bỏ lại những lỗi lầm này đằng sau để con được tự do trở về nhà là vương quốc của ngài.

Con đã từng tạo ra nghiệp khi con có những quyết định bất toàn, và những quyết định này là kết quả của một trạng thái tâm thức giới hạn. Những quyết định đó đã tạo ra một khối lượng năng lượng tha hóa nào đó, và để tái lập quân bình cho vũ trụ, năng lượng phải được tái chế để trở lại thuần khiết như ban đầu. Trước khi con có thể thượng thăng vĩnh viễn vào cõi tâm linh, con phải phục hồi tất cả mọi năng lượng mà con đã làm cho tha hóa trong mọi kiếp sống của con. Con cũng sẽ phải giải quyết mọi điều tin tưởng nhị nguyên trong tâm lý con – những tin tưởng đã khiến con làm nhơ năng lượng. Cho tới khi điều này xảy ra, nghiệp của con – gồm cả năng lượng tha hóa lẫn tâm lý chưa giải quyết – sẽ giống như một sợi dây cao su kéo buộc dòng sống của con về trái đất.

Do đó, việc hồi trả một phần nghiệp của con là một cơ hội cho dòng sống của con được giải thoát. Công việc này gồm hai phần, một là con phải thăng vượt trạng thái tâm thức đã khiến con tạo nghiệp, và hai là con phải thanh lọc năng lượng.

Vượt qua trạng thái tâm thức cũ thường là công việc khó khăn nhất vì nhiều người có khuynh hướng trốn tránh trách nhiệm phải thực sự thay đổi chính mình từ bên trong. Họ thường đặt trọng tâm vào cái giằm trong mắt người khác thay vì tìm kiếm cái xà trong mắt mình. Đúng ra, nếu con thăng vượt được tâm thức cũ của con trước khi nghiệp quả quay trở lại thì con sẽ rất dễ dàng thanh lọc năng lượng và tránh được xáo trộn trong đời mình. Thậm chí còn có thể nói, chỉ khi nào một người không tỏ dấu hiệu gì muốn thăng vượt một tâm thức nhất định thì nghiệp quả mới đập trở lại với nguyên mãnh lực của nó. Điều này xảy ra như một lời cảnh tỉnh đối với những dòng sống mà không một cách nào khác có thể với tới. Khi quả báo xảy ra thì đó là nỗ lực cuối cùng để đánh thức dòng sống về sự cần thiết phải khắc phục một khiếm khuyết nào đó trong tâm lý mình.   

Về thanh lọc năng lượng, đây là một tiến trình cơ học không khó thực hiện, đặc biệt là khi con đã thăng vượt tâm thức cũ và do đó con không còn làm tha hóa thêm năng lượng. Để biến hóa năng lượng ô nhiễm, con chỉ cần đơn giản cầu thỉnh năng lượng tâm linh có tần số cao từ trên xuống hầu nó nâng cao độ rung của năng lượng ô nhiễm. Điều này có thể thực hiện qua một số nghi thức tâm linh, như được giải thích trên trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt. Tuy nhiên, con cũng có thể đạt được nhiều kết quả duy chỉ bằng cách đáp lại nghiệp quả với một thái độ tích cực, xem nghiệp quả là một cơ hội để con tăng triển và sửa đổi.

Bây giờ con có thấy được làm thế nào người ta có thể khiến cho mọi chuyện khó khăn hơn hay không? Nếu họ không sẵn sàng thăng vượt tình trạng tâm thức cũ – đặc biệt là nếu họ không xem cuộc đời là một cơ hội tăng triển – thì rất có thể họ sẽ không thấy quả báo là một lời cảnh tỉnh. Họ sẽ cưỡng lại nghiệp quả, có lẽ họ sẽ xem đó là một sự trừng phạt, hay họ có thể phản ứng tiêu cực bằng nhiều cách, và những cách phản ứng này sẽ dễ dàng trở thành cái cớ để họ không nhìn vào tâm lý của mình.

Điều này sẽ khiến cho họ đau khổ, và khi làm vậy thì họ lại tha hóa thêm năng lượng, tạo thêm nghiệp chướng trong khi không làm gì để thanh lọc năng lượng của nghiệp báo. Con có thấy điều ta muốn nói không? Hai điều sai không tạo nên một điều đúng. Con không thể quân bình nghiệp cũ bằng cách cảm thấy đau khổ do nghiệp quả. Làm vậy sẽ chỉ tạo thêm nghiệp, và cứ thế nó trở thành một vòng xoáy tự bồi thêm sức mạnh, kéo con ngày càng xa hơn khỏi tâm thức Ki-tô.

Mục đích của ta khi ta dẫn con qua nguyên phần trình bày ở trên là chỉ ra cho con tầm quan trọng là con không bao giờ được nghĩ rằng con phải chịu đựng lâu dài một tình huống nào đó vì con đã mang nghiệp với một người. Cũng không kém quan trọng là con phải tránh rơi vào cái bẫy mà nghĩ rằng qua sự khổ đau, cuối cùng con sẽ trả hết nghiệp và được tự do bước đi tiếp. Ngược lại là đằng khác, con sẽ tự giam mình chặt chẽ hơn trong một trạng thái giới hạn, thường con sẽ gây thêm nghiệp mới với một người mà con đang có sẵn mối quan hệ nghiệp tạo. Mục đích của mọi tình huống là giúp con tăng trưởng qua sự thăng vượt bản thân. Do đó con hãy đừng cố chịu đựng mà con hãy cố học hỏi bài học và bước tới trong tâm thức. Chịu đựng không có ích gì. Toàn bộ mục đích là để con học được bài học.     

Bây giờ ta sẽ nói tới các mối quan hệ. Mục đích của mọi thứ trong thế gian là để tăng triển và đây cũng là trường hợp của các mối quan hệ. Vậy thì nếu một quan hệ không đem lại tăng triển ít nhất cho một bên, thì thử hỏi tiếp tục quan hệ có được mục đích gì hay không? Nếu đó là một mối quan hệ nghiệp tạo thì hai người đã ở bên nhau trong những kiếp trước. Họ tạo nghiệp với nhau do một người, hay cả hai người, ở trong một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu quan hệ hiện tại không tăng trưởng, đó là vì một hay cả hai người đã không thăng vượt tâm thức cũ. Do đó, rất có thể là cả hai sẽ tạo thêm nghiệp thay vì quân bình nghiệp. Điều ta muốn chỉ ra qua lời giải thích này là sự sai lầm của lối suy nghĩ cho rằng một mối quan hệ phải kéo dài suốt đời, hay con phải chịu đựng một mối quan hệ đã mất hết chức năng (có nghĩa là không còn tăng trưởng nữa) hầu con có thể quân bình nghiệp quả. Thật là sai lầm khi lý luận rằng con sẽ tự động quân bình nghiệp quả bằng cách kiên nhẫn và nhịn nhục lâu dài.

Nhưng ta cũng xin nói rõ là con không bao giờ được dùng lời dạy này để trốn chạy một mối quan hệ. Lời dạy này không được là cái cớ để con không chịu tu sửa bản thân hầu giúp cho mối quan hệ thành công. Nếu con đang ở trong một mối quan hệ khó khăn, con có thể chắc chắn là con đã mang nghiệp với người đó, và điều này bao gồm cả năng lượng bị tha hóa lẫn những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý của con.  

Cho nên con phải xem đây là một cơ hội để tăng triển. Muốn sử dụng cơ hội này, con phải nỗ lực một cách chân thành để khám phá ra tâm thức nào đã khiến con tạo nghiệp với người đó trong một tiền kiếp. Điều này thường tương đối dễ dàng nếu con xét xem điều gì về người đó đang làm cho con bực bội nhiều nhất – mặc dù ta luôn luôn cảnh giác mọi người là phải đi tìm những nguyên nhân sâu xa đằng sau các vẻ ngoài. Con hãy tự hỏi tại sao cách cư xử của người kia khiến con bực bội đến như vậy. Đâu là cơ chế tâm lý trong con khiến con bực bội. Đâu là cái thông điệp ẩn giấu mà đúng lý con phải học được về chính con qua việc xem xét cách phản ứng của con đối với người kia?

Một khía cạnh nữa của việc quân bình nghiệp quả là con phải cư xử với người kia với một thái độ tích cực để con không tạo thêm năng lượng tha hóa, cho dù mối quan hệ có khó khăn đến chừng nào. Nếu con đã thành thật cố hết sức để đáp ứng những yêu cầu này – như người đặt câu hỏi này rõ ràng đã chứng tỏ được – thì con cần phải xem xét sâu hơn nữa.   

Đến đây ta sẽ nói chung chung về những người đang gặp khó khăn trong quan hệ vì người bạn đời của mình mắc bệnh tâm thần trầm trọng. Bất kỳ một chứng bệnh tâm thần nào, kể cả rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder), cũng liên quan đến một sự phân chia trong linh hồn (soul division), có nghĩa là một cái gì ngoại lai đã xâm nhập vào trường năng lượng của dòng sống. Đó có thể là một tà thể ngoại lai (outside entity) hay một bản sắc giả hiệu (pseudo identity) do dòng sống tạo ra trong tiền kiếp. Ta đã có giải thích về điều này trong câu trả lời của ta về phân chia linh hồn cũng như những giáo lý về tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nghiện ngập.   

Tuy nhiên, trách nhiệm của cái Ta Biết là phải cai quản trường năng lượng của chính nó, cho nên lý do duy nhất một tà thể ngoại lai có thể xâm nhập vào dòng sống là vì cái Ta Biết đã từ bỏ trách nhiệm của nó. Nguyên nhân có thể rất dễ hiểu, chẳng hạn một chấn thương trầm trọng trong một tiền kiếp, nhưng cũng có thể là một lỗi lầm nghiêm trọng hay một sự nổi loạn chống lại Thượng đế mà cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn nhận. Dù nguyên nhân là gì, vấn đề đang ngăn cản dòng sống trở lại toàn vẹn là cái Ta Biết đã rút lui, đã bỏ rơi trách nhiệm cai quản của nó, và đã cho phép một tà thể khác tiếp quản, ít ra là đôi khi.

Điều ta muốn nói ở đây là ta vô cùng thương xót những người gặp phải vấn đề này, tuy nhiên sự thương xót không thể biến thành sự đồng tình, bởi vì như vậy sẽ chỉ giúp cho người đó tiếp tục duy trì tình trạng bất toàn của họ. Lòng từ bi đích thực là sự kêu gọi hành động, để con làm hết sức con hầu giúp cho người kia khắc phục được tâm trạng tê liệt, giành lại quyền ngự trị trên trường năng lượng của mình và do đó tống khứ kẻ ngoại xâm.

Nếu con ở trong mối quan hệ với một người mang bệnh tâm thần, có thể đó là do một số nguyên nhân:

  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã gây chấn thương trầm trọng cho người đó.
  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã làm công cụ khiến cho người đó phạm vào lỗi lầm nghiêm trọng.
  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã làm công cụ khiến cho người đó nổi loạn chống lại Thượng đế hay quy luật của Thượng đế.
  • Con không có nghiệp với người đó nhưng con đã đi vào quan hệ này để tạo cơ hội tăng triển cho người đó. Con muốn giúp người đó và động lực của con là tình thương.
  • Con không có nghiệp với người đó nhưng con đã đi vào quan hệ này để học hỏi một số bài học mà con muốn học. Thường con có thể trực nhận được nguyên do tại sao như thế, nhưng điều này không thật sự quan trọng. Bất kỳ quan hệ nào cũng là một cơ hội tăng trưởng, và đối với con điều này có thể mang hai ý nghĩa:
  • Con đang có cơ hội phát triển bản thân. Do đó con phải nỗ lực học hỏi mọi bài học mà con có thể học được từ quan hệ này. Nó bao gồm việc khám phá và chữa lành những sự mất quân bình trong linh hồn con do người kia làm cho hiển hiện lên. Nhưng nó cũng bao gồm con học cách cư xử với người khác để giúp họ có năng lực tăng trưởng thay vì giúp họ cứ giữ nguyên như cũ.
  • Người kia đang có cơ hội phát triển bản thân. Nhưng sự khác biệt ở đây là con không thể ép buộc người khác phải học một bài học. Con chỉ có thể tìm cách giúp cho người đó học hỏi dễ dàng hơn mà thôi. Con có thể làm hết sức mình để tạo cơ hội cho người kia học hỏi, nhưng nếu họ bỏ qua mọi cơ hội thì sẽ tới một điểm khi mối quan hệ không còn phục vụ mục đích xây dựng nào nữa. Có thể đã đến lúc con phải bước ra đi, và nếu con là một người tầm đạo chân thành đang trung thực muốn học những bài học của mình, trực giác của con sẽ nói cho con biết đó là lúc nào. Để được trợ giúp về điểm này, con hãy nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của con.

Khi con ở trong mối quan hệ với một người mang bệnh tâm thần, con cần luôn luôn lưu ý điều sau đây. Người đó bị bệnh do một sự thiếu toàn vẹn trong dòng sống. Nhưng nguyên nhân là vì họ đã không sẵn sàng nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm cho hoàn cảnh của mình và giành lại chủ quyền mà mình đã đánh mất trong quá khứ. Con không thể ép buộc một người như thế trở nên toàn vẹn. Họ chỉ có thể phục hồi sự toàn vẹn qua một quyết định ý thức của ý chí. Nếu họ khăng khăng từ chối không chịu sử dụng sức mạnh ý chí của mình thì rất có thể không gì sẽ giúp họ được nữa.  

Tuy nhiên, liệu con đã làm hết sức mình để giúp người kia đạt đến bước ngoặt để họ sẵn sàng sử dụng ý chí và giành lại chủ quyền hay không? Con cần luôn nhớ rằng một người đã mất đi sự toàn vẹn sẽ dùng đủ mọi cái cớ để trốn tránh trách nhiệm và trốn tránh sử dụng ý chí. Một người như vậy thường hay dùng ý chí mạnh mẽ để tránh phải sử dụng ý chí hầu thay đổi tình trạng của mình. Nói cách khác, họ sẽ nỗ lực nhiều hơn để biện minh cho những cái cớ họ không thể tự chủ thay vì họ nỗ lực tự chủ. Trong tình trạng hiện nay của khoa học còn hiểu biết giới hạn, việc đưa ra chẩn đoán rằng đây là bệnh tâm thần có thể trở thành một cái cớ toàn hảo để họ không nỗ lực tự chủ. Người ta quá dễ dàng chấp nhận căn bệnh vượt ngoài vòng kiểm soát của bệnh nhân, và vì vậy sẽ uống thuốc để làm tê căn bệnh mà không đối diện với vấn đề cơ bản nằm bên dưới.

Điều ta muốn nói là nếu con thật sự muốn giúp người đó, có thể con sẽ cần bắt buộc họ phải đối diện với vấn đề. Con có thể làm bằng nhiều cách, nhưng tất cả mọi cách đều liên quan đến quyền của con trong việc thiết lập ranh giới cho những gì con có thể chấp nhận trong một mối quan hệ. Tùy hoàn cảnh cụ thể, một điều chính đáng là con nói rõ những gì con có thể, hay không thể, dung thứ trong cách cư xử của người kia. Con có quyền yêu cầu họ làm hết sức mình, kể cả việc sử dụng những dụng cụ tâm linh mà khoa học chưa công nhận để thay đổi tình trạng này. Con có quyền yêu cầu người đó chứng tỏ là họ sẵn sàng thay đổi và sẽ nỗ lực thay đổi.

Tuy nhiên để điều này thực sự có hiệu quả, rất thường khi con không được cho người kia một lối thoát mà qua đó họ có thể trốn tránh nhận lấy trách nhiệm, lấy lại tự chủ. Cho nên nhiều khi con sẽ phải nói rõ là nếu con không thấy động thái nào giải quyết được vấn đề, kể cả phải ngừng hẳn một số hành vi cụ thể nào đó, thì con sẽ chấm dứt quan hệ và bước đi đường con.   

Ta cũng biết là trong một số trường hợp, điều này vẫn không đủ để người đó thức tỉnh, và vì thế khi con chọn cách này, có thể con sẽ phải kết thúc mối quan hệ. Nhưng nếu con đã làm tất cả những gì con có thể làm để học hỏi chính những bài học của con và giúp cho người kia học hỏi bài học của họ, thì có thể đây là kết qủa tốt nhất trong hoàn cảnh đó. Ngay cả nếu người kia không tăng trưởng qua kinh nghiệm này, riêng con vẫn có thể bước vào những cơ hội tăng trưởng mới. Và trong một số trường hợp, cách hành xử thẳng thắn này nhằm thiết lập ranh giới có thể là cách duy nhất để đánh thức một người, giúp người đó thực sự đối phó với vấn đề thay vì tìm cách che giấu các triệu chứng.  

Một số người có thể bảo rằng hành động cứng rắn như vậy là vi phạm quyền tự quyết của người kia. Tuy nhiên đó là một cách lý luận thô sơ, bởi vì người mắc bệnh tâm thần đã trao quyền tự quyết của họ cho một tà thể ngoại xâm rồi. Con không tìm cách kiểm soát người đó như tà thể ngoại xâm kia đang làm. Con chỉ cố xóc nảy lên để họ bước ra khỏi tình trạng tê liệt tâm linh hầu họ có thể tự do sử dụng quyền tự quyết của họ như trước. Thêm vào đó, chính con cũng có quyền tự quyết của con mà con có bổn phận phải sử dụng. Nếu con ở lại trong một quan hệ với một người bệnh tâm thần mà không bao giờ đặt ra ranh giới cho những gì con sẽ, hay không thể, dung thứ thì chính con đang đình chỉ quyền tự quyết của con.  

Người kia đã làm vậy rồi, thế nhưng nếu con cho phép quyết định đó của họ khiến con cũng đình chỉ quyền tự quyết của con thì con sẽ tạo nghiệp. Con không chịu trách nhiệm về những chọn lựa của người kia, nhưng con sẽ chịu trách nhiệm khi con để cho chọn lựa của họ tác động lên chọn lựa của con như thế nào. Cho nên con hãy cẩn thận đừng sử dụng tâm trạng tê liệt của người kia làm cái cớ để con bước vào, hay ở lại, trong tâm trạng tê liệt của con. Đừng bao giờ cho phép tự ngã của con sử dụng một người từ chối tăng trưởng làm cái cớ để con không tăng trưởng. Con chịu trách nhiệm về cuộc đời của con, kể cả khi con cho phép người khác tác động lên con.  

Ta cũng xin nói thêm là đối với nhiều người tâm linh, cách giao tiếp trực tiếp, thẳng thắn cũng chính là bài học mà họ đã đến đây để học trong kiếp này. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con đã đầu thai ở một thời điểm quyết định trong lịch sử địa cầu. Chúng ta đang chuyển tiếp từ thời đại Song ngư cũ sang thời đại Bảo bình mới. Để chuyển tiếp thành công, mỗi người cần tỉnh giấc để nhận ra tiềm năng tâm linh của mình. Thế nhưng nhiều người lại không chịu thức giấc bởi vì làm vậy sẽ đòi hỏi họ nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm về cuộc đời cũng như về hành tinh của họ – nó sẽ đòi hỏi họ phải thay đổi. Họ thường hay cưỡng lại một cách tích cực và vì thế, cách duy nhất để đánh thức họ dậy là biểu đạt một cách trực tiếp, có khi khích động. Đó là tại sao con đã thấy ta có cách hành xử rất thẳng thừng, sống sượng đối với loại người từ chối không chịu thức giấc như các thày thông giáo và người Pha-ri-si chẳng hạn.

Có rất nhiều người tâm linh đã hiện thân trong thời điểm này vì mong muốn đánh thức con người, nhưng họ lại không hoàn thành được vai trò này chính vì họ ngại nói thẳng với những người còn đang ngủ yên về mặt tâm linh. Điều này cũng bình thường thôi. Nếu con là người tâm linh thì bình thường con rất tôn trọng người khác cũng như quyền tự quyết của họ, cho nên con ngại nói thẳng. Tuy nhiên, nói thẳng để đánh thức họ mở mắt ra với sự sống vĩnh hằng thì không phải là vi phạm quyền tự quyết. Trái lại, đó là một bước cần thiết để ngăn chặn các dòng sống bị lạc đường.

Nhiều người tâm linh có vai trò quan trọng trong sự thức tỉnh sắp tới cần học cách cư xử thẳng thắn hầu đáp ứng được lý do họ có mặt ở đây. Và điều này có nghĩa là họ phải khắc phục xu hướng nhượng bộ người khác hầu giữ hòa khí và yên ổn. Thật sự, có cả những dòng sống mong muốn học hỏi bài học này đến độ họ sẽ cố tình bước vào những quan hệ vô cùng khó khăn để buộc mình phải đối mặt với bài học đó. Đối với người hiểu biết thì một lời nói như vậy cũng đủ rồi.

Hàng triệu người Hồi giáo đã sẵn sàng thay đổi nhưng rất ít dám lên tiếng công khai

Hỏi: Sau đây là một số điểm con đã học được từ thày về Hồi giáo:

  • Muhammad là một vị sứ giả được sắc phong từ cõi thiêng liêng cho dù chưa chứng quả vị Ki-tô,
  • Nhiều phần rộng lớn của kinh Quran đã được Muhammad truyền đạt nguyên vẹn, đặc biệt là những chương surah tiên khởi,
  • Sau khi ông từ trần, những người theo ông đã bỏ thêm nhiều điều vào lời dạy của Muhammad,
  • Đạo Hồi được dự định là một tôn giáo cho các dân tộc Ả rập chứ không phải cho thế giới nói chung.  

Những câu hỏi của con:

  1. Ích lợi ngày nay của kinh Quran là thế nào như một phương tiện hướng dẫn tâm linh?
  2. Kinh Quran ngày nay có thực sự là quyển kinh mà Muhammad đã chuyển giao? Chẳng hạn, kinh được sắp xếp theo độ dài của các chương surah chứ không theo thứ tự thời gian. Nếu một quyển sách chỉ dẫn mà sắp xếp sai lộn thì có ích gì?
  3. Liệu người đạo Hồi thời nay có cầu nguyện giống như Muhammad thuở đó hay không? Hay đây là một sáng chế của con người?
  4. Liệu thế giới Hồi giáo có thể thay đổi hay không? Dường như trong các tín đồ đạo Hồi, không có chút khả năng tự xét và tăng trưởng nào. Con nghi ngờ người đạo Hồi có thể vượt lên trên các tin tưởng hiện thời của mình và xây dựng một cách hành đạo mới mẻ, hợp thời hơn.

Con biết thày đã yêu cầu chúng con phải tự tìm lấy câu trả lời, và đây là điều con đang cố làm. Con là người đạo Hồi và con có nhiều vấn đề nghiêm trọng với đạo của con. Thay vì vứt bỏ toàn bộ một sớm một chiều, con muốn thay đổi lần hồi, vì thế con mới đặt những câu hỏi này.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/12/2010.

Câu hỏi 1: Bất kỳ phương tiện nào cũng chỉ hữu ích tới mức mà người dùng đem ra áp dụng. Nếu có một cách thức máy móc nào đó để đưa con người vào thăng thiên, thì từ lâu người ta đã tìm ra cách này rồi. Chúng tôi là những chân sư thăng thiên đã hội đủ tư cách thăng thiên bằng cách tìm kiếm con đường chân chính, là con đường luôn luôn sáng tạo ở bên trong mỗi chúng tôi. Vì vậy chúng tôi không có ý định phát triển, hay trao truyền, một con đường tu tập máy móc tự động, vì chúng tôi biết điều đó không thể làm được. Chỉ có người vô minh mới đi tìm một con đường cứu rỗi hoàn toàn bảo đảm – đó chính là giấc mơ của tự ngã nhằm đạt được đời sống bất tử mà không cần phải thăng vượt chính mình và cũng không cần cho tự ngã phải chết đi.      

Dẫn dắt tâm linh đã và sẽ không bao giờ là chuyện thảo ra một quyển kinh vỏ ngoài hay một bộ quy tắc toàn hảo. Dẫn dắt tâm linh phải đến từ bên trong, từ Hiện diện TA LÀ của con như ta đã mô tả trong bài giảng của ta. Một bộ kinh vỏ ngoài – cho dù đó là kinh Quran, Kinh thánh, những lời dạy bí truyền của thuở xa xưa hay chính trang mạng này – sẽ chỉ hữu ích tới mức nó kích thích khả năng của con bước vào nội tâm và tiếp xúc với cái ta cao hơn của con ở đó. Khi một hành giả sử dụng một nguồn tài liệu vỏ ngoài với ý xem đó là một con đường bảo đảm, thì con đường này sẽ không bao giờ dẫn tới sự tự thăng vượt đích thực. Nó sẽ chỉ dẫn vào ngõ cụt của niềm kiêu hãnh tâm linh, nơi con tưởng rằng Thượng đế sẽ phải đón nhận con vì con đã tuân thủ một chuẩn mực được dựng ra trên địa cầu.      

Kinh Quran có tiềm năng là một nguồn kích thích để con bắt liên lạc với Hiện diện TA LÀ của con nơi nội tâm. Nhưng thực tế là đại đa số người đạo Hồi không sử dụng kinh Quran như vậy, y như đại đa số người đạo Cơ đốc cũng không sử dụng Kinh thánh theo cách đó. Tuy nhiên, đâu có lý do gì một học trò tâm linh như con lại cho phép số đông đó lôi kéo con xuống? Không một người nào đã từng thăng thiên mà lại đi theo số đông, hay ngay cả để tai nghe lời đám đông.  

Cho nên nếu con có gan đọc sự thật ở giữa những dòng chữ và cho phép kinh Quran hướng dẫn con, quả thực là nó có thể là một phương tiện hữu dụng cho con – cho dù cách sắp xếp trong đó không được hoàn hảo.

Câu hỏi 2: Không, kinh Quran hiện tại không trung thành với những gì Muhammad đã giao lại. Tuy nhiên, nó vẫn gần với sự mặc khải được trao cho Muhammad hơn là kinh Tân ước gần với lời dạy chân truyền của ta. Vì vậy, nó vẫn hữu dụng cho những ai biết vượt khỏi ngôn tử vỏ ngoài và tìm kiếm LỜI bên trong.

Chắc chắn, nếu các chương surah được sắp xếp theo đúng thứ tự nguyên thủy thì sẽ tốt biết mấy, vì như vậy người học kinh sẽ có thể bỏ qua – hoặc đọc với một con mắt phân biện cao độ – những chương surah hậu sinh vì rõ ràng những chương này đậm nét rung động nhị nguyên. Một số lãnh đạo tiên khởi của đạo Hồi vô cùng lầm lạc đã cố gắng hết sức để khiến cho việc phục hồi thứ tự này gần như bất khả thi. Nhưng một lần nữa, nếu con sẵn sàng sử dụng sự hướng dẫn nội tâm trong con, thì việc cảm nhận độ rung khác biệt giữa những chương surah trước và những chương sau sẽ không khó khăn lắm.

Ở đây, ta không bảo là ta khuyến khích mọi người chỉ học một quyển kinh Quran mà thôi. Bất cứ ai mở tâm ra để vượt ra ngoài ngôn từ vỏ ngoài không nên giới hạn tâm mình vào một nguồn học hỏi duy nhất – kể cả trang mạng này. Con luôn luôn nên nghiên cứu nhiều nguồn khác nhau, và ở mỗi thời điểm, con hãy tập trung vào nguồn học nào đánh động tâm con sâu xa nhất, rồi con cho phép con thay đổi với thời gian.

Câu hỏi 3: Trong những năm đầu tiên, Muhammad hiểu được thông điệp ở trung tâm kinh Quran – cũng như mọi kinh chân truyền khác. Thông điệp đó là Thượng đế chân thực vượt khỏi mọi hình tướng, vượt khỏi tất cả những gì mà kinh sách hay nghi thức tôn giáo có thể nắm bắt. Cho nên ông đã cầu nguyện bằng cách đi sâu vào nội tâm và tiếp xúc với cái ta cao hơn của ông theo cách hiểu của ông. Đây là điều mà mọi nhà thần bí đích thực đã làm khắp các thời đại, và Muhammad khởi đầu như một nhà thần bí đích thực.

Khi con hiểu rằng Thượng đế chân thực duy nhất vượt mọi hình tướng, thì thật là vô nghĩa mà nghĩ rằng Thượng đế chỉ có thể được tìm thấy tại một địa điểm nhất định trên địa cầu. Nếu cho rằng Thượng đế vô hình tướng có thể được gắn liền hay giới hạn trong một hình tướng, thì đó chính là khuyết điểm của chủ nghĩa độc thần. Muhammad hiểu rõ điều này, nhưng những người theo ông thì không. Họ cần một tiêu điểm vật lý để mà thờ phượng, và Mohammad sau này rơi vào lỗi lầm là “cho người ta những gì người ta muốn”. Ông nghĩ rằng làm như vậy là phụng sự Thượng đế, nhưng không phải vậy.

Bản thân ta đã không rơi vào lỗi lầm đó. Ta đã không để lại kinh điển nào, và thậm chí ta cũng không để lại cả một xác thân vật lý. Tất nhiên, những điều này được thêm vào sau này, vì vậy cho dù Muhammad không làm những việc ông đã làm, thì tín đồ của ông cũng sẽ tạo ra những biểu tượng vật lý đó.

Muhammad hiểu được trung tâm điểm của đạo Hồi là một Thượng đế vô hình tướng, và ông biết rõ sự nguy hại nếu cho phép vị tiên tri trở thành quan trọng hơn cả nguồn gốc của tiên tri. Do đó ông không muốn người đạo Hồi quá tập trung vào Mecca. Thay vì cầu nguyện hướng mặt về phía Mecca, ông mong muốn họ cầu nguyện bằng cách bước vào nội tâm, và Allah cũng vậy. Con không thể tìm thấy Allah tại Mecca mà chỉ nơi vương quốc của ngài là bên trong chính con.     

Cách cầu nguyện phức tạp của nhiều người Hồi giáo thời nay một lần nữa thể hiện ý muốn tạo ra một con đường vỏ ngoài máy móc sẽ bảo đảm sự cứu rỗi của người theo đạo. Nó cũng chẳng khác gì một số người Tây tạng tin rằng nếu họ quỳ lạy một vạn lần thì họ sẽ được bảo đảm một số phúc lợi nào đó. Đây là con đường vỏ ngoài sẽ không dẫn con đến thăng thiên. Trong khi đó thì một nghi thức thật giản dị là làm cho tâm trí mình không còn chứa một định kiến nào nữa và hoà điệu với Hiện diện TA LÀ của mình, sẽ lợi ích hơn gấp bội.

Câu hỏi 4: Phải nói là thỉnh thoảng các chân sư thăng thiên cũng tự đặt câu hỏi này. Nhưng một lần nữa, chúng tôi nhớ lại chỉ cách đây vài thế kỷ, thế giới Cơ đốc giáo cũng từng khép kín đến chừng nào. Mặc dù đa số người dân tại phương Tây vẫn chưa mở tâm ra để bước vào bên trong, nhưng ít nhất xã hội Tây phương ngày nay cởi mở hơn so với 2, 3 trăm năm trước rất nhiều.   

Vì thế tất cả chúng tôi đều thấy được là với thời gian, sự thay đổi trong thế giới Hồi giáo sẽ không thể tránh được. Nếu không thì định luật thứ hai của nhiệt động học chắc chắn sẽ tạo ra nhiều hỗn loạn đến độ người Hồi giáo bắt buộc sẽ phải thay đổi mà thôi. Nhưng tất nhiên, tất cả chúng tôi đều hy vọng là sự thay đổi sẽ xảy đến do sự sẵn sàng cởi mở của mọi người.

Và đây là điểm mà con và những người như con có thể đóng góp. Con hãy đừng vứt bỏ đức tin Hồi giáo của con. Thay vào đó, hãy làm tất cả những gì con có thể làm để nêu lên vấn đề và tìm kiếm những người có cùng quan tâm như con. Hãy tổ chức và giúp đỡ lẫn nhau để quảng bá một cách tiếp cận mới, cởi mở hơn.

Con có thể nghĩ là con lẻ loi một mình, nhưng ta có thể cam đoan với con là có hàng triệu người đạo Hồi chia sẻ cùng quan tâm với con cũng như nhu cầu phải thay đổi. Hàng triệu dòng sống đã, như con, tình nguyện hiện thân trong đức tin đạo Hồi là để đem lại thay đổi trong thời điểm này. Sự thay đổi này gần kề hơn là con nghĩ, cho dù nó chưa đạt được túc số quyết định sẽ khiến nó biểu hiện ra một cách công khai và không thể chối cãi.  

Con hãy tìm hiểu bài giảng của ta về những nguyên nhân kích hoạt sự thay đổi, và con sẽ nhận ra là trong số tín đồ đạo Hồi có một lớp 10% ở trên cùng với sức mạnh tiềm năng rất lớn, đặc biệt là khi họ thức tỉnh và hợp sức lại với nhau. Cho nên con hãy đừng bỏ rơi đức tin Hồi giáo, mà con hãy nâng nó lên bằng cách con nâng cao chính tâm thức của con rồi giúp người khác cũng làm tương tự như con.

Giáo lý nền tảng về hôn nhân và ly dị

Hỏi: Liệu chế độ một vợ một chồng có thích hợp cho xã hội chúng ta? Trong quá khứ, người ta thường giữ đúng lời hứa hôn nhân, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu sự hiệp thông tâm linh giữa vợ chồng phai nhạt đi theo thời gian hoặc không thể gắn bó được – hoặc thậm chí, nếu một trong hai người vẫn cảm thấy gắn bó nhưng người kia thì không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như con nói, xưa kia việc giữ lời hứa sống chung với nhau là điều thông thường hơn bây giờ. Ngày nay điều này không đúng nữa và nhiều tín hữu Cơ đốc giáo xem đây là một dấu hiệu đạo đức đã suy đồi. Tuy nhiên, vấn đề không giản dị như vậy.   

Như ta có giải thích, nhân loại đang được nâng lên một tầng tâm thức cao hơn. Trong thời đại hôm nay, lý tưởng là con người nên có sự hiểu biết hợp lý hơn về các quy luật của Thượng đế hầu họ sử dụng các quy luật này một cách ý thức và tự nguyện đứng thẳng hàng với mục đích của Thượng đế.   

Tiếc thay, đạo Cơ đốc chính thống đã không đáp ứng được tiềm năng cao nhất của mình và đã không đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về quy luật Thượng đế. Các giáo hội Cơ đốc đã đặt trọng tâm vào cái nhìn đầy sợ hãi về sự sống và cố gắng bênh vực những giáo điều của quá khứ thay vì truyền rải sự hiểu biết cao hơn cần thiết cho tương lai.

Kết quả là tình trạng hiện tại và ngày càng có nhiều người không còn thỏa mãn với sự tin tưởng mù quáng nữa. Họ không thể mù quáng tuân theo quy luật của Thượng đế vì họ không bao giờ được trao sự hiểu biết đích thực về con đường dẫn tới quả vị Ki-tô. Kết cuộc là họ thường nổi loạn, bác bỏ giáo lý và luật lệ của giáo hội mà không thay thế bằng một hiểu biết cao hơn do đã đích thân bước đi trên con đường Ki-tô.   

Nhiều người bây giờ rơi vào trạng thái tâm thức chối bỏ luật lệ cũ, chẳng hạn như lời thề hôn nhân, và họ cho rằng thế nào cũng được. Nói cách khác, nếu mình thích thì cứ việc làm, không có gì sai trái hết. Điều này khiến cho nhiều người, kể cả một số người thật sự tâm linh có tiềm năng biểu hiện tâm Ki-tô, trụ neo trong tâm nhị nguyên và tự ngã phàm phu thay vì nơi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ. Do đó họ không thấy được một ý nghĩa tâm linh nào trong hôn nhân và thường chấm dứt cuộc hôn nhân từ một động cơ thấp kém. Sau đây ta sẽ cố cho con một cái nhìn cao hơn về hôn nhân và giá trị của lời thề hôn nhân.    

Như ta giải thích khắp trang mạng này, cuộc sống có thể được xem như một con đường tâm linh dẫn về tâm thức Ki-tô. Khi con chấp nhận quan điểm này về đời sống, con nhận ra là tất cả mọi sự xảy đến cho con đều là một cơ hội để con tăng triển. Mỗi hoàn cảnh mà con gặp, mỗi chọn lựa mà con có, sẽ đưa con hoặc một bước gần hơn tâm thức Ki-tô, hoặc một bước xa hơn tâm thức Ki-tô.

Trong mọi hoàn cảnh thường có hai yếu tố. Một là hoàn cảnh sẽ cho con một cơ hội để cân bằng nghiệp quả từ quá khứ và nhờ vậy con thoát khỏi gánh nặng của năng lượng tha hóa đó. Yếu tố kia là hoàn cảnh cho con một cơ hội để học hỏi một điều gì đó về chính con và những trở ngại trong tâm lý con đang ngăn cản con biểu hiện quả vị Ki-tô.

Khi con áp dụng những điều trên vào hôn nhân, con sẽ thấy hôn nhân là một cơ hội tuyệt diệu để quân bình nghiệp quả với một người khác. Hôn nhân cũng là một cơ hội rất tốt để học hỏi về những giới hạn cá nhân của con, hầu con có thể giải phóng tâm lý con khỏi những chướng ngại đang ngăn con khỏi tâm Ki-tô. Nếu con thật sự nhất quyết phát triển tâm linh, con sẽ thấy hôn nhân không chỉ là một chuyện vui thú hay thiết thực, mà thực sự là một cơ hội để khắc phục nghiệp quả cũ cùng những hạn chế tâm lý của mình, hầu con bước một bước dài về hướng quả vị Ki-tô cá nhân.

Ta có thể xác nhận với con là gần như không có cuộc hôn nhân nào trên địa cầu mà hai người không có nghiệp quả với nhau. Nói cách khác, con phải coi như là con đang có nghiệp quả với người phối ngẫu, và do đó hôn nhân của con là một cơ hội để con cân bằng nghiệp quả đó và giành được tự do của con. Ta cũng có thể xác nhận là tuyệt đối không có hôn nhân nào mà không cho con cơ hội để con phơi bày những bế tắc tâm lý hầu con giải quyết một cách ý thức và bỏ lại đằng sau vĩnh viễn.

Thật ra ta cũng có thể xác nhận với con là hầu hết ai ai cũng đều chọn người phối ngẫu của mình trước khi đầu thai. Mỗi dòng sống chọn vợ hay chồng mình là người sẽ đem lại cho mình cơ hội tốt nhất để cân bằng nghiệp quả và cởi sửa những nút thắt trong tâm lý mình. Nói cách khác, sự hấp dẫn bên ngoài với nhau giản dị chỉ là sự phản ánh một nhận biết sâu xa trong nội tâm rằng con thực sự muốn cân bằng nghiệp quả với người đó, và con thực sự muốn học những bài học mà con có thể học khi sống chung với người đó.    

Khi áp dụng cái nhìn này về hôn nhân, con nhận ra là điều cuối cùng mà con muốn làm là chấm dứt cuộc hôn nhân trước khi con hoàn thành mục đích tâm linh mà con đã đề ra cho cuộc hôn nhân. Nói cách khác, con không muốn chấm dứt hôn nhân trước khi con cân bằng mọi nghiệp quả với người phối ngẫu. Và con không muốn chấm dứt hôn nhân trước khi con học xong mọi bài học tâm lý con có thể học được từ người đó. Nếu con chấm dứt quá sớm, tất cả những vấn đề này sẽ chỉ giản dị bám theo con trong quan hệ kế tiếp.

Khi con hiểu sâu sắc ý nghĩa tâm linh của hôn nhân như vậy, con sẽ thấy là rất nhiều người quyết định chấm dứt hôn nhân trước khi họ cân bằng nghiệp quả và học xong bài học. Thật ra, nhiều người còn tạo ra thêm nghiệp chướng và củng cố những bế tắc tâm lý thay vì giải tỏa.   

Điều này xảy ra một phần là vì người ta không hiểu một bên của phương trình hôn nhân là tâm linh, và cũng vì họ bị neo cứng trong ngã thấp kém cũng như những nhu cầu ham muốn ích kỷ của ngã. Điều này khiến họ có nhiều tình cảm tiêu cực đối với người phối ngẫu. Một trong những tình cảm thông thường nhất là cảm thấy người kia có nợ gì đó đối với mình. Điều này không sai, vì con có quyền chờ đợi một quyền lợi gì đó từ người phối ngẫu, cụ thể là một cơ hội cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý của con. Nhưng món quà này hiện diện trong mỗi cuộc hôn nhân, với điều kiện là con sẵn lòng đón nhận nó. 

Tiếc thay, điều xảy ra cho nhiều người là họ trụ neo vào những ham muốn thấp kém của tự ngã phàm phu, và họ bắt đầu cảm thấy mình phải được hưởng một số quyền lợi vỏ ngoài từ người kia, và khi người kia không chu toàn được, họ cảm thấy bị dối gạt, đối xử tệ bạc. Và thay vì nhận trách nhiệm về con đường riêng của mình, họ đổ lỗi cho người kia. Tất nhiên, ngay khi con bắt đầu đổ lỗi cho người khác thì sự phát triển tâm linh của con sẽ dừng lại.

Như ta giải thích suốt trang mạng này, mọi thứ đều xoay quanh quyền tự quyết của con. Điều duy nhất có thể đưa con tiến thêm một bước trên đường cá nhân của con là con nhận trách nhiệm về hoàn cảnh hiện tại của con và con có sự chọn lựa cao nhất trong hoàn cảnh đó. Khi con đổ lỗi cho người phối ngẫu về sự trì trệ hay bất mãn của con, tức khắc con cũng từ chối nhận trách nhiệm và do đó con không thể có những chọn lựa sẽ giúp con thăng tiến.

Con không thể có những chọn lựa này vì con đã đẩy con vào một trạng thái tâm thức nơi con cho rằng chỉ người kia mới cần chọn lựa. Và chừng nào người kia không thay đổi, con cũng nghĩ là con không thể thay đổi. Tất nhiên đây là sự dối gạt lớn nhất của tự ngã phàm phu, vả đó chính là dối gạt mà tự ngã của con, như kẻ thù bên trong, và các tà lực như kẻ thù bên ngoài, sẽ sử dụng để đánh bẫy con vào trạng thái tâm thức hiện thời và ngăn cản con bước được bước kế tiếp trên con đường cá nhân.

Điều ta đang cố giải thích ở đây là bất kỳ hôn nhân nào, cho dù nó có vẻ không như ý thế nào đi nữa đối với tự ngã, nó vẫn tạo cơ hội cho dòng sống của con tăng triển. Nếu con đã quyết định cưới một người, con phải chấp nhận rằng dòng sống của con có một lý do tâm linh vô cùng chính đáng để thúc đẩy tâm vỏ ngoài của con lấy quyết định đó.

Con nên tin rằng dòng sống của con thực sự muốn cân bằng nghiệp quả và học hỏi một số bài học từ hôn nhân này. Do đó khi nào những mục đích tâm linh sâu xa này chưa thực hiện, con sẽ làm hại sự phát triển tâm linh của con nếu con chấm dứt hôn nhân. Điều đặc biệt nguy hiểm là nếu con chấm dứt hôn nhân do tự ngã bị thất vọng với những thiếu sót gán cho người phối ngẫu. Điều này sẽ chỉ cột con chặt hơn vào gọng kềm của tự ngã, khiến con khó phát triển hơn. Điều ta muốn nói là nếu con đã có lời thề hôn nhân, con nên giữ đúng lời thề đó bằng cách trung thành với người phối ngẫu, tận tụy nỗ lực để cân bằng nghiệp quả và học xong bài học. 

Con có hỏi điều gì sẽ xảy ra khi sự hiệp thông tâm linh giữa hai người bị phai nhạt hay không còn nữa. Như ta đã nói, luôn luôn có một mục đích tâm linh trong một hôn nhân. Điều này không nhất thiết có nghĩa là hai người phải cảm thấy hiệp thông tâm linh hoặc ngay cả thương yêu và tôn trọng lẫn nhau. Cuộc hôn nhân có thể vô cùng không như ý từ một quan điểm vỏ ngoài, nhưng đó vẫn có thể là cơ hội để cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý.

Vì vậy con nên tiếp cận hôn nhân với ý định rõ ràng là con sẽ thực hiện hai mục đích nói trên. Nó sẽ giúp con chịu đựng dễ dàng hơn mọi hoàn cảnh hôn phối và những điều không như ý không thể tránh khỏi trong bất cứ mối quan hệ nào giữa con người. Nó cũng sẽ gia tăng xác suất cả hai người sẽ dần dần cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý mình. Và như thế, hai con sẽ bắt đầu hỗ trợ cho nhau và tìm được sự hiệp thông tâm linh. Nói cách khác, không một hôn nhân nào sẽ thành công nếu con không thành tâm nỗ lực để nó thành công.

Sau khi trình bày những điều trên, phải công nhận là một hôn nhân có thể đi tới một điểm không còn đáp ứng được mục đích tâm linh nữa. Trong trường hợp này, việc chia tay và đi theo hướng mới có thể là điều có lợi cho sự phát triển tâm linh của cả hai người. Ta biết điều này sẽ làm cho nhiều tín hữu đạo Cơ đốc kinh ngạc vì họ còn nhớ những lời dạy của ta trong Kinh thánh. Hãy cho phép ta giải thích tường tận hơn.   

Trước hết, bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng phải thích ứng với tâm thức những người nhận giáo lý. Khi ta hiện thân 2000 năm trước đây, nhiều người đàn ông thường ly dị vợ mình khi người vợ không còn trẻ trung, đẹp đẽ nữa. Họ sẽ cưới vợ trẻ mới để thỏa mãn các đòi hỏi dục vọng. Do điều kiện xã hội vào thời đó, một phụ nữ gần như không thể tự lo liệu được kế sinh nhai của mình, và do đó nhiều phụ nữ trong hoàn cảnh đó không còn chọn lựa nào khác hơn là bán thân mình, một nghề bị xã hội cực kỳ lên án và xem là tội lỗi.  

Tình trạng này phản ánh rõ rệt thái độ ngược đãi phụ nữ trong nhiều nền văn hóa suốt bao nhiêu ngàn năm. Nhiều người đàn ông xem phụ nữ như một món hàng mà họ có thể vứt bỏ khi không còn hữu dụng. Trong khuôn khổ nỗ lực của ta nhằm phục hồi một vai trò xứng đáng cho phụ nữ – như được giải thích ở nơi khác – ta thấy cần phải lên tiếng thật mạnh mẽ chống lại ly dị. Điều này một phần là để bảo vệ phụ nữ, phần khác để giúp đàn ông tránh khỏi nghiệp quả hành hạ phụ nữ, vì điều này sẽ gia tăng sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ trong chính bản thể họ và chặn đứng sự tăng trưởng tâm linh của họ.  

Thời nay, một người nữ có khả năng chu toàn cuộc sống của mình mà không cần đến chồng. Xã hội cũng có pháp luật bảo về quyền lợi của phụ nữ sau khi ly dị cũng như nhiều dịch vụ xã hội hơn. Cho nên sẽ không đúng nữa khi nói rằng ly dị đi ngược lại quy luật của Thượng đế hay lời dạy của ta. Con có thể ly dị một cách hợp pháp khi cuộc hôn nhân không còn đáp ứng mục đích tâm linh nữa. Điều này đặc biệt hữu lý khi trong hôn nhân có sự lạm dụng thể xác hay tình cảm. Về mặt này, phải nói là việc phá hoại hay ngăn trở sự phát triển tâm linh của một người khác là hình thức lạm dụng nghiêm trọng nhất.

Tuy nhiên, ta phải cảnh giác mọi người là hầu hết mọi vụ ly dị xảy ra thời nay không hợp lệ trong nghĩa tâm linh. Đa số người ta ly dị vì tự ngã mình cảm thấy bị bất mãn, tổn thương trong hôn nhân, như giải thích ở trên. Cho nên ly hôn là một quyết định nghiêm trọng chỉ nên thực hiện sau khi đã cân nhắc lâu dài, kỹ lưỡng, và tốt hơn hết nên đến từ một mặc khải trực giác từ cái ta Ki-tô.   

Ta thực sự khuyên những ai đang nghĩ tới việc ly hôn nên trước hết có những nỗ lực để bảo đảm mục đích tâm linh cuả hôn nhân được thực hiện – trong đó gồm cả việc sử dụng Ngọn lửa Tím để tiêu hủy nghiệp chướng và làm hết sức để học được bài học về tâm lý. Phần khác nữa là con nên xem đến việc tham khảo những dịch vụ tư vấn hoặc liệu pháp hôn nhân và thành tâm nỗ lực để cải tiến cuộc hôn nhân. Trước khi con lấy đuyết định dứt khoát, ta cũng khuyến cáo con nên thực hiện kinh cầu 33 ngày và cố hòa điệu với cái ta Ki-tô của con.   

Bây giờ cho phép ta nhận xét về đoạn này trong Matthew 19:

3 Người Pharisi cũng đến gần để thử ngài, nói rằng: Một người đàn ông đuổi vợ mình vì bất cứ lý do gì có đúng luật không? 4 Và ngài trả lời và nói; các người chưa đọc hay sao, rằng đấng đã tạo ra họ ở ban đầu đã tạo họ là nam và nữ, 5 Và vì lý do đó mà một người nam phải lìa cha mẹ, phải kết hợp với vợ mình, và hai người sẽ cùng là một thịt? 6 Qua đó họ không còn là hai mà chỉ là một thịt. Vậy điều gì Thượng đế đã kết hợp với nhau, đừng để con người phân rẽ.   

Câu chủ yếu là không người nào được phân rẽ điều gì mà Thượng đế đã kết hợp với nhau. Ý nghĩa nội tâm của câu này là con không được cho phép tự ngã và tâm nhị nguyên của con khiến con ly dị người phối ngẫu trước khi cuộc hôn nhân hoàn thành mục đích tâm linh mà dòng sống của con đã quyết định. Nói cách khác, một uy quyền cao hơn (mà ta gọi là “Thượng đế” trong câu nói) – nghĩa là dòng sống của con với sự hội ý của các vị thày tâm linh của con – đã kết hợp con với người phối ngẫu để thực hiện một mục đích nhất định. Con nên giữ lòng thủy chung với mục đích này cho tới khi nó hoàn thành. Và con không được cho phép cái tâm thấp kém và những ham muốn của tâm thấp kém (mà ta gọi là “con người” trong câu nói) khiến con đi chệch khỏi mục đích tâm linh của cuộc hôn nhân.

Con cũng hãy ghi nhận rằng chồng và vợ có thể trở thành cùng một thịt. Ý nghĩa tâm linh thực sự của câu đó là vợ chồng có tiềm năng bước lên một mức kết hợp cao hơn, một sự kết hợp tâm linh nội tại. Nếu cả hai người nỗ lực siêng năng để giải hóa nghiệp quả và tâm lý, họ sẽ có thể giúp nhau đạt được cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của bản thể họ. Khi thực hiện được cân bằng này trên phương diện cá nhân, hai người sẽ vươn lên một mức kết hợp cao hơn rất nhiều so với những gì có thể. Sự kết hợp này giữa vợ và chồng là biểu tượng cho kết hợp giữa dòng sống và cái ta tâm linh. Quả thật, nó sẽ giúp cả hai người đạt đến kết hợp nội tâm đó, và do đó một cuộc hôn nhân phát huy được tiềm năng cao nhất có thể là một lực đẩy tâm linh tuyệt vời cho cả hai người.    

Ta cần nói rõ là không phải cuộc hôn nhân nào cũng sẽ đạt được sự kết hợp cao độ đó. Nhưng ta cũng cảnh giác con là đa số các cuộc hôn nhân đều có tiềm năng này. Nói cách khác, điều xảy ra rất thường là người ta hay gặp điều bất mãn trong những năm đầu mới lấy nhau. Bất mãn là do mỗi người đều không không trọn vẹn và họ kỳ vọng người kia sẽ giúp mình cảm thấy trọn vẹn. Khi cảm giác trọn vẹn không ở đó, thật là dễ rơi vào lời dối trá của tự ngã bảo con rằng con đã chưa tìm được người phối ngẫu thích hợp, và con chỉ cần tìm được người đó thì con sẽ tức khắc được hưởng hạnh phúc tràn trề.    

Nhưng đó là lời gian dối. Dù con có cưới người tâm đầu ý hợp – ngọn lửa song sinh của con – thế nhưng chừng nào nghiệp quả và những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa thì hạnh phúc đó cũng sẽ không có được. Hầu hết các cuộc hôn nhân đều có tiềm năng kinh nghiệm được sự trọn vẹn đích thực, nhưng trọn vẹn này chỉ có thể đến khi cả hai người có sự trọn vẹn cá nhân, có nghĩa là đã giải quyết một số nghiệp quả và tâm lý nào đó.   

Điều ta muốn nói là có những hoàn cảnh khi con cần phải chấm dứt một cuộc hôn nhân hầu thăng tiến sự phát triển tâm linh của cả hai người, hoặc ít nhất một trong hai người mong muốn phát triển tâm linh. Tuy nhiên, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con có một nỗ lực chân thành và hết mình để giúp cho cuộc hôn nhân thực hiện được tiềm năng cao nhất của nó trước khi con quyết định ly dị. Nếu con lià bỏ người phối ngẫu trước khi giải quyết tâm lý con, có nhiều xác suất con sẽ thu hút một người phối ngẫu khác cũng lại khơi lên cùng những vấn đề tâm lý nơi con. Vậy thì tại sao con không cố giải quyết với người đầu tiên? Một khi con đã giải quyết tâm lý mình thì điều thận trọng là con có thể chia tay. Tuy nhiên, nếu con đã giải quyết tâm lý thì rất có thể cuộc hôn nhân đầu đã trở thành toại nguyện đến độ con không có lý do để chia tay nữa.  

Nói cách khác, con không bao giờ được ly dị vì tự ngã con muốn chạy trốn khỏi những điều không vừa ý. Thật là không có ích gì đeo đuổi một cái cầu vòng gọi là hôn nhân, bởi vì ta cam đoan với con là ở cuối cầu vòng không có hũ vàng nào cả. Con chỉ nên ly dị khi con biết – cái biết sâu thẳm ở bên trong – rằng đã tới lúc con phải chọn một hướng đi mới tốt đẹp hơn trong nghĩa tâm linh đích thực.

Con không cần phải đau khổ để được Thượng đế tha thứ

Hỏi: Về sự tha thứ, liệu một người có cần phải hướng về Thượng đế để được tha thứ hay không? Con biết là trong các quan hệ cá nhân của con, con cố tha thứ cho những ai đã làm hại con cho dù họ không bao giờ xin con tha thứ, hầu con có thể rửa sạch tim con khỏi mọi hiềm khích. Cho nên hình như tình thương vô điều kiện của Thượng đế cũng tha thứ chúng con trước cả khi chúng con xin ngài. Vậy thì liên quan đến câu trả lời của thày về tội lỗi không thể tha thứ, hình như chính con người mới tự giam mình trong một trạng thái không thể tha thứ khi y không cố vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng tình thương của Thượng đế thì luôn luôn đứng ở đó chờ y quay đầu về hướng ngài. Đây có phải là cách hiểu đúng đắn hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con đã thấu hiểu tinh túy của tha thứ và con đã diễn tả một cách hùng hồn. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và do đó sự tha thứ của ngài tức khắc. Con không cần phải xin, bởi vì sự tha thứ rơi xuống như hạt mưa trên người công chính lẫn kẻ bất công.

Trong một nghĩa nào đó, con không bao giờ cần được Thượng đế tha thứ, mà con chỉ cần chấp nhận rằng con đã được ngài tha thứ. Vấn đề là cho tới khi con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con hành động sai trái, con sẽ không có khả năng chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Cho nên có thể nói rằng tiến trình cứu rỗi một dòng sống là tiến trình giúp cho y vươn lên trên tâm thức đã khiến y làm tha hóa năng lượng của Thượng đế. Và khi vươn lên tâm thức đó, bước cuối cùng mà dòng sống phải bước là chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế đối với mọi hành động đã qua, hầu y có thể hoàn toàn chấp nhận là mình đã giải phóng khỏi quá khứ. Tuy nhiên, dòng sống sẽ cần làm gì để chấp nhận sự tha thứ này? Nhiều dòng sống cho rằng mình cần phải hướng về Thượng đế và xin được tha thứ, và làm vậy cũng hoàn toàn chính đáng thôi.

Khi xin được Thượng đế tha thứ, dòng sống thừa nhận mọi hành động sai trái của mình. Hiển nhiên, y không làm vậy vì lợi ích của Thượng đế, bởi vì y không thể che giấu bất kỳ hành động nào khỏi mắt ngài. Cho nên sự lợi ích ở đây là tâm lý. Bằng cách nhìn nhận hành động của mình trước Thượng đế, dòng sống cũng nhìn nhận với chính mình rằng hành động đó sai trái. Và đây là bước khởi đầu mà y phải bước để tự tách mình ra khỏi tâm thức đã khiến mình hành động như thế. Tiếc thay, việc thừa nhận lầm lỗi lại có thể làm nảy sinh ý niệm tội lỗi, và ý niệm này có thể ngăn chặn khả năng chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Vấn đề trên địa cầu là hiện có quá nhiều những lời gian dối đã khiến cho con người tin rằng mình khó lòng hoặc không thể vượt qua quá khứ – từ sự tin tưởng rằng Thượng đế là một đấng nóng giận và phán xét ở trên trời, qua tin tưởng rằng có những tội tày trời không thể tha thứ được, cho đến tin tưởng rằng để giải thoát khỏi tội lỗi, con người phải kinh qua đủ số lượng đau khổ và đau đớn nào đó.

Nhiều người tin rằng nếu mình đã gây đau khổ cho người khác, thì sự trải nghiệm khổ đau sẽ phần nào đền bù cho lỗi lầm của mình, như thể hai cái sai sẽ tạo ra một cái đúng. Suốt các thời đại, cơ năng tâm lý đã khiến cho con người cảm thấy mình phải đền đáp tội lỗi của mình qua sự khổ đau, đã làm nảy sinh một số giáo lý và nghi thức tôn giáo. Những giáo lý và nghi thức này đã được các chân sư thăng thiên trao truyền với mục đích giúp con người đánh gạt tâm trí mình hầu chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế và giải thoát khỏi quá khứ.  

Rất tiếc là con người đã quá nhanh nhẩu tạo dựng thêm nhiều giáo điều cùng nghi lễ khác nhiều khi rất kỳ lạ. Một ví dụ là cho rằng bằng cách tự trừng phạt thân xác cho nó thật đau đớn thì mình sẽ phần nào bù đắp được phần tội của mình. Hoặc nữa, họ tự giáng lên mình những nỗi khổ tinh thần hầu đền bù cho tội lỗi đã qua. Sự thật đơn giản là cả hai cách phản ứng này sẽ đều làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, vậy thì làm thế nào con có thể bù đắp cho năng lượng tha hóa của quá khứ bằng cách tha hóa thêm năng lượng trong hiện tại? Năng lượng tha hóa có bù trừ cho nhau đâu? Bởi vì chỉ có năng lượng tâm linh mới có thể xóa bỏ được năng lượng thấp kém.

Tuy nhiên có một cơ năng tinh vi ở đây khiến cho một dòng sống nhạy cảm biết được là mình đã làm cho vũ trụ bị mất cân bằng. Cho dù nhiều tín hữu Cơ đốc không hiểu khái niệm nghiệp quả, hay khái niệm năng lượng tha hóa, họ vẫn cảm nhận được là họ đã phạm tội, và dòng sống của họ cảm thấy mình sẽ không thoát được tội đó cho tới khi mình phục hồi cân bằng của vũ trụ. Ta vẫn biết là đa số người đạo Cơ đốc không ý thức rõ khái niệm nghiệp quả, nhưng đây chính là một lý do khiến họ khó lòng tự tha thứ. 

Trong sâu xa, nhiều người tâm linh muốn sòng phẳng với Thượng đế và tái lập cân bằng của vũ trụ. Cho nên họ trực nhận được là họ đã chưa hoàn toàn cân bằng mọi nghiệp quả, vì thế họ chưa tự do đối với quá khứ. Mặc dù sự trực nhận này là một dấu hiệu trưởng thành tâm linh, nhưng những tin tưởng sai lầm về tội lỗi đang lưu hành đầy rẫy trên thế giới thường khiến cho người tầm đạo cảm thấy là cho tới khi mình tái lập được cân bằng, thì mình phải tiếp tục cảm thấy có tội.

Như ta giải thích ở đầu bài, điều này thật sự không cần thiết. Nếu con đã từ bỏ cái tâm thức đã khiến con phạm lỗi, thì con không còn cần phải cảm thấy mình có tội. Nào có ích gì nếu con cứ cảm thấy tội lỗi về một chuyện mà con đã bỏ lại đằng sau? Nó sẽ chỉ buộc chặt con hơn vào trạng thái tâm thức đó và khiến con không thể buông ra hoàn toàn.  

Điều ta muốn nói là nếu con thật sự thấu hiểu sự tha thứ, con sẽ nhận ra rằng việc cân bằng nghiệp quả là một tiến trình máy móc. Nếu con trả nợ đều đặn thì tại sao con phải cảm thấy tội lỗi đối với ngân hàng đã cho con vay tiền? Tương tự như thế, miễn là con tiếp tục nỗ lực cân bằng nghiệp quả thì không có lý do gì con phải cảm thấy tội lỗi do đã gây ra nghiệp quả, ít nhất khi con đã vượt qua cái tâm thức đã khiến con lầm lỡ.

Ta hiểu rằng một số dòng sống cảm thấy mình cần duy trì ý niệm tội lỗi cho đến khi nghiệp được trả hết, vì họ cho rằng làm như vậy sẽ thôi thúc họ tiến bước nhanh hơn. Tuy nhiên ta luôn mong rằng các dòng sống trưởng thành hơn sẽ thấy rõ là điều này không cần thiết. Ta mong mọi người tầm đạo sẽ chấp nhận được sự tha thứ của Thượng đế, cũng như thoát khỏi mọi ý niệm rằng mình là người có tội hay là người không xứng đáng trong mắt của Thượng đế.     

Đạo Sufi tương tự như khía cạnh thần bí của hầu hết mọi tôn giáo khác

Hỏi: Trong đạo Hồi, Mohammad đã giảng dạy giáo lý công truyền qua kinh Quran. Phải chăng Ali, em họ của Mohammad, đã giảng dạy giáo lý tâm truyền? Và đâu là nguồn gốc của đạo Sufi trong Hồi giáo?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 30/12/2007. Đăng ngày 17/11/2012.

Đạo Sufi có thể so sánh như khía cạnh thần bí của hầu hết mọi tôn giáo khác. Trong bất kỳ tôn giáo nào trên địa cầu quy tụ được một số tín đồ, con sẽ thấy sự kết tinh thành hai phong trào cơ bản. Một phong trào gắn bó hơn với con đường công truyền – tức là lời nói bên ngoài, kinh sách vỏ ngoài, quy tắc và luật lệ vỏ ngoài. Và một phong trào đi theo con đường nội tâm, tâm truyền, thường lấy  nguồn mặc khải trực tiếp từ cõi trên làm nền tảng.    

Khi một dòng sống còn ở mức độ nhận biết tâm linh chưa cao, y thường không có khả năng kinh nghiệm Thượng đế một cách trực tiếp, và do đó y sẽ cần tới con đường công truyền để tiến bước, cho tới khi – thường là sau nhiều kiếp đầu thai – y có được nhiều phân biện nội tâm hơn, nhiều tư tin hơn về khả năng của mình biết được cái gì là chân, cái gì là giả. Và khi đó, y sẽ mở tâm ra cho con đường tâm truyền, nơi y sẽ phải bước theo những thúc giục sáng ngộ từ bên trong, sự hướng dẫn từ bên trong, mà không con tin cậy hay tuân thủ một cách mù quáng một giáo lý hay một vị thày vỏ ngoài nữa.  

Cho nên con đường công truyền có một giá trị nhất định đối với những ai chưa sẵn sàng đi theo con đường tâm truyền, và đó là lý do bản thân ta đã từng giảng dạy ở hai trình độ khác nhau – đối với quần chúng thì ta giảng dạy bằng ngụ ngôn, còn đối với môn đồ thì ta giảng giải mọi điều. Con sẽ thấy cùng mô thức này trong nhiều tôn giáo, kể cả đạo Do thái với giáo lý Kabbalah là con đường thần bí. Cho nên đạo Sufi cũng là một con đường khả thi cho những ai xuất thân từ đạo Hồi nhưng đã tiến bước xa hơn trên đường tu.

Tuy nhiên như với bất kỳ phong trào thần bí nào, con không thể nhìn vào đó một cách đơn giản và bảo rằng mọi chuyện trong phong trào đó đều thuộc về ánh sáng. Bởi vì bản chất của thần bí là tự do phóng khoáng hơn, và thường sẽ có nhiều người đạt được – hoặc tuyên bố là họ đạt được – sự tiếp xúc với tánh linh. Và như vậy, họ sẽ bảo là họ nhận được một hình thức mặc khải nào đó từ một cõi cao hơn. Và thường sẽ có những người nhận được mặc khải chân chính và một số người khác thì không. Vì thế trong một phong trào thần bí, sự phân biện là một yếu tố thiết yếu. Và đó cũng chính là lý do tại sao những ai chưa đủ chín chắn để phân biện thường thường sẽ tránh né các phong trào thần bí, vì trong tiềm thức họ phần nào biết được là họ chưa sẵn sàng.  

Và tất nhiên, vấn đề đặt ra là trong nhiều trường hợp, các dòng sống đó sẽ trở nên gắn bó với tôn giáo vỏ ngoài, và họ có thể bắt đầu tin vào những lời dạy của tôn giáo vỏ ngoài đó, là những lời dạy phát xuất từ lòng sợ hãi. Cho nên thậm chí họ sẽ không dám sử dụng khả năng phân biện của họ. Vì vậy con sẽ thấy nhiều tín đồ Cơ đốc thời nay – mặc dù trong nội tâm họ đủ trưởng thành để đón nhận khía cạnh thần bí của đạo Cơ đốc – nhưng ngoại tâm của họ thì không dám buông tin tưởng rằng họ sẽ được bảo đảm cứu rỗi nếu họ cứ mù quáng đi theo con đường vỏ ngoài. Và họ không dám buông cảm giác an toàn vỏ ngoài đó để chấp nhận giai đoạn xáo trộn mà hầu hết mọi dòng sống đều kinh qua khi họ bỏ lại con đường công truyền và cất bước trên con đường tâm truyền.

Hỏi: Vậy có phải Ali đã đem lại giáo lý tâm truyền của kinh Quran? Bởi vì một số người theo phái Shia tin rằng Ali bình thường sẽ được trao trách vụ tiên tri, và Ali đưa ra giáo lý tâm truyền, còn Mohammad thì đưa ra giáo lý công truyền?

Giê-su: Câu trả lời là có và không, theo nghĩa là ta không hề mong muốn khiến cho một phái của đạo Hồi cảm thấy hơn trội các phái khác. Đúng là Ali đã nhận được một số mặc khải nội tâm, nhưng điều này không có nghĩa là các giáo lý của Ali đều hoàn toàn chính xác. Bởi vì Ali cũng đã phần nào bị tô màu bởi những niềm tin cá nhân lẫn văn hoá của mình – y như Mohammad vậy.   

Cho nên sự thật đáng tiếc là không có một nhánh chính mạch nào của đạo Hồi là hoàn toàn thuần khiết. Có một số môn phái Sufi có một độ thuần khiết cao hơn. Nhưng thành thật mà nói với con, đạo Hồi như một tôn giáo đã không phát huy được tiềm năng cao nhất của mình. Và đối với chúng tôi là chân sư thăng thiên, khi nhìn vào tình trạng tâm thức của các nhánh chính của đạo Hồi, chúng tôi thật khó thấy được làm thế nào tôn giáo này sẽ có thể đổi mới,  

Đạo Hồi đã được trao truyền trong một nỗ lực kết hợp các bộ tộc khác nhau tại Trung Đông, là những bộ tộc đã giao chiến với nhau từ hàng ngàn năm trời. Thế nhưng con chẳng thấy hay sao, người ta đã sử dụng đạo Hồi để tạo thêm chia rẽ với nhau? Bởi vì ta có thể nói với con rằng sẽ tốt hơn nhiều nếu những chia rẽ này không còn nữa và trong thế giới Hồi giáo có một phong trào đoàn kết hơn.

Shia hay Sunni chỉ là những cách phân chia nhân tạo, giả tạo, hoàn toàn không có thực tế nào trong Thượng đế. Và do đó ta không muốn đưa ra cảm giác là có một phái thuần khiết hơn, vượt trội hơn phái kia. Bởi vì nếu họ thực sự hiểu được giáo lý đích thực đằng sau kinh Quran, thì mọi môn phái trong đạo Hồi, mọi tín đồ Hồi giáo, sẽ phải cố vươn lên cao hơn nhiều, cao hơn cả giáo lý nguyên thủy mà Mohammad đã trao cho họ. Và khi đó, con sẽ phải tự hỏi là liệu có ích gì tiếp tục tôn giáo cũ hay không, hay là nên khởi xướng một tôn giáo hoàn toàn mới dựa trên nền tảng cũ.  

Điều này, tất nhiên, cũng là một câu hỏi đặt ra cho đạo Cơ đốc và những tôn giáo lớn khác trên thế giới – nghĩa là liệu các tôn giáo đó đã trở thành xơ cứng do các tin tưởng bám giữ từ bao nhiêu thế kỷ, và có thể đổi mới được hay chăng? Hay là các tôn giáo đó phải được thay thế bởi một tôn giáo hoàn toàn mới?      

Hy vọng của ta, và cũng là một trong các mục tiêu của trang web AskRealJesus, là rốt cuộc, nhiều người tự xem mình là tín đồ Cơ đốc sẽ bắt đầu lắng nghe lời hằng sống của ta, và từ đó sẽ dùng những lời này để thay đổi đạo Cơ đốc. Nhưng ta có thể nói với con là ngay bây giờ, đó vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Liệu đạo Cơ đốc có khả năng đổi mới hay không – hay là nó sẽ chỉ ngày càng thu nhỏ lại cho tới khi nó mất hết sinh khí và được thay thế bởi một hình thái tâm linh mới phù hợp hơn với Thời đại Bảo bình.

Nguyên nhân tâm linh của sự mệt mỏi

Hỏi: Đâu là nguyên nhân của sự mệt mỏi mà con đã trải nghiệm trong mấy năm qua? Con sẽ vui mừng xem xét bất cứ điều gì thày tỏ lộ hay khuyên con làm. Con xin cảm tạ và cũng xin Thượng đế phù hộ cho cả hai [thày Giê-su và ông Kim Michaels].


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Khi có vấn đề về thể chất, con luôn luôn nên tìm đến chuyên gia y tế để cung cấp khuyến cáo thích hợp. Về vấn đề này, ta sẽ nói là hầu hết mọi chứng bệnh thể xác đều có liên hệ tương ứng về mặt tâm lý, và trong nhiều trường hợp, một nguyên nhân tâm lý.

Sự mệt mỏi luôn luôn là chỉ dấu năng lượng của con không đang tuôn chảy một cách tự do. Điều này thường do một xung đột trong tâm lý con liên quan đến sứ vụ của con trong cuộc sống. Các xung đột phổ biến nhất gồm có:

  • Thiếu rõ ràng về sứ vụ của con thực sự là gì.
  • Một thành phần của tâm tiềm thức bị thu hút bởi một khía cạnh của sứ vụ của con, trong khi một thành phần khác trong tâm con bị thu hút bởi một khía cạnh khác.
  • Một phần của con bị thu hút bởi sứ vụ tâm linh của con, và một phần khác bị thu hút bởi những thứ thuộc về thế gian.

Khi con bị phân rẽ giữa hai phương hướng khác nhau và không thể tập trung năng lượng của mình, con lâm vào bế tắc tâm linh. Điều này sẽ ngăn cản năng lượng của con tuôn chảy tự do và do đó nó sẽ tích tụ lại trong cơ thể vật lý, dẫn đến mệt mỏi. Con hãy dùng các dụng cụ tâm linh trên trang mạng này để biến hóa năng lượng tồn đọng.

Con có thể sử dụng kỹ thuật hòa điệu nội tâm để đạt được nhiều minh mẫn hơn. Nếu con nhận biết một nỗi xung đột nhất định trong tâm lý, có thể là một vết thương, một vết sẹo tình cảm từ thuở thơ ấu hoặc trước đó nữa, con hãy đi gặp một chuyên gia để tìm cách chữa lành tâm lý.

Tất nhiên sự mệt mỏi cũng có thể xuất phát từ một lực bên ngoài khiến cho năng lượng bị tiêu hao. Điều này có thể xảy ra do một số sinh hoạt như uống rượu hay sử dụng ma túy, do chấn thương hay hoạt động gây căng thẳng. Tuy nhiên, đó cũng có thể là một sự tấn công từ tà lực không nhất thiết sẽ mang triệu chứng hay có nguồn gốc vật lý. Con hãy dùng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh mà các chân sư đã ban truyền.    

Ta khen con sẵn sàng xem xét bất cứ điều gì có thể cản đường tinh tấn tâm linh của con. Chính sự sẵn lòng này để nhìn vào bất kỳ chướng ngại nào là khí giới lớn nhất của con, và nếu con dùng những phương tiện thích hợp, con sẽ phát hiện nguyên nhân gây ra chứng mệt mỏi của con.

Nguyên nhân tâm linh của bệnh trầm cảm và cách chữa trị

Hỏi: Con tưởng con đã chiến thắng được chứng trầm cảm nhưng hình như con vẫn chưa làm được. Không phải là con muốn tự vận hay con thèm hút thuốc, dùng ma tuý hay uống rượu đâu. Đơn giản là con chỉ mệt mỏi. Con đã chán ngấy tất cả mọi thứ. Con chán chường thế gian này. Nhiều khi con không muốn gì khác hơn là nổ tung ra để nhập vào cái Tất cả. Nếu Thượng đế là đại dương và con là giọt nước thì con muốn trở về trong đó. Con biết là con còn một phần vụ mà con phải hoàn tất trước khi con được phép VỀ NHÀ nghỉ ngơi, nhưng đơn giản là con chán ghét chuyện phải quay trở về nơi đây. Cho nên con tự hỏi, không hiểu thày có thể nói cho con biết chuyện gì đang xảy ra? Liệu thày có biết tại sao con phải phấn đấu như thế này? Con không muốn ai thông cảm hay thương xót con mà con chỉ muốn hiểu những căng thẳng đang giằng xé con. Con luôn cảm thấy niềm thôi thúc muốn bỏ đi đâu thật xa, và y như thày đã từng đi vào vùng hoang vắng, con cũng bị thu hút đi vào rừng rậm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đệ yêu dấu, con chỉ đang mô tả tiến trình mà hầu hết mọi dòng sống đều đi qua khi họ đạt đến những mức cao của đường tu tâm linh. Tới một lúc dòng sống bắt đầu nhận ra là y khao khát một cái gì cao hơn các thú vui của cuộc sống. Dòng sống bắt đầu nhận chân được thực tại nằm sau những câu sau đây trong Kinh thánh:

  • Phù phiếm của mọi phù phiếm – vị thày nói như thế – hư ảo của mọi hư ảo, tất cả đều là hư ảo. (Ecclesiastes 1:2)
  • Ta đã thấy mọi sự xảy ra dưới mặt trời, và kìa, tất cả đều là hư ảo, là sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 1:14)
  • Ta nhủ trong lòng rằng: Hãy đến, ta sẽ vui mừng thử xem có hưởng được thú vui, và kìa, cái đó cũng hư ảo. (Ecclesiastes 2:1)
  • Xong ta nhìn tất cả mọi việc mà tay mình đã làm cùng mọi lao khổ mà mình đã bỏ ra để hoàn thành, và kìa, tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh, chẳng có ích lợi gì dưới mặt trời. (Ecclesiastes 2:11)
  • Xong ta nhủ trong lòng rằng: Như chuyện xảy đến cho người vô minh, chuyện này cũng xảy đến cho ta, và làm sao ta lại khôn ngoan hơn được? Xong ta nhủ trong lòng rằng: Cái đó cũng là hư ảo. (Ecclesiastes 2:15)
  • Cho nên ta chán ghét đời sống, vì mọi sự dưới mặt trời đều nhức nhối cho ta, vì tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 2:17)

Đây là trạng thái tâm thức mà ta đã từng mô tả như sau: “Nếu có ai theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và ngay chính đời sống của mình, thì người đó không thể là môn đồ của ta.” (Luke 14:26)

Khi con leo đường tu tâm linh, không thể tránh được là con sẽ đạt tới điểm không có đường quay trở lại, khi con nhận ra là con không thể tiếp tục sống như một người bình thường cứ đắm chìm trong các nỗi vui buồn của thế gian. Con muốn bỏ thế gian lại đằng sau, nhưng động lực nằm bên dưới cảm nhận này là con muốn bỏ lại cái tâm thức thấp kém của tâm nhị nguyên. Đó chính là tâm thức khiến cho mọi sự trong thế gian này hiện ra là hư ảo. Và thật vậy, chừng nào một người còn bị kẹt trong tâm nhị nguyên thì mọi sự sẽ đều là hư ảo. 

Cho nên sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi dòng sống bắt đầu “ghét” tất cả những phần của đời sống dựa trên tâm nhị nguyên, và chính ở điểm này y mới có thể thực sự vươn lên tâm thức Ki-tô. Như ta đã giảng, dòng sống không thể nào phục vụ hai vị chủ, cho nên khi nào y chưa quyết định bỏ lại tâm nhị nguyên thì y sẽ không thể là một đệ tử đích thực của tâm thức Ki-tô.

Từ rất lâu, trạng thái tâm thức này rất phổ biến trong số những dòng sống đã đầu thai trên địa cầu. Tuy họ tham gia vào đủ loại sinh hoạt mà địa cầu cống hiến, nhưng trong thâm tâm họ có phản ứng: “Tôi đã bước chân tới đây rồi, tôi đã làm chuyện này rồi.” Họ cảm thấy không còn gì thêm trên hành tinh này mà họ muốn thực hiện, và họ muốn bước đi tiếp, muốn bước ra khỏi những giới hạn bắt buộc của thế gian.

Ta có thể hiểu được lý do tại sao nhiều người lại cảm thấy như vậy vì chính ta cũng đã trải qua tiến trình này 2000 năm trước đây. Hẳn con cũng biết giữa thời điểm ta xuất hiện tại Nhà thờ vào tuổi 12 và thời điểm ta xuất hiện ở tiệc cưới tại Cana, kinh Tân ước đã không ghi lại bất cứ gì về những nơi ta đã đến cũng như những việc ta đã làm. Suốt 17 năm “biệt tăm” này, quả là ta đã trải qua một giai đoạn trầm cảm sâu sắc, và ta đã phải đương đầu với chính cái tâm thức mà con vừa mô tả.

Điều đã giúp ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm đó của dòng sống – và cũng là điều đã giúp cho tất cả mọi dòng sống khác đã từng đối mặt với vấn đề này – là rốt cuộc ta đạt tới điểm nhận ra là mặc dù không còn công việc nào mình muốn làm cho cá nhân mình trên hành tinh này, nhưng vẫn còn nhiều công việc mà ta có thể làm cho tha nhân. Ta cũng có thể giúp Thượng đế đem lại vương quốc của ngài trên địa cầu.

Bạn yêu dấu, con thấy đó, như ta có mô tả trong một bài giảng khác, sẽ tới một điểm khi một dòng sống không thể tiếp tục học hỏi nếu y không bắt đầu chỉ dạy cho người khác. Và như Mẹ Mary giải thích trong bài giảng tuyệt vời của thày, một dòng sống có thể đạt tới điểm khi cách duy nhất để y tiến xa hơn là trở thành người đày tớ cho mọi người.

Khi một dòng sống lần đầu tiên bước xuống địa cầu, công việc của y là đặt trọng tâm vào bản thân mình. Đó là công việc thu thập nhiều trải nghiệm, xây dựng một ý niệm bản sắc mạnh mẽ, vững vàng. Nói cách khác, dòng sống cần tập trung vào chính mình hầu trau dồi một ý niệm bản sắc vững vàng. Quả vậy, có nhiều dòng sống trên địa cầu đang hoàn toàn chú tâm vào công việc này, và mặc dù họ có vẻ vị kỷ hay chỉ biết lo cho mình, nhưng họ đang làm đúng điều mà họ cần làm trong giai đoạn phát triển tâm linh hiện thời của họ.

Tuy nhiên khi dòng sống tiếp tục tăng triển, sẽ tới một điểm khi y đã tạo dựng được một nền tảng vững chắc, một ý niệm bản sắc vững mạnh – có thể nói là y đã lấp đầy cái khuôn đúc của cỗ xe bốn tầng, đã neo chặt vào ý niệm bản sắc của mình – thì ở điểm đó, dòng sống thật sự không có cách nào tăng triển được nếu y cứ mãi tập trung vào chính mình. Cho nên có hai chọn lựa mà y có thể đi theo:

  • Nếu dòng sống tiếp tục chú tâm vào bản thân, y sẽ không tránh khỏi chìm vào một sự vô vọng, tuyệt vọng, một cảm giác mất hết mục đích hay ý nghĩa, và điều này chắc chắn sẽ dẫn đến trầm cảm. Nhiều người, đặc biệt trong các giới Thời mới, đã đạt tới điểm này rồi, và họ bước vào một vòng xoắn ốc dường như bất tận luôn luôn tìm kiếm cho bản thân mình một trải nghiệm tâm linh tối hậu, khiến họ không ngừng đi theo các lớp tu học hay tìm cách trị liệu tâm lý. Nhưng cho dù họ có cố gắng đến đâu, họ vẫn không làm sao trải nghiệm được niềm thỏa nguyện cá nhân đó. Lý do là vì họ tìm kiếm cái đó trong một tinh thần vị kỷ thay vì vượt ra ngoài phàm ngã con người để vươn tới cái ta thần thánh – tức là cái ta hợp nhất với mọi sự sống và do đó cũng tìm được sự thỏa nguyện trong việc giúp đỡ tha nhân. 
  • Chọn lựa kia là dòng sống có thể thăng vượt ý niệm bản ngã hạn hẹp của mình và nhận ra là không một dòng sống nào là một hòn đảo. Một khi con đã xây dựng được một ý niệm bản sắc mạnh mẽ – tức là con biết rõ mình là ai như một dòng sống cá biệt – thì bước kế tiếp lô-gíc là con sẽ tiếp tục bồi đắp cái nền tảng đó, phát triển một ý niệm mạnh mẽ rằng con là ai trong sự nối kết với Thượng đế, cũng như trong sự nối kết với thế giới nơi con đang sống. Đó là điểm mà con có thể với tới tâm thức Ki-tô, và cuối cùng nó sẽ giúp con thấy được Thượng đế trong tất cả mọi vật đã từng được sinh tạo. Nó sẽ đem lại cho con một cảm nhận nối kết mạnh mẽ với mọi người cũng như với Mẹ địa cầu. 

Chính cảm nhận từ bi ngày càng sâu đậm này đã giúp cá nhân ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm, sống không mục đích. Chính lòng từ bi đã khiến ta trở về đất Israel và nhận lấy vai trò thể hiện Ki-tô Hằng sống trên trái đất. Chính lòng từ bi đã khiến ta sẵn lòng đi muốt con đường và dâng hiến cả mạng sống của mình cho công cuộc đánh thức loài người về sự thực của tâm thức Ki-tô.

Bạn yêu dấu, con – cũng như nhiều dòng sống khác giống như con – đã bước đến một ngã ba trên con đường tiến hóa của dòng sống của con. Con có thể tiếp tục sống trong trạng thái hiện thời của mình là chỉ chú tâm vào bản thân mình rồi trở nên vô vọng, hay con có thể tìm kiếm chính con một cách nghiêm túc để khám phá ra cái điểm trong nội tâm nơi con đã lấy quyết định ngăn cản bước tiến của con. Một khi con phát hiện được quyết định đó, con sẽ có thể thay thế nó với một quyết định khác là tìm cầu tâm thức Ki-tô, vượt ra khỏi ý niệm bản ngã hạn hẹp, ý niệm bản sắc giới hạn của mình, để con thấy mình là thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

Nếu con thực tâm bước vào tiến trình này, con sẽ có thể nhanh chóng trải nghiệm một sự quay đầu toàn diện trong đời con, và con sẽ chứng được một lòng từ bi cũng như một mục đích sống vô cùng mạnh mẽ. Khi đó, con có thể trở thành một trong số những sinh thể Ki-tô mà ta luôn nói tới trên trang mạng này. Con có thể đóng góp phần mình để đem lại vương quốc Thượng đế trên địa cầu, nâng nhân loại lên một tầng tâm thức cao hơn. Bạn yêu dấu, đó chẳng phải là một mục đích đáng theo đuổi hay sao?

Con hãy nhìn quanh trên hành tinh này có bao nhiêu người bị nghèo đói tâm linh, bao nhiêu người cần có người hướng dẫn mà không cưỡng ép họ gia nhập một tôn giáo vỏ ngoài nào đó. Nếu điều này không động viên tinh thần của con thì con hãy nhìn xem có bao nhiêu vấn đề vật lý đang chờ người đứng ra giải quyết. Thật không thiếu gì những việc lành mà con có thể tham gia để giúp người khác, và ta có thể cam đoan với con rằng làm việc lành và giúp tha nhân là cách nhanh nhất – và nhiều khi là cách duy nhất – để chữa trị chứng trầm cảm.

Con hãy bỏ công ra tìm kiếm cái điểm bên trong dòng sống của con nơi con yêu thương mục đích của Thượng đế thật tha thiết. Xong con hãy cho phép tình thương đó tiêu hủy mọi cảm nhận cuộc đời này là vô nghĩa. Hãy cho phép tình thương đó đánh thức con người thực của con và lý do con đã chọn đến địa cầu này ở thời điểm mấu chốt hiện nay. Hãy cho phép tình thương đó đốt sạch mọi bợn nhơ của lòng vị kỷ và trầm cảm đã ngăn cản con là con người mà con thực là.

Ta cần đến con và những người như con – những người cảm thấy mình đã làm mọi chuyện có thể làm trên hành tinh này, những người sẵn lòng gạt sang một bên các thú vui của thế gian để phục vụ cho một mục đích cao hơn. Ta cần đến con. Thượng đế cần đến con. Hành tinh cần đến con. Mọi người khác cần đến con. Và chính con cũng cần khắc phục sự chú tâm vào bản thân, con cần tự giúp mình tiến lên để giúp đỡ người khác. Bạn yêu dấu, liệu con sẽ cần nhiều khích lệ hơn thế hay sao? Vậy thì chúng ta hãy chú tâm vào công việc của Cha chúng ta!

Giáo lý nền tảng về việc chữa lành tâm lý

Hỏi: Đâu là những kỹ thuật hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý cho một người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 13/10/2010. Đăng ngày 17/11/2012.

Kỹ thuật hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý của con là kỹ thuật nào phù hợp nhất cho con.

Ý ta muốn nói là mỗi con người đều là một cá nhân độc đáo. Có thể nói là khi con khởi sự thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con đã tạo ra cái mê cung hay mê lộ đặc thù cho riêng mình. Và tại mỗi khúc quẹo hay ngã rẽ đã đưa con sâu hơn vào mê cung, con đã lấy một quyết định dựa trên một niềm tin hay một ảo tưởng đặc thù. Con đường cá nhân của con để bước ra khỏi nhị nguyên và tìm lại tự do đòi hỏi con phải tháo gỡ những chọn lựa đã qua bằng cách nhìn thấy chúng như chúng là, một cách ý thức, xong lấy quyết định thăng vượt chúng.

Nói cách khác, cốt lõi của đường tu cá nhân của con là con đạt tới điểm nhìn thấy một quyết định gây giới hạn từ quá khứ, nhận ra là nó xuất phát từ một ảo tưởng, rồi chấp nhận một tầm hiểu cao hơn sẽ giải thoát con khỏi ảo tưởng đó – sự thật sẽ giải thoát con. Cho nên các dụng cụ và kỹ thuật sẽ hiệu quả nhất cho con chính là những dụng cụ giúp con đạt tới điểm con nhìn ra những gì đã bị ẩn giấu khỏi con, có lẽ suốt nhiều tiền kiếp. Vì mỗi cá nhân có mê cung đặc thù của mình, cho nên không thể nào thiết kế một dụng cụ duy nhất sẽ hiệu quả một cách đồng đều cho mọi người. Nếu chuyện này có thể làm được thì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã ban truyền dụng cụ này cho nhân loại từ lâu rồi.

Đúng là có nhiều người đã chấp nhận cùng một ảo tưởng nhị nguyên, tuy nhiên họ thường chấp nhận ảo tưởng đó vì những lý do khác nhau đôi chút. Vì thế cho dù họ đều phải khắc phục cùng một ảo tưởng, nhưng cùng một cách diễn đạt chân lý sẽ không nhất thiết hiệu nghiệm đồng đều cho mọi người. Đó là tại sao cần có nhiều lời dạy khác nhau để trình bày về cùng một đề tài từ những góc nhìn hơi khác một chút. Rất có thể là con cần tu học một số giáo lý khác nhau trước khi con tìm thấy sự phối hợp thích hợp nhất cho con – là sự phối hợp giữa ngôn từ cùng khái niệm sẽ mở khóa ở con khả năng nhìn xuyên thấu một ảo ảnh nào đó. Đây cũng là tại sao lòng trung thành đối với một giáo lý nhất định hay một đạo sư nhất định không phải là điều xây dựng. Điều con cần trung thành là trung thành với con đường nội tâm của riêng con. 

Con cũng nên lưu ý là mê lộ đặc thù của con có nhiều lớp vỏ hay nhiều đoạn đường. Nếu con nhìn vào nhân loại, con sẽ thấy ai nấy đều ở những giai đoạn phát triển khác nhau, như ta đã từng đề cập trước đây. Các kỹ thuật sẽ giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng trong một giai đoạn nào đó sẽ không nhất thiết hiệu nghiệm trong một giai đoạn khác.

Điều ta muốn nói là nếu con muốn tìm ra cách hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý của mình, con cần bắt đầu bằng cách phát triển cách tiếp cận xây dựng nhất cho công việc này. Bước đầu tiên mà ta khuyên con là chấp nhận rằng không có cách giải quyết nào nhanh chóng.

Việc chữa lành tâm lý cần được xem như một công việc kéo dài suốt đời, ít ra cho tới khi con còn đang đầu thai. Thêm vào đó, đây không phải là một công việc máy móc mà con có thể hoàn thành bằng cách đem ra áp dụng những chiêu thức được người ta gọi là kỹ thuật tối ưu hay dụng cụ tối hảo. Thật sự không hề có một hệ thống nào sẽ tự động chữa lành tâm lý của con, bởi vì tất cả tùy thuộc vào những quyết định mà con đã lấy cũng như sự sẵn lòng của con để nhân lên các ta-lăng, các khả năng, các vốn liếng của con.

Tuy nhiên, như ta đã mô tả trong quyển sách Hãy cứu lấy bản thân, sự tiến bộ của con dựa trên hai cột trụ. Một là con cần chuyển hóa năng lượng tha hóa đã tích tụ trong trường năng lượng của mình, và hai là con cần nhìn xuyên thấu các ảo tưởng của mình, và như vậy con thay thế các chọn lựa gây giới hạn bằng những chọn lựa giải thoát.  

Vậy trước tiên chúng ta hãy nhìn vào việc chuyển hóa năng lượng. Hiển nhiên nếu con đã mở tâm ra cho trang mạng này, ta khuyên con nên dùng các bài thỉnh và bài chú mà các chân sư đã đặc biệt ban truyền cho mục đích này. Nhưng ta không bảo là không có kỹ thuật nào khác cũng sẽ hiệu nghiệm cho mục đích này, và nếu con nhận được sự gợi ý mãnh liệt từ nội tâm để dùng một kỹ thuật nào khác, thì bằng mọi cách con hãy làm điều đó. Con cũng cần lưu ý là ở những giai đoạn khác nhau trên đường tu, con sẽ cần đến những kỹ thuật khác nhau.

Một khía cạnh khác là con cần ngừng tạo thêm năng lượng tha hóa, và tuy việc này chỉ có thể làm được đến nơi đến chốn bằng cách giải quyết các vết thương (tức khắc phục các ảo tưởng) đã khiến con rơi vào một số khuôn nếp phản ứng, con vẫn có thể tinh tấn khá nhiều bằng cách tự kiểm tra cho trung thực, song song với việc kỷ luật bản thân. Nếu con thấy mình có xu hướng nổi giận chẳng hạn, con có thể tinh tấn bằng cách nhất quyết không chấp nhận bộc lộ sự giận dữ, xong con tự kỷ luật để kềm chế mình lại. Trong ngắn hạn, làm vậy sẽ ngăn con tạo thêm nghiệp chướng và củng cố một vòng xoáy tiêu cực. Nhưng trong dài hạn, cách thức này sẽ không hiệu quả trừ khi con cũng có những nỗ lực chân thành để phát hiện lý do tại sao con lại nổi giận, xong con thăng vượt các ảo tưởng đã khiến con nghĩ rằng tức giận là một phản ứng có thể chấp nhận được hay không thể tránh khỏi.

Và điều này dẫn chúng ta đến yếu tố tiếp theo, đó là tìm ra những cách để làm hiển lộ các yếu tố trong tâm lý đang giới hạn con, đang “ép buộc” con bước vào những khuôn nếp phản ứng mà con không thể phá vỡ hay không thấy cần phải phá vỡ. Để đạt mục tiêu này, con có thể tinh tấn đáng kể bằng cách học hỏi các lời dạy tâm linh và sách vở tổng quát về tâm lý học. Hiển nhiên các bài giảng của ta về tự ngã cùng nhiều lời dạy khác trên trang mạng này và trong sách của chân sư thăng thiên được phát hành với mục đích này. Nhưng một lần nữa, ta không nói là con chỉ nên tự hạn chế vào bất kể một nguồn độc nhất nào. Ngược lại là đằng khác, con cần cho phép mình nhận được sự hướng dẫn về những gì mình cần học hỏi, đăc biệt con nên có thói quen hòa điệu với cái ta cao hơn của con, hay với vị thày tâm linh của con, xong con làm theo những gợi ý mà con nhận được, ngay cả từ người khác hay từ cảnh huống vỏ ngoài. Nếu một quyển sách bỗng thu hút sự chú ý của con, con hãy tìm hiểu nó.

Nhưng cho dù những điều trên có thể giúp con tinh tấn đáng kể, sẽ tới một điểm khi con không thể tiến thêm trừ khi con nhận được sự phản hổi trực tiếp về tâm lý của con từ một người không đứng ở trong hộp tư duy của con và do đó có khả năng nhìn thấy những gì con không thể nhìn thấy. Đây chính là điểm con cần suy ngẫm câu này của chân sư MORE: “Nếu đạo sư là một con kiến, con hãy lắng nghe nó.” Trong nhiều trường hợp, con sẽ nhận được phản hồi như vậy từ những người xung quanh con, thường khi từ những người mà con coi là thấp hơn con hay không trong vị thế có thể khuyên nhủ con. Tất nhiên, con không nhất thiết phải nghe theo bất cứ gì người ta nói, đặc biệt nếu con thấy là họ có ý định tiêu cực hay ích kỷ.  

Nếu con thật sự muốn tiến bộ nhanh chóng, điều có thể sẽ vô cùng hữu ích là con áp dụng một trong rất nhiều những kỹ thuật được thiết kế nhằm giúp con làm hiển lộ những gì đang được ẩn giấu trong tâm tiềm thức của con. Một lần nữa, không có một kỹ thuật độc nhất sẽ giúp tất cả các con. Con hãy khởi sự ngay điểm tâm thức hiện thời của mình và nhìn xem con đang nhận biết những gì. Xong con hòa điệu vào đó và nhìn xem kỹ thuật nào thu hút con nhiều nhất trong lúc này. Khi con đã có được một cảm nhận rõ rệt, con hãy áp dụng kỹ thuật đó và cứ tiếp tục áp dụng cho tới khi nó đem lại cho con một sự đột phá cùng nhu cầu đi tìm một cái gì khác hơn.

Xong con tin tưởng là nếu con cứ giữ cả tâm lẫn tim mình cởi mở đối với sự hướng dẫn nội tâm, thì y vậy, con sẽ nhận được sự hướng dẫn đó. Đột nhiên, một quyển sách sẽ đi vào vòng chú ý của con, hay con đọc được điều gì đó trên báo, trên mạng. Hay con gặp một người đề cập đến một kỹ thuật nào đó với con. Ta không bảo là con phải thử tất cả mọi thứ hay thử bất cứ điều gì lôi kéo sự chú ý của con. Con luôn luôn cần tham khảo sự hướng dẫn nội tâm và cảm nhận những gì đang rung động đồng điệu với con ở mức trái tim.

Một khi con đã chọn một kỹ thuật, con hãy thực hành nó với tất cả khả năng của mình và không ngừng lại cho đến khi con trải nghiệm một loại đột phá nào đó. Quá nhiều người thử nghiệm một lần, hai lần, xong bỏ cuộc vì nó không đem lại cho họ thành quả tức thì. Ta không có vấn đề gì nếu con thích mì ăn liền, nhưng hoàn toàn không có chuyện tâm lý ăn liền đâu con.

Trong một số trường hợp, một dụng cụ nhất định sẽ chỉ đem lại cho con một đột phá đáng kể duy nhất mà thôi, nhưng trong đa số các trường hợp, một dụng cụ có thể cho con một loạt đột phá sẽ đưa con lên một tầng cao hơn. Con đừng phân tích thái quá bằng tâm vỏ ngoài, mà hãy tin tưởng là nếu con đã được hướng dẫn để dùng một dụng cụ nào đó, thì nó có một điều gì đó để chỉ cho con. Và đừng quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con sẽ ngưng dùng dụng cụ, mà hãy cho phép sự hướng dẫn nội tâm dẫn con lên bước kế tiếp. Nếu con thật sự cởi mở và sẵn lòng nhìn thấy bất cứ điều gì trong tâm lý đang chặn nghẽn sự phát triển của mình, sự hướng dẫn này sẽ đưa con tới nơi mà con cần tới.  

Và điểm này, tất nhiên, khơi lên câu hỏi đáng giá 64,000 đô, cụ thể là con sẵn lòng tới đâu để nhìn ra cái xà trong mắt con. Tuyệt đại đa số những người tự xem mình là người tầm đạo tâm linh đều có một hay nhiều lãnh vực trong tâm lý mà họ không sẵn lòng nhìn vào, thường khi bởi vì họ nghĩ rằng nếu họ nhìn vào thì nỗi đau đớn sẽ khiến họ bị choáng ngợp, hay trong một số trường hợp nó sẽ làm tan vỡ lòng kiêu mạn của họ.

Trong những giai đoạn tiên khởi, việc xem xét các vết thương sâu xa có thể không khôn ngoan lắm. Tuy nhiên khi con bước lên cao hơn trên đường tu thì dần dần có sự cần thiết phải nhìn vào tất cả mọi thứ, bất kể thứ gì. Chỉ những gì con tìm cách che giấu khỏi Thượng đế mới giữ con ở ngoài vương quốc của Thượng đế, bởi vì trong ánh sáng không có gì có thể tiếp tục ẩn giấu. Cho nên khi con tiến bước, con cần phải nhìn xem liệu có lãnh vực nào mà con cảm thấy miễn cưỡng hay kháng cự lại không muốn nhìn. Bất cứ gì con tránh nhìn vào sẽ là yếu tố cho phép tự ngã của con tiếp tục lẩn trốn, và chừng nào tự ngã còn lẩn trốn thì nó còn tiếp tục bắt giữ con.

Cho nên nói cho cùng, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ, sự sẵn lòng của con bỏ lại cuộc sống thế phàm để đi theo Ki-tô, bước vào sự sống vĩnh hằng thoát ra khỏi tự ngã. Theo một cách nào đó, việc chữa lành tâm linh của con có thể xem như một cuộc giằng co giữa tự ngã và chính con – với tự ngã cứ kéo con ra để con không nhìn vào các vết thương sâu thẳm cùng các ảo tưởng to lớn kia. Yếu tố quyết định là liệu động cơ giải thoát của con có lớn hơn động cơ sống còn của tự ngã hay không. Liệu mong muốn giành được sự sống vĩnh hằng của con có lớn hơn nỗi sợ chết của tự ngã hay cuộc tìm kiếm kiêu ngạo của nó để đạt được bất tử trong thế gian.  

Ta cũng biết là một số người sẽ bảo rằng ta chưa trả lời câu hỏi của con vì ta đã không nói tới một kỹ thuật đặc thù nào cả. Tuy nhiên ta cố tình không đi vào chi tiết vì ta không muốn mọi người chọn một kỹ thuật nhất định do ta đã khuyến cáo, rồi nghĩ rằng đó là kỹ thuật thích hợp cho họ trong giai đoạn này. Có thể nói, một phần sự chữa lành là con trở nên tự đủ (self-sufficient) trên phương diện tâm linh, có nghĩa là con sẵn lòng lắng nghe hướng dẫn rồi lấy quyết định và học hỏi từ kết quả đạt được.

Trong một số trường hợp, có thể con sẽ nhận được hướng dẫn để áp dụng một kỹ thuật nào đó, nhưng với lý do là con cần học bài học tại sao kỹ thuật đó sẽ không đem lại kết quả hứa hẹn. Điều này không có nghĩa là con đã bị sự hướng dẫn đó gạt gẫm, bởi vì quả thực con cần kinh qua một số trải nghiệm để có thể nhìn ra những gì con chưa nhìn thấy. Và trong một số trường hợp, con thật sự cần phải đập đầu vào tường đá một số lần trước khi con ngộ ra đó không phải là trải nghiệm mà con muốn trong đời mình. Và như vậy, con quyết định xem xét bản thân thay vì cứ nghĩ rằng bức tường kia phải thay đổi.  

Ai thay đổi chính mình vĩ đại hơn ai thay đổi thế giới.

Con cho phép ta kết thúc và nói rằng ta rất hiểu là đối với nhiều người, việc chữa lành tâm lý có vẻ như một công việc quá sức to tát. Và thật vậy, nó dường như choáng ngợp con trong một thời gian. Tuy nhiên nếu con thực sự học hỏi các lời dạy mà các chân sư đã ban ra trên trang mạng công phu này cũng như thực hành một số dụng cụ thực tiễn, ta có thể cam đoan với con là bất cứ ai sẵn lòng soi mình trong gương sẽ đạt được tiến bộ. Và một khi con nhận ra là mình có tiến bộ, công việc chữa lành tâm lý sẽ không còn có vẻ quá sức nữa. Kỳ thực, nó sẽ trở thành một công việc con xem là một phần tự nhiên của cuộc sống, và đồng thời con cũng không để cho nó kéo con ra khỏi các khía cạnh thực tiễn và thú vị trong đời con. Cầu mong con sẽ nhanh chóng đạt đến điểm đó, hầu con có thể tìm thấy niềm vui đang chờ đón những ai có can đảm nhìn vào và chữa lành vết thương tâm lý của mình.

Tu tập quả vị Ki-tô trong khi có gia đình

Hỏi: Con tự hỏi, có thể nào theo đuổi quả vị Ki-tô cá nhân khi mình thành hôn và chăm lo cho gia đình? Con bị giằng xé bởi câu hỏi này vì một phần trong con vẫn giữ hình ảnh là mình phải rời bỏ cách sống của mình trong xã hội hiện đại, thế nhưng khi con cầu nguyện và thiền định thì dòng sống của con lại cảm thấy an bình nhất khi ý nghĩ lập gia đình đến với con. Xin thày có ý nghĩ gì cho con suy ngẫm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như ta đã có giải thích trên trang mạng này, hầu hết mọi người đều bị kẹt trong tâm nhị nguyên dựa trên sự tách biệt và tương đối. Kết quả là nhiều người đã tạo ra một hình tư tưởng cho rằng nếu mình là một người thực sự tâm linh thì mình phải sống theo một cách nhất định nào đó – như phải rút hẳn ra khỏi xã hội và sống trong tu viện, hay tuân thủ một số luật lệ vỏ ngoài mà tôn giáo đó đã thiết lập. Cho nên ta hiểu được tại sao nhiều người lại nghĩ rằng để theo đuổi con đường quả vị Ki-tô cá nhân, mình phải sống như một vị sư nam hay sư nữ.

Tuy nhiên như ta cũng đã cố giải thích khắp trang mạng này, không một hộp tư duy nào do tâm con người tạo ra có thể chứa được, hay giam giữ được Ki-tô Hằng sống. Thật ra, một trong những công việc chủ yếu của một sinh thể Ki-tô là chứng tỏ cho mọi người là con có thể có cách sống vượt ra khỏi những chiếc hộp tư duy của họ. 

Cho nên thật sự không có một cách sống chuẩn mực nào cho một người bước đi trên con đường Ki-tô, hay một cách chuẩn mực để biểu hiện tâm Ki-tô. Mỗi con đường đều là một con đường cá nhân, và khi con càng ngày càng đạt thêm phẩm chất Ki-tô, con sẽ bắt đầu thể hiện cá thể tâm linh chân thực của con nhiều hơn. Con sẽ bắt đầu là con người thật của mình cho dù người đời có muốn con là như thế nào.

Cho nên thật là không thể đặt ra một tiêu chuẩn rồi bảo rằng chỉ những người nào sống theo tiêu chuẩn đó mới là người có tâm Ki-tô, hay là người thật sự tu theo con đường quả vị Ki-tô. Có rất nhiều người, để đạt được và biểu hiện tâm Ki-tô của mình, đã từng phải vượt ra ngoài sự mong đợi của thế gian hoặc những quy ước của xã hội. Đó là tại sao ta đã từng thách đố rất nhiều khuôn phép, tục lệ trong xã hội nước Israel thuở trước, chẳng hạn như khi ta chữa bệnh cho một người đàn ông vào ngày sa-bát và tuyên bố là ngày sa-bát phải phục vụ con người chứ con người không phục vụ ngày sa-bát.

Một điều cần cân nhắc nữa là để thực sự đạt được quả vị Ki-tô, con cần cân bằng nghiệp quả mà con đã tạo ra trong tiền kiếp. Nghiệp quả có thể khiến cho một số người cần phải lập gia đình và nuôi con. Con cũng cần giải quyết mọi tắc nghẽn trong tâm lý mình, và cũng thế, việc lập gia đình có thể là cách hiệu quả nhất để thực hiện điều này. Hay là có thể trong sứ mạng tâm linh của con, con đã thề nguyện là mình sẽ đưa một số dòng sống nào đó đi vào hiện thân như là con mình. Nói cách khác, con đường dẫn con đến quả vị Ki-tô có thể đòi hỏi con phải tham gia vào xã hội theo rất nhiều cách khác nhau.

Cho nên điểm mấu chốt về quả vị Ki-tô là con không thể nào đặt ra một chuẩn mực vỏ ngoài nào. Vì vậy, con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài, phân tích, nhị nguyên của con là con phải bước đi như thế nào trên đường tu cá nhân của mình. Nếu con tạo ra chuẩn mực vỏ ngoài đó, như nhiều người sùng đạo thường làm, con sẽ đi theo con đường có vẻ đúng đắn dưới mắt thế gian nhưng cuối cùng sẽ là con đường chết.

Con chỉ có thể bước theo quả vị Ki-tô bằng cách vượt ra ngoài tâm nhị nguyên và nhận được sự chỉ đạo nội tâm từ cái ta Ki-tô. Để nhận được chỉ đạo rõ ràng nhất, sẽ vô cùng ích lợi cho con nếu con dùng các kỹ thuật đăng tải trên trang dụng cụ, như những bài chú để cầu thỉnh sự bảo vệ đối với những can thiệp từ ngoài, kỹ thuật biến hóa năng lượng bất toàn trong năng trường của mình, cũng như một kỹ thuật hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình.

Trong những giai đoạn khởi đầu trên đường tu quả vị Ki-tô, thường con sẽ nhận được chỉ đạo nội tâm dưới dạng những sáng ngộ trực giác. Một cách để lượng định xem những sáng ngộ này có đúng đắn hay không là nhìn xem liệu sáng ngộ đó có đem lại cho con một cảm nhận an bình hay một cảm giác mâu thuẫn, xung đột trong tâm. Mỗi khi con nhận thấy mâu thuẫn nội tâm, con biết là con đã không nhận được sáng ngộ cao nhất, và do đó con không nên lấy quyết định dựa trên tâm trạng giằng xé này, mà thay vào đó, con nên quyết tâm để có được cái nhìn trực quan rõ ràng hơn. Khi con có sáng ngộ đúng đắn, con sẽ cảm thấy nội tâm mình an bình – không giống như cảm giác là mình có thể làm những gì mà tâm nhị nguyên muốn mình làm. Con sẽ đạt được một cái biết mạnh mẽ nơi nội tâm là mình cần làm gì.

Con nên luôn luôn nhớ rằng tâm nhị nguyên là nhị nguyên, và nó dẫn đến xung đột, phân rẽ. Còn tâm Ki-tô thì đơn nhất, và nó loại trừ xung đột, đem lại an bình cho con.  Cho nên con hãy đi tìm viễn quan hợp nhất của tâm Ki-tô. Hãy nhớ lời ta nói, rằng nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng. Ý nghĩa là khi con đạt được viễn quan đơn nhất của tâm Ki-tô, con sẽ tràn ngập ánh sáng của Thượng đế. Ánh sáng này không bao giờ thất bại!

Với địa cầu bước vào Thời đại Bảo bình, một điều sẽ ngày càng quan trọng hơn là đưa tôn giáo ra khỏi những nơi thờ phượng và hội nhập nó vào cuộc sống hàng ngày của mọi người. Vì vậy có nhiều dòng sống đã có lời nguyện là mình sẽ bước trên con đường quả vị Ki-tô trong khi vẫn nuôi nấng gia đình hay tham gia vào xã hội. Hiển nhiên, sống như vậy sẽ khó khăn hơn là sống trong một môi trường bảo bọc, nhưng đây chính là một phần quan trọng của đời sống tâm linh trong thời đại mới.    

Con sẽ thành công hơn rất nhiều nếu con làm hòa với việc nuôi nấng gia đình và khắc phục sự xung đột nội tâm khi con cảm thấy đời sống gia đình cản trở sự phát triển tâm linh của con. Thay vào đó, con hãy nhìn xem tại sao con lại cảm thấy như vậy và nhận ra rất có thể đó chỉ là tàn tích của nền văn hóa Thời đại Song ngư, hoặc là tàn tích từ một tiền kiếp khi con sống đời ẩn dật hơn. Quả thực, làm thế nào con có thể đạt được quả vị Ki-tô mà không khắc phục những phân rẽ đó? Liệu một tâm lý phân rẽ với chính nó sẽ có bao giờ là Ki-tô Hằng sống được?

Khi con có thể ôm trọn ý tưởng rằng đời sống gia đình là chìa khóa cho quả vị Ki-tô của con, con sẽ tiến bước nhanh hơn đến Ki-tô trong khi vẫn có thể vui hưởng cuộc sống gia đình – và qua đó con cũng sẽ giúp cho gia đình con vui hưởng cuộc sống đó. Quá nhiều người tâm linh đã khiến cho bản thân mình cùng gia đình mình bị khổ sở khi mình sống với gia đình mà cứ nghĩ mình phải đang ở trong tu viện. Con hãy buông bỏ những ý nghĩ đó đi và hãy an bình với cuộc sống cùng nơi mình đang sống.

Bệnh nặng có do nghiệp cá nhân hay không?

Hỏi: Giê-su yêu mến, khi một người bị bệnh nặng liên tục, có phải đó là kết quả của nghiệp quả cá nhân hay là người đó đang gánh chịu nghiệp quả của hành tinh? Khi chuyện này xảy ra, có hy vọng nào thay đổi được hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi thứ đều được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng thì chỉ giản dị là ánh sáng thuần khiết của Thượng đế rung động ở một tần số thấp hơn tiềm năng cao nhất của nó. Hệ quả là bất kỳ điều kiện bất toàn nào cũng được cấu tạo bởi năng lượng có tần số thấp, và vì thế mọi điều kiện có thể được thay đổi bằng cách nâng cao tần số của năng lượng. Chân sư Hiện diện của Ánh sáng Vô tận đã giải thích điều này cặn kẽ hơn trong bài giảng của thày.

Con nói đúng, có nhiều dòng sống đã tình nguyện hứng chịu một phần gánh nặng nghiệp quả của thế giới. Và rất nhiều trong số các dòng sống đó đã làm điều này bằng cách tự chuốc vào mình một căn bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, không có người nào phải gánh chịu toàn bộ sức nặng của nghiệp quả thế gian. Một người chỉ gánh một phần thôi, và nếu phần này được hóa giải qua những phương cách khác, thì một căn bệnh – mà tựu trung chỉ là nghiệp quả đang trải bày ra – có khả năng được chữa lành.

Cho nên ta thật khuyên những ai bị bệnh nặng hãy sử dụng các bài nguyện tràng hạt và bài chú của Mẹ Mary mỗi ngày. Ta không nói là bệnh nặng sẽ nhất thiết được chữa khỏi. Thật vậy, nhiều dòng sống mong muốn đóng góp vào bước tiến của nhân loại mạnh mẽ đến độ họ sẽ gánh thêm nghiệp quả của thế giới sau khi một số nghiệp đã được chuyển hóa. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng các dụng cụ tâm linh, một người sẽ có thể tiêu hủy nhiều nghiệp của thế giới hơn là qua căn bệnh của mình.

Một trường hợp khác có thể xảy ra là căn bệnh hiểm nghèo là kết quả của nghiệp riêng của người đó. Một số dòng sống nhận ra là họ đang có một phần nghiệp nặng nề sắp sửa kết tụ trong một tương lai gần kề. Cho nên họ quyết định đầu thai trong những hoàn cảnh khiến họ mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo. Mục đích mắc bệnh là để trả nghiệp trong một kiếp thay vì kéo dài ra trong nhiều kiếp.

Con có thể so sánh chuyện này với một người có một khoản nợ rất lớn. Một số người sẽ chọn cách trả lần hồi, mỗi tháng một chút cho tới cuối đời, trong khi một số người khác sẽ muốn đi làm hai việc một lúc trong một vài năm để sạch nợ cho nhanh, rồi được rảnh rang hưởng thụ cuộc đời sau đó. Có nhiều dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ hy sinh nguyên một kiếp sống để tiến bộ trong chỉ một kiếp, hầu họ có thể thăng thiên vào cuối kiếp đó hoặc kiếp kế tiếp. Quả thật những dòng sống như vậy có thể gánh lấy một căn bệnh ngặt nghèo hoặc một điều kiện nào khác suốt nhiều thập niên hay thậm chí suốt đời.

Hiển nhiên, mục tiêu của dòng sống là trả cho hết nghiệp, chứ không phải là chịu khổ vì căn bệnh. Cho nên nếu dòng sống có thể tìm ra cách nào khác để trả quả thì căn bệnh rất có thể sẽ được chữa lành. Một lần nữa, ta khuyến cáo việc sử dụng cac dụng cụ tâm linh để làm tiêu sạch mọi nghiệp chướng và năng lượng tiêu cực. Và đương nhiên, nếu người bệnh nặng là một người thân của con, con cũng có thể dùng dụng cụ tâm linh để chuyển hóa nghiệp đó cho người ấy.

Tuy nhiên cũng có một kịch bản thứ ba cần được xem xét. Trong nhiều trường hợp, một chứng bệnh nặng không chỉ do nghiệp của người đó, mà là hậu quả của một số tin tưởng sai lầm hoặc vết thương tình cảm nơi dòng sống. Và trong trường hợp này, việc sử dụng kỹ thuật tâm linh để chuyển hóa nghiệp quả thật là không đủ. Việc cần thiết là phải dùng những dụng cụ thích hợp để chữa lành tâm lý một cách thực sự. Rất nhiều khi, một căn bệnh không thể chữa khỏi cho tới khi vấn đề tâm lý nằm bên dưới được giải quyết hoàn toàn.

Điều ta muốn nói là có rất nhiều người phải chịu bệnh tật nghiêm trọng do tâm lý họ chưa giải quyết. Cho nên mặc dù họ phải chịu khổ cả đời nhưng họ không thật sự trả được chút nghiệp nào, và do đó họ không tiến bộ về mặt tâm linh. Đó chỉ đơn giản là sự khổ đau không cần thiết chẳng đem lại ích lợi cho bất cứ ai.

Trong một số trường hợp, một dòng sống lại có thể sử dụng căn bệnh như cái cớ để không chịu giải quyết các giới hạn tâm lý của mình. Một chứng bệnh nặng khiến mình bị mất khả năng cơ thể xem ra có thể là cái cớ tuyệt hảo để mình bỏ rơi mọi trách nhiệm về cuộc sống, không chịu giải quyết tâm lý hay không lấy những biện pháp cần thiết để tiến bộ trên đường tâm linh. Cho nên điều ta muốn nói là có những người mắc phải vấn đề này từ hai khía cạnh.

Khía cạnh thứ nhất của vấn đề là sự hạn chế tâm lý nằm tiềm ẩn bên dưới. Khía cạnh thứ nhì là, thêm vào sự hạn chế tâm lý tiềm ẩn, còn có một thái độ thâm căn cố đế không muốn đương đầu với vấn đề tiềm ẩn. Thậm chí dòng sống còn sẵn sàng hứng chịu và duy trì một căn bệnh trầm trọng hầu tránh không phải đương đầu với vấn đề. Giản dị, những dòng sống như vậy không chịu thay đổi chính mình cũng như cách mình nhìn cuộc sống. Họ có thể rất khó tiếp cận, và vì vậy căn bệnh có thể rất khó chữa. Cho dù họ có đọc vô số bài nguyện hay bài cầu tràng hạt thì sẽ vẫn không hết bệnh, cho tới khi họ quyết định nhận hoàn toàn trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và làm một điều gì đó để giải quyết các nguyên nhân bên dưới. 

Những dòng sống như vậy rất nên suy ngẫm về định nghĩa của Albert Einstein về sự điên rồ: Điên rồ là khi con cứ làm mãi cùng một chuyện mà lại mong kết quả sẽ khác đi.

Tạo cảm hứng cho trẻ em

Hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể tạo cảm hứng cho trẻ em thể nhập những giáo lý tâm linh mà chúng ta trình bày cho chúng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Trước tiên hết, qua gương của chính con. Cho nên con hãy đảm bảo là chính con đã thể nhập các khái niệm tâm linh trước khi con trình bày cho con trẻ. Nhưng con cũng cần làm thế nào mở tâm ra để khám phá những khía cạnh mới của khái niệm tâm linh.

Tiếc thay, nhiều bậc cha mẹ có thái độ xem mình là người phải dạy dỗ cho trẻ con và mình không có gì học hỏi từ con cái. Điều này đặc biệt đúng đối với những người đã lớn lên trong một văn hóa tôn giáo chính thống và có cách tiếp cận vỏ ngoài về tôn giáo. Họ có thái độ độc đoán đối với trẻ em và cho rằng con mình phải chấp nhận những tin tưởng tôn giáo của mình.

Nếu con là người đi tìm chân lý, con không phải tự xưng là người có thẩm quyền về những đề tài tâm linh, ít ra là không trong ý nghĩa truyền thống. Thay vì cảm thấy mình phải áp đặt một số niềm tin lên con mình, con hãy tự đặt mình vào vai trò một nguồn tài nguyên giúp chúng tìm ra lời giải đáp.

Con cái của con sẽ tìm đến con một cách tự nhiên với những thắc mắc về tâm linh, đặc biệt khi chúng thấy là con sẵn lòng giúp chúng mà không ép buộc bất cứ điều gì. Nhân tiện, khi con có thái độ và xây dựng mối quan hệ với con mình như vậy, con sẽ thấy với tâm hồn ngây thơ của chúng, chúng có thể dạy con nhiều điều về tâm linh đích thực. Chúng đặc biệt có thể giúp con tìm lại cách tiếp cận Thượng đế hồn nhiên và vô điều kiện.

Một cách rất hay khác để giúp trẻ em thể nhập các khái niệm tâm linh là không bao giờ cho chúng những câu trả lời đã xác định hay hoàn chỉnh. Ngược với thái độ của nhiều người lớn đối với trẻ con, các em có dư khả năng suy luận và tự tìm hiểu mọi thứ. Không phải tâm trí các em kém khả năng hơn tâm trí người lớn, mà giản dị tâm các em nói một loại ngôn ngữ khác người lớn, cả về mặt hình ảnh, khái niệm lẫn từ ngữ.

Vì vậy cách tốt nhất để trình bày một khái niệm tâm linh cho trẻ em là luôn luôn khởi đầu bằng cách để cho đứa trẻ đặt câu hỏi. Con có thể dẫn nhập một khái niệm nào đó rồi hỏi xem nó có thắc mắc gì về khái niệm đó không. Sau đó con tìm cách giúp nó tự phát triển tiến trình suy luận và hiểu biết của nó. Nói cách khác, con cố giúp nó tự tìm lấy câu trả lời thay vì cho nó những lời giải đáp định sẵn.  

Một điều quan trọng khác con cần hiểu là khi con là người tầm đạo, con đã trải qua một tiến trình rất dài để đạt đến niềm tin và hiểu biết mà con hiện có. Thật là tự nhiên khi cha mẹ cũng muốn con mình đạt được cùng hiểu biết đó trong vòng năm phút, nhưng đương nhiên điều này không thể làm được. Vì vậy, con em của con không cần phải đạt được hiểu biết mà con đang có như một người trưởng thành. Điều hoàn toàn chấp nhận được là đứa trẻ sẽ có một cách hiểu phần nào khác lạ hay giản dị hơn về một khái niệm tâm linh, rồi khi nó lớn lên, nó sẽ lần hồi khám phá ra một cách hiểu cao hơn.

Khi con là người đi tìm chân lý, con nhận rõ tâm linh là một tiến trình. Điều quan trọng nhất mà con có thể hiểu về trẻ em là tuổi thơ cũng là một tiến trình. Điều tốt nhất con có thể giúp con cái là tăng cường khả năng của chúng tham gia vào tiến trình của cuộc sống và tự tìm lấy câu trả lời, thay vì chỉ nhắm mắt đi theo những lời giải đã định sẵn mà chính con, giáo hội hay xã hội của con xem là cách hành xử duy nhất.

Hãy cho phép con mình kinh qua tiến trình của cuộc sống. Hỗ trợ và hướng dẫn nó, nhưng đừng đóng hộp nó lại trong những giáo điều đã định sẵn. Hãy tin tưởng tiến trình cuộc sống. Giúp con mình trụ neo trên con đường tâm linh đi tìm sự thật, rồi tin tưởng là cái ta Ki-tô của nó sẽ hướng dẫn nó đến những lời giải đáp thích hợp ở thời điểm thích hợp.

Về mặt này ta cũng xin nói, một trong những cách hay nhất để giúp trẻ em thể nhập các khái niệm tâm linh là sử dung xu hướng vui chơi tự nhiên của chúng. Nếu con có thể biến khái niệm tâm linh thành một trò chơi, thì xác suất thành công của con sẽ lớn hơn rất nhiều để giúp chúng thể nhập khái niệm đó.   

Hãy dạy dỗ con em qua truyện kể, trào phúng hay kịch ngắn. Bày ra trò chơi dựa trên khái niệm tâm linh. Sự sáng tạo không hề có giới hạn, và nhiều người cũng đã dùng óc sáng tạo của mình để hoàn thành những chương trình như vậy cho trẻ em. Một số những chương trình có sẵn này rất hữu ích cho dù là được thực hiện trong khuôn khổ một tôn giáo hay một giáo hội đặc thù. Cho nên, hiện đang có một nhu cầu vô bờ bến những loại tài liệu giáo dục cho trẻ em về con đường tâm linh toàn vũ vượt trên mọi tôn giáo.    

Đa số cần chữa lành trước khi thể hiện được quả vị Ki-tô cá nhân

Hỏi: Nhiều người đã chữa trị tâm lý qua những kỹ thuật như hơi thở toàn diện (holotropic breathwork) hay trị liệu tổng thể (gestalt therapy), cho biết là họ cảm thấy niềm vui bên trong và sự tự tin của họ gia tăng, và những hệ quả tiêu cực của chấn thương được tẩy sạch. Những liệu pháp này gọi mở trải nghiệm nội tâm, cho nên con tự hỏi, không hiểu điều đó có giúp cho người ta đến gần hơn với tâm thức Ki-tô?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Câu trả lời ngắn gọn là có. Như ta có giải thích trong bài giảng về phát triển tâm linh, trên địa cầu có rất nhiều dòng sống đã mang vết thương sâu xa và cần được chữa lành trước khi có thể thể hiện quả vị Kitô cá nhân. Tất nhiên, cho tới khi dòng sống đạt đến sự điều ngự toàn diện, người đó vẫn còn nhiều vết thương khiến việc sử dụng các loại điều trị hàn gắn tâm lý vô cùng hữu ích.

Như ta có trình bày khi trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), chấn thương có thể khiến cho dòng sống bị phân chia hay vỡ ra thành từng mảnh. Chính sự thiếu trọn vẹn này là cản trở chính yếu cho việc thị hiện tâm thức Ki-tô. Vì vậy, bằng cách sử dụng những kỹ thuật thích hợp để chữa lành vết thương, một người có thể thực sự có những bước dài tiến về việc thể hiện tâm thức Ki-tô.

Bởi vì mọi sự đều xoay quanh những chọn lựa tự quyết của cái Ta Biết, sự phân chia thành từng mảnh của dòng sống khởi đầu bằng một quyết định. Quyết định này thường xuất phát từ sợ hãi, là sợ hãi phải kinh qua một hoàn cảnh đau thương. Cho nên cái Ta Biết quyết định nó không muốn trải nghiệm chấn thương, và nó rút lui khỏi tình huống. Như khoa học hiện đại đã khám phá, mọi thứ trong vũ trụ đều nối kết chặt chẽ với nhau, kể cả thời gian. Do đó, rất có thể dòng sống có khả năng phân chia ra, và một mảnh của dòng sống bị kẹt lại ở một thời điểm nào đó trong thời gian.

Để đem mảnh đó về, cái Ta Biết cần có một trải nghiệm nội tâm nối kết nó lại với quyết định nguyên thủy đã gây ra sự phân rẽ của dòng sống. Điều này không nhất thiết có nghĩa là cái Ta Biết cần đi ngược trở lại và tái trải nghiệm chính tình huống đã gây ra chấn thương. Điều cái Ta Biết có thể làm là nó có một trải nghiệm nội tâm chứa đựng những thành phần chính yếu của chấn thương, và trải nghiệm này giúp cho cái Ta Biết quyết định mở cửa ra cho mảnh vỡ trở về.

Hiển nhiên, nếu việc vỡ ra thành mảnh nhỏ là hệ quả của chấn thương, cái Ta Biết sẽ lo sợ phải sống lại tình huống đó. Do đó, nó cần một môi trường an toàn nơi nó có thể vượt qua nỗi sợ hãi này. Sẽ rất hữu ích nếu cái Ta Biết có thể được sự hướng dẫn của một nhà chuyên nghiệp lành nghề và trải nghiệm một tình huống ít đe dọa hơn tình huống nguyên thủy đã gây ra chấn thương. Đó là tại sao một dòng sống thường có thể chữa lành bằng cách giải quyết trong kiếp này một vấn đề đã xảy ra thời thơ ấu. Vấn đề này có thể trở thành một biểu tượng hay một mối liên kết với chấn thương nguyên thủy xảy ra trong một tiền kiếp. Chẳng hạn, bằng cách để cho một tình huống trong kiếp này trải bày ra qua cách trị liệu tổng thể gestalt, cái Ta Biết có thể gắn kết lại với những “hồ sơ” cũ và mở rộng ra để một mảnh vỡ bị đánh mất trong một kiếp trước trở lại.

Như ta có giải thích trong một câu trả lời khác, điều vô cùng khôn ngoan là sử dụng các dụng cụ tâm linh để củng cố tác dụng của các loại liệu pháp. Khi dòng sống vỡ ra thành mảnh, trong cấu trúc tinh thể của cỗ xe 4 thể sẽ có một khoảng trống, và khoảng trống này có thể dễ bị các loại năng lượng bất toàn hay sinh thể thấp kém xâm chiếm. Các bài thỉnh thích hợp cho Đại thiên thần Michael có khả năng tẩy sạch những tà thể như vậy, và bằng cách sử dụng đúng đắn Ngọn lửa Tím hay các bài thỉnh Mẹ Mary, con có thể biến hóa năng lượng tiêu cực đang tràn ngập khoảng trống trong cỗ xe 4 thể. Điều này có thể đẩy nhanh rất nhiều tiến trình chữa lành. Tuy nhiên nói cho cùng, một kỹ thuật tâm linh tự thân nó không thể bảo đảm các mảnh vỡ sẽ trở lại, vì điều này chỉ có thể xảy ra do một quyết định có ý thức.

Trong vài thập niên vừa qua, nhiều hình thức trị liệu khả thi đã được phát triển, và nhiều phương pháp nữa sẽ được các chân sư thăng thiên ban truyền trong những thập niên tới. Tuy vậy, không phải tất cả mọi hình thức trị liệu đều an toàn hay thích hợp. Ta thực sự khuyên con không bao giờ cho phép mình bị lâm vào thôi miên sâu, qua đó ta muốn nói đến một buổi trị liệu nơi con không có ký ức gì về những gì đã xảy ra, nơi con không có khả năng ngừng buổi trị liệu bất cứ lúc nào, hay khi nhà trị liệu đặt ý tưởng vào tâm con. Ta cũng khuyên là trước khi trị liệu, con nên thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho con cũng như cho người trị liệu. Đã từng xảy ra nhiều trường hợp bi thảm khi người trị liệu đã chuyển tải ý tưởng cùng cảm xúc từ chính tâm tiềm thức của mình vào tiềm thức của bệnh nhân. Tất nhiên, điều này sẽ không giúp ích cho sự tăng triển tâm linh của con.

Với biện pháp phòng ngừa thích hợp, ta đặc biệt khuyên mọi người tầm đạo nghiêm túc nên xem xét đến việc sử dụng một số hình thức trị liệu. Thật là đáng buồn khi có nhiều người được dạy dỗ là mình phải trở nên khùng điên trước khi mình bắt đầu bất cứ loại trị liệu nào. Đó là một thái độ vô cùng thiếu hiệu quả, cũng gíống như con bảo là con không cần bổ sung vitamin trước khi con bị đau ốm.

Thực tế đơn giản là con đang sinh sống trên một hành tinh với rất nhiều điều kiện tiêu cực, và gần như con không thể lớn lên ở bất cứ nơi đâu trên trái đất mà không gặp phải một loại chấn thương nào đó. Và bởi vì hầu hết mọi người trên hành tinh này đều đã sống qua nhiều kiếp rồi, cho nên gần như ai ai cũng có nhu cầu chữa lành dòng sống của mình. Do đó, đúng vậy, những hình thức trị liệu thích hợp có thể là phương thức hiệu nghiệm nhất để giúp con đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của mình.

AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế không?

Hỏi: AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế đối với người đồng tính hay không, như một số nhà truyền đạo cực chính thống tuyên bố? Con không nghĩ đó có thể là hình phạt, nhưng phải chăng Hội đồng Nhân quả đã quyết định để cho AIDS thị hiện hầu dạy cho con người một bài học về tình dục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con nói đúng khi con bảo AIDS không phải là hình phạt của Thượng đế. Hình ảnh một Thượng đế nóng giận và trừng phạt là một thần tượng đã được phóng chiếu vào Thượng đế vào thời Kinh Cựu ước, như ta đã giải thích ở một nơi khác. Đó là một hình ảnh giả dối, và do đó nó cũng vi phạm điều răn thứ nhì. Thượng đế chân thực là một Thượng đế của tình thương vô điều kiện. Ta đã đến địa cầu một phần là để trao cho loài người một hình ảnh mới về ngài, tức là hình ảnh một người Cha nhân từ mà mọi người đều có khả năng tiếp xúc trực tiếp.

Khi ta nói mọi người “Hãy yêu thương Chúa, Thượng đế của con, với trọn con tim, trọn tâm hồn và trọn tâm trí” (Matthew 22:37), trong cốt yếu ta muốn bảo mọi người hãy bỏ lại đằng sau hình ảnh cũ về một Thượng đế nóng giận. Làm sao con có thể yêu được một Thượng đế nóng giận sẵn sàng trừng phạt con vì một lỗi lầm dù nhỏ nhặt nhất?

Chẳng phải nói, ta buồn vì có quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc ngày nay vẫn còn bám giữ một hình ảnh về Thượng đế đã lỗi thời từ 2000 năm qua, lại còn đối nghịch trực tiếp với hình ảnh mà ta giảng dạy. Ta càng buồn hơn khi thấy quá nhiều tín hữu Cơ đốc sử dụng hình ảnh giả dối này để phán xét và lên án đồng loại của mình. Và ta buồn hơn nữa vì ta biết Luật của Thượng đế không thể bị nhạo báng, cho nên các tín hữu đó sẽ không tránh khỏi bị phán xét theo cùng tiêu chuẩn mà họ đã phán xét người khác.

Như ta đã giải thích suốt trang mạng này, Thượng đế đã tạo ra một quy luật cơ học sẽ gửi trả lại cho con mọi năng lượng mà con gửi vào vũ trụ. Điều này được ghi rõ trong Kinh thánh: “Con đừng bị dối gạt; Thượng đế sẽ không bị nhạo báng, vì người ta gieo gì thì sẽ gặt nấy” (Galatians 6:7). Có thể nói vũ trụ vận hành như một tấm gương phản chiếu lại cho con bất cứ điều gì con làm cho người khác. Đó chính là lý do ta đã dạy con: Hãy làm cho người khác những gì con muốn vũ trụ làm cho con.

Do đó, AIDS là một sản phẩm của nghiệp quả loài người, kết quả của việc họ không ngừng tha hóa năng lượng của Thượng đế. Trong trường hợp ở đây, sự tha hóa năng lượng xảy ra qua tình dục, và đó là tại sao nó được phản chiếu lại dưới hình thức một chứng bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đặc biệt, việc tha hóa năng lượng dẫn tới bệnh AIDS đã xảy ra qua sự chung chạ bừa bãi, qua đó ta muốn nói đến quan hệ tình dục hoàn toàn với mục đích thỏa mãn các loại cảm xúc thấp kém (vị kỷ) mà không dựa trên cảm xúc sâu xa hơn là tình thương (vị tha).

Thật ra, dạng sinh hoạt tình dục này xuất phát từ lòng khinh rẻ đối với thánh đường xác thân, không xem đó là món quà của Thượng đế, một cỗ xe để giúp dòng sống giải thoát khỏi vũ trụ vật chất. Nó sẽ chỉ buộc chặt dòng sống hơn vào vũ trụ vật chất. Kỳ thực, nhiều người tham gia vào sinh hoạt tình dục thiếu tình thương như vậy mang một nỗi oán giận đối với xác thân mà thường thường họ không nhận ra. Và bởi vì xác thân con người được tạo bằng năng lượng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – cho nên đó cũng là nỗi oán giận đối với Mẹ. Đây là cùng nỗi oán giận đã khởi đầu với sự sa ngã của Lucifer, như Mẹ Mary đã giải thích trong bài giảng của thày.

Khi thật nhiều người không ngừng tham gia vào một sinh hoạt tha hóa năng lượng, sự căng thẳng sẽ ngày càng chồng chất. Con có thể so sánh với nước dâng lên đằng sau con đập. Nước tạo áp lực trên đập và cuối cùng đập sẽ vỡ ở điểm yếu nhất của nó. Đây chỉ đơn giản là một tiến trình cơ học, và nếu con biết rõ áp suất cùng các nhược điểm trên đập, con có thể tính trước khi nào và ở điểm nào nước sẽ xối vào.

Sức căng thẳng của nghiệp quả cũng giống như vậy, nó gia tăng và chồng chất khi có nhiều người sống chung chạ. Hiển nhiên chuyện này đã tiếp diễn ra từ rất lâu, cho nên có một lượng nghiệp quả to lớn đã tới hạn xuất hiện vào cuối Thời đại Song ngư. Nghiệp quả phải được cân bằng trước khi nhân loại có thể nhảy vọt vào tâm thức của Thời đại Bảo bình, và đó là tại sao bệnh AIDS đã xuất hiện vào thời điểm đó. Trong mấy chục năm qua và bắt đầu từ thập niên 1960, đã có một sự gia tăng trong tình dục chung chạ cùng nhiều hình thức đồi bại tình dục, như hình ảnh khiêu dâm, nô lệ tình dục, xâm hại tình dục trẻ em, v. v…

Tất cả những thứ đó đã tạo sự căng thẳng, bắt đầu trong cõi cảm xúc ở ngay trên cõi vật lý về độ rung. Ta đã giải thích điều này chi tiết hơn ở một nơi khác. Khi căng thẳng đạt đến mức tới hạn, nó bắt đầu đột nhập vào cõi vật chất, và đó là khi con chứng kiến một số sự kiện vật lý, như trong trường hợp này là các đợt bùng phát đầu tiên của virus AIDS. Đương nhiên, cũng giống như đập nước, đợt bùng phát đầu tiên xảy ra nơi những điểm yếu nhất, và trong trường hợp này, đó là những khu vực nơi năng lượng tình dục đang bị lạm dụng.

Ta chắc chắn hầu hết những ai không thiên vị đều biết là lối sống chung chạ khá phổ biến trong cộng đồng người đồng tính nam cũng như tại nhiều vùng châu Phi, Sự thật là Thượng đế không hề có ý định trừng phạt một nhóm người nào, và cũng không hề có sự phán xử dựa trên chủng tộc hay xu hướng tình dục. Đơn giản chỉ có một tác động máy móc khi căng thẳng nghiệp quả đạt tới một cường độ nào đó thì nó sẽ xuất hiện trong đời sống những ai dễ bị tổn thương nhất bởi dạng quả báo này. Trong trường hợp ở đây, nguyên nhân gây ra tiềm năng tổn thương là sự từ chối hạn chế các sinh hoạt tình dục chung chạ. Tại châu Phi lẫn trong cộng đồng người đồng tính nam, có những tin tưởng văn hóa cho rằng tình dục chung chạ không mang hậu quả tiêu cực nào. Người ta bịt tai không chịu lắng nghe nhiều lời cảnh báo từ cả khoa học lẫn tôn giáo cho thấy mọi hành động đều mang hậu quả.

Con có đề cập đến Hội đồng Nhân quả. Đây là nhóm các sinh thể thăng thiên trông coi sự phát triển tâm linh của nhân loại với nhiệm vụ giúp cho con người giải thoát khỏi lực kéo hướng hạ do nghiệp quả của họ. Con nên cẩn thận đừng ghép hình ảnh Thượng đế nóng giận cho Hội đồng Nhân quả. Kỳ thực, các thành viên của Hội đồng không định đọat ai sẽ là người nhận nghiệp quả nào và vào thời điểm nào. Điều đó do một định luật hoàn toàn cơ học quy định.

Điều Hội đồng Nhân quả có thể làm là gác lại một phần nghiệp của một cá nhân hay một nhóm người để tạo cơ hội cho họ phát triển tâm linh. Nói cách khác, nếu có ai đó tỏ ra thật sự sẵn lòng cải hóa trong chiều hướng tích cực nhưng lại có nghiệp báo sắp sửa cản trở bước tiến của họ, thì Hội đồng Nhân quả có khả năng gác lại nghiệp đó cho tới mùa sau. Điều này sẽ cho phép người đó tích tụ nghiệp tốt – là điều mà ta gọi là “cất giữ của cải trên trời” (Matthew 6:19-20) – để giúp họ trả quả dễ dàng hơn. 

Thế nhưng Hội đồng Nhân quả không quyết định điều này một cách tùy tiện. Tất cả được định đoạt dựa trên khả năng của dòng sống có sử dụng được cơ hội đó hay không. Nói cách khác, Hội đồng Nhân quả lượng định xem đâu là tiềm năng lớn nhất để trợ giúp sự phát triển tâm linh của dòng sống. Nếu họ sẵn sàng thay đổi thì việc gác lại một phần nghiệp chướng thường là cách tốt nhất để giúp họ. Nhưng nếu họ không sẵn lòng thay đổi, việc cho phép họ trải nghiệm hậu quả của nghiệp chướng thường là giải pháp duy nhất để đánh thức cho họ mở mắt ra với thực tại cuộc sống, tức là để họ hiểu ra là họ sẽ gặt hái những gì họ gieo.

Trong trường hợp bệnh AIDS, chuyện đơn giản xảy ra là đã không có đủ túc số những người sẵn lòng thay đổi thái độ của mình để dẫn đến quyết định gác lại nghiệp quả. Sự thể này cũng tương tự như khi Sodom và Gomorra bị hủy diệt (Sáng thế 18). Câu chuyện này trong Kinh thánh kể lại sự kiện có dân tộc kia gây ra một nghiệp chướng rất nặng nề do lạm dụng năng lượng tình dục – năng lượng này chính là lực sống, cho nên nó tạo nghiệp to lớn khi bị lạm dụng. Nghiệp mãnh liệt đến độ nó chực tràn vào cõi vật chất.

Abraham được Hội đồng Nhân quả giao trách nhiêm làm sứ giả. Ông khẩn khoản Hội đồng hãy gác lại nghiệp quả cho thành phố nếu ông tìm được đủ số người công chính. Như con có thể đoán được từ câu chuyện, Hội đồng Nhân quả đã có thể “tha thứ” cho thành phố đó nếu có đủ túc số người công chính. Nhưng khi không tìm ra số người đó thì Hội đồng không có lý do gì đình chỉ nghiệp báo. Định luật nghiệp quả – định luật của hành động và phản ứng – đòi hỏi năng lượng phải được phép chảy theo dòng tự nhiên của nó, và các thành phố đó đã bị thiên tai tiêu diệt tan tành. Ta không nói là mọi khía cạnh của câu chuyện trên đều chính xác trong nghĩa đen, nhưng nó chứa đựng một sự thật tiềm ẩn về cách nghiệp quả phản hồi như thế nào.    

Thời nay, một lần nữa lại có nghiệp quả được phản hồi do việc lạm dụng năng lượng tình dục. Tuy nhiên nó không tập trung tại một hai thành phố mà là một vấn nạn toàn cầu. Cho nên lực nghiệp phản hồi đã khoác vào hình dạng một chứng bệnh lan truyền qua đường tình dục – và tất nhiên, nó chỉ có thể lây truyền bởi những ai chung chạ tình dục.

Ta cũng muốn nói thêm rằng virus thật ra không phải là một tạo vật của Thượng đế. Thượng đế không bao giờ tạo ra bất kỳ loại virus nào. Mọi virus đều được tạo ra một cách “nhân tạo” trong các phòng thí nghiệm của tà lực ngụ nơi cõi cảm xúc hay cõi trung giới. Rồi virus có thể được chuyển vào cõi vật chất tại những khu vực nơi độ rung đã xuống thấp đến nỗi cả khu vực rung động ở cùng tần số với cõi trung giới – và đó là một số vùng ở châu Phi cùng một số thành phố lớn nơi năng lượng tình dục bị lạm dụng trầm trọng. Một khi virus đã xâm nhập vào cõi vật chất, nó có thể lây lan qua các phương tiện vật chất, mặc dù chỉ những ai mang nghiệp lực tiềm tàng mới mắc bệnh.

Tuy nhiên trong trường hợp AIDS, ta phải nói với con là virus đã băng qua lằn ranh vật lý trước tiên tại một số phòng thí nghiệm bí mật, sau đó nó đã lây lan phần nào do một cuộc thử nghiệm không kiểm soát. Hiển nhiên, những người làm chuyện này bị đui mù bởi nghiệp chướng và lòng kiêu hãnh cho nên họ dễ rơi vào vòng khuynh đảo của tà lực. Nguyên vụ này sẽ không xảy ra nếu nhân loại đã không tạo ra nhược điểm nghiệp quả, nghĩa là không có lý do gì để đổ lỗi cho những ai đã trở thành công cụ cho virus AIDS vượt hàng rào. Họ chỉ là điểm hội tụ của nghiệp chung, và con virus đã có thể băng qua bất kể. Kỳ thực, virus đã băng qua và xâm nhập vào cõi vật chất ở nhiều địa điểm khác nhau, có nghĩa là toàn bộ dịch bệnh này không khởi phát từ một nguồn gốc vật lý duy nhất.      

Vậy làm thế nào để tự bảo vệ khỏi virus này? Rõ ràng, thay đổi cách hành xử của mình là cách bảo vệ tốt nhất. Chấm dứt mọi quan hệ tình dục chung chạ, sau đó vươn lên và thay đổi thái độ của mình đối với tình dục, tìm cách chữa lành tâm lý cho không còn bất kỳ nỗi oán giận vô thức nào đối với ánh sáng của Mẹ. Như ta vừa nói, virus lây lan là một tiến trình cơ học khi lực căng thẳng nghiệp chướng điều khiển cơ chế virus tìm ra điểm yếu nhất trong xã hội. Cho nên con cần chắc chắn con không là một trong số các điểm yếu đó qua cách hành xử và thái độ tình dục của mình.

Tất nhiên, con cũng có thể dùng bài nguyện tràng hạt cho Đại thiên thần Michael để tự niêm mình lại khỏi các năng lượng tình dục tha hóa, và bài nguyện tràng hạt cho Mẹ Mary để tẩy sạch trường năng lượng của con và biến hóa các nghiệp chướng cũ. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ hiệu quả tối đa nếu con thực lòng muốn cải sửa cách hành xử và thái độ của con. Nói cách khác, con hãy cho Hội đồng Nhân quả lý do tốt nhất để Hội đồng gác lại bất kỳ nghiệp quả nào có thể khiến con mắc bệnh AIDS. Các biện pháp nói trên cũng có thể giúp cho những ai đã nhiễm HIV tránh không biểu hiện các triệu chứng của căn bệnh, và nó cũng có thể giảm bớt các triệu chứng đã mắc phải. Điều ta muốn nói là – như mọi chứng bệnh khác – quả là có một cách trị liệu tâm linh cho bệnh AIDS.

Xâm mình không đem lại quyền năng tâm linh

Hỏi: Con có 6 cái hình xăm trên người, một con rồng, một con rắn hổ mang, một con báo, một con cá mập, một nàng tiên cá và vị thần Ai Cập Anubis. Hình xăm sắp tới sẽ là một nàng tiên. Chẳng phải là người ta nhận được quyền năng từ hình xăm hay sao? Và lý do gì khiến cho người ta chọn một hình xăm nào đó? Liệu trong tiềm thức có một lý do sâu xa hơn là ý nghĩa thông thường của hình xăm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ngược với sự suy nghĩ của nhiều người, kể cả những người đi theo phong trào tâm linh thổ dân (native spirituality), con sẽ không nhận được quyền năng tâm linh nào từ một hình xăm. Con có thể nhận được năng lượng từ một hình xăm, nhưng đó không phải là năng lượng tâm linh.

Rất nhiều thứ mà người ta làm để tô điểm, trang sức cho cơ thể vật lý kỳ thực thể hiện một thái độ xem thường thánh đường xác thân. Những thứ đó bao gồm hình xăm, xâu khuyên trên cơ thể, thậm chí cả những cách trang điểm thái quá. Những cách như vậy xuất phát ở nguyên thủy từ lòng oán hận đối với Mẹ, bởi vì chính năng lượng của Mẹ được sử dụng để tạo ra thánh đường xác thân.

Vì vậy ta thật khuyên mọi người không nên làm theo những cách đó. Ta cũng biết là hầu hết các bạn trẻ trong thế giới ngày nay sẽ bỏ ngoài tai lời khuyên này của ta. Nhưng ta có thể cam đoan với con rằng việc làm ô uế thánh đường xác thân dù bằng cách nào đi nữa, kể cả việc sử dụng ma túy, sẽ không giúp cho con tăng triển tâm linh. Nó sẽ chỉ khiến cho sự tăng triển bị trì trệ, và đối với nhiều người, nó có thể chặn đứng sự tăng triển.

Bất cứ việc gì con làm đều có một lý do tâm lý. Con bị thu hút bởi một hình xăm nào đó do nó diễn bày ra những gì đang xảy ra trong tâm tiềm thức của con. Hình ảnh tác động rất mạnh mẽ trên tâm con người, và suốt lịch sử, hình ảnh đã được sử dụng để nâng cao tâm thức con người hay bị lạm dụng để kiểm soát tâm thức con người.

Trong thế giới ngày nay, hình ảnh đang bị lạm dụng nhiều hơn tất cả mọi thời kỳ khác trong quá khứ. Chuyện này đặc biệt đúng cho các hình ảnh tình dục, hình ảnh chết chóc, hay bất kỳ loại hình ảnh phản hài hòa nào khác với đường nét nhọn hoắt, lởm chởm, những hình dạng mất cân đối, những màu sắc tối tăm hay đối chọi.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, thế giới được sinh tạo từ những hình ảnh được giữ trong tâm Ki-tô toàn vũ. Trên hành tinh này, loài người đã tác động lên sự sáng tạo ban đầu của Thượng đế, phần lớn do những hình ảnh bất toàn mà con người cầm giữ trong tâm mình. Cho nên những thế lực muốn ngăn trở kế hoạch của Thượng đế và biến loài người thành nô lệ, đã khôn khéo sử dụng hình ảnh bất toàn để kiểm soát con người, khiến con người đồng sáng tạo một thế giới cũng bất toàn như thế.

Nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con nên vô cùng thận trọng với những loại hình ảnh mà con cho phép đi vào tâm con. Tâm con là một thánh đường bên trong, cho nên con đừng đem vào đó bất cứ gì không đồng nhịp với mức tâm thức tâm linh mà con muốn đạt được. Cơ thể của con là thánh đường bên ngoài, cho nên con đừng làm điều gì trên cơ thể mà không hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con.

Một cách tiếp cận không nhằm làm nguôi bệnh tật và cái chết

Hỏi: Con xin hỏi về ý nghĩa của một cái chết kéo dài đau đớn. Người bạn của con vừa mất hôm qua do một khối u trong não. Anh ấy phát hiện ra căn bệnh cách đây bảy tuần và trong suốt thời gian đó anh đã đau đớn rất nhiều. Anh mất hết nhân tính và trở thành giống như loài thực vật. Đâu là ý nghĩa của một cái chết như vậy đối với chúng con? Và làm thế nào chúng con có thể giúp một người thân trong hoàn cảnh như vậy?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đây là một câu hỏi chạm đến rất nhiều đề tài khác nhau. Một phần rất lớn của câu trả lời luôn luôn nằm trong vấn đề nghiệp quả. Có những người là những dòng sống can đảm muốn tiến triển nhanh chóng, và ở những tầng nội tâm của họ hoặc trước khi họ đầu thai, họ đã tình nguyện chuốc lấy một chứng bệnh trầm trọng để cân bằng càng nhiều nghiệp quả càng tốt trong phần đời còn lại, hầu trong kiếp tới họ gặp được một hoàn cảnh tốt hơn. Thậm chí còn có những người chịu đựng một căn bệnh như vậy để cân bằng nghiệp quả một lần chót và hội đủ tư cách thăng thiên.    

Tuy vậy cũng có nhiều yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng, như có những người tình nguyện nhận lấy một căn bệnh ngặt nghèo để phần nào giúp người khác khởi lên lòng từ bi hay mong muốn cứu giúp. Kẻ thù lớn nhất của sự phát triển tâm linh thực sự là lòng vị kỷ, bởi vì khi tự ngã hoàn toàn tập trung vào chính nó, nó biến thành một lỗ đen. Nó biến thành một hệ thống khép kín mà Saint Germain đã có đề cập trong bài giảng tuyệt vời của thày về định luật thứ hai của nhiệt động học.

Và do đó, các vị thày tâm linh của nhân loại đã đề ra rất nhiều phương thức để giúp con người khắc phục tính vị kỷ qua lòng trắc ẩn đối với người khác – họ bị khuấy động đến độ họ sẽ dang tay giúp đỡ người khác thay vì chỉ chú trọng đến bản thân mình. Cho nên quả thực là có những người đã tình nguyện chuốc lấy đủ loại bệnh tật – như trong trường hợp nói trên – hầu khơi lên lòng vị tha nơi người khác. 

Hiển nhiên cũng có những người đã không tình nguyện chuốc lấy bất cứ gì hết, và đơn giản nghiệp quả của họ đã trở nên nặng nề đến độ nó phải bộc lộ ra dưới hình thức một căn bệnh lấy đi mọi khả năng thân xác của họ. Những người như vậy đã không sẵn lòng lắng nghe lời dạy tâm linh – thường là suốt nhiều kiếp qua – và do đó nghiệp quả đã phải giáng xuống để trao cho họ thêm một cơ hội thay đổi hướng đi trong cuộc sống. Chúng tôi là các vị thày của nhân loại, phụng sự địa cầu phần lớn để đưa ra cho mọi người một chọn lựa khác hơn là phải học hỏi qua nghiệp quả. Tiếc thay, chúng tôi chẳng làm được gì nhiều khi người ta cứ nhất định ghi danh theo học Trường đời Cay đắng. 

Cũng có một yếu tố tâm lý nhằm chỉ ra cho mọi người thấy được sự sống là nhiều hơn cuộc sống vật lý. Và đây là một điểm tác dụng trên xã hội hiện đại. Vì con thấy gì trong ngành y khoa hiện đại? Con thấy một cố gắng nhằm tạo ra tình trạng nơi bệnh tật và đau khổ bị cất giấu khỏi con mắt người đời. Gần như con thấy chuyện này ở hai đầu của kiếp người. Đã có những xã hội xem hành vi sinh sản là một đề tài cấm kỵ – đến độ người ta tin rằng trẻ sơ sinh được cò bay đến giao tận nhà, và ngay cả thời nay vẫn có nhiều trẻ em không biết gì về chuyện sinh nở. Nói cách khác, con người bỗng dưng hiện ra trong đời, rồi một ngày kia khi họ chết đi, họ cũng bỗng dưng biến mất khỏi đời.

Nhưng thực tế, tất nhiên, là những gì con tạo ra trong tâm thức thì con cũng phải trải nghiệm trong thế giới vật lý. Bởi vì vũ trụ là một tấm gương. Và điều mà ngành y khoa hiện đại đã làm là cố tạo ra một tình trạng nơi họ có thể chữa trị mọi bệnh tật hay giảm bớt mọi cơn đau để con người không phải trải nghiệm hậu quả trạng thái tâm thức của mình. Bất kỳ chứng bệnh nào cũng là sự hiển thị của một điều kiện nào đó trong tâm thức. Và trong nhiều trường hợp, quả thực bệnh tật có khả năng đưa người bệnh tới điểm nhận ra là mình cần thay đổi, mình cần lượng định lại cuộc sống của mình. Nó có thể kích hoạt sự tăng trưởng tâm linh mà bình thường sẽ không xảy ra nếu họ vẫn luôn mạnh khỏe và chỉ lo thụ hưởng đời sống vật chất bề ngoài. 

Cho nên câu hỏi này gắn liền với một câu hỏi khác về đau khổ. Bởi vì có những người sẽ không chịu học hỏi một cách nào khác. Họ sẽ không học hỏi từ giáo lý tâm linh hay những lời gợi nhắc từ cái ta Ki-tô của họ. Và trong trường hợp đó, cõi vật lý, năng lượng của Mẹ, sẽ trở thành vị thày của họ. Và đó là tại sao cơ thể vật lý của họ bắt đầu biểu lộ ra những điều kiện tâm lý bất toàn ở bên trong.

Đối với một số người chứng kiến người khác phải trải qua sự đau đớn của một căn bệnh ngặt nghèo, họ cũng có thể nhận được ích lợi tâm lý. Hiển nhiên, chúng tôi thà là mọi người học hỏi qua lời dạy tâm linh thay vì phải thấy chính tâm thức mình trình chiếu ra một cách quá khắc nghiệt. Nhưng khi con người không sẵn lòng học hỏi thì chúng tôi phải cho phép Luật Tự quyết trải bày ra để họ thấy được cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng và họ không thể thực sự trốn tránh những hậu quả của chọn lựa của mình. Con không thể luôn luôn dùng thuốc giảm đau để làm cho mình tê dại và không còn cảm giác gì nữa.

Về câu hỏi là con có thể làm gì để giúp đỡ những người như vậy, thì câu trả lời là con hãy an bình – để khi con ở bên họ, con không rơi vào cả hai cái bẫy của nhị nguyên, một là nỗi thương xót phàm phu, và hai là niềm tê dại để mình không cảm thấy gì.

Con hãy cho phép mình cảm thấy một niềm an bình nội tâm đem lại cho con lòng trắc ẩn đích thực. Rồi con có thể giúp họ, tạo cảm hứng cho họ lượng định lại cuộc sống, miễn là họ đủ tỉnh táo để làm chuyện đó. Nếu họ đã đi quá mức để có thể tỉnh táo, con có thể, một lần nữa, giữ tâm an bình và giữ sự cân bằng tâm linh cho họ.

Và tất nhiên, chắc chắn con có thể đọc các bài thỉnh và bài chú, để nơi nội tâm, dòng sống đó có thể thức tỉnh mà học được bài học – cho dù tâm vỏ ngoài không còn khả năng học hỏi do đã mất tỉnh táo. Con cũng có thể làm việc với những người chung quanh người bệnh và tìm cách giúp họ lượng định lại đời sống của họ và có được một tầm nhìn tâm linh hơn về cuộc sống.

Khi con trải qua một trận ốm nặng hay con chứng kiến cảnh người thân phải chịu một chứng bệnh hay đau đớn tột cùng – có khi người thân của con suy yếu tới mức con không còn nhận ra họ là con người, hay chắc chắn không phải là con người mà con đã từng quen biết – thì lẽ tự nhiên cảm xúc của con sẽ bị tác động. Nhiều người bị kinh nghiệm đó gây chấn thương, đến độ họ không còn chọn lựa nào khác hơn là đóng chặt cảm xúc mình lại, và mình bị tê đi để không phải chịu đựng nỗi khổ sống qua căn bệnh hay nhìn thấy người thân đau đớn. Điều không thể tránh khỏi là khả năng suy nghĩ minh mẫn của họ sẽ bị che phủ như trong mây mù. 

Một phản ứng thông thường khác là cảm giác vô cùng mạnh mẽ, cảm giác bao trùm lên tất cả rằng mình bị bất lực, mình bị tê liệt không thể làm gì để đem lại thay đổi tích cực – cảm giác rằng chuyện này thật là bất công. Rồi tình trạng bất lực trước hoàn cảnh vỏ ngoài đó thường chuyển thành một nỗi oán hờn bên trong, hay một cơn giận ngày càng dữ dội đến độ cuối cùng nó phải trào ra ngoài và hướng về một ai đó. Một số bệnh nhân đâm ra tức giận đối với người thân hay ngay cả với những người chăm sóc cho mình. Một số khác trút nỗi giận lên Thượng đế, và trong sự phẫn nộ tột cùng, họ thường chất vấn tại sao Ngài lại để cho chuyện đó xảy ra cho họ.

Điều thày muốn nói là mặc dù cả hai loại phản ứng đều có thể hiểu được, nhưng câu hỏi thật sự là liệu cách phản ứng như vậy sẽ có giảm bớt nỗi đau và cải thiện tình trạng thể chất của mình hay không, hay nó sẽ chỉ khiến cho mọi sự tồi tệ hơn?

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không hề vô cảm trước nỗi thống khổ của loài người. Kỳ thực, trong cương vị đại diện đấng Ki-tô Toàn vũ cho địa cầu, quả thực là ta cảm được – ở một tầng nhất định trong bản thể của ta – niềm khổ đau của từng con người trên trái đất. Như ta đã nói cách đây 2000 năm: “Hễ các người làm điều gì cho một ai hèn mọn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta” (Matthew 25:40).

Nhưng ta cũng nhận biết trọn vẹn rằng ta là nhiều hơn nỗi đau khổ, và mỗi người trên địa cầu cũng nhiều hơn nỗi đau khổ. Cho nên ta thấy được rõ ràng là để con người trên trái đất thoát khỏi khổ đau, họ cần kết nối lại với thực tại rằng họ cũng là nhiều hơn vậy – một thực tại mà ta từng mô tả: “Và họ sẽ không bảo, Kìa ở đây! hay kìa ở đó! Bởi vì con hãy nhìn, vương quốc Thượng đế ở ngay trong con.” (Luke 17:21)

Vì vậy, tuy rằng các chân sư có lòng từ bi siêu phàm đối với mọi con người đang đau khổ, nhưng chúng tôi không bao giờ bị chìm đắm trong lòng trắc ẩn và luôn luôn cầm giữ niệm tinh khôi rằng con người sẽ nâng cao tâm thức và khăc phục được những giới hạn vỏ ngoài của mình.

Chỉ bằng cách đi vào bên trong mà con mới có thể kết nối với cái ta toàn vẹn của con. Cái ta này là nhiều hơn cái ngã giới hạn bị kẹt trong thân xác vật lý, là cái thân xác đang trải qua một cơn bệnh hay đang chứng kiến một thân xác khác trải qua cơn bệnh. Đạt đến sáng ngộ này là một vấn đề nâng cao tâm thức, nâng cao tầm hiểu của con về cuộc sống. Và nó đòi hỏi một mức suy luận sáng suốt về sự tình – một điều con không thể làm được khi tinh thần con bị suy sụp về cả mặt lý trí lẫn tình cảm, hay khi con cho phép cảm xúc của mình trào ra điên cuồng trong sự nóng giận và đổ lỗi. Ta hoàn toàn hiểu được là lời dạy này sẽ không giúp được mọi người, nhưng con hãy cho phép ta gợi ra một phương thức cho những ai vẫn còn khả năng suy nghĩ thấu đáo. 

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, cảm xúc của con ở một tầng thấp hơn thể lý trí. Cho nên khi con đóng chặt cảm xúc mình lại, hay con để mặc cho nó chạy cuồng loạn, nguyên nhân thực sự nằm trong trí thể của con. Và nguyên nhân là vì con không thể nhìn ra ý nghĩa của tình huống, con không thể hiểu được – và do đó con không thể chấp nhận – tại sao nó lại xảy ra. Con cảm thấy tình huống bị áp đặt lên con một cách bất công bởi một thế lực bên ngoài, cho dù đó là cuộc sống, là số mạng hay Thượng đế.  

Hãy để ta gợi ý nguyên do tại sao quá nhiều người trong xã hội hiện đại không thể hiểu và không thể chấp nhận đau khổ, đó là vì cả hai hệ tư tưởng đang thống trị xã hội này – ta muốn nói là cả đạo Cơ đốc chính mạch lẫn nền khoa học duy vật – không có khả năng đem lại cho họ câu trả lời xác đáng. Vì họ không có câu trả lời cho nên trí thể của họ bị tê liệt và họ không thể kiểm soát cảm thể của họ.

Do đó, mặc dù họ có thể đang rất xúc động và khó lòng kểm chế cơn xúc động một khi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát, câu trả lời thực tiễn duy nhất là họ phải bắt đầu thay đổi cái nhìn của mình về bệnh tật và đau đớn. Nó đòi hỏi họ phải vượt xa hơn cái nhìn về cuốc sống mà cả tôn giáo lẫn khoa học đang đưa ra.

Bắt đầu ở đâu đây? À, không có cách bắt đầu nào hay hơn là quyển sách của Mẹ Mary nơi thày giải thích thực tại cơ bản của cuộc sống:

  • Tâm con có khả năng hình thành tâm ảnh.
  • Con đã được ban cho quyền tự quyết hình thành bất cứ tâm ảnh nào con muốn.
  • Vũ trụ được cấu tạo bằng một chất gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Chất này có khả năng khoác vào bất kỳ hình dạng nào.
  • Ánh sáng Mẫu-Vật tạo thành một loại gương vũ trụ. Bất cứ tâm ảnh nào con giữ trong tâm – ngay cả ở dưới mức ý thức – cũng sẽ được áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng sẽ khoác vào hình dạng vật chất tương ứng với tâm ảnh của con.
  • Cho dù con cầm giữ tâm ảnh nào trong tâm đi nữa, cuối cùng con sẽ trải nghiệm nó dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất trong đời con.
  • Chìa khóa để thay đổi hoàn cảnh vật chất của con là thay đổi tâm ảnh trong tâm, nghĩa là trong cả bốn tầng của tâm con.

Ta cũng biết thế giới quan nói trên thật là đối chọi với thế giới quan mà cả tôn giáo lẫn khoa học đều đưa ra cho nhân loại. Thế giới quan mà con đã được dạy dỗ khi lớn lên đã được thiết kế để trấn an con và khiến con nghĩ rằng con không có quyền làm chủ vận mạng cũng như các hoàn cảnh vật lý của mình. Điểm này đã được giải thích tường tận hơn ở những nơi khác và ta sẽ không bàn sâu hơn ở đây.

Nếu con bị bệnh và đến tham vấn một vị tu sĩ, vị đó sẽ bảo con cầu nguyện, và nếu cầu nguyện không đem lại kết quả thì dường như con không có cách nào khác nữa. Nếu con đi tham vấn một bác sĩ, vị ấy sẽ bảo con sử dụng y học hiện đại, và nếu y học không đem lại kết quả thì con cũng không có cách nào khác. Cả hai hệ thống tín ngưỡng đều nhằm trấn an con, khiến cho con nguôi dịu, bằng cách bác bỏ sự kiện con chính là kẻ mang trách nhiệm bệnh tình của mình, bác bỏ bệnh tật là cách thức mà các điều kiện trong tâm con trình chiếu ra ngoài, và con có khả năng thay đổi điều kiện vật lý bằng cách thay đổi điều kiện nội tâm.

Vấn đề là cả hai nền triết lý đó đã dạy con người rằng họ không mang trách nhiệm tối hậu về đời họ, và đây là một thông điệp mà tự ngã con người rất thích nghe. Cho nên ta hiểu rõ là nhiều người sẽ khó lòng xoay chuyển và công nhận rằng BẤT KỲ tình huống vật chất nào cũng đều do tâm tự tạo ra và do đó cũng có thể được tâm tháo gỡ bằng cách thay đổi tâm.

Con có thấy điều ta nói ở đây? Tôn giáo bảo con rằng bệnh tật là do hoàn cảnh bên ngoài gây ra và nếu cầu nguyện không đem lại kết quả, con sẽ không còn chọn lựa nào khác. Khoa học bảo con rằng bệnh tật là do hoàn cảnh bên ngoài gây ra và nếu y học không đem lại kết quả, con cũng không có chọn lựa nào khác. Cả hai đều dẫn đến sự tê liệt, và như ta vừa giảng ở trên, đau khổ là do sự tê liệt như vậy gây ra.

Thế giới quan mà ta gợi ý ở đây loại bỏ tình trạng tê liệt đó bằng cách chủ trương bất kỳ hình thức khổ đau nào cũng mang sẵn tiềm năng học hỏi một bài học quan trọng trong đời, một bài học sẽ hữu ích cho con xa hơn cả kiếp này cùng tâm trạng đau khổ hiện thời của con. Tất nhiên, cái giá con phải trả là con phải chấp nhận mình mang trách nhiệm tối hậu về cuộc đời mình. Nhưng một khi con làm điều đó, con sẽ không bao giờ cảm thấy bất lực, tê liệt nữa. Và như thế, khổ đau hoặc sẽ giảm bớt, hoặc sẽ được thay thế bởi niềm vui khi con chú tâm vào tăng trưởng tâm linh.

Hơn thế nữa, khi con chuyên tâm học hỏi và khám phá bài học ẩn giấu sau mỗi tình huống vỏ ngoài, rất có thể con sẽ khắc phục được nguyên nhân đã tạo ra căn bệnh vật chất. Và điều này có thể khiến cho căn bệnh dù trầm trọng đến đâu cũng biến mất – trong nghĩa đen – như trong phép lạ. Kỳ thực chẳng có phép lạ gì cả, mà chỉ là sự ứng dụng những định luật tự nhiên vượt ngoài mức hiểu biết hiện thời của cả khoa học lẫn tôn giáo.   

Thực tế là khi người bệnh chấp nhận một trong hai hệ thống tín ngưỡng đang thống trị xã hội hiện đại, kết quả tất yếu sẽ là sự tê liệt. Điều này sẽ ngăn chặn mọi cách giải quyết điều kiện nội tâm đã tạo ra căn bệnh, và do đó nó sẽ ngăn chặn việc chữa trị. Con thử nhìn xem biết bao người tin vào bác sĩ khi họ nghe tin bệnh tình của mình không có cách chữa. Và khi họ chấp nhận như vậy, họ cũng chặn đứng khả năng giải quyết nguyên nhân căn bệnh.

Con cần hiểu rõ là ở đây ta không nói đến niềm hy vọng hão huyền mà quá nhiều nhà truyền đạo Cơ đốc cổ võ. Việc cầu nguyện – ngay cả khi toàn thể họ đạo cầu nguyện cho con – cũng không đủ đâu. Liệu con có thấy việc đó chỉ thể hiện hệ thống tín ngưỡng nhằm trấn an con và làm cho con nguôi dịu khi bảo rằng đức Chúa Trời, đức Mẹ Mary hay chính thày sẽ phải chữa bệnh cho con qua một phép lạ? Kỳ thực, chính con mới là người đem đến “phép lạ”, tức là phép lạ của tâm khi một chuyển đổi của tâm cũng chuyển đổi các điều kiện vật chất.

Con có thấy chăng là cả khoa học lẫn tôn giáo đều bảo con thế giới vật chất là thực, và các điều kiện vật chất có một thực tại tối hậu hay chăng? Nhưng điều thày nói với con là thế giới vật chất chỉ mang một sắc diện tạm thời, và thực tại của nó không hơn gì chính thực tại mà con đã trao cho nó trong tâm con. Mọi đau khổ trên địa cầu là do tâm con người tạo ra. Và cái do tâm tạo ra có thể được tâm gỡ bỏ – nhưng chỉ khi nào tâm con chuyển hóa thành tâm Ki-tô. Điều này sẽ chỉ xảy ra khi con khám phá và chấp nhận trọn vẹn vương quốc Thượng đế nằm bên trong chính con, và vương quốc này nằm trong tầm tay của con, nghĩa là con có khả năng nâng cao tâm thức ngay bây giờ và thay đổi các điều kiện vỏ ngoài của con ngay bây giờ.

Khi đó, con sẽ có khả năng giữ lấy niệm tinh khôi, hoặc cho con, hoặc cho người khác – như Mẹ Mary có giải thích trong sách của thày. Đây là điều dũng mãnh nhất mà con có thể làm cho người khác, và nó đòi hỏi con không bao giờ chấp nhận bất kỳ giới hạn vật lý nào là thực, mà ngược lại con luôn luôn trụ tâm trong viễn quan tích cực và hiểu biết tuyệt đối – vượt khỏi mọi tín ngưỡng bình thường – rằng Ánh sáng Mẫu-Vật rốt cuộc sẽ trải bày ra hình ảnh toàn hảo mà con đã phóng chồng lên nó. Tuy nhiên, muốn giữ được niệm tinh khôi một cách trọn vẹn, con không thể là một ngôi nhà phân rẽ, và đó là tại sao con phải gắng sức giải quyết các điều kiện tâm lý đã tạo ra căn bệnh ở khởi thủy. Một khi con ngộ được điều ta mô tả ở đây – một sự chứng ngộ vượt khỏi tín ngưỡng, vì nó sử dụng chìa khóa của hiểu biết đích thực – con sẽ nắm được chân lý trong câu nói của ta, rằng đối với con người thì việc đó không thể, nhưng đối với Thượng đế thì tất cả mọi việc đều có thể. Nguyên trang mạng này chỉ nhắm mục đích giúp con khám phá và chấp nhận thực tại đó. Vậy con hãy học hỏi và đem ra áp dụng

Tha thứ là hình thức tư lợi cao nhất

Hỏi: Xin thày chia sẻ ý nghĩ của thày về sự tha thứ. Chúng ta có thể tha thứ cho người khác hay không? Hay tha thứ chỉ nhắm vào bản thân mình, vì tội lỗi duy nhất là nhận thức sợ hãi thay vì tình thương?

Sự tha thứ đứng yên
và lặng lẽ không làm gì
nó chỉ đứng nhìn
và đợi
và không phán xét.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Tha thứ là một trong những khái niệm bị hiểu lầm nhiều nhất. Ý nghĩa thực sự của tha thứ là “giải phóng”, nhưng hầu hết mọi người không hiểu ai là người được giải phóng khi mình tha thứ. Họ cho rằng khi họ tha thứ cho ai đó đã làm hại mình, thì họ đã giải phóng người đó khỏi trách nhiệm, họ đã giải thoát cho người đó khỏi bị mắc tội. Điều này đơn giản là không đúng.

Trong Kinh thánh, con tìm thấy câu sau đây: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, hãy đừng tự mình trả thù ai, mà hãy dành cho cơn thịnh nộ của Thượng đế; vì có chép lời Thượng đế phán rằng: Sự báo đền thuộc về ta, ta sẽ đáp trả.” (Romans 12:19).

Câu nói đơn giản ở trên đề cập đến một định luật của vũ trụ mà Kinh thánh chỉ giải thích phần nào. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả, và trong khoa học, đây là luật hành động và phản ứng. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, tất cả những gì con làm đều làm với năng lượng của Thượng đế. Khi con làm hại một ai đó, con làm tha hóa một lượng năng lượng nào đó của Thượng đế. Thượng đế đã lập ra một quy luật khách quan để bảo đảm rằng bất kỳ năng lượng tha hóa nào mà con từng phóng ra vũ trụ sẽ được gửi trả về cho dòng sống của con. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể thoát khỏi hậu quả của hành động của mình. Đa số người theo đạo Cơ đốc không hiểu những hệ quả sâu rộng của luật này, và lý do chính là vì các lời dạy của ta về nghiệp quả và luân hồi đã bị cố tình xóa bỏ khỏi đạo Cơ đốc.

Đó là một trong những lý do chính yếu tại sao ngay cả nhiều tín đồ Cơ đốc không thể hoàn toàn tha thứ cho những người đã làm hại mình – cho dù ta đã dạy mọi người hãy tha thứ bảy mươi lần bảy. Họ không thể buông bỏ ý muốn trừng phạt người khác hay bắt người khác phải chịu trách nhiệm, và lý do là vì họ không hiểu bằng cách nào Thượng đế có thể đáp trả cho con người. Hầu hết đều nhận xét thấy có một số người đã làm những hành vi tàn ác tày trời mà dường như vẫn sống trọn kiếp mà không bị trừng phạt. Tất nhiên, đó là vì năng lượng tha hóa, tức nghiệp quả, không phải lúc nào cũng quay trở lại trong kiếp này, nhưng con sẽ không thể tránh trải nghiệm sự trở lại của năng lượng đó. Định luật khách quan của Thượng đế sẽ đáp trả.

Khi con hiểu định luật khách quan của nghiệp quả, con sẽ nhìn ra là Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và phán xét, luôn dõi nhìn từng hành vi của con và cố trừng phạt con bằng cách đày con xuống địa ngục. Nếu người đạo Cơ đốc thực sự hiểu được luật vũ trụ quy định rằng không ai có thể thoát khỏi hậu quả của hành động của mình, thì họ sẽ có những bước tiến khổng lồ để khắc phục hình ảnh sai lầm và thần tượng về một thượng đế nóng giận.

Cũng quan trọng không kém, họ sẽ tiến bước vượt bực để khắc phục những khái niệm vô minh về sự tha thứ. Khi con nhận ra cách vận hành của luật Thượng đế, con thấy rõ là con tuyệt đối không có nhu cầu phải trừng phạt bất cứ ai, hay bắt họ phải chịu trách nhiệm một cách nào đó. Nói cách khác, nhiều người cho rằng bằng cách oán trách một ai đó thì chừng như họ đang buộc người đó phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Một khi con hiểu luật Thượng đế thì con thấy điều này hoàn toàn không cần thiết. Thượng đế hoàn toàn có khả năng khiến cho một dòng sống phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình, và ngài không cần con giúp ngài làm chuyện đó. (Nhiệm vụ bảo vệ con người khỏi những kẻ liên tục có hành động sai trái là một vấn đề riêng biệt, và ta đã có trình bày về vấn đề này ở một nơi khác).

Ý thày ở đây là nếu con tin rằng Thượng đế không có khả năng khiến cho một dòng sống phải chịu trách nhiệm và do đó con cần phải oán trách người đó hay thậm chí có biện pháp để trừng phạt người đó, thì thật sự con đang cho rằng con hiểu rõ hơn ngài, hay con đang thay mặt ngài để đóng vai “thiên thần báo thù”. Những tin tưởng đó đều sai lầm và nguy hiểm cho sự phát triển tâm linh của con.

Sự thật đơn giản là khi con giữ một hình ảnh hay một tình cảm tiêu cực đối với một người khác, con đang tạo ra một sợi dây liên kết năng lượng với người đó. Nếu con suy nghĩ một cách lôgíc, con có thể tự hỏi tại sao một người có suy nghĩ lại muốn tạo ra một sợi dây liên kết năng lượng giữa mình và người đã làm hại mình. Hiển nhiên, không một người sáng suốt nào sẽ muốn làm chuyện đó. Con sẽ muốn mình hoàn toàn tự do, giải phóng khỏi người đó chứ, hầu con còn bước tới trước mặt và đưa đời mình về một hướng tích cực. Chìa khóa cho tự do của con là hoàn toàn tha thứ cho người đó. Thật ra khi con tha thứ, con đang giải phóng chính con.    

Ta cũng biết rõ là có một số người bị người khác làm tổn thương đến độ họ đã phân mảnh cỗ xe tâm hồn của họ, hay họ phải mang những vết thương tâm lý trầm trọng. Như ta đã có giải thích ở nơi khác, những vết thương như vậy nơi dòng sống, hay những vết thương tâm lý như vậy không thể bỗng chốc được chữa lành. Cho nên ta không bảo là ai ai đã từng bị tổn thương cũng có khả năng tha thứ tức thì cho người đã làm hại mình.

Nếu con đã bị tổn thương nghiêm trọng, con cần dùng những dụng cụ thích hợp để chữa lành dòng sống hay cảm thể của con cho không còn vết thương. Nhưng điều ta muốn chỉ rõ là khi tiến trình hàn gắn này tiến triển, sẽ đến một điểm không thể hàn gắn thêm được nữa cho tới khi con hoàn toàn tha thứ cho người kia. Có thể nói sự tha thứ toàn diện là kết quả tối hậu của tiến trình hàn gắn. Tuy nhiên, đối với những ai có khả năng tha thứ ngay từ đầu – dù là chỉ một phần – thì đó có thể là khởi sự tốt nhất cho tiến trình chữa lành.

Cho nên tóm lại, nếu con thực sự quan tâm đến sự tinh tấn tâm linh của mình, quả thật con nên tha thứ cho người khác. Con cũng nên tha thứ chính mình, và con nên tha thứ cả Thượng đế của con về bất kỳ tổn thương nào đã gây cho con, cho dù là bởi Thượng đế hay bởi các tổ chức tôn giáo hay bởi những kẻ nhân danh Thượng đế.

Con nói rằng “tội lỗi duy nhất là nhận thức sợ hãi thay vì tình thương”. Con đang đi đúng hướng với câu nói đó, nhưng ta thích nói thế này hơn: tội lỗi duy nhất là ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình, ý niệm rằng mình tách biệt khỏi tình thương. Chính sự tách biệt này đã nảy sinh ra lòng sợ hãi, và từ sợ hãi nảy sinh ra mọi tội lỗi.

Bài thơ của con thật hay, nhưng sự tha thứ cũng có một khía cạnh tích cực. Giản dị là con không thể ngồi đó chờ sự tha thứ xảy ra như trong phép lạ. Con cần tạo ra tiền đề cho tha thứ xảy ra bằng cách chữa lành những vết thương và nâng cao hiểu biết của mình. Con hãy tiếp tục tìm kiếm sự hiểu biết cho đến khi con nhận được sáng ngộ trực giác sẽ khiến con nhận ra trong loé sáng rằng tha thứ thật là hình thức tư lợi cao nhất. Con bỗng thấy được khi con tha thứ mọi người và mọi việc, con đang tự giải phóng khỏi những dây nhợ đã buộc con vào một nhà tù mà con đã tự tạo ra trong tâm mình, cũng như một nhà tù vật chất ngay trên hành tinh địa cầu này.

Nguyên nhân tâm linh của chứng dị ứng

Hỏi: Con nghĩ đây có thể xem là một câu hỏi chung chung, không mang tính cá nhân. Sữa đậu nành và các sản phẩm đậu nành có phải là loại thức ăn lành mạnh, hay các phyto-estrogen có gây vấn đề gì cho trẻ em? (Con trai và con gái của con uống sữa gạo và ăn một ít đậu nành do bị dị ứng thực phẩm)


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/12.

Gần như không có câu hỏi nào về sức khỏe mà là câu hỏi chung chung, con ạ. Tự thân các chứng dị ứng đều là những trường hợp cá nhân. Một số trẻ em có thể dị ứng các sản phẩm đậu nành, nhưng một số trẻ em khác thì dùng đậu nành mà không bị tác dụng tiêu cực nào. Điều này cũng áp dụng cho sữa bò và các sản phẩm chế tạo từ sữa, cho dù chưa được ngành y tế công nhận đầy đủ.   

Nói chung, gạo là một trong những loại thực phẩm ít gây dị ứng nhất trên trái đất. Tuy nhiên, như trong mọi vấn đề liên quan đến ăn uống, điều quan trọng là cần giữ sự cân bằng, tránh ăn một thứ quá nhiều. Cho nên ta khuyên con nên tìm đến một cơ quan thử nghiệm xem hai đứa con của con dị ứng những loại thực phẩm nào. Việc này không cứ là phải do một chuyên gia y tế thực hiện mà có thể là một nhà chuyên môn lành nghề trong ngành thử nghiệm cơ bắp.

Một điều nữa ta muốn nói là ngược với các lý thuyết y học hiện nay, dị ứng bắt nguồn từ những điều kiện tâm lý. Và nếu con không công nhận thực tế của luân hồi và đầu thai thì đơn giản con sẽ không thể có được một hiểu biết đúng đắn về dị ứng.

Con người có thể mắc chứng dị ứng đối với gần như mọi thứ trong vũ trụ vật chất. Một chứng dị ứng thường khởi đầu với một trải nghiệm chấn thương tâm lý khiến cho một dòng sống biểu lộ và củng cố lòng sợ hãi đối với một chất hoặc một điều kiện đặc thù nào đó. Nếu chấn thương đủ mạnh, hay nếu nó được tăng cường suốt mấy kiếp đầu thai, nó sẽ biểu hiện dưới hình thức một dị ứng vật lý trong kiếp đầu thai sau đó.

Sợ hãi là một cảm xúc kháng cự và đẩy lui, cho nên dòng sống sẽ tìm cách trốn chạy điều mà nó sợ hãi. Khi sự kiện này hiển thị ra dưới dạng một chứng dị ứng, cơ thể sẽ từ chối bất kỳ thức ăn nào hay điều kiện nào có liên quan tới nỗi sợ hãi của chấn thương ban đầu. Đó là tại sao cơ thể sẽ biểu hiện các loại triệu chứng như thế. Các triệu chứng đó chỉ đơn giản là cách cơ thể gửi ra thông điệp là nó không muốn tiếp xúc với chất đó hay điều kiện đó.

Mặc dù con có thể dùng những phương thức vật lý để giảm bớt tác dụng của dị ứng, cách duy nhất để giải quyết chứng bệnh là sử dụng những kỹ thuật tâm lý thích hợp để đi sâu vào trong tâm lý của dòng sống và giải quyết chấn thương nguyên thủy. Đã từng có nhiều trường hợp người bệnh bước vào tiến trình chữa lành nội tâm này và đã khắc phục được ngay lập tức chứng dị ứng lâu năm của mình.

Khai tâm cho trẻ em về con đường và các khái niệm tâm linh

Hỏi: Thày có lời khuyên nào về cách giới thiệu các khái niệm tâm linh và con đường tâm linh cho trẻ em?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Cách hay nhất để dạy trẻ em về bất cứ điều gì là làm gương. Trẻ em bắt chước một cách tự nhiên và chúng theo gương người lớn chung quanh chúng. Cho nên cách hay nhất để dạy trẻ em về các khái niệm tâm linh là con cần chắc chắn là chính con đang sống với thái độ của một người đi tìm sự thật chứ không phải một người đi theo giáo điều. Con cần tiếp cận đời sống tâm linh theo cách mà trang mạng này gọi là con đường nội tâm. Con cần lánh xa cách tiếp cận vỏ ngoài nặng về giáo điều cùng học thuyết.

Nói cách khác, con cần liên tục tìm kiếm sự hiểu biết cao hơn về các chủ đề tâm linh so với hiểu biết hiện thời của con. Con cần tò mò và sẵn lòng đặt những câu hỏi khó giải đáp. Con cần nhận ra là cách hiểu hiện thời của con không phải là cách hiểu tối hậu hay bất khả sai lầm, mà chỉ đơn giản là một bực thang dẫn đến một cách hiểu thâm sâu hơn nữa. Con cần sẵn sàng xem xét và thảo luận về bất kỳ đề tài tâm linh nào mà không cảm thấy là có những đề tài cấm kỵ, hay đi quá xa so với một giáo điều hay chuẩn mực được người đời chấp nhận.

Chỉ khi nào con có cách tiếp cận cởi mở như thế đối với đời sống tâm linh thì con mới tránh làm cho trẻ em bị tổn thương, tránh hủy hoại xu hướng tâm linh tự nhiên của chúng. Thật là đáng buồn khi bao triệu người mộ đạo – cho dù là người đạo Cơ đốc hay tín đồ một tôn giáo khác – tưởng mình đang hành xử đúng đắn khi cho con em mình một nền giáo dục tôn giáo. Nhưng thực tế là những phụ huynh đó, cùng các vị tu sĩ hướng dẫn họ, đang hủy hoại xu hướng tâm linh tự nhiên của trẻ em. Vấn đề này có hai khía cạnh.

Trong Tân ước, con thấy ta đã quở trách các tông đồ của ta ngăn cản không cho con trẻ đến gần ta. Ta cũng có dạy là trừ khi con trở thành một trẻ thơ thì con không thể bước vào Nước Trời. Điều ta thực sự muốn nói qua câu đó là trừ khi con phát triển cách tiếp cận Thượng đế y như trẻ nhỏ, thì con không thể khoác vào trạng thái tâm thức sẽ cho phép con bước vào vương quốc thiên đàng.

Hai khía cạnh quan trọng nhất trong cách trẻ em tiếp cận Thượng đế là bản chất tò mò của chúng và sự ngây thơ trong trắng, hay sự vô điều kiện của chúng.

Con sẽ thấy trẻ em tò mò một cách tự nhiên về Thượng đế và khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Đó là vì khi đứa trẻ còn nhỏ, nó thường có một trải nghiệm nội tâm trực tiếp về đời sống tâm linh. Nhiều trẻ em thực sự trải nghiệm sự hiện diện của thiên thần hay của các sinh thể thăng thiên như những đấng trợ giúp ở ngay bên cạnh chúng. Vì vậy chúng biết cuộc sống là nhiều hơn vũ trụ vật chất này và chúng tò mò một cách tự nhiên.

Đáng tiếc thay, đa số người lớn có khuynh hướng bỏ qua hay phủ nhận thẳng cánh đời sống nội tâm tâm linh của trẻ em. Nhiều người lớn cư xử như vậy vì ngành tâm lý học hiện đại đã dán nhãn đời sống tâm linh của trẻ em là một chỉ dấu non nớt thiếu trưởng thành hay là chuyện tin bậy vào những “đấng trợ giúp” tưởng tượng. Một số khác làm vậy là vì trẻ em có xu hướng tự nhiên hay đặt câu hỏi về những chuyện mà người lớn không dễ dàng trả lời dựa trên các giáo điều mà họ đã chấp nhận là đầy đủ hay bất khả sai lầm.

Thực tế đơn giản là bởi vì trẻ em kinh nghiệm trực tiếp thực tại của cõi tâm linh, cho nên chúng không thấy lý do gì mà phải ép uổng thực tại đó vào trong khuôn khổ một bộ học thuyết do con người tạo dựng, cho dù đó là trong lãnh vực khoa học hay lãnh vực tôn giáo. Vì vậy chúng sẵn lòng đặt lên bất cứ câu hỏi nào mà chúng nghĩ đến, và đây chính là dấu ấn của mọi người tầm đạo chân chính. Nói cho cùng, loại câu hỏi mà con sẵn sàng đặt ra sẽ quy định loại trả lời mà con có thể nhận được. Chẳng phải là Kinh thánh đã nói, “Hãy hỏi thì sẽ được nhận” hay sao? Do đó nếu con sợ không dám đặt những câu hỏi vượt xa hơn các niềm tin hiện thời của con, làm thế nào con sẽ nhận được những lời giải đáp thâm sâu hơn đây?

Về vấn đề giới thiệu các khái niệm tâm linh cho trẻ em, điều vô cùng quan trọng là con cần làm thế nào để không gây nản lòng hay hủy hoại sự tò mò của con trẻ về Thượng đề cùng các vấn đề tâm linh. Do đó, sẽ thật quan trọng nếu con không trình bày các khái niệm tâm linh dưới hình thức những giáo điều khép kín hay không thể tranh cãi. Hãy cho phép chúng hỏi bất kỳ câu hỏi nào xuất hiện trong tâm trí ngây thơ của chúng. Hãy khuyến khích chúng hỏi rồi hãy thảo luận với chúng.

Khía cạnh kia của đời sống tâm linh của trẻ em là cách tiếp cận hồn nhiên, hay vô điều kiện, của chúng đối với các đề tài tâm linh cũng như đối với Thượng đế. Vì chúng kinh nghiệm cõi tâm linh là thực, và vì chúng xem cõi tâm linh là một lực thiện lành luôn ở đó để giúp chúng, cho nên chúng không hề đem lòng sợ hãi Thượng đế. Chúng không sợ đến gần Thượng đế, và quả thực tại sao chúng lại phải sợ chứ?

Vào thời kinh Cựu ước, dân Israel đã tạo dựng một hình ảnh về Thượng đế là một đấng nóng giận, phán xét. Một phần sứ vụ của ta thuở trước là đưa ra một hình ảnh mới về Thượng đế, cụ thể là hình ảnh một người cha yêu thương. Đây là hình ảnh mà hầu hết trẻ em đều mang về Thượng đế một cách tự nhiên. Rất tiếc, nhiều tín đồ Cơ đốc ngày nay đã quay trở về với hình ảnh giận dữ, phán xét của Cựu ước, và họ không tránh khỏi truyền lại hình ảnh này cho con cái họ. Bởi vậy cho nên ngay khi các em bắt đầu theo học các lớp đào tạo tôn giáo thì tính ngây thơ và vô điều kiện của chúng bị tàn phá thật nhanh chóng.

Thế là các em học cách xem Thượng đế là một hiểm họa, một cái gì đáng sợ. Chúng học cách suy nghĩ là chúng chỉ có thể đến gần Thượng đế theo một số phương thức nhất định được quy định bởi nền văn hóa tôn giáo của chúng. Chúng học cách suy nghĩ là chúng chỉ xứng đáng đến gần Thượng đế nếu chúng tuân theo một số điều kiện do giáo điều và luật lệ của giáo hội đặt ra.

Đây là một sự lập trình hoàn toàn nhân tạo mà người ta không bao giờ được áp đặt lên trẻ em. Tại sao con nghĩ ta lại nói rằng trừ khi con trở thành giống như trẻ nhỏ thì con không thể bước vào Nước Trời được chứ? Đó là vì một thực tế thật đơn giản. Tình thương là một lực hấp dẫn và sợ hãi là một lực đẩy ra. Nếu con sợ Thượng đế, con sẽ không bao giờ muốn đến gần ngài hay tiếp cận với ngài. Nếu vậy thì làm thế nào con vào được vương quốc của ngài đây? Tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con và Thượng đế sẽ không ép con bước vào vương quốc của ngài. Con phải bước vào với ý chí tự quyết của con, nhưng làm sao con có thể làm được nếu con sợ Thượng đế?

Trẻ em yêu Thượng đế một cách tự nhiên. Và tình yêu Thượng đế này chính là cái vốn quan trọng nhất mà bất kỳ dòng sống nào có thể sở hữu trên đường tu tâm linh. Do đó, tội ác lớn nhất đối với trẻ em là hủy hoại tình thương tự nhiên của chúng đối với Thượng đế, hủy hoại cảm nhận tự nhiên rằng chúng được chào đón khi chúng đến với Thượng đế mà không cần đi theo bất kỳ điều kiện vỏ ngoài nào.

Khi ta cho phép trẻ nhỏ đến gần ta, ta đã không đặt ra bất kỳ điều kiện nào. Chỉ có các tông đồ của ta mới toan đặt ra điều kiện. Nếu ta không đặt điều kiện thì tại sao ngày nay quá nhiều tín đồ Cơ đốc lại cho rằng con cái của họ phải tuân theo một số điều kiện trước khi được lại gần Thượng đế, lại gần Ki-tô hay tiếp cận các đề tài tâm linh?

Hãy để cho con trẻ đến với ta với sự tò mò, ngây thơ cùng thái độ vô điều kiện của chúng. Hãy để cho các phụ huynh đứng lui lại, xem xét lại hồn mình hầu nhận ra là họ cần đi theo lời dạy của ta mà trở nên tò mò, hồn nhiên y như trẻ nhỏ. Và khi đó, người lớn cũng sẽ có thể đến gần với ta, và họ cũng sẽ được đón nhận với cùng tình thương vô điều kiện mà ta dang trải cho trẻ nhỏ.

Trên thực tế, bất cứ ai đến với Thượng đế cũng đều được đón nhận với tình thương vô điều kiện. Vấn đề là hầu hết mọi người không cảm nhận được, hay không chấp nhận, tình thương vô điều kiện đó. Hầu hết đã dựng lên một số điều kiện trong chính tâm họ khiến họ cho rằng trừ khi họ tuân thủ một số luật lệ và quy tắc vỏ ngoài thì họ sẽ không xứng đáng nhận được tình thương của ngài. Bởi vì tất cả đều tùy thuộc vào quyền tự quyết, cho nên Thượng để không thể ép buộc con nhận tình thương của ngài. Chính con phải nhận lấy nó, và con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận con xứng đáng được nhận tình thương đó.

Đại đa số trẻ em đã mang sẵn cảm nhận xứng đáng này, cảm nhận vô điều kiện này ngay từ khi sinh ra, và đó chính là một trong những tài sản lớn nhất của chúng. Xin đừng hủy hoại cảm nhận đó khi con quá nhiệt thành dạy dỗ tôn giáo cho con mình.

Giáo lý căn bản về cách ứng phó với người tiêu cực

CHỦ ĐỀ: Tránh đối cực nhị nguyên của sợ hãi hoặc thụ động – không chịu phân biện – người trưởng thành có thể đối phó với những người tiêu cực – không cho phép người khác kéo con xuống – một số người tiêu cực vượt quá sự giúp đỡ của con người – một số người có thể được giúp đỡ thông qua tình thương – vượt lên trên tình con người – không thương cảm tà lực đen tối – tự hào nghĩ mình có thể cứu người khác – nhận ra những phản ứng không mang tính xây dựng – sử dụng trực giác thay vì trí năng – nhận ra chấp trước của mình – dính mắc với người tiêu cực mở con ra với tà lực đen tối – tình thương thách thức – giúp con người lựa chọn thật sự – tránh tranh luận – ba lý do khiến mọi người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực – lòng tốt không có tác dụng với những tà linh đen tối –  bước đi tiếp.


Câu hỏi 1: Xin chào Giêsu- Con thật may mắn khi có thể liên lạc với thày. Cảm ơn thày. Câu hỏi của con là về việc tránh “tà” linh (những tà linh ô uế có thể xâm nhập vào chúng con nếu chúng con không lấp đầy bản thân với tánh linh của thày). Trên trang mạng có viết rằng chúng con phải cố gắng giữ năng lượng tích cực và tránh những linh thể tiêu cực có thể kéo chúng con xuống. Con thấy những người như vậy ở đây trong văn phòng của con – đầy tiêu cực và rung động xấu – con có nên tránh họ không? Hay con nên tiếp cận với họ và thử thương yêu họ? Có thể họ đầy sự tiêu cực vì họ chưa bao giờ được yêu thương? hay họ là những tà linh? làm thế nào để con biết sự khác biệt? Con cảm thấy họ là những người bị tổn thương và con nên tiếp cận, yêu thương và giúp họ được chữa lành.

Câu hỏi 2: Con cố gắng không kết giao với những người có thói quen mà con không ủng hộ, như uống rượu quá mức, chửi thề, v.v. Tuy nhiên, con nhận thấy rằng mình không đi chơi với nhiều người và có nhiều khả năng ngồi ở nhà. cảm thấy tội nghiệp mình. Vì vậy, tốt hơn là con nên bảo vệ bản thân và không giao tiếp với những người như vậy hay chỉ giao tiếp với những người có tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012:

Đây là những câu hỏi rất quan trọng, và chúng quan trọng vì một số lý do. Một trong những chủ đề lặp đi lặp lại trên trang mạng này là con người đã rơi vào trạng thái tâm thức bị mắc kẹt trong cái nhìn nhị nguyên về thế giới. Khi con suy xét chủ đề về người tiêu cực và tà linh với tâm nhị nguyên, con có xu hướng bị thu hút bởi một trong hai đối cực:

  • Một cực đoan là cách tiếp cận dựa trên sợ hãi, khiến con cảm thấy rằng con nên làm mọi cách để tránh những người tiêu cực hoặc những người có thể bị ảnh hưởng bởi tà linh. Điều này chắc chắn sẽ khiến con có cái tâm rất là phán xét, bởi vì con phải thiết lập một tiêu chuẩn để xác định ai là tiêu cực và ai là không. Tiêu chuẩn đó chắc chắn là biểu hiện của sự sợ hãi và hệ thống niềm tin của con. Đó là lý do tại sao con thấy rất nhiều người Cơ đốc chính mạch phán xét mạnh mẽ những ai không sống theo lý tưởng hoặc tiêu chuẩn được xác định bởi giáo hội của họ.
  • Một đối cực ngược lại là con lý luận rằng con chỉ đơn giản thương yêu tất cả mọi người hoặc thương tất cả mọi người theo cùng một cách. Điều này có nghĩa là con không đánh giá theo tiêu chuẩn của con người. Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa là con không phân biện theo tiêu chuẩn thiêng liêng. Điều này có thể dễ dàng khiến con mở mình ra với những người hoặc thế lực muốn thao túng con để đánh cắp ánh sáng tâm linh của con. Những lực này là một hố sâu không đáy và không có tình thương thương nào lấp đầy được chúng. Vì vậy, khi con cho họ tình thương và ánh sáng của con, con chỉ lãng phí ánh sáng đó giống như con rải ngọc trai của con cho lợn. Thật không may, ta thấy nhiều người trong phong trào Thời đại mới đang áp dụng cách tiếp cận này.
    Nếu con lùi lại và nhìn vào cả hai cách tiếp cận này, con sẽ thấy rằng chúng xuất phát từ cùng một trạng thái tâm thức, cụ thể là từ chối phân biện điều gì là của Thượng đế và điều gì không phải của Thượng đế. Nhiều người Cơ đốc từ chối làm điều này bằng cách bám vào các học thuyết vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng họ không cần phải sử dụng sự phân biện cá nhân của mình bởi vì họ chỉ cần tuân theo một cách máy móc các giáo lý và quy tắc do nhà thờ của họ xác định. Đây là tư duy trắng đen. Nhiều người theo phong trào Thời đại mới cũng từ chối sử dụng sự phân biện cá nhân của mình vì họ nghĩ rằng họ nên hành động yêu thương đối với tất cả mọi người mà không cần cân nhắc. Đây là suy nghĩ màu xám.

Như thày đã cố gắng giải thích trên toàn bộ trang mạng này, có một cách khác thay vì đi vào một trong hai đối cực này. Cách khác là vươn tới tâm thức Ki-tô, điều này cho phép con vượt lên trên tâm thức nhị nguyên. Một khía cạnh quan trọng của tâm Ki-tô là khả năng phân biện điều gì là của Thượng đế và điều gì không thuộc về Thượng đế. Khi con đi theo quan điểm của tâm Ki-tô, con nhận ra rằng không thể đưa ra một câu trả lời chung cho những câu hỏi được hỏi ở trên. Chỉ có những câu trả lời riêng lẻ bởi vì mỗi người là một cá thể duy nhất.

Ý của thày là con cần phải xác định theo cá nhân của con về cách thức và mức độ con sẽ tương tác với những người tiêu cực. Hãy để thày cho con một vài ý tưởng có thể giúp con tìm được sự cân bằng cá nhân của mình.

Ý tưởng 1.

Câu hỏi cơ bản về cách ứng phó với những người tiêu cực có thể được chia thành hai câu hỏi sau:

• Con có nên tránh những người tiêu cực không?

• Con có nên cho họ tình thương và qua đó có thể giúp họ vượt qua sự tiêu cực của họ không?

Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên chủ yếu phụ thuộc vào con là ai, hay đúng hơn là mức độ trưởng thành về tâm linh của con. Nếu con đã kêu gọi sự bảo vệ tâm linh ở mức độ cao và con cảm thấy mình có thể tránh không mang vào từ trường mình sự tiêu cực của người khác, thì con không cần phải tránh những người tiêu cực. Nếu con đã đạt được ý thức rõ ràng về con là ai và ý thức rõ ràng về giá trị bản thân, con có thể tương tác với những người tiêu cực mà không để họ ảnh hưởng đến cảm nhận về bản sắc và giá trị bản thân. Nếu con đã đạt được mức độ phân biện cao của Tâm Ki-tô, con có thể tiếp xúc với những người tiêu cực mà không bị sa ngã trước những nỗ lực tinh vi của họ để kéo con vào vòng xoáy tiêu cực của họ và kiểm soát con.

Vì vậy, có thể nói rằng đối mỗi người cần tìm ra sự cân bằng của mình. Mức độ bảo vệ tâm linh mà con có, giá trị bản thân và sự phân biện bằng Tâm Ki-tô của con sẽ xác định mức độ của những người tiêu cực mà con có thể tiếp xúc mà con không bị họ kéo xuống. Và điểm mấu chốt ở đây là nếu con muốn kéo người khác lên, trước tiên hết là con không thể cho phép họ kéo con xuống.

Liên quan đến câu hỏi thứ hai, điều này phụ thuộc phần lớn vào những người kia. Một số người đã bị bao phủ quá nhiều bởi những năng lượng tiêu cực hoặc những tà lực đen tối đến độ không có người nào có thể giúp được họ. Chỉ có quyền năng của Đức Thánh Linh mới có cơ hội kéo những người này ra khỏi sự tiêu cực của họ, nhưng ngay cả quyền năng của Đức Thánh Linh cũng không thể chống lại ý chí tự do của con người. Vì vậy, thực sự là có một số người mà con không nên cố gắng giúp đỡ trừ khi con có động lực để trở thành cánh cửa rộng mở cho quyền năng của Thượng đế hoạt động qua con. Những người như vậy không thể giúp được dù có thương yêu họ, tốt với họ hay thương cảm họ bao nhiêu chăng nữa. Đơn giản là họ sẽ lấy ánh sáng của con và ngay lập tức lạm dụng nó để duy trì hoặc củng cố sự tiêu cực của họ.

Tuy nhiên, cũng đúng là có rất nhiều người đã bị tổn thương về mặt tình cảm, và do đó họ bị bao trùm trong một vòng xoáy tiêu cực. Những người như vậy có thể được giúp đỡ bằng cách bày tỏ tình thương với họ, mặc dù tình thương của Tâm Ki-tô thật sự hiệu quả hơn nhiều so với bất kỳ tình thương nào của con người.

Bây giờ con thấy sự cân bằng cơ bản mà con phải tìm thấy. Mức độ trưởng thành về tâm linh của con quyết định mức độ con có thể ứng phó với những người tiêu cực mà không bị kéo xuống. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra rằng không thể kéo một số người lên được cho đến khi họ sẵn sàng thay đổi cách họ tiếp cận cuộc sống. Để biết thêm về điều này, hãy xem bài giảng của thày về các giai đoạn phát triển tâm linh.

Ý tưởng 2.

Nếu con đang tiếp xúc với người tiêu cực với hy vọng giúp họ và kéo họ ra khỏi sự tiêu cực của họ, con cần phải chịu được những nỗ lực của họ đang kéo con xuống. Nhiều người tiêu cực sẽ cố gắng kéo mọi người khác xuống mức của họ một cách vô thức. Nếu con cho phép mình bị kéo xuống, con không giúp đỡ người đó, mà con đã tự tạo ra rắc rối cho chính mình. Đây không phải là một hành động của tình thương thật của Tâm Ki-tô. Đây có thể là một hành động của tình người ngây thơ, nhưng thày khuyến khích con hãy vượt lên trên tình người đó. Đơn giản là có quá nhiều người và thế lực trên thế giới này sẽ lợi dụng tình người và sự thương cảm của con người. Thày có thể đảm bảo với con rằng nhiều người đi tìm tâm linh chân chính đã bị lừa khi cho phép bản thân bị kéo xuống thấp vì sự thương cảm sai lầm với những người tiêu cực, thế lực đen tối hoặc thậm chí là vì thương cảm ma quỷ.

Hoàn toàn không có lý do gì để thương cảm những thế lực đen tối hay những người đã để cho mình bị những thế lực đen tối như vậy chiếm hữu. Con cần tôn trọng Quyền Tự quyết và chấp nhận rằng những người này có quyền tạo ra một vòng xoáy tiêu cực xung quanh họ. Tuy nhiên, con cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của mình và quyền tránh xa vòng xoáy tiêu cực của họ. Là một người đi tìm tâm linh, con có quyền xây dựng một vòng xoáy tích cực trong cuộc sống của mình và bảo vệ mình không cho bất kỳ ai hay bất kỳ thế lực nào tìm cách kéo mình vào vòng xoáy tiêu cực.

Quá nhiều người tìm kiếm tâm linh đã cho phép mình cảm thấy – thường là thông qua niềm tự hào được ngụy trang – rằng họ có thể thay đổi hoặc cứu một người khác. Một số người đã dành cả cuộc đời để tìm cách cứu một người khác, có thể là vợ / chồng, bạn bè hoặc thành viên gia đình, chỉ để nhận ra rằng mình không thể giúp những người không sẵn lòng giúp đỡ mình.

Ý tưởng 3.

Thày biết thày đã ném vào con những khái niệm có vẻ hoàn toàn khó hiểu. Làm thế nào để con biết khi nào nên thương và khi nào không nên thương? Đây là gợi ý của thày. Tránh đừng xét đoán với tâm vỏ ngoài của con. Quan sát phản ứng của con với người khác và để ý những phản ứng sau:

• Đôi khi con cảm thấy có sự thôi thúc mạnh mẽ để làm điều gì đó cho người khác, nhưng nếu con để ý kỹ hơn, con sẽ thấy rằng sự thôi thúc này đến từ thể cảm xúc của con. Hãy chống lại sự thôi thúc đó.

• Có lúc con gặp một người, và ấn tượng đầu tiên của con là tránh người đó. Sau đó, trí năng của con bắt đầu tranh luận qua lại, và khá nhanh chóng con lý luận rằng sự tương tác với người đó là ổn. Tránh rơi vào cái bẫy dùng trí năng rồi vứt bỏ những cái biết trực giác và ấn tượng đầu tiên của con.

Thày khuyến khích con cố gắng tạo được sự cân bằng trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nói cách khác, tránh rơi vào bất kỳ đối cực nào trong hai đối cực mà thày đã mô tả ở trên. Cách để làm điều này là làm theo trực giác của con thay vì đi theo trí năng và cảm xúc. Thày đã đưa ra một số kỹ thuật trên trang mạng về Hộp Dụng cụ Tâm linh (cái bài chú và bài thỉnh) để tăng cường sự kết nối của con với Tâm Ki-tô của con để con có thể có được những cái biết trực giác chính xác hơn. Điều quan trọng là phải duy trì một sự bảo vệ tâm linh mạnh mẽ vì điều này sẽ giúp con tiếp xúc với những người tiêu cực mà không bị sự tiêu cực của họ kéo con xuống.

Con có thể nhận ra rằng con đã có một trực giác mạnh mẽ. Nếu con không có trực giác, con đã không mở lòng đón nhận những lời dạy trên trang mạng này. Vì vậy, điểm mấu chốt ở đây là tránh để thể cảm xúc hoặc thể lý trí của con kiểm soát sự tương tác của con với người khác. Cố gắng vượt lên trên nó và cho phép chính Tâm Ki-tô của con hướng dẫn con về những người con nên tương tác và hình thức tương tác nên như thế nào. Nếu con luôn làm theo trực giác của mình, con sẽ không bao giờ sai.

Sẽ có những trường hợp con cố gắng giúp đỡ ai đó và sau một thời gian, con phải thừa nhận rằng nỗ lực của mình đã không mang lại kết quả. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con đã sai khi cố gắng. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là cho dù con làm gì, con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Một số người đã quyết định rằng họ sẽ không bị lôi ra khỏi sự tiêu cực của họ. Thày có thể đảm bảo với con rằng thày biết điều này với tư cách là một người thầy tâm linh, người đã cố gắng giúp con người vượt lên trên vòng xoáy tiêu cực do chính họ tạo ra trong một thời gian dài.

Ý tưởng 4.

Khi con tương tác với người khác với tâm thức đến từ sự thương cảm của con người hoặc tình thương con người, con sẽ nhận thấy rằng con bị dính mắc với kết quả của sự tương tác. Vì vậy, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự dính mắc như vậy, con cần phải tỉnh táo và nhận ra rằng con đã rơi xuống thấp hơn mức độ yêu thương của Tâm Ki-tô. Sau đó, con cần phải buông bỏ chấp trước này bằng cách vượt lên trên nó. Người đi tìm tâm linh bị dính mắc về mặt tình cảm với những người tiêu cực là điều không nên. Đây là một lời mời gọi các thế lực đen tối sử dụng những người tiêu cực  để kéo con ra khỏi con đường tâm linh của con.

Con có thể sử dụng những ràng buộc tình cảm của mình để khám phá những lỗ hổng cá nhân của con trước những thế lực đen tối. Sau đó, con có thể sử dụng các dụng cụ trên trang mạng Hộp Dụng cụ Tâm linh (các bài chú và bài thỉnh) hoặc các dụng cụ thích hợp khác để chữa lành tâm lý của mình nhằm vượt qua những dính mắc này và tiến nhanh hơn trên con đường tu của con.

Ý của thày là khi con tiếp xúc với những người tiêu cực, điều cực kỳ quan trọng là không dính mắc vào họ hoặc phản ứng của họ với con. Con càng không bị dính mắc, con càng có thể trở thành công cụ cho ánh sáng và tình thương của Thượng đế để giúp những người như vậy chữa lành vết thương tình cảm của họ và vượt lên trên tiêu cực. Con càng dính mắc, con càng dễ bị sự tiêu cực của họ kéo con xuống thấp, theo đó con sẽ chỉ củng cố thêm cái nhìn tiêu cực của họ về cuộc sống và khiến họ càng bị neo vào vòng xoáy tiêu cực.

Điều thày muốn nói ở đây là chính tình người mới khiến con bị dính mắc, và tình thương này sẽ không kéo người kia ra khỏi tiêu cực. Chỉ có tình thương hoàn hảo gạt bỏ mọi sợ hãi mới có thể làm được điều này, và khi con trụ vào tình thương thiêng liêng, con không bị dính mắc. Tình thương thiêng liêng vô điều kiện, nghĩa là con sẽ thương yêu người khác vô điều kiện. Khi con thương yêu người khác vô điều kiện, con không bị dính mắc bởi các phản ứng của người kia đối với tình thương của mình, và do đó con không thể bị người khác kéo xuống.

Ý tưởng 5.

Điều quan trọng là thấy rằng tình thương thiêng liêng không giống như những gì mà hầu hết mọi người xem là tình thương. Nhiều người có ấn tượng rằng nếu mình thương thì mình phải luôn nhẹ nhàng, dịu dàng và tốt. Điều này không đúng. Nếu ai đó bịt mắt và đang đi về phía một vách đá,  đâu phải là mình chỉ nói nói nhẹ nhàng và yêu cầu người đó dừng lại. Như thế chưa đủ. Có thể là con phải hét lên, và nếu anh ta vẫn không nghe, có thể là con phải xé miếng vải bịt mắt anh và chỉ xuống vực thẳm.

Đây là những gì con đã thấy thày làm rất nhiều lần khi thày thách thức mọi người cách đây 2.000 năm. Khi thày thách thức các thầy thông giáo, người Pha-ri-si, thầy tế lễ trong đền thờ, những người đổi tiền và các luật sư, thày rất cứng rắn và nói thẳng. Nhiều người nghĩ rằng thày đang tức giận và hành vi đó không phù hợp với đấng Cứu thế hay một nhà tiên tri. Tuy nhiên, trên thực tế, thày đang thể hiện khía cạnh nam của tình thương thiêng liêng, đó là sự kiên quyết không muốn người khác tự hủy hoại.

Tình thương của Thượng đế sẽ không ngăn cản con hủy hoại bản thân nếu con thực sự kiên quyết làm như vậy. Tuy nhiên, tình thương của Thượng đế muốn đảm bảo rằng trước khi lựa chọn tự hủy hoại bản thân, con biết chính xác mình đang làm gì và hậu quả là gì. Nói cách khác, tình thương của Thượng đế sẽ không để bất cứ ai hủy hoại bản thân mà không biết họ đang làm gì. Nếu họ biết và vẫn khăng khăng tiếp tục ở trong vòng xoáy tiêu cực của mình, thì Thượng đế sẽ lùi bước — như người đại diện của Thượng đế đã làm trong Vườn Địa Đàng.

Bất kỳ vị thầy tâm linh chân chính nào cũng sẽ tìm cách soi sáng cho mọi người về các lựa chọn của họ và hậu quả của những lựa chọn đó. Và sau đó vị thày sẽ cho phép mọi người lựa chọn. Nếu mọi người chọn đi ngược lại lời khuyên của vị thày, thì hậu quả của hành động của họ sẽ là người thầy mới của họ.

Ý của thày là khi con tiếp xúc với những người tiêu cực, điều cần thiết và thích hợp là con phải rất cứng rắn và nói thẳng khi con thách thức cái nhìn tiêu cực của họ về cuộc sống. Nếu con chưa sẵn sàng làm điều này, tốt hơn là con nên tránh những người như vậy và tập trung vào việc xây dựng mối liên hệ của con với chính cái Ta Ki-tô của con. Khi đạt được liên hệ đó, con có thể cho phép cái Ta Ki-tô của mình thách thức niềm tin tiêu cực của mọi người thông qua con.

Nói cách khác, nếu con sử dụng trí óc con người của mình để thách thức niềm tin của người khác thì kết quả không tốt đâu. Con nên luôn luôn để cho cái Ta Ki-tô của con làm việc xuyên qua con để hoàn thành nhiệm vụ này. Đừng để bản thân bị mắc kẹt trong vòng xoáy tranh cãi và xung đột của con người. Con chỉ cần cho phép chính cái Ta Ki-tô của con nói qua con và nói lên sự thật. Sau đó, con không dính mắc và cho phép mọi người phản ứng lại sự thật đó theo cách nào phù hợp với họ. Nếu họ khăng khăng bác bỏ sự thật, thì con hãy rút lui và để họ gánh chịu hậu quả từ những lựa chọn tự do của họ.

Ý tưởng 6.

Con cần biết rằng có ba lý do cơ bản khiến mọi người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực. Một là sự thiếu hiểu biết, hai là thói quen và những động lực cũ và ba là những tà linh đen tối. Con có thể giúp những người trong hai trường hợp đầu bằng cách đối xử tốt và nhẹ nhàng với họ. Con có thể cho họ sự hiểu biết và cứ tốt với họ hoài để chứng minh rằng có một cách sống tốt hơn là bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực.

Tuy nhiên, lòng tốt sẽ không có tác dụng đối với những người bị tà linh đen tối ám. Cách duy nhất để giúp những người này là giải thoát họ khỏi những tà linh đen tối. Thật không may, những người như vậy thường không cởi mở để đón nhận cái biết sáng tỏ về tình trạng của họ. Không nhiều người trong thế giới ngày nay sẽ phản ứng tích cực đâu nếu con nói với họ rằng họ bị tà linh đen tối ám. Vậy, con có thể làm gì đây?

Trừ khi con đạt được mức độ cao của quả vị Ki-tô, con nên tránh giao dịch trực tiếp với bất kỳ loại tà linh đen tối nào. Họ có khả năng ăn cắp năng lượng của con hoặc hướng năng lượng hoặc suy nghĩ tiêu cực vào con. Vì vậy, con có thể yêu cầu Đại thiên thần Michael trói những tà linh đó và cắt người kia thoát khỏi các tà linh, để họ có thể lấy quyết định của riêng họ mà không bị áp đảo bởi những tà linh đen tối. Dụng cụ hiệu quả nhất cho mục đích này là bài Nguyện Archangel Michael (Rosary). Bằng cách đọc bài Nguyện này trong một thời gian cho những người tiêu cực, con có thể giúp họ thoát khỏi những tà linh đen tối, và điều này có thể khiến họ cởi mở hơn với những cách sống khác.

Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng không có nghi thức tâm linh nào sẽ vi phạm quyền tự quyết của con người. Nếu người đó không sẵn sàng buông bỏ những tà linh đen tối, Đại thiên thần Michael không thể gỡ chúng đi. Vì vậy, có thể sẽ có lúc con phải để những người này đi theo con đường của họ và dành năng lượng và sự chú ý của con cho những người sẵn sàng phát triển. Hãy cho phép chính cái Ta Ki-tô của con hướng dẫn con khi nào là lúc con phải bỏ lại chuyện này và bước đi tiếp.

Các linh mục Công giáo có nên được phép lấy vợ?

Hỏi: Thưa Giê-su, con hiểu được sự cần thiết thực sự cải tổ Giáo hội Công giáo, và con mong nhiều tín hữu Công giáo sẽ lắng nghe lời của thày về nhu cầu cải tổ này. Tuy nhiên con xin hỏi, liệu thày có nghĩ là các linh mục Công giáo nên được phép lấy vợ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta là một thày tâm linh, và quan tâm của ta luôn luôn hướng về sự phát triển tâm linh của mỗi dòng sống cá nhân. Tăng trưởng tâm linh có nghĩa là giải quyết những tin tưởng sai lầm và vết thương tình cảm đang ngăn cản dòng sống đạt được sự viên mãn, trọn vẹn, cũng gọi là sự thánh thiện. Đây là một sự giải quyết tâm lý nội tâm, không thể là kết quả tự động, hay máy móc, của việc cử hành một số hành động vỏ ngoài. Vì vậy, việc cưỡng ép độc thân có rất ít giá trị và sẽ là một gánh nặng cho những dòng sống chưa sẵn sàng ngừng hẳn tình dục. Thay vì đưa đến việc giải quyết các vấn đề tâm lý, thì rất có thể nó sẽ khiến cho những vấn đề này gia tăng. Đây chính là lý do tại sao Giáo hội đang gặp phải một vấn nạn khổng lồ là sự xâm hại tình dục.

Điều ta muốn nói ở đây là mục đích thực sự của cuộc sống là bước trên một con đường tuần tự sẽ dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Con đường này có thể ví như một cầu thang có nhiều bậc. Khi dòng sống bước lên cầu thang, y sẽ dần dần mất đi – một cách tự nhiên – những gắn bó, dính mắc, ham muốn hay quan tâm đến những thứ của thế gian này, đặc biệt là những khoái cảm giác quan do cơ thể vật lý tao ra. Nói cách khác, điều tự nhiên sẻ xảy ra là dòng sống sẽ lần hồi mất đi ham muốn tình dục của mình, và sẽ chú trọng nhiều hơn đến khía cạnh tâm linh của cuộc sống.

Nếu con khảo sát toàn bộ loài người, con sẽ thấy một số người đã đạt được trạng thái tâm linh này và đã bỏ lại đằng sau các ham muốn thể xác của họ. Con cũng thấy một số người dần dần vượt qua được ham muốn tình dục chỉ trong một kiếp sống. Nhưng con cũng thấy nhiều người trên địa cầu chưa sẵn sàng từ bỏ tình dục. Và nếu một người chưa sẵn sàng thì rất có thể việc ép buộc bản thân phải kiêng cữ tình dục sẽ không giúp cho người đó phát triển tâm linh. Sự kiêng cữ tình dục phải dựa trên căn bản một sự giải quyết đích thực vấn đề ham muốn tình dục trong sâu thẳm của nội tâm, thay vì chỉ là một quyết định của ý chí và tâm vỏ ngoài.

Ý định và hy vọng nguyên thủy của ta cho phong trào Ki-tô giáo là đưa ra một con đường tuần tự dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Lý tưởng, sự tăng trưởng này phải phát xuất từ một sự thấu hiểu, một thấu hiểu nội tâm đích thực, về những bí ẩn tâm linh của sự sống.

Khi dòng sống nhận được sự thấu hiểu như thế, y sẽ tìm được những lời giải đáp đích đáng cho những câu hỏi của y về sự sống. Những lời giải đáp này sẽ đem lại sự giải quyết sâu xa cho dòng sống. Y sẽ dần dần đặt thẳng hàng các tin tưởng của mình cho đồng bộ với thực tế cuộc sống, và y sẽ từ từ giải quyết được các vết thương cùng bế tắc tình cảm của mình. Do đó, sẽ không cần thiết phải tự ép mình làm một số hành động vỏ ngoài, mà y sẽ tự nguyện chọn ra những hành động nào mà y biết sẽ phục vụ cho quyền lợi sáng ngộ của mình.

Điều xảy ra với Giáo hội Công giáo là Giáo hội đã đi chệch đường so với chủ ý nguyên thủy của ta. Rồi Giáo hội bị cuốn mắc vào những cuộc tranh giành quyền lực, với kết quả là một số giáo lý ban đầu của ta bị loại bỏ. Vì thế Giáo hội đã không thể đưa ra cho tín đồ một hiểu biết đích thực khả dĩ dẫn đến một sự giải quyết đích thực. Hệ quả là Giáo hội đã rơi vào một truyền thống ép buộc tín đồ phải tuân theo giáo điều vỏ ngoài cũng như những luật lệ cư xử cứng nhắc.

Trong lý tưởng, một tổ chức tôn giáo cần có một hệ thống thứ bậc cho phép tín đồ tuần tự leo lên những mức cao hơn khi họ đạt được khả năng và họ sẵn lòng làm điều đó. Cấu trúc thứ bậc đó sẽ có nhiều trình độ dựa trên trình độ chứng đạt tâm linh khác nhau của mỗi người. Chẳng hạn, đa số nhân loại chưa đạt tới mức có thể xem việc kiêng cữ tình dục là một chuyện tự nhiên, hay thậm chí hữu ích cho mình. Những người này phải được quyền sống trong một khung cảnh gia đình bình thường, như rất nhiều người trong số họ vẫn đang làm.  

Một giáo hội cần một lớp tu sĩ phục vụ cho những thành phần như thế. Đây sẽ là những vị linh mục Công giáo có trách vụ quản trị bình thường. Nếu con muốn làm việc mục vụ hữu hiệu cho quần chúng, con phải hiểu biết những vấn đề mà người thường phải đối mặt. Làm sao con hiểu được những vấn đề này nếu chính con chưa sống qua? Nói cách khác, nếu con muốn phục vụ hiệu quả cho những gia đình, những cặp vợ chồng có con cái, điều vô cùng hữu ích cho con là con cũng là một người đã lập gia đình, có con cái phải chăm lo hàng ngày.

Thực tế đơn giản là nhiều vị linh muc Công giáo trở thành vô hiệu trong vấn đề muc vụ cho những cặp vợ chồng, những gia đình và trẻ nhỏ. Lý do là vì họ không hề có kinh nghiệm bản thân để dùng làm căn bản cho mục vụ của mình. Cho nên để trả lời câu hỏi của con, ý định của ta không bao giờ là tạo ra một tổ chức đòi hỏi các tu sĩ có trách vụ bình thường phải độc thân. Điều này đã được người ta thêm vào sau này, và không đúng với ý muốn cũng như ý định của ta. Điều này chỉ có mặt do nhu cầu tranh giành quyền lực và kiểm soát.

Bây giờ hãy trở về ý tưởng một hệ thống thứ bậc dựa trên những mức độ chứng đạt tâm linh khác nhau. Khi dòng sống leo con đường tâm linh, y sẽ mất dần một cách tự nhiên, qua một sự giải quyết nội tâm, các dính mắc của mình đối với những thứ của thế gian. Vì vậy, một tổ chức giáo hội phải cung ứng một cách thức cho những ai đã đạt được mức chứng đạt đó có thể sống trong một môi trường nơi họ có thể tập trung vào hoạt động tâm linh. Việc này có thể thực hiện qua các tu viện, hoặc một số khung cảnh khác được đặc biệt thiết kế cho những ai không mong muốn có đời sống gia đình. Việc này cũng có thể thực hiện qua những tổ chức phục vụ quần chúng, và một ví dụ tuyệt vời là tổ chức do Mẹ Teresa lập ra.

Trong những tổ chức như thế, việc sống độc thân sẽ là cách sống tự nhiên chứ không là một quy luật vỏ ngoài bị áp đặt. Đó sẽ là một việc làm tự nguyện dựa trên một sự giải quyết nội tâm và sự phát triển tâm linh đích thực. Những ai chưa đạt được mức này sẽ đương nhiên không chọn sống trong một môi trường như thế. Có thể nói, một tổ chức giáo hội nên có một khía cạnh công truyền nhắm vào việc phục vụ đa số quần chúng sống trong quan hệ gia đình bình thường, và đồng thời cũng có một khía cạnh nội tâm nhằm tạo cơ hội tối đa cho những ai muốn sống tập trung vào hoạt động tâm linh.

Nhưng hãy cho ta đưa ra một lời cảnh báo. Đúng là khi một dòng sống trưởng thành trên đường tâm linh, y sẽ lần hồi bỏ rơi sự vướng mắc vào những ham muốn trần thế một cách tự nhiên. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết có nghĩa là tất cả những ai chứng đạt tâm linh đều không nên lập gia đình và sống độc thân. Việc không kết hôn và bị bắt buộc sống độc thân sẽ không tự động đem lại phát triển tâm linh, và đây chính là tin tưởng sai lạc mà Giáo hội Công giáo cổ võ. Sự sai lầm này được chứng minh rõ ràng qua việc phơi bày tệ nạn xâm hại tình dục do các linh mục. Tệ nạn này cũng chứng minh hiểm họa khi giáo hội cố tình ép buộc một người phải tuân thủ luật lệ vỏ ngoài cứng nhắc khi dòng sống người đó chưa sẵn sàng sống được như vậy.

Điều ta muốn nói là các lãnh đạo của một giáo hội không nhất thiết phải là người độc thân. Một lần nữa, một tu sĩ chỉ có thể làm việc mục vụ hữu hiệu khi tự thân mình biết rõ những vấn đề của tín đồ. Vì vậy, một giáo hội có thể có những vị lãnh đạo, ngay cả những vị lãnh đạo cao cấp, đã lập gia đình. Thật sự, ta cũng không bảo rằng một dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ phải ly dị và sống độc thân. Con hoàn toàn có thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân mà vẫn kiêng cữ tình dục, hoặc con sinh hoạt tình dục một cách cân bằng hơn so với đa số cặp vợ chồng khác.

Cho nên ta không muốn nhìn thấy một tổ chức với một nền văn hóa quy định rằng những ai độc thân là tốt đẹp hơn, hay chứng đạt tâm linh hơn, những người không độc thân. Ta không khuyến khích bất kỳ hình thức phân biệt cao thấp nào vì nó nuôi dưỡng lòng kiêu hãnh, và kiêu hãnh thì ngược hẳn với tăng trưởng tâm linh. Con hãy nhớ lời này: “Ai là người cao nhất trong số các người, thì sẽ làm đầy tớ cho mọi người.”

Liệu chúng con có phải ưa thích mọi người?

Hỏi: Thày nói chúng con phải yêu thương mọi người, nhưng con thắc mắc vì con nghe người ta nói: “Nhưng bạn không cần phải ưa thích mọi người”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Khi con yêu thương ai đó với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, con giải thoát cho người đó được tự do để là con người mà họ là. Và khi làm vậy, con cũng giải thoát cho con để là con người mà con là. Khi ta nói con phải yêu thương mọi người, ta muốn nói là con phải yêu thương mọi người với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Tình yêu đó vô điều kiện, tức là ở trên và vượt khỏi mọi ưa thích hay không ưa thích của con người.  

Khi con thực sự hiện thân tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, con không còn cân nhắc xem mình có ưa thích người đó hay không. Con chỉ đơn giản biểu hiện tình yêu cho mọi người con gặp mà không chờ đợi một sự hồi đáp nào cả. Khi con không còn những chờ đợi của phàm nhân, con đạt được sự tự do tâm linh, là tự do mà ta đã chứng tỏ.

Tuy nhiên, con hãy lưu ý, tình yêu vô điều kiện không phải lúc nào cũng mềm yếu. Khi ta quở trách những thày dạy luật, ta đã làm vậy với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không cho phép họ cứ kẹt mãi trong tâm trạng vị kỷ của họ. Cho nên sự thách thức của ta – biểu lộ trong sự cứng rắn của tình yêu thay vì trong cơn giận xung khắc – đã trao cho những dòng sống này một cơ hội để họ chọn Ánh sáng Ki-tô thay vì bóng tối mà họ đã tự giam mình vào.

Giáo lý căn bản về cách đáp ứng khi bị người khác hà hiếp

CHỦ ĐỀ: Trong các mối quan hệ, hãy tạo cơ hội để phát triển – kết quả thực tế của một tình huống ít quan trọng hơn sự phát triển – ý nghĩa thực sự của việc chìa má kia ra – giữ sự trong sáng của con – đừng thụ động – tình thương của Mẹ và của Cha – ngưng hành vi hà hiếp lại – giải quyết nghiệp chướng hoặc vết thương của riêng con – các bước thực tiễn để ứng phó với sự hà hiếp – cho mọi người và cho chính con cơ hội để phát triển – hướng tới sự không dính mắc – khi không dính mắc, tình hình sẽ thường được cải thiện hoặc con sẽ bước tiếp – một viên đá lót trên con đường tu của con.


Câu hỏi: Xin chào, Đầu tiên, cảm ơn quý vị về trang mạng khai sáng tâm tuyệt vời này. Nó đã nâng cao nhận thức tâm linh và sự phát triển tâm linh của tôi. Câu hỏi của tôi: Tôi biết trách nhiệm của tôi là phải tha thứ và cầu nguyện cho những người làm tổn hại đến tôi, vậy việc nộp đơn tố cáo những người phân biệt đối xử và sách nhiễu tại nơi làm việc có được chấp nhận về mặt tâm linh không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012:

Một câu hỏi tuyệt vời, chạm đến một trong những tình huống chính khó xử của đời sống con người và cũng cho thày cơ hội để bình luận về một sự hiểu lầm phổ biến về lời kêu gọi chìa má bên kia của thày. Hãy để thày giảng cho con về cách chúng ta những chân sư thăng thiên nhìn những tình huống như thế này.

Đầu tiên thày xin nói rằng trong bất kỳ sự tương tác nào giữa con người với nhau, mối quan tâm của các chân sư thăng thiên là luôn tạo cho tất cả mọi người liên hệ được cơ hội phát triển tối đa. Chúng tôi không quan tâm nhiều đến kết quả cụ thể của một tình huống, mà chúng tôi quan tâm đến sự phát triển của tất cả những người có liên quan đến tình huống đó. Vì vậy, với suy nghĩ đó, hãy để thày nhận xét về tình huống này và hàng triệu tình huống tương tự xảy ra hàng ngày trên khắp thế giới. Bản chất của tình huống là một người đang vi phạm Luật Tình thương, thay vì làm cho người khác điều mà họ muốn người khác làm cho mình, thì họ không hành xử như vậy. Câu hỏi bây giờ trở thành: người phải gánh chịu hành động này nên phản ứng như thế nào với tình huống đó.

Mối quan tâm đầu tiên và quan trọng nhất của con là tránh tạo ra những hậu quả tiêu cực cho bản thân. Để đạt được mục tiêu này, con cần phải làm theo lời kêu gọi của thày là chìa má bên kia. Khi con hiểu được ý nghĩa thực sự của việc chìa má bên kia, con sẽ thấy rằng nó có nghĩa là con đáp lại mọi tình huống bằng tình yêu thương vô điều kiện. Khi đáp lại với tình yêu thương này, con có thể tránh rơi vào cái bẫy bị rơi vào những cảm xúc tiêu cực của con người, chẳng hạn như cảm giác mình là nạn nhân, cảm giác sợ hãi, cảm giác tức giận hoặc mong muốn trả thù. Khi con né tránh được những cảm xúc như vậy, Hoàng tử của thế giới này sẽ đến và không tìm thấy  được gì trong con để ảnh hưởng con. Do đó, con sẽ không tạo ra hậu quả tiêu cực, có nghĩa là năng lượng tha hóa hoặc nghiệp quả, từ hoàn cảnh này. Con thực sự có thể vượt qua tình huống và duy trì sự trong sáng và ngây thơ của mình mà không bị hành động của người kia làm vấy bẩn. Điều này giúp con không bị kéo vào một vòng xoáy tiêu cực thực sự trói buộc con với kẻ đang hà hiếp con, thay vì buộc con với chính cái Ta Ki-tô bên trong con.

Nói thế nhưng điều cần thiết là phải nhận ra rằng chìa má bên kia không có nghĩa là con trở thành người theo chủ nghĩa hòa bình và con thụ động cho phép người khác hà hiếp mình. Đây là một điểm tế nhị đã bị hiểu lầm bởi nhiều người Cơ đốc, những người thấy tầm quan trọng của việc ứng phó với tình thương nhưng lại không hiểu rằng tình thương thiêng liêng có hai khía cạnh. Như Mẹ Mary giải thích trong bài diễn văn của mình, Thượng đế có hai khía cạnh, đó là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Khi con chìa má bên kia và tránh rơi vào những cảm xúc tiêu cực, con đang sử dụng khía cạnh Mẹ của tình thương  thiêng liêng. Đây là ngọn lửa truyền sức mạnh cho con để con luôn trong sáng và không bị dính mắc khi đối mặt với bất kỳ sự tàn bạo nào được tìm thấy trên thế giới này. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cũng phải sử dụng ngọn lửa tích cực hơn của Cha thiêng liêng. Đây là ngọn lửa truyền sức mạnh cho con để thực hiện hành động thích hợp sẽ mang lại cho cả bản thân và những người khác cơ hội tốt nhất để phát triển từ hoàn cảnh này.

Khi con hiểu được hai khía cạnh của tình thương thiêng liêng, con không thể cho phép người đang hà hiếp con tiếp tục làm như vậy, vì con biết rằng điều đó sẽ gây hại cho người đó về lâu dài. Vì vậy, chính vì tình thương vô điều kiện dành cho người kia, con sẽ hành động một cách tự nhiên để ngăn chặn sự hà hiếp. Đây là những gì con đã thấy thày làm khi thày thách thức các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đu-sê, thầy tu trong đền thờ và bất kỳ ai khác khuyến khích mọi người đến với tôn giáo trong sự sợ hãi.

Trong tình huống cụ thể của con, thày muốn khuyên con những điều sau:

  • Trước tiên, hãy nhìn lại bản thân và đảm bảo rằng con hoàn toàn không bị dính mắc. Nếu cần, hãy sử dụng Bài Nguyện Tha Thứ để vượt qua mọi cảm giác tiêu cực đối với người kia. Sử dụng Bài Nguyện của Archangel Michael (Archangel Michael Rosary) để bảo vệ bản thân khỏi mọi tà lực đen tối có thể khiến con có cảm xúc tiêu cực hoặc cảm thấy mình là nạn nhân.
  • Khi con nhận thức được khía cạnh tâm linh của cuộc sống, con có một cơ hội đặc biệt để giải quyết tình huống bằng cách sử dụng các công cụ tâm linh mà chúng tôi cung cấp trên trang mạng. Ví dụ: thày khuyên con nên đọc Bài Nguyện đại thiên thần Michael và đặc biệt kêu gọi  Thày Michael trói lại tất cả các phàm linh đen tối đang sử dụng người kia và khiến người đó có những hành vi không yêu thương. Con cũng nên kêu gọi Thày trói lại những lực chống lại cái Ta cao của người đó, khiến y không thấy được hành vi của mình là sai. Con cũng có thể sử dụng bài Thỉnh Mẹ Mary hoặc các bài chú của Ngọn lửa Tím để tiêu trừ tất cả nghiệp chướng mà con có thể có với người đó. Hãy để thày giúp con đồng đo lường với thày. Nếu con cảm thấy bất kỳ cảm giác tiêu cực nào đối với người kia, thì con có thể có một số tắc nghẽn trong tâm lý của chính mình hoặc con đã có nghiệp quả với người kia từ những kiếp trước. Do đó, con phải cực kỳ thận trọng chờ con giải quyết xong các tắc nghẽn này trước khi con đi xa hơn.
  • Khi con đã đạt được sự không dính mắc, hãy nhẹ nhàng nhưng quả quyết cho người kia biết rằng con coi hành vi của họ là không thể chấp nhận được và con muốn hành vi đó dừng lại. Nếu người đó phản ứng tích cực và có vẻ thực sự sẵn sàng dừng hành vi đó, điều này có thể là đủ. Nếu người đó có vẻ không thành thật hoặc phản ứng tiêu cực, hãy bình tĩnh nói với người đó rằng con sẽ thông báo cho bộ phận có thẩm quyền về chuyện này trong công ty của con và nếu cần sẽ nộp đơn kiện về hành vi sách nhiễu tình dục.
  • Sau khi con đã nói chuyện với người đó, hãy đến gặp người thích hợp trong công ty của con và thông báo cho họ biết về tình hình mà không cần nộp đơn khiếu nại chính thức. Đơn giản là con cho họ cơ hội phát triển bằng cách để họ quyết định ứng phó với tình huống theo cách mà họ thấy phù hợp. Con cho họ biết rằng con đã nói chuyện với người đó và yêu cầu hành vi dừng lại, và nếu hành vi này dừng lại, thì con không muốn có biện pháp gì thêm nữa. Tuy nhiên, hãy cho họ cơ hội có biện pháp nếu người sách nhiễu con cũng đã làm như vậy với người khác.
  • Nếu hành vi không dừng lại, hãy quay lại với bộ phận có thẩm quyền trong công ty của con và nộp đơn khiếu nại chính thức. Yêu cầu họ đảm bảo rằng hành vi này không tiếp tục.
  • Nếu bộ phận thẩm quyền của công ty con không làm gì để ngăn chặn hành vi có vấn đề, thì hãy quay lại với họ và nói rằng trừ phi hành vi đó dừng lại, con sẽ nộp đơn kiện.
  • Nếu công ty của con vẫn không làm gì để ngưng hành vi đó, thì lúc đó và chỉ lúc đó, con hãy đến tòa án và nộp đơn kiện chính thức chống lại người sách nhiễu con và chống lại công ty đã không làm gì để ngăn chặn hành vi đó.
  • Con có thể điều chỉnh cách giải quyết dần dần từng bước này cho hầu hết các tình huống khác. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng trong bất kỳ tình huống nào liên quan đến người khác, con phải luôn tôn trọng quyền tự quyết của họ. Do đó, con phải làm những gì đúng, theo sự hiểu biết tốt nhất của con, và sau đó con không vướng mắc đến kết quả của hành động. Nếu mọi người không phản ứng như con chờ đợi, con đừng rơi vào cảm xúc tiêu cực. Thay vào đó, con hãy sử dụng các công cụ tâm linh để kêu gọi sự bảo vệ cho họ và kêu gọi cho tâm họ ngộ ra. Nếu họ không thay đổi, hãy kêu gọi sự phán xét của Thượng đế.

Nếu vẫn không có gì thay đổi, hãy giữ nguyên thái độ không dính mắc. Trong một số trường hợp, con người từ chối mọi lời kêu gọi thay đổi, nhưng khi con đã có hành động thích hợp để cho họ cơ hội thay đổi, sẽ đến lúc con đã hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với họ. Sau đó, con có thể cảm thấy đã đến lúc con phải tiếp tục bước tới trước. Khi điều đó xảy ra, con chỉ cần buông bỏ  hoàn cảnh này hoặc bỏ lại phía sau tất cả các chấp trước dính vào tình huống này hoặc chấp trước mong muốn một kết quả nào đó.

Nếu con có thể giữ cho mình không bị dính mắc, con sẽ luôn phát triển từ hoàn cảnh sống, và nếu con phát triển, kinh nghiệm của con về hoàn cảnh sẽ cải thiện, ngay cả khi hoàn cảnh bên ngoài không thay đổi. Tuy nhiên, khi con thay đổi, con thường sẽ thấy rằng các tình huống bên ngoài tự giải quyết và con thấy mình đã vươn lên một mức tâm thức cao hơn trước.

Con có thể thấy rằng bằng cách giải quyết dần dần từng bước này, con cho tất cả những người có liên hệ được cơ hội tối đa để phát triển từ hoàn cảnh đó mà không rơi vào bẫy phản ứng bằng sự tức giận hoặc tìm cách trả thù.Trước hết, con cho mình cơ hội phát triển từ hoàn cảnh này thay vì cho phép mình trở thành nạn nhân hoặc tìm cách trả thù. Bất cứ khi nào con cảm thấy dính mắc muốn đạt một kết quả cụ thể trong môt tình huống, con biết rằng con đã gặp phải một trong những chỗ tắc nghẽn trên con đường đi tới quả vị Ki-tô cá nhân của con. Do đó, hãy tận dụng cơ hội để loại bỏ khối tắc nghẽn đó và thực hiện một bước nhảy vọt vĩ đại để trở thành con người thật của con, thay vì cho phép Hoàng tử của thế gian này quy định con là ai thông qua sự tấn công của những kẻ yếu đuối.

Thày xin nói lại rằng chìa khóa của quả vị Ki-tô cá nhân là đáp ứng mọi tình huống bằng tình yêu thương. Và chìa khóa để đáp ứng bằng tình thương là nhận ra rằng tình thương có hai khía cạnh. Một là khía cạnh Mẹ trao quyền cho con để con chìa má bên kia và không bị dính mắc. Khía cạnh kia là khía cạnh Cha cho phép con hành động giống như Đấng Ki-tô, (trái ngược với hành động của con người theo quan điểm nhị nguyên), để ngưng tình huống hà hiếp và ngăn nó leo thang thành một vòng xoáy đi xuống cho tất cả những người liên hệ.

Thày thực sự đã đưa ra lời dạy này cách đây 2000 năm, nhưng nó không bao giờ được các tác giả Phúc Âm ghi lại đầy đủ vì họ không hoàn toàn hiểu lời dạy. Và một số đoạn được ghi lại trong thánh thư gốc kể từ đó đã bị bóp méo hoặc bị chỉnh sửa vứt đi, khiến người Cơ đốc ngày nay có cái nhìn một chiều về những lời dạy của thày về tình thương thiêng liêng. Do đó, rất nhiều người Cơ đốc có cách đối phó thụ động với cuộc sống và tin rằng họ nên chìa má bên kia và cho phép tình trạng hà hiếp tiếp tục. Mặt khác, nhiều người phản ứng với những tình huống như vậy với sự tức giận, thay vì hiểu rằng muốn thực sự chìa má bên kia, con phải không dính mắc để Hoàng tử của thế gian này không tìm thấy gì trong con để ảnh hưởng con.

 Thày biết rằng đáp ứng trước mọi tình huống bằng tình yêu thương là một sự cân bằng tế nhị và là một thách thức lớn đối với những người lớn lên trong thế giới phân cực ngày nay. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội tuyệt vời để phát triển vì nó cho phép con biến mọi tình huống thành những viên đá lót trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô cá nhân của con.

Ki-tô và Phật

Hỏi: Con biết là Giê-su hiện thân cho nguyên lý Ki-tô và con cũng biết là thày mong muốn mọi người nối kết với đấng Ki-tô trong chính mình. Con xin hỏi có phải thày đang nói là chúng con không thể tìm Phật? Theo những gì con hiểu, cả Ki-tô lẫn Phật đều thuộc về tia sáng thứ hai của Tình thương và Trí tuệ. Tình thương do Ki-tô biểu tượng và Trí tuệ do Phật biểu tượng.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có mâu thuẫn hay sự cạnh trạnh nào giữa hai con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, những dòng sống khác nhau sẽ cần những phương tiện, những cỗ xe khác nhau, và do đó một tôn giáo duy nhất không thích hợp cho mọi người. 

Con đường của Phật thường thích hợp hơn cho người phương Đông, còn đường của Ki-tô thích hợp hơn cho người phương Tây. Có thể nói là tâm thức Ki-tô chỉ đơn giản là những giai đoạn giác ngộ tiên khởi hơn, và vì vậy, quả vị Phật là một dạng tâm thức cao hơn quả vị Ki-tô, hay một giai đoạn cao hơn quả vị Ki-tô.

Khi con đạt đến tâm Ki-tô, con nhận ra rằng con là một với nguồn cội của con (Thượng đế) và qua đó con có được tánh phân biện giữa những gì thuộc về Thượng đế và những gì không thuộc về Thượng đế. Con nhìn thấy rõ ràng là rất nhiều biểu hiện trong thế gian đi ngược lại quy luật của Thượng đế cũng như ý định của ngài cho vũ trụ này. Cho nên con nhìn thấy tính không thực của tất cả mọi điều phản-Ki-tô, và nhiệm vụ của con là giải phóng các dòng sống khỏi ảo tưởng của phản-Ki-tô.

Khi con đạt đến quả vị Phật, con nhận ra rằng tất cả đều là Phật tánh, có nghĩa là tất cả đều được tạo bằng bản chất của Thượng đế. Những biểu hiện của thế gian này chỉ đơn giản là ảo ảnh, là Maya. Chúng có thể hiện ra như là tách biệt, hay đối lập lại Thượng đế, nhưng chúng chỉ đơn giản là bản chất cuả Thượng đế đã khoác lấy một lớp ngụy trang tạm thời, thoáng vụt qua. Cho nên con xác nhận thực tại của Thượng đế đằng sau mọi dáng vẻ bề ngoài.

Cả đức Phật lẫn ta đều là những vị thày tâm linh và chúng tôi thuộc cùng một êkíp. Đức Phật đã được các chân sư thăng thiên phái xuống để truyền dạy các pháp về quả vị Phật, nhưng tiếc thay, không mấy người có khả năng nắm được giáo lý của thày. Vì vậy mà ta đã được phái xuống để bắc một nhịp cầu hầu giúp con người bước sang bến giác ngộ. Đối với hầu hết mọi người, việc hiện thân các giáo lý của Ki-tô sẽ dễ hơn giáo lý của Phật, với điều kiện là họ hiều được giáo lý đích thực của Ki-tô chứ không phải cái phiên bản đã bị pha loãng, chứa đầy xương người chết, do đạo Cơ đốc chính thống cống hiến.

Thuyết luân hồi có thể giúp các tín hữu đạo Cơ đốc như thế nào

Hỏi: Tại sao việc suy nghiệm thuyết luân hồi quan trọng đối với người đạo Thiên Chúa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta sẽ đề cập đến quan niệm luân hồi vì ta muốn tất cả các tín hữu của ta suy nghiệm về đề tài này. Hãy cho phép ta đưa ra những lý do tại sao ta xem đề tài này là quan trọng.

Thuyết luân hồi có khả năng giải thích rất nhiều những câu hỏi mà người tín đồ  Cơ đốc cho đến nay đã không tìm được câu trả lời. Nếu con suy ngẫm về khái niệm này và nghiệm xem nó áp dụng thế nào cho những vấn đề mà con đang đặt ra về cuộc sống và về Thượng đế, con sẽ tìm ra rất nhiều trả lời trong tim con.

Khi ta nhìn đạo Cơ Đốc ngày nay, ta nhìn thấy bao nhiêu người mộ đạo đã  thành tâm nỗ lực thực hành những lời dạy của ta qua trung gian các kinh sách và những giáo hội công truyền, vỏ ngoài. Tuy nhiên, vì kinh sách công truyền không chứa đựng chìa khóa cho giáo lý tâm truyền của ta, họ đã đặt ra rất nhiều câu hỏi không mang lời giải đáp. Vì những câu hỏi không có giải đáp này mà nhiều người cảm thấy một nỗi oán giận, phẫn uất rất sâu xa, mà nhiều khi chính họ cũng không nhận ra, đối với ta và đối với Thượng đế.  

Nhiều tín đồ Cơ đốc cảm thấy sứ mạng của Giê-su Ki-tô thuở xưa giống như một cái tát vào mặt nhân loại. Lý do là vì đạo Cơ đốc chính thống đưa ra một mục tiêu cho mọi người nhưng lại không có con đường rõ ràng nào để đạt được mục tiêu đó. Đạo Cơ đốc chính thống đưa ra mục tiêu là sự sống vĩnh cửu, nhưng lại không đưa ra con đường hợp lý nào để thực hiện sự sống vĩnh cửu. Ta hy vọng là nay con có thể nhận ra lý do chủ yếu khiến đạo Cơ đốc chính thống không đưa ra được một con đường dẫn đến sự sống vĩnh cửu là vì các lời dạy về quả vị Ki-tô cá nhân đã bị cắt bỏ. Chìa khóa duy nhất cho sự sống vĩnh hằng là quả vị Ki-tô nơi mỗi cá nhân.  

Để trở về với ý tưởng luân hồi, ta muốn nói là ý tưởng này có thể giúp con trả lời nhiều câu hỏi mà con chưa có giải đáp. Chẳng hạn, nhiều người đều biết là có những đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn tật nguyền trầm trọng, dù là một khuyết tật vật lý, tình cảm hay tâm thần.

Nếu con không tin vào luân hồi, con chỉ có một chọn lựa là suy luận rằng Thượng đế đã muốn cho dòng sống đó sinh ra như vậy. Và con không khỏi phân vân tại sao Thượng đế lại muốn cho một dòng sống bước vào đời – mà dường như là cuộc đời duy nhất mà đứa bé đó sẽ trải nghiệm – với tật nguyền khắc nghiệt như thế. Khi con thêm vào đó ý niệm trừng phạt mà giáo hội chính thống chủ trương thì con chỉ còn cách suy diễn là có lẽ Thượng đế đã muốn trừng phạt dòng sống đó hay chăng. Thế nhưng làm thế nào một Thượng đế công bình bác ái lại có thể trừng phạt một dòng sống chưa có cơ hội nào để phạm tội?   

Khi con chấp nhận quan niệm luân hồi, con thấy được một lời giải thích. Mỗi con người đều đã từng có những kiếp sống trước đây. Cho nên những điều kiện mà con phải trải nghiệm trong đời này là kết quả của những nguyên nhân mà chính cá nhân con đã khởi động trong những kiếp trước. Hiểu đúng nghĩa của nó, trong luân hồi không hề có quan niệm trừng phạt. Hãy để ta giải thích chi tiết hơn cho con.

Khi Thượng đế tạo ra thế gian, ngài phán: “Hãy có ánh sáng”. Ánh sáng chỉ đơn giản là năng lượng. Mọi thứ trong toàn thể vũ trụ hình tướng được tạo bằng năng lượng của Thượng đế. Cho nên mọi việc con làm, con đều làm với năng lượng của ngài.

Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết, và con có thể quyết định mình muốn làm gì với năng lượng của ngài. Tuy nhiên, thật không công bình chút nào nếu ngài tạo ra một vũ trụ trong đó mọi người đều có quyền tự quyết, tự do làm bất cứ gì mình muốn bất chấp hậu quả cho người khác. Vì vậy Thượng đế cũng đã tạo ra luật nhân quả. Luật này này quy định rằng năng lượng mà con gửi ra vũ trụ sẽ bắt buộc gửi trở lại cho con.

Luật nhân quả là một định luật hoàn toàn khách quan. Nó cũng khách quan y như luật hấp dẫn, hay trọng lực. Nếu con nhảy ra khỏi chiếc máy bay mà không đeo dù, trọng lực sẽ khiến con rơi xuống mặt đất và toi mạng. Cái chết của con không phải là sự trừng phạt của một Thượng đế nóng giận đâu. Cái chết của con là hậu quả khách quan của một định luật thiên nhiên khiến cho mọi vật đều rơi xuống mặt đất. Luật nhân quả – hay luật nghiệp quả như nó mang tên ở phương Đông – không được Thượng đế đặt ra để mong trừng phạt con người. Nó được tạo ra như một cơ chế an toàn để ngăn chặn việc lạm dụng quyền tự quyết.

Kỳ thực, luật nhân quả là một vị thày thế chân, tạm thay thế cho vị thày chính. Vườn Địa đàng (vườn Eden) xưa kia là một lớp học được thiết lập để chuẩn bị cho dòng sống của con trước khi con bước vào đời sống trong vũ trụ vật chất. “Thượng đế” được nói đến trong Vườn Địa đàng không phải là Thượng đế trong ý nghĩa tối hậu, mà là một vị đại diện của Thượng đế, chính xác là một sinh thể tâm linh đã tình nguyện nhận lãnh vai trò làm thày giáo cho lớp học. Nhưng một số dòng sống, sau khi ăn trái cấm, đã rủ nhau lẩn trốn vị thày của mình.

Khi Thượng đế sinh tạo vũ trụ, ngài mong muốn tất cả mọi dòng sống luôn luôn là một phần của hệ thống thứ bậc trải dài từ cao đến thấp trong quan hệ thày-trò, sư phụ-đệ tử. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể bị bỏ rơi phải tồn tại một mình, mà ngược lại mọi dòng sống đều nhận được sự hướng dẫn thương yêu của một vị thày tâm linh. Tuy nhiên Thượng đế cũng ban cho mọi dòng sống quyền tự quyết, và ngài thừa biết một số dòng sống có thể sẽ sử dùng quyền tự do này để quay lưng lại thày mình, vì vậy mà phải có một cơ chế nào đó giống như một người thày thế chân để có thể tiếp tục giáo huấn.

Nếu một dòng sống chối bỏ vị thày tâm linh thì làm thế nào nó có thể học hỏi? Thật vậy, nó có thể học hỏi qua luật nhân quả. Luật này quy định rằng vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là một tấm gương, phản chiếu lại cho con tất cả những gì con gửi ra vũ trụ.

Nếu con gửi hận thù ra vũ trụ, năng lượng hận thù sẽ được gửi trả về ngay cửa nhà của con. Nếu con gửi tình thương ra vũ trụ, vũ trụ sẽ gửi lại tình thương cho con. Nếu Vườn Địa đàng là mái trường của giáo huấn yêu thương và tâm linh, thì luật nhân quả là mái trường giáo huấn của trường đời cay đắng. Đó là tại sao kinh Cựu ước đòi hỏi phải trả một con mắt bằng một con mắt, một cái răng bằng một cái răng. Quy luật này được ban ra cho những ai có tâm thức thấp kém đến độ họ không thể hiểu được một quy luật nào cao hơn.

Luật nhân quả được thiết lập hầu dạy con cách cư xử trong thế gian bằng cách khiến con phải trải nghiệm hậu quả của chính hành vi của con. Khi con có hành vi nào đó, hành vi của con sẽ kích hoạt một phản ứng dây chuyền. Hành vi của con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ, và năng lượng này sẽ nhất định gửi trả lại cho con. Tuy nhiên, vì cách vận hành của vũ trụ vật chất – mà một ngày nào đó khoa học sẽ giải thích được – năng lượng phải mất thời gian để gửi trả về cho con. Giả tỷ con giết người nhưng không ai tìm ra con là thủ phạm thì con sẽ không bị trừng phạt ngay trong cõi thế gian này. Rồi con sẽ qua đời do tuổi già mà không phải chịu bất cứ hậu quả nào của việc con làm. Nếu con chỉ sống đúng một kiếp thôi thì, quả nhiên, con đã thoát được tội giết người.  

Nói cách khác, nếu mọi người chỉ có một kiếp sống trên địa cầu thì Thượng đế đã cung cấp một lợi thế bất công cho những ai sẵn lòng nói dối và lừa đảo. Nếu con là kẻ gian dối, con có thể thoát khỏi hình phạt của tội lỗi ghê hồn nhất nếu không có ai phát hiện con là thủ phạm. Qua luật nhân quả, Thượng đế đã chỉnh sửa lại tiềm năng bất công này. Ngài đã đảm bảo không một ai có thể thoát được hậu quả việc làm của mình. Chỉ có điều là trong hầu hết các trường hợp, con sẽ không phải nếm mùi những hậu quả đó cho đến khi con tái đầu thai trong những kiếp sau.

Nhưng người ta có thể lập luận là việc trì hoãn hậu quả như vậy sẽ khiến cho con người khó học được bài học nhân quả hơn. Nếu vũ trụ có thể, chẳng hạn, giáng xuống một tia sét nẩy lửa mỗi lần có ai phạm tội thì có phải tốt hơn không? Nhưng cách lập luận này chỉ có thể áp dụng nếu con không hiểu biết gì về luật nhân quả. Và sự thiếu hiểu biết này không bao giờ là ý định của Thượng đế.

Thượng đế mong muốn con người hiểu rằng con người không bao giờ thoát khỏi hậu quả hành vi của mình. Hơn nữa, nếu con chỉ có một kiếp sống trên địa cầu và nếu mỗi lần con làm một điều gì khiến vũ trụ phải giết con chết, thì có phải là vũ trụ đã tước mất cơ hội học hỏi của con không? Và đó là lý do Thượng đế đã tạo ra một phản ứng chậm trễ, và kỳ thực, ngài làm vậy do lòng từ bi. Con thấy không, sự kiện nghiệp quả của con phải mất thời gian để bay ngược về con là một phương cách để Thượng đế, trong lòng từ bi và hồng ân của ngài, mở ra cho con cơ hội để con không phải hứng chịu hậu quả hành vi của mình.

Để hiểu trọn điểm này, con cần bỏ lại cái ý tưởng phàm phu muôn thuở cho rằng Thượng đế là một Thượng đế nóng giận có ý muốn trừng phạt con mỗi lần con vi phạm quy luật của ngài. Trên thực tế, ngài là một Thượng đế yêu thương muốn thấy con phát triển tâm Ki-tô của con. Ngài chỉ có một mong muốn mà thôi, là nhìn thấy con học được bài học của đời sống. Khi ngài trì hoãn hậu quả việc làm của con, ngài mở ra cho con khả năng là con sẽ thực sự học được bài học, từ bỏ cái trạng thái tâm thức đã khiến con làm điều sai trái, rồi nhờ đó con không phải gánh chịu hậu quả hành vi đó.

Ngay khoảnh khắc con làm việc gì sai trái, con gửi một xung lực năng lượng ra vũ trụ. Tuy nhiên, nếu con hoàn toàn hiểu ra là hành vi của mình là sai trái, và vì thế con vươn lên một mức tâm thức cao hơn khiến con không thể tái phạm, thì tuyệt đối không có ích lợi gì mà con phải hứng chịu hậu quả của hành vi. Thượng đế không muốn con bị trừng phạt mà chỉ muốn con học hỏi.

Nếu con đã học được bài học rồi thì chẳng còn lý do gì giữ con lại, ngăn cản sự phát triển của con bằng cách bắt con phải gánh chịu một hậu quả đau khổ. Nói cách khác, nếu con học được bài học của con trước khi vũ trụ phản hồi xung lực năng lượng về con, thì Thượng đế qua hồng ân và lòng từ bi, có thể tiêu hủy xung lực đó trước khi nó đập vào con trong một kiếp sau. Trong nhiều trường hợp, ngài có thể cho phép một trong những người anh, người chị tâm linh của con gánh vác nghiệp quả đó giùm con.  

Tuy nhiên nếu con chưa học được bài học thì Thượng đế sẽ để yên cho vũ trụ đáp trả lại xung lực năng lượng của con, và như vậy con lại nhận được thêm một cơ hội nữa để học hỏi qua trường đời cay đắng.

Ta biết nhiều người sẽ bảo: “Nhưng làm sao người ta có thể học được từ một tai họa nếu hoàn toàn không biết đó là hậu quả của việc mình làm?” Đây là một quan tâm chính đáng, nhưng thật không liên quan gì đến Thượng đế cũng như cách ngài thiết kế vũ trụ. Ngài thiết lập luật nhân quả nhưng đồng thời ngài cũng ban ra rất nhiều tôn giáo để dạy dỗ con người về luật nhân quả. Nếu có những người không chịu nghe lời dạy của ngài về luật nhân quả thì đây không phải là trách nhiệm của ngài. Đó chỉ là hậu quả không thể tránh khỏi khi họ cứ tiếp tục lạm dụng quyền tự quyết của họ như vậy.

Điều Thượng đế mong muốn là mọi người được hưởng sự hướng dẫn trìu mến của một vị thày tâm linh. Khi có những người quay lưng lại vị thày tâm linh và đi xuống vũ trụ vật chất, ngài đã không bỏ rơi họ một mình. Ngài đã ban cho họ những lời dạy tâm linh để giảng giải những điều kiện mà họ phải đương đầu trong thế gian. Nếu họ quyết định bỏ qua các lời dạy này thì ngài không còn cách nào khác hơn là để yên cho luật nhân quả giữ vai thày giáo.

Ngài chỉ có thể hy vọng là con người sẽ một ngày tự hỏi tại sao bao nhiêu sự việc như thế lại xảy ra cho mình. Có thể một ngày nào đó, họ sẽ suy xét và nhận ra là chính hành vi của mình đã dẫn đến các điều kiện mình đang nếm trải. Có thể một ngày, con người sẽ hiểu ra là khi họ tự hủy hoại như vậy thì chính họ cũng nắm vận mạng của họ trong tay, rằng chính họ có khả năng chuyển đổi vòng xoắn ốc đang kéo họ đi xuống. Thượng đế không thể làm gì để thay đổi tình thế mà không vi phạm quyền tự quyết của mỗi người, và quyền tự quyết thì ngài sẽ luôn luôn tôn trọng.

Một lý do khác nữa khiến cho luật nhân quả là một vị thày hữu hiệu là một khi con người đánh mất liên lạc với vị thày tâm linh, họ chỉ có thể học hỏi qua kinh nghiệm bản thân mà thôi. Chẳng hạn, con hãy tưởng tượng một người sinh ra làm vua của một quốc gia ở Âu châu thời trung cổ. Nhà vua lạm dụng quyền thế và đối xử thật tệ bạc với thần dân. Ông sống trong xa hoa lộng lẫy trong khi người dân phải chịu cảnh nghèo đói khốn cùng. Ông sống trong cung điện hoành tráng và hoàn toàn không biết tới những nỗi đau khổ của dân chúng. Trong trường hợp này, dòng sống ông vua đó sẽ chẳng học hỏi được gì về hậu quả việc làm của mình.

Tuy nhiên, như luật nhân quả quy định, dòng sống ông vua kia sẽ phải trải nghiệm hoàn cảnh này từ thế đối diện trong một kiếp tương lai. Nói cách khác, ông ta sẽ phải sinh ra làm thần dân của một ông vua bạo ngược khác. Do phải sống và trải nghiệm trực tiếp hậu quả việc làm trước đây của mình, dòng sống nay có ko cơ hội học hỏi, và có thể nó sẽ quyết định từ bỏ trạng thái tâm thức kia đã khiến nó hành động ích kỷ.

Tất nhiên, một số dòng sống sẽ cực kỳ khó khăn học được bài học giản dị này. Vì vậy, họ sẽ tiếp tục đầu thai trong cùng những điều kiện bên ngoài, hết kiếp này rồi tới kiếp khác, cho tới khi họ rút tỉa được bài học và chuyển sang những hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, nếu dòng sống sẵn sàng quay về một giáo lý hay một vị thày tâm linh, họ sẽ nhanh chóng học được là sự ích kỷ không bao giờ giúp mình phát triển. Thậm chí, dòng sống có thể học cả bài học cuối cùng là phải buông bỏ toàn bộ tâm thức nhị nguyên mà đón nhận tâm thức Ki-tô.

Ta là Giê-su Ki-tô, và ta đã hiến mạng sống của ta để đem lại các giáo lý về tâm thức Ki-tô. Các vị thày tâm linh là những người anh, người chị của ta cũng đã nỗ lực đem lại cùng những giáo lý đó trong nhiều bối cảnh khác nhau. Trên thực tế, không một người nào đã từng sống trên hành tinh này mà không tiếp cận được giáo lý tâm linh dưới một hình thức nào đó.

Ta phải nhìn nhận là do sự hiện diện của một tầng lớp thượng tôn quyền lực và tính cách tương đối của tâm nhị nguyên, nhiều người đã không tiếp cận được một giáo lý tâm linh thuần khiết. Tuy nhiên, mỗi dòng sống luôn luôn có một điều gì đó mà mình có thể sử dụng để làm bàn đạp hầu đạt đến một hiểu biết cao hơn về cuộc sống. Nếu người đó sẵn sàng sử dụng những gì đã được ban ra, rồi nhìn vượt ra ngoài những giáo lý công truyền, thì quả thật đã có thể nhận được giáo lý cao hơn từ nội tâm.

Thông điệp chủ yếu mà ta muốn gửi cho con là Thượng đế đã làm tất cả để con dễ dàng học được bài học độc nhất mà con cần học trong đời này. Tuy nhiên, sự tương đối của tâm nhị nguyên thật là bất tận. Nó có thể nghĩ ra vô số lý do để bào chữa tại sao nó đã không chấp nhận hay không đi theo giáo lý tâm linh chân truyền.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Quyết định hoàn toàn nằm với con là con sẽ bước theo con đường chân chính phát xuất từ Đại đoàn chưởng giáo của Ánh sáng, hay là con sẽ bước theo con đường giả trá, con đường có vẻ đúng đắn đối với tâm nhị nguyên.

Trước khi ta rời chủ đề luân hồi, hãy để ta nói thêm về một lý do nữa tại sao ta muốn các tín hữu của ta mở tâm ra với quan niệm luân hồi. Ta muốn các con mở tâm ra với luân hồi vì luân hồi là thực tế. Khi ta hiện thân trên địa cầu, ta đã biết luật của Cha ta, và ta đã giảng dạy luật này cho những ai theo ta. Ta không bao giờ muốn các giáo hội Cơ đốc tước mất chìa khoá của hiểu biết.

Cho nên ta nói với giới chức sắc trong các giáo hội chính thống đã tước mất quan niệm về luân hồi: “Khốn cho các người là các thày thông giáo, vì các người đã tước đi chìa khóa của hiểu biết. Chính các người đã không bước vào mà lại còn ngăn cản những ai muốn bước vào. Cho nên ta không biết các người.”

Chuyện gì xảy ra khi người khủng bố chết?

Hỏi: Chuyện gì xảy ra cho người khủng bố khi anh chết? Anh có phải trả qua cái chết lần thứ nhì hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Điều gì xảy ra cho một người đã có một hành vi tàn bạo sẽ tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của người đó. Và với điều này, ý thày không phải là trạng thái tâm thức mà người đó có vào thời điểm anh ta làm hành vi tàn bạo, mà là trạng thái tâm thức lâu dài của anh, tình trạng tâm thức nói chung của dòng sống đó, sự phát triển tâm linh của anh ta ở mức nào.

Thày mong con nhận ra rằng khái niệm về cái chết thứ hai không gắn liền với một hành động như vậy. Cái chết thứ hai xảy ra khi một dòng sống đã có đủ thời gian trong vũ trụ vật chất. Lượng thời gian này không phải là tuyệt đối vì nó không giống nhau đối với mọi dòng sống. Nó tùy thuộc vào mức độ tâm linh mà dòng sống đạt được trước khi nó sa ngã. Điều đó sẽ xác định khoảng thời gian dòng sống đó được quyền sống trước khi nó bắt buộc phải quay trở lại con đường đi lên. Vì vậy, khi một dòng sống đã được cho một thời gian nhất định để sống, nó có quyền tự do làm bất cứ điều gì nó muốn trên trái đất. Và mặc dù dòng sống làm một hành động tàn bạo nào đó, không có nghĩa là nó phải chịu ngay lập tức cái chết thứ hai hoặc sự phán xét cuối cùng sau kiếp sống đó.

Nếu dòng sống còn thời gian, nó sẽ phải đối mặt với thực tế tâm linh của hành động của mình, để nó có cơ hội nhìn thấy những hành động đó mà không nhìn thấy chúng qua phin lọc nhận thức mà nó đã có khi còn hiện thân trên trái đất. Vì vậy, nói cách khác, dòng sống có thể nhìn vào các hành động của mình mà không bị mù quáng tâm linh, cái mù quáng đã khiến nó thực hiện những hành động đó. Và do đó, dòng sống có được một cơ hội để vượt lên trên tâm thức đó, thậm chí hy vọng là nó có thể quay đầu và bắt đầu con đường đi lên và vượt ra khỏi bạo lực.

Tuy nhiên, tất nhiên, có một số kẻ khủng bố có hành vi tàn bạo bởi vì họ gần đến thời kỳ cuối cùng của thời gian được đầu thai của họ và họ cảm nhận được điều này trong tiềm thức. Và do đó, họ đã vôi hóa tâm thức và làm chai cứng trái tim của họ đến mức chúng ta không thể tưởng tượng được. Adolph Hitler là một ví dụ về dòng sống như vậy – y biết rằng thời gian của y sẽ không còn bao lâu nữa và y chai đá đến độ y hoàn toàn không đếm xỉa gì đến kết quả hành động của mình và hoàn toàn quyết tâm làm bất cứ điều gì y muốn,  trong khi y còn hiện thân.

Điều này áp dụng cho một số kẻ khủng bố, nhưng không áp dụng cho đại đa số những người này. Trên thực tế, nhiều người trong số họ thực sự là những dòng sống tâm linh, bị dụ dỗ và dẫn dắt sai lầm vào nếp suy nghĩ trắng đen vốn là nguyên nhân của mọi khủng bố, bạo lực và các hình thức tàn bạo khác. Khi con nhìn vào một hành động, con có thể nói, “Đây là một hành động tà ác” nhưng thày phải nói với con rằng trong hầu hết các trường hợp – trong đại đa số các trường hợp – hành động tà ác không phải do ác nhân thực hiện. Họ làm những điều này bởi vì họ bị lầm lạc trong tâm thức nhị nguyên, tâm thức nhìn mọi chuyện trắng đen, hoặc thậm chí trong một số trường hợp bởi tâm thức xám, tư duy xám. Và do đó họ không nhìn thấy được thực tế của hành động của họ và hậu quả của các hành động này.

Điều thường xảy ra với những kẻ khủng bố là họ được cơ hội gặp nạn nhân của mình. Ví dụ, những kẻ khủng bố lái máy bay vào các tòa tháp của Trung tâm Thương mại Thế giới đã thực sự có cơ hội gặp gỡ hầu hết các dòng sống đã ra đi, hầu hết các dòng sống đã thiệt mạng trong vụ việc đó. Và hai bên đã có cơ hội để làm công việc chuyển hóa tâm đưa tới sự hiểu biết lẫn nhau, để họ có cơ hội hiểu nhau và từ đó vượt lên trên những khác biệt bên ngoài của họ và tha thứ cho nhau.

Giờ đây, trong nhiều trường hợp, một số dòng sống không thể thực sự thừa nhận toàn bộ kết quả của những gì họ đã làm. Họ quá sốc khi nhận ra rằng họ đã thực sự giết rất nhiều người, đến nỗi thậm chí họ không thể nhìn vào sự thật mà phải chạy trốn khỏi thực tế của những gì họ đã làm. Nếu nhìn vào sự thật, họ sẽ bị hủy diệt về mặt tình cảm, hoặc ít nhất là  họ tưởng rằng nó sẽ xảy ra như thế.

Và vì vậy không phải tất cả đều có thể sử dụng một cơ hội như vậy. Nhưng thày phải nói với con rằng trong cõi tâm linh đã có một sự hòa giải rất lớn giữa nạn nhân và thủ phạm của vụ việc 11/9. Và thực sự sẽ vô cùng hữu ích cho tâm thức của hành tinh được phát triển đi lên nếu những người có thành viên gia đình hoặc bạn bè đã chết trong sự cố này cũng nỗ lực tha thứ và thông cảm, để họ có thể xóa những hồ sơ vẫn còn đó. Vì thày có thể đảm bảo với con rằng hầu hết những người thực sự bị giết đã nâng cao tâm lên để tha thứ, đã thấy rằng họ tha thứ thì tốt hơn cho trái đất, tốt hơn cho lý tưởng đánh bại chủ nghĩa khủng bố. Bởi vì nếu họ ôm chặt những tổn thương và vết thương, họ chỉ đẩy mạnh thêm cuộc đấu tranh nhị nguyên vốn là nguyên nhân thực sự của chủ nghĩa khủng bố.

Vì, như thày đã giải thích trong các bài phát biểu của thày về cuộc chiến tranh Iraq và trong các bình luận của thày về ngày 11/9, chính cuộc đấu tranh mang tính nhị nguyên đã dẫn đến sự kiện này. Và thế là những người bị dính mắc ở cả hai phía đều bị kẹt. Có thể nói, tất cả đều là nạn nhân của tâm thức nhị nguyên. Và những người vẫn đang chiến đấu trong trận chiến ngày hôm nay cũng là nạn nhân. Và cách duy nhất để thực sự phá vỡ chu kỳ đó là những người ở phương Tây – những người sống ở các quốc gia có tâm thức tiến xa hơn các quốc gia ở Trung Đông – cần vượt lên trên những tổn thương và quyết định tha thứ để họ tước đi quyền lực khỏi tay các thế lực nhị nguyên và cuộc đấu tranh nhị nguyên.

Phục sinh là câu chuyện của mỗi người

Hỏi: Thày có điều gì muốn chúng con biết về ngày Phục sinh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Câu chuyện Phục sinh là một câu chuyện thật phong phú, thâm sâu, và do đó nó có thể hiểu nhiều cách – mỗi cách hiểu đều có giá trị vì nó mở ra một khía cạnh đặc thù về toàn chuyện. Tuy nhiên, có một góc cạnh đặc biệt mà ta muốn trình bày để các con suy ngẫm.

Một trong những thông điệp chính mà ta mong muốn truyền đạt qua trang mạng là ta không bao giờ muốn được nâng lên thành một thần tượng đứng tách biệt khỏi phần còn lại của nhân loại trên hành tinh. Ta không là một kẻ muốn được tâng bốc, thế nhưng nhiều tín đồ Cơ đốc lại cứ nhất định lấy nguyên văn câu chuyện trong Kinh thánh, thậm chí còn thêu dệt thêm để biến ta thành một Thượng đế hay một đấng Cứu thế. Ta không bao giờ muốn có ai xem ta là một đấng phi thường, vượt hẳn người đời, đến độ không ai có thể với tới được ta hoặc bước chân theo ta.

Do đó, thông điệp mà ta muốn mọi người với tâm rộng mở thấu hiểu về câu chuyện Phục sinh là câu chuyện này không phải là về một người. Đây không phải là câu chuyện của riêng ta, mà thực sự là câu chuyện của mỗi người, mỗi dòng sống, nhằm minh họa cho con đường mà mỗi dòng sống có thể đi theo. Ta hiểu là nhiều tín đồ Cơ đốc đã lớn lên với một hình ảnh thần tượng hóa về Giê-su Ki-tô, và họ cảm thấy rất khó khăn thoát khỏi thành kiến tôn thờ này. Vì thế họ cứ khăng khăng cho ta là một đấng độc nhất vô nhị đứng cao hơn mọi người, vượt trội lên trên bất kỳ ai khác đã từng bước chân trên hành tinh này.

Tất nhiên ta là một người độc nhất, và ta cũng đến đây với một sứ vụ tâm linh độc nhất, nhưng phần lớn sứ vụ này là để đem lại một giáo huấn tâm linh rộng khắp về tiềm năng tâm linh của mỗi dòng sống trên địa cầu – bởi vì thực sự mỗi người là một con người độc nhất dưới mắt Thượng đế. Không những ta đã giảng dạy giáo huấn đó qua lời nói, mà trên hết ta đã thể hiện giáo huấn qua chính cuộc đời của ta. Vì vậy, mỗi khía cạnh của đời ta là sự minh họa cho một khía cạnh của giáo lý nội tâm phổ quát mà ta đã đến đây để truyền bá cho địa cầu, và câu chuyện Phục sinh cũng không đi ra ngoài điểm chung này. Nói cách khác, Phục sinh là câu chuyện nói lên con đường mà mỗi dòng sống có thể đi theo để đạt được quả vị Ki-tô, thượng thăng vĩnh viễn vào cõi tâm linh. Câu chuyện Phục sinh biểu tượng cho giai đoạn sau cùng trong cuộc hành trình đó của dòng sống.  

Câu chuyện Phục sinh có thể chia thành ba yếu tố chính. Yếu tố đầu là khi ta bước vào thành Jerusalem nơi ta được dân chúng chào đón nồng nhiệt như một vị vua. Chúng ta có thể ví sự việc này như sự ra đời của mọi đứa trẻ, bởi vì hầu hết trẻ sơ sinh đều được cha mẹ và gia đình của em đón mừng như một người thật đặc biệt – và quả thật mỗi em nhỏ đều là đặc biệt.

Giai đoạn thứ hai của câu chuyện Phục sinh là những gì xảy ra giữa thời điểm ta bước vào Jerusalem cho tới ngày ta phục sinh, biểu tượng cho giai đoạn dòng sống bắt đầu khôn lớn. Con sẽ nhận xét thấy lý do mọi người chào đón ta vào Jerusalem là vì ai nấy đều có một hình ảnh nào đó về ta. Họ có những kỳ vọng nhất định rằng ta là vị vua sẽ giải thoát họ khỏi người La Mã, và họ muốn ta phải đáp ứng được nguyện vọng đó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau thì nhiều người bắt đầu hiểu ra là ta sẽ không thỏa mãn kỳ vọng này. Con để ý xem họ đã quay mặt tấn công ta nhanh chóng như thế nào khi họ nhận ra là ta sẽ không bị ràng buộc trong những kỳ vọng của họ. Chính những người vừa mới hô to “Hosanna” ở cổng thành nay lại là người la hét “Đóng đinh nó!” tại cái gọi là toà án xử tội ta.

Phần này là câu chuyện mà dòng sống trải qua khi lớn lên, bắt đầu khám phá và biểu hiện cá thể của mình. Sự chọn lựa mà mỗi dòng sống phải đối mặt là liệu mình sẽ chiều theo những kỳ vọng của thế gian, kể cả của cha mẹ, gia đình và xã hội, hay là mình sẽ phát triển và thể hiện sắc thái tâm linh độc đáo của mình và hoàn thành sứ vụ tâm linh của mình.  

Ta không có ý nói là mọi dòng sống đều ở cùng mức trưởng thành tâm linh hay có cùng sứ vụ tâm linh. Nếu con đọc bài giảng của ta về các giai đoạn phát triển tâm linh, con sẽ thấy một số dòng sống sẽ chưa sẵn sàng đi trọn hành trình tâm linh vì họ còn cần chữa lành hay giải quyết một số vấn đề tâm lý. Cho nên nếu họ có sống một cuộc đời không mấy tâm linh, hoặc nếu họ không thách đố các kỳ vọng của xã hội, thì điều này cũng hoàn toàn chấp nhận được.   

Tuy nhiên, đối với các dòng sống già dặn hơn, sẽ tới một điểm khi con phải đối diện với sự chọn lựa là liệu con có chối bỏ cá thể chân thực và sứ vụ tâm linh của mình để chiều theo kỳ vọng của xã hội. Cuộc đời của ta là để minh họa cho điểm trưởng thành mà con đạt đến khi con cần phải chân thật với con người thực của con, cần phải hoàn thành sứ vụ của con cho dù thế giới có phản ứng dữ dội thế nào đi nữa đối với con. Câu chuyện của ta nhằm khơi dậy nơi mỗi người lòng can đảm vượt qua bất kỳ sự khủng bố nào từ thế gian, thậm chí đi tới cùng và chấp nhận cho thế gian giết hại thân xác mình nếu thế gian thật sự muốn thế.   

Rất may mắn là hành tinh nay đã chuyển sang một giai đọan văn minh hơn vậy, và tại nhiều nơi trên thế giới, khó lòng nào con có thể bị người ta giết hại vì con đã thể hiện cá thể tâm linh của con hay đã đeo đuổi sứ mệnh tâm linh của con. Dù sao đi nữa, con vẫn có thể phải nhận chịu nhiều sự trấn áp, như con thấy đã xảy ra trong những phản ứng tiêu cực đối với trang mạng này. Và thật sự, một số những trấn áp đó lại đến từ những người tự xem mình là những tín hữu ngoan đạo của Ki-tô giáo.   

Điểm quan trọng trong câu chuyện Phục sinh không phải là sự kiện ta đã bị ám hại. Điểm quan trọng là ta đã sẵn sàng để cho thế giới giết ta nếu thật sự thế giới muốn như vậy. Điều này được diễn tả qua câu ta nói: Ai tìm cách cứu mạng mình thì sẽ mất mạng, và ai sẵn sàng mất sự sống cho ta sẽ tìm thấy sự sống. Ý nghĩa là nếu con khuất phục trước kỳ vọng của thế gian và chối bỏ cá thể tâm linh của con thì con sẽ đánh mất sự sống trong nghĩa tâm linh. Và ngược lại, nếu con chân thực với cá thể và sứ mạng tâm linh của con, thậm chí con sẵn sàng để cho thế gian tước mất mạng sống vật lý của con, thì dòng sống của con sẽ tìm thấy sự sống vĩnh hằng trong tâm thức Ki-tô.

Thực tế là hầu hết những ai dám thể hiện bản sắc chân thực và theo đuổi sứ vụ tâm linh của mình đều sẽ bị thế gian trấn áp. Thậm chí thế gian có thể đóng đinh họ trên thập tự trong nghĩa tâm linh, nghĩa là không phải đóng đinh trên cây thập tự bằng gỗ mà cây thánh giá tâm linh của kỳ vọng con người. Chẳng hạn, nhiều người bị giới truyền thông đóng đinh tâm linh qua những chiến dịch miệt thị hay đả phá danh dự nhằm đưa ra một hình ảnh dối trá về họ, y như trước kia ta từng bị các thày tu trong nhà thờ bôi nhọ.

Điểm chủ yếu là nếu con sẵn sàng để cho thế gian làm bất cứ điều gì nó muốn với con, nhưng song song con không lúc nào phủ nhận bản sắc tâm linh của mình, thì đó là cơ hội cho con trải nghiệm cuộc điểm đạo tâm linh của phục sinh. Trong trường hợp của ta, đây là một cuộc phục sinh thể xác để minh họa cho tiềm năng phục sinh của mỗi con người vào một tâm thức và một bản sắc cao hơn. Đó là aự minh họa rằng dòng sống có khả năng khắc phục cái chết và giành lại sự sống bất tử. Điều mà hầu hết các tín hữu Cơ đốc không hiểu là để giành sự sống vĩnh cửu, dòng sống phải sẵn sàng để cho ý niệm bản sắc vô thường của mình chết đi trên thánh giá.

Ngay cả khi ta bị treo trên cây thập tự, ta vẫn phải đối diện với thử thách là liệu ta có còn bám giữ bất kỳ một mảnh nhỏ nào của ý niệm bản sắc phàm phu, hay là ta đã sẵn sàng buông bỏ hoàn toàn bản sắc đó cho Thượng đế. Cho dù trong phút chốc ta có cảm thấy bị Thượng đế bỏ rơi, nhưng cuối cùng ta đã đầu phục một cách toàn diện cho Thượng đế. Ngay lúc đó, xác thân vật lý cùng bản sắc phàm phu của ta cũng chết đi, và đó là lúc ta vượt qua cuộc điểm đạo tâm linh và giành được phục sinh của mình.

Hiển nhiên, ta không có ý nói rằng mọi người đều phải sống qua cực hình thân xác bị đóng đinh và phải chết trên cây thập tự để có thể phục sinh. Thế nhưng mỗi dòng sống sẽ phải trải qua kinh nghiệm thể hiện bản sắc tâm linh của mình bất kể những khủng bố mà thế gian có thể ném về phía mình. Nếu dòng sống vẫn chân thực với bản sắc tâm linh của mình và sẵn sàng từ bỏ mọi dấu vết của bản sắc phàm phu – tức là nhị nguyên – thì mình sẽ giành được sự phục sinh. Phục sinh có nghĩa là bây giờ dòng sống đã thăng vượt mọi bản sắc phàm phu, đã kết hợp trọn vẹn với bản sắc mới là trở thành đứa con của Thượng đế. Dòng sống đã vượt qua kỳ thi cuối cùng trên địa cầu và đủ tư cách thăng thiên vào cõi tâm linh. Nói cách khác, dòng sống không còn bị ràng buộc vào vòng sinh tử, không còn phải trở lại đầu thai trên trái đất. Dòng sống có thể vĩnh viễn ở lại cõi tâm linh và tiếp tục cuộc hành trình đến những cõi cao hơn nữa.   

Ta có hy vọng rất lớn là những ai đã sẵn sàng về mặt tâm linh, những ai có tai để nghe, sẽ ôm lấy lời dạy nội tâm này về câu chuyện Phục sinh hầu trong trái tim và tâm trí, họ có thể chứng nghiệm một sự phục sinh của các giáo lý tâm truyền của ta. Nói cách khác, điều đầu tiên mà một người có nhận thức tâm linh cần làm là sẵn sàng sống thực với giáo lý tâm truyền của ta, bất kể mọi loại áp bức mà con có thể nhận được từ thế giới, kể cả từ những người đồng đạo của con đang bám chặt lấy giáo điều chính thống.

Nếu con chịu bỏ lại tất cả mọi thần tượng mà con người đã tạo ra về ta và giáo lý của ta, nếu con chịu để cho các thần tượng này chết đi, nếu con chịu để cho bản sắc phàm phu của con do các thần tượng này nặn ra chết đi, thì còn sẽ được phục sinh vào sự chứng ngộ giáo lý tâm truyền của ta. Ngay lúc đó con sẽ thấy – con sẽ biết bằng cái biết nội tâm vượt khỏi mọi ngờ vực – rằng toàn bộ cuộc đời của ta đã vạch ra cho con một con đường mà con cũng có thể đi theo, cho tới khi chính con cũng sẽ chiến thắng và được thượng thăng vào ánh sáng. Một khi con nhận ra đó là con đường đúng đắn, con sẽ có thể cất bước trên đường nhanh hơn bao giờ hết.  

Ta hy vọng những lời dạy tâm truyền của ta sẽ tới được đủ số người mà nội tâm đã sẵn sàng để thể nhập con đường chân truyền dẫn tới phục sinh và thăng thiên. Đây quả thật là mục đích chủ yếu đằng sau các biến cố nguyên thủy của ngày Phuc sinh, và cũng là một trong các mục tiêu chính ta đã mở ra trang mạng của ta. Ước sao các giáo lý chân truyền của ta được phục sinh trong tim con, ước sao dòng sống của con được phục sinh và bước theo chân ta cho tới khi ta được mừng đón con bước vào vương quốc của Cha chúng ta.    

Sự đổi mới của tất cả mọi tôn giáo

Hỏi 1: Giê-su kính yêu, sau 2000 năm thày đến để cải tổ đạo Cơ đốc đã hiểu lầm những lời dạy của thày, để làm sáng tỏ những mối liên kết còn thiếu sót trong giáo lý cũng như để giải thích tinh túy của giáo lý của thày. Liệu chúng con có thể mong đợi sự xuất hiện sớm sủa của Đại thiên thần Gabriel, là đấng đã tiết lộ kinh Qur’an, trên một trang mạng tương tự như trang mạng của thày để làm sáng tỏ những thiên khải cho Muhammad? Con nghĩ những lời giải thích và sáng tỏ này ngày nay đã trở thành vô cùng cấp thiết cho phúc lợi của các tín đồ Hồi giáo, y như lời giải thích của thày đối với các tín đồ Cơ đốc giáo.   

Hỏi 2: Con thật phấn khích khi nghĩ đến bao nhiêu thay đổi lớn lao đã xảy ra, như trang mạng và sách vở của Kim Michaels đã đến với mọi người khắp thế giới. Những lời dạy chân chính của thày thực sự đã là một phúc lành cho hành tinh này. Con tự hỏi liệu có một số công cuộc tương tự cũng đang diễn ra, hay sẽ diễn ra trong tương lai, để đem lại những giáo lý chân truyền mà các tôn giáo khác hơn là Cơ đốc giáo chưa biết đến rộng rãi. Chẳng hạn, liệu các bậc như đức Phật Gautama, Khổng Tử, Lão Tử, Mohammed, Zarathustra và Krishna có đang thực hiện những điều tương tự như thày hầu nâng cao tâm thức các tín đồ của các tôn giáo lớn? Thật là vui mừng biết bao khi nghĩ đến một sự thức tỉnh rộng khắp thế giới bao gồm mọi tôn giáo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta có thể cam kết với con là các chân sư thăng thiên vô cùng mong muốn đổi mới tất cả mọi tôn giáo trên địa cầu. Tuy nhiên, mục tiêu rộng lớn của các chân sư là đưa ra cho mọi người thấy được rằng, vượt lên trên mọi tôn giáo công truyền, là một tôn giáo tâm truyền, phổ quát toàn vũ. Tôn giáo này không thể bị giam hãm trong một giáo hội hay một giáo điều nhất định. Nó phổ quát chính là vì nó vượt ra ngoài bất kỳ cách biểu hiện nào về bản chất của nó. Con có thể dùng một cái hộp nào đó để làm bực thang vươn tới tôn giáo phổ quát, nhưng con không thể giam tôn giáo phổ quát trong một cái hộp nhất định.

Công việc đổi mới các tôn giáo của nhân loại đang trên đà tiến hành. Quả là có nhiều người hiện đang phụng sự để làm công cụ hay sứ giả cho sự đổi mới này bằng nhiều phương cách và trong nhiều tư cách khác nhau. Các chân sư mong muốn tất cả mọi tôn giáo truyền thống được đổi mới qua tiến trình tiết lộ tuần tự. Tuy nhiên, để điều này có thể xảy ra, có hai điều kiện cần hội đủ:

  • Phải tìm ra một hay nhiều người sứ giả thích hợp. Chẳng hạn, để ban ra những tiết lộ tuần tự hầu đổi mới đạo Hồi, các chân sư phải có một sứ giả hiểu biết đạo Hồi, là người tận tụy sâu xa với đạo Hồi nhưng đồng thời cũng đón nhận sự đổi mới đạo mình. Nói cách khác, người làm sứ giả không được vướng mắc vào một khía cạnh nào đó của đạo mình và không thể có động lực muốn đạo của mình trở thành tôn giáo chiếm ưu thế hay tôn giáo độc tôn. Người sứ giả cũng phải có tâm thức thực sự phổ quát, nghĩa là đã đạt được một mức độ then chốt trong tâm Ki-tô.
  • Để các chân sư có thể đỡ đầu cho một sứ giả đứng ra đổi mới một tôn giáo nào đó, thì phải có đủ túc số những tín đồ của tôn giáo này đạt tới một trạng thái tâm thức khiến họ sẵn sàng nhìn xa hơn tôn giáo vỏ ngoài, hay giáo điều vỏ ngoài, hầu nắm lấy tôn giáo phổ quát nằm đằng sau tín ngưỡng của họ. 

Rất có thể các chân sư sẽ khởi sự đưa ra các tiết lộ tuần tự cho các tôn giáo khác. Không nhất thiết là dưới hình thức một trang mạng tương tự như trang này, bởi vì trang này thật sự chỉ là một thử nghiệm. Những gì có thể hoặc sẽ xảy ra cho trang mạng này tùy thuộc phần lớn vào sự đón nhận của những người tìm thấy nó. Cho tới nay thì hầu hết những ai cởi mở với trang mạng này đều thuộc thành phần đã sẵn cởi mở với tôn giáo toàn vũ mà ta vừa đề cập. 

Đa số các tín đồ Cơ đốc thuộc các giáo hội chính thống hay chính mạch đã không sẵn sàng xem kỹ trang mạng này và nhìn xa hơn những giáo điều cố hữu của mình. Họ đã không sẵn lòng cho ta – Giê-su Ki-tô hằng sống – cơ hội để ta nói cho họ những điều đi xa hơn các giáo điều của giáo hội “giống như mồ mả tô trắng bề ngoài cho đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và mọi điều dơ bẩn” (Matthew 23:27).

Lý do ta đã có thể có trang mạng riêng là vì ta có một vị sứ giả, và thật sự cũng có đủ túc số những người ở các nước Tây phương đã từng lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo nhưng lại sẵn lòng nhìn xa hơn và cố vươn tới một giáo lý tâm linh phổ quát hơn, như có đăng tải ở nhiều nơi. Ta chỉ có thể ngợi khen tất cả những vị đó đã giúp ta tìm lại tiếng nói trong thời đại hôm nay. Ta sẽ mãi mãi biết ơn sự yêu thương cùng sự cởi mở trong trái tim và tâm trí các con.  

Hiển nhiên, trang mạng của ta được ra đời qua một vị sứ giả đặc thù. Tuy nhiên  chính trái tim và tâm trí của những người cởi mở với giáo lý trên trang mạng của ta đã cho ta cánh cửa mở để biểu đạt ra ngoài. Hãy tìm thì con sẽ thấy – có nghĩa là cho tới khi có đủ số người tìm kiếm thì các chân sư không thể ban ra  giáo lý mới.

Cho nên có thể nói rằng tiềm năng đổi mới tôn giáo chỉ bị giới hạn bởi trí tưởng tượng và sự sẵn lòng của những ai tham gia vào sứ mạng. Riêng các chân sư thăng thiên thì luôn sẵn lòng đáp ứng và sinh sôi mỗi cơ hội mà các anh chị em chưa thăng thiên trao cho chúng tôi. Tuy nhiên, chỉ khi nào các con nắm lấy những gì chúng tôi trao cho các con rồi sinh sôi khả năng của mình – thay vì đem chôn xuống dưới đất của giáo điều truyền thống – thì chúng tôi mới có thể truyền dạy những giáo lý cao hơn. Ta cam đoan với các con là có rất nhiều giáo lý mà chúng tôi mong muốn phổ biến, và nếu có sự đón nhận tích cực thì các con sẽ thấy những thay đổi lớn lao trong đời sống tôn giáo trên hành tinh này.    

Bùa phép và bùa chú

Hỏi: Thày Giê-su nghĩ gì về những nhóm tôn giáo và tâm linh sử dụng bùa phép và bùa chú?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Một trong những lời dạy chủ chốt của ta là, “Trước tiên hãy tìm vương quốc của Thượng đế và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.” Tầm quan trọng của câu này nằm ở chỗ vương quốc của Thượng đế là một biểu tượng cho tâm thức Ki-tô. Khi con kết hợp ý nghĩa đó với câu, “Ai vì ta mà mất sự sống thì sẽ được sự sống,” con nhận ra là chìa khóa để thể hiện tâm thức Ki-tô là sự buông bỏ mọi dính mắc, thèm khát cùng mọi ham muốn những đồ vật của thế gian.

Con cũng nhận ra là khi con đạt được tâm thức Ki-tô, những điều thực sự quan trọng sẽ được Thượng đế bồi thêm cho con, hay nói cách khác, những hoàn cảnh vỏ ngoài trong đời con sẽ phản ánh một cách tự nhiên mục đích tâm linh của con khi con hiện thân trong kiếp này.

Khi con thực sự hiểu được tầm quan trọng của việc tìm kiếm tâm thức Ki-tô và thể hiện trọn vẹn sự buông bỏ mọi đồ vật thế gian, thì con cũng nhận ra sự vô ích hão huyền của việc sử dụng bùa phép để đạt được những thứ con muốn có trong thế gian. Điều nguy hiểm trong ma thuật đó là nếu con còn mảy may dính mắc nào đối với đồ vật của thế gian, thì con hầu như không thể tránh được xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Điều này sẽ bắt buộc vi phạm Luật Tự quyết – và như ta đã khẳng định rất nhiều lần trên trang mạng này – là định luật căn bản nhất của vũ trụ này. Nó quan trọng đến độ khi con xâm phạm quyền tự quyết của người khác thì con cũng phải gánh chịu nghiệp quả nặng nhất mà con có thể tạo ra.  

Do đó ta mạnh mẽ khuyến cáo tất cả mọi người hãy tìm kiếm tâm thức Ki-tô thay vì tìm cách sử dụng bùa ngải, bùa phép hay bất kỳ hình thức ma thuật nào, cho dù đó là ma thuật đen hay ma thuật trắng, để đạt được những thứ mà con muốn. Khi con chứng ngộ tâm thức Ki-tô, con sẽ không bao giờ vi phạm quyền tự quyết của một người khác. Nhưng cho đến khi con chứng ngộ tâm thực Ki-tô thì con sẽ rất dễ rơi vào sự vi phạm quyền tự quyết của người khác và khi đó con sẽ gây ra nghiệp chướng vô cùng nghiêm trọng.

Thắng cái ác qua sự không dính mắc

Hỏi: Xin thày nói về vai trò của sự không dính mắc trong quan hệ với cái ác.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không dính mắc, hay vô chấp, là một khái niệm mà lý trí phàm nhân không thể hiểu được. Đó là một khái niệm vượt khỏi lối suy nghĩ đường thẳng và tâm nhị nguyên.

Một người tầm đạo sẽ được ích lợi rất nhiều nếu hiểu ra là có nhiều khái niệm tâm linh thật sự không thể nào diễn đạt bằng lời. Lý do là vì ngôn từ là một phương tiện đường thẳng, có thể được diễn giải bằng nhiều cách – hay bị hiểu lầm – bởi tâm nhị nguyên. Cho nên để nắm được hoàn toàn – nghĩa là thể nhập – một khái niệm, con cần sử dụng các giáo lý vỏ ngoài vỏn vẹn như một bàn đạp để chứng nghiệm sự thật bên trong qua trực giác. 

Điều này có nghĩa là khi chúng tôi, các chân sư, giảng dạy một giáo lý tâm linh, như giáo lý ta giảng dạy 2000 năm về trước, chúng tôi không bao giờ có ý định đưa ra một lời dạy toàn hảo, bất khả ngộ về sự thật. Chúng tôi biết rõ là không có lời dạy nào diễn đạt bằng ngôn từ mà có thể là sự trình bày trọn vẹn của sự thật. Sự thật không thể diễn tả qua lời nói. Sự thật chỉ có thể được chiêm nghiệm và thể nhập. Có thể nói rằng con không thể biết hay hiểu được sự thật mà chỉ có thể trở thành sự thật mà thôi. Chẳng hạn như câu: “Giê-su nói với người ấy rằng: Ta là con đường, sự thật và sự sống; không ai đến với Cha mà không bởi ta.” (John 14:6)

Câu nói trên là ví dụ điển hình về điều ta đang trình bày. Bao nhiêu tín hữu đạo Cơ đốc bị kẹt trong tâm nhị nguyên đã diễn giải là con người vỏ ngoài của Giê-su Ki-tô, hay đạo Ki-tô, là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Nhưng ý nghĩa thực sự là tâm thức Ki-tô – vượt khỏi tâm nhị nguyên đường thẳng – là cách duy nhất để biết Thượng đế và sự thật của Thượng đế. Và con chỉ có thể biết sự thật bằng cách hợp nhất với sự thật và trở thành chính tâm Ki-tô. Không một người nào có thể đến với Cha trừ khi mình hợp nhất với cái ta Ki-tô của mình.    

Bằng cách kết hợp với cái ta Ki-tô của con, con sẽ dần dần hết dính mắc vào những thứ của thế gian. Điều này sẽ không xảy ra nếu con cố tình kiềm chế những ham muốn của con đối với các đồ vật thế gian, mà sẽ xảy ra vì cái ta Ki-tô của con sẽ giúp con nhận ra rằng sự sống là nhiều hơn những thú vui vật chất. Rồi con sẽ bắt đầu ham muốn những thứ của Tánh linh nhiều hơn những thứ của thế gian.

Nếu con so sánh điều này với một bài giảng mới đây của ta về cách đối phó với cái ác, con có thể thấy được một sự thật sâu sắc. Suốt các thời đại, biết bao người tầm đạo đã tin rằng thế giới là chiến trường cho cuộc giao tranh vĩ đại giữa hai lực lượng thiện và ác. Họ thường tin rằng mục đích của đường tu tâm linh là làm thế nào đánh bại cái ác bằng cách sử đụng vũ lực tâm linh, và thậm chí cả vũ khí của thế giới vật chất. Hay họ tin rằng bằng cách chối bỏ những thứ của thế gian, họ sẽ tự động mở cửa ra Tánh linh.

Kỳ thực, chìa khóa tối hậu – chìa khóa duy nhất – để chiến thắng cái ác là không dính mắc. Con không đánh nhau với cái ác. Con chỉ đơn giản bước xa ra. Con trở thành hoàn toàn không dính mắc với mọi biểu hiện của cái ác – kể cả ý tưởng là con phải đánh bại cái ác. Dù ông hoàng của thế gian có ném vào con bất cứ gì, con cũng từ chối không tham gia vào trò chơi của y. Con từ chối nhập vào cuộc chơi và như vậy con đứng ngoài cuộc đấu tranh cuồng đại giữa thiện và ác. Đó là vì sao ta đã nói: “”Nhưng ta nói cùng các người rằng: Đừng cưỡng chống kẻ ác, nhưng nếu có ai tát vào má phải của người, hãy đưa má bên kia cho họ luôn.” (Matthew 5:39)

Nhưng con hãy lưu ý, không dính mắc với điều ác không có nghĩa là con nhắm mắt trước điều ác. Nó có nghĩa là con thăng vượt điều ác và giúp người khác cũng làm tương tự. Nói cách khác, thay vì giao chiến với nó bằng vũ lực vật chất, con chiến đấu bằng sức mạnh tâm linh, có nghĩa là con chuyển hóa nó thành ánh sáng. Điều ta muốn nói là mặc dù cuộc giao tranh cuồng đại giữa thiện và ác có thực, giao tranh này chỉ diễn ra trong tâm của những con người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên.  

Hay nói cách khác, chính ý thức đấu tranh mới tạo ra và duy trì cuộc đấu tranh. Và nguồn gốc của ý thức đấu tranh là sự đính mắc vào những thứ của thế gian. Khi con biểu hiện tính không bám mắc, con vươn lên khỏi cuộc giao chiến giữa hai thế lưc nhị nguyên của thế giới. Con không còn quan tâm là thiện hay ác sẽ thắng bởi vì con muốn Thượng đế thắng. Con ngộ ra là Thượng đế vượt khỏi cái thiện và cái ác do tâm nhị nguyên định nghĩa.

Ghi nhận cái ác mà không tăng cường cái ác

Hỏi: Giê-su, có thật là chúng ta thu hút những gì chúng ta cảm thấy hoặc sự rung động của những thứ đó không? Nếu vậy thì làm thế nào chúng ta có thể nhìn một vật vô thức và không thêm gì cho nó? Con đọc trên trang mạng này là Thượng đế không thể nhìn vào các cuộc chiến của chúng ta vì sẽ có hại nếu bước vào rung động đó một cách sáng tạo. Con đoán là chúng ta chia sẻ một phần khả năng sáng tạo của Thượng đế vì ngài đã tạo ra chúng ta theo hình ngài.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Một câu hỏi quan trọng chạm đến vấn đề chủ yếu trên hành tinh này. Như ta có giải thích trong trang mạng này, các dòng sống của con người được sinh tạo ra để đồng sáng tạo với Thượng đế. Từ Hiện diện TA LÀ của con, có một dòng năng lượng tâm linh liên tục xối xuống, chảy xuyên qua dòng sống của con. Con hướng năng lượng này bằng sự chú tâm của con, thậm chỉ cả sự chú tâm tiềm thức. Ánh sáng xối qua dòng sống của con sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào, và như thế con sẽ tăng cường bất cứ gì mà con trao cho năng lượng. Con có thể trao năng lượng qua cả những dính mắc tiềm thức của con, như sợ hãi hay thù ghét.

Nếu con gửi năng lượng tâm linh của con vào một hình tướng hay một khuôn đúc nào đó trong một thời gian đủ dài, con sẽ tạo ra một lượng năng lượng nhất định trong năng trường cá nhân của con, và nó sẽ bắt đầu hình thành một lực hấp dẫn. Lực này sẽ thu hút những năng lượng tương tự như con từ môi trường chung quanh, hay nó sẽ tạo ra một ống dẫn giữa năng trường cá nhân của con với năng trường của hành tinh. Mẹ Mary có giải thích điều này chi tiết hơn trong quyển sách “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth).

Các tà lực trên hành tinh đã cố dùng những sự kiện ta vừa trình bày để chế ngự con người. Cách chúng làm là đun đẩy con người vào những tình huống nơi con người cảm thấy bị bắt buộc phải chọn một trong hai thái độ cực đoan, nghĩa là nếu làm thì bị thiệt mà không làm cũng bị thiệt. Ta xin giải thích. 

Thực tế đơn giản là con sẽ tăng cường bất cứ gì con phóng năng lượng vào. Các tà lực đã thiết lập vô số những sinh hoạt trên địa cầu để khiến cho con người phản ứng lại bằng đủ loại cảm xúc tiêu cực. Dù con có lo sợ điều gì, tức giận hay muốn hưởng lợi điều gì, con cũng sẽ tăng cường cho điều đó bằng cách con trao năng lượng cho nó. Do đó mỗi khi con phản ứng lại sự có mặt của cái ác bằng cảm xúc tiêu cực thì con nuôi sống cái ác – ngay cả khi con tưởng con đang làm biện pháp chống ác. 

Khi con kẹt trong tâm thức nhị nguyên, con sẽ lý luận rằng để không tăng cường cái ác, cách hiển nhiên nhất là mình hãy tránh tập trung chú ý vào bất cứ điều gì xấu ác, bất toàn. Con nghĩ, nếu mình không cho nó năng lượng thì mình sẽ không củng cố cho nó, đúng không? Nhưng vấn đề là con không thể thoát khỏi ảnh hưởng của cái ác bằng cách nhắm mắt làm ngơ trước sự có mặt của nó. Cái mà con không biết có khả năng, và sẽ, làm hại con.   

Vậy nếu con chọn phản ứng làm ngơ, hay phủ nhận, sự hiện hữu của cái ác, con vẫn bị ảnh hưởng trong tiềm thức bởi các tà lực trên địa cầu. Thật không có cách nào khác: nếu con bỏ qua không biết tới một cái bướu ung thư, con sẽ chỉ giúp nó bành trướng thêm ở dưới bề mặt.

Có rất nhiều người tâm linh và người theo tôn giáo, đặc biệt trong phong trào Thời Mới, chối bỏ thực tế của cái ác. Nhưng họ sẽ không thể tránh khỏi bị ảnh hưởng một cách vi tế bởi những tin tưởng bất toàn, nghĩa là họ trao năng lượng cho cái ác mà không ý thức được. Như ta đã nói, con có thể tăng cường cái ác bằng cách cho nó sự chú tâm của con, nhưng con cũng có thể tăng cường cái ác qua tâm tiềm thức của con. Và nếu con làm ngơ hay phủ nhận cái ác hiện hữu, các tà lực sẽ – ta nói rõ, SẼ – tìm được đường xâm nhập vào tiềm thức của con hầu đánh cắp ánh sáng tâm linh của con.

Cho nên trong tâm thức nhị nguyên, có vẻ như nếu con làm thì không ổn, mà con không làm cũng không xong. Rốt cuộc, dù con có giao chiến hay nhắm mắt trước cái ác, con cũng đang củng cố cho nó. Vậy con làm gì được đây? Con có thể làm điều mà ta đã mô tả khắp trang mạng này, là vươn lên khỏi trạng thái tâm thức nhị nguyên. Con có khả năng khoác lên tâm Ki-tô để mà nhìn vượt khỏi các đối cực nhị nguyên, qua đó con sẽ thực hành được lời kêu gọi của ta là khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu (Matthew 10:16). 

Con phải khôn ngoan như rắn vì con phải biết là xấu ác có xảy ra. Đây là cách duy nhất để con tránh chấp nhận những dối trá đã xâm nhập vào mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này. Chỉ khi đó con mới tách khỏi tà lực và đứng riêng ra độc lập.   

Song song, con cũng cần vô hại như là bồ câu hầu con không phản ứng lại xấu ác bằng những cảm xúc tiêu cực. Con chỉ đơn giản giữ tâm cho không dính mắc, không bị quấy rầy dù chúng có ném gì vào con, như ta đã làm khi bị cám dỗ trong đồng hoang vắng (Matthew 4). Con đẩy lui cái ác và phơi bày những gian dối làm nền tảng cho nó, nhưng con không dính líu tới nó trong tình cảm hay vướng mắc vào giao tranh với nó.

Bản thân con không thể làm gì để loại bỏ xấu ác, như Đại thiên thần Michael có giàng dạy. Tuy nhiên con có thể đưa ra những lời cầu gọi sáng suốt để ủy quyền cho các chân sư thăng thiên thay mặt con đương đầu với cái ác. Khi con khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu, con có thể cho phép Thượng đế trong con tiêu hủy cái ác thay vì chính con ra tay chiến đấu bằng tâm vỏ ngoài.

Đúng là Thượng đế trong nghĩa cao nhất không nhìn xuống những bất toàn trên địa cầu vì quyền năng sáng tạo của Thượng đế sẽ gia tốc cho bất cứ gì mà quyền năng ấy đặt vào. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Thượng đế sẽ tăng cường cho xấu ác hay khiến nó kéo dài mãi mãi. Nếu sự chú ý của ngài được tập trung vào một hình tướng bất toàn, quyền năng sáng tác bao la của ngài sẽ gia tốc – trong nghĩa đen – độ rung của năng lượng khiến năng lượng trở về trạng thái thuần khiết nguyên thủy của nó, và hình tướng bất toàn đó sẽ bị xóa bỏ. Đó là lý do Thánh kinh nói rằng Thượng đế chúng ta là một ngọn lửa tiêu hủy tất cả ngoại trừ chính nó.

Nhưng song song, Thượng đế cũng có những vị đại diện, là những cá thể của ngài, có thể nhìn vào những bất toàn trên địa cầu mà không khuếch đại hoặc tiêu hủy. Các sinh thể này tên gọi là chân sư thăng thiên, và công việc của chúng tôi là giúp cho những người anh em chưa thăng thiên của chúng tôi từ từ tách rời khỏi những gian dối và bất toàn trên địa cầu. 

Tại sao Thượng đế lại không chỉ tiêu hủy các bất toàn đó cho xong chuyện? Vì đó sẽ vi phạm chính Luật Tự quyết của ngài. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho các dòng sống con người và như vậy họ có quyền tạm thời trải nghiệm những bất toàn này. Ngài cho họ thời gian để họ đạt đến kết luận là việc vi phạm quy luật của ngài cuối cùng sẽ không lợi ích gì cho họ. Và ngài còn gửi cả các chân sư thăng thiên xuống trong vai trò thày tâm linh hầu giúp nhân loại học bài học này.

Cho nên có thể nói, Thượng đế trong nghĩa cao nhất đã đơn giản rút khỏi hành tinh địa cầu sau khi loài người sa ngã. Ngài không nhìn xuống các bất toàn trên địa cầu, những các vị đại diện của ngài thì tiếp tục nhìn vào và cố gắng giúp con người vượt lên khỏi sự dối trá đang nuôi dưỡng cái ác. Như ta đã nói, chìa khóa chủ yếu để vươn lên khỏi bất toàn là phải khôn ngoan như rắn hầu có thể quyết định một cách ý thức rằng mình sẽ tách rời khỏi sự bất toàn, và song song phải vô hại như bồ câu, hầu bỏ lại sự bất toàn một cách tự nguyện và không hối tiếc. “Còn người, hãy theo ta” (John 21:22).

Chúng tôi, các chân sư, có quyền năng loại bỏ mọi xấu ác khỏi hành tinh này. Nhưng chúng tôi không thể làm được cho tới khi có đủ túc số những người đã tách mình ra khỏi xấu ác. Con không thể tách ra khỏi xấu ác nếu con không nhìn thấu những dối trá của xấu ác. Và con không thể nhìn thấu nếu con không nhìn vào xấu ác. Cho nên chìa khóa là phải nhìn với tính phân biện Ki-tô rồi quyết định thăng vượt chính cái tâm thức đã sinh sản ra xấu ác: tâm thức nhị nguyên.

Làm thế nào nói chuyện với tín hữu Cơ đốc

Hỏi; Con đã tìm thấy trong Kinh thánh có nhiều đoạn trái ngược nhau. Có những phiên bản của Kinh thánh hỗ trợ cho những quan điểm giáo lý trái ngược nhau. Đó là lý do tại sao thế giới Cơ đốc bị chia rẽ. Con đã cố hết sức để chỉ cho mọi người thấy Kinh thánh không phải là trọn vẹn lời của Thượng đế, nhưng có người Cơ đốc vẫn như mù loà không thấy được Sự thật.

Hơn thế nữa, họ đã nhiều lần thay đổi lời lẽ của Kinh thánh mỗi khi họ tái xuất bản. Điều này gây ra bối rối khắp thế giới về lời lẽ trong Kinh thánh.

Con muốn tiến về phía trước và con đang vượt qua những nỗi sợ hãi của con. Con có cảm tưởng con đang ở một mức trên đường đạo như khi Giê-su thách thức các lãnh đạo tôn giáo vào thời của thày. Bởi thế mới có câu: “Sự thật là lời biện hộ cho chính nó.” Xin thày Giê-su cho biết quan điểm của thày về sự thể này và lời biện hộ tốt nhất cho con là gì. Con đang tìm kiếm sự thật. Con phải tìm được lời giải đáp cho câu hỏi của con trước khi tiến bước trên con đường đời sống.    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con nói chính xác là trong Kinh thánh có những đoạn có vẻ trái ngược nhau, nhất là khi người ta suy diễn theo tâm thức tương đối của thế phàm. Nhưng thế giới Cơ đốc không bị chia rẽ do những mâu thuẫn như vậy trong Kinh thánh đâu. Thế giới Cơ đốc bị chia rẽ là do con người bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém mà ta gọi là tâm thức nhị nguyên, và do đó con người nhìn vào mọi chuyện qua một phin lọc khiến cho thế giới hiện ra tương đối. Khi người ta bị kẹt trong trạng thái tâm thức đó, họ không thể thấy được sự thật của Thượng đế. Họ chỉ thấy một hình ảnh trong tâm mà chính họ đã tạo ra trong tâm họ. Bởi vì mỗi người có những tâm ảnh khác nhau cho nên không thể tránh khỏi có chia rẽ và xung đột.  

Như ta có giải thích ở nơi khác, Kinh thánh không phải là lời nói thuần túy của Thượng đế. Và dù cho đó là lời nói thuần túy của Thượng đế thì nó vẫn tạo ra xung đột giữa mọi người. Giản dị là không thể có cách nào để diễn đạt chân lý của Thượng đế mà con người không thể hiểu lầm và diễn giải sai lạc đi để rồi biến nó thành một sự thật tương đối chỉ xác nhận những điều mà họ muốn tin tưởng.

Cho nên ta phải nói với con là không có gì mà ta nói có thể giúp con thuyết phục những ai đang bị mù quáng bởi những sự diễn giải tương đối của họ về chân lý. Ta có thể nói với con là ngay cả nếu cá nhân ta xuất hiện trước mặt họ trong một khải tượng – một điều mà ta quả thực đã từng làm trước nhiều người suốt 2000 năm qua – đa số họ vẫn sẽ chối bỏ ta, hay thậm chí họ sẽ gọi sự xuất hiện của ta là màn hỏa mù của Ác quỷ.

Có quá nhiều người bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức tương đối của họ, và họ chỉ đơn giản không sẵn lòng nghe thấy hay nhìn thấy chân lý của Thượng đế. Không có gì ta có thể làm được để thay đổi sự thể này, và do đó cũng không có gì mà con có thể làm được. Điều con làm được là nói lên sự thật với tất cả đức tin trong tim con, nhưng sau đó con hãy đừng bị dính mắc vào cách phản ứng của người khác. Con chỉ nói lên sự thật với tất cả khả năng của con. Hãy nói lên sự thật như con hiểu được trong lúc này, và hãy tiếp tục tăng trưởng khả năng hiểu biết của con về sự thật.   

Ta không hề yêu cầu con đi cải đạo người khác, bởi vì thật sự không có cách nào cải đạo bất cứ ai mà chưa mở tâm và mở tim ra cho một sự thật cao hơn những gì họ đang nhìn thấy. Ta chỉ yêu cầu con nỗ lực tìm hiểu và hiện thân sự thật của Ki-tô, rồi sau đó hãy diễn đạt sự thật đó mà không có bất cứ kỳ vọng nào hay bất cứ quan tâm nào về cách phản ứng của người khác. Đó là điều con đã thấy ta làm cách đây 2000 năm, và đó là tất cả những gì có thể làm được. Duy chỉ có Thánh linh mới cải đạo được người ta. Thế nhưng ngay cả Thánh linh cũng không thể cải đạo một người ngược với quyền tự quyết của người đó.

Ta khen ngợi con nỗ lực khắc phục nỗi sợ hãi của con. Con hãy giản dị nói ra sự thật và đừng quan tâm gì cả về sự phản hồi của người khác. Khi con nói ra sự thật mà không có chút chờ đợi nào về cách phản hồi của họ, con sẽ cảm thấy một niềm tự do rất mới. Và sự thật sẽ là lời biện hộ cho chính nó, và nó sẽ biện hộ cho con đối lại tất cả mọi phản ứng tiêu cực của người khác. Ta cũng bảo đảm với con là khi con nhân danh ta nói ra sự thật thì ta cũng đang đứng ngay bên cạnh con đây. Ta là sự thật, cho nên ta ở bất cứ nơi nào sự thật được biểu lộ. Hãy đi vào trong tim con và cảm được sự Hiện diện của ta với con.  

Đại đoàn Ánh sáng và hàng ngũ bóng tối

Hỏi: Có chăng một huynh đoàn của Ánh sáng và một huynh đoàn của bóng tối?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Quả là có một Đoàn Huynh đệ của Ánh sáng, và cũng có một huynh đoàn của bóng tối.

Huynh đoàn của Ánh sáng từ lâu đã được gọi bằng nhiều tên khác nhau, chẳng hạn như Saints Robed in White (các vị Thánh Áo trắng), the Great White Brotherhood (Đại đoàn Chưởng giáo), the White Lodge (Bạch đoàn), the Ascended Host, the heavenly Host (Đại đoàn Thăng thiên), các chân sư thăng thiên, và nhiều tên khác nữa. Vào thế kỷ 19, chúng tôi nhận được sự miễn phép đặc biệt để làm việc trực tiếp hơn với loài người và giúp những ai sẵn sàng lắng nghe biết đến sự hiện diện của chúng tôi.   

Chúng tôi đã truyền pháp tâm linh qua trung gian nhiều tổ chức và cá nhân. Hàng ngũ bóng tối đã cố gắng ngăn trở nỗ lực của chúng tôi bằng cách đưa ra một số lời dạy nhằm lừa dối con người. Vì vậy, không phải tất cả mọi lời dạy tự xưng là của chân sư thăng thiên đều thực sự đến từ chúng tôi. Sau đây ta sẽ giải thích chúng vận hành như thế nào.   

Ta đã có giảng chi tiết hơn về đề tài này ở một nơi khác, nhưng sau đây là một phiên bản ngắn gọn. Trong đạo Lão có biểu tượng Thái cực. Biểu tượng này mô tả hai lực bổ sung cho nhau, và sự tương tác hài hòa giữa hai thái cực sinh tạo ra toàn bộ vũ trụ. Đây là một lời dạy đúng đắn và một minh họa tuyệt vời của các nguyên lý thiêng liêng.

Con hãy để ý quan niệm chủ chốt ở đây: hai lực được mô tả trong Thái cực không loại trừ lẫn nhau. Cho dù hai thái cực có phẩm chất khác nhau, những phẩm chất này không đối nghịch với nhau. Cho nên khi hai lực, hay hai thái cực, kết hợp lại, sự tương tác đó tạo ra một khía cạnh mới cho thực tại. Tạo vật mới này hoàn toàn phù hợp với các quy luật của Thượng đế, và do đó nó bền vững. Nó sẽ không tự hủy diệt. Con cũng để ý thấy là hai thái cực không mang giá trị tương đối với nhau, và nếu bảo rằng một bên là thiện đối lập với bên kia là ác thì sẽ thật là vô nghĩa.

Các sinh thể sa ngã, hay sa nhân, đã tự đặt mình ra ngoài thái cực sáng tạo nói trên. Chúng đã nổi loạn chống lại dòng sáng tạo của Thượng đế, và chúng chỉ làm được vậy bằng cách bước vào tâm thức tách biệt, tâm thức nhị nguyên. Trong trạng thái tâm thức này, chúng không thể nhìn thấy một phẩm chất nào hoàn toàn không có đối nghịch. Cho nên hàng ngũ bóng tối không có khả năng nhìn thấy cái thiện tuyệt đối, hay vô điều kiện, của Thượng đế. Chúng chỉ thấy được cái thiện tương đối và cái ác tương đối. Nhưng cả hai thì đối nghịch lại với nhau và cùng khởi lên qua tâm thức nhị nguyên.

Nếu con đặt cái thiện tương đối và cái ác tương đối vào với nhau, chúng sẽ hủy diệt lẫn nhau, có nghĩa là chúng sẽ không bao giờ sáng tạo được một điều gì bền vững. Thật sự, thiện và ác tương đối sẽ luôn luôn bị khóa chặt vào thế phải đối chọi với nhau. Hàng ngũ bóng tối muốn con tin rằng con cần phải gia nhập cuộc đối đầu đó, và con cần phải phải giúp bên thiện tương đối chiến thắng bên ác tương đối. Tất cả chỉ là một màn hỏa mù, bởi vì nếu cái thiện tương đối tiêu diệt được cái ác thì đồng thời nó cũng tiêu diệt chính nó. Thế nhưng cái thiện tương đối sẽ không bao giờ tiêu diệt được cái ác tương đối, và bởi thế cuộc chiến đấu sẽ tiếp tục mãi mãi.   

Điều con thấy được qua phân biện Ki-tô là hàng ngũ bóng tối đã hình thành hai đối cực ngay trong bọn chúng – bởi vì chúng bắt buộc PHẢI làm như vậy một khi đã ở trong nhị nguyên. Một trong hai đối cực này là cái mà mọi người đều thấy được là hắc đoàn, là những sinh thể có dáng vẻ đen tối, nghịch loạn rõ ràng. Đây là những sinh thể tìm cách lừa gạt con người tin rằng xấu ác chỉ đơn giản là trái nghịch của Thượng đế, và nếu xấu ác chiến thắng thì chính nghĩa vẫn được hưởng lợi. Chúng cố dụ dỗ những người quyền lực, chẳng hạn qua vũ lực thô bạo, qua ma thuật đen, trò phù thủy hay cúng lễ Satan. Chúng tìm cách giúp cho cái ác tương đối chinh phục địa cầu.   

Đối cực thứ hai là cái mà chúng tôi gọi là hàng ngũ giả trá, hay ngụy đoàn, là những sinh thể trông không có vẻ gì là đen tối. Ngược lại là đằng khác, chúng còn tỏ ra hoàn toàn vô hại, thâm chí tâm linh. Kỳ thực, một số những sinh thể này còn tự xưng mình là chân sư thăng thiên, nên chúng là kẻ mạo danh. Một phần đáng kể những bài đồng bóng từ những người tự xưng là chân sư thăng thiên mà con tìm thấy trên mạng internet là của những sinh thể này. Có một cách để nhận diện chúng là nhận ra rằng chúng tự coi mình là kẻ thù của các sinh thể bóng tối, và chúng sẽ lôi kéo con vào cuộc chiến đấu đó qua một lối lý luận vô cùng xảo trá mà chúng tôi gọi là lý lẽ của rắn. Chúng tìm cách giúp cho cái thiện tương đối chinh phục địa cầu bằng cách tiêu diệt xấu ác.

Một điểm khác biệt chính yếu khác giữa Đại đoàn Ánh sáng với hàng ngũ bóng tối là Đại đoàn Ánh sáng luôn luôn tìm cách kết hợp, trong khi hàng ngũ bóng tối tìm cách chia rẽ. Sự thật tâm linh căn bản nhất là toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, tức năng lượng của Thượng đế. Cho dù hình dạng vỏ ngoài có là gì đi nữa, tất cả mọi thứ đều được tạo bằng bản thể của Thượng đế. Vì vậy, cho dù hình dạng vỏ ngoài có khác thì vẫn có một sự hợp nhất nền tảng vượt lên trên mọi sự khác biệt. 

Chìa khóa chủ yếu cho sự phát triển tâm linh là con người phải vượt qua ảo tưởng cho rằng có cái gì đó tách biệt khỏi Thượng đế, kể cả chính mình. Con người chỉ thực sự có một vấn đề duy nhất là sự cảm nhận mình tách biệt khỏi Thượng đế. Chìa khóa của phát triển tâm linh, chìa khóa của giác ngộ, là vượt qua ảo tưởng này của Maya.

Hàng ngũ bóng tối sẽ làm tất cả những gì chúng có thể nghĩ ra để ngăn cản con người vượt qua được ảo tưởng này. Chúng đã chọn đứng riêng ra khỏi Thượng đế. Một số còn tin rằng chúng đã tìm ra cách tạo dựng một thế giới nằm ngoài Thượng đế hay chống lại Thượng đế.

Kỳ thực, không có gì ngoài Thượng đế. Thượng đế là tất cả hiện hữu, và bản thể của Thượng đế ở khắp mọi nơi. Nếu Thượng đế ở khắp nơi thì làm sao có nơi nào mà không tìm thấy Thượng đế? Thượng đế thực sự ở mọi nơi, nhưng vì một số sinh thể đã được ban quyền tự quyết, chúng có thể tạo ra ảo tưởng là chúng tách rời khỏi Thượng đế. Nhưng ảo tưởng này chỉ hiện hữu trong tâm chúng thôi, và nó chỉ có thể tiếp diễn khi nào chúng còn trao sức mạnh cho nó bằng cách bám lấy ảo tưởng.

Thông điệp chính yếu của trang mạng của ta là khuyến khích mọi người bước đi trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Khi con bước trên đường này, con sẽ lần hồi có khả năng nhìn xa hơn ảo tưởng cho rằng con và mọi thứ trong thế gian tách biệt khỏi Thượng đế. Con đạt được khả năng nhìn thấy sự hợp nhất đằng sau sự đa dạng. Con cũng bắt đầu có nhận biết trực giác, sự phân biện nội tâm, cho phép con nhìn thấu qua các ảo ảnh và dối gạt của hàng ngũ bóng tối.

Con đừng lầm, các thế lực đó đã tồn tại từ rất lâu và chúng đã học được cách cư xử tương đối khôn khéo. Chúng rất lành nghề trong việc tạo ra những tư tưởng hay hệ thống tín ngưỡng chứa đựng nhiều sự thật, nhưng đâu đó chúng lại bỏ vào một vài câu nhằm duy trì mãi mãi ảo tưởng tách biệt. Trong một số trường hợp, cách duy nhất để phân biệt giữa ánh sáng và bóng tối là cảm thấy sự rung động. Khi con bước trên đường quả vị Ki-tô cá nhân, con sẽ học được khả năng đọc được độ rung và nói được sự khác biệt giữa ánh sáng và bóng tối.     

Nếu con chưa có khả năng trực giác này, trang mạng này có đăng tải một số dụng cụ để giúp cho tiến trình học tập của con nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, cũng sẽ rất hữu ích nếu con luôn nhớ rằng hàng ngũ bóng tối tìm cách chia rẽ trong khi Đại đoàn của Ánh sáng luôn tìm cách kết hợp.

Ghi chú của Kim Michaels: Nếu bạn muốn đọc những bài giảng chi tiết và đầy đủ về đề tài này, tôi xin giới thiệu quyển sách, Master Keys to Spiritual Freedom, do thày Maitreya truyền đọc. Trong đó bạn sẽ tìm thấy lời mô tả chi tiết nhất về sự kiện sa ngã.

Lời dạy căn bản về những gì xảy sau khi chết

Hỏi: Giê-su kính yêu, khi một linh hồn đi qua sự chuyển tiếp, xin thày giải thích linh hồn đi ngay về đâu và nó trải nghiệm những gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có câu trả lời chung cho câu hỏi này vì tất cả tùy thuộc vào tâm thức của dòng sống. Ta khuyên con nên đọc một số sách trong số rất nhiều sách về trải nghiệm cận tử (near-death experiences) và con sẽ nhanh chóng thấy được tâm thức của một người ảnh hưởng lớn lao đến nơi chốn mà dòng sống sẽ đi đến sau khi tách khỏi xác thân. Ta cũng đã có đưa ra lời giải thích căn bản về linh hồn/dòng sống trong một câu trả lời khác (bài về phân mảnh linh hồn) và con sẽ được lợi ích nếu con đọc bài đó trước khi con đọc tiếp bài này.

Có một số cách, hay đường hướng chung mà dòng sống có thể đi theo. Để hiểu điều này, con cần đọc giáo lý về bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất.

  • Các dòng sống ở trong một trạng thái tâm thức tiêu cực sẽ tạo ra một từ lực thu hút và bị hấp dẫn vào cõi cảm xúc. Cõi này có nhiều cấp độ, và những cấp độ thấp nhất rất tương tự như cái mà nhiều người xem là địa ngục. Dòng sống nào đã tham gia vào các hoạt động phản tâm linh, chẳng hạn như thờ Satan, các hình thức phù thủy, ma thuật, tội ác hay bạo động, đi vào những cấp độ thấp nhất, thường gọi là cõi trung giới. Dòng sống nào bị tràn ngập bởi giận dữ hay hận thù, bởi hối hận hay những loại tình cảm tiêu cực khác, đi vào những cấp độ cao hơn của cõi cảm xúc. Các dòng sống đã tự vận cũng đi vào đấy. 
  • Một số dòng sống rất gắn bó với cơ thể vật lý hay đời mình trên địa cầu, sẽ cảm thấy khó lòng buông bỏ những dính mắc này đối với xác thân hay đối với thế gian, cho nên họ sẽ ở lại cấp độ cao nhất của cõi cảm xúc, là cõi gần nhất với thế giới vật chất về rung động. Trên hành tinh này có những nơi chốn vật lý có độ rung thấp đến độ hai cõi vật lý và cảm xúc gần như chồng chập lại – hoặc có thể gọi đó là những cánh cổng giữa các cõi với nhau. Các dòng sống này trở thành những sinh thể mà một số nhà tâm lý cũng như một số giáo lý tâm linh gọi là hồn không xác. Hồn không xác đi lang thang khắp dải tần số của vật chất và thường bám vào những người đang hiện thân. Và điều này khiến cho những người này gặp phải những vấn đề tâm lý, thậm chí cả vật lý, mà hồn không xác đã phải gặp trong kiếp đầu thai vừa qua của nó.    
  • Những người vô cùng vật chất đã phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế sẽ có khuynh hướng tụ tập ở cõi lý trí. Ở cõi này có nhiều cấp độ nơi dòng sống sẽ tham gia vào các sinh hoạt có tính cách rất trí thức. Những người loại này có khả năng vươn lên cao hơn nhưng họ lại không làm vậy chỉ vì họ không tin là họ có thể đi đâu khác.
  • Các dòng sống tâm linh hơn đi vào cõi bản sắc nơi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, có những khóa nhập thất trong cõi ether. Đây quả là điều lý tưởng và thật ra cũng là điều đã được trù định cho mọi dòng sống. Ở đây họ sẽ nhận được sự hướng dẫn và hàn gắn để chuẩn bị cho kiếp hiện thân kế tiếp – hay trong một số trường hợp, cho việc thăng thiên.   

Vậy con đã thấy, có nhiều cấp độ trong các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, và do đó không có trải nghiệm nào gọi là điển hình. Các cõi phi vật lý linh hoạt và lưu động hơn thế giới vật chất rất nhiều, và vì thế sự trải nghiệm của dòng sống sẽ luôn luôn thích nghi với nhu cầu cá nhân của nó. Tuy nhiên, nếu con tìm hiểu các trải nghiệm cận tử, con sẽ thấy là nhiều dòng sống kinh qua cùng những giai đoạn tổng quát giống nhau: 

  • Dòng sống tách khỏi cơ thể và thường bay bổng ở trên cơ thể.
  • Dòng sống nhìn thấy một ánh sáng rực rỡ và di chuyển vào ánh sáng đó.
  • Dòng sống đi qua một đường hầm và đến nơi có ánh sáng rực rỡ, ở đó nó thường gặp thân nhân đã quá cố, hoặc những sinh thể tâm linh mà nó đã có sự liên hệ.
  • Dòng sống được thoải mái như ở nhà và thường kinh qua một sự duyệt xét kiếp sống vừa qua của mình.

Trong trường hợp những người có trải nghiệm cận tử, họ có sự chọn lựa là trở về hiện thân hay không. Hiển nhiên họ đã chọn giải pháp này, và đó là lý do họ mới kể lại được kinh nghiệm cận tử của họ. Tuy nhiên, nhiều dòng sống không có sự chọn lựa đó, giản dị là vì họ đã tới thời và họ phải bỏ lại cuộc sống, tiếp tục bước tới.

Sau khi kinh qua giai đoạn tiếp đón sơ khởi vào cõi tâm linh, dòng sống thường bước tiếp vào những trung tâm học hỏi hay chữa lành nơi họ sẽ chuẩn bị cho kiếp đầu thai tới. Trong một số trường hợp, dòng sống sẽ trở lại tái đầu thai rất nhanh chóng. Và trong những trường hợp khác, dòng sống có thể sẽ không tái đầu thai trong một thời gian rất dài, có thể cả ngàn năm nếu đo theo thời gian trên địa cầu. Một số dòng sống khác thậm chí còn đầu thai ở hành tinh khác trước khi trở về địa cầu hiện thân.

Một số dòng sống tiến hóa cao độ tới mức họ không cần phải tái đầu thai nữa, và trong trường hợp này họ có một số chọn lựa. Nếu dòng sống đã cân bằng mọi nghiệp quả, giải quyết mọi vấn đề tâm lý và đã làm tất cả những gì nó muốn làm trên địa cầu, nó có thể thăng thiên ngay tức khắc vào cõi tâm linh nơi nó có thể trải qua một thời gian học hỏi và hòa nhập với cái ta tâm linh của nó, hay Hiện diện TA LÀ. Sau đó, dòng sống có thể chọn ở lại với địa cầu, phụng sự như một chân sư thăng thiên, như một vị thày tâm linh, để giúp những người chưa thăng thiên phát triển tâm linh. Những dòng sống chọn giải pháp này được biết tới dưới danh hiệu bồ tát. Những dòng sống còn lại không chọn ở lại với điạ cầu và di chuyển tới những cõi khác của thế giới tâm linh, nơi họ sẽ tiếp tục học hỏi và tăng trưởng, hay ngay cả đảm nhiệm một số trách vụ tâm linh.

Nếu một dòng sống chưa cân bằng hết nghiệp quả (nhưng đã cân bằng đủ để khỏi phải trở về tái đầu thai, nghĩa là hơn 51%), nó sẽ cần cân bằng khối nghiệp này trong cõi bản sắc. Điều này khó khăn hơn rất nhiều so với việc cân bằng nghiệp quả khi còn đầu thai, và vì vậy việc nỗ lực cân bằng nghiệp khi còn hiện thân trên địa cầu thật là quan trọng. Thật vậy, con sẽ thấy khắp các kinh sách viết rằng ta chủ trương một cách phát triển tâm linh nhắm trực tiếp vào việc giúp con người cân bằng tối đa nghiệp quả của mình trong một thời gian ngắn nhất.  

Điểm này sẽ giải thích một số lời dạy của ta mà nhiều người coi là quá cấp tiến, thậm chí cực đoan. Chẳng hạn, hẳn con nhớ ta bảo người giàu có kia đem cho hết tiền bạc cho người nghèo (Matthew 19:16-26). Ta không nói là mọi người phải đem cho hết của cải của mình, tuy nhiên đối với dòng sống đặc thù đó và đối với nhiều dòng sống khác trong cùng hoàn cảnh, cách duy nhất họ có thể cân bằng mọi nghiệp quả của mình trong phần đời còn lại là đem cho hết tài sản và đặt trọng tâm đời mình vào những hoạt động tâm linh.

Tất nhiên, mỗi người sẽ mỗi khác, mỗi người có sứ mạng khác nhau và nghiệp quả khác nhau. Vì vậy, ta không muốn mọi người nắm lấy lời nhận xét trên để áp dụng cho bản thân mình. Tuy nhiên khi lớn tuổi hơn, điều có thể vô cùng lợi ích là họ bắt đầu nghĩ xem họ cần làm gì cho phần đời còn lại của mình hầu cân bằng tối đa nghiệp quả và hoàn thành sứ vụ của mình trong kiếp này. Nếu họ sử dụng bài tập để hòa điệu nội tâm với ta cùng những dụng cụ tâm linh khác, ta có thể cam đoan là hầu hết sẽ nhận được sự hướng dẫn nội tâm đó, với kết quả là họ thường thay đổi cuộc sống một cách đáng kể, nỗ lực tinh tấn tối đa và tận dụng cơ hội mà sự sống đem lại. Một trong những cách hữu hiệu nhất để cân bằng nhanh chóng những khối nghiệp chướng to lớn là sử dụng những bài thỉnh và bài chú.

Ta xin nói ở đây là cho dù trạng thái tâm thức của dòng sống có thế nào đi nữa, mỗi dòng sống sẽ rời khỏi cơ thể vật lý sau khi cơ thể chết đi. Khi nó đã ra khỏi cơ thể – thường là ngay sau khi chết – nó sẽ thấy được ánh sáng dẫn nó tới cõi tâm linh. Cho nên mọi dòng sống khi rời xác thân đều có cơ hội đi đến cõi tâm linh – không có ngoại lệ. Mổi dòng sống đều có cơ hội đi lên cao hơn.

Tuy nhiên, như ta đã giải thích khắp trang mạng này, mọi sự trong thế giới này đều tùy thuộc vào ý muốn tự quyết của cá nhân dòng sống. Và nếu nó từ chối không bước vào ánh sáng, nó sẽ phải ở lại một trong những cấp độ thấp hơn tùy theo trạng thái tâm thức của nó. Đây là lý do tại sao chúng tôi, các chân sư, đã đỡ đầu cho rất nhiều trải nghiệm cận tử. Chúng tôi muốn mọi người hiểu rằng mọi dòng sống đều có sự chọn lựa để bước vào ánh sáng và nhận được hàn gắn và học hỏi.

Tuy nhiên để vào được ánh sáng, dòng sống phải chọn làm điều này sau khi nó vừa tách khỏi thân xác. Và trạng thái tâm thức của nó ngay trước khi chết sẽ ảnh hưởng lớn lao đến khả năng chọn lựa ánh sáng của nó. Như ta đã có giải thích, một số người quả thật đã tự đặt mình vào tư thế khiến dòng sống của mình gần như không làm sao chọn được ánh sáng. Nhưng họ có thể thay đổi sự thể này nếu họ chịu chuyển đổi tâm thức. Ngay cả khi sự chuyển đổi này xảy ra chỉ năm phút trước khi chết, dòng sống cũng sẽ được trợ giúp lớn lao sau khi chết.

Ta cũng xin nói là ta thực sự khuyên mọi người hãy tìm hiểu về các trải nghiệm cận tử và thay đổi cách nhìn của mình về cuộc sống, về dòng sống và về cái chết. Tuy nhiên, nếu con đã sống một cuộc đời tâm linh, bất kể con theo tôn giáo nào (hay ngay cả con không chính thức theo một tôn giáo nào), con không có gì phải lo sợ trong cái chết. Bài học duy nhất mà con nên rút tỉa từ tất cả các trải nghiệm cận tử là sự chết không phải là một tiến trình khó chịu mà là một cảm giác giải thoát tràn trề. Vì vậy, nếu con đã thực tâm cố gắng là một con người tốt thiện cho dù con không theo đạo nào, thì con không có gì để lo sợ cái chết. Quả thật đó sẽ là một kinh nghiệm thú vị cho dòng sống, miễn là dòng sống chọn bước vào ánh sáng và đi tiếp đến cõi cao hơn.

Cư xử thế nào khi có người cố đánh phá niềm tin tâm linh của mình

Hỏi: Thày Giê-su và các chân sư khác có đề cập đến nhu cầu chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Nhưng khi con làm vậy, thường khi con phải đối mặt với thái độ rất tiêu cực của người kia khi họ có vẻ cảm thấy bị đe doạ bởi những ý tưởng không phù hợp với niềm tin của họ. Con có thể hiểu được phản ứng đó từ những tín đồ Cơ đốc cực chính thống, nhưng thường khi con cũng gặp phản ứng này từ những người Thời Mới (New Age). Thậm chí con còn gặp cả những người nổi giận, hoặc họ chế nhạo và miệt thị niềm tin của con hay toàn bộ ý tưởng về các chân sư thăng thiên. Vì lý do này, con có một số bạn hữu không còn dám nói gì về niềm tin tâm linh của mình nữa vì không muốn đương đầu với loại năng lượng tiêu cực này. Liệu thày Giê-su có nhận xét gì về lý do tại sao chúng con lại gặp phản ứng như vậy, và chúng con có thể làm gì để khỏi cảm thấy bực bội hay bị ruồng bỏ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một vấn đề mà nhiều người tầm đạo chân thành gặp phải. Là một người tâm linh trong thế giới hiện đại tại phương Tây, con không thể nào tránh khỏi những kẻ sẽ thẳng thừng gạt bỏ niềm tin tâm linh của con. Con sẽ gặp sự chống đối từ những người vô thần hay duy vật, từ những tín đồ Cơ đốc chính mạch và thậm chí cả từ những người có vẻ là tâm linh cho rằng đạo sư của họ, học thuyết của họ hay tổ chức của họ mới là chân chính duy nhất.

Ta đã thấy biết bao nhiêu người tầm đạo chân thành, phản ứng lại một cách bực dọc khi họ gặp phải thái độ tiêu cực đối với niềm tin và cách sống của mình. Trong nhiều trường hợp, điều này đã dẫn tới những cuộc tranh luận vô bổ. Rất có thể cả hai bên sau đó đều nổi giận lên và làm tha hóa thêm năng lượng, nhưng họ vẫn không tìm được một điểm chung hay một cách giải quyết nào.

Là một người tầm đạo tâm linh chân thành, con cần nhận ra một sự thật cơ yếu về con đường tâm linh. Mục đích thực sự là để con vươn lên trên tâm thức nhị nguyên, như ta có giải thích trong các bài giảng về tự ngã. Khi con thực sự vươn lên cao hơn những ảo tưởng nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, con sẽ đạt tới cái mà đức Phật gọi là giác ngộ, và trong trạng thái này, tâm con sẽ hoàn toàn an bình. Tuy nhiên như đức Phật cũng có dạy, chìa khóa để đạt được an bình nội tâm là vượt qua MỌI sự dính mắc với bất cứ điều gì trên địa cầu.  

Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo tâm linh, con phải luôn luôn tìm xem mình còn dính mắc điều gì hay không. Như ta có nói cách đây 2000 năm: “Trước hết con phải lấy cái xà khỏi mắt con, rồi con mới thấy rõ và lấy hạt bụi khỏi mắt người anh em” (Matthew 7:5).

Cho nên khi con phát hiện bất kỳ dính mắc nào, con cần soi vào gương và khám phá ra cái tin tưởng nhị nguyên đã gây ra dính mắc. Sau đó con mới có thể với tới sự thật của Ki-tô sẽ giải phóng con khỏi ảo tưởng nhị nguyên, là điều mà Phật gọi là Maya. Bất cứ khi nào con nhận ra là con không an bình về một điều gì đó, con cần tìm ra nguyên nhân bên dưới và lấy cái xà ra khỏi mắt con. Nếu con bị bực dọc bởi phản ứng của người khác, điều này có nghĩa là con cần buông bỏ dính mắc đó.  

***

Ở giai đoạn đầu của đường tu tâm linh, con thường rất dễ bị tác động bởi phản ứng tiêu cực của những người đặt vấn đề, chỉ trích niềm tin của con. Điều này cũng dễ hiểu, và lý do sâu xa là vì con chưa trụ neo vững chắc vào các niềm tin tâm linh. Con cảm thấy bất an vì ở một mức độ nào đó, con nhận ra là con còn một số mâu thuẫn trong thế giới quan của mình, con còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, và con chưa thể nhập các giáo lý vào đời sống hàng ngày của mình.

Hệ quả là con vẫn mang một nỗi sợ hãi tiềm ẩn rằng con có thể bị sai, rằng con có thể đang đi theo một giáo lý giả trá, hoặc toàn bộ con đường tu tâm linh có thể chỉ là ảo ảnh. Cho nên con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng đối với những người có thái độ cực kỳ phê phán, và điều đáng buồn là đã có nhiều người bị những kẻ tiêu cực như vậy khiến họ bỏ đường tu.

Thật ra, có hẳn cả một băng đảng những tà thể gọi là Đám Phá rối (the Spoilers) luôn luôn tìm kiếm những người mà chúng có thể kéo ra khỏi đường tu. Những tà thể này thường làm việc qua trung gian những người chưa vượt qua được nghi vấn của mình.  Và những người này trở thành những nhà “phản truyền giáo”, chuyên môn đi bới móc những gì họ xem là khuyết điểm trong niềm tin của người khác. Người nào mà rơi vào cám đỗ này cũng sẽ trở thành công cụ cho tà thể, và họ lại bắt đầu đi ảnh hưởng người khác, và đây là cách mà chúng có thể lan rộng ra như vòng nước trên mặt hồ. Có những tổ chức tâm linh – hoàn toàn chính đáng, và trong một số trường hợp, được các chân sư thăng thiên hỗ trợ – đã bị kéo sập toàn diện bởi những kẻ làm cánh tay nối dài cho Đám Phá rối.

Nhưng những ai sống sót được đợt tấn công tiên khởi đó, cuối cùng sẽ trở nên neo chặt vào bản thân. Khi con dần dần trưởng thành trên đường tu, con sẽ bắt đầu vượt qua những giới hạn của mình và tự nhiên con sẽ chú tâm vào những cách giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, điều này sẽ khiến con đối mặt với một tầng cấp khai ngộ cao hơn liên quan đến cách phản ứng của con khi người khác có thái độ tiêu cực đối với nỗ lực trợ giúp trong sáng nhất của con.   

***

Trong bối cảnh này, điều quan trọng là nhận ra rằng nhiều người chín chắn về mặt tâm linh thường mang một ký ức nội tâm về cách tương tác nơi cõi tâm linh. Đã có một thời kỳ khi một số sinh thể tâm linh đã trở nên tiêu cực, phán xét và hay buộc tội, như được mô tả trong kinh Khải huyền: “Tôi lại nghe có tiếng nói lớn trên trời rằng: Bây giờ sự cứu rỗi và sức mạnh đã đến, cùng với vương quốc Thượng đế chúng ta và quyền năng đấng Ki-tô của ngài, vì kẻ buộc tội anh em chúng ta, kẻ đã ngày đêm buộc tội anh em trước mặt Thượng đế, nay đã bị quăng xuống rồi.” (Revelation 12:10)

Như chúng tôi đã giải thích, cuối cùng thì những sinh thể phán xét đó đã được gửi xuống cõi vật chất, một phần như là những linh thể không hồn, và một phần như những con người đầu thai. Và chúng vẫn cứ tiếp tục lên án mọi người như trước, chỉ khác một điều là bây giờ chúng không còn buộc tội trước mặt Thượng đế đích thực mà trước một thượng đế giả hiệu mà chúng đã tạo ra. Điều quan trọng ở đây là tất cả những ai đã chín chắn tâm linh cần phải vươn lên khỏi nhu cầu phán xét và buộc tội người khác. Và như vậy, họ mới có được một lối tương tác văn minh khi họ không cảm thấy một hệ thống tín ngưỡng hay một tổ chức nào phải vượt trội hơn hay phải là tổ chức đúng đắn duy nhất.    

***

Trên đường tu tâm linh, có một số bước ngoặt. Một bước ngoặt quan trọng là khi con sẵn sàng nhìn xa hơn những tin tưởng hiện tại của mình và xét đến một số ý tưởng mới. Đối với một số người, điều này có nghĩa là họ sẽ rời bỏ tôn giáo mà họ đã lớn lên và tìm kiếm một giáo lý và một tổ chức tâm linh mới. Một số khác sẽ ở lại với tôn giáo của mình nhưng họ sẽ đổi mới cách tiếp cận với tôn giáo đó. Dù bằng cách nào đi nữa thì trong những bước đầu của giai đoạn này, họ sẽ có niềm tin mạnh mẽ rằng phải có một đạo sư/giáo lý/tổ chức đích thực duy nhất mà thôi, và tất cả mọi con đường khác đều sai lầm.

Nằm bên dưới niềm tin này là sự cảm nhận rằng con không thể tự mình cứu rỗi chính mình, cho nên con cần sự giúp đỡ từ ngoài. Nếu con có niềm tin này thì chẳng có gì sai trái (cho dù chính niềm tin đó thì sai lầm), bởi vì đây là một giai đoạn bắt buộc mà ai ai cũng đi qua. Vấn đề là khi con suy nghĩ như thế, con cũng sẽ có một cái nhìn trắng đen về thế giới. Và điều này khiến con cho rằng con hoàn toàn có lý và bất cứ ai không đồng ý với con đều sai lầm – có thể là họ đang a dua với tà lực, hoặc bất cứ cách diễn tả nào khác.

Điều thực sự xảy ra trong giai đoạn này là con không sẵn sàng nhận trách nhiệm toàn diện về đường tu và sự cứu rỗi của con. Cho nên con vẫn phóng chiếu trách nhiệm đó ra cho ai khác. Đó là tại sao con sẽ nghĩ rằng một kỹ thuật tâm linh nào đó sẽ giải quyết mọi vần đề của con như trong phép lạ. Con chưa có khả năng chấp nhận sự thật rằng trước khi hoàn cảnh vỏ ngoài của con thay đổi thì con phải thay đổi hoàn cảnh nội tâm của con trước đã.  

Bước ngoặt kế tiếp trên đường tu sẽ đến khi con đủ trưởng thành để bắt đầu tìm kiếm cái xà trong mắt mình thay vì nhìn thấy, hay phóng chiếu ra, những cái giằm trong mắt người khác. Trước điểm quẹo này thì con vẫn còn học hỏi qua giáo lý vỏ ngoài cùng những trải nghiệm trong đời – nói cách khác, đó là trường đời cay đắng. Trong tư cách là một thày tâm linh, ta chờ đón thời điểm khi một dòng sống trở thành “dạy dỗ được” – khả huấn – nghĩa là dòng sống nay đã sẵn sàng có sự liên hệ nội tâm trực tiếp với vị thày tâm linh. Đây là điểm khi con gia nhập trường học chỉ đạo nội tâm thay vì trường đời vỏ ngoài.

Yếu tố chủ yếu của con đường tâm truyền này là con luôn luôn soi gương và tìm xem có cách nào con cải thiện được chính mình. Con ngừng không tìm kiếm lầm lỗi nơi người khác để làm cái cớ cho mình khỏi phải cải thiện bản thân. Chính sự sẵn lòng tự thay đổi này khiến con trở thành khả huấn, cho nên đây là một đức tính tuyệt vời mà ta hoàn toàn không có ý chê bai.

Tuy nhiên khi trưởng thành tâm linh hơn, con cần nhận ra rằng cái khuynh hướng luôn muốn tự cải tạo có thể đi quá đà, và điều này đặc biệt đúng trong quan hệ với người khác. Là người tầm đạo chân thành, con có xu hướng nghĩ rằng nếu con có bất đồng, xung đột hay thậm chí một sự khác biệt quan điểm với ai khác, thì con là người cần phải tự cải thiện. Điều này chỉ đúng cho tới một điểm nào đó thôi, bởi vì cho tới khi nào con còn dính mắc và chưa bình an, thì đúng là con cần tự cải thiện.

Tuy nhiên, cái mà con cần cải thiện KHÔNG phải là khả năng lý luận thuyết phục người khác, mà là khả năng phân biện xem người đó có khả huấn hay không. Và khi con nhận ra là người đó không khả huấn, con cần buông bỏ mọi ham muốn giáo huấn họ, và con hoàn toàn an bình với sự kiện họ tin chắc tuyệt đốt là con sai lầm, và con cũng tuyệt đối không thể làm gì được để khiến họ thay đổi ý kiến. Con chỉ cần buông chuyện đó ra và bước đi.

***

Ta hoàn toàn hiểu được là nhiều người tầm đạo chín chắn đã trau dồi một lòng chân thành muốn giúp người, và điều này chính là điều đánh gạt họ. Nếu cá nhân con đã vượt lên trên tư duy trắng đen thì con dễ dàng thấy được người kia đang bị kẹt trong lối tư duy này. Con biết tư duy này sẽ chỉ khiến cho người kia bị đau khổ, con biết họ cần thoát ra, và con vô cùng mong muốn họ tăng trưởng càng nhanh càng tốt hầu tránh khỏi mọi đau khổ. Nhưng con cần nhận ra là khi nào họ còn bị kẹt trong tư duy đen trắng thì họ không là người khả huấn. Họ chưa cởi mở ra để nhận được giáo lý tâm linh cao hơn mà con thấy được.  

Ta thông cảm được sự cám dỗ của con. Con thấy rõ sự ngụy biện trong lập luận của người kia. Và con dư sức nghĩ ra môt lập luận hoàn toàn hữu lý mà con cho là sẽ chứng minh những thiếu sót trong niềm tin của họ. Và con nghĩ rằng nếu con đưa ra lập luận này cho họ, ho sẽ phản ứng y như là con sẽ phản ứng. Thế nhưng con cần hiểu là chính vì người đó không ở cùng mức tâm thức như con, cho nên họ sẽ KHÔNG phản ứng lại giống như con!

Lập luận của con sẽ hoàn toàn không có ký gì hết đối với họ khi nào họ chưa vượt lên khỏi tầm mức suy nghĩ trắng đen. Cho nên điều tốt nhất mà con có thể làm là chấp nhận những người như thế cần phải ở lại trong trường đời cay đắng cho tới khi họ bị cay đắng quá nhiều lần đến độ họ phát ớn. Và cuối cùng họ sẽ thốt lên: “Ủa, có ai đang gõ cửa vậy? Có ai đang muốn nói với tôi điều gì và đang gõ cửa kia kìa?”

Con cần phải nhận ra rằng hành tinh này là một lớp học, và lớp học đã được thiết kế khôn ngoan để nhận đủ mọi loại học sinh. Các hoc sinh vỡ lòng đang học trường đời cay đắng, và họ cần ở lại đó cho tới khi họ sẵn sàng lên lớp. Cho nên nếu con là một người tầm đạo đã chín chắn hơn, con nên tránh có những sự tương tác nơi con tìm cách lý luận với trạng thái tâm thức của họ. Thay vào đó, con nên tập trung sự chú ý của con vào những người đã leo lên tới mức khả huấn.  

Để giúp con làm được điều này, ta gửi con câu sau đây để con suy ngẫm: “Vì mục đích đó mà ta đã sinh ra, và vì công cuộc đó mà ta đã giáng thế, đó là để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì hãy nghe giọng ta.” (John 18:37)  

Đây là vai trò của của những ai đại diện cho tâm thức Ki-tô trên địa cầu, và mọi người tầm đạo chân thành đều nên nỗ lực trở thành một người trong số đó. Tuy nhiên, để thực sự đại diện được Ki-tô, con phải cố gắng đạt được sự không dính mắc.

***

Con đạt được sự không dính mắc bằng cách suy ngẫm về luật tự quyết. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết. Điều này có nghĩa là khi con gặp gỡ một người phán xét, buộc tội con hay niềm tin của con, con hoàn toàn chấp nhận cho người đó có quyền có quan điểm đó cũng như bày tỏ quan điểm đó. Nếu quan điểm của họ phát xuất từ một tư duy đen trắng, rõ ràng là thiên vị hoặc thiếu chính xác, con hoàn toàn chấp nhận là họ có quyền ở mức tâm thức của họ.

Nhưng sau đó con cũng nhận ra là con có quyền tự quyết của con, nghĩa là con có quyền có những niềm tin mà con có, và sống cuộc đời của con mà hoàn toàn không bị những người bất đồng ảnh hưởng. Khi con thực sự chấp nhận quyền tuyệt đối của con để sống theo niềm tin của mình, thì con mới có thể tránh khỏi bị những người bất đồng đe dọa mình. Con cũng tránh khỏi cảm giác mình bị bó buộc phải cứu họ ra khỏi chính họ. Và như thế, con nay có khả năng nói lên sự thật cao nhất mà con thấy được mà đồng thời hoàn toàn không dính mắc vào phản ứng của người kia, thậm chí con còn không có bất kỳ mong muốn họ sẽ phản ứng ra sao.  

Con có thấy được điều ta muốn nói? Có một sự khác biệt vi tế nhưng cơ yếu giữa việc nói lên sự thật với ý định thuyết phục người khác và việc nói lên cùng sự thật đó một cách hoàn toàn không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, con có thể nói lên cùng một sự thật, ngay cả dùng cùng những từ ngữ, nhưng ý định của con thì khác hẳn. Và khi ý định của con hoàn toàn tinh khiết, con không vướng mắc vào kết quả. Con chỉ làm hành động chính đáng mà không bám mắc vào quả trái của hành động.  

Ta muốn nói rõ, đây là một mục tiêu để con cố đạt được, cho nên con không nên tự chê trách mình nếu con không đạt được ngay lập tức. Khi con sống trong thế giới vật chất, con rất dễ bị choáng ngợp bởi những áp lực đủ kiểu. Chính ta cũng không luôn luôn bình thản khi ta bước chân trên địa cầu cách đây 2000 năm, và đó là tại sao ta đã nóng giận khi ta lật bàn ghế của bọn đổi tiền, hay khi ta gay gắt một cách không cần thiết với các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay cả khi ta thường hay cáu kỉnh với các môn đồ của ta. Dù sao đi nữa, điều quan trọng cho người tầm đạo trưởng thành là nhận ra tầm quan trọng của sự không dính mắc toàn diện, và cố gắng đạt được sự không dính mắc thay vì nghĩ rằng mình phải cố gắng thuyết phục người khác giỏi hơn.       

***

Ta không muốn người đọc bài này lý luận rằng mình không bao giờ được đáp trả lại những người có tư duy đen trắng. Có nhiều trường hợp mà sự trả lời sẽ hoàn toàn vô ích và chỉ lãng phí thời gian lẫn sức lực của con. Nhưng trong một số trường hợp, việc trả lời sẽ là điều thích đáng hầu con làm chứng cho sự thật cao hơn mà con nhìn thấy. Và khi con vượt lên trên nỗi bực đọc, con sẽ có tự do để trực nhận lúc nào mình cần trả lời và lúc nào mình bước đi.   

Ta cũng muốn nói rõ là con không nên sử dụng tâm trí vỏ ngoài để lượng định xem người kia có khả huấn hay không. Đừng rơi vào cám dỗ đánh giá theo bề ngoài. Chẳng hạn, khi người kia cởi mở với những tư tưởng mới, điều này không có nghĩa là họ đã nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân họ, hay ngay cả đã hiểu được rằng chìa khóa của sự thay đổi ngoại cảnh chính là sự thay đổi nội cảnh. Có những người cứ nhảy từ đạo sư này tới đạo sư kia, từ giáo lý này sang giáo lý kia, mà vẫn không đạt tới cái nhận biết sẽ biến họ thành người khả huấn. Thậm chí có cả những người đã theo học các chân sư thăng thiên từ hàng thập niên mà vẫn không khả huấn, bởi vì đơn giản họ vẫn chưa sẵn lòng soi mình trong gương. Cho nên, con phải đi xa hơn cái trí vỏ ngoài và bước theo sự hướng dẫn bên trong của con.

***

Ở cấp độ thấp nhất của tư duy đen trắng là những người tin rằng tôn giáo mà họ đã lớn lên là tôn giáo chân chính duy nhất. Nói cách khác, họ đã không chọn gia nhập tôn giáo đó và cũng chưa từng chất vấn xem nó có căn cứ đến đâu. Ở mức này, sẽ có rất ít tăng trưởng vì họ không mở tâm ra cho ý tưởng mới.  

Ở cấp độ kế tiếp là những người đã cởi mở ra với ý tưởng mới. Đây là những người thường rời bỏ tôn giáo của tuổi thơ để đón nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên họ vẫn chưa thoát ra khỏi tư duy đen trắng, và bây giờ họ phải dán nhãn cho tôn giáo cũ là hoàn toàn sai lầm và tôn giáo mới là hoàn toàn đúng đắn. Đây là một bước tiến tiềm năng, bởi vì ít ra họ đã khởi sự chuyển bước. Tuy nhiên, hiểm họa nằm sẵn bên trong là tự ngã sẽ đưa họ vào một con đường quanh co sẽ tốn họ rất nhiều thời gian. Có một cơ chế tâm lý là để rời bỏ một hệ thống tín ngưỡng và chấp nhận một hệ thống mới, người ta phải chấp nhận là cái cũ sai lầm, tức là mình đã bị những ý tưởng sai lầm lừa dối.

Trong hầu hết trường hợp, người ta sẽ tránh né chuyện này ở mức ý thức bằng cách quy tất cả trách nhiệm cho tôn giáo cũ và bảo rằng mình đã bị đánh lừa, thao túng, ép buộc, tẩy não hay bất cứ lý do nào khác. Nhưng ở mức tiềm thức, họ biết rằng nếu họ đã bị đánh lừa một lần rồi thì họ có thể bị đánh lừa một lần nữa. Cho nên mặc dù họ đã có tiến bộ, tư duy đen trắng của họ có nghĩa là họ đã phải mua sự tiến bộ đó với giá cao, là cái giá của sự bất an nội tâm sâu sắc.

Để đối phó với sự bất an này, việc thấy mình đang làm đúng trở thành vô cùng quan trọng. Nói cách khác, họ phải có lý khi họ vạch trần tín ngưỡng cũ, và họ cũng phải có lý khi họ trình bày tín ngưỡng mới là hoàn toàn đúng. Tự ngã sử dụng nỗi bất an này để kiểm soát họ và ngăn cản họ vươn lên mức cao hơn nơi họ nhận trách nhiệm về bản thân và do đó bỏ lại đằng sau lối suy nghĩ đen trắng.    

Như ta đã giải thích trong các bài giảng về tự ngã, phương thức vận hành của tự ngã là nó nâng một ý tưởng nào đó lên địa vị không thể sai lầm, tức là không bao giờ được phép chất vấn. Thế là tự ngã nay thuyết phục những người đó là họ không bao giờ được cho phép mình bị chứng minh là sai lầm, bởi vì nếu họ sai lầm, một điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra. Cho nên họ bước vào một tư duy thường xuyên cảm thấy mình bị đe dọa, và họ không ngừng tìm cách bác bỏ mọi ý tưởng hay quan điểm nào có thể cho thấy là mình sai. Tất nhiên, điều này sẽ khiến họ không thể nhìn nhận lỗi lầm, và nếu không thể nhìn nhận lỗi lầm thì làm thế nào họ sẽ học hỏi và tăng trưởng được đây?

***

Thế là bây giờ họ bước vào một lối tư duy nơi họ dồn mọi nỗ lực tâm trí để chứng minh là mình đúng. Và một khía cạnh của tâm lý này là họ cảm thấy một nhu cầu muốn đi truyền giáo. Vì thật vậy, nếu họ có thể cải đạo cả thế giới vào hệ thống tín ngưỡng của họ thì tự ngã sẽ cảm thấy là nó đúng. Và họ bắt đầu đi cổ võ cho tín ngưỡng của họ một cách hung hăng, nhưng vì họ vẫn suy nghĩ đen trắng cho nên họ không thể chỉ tập trung vào chuyện nói tốt về tín ngưỡng của mình, mà họ cũng phải nói xấu về tín ngưỡng của người khác. Cách lý luận của tự ngã là nếu có thể phá hủy được niềm tin của người khác, thì rồi người đó sẽ phải chấp nhận hệ thống của mình là hệ thống đúng đắn độc nhất.     

Trên cơ bản khi làm như vậy, những người như thế đã tự đặt mình vào một tâm trạng không ngừng xung đột với tất cả những ai không đồng ý với mình. Họ phải bác bỏ tất cả những gì có vẻ đe dọa niềm tin của họ, và họ phải tiêu diệt niềm tin của người khác. Kỳ thực, đây chính là chủ trương của tự ngã cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Mặc dù họ thường biện hộ là họ chỉ đang cố cứu cho người khác khỏi rơi vào địa ngục, nhưng thực tế là họ đã bị tự ngã hoàn toàn khống chế, và thường khi họ cũng bị khống chế bởi những tà thể mà ta gọi là Đám Phá rối. Và như vậy, họ sẵn lòng phá nát tín ngưỡng của người khác hầu bảo tồn tín ngưỡng của mình.      

Thật ra, tự ngã của những người như thế không có chủ ý muốn chứng minh một hệ thống tin tưởng nào là hệ thống đúng đắn duy nhất. Đơn giản, tự ngã chỉ đang cố đánh lạc hướng sự chú ý của họ để họ không phát hiện ra tự ngã và bắt đầu gỡ cái xà khỏi mắt mình. Cũng vậy, các tà thể không hề có ý muốn chứng minh sự vượt trội của bất kỳ hệ thống tin tưởng nào. Chúng chỉ cố lừa gạt người ta nhảy vào những trận chiến tín ngưỡng bất tận, để họ làm tha hóa năng lượng mà các tà thể rất cần hầu sống sót.   

Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo đã chín chắn, con cần nhận ra là nếu con đối thoại với ai đó để cố thuyết phục họ là niềm tin của họ sai lầm, thì con đang đe dọa nền tảng cái nhìn của họ về cuộc sống. Đối với họ, việc không bao giờ bị chứng tỏ là sai chính là một vấn đề sinh tử. Chẳng hạn, nếu con cố sửa sai một điều gì mà họ đã nói – cho dù là họ sai trái rành rành – thì họ sẽ tức khắc bác bỏ mọi điều con nói mà không thực sự suy nghĩ sâu hơn. Họ sẽ đơn giản không đếm xỉa gì tới ý kiến của con, bởi vì họ đã quyết định là những điều con nói không thể nào đúng, và họ sẽ chỉ tìm cách bác bỏ cho bằng được. Tư duy đen trắng sẽ LUÔN LUÔN tìm ra cách bác bỏ bất cứ lập luận nào mà con đưa ra từ một mức tâm thức cao hơn.      

Một khía cạnh khác là khi con đe dọa niềm tin của những người như thế, họ sẽ trả đũa bằng cách tấn công ngược lại. Nếu họ thực sự bị mắc kẹt trong sợ hãi, họ sẽ sẵn sàng tiêu diệt con hầu bảo toàn cái ảo tưởng là họ có lý. Nếu họ ít mắc kẹt hơn trong sợ hãi, họ sẽ tìm cách đánh phá niềm tin hay tín ngưỡng của con một cách chung chung. Con cũng cần nhận ra là rất nhiều người như vậy không có khả năng tự chủ. Cho nên con không đang đối thoại với một người mà con có thể lý luận. Con đang phải đối đãi với tự ngã của một người, hay những tà thể bóng tối đang tác động qua người đó. Đó là lý do tại sao con gặp phải những sự tấn công vô cùng hung hãn và độc địa. Ta không đang cố bênh vực cho những tấn công đó, mà ta đang chỉ ra cho con rằng họ không hoàn toàn tự kiểm soát được chính họ. Do đó, con cần nhận rõ là nếu con bước đến gần một con chó dại, con không nên ngạc nhiên nếu nó cắn con. Và con thực sự không nên trách cứ họ, vì con phải biết là con đang bước vào tình huống như thế nào.     

***

Khi con đối xử với những người có tư duy đen trắng, con cần lưu ý là họ sẽ phóng chiếu trạng thái tâm thức của họ lên con, tức là con không được ngạc nhiên nếu họ buộc tội cho CON là con đang làm chính điều mà họ đang làm. Ta cần nói lên điều này cho con, bởi vì khi con biết trước chuyện gì sẽ xảy ra, con có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận vô nghĩa khi con cố bác bỏ những gì không thể bác bỏ được nếu người kia cứ khăng khăng giữ lấy tư duy trắng đen của họ.

Điều này không có nghĩa là đôi khi con không thể giúp cho những người như thế vươn lên trên tâm trạng của họ. Nhưng để làm được điều này, con phải tạo sự bất ngờ bằng cách không làm những gì họ chờ đợi. Những người như vậy sẽ chờ đợi là khi họ kết án con, con sẽ tìm cách bác bỏ lời kết án của họ và kết án ngược lại. Nếu con muốn có chút hy vọng chạm được con người thực của họ đằng sau hàng rào phòng thủ kiên cố, con cần gây cú sốc bằng cách không phản ứng như họ chờ đợi. Đó là một lý do tại sao ta dạy rằng con không nên cưỡng lại cái ác mà nên chìa má kia ra. Có khi cách hồi đáp này sẽ khiến họ bị sốc đến độ họ sẽ suy nghĩ lại cách cư xử cũng như tư duy của họ.

Điều ta muốn nói là nếu một người tầm đạo trưởng thành quyết định đối thoại với những người mang tư duy đen trắng, con nên biết rõ con đang bước vào một tình huống như thế nào. Thường khi, đây là một công việc vô ơn, mà xác suắt thay đổi tích cực thì khá thấp. Cho nên điều xây dựng là con nên xem đó chủ yếu là một cách thử thách xem ý định của con tinh khiết đến đâu, và mức độ không dính mắc của con cao như thế nào. Con hãy xem đó là một kinh nghiệm học hỏi để con tăng trưởng. Còn việc tăng trưởng của người kia thì con hãy để mặc cho quyền tự quyết của họ.

Cách nào tốt nhất để người tầm đạo diễn giải giấc mơ?

Hỏi: Nhiều người ưa thích nhắc đến giấc mơ của mình. Họ xem giấc mơ là một nguồn tiết lộ về tương lai và nhiều chuyện khác. Nhưng việc diễn giải giấc mơ rất khó khăn. Xin thày vui lòng làm sáng tỏ vấn đề này? Giấc mơ có thể chỉ ra được điều gì hữu ích hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Quả thực là con có thể nhận được những sáng ngộ giá trị qua giấc mơ, nhưng như con vừa chỉ ra, việc diễn giải giấc mơ có thể khó khăn.

Để diễn giải một cách đúng đắn, con phải khởi sự ở chỗ nhận ra rằng có nhiều loại giấc mơ khác nhau, có thể nói là nhiều tầng cấp giấc mơ khác nhau. Bộ não con người là một bộ phận vô cùng phức tạp, và nó có thể bị ảnh hưởng sâu đậm bởi các hóa chất trong cơ thể. Vì vậy, nhiều giấc mơ không là gì khác hơn một số phản ứng hóa học của bộ não sản xuất ra một số hình ảnh hay ý tưởng trong giấc ngủ. Nói cách khác, nhiều giấc mơ chỉ đơn giản là phản ứng hóa học, và do đó con không nên cho nó bất cứ ý nghĩa nào.

Khoa phân tâm học (psychoanalysis) được dựa trên một sự nhìn nhận đúng đắn rằng giấc mơ có thể cung cấp một cái nhìn sâu sắc về những điều đang xảy ra trong tâm tiềm thức của một người. Nhưng bởi vì nhiều giấc mơ chỉ là ảo ảnh hóa học, cho nên con không thể cố phân tích mọi giấc mơ một cách bừa bãi được. Ta đã thấy nhiều người nghiên cứu kỹ lưỡng giấc mơ của mình và cứ cố rút tỉa ra ý nghĩa từ mọi chuyện. Làm như vậy chỉ lãng phí thì giờ, và còn có tiềm năng khiến con có những quyết định sai lầm về đời mình.  

Con cũng cần lưu ý rằng con không thể giải thích giấc mơ đúng đắn bằng lý trí con người. Trí năng con người là một khả năng tương đối, và đơn giản, nó không nói cùng một thứ ngôn ngữ như những tầng lớp sâu thẳm trong dòng sống của con. Có quá nhiều người, kể cả nhiều nhà tâm lý học, cố dùng lý trí để giải thích giấc mơ, và một lần nữa, điều này sẽ dẫn tới nhiều sự bối rối, hay thậm chí những kết luận sai lầm. Ta nói với con, nhiều người đã từng bị cách diễn giải thuần lý trí này gạt gẫm, dù cho là diễn giải của chính họ hay của một nhà tâm lý chuyên nghiệp.

Cho nên bước đầu tiên để giải thích giấc mơ là nhìn nhận rằng một số giấc mơ là do phản ứng hóa học trong bộ não sản xuất ra. Bước kế tiếp là mở mang một khả năng phân biện nào đó sẽ giúp con nhận ra những giấc mơ thực sự quan trọng. Cách duy nhất để phát triển khả năng phân biện này là tăng triển khả năng trực giác, tức là sự tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con. Khi con gia tăng khả năng trực nhận, con sẽ bắt đầu nhớ được một giấc mơ nào đó khi con ngủ dậy, và cảm thấy đó là một giấc mơ quan trọng.

Khi con cảm thấy giấc mơ quan trọng, con cần tránh dùng lý trí để diễn giải. Thay vào đó, con cần nỗ lực bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và nhận được sự sáng ngộ trực giác về tầm quan trọng của giấc mơ. Một dụng cụ hữu ích để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô là kỹ thuật hòa điệu nội tâm được đăng tải trên trang mạng này. Ta cũng mạnh mẽ khuyến cáo con sử dụng kỹ thuật bảo vệ tâm linh, bởi vì một số giấc mơ có thể là sự phóng chiếu từ một nguồn bên ngoài tâm con.

Cũng có thể hữu ích là sự nhìn nhận có hai loại giấc mơ quan trọng cơ bản. Một loại giấc mơ là thông điệp từ những tầng sâu của dòng sống. Dòng sống đang cố giao tiếp với tâm ý thức của con để nói cho con biết trong tâm tiềm thức đang có điều gì cần giải quyết. Sự giải quyết này chỉ xảy đến khi nào con hiểu được vấn đề một cách ý thức, rồi lấy một quyết định ý thức sẽ giải quyết vấn đề. Các chân sư đã cho con nhiều lời dạy suốt trang web này, đặc biệt là trong sách. Tuy nhiên, nhiều quyển sách về tâm lý học và khoa tự cải tiến cũng có thể giúp con hiểu sâu xa hơn về tâm lý con người. Sự thông hiểu này sẽ giúp con sử dụng những giấc mơ đó, cũng như sẽ cho phép cái ta Ki-tô gửi cho con những giấc mơ thường xuyên và rõ ràng hơn về những điểm nghẽn trong tiềm thức đang ngăn trở sự tinh tấn tâm linh của con.  

Một loại giấc mơ khác có thể gọi là những điềm báo. Đây có thể là một cảm giác cảnh báo, hay ngay cả một giấc mơ về một hoàn cảnh đặc biệt nào đó chưa diễn ra trong vũ trụ vật chất. Một lần nữa, điều quan trọng là con không nên diễn giải giấc mơ đó bằng lý trí vỏ ngoài. Nếu con nhận được một điềm báo dưới hình thức một lời báo động, điều quan trọng là con không được rơi vào một trạng thái sợ hãi, bởi vì chính sợ hãi sẽ làm mờ tầm nhìn cùng khả năng phán đoán của con. Thay vào đó, con hãy sử dụng một kỹ thuật hoà điệu nội tâm và nhận sự hướng dẫn từ cái ta Ki-tô của con.

Mặc dù giấc mơ có thể quan trọng, ta phải nói với con rằng những giấc mơ quan trọng chỉ đơn giản là một cách giao tiếp khi cái ta Ki-tô cố gửi một thông điệp cho tâm ý thức của con. Nếu con cứ nỗ lực tăng triển sợi dây liên lạc với cái ta Ki-tô, con sẽ ngày càng nhận được thêm nhiều thông điệp như thế, và con sẽ bắt đầu nhận được cả khi con còn thức và hoàn toàn tỉnh táo.

Cho nên ta khuyên mọi người nên tăng cường sợ dây liên hệ này thay vì trông cậy vào những giấc mơ vì đây có thể là một cách giao tiếp phần nào thiếu xác thực. Ngay cả một giấc mơ quan trọng cũng có thể bị ảnh hưởng bởi chất hóa học trong não, và rất có thể một thông điệp khởi đầu là một thông điệp đích thực từ cái ta Ki-tô sẽ bị bộ não bóp méo đi trước khi truyền đến được tâm ý thức. Cho nên sẽ tốt hơn nếu con có thể thiết lập một mối liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô của con, vì cách giao tiếp này sẽ ít phụ thuộc vào hóa học bộ não hơn.

Cũng quan trọng là sự kiện con cần nhìn nhận rằng dòng sống của con có thể du hành ra khỏi cơ thể trong giấc ngủ. Dòng sống có khả năng đi vào các cõi tâm linh và tham dự các lớp nhập thất của các chân sư thăng thiên. Chúng tôi có nhiều khóa nhập thất mà các dòng sống có thể vào học trong giấc ngủ ban đêm. Có khi con có thể thức dậy buổi sáng mà vẫn còn nhớ mình đã đến tham dự một lớp học như thế. Ta đã có giảng dạy về sự kiện này ở những nơi khác, kể cả một kỹ thuật để giúp con đi tới lớp nhập thất.

Thượng đế đã không tạo ra sự chết

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con không hiểu nổi mục đích của sự chết trong cõi này. Con không hiểu làm thế nào dòng sống của con đã chọn đến một cõi có sự chết và đau khổ – đặc biệt là một cõi nơi sự chết và đau khổ là của một sinh thể con thương yêu. Tại sao Thượng đế lại lấy đi con chó của con, nó là tất cả đối với con? Con không hiểu tại sao ngài lại cho phép điều đó xảy ra… Ngài lấy nó đi khỏi con chỉ khiến con luôn luôn mong ước nó trở về với con… để con có thể chăm sóc và tiếp tục yêu thương nó. Tình yêu của con không quan trọng bằng tình yêu của ngài hay sao? Nếu con cần xin một phép màu từ Thượng đế thì đâu là cách đúng đắn và hữu hiệu nhất để cầu xin? Con có cầu xin con được đưa ngược thời gian, trở về thời con chó của con còn sống? Hay cầu cho đống tro của nó sống trở lại một cách thần tiên? Tại sao Thượng đế không lấy đi người nào đang làm hại thế giới thay vì một dòng sống vô tội đem lại bao tình yêu thương? Tại sao Thượng đế lại cho phép một kẻ sát nhân độc ác sống sót thay vì một dòng sống vô tội mang ý nghĩa to lớn đối với một ai đó?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Người bạn yêu dấu của ta, ta cảm được niềm đau và nỗi buồn của con. Nếu con cố gắng vượt qua cảm giác buồn đau vỏ ngoài cùng các suy nghĩ dằn vặt và trụ vào trái tim của con, ta sẽ cho con ngọn lửa an ủi đích thực sẽ tiêu hủy nỗi buồn trong con. Tuy nhiên, đây phải là một trải nghiệm cá nhân mà ta không thể trao cho con trên trang mạng này. Do đó con phải quyết định hòa điệu với tim ta bằng cách sử dụng bài tập mà ta đã ban cho.      

Nhưng ngay bây giờ, hãy để ta cố trả lời câu hỏi của con. Sự chết thật sự không do Thượng đế tạo ra, và nó không nằm trong hoạch định nguyên thủy của hành tinh địa cầu. Như ta đã giải thích suốt trang web này, Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho con người. Con người đã lạm dụng quyền tự quyết này và đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi đó họ đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Con người đã mất liên lạc với Thượng đế.

Sau khi mất liên lạc xảy ra, các dòng sống đã làm tha hóa năng lượng của Thượng đế đến độ họ đã thay đổi mọi khía cạnh của sự sống trên hành tinh. Quy luật của Thượng đế định rằng con không thể thăng vượt lên cõi tâm linh cho tới khi con cân bằng mọi năng lượng tha hóa mà con đã tạo ra trong vũ trụ vật chất. Quy luật Thượng đế cũng định rằng nếu con làm tha hóa năng lượng Thượng đế, dòng năng lượng xối xuống từ cái ta tâm linh sẽ bị giảm thiểu tương đương với mức lạm dụng ánh sáng Thượng đế. Rốt cuộc sẽ đến một lúc khi khối lượng này đủ lớn để khiến cho sự sống của cơ thể vật lý không thể duy trì được nữa. Hậu quả là cơ thể vật lý của con người phải chết đi, thay vì được nâng độ rung lên cao hơn để dòng sống được thăng hoa vào cõi tâm linh. Vì dòng sống chưa cân bằng mọi năng lượng tha hóa – tức là nghiệp quả – trước khi cơ thể qua đời, cho nên luân hồi mới trở thành điều cần thiết.    

Do sự lạm dụng năng lượng Thượng đế suốt nhiều kiếp sống, nay con có một tình trạng vô cùng phức tạp trên địa cầu, một tình trạng khác rất xa với ý muốn và hoạch định ban đầu của Thượng đế. Sự chết bây giờ đã trở thành một thực tế dường như không thể tránh khỏi trên hành tinh. Một phần lớn sứ vụ của ta thuở trước là chứng tỏ cho con người thấy rằng sự chết không bắt buộc phải là một phần của sự sống. Sự chết không nhất thiết phải bắt buộc bởi vì dòng sống có khả năng chinh phục sự chết bằng cách bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân và như vậy thăng hoa lên cõi tâm linh.  

Ta hy vọng con sẽ hiểu được rằng tình trạng mà con hiện thấy trên địa cầu không phải do Thượng đế tạo ra và cũng không phải là những gì Thượng đế mong muốn cho con người. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng Thượng đế đã lấy đi con chó của con. Con chó của con đã bị tước mất do một tình trạng nghiệp quả thật phức tạp. Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn kinh nghiệm đau thương đó, con sẽ nhận ra rằng điều đã thực sự xảy ra trên địa cầu là con người đã đánh mất mối liên hệ với các vị thày tâm linh của mình. Vì vậy, chính những hành động của mình – khi năng lượng tha hóa được gửi trả về dưới hình thức nghiệp quả – đã trở thành người thày của mình.  

Có thể nói, sự chết cũng đã giữ vai trò làm một người thày. Sự chết dạy con người rằng – một khi con đã tự cắt đứt sự nối kết với Thượng đế – không một điều gì trong vũ trụ này là thường hằng. Cho nên con người có cơ hội sử dụng sự chết làm bàn đạp để trau dồi quyết tâm là mình sẽ vượt khỏi cõi vật chất vô thường và giành được sự sống thường hằng của dòng sống nơi cõi tâm linh. Sự chết cũng có chức năng dạy cho con người là mình không được cho phép mình có bám mắc tình cảm với bất cứ gì trong cõi vô thường, bởi vì bất cứ gì trong cõi này cũng có thể bị tước đi. Ngay cả sự sống vật lý rốt cuộc cũng sẽ bị lấy mất trừ khi con người nâng cao tâm thức.   

Những tình huống nghiệp quả phức tạp tạo ra trên địa cầu cũng giải thích tại sao một số người có vẻ tốt thiện và vô tội lại phải chịu đựng thảm họa trong khi có những người có vẻ xấu ác lại được phép sống còn, thậm chí còn phát đạt. Một lần nữa, điều này không xảy ra do ý định hay hoạch định của Thượng đế. Đó chỉ là nhân duyên, là sự tương tác giữa những chọn lựa mà con người đã có trong tiền kiếp và trong kiếp này. Ta cũng biết những lý lẽ sâu xa này sẽ không an ủi và làm vơi đi nỗi đau của con nhiều lắm. Tuy nhiên, đó có thể là lời giải thích sẽ rốt cuộc giúp con buông được nỗi đau.     

Con hỏi đâu là cách đúng đắn để cầu xin một phép màu từ Thượng đế cho con chó của con. Phép màu tốt nhất mà con có thể cầu xin là sự hiểu biết và chấp nhận rằng Thượng đế yêu thương con vô điều kiện, và ngài sẵn lòng trao cho con tình yêu này bất cứ lúc nào. Lý do con cảm thấy đau buồn đến như vậy về sự mất mát con chó của con là vì nó đã trao cho con tình yêu vô điều kiện, nó đã mở trái tim con ra để con có thể cảm được tình yêu vô điều kiện đối với nó. Điều còn thực sự thiếu thốn và mất mát không phải là con chó, mà là tình yêu. 

Tuy nhiên, mọi tình yêu vô điều kiện đều thực sự đến từ Thượng đế. Điều mà con cảm nhận từ con chó là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế xối xuyên qua con chó. Và điều con cảm thấy về con chó chính là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế xối xuyên qua con gửi về con chó.

Nếu con cầu xin phép màu mở tim con ra, con sẽ nhận ra rằng phép màu đích thực của sự sống chính là dòng thương yêu vô điều kiện của Thượng đế chảy xuyên qua con. Rồi con sẽ nhận ra là dòng tình yêu không tùy thuộc vào bất cứ gì trong thế gian này, kể cả con chó của con. Vì vậy mà nhiều người khao khát tìm được một người bạn đời hoàn hảo, và họ nghĩ rằng phải chi họ tìm được người đó thì họ sẽ cảm thấy tình yêu vô điều kiện làm sao. Tuy nhiên, chìa khóa để cảm được tình yêu vô điều kiện là mở to cánh cửa trái tim con, mà qua đó tình yêu vô điều kiện của Thượng đế mới có thể xối xuyên qua con.

Một phần quan trọng của sứ mạng của ta trên địa cầu là chứng tỏ rằng mọi người đều có thể cảm được tình yêu vô điều kiện đối với mọi người và mỗi người. Cho nên ta khuyến khích con hãy cầu nguyện để Thượng đế mở tim con ra hầu con cảm được tình yêu vô điều kiện của ngài cho mọi con người, và con học được cách biều hiện tình yêu đó cho mọi người.

Cơ hội thực sự khi con trải qua cái chết của một người, hay một con vật thân yêu, là con thăng vượt cảm xúc của con đối với sinh thể đó và mở rộng cảm xúc đó ra cho mọi sự sống. Thật sự có những người phải trải qua đau buồn và học được cách mở tim mình ra để tình yêu của Thượng đế chảy xuyên qua họ tràn ra mọi sự sống. Tiếc thay, cũng có nhiều người trải qua đau buồn mà lại đi vào tâm trạng đổ lỗi cho Thượng đế về sự mất mát của mình. 

Đây là sự chọn lựa căn bản mà con người sẽ có trong thế gian này. Liệu con sẽ có cái nhìn tích cực và mở tim mình ra cho tình yêu, hay liệu con sẽ có cái nhìn tiêu cực và khép tim lại. Khi con khép tim lại, con sẽ luôn luôn tìm thấy điều gì đó trong thế gian bất toàn này mà con có thể dùng làm lý lẽ để đóng chặt tình yêu Thượng đế. Khi con mở tim ra, con sẽ luôn luôn tìm thấy điều gì đó để con thương yêu, và con sẽ cảm thấy tình yêu của Thượng đế chảy xuyên qua con.   

Khi nhiều người bỏ mạng trong thảm họa

Hỏi: Thượng đế làm thế nào khi có hàng loạt sinh thể mất mạng trong thảm họa, chẳng hạn tại World Trade Center, chiến tranh, tai nạn máy bay, v. v… Những linh hồn này có được tạm giữ ở một nơi nào đó để họ thích nghi, hay họ được Thượng đế, các thiên thần, v. v…  chăm sóc ngay?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Vũ trụ vật chất chỉ là phần nổi của một tảng băng trôi, và như con cũng biết, phần lớn khối đá của tảng băng nằm ở dưới mặt nước. Ở bên dưới cái biết ý thức của hầu hết mọi người, có những cõi khác nữa. Như ta đã có giải thích, trong cõi vật chất có cả thảy bốn tầng, tương ứng với bốn tầng trong tâm con.

Và như ta giải thích chi tiết hơn trong một câu trả lời khác, hầu hết mọi người đều có một số tin tưởng và năng lượng tích tụ trong các “thể” cao hơn của mình, tức là cảm thể, trí thể và bản sắc thể. Cho nên khi xác thân của một người qua đời, người đó đi về đâu sẽ tùy thuộc vào nơi có nhiều nhất chất liệu chưa được giải tỏa. 

  • Một dòng sống với nhiều tin tưởng và năng lượng cảm xúc chưa giải tỏa sẽ bị từ lực thu hút vào cõi cảm xúc.
  • Một dòng sống hoạt động trong lý trí nhiều hơn sẽ đi vào cõi lý trí.
  • Một dòng sống tâm linh hơn sẽ đi vào cõi bản sắc.

Ba cõi ở trên có những yếu tố và mẫu số rất khác với cõi vật chất ở dưới, cho nên ba cõi đó có khả năng tiếp nhận tất cả mọi dòng sống đang sống trên địa cầu..

Khi một thảm họa xảy ra, không có nhu cầu phải tạm giữ các dòng sống đó trong một trạng thái chờ đợi. Có rất nhiều thiên thần trong cõi tâm linh có thể hỗ trợ và giúp các dòng sống này đi tiếp hành trình.

Cũng có một số dòng sống đi vào một nơi tạm giữ sau khi qua đời, tuy nhiên đó là vì họ đã chọn như vậy. Đây là những dòng sống cảm thấy chưa sẵn sàng bước đi tiếp và tiếp xúc trực tiếp hơn với các sinh thể tâm linh. Vì vậy họ được phép ở lại một giai đoạn tạm thời nơi họ có thể một mình suy ngẫm về những trải nghiệm của mình. Các dòng sống này sẽ hàn gắn nhanh chóng hơn nếu họ cho phép chúng tôi giúp đỡ họ, tuy nhiên, một lần nữa, chúng tôi sẽ không áp đặt ý muốn của mình lên quyền tự quyết của dòng sống.

Có một cõi khác nữa gọi là Devachan mà vai trò là để giúp đỡ những dòng sống tâm linh hơn vượt qua những mong muốn chưa thỏa mãn của mình. Nhiều người cũng có thể được gia nhập các khóa nhập thất của các chân sư thăng thiên ở cõi bản sắc hay cõi ether. Ở đó, họ được học hỏi và được chữa lành hầu chuẩn bị cho kiếp đầu thai kế tiếp.  

Tại sao hỏa táng lại quan trọng

Hỏi: Khi một người đi qua tiến trình hỏa táng, có cần phải đặt thi thể vào đá lạnh trước đó hay không? Và liệu dòng sống/thân xác có cảm thấy khó chịu hay đau đớn gì không khi hỏa táng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có lý do tâm linh nào để phải đặt thi thể vào đá lạnh trước khi hỏa táng. Và tất nhiên, cũng không có lý do thiết thực nào phải làm như vậy. Dòng sống tách rời khỏi thân xác một lúc sau khi chết, thường thường ngay lập tức sau khi chết, và do đó không điều gì xảy ra cho thân xác mà có thể gây ra cảm giác đau đớn hay khó chịu cho nó. Cho nên dòng sống không hề cảm thấy bất kỳ sự khó chịu nào do hỏa thiêu. 

Tuy nhiên, ta xin nói thật rõ ràng là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đặc biệt khuyến cáo việc hỏa thiêu mọi thi thể. Lý do là vì việc hoả thiêu sẽ giảm thiểu mối rủi ro là dòng sống sẽ duy trì sự gắn bó tình cảm đối với thân xác và không thể bước vào ánh sáng. Hiển nhiên, đối với những dòng sống có khuynh hướng tâm linh, đây không phải là một vấn đề. Nhưng đối với những dòng sống còn dính mắc tình cảm với thân xác, họ sẽ ít xác suất hơn duy trì mối dính mắc này sau khi xác thân được hỏa táng. Việc mục kích xác thân bị thiêu hủy sẽ cho dòng sống một cảm giác kết thúc, dứt khoát, một cảm giác rằng nó không thể đi ngược trở lại được và do đó đã đến lúc nó phải tiếp tục tiến bước.

Có một số văn hóa hay tôn giáo tin vào xác thân vật lý sẽ sống lại thật sự, và niềm tin này có thể khiến cho dòng sống cứ gắn chặt vào thân xác đó. Điều này sẽ khiến cho dòng sống gặp khó khăn bước vào ánh sáng, bước vào cõi tâm linh. Một ví dụ là nền văn hóa Ai cập cổ đại chủ trương ướp xác thi thể. Các chân sư cực lực can ngăn tập tục này. 

Cho nên từ góc độ tâm linh, hỏa táng là một tiến trình thật quan trọng. Tất nhiên, hỏa táng cũng có một số ưu điểm thực tiễn quan trọng và do đó nếu mọi thi thể có thể được hỏa táng thì điều này sẽ rất ích lợi.

Nghiệp quả không là tiền định vì luôn luôn có chỗ cho lựa chọn cá nhân

Hỏi: Giê-su yêu dấu, hôm nay đứa con gái 17 tuổi của con hỏi con về vụ tấn công khủng bố ở Madrid, và làm thế nào có một số người lại được Số mệnh cứu vớt khi họ bị lỡ chuyến tàu, vân vân. Nó hỏi con phải chăng đó là một hành động của Số mệnh và con trả lời là đúng vậy.

Nếu thế thì những người đi trên chuyến tàu đó và bị thương tích tật nguyền suốt đời, hay là phải chết, cũng là một hành động của Số mệnh hay chăng? Con trả lời, có lẽ vậy. Rồi nó kết luận là vụ khủng bố cũng là việc làm của Số mệnh, và có lẽ chúng ta không thể đổ tội cho những kẻ khủng bố là đã góp tay vào Số mệnh. Con thấy khó lòng đồng ý với kết luận đó nhưng lý lẽ của nó không thiếu lô-gíc. Con giải thích cho nó về các tà lực và hậu quả của quyền tự quyết, nhưng con đã không thuyết phục được nó. Xin chân sư chiếu rọi một chút Ánh sáng trên vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một câu hỏi vô cùng quan trọng mà ước gì ta có thể thảo luận trong một bối cảnh an bình hơn. Lý luận của con gái con có một lô-gíc nào đó, và cô ấy cảm thấy như vậy là điều dễ hiểu mà thôi. Trên thực tế suốt bao nhiêu thời đại, rất nhiều người cũng đã chấp nhận cách lý luận như vậy. Nhưng ta phải nói, đó không phải là cách hiểu cao nhất về vấn đề này.

Đầu tiên chúng ta cần xác định xem chúng ta muốn nói gì khi dùng từ “số mệnh”. Ý nghĩa bình thường của từ này là trong vũ trụ có một lực nào đó định trước được một số sự việc.

Đời sống tâm linh của nhân loại vốn có một chiều hướng đi lên. Chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường rải truyền một số năng lượng tâm linh để nhẹ nhàng thúc ép mọi người đi lên cao hơn trong tâm thức. Do đó có thể nói là có một sức mạnh của số mệnh đang tìm cách giúp nhân loại vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Trong tiến trình phát triển này, một số khuôn nếp và tin tưởng cũ sẽ phải bị phá vỡ. Tuy nhiên, sức mạnh này của số mệnh nhắm vào việc thay đổi xã hội trên bình diện quy mô rộng lớn. Nó hoàn toàn không định đoạt cách xử sự của từng người, hoặc cách họ phản ứng lại những tình huống mà họ gặp trong đời sống. Nói cách khác, trong bức tranh toàn cảnh của hình thức số mệnh này, có rất nhiều khoảng trống để mỗi cá nhân có thể tự quyết lựa chọn.  

Như ta giải thích trên trang mạng này, mọi khía cạnh đời sống trên hành tinh này đều bị ảnh hưởng bởi sự chọn lựa của con người, và do đó trong một ý nghĩa nào đó, có thể nói là không có gì được định trước. Tuy nhiên, chọn lựa của con người có thể bị nhiều yếu tố ảnh hưởng. Con không thể hiểu được đúng đắn ý niệm tiền định nếu không xem xét đến thực tế của nghiệp quả và luân hồi, như ta có giải thích ở một nơi khác. Khi con hiểu rõ nghiệp quả, con sẽ nhận ra là rất nhiều tình huống xảy ra trong đời là kết quả của những chọn lựa mà con đã có trong tiền kiếp. Những chọn lựa này tạo ra một xung lực năng lượng được phóng ra vũ trụ, và khi xung lực này quay trở lại con trong một kiếp sống tương lai, nó có thể gây ra nhiều loại tai họa khác nhau.

Thật không có nghi ngờ gì là trong một tình huống như vụ đánh bom khủng bố, nghiệp quả là một yếu tố rất quan trọng. Có một số người đã thoát khỏi vụ đánh bom vì họ không mang nghiệp bị mất mạng hay bị thương tích. Một số người khác đã không thoát khỏi bởi vì họ mang nghiệp chướng từ những kiếp trước là họ phải trải nghiệm những điều mà họ vừa trải nghiệm trong biến cố này. Và cũng đúng là nghiệp quả đã là một ảnh hưởng to lớn trên những kẻ khủng bố khi họ lấy quyết định ra tay làm việc này. Họ đã bị điều kiện hóa bởi nghiệp quả mà họ đã tạo ra trong tiền kiếp. Tuy nhiên, điều vô cùng quan trọng mà con cần hiểu là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện.  

Một trong những lý do nghiệp quả và luân hồi đã bị nhiều người ở Tây phương bác bỏ là vì đa số người Tây phương nhận xét, không sai, là không phải điều gì trong cuộc sống cũng được định trước. Tại Đông phương thì khác, hầu hết mọi người đều tin vào nghiệp quả và luân hồi nhưng nhiều người lại đẩy lời dạy này tới một cực đoan thật đáng tiếc. Thật vậy, nhiều người ở phương Đông tin rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng đã được ấn định bởi nghiệp quả từ những kiếp trước.

Hệ quả đáng tiếc của sự thể này là họ rất dễ rơi vào cái nhìn định mệnh về cuộc đời. Đâu có ích gì mà mình phải cố gắng cải thiện đời sống nếu mọi chuyện đã được nghiệp quả an bày sẵn rồi? Và đây chính là thái độ mà nhiều người Tây phương không thể nào chấp nhận, bởi vì họ tin rất sâu xa là con người có khả năng cải thiện đời sống và thay đổi số mệnh của mình. Người Đông phương cảm thấy dù mình có làm gì trong đời cũng chẳng mấy quan trọng. Cảm nhận này đúng đắn nhưng rất tiếc nó khiến cho nhiều người Tây phương vơ đũa cả nắm và bác bỏ toàn bộ ý niệm nghiệp quả lẫn luân hồi.  

Sự thật là nghiệp quả sẽ không bao giờ đứng trên, hay lật ngược lại, quyền tự quyết của một người. Nghiệp quả của con từ nhiều tiền kiếp sẽ tạo ra một số điều kiện khiến con thiên về một số chọn lựa nhất định. Chẳng hạn, những kẻ khủng bố tổ chức vụ đánh bom vừa rồi đã suốt nhiều kiếp bị bao trùm trong tâm thức cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Tâm thức này rất có thể đã khiến họ bị thu hút vào một lý tưởng cực đoan trong kiếp này, và họ sẽ sử dụng lý tưởng đó làm cái cớ để tiếp tục những khuôn nếp và lực dư mà họ đã ôm lấy suốt bao nhiêu kiếp sống. Tuy nhiên, không có gì bảo đảm là một người sẽ muốn tiếp tục mãi trên cái đà cũ như vậy, mà trái lại người đó luôn luôn có khả năng chọn lựa cách khác, phá vỡ khuôn nếp cũ để đưa đời mình về một hướng mới. Chính quyết tâm phá bỏ các khuôn nếp cũ là lý do chúng ta có thể hy vọng đời sống mỗi người cũng như đời sống của xã hội có thể cải thiện.   

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi điều trong thế gian đều xoay quanh quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã trao quyền tự quyết cho con người và do đó ngài đã từ bỏ việc kiểm soát mọi chi tiết vi mô xảy ra trên địa cầu. Nói cách khác, Thượng đế không có chút kiểm soát nào trên tình thế đã dẫn tới vụ đánh bom khủng bố ở Madrid. Ngài không muốn sự việc đó xảy ra, và một vụ tấn công như vậy không có chức năng gì trong kế hoạch toàn thể của ngài.  

Biến cố xảy ra là sự biểu hiện của nghiệp quả từ tiền kiếp phối hợp với những chọn lựa tự quyết của mỗi người trong kiếp này. Như ta đã nói, nghiệp quả từ tiền kiếp có thể tạo ra một thiên hướng nơi con, đẩy con về một số chọn lựa. Thế nhưng những chọn lựa này không được định trước. Con luôn luôn có sự chọn lựa, và do đó luôn luôn có khả năng phá vỡ những động lượng cũ và đưa đời mình về một hướng mới tích cực hơn. Con luôn luôn có khả năng chọn con đường cao ráo thay vì con đường thấp hèn. Tuy nhiên, nếu con không phá vỡ được động lượng cũ thì các tình huống của nghiệp quả sẽ không tránh khỏi phải trải ra, và đó là những gì con chứng kiến tại Madrid.      

Hiển nhiên, tình thế này là do những chọn lựa của kẻ khủng bố đun đẩy. Tuy nhiên, con không được bỏ qua sự kiện là người dân Tây Ban Nha cũng đã có một số lựa chọn dẫn đến tình thế đó. Một chọn lựa của họ là họ đã chấp nhận cái tâm thức khiến họ cảm thấy không cần phải thay đổi cách sống của mình hầu xây dựng một địa cầu công bằng hơn cho mọi người. Đây cũng chính là tâm thức đã dẫn đến vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, như ta đã nhận xét ở một nơi khác.   

Về tình hình tại Tây Ban Nha, thật vậy, nghiệp quả của quốc gia này đã góp phần vào tình thế và đã khiến cho nước này có những nhược điểm, dễ bị tổn thương. Nghiệp quả đó đã chồng chất trong nhiều thế kỷ, qua một số sự kiện như Tòa án Dị giáo, cách đối xử với người Hồi giáo tại Tây Ban Nha, cuộc chinh phục châu Mỹ cùng một số biến cố đẫm máu khác. Tuy nhiên, vụ tấn công khủng bố này đã không hoàn toàn xoá bỏ hết nghiệp quả của cả nước. Còn nhiều biến cố nữa sẽ xảy ra, và vì vậy điều cực kỳ quan trọng là những người tâm linh tại Tây Ban Nha phải nỗ lực giảm thiểu tác động của các nghiệp chướng chưa thể hiện trên quốc gia mình. Những dụng cụ hữu hiệu nhất mà họ có thể sử dụng để làm công việc này là Ngọn lửa Tím và các bài cầu nguyện tràng hạt của Mẹ Mary.

Mặc dù nghiệp quả có thể rất chính xác cho đến từng chi tiết nhỏ nhặt, điều quan trọng cần nhớ là nghiệp quả không định trước được mọi chuyện. Trong mỗi tình huống trong đời, luôn luôn có khả năng thay đổi kết quả của sự kiện. Chẳng hạn, con người luôn luôn có sự chọn lựa nâng cao tâm thức và hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Hẳn là đã có những người tại Madrid đã nhận được lời cảnh báo nội tâm khiến họ lỡ chuyến tàu. Nhưng cũng có những người chọn cách sống mộng du, đi qua cuộc đời như người ngủ say, không có nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình. Những người này đã không nhận được cảnh báo rồi phải mất mạng hay bị thương tích trong vụ đánh bom. Nhưng chính vì họ đã không chọn hòa điệu với cái ta Ki-tô mà họ không thể được cảnh báo. Nói cách khác, sự kiện họ bị thiệt mạng trong vụ tấn công không phải là kết quả những chọn lựa trong tiền kiếp, mà là kết quả những chọn lựa trong kiếp này.

Ta muốn giúp con hiểu là không có gì được khắc sẵn trên đá, không có gì được định trước. Có một lực trong vũ trụ luôn tìm cách giúp con người phát triển. Lực này lập ra một số mẫu số chung cho các diễn biến trên địa cầu. Song song cũng có lực của nghiệp quả, lập ra những mẫu số chi tiết hơn cho những gì có khả năng xảy ra trong đời sống một người. Nhưng ngay cả luật nghiệp quả cũng không định sẵn được mọi khía cạnh của đời sống người đó. Còn rất nhiều khoảng trống cho những quyết định tự do có thể thay đổi hướng đi cuộc đời và do đó giảm thiểu hay tránh hẳn một số nghiệp duyên nhất định. Nói cách khác, những chọn lựa của một người có khả năng giảm nhẹ tai họa hoặc ngược lại lôi kéo tai họa về mình.

Nếu tất cả mọi chuyện đều được định trước bởi nghiệp từ tiền kiếp, thì sẽ không còn chỗ nào để tạo nghiệp mới hay giảm nhẹ nghiệp cũ, và nếu thế thì làm cách nào một người có thể thoát được bánh xe luân hồi đây? Điều cực kỳ quan trọng là mọi người đừng rơi vào tư duy định mệnh. Không nên lý luận sai lầm là không có gì thực sự quan trọng trong đời bởi vì tất cả đã được định trước, cho nên chẳng ích gì mà cố thay đổi cuộc sống hay thay đổi xã hội.

Mọi chuyện đều tùy thuộc vào sự tự quyết của con người, và vì thế tất cả mọi chuyện đều quan trọng. Mọi lựa chọn mà con có, hoặc sẽ cải thiện cuộc sống của con, hoặc sẽ khiến nó tồi tệ hơn. Nếu con không làm gì thì khả năng là đời con sẽ tồi tệ hơn.

Ta có thể cam đoan với con là con người có khả năng thoát được những tai họa mà nghiệp quả ra lệnh. Thượng đế không có ý muốn trừng phạt con người. Cho nên nếu con người chịu học hỏi bài học và nâng cao tâm thức mình, nhiều khi các chân sư thăng thiên sẽ kìm hãm lại một số điều kiện nghiệp chướng đã có thể gây ra tai họa.

Trên thực tế, nếu chúng tôi, các chân sư, đã không làm vậy thì từ lâu nhân loại đã tự hủy diệt qua việc sử dụng vũ khí nguyên tử. Cho nên nếu các con còn sống sót tới ngày hôm nay, đó chính là bằng chứng là chúng tôi rất sẵn lòng xóa bỏ nghiệp quả của con người – miễn là con người cũng sẵn lòng nâng cao tâm thức mình. Và đây chính là một trong những thông điệp quan trọng nhất mà ta muốn truyền đạt qua trang mạng này. Có thể nói, số mệnh là một mãnh lực không làm sao cản được, nó đun đẩy cuộc sống cứ bước mãi về phía trước. Tuy nhiên, những chọn lựa của mỗi người có khả năng quyết định hướng đi của lực định mệnh, cả trên bình diện cá nhân lẫn toàn cầu.

Vì vậy con có thể giải thích cho con gái con rằng quả là có một năng lực nghiệp quả đã sắp đặt tình huống dẫn đến vụ đánh bom khủng bố. Tuy nhiên nếu người dân Tây Ban Nha đã có những chọn lựa tốt hơn thì vụ đánh bom đã có thể tránh được. Cho nên, cách phản ứng tồi tệ nhất đối với tình thế này là trở thành một người thụ động, hay là đi theo chủ nghĩa hòa hoãn, và không làm bất cứ gì để ngăn chặn những thảm họa tương tự xảy ra trong tương lai. Muốn cho cái ác chiến thắng, chỉ cần những con người tốt thiện ngồi yên không làm gì.

Một cách phản ứng đáng tiếc khác là trở thành một kẻ hiếu chiến, cố chữa lửa bằng cách bồi thêm lửa vào ngọn lửa. Cách đáp ứng hay nhất là trở thành một chiến binh trong ý nghĩa tâm linh, sử dụng ngọn lửa tâm linh để thiêu đốt những điều kiện nghiệp quả khiến cho quốc gia mình cứ thu hút các tiềm năng tai họa trong tương lai. Một phương cách quan trọng khác là khai sáng mọi người về nhu cầu thay đổi đường hướng và trở thành một dân tộc tâm linh hơn. Và trong số những công việc cần làm đó là cần bỏ lại đằng sau quá khứ Công giáo của dân tộc Tây Ban Nha.  

Thái độ của Paul đối với phụ nữ

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Theo con hiểu, Paul là vị tông đồ yêu quý của thày, nhưng tại sao ông lại tỏ ra thờ ơ với phụ nữ khi ông bảo rằng phụ nữ không được dạy học, phải giữ im lặng trong nhà thờ và phải tuân theo luật lệ của đàn ông, v. v… Hay là đó không thực là những gì Paul đã giảng mà là người ta đã bẻ cong lời dạy của giáo hội ban sơ? Và nếu đây không phải là lời dạy của Paul thì đâu là lời dạy chính xác? Liệu những quyển kinh của phái gnostic về Paul có phản ánh xác thực hơn triết lý của ông? Con chỉ muốn biết sự thật. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Ta thương yêu tất cả các môn đệ của ta với tình yêu của Ki-tô, là tình yêu vô điều kiện. Điều này có nghĩa là ta thương yêu mọi người bất kể những hạn chế hay khuyết điểm hiện thời của họ. Nhưng tình yêu của ta không mù quáng, và ta thấy rõ những hạn chế mà mỗi người cần vượt qua để tăng triển tâm linh. 

Quả thật Paul có một thái độ đối với phụ nữ không phù hợp với thái độ và giáo lý của ta. Ta đã giải thích điều này khá tường tận trong bài giảng về quan hệ của ta với Mary Magdalene. Ta cũng có đề cập tới niềm hy vọng của ta là khôi phục phụ nữ vào chỗ đứng xứng đáng là những người tâm linh bình đẳng với phái nam. Ta đã giải thích ở một nơi khác là thái độ của Paul đối với phụ nữ không phù hợp với những kỳ vọng cao nhất của ta cho Paul hay cho các môn đệ khác.

Vậy ta không có ý muốn bào chữa hay giải thích thái độ của Paul đối với phụ nữ. Đó chỉ là cách biểu hiện của thời đó, và thái độ của Paul đối với phụ nữ không tốt hơn hay không dở hơn thái độ của hầu hết đàn ông thời đó. Một lần nữa, đây không phải là lời bào chữa mà chỉ nói lên thực tế.

Thật sự, một trong những tiếc nuối lớn nhất của ta là đạo Cơ đốc đã không trở thành một tôn giáo sẽ phục hồi phụ nữ về một địa vị xứng đáng, không những trong gia đình, xã hội, nhà thờ mà cả trong tâm của người nam lẫn người nữ. Tuy nhiên, vấn đề thực sự ở đây là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân đã bị đánh mất. Khi con đạt đến quả vị Ki-tô, con tự nhiên bắt đầu nhìn xa hơn mọi phân chia vỏ ngoài do giới tính, chủng tộc, quốc gia hay bất cứ loại phân chia và nhãn hiệu giả tạo nào khởi lên từ sự tương đối của tâm nhị nguyên. Đơn giản, những phân chia nhân tạo đó mất hẳn tầm quan trọng, và một sinh thể với tâm Ki-tô sẽ kính trọng người nữ là xứng đáng và quan trọng y như người nam   

Một sinh thể có tâm Ki-tô cũng sẽ chấp nhận rằng một số câu chuyện trong Thánh kinh về sự sinh tạo phụ nữ là không chính xác. Người nữ đã không được tạo ra sau người nam, và người nữ không được tạo ra từ thể chất của người nam. Các đoạn này đã được thêm vào sau này bởi những người sinh sống trong một nền văn hóa dành ưu thế cho phái nam.

“Ngài tạo ra nam và nữ” (Genesis 5:2). Giới tính nam và nữ hình thành một thế thái cực tương tự như Thái cực trong Đạo giáo. Cái này không thể hiện hữu mà không có cái kia, và do đó không thể được tạo ra mà không có cái kia. Cả hai giới tính đều được tạo ra cùng một lúc, với cùng giá trị và tầm quan trọng dưới mắt của Thượng đế. Quả thật là vậy, cả hai nên được kính trọng như nhau trong mắt của người nam lẫn người nữ.

Người nữ được tạo ra trước người nam?

Hỏi: Đây là một câu hỏi liên quan đến câu đố, cái nào đến trước, con gà hay quả trứng? Cái nào đến trước, nam hay nữ? Con không hỏi người nam hay người nữ đến trước, mà con hỏi về nguyên lý. Nghĩa là nguyên lý nữ đến trước vì đã thụ động, tiềm ẩn sẵn trong pralaya, thời kỳ ngủ say của vũ trụ, trước khi nguyên lý nam linh hoạt trong manvantara, thời kỳ thị hiện. Kinh Dzyan nói rằng Mẹ Vĩnh hằng ngủ say trước khi trải ra. Con biết đó chỉ là cách diễn tả thi vị do một người tầm đạo quá sốt sắng cố hết sức mô tả. Tại sao tôn giáo của Nữ thần Mẹ là tôn giáo đầu tiên trên thế giới?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tôi xin giải quyết một cách dứt khoát câu đố muôn thuở về con gà và quả trứng. Con gà đến trước.

Bây giờ hãy xem đến những câu hỏi quan trọng hơn. Bài giảng sau đây chứa đựng một số lời dạy chi tiết về việc Thượng đế sáng tạo vũ trụ. Nói ngắn gọn, Thượng đế có một khía cạnh không thị hiện, mà ta sẽ gọi là Bản thể thuần khiết hay cái Tất cả. Thượng đế cũng có một khía cạnh nữa là Đấng Sáng tạo, là nguồn gốc thực sự của tất cả mọi thứ đã được tạo ra trong thế giới hình thể. Để bắt đầu sáng tạo, Đấng Sáng tạo lập ra một nguyên thể có khả năng đúc thành bất cứ hình tướng nào có thể nghĩ tới. Đây là nguyên thể mà Thánh kinh nói đến qua câu, “Hãy có ánh sáng.” Chúng tôi thường gọi nguyên thể này là Ánh sáng Mẫu-Vật.      

Như ta giải thích, Thượng đế sáng tạo là nguyên lý hành động, hay nam, trong khi Ánh sáng Thượng đế là nguyên lý tiếp nhận, hay nữ. Cho nên tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo bằng khiá cạnh nữ của Thượng đế. Đó là tại sao một số tôn giáo dạy rằng mọi thứ được tạo ra từ Thượng đế Mẹ hay Nữ thần, và cũng vì vậy mà một số tôn giáo thờ phượng một vị thần nữ tính.

Cả hai khía cạnh nam và nữ của Thượng đế đã luôn luôn hiện hữu. Vì vậy, thật là vô nghĩa khi bàn đến chuyện Thượng đế là nam trước khi là nữ, hay ngược lại. Hai nguyên lý này, hay khía cạnh, không thể nào rời nhau ra, và hoàn toàn không nghĩa lý gì mà nói đến một nguyên lý mà không nói đến nguyên lý kia.   

Câu hỏi ngàn đời về cái nào đến trước thật ra chỉ là một sản phẩm của tâm thức đường thẳng của con người, và tâm thức này nhìn mọi thứ dựa trên hoàn cảnh riêng của nó. Bởi vì kinh nghiệm của con người về cuộc sống là một cuộc đời có khởi đầu và có kết thúc, cho nên nó cũng lý giải là mọi thứ khác cũng phải có sinh có diệt.

Về mặt thế giới hình tướng, có thể nói là tất cả mọi thứ đều được tạo ra từ nguyên lý nữ, bản chất nữ của Thượng đế. Do đó, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra từ Thượng đế Mẹ. Tuy nhiên, mọi thứ được tạo ra bởi Thượng đế Cha, nghĩa là ngay trong bản chất, sự sáng tạo đã bắt đầu với một cái thấy trong tâm của Thượng đế Cha. Chính khía cạnh nam của Thượng đế đã khởi đầu tíến trình sáng tạo. Và khía cạnh nữ của Thượng đế đã nhận lấy bất kỳ hình tướng nào được thấy trong tâm của Thượng đế.

Điều này không có nghĩa là khía cạnh nữ của Thượng đế không có tâm, hay tâm thức. Tuy nhiên khiá cạnh nữ đã cho phép – trong tình yêu thương – khiá cạnh nam tác động lên mình và thực hiện cái thấy của khía cạnh nam. Sự sáng tạo được khởi xướng bởi khiá cạnh nam của Thượng đế và được thực hiện bởi khía cạnh nữ của Thượng đế. Nếu con muốn dùng ý niệm khởi đầu và kết thúc, thì con có thể nói là sự sáng tạo bắt đầu như là một ý nghĩ, một cái thấy trong tâm thức của khía cạnh nam của Thượng đế.

Con nói rằng người Mẹ Vĩnh hằng ngủ say trước khi trải rộng ra. Điều này chắc chắn khả thi, bởi vì khía cạnh nữ của Thượng đế đã luôn luôn hiện hữu như một nguyên lý. Mẹ Thiêng liêng nằm tiềm ẩn, không linh hoạt, cho tới khi Mẹ được Cha Thiêng liêng tác động.

Ta không đồng ý rằng tôn giáo của Nữ thần Mẹ là tôn giáo đầu tiên trên hành tinh. Khi con người lần đầu tiên giáng xuống hành tinh này, họ vẫn không quên nguồn cội tâm linh của mình. Vì thế họ hoàn toàn nhận thức được cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Mẹ, và họ giữ mối quan hệ linh động với cả hai. Quan hệ mà con người có với cha mẹ thiêng liêng của mình trước khi cuộc sa ngã xảy ra khác rất xa với bây giờ, và thật là không đúng nếu bảo rằng con người trước khi sa ngã đã thờ phượng Thượng đế, hay thậm chí có một tôn giáo như chúng ta thường hiểu ngày nay.

Như đã được giải thích ở nơi khác, chính khía cạnh nữ của mỗi dòng sống đã đầu tiên rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Điều này xảy ra là vì khía cạnh nữ của dòng sống bắt đầu theo cách của thế gian thay vì giữ trọn vẹn theo khía cạnh nam của nó, tức là cái ta tâm linh. Một hệ quả của việc rơi xuống tâm thức thấp là các dòng sống quên mất nguồn cội tâm linh của mình, và vì thế cũng mất luôn kinh nghiệm trực tiếp về khía cạnh nam của Thượng đế.

Bởi vì các dòng sống sinh sống trong một thế giới được tạo ra từ chính bản chất của khía cạnh nữ của Thượng đế, họ không thể nào quên được hoàn toàn khía cạnh này của Thượng đế. Đó là lý do nhiều nền văn hóa sơ khai đã thờ phượng khía cạnh nữ của Thượng đế, dưới hình thức Mẹ Trái đất mà họ tin rằng đã đem lại sự sống cho họ. Chỉ sau khi nhân loại, sau một một tiến trình vươn lên rất chậm, nâng cao tâm thức mình lên một mức cao hơn, mà các dòng sống mới bắt đầu lại có một khái niệm rõ ràng về khía cạnh nam của Thượng đế.

Điều xảy ra ngày hôm nay là nhiều người, đặc biệt là ở phương Tây, đã quên mất khía cạnh nữ của Thượng đế và chỉ duy thờ phượng khía cạnh nam của Thượng đế. Đây là một ví dụ điển hình mà con người, do sự thiếu trưởng thành tâm linh và thiếu cân bằng, đã đu đưa từ cực đoan này sang cực đoan kia. 

Điều sẽ xảy ra trong những thập niên tới là nhân loại sẽ nhận ra rõ hơn nhu cầu phải hiểu biết và có quan hệ với cả hai khía cạnh của Thượng đế. Sự thật đơn giản là cuộc sống tâm linh của con không thể trọn vẹn nếu con không giữ vững sự cân bằng lành mạnh giữa hai khía cạnh nam và nữ. Điều này không những chỉ áp dụng cho cách con nhìn Thượng đế mà cả cách con nhìn chính con. 

Về nam và nữ, điều quan trọng là con cần nhận ra rằng vấn đề này không thể xác định một cách cứng nhắc, bởi vì có rất nhiều thái cực như vậy. Như ta vừa trình bày ở trên, Thượng đế có một khía cạnh không thị hiện và một khía cạnh sáng tạo. Hai cái này cũng hình thành một thế thái cực, trong đó cái Tất cả là khía cạnh nam và Thượng đế sáng tạo là khía cạnh nữ. Còn có một thái cực nữa giữa Đấng Sáng tạo của con và những tạo vật của ngài. Con thuộc về tạo vật của Đấng Sáng tạo của con, có nghĩa là đối với con, Đấng Sáng tạo là khía cạnh nam và con là khía cạnh nữ. Cho nên trong một nghĩa nào đó, nếu con thờ phượng Mẹ Thiêng liêng thì con đang thờ phượng chính con đó.

Rất nhiều tôn giáo thờ phượng Nữ thần Mẹ cũng xa vời thực tế y như những tôn giáo độc thần thờ phượng một Thượng đế Cha. Các tôn giáo đó xuất phát từ tâm thức tách biệt, trong đó con xem con tách biệt với đấng mà con thờ. Cách thực tế để nhìn mình là con hãy xem con là một biểu đạt của Đấng Sáng tạo, và như vậy con là một với Đấng Sáng tạo. Chỉ có duy nhất một tâm mà thôi, và khả năng tự nhận biết của con chính là một cá thể của tâm duy nhất đó, một cá thể không thể nào tách rời khỏi duy nhất. Vai trò của con trong cuộc sáng tạo là hành động như một phần nối dài của Thượng đế trên địa cầu mà qua đó con trở thành Mẹ Thiêng liêng trong hành động. Như vậy, thật không có ích gì thờ phượng một vị thần nam hay một vị thần nữ từ xa, bởi vì con đang là một Thượng đế nam lẫn nữ trong hành động.    

Hiển nhiên trên cõi tâm linh có một trách vụ gọi là Trách vụ Mẹ Thiêng liêng do Mẹ Mary đảm trách. Và đương nhiên, trách vụ này đáng được tôn trọng và kính trọng y như những trách vụ khác trong cõi tâm linh. Tuy nhiên, kính trọng không đồng nghĩa với thờ phượng đấng đang đảm nhận trách vụ. Vậy thì kết luận là như sau: sự cảm nhận rằng con có bổn phận phải thờ phượng một thượng đế xa vời – dù là nam hay nữ – hoàn toàn dấy lên từ tâm thức nhị nguyên, là tâm thức nhìn thấy sự phân biệt giữa “cái tôi” và “cái khác tôi”. Phá bỏ được sự khác biệt này là tinh túy của con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân, hay sự giác ngộ.

Tự tử không bao giờ đưa đến mục tiêu mong muốn

Hỏi: Con có một câu hỏi về một trạng thái tối tăm gọi là tự tử. Tự tử là hành vi tự sát. Là hành vi trốn tránh nghiệp quả. Gần đây nó cũng trở nên thịnh hành, một điều thật nguy hiểm đang xảy ra.

Nó giết đủ loại người, đủ các chủng tộc. Nó giết chủ yếu giới trẻ ở mọi nước, giới trẻ thổ dân ở Bắc Mỹ. Nó giết những người phải đối phó với giới tính của mình, những người vừa khám phá mình mang bệnh. Nó giết cả những người gọi là nổi tiếng, Kurt Cobain, Elliot Smith, v.v… và nhiều người khác đã tự sát do quá liều. Thậm chí có cả một thanh tra vũ khí tự sát ở Anh, một điều thật kỳ lạ vì ông ta theo đạo Baha’i là một tôn giáo không ưa gì tự tử. 

Tự tử xảy ra ở mọi nơi trên thế giới. Đó là một phần của tâm thức thấp mà con người bị vướng vào. Con cứ thắc mắc không hiểu tự tử có liên quan gì đến ý muốn của dòng sống muốn chấm dứt cuộc sống? Con không nghĩ vậy nhưng con đang cố tìm hiểu tại sao. Con biết tự tử không là điều gì mới lạ và sẽ còn ở đây mãi mãi, nhưng chuyện gì đang xảy ra?

Con cũng biết rõ tự tử là gì. Tự tử đã xảy ra trong gia đình con và chính con cũng đã làm mồi cho quyến rũ tự sát. Con đã nhảy múa với tự tử trong một giai đoạn rất tối tăm của đời con. Con bị kẹt rất sâu trong trầm cảm, giống như con ở trong cái lỗ đen, trong đó có cả năng lượng đen và trọng lực đen. Con đã bỏ ra một thời gian khá dài để leo ra ngoài và con đã chiến đấu với nó vì nó muốn nuốt tươi con. Nó xém lấy được mạng con nhưng con đã tìm lại hy vọng do có người trợ giúp.    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Cảm ơn con đã nêu lên một đề tài quan trọng. Quả thật, tự tử là một vấn đề đang gia tăng trên hành tinh này. Lý do chính là vì con đang sống ở một thời điểm khi những năng lượng của một chu kỳ tâm linh mới đang thấm dần vào tâm thức nhân loại. Khi những rung động cao tần của thời đại mới xuất hiện, mọi chất liệu chưa phân giải trong trường năng lượng con người – tức tiềm thức con người – bị đẩy ra ngoài, khiến cho các tạp chất này hiện ra rõ hơn. Và đây là cơ hội để mỗi người chọn lựa mình sẽ phục vụ cho ai, có nghĩa là con người sẽ dễ dàng hơn vươn lên khỏi xu hướng tự phủ nhận – là nguyên nhân sâu xa của tự tử. Con người sẽ dễ dàng hơn thấy được ánh sáng của cái ta Ki-tô để mà quyết định đi theo ánh sáng đó thay vì cứ tiếp tục chối bỏ ánh sáng. Tiếc thay, điều không thể tránh được khi một chu kỳ tâm linh mới bắt đầu là có những người sẽ chọn bám chặt vào bóng tối mà không chịu buông ra.     

Do có nhiều kinh nghiệm về vấn đề này, ta muốn nói với con là bài học quan trọng nhất mà con sẽ nghe được về tự tử là các dòng sống tự sát sẽ không bao giờ đạt được mục tiêu của mình. Họ sẽ không bao giờ hoàn thành được mục tiêu mà họ tưởng đã khiến họ tự tử. Thật vậy, ta đã tư vấn và giúp đỡ rất nhiều dòng sống sau khi họ tự sát, va ta có thể cam đoan với con là tất cả đều nhận ra là tự sát không đem lại mục tiêu mà họ muốn. 

Bất kể động cơ nào đã khiến họ tự tử, họ vẫn không khá gì hơn trước khi tự tử. Thật ra, tình trạng của họ còn tồi tệ hơn trước, bởi vì khi tự sát, họ đã mở rộng thêm dòng sống của họ cho các tà lực kéo họ đi xuống. Kết quả là họ càng khó lòng khởi sự một vòng xoáy đi lên và tìm đường trở về ánh sáng. 

Nếu con muốn một tường thuật vô cùng chi tiết về những gì có thể xảy ra cho một dòng sống tự sát, ta thực sự khuyên con nên đọc quyển sách “Beyond the Darkness” của Angie Fenimore.

Vậy làm gì đây để giúp một dòng sống khỏi rơi vào cái bẫy của tự sát? Điều này tùy thuộc phần nào vào động cơ đã khiến dòng sống bước vào cái ốc xoắn sẽ kéo nó xuống tự vận. Nhưng dù động cơ đó là gì, một điểm sẽ trợ giúp dòng sống là hiểu rằng tự sát không có nghĩa là kết liễu tâm thức. Con có thể lấy đi sự sống của thể xác, nhưng dòng sống của con là nhiều hơn thể xác. Sự sống có nghĩa là con có tâm thức, là con có sự nhận biết về chính con. Khả năng tự nhận biết này không tùy thuộc vào thể xác vật lý và sẽ không biến mất sau khi thể xác qua đời.  

Hầu hết dòng sống tự sát vì những sự việc trong đời họ đã trở nên căng thẳng đến độ họ cho rằng việc kết liễu tâm thức sẽ đem lại nhẹ nhõm. Thế nhưng chính vì tâm thức không chấm dứt với cái chết của thể xác, cho nên không hề có nhẹ nhõm, không hề có sự ngơi nghỉ nào đối với các vấn đề đã dằn vặt họ trong đời sống. Dòng sống không tránh được phải đem theo những vấn đề đó với mình, tức là đem theo trạng thái tâm thức đó với mình sau khi thể xác tắt thở. Họ sẽ vẫn phải đối diện và chiến thắng những vấn đề đó trước khi họ tìm thấy an bình.    

Thật ra, ta phải nói với con là niềm tin phổ biến trong đạo Cơ đốc cho rằng người tự sát sẽ bị xuống địa ngục, thật là không đúng cho đa số dòng sống. Ngược lại, hầu hết mọi dòng sống tự sát đều phải trở lại hiện thân và sẽ tái đầu thai sớm nhất khi có cơ hội thích hợp. Họ sẽ phải đương đầu với cùng những điều kiện đã dẫn tới tự sát, bởi vì đó là cách duy nhất để họ chinh phục những vấn đề trong tâm lý đã ngăn cản họ bước tới. Ta có thể xác nhận với con là việc quay trở lại cùng một loại tình huống thường là chọn lựa của chính dòng sống. Một khi không còn thể xác, bình thường họ sẽ có khả năng nhìn hoàn cảnh của họ một cách khách quan hơn, và hầu hết đều chọn tái đầu thai trong những hoàn cảnh sẽ cho mình cơ hội tối đa để phát triển tâm linh – cho dù những điều kiện này xem ra vẫn rất khó khăn đối với một người.      

Sự kiện họ thường chọn trở lại cùng một hoàn cảnh là bằng chứng hùng hồn nhất cho thấy tự sát không đem lại những gì mà họ kỳ vọng. Do đó, nếu họ có thể, bằng một cách nào đó, nhìn xa hơn áp lực của tình thế trước mặt, rất có thể họ đã không quyết định tự sát. Nếu họ có được một chốc lát khách quan, họ sẽ chịu nhận trách nhiệm về tình trạng của họ và nỗ lực thay đổi trạng thái tâm thức của họ. Họ sẽ chọn giải quyết vấn đề ngay bây giờ thay vì phải chịu thêm chấn thương tình cảm của tự sát để rồi lại đương đầu với tình thế y hệt như trước ở một kiếp sau.

Sau đây ta sẽ xem xét một số nguyên nhân tự tử thông thường nhất:

  • Nổi loạn. Sự sống là một món quà của Thượng đế, cho nên tước đoạt sự sống là một hình thức nổi loạn nghiêm trọng chống lại Thượng đế. Một số dòng sống tự tử vì họ căm giận Thượng đế đến độ họ từ chối món quà của sự sống. Như ta có giải thích trong một bài giảng khác, những dòng sống này rất khó tiếp cận. Một số phải kinh qua tiến trình tự sát để chứng nghiệm trực tiếp sự thật là họ không thể thoát khỏi tâm trạng nổi loạn bằng cách giết chết một thể xác. Trong một số trường hợp, điều này sẽ khiến họ hiểu ra là cách duy nhất để thoát khỏi tâm trạng của họ là nhận lãnh trách nhiệm về hoàn cảnh của mình (nổi loạn chống lại Thượng đế là tâm trạng cùng cực phủ nhận mọi trách nhiệm cá nhân) và thay đổi khung tư duy của mình.
  • Trả thù. Một biến thể của tức giận và nổi loạn là khi dòng sống tự sát do muốn trả thù. Sâu trong những ngóc ngách của tâm lý, có ý muốn trả thù Thượng đế, nhưng dòng sống thường cho đó là mong muốn trả thù thân nhân hay trả thù xã hội. Một dòng sống như vậy có thể được giúp đỡ khi nhận ra là hành vi tự tử sẽ làm hại mình nhiều hơn là bất cứ ai khác mà cũng không ảnh hưởng gì tới Thượng đế. Tuy nhiên, muốn trao hiểu biết này cho một dòng sống đang căm giận cũng rất khó khăn.
  • Mong muốn thoát thân. Một số dòng sống trong tình trạng căng thẳng đến độ họ không còn khả năng xử lý tình cảm lẫn lý trí. Họ cảm thấy bị kẹt cứng, không có cách nào cải thiện hoàn cảnh. Vì vậy, năng lượng của tình thế có thể trở nên gay gắt đến độ họ không đương nổi nữa, và họ tìm cách trốn chạy trong sự tự sát. Những dòng sống này có thể được giúp đỡ nếu họ nhìn ra là họ sẽ không trốn thoát được tâm trạng của họ bằng cách giết thể xác. Cũng sẽ rất hữu ích nếu họ có thể thấy là luôn luôn có cách cải thiện một tình thế cho dù có vẻ khó khăn đến đâu. Nhưng tất nhiên, một khi dòng sống đã bị nhấn chìm trong cơn lốc xoáy đi xuống của tự sát, việc giúp họ thấy được những sự thật này có thể khó khăn.
  • Kêu gọi giúp đỡ. Nhiều dòng sống bị điều kiện cuộc sống đè nặng đến độ họ không thể đối phó được một mình nữa. Một số không có khả năng kêu cứu, trong khi một số khác không có ai để mà cầu cứu. Họ cảm thấy lẻ loi, thiếu vắng yêu thương, như thể không ai để ý là họ sống hay chết. Vì vậy họ không thể cầu cứu bằng những cách thông thường, và cuối cùng lòng họ nặng trĩu đến độ họ toan tính tự sát. Những dòng sống này thực sự không muốn tự sát và toan tính của họ – thường không thành công – là một tiếng kêu cứu từ tiềm thức. Đây là những dòng sống dễ giúp nhất vì họ có thể quay đầu khi họ nhận ra là có người quan tâm.

Điều khó khăn với tự sát là nó không xảy ra đột ngột. Tự sát luôn luôn là kết quả của một tiến trình rất chậm, trải ra từ từ đến độ dòng sống không ý thức là mình đang bước vào một vòng xoáy đi xuống. Họ không nhận ra là họ đã đi quá điểm không thể quay lui, là điểm sẽ dẫn họ đối đầu với con ma tự sát. Đó là lý do họ sẽ rất khó lòng lật ngược lại tiến trình một mình. Họ hoàn toàn không biết là họ đã bước lên một cái cầu trượt đi xuống. Nếu dòng sống không nhận được sự giúp đỡ từ ngoài, thường họ sẽ phải đi muốt con đường này cho tới khi họ sẵn sàng tự vẫn. Và khi đối diện với vực thẳm, một số dòng sống rốt cuộc sẽ thức tỉnh trước thực tế nguy hiểm của tự tử, và họ quay đầu trở lại, cố gắng leo ngược trở lên.  

Cách tốt nhất để giúp đỡ một dòng sống là quan sát xem họ đang sinh hoạt thế nào. Tất nhiên, quan sát càng sớm thì càng có nhiều xác suất lật ngược vòng xoáy đi xuống. Con có thể dùng một số yếu tố chủ yếu sau đây để trợ giúp họ thoát khỏi vòng xoáy đang kéo họ xuống tự vẫn.

Yếu tố đầu tiên là nhìn ra rằng nhiên liệu của vòng xoáy đi xuống tự tử là năng lượng độc hại đã tích tụ trong trường năng lượng của người đó. Như có giải thích ở nơi khác, năng lượng độc hại sẽ tích lũy trong trường năng lượng và từ từ hình thành một cơn lốc xoáy có khả năng áp đảo những ý tưởng và cảm xúc ý thức của người đó. Cơn lốc xoáy cũng có thể mở ra một thế nối kết giữa trường năng lượng của cá nhân với trường năng lượng của hành tinh. Năng lượng của hành tinh có một số xoáy năng lượng tiêu cực mà nhân loại đã phát sinh từ hàng ngàn năm. Một trong những xoáy đó là xoáy năng lượng tự sát, và ở đáy cái xoáy này là một con quỷ, hay một tà thể, có tên là Annihla. Sinh thể bóng tối này lấy năng lượng bằng cách cuốn hút con người vào vòng xoáy tự sát hầu nó đánh cắp bất kỳ năng lượng ánh sáng nào còn lại trong năng trường của họ.

Một khi con hiểu được sự hiện hữu của những năng lượng bóng tối đó, con có thể tham gia vào một buổi cầu nguyện để giải thoát dòng sống khỏi vòng xoáy đi xuống của năng lượng tự sát. Tuy nhiên, ta có một lời cảnh báo thẳng thắn. Trừ khi con có động lượng mạnh mẽ do đã cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh từ Trên, điều này có thể nguy hiểm cho con khi con tham gia vào động lượng toàn cầu của tự sát. Lực này rất mạnh mẽ và hung ác, và nếu con đang tìm cách giải cứu một người khỏi nanh vuốt của nó, rất có thể là nó cũng sẽ đuổi theo con. Cho nên ta khuyến cáo chỉ những ai có sự quân bình cao độ, chưa bao giờ có xu hướng tự vẫn, mới tham gia vào tiến trình này. Và ta cũng thực sự khuyên mọi người nên tham gia cùng nhau trong một nhóm thay vì một người đơn thương độc mã chống chọi lại lực này.

Các bài chú cho Đại thiên thần Michael cực kỳ quan trọng trong vấn đề này, và nếu con muốn đối đầu với tà lực tự sát, ta khuyên con đọc ít nhất 40 lần – ta nói rõ, bốn mươi – mỗi ngày để bảo vệ cá nhân con và giải thoát người kia. Bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael cũng vô cùng quyền năng, cũng như Hộp Dụng cụ Khủng hoảng Tâm linh. Ta cũng khuyến cáo lời kêu gọi phán xét, và con nên kêu gọi Đại thiên thần Michael phán xét và buộc trói Annihla cùng những con quỷ tự sát khác đang công hãm người đó. Cũng sẽ vô cùng hữu ích nếu con hướng một luồng Lửa Tím tập trung vào trường năng lượng của người mà con đang cố giúp. Tương tự, các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng rất hữu hiệu, đặc biệt bài tràng hạt Tha thứ và Đông-Tây.  

Yếu tố thứ hai là đánh thức người đó trước nguy cơ tự sát và sự kiện tự sát không là giải pháp vì nó không dẫn đến sự giải tỏa các vấn đề của dòng sống. Trong một nghĩa nào đó, có thể nói đây là yêu cầu quan trọng nhất, nhưng ta chỉ đưa vào điểm thứ nhì vì khi nào họ còn bị năng lượng tiêu cực áp đảo, hầu như không có cách nào đánh thức họ dậy. Nói cách khác, trước hết con phải cố gắng giải tỏa áp lực của năng lượng tiêu cực trước khi con có hy vọng đánh thức người đó. Cách hay nhất để đánh thức một người là trao cho họ quyển sách ta đề cập ở trên cùng với một số giáo lý từ trang mạng này, đặc biệt giáo lý nói rằng tự sát không phải là sự kết liễu tâm thức và bất cứ ai có ý tự sát đều bị tà lực tấn công. 

Yếu tố thứ ba là bảo đảm người đó không cảm thấy lẻ loi, không được yêu thương. Nhiều người tự vẫn vì muốn thoát khỏi cảm giác không có ai thương mình, không có ai quan tâm là mình sống hay chết. Một cách hay nhất để giúp họ là trở thành một người biết lắng nghe, chỉ để yên cho họ nói chuyện mà không cố gắng cải sửa họ hoặc giải quyết những vấn đề của họ. Hãy để cho họ nói, cho họ cảm giác là con đang lắng nghe và quan tâm đến họ. Để cho họ bày tỏ các vấn đề của họ mà không cố đưa ra giải pháp. Cứ để cho họ nói cho tới khi họ bắt đầu nhìn thấy giải pháp tự mình họ.

Yếu tố thứ tư là chỉ cho họ thấy là thực sự có một cách để cải thiện tình thế. Con có thể làm điều này bằng cách giúp họ biết đến con đường tâm linh mà ta trình bày suốt trang mạng này. Tất nhiên, tốt hơn hết là một người đã bước đi trên đường tu và có thể chia sẻ kinh nghiệm bản thân, giúp họ trong việc này.

Ta ca ngợi những ai thấy được mức độ nghiêm trọng của vấn đề này và đã thiết lập những đường dây nóng cùng những nhóm hỗ trợ để giúp những người cần khắc phục lực lôi cuốn của tự sát. Nếu con tìm thấy một dịch vụ như thế gần nhà, ta khuyên con nên tận dụng hay giúp cho những người đang có ý tự vận tận dụng dịch vụ này. Được sinh hoạt trong một nhóm có thể là một tác dụng tích cực to lớn đối với bất cứ ai đang có ý định tự vận, đặc biệt nếu họ có thể hỏi chuyện một người đã từng có ý tự vẫn nhưng đã quyết định lui ra khỏi vực thẳm. Không ai tốt hơn là một người đã trải qua kinh nghiệm đó và trở về từ bờ vực.     

Mặc dù những nỗ lực có tổ chức như vậy thật đáng khen, ta thấy cần đưa ra một lời cảnh báo. Xin đừng rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng cách giúp một người đang có ý tự sát là lôi kéo họ vào tôn giáo của con. Tiếc thay, ta thấy có một số tín hữu Cơ đốc giáo tràn đầy tình yêu thương và thiện chí lại cố giải cứu những người bị đau khổ bởi ý nghĩ tự sát bằng cách quyến dỗ họ gia nhập giáo hội của mình. Điều con thực sự cần làm là cảm thông với cá nhân dòng sống và giúp họ tìm được con đường tâm linh phổ quát vượt trên mọi tôn giáo. Con đường này không thể bị hạn chế trong một tôn giáo nào, ngay cả tôn giáo Ki-tô.

Cuối cùng, ta cũng xin nói là những lời này không nên dùng để thay thế cho việc tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp. Có những nhà chuyên nghiệp có khả năng đã được huấn luyện để giúp người có ý tự sát, và nếu con tìm được một nhà chuyên nghiệp, con nên yêu cầu họ giúp chính con hay một người nào khác. Ta cũng khuyên con nên học hỏi những bài giảng của ta về cách khắc phục nghiện ngâp kéo dài cả đời, vì trong đó ta cũng có giảng về cách lật ngược vòng xoáy đi xuống khả dĩ dẫn đến tự sát.

Và tất nhiên, các dụng cụ trong Hôp Dụng cụ Thăng vượt có thể giúp con tránh khỏi mọi vòng xoáy tiêu cực – nếu con sẵn lòng áp dụng.

Tại sao một số lãnh đạo tôn giáo lạm dụng quyền lực?

Hỏi (Kim Michaels): Thưa Giê-su, con đã gặp nhiều người, đặc biệt là các tín hữu Công giáo, thất vọng và buồn nản về những sự kiện họ xem là sự lạm quyền hay tham nhũng trong giới lãnh đạo của nhà thờ hay của các tôn giáo có tổ chức nói chung. Con có cảm tưởng trong giới lãnh đạo bất cứ một tổ chức tôn giáo nào cũng có nguy cơ lạm dụng quyền lực. Đặc biệt con thấy những vấn đề sau đây:

  • Một số lãnh đạo tôn giáo có vẻ cho rằng họ đứng trên và vượt khỏi các thành viên trong giáo hội,
  • Một số lãnh đạo có vẻ chờ đợi sự phục tùng mù quáng của người cấp dưới, và họ không chấp nhận cho ai bất đồng hay ngay cả đặt câu hỏi,
  • Một số tin rằng họ thay mặt cho Thượng đế và do đó họ không thể sai lầm,
  • Một số có xu hướng trở nên cứng nhắc, gần như cuồng tín, trong cách tiếp cận tôn giáo hay quyền lực. Họ bám vào một cách diễn giải kinh điển và từ chối không xem đến bất cứ ý tưởng nào vượt ngoài niềm tin của họ.
  • Một số lãnh đạo còn tìm cách lợi dụng sự sợ hãi để ép buộc tín đồ phải tuân theo hệ thống chức sắc hay phải mù quáng chấp nhận học thuyết của giáo hội.

Quan điểm của thày về cách lãnh đạo các hội thánh hiện đại là như thế nào?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tất nhiên, thành viên của nhiều giáo hội, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các tôn giáo khác, đã phải chịu đựng sự lạm quyền của người lãnh đạo, Ta không muốn phủ nhận hay làm ngơ trước một sự thật mà bất cứ người khách quan nào cũng có thể nhìn thấy.

Tuy nhiên, ta muốn lùi lại một bước và thay vì tập trung vào người lãnh đạo của một giáo hội nào đó, chúng ta hãy thử nhìn vào những thử thách mà lãnh đạo mọi tổ chức tôn giáo hay tâm linh phải đối diện. Khi chúng ta hiểu rõ hơn những cơ năng tâm lý liên quan cụ thể đến việc lãnh đạo giáo hội, chúng ta mới giúp mọi người có được một tầm nhìn khác hơn. Sự lạm dụng quyền lực xảy ra trong hầu hết mọi tổ chức tôn giáo và thật là quan trọng cho chúng ta hiểu tại sao.    

Trong vũ trụ vật chất, mọi sự đều là con dao hai lưỡi. Không có một điều gì mà chúng tôi, các vị thày tâm linh của nhân loại, nói hay làm mà tâm nhị nguyên không thể hiểu sai và lạm dụng. Điều này đặc biệt áp dụng cho việc giao quyền hành cho một người nào đó.  

Trước tiên, chúng ta cần nhìn nhận rằng hầu hết mọi người trên địa cầu đều phần nào thờ ơ đối với tôn giáo. Họ không có quan điểm rõ ràng, và ngay cả trách nhiệm về cuộc sống của họ mà họ cũng không nắm lấy thì làm sao họ nhận trách nhiệm cứu rỗi cả hành tinh? Cho nên những ai bị lôi cuốn vào các tổ chức tôn giáo, đặc biệt những người sẵn sàng nhận trách nhiệm lãnh đạo, thường là những người không thờ ơ. Họ là người nhiệt thành, họ là người hành động, và một số là những người dẫn đầu chứ không phải là người đi theo.  

Con có nhớ là ta đã nói rằng thà nóng hay lạnh còn hơn là nguội. Qua câu đó, ta muốn nói là đã làm môn đệ của Ki-tô thì không có ai nguội cả. Tất nhiên là có những người tưởng mình là môn đệ của Ki-tô do đã gia nhập một hội thánh nào đó, nhưng đó chỉ là ảo ảnh.

Để làm môn đệ đích thực của Ki-tô, con phải rực lên một ngọn lửa muốn làm điều gì đó vượt hẳn tư lợi của mình. Ở đây cần phải phân biệt, lòng nhiệt thành không đồng nghĩa với việc trở thành môn đệ đích thực của Ki-tô. Một môn đệ của Ki-tô tuy rực lửa đi theo một chính nghĩa nhưng sẽ phụng sự chính nghĩa đó một cách cân bằng. Người đó sẽ lánh xa mọi cực đoan, mọi cách nhìn trắng đen khởi lên từ tư duy nhị nguyên tương đối. Người đó tận tâm đi tìm một viễn quan quân bình, tức là trung đạo của tâm thức Ki-tô.

Điều ta đang cố giải thích là loại người cảm thấy thu hút vào các trách vụ lãnh đạo trong một tổ chức tôn giáo thường là những người hoặc nóng hoặc lạnh. Thế nào là nóng hay lạnh? Cả hai loại người này đều có lòng nhiệt thành và sẵn sàng cống hiến cho chính nghĩa. Người nóng là người đã tìm được một mức quân bình nào đó, trong khi người lạnh vẫn chưa đạt được sự quân bình của mình. Cho nên một người lạnh có khuynh hướng tiếp cận cuộc sống hay tiếp cận tôn giáo trong cái nhìn đen trắng. Tuy có một số người lạnh chọn được chính nghĩa chân chính, nhưng phần còn lại sẽ đi theo chính nghĩa giả trá.

Một ví dụ điển hình là Paul với lòng nhiệt thành cao độ, nhưng Paul thuở đầu lại hoạt động chống lại ta. Điều cứu vãn những người lạnh là họ luôn luôn chuyển động, cho nên nếu có được một vị thày tâm linh giúp họ đổi hướng thì sự nhiệt thành của họ sẽ tuôn vào một mục đích xứng đáng. Đó là điều đã xảy ra cho Paul.    

Tuy nhiên, phục vụ một mục đích xứng đáng không có nghĩa là mình đã thực sự tinh tấn tâm linh. Nó chỉ có nghĩa là mình không còn tạo ra nghiệp chướng do mình phục vụ một mục đích tệ hại. Nói cách khác, một người nhiệt tâm phục vụ một giáo hội vẫn có thể mất quân bình và đi theo một đường lối phàm phu. Nói ra thì hơi ngược đời, nhưng một người có thể hội đủ mọi tiêu chuẩn của một đệ tử mà lại là một phản đệ tử. Thử thách lớn nhất cho người đó là buông bỏ cách tiếp cận mất quân bình, tìm lại sự quân bình và nhờ vậy bước vào con đường tu bên trong. Paul chưa bao giờ đạt được sự quân bình đó mặc dù ông tiến bộ đáng kể.

Trong hầu hết các tổ chức tôn giáo, con sẽ tìm thấy cả hai loại lãnh đạo, quân bình lẫn mất quân bình. Bây giờ chúng ta hay nhìn xem điều gì xảy ra khi một người mất quân bình đạt được địa vị lãnh đạo trong một tổ chức tôn giáo.

Như ta vừa nói, ít ai bị quyến rũ vào những chức vụ đó trừ khi họ cảm thấy việc phụng sự Thượng đế là điều quan trọng. Cho nên hầu như tất cả những người đó đều cảm thấy mình quan trọng, thậm chí còn quan trọng hơn tất cả, vì họ thực sự tin rằng họ đang làm việc cho ý muốn và mục tiêu của Thượng đế. Họ cũng tin là công việc này quan trọng hơn mọi công việc thế phàm nào khác. Điều này tự nó không sai. Tuy nhiên khi một người mất quân bình ôm lấy cái nhìn đó và nắm quyền hành một tổ chức tôn giáo, thì lạm quyền có thể xảy ra.   

Vì người mất quân bình không hiểu sự cần thiết phải đạt được trung đạo của tâm thức Ki-tô và cũng không có sự phân biện để nhìn thấy trung đạo, họ thường có một cái nhìn trắng đen, Họ ôm lấy giáo điều hoặc hệ tư tưởng và cho đó là chân lý tuyệt đối bất khả sai lầm.

Từ đó họ tin rằng bất cứ ý tưởng nào có vẻ đi ngược lại hoặc đi xa hơn thế giới quan của họ đều sai trái một cách tuyệt đối. Nói cách khác, họ bắt đầu tin rằng họ đang nhập vào một cuộc chiến giữa thiện và ác, và thiện khác ác y như trắng khác đen. Tiếc thay, sự quân bình của họ khiến họ định nghĩa sự khác biệt giữa thiện và ác trên căn bản tư duy nhị nguyên.

Sau đó họ bắt đầu tin rằng việc áp đặt chân lý “duy nhất” này lên toàn tổ chức cùng mọi thành viên có một tầm quan trọng vĩ đại. Điều này có thể dẫn đến sự tin tưởng, đôi khi rất vi tế và không được nhận diện, rằng họ trở thành một vị đại diện hay một phát ngôn nhân cho Thượng đế hay cho các chân sư thăng thiên. Nói cách khác, họ cảm thấy rằng nếu con lên tiếng nói ngược lại chân lý “tuyệt đối” của họ thì con cũng đang nghịch lại Thượng đế, và do đó việc họ áp chế con chỉ là một điều cần thiết, hợp lý. Trong những trường hợp cùng cực, hầu hết mọi biện pháp nhằm bảo vệ cái mà họ coi là chuẩn mực chân chính duy nhất của Thượng đế sẽ được họ xem là hoàn toàn thích đáng. Ví dụ điển hình là Toà án Dị giáo cũng như việc ta bị đóng đinh trên thập tự.       

Điều thực sự xảy ra trong tiến trình này là những người mất quân bình như vậy sẽ cảm thấy, bởi vì chính nghĩa của họ tuyệt đối quan trọng, cho nên họ cũng phải nắm lấy quyền hành tuyệt đối. Nói cách khác, họ bắt đầu tin rằng vì họ làm việc cho Thượng đế và sự nghiệp chân chính duy nhất, họ phải có quyền hành tuyệt đối. Và họ tin là trong mọi công việc của họ, họ được sự hổ trợ tuyệt đối của Thượng đế.

Người ta thường nói, mọi quyền lực đều thối nát, và quyền lực tuyệt đối thì thối nát một cách tuyệt đối. Câu này chí lý lắm đó. Thật là khó ở trong một địa vị nắm quyền tuyệt đối – cho dù đó là quyền lực có thực hay tưởng tượng – mà không bị quyền lực chiếm trọn lấy mình và không sử dụng quyền lực một cách mất quân bình. Cách duy nhất để tránh bị tha hóa bởi quyền lực tuyệt đối là trụ vững nơi trung đạo của tâm thức Ki-tô.

Những ai không trụ vững được nơi trung đạo, dù là do sự mất quân bình tâm lý, tin tưởng bất toàn hay động lượng cũ từ tiền kiếp, đều sẽ không tránh khỏi rơi vào cực đoan và lạm dụng quyền thế ở một mức nào đó. Đó chỉ đơn giản là hậu quả không thể tránh khỏi khi mình cho phép mình cảm thấy nắm vị trí quyền lực toàn diện.

Cho nên một sinh thể Ki-tô sẽ không để cho mình cảm nhận mình ở trong vị trí đó. Phải nhận ra là chỉ có Thượng đế và ý muốn Thượng đế mới có quyền năng tuyệt đối, và ngay cả Thượng đế cũng phải cúi mình trước quyền tự quyết của con người. Có thể nói, mặc dù Thượng đế có quyền năng tuyệt đối, nhưng ngài không sử dụng quyền năng đó vì ngài đã ban quyền tự quyết cho con người. Do đó, không một lãnh đạo nào có thể chính danh tuyên bố là mình được sự ủng hộ của Thượng đế mà đồng thời vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con có thấy sự phân biệt vi tế nhưng tối quan trọng này không? Nếu con thực sự được Thượng đế hỗ trợ, con sẽ cương quyết tôn trọng quyền tự quyết của tất cả đồng môn của con y như các chân sư thăng thiên tôn trọng quyền tự quyết của mọi người. Thật là rõ ràng như thế. Hoặc con đứng nơi trung đạo của Ki-tô, hoặc con đứng ở vô số những điểm cực đoan mà tư duy nhị nguyên đã định ra.  

Kim Michaels: Vậy thì làm thế nào thoát khỏi trạng thái mất quân bình và tìm lại sự quân bình?

Giê-su: Trước tiên phải hiểu ra vấn đề. Con không thể giải quyết một vấn đề cho đến khi con nhìn nhận là có vấn đề, rồi con bắt đầu tìm hiểu điều gì gây ra vấn đề. Cho nên nếu con thực sự muốn đạt được sự cứu rỗi cá nhân, con phải khởi đầu với sự nhìn nhận rằng việc sử dụng quyền lực mất quân bình là vấn đề cần giải quyết. Con không thể đem theo sự mất quân bình lên thiên đàng. Ở trên đó không hề có sự mất quân bình.  

Có thể nói, để tránh rơi vào bẫy của sự mất quân bình, một đạo hữu cuồng tín cần có những biện pháp nhất quyết. Ta đã có trao cho các con một số dụng cụ tâm linh trong trang dụng cụ để giúp thăng vượt sự cuồng tín tôn giáo. Ta cũng khuyên con nên đọc bài giáo lý của Mẹ Mary về cách thoát khỏi các độc tố tâm linh tương ứng với các vị Phật Thiền định.

Rượu và các trải nghiệm tâm linh

Hỏi: Con được biết có một buổi lên đồng nơi nhân vật đồng bóng khuyến dụ đệ tử nên uống rượu đỏ trong các buổi học tập vì rượu khiến cho trải nghiệm tâm linh của họ được nâng cao. Xin thày vui lòng bình luận về điều này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có rất nhiều sinh thể phi vật chất sẵn sàng giao tiếp với loài người. Ta đã có dịp giải thích là tâm con người có khả năng vận hành như chiếc máy thu thanh. Trong thời đại hôm nay, ngày càng có nhiều người phát triển được khả năng bật máy thu thanh của tâm thức lên và bắt được làn sóng của những sinh vật vượt ngoài cõi vật chất.

Nhu cầu lớn nhất hiện nay là khả năng phân biện Ki-tô để mọi người có thể tránh xa việc giao tiếp với những sinh thể chưa thăng thiên. Có rất nhiều những sinh thể như vậy và trong số họ cũng có rất nhiều sinh thể sốt sắng giao tiếp với con người. Tuy nhiên, sự kiện họ chưa thăng thiên đáng lý phải khiến cho người ta tự hỏi tại sao họ đã không vượt qua được cuộc điểm đạo cuối cùng trên đường đạo. Nếu con muốn khởi sự một cuộc hành trình đến một nơi nào đó thì điều khôn ngoan nhất là con nên được hướng dẫn bởi một sinh thể đã hoàn tất cuộc hành trình và biết rõ đường đi lối bước.

Ta xin nói rõ là không một vị chân sư thăng thiên nào sẽ bao giờ khuyên con pha trộn rượu với sự tu tập tâm linh. Quả thật, rượu có thể nâng cao trải nghiệm của một người, nhưng trải nghiệm đó nhất định không phải là trải nghiệm tâm linh. Ta rất buồn khi biết rằng rất nhiều người tin là họ đã đạt được những trải nghiệm tâm linh do sử dụng ma túy hay những chất kích thích. Cho dù các trải nghiệm đó có vẻ thực đến đâu đi nữa thì đó vẫn là một ảo tưởng vô cùng nguy hiểm.  

Bộ não con người có khả năng, do tác động của sự kích thích hóa học, sản xuất ra những trải nghiệm mang vẻ giông giống như trải nghiệm tâm linh. Tuy nhiên sự khác biệt giữa những trải nghiệm này với thực tại cũng tương tự như người coi phim máy bay với người đang thực sự ở trên không trung.

Ta cũng có thể bảo đảm với con là không một chân sư thăng thiên nào sẽ chiếm lấy cơ thể của một người và khiến cho người đó nói năng với một giọng nói khác lạ. Chúng tôi có thể phát biểu qua một người và khi làm vậy, chúng tôi có thể phóng chiếu một phần của bản thể chúng tôi vào cơ thể và tâm trí người đó. Tuy nhiên, chúng tôi không biến người đó trở thành vô thức, hoàn toàn không biết mình đang nói gì, bởi vì làm vậy sẽ là vi phạm quyền tự quyết của người đó. 

Mật mã trong Kinh thánh

Câu hỏi 1: Liệu các mật mã Kinh thánh trong quyển kinh Torah là thật hay không?

Câu hỏi 2: Hình như mọi người đều đang bàn tán sôi nổi về một đoạn mã được tìm thấy trong ấn bản gốc tiếng Do thái của Kinh Cựu ước, hay Torah. Liệu mật mã này có thật hay không? Nó có tiên đoán một số biến cố thực trên địa cầu? Liệu nó chỉ chứa đựng một hậu quả duy nhất hay mấy hậu quả khác nhau có thể xảy đến? Có phải Thượng đế hay người ngoài hành tinh đã đặt nó vào trong đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con hãy tự đặt một vài câu hỏi. Tại sao Thượng đế lại đi giấu mật mã trong một lời dạy tâm linh được trao truyền ban đầu như một lời tiết lộ trực tiếp và sau đó được truyền khẩu cho đến ngày nay? Tại sao lại cài vào trong đó một đoạn mã mà không ai có thể giải thích được cho tới 2000 năm sau, khi máy tính được phát minh?

Để tin vào một mật mã như vậy, con phải tin rằng mặc dù Thượng đế đã trao cho nhân loại Kinh thánh trong một sự tiết lộ trực tiếp, tự dưng ngài đã đánh mất khả năng tiết lộ trực tiếp đó sau khi ban ra Kinh thánh. Nói cách khác, ngài đã phải biết trước là ngài chỉ có đúng một dịp duy nhất để ban tiết lộ thiêng liêng cho loài người, và do đó ngài đã phải cài vào một đoạn mã để sau này người ta có thể diễn giải khi người ta có máy tính nhưng không còn nhận được tiết lộ nữa.

Khi con suy nghĩ một chút, con sẽ thấy chuyện này hoàn toàn vô lý. Thượng đế là đấng toàn năng, cho nên ngài không thể đánh mất khả năng giao tiếp với loài người. Vậy tại sao ngài lại cài đặt mật mã vào một lời được ban ra cách đây hàng ngàn năm để truyền đạt một thông điệp mà ngày nay ngài có thể dễ dàng truyền đạt qua sự tiết lộ trực tiếp? Một khi con nắm vững thực tế của tiến trình tiết lộ tuần tự – một tiến trình đã tiếp diễn từ trước khi lịch sử được ghi chép và sẽ còn tiếp diễn một cách vô hạn định trong tương lai – thì hiển nhiên không hề có nhu cầu giấu mã trong Kinh thánh.     

Điều hoàn toàn đúng là bất kỳ lời dạy tâm linh chân chính nào cũng có thể được diễn giải ở nhiều tầng cấp khác nhau. Điều này được diễn tả qua câu: “Giê-su chẳng hề giảng cho quần chúng mà không sử dụng ngụ ngôn, nhưng khi ở riêng, thày cắt nghĩa tất cả mọi điều cho môn đồ của mình.” (Mark 4:34)

Cho nên giáo lý của ta có những tầng cấp thông hiểu khác nhau tương ứng với trình độ tâm linh của người nhận trưởng thành tới đâu. Dù sao thì ý nghĩa “ẩn giấu” như vậy không mang hình thức mật mã chỉ được giải trình bởi một chiếc máy tính, mà nó được ban ra dưới dạng một lời dạy mà tâm nhị nguyên không có khả năng hiểu được. Ý nghĩa thực của nó có thể được mở khóa khi người tầm đạo nâng cao tâm thức của mình vượt lên khỏi tư duy nhị nguyên và bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình.   

Tại sao bỗng nhiên nhiều người lại quan tâm và phát hiện ra những cái gọi là mật mã Thánh kinh chứ? Một phần là vì tâm thức loài người đang được nâng lên, và điều này khiến cho con người dễ dàng nhận diện hơn các mô thức “ẩn giấu”.

Tuy nhiên còn một phần giải thích khác nữa, đó là kể từ biến cố Sa ngã, một số người đã tìm cầu một cách thức máy móc để đạt cứu rỗi. Những người như vậy ham chuộng máy tính, và ngược lại với một ý tưởng thịnh hành, máy tính là một thiết bị hoàn toàn máy móc sẽ không bao giờ đạt được khả năng thông minh thật sự. Một chiếc máy tính chỉ có thể nhận dạng những mô thức máy móc, nhưng quả vị Ki-tô thì không thể chứng được một cách cơ học máy móc – cho dù nhiều thày giả muốn con tin là chuyện này có thể làm được. Đây chính là “con đường có vẻ đúng cho con người, nhưng cuối cùng lại là con đường của sự chết” (Châm ngôn 14:12).    

Thực tế đơn giản là máy tính không có khả năng rút tỉa thông tin thực. Nó chỉ có thể phân tích một tác phẩm văn chương và so sánh với những con số đã được người dùng máy lập trình vào trong máy. Cho nên những loại mã mà người ta có thể tìm thấy trong Kinh thánh đã được định sẵn bởi những gì người dùng máy muốn tìm. Điều này rất giống như khám phá của ngành vật lý lượng tử, cụ thể là tâm thức của người quan sát sẽ nhất định ảnh hưởng đến kết quả được quan sát.

Sự thật đằng sau việc “khám phá mật mã” này là: Chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên thì họ sẽ còn xu hướng nhìn thấy những gì họ muốn nhìn thấy. Chỉ khi nào con vươn lên cao hơn nhị nguyên và chứng được tầm nhìn đích thực của tâm Ki-tô thì con mới thấy được cái thực.  

Trên thực tế, con có thể lấy hầu như bất kỳ tác phẩm văn chương nào đủ dài và đủ phức tạp và tìm thấy trong đó một loại mã hay mô thức nào đó. Tuy nhiên, như nhà vật lý lượng tử sẽ hỏi: “Liệu thế giới thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai đứng nhìn?” thì cũng vậy, con có thể hỏi: “Liệu mật mã Thánh kinh thật sự có ở đó hay chăng khi không có ai tìm nó?”  

Cũng có một vài tác phẩm văn chương mà tác giả đã cố tình cài vào một mật mã. Người ta làm chuyện này trong những xã hội bị nhà nước hay giáo hội đàn áp và tác giả gặp nguy hiểm khi tiết lộ một loại thông tin nhất định nào đó. Cho nên thông tin được bảo mật dưới một dạng mã mà chỉ những ai nắm được chìa khóa mới có thể đọc được. Có một số ví dụ như vậy là các tác phẩm của Francis Bacon và Shakespeare. Tuy nhiên như ta vừa giải thích ở trên, Thượng đế không hề có nhu cầu sử dụng những loại mã như thế. Thượng đế cùng các chân sư thăng thiên có khả năng, bất cứ lúc nào, sử dụng sự tiết lộ trực tiếp để truyền đạt thông điệp của mình.  

Nếu con đã đến đây với Sanat Kumara, bây giờ đã đến lúc con thăng thiên

Hỏi: Con đã được đọc chút đỉnh về lịch sử của thày Sanat Kumara đến địa cầu. Lần đầu tiên khi con nghe bài truyền đọc do thày Sanat Kumara về đề tài này, con gần như khóc oà mà không làm sao cầm lại được. Con đã phải cố gắng lắm mới không bị ướt đẫm nước mắt lẫn nước mũi. Trong một số bài truyền đọc khác của thày Sanat Kumara, con cũng đã có một kinh nghiệm tương tự. Con không thể tìm ra lý do chính xác tại sao con lại phản ứng như vậy. Con nghi là con có liên hệ gì đó với 144,000 dòng sống và Sanat Kumara. Xin thày chỉ dẫn cho con, con nên nhìn trải nghiệm đó như thế nào, tại sao nó lại xảy ra và con rút tỉa được điều gì từ đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tuyệt đại đa số các dòng sống trong số 144,000 dòng sống đã xuống địa cầu cùng với Sanat Kumara, hiện vẫn chưa thăng thiên. Họ đã chờ đợi thời điểm thuận lợi để làm việc đó, chờ cho đến khi địa cầu được nâng lên đủ cao thì họ mới có thể rời hành tinh này. Quả thực thời điểm đó đã đến, cho nên điều quan trọng đối với tất cả các dòng sống đó là họ cần nối kết lại với con người thực mà họ là, và lấy quyết định ý thức là mình sẽ làm tất cả để đạt đến quả vị Ki-tô và thực hiện cuộc thăng thiên nội trong kiếp này hay kiếp tới.

Khi quyết định ở lại với hành tinh này lâu đến như vậy, thật sự các dòng sống đó đã sẵn lòng dâng hiến và hy sinh tột cùng. Nhưng giờ đây đã đến điểm các con sẽ giúp ích hành tinh này nhiều hơn bằng cách thăng thiên, và khi làm vậy, các con sẽ để lại một dấu đường cho mọi người khác bước theo, và con sẽ đóng góp phần động lượng của con vào ngọn lửa thăng thiên trên hành tinh.

Con phải hiểu rằng hầu hết mọi người trên hành tinh này đều hoàn toàn thờ ơ đối với sứ mạng của Sanat Kumara. Cho dù họ có nghe nói về sứ mạng đó, họ cũng không có mảy may quan tâm nào. Họ không có căn bản nào để thực sự hiểu được là nếu sứ mạng của 144,000 dòng sống từ Kim tinh không xảy ra, thì trái đất này đã không thể tồn tại, còn họ thì đã phải sống ở những nơi còn tồi tệ hơn cả địa cầu.

Điều ta muốn nói là hầu hết con người đều không mang cảm xúc sâu xa nào đối với câu chuyện của Sanat Kumara, cho nên nếu con có phản ứng như trên thì đó là dấu hiệu chắc chắn con thuộc về một trong những thành phần sau đây:

  • Con có thể là một trong số 144,000 dòng sống đã xuống đây từ Kim tinh.
  • Con có thể là một trong số các dòng sống đã tình nguyện đến địa cầu sau Sanat Kumara hầu hỗ trợ cho sứ mạng của thày.
  • Con có thể là một dòng sống đã hiện thân trên hành tinh này từ ban đầu, nhưng giờ đây con đã đạt đến mức trưởng thành tâm linh khi con có khả năng hiểu được tầm quan trọng của sứ mạng của Sanat Kumara. Cho nên dòng sống của con hiểu được tầm quan trọng của chính mình nơi các tầng cõi nội tâm, và đó là tại sao con đã đáp ứng khi tâm vỏ ngoài ý thức được điều đó.

Cái ta Ki-tô của con sẽ nói cho con biết con thuộc thành phần nào, nhưng điểm quan trọng đối với tất cả các dòng sống đó là: Đã đến lúc con nỗ lực hết mình để thể hiện quả vị Ki-tô của mình và thăng thiên. Hành tinh này cần được gia tốc một cách đáng kể, và điều này chỉ làm được khi con biểu hiện quả vị Ki-tô của con và như vậy con cũng gia tốc tâm thức của nhân loại vượt xa hơn tất cả mọi thứ mà nhân loại đã chứng kiến từ khi Sanat Kumara giáng thế. Đó chính là mục đích của con khi đến hành tinh này, và bây giờ đã đến lúc con hoàn thành mục đích đó.

Tôn giáo chân chính duy nhất là tôn giáo phổ quát

Hỏi: Phải chăng chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Câu trả lời cho câu hỏi phải chăng chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất là: “Có và không.”

Chỉ có một tôn giáo chân chính duy nhất, nhưng tôn giáo này là tôn giáo phổ quát (universal), tôn giáo nội tâm của Thượng đế. Trên hành tinh địa cầu không hề có tôn giáo chân chính duy nhất. Có nhiều tôn giáo chân chính vì nhiều tôn giáo giảng dạy một số yếu tố của con đường phổ quát.

Có nhiều cách để biểu đạt sự thật của Thượng đế. Cho nên có thể có nhiều tôn giáo đều giảng dạy một phiên bản đặc thù của sự thật Thượng đế và của con đường phổ quát dẫn đến vương quốc Thượng đế.

Không một tôn giáo nào có khả năng cho con một hiểu biết trọn vẹn về Thượng đế. Đơn giản là sự hiểu biết đó vượt khỏi mọi ngôn từ. Nếu con suy nghiệm điều này, con sẽ nhận ra tại sao như vậy. Kinh điển có viết là nếu tất cả mọi điều ta nói hay làm được ghi lại thành sách thì nguyên thế gian này cũng không thể chứa hết sách. Câu này có phần nào quá đáng từ tác giả đoạn văn đó, tuy nhiên đúng thực là nó áp dụng cho sự thật của Thượng đế.    

Thượng đế đã tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng, một thế giới rộng lớn đến độ không một người nào có thể nắm bắt được sự vĩ đại của tạo vật của ngài. Nếu có ai có thể mô tả được trọn vẹn Thượng đế thì hành tinh địa cầu sẽ không thể nào chứa hết sách được viết xuống. Nhưng việc diễn tả toàn bộ bản thể của Thượng đế bằng lời nói là một việc bất khả thi. Đơn giản, bí ẩn của Thượng đế không thể nào được biểu lộ qua ngôn từ.

Không một tôn giáo nào có khả năng đưa ra một lời mô tả chính xác về Thượng đế. Câu này quan trọng ở chỗ cách duy nhất để biết được Thượng đế là nhìn vượt khỏi giáo lý vỏ ngoài cùng học thuyết được tìm thấy trong bất kỳ tôn giáo nào. Cách duy nhất đề biết được Thượng đế là khám phá con đường phổ quát tâm truyền đằng sau tôn giáo công truyền.

Tại sao lại có nhiều tôn giáo trên thế giới? Thượng đế không cần đến tôn giáo. Thượng đế là một sinh thể tự đủ. Thượng đế không cần được thờ phượng, không cần được kính trọng, không cần được sợ hãi. Cho nên Thượng đế không đưa ra một tôn giáo đặc thù vì ngài cần đến tôn giáo đó. Thượng đế đưa ra một tôn giáo đặc thù vì có một nhóm người đặc thù cần đến tôn giáo đó.

Giáo lý nền tảng về UFO, vòng tròn đồng ruộng và các hiện tượng khác

Hỏi: Liệu hiện tượng các vòng tròn đồng ruộng (crop circles) có phải là thông điệp từ các chân sư thăng thiên, hay là chúng xuất xứ từ một cõi phàm, chẳng hạn cõi lý trí? Chúng ta có thể học hỏi được gì từ hiện tượng đó? Chúng ta có nên lo lắng hay vui mừng khi thấy càng ngày hình như càng có nhiều vòng tròn đồng ruộng xuất hiện khắp thế giới? Xin cảm ơn các thày về trang mạng tuyệt vời này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Trước hết, một câu trả lời ngắn gọn và dứt khoát. Vòng tròn đồng ruộng (crop circles) KHÔNG PHẢI là những thông điệp từ chân sư thăng thiên. Tại sao chúng tôi, các chân sư thăng thiên, lại phải gửi thông điệp cách đó khi mà chúng tôi đã đào tạo những vị sứ giả để ban truyền Lời Hằng Sống?

Ta biết người ta có thể biện luận là chúng tôi đã gửi vòng tròn đồng ruộng xuống như một dấu lạ dễ thấy cho những ai không mở tâm đón nhận Lời Hằng Sống, nhưng đó là một sự hiểu lầm cơ bản về mục đích của chúng tôi. Con thấy không, mục đích trên hết của chúng tôi là giảng dạy cho nhân loại sự thật chủ yếu về sự sống: Chính tâm thức của con tạo ra hoàn cảnh vật lý của con.

Vũ trụ vật chất là một tấm gương phản chiếu lại cho con – dưới dạng hoàn cảnh vật lý – những hình tư tưởng mà con phóng ra với tâm con, gồm cả bốn tầng của tâm phàm. Vì vậy, những sự mất cân bằng hiện có trên địa cầu là do loài người tạo ra một cách tập thể, và sẽ chỉ được thăng vượt một khi loài người nâng cao tâm thức tập thể. Điều này sẽ không xảy đến do một thế lực hay một dạng sinh vật thông minh nào đó ở ngoài trái đất.   

Con có nắm điều ta đang nói? Trọng tâm của các chân sư là CHÍNH CON, là giảng dạy cho con rằng tâm thức của CON tạo ra hoàn cảnh của con. Do đó, cách duy nhất để hoàn cảnh của con thay đổi là con sẵn sàng thay đổi tâm thức của con. Cho nên làm sao chúng tôi có thể giảng dạy điều này cho nhân loại nếu chúng tôi làm hiện ra một số dấu lạ rõ ràng là đến từ một quyền lực cao hơn? Con có thấy tại sao ta từng nói: “Nhưng ngài đáp rằng: Một thế hệ hung ác và gian dâm tìm cầu một dấu lạ, nhưng sẽ chẳng có dấu lạ nào được ban ra…” (Matthew 12:39)

Thế nào là một thế hệ hung ác và gian dâm? Đó là một nhóm người không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình và chấp nhận sự thật cơ bản là tâm thức tạo ra thực tại. Cho nên họ đã chấp nhận một bi kịch cuồng đại khiến họ tin vào một thượng đế bên ngoài, một thượng đế ngồi trên trời xa tít sẽ đi xuống đời để giải cứu họ mà không cần họ nhìn vào cái xà trong chính mắt họ. Và quả thật, nếu những người như thế được ban cho một dấu lạ, điều đó sẽ chỉ củng cố tư duy cuồng đại của họ và cho họ một cái cớ để KHỒNG chịu cải sửa bản thân – thay vào đó, họ sẽ ngồi chờ một quyền lực cao hơn nào đó đển giải quyết mọi vấn đề dùm họ.

Đây chính là tại sao nhiều tín đồ đạo Cơ đốc ngồi chờ ngày tái lâm của ta, họ tin là ta sẽ đem lại vương quốc của Thượng đế xuống trái đất và họ sẽ không phải làm bất cứ gì. Con cũng thấy nhiều người theo trào lưu Thời Mới hay người tâm linh cũng ngồi chờ một giải pháp kỳ diệu, cho dù đó là hiện tượng UFO (Unidentified Flying Object hay vật thể bay không xác định), hay sự xuất hiện của chân sư thăng thiên trong cõi vật lý, hay điạ cầu được thăng lên chiều không gian thứ năm của cõi vật lý.

Suy nghĩ như vậy sẽ KHÔNG LÀM GÌ để mang lại sự thị hiện vật lý của một Thời đại Hoàng kim. Thật ra, nó sẽ chỉ trì hoãn Thời đại Hoàng kim bởi vì quá nhiều người trong số 10% tiến bộ nhất đã khoác vào cái tư duy thụ động ngồi chờ dấu lạ thay vì nâng cao tâm thức mình và đồng sáng tạo chỉ dấu cho một thời đại mới.

Ta biết, có người sẽ hỏi là tại sao ta lại thực hiện một số phép lạ cách đây 2000 năm. Lý do là vì con người thời đó ở trong một trạng thái tâm thức thấp hơn. Ta đã phải đánh thức họ dậy từ một trạng thái tâm thức thấp hơn hẳn so với trình độ bình thường ngày nay, và vì thế ta cần phải làm một số phép lạ. Tuy nhiên, con hãy lưu ý là ta đã không làm những phép lạ đó cho bất cứ ai đòi hỏi, và như vậy ta đã không làm để khoa trương mà chỉ để chứng tỏ khả năng của tâm trên vật chất.

Tất nhiên người ta đã sử dụng sự kiện trên để dựng lên một hình tượng sùng bái cho rằng ta là đứa con DUY NHẤT của Thượng đế, trong khi mục đích của ta là cho mọi người thấy rằng chính họ, tất cả những đứa con của Thượng đế, đều có thể là cánh cửa mở cho Thượng đế thực hiện những kỳ tích như vậy – vì với Thượng đế thì mọi chuyện đều khả dĩ. Ngày nay điều đó vẫn đúng, và ngày nay có nhiều người hơn đã nâng tâm thức mình lên cao tới mức họ cũng có khả năng làm cánh cửa mở cho phép lạ xảy ra. Cho nên ngày nay, điều càng quan trọng hơn là những chỉ dấu về quyền năng của tâm trên vật chất không nên được xem là đến từ một quyền lực cao hơn, hay từ một người cao trội hơn mọi người khác. Những chỉ dấu đó chỉ xảy ra khi con người – nhiều người chứ không chỉ một người – quyết định tự mình thị hiện.

Vậy người tâm linh có thể học được những gì từ các vòng tròn đồng ruộng? Phải, con học được là tâm có quyền năng trên vật chất, và vòng tròn đồng ruộng là một sản phẩm của hiệu ứng giao nhau (crossover effect) sẽ được mô tả dưới đây. Chính tâm thức con người đã tạo ra các vòng tròn đồng ruộng này cùng những hiện tượng tương tự, kể cả những vụ quan sát UFO. Nếu con người biết thừa nhận điều này, họ sẽ có thể học hỏi từ đó, nâng tâm thức mình lên cao và đem lại Thời đại Hoàng kim. Nhưng nếu họ phủ nhận hay không biết gì về sự thật này, thì họ sẽ xem các hiện tượng đó là dấu lạ từ một quyền lực cao hơn, rồi họ sẽ ngồi chờ ngày quyền lực đó đem lại Thời Hoàng kim cho họ, nhưng họ sẽ chỉ khiến cho ngày đó càng xa hơn mà thôi. Liệu con có thấy điều ta muốn nói? Nếu tâm thức nhân loại tạo ra một số hiện tượng mà chính mình xem là bằng chứng về một quyền lực cao hơn, thì làm sao họ có thể nhận trách nhiệm về bản thân mình? Kỳ thực, dấu hiệu mà các vòng tròn ruộng đồng chỉ ra cho con chính là sự kiện tâm thức của con sản xuất ra thực tại của con.

Là người tâm linh cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, con cũng học được là phải đặt ưu tiên cho đúng chỗ, không chú ý vào những hiện tượng không giúp gì cho cá nhân hay cho tâm thức tập thể tăng trưởng. Nói cách khác, con hãy ngừng đi tìm dấu lạ từ một quyền lực cao hơn để tập trung vào việc kết hợp với uy lực cao hơn đó, hầu uy lực đó có thể vận hành xuyên qua chính CON. Quá nhiều người tâm linh và người theo trào lưu Thời mới bị mê mệt với những loại hiện tượng mắt thấy, đến độ họ chỉ chú tâm đến những chuyện ngoại cảnh thay vì lo cải sửa tâm lý mình bằng cách tra vấn nhận thức của mình. Tất nhiên đây là một phần của những bi kịch cá nhân của con người, nhưng các chân sư sẽ được lợi ích hơn gấp bội nếu có thêm nhiều người khắc phục được bi kịch của mình thay vì củng cố cho bi kịch.

Con có nên lo lắng hay vui mừng khi thấy càng ngày hình như càng có nhiều vòng tròn đồng ruộng xuất hiện? Hay là con nên thờ ơ? Vòng tròn đồng ruộng sẽ không ngăn cản và cũng không đem lại được Thời đại Hoàng kim, cho nên con hãy tập trung vào những gì sẽ đem lại thời Hoàng kim.

Vậy thì cái gì tạo ra vòng tròn đồng ruộng (ít ra là khi không do bàn tay con người làm ra)? Cách giải thích giản dị nhất là hiệu ứng giao nhau, như theo lời trích sau đây từ sách “Master Keys to Spiritual Freedom” (Chìa khóa chủ yếu cho tự do tâm linh) của thày Maitreya.

Maitreya: Như ta đã nói, ba tầng cõi cao hơn trong bầu cõi này được cấu tạo bằng năng lương thanh nhẹ hơn năng lượng của cõi vật lý. Năng lượng càng mềm mại, thì tầng cõi càng cao càng dễ chia ra thành những cấp độ riêng biệt, nơi mỗi cấp độ tượng trưng cho một tầng tâm thức và là nơi cư ngụ của những sinh thể mà trình độ tâm linh (cao hay thấp) nằm trong một phổ nhất định. Nói chung, các tầng cõi cao hơn được tạo ra với một cấp độ duy nhất (cõi bản sắc được tạo ra với hai cấp độ), và việc phân chia thành nhiều cấp độ hơn chỉ xảy ra khi các sinh thể trong tầng cõi đó nâng cao tâm thức mình lên hay kéo thấp tâm thức mình xuống. Nói cách khác, chính các sinh thể trong một tầng cõi tạo ra những cấp độ trong tầng cõi đó. Chẳng hạn, các sinh thể trong cõi cảm xúc đã tạo ra những cấp độ thấp trong cõi đó, là cái mà ta đã gọi là cõi trung giới (astral plane) và được nhiều người xem là địa ngục. Nhiều người đã nhìn thấy phần nào cõi trung giới trong khi nằm mơ, hay khi say rượu, say ma túy.

Như đã đề cập, khi cho phép sự phân chia thành nhiều cấp độ thì mục đích là để bảo vệ các sinh thể tiến hóa cao hơn khỏi phải tiếp xúc trực tiếp với các sinh thể ích kỷ, hà hiếp. Tất nhiên, đáng lý ra các sinh thể trong cõi vật lý cũng phải được bảo vệ y như vậy, nhưng vì cõi vật lý không thể chia ra thành nhiều cấp độ, cho nên sự bảo vệ đã được thực hiện bằng cách đặt các dải thiên hà và hệ mặt trời cách xa nhau đến độ việc di chuyển vật lý không thể nào xảy ra trên thực tế.

Điều ta muốn nói là có hàng triệu hành tinh trong vũ trụ vật lý có sự sống, trên nguyên tắc tương tự với những gì con thấy trên địa cầu – mặc dù trong một số trường hợp có sự khác biệt rất lớn về mặt thiết kế. Tuy nhiên, những hệ mặt trời hỗ trợ sự sống này xa cách nhau trong không gian bề ngang, đến độ sự tiếp xúc vật lý trực tiếp không thể xảy ra trên thực tế. Kỳ thực, việc di chuyển giữa hai hệ mặt trời là chuyện khả dĩ, tuy nhiên chỉ có những nền công nghệ cực kỳ tinh xảo mới có thể thực hiện được. Và công nghệ như vậy chỉ có thể được phát triển bởi những sinh thể với mức chứng đạt tâm linh rất cao, có nghĩa là họ không còn mục đích hung hãn nào nữa khi du hành đến hành tinh khác. Họ cũng hiểu được mục đích của vũ trụ là để tạo cho các sinh thể trên một hành tinh cơ hội tự mình tiến hóa, cho nên họ sẽ có đủ minh triết để không can thiệp vào tiến trình này.

Ý của ta ở đây là muốn giúp con nhìn xa hơn một số huyền thoại vô cùng phổ biến do sách và phim ảnh khoa học viễn tưởng tạo ra. Sự sống trên địa cầu đã không được sinh tạo hay được cấy trồng bởi những người ngoài hành tinh đã đến trái đất trong những chiếc đĩa bay. Địa cầu cũng sẽ không bị tàn phá bởi những kẻ cướp vũ trụ không ngừng đi khai thác nguồn tài nguyên mà chúng đã cạn kiệt trên hành tinh của chúng. Và cũng vậy, địa cầu sẽ không được cứu nguy bởi những sinh thể ngoài địa cầu với công nghệ và trí tuệ tinh xảo đến độ họ sẽ giải quyết tất cả mọi vấn nạn cho nhân loại.

Các nền văn minh không cao lắm có khả năng du hành liên hành tinh trên những khoảng ngắn như trong thái dương hệ của chúng ta chẳng hạn. Tuy nhiên, không có hành tinh nào khác trong thái dương hệ chúng ta còn hỗ trợ sự sống trong cõi vật lý nữa. Bao nhiêu giả thuyết và ngay cả những vụ quan sát UFO đều phát xuất từ sự kiện những hình tướng đó hiện ra trong cõi trung giới. Có những người đã dùng tâm mình “bắt sóng” được cõi trung giới và có những trải nghiệm có vẻ hiện thực đến độ những hình tướng đó tưởng chừng như là vật lý. Thậm chí có những nơi trên trái đất nơi rung động của cõi vật lý đã bị kéo thấp đến độ đôi khi có một hiện tượng xuyên chéo, giao nhau, giữa cõi vật lý với cõi trung giới. Hiệu ứng này có thể được củng cố bởi những người bị ám ảnh bởi UFO, và như vậy những người này cũng góp phần vào hiện tượng mà họ quan sát.

Con hãy lưu ý một số hệ quả tinh tế nhưng tối quan trọng trong những điều mà ta ngụ ý. Mọi thứ trong cõi vật lý được tạo ra qua một tiến trình bắt đầu ở cõi ê-the, là nơi con tìm thấy những hình tư tưởng thuần khiết do các chân sư ở cõi tâm linh tạo ra. Các hình tư tưởng ê-the này được chồng lên ánh sáng Mẫu-Vật và như vậy độ rung của chúng được kéo xuống tầng lý trí. Dựa trên các hình tư tưởng ê-the, thêm nhiều hình ảnh lý trí được tạo ra và ánh sáng lại được kéo xuống thấp hơn nữa vào dải tần số của tầng cảm xúc. Ở đây, các hình ảnh đó được thấm đẫm tình cảm, khiến cho ánh sáng Mẫu-Vật bị kéo xuống dải tầng số vật lý, nơi chúng được thị hiện trong hình dạng vật lý. Nguyên tiến trình vừa kể có sự tham gia của những sinh thể tự nhận biết ở mọi cấp, và bởi vì một số những sinh thể này đã trở nên đui mù bởi tâm thức nhị nguyên, cho nên các cấp độ thấp nhất của tầng cõi ê-the, lý trí và cảm xúc chứa đựng nhiều hình tư tưởng ô uế, và những hình tư tưởng này đã bóp méo, tha hóa ánh sáng đi xuyên qua. Điều ta muốn nói là nếu ánh sáng đã đi theo con đường tinh khiết nhất thì nó đã có thể đến được cõi vật lý mà không đến nỗi bị tha hóa. Tuy nhiên, vì ánh sáng phải đi qua các cấp độ thấp kém nhất của cõi lý trí và cảm xúc, cho nên nó bị biến dạng đến độ hình tư tưởng ê-the nguyên thủy bị che lấp hoàn toàn, hoặc thậm chí còn bị một hình tư tưởng ô uế thay thế.

Bây giờ con thấy được là các điều kiện trên địa cầu vật lý tùy thuộc vào những con người đang đầu thai, liệu họ có thể đem các hình tư tưởng ê-the thuần khiết vào thị hiện, hay là họ đem vào thị hiện những hình tư tưởng méo mó của các cấp độ thấp kém. Nếu tâm thức họ tương đối trong sạch, họ có khả năng đem xuống các hình tư tưởng ê-the chưa biến dạng, và như vậy họ tạo ra một cái gì tưởng chừng như thiên đàng hạ giới. Thế nhưng nếu họ hạ thấp tâm thức xuống, họ sẽ đem vào thị hiện vật lý những hình tư tưởng có mặt nơi các cõi thấp của lý trí và cảm xúc. Điều này xảy ra trên quy mô hành tinh khi có những nhóm người hòa điệu tâm thức tập thể của họ vào một số cấp độ nhất định của các cõi cao hơn. Sự hòa điệu tập thể này có thể được tập trung vào một số địa điểm vật lý, và đó là tại sao con thấy một số khu vực với độ rung rất cao, rất tâm linh, trong khi có những khu vực khác giống như điạ ngục trần gian. Đây chính là nguồn gốc của huyền thoại về Shangri-La, một xã hội đẹp đẽ lý tưởng, nhưng trong nhiều thời đại văn minh hoàng kim của thời quá khứ đã từng có những loại xã hội như vậy thị hiện vật lý.

Vậy chúng ta thấy được là nếu có người hòa điệu tâm thức của họ vào các cấp độ thấp kém của cõi cảm xúc, thì con sẽ thấy những hình tư tưởng thấp nhất mà loài người cùng các thần thánh giả hiệu đã tạo ra từ xưa tới giờ. Bây giờ còn thêm một chuyện, là các sinh thể sống nơi các cõi cảm xúc thấp kém này bắt buộc phải đánh cắp năng lượng của loài người để sống còn, thì con có thể hiểu tại sao chúng luôn luôn tìm đường xâm nhập vào tâm thức người ta. Lối xâm nhập chủ yếu của chúng là lòng sợ hãi, và chúng luôn luôn tìm cách khơi lên nỗi sợ về một cái gì đó mà người ta nghĩ là không có cách nào che chắn. Chẳng hạn vào thời Trung cổ, nhiều người tin vào ma quỷ hay hồn yêu tinh có thể hãm hại thể xác của họ. Họ còn tin vào một số sinh vật mà họ cho là có thể xác, như rồng, khổng lồ, và vô số những thú vật thần thoại khác. Những thú vật đó có thật hay không? Có, chúng đã và vẫn có thật, nhưng chỉ trong cõi cảm xúc thấp. Liệu người ta có thể nhìn thấy chúng và bị chúng tác động vật lý hay không? Câu trả lời cũng là có, nhưng chỉ những ai đã hòa đồng tâm thức tập thể của mình vào các cõi cảm xúc thấp. Chính việc hòa đồng này đã bắc một “nhịp cầu” tâm thức làm mờ nhạt lằn ranh giữa cõi vật lý với cõi cảm xúc.

Chúng ta có thể nói, bởi vì tất cả mọi thứ đều là tâm thức, cho nên tâm thức tập thể của những người đã sáp nhập sóng rung động của cõi vật lý vào cõi cảm xúc đã khiến cho hiệu ứng giao nhau nói trên xảy ra. Ở một số thời điểm và địa điểm, người ta có thể thực sự gặp được rồng và những thú vật thần thoại khác. Liệu các thú vật đó có thân xác vật lý? Điều này tùy theo người ta dùng từ như thế nào. Chẳng hạn, có người có thể gặp gỡ vật thần thoại và trải nghiệm một sự trực diện hoàn toàn vật lý, nhưng vật đó không có khả năng di chuyển tự do hay sinh đẻ trong cõi vật lý. Vật đó cũng có thể hiện hữu trong một khu vực giới hạn và chỉ khi nào tâm thức người ta khiến cho hiện tượng giao nhau có thể xảy ra.      

Điều này giải thích tại sao nhiều người thời Trung cổ quả quyết là họ đã nhìn thấy tận mắt đủ loại thú vật thần thoại, trong khi ngày nay trong xã hội hiện đại duy lý, gần như chẳng còn ai nhìn thấy nữa. Từ khi khoa học ra đời, hoặc người ta không còn tin vào những vật đó nữa, hoặc người ta không tin là chúng có thể hiện hữu vật lý, và do đó nhịp cầu nối liền cõi vật lý với cõi cảm xúc nơi những vât đó có mặt đã bị co rút lại đến độ hiệu ứng giao nhau trở nên yếu ớt.

Tất nhiên, các sa nhân và thần thánh giả hiệu không thể bằng lòng với sự kiện quyền năng của chúng – là quyền năng khủng bố con người để khiến con người làm tha hóa ánh sáng – đã bị suy giảm do khoa học ra đời. Cho nên chúng phải cố tìm một cách khác để khơi lên nỗi sợ bản năng khi con người tin vào một hiện tượng có vẻ như vô phương đối phó. Chúng đã không thực hiện được âm mưu này cho tới khi chính khoa học phát triển hơn, khiến cho hầu hết mọi người hiểu ra là vũ trụ rộng lớn mênh mông và tin rằng sự sống được sinh tạo qua một quá trình tiến hóa. Đây là cơ hội đưa ra khái niệm là trong vũ trụ mênh mông này có những nền văn minh vô cùng tiến bộ đã phát triển trên hành tinh khác. Thế là với ý tưởng là nhân loại đang dần dần dùng hết tài nguyên trên địa cầu, mới nảy ra ý tưởng là có những nền văn minh khác đã cạn kiệt và tàn phá hành tinh của họ, và giờ đây họ đang bay khắp vũ trụ trong tàu không gian để săn lùng những hành tinh vẫn còn tài nguyên. Bởi vì những người ngoài địa cầu đó có công nghệ vượt hẳn nhân loại, cho nên không có cách chi nhân loại có thể chống đỡ. Và bởi vì người tin vào khoa học cũng có xu hướng không tin Thượng đế, cho nên họ nghĩ là không có một sức mạnh nào – trên trời cũng như dưới đất – có thể bảo vệ họ khỏi một cuộc xâm lược từ vũ trụ.

Phần lớn hiện tượng ưa thích khoa học viễn tưởng đã là một công cụ cho sa nhân tạo ra một nỗi sợ bản năng dựa trên khoa học để thay thế nỗi sợ bản năng dựa trên tôn giáo của thời Trung cổ. Và giờ đây chúng đã tạo ra một nỗi sợ mới mà loài người dường như không thể chống đỡ. Con cũng thấy, thật là mỉa mai khi khoa học đã giúp cho loài người khắc phục nỗi sợ của thời Trung cổ để bây giờ trở thành công cụ tạo ra một phiên bản mới cho cùng nỗi sợ đó.

Vậy thì UFO có thật hay không? Có, UFO có thật trong một số tầng cấp thấp kém của cõi trung giới. UFO có hiện thực vật lý hay không? Không, nếu theo nghĩa UFO là những phi thuyền được chế tạo trên một hành tinh khác trong cõi vật lý và đã bay đến địa cầu trong cõi vật lý. Vậy thì tại sao càng ngày những vụ quan sát UFO hình như càng nhiều hơn? Bởi vì khi người ta hòa đồng tâm thức tập thể của mình vào những tầng cấp của cõi trung giới nơi UFO đã được tạo dựng bởi các thần thánh giả hiệu, một hiệu ứng giao nhau được sản xuất ra. Hiệu ứng này có tiềm năng gia tăng, cho nên việc hay nhất mà hầu hết mọi người tâm linh cần làm là từ chối tập trung sự chú ý của mình vào hiện tượng UFO, và thay vào đó tập trung vào cõi tâm linh.

Hầu hết mọi người tâm linh có thể – và nên – tu tập để phát triển tâm linh mà không quan tâm đến hiện tượng UFO. Con càng chú tâm vào UFO thì con sẽ càng buộc chặt con lại với cõi trung giới, càng mở tâm con ra cho những loại năng lượng và hình tư tưởng đó. Do đó, qua việc cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh và đặt trọng tâm vào cõi tâm linh, con sẽ có thể vượt lên khỏi mọi ràng buộc với cõi trung giới và hiện tượng UFO. Ông hoàng của cõi trung giới có thể đến trong chiếc đĩa bay của y nhưng y sẽ không nắm được gì trong con (John 14:30).

Xưng tội không đảm bảo con sẽ thoát khỏi tội lỗi hay nghiệp quả

Hỏi: Xin thày bình luận về bản chất và tầm quan trọng của việc xưng tội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Có nhiều nhầm lẫn liên quan đến nghi thức xưng tội. Trước hết, ta xin nói thật rõ là ý tưởng cho rằng một giáo hội vỏ ngoài có khả năng loại bỏ tội lỗi của một người là một ý tưởng khuyến khích sự lạm dụng. Nếu con nhìn vào lịch sử của Giáo hội chính thống, con sẽ tìm thấy rất nhiều ví dụ lạm dụng như vậy – và các lá thư ân xá chỉ là một trong nhiều ví dụ đó.

Đúng thực là ta đã ban cho một số môn đệ của ta quyền năng chuộc lỗi cho tội lỗi con người qua trung gian Thánh linh. Tuy nhiên Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, và con người hay các tổ chức không thể nào điều khiển được Thánh linh. Ta không bao giờ nói rằng bất cứ ai xưng tội mình cho một đại diện của giáo hội sẽ tự động nhận được sự tha thứ cho các tội đó.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, sự giá chuộc [vicarious atonement, tức việc được cứu rỗi nhờ Ki-tô dùng cái chết của mình thay cho người phạm tội] không loại bỏ tội lỗi hay nghiệp quả của con người. Khi con có một hành động vi phạm quy luật của Thượng đế, con tự động tạo nghiệp. Việc xưng tội không tiêu trừ nghiệp của con. Con vẫn phải quân bình nghiệp chướng đó. Tuy nhiên, việc xưng tội có thể, nếu con tiếp cận đúng đắn, đem lại những tác dụng tâm lý hữu ích.

Các thày là chân sư thăng thiên không mong muốn nhìn thấy bất cứ ai phải mang gánh nặng mặc cảm tội lỗi hay cảm nhận mình là người có tội. Các thày muốn mọi người buông bỏ mọi lầm lạc đã qua và tập trung mọi năng lực cùng sự chú ý của mình vào việc leo lên con đường tâm linh. Và để leo lên thành công trên đường tu, con phải vượt qua mặc cảm tội lỗi đã khiến cho nhiều người cảm thấy mình không xứng đáng để đến gần Thượng đế. 

Tinh túy của đường tu tâm linh là con đến gần hơn với Thượng đế. Nếu con cảm thấy mình không xứng đáng đến gần Thượng đế thì con không thể bước chân trên con đường này. Đối với nhiều người, việc xưng tội có khả năng đem lại tác dụng tâm lý tích cực sẽ giúp họ bỏ lại tội lỗi sau lưng. Nhưng tiếc thay, việc xưng tội cũng có thể có tác dụng tiêu cực. Một số người chăm chỉ đi xưng tội mỗi chủ nhật, họ thú nhận tội lỗi của mình, họ cảm thấy mình đã hết tội, thế là họ lại vui vẻ phạm cùng những tội đó trong tuần lễ kế tiếp. Lòng thương xót của Thượng đế vô biên và sự tha thứ của Thượng đế xảy ra tức thì, tuy nhiên sự tha thứ của Thượng đế sẽ không xảy ra cho đến khi con từ bỏ chính trạng thái tâm thức đã khiến con phạm tội. 

Nếu con xem lại bài Giảng trên Núi của ta, con sẽ thấy là ta đã khuyên mọi người hãy vượt lên trên cái tâm thức đã khiến họ làm những hành động tội lỗi. Trong thời đại hôm nay, con người cần phải tiến thêm một bước nữa. Con người cần phải vươn lên cao hơn toàn bộ tâm thức nhị nguyên cùng toàn bộ tính chất tương đối và nhị nguyên của nó. Điều ta muốn nói ở đây là một tội lỗi sẽ được tha thứ ngay vào lúc con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con vi phạm quy luật Thượng đế – mặc dù sự tha thứ này sẽ không xóa bỏ nghiệp chướng của con. Tuy nhiên, nếu con xưng tội mà không từ bỏ tâm thức đó thì thật là ngây thơ nếu con tin rằng tội của con đã được tha thứ.

Giá trị của nghi thức xưng tội đi đôi – trong tỷ lệ thuận – với thái độ của con khi con tiếp cận nghi thức. Nếu việc nhìn nhận một hành động tội lỗi có thể giúp con khắc phục tâm thức đã khiến con phạm tội, thì bằng bất cứ cách nào con hãy đi xưng tội. Tuy nhiên, để khắc phục hoàn toàn tâm thức thấp kém kia, thường thường con sẽ phải kinh qua một tiến trình chữa lành các vết thương tâm lý đã khiến con dính mắc, ràng buộc, với trạng thái tâm thức này. Qua việc chữa lành tâm lý, con có thể tới điểm nhìn nhận một cách ý thức lý do tại sao trạng thái tâm thức đó là sai lạc. Và qua sự nhìn nhận này, con có thể quyết định ý thức là mình sẽ buông bỏ trạng thái tâm thức này.

Nhưng đối với nhiều người, việc xưng tội sẽ không đem lại sự chữa lành tâm lý nào. Nếu họ nghĩ tất cả những gì họ cần làm là chỉ việc xưng tội, thì kỳ thực nghi thức xưng tội có thể cản trở sự tăng triển tâm linh của họ. Hiển nhiên, ta không muốn thấy chuyện này xảy ra cho bất cứ ai. Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy chân thành nỗ lực đạt được quả vị Ki-tô cá nhân thay vì tưởng rằng nghi thức xưng tội sẽ đưa mình lên thiên đàng.

Cho nên điều sẽ hữu hiệu hơn nhiều là con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã trao truyền để con khắc phục quá khứ của con.

Phải chăng nghiệp quả là một lời dạy sai lầm?

Hỏi: Một số giáo lý bảo rằng nghiệp quả chỉ là một ảo tưởng, bởi vì chúng ta sáng tạo trong HIỆN TẠI. Chúng ta luôn luôn tự do sáng tạo bất cứ gì mình muốn trong hiện tại mà không bị giới hạn bởi những gì mình đã làm trong tiền kiếp. Đó là lý do tại sao chúng ta không nhớ lại được tiền kiếp một cách ý thức. Một số người còn bảo rằng các lời dạy về nghiệp quả và cái chết thứ nhì là dựa trên lòng sợ hãi, và do đó không đến từ Thượng đế đích thực, một Thượng đế yêu thương vô điều kiện. Họ bảo rằng bất kỳ lời dạy nào nói đến việc chấm dứt cơ hội là một lời dạy sai lầm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một sự hiểu lầm về các khía cạnh cơ học của vũ trụ vật chất. Cái con tạo ra trong hiện tại là ý niệm bản sắc của con, và cái đó con sẽ tái tạo trong mỗi khoảnh khắc thức. Cho nên con có thể – trên lý thuyết – chọn lựa thay đổi ý niệm bản sắc của mình bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, ngay cả chuyện này cũng có thể khó khăn bởi vì các chọn lựa trong quá khứ đã tạo ra những vết thương tâm lý trong cỗ xe bốn lớp của con, hay hồn. Các vết thương này được gây ra bởi những quyết định mà con đã lấy, và cho tới khi con gỡ bỏ các quyết định này một cách ý thức và thay thế chúng bằng những quyết định tốt hơn, con sẽ không thoát ra khỏi các chọn lựa đó. Và do đó, con sẽ không thể thay đổi cái ý niệm bản sắc phát xuất từ các chọn lựa đó.

Định luật nhân quả chỉ đơn giản mô tả các khía cạnh cơ học trong cách vận hành của vũ trụ vật chất. Dòng sống của con chỉ có thể sống sót vì nó nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Nếu con phú cho năng lượng đó một rung động cao hơn một tần số nào đó, cao hơn một cái mốc nào đó, năng lượng sẽ biến thành kho báu của con cất giữ trên thiên đàng. Nó sẽ được gửi trả xuống cho con và lại được nhân lên gấp bội, như ta đã có giải thích qua truyện ngụ ngôn về các ta-lăng.

Nếu con tha hóa năng lượng xuống bên dưới mốc then chốt đó, con sẽ “bị đánh rớt” và con sẽ phạm vào điều mà các tín hữu Cơ đốc thường gọi là tội lỗi. Năng lượng tha hóa sẽ tích tụ lại trong trường năng lượng cá nhân của con cũng như trong trường năng lượng của hành tinh địa cầu. Cho nên khi con trở lại đầu thai trong kiếp sau, con sẽ bị năng lượng này tác động. Con không thể thăng thiên vĩnh viễn vào cõi tâm linh cho tới khi con hồi phục tất cả những năng lượng mà con đã tha hóa khi hiện thân trên địa cầu. Cũng vậy, con tạo ra một cái ngã tách biệt khi con chấp nhận các ảo tưởng nhị nguyên, và những ảo tưởng này sẽ tiếp tục ảnh hưởng ý niệm bản ngã của con cho tới khi con thăng vượt chúng một cách ý thức. Cho nên thật là không đúng khi bảo rằng con có thể, bất cứ lúc nào, chọn lựa bước ra khỏi nghiệp quả của mình hay bất kỳ khía cạnh nào khác của quá khứ của con.

Các lựa chọn mà con lấy trong quá khứ đã thiết lập cái sân khấu cho con người mà con đang là – cho ý niệm bản ngã mà con đang có. Con không thể đơn giản chọn làm một người khác mà không quay trở về thay thế các quyết định gây giới hạn mà con đã có trong quá khứ. Và điều con không thể tránh khỏi là các quyết định hiện tại của con sẽ dựa trên ý niệm bản ngã của con.

Ta thật không hiểu làm thế nào người ta có thể chấp nhận thực tế của tiền kiếp mà đồng thời phủ nhận mọi ảnh hưởng của tiền kiếp trên kiếp sống hiện tại. Ta nghĩ là nếu con nhìn vào hậu quả lô-gíc của cách nhìn luân hồi như vậy, con sẽ thấy là nó không nhất quán.

Thật ra, rất có thể con sẽ khám phá là nó khởi lên chủ yếu từ thái độ không chịu nhận trách nhiệm về cuộc sống của mình và công nhận rằng con chỉ có thể cải thiện hoàn cảnh hiện tại và tương lai của mình bằng cách tháo gỡ các lựa chọn bất toàn mà con đã làm trong quá khứ. Đa số những ai không sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về đời mình đều chọn thái độ phủ nhận thẳng cánh thực tế của luân hồi. Nhưng lại có một số người dựng lên cho mình một phiên bản mới về luân hồi, qua đó họ nhìn nhận là họ có tiền kiếp nhưng đồng thời họ cũng phủ nhận tiền kiếp có bất kỳ ảnh hưởng nào trên hiện tại. Ta thật không thể theo kịp cái lô-gíc tin vào luân hồi mà không có nghiệp quả. Làm sao con có thể ăn hết cái bánh mà vẫn còn nguyên bánh? Làm sao con có thể thay đổi một chọn lựa đã qua trừ khi con công nhận chính con đã làm chọn lựa đó?

Ta biết nhiều người bị dính mắc vào mong muốn tránh né trách nhiệm cá nhân của mình, và điều này có thể khiến họ phủ nhận nghiệp quả. Sẽ ích lợi biết mấy nếu họ có thể xét xem tại sao họ lại có dính mắc tình cảm đó, và ta nghĩ họ sẽ nhìn ra nguyên nhân là có một thành phần trong con người họ không muốn công nhận thực tế của cuộc sống, cụ thể là con không có một thời gian vô hạn định để thăng vượt ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Đây chính là tự ngã, nó không muốn con nhận ra là hành động của con mang hậu quả, và bởi vậy, cơ hội sẽ có lúc phải chấm dứt. Tự ngã không muốn nhìn nhận bất kỳ sự chấm dứt nào vì điều này có nghĩa là nó sẽ chết. Tự ngã muốn con tin rằng con có thể cứ tiếp tục mãi mãi như vậy, rằng không có điều gì con làm sẽ mang lại hậu quả tiêu cực, và con có thể tiếp tục trì hoãn ngày con phải chọn lựa vị chủ mà con sẽ phục vụ. Nếu con có thể nhận diện tự ngã, kẻ thù bên trong đó, và nhìn ra nó không phải là một phần của dòng sống của con, thì con sẽ có thể tinh tấn vượt bực.

Khi đó con sẽ tìm thấy cả một thế giới mới với những vận hội tăng triển mở ra, và con sẽ khám phá ý nghĩa thực sự của tình thương vô điều kiện. Quan niệm tình thương mà một số giáo lý đưa ra bảo rằng không có gì thật sự quan trọng bởi vì cuối cùng mọi chuyện sẽ đều ổn thỏa. Sự thật về tình thương vô điều kiện là mọi sự đều quan trọng, bởi vì mỗi hoàn cảnh đều là một cơ hội tăng triển – có nghĩa là con cho phép tình thương xuôi chảy – hay ngược lại nó là một cơ hội để con đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua con. Đúng thật là nhiều người sùng đạo, kể cả nhiều tín hữu Cơ đốc, đã dùng lòng sợ hãi như một cái cớ để đóng lại dòng chảy tình thương xuyên qua mình. Nhưng nhiều người cũng đã dùng niềm tin vào định mệnh hay số mạng để đặt mình vào trạng thái thờ ơ tâm linh, và điều này cũng dập tắt dòng chảy của tình thương.

Tình yêu thiêng liêng thì vô điều kiện, và điều này không có nghĩa là tình yêu đó sẽ chấp nhận bất cứ gì, dù thiện hay ác, là chính đáng như nhau. Khi một người để cho dòng tình yêu vô điều kiện chảy xuyên qua mình, người đó có sự phân biện để thấy rõ cái gì thuộc về Thượng đế, cái gì không. Người đó dùng phân biện này để không bao giờ chấp nhận một ý niệm bản sắc giới hạn, và cũng không bao giờ để cho bất kỳ điều kiện nào của thế gian biến thành cái cớ để đóng chặt dòng chảy tình thương. Con biểu hiện tình thương bất kể điều kiện con phải đối mặt, nhưng con không bao giờ tuyên bố một điều kiện nào của thế gian là vĩnh hằng hay có thực. Cho nên tình thương của con sẽ dễ dàng là loại tình yêu cứng cỏi sẽ thách đố người ta bước lên cao hơn – như con thấy ta từng thách đố các thày thông giáo và người Pharisi.

Chọn lựa đúng đắn duy nhất là đáp ứng mọi hoàn cảnh với tình thương – như ta từng dạy mọi người 2000 năm về trước. Bất cứ chọn lựa nào không phát xuất từ tình thương là cái mà các tín hữu Cơ đốc gọi là tội lỗi. Nhưng tiếc thay, hầu hết mọi người trên địa cầu đã chọn làm ngược lại, và do vậy họ bị mắc kẹt vào trạng thái tâm thức khiến họ khó lòng đáp ứng sự sống bằng tình thương.

Thực tế phũ phàng là một số đáng kể những người đang bị mắc kẹt vào vòng ốc xoáy hướng hạ sẽ chỉ đưa họ ngày càng xa hơn tình thương. Đơn giản là các dòng sống đó không thể được xoay chuyển bởi một lời dạy về tình thương. Trong nhiều trường hợp, họ chỉ có thể được xoay chuyển bởi một thông điệp chỉ rõ ra hậu quả nếu họ cứ tiếp tục hành xử theo cùng chiều hướng. Và đối với nhiều dòng sống trên hành tinh này, cơ hội để họ xoay chuyển đang nhanh chóng đóng cửa lại. Nếu họ không xoay chuyển và khởi sự một vòng xoắn ốc hướng thượng, họ sẽ phải kinh qua cái chết thứ hai. Nếu họ xoay chuyển và cất bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, họ sẽ được gia hạn quá thời hạn ban đầu. Thượng đế có lòng thương xót rất lớn đối với những dòng sống chân thành muốn trở về nhà.

Một trong những điều khó xử mà chúng tôi phải đối mặt trong tư thế làm thày tâm linh là chúng tôi không thể tiếp cận nhiều dòng sống trên địa cầu qua một thông điệp tâm linh dựa trên tình thương. Họ bị kẹt cứng trong tâm trạng sợ hãi đến độ họ chỉ có thể được tiếp cận qua một thông điệp đánh động đến các nỗi sợ hãi của họ. Thật là một điều đáng buồn khi quan niệm Địa ngục trở nên cần thiết để xoay chuyển các dòng sống đó. Họ chỉ đáp ứng khi lòng sợ hãi Địa ngục của họ to lớn hơn những lợi lạc mà họ nhận được khi cứ tiếp tục sống như cũ.

May mắn thay, ngày nay chúng ta đang bước vào một thời đại khi càng ngày càng có nhiều người đáp ứng các lời dạy tâm linh dựa trên tình thương, và nói chung, đây là điều con chứng kiến trên trang mạng này. Tuy vậy, vẫn có nhu cầu nhìn nhận là nhiều người đã bị tác động sâu xa bởi các loại thông điệp dựa trên sợ hãi. Và bởi vì một trong các mục tiêu của trang mạng của ta là để giúp mọi người thoát khỏi các giáo điều sợ hãi do đạo Cơ đốc truyền thống đưa ra, cho nên ta sẽ vui lòng bình luận về các tin tưởng đó khi có người đặt câu hỏi.

Giáo lý căn bản về cái chết thứ nhì

Hỏi: Con không hiểu rõ việc linh hồn bị cái chết thứ nhì, bị xóa bỏ vĩnh viễn. Năng lượng không thể bị xóa bỏ – và linh hồn là năng lượng, vậy con xin thày giảng cho con rõ hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, đăng ngày 16/11/2012.


Mọi thứ có hình tướng đều được tạo ra từ bản chất của Thượng đế, hay năng lượng của Thượng đế; đó là cái các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Thượng đế đã tạo ra một khoảng rung động liên lục, và con sống trong một phần nhỏ của khoảng này, gọi là vũ trụ vật chất, hay là bát cung (octave) vật lý. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng xuất phát từ cõi tâm linh. Độ rung của năng lượng này được hạ xuống cho đến khi nó rung động trong quang phổ của các tần số của vũ trụ vật chất. Năng lượng thấp không thể ảnh hưởng năng lượng cao.

Khi các khoa học gia nói – qua định luật thứ nhất của nhiệt động học – là năng lượng không thể được tạo ra hay bị hủy hoại, thì họ đúng nếu chúng ta theo sát nghĩa, nhưng sự thực thì hơn thế. Thượng đế đã tạo ra mọi năng lượng, và Thượng đế chắc chắn có thể hủy hoại mọi năng lượng. Tuy nhiên, một sinh thể trong một cõi nào đó – tỷ dụ như vũ trụ vật chất – không thể tạo ra hay hủy hoại năng lượng trong cõi đó hay trong các cõi cao hơn.

Bây giờ chúng ta cần thêm một điểm là mọi hình tướng được tạo ra từ năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, mỗi hình tướng được tạo ra bởi một hình tư tưởng được áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật cho tới khi ánh sáng thể hiện ra hình tướng. Vậy bây giờ ta thấy là hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng, nhưng nó được tạo ra BỞI tâm thức.

Như các thày đã giảng trong các bài khác, cái Ta Biết được sinh tạo trong cõi tâm linh. Nó không có hình tướng, không có thực chất vật chất, và đó là lý do vì sao nó không thể bị hủy diệt hay bị ảnh hưởng bởi bất cứ rung động thấp nào trong cõi vật chất. Đó là lý do vì sao các thày gọi nó là “nhận biết thuần khiết”. Nói cách khác, cái Ta Biết là tâm thức được tạo ra với mục đích đồng sáng tạo bằng cách áp chồng hình tư tưởng lên năng lượng.

Do đó, khi cái Ta Biết đi xuống, nó bắt đầu dùng năng lượng để đồng sáng tạo ra hình tướng. Câu hỏi mà ta cần đặt ra là nó pha màu các năng lượng này ra sao. Trong hoàn cảnh lý tưởng, cái Ta Biết tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm là nó nối kết với cái gì lớn hơn chính nó và với ý muốn nâng cao mọi thứ nó gặp. Lúc đó, các hình tư tưởng này sẽ dâng lên và trở thành một phần của căn thể (causal body) của nó. Năng lượng được pha màu bởi các hình tư tưởng đó cũng sẽ dâng lên, và một phần sẽ được lưu trữ trong căn thể – và sẽ tạo ra một động lượng (momentum) tích cực – và phần khác sẽ được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ và gửi trả lại về con. Điều này có nghĩa là con sẽ gia tăng khả năng sáng tạo của mình.

Nhưng cái Ta Biết cũng có thể quyết định đi vào cái mà các thày gọi là tâm thức tách biệt hay nhị nguyên. Để làm điều này, trước tiên nó phải tạo ra hay chấp nhận một hình ảnh của chính nó như một sinh thể tách biệt, tách rời khỏi cội nguồn của nó. Một khi cái Ta Biết bước vào một cái ta tách biệt như vậy, thì nó sẽ tạo ra hình tư tưởng dựa trên ý niệm tách biệt thay vì ý niệm kết nối với tổng thể mà nó có trước kia. Những hình ảnh này không thể dâng lên vào căn thể. 

Thêm nữa, tất cả các năng lượng bị pha màu bởi các hình ảnh đó cũng không thể dâng lên, và do đó chúng sẽ không được nhân lên bởi Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao dòng sống của con trở nên một hệ thống khép kín, và rốt cuộc con có thể cạn hết năng lượng sáng tạo. Lúc đó, chọn lựa duy nhất của con là lấy năng lượng từ cõi vật chất thay vì nhận năng lượng từ cõi tâm linh, có nghĩa là con phải lấy năng lượng từ người khác. Lúc đó, con trở nên một con ma hút năng lượng.

Vậy bây giờ thì câu hỏi kế tiếp là những năng lượng thấp đó đi đâu – vì khoa học đã nói đúng là khi con bước vào cái ta tách biệt thì con không thể hủy diệt năng lượng đã bị pha màu qua ý niệm bản ngã đó? Và câu trả lời là năng lượng đó sẽ bắt đầu tích tụ nơi mà chúng ta có thể gọi là cái ta tách biệt hay cái ta thấp. Một số giáo lý tâm linh đã dùng từ linh hồn (soul) để gọi phần này của bản thể con, vì các giáo lý này không có quan niệm cái Ta Biết và cũng không phân biệt tâm thức với năng lượng.

Điểm quan trọng là khi cái Ta Biết tự nhận nó là một sinh thể tách biệt, thì nó không thể bỏ lại đằng sau ý niệm bản ngã đó, và nó cũng không thể bỏ lại đằng sau hay chuyển hóa các năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Điều này cũng có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên khi xác thân vật lý chết đi, và do đó nó cần đầu thai trở lại.

Con hãy ghi nhận là điều mà nhiều giáo lý gọi là nghiệp (karma) bao gồm các hình tư tưởng được tạo ra qua cái ta tách biệt và những năng lượng đã bị pha màu bởi cái ta đó. Các năng lượng có thể được tái chỉnh qua một tiến trình tương đối máy móc, nhưng việc thăng vượt các hình tư tưởng đòi hỏi một tiến trình có ý thức trong đó con quyết định đào thải các hình ảnh cũ và các quyết định đã tạo ra chúng.

Bây giờ thì con cần nhận ra là cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, là phần nối dài của một chân sư thăng thiên, là một phần nối dài của một sinh thể cao hơn nữa, cứ tiếp tục như vậy để sau cùng là phần nối dài của đấng Sáng tạo. Chỉ có một tâm duy nhất, một tâm thức duy nhất, và tất cả các sinh thể có tự nhận biết đều là phần nối dài của nó, một cá thể của nó. Mục đích của tiến trình tạo cá thể là để cho mỗi đốm sáng từ tâm của đấng Sáng tạo có tiềm năng tăng trưởng sự tự nhận biết của mình cho tới khi nó vươn lên tới cùng tầng tâm thức với đấng Sáng tạo. Lúc đó, con trở thành một đấng Sáng tạo có thể tạo ra một thế giới hình tướng của mình.

Ta có thể nói là đấng Sáng tạo đã cho con thuê một phần của tâm ngài. Con có quyền tự quyết, và do đó con có thể làm bất cứ gì con muốn với phần đó, và đấng Sáng tạo còn chịu cho phép sinh thể của ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp, nếu đó là điều con muốn đồng sáng tạo. Tuy nhiên, đấng Sáng tạo không muốn là một phần của tâm ngài bị giam cầm trong một hình tướng thấp một cách vĩnh viễn.

Chuyện có thể xảy ra với cái Ta Biết là nó có thể dần dà tự đồng hóa hoàn toàn với cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra. Lúc đó, nó tạo ra một vòng xoắn ốc hướng hạ trở thành một lực tự củng cố. Cái Ta Biết càng ngày càng tạo thêm hình tư tưởng dựa trên tách biệt, và khi nó còn nhìn đời qua các hình ảnh đó, nó tin tưởng tuyệt đối nó là một sinh thể tách biệt. Nói cách khác, cái Ta Biết nhìn xuyên qua quá nhiều lớp ảo tưởng nên nó thực sự không thể chất vấn thế giới quan cơ bản của nó.  Nó cũng không thể thoát ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Trong cái bây giờ và ở đây, cái Ta Biết là cái nó nghĩ nó là, là cái nó thấy nó là.

Cái Ta Biết cũng tạo ra càng ngày càng nhiều năng lượng thấp, và các năng lượng này tạo sức hút từ tính lên cái ta tách biệt. Do đó, khi cái Ta Biết còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt, thì nó cũng cảm thấy sức hút này, và sự kiện này lại càng khiến nó tin mình là một sinh thể tách biệt. Sức hút cũng khiến nó khó trải nghiệm nó là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết thực sự ở trong một vũng nước xoáy đầy năng lượng thấp cứ càng ngày càng kéo nó xuống thêm, đồng thời trói nó vào vòng xoắn hướng hạ tập thể do các dòng sống đang bị kẹt trong tư duy tách biệt tạo ra trên hành tinh này. Một khi vòng xoắn hướng hạ này tới một điểm có tính quyết định, thì nó trở thành môt lực tự củng cố vì cái Ta Biết không thể ngưng vòng xoắn này chừng nào nó còn tự đồng hóa với cái ta tách biệt.

Như ta đã giảng, cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, và nó không thể bị biến đổi bởi bất cứ cái ta hay năng lượng nào trong cõi vật chất. Cái bị biến đổi không phải là cái Ta Biết mà là hình ảnh của nó về chính nó. Do đó, cái Ta Biết có thể bất cứ lúc nào rút mình ra khỏi cái ta tách biệt và trải nghiệm trở lại nó là nhận biết thuần khiết. Một khi nó có kinh nghiệm này, nó có được một khung tham chiếu giúp nó dần dà phân rã cái ta tách biệt. Tuy nhiên, điểm khó khăn là một khi cái Ta Biết bị kẹt trong vòng xoắn hướng hạ, thì nó chỉ có thể thoát ra khi nó nhìn nhận là toàn bộ cái ta tách biệt mà nó đã tạo ra chỉ là một ảo tưởng. Và khi cái ta tách biệt đó được sinh tạo dựa trên lòng kiêu hãnh, thì đây là một chuyện rất khó làm, nhất là khi cái Ta Biết tin rằng nó đã tạo ra một cái ta tốt lành và rất tinh vi – có thể còn biết rõ hơn Thượng đế cách điều hành vũ trụ.

Trong một số bài giảng khác, các thày có nói về hậu quả của tư duy nhị nguyên khiến con nghĩ rằng con có khả năng làm thần nhân trên thế gian và có thể quy định thế nào là đúng hay sai dựa trên viễn quan của mình. Do đó, khi con tạo ra một cái ta tách biệt nghĩ rằng nó biết chân lý tối hậu, thì con rất khó thoát ra khỏi nó, vì con phải nhìn nhận là tất cả những gì con đã tạo ra – kể cả ý niệm tự tôn mà con đã xây dựng – hoàn toàn là một ảo tưởng không dính dáng gì đến thực tại của Thượng đế.

Trong các bài giảng của các thày về các bầu cõi, con sẽ thấy là có một số sinh thể đã sa ngã trong một bầu cõi trước và tiếp tục sa ngã trong bầu cõi sau cùng này. Do đó, họ có một động lượng phủ nhận rất lâu dài và họ tuyệt đối tin rằng một ngày nào đó họ sẽ chứng minh được là Thượng đế sai và họ đúng. Đấng Sáng tạo thật sự rất kiên nhẫn với các dòng sống đó, nhưng giống như mọi thứ khác trong thế giới hình tướng, cơ hội mà họ có sẽ có lúc chấm dứt. Và đây là điều mà các thày gọi là cái chết thứ nhì, để phân biệt với cái chết “đầu” lúc xác thân vật lý chết đi và dòng sống tái đầu thai. Cái chết thứ nhì – mà ta cũng có thể gọi là cái chết cuối cùng – chỉ lúc cơ hội tái sinh ở bất cứ nơi nào trong thế giới vật chất vĩnh viễn chấm dứt.

Với cái chết thứ nhì, tất cả năng lượng bị tha hóa do dòng sống tạo ra được chỉnh hóa lại và trở lại trạng thái thuần khiết. Nhưng năng lượng đó sẽ được hoàn trả về kho năng lượng hoàn vũ thay vì trở về căn thể của Hiện diện TA LÀ. Các hình tư tưởng do cái ta tách biệt tạo ra sẽ bị xóa bỏ. Nhưng đây là kết quả của một tiến trình đặc biệt. Thay vì cái Ta Biết nhìn vào các hình tư tưởng và quyết định thay thế quyết định đã tạo ra chúng, thì Hiện diện TA LÀ sẽ làm công việc này. Điều này có nghĩa là tiến trình học hỏi xảy ra ở cấp Hiện diện, và do đó một số trải nghiệm sẽ vẫn được tồn trữ trong căn thể.

Còn cái Ta Biết thì nó hoàn toàn nhập trở lại vào Hiện diện TA LÀ như thể nó chưa bao giờ hiện hữu. Hiện diện TA LÀ có thể quyết định gửi một cái Ta Biết khác xuống dựa trên các trải nghiệm của nó, nhưng cái Ta Biết này sẽ không giống y như cái trước. Do đó, ta có thể nói là với cái chết thứ nhì, một dòng sống đặc trưng đã hoàn toàn bị xóa bỏ và mất đi.

Vai trò của Giu-đa

Hỏi: Điều gì đã xảy ra cho Giu-đa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Như đa số những ai đã tự vận, Giu-đa đã tái đầu thai nhanh chóng. Tuy nhiên, Giu-đa là một dòng sống già dặn, và đó là vì sao ông đã được chọn làm một tông đồ của ta và ông đã nhận lời gọi. Thế rồi dòng sống của ông đã thăng thiên kể từ đó.

Giu-đa hiện không phải là một thành viên của chân sư thăng thiên – theo nghĩa một sinh thể đã thăng thiên đang làm việc với các dòng sống trên địa cầu – nhưng thày đã chuyển sang những tầng khác nơi cõi tâm linh. Lý do là vì có quá nhiều sự lên án đổ lên thày từ các tín hữu đạo Cơ đốc cho nên Giu-đa sẽ không thể hiệu năng nếu thày quyết định phụng sự các dòng sống trên trái đất. Do đó thày có thể dùng khả năng của mình hữu hiệu hơn bằng cách làm việc với dòng sống nơi các hệ thống thế giới khác.

Trên thực tế, ta rất mong muốn nhìn thấy các tín đồ Cơ đốc tha thứ cho Giu-đa và hoàn toàn buông xả mọi cảm xúc tiêu cực đối với ông. Người đạo Cơ đốc sẽ được lợi lạc rất nhiều nếu họ tha thứ cho hành vi của ông và chỉ đơn giản bỏ qua tất cả. Cách nhìn đúng đắn về Giu-đa là nhìn ông trong mối liên hệ với người mù bẩm sinh trong câu chuyện Phúc âm. Con có nhớ là sau khi ta chữa lành cho anh mù ấy, các tông đồ có hỏi ta liệu nguyên nhân sự mù lòa là do chính anh đã làm tội hay do cha mẹ của anh đã làm tội. Thì ta đã trả lời: “Chẳng phải anh ấy, cũng chẳng phải cha mẹ anh ấy đã làm tội, mà do sự vận hành của Thượng đế được biểu lộ ở trong anh.” (John 9:3)

Câu nói đó cho thấy anh mù ấy là một dòng sống già dặn đã chọn khoác vào tật bẩm sinh kia để chu toàn một vai trò trong sứ vụ của ta. Cũng vậy, Giu-đa là một dòng sống già dặn đã chọn đảm nhận một vai trò đặc thù trong sứ vụ của ta.

Giu-đa là một người có nhiều mối quan hệ với giới lãnh đạo Do Thái thời đó, và kết quả tốt nhất có thể xảy đến là ông thành công thuyết phục được một số lãnh đạo này công nhận ta như một vị tiên tri chân chính có khả năng đóng góp đổi mới tôn giáo Do Thái. Mong mỏi này không thành hình vì các lãnh đạo Do Thái đã không sẵn lòng muốn thấy tôn giáo của họ đổi mới. Họ lo sợ sẽ mất quyền lực cùng quyền kiểm soát của họ – một nỗi sợ không phải là không có cơ sở.

Khi Giu-đa thấy rõ là ông không thể thuyết phục giới quyền chức rằng ta là một vị tiên tri chân thực, thì điều hay nhất là ông nên buông hẳn chuyện đó đi. Nhưng không may, ông trở nên dính mắc với ý muốn giúp ta hoàn thành sứ vụ của ta. Ông tin rằng nếu ông có thể thúc ép một cuộc chạm trán giữa chính ta và giới quyền chức, thì ta sẽ sử dụng những quyền năng tâm linh mà ông đã thấy ta sử dụng mấy lần. Giu-đa tin rằng nếu giới quyền chức được chứng kiến tận mắt các quyền năng này thì họ sẽ cảm hoá và chấp nhận ta như một tiên tri. Điều không may là ông không hiểu mục đích sâu xa của sứ vụ của ta, và các tông đồ còn lại của ta cũng vậy. Về điểm này, phải nói là chính ta cũng không hiểu một cách ý thức tât cả mọi hệ quả của sứ vụ của ta cho đến khi phục sinh.

Cho nên thực sự Giu-đa đã hy vọng rằng điều mà các tín đồ Cơ đốc thời nay coi là một sự phản bội, chính thực là một hành động sẽ cuối cùng đem lại sự vinh quang cho ta. Tuy nhiên, ông cứ tưởng là vinh quang tối hậu của ta là sẽ trở thành vua của người Do Thái – một viễn quan phát xuất từ tâm nhị nguyên. Hành động của Giu-đa quả thực đã dẫn đến vinh quang tối hậu cho ta nhưng là sự vinh quanh tâm linh, qua đó dòng sống của ta đã chiến thắng phàm ngã và nhờ vậy chứng tỏ được con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Và trong cùng tiến trình này, giới quyền chức Do Thái từng kết án ta tử hình, cũng đã đem lại bản án cho chính họ.

Các tín đồ đạo Cơ đốc cũng nên xem xét việc ta bị nộp cho nhà cầm quyền rồi bị xử án là một điều cần thiết cho sứ vụ của ta được hoàn thành. Nếu Giu-đa không hành xử như ông đã hành sử thì câu chuyện đã có thể khác, và nếu ta không muốn nó xảy ra thì ta đã có thể dễ dàng trốn thoát khỏi thành Jerusalem, hay ta đã có thể thỉnh gọi 12 đạo thiên sứ đến giải cứu (Matthew 26:53). Cho nên đây là thêm một lý do để tha thứ cho Giu-đa và xem ông như một người đóng một vai trong một vở tuồng.

Có hai bài học quan trọng mà mọi người có thể rút tỉa từ cuộc đời của Giu-đa. Một là sự quan trọng của lòng tha thứ. Việc Giu-đa tự vận là một sự kiện đáng tiếc đã không đẩy nhanh sự phát triển tâm linh của ông. Lẽ ra ông đã nên thực sự tha thứ cho chính mình và cống hiến phần đời còn lại để tập trung vào đường tu tâm linh mà ta đã chứng tỏ. Nếu ông làm vậy thì ông đã được hoàn toàn tha thứ, và ông cũng đã quân bình được mọi năng lượng tha hóa, hay nghiệp, mà ông đã gây ra do hành vi của ông. Ý ta muốn nói là tha thứ luôn luôn là một điều chúng ta có khả năng làm được, và tự vận không bao giờ là cách phản ứng hay nhất trong một tình huống khó khăn.

Bài học quan trọng khác là cuộc sống trên hành tinh này có thể được xem như một màn trình diễn trên sân khấu. Mỗi con người là một diễn viên đóng một vai nhất định trong vở tuồng cuộc sống. Khi con đi xem kịch ở nhà hát, con dư biết khi một người bước lên sân khấu trong trang phục của Hamlet là con không đang nhìn Hamlet thực. Con đang nhìn thấy một người có cuộc sống hoàn toàn độc lập với vai trò mà họ đang đóng trên sân khấu. Người đó chỉ đơn giản khoác vào một bộ quần áo và đang đóng một vai tuồng. Khi tuồng kết thúc, diễn viên sẽ cởi áo ra và trở lại cuộc sống bình thường.

Điều này cũng tương tự như điều xảy ra khi một dòng sống đầu thai trên trái đất. Dòng sống là con người thực của con. Thân xác mà con khoác vào cùng cuộc đời mà con sống có thể ví như vai tuồng trong màn trình diễn có tên là “Cuốc sống trên địa cầu.” Một khi vai tuồng trong vở kich đời sống chấm dứt, con sẽ cởi bộ trang phục đó ra và trở về nhà của con nơi cõi tâm linh.

Ý tưởng vừa rồi quan trọng ở chỗ con không bao giờ nên cho phép mình dính mắc vào vai tuồng mình đang diễn, hay quá say mê trơng vai tuồng đến độ con đánh mất bản sắc đích thực của con như một sinh thể tâm linh. Nếu một diễn viên quá say mê với vai diễn để tưởng rằng mình thực là Hamlet rồi từ chối cởi trang phục sau buổi trình diễn, thì hiển nhiên con sẽ bảo là người đó có chuyện gì không ổn, và người đó phải kiểm tra lại thực tế của mình ở đâu. Cũng vậy, những ai sống trên địa cầu mà lại đồng hóa với thân xác vật lý và cuộc đời thay vì giữ lấy bản sắc mình là một sinh thể tâm linh, cũng cần kiểm tra lại thực tại của mình và nhìn xa hơn cái trang phục (cơ thể) mà mình đang mặc cùng những vai tuồng mà mình được giao phó trong vở kịch cuộc đời.

Và điều này cũng áp dụng cho Giu-đa. Khi vai trò của ông không diễn ra như ông mong đợi, tình cảm của ông đã trở nên dính mắc với một thành quả nhất định, rồi ông toan ép buộc cuộc đời phải tuân theo mong đợi của ông. Khi chuyện đó không xảy ra, sự dính mắc đã ngăn cản ông kiểm tra lại thực tại để nhận ra là có lẽ vở kịch không được thiết kế để diễn ra theo ý muốn của ông. Cho nên ông đã không thể vượt qua cảm giác tội lỗi và ông đã chọn sự tự vận thay vì phát triển tâm linh.

Ta mong mọi người sẽ học hỏi được từ tấm gương của ông và quyết định kiểm tra thực tại để mình có thể nhìn xa hơn những trang phục mà mình đang mặc, tức xác thân vật lý, cùng những vai trò mà mình đang trình diễn trong vở kịch cuộc đời. Ai ai cũng biết là một diễn viên sẽ đều đặn bước khỏi sân khấu, cởi trang phục và trở về với trạng thái sống bình thường của mình. Sẽ rất tốt cho mọi người nếu ai nấy đều thỉnh thoảng dành thời gian để bước ra khỏi các sinh hoạt thường nhật và đi sâu vào nội tâm để bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Việc này sẽ cho con sự kiểm tra thực tại, giúp con nhìn xa hơn vai trò mà con đang diễn trên địa cầu.

Sẽ vô cùng lành mạnh nếu mọi người có thể nhận ra cuộc sống là nhiều hơn vậy, rằng có cái gì nhiều hơn nữa trong cuộc sống – tức sự sống tâm linh – vượt quá những gì mình đang trải nghiệm trong thế gian này. Chỉ khi nào con nối kết lại với bản sắc thực của con thì con mới có thể tránh khỏi dính mắc vào vai trò mình đang diễn trên sân khấu cuộc đời. Và chỉ khi nào con tránh không dính mắc thì con mới không bị lạc vào vai trò hiện thời của con cùng ý niệm bản sắc mà con đã vun bồi dựa trên vai trò đó.

Con thấy đó, không như vở kịch cứ diễn đi diễn lại mỗi tối trên sân khấu, vở tuồng cuộc đời trên trái đất đã được thiết kế để là một vòng xoắn ốc hướng thượng, trong đó con sẽ lần hồi tăng trưởng để có thể bỏ lại vai đó và thăng lên một vai trò cao hơn – cho đến khi con vượt kỳ thi cuối cùng và vĩnh viễn thăng lên cõi tâm linh. Ta không muốn thấy mọi người cứ phải trở lại hết kiếp này tới kiếp khác và diễn lại cùng vai tuồng mà không bao giờ học được bài học cần học. Ta muốn thấy mọi người thăng vượt hết vai này tới vai khác cho đến khi họ thăng vượt chính cuộc trình diễn.

Đó là lý do tại sao ta đã chọn xuống hành tinh này và đóng vai trò đặc thù của ta trong vở kịch này. Tiện thể cũng xin nói thêm, vai trò của ta là đặt ra câu hỏi y hệt như câu hỏi được đặt cho Hamlet: “Là hay không là?” Tuy nhiên, ta sẽ nói thêm là trái với Hamlet, ta có câu trả lời cho bí ẩn của cuộc sống.

Ngày lễ Giáng Sinh

Hỏi: Đâu là ý nghĩa THẬT của ngày Giáng sinh? Có phải là ngày sinh trần thế thực sự của thày Giê-su gần hơn với ngày 16 tháng 4 năm 6 trước Công nguyên hay không? Khi chúng con không thần tượng hóa thày như giáo hội chính thống vẫn làm, thì chúng con nên xem mùa này gọi là “mùa Giáng sinh” như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi câu hỏi này vào đúng ngày hôm nay [15 tháng 12 năm 2003]. Ta đón nhận cơ hội được trả lời về ngày lễ Giáng sinh.

Đầu tiên hãy để ta nhận xét về vấn đề ngày giờ. Ở điểm này, ta không muốn tiết lộ chính xác ngày giờ sinh của ta. Lý do là vì mục đích chính của trang mạng của ta là để giúp mọi người vượt qua sự sùng bái thần tượng về cá nhân ta. Chính sự kiện nhiều người bị ám ảnh đến như vậy bởi ngày giờ sinh là một biểu hiện của sự sùng bái thần tượng này. Nếu ta cho con ngày giờ sinh chính xác, nhiều người sẽ sử dụng thông tin đó để nhìn thấy một đặc tính nào đó khác hẳn mọi người, và họ sẽ nắm lấy đó làm bằng chứng để bảo ta có gì khác thường và do đó có thể biểu thị tâm Ki-tô dễ dàng hơn.

Thực tế là ngày giờ sinh của ta không có một ý nghĩa vũ trụ phổ quát nào hết. Vì ta có tiềm năng trở thành vị Thày tâm linh cho thời đại tiếp theo sau, cho nên ta đã sinh ra vào thời buổi đánh dấu sự chuyển tiếp vào Thời đại Song ngư. Ngày sinh chính xác của ta có một ý nghĩa quan trọng về mặt nghiệp quả cá nhân mà ta phải giải quyết trong kiếp đầu thai cuối cùng trên địa cầu, và đây là sự chuẩn bị tốt nhất cho sứ vụ cá nhân của ta. Do đó, hình dạng các tinh tú trên bầu trời chiêm tinh vào thời điểm đó hoàn toàn không quan trọng đối với các dòng sống khác, bởi vì mỗi người đều có hoàn cảnh riêng của mình phải giải quyết.

Nếu con phóng tâm trở về lối tư duy của nhân loại cách đây 2000 năm, con sẽ nhận thấy nhiều người bị ám ảnh bởi ngày sinh. Không những người Do thái chỉ phân biệt đối xử với những ai không phải là người Do thái, mà còn có sự phân biệt đối xử ngay trong cộng đồng người Do thái dựa trên gốc gác gia đình. Cho nên khi các tác giả Phúc âm khởi sự viết những quyển Phúc âm, họ quyết định là, để câu chuyện kể dễ chấp nhận hơn đối với quần chúng, họ phải nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của hoàn cảnh ra đời của ta.

Nói chung, các học giả đều chấp nhận là các quyển Phúc âm được viết theo một thứ tự nào đó, với Phúc âm Mark (Máccô) là quyển đầu tiên. Con sẽ thấy là Phúc âm Mark hầu như không đề cập đến hoàn cảnh chung quanh ngày ta sinh ra, trong khi Phúc âm John (Gioan) lại coi đó là một biến cố có tầm quan trọng vũ trụ. Giản dị, sự kiện này cho thấy sự chú trọng lớn hơn mà các tác giả Phúc âm kế tiếp nhau đã dành cho ngày sinh của ta, và thậm chí họ đã tô vẽ thêm tới một mức nào đó. Đây là một trong những lý do chính đã gây ra hiện tượng thần tượng hóa chung quanh con người vỏ ngoài của ta, được xây dựng và duy trì suốt 2000 năm qua.

Cho nên nói cho cùng, ngày giờ cùng hoàn cảnh ta sinh ra không có gì là quan trọng đặc biệt. Ta xin nói là ngày mà con đề cập gần với ngày sinh thực sự của ta hơn là ngày 15 tháng 12 cùa năm 0. Nhưng dù sao thì đó cũng không là ngày chính xác.

Kỳ thực, ta sinh ra vào mùa xuân, và những lễ hội chung quanh điểm đông chí – là ngày ngắn nhất trong năm – là một chuyện được thêm vào sau này. Ta không có vấn đề gì khi người ta ăn mừng ngày đản sinh của Ki-tô vào dịp đông chí, vì ta không xem chuyện người ta biết đến hay ăn mừng ngày sinh chính xác của ta là đặc biệt quan trọng. Thật ra, ta còn xem đó là một sự sắp đặt rất thiết thực. Chính trong ngày ngắn nhất, ít ánh sáng nhất trong năm, mà ai nấy cần được nhắc nhở về tiềm năng trở thành Ki-tô của mỗi người. Và tiềm năng này mới cần là trọng tâm trong các lễ hội Giáng sinh.

Đối với những ai sẵn lòng nhìn xa hơn hoàn cảnh chính xác về cuộc đời vỏ ngoài của ta, và nếu họ có thể giải phóng tâm trí họ khỏi cách diễn giài Kính thánh một cách từ chương, thì câu chuyện cuộc đời của ta có thể được nhìn như là biểu tượng cho sự ra đời của Ki-tô trong mỗi dòng sống.

Một lần nữa, sự sùng bái thần tượng vô độ chung quanh sự ra đời của ta đã che khuất mất thực tế. Có quá nhiều người tin rằng khi ta sinh ra, ta đã mang sẵn một quả vị Ki-tô viên mãn, đã có khả năng nhớ rõ nguồn gốc và sứ mệnh thần thánh của mình. Điều này rất xa sự thật. Măc dù dòng sống của ta đã đạt được một thành tựu tâm linh cao trong nội tâm, ta không nhớ gì đặc biệt về chuyện đó khi sinh ra. Ta có trực giác rất bén nhạy, nhưng ta đã phải lần hồi khám phá ra bản sắc tâm linh cũng như sứ vụ tâm linh của mình. Do đó ta có thể cam đoan với con rằng cuộc sống của ta không có gì là khác biệt hay dễ dàng gì hơn hầu hết mọi người khác trên trái đất. Ai ai cũng phải đối mặt với thử thách phát hiện ra bản sắc thật của mình, và quyết định xem là mình sẽ hoàn thành sứ mệnh tâm linh của mình hay không.

Vì vậy, cách đúng đắn để tiếp cận ngày lễ Giáng sinh là xem câu chuyện cuộc đời của ta như là biểu tượng cho những giai đoạn mà mỗi dòng sống phải đi qua khi đứa bé Ki-tô sinh ra trong lòng dòng sống đó, rồi lớn lên cho đến trưởng thành hoàn toàn, và khi đó dòng sống sẽ có khả năng thể hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình trong thế gian.

Ta sinh ra như một đứa bé sơ sinh yếu đuối như mọi người khác. Không một người nào có thể bỗng nhiên đi từ một trạng thái tâm thức vô minh bước ngay vào tâm thức Ki-tô viên mãn. Đối với những người có thiên hướng tâm linh, thời điểm sẽ đến trong đời họ khi tâm thức Ki-tô được sinh ra trong tâm họ. Đây là một kinh nghiệm nội tâm, qua đó dòng sống cảm thấy cuộc sống là nhiều hơn như vậy, thực tại là nhiều hơn như vậy, và bản sắc mình cũng nhiều hơn là tâm thức phàm phu bình thường.

Tâm thức Ki-tô mới sinh ra giống như một đứa sơ sinh mong manh và yếu đuối trên nhiều mặt. Thánh Paul hiểu điều này, và thày có mô tả một số người vẫn là trẻ sơ sinh trong Ki-tô. Lý do là vì ở khởi đầu, ý niệm tâm thức Ki-tô của dòng sống rất mỏng manh. Nó cần được bảo vệ, hỗ trợ, nuôi nấng. Lý tưởng nhất, giai đoạn này nên diễn ra trong một cộng đồng tâm linh nơi những người đã tiến bước xa hơn trên đường tu quả vị Ki-tô có thể hỗ trợ dòng sống. Tiếc thay, trong thế giới ngày nay, cả đạo Cơ đốc chính thống lẫn khoa học duy vật không thể cung ứng sự hỗ trợ và hiểu biết này, và do đó hầu hết mọi dòng sống đều phải gần như tự mình chiến đấu để vượt qua hoang địa của tâm thức loài người. Ta không mấy ưa sự thể này, và ta hy vọng tình trạng này sẽ thay đổi với sự xuất hiện của những cộng đồng tâm linh nơi mọi người có thể hỗ trợ nhau tăng triển trên đường tiến lên quả vị Ki-tô.

Trở về với các lễ hội Giáng sinh, ta không thấy lý do gì phải bãi bõ các lễ hội này. Ta không thấy lý do gì phải dời ngày lễ sang một ngày khác trong năm. Đó là một truyền thống đã ăn sâu vào văn hóa phương Tây, và nó có thể dễ dàng được chuyển hóa thành một trải nghiệm tâm linh rất sâu đậm.

Tuy vậy, ta nghĩ rằng Giáng sinh tại nhiều quốc gia đã trở nên thương mại hóa một cách không cần thiết và quá chú trọng đến thú vui vật chất, từ việc tặng quà cho đến ăn uống quá độ, thậm chí cả uống rượu rồi say chếnh choáng. Tất nhiên điều này không liên quan gì đến sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong dòng sống. Thực tế thì ta không thấy chuyện này sẽ thay đổi được trong tương lai gần.

Tuy nhiên, đối với những ai sẵn sàng tìm kiếm ý nghĩa sâu xa hơn, ta đề nghị nên phát triển một cách ăn mừng ít chú trọng hơn vào cuộc đời cũng như ngày sinh của ta, mà thực sự nhìn ra đó là một biểu tượng cho sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong mỗi con người. Một khi con bắt đầu nhìn đứa bé Ki-tô không chỉ là đứa sơ sinh sẽ lớn lên thành nhân vật Giê-su, thì con đang đi đúng hướng. Khi đó, con sẽ thấy đứa bé Ki-tô đó là sự ra đời hồn nhiên của tâm thức Ki-tô trong mỗi dòng sống.

Như thế con có thể tạo ra một lễ mừng nhằm hỗ trợ cho dòng sống trải nghiệm được sự ra đời của tâm thức Ki-tô nơi chính mình, và con có thể mở rộng lễ mừng đó ra khắp cộng đồng của những người đang hỗ trợ lẫn nhau để bảo vệ và nuôi lớn tâm thức Ki-tô này cho đến khi nó trưởng thành.

Trong thế giới ngày nay, nhiều người đã đạt được một mức tâm Ki-tô rất cao, như ta đã có giải thích ở nơi khác. Do đó đối với họ, việc tâm thức Ki-tô trưởng thành sẽ không mất đến 30 năm mà sẽ ngắn hơn nhiều. Dù sao thì một lễ mừng tập trung vào sự ra đời của Ki-tô trong cá nhân dòng sống cũng sẽ là một nguồn cảm hứng to lớn sẽ giúp cho người đó nhận ra trong ý thức sự chứng đạt Ki-tô của mình. Nhờ thế họ có thể nuôi dưỡng đứa bé Ki-tô trong tâm họ cho đến khi nó trưởng thành và được biểu lộ hoàn toàn, là lúc dòng sống biến nước của tâm nhị nguyên thành rượu của tâm thức Ki-tô. Khi sự biến hóa này diễn ra trong một cá nhân, người đó sẽ không thể quay đầu lại được nữa, cũng như chính ta đã không thể quay đầu lại sau khi ta làm phép lạ biến nước thành rượu tại tiệc cưới ở Canaan.

Khi đó, dòng sống không còn có thể che được ánh sáng của mình nữa, và dòng sống sẽ bước tiếp để hoàn thành sứ vụ của mình. Điều này sẽ bao gồm cả việc thách đố những sự áp bức trong thế gian, nhưng tất nhiên là thời nay, không ai sẽ cần bị đóng đinh trên thập tự giá để thể hiện quả vị Ki-tô.

Cho nên ta khuyến khích mọi người hãy tiếp tục cử hành thánh lễ Ki-tô vào điểm ít ánh sáng nhất trong năm, nhưng hãy biến nó thành một lễ mừng sự ra đời của tâm thức Ki-tô trong mỗi dòng sống. Khi ta sinh ra cách đây 2000 năm, thánh lễ Ki-tô là sự ra đời của một đứa bé duy nhất mang sứ mệnh thể hiện tâm thức Ki-tô. Ngày nay, thánh lễ Ki-tô đã khoác lấy một ý nghĩa mới.

Sự tái lâm của Ki-tô thực sự có nghĩa là sự ra đời của tâm thức Ki-tô nơi hàng ngàn, hàng triệu con người trên hành tinh này. Khi điều này xảy ra, con sẽ có thể cử hành thánh lễ (mass) Ki-tô đích thực qua đó đông đảo quần chúng (mass) sẽ chiêm nghiệm sự ra đời của đứa bé Ki-tô trong tim mình. Ta có thể cam đoan với con rằng những sinh thể minh triết khắp cõi tâm linh sẽ tụ về để làm chứng cho sự ra đời này, và sẽ đem lại thật nhiều món quà tâm linh hầu thiết lập một ý thức cộng đồng mới giữa những sinh thể ở Trên và con người ở dưới.

Nói chuyện với người khác nhưng để ý phản ứng của mình

Hỏi: Nếu con có bạn bè cũng bước trên đường tu tâm linh và nếu con nhận ra là họ có một điều gì họ không thể buông bỏ, thì liệu con có trách nhiệm nêu vấn đề ra để họ chú ý? Hay con phải làm việc trên tự ngã của con trước khi đặt vấn đề với họ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Trách nhiệm của con luôn luôn là soi gương, là nhìn vào bản thân mình trước tiên. Hẳn con cũng biết lời ẩn dụ của ta về những người nhìn thấy trước tiên cái giằm trong mắt người khác mà không nhìn thấy cái đà trong mắt mình. Cho nên khi con là người tầm đạo tâm linh, con nên luôn luôn dõi nhìn những gì xảy ra trong chính mình.

Tuy nhiên khi con bước trên đường tu, sẽ tới một điểm khi con nhìn ra được một số điều trong bản thân mình và do đó con cũng thấy rõ hơn những gì xảy ra trong tâm lý người khác. Cho nên sẽ tới lúc con có trách nhiệm nêu vấn đề cho họ chú ý, hầu họ có cơ hội nhìn thấy những gì mà tự họ không thể thấy được.

Thật sự, những người tầm đạo nếu ở trong một trạng thái tâm thích hợp có thể giúp đỡ lẫn nhau rất nhiều, bởi vì mỗi người đều có những điểm mù, là những điểm mà họ không thể nhìn thấy nhưng lại thật hiển nhiển đối với người khác. Cho nên bằng cách đưa vấn đề đó ra trong tình thương yêu, các con có thể giúp đỡ nhau rất nhiều trên đường tu.

Câu hỏi mấu chốt mà con cần đặt ra cho chính con là liệu con có cảm thấy dính mắc bởi điều con vừa phát hiện nơi người kia hay không. Liệu nó có làm phiền con không? Liệu nó có khiến con bực bội, nóng giận hay không? Liệu con có sợ nó không? Liệu con có cảm thấy bó buộc phải cho người kia nhìn thấy tính xấu của họ, như thể con sẽ bị mất một cái gì đó hay con bị tổn thương hoặc bị chối bỏ nếu họ không nhìn ra? Nếu con có thể nhận diện các loại cảm xúc này trong bản thân con, thì con nên coi như là mình vẫn chưa chữa lành được tâm lý mình hoàn toàn.

Trong trường hợp đó, rất có thể sẽ tốt hơn nếu con không nói gì với người kia, bởi vì chừng nào con còn mang những dính mắc và cảm xúc tiêu cực như vậy thì con có thể chắc chắn là các cảm xúc đó sẽ ngăn cản không cho con thấy rõ những gì đang xảy ra trong tâm lý họ. Nếu vậy, con sẽ cần làm việc trên chính mình – cho đến khi con cảm được sự minh mẫn luôn đi kèm theo sự không dính mắc – rồi sau đó con mới hãy nói chuyện với người kia.

Chúng ta cũng có thể nói được là nếu con có thể nêu lên vấn đề từ nhãn quan của tình thương tinh khiết, thì con rất nên làm chuyện đó. Nhưng nếu con nhận diện những loại cảm xúc khác thì con nên hoãn lại một thời gian, soi vào gương, và tìm xem có thể nào là người kia đang phơi bày ra một điểm gì đó trong tâm lý con hay chăng, và liệu con sẽ được ích lợi chữa lành nó, hầu con được giải thoát khỏi nó và bước đi tiếp trong cuộc sống.

Như ta đã chỉ ra nhiều lần, sự cân bằng và không dính mắc chính là chìa khóa. Nếu con cân bằng, cái nhìn của con sẽ rõ ràng và con không cảm thấy bị bó buộc bởi những cảm xúc vị kỷ. Nếu con không dính mắc, con sẽ có khả năng nói chuyện với người kia mà không bị phiền lòng nếu họ không đồng ý hay không thay đổi. Luôn luôn con hãy nhớ tôn trọng định luật tự quyết của Thượng đế. Trách nhiệm của con CHÍNH LÀ cho người kia cơ hội thay đổi bằng cách nói ra những gì con thấy, chứ KHÔNG PHẢI là chọn lựa dùm họ những gì họ phải làm với điều con vừa nói với họ.

Con hãy nói chuyện với người kia, xong con hãy giữ mình không bị dính mắc vào cách phản hồi của họ. Nếu con phát hiện trong con bất kỳ dính mắc nào liên quan đến phản hồi của họ, thì con hãy sử dụng nó để phát hiện cái đà trong mắt con. Khi con phản ứng lại người khác – ngược với khi con tự do chọn lựa cách mình đáp ứng trước một tình huống – thì phản ứng đó của con luôn luôn là vì ở trong con có điều gì đó mà con cần giải quyết. Cho nên từ nhãn quan này, con không bao giờ mất gì khi con nêu vấn đề ra cho người kia chú ý. Con chỉ mở tâm ra để khám phá vận hành trong con, và con quyết tâm nắm lấy cơ hội học hỏi từ tình huống ngay cả khi người kia không nắm lấy cơ hội.

Ngày nay, con cần hội nhập tâm linh với cuộc sống thực tiễn

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thuở xưa thày có dạy chúng con phải buông bỏ tất cả ngoại trừ thày. Điều quan trọng là phải luôn luôn ý thức thày và ý thức Hiện diện TA LÀ. Thế nhưng công việc kinh doanh và các vấn đề thế gian luôn lôi kéo chúng con. Liệu con có an toàn nếu con tiếp tục công việc kinh doanh, hay là con từ bỏ kinh doanh và làm việc như một sinh thể tâm linh?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một lần nữa, những lời dạy của ta 2000 năm trước đây phải thích ứng với tình trạng tâm thức của nhân loại thời đó. Thuở đó, con người bị kẹt nhiều hơn trong cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế. Khi họ bị mắc trong trạng thái tâm thức như vậy, quả thật họ cần phải lánh xa các công việc thế gian trong một thời gian trước khi họ có khả năng thể hiện tính buông bỏ sẽ giúp họ phụng sự Thượng đế nội tâm thay vì phục vụ thế gian.

Đó là tại sao suốt 2000 năm qua đã có truyền thống những tu viện nơi người tầm đạo tâm linh có thể lui về đó, rút hẳn khỏi thế giới bên ngoài và hoàn toàn tách mình khỏi mọi quan tâm trần thế. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay, đó không phải là mục tiêu cao nhất. Ta không nói là con không thể, hoặc không nên, xuất thế trong một thời gian nếu con cảm thấy cần phải làm như vậy. Nhưng lý tưởng trong Thời đại Bảo bình, là thay vì con rút lui khỏi xã hội để tìm kiếm tâm linh, con đi vào nội tâm của con để tìm tâm linh rồi con đem nó trở ra bên ngoài để biểu hiện trong sinh hoạt đời sống. Điều này áp dụng cho gia đình, học vấn, kinh doanh hay bất kỳ sinh hoạt nào khác.   

Cho nên câu hòi đặt ra thật sự là như sau: con có không dính mắc, con có buông bỏ hay không? Liệu con có thể làm kinh doanh trong tình thương? Và nếu con thấy việc kinh doanh làm xáo trộn sự an bình nội tâm của con, khiến con bị vướng mắc hay nó lôi kéo con vào những tình huống nơi con không thể cảm thấy tình thương, thì con có một sự chọn lựa. Và con có thể bắt đầu xét xem liệu con có khả năng khám phá cái gì đó trong tâm lý của con khiến con bị vướng mắc như thế, rồi con có thể chữa lành vết thương đó hầu con thoát ra khỏi.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, cũng có thể con phải nhìn nhận rằng hình thức kinh doanh của con không thuận lợi cho một lối sống tâm linh, hoặc là vì bản chất của doanh nghiệp, hoặc vì nó đòi hỏi quá nhiều thì giờ và chú ý, và do đó con không có được sự quân bình đúng mức giữa các sinh hoạt tâm linh hướng nội và các sinh hoạt đời sống hướng ngoại. Một lần nữa, đây sẽ là điểm cân bằng cá nhân mà mỗi người phải tìm ra.

Chìa khóa là sự buông bỏ. Nếu con không dính mắc, con sẽ cảm nhận tình thương của Thượng đế tuôn tràn xuyên qua con, và khi đó con sẽ có thể, và con phải, tương tác với thế giới bằng nhiều cách hầu nuôi sống chính con và gia đình của con – và quan trọng hơn nữa, hầu con có thể biểu thị Ngọn lửa Thượng đế của con cho những người mà con gặp trong kinh doanh. Nhưng nếu con nhận thấy doanh nghiệp của con kéo con đi quá xa, thì việc rời bỏ doanh nghiệp rất có thể là một quyết định đúng đắn. Và đối với một số người khác, có thể con nên rời bỏ công việc đời sống để, thay vào đó, đặt trọng tâm vào công việc tâm linh. Điều này, một lần nữa, là một chọn lựa rất cá nhân.  

Quả là trong thời đại này có nhiều người tầm đạo tâm linh đầu thai trong thế gian với một sứ vụ thiêng liêng rất đặc thù là giúp đánh thức nhân loại. Nhiều người trong số đó là những linh hồn rất có năng lực và thông minh. Và nhiều người cũng dư khả năng điều hành một doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc điều khiển một doanh nghiệp thành công có thể không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, và nếu vậy thì con phải đi vào bên trong, bắt liên lạc với cái Ta Ki-tô của con, với Hiện diện TA LÀ của con và với sứ vụ thiêng liêng của con, hầu con có thể chọn lựa đích đáng thời điểm nào tốt nhất để con rời bỏ doanh nghiệp hoặc con đi theo một con đường nào khác, với mục đích là con sẽ dành ra được thì giờ và sự chú ý để thực hiện công việc thật của con – tức là công việc của Thượng đế mà con phải làm vì nó đem lại cho con hạnh phúc và thoả mãn đích thực.    

Nếu con là một dòng sống tâm linh, không có thành công thế gian nào, không có tiền bạc hay danh giá nào sẽ thực sự thỏa mãn được cảm giác thâm sâu là con có mặt ở đây vì một mục đích. Chỉ khi nào con khám phá ra sứ vụ thiêng liêng của con và con hoàn thành sứ vụ này, thì con mới biết là con đang ở đúng nơi chỗ của con – là nơi chỗ thích đáng trong tâm thức. Và như vậy, nếu điều này đúng với con, rất có thể là con sẽ cần – và một lần nữa đây là một vấn đề hoàn toàn cá nhân – rất có thể con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước theo đấng Ki-tô nội tâm cho đến khi con leo được lên đỉnh núi của Thượng đế nơi con sẽ nhìn thấy rõ ràng con đường mà con cần bước đi trong đời.

Một số người có thể bị lôi cuốn vào những vấn đề thế gian của mình đến độ họ không còn sót lại thời gian hay chú ý nào để thấy rõ sứ vụ thiêng liêng của mình. Và vì vậy trong một số trường hợp, con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước vào vùng xa lạ trước khi con biết được con đường đích thực của con là gì. Và trong một số trường hợp khác nữa, con sẽ có thể trải qua nguyên một cuộc đời để nuôi nấng gia đình, kinh doanh, đi làm hay có sự nghiệp.

Con hãy luôn ghi nhớ là con không thể phục vụ hai người chủ, con không thể phục vụ Thượng đế lẫn thế gian. Cho nên nếu con cảm thấy con quá gắn bó với thế gian, con cần dành ra chút thì giờ và nhận ra rằng cái Ta Biết là một Sinh thể tâm linh, và con cần ngừng đồng hóa với thế gian để con hòa điệu với con người thực của con.

Nền tảng của tăng triển là biến hóa năng lượng do các tin tưởng nhị nguyên tạo ra

Hỏi: Nếu chúng ta tạo ra thực tại qua những tin tưởng của chúng ta, vậy thì làm thế nào thay đổi những tin tưởng hiện tại và điều chỉnh những tin tưởng mới trong thực hành?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su quan trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để làm nền cho câu trả lời của ta, hay cho phép ta trích một đoạn giáo lý trong quyển sách “Hãy cứu lấy bản thân” (Save Yourself).

[bắt đầu trích] Giê-su: Ta biết có nhiều tổ chức quảng bá những kỹ thuật tâm linh như thể là thuốc chữa bách bệnh cho mọi vấn đề, nhưng thật là con không thể chữa lành các vết thương tâm lý của con duy bằng nghi thức mà thôi. Lý do là vì tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con. Nguyên nhân khiến con tạo ra năng lượng độc hại là con đã chọn tham gia vào những tư tưởng hay cảm xúc bất toàn. Chọn lựa này thường hay khởi lên do con hiểu biết thiếu sót về cuộc sống hoặc do con đã chấp nhận một số tin tưởng sai lầm. Rất có thể việc chấp nhận tin tưởng sai lầm này đã xảy ra trong tiền kiếp, cho nên những tin tưởng này có thể đã ăn sâu vào tâm lý con. Thế nhưng chấp nhận tin tưởng sai lầm luôn luôn bắt đầu với một chọn lựa, và do đó, nó có thể được gỡ bỏ qua một chọn lựa tốt hơn. 

Hãy để ta cho con một ví dụ minh họa. Ta có nói là yếu tố giữ cho linh hồn sống còn là một dòng năng lượng chảy xuống liên tục từ cái ta tâm linh. Con có thể so sánh tâm thức con như một dòng sông. Nếu tư tưởng và cảm xúc của con tinh khiết, Nước của Sự sống sẽ chảy thoải mái tự do. Con cảm thấy kết nối chặt chẽ với cái ta tâm linh của con và con dồi dào năng lượng. Khi con chấp nhận một ý tưởng hay tin tưởng sai lầm, nó giống như con ném một hòn đá xuống sông. Nếu con ném đá xuống một dòng suối, con ngăn cản dòng nước chảy. Nước phải tránh hòn đá mà chảy, tạo ra một dòng xoáy phiá sau nơi đất cát sẽ tụ lại. Một khi con quyết định chấp nhận một ý tưởng sai lầm, tin tưởng đó sẽ ngăn chặn ánh sáng từ cái ta tâm linh. Tin tưởng sai lầm sẽ khiến cho ánh sáng bị tha hóa, và năng lượng tha hóa sẽ bắt đầu tích tụ lại nơi “hạ nguồn” do tin tưởng sai lầm, không khác gì phù sa tích tụ lại đằng sau hòn đá trong dòng sông.   

Bây giờ hãy tưởng tượng một dòng sống đã có nhiều kiếp sống khi nó đã đón nhận những tin tưởng sai lầm. Mỗi tin tưởng tựa như ném đá xuống sông. Năng lượng tha hóa bắt đầu tụ lại đằng sau hòn đá, lấp đầy lòng sông. Dòng nước chảy sẽ bị ngăn trở, tạo nên một cái đập nhỏ. Khi dòng sông hoàn toàn tắc nghẽn với đất bùn, con người sẽ mất hoàn toàn mọi nhận biết về đời sống tâm linh. Họ quên mất nguồn cội tâm linh của mình và bắt đầu tin rằng họ là những con người vật chất. Vì tâm ý thức (và mọi tầng cấp của linh hồn) nằm ở dưới hạ nguồn của cái ta tâm linh, các chướng ngại trong dòng sông ngăn cản tâm ý thức thấy được Hiện diện TA LÀ.

Làm thế nào con có thể cải thiện tình thế? Con phải khởi sự lấy đi bùn đất đã tích tụ lại đằng sau hòn đá. Bùn đất chính là năng lượng tha hóa. Con cầu thỉnh năng lượng tâm linh cao tần và hướng nó về năng lượng tha hóa và như vậy con nâng cao rung động của năng lượng tha hóa. Khi con dọn sạch năng lượng tha hóa, con bắt đầu nhìn thấy hòn đá, tức là cái tin tưởng sai lầm, đã kích hoạt sự tồn đọng. Một khi con phơi bày tin tưởng sai lầm, con phải tháo gỡ quyết định ban đầu đã khiến con chấp nhận tin tưởng đó. Đây phải là một tiến trình ý thức vì con phải lấy một quyết định mới hầu thay thế quyết định nguyên thủy. [hết trích]

Như con có thể thấy, cách thực tiễn để thay thế các tin tưởng hiện hữu của con là bước vào một tiến trình gồm hai phần. Ở nền tảng – và là một yếu tố thường bị hành giả tầm đạo lãng quên – là biến hóa năng lượng do những tin tưởng sai lầm tạo ra. Những năng lượng này ngăn cản con nhìn thấy tin tưởng nằm bên dưới. Hoặc chúng tạo ra một sự bám mắc tình cảm khiến con cảm thấy con không thể, hoặc không phải, hoặc không muốn thay thế điều tin tưởng gây giới hạn. Bằng cách biến hóa các năng lượng này, con sẽ giúp con dễ dàng hơn phơi bày và thay thế những tin tưởng thường nằm tận trong tiềm thức đang kềm giữ con trên đường đạo của con.  

Công đoạn thứ nhì là con phải phơi bày những điều tin tưởng sâu xa và thay thế bằng những quyết định ý thức tốt hơn. Khi con bước trên tiến trình này, con có thể lần hồi thay thế mọi tin tưởng gây giới hạn cho tới khi toàn bộ thế giới quan của con dựa thên sự thật Ki-tô. Điều này sẽ không xảy ra một sớm một chiều, và đối với nhiều người nó sẽ kéo dài suốt đời. Thế nhưng suốt dọc đường, con sẽ nhận được nhiều phần thưởng dưới hình thức một cảm giác tự do tâm linh và an bình nội tâm. 

Để phát hiện các tin tưởng gây giới hạn, điều vô cùng hữu ích là con mài giũa khả năng trực giác và mở rộng mối liên hệ ý thức của con với cái ta Ki-tô. Bằng cách sử dụng trực giác khi học hỏi giáo lý tâm linh, cái ta Ki-tô của con sẽ sử dụng các giáo lý vỏ ngoài này để khơi dậy trong con những nội giác sẽ giúp con thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Tuy nhiên, con có thể đạt kết quả tốt hơn nữa bằng cách cố tình đi vào tiềm thức qua một số hình thức trị liệu nhằm phát hiện những tin tưởng gây giới hạn.

Như một biện pháp thực tiễn, con hãy dùng các bài chú và bài thỉnh mà chúng tôi đã đăng tải. Các bài thỉnh nhằm biến hóa các năng lượng bất toàn và giúp con giải quyết những tin tưởng nhị nguyên đã khiến con làm tha hóa năng lượng. Khi con sử dụng tất cả các dụng cụ có sẵn trong thế giới hiện nay, con có thể nhanh chóng tiến tới một trạng thái tự do hơn. Ta có thể cam đoan với con là mặc dù con sẽ cần nỗ lực, nhưng nỗ lực đó sẽ vô cùng bõ công.

Có thể nói là sự thăng tiến tâm linh và cứu rỗi duy chỉ là vấn đề thay thế các điều tin tưởng nhị nguyên của con mà thôi. Thực sự, chính những tin tưởng nhị nguyên của con, những tin tưởng cấu tạo ý thức bản sắc con người con, đã giữ con bên ngoài thiên đường. Như ta đã nói, “Vương quốc Thượng đế ở bên trong con”, có nghĩa là chìa khóa để vào được vương quốc Thượng đế là đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Chìa khóa đạt tâm thức Ki-tô là thăng vượt tất cả mọi tin tưởng bất toàn.

Hãy bảo vệ sự thức tỉnh tâm linh của con

Hỏi: Xin cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn… quý vị đã lập ra trang mạng này và viết sách. Con đang đọc quyển “Ki-tô đã sinh ra trong bạn” (The Christ is Born in You). Con cảm thấy cuộc sống của con thay đổi bên trong nhờ những chân lý mở ra cho con từ hai nguồn đó. Con đã từng là tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch từ hơn 20 năm qua, và trong 2 năm gần đây, nói chung con đã bất mãn với giáo hội vì con cảm thấy quá nhiều sự đạo đức giả và thiếu nhất quán trong các giáo lỹ của giáo hội cũng như trong thái độ của các tín hữu đối với nhau. Tất cả đều không đúng với những gì mà con cảm nhận thày Giê-su đã cố giảng dạy cách đây 2000 năm. Vì vậy con đã tìm kiếm tâm linh được một hồi rồi.

Bây giờ con nhận ra là phần lớn những gì dòng sống nội tâm của con đang tìm kiếm và thắc mắc đã được trang mạng này và các cuốn sách trả lời. Con hoàn toàn thấy được con là một đứa con của Thượng đế (cha/mẹ), con là một sinh thể Ki-tô, con có một tâm thức Ki-tô bên trong con. Tuy nhiên, con là một sinh thể Ki-tô còn rất non nớt (trên phương diện tâm linh), và con đang cố gắng phát triển tâm thức Ki-tô của con sâu sắc hơn bao giờ hết.

Con chỉ muốn dành chút thời gian để thực sự cảm ơn hai vị. Con biết con có thể cảm ơn thày Giê-su trong nội tâm của con như con đã làm và vẫn làm, vì con biết là thày đã biết rồi. Nhưng con xin nói lên một cách công khai là con cũng cảm ơn ông Kim, vì ông đã sẵn lòng làm phương tiện để thày có thể sử dụng và nói xuyên qua ông. Xin cảm ơn ông rất, rất, rất nhiều.

Con càng đọc trang mạng và sách vở nhiều hơn thì con càng muốn đọc nhiều hơn. Hình như con sẽ không bao giờ đọc đủ. Con không muốn đặt sách xuống. Con có một cuốn khác, “Con đường ánh sáng nội tâm” (The Inner Path of Light) và con quá nóng lòng muốn bắt đầu đọc ngay. Con cảm thấy tinh thần của con đang thực sự giải thoát. Con hiện 47 tuổi và lần đầu tiên trong đời, con cảm thấy con thực sự đang sống. Có lẽ con đang được tái sinh trong nghĩa tâm linh đích thực nhất. Thưa thày Giê-su, có phải đây là ý nghĩa của sự tái sinh không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trái tim yêu dấu của ta, ta có thể cam đoan với con là không gì sưởi ấm trái tim của một chân sư hơn là được thấy một người chứng nghiệm biến đổi như con vừa mô tả. Đây thực sự là phần thưởng mà chúng tôi ở thiên đàng vẫn hằng mong muốn cho công việc mà chúng tôi đang làm với các anh chị em vẫn còn trên địa cầu. Ta chỉ mong ước mỗi người trên địa cầu cũng được trải qua cùng sự biến đổi của sự tái sinh tâm linh.

Con thấy đấy, khi thăng hoa lên thiên đàng, chúng tôi không còn cảm giác sự chia rẽ và tranh đua thường tình trên địa cầu nữa. Chúng tôi nhận lấy bản sắc đích thực của mình là một sinh thể tâm linh, và chỉ mong sao tất cả mọi anh chị em mình chưa thăng thiên cũng nhận lấy bản sắc chân thực là con của Thượng đế.  

Mặc dù có rất nhiều tín hữu đạo Cơ đốc còn bám mắc vào hình ảnh thần tượng của ta như là đứa Con duy nhất của Thượng đế, ta không hề có ý muốn được xem là một ngoại lệ. Ta chỉ mong muốn mọi con người sẽ chấp nhận mình là những đứa con của Thượng đế mà các con thực sự vốn là. Việc sùng bái ta làm thần tượng xuất phát từ cái tâm nhị nguyên tương đối, và chính cái tâm này đã làm nảy sinh tư duy cạnh tranh và độc quyền. Tín đồ Cơ đốc muốn tôn ta lên thành đứa Con độc nhất của Thượng đế để họ có thể cảm thấy cao thượng hơn những tín đồ của mọi tôn giáo khác. Thế nhưng khi con nhận lấy bản chất Ki-tô của con, tinh thần tranh đua đó sẽ tan biến mất, và con sẽ cất bước đi theo lời gọi của ta là yêu thương người lân cận của con như chính con. Và cuối cùng, con sẽ nhìn ra người lận cận ấy cũng là một đứa con của cùng Thượng đế là cha mẹ tâm linh của con.

Thực tế đáng buồn của tình trạng địa cầu là tuyệt đại đa số con người bị kẹt trong một nhà tù tình cảm, lý trí và tâm linh. Họ bị đóng hộp trong những tín ngưỡng của họ về Thượng đế và về chính họ đến độ họ trở thành mù lòa tâm linh – trong nghĩa đen. Nhiều người không hề nhận thức là có một Thượng đế, hay cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Cho nên họ không có khả năng đặt ra những câu hỏi sâu sắc về Thượng đế hay về đời sống tâm linh, và cứ thế họ sống qua ngày chìm đắm trong trạng thái hôn mê – một loại hôn mê tâm linh.

Là một người thày tâm linh, ta luôn hy vọng là con người sẽ thức tỉnh khỏi cơn hôn mê và nhận ra mình không phải là những con người có sinh có diệt, mà những sinh thể tâm linh. Đây chính là mục tiêu thực sự của công việc của ta, trong hiện tại cũng như suốt mấy ngàn năm qua.

Vậy ta chúc mừng con đã thức tỉnh tâm linh, và ta khuyên con hãy giữ vững sự tỉnh thức này cho dù điều gì có xảy ra. Thật sự, ta muốn đưa ra một lời cảnh báo là con phải vô cùng cẩn trọng hầu bảo vệ sự hồi sinh tâm linh của con khỏi những tấn công tới tấp mà các thế lực của thế gian sẽ tung ra về phía con. Con có thể đọc trong Kinh thánh là cuộc bôn ba 40 ngày của ta nơi hoang vắng đã đưa ta đến một mức thức tỉnh tâm linh mới. Lập tức sau khi trở về từ vùng hoang vắng, ta đã bị ác quỷ cám dỗ, và ngay cả ở mức tâm thức của ta, ác quỷ đó có thể xem là biểu tượng cho những thế lực đang thống trị thế gian.

Tâm thức tập thể của nhân loại sẽ chống đối kịch liệt sự thức tỉnh tâm linh của con, bởi vì sẽ có những người quanh con không muốn con vượt lên trên họ, họ không muốn con chứng tỏ rằng việc thức dậy khỏi cơn mê muội là điều khả dĩ.

Vậy ta mạnh mẽ khuyên con nên tiếp tục học hỏi các giáo lý, kể cả những giáo lý mà ta đã giảng dạy vể sự bảo vệ tâm linh. Điều vô cùng quan trọng là người tầm đạo phải bảo toàn những tinh tấn của mình trên đường tu bằng cách sử dụng những dụng cụ che chở tâm linh thích hợp. Tuy nhiên, điều thiết yếu hơn cả là con phải nhận thức là có những thế lực, kể cả những thế lực trong chính tâm lý của con, sẽ đối đầu và cản trở bước tiến tâm linh của con. Con hãy dùng những dụng cụ được đăng tải ở đây.

Khi con nhận thức được những thế lực đó, con có thể làm theo lời dạy của ta là “trở nên khôn ngoan như rắn nhưng hiền lành như bồ câu”, và đó là nửa đường dẫn đến thành công. Thực tế không thể tránh khỏi là con không thể phòng vệ một cuộc công kích nếu con không biết nó sắp đến. Nhưng ngay sau khi con nhận ra mối đe dọa, con sẽ có thể lập tức tự vệ.

Con không nên để cho lời cảnh báo này làm giảm nhiệt huyết của con trong niềm tự do mới khám phá. Đơn giản, con chỉ cần tỉnh táo, tỉnh thức, và giữ vững cảm giác vui mừng và nhiệt tình của con. Và con cũng nên biết rằng niềm vui mừng ấy không đến từ sự kiện con đã tìm thấy trang mạng này cùng các quyển sách. Những thứ đó chỉ là giáo lý vỏ ngoài, phương tiện vỏ ngoài. Nỗi vui mừng đích thực đến từ thực tế là con giờ đây đã bắt đươc liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô cá nhân của con, cũng như với chính ta qua trung gian cái ta Ki-tô đó.

Đây là sự kết nối mà con cần gìn giữ và mở rộng. Chính sự kết nối với vị thày nội tâm mới là chìa khóa cốt yếu để con tăng triển tâm linh và tìm được tự do tâm linh. Con hãy giữ thật chặt sợi dây nối kết này, và đừng để cho bất cứ thế lực nào của thế gian lấy mất nó đi. Đừng để cho bất cứ thế lực nào của thế gian lấy mất vương miện của sự kết nối nội tâm với cái ta Ki-tô của con.

Con không thể vượt qua tự ngã tức khắc, nhưng con có thể ngừng đồng hóa với nó

Hỏi: Trong tâm ý thức điều khiển mọi thứ, làm thế nào chúng con có thể hướng cho nó luôn ở trong Tâm Thượng đế và luôn là cá thể đó của Thượng đế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tất cả khởi đầu với sự nhìn nhận rằng con là một sinh thể tự nhận biết có ý chí tự quyết, có quyền tự do chọn lựa bản sắc mà con tự đồng hóa. Sau đó con phải tỉnh thức xem con hướng sự chú ý của con về đâu. Một lần nữa, điều này được đề cập chi tiết hơn trong sách của Mẹ Mary. Khái niệm mà Mẹ Mary giảng dạy là cái Ta Biết cư ngụ trong một quả cầu, trong bình chứa cái ta. Trong bình chứa này có Hiện diện TA LÀ của con, và khi bản thân con được sinh tạo lần đầu tiên, chỉ có Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết trong bình chứa cái ta đó của con.

Nhưng khi con thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con cho phép một số phần tử có rung động thấp hơn, những phần tử nhị nguyên, xâm nhập vào bình chứa cái ta. Và lần hồi, qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng một ý thức bản ngã sinh diệt chống đối lại – hay có vẻ chống đối lại – Hiện diện TA LÀ của con. Đây là cái mà chúng ta cũng gọi là tự ngã.

Ngã sinh tử này được tạo bằng những quyết định mà con đã lấy, những tin tưởng mà con đã chấp nhận, và rất nhiều tin tưởng trong số đó là về bản thân con. Con có thể tin rằng con là một người tội lỗi. Con có thể tin rằng con là một con người sinh tử sẽ qua đời khi thể xác vật lý của con chết đi. Con có thể tin rằng con được làm chuyện này mà không được làm chuyện khác. Con tin rằng con không thể liên lạc trực tiếp với Thượng đế trong tim con mà cần đến những lãnh đạo vỏ ngoài của giáo hội, hay bất kỳ một tin tưởng nhị nguyên nào khác.

Khi những tin tưởng này xâm nhập vào quả cầu của cái ta, chúng bắt đầu hình thành một lực hút kéo cái Ta Biết xuống. Nó lôi kéo sự chú ý của con. Nó gần giống như trọng lực của quả đất ngăn cản con bay bổng lên không trung mà lại kéo con xuống đất. Tương tự như vậy, tâm con bị lôi kéo bởi lực hút của tự ngã đã nhập vào quả cầu cái ta của con. Khi nào ngã sinh tử này còn ở lại trong đó, nó sẽ còn khả năng lôi kéo chú ý của con, và đó là vì sao ý tưởng của con luôn bị kéo ngược trở về những thói quen, những khuôn nếp suy nghĩ cũ. Và có vẻ như dù con có làm gì đi nữa, con cũng không thể loại bỏ được chúng, và chúng tiếp tục lôi kéo con xuống.       

Khi con sử dụng những dụng cụ tâm linh thích hợp, con có khả năng dần dần loại bỏ ngã sinh tử, và điều này sẽ giảm bớt lực hút của nó. Nhưng một khi con hiểu rõ phương trình của ngã sinh tử – tức nó là một ảnh hưởng ngoại lai trong quả cầu cái ta, và cái Ta Biết có khả năng ngừng tự đồng hóa với ngã đó – thì con đã bước một bước rất dài để tránh bị kéo trở lại những khuôn nếp cũ này.

Khi con sử dụng các bài chú và bài thỉnh, hay khi con giải quyết những vấn đề trong tâm lý con qua các dụng cụ khác, con sẽ lần hồi giảm thiểu lực hút cho đến khi nó chỉ còn là một tiếng ồn ào ở hậu cảnh. Tiếng ồn này có thể sẽ tồn tại một thời gian, nhưng rốt cuộc con sẽ đạt tới một điểm khi ông hoàng của thế gian này cứ việc xông tới nhưng y không thể nắm được gì của con nữa bởi vì ngã sinh tử đã chết.

Tuy nhiên, ý tưởng chủ yếu ở đây là cái Ta Biết không phải là ngã sinh tử. Chính nó đã tạo ra ngã sinh tử và nó không thể trong phút chốc loại bỏ tự ngã, bởi vì con đã làm vậy trong một thời gian rất dài, và những quyết định mà con đã lấy cần phải được thay thế bằng những quyết định tốt hơn.

Nhưng con có thể trong phút chốc ngừng đồng hóa với ngã sinh tử đó. Khi con lấy quyết định này, ngã sinh tử sẽ mất hẳn quyền lực trên con, và ngay cả khi nó lôi kéo con, con có thể lập tức nhận diện nó và nói: “Ồ, đó chỉ là cái ngã sinh tử, đó chỉ là tự ngã. Tôi quyết định không đồng hóa với nó. Tôi tách khỏi tâm thức đó và tôi nâng sự chú ý của tôi lên Hiện diện TA LÀ, lên Cha tôi ở thiên đàng.” 

Tránh sử dụng một giáo lý tâm linh chân truyền để ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng của mình

Hỏi: Thày yêu dấu, con là một hành giả chuyên cần, như người ta gọi như vậy, trên đường tu tập nội tâm. Con thành tâm đối với thày là Chân sư con cùng hai vị chân sư nữa mà con có liên hệ chặt chẽ hơn bình thường. Con đã phục vụ các chân sư một cách trực tiếp với tư cách là nhân viên của một vị sứ giả của các chân sư khi vị ấy còn họat động. Và con cũng đã nhiệt thành tu tập Ngọn lửa Linh thiêng cùng các giáo lý liên hệ. Ngay lúc này, con cảm thấy bối rối vì con biết trong nội tâm, con cần mở rộng việc phụng sự của con ra thế giới qua ngành phim ảnh. Là một diễn viên, con mong muốn thể hiện Chân ngã của con qua cách đó, cũng như người anh em họ của con cũng sẽ làm tương tự trong vai trò đạo diễn. Nhiều năm trước đây, một đồng sự của thày là thày Saint Germain dũng mãnh, có gọi dự án bộ phim này là “nhằm cách mạng hóa các khuôn nếp tư duy trên thế giới” và chỉ đạo chúng con liên lạc trước tiên với một số người có ảnh hưởng và quyền thế để chúng con có đường vào, rồi sau đó mới tiếp xúc với quần chúng. Chúng con đã phấn đấu và kiên trì hết sức mình, thế nhưng giờ đây chúng con có vẻ đã tiến xa hơn nhưng vẫn thiếu phần tài trợ, thậm chỉ thiếu cả tiền chờ sống qua ngày.

Vậy con xin hỏi, con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú bị cấm không được làm? Con tin rằng có một bài học nào đó cho mọi người qua kinh nghiệm mà con đã phải bỏ qua, khiến con giờ đây lại bị suy sụp, nhiều khi không còn biết nhờ ai và làm gì, nhưng cũng có những lúc khác con lại nhìn thấy thiên đàng ngay trước cửa.

Con cần sự hướng dẫn thưa thày, và dù có tu tập mỗi ngày, con vẫn chưa phát triển được khả năng nghe được thày rõ ràng trực tiếp trong tim con.


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đệ yêu dấu, ta vô cùng thương xót con cũng như rất nhiều dòng sống chân thật khác đã luôn trung thành với các giáo lý của chân sư thông qua một số tổ chức mà các chân sư đã cộng tác trong thế kỷ qua và lâu hơn thế nữa. Con có lý khi nói rằng kinh nghiệm bản thân của con mang một bài học quý giá cho mọi hành giả tìm đạo tâm linh, đặc biệt là các học trò của các chân sư thăng thiên.

Nhiều dòng sống đã được trao cho viễn kiến về mục đích sống cao hơn của họ trong đời, là sứ vụ thiêng liêng của họ, nhưng khi phải đem viễn kiến này vào thực tế vật lý, họ thường tự cảm thấy thiếu sót, hoặc họ cảm thấy thế gian đáp ứng thiếu sót đối với họ. Điều này khiến một số bị nản lòng hay trở nên bối rối. Ta có thể bảo đảm với con rằng con không phải là người duy nhất trong số các học trò của chân sư lâm vào tình trạng khó khăn như thế. Trên thực tế, có quá nhiều người đang gặp bế tắc, và thực sự ta ước gì có thể giúp họ tiến tới.

Thật không may, một số đã không sẵn sàng lắng nghe những gì ta đã nói qua sứ giả này, và ta khen con đã sẵn lòng hỏi ta câu hỏi trên. Thật sự ta có thể cam đoan rằng một số các chân sư khác mà trong quá khứ đã đỡ đầu một số tổ chức khác nhau, rất mong muốn tiếp cận với các thành viên của các tổ chức này để trao cho họ những tiết lộ tuần tự ở mức kế tiếp. Vậy hãy để ta nói với con, cùng mọi người khác có tai để mà nghe, một số ý tưởng để con suy ngẫm.

Ý thứ nhất

Ý tưởng chủ yếu mà con cần suy ngẫm là: Hãy bước tiếp tới. Khi con thấy mình bị kẹt cứng trong chán nản hay bối rối – hoặc trong bất kỳ loại giới hạn nào khác của con người – thường chỉ có một lối thoát duy nhất, đó là thăng vượt trạng thái tâm thức hiện thời để đạt tới một sự hiểu biết cao hơn và một cái nhìn quân bình về tâm Ki-tô. Điều giản dị là khi con đã làm cùng một chuyện trong một thời gian mà vẫn chưa đạt được mục tiêu, thì đã đến lúc con nên thử một phương cách khác. Sự bướng bỉnh và thiếu mềm dẻo sẽ không đưa con lên thiên đàng, nhưng sự linh động uyển chuyển của tâm Ki-tô – là sự linh động không làm sự thật tổn thương – sẽ giúp con đạt được mục tiêu thực sự của mình.

Vấn đề là trước khi con có thể có được tầm nhìn quân bình, con phải sẵn sàng buông bỏ những tin tưởng và kỳ vọng hiện thời của con về cách cuộc sống hoặc đường tu tâm linh phải trải ra làm sao. Và đây chính là điểm mà nhiều hành giả chân thành bị mắc kẹt trong một thời gian, có khi kéo dài cả mấy kiếp sống. Và tiếc thay, họ thường hay sử dụng chính những lời dạy của chân sư để khiến mình kẹt cứng không biết đến bao giờ.

Như ta cố giải thích suốt trang mạng này, mọi giáo lý tâm linh đều có thể trở thành một cái bẫy cho tâm con. Cho nên ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể được dùng để xây một cái hộp tư duy ngăn chặn con thăng lên mức kế tiếp của đường tu cá nhân của con. Có thể nói, cốt lõi của đường tâm linh là làm sao thăng vượt cái hình tư tưởng mà con có về con người mà con là, về Thượng đế là gì, và về cách vận hành của thế gian. Tất cả mọi hành giả đều khởi đầu với một cái nhìn và hiểu biết giới hạn. Nhiều người lớn lên và được dạy dỗ một thế giới quan vô cùng hạn hẹp, chẳng hạn như thế giới quan do đạo Cơ đốc chính thống và khoa học duy vật đưa ra.

Nhiều hành giả tìm thấy một giáo lý hay một tổ chức tâm linh có khả năng mở rộng thế giới quan của mình, giúp họ tự phát triển cao hơn rất nhiều. Và bởi vì các giáo lý đó giúp họ tăng trưởng đến như thế, họ nghĩ rằng đó là chân lý tuyệt đối, hoặc là giáo lý tối thượng trên địa cầu, và bởi thế họ sẽ không bao giờ cần bất cứ điều gì khác. Thế là họ dựng lên một hình tư tưởng, một sự chờ đợi, một kỳ vọng rằng nếu họ cứ tiếp tục trên con đường này như họ đã được chỉ dẫn, thì họ sẽ tự động chứng đạt tâm thức Ki-tô.      

Thế nhưng như ta giảng giải suốt trang mạng của ta, không một tổ chức công truyền nào có thể bảo đảm con sẽ đạt được tâm thức Ki-tô bằng cách tuân thủ giáo lý hay tu tập. Lý do là vì tâm thức Ki-tô chỉ có thể thực hiện qua một tiến trình nội tâm, tâm truyền. Dĩ nhiên, một giáo lý công truyền sẽ giúp con rất nhiều, nhưng không một giáo lý hay một sự tu tập công truyền nào có thể tự động sản xuất ra tâm thức Ki-tô. Buồn thay, một giáo lý công truyền còn có thể ngăn cản con đạt được tâm thức Ki-tô, thậm chí một giáo lý chân truyền, kể cả giáo lý được đăng tải công khai trên trang mạng này, cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một hộp tư duy sẽ trói con lại ở một trình độ nào đó trên đường tu của con.  

Ý thứ 2

Ở một mức nào đó trên đường tu, việc đi theo một giáo lý công truyền cũng có ích lợi, nhưng con phải luôn luôn cảnh giác để không rơi vào cạm bẫy tinh vi biến giáo lý công truyền đó thành một cái hộp đóng kín. Chẳng hạn, ở những giai đoạn đầu của đường tu, con phải đương đầu với nhiều sự chống đối từ các tà lực, cho nên con cần phải kiên định, thậm chí còn phải như là cứng ngắc. Nhưng một khi lên những mức cao hơn, chính cái đức tính đã giúp con tới được mức này sẽ mau chóng trở thành một trở ngại.

Các tà lực hoàn toàn hiểu được là bất kỳ giáo lý nào cũng có thể khiến con lạc lối nếu con sử dụng một cách cực đoan. Chúng nhìn thấy một hành giả tu tập rất chăm chỉ, và chúng thì thầm vào tai anh ta, đây là tất cả những gì anh ta cần làm cho đến cuối đời. Và như vậy, hành giả cứ cắm đầu làm đúng một điều đó lâu hơn là anh cần làm, và điều này bắt buộc khiến anh cứng ngắc. Rồi một khi anh đi quá một điểm nào đó, anh sẽ không thể tiến cao hơn bằng sự cứng ngắc được nữa, và sự phát triển của anh ngừng lại. Thế nhưng anh quá tin tưởng anh đi đúng đường nên anh tưởng anh vẫn đang tinh tấn. Chuyện này cứ thế tiếp diễn cho tới khi anh bắt đầu tự hỏi tại sao – nếu anh vẫn làm tất cả mọi điều đúng đắn – tại sao sứ vụ thiêng liêng của anh lại không đang trên đà hoàn thành.

Con cần biết rằng ở những giai đoạn đầu của đường tu, con cần phải kiên trì ra sức vượt qua các tà lực chống đối. Nhưng khi chúng thấy chúng không thể giữ con lại bằng mãnh lực, chúng sẽ thay đổi chiến lược, và bây giờ chúng sẽ dụ dỗ con với những ý tưởng rất tinh tế. Ở những mức cao hơn của đường tu, con cần phải linh động để khôn ngoan hơn các lực chống đối. Trên cơ bản, con cần tiến nhanh đến nỗi các tà lực hay chính tự ngã của con không thể nắm được con. Để làm điều này, con cần sẵn sàng làm theo chỉ thị của cái ta Ki-tô của con từng phút một. Đơn giản, con không thể cho phép tà lực tiên đoán được bước tới của con. Một hành giả quá dễ đoán sẽ là một mục tiêu quá dễ cho tà lực. Nói cách khác, ở những mức cao của đường tu, không có gì sẽ hiệu nghiệm mãi mãi, và vì thế con không thể bám chặt vào bất kỳ quy tắc công truyền nào.  

Nếu một lời dạy công truyền có giá trị, nó sẽ giúp con tăng trưởng, và mục đích thực sự của một giáo lý công truyền là giúp con tinh tấn tới một mức con có thể nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ cái ta Ki-tô và các vị thày tâm linh của con. Vấn đề là những chờ đợi, định kiến cùng hình tư tưởng của con đã tạo thành một bức tường ngăn cản con nghe được sự hướng dẫn từ chân sư, hoặc nó khiến con không tin tưởng những gì con nghe thấy bên trong.

Hộp tư duy của con càng đóng chặt – và nếu tình cảm con càng bám mắc vào giáo lý cùng tổ chức công truyền – thì cái hộp sẽ càng trở nên kín mít đối với sự chỉ dẫn của chân sư. Thực tế đáng buồn là các thày không thể giao tiếp với nhiều học trò của mình, cho dù nhiều người đã theo học giáo lý công truyền của chân sư từ nhiều thập niên. Những người này đã sử dụng giáo lý của chân sư để bịt lỗ tai lại, không nghe sự hướng dẫn tâm truyền, tương tự như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở xưa đã dùng kinh Torah để bịt tai không nghe những lời dạy cập nhật mới mẻ của ta.

Khi con thấy mình bị bế tắc, không thấy được phải đi đường nào, thì con phải coi như con đang bị ngăn chặn bởi các kỳ vọng và hình tư tưởng mà ngoại tâm con (ngoại tâm gồm cả tự ngã) đang cầm giữ. Cho nên nếu con thực sự muốn tinh tấn, con cần phải lùi lại và có một nỗ lực ý thức để nhìn ra ngoài hộp tư duy của con. Để làm điều này, con phải sẵn sàng tra vấn hay buông bỏ bất kỳ – và tất cả – tin tưởng hiện thời của mình. Ta không bảo con phải bỏ mọi tin tưởng – ít ra là không phải tất cả cùng một lúc – mà ta bảo con phải sẵn sàng từ bỏ chúng. Nếu con không sẵn sàng từ bỏ thì con đang bám mắc, và sự bám mắc là nguyên nhân của mọi khổ đau, như đức Phật đã chỉ ra hàng ngàn năm trước.  

Ý thứ 3

Ở các cấp thấp trên đường tâm linh, hành giả bắt buộc bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, cho dù hành giả tìm được và đi theo một giáo lý tâm linh chân truyền, người đó sẽ tạo dựng một hình tư tưởng của giáo lý cũng như cách đúng đắn để tuân thủ giáo lý. Nhưng hình tư tưởng này bắt buộc sẽ, ít nhất một phần, dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con phát triển tâm Ki-tô, con sẽ đến một điểm mà con không thể tiến xa hơn cho tới khi con sẵn sàng bỏ lại hộp tư duy của con. Con phải giải thoát cái nhìn của con về đường tâm linh khỏi các yếu tố nhị nguyên.

Một đặc điểm của trạng thái tâm nhị nguyên là nó giam giữ con trong cái nhìn đen trắng về đường đạo. Nói cách khác, con sẽ nghĩ rằng cái này hoàn toàn đúng và cái kia hoàn toàn sai, và nếu con cứ tiếp tục làm những gì được xác định là đúng thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Cho nên cái khung tư duy nhị nguyên thật là xơ cứng, bởi thế cho nên cách duy nhất để phát triển quá một mức nào đó trên đường tu là phải buông bỏ tư duy nhị nguyên bằng cách trở nên linh động. Nhưng sự linh động này không được xây trên bãi cát luôn di động của tâm thức phàm phu, mà phải dựa trên tảng đá của Ki-tô, vì Ki-tô biết rõ làm sao uyển chuyển từng lúc mà không nguy hại đến các nguyên lý vượt thời gian.

Để tiến xa hơn một mức nào đó, con phải sẵn sàng đánh mất đời sống của mình – tức là ý niệm cuộc sống phải như thế nào – để giành được cách sống cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Đây là một cuộc điểm đạo rất tinh tế mà mọi hành giả cao cấp sẽ phải đối mặt, và con sẽ không ngừng đối mặt với sự khai ngộ này khi nào con vẫn còn đầu thai làm người. Và như ta từng nói, ai tìm cách cứu đời sống mình – tức là cái hộp tư duy hiện thời của mình – sẽ đánh mất nó, tức là sẽ đánh mất sự sống trong hướng phát triển liên tục. Điều khôn ngoan là nên suy ngẫm về sự kiện một hành giả có thể thất bại ở bất cứ một trình độ nào trên đường tu. Thất bại trên đường tâm linh có nghĩa là con trở nên bám mắc đối với trình độ tinh tấn hiện thời của con và từ chối vượt thăng nó, từ chối vượt thăng cái hình ảnh mà con có về con người con là.     

Có một sự cám dỗ tinh tế khi nghĩ rằng nếu mình càng bước lâu trên đường tu, nếu mình càng thực hiện được nhiều công việc vỏ ngoài trên đường tu, thì mình sẽ càng ít rủi ro thất bại. Nhưng nhiều hành giả cao cấp vẫn thất bại vì họ nghĩ họ không thể thất bại, và do đó họ nghĩ họ không còn cần phải thăng vượt. Tuy nhiên, ta nói với con là trên con đường cá nhân của con, có những điểm mấu chốt mà con phải sẵn sàng chết trên thập tự giá, nghĩa là con sẵn sàng  buông bỏ mọi mong đợi và định kiến về đời mình, hay đường tu của mình phải trải ra như thế nào. Nếu con không chịu để cho tiêu đi ý niệm phàm phu này về đời sống, con sẽ không thể tái sinh trong ý thức sống cao hơn của tâm thức Ki-tô. Lý do là vì con cố bám giữ một cái nhìn nhị nguyên do ngoại tâm tạo ra, và con từ chối đứng thẳng hàng với cái nhìn cao hơn cũng như ý chí của dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ.  

Con có thấy điều ta muốn nói không? Có bao nhiêu hành giả tìm được một giáo lý hay tổ chức tâm linh, nhờ đó mà họ nhảy một bước khổng lồ trên đường tu. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại dùng cùng những giáo lý đó để tạo ra một hộp tư duy, và khi đến lúc phải để cho con bê vàng chết đi thì họ lại không thể buông nó ra. Một số thì quá sợ hãi để cho nó ra đi, một số khác thì quá tự kiêu, còn một số thì quá lười biếng. Ta sẽ nói lại một lần nữa.

Một số người tìm thấy đường tu và họ dùng một giáo lý hay tổ chức công truyền để nặn ra một cái khuôn mà mọi hành giả chính trực phải rập theo. Họ tự hào họ hội đủ mọi tiêu chuẩn vỏ ngoài, và họ sẽ nhất định sẽ cứ như thế mãi mãi. Họ thường dùng quan điểm của mình để phán xét những ai không thể làm đúng theo các chuẩn mực cao cả của họ, và như thế họ dựng lên một ý niệm vi tế là họ thuộc về một giai cấp các đệ tử cao minh nhất.

Nhưng khi tới lúc phải bước lên những cấp độ cao hơn trên đường tu, cách nhìn của họ trở thành một cái bẫy. Những hành giả này cảm thấy nếu họ thay đổi cách tu tập thì họ sẽ chểnh mảng, và niềm tự hào của họ bị sứt mẻ. Và nếu họ không chịu bỏ niềm tự hào đó thì họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải tiếp tục làm y như vậy hoài hoài. Đáng buồn thay, họ sẽ bị kẹt lại ở mức này, hoặc họ tuột xuống hố thẳm của sự mù quáng tâm linh là hậu quả đương nhiên của tự hào. Họ có thể hoàn toàn tin chắc là họ cao hơn mọi người khác, thế nhưng họ không có khả năng nhận ra đấng Ki-tô Hằng sống, y như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước. Đó là lý do ta từng gọi là đạo đức giả.  

Một số người tìm ra một giáo lý và cảm thấy giáo lý đó là một ốc đảo an toàn giữa một thế gian đầy bất an. Khi theo giáo lý công truyền, họ tin rằng mình sẽ được cứu rỗi, và vì vậy họ sẽ lánh xa loài ma quỷ của sợ hãi đã từng ám ảnh họ. Việc tuân theo một giáo lý chân truyền cũng là một thành trì chống lại sợ hãi. Vấn đề là con không thể vào được nước Trời bằng cách tự cách ly khỏi những nỗi sợ hãi của con. Con chỉ vào được nước Trời bằng cách chinh phục sợ hãi, và để chinh phục, con phải sẵn sàng đối mặt với chúng.

Mục đích của một giáo lý chân truyền không bao giờ là để mãi mãi cách ly con khỏi sợ hãi. Mục đích là cho con một bờ bến an toàn để con có thể bồi sức hầu đối mặt với sợ hãi. Nhưng nếu con không hiểu được điều này, hoặc nếu con không chịu đối diện với sợ hãi, thì con sẽ bám víu vào sự yên trí của giáo lý công truyền rồi dùng đó để biện minh cho sự từ chối đối mặt. Tiếc thay, tuy rằng chiến lược này có giá trị trong các giai đoạn đầu, nó sẽ không bao giờ đưa con xa hơn những bước đầu này. Vấn đề là các hành giả này sợ làm lỗi đến nỗi họ không dám thử một cái gì mới. Nhưng nếu không thử thì con không thể tiến bước. Nếu con không chịu nhận rủi ro lầm lỗi thì con không thể thành công.  

Một số người tìm thấy một giáo lý công truyền xong nhận thấy mình theo nó quá dễ dàng thay vì mình phải cố gắng tự suy nghĩ một mình. Họ sẵn lòng để cho một đạo sư hay một tổ chức bên ngoài suy nghĩ dùm họ, và lần hồi họ nghiện ngập cái cảm giác an toàn đó, y hệt như người nghiện ma túy vậy.  

Nhưng một lần nữa, một giáo lý chân truyền nhằm cho con một thời gian nghỉ ngơi để con có thể bồi dưỡng sức lực cũng như khả năng phân biện sự thật bên trong mình. Khi con đạt tới một mức nào đó trên đường tu, con sẽ không thể tiến thêm cho đến khi con sẵn sàng bắt tay vào công việc khó khăn là phân biện sự thật trong nội tâm, thay vì trông chờ một giáo huấn hay một vị thày bên ngoài.

Thông thường đối với các hành giả này, họ muốn bám vào ý tưởng là họ có thể tiếp tục tin, hoặc làm, cùng những chuyện đó suốt đời. Đại khái, họ nói với cái ta Ki-tô của họ cũng như với các chân sư: “Đừng làm phiền tôi với sự hướng dẫn tâm truyền. Tôi đã có giáo lý và tổ chức vỏ ngoài này rồi, nó cho tôi tất cả mọi thứ tôi cần”. Và cứ thế, họ tiếp tục nhảy múa chung quanh con bê vàng thay vì để cho những kỳ vọng phàm phu của họ bị tiêu hủy trong ngọn lửa của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ không phải là chính nó.

Thực tế đơn giản – một thực tế mà nhiều hành giả không thấy – là ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một cái hộp đóng kín. Cho nên nhiều học trò chân thành của chân sư đã dùng giáo lý chân sư để đi theo con đường tuy “đúng đắn với con người nhưng lại là con đường chết”. Thật là một điều đáng buồn khi nhiều người cầu tìm tâm linh đã dùng một giáo lý chính đáng để tự đóng hộp mình, để rồi cuối cùng họ bắt đầu đi theo con đường tay trái. Đây là sự phản bội hoàn toàn đối với lòng tin của các chân sư đã đỡ đầu công bố một giáo lý nào đó. Nếu con nghĩ rằng ta cùng các chân sư khác hài lòng về sự thể này thì rõ ràng con không biết chân sư mà chỉ tưởng là mình biết.

Sự thật mà con không thể tránh khỏi là thực chất của đường tâm linh là sự tự thăng vượt. Bất cứ khi nào con dùng một giáo lý vỏ ngoài để tự biện minh rằng mình không cần thăng vượt thì ngay lúc đó con đang theo tà đạo. Như thế con không còn là một đệ tử thực sự của chân sư. Con đã trở thành một người phản-đệ tử, và con sẽ bắt buộc cất bước đi theo một người phản-thày. Ta có thể chắc chắn với con là ta không nói quá đáng hay ta ra vẻ cường điệu đâu. Thực tế trần truồng là nhiều đệ tử lâu năm đang đi sai đường, nhưng họ lại dùng giáo lý vỏ ngoài để ru ngủ cho mình là những hành giả có trình độ cao nhất trên địa cầu. Và các chân sư thì hầu như không có cách nào đánh thức họ về sự điên rồ của họ.  

Cách duy nhất để phá vỡ khuôn nếp này là phải sẵn sàng biết khiêm tốn mà tra vấn những tin tưởng lâu đời của mình về đường tâm linh. Ta không bảo con phải bỏ một lời dạy cố hữu và đi theo lời dạy mới như trang mạng này. Ta bảo con phải bỏ những tin tưởng đang làm nghẽn sự tiếp xúc của con với cái ta Ki-tô của con hầu con nhận được sự hướng dẫn từ bên trong.

Và ta có thể bảo đảm với con là nếu con đã đi theo và tu tập một giáo lý tâm linh chân truyền trong một thời gian dài mà vẫn không có sự liên lạc rõ ràng với cái ta Ki-tô của mình, thì chỉ có một lý do mà thôi. Con có một số tin tưởng và chờ đợi đang chặn nghẽn sự hướng dẫn nội tâm. Cho nên con hãy cần sẵn sàng để cho những giới hạn này ra đi; hãy vui lòng để chúng chết đi hầu con có thể sống đời đời trong ánh sáng của Sự thật Ki-tô.  

Ý thứ 4

Sự khác biệt vi tế mà nhiều hành giả thường bỏ qua là một giáo lý vỏ ngoài quả là có khả năng giúp họ tiến bước. Nhưng điều này chỉ hiệu nghiệm một thời gian và sau đó thì nó sẽ cản trở bước tiến. Cách duy nhất thoát khỏi ngõ cụt này – cũng là cách duy nhất để không trượt lùi trên đường đạo – là mình thăng vượt hình tư tưởng của mình. Và để làm điều này, con phải sẵn sàng để cho mọi thành phần của hình tư tưởng đó chết đi khi con nhận được sự thúc giục của hướng dẫn nội tâm. Và như ta đã nói, con càng bám giữ hình tư tưởng thì con sẽ càng khiến cho sự hướng dẫn nội tâm bị tắc nghẽn – và nó tạo ra một tình trạng tiến thoái lưỡng nan.   

Cho nên ta đề nghị một điều giản dị. Ở cuối quyển sách “The Christ is born in you” (Ki-tô ra đời trong con), ta có đưa ra một bài tập mà qua đó ta giúp hành giả không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ ý niệm nghĩa vụ, bất kỳ cảm nhận nào là mình phải làm điều gì, hay phải làm theo một cách nào đó. Đây là một bài tập hữu ích bởi vì chỉ bằng cách buông bỏ định kiến mà con mới làm cho ngoại tâm tĩnh lặng hầu nghe được cái ta Ki-tô của con. Vì vậy con hãy sẵn sàng từ bỏ mọi ý tưởng rằng con phải làm điều gì đó cho chân sư, và hoàn toàn sẵn lòng từ bỏ luôn mọi ý tưởng về cách thực hiện điều đó.  

Ta có thể nói với con là một trong những vấn đề phổ biến nhất mà ta thấy là một hành giả nhận được viễn kiến đúng đắn về những việc mà người đó phải làm trong kiếp này, nhưng lại dùng một giáo lý công truyền – hay đúng hơn, một cách hiểu nhị nguyên về giáo lý đó – để dựng lên một kỳ vọng không thực tế về cách thực hiện. Và như thế con rơi vào tình trạng “một ngôi nhà bị chia rẽ chống lại mình”. Dòng sống của con biết viễn kiến đó là gì và cũng biết mình phải thực hiện làm sao, nhưng ngoại tâm thì lại dựng lên một viễn kiến khác bởi vì nó đã dùng một giáo lý vỏ ngoài – hay một số quy tắc cứng ngắc do giáo lý này vạch ra – để xác định cách thực hiện mục tiêu.     

Điều này chắc chắn sẽ làm tắt đi khả năng sáng tạo thực sự của dòng sống, và vì vậy dòng sống sẽ từ chối làm theo. Con thấy không, sứ vụ thiêng liêng của con chỉ có thể được hoàn thành khi con thể hiện sắc tính thiêng liêng của mình – được neo giữ nơi Hiện diện TA LÀ của con – qua công việc mình làm. Nếu con dùng một giáo lý công truyền để thiết lập những luật lệ hay chờ đợi cứng ngắc về cách thực hiện mục tiêu mình, thì con sẽ tước mất cơ hội cho sắc thái con được thể hiện qua công việc của con.

Cho nên ngoại tâm sẽ đánh nhau với cái Ta Biết của con – con sẽ đánh nhau để bóp nghẹt khả năng sáng tạo là chìa khóa cho con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình – và như thế mục tiêu sẽ không đạt được. Hành giả nỗ lực đạt tới một mục tiêu rất đáng làm, nhưng lại cố gắng làm với một cách thức mà cả cái ta Ki-tô lẫn cái Ta Biết của con không thể chấp nhận, và do đó nó phá hoại chính những nỗ lực vỏ ngoài của nó. Cái ta Ki-tô biết rõ hành giả sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu qua khả năng của ngoại tâm, cho nên cái ta Ki-tô thực sự đang tìm cách gửi một thông điệp đến ngoại tâm.  

Lối thoát duy nhất khỏi bế tắc này là vượt qua sự chia rẽ trong ngã bằng cách buông bỏ hình tư tưởng được giữ trong ngoại tâm. Và điều này thường đòi hỏi hành giả buông bỏ một số – hay có lẽ tất cả – những kỳ vọng đã được xây đắp khi mình dấn thân vào giáo lý hay tổ chức công truyền. Ít nhất, hành giả phải sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng. Chìa khóa là cái Ta Biết chứng thực được mình là sự tỉnh giác thuần khiết.

Ý thứ 5

Con hỏi: “Con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú chú bị cấm không được làm?”

Trước hết, việc sử dụng thành tựu của mình để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng luôn luôn hợp luật – đó chính là chức năng của thành tựu tâm linh. Thế nhưng con phải bảo đảm rằng ngoại tâm con nằm thẳng hàng với viễn kiến về mục tiêu mà cái Ta Biết và cái ta Ki-tô cất giữ.

Có hợp luật không khi con theo đuổi mục tiêu bằng cách đi ngược lại các luật lệ vỏ ngoài của một cộng đồng tâm linh? Chắc chắn là có – với điều kiện cái ta Ki-tô của con bảo con làm vậy và con chắc chắn không phải tự ngã đang dụ dỗ con. Thế nhưng trong hầu hết trường hợp, chính ngoại tâm con bảo con mù quáng tuân thủ luật lệ công truyền mà không lắng nghe cái ta Ki-tô. Con cần suy ngẫm lời dạy của ta về ngày sa-bát và câu ta từng nói, “Sa-bát được tạo ra cho con người, chứ con người không được tạo ra cho sa-bát.” Câu này cũng áp dụng cho mọi luật lệ do bất kỳ tôn giáo nào đặt ra. Để biểu lộ và thể hiện quả vị Ki-tô của con, con phải sẵn sàng thăng vượt mọi giới hạn do con người đặt ra. Con phải sẵn lòng để cho chúng chết đi hầu giải thoát dòng sống của con khỏi gông cùm của chúng và vượt lên trên. Dòng sống của con, trong nghĩa đen, đang bị đóng đinh trên thập tự giá của những mong muốn phàm phu, nhị nguyên, mà ngoại tâm con đã chấp nhận. Cho nên ngoại tâm con và các thế lực của thế gian này đã đóng đinh dòng sống của con vào cây thập tự.

Điều này bao gồm cả những hạn chế nội tâm được tạo ra bởi ngoại tâm và tự ngã của con. Và nó cũng bao gồm những hạn chế vỏ ngoài tạo ra bởi thế gian, kể cả bởi một cộng đồng tôn giáo nào đó. Tất nhiên, con cần tìm thấy một sự quân bình, và ở các mức thấp của đường tu, con có thể cảm thấy luật lệ vỏ ngoài rất hữu ích. Nhưng sẽ tới lúc con không thể phát triển thêm cho đến khi con vượt qua cuộc điểm đạo và con sẵn sàng bước theo hướng dẫn của nội tâm thay vì luật lệ, quy tắc vỏ ngoài.

Ý thứ 6

Việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng không thể đo được bằng các chuẩn mực thành công của thế gian. Nhìn từ thế gian, sứ mạng của ta thời ta hiện thân là một thất bại, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh, đó là một sự thành công. Vì vậy con không nên rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng thành công cá nhân của con có thể đo bằng chuẩn của thế gian – đăc biệt là chuẩn của các giới làm phim điện ảnh.

Một khía cạnh khác nữa của vấn đề này là con không được để cho mình cảm thấy sự tiến triển của sứ mạng mình có thể bị thế gian giới hạn. Để biểu lộ quả vị Ki-tô, con phải đạt tới mức con quyết định rằng con sẽ KHÔNG để cho bất cứ gì – ở trong cũng như ở ngoài – ngăn cản mình bước đi bước kế tiếp của mình trên đường tu. Nói cách khác, nếu con có một viễn kiến thì con cứ việc đi tới mục tiêu với bất kỳ phương tiện hợp pháp nào mà con có. Con không để cho sự thiếu hụt tài chánh ngăn con làm những gì con có thể làm – và luôn luôn có những điều con có thể làm – kể cả là con có thể tự tu sửa.

Con hãy nhớ câu phương châm này của một vị đồng sự quý mến của ta, “Hãy làm đúng (chánh nghiệp) mà không vướng mắc thành quả việc làm”.

Ý thứ 7

Ta xin nhắc lại lần nữa, mỗi khi con thấy bế tắc thì đó là vì có một điều gì đó con chưa buông bỏ, một điều gì đó con chưa hàng phục. Và lý do con chưa buông bỏ là một hình tư tưởng về đường tu phải như thế nào – một hình ảnh mà cho tới giờ con chưa chịu chất vấn, hay con nghĩ nó không cần chất vấn. Như ta nói với con, khi con tiến tới tâm Ki-tô, con phải sẵn sàng chất vấn và nhìn xa hơn bất kỳ, và mọi, tin tưởng, quan điểm, chờ mong của mình. Bất cứ điều gì mà con không sẵn sàng nhìn xa hơn sẽ tự động trở thành cái hộp tư duy giam cầm tâm con.

Cho nên con hãy lùi lại, buông bỏ sự cảm nhận về những điều con cần làm cũng như cách làm.  Hãy buông ý niệm rằng con phải cứu nguy thế giới, rằng số phận thế giới tùy thuộc vào hành động của con, hay đại nghĩa của các chân sư nằm trên vai con. Hãy suy ngẫm về sự kiện Thượng đế đã cho mọi người quyền tự quyết. Vì thế con không trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác. Nhưng ngược lại, chỉ có con mới trách nhiệm về sự cứu rỗi của con.

Xin con hiểu rằng có sự phân biệt vi tế ở đây. Các chân sư không đang đầu thai trong thế gian, cho nên để địa cầu thay đổi, chỉ những ai đang đầu thai mới có thể đem lại thay đổi. Nhưng sự thay đổi cần thiết không thể do ngoại tâm đem lại. Khi con vướng mắc vào một hình tư tưởng nào đó, con bắt đầu nghĩ rằng con là người hành động, người hoàn thành. Và chính những người tưởng mình phải cứu nguy thế giới mới khiến cho người ta có câu, “Con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý muốn tốt”. Kỳ thực, con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng ý muốn của con người, những ý muốn nhị nguyên.

Chìa khóa là con cần bỏ lại mọi kỳ vọng phàm phu và khiến cho ngoại tâm đứng đồng điệu với dòng sống và cái ta Ki-tô của con. Khi đó, con sẽ có thể nói, “Ta và Cha ta – nghĩa là Hiện diện TA LÀ – là một” và “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta cũng làm việc như vậy”. Đây là cách duy nhất để đem lại thay đổi thực sự cho địa cầu. Nếu con muốn đem giáo lý của chân sư vào thế giới, bước đầu tiên là con phải thể nhập với giáo lý và bước đi trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Con không thể dạy về quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô. Con chỉ có thể dạy về quả vị Ki-tô qua sự làm gương.

Ý thứ 8

Đối với các chân sư thăng thiên, việc cứu vớt địa cầu không quan trọng bằng việc cứu vớt dòng sống của con. Và cách duy nhất để cứu dòng sống của con là giúp con đạt được tâm Ki-tô. Cho nên mục đích chủ yếu của con là đạt được tâm thức Ki-tô – thậm chí sự hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hay cứu nguy thế giới cũng chỉ là thứ yếu so với mục đích đó. Ở những mức cao trên đường tu, con phải đặt ưu tiên cho thật rõ ràng. Con phải trước hết sẵn sàng tìm nước Trời, tức là tâm thức Ki-tô. Và tất nhiên, một khi con đặt việc tìm nước Trời lên hàng đầu thì mọi thứ khác, tức là sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới, sẽ được bồi thêm vào cho con.

Con có thấy được sự khác biệt vi tế? Ngay cả mục đích rất đáng làm là bước đi trên đường tâm linh, hoàn thành sứ vụ thiêng liêng hay cứu nguy thế giới cũng có thể trở thành cái bẫy nếu con đặt những thứ đó lên trên việc chứng đạt tâm thức Ki-tô. Khi nào con còn điều gì quan trọng hơn tâm thức Ki-tô thì con không thể đạt tâm thức Ki-tô. Và khi nào con chưa đạt tâm thức Ki-tô thì con không thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới. Cho nên con phải để cho mọi mục tiêu khác chết đi – con phải sẵn sàng mất ý niệm sống của mình – để đạt được sự sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô. Đây là tiến trình mà Kim Michaels đã đi qua trước khi đủ tư cách để làm sứ giả cho ta.

Một khi con chứng đạt quả vị Ki-tô cá nhân của con, con sẽ không bị ràng buộc bởi bất cứ luật lệ hay mong chờ nào nữa. Con sẽ để cho sắc thái thiêng liêng của con biểu hiện qua con, bởi vì con sẽ biết rằng, “Đứa Con chẳng tự mình làm được việc gì, chỉ làm điều chi mà Con thấy Cha làm; vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy” (John 5:19). Đứa con ở đây là dòng sống đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của nó.

Ý thứ 9

Con không thể đem các mong muốn, quan điểm hay hình tư tưởng phàm phu của con lên thiên đàng. Cho nên con không thể vào được thiên đàng cho đến khi con bỏ chúng lại. Bám giữ chúng sẽ khiến con không vào được thiên đàng. Con không thể tìm thấy chìa khóa vào thiên đàng nếu con bám giữ những gì con có. Con chỉ tìm thấy chìa khóa nếu con buông bỏ mọi điều giả. Và trước khi con có đủ phân biện để biết chân giả khác nhau thế nào, con nên khôn ngoan đặt thành mục tiêu là không bao giờ tạo ra một cái hộp tư duy đóng kín.

Để tránh tạo ra hộp đóng kín chung quanh tâm mình – một chiếc hộp mà cái ta Ki-tô của con không thể thâm nhập vào – con phải sẵn sàng luôn luôn vươn tới hiểu biết cao hơn, nghĩa là con không bao giờ cho phép mình tưởng rằng sự tin tưởng của mình có thể là tuyệt đối, tức là không thể mở rộng ra qua sự hướng dẫn nội tâm. Nói cách khác, đừng bao giờ để cho một giáo lý, một vị thày hay một tổ chức công truyền đứng chắn ngang giữa con và vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô.

Ta thực sự mong ước những học trò lâu năm của các chân sư suy ngẫm những ý tưởng này, cho nên ta hy vọng mọi người sẽ cảm thấy thoải mái khi chia sẻ với người khác. Ta xin xác nhận với con là các chân sư thăng thiên vô cùng quan tâm khi thấy quá nhiều học trò lâu năm của mình đã sử dụng giáo lý của chân sư – được ban cho các con một cách vô giới hạn – để tạo ra những hộp tư duy đóng kín. Điều này không những sẽ ngăn họ hoàn tất sứ vụ thiêng liêng, mà còn ngăn họ đạt được quả vị Ki-tô. Chỉ vì lý do này thôi mà các giáo lý được truyền đạt suốt thế kỷ qua đã không tác động được hành tinh này như mong muốn.  

Tình trạng này có thể chỉnh sửa, và có thể chỉnh sửa nhanh chóng. Nhưng nó sẽ chỉ xảy ra khi các học trò lâu năm của các chân sư sẵn sàng để cho các kỳ vọng trước đây chết đi rồi sống lại trong ngọn lửa của Sự thật Hằng sống – là phép báp-têm bằng lửa – mà họ chỉ có thể nhận được từ chính cái ta Ki-tô của họ.

Ý thứ 10

Ta mong các học trò lâu năm sẽ suy ngẫm những lời giảng của ta về nguồn gốc của cái ta Ki-tô và thiền quán về ý nghĩa sâu thẳm của lời giảng đó. Nó chứa đựng một lời dạy chưa từng được ban truyền trong quá khứ, và đây là một ví dụ điển hình tại sao giáo lý chân sư cần được tiết lộ một cách tuần tự theo nhịp tiến của nhân loại.

Rõ ràng, bài giảng vừa rồi của ta nhân dịp Giáng sinh nhắm đến người đạo Cơ đốc, vì vậy ta chỉ có thể đưa ra những lời dạy cơ bản. Tuy nhiên đối với các học trò lâu năm, các con cần hiểu rõ là nhiều vị chân sư thăng thiên đã “bẻ thành từng mảnh” Tánh linh của mình để hình thành những cái ta Ki-tô của các anh em chưa thăng thiên. Vì vậy không phải mọi hành giả đều có cái ta Ki-tô là thành phần của Tánh linh của ta. Điều quan trọng là hành giả cần hòa điệu tâm thức mình với vị chân sư đã ban cho mình món quà sự sống dưới hình thức cái ta Ki-tô.

Cho nên nếu con là một học trò lâu năm của các chân sư, con nên xét xem con sẽ trung thành với một giáo lý vỏ ngoài hay là với nguồn gốc của giáo lý đó. Ta không bảo rằng con cần phải rời bỏ một tổ chức con đã tham gia. Nhưng ta nói rằng con cần sẵn sàng rời bỏ tổ chức đó nếu con nhận được chỉ thị từ bên trong. Và nếu con đã sử dụng các giáo lý cũ để xây dựng một hộp tư duy đóng kín, thì làm sao con sẽ nghe được sự hướng dẫn nội tâm này đây?

Ta cũng muốn nói rằng tất cả mọi học trò lâu năm của chân sư có thể hưởng lợi rất nhiều khi sử dụng các bài chú và bài thỉnh để bổ sung cho những kỹ thuật mà họ đã từng dùng trong những tổ chức trước. Tại sao con lại đi máy bay cánh quạt khi máy bay phản lực đã được đem vào thế gian? Với tình hình nghiêm trọng trên địa cầu hiện nay, các chân sư cần tất cả mọi học trò của mình sử dụng các kỹ thuật mạnh mẽ nhất hiện có.

Thành thật mà nói, ta còn rất nhiều điều muốn nói với các học trò lâu năm, nhưng nếu những gì ta vừa nói ở đây không mở tai họ để họ nghe được ta là ai, thì ta ngờ rằng sẽ chẳng có gì khác làm được chuyện đó. Một lời nói thôi cũng đủ cho người trí tuệ – hoặc những ai coi mình là trí tuệ.

Quyền tự quyết của con tự quyết đến mức nào?

Nghe bài thu âm

Hỏi: Liệu ý chí tự quyết của tâm thức của con ngay bây giờ có tách rời khỏi linh hồn con, như linh hồn tách rời khỏi Hiện điện TA LÀ? Chẳng hạn, nhiều khi con cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, nhiều khi khác con lại quyết định mình sẽ không là. Nhiều lúc khác nữa, con cảm thấy rất thành tâm, cả quyết và háo hức về con đường tâm linh của mình. Có phải là linh hồn con hiểu điều này rõ hơn cái ta đường thẳng của con, hay là nó cũng bị ràng buộc tương tự như Hiện diện TA LÀ bị ràng buộc bởi quyền tự quyết của linh hồn con?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nghiên cứu một số sách về trải nghiệm cận tử (near-death experience) hay những người nhớ lại tiền kiếp, nhớ lại cách dòng sống của mình hoạch định những kiếp đầu thai như thế nào, con sẽ thấy đối với hầu hết mọi người, toàn bộ dòng sống không chỉ là những điều mình nhận biết một cách ý thức, mà là nhiều hơn vậy. Nói cách khác, trước khi con đi vào hiện thân, con có khả năng nhìn lại toàn diện hành trình tiến hóa của con, và con làm điều này một cách không dính mắc. Nhờ vậy, con có thể hoạch định một cách thật hữu lý và chi tiết về những điều con muốn thực hiện trong kiếp kế tiếp.

Khi dòng sống đi vào một xác thân vật lý, nó mất hết ký ức về cái nhìn bao quát này, tức sự nhận biết toàn bộ của nó. Một số người khi còn nhỏ có thể nhớ lại một vài trải nghiệm hay ký ức, nhưng sau đó họ thường quên đi khi họ đâm đầu vào cuộc sống hàng này trong vũ trụ vật chất. Chỉ có những dòng sống đã trưởng thành cao độ về tâm linh trong những kiếp trước mới giữ được phần lớn sự nhận thức và ký ức đó. Tuy vậy, đa số hành giả tầm đạo thường có một trực nhận mạnh mẽ về những điều họ muốn đạt đến trong cuộc đời.

Cho nên có thể nói, khi dòng sống của con đi vào thân xác, ý niệm bản sắc và sự nhận biết của nó trở nên hạn chế hơn rất nhiều so với trước khi hiện thân. Vậy điều gì định đoạt mức nhận biết ý thức của con? 

Như chúng tôi có giải thích, cốt lõi của con là cái Ta Biết. Cái Ta biết khởi đầu với một ý niệm cái ta nhỏ như cái chấm, và khi nó có thêm trải nghiệm trong vũ trụ vật chất, nó sẽ mở rộng ý niệm cái ta này, mở rộng phạm vi nhận biết toàn diện của nó. Nó mở rộng cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Chiều dọc là khi nó tăng cường sự kết nối với Hiện diện TA LÀ, tiến tới sự hợp nhất hoàn toàn với Hiện diện (quả vị Ki-tô cá nhân). Và chiều ngang là khi nó bành trướng tầm hiểu biết về thế giới vật chất cùng sự vận hành của thế giới vật chất. 

Cho nên, tầm nhận biết mà con có trước khi con đầu thai được định đoạt bởi cái Ta Biết đã bành trướng phạm vi cái ta của nó nhiều hay ít. Phạm vi này càng rộng – tức là sự nhận biết càng nhiều – thì con càng thấy nhiều chọn lựa mở ra cho con. Nói cách khác, cái Ta Biết là trung tâm của ý chí tự quyết của con. Cái Ta Biết dù có toàn quyền tự quyết nhưng nó chỉ có thể chọn trong số các chọn lựa mà nó thấy hay tưởng tượng được mà thôi. Và những chọn lựa mà con thấy tùy thuộc vào phạm vi nhận biết của con rộng tới đâu. Hay nói cách khác nữa, khi con hoạch định sứ vụ thiêng liêng cho kiếp kế tiếp, con có thể truy cập toàn bộ tầm nhận biết mà con đã đạt được qua tất cả các kiếp sống.

Vậy điều gì xảy ra khi con đầu thai? Như ta đã giải thích ở nơi khác, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn thật ra chỉ là cỗ xe gồm bốn thể phàm mà cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu hiện trong bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Cỗ xe 4 tầng này được tạo dựng suốt nhiều kiếp sống, và như ta giải thích, đại đa số con người trên địa cầu đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là cỗ xe linh hồn được cấu tạo bằng rất nhiều ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên, và nó cũng tồn trữ rất nhiều năng lượng tha hóa. Tất cả những thứ này sẽ giới hạn tầm nhận biết của cỗ xe linh hồn. 

Trong khoảng chuyển tíếp giữa hai kiếp đầu thai, con có thể – nếu con có chút trưởng thành tâm linh – nhìn vào hoàn cảnh của mình với sự nhận biết toàn diện của cái Ta Biết. Nhưng khi con đi vào xác thân, con sẽ bắt đầu nhìn cuộc sống xuyên qua cỗ xe linh hồn, nghĩa là tầm nhận biết của con bây giờ bị hạn chế bởi phin lọc của cỗ xe 4 tầng. Cũng tựa như con đang đứng trên khoang tàu nhìn rộng thênh thang tứ phía, rồi khi con đầu thai con phải mặc vào một bộ đồ lặn chỉ có một lỗ cửa sổ nhỏ xíu để nhìn ra thế giới.   

Vậy giờ con thấy là có hai điều con cần xem xét. Trước hết là mức nhận biết mà cái Ta Biết đã xây dựng suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ sử dụng tầm nhận thức này để họach định kiếp kế tiếp của con. Tuy nhiên khi con giáng thế vào một thân xác, con thường đánh mất nhận thức này. Rất nhiều trẻ nhỏ vẫn giữ được một nhận thức nào đó về thời điểm giữa hai cuộc đầu thai, nhưng khi nó lớn lên nó thường sẽ quên mất hết. Cho nên điều xảy ra là tầm nhận biết của con nay bị giới hạn trong những gì con thấy được qua phin lọc của cỗ xe 4 tầng.

Một lần nữa, cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết, và về mặt kỹ thuật, ý chí của con luôn hoàn toàn tự do. Nhưng trên thực tế, cái Ta Biết chỉ có thể chọn một trong số những chọn lựa mà nó nhìn thấy, và đó là tại sao con cảm thấy bị giới hạn bởi cỗ xe linh hồn. Nhiều người tâm linh cảm nhận được mình là nhiều hơn cái linh hồn này, và họ cảm thấy họ có khả năng chọn lựa tốt hơn, tuy nhiên họ không thể – trong ý thức – hình dung hay chấp nhận các chọn lựa mở ra cho họ, và vì thế họ bị kẹt lại. Điều này có thể khơi lên một cảm giác vô vọng. 

Nhưng cái hay của giáo lý Ta Biết là cái Ta Biết KHÔNG phải là linh hồn. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là nó có khả năng tự phóng chiếu ra bất cứ nơi đâu nó muốn. Bất kể trình độ nhận biết của linh hồn là gì, cái Ta Biết luôn luôn có sự lựa chọn là nó có thể ngưng tự đồng hóa toàn diện – một cách cố tình – với cỗ xe 4 tầng. Lúc đó con sẽ có thể tự chiêm nghiệm mình là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là tuy con có ý thức, nhưng con không chiêm nghiệm thế giới qua phin lọc của cỗ xê linh hồn nữa. Con nay chiêm nghiệm rằng con là nhiều hơn linh hồn.  

Một khi con bắt đầu có khung sườn đó, con sẽ ngừng tự đồng hóa với cỗ xe 4 tầng. và điều này sẽ giúp con gạt bỏ nhiều ảo tưởng của tâm thức linh hồn.  Khi con cũng vứt bỏ năng lượng của cỗ xe linh hồn, con sẽ làm sáng tỏ và mở rộng tầm nhìn của con, có nghĩa là con sẽ lần hồi nhìn thấy được sứ vụ thiêng liêng mà cái Ta Biết đã thảo ra trước khi đầu thai. Nói cách khác, cho dù linh hồn con có nhận biết thấp đến đâu đi nữa trong những kiếp trước, con sẽ luôn luôn có sự chọn lựa để vươn lên tới mức nhận biết toàn diện mà cái Ta Biết đã đạt được. Nghĩa là con sẽ luôn luôn có khả năng khám phá và hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con – nếu con áp dụng các giáo lý và dụng cụ tâm linh mà chúng tôi đã cho con.   

Điều ta muốn nói là khi con phân biệt được cái Ta Biết với cỗ xe 4 tầng, con sẽ thấy rằng chính cái Ta Biết mới là “người” chọn lựa. Cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn thực sự không phải là trụ sở của quyền tự quyết (trừ khi con định nghĩa linh hồn bao gồm cả cái Ta Biết), và chức năng của linh hồn là để hạn chế các chọn lựa mà cái Ta Biết có thể thấy hay mường tượng trong khi đầu thai.

Cũng giống như con đang bước đi trong một toà nhà tối om với một chiếc đèn pin nhỏ xíu và con bước tới hai cánh cửa. Tất nhiên con sẽ nghĩ con phải đi qua cửa này hay cửa kia. Nhưng giả sử có một cánh cửa thứ ba và một cánh cửa thứ tư mà con không nhìn thấy. Chỉ khi nào con mở rộng tầm chiếu của đèn pin thì con mới sẽ thấy được hai cánh cửa kia.

Cho nên khi con khám phá con đường tâm linh, nhiệm vụ đầu tiên của con là sắp đặt lại nhân cách vỏ ngoài và ý thức tự quyết của con cho đứng thẳng hàng với sự nhận biết rộng lớn hơn và sự chọn lựa sâu xa hơn của cái Ta Biết. Một khi nhân cách và nhận biết đã phù hợp với cá thể đích thực của Ta Biết, con mới có thể bắt đầu xây tiếp để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng và thể hiện khả năng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con. Cũng có thể nói, nhiệm vụ hàng đầu của con là khiến cho cái Ta Biết ý thức được nó thực là ai, thay vì cứ tưởng nó bị giới hạn bởi cỗ xe 4 tầng của nó.   

Con có đề cập đến cảm giác vô vọng và con đã nhiều lần chọn là con sẽ “không là”. Đây là điều mà nhiều người tầm đạo cũng gặp phải, bởi vì đó là một phần không thể thiếu của con đường tâm linh. Ta sẽ giải thích tại sao.

Trong suốt nhiều kiếp trước, đa số con người đã tạo ra một động lượng mỗi khi mình chọn lựa. Nếu con đã chọn một cách phản ứng trong một tình huống nào đó, và nếu con cứ tăng cường chọn lựa này suốt nhiều kiếp, con sẽ tạo ra một khuôn nếp phản ứng. Như thày Gautama có giải thích trong một bài giảng then chốt, bất cứ gì mà con tập trung chú ý vào sẽ thấm nhuần một dạng tâm thức nào đó, và nó có thể tạo dựng ra một con “quái vật”. Điều này trong một số giáo lý huyền bí được gọi là “kẻ ngụ trên ngưỡng cửa”. Lý do có cái tên này là vì quái vật ngụ trên ngưỡng cửa của một mức tâm thức mới. Cho nên để vượt lên khỏi mức tâm thức hiện thời, con sẽ phải đối mặt và khắc phục kẻ ngụ trong những lực đẩy cũ của con, là những lực tàn dư đã buộc chặt con với mức tâm thức hiện thời.

Nếu con so sánh điều này với câu hỏi muôn thuở của Hamlet: “Là hay không là”, chúng ta có thể nói rằng trong những kiếp trước con đã xây dựng một động lượng khi chọn không-là. Để vượt lên mức cao hơn, con phải khắc phục những động lượng này. Hầu hết những người không tâm linh có thể sống cả đời mà không gặp những lực cũ đó, tức “kẻ ngụ” đang chắn ngưỡng cửa. Nhưng đối với người tâm linh thì khác, nếu mình muốn thăng tiến thì nhất định sẽ phải gặp mặt một hay nhiều “kẻ ngụ” của mình. Và khi con làm vậy, trong một thời gian con sẽ cảm thấy sức nặng của động lượng không-là mà kẻ ngụ được tạo ra từ đó.

Động lượng này được tạo bằng những tin tưởng nhị nguyên của tự ngã lẫn những động lượng của năng lượng thấp, và nó sẽ cho con cảm giác là con không thể sống mà không có nó, và con – tức là sự tự nhận biết của con – sẽ chết nếu con “giết con rồng của kẻ ngụ”. Chìa khóa để vượt qua cảm giác vô vọng này là chiêm nghiệm cái biết thuần khiết. Qua đó, con sẽ nhận ra rằng điều tự ngã vừa nói với con là thật. Thật thế, sự tự nhận biết do tự ngã và kẻ ngụ dựng lên sẽ chết đi, nhưng điều này không có nghĩa là CON sẽ chết, bởi vì con không là cỗ xe 4 tầng, mà con là cái TA Biết, tức là cái biết thuần khiết, và con không thể chết khi kẻ ngụ chết.     

Đây là cách đích thực duy nhất để con tách con ra khỏi kẻ ngụ và buông bỏ nó, dù là nó có thể chết vì đói hay nó bị trói lại và được Đại thiên thần Michael hóa giải. Và một khi một kẻ ngụ nào đó bị giết chết, con sẽ cảm thấy một niềm tự do mới sẽ kéo dài cho tới khi con vượt lên tầng kế tiếp và gặp mặt kẻ ngụ kế tiếp. Tuy nhiên, một khi con ý thức được tiến trình này rồi, càng ngày con sẽ càng thấy dễ tránh khỏi sự đồng hóa với kẻ ngụ. Con chỉ đơn giản thấy nó là như thế và buông bỏ nó một cách vô điều kiện.  

Một lần nữa, tự ngã và kẻ ngụ sẽ có tác dụng giới hạn những chọn lựa mà con thấy được, hoặc giới hạn khả năng/ý muốn của con để chọn lựa tốt hơn quá khứ. Cho nên chúng ta có thể nói, cho tới khi nào con vượt qua những động lượng cũ, con sẽ không có tự do chọn lựa. Điều ta muốn nói là mặc dù ta không ngừng bảo con là con có quyền tự quyết, nhưng con nên xét xem quyền tự quyết của con thật sự tự quyết đến mức nào. Và tất nhiên, tự do chọn lựa của con sẽ tùy thuộc vào tầm nhìn, tầm nhận biết và ý niệm cái ta của con.   

Võ thuật và sự phát triển tâm linh

Hỏi: Con xin có một câu hỏi về võ thuật. Việc học võ có chính đáng hay không, nghĩa là không phải để ra tay giết người mà để tự vệ và điều hướng nội khí. Con thắc mắc là khi thày sang phương Đông, thày có học võ thuật hay không. Có lẽ là không, nhưng thày có thể đã gặp các vị sư sử dụng võ thuật như trong phái Thiếu Lâm. Con cũng thắc mắc không hiểu Kung Fu và Tai Chi có phải là những cách chính đáng để sử dụng năng lượng của Thượng đế hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung giam Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Chắc chắn là có nhiều sự thật và nhiều giá trị trong một vài hình thức võ thuật. Hẳn là đã có nhiều người tìm được đường tu tâm linh phổ quát bằng cách sử dụng võ thuật như một nấc thang để bước vào một con đường vượt khỏi mọi nhãn hiệu lẫn mọi sự chia rẽ vỏ ngoài như nhu cầu tự vệ, làm chủ xác thân vật lý hay ngay cả điều ngự luồng Khí.    

Nhưng như mọi lãnh vực khác trên địa cầu, võ thuật cũng có thể bị biến chất. Con thấy được hiện tượng này tại cả phương Đông lẫn phương Tây, đặc biệt là tại phương Tây bởi vì hai lý do. Một là võ thuật đã đặt quá nhiều trọng tâm vào nhu cầu tự vệ. Nếu con tiếp cận võ thuật trong tinh thần sợ hãi thì việc tập tành võ thuật có thể khuếch đại nỗi sợ hãi đó và cuối cùng dẫn đến chứng hoang tưởng.  

Thật vậy, một số người đã chuyển dòng khi của họ đi sai hướng và trở nên hoang tưởng, luôn luôn nghĩ rằng có ai đó muốn làm hại mình. Điều này có thể  đẩy ý muốn tự vệ của họ đến cực điểm, khiến họ cho rằng việc tập tành để giết chết một đối thủ qua kỹ thuật võ công là một chuyện chính đáng và cần thiết. Kỳ thực, môn võ thuật không bao giờ được lập ra để gây chết người. Các vị sáng lập chỉ có ý giúp người ta tự phòng thủ mà không giết người, và phương thức này đã vô cùng hiệu nghiệm trước khi có người sáng chế ra súng ống là một phương tiện giết người từ xa.  

Ta mạnh mẽ khuyên nhủ mọi người nên lánh xa các môn võ thuật chỉ dạy kỹ thuật giết người. Một số thày võ đã chụp lấy lời dạy nguyên thủy của võ thuật rồi biến chế thành một phương thức cực đoan. Những người thày như vậy thường bị thúc đẩy bởi sợ hãi, và học trò thì khó lòng nào vượt lên cao hơn tâm thức của thày.  

Lý do thứ hai đã làm tha hóa võ thuật là lòng kiêu hãnh. Điều này thường xảy ra tại phương Tây nhiều hơn là phương Đông mặc dầu ở phương Đông cũng không phải là không có. Tại phương Tây, người ta thường bị cuốn hút vào tinh thần tranh đua hão huyền, và võ thuật bỗng nhiên trở thành một cách tranh đua với người khác để chứng tỏ là mình hơn người. Luồng Khí bị hướng đi sai lối và mọi khía cạnh tiêu cực trong tâm thức người đó bị khuếch đại, đặc biệt là lòng kiêu hãnh và kiêu ngạo như trong trường hợp này. Rất nhiều người tập võ bị làm mồi cho cám dỗ tinh tế này, và rốt cuộc họ sử dụng năng lượng trinh nguyên của Thượng đế để phóng đại ham muốn hư danh của tự ngã. Giản dị, đây không phải là mục đích thực sự của những hình thức võ thuật chân chính.   

Nếu con đi ngược trở về nguồn gốc của bất kỳ phong trào võ thuật nào, con cũng sẽ tìm thấy muc tiêu thực sự của võ thuật không phải là tự vệ. Đó chỉ là một khía cạnh thực tiễn của võ thuật, khởi sinh từ những thời buổi bạo lực và sơ khai hơn. Nhưng mục đích thật của võ thuật là sự tăng trưởng tâm linh qua việc điều ngự các năng lượng của thế giới vật chất và sự hướng dẫn năng lượng tâm linh xuyên qua tâm thân. Mục tiêu thật của võ thuật không bao giờ là làm cho cơ thể trở nên toàn hảo mà là biến cơ thể thành người đầy tớ khiêm nhu, vâng lời, của tâm. Đây mới chính là muc tiêu thực sự của mọi cách tiếp cận võ thuật.

Trong thế giới ngày nay, có rất nhiều người chưa sẵn sàng ôm lấy con đường tu tâm linh qua những giáo lý thuần túy tâm linh. Đối với những người như thế, đặc biệt là giới trẻ, võ thuật có thể là một lối vào khả dĩ sẽ dẫn họ đến việc khám phá ra đường tu tâm linh một khi họ già dặn hơn. Tất nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ không bị cuốn vào hai đối cực của sợ hãi và kiêu ngạo.  

Riêng ta đã được học hỏi nhiều giáo lý của phương Đông khi ta du hành đến đó, nhưng ta chỉ tập trung vào các giáo lý tâm linh thuần túy chứ không được học võ thuật.

Giáo lý nền tảng về sứ vụ thiêng liêng và quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Giê-su thân kính, con đang cố tìm hiểu xem sứ vụ thiêng liêng nghĩa là gì, chứa đựng những chi tiết gì và liên quan thế nào với quyền tự quyết. Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là con rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến và sử dụng quyền tự quyết của mình?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Con vừa đặt một câu hỏi từng làm bối rối rất nhiều người tầm đạo khi lần đầu tiên họ nghe nói về sự kiện là họ có một sứ vụ thiêng liêng hoặc một mục tiêu cao cả hơn. Câu hỏi của con đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cái nhìn của các tôn giáo truyền thống – kể cả đạo Cơ đốc – mô tả Thượng đế như là một sinh thể nóng giận ở trên trời đang áp đặt ý muốn của ngài lên trên con và phán xét con một cách nghiêm khắc nếu con không tuân theo lời ngài như một con rô-bót.   

Để giải quyết bí ẩn, con cần suy ngẫm sự kiện Thượng đế đích thực không hề là một sinh thể nóng giận trên trời. Tuy nhiên, con cũng nên soi gương và nhận ra rằng hầu hết mọi người đều mang một sự mâu thuẫn nội tâm về sứ vụ thiêng liêng của mình. Chẳng hạn, con hãy đọc lại chính câu hỏi của con:

“Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến bằng cách sử dụng quyền tự quyết?” 

Con thấy chăng là có nhị nguyên được ngụ ý trong đó, tức là có một tin tưởng vi tế rằng nếu con tuân thủ sứ vụ thiêng liêng của con thì nó sẽ tước mất quyền tự quyết của con và biến con thành rô-bót? Nhưng ai đã thảo ra sứ vụ thiêng liêng chứ? Tất nhiên là con đó! Làm thế nào con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con? Bằng cách con chọn lựa với toàn quyền tự quyết của con!

Đồng ý là con có nhận được sự trợ giúp của các vị thày tâm linh của con, nhưng thày tâm linh đích thực không bao giờ ép buộc con chọn lựa như thế nào. Các thày chỉ trình bày cho con một số sáng ngộ có thể giúp con chọn lựa tốt nhất mà thôi. Cho nên sứ vụ thiêng liêng của con hoàn toàn thể hiện quyền tự quyết của con, vậy thì làm sao việc tuân theo có thể biến con thành người máy rô-bót được đây? Nhưng điều mà câu hỏi của con bộc lộ ra một cách trung thực là, cũng như đối với rất nhiều người khác, có một sự mâu thuẫn giữa ý muốn cao xa và ý muốn trước mắt của con. Vì vậy, câu hỏi thực sự mà con cần suy ngẫm là liệu cái ý muốn mà con có ngay bây giờ – ý muốn ý thức của con – có thật tự do, có thật tự quyết hay không?

Đối với hầu hết mọi người khi đi xuống hiện thân, họ quên hết tất cả cuộc sống của họ trước đó, kể cả về sứ vụ thiêng liêng. Khi lớn lên, họ chịu ảnh hưởng của gia đình và xã hội khiến họ xây dựng một số kỳ vọng về cuộc đời, và những kỳ vọng này có thể đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của họ. Chẳng hạn, đa số phải chịu áp lực từ bên ngoài khi có người chung quanh, kể cả chính gia đình họ cũng như một số cơ chế trong xã hội, muốn kiểm soát và kềm giữ họ trong những khuôn khổ nhất định. Ta có thể bảo đảm với con rằng sứ vụ thiêng liêng của con không hề định ra là mục đích tối thượng trong kiếp này của con là trở thành một kẻ tiêu thụ gương mẫu, luôn luôn muốn có nhiều sở hữu hơn, nhiều thoả mãn tình dục hơn, nhiều danh giá hơn từ một xã hội vốn ưa chuộng sự hời hợt. Và sứ vụ thiêng liêng của con cũng không hề bảo con phải ở lại trong nhà tù mà giai cấp thượng lưu cai trị đã định ra cho con – hay ngay cả giai cấp cai trị của tôn giáo bảo con là một kẻ tội lỗi khốn nạn sẽ không bao giờ thực hiện được những việc mà Giê-su đã làm.

Trái lại, đa số người tâm linh đều có một sứ vụ thiêng liêng nói rằng mình sẽ thách thức hiện trạng của mình bằng cách chứng tỏ là mình có thể sống tâm linh hơn ngay cả trong một xã hội hiện đại, khoa học, duy vật và hoài nghi. Vậy thì cái gì thực sự thúc đẩy con chạy theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài như rô-bót chứ? Phải chăng đó là sứ vụ thiêng liêng hay là tiêu chuẩn của xã hội, tiêu chuẩn của thế gian – mà ta từng gọi là “Ma-môn”? Hẳn con có nhớ, ta từng nói rõ là con không thể phục vụ hai chủ, con không thể cùng một lúc phục vụ Thượng đế – như là biểu tượng của sứ vụ thiêng liêng – lẫn Ma-môn – như là biểu tượng cho các tiêu chuẩn mà thế gian áp đặt lên con. Có thể nói, sứ vụ thiêng liêng của con không phải là một tiêu chuẩn vỏ ngoài mà là một chuẩn mực nội tâm, trong khi tiêu chuẩn của xã hội thì rõ ràng đến từ ngoài.

Hầu hết mọi người đều từng trải nghiệm một số tình huống khi họ bị cảm xúc choáng ngợp đến độ họ không thể suy nghĩ tỉnh táo, rồi họ lấy những quyết định mà sau này họ hiểu ra là không tối ưu. Lý do là vì sự dính líu, sự dính mắc của con đối với tình huống đó đã dựng lên một bức màn che phủ tâm con và ngăn cản con suy nghĩ tỉnh táo. Y như thế, việc bước vào xác thân vật lý cũng giống như con bước ra đằng sau một bức màn vậy, khiến con không thể nhìn cuộc sống một cách khách quan và tỉnh táo như khi con còn ở ngoài thân xác. Điều ta muốn nói là vào lúc con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con, con không bị bức màn hiện thời của con che chắn.    

Chắc chắn việc sử dụng quyền tự quyết phải dựa trên nền tảng một viễn kiến tối ưu về mọi chọn lựa và mọi hậu quả có thể có. Vì vậy khi con thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã chọn lựa một cách tự do hơn so với ngay bây giờ, bởi vì giờ đây con bị che chắn phần nào bởi bức màn mà con đã dựng lên trong kiếp này. Khi nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con như có trong tay cái kim chỉ nam sẽ giúp con nhìn xa hơn những dính mắc tình cảm cùng kỳ vọng ngắn hạn, hầu con quyết định tốt hơn trong một viễn quan tổng thể rộng lớn. Ngược lại, nếu con chỉ hành xử theo ý thích nhất thời mà không suy xét đến hậu quả dài hạn, thì thật sự con không đang sử dụng quyền tự quyết của con, bởi vì nếu viễn kiến của con bị che lấp, làm sao con có thể thực sự tự quyết?

Nói vậy rồi thì ta cũng phải nói rõ rằng sứ vụ thiêng liêng KHÔNG PHẢI là cái áo tù bó chặt tay chân con. Đi theo sứ vụ thiêng liêng không có nghĩa là toàn bộ đời con được vạch sẵn trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Trái lại, mọi sự việc trong đời con đều xoay quanh quyền tự quyết của con, cho nên sứ vụ không được thảo ra để bảo con phải làm gì. Con chỉ có thể phát triển qua những quyết định mà con lấy, và toàn bộ mục đích của sứ vụ là đưa con vào một số tình huống sẽ giúp con lấy những quyết định tốt nhất, tức là những quyết định sẽ cho con quyền năng khắc phục những tin tưởng gây giới hạn của con để tự do biểu đạt tiềm năng vô biên của con trong một thế giới đầy hạn chế.    

Ở trung tâm sứ vụ thiêng liêng là những bài học mà con cần học trong kiếp này, là những bài học thích ứng với cả sứ mạng dài hạn khi con bước vào vũ trụ vật chất, lẫn sứ mạng ngắn hạn khi con vươn lên trên những hạn chế nhị nguyên mà con đã chấp nhận cho con. Mục đích tổng thể là giúp con đạt được tự do biểu đạt cá thể và tiềm năng thiêng liêng của con. Tuy nhiên để thực hiện điều này, con phải vượt qua các hạn chế hiện thời của con, và con sẽ chỉ làm được chuyện này khi con nhìn ra một cách ý thức rằng các hạn chế đó đều không thực, và con quyết định buông bỏ chúng.

Bất cứ hành giả tâm linh trung thực nào cũng biết là có một thế lực trong tâm lý mình luôn kháng cự lại tăng trưởng, kháng cự lại thay đổi – mà người ta thường gọi là tự ngã. Thế lực này sẽ tìm cách khiến con né tránh mọi công việc khó khăn, nó sẽ muốn con đi theo con đường trơn tuột, dễ dãi nhất. Con đường này ta từng gọi là con đường rộng dẫn đến hủy diệt, và đó không là con đường hẹp dẫn đến phát triển tâm linh. Cho nên khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã dự tính xu hướng này, kể cả những lần trong tiền kiếp con từng rơi vào bẫy của nó. Vì thế nhiều người thiết lập sứ vụ thiêng liêng của mình với ý định tự buộc mình phải kinh qua một số tình cảnh – và phải kinh đi kinh lại nhiều lần – hầu ép mình phải đối mặt với những bài học mà mình cần học.

Hiển nhiên những điều này sẽ không dễ chịu chút nào một khi con đầu thai trong thân xác và quên mất là chính mình đã mong muốn những hoàn cảnh khó khăn đó. Con sẽ thường tự hỏi tại sao con cứ thu hút cùng những vấn đề hoài hoài, và con sẽ có xu hướng tin theo tự ngã bảo rằng các vấn đề đó không phải là lỗi con, và con phải trốn né thay vì đương đầu và học bài học. Cho nên đúng là trong sứ vụ thiêng liêng của nhiều người có một yếu tố bó buộc, bởi vì khi con đứng cao hơn tấm màn của thế gian, con thừa biết rằng chuyện trốn chạy thật quá dễ dàng khi mình bị tấm màn che mắt. Tuy nhiên, một khi con đã hiểu được cốt lõi vấn đề, liệu con còn nói được là sứ vụ thiêng liêng đi ngược lại quyền tự quyết của con không? Hay là sứ vụ thiêng liêng thật ra đang cố ngăn con bị khuất phục bởi ý muốn nhất thời, nhị nguyên và ích kỷ của tự ngã?   

Vậy sứ vụ thiêng liêng gồm chứa những chi tiết gì? Đây là một chuyện rất cá nhân, nhưng đối với hầu hết mọi người, phần lớn sứ vụ là nhằm quân bình những nghiệp quả mà con mang với một số người. Cho nên sứ vụ nêu rõ con sẽ đầu thai với những ai trong gia đình, những ai làm phối ngẫu và những ai mà con sẽ gặp trong kiếp này. Nhưng con cần lưu ý, mục đích chủ yếu ở đây là cân bằng nghiệp quả, tức là trên hết con cần tha thứ hoàn toàn cho những người đó và thiết lập một mối quan hệ yêu thương. Nói cách khác, mục đích thực sự là bằng cách giải thoát người khác, chính con cũng sẽ tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc nghiệp tạo với họ.

Cho nên mục đích khi con gặp một người nào đó là để học hỏi một bài học và quân bình nghiệp quả với họ. Sứ vụ thiêng liêng không nhất thiết sẽ nói rõ con phải quân bình thế nào, phải có loại quan hệ nào với họ, hay liệu quan hệ đó có phải kéo dài suốt đời hay không. Chẳng hạn, điều rất thường xảy ra là khi hai người gặp nhau, sự ràng buộc nghiệp tạo mà họ có với nhau sẽ khiến họ bị thu hút mạnh mẽ – và điều này chỉ cho thấy cả hai đều mong muốn giải quyết nghiệp quả và được tự do. Nhưng nếu hai người đó khác giới tính – hay cùng giới tính trong thời buổi này –họ thường cho rằng lực hấp dẫn đó có nghĩa là họ phải có quan hệ tình dục với nhau.

Trong chiều dài lịch sử, chuyện này đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau khi nó tạo ra những mối quan hệ nơi cả hai người đều cảm thấy mình bị kẹt cứng. Nó cũng đã khiến cho vô số quan hệ bền vững bị đổ bể chỉ vì một bên cảm thấy mình phải chạy theo đối tượng cám dỗ nghiệp tạo mới nhất. Con có thấy chuyện gì xảy ra khi con người bị đui mù bởi tấm màn của hiện thân vật lý rồi cứ thế chạy theo những kỳ vọng phàm phu của mình và khởi sự những quan hệ mới trong khi mình có thể cân bằng nghiệp quả của mình một cách khác? Con có thấy là một số người cứ nhảy từ quan hệ này sang quan hệ kia mà không thực sự học được bài học mà đáng lý họ phải học? Trong mỗi quan hệ mới, họ cắm đầu đuổi theo giấc mộng quan hệ lý tưởng, nhưng thực tế là họ sẽ không bao giờ có được quan hệ lý tưởng khi nào họ chưa học được bài học mà họ cần học.  

Điều ta muốn nói ở đây là sứ vụ thiêng liêng của con có thể định rõ con sẽ gặp và quan hệ với ai đó để cân bằng nghiệp quả, nhưng sứ vụ có thể không nói rõ là con phải có quan hệ vật lý, tình dục với họ. Ngược lại là đằng khác, quan hệ tình dục nhiều khi lại khiến con gây thêm nghiệp quả, bởi vì ngay sau khi tuần trăng mật chấm dứt, nghiệp quả cũ sẽ khiến cho cả hai người khó lòng thuận hòa với nhau trong một quan hệ truyền thống. Rất có thể cả hai sẽ cảm thấy mình bị kẹt cứng rồi đổ lỗi cho nhau, và điều này đi ngược lại đòi hỏi là phải tha thứ và giải phóng cho nhau. Và như vậy, một quan hệ được dự định là sẽ giải phóng cả hai bỗng nhiên trở thành một sợi dây buộc cả hai lại chặt hơn nữa.

Đương nhiên là giữa con người với nhau có rất nhiều hình thức quan hệ khác nhau, và có khi con sẽ cần kết hôn với một ai đó để cân bằng nghiệp quả với họ – bởi vì trong một mối quan hệ cam kết với nhau, con sẽ khó lòng hơn trốn chạy bài học của con. Tuy nhiên, ta muốn đưa ra hai điểm này cho con suy ngẫm:

  • Trong sứ vụ thiêng liêng luôn luôn có chỗ để con chọn lựa. Con có thể mang nghiệp với một người nào đó nhưng thường con sẽ có nhiều cách để cân bằng nghiệp quả với họ. Thật sự là nếu ngay khi gặp họ mà con tha thứ một cách toàn diện, thì rất có thể con sẽ không cần tiếp tục quan hệ với họ nữa.
  • Bằng cách bước ra khỏi các kỳ vọng thế phàm của con – là tấm màn đang che mắt con – và kết nối lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ có được một tầm nhìn sáng rõ hơn sẽ giúp con tránh được rất nhiều lỗi lầm trong thế giới vật lý. Con có thể tránh một số hành vi mang nặng hậu quả vật lý, và thay vào đó, con học bài học và cân bằng nghiệp quả trước khi nghiệp chướng thị hiện qua hình thức một tình huống vật lý mà con sẽ khó lật ngược hơn nếu nó đã lỡ thị hiện. Và con sẽ tránh được chuyện phải kinh đi kinh lại cùng một vấn đề hoài hoài.    

Một cách thiết thực để tránh lao vào những tình huống mà người khôn ngoan sẽ tránh như đỉa, là học được thói quen lùi lại một bước trước khi lấy những quyết định quan trọng. Con hãy xem xét những dính mắc của con đối với một tình thế nào đó – liệu con có cảm thấy mình bị thôi thúc giống như mình bị bó buộc phải làm một điều gì, như mình không có chọn lựa nào khác? Thường là sau khi phạm lỗi lầm to lớn, người ta hay thốt lên: “Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác!” Sự thật là con LUÔN LUÔN có nhiều hơn là một chọn lựa, nhưng vì con đã cho phép tình thế choáng ngợp con, con chỉ thấy được một chọn lựa mà thôi.

Bằng cách lùi lại một bước trước tình huống trong ý thức và nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ tránh được hình thức mù quáng tâm linh đó. Chỉ khi nào con thấy rõ là con có nhiều hơn một chọn lựa thì con mới có thể chọn lựa tự do. Con KHÔNG THỂ chọn lựa tự do nếu con nghĩ con chỉ có một chọn lựa duy nhất.

Thật ra nếu con khôn ngoan, con sẽ không bao giờ bước vào một mối quan hệ mật thiết mà không thỉnh cầu trước tiên cho mọi nghiệp chướng được cân bằng và hết sức cố gắng vượt qua mọi dính mắc ràng buộc mà con cảm nhận được. Nếu con cảm thấy không sẵn lòng từ bỏ một mối quan hệ, thì đây là dấu hiệu chắc chắn cho thấy còn có điều gì đó chưa được giải quyết, và nếu con cứ bước tới mà không giải quyết nó thì rất có thể nó sẽ phá hỏng mối quan hệ của con. Người nào tìm cách cứu lấy đời mình sẽ đánh mất nó, nhưng người nào sẵn lòng từ bỏ đời mình để đổi lấy sự tăng trưởng sẽ tìm được một sự sống cao hơn.

Thật ra, chuyện xảy ra rất thường là một mối quan hệ nghiệp tạo có thể ngăn con gặp được người mà con có thể có quan hệ sâu xa hơn. Nhiều người đã chiêm nghiệm chuyện này: khi họ từ bỏ một quan hệ nghiệp tạo – bằng cách hoàn toàn tha thứ cho người kia – thì cơ hội sẽ mở ra để họ tìm được một mối quan hệ tâm linh hơn, sâu sắc hơn. Tất nhiên, điều này không chỉ áp dụng cho các mối quan hệ, bởi vì khi con sẵn sàng buông bỏ bất cứ dính mắc nào với một loại hoàn cảnh nào đó, thì rất thường khi con sẽ mở cửa cho một tình huống tốt đẹp hơn thị hiện. 

Sứ vụ thiêng liêng của con gồm có hai yếu tố chính. Một là những công việc cần phải thực hiện, cụ thể là cân bằng nghiệp quả từ những kiếp trước, và hai là phần hứng thú của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh, là những việc làm, là món quà mà con muốn dâng hiến cho thế gian này. Nhiều người tâm linh cố tình đương đầu với các thử thách nghiệp quả của mình thật sớm trong đời mình, rồi họ cố trả cho xong để được tự do bắt tay vào phần vụ thần thánh của mình, là phần việc sẽ chỉ được mở khóa khi nghiệp quả được cân bằng.  

Vấn đề, dĩ nhiên, là rất nhiều người bị kẹt lại trong phần quan hệ nghiệp tạo – nghĩa là họ gây thêm nghiệp thay vì cân bằng nghiệp – và vì vậy họ không bao giờ tới được giai đọan đóng góp thần thánh. Con có khả năng gia tốc rất mạnh tiến trình trả quả của con bằng cách áp dụng điều ta dạy ở đây, đặc biệt là sự tha thứ đối với tất cả những ai mà con cảm thấy có dây buộc nghiệp quả, tức là tất cả những ai mà con có mối quan hệ không mấy hài hòa. Con hãy tiếp cận mỗi mối quan hệ với thái độ là nó chỉ nhằm giúp con – lẫn người kia – được giải phóng khỏi dây nghiệp hầu cả hai có thể bước tới trong cuộc đời. Và con hãy đừng bao giờ quan tâm nếu người kia không đáp ứng tương tự đối với con. Bởi vì nếu con đã thực sự tha thứ cho họ – nếu con thực sự chìa má kia cho họ – thì con sẽ được giải thoát khỏi quan hệ nghiệp tạo cho dù người kia vẫn khăng khăng bám lấy.  

Con có thể nhanh chóng học cách nhận diện những tình huống gò bó, thiếu tự do khi con muốn đi theo sứ vụ thiêng liêng, và dấu hiệu rõ nhất là khi con cảm thấy căng thẳng và dính mắc. Và mặc dù những dính mắc này luôn luôn đến từ tự ngã, nếu con tự xét trung thực thì con sẽ nhận ra là dính mắc chỉ có quyền năng trên con bởi vì cái Ta Biết của con đã không sẵn sàng nhận trách nhiệm trọn vẹn về đời con. Con cần nhận ra là một mục đích chủ yếu của sứ vụ thiêng liêng là giải phóng con khỏi sự kiểm soát của tự ngã cũng như các thế lực của thế gian. Cho nên tất nhiên, tự ngã sẽ không muốn con phát hiện sứ vụ thiêng liêng của con, và nó tìm đủ mọi cách khôn khéo để cố tránh né chuyện đó. Và đây là những mánh lới thông thường nhất mà nó dùng:

  • Tự ngã cố khiến con bị dính chặt vào các kỳ vọng đời sống mà con đã dựng lên trong kiếp này, hầu con để cho kỳ vọng đó phản lệnh sứ vụ thiêng liêng của con. Có vô số cách để nó ngụy trang mánh này, chẳng hạn khi nó bảo con phải sống đời con theo tiêu chuẩn của gia đình và xã hội.
  • Tự ngã cố khiến con chấp nhận một loạt những hạn chế về những gì mà con người có thể làm, mà qua đó con phủ nhận con là một sinh thể tâm linh. Con phủ nhận con có tiềm năng vươn lên khỏi nghiệp quả cùng các vấn đề tâm lý hầu thể hiện tiềm năng Ki-tô của con.
  • Tự ngã cố khiến con bị vướng mắc vào quan hệ nghiệp tạo đến độ con không thể tha thứ cho người khác hầu con được tự do bước tới và khởi sự phần vụ thần thánh của con.
  • Tự ngã cố khiến con tin rằng các quan hệ khó khăn của con đều do lỗi của người khác, hầu nó có thể ngăn con học được bài học mà CON cần học.
  • Tự ngã cố đánh lạc hướng sự chú ý của con để con đeo đuổi những chuyện của thế gian và không còn thì giờ và chú ý để ngó tới sứ vụ thiêng liêng của con.

Bây giờ chúng ta đã thấy được hai điểm chính đang ngăn chặn con khám phá và đi theo sứ vụ thiêng liêng:

  • Nghiệp quả từ tiền kiếp,
  • Các vấn đề tâm lý chưa giải quyết khiến con cảm thấy dính mắc.

Điều đó có khả năng biến cuộc đời của con – cũng như nhiều kiếp sống sắp tới – thành một cái máy chạy bộ trên đó con sẽ chạy hoài mà không tới đích, và con sẽ không bao giờ khởi sự thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con. Để phá vỡ chu kỳ này, con hãy làm như sau:  

  • Hãy nhìn trung thực vào đời con và xem xét những vấn đề mà con cứ gặp đi gặp lại hoài hoài. Hãy sẵn sàng nhìn nhận là các vấn đề này đang che giấu một bài học mà con chưa học. Xong hãy quyết tâm học bài học đó.
  • Học một bài học thường có nghĩa là phát hiện một vấn đề tâm lý đang kềm giữ con lại. Vấn đề đó chưa giải quyết vì cho tới giờ con không sẵn lòng xem xét nó. Cho nên hãy xem xét nó ngay bây giờ và làm mọi điều cần thiết để vượt qua, kể cả những hình thức trị liệu thích hợp.
  • Hãy xem xét các niềm hy vọng và giấc mơ cao nhất của con, rồi lượng định xem những giới hạn đang gò bó con trong kiếp này đã khiến con bác bỏ những giấc mơ đó như thế nào, có khi trước cả khi con dám nghĩ tới chúng. Con hãy cả gan vượt qua các giới hạn đó và kết nối với giấc mơ cao nhất của con.
  • Hãy quyết tâm sử dụng ngọn lửa tím cùng các bài thỉnh và bài nguyện tràng hạt để thiêu hủy mọi nghiệp quả liên quan đến những tình cảnh cụ thể hay đời con nói chung.
  • Lùi lại và tìm kiếm tầm nhìn cao hơn vượt lên trên mọi dính mắc. Hãy sẵn sàng nhìn vào những gì tự ngã con không muốn con nhìn và những gì chính con cũng không sẵn sàng nhìn. Hãy sẵn sàng nhìn thấy một điều gì đó cho dù nó đòi hỏi con phải thay đổi đáng kể trong lối sống hay cách nhìn của con về cuộc đời. Con có thể sử dụng kỹ thật hoà điệu của ta để có được viễn kiến sáng rõ hơn.

Có thể nói, đời con có hai giai đoạn riêng biệt. Một giai đoạn là cân bằng nghiệp quả, và điều này đòi hỏi con phải sống một cách nào đó – một cách sống chịu ảnh hưởng nặng nề của những tiêu chuẩn trong gia đình lẫn xã hội bởi vì con đã đầu thai trong hoàn cảnh đó do nghiệp quả của con. Một khi con đã đi muốt phần nghiệp chướng nói trên, con mới có thể khởi sự giai đoạn hứng thú hơn của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, con thường phải kinh qua một sự chuyển vọt ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống cũng như lối sống vật lý. Và nếu con còn dính mắc bất kỳ điều kiện nào của giai đoạn trước, thì con sẽ đơn giản không sẵn lòng thay đổi, và như thế tâm ý thức của con sẽ ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng khỏi tầm nhìn của con.

Để tránh cái bẫy này, con cần đánh giá lại cuộc đời con và nỗ lực nhìn xa hơn mọi dính mắc. Một khi con lùi lại một bước để mở rộng tầm nhìn, con sẽ thấy tầm nhìn của con về đời sống cũng như về một hoàn cảnh nào đó thay đổi như trong phép lạ. Đám mây mù bỗng nhiên chẻ đôi ra và con nhìn thấy rõ hơn. Thường khi, cái mà trước kia con tưởng là chọn lựa duy nhất bây giờ hiện ra là chọn lựa dở nhất trong hoàn cảnh đó. Và những chọn lựa mới mà bây giờ con thấy được đều dẫn đến kết quả tốt đẹp hơn. Hoặc nữa, con thấy cái mà con tưởng là cách sống duy nhất thật ra không thể đem lại cho con sự tràn đầy mà con thực sự mong muốn. Bây giờ con thấy được nhiều cách khác để đạt sự tràn đầy đó, và do đó con sẵn lòng thay đổi lối sống trong chiều hướng đó.      

Nếu con muốn có những chọn lựa tốt nhất cho đời con, con hãy luôn luôn tìm cách nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con. Hãy chắc chắn rằng con không bị kẹt lại trong giai đoạn “công việc” của sứ vụ thiêng liêng để rồi không bao giờ vào được giai đoạn hứng thú nhất. Sứ vụ thiêng liêng quả thực là người bạn tốt nhất của con, là kim chỉ nam tốt nhất để con tận dụng tối đa kiếp đầu thai này. Và khi nào con còn coi sứ vụ thiêng liêng là một chuyện ép buộc từ một thế lực ở ngoài thì con vẫn chưa thực sự kết nối với nó. Cho nên con hãy lùi lại một bước và nhìn lại một lần nữa – con hãy gõ cửa mà không dính mắc thì cánh cửa sẽ mở ra cho con.

Ghi chú: Sách của Mẹ Mary và quyển sách về sứ vụ thiêng liêng (Fulfilling your Divine Plan) chứa đựng rất nhiều lời dạy về sứ vụ thiêng liêng. Con cũng có thể thực hiện tuần cầu nguyện chín ngày với Đại Chỉ đạo Thiêng liêng để có viễn kiến rõ hơn về sứ vụ thiêng liêng của mình.

Lựa chọn không tạo ra thực tại thay thế

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con chỉ tò mò không biết có hay không những thực tại thay thế (alternative realitites)? Chẳng hạn, con hiện đang làm việc như một nhân viên an ninh, nhưng trong một thực tại thay thế, con có thể là tổng thống. Những thực tại này có thật hay không? Nếu thực tại thay thế có thật, vậy con thực là cái nào? Trong mỗi thực tại thay thế, liệu con có một dòng sống khác, hay là có một dòng sống khác đang sống cuộc đời với tư cách là con?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tất cả tùy thuộc vào con định nghĩa thực tại thay thế là thế nào. Nếu con định nghĩa giống như trong phim hay trong truyện khoa học giả tưởng, câu trả lời sẽ là: nó không có thật. Ngay cả giả thuyết mà một số nhà vật lý lượng tử đưa ra về thực tại thay thế cũng không chính xác. Nói cách khác, nếu con ở trong một tình huống với 10 lựa chọn khác nhau và tình huống này tạo ra 10 thực tại thay thế trong đó có con – hay một hình thức nào đó của con – hiện hữu trong mỗi thực tại, thì điều này cũng không đúng.  

Con thử tưởng tượng trên địa cầu có bao nhiêu người, mỗi người có bao nhiêu lựa chọn mỗi ngày và có bao nhiêu thực tại thay thế được tạo ra chỉ trong một ngày? Mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều có hạn. Một dòng sống được tạo ra với một tâm thức và sự chú ý có hạn. Nếu thực tại thay thế có thực, mỗi thực tại sẽ phải chứa một phần tâm thức và một phần chú ý của con, có nghĩa là dòng sống của con sẽ nhanh chóng hao tổn chất sống đến độ nó sẽ mất hết ý thức bản sắc lẫn cá thể.

Như ngành vật lý lượng tử giải thích, trước khi một nhà khoa học thực hiện một cuộc quan sát, một hạt hạ nguyên tử hiện hữu trong cõi xác suất. Có thể có rất nhiều xác suất khác nhau, thế nhưng khi ông ta thực hiện quan sát, chỉ có một xác suất trở thành hiện thực mà ông nhận biết là một hạ nguyên tử. Ở điểm này, tất cả các xác suất khác đều biến mất (sóng lượng tử co sụp) và thế gian chuyển sang một trạng thái mới. Bây giờ vẫn có một cõi xác suất, tuy nhiên cõi này không còn chứa những xác suất cũ nữa. Thay vào đó có một bộ xác suất mới dựa trên những thay đổi mà cuộc quan sát đã tạo ra.

Một điều rất tương tự như vậy cũng xảy ra trong hoàn cảnh đời sống hàng ngày khi con chọn lựa. Trong một tình huống nào đó, con có thể có 10 lựa chọn mà con có thể chọn. Nhưng khi con chọn rồi, chỉ có một trong số 10 cái đó mới trở thành thực tại được hiển thị, và những chọn lựa kia không còn nữa. Con nay đã tạo ra một hoàn cảnh mới với một số chọn lựa mới mở ra cho con.

Con có thể hiểu điều này khi con suy ngẫm về tầm quan trọng của quyền tự quyết. Con ở trên địa cầu để học hỏi và con học hỏi bằng cách chọn lựa rồi gặt hái hậu quả của những chọn lựa đó. Một trong những hậu quả là nếu chọn lựa của con không phù hợp với quy luật của Thượng đế, con sẽ khiến cho chọn lựa tương lai của con bị hạn hẹp lại. Nếu mà như con nói, tất cả mọi chọn lựa đều tạo ra những thực tại thay thế, thì một chọn lựa sẽ không làm những cái kia biến mất, vậy làm sao dòng sống của con học hỏi được gì?

Sự thật đơn giản là chỉ có một người duy nhất là con, có nghĩa là chỉ có một sinh thể tự nhận biết duy nhất với ý niệm bản sắc đặc biệt mà con đang có ngay lúc này. Đúng là con là nhiều hơn những gì con đang trải nghiệm trong nhận biết ý thức, tuy nhiên cái nhiều-hơn đó không hiện hữu trong một loại thực tại thay thế được mô tả trong phim viễn tưởng. 

Cái nhiều-hơn đó hiện hữu trong một cõi khác, như ta đã giải thích trước đây. Cái Ta Biết của con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện này cư ngụ trong cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ cũng chính là con, mặc dù trong lúc này con có thể xem mình là cái gì khác hay tách rời khỏi Hiện diện. Dù sao đi nữa, một phần lớn của con đang hiện hữu nơi cõi tâm linh cùng một lúc với cái Ta Biết đang cư ngụ trong thể xác vật lý của con.  

Điều có thể xảy ra là Hiện diện TA LÀ của con có một số cái Ta Biết đang đầu thai cùng một lúc trên địa cầu. Có những cái Ta Biết khác có thể đang hiện thân ở những nơi khác trong vũ trụ vật chất. Vậy trong cái nhìn này, có thể nói là có những phần khác của “bản thân lớn” của con đang hiện hữu trong những thực tại thay thế. Tuy nhiên, những phần khác này là những dòng sống độc lập, và chúng mang những ý niệm bản sắc riêng biệt. Và con thì không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những chọn lựa của chúng trong thế gian này.   

Sự thật căn bản là con chỉ có một, tức là chỉ có một sinh thể với một ý niệm bản sắc đặc biệt của con. Con có khả năng mở rộng ý niệm bản sắc này và kết hợp với phần cao thượng của bản thân con, và điều này sẽ thay đổi lớn lao cách con nhìn chính con. Nhưng trong hiện tại và ở ngay đây, con thực sự là con người mà con nghĩ con là – con là con người mà con xem con là.   

Lệ thuộc vào một vị thày tâm linh

Hỏi: Con nghe có người đồng bóng kia bảo rằng học trò tâm linh không nên bước vào một quan hệ thày/đệ tử bởi vì đệ tử sẽ bị lệ thuộc vào thày. Xin thày cho biết ý kiến?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Về vấn đề con không nên bước vào một mối quan hệ thày/đệ tử, ý tưởng đó cũng có phần giá trị bởi vì một số học trò có thể trở nên lệ thuộc vào vị thày, và ngược lại. Trong cõi vật lý, bất cứ gì cũng là con dao hai lưỡi. Như Thánh kinh được trao cho con người để làm phương tiện phát triển tâm linh, thế nhưng hàng triệu người lại bám chặt vào một cách diễn giải nhất định khiến cho sự phát triển của họ bị chậm lại hay bị thui chột. Điều không thể tránh khỏi trong cuộc đời là ngay cả các dụng cụ mà các chân sư thăng thiên ban cho con làm phương tiện giải thoát, cũng có tiềm năng trở thành một ngõ cụt nơi con bị kẹt lại ở một mức nào đó thay vì tiến bước kế tiếp trên đường tu.

Nhiều học trò trở thành lệ thuộc vào vị đạo sư của mình. Điều này không bao giờ đem lại kết quả. Tuy nhiên, nếu đệ tử có được một đạo sư chân chính, đạo sư đó sẽ luôn luôn tìm cách giúp đệ tử vượt khỏi mối lệ thuộc. Cho nên ta không đồng ý với lời nhận định chung chung rằng con không bao giờ nên bước vào một quan hệ thày/đệ tử. Sự kiện một dụng cụ có thể bị lạm dụng không có nghĩa là con phải vứt bò dụng cụ đó.

Con hãy tưởng tượng có chiếc máy bay trực thăng bay đến để cấp cứu con. Chiếc trực thăng đã đáp xuống mái một toà cao ốc ở gần đó. Tuy nhiên để lên được mái nhà, con phải leo hết cái cầu thang. Mặc dù đúng là con không được lệ thuộc vào cầu thang, nhưng cũng đúng không kém là nếu con không leo cầu thang thì con sẽ không thể lên được mái nhà và được cấp cứu. Quan hệ đạo sư/đệ tử quả thực là một cách khả thi để đạt được phát triển tâm linh nhanh chóng, và rất nhiều người sẽ khó lòng đạt được mức tinh tấn đó nếu họ không có một vị thày bên ngoài hay một vị thày nội tâm.        

Chìa khoá cho vấn đề lệ thuộc là cần nhận ra rằng vị thày bên ngoài chỉ đơn giản là một phương tiện sẽ giúp con thiết lập mối liên hệ ý thức với vị thày bên trong, tức cái ta Ki-tô của con.

Hồn là vật chất hay tâm linh, hay cả hai?

Hỏi: Liệu hồn (soul, linh hồn hay tâm hồn) là vật chất, tâm linh, hay cả hai? Hồn bao gồm năng lượng hay vật chất? Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương. Thế nào là cách hay nhất để giao tiếp với hồn? Xin thày giải nghĩa sự khác biệt giữa linh hồn và Tánh linh? Nhiều người có vẻ lẫn lộn cái này với cái kia, hoặc họ nghĩ cả hai chỉ là cùng một thứ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nhìn vào lịch sử loài người, con sẽ thấy một chuỗi dài những xung đột gần như bất tận. Nếu con nhìn kỹ hơn vào các xung đột, con sẽ thấy rất nhiều những xung đột đó bắt nguồn từ những cách hiểu khác nhau về ngôn từ.  

Khi con phối hợp nhận xét đó với các giáo lý của chân sư về tâm thức nhị nguyên, con sẽ hiểu ra là tâm thức này dẫn đến hệ quả là người ta tưởng mình là những thượng đế có khả năng định đoạt cái gì đúng, cái gì sai. Nói cách khác, tâm thức nhị nguyên khiến mỗi người diễn giải ngôn từ theo cách của mình, Và họ cũng tin rằng cách diễn giải của họ là cách đúng duy nhất và mọi cách hiểu khác đều sai. Sự thể này gây ra hiện tượng mà ta gọi là tư duy bi kịch cuồng đại.

Tâm thức đó đem tới hệ quả là một số từ ngữ, với thời gian, đã trở thành gần như vô dụng cho vị thày tâm linh nào muốn sử dụng. Lý do là vì mỗi người gán cho từ ngữ những ý nghĩa khác nhau, và cuối cùng thì mọi người chỉ còn mức tranh cãi xem ai đúng ai sai. Do đó, thay vì lắng nghe một giáo lý cao hơn, họ chỉ lo bênh vực cho giáo lý họ, cho cách dùng từ của giáo lý họ. Và họ bị lôi cuốn vào vòng tranh luận về chữ nghĩa thay vì tìm sự chiêm nghiệm nội tâm vượt khỏi mọi chữ nghĩa. 

Con nhận xét thấy một số giáo lý tâm linh định nghĩa linh hồn một cách thế này trong khi một số khác định nghĩa thế khác. Một số giáo lý dùng từ “linh hồn” mà không có định nghĩa gì cụ thể vì họ cho rằng ai ai cũng đã biết linh hồn là gì rồi. Đó là lý do chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã quyết định đưa ra những giáo lý rõ ràng hơn về những thành phần mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn. Mục đích của chúng tôi không phải để quy cho mọi giáo lý khác là sai, mà để đưa ra một cách hiểu chi tiết hơn về các thành phần của cái ta, hầu các hành giả tầm đạo có thể vượt lên trên những cách diễn giải khác biệt về từ “linh hồn”.

Chúng tôi nay giảng dạy là cốt lõi của con người là cái Ta Biết. Như con có thể thấy qua cách trình bày này, cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Vì vậy, nó là tâm linh chứ không hề là vật lý. Cái Ta Biết có thể đi xuống vũ trụ vật chất, nhưng bất kỳ năng lượng nào của cõi này cũng không thể biến đổi nó được. Lý do là vì nó được cấu tạo bằng tâm thức chứ không bằng năng lượng. Như ta đã giải thích trong một câu trả lời khác, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng nhưng được sinh tạo BỞI tâm thức. Cái Ta Biết có khả năng hình thành một hình tư tưởng, phóng chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, khiến cho ánh sáng khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Như ta cũng giải thích trong một giải đáp khác, khi cái Ta Biết đồng sáng tạo như vậy, nó có thể mang bản sắc một sinh thể nối kết, hay nó có thể tự xem nó là một sinh thể tách biệt. Nếu nó đồng sáng tạo với cảm nhận tách biệt, những hình tư tưởng và năng lượng thấp kém mà nó tạo ra sẽ không thể đi lên cõi tâm linh. Vì thế chúng sẽ tích tụ lại trong cái ta thấp, hay phàm ngã, và phàm ngã này với thời gian có thể trở thành một ý thức bản ngã vô cùng tinh xảo và mạnh mẽ. Nếu cái Ta Biết tự đồng hóa với ngã tách biệt mà nó đã tạo ra, nó sẽ không thể buông ngã ra khi xác thân vật lý qua đời. Và như vậy, việc tái đầu thai sẽ trở thành chuyện bắt buộc, vì với đầu thai, cái Ta Biết sẽ có thêm một cơ hội để tự tháo gỡ khỏi ngã tách biệt và đạt được tâm thức Ki-tô – và trong tâm thức Ki-tô đó, nó sẽ tự thấy nó đúng là một phần nối dài của Bản thể Thượng đế. 

Vậy khi con nhìn vào một dòng sống đang đầu thai, con sẽ thấy một tổng hợp của cái Ta Biết với ngã tách biệt. Quả là tổng hợp này sẽ đi xuống xác thân vật lý từ một cõi có rung động cao hơn cõi vật chất. Và đó là tại sao một số giáo lý nói rằng cái đang đầu thai chính là linh hồn, và bởi vì nó đã đi xuống xác thân vật lý từ một cõi cao hơn, họ cho rằng nó xuống từ cõi tâm linh và như thế linh hồn phải được sinh tạo nơi cõi tâm linh.

Con có thể hiểu sâu hơn về điều này bằng cách phối hợp với giáo lý của các chân sư về bốn tầng của cõi vật chất. Điều con hiểu ra bây giờ là cái Ta Biết đi xuống từ Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Cái Ta Biết tạo ra, hay khoác lên, một ngã tách biệt trong cõi bản sắc, rồi nó tạo ra những hình tư tưởng dựa trên ngã này trong cõi lý trí và phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua cõi cảm xúc. Do đó, ngã tách biệt hoàn toàn không tâm linh vì nó đã được tạo dựng trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm.

Vậy khi xác thân vật lý chết đi, ngã tách biệt hiển nhiên không thể đi lên cõi tâm linh vì nó đã được cấu tạo bằng năng lượng của các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc. Và khi cái Ta Biết đồng hóa hoàn toàn với ngã tách biệt, chính nó cũng sẽ không thể vượt lên cao hơn, có nghĩa là giữa hai kiếp hiện thân, cái Ta Biết sẽ “cư ngụ ” – tức là sẽ tập trung khả năng tự nhận biết của nó – ở một trong ba thể phàm nói trên. Vì thế, cái mà con thấy đi xuống đã không đi xuống từ cõi tâm linh – trừ khi con định nghĩa “cõi tâm linh” là bất cứ gì vượt trên cõi vật lý và con không nhận diện rõ ràng ba cõi bản sắc, lý trí với xúc cảm. 

Cho nên con có thấy điểm tổng quát mà ta muốn nói? Phần lớn sự lầm lẫn về linh hồn khởi lên từ sự kiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau, hay không có định nghĩa nào rõ ràng, về linh hồn. Nếu con nói rằng linh hồn được tạo ra nơi cõi tâm linh và vì thế nó là Tánh linh, thì lẽ ra linh hồn phải có thể thăng thiên, và sự đầu thai phải không cần thiết. Và nếu con nói rằng linh hồn là vật lý, thì làm thế nào nó có thể thượng thăng lên cõi tâm linh?

Chúng tôi là các chân sư thăng thiên mong muốn đưa ra một cái nhìn chính xác hơn, đó là: cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn được cấu tạo bởi những thành phần khác nhau – trong đó một số là tâm linh, và một số thì cư ngụ nơi các tầng khác nhau của cõi vật chất. Một khi con hiểu điều này, con sẽ tránh khỏi lẫn lộn.

Vậy dựa trên những điều ta vừa nói, chúng ta có thể thấy cái phần thấp kém của dòng sống của con có mấy tầng lớp. Ở mỗi tầng lớp, con có thể tích tụ một số tin tưởng cùng tâm ảnh dựa trên ý thức tách biệt. Sự tích tụ này đã tiếp diễn từ nhiều tiền kiếp khi con phải phản ứng lại các điều kiện mà con gặp trên địa cầu. Và bởi vì hành tinh này đã bị tác động sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên cũng như các sa nhân đã đầu thai ở đây, có thể con đã bị tổn thương trầm trọng, bị chấn thương trong tiền kiếp. Cho nên con có thể mang theo nhiều năng lượng tha hóa và nhiều tin tưởng gây giới hạn được tích lũy trong bốn “thể” phàm của con.

Hầu cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi phàm ngã – tức là nó ngưng tự đồng hoá với phàm ngã – nó sẽ phải biến hóa các năng lượng thấp và thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Những tâm ảnh và tin tưởng này đều là ảo tưởng, và hầu cái Ta Biết tự giải phóng khỏi chúng, nó sẽ phải ý thức về chúng và lấy quyết định loại bỏ và thay thế chúng bằng những hình ảnh xuất phát từ phân biện Ki-tô. Tuy nhiên, thường thường con sẽ phải khởi đầu bằng cách giảm thiểu khối năng lượng tha hóa, vì chính năng lượng này sẽ gây ra nhiều đau đớn tình cảm đến độ con sẽ không thể phơi bày các tin tưởng nằm bên dưới. Trong trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt, chúng tôi có giải thich điểm này chi tiết hơn và cũng cung cấp những dụng cụ thực tiễn.

Tiến trình mà qua đó cái Ta Biết ý thức được nội dung của tâm tiềm thức (các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc) có thể được xem là một tiến trình của chính con đang giao tiếp với linh hồn.

Có nhiều cách để biến tiềm thức trở thành ý thức, chẳng hạn như thiền định hay ghi nhật ký. Con có thể sử dụng một vài kỹ thuật điều trị tâm lý, và trong số này có một kỹ thuật gọi là “làm việc với đứa bé bên trong”. Một số khác là liệu pháp Gestalt hay liệu pháp EMDR. Kỹ thuật của ta nhằm hòa điệu nội tâm có thể được dùng để giao tiếp với linh hồn. Giản dị, con hãy tưởng tượng con đang sử dụng chính ta hay cái ta Ki-tô của con để làm sợi dây giao tiếp với linh hồn của con, xong con ghi xuống những ý tưởng đến với con trong lúc thiền tập.

Bây giờ ta xem đến câu hỏi này của con: 

“Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương.”

Như ta đã trình bày, con có bốn “thể” phàm hay bốn tầng lớp của tâm. Chúng tạo thành trường năng lượng của con, thường gọi là hào quang. Ta cũng biết là nhiều người tin rằng hào quang bao quanh xác thân vật lý, và có cả những người tin rằng hào quang là do xác thân vật lý tạo ra, tương tự như từ trường do một thỏi nam châm vật lý sản xuất ra – họ tin như vậy một cách sai lầm. Khi con hiểu rõ giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy hào quang không phải do xác thân sản xuất, mà trái lại, trường năng lượng mới sản xuất ra xác thân. Xác thân vật lý chỉ đơn giản là khía cạnh dày đặc nhất của toàn bộ trường năng lượng của con.    

Hiểu vậy rồi thì con thấy rằng chuyện gán ghép linh hồn vào một nơi chỗ cụ thể nào đó trong cơ thể vật lý là hoàn toàn vô nghĩa. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” một cách nào đó thì tất nhiên, con sẽ có thể lý giải nó nằm ở đâu đó, nhưng điều ta muốn nói là không hề có một địa điểm vật lý nào là điểm đi vào hoặc điểm trụ neo giữa ba thể cao hơn của con và xác thân vật lý của con.  

Chúng tôi có giảng dạy về các luân xa, và tất cả bảy luân xa chính yếu đều là những tụ điểm nơi các thể cao hơn của con tương giao với xác thân vật lý của con. Chúng tôi dạy rằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đi vào trước hết một luân xa gọi là Mật thất của Tim, được cho là nằm ngay sau luân xa tim nhưng lại có độ rung cao hơn. Từ đó, năng lượng đi vào luân xa tim trước khi nó lan tỏa ra các luân xa khác.

Chúng tôi cũng có nói là luân xa thứ nhì từ dưới đi lên có tên là luân xa hồn, nhưng điều này không có nghĩa là tất cả bốn thể phàm của con đều neo trụ ở đây. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” theo một cách nào đó thì con sẽ bảo là linh hồn trụ nơi luân xa này.

Nhưng nếu con cố gắng vươn lên hiểu biết cao hơn, con sẽ thấy rằng tất cả mọi luân xa đều quan trọng cho sự biểu đạt sáng tạo của con trong thế giới vật chất. Mỗi luân xa có những chức năng khác nhau, và mỗi luân xa liên hệ đến những gì con có thể làm với cơ thể vật lý và tâm ý thức của con. Tâm phân tích đường thẳng ham chuộng chuyện phân chia mọi thứ ra thành từng loại riêng biệt, nhưng trên thực tế, tất cả đều chỉ là một, một tổng thể nối kết. Cho nên vừa rồi ta đã cố gắng đưa ra cho con một cái nhìn bớt đường thẳng, bớt phân rẽ và nối kết hơn về toàn bộ bản thể của con.

Loại bỏ cái ác khỏi địa cầu mà không giao chiến với nó

Hỏi: Giê-su Ki-tô yêu dấu, con hoàn toàn yêu thích tất cả những gì con đọc được trong sách của ông Kim cho tới nay, nhưng con có câu hỏi về cái ác. Trong quyển “Ki-tô sinh ra trong bạn” (The Christ is Born in You) trang 214, có viết rằng con người không thể loại bỏ cái ác khỏi địa cầu. Con hiểu được sự so sánh với một căn phòng nơi mình không thể loại bỏ bóng tối khỏi phòng mà chỉ có thể đem ánh sáng vào phòng (thật là chí lý). Tuy nhiên, không phải là một số phong trào tâm linh cũng nói một điều tương tự về cái ác hay sao? Hay là chúng con (những con người) không thể loại bỏ cái ác khỏi địa cầu, mà những bài chú và tâm thức nâng cao của chúng con sẽ đem lại ánh sáng cũng như cơ hội cho các chân sư loại bỏ cái ác khỏi cõi trung giới, và như vậy cũng loại bỏ khỏi cõi vật lý, để lại một khoảng trống mà chúng ta cần lấp đầy với ánh sáng?

Ngoài ra thày cũng có nói là không một hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra trên hành tinh này. Con thắc mắc về sự Sa ngã của Lucifer cùng những thiên thần khác đã hiện thân làm người. Không phải là họ có ý định ngăn cản những Đứa con của Thượng đế hoàn thành quả vị Ki-tô và đạt được hợp nhất với Hiện dịên TA LÀ của mình hay sao? Rồi âm mưu đánh phá, không những giới trẻ, mà mọi đứa con của Thượng đế, hình như là một chọn lựa ý thức để sử dụng quyền tự quyết hầu cố tình làm ác (tức là đi ngược lại quy luật của Thượng đế) chứ không nhất thiết là hành vi thiếu hiểu biết. Có vẻ là các Thiên thần Sa ngã đã biết rõ, và bây giờ vẫn biết, họ đang làm gì, và không phải sự vô minh do tâm nhị nguyên đã khiến họ hành xử như vậy. Hiển nhiên là sự suy luận của con có điều gì không đúng, bởi vì thày có nói là không một hành vi xấu ác nào đã xảy ra trên địa cầu. Vậy sự hiểu biết của con thiếu sót chỗ nào trong vấn đề này? Xin cảm ơn thày rất nhiều đã dành thì giờ để làm rõ điều này cho con, con thật biết ơn.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một trong những thông điệp chính trên trang mạng của ta là con người đã rơi vào một trạng thái tâm thức nơi họ nhìn mọi sự qua phin lọc của những đối cực tương đối. Một cặp đối cực đã khiến con người nhìn thực tại một cách méo mó là cặp đối cực thiện và ác.

Như đã giải thích ở nhiều nơi trên trang web này, có những tà lực đang tìm cách đánh lừa nhân loại. Một vũ khí chủ yếu mà tà lực sử dụng là tạo ra hai lực lượng  chống đối lẫn nhau, một tượng trưng cho cái thiện tương đối, và một tượng trưng cho cái ác tương đối. Rồi chúng tìm cách lừa gạt cho con người ủng hộ cái này hay cái kia.

Vì vậy mà con người đã cống hiến cả mạng sống lẫn sức lực của mình để chiến đấu cho những sự nghiệp không bao giờ là chính nghĩa của Thượng đế. Ngay từ buổi đầu đã có một sự nghiệp khởi lên từ hai đối cực tương đối là thiện và ác, và vì vậy không liên quan gì tới chính nghĩa của cái thiện tuyệt đối mà các chân sư thăng thiên theo đuổi.

Vấn đề con thấy suốt các thời đại là nhiều người tâm linh có thiện chí đã cho phép mình bị lôi cuốn vào cuộc xung đột giữa thiện tương đối và ác tương đối. Nhiều người vô cùng tha thiết phụng sự Thượng đế, và họ thấy trên hành tinh có một thế lực đang chống lại ý muốn Thượng đế. Họ suy ra rằng việc chiến đấu chống lại cái ác là một tiếng gọi cao thượng, thánh thiện, và khi làm vậy họ sẽ thăng tiến chính nghĩa của Thượng đế trên địa cầu. Vấn đề ở đây là họ dễ dàng bị đánh lừa khiến họ rơi vào hệ thuyết căn bản của tà lực, đó là: cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Những người này thường hay trở nên cuồng tín, họ phẫn nộ và thù ghét xấu ác. Khi làm vậy, họ khiến cho năng lượng của Thượng đế bị tha hóa. Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, các tà lực chỉ có thể sống sót khi chúng lừa gạt cho con người làm tha hóa năng lượng Thượng đế hầu chúng đánh cắp năng lượng đó. Cho nên ngay cả khi con người tưởng rằng mình đang chiến đấu cho chính nghĩa của cái thiện, thì sự tha hóa năng lượng đã thực sự hỗ trợ sự nghiệp của cái ác.

Ta mong rằng qua chuyện ngụ ngôn về việc loại bỏ bóng tối khỏi căn phòng, con người sẽ nhìn xuyên thấu sự lừa bịp này. Sự thật đơn giản là con người là nô lệ của sự chú tâm. Bất kỳ con chú tâm vào điều gì, điều đó sẽ nhận được dòng năng lượng xối qua tâm thức con. Ta không đang nói là con phải nhắm mắt bỏ qua cái ác. Điều ta muốn nói là nếu con tập trung sự chú tâm quá mức vào cái ác, đặc biệt là nếu con giận dữ hay sợ hãi, con đang làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và như vậy con củng cố cho chính những lực lượng mà con đang chiến đấu. Điều này cũng liên quan tới câu nói của ta là con phải khôn ngoan như rắn nhưng hiền lành như bồ câu.

Câu nói đó chỉ ra rằng con người không thể chiến đấu chống xấu ác mà không bị liên lụy vào xấu ác. Vì thế, con người không thể loại bỏ xấu ác khỏi địa cầu. Tuy nhiên, con người có thể ủy quyền cho các chân sư thăng thiên loại bỏ xấu ác. Chìa khóa để thực hiện điều này là con không bám mắc vào xấu ác, và đây là ý nghĩa thực sự của lời dạy về việc giơ má bên kia. Nếu có ai làm hại con và con đáp lại với những cảm xúc tiêu cực hay con tìm cách trả đòn, con sẽ tạo nghiệp chướng với người đó. Khi con chọn lựa như vậy, con khiến cho các chân sư bó tay, không thể nhập cuộc. Nhưng nếu con giữ cho tâm mình không bám mắc và giơ má bên kia, con cho phép chân sư đem lại sự phán xét trên người kia. Như vậy cuối cùng sẽ loại bỏ được bóng tối khỏi địa cầu, trong khi không một nỗ lực nào với cái tâm nhị nguyên sẽ loại bỏ được bóng tối mà sẽ chỉ tăng cường thêm bóng tối.

Một trong những cách hay nhất để trở thành hiền lành như bồ câu là nhận ra rằng cái mà người ta nhanh nhẩu gán cho là xấu ác, thật sự khởi lên từ vô minh. Một lần nữa, có sự khác biệt rất tinh tế ở đây. Một đằng, con nói khá đúng khi con bảo rằng có nhiều tà lực cũng như nhiều người đã cố tình nổi loạn chống lại quy luật và ý muốn của Thượng đế. Họ biết rõ họ đang vi phạm quy luật Thượng đế và họ cũng vi phạm luật tự quyết khi họ thao túng con người.   

Từ một góc độ nào đó, thật không sai khi gọi các hành vi này là xấu ác. Thật ra, ta cũng đã dùng thuật ngữ này ở một vài nơi trên trang web này. Dùng từ “xấu ác” không sai vì nó phản ánh một mức hiểu biết, một mức tâm thức nhất định. Nó cũng phản ánh sự kiện ngôn ngữ vốn là một phương tiện tương đối và do đó có thể mang nhiều ý nghĩa.

Tuy nhiên, có một cách hiểu vấn đề cao hơn. Khi Lucifer nổi loạn chống lại quy luật Thượng đế, hiển nhiên là y tự xem mình là đối nghịch của Thượng đế. Nói cách khác, y đã tạo ra một ý thức khoảng cách  giữa y và Thượng đế. Đây là định nghĩa cao nhất của vô minh. Vô minh là một trạng thái tâm thức nơi con không nhận ra rằng con đã được Thượng đế sinh tạo, sinh tạo từ bản chất, từ bản thể và từ tâm thức của Thượng đế.

Vô minh gây ra cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế, và ý thức tách biệt này luôn luôn là một ảo ảnh. Không có ngài thì không tạo vật nào được tạo ra. Không có gì được tạo ra mà tách biệt khỏi Thượng đế, và do đó, không một thành phần nào của Thượng đế có thể đứng riêng ra khỏi Thượng đế. Ý thức tách biệt là hình thức vô minh tối hậu.

Một khi con hiểu điều này, con nhìn ra là cuối cùng, ngay cả việc nổi loạn của Lucifer cũng khởi lên từ vô minh. Trong ý nghĩa tối hậu, vô minh không xấu ác. Đó là tại sao người ta có thể nói – mặc dù ta đồng ý đây là một câu nói khích đối với nhiều người – rằng không có hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra.  

Khi con ngộ ra rằng con là một với Thượng đế và mọi người khác cũng là một với Thượng đế, con thấy dù con có làm gì thì con cũng đang làm trên chính con. Nếu con nhận thấy một hành vi sẽ làm hại con, tự động con sẽ không làm điều đó. Vì vậy, nếu con thực sự thể nhập với thực tế rằng tất cả đều là Thượng đế, con sẽ không bao giờ làm bất cứ điều gì mà con người gọi là xấu ác. Không một sinh thể nào có thể cố tình làm hại chính mình. Cho nên việc làm hại mình, hay làm hại một thành phần của mình, chỉ có thể xảy ra trong vô minh. Nói cách khác, con không thể nào biết rõ sự thật của Thượng đế mà lại có hành vi xấu ác.   

Ta hiểu là những câu nói của ta trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong bạn” sẽ có vẻ khiêu khích đối với nhiều người. Ta nói ra những câu này với mục đích rõ ràng nhằm lay chuyển những định kiến của con người về xấu ác. Có thể nói, đáng lẽ ta nên đưa ra nhiều chi tiết hơn trong sách, nhưng một trong những kỹ thuật mà chúng tôi sử dụng là viết sách về một đề tài nào đó nhưng lại chèn vào một vài nhận xét đây đó để giúp cho những học trò bén nhậy bắt ý mà vượt ra ngoài chủ đề của sách. Nhận xét của ta rằng không một hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra trên địa cầu là một lời gợi ý loại đó, và sự kiện con đã bắt được cho thấy con là một học trò nhạy bén đã sẵn sàng hiểu sâu hơn.   

Như ta có nói trước đó, nhiều người bị lừa gạt vào cuộc chiến đấu cho một sự nghiệp mà họ tưởng là chính nghĩa của Thượng đế nhưng thật sự chỉ là sự nghiệp của những kẻ chống đối Thượng đế. Người ta thường xét đoán người khác một cách quá vội vã dựa trên một cái chuẩn vỏ ngoài. Trong nhiều trường hợp, chuẩn vỏ ngoài này khởi lên từ sự tương đối của tâm nhị nguyên, và do đó nó có thể khác xa, hay hoàn toàn đối nghịch, với chuẩn đích thực của tâm thức Ki-tô. Chỉ có tâm thức Ki-tô toàn vũ mới phán xét công minh. Tâm này không phán xét dựa trên dáng vẻ bề ngoài như con người còn kẹt trong tâm nhị nguyên tương đối vẫn làm.

Ki-tô không phán xét con người và gán cho họ là xấu hay ác. Tâm thức Ki-tô biết rõ mọi con người đều là con của Thượng đế và vì vậy đều có tiềm năng tìm lại bản sắc chân thực của mình. Một sinh thể Ki-tô hoá sẽ không bao giờ phán xét bất cứ ai. Con có thể phán xét một hành vì hay một quan điểm là nó thuộc về Thượng đế hay đối nghịch lại Thượng đế. Đó là phán xét công minh, khác hẳn với những định giá mà con người thường làm.

Để thực sự phụng sự chính nghĩa của ánh sáng, con phải vươn lên khỏi các phán xét tương đối phát xuất từ tâm nhị nguyên. Con làm vậy bằng cách trở nên khôn ngoan như rắn và hiền lành như bồ câu. Một dụng cụ hữu ích để vươn khỏi tâm nhị nguyên tương đối chính là giáo lý nói rằng mọi hành vi mà con người gọi là xấu ác đều khởi lên từ vô minh. Thật ra, rất nhiều hành vi mà con người gọi là tốt thiện cũng khởi lên từ vô minh.

Một lần nữa, chìa khóa cho tinh tấn tâm linh đích thực là vươn lên trên tâm nhị nguyên tương đối và thấy đước sự thật của tâm thức Ki-tô. Sự thật này sẽ không làm sao để vừa vào bất cứ cái hộp tư duy nào do con người tạo ra.  Trong nhiều trường hợp, sự thật của Ki-tô sẽ không để vừa trong hộp tư duy mang nhãn hiệu “ác” lẫn hộp tư duy mang nhãn hiệu “thiện”. Cho nên cách duy nhất để biết sự thật của Ki-tô là bước ra ngoài cái hộp!

Ghi chú: Bạn cũng có thể ủy quyền cho các chân sư thăng thiên loại bỏ cái ác bằng cách sử dụng các bài chú và bài thỉnh được đăng tải trên trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt.

Khái niệm “tánh không” và “vô ngã” trong đạo Phật

Hỏi: Xin thày giải thích ý nghĩa thực sự của các khái niệm trong Phật giáo về “tánh không” và “vô ngã”. Đó có thật là những điều đức Phật Gautama đã dạy?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Cả hai khái niệm mà con nói đến đã được khai triển sau khi đức Phật Gautama nhập diệt. Vì vậy không hoàn toàn chính xác là đức Phật đã giảng dạy những khái niệm này như được tìm thấy hiện nay trong rất nhiều giáo lý của đạo Phật. Tuy nhiên, đức Phật có giảng dạy những khái niệm tương tự như tánh không và vô ngã.

Như ta có trình bày suốt trang mạng này, vấn đề thực sự trên hành tinh địa cầu là con người đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con người bị rơi xuống tâm thức này vì đã ăn phải trái cấm, là biểu tượng cho một trạng thái tâm thức nơi tất cả đều có vẻ tương đối. Điển hình là khái niệm thiện và ác, có nghĩa là thiện và ác tương đối với nhau. Ở cốt lõi tâm thức này là cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn của mình, cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Chính cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn tâm linh của mình là nguyên nhân thực sự của mọi khổ đau. Khi dòng sống bắt đầu mất liên lạc với cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, nó đã phải dựng lên một loại ngã mới, một giả ngã, để lấp đầy khoảng trống vừa được tạo ra. Giả ngã này, thường được gọi là tự ngã hay tâm nhị nguyên, là nguyên nhân của mọi khổ đau mà dòng sống kinh nghiệm. Cũng chính cái ngã này đã làm nẩy sinh rất nhiều ý nghĩ và cảm xúc mâu thuẫn, phiền não, dẫn đến đau khổ cho dòng sống.  

Mục đích của đường tu tâm linh là vượt qua giả ngã hầu dòng sống có thể tự do hợp nhất với cái ta tâm linh. Và đây là ý nghĩa thực sự của khái niệm vô ngã. Khi dòng sống đạt được trạng thái tâm thức này, nó đã vượt qua và bỏ lại cái giả ngã đã khiến nó cảm thấy tách rời khỏi cội nguồn tâm linh của nó.  

Trong trạng thái tâm thức cao hơn này, dòng sống nhận ra là nó được cấu tạo bằng chất liệu cơ bản của Thượng đế, hoặc như đức Phật sẽ nói, tất cả đều là Phật tánh. Dòng sống nhận ra sự vô nghĩa khi nghĩ rằng mình có thể có sự hiện hữu, hay một ý thức bản ngã tách biệt khỏi nguồn cội tâm linh.    

Khi đó, dòng sống không còn ý thức bản sắc như bị tách rời khỏi nguồn cội, và đây là trạng thái vô ngã. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi ý thức cá thể (individuality) hay bản sắc (identity). Cá thể đích thực của dòng sống được trụ neo nơi cái ta tâm linh, và cá thể đích thực này sẽ không mất đi khi giả ngã được từ bỏ. Kỳ thực, chỉ sau khi dòng sống đã vượt qua tự ngã phàm nhân thì nó mới có thể bắt đầu biểu hiện được cá thể đích thực của nó.

Ngoài ra còn có một khái niệm cao hơn nữa về vô ngã, là khi dòng sống cá biệt sẽ cuối cùng đạt tới hợp nhất với Thượng đế, một sự hợp nhất cao độ đến nỗi dòng sống chọn trở về tâm thức mà đạo Phật gọi là Niết bàn (Nirvana), mà ta gọi là cái Tất Cả. Dòng sống cá biệt lúc đó sẽ tự nguyên buông bỏ cả cá thể của mình để trở về trạng thái Là thuần khiết mà từ đó nó đã tuôn ra. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không mấy hữu ích đối với hầu hết mọi người đang đầu thai trên địa cầu vì họ còn rất xa mới có được lựa chọn hợp nhất với Tất Cả.  

Khái niệm về tánh không cũng có thể được hiểu ở những mức độ khác nhau. Cao hơn cả, tánh không có nghĩa là trạng thái Là thuần khiết, cái Tất Cả, cái không thị hiện nơi không còn bất cứ hình tướng hay biểu hiện nào.

Ở tầm mức cá nhân, tánh không có nghĩa là trạng thái tâm thức khi mình đã vượt qua tự ngã phàm nhân. Bằng cách vượt qua tự ngã, dòng sống chiêm nghiệm mọi ý tưởng và cảm xúc phiền não nẩy ra từ tự ngã đều trở nên im lặng.  Như vậy, dòng sống chứng nghiệm một trạng thái tự do, giải thoát khỏi tiếng ồn của trí thể và cảm thể, một trạng thái trống rỗng không còn tiếng ồn của tự ngã.

Một lần nữa, đây không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi cá thể, mọi nhận biết hay thậm chí cả những ý tưởng và cảm xúc. Chỉ đơn giản có nghĩa là dòng sống không còn những ý tưởng và cảm xúc mâu thuẫn dẫn đến khổ đau. Dòng sống nay được tự do chiêm nghiệm những ý tưởng và cảm xúc đích thực nẩy lên từ cá thể mà Thượng đế đã ban cho mình, dẫn đến sự an lạc tối hậu khi mình biểu hiện chính mình, tức là biểu hiện cái ta đích thực.

Ta cũng đã giảng dạy về trạng thái tâm thức này khi ta nói về Nước Trời ở trong con, và khi ta bảo mọi người đừng phán xét. Trong tâm nhị nguyên, con luôn nghĩ là con cần phán xét và dán nhãn mọi thứ theo tiêu chuẩn tương đối của con. Tất nhiên, tự ngã sẽ cả quyết rằng tiêu chuẩn này là một chân lý tuyệt đối, và đây chính là ảo tưởng nằm ở ngay trung tâm tự ngã. Nó khiến cho tâm con luôn luôn phán đoán, là trạng thái ồn ào nội tâm mà đức Phật gọi là cốt lõi của đau khổ. Tánh không thì ngược lại.

Con nên học tập những giáo lý của các chân sư về cái Ta Biết. Các chân sư giảng dạy về tỉnh giác thuần khiết, tức là khi con không còn tiêu chuẩn phán xét nào. Cái Ta Biết chiêm nghiệm mọi thứ như nó là – không có bất cứ phán đoán nhị nguyên nào về giá trị. Và như thế cái Ta Biết nhìn qua tâm Ki-tô. Cái Ta Biết có thể nhìn cuộc sống cách như thế – qua tâm thức Ki-tô – hoặc có thể nhìn cuôc sống xuyên qua phin lọc của tự ngã và ngã vỏ ngoài.

Thế nhưng như ta có nói, không một “người” nào có thể thăng trở lại thiên đàng trừ khi “người” đó đã đi xuống từ thiên đàng, có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên cho tới khi nó trở về trạng thái tỉnh giác thuần khiết mà nó đã đi xuống ở khởi đầu.

Tại sao không có bằng chứng là linh hồn tồn tại sau khi chết?

Hỏi: Tại sao không có bằng chứng không thể chối cãi 100% rằng linh hồn tồn tại sau khi chết, mặc dù các nhà khoa học và tâm lý ngoại cảm đã cố chứng minh từ nhiều năm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Lý do là vì hành tinh địa cầu hiện đang vận hành như là nơi trú ngụ cho nhiều dòng sống với một trạng thái tâm thức nhất định nào đó. Những dòng sống này muốn phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, hoặc họ muốn phủ nhận Thượng đế đang ở ngay đây với họ. Nói cách khác, họ muốn tiếp tục sống trong ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình.

Luật Tự quyết cho phép họ sống trong ảo tưởng này trong một thời gian, và đó là tại sao họ không bị ép buộc phải chấp nhận một thực tại cao hơn qua một bằng chứng bất khả phản bác (plausible deniability). Vì vậy, sẽ không có một bằng chứng tuyệt đối nào được đưa ra về sự hiện hữu của Thượng đế, về thực tế của cõi tâm linh, về sự tồn tại của linh hồn sau cái chết vật lý và nhiều câu hỏi khác tương tự.

Chừng nào mà con người còn ở trong tâm thức tách biệt thì họ sẽ còn nhìn cuộc sống qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên, và do đó sẽ không có bằng chứng nào 100% không thể chối cãi được. Cách đây 2000 năm khi ta bước chân trên địa cầu, ta đã từng làm cho người chết sống lại, đã chữa lành cho người bệnh tật, đã đi bộ trên mặt nước, đã biến nước thành rượu, thế mà vẫn có những người không tin ta là Đấng Cứu thế.

Sự thật đơn giản là tâm nhị nguyên luôn luôn có khả năng đặt vấn đề và nghi hoặc bất kỳ bằng chứng nào. Bởi vì tâm nhị nguyên tương đối, nó luôn tìm cách tạo ra một khuôn khổ cho phép nó tin những gì nó muốn tin, vì vậy nó cũng không tin những gì nó không muốn tin.

Cho dù ta đã làm nhiều phép lạ, ta vẫn không thuyết phục nổi các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đốc, các luật sĩ và thày tế lễ nơi nhà thờ đạo Do thái. Ta có thể cam đoan với con, dù có đưa ra bằng chứng nào đi nữa thì cũng không thể thuyết phục được những thày thông giáo, những người Pha-ri-si, người Sa-đốc, luật sĩ cùng các thày tế lễ của đền thờ khoa học ngày nay, thậm chí cả đạo Cơ đốc chính thống.  

Con thấy đó, một khi một lớp người thượng lưu quyền lực đã chế ngự một lãnh vực nào đó, thì họ sẽ sử dụng một quy tắc mà chúng ta có thể gọi là đặc quyền đặt vấn đề, đặc quyền nhào nặn các vấn đề theo ý mình. Khi họ chiếm hữu được độc quyền này, và nếu họ chỉ biết suy nghĩ trong tâm nhị nguyên tương đối, thì họ sẽ quy định một khung chuẩn trong đó tất cả mọi tin tưởng căn bản của họ không thể bị bác bỏ. Lý do không thể bác bỏ được là vì các tin tưởng đó đã được định ra để luôn luôn cung cấp cho họ một lối thoát. Họ luôn luôn có cách bác bỏ bất cứ bằng chứng nào đi ngược lại các niềm tin căn bản của họ, đi ngược lại hệ tư tưởng của họ.

Chẳng hạn, đa số người đạo Cơ đốc chính thống sẽ kịch liệt phủ nhận thực tại của luân hồi, và do đó họ tin vào giáo điều rằng linh hồn không hiện hữu trước khi xác thân vật lý được thụ thai. Thật vậy, nếu con không tin là linh hồn có trước khi thụ thai, con sẽ không thể đưa ra được một chứng cớ không thể chối cãi nào về sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết. Nếu linh hồn có thể tồn tại độc lập với thể xác thì nó có thể tồn tại cả trước khi thể xác thụ thai lẫn sau khi chết.

Tương tự như vậy, giới lãnh đạo khoa học cũng quy định rằng bất cứ gì mà không thể được chứng minh qua dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, thì không thể hiện hữu. Nhưng linh hồn là một thực thể phi vật chất, vậy thì làm thế nào linh hồn có thể được phát hiện bởi một dụng cụ làm bằng vật chất đây? Con cũng biết là một kính hiển vi thông thường không thể phát hiện được hạt hạ nguyên tử cho dù ống kính có mạnh đến đâu. Lý do giản dị là vì kính hiển vi phải sử dụng ánh sáng thấy được, nhưng độ dài của sóng ánh sáng khiến cho hạt hạ nguyên tử không thể nào nhìn thấy được một cách trực tiếp.     

Các dụng cụ mà khoa học đã phát minh ra cho tới giờ không có khả năng phát hiện linh hồn. Có một số dụng cụ phát hiện được năng lượng của linh hồn, tuy nhiên cho tới giờ vẫn chưa được giới khoa học chính mạch chấp nhận.

Như ta vừa trình bày, Thượng đế đơn giản không muốn nhân loại có bằng chứng không thể chối cãi về hiện hữu của ngài hay của cõi tâm linh. Thượng đế muốn đó là một vấn đề đức tin, bởi vì nó sẽ vận hành như một phin lọc, để lọc lựa ra những ai không sẵn sàng nhìn xa hơn tâm nhị nguyên và tự ngã của mình. Dù sao thì đây chính là những người sẽ không thể bước vào Nước Trời, bởi vì khi nào họ còn nhìn với tâm nhị nguyên và tự ngã thì họ không có hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô. Vậy sẽ ích gì để mà chứng minh sự thật của thiên đường cho những người không có hy vọng vào được thiên đường?  

Người ta có thể bảo: “Nhưng nếu có bằng chứng không chối cãi, thì những người đó sẽ đổi ý chứ.” Tiếc thay, điều này không đúng, như được minh chứng qua việc các lãnh đạo tôn giáo đã chối bỏ ta. Đã từng có vô số ví dụ mà qua đó các chân sư thăng thiên đã đưa ra bằng chứng được nhiều người chấp nhận nhưng lại bị một số người khác bác bỏ. Giản dị, những kẻ bác bỏ bằng chứng như vậy vẫn chưa thật sẵn sàng cho con đường dẫn đến quả vị Ki-tô.

Nếu con đọc Kinh thánh, con sẽ thấy ta thường hay nói rằng những ai có tai để mà nghe thì hãy cố nghe. Có tai có nghĩa là mình cởi mở với Sự thật Hằng sống chỉ có thể biết được qua chiêm nghiệm trực tiếp trong tim. Nếu con không cởi mở thì sẽ không có một bằng chứng vỏ ngoài nào có thể mở được tâm con và tim con ra với chân lý. Và khi con không mở tâm với chân lý, thì con sẽ có khả năng, và con sẽ, chất vấn và xé bỏ mọi bằng chứng khả dĩ có được.   

Ta đã thấy những người đứng chứng kiến ta khiến cho một người chết sống lại. Họ biết rõ và tin chắc là người đó đã chết. Họ thấy rõ người đó đứng dậy và bước đi trước mắt họ. Ấy vậy mà họ vẫn không tin là ta có điều gì đáng giá để mà dạy họ. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn, tâm nhị nguyên của họ lại khiến họ ngờ vực, khiến họ lý giải đủ cách, rồi họ phủ nhận điều mà chính họ vừa chứng kiến với đầy đủ giác quan của họ. Người Tây phương có câu tục ngữ “Thấy thì sẽ tin”, nhưng câu này chỉ đúng cho những ai có tâm mở và tim mở. Còn những ai đóng chặt sẽ nhanh chóng tìm được đủ mọi lý lẽ để bác bỏ điều mắt họ vừa nhìn thấy.

Đó là vì sao ta từng nói: “Tô-ma, vì người đã thấy ta, nên người tin. Phúc cho những ai chẳng từng thấy mà đã tin” (John 20:29)

Sự thật phũ phàng là với tư cách là người tầm đạo tâm linh, con cần nhận ra là có những người hiện không ở trong một trạng thái tâm thức khiến họ có thể được đánh thức về con đường tâm linh, như ta có giải thích ở nơi khác. Vì vậy, con nên thận trọng để không lãng phí thời gian cùng sức lực với những người như thế. Như ta có nói:

“Đừng đem đồ thánh cho chó, cũng đừng ném ngọc quý trước mặt heo, kẻo nó đạp dưới chân và quay lại cắn xé các người.” (Matthew 7:6)

Câu này nghe thật tàn nhẫn, nhưng thực tế là cuộc sống quá ngắn ngủi để mà lo chuyện giúp đỡ những ai không muốn tự giúp mình. Có quá nhiều người khác có tâm cởi mở, và đó là những người mà ta nói đến khi ta bảo các môn đệ của ta hãy lo nuôi nấng đàn chiên của ta. Những người còn lại, đơn giản là con sẽ phải bỏ họ lại đằng sau, như ta đã nói: “Hãy theo ta, và để cho kẻ chết đi chôn kẻ chết.” (Matthew 8:22)

Phật giáo Tây Tạng nói không có hồn, chỉ có tâm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, Phật giáo Tây Tạng nói là không có hồn (soul) mà chỉ có tâm (mind). Cho nên con không hiểu. Có hồn nghĩa là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để bắc chiếc cầu băng qua hàng rào ngôn ngữ giữa các tôn giáo hay các truyền thống tâm linh khác nhau, con cần rất nhiều tế nhị và tâm không dính mắc. Điều được một tôn giáo mô tả bằng một từ có thể chính là điều mà một tôn giáo khác sẽ mô tả bằng một từ khác. Cho nên thật sự, con có thể nói rằng tất cả đều là tâm, vì hồn phát xuất từ đâu chứ? À, nó phát xuất từ tâm. Nó phát xuất từ cái tâm rộng lớn hơn của con, cái Ta Biết, và nó được tạo ra sau khi cái Ta Biết bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Cho nên con có thể nói rằng hồn được tạo ra từ tâm của con.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo là Phật giáo Tây Tạng nói chính xác, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là các truyền thống tâm linh khác khi nói về hồn đều nói sai. Các truyền thống đó chỉ sử dụng một từ khác cho cùng một thứ. Bởi vì thật sự ngay cả trong đạo Phật, cũng phải có một cỗ xe cho tâm đi xuống cơ thể vật lý và tương tác với cơ thể vật lý.

Bước trên đường tu mà không đau khổ

Hỏi: Các chân sư nói đau khổ là không cần thiết, nhưng các chân sư cũng nói là chúng con không nên chờ đợi mọi chuyện sẽ dễ dàng – liệu có sự mâu thuẫn nào ở đây?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Chỉ có thể có mâu thuẫn trong tâm thức nhị nguyên mà thôi. Tâm thức nhị nguyên có khả năng diễn giải bất kỳ câu nói nào trong cách đối nghịch với một câu nói khác. Điều này, tâm đường thẳng vẫn làm và sẽ luôn luôn làm.

Đau khổ không cần thiết vì đau khổ đến từ dính mắc. Cái khiến cho đường tu của con khó khăn là những dính mắc của con. Cho nên theo một nghĩa nào đó – nếu con sẵn sàng buông bỏ mọi dính mắc – con có thể bước trên đường tu mà không đau khổ chút nào.

Khi chúng tôi nói đường tu không dễ dàng và con không nên mong đợi là nó dễ dàng, đó là vì chúng tôi rất thiết thực và đã nhận ra – qua kinh nghiệm bản thân – rằng việc buông bỏ mọi dính mắc cùng một lượt là một chuyện hầu như bất khả. Và do đó, chúng tôi đã phải đi theo một con đường tuần tự. Chúng tôi đã phải bước đi từng bước một, buông bỏ từng dính mắc một, hầu duy trì một cảm giác liên tục nào đó cho bản thân.

Tuy nhiên, những khó khăn trên đường tu xuất phát từ sự kiện con không có khả năng – hay trong một số trường hợp, không sẵn lòng – nhìn thấy những điều mà mình cần nhìn thấy khi mình muốn bỏ một ảo tưởng nào đó. Và chúng tôi biết – một lần nữa qua kinh nghiệm bản thân – rằng việc nhìn thấy những gì mình không thể thấy được là một chuyện khó khăn. Đối với nhiều người trong số các con, khó khăn của con không khác gì chính bản thân ta khi ta còn hiện thân. Khi con còn đầu thai thì con còn ở trong hộp tư duy hiện hữu của con. Con sẽ luôn luôn khó lòng xem xét tình trạng của mình từ bên ngoài chiếc hộp. Và nhân tiện, đây cũng chính là lý do tại sao con cần sự hướng dẫn của những vị thày tâm linh, từ người khác và từ giáo lý tâm linh.

Tuy vậy, con vẫn có khả năng đạt được một trạng thái buông bỏ, và mặc dù trên đường tu có những giai đoạn khó khăn, những khó khăn này vẫn không gây đau khổ cho con. Nói cách khác, cõi vật lý, cõi vật chất, rất dày đặc. Thật không dễ gì để mà bước trên đường tu giữa lớp dày đặc của tâm thức tập thể. Tuy nhiên, một khi con đạt được một trạng thái buông bỏ nào đó, những khó khăn mà con gặp sẽ không tạo đau khổ cho con nữa. Và lý do là vì con đã làm điều mà Mẹ Mary đã đề cập hôm qua, là con đã buông bỏ những chờ đợi, những kỳ vọng, con đã buông bỏ những điều kiện của con.

Có rất nhiều người tìm ra đường tu rồi họ nghĩ rằng để cất bước, họ cần phải làm một số chuyện mà họ xem là hy sinh – vì họ phải từ bỏ một phần nếp sống cũ, một phần những hoạt động cũ mà thế gian thường hay mê đắm, như rượu chè, chất kích thích, những đeo đuổi vật chất đủ loại và nhiều thứ khác nữa lôi kéo mình ra khỏi đường đạo. Cho nên họ vô cùng háo hức, sẵn lòng bỏ lại một số những sinh hoạt đó, nhưng khi làm vậy, họ vẫn cảm thấy là mình đang phải hy sinh. Và tự ngã của họ sẽ lừa gạt họ, khiến họ dựng lên một kỳ vọng tinh tế là một khi họ đã hy sinh cho đường tu hay hy sinh cho Thượng đế, thì sau đó mọi chuyện sẽ phải trơn tru. Và đơn giản là Thượng đế sẽ phải lát đường cho họ đi, để họ không còn phải gặp thêm thử thách hay khó khăn nào nữa.

Điều này, tất nhiên, chính là tự ngã đang tìm cách lừa gạt con người để họ dựng lên một kỳ vọng không thực tế sẽ chắc chắn gây ra thất vọng, và khi đó thì họ sẽ nản chí và ngừng bước tới. Hay thậm chí, có thể là họ sẽ oán giận, như nhiều người đã oán giận là mình bị một tổ chức hay một vị thày hứa hẹn suông. Và tự ngã đánh gạt họ để họ bỏ đường tu.

Khi con buông bỏ mọi điều kiện của con, con không còn kỳ vọng nào nữa là đường tu sẽ phải ra sao. Và do đó, làm thế nào điều gì xảy ra cho con có thể gây đau khổ cho con? Con thấy không, đau khổ được gây ra bởi một điều kiện tâm lý, và điều kiện này khiến con nổi loạn trong cảm thể và trí thể chống lại một trải nghiệm trong thế giới vật lý.

Con sẽ thấy nhiều người gặp phải những khó khăn vật lý to lớn trong đời họ, nhưng họ đã đạt được một trạng thái buông bỏ an bình, đã chấp nhận– cho dù các điều kiện vỏ ngoài có khó khăn đến đâu đi nữa – là họ có thể sống tốt nhất và vẫn vui hưởng cuộc đời. Con hãy nhìn những người bị khuyết tật về thể chất, như phải ngồi xe lăn chẳng hạn. Nhiều người mà phải sống như vậy sẽ vô cùng khổ sở phiền muộn, nhưng lại có một số ít vẫn vươn được lên cao hơn, vẫn vui vẻ an bình giữa hoàn cảnh đó, vẫn chấp nhận và sống tốt nhất.

Cho nên con thấy đó, đau khổ không do điều kiện vỏ ngoài tạo ra, mà do điều kiện tâm lý bên trong khi con nổi loạn, chống đối lại điều kiện vật lý bên ngoài. Và đó là tại sao, như chúng tôi đã nỗ lực giải thích trong mấy ngày qua – qua bài giảng của các thày Patrick, Mẹ Mary và Saint Germain – rằng khi con bước đi trên đường tu, con nên bỏ lại mọi điều kiện vỏ ngoài cùng kỳ vọng là đường tu phải như thế nào. Vì con phải biết trong tư cách là người tâm linh, cõi vật lý này dày đặc, tâm thức tập thể dày đặc đến chừng nào, và do đó con không được chờ đợi nó sẽ dễ dàng, êm thắm.

Tuy nhiên, chắc chắn con cũng không nên rơi vào cực đoan ngược lại mà cho rằng mình phải chịu đựng thì mới là người tâm linh – như thể mình phải đi chân đất leo lên đỉnh núi hầu trả giá cho tội lỗi của mình vì Thượng đế sẽ vui sướng khi thấy mình đau đớn. Và như vậy mình càng đau đớn bao nhiêu thì ngài sẽ càng tha tội cho mình bấy nhiêu.

Một lần nữa, có một con đường Trung đạo. Và khi con tìm ra Trung đạo, con sẽ vượt qua mọi khó khăn và giữ trọn niềm vui. Khi con quyết định gặp gỡ mọi khó khăn trong niềm vui và sẵn lòng thăng vượt, những khó khăn đó sẽ không mấy khó khăn nữa, Chúng sẽ chỉ đơn giản là một số sự kiện trong cõi vật lý. Con sẽ bước vượt qua chúng, vì con có một viễn kiến rõ ràng về mục đích của mình.

Con biết rõ là con muốn đi về đâu, và không còn chuyện nghĩ ngợi là mình sẽ chỉ tới đó được nếu không có trở ngại nào. Con dư biết là sẽ có trở ngại, và con chỉ việc khắc phục, vượt qua, vượt lên trên, bước xuyên qua. Như vậy con sẽ tìm được con đường vui mừng. Nó độc lập khỏi mọi điều kiện vì nỗi vui mừng của con ngập tràn.

Chân ngã hay đức Thánh linh?

Hỏi: Thế nào là đấng Quan sát Im lặng (Silent Observer), là đấng bay lơ lửng trên bản thân mình, có vẻ tách biệt khỏi mình nhưng lại là toàn bộ con người mình? Đó có phải chăng là Chân ngã, cái Ta cao hơn hay là sự thể hiện của Thánh linh? Làm thế nào tìm lại kinh nghiệm sống này đã bị đánh mất hoặc có vẻ như ẩn giấu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đó là một cách mô tả thật thi vị về một kinh nghiệm tâm linh mà nhiều hành giả chân thành đã có và mọi hành giả chân thành nên cố gắng có. Mỗi tôn giáo hay triết lý tâm linh đều tìm cách mô tả kinh nghiệm này, và có nhiều cách để diễn tả kinh nghiệm này thành lời. Hãy cho phép ta gợi cho con một trong số rất nhiều cách diễn đạt đó.

Như đã giải thích ở nhiều nơi khác trên trang mạng này, bản thể của con là một sự cá thể hóa (individualization) của bản thể Thượng đế. Con được sinh tạo theo hình ảnh của Thượng đế và giống như Thượng đế, có nghĩa là bậc cha mẹ tâm linh của con đã lập ra cá thể từ chính bản thể mình, đó là Hiện diện TA LÀ của con. Tuy nhiên, Thượng đế có hai khía cạnh như được diễn đạt qua biểu tượng Thái cực của Đạo giáo. Hiện diện TA LÀ của con là thái cưc Dương hay nam của dòng sống của con, và cái Ta Biết là thái cực Âm hay nữ.   

Hiện diện TA LÀ của con được tạo bằng năng lượng với một độ rung động rất cao, cao hơn nhiều so với năng lượng trong vũ trụ vật chất. Vì vậy, Hiện diện TA LÀ không thể đi xuống vũ trụ vật chất. Cái đi xuống vũ trụ này là cái Ta Biết, và để làm điều này, cái Ta Biết khoác vào những chiếc áo vỏ ngoài là phàm ngã và xác thân vật lý. Tuy nhiên, thử thách lớn đối với cái Ta Biết là làm thế nào duy trì được sự tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ khi đang chìm đắm trong năng lượng dày đặc của vũ trụ vật chất.   

Nếu cái Ta Biết đi xuống thấp hơn tầng tâm thức thứ 48, nó sẽ chỉ duy trì được mối liên lạc này qua trung gian một khía cạnh khác của chính con, là cái mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là cái ta cao hơn (higher self). Ta sẽ gọi phần này của con là cái ta Ki-tô (Christ self), bởi vì ta là Ki-tô đã được phái xuống với con để chứng tỏ cho con thấy là mỗi con người đều có tiềm năng kết hợp với cái ta Ki-tô này ngay cả khi cư ngụ trong một thân xác vật lý.   

Chìa khóa cho mọi loại kinh nghiệm tâm linh là con phải bước vào bên trong nội tâm và tìm cách liên lạc với cái ta Ki-tô của con. Hầu hết mọi người đều có một mức độ liên lạc nào đó với cái ta này – thường được gọi là trực giác. Tuy nhiên khi con mở rộng mối liên lạc với cái ta Ki-tô, con có khả năng chứng nghiệm Hiện diện TA LÀ của con. Lúc đầu, Hiện diện TA LÀ sẽ có vẻ như một vị quan sát im lặng. Nhưng khi con mở rộng mối liên lạc hơn nữa, con có thể “nghe” thấy cái ta Ki-tô hay Hiện diện TA LÀ của con đang nói chuyện với con dưới dạng lời nói, ý tưởng, hình ảnh hay ngay cả rung động.

Hiện dịên TA LÀ của con là một cá thể của Bản thể lớn hơn mà loài người gọi là Thượng đế. Con có khả năng có được một trải nghiệm trực tiếp về Bản thể của Thượng đế. Điều này đã xảy ra cho rất nhiều người tâm linh khắp các thời đại. Thậm chí chứng nghiệm đó đã xảy ra một cách tự phát nơi một số người không tự xem mình là tâm linh.

Cho nên, từ “quan sát im lặng” có thể chỉ Hiện diện TA LÀ cá nhân của con tức là cá thể của Thượng đế, hoặc nó cũng có thể chỉ bản thể rộng lớn hơn của Thượng đế.

Làm thế nào con có thể tìm lại kinh nghiệm này? Bằng cách tăng trưởng trực giác của mình và nhờ đó tăng trưởng mối liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô. Và khi con bắt đầu tăng trưởng liên lạc đó và bắt đầu chuyển dời ý niệm bản sắc của mình ra khỏi tâm nhị nguyên để hướng về tâm Ki-tô, con sẽ liên lạc mật thiết hơn với cái ta tâm linh của con.

Đâu là những bước thực tiễn để tiến tới mục tiêu này? Trên cơ bản, mọi triết lý hay hệ thống tâm linh đều nhắm đến mục tiêu này đây. Con hãy sử dùng trực giác, kỹ thuật hòa điệu, cùng các bài chú, bài thỉnh mà chúng tôi đã trao truyền.

Con hãy chuyên cần sử dụng một hệ thống hay một kỹ thuật trong một thời gian. Khi con cảm thấy đến lúc chín muồi, con hãy thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm xem con có cần tìm một hệ thống cao hơn hoặc tinh luyện, cải tiến cách tu tập hệ thống hiện thời cuả con. Con đừng trở nên cứng nhắc và rơi vào cái bẫy cho rằng nếu cứ áp dụng mãi một kỹ thuật hay hệ thống suốt đời thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Mục đích của bất kỳ hệ thống nào là để tăng triển độ nối kết của con với cái ta Ki-tô hầu con nhận được một sự tiết lộ tuần tự và hằng sống về đường tu cá nhân của con dẫn tới Thượng đế.  

Nhịn ăn có là cách gia tốc sự tăng triển tâm linh?

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thày có ý kiến gì về việc nhịn ăn – theo nghĩa là kiêng hẳn mọi loại thức ăn – như một cách để gia tốc sự tăng triển tâm linh của một người? Ý nghĩ rằng con có thể sống 40 ngày nhịn ăn hoàn toàn như thày đã từng làm khi thày đi vào vùng hoang dã – cũng tương tự như nhiều người tầm đạo khác, những người tu khổ hạnh cùng những vị ẩn sĩ – đã gây rất nhiều cảm hứng cho con. Cho nên câu hỏi của con là như sau: Làm vậy có thể đem lại ích lợi hay tổn hại gì không? Làm thế nào một người có thể nhịn ăn mà không gây tổn hại cho bản thân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 26/5/2011. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta thực sự không khuyến khích bất cứ ai tính chuyện nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày liền. Đơn giản là không có cách nào làm vậy mà không gây hại cho cơ thể của con, và làm vậy cũng không đem lại lợi ích tâm linh nào.

Đây là một hiểu lầm về câu chuyện ta đã sống 40 ngày trong sa mạc mà không ăn uống gì. Đối với bất kỳ khía cạnh nào của đời ta, con có thể có hai cách tiếp cận cơ bản. Một là cách tiếp cận hoàn toàn theo nghĩa đen, tức là con cho rằng Kinh thánh là lời của Thượng đế đúng từng chữ một, cho nên bất cứ gì ghi chép trong kinh sách đều đã xảy ra y như mô tả. Với cách tiếp cận này, con sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa chân thực của các lời dạy cùng tấm gương của ta. Còn cách thứ hai là con nhận ra là ngay cả những sự việc gọi là cụ thể trong kinh sách cũng có ý nghĩa sâu xa hơn, và vì vậy con phải luôn luôn nhìn xa hơn cách diễn giải theo nghĩa đen. Vậy đâu là ý nghĩa sâu xa của việc ta sống 40 ngày ở vùng hoang dã?

Con có thể coi chuyện này minh họa cho sự tương phản giữa hai loại môi trường. Một đằng con có xã hội loài người, một môi trường nơi hầu như mọi thứ đều nằm dưới sự kiểm soát của luật lệ và tư duy con người. Đằng khác, con có “vùng hoang dã”, một môi trường không do con người điều khiển và gần gũi hơn với trạng thái tự nhiên. Cho nên đây là biểu tượng cho sự kiện ta đã rút lui trong một thời gian ra khỏi thế giới của các quy luật, các tín điều, các niềm tin cùng tư tưởng do con người tạo ra. Tuy nhiên, làm vậy không nhất thiết có nghĩa là ta đi vào thiên nhiên, vì con có thể làm vậy gần như ở mọi nơi miễn là con ở một nơi yên tĩnh và con tắt bớt các loại phiền nhiễu bên ngoài. Thậm chí con có thể ở ngay giữa thành phố, mặc dù điều này sẽ khó hơn một chút do tâm thức tập thể náo nhiệt hơn.

“Nhịn ăn” không nhất thiết liên quan gì đến thức ăn. Ta đã “nhịn ăn” bằng cách làm rỗng tâm mình cho không còn những ý tưởng nhân tạo, và như vậy ta đã tạo ra một khoảng trống giúp tâm mở ra đón nhận những ấn tượng trực giác từ một nguồn cao hơn, tức là từ Hiện diện Ta Sẽ Là và các vị thày tâm linh của ta.

Con có thấy điều ta muốn nói? Đâu là mục đích của con khi con muốn nhịn ăn? Nếu đó là để đạt đến một trạng thái tâm thức tâm linh hơn thì con đâu cần gì phải kiêng ăn. Con sẽ cần kiêng một vài loại thực phẩm nặng nề như thịt chẳng hạn, và con cần không ăn quá nhiều. Nhưng không nhất thiết con phải nhịn tất cả mọi thức ăn – và quả thực, làm vậy còn có thể phản tác dụng.

Con sẽ cần gì để có trải nghiệm tâm linh hơn? Tất cả mọi thứ trong đời con đều xoay quanh sự chú ý. Nếu chú ý của con tập trung vào việc thế gian thì con sẽ khó lòng hơn có được trải nghiệm tâm linh. Cho nên để có những trải nghiệm cao hơn, con cần hướng chú ý ra khỏi những chuyện nhân thế, kể cả cơ thể vật lý.

Thế nhưng thực tế đơn giản là việc nhịn ăn không phải là cách hay nhất để hướng chú ý ra khỏi cơ thể. Hầu hết những ai đã nhịn ăn toàn diện đều nghiệm được là việc nhịn ăn thật khó thực hành đến độ họ sẽ càng chú ý nhiều hơn đến cơ thể nếu họ nhịn ăn càng lâu. Cho nên ý nghĩa thực sự của “nhịn ăn” là con quay chú ý ra khỏi các vấn đề thế gian để tập trung vào những việc tâm linh. Nhưng ngay cả điều này cũng cần được hiểu một cách sâu sắc hơn. Bởi vì nhiều người nghĩ rằng tập trung vào chuyện tâm linh có nghĩa là họ phải dùng trí năng để tìm hiểu một giáo lý tâm linh hay tu tập một kỹ thuật tâm linh nào đó.

Điều này, ở một mức nào đó trên đường tu, không cứ là vô giá trị, nhưng một khi con đạt đến những tầng cao hơn thì “nhịn ăn” thực sự có nghĩa là làm rỗng tâm mình và hòa điệu tâm với Hiện diện của con. Nhịn ăn có nghĩa là tập trung vào việc trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết để con thực sự trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện, có nghĩa là không có định kiến nào sẽ pha màu các ấn tượng từ Hiện diện gửi xuống. Con không thể làm được điều này ở các tầng thấp hơn trên đường tu, nhưng ở các tầng cao hơn, đây chính là mục tiêu chủ yếu của con.

Có hai điều đã xảy ra trong nhiều thế kỷ đã qua. Trước hết, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng đoạt bởi những kẻ chỉ biết hiểu theo nghiã đen, họ cho rằng mọi thứ phải được diễn giải theo nghĩa đen, theo định nghĩa của họ về nghĩa đen. Và thứ nhì, vào thời Trung cổ, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng chiếm bởi những kẻ chỉ biết coi cuộc sống là sự khổ đau.

Nếu con nhìn hầu hết các tác phẩm nghệ thuật vào thời đó, con sẽ thấy người ta vẽ hình ta bị treo thân trên thập tự giá, đang đau đớn vô cùng tận. Cho nên thay vì chú tâm vào lời dạy tích cực của ta – tức là ta đến đây để ban sự sống cho con người cùng sự sống dồi dào hơn nữa – thì đạo Cơ đốc đã chú tâm vào mấy tiếng đồng hồ ta bị khổ nạn trên thập tự giá. Thế rồi khởi lên niềm tin cho rằng chính khổ nạn của ta trên thập tự giá đã “mua chuộc” được sự cứu rỗi cho loài người qua việc, một cách nào đó, ta đã đền bù cho tội lỗi của mọi người.

Con dễ dàng thấy được là điều này đã bị ảnh hưởng bởi niềm tin lâu đời cho rằng khi người ta hiến tế một con vật – bằng cách để nó chảy máu cho đến chết – thì người ta có thể trả tội cho chính mình. Niềm tin này ngược hẳn với lời dạy chân chính của ta, thế nhưng nó đã dần dần chi phối cái nhìn của con người về sứ mạng của ta. Kết quả là người ta dần dần tin rằng Thượng đế – mà ai nấy đều xem là thiện lành – đòi hỏi con phải đau khổ trước khi con có thể rửa sạch tội lỗi của con. Con có thể thấy được sự điên rồ của niềm tin này khi con xem xét điều sau đây. Con đã làm một việc gì khiến ai đó bị đau khổ. Con nhìn nhận sự kiện này, thế là bây giờ con tự nguyện đặt mình vào một tiến trình tạo đau khổ cho chính mình, vì con nghĩ cái khổ thứ nhì này sẽ một cách nào đó đền bù cho cái khổ đầu tiên kia.

Thế nhưng trong thế giới ngày nay, con biết rõ là mọi thứ đều là năng lượng. Con gây cho ai điều gì thì nó sẽ tạo ra một khối năng lượng tha hóa. Và khi con khiến con cũng phải đau khổ thì con lại tạo thêm năng lượng tha hóa nữa. Hai cái sai không tạo thành một cái đúng, vì năng lượng tha hóa không thể loại trừ năng lượng tha hóa. Cách duy nhất để bù lại tội lỗi của mình là tạo năng lượng tích cực, và quả vậy năng lượng tích cực có khả năng biến hóa năng lượng tha hóa. Nhưng nó chỉ làm được chuyện này nếu cả hai bên đều thực sự tha thứ cho nhau. Đây chính là tại sao ta nhấn mạnh đến việc tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con.

Cho nên ý ta muốn nói là suốt nhiều thế kỷ, chính sự tập trung vào khổ đau đã khiến con người nghĩ rằng, bởi vì việc nhịn ăn tạo ra đau đớn, cho nên đó là một cách để con trả tội. Xong lại có thêm niềm tin bảo rằng con đau đớn càng nhiều thì con càng trả được nhiều tội. Rồi giờ đây người ta nối liền niềm tin này với quan niệm là ta đã nhịn đói suốt 40 ngày, thế là một số người tưởng rằng đó là phương cách tối hậu để đạt được đau đớn qua nhịn ăn. Thậm chí một số còn nghĩ là nếu họ bỏ mạng sau khi nhịn đói 40 ngày, nhất định họ sẽ được tưởng thưởng trên cõi thiên đàng. Họ nghĩ: “Chắc chắn tôi sẽ không chết.”

Con có thấy chăng đây là một sự hiểu lầm toàn diện? Trước hết, việc cố nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày sẽ khiến cho nhiều người bỏ mạng, và hiển nhiên việc tự vận không phải là cách đạt đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Thứ nhì, những ai sống sót sau khi nhịn đói từng nấy ngày sẽ rốt cuộc tập trung gần như toàn bộ chú ý của mình vào nỗi đau của cơ thể, và điều này sẽ tước mất khả năng chú ý của họ ra khỏi việc làm cánh cửa mở cho Hiện diện. Vậy con được lợi gì khi làm vậy chứ? Thứ ba, việc cố tình gây ra đau khổ cho chính mình sẽ sản xuất năng lượng tha hóa sẽ không giúp con tăng triển tâm linh.

Về con số 40 ngày, con cần suy xét sự kiện là cách đây 2000 năm, con người không có cùng khái niệm về con số như ngày nay. Trong thế giới hôm nay, hầu hết mọi học sinh đều hiểu được là người ta có thể đếm tới những con số rất cao. Chính các con đây khi còn nhỏ, có bao nhiêu người đã thử đếm đến một ngàn? Thế nhưng cách đây 2000 năm, đa số người lớn còn không biết đếm đến một ngàn chứ đừng nói tới chuyện hình dung ra con số này. Cho nên vào thời đó, người ta đơn giản không thể hiểu được những loại số mà ngày nay con thường dùng để tính toán món nợ quốc gia. Và ngay cả ngày nay, con sẽ thấy nhiều người khó lòng nào hình dung được số nợ khổng lồ của một quốc gia như nước Mỹ – vì đơn giản, con số quá lớn để có thể so sánh với bất cứ gì trong cuộc sống hàng ngày.

Có lẽ con có nghe nói là một số loài động vật không thể đếm nhiều hơn hai. Cũng giống như một số người thổ dân có thể phân biệt một với hai, nhưng bất cứ gì nhiều hơn hai thì họ sẽ gọi là “nhiều”. Cách đây 2000 năm có một cơ chế gần giống như vậy. Người ta có thể đếm đến một chục, nhưng bất cứ gì nhiều hơn đều được xem là “nhiều”. Từ được dùng vào thời đó nay được phương Tây dịch là “vô khối”, nhưng ngay cả từ “vô khối” cũng được dùng ban đầu để chỉ một số lượng không xác định, và chỉ ngày nay người ta mới gắn liền với một con số chính xác.

Cho nên khi Kinh thánh bảo rằng ta đã nhịn ăn 40 ngày thì con số thật sự không phải là 40. Đơn giản đó chỉ là một con số “nhiều” – ta đã trải qua nhiều ngày trong sa mạc.

Và sau đây là một điểm nữa. Ta đã đi vào vùng hoang dã – ta đã thật sự đi xa khỏi những nơi có người sinh sống – để có một trải nghiệm tâm linh, và ta đã chỉ ở đó vừa đủ lâu để có được trải nghiệm này. Và trong thời gian đó, ta đã ăn bất cứ thức ăn nào ta có thể tìm thấy để giữ cho cơ thể vừa đủ thoải mái mà không phải chú tâm đến cơ thể. Trái lại, ta giữ trọn sự chú ý xa khỏi mọi xao lãng bên ngoài để tập trung vào bên trong.

Cho nên nếu con cố bắt chước ta bằng cách cưỡng ép mình nhịn ăn 40 ngày liền, điều con thực sự làm là tự đặt mình vào một tâm trạng sẽ cản trở con đạt đến một trải nghiệm tâm linh đích thực. Bởi vì đơn giản, con sẽ không mở tâm ra và để yên cho trải nghiệm đó xảy ra theo nhịp riêng của nó, mà con sẽ tìm cách cưỡng ép nó. Và cái gì con cưỡng ép thì con cũng sẽ đẩy nó về phía trước mặt, giống như con lừa đẩy củ cà-rốt treo trên cái gậy trước mũi nó.

Bất cứ khi nào – ta nói rõ, BẤT CỨ khi nào – con tìm cách cưỡng ép một trải nghiệm tâm linh, thì con sẽ không có một trải nghiệm đích thực. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra cho các thế lực thấp kém, và quả thực chúng có khả năng cho con một trải nghiệm vượt trội trạng thái tâm thức bình thường của con, nhưng đó không phải là một trải nghiệm tâm linh đích thực vì nó không biến con thành cánh cửa mở cho Hiện diện của con hay cho các sinh thể thăng thiên. Suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã toan tính cưỡng đoạt thiên đàng bằng vũ lực và họ đã mở ra với các thế lực thấp kém mà cứ tưởng là mình vừa có một trải nghiệm tâm linh chân chính. Đó là tại sao những ai chưa quân bình, chưa có sự bảo vệ cá nhân cùng khả năng phân biện tâm linh (chưa phân biện được các linh thể), không nên toan tính chuyện nhịn ăn.

Con có thấy chăng là nhịn ăn có thể rất dễ dàng trở thành một trò chơi của tự ngã? Tự ngã muốn làm một chuyện gì đó cực đoan, vì hoặc nó muốn cao trội hơn người khác, hoặc thậm chí nó nghĩ nó có thể ghi điểm trước mắt Thượng đế.

Vì vậy để kết luận, cách nhịn ăn đúng đắn là con quay sự chú ý của con khỏi những gì đang kéo chú ý ra bên ngoài. Con cần làm rỗng tâm mình để con có thể là cánh cửa mở cho Hiện diện.

Cách duy nhất để thực hiện điều này là tiếp cận vịêc nhịn ăn y như con tiếp cận mọi chuyện khác trên đường tu: luôn luôn cố đạt được sự cân bằng. Đơn giản, đây là cách duy nhất để con vượt qua khai ngộ chạm trán với kẻ cám dỗ, như con sẽ làm mỗi khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn, hay như con cũng thấy khi ta từng bị ác quỷ cám dỗ sau “nhiều” ngày ở vùng hoang dã.

Con cũng cần nhìn ra là sẽ không xây dựng cho con nếu con chụp lấy những điều ta vừa nói ở đây để rút lui khỏi xã hội và tự cô lập mình. Việc rút lui trong một thời gian để thiết lập sự kết nối nội tâm với Hiện diện của con là một chuyện chính đáng, nhưng một khi con đã bắt đầu kết nối thì con có thể tham gia vào xã hội mà không đánh mất sự kết nối. Trong Thời Hoàng kim, các thày sẽ cần đến những người có khả năng tham gia vào xã hội mà đồng thời làm cánh cửa mở cho các tư tưởng từ cõi thăng thiên.

Thời nay, ta sẽ nói là cách quan trọng nhất để nhịn ăn KHÔNG PHẢI là từ chối ăn uống. Cách nhịn ăn tốt nhất là ăn đủ để cơ thể không là một vấn đề, và sau đó giữ cho tâm lánh xa khỏi toàn bộ hiện tượng “ô nhiễm thông tin” đang tấn công tới tấp con người hiện đại. Đối với con người hiện đại, trở ngại lớn nhất không phải là cơ thể vật lý, mà là tâm con bị kích thích quá đáng bởi đủ loại nguồn thông tin phóng tới con từ mọi phía.

Cho nên cách tốt nhất để nhịn ăn là tắt luồng thông tin đến từ ngoài. Sau đó con tắt sự oanh tạc nội tâm bởi chính tâm con, nó tạo ra đủ loại vấn đề để nó cố thuyết phục con phải giải quyết các vấn đề. Tất cả chỉ là chuyện theo dõi xem chú ý của con đang hướng về đâu. Vương quốc Thượng đế nằm ngay trong con, cho nên con sẽ không thể bước vào đó chừng nào con còn tập trung chú ý ra ngoài điểm tĩnh lặng bên trong con.

Vậy con hãy cố nhịn “thức ăn thông tin” trong một thời gian. Tin mừng là khi con nhịn không theo dõi những gì nhóm bạn của con đang làm trên Facebook, thì con sẽ không chết đâu con – cho dù là sau 40 ngày.

Đâu là cái ta đích thực của con?

Hỏi: Con xin hỏi là khi con muốn tăng trưởng tâm linh nhưng lại bị rối trí, liệu việc kêu gọi sự phán xét của Ki-tô trên chính con có là một việc làm đúng hay không?   


Trả lời từ chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta không khuyến khích con kêu gọi sự phán xét trên chính con bởi vì cái “chính con” đó là gì? Con yêu dấu, con có thể kêu gọi sự phán xét của Ki-tô trên tự ngã của con và con người phàm phu mà con đã tạo dựng. Nhưng con không muốn phán xét của Ki-tô trên chính con bởi vì con có thể – trong tâm trí con – nghĩ rằng “chính con” bao gồm tất cả những gì mà con là. Và thật là không cần thiết để kêu gọi phán xét của Ki-tô trên cái ta ý thức của con, vì cái Ta Biết là một phần nối dài của chính bản thể của Thượng đế và không cần phán xét.   

Sự phán xét đúng lý là một biện pháp nhắm vào trạng thái tâm thức thấp kém. Cho nên mặc dù đúng là cái Ta Biết phải quyết định bỏ lại đằng sau tâm thức nhị nguyên, con vẫn không cần phải kêu gọi phán xét cái Ta Biết. Con có thể kêu gọi phán xét tự ngã để cái Ta Biết nhìn ra được tự ngã là gì, vì sự phán xét sẽ phân biện giữa chân và giả.    

Nhưng không có lý do gì con phải kêu gọi phán xét cái chân, bởi vì – mặc dù các thày dạy rằng cái Ta Biết luôn luôn là cái mà nó nghĩ nó là – sự thật xâu xa hơn là cái Ta Biết sẽ luôn luôn là sự nối dài của Thượng đế. Và vì vậy, cái Ta Biết là thật, cho dù nó có thể tự đồng hóa với một bản sắc không thật.  

Ta hiểu, đây là một sự phân biệt rất vi tế có thể khiến con suy ngẫm. Nhưng ta không muốn con bước vào bất cứ tư duy nào cho rằng cái Ta Biết là không thật, ngay cả khi nó tự đồng hóa với tự ngã. Và do đó, ta muốn con luôn luôn giữ vững viễn kiến rằng cái Ta Biết là thật, và chỉ có cái ý niệm bản sắc vỏ ngoài, cá tính vỏ ngoài, là không thật mà thôi.

Ta mong muốn con suy ngẫm về sự khác biệt vi tế này, và nhận ra là mặc dù cái Ta Biết tự đồng hóa với tự ngã và với một bản sắc sinh diệt, rốt cuộc chỉ có bản sắc này mới không thật, còn cái Ta Biết thì luôn luôn thật. Và cách duy nhất để cái Ta Biết thoát khỏi bản sắc sinh diệt là nhận ra rằng bản sắc đó là không thật, trong khi tự thân cái Ta Biết thì LÀ thật. Cho dù nó đã sa ngã vào tách biệt và nhị nguyên, nó vẫn không đánh mất thực tại cốt lõi của nó nơi Thượng đế.

Và chắc chắn, con sẽ không kêu gọi sự phán xét trên Thượng đế được. Và bởi vì cái Ta Biết là một cá thể của Thượng đế cho nên con cũng sẽ không kêu gọi phán xét trên nó. Vì vậy con nên suy ngẫm là con đang nhìn chính mình như thế nào, con đang thấy CÁI TA của con là gì. Bởi vì rõ ràng, thế gian này đang lập trình để khiến con nghĩ rằng mọi thứ trong con đều là những thành phần của cái ta của con. Nhưng dĩ nhiên không phải vậy.

Quả thực, đây là một trong những ảo tưởng mà con cần phải lột bỏ trên đường tu, là khi con bắt đầu nhận ra có thể có nhiều yếu tố thuộc bản thân con mà không nhất thiết thuộc về cái ta của con, thuộc về chính con. Thật sự, không có một khía cạnh nào của phàm nhân của con là một thành phần của cái Ta Biết – đó chỉ là một cái phin lọc, một dụng cụ mà qua đó cái Ta Biết tự biểu đạt trong thế gian này. Nhưng cái Ta Biết là NHIỀU HƠN.

Khác biệt giữa nỗi giận nhân thế và sự thịnh nộ thần thánh

Hỏi: Có lời ghi chép cho thấy là ngay cả thày, Giê-su, cũng đã từng nổi giận. Nếu thày, một vị chân sư thăng thiên, mà cũng biểu lộ giận dữ thì làm sao có thể chờ đợi là chúng con sẽ không nổi giận? Liệu thày có suy nghĩ hay sáng ngộ gì để chúng con suy ngẫm hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trong một câu trả lời khác, ta đã có chia sẻ một số suy nghĩ về cách giải quyết nỗi giận nhân thế.

Khi con vượt lên khỏi nỗi giận nhân thế, con sẽ không nhất thiết luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ trong mọi hoàn cảnh. Trên hành tinh này có biết bao chuyện xảy ra hiển nhiển là không ăn khớp với định luật tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Cho nên việc thách thức các hành vi sai trái của con người là một điều hoàn toàn thích hợp, kể cả việc biểu lộ những cảm xúc mạnh mẽ mà hầu hết mọi người sẽ coi là sự tức giận. Tuy nhiên khi con bắt đầu đạt tới một mức quả vị Ki-tô nào đó, con có khả năng phát biểu một cách nghiêm nghị và thẳng thắn mà không bị rơi vào độ rung động thấp kém của nỗi giận nhân thế. Con không đang bày tỏ một số cảm xúc mãnh liệt nhằm chê trách, đổ lỗi cho người khác, mà con bày tỏ cảm xúc mạnh mẽ để khiến cho người kia bị chấn động, bị lay chuyển ra khỏi trạng thái tâm thức cố hữu của họ. Mục đích là để họ có thể thấy được hành vi của họ là không phù hợp với các định luật của Thượng đế và do đó sẽ chỉ có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho họ mà thôi.

Ta cũng biết là chừng nào một người còn bị mắc kẹt trong rung động thấp kém của tâm nhị nguyên thì người đó sẽ không thể hiểu nổi điểm khác biệt này. Thế nhưng có sự khác biệt rất rõ rệt giữa độ rung của nỗi giận nhân thế và độ rung của cái mà chúng ta có thể gọi là sự thịnh nộ thần thánh (holy wrath). Làm thế nào con phân biệt được thịnh nộ thần thánh với nỗi giận nhân thế? Thịnh nộ thần thánh có thể vô cùng quyền oai, nhưng nó sẽ tức khắc biến mất một khi nó đã hoàn thành mục đích, và nó sẽ không ảnh hưởng vĩnh viễn đến cách nhìn hay tình cảm của con đối với người kia. Trong khi đó, nỗi giận nhân thế sẽ vương vấn ở lại với con một thời gian sau khi nó được biểu lộ, tựa nhưng một ngọn lửa cứ cháy âm ỉ thật lâu trước khi tàn lụi. Nó sẽ tô màu các ý nghĩ và cảm xúc của con đối với người kia trong suốt đời con, hay ít ra cho tới khi con hoàn toàn tha thứ cho người đó. 

Thịnh nộ thần thánh thực sự là một biểu lộ của tình thương vô điều kiện của Thượng đế; nó không phải là loại tình yêu ủy mị, mềm mỏng mà hầu hết mọi người thường nghĩ. Tình thương vô điều kiện sẽ không để yên cho con đứng mãi trong một ý niệm bản sắc giới hạn. Cho nên nếu con cứ khăng khăng ôm giữ các giới hạn đó, thì một người đã đạt được một mức quả vị Ki-tô nào đó sẽ có thể trở thành một cánh cửa mở để cho tình thương vô điều kiện tỏ lộ. Tình thương vô điều kiện này có thể diễn đạt một cách rất nghiêm nghị hầu gây sốc khiến con phải bước ra khỏi trạng thái tâm thức hiện thời của con, và ở cùng cực, trạng thái tâm thức này sẽ dẫn con đến sự tự hủy diệt. Đương nhiên tình thương vô điều kiện sẽ không muốn con tự hủy dịêt, cho nên nó sẵn lòng bày tỏ một cách vô cùng thẳng thắn để con hiểu rõ là con đang đứng ở bở bên kia của quy luật Thượng đế.

Điều ta cũng muốn nói là trong một vài dịp đã được thuật lại trong kinh thánh, cá nhân ta đã từng trở thành công cụ cho tình thương vô điều kiện đó của Thượng đế. Những dịp đó thường bị hiểu lầm là nỗi giận nhân thế, và suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã lấy chuyện đó làm cái cớ để họ bộc lộ sự nóng giận phàm phu của họ. Điều này thật đáng tiếc, vì nó ngăn cản họ giải quyết căn nguyên của sự nóng giận phàm phu để mà vươn lên một mức tâm thức cao hơn.

Ta cũng nhìn nhận là có những lúc ta đã biểu lộ một nỗi giận nhân thế, và có một ví dụ là khi ta nguyền rủa cây sung, như ta đã từng giải thích. Con thấy đó, ngược hẳn với các niềm tin sùng bái thần tượng của bao tín đồ Cơ đốc giáo, ta đã không hề là một con người toàn hảo, và trước khi lên thập tự giá, ta cũng chưa giải quyết xong mọi khía cạnh tâm lý của mình. Ta đã có thể đạt tới điểm đó nếu ta có thêm chút thời gian, nhưng do các biến cố dồn dập xảy đến, ta đã chưa giải quyết xong mọi khía cạnh của các vết thương lẫn các điểm tắc nghẽn trong tâm lý trước khi bị đóng đinh.

Tuy nhiên, con hãy cảnh giác xu hướng của các thày giả muốn con nghĩ rằng nếu con là người tâm linh thì con phải toàn hảo theo một chuẩn mực mà không ai có thể định nghĩa rõ ràng là gì. Sứ vụ của ta cách đây 2000 năm thật không dễ dàng. Ta đã sống qua những thời buổi khó khăn, ta đã cảm xúc, và ta đã biểu lộ những cảm xúc của con người nhân thế. Tương tự như vậy, sứ vụ của các con ngày nay cũng không dễ dàng, cho nên nếu có lúc con có cảm xúc nhân phàm thì điều này cũng là bình thường, tự nhiên.

Nhưng một khi hoàn cảnh trôi qua thì ta buông bỏ các cảm xúc đó. Nói cách khác, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, có thể con sẽ vẫn còn một số cảm xúc nhân thế. Chỉ dấu của một người đang tiến lên quả vị Ki-tô không phải là người đó toàn hảo, người đó không bao giờ cảm thấy hay không bao giờ biểu lộ cảm xúc nhân thế. Mà chỉ dấu là người đó có khả năng buông bỏ cảm xúc nhanh chóng để bước đi tiếp trong sứ vụ của mình. Con không cho phép cảm xúc của mình điều khiển cuộc đời mình, mà con để yên cho cảm xúc xuôi chảy tự nhiên, rồi sau đó con quay trở lại với bước đường của con.

Phong thủy dựa trên một hiểu biết xác đáng về năng lượng

Hỏi: Con đang tính xây một căn nhà mới mà con sẽ cần sắp đặt và trang trí. Xin thày vui lòng cho biết quan điểm và hướng dẫn về khoa phong thủy, chẳng hạn như sử dụng số học, màu sắc và vị trí các phòng? Con đã đọc một hai cuốn sách của Lillian Too, rất thú vị, nhưng một số thông tin có vẻ mê tín dị đoan, chẳng hạn như số nhà đặt theo một hướng nào đó sẽ đem lại “xui xẻo”. Con muốn nhà con đặt theo vị trí tốt. Con cũng biết là việc thỉnh cầu Ánh sáng là cách bảo vệ cao nhất, và có lẽ đây là cách hay nhất để con tiến hành thay vì cứ lo lắng về phong thủy. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trong mấy thế kỷ vừa qua, thế giới Tây phương đã chứng kiến sự thành công ngoạn mục mà khoa học và công nghệ đã đem lại. Một tác dụng phụ của thành quả này là nhiều người đã trở nên kiêu ngạo và cho rằng bất cứ gì không được nền văn hóa khoa học hiện đại đem đến đều không thể có giá trị. Nhiều người cảm thấy là nếu một lời dạy không được biểu đạt bằng thuật ngữ khoa học, hoặc không được xác nhận bằng thí nghiệm khoa học, thì không có cách chi đó là lời dạy có giá trị. Một số người còn cho rằng bất cứ gì đã được phát minh trước khi thời đại khoa học thăng hoa cũng không thể có giá trị. Những quan điểm như vậy là thiển cận và phần nào kiêu ngạo.

Thực tế đơn giản là nền văn hóa khoa học hiện đại chỉ mới hiện hữu trong một thời gian rất ngắn, thế mà nó đã gây ra một số vấn nạn có khả năng đe dọa sự tồn tại lâu dài của nó. Ngược lại có một số nền văn hiến, trong đó có văn minh Trung quốc cổ đại, đã tồn hữu hàng thiên niên kỷ. Đáng lý sự kiện này phải khiến cho người ta ngẫm nghĩ liệu những nền văn minh lâu đời đó có thể đã có những phát minh giá trị, ngay cả khi chưa được khoa học hiện đại thông hiểu hay xác nhận.

Như con cũng biết, cách đây 500 năm nhiều người nghĩ rằng trái đất này bằng phẳng, thế nhưng trái đất thời đó đã tròn y hệt như bây giờ. Chưa đầy một thế kỷ trước, Albert Einstein khám phá mọi vật đều được cấu tạo bằng năng lượng, thế nhưng vũ trụ đã được cấu tạo bằng năng lượng ngay từ buổi đầu rồi. Nhiều nền văn minh cổ đại đã hiểu bằng trực giác là mọi vật đều cấu tạo bằng năng lượng, và do đó họ cũng hiểu là năng lượng ảnh hưởng đến mọi thành phần của cuộc sống. Chẳng hạn, văn minh Trung quốc cổ đại đã đưa ra một số lời dạy về năng lượng và dòng chảy năng lượng, và những ví dụ được người ta biết đến nhiều nhất là Thái cực, châm cứu và phong thủy. 

Điều ta muốn nói ở đây là phong thủy dựa trên một sự hiểu biết xác đáng về năng lượng, về dòng chảy của năng lượng, về cách năng lượng ảnh hưởng đến trường năng lượng của con người cũng như sức khỏe toàn diện của con người. Quả thật, giáo lý tâm linh làm nền tảng cho khoa phong thủy đã được các chân sư thăng thiên ban truyền cho con người, và đó là những giáo lý chính đáng. Giáo lý đã được diễn tả một cách giản dị trong ngôn ngữ của thời đó, một ngôn ngữ không hề thô sơ mà chỉ khác biệt so với ngôn ngữ khoa học hiện đại.

Tiếc thay, như ta đã giải thích suốt trang mạng này, điều xảy ra cho hầu hết các giáo lý tâm linh nguyên thủy là với thời gian, giáo lý đã bị biến đổi bởi những người không hiểu thấu. Trong nhiều trường hợp, mối liên kết trực giác ban đầu với các chân sư thăng thiên đã bị cắt đứt, và từ đó trở đi, người ta đã bắt đầu thêm vào những cách diễn giải dựa trên trí thức phàm phu, thường khi là tâm nhị nguyên. Điều này thường dẫn đến những phát triển sau này khác xa, thậm chí còn trực tiếp đi ngược lại những giáo lý tâm linh ban đầu. Phong thủy là một ví dụ của sự kiện đó, và đạo Cơ đốc cũng vậy.

Như con chỉ ra rất xác đáng, một số lời dạy được tìm thấy trong ngành phong thủy hiện nay rõ ràng là chuyện mê tín dị đoan, trái với lẽ thường. Việc sử dụng phong thủy trong thế giới hiện đại là hữu lý, nhưng con sẽ được hưởng lợi muôn phần nếu con biết sử dụng trực giác và khả năng phân biện Ki-tô của con.

Con cũng cần lưu ý rằng phong thủy không bao giờ là một bộ môn khoa học chính xác. Nó không bao giờ được ban truyền để bị biến thành một tiến trình máy móc giống như nền công nghệ hiện đại. Phong thủy luôn luôn được hiểu là một giáo lý trực giác, có nghĩa là các lời dạy vỏ ngoài chỉ được dùng như lời hướng dẫn được trực nhận, và được diễn giải cho thích hợp với từng cá nhân, từng hoàn cảnh riêng biệt. Đó là tại sao một nhà phong thủy tài ba không chỉ đơn giản là một chuyên viên, mà là một người có nhiều trực quan.

Sự quan tâm của con về đề tài này cho thấy là con đã nhận được sáng ngộ trực giác từ cái ta Ki-tô của con rằng phong thủy là một lời dạy hữu lý và quan trọng mà con có thể đưa vào thiết kế căn nhà mới của con. Điều con cần làm là học hỏi lời dạy của phong thủy, hoặc có lẽ tham khảo một nhà phong thủy lành nghề, và sau đó suốt tiến trình thiết kế, con hãy sử dụng trực giác và phân biện Ki-tô của mình, như con đang làm. Hãy cho phép cái ta Ki-tô hướng dẫn con đến lời dạy hữu ích nhất cho con, và bỏ qua những lời dạy không hợp lý đối với con. Khi con xây một căn nhà và tham gia vào việc thiết kế, căn nhà của con nên là sự biểu hiện con người của con cũng như mức phát triển tâm linh hiện thời của con. Cho nên con đừng lo ngại sử dụng các nguyên tắc của phong thủy làm chỉ đạo, rồi con diễn giải những nguyên tắc đó dựa theo phân biện Ki-tô. 

Như con đã chỉ ra, việc thỉnh cầu ánh sáng trong suốt tiến trình cũng quan trọng, và chắc chắn con không được sao lãng. Tuy nhiên, không có lý do gì mà con không thể phối hợp lời day của phong thủy với việc thỉnh cầu ánh sáng. Làm như vậy có thể đem lại cho con một căn nhà sẽ hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. 

Tuy nhiên, hãy cho ta nhắc nhở thêm một điều quan trọng, là con cần giữ cân bằng trong mọi chuyện. Phần quan trọng nhất trong việc phát triển tâm linh là con tiếp xúc trong nội tâm với cái ta Ki-tô. Mọi chuyện vỏ ngoài phải là phụ thuộc so với mối liên lạc nội tâm đó, kể cả căn nhà con ở hay thực phẩm con ăn. Đó là tại sao ta có nói rằng, điều làm con ô uế không phải là cái con bỏ vào miệng mà là cái đi ra khỏi miệng. Câu nói đó có mục đích minh họa ý tưởng mà ta đưa ra ở đây, là những thứ vỏ ngoài trong thế giới vật chất luôn luôn là thứ yếu so với những điều nội tâm trong chính tâm lý con, cũng như sự nối kết của con với cái ta Ki-tô. Cho nên con hãy để cho phong thủy làm đầy tớ cho con, chứ đừng để nó trở thành chủ. 

Nhiều tôn giáo có thể làm nền tảng cho quả vị Ki-tô

Hỏi: Giê-su thân yêu, thày công nhận là có những vị thánh… là những người đã đạt tới mức tâm linh để trở thành những sinh thể Ki-tô. Nhưng họ đã đạt đến mức đó qua một tôn giáo giả trá… Giáo hội Công giáo. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Không có một tôn giáo nào trên địa cầu chứa đựng 100% chân lý, và không có tôn giáo nào trên địa cầu chứa đựng 100% sai lầm. Cho dù Giáo hội Công giáo đã làm tha hóa giáo lý đích thực của ta theo nhiều cách, đặc biệt đã biến ta thành một thần tượng, vẫn có những yếu tố chân lý trong đạo Công giáo.

Khi con tăng triển trên đường tu tâm linh, con sẽ rèn giũa khả năng phân biện đâu là sự thật và đâu là sai lầm, đâu là Chân lý Hằng sống của Thượng đế và đâu là giáo điều do con người dựng ra.  Khi con nhận diện một mảnh sự thật, con có thể tham thiền về sự thật đó cho đến khi con thể nhập – qua đó, mảnh sự thật đó có thể trở thành chất men làm nở nguyên ổ bánh là tâm thức của con, và toàn bộ tâm thức con vươn lên đến tận tầng cấp mà sự thật đã được ban ra.

Mong muốn ban đầu của ta cho đạo Ki-tô là nó sẽ trở thành một phong trào mà qua đó đại đa số loài người có thể rút tỉa uy lực để trụ neo vững chắc vào con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Do giáo lý nguyên thủy của ta bị tha hóa, phần lớn bởi Giáo hội Công giáo, điều đó đơn giản đã không thể thực hiện cho hầu hết mọi người. Đó là tại sao tuyệt đại đa số các tín hữu Cơ đốc đã đi theo con đường có vẻ đúng cho con người phàm phu, nhưng cuối cùng sẽ là con đường của sự chết. Con đường đó là ý tưởng cho rằng mình phải chờ đợi một vị cứu tinh sẽ đến từ ngoài để giải cứu mình.

Nhưng dù sao, vẫn có những mảnh sự thật còn sót lại trong đạo Cơ đốc mà một dòng sống trưởng thành có thể sử dụng để nâng cao tâm thức mình. Nếu con tìm hiểu cuộc đời của một số vị thánh, và con đọc được giữa hai hàng chữ để nhận ra những gì không nhất thiết được viết ra trong tiểu sự hay tự truyện của họ, con sẽ thấy là nhiều vị thành cuối cùng đã trở thành những nhà thần bí. Họ đã nhìn xa hơn các giáo điều vỏ ngoài do con người tạo ra, và họ đã khám phá chân lý nội tâm vẫn nằm ở đó, cho dù là nằm đằng sau giáo lý công truyền. Họ đã thể nhập chân lý nội tâm đó và ngộ ra là ta đã đến để kêu gọi loài người khoác vào tâm Ki-tô.

Bằng cách tham thiền về cuộc đời của ta, các dòng sống trưởng thành có thể thể nhập lời dạy của ta cũng như Bản thể của ta, đến độ dòng sống đó đạt được quả vị Ki-tô. Thậm chí con có thể đạt quả vị Ki-tô bằng cách tham thiền về Tim Thánh của ta cho đến khi con hoàn toàn thể nhập rung động Tim Thánh.

Điều ta nói ở đây là không có một tôn giáo vỏ ngoài nào có thể đưa con đến quả vị Ki-tô một cách máy móc. Cho dù tôn giáo mà con theo có cho con một mức độ chân lý rất cao, vẫn không bảo đảm là con sẽ đạt được quả vị Ki-tô. Con chỉ đến được quả vị Ki-tô bằng cách bước xa hơn chân lý đã được viết xuống và biểu đạt thành lời. Con chỉ đạt được quả vị Ki-tô bằng cách thể nhập rung động của chân lý, tức là nhiều hơn những từ ngữ, những giáo điều và nghi lễ vỏ ngoài.

Vì vây, đối với một dòng sống trưởng thành, việc đạt được quả vị Ki-tô là một điều khả thi qua trung gian bất kỳ tôn giáo nào trên trái đất – hay bằng cách không theo một tôn giáo nào. Tuy nhiên, đây không phải là cái cớ cho tôn giáo làm tha hóa lời dạy đích thực của ta.

Như ta đã trình bày, ta muốn mọi người – chứ không chỉ các dòng sống trưởng thành – trụ vững trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Vì vậy, Giáo hội Công giáo đã thiếu sót một cách tệ hại trong việc cống hiến con đường Ki-tô cho mọi người. Giáo hội đã làm y như các thày thông giáo thuở xưa, là tước đi chìa khóa của hiểu biết, bởi vì chính các lãnh đạo của giáo hội này không muốn bước vào, cho nên họ mới tìm cách cản trở những ai muốn bước vào. Khốn cho những thày thông giáo vẫn tiếp tục tước mất chìa khóa của hiểu biết cho tới ngày nay.

Maitreya có phải là đấng cứu tinh đích thực?

Hỏi: Có đúng chăng đức Maitreya [Phật Di Lặc] là vị cứu tinh sắp tới sẽ xuất hiện trong một biểu hiện không thể phủ nhận và sẽ đưa địa cầu cùng nhân loại vào một thời đại hoàng kim? Có đúng chăng đức Maitreya đã hiện thân trong cõi vật lý?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 23/11/2010. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con đọc các bài giảng của ta về con đường chân chính của Ki-tô, con sẽ thấy là chúng tôi các chân sư thăng thiên có mục đích đánh thức tất cả mọi người về nguồn gốc và tiềm năng thần thánh của mình bằng cách giúp con người khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng của phản-Ki-tô. Điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ không đến “cứu nhân loại” và cũng sẽ không xuất hiện trong một biểu hiện ngoạn mục mà không ai có thể chối cãi. Làm như vậy sẽ chỉ củng cố thêm cho ảo tưởng tách biệt, và điều này sẽ đi ngược lại sứ vụ thực sự của chúng tôi.

Nếu muốn hành tinh này được nâng lên để bước vào một Thời đại Hoàng kim, thì điều này sẽ không xảy ra do một thế lực bên ngoài – cho dù đó là chính ta, là Maitreya hay là một UFO (vật thể bay không xác định) nào đó sẽ ra tay làm mọi chuyện dùm cho loài người. Mà điều đó sẽ xảy ra do có một túc số tới hạn (critical mass) những con người trên hành tinh này phát hiện và nhận diện chính tiềm năng Ki-tô của mình. Thượng đế sẽ không giải cứu địa cầu qua trung gian của ta, mà Thượng đế sẽ giải cứu thế giới qua trung gian chính con cùng rất nhiều người giống như con – nếu các con trở thành những cánh cửa mở.

Cho nên lập luận cho rằng Maitreya sẽ hiện ra trong một biểu hiện thật ngoạn mục và sẽ giải quyết mọi vấn đề của nhân loại, là hoàn toàn không phù hợp với các chân sư thăng thiên cũng như với thời đại Bảo bình. Đó là một biểu hiện của tâm thức tha hóa thời Song ngư và từ lâu nay đã lỗi thời rồi. Đây là cùng cái tâm thức của các sinh thể sa ngã khi chúng tâng bốc ta lên thành một ngoại lệ để khiến mọi người không thể nào nắm bắt được thông điệp đích thực của ta rằng ai ai cũng đều có một tiềm năng Ki-tô.

Tương tự, lời cả quyết rằng Maitreya đã hiện thân vật lý cũng không phù hợp với lời dạy của đạo Phật về đức Phật tương lai. Maitreya sẽ không hiện thân như một người độc nhất. Maitreya sẽ có thể “hiện thân” qua nhiều người, là những người đã trở thành cánh cửa mở cho thày cùng ánh sáng và sự thật của thày. Tuy nhiên, điều này sẽ không hoàn toàn là một sự hiện thân, không hơn gì khi bảo rằng Thượng đế đã hiện thân qua chính bản thân ta khi ta đầu thai là một con người. Nói cách khác, sự viên mãn của một sinh thể thăng thiên sẽ không hiện thân qua một cá nhân hay ngay cả một nhóm người.

Là sứ giả trong Thời đại Bảo bình

Hỏi: Con ngạc nhiên khi được biết là các chân sư thăng thiên đôi khi nói cho người nghe những gì họ muốn nghe, thay vì thách đố các tin tưởng của họ. Thày có thể cho con một tầm hiểu sâu hơn về lý do tại sao như vậy? Hơn nữa, các giáo lý về bất nhị liên hệ thế nào với cái nhìn đó? Liệu một người ở trong tư duy nhị nguyên có thể nào trở thành sứ giả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một trong những sự thật cơ bản về việc khải thị hay truyền đạt từ cõi tâm linh là người giữ vai trò sứ giả sẽ chỉ hữu dụng cho các chân sư thăng thiên khi người đó trung hòa về một đề tài nào đó. Cho nên nếu người truyền đạt có một ham muốn hay một quan điểm mạnh mẽ, thì người đó sẽ dễ dàng bắt sóng từ những sinh thể nơi các cõi thấp. Sẽ có những sinh thể sẵn sàng nói bất cứ gì người ta muốn nghe để thu hút sự chú ý và do đó cũng thu hút ánh sáng tâm linh của những người này. Ý ta muốn nói là một người với tư duy đen trắng hay một người với tư duy xám đều không thích hợp để làm sứ giả.

Là một người tầm đạo, con cần quyết định liệu con có muốn nhận thông điệp từ những sinh thể nói cho con nghe những gì con muốn nghe – và như vậy cũng sẽ xác nhận hộp tư duy của con và khiến con khó nhìn vượt ra ngoài – hay con sẽ muốn nhận thông điệp từ những sinh thể nói với con những gì con cần nghe hầu con thăng vượt hộp tư duy của con. Chỉ các chân sư thăng thiên mới tự do nói cho con những điều con cần nghe vì các thày không cần bất cứ gì từ con. Các thày tự đủ về mặt tâm linh và không cần đến ánh sáng của con.

Tuy nhiên các thày, các chân sư thăng thiên, thỉnh thoảng cũng đã nói cho người ta nghe những gì họ muốn nghe, vì một khi họ đóng chặt tâm họ lại về một tình trạng nào đó – chẳng hạn như lòng kiêu mạn tâm linh – thì chọn lựa duy nhất còn lại cho các thày là đưa ra những lời sẽ khuếch đại tình trạng đó lên để khiến nó lộ ra rõ hơn và họ sẽ dễ nhìn thấy hơn. Ví dụ trong quá khứ, các thày đã có đưa ra những lời lẽ nhằm khuếch đại tư duy cuồng đại nơi một số người, khiến họ cảm thấy họ là đệ tử cao cấp nhất trên hành tình này. Tuy thế, các thày đã không bao giờ làm vậy mà không đồng thời ban truyền những lời dạy nhằm thách đố tình trạng đó và trao cho họ một phương cách thăng vượt tình trạng đó. Cho nên thử thách của họ là liệu họ sẽ chỉ bắt lấy những gì họ muốn nghe và bỏ qua những gì họ không muốn nghe.

Tuy nhiên với Thời đại Bảo bình vừa khai mạc, một sự xoay chuyển đã xảy ra. Do đó các thày sẽ không còn dùng cách thức đó nữa và sẽ chỉ nói cho mọi người những gì họ cần nghe, hầu họ có được một khung tham chiếu để thách đố các ảo tưởng của tự ngã. Đồng thời, điều này cũng có nghĩa là các thày không còn có thể sử dụng bất kỳ sứ giả nào không trung hòa.

Nếu có ai vô cùng mong muốn thấy một quan điểm là đúng thì người đó không thể giúp được các thày nữa. Nếu họ có những dính mắc cá nhân kiên cố, đặc biết nếu họ tự cho mình là tốt đẹp hơn người hay không thể sai lầm, thì họ không thể làm sứ giả cho các thày được nữa. Nếu họ có những ác cảm cá nhân, không hoàn toàn trung hòa và không khoan dung đối với mọi người, thì họ không thể được dùng làm sứ giả nữa. Nói cách khác, trong thời đại của tự do, các thày cần đến những sứ giả đủ tự do để nhận được thông điệp mà không thêm vào bất cứ màu sắc nhị nguyên nào. Tất nhiên, luôn luôn sẽ có một sự tô màu nào đó do cá tính cùng gốc gác văn hóa của người đó, nhưng màu sắc này không giống như màu sắc nhị nguyên.      

Con thấy đó – phải không con? – điều hợp lý là muốn trở thành một sứ giả chính đáng trong thời đại tự do, con phải trước tiên đạt được một trình độ tự do bản thân cao độ. Con cần nhìn nhận là trong Thời đại Song ngư vừa qua, tư duy cuồng đại là một trong những thách đố lớn nhất mà con người cần vượt qua. Cho nên các thày đã, và đã có thể, ủy nhiệm một số vị sứ giả vẫn còn trong tư duy đó. Những vị đó đã được phép “tô màu” giáo lý của tổ chức họ với tư tưởng cuồng đại cho rằng có một cuộc chiến giữa thiện và ác. Nhưng đồng thời, tổ chức đó cũng đã đưa ra những lời dạy hướng đến một tâm thức vượt khỏi đấu tranh nhị nguyên.

Thời đại Bảo bình này sẽ chỉ biến thành một Thời đại Hoàng kim nếu đại đa số người tâm linh thăng vượt tư duy cuồng đại. Cho nên các thày sẽ không còn dùng bất kỳ sứ giả nào chưa thăng vượt được tư duy đó hay chưa có nỗ lực chân thành để thăng vượt nó. Bất cứ ai nhấn mạnh đến tranh đấu nhị nguyên và khuyến khích người khác tự xem mình là người tranh đấu cho cái thiện để chống lại cái ác, không phải là một sứ giả chân chính. Con không thể là một sứ giả trong Thời đại Bảo bình nếu con nghĩ con chống lại bất cứ ai hay bất cứ gì. Con cần thuận theo sự thật thay vì chống lại những gì con định nghĩa là dối trá bằng tư duy nhị nguyên.

Trong quá khứ, các chân sư thăng thiên đã ban ra nhiều giáo lý được thích ứng với những người còn trong tư duy nhị nguyên, và vì vậy các thày sẽ ngừng không đặt trọng điểm vào đó nữa mà sẽ tập trung vào giáo lý cho tư duy Thời đại Bảo bình dựa trên hợp nhất. Bởi vì chỉ trong hợp nhất mới có tự do, trong khi trong tách biệt chỉ có thể có giam hãm.

Nhưng tư duy cuồng đại cũng không thể được khắc phục bằng cách bước vào tư duy xám. Cho nên bất cứ sứ giả nào nhấn mạnh sự đồng đều mà không có phân biện Ki-tô thì, tương tự như trên, cũng sẽ không hữu dụng trong vai trò một sứ giả chân chính. Phân biện Ki-tô là một thế cân bằng tinh tế giữa hai yêu cầu: vừa không rơi vào một đối cực nhị nguyên, vừa không đứng giữa. Phân biện Ki-tô là thăng vượt nguyên cái thang điểm nhị nguyên và trải nghiệm một sự thật vượt ra ngoài ngôn từ. Nhưng một khi con biết sự thật đó rồi, con sẽ có khả năng nhận được những ngôn từ ít nhất không mang màu sắc nhị nguyên khi chúng đi qua tâm con.

Tất nhiên, điều này không đảm bảo là những ngôn từ đó sẽ không khoác vào một màu sắc nhị nguyên khi chúng đi qua tâm của người đọc. Tuy nhiên, đó không là mối quan tâm cho các thày vì các thày tôn trọng quyền tự quyết và không bị dính mắc vào cách người ta tiếp nhận giáo lý của các thày như thế nào. Các thày chỉ đơn giản cố tìm cách làm cho con đường thật dễ hiểu, và các thày mãn nguyện khi biết rằng mình đã trao cho mọi người một cơ hội để vượt thăng nhị nguyên. Nếu người ta thích đi rong thêm một vòng, hoặc trong một cực đoan phán xét nhị nguyên dựa trên hình dạng vỏ ngoài, hoặc trong cực đoan ngược lại là lòng hòa hoãn thiếu hẳn tính phân biện, thì cũng chịu thôi.   

Con có thực sự thấy những gì ta nói? Câu hỏi cơ yếu là liệu con – bất kể con là sứ giả hay đệ tử – con có hiểu được là sự thật Ki-tô vượt khỏi bất kỳ hệ thống nào tìm thấy trên trái đất, thậm chí vượt khỏi cả sự diễn tả của ngôn từ hay không? Cho nên nếu con có bất kỳ thành kiến nào muốn chứng thực một hệ thống, một triết lý hay ngay cả một thái độ nhất định, thì con sẽ không cởi mở với lời dạy của chân sư thăng thiên. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra với các sinh thể chưa thăng thiên, và quả vậy, họ sẽ xác nhận hệ thống của con.

Họ làm vậy chính là vì họ chưa đạt đến một trình độ điều ngự cho phép họ nhìn vượt quá nhị nguyên và thoát khỏi tâm phán xét – hay cái tâm thiếu phán xét – không có khả năng trực tiếp biết được sự thật. Cho nên các sinh thể này vẫn tin vào ảo tưởng cốt lõi cho rằng sự thật có thể được nhận biết qua ý tưởng và khái niệm thay vì bằng chứng ngộ (gnosis). Họ vẫn tin là con – như một chủ thể – có thể biết một khách thể, một đối tượng, qua một khái niệm trong tâm con. Kỳ thực, con sẽ chỉ thực sự biết được một khi cái Ta Biết của con hòa nhập với tâm thức đã kết đọng (precipitate) đối tượng đó, để hàng rào giữa chủ thể và khách thể tan biến.

Ai ai cũng có thể đạt đến sự chứng ngộ đó, nhưng đối với hầu hết mọi người, làm vậy sẽ tốn thời gian. Tuy nhiên, điều hầu hết mọi người có thể đạt được rất nhanh chóng là một cái hiểu về hai đối cực nhị nguyên cùng nhu cầu không để chúng lừa dối mình. Khi con bắt đầu hiểu bằng cách nào tâm nhị nguyên đã đánh lừa loài người từ hằng hà thiên kỷ, thì con sẽ khó lòng nào đưa một hệ thống thế gian lên địa vị cao trội rồi dùng hệ thống đó để phán xét người khác. Thay vào đó, con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn những loại hệ thống vỏ ngoài như vậy, thậm chí vượt xa hơn cả ngôn từ. Và khi học trò sẵn sàng cho một lời dạy cao hơn, thì đúng vậy, vị thày sẽ xuất hiện dưới dạng này hay dạng khác.

Đối với một học trò bị tâm nhị nguyên làm cho mù quáng, một vị thày bất nhị sẽ hiện ra như một con kiến, vì vị thày này sẽ không xác chứng cho cái nhìn cuồng đại của học trò. Vì vậy mới có lời khuyên muôn đời: “Nếu vị thày là một con kiến, con hãy lắng nghe!”

“Dấu hiệu từ Trời” có nghĩa là cái Ta Ki-tô đang cố liên lạc với con

Hỏi: Thưa thày Giê-su, không hiểu có chuyện “dấu hiệu từ Trời” hay không? Nếu con nhận xét thấy một số hiện tượng trong đời con, ví dụ như “thú vật quyền năng” [power animal, tức năng lượng tâm linh trong một vài truyền thống pháp sư shaman], hay liên tục nhận thấy một con số nhất định, hay như trong trường hợp của con nhận xét thấy những chiếc lông vũ, liệu đây có phải là sự xác nhận là con đang đi đúng đường? Khi một chiếc lông vũ hiện ra ở một nơi bất thường, điều này dường như đem lại an bình cho con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Phải, đó đúng là dấu hiệu “từ Thượng đế”. Các dấu hiệu này có thể mang nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cần hiểu tự thân dấu hiệu đó không phải là thông điệp. Cho nên con sẽ không bắt được thông điệp bằng cách cố diễn giải ý nghĩa của thông điệp là gì, và điểm này đã khiến cho nhiều người bị lầm lạc suốt các thời đại.

Con sẽ thấy một số người gần như bị ám ảnh phải cố tìm cho bằng được một dấu hiệu vỏ ngoài nào đó, và họ sẽ không lấy quyết định quan trọng nào nếu không nhận được dấu hiệu. Con thấy một số nền văn hóa đã đưa chuyện này đến mức cùng cực, chẳng hạn họ cố phỏng đoán ý muốn của thần linh qua việc đọc ruột những con vật được hiến tế. Thậm chí một số kẻ tầm đạo ngày nay cũng đi quá đà khi họ cố dùng tâm phân tích để bói toán qua thuật chiêm tinh, hay bói bài, hay một số biểu hiện ngoại cảnh nào đó.   

Ý ta muốn nói là điều thật quan trọng con cần hiểu là khái niệm “dấu hiệu từ Thượng đế” đã mang sẵn một sự mâu thuẫn nội tại, và nếu con không hiểu điều này thì sẽ thật dễ diễn giải sai lạc một dấu hiệu, thậm chí con còn chế tạo ra dấu hiệu trong tâm con. Ta đã có giải thích ở một nơi khác về tâm con người có xu hướng luôn tìm kiếm những khuôn mẫu quen thuộc trong những gì họ nhìn thấy.

Như ta giải thích khắp trang mạng này, con có một cái Ta Ki-tô đóng vai trò một vị thày tâm linh. Đa số mọi người không thể trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô của mình – mặc dù khả năng này có thể được trau dồi – cho nên họ nghe cái Ta Ki-tô của họ dưới hình dạng những sáng ngộ trực giác. Tiếc thay, hầu hết mọi người trong thế giới phương Tây đã không được nuôi dạy với hiểu biết về cái Ta Ki-tô hay giá trị của trực giác. Hậu quả là cái Ta Ki-tô rất khó lòng liên lạc với tâm ý thức của họ.

Nhiều người sống cả đời mà gần như không nhận được một thông điệp nào từ cái Ta Ki-tô của mình, và điều này khiến họ bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để tăng triển. Tuy nhiên khi một dòng sống bắt đầu thức tỉnh về khía cạnh tâm linh của cuộc sống thì họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn. Nếu họ chưa mài sắc khả năng trực giác đến mức có thể tiếp xúc rõ ràng với cái Ta Ki-tô, thì quả thực cái Ta Ki-tô có thể tìm cách liên lạc với tâm ý thức của họ qua một số dấu hiệu ngoại cảnh.

Nhưng con hãy lưu ý là cái Ta Ki-tô luôn sẵn lòng cho con một sáng ngộ trực giác không tùy thuộc hay không cần đến một dấu hiệu bên ngoài. Ý ta muốn nói là nếu con có sự kết nối trực giác rõ ràng rồi thì dấu hiệu bên ngoài thật không cần thiết. Tâm ý thức của con có thể nhận được sự hướng dẫn của cái Ta Ki-tô mà không có dấu hiệu nào từ ngoài. Cho nên khi con nhận được một dấu hiệu từ ngoài, rất có thể đó là vì con chưa phát triển trực giác đến mức trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô, cho nên cái Ta Ki-tô phải dùng một dấu hiệu bên ngoài để thu hút sự chú ý của con.

Con có thấy sự phân biệt quan trọng này không? Kỳ thực cái Ta Ki-tô không đang cố gửi cho con một thông điệp qua một dấu hiệu bên ngoài, mà nó đang cố thu hút sự chú ý của con để khiến con nhận biết là con cần dùng trực giác của con hòa điệu với nó. Cái Ta Ki-tô không đang dùng dấu hiệu để bảo con: “Hãy làm chuyện này đi!” Nó dùng dấu hiệu để nói: “Hãy thức dậy và lắng nghe ta trong tim con, vì đó là nơi ta sẽ nói cho con biết những gì con cần biết!” Trong nhiều trường hợp, sự hướng dẫn mà con cần phức tạp hơn rất nhiều những gì có thể được phát biểu qua một dấu hiệu bên ngoài.

Khác biệt này thật là cơ yếu, vì giờ đây con thấy rõ là thật vô ích mà cố gắng diễn giải dấu hiệu đó bằng cái tâm vỏ ngoài phân tích hay bằng cảm xúc. Con sẽ không bao giờ có thể dùng tâm vỏ ngoài để đến được thông điệp ở đằng sau dấu hiệu. Và đây là vấn đề cốt lõi. Dấu hiệu sẽ cần thiết khi người đó bị cuốn hút quá mức vào tâm phân tích hay bị choáng ngợp bởi cảm xúc tiêu cực, và vì vậy, cái Ta Ki-tô không tài nào chạm được tâm ý thức của họ một cách trực tiếp. Phương cách duy nhất còn lại là cái Ta Ki-tô sẽ cố trao cho họ một dấu hiệu bên ngoài mà tâm ý thức để ý thấy. Tuy vậy, cái tâm phân tích năng động quá đáng của họ, hay các cảm xúc mất thăng bằng của họ, sẽ dễ dàng chụp lấy rồi cố sức diễn giải thông điệp đằng sau dấu hiệu. Điều này đã khiến cho rất nhiều người hiểu sai một dấu hiệu và sử dụng nó để biện minh cho những gì lý trí hay cảm xúc muốn nghe.

Cho nên nếu con nhạy cảm với các loại dấu hiệu, con hãy biết rõ xu hướng này và nỗ lực vượt ra khỏi tâm vỏ ngoài. Trong dài hạn, con hãy dùng các dụng cụ ta ban truyền trên trang mạng này để xây dựng sự hòa điệu của con với cái Ta Ki-tô.

Con cũng lưu ý là lời dạy này áp dụng cho mọi phương thức bói toán. Khi nào con hòa điệu thì cái Ta Ki-tô luôn luôn sẵn lòng nói cho con biết những gì con cần biết. Cho nên con thực sự không cần sử dụng bất kỳ hình thức bói toán nào để phát hiện ý muốn của Thượng đế, hay bất cứ điều gì con người có thể muốn biết.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc sử dụng một số cách bói toán có thể có chút giá trị nào đó trong việc kích hoạt sáng ngộ trực giác. Nhưng con luôn luôn cần biết rằng không có một hình thức bói toán nào có thể cho con một kết quả đúng đắn qua tâm vỏ ngoài. Thay vì tìm cách mài giũa khả năng dùng bói toán, con sẽ đạt được kết quả lớn hơn gấp bội nếu con dành cùng nỗ lực này để thiết lập mối liên lạc rõ ràng với cái Ta Ki-tô của con. Ta mong lời này đã đủ cho những người khôn ngoan.

Đốn ngộ và tiệm ngộ

Hỏi: Một số vị thày tâm linh, đặc biệt trong số những vị dạy về bất nhị (non-duality), dường như bác bỏ hay thậm chí xem thường nhu cầu bước theo một con đường tu. Các vị đó dựa trên sự kiện là họ đã có chứng ngộ tự phát (spontaneous awakening) hay đốn ngộ, và một số dạy rằng đây là cách duy nhất và không có gì chúng con có thể làm để ngộ đạt. Một số cũng nói là việc duy nhất chúng con cần làm là sống trong giây phút hiện tại. Xin thày chia sẻ cảm nghĩ của thày vì thày thường hay nhắc đến một con đường tu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nhận xét đầu tiên của ta là không có giáo lý tâm linh nào có thể thích hợp với mọi người. Bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng bắt buộc phải được điều chỉnh để phù hợp với một tầng tâm thức nào đó. Khi con thấy các tầng tâm thức trên địa cầu này trải rộng trên một phạm vi rộng lớn như thế nào, thì thật không thể đưa ra một giáo lý thích hợp cho tất cả mọi người. Khi một vị thày tâm linh làm việc với các chân sư thăng thiên, vị ấy thường có thể đưa ra một giáo lý vượt quá kinh nghiệm riêng của mình. Nhưng khi một vị thày đứng riêng một mình thì giáo lý hầu như sẽ luôn luôn dựa trên kinh nghiệm cá nhân của vị ấy.

Việc này không có gì sai trái, nhưng con phải nhìn nhận là một giáo lý như vậy sẽ hiệu quả đối với những ai ở gần mức tâm thức của thày chứ không hiệu quả đối với người khác. Để ta lấy một ví dụ. Một vị thày có thể đã trải qua một bước đột phá tâm linh tự phát đưa ông lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Thế rồi ông giảng dạy dựa trên trải nghiệm này, và nói chung ông bỏ qua nhu cầu phải đi theo một con đường tu tuần tự có hệ thống. Ông cố đưa đệ tử đi vào một trải nghiệm tương tự như trải nghiệm của chính ông, và ông làm vậy bằng cách chia sẻ các sáng ngộ mà ông đã nhận được sau khi đột phá.

Giả định nằm sâu bên dưới là nếu đệ tử nhận được sáng ngộ đúng đắn thì đệ tử cũng sẽ có được đốn ngộ giống như ông đã trải nghiệm. Đúng là điều này có thể xảy ra, nhưng chỉ với những ai đã gần đạt đến mức tâm thức mà ông đã có trước khi ngộ. Thế nhưng tuyệt đại đa số mọi người trên hành tinh này thì chưa đạt đến mức đó, cho nên không có một khối lượng sáng ngộ nào sẽ có thể đánh thức họ dậy một cách “tự phát” được. 

Nhiều vị thày tâm linh đã có một đột phá tự phát và tìm cách truyền đạt nó cho người khác. Một số vị như Krishnamurti chẳng hạn đã đi xa đến mức phủ nhận cả sự cần thiết của một con đường tâm linh lẫn của một vị thày tâm linh, cho dù là thày đang hiện thân hay đã thăng thiên. Tuy nhiên đối với những ai chưa đến gần được trình độ tâm thức của thày, kết quả cũng giống như thể con cầm một viên kẹo ngọt trước mặt một đứa bé trong khi con lại lái xe đi mất.

Hầu hết mọi người sẽ cần đi theo một đường tu tuần tự, có hệ thống, trước khi họ vươn đến một tầng tâm thức nơi họ có thể đột phá. Và điều này đòi hỏi một nỗ lực chuyên cần, bao gồm cả một số kỹ thuật tâm linh như các bài thỉnh, bài nguyện. Nếu họ cứ tin rằng tất cả những gì họ cần là một sáng ngộ đem lại cho họ một đột phá huyền diệu, thì điều này có thể làm chậm đáng kể bước tiến của họ. Con hãy tưởng tượng con đang bị lạc giữa rừng rậm. Bỗng nhiên ở trên cao con nghe thấy có tiếng máy bay trực thăng và có giọng ai đó vọng xuống: “Bạn hãy lên đây thì bạn sẽ thấy được lối ra khỏi khu rừng!” Nhưng nếu trên trực thăng không ném xuống một cái thang để con leo lên từng bước một thì làm thế nào con sẽ lên được tới mức đó?

Ý ta muốn nói là nhiều người gọi trải nghiệm của họ là đốn ngộ nhưng thật ra họ đã theo một con đường tu tuần tự, tiệm ngộ, trong những kiếp trước. Bây giờ họ có thể không còn nhớ, nhưng ở một thời điểm họ đã từng làm công việc này. Cho nên ta khuyên các đệ tử đừng bỏ các dụng cụ tâm linh, đừng bỏ đọc thỉnh đọc chú chẳng hạn.

Nhưng ở đây có một sự phân biện tinh tế mà con cần làm. Theo một nghĩa nào đó, thật là không sai khi bảo rằng con không thể LÀM gì để đạt đến giác ngộ. Bước đột phá chót của con phải xảy ra và sẽ xảy ra một cách tự phát qua một hồng ân được ban phát từ trên. Con không thể ép buộc nó xảy ra cho dù con có làm gì. Đây là tại sao ta thường hay nói đường tu không phải là một con đường vỏ ngoài máy móc và không có sự cứu rỗi nào là tự động hay bảo đảm.

Có thể nói là không có gì con có thể LÀM để đạt giác ngộ, vì điều ngăn cản con giác ngộ chính là cái tâm thức phải LÀM gì đó thay vì chỉ LÀ mà thôi. Tuy nhiên, điều ngăn cản con LÀ lại là sự phối hợp những niềm tin sai lạc với những năng lượng tha hóa được tích tụ trong bốn thể phàm của con. Nếu bỗng chốc có ai lột mất tất cả các niềm tin sai lạc này thì con sẽ phát điên, vì con sẽ không còn biết mình là ai nữa. Đó là vì sao cách duy nhất để tăng triển là bước theo một con đường tuần tự qua đó con biến hóa các năng lượng tha hóa và nhìn thấu các niềm tin bất toàn.

Và khi con làm sạch tâm con cho không còn các năng lượng và niềm tin này nữa, con sẽ giảm bớt từ lực đang cuốn hút con vào cái làm và cái nghĩ. Và điều này sẽ đưa con đến gần hơn với trạng thái mà Thiền gia gọi là “sơ tâm” – và ta thì gọi là trở thành giống như trẻ nhỏ. Thật không khó lắm để thấy được là hầu hết ai ai cũng đều bị vướng kẹt trong những vòng xoáy bất tận của hành động và phản ứng. Tâm thức tập thể này hình thành một cái gì giống như một thỏi nam châm khổng lồ. Con hãy tưởng tượng con đang đi ngang qua một thỏi nam châm to lớn mà trong túi lại có nhiều cục sắt. Nam châm sẽ hút lấy sắt và con sẽ bị cuốn hút theo. Tuy nhiên nếu con tuần tự vứt bỏ những cục sắt này đi thì lực hút kia sẽ giảm dần cho đến khi con có thể bước sát thỏi nam châm mà nó vẫn không thể nắm được gì ở con.

Cho nên có thể nói giác ngộ là trạng thái tự nhiên của tâm. Vấn đề xảy ra là tâm đã bị kẹt vào một mô thức làm và nghĩ, và mô thức này khiến nó luôn luôn bị bận rộn đeo đuổi một mục tiêu mà nó chưa nắm được. Cho nên nếu giác ngộ cũng trở thành một mục tiêu khác mà con cố đạt được bằng cách làm và nghĩ, thì đúng vậy, chính nỗ lực này sẽ kéo con xa khỏi giác ngộ. Tuy nhiên, điều kéo con vào cái làm và cái nghĩ chính là các niềm tin cùng các năng lượng kia. Nếu con vứt bỏ chúng đi, con sẽ dần dần đến gần hơn trạng thái tự nhiên. Và khi tâm đủ sạch không còn nhiều chướng ngại nữa, nó sẽ trở về trạng thái tự nhiên của nó một cách tự phát, không cần chút nỗ lực nào.

Và như vậy con sẽ có một bước đột phá tự phát có vẻ giống như đốn ngộ vậy, và theo một nghĩa nào đó, đó là đốn ngộ. Nhưng nếu con đã không đi theo con đường tiệm ngộ để làm sạch tâm con thì có bao giờ con có được cái ngộ này?

Một số vị thày nói rằng đa số người phương Tây suy nghĩ quá nhiều về quá khứ và tương lai. Tự ngã dùng quá khứ và tương lai để khuynh loát con người, nhưng tự ngã không thể hoạt động trong giây phút hiện tại, cho nên các vị thày khuyên đệ tử tập trung nhiều hơn vào hiện tại. Cách tiếp cận này không có gì sai vì quá nhiều người vẫn mang xu hướng chú tâm quá nhiều vào quá khứ lẫn tương lai. Đây là tại sao ta đã từng nói: “Vậy chớ lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày nấy.” (Matthew 6:34)

Ta đồng ý là tự ngã cảm thấy rất khó hoạt động trong giây phút hiện tại, và nếu con thực sự tỉnh thức trong hiện tại vĩnh cửu thì tự ngã sẽ không có chút ảnh hưởng nào trên con. Tuy nhiên, khi bảo đệ tử nên tập trung vào hiện tại thì điều này sẽ chỉ hữu ích cho những ai đã đạt đến một tầng tâm thức nào đó. Con cần một trình độ trưởng thành tâm linh cao để thực sự LÀ trong hiện tại, và cho đến khi con đạt đến mức này thì con sẽ không có khả năng LÀ.

Cho nên khi một đệ tử được dạy là họ phải ở trong hiện tại, kỳ thực họ không thể nào trải nghiệm cái LÀ trong hiện tại. Thay vào đó, họ sẽ hình thành một khái niệm trong lý trí về thế nào là ở trong hiện tại – dựa trên sự hướng dẫn của vị thày thay vì dựa trên kinh nghiệm cá nhân của họ. Và ở đây tự ngã sẽ dư sức khuynh đảo bất kỳ khái niệm tư tưởng nào mà con người tạo ra. Điều này sẽ dễ dàng dẫn một số người bước vào một cách tiếp cận mất quân bình về cái là trong hiện tại. Thật ra khái niệm LÀ trong hiện tại không mới mẻ gì, vì đức Phật đã đầu tiên dạy về khái niệm này, rồi suốt bao nhiêu thế kỷ nhiều người đã đi theo một cách tiếp cận mất quân bình khiến họ rơi vào một trong hai cực đoan:

  • Một số người suy luận, LÀ trong hiện tại có nghĩa là họ có thể làm ngơ quá khứ. Bằng cách đốn ngộ, họ sẽ khắc phục được quá khứ mà không phải đương đầu với nghiệp quả hay các vết thương tâm lý. Cho nên họ bắt đầu tìm kiếm một sáng ngộ thần diệu sẽ làm mọi chuyện giùm họ. Một lần nữa, một sự đột phá có thể xảy ra nếu trong kiếp trước họ đã khắc phục nghiệp chướng cùng các vết thương của họ, nhưng đối với hầu hết mọi người thì không như vậy. Cho nên đối với đa số, việc làm ngơ quá khứ sẽ khiến cho bước tiến của họ bị chậm lại. Họ có thể tiến nhanh hơn rất nhiều nếu họ dùng tất cả các phương tiện có sẵn để giải quyết tâm lý của họ, khắc phục các niềm tin nhị nguyên và thanh tẩy mọi năng lượng tha hóa – tức là nghiệp – từ những kiếp trước.
  • Một số người suy luận là họ có thể ngừng suy nghĩ về tương lai, kể cả việc hoạch định cuộc đời của họ. Một số còn đi xa tới mức cho rằng Thượng đế sẽ chăm lo mọi chuyện một cách mầu nhiệm, và điều này đã khiến một vài người tầm đạo chân thành tự vận qua sự buông xuôi. Đây chính là cái chiêu mà ác quỷ đã sử dụng để cám dỗ ta sau khi ta trở về từ đồng vắng: “Và y nói rằng: Nếu ngươi là Con của Thượng đế thì hãy gieo mình xuống đi. Vì có lời chép rằng: Ngài sẽ truyền các thiên sứ gìn giữ cho ngươi, để các thiên sứ nâng ngươi lên trong tay, kẻo chân ngươi khỏi vấp phải đá. Giê-su bảo y: Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng cám dỗ đức Chúa là Thượng đế của ngươi.” (Matthew 4:6-7)     

Ý ta muốn nói là con nên có một cách tiếp cận cân bằng cho mọi chuyện trong đời. Con hãy biết là tự ngã sẽ luôn luôn tìm cách đẩy con vào cực đoan dù là bên này hay bên kia.

Một điểm chót mà ta muốn trình bày là một số vị thày đưa ra lời dạy về tâm có thể dễ dàng bị người ta ngộ nhận, rằng tâm là kẻ thù của đường tăng triển tâm linh. Quả là không sai khi nói rằng một tâm trí năng động quá mức, đặc biệt một trí thông minh đã nẩy nở sành điệu, có thể là một trở ngại cho sự phát triển tâm linh, vì tâm linh vốn là một tiến trình trực giác nhiều hơn là trí năng. Tuy nhiên, nếu con tin chính tâm con là một kẻ thù thì cách tiếp cận này không xây dựng, vì nó sẽ chỉ khiến con trở thành một căn nhà phân rẽ với chính nó.

Cách nhìn đúng đắn là tâm giống như một căn nhà có đầy tớ phục vụ. Nó chỉ trở thành một kẻ thù nếu chủ nhà không chịu chủ động trong nhà mình. Chủ nhà này chính là con – cụ thể là cái Ta Biết – có nghĩa là con đã hoạch định mình sẽ điều phục phàm ngã của mình bằng cách nhận lấy trách nhiệm trở thành Ki-tô. Khi con tìm được con đường Trung đạo của Ki-tô, con sẽ không để cho tâm con sai khiến con, nhưng đồng thời con cũng không sai khiến tâm con đến độ dập tắt mọi tiềm năng sáng tạo. Thật vậy, nhiều người tâm linh đã sử dụng kỷ luật nghiêm ngặt để kiểm soát tâm mình đến độ họ quên mất là họ đã không đến trái đất để ngồi trong một hang đá thiền quán về Thượng đế, mà để là một người đồng sáng tạo hầu đem lại vương quốc của Thượng đế đến hành tinh này.

Tâm con có tiềm năng trở thành một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và điều này biến tâm con thành một phần nối dài của tâm Thượng đế. Mọi thứ đều được tạo ra từ tâm thức Thượng đế, có nghĩa là mọi thứ đều được cấu tạo từ tâm của Thượng đế. Cho nên khi tâm con đảm nhận vai trò đích thực của nó như một cá thể của tâm Thượng đế – thay vì như một tâm tách biệt khỏi nguồn cội của nó – thì tâm con cũng trở thành một cỗ xe để thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện, tức là ngự trị trên trái đất.

Ta cũng muốn nói rõ ở đây là ta không bảo con không nên đọc các giáo lý nói trên. Ta chỉ đơn giản xin nói là ta chờ đợi những ai đến thăm trang mạng này sử dụng những sáng ngộ mà họ nhận được ở đây khi họ tìm hiểu, học hỏi bất kỳ loại giáo lý tâm linh nào. Và ta chờ đợi mọi người sẽ gắng hết sức lắng nghe lời dạy của ta về nhu cầu phải quân bình. Nếu con chưa nhận ra là ta thường hay nói về quân bình thì ta khuyên con nên đọc trang mạng này một lần nữa và ghi nhận bao nhiêu lần ta đã nhắc đến quân bình như là yêu cầu quan trọng nhất trong sự phát triển tâm linh chân chính. Ta đặc biệt khuyên con nên đọc hai bài giảng của ta về tự ngã cùng tư duy đen trắng và tư duy xám.

Nếu điều này đã rõ, thật không ai chối cãi là một số vị thày đã trao truyền nhiều sáng ngộ có giá trị về tự ngã và tâm thức nhị nguyên. Hành giả ở mọi tầng tâm thức đều có thể được lợi lạc từ những sáng ngộ đó, nhưng con cần thực tế và đừng bỏ rơi con đường tăng triển tâm linh tuần tự để chạy theo một sáng ngộ thần diệu nào đó sẽ bỗng chốc biến con thành một sinh thể giác ngộ. Điều tốt hơn hẳn là con nên tiếp tục tu tập có phương pháp, rồi để yên cho cái ngộ tự phát xảy ra – một cách tự nhiên. Việc tìm cách chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực chưa bao giờ đưa bất cứ ai ra khỏi tầm tay của tự ngã.

Vui hưởng cuộc đời mà không dính mắc

Hỏi: Thày Giê-su, xin thày định nghĩa thế nào là chủ nghĩa duy vật. Làm thế nào chúng con có thể tránh được nó và giữ cho mình không bị dính mắc vào vật chất? Chúng con sống trong một đất nước với nhiều thứ tươi đẹp, và nếu con muốn một ngôi nhà đẹp đẽ mà không bị dính mắc thì liệu điều này có chấp nhận được không? Hoặc con có thể muốn bất cứ gì khác mà không bị dính mắc một cách nào đó? Có phải là chúng con không được ham muốn gì cả ngoại trừ Thượng đế? Đây có phải là cuộc chiến giữa tự ngã với Thượng đế? Chuyện này khiến con bối rối.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Không dính mắc là một khái niệm không thể hiểu được bằng trí năng của người phàm. Đó là một khái niệm không đường thẳng vượt khỏi trí thức đường thẳng cũng như tâm nhị nguyên.

Một người tầm đạo sẽ được rất nhiều lợi lạc nếu ngộ ra là có nhiều khái niệm tâm linh không thể nào diễn đạt bằng lời nói. Lý do là vì ngôn từ là một phương tiện đường thẳng có thể dễ dàng được suy diễn, hay bị diễn giải lầm lạc, bởi tâm nhị nguyên. Cho nên để nắm bắt trọn vẹn – có nghĩa là thể nhập – một khái niệm, con cần sử dụng giáo lý vỏ ngoài duy như là một bàn đạp để đạt đến một trải nghiệm nội tâm, trực nhận, về chân lý.

Ý nghĩa của sự thật nói trên là khi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đưa ra một lời dạy tâm linh, chẳng hạn những lời dạy của ta cách đây 2000 năm, ý định của chúng tôi không bao giờ là ban ra một lời chân lý bất khả sai lầm. Chúng tôi dư biết là không có một lời dạy nào được diễn tả qua ngôn từ có thể là chân lý viên mãn. Đơn giản, chân lý không thể được biểu đạt bằng ngôn từ. Chân lý chỉ có thể được trải nghiệm và thể nhập. Có thể nói là con không thể biết hay hiểu được chân lý, mà con chỉ có thể trở thành chân lý. Đó là tại sao ta đã dạy: “Giê-su nói với người đó: Ta là con đường, sự thật và sự sống. Không một ai đến được cùng Cha mà không bởi ta.” (John 14:6)

Câu nói trên là ví dụ điển hình về điều ta vừa trình bày. Quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc – bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên – đã diễn giải câu đó nghĩa là con người vỏ ngoài của Giê-su Ki-tô, hay đạo Cơ đốc, là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Ý nghĩa thực là tâm thức Ki-tô – vượt khỏi tâm đường thẳng nhị nguyên – mới là cách duy nhất để biết Thượng đế cùng sự thật của Thượng đế. Và con chỉ có thể biết được sự thật bằng cách hợp nhất, trở thành, tâm Ki-tô đó. Và không một ai dù là nam hay nữ cũng không thể đến được với Cha ngoại trừ qua sự hợp nhất với cái ta Ki-tô của người đó.

Bằng cách trở thành một với cái ta Ki-tô, con sẽ lần hồi trở nên không dính mắc đối với mọi thứ của thế gian. Điều này sẽ không xảy ra nếu con cố tình kìm nén ham muốn của mình đối với những vật của thế giới này, mà nó sẽ xảy ra bởi vì cái ta Ki-tô của con sẽ giúp con ngộ được rằng sự sống là nhiều hơn vui thú vật chất. Khi đó, con sẽ bắt đầu ham muốn những thứ của tánh linh nhiều hơn những thứ của thế gian.

Đó là một tiến trình lần hồi. Con hấp thụ một mảnh nhỏ của chân lý, xong con cho phép nó nâng cao tâm thức của con. Đó là vì sao ta đã dạy: “Nước thiên đàng giống như chất men mà người đàn bà kia trộn vào trong ba đấu bột, cho đến khi bột nở dậy cả lên.” (Matthew 13:33)

Con cũng biết là khi con cho men vào bột, men cần thời gian để làm việc. Nếu con cứ không ngừng lấy bột nhào đi nhào lại thì con sẽ ngăn trở men làm việc. Cho nên con cần để bột sang một bên cho nó nghỉ. Cũng vậy, con lấy một mảnh chân lý tâm linh, xong con cho phép nó dần dần nâng cao tâm thức của con.   

Tiếc thay, quá nhiều người – đặc biệt trong thời đại hôm nay chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn tức thì – sử dụng trí năng của mình để tìm cách ép buộc tiến trình đó. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi người ta tìm cầu những loại hiện tượng hay trải nghiệm tột đỉnh. Những người như thế rốt cuộc thường chỉ có được một trải nghiệm giả hiệu đem lại cho họ một cách hiểu sai lầm về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Thế nhưng họ cứ tưởng là do những trải nghiệm mà họ đã có, sự hiểu biết của họ chính là chân lý tuyệt đối. Đấy là vì sao ta đã dạy: “Nước thiên đàng không được hãm ép, và những kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực.” (Matthew 11:12)

Ý của ta là con không thể cưỡng ép một cách hiểu trí thức lên sự không dính mắc – con không thể bắt ép mình cho không dính mắc. Con cần suy ngẫm điều này và dần dần thể nhập sự thật sâu xa đằng sau khái niệm không dính mắc. Con cần trở thành chính sự thật đó thì khi đó con sẽ không dính mắc.

Khi điều này xảy ra, con sẽ tự nhiên tìm được một thế cân bằng sẽ cho phép con vui hưởng những thứ của thế gian này mà không bị dính mắc với chúng. Nói cách khác, lý tưởng là con có khả năng thưởng thức và vui hưởng trọn vẹn sự tươi đẹp của thế giới này. Con nghĩ tại sao ta đã nói câu này: “Ta đã đến để các con được sự sống, và các con được sự sống dồi dào hơn nữa.” (John 10:10)

Thượng đế không hề mong muốn thấy người tâm linh phải từ bỏ mọi khía cạnh của thế giới vật chất. Cho nên con đường từ bỏ – mà quá nhiều hội thánh Cơ đốc cùng các tôn giáo khác đã đi theo – không phải là con đường hay nhất. Kỳ thực, khi con từ bỏ mọi thứ của thế gian thì con cũng không tránh được sự chối bỏ một số khía cạnh trong thiết kế của Thượng đế, chối bỏ một số món quà mà Ngài đã dành cho những người con trai và con gái của Ngài. Chừng nào sự chối bỏ món quà của Thượng đế còn tiếp diễn thì vương quốc của Ngài sẽ không thể nào thị hiện trên trái đất.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con đường từ bỏ là hoàn toàn sai lầm, mà đó là một cách ứng phó đối với một cuộc khủng hoảng – cụ thể là có quá nhiều người đã trở nên dính chặt với đồ vật thế gian đến độ họ đã tự đồng hóa làm sinh thể vật chất thay vì là những sinh thể tâm linh. Họ nghĩ là họ không thể nào sống được mà không có đồ vật của thế gian, hay họ nghĩ họ không thể nào trọn vẹn được nếu họ không mang một khía cạnh nào đó của đời sống thế gian. Chính thái độ này ngăn chặn họ bước vào vương quốc Thượng đế bởi vì: “Và khi người Pha-ri-si hỏi Giê-su là vương quốc Thượng đế bao giờ sẽ đến, thì Giê-su trả lời: Vương quốc Thượng đế không đến khi con quan sát và thốt lên, Kìa ở đây! Kìa ở đó! Vì con nhìn này, vương quốc Thượng đế ở ngay trong con.” (Luke, 17:20-21)

Nói cách khác, con không thể thực sự chiếm đoạt nước thiên đàng bằng vũ lực, cho dù nhiều người tưởng họ có thể làm vậy. Quá nhiều người mộ đạo tin rằng bằng cách tuân thủ các quy tắc vỏ ngoài và vững tin vào học thuyết của tôn giáo mình – bằng cách tuân thủ luật lệ của thế gian – họ sẽ có thể tự động tìm đường xông lên thiên đàng. Không phải vậy đâu con. Nước thiên đàng là một trạng thái tâm thức. Chìa khóa để đạt được trạng thái tâm thức này là trở nên không dính mắc với mọi thứ trong thế gian. Trở nên không dính mắc là một tiến trình có mấy giai đoạn, và ở đây chúng ta có thể đề cập đến một vài giai đoạn chính yếu, măc dù chúng ta có thể định ra nhiều giai đoạn hơn nữa:   

  • Con nhận ra sự sống là nhiều hơn thế giới vật chất.
  • Con quyết định là con muốn một tầm hiểu về khía cạnh tâm linh của cuộc sống nhiều hơn là một số thú vui vật chất, cho nên con sẵn lòng gạt sang một bên một số đeo đuổi thế gian để có thể dành thời gian cùng sự chú ý cho việc đạt hiểu biết tâm linh.
  • Con nhận ra chìa khóa của phát triển tâm linh là thể nhập chân lý và hòa nhập vào thành phần cao hơn của bản thể con, mà ta gọi là cái ta Ki-tô của con.
  • Con nhận ra là một số sinh hoạt trong thế gian kéo con xa khỏi việc hòa nhập với cái ta Ki-tô của con. Rồi con quyết định từ bỏ các sinh hoạt như vậy mà không cảm thấy có gì mất mát. Cái ta Ki-tô cho con một cái gì sáng giá và thỏa nguyện hơn so với các thú vui thế phàm.
  • Con nhận ra là rất nhiều thứ trong thế gian chính là sự biểu đạt của viễn quan Thượng đế. Đó là những món quà của Ngài. Cho nên việc vui hưởng các món quà đó – mà không trở nên dính mắc với chúng – không khiến con xao lãng quả vị Ki-tô của mình. Giờ đây con có thể thưởng thức món quà của Thượng đế mà không nghĩ rằng con không thể sống được nếu thiếu chúng.  

Khi con kinh qua tiến trình nói trên, tiến trình lần hồi trở nên không dính mắc với mọi thứ của thế gian, con bắt đầu ngộ ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp. Cho nên để sinh sống và vui hưởng, con không còn hướng mắt nhìn về những nguồn cung ứng, những yếu tố thế phàm nữa. Con hướng nhìn về Thượng đế cho mọi chuyện, và khi con làm vậy với một đức tin trọn vẹn hoàn toàn không dính mắc, Thượng đế sẽ toại nguyện mọi nhu cầu của con một cách đích thực. Ta đã từng diễn tả ý này trong câu sau đây: “Nhưng trên hết, hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế cùng sự công chính của Ngài, thì mọi thứ đó sẽ được bồi thêm cho con.” (Matthew 6:33)    

Điều quan trọng đối với người tầm đạo tâm linh là nhận ra rằng trước khi dòng sống của con bước vào kiếp đầu thai, con đã lập ra một kế hoạch cho đời mình để đem lại sự tăng triển tâm linh tối đa. Nói cách khác, dòng sống của con muốn tăng triển tối đa và nó đã xin Thượng đế giúp nó đạt được tăng triển này. Ngay lúc này, có thể tâm vỏ ngoài của con đã quên mất sự kiện đó và đã xây dựng một lòng ham muốn mãnh liệt đối với một số vật trong thế gian. Con có thể nghĩ là con không thể sống mà thiếu chúng, con có thể nghĩ là con sẽ không trọn vẹn nếu con không có chúng, hay con không thể tinh tấn tâm linh mà không có chúng. Thậm chí con còn có thể nghĩ – và đây là ảo tưởng lớn nhất trong số đó – rằng con không thể biểu hiện được quả vị Ki-tô của mình mà không có những thứ vỏ ngoài đó.

Cho nên nếu Thượng đế ban cho con những thứ đó thì điều này sẽ chỉ tăng cường niềm tin của con vào sự bất toàn, thiếu trọn vẹn của mình mà thôi – nó đối lập trực tiếp với sự tăng triển của con.

Cốt lõi của quả vị Ki-tô chính là khi con ngộ ra là con không cần bất cứ gì của thế gian này, bất cứ gì bên ngoài cái ta của con (cái ta Ki-tô) để có thể thị hiện quả vị Ki-tô.

Con có thấy chăng điều ta muốn nói? Nếu con chưa nhìn ra, con hãy dành thời gian để suy ngẫm về lời dạy mà ta vừa trao cho con. Tinh túy của lời dạy này là điều ta đã giảng dạy cho ông Kim khi ông được đào tạo để trở thành vị sứ giả của ta. Ta có nói với ông: “Nếu con nghĩ con cần đến cái gì đó, thì con không thể có cái đó!” Ý nghĩa là chừng nào con cho rằng mình chưa trọn vẹn – rằng mình không thể là Ki-tô – nếu con còn thiếu một cái gì đó của thế gian, thì Thượng đế sẽ không thể cho con cái đó. Làm như vậy sẽ vi phạm những chọn lựa sâu thẳm của dòng sống của con là mong muốn tăng trưởng tâm linh tối đa.

Tuy nhiên, Thượng đế cũng không muốn thấy con sống một cuộc đời thiếu thốn. Ngài muốn con có một đời sống dồi dào: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi, vì Cha của các người đã bằng lòng cho các người nước thiên đàng.” (Luke 12:32)

Cho nên ngay lúc con đạt đến sự không dính mắc cuối cùng đối với mọi thứ của thế gian và nhận ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp, thì tức thì Ngài có thể và sẽ cho con sự sống dồi dào.  

Liên quan đến việc định nghĩa chủ nghĩa duy vật, có mấy giai đoạn như sau tượng trưng cho những độ chối bỏ Thượng đế ngày càng bớt đi:

  • Một số người cho rằng ngoài thế giới vật chất không có gì khác cả. Thượng đế không hiện hữu và trong con người của họ không có thành phần nào vượt khỏi thế giới vật chất. Chỉ những gì có thể được phát hiện bằng giác quan vật lý hay dụng cụ khoa học mới có thật. Đây là loại chối bỏ Thượng đế của nhiều nhà duy vật khoa học.  
  • Những người nhận ra rằng sự sống là nhiều hơn thế giới vật chất, nhưng họ không nối kết được sự sống đó với chính họ. Họ xem Thượng đế vượt quá tầm của họ. Họ nghĩ họ tách biệt khỏi Thượng đế và chỉ được cứu vớt bởi ai đó bên ngoài bản thân họ. Đây là sự chối bỏ Thượng đế của nhiều tín đồ chính thống trong bất kỳ tôn giáo nào, kể cả đạo Cơ đốc. Họ nhìn nhận là Thượng đế có hiện hữu nhưng họ chối bỏ là Thượng đế hiện hữu ngay nơi họ.
  • Những người đã bắt đầu nhận ra là mọi thứ đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế, nhưng họ vẫn thấy một sự tách biệt giữa thế giới vật chất và Thượng đế. Cho nên họ nghĩ là Ngài không thể làm được một số chuyện – chẳng hạn chữa lành bệnh tật – hay cho họ những thứ của thế giới vật chất. Họ nghĩ là họ phải lệ thuộc vào thế giới vật chất để sống còn và vui hưởng. Sự chối bỏ này là của nhiều người tâm linh chưa hoàn toàn thể nhập được lời dạy tâm linh chân truyền. Do đó họ chưa chứng được sự không dính mắc đích thực.  

Con nói đúng, tiến trình đạt tới sự không dính mắc là một tiến trình khắc phục tự ngã. Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc chiến giữa tự ngã với Thượng đế, vì Thượng đế không có đối nghịch. Đó là một cuộc chiến giữa dòng sống với tự ngã, và vấn đề đặt ra là liệu dòng sống có cho phép nó bị tự ngã kiểm soát, hay nó thấy nó là một vị đồng sáng tạo cùng với Hiện diện TA LÀ của nó. Con hãy nhớ rằng tự ngã được tạo ra trong sự tách biệt với Thượng đế, cho nên tự ngã là “người” duy vật tối hậu. Khi con đạt được sự không dính mắc hoàn toàn, tự ngã của con sẽ chết đi. Vì vậy có thể nói rằng nguồn gốc của mọi chủ nghĩa duy vật chính là tự ngã, cùng với các thế lực – ông hoàng của thế gian này – sử dụng tự ngã để kiểm soát dòng sống của con.

Một điểm chót. Khi con nhận ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp, con cũng nhận ra khái niệm thiếu thốn và khan hiếm là một ảo tưởng. Thượng đế không có giới hạn, và trong Ngài không hề có thiếu thốn. Đây chính là ý nghĩa thực sự của sự sống dồi dào. Khi con suy ngẫm nguyên nhân của dính mắc, con sẽ thấy là nó khởi lên từ ảo tưởng thiếu thốn – con tin rằng nguồn cung cấp không thể vô hạn, cho nên con cố bám giữ những gì con có. Một khi con thăng vượt ảo tưởng này, con sẽ nhận ra là nguồn cung cấp của mọi thứ tốt đẹp đều vô hạn, và do đó con có thể bắt đầu cho người khác những gì con có một cách tự do – con cho không – vì con biết là Thượng đế sẽ nhân lên những gì con hiến tặng. “Các con đã được lãnh không thì hãy cho không” (Matthew 10:8).

Và khi trên địa cầu có một số lượng tới hạn (critical mass) những người bắt đầu cho ra thay vì bám giữ những gì mình có, thì con sẽ thấy sự sống dồi dào thị hiện trên trái đất.   

Khác biệt giữa cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ

Hỏi: Khi tu tập về viễn kiến và hòa điệu nội tâm, làm thế nào biết được sự khác biệt giữa cái ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ? Con hiểu rằng cái ta Ki-tô là trung gian giữa phàm ngã và Hiện diện TA LÀ. Một số người xem cái ta Ki-tô là cái ta cao hơn. Điều này có đúng không? Và nếu vậy thì chúng con gọi Hiện diện TA LÀ là gì, cái Ta Thượng đế? Xin thày vui lòng giúp con rõ hơn về hai khai niệm này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Sẽ chính xác nếu con gọi cái ta Ki-tô của con là cái ta cao hơn (higher self) và Hiện diện TA LÀ của con là cái ta Thượng đế (God self) hoặc cái ta tâm linh (spiritual self).

Khi cha mẹ tâm linh của con tạo ra dòng sống của con, các vị ấy tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Đây là thành phần của con neo trụ cái cá thể độc đáo mà cha mẹ tâm linh của con đã phú cho con. Nó có tên là Hiện diện TA LÀ vì nó neo trụ cá thể của con và tạo nên sinh thể mà con là.

Hiện diện TA LÀ của con có thể được xem là ngọn lửa tâm linh của con, nhưng nó giống một ngọn lửa điện tử hơn là một ngọn lửa bình thường. Ngọn lửa Thượng đế của con có một cấu trúc độc nhất tương tự như một tinh thể (crystal), duy nó không được tạo bằng vật chất mà bằng năng lượng rung động nhịp nhàng. Khi ánh sáng thanh khiết của Thượng đế chiếu xuyên qua cấu trúc tinh thể của ngọn lửa Thượng đế, nó được cá thể độc đáo của con tô màu và uốn nắn. Tiến trình này không làm suy giảm phẩm chất của ánh sáng Thượng đế mà chỉ khiến ánh sáng đó mang cá thể.

Hiện diện TA LÀ của con luôn luôn neo trụ nơi các tầng cao của cõi tâm linh. Từ mức của Hiện diện TA LÀ, con có khả năng trải nghiệm các cõi thấp hơn, kể cả thế giới vật chất, với tư cách một đấng quan sát từ ngoài. Tuy nhiên, đa số dòng sống do Thượng đế tạo ra không chỉ bằng lòng quan sát suông cuộc sống từ bên ngoài mà lại cũng muốn trải nghiệm cuộc sống từ bên trong. Thật ra, đó là lý do tại sao Thượng đế đã tạo ra những cá thể từ chính bản thể của ngài. Thượng đế mong muốn trải nghiệm tạo vật của ngài từ bên trong, ngài muốn tham gia vào tiến trình sáng tạo thế giới và bành trướng thế giới đó từ bên trong. Ngài làm vậy qua trung gian những đứa con của ngài.

Đã có một thời điểm khi Hiện diện TA LÀ của con quyết định đi xuống một tầng thấp hơn của tạo vật Thượng đế và trải nghiệm cuộc sống ở tầng mức này. Để thực hiện điều đó, Hiện diện tạo ra một phần nối dài của chính nó, mà chúng tôi gọi là cái Ta Biết. Sau đó cái Ta Biết tạo ra cái mà nhiều người gọi là linh hồn, nhưng chúng tôi ưa gọi là cỗ xe 4 lớp, hay cỗ xe linh hồn. Đây chính là phương tiện mà cái Ta Biết sử dụng để tương tác với xác thân vật lý.

Nhiều dòng sống đã đi xuống các tầng thấp hơn của cõi tâm linh và vẫn còn ngụ ở đó. Tuy nhiên một số dòng sống can đảm đã quyết định bước xuống cõi thấp nhất mà Thượng đế đã tạo ra, tức là vũ trụ vật chất. Khi con đi vào cõi vật chất, con cũng bước vào một cõi với rung động thấp hơn cõi tâm linh. Trên cõi tâm linh, thật là dễ nhìn thấy tất cả mọi thứ đều bắt nguồn từ một thực tại cao hơn. Nhưng vì cõi vật chất là phần tạo dựng chót hết của Thượng đế, nó chưa được nâng lên một độ rung đủ cao để nhìn thấy năng lượng vật chất cũng là một phần nối dài của Thượng đế. Vì vậy khi dòng sống đi xuống cõi vật chất, y có nguy cơ quên mất nguồn gốc tâm linh của mình.

Một dòng sống trong cõi vật chất sẽ chỉ có thể nhớ lại nguồn gốc tâm linh qua một kinh nghiệm nội tâm trực tiếp, bởi vì nơi thế giới bên ngoài thật sự chẳng có gì để nhắc lại cho y cái thực tại tâm linh nằm đằng sau vỏ ngoài vật chất. Kinh nghiệm này chỉ có thể xảy ra khi cái Ta Biết bước ra ngoài cỗ xe 4 lớp của nó và chứng nghiệm trực tiếp rằng nó là sự nhận biết thuần khiết, và như thế nó nhận ra là nó không hề là cỗ xe thấp kém.

Như được giải thích suốt trang mạng này, quả thật là nhiều dòng sống đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và nơi đó họ đã quên mất nguồn cội tâm linh của mình. Để giup cho họ khỏi bị lạc đường, các chân sư thăng thiên đã phái xuống cho mỗi dòng sống môt vị trung gian, một vị thày, một vị an ủi, và đây là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô có thể được xem như một thiên thần được đặc nhiệm với mỗi con người để giúp con nối kết lại với Hiện diện Ta Là trong sự ý thức. Nói cách khác, cái ta Ki-tô không là một thành phần của dòng sống của con ở khởi đầu. Cái ta Ki-tô là một vị trợ giúp đến với con từ ngoài, và sinh thể đó có một cá tính (personality) lẫn một cá thể (individuality) khác với cái cá thể trụ neo nơi Hiện diện Ta Là của con. Hiển nhiên, cái ta Ki-tô tương hợp với cá thể của con nhưng nó không hoàn toàn giống y hệt.

Khi con bắt đầu đạt được sự hòa điệu nội tâm, trước tiên con sẽ hòa điệu với cái ta Ki-tô của con. Lúc đầu, con sẽ trải nghiệm dưới dạng những sáng ngộ trực giác. Trực giác thường đến như khi con đang đọc một quyển sách và cảm nhận có điều gì rất đúng áp dụng cho con. Khi sự hòa điệu này ngày càng rõ rệt hơn, con sẽ nghe thấy – hay cảm thấy – giọng nói nhỏ nhẹ, tĩnh lặng của cái ta Ki-tô trong tim con. Đây không phải là một giọng nói vật lý mà tai nghe thấy được, mà là một giọng nói nội tâm. Nhưng con vẫn sẽ nhận ra đó là một giọng nói thì thầm với con đến từ ngoài tâm ý thức của con.

Khi con tăng trưởng trên đường tu tâm linh, con sẽ bước qua tiến trình gọi là lễ thành hôn thần bí gọi là giả kim (alchemical marriage) mà qua đó con đạt được sự kết hợp tâm linh với cái ta Ki-tô của con. Tuy nhiên, cái ta Ki-tô này vẫn tách biệt khỏi con, y như trong hôn nhân, người phối ngẫu của con vẫn không phải là con tuy rằng con có thể đạt được một mức kết hợp cao độ.

Tự thân cái ta Ki-tô có khả năng hướng dẫn con, hoặc nó có thể trao truyền cho con những hướng dẫn từ Hiện diện TA LÀ. Có thể nói, cái ta Ki-tô đóng vai trò một vị dịch thuật các chỉ dẫn từ Hiện diện mà ngoại tâm của con không thể nghe thấy hay hiểu được trực tiếp. Và như vậy khi sự hiệp thông của con ngày càng sắc bén, con sẽ có khả năng nhận diện một chỉ đạo đến từ cái ta Ki-tô hay là từ Hiện diện. Điều này sẽ cho con cảm nhận là con đang nghe thấy giọng nói của chính Hiện diện TA LÀ.

Khi con bước lên những tầng cao hơn trên đường tu, rốt cuộc con sẽ đạt tới sự hòa điệu trực tiếp với Hiện diện TA LÀ của con. Nhiều người đã đạt được một mức hoà điệu nào đó với Hiện diện, nhưng hầu hết không nhận diện ra đó là gì. Một lý do là vì việc nhận diện giọng nói của cái ta Ki-tô khá dễ dàng bởi vì giọng nói đó đến từ bên ngoài con. Nhưng sự hoà điệu với Hiện diện TA LÀ không phải là một giọng nói đến từ ngoài. Hiện diện TA LÀ không ở ngoài con và cũng không khác gì với con, ví nó chính là con đó. Nó là cái Ta của con.

Cũng có thể nói rằng con không thể nhận được sự giao tiếp trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ bởi vì khi nói đến giao tiếp thì phải có sự ngăn cách. Để bắt được liên lạc với Hiện diện, con phải buông bỏ và vượt qua ý niệm bản sắc sinh diệt của con. Con từ bỏ cái cá tính vỏ ngoài đã được tạo dựng suốt bao nhiêu kiếp đầu thai trong vũ trụ vật chất. Con khắc phục ý niệm ngăn cách hầu con có thể bắt đầu tự đồng hóa với Hiện diện. Và như vậy, Hiện diện bây giờ có khả năng hành động xuyên qua con. Trong nghĩa đen, con trở thành Hiện diện hoạt động trong thế gian. Và khi đó con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Khi con chứng đạt sự hợp nhất này, con thật sự không còn giao tiếp với Hiện diện nữa, bởi vì con chính là Hiện diện đó.

Cũng có thể nói là khi cái ta Ki-tô hướng dẫn con, con trải nghiệm chuyện đó như một cái gì đến từ ngoài, và con phải lấy quyết định là liệu con sẽ nghe theo lời hướng dẫn đó hay không. Nhưng xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ thì không có nguồn gốc ở ngoài con, và do đó không còn chỗ nào để mà con lấy quyết định. Nghĩa là giữa con và cái ta Ki-tô có một khoảng cách, nhưng giữa con và Hiện diện TA LÀ thì không có khoảng cách nào cả. Con không thể quyết định là con sẽ nghe theo giọng nói của Hiện diện hay không, mà con chỉ có thể là, hoăc không là, Hiện diện TA LÀ trong hành động mà thôi. Để là Hiện diện trong hành động, con phải dâng hiến ý chí của tự ngã và của cá tính vỏ ngoài cho ý chí cao hơn của cái Ta Thượng đế của con. Con phải quyết định con thực sự là gì, thay vì quyết định xem cái tâm vỏ ngoài của con nghĩ con là gì.

Ta cũng biết những lời này sẽ rất khó hiểu bằng trí thức, và lý do là vì trí thức luôn luôn suy nghĩ một cách đường thẳng. Vì thế mà nó muốn nhìn thấy một sự ngăn cách hoặc một khoảng cách giữa dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ của con. Khi nào con còn tư duy đường thẳng và còn suy luận trong hướng tách biệt, con sẽ gặp trở ngại trong việc hiệp thông với Hiên diện của con. Con cần tư duy theo một lối khác, và nhìn thấy dòng sống và Hiện diện của con không hề tách biệt trong không gian. Dòng sống của con phần nào giống như một làn sóng không thể tách rởi khỏi đại dương bởi vì nó giản dị chỉ là một sự biểu hiện của đại dương.

Hiểu rõ năng lượng kundalini

Hỏi 1: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Thày có bao giờ dạy về kundalini? Có phải kundalini và dòng năng lượng tâm linh liên tục giúp chúng ta sống còn là hai loại năng lượng khác nhau, hay đó là cùng năng lượng? Con sẽ rất biết ơn nếu thày giải tỏa được phần nào bối rối này của con. Cảm ơn thày.

Hỏi 2: Nhiều người thời nay, trong đó có con, trải nghiệm kundalini thức dậy. Xin thày cho biết bản chất của năng lượng kundalini là gì và sự thức dậy của nó tác động con người như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đây là những câu hỏi rất hay về một chủ đề rất ích lợi cho người tầm đạo muốn tìm hiểu. Ta quả là đã có dạy về năng lượng kundalini nhưng ta chỉ dạy cho đệ tử của ta bởi vì quần chúng thời đó chưa sẵn sàng nhận giáo lý này. Ta được học về kundalini trong chuyến du hành sang Ấn độ, và ta có thử nghiệm một số hình thức yoga nhằm khơi dậy kundalini. Tuy nhiên, ta nhận ra là những kỹ thuật này không thích hợp cho mọi người, vì thế ta đã không dạy các kỹ thuật đó kể cả cho đệ tử của ta.   

Từ “kundalini” chỉ giản dị là một cái tên khác cho dòng năng lượng tâm linh giữ cho con sống còn. Ta từng đề cập đến năng lượng này trước công chúng, và con vẫn có thể tìm thấy trong Tân ước một số lời gợi ý như thế. Bình thường ta gọi đó là “nước của Sự sống” hay “nước hằng sống”. Năng lượng là một khía cạnh của Thánh linh, và con nhớ rằng Thánh linh có chức năng giúp con tăng trưởng tâm linh hầu con vượt qua các giới hạn của con. Đây là một chìa khóa quan trọng để hiểu được bản chất của năng lượng kundalini và tác động của nó trên con người.

Điều quan trọng nhất con có thể hiểu về năng lượng kundalini là nó cho con sự sống. Định nghĩa tâm linh của “sự sống” là cái gì tăng trưởng và tự thăng vượt. Do đó, năng lượng của sự sống, năng lượng kundalini, nước hằng sống của sự sống, luôn luôn tuôn chảy để đưa con vượt qua mọi ranh giới và mọi hạn chế. Trạng thái tự nhiên của một người hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình là chảy theo Dòng sông của Sự sống và không ngừng thăng vượt sự tự nhận biết của mình cũng như ý niệm cái ta của mình.

Có thể nói vấn đề cốt lõi trên hành tinh này là hầu hết mọi người đều đã dựng lên một số điều kiện trong tâm mình khiến mình đóng chặt dòng chảy tự nhiên của năng lượng kundalini xuyên qua các trường năng lượng của mình. Dòng sống của con người được thiết kế để làm ống dẫn cho tình thương vô điều kiện của Thượng đế xối xuống. Tình thương vô điều kiện sẽ không bao giờ đứng yên một chỗ. Khi con đứng trong dòng chảy của tình thương, con không chấp nhận cho bất cứ một điều kiện nào trên địa cầu có thể khiến con đóng lại dòng tình thương này chảy xuyên qua con.

Điều xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã dựng lên đủ loại điều kiện trong tâm họ, nghĩa là họ bảo rằng trong hoàn cảnh này hay tình huống kia, họ sẽ không cho phép tình thương vô điều kiện chảy qua họ. Họ sẽ không thể biểu hiện tình thương trong những hoàn cảnh đó. Bởi vì dòng chảy của tình thương chính là năng lực của sự sống cho nên điều tự nhiên là nó phải chảy. Con chỉ có thể đóng nó lại bằng vũ lực mà thôi. Và thật vậy, hầu hết mọi người đều sử dụng vũ lực của lý trí và tình cảm để ngăn chặn sự sống chảy qua trường năng lượng và dòng sống của họ. Nói cách khác, họ đã dùng vũ lực để hạn chế dòng chảy của sự sống, năng lượng kundalini.   

Đây là một nhận thức vô cùng quan trọng, đặc biệt khi nhiều người tầm đạo bị quyến rũ vào việc sử dụng đủ loại kỹ thuật nhằm ép buộc cho năng lượng kundalini phải dâng lên. Những kỹ thuật như thế thường đến từ phương Đông nơi người ta đã sử dụng từ hàng ngàn năm qua. Có một số kỹ thuật có giá trị nhưng chỉ khi nào do một đạo sư dồi dào kinh nghiệm chỉ dẫn cho những đệ tử chân truyền nhất của mình – và chỉ khi nào đệ tử đó được bao bọc trong một môi trường có sự trông coi liên tục của đạo sư. Con hãy lưu ý là ta đang nói về những kỹ thuật nhằm ép buộc kundalini, chứ không nói về nhiều kỹ thuật đúng đắn nhằm giúp con có sự tăng trưởng quân bình.   

Thật không may là đã có một loạt những người tự xưng là đạo sư từ Ấn độ đến đây chỉ dạy những kỹ thuật này cho bất cứ ai muốn học – và trong một số trường hợp, người học phải trả cả lệ phí. Đây là một vấn đề, vì nó dối gạt  người ta vào con đường chiếm lấy thiên đường bằng vũ lực. Đó là phần nào những gì ta nói đến trong câu: “Và từ ngày John the Baptist (Giăng Báp-tít) đến nay, nước thiên đàng đã bị hãm ép, và kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực” (Matthew 11;12)  

Con hãy ngừng một lúc để xem xét vấn đề cốt lõi ở đây. Năng lượng kundalini sẽ chảy tự nhiên xuyên qua con – con không cần làm bất cứ gì để ép nó phải chảy qua con. Nếu nó bị chặn lại thì là do nó đã bị chặn lại bằng vũ lực. Con đã tạo ra những chướng ngại trong tiềm thức và trường năng lượng của con, cụ thể là nơi bảy trung tâm năng lượng chính gọi là luân xa, và những chướng ngại này đã hạn chế dòng chảy của sự sống. Vậy thử hỏi con có khôn ngoan lắm hay không khi con tìm cách dùng một kỹ thuật nào đó để ép uổng kundalini phải dâng lên qua các luân xa?

Thật sự không có gì khôn ngoan, bởi con đang cố dùng lửa để chữa lửa. Chính vũ lực đã khiến cho dòng chảy tự nhiên của năng lượng bị nghẽn lại, thì cách giải quyết hợp lý là con phải loại bỏ các chướng ngại đang làm nghẽn năng lượng để nó lại chảy tự nhiên. Thật là không hợp lý khi con muốn dùng vũ lực để tái lập dòng chảy, và điều này chẳng có gì là khó hiểu.

Ở một con người thuần khiết nơi dòng sông của sự sống tuôn chảy tự do, năng lượng kundalini đi vào luân xa tim, rồi nó chảy vào luân xa nằm ở đáy cột sống. Từ đó nó sẽ chảy xuyên qua cả bảy luân xa cho đến luân xa đỉnh đầu. Nếu dòng chảy được duy trì, người đó sẽ ở trong trạng thái quân bình toàn hảo và sẽ chiêm nghiệm dạng cao nhất của tâm thức Ki-tô. Trong trạng thái đó, tất cả các luân xa đều quân bình, đứng thẳng hàng với nhau và quay theo cùng một chiều.

Khi con dùng vũ lực để đóng chặt hay hạn chế dòng chảy của ánh sáng qua các luân xa, luân xa sẽ bị ô nhiễm do năng lượng tiêu cực tích tụ lại ở đó. Điều này sẽ nhanh chóng khiến cho các luân xa quay với tốc độ khác nhau và vì vậy không còn phối hợp với nhau nữa. Thậm chí, điều đó có thể khiến cho một số luân xa bị tắc nghẽn đến độ không cho phép bất kỳ ánh sáng nào đi qua. Hoặc nó khiến cho luân xa quay ngược chiều quay bình thường, gây cho con cảm giác sôi động tột độ. Chẳng hạn, nhiều người có luân xa gốc quay sai chiều và vì vậy họ ham muốn tình dục một cách vô độ. Và tương tự như thế, nhiều người có luân xa đám rối dương quay sai hướng, khiến họ luôn luôn căng thẳng và phản ứng lại nhiều tình huống trong sự cáu kỉnh, giận dữ.

Điều gì sẽ xảy ra khi một người mất quân bình sử dụng một kỹ thuật nhằm cưỡng ép năng lượng kundalini dâng lên xuyên qua luân xa đang bị nghẽn và mất quân bình? Kundalini là một khía cạnh của Thánh linh và mục đích của nó là giúp con thăng vượt các giới hạn của con. Vì lý do này mà nó sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào. Khi con ép buộc kundalini chảy qua luân xa, nó sẽ đẩy tất cả mọi thứ bất toàn và mất quân bình trong luân xa ra bên ngoài rồi khuếch đại lên. Những thứ ấy nổi lên dưới hình thức những ý nghĩ và cảm xúc có thể vô cùng mãnh liệt.   

Trên thực tế, nhiều người thiếu quân bình mà dùng các kỹ thuật cưỡng ép kundalini như vậy đã nhận thấy là hệ thần kinh và trường năng lượng của mình không thể chịu đựng nổi luồng chảy của ánh sáng. Cũng y hệt như con nối điện 220 volt vào một cái máy được chế tạo để chạy với điện 110 volt vậy. Tất nhiên là máy sẽ bị cháy, và thật vậy, nhiều người đã làm cháy một phần hệ thần kinh và phá vỡ trường năng lượng của mình. Điều này dẫn đến nhiều hình thức rối loạn tình cảm khác nhau, thậm chí cả bệnh tâm thần lẫn khùng điên. Ta không thể nào nhấn mạnh đủ về tầm quan trọng của việc con phải tránh cưỡng ép năng lượng kundalini của con dâng lên trước khi con sẵn sàng.

Đâu là chìa khóa để con sẵn sàng? Đó là con thanh lọc các luân xa và trường năng lượng của con cho đến khi con đạt được một mức quân bình và hài hòa thật cao độ. Quân bình và hài hòa thực sự là chìa khóa cho một sự phát triển tâm linh thành công. Hai đức tính này chỉ có thể đạt được qua sự không dính mắc, và khi con thực sự không còn dính mắc, con sẽ không còn cố chiếm hữu thiên đường bằng vũ lực nữa.

Một trong những vấn đề lớn nhất với sự bùng nổ của các phong trào phát triển bản thân và phát triển tâm linh là nền văn hóa Tây phương thường hay chú trọng thành quả. Trong những thập niên vừa qua, điều này đã dẫn đến một tinh thần sùng bái, tôn thờ sự thoả mãn tức thì. Cho nên khi người ta lớn lên trong một nền văn hóa như vậy và bỗng nhiên cảm thấy nhu cầu tăng trưởng tâm linh, thường người ta muốn ngay kết quả tức thì. Người ta không chịu nỗ lực một cách chân thành để từ từ xây dựng nền tảng vững bền cho những kết quả đó.

Người ta chỉ đơn giản muốn ngay cái hiện tượng vỏ ngoài, muốn được nếm mùi những kinh nghiệm tột đỉnh, muốn được hưởng lợi từ phát triển tâm linh, mà không cần phải đi qua nguyên tiến trình vun trồng các kết quả đó. Điều này đã khiến cho nhiều người tầm đạo phương Tây tìm kiếm những kỹ thuật hữu hiệu nhất nhằm sản xuất ra những cảm giác và hiện tượng mà mình tìm. Và nhiều người trong số đó đã bị cám dỗ sử dụng những kỹ thuật nhằm cưỡng ép cho kundalini phải dâng lên. Tất nhiên đó là điều khả dĩ, và tác động thì vô cùng mãnh liệt, nhưng kết quả thì y như những gì ta vừa trình bày ở trên.  

Thế nào là cách đúng đắn để năng lượng kundalini đi lên? Đó là đầu tiên phải tìm Nước Trời và sự công chính của Nước Trời, rồi sau đó tất cả những thứ khác sẽ được ban thêm cho con. Nước Trời là tâm thức Ki-tô, và “công chính” là cách dùng năng lượng một cách công chính, có nghĩa là một dòng năng lượng quân bình và hài hòa tuôn qua con người của con.

Như ta vừa nói, bản chất của kundalini là tuôn chảy. Nó chỉ ngừng tuôn chảy qua con vì con đã ngăn chặn dòng chảy của nó. Do đó nếu con nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, nghĩa là con tìm cách loại bỏ tất cả mọi chướng ngại và thiếu quân bình trong tâm lý và trường năng lượng của con, con sẽ lần hồi mở rộng ra để dòng năng lượng chảy qua con. Và như thế, dòng sông của sự sống sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy qua con mà không có chút gì thiếu quân bình.

Điều đó sẽ xảy ra một cách cân bằng, và con sẽ không trải nghiệm một sự thức giấc của kundalini cho tới khi nào con sẵn sàng. Nói thật, nếu con thực sự tiến bước cân bằng, con sẽ chứng nghiệm một sự phát triển bền vững, điều hòa thay vì những cơn bừng phát tâm linh dữ dội được nối tiếp bởi những cơn trầm cảm cũng không kém dữ dội. Nhiều người thiếu quân bình quả thật đã phải trải qua những chao đảo tột cùng như thế từ cao xuống thấp, và đó nhất định không phải là con đường hài hòa, con đường trung đạo của Ki-tô và của Phật.

Vì vậy, điều ta muốn nói là ta không ủng hộ bất kỳ một người tầm đạo tâm linh nào đặt trọng tâm vào việc khơi dậy năng lượng kundalini một cách cố tình và mạnh bạo. Ta không ủng hộ việc người ta dùng các loại kỹ thuật để cưỡng ép cho kundalini dâng lên.

Thay vào đó, con nên sử dụng kỹ thuật nào? Con có thể dùng tất cả mọi kỹ thuật trong Hộp Dụng cụ Tu tập trên trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary đã được soạn thảo đặc biệt để loại bỏ một cách hệ thống các chướng ngại trong trường năng lượng của con đang ngăn cản dòng chảy tự do của năng lượng kundalini qua con. Các bài chú bảy tia sáng cũng vậy. Khi con dùng những dụng cụ này, con sẽ lần hồi cảm thấy dòng chảy của sự sống qua con, nhưng điều này sẽ diễn ra một cách quân bình, hài hòa, không gây tổn hại cho hệ thần kinh tinh nhậy của con hoặc tạo ra lỗ hổng trong trường năng lượng của con. Thay vào đó, con sẽ thực sự cảm thấy như những nữ đồng trinh khôn ngoan đã biết giữ cho ngọn đèn của mình được trong sáng – tức là luân xa được quân bình – trong khi chờ đón chàng rể của cái ta Ki-tô:

“1 Khi ấy, nước thiên đàng sẽ giống như mười người nữ đồng trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. 2 Trong các nàng đó, có năm người khôn và năm người dại. 3 Người dại cầm đèn đi mà không đem theo dầu với mình. 4 Nhưng người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình của mình. 5 Vì chàng rể đến trễ, các nàng đều buồn ngủ và ngủ gục.

6 Đến nửa đêm, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đang đến, hãy đi ra mà rước. 7 Các nữ đồng trinh đều thức dậy và sửa soạn đèn mình. 8 Các nàng dại nói với các nàng khôn: Xin cho chúng em chút dầu vì đèn chúng em đã tắt. 9 Nhưng các nàng khôn trả lời: Không, vì e sẽ chẳng đủ cho chúng em và các chị, tốt hơn các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua.

10 Trong khi họ đang đi mua thì chàng rể đến; kẻ nào sẵn sàng thì đi với chàng vào tiệc cưới, và cánh cửa đóng lại. 11 Lúc sau, các nữ đồng trinh kia về đến và nói: Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho chúng tôi. 12 Nhưng người đáp rằng: Quả thật ta nói cùng các người, ta không biết các người đâu. 13 Vậy hãy tỉnh thức, vì các người không biết ngày, cũng không biết giờ mà Đứa con của người sẽ tới. (Matthew 25)”

Lời dạy căn bản về phân mảnh linh hồn và bệnh tâm thần

Hỏi: Có những lời dạy tâm linh và tâm lý cho rằng linh hồn có thể bị phân rẽ, chia cắt hay phân mảnh. Thày có đề cập đến điều này trong câu trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều gì xảy ra cho các mảnh vụn của linh hồn bị đánh mất? Có kỹ thuật tâm linh hay tâm lý nào để hồi lại những mảnh đó? Đó có phải là một điều khả thi hay cần thiết để chữa lành các chứng tâm thần nghiêm trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đề tài linh hồn phân mảnh (soul fragmentation) hay phân chia (soul division) có thể khá phức tạp. Tuy nhiên vì tính cách câu hỏi, ở đây ta sẽ chú trọng đến khía cạnh thiết thực nhiều hơn là khía cạnh triết lý, hay nói cách khác, là những gì con cần biết về linh hồn phân mảnh để con tự bảo vệ lấy bản thân hay chữa lành một chứng bệnh tâm thần.

Trong câu trả lời sau đây, ta xem như con đã quen thuộc với các giáo lý về bốn tầng của cõi vật chất cũng như về các thành phần của tâm, đặc biệt là quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Ta cũng coi như con đã đọc câu trả lời trước của ta về đề tài: linh hồn là vật lý hay tâm linh.

Chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét Hiện diện TA LÀ. Hiện hữu nơi cõi tâm linh, nó có rung động cao hơn hẳn thế giới vật chất, có nghĩa là Hiện diện không thể nào bị các rung động thấp kém của thế giới vật chất hủy diệt hay phân cắt – đồng thời cũng có nghĩa là Hiện diện không thể trực tiếp đi xuống thế giới vật chất. Hiện diện TA LÀ có một cá thể rõ rệt mà nó mong muốn biểu đạt trong thế giới vật chất, và để làm vậy, nó tạo ra một phần nối dài của chính nó có khả năng xuống được thế giới vật chất. Phần nối dài này là cái Ta Biết.

Cái Ta Biết là phần nối dài của tâm thức của Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ không “cài đặt” cá thể của nó vào Ta Biết. Cái Ta Biết giống như cái lăng kính qua đó Hiện diện có thể tự biểu đạt và đồng thời có thể chiêm nghiệm thế giới vật chất. Và như thế, cái Ta Biết là cái gì đi xuống những rung động thấp kém của thế giới vật chất, nhưng vì nó là sự nhận biết thuần khiết – và nó là nhận biết thuần khiết vì nó không có cá thể – cho nên nó cũng không thể bị hủy diệt hay phân cách bởi các rung động thấp của thế giới vật chất.

Tuy nhiên – và đây là cốt lõi của vấn đề – ngay cả cái Ta Biết cũng không thể hành động trực tiếp trong thế giới vật chất. Để làm vậy, nó phải tạo ra, hay khoác lấy, một “thân thể” được cấu tạo bằng rung động trong dải tần số vật chất. Như các thày đã có giải thích, cõi vật chất có bốn tầng, cho nên khi nó tạo “thân thể”, điều này có nghĩa là nó tạo ra “bốn thể phàm”, cụ thể là “thể” bản sắc, “thể” lý trí, “thể” cảm xúc và sau cùng là cơ thể vật lý. 

Khi cái Ta Biết được sinh tạo lần đầu, nó thật sự không đủ khả năng tạo ra bốn thể phàm. Nó chưa từng có kinh nghiệm đồng sáng tạo và nó cũng không có kinh nghiệm về rung động của bốn tầng. Cho nên một cái Ta Biết tân lập sẽ phải khởi đầu nơi một trường học, gọi là trường bí giáo được biểu tượng qua Vườn Eden. Đó là một môi trường học hỏi ở cõi bản sắc, ở đó nó sẽ có thể thử nghiệm khoác lên những cái “thể” do vị thày tâm linh tạo ra cho cõi bản sắc.

Đặc tính cơ bản của cái Ta Biết là bởi vì nó là nhận biết thuần khiết, nó có khả năng tự phóng chiếu vào bất cứ điều gì mà nó hình dung, và chính đặc tính này giúp nó đi xuống đầu thai. Nói cách khác, cái Ta Biết không trở thành một thể bản sắc hay một xác thể vật lý, mà nó tự phóng chiếu vào một ý niệm cái ta, một ý niệm bản ngã. Cũng y như một diễn viên mặc vào trang phục trình diễn và hóa trang để đóng một vai tuồng trong vở kịch vậy.

Như vậy cái Ta Biết khởi sự học trường bí giáo khi nó tự phóng chiếu vào một “cái ta bản sắc” do vị thày tâm linh tạo ra. Chúng ta có thể so sánh với một học viên phi công bước vào một cái máy giả lái phi cơ hầu có được cảm giác y như mình đang lái một chiếc phi cơ mà không sợ gây ra tai nạn.

Khi cái Ta Biết bắt đầu thông thạo hơn với một cái ta bản sắc, nó sẽ khoác vào một cái ta bản sắc/lý trí và lại thử nghiệm thêm. Sau đó nó sẽ khoác lên một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc, và cuối cùng là một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý mà không bao giờ nó phải thực sự bước xuống dải tần số vật chất. Nó vẫn còn ở trong một môi trường mô phỏng thế gian.

Sau khi nó tương đối lành nghề với tiến trình này, cái Ta Biết bước vào một giai đoạn mới khi nó sẽ bắt đầu định đoạt cái ta riêng của nó thay vì sử dụng cái ta do thày định ra cho nó. Làm thế nào nó thiết kế cái ta đó? Dựa theo sự liên hệ của nó với Hiện diện TA LÀ và những kinh nghiệm của nó về bốn tầng, cái Ta Biết khởi đầu như một ý niệm bản ngã chỉ to bằng đầu cái kim, qua đó nó biết là nó vẫn kết nối với một cái gì rộng lớn hơn nhưng nó không trực tiếp kinh nghiệm được Hiện diện TA LÀ, và như vậy, nó không thể biểu hiện một cách trọn vẹn cá thể của Hiện diện.

Khi cái Ta Biết thử nghiệm, nó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó. Chừng nào nó còn đi theo sự hướng dẫn của vị thày, nó sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn nó là cánh cửa mở cho Hiện diện. Và cứ thế, cá thể của Hiện diện ngày càng tỏa sáng mãnh liệt hơn qua nó. Nói cách khác, cái Ta Biết không khoác lấy hay trở thành cá thể của Hiện diện, nó chỉ ngày càng là một cánh cửa mở rộng hơn cho Hiện diện. Điều này có nghĩa là khi cái Ta Biết tạo ra một bản ngã, bản ngã này sẽ phản ánh cá thể của Hiện diện.  

Trong trường hợp lý tưởng, cái Ta Biết sẽ tiếp tục tuân theo sự hướng dẫn của vị thày cho tới khi nó sẵn sàng tạo ra một thể bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý cụ thể và nó tự phóng chiếu vào đó. Bây giờ nó hết còn trong một môi trường mô phỏng mà nó đã giáng xuống thế gian “thực thụ”.  

Mục đích lời trình bày dài dòng ở trên là để giải thích cho con hiểu là cái mà nhiều người xem là hồn thật ra chỉ là một thể gồm bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý do cái Ta Biết tạo ra. Trong điều kiện lý tưởng, cỗ xe 4 lớp này – ta sẽ tránh gọi là hồn từ điểm này trở đi – là sự phản ánh của cá thể của Hiện diện TA LÀ. Lúc đầu, cá thể này sẽ không biểu thị một cách trọn vẹn nhưng sẽ ngày càng rõ nét hơn khi cái Ta Biết có thêm kinh nghiệm tự biểu đạt. Và như vậy, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô sẽ lý tưởng là con đường của cái Ta Biết trở thành cánh cửa mở hầu cá thể và quyền năng của Hiện diện TA LÀ được thể hiện hoàn toàn. “Ta và Cha ta là một” trong nghĩa đó.

Làm thế nào cá thể của Hiện diện được phản ánh trong thiết kế của cỗ xe 4 lớp? Chúng ta có thể so sánh với một máy chiếu phim và cá thể của Hiện diện như là cuộn phim. Cá thể đó giống như một hình ảnh được phóng chiếu lên màn ảnh của bốn thể phàm. Tại sao điều này quan trọng? Là vì nó giải thích tại sao trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không thể bị chia cắt hay phá hủy.

Hiện nay thế giới vật chất – ít nhất trên hành tinh địa cầu – là một môi trường bị ảnh hưởng sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên và các sinh thể sa ngã. Cho nên khi con xuống hiện thân ở đây, rất có thể con sẽ bị chấn thương bằng rất nhiều cách, và chấn thương này có thể khiến cho cỗ xe 4 lớp của con bị hư hại. Trong những điều kiện của thế gian, thật con không có cách nào tránh khỏi điều đó. Tuy nhiên trong trường hợp lý tưởng khi con được vị thày hướng dẫn, chấn thương có thể được chữa lành hầu như tức thì nếu con quyết định trong ý thức là con sẽ không phản ứng lại. Trong trường hợp này, chấn thương xảy ra giống như có ai lấy tay đập vào nước. Nước sẽ văng lên tung tóe nhưng chỉ một lát sau, nước sẽ nhanh chóng bình phẳng trở lại và một tấm gương toàn hảo sẽ lại hình thành trên mặt nước, phản ánh cá thể do Hiện diện TA LÀ phóng chiếu ra.

Nói cách khác, khi cỗ xe 4 lớp của con được chế tạo khi con thấy con là phần nối dài cho Hiện diện TA LÀ, vấn đề phân cách hay phân mảnh linh hồn không hề đặt ra. Chỉ trong trường hợp không lý tưởng thì mới có vấn đề, và bây giờ chúng ta hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

Như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày, trong trường bí giáo có một số dòng sống đã quyết định khai mở tâm thức nhị nguyên trước khi họ sẵn sàng. Họ bị tâm nham hiểm của rắn lừa gạt để họ tưởng rằng họ đã đủ trình độ bước xuống hiện thân vật lý – dẫu rằng vị thày nói rõ là họ chưa sẵn sàng. Như vậy họ đã quyết định cố chiếm lấy “thiên đàng” – hay đúng hơn, chiếm lấy sự hiện thân – bằng vũ lực.

Trên thực tế, các dòng sống này chưa có khả năng định hình cỗ xe 4 lớp của họ. Khả năng của họ bị giới hạn ở mức mà họ đã đạt được khi họ quay lưng lại thày mình. Và vì thế, họ khoác vào một cỗ xe 4 lớp gồm một phần do họ tạo dựng và phần kia do các sa nhân tạo dựng. Làm sao đi nữa thì cỗ xe này cũng không phản ánh cá thể của Hiện diện: nó đã được tạo ra dựa trên ảo tưởng tách biệt.

Điều này có hai hệ quả. Một là các ý tưởng, các tâm ảnh và các tin tưởng cấu tạo cá thể của cỗ xe 4 lớp đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Những tin tưởng này phần nào dựa trên cá thể của Hiện diện TA LÀ của dòng sống, nhưng cá thể này đã bị biến thái bởi tâm thức nhị nguyên. Như ta đã giải thích, mọi thứ trong tâm thức nhị nguyên phải có một đối cực, nghĩa là khi một đặc tính nhị nguyên gặp đặc tính đối cực của nó, có vẻ như nó sẽ bị đối cực kia triệt tiêu.

Bây giờ con có thể thấy được tại sao khi cỗ xe 4 lớp của con được xây bằng tâm thức nhị nguyên, nó luôn luôn ở trong trạng thái bị đối cực nhị nguyên đe doạ. Ý niệm bản sắc, ý niệm cái ta trong lý trí và ý niệm cái ta trong tình cảm luôn luôn bị đe dọa bởi đối cực nhị nguyên của những tin tưởng cấu tạo các cỗ xe của con.

Bây giờ chúng ta thấy có bốn cách cỗ xe 4 lớp của con – tức hồn của con – có thể bị phân mảnh. Ở tầng vật lý, sự kiện cơ thể con bị giết hại hay bị đau đớn có thể dẫn đến chấn thương trầm trọng đến độ “thể” cảm xúc của con bị phân mảnh. Việc trải nghiệm những xúc động mãnh liệt từ người khác cũng có thể gây ra chấn thương. Con thử nhìn xem con có thể bị tác động dễ dàng thế nào khi người ta giận dữ đối với con hay có ác ý muốn tiêu diệt con. Ở tầng lý trí, khi con thấy những tin tưởng sâu xa của mình bị lật bỏ, con có thể bị chấn thương. Ví dụ như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch đã cảm thấy niềm tin của mình nơi đạo mình bị khoa học phá tan tành, và điều này có thể gây ra một rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp. Tất cả những trải nghiệm đó cũng có thể tạo rạn nứt ở tầng bản sắc khi con cảm thấy chính ý niệm bản sắc của mình bị đe dọa. Và điều này cũng có thể xảy ra khi sa nhân buộc oan con – như chúng thường hay làm – khiến tin tưởng của con về bản chất tốt thiện của con bị đe dọa.

Bây giờ chúng ta hãy đào sâu hơn và thấy rằng cỗ xe 4 lớp gồm có hai thành phần. Một là những tâm ảnh và tin tưởng, và thành phần kia là năng lượng vận động tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng. Các tâm ảnh và tin tưởng hình thành một cái gì có thể so sánh như một cấu trúc tinh thể (crystalline structure). Con cũng biết có những đồ chơi làm bằng mảnh nhựa hay kim khí mà con có thể lắp lại thành cái hộp có khoảng trống bên trong, giống như cái lồng. Thành phần năng lượng là những gì được đặt vào trong cấu trúc đó, gần giống như những quả bóng mà con đặt vào trong lồng.

Trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không có bất cứ hình ảnh hay tin tưởng nào dựa trên nhị nguyên. Kết quả là ngay cả khi con bị tấn công, con cũng sẽ không xem đó là một sự tấn công cá nhân, bởi vì con không hề cảm thấy cá nhân mình bị đe dọa. Cho nên mặc dù cấu trúc tinh thể bị hư hại, con có thể, gần như lập tức, chữa lành lặn bằng cách buông bỏ chuyện đó và trở về nhận biết thuần khiết. Đây là ý nghĩa thâm sâu của lời dạy về việc chìa má bên kia. Khi con thực sư chìa má bên kia, không một thế lực thấp kém nào có thể làm hại các thể cao của con.

Trước khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn, con có thể bị tác động tạm thời, và điều này có thể khiến con mất đi một phần năng lượng trong cấu trúc. Nhưng khi con trở về với sự nhận biết thuần khiết, con sẽ từ hóa (magnetize) năng lượng đó trở lại trong con. Nói cách khác, con có thể học cách chữa lành nhanh chóng bất kỳ chấn thương nào mà con phải kinh qua khi đầu thai. Khi con đạt được quả vị Ki-tô, ngay cả xác thân vật lý của con cũng không thực sự là vật lý nữa, và như vậy con có thể hiện thân trong một thể xác trông như là vật lý nhưng không một thế lực nào trên địa cầu có thể giết hại.

Nhưng nếu cỗ xe 4 lớp của con được làm bằng tâm thức nhị nguyên, cấu trúc tinh thể sẽ dễ dàng bị hư hại hoặc vỡ ra thành từng mảnh do các điều kiện trong thế gian, như được mô tả ở trên. Hơn nữa, năng lượng bên trong cấu trúc sẽ rung động ở một độ thấp hơn, có nghĩa là năng lượng dễ dàng bị cuốn hút ra ngoài hay bị mất mát khi có lỗ hổng trong cấu trúc. Cho nên khi cỗ xe bị phân mảnh, đó là vì có cái gì đó đã làm nổ tung và thổi bay một phần cấu trúc tinh thể cùng với năng lượng trong đó. Bây giờ chỉ còn sót lại một cấu trúc khiếm khuyết với một lỗ hổng to tướng, và con cảm nhận điều này như một chấn thương trầm trọng.

Nếu mảnh cấu trúc và năng lượng bị mất đủ lớn, con sẽ cảm thấy mình bị chia cắt – một căn nhà bị chia cắt khỏi chính mình – đến độ con không thể chịu đựng được nữa, và đây là nguyên nhân thực sự của tất cả mọi chứng bệnh tâm thần trầm trọng. Nỗi đau và mất mát to lớn đến độ con không thể sinh hoạt bình thường được, và con nhất định phải làm gì đó để khắc phục cảm giác trống trải, mất mát, đau đớn đó. Nhưng vấn đề là con sẽ làm gì đây? Và đây là lúc chúng ta thấy hiện ra tình thế tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, khiến con người bị đóng đinh – trong nghĩa đen – trên cây thập tự của chính cỗ xe 4 lớp của mình.   

Có mấy cách cơ bản để con cố chịu đựng sự phân mảnh của hồn:

  • Con tìm cách khiến mình tê dại để có thể chịu đựng cơn đau, có thể qua chất hóa học hay ma túy, chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện ngập. Sự nghiện ngập kéo theo một số biến động khác trong đời con gây thêm chấn thương, khiến hồn bị phân mảnh nhiều hơn nữa. Kết quả là một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ không ngừng kéo con xuống cho đến khi con chạm đáy và quyết định mình phải thay đổi hoàn toàn cách sống. Nhân tiện xin nói thêm là cách sử dụng dược phẩm của khoa tâm thần học hiện đại cũng tương tự như cách trên. Nếu không phối hợp với phép trị liệu đối thoại thì dược phẩm sẽ không giải quyết được sự phân rẽ của hồn. Nhưng con cũng lưu ý là đối với những người bị phân rẽ trầm trọng, rất có thể họ sẽ cần trị liệu tâm thần, và vì vậy ta sẽ không lên án trị liệu và cũng không khuyên ngăn người bệnh đi tìm sự giúp đỡ.
  • Con tìm cách mau chóng chiếm đoạt năng lượng của người khác hầu giảm thiểu nỗi trống trải của mình. Một phương cách là quan hệ tình dục, khi con đoạt lấy năng lượng của người giao phối. Điều này phần nào giải thích những trường hợp hiếp dâm và ấu dâm. Tất nhiên, làm vậy cũng không giải quyết được sự phân chia. Một cách khác nữa là tạo ra tranh cãi, gây ra ẩu đả hay hành hạ người khác bằng đủ mọi cách. Những kẻ tra tấn hay giết người hàng loạt làm như vậy để đánh cắp năng lượng hầu che đậy những phân chia trầm trọng trong hồn mình.
  • Con mời một tà thể ngoại lai vào cỗ xe 4 lớp của con để lấp đầy lỗ hổng. Tà thể này có thể là một hồn bóng không xác, một con quỷ, hay như Phật Gautama có gọi, một con quái vật. Điều này có nghĩa là, trong nghĩa đen, có một sinh thể ngoại lai vào sinh sống trong không gian của cỗ xe 4 lớp của con, và hiển nhiên nó gây ra những chứng bệnh gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar), phân chia nhân cách (split personality), đa nhân cách (multiple personality) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Có lúc tà thể ngoại lai sẽ chiếm lãnh tâm trí con và có lúc con sẽ giữ được chủ quyền.
  • Con cố tránh cho vết thương con khởi phát bằng cách lánh xa mọi người khác hay lánh xa đời sống. Trong quá khứ, nhiều người đã lui vào tu viện vì lý do này, và ngày nay có nhiều người cũng tìm cách che giấu sự phân chia nội tâm nơi các cộng đồng tâm linh. Tiện đây cũng xin nói, một giáo lý tâm linh quả là có thể bị lạm dụng cho mục đích này.  
  • Con cố tránh cho vết thương khởi phát bằng cách kiểm soát môi trường chung quanh con. Trường hợp này bao gồm nhiều loại người, từ gia chủ của một gia đình đổ vỡ cho đến giám đốc điều hành của một tập đoàn hay nhà độc tài của một quốc gia. Hitler, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác đều sẵn sàng giết hại vô số sinh mạng hầu trấn áp môi trường chung quanh, và tất cả đều bị thúc đẩy bởi một linh hồn bị phân rẽ trầm trọng.  
  • Con tìm cách sửa chữa sự rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp của con. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng thường con dùng tâm thức nhị nguyên để dựng lên một cấu trúc mới rồi đổ đầy với năng lượng thấp kém. Vết gãy rách đã khiến cho cấu trúc linh hồn nguyên thủy của con bị hư hại và vì vậy con cảm thấy mình khiếm khuyết, không trọn vẹn. Việc đóng lại lỗ hổng có thể cho con cảm giác toàn vẹn hơn. Nói cách khác, dù cỗ xe của con được tạo bằng tâm thức nhị nguyên, nhưng một cấu trúc liền lặn sẽ cho con một cảm giác tương đối toàn vẹn, tự chủ hơn. Một cách sửa chữa hư hại là để cho tự ngã của con tạo ra những tâm ảnh mới phát xuất từ chấn thương. Điều này có thể khiến con xem mình là một nạn nhân, hay khiến con tìm kiếm một con dê tế thần để con đánh nhau với nó hầu tiêu diệt nó. Như thế con sẽ chám được lỗ hổng với một cấu trúc mới phát sinh từ chấn thương mà con đổ đầy với năng lượng sợ hãi hay giận dữ. Tất nhiên, con sẽ không chữa lành được phân chia nội tâm của con nhưng nhiều người đã dựng lên nhiều lớp kiểu này đến độ họ cũng cảm được một chút toàn vẹn và chủ động.

Bây giờ thì con thấy được một số những hành động tàn bạo nhất trong lịch sử loài người là do những kẻ bị phân mảnh linh hồn gây ra. Một số những lạm dụng tồi tệ nhất ở mức cá nhân hay gia đình cũng là do chứng này gây ra. Hầu hết các bệnh tâm thần và các vấn đề tâm lý nghiêm trọng nhất là do sự phân mảnh của cỗ xe 4 lớp. Một khi con nhìn nhận điều này thì các thày mới có thể gợi ra một số cách đối phó.

Trước hết, chúng ta có một nhóm những người bị phân rẽ trầm trọng đến độ họ bị kẹt trong một khuôn nếp độc hại. Chừng nào họ còn bị vòng xoáy hướng hạ cuốn họ đi xuống như thế, thường không có cách gì giúp được họ. Không có cách nào để giao tiếp với họ, và con không thể nói gì với họ để thay đổi tình thế. Họ sẽ phải tiếp diễn khuôn nếp này cho tới khi họ chạm đáy và quyết định làm một điều mà họ chưa từng làm cho tới giờ, đó là nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận là mình đã tạo ra ngã tách biệt và bây giờ mình chính là người phải gỡ nó đi.

Sau đó chúng ta có một nhóm những người bị phân mảnh nghiêm trọng đến độ họ khó lòng nào, hoặc không thể, chữa lành một mình. Ta thực sự khuyên những người như vậy hãy tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ có thể. Con đang sống trong một thời kỳ mà sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần đã phai nhạt đi và vì vậy, giống như với các bệnh thể xác, không ai phải xấu hổ với bệnh tâm thần nữa. Ngoài các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học, con cũng có thể chiếu cố các nhà trị liệu không chính mạch, tuy nhiên với hầu hết những cách trị liệu truyền thống, điều quan trọng là tìm được người thích hợp để trợ giúp mình. Thật vậy, người chữa trị quan trọng hơn cách chữa trị. Một khuyến cáo chung chung là con nên xem xét hai cách trị liệu Gestalt và EMDR. Về liệu pháp giải thoát tánh khí (spirit release therapy) hoặc phương pháp của thày cúng (shaman) nhằm phục hồi linh hồn, ta xin nhắc lại một lần nữa: mức độ già dặn của người chữa trị là điều tối quan trọng. Song song, một điều nữa cũng vô cùng quan trọng là cần phối hợp pháp trị liệu với những dụng cụ tâm linh mà ta khuyến cáo ở bên dưới.    

Chúng ta cũng có một nhóm thứ ba, là những người chưa bị phân chia đến độ cần phải điều trị, tuy rằng sự điều trị vẫn có thể ích lợi. Nếu con trong số này, con có thể tự lo lấy một số điều, là những điều gì?

Điều đầu tiên cần làm là nhận ra rằng khi cỗ xe 4 lớp của con bị phân mảnh, nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thế lực ngoại lai, chẳng hạn những sinh thể bóng tối hay năng lượng thấp kém. Cho nên con cần trước hết thiết lập một lá chắn bảo vệ tâm linh chung quanh trường năng lượng của con. Cách thực hiện dễ nhất là sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con, như bài nguyện của Đại thiên thần Michael và những bài chú Đại thiên thần Michael và Hercules.

Không phải là chuyện lâu lâu đọc chơi một lần mà con phải cam kết một cách chân thành là con sẽ tuân thủ một chương trình đều đặn mỗi ngày. Nỗ lực của con cần tùy thuộc vào độ trầm trọng của sự phân mảnh và mong muốn chữa lành của con. Ta đề nghị con dành ra khoảng nửa giờ hoặc hơn nữa mỗi ngày cho việc bảo vệ tâm linh.

Bước tiếp theo là nhận ra là rất có thể con đã bị xâm nhập, hoặc ít nhất đã tạo ra một mối ràng buộc với những sinh thể hay năng lượng thấp kém. Cách tuyệt đối hiệu quả nhất để cắt đứt các mối ràng buộc đó và tự giải thoát là bài chú Elohim Astrea. Một lần nữa, con sẽ cần nửa giờ đồng hồ hay hơn nữa, thêm vào những bài chú bảo vệ ở trên.

Bước kế tiếp là nhận ra là có thể con đã tiếp nhận một số năng lượng thấp kém và chúng đang lôi kéo con từ bên trong. Cách đối phó là con cầu thỉnh năng lượng tâm linh hầu chuyển hóa năng lượng thấp kém. Ở đây, những bài chú của cả bảy tia sáng sẽ đều hữu dụng, nhưng ta khuyên con nên khởi đầu với các bài chú ngọn lửa tím. Một lần nữa, nửa giờ đồng hồ thêm vào các bài chú ở trên.

Việc đọc chú cùng với những bản ghi âm mà vị sứ giả này đã chuẩn bị có thể sẽ rất hữu ích. Làm vậy không những sẽ giúp con học cách đọc chú, mà qua bản ghi âm, sẽ còn có ánh sáng được truyền rải xuống mà nhiều người bị phân mảnh không có khả năng tự cầu thỉnh một mình.

Một khi con đã cầu thỉnh được tạm đủ ánh sáng để cảm thấy nhẹ nhõm hơn, con có thể bắt đầu sử dụng các dụng cụ khác được đăng tải ở đây. Con có thể bắt đầu với Hộp Dụng cụ cho Khủng hoảng Tâm linh, và sau đó chuyển sang nhiều bài thỉnh khác. Bài thỉnh Đông-Tây đặc biệt nhằm kêu gọi các mảnh linh hồn thất lạc trở về với con.  Tuy nhiên còn có nhiều bài chú khác nhằm giúp con đương đầu với một số vấn đề đặc thù, và một khi con vượt qua được tâm trạng rối loạn nhất, con sẽ nhận được hướng dẫn từ bên trong.

Thật ra những gì ta vừa trình bày cho tới giờ chỉ là một chương trình cấp tốc để giúp con vượt qua những hiệu ứng nghiêm trọng nhất của sự phân mảnh. Trong giai đoạn tiếp theo sau, con phải nhận ra là việc hồi phục sự toàn vẹn tâm linh thực sự là một nỗ lực dài hạn, thậm chí có thể kéo dài suốt đời. Vì vậy con cần có cái nhìn là con đang đi trên một hành trình tâm linh sẽ lần hồi dẫn con từ mức tâm thức hiện thời của con đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đó là tiềm năng cao nhất của con nhưng cũng là một mục tiêu thực tế mà con có khả năng đạt được.

Điều này có nghĩa là con hãy nắm lấy con đường tâm linh mà con có thể thấy và hiểu được trong hiện tại, rồi con hãy cứ theo đó mà tiến bước hết sức mình. Nhưng con cũng phải hiểu đó là một con đường tự thăng vượt, tức là có nhiều cấp độ. Sẽ có những lúc con cần bước hẳn lên một bực cao hơn trong viễn quan lẫn cách thực hành.

Trong các giai đọan sau đó, con sẽ thấy lời dạy sau đây của ta có thể hữu dụng, cụ thể là cỗ xe 4 lớp của con – mà hầu hết mọi người gọi là hồn – không phải do Thượng đế tạo ra, và trong hiện tại nó không phản ánh cá thể của Hiện diện TA LÀ của con. Cho nên đối với những ai đã bước xuống tách biệt, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô gồm có ba giai đoạn rõ rệt:

  • Trong giai đoạn thấp sơ khởi, con sẽ cần tìm cách chám lại mọi lỗ hổng trong linh hồn hay hồi lại những mảnh đã thất lạc. Đây chỉ là một biện pháp tạm thời để giúp con bước vào con đường thực sự.
  • Trong giai đoạn thứ nhì, con không thực sự tìm cách chữa lành hay hoàn thiện linh hồn con, bởi vì nó đã được tạo ra từ các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên. Do đó thực sự nó không bao giờ có thể được nâng lên tới mức vào được cõi tâm linh. Điều con thực sự cần làm là tháo gỡ cái Ta Biết khỏi sự đồng hóa với hồn phát xuất từ nhị nguyên. Để làm điều này, con thỉnh ánh sáng tâm linh để chuyển hóa các năng lượng thấp trong cỗ xe 4 lớp, và con sử dụng các giáo lý tâm linh để thay thế mọi ảo tưởng nhị nguyên trong cỗ xe của con. Tuy nhiên, điều thiết yếu mà con phải nhận rõ là giai đọan này sẽ không thực sự đưa con tới quả vị Ki-tô, và nó cũng sẽ không tạo đủ điều kiện cho con thăng thiên. Nó sẽ chỉ đơn giản dẫn con trở lại đúng tình trạng của con trước khi con rơi vào vòng nhị nguyên. Nói cách khác, điều con làm trong giai đoạn này KHÔNG PHẢI là hoàn thiện hồn mà là thăng vượt hồn. Con để cho hồn chết đi từng chút và từng chút, như ta đã từng nói là nếu con cố cứu lấy mạng sống – tức là cái linh hồn xuất phát từ nhị nguyên – thì con sẽ đánh mất sự sống. Nhưng nếu con sẵn sàng bỏ mạng sống cho ta – tức là để cho linh hồn nhị nguyên chết đi – con sẽ tìm được sự sống vĩnh hằng qua tâm thức Ki-tô.
  • Trong giai đoạn thứ ba, con mới bắt đầu thực hiện những gì con đã thực sự xuống đây để thực hiện, tức là trở thành cánh cửa mở cho cá thể của Hiện diện TA LÀ được biểu hiện trong thế gian. Con sẽ đạt được tâm Ki-tô trọn vẹn khi con trở thành cánh cửa mở – và không có gì hơn.

Giê-su giảng về đồng bóng

Hỏi: Thưa thày Giê-su, quan điểm của thày về đồng bóng (channeling, hay truyền kênh) là như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Giáo lý trên trang web này giải thích rằng tạo vật của Thượng đế được tạo bằng năng lượng. Các tạo vật của Thượng đế có nhiều tầng lớp chỉ phân biệt qua rung động. Tâm con người có khả năng hoà điệu với những tầng khác nhau của tạo vật Thượng đế. Bằng cách điều chỉnh rung động bắt sóng trong tâm thức mình, một người có thể nhận được những ý tưởng hay thông điệp từ những cõi khác.

Có một vài cõi tuy vượt ngoài vũ trụ vật lý nhưng lại có rung động quá thấp để thuộc về thế giới tâm linh. Một trong những cõi đó được các thày gọi là cõi cảm xúc hay cõi tình cảm. Có rất nhiều sinh thể cư ngụ trong cõi này. Trên địa cầu, con có thể thấy nhân loại có nhiều trạng thái tâm thức khác nhau thì ở cõi cảm xúc cũng như vậy.

  • Ở các tầng thấp nhất của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể rõ ràng có ý đồ xấu xa. Chúng cố tình tìm cách thao túng con người cho đủ loại mục đích khác nhau, kể cả đánh cắp năng lượng tâm linh của con người.
  • Ở các tầng giữa của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể không có ý định xấu xa nhưng chỉ đơn giản hành động do vô minh. Ở những tầng cao hơn của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể đã đạt được một mức hiểu biết tâm linh nào đó. Chúng có thể có vẻ thông thái hay tiến hóa cao siêu đối với một người trong thế giới vật chất.
  • Những sinh thể này có thể không có ý gì xấu xa và chúng cũng có thể đưa ra những lời chỉ dẫn hay giảng dạy chứa đựng một chút yếu tố chân lý. Tuy nhiên, con phải tự đặt câu hỏi tại sao chúng lại cư ngụ trong cõi cảm xúc và tại sao chúng chưa thăng thiên lên cõi tâm linh. Lý do là do một số nguyên nhân tâm lý, chúng đã bị kẹt lại ở tầng mức này của tạo vật Thượng đế. Do đó, nếu con tiếp tục hiệp thông với những sinh thể loại này, con có nguy cơ bị kẹt lại ở cùng một mức như chúng.  
  • Khi đã là học trò thì con khó lòng vươn cao hơn tâm thức của thày mình. Cho nên khi con chọn vị thày tâm linh của con, con muốn chọn ra một vị là chân sư thăng thiên. Nếu con muốn phát triển tâm linh tối đa và cũng thăng thiên lên cõi tâm linh, tại sao con lại chọn thày cư ngụ ở một cõi thấp hơn? Tất nhiên, nếu con chỉ muốn “giải trí tâm linh” thì rất nhiều sinh thể ở cõi cảm xúc sẽ là những tay lão luyện để nói cho con nghe đúng những lời mà tự ngã của con muốn nghe.

Ta không có ý muốn đưa ra một lời khẳng định tuyệt đối để lên án đồng bóng hay truyền kênh là luôn luôn nguy hiểm. Tuy nhiên, ta biết có một số hành giả Thời mới ưa nghĩ rằng việc liên hệ với đồng bóng không có gì nguy hiểm. Ta phải nói thẳng thắn với con là nghĩ như vậy không đúng. 

Trong ý nghĩa rộng nhất, đồng bóng có thể mô tả như một tiến trình trong đó một người bật máy thu thanh của tâm thức mình lên và bắt sóng một tầng nào đó trong số các tầng của tạo vật Thượng đế ở ngoài vũ trụ vật lý. Tuy nhiên nếu con nghĩ rằng tất cả mọi thứ ở ngoài vũ trụ vật lý đều là tốt và tâm linh thì con đang mắc vào một ảo tưởng vô cùng nguy hiểm.

Để thấy ảo tưởng này nguy hiểm thế nào, con chỉ cần nhìn vào hành vi của con người. Tại sao con nghĩ có những người hành động xấu ác rõ ràng? Lý do là vì họ đã hòa điệu tâm thức của họ vào một tầng thấp của tạo vật Thượng đế. Chẳng hạn con cũng biết Adolf Hitler say mê huyền bí như thế nào. Kỳ thực ông là cái kênh cho những tà lực thao túng và sử dụng ông ta cho mục đích của chúng. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời và cái chết của Hitler, con sẽ thấy hiển nhiên đồng bóng không phải là một hoạt động an toàn. 

Một số người đã cho phép tà lực từ cõi trung giới ảnh hưởng, thậm chí chiếm hữu tâm thức của mình. Những người như thế thường làm công cụ cho tà lực, dù cố ý hay vô tình, dù biết rõ hay là không biết.

Điều ta đang cố giải thích là nếu con cho rằng đồng bóng là an toàn, con đã rơi vào một cực đoan. Cực đoan đối nghịch là những người không bao giờ dám bật máy thu thanh của tâm thức họ để bắt sóng ở ngoài vũ trụ vật chất. Cả hai loại người này đều tiếp cận sự phát triển tâm linh một cách thiếu cân bằng.  

Nếu con nhìn vào hầu hết người tâm linh trên địa cầu, con sẽ thấy chỉ có một lý do duy nhất tại sao họ lại tâm linh. Đó là vì họ đã bật tâm thức họ lên để hòa điệu với cõi tâm linh. Qua sự hòa điệu này, họ nhận được tuệ giác, sự hiểu biết và đôi khi nhiều loại thông điệp từ cõi tâm linh.

Nhiều người trên địa cầu đã mở tâm ra, hoà điệu với cái gì đó vượt khỏi vũ trụ vật chất, và trong những thập niên sắp tới, số người này sẽ ngày càng đông đảo hơn. Tâm cởi mở này là một phần rất lớn trong kế hoạch tâm linh nhằm nâng cao tâm thức nhân loại. Nói chung, ta không muốn con người đóng chặt tâm mình lại, thế nhưng ta cũng khuyên mọi người cân nhắc xem mình muốn liên lạc với tầng cõi nào, với đài phát thanh nào.

Ta khuyến khích mọi người hãy học cách mở tâm thức ra và hòa điệu với bên ngoài thế giới vật chất, nhưng tất nhiên ta chỉ muốn mọi người học cách hòa điệu với thế giới tâm linh mà không bắt lầm sóng của bất cứ cõi nào thấp hơn. Để làm vậy, con cần đạt được sự phân biện, hầu con biết được cái gì thuộc về thế giới tâm linh và cái gì thuộc về những thế giới thấp kém. Khả năng phân biện này chỉ đạt được bằng cách con khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân của con, và vì vậy ta đã cho con thật nhiều dụng cụ và lời dạy để giúp con thực hiện được.

Ta phải thành thực với con là ta nhìn thấy nhiều con người tuyệt vời trong phong trào Thời mới, họ rất cởi mở với ý tưởng rằng nhân loại có khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh. Nhưng một số lại cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực và họ cố hiệp thông bằng động lực không trong sáng. Trong số những động lực này, có niềm kiêu hãnh, có nhu cầu muốn tự cao, nhu cầu quyền lực và kiểm soát, hay lòng ham muốn nếm thử một hiện tượng lạ lẫm. Nếu con đi tìm sự hiệp thông nội tâm từ một lòng ham muốn quá độ hay với những động lực không trong sạch như thế, con sẽ có nhiều khả năng hòa điệu với một tầng tâm thức thấp hơn cõi tâm linh.

Cho nên con nên vô cùng tỉnh thức về các động lực của con. Cách hay nhất để vượt qua động lực bất toàn là thực tâm nỗ lực bước đi trên con đường xây dựng quả vị Ki-tô cá nhân của con. Trước tiên hãy đi tìm vương quốc của Thượng đế, đi tìm tâm thức Ki-tô, và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.

Sự quân bình luôn luôn là chìa khóa của phát triển tâm linh. Có những người sẽ nói, do rủi ro khi liên hệ với tà lực nơi cõi cảm xúc, con không bao giờ được thử nghiệm bất kỳ một hình thức hiệp thông cá nhân nào. Nếu con chấp nhận ý tưởng này, làm sao con sẽ vươn lên được cao hơn một mức nào đó trên đường tu? Nhưng mặt khác, rõ ràng cũng sẽ nguy hiểm nếu con bảo rằng bất cứ ai cũng nên hiệp thông và mọi chuyện sẽ tuyệt đối an toàn.   

Ở một mức nào đó trên đường tu, một người sẽ cần phát triển khả năng vượt ra khỏi vũ trụ vật chất và hòa điệu với cõi tâm linh. Tuy nhiên hoà điệu này chỉ nên xảy ra qua cái ta Ki-tô của người đó. Qua cái ta Ki-tô, con có thể chạm các linh thể và biết được nó có thuộc về Thượng đế hay không.

Nếu con không bao giờ cố hoà điệu, chắc chắn con sẽ không thể thăng tiến quá một mức nào đó, nhưng nếu con cố hoà điệu mà không có phân biện, con sẽ gặp rủi ro. Vì vậy, con hãy tập trung vào việc phát triển tâm Ki-tô và đừng cố ép uổng sự hoà điệu nội tâm. Con chỉ đơn giản xây dựng quả vị Ki-tô và để yên cho vị thày tâm linh của con tìm thấy con khi con sẵn sàng.

Đây là ý niệm mà ta đã mô tả trong chuyện ngụ ngôn về những nữ đồng trinh chuẩn bị để sẵn sàng đón tiếp chú rể. Nếu dòng sống cố cưỡng ép tiến trình này, rất có thể nó sẽ nhận lộn chú rể và cuộc hôn nhân sẽ không còn gì thần thánh nữa đâu.

Một số người bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức duy vật đến nỗi họ không thể hoà điệu với bất cứ gì bên ngoài thế giới vật chất. Nếu con đã vượt lên trên mức đó và đạt tới một mức hoà điệu nào đó, tại sao con không nỗ lực thêm để đạt phân biện Ki-tô? Tại sao con không đảm bảo sự hiệp thông với các chân sư đích thực ở cõi tâm linh thay vì một số sinh thể ở những cõi thấp?

Các chân sư khác và chính ta đều sẵn sàng và mong muốn hiệp thông với bất cứ ai đạt được một mức tâm Ki-tô nào đó. Con hãy tìm các thày với sự phân biện và động lực trong sạch, và con sẽ tìm thấy các thày.

Vai trò của Saint Germain và Giê-su

Hỏi: Thày có xem Saint Germain là vị lãnh đạo của Thời đại Mới, và nếu vậy, sứ mạng của thày trong Kế hoạch này sẽ là thế nào? Bởi vì nếu TẤT CẢ các chân sư thăng thiên đều là MỘT, thì các chân sư thực sự phải đóng góp vào Kế hoạch Vũ trụ này hầu cải sửa địa cầu cùng dân cư trên đó.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Saint Germain là vị lãnh đạo tâm linh của Thời đại Bảo bình như ta đã từng giữ vai trò này trong Thời đại Song ngư. Điều này không có nghĩa là Saint Germain đã thay thế ta, mà ta đã chuyển sang một trách vụ khác cao hơn. Nay ta đảm nhiệm trách vụ Thế sư cho hành tinh địa cầu và Cứu tinh cho nhân loại.   

Hoàn toàn không có sự cạnh tranh hay ganh đua trên thiên đàng. Saint Germain từng hiện thân là cha của ta tức Joseph, và ta tôn kính và yêu quý thày như người anh em tinh thần thực sự. Điều quả thực sẽ hữu ích và quan trọng cho tất cả những ai mở tâm ra cho nguồn năng lượng của Thời đại Bảo bình là nên làm quen với sự Hiện diện, giáo lý cùng rung động của Saint Germain yêu dấu của ta. Thày đã giảng dạy rất nhiều từ thập niên 1930 và mọi hành giả tầm đạo sẽ nhận thấy việc học hỏi giáo lý của thày vô cùng quý báu.

Liên quan đến nhiệm vụ của ta, con có thể tham khảo những nhận xét của ta ở nơi khác trên trang mạng này.

Ghi chú: Sau đây là lời của Giê-su nói về Saint Germain trong quyển sách “Ki-tô sinh ra trong bạn” (The Christ Is Born in You):

Ta đã từng nói với con là cha ta, thánh Joseph yêu dấu, nay là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. Danh tính của thày là Saint Germain và thày đã được giao phó trách vụ lãnh đạo tâm linh cho Thời đại Bảo bình. Ta có thể xác nhận với con là ta có sự tôn kính và ngưỡng mộ to lớn đối với người Anh em Ánh sáng của ta, Saint Germain. Ta vô cùng vui mừng là thày đã được giao phó trách nhiệm lãnh đạo tâm linh trong 2000 năm tới.

Khi Saint Germain được bổ làm vị kế nhiệm cho ta, thày đã nhận ra rõ ràng tình trạng khó khăn của nghiệp chướng nhân loại đang quay trở lại, như ta đã có mô tả cho con. Vì vậy, thày thấy được nhu cầu phải truyền bá một kỹ thuật tâm linh hữu hiệu hơn mọi điều đã từng được giảng dạy trên địa cầu. Đây không phải là một vấn đề đơn giản vì con người đã tỏ ra vô cùng sốt sắng lạm dụng bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào được trao cho họ. Tương tự như con người đã sẵn sàng lạm dụng năng lượng nguyên tử thì họ cũng sẵn sàng lạm dụng năng lượng tâm linh. 

Cho nên Saint Germain đã phải xin phép đặc biệt từ các vị lãnh đạo tâm linh vũ trụ, và sau nhiều tham khảo, các vị ấy đã bằng lòng. Saint Germain đã được phép công bố một kỹ thuật tâm linh mà trong hàng ngàn năm chỉ được biết tới trong số một nhóm nhỏ những dòng sống tiên tiến. Trong quá khứ, kỹ thuật này được biết đến dưới nhiều tên. Saint Germain đã chọn truyền giảng kỹ thuật tâm linh này dưới tên “Ngọn lửa Tím”. Tên này liên quan đến việc cầu thỉnh một dạng ánh sáng tâm linh rung động ở những tần số nằm ngay trên vũ trụ vật chất (ánh sáng màu tím có tần số cao nhất trong số ánh sáng nhìn thấy).

Để tham khảo thông tin về cách cầu thỉnh Ngọn lửa Tím, xin xem trang Dụng cụ tu tập tâm linh.

Chân sư John Yêu dấu

Hỏi: Tông đồ John (sứ đồ Giăng hay Gioan) có đang bước chân trên địa cầu hay không, và nếu có, tìm đâu ra những nguồn giáo lý hiện đại đáng tin cậy của ngài?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tông đồ John hiện không đang bước trên mặt trái đất trong một xác thân vật lý. Thày hiện là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên, và danh hiệu cuả thày là John Yêu dấu (John the Beloved).

Như mọi chân sư thăng thiên khác, John yêu dấu của ta làm việc với một số cá nhân trong nhiều khả năng khác nhau. Vào thế kỷ qua, chúng tôi, các chân sư, có đỡ đầu cho một vài tổ chức cùng những cá nhân để truyền bá một số giáo lý tâm linh.

Mục đích của trang web này là để khuyến khích con người bước đi trên con đường quả vị Ki-tô cá nhân. Khi con bắt đầu khoác lên quả vị Ki-tô của con, con đạt được khả năng phân biện giữa những gì đáng tin cậy, nghĩa là thuộc về ánh sáng và đến từ các chân sư thăng thiên, và những gì không đáng tin cậy, là những gì đến từ những nguồn thấp hơn.

Một trong những vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt là có quá nhiều người mang xu hướng dính mắc với những giáo lý vỏ ngoài. Thật là quá hấp dẫn khi nghĩ rằng mình sẽ tự động được cứu rỗi nếu mình đi theo một tổ chức nhất định, tin vào mọi học thuyết của tổ chức đó và thực hành các nghi lễ. Nhưng việc khoác lên quả vị Ki-tô cá nhân đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, và lần hồi qua thử nghiệm và sửa sai, con sẽ rèn giũa khả năng phân biện tự mình con.

Bởi thế nên điều cuối cùng mà ta muốn chứng kiến là trang mạng này trở thành một cái phòng kiểm tra nơi mọi người vào hỏi thông tin đáng tin cậy thay vì sử dụng tánh phân biện của riêng mình. Cho nên ta mong con sẽ hiểu là ta sẽ không trả lời câu hỏi của con về những nguồn giáo lý đáng tin cậy từ John Yêu dấu.   

Sự kiện con đặt câu hỏi này cho thấy dòng sống của con có một mối liên hệ tâm linh với John Yêu dấu. Dòng sống của con mong muốn tái lập mối liên lạc ý thức với vị thày tâm linh đó. Có một chân lý rất quan trọng trong câu nói: “ Hãy hỏi và con sẽ nhận được.”

Con hãy nỗ lực hòa điệu tâm thức con với tâm thức của John Yêu dấu. Sẽ hữu ích cho con nếu con nghiên cứu các thông tin về cuộc đời của thày và những giáo lý mà thày đã truyền giảng qua các sứ giả vỏ ngoài. Tuy nhiên những nguồn vỏ ngoài này sẽ không bảo đảm là con sẽ liên lạc trực tiếp được với thày. Sự liên lạc đó phải đến từ bên trong.

Ta đã có đăng tải một bài tập để giúp những ai muốn thiết lập mối liên hệ bên trong. Ta đề nghị con sử dụng bài tập đó cũng như bài tập để bảo vệ tâm linh. Con hãy hình dung sinh thể tâm linh mà con gặp trong khu vườn xinh đẹp đó là John Yêu dấu.

Ta có thể cam đoan với con là nếu con mở tim con ra một cách chân thành, thày John sẽ trả lời tiếng gọi của con. Ta có thể xác nhận rằng tình thương thanh khiết mà thày John dành cho dòng sống của con sẽ là sự trợ giúp vô cùng hữu ích cho đường phát triển tâm linh của con. John yêu dấu của ta chỉ đang chờ con gõ cửa trong tim con. Nếu con gõ cửa, thày sẽ trả lời con. 

Nhìn thấy tận mắt Thiên thần và Chân sư

Hỏi: Khi nào tấm màn sẽ được vén lên để con người nhìn thấy tận mắt các Thiên thần và các Chân sư?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tấm màn sẽ không bao giờ được rỡ lên chung cả cho mọi người mà chỉ với tư cách cá nhân. Nếu rỡ màn lên để mọi người nhìn thấy được thiên thần và chân sư, đó sẽ là sự vi phạm quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết và do đó họ có cơ hội bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn khiến họ không thể nhìn thấy thiên thần và chân sư tâm linh.

Cách duy nhất để vén tấm màn lên cho những ai ở trong trạng thái tâm thức như vậy là cưỡng ép họ rời khỏi trạng thái tâm thức đó, và như vậy quả là sự vi phạm Luật Tự quyết. Các chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ làm điều đó.

Điều quan trọng là cần hiểu rằng Thượng đế đã không tạo ra tấm màn. Cái đang ngăn cản mọi người thấy được cõi tâm linh là một tấm màn năng lượng tha hóa, và năng lượng này là do chính những người đã lạm dụng quyền tự quyết tạo ra. Tất nhiên là Thượng đế có khả năng tiêu hủy tấm màn, nhưng như ta đã nói, điều này sẽ không xảy ra. 

Con người có thể “rỡ tấm màn” trong từng trường hợp cá nhân bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Chính vì vậy mà tấm màn chỉ được rỡ lên một cách cá nhân. Tuy nhiên, ta hy vọng là trong một tương lai không quá xa, sẽ có nhiều người có khả năng đạt được trạng thái tâm thức trong đó họ có được một hình thức trực nhận nào đó về thế giới tâm linh, kể cả việc nhìn thấy hay nghe thấy các thiên thần và các chân sư tâm linh.

Thượng đế có nghe thấy mọi lời cầu nguyện?

Hỏi: Tại sao một người phải tìm những câu trả lời trên máy tính hay trong thư viện khi Thượng đế nghe thấy mọi lời cầu nguyện của chúng ta?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày ngày 14/11/2012.

Mọi sự trên hành tinh này đều tùy thuộc vào ý chí tự quyết của con người. Đúng là các thiên thần của Thượng đế nghe được tất cả mọi lời cầu nguyện nhưng các thiên thần không thể trả lời mọi lời cầu nguyện bởi vì có những điều mà con người phải làm lấy. Chính con người đã tạo ra những điều kiện hiện tại trên hành tinh bằng cách lạm dụng quyền tự quyết của mình, thì bây giờ con người phải tháo gỡ những điều kiện đó bằng cách sử dụng quyền tự quyết một cách đúng đắn.

Làm thế nào con học cách sử dụng quyền tự quyết đúng đắn? Bằng cách tìm ra câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi mà con đặt ra về sự sống cũng như về mặt tâm linh của sự sống. Nhiều người đã đi xuống một trạng thái tâm thức nơi họ không thể nhận được câu trả lời trực tiếp từ cái ta Ki-tô của họ. Do đó họ phải đi tìm trả lời từ những giáo lý vỏ ngoài. Khi con tìm hiểu những giáo lý vỏ ngoài này với tâm trí và trái tim cởi mở, câu trả lời sẽ được thể nhập và trở thành một phần của chính con. Từ đó con sẽ vượt lên một tâm thức cao hơn, con ngừng lạm dụng quyền tự quyết và học cách sử dụng quyền tự quyết cho phù hợp với các quy luật của Thượng đế.

Chính vì Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết cho nên ngài không thể ép buộc con phải học những bài học đó. Con phải tự nguyện học lấy. Đó là tại sao con mới có nhu cầu tìm kiếm câu trả lời ở bất cứ nơi nào có thể. Tuy nhiên, như ta có giải thích khắp trang mạng này, những câu trả lời vỏ ngoài như vậy chỉ nhằm làm phương tiện cho con sử dụng để giúp con thiết lập mối liên lạc với cái ta Ki-tô của con hầu con tìm được trả lời sâu xa hơn trong nội tâm con.

Để nhận được trả lời rõ ràng như vậy, con hãy sử dụng một số dụng cụ tâm linh được đăng tải trên trang Hộp Dụng cụ. Hãy thiết lập sự bảo vệ tâm linh của con. Giải tỏa tâm con bằng cách biến hoá năng lượng tiêu cực. Và nỗ lực thiết lập sự hòa điệu với cái ta Ki-tô. Một khi con đã thiết lập được sự hòa điệu này, con sẽ không cần câu trả lời từ bên ngoài con nữa. Con sẽ nghe thấy Thượng đế trả lời những lời cầu nguyện của con trực tiếp trong con tim.

Giáo lý nền tảng về Tình thương Thiêng liêng, đối chiếu với tình yêu người phàm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, chúng con đã nhận được nhiều lời dạy về các đức tính của Thượng đế, cho dù đó là Cha, Mẹ, Minh triết hay Tình thương. Nhưng con thường nghe bạn bè bảo rằng Tình thương là đức tính cao nhất và cũng là điều duy nhất mà con người cần đến. Tình thương có thật sự là đủ để đạt được quả vị Ki-tô và quả vị Phật hay không? Hay có một đức tính cơ bản hơn nữa của Thượng đế – như sự Tự thăng vượt – mà Tình thương chỉ là một phần bổ sung?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi rất hay – và con đang đi đúng hướng khi con nhắc tới đặc tính tự thăng vượt. Tuy nhiên, tất cả tùy thuộc vào cách con sử dụng ngôn từ. Con thấy không, từ một góc độ nào đó, con có thể bảo tình thương là phẩm cách cốt lõi của đường tu tâm linh, nhưng điều này chỉ đúng nếu con hiểu sự khác biệt giữa tình yêu của người phàm và Tình thương Thiêng liêng, hay Siêu việt.

Phẩm chất thiết yếu của Tình thương Thiêng liêng chính LÀ sự tự thăng vượt – động lực để LÀ HƠN NỮA. Chính phẩm chất này đã là động lực cho Đấng Sáng tạo sáng tạo, hầu ngài trở thành nhiều hơn chính ngài bằng cách tự biểu hiện trong hình tướng cũng như trong hình tướng của các sinh thể đồng sáng tạo có tự nhận biết. Cho nên nếu không có dạng tình thương này thì sẽ không có gì được sinh tạo. Và con cũng có thể nói, chìa khóa chủ yếu để đạt quả vị Ki-tô và quả vị Phật cũng chính là Tình thương Thiêng liêng này, và con chỉ có thể đạt được nó bằng cách trở thành một với dòng chảy của tình thương, Dòng sông sự Sống.

Ngược lại, tình yêu con người, tình yêu phàm phu là loại tình yêu sở hữu. Nó tập trung vào một đối tượng yêu thương và nó muốn chiếm giữ đối tượng đó. Để thực hiện điều đó, nó tìm cách kiểm soát, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách ngừng tự thăng vượt và do đó bước ra ngoài Dòng sông sự Sống. Tình yêu phàm phu mang kỳ vọng, thậm chí nó còn đòi hỏi là đối tượng phải đón nhận nó, và nó cũng đòi hỏi một sự hồi đáp. Nó chỉ biểu lộ được khi nào một số điều kiện được hội đủ, và điều này chứng tỏ là nó không tự đủ, nó không tồn tại được một mình. Bất cứ gì mà không tự đủ thì sẽ không Thiêng liêng mà khởi lên từ tâm thức tách biệt và thiếu thốn.

Tình thương Thiêng liêng không cần đến đối tượng nào mà được biểu lộ cho mọi sự sống, giống như mặt trời tỏa sáng ra cho tất cả. Nó không cần sở hữu một đối tượng nào và nó luôn luôn tuôn chảy, nó tự biểu lộ một cách hoàn toàn vô điều kiện và trong bất kể điều kiện nào. Nó bằng lòng tự biểu lộ mà không đòi hỏi hay chờ đợi bất cứ sự hồi đáp nào, ngay cả sự đón nhận nào. Nó nhận được niềm vui từ việc nó tuôn chảy, niềm vui từ việc nó là cái nó là.

Điều ta muốn nói là nếu con nỗ lực làm cánh cửa mở cho Tình thương Thiêng liêng – và chân thành cố gắng thăng vượt mọi sự biểu lộ phàm phu của cái gọi là tình yêu – thì quả thực con có khả năng đạt đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là Tình thương Thiêng liêng có rất nhiều cách biểu lộ, nhiều cách thể hiện, và để có được Tình thương Thiêng liêng, con phải điều ngự những cách đó và đạt được khả năng biểu lộ chúng.

Hãy để ta nhắc cho con bốn phẩm cách cơ bản của Tình thương Thiêng liêng. Như Mẹ Mary có giải thích, mọi thứ được sinh tạo do sự tương tác giữa hai lực lan ra và co lại. Tuy nhiên để tạo vật được bền vững, phải có sự cân bằng giữa hai lực đó, và chính tâm Ki-tô là chìa khóa cho thế cân bằng này. Khi có cân bằng, tình thương sẽ tuôn chảy từ Cha xuyên qua Thánh linh và áp chồng niệm tinh khôi lên Ánh sáng Mẹ. Cũng vì vậy mà con có truyền thống ba ngôi trong đạo Cơ đốc – Cha, Con và Thánh linh – với sự bổ sung của Mẹ Thiêng liêng. Mỗi ngôi như vậy biểu tượng cho một phẩm cách của Tình thương Thiêng liêng:

  • Cha tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như quyền năng hay ý chí.
  • Con tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như minh triết hay quân bình.
  • Thánh linh tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như tình thương, nhưng một tình thương tự thăng vượt, giải thoát sự sống khỏi mọi ràng buộc.
  • Mẹ tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như sự thanh tịnh trinh nguyên, hay niệm tinh khôi.

Bốn phẩm cách này tương ứng với những lời dạy của các chân sư về ngọn lửa ba nhánh. Như Mẹ Mary có giải thích, năng lượng từ Hiện điện TA LÀ của con đi xuống trước tiên vào Căn phòng Mật thất của tim con nằm sau luân xa tim. Nó đi xuống dưới dạng ánh sáng thuần khiết được biểu tượng qua màu trắng, tương ứng với Mẹ và Trinh nguyên Thượng đế. Sau đó nó chia làm ba chùm lửa tâm linh, gọi là ngọn lửa ba nhánh. Một nhánh màu xanh, tượng trưng cho Cha và Quyền năng Thượng đế. Một nhánh màu hoàng kim, tượng trưng cho Con và Minh triết Thượng đế. Và nhánh thứ ba màu hồng, tượng trưng cho Thánh linh và Tình thương Thượng đế.

Điểm quan trọng là kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh của con sẽ định đoạt khả năng sáng tạo của con – nó định đoạt bao nhiêu ánh sáng có thể chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ vào bốn thể phàm. Nếu một trong bốn khía cạnh của ngọn lửa nơi tim trở nên mất cân bằng, con sẽ có xu hướng dùng sai khả năng sáng tạo của mình, và điều này sẽ giảm kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh, tức là giảm kích thước của ống dẫn mà ánh sáng phải đi qua. Vì vậy, con sẽ nhận được ít ánh sáng sáng tạo hơn, và điều này sẽ kéo thấp tâm thức con xuống và hướng sự chú ý xa khỏi cái ta cao hơn của con.

Cách duy nhất để lật ngược xu hướng này và thực sự tăng triển tâm linh là tạo quân bình trong ngọn lửa ba nhánh để cả bốn khía cạnh của nó tuyệt đối hài hòa, nghĩa là chúng sẽ biểu hiện Tình thương Thiêng liêng trong thị hiện thay vì thị hiện sự mất cân bằng qua quyền năng phàm phu, khôn ngoan phàm phu, tình yêu phàm phu hay cái mà con người phàm phu định nghĩa là thanh khiết. Điều này chỉ thực hiện được bằng cách đạt tới phân biện Ki-tô, tức chìa khóa hiểu biết đâu là sự biểu hiện cân bằng, đâu là sự biều hiện mất cân bằng của bốn phẩm cách vừa kể. Đó là tại sao ta thường hay nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân bằng trên trang mạng này.

Một khi con đã cân bằng ngọn lửa ba nhánh của con, con có thể bắt đầu cố gắng đạt cân bằng trên mỗi tia sáng trong số bảy tia sáng tâm linh cấu tạo vũ trụ vật chất. Mỗi tia sáng tương ứng với một trong bảy luân xa chính, và các tia sáng được liệt ra như sau:

  • Tia thứ nhất: quyền năng và ý chí Thượng đế.
  • Tia thứ hai: minh triết và cân bằng Thượng đế.
  • Tia thứ ba: tình thương và sự hiến tặng vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ tư: thuần khiết và hợp nhất với mục địch cùng định luật cao hơn của Thượng đế.
  • Tia thứ năm: sự thật và khả năng chữa lành của Thượng đế, phục hồi cho tất cả trở về niệm tinh khôi.
  • Tia thứ sáu: phụng sự và sáng tạo vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ bảy: tự do và độc lập của Thượng đế.

Chìa khoá để điều phục mỗi tia sáng là trở thành một với Dòng sông sự Sống, hầu Tình thương Thiêng liêng có thể tự biểu lộ qua mỗi luân xa của con theo nhu cầu. Và như vậy con đạt được sự điều ngự cả bảy tia sáng – một giai đọan chủ yếu trong quả vị Ki-tô.

Con đã nhận xét khá đúng về nhiều người tầm đạo thời nay, là họ không nhận ra bản chất cùng các phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng. Cho nên họ đã nhầm lẫn nghĩ rằng họ chỉ cần tình yêu mà thôi, nhưng họ không thấy điều họ cần là Tình thương Thiêng liêng trong đủ cả bảy cách biểu hiện chính yếu của nó. Thay vào đó, họ tìm cách biểu lộ tình yêu của người phàm, thường được ngụy trang là tình thương tâm linh.

Về điểm này, ta cần chỉ ra cho con là thập niên 1960 được nhiều người tâm linh xem là thập niên quyết định, đánh dấu một bước ngoặt trong bước tiến hóa tâm linh của nhân loại. Điểm này có chút sự thật trong đó, nhưng không nhiều như người ta thường nghĩ. Thực tế là trong thập niên 1960, một số năng lượng và lời dạy tâm linh đã được truyền rải vào bốn thể phàm của năng trường trái đất cũng như vào tâm thức tập thể của nhân loại. Các năng lượng và lời dạy này nhằm giúp con người khắc phục các điểm nghẽn trong dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng, và quả thực, tiềm năng vào lúc đó rất lớn.

Tiếc thay, như xảy ra quá thường trên trái đất, tiềm năng cao nhất đó đã không thành hình. Lý do là vì tất cả các thày giả trên hành tinh đã nỗ lực chống lại sự truyền rải của các chân sư, và do khuynh hướng của tự ngã con người, các thày giả đã tương đối thành công. Quả là đã có nhiều người nhạy cảm được các năng lượng mới đánh thức dậy, nhưng thế rồi họ lại bị các thày giả cùng tự ngã của họ đánh lừa, khiến họ biểu lộ tình thương dưới dạng tình yêu phàm phu, thay vì thăng vượt trạng thái tâm thức cũ để biểu hiện Tình thương Thiêng liêng.

Chẳng hạn, một điểm tắc nghẽn đã cản trở dòng chảy tự do của Tình thương Thiêng liêng là khi con người không sẵn sàng biểu lộ tình cảm của mình cho nhau, mà một cách biểu hiện là thái độ dồn nén của nhiều người không chịu bày tỏ tình thương của mình qua thân thể vật lý, từ việc ôm ấp cho đến tình dục. Các thày giả đã thành công biến nhiều người thức tỉnh đó thành những kẻ nổi loạn chống lại các chuẩn mực tình dục của xã hội – một sự nổi loạn thật vô nghĩa – để họ tưởng rằng muốn biểu lộ tình thương nhiều hơn thì họ phải tình dục tự do. Thế là tự ngã con người – vốn không bao giờ thấy đủ khi nó tìm cầu bất kỳ loại khoái cảm nào của thế gian – trở thành một đồng minh đưa đẩy nhiều người tâm linh vào con đường quanh co của phong trào “tình yêu tự do”, thay vì bước vào phong trào giải phóng tình yêu để nó thăng vượt tình dục phàm phu.

Một ví dụ điển hình cho sự thể này là bài hát nổi tiếng của ban nhạc The Beatles với điệp khúc “Tất cả điều bạn cần là tình yêu, tình yêu là tất cả điều bạn cần.” Thật ra bài hát này được thiết kế – không phải một cách ý thức bởi người viết nhạc, mà bởi một thày giả đã phóng nó ra từ một cõi thấp – để cài đặt một cái móc tâm lý vào tâm thức mọi người. Cùng với nhiều ca khúc khác của The Beatles và các ban nhạc khác, cái móc này đã đẩy nhiều người tâm linh chân thành vào con đường lòng vòng khi họ nổi loạn chống lại xã hội, hay họ rút ra khỏi xã hội qua việc sử dụng ma túy, tình dục vô độ, nhạc rock và lối sống lập dị – thay vì thay đổi trong nội tâm để giúp xã hội thăng vượt đi lên.

Và như vậy, tiềm năng của thập niên 1960 đã không thành hình và một phần của tiềm năng đó vẫn chưa thành hình cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên trong những năm sau đó, tình trạng này đã được sửa chữa phần nào nhờ sự xuất hiện của một nhóm người tầm đạo tâm linh trưởng thành hơn với khả năng phân biện Ki-tô sâu sắc hơn.

Tiếc thay, nhiều người tâm linh ngày nay vẫn tin rằng tất cả những gì mà họ cần để tăng triển tâm linh là biểu lộ tình yêu, nhưng họ lại định nghĩa tình yêu này theo cách người phàm. Thường thường đó là một dạng tình yêu nhu mì, dịu dàng và hiền từ không bao giờ thách thức một ai, và do đó cũng không thể giải thoát được một ai khỏi dây buộc của tự ngã. Như ta vừa giải thích, nếu con muốn tăng triển tâm linh đích thực, trước tiên con phải điều ngự – và phải làm cánh cửa mở để biểu hiện – bốn phẩm chất cơ bản, rồi sau đó bảy phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng trong tất cả mọi cách biểu hiện của nó. Quả thực đây mới là tất cả những gì con cần.

Tình yêu phàm phu sẽ không đưa con tới đâu, cho dù có biết bao người đã tự lừa dối mình rằng tình yêu phàm phu sẽ dẫn họ lên thiên đàng hay một trạng thái tâm thức cao vời vợi. Một lần nữa, đây là một mưu toan có chủ ý làm chậm bước cuộc đột phá có tiềm năng xảy ra trong thời đại này. Để tránh không lại bị lầm lẫn bước vào con đường lòng vòng của tình yêu phàm phu, con cần hiểu tự ngã của con đang tìm cách đánh lừa con như thế nào. Con hãy khởi sự bằng cách hiểu tư duy xám (gray thinking) của tự ngã là thế nào, xong con hãy tìm hiểu tất cả các bài giảng của ta về tự ngã. Nếu con không vươn lên khỏi tình yêu của tự ngã – là tình yêu đặt mình ở trung tâm, mặc dù nó ngụy trang rất giỏi – thì con sẽ không có hy vọng bước vào dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng.

Như ta đã cố gắng giải thích khắp trang mạng này, tâm thức Ki-tô không phải là một lực thụ động sẽ bỏ con lại trong một trạng thái giới hạn. Đó là một lực chủ động, tích cực, xông vào trong thế gian, gặp gỡ mọi người ở ngay đó, và nếu cần, nó sẽ thách thức ảo tưởng của họ để trao cho họ một sự chọn lựa – là hoặc đi theo Ki-tô Hằng sống, hoặc cứ tiếp tục đi theo phản-Ki-tô. Đây là một chọn lựa mà họ sẽ không có cho đến khi họ gặp được Ki-tô Hằng sống hay Sự Thật của Ki-tô. Cho nên Tình thương Thiêng liêng không chấp nhận để cho một điều kiện nào ngăn chặn dòng chảy của nó, và nó tìm cách giúp mọi người vượt qua mọi điều kiện của họ. Tuy nhiên, tình thương vô điều kiện cũng không dính mắc với cách phản ứng của con người, cho nên nó sẽ thách thức rồi để cho họ tự do quyết định, ngược hẳn với tình yêu phàm phu cần phải kiểm soát.

Cách hay nhất để khắc phục các điểm nghẽn cho Tình thương Thiêng liêng là sử dụng các bài nguyện của Mẹ Mary. Tất cả những bài đó sẽ tháo gỡ những điểm đang ngăn chặn tình thương, nhưng ta đặc biệt khuyên con nên dùng bài Thỉnh thanh tẩy trái tim và bài Thỉnh thương yêu chính mình.

Để điều ngư tình thương trên bảy tia sáng, con phải quán chiếu đặc tính của mỗi tia sáng và làm việc với vị chân sư trong mỗi tia. Cách hay nhất để làm điều này là sử dụng các bài chú cho bảy tia sáng.

Sự thật về thiên đàng và địa ngục

Hỏi: Thế nào là sự thật về thiên đàng và địa ngục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Trên trang mạng này, con sẽ tìm thấy nhiều lời dạy là tất cả mọi thứ đều được tạo ra bằng năng lượng và năng lượng là rung động. Năng lượng có nhiều mức độ rung động khác nhau, và có thể nói có ba mức độ chính. Mức độ mà mọi người đều nhận thức được qua giác quan là cái mà chúng ta gọi là thế giới vật chất. Cõi này được tạo bằng năng lượng rung động trong một dải tần số nhất định như được giải thích ở những nơi khác.   

Vượt trên cõi vật chất là cõi tâm linh, làm bằng năng lượng rung động ở những tần số cao hơn cõi vật chất. Trong cõi tâm linh cũng có nhiều tầng cấp, đi lên mãi cho tới rung động tối hậu là tầng cấp của Đấng Sáng tạo.

Con cần hiểu rằng mô hình “đường thẳng” cố hữu dựa trên giác quan con người không còn đáp ứng được một thế giới nơi tất cả mọi thứ đều được tạo bằng năng lượng. Thiên đàng không nằm ở một nơi nào đó trên trời, mà thiên đàng được tạo bằng những rung động hiện hữu ngay trong cùng khoảng không gian với những rung động của cõi vật chất.

Căn phòng mà con đang ngồi có rất nhiều làn sóng vô tuyến với tần số khác nhau xâm nhập vào, nhưng vì sóng có nhiều tần số khác nhau, cho nên chúng có thể cùng hiện hữu trong một khoảng không gian mà không triệt tiêu lẫn nhau. Cũng vậy, năng lượng của hai cõi tâm linh và vật chất có thể tồn tại trong cùng một không gian. Đó là tại sao có những nơi trên trái đất mà nhiều người cảm thấy độ rung cao hơn những nơi khác. Và thật vậy, có những khu vực nơi rung động được nâng lên cao đến độ gần như không còn khoảng cách nào giữa hai thế giới vật chất với tâm linh. Có thể nói là cả hai thế giới đã trùng lấp lên nhau – một loại thiên đàng hạ giới. Và cũng có thể nói người ở đó như là ở thiên đàng vậy – họ chỉ đơn giản không biết mà thôi vì tâm thức họ đã điều chỉnh theo các tần số thấp của cõi vật chất.  

Cũng thế, địa ngục chỉ đơn giản là một cõi được tạo bằng những năng lượng thấp hơn cõi vật chất. Tương tự như cõi tâm linh, con có thể tìm thấy những nơi trên địa cầu với độ rung thấp hơn trung bình thật là đáng kể. Đây là những nơi mà cõi vật chất trùng lấp với cõi thấp hơn, và quả thật trên địa cầu có những nơi là địa ngục trần gian.

Trong thực tế, cái mà các khoa học gia thời nay gọi là năng lượng thật sự là tâm thức. Phúc âm của John ghi rằng ở ban đầu có Ngôi Lời và tất cả được tạo ra từ Lời hay Logos. Lời tức là tâm thức Ki-tô toàn vũ, là tâm Ki-tô toàn vũ. Tâm thức này là nhân tố sáng tạo đầu tiên, cho nên có thể gọi đó là đứa Con đầu lòng của Thượng đế hay đứa Con Một của Cha. Hiển nhiên những từ này chỉ là những biểu tượng mà ta đã sử dụng, bởi vì 2000 năm trước đây, con người chưa có hiểu biết về năng lượng. Thuở đó ta đã không thể giải thích cho họ như ta đang giải thích cho con.

Tâm thức Ki-tô toàn vũ là chất liệu cơ bản mà từ đó mọi thứ khác đều được sinh tạo. Do đó tâm thức Ki-tô hiện thân trong tất cả mọi thứ, và đó là lý do mỗi con người đều có tiềm năng bước đi theo ta và trở thành một đấng Ki-tô.

Nói ngắn gọn, thiên đàng là một trạng thái tâm thức, địa cầu là một trạng thái tâm thức và địa ngục cũng là một trạng thái tâm thức. Sự khác biệt nằm ở chỗ cõi tâm linh là do Thượng đế sáng tạo, và mọi điều ở cõi tâm linh đều hoàn toàn phù hợp với các quy luật và viễn quan nguyên thủy của Thượng đế.

Địa cầu cũng do Thượng đế sáng tạo. Tuy nhiên, vì cư dân trên địa cầu được ban cho quyền tự quyết, họ đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn và quên mất nguồn cội tâm linh của mình. Vì thế mà không phải tất cả mọi thứ trên địa cầu đều phù hợp với các quy luật và viễn quan của Thượng đế. Loài người đã đồng sáng tạo một trạng thái tạm thời thấp hơn trạng thái nguyên thủy mà các Elohim đã tạo dựng.

Sự khác biệt chủ yếu giữa địa cầu và địa ngục là sự kiện địa ngục không bao giờ do Thượng đế sáng tạo. Ta hiểu là điều này trái ngược với niềm tin của hầu hết các tín hữu tôn giáo, nhưng đó là vì các tín hữu này còn giữ chặt một hình ảnh về địa ngục được đưa ra vào một thời kỳ sơ khai hơn. Như ta giải thích ở trên, trước khi con người có sự hiểu biết về năng lượng thì không có cách nào giản dị để giải thích địa ngục chính xác.

Địa ngục là một trạng thái tâm thức được tạo ra bởi một nhóm sinh thể phi vật chất đã nghịch lại viễn quan của Thượng đế, mục đích của Thượng đế và quy luật của Thượng đế. Trong niềm tự kiêu và đối nghịch, họ đã tìm cách tạo dựng một nơi chỗ mà Thượng đế có vẻ như không hiện hữu. Con thấy không, Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho một số sinh thể. Dù họ làm bất cứ gì thì họ cũng sử dụng năng lượng của Thượng đế, có nghĩa là họ biến đổi tần số rung động của năng lượng đó. Trong viễn quan nguyên thủy của Thượng đế, các cư dân của cõi vật chất sẽ không bao giờ tha hóa năng lượng xuống thấp hơn một độ rung nào đó. Nếu viễn quan của ngài được tuẩn thủ thì cả hành tinh này đã bước lên một vòng xoáy ốc hướng thượng nơi không có gì bị hủy diệt hay tan rã.

Nhưng khi các sinh thể phi vật chất kia bắt đầu thay đổi năng lượng, làm cho nó bị hạ xuống dưới một mức then chốt, thì họ cũng khởi sự một xoắn ốc, một cơn lốc xoáy tiêu cực. Ở một thời điểm trong tiến trình này, có những người đã bị họ lừa gạt nhập vào tâm thức thấp kém đó, khiến cho những người này cũng hạ thấp năng lượng. Cho nên mỗi lần con người tham gia vào năng lượng bất toàn thì cơn lốc xoáy năng lượng của địa ngục sẽ được tăng cường mạnh mẽ hơn.

Địa ngục có nhiều mức độ rung động, và có những mức độ mới luôn luôn được chế tạo ra bởi những sinh thể không ngừng nổi loạn chống lại Thượng đế, và họ cố gắng tạo thêm những rung động thấp hơn. Sự thể này có thể tiếp diễn rất lâu và độ rung thì có thể kéo xuống mức rất thấp. Tuy nhiên, xuống thấp cũng có hạn vì đến một mức thì năng lượng sẽ tự hủy diệt.    

Có thể nói, “ngọn lửa” mà người ta hay kết hợp với địa ngục là biểu tượng cho những năng lượng vô cùng thấp kém, dày đặc này. Nếu con nén ép vật chất thật chặt thì nó sẽ nóng lên và tới lúc con sẽ có một phản ứng hạt nhân. Tương tự như vậy, khi con không ngừng hạ thấp rung động của năng lượng Thượng đế, cuối cùng con sẽ khiến cho nó bùng nổ, các năng lượng tha hóa bị “thiêu hủy” và được giải thoát khỏi tất cả những hình tư tưởng đã giữ chặt nó ở độ rung đó. Khi điều này xảy ra, năng lượng được nâng lên một độ rung cao hơn và được “tái chế”.  

Kỳ thực, những sinh thể đã tạo ra địa ngục sống trong giả dối, ho sống trong ảo ảnh. Như ta vừa nói, tâm thức Ki-tô toàn vũ ở trong mọi thứ. Con không thể sáng tạo bất cứ gì mà không sử dụng tâm thức Ki-tô toàn vũ. Các tà lực đã có thể tạo ra một tầm mức hoàn toàn làm bằng năng lượng thấp kém đến độ Thượng đế không bao giờ có thể tạo ra. Nghĩa là từ một khiá cạnh nào đó, có thể nói là họ đã thành công tạo ra một thế giới nơi Ánh sáng và sự thật của Thượng đế không có mặt. Tuy nhiên sự vắng mặt này của Ánh sáng Thượng đế chỉ là một ảo tưởng nhất thời, nó sẽ chỉ tiếp tục hiện hữu khi nào con người còn làm tha hóa Ánh sáng của Thượng đế và dùng ánh sáng này để nuôi sống các tà lực không có khả năng nhận lãnh ánh sáng.

Tóm lại, có thể nói là thiên đàng là do Thượng đế sáng tạo và tuân theo hoạch định ban đầu của Thượng đế. Địa cầu cũng là do Thượng đế sáng tạo nhưng hiện không còn đáp ứng hoạch định thiêng liêng. Tuy vậy, địa cầu có tiềm năng trở lại trong quy luật Thượng đế và nhờ thế được nâng lên trở lại vào thuần khiết nguyên thủy. Khi đó, thiên đàng, tức là tâm thức thiên đàng, sẽ được đem trở lại trái đất.

Còn địa ngục thì không bao giờ được Thượng đế tạo ra. Địa ngục không có tiềm năng trở về với quy luật và sự thật của Thượng đế. Năng lượng có thể được tẩy uế để trở về độ rung nguyên thủy, tuy nhiên khi điều này xảy ra thì địa ngục sẽ đương nhiên biến mất và không còn nữa.

Trong khi thiên đàng và trái đất là có thực, địa ngục chỉ là điều bịa đặt của một trí tưởng tượng méo mó. Nhưng vậy tại sao khái niệm địa ngục lại trở thành một sức mạnh hàng đầu trong tôn giáo? Đúng vậy, như ta vừa nói, địa ngục có sự hiện hữu và một thực tế tạm thời. Nếu một người chọn hòa nhập tâm thức mình vào tâm thức của địa ngục thì khi rời xác thân vật lý, dòng sống của người đó sẽ bị từ trường của địa ngục cuốn hút, và do đó việc rơi xuống địa ngục là một khả năng có thực.   

Tuy nhiên, sẽ vô cùng hữu ích nếu mọi người hiểu được và chấp nhận được là các dòng sống không hề bị đày xuống địa ngục do sự trừng phạt của Thượng đế. Chính mỗi dòng sống mới tự đày mình xuống địa ngục khi mình hạ thấp tâm thức của mình. Chính trạng thái tâm thức của con mới quyết định con sẽ bị từ hoá bởi rung động của địa ngục hay của cõi tâm linh.    

Những câu chuyện về địa ngục mà con có thể tìm thấy trong hầu hết các tôn giáo đều có một thực tế nào đó, cho dù chỉ tạm thời. Nhưng ta là người đầu tiên phải nhìn nhận là hầu hết các tôn giáo đều đã hiểu lầm và dùng lầm khái niệm địa ngục để gây ra nỗi sợ hãi nơi các tín đồ của mình, hầu khiến họ đi theo những quy luật và giáo điều vỏ ngoài mà không đặt vấn đề thẩm quyền của giáo hội.

Hiển nhiên, đây là một sự lạm dụng trách nhiệm mà các chức sắc đó đã phạm vào, thậm chí còn có một số lãnh đạo tôn giáo đã lạm dụng quyền hành của mình tới độ chính họ bị sa vào cái địa ngục mà họ đã quá khôn khéo sử dụng để khuất phục tín đồ của họ qua sự doạ nạt, áp chế và kiểm soát.

Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô

Hỏi: Chúa Thánh thần và Hiện diện TA LÀ là gì và nằm ở cấp độ nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Chúa Thánh thần (Holy Christ), hay tâm thức Ki-tô toàn vũ, là Đứa con Một của Thượng đế Cha/Mẹ. Đó là Lời đã hiện thân, có nghĩa là nguyên tố căn bản, là chất liệu, được sử dụng để tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng. Vì thế, tâm thức Ki-tô toàn vũ có mặt, trong nghĩa đen, ở khắp mọi nơi không trừ một nơi nào. Ngay cả trong tận cùng của địa ngục, con cũng sẽ tìm thấy tâm thức Ki-tô toàn vũ.

Mỗi dòng sống trong vũ trụ vật chất cũng có một tâm thức Ki-tô đã cá thể hóa, là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô đóng vai trò trung gian giữa cái Ta Biết và cái ta tâm linh, gọi là Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô luôn luôn có mặt với dòng sống, có nghĩa là dù cho dòng sống có ở đâu, có đi xuống tới mức tâm thức thấp thế nào đi nữa, cái Ta Biết luôn luôn có thể chọn lựa bắt liên lạc với cái ta Ki-tô. Thực sự, cái ta Ki-tô là cánh cửa mở mà không một người nào có thể đóng lại. Đó cũng là ánh sáng thắp sáng mọi dòng sống khi mới bước vào thế gian.

Cho nên con không bao giờ có thể xa rời khỏi cái ta Ki-tô. Đó là con chó săn của thiên đàng sẽ luôn luôn theo dõi dòng sống của con ở bất cứ nơi đâu, không ngừng tìm cách tạo linh hứng cho cái Ta Biết quay đầu lại và cất bước trên con đường trở về nhà.

Còn cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, là cốt lõi của bản sắc và cá thể của con. Cá thể của con do Thượng đế ban cho con được lưu giữ trong cái ta tâm linh này. Hiện diện TA LÀ không bao giờ đi xuống thấp hơn tầng cao nhất của cõi ether. Nói cách khác, nó cư ngụ liên tục trong cõi tâm linh, và vì thế nó không thể bị ô nhiễm bởi bất kỳ năng lượng nào trong thế gian. Cho dù con có làm gì đi nữa, trong kiếp này hay trong một tiền kiếp, con không thể làm ô nhiễm hay tổn hại sự thuần khiết của Hiện diện TA LÀ của con cũng như cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. 

Tại sao khó mô tả cõi tâm linh

Hỏi: Xin cảm tạ những câu trả lời soi sáng trên trang mạng này. Xin thày vui lòng trình bày chi tiết cho chúng con từ quan điểm của chân sư thăng thiên về các cõi bên trong? Đặc biệt, có những tầng cấp nào ở trên cõi ether lên mãi cho tới Tuyệt đối và ý nghĩa của mỗi tầng cấp? Những sinh thể nào cư ngụ ở đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi thật giản dị với câu trả lời phức tạp vô hạn. Con có nhớ trong kinh Tân ước có một đoạn văn nói rằng, nếu tất cả mọi điều mà ta đã nói và đã làm được ghi chép xuống, cả thế giới này cũng không thể chứa hết sách được viết ra? Câu này cũng áp dụng cho việc mô tả cõi tâm linh vượt khỏi và ở bên trên cõi ether. Hãy để cho ta giải thích tại sao việc trả lời chi tiết câu hỏi của con thật là khó khăn.

Như giải thích trong bài giảng vừa đề cập, con sống trong cái mà ta gọi là thế giới hình tướng. Thế giới này đặc trưng ở chỗ nó có hình thể. Thế giới này tương phản với khiá cạnh không biểu hiện của Thượng đế mà ta gọi là Bản thể thuần khiết hay cái Tất Cả. Ở đó không có hình thể, không có phân chia và không có tách biệt.

Vũ trụ vật chất gồm có một số tầng cấp có thể chia thành bốn phần. Tầng thấp nhất là tầng vật chất, còn gọi là cõi vật lý. Cao hơn về mặt rung động là cõi cảm xúc, mà giáo lý huyền bí gọi là cõi trung giới. Ở trên nữa là cõi lý trí, và ở trên nữa là cõi ether.

Khi con vượt lên cao hơn cõi ether, con bước vào cõi tâm linh. Vấn đề khi mô tả cõi tâm linh là cõi này ở trên và vượt khỏi vũ trụ vật chất. Do đó nó rất khác với vũ trụ vật chất. Nó tràn ngập một tâm thức khác rất xa trạng thái tâm thức mà con thấy được trên hành tinh địa cầu hiện nay.

Trong trạng thái tâm thức hiện thời, con người có xu hướng nhìn mọi thứ trong sự phân chia và tách biệt. Họ bị ảnh hưởng bởi các loại hình tướng mà họ nhìn thấy chung quanh họ trên trái đất. Cho nên họ có xu hướng phóng chiếu những hình tướng đó, kể cả khái niệm phân chia và tách biệt, vào cõi tâm linh. Điều này bắt buộc sẽ tác động lên cách nhìn và cách hiểu của họ về các cõi cao.

Con người có thói quen suy nghĩ theo lối đường thẳng về vũ trụ vật chất. Trong cõi tâm linh, chúng tôi có tâm thức quả cầu, và chúng tôi không phân chia cõi này ra thành từng ngăn riêng biệt. Tuy cõi tâm linh có nhiều cấp độ, nhưng nếu mô tả theo lối đường thẳng hầu con người hiểu được, điều này sẽ chi gây ra lầm lẫn. 

Trong quyển sách “Hãy tự cứu” (Save Yourself) có một cuộc thảo luận rất dài về ảnh hưởng của những tin tưởng của con người trên cái nhìn tâm linh. Ta có giải thích là ngay cả khi có cái nhìn tâm linh đích thực, người ta thường hay phóng chiếu những tin tưởng hiện thời của mình lên trên tầm nhìn đó rồi diễn giải theo cách tin tưởng của mình. Kết quả là cái nhìn về cõi tâm linh luôn luôn bị ít nhiều méo mó.   

Vì vậy sự thật ngắn gọn về cõi tâm linh là con phải chứng nghiệm thì mới có thể biết được nó trọn vẹn, mới thấy được nó khác thế nào với địa cầu. Do đó, việc mô tả cõi tâm linh gần như là phản tác dụng, và đó là lý do tại sao nhiều tôn giáo phải trùm lên một tấm màn biểu tượng. Thật không có gì sai trái khi mô tả cõi tâm linh qua biểu tượng, miễn là người ta không nắm lấy những biểu tượng đó trong nghĩa đen. Tiếc thay, do trạng thái tâm thức còn thấp cho nên nhiều người sử dụng biểu tưởng trong nghĩa đen, dẫn đến vô số những cuộc xung đột và cách diễn giải sai lầm.       

Trong thời điểm này, ta không mong muốn thêm vào một lời mô tả khác về cõi tâm linh ngoài những gì ta đã đưa ra trong sách và trên trang mạng này. Muốn mô tả một cách đúng đắn và chi tiết sẽ đòi hỏi quá nhiều thời giờ của sứ giả này, và hiện nay ta coi đó là một ưu tiên thấp. Điều này có thể thay đổi trong tương lai, nhưng ngay bây giờ thì ta không muốn trình bày dài dòng về cõi tâm linh, vả lại ta cũng không muốn trình bày quá sơ sài. 

[Ghi chú: Từ khi có câu trả lời này, một lời mô tả chi tiết hơn đã được đưa ra trong quyển sách “Master Keys to Spiritual Freedom” do thày Maitreya truyền đọc]

Ta cũng xin nói thêm là ngay cả nếu việc mô tả chính xác cõi tâm linh là điều khả dĩ trong cõi vật lý, sự mô tả đó cũng sẽ mất chính xác ngay khi nó được phát ra trong vũ trụ vật chất. Lý do là vì cõi tâm linh không đứng yên. Thượng đế là Đấng Sáng tạo và ngài không bao giờ ngừng sáng tạo. Điều này cũng đúng cho tất cả các sinh thể trong cõi tâm linh. Do đó, cõi tâm linh không bao giờ ngừng tăng triển, nó luôn luôn thăng vượt chính nó và luôn luôn khai mở thêm. Nói cách khác, có những cấp độ mới liên tục được thêm vào, và vì vậy, không một lời mô tả nào có thể hoàn toàn chính xác.

Chìa khóa để yêu bản thân

Hỏi: Khi linh hồn lần đầu tiên tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, nó tạo dựng một tự ngã chung quanh nó. Làm sao nó có thể học cách yêu thương chính nó để nó có thể trở về hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của nó? Tại sao tất cả chúng ta con người lại khó học cách yêu thương bản thân trước khi chúng ta yêu thương người khác?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Điều sẽ rất hữu ích cho con là phân biệt linh hồn và chính con. Linh hồn là một phương tiện nhằm giúp con đi vào vũ trụ vật chất. Linh hồn cho phép con tương tác với cơ thể vật lý và những năng lượng dày đặc của cơ thể. Nhưng trong nhiều giáo lý trước đây và nhiều lời dạy về tâm linh và tâm lý, từ “linh hồn” được sử dụng một cách rất tổng quát, và đôi khi người ta cứ cho là ai ai cũng đã hiểu bản chất của linh hồn rồi. Nhưng linh hồn có nhiều khía cạnh khác nhau, và chính con là nhiều hơn linh hồn của con, mặc dù nhiều người – thậm chí cả nhiều người tâm linh – cũng tưởng rằng linh hồn là toàn thể con người họ.

Con đã quen với khái niệm Hiện diện TA LÀ như là cái ta cao hơn, và một số người cho rằng Hiện diện TA LÀ là một phần của linh hồn họ, nhưng thật không phải là vậy. Linh hồn được cấu tạo bằng những năng lượng thấp kém của cõi vật chất, trong khi Hiện diện TA LÀ được cấu tạo bằng rung động cao tần của cõi tâm linh, và nó không bao giờ đi xuống thấp hơn cõi tâm linh. Vì vậy khi con hiểu được khái niệm Hiện diện TA LÀ, con sẽ hiểu ra rằng Hiện diện TA LÀ ở cao hơn và vượt khỏi linh hồn. Hiện diện TA LÀ không đi xuống các rung động thấp. Hiện diện TA LÀ đã không rơi xuống tâm thức nhị nguyên, và kỳ thực, trước thời điểm sa ngã xuống tâm thức nhị nguyên, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn vẫn chưa xuất hiện – bởi vì linh hồn chỉ xuất hiện để trợ giúp cho cuộc hành trình của con vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất cũng như vào tâm thức nhị nguyên.  

Vậy thì cái gì đã quyết định cắn vào quả trái của sự hiểu biết về thiện và ác? Đó không phải là Hiện diện TA LÀ, bởi vì làm sao Hiện diện TA LÀ sa ngã được? Cũng không phải là cái ta Ki-tô, vì Ki-tô luôn luôn là một với Cha. Cho nên phải có một thành phần nào khác của bản thân con, không phải là cỗ xe thấp kém của linh hồn, và cũng không phải là Hiện diện TA LÀ. Và thực sự, thành phần này chính là cái đang cho con ý thức bản ngã của con. Mẹ Mary có giải thích điều này rất chi tiết trong các cuốn sách của thày về sự sống dồi dào, và thày gọi thành phần đó của con đang có những chọn lựa ý thức, là cái “Ta Biết”. Đó là trụ sở của ý chí tự quyết của con, và đó cũng là thành phần của con đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. 

Bây giờ ta trở lại câu hỏi của con. Có thể nói, linh hồn sẽ không bao giờ thực sự học được cách yêu thương chính nó, bởi vì linh hồn chỉ là cỗ xe cho cuộc hành trình của con vào cõi thấp, và trong cõi thấp không có gì có thể tiếp nhận được hoàn toàn tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Linh hồn không có khả năng thấu hiểu được khái niệm tình yêu vô điều kiện. Nhưng cái Ta Biết thì có khả năng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện.

Con cần suy ngẫm xem cái Ta Biết là gì. Nếu con suy ngẫm, con sẽ dần dần hiểu ra nó là gì, và con sẽ nhìn ra rằng con là nhiều hơn linh hồn của con. Đặc tính độc đáo của cái Ta Biết là nó có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì nó chọn. Nó là trụ sở của ý chí tự quyết, cho nên nó có thể chọn đồng hóa với con người thật của nó, tức là một đứa con của Thượng đế, một vị đồng sáng tạo với Thượng đế. Hoặc nó có thể chọn tự đồng hóa như là một con người sinh diệt, thậm chí là một con người tội lỗi không xứng đáng đến gần Thượng đế.

Thật sự cái Ta Biết có thể tự đồng hóa như là một hòn đá hay một gốc cây. Hoặc nó có thể tự cho nó là Giê-su Ki-tô hay Napoleon hay bất kỳ ai khác. Và thật vậy nơi các bệnh viện tâm thần, con sẽ tìm thấy những người tự đồng hóa hoàn toàn với một người mà họ không thật là, và điều này cho con thấy khả năng của cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với bất kỳ thứ gì, bởi vì nó có quyền tự quyết và một trí tưởng tượng vô hạn.

Cho nên con không thể dạy cho linh hồn của con yêu thương chính nó, hay yêu thương chính con. Con cần phải tiếp xúc với cái Ta Biết. Nhưng làm thế nào con tiếp xúc với cái Ta Biết đây? Chính con là cái Ta Biết đó, và đây là điều con cần nhìn thấy. Con thấy không, mỗi khi chúng tôi cho con một khái niệm, chẳng hạn Hiện diện TA LÀ, thật dễ cho con nhìn thấy được rằng Hiện diện TA LÀ nằm ở trên và vượt khỏi con, tách rời khỏi con. Trong một nghĩa nào đó, điều này không sai, bởi vì khi con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, con cũng ở một mức rung động thấp hơn Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa hoàn toàn với Hiện diện TA LÀ. Và đó là lúc con nói: “Ta và Cha ta là một!”

Cho nên điều ta muốn nói là, trước khi con học được cách yêu thương chính con, con phải biết được bản thân con cái đã. Con phải biết được cái Ta Biết. Và sau đó con phải nhận ra là cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết của con và con phải chọn lựa con sẽ tự đồng hóa như thế nào.

Nếu con tự đồng hóa với linh hồn, tức là cỗ xe thấp, con sẽ không thể yêu thương được chính con, bởi vì linh hồn, như ta đã nói, không thể nắm bắt tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Và chỉ có tình yêu này, tình yêu toàn hảo tống khứ mọi sợ hãi, mới có thể cho con cảm nhận là con xứng đáng với tình yêu Thượng đế, và do đó, chỉ khi đó con mới đón nhận được tình yêu Thượng đế.

Vì vậy khi con suy ngẫm điều này và bắt đầu nhận ra rằng con thật là một sinh thể có ý thức đang lựa chọn, con mới dần dần nhìn ra là để yêu thương chính mình, con phải chọn là con người thật của con, tức là một cá thể của Thượng đế. Chỉ qua sự chọn lựa làm con người thật của mình mà con mới chấp nhận rằng, vì con đã được sinh tạo ra từ Bản thể Thượng đế, con xứng đáng với tình yêu của Thượng đế. Chỉ khi đó con mới tách ra khỏi mọi sự đồng hóa với các cỗ xe thấp kém, cho dù đó là linh hồn, là tự ngã, tâm nhị nguyên hay thể xác vật lý, hay thậm chí cả những đồ vật của thế gian này.

Ta khuyến khích con hãy học hỏi toàn bộ lời dạy của Mẹ Mary đã trình bày một cách sâu xa và chi tiết vượt hẳn tất cả những gì đã được truyền giảng trước đây về đề tài này – và do đó nó quá phức tạp đề ta trình bày ở đây.

Ghi chú: Bạn cũng có thể đọc Bài thỉnh để Yêu Chính mình.

Tình yêu Ki-tô vô điệu kiện nhưng phân biện

Hỏi: Chữ “tình yêu” bị rất nhiều người sử dụng bừa bãi (bất kể tín ngưỡng hay tôn giáo của người đó) đến độ nó mang nhiều ý nghĩa và định nghĩa hơn bất cứ chữ nào khác! Trong Mười Điều răn trong Kinh thánh, “yêu Chúa, yêu chính mình, yêu là chìa khóa”… thật là mơ hồ! Thật là quá dễ nói rằng “Yêu Thượng đế, yêu bản thân, yêu người lận cận của mình”. Làm sao chúng con biết được chúng con có yêu thương thật sự như Thượng đế yêu thương không? Và nếu “Tình yêu là chìa khoá” thì nhất định chúng con muốn biết yêu cách nào đúng nhất! Xin thày làm ơn chia sẻ với chúng con định nghĩa của Thượng đế về Tình yêu và tất cả mọi điều khác để giúp chúng con là Tình yêu mà Thượng đế luôn muốn chúng con là?  


Trả lời cuả chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi một câu vô cùng quan trọng. Con hoàn toàn đúng khi con nói rằng có nhiều định nghĩa về tình yêu và nhiều sự hoang mang về tình yêu.

Hãy cho ta nói trước tiên về tình yêu nhân thế. Như ta có giảng trong trang mạng của ta, vấn đề thật sự trên trái đất là con người đã bước xuống một tình trạng tâm thức thấp hơn, và đã đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Đặc điểm của tâm thức này là khiến cho con người tưởng rằng tất cả đều tương đối. Trong trạng thái tâm thức đó, họ định ra một hình ảnh của thực tại, một thần tượng, rồi họ tìm cách ép uổng thực tại phải nằm gọn trong hệ thống tín ngưỡng của họ, hay trong thế giới quan của họ. Họ cố dựng lên một thế giới theo kiểu cách họ muốn. Đương nhiên, điều này cũng áp dụng cho tình yêu.

Khi con người định nghĩa tình yêu, họ định nghĩa một cách tương đối. Chẳng hạn, nhiều người định nghĩa tình yêu là đối nghịch của thù hận. Tuy nhiên, hận thù là một tình cảm hoàn toàn tương đối, một tình cảm hoàn toàn phàm phu. Vậy nếu con định nghĩa tình yêu là đối nghịch của một tình cảm tương đối gọi là thù hận, thì con cũng định nghĩa tình yêu là một tình cảm tương đối. Hệ quả là tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Con người có khuynh hướng định nghĩa tình yêu dựa trên bản thân mình, dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của mình. Có nghĩa là mỗi người định nghĩa tình yêu theo cách như sau: tình yêu là bất cứ điều gì làm cho tôi vui lòng – nếu bạn nói hay làm điều gì đó không làm tôi vui lòng thì bạn không thương yêu tôi.  

Tất nhiên, định nghĩa này hoàn toàn vị kỷ, nó xoay quanh bản thân mình và lấy bản thân làm trung tâm. Hay đúng hơn, nó lấy tâm trí thấp, cái tâm nhị nguyên, làm trung tâm. Và vì thế, nó xa rời thực tại của tình yêu siêu phàm.

Như ta có giải thích ở nơi khác, tình yêu siêu phàm, tình yêu của Thượng đế, hoàn toàn và tuyệt đối vô điều kiện. Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và xét đoán. Thượng đế là một Thượng đế của tình yêu vô điều kiện, và đối với những đứa con của ngài, ngài không có gì khác hơn là tình yêu. Bất kể con là ai hay đã làm gì, Thượng đế sẽ yêu con với cùng một tình yêu vô điều kiện, vô hạn, như khi ngài sinh tạo dòng sống của con ở ban đầu. Con không thể làm điều gì để làm giảm đi tình yêu của ngài đối với con. Con không thể làm gì để khiến con không xứng đáng nhận được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế.  

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu của Thượng đế vô điều kiện chính là vì mắt ngài không thể nhìn thấy sự bất chính. Thượng đế là quyền năng sáng tạo lớn nhất trong vũ trụ. Bất cứ gì mà ngài nhìn vào sẽ được khuếch đại, tăng cường do quyền năng sáng tạo vĩ đại của ngài. Cho nên ngài giản dị sẽ không nhìn vào những bất toàn của con. Ngài đã ban cho con quyền tự quyết, và hệ quả của quyền tự quyết là con có thể quyết định bước vào một trạng thái tâm thức thấp hơn cái trạng thái toàn hảo mà Thượng đế đã mường tượng cho con. Trong tâm thức này, con có thể tạo ra đủ thứ bất toàn, nhưng ngài sẽ không nhìn thấy bất cứ thứ nào. Thượng đế chỉ nhìn thấy sự toàn hảo mà ngài đã sinh tạo ở ban đầu. Khi con chìm vào bất toàn, con cũng chìm xuống dưới chân trời của tầm nhìn Thượng đế. Nhưng chúng tôi, các chân sư thăng thiên, chúng tôi nhìn thấy được những bất toàn cuả con, và đó là tại sao chúng tôi có thể giúp con thăng vượt được.

Vấn đề khi cố giải thích tình yêu của Thượng đế là khi con người còn bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối, họ có khuynh hướng rơi vào một trong hai cực đoan. Một cực đoan là phóng chiếu phẩm chất con người lên Thượng đế rồi tưởng tượng rằng ngài sẽ phán xét những phán xét của con người. Họ tưởng tượng ngài sẽ phán xét con người như con người vẫn phán xét nhau. Họ cũng tưởng tượng ngài sẽ nổi giận và muốn trừng phạt những ai đã vi phạm quy luật của ngài, hay đúng hơn vi phạm định nghĩa của họ về quy luật của ngài. 

Thời nay, ngày càng có nhiều người bắt đầu nhìn thấu qua ảo ảnh một Thượng đế nóng giận và xét đoán. Họ bỏ lại sợ hãi và bước vào một trạng thái tâm thức nơi họ có thể tiếp cận Thượng đế như một Thượng đế yêu thương. Ta rất hoan nghênh tiến triển này vì thật sự đây là một bước đi đúng hướng. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại rơi vào cực đoan ngược lại và bắt đầu tin rằng tình yêu vô điều kiện của Thượng đế có nghĩa là cái gì cũng được. Họ tin – và một số còn dựng lên những lập luận trau chuốt để hỗ trợ niềm tim này – rằng không có gì thực sự là xấu, không có gì thực sự là ác. Từ đó, họ cho rằng con người có thể làm bất cứ gì mình muốn, và dưới mắt Thượng đế đều có thể chấp nhận được.

Ta phải nói với con là cả hai cực đoan mà ta vừa mô tả đều nguy hiểm như nhau cho dòng sống của con. Điểm nay khiến ta cần nói tới những loại tình yêu khác nhau. Chúng ta đã nói tới tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Chúng ta đã nói tới tình yêu Thượng đế luôn luôn vô điều kiện nhưng không bao giờ nhìn thấy bất toàn. Bây giờ chúng ta cần nói tới một loại tình yêu thứ ba, mà ta muốn gọi là tình yêu Ki-tô.

Tình yêu Ki-tô hoàn toàn vô điều kiện y hệt như tình yêu của Thượng đế. Tuy nhiên, tình yêu Ki-tô có thể nhìn thấy những điều bất chính. Như ta có nói cách đây 2000 năm rằng Cha không phán xét vì Cha đã trao cho Con quyền phán xét. Đứa con của Thượng đế, đứa con đích thực, chính đáng và duy nhất của Thượng đế, là tâm thức Ki-tô. Ta hiện thân cho trạng thái này của tâm, nhưng tâm thức Ki-tô là nhiều hơn rất nhiều mọi sinh thể cá nhân nào, kể cả chính ta.

Chức năng của tâm thức Ki-tô là phục vụ như một trung gian giữa con người và Thượng đế. Vì vậy tâm thức Ki-tô – kể cả một người đã đạt được tâm thức Ki-tô – có khả năng phán xét công chính. Một người như vậy sẽ biết sự thật và thực tại của Thượng đế là gì, đồng thời cũng biết điều gì không nằm thẳng hàng với thực tại đó.

Chức năng của tình yêu Ki-tô là mặc dù nó yêu thương mọi con người một cách vô điều kiện, đó không phải là tình yêu mù quáng. Tình yêu Ki-tô nhìn thấy rõ khi nào một người bị vướng kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém dựa trên sự không thực. Bản chất của tình yêu Ki-tô là không bỏ rơi những người như vậy một mình. Tình yêu vô điều kiện của Ki-tô đơn giản sẽ không để cho người đó bị kẹt lại trong tâm thức thấp kém. Nó muốn mọi người vươn lên cao hơn để chiêm nghiệm được sự sống dồi dào của Thượng đế.

Cho nên, ngược lại với niềm tin phổ biến của rất nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, tình yêu của Ki-tô không theo chủ nghĩa hòa bình, nó không yếu mềm, nó không cảm tính, nó không ủy mị. Tình yêu của Ki-tô sẽ không làm cho con vui thích trong nghĩa thế phàm. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên cho con đứng một chỗ. Tình yêu Ki-tô sẽ thúc ép con vươn lên cao hơn, phải thay đổi tâm thức của con hầu con đặt nó thẳng hàng với sự thật và thực tại của Thượng đế. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên con một mình trong trạng thái tâm thức thấp kém. Nó sẽ không để con một mình cho tới khi con thay đổi tâm thức và con vươn lên cao hơn hầu con có được sự sống, và cả sự sống dồi dào.    

Hầu hết mọi người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối đến độ họ chỉ có thể trải nghiệm tình yêu tương đối, có điều kiện, của con người. Khi một người chuyên cần bước đi trên đường tâm linh, người đó có khả năng nâng cao tâm thức mình cho tới khi mình chứng nghiệm được tình yêu thuần khiết, vô điều kiện của Thượng đế. Quả thực, ta khuyến khích mọi người tầm đạo hãy nỗ lực có được chứng nghiệm này bởi vì không có gì thay đổi cuộc sống bằng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện mà Thượng đế đã dành cho dòng sống của con.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không thể biểu hiện trong thế gian này khi nào thế gian còn bất toàn. Cho nên, cái có thể biểu hiện trong thế gian là tình yêu Ki-tô. Nếu một người là một hành giả tầm đạo chân thành và chứng tỏ minh sẵn lòng vươn lên cao hơn trong tâm thức (tức là bỏ lại trạng thái tâm thức giới hạn và nhận lấy một góc cạnh khác của sự thật và thực tại Thượng đế), tình yêu Ki-tô quả thật có thể là cái mà đa số con người sẽ gọi là yêu thương. Nhưng nếu người đó không thẳng hàng với sự thật của Thượng đế, thì tình yêu Ki-tô sẽ không hiện ra là “thương yêu” trong ý nghĩa thế phàm nữa. Thay vào đó, sẽ là một tình yêu năng động không để cho người đó đứng yên.

Nếu còn mắc kẹt trong tâm thức thấp, người đó sẽ không trải nghiệm tình yêu Ki-tô như một cảm giác dễ chịu, mà trái lại, như một cảm giác phiền hà, như thể có điều gì không cho phép mình tiếp tục yên thân, thoải mái trong trạng thái tâm thức thấp.    

Vì vậy, cách yêu thương đúng đắn là nỗ lực chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện của Thượng đế rồi bày tỏ tình yêu đó trong thế gian dưới dạng tình yêu Ki-tô. Khi một người bị kẹt trong tâm thức thấp, họ đơn giản không thể trải nghiệm hay biểu lộ tình yêu Ki-tô, họ chỉ có thể bày tỏ tình yêu thế phàm có điều kiện.

Có nhiều người tầm đạo thực tâm đã hé cảm thấy được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, nhưng chưa hiểu rõ sự khác biệt giữa tình yêu vô điều kiện của Thượng đế và tình yêu Ki-tô. Vì thế, họ cho rằng họ phải yêu một cách vô điều kiện bất cứ ai mà họ gặp, bất kể người đó đang làm gì hay bị kẹt trong tâm thức gì. Đây là một sai lầm, và như ta đã nói, họ đã nhảy từ cực đoan tình yêu đầy phán xét và điều kiện của hầu hết mọi người sang cực đoan đối nghịch. 

Cho nên chìa khóa là cần nỗ lực tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con, cái ta này sẽ cho con sự phân biện Ki-tô để con có những phán xét công chính. Khi con cho phép cái ta Ki-tô ban cho con sự phân biện này, con sẽ biết cách biểu lộ tình yêu Ki-tô hầu đạt được kết quả tối đa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Con thấy đó, đối với người bị kẹt trong tâm thức phàm phu, mục đích của họ trong mọi hoàn cảnh là đem lại vui sướng lớn nhất cho bản thân. Nhưng đối với tâm thức Ki-tô, mục đích trong mọi hoàn cảnh là đưa đến sự phát triển tâm linh tối đa cho mỗi người. Điều này không thể thực hiện qua một loại tình yêu mềm yếu, ủy mị, mà chỉ qua tâm thức Ki-tô sẽ không để yên cho người ta đứng mãi trong một tâm trạng giới hạn. 

Cho nên để thực sự hiểu được lời dạy của ta là phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình, con cần hiểu bản chất của tình yêu Ki-tô. Khi con yêu chính mình với tình yêu Ki-tô, con liên tục cố gắng vươn lên tâm thức cao hơn. Con sẽ không chỉ chấp nhận mình cứ mãi đứng yên trong tâm thức thấp. Do đó, con cũng sẽ áp dụng cùng tình yêu Ki-tô đó đối với kẻ lân cận của con, và con sẽ không cho phép người đó bị kẹt mãi trong tâm thức thấp.

Yêu thực sự là cam kết luôn luôn tạo ra sự tăng triển tâm linh tối đa trong mọi hoàn cảnh. Yêu thực sự bản thân và kẻ lân cận là liên tục nỗ lực để đưa mọi người gần hơn với Thượng đế, gần hơn sự kết hợp với cội nguồn. Kết hợp này chỉ có thể đạt được qua tâm thức Ki-tô.  Do đó, tình yêu thực sự là nỗ lực đem mọi người đến gần hơn tâm thức Ki-tô, ngay cả khi tâm thức phàm nhân của họ khiến họ cảm thấy con không thoả mãn được định nghĩa của họ về tình yêu. Con sẽ nhận thấy nhiều người không thích bị lay động, và họ sẽ không vui lòng đón nhận một phần tình yêu của Ki-tô. Tuy nhiên, đây là tình yêu đích thực của Ki-tô – tức là không bao giờ để cho một ai đó bị mắc kẹt trong tâm thức phàm thế.

Nhóm thượng tôn quyền lực đang sử dụng các vấn đề môi trường và hâm nóng toàn cầu như thế nào

Hỏi: Con đã là một độc giả nhiệt thành của trang mạng này từ khoảng một năm nay. Xin vô cùng cảm ơn số lượng bài vở và những thông điệp vô cùng bổ ích cho nhân loại. Hôm nay, phần đầu của bản báo cáo từ Ủy ban về Biến đổi Khí hậu của Liên hiệp quốc đã được công bố, cho nên con xin đặt câu hỏi quan trọng này: Thày Giê-su nói gì về sự hâm nóng toàn cầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây là một vấn đề phức tạp, một vấn đề với hệ quả toàn cầu, và ta sẽ trình bày thật thẳng thắn. Khi dùng từ “toàn cầu”, ta dùng từ này một cách sâu sắc hơn hầu hết mọi người, vì ta không chỉ dùng nó để chỉ mọi thứ trên hành tinh vật lý, mà mọi thứ trong toàn bầu cõi của trái đất, kể cả bốn khía cạnh của toàn bộ trường năng lượng của hành tinh. Cho nên để hiểu trọn vẹn sự hâm nóng toàn cầu, con phải nhìn vào toàn bộ mọi vấn đề vật lý, tâm lý lẫn tâm linh.

Chúng ta hãy phân biệt giữa vấn đề hâm nóng toàn cầu với cuộc tranh luận về vấn đề hâm nóng toàn cầu. Và chúng ta hãy thảo luận trước tiên về chính vấn đề. Ta đồng ý với nhận định trái đất đang hâm nóng, như được thể hiện qua nhiều đo đạc và thống kê khoa học cùng những dạng thời tiết bất thường đã làm tiêu đề cho các bản tin khắp thế giới. Ta cũng đồng ý với nhận định rằng hiện tượng hâm nóng này là do con người gây ra. Kỳ thực, ta đồng ý cả với những ai nói rằng nó hoàn toàn do con người gây ra và nó không phải là kết quả sự biến đổi tự nhiên của khí hậu trái đất. Tuy vậy, sự đồng ý của ta với phiên bản chính thức, khoa học đó, kết thúc ở chỗ này.

Không có chu kỳ tự nhiên

Một số người cho rằng hâm nóng địa cầu là một phần của chu kỳ tự nhiên đã diễn ra nhiều lần trong lịch sử. Ta không bác bỏ là trên trái đất có một số chu kỳ, và nhiều lần trong quá khứ khí hậu đã từng ấm hơn hiện nay. Nhưng ta không đồng ý với nhận định này vì trên hành tinh KHÔNG HỀ có chu kỳ tự nhiên – nếu qua từ “tự nhiên”, con nói đến những gì không bị ảnh hưởng bởi loài người. Tất cả mọi thứ làm bằng tâm thức, tức là mọi điều kiện trên trái đất, hoặc đã được tâm thức loài người tạo ra, hoặc đã bị tâm thức loài người ảnh hưởng.

Một cách tiếp cận bất nhất đối với vấn đề môi trường

Ta biết rõ là nhiều người bác bỏ ý tưởng rằng tâm thức của họ có thể góp phần vào các thiên tai, và ta muốn nhân cơ hội này chỉ ra một sự bất nhất, thiếu nhất quán, trong quan điểm của nhiều người tự nhận mình là có ý thức môi sinh.

Nếu con quan sát một số người phủ nhận hâm nóng toàn cầu, con sẽ thấy một phần động cơ của họ là họ từ chối tin rằng hoạt động của con người có thể đem lại hậu quả toàn cầu. Họ không chấp nhận là sự ô nhiễm nhân tạo có thể thực sự ảnh hưởng đến khí hậu của hành tinh, tạo ra hậu quả tàn khốc. Vì vậy những ai có ý thức môi sinh – cho dù họ nhìn cuộc sống một cách duy vật hay tâm linh – thường hay dè bỉu những người đó, coi thường những người phủ nhận hâm nóng toàn cầu, mà không nhận ra là chính họ cũng bị mắc kẹt trong cùng một sự phủ nhận, chỉ dưới một lớp ngụy trang khác mà thôi.

Nhìn vào những người phủ nhận, con sẽ thấy có yếu tố tâm lý là họ không sẵn lòng thay đổi lối sống cơ bản của họ. Và bởi vì hâm nóng toàn cầu dường như chỉ ra sự cần thiết phải thay đổi cơ bản như vậy, cho nên họ phủ nhận nó. Tuy nhiên ở bên dưới phản ứng tâm lý này là một phản ứng tâm linh sâu xa hơn, là họ từ chối nhận trách nhiệm trọn vẹn về hoàn cảnh của họ. Họ từ chối chấp nhận hành động của mình có thể có hậu quả toàn cầu và họ cần thay đổi cách nhìn cuộc sống để bao gồm các mối quan tâm toàn cầu này. Nền tảng của sự phủ nhận là họ chối bỏ chính cái lý do đã giúp loài người tồn tại cho đến nay, cụ thể là con người được tạo ra để đồng sáng tạo với Thượng đế. Con người được ban cho “quyền cai quản” trên trái đất (Sáng thế 1:26).

Cai quản không có nghĩa là con trấn áp thô bạo, ép buộc mọi khía cạnh của thiên nhiên phải phục vụ nhu cầu của con, mà có nghĩa là trước tiên con cai quản bản ngã của mình – tâm con, tâm lý của con, trường năng lượng của con – xong con dùng khả năng tự điều ngự này để khiến trái đất, kể cả thiên nhiên, trải bày ra viễn quan cao nhất cho hành tinh, tức là niệm tinh khôi được cầm giữ trong tâm Thượng đế. Ta có thể cam đoan với con là viễn quan và quy luật của Thượng đế cho phép mọi người, tất cả mọi người, được có một cuộc sống sung túc mà không hủy hoại môi trường. Không có sự cần thiết phải “chinh phục” một mức sống vật chất cao cấp bằng cách lạm dụng môi trường hay lạm dụng người khác. Đây chỉ là một sự mất cân bằng bắt nguồn từ tự ngã con người, từ thái độ “tôi chống anh” sẽ chỉ dẫn đến mù quáng tâm linh.

Làm người đồng sáng tạo là vai trò mà con người được tạo ra để chu toàn, và vấn đề hâm nóng toàn cầu chính là sản phẩm khi hầu hết mọi người từ chối chu toàn vai trò đó. Sự từ chối được ngụy trang dưới nhiều cách tinh vi và khôn ngoan, nhưng đằng sau tất cả là tự ngã con người sẽ luôn luôn chối bỏ trách nhiệm của mình về hậu quả những việc mình làm cùng thái độ của mình về cuộc sống. Cho nên chừng nào con người còn bị mù quáng bởi tư duy nhị nguyên của tự ngã, thì họ sẽ bác bỏ toàn bộ hậu quả của lối sống của họ.

Những kẻ phủ nhận hâm nóng bị mắc kẹt dưới lớp phủ của sự từ chối trách nhiệm, từ chối thừa nhận rằng hành vi con người có hậu quả toàn cầu. Còn những ai có ý thức về môi trường thì có thể nhìn ra sự nông cạn của cái nhìn đó, nhưng họ lại thường không thấy là họ cũng bị mắc kẹt trong một khía cạnh tinh tế hơn của tự ngã chối bỏ trách nhiệm. Họ không chịu ngó đến sự kiện môi trường tự nhiên không chỉ bị ảnh hưởng bởi hành động con người, mà bởi toàn bộ bản thể con người, kể cả tâm thức con người.

Điểm ta muốn nói là nếu họ có ý thức môi sinh – và chấp nhận là hành vi con người có thể gây hậu quả toàn cầu – thì họ sẽ thật bất nhất nếu họ phủ nhận là môi trường tự nhiên cũng bị trạng thái tâm thức con người tác động. Tuy họ đã bắt đầu khắc phục sự chối bỏ trách nhiệm khi họ thừa  nhận là hành động có hậu quả toàn cầu, nhưng họ lại ngừng dở chừng ở đó. Họ vẫn không chấp nhận toàn bộ trách nhiệm của mình bằng cách nhìn nhận là trạng thái tâm thức còn tác động môi trường mạnh hơn gấp bội các hành động vật lý.

Cho nên nếu họ thực sự quan tâm đến môi trường như họ tuyên bố, thì họ cần nhìn vào cái xà nơi mắt họ và đạt cái hiểu trọn vẹn. Họ cần hiểu là mọi thứ đều là năng lượng, cho nên năng lượng cấu tạo hành tinh vật lý cũng là cùng một chất cơ bản như năng lượng của tư tưởng và cảm xúc. Có nghĩa là, thật vậy, hành tinh vật lý cũng sẽ bị tác động bởi tâm thức tập thể của nhân loại.

Khắc phục sự chối bỏ trách nhiệm

Ta cũng biết đây không phải là chuyện dễ làm, vì hầu hết mọi người đã được nuôi dạy trong một xã hội gần như tràn ngập tinh thần chối bỏ trách nhiệm. Nguyên nhân là vì trong nhiều thế kỷ, xã hội phương Tây đã là chiến trường giữa hai thế lực – được đại diện bởi đạo Cơ đốc và nền khoa học duy vật – và cả hai đều chối bỏ sự kiện là con người hoàn toàn trách nhiệm về hành tinh này.

Nói chung, đạo Cơ đốc phủ nhận con người được tạo ra để đồng sáng tạo và cai quản trái đất – một công việc họ chỉ có thể thực hiện bằng cách khoác vào tâm Ki-tô và trở thành Ki-tô Hằng sống trong hiện thân. Còn khoa học thì tuyên bố con người chỉ hơn loài vượn tiến hoá một chút, có nghĩa là khoa học phải phủ nhận quyền năng của tâm con người, và thay vào đó, phải tập trung vào sự ô nhiễm vật lý như nguyên nhân duy nhất của sự hâm nóng.

Con có bắt đầu thấy được tại sao ta bào là hâm nóng toàn cầu có hệ quả toàn cầu hay chăng? Quả như vậy, hâm nóng toàn cầu là do con người gây ra, nhưng nguyên nhân thực sự không phải là ô nhiễm vật lý mà là sự từ chối không nhận toàn bộ trách nhiệm về hành tinh này. Cho nên có thể nói nguyên nhân thực sự là một sự chối bỏ trách nhiệm, và nếu nhân loại muốn giải quyết thành công vấn đề này thì trước tiên phải thừa nhận và đối mặt với vấn đề chối bỏ trách nhiệm. Nó sẽ đòi hỏi họ suy nghĩ lại toàn bộ – xét lại ở mức toàn cầu – cách họ tiếp cận cuộc sống.

Nếu nhân loại giảm lượng khí thải nhà kính xuống đến mức 0 thì cũng sẽ không ngăn được hâm nóng toàn cầu, bởi vì nguyên nhân sâu xa hơn gấp bội. Cho nên trừ khi nguyên nhân tâm linh được đưa ra ánh sáng và giải quyết, hành tinh này sẽ tiếp tục hâm nóng, thời tiết sẽ tiếp tục ngày càng thất thường hơn. Đây là hậu quả sự kiện trái đất có một số chu kỳ vũ trụ, qua đó nhân loại phải học qua một số bài học. Và như Shiva đã giải thích, trước năm 2012, loài người phải học bài học là tâm thức có tác động đến cả hành tinh vật lý:

[trích dẫn bài giảng của Shiva] Cho nên ta yêu cầu con suy ngẫm xem đâu là nhu cầu lớn nhất trên hành tinh ngay bây giờ để loài người có thể thức tỉnh trước thực tế là chính Mẹ Trái đất cũng kết nối chặt chẽ với tâm thức nhân loại. Và những biến cố xảy ra cho thân thể Mẹ Trái đất mà mắt người có thể nhìn thấy, chỉ là sản phẩm của các tư tưởng cùng cảm xúc có mặt trong tâm thức đại chúng.

Đây là sự chứng ngộ tuyệt đối cần thiết trên hành tinh này. Nhân loại không thể đơn giản vươn lên một mức tâm thức cao hơn cho đến khi con người bắt đầu nhận ra mối liên hệ trực tiếp giữa địa cầu vật lý và tâm thức của mình. Nếu họ không nhận ra, họ sẽ tiếp tục bị chấn động, bị choáng váng mỗi khi tai họa xảy đến. Và họ sẽ không thể giải thích tại sao, họ sẽ cảm thấy bất lực không làm gì được để ngăn chặn nó tái diễn trong tương lai. Cho nên họ bị tê liệt trong nỗi sợ tương lai, thay vì động viên để cai quản trái đất và tăng trưởng ánh sáng tâm linh bên trong họ, là ánh sáng có khả năng tiêu hủy căn nguyên của mọi tai họa tương lai.

Cho nên đây là sự chứng ngộ cốt yếu phải đột phá vào tâm thức, vào tâm thức đại chúng của nhân loại. Câu hỏi duy nhất đặt ra là nó sẽ đột phá như thế nào. Cho nên ta sẽ tiên tri là giữa bây giờ và năm 2012, có hai cách mà nhân loại có thể bước tới.

Có một con đường cao, là khi con người bắt đầu đáp lại các thông điệp tâm linh được các chân sư thăng thiên truyền rải qua nhiều nguồn khác nhau. Họ nâng cao nhận biết và nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời cá nhân của mình cũng như về hành tinh nói chung. Họ chấp nhận là họ phải thay đổi tâm thức để tránh chịu thêm thiên tai hay chinh chiến.

Đấy là con đường cao, mà các thày rất mong mỏi là con đường mà nhân loại sẽ chọn. Nhưng nó chỉ có thể xảy ra nếu lớp 10% với tâm thức cao nhất trong quần chúng – như Giê-su đã giải thích trong một bài truyền đọc gần đây – thức tỉnh và ngộ ra họ phải là những kẻ tiên phong vì 80% dân chúng không thể tự mình thức tỉnh. Còn lớp 10% thấp nhất trong quần chúng sẽ làm đủ mọi cách để giữ chặt mọi người kẹt lại trong vô minh.

Ta phải nói với con là nếu sự thức tỉnh này không xảy đến thì con đường thứ nhì sẽ diễn ra. Số lượng và độ nghiêm trọng của thiên tai sẽ tiếp tục gia tăng cho đến khi nó dữ dội đến mức con người không thể phớt lờ được nữa là trái đất đang gửi cho mình một thông điệp. Và thông điệp đó nói: “Bạn phải thay đổi nếu không thì chết, vì nếu bạn không thay đổi, chính ta đây sẽ chết. Và làm thế nào bạn có thể tồn tại nếu nền tảng cho cuộc sống vật lý của bạn không còn nữa?” [ngừng trích]

Sự cọ xát tâm linh gây ra hâm nóng toàn cầu

Vậy đâu là nguyên nhân tâm linh của hâm nóng toàn cầu? À, đây là một vấn đề phức tạp có nhiều hơn một nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ yếu có thể quy cho một loại cọ xát tâm linh. Con cũng biết khi con lái xe xuống một đoàn đường rất dốc mà cứ không ngừng đạp thắng, thì cuối cùng thắng có thể quá nhiệt và hỏng. Lý do là vì lực cọ xát giữa các bộ phận thắng sinh ra nhiệt.

Như các nhà vật lý vũ trụ đã phát hiện, toàn bộ vũ trụ vật lý đang giãn nở, nhưng điều mà họ chưa hiểu là nó không chỉ giãn nở theo chiều ngang. Để tiếp tục bành trướng, vũ trụ không thể đứng nguyên ở cùng độ rung, hay cùng tỉ trọng. Chính vật chất vật lý phải được nâng cao độ rung, bởi vì nếu không, quán tính trong vật chất sẽ khiến cho vũ trụ ngừng giãn nở, và nó sẽ bắt đầu co sụp xuống trong cái được các nhà khoa học gọi là Big Crunch.

Điều ta muốn nói là sự giãn nở của vũ trụ liên hệ đến việc nâng cao độ rung của vật chất, và việc này làm giảm tỉ trọng của vật chất. Tiến trình này được giải thích tóm gọn ở một nơi khác trên trang mạng này. Ý tưởng cơ bản ở đây là một bầu cõi được nâng độ rung cho đến khi nó thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh. Mục đích của các sinh thể tự nhận biết sống trong bầu cõi là đóng góp cho tiến trình này bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Có hàng tỷ và hàng tỷ những sinh thể như vậy trong bầu cõi mà vũ trụ vật chất là một thành phần, và họ đã cùng nhau tạo được một động lượng thúc đẩy không những sự giãn nở chiều ngang của vũ trụ, mà cả sự nâng cao rung động của chính vật chất.

Đúng lý thì trái đất cũng phải thăng vượt rung động của mình, và đây là nhiệm vụ của các sinh thể tự nhận biết sống trên hành tinh này – tức loài người – họ phải tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình thăng lên. Nếu tập thể loài người quyết định không nâng cao tâm thức, việc thăng thiên của trái đất có thể bị chậm lại. Tuy nhiên, không một hành tinh nào là một hòn đảo, và trái đất là một thành phần của một hệ thống rộng lớn hơn bao gồm cả thái dương hệ, thậm chí cả dải thiên hà. Trong hệ thống này có rất nhiều sinh thể tự nhận biết khác đã tạo được một động lượng hướng thượng. Cho nên trong khi loài người cai quản trái đất có thể quyết định hãm lại việc trái đất thăng thiên, nhưng loài người không thể kìm hãm động lượng của nguyên hệ thống rộng lớn mà hành tinh này là một thành phần.

Hậu quả là tuy động lượng của toàn bộ hệ thống đang kéo trái đất đi lên, nhưng tâm thức thấp của loài người giống như một quả tạ đang cố giữ trái đất lại. Chúng ta có thể ví như loài người đang đạp thắng để tìm cách làm chậm tiến trình thăng thiên của hành tinh. Chính hiệu ứng kéo chậm lại này đã sản xuất lực cọ xát khiến cho toàn bộ hành tinh thêm nhiệt. Vật chất vật lý trên hành tinh hiện đang dày đặc hơn so với dự kiến, và điều này gây ra quán tính gây ra cọ xát gây ra nhiệt.

Nhân loại từ chối tiếp cận sự sống một cách tâm linh hơn

Điều này tác động lên mọi khía cạnh ở cả bốn tầng của trường năng lượng trái đất. Tuy nhiên cũng có một sự thật trong sự kiện khoa học tin rằng hâm nóng toàn cầu chủ yếu là do ô nhiễm không khi gây ra. Không khí, hay khí quyển, tương ứng với tầng lý trí trong trường năng lượng của hành tinh, và tầng này tương ứng với các ý tưởng của nhân loại. Vấn đề chính ở đây là con người đã từ chối thay đổi tư duy của mình, cách suy nghĩ của mình, cách hiểu của mình về cuộc sống dựa trên các khám phá của khoa học hiện đại lẫn các “tiết lộ” trong lãnh vực tâm linh hiện đại.

Thay vào đó, con thấy đa số quần chúng có cảm tưởng mọi chuyện đang thay đổi quá nhanh, và họ muốn tiếp tục sống theo lối sống quen thuộc, nên họ muốn xã hội hay đà tiến bộ phải chậm lại hầu họ có thể xử lý. Nhưng sự thật là hành tinh đang đứng giữa một giai đọan chuyển tiếp từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình. Vì loài người đã từ chối học hỏi những bài học cần học trong Thời đại Song ngư – chủ yếu vì các giáo hội Công giáo và chính mạch khác đã phủ nhận tiềm năng con người có thể trở thành Ki-tô – cho nên hành tinh đang bị chậm trễ và loài người cần đuổi thật nhanh để cố bắt kịp. Cho nên quả thực đã có một yêu cầu của thời đại là con người – chỉ trong vòng một thế hệ – phải thực hiện một bước nhảy vọt trong tâm thức mà bình thường sẽ tốn đến mấy thế hệ. Và vì con người cảm thấy choáng ngợp bởi thử thách này nên họ đã tìm cách làm chậm tiến trình và ôm giữ những cách tư duy cũ – một hiện tượng mà con có thể thấy trong mọi lãnh vực của xã hội nếu con chịu thành thật.

Đâu là sự kiện chủ yếu cần xảy ra về mặt thay đổi tư duy? Trước hết, con người cần nhận biết về tâm thức nhị nguyên cùng sự kiện có một chọn lựa khác cho dạng tư duy này, là sự phân biện của tâm thức Ki-tô. Con người cần vươn lên cao hơn tư duy đen-trắng mà không bị mắc kẹt trong tư duy xám.

Suốt hàng thiên kỷ qua, xã hội phương Tây đã bị chế ngự bởi tôn giáo Cơ đốc, và nói chung tôn giáo này đã cho con người một cái cớ để không nhận lãnh toàn bộ trách nhiệm về bản thân mình: Con là kẻ có tội. Và cái cớ đối với hành tinh là: Giê-su sẽ đến cứu thế gian. Đó là một cái nhìn đen-trắng về thế giới. Thế nhưng khi ảnh hưởng của đạo Cơ đốc bắt đầu suy yếu thì khoa học đã chiếm lấy ưu thế, và khoa học cũng cho con người một cái cớ bằng cách mô tả họ là những sinh thể duy vật thiếu hẳn sức mạnh tâm trí để cai quản chính mình hay cai quản hành tinh. Trên cơ bản, khoa học bảo là con không thể biết được sự thật ngoài những gì có thể được chứng minh qua thí nghiệm duy vật, và đây là sự phủ nhận khả năng cố hữu của tâm có thể biết được sự thật Ki-tô. Và như vậy, khoa học chủ yếu cổ xúy một thế giới quan bảo rằng không có sự thật tuyệt đối – đây chính là một dạng tư duy xám.

Nhưng cái gì đứng đằng sau cả hai khuynh hướng nói trên? Đó là ý tưởng vi tế cho rằng con người được sinh tạo như một sinh thể bất toàn hay thiếu sót, không có khả năng chăm sóc bản thân, cả về vật chất lẫn tâm linh. Cho nên quần chúng sẽ cần một ai đó lãnh đạo họ, tức là nhóm thiểu số thượng tôn đang cầm đầu các giới quyền tôn giáo, khoa học, kinh tế, chính trị và quân sự. Cho nên con thấy luôn luôn có một thiểu số thượng tôn quyền lực tìm cách ngăn chặn quần chúng tìm ra hay chấp nhận sự thật sẽ giải thoát họ. Sự thật đó là gì? Ta đã bày tỏ như thế này cách đây 2000 năm: “Vương quốc Thượng đế ở trong con” (Luke 17:21).

Nếu con nhìn quá khứ, con sẽ thấy loài người đã kinh qua một số cách mạng trong cách suy nghĩ, chẳng hạn khi họ vứt bỏ niềm tin là trái đất phẳng. Ngày nay con không thể hiểu nổi thời đó con người bị kẹt trong niềm tin đó như thế nào, cho nên con không thể nhận chân được sự thay đổi to lớn cần thiết trong tư duy để họ buông bỏ một niềm tin mà bây giờ con xem là quá ấu trĩ. Nhưng ta có thể cam đoan với con là chỉ trong một vài thế hệ nữa, người ta sẽ nhìn lại thời buổi này của con tương tự như vậy.

Các thế hệ tương lai sẽ chấp nhận là tâm thức của họ ảnh hưởng mọi chuyện, và họ sẽ nhìn lại thế hệ của con mà không thể hiểu nổi sao con có thể bị kẹt trong thế giới quan của mình đến thế. Họ sẽ không hiểu nổi sao thế hệ của con không thể nhìn xuyên thấu, từ bỏ các tin tưởng cũ và chấp nhận điều họ xem là tuyệt đối hiển nhiên, cụ thể là tâm thức con người ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của hoàn cảnh vật lý của mình. Họ sẽ xem thế hệ của con cũng ấu trĩ y như những người kia cứ nhất định tin rằng trái đất phẳng.

Ta cũng hiểu là khi con còn ở trong hộp tư duy của một ảo tưởng, nó hình thành một tấm màn sẽ pha màu cách con nhìn cuộc sống. Nhưng một khi bong bóng bể, con sẽ nhìn thế giới với con mắt mới, và con sẽ thấy sao quá hiển nhiên các niềm tin cũ của mình bị hạn chế tới chừng nào. Đột nhiên con thấy nhà vua không mặc quần áo.

Vượt khỏi cách tiếp cận dựa trên sức mạnh

Trên bình diện rộng lớn hơn nữa, sự thay đổi tư duy ta vừa nói đến là khi con người hiểu ra mọi thứ đều là năng lượng, cho nên quyền năng của tâm lớn hơn nhiều so với những gì cả tôn giáo truyền thống lẫn khoa học duy vật công nhận. Thực tế là nó đòi hỏi con người thông hiểu bốn tầng cõi của thế giới, rằng mọi chuyện trong cõi vật lý khởi đầu ở cõi bản sắc, rồi trở thành ý tưởng, rồi trở thành cảm xúc, và cuối cùng thị hiện như một hiện tượng hay một hoàn cảnh vật lý.

Khi hiểu ra điều này, một thế giới quan mới sẽ mở ra dẫn đến một xoay chuyển ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống trên địa cầu. Hãy để ta phác họa những hệ quả quan trọng nhất:

  • Con người sẽ ngộ ra là trái đất được sinh tạo như một sân hoạt động cho sự tăng triển tâm linh của mình. Vì vậy họ có quyền có mặt ở đây, và thiết kế của Thượng đế là địa cầu sẽ là nơi sinh sống cho 10 tỷ người.
  • Con người sẽ phát triển một niềm kính trọng và yêu thương mới đối với hành tinh, gồm cả môi trường tự nhiên. Họ sẽ khắc phục mọi xu hướng muốn hãm hiếp môi trường để trục lợi trước mắt và họ sẽ không cho phép các đại tập đoàn hay nước lớn làm vậy nữa. Nhưng họ cũng sẽ nhận ra là việc thay đổi môi trường để nuôi sống loài người nằm hoàn toàn trong hoạch định của Thượng đế cho địa cầu.
  • Con người sẽ hiểu ra là việc sống còn sẽ không đủ nữa và MỌI người phải được hưởng một mức sống khả quan, dành cơ hội cho họ đeo đuổi việc thăng tiến tâm linh.
  • Con người sẽ hiểu ra là để đem lại một mức sống phải chăng cho 10 tỷ người mà không phá hủy môi trường, một cách tiếp cận cách mạng phải được tìm thấy.
  • Cách tiếp cận mới này CHỈ có thể được tìm thấy bằng cách dùng quyền năng của tâm để nhìn vượt khỏi thế giới quan duy vật hiện nay. Chính thế giới quan này đang giam giữ loài người ở một mức nơi họ bị hạn chế phải dùng cái có thể gọi là loại công nghệ dựa trên sức mạnh. Qua từ này, ta muốn nói đến nền công nghệ dùng vũ lực để thu hoạch tài nguyên và sản xuất năng lượng, hoặc bằng cách đốt nhiên liệu hóa thạch, hoặc cưỡng bách hạt nguyên tử phân chia. Kết quả không thể tránh của công nghệ này là hãm hiếp môi trường để có tài nguyên, sản xuất ra ô nhiễm.

Giải pháp cho loài người là vươn lên một mức cao hơn khi họ có thể tiếp nhận công nghệ tiền tiến hơn. Công nghệ này sẵn hiện hữu và các chân sư thăng thiên chỉ chờ tâm thức đột phá để phóng thích nó ra. Nó sẽ cho phép năng lượng được sản xuất miễn phí mà không đòi hỏi tài nguyên vật lý, cho nên sẽ không hãm hiếp môi trường hay tạo ô nhiễm. Ta biết chuyện này nghe như khoa học giả tưởng, nhưng cảm giác này là vì con người còn bị kẹt trong tư duy phải giành lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Một khi vượt qua cách suy nghĩ đó, họ sẽ nhìn ra tất cả những hệ quả to lớn của sự thật cách mạng mà ta đã trình bày 2000 năm về trước: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi, vì Cha các con đã bằng lòng cho các con vương quốc” (Luke 12:32).

Thượng đế hoàn toàn vui lòng ban cho nhân loại mọi thứ họ cần để biến hành tinh này thành một thiên đàng, một Kỷ nguyên Hoàng kim. Tuy nhiên con người phải sẵn sàng tiếp nhận, vì chừng nào họ chưa sẵn sàng thì việc trao công nghệ cho họ sẽ chỉ khiến họ tự hủy hoại mà thôi. Quần chúng nói chung cũng phải đạt tới điểm sẵn lòng nhận trách nhiệm hoàn toàn về hoàn cảnh của mình, vì chừng nào họ chưa sẵn lòng thì chắc chắn họ sẽ còn bị nhóm thượng tôn cai trị. Như ta vừa giải thích, sự tồn tại của một nhóm thượng tôn quyền lực là kết quả trực tiếp khi hầu hết loài người từ chối nhận toàn bộ trách nhiệm về hành tinh của mình và không chịu thay đổi tư duy.

Chính điều này cho phép thiểu số thượng tôn còn tiếp tục nắm quyền, còn bưng bít những hiểu biết về công nghệ năng lượng miễn phí. Thực tế đơn giản là nhóm thượng tôn quyền lực mơ ước giữ chặt độc quyền, nhưng năng lượng miễn phí thì không ai có thể độc quyền, có nghĩa là các tập đoàn năng lượng khổng lồ hiện nay sẽ tiêu tan khi công nghệ này rốt cuộc được phóng thích. Cho nên nhóm thượng tôn quyền lực đang cố hết sức kìm hãm công nghệ này hầu cứu vãn chế độ độc quyền của chúng. Và chừng nào con người chưa nhận trách nhiệm hoàn toàn và chưa đòi hỏi thay đổi, thì chúng sẽ tiếp tục làm được chuyện đó.

Các khía cạnh tích cực của hâm nóng toàn cầu

Hâm nóng toàn cầu không nhất thiết là tiêu cực, theo nghĩa là trong hoạch định dài hạn cho trái đất, các chỏm băng ở hai cực sẽ chảy ra và khí hậu trở nên ấm áp hơn. Điều này sẽ mở ra những khu vực rộng lớn mới mà ngày nay không thích hợp cho nông nghiệp, và nhờ vậy sẽ nuôi sống một dân số đông hơn. Một lần nữa, phong trào bảo vệ môi trường dựa trên triết lý cho rằng dân số quá đông là nguyên nhân chính gây ra các vấn đề môi trường, nhưng không nhất thiết như vậy. Nếu mọi người sống một cuộc sống cân bằng hơn hiện nay thì hành tinh này quả thực có khả năng nuôi sống 10 tỷ người, cho nên bất kỳ dân số nào ít hơn con số này KHÔNG phải là dân số quá tải.

Tuy nhiên để hành tinh nuôi sống được dân số đó, độ nghiêng của trục trái đất phải được giảm bớt đáng kể, và điều này sẽ khiến cho khí hậu điều hòa trở lại – nếu đi đôi với việc nâng cao tâm thức tập thể – và sẽ gia tăng đáng kể sản lượng lương thực. Việc điều chỉnh trục trái đất cũng sẽ giảm thiểu biến đổi nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông nhưng không hoàn toàn loại bỏ các mùa trong năm. Và nếu tiến trình điều chỉnh xảy ra lần hồi, nó sẽ không gây ra thiên tai lớn hay những dạng thời tiết mất cân bằng.

Tái phân phối cơ hội kinh tế

Ngoài ra cũng phải có một sự tái phân phối tài nguyên, tái phân phối cơ hội, để địa cầu không còn bị cai trị bởi một thiểu số thượng tôn quyền lực đang kiểm soát và tiêu thụ một lượng quá đáng những tài nguyên thiên nhiên và của cải. Phải có sự nhìn nhận rằng mục đích của thịnh vượng là để đem lại lợi ích cho đa số quần chúng thay vì chỉ giúp cho một thiểu số thượng tôn gom góp nhiều của cải hơn bất cứ ai có thể cần đến hoặc tiêu thụ được.

Một lần nữa, vấn đề này đòi hỏi những thay đổi to lớn trong cách tư duy của mọi người, vì nếu ai nấy cứ tiếp tục cưỡng lại tiến trình thì hiện tượng cọ xát sẽ chỉ gia tăng, dẫn đến nhiều hâm nóng và nhiều trục trặc thời tiết hơn nữa. Nếu con nhìn trở ngược lại, con sẽ thấy là vào thập niên 1960, một khuynh hướng mới mẻ đã khởi đầu, nâng cao nhận thức của con người về cộng đồng toàn cầu cùng tính chất liên đới của sự sống. Nhưng cho tới giờ, nó vẫn chưa chuyển thành những thay đổi lớn lao gì trong nhận thức quần chúng. Thay vào đó, nhóm thượng tôn quyền lực đã lợi dụng khuynh hướng này để khởi động một phong trào tìm cách dùng trào lưu toàn cầu hóa làm bình phong cho việc bành trướng quyền lực và kiểm soát của chúng.

Nếu muốn lật ngược khuynh hướng này và giúp cho nhận thức toàn cầu nói trên đem lại một nhận thức trách nhiệm toàn cầu, thì những người tâm linh nhất trên địa cầu cần tỉnh giấc, họ cần ngộ ra là họ phải nắm lấy quyền cai quản hành tinh của mình. Và trong cái ngộ này có cả việc hiểu ra là bất kỳ vấn đề nào cũng có thể bị, và sẽ bị, thiểu số thượng tôn quyền lực khai thác để phục vụ mục tiêu của chúng. Và vấn đề môi trường, kể cả vấn đề hâm nóng toàn cầu, không phải là ngoại lệ. Các thày đã có giải thích sự kiện này trong sách Chữa lành Mẹ Địa cầu.

Hệ thống miễn nhiễm của hành tinh

Điều quan trọng là con hiểu mọi chuyện xảy ra ở tầng vật lý có một bộ phận song song ở ba tầng cao hơn. Cụ thể, sự ô nhiễm vật lý chỉ là kết quả thấy được của một tình trạng ô nhiễm ở cõi cảm xúc và cõi lý trí, dưới dạng năng lượng tâm lý tha hóa được tạo ra bởi những tư tưởng cùng cảm xúc không phát xuất từ tình thương. Khi năng lượng này đủ cường độ, nó tràn ra ngoài và gia tăng hiệu ứng ô nhiễm vật lý. Nói cách khác, thành phần vật lý của hâm nóng toàn cầu chính là việc phát thải khí nhà kính, nhưng trong điều kiện bình thường, các quy trình tự nhiên sẽ có khả năng giải quyết vấn đề mà không gây tàn phá. Hành tinh có một số quy trình làm việc giống như hệ thống miễn nhiễm của con người cùng các hệ thống loại bỏ độc tố, loại bỏ chất thải khỏi cơ thể.

Tuy nhiên hệ thống này gắn liền với ba tầng cao của vũ trụ, cho nên khi có quá nhiều năng lượng cảm xúc và lý trí tích tụ lại, điều này làm suy giảm các quy trình thanh lọc vật lý – cũng giống như hệ thống miễn nhiễm của con bị suy yếu khi con căng thẳng tình cảm. Kết quả là ô nhiễm sẽ tệ hơn, bởi vì nếu hệ thống hành tinh hoạt động bình thường thì các khí thải nhà kính đã không ảnh hưởng khí hậu một cách rõ rệt như vậy. Điều ta muốn nói cho những ai quan tâm đến môi trường và cởi mở với các giải pháp tâm linh, có một cách vô cùng hiệu quả để thanh lọc toàn bộ hệ thống năng lượng của hành inh, đó là đọc các bài thỉnh của Mẹ Mary. Và nếu có đủ túc số những người đọc thỉnh như vậy thì hệ thống sẽ được giải phóng để nó tự thanh lọc lấy, và tác động của ô nhiễm vật lý được giảm thiểu.

Cuộc tranh luận về hâm nóng toàn cầu và các hậu ý

Cuộc tranh luận về vấn đề còn phức tạp hơn cả tự thân vấn đề, bởi vì có quá nhiều nhóm khác nhau tìm cách giật dây nó với quá nhiều động cơ khác nhau. Muốn tìm hiểu chuyện này đầy đủ sẽ dẫn chúng ta vào tận cốt lõi của những gì đang xảy ra với địa cầu, và điều này sẽ phải chờ đến khi có thêm nhiều giáo lý nền tảng được ban truyền. Điều ta có thể nói ngay bây giờ là như sau: Điều tuyệt đối cần thiết cho những ai có nhận biết tâm linh cao nhất là họ cần vượt qua niềm tin ngây thơ cho rằng tất cả những ai tuyên bố làm việc cho môi trường đều làm vậy với động cơ trong lành.

Thực tế đáng buồn là gần như không có một lãnh vực tranh luận nào của con người mà lại bị khuynh đảo nhiều hơn cuộc tranh luận về môi trường. Lý do là vì, tất nhiên, trong tất cả mọi lãnh vực tranh luận gần như không có cuộc tranh luận nào mang hệ quả lớn hơn, vì vấn đề ở đây là quyền kiểm soát các nguồn tài nguyên toàn cầu. Do đó có rất nhiều đấu thủ ở đây đeo đuổi những quyền lợi khác nhau, nhiều khi trái ngược và loại trừ lẫn nhau. Cái có vẻ là một chính nghĩa trong sáng muốn cứu nguy môi trường thường chỉ là một lớp ngụy trang cho một thâm ý.

Mẹ Mary đã có trình bày một trong những yếu tố chủ yếu trong cuộc tranh luận về môi trường, cụ thể là một số đại tập đoàn sử dụng các tổ chức môi trường làm bình phong để hạn chế việc tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên, qua đó họ lập ra một thế độc quyền được chính quyền phê chuẩn. Tuy nhiên phong trào này – cùng một vài tổ chức môi trường nổi tiếng – có thể được truy ngược về những năm 1800 khi việc khám phá những nguồn tài nguyên thiên nhiên mới ở miền Tây Hoa Kỳ là mối đe doạ có thể lật đổ sự thống trị kinh tế của giới “tiền cũ” ở các tiểu bang Đông Bắc. Vì vậy, một số doanh nhân lớn ở miền Đông đã thành lập và tài trợ một vài tổ chức bảo vệ môi trường.

Tất nhiên, những tổ chức đó đã vượt xa mục đích ban đầu, và trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, một số đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi guồng máy tuyên truyền của Liên Xô cùng nỗ lực của nước này nhằm hạn chế phát triển kinh tế ở phương Tây. Điều này dẫn đến phong trào gọi là “Hạn chế tăng trưởng” với lập luận bảo rằng sự tăng trưởng kinh tế có giới hạn và dân số loài người cũng có giới hạn. Cho nên các quốc gia Tây phương đứng trước một chọn lựa, hoặc sụp đổ, hoặc phải tự ý giới hạn tăng trưởng của mình. Điều này có nghĩa là nhà nước phải kiểm soát tài nguyên và nền kinh tế, tạo ra một hệ thống cũng tương tự như hệ thống cộng sản, chỉ khác tên gọi.

Như ta đã đề cập ở trên, chừng nào con người còn bị mắc kẹt trong một nền công nghệ dựa trên sức mạnh, thì quả thật có một giới hạn cho tỷ lệ tăng dân số và tăng trưởng kinh tế bền vững. Cho nên vẫn có một chút căn bản sự thật đằng sau những lập luận do các tổ chức môi trường đưa ra. Tuy nhiên, chừng nào cuộc tranh luận không vượt ra ngoài những nguyên nhân duy vật, thì tự thân cuộc tranh luận sẽ phục vụ cho một mục tiêu lớn hơn, là ngăn chặn tâm thức nhân loại vươn lên một mức hoàn toàn mới. Và đây chính là mục đích thật sự đằng sau cuộc tranh luận hiện thời về môi trường.

Hãy khôn ngoan như rắn

Quả thật là có rất nhiều người có thiện ý – rất nhiều người trong số 10% có ý thức tâm linh cao nhất – đã bị lôi cuốn vào việc hỗ trợ các phong trào bảo vệ môi trường mà không nhìn thấy thâm ý đằng sau. Thâm ý này thường được thực hiện qua việc trưng bày một số vấn đề dễ gây động cảm, chẳng hạn như cứu nguy một loài động vật hay một môi trường nhạy cảm nào đó – cái thường được gọi bằng thuật ngữ hư cấu là “hệ sinh thái”. Con hãy lưu ý là ta không nói rằng một số phong trào như vậy không có giá trị hay không cần thiết. Đúng là nó cần thiết, như trong hai ví dụ này: cứu cá voi và cứu rừng nhiệt đới khỏi sự khai thác kinh tế không hạn chế. Tuy nhiên điều ta muốn trình bày rộng lớn hơn, là khi người ta tập trung vào những vấn đề riêng lẻ như thế thì sự chú ý của họ sẽ bị dẫn dắt một cách “thuận lợi” để họ không nhìn thấy vấn đế tổng thể trong hậu trường.

Rất nhiều đại nghĩa bảo vệ môi trường chỉ đơn giản là ngụy trang nhằm cố tình che giấu những nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân chủ yếu bị che giấu là nhu cầu phát triển một thế giới quan cao hơn và tâm linh hơn. Và người ta che giấu bằng cách chỉ tập trung vào các nguyên nhân và các vần đề duy vật, thường thường qua việc giản dị hóa vấn đề đến độ nó chỉ còn là một chuyện vô cùng trắng-đen với một thủ phạm rõ ràng. Chẳng hạn, kỹ nghệ săn bắt cá voi là thủ phạm, kỹ nghệ khai thác gỗ là thủ phạm, và nếu chúng ta ngăn chặn họ thì chúng ta sẽ cứu được cá voi và rừng nhiệt đới.

Những đại nghĩa môi trường đầy động cảm như vậy thường dựa trên bằng chứng khoa học đáng ngờ, khi một nhà khoa học được trích dẫn bởi một nhà khoa học khác được trích dẫn bởi nhiều nhà khoa học khác, cho tới khi người ta có hẳn một “khối lượng bằng chứng khoa học” không có chút thực tế nào nhưng lại có vẻ rất thuyết phục đối với người bình thường. Kết quả chung chung là ai nấy có cảm giác mình đang đóng góp cho trái đất, nhưng sự chú ý của họ được khéo léo dẫn dắt để họ không xem xét các nguyên nhân sâu xa hơn. Tất nhiên, nó che giấu bàn tay của nhóm thượng tôn quyền lực là kẻ đích thị đang lạm dụng môi trường.

Nhóm thượng tôn quyền lực có tư duy dựa trên vũ lực

Toàn bộ thâm ý là lớp thượng tôn quyền lực biết rất rõ nguy cơ nhân loại có thể vươn lên một tầm nhìn tâm linh hơn về cuộc sống. Chúng biết là nếu điều này xảy ra, chúng sẽ bị lật mặt, và một khi chúng bị phơi bày, chúng sẽ bị tước mất quyền lực trên quần chúng mà chúng đã nắm từ hàng bao thế kỷ, thậm chí hàng bao thiên niên kỷ.

Lớp thượng tôn quyền lực có một cách tư duy hoàn toàn dựa trên sự tha hóa của lời răn rằng con người hãy nhân lên và cai quản trái đất. Chúng xem trái đất và con người là những kẻ thù phải trấn áp mạnh bạo, và tư duy này đã giam giữ loài người trong nền công nghệ dựa trên sức mạnh. Nhóm thượng tôn đã chiếm quyền bằng vũ lực và chúng sẽ làm mọi cách để giữ quyền, kể cả ngăn chặn toàn bộ hành tinh vươn lên một tầng cấp cao hơn. Mặc dù chúng nghĩ chúng rất tinh xảo khôn ngoan, nhưng kỳ thực chúng là những kẻ lãnh đạo mù mà ta đã cảnh báo mọi người khoảng 2000 năm về trước: 

  • “Hãy để họ vậy: họ là kẻ mù dẫn đường người mù. Và nếu kẻ mù dẫn đường người mù, cả hai sẽ té xuống hố” (Matthew 15:14).
  •  “Kìa, ta cho các con đi tựa như chiên đi vào giữa bầy lang sói. Vậy hãy khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu” (Matthew 10:16).
  • “Hãy coi chừng tiên tri giả, họ đến với con đội lốt chiên, nhưng bên trong họ là chó sói đói ăn vô độ” (Matthew 7:15).

Thiểu số thượng tôn quyền lực đã chiếm quyền bằng cách chia rẽ quần chúng và chúng sẽ làm đủ cách đễ giữ cho quần chúng tiếp tục bị chia rẽ. Cho nên trong cuộc tranh luận về môi trường, con thấy nhiều mưu mô trái ngược nhau chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu lớn hơn là chia rẽ quần chúng, đồng thời che giấu lý do bên dưới là thâm ý kiểm soát của nhóm thượng tôn. Những người thuộc nhóm thượng tôn có cách suy nghĩ hoàn toàn dựa trên sức mạnh, và một trong những thành công lớn của chúng là Chiến tranh Lạnh khi chúng đã xoay xở tạo ra tình trạng căng thẳng giữa hai khối cộng sản và tư bản.

Điều này được thực hiện khi một số nhà tài chính ở phương Tây đã tạo ra và tài trợ – trong nghĩa đen – cho cuộc cách mạng bolshevik và xây dựng Liên Xô thành một cường quốc quân sự hàng đầu. Tình trạng này đưa đến cuộc chạy đua vũ trang đã suốt mấy thập niên giữ cho tổ hợp quân sự-công nghiệp (military-industrial complex) nắm quyền và thu lợi nhuận. Như ta vừa nói, cuộc tranh luận về môi trường tại phương Tây đã trở thành một công cụ nhằm gia tăng căng thẳng, và ngày hôm nay nó vẫn được dùng trong mục tiêu đó. Các đại tập đoàn đa quốc cũng dùng tranh luận này để tìm cách giành độc quyền trong các nền kinh tế mới mở mang nơi họ đã từng gặp khó khăn tìm được chân đứng.

Từ một góc nhìn hời hợt, có vẻ như có sự xung đột giữa các đại tổ hợp đa quốc và các phong trào bảo vệ môi sinh, nhưng đây chỉ là bề ngoài. Sâu hơn, họ làm việc cho cùng một mục tiêu rộng lớn là tạo căng thẳng và xung đột sẽ duy trì quyền kiểm soát của thiểu số quyền lực. Và thậm chí đằng sau thiểu số quyền lực còn có âm mưu rộng lớn hơn nữa là giữ vững các thế lực nhị nguyên ở địa vị kiểm soát hành tinh này và ngăn cản sự thức tỉnh tâm linh đang trên ngưỡng cửa đột phá.

Nguồn gốc của nhóm thượng tôn quyền lực đã được giải thích ở một nơi khác. Tuy nhiên như ta vừa nói, thông điệp bên dưới của chúng là loài người nói chung là nguyên nhân của các vấn đề môi trường, nhóm thượng tôn là những vị cứu tinh có thể giải quyết tất cả – chỉ cần nhân loại chịu khuất phục sự kiểm soát của chúng. Nhóm thượng tôn luôn luôn tìm cách tạo ra một vấn nạn xong tự đặt mình là giải pháp duy nhất cho vấn nạn mà chúng đã tạo ra. Nhưng như ta trình bày khắp trang mạng này, con không thể giải quyết một vấn đề khi con vẫn mắc kẹt trong chính cái trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề. Và đó là tại sao các vấn đề môi trường sẽ không có giải pháp thực sự nào cho đến khi quần chúng thức giấc và vượt xa khỏi tư duy nhị nguyên, dựa trên sức mạnh, đã khiến nhóm thượng tôn mù quáng.

Điểm chung của ta ở đây là giúp những ai cởi mở với trang mạng này nhận thức được là nếu con muốn đóng góp hiệu quả nhất trong việc giải quyết – giải quyết thực sự – các vấn đề môi trường, thì con nên khởi sự bằng cách điều chỉnh lại cách suy nghĩ của mình như sau:

  • Trái đất đã được tạo ra như một sân hoạt động cho sự tiến hóa tâm linh của nhân loại. Nó không được tạo ra để là một môi trường tự nhiên nguyên sơ không có tì vết và cũng không có con người.
  • Vai trò dự trù của con là trở thành người đồng sáng tạo cai quản chính tâm mình, xong cai quản môi trường địa cầu, đưa nó đứng thẳng hàng với viễn quan và quy luật của Thượng đế.
  • Trái đất được trù liệu để nuôi sống 10 tỷ người với mức sống thoải mái.
  • Điều này chỉ có thể thực hiện qua những thay đổi to lớn trong nền chính trị lẫn công nghệ.
  • Giải pháp thực sự duy nhất cho các vấn đề môi trường hiện thời là nhân loại phải vươn tới mức có khả năng tiếp nhận nền công nghệ không dựa trên sức mạnh.
  • Để việc này xảy ra, tâm thức loài người phải nhảy vọt một bước thật dài, và phần 10% trên cùng của những người có ý thức tâm linh nhất phải là người đi tiên phong trong cuộc chuyển tiếp này. Vì vậy, việc đạt được quả vị Ki-tô cá nhân và gây cảm hứng cho người khác cũng đi theo con đường quả vị Ki-tô là sự đóng góp quan trọng nhất mà con có thể cống hiến để giải quyết các vấn đề môi trường. Tất nhiên, điều này bao gồm việc trình bày với người khác về mối liên hệ giữa tâm thức và các tình huống vật lý, trong đó có cả các tình huống của môi trường.

Làm thế nào là người thực sự có ý thức môi sinh

Sự nhận biết cao hơn cần xuất hiện là xã hội phương Tây đã đi sai đường trong nhiều thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, do bị cả đạo Cơ đốc chính thống lẫn khoa học duy vật dẫn lạc đường, và cả hai đã bị thiểu số quyền lực sử dụng làm bình phong. Cách hiệu quả nhất để nhóm thượng tôn lũng đoạn một cuộc tranh luận là lập ra hai đối cực rồi khiến cho quần chúng tin rằng họ phải chọn một trong hai, thế nhưng cả hai đều nhằm duy trì tình trạng nhóm thiểu số có thể áp đảo quần chúng. Điều này che lấp sự hiện hữu của một giải pháp khác hẳn cả hai cách tiếp cận kia, là vượt lên một tầm hiểu cao hơn về vấn đề.

Các chân sư thăng thiên sẵn lòng và cũng sẵn sàng cộng tác với những người có nhận biết cao nhất để đem lại một tầm nhận biết cao hơn về môi trường. Kỳ thực, các thày đã khởi sự truyền rải qua một số cá nhân, nhưng tầm nhận biết này chưa được chấp nhận rộng rãi vì giới truyền thông chính mạch đã làm ngơ. Ý tưởng cơ bản cần được hiểu là hành tinh này đã được tạo ra cho một mục đích đặc thù là sự tiến hoá tâm linh của loài người.

Vì vậy, mọi thứ trên địa cầu đều được thiết lập để cống hiến cho loài người cơ hội tốt nhất để con người học hỏi bài học cơ bản của cuộc sống, cụ thể là tâm con người có quyền năng tạo ra các tình huống vật lý xảy ra cho bản thân mình. Mỗi người đã suốt nhiều kiếp sống tạo ra các tình huống cá nhân của mình, và loài người cũng đã suốt hàng thiên niên kỷ cùng nhau tạo dựng rất nhiều giới hạn mà con thấy ngày nay trên trái đất.

Tuy nhiên, quy luật của Thượng đế là khi nào con người nâng cao tâm thức thì môi trường vật lý cũng theo đó đáp ứng theo. Những mất thăng bằng hiện thời trong thiên nhiên, ngay cả sự thiếu hụt cái gọi là tài nguyên thiên nhiên, đều là sản phẩm của sự mất thăng bằng khi con người đồng sáng tạo bên ngoài quy luật Thượng đế. Quy luật của Thượng đế được thiết lập để cung cấp đời sống sung túc cho nhân loại, và bằng cách đứng thẳng hàng với các quy luật này, con người có khả năng thị hiện những điều kiện sẽ nuôi sống 10 tỷ người và cho họ một cuộc sống vật chất thoải mái mà không phải cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại thế cân bằng của môi trường hay làm trục trặc khí hậu của hành tinh.

Thực tế phũ phàng là từ nhiều thập niên, thiểu số thượng tôn quyền lực đã sử dụng vấn đề môi trường để tạo dựng niềm tin về một ngày diệt vong sắp sửa ập tới, để niềm tin này thúc đẩy mọi người chịu bỏ tự do, bỏ quyền lợi và tiền bạc của mình. Vào thời Trung cổ, nhóm thượng tôn còn dùng khái niệm địa ngục và luyện ngục của đạo Cơ đốc để dọa nạt mọi người. Thế rồi khi chúng đem khoa học duy vật vào, niềm tin này bị suy yếu và chúng phải cố nghĩ ra những chuyện dọa nạt khác. Trong số này, có bệnh đại dịch, có xâm lăng của người ngoài hành tinh, có thiên thể sắp đụng trái đất, có kinh tế sụp đổ, có chiến tranh hạt nhân và, tất nhiên… có cả sự tàn phá môi trường.

Kế hoạch của nhóm thượng tôn là tạo ra cơn hoảng loạn lan rộng khiến ai nấy tin rằng họ phải chọn giữa hai tệ đoan, và điều có thể đoán trước là họ sẽ luôn luôn chọn tệ đoan có vẻ đỡ tệ nhất. Nhưng con chỉ bị bắt buộc chọn lựa giữa hai tệ đoan bởi vì con có một tầm hiểu giới hạn về tình thế, và con hiểu giới hạn như vậy là vì con không chịu sử dụng khả năng phân biện Ki-tô của con để tìm dữ liệu từ một nguồn cao hơn, một nguồn vượt khỏi cái nhìn nhị nguyên của tự ngã. Và nguồn này hiển nhiên là cái ta Ki-tô của con cùng các chân sư thăng thiên.

Khi con thỉnh dữ kiện đó, con sẽ thấy luôn luôn có một giải pháp khác hơn cho các đối cực nhân tạo. Giải pháp khác đó là vượt khỏi cách tiếp cận nhị nguyên về cuộc sống, qua đó con luôn luôn bị lôi kéo bởi hai đối cực về những hướng đối nghịch. Giải pháp khác đó là nhìn vào cuộc sống qua tâm Ki-tô để thấy được: “Điều này với con người không thể làm được, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều làm được” (Matthew 19:26). Như ta có giải thích ở trên, một khi con người đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế, thì các vấn đề môi trường sẽ có thể được giải quyết mà không phải vứt bỏ các quyền tự do dân chủ lẫn tự do kinh tế, hay cho phép nhóm thượng tôn quyền lực kiểm soát mọi khía cạnh của đời mình.

Thật ra bằng cách cho phép nhóm thượng tôn quyền lực tiếp tục kiểm soát cuộc tranh luận về môi trường, điều chắc chắn là cuộc tranh luận này sẽ tiếp tục chạy trật đường rày, và như vậy các vấn nạn môi trường sẽ chỉ càng tệ hại thêm. Nhóm thượng tôn quyền lực bị mù quáng bởi sự kiêu mạn tâm linh đến độ chúng sẽ tiếp tục tiến tới vực thẳm, và giống như bao lần trong quá khứ, nó sẽ khiến chúng giết mất con ngỗng – tức là toàn bộ hành tinh trong trường hợp này – đẻ trứng vàng.

Ta biết lời giải thích của ta có thể khiến cho một người đơn lẻ cảm thấy vô vọng không biết làm gì trước âm mưu thao túng đó, nhưng con hãy nhớ, đó chính là điều nhóm thượng tôn luôn luôn muốn con tin. Thông điệp bên dưới của chúng là một người không thể nào làm gì để thay đổi. Nhưng thông điệp sâu xa của đời ta và cuộc đời của nhiều người khác là quả thực một người CÓ THỂ tạo sự thay đổi – khi người đó làm việc cùng với Thượng đế.

Cho nên con hãy buông mọi cảm giác choáng ngợp và cho phép Thượng đế bước vào trong con để ngài chỉ cho con thấy làm thế nào cá nhân con có thể góp phần vào việc đem lại sự thay đổi. Luôn luôn nhớ rằng, muốn cho thiểu số thượng tôn quyền lực chiến thắng, chỉ cần 10% dẫn đầu nhân loại không làm gì cả.


Ghi chú: Để hiểu sâu hơn về các vấn đề môi trường, về thiểu số thượng tôn quyền lực và mối quan hệ của con người với địa cầu, xin tham khảo sách Healing Mother Earth (Chữa lành Mẹ Địa cầu).

Sự thật về Chén Thánh – Giê-su bình luận về sách The Da Vinci Code

Câu hỏi của Kim Michaels: Thưa Giê-su, con vừa đọc xong quyển sách The Da Vinci Code (Mt mã Da Vinci) của Dan Brown, và con muốn hỏi thày về Chén Thánh (Holy Grail). Trong sách đưa ra luận thuyết rằng thật ra, Chén Thánh chính là Mary Magdalene, lúc đó đang mang thai đứa con của thày khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá. Mary Magdalene sau đó thoát được sang Pháp, nơi bà khởi đầu một dòng dõi hậu bối sau này có nối kết với một số hoàng tộc tại Âu châu. Liệu luận thuyết này có phần thực nào trong đó hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước hết, ta rất vui được thấy sách The Da Vinci Code đã được nhiều người chú ý và tìm đọc đến như vậy. Điều này cho thấy rất nhiều người sẵn lòng nhìn xa hơn những học thuyết của đạo Cơ đốc chính thống, và khao khát một hiểu biết cao hơn. Điều này cũng chứng tỏ là phần lớn sự hiểu biết tâm linh, mà trong các thời đại trước chỉ được truyền bí mật cho một số vị điểm đạo ở một cấp nào đó, bây giờ có thể được phổ biến rộng rãi hơn, và thật sự nó có thể trở thành sự hiểu biết chính mạch. Đó là một tin vui, và sự ưa chuộng quyển sách này là một trong số nhiều dấu hiệu cho thấy tâm thức loài người đang có sự chuyển đổi.

Bây giờ đến lượt tin buồn. Không có sự thật nào trong giả thuyết mà quyển sách đã đưa ra. Mary Magdalene không mang thai đứa con của ta khi ta bị đóng đinh. Cô ấy đã không đến Pháp, và do đó đã không khởi sự một dòng dõi được tiếp nối cho tới ngày nay.

Kim Michaels: Vậy có phải thày nói là truyền thuyết Mary Magdalene là Chén Thánh là một tin vịt? Thuyền thuyết đó ra đời như thế nào và tại sao?

Giê-su: Phải, truyền thuyết đó là hư cấu, nhưng nó không chủ ý là chuyện hư cấu. Những người đặt ra và lan truyền giả thuyết đó thật sự tin rằng có một số sự thật trong đó. Con phải hiểu là trong những thế kỷ sau khi ta bị đóng đinh, đã có rất nhiều huyền thoại và truyện kể được lưu truyền về ta. Một số truyện kể này bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa về Ki-tô hay về một Thượng đế hiện thân làm người, và các truyền thống đó thì bắt nguồn từ những tôn giáo ngày nay bị xem là tôn giáo đa thần, tôn giáo ngoại đạo, trong khi kỳ thực đó là những lời dạy tâm linh phổ quát đã hiện hữu trong thế giới cổ đại song song với các tôn giáo chính mạch được biết đến nhiều hơn.

Giáo lý của môn phái Ngộ giáo (Gnostics) cũng chứa đựng một số truyền thuyết, và con sẽ thấy là phái này cũng có một số sách Phúc âm hay học thuyết mà họ bảo là đã nhận được từ nguồn gốc khải huyền thiêng liêng. Ta có thể nói với con là một số sách Phúc âm và giáo lý Ngộ giáo đã được tiếp nhận như là sự tiết lộ tuần tự đích thực đến từ uy lực của Thánh linh. Tuy nhiên, cũng có một số tín đồ Ngộ giáo đã nhận được những lời tiết lộ giả hiệu, y như ngày nay cũng có nhiều kẻ đồng bóng tiếp xúc với các linh thể thấp kém, hay thậm chí những tà thể độc hại, cố tình đánh lừa quần chúng bằng cách lan truyền những ý tưởng sai lầm.

Kim Michaels: Quyển sách cũng nói rằng Chén Thánh biểu tượng cho khiá cạnh nữ thiêng liêng, và thày đã hiện thân để nâng cao giới phụ nữ cũng như nữ tính thiêng liêng lên vị thế xứng đáng trong xã hội. Liệu có chút sự thật nào trong thuyết đó?

Giê-su: Có, quả là có phần nào sự thật trong đó, theo nghĩa là ta đã đến với niềm hy vọng đem lại sự bình đẳng tâm linh giữa hai phái, bằng cách nâng cao phụ nữ lên vai trò xứng đáng của mình. Ta đã có giải thích điều này một cách khá chi tiết trong câu trả lời về Mary Magdalene.

Tuy nhiên, ta đã không hiện thân chỉ để đem lại những thay đổi vỏ ngoài cho xã hội. Ta cũng đã đến để giúp con người hiểu ra cách duy nhất để trở thành một con người trọn vẹn và cân bằng là đạt được quan hệ đúng đắn giữa nam tính và nữ tính của dòng sống. Ta đã giải thích điều này tường tận trong bài giảng về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, một lần nữa, ta phải nói với con, Chén Thánh không phải là một người phụ nữ, không phải là Mary Magdalene và cũng không phải là nữ tính thiêng liêng.

Kim Michaels: Còn về Tu viện Scion (Priory of Scion) thì sao? Có thật là có một hội bí mật lưu giữ các tài liệu về đạo Cơ đốc ban sơ và nữ tính thiêng liêng?

Giê-su: Đã có một số hội kín, hay tổ chức bí mật, mọc lên trong thời kỳ Tòa án Dị giáo (Inquisition). Bất cứ khi nào có tình trạng một nhà cầm quyền độc tài trấn áp quyền tự do ngôn luận, thì con sẽ thấy xuất hiện một số hội kín nhằm bảo vệ những ai không chịu tuân theo đường lối cầm quyền.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thuở đó đã bảo trợ một vài hội kín dưới thời Tòa án Dị giáo, kể cả hội Chữ thập Hồng (Rosicrucians), hội Tam Điểm (Freemasons) cùng một số phường hội đã xây cất các nhà thờ lớn tại châu Âu.

Ta không nói ở đây là các hội này vẫn được bảo trợ ngày nay. Con cần hiểu là nếu một hội kín đã được thành lập vào thời Tòa án Dị giáo, thì có ích gì mà tiếp tục hoạt động này ngày hôm nay khi quyền tự do ngôn luận đã có mặt? Vào thời đó, một điều tương đối chính đáng đối với một hội kín là không rải truyền toàn bộ giáo lý tâm linh của mình cho quần chúng, mà chỉ trao một số giáo lý cao cấp cho một số đệ tử quyết tâm hơn trên đường tu tâm linh. Tuy nhiên chúng ta đã bước vào một thời đại khi giáo lý tâm linh có thể, và nên, được truyền đạt rộng rãi cho tất cả những ai sẵn lòng học hỏi.

Một hội kín dành một phần giáo lý cho đệ tử cấp cao là một chuyện, còn một hội kín cứ nhất định giữ kín mãi mãi là một chuyện khác hẳn. Chúng tôi các chân sư thăng thiên có thể đã bảo trợ một số hội kín do tình thế đòi hỏi, nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi ưa gì hội kín. Kỳ thực, chúng tôi thà là không có hội kín bởi vì trong những hội như vậy, sự kín đáo luôn luôn mời mọc sự lạm dụng quyền hành. Thật là quá dễ cho một nhóm ưu tú nhỏ hẹp, là nhóm chóp bu đứng đầu tổ chức bí mật đó, lạm dụng quyền lực của mình. Thật sự, các thành viên của một tổ chức như vậy không có cách chi phản đối giới lãnh đạo lạm dụng, bởi vì mọi chuyện có thể được giấu giếm, viện cớ là tổ chức hay giáo lý phải tiếp tục được giữ bí mật.

Xét về Tu viện Scion như được mô tả trong sách The Da Vinci Code, đâu là ích lợi của một hội kín cứ giữ bí mật giáo lý hay tài liệu môt cách vĩnh viễn? Con có thể hiểu được sự ích lợi của việc giữ bí mật để thoát khỏi sự đàn áp của Giáo hội Công giáo và nhờ vậy lưu giữ được thông tin cho hậu thế. Nhưng nếu thông tin đó cứ giữ hoài hoài vĩnh viễn thì mục đích của hội là để làm gì? Tại sao không chỉ tiêu hủy các tài liệu đó đi thì có phải bí mật đó sẽ không bao giờ lọt được vào tay kẻ xấu? Một trong những vấn đề của một hội kín là nó dễ dàng đánh mất mục đích nguyên thủy của nó và chỉ cốt tồn tại hầu tồn tại. Nói cách khác, mục đích duy trì hội kín trở thành quan trọng hơn là việc bảo tồn những giáo lý tâm linh mà nó tưởng là nó nắm giữ.

Ta đồng ý với lập luận đưa ra trong sách rằng nếu một hội kín đang nắm giữ một giáo lý bí mật về Ki-tô, thì bí mật đó cần được tiết lộ trong thời đại hôm nay, vì giờ đây đã có tự do ngôn luận cũng như những phương tiện truyền thông tốt hơn bao giờ hết. Còn cách nào hay hơn để bảo tồn một giáo lý là đưa nó lên internet nơi mọi người có thể đọc được? Nếu để một giáo lý quý giá trong tay một nhóm nhỏ bé thì luôn luôn có hiểm họa nó sẽ bị đánh mất, y như những gì cốt truyện trong sách mô tả.

Kim Michaels: Thế còn các giáo phái tôn thờ sinh sản cùng những nghi lễ tình dục được mô tả trong sách thì sao? Những loại nghi lễ đó hay những giáo lý đằng sau nghi lễ có giá trị gì hay không?

Giê-su: Có sự mâu thuẫn cốt lõi khi một tổ chức tuyên bố là mình bảo tồn bí mật về Ki-tô mà lại đồng thời cử hành những nghi lễ tình dục không bao giờ xuất phát từ bản thân ta, và cũng chẳng bao giờ liên quan gì đến đạo Cơ đốc. Đây là cùng một loại mâu thuẫn như khi bảo rằng Leonardo da Vinci là người cầm đầu bí mật của một tổ chức thờ phượng nữ tính thiêng liêng, trong khi ông là một người đồng tính.

Đã từng có một số tôn giáo cổ xưa có truyền thống thờ phượng nữ tính thiêng liêng, và trong khuôn khổ sự thờ phượng đó, một số giáo phái đã có những nghi lễ tình dục. Nhưng những loại nghi lễ này không bao giờ nằm trong đạo Cơ đốc, cũng như không bao giờ được ta khoan thứ. Trước khi đạo Cơ đốc ra đời, có những lời dạy phổ quát đã có mặt rồi, trong đó một số có giá trị. Một số lời dạy thờ phượng nữ tính thiêng liêng có giá trị. Tuy nhiên, chuyện cử hành nghi thức tình dục như được mô tả trong sách The Da Vinci Code (hoặc một số biến thể của các nghi thức đó), thì không có giá trị tâm linh nào cả. Tác dụng thật sự của những nghi thức đó là lấy ánh sáng của các tham dự viên, đưa nó qua trung gian những người làm chủ lễ để nuôi béo những con quỷ hay tà thể đứng đằng sau.

Lực tình dục, hay ánh sáng Kundalini theo tên gọi tại phương Đông, là một dạng năng lượng vô cùng mạnh mẽ. Vì vậy các tà lực đã nghĩ ra nhiều phương cách để khiến cho con người dùng sai năng lượng này rồi trao ánh sáng cho tà lực. Một trong những cách thức trắng trợn nhất là kỹ nghệ quảng cáo và giải trí thời nay. Có nhiều hình thức tự xưng là giải trí nhưng chỉ là những loại nghi thức tình dục trá hình không hơn không kém, nhằm đánh cắp lực sống của những ai ham mê chuyện này mà hoàn toàn không biết mình đang bị cưỡng hiếp tâm linh.

Kim Michaels: Một truyền thuyết nữa về Chén Thánh đã sống sót suốt bao nhiêu thế kỷ nói rằng Chén Thánh chính là cái ly mà thày đã dùng trong bữa tối cuối cùng. Người ta cho là cái ly này có quyền năng kỳ diệu đem lại sự sống vĩnh hằng cho bất cứ ai uống vào. Truyền thuyết có gì là thật hay không?

Giê-su: Huyền thọai này cũng khởi đầu trong mấy thế kỷ tiếp theo sau việc ta bị hành quyết, và những người loan truyền nó cũng tin là nó có phần sự thật trong đó. Một lần nữa, đây là kết quả của một trí tưởng tượng quá năng động, không hoàn toàn hiểu được những bí ẩn của Ki-tô, cho nên đã cố tạo ra một hình dạng cụ thể cho những bí ẩn này qua cái Chén của Ki-tô.

Quả thật là ta có dùng một cái ly vào buổi ăn tối cuối cùng. Cái lý đó, mẹ yêu dấu của ta đã mang đến Glastonbury tại Anh quốc và cất giấu ở đó. Bây giờ xin con đừng hỏi là nó được cất giấu ở đâu và làm thế nào mà tìm lại được, bởi vì sự thật là nó không tồn tại nữa.

Tuy nhiên, cái ly đó không có quyền năng phép lạ như người ta gán cho nó. Con chi cần dùng chút lôgíc thì đã có thể phát hiện ra sự thật. Tất cả các môn đệ của ta đã uống từ ly đó trong bữa tối cuối cùng. Vậy tại sao người ta lại nghĩ rằng, nếu “Chén Thánh” đó đã không đem lại sự sống vĩnh hằng cho môn đệ của ta – là những người đã uống từ ly đó tận tay ta – thì làm sao nó có thể đạt được quyền năng kỳ diệu bao nhiêu lâu sau?

Kim Michaels: Vậy nếu Chén Thánh không phải là Mary Magdalene, không phải là nữ tính thiêng liêng, cũng không phải là cái chén cụ thể nào cả, thì đó là cái gì? Có sự thật nào đằng sau truyền thuyết Chén Thánh hay không? Bởi vì nói thật, những truyền thuyết này đã sống rất dai dẳng khiến nhiều người bị ám ảnh phải đi tìm Chén Thánh. Liệu tất cả những người đó chỉ chạy theo bóng ảo ảnh, hay là có một thực tại ẩn giấu mà người ta chưa hiểu ra?

Giê-su: Trong ý tưởng Chén Thánh có một thực tại, một thực tại đã được giữ kín khỏi mắt quần chúng từ nhiều thế kỷ, vì chúng tôi các chân sư thăng thiên thấy rằng con người chưa sẵn sàng nắm bắt được chân lý đó – như được chứng tỏ qua sự kiện biết bao người đã đi theo giáo điều vỏ ngoài của đạo Cơ đốc chính thống thay vì nhìn vào ý nghĩa tâm linh nội tâm của Cơ đốc giáo. Vì vậy chúng tôi đã vui lòng để cho người ta tìm kiếm Chén Thánh như một đồ vật bằng vật chất, một cái Chén của Ki-tô.

Như ta đã giải thích trên trang mạng của ta, và đặc biệt trong bài giảng về các chu kỳ tâm linh, nhân loại ngày nay đã vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Cho nên đã đến lúc tiết lộ bí mật thực sự của Chén Thánh, và ta vui lòng làm điều đó ở ngay đây. Con có nhớ chăng là trong sách The Da Vinci Code có nói đến sự kiện là con không tìm thấy Chén Thánh mà Chén Thánh tìm thấy con?

Kim Michaels: Con nghĩ đó là một câu nói vô cùng thâm sâu. Con cũng giật mình là câu đó nghe khá giống một câu rất quen thuộc là, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện.

Giê-su: À ngay đó con có bí mật của Chén Thánh. Kỳ thực, Chén Thánh là cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Cho nên Chén Thánh là yếu tố cho phép một người, một đứa con của loài người, nâng cao tâm thức mình lên đến mức tâm thức của Ki-tô và trở thành một đứa con của Thượng đế.

Về mặt cá nhân, Chén Thánh chính là cái ta Ki-tô của con. Chỉ qua cái ta Ki-tô con mới có thể thị hiện tâm thức Ki-tô, và chỉ qua tâm thức Ki-tô con mới có thể đạt được sự sống vĩnh hằng bằng cách trở thành một sinh thể thăng thiên.

Chén Thánh cũng có thể là một vị thày tâm linh. Một vị thày như thế có thể là một sinh thể thăng thiên, hay một người đang đầu thai tạm thời phụng sự như một vị thày thế chân cho cái ta Ki-tô cho đến khi đệ tử sẵn sàng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là nhận ra vị thày vỏ ngoài đó không bao giờ được trở thành một thần tượng thay thế vị thày nội tâm là cái ta Ki-tô.

Nếu con cho phép một vị thày vỏ ngoài hay, như nhiều người đã làm, một đồ vật, một hoc thuyết hay một giáo hội vỏ ngoài thay thế vị thày nội tâm, thì con đã đi theo “con đường có vẻ đúng cho con người nhưng thực sự là con đường của sự chết.” Và cái đó trở thành con đường vỏ ngoài mà ta đã mô tả rất tường tận trong các bài giảng của ta.

Con có thể nhận thấy là ta đã giảng day cho số đông quần chúng qua những chuyện ngụ ngôn, và lý do là vì họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý nội tâm của ta. Đó chính là những người đã bị cuốn hút vào ý tưởng Chén Thánh là một cái chén, một đồ vật vật lý. Và họ nghĩ, ước gì mình tìm được chén đó thì chỉ cần uống vào là sẽ tự động có sự sống vĩnh hằng và không phải mất công tu tập công phu trên con đường khai ngộ tâm linh. Đó thực sự là giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động, bảo đảm – giấc mơ viển vông vĩ đại nhất trên hành tinh này.

Cho dù một số người tìm cách đoạt thiên đường bằng vũ lực, thật là không có con đường tắt. Con sẽ không bao giờ nhập được thiên đàng mà không đi theo con đường nội tâm dẫn đến tâm thức Ki-tô. Nếu con không mặc vào bộ áo cưới, con sẽ không thể ngồi vào bữa tiệc cưới, và con sẽ thấy mình trong bóng tối bên ngoài, chân tay bị trói chặt lại bởi những vết thương tâm lý và tin tưởng sai lầm của con.

Ngay cả quan niệm cho rằng Chén Thánh là một người nữ, và một người nam có thể đạt được kết hợp với Thượng đế qua sự kết hợp tình dục với một người nữ, cũng là giấc mơ cứu rỗi tự động. Tuy nhiên, có một chút sự thật ở đây, theo nghĩa là khi một người đạt được sự cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống, người đó – dù là nam hay nữ – cũng sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy tâm thức Ki-tô, và điều này sẽ dẫn đến hợp nhất với Thượng đế. Giấc mộng rằng sự hợp nhất với Thượng đế có thể được sản xuất một cách tự động và đảm bảo qua kết hợp tình dục, là lời gian dối đằng sau cách thực hành tình dục Tantra đã đặc biệt phổ biến tại phương Đông. Con hãy lưu ý là ta không hề nói triết lý đánh thức Kundalini là sai trái, hoặc điều này không thể thực hiện qua tình dục, mà ta nói rằng đó không phải là một kết quả tự động của kết hợp tình dục.

Trên hành tinh này luôn luôn đã có những kẻ muốn chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực, muốn sản xuất sự giác ngộ tâm linh mà không chịu làm công việc chữa lành tâm lý của mình cũng như thanh lọc tâm trí lẫn con tim. Đây là những người không sẵn sàng nhận sự thật về Chén Thánh. Đây là những người đã đeo đuổi từ hàng bao thế kỷ một đồ vật vỏ ngoài hay một bí mật huyền bí nào đó sẽ tự động cho họ sự sống vĩnh hằng. Bí mật của sự sống vĩnh hằng là kết hợp với cái ta Ki-tô của con, nhưng sự kết hợp này sẽ không bao giờ là kết quả tự động của những hành vi vỏ ngoài. Kết hợp đó là sự kết hợp thần bí nội tâm mà biết bao triết lý tâm linh chân thực khắp thế giới đã nói tới.

Khi ta ở một mình với các môn đệ, ta thường giảng dạy nhiều điều, kể cả sự kiện mỗi con người đều có một cái ta Ki-tô và đều có khả năng hợp nhất với cái ta Ki-tô đó. Thế nhưng ngay cả các môn đệ của ta cũng không thể nắm được hoàn toàn chân lý đằng sau lời dạy này. Đó là tại sao ta đã ban cho họ một nghi lễ vỏ ngoài gọi là nghi lễ Bẻ bánh của sự Sống để họ tưởng nhớ đến ta. Ý nghĩa nội tâm chân chính của nghi lễ này là Bánh của sự Sống chính là tâm thức Ki-tô toàn vũ đã được bẻ ra cho mỗi người dưới dạng cái ta Ki-tô cá nhân nơi mỗi người.

Khi đó, cái ta Ki-tô cá nhân trở thành cái chén chứa đựng huyết – huyết là biều tượng cho dòng tâm thức của tâm Ki-tô toàn vũ. Khi dòng sống của con hợp nhất với cái ta Ki-tô, con nâng chén lên – là cái chén của toàn bộ tâm trí và toàn bộ dòng sống – và như vậy, dòng tâm thức Ki-tô toàn vũ sẽ bắt đầu tuôn chảy xuyên qua con. Mọi ý tưởng, cảm xúc và hành động của con giờ đây được xây dựng trên tảng đá của Ki-tô, tức tâm thức Ki-tô, thay vì trên bãi sa lầy của tâm thức phàm phu.

Do đó chúng ta có thể nói là khi con thật sự tìm ra Chén Thánh trong kết hợp thần bí với cái ta Ki-tô, con cũng đã trở thành chính Chén Thánh vậy. Con trở thành cái chén của Ki-tô mà qua đó tâm thức Ki-tô toàn vũ có thể giảng dạy và trao ánh sáng cho người khác. Và chúng ta cũng có thể nói, con không thể tìm thấy Chén Thánh, mà con có thể trở thành Chén Thánh. Con trở thành cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu như ta đã từng là như vậy khi ta còn hiện thân.

Đó là bí mật đích thực của Chén Thánh mà người ta đã đi tìm suốt 2000 năm qua. Nếu họ để ý đến một trong những lời dạy quan trọng nhất của ta, thì họ đã không đi tìm bên ngoài chính họ. Lời dạy đó là, Nước Trời ở ngay trong con. Nó chứng tỏ cho con thấy Chén Thánh phải tìm kiếm bên trong con, bên trong tâm con, bên trong tâm thức của con.

Ta cũng xin nói là truyền thuyết Chén Thánh cũng đã thật có ích lợi ở chỗ nó đã giúp cho nhiều dòng sống giữ được tập trung vỏ ngoài vào một niềm khao khát bên trong đích thực hầu đạt tâm thức Ki-tô. Cho nên ta không bảo là có gì sai trái khi người ta ao ước Chén Thánh. Vấn đề xảy ra là nhiều người đã chú mục vào một đồ vật bên ngoài thay vì tìm kiếm một cách hiểu thâm sâu hơn.   

Ta cũng biết nhiều người sẽ thấy lời giải thích của ta không được lãng mạn và màu mè bằng truyền thuyết. Nhưng nếu họ chuyển dời tâm thức khỏi trọng tâm vào thế giới vật chất để tập trung vào thế giới nội tâm, thì họ sẽ khám phá ra cuộc hành trình nội tâm cùng với Ki-tô sẽ lãng mạn, hứng thú và thỏa nguyện hơn gấp bội việc đeo đuổi một cái chén.

Ta chính là Chén Thánh.
Hãy bước vào trong tim và tìm ta.
Nếu con tìm ta với tim tinh khiết và tâm cởi mở, con sẽ tìm thấy ta.
Khi đó, chắc chắn ta sẽ cho con sự sống vĩnh hằng.

Biết là lời kêu gọi của các con SẼ có kết quả

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/3/2012.

Ta là Ki-tô Hằng Sống.

Các con yêu dấu, tại sao mình cứ nói về Ki-tô Hằng Sống? Đó là vì, khi họ sát hại xác thân ta 2,000 năm trước đây, họ tưởng là họ đã giết ta. Từ ngày đó, họ đã tìm cách giết giáo lý và gương sống của ta để không ai dám làm theo những lời ta dạy, tức là những ai tin ta thì hãy tiếp tục làm công việc mà ta đã làm và có thể làm những công việc quan trọng hơn nữa, vì ta đã về với cha ta. Và như vậy, ta đã dọn đường cho những người khác theo ta và thể hiện tâm Ki-tô trên trái đất, đứng lên triệt để chống lại các lực phản Ki-tô, phản ý chí, phản chiến thắng, phản tình thương, phản minh triết.

Các con yêu dấu, khi các con đọc một bài nguyện, bài thỉnh hay bài chú cho bất cứ nơi nào hay điều kiện nào trên thế giới, các con có thể tự hỏi: “Ta ngồi nơi đây một mình, đọc một bài nguyện, thì có kết quả gì? Ngay cả nếu ta gia nhập một nhóm và cùng đọc một bài nguyện, thì có kết quả gì?” Các con yêu dấu, kết quả tùy thuộc vào cách con kêu gọi – thái độ con ra sao, con quả quyết ra sao, con hiểu biết trong nội tâm vững chắc ra sao khi con kêu gọi.

Vì, các con yêu dấu, các thày đã nói nhiều lần là tất cả mọi chuyện trong cõi vật lý đều xoay quanh quyền tự quyết của con người. Các con yêu dấu, điểm cốt yếu của quyền tự quyết là gì? Phải chăng chính là việc con lấy quyết định? Do đó, các con yêu dấu, nếu các con chỉ ngồi xuống và đọc một bài nguyện mà không lấy quyết định tại sao mình làm như vậy và mình là ai, thì kết quả sẽ không khả quan lắm. Nhưng quyết định của con càng vững chắc bao nhiêu thì uy lực của bài nguyện sẽ càng lớn bấy nhiêu, và bài nguyện, viễn quan của con, tâm của con sẽ càng có ảnh hưởng lớn trên tâm thức đại chúng.

Khó khăn lớn nhất trên con đường tâm linh

Các con yêu dấu, khó khăn lớn nhất của người đang đi trên con đường tâm linh là gì? Các con yêu dấu, đó chính là các con phải khắc phục được sức kéo xuống của tâm thức đại chúng đang tìm cách khiến con làm những gì mọi người khác đều làm – tức là theo chuẩn mực, làm những gì người khác đang làm, làm những gì được coi là bình thường. Giống như những gì người ta đã làm với ta 2,000 năm trước đây, tức là ngăn chặn không cho ta đi quá xa sự bình thường, không cho ta nổi bật khỏi đám đông, không cho ta đứng lên tỏ thái độ triệt để rốt cuộc đã dẫn ta đến bị đóng đinh trên thập tự.

Do đó, các con yêu dấu, lúc nào cũng có một lực đang tìm cách kéo con xuống, kéo con vào tâm thức đại chúng, làm những gì mà mọi người khác đều làm. Nhưng, các con yêu dấu, nếu các con nhìn lịch sử thế giới thì sẽ thấy lúc nào cũng có hai lực đang vận hành. Một bên là lực kéo xuống của tâm thức đại chúng kéo mọi người làm theo những gì mọi người khác đều làm. Nhưng nếu mọi người tiếp tục làm như vậy, thì nền văn minh con người sẽ theo một vòng xoáy đi xuống dẫn đến sự hủy diệt của nó, theo quy luật thứ nhì của nhiệt động học.

Do đó, các con yêu dấu, cái gì đã khiến nhân loại tiến bộ? Các con yêu dấu, chỉ có một điều thôi, đó là đã có những cá nhân dám KHÔNG theo tâm thức đại chúng, dám chống lại sức hút kéo xuống, hấp lực của tâm thức đại chúng và qua đó nêu một gương sáng, đưa ra một ý mới, làm một hành động nào đó giúp nền văn minh con người tiến lên một bước, và rốt cuộc khiến tâm thức đại chúng chuyển vọt, khiến mọi người bắt đầu nhận ra họ có thể hơn những gì họ nghĩ họ có thể là vài năm hay vài chục năm trước đó.

Các con yêu dấu, khi mọi người ở Châu Âu tin rằng quả đất phẳng thì niềm tin này có nhiều hậu quả tinh vi và sâu đậm trên cách con người suy nghĩ, cách con người nghĩ họ có thể làm được gì trên trái đất này. Khi tâm thức đại chúng chuyển vọt và con người bắt đầu nhận ra rằng quả đất tròn và là một phần của một vũ trụ rộng lớn hơn rất nhiều, thì điều này đã khai mở giai đoạn tăng trưởng mà các con đã thấy trong thời Phục Hưng và sau đó trong thời Cách mạng Công nghiệp, và cuộc cách mạng về khoa học và hiểu biết đã mang xã hội loài người tới mức hiện nay.

Tuy nhiên, như các thày đã nói trước đây, tiến trình phát triển này chính nó cũng đã trở thành một vòng tròn khép kín, và hiện nay đang là nguy cơ kéo xã hội loài người vào một vòng xoáy đi xuống – nếu các người tâm linh đang đầu thai với chính mục đích này không chịu đứng lên nói lên khía cạnh tâm linh của sự sống. Hành động này sẽ khiến tâm thức đại chúng chuyển dời khỏi quan niệm duy vật để nhận ra rằng sự sống có một khía cạnh tâm linh, và nếu thiếu phần tâm linh này thì cuộc đời chúng ta sẽ không trọn vẹn, bất kể tài sản vật chất mà ta có được.

Như vậy, các con yêu dấu, như đã nói trước đây, khi con đọc một bài nguyện, con cần đọc với tâm thức chiến thắng, tức là con biết một người hay một nhóm nhỏ CÓ KHẢ NĂNG khiến tâm thức đại chúng chuyển vọt, và qua đó trị liệu được tâm thức đại chúng. Và con đọc bài nguyện với thái độ TA LÀM ĐƯỢC và TA SẼ LÀM vì TA LÀ! Đó là lúc con – như một người tâm linh – nhận ra mình đang tiến bước trên con đường giúp con dần dần nới rộng, nâng cao và hoàn chỉnh ý niệm TA LÀ ai.

Đọc bài nguyện với tâm an lạc

Các con yêu dấu, qua các bài giảng tuyệt vời trong các quyển sách của Mẹ Mary (Một Khóa học về Trù phú) các con biết về bốn thể phàm của con người. Con biết rằng khi con đọc một bài nguyện, con đọc qua thể vật lý trong cõi vật lý, và do đó nó có ảnh hưởng trong cõi vật lý vì nó đi vào cõi vật lý. Nhưng con không chỉ đọc bài nguyện với miệng con mà thôi. Con cần sự tham gia của ba thể cao – cảm thể, trí thể và bản sắc thể.

Do đó, nơi cảm thể, con cần có an lạc để không nghi ngờ là bài nguyện sẽ có kết quả hay không. Con hoàn toàn an lạc vì con biết con không phải là người đang hành động – chính là Thượng đế đang hành động xuyên qua con. Như ta đã nói, có chuyện đối với con người không thể làm được, nhưng với Thượng đế mọi chuyện đều làm được. Như vậy, khi con biết là con đang làm công việc của Thượng đế khi con đọc bài nguyện trong cõi vật lý, thì uy lực của Thượng đế sẽ vận hành qua bài nguyện, và do đó con không còn nghi ngờ gì nữa, tâm con an lạc và cảm thể của con an tịnh.

Làm sao con đạt được an lạc trong cảm thể của con? Con chỉ đạt được điều này khi con đạt được an lạc trong trí thể của con, vì trí thể cao hơn cảm thể. Do đó, các con yêu dấu, con cần hiểu bằng lý trí rằng có uy lực cao hơn những uy lực mà con thấy được trong thế giới vật lý. Vì con là người tâm linh, con biết rằng thế giới vật chất chỉ là một hình tướng – nó không phải là thực tại tối hậu vì nó chỉ là hậu quả của nguyên nhân sâu xa hơn trong các cõi cao là cõi cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Do đó, con có thể biết và hiểu bằng trí năng rằng uy lực của Thượng đế sẽ mạnh hơn khi nó chảy xuống cõi vật lý qua trung gian những người đang sống trong cõi vật lý. Đó là cách con làm được công việc mà ta đã làm – khi con biết con là một với ta và ta đang ngồi bên tay phải của Thượng đế – và qua đó con mở trói uy lực từ cõi cao để nó chảy xuyên qua con xuống cõi dưới để chúng ta làm một – trên sao dưới vậy.

Và khi con biết điều này bằng trí năng thì trí năng của con sẽ cai quản được cảm xúc. Vậy làm sao con biết được, bằng trí năng, là con có thể là một với ta? Con chỉ làm được điều này khi con đi vào thể bản sắc của con, và chuyển đổi ý niệm bản sắc mà con có từ khi lớn lên – rằng mình chỉ là một con người phải làm theo đám dông, và mình chỉ có khả năng và quyền năng hạn hẹp trong thế giới vật lý này. Các con yêu dấu, các con biết là mình hơn thế, và các con đã biết điều này suốt đời rồi, nhưng nhiều người trong chúng con chưa chuyển vọt sang cái biết nội tâm tuyệt đối và cả quyết là mình là một sinh thể tâm linh. Con là một đại diện của Ki-tô Hằng Sống. Con chính là Ki-tô Hằng Sống đang hiện thân. Con là Ki-tô Hằng Sống dưới trần như TA LÀ Ki-tô Hằng Sống ở trên.

Một khi con đã cả quyết như vậy, và nhiều người trong số các con đã gần tới điểm này, thì con sẽ biết trong bản sắc thể của mình là con không phải là một người thường đang ngồi đây đọc bài nguyện. Không phải vậy đâu, con đang ngồi đây như Ki-tô Hằng Sống đang hiện thân và đọc bài nguyện. Và do đó, uy lực tràn ra từ các lời sẽ lớn hơn những gì một người thường hay một nhóm người thường có thể đạt được.

Các con yêu dấu, con có thể qui tụ một triệu người đang ở mức tâm thức đại chúng và khiến họ đọc một bài nguyện. Điều này quả thật sẽ có kết quả, nhưng kết quả này không lớn bằng lời nguyện của một nhóm nhỏ biết và chấp nhận họ là Ki-tô Hằng Sống đang hiện thân. Các con yêu dấu, đây là điều mà các thày mong muốn các con đạt được – các con là một thiểu số nhỏ và chắc các con có lúc tự hỏi làm sao mình có được một ảnh hưởng tích cực trên đám đông.

Nhận ra cái duy nhất tiềm tàng trong mọi sự sống

Các con yêu dấu, các con chỉ có được ảnh hưởng tích cực trên đám đông khi nhận ra rằng bên dưới mọi hình tướng bề ngoài trong thế gian là cái duy nhất tiềm tàng trong mọi sự sống. Khi con biết con là Ki-tô Hằng Sống, con biết con là một với ta ở Trên. Nhưng khi con là một với ta, con cũng là một với cội nguồn của mình, là một với đấng Sáng tạo của mình. Mọi sự sống đều phát sinh từ tâm thức của đấng Sáng tạo, từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Do đó, các con biết là tất cả sự sống là một, và khi con nhận ra cái duy nhất này thì con nhận ra rằng một người có thể ảnh hưởng đám đông vì đám đông chỉ là biểu hiện của cái duy nhất.

Và do đó, quả thực là một người có khả năng – qua việc đứng lên nói lên một sự thực nào đó – đóng một vai trò quyết định trong việc chuyển dời tâm thức của cả xã hội, cả một quốc gia, và ngay cả toàn hành tinh, sang một mức nhận biết mới. Bởi vì mọi người đã thấy nơi người đó một trạng thái nhận biết cao hơn, một dấn thân cao hơn cho sự thật, và đây là một thí dụ quá dũng mãnh khiến họ không thể bỏ qua được. Rồi nó sẽ đột phá và tâm thức đại chúng sẽ chuyển vọt lên một mức. 

Các con yêu dấu, đây chính là cách tiến bộ đã xảy ra ở cấp hành tinh – qua một người, hay một nhóm người, đứng lên nói lên một sự thật cao hơn, và khiến tâm thức đại chúng chuyển dời một chút. Và sau đó, một người khác hoặc một nhóm khác dựa trên kết quả này và đứng lên nói lên một hiểu biết cao hơn nữa, hay một hiểu biết tương tự áp dụng vào một lãnh vực khác của xã hội. Và một lần nữa, tâm thức đại chúng lại chuyển dời thêm chút nữa.

Các con yêu dấu, các con nhìn vào trái đất, xã hội, hay một lục địa và tự hỏi: “Khi ta nhìn vào thực trạng thế giới vật lý, làm sao ta có thể thay đổi các chuyện như nạn nghèo đói, xáo trộn chính trị, tham nhũng, và biết bao vấn đề hiện hành khác nữa?” Nhưng ta nói các con, giống như tất cả mọi thay đổi đã xảy ra trên hành tinh này, điểm khởi đầu bắt buộc là tâm thức, và điểm khởi đầu phải là tâm thức của những người có trình độ tâm linh trưởng thành nhất, có thể là những người giống như các con, nhưng cũng có thể là nhiều người khác tuy bề ngoài không có vẻ tâm linh nhưng lại đạt được một trình độ nội tâm cao khiến họ có thể là công cụ chuyển đổi xã hội.

Do dó, các con không nhất thiết phải nghĩ là mình phải đi ra ngoài và gia nhập một đảng phái chính trị, vì có thể đang có những người sẵn sàng làm chuyện này nhưng họ cần một sự thúc đẩy tâm linh giúp họ quyết định đứng lên nói lên sự thật. Nhưng mặt khác thì các con cũng không nên tự giới hạn mình, và nếu các con cảm thấy tiếng gọi từ nội tâm thúc đẩy mình tham gia vào bất cứ chuyện gì xảy ra trong xã hội, thì các con nên nghe theo. Nhưng điều ta muốn nói là: điều quan trọng là giữ niệm tinh khôi là những người thích hợp sẽ đứng lên đúng lúc để chuyển dời tâm thức đại chúng lên một mức độ cao hơn, và qua đó đem tiến bộ đến xã hội.

Giữ một viễn quan

Các con nên giữ một viễn quan trong đời sống thường nhật của mình và cố gắng – trong tâm mình – nâng ý niệm bản sắc của mình tới mức nhìn ra mình là đại diện của Ki-tô Hằng Sống trong quốc gia mình. Con giữ viễn quan là con đang nâng cao tâm thức đại chúng – là Thượng đế đang qua con nâng cao tâm thức đại chúng, là Giê-su đang qua con nâng cao tâm thức đại chúng. Vì, các con yêu dấu, có phải là ta đã nói: “Nếu ta được nâng lên, ta sẽ kéo mọi người theo ta”? Vì sao ta lại có thể nói vậy? Đó là vì ta biết sự sống là một, có nghĩa là mọi người dính liền với nhau trong tâm thức, là tâm thức đại chúng.

Và ta cũng biết là tâm thức đại chúng kéo mỗi cá nhân xuống, nhưng khi một người vượt qua được sức hút kéo xuống đó, thì người đó lại kéo cả tâm thức đại chúng lên. Và đây là một lực mà không có lực nào trong cõi vật lý có thể cưỡng lại, dù chúng trông rất dũng mãnh dựa trên uy quyền thế gian của chúng. Các con yêu dấu, một người có tâm Ki-tô có thể và sẽ chuyển đổi cả tâm thức đại chúng, nhưng 10 ngàn người có tâm Ki-tô đang đầu thai thì làm được nhiều hơn vô vàn – và đây là viễn quan mà các thày giữ trong tâm. Đây là viễn quan mà các thày yêu cầu con giữ trong tâm mình – viễn quan các người có tâm Ki-tô trong mọi lãnh vực xã hội, trong mọi quốc gia trên khắp các lục địa, thức tỉnh và đứng lên để nhận ra tại sao mình có mặt nơi đây và quyết định thể hiện định mệnh này.

Hoà điệu với Ki-tô bên trong, một kỹ thuật thực dụng

Chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng nguyên thủy bằng Anh ngữ ngày 22/1/2012.

Ta hiểu hoàn toàn là trang mạng này không thể trả lời các câu hỏi riêng tư của các con. Nhưng ta sẽ không để các con trong tình trạng khốn khó. Các con có khả năng hiệp thông trực tiếp với ta. Việc thiết lập sự hiệp thông này sẽ mất chút thời gian và nỗ lực. Tuy nhiên nếu con áp dụng bài tập sau đây, tiến trình này sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Bài tập sau đây là một kỹ thuật hình dung được thảo ra để giúp con nhận được câu trả lời cá nhân cho bất cứ thắc mắc nào của con. Trước khi con thực hành bài tập, ta khuyến cáo mạnh mẽ là con nên dùng một phương tiện thích hợp để tự niêm phong khỏi các năng lượng của tâm thức tập thể (một kỹ thuật như vậy được mô tả trên Trang chỉ dẫn Bảo vệ Tâm linh).

Con cần hiểu là trên thế gian có rất nhiều thế lực muốn ngăn cản con nhận được câu trả lời chân chính. Nếu các thế lực đó không thể cản con tìm cách hiệp thông với ta, thì chúng sẽ cố đưa ra cho con những giải đáp và tư tưởng giả trá. 

Con cũng cần nhận rõ là ngay trong tâm con (kẻ thù bên trong hay tâm xác thịt) cũng có những lực lượng sẽ cố cản trở sự hiệp thông này. Những thế lực này sẽ tìm cách cho con những trả lời mà chúng muốn con có. Khuynh hướng chung của con người là chỉ nghe thấy những gì mình muốn nghe. Con phải tỉnh giác về khuynh hướng này hầu con có thể từ từ xây dựng khả năng phân biện sẽ giúp con nhìn thấu những lời giải đáp bất toàn và nhận biết những câu trả lời đến thẳng từ ta.

Một kỹ thuật thực dụng

Bài tập này sẽ giúp con rất nhiều trong việc xây dựng khả năng phân biện và hiệp thông.

1. Vào trong một căn phòng yên tĩnh nơi con không bị quấy rầy một thời gian (ít nhất 10-15 phút). Ngồi trên một chiếc ghế thoải mái hầu con không cảm thấy phiền toái trong cơ thể.

2. Dành ra 5-10 phút để tự niêm phong khỏi các năng lượng bất toàn (sử dụng các kỹ thuật được mô tả trong trang Bảo vệ Tâm linh).

3. Hình dung ra các thiên thần của Đại thiên thần Michael đang bao quanh trường năng lượng cá nhân của con. Có 4 thiên thần, mỗi phía có một thiên thần. Các thiên thần này cao 3,6 mét, cầm thanh kiếm rực cháy với ngọn lửa màu xanh chói sáng. Các thiên thần đó dõng mãnh với khả năng bảo vệ con khỏi các thế lực thế gian.

4. Quay sự chú ý vào chân ngã nằm ngay trên đầu con. Âm thầm đọc lời xác định như sau:

“Nhân danh Giê-su Ki-tô, con cầu thỉnh một bức tường ánh sáng màu trắng rực rỡ chung quanh thân thể con, tâm con và trường năng lượng của con. Con chấp nhận cho năng lượng này niêm phong con khỏi những thứ của thế gian. Bây giờ con cầu thỉnh một ngọn lửa màu tím đốt cháy bên trong bức tường ánh sáng và tiêu hủy mọi năng lượng bất toàn trong chính con.”

Con hãy dành ra một chốc lát để cảm thấy con đã hoàn toàn niêm phong khỏi năng lượng của thế gian.

5. Khi con cảm thấy an bình, con hãy tập trung chú ý vào trung tâm lồng ngực ở độ cao của trái tim vật lý. Hình dung một ngọn lửa tâm linh bùng cháy trong lồng ngực. Ngọn lửa tâm linh này không cần nhiên liệu để cháy. Đó là ngọn lửa không mồi.

6. Chú tâm vào ngọn lửa này và cho phép sự chú ý đi vào bên trong ngọn lửa. Đằng sau ngọn lửa, con nhìn thấy một khung cửa. Đi vào khung cửa. Ngay sau khi đi qua khung cửa, con đi vào một đường hầm. Khi con tiến về phía trước, con nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm.

7. Con hãy đi tiếp tới cho đến khi con ra khỏi đường hầm và con bước vào ánh sáng.

8. Bây giờ con thấy con đã bước vào một khu vườn tuyệt đẹp. Khu vườn được bao quanh bởi những rào cây cao. Trong vườn có những bồn hoa và lối đi tuyệt đẹp. Ở trung tâm khu vườn là một đài phun nước rì rào êm ái. Khắp vườn có chim chóc ca hót vui vẻ.

9. Khi con bước vào khu vườn này, con cảm thấy mọi quan tâm về thế gian tan biến hết. Càng đi vào sâu hơn thì con càng cảm thấy nhẹ nhàng và an bình hơn.

10. Con chỉ đơn giản bước tới và để cho cảm giác an bình thư thái của vườn thấm hết mọi ưu phiền lo lắng. Khi con cảm thấy hứng khởi và yên tịnh, con hãy dành một chút thời giờ để nhìn chung quanh.

11. Nhìn chung quanh, con thấy hai chiếc ghế được khắc trong đá. Con cho phép con ngồi xuống một chiếc ghế và cảm thấy thoải mái. Sau đó con hãy chú tâm vào tim con và nhắm mắt lại. Con thư giãn và cảm thấy hoàn toàn an bình trong khu vườn xinh đẹp này. Thật ra, con có cảm giác đây là nhà của con.

12. Bây giờ con hãy tưởng tượng con mở mắt ra và nhìn vào chiếc ghế trước mặt. Ngạc nhiên thay, con nhận thấy có ai đang ngồi trên ghế đó. Con nhìn kỹ hơn và con nhận ra đó chính là ta, thày Giê-su của con, đang ngồi trước mặt con.

13. Con hãy cho phép con thoải mái trong sự hiện diện của ta.

14. Bây giờ con hãy tập trung chú ý vào trái tim của ta và cảm thấy tim ta đang tỏa ra một tình thương vô điều kiện cho con. Dành một chút thời gian để chấp nhận là ta yêu thương con vô điều kiện.

15. Sau đó con hãy để cho tình thương vô điều kiện của ta thấm vào con, và con cảm thấy nó tiêu hủy mọi điều bất toàn, không thực, như thế nào. Đây quả là tình thương toàn hảo tống khứ mọi sợ hãi và mọi cảm xúc bất toàn khác.

16. Trong khi con đang ngồi trước mặt ta và hoàn toàn đắm chìm trong tình thương của ta, hãy cho phép con nghĩ lại hoàn cảnh của mình trên địa cầu. Đừng để mình bị xáo trộn bởi bất cứ khía cạnh nào của hoàn cảnh đó, mà chỉ đơn giản đưa hoàn cảnh đó vào tầm nhận biết ý thức của mình trong giây lát. Sau đó, hãy nhìn ta một lần nữa, và trong tâm, con hãy hình thành một câu hỏi thầm lặng. Đừng hỏi ta con phải làm gì trong trong hoàn cảnh của con, vì con phải dùng quyền tự quyết của con để chọn việc phải làm. Hãy yêu cầu ta mở ra cho con một cách hiểu sâu sắc hơn về tình huống hầu con có thể biết được việc đúng đắn cần làm.

17. Sau khi con hình thành câu hỏi, hãy gửi đến cho ta.

18. Sau đó nhắm mắt lại và chú tâm vào tình thương của ta. Hãy cho phép con chìm đắm trong tình thương đó đến độ con quên hết mọi quan tâm trên thế giới.

19. Sau một thời gian chìm đắm trong tình thương của ta, sự chú ý của con sẽ tự nhiên quay trở lại câu hỏi. Con chỉ đơn giản chú tâm vào trái tim của ta và lắng nghe câu trả lời. Nếu con không nhận được câu trả lời tức thì, hãy đừng bị bận tâm. Con chỉ chú tâm vào tình thương vô điều kiện của ta và cho phép mình chìm đắm trong tình thương đó bao lâu cũng được.

20. Khi con cảm thấy đã thẩm thấu tất cả những gì có thể, khi con cảm thấy tim con như cái chén đã ngập đầy tình thương của ta đến độ tràn cả ra ngoài, con hãy hình dung con lặng lẽ rời khỏi khu vườn đẹp đẽ và bước trở về qua đường hầm.

21. Bây giờ con đang ngồi trên ghế trong phòng con. Con hãy dành ra một vài giây lát để trở về trạng thái tâm thức bình thường của con.

Lúc đầu, con có thể sẽ không nhận được câu trả lời ngay lập tức qua bài tập này. Có thể sẽ cần thời gian để câu trả lời đến được tâm ý thức của con. Con hãy tỉnh thức và cố dành ra một chút thời gian mỗi ngày để lắng nghe từ bên trong. Sau một thời gian, có khi vài giờ, vài ngày hay thậm chí vài tuần, câu trả lời sẽ đến với con.

Con hãy lập lại bài tập này thường xuyên nếu con muốn. Nếu con thực sự muốn trả lời về một tình huống cụ thể, con hãy lập lại bài tập mỗi ngày một lần cho tới khi con nhận đủ sự hướng dẫn nội tâm.

Ta thực sự khuyên con luôn luôn có một cuốn sổ và bút ngay bên cạnh khi con làm bài thực tập này. Sau bài tập hình dung, con hãy dành chút thì giờ để ghi lại những ý nghĩ hay cảm nhận đến với con. Nếu con làm điều này trong mỗi thực tập, con sẽ ngạc nhiên trước những sự hướng dẫn mà con nhận được.   

Mục đích của bài tập là để giúp con hòa điệu tâm thức của con với ta. Sau khi làm điều này một thời gian, có thể con sẽ cảm thấy mình có khả năng đạt được mức hòa điệu đó ngay cả trong những sinh hoạt thường nhật của mình. Nếu vậy thì rất tốt. Ta mong muốn con có sự hiệp thông với ta một cách liên tục và tự động.

Các chân sư có cảm thấy bất mãn không?

Hỏi: Chắc trong suốt 2000 năm qua, các chân sư thăng thiên đã nhìn thấy địa cầu bỏ qua hết cơ hội bằng vàng này tới cơ hội bằng vàng khác để thăng vượt lên những tầng cõi năng lượng cao hơn. Làm thế nào các thày có thể không mất kiên nhẫn với địa cầu, hay không căm ghét những tà lực đã không ngừng làm hỏng những cơ hội bằng vàng mà các thày đã sắp đặt cho chúng con? Con hiểu được là các thày quá tôn trọng quyền tự quyết để cho phép mình cảm thấy bất mãn, nhưng các thày có khi nào tự hỏi với lòng kinh ngạc bực bội là tại sao có những người có thể sống hết kiếp này tới kiếp khác mà không tăng triển?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 22/8/2011.

Câu hỏi của con thông cảm được, nhưng nó cũng dựa trên một cách phỏng đoán rất xa sự thật về bản chất của các chân sư.

Chúng tôi thấy rõ sự thật rằng mục đích của thế gian là để tạo điều kiện cho tất cả mọi sinh thể tự biết có thể tăng triển khả năng tự nhận biết của mình. Và cách thức mà Đấng Sáng tạo đã chọn để thực hiện điều này là ban quyền tự quyết cho các sinh thể tự nhận biết và cho phép họ thử nghiệm cho tới khi họ học được cách chọn lựa để làm sao nâng cao Tất Cả.

Cho nên khi chúng tôi nhìn vào địa cầu, chúng tôi không nhìn với tâm thức cho rằng có một cái chuẩn tối thượng để đánh giá sự sống trên địa cầu. Nói cách khác, chúng tôi không có tiêu chuẩn đúng-sai để mà kết luận rằng mọi chuyện hiện đang diễn ra sai trái.

Ngược lại là đằng khác. Điều gì sẽ giúp cho khả năng tự nhận biết tăng trưởng? Đó là khi các sinh thể phóng chiếu toàn bộ tâm thức của mình – những cái ngã của mình – lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật và trải nghiệm sự phản ánh dội ngược lại về mình. Họ sẽ tiếp tục làm như vậy cho đến khi họ chán ngấy kinh nghiệm đó và họ quyết định: “Tôi muốn là nhiều hơn cái ý thức bản ngã hiện thời của tôi.” 

Vậy hiện tại các điều kiện trên địa cầu ra sao? Các điều kiện này chỉ đơn giản là sự phóng hình của tình trạng tự nhận biết hiện thời của nhân loại. Do đó, các điều kiện hiện tại là cơ hội toàn hảo để mọi người thăng vượt ý thức bản ngã của mình. Điều này đã luôn luôn là như vậy và sẽ luôn luôn như thế.

Hiển nhiên, vai trò của chúng tôi là nắm giữ niệm tinh khôi cho mọi người, có nghĩa là chúng tôi mang bản mẫu cho tiềm năng cao nhất của nhân loại dựa trên mức độ hiện nay của tâm thức tập thể. Nhưng nắm giữ niệm tinh khôi có nghĩa là gì? Lả chúng tôi nắm giữ viễn quan mà không phán xét dưới bất kỳ hình thức nào.

Con có thấy được tầm quan trọng không? Cầm giữ niệm tinh khôi KHÔNG có nghĩa là mình có một cái chuẩn đã được định trước về cách con người phải sử dụng quyền tự quyết của họ như thế nào. Chuẩn LUÔN LUÔN được tạo ra từ tâm thức nhị nguyên, như chúng tôi có giải thích trong sách “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth). Chúng tôi không nhìn vào nhân loại rồi nói: “Ồ, điều này hoặc điều kia đáng lẽ đã phải xảy ra, cho nên thật là bực mình khi con người một lần nữa lại chọn con đường thấp kém.” Thay vào đó, chúng tôi chỉ nhìn cái gì đang là, và chúng tôi cầm giữ viễn quan về cách con người có thể bước đi bước kế tiếp. 

Có một sự hiểu lầm phổ biến nơi các học trò của chân sư là tâm thức Ki-tô có nghĩa là một cái chuẩn cao hơn mà theo đó chúng tôi sẽ phán xét mọi người. Kỳ thực, tâm thức Ki-tô có nghĩa là không có chuẩn gì hết – ít nhất không có chuẩn nào mà một người bị kẹt trong nhị nguyên có thể hiểu được.

Thế nào là ý nghĩa của sự hiện thân của ta cách đây 2000 năm? Đó là Ki-tô LUÔN LUÔN đứng ngay nơi con đang đứng. Thực sự có nghĩa là con không thể bao giờ đi xuống một tầng tâm thức nơi Ki-tô không có mặt. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo ra”, thực sự có nghĩa là ngay cả những điều kiện hay hình tướng có vẻ thấp kém nhất cũng mang sẵn hạt mầm tâm thức Ki-tô bên trong. Có nghĩa là bất kỳ điều kiện nào trong thế gian hình tướng cũng mang sẵn trong nó chìa khóa cho sự thăng vượt cái tầng tâm thức nơi hình tướng đã được tạo ra. Không thể khác được.

Ki-tô không đến với con người với một cái chuẩn cao siêu, đòi hỏi người ấy phải bước lên mấy bước một lượt. Ki-tô không nhìn con người và bảo: “Này, khi nào con xứng đáng hơn thì lúc đó ta sẽ giúp con thăng vượt tâm thức đó.” Không, Ki-tô đến với con người với một cái khung nền để con có quyền năng tự tiến lên một bước trên con đường cá nhân của con. Ki-tô LUÔN LUÔN sẵn sàng giúp bất cứ ai thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình và tiến gần hơn với sự hợp nhất. (Xin con lưu ý, một chân sư đặc thù có thể từ chối làm việc với học trò dưới một mức tâm thức nào đó, tuy nhiên tâm Ki-tô toàn vũ thì sẽ luôn tìm ra cách để làm việc với bất cứ ai, và điểm này được minh họa qua hình ảnh ta bước xuống địa ngục).

Khi một người đi một bước, chúng tôi xem đó là một chiến thắng. Khi một người không đi bước kế tiếp, chúng tôi biết là theo quy luật, người đó sẽ chỉ gia tăng áp lực buộc mình phải thăng vượt ý thức bản ngã hiện tại, và do đó dù không bước nhưng vẫn tiến gần hơn sự thăng tiến. Điều tương tự cũng xảy ra cho những nhóm người và nhân loại nói chung. Khi là một chân sư thăng thiên, chúng tôi học cách nhìn dài hạn và thấy rằng con đường thăng tiến thường có những khúc quanh co, nhưng cuối cùng thì vẫn dẫn đến mục tiêu nâng cao khả năng tự nhận biết. Nếu con không học được bài học này, con sẽ “rơi” trở xuống hiện thân và một lần nữa lại phải tham gia vào cuộc tranh đấu nhị nguyên để “ép buộc người khác làm điều lợi ích cho họ”. Con thấy đó, bất kỳ chọn lựa nào cũng có hậu quả. Và hậu quả càng khó chịu bao nhiêu, nó sẽ càng đưa con tới điểm nhanh bấy nhiêu, tức là điểm khi con sẵn sàng thăng vượt ý thức bản ngã hiện thời của con.

Một khi con buông bỏ lời gian dối cho rằng con phải phán xét cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ, con sẽ thoát khỏi cảm giác bất mãn mà trong suốt chiều dài lịch sử đã khiến bao người cho rằng mình phải cải sửa người khác bằng vũ lực. Và sự buông bỏ này sẽ thực sự đóng góp cho sự thăng tiến của hành tinh nhiều hơn bất cứ gì khác mà cá nhân con có thể làm.

Về vấn đề con đặt ra là liệu chúng tôi có thắc mắc người ta sống hết kiếp này tới kiếp khác mà không tăng trưởng, đôi khi chúng tôi cũng đặt ra câu hỏi đó để khiến cho mọi người suy nghĩ. Nhưng trong tâm chúng tôi, chúng tôi không thắc mắc, vì chúng tôi nhớ rõ trong khiêm nhu là chính chúng tôi cũng đã từng đầu thai và không phải lúc nào cũng đã lấy con đường thẳng nhất dẫn đến thăng thiên.  

Khi con từ bỏ nhu cầu đánh giá người khác, rất nhiều những câu hỏi như vậy tự dưng tan biến. Đó là một cảm giác tự do vô cùng. Và thật sự, con phải thử thì con mới biết như thế nào. Tất nhiên, nếu con quyết định tiếp tục trong cái ý thức bản ngã chỉ đem lại khổ não, ta sẽ tôn trọng chọn lựa của con. Và ta sẽ luôn đứng đó sẵn sàng để trao cho con một chọn lựa cao hơn bất cứ lúc nào con muốn.   

Con thấy đó, ta có thời gian về phía ta, bởi vì ta biết là thời gian không hề có. Thật ra, chính cái ý thức về chuẩn và những điều không đạt chuẩn đã nuôi mãi ảo tưởng của thời gian trong tâm mọi người trên địa cầu. Và điều này cũng giải thích tại sao có người lại sống hết kiếp này tới kiếp sau mà không tăng triển – đó là vì họ chỉ lo ép người khác phải tuân theo tiêu chuẩn của họ.  

Một nhà thờ cho người da đen có cần thiết không?

Hỏi: Kính chào thày Giê-su, con là một phụ nữ người Mỹ gốc Phi châu, lớn lên trong một giáo hội Baptist. Con không còn tự nhận mình là một tín đồ Cơ đốc nữa vì con nhận thấy giáo lý không đồng điệu với con người nội tâm của con. Một số câu hỏi của con đã không có câu trả lời và cuối cùng con đã phải đi tìm một giáo lý cao hơn.

Theo nhận xét của con, tín đồ trong các giáo hội của người da đen thường đặt các mục sư/chức sắc/giám mục của họ lên đài cao và tôn thờ họ như thể họ là Thượng đế. Khi họ thuyết pháp, nhiều lãnh đạo các giáo hội da đen lên án người đồng tính luyến ái, khiến cho những người này cảm thấy như mình nhơ nhuốc dưới mắt Thượng đế, không xứng đáng được Thượng đế thương yêu. Tiếc thay, nhiều tín đồ trong giáo hội lại mù quáng đi theo giáo lý hận thù như vậy, và chu kỳ phán xét cứ không ngừng tiếp diễn.  

Gần đây đã có những lời cáo buộc đối với một nhà truyền giáo da đen vô cùng quyền thế về việc ông đã có quan hệ bất chính với một số thanh niên. Trớ trêu thay, nhà truyền giáo này cũng là một người chống đối kịch liệt vấn đề đồng tính và hôn nhân đồng tính. Vậy câu hỏi của con là như sau: là con người, làm thế nào chúng con tìm được con đường trung hòa để đi theo tín ngưỡng của mình và không đặt trọn niềm tin vào con người? Người da đen phải làm gì để hiểu ra là việc hò hét từ trên bục giảng trong khi đeo trang sức bạch kim và kim cương và đi xe trị giá $100,000 đậu ngay giữa đường vào nhà thờ, hoàn toàn không chứng minh được mối liên kết trực tiếp, chân phước và hồng ân từ Đấng Sáng tạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2011.

Con hãy cho ta dùng câu hỏi này của con để đặt ra một câu hỏi rộng lớn hơn: Có cần nhà thờ Ki-tô giáo dành riêng cho người Mỹ gốc châu Phi hay không – có nhu cầu nào cho một nhà thờ của người da đen?

Nhưng đầu tiên, chúng ta hãy xem xét tại sao con người lại có khuynh hướng miệt thị người khác. Có một số mục sư trong các giáo hội cực chính thống (fundamentalist) – cả Mỹ gốc châu Phi lẫn da trắng – lên án đồng tính luyến ái trong khi chính bản thân họ lại có những vấn đề tình dục.

Tuy nhiên, nếu con nhìn xa hơn vấn đề đồng tính, con sẽ thấy là đằng sau đó có cả một cơ chế tâm lý phổ biến gọi là vật tế thần. Cơ chế này đặc trưng cho một loại tổ chức nhất định, không cứ là tổ chức tôn giáo. Một ví dụ điển hình trong lịch sử là chủ nghĩa Quốc xã, nhưng đã có rất nhiều loại tổ chức áp bức khác cũng đã phân biệt một nhóm người đặc thù nào đó, hay cả những cá nhân, hầu biến họ thành những con dê tế thần.

Tại sao họ lại biến người khác thành vật tế thần? Tại sao họ không nghe lời dạy của ta là KHÔNG được chú tâm vào cái giằm trong mắt người anh em? Phải, luôn luôn là vì họ không chịu nhìn vào cái xà trong mắt họ.

Họ sử dụng việc lên án người khác để không ai chú ý đến họ cùng những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý họ. Bởi vì trên căn bản, bất cứ điều gì mà con phóng chiếu lên người khác cũng phản ánh những vấn đề chưa giải quyết trong chính tâm lý của con.

Con thấy có sự thiếu tự tin trong tâm lý của những người đó. Nhưng hơn thế, con cũng thấy là họ không sẵn sàng làm công việc cải thiện bản thân để trau dồi lòng tự tin đích thực. Và sự thiếu sẵn sàng này được họ “bào chữa” bằng cách tạo ra một hình tư tưởng bảo rằng con người không thể tự cải thiện do đã bị đối xử tàn nhẫn, bị áp bức hay bị chà đạp. Những người như vậy có cái nhìn rất cứng nhắc về cuộc sống. Họ nghĩ là họ bị hạn chế trong một địa vị nhất định nhưng họ vẫn cho là họ sẽ được cứu rỗi, một phần là vì vật tế thần của họ có địa vị thấp hơn, và phần khác vì họ có những lãnh đạo “cao cả” đã hứa hẹn sẽ đưa họ lên thiên đàng.  

Trong bất kỳ tổ chức nào, người lãnh đạo cũng tương xứng với các thành viên, nghĩa là lãnh đạo luôn luôn là một tấm gương cực đoan của những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa nơi đa số các thành viên của tổ chức. Do đó trong một tổ chức nhà thờ, cách cư xử của mục sư là sự phản ánh của tâm lý chưa giải tỏa trong hội chúng.

Ta không muốn nói là nếu một nhà thờ lên án người đồng tính thì điều này cho thấy phần lớn tín đồ đều có khuynh hướng đồng tính. Nhưng nó cho thấy là đa số hội chúng có những tâm lý chưa được giải tỏa mà họ không chịu xem xét, và vì vậy họ mới sẵn sàng lên án người khác để cảm thấy mình không cần phải xem xét chính mình. Đây là “tư duy bị ức hiếp”, qua đó con cảm thấy sâu xa là con có một điều gì đó không ổn dưới mắt Thượng đế, nhưng nếu con có thể làm như có nhóm nào khác còn tệ hơn mình nữa thì con cảm thấy Thượng đế sẽ chấp nhận con vì con không đến nỗi tệ như nhóm dê tế thần kia.

Khi con xem xét kỹ hơn, con sẽ thấy đây là một tư duy vô cùng phi lôgíc. Đây là cách nhìn chỉ thấy khuyết điểm, tức là con biết con không đáp ứng tiêu chuẩn mà con nghĩ Thượng đế đang sử dụng, nhưng thay vì đặt trọng tâm vào việc tự cải sửa, con lại tìm cách kéo thấp người khác. Nếu con đưa quan điểm này đến sự cùng cực hợp lý của nó, con như đang bảo rằng: “Đồng ý, chúng tôi không đủ tốt để được cứu rỗi, nhưng Thượng đế phải cứu một ai đó chứ, cho nên nếu chúng tôi khiến cho kẻ khác có vẻ tồi tệ hơn mình thì ngài sẽ phải chọn chúng tôi thôi.”

Vấn đề là Thượng đế không bắt buộc phải cứu rỗi bất kỳ một ai. Ngài đã ban quyền tự quyết cho mọi người, cho nên chính những chọn lựa của mỗi người sẽ định đoạt người đó sẽ được cứu rỗi hay không.

Đằng sau tư duy bị ức hiếp là niềm tin cho rằng một người vào được Nước Trời hay không là do những gì người đó đã làm hay không làm. Nhưng rõ ràng ta đã dạy rằng Nước Trời ở ngay trong con. Và cái ở ngay trong con chính là trạng thái tâm thức của con, tức là con có vào được Nước Trời hay không là hoàn toàn do trạng thái tâm thức của con định đoạt. Vào được Nước Trời có nghĩa là con ở trong chính tâm thức LÀ Nước Trời.  

Trong vương quốc của Thượng đế, mọi sự sống là một – “Ta và Cha ta là một” – cho nên khi nào con còn nghĩ con phải phán xét người khác thì con không thể ở trong trạng thái tâm thức thấy được tính duy nhất của mọi sự sống. Bởi vì khi con thấy mọi sự sống là một, con chỉ có thể cố gắng nâng mọi sự sống đi lên mà thôi. Vì vậy, khi nào con còn phán xét hay cảm thấy nhu cầu bài bác hay thay đổi người khác, con sẽ không thể bước vào Nước Trời, như thày Portia vừa giải thích thật hùng hồn.

Nếu con hiểu giáo lý và sứ vụ nguyên thủy của ta, con sẽ thấy là đường tu mà ta từng giảng dạy và chứng tỏ – tức là Đạo, là con Đường – nhắm đặc biệt đến những ai sẵn lòng thăng vượt tư duy bị ức hiếp đó để hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về sự cứu rỗi của mình. Con cũng có thể thấy là vào thời đó, không có nhiều người đầu thai sẵn sàng đi theo con đường này. Cho nên nếu những lời dạy nguyên thủy của ta được bảo tồn thì đạo Ki-tô đã không bao giờ trở thành một tôn giáo lớn trên thế giới. Và thật vậy, ta không bao giờ có ý định lập ra một tôn giáo được dùng để giam con người trong tư duy bị ức hiếp.

Cho nên sự thật phũ phàng là như sau: Lý do đạo Ki-tô đã trở thành một tôn giáo toàn cầu là vì có một số kẻ trong tầng lớp thượng lưu quyền lực của Đế quốc La mã đã nẩy ý là họ có thể dùng một dạng tha hóa của giáo lý của ta để áp bức quần chúng tới mức cùng cực. Hình thức áp bức cùng cực là khi người dân hoàn toàn bị kiểm soát bởi một giai cấp thượng lưu quyền lực trên thế gian mà cứ tin chắc là nếu mình đi theo các lãnh đạo thế gian đó thì mình sẽ bảo đảm được bước vào vương quốc trên thiên đàng. Điều này đặc biệt hấp dẫn đối với những ai có tư duy bị ức hiếp, những người không chịu nhận trách nhiệm về bản thân mình mà cứ muốn làm người mù đi theo những người mù.

Trong thế giới ngày nay đã có nhiều dòng sống hơn sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình trên trái đất cũng như về sự cứu rỗi của mình. Con có thể tìm thấy những người như vậy trong mọi đoàn nhóm, nhưng tất nhiên là không đồng đều. Hay nói cách khác, một số nhóm có một tỷ lệ khá thấp những dòng sống đã trưởng thành tâm linh bởi vì nhóm chủ trương tán thành lối tư duy thịnh hành nói trên.

Con có thấy điều ta muốn nói chăng? Không hề có dòng sống nào gọi là dòng sống da đen, hay dòng sống da trắng, hay dòng sống gốc Tây ban nha, hay dòng sống da đỏ, hay dòng sống da vàng, hay dòng sống chấm xanh chấm đỏ gì hết. Thế nhưng trong mỗi đoàn nhóm đều có những dòng sống ở những mức độ trưởng thành khác nhau. Và nếu một nhóm có một bản sắc tập thể làm nhụt chí những ai muốn nhận lấy trách nhiệm bản thân – tức là nếu nhóm mang tư duy bị ức hiếp – thì nhóm đó sẽ thu hút những dòng sống thiếu trưởng thành, vì lý do giản dị là những người này sẽ tìm được đúng những gì họ mong muốn, tức là một cái cớ toàn hảo để không phải nhận lãnh trách nhiệm về chính mình.  

Nếu con nhìn người Mỹ gốc châu Phi một cách trung thực – cũng như nhiều nhóm người ngay tại Phi châu – con sẽ nhận thấy một xu hướng tư duy bị ức hiếp. Như một tập thể, người Mỹ gốc châu Phi đang củng cố, tăng cường cho ý niệm bản sắc coi mình là thành phần bị thiệt thòi, bị khinh miệt và ngược đãi. Và như với tất cả mọi thứ khác, một thái độ như vậy sẽ biến thành một vòng ốc xoáy hướng hạ, tự nó cứ nuôi cho lớn mạnh thêm hoài.

Điều điển hình với các thành viên của những nhóm như vậy là họ không muốn có sáng kiến, không muốn khởi xướng, không muốn nổi bật khỏi đám đông. Hậu quả là họ sẽ thần tượng hóa lãnh đạo của họ, đặt lãnh đạo lên trên bệ cao và tin rằng lãnh đạo sẽ không bao giờ lầm lẫn. Lý do là vì chỉ khi nào con đi theo một nhà lãnh đạo không thể sai lầm thì con mới có thể tin rằng lãnh đạo đó sẽ đưa con lên tận thiên đàng.

Làm thế nào phá vỡ được vòng ốc xoáy cứ tự bồi thêm sức mạnh như thế? Có hai cách. Một cách là nhóm đó thu hút những lãnh đạo yêu thích được thần tượng hóa, và thường khi họ cũng nghĩ mình là bất khả sai lầm. Loại lãnh đạo như vậy sẽ không tránh được trở thành tâm điểm cho toàn bộ tâm thức tập thể của nhóm, cho nên họ sẽ trải bày ra những tâm lý chưa giải tỏa của tập thể. Điều này có thể biểu hiện qua những chiếc xe hay đồ trang sức thật hào nhoáng, những hành vi phản ánh xu hướng đồng tính ẩn giấu, hay nó cũng có thể biểu hiện qua chuyện ngoại tình, cờ bạc, phim ảnh khiêu dâm, hoặc bất kỳ cách hành xử nào không phù hợp với những gì người lãnh đạo luôn rao giảng.       

Nói cách khác, bất kỳ hình tư tưởng nào mà nhóm đó đã tạo ra như là một điều kiện để lên được thiên đàng cũng sẽ bị lãnh đạo của họ phá vỡ tan tành qua cách hành xử của lãnh đạo, hầu ai nấy bắt đầu nhìn ra là việc tôn thờ một thần tượng không dẫn tới đâu, và chính họ mới cần nhận lấy trách nhiệm cho bản thân họ. Các thành viên trong nhóm có được cơ hội xem xét những phần tâm lý chưa giải tỏa trong bản thân họ.

Cách thứ nhì có thể giúp ích cho các thành viên là họ nhìn thấy một số gương sáng tích cực trong nhóm họ. Ngay bây giờ đây, người Mỹ châu Phi có một cơ hội độc đáo để vượt qua tư duy bị ức hiếp vì Tổng thống Hoa kỳ là một người da đen. Trong chính quyền trước, con cũng đã thấy Colin Powell, một tấm gương xuất sắc của một người Mỹ gốc châu Phi đã vượt lên trên tư duy bị ức hiếp. Và tất nhiên, còn có tấm gương của Oprah Winfrey cùng với nhiều người khác nữa.

Nếu con nhìn xem điều gì đã khiến cho những vị đó, cũng như nhiều người Mỹ gốc châu Phi khác, đóng góp vượt bực cho xã hội, con sẽ thấy một điểm vô cùng thâm sâu. Hoa kỳ là một xã hội với nhiều phe nhóm nhỏ lẻ và một mức độ hiềm khích chủng tộc cao hơn bất kỳ quốc gia dân chủ nào khác. Thế nhưng các hiềm khích đó thật sự chỉ nằm ở lớp vỏ ngoài của tâm thức. Nếu con bước vào sâu hơn, con sẽ thấy là Hoa kỳ đã được thành lập trên nền tảng một số nguyên lý phổ quát được hiện thân trong bản Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp.

Điều này có nghĩa là tại Hoa kỳ, mỗi cá nhân, bất kể xuất xứ của mình, đều có một cơ hội độc đáo để thành công – NẾU người đó có thể tự đặt mình cho đồng thuận với những nguyên lý phổ quát vừa kể. Nói cách khác, sự trung thực, sự liêm chính cá nhân, sự công bằng, sự tận tụy và tình yêu thương đích thực đối với đồng loại, sẽ giúp con tiến rất xa tại nước Mỹ cho dù nguồn gốc của con có là gì.

Colin Powell đã không thành công vì da ông màu đen, và ông cũng không thành công bất chấp da ông màu đen. Ông đã thành công vì ông đã thăng vượt tư duy bị ức hiếp để mà ôm lấy trạng thái tâm thức phổ quát mà các chân sư thăng thiên vẫn hằng cầm giữ trong viễn quan của mình cho tương lai nước Mỹ. Bất cứ ai cũng có khả năng noi theo tấm gương của những vị lãnh đạo như vậy vì phương châm của các chân sư thăng thiên vốn là: Việc gì một người đã làm được thì mọi người cũng làm được.

Vấn đề là nếu người ta cứ bám chặt lấy tư duy bị ức hiếp thì người ta sẽ không thấy được những tấm gương đó là tấm gương. Người ta sẽ đặt những người đó lên làm thần tượng, coi những người đó là ngoại lệ, y hệt như nhân loại đã hành xử với chính bản thân ta. Và đó là khi người ta sẽ khóa chặt mình lại trong những hệ thống kín mít để rơi vào vòng kềm toả của định luật thứ hai của nhiệt động học. Một cái gì đó sẽ phải đập tan các hình tư tưởng của con người, cho dù là qua cách hành xử của một mục sư hay qua một ai đó có cùng một thái độ nổi lửa nhà thờ của con.

Con có thấy không, vấn đề thực sự với một “nhà thờ của người da đen” tại Hoa kỳ chính là vì nó tự xem nó là một nhà thờ của người da đen. Đặc biệt tại các tiểu bang miền Nam nước Mỹ, con nhận thấy rất nhiều nhà thờ là những hội chúng hoàn toàn da đen không mở tay ra chào đón người da trắng hay người da màu gốc Tây ban nha. Cho nên thái độ hiềm khích mà ta vừa đề cập được tập trung tại các tiểu bang miền Nam giữa hai nhóm người, một là các thành viên của nhà thờ da đen và hai là các nhà thờ da trắng theo xu hướng cực chính thống.

Thật là một điều đáng tiếc khi sự kỳ thị chủng tộc lại kết tụ nơi chính những con người tin chắc rằng mình là những “con chiên ngoan đạo của Ki-tô”.

Thánh Paul – người đã góp phần biến giáo lý của ta thành giáo lý phổ quát – có viết như sau trong những lá thư được cho là của thày:

“Nơi đây không có người Do thái hay người Hy lạp, không có người nô lệ hay người tự do, không có người nam hay người nữ, bởi vì tất cả anh em đều là một trong Ki-tô Giê-su.” (Galatians 3:28)

“Nơi đây không có người Hy lạp hay người Do thái, không có người cắt bì hay không cắt bì, không có người Barbarian hay người Scythian, không có người nô lệ hay người tự do, mà Ki-tô là tất cả, ở trong tất cả.” (Colossians 3:11)

Điều mà lớp thượng lưu quyền lực đã làm từ lâu là biến giáo lý chân thực của ta thành một công cụ để áp bức quần chúng. Và họ làm vậy bằng cách biến lời dạy bao gồm tất cả mọi người của ta trở thành một hệ thống phân mọi người ra thành những người được cứu rỗi và những người sẽ không được cứu rỗi, tức những con dê tế thần.

Nếu con mù quáng đi theo lãnh đạo thế gian để thù ghét những ai mà lãnh đạo của con bảo con phải thù ghét, thì hóa ra con chắc chắn là mình sẽ lên được thiên đàng mà không phải xem xét cái xà trong mắt mình. Hệ thống này vô cùng hấp dẫn đối với những ai mang tư duy bị ức hiếp. Nó có tác dụng giữ mãi họ lại trong trạng thái tâm thức coi mình là nạn nhân bị ức hiếp – bởi vì nếu mình không nhắm mắt đi theo lãnh đạo thì mình sẽ bị liệt vào thành phần đồ bỏ và sẽ bị hụt mất cơ hội cứu rỗi.

Thế nhưng thông điệp mà ta đã đến địa cầu để đem lại cho những ai bị ức hiếp là không hề có sự phân chia giả tạo nào dựa trên tiêu chuẩn thế gian có thể ngăn cản con người lên được thiên đàng. Nói cách khác, cho dù lớp thượng lưu quyền lực có nói gì đi nữa, thì bất cứ ai – BẤT KỂ xuất xứ của người đó trong xã hội loài người – cũng có khả năng lên được thiên đàng, MIỄN LÀ người đó thể hiện được các nguyên lý phổ quát mà ta đã thể hiện, tức là cùng những nguyên lý phổ quát được ghi trong Hiến pháp Hoa kỳ.      

Con có thấy điều này có nghĩa là gì chăng? Người Mỹ gốc châu Phi mang một tư duy bị ức hiếp đang ngăn cản rất nhiều người khởi xướng bất cứ điều gì. Họ nghĩ, bởi vì người da trắng đã áp bức họ cho nên chính người da trắng mới phải đi bước đầu để chấm dứt áp bức.

Nhưng nếu con thực sự hiểu được thông điệp của Ki-tô, con sẽ thấy tại sao cách suy nghĩ đó không đúng. Chính những người bị ức hiếp mới có cơ hội lớn nhất, cao nhất, để trở thành những vị thày của con Đường Ki-tô, bằng cách chứng tỏ là họ sẽ sử dụng giáo lý đích thực của Ki-tô để vươn lên một vị thế cao hơn trong đời sống, cao hơn vị thế mà lớp thượng lưu quyền lực lẫn tâm thức tập thể trong chính nhóm họ đã dành cho họ bấy lâu nay.    

Không hề có nhu cầu có một nhà thờ của người da đen tại Hoa kỳ, bởi vì mọi tín đồ đích thực của đạo Ki-tô sẽ thờ phượng chung với nhau bất kể sự khác biệt bề ngoài, chẳng hạn như màu da hay bất cứ gì khác. Người Mỹ gốc châu Phi không thể ngồi đó mà chờ cho người da trắng khởi xướng thay đổi này, cho dù quả thực một số vị mục sư da đen có tầm nhìn xa đã bắt đầu làm công việc này rồi. Chuyện đó không phải là trách nhiệm của người da trắng mà là cơ hội nghiệp tạo của người da đen, để người da đen khởi xướng thay đổi này trong xã hội nước Mỹ cũng như trong tâm thức đại chúng.

Con có thấy chăng thông điệp sâu kín của Ki-tô? Không phải giới thượng lưu sẽ tạo ra thay đổi trong xã hội, mà là những người xuất thân từ một vị thế khiêm tốn trong xã hội, miễn là họ sẵn lòng thăng vượt vị thế đó bằng cách hòa nhập với tâm Ki-tô phổ quát.

Đã đến lúc người Mỹ gốc châu Phi vươn lên khỏi tư duy làm người Mỹ gốc châu Phi, để thực sự thăng lên và khoác vào bản sắc làm người Mỹ Phổ quát. Bởi vì chỉ những ai xem mình cũng như xem mọi người khác là những đứa con của Thượng đế thì mới có thể tự gọi mình là tín đồ chân chính của Ki-tô – là những người Mỹ chân chính.

Không phải những gì con “làm” trên địa cầu này sẽ đưa con lên thiên đàng, mà là những gì con “buông bỏ” trên địa cầu này. Con vươn mình lên cao hơn mọi hình tượng chạm do con người tạo dựng. Chính điều đó sẽ đưa con lên vương quốc thiên đàng, là nơi tất cả đều là một trong Ki-tô, bởi vì Ki-tô là tất cả và ở trong tất cả. 

Mọi thứ đều là khái niệm cho tới khi nó trở thành trải nghiệm

Hỏi: Câu trả lời hôm 16/11/2010 của thày Giê-su, hay hình như của ông Kim Michaels, có liệt ra 19 khái niệm. Thày mô tả các bầu cõi và cái Ta Biết như là những khái niệm. Điều này khiến con bị bối rối.

Những lời dạy trước đây nhắm vào việc thay đổi khung tham chiếu về mặt trí thức, và quan trọng hơn cả, về mặt nội tâm tâm linh. Ngôn từ được sử dụng càng ngày càng ít đi để làm điểm đo, hầu tập trung vào cái TA LÀ bên trong.

Như Shakespeare có nói “Cuộc sống là một sân khấu.” Cuộc sống trong thế giới vật chất chẳng phải là một khái niệm về các bầu cõi cá nhân lẫn tâm linh hay sao, trong khi cái Ta Biết là sự thật và cội nguồn của Duy nhất? Phải chăng thày đang nói rằng bầu cõi của Đấng Sáng tạo của chúng ta là một khái niệm về tạo vật của ngài?

Cho đến nay, con đã học được từ thày rằng cái ta đích thực của con nằm trong cái Ta Biết. Nếu cái Ta Biết là một khái niệm nằm trong bầu cõi, thì ái chà! Xin thày nói rõ cho con và mọi người rằng chúng con là nhiều hơn một khái niệm về một sinh thể tự quyết.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2010.

Mọi thứ đều là khái niệm cho tới khi nó trở thành trải nghiệm. Con liên hệ với một vật nào đó bằng cách trước tiên cho phép nó đi vào tâm vỏ ngoài, hay tâm ý thức của con, như một khái niệm.

Khái niệm là một ý tưởng mà con giữ trong tâm. Ý tưởng đó có liên hệ tới một vật mà con chưa nhìn thấy, nhưng ý tưởng và vật không là cùng một thứ.

Chẳng hạn, nếu con cầm một tờ quảng cáo du lịch về một địa điểm nghỉ mát ở nước ngoài, cái mà con nhận được từ tờ quảng cáo là một khái niệm về địa điểm du lịch. Khái niệm có thể khởi lên trong con ý muốn đi du lịch ở đó, nhưng chỉ khi nào con bước chân đến đó thì khái niệm mới được thay thế bằng trải nghiệm trực tiếp.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên trải nghiệm tất cả mọi thứ mà chúng tôi đã nói với con về cõi thăng thiên, nhưng chúng tôi không thể nào cho con trải nghiệm đó. Cách duy nhất để giao tiếp với con – trong trạng thái tâm thức hiện thời của con – là cho con một số khái niệm, rồi hy vọng những khái niệm này sẽ đánh thức trong con ý muốn trải nghiệm trực tiếp.

Con có khả năng nắm được trải nghiệm trực tiếp này khi con ngộ ra là cốt lõi của bản thể con là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là con có khả năng tự phóng chiếu mình vào cõi tâm linh – y như con đã tự phóng chiếu vào thân xác cùng kinh nghiệm sống hiện thời của con.

Chúng tôi đã giảng dạy về Hiện diện TA LÀ từ thập niên 1930, nhưng tất cả những gì chúng tôi đã trao cho mọi người đều là khái niệm. Một số học trò đã dùng các khái niệm đó để tạo ra một “lối mòn” trong tâm họ, và sau đó cái Ta Biết đã đi theo lối mòn đó cho tới khi nó trải nghiệm được sự hợp nhất với Hiện diện.

Một số học trò khác đã không sẵn lòng làm chuyện đó, cho nên đối với họ, Hiện diện TA LÀ tiếp tục là một khái niệm. Nhóm thứ nhất đã liên hệ với Hiện diện TA LÀ của họ trực tiếp qua trải nghiệm. Nhóm thứ nhì không liên hệ với Hiện diện của họ mà chỉ liên hệ với một hình tư tưởng – một khái niệm – về Hiện diện mà họ đã tạo ra trong tâm.

Khi chúng tôi trao cho con người trên địa cầu bất kỳ khái niệm nào về cõi tâm linh, luôn luôn có rủi ro là họ sẽ dùng khái niệm đó để ngăn chặn trải nghiệm. Tuy nhiên, đó chỉ là bản chất của công việc mà chúng tôi phải đương đầu.

Tất cả các con đều là những sinh thể tâm linh không bị mắc kẹt hay bị quy định trong bất kỳ hình tướng nào. Thế nhưng trong cái ngay bây giờ và ngay đây, con chính “là” cái mà con nghĩ con là. Đó là vì con đã quên mất con là sự nhận biết thuần khiết, và thay vào đó, con đã tạo ra một khái niệm về con người mà con là.

Con bị kẹt trong “thế gian” này nơi con liên hệ với hầu hết mọi thứ như là khái niệm. Cho nên cách duy nhất mà chúng tôi có thể chạm được con là qua nhiều khái niệm hơn nữa – với niềm hy vọng rằng một vài khái niệm trong số đó sẽ đánh thức trong con ý muốn trải nghiệm nhiều hơn khái niệm.

Nếu con chưa trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết thì cái Ta Biết sẽ chỉ đơn giản là thêm một khái niệm. Nhưng khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con thấy rõ cái Ta Biết chỉ là một cái tên. Theo một nghĩa nào đó, thật là vô nghĩa gán cho nhận biết thuần khiết một cái tên, vì nhận biết thuần khiết không thể được mô tả chính xác qua bất kỳ cái tên hay khái niệm nào. Nó chỉ có thể được trải nghiệm. Nhưng chừng nào con còn bị kẹt trong thế giới của khái niệm trí thức, thì…!

Về câu hỏi chót của con: “Xin thày nói rõ cho con và mọi người rằng chúng con là nhiều hơn một khái niệm về một sinh thể tự quyết.”

Con là nhiều hơn một sinh thể khái niệm, theo nghĩa là con vượt khỏi hình tướng. Tuy nhiên, con chính là người đã đè chồng một số khái niệm về con người của con lên trên sự nhận biết thuần khiết mà Hiện diện TA LÀ của con đã gửi vào vũ trụ vật chất như phần nối dài của nó. Cho nên con cũng là người duy nhất có khả năng gỡ con ra khỏi cái hình ảnh đó về bản thân, bằng cách con tái trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Chừng nào con chưa tái nối kết với nhận biết thuần khiết thì trên thực tế, con không là gì hơn một sinh thể khái niệm.

Nếu con liên hệ với ý niệm bản sắc của con ở mức khái niệm, con sẽ chỉ đơn giản tạo ra thêm một khái niệm. Đó là tại sao chúng tôi đã trao cho con “khái niệm” rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết và do đó nó không thể bị giam hãm trong bất kỳ khái niệm nào.

Con thấy đó, sau khi chúng tôi bắt đầu ban truyền giáo lý về tự ngã, điều rõ ràng là nhiều học trò đã tìm cách khắc phục tự ngã của mình ở mức khái niệm. Nhưng như con thấy, tự ngã cũng chỉ là một khái niệm. Cho nên khi tìm cách loại bỏ khái niệm tự ngã bằng cách tạo ra một khái niệm khác – tâm linh hơn, hay ho hơn – con sẽ chỉ khiến cho tự ngã biến thái sang một hình dạng khác.

Đó là tại sao nhiều người đã đi trên đường tu tâm linh nhiều chục năm trời mà không đến gần hơn với trạng thái vô ngã. Đơn giản là họ đã tạo ra một tự ngã mới rất tài tình hiện ra như người tốt lành hay tâm linh. Những người như vậy cho rằng tự ngã này tâm linh đến độ nó chắc chắn sẽ được phép lên thiên đàng – nhưng họ lầm lẫn hoàn toàn. Ta đã có mô tả sự thể này trong câu chuyện ngụ ngôn về tiệc cưới.

Cho nên cách duy nhất để vượt qua tự ngã là tìm được một khung tham chiếu vượt khỏi thế giới khái niệm nơi tự ngã hiện hữu. Và cách duy nhất để vượt xa hơn khái niệm là tận dụng khả năng trở về với nhận biết thuần khiết của con, là nơi mà con ngộ ra là mọi khái niệm tìm thấy trên địa cầu – tất cả mọi khái niệm cấu tạo nên tự ngã của con – chỉ là không thực.

Con cũng trải nghiệm cái TA của con – tức nhận biết thuần khiết – là thực. Nó là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Và đó là điều duy nhất sẽ giúp con tháo gỡ tình trạng đồng hóa của con với tự ngã.

Thật không có cách nào khác. Và mặc dù đã mô tả nó bằng nhiều cách khác nhau, các nhà thần bí thuộc mọi thời đại đã trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Họ đã sử dụng nhận biết thuần khiết để đánh thức mình khỏi giấc mộng cho rằng một sinh thể tâm linh có thể bị mắc kẹt hay bị quy định bởi hình tướng.

Nếu con đối xử với cái Ta Biết như một khái niệm khác, nó sẽ chỉ giam cầm con nhiều hơn nữa. Nếu con cho phép mình trải nhiệm nhận biết thuần khiết, đó sẽ có thể là sự thức tỉnh tối hậu.

Như luôn luôn, chúng tôi chỉ có thể cống hiến một dụng cụ rồi để yên cho mọi người tự do lựa chọn cách sử dụng như thế nào. Đó là vì sao chúng tôi không ngừng nỗ lực đưa ra những dụng cụ mới để nói lên cùng một nguyên lý dưới một hình thức khác hơn, với niềm hy vọng là mỗi cách biểu đạt mới như vậy sẽ đánh thức nhiều người hơn.

Adolph Hitler và cái chết thứ hai

Hỏi: Cuộc đời của Adolph Hitler luôn khiến con chú ý, và trên trang mạng của thày, thày có nói là ông ta đã bị đưa vào cái chết thứ hai. Con xin hỏi, điều đó xảy ra như thế nào? Nếu nhìn lại cuộc đời của Hitler, có thể thấy là ở một thời điểm nào đó, ông ta đã bị mù quáng bởi tư duy của mình đến độ có vẻ không ai có thể xoay chuyển được nữa. Chẳng hạn, cuối năm 1942 và đầu năm 1943, ông ta quyết định “giải pháp cuối cùng” để diệt chủng người Do thái. Vậy ở điểm đó đã có thể đoán trước là ông ta sẽ giết hại hàng triệu người Do thái. Nếu qua quyết định này ông đã hội đủ tư cách để nhận phán xử cuối cùng, tại sao lại không ban ngay cái chết thứ hai và rút ông ra khỏi hiện thân hầu cứu lấy mạng sống của bao nhiêu người? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 25/11/2010.

Nếu con xem kỹ hơn lời dạy của ta về cái chết thứ hai, con sẽ hiểu đầy đủ hơn về tiến trình này. Thực tế đơn giản là sự phán xử cuối cùng không là một tiến trình có thể diễn ra khi dòng sống còn đang đầu thai. Tiến trình chỉ có thể xảy ra sau khi dòng sống đã rời hiện thân và có thể được đem ra – một cách toàn diện – trước Toà án Lửa thiêng. Nếu nó còn đang hiện thân thì một phần của nó phải ở lại địa cầu để giữ cho cơ thể tồn tại.

Trong phán xử cuối cùng, không có một thế lực bên ngoài nào phán xét dòng sống cả. Các chân sư thăng thiên điều hành tiến trình này và phác thảo những nét chính của con đường đã dẫn dòng sống tới điểm này, cũng như con đường mà nó phải đi theo để trở lại với sự thuần khiết ban đầu. Sau đó tùy dòng sông chọn đường nào, hoặc nó bước vào con đường cứu chuộc, hoặc nó kết thúc tất cả. Cho nên không bao giờ các chân sư sẽ chọn lựa giùm dòng sống để nhận cái chết thứ hai, bởi vì đó sẽ là vi phạm Luật Tự quyết.

Làm sao một dòng sống có thể đối diện với phán xử cuối cùng và có sự chọn lựa tối quan trọng này nếu một phần của nó còn gắn liền với địa cầu? Sự chọn lựa chỉ có thể có được khi nó thấy rõ là nó không còn nơi nào khác để mà đi, hoặc là nó phải thay đổi, hoặc là nó sẽ không còn hiện hữu một cách toàn diện. Cho nên con thấy Hitler – hay Stalin hay bất cứ ai khác đã phạm những tội ác tày trời – không thể được đưa ra phán xử cuối cùng nếu còn đang đầu thai. Chưa bao giờ từng có, và sẽ không bao giờ có chuyện một người nhận phán xử cuối cùng khi còn đầu thai, bởi vì luôn luôn người đó có khả năng quay đầu. 

Con cũng cần phải xem xét là khi quyết định cho phép dòng sống của Hitler đầu thai, quyết định này không chỉ dựa trên một lượng định về dòng sống đó thôi. Hitler đã được cho phép đầu thai chỉ vì tình trạng tâm thức của dân tộc Đức, của dân tộc Do thái và nhiều dân tộc khác tại Âu châu vào thời đó là như vậy. Cho nên việc Hitler được phép đầu thai là một cơ hội để mọi bên có dịp thấy rõ mình sẽ phản ứng ra sao.

Khi một dòng sống được phép đầu thai, các thày xem đó là một cơ hội cho rất nhiều người. Do đó các thày sẽ giữ nguyên cơ hội đó cho tới khi nào còn hy vọng có người học hỏi được từ đó. Nói cách khác, có thể đã có một thời điểm khi Hitler không thể quay ngược trở lại, nhưng cơ hội cho người khác thì vẫn chưa kiệt hẳn.

Những chọn lựa của người khác đã có thể rút ngắn mạng sống của Hitler. Trong khi đó, việc đem dòng sống ông ta ra khỏi hiện thân không phải là một chọn lựa mà các chân sư có quyền lấy. Quyết định phải nằm với những người đang đầu thai lúc đó, phần nào qua việc kêu gọi sự phán xử – và phải kêu gọi trong tinh thần không phán xét – hoặc bằng cách họ học hỏi từ người đó và thăng vượt trạng thái tâm thức cũ của mình. Xem sự việc đã xảy ra thì cách phản ứng của đa số mọi người đã kéo dài mạng sống của Hitler. Cho nên chính vì nhiều người tại Đức lẫn tại các nơi khác không sẵn lòng thay đổi mà Hitler đã có thể tiến hành “giải pháp cuối cùng”.

Ta cũng xin nhấn mạnh là mặc dù có vẻ Hitler không còn khả năng thức tỉnh, nhưng Luật Tự quyết ra lệnh các chân sư không bao giờ được tiên đoán trước dòng sống sẽ chọn lựa ra sao. Vì vậy, cho đến khi nó bị tiêu tan trong Hồ Lửa thiêng, luôn luôn có khả năng là nó có thể quay đầu, và đó là điều các thày chú mục vào. Các thày không bao giờ xem dòng sống nào là không thể cứu chuộc. Và các thày không xử án một ai – các thày chỉ để yên cho dòng sống tự xử án lấy mình qua chọn lựa của chính nó. Chỉ có những người trong hiện thân mới nghĩ các thày xử án giống như họ xử án một người, hay nghĩ rằng một người không có khả năng cứu chuộc.  

Phán quyết cuối cùng là một tiến trình không liên quan đến bất cứ ai đang hiện thân, và nó hoàn toàn không tuân theo những  điều tin tưởng của con người. Tiến trình hoàn toàn do các chân sư điều phối, là những bậc đã vượt lên khỏi tâm thức nhị nguyên – vượt lên rất xa. Nói cách khác, ngay cả một chân sư mới thăng thiên cũng không thể tham dự vào tiến trình, mà chỉ có những bậc cao cấp trong đoàn chưởng giáo tâm linh mà thôi. Con có thấy tại sao không? Một dòng sống chỉ đối diện phán xét cuối cùng khi nó đã tạo ra một cái hộp tư duy kín mít đến độ không còn cách nào khác để cho nó thấy rằng thực tại của Thượng đế không phù hợp với những gì nó tin tưởng.

Cho nên phán quyết cuối cùng là tiến trình trong đó một nhóm chân sư nỗ lực lần cuối để khiến dòng sống thức tỉnh mà ra khỏi những tin tưởng nhi nguyên của nó. Nói cách khác, chỉ những bậc vô cùng tinh thông trong khả năng nhìn thấu các ảo tưởng nhị nguyên mới có thể giúp dòng sống vượt qua thử thách này. Và ngay cả các thày cũng có thể phải bó tay cho đến khi dòng sống đối diện với Hồ Lửa thiêng và chứng nghiệm rằng các lập luận và biện bạch của nó cũng không thể ảnh hưởng được tiến trình. 

Thật là dễ hiểu khi những người đang đầu thai nghĩ rằng những kẻ đã gây ra tội ác tày trời xứng đáng với cái chết thứ hai. Thế nhưng một khi con đang hiện thân thì con không thể có cái nhìn toàn diện cần thiết để lượng định tình cảnh một cách chính xác. Có quá nhiều yếu tố cần phải xem xét – những yếu tố mà không ai trong kiếp đầu thai có thể biết được – trước khi một dòng sống được đưa ra phán xét cuối cùng. 

Nghĩa là có những dòng sống mà hầu hết ai ai trên địa cầu cũng sẽ vui mừng nhìn thấy họ bị chết lần thứ hai, nhưng kỳ thực họ vẫn chưa sẵn sàng. Ngược lại, có những dòng sống coi vẻ bình thường vô hại, vậy mà đã tận dụng mọi cơ hội cứu chuộc và tỏ ra cương quyết không chịu nhận trách nhiệm về tình trạng tâm thức của mình. Đó là tại sao ta bảo, đừng phán đoán theo vẻ ngoài. Những vẻ ngoài trong quan điểm của những người đầu thai không phải là cách nhìn của Thượng đế hay của các chân sư.   

Và đó là lý do những người đang hiện thân sẽ khôn ngoan biết mấy nếu họ không đánh giá một ai đó có xứng đáng bị phán xét cuối cùng hay không. Làm như vậy sẽ dễ dàng dẫn con đến ảo giác rằng con người hiểu rõ hơn Thượng đế, và con sẽ không dễ gì thoát ra khỏi niềm kiêu hãnh tâm linh này. Con hãy tập trung vào việc tháo gỡ cái xà trong mắt mình, và để yên cho các chân sư thăng thiên đã được giao phó trách nhiệm này định xem những ai đã sẵn sàng bước ra phán xét cuối cùng.

Như ta đã có bài giảng về điều này, Thượng đế thật sự đã thiết kế một hệ thống toàn hảo để giúp các dòng sống. Nếu cho rằng ngài cần sự giúp đỡ của bất cứ ai trên địa cầu, thì đó là một ảo tưởng của các sa nhân nghĩ rằng chúng hiểu cách điều hành vũ trụ giỏi hơn cả Thượng đế.

Thay đổi ngoại hình có là tội lỗi hay không, như các thủ thuật thẩm mỹ hay nhuộm tóc?

Hỏi: Cắt tóc hay nhuộm tóc có phải là tội lỗi không? Hay nhổ lông trên cơ thể (như người Sikh dạy như vậy)? Còn các thủ thuật thẩm mỹ thì sao? Con nghe nói là mọi điều gì liên quan đến ngoại hình đều là nghiệp quả. Có thật vậy không? Một số giáo lý nói rằng màu đen là tà ác và nó sẽ buộc con vào cõi trung giới, vậy liệu những người tóc đen có tà ác không? Con nghĩ tóc đen là màu tóc đẹp nhất. Có nghĩa chăng là con có liên hệ gì với sa nhân trong quá khứ? 

Khi con 25 tuổi, con nhuộm tóc màu vàng tự nhiên thành màu đen, bà nội con hoảng loạn luôn, bà nói con nhuộm tóc đen là có tội vì Thượng đế đã sinh con ra là cô gái tóc vàng đẹp đẽ. Hồi đó con nghĩ bà con điên rồ và có nhiều thành kiến, nhưng bây giờ thì con không chắc nữa. Có vẻ như người ta ưa thích tóc vàng hơn rất nhiều, không hiểu có lý do tâm linh nào hay không? Màu nhạt có đặc tính tâm linh tốt hơn (chẳng hạn màu nhạt có tần số rung động cao hơn, v.v…), có nghĩa chăng là da, tóc và mắt màu nhạt có tần số cao hơn màu đậm? Liệu con có thể nhuộm tóc nếu tóc con màu bạc, như tóc con đang bạc đây? Con sắp sửa nhuộm tóc lại, nhưng con không muốn làm tha hóa năng lượng nhiều hơn những gì con đã tha hóa.

Liệu hút mỡ có là một tội lỗi nếu cơ thể con hoàn toàn thiếu cân đối, dù con béo hay gầy (con gầy)? Hoặc nếu con sửa mũi vì mũi hếch hay quá xấu xí? Hoặc ghép vú nếu vú quá nhỏ hoặc đã bị cắt vú? Con không nói tới những thứ kiểu Heidi Montag viển vông, nhưng nếu thực sự cần thiết thì có được không? Hay con phải sống với cơ thể con có cho dù nó xấu xí đến chừng nào?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 17/11/2010.

Để hiểu đầy đủ câu trả lời của ta, ta khuyên con nên học bài giảng của ta về “Con đường của Ki-tô so với con đường phản Ki-tô”. Trong bài giảng đó, ta có nói rõ là toàn bộ ý tưởng tội lỗi là do các sinh thể sa ngã tạo ra hầu kiểm soát nhân loại.

Thế nào là dụng ý tâm lý của khái niệm tội lỗi và phán xét? Đó là để khiến con chú tâm vào một cái chuẩn vỏ ngoài thay vì con chú tâm vào việc thiết lập hay mở rộng sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Những người thày giả muốn con tưởng là con cần một khung chuẩn vỏ ngoài do họ định ra trong thế gian này. Nhưng các vị thày chân chính thì muốn chính con đạt được khung chuẩn nội tâm để con biết được từ Hiện diện của con điều gì là điều mình nên làm tùy theo từng tình huống. Các thày giả muốn con quyết định làm hay không làm  dựa theo cái dàn tiêu chuẩn vỏ ngoài bất di bất dịch của họ. Còn các vị thày chân chính thì không có chuẩn tuyệt đối hay toàn vũ nào, mà chỉ muốn mỗi người đi theo những hướng dẫn nội tâm mà mình nhận được từ Hiện diện TA LÀ hay vị thày tâm linh của mình.

Lý do các thày giả đã thành công để khiến con người chấp nhận ý tưởng tội lỗi là vì nó cho con một công thức có vẻ quá giản tiện để lấy quyết định. Một khi con chấp nhận là giáo hội của con đã có sẵn một cái chuẩn và một giáo lý bất khả sai lầm, thì con sẽ không còn nhu cầu tham khảo Hiện diện TA LÀ của con mỗi khi con quyết định nữa. Vì vậy nếu ta đã trả lời câu hỏi của con và bảo là những việc làm đó của con không phải là tội lỗi, thì có người sẽ lý giải ngay là ta bảo con có thể làm bất cứ gì con muốn. Tuy nhiên, câu trả lời của ta sẽ tinh tế và sâu sắc hơn, dành cho những ai sẵn lòng sử dụng khả năng trực giác của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn xem một tác dụng tâm lý còn vi tế hơn nữa của ý tưởng tội lỗi. Nó khiến con trở nên vô cùng chú tâm, vô cùng quan tâm đến những gì con làm ngoài đời. Nó khiến con chú tâm vào cách hành xử của con thay vì vào trạng thái tâm thức của con. Điều ta muốn giải thích trong bài giảng là không phải hành vì của con sẽ định đoạt con lên được thiên đàng hay không, mà là tâm thức con.

Hiển nhiên, hành vi là sản phẩm của trạng thái tâm thức. Tuy nhiên con có thể cố tình kềm chế một số hành vi mà không thay đổi tâm thức. Chẳng hạn, một số người đã tập được cách kềm chế những hành vi bạo lực nhưng họ vẫn cảm thấy giận dữ đối với người khác. Và nhiều hành giả tầm đạo đã tập được cách luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ, tử tế, trong khi họ vẫn chưa giải quyết được tình cảm trong tâm tiềm thức của họ. Tất cả những cách thức đó sẽ không giúp con đạt tới tâm thức thăng thiên.

Việc nỗ lực thăng thiên bằng việc làm, hay không làm, chỉ là hệ quả của con đường cứu rỗi giả trá. Các thày giả sẽ muốn con tin rằng nếu con làm những gì họ định nghĩa là đúng, và không làm những gì họ định nghĩa là sai, thì Thượng đế sẽ bắt buộc phải nhận con vào thiên đường. Đây là ảo tưởng cho rằng nếu con có thể đánh lừa được mọi người trên địa cầu thì con cũng sẽ đánh lừa được Thượng đế. Tất nhiên, không gì xa hơn sự thật. Không gì có thể bị che giấu khỏi những vị đại diện của Thượng đế bởi vì không gì có thể bị che giấu khỏi tâm Ki-tô. Thượng đế sẽ không đem con vào vương quốc của ngài. Con phải nâng trạng thái tâm thức của con cho tới khi con đạt được chính cái trạng thái tâm thức LÀ Nước Trời.    

Con có thấy điều ta nói? Những việc làm của con sẽ không đưa con vào thiên đường, cũng như nó sẽ không ngăn con vào thiên đường. Yếu tố quyết định là trạng thái tâm thức của con, là lý do sâu xa tại sao con làm hay không làm một việc nào đó. Cho nên kết luận là những việc làm con vừa mô tả không phải là tội lỗi. Dù con có làm hay không làm cũng không quan trọng gì cả, chỉ có trạng thái tâm thức của con mới là quan trọng.

Cho nên lý tưởng nhất, con nên lấy quyết định dựa theo sự hướng dẫn nội tâm mà con nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Tuy nhiên trong khi chờ đợi con có được hướng dẫn rõ ràng hơn, ta sẽ trao cho con một cái “chuẩn” để con lượng định cách cư xử của con. “Chuẩn” này có mấy yếu tố:

  • Con có quyền tự quyết, nhưng mọi người khác cũng vậy. Nếu con vi phạm quyền tự quyết của người khác, rõ ràng con đã bước qua một lằn ranh. Tuy nhiên, nếu con làm điều gì chỉ ảnh hưởng đến bản thân con, đó thật sự là chọn lựa của con. Cho nên con có một phạm vi rất rộng để con chọn lựa theo ý con. Tuy nhiên để tinh tấn tối đa, con cần nhìn vào những chọn lựa đó và xét xem nó thể hiện tinh trạng tâm thức nào của con ở bên dưới. Tại sao con lại cảm thấy mình phải chọn lựa như vậy, và đâu là những lý lẽ mà con sử dụng để biện minh cho chọn lựa đó?
  • Như ta trình bày trong bài giảng, nhiệm vụ quan trọng nhất của con là con cất bước trên một con đường sẽ giúp con lần hồi tháo gỡ sự đồng hóa của con với vai trò con đang đóng. Nói cách khác, nếu con tiến bước trên Đạo của Ki-tô, con sẽ chiêm nghiệm thấy con ngày càng ít quan tâm hơn – ít vướng mắc hơn – với những điều kiện của thế giới vật chất. Con sẽ không cho phép những điều kiện này đánh cắp sự chú tâm của con, kéo con ra khỏi sự tiếp cận nội tâm với Hiện diện của con. Như vậy, trọng tâm chủ yếu của con sẽ chuyển từ việc xem sự vật bên ngoài tự thân là quan trọng, sang việc xem ngoại cảnh chỉ là một phương tiện mà thôi. Nói cách khác, con hãy lượng định xem việc đó sẽ tăng hay giảm sự căng thẳng hay sự quân bình trong đời con. Khi con làm hay không làm, nó có khiến con bớt bám mắc, hay thêm bám mắc, vào thế gian? Liệu hoạt động đó có lấy đi sự an bình nội tâm của con hay không?
  • Khi con đã thiết lập liên lạc với Hiện diện, nhiệm vụ của con là trở thành cánh cửa mở để Hiện diện tự biểu hiện trong thế gian, và con làm tròn sứ vụ thiêng liêng của con. Cho nên khi con làm việc gì, đó là để con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng chứ không phải vì sợ hãi hay kiêu kỳ đã thúc đẩy con làm. Nghĩa là con không quyết định với cái óc phân tích vỏ ngoài. Con sử dụng khả năng trực giác và các quyết định của con chỉ dựa trên cái biết nội tâm bên trong, chứ không phải các lập luận của lý trí hay nặng phần tình cảm. Nếu con phải bước vào những tranh luận ngoài đời hay trong nội tâm hầu biện hộ cho hành vi của con thì con hãy đừng bước vào.
  • Một điều nữa là con hãy luôn luôn tìm sự quân bình trong đời con. Điểm này có liên hệ với những điểm trên, nhưng nó mang một khía cạnh đặc biệt. Làm thế nào con đạt được quân bình? Bằng cách con có tầm nhìn từ bên ngoài cái hộp tư duy của con, bên ngoài ngay cả hộp tư duy tập thể của nhân loại. Về mặt này, sẽ rất hữu ích nếu con suy ngẫm sự kiện Thượng đế không nhìn cuộc đời theo cách con người. Một trong những tác động tâm lý tinh vi nhất của đường tu giả trá là nó khiến cho con cảm thấy mình vô cùng quan trọng, thậm chí quan trọng cả đối với Thượng đế. Con tưởng rằng Thượng đế vô cùng quan tâm đến con cùng từng điều nhỏ nhặt mà con làm. Cho nên con cần suy ngẫm xem Thượng đế có thật quan tâm đến chuyện nhuộm tóc hay trang điểm của con hay không. Việc “cứu vớt” vũ trụ có thật tùy thuộc vào tóc con màu đen hay màu vàng?    

Khi con bắt đầu suy ngẫm các yếu tố này, con sẽ bắt đầu nhận thấy góc nhìn của mình chuyển hướng. Con sẽ cảm thấy sự căng thẳng từ từ tan biến và con bắt đầu có những quyết định thoái mái – cân bằng – hơn, thay vì cứ tưởng là những chuyện mình làm có tầm quan trọng to lớn cho vận mạng của mình hay vận mạng vũ trụ. Với những suy nghĩ đó, bây giờ ta sẽ nhận xét về các đề tài con vừa đề cập.

“Cắt hay nhuộm tóc, nhổ lông trên người, dùng trang điểm.”

Miễn là con giữ được quân bình trong chuyện này, bất cứ gì con làm cũng sẽ không cản trở phát triển tâm linh của con. Nếu con làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp và cảm thấy con cần ở đó để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng, con có thể – nếu con cho là thích hợp – hòa mình vào khung cảnh qua cách trang điểm hay quần áo màu đen. Nhưng con hãy làm vậy mà không quan tâm đến nó. Nếu con thích cắt tóc hay nhuộm tóc, con cứ việc làm mà đừng quan tâm gì cả. Nhiều phụ nữ cảm thấy mình sạch sẽ và tinh khiết hơn khi nhổ lông trên người. Một lần nữa, đó không phải là vấn đề mà con cần quan tâm. Nếu con làm được một cách thanh thản thì con cứ việc làm. Còn nếu con căng thẳng thì con hãy nhìn lại tâm lý mình và tìm xem lý do sự căng thẳng là gì.

“Các thủ thuật thẩm mỹ như hút mỡ, sửa mũi hay ghép ngực”.

Đây là một số thủ thuật y tế có rủi ro vật lý hay có thể gây ra biến chứng lâu dài. Vì vậy con cần lượng định rủi ro cẩn thận trước khi quyết định, và con nên cẩn trọng hơn bình thường. Hút mỡ là một thủ thuật mạnh bạo, và nếu con có thể ăn kiêng thì sẽ tốt hơn rất nhiều mà lại đạt được kết quả lâu bền hơn. Cách tốt nhất để giảm cân luôn là giảm lượng ăn và lượng calo nạp vào cơ thể. Đại đa số phụ nữ không nên – nếu họ thực hành những gì ta vừa nói ở trên – cảm thấy nhu cầu ghép ngực. Tuy nhiên, có những trường hợp ghép ngực có thể giảm thiểu sự căng thẳng trong đời sống hầu giúp con không còn chú ý vào cơ thể vật lý của mình nữa. Đối với các thủ thuật khác cũng vậy.  

Điểm mấu chốt là nếu con cảm thấy căng thẳng hay bó buộc phải làm điều gì đó thì con cần phải xem xét tâm lý mình. Tại sao mình lại quá quan tâm tới ngoại hình của mình đến thế? Mình sợ điều gì sẽ xảy ra nếu ngoại hình không đạt được tiêu chuẩn nào đó?

Ta thừa hiểu nhiều người đã từng bị trêu chọc, bài bác, chế giễu tàn nhẫn vì ngoại hình của mình từ khi còn nhỏ. Ta cũng hiểu là điều đó có thể gây ra tổn thương tình cảm và lòng thiếu tự tin. Tuy nhiên, con cũng có thể xem đó là một cơ hội để khám phá những vướng mắc của mình và vĩnh viễn vượt lên trên. Con hãy tự hỏi tại sao con lại chọn đầu thai trong một tình cảnh phải chịu đựng điều đó? Con đã mong muốn học hỏi điều gì từ tình cảnh này? Có thể chăng là để con chứng tỏ cho người khác là con có khả năng vươn lên trên và sống một cuộc đời yên bình, thỏa nguyện? Hay để con chứng tỏ là con vẫn có thể là một con người yêu thương, tốt đẹp, cho dù con phải chịu đựng sự đối xử không đẹp của người khác? Nếu vậy thì con hãy bắt đầu vươn lên ngay bây giờ đi!

Có thể con không thể thay đổi ngoại hình của con hay cách phản ứng của người khác, tuy nhiên con đường điều ngự tâm linh của con sẽ khởi đầu khi con nhận ra rằng không một điều kiện nào trong thế giới vật chất có thể có quyền năng trên Tánh linh của con. Do đó, không một điều kiện nào có thể ngăn cản con tự thay đổi để con không còn bị các điều kiện vật chất đó quấy rầy con nữa.

Bây giờ ta sẽ trả lời một số những câu hỏi khác của con.

Con nghe nói là mọi điều gì liên quan đến ngoại hình đều là nghiệp quả.”

Mọi điều liên quan đến ngoại hình của con đều là kết quả của một trạng thái tâm thức nào đó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, đó không phải là tâm thức của riêng con mà tâm thức tập thể của nhóm người nơi con đầu thai. Trong một số trường hợp, con đầu thai trong một nhóm đặc thù là vì con chia sẻ cùng trạng thái tâm thức với nhóm đó. Tuy nhiên cũng có những trường hợp khác khi một người tình nguyện khoác lấy một tâm thức đặc thù để chứng tỏ cho các thành viên của nhóm là họ cũng có khả năng vượt lên trên tâm thức đó.  

Sự dày đặc cũng như xu hướng bệnh tật của cơ thể vật lý con người là kết quả của tâm thức nhân loại đã bị hạ xuống thấp hơn hẳn mức tâm thức của địa cầu vào thời sinh tạo. Sự hiện diện của tất cả những người tâm linh là minh chứng hùng hôn là con người có khả năng nâng cao tâm thức mình vượt lên trên mẫu số chung thấp nhất. Vì vậy, con hãy đừng cho phép mình nghĩ rằng một số đường nét ngoại hình là chỉ dấu cho thấy con đã làm điều gì sai quấy trong quá khứ. Thay vào đó, con hãy xem xét tâm thức mình và thăng vượt mức hiện tại của mình.

“Một số giáo lý nói rằng màu đen là tà ác và nó sẽ buộc con vào cõi trung giới”

Màu đen không xấu ác. Sau khi loài người sa ngã, màu đen đã bị gắn liền với cái mà ta gọi trong bài giảng của ta là “tà ác”, hay các sinh thể sa ngã. Tự thân nó, màu đen không có gì tà ác. Khi Đấng Sáng tạo ở ban đầu tạo ra khoảng trống thì trong đó không có ánh sáng, và vì vậy nó không có màu – gọi là tối đen. Khi con nhìn lên trời vào một đêm đầy sao, khoảng không trung trống trơn đó màu đen, nhưng đâu có nghĩa không trung tà ác.

Tuy nhiên, đúng là nếu con bao quanh mình với toàn những vật màu đen, con sẽ khiến tâm thức con đồng điệu dễ dàng hơn với các tà lực nơi cõi trung giới. Ngay cả các tâm lý gia cũng đã chỉ ra rằng những người bao quanh với màu đen có rủi ro mắc bệnh trầm cảm cao hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con không bao giờ được mặc quần áo đen, chỉ có điều ta không khuyên con mặc độc là màu đen. Nhưng khi con nâng cao tâm thức và thể hiện tính không dính mắc, con có thể mặc đồ đen mà không mở cửa con ra cho cõi trung giới. Một lần nữa, không có luật lệ vỏ ngoài nào có thể áp dụng trong mọi trường hợp được.   

“Con nghĩ tóc đen là màu tóc đẹp nhất. Có nghĩa chăng là con có liên hệ gì với sa nhân trong quá khứ?”

Con đang cố diễn giải quá đáng. Sở thích cá nhân của con thường là sản phẩm của những đặc điểm di truyền và ảnh hưởng văn hóa. Có rất nhiều nền văn hoá mà màu đen không bị xem là tà ác, thậm chí có cả những nền văn hóa nơi người ta mặc đồ trắng khi để tang và màu đen khi ăn mừng. Rất có thể nó không liên quan gì tới tiền kiếp của con, hay nó có thể bắt nguồn từ một số ảnh hưởng văn hóa trong những tiền kiếp đó. Hiện diện TA LÀ của con hoàn toàn không có sở thích gì đối với màu này hay màu kia. Thật là không quan trọng con ưa thích màu nào, miễn là con không bị dính mắc với màu đó.

“… liệu những người tóc đen có tà ác không? Màu nhạt có đặc tính tâm linh tốt hơn (chẳng hạn màu nhạt có tần số rung động cao hơn, v.v…), có nghĩa chăng là da, tóc và mắt màu nhạt có tần số cao hơn màu đậm?

Con người không chỉ là cơ thể vật lý, mà là linh hồn hay dòng sống. Chắc chắn là các dòng sống đầu thai từng nhóm, nhưng thật không đúng khi bảo rằng tất cả những ai mang da đen hay tóc đen đều tà ác, hoặc có tiến hoá tâm linh thấp kém. Trong mỗi nhóm đều có những dòng sống với tâm thức cao lẫn thấp, kể cả những nhóm tóc vàng da trắng. Không phải mọi người tóc vàng đều tốt đẹp, và không phải mọi người tóc vàng đều ngu dốt.

Đúng là trong cõi ether (cõi bản sắc) và cõi tâm linh, các màu sắc đều trong suốt hơn và do đó có màu nhạt hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là kết quả sự khác biệt về độ dày đặc của “chất liệu” trên các cõi đó khiến cho ánh sáng có thể rọi xuyên qua mọi hình thể. Trong khi đó nơi cõi vật lý, một vật màu xanh có thể mờ đục y như một vật màu đen. Như ta có trình bày trong bài giảng, vũ trụ vật chất được tạo ra với một mức độ dày đặc nhất định, và điều này không có gì là tà ác.

Điều ta muốn nói là màu sắc chỉ đơn giản là một đặc tính vật lý, và tự thân nó, màu sắc không tốt cũng không xấu. Chỉ có tâm thức sa ngã mới đem bực thang giá trị ra để xét đoán màu sắc và từ đó mới dán nhãn màu này là ác, màu kia là thiện. Adolph Hitler rõ ràng đã đẩy vấn đề này tới sự cùng cực và chúng ta đều biết rõ hậu quả do cái nhìn mất quân bình này của ông ta. Vì vậy, ta mạnh mẽ khuyên nhủ các hành giả tâm linh hãy vượt lên trên mọi phán xét giá trị về màu da hay màu tóc. Hơn thế nữa, ta khuyến cáo con hãy vượt lên trên mọi xu hướng đánh giá cả người khác lẫn chính con. Đây chính là điều ta đã cố giảng dạy 2000 năm trước đây qua câu: “Không phải cái gì đi vào cửa miệng khiến cho người ta dơ dáy, mà cái đi ra từ cửa miệng mới khiến người ta dơ dáy” (Matthew 15:11). Trạng thái tâm thức quan trọng hơn những việc làm của con.

“Hay con phải sống với cơ thể con có cho dù nó xấu xí đến chừng nào?”  

Đây là một câu hỏi thú vị. Trong Thời đại Hoàng kim, càng ngày sẽ càng có nhiều người đạt được nhận biết rằng tâm có quyền năng trên vật. Điều này sẽ tạo khả năng cho con người thay đổi ngoại hình của mình qua quyền năng của tâm mà thôi – ít nhất là trong một số giới hạn nào đó.

Sự chuyển đổi tâm thức đem lại Thời đại Hoàng kim chính là khi con người nhận ra là mình không bắt buộc phải sống với những gì mình đang có, kể cả những gì mà con đang thấy trên toàn thể hành tinh. Vì vậy Thời Hoàng kim sẽ chỉ thị hiện nếu có đủ túc số những con người sống với tâm thức: “Chúng tôi không bắt buộc phải sống trong tình trạng hiện tại, và chúng tôi có quyền hạn lẫn quyền năng để thay đổi.”

Sự chuyển đổi tâm thức này đã khởi sự, mặc dù cho đến nay chủ yếu được thực hiện qua công nghệ. Tuy vậy, nó đã kích hoạt một chuyển đổi trong tâm thức tập thể, mở ra trong tâm trí mọi người tiềm năng thực hiện những sự thay đổi mà chỉ một thế hệ trước đây còn bị coi là quá sức loài người. Một khi con người bắt đầu nhận thức được là quyền năng của tâm thức còn lớn hơn cả công nghệ thì con sẽ thấy những thay đổi nhanh chóng.

Về mặt này, ngay cả các thủ thuật thẩm mỹ cũng đã có tác dụng hữu ích, như môn thể dục thể hình chẳng hạn. Ta không bảo là học trò của chân sư phải mua tạ về tập tành, phải bắt đầu ăn thịt sống hay thoa dầu lên thân thể sạch nhẵn không lông. Ta chỉ nói rằng bất cứ một hoạt động nào thách thức niềm tin cho rằng không có gì có thể thay đổi, đều có tác dụng – mặc dù đôi khi một cách kỳ lạ – giúp cho tâm thức tập thể mở ra với những tiềm năng của Thời đại Hoàng kim.

Vì vậy, không con ạ, con không bắt buộc phải sống với những gì con có. Tuy nhiên, những gì con làm để thay đổi cái con có luôn luôn phải tuân theo những ý tưởng mà ta vừa chia sẻ với con vừa rồi. Và như mọi khi, ta khuyên con nên khởi sự bằng cách thay đổi chính tâm con trước khi cố thay đổi bất cứ gì khác. Không dính mắc là một đức tính mà con nên trau dồi.

Làm thế nào tìm được người bạn đời “thích hợp”

Hỏi: Làm thế nào tìm được người bạn đời thích hợp? Liệu người ta nên không làm gì hết và chờ cho đến khi có người thích hợp bước vào đời mình, hay người ta nên tìm kiếm một cách tích cực cho dù không biết rõ tìm ở đâu hay tìm ai?

Có câu thành ngữ này giông giống nhất với một lời khuyên là câu: “Bạn phải hôn một trăm con cóc thì mới tìm ra một con biến thành hoàng tử (hay công chúa), nhưng trong tâm con lại bị dội bởi câu đó. Đâu là cách tiếp cận đúng đắn nhất từ một góc cạnh tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 26/10/2010.

Từ một khía cạnh tâm linh, cả hai cách tiếp cận thụ động và năng động như con vừa mô tả đều không xây dựng lắm. Thay vào đó, ta sẽ khuyên một cách tiếp cận chủ động, theo nghĩa là con tập trung vào sự tăng trưởng tâm linh của chính con. Con hãy lưu ý câu ta từng nói cách đây 2000 năm nhưng vẫn còn áp dụng được cho mọi điều con mong muốn trong cuộc sống: “Trước tiên hãy tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thượng đế, thì tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con.” (Matthew 6:33)

Thay vì mang trong tâm ý tưởng “tìm kiếm” người bạn đời thích hợp, con hãy thay đổi cái nhìn đó thành “từ hóa” [thu hút qua từ trường] người bạn đời thích hợp. Như chúng tôi, các chân sư thăng thiên, giảng dạy suốt trang mạng này, mọi thứ con nhìn thấy trên địa cầu là sự trải bày của tâm thức loài người. Mọi sự xảy ra trong đời con là sự trải bày của trạng thái tâm thức của chính con.

Tìm kiếm Nước Trời là ẩn dụ cho sự tìm kiếm tâm thức Ki-tô. Cho nên thay vì tập trung vào những gì con muốn từ ngoại cảnh, con hãy tập trung vào việc nâng cao tâm thức của mình, rồi qua đó con sẽ thu hút một cách không khó nhọc những gì con thực sự mong muốn.

Hầu hết mọi người đều bị lạc đường khi đi tìm người bạn đời “thích hợp” ở điểm là họ cho rằng người “thích hợp” đó là một người không khiến cho họ phải cải sửa bản thân. Họ tìm kiếm một người bạn đời sẽ bù đắp cho những khía cạnh chưa giải quyết trong tâm lý họ, hầu họ có thể cảm thấy mình trọn vẹn hay hạnh phúc mà không cần phải xem xét cái xà trong mắt mình. Nếu thật sự họ có thể tìm được một người như vậy, cuộc sống có thể sẽ thoải mái thật, nhưng sự tăng trưởng tâm linh sẽ bị thiệt hại.

Nếu con tìm người bạn đời dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của con, kết quả tất yếu sẽ là gì? Con sẽ thu hút một người bạn đời tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con. Điều này không có gì là dở – nếu con xem mọi chuyện như là cơ hội để tăng trưởng.

Nói cách khác, con đã thu hút người bạn đời đó vì tính tình của họ có thể làm nổi bật ra trong con chính xác những đặc điểm mà con cần thăng vượt để tiến về quả vị Ki-tô. Cho nên nếu con sử dụng quan hệ này như một cơ hội để tự thăng vượt, thì đây sẽ là một bước tiến trên đường tu của con. Tuy nhiên, nếu con rời bỏ “con cóc” đó và bắt đầu chạy đi tìm “con cóc đặc biệt trong số một trăm con”, thì con sẽ không tiến bộ mà sẽ chỉ thu hút cùng một loại người bạn đời như thế. Ta cam đoan với con là chuyện đó có thể lặp lại hơn một trăm lần qua nhiều kiếp đầu thai. Và tất nhiên, hoàn toàn không có gì bảo đảm là sau khi hôn một trăm con cóc, sẽ có một con biến thành hoàng tử hay công chúa. Nếu con nghi ngờ lời ta nói, con thử ra cái ao gần nhà nhất và khởi sự hôn cóc mà xem.

Điều ta muốn nói là hầu hết mọi người đều cho rằng mình đã sẵn sàng cho người bạn đời “thích hợp”. Thế nhưng đối với tuyệt đại số, điều này không đúng. Đa số sẽ phải đi qua một hoặc nhiều mối quan hệ cũng như một tiến trình tự thăng vượt chân thành, hầu có thể đạt đến một trạng thái tâm thức khả dĩ từ hóa được một người bạn đời “thích hợp” cho mình trong kiếp này.

Vậy chúng tôi muốn nói gì qua chữ “người bạn đời thích hợp” chứ? Đúng vậy, con có một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp này, và trong sứ vụ có hoạch định là con sẽ đạt được một mức tâm thức nào đó, rồi sẽ phụng sự đời sống ở mức tâm thức đó. Cho nên người bạn đời “thích hợp” cho con là người có khả năng giúp con đi bước chót dẫn con đến mức tâm thức mà con đã hoạch định cho kiếp này, và cũng là người sẽ giúp con phụng sự cuộc sống trong khả năng cao nhất của con. Thay vì chữ “thích hợp” với ý nghĩa tương đối, ta ưa dùng chữ “người bạn đời tâm linh” nhiều hơn.

Tuy nhiên, do con cần phải kinh qua một tiến trình để có thể từ hóa người bạn đời tâm linh của con – và do điều này thường đòi hỏi con sống qua mấy mối quan hệ – con cũng có thể nói là người bạn đời hiện tại của con luôn luôn là người bạn đời “thích hợp” cho con. Con đã từ hóa, đã thu hút, người đó vì họ là cơ hội lý tưởng để con đi bước kế tiếp trên đường tu cá nhân, và nếu con học được bài học cao nhất mà con có thể học từ mối quan hệ này, thì con đã tiến gần hơn đến việc từ hóa người bạn đời tâm linh của con. Vậy thì có gì dở đâu?

Cho nên nếu con cảm thấy con chưa tìm thấy người bạn đời “thích hợp”, con hãy nhận ra là con cần nhiều nỗ lực hơn để cải sửa tâm lý của mình. Xong con hãy ngừng mơ mộng mình sẽ tìm thấy hũ vàng ở cuối cầu vồng của trò chơi hẹn hò. Con hãy xắn tay áo lên và dồn hết nỗ lực để chữa lành tâm lý mình, để con tìm ra chính con. Tuyệt đối không có cách nào để con tìm được người bạn đời tâm linh cho đến khi con đã tìm ra chính con, cho đến khi con gần thể hiện được tiềm năng cao nhất của con trong kiếp này. Cho tới khi con tìm được Nước Trời trong bản thân con, cũng như sự công chính khi con mở khóa tiềm năng cao nhất trong kiếp này, thì cuộc tìm kiếm người bạn đời “thích hợp” sẽ không thu hút được người bạn đời tâm linh.

Đi tìm người bạn đời “thích hợp” mà không cố tự cải sửa cũng tựa như con cố đặt xe ngựa trước con ngựa vậy. Điều này không thể làm được. Điều CÓ THỂ làm được là con sử dụng những dụng cụ tâm linh nhằm chữa lành tâm lý được đăng tải trên trang mạng này và ở những nơi khác.

Tất nhiên, cách này sẽ chỉ hiệu quả nếu con thực sự sẵn lòng đi tìm người bạn đời “thích hợp” của con, có nghĩa là con sẵn lòng thực hiện những thay đổi cần thiết trên bản thân trước khi con thu hút được người bạn đời tâm linh thay vì một người chỉ phản ánh lại tâm lý chưa giải quyết của con. Dạng quan hệ cao nhất sẽ không xuất hiện trừ khi con làm việc trên tâm tính của mình. Nhiều người không sẵn lòng làm công việc này, cho nên họ tiếp tục mơ mộng một người bạn đời toàn hảo đến độ họ không phải tu sửa tâm tính. Khi nào con còn mơ mộng, thì con sẽ còn phóng chiếu những đức tính y như con tưởng là mình mong muốn mà không bao giờ có dịp đối chiếu với thực tế.

Đương nhiên, nếu ĐÓ là kinh nghiệm mà con muốn có cho tới hết kiếp này, ta sẽ không phản đối, vì ta tôn trọng Luật Tự quyết. Và trong trường hợp đó, con sẽ không cần lời khuyên của ta, và ta cũng không có lời khuyên nào cho con. Nhưng nếu ngược lại, con muốn chiêm nghiệm sự sống trong tiềm năng cao nhất của con – trong đó có việc thu hút người bạn đời tâm linh, và nhiều hơn thế nữa – ta có thể cống hiến rất nhiều cho con, bởi vì một trong những mục đích của Thời đại Bảo bình là nối kết những ai với tiềm năng cao nhất để họ hợp lại và chứng tỏ rằng một mối quan hệ tâm linh đích thực có thể thành công. Trong một quan hệ như thế, cả hai người đều nhân ta-lăng của mình lên cũng như nhân ta-lăng của người phối ngẫu, và họ đạt đươc một sự kết hợp cao hơn đa số người khác cho tới giờ.

Khi nào thời điểm thích hợp, Mary Magdalene – giờ đây là chân sư thăng thiên Magda – và chính ta sẽ ban ra những lời dạy mới về các mối quan hệ cao hơn. Nhưng không có lý do gì con phải chờ cho tới khi đó, vì hiện nay có nhiều lời dạy đã được ban ra về cách nâng cao tâm thức. Cho nên con hãy nỗ lực trở nên một người bạn đời tiềm năng tốt nhất, thì ta tin rằng rốt cuộc con sẽ thu hút được người bạn đời tâm linh của con. Hãy tìm thì con sẽ tìm thấy – câu này thật chí lý, nhưng chỉ khi nào con tìm kiếm ở trong chính mình.

Giáo lý nền tảng về quan hệ khi người bạn đời chống đối niềm tin tâm linh của bạn

Hỏi: Con cầu xin thày giúp con. Hoặc nếu chân sư hay Kim có thể trả lời thì con sẽ vô cùng biết ơn. Con là một người làm vợ và làm mẹ với mấy đứa con nhỏ, con đã đi trên hành trình tâm linh từ nhiều năm nay. Đã có một thời con tin đạo Cơ đốc Phúc âm (evangelical Christianity) là câu trả lời cho con. Con được “cứu rỗi”, gặp chồng con ở đó, kết hôn và sinh con. Con vẫn yêu chồng con tha thiết và con không có ý muốn sống xa anh ấy. Tuy nhiên, sự thức tỉnh nội tâm đã dẫn con đến giáo lý này, và con biết sâu trong tim mình đây là chân lý. Con không đang cố thuyết phục chồng con về lẽ thật trong những lời dạy này vì anh ấy là một tín đồ Cơ đốc đã “tái sinh”, một người đàn ông tốt, nhưng anh ấy không thực sự cởi mở và sẵn sàng chấp nhận bất kỳ loại giáo lý nào không ăn khớp với kinh điển trong sách. Con cố sống trọn với tình thương vô điều kiện và lời dạy chân thực của Giê-su trong khi con bước đi trên đường tu riêng của con dẫn đến tâm Ki-tô.

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chúng con đang gây ra cãi vã trầm trọng mỗi ngày. Chồng con nay đã hiểu là con không còn là người tin đạo theo đúng Kinh thánh nữa. Con hoàn toàn không muốn nói dối hay giữ bí mật nào đối với anh ấy – nhưng càng ngày con càng bị anh ấy tra khảo về niềm tin của con y như ở trạm công an vậy. Con tuyệt vọng, con không thể sống như thế này. Con sẽ không từ bỏ Chân lý để mong được chấp thuận và yêu thương, nhưng con yêu chồng và yêu con của con tha thiết, và con khiếp sợ là con sẽ mất cả chồng lẫn con, hoặc chồng con của con sẽ mất con, nhất là nếu gia đình chồng, một gia đình theo đạo Tin lành cực chính thống, cũng hùa theo anh ấy mà tra khảo con.

Hiện con không còn gia đình phía bên con nữa. Con lớn lên trong Giáo hội Lã mã và từ rất lâu con đã rời khỏi cách thờ phượng thần tượng đó, cho nên con đã mất đi sự hỗ trợ và tình thương của gia đình con. Con cảm thấy mình giống như Peter đi bộ trên mặt nước và chìm nghỉm. Con sợ hãi và cô đơn, rất nhiều ý nghĩ đen tối đang xâm nhập tâm con mà không phải là từ Thượng đế. Con không biết phải làm gì và phản ứng thế nào, nói làm sao. Con đã tìm xem thày Giê-su từng phản ứng như thế nào trước những lời buộc tội như khi thày phải đứng trước mặt Pilate, nhưng con thật sự không biết phải cư xử thế nào trong tình huống ngặt ngèo như thế này. Xin, xin thày giúp con. Làm thế nào con yêu được chồng con, làm thế nào sống an bình và biểu lộ an bình của Thượng đế giữa tình trạng này? Con phải làm gì đây?

Hiện giờ con kiệt quệ đến nỗi ngay cả chuyện thiền định và tìm kiếm câu trả lời trong tâm thức Ki-tô của con, con cũng không làm nổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 17/9/2010.

Trước tiên, con cần phải có quyết định chắc chắn là con sẽ không bao giờ lấy một quyết định có thể thay đổi đời mình trong khi con đang ở trong một tâm trạng rối loạn. Một khi con quyết định như thế rồi, con sẽ cảm thấy cường độ rối loạn của mình giảm xuống phần nào.

Việc tiếp theo mà con cần làm là nhìn nhận rằng trong bất kỳ tình huống nào mà con cảm thấy tê liệt và mất hết phương hướng nội tâm, cốt lõi của vấn đề nằm ở chỗ có một điều gì đó trong tình huống đó mà con không sẵn lòng nhìn vào.

Khi nào còn có điều gì mà con không sẵn lòng nhìn vào, thì con không thể nhận được sự chỉ đạo nội tâm rõ ràng. Có nghĩa là mức rối loạn của con sẽ chỉ gia tăng, cho đến khi nó dẫn đến môt cuộc khủng hoảng hay sụp đổ nào đó. Do đó, con cần nhìn ra đây là một vòng xoắn ốc đi xuống, và để phá vỡ vòng đi xuống này, con cần làm một điều gì đó mà con chưa làm cho tới nay.

Làm sao con phá vỡ được? Bằng cách lấy quyết định ý thức là con sẵn sàng nhìn vào mọi khía cạnh của tình huống. Cho nên, thay vì cưỡng lại sự chỉ đạo nội tâm, giờ đây con sẽ mở tâm trí và trái tim ra để nhận chỉ đạo nội tâm. Và khi đó, cái ta Ki-tô và các vị thày hướng dẫn con sẽ có căn bản để làm việc, thay vì trong lúc này phải tôn trọng quyền tự quyết của con và lui ra.

Làm thế nào con có thể tìm ra điều gì mà con chưa sẵn lòng nhìn vào? Trong mọi tình huống, hiển nhiên và trước nhất, con cần nhìn vào các nỗi sợ hãi của mình. Mọi sợ hãi là sợ hãi cái chưa biết, và cái chưa biết là cái mà con chưa sẵn lòng nhìn vào. Nếu con đã nhìn vào nó và đã tìm kiếm sự chỉ đạo Ki-tô, thì nó đã là cái biết rồi, và con đã giải quyết được nỗi sợ hãi của con.

Như luôn luôn, ta sẽ sử dụng câu hỏi đặc thù của con để đưa ra một lời dạy có thể hữu ích cho nhiều người, cho nên một vài điều ta nói ở đây sẽ không áp dụng trực tiếp cho người đặt câu hỏi. Tuy nhiên có một điều sẽ áp dụng được, đó là khi lá thư của con chứng tỏ rõ ràng con đang bị tê liệt vì con đang có hai nỗi sợ trái ngược nhau: Con sợ làm hại đến đường tu quả vị Ki-tô của con, và con sợ quan hệ của mình sẽ chấm dứt. Cho nên, hai nỗi sợ phối hợp lại có nghĩa là không có cách nào để con vừa bước trên đường tu mà vừa tiếp tục mối quan hệ.

Lý do con có nỗi sợ hãi đó là vì con tin rằng câu trả lời tùy thuộc vào thái độ cùng quyết định của chồng con. Vì thế con đã tự cho phép mình tin rằng kết cục của tình trạng này nằm ngoài tầm tay con, và không có gì mà con chọn làm sẽ thay đổi được tình thế. Thế nhưng ta muốn mọi người hiểu là con KHÔNG BAO GIỜ ở trong một tình thế mà con không có chọn lựa.

LUÔN LUÔN có điều gì đó mà con có thể làm, và đó là giành lấy quyền kiểm soát hoàn toàn trên cách phản ứng của mình đối với tình huống. Một khi con kiểm soát được phản ứng của con, con sẽ thấy là các nỗi sợ của con không còn nữa, và cách con tiếp cận tình huống sẽ hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách tự giải phóng mình để tìm ra một cách đáp ứng tình huống cao hơn, rất có thể – không chắc chắn nhưng rất có thể – là con cũng sẽ giải phóng chồng con để anh ấy tìm ra một cách đáp ứng cao hơn. Con ở trong một quan hệ và trong quan hệ luôn luôn có hai người. Cho nên cách phản ứng của chồng con không chỉ là sản phẩm của tâm lý anh ấy, mà cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi phản ứng của con, và phản ứng này đến từ tâm lý con.

Điều kế tiếp con cần làm là xem xét nghiêm túc cách con nhìn đường tu cá nhân của mình. Liệu con có, giống như nhiều người khác, nhìn nó như là một con đường vỏ ngoài, qua đó con mở mang kiến thức rồi chấp nhận và tin tưởng một số ý tưởng, chẳng hạn như những giáo lý được tìm thấy trên trang mạng này. Hay liệu con, như ta đã mô tả suốt trang mạng này, bắt đầu nhìn ra cốt lõi đích thực của đường tu cá nhân là một tiến trình xảy ra bên trong con. Nói cách khác, con có thấy một phần cơ yếu của con đường quả vị Ki-tô là đạt được kiểm soát toàn diện trên cách phản ứng của mình trước những điều kiện của thế gian? Đây là thông điệp nền tảng mà các chân sư thăng thiên đã giảng dạy từ thời đức Phật.

Thể hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là gì? Có nghĩa là ông hoàng của thế gian không nắm được gì nơi con, vì cho dù y có ném gì vào con, y cũng không thể buộc con có một phản ứng thấp kém hơn tình thương. Tình thương là phương thuốc sẽ tống khứ mọi sợ hãi. Khi con có thể đáp ứng bằng tình thương, con giải phóng cho người bạn đời lẫn chính con tìm ra một cách đáp ứng cao hơn – nếu người kia chọn làm như vậy.

Con có thấy điều ta đang nói không? Một mối quan hệ là một trong những cách hiệu quả nhất để dạy con người kiểm soát phản ứng của mình. Cho nên khi con quan hệ với một người chống đối niềm tin tâm linh của mình, điều này không nhất thiết là một trở ngại trên con đường quả vị Ki-tô của con. Nó có thể – nếu con chọn cách tiếp cận như vậy – là một cơ hội tuyệt diệu để kiểm soát phản ứng của mình và tự dạy mình phản ứng lại mọi tình huống với tình thương. Nói cách khác, con hoàn toàn có khả năng ở lại trong một quan hệ mà vẫn bước đi tiếp trên con đường quả vị Ki-tô. Có thể con còn tinh tấn nhanh chóng hơn trong một quan hệ khó khăn thay vì dễ dàng.

Lý do ta nói điều này là để cho con niềm hy vọng là quả thực con có thể tiếp tục mối quan hệ mà vẫn theo đuổi quả vị Ki-tô. Điều đó sẽ giảm bớt nỗi sợ hãi của con, hầu con có thể xem xét sợ hãi này kỹ lưỡng hơn. Thực tế là nếu con sợ quan hệ sẽ chấm dứt, chính sợ hãi đó có thể khiến con làm tổn hại đến đường tu của con, qua đó ta muốn nói là việc mình cam chịu do mình sợ hãi KHÔNG giống như việc nắm lấy kiểm soát phản ứng. Nhiều người đã cho phép nỗi sợ hãi khiến mình khuất phục, và có người còn nghĩ rằng bởi vì thái độ này không hung hãn cho nên nó giống như một đức tính Ki-tô, nó tâm linh và yêu thương. Nó không phải là cả hai.       .

Cho nên con cần đạt tới một điểm khi con không khuất phục do sợ hãi, và cách duy nhất để làm điều này là nhìn vào nỗi sợ hãi. Vậy thì chúng ta hãy thử xem xét nỗi sợ hãi là mối quan hệ có thể chấm dứt.

Thực tế – một thực tế phũ phàng nhưng không thể tránh được – là hầu hết những người bước đi trên đường tâm linh sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng quan hệ. Điều này đặc biệt đúng cho những mối quan hệ đã khởi đầu trước khi con tìm thấy đường tu hoặc trước khi con tiến một bước dài. Lý do là vì khi con tiến một bước dài, người bạn đời của con sẽ cảm được điều đó. Và nếu người đó không sẵn sàng cùng tiến bước với con thì nó sẽ hiện ra như là mối đe dọa. Khi đó sẽ có nguy cơ là người đó lo sợ đánh mất con, khiến họ tìm cách hạn chế các hoạt động tâm linh của con.

Có nhiều người tầm đạo đã trải qua kinh nghiệm này, và nhiều người cũng đã cho phép nó chấm dứt quan hệ của mình. Tuy nhiên trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc chấm dứt như vậy hoặc là không cần thiết, hoặc là quá vội vàng. Hãy cho ta giải thích.

Là một người tầm đạo, điều hoàn toàn hợp lý là con có thể kết thúc một mối quan hệ để nhảy một bước tiến thật dài, hay do hệ quả của một bước tiến thật dài. Ta từng cư xử như vậy khi ta đang thuyết giảng trước đám đông thì mẹ và anh chị em của ta đã bước vào bảo ta nên ngừng lại và xử sự như người bình thường. Ta đã trả lời, những ai lắng nghe và làm y theo lời của Thượng đế là gia đình thực sự của ta. Điều này phần nào cũng sẽ đúng cho bất kỳ người tầm đạo nào – vì sẽ có những thời điểm trên hành trình tâm linh khi con cần bước tới và bỏ lại đằng sau một số người.

Tuy nhiên – và đây là chữ TUY NHIÊN thật lớn – điểm này không bao giờ được sử dụng như một cái cớ để tháo chạy một tình thế khó khăn. Sự thật là nhiều người tầm đạo đã dùng gương của ta để bào chữa cho việc mình kết thúc một mối quan hệ. Họ muốn bước ra khỏi mối quan hệ nhưng lại không sẵn sàng thừa nhận chuyện đó, cho nên khi người bạn đời bắt đầu phản đối hoạt động tâm linh của họ (thường là những hoạt động không cân bằng), thì điều này trở thành một cái cớ thuận tiện để chấm dứt mối quan hệ. Thật là quá dễ đổ lỗi việc đổ vỡ cho người kia đã không chịu chấp nhận các hoạt động tâm linh của mình. Hiển nhiên, đây chỉ đơn giản là ngón bịp bợm cố hữu của tự ngã quy trách nhiệm cho một ai khác, và điều này sẽ không đem lại tinh tấn tâm linh cho dù con có tìm cách biện minh đến đâu.

Nếu con muốn rời khỏi một mối quan hệ, tất nhiên là con có quyền chọn lựa như vậy, nhưng con hãy công nhận đó là chọn lựa của con và đừng quy trách nhiệm cho ai khác.

Vậy con có thấy điều ta muốn nói? Một đằng, con cần giữ trong tâm khả năng là mối quan hệ có thể sẽ kết thúc, nhưng đằng khác con cũng cần tránh quyết định với tâm vỏ ngoài và khiến cho quan hệ chấm dứt quá vội vàng. Làm thế nào tìm ra thế cân bằng đây? Trước hết, con hãy quyết định là con sẽ không có quyết định nào để chấm dứt quan hệ, và sau đó con hãy quyết định là con sẽ ngừng đặt trọng tâm vào việc thay đổi người bạn đời của con, và thay vào đó, con sẽ tập trung tất cả sự chú ý của mình vào việc điều ngự cách phản ứng của chính mình trong quan hệ.

Điểm con muốn hướng tới là đối với con, dù mối quan hệ có tiếp tục hay chấm dứt cũng không quan trọng gì nữa. Bởi vì con đã hoàn toàn làm chủ được phản ứng của mình, cho nên con tìm được sự an bình và hạnh phúc nội tâm một cách độc lập khỏi người kia.

Một khi con tìm được an bình nội tâm này và học được cách chỉ đáp ứng bằng tình thương, rất có thể người bạn đời của con cũng sẽ thay đổi và cuộc khủng hoảng sẽ đi qua. Tuy nhiên, vì tất cả mọi chuyện đều phụ thuộc vào quyền tự quyết, cho nên người kia vẫn có thể không muốn thay đổi. Như vậy, chính người đó sẽ có thể chấm dứt quan hệ, hoặc mối quan hệ sẽ giải thể một cách có vẻ tự nhiên. Điều ta muốn nói ở đây là con hãy đặt trọng tâm vào cách phản ứng của mình và tránh lấy quyết định với tâm vỏ ngoài. Con nỗ lực tìm an bình nội tâm và mặc cho mọi chuyện tự nó trải bày ra.

Điều này có nghĩa là cho dù quan hệ có kết thúc, con sẽ vẫn an bình. Và để đạt tới điểm đó, có thể con sẽ cần nhìn vào nỗi sợ hãi của mình và vượt xuyên qua nó. Cách hay nhất là con hãy tự hỏi, “Điều gì là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra cho tôi?” Xong con hãy để cho kịch bản đó trình diễn trong tâm con cũng như cách con sẽ đối phó về mặt lý trí lẫn xúc cảm. Bằng cách cho phép con sống qua nỗi sợ hãi, cuối cùng con sẽ đi xuyên qua nó và nhận ra là kịch bản tồi tệ nhất vẫn không đến nỗi đáng sợ như con tưởng. Quả thật, con có khả năng sống sót qua cơn sợ, thậm chí con sẽ vẫn tiến bước nếu nó xảy ra.

Trở về với trường hợp mô tả trong thư, điều cũng cần thiết là xem xét một yếu tố khác nữa mà nhiều người có thể không sẵn lòng nhìn nhận. Thực tế phũ phàng là đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist Christianity) hoàn toàn xa cách với thực tại của Ki-tô. Ít phong trào tôn giáo nào trên hành tinh mà lại phán xét một cách hung hãn đến như vậy, có nghĩa là nhiều tín đồ cực chính thống đã mở tâm mình ra cho quỷ địa ngục xâm nhập vào. Những con quỷ này hoạt động ráo riết thông qua nhiều tín đồ cực chính thống, thậm chí cả nhiều nhà thuyết giáo, và thực sự họ bị sử dụng làm công cụ để khuấy động xung đột. Do đó, một điều cần thiết và chính đáng là con sử dụng các bài thỉnh và bài chú mà chúng tôi đã đăng tải trên trang dụng cụ để cầu thỉnh cho chồng con được giải vây khỏi những con quỷ này và được bảo vệ.

Một lần nữa, điều quan trọng là con làm những việc trên mà không sợ hãi, và con có khả năng khắc phục nỗi sợ bằng cách con nhận ra là những con quỷ đó không có quyền năng gì trên con một khi con làm chủ được phản ứng của mình. Tuy nhiên cho tới khi đó, điều quan trọng là con cũng cầu gọi sự bảo vệ và sự cắt đứt những sợi dây buộc trói con, buộc trói con cái, chồng và gia đình của con. Con cũng có thể kêu gọi ta đến phán xét những thế lực đã lạm dụng danh ta hầu biện minh cho những hành vi không Ki-tô. Con hãy sử dụng bài thỉnh Đại thiên thần Michael và bài thỉnh cho kẻ tố cáo người anh em. Nhưng con cũng hãy dùng những bài thỉnh nhẹ nhàng hơn như bài thông sạch con tim, và bài về tình thương vô điều kiện.

Bây giờ đến bước chót. Một khi con đã cầu thỉnh sự bảo vệ và con đã đạt được một khả năng kiểm soát nào đó trên phản ứng của mình, con sẽ cần nói chuyện với chồng con. Tuy nhiên, con cần lưu ý là chuyện này sẽ không khả thi hay sẽ không xây dựng cho tới khi con kiểm soát được phần nào phản ứng của con. Vì nếu không, rất có thể nó sẽ biến thành một cuộc đối đầu khiến cho khủng hoảng chỉ càng leo thang.

Vậy khi tình thế có vẻ mang tính xây dựng, con hãy nói chuyện với chồng con về hai điều. Trước hết, hãy thử hỏi anh ấy xem liệu anh có nghĩ là cách hành xử của anh đối với con phù hợp với lý tưởng của Ki-tô hay không. Liệu anh có thực sự chìa má kia ra, hay anh lại là người cứ đánh con tới tấp trên một má trong khi con chìa má kia? Con hãy cho anh thấy là con không tìm cách thay đổi niềm tin của anh, nhưng anh lại không làm vậy đối với con.

Có thể anh sẽ trả lời là bởi vì con sẽ bị xuống địa ngục do không có đức tin, cho nên anh ấy đang làm y như Giê-su muốn anh làm. Con thử hỏi anh ấy xem liệu anh nghĩ Giê-su có tôn trọng quyền tự quyết của con người hay không? Liệu anh thực sự tin là Ki-tô muốn anh coi thường quyền tự quyết của con? Thử hỏi anh xem anh sẽ cảm thấy thế nào nếu có ai đó hung hãn bắt anh phải chối bỏ niềm tin Cơ đốc giáo của anh? Liệu anh sẽ coi đó là một việc phải? Nếu không thì liệu anh có thấy là nếu anh không muốn ai buộc anh phải thay đổi niềm tin, thì anh cũng nên làm cho người khác những gì anh muốn người khác làm cho anh. Và khi anh tấn công niềm tin của con hung hãn, anh không đang tuân thủ điều răn của ta.

Con cũng hãy hỏi, liệu Ki-tô có muốn anh trù rủa vợ anh, hay là Ki-tô muốn anh tìm ra cách sống chung hòa bình cho dù không cùng chung tín ngưỡng? Con có thể nhắc anh là ta đã dạy mọi tín đồ Cơ đốc hãy thương yêu nhau như ta thương yêu họ, và ta thương yêu mọi người bất kể tôn giáo, và đó là tại sao ta đã dang rộng vòng tay với người Samaritan, người La mã, những người thu thuế và đủ loại người tội lỗi.

Điểm tiếp theo mà con đề cập là tình cảm của anh ấy đối với con. Trước hết, con hãy nói rõ tình cảm của con đối với anh, như con đã mô tả trong thư. Rồi con xin anh thành thật nói cho con biết tình cảm của anh đối với con như thế nào. Hồi đó có thể là hai con đã không bao giờ kết hôn nếu cả hai không được “cứu rỗi”, nhưng bây giờ thì tình cảm của anh ra sao? Liệu anh có yêu con người của con, hay anh yêu con với điều kiện con được “cứu rỗi”? Liệu anh có thể tách rời con người của con và tư cách tín đồ của con? Liệu anh còn yêu con như con thực là, và liệu tình yêu của anh có đủ sâu đậm để cho phép con đi theo một con đường sống mà anh không hiểu? Liệu anh có yêu con đủ để cho con tự do đi theo con đường nội tâm của con, y như con cũng yêu anh đủ để cho anh đi theo con đường của anh?

Nếu anh trả lời là anh yêu con vì con người của con, thì kết luận hiển nhiên là cả hai cần cố gắng tìm ra cách sống với nhau trong tình yêu và tôn trọng, thay vì cứ liên tục cãi vã và đổ lỗi cho nhau. Nếu anh thành thật nói rằng anh không còn yêu con nữa vì con không được “cứu rỗi”, thì hiển nhiên hai con cần nói chuyện xem mối quan hệ này còn ý nghĩa gì nữa không.

Ta cũng hiểu là một cuộc đối thoại mang tính quyết định như vậy có thể khiến con lo lắng, căng thẳng. Đó là tại sao ta đã khuyên con hãy cố gắng điều ngự phản ứng của mình, hầu con có thể nói chuyện với chồng con mà vẫn hoàn toàn an bình cho dù kết cục có như thế nào. Con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài – có nghĩa là an bình nội tâm và làm chủ phản ứng – và tất cả mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.

Bất kỳ đối thủ nào cũng là sản phẩm của trạng thái tâm con

Hỏi: Con có một câu hỏi rất quan trọng. Khi nhìn ngược về lịch sử, chúng ta thấy nhiều lần con người bị tấn công dữ dội do niềm tin của mình. Chẳng hạn hàng ngàn hay hàng triệu người đã bị thiêu sống. Nước Đức của Hitler có hàng triệu người bị giết hại. Và cả trại tập trung nữa. Và bây giờ có thể trong thế giới văn minh hơn, chúng ta có bác sĩ tâm thần? Bác sĩ tâm thần có phải là mối đe doạ cho chúng ta không?

Con gặp một tình huống vô cùng khó chịu khi con nói chuyện về những phép lạ mà con chiêm nghiệm khi sử dụng các giáo lý, kỹ thuật của thày cùng các chân sư khác. Có một người ghét con đến độ họ bảo con bị bệnh tâm thần và người ta phải nhốt con vào bệnh viện tâm thần… và con bắt đầu nghĩ có lẽ sắp tới lúc mình phải gặp bác sĩ tâm thần. Có lẽ chúng con là học trò tâm linh phải sẵn sàng trước tình thế này?

Và đây là câu hỏi quan trọng: Liệu bác sĩ tâm thần có phải là mối đe doạ cho chúng ta? Việc họ nhốt người ta vào bệnh viện tâm thần do niềm tin tâm linh vào phép lạ có hợp lý không? Đối với nhiều người, việc đó thật kỳ lạ, thậm chí đáng tởm. Và chúng ta phải đối phó thế nào với đe dọa đó, nếu đó là một đe dọa?

Vậy làm thế nào để hét to cho mọi người nghe được khi chúng ta bị đe dọa như vậy? Làm thế nào chúng con nói lớn về Nước Trời như thày? Thượng đế có phải là người bảo vệ an toàn cho chúng con? Hay có lẽ đó là rủi rỏ và cái giá mà chúng con phải chịu vì Nước Trời và cứu rỗi? Chắc hẳn là có nhiều rủi ro và đe dọa như vậy? Và làm thế nào vượt qua sợ hãi? Xin thày giải thích. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/8/2010.

Chúng ta hãy nhìn vấn đề này ở mức độ cá nhân và mức độ xã hội, trước hết là cá nhân. Nếu con, với tư cách một người tâm linh, muốn các bác sĩ tâm thần là mối đe dọa cho con, thì theo Luật Tự quyết, con hoàn toàn có quyền có trải nghiệm đó. Bất kỳ hình tư tưởng nào mà con phóng ra tấm gương vũ trụ cuối cùng sẽ được phản chiếu trở về con dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất.

Như chúng tôi, các chân sư, đã đề cập nhiều lần và từ nhiều khía cạnh khác nhau, một số hành giả tầm đạo vẫn bị mắc kẹt, hoặc it nhất bị phần nào mù quáng, trong tư duy cuồng đại. Trong khung tư duy này, con cố tình – nhưng tâm ý thức của con không hề hay biết – tìm kiếm một đối thủ, một kẻ thù mà con có thể chỉ định làm mối đe dọa, để con có cái cớ mà không nhận lấy hoàn toàn trách nhiệm về trạng thái tâm con. Chẳng hạn, con có thể trong tiềm thức tin rằng con không thể bình an hoặc biểu đạt được tâm Ki-tô của con bởi vì một số điều kiện ngoại cảnh không hội đủ. Những điều kiện này không hội đủ là vì có một đối thủ đang chống lại những điều kiện “toàn hảo” sẽ cho con sự an bình hay tâm Ki-tô mà con đang thiếu. Và như vậy, con có cái cớ để tập trung vào việc giao chiến với đối thủ đó thay vì thể hiện tâm Ki-tô của con – là điều mà đáng lý con phải làm bất kể mọi điều kiện ngoại cảnh, vì TẤT CẢ mọi điều kiện vật chất đều chống lại sự biểu hiện tâm Ki-tô.     

Kỳ thực, đối thủ đó không hề có, nhưng vì thế gian đang bị tác động quá nặng bởi tư duy nhị nguyên, nên con luôn luôn có thể tìm thấy một ai đó có vẻ là đối thủ của con. Lý do là vì chính con là người đã tạo ra hình tư tưởng về một đối thủ nguyên mẫu. Và bởi vì con không chịu nhận trách nhiệm về tình trạng tâm con, con tự thuyết phục là thật sự có một đối thủ đang sẵn sàng nhảy bổ vào con bất cứ lúc nào, không liên quan gì tới trạng thái trong tâm con.  

Khi con phóng chiếu hình tư tưởng này vào xã hội nơi con sinh sống, thế nào cũng có một ai đó có vẻ như xác nhận hình tư tưởng của con là đúng – và như vậy con chỉ định người đó, hay nhóm người đó, là đối thủ cá nhân của con. Con càng “đánh nhau” với đối thủ bao nhiêu thì hình như đối thủ càng đánh lại bấy nhiêu (và trong một số trường hợp, đối thủ sẽ đánh lại thật do chính họ cũng có người bị kẹt trong tư duy nhị nguyên). Như vậy, mọi hành động của đối thủ dường như xác nhận hình tư tưởng là người đó thực sự là đối thủ của con.

Cuộc vật lộn này sẽ kéo dài bao lâu? Đúng vậy, do phần vật lộn của con thực sự diễn ra trong tâm con, cho nên nó sẽ phải tiếp diễn cho tới khi con quyết định con đã chán ngấy trải nghiệm đó và con quyết định xét lại những hình tư tưởng mà con phóng ra. Như ta có trình bày trong một câu trả lời khác, một số người đã biến chính quyền của họ thành đối thủ, và cuộc vật lộn này sẽ không bao giờ đem lại Thời Hoàng kim.

Không một vị thày tâm linh nào sẽ có thể thuyết phục được con là cuộc giao chiến của con chỉ xảy ra trong tâm con cho tới khi con sẵn lòng xem xét cách con nhận thức cuộc sống, là cách con nhìn cuộc sống xuyên qua cái tư duy nhị nguyên cho rằng phải có một đối thủ. Việc xem xét này có thể khiến con nhận ra là nhận thức về cuộc sống không phải là một sinh hoạt thụ động, qua đó con đứng nhìn ngoại cảnh như một cái gì hiện hữu độc lập với tâm con. Kỳ thực, đó là một sinh hoạt tích cực qua đó con phóng chiếu hình tư tưởng vào tấm gương vũ trụ, và tấm gương này chỉ phản chiếu lại dưới một hình thức trông như ngoại cảnh. Điều này đã được cơ học lượng tử chứng minh – cho những ai sẵn sàng “nhìn” vượt khỏi nhận thức của mình.

Tất nhiên, như được giải thích ở nơi khác, nhận thức được sinh ra từ một trạng thái nào đó của tâm, và một khi cái Ta Biết tự đồng hóa với trạng thái này, nó sẽ “nhìn” xuyên qua phin lọc của tự ngã. Còn tự ngã thì không bao giờ có khả năng chất vấn trạng thái đã sinh ra nó. Và như vậy, tự ngã sẽ không bao giờ thăng vượt được tâm thức mong muốn một đối thủ. Điều này có nghĩa, lối thoát duy nhất là cái Ta Biết phải tự nhận diện nó là tỉnh giác thuần khiết, không những đứng vượt ngoài nhận thức của tự ngã, mà vượt ngoài cả trạng thái nơi tự ngã khởi lên.  

Nếu con nghiên cứu trạng web này kỹ lưỡng, con sẽ thấy ta đã nhiều lần cảnh báo các hành giả tầm đạo là phải cố gắng cân bằng, tránh cực đoan. Nếu con nghe theo lời khuyên này, các bác sĩ tâm thần sẽ không trở thành mối đe dọa cho con đâu, và con sẽ không có nguy cơ bị “nhốt trong bệnh viện tâm thần”. Lý do thật giản dị. Một bác sĩ tâm thần làm đúng theo khoa mình sẽ không đánh giá tín ngưỡng tâm linh hay tôn giáo của con, bởi vì bác sĩ tâm thần được huấn luyện để coi mọi tin tưởng là sản phẩm của tâm (điều này không sai, như ta vừa giải thích, đối với một người chưa đạt được tâm thức Ki-tô).

Cho nên, dù con hay những người quanh con có thể xem niềm tin tâm linh của con là kỳ lạ, một nhà chuyên nghiệp về tâm thần sẽ không nhìn vào những niềm tin đó mà sẽ tập trung vào cách cư xử của con. Chỉ khi nào có mối liên hệ rõ ràng giữa niềm tin và cách cư xử mất quân bình hay cực đoan, thì niềm tin của con mới được xét đến. Và ngay cả khi đó, bác sĩ tâm thần cũng sẽ không có vấn đề gì với niềm tin của con mà sẽ chỉ xem xét nó hầu hạn chế cách cư xử mất quân bình.

Tất nhiên ở đây, ta chỉ nói tới các bác sĩ tâm thần đúng đắn với nghề nghiệp, và đối với họ, mọi tín ngưỡng đều là sản phẩm của tâm, thậm chí cả tín ngưỡng cho rằng không có Thượng đế cũng là sản phẩm của tâm. Đương nhiên, sẽ có một số bác sĩ tâm thần không giữ được khoảng cách nghề nghiệp đó khi họ tin rằng niềm tin vào chủ nghĩa duy vật không phải là một niềm tin mà là thực tại. Và những kẻ duy vật “ngoan đạo” này có thể trở thành cuồng tín không khác gì những tín đồ “ngoan đạo” trong tôn giáo.

Nhưng điều ta muốn nói ở đây là khuyên mọi hành giả tầm đạo nên cố gắng cân bằng, và điều này thực sự có nghĩa là thăng vượt tư duy nhị nguyên cũng như cuộc tranh đấu cuồng đại. Nếu con cho phép con giữ mãi tư duy cuồng đại thì ở buổi bình minh của Thời đại Bảo bình, con sẽ bị tâm thức tập thể đang tăng mạnh “bắt buộc” tư duy cuồng đại đó ngày càng trở nên cực đoan thì mới duy trì được, với kết quả là hành vi của con sẽ mất quân bình hơn nữa, thu hút sự chú ý của các nhà tư vấn, tâm lý, tâm thần, thậm chí cả nhân viên pháp luật.      

Rồi nếu con phản ứng lại tình thế đó trong tư duy cuồng đại, con sẽ chỉ định những nhà chuyên nghiệp đó – là những người nói chung chỉ cố làm phận sự của mình – là những đối thủ mới của con, và con sẽ lại dùng các niềm tin cuồng đại để biện minh cho những hành vi cực đoan hơn. Điều này hẳn sẽ đưa con vào một cơn xoắn ốc tiêu cực có thể đem con vào trại tâm thần hay nhà tù (trong những trường hợp cùng cực, nó có thể dẫn đến tự vận mà người ta gọi là “tự vận do cảnh sát phụ lực”). Ta mong là những học trò chân chính của trang web này sẽ tránh khỏi cơn xoáy lốc đó. Tất nhiên, ta cúi đầu trước Luật Tự quyết cũng như sự kiện con cần trải nghiệm mọi chuyện con muốn hầu vượt qua tư duy cuồng đại. Một số người thực sự phải đưa tư duy này cho đến cùng cực trước khi ngộ ra là họ không còn muốn vật lộn với một đối thủ nào nữa, và khi đó, họ sẽ quyết định từ bò cái tư duy đã tạo ra đối thủ (và do đó đã “bắt buộc” tấm gương vũ trụ phải gửi về họ một đối thủ bằng xương băng thịt).  

Ta cũng thấy được là một số người có thể chỉ vào cuộc đời của ta, hoặc tiền kiếp của một số chân sư khác, và bảo rằng đã là Ki-tô thì phải có lập trường không khoan nhượng. Nhưng giữ vững lập trường cho sự thật KHÔNG đồng nghĩa với hành vi mất quân bình hay cực đoan. Quả là đã có rất nhiều người đã giữ lập trường cương quyết rồi bị bức hại, nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy họ không giữ vững một lập trường phát xuất từ tâm trạng mất quân bình. Tương tự, con cũng tìm thấy nhiều người tin chắc là mình ùng hộ những nguyên lý cao cả, nhưng kỳ thực họ bị sai khiến bởi nhu cầu của tự ngã muốn chiến đấu hoặc muốn tâng mình lên cao hơn mọi người.     

Nói cách khác, hành động bên ngoài nhằm giữ vững lập trường có thể mang động cơ là tâm Ki-tô hay tâm vị kỷ. Và chỉ những ai cố giữ quân bình mới có thể tránh rơi vào cái bẫy mà tự ngã đã cài đặt, là “giữ vững lập trường” cho hình tư tưởng của mình thay vì cho sự thật cao cả. Đâu là sự khác biệt? Một điểm sẽ giúp con lượng định là sự sẵn lòng tha thứ những ai đã hành hạ mình. Người bị tự ngã sai khiến sẽ nhảy vào đấu tranh nhị nguyên, sẽ quy trách nhiệm và đổ lỗi cho bên ngoài, và do đó sẽ không sẵn lòng tha thứ (thật vậy, chính mong muốn quy trách nhiệm của tự ngã đã khiến người đó giữ vững lập trường). Ngược lại, người thực sự đến từ tâm Ki-tô sẽ sẵn sàng tha thứ, như trong câu ta đã nói: “Thưa Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết họ làm gì”. Con cũng có thể nghiên cứu cuộc đời của Thomas More đã hoàn toàn tha thứ nhà vua ích kỷ đã kết án ông tử hình.    

Ngày nay chúng ta đang đi vào một thời đại khi con người ngày càng có thể giữ vững lập trường của mình mà không rơi vào lối cư xử quá khích. Nói cách khác, cho dù người ta, hay thậm chí cả xã hội rộng lớn, có thể xem quan điểm của con là cực đoan, cách cư xử của con không bắt buộc phải cực đoan. Đúng hơn, thời nay con sẽ có tác động lớn lao hơn nếu con giữ vững lập trường một cách quân bình, và con dạy dỗ một cách tiếp cận tâm linh quân bình – thay vì một cách có thể bị xem là cuồng tín. Lịch sử đã chứng kiến quá nhiều người cuồng tín theo đạo. Điều cần thiết trong thời đại Bảo bình là có những con người có khả năng làm sáng tỏ các nguyên lý tâm linh để quần chúng có thể hiểu và liên hệ được – do nó vang dội và đánh thức một cái gì đó trong lòng quần chúng.

16 | Thỉnh cầu viễn quan về quả vị Ki-tô cá nhân

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng, đặc biệt là Giê-su, hãy giúp con khắc phục các ảo tưởng ngăn cản con chấp nhận và biểu lộ quả vị Ki-tô của con, kể cả…

[đọc nơi đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Phần 1

1.1. Giê-su, hãy giúp con thấy là các tà lực cực kỳ không muốn con vươn tới mức nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy con có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.2. Giê-su, hãy giúp con thấy là tà lực sợ điều đó tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.3. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại phán xử Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Hãy giúp con nhìn ra việc đối đầu với sa nhân, như thày từng làm, có nghĩa gì đối với con ngày hôm nay.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Hãy giúp con thấy đó không là một quyết định với tâm vỏ ngoài. Nó phải đến từ bên trong, và nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết chấn thương nhập đời mà sa nhân đã dùng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.5. Giê-su, hãy giúp con thấy có một cơ chế có thể khiến con cho rằng con chỉ cần đạt được càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh. Hãy giúp con nhìn ra liệu con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng đồng thời sự đột phá tối hậu vẫn nằm ở đâu đó trong tương lai.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.6. Giê-su, hãy giúp con xoay chuyển cách mạng và nhận diện chấn thương nhập đời là điều đang quy định con như một sinh thể đầu thai trên địa cầu. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.7. Giê-su, hãy giúp con xoay chuyển và nhận ra, sẽ đến lúc con biết từ bên trong rằng bước kế tiếp là con nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời đó. Con lấy quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó, và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.8. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra cảnh huống cá nhân đã gây ra chấn thương nhập đời cho con, hầu con phơi bày sự phân rẽ do sa nhân tạo ra trong bản thể con. Hãy giúp con thấy cốt lõi của phân rẽ này là lòng ngờ vực mà sa nhân đã cài đặt.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

1.9. Giê-su, hãy giúp con thấy ý định tốt đẹp nhất của con đã bị sa nhân lợi dụng để gây chấn thương khiến con nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Tôi có quyền đến đây chăng? Người ta có đón nhận tôi ở đây chăng? Tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Tôi có cần trở thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?”

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 2

2.1. Giê-su, hãy giúp con thấy những khi con nhanh chóng ngờ vực chính mình. Hãy giúp con nhận diện xem con có xu hướng ngờ vực chính mình khi con ở gần những người có tính tình áp đảo luôn tin chắc là họ đúng.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.2. Giê-su, hãy giúp con thấy khi nào con rơi vào một vòng luẩn quẩn do tâm đường thẳng tạo ra, vì tâm này luôn luôn có thể nghĩ ra những luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.3. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra khi con có xu hướng nghi ngờ như vậy, tâm phân tích luôn luôn có khả năng đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, tại sao con không nên lên tiếng hay thách thức người kia.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.4. Giê-su, hãy giúp con thấy rằng, vì mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng, cho nên với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.5. Giê-su, hãy giúp con thấy điều sa nhân tuyệt đối không muốn là con đạt được một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.6. Giê-su, hãy giúp con thấy là chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những nghi ngờ của con về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.7. Giê-su, hãy giúp con xem xét nỗi nghi ngờ và thấy được là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng này là một ảo tưởng vì nó nhị nguyên.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.8. Giê-su, hãy giúp con thấy quan điểm nhị nguyên có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Hãy giúp con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên, bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực ngược lại. Con thấy cả đối cực đã gây ra ngờ vực trong con, lẫn đối cực ngược lại. Có nghĩa là cả hai không là thực tại tối hậu.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

2.9. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra là trong chấn thương nhập đời, con đã khoác vào một niềm tin nhất định khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây. Hãy giúp con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống mãi mãi.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 3

3.1. Giê-su, hãy giúp con lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể tôi.” Hãy giúp con lựa bỏ sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt ở đây.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.2. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu sa nhân đã khiến con nghĩ rằng vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu, cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Hãy giúp con thấy liệu con có nghĩ mình phải toàn hảo, cho nên nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.3. Giê-su, hãy giúp con thấy là trong bản thể con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã trải qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.4. Giê-su, hãy giúp con thấy con không giống như sa nhân, cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế, nhưng con có quyền thách thức sa nhân.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.5. Giê-su, hãy giúp con thấy điều này không có nghĩa là con buộc tội sa nhân sai trái theo chuẩn mực của chúng, mà có nghĩa là con nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách bạn nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách bạn nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức bạn đang có.”

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.6. Giê-su, hãy giúp con phát triển sự phân biện dựa trên khả năng đọc độ rung, và nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Hãy giúp con nói lên đó không phải là quan điểm cao nhất, mà có một giải pháp thay thế.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.7. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của con. Hãy giúp con khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, hầu con có thể giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.8. Giê-su, hãy giúp con thấy là khi sa nhân cảm thấy bị thách thức, bản năng sẽ khiến chúng buộc tội và tấn công con một cách cá nhân. Hãy giúp con thấy là trước tấn công cá nhân đó, việc ứng phó sẽ khó khăn khi nào con còn mang ngờ vực trong bản thể con.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

3.9. Giê-su, hãy giúp con nhận ra là con có quyền ở đây, và trong bản thể con không có gì xấu ác, cho nên con không thách thức để hạ thấp hay chỉ trích, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 4

4.1. Giê-su, hãy giúp con đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đi tìm những điều sai trái, mà con chỉ đơn giản là chính mình và biểu lộ chính mình.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.2. Giê-su, hãy giúp con thấy là sa nhân sẽ cảm thấy bị con tấn công cá nhân vì chúng luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách ứng phó duy nhất là con không xem cách phản ứng của chúng nhắm vào cá nhân con, vì con không làm do một thâm ý cá nhân.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.3. Giê-su, hãy giúp con khắc phục cơ chế bày tỏ quan điểm mà cứ muốn người khác đồng ý với mình để cảm thấy mình được xác chứng. Nếu người ta bất đồng với con, vết thương mà con mang bên trong sẽ khơi dậy, xong con sẽ đau lòng.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.4. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con có mang thâm ý cá nhân muốn người khác đồng ý với mình hầu con tránh bị đau lòng và bù đắp cho vết thương của chính mình.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.5. Giê-su, hãy giúp con chữa lành vết thương và khắc phục thái độ mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Hãy giúp con là chính con, đang tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, và con thách thức sa nhân theo cách đó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.6. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con có mang một ngã tách biệt nghĩ rằng con không được thách thức, không được trực diện, không được nhẫn tâm. Hãy giúp con nhìn ra liệu con đã sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có ngã tách biệt đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.7. Giê-su, con sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.8. Giê-su, hãy giúp con nhìn vào ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng người khác.”

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

4.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hay mình cảm thấy thoải mái.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 5

5.1. Giê-su, hãy giúp con nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Hãy giúp con tránh không dùng phản ứng của người khác để nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.2. Giê-su, hãy giúp con đạt tới điểm con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng theo mức tâm thức của họ. Con có quyền tiếp tục là người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì vì đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.3. Giê-su, hãy giúp con thấy là người khác đã có những chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại của họ. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của họ, cho nên con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.4. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con đã đến đây như một avatar do lòng trắc ẩn đối với những người đau khổ. Hãy giúp con nhìn ra là như một avatar, con chưa ở trong tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con vẫn mang một điều gì chưa giải quyết vì con chưa học được bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.5. Giê-su, hãy giúp con thấy là khi con nhìn xuống trái đất và thấy con người đau khổ, con chỉ có thể lý luận có gì đó đã bị lệch lạc do họ chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ mà con đã tự giao phó là con sẽ đi xuống giúp họ chọn lựa đúng hơn, con sẽ làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của họ.    

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.6. Giê-su, hãy giúp con hoàn toàn chấp nhận là theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Hãy giúp con nhìn ra sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.7. Giê-su, con thỉnh sự hướng dẫn nội tâm của thày để con tới mức thực hiện được cuộc xoay chuyển cách mạng, là ngộ ra sự khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào.

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.8. Giê-su, con sẵn lòng nhìn nhận là con đã sai lầm. Không phải con đã sai lầm khi đến địa cầu. Con nhìn nhận thái độ đã đưa con đến địa cầu cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con sẵn lòng nhìn nhận điều này, vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó như một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

5.9. Giê-su, hãy giúp con thấy là chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu là để thay đổi một ai khác, con sẽ không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ khác mà con phải làm, một vấn đề khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại khác mà con phải hoàn tất, và nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 6

6.1. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng có việc con thăng thiên sau kiếp này hay không. Hãy giúp con nhìn ra là để thăng thiên, con sẽ phải tới mức có thể nhìn lại địa cầu, duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại chăng?”

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.2. Giê-su, hãy giúp con thấy, chỉ khi nào con nhận ra là không gì trong bản thể mình còn níu kéo mình ở lại trái đất, thì con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.3. Giê-su, hãy giúp con thấy thăng thiên là một chọn lựa, và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.4. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu việc thăng thiên sau kiếp này không nằm trong Sứ vụ của con, vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.5. Giê-su, hãy giúp con nhìn ra do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, liệu con có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì con nghĩ con sẽ tránh xa khỏi chấn thương đó. Hãy giúp con chấp nhận là con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào chấn thương và trực diện với nó.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.6. Giê-su, hãy giúp con thấy điều sẽ cho phép con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Một khi con giải quyết chấn thương, con sẽ có thể thực sự vui hưởng đầu thai trên địa cầu.

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.7. Giê-su, hãy giúp con thấy là cho dù con hội đủ tư cách để thăng thiên, con vẫn có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.8. Giê-su, hãy giúp con tránh không dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và có khả năng làm cánh cửa mở.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

6.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Hãy giúp con khắc phục ý niệm có điều gì ép buộc lên con, hầu con có thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Phần 7

7.1. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu con có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con, thậm chí có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình.

Ôi Giê-su, ôi bào huynh chân phước,
đường thày vạch, giờ đây con đang bước,
tấm gương thày ngời sáng chúng con soi,
con đi theo tiếng thày đang thầm gọi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.2. Giê-su, hãy giúp con nhận diện liệu con có mang khuynh hướng đó hay không, xong con xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.”

Ôi Giê-su, cho nội giác mở cửa,
tự ngã này chỉ muốn nó đúng thôi,
nhưng con quyết không để cho thế nữa,
mà chỉ muốn hợp nhất với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.3. Giê-su, hãy giúp con khắc phục cảm nhận là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ khi ở đây và thấy rõ mọi chuyện khó khăn đến chừng nào, con đâm ra nghi ngờ mình có thể đương nổi các chọn lựa đó.

Ôi Giê-su, bây giờ con thấy rõ,
đây Chìa khóa Hiểu biết của thày cho,
tâm Ki-tô con ôm lấy thật chặt,
để thày đổ tâm con đầy chất ngất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.4. Giê-su, hãy giúp con nhìn xem con có không chắc chắn là con sẵn lòng thực hiện các chọn lựa đó vì trong con có một sự xung đột. Hãy giúp con nhìn xem con có là “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Ôi Giê-su, vạch trần rắn dối gian,
hãy phơi bày cái xà nơi con mắt,
trao phân biện Ki-tô để làm bạn,
và con sống vĩnh hằng trong Duy nhất.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.5. Giê-su, hãy giúp con thấy liệu bên trong con có sự phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một cái ngã tách biệt với ý chí khác hơn.

Ôi Giê-su, con hiền lành như vậy,
con quay mặt cho họ tát má kia,
họ buộc tội rồi tấn công xăm xỉa,
con rút vào thâm sâu hiệp cùng thày.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.6. Giê-su, hãy giúp con làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào ngã đó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét cái này, tôi sẵn sàng bước sâu vào nó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.”

Ôi Giê-su, ngã này cho nó tiệt,
con đã bỏ mọi dây nhợ cuộc đời,
mặc người chết đi chôn những vật chết,
con xin chọn sánh bước với thày thôi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.7. Giê-su, hãy giúp con thấy tính không thực của lý do và nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi thấy đúng là vậy vì tất cả những gì đã tạo ra ngã tách biệt. Nhưng bây giờ tôi chọn để cho nó chết đi. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.”

Ôi Giê-su, hãy giúp con bay vượt,
khi ác quỷ thử thách tình bao la,
dạy cho con hư ảo ngã tách biệt,
ngã vô tướng, thày giúp con khám phá.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.8. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là con có tiềm năng bước lên cao hơn, khắc phục sự phân rẽ đó trong chính mình và ôm lấy Sứ vụ của mình một cách trọn vẹn.

Ôi Giê-su, con thiết gì nữa đây,
con bỏ hết để bước theo chân thày,
mọi thử thách, con sẽ vượt hoài hoài,
để cùng thày, con ngơi nghỉ mãi mãi.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

7.9. Giê-su, hãy giúp con chấp nhận là thày muốn con biểu hiện một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày 2000 năm trước đây. Thày muốn con làm những việc lớn hơn thày trước đây. Sẽ là niềm vui tột cùng cho thày khi chứng kiến nhiều người biểu hiện một mức quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể cách đây 2000 năm, bằng cách biểu lộ quả vị Ki-tô của mình qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Ôi Giê-su, thày như ngọn lửa cháy,
tim con chảy, hòa với tim của thày,
trong trái tim, lý trí, cả tâm hồn,
yêu Thượng đế là lẽ sống của con.

Ôi Giê-su, Ngọn lửa Vui thoát tử,
thiêu sạch hết mưu mô của quỷ dữ,
và hành tinh lột hình dạng biến hóa,
thời hoàng kim thai nghén đang sinh hạ.

Niêm

Nhân danh Mẹ Thiêng liêng, con kêu gọi Mẹ Mary hãy niêm phong con cùng mọi người trong vòng ảnh hưởng của con vào dòng chảy sáng tạo của Mẹ Thiêng liêng, Dòng sông sự Sống. Con kêu gọi tất cả các đại diện của Mẹ Thiêng liêng hãy nhân lên các lời kêu gọi của con, để chúng ta hình thành vòng số tám toàn hảo “Trên sao, dưới vậy”. Do đó, con chấp nhận là toàn bộ bài thỉnh này được biểu hiện, vì miệng của Thượng đế, Mẹ Thiêng liêng mà con LÀ, đã nói nó ra. Amen.

Bốn tầng của tâm

Một bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su

Ta muốn gửi các con một bài dạy căn bản về ý nghĩa thật của câu ta từng nói về “nhiều gian trong căn nhà Cha ta”. Câu này đã khiến nhiều người bối rối, và ta hoàn toàn thông cảm. Câu này là ví dụ điển hình về những giới hạn trong hiểu biết và từ vựng được sử dụng cách đây 2000 năm. Ta đã có ít cơ hội giảng giải cho người thời đó về một sự thật vô cùng thâm sâu mà mọi người tầm đạo tâm linh cần lãnh hội. Vậy bây giờ ta sẽ dùng hiểu bíết và từ vựng thời nay để làm điều đó.     

Trong thế giới ngày nay, hầu hết mọi người đều biết là có năng lượng. Hầu hết cũng biết năng lượng là một hình thức rung động. Hầu hết đã nghe nói tới thuyết tương đối của Albert Einstein, qua đó mọi thứ trong vũ trụ đều được tạo bằng năng lượng. Tiếc thay, hầu hết cũng chưa thật sự hấp thụ được những hệ quả to lớn của khám phá này. Và vì vậy, họ đã không có nỗ lực nào để thay đổi thế giới quan của mình hầu đáp ứng với thực tế nơi tất cả đều là năng lượng.  

Sự thật đơn giản là toàn bộ vũ trụ được tạo ra từ một chất căn bản duy nhất. Trong quá khứ, người ta gọi đó là ether. Ý niệm ether đã được đạo Phật cùng một số triết lý biết đến từ nhiều thế kỷ. Vào thời trung cổ tại Âu châu, các nhà giả kim (alchemist) cũng đã có biết đến – và có thể nói trong một số trường hợp, họ đã thực sự là những nhà khoa học thực nghiệm đầu tiên. Có cả những nhà vật lý chấp nhận khái niệm ether, cho tới khi một thí nghiệm đáng tiếc đã không tìm được tác động vật chất nào của ether – nhưng lý do họ không tìm được là vì ether không có đặc tính vật chất nào cả.

Từ đó, đa số nhà vật lý đã bỏ rơi khái niệm ether, một quyết định thật đáng tiếc cho khoa học. Vì quyết định này mà họ không thể hiểu được năng lượng một cách trọn vẹn, Họ thừa biết năng lượng là rung động, nhưng rung động chỉ hiện hữu nếu có một môi thể rung động. Như sóng biển không thể hiện hữu nếu không có biển. Cho nên sẽ không có sóng năng lượng, và cũng không có vũ trụ vật chất, trừ khi có một cái gì đó để rung động.      

Cái gì đó rung động chính là chất căn bản mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo toàn thể thể giới hình tướng. Chất này được mô tả trong Thánh kinh qua câu “Và Đức Chúa Trời phán, hãy có ánh sáng.” Ánh sáng cũng có thể mô tả là diện nữ của Thượng đế Cha-Mẹ. Ánh sáng là Mẹ Thiêng liêng, thân thể của Mẹ Thiêng liêng, là Đấng sinh ra mọi hình tướng được chiếu hình lên Mẹ bởi ý muốn của Cha qua tâm của Con. Hình tướng được biểu hiện và nuôi dưỡng bởi quyền năng của Thánh linh, như Mẹ Mary yêu dấu có giảng dạy. Ánh sáng Mẹ còn có tên gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật.

Như con biết, ánh sáng mà con nhìn thấy là những sóng ánh sáng, rung động trong một dải tần số nhất định. Ánh sáng màu đỏ rung động ở tần số thấp hơn ánh sáng màu xanh hay màu tím. Và con cũng biết, có những tần số thấp hơn hay cao hơn ánh sáng nhìn thấy. Mắt con người không thấy được những tần số này cho dù chúng có thực không kém gì ánh sáng đỏ hay xanh.  

Đặc biệt cho bài này, chúng ta hãy dùng khái niệm căn bản: tất cả đều là rung động. Như vậy thì trong thế giới hình tướng, không hề có hàng rào bất khả xâm phạm nào. Mọi thứ đều là cùng một chất, chỉ khác chúng rung động ở những tần số, hay mức độ, khác nhau mà thôi. Tất cả đều được tạo bằng sóng năng lượng, và khác biệt duy nhất giữa Trời và Đất là độ rung của sóng năng lượng.

Câu “Nhà Cha ta có nhiều gian” thật sự có nghĩa như thế: nhà Cha ta là một tấm thảm năng lượng liên tục, một tấm thảm những rung động liên tục. Tấm thảm liên tục ấy có từng phân đoạn, và mỗi phân đoạn là một nhóm tần số. Mỗi phân đoạn là một gian trong căn Nhà của Thượng đế. Trong số đó, có một phân đoạn được con người gọi là vũ trụ vật chất. Ở ngoài cõi này là cái mà con người gọi là cõi tâm linh, hay Trời. Nhưng ngay trong cõi tâm linh cũng có nhiều phân đoạn nữa.

Bốn thể phàm của con

Qua bài này, ta muốn giúp các con hiểu rằng trong vũ trụ vật chất có mấy phân đoạn như thế. Nói chính xác, có cả thảy bốn phân đoạn, hay cõi, trong vũ trụ vật chất. Cõi mà mọi người đều quen thuộc là vũ trụ làm bằng vật chất. Đây là thế giới mà con có thể nhận biết qua giác quan vật lý của mình. Nó được tạo bằng những rung động trong một dải tần số mà giác quan vật lý có khả năng phát hiện. Lý do phát hiện được là vì cơ thể con được tạo bằng những năng lượng tương tự trong cùng dải tần số. Nói cách khác, cái gì làm bằng vật chất thì phát hiện được rung động của vật chất và chỉ những rung động đó thôi. Điều này giải thích tại sao các nhà vật lý kia đã không thể tìm thấy ether qua dụng cụ vật chất.

Bên trên cõi vật chất có ba phân đoạn nữa vẫn thuộc về cái gọi chung là vũ trụ vật chất. Khi từ cõi vật chất con đi lên phân đoạn trên, con bước vào một cõi có thể gọi là cõi cảm xúc. Ở trên nữa là cõi tư tưởng, và trên nữa là cõi bản sắc.  

Trong nhiều tôn giáo cùng triết lý lâu đời, như Phật giáo, Hy lạp cổ hay giáo lý huyền bí của các nhà giả kim, bốn cõi này được mô tả là bốn góc của Địa cầu, với tên gọi là đất, nước, không khí, lửa. Khái niệm này liên hệ với ý tưởng cổ xưa về hình vuông xuất phát từ hình tròn. Hình tròn biểu tượng cho Trời, vô tận và không có phân chia – nếu chúng ta dùng ý niệm không gian và thời gian. Nó tương ứng với ether.

Còn hình vuông biểu tượng cho Địa cầu, đúng hơn, cho vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất là cõi của thời gian và không gian, được tạo ra bằng cách lấy cõi vô tận của hình tròn mà chia thành bốn hướng, bốn chiều kích, tức là bốn tọa độ của không gian và thời gian.  

Để con dễ hình dung, ta sẽ nói đến mối tương quan với tâm con người. Ta đã giảng trong trang mạng này là tất cả mọi thứ đều được nuôi giữ duy bằng một dòng năng lượng của Thượng đế tuôn chảy từ cõi tâm linh xuống vũ trụ vật chất. Trong mỗi con người, năng lượng tuôn xuống từ cái ta tâm linh xuyên qua những lớp tiềm thức cho tới khi nó chạm tâm ý thức. Năng lượng chảy xuống từ cõi tâm linh và đầu tiên nó vào cõi lửa. Một số giáo lý huyền bí gọi cõi này là bát cung ether, hay thể nhớ. Ta muốn gọi đó là cõi bản sắc. Đây là phần của tâm con cất giữ ký ức mọi trải nghiệm trong thế giới vật chất. Nó cũng cất giữ ý niệm bản sắc mà con đã xây dựng qua nhiều kiếp sống suốt hành trình của dòng sống con trong thế gian này. Khi năng lượng sự sống lần đầu tiên nhập vào tâm con, tức bản thân con, nó chảy qua bản sắc của con, và do đó nó bị bản sắc tô màu. Bản sắc con cũng bao gồm cách con nhìn thế giới, nhìn Thượng đế, quan hệ của con với thế giới và quan hệ của con với Thượng đế. Cho nên nó là cái nền tảng cho con phản ứng với cuộc đời trong cõi này.

Sau khi chảy qua bản sắc thể của con, nó nhập cõi không khí. Một số giáo lý gọi là cõi trí. Ta muốn gọi đó là cõi tư tưởng. Ở cõi này, năng lượng bị các tư tưởng của con về chính con và về thế giới tô màu. Tư tưởng con phần lớn được định đoạt bởi bản sắc con, nhưng vì chúng nằm ở một tầng thấp hơn trong tâm con, chúng mềm lỏng hơn, dễ thay đổi hơn những hình ảnh vùi sâu nơi bản sắc. Nói cách khác, tư tưởng có thể thích ứng hay bị ảnh hưởng bởi những tình huống cụ thể mà con gặp trong đời. Có thể nói, bản sắc định đoạt cách con nhìn đời rộng lớn, còn tư tưởng là cách con hiểu từng chi tiết trong tấm ảnh lớn đó. Bản sắc quyết định cách con nhìn thế giới, còn tư tưởng quyết định cách con nghĩ tưởng thế giới vận hành làm sao.

Sau khi năng lượng chảy qua thể tư tưởng, nó nhập vào cõi cảm xúc. Đây là cảm thể, chứa đựng cảm xúc của con về chính con và về thế giới. Cảm xúc chỉ đơn giản là năng lượng trong chuyển động, và chúng là tiền thân của hành động thể xác. Cho nên cảm xúc định đoạt cách con biến tư tưởng thành hành động. Có thể nói, một mình tư tưởng không có khả năng dẫn tới hành động. Tư tưởng chỉ đơn thuần là ý nghĩ, và để chuyển ý nghĩ thành hành động vật lý, tư tưởng cần đến hai đặc tính của cảm xúc, là phương hướng và cường độ. Cảm xúc con sẽ hướng tư tưởng con vào một hành động cụ thể, và cường độ cảm xúc sẽ định đoạt sức mạnh của hành động.  

Bước chót là khi năng lượng nhập vào bộ não cùng hệ thần kinh của cơ thể vật lý. Ở tầng này, cảm xúc của con được chuyển thành hành động, và hành động được định đoạt bởi phương hướng và cường độ của cảm xúc đứng đằng sau. Tất nhiên, phương hướng và cường độ của cảm xúc bị định đoạt bởi tư tưởng, và tư tưởng thì bị định đoạt bởi ý niệm bản sắc cùng thế giới quan của con.

Vậy con đã thấy, dòng chảy tự nhiên của năng lượng là tuôn xuống từ cái ta tâm linh qua thể bản sắc nơi nó bị thế giới quan của con tô màu. Năng lượng chảy tiếp vào thể tư tưởng nơi nó bị tư tưởng tô màu. Năng lượng lại chảy nữa vào thể cảm xúc nơi nó khoác lấy phương hướng cùng cường độ do cảm xúc định đoạt. Và cuối cùng, năng lượng chuyển thành hành động vật lý mà bộ não, hệ thần kinh cùng cơ thể đem ra thi hành.  

Người ta có thể ví nguyên tiến trình này như máy chiếu phim. Ánh sáng tuôn ra từ cái ta tâm linh giống như ánh sáng trắng tinh của bóng đèn trong máy chiếu. Các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc giống như ba cuộn phim, và ánh sáng bị hình ảnh trên ba cuộn phim liên tiếp tô màu. Sau khi đi qua cả ba cuộn, ánh sáng được chiếu lên màn ảnh. Màn ảnh này chính là cái phần của tâm con ngụ trong vũ trụ vật chất. Đây là tâm ý thức của con và một số thành phần của tìềm thức con. Nó neo cứng vào trong não và hệ thần kinh của con.

Bốn tầng của vũ trụ vật chất

Hiểu được năng lượng vận chảy như thế qua tâm con, con cần đem hiểu biết này vào toàn thể vũ trụ vật chất. Vũ trụ vật chất cũng có bốn bát cung, hay tầng mức, khác nhau – bốn thể khác nhau.  Chúng tương đương với bốn tầng của tâm con, bởi vì thật sự vũ trụ chỉ đơn giản là một gian trong căn nhà, trong tâm của Thượng để. Như tâm con, vũ trụ vật chất được tạo bằng năng lượng cơ bản của Thượng đế tuôn chảy qua các cõi bản sắc, tư tưởng và cảm xúc trước khi nó thị hiện trong cõi vật chất.

Khi con hiểu rằng dòng năng lượng cơ bản này chảy xuyên qua bốn tầng của vũ trụ vật chất, thì con sẽ hiểu tầng thấp nhất, tầng của vật chất, là kết quả của những nguyên nhân tiềm ẩn hiện diện nơi ba tầng cao, là các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Có thể nói vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự phóng chiếu của hình ảnh nằm sẵn nơi ba tầng cao. Thực sự, vũ trụ vật chất không là gì hơn những hình ảnh được chiếu lên màn ảnh của một rạp chiếu bóng.

Khi con suy ngẫm điều này, con sẽ hiểu ngay rằng con có thể – và con bắt buộc phải – thay đổi vũ trụ vật chất bằng cách thay đổi ba tầng cao của nó. Đối với cá nhân con, nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh đời mình, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi cảm xúc, tư tưởng và bản sắc của con. Chỉ khi nào con thay đổi những hình ảnh nằm trong ba thể cao thì con mới có thể thay đổi hình ảnh hiện ra trong thế giới vật chất. Cũng vậy, trên bình diện hành tinh, chìa khóa để loại bỏ khổ đau loài người là thanh lọc thể cảm xúc, tư tưởng cùng bản sắc của toàn thể hành tinh, bởi vì hành tinh vật chất chỉ là hình chiếu của những hình ảnh lưu trữ nơi những cõi cao.

Địa cầu đã được tạo ra bởi bảy đấng tâm linh gọi là Elohim. Các Elohim luôn duy trì hình ảnh một địa cầu toàn hảo, và hình ảnh này vẫn còn đó. Tuy nhiên, hình ảnh toàn hảo đó đã bị tạm thời che phủ bởi một hình ảnh bất toàn được phóng chiếu qua các thể bản sắc, tư tưởng lẫn cảm xúc của nhân loại. Đây là cái mà tâm lý học gọi là vô thức tập thể.

Nguyên nhân thực sự của khổ đau

Bây giờ ta muốn chỉ cho con thấy tại sao địa cầu có quá nhiều biểu hiện bất toàn và tại sao con người phải chịu quá nhiều đau khổ đến thế. Lý do là ba thể cao của loài người đã bị ô nhiễm bởi một bản sắc bất toàn, những tư tưởng bất toàn và những cảm xúc không trong sạch.   

Như mẹ yêu dấu của ta giải thích trong bài kế tiếp, mọi điều nơi cõi Trời đều được định ra theo quy luật Thượng đế. Cho nên nếu một sinh thể tâm linh đi ngược lại quy luật Thượng đế thì y sẽ không thể ở lại cõi Trời. Mẹ ta cũng giảng dạy rằng trong vũ trụ vật chất, người ta có khả năng đi ngược lại quy luật Thượng đế. Lý do là vì vũ trụ vật chất được thiết lập như một lớp học cho các dòng sống đang học tập để vươn lên trở thành giống như Thượng đế. Thượng đế đã phú cho các dòng sống này quyền tự quyết và cái khung sườn để họ thử nghiệm năng lượng của ngài.

Vì vậy, các định luật của vũ trụ vật chất cho phép con người đi ngược lại quy luật Thượng đế mà không phải rời cõi này. Nói cách khác, họ có thể dùng quyền tự quyết của họ để chú tâm vào những hình ảnh không phù hợp với các nguyên tắc mà Thượng đế đã sử dụng để thiết lập thế giới hình tướng. Con người có quyền tạo dựng bản sắc riêng, xem mình là một thể sống tách biệt với Thượng đế, là sinh thể vật chất thay vì tâm linh. Họ có quyền tạo ra những hình tư tưởng lệch lạc so với sự thật và thực tại Thượng đế. Họ có quyền nếm trải những cảm xúc là sự tha hóa của cảm thức chân thật của Thượng đế. Và khi họ lao vào những bất toàn như vậy, họ có khả năng biến đổi vũ trụ vật chất và tạo dựng một thế giới biểu hiện bất toàn.

Tuy nhiên khi Thượng đế ban cho con người quyền tự quyết, ngài cũng đặt ra một khuôn khổ có chức năng một chiếc van an toàn, hầu không một ai có thể phá hủy được vũ trụ vật chất. Nói cách khác, tuy con người có toàn quyền làm bất cứ gì mình muốn với năng lượng Thượng đế, họ sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính những hoàn cảnh sống mà họ đã tạo ra với năng lượng đó. Nếu họ tham gia vào tư tưởng hay cảm xúc bất toàn, họ sẽ sinh sản những điều kiện cũng bất toàn như thế trong thế giới vật chất, và khả năng sáng tạo của họ sẽ bị giới hạn bởi những gì họ tạo ra. Làm gì thì chịu nấy.  

Có thể nói, Thượng đế đã thiết kế vũ trụ vật chất như một tấm gương. Nó giống như một màn ảnh chiếu phim, phản ánh những gì được chiếu lên nó xuyên qua tâm con người. Cho nên bất cứ hình ảnh nào con giữ nơi những tầng cao của tâm con, nó sẽ định đoạt các điều kiện đời sống mà con trải nghiệm trong thế giới vật chất. Nếu con có một hình ảnh bất toàn, con sẽ tạo ra một biểu hiện bất toàn mà tự nó nhất định sẽ hủy hoại. Tựa như con xây cất một Tháp Babel vậy, nó nhất định phải sụp đổ do chính sức nặng của nó.

Ở khởi thủy của địa cầu, các sinh thể tự nhận biết mang tâm thức cao hơn con người bây giờ. Trong tâm thức đó, các dòng sống này tiếp xúc một cách ý thức với cái ta tâm linh cùng những vị thày tâm linh của mình. Con người sử dụng quyền tự quyết của mình để thử nghiệm với năng lượng của Thượng đế, và khi làm vậy, họ thường lầm lỗi, tạo ra những biểu hiện bất toàn. Tuy nhiên vì họ biết rõ quy luật sáng thế, họ có khả năng nhận ra bất toàn, thừa nhận sai lầm, và lập tức thay thế kết quả bất hảo bằng kết quả tốt đẹp hơn.  

Nhưng sau khi Con Người Sa ngã, loài người đánh mất liên lạc với cái ta tâm linh cùng các vị thày tâm linh của mình, và vì vậy họ cũng không còn biết gì về quy luật sáng thế nữa. Họ quên mất quy luật rằng bất cứ gì mình tạo ra trong cõi vật chất chỉ đơn giản là sự phóng chiếu những hình ảnh được cầm giữ nơi ba thể cao hơn. Và như thế, họ cũng mất luôn hiểu biết rằng họ có khả năng thay đổi điều kiện vũ trụ vật chất bằng cách thay đổi nội dung các thể cao.   

Thế là con người bắt đầu tin rằng các điều kiện trong thế giới vật chất là vĩnh viễn, vượt ngoài tầm kiểm soát ý thức của mình. Họ bắt đầu xem mình là nạn nhân của những tình huống mà họ không hề gây ra. Họ bắt đầu coi mình là nô lệ của những thế lực ngoài vòng kiểm soát. Nếu nhìn dưới một khía cạnh nào đó thì quả thật là họ không sai. Đúng vậy, vì khi không chịu thay đổi cảm xúc, tư tưởng cùng bản sắc của mình, thì tất nhiên họ không thể thay đổi thế giới vật chất, và họ trở thành nạn nhân của điều kiện đời sống. Kẹt một nỗi là một khi mình đã tạo ra các điều kiện đó thì bây giờ mình phải tháo gỡ nó đi.

Chính vì đã quên, đã từ chối trách nhiệm về hoàn cảnh của mình như vậy mà họ đã tạo cơ hội cho một số sinh thể từ các bầu cõi cao hơn – những sinh thể đã đối nghịch lại quy luật Thượng đế – đầu thai trên địa cầu. Trong bài giảng, đức Mẹ Mary cũng mô tả sự kiện này.  

Con thấy đó, có sự khác biệt căn bản giữa thử nghiệm quyền tự quyết của mình (và lầm lỗi khi mình làm vậy) với cố tình đối nghịch lại quy luật cùng ý chỉ sáng tạo của Thượng đế. Như Mẹ Mary có mô tả, một số sinh thể trong cõi tâm linh đã chủ tâm nghịch lại quy luật cùng ý chỉ sáng tạo của Thượng đế. Xong chúng bị sa xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và cuối cùng một số đã đầu thai ở địa cầu.  

Những sinh thể đó đã khuynh loát nhiều người tin vào lời gian dối rằng tự do tối hậu chỉ có thể đạt được khi mình đi ngược lại quy luật Thượng đế. Chúng đã lừa dối tinh vi để gạt gẫm con người vi phạm quy luật Thượng đế, đồng thời tin rằng những hậu quả xấu mà mình gặt hái là không thể tránh được, thậm chí còn do Thượng đế làm ra.

Khi loài người rơi vào tâm thức thấp hơn, đó là khởi đầu cho một tiến trình ô nhiễm nơi bốn thể phàm của mọi người trên trái đất cũng như của tâm thức tập thể. Và điều này dẫn đến những điều kiện bất hảo dưới hình thức khổ đau, thiên tai cùng tai ương đủ loại.

Tất cả những gì con có thể thấy trong thế giới vật chất chỉ đơn giản là sự phản chiếu các thể cao hơn. Cả ba thể cao đó đã bị ô nhiễm và chứa đựng hình ảnh bất toàn. Nhưng có một thể đã hoàn toàn bị tà lực chiếm đoạt là cảm thể. Thể này là thể cốt yếu cho những ai muốn kiểm soát thế giới vật chất, bởi vì đó là cơ quan hoán chuyển tư tưởng thành hành động xác thân.

Bản chất của cảm xúc là lấy hình dạng của bất cứ hình ảnh nào được trí thể chiếu vào nó. Cảm xúc là năng lượng chuyển động, mà năng lượng thì không có ý niệm gì về đúng hay sai. Khi nó được hướng tới một hành động, nó sẽ tuôn vào đó mà không xét tới hậu quả. Cho nên nếu tà lực đã chiếm đoạt cảm thể một người, chúng có thể thao túng cho người đó làm bất cứ gì mà không xét đến hậu quả, không cân nhắc phải trái. Đây là nguồn gốc của hội chứng “Nếu thích thú thì cứ việc làm”, là hội chứng dựa trên lời dối gạt tinh vi rằng nếu mình cảm thấy ưa thích điều gì thì điều đó không thể sai trái.    

Vậy bây giờ con đã thấy, có những thế lực không ngừng ra sức thao túng con người qua cảm thể. Một cách để chúng thực hiện điều này là khiến cho cảm thể con người luôn luôn dao động, rồi dần dần chúng bồi thêm cường độ cho tới khi người đó không thể cưỡng lại năng lực cảm xúc được nữa. Cảm xúc trào ra thành hành động, và đây là hiện tượng khi những cá nhân, những nhóm người, thậm chí cả quốc gia, cảm thấy bó buộc phải làm những hành động mà họ bình thường không bao giờ làm. Đây là nguyên nhân chủ yếu của chiến tranh. Trong suốt thời gian dẫn đến chiến tranh, con sẽ thấy cảm thể của cả một nước bị kích động tới mức người ta cảm thấy phải làm một cái gì đó, và cái đó là phải chiến đấu chống lại kẻ thù được coi là đã gây ra kích động.

Các sinh thể trí năng trong cả bốn cõi

Có điều quan trọng nữa ta muốn giảng cho con trong bài này là nơi cả bốn cõi của vũ trụ vật chất, có những sinh thể trí năng tự nhận biết. Con người là những sinh thể trí năng sống trong cõi vật chất. Nơi ba cõi cao hơn cũng có những sinh thể trí năng. Một số những sinh thể đó chưa từng hiện thân trong một thể xác vật lý. Còn một số khác thì đã từng đầu thai nhưng hiện đang cư ngụ ở những cõi khác của vũ trụ vật chất.

Tiến trình tự nhiên của các dòng sống là đi xuống một xác thân vật lý để thử nghiệm cõi vật chất, và giúp Thượng đế đồng sáng tạo tầng cấp này của thế giới hình tướng. Một khi đã hoàn thành mục đích hiện thân trong vũ trụ vật chất, dòng sống sẽ thăng lên cõi tâm linh. Nói cách khác, nếu một dòng sống còn ngụ, hoặc bị kẹt lại, nơi bốn cõi vật chất, cảm xúc, tư tưởng hay bản sắc, thì đây không phải là chuyện tự nhiên. Như trường hợp một dòng sống bị mất quân bình khiến cho một hay nhiều thể của mình bị tha hóa, thì dòng sống đó có thể bị kẹt lại trong vũ trụ vật chất, không có khả năng thăng lên cõi tâm linh..   

Bốn thể phàm tương ứng với bốn nguồn lực của Cha, Con, Mẹ và Thánh linh. Cha tương ứng với bản sắc thể, Con với trí thể, Mẹ với cảm thể, và Thánh linh với xác thể. Nếu một dòng sống bị mất quân bình trong cả bốn thể phàm, nó sẽ bị kẹt lại trong cõi vật chất, và nó sẽ mãi tái đầu thai trong một loạt thân xác khác nhau. Nếu một dòng sống đạt được quân bình xác thể nhưng không trong ba thể kia, nó có thể bị kẹt lại nơi cảm thể. Nếu nó đạt được quân bình xác thể và cảm thể, nó có thể bị kẹt lại nơi trí thể, và nếu nó quân bình được cả ba thể thấp thì nó có thể bị ket lại nơi bản sắc thể.

Nếu con muốn thật sự hiểu tại sao ta giảng dạy bài này, con cần nhận rõ rằng cả bốn cõi của vũ trụ vật chất chỉ khác nhau về rung động. Cho nên khi học bài này, con đừng rơi vào cái bẫy của lối suy nghĩ đường thẳng. Chẳng hạn, vì cõi vật chất có độ rung thấp nhất và các cõi kia có độ rung cao hơn, con dễ nghĩ lầm rằng ba cõi kia nằm cao hơn, vượt ngoài cõi vật chất. Nhưng nghĩ vậy không chính xác đâu.      

Ngay trong căn phòng con đang ngồi, có rất nhiều làn sóng vô tuyến đang hiện hữu trong cùng một khoảng không gian. Các sóng vô tuyến này tồn tại trong cùng một không gian với cơ thể con, với tường, bàn ghế và không khí trong phòng. Cũng vậy, những tần số rung động khác nhau có thể tồn tại trong cùng một không gian. Điều ta muốn nói là cõi vật chất tồn tại ở ngay cùng một chỗ với các cõi khác – cảm xúc, tư tưởng và bản sắc.

Điều quan trọng cần nhận rõ ở đây là giữa bốn cõi không hề có hàng rào bất khả xâm nào. Nói cho đúng, các cõi đó còn có thể trùng lấp nhau nữa. Chẳng hạn, rất có thể ở một khu vực nào đó của cõi vật chất, các rung động được biến đổi để chúng cộng hưởng với rung động ở một cõi khác.

Tâm con người có khả năng hoạt động như chiếc máy radio. Như ta vừa nói, có rất nhiều làn sóng vô tuyến xâm nhập vào căn phòng mà con đang ngồi. Nếu con bật máy lên, con có thể bắt được từng làn sóng bằng cách quay cái nút. Máy radio biến sóng năng lượng thành âm thanh nghe thấy, mà con nhận biết là những đài phát thanh khác nhau. Tâm con có khả năng tựa như chiếc máy radio vậy, nó có thể bắt sóng của mọi tầng cấp vũ trụ vật chất. Nó cũng có thể bắt được các tầng cấp trong cõi tâm linh. Nói cách khác, tâm con người có khả năng vượt ra ngoài cõi vật chất để đồng điệu với những sinh thể trí năng ở các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc, hoặc cả cõi tâm linh nữa.

Một hệ quả của lời dạy này là nếu con cố bắt liên lạc với sinh thể trí năng ở những cõi khác, con cần biết rằng không phải ai ai ở đó cũng thiện lành. Rất có thể một số đã từng cố tình đối nghịch lại các quy luật của Thượng đế, và họ sẽ cố lôi kéo con làm điều tương tự. Những lý do khiến họ làm vậy được giải thích trong bài giảng của đức Mẹ Mary.

Đã từng có một thời cả bốn cõi đều có những sinh thể thiện lành trú ngụ ở đó. Thế nhưng cõi cảm xúc bây giờ bị ô nhiễm, tha hóa đến độ không còn ai tốt nữa. Tất cả mọi sinh thể nơi cõi cảm xúc đều đã mất quân bình, họ tin rằng mục tiêu có thể biện minh cho mọi phương tiện, và phương châm của họ là “nếu thích thú thì cứ việc làm tới”. Trên địa cầu có nhiều người hiện thân tâm thức này bởi vì cảm thể họ bị mất quân bình do đồng cảm với cõi cảm xúc. Và họ trở thành nô lệ cho bọn thao túng đang hoành hành ở đó.

Cõi tư tưởng cũng bị ô nhiễm nặng nề, nhưng vẫn còn một số sinh thể không ác ý. Tuy vậy, rất nhiều trong số đó còn bị kẹt trong cách suy nghĩ rằng họ có thể hiểu được mọi chuyện bằng lý trí. Thậm chí, một số còn đinh ninh họ thông hiểu thế gian hơn cả Thượng đế và do đó họ hiểu rõ hơn Thượng đế phải vận hành vũ trụ làm sao. Đây là sự kiêu căng của trí thức, và con sẽ thấy trên địa cầu cũng có nhiều người hiện thân lòng tự kiêu này. Lý do là vì trí thể của họ đã đồng tình với những sinh thể tự kiêu nơi cõi tư tưởng. 

Cõi bản sắc là cõi tương đối trong sạch nhất, cho dù cũng bị ô nhiễm bởi một ý niệm bản sắc sai lầm. Ở đây có những sinh thể tự xem mình tách biệt với Thượng đế, và họ phóng chiếu cái nhìn này vào tâm thức loài người. Nhưng song song cũng có những sinh thể trong cõi ether giữ vững được bản sắc đúng đắn rằng mình là sinh thể tâm linh.

Các thày trong Đại đoàn Thăng thiên giáo hóa để phục vụ loài người. Các thày sẵn sàng giao tiếp với bất cứ ai để giúp họ tiến bước trên đường tu tâm linh. Khi địa cầu còn trong sáng, các thày đã có thể hiện ra trước con người trong cõi vật chất, và ai nấy đều có thể gặp gỡ, đàm đạo với các thày. Điều này xảy ra không phải vì các thày đã hiện ra trong một thể xác vật lý, mà vì tâm thức con người thời đó còn trong trắng đến độ có thể nhận biết các thày trong “thân thể” tâm linh của các thày. Với giác quan vật lý, họ nhìn thấy được thân tâm linh của các thày.

Nhưng ngày nay, những sự mất quân bình mà loài người tạo ra đã kéo thấp độ rung của toàn cõi vật chất, và việc nhận biết các thày đã trở nên khó khăn hơn. Con người không thể nhận biết các thày qua giác quan của cơ thể, trừ những trường hợp hiếm hoi khi các thày mượn tạm một thân thể vật chất.

Cho nên muốn giao tiếp với Đại đoàn Thăng thiên trong thế giới hiện đại, con phải nâng cao tâm thức, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của mình. Con chỉ tạo được quân bình bằng cách đạt đến trung đạo của tâm thức Ki-tô. Nếu con không quân bình trong tâm Ki-tô thì con sẽ không liên lạc được với Đại đoàn Thăng thiên. Nhưng tiếc thay, con vẫn có khả năng liên hệ với các sinh thể trú ngụ nơi các cõi phàm. Con đừng quên rằng chúng bị kẹt lại ở đó chính vì chúng đã mất quân bình trong một hay nhiều thể. Cho nên nếu con muốn giao tiếp một cách an toàn với cõi trên, con cần phải vươn lên tâm thức Ki-tô, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của con.

Thiên đàng hay Địa ngục trên địa cầu

Qua bài giảng này ta còn có một mục đích nữa, là chỉ cho con thấy cả bốn tầng của vũ trụ vật chất đều tồn tại chung trong cùng không gian. Khác biệt duy nhất là độ rung. Vì tâm con người có khả năng điều khiển ánh sáng Thượng đế, nó có thể hạ thấp hoặc nâng cao độ rung của ánh sáng. Điều ta muốn nói là con người có khả năng thay đổi những rung động của thế giới vật chất để cộng hưởng với rung động của một trong mấy cõi kia.

Ví dụ, có nhiều khu vực trên hành tinh này, đặc biệt ở các thành phố lớn, nơi một số đông dân cư đã gia tăng sự mất quân bình nơi cảm thể mình đến nỗi toàn khu vực phải rung động ở tần số của cõi cảm xúc. Cõi cảm xúc hiện có những biểu hiện thấp kém nhất trong số các cõi. Một số khu vực của cõi cảm xúc đã thực sự trở thành cái mà người ta xem là Địa ngục. Cho nên trên địa cầu cũng có nhiều nơi với độ rung như cõi cảm xúc. Thực sự đó là những nơi Địa ngục Trần gian.  

Tương tự như vậy, có một số khu vực rung ở cùng tần số với cõi tư tưởng, chẳng hạn các học viện nơi người ta tôn vinh trí thức con người nhưng lại phủ nhận trí tuệ vượt trội của tâm Ki-tô. Và cuối cùng, có những khu vực được cống hiến cho sinh hoạt tâm linh, đồng điệu với cõi ether và cả với cõi tâm linh. Những nơi này chính là Thiên đàng Hạ thế.

Cho nên một lần nữa con thấy đó, con người có khả năng tạo dựng thực tại của mình. Con tạo ra thực tại qua quyền năng của tâm, nhưng để hiểu làm thế nào, con cần phải nhận ra rằng tâm con có đến mấy tầng. Tâm phàm của con rất giống một chiếc radio chỉ biết khuếch đại những tần số vô tuyến để giác quan có thể bắt được. Những gì con sáng tạo trong tâm phàm được định đoạt bởi những gì con tiếp nhận vào trong tâm từ các cõi cao hơn của tâm.   

Câu hỏi đặt ra bây giờ là liệu chiếc radio của tâm con sẽ bắt tần số của đài phát thanh nào? Nó sẽ đồng tần số với cái ta Ki-tô, hay nó đồng tần số với những sinh thể ở các cõi thấp? Ngay hôm nay con phải chọn con phục vụ cho ai. Con phải chọn gian phòng trong căn nhà của Cha ta nơi con muốn sống, và cách con chọn là đặt chú tâm vào một tầng cõi đặc thù nào đó. Nếu con còn mất quân bình nơi một thể thấp, con sẽ chú tâm vào cõi vật chất, cảm xúc hay tư tưởng. Nếu bản sắc thể của con còn mất quân bình, con sẽ chú tâm vào cõi bản sắc mà không lên được cao hơn. Nhưng nếu cả bốn thể phàm của con được quân bình thì con sẽ vươn lên cao hơn cõi bản sắc để hòa điệu với Đại đoàn Thượng thăng. Khi đó con sẽ trở thành cánh cửa mở cho rung động và chân lý nơi Thiên đàng xối xuống địa cầu. Con có khả năng trở thành cánh cửa mở đó để Lời Hằng sống chảy vào thế gian.   

Hãy chọn vũ trụ song song nơi con muốn sống

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/11/2008.

[Trước bài truyền đọc, cử tọa đã lắng nghe bải Hợp xướng Hallelujah từ tác phẩm Messiah của G. F. Handel]

“Lạy đức Chúa Trời ở Trên Cao ngự trị toàn năng”. Đó là lời bài hát mà các con vừa nghe, trích từ Kinh thánh. Nhưng ta, Giê-su, đã không đến đây để đánh thức nhân loại về đức Chúa Trời ở Trên Cao là đấng toàn năng. Ta đã đến đây để đánh thức loài người về Thượng đế nội tâm – là đấng tôn trọng Định luật Tự quyết mà chính ngài đã ban ra, và vì vậy ngài không có ý kiểm soát con. Ngược lại, ngài tìm cách giúp con biểu lộ tất cả những gì con là, tất cả những gì con đã được tạo ra để là – thậm chí để con là nhiều hơn cả khi con được tạo ra. Bởi vì Thượng đế của con yêu thích được ngạc nhiên khi nhìn thấy khả năng sáng tạo của những phần nối dài của ngài, con yêu dấu.

Ngài không phải là một bạo chúa trên trời muốn con phải tuân theo một hệ thống tín ngưỡng nào, một nghi thức hay nghi lễ vỏ ngoài nào quy định  cách hành xử của con, để hai thứ đó gặp nhau khi con cầu nguyện hay thờ phượng. Đức Chúa Trời ở Trên Cao – có nghĩa là Thượng đế ở một tầng rung động cao hơn vũ trụ vật chất – vị Chúa Trời đó, vị Thượng đế đó, muốn được biểu lộ xuyên qua con trong một dòng chảy tự nhiên và sáng tạo, một dòng chảy biểu hiện sự sống dồi dào trên địa cầu theo những phương cách luôn luôn mới mẻ.

Ki-tô vượt khỏi mọi quyền uy trên địa cầu

Không phải Thượng đế muốn kiểm soát cách con suy nghĩ và hành xử, mà những kẻ đã mưu toan tự đặt mình làm thần thánh trên địa cầu – hay là vị đại diện duy nhất của Thượng đế trên địa cầu – mới muốn như vậy. Chúng đã len lỏi vào làm thượng tế ở đền thờ – trong sự tha hóa thái cực Alpha của lớp thượng lưu quyền lực. Và chúng đã trở thành kẻ đổi tiền ở đền thờ – trong sự tha hóa của tự ngã, sự tha hóa của khía cạnh nữ, của thái cực Omega.

Luôn luôn đã từng có hai nhóm chính trong lớp thượng lưu quyền lực và các thày giả: những kẻ làm tha hóa lực lan ra của Cha, và những kẻ làm tha hóa lực co lại của Mẹ. Và trong nhiều trường hợp, chúng hình thành một liên minh vô đạo, và con có thể thấy điều này trải bày ra nơi đây tại châu Âu suốt nhiều thế kỷ. Con hãy trở lại với bài hát con vừa nghe hồi nãy, “Vua của các vị vua, Chúa của các vị chúa.” Đấy, câu đó nguyên thủy có nghĩa là Ki-tô vượt khỏi mọi quan niệm và mọi hình chạm do tâm thức phản Ki-tô tạo ra, và do đó, Ki-tô vượt khỏi mọi quyền uy trên trái đất, cho dù đó là quyền uy của vua hay hoàng đế, của chúa hay giáo hoàng, của linh mục hay hồng y hay giám mục. Cho dù là ai cũng không quan trọng, vì Ki-tô vượt khỏi tất cả những người đó. Bởi vì Ki-tô không thể bị tha hóa bởi tâm thức nhị nguyên, Ki-tô không thể bị ép uổng vào một chiếc hộp tư duy do tâm thức phản Ki-tô tạo ra, mà như các chân sư đã dạy nhiều lần, là một tâm thức dựa trên ảo tưởng tách biệt, trong khi Ki-tô thì dựa trên thực tại của duy nhất, là sự duy nhất của mọi sự sống.

Trong duy nhất, không ai là chúa hay là vua trên đầu người khác

Cho nên con thấy đó, khi sự sống là Một thì không có ai nắm quyền kiểm soát. Không ai là chúa trên đầu người khác, không ai là vua trên đầu người khác. Khi người Israel thuở xưa đòi một vị vua, họ chỉ củng cố cho ảo tưởng tách biệt mà thôi – và kỳ thực, không phải người dân Israel đòi vua mà là lớp thượng lưu quyền lực rắp ranh thời đó đã đòi vua, là nhóm người thèm khát quyền lực của các thày thượng tế và muốn tranh giành quyền lực đó. Chúng làm vậy do sự tha hóa của khía cạnh Omega khiến chúng muốn kiểm soát đời sống hàng ngày của người dân, trong khi các thày thượng tế thì muốn kiểm soát tâm trí người dân. Ở đây tại châu Âu, quan niệm cho rằng Ki-tô là vị Vua của mọi vua đã bị tha hóa đến độ chính các nhà vua cũng bắt đầu tuyên bố mình là đại diện của Ki-tô, rằng họ làm trung gian giữa dân chúng và Ki-tô, và Ki-tô đã phong cho họ làm vua, phong cho đứa con trưởng của vua cũ được nối dõi làm vua mới.

Đấy, nếu con đi ngược về những thời cổ xưa thì thuở đó người ta cũng có vua, nhưng người ta không đơn giản phong con của vua lên làm vua. Vua thường được phong chức qua sự môi giới của cõi tâm linh, cho dù đó là một vị tiên tri hay một tiến trình mà qua đó Tánh linh có thể phong vua. Thường khi, tiến trình đó phong một người đã ra đời và lớn lên như một thường dân làm vị vua kế tiếp, hầu vị vua đó biết rõ cuộc sống dân gian là thế nào, thay vì được sinh ra trong lâu đài quyền quý và ngăn cách khỏi quần chúng bình thường, rồi lớn lên trong một môi trường khép kín để được dạy dỗ cho trở thành gần như điên cuồng – nếu có thể nói như vậy theo nghĩa là vô cảm trước sự khốn khổ của dân chúng. Đây chính là một trong những vấn nạn to lớn, có lẽ là vấn nạn lớn trên địa cầu, đặc biệt tại Âu châu.

Tìm Ki-tô Hằng sống trong vương quốc nội tâm

Theo nhiều cách, châu Âu đã được hoạch định để trở thành cái nôi cho những luồng tư tưởng mới, những phát minh mới, những triết lý và ý thức hệ mới, có khả năng đem lại tiến bộ và tự do cho người dân. Và chính vì đó là mục đích thiêng liêng cho vùng đất này mà các thành viên của lớp thượng lưu quyền lực – cả hai nhóm thượng lưu quyền lực, nhóm đang nắm quyền và nhóm rắp ranh muốn nắm quyền – đã tụ tập ở đây và âm mưu phân rẽ mọi người với nhau, và cũng phân rẽ mọi người với Thượng đế nội tâm của họ.

Đó là mô thức mà con thấy chúng sử dụng, lặp đi lặp lại trên lục địa này, và cũng là mô thức được Giáo hội Công giáo hoàn chỉnh một cách xuất sắc khi họ lạm dụng lời dạy của ta về vương quốc nội tâm để tự đặt mình làm kẻ đại diện tinh thần cho Ki-tô trên địa cầu. Họ bảo rằng con chỉ có thể được cứu rỗi và đến được với Ki-tô qua trung gian hệ thống quyền chức của Giáo hội.

Con yêu dấu, đúng thật là con chỉ đến được với Ki-tô qua một hệ thống thứ bậc – và con sẽ thấy là chúng tôi đã thường nói đến việc con xem mình là một thành phần của đoàn chưởng giáo của Ánh sáng – nhưng như ta đã đến để chứng tỏ cách đây 2000 năm, con không cần một hệ thống quyền chức nào trên trái đất để khẳng định sự hợp nhất của con với đoàn chưởng giáo Ánh sáng. Bởi vì Nước Trời ở trong chính con và con nắm chìa khóa của hiểu biết, con có khả năng biết được sự thật trong chính tim con. Và do đó, con không cần đến một thẩm quyền bên ngoài nào để quy định những tín điều và học thuyết mà con phải nghe theo, dựa trên cách diễn giải từng chữ của một bộ kinh đã trở thành lỗi thời trước khi nó được viết xuống.

Bất cứ kinh điển nào cũng lỗi thời trước khi có thể được viết xuống

Chân sư MORE có nói là nếu con vẽ bức chân dung của thày, thì trước khi sơn khô, thày đã tự thăng vượt rồi. Đúng vậy, ta có thể cam đoan với con là ta, Giê-su, đã tự thăng vượt rất nhiều lần trước khi những vị ghi chép Phúc âm ban đầu quyết định đặt bút lên giấy để kể lại cuộc đời của ta. Ngay từ buổi đầu, Giáo hội Công giáo đã đặt làm nền tảng quan niệm giả trá cho rằng người ta có thể bắt ép Ki-tô phải tuân theo những ý tưởng của thế gian, những tin tưởng, những hộp tư duy, những hình chạm của thế gian. Họ đã mưu toan biến Ki-tô Hằng sống thành một hình chạm, và họ đã thành công lôi kéo nhiều người thờ phượng hình tượng đó. Nhiều dòng sống đã không ngừng thờ cúng hình tượng đó suốt 2000 năm qua, hết kiếp này sang kiếp khác, khi họ lại đầu thai trong một nền văn hóa Cơ đốc giáo và cứ tiếp tục phải sống mãi với hình tượng cứng nhắc, quan điểm cứng nhắc đó về Ki-tô.

Thử hỏi một dòng sống sẽ phải bỏ ra bao nhiêu kiếp để ngồi trong một nhà thờ Cơ đốc – ngước nhìn lên tượng Ki-tô bị đóng đinh nơi chính điện – trước khi dòng sống đó bắt đầu cảm thấy là chắc hẳn thông điệp nội tâm của Ki-tô phải nhiều hơn như vậy? À con yêu dấu, đó là một câu hỏi mà ước chi ta có thể trả lời. Nhưng ta nhìn xuống nhân loại và ta phải gãi đầu mà nói: “Làm thế nào mà họ chưa chán ngấy? Làm thế nào mà họ vẫn còn ngồi đó mỗi ngày Chúa nhật, hát cùng những bài thánh ca đó, lắng nghe cùng những bài thuyết pháp đó từ miệng cùng vị linh mục đó – là vị đã nghe theo tiếng gọi đời mình để mỗi Chúa nhật lại đọc đi đọc lại cùng một bài thuyết giảng?” Vị linh mục đó có thể nghĩ mỗi bài giảng đều khác nhau, nhưng đó là cùng một bài giảng, vì nó chỉ làm đặc cứng hình chạm về một đấng Ki-tô bên ngoài, một đấng Ki-tô sẽ trở lại một ngày nào đó để cứu rỗi mình. Nhưng ta muốn con xem ta là Ki-tô nội tâm, là Ki-tô sẽ giúp con tự thăng vượt bản thân để con trải nghiệm được Nước Trời ngay nơi con đang đứng.

Vật lý lượng tử: sự tương tác giữa tâm thức và Tấm gương Vũ trụ

Vậy đâu là tinh túy của thông điệp mà ta giảng dạy 2000 năm về trước? À, con hãy cho ta nhảy vọt trong tâm thức vào thời đại hiện tại để ta giải thích cho con thông điệp của Ki-tô có thể được hiểu như thế nào qua các khám phá của cơ học và vật lý lượng tử.

Ngành vật lý lượng tử đã khám phá và chứng minh là khi con tương tác với vũ trụ vật chất, sự tương tác đó không là tương tác vật lý – nó không vật chất, vì vũ trụ được tạo bằng những hạt hạ nguyên tử nhỏ bé mà thực chất là sóng năng lượng – và tâm thức con có khả năng tương tác với chúng, nghĩa là tâm thức con có khả năng tương tác với tầng cấp cơ bản nhất của vật chất. Và đó, ngay đó, là bằng chứng về những gì ta đã cố giải thích cách đây 2000 năm qua câu: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn người khác làm cho con.”

Vì con có thấy chăng, “những gì con làm cho người khác” là một cách biểu đạt của tâm thức con? Và tâm thức con tương tác với tầng cấp cơ bản nhất của vật chất, là cái mà các chân sư gọi là Tấm gương Vũ trụ. Điều mà vật lý lượng tử đã khám phá là trước khi một nhà khoa học thực hiện một quan sát, thì không có hạt vật chất nào đang thị hiện, không có hạt nguyên tử nào đang thị hiện. Con không thể xác định vị trí cùng động lượng chính xác của hạt nguyên tử, bởi vì trước khi quan sát được thực hiện, hạt đó không hề hiện hữu như một định lượng chính xác, mà nó chỉ hiện hữu như một xác suất, một tiềm năng – hơn thế nữa, có nhiều tiềm năng như vậy đang hiện hữu. Và các khoa học gia phát hiện ra một tính bất định cơ bản gắn chặt với bản chất của vũ trụ. Điều này trái ngược hẳn với thế giới quan được đề xướng bởi khoa học duy vật lẫn đạo Cơ đốc truyền thống, và thậm chí trước đó nữa, bởi các tôn giáo truyền thống như đạo Do thái mà ta đã đến để đổi mới.

Hoặc nữa, còn có quan điểm cho rằng con không có ảnh hưởng gì trên cõi vật chất, rằng Thượng đế đã tạo ra thế gian y như vậy, khiến cho biết bao người bị hút vào ảo tưởng coi các điều kiện của thế gian là không thể thay đổi. Vào thời Trung cổ, con người nhìn vào đau khổ của mình rồi kêu gào: “Tại sao Thượng đế lại tạo ra một thế giới khổ đau như thế này?” Nhưng Giáo hội chỉ đưa ra được một câu trả lời: “Đó là một bí ẩn, chúng ta không thể biết được. Chắc hẳn đó phải là ý muốn của Thượng đế muốn chúng ta đau khổ, cho nên chúng ta nên bằng lòng với đau khổ của mình và đừng bắt chước những gì Ki-tô đã nêu gương – biến nước thành rượu, vực cho người chết sống lại, chữa lành kẻ bệnh tật, đi bộ trên mặt nước của tâm thức con người và nâng tâm thức mình lên để trở thành chất rượu của Tâm thức Ki-tô.”

Con có thấy sự điên rồ ở đây chăng? Và con thấy là khoa học đã chứng minh đúng sự thật rằng Thượng đế đã ban cho con người quyền ngự trị trên trái đất, ngài đã ban cho họ quyền tự quyết, và ngài đã ban cho họ một cái tâm có khả năng tương tác với chính Tấm gương Vũ trụ – qua đó những gì họ phóng chiếu lên tầng cấp cơ bản nhất của vật chất sẽ chính là những gì được trình chiếu ra thành hoàn cảnh vật lý nơi họ sinh sống.

Tâm là một chiếc máy thu thanh

Điều mà các nhà vật lý phát hiện là trước khi họ quan sát một hạt nguyên tử, nguyên tử đó không hiện hữu như một hạt, nhưng nó có tiềm năng thị hiện ra ở một vị trí nào đó. Họ có thể tính toán xác suất hạt nguyên tử có thể thị hiện ở một vị trí, nhưng họ không thể biết chắc chắn cho tới khi họ thực hiện quan sát. Tại sao như vậy chứ, con yêu dấu? Là vì chỉ khi nào tâm thức của con tương tác với tầng cấp sâu thẳm của thực tại mà Thượng đế đã tạo ra, chỉ khi đó thì vật mới thị hiện ở mức rung động nơi tâm thức con đang tự đồng hóa.

Như chúng tôi đã có nói, tâm con giống như một máy thu thanh có khả năng bắt sóng nhiều đài phát thanh khác nhau. Nhưng hầu hết mọi người trên địa cầu đã bị điều kiện hóa để điều chỉnh tâm mình, khiến tâm chỉ bắt được quang phổ rung động của vũ trụ vật chất – nó chỉ bắt được đài phát thanh của vũ trụ vật chất mà thôi. Họ bị điều kiện hóa để nghĩ đó là tầng cấp thực tại duy nhất mà họ có thể trải nghiệm, và vượt khỏi cái đó thì không có gì hiện hữu. Hoặc họ nghĩ là có một cái gì vượt ra ngoài, nhưng họ không thể tự ý liên lạc với nó trong tim họ, bởi vì chỉ có linh mục hay giáo hoàng mới có chiếc radio to hơn có khả năng bắt sóng của thiên đàng. Con yêu dấu, ta nói với con là tại toà thánh Vatican hay bất kỳ nơi nào khác, không hề có một chiếc siêu radio nào cả. Bởi vì chỉ có một máy thu thanh duy nhất – một loại máy thu thanh duy nhất trên trái đất này – là cái nằm ngay trong con tim mỗi người, là cái mà mỗi con đều mang trong tim mình.

Con yêu dấu, đó là cách duy nhất con hòa điệu được với thiên đàng. Và những ai cả quyết điều ngược lại chỉ đơn giản là đại diện cho lớp thượng lưu quyền lực đang tìm cách kiểm soát nhân loại, với tâm trạng tách biệt khỏi Thượng đế của chúng. Và chúng biết là sau cùng hết, chúng chỉ có thể kiểm soát được con qua tâm trí bằng cách khiến con tin rằng không có gì hiện hữu bên ngoài nhà tù nơi con đang cư ngụ.

Hoàn cảnh cuộc sống được trải nghiệm theo trạng thái tâm thức của mình

Trở lại với vật lý lượng tử, có một thuyết trong vật lý lượng tử bảo rằng khi một quan sát được thực hiện, thì một sự kiện hay một hạt nào đó trở thành một biểu hiện vật lý trong vũ trụ này. Như vậy câu hỏi được đặt ra là: “Vậy thì các tiềm năng kia có xác suất thị hiện, chúng đã biến đi đâu? Liệu chúng chỉ đơn giản biến mất khi dạng sóng co sụp, hay có thể nào mỗi tiềm năng đó được thị hiện trong một vũ trụ song song?”

Thuyết này có tên là “cách diễn giải đa thế giới”, cho rằng có hằng hà sa số vũ trụ. Và mỗi lần con làm một chọn lựa thì cũng có một bản sao của chính con đang làm một chọn lựa khác trong số các chọn lựa tiềm năng mà con có. Nếu con chọn A, bản sao của con sẽ chọn B, và nó sẽ sống trong một vũ trụ song song để trải nghiệm hệ quả của chọn lựa đó. Con yêu dấu, chuyện này không thực đâu, bởi vì con là một Bản thể, một cái Là duy nhất. Và ta có thể cam đoan với con là ngay cả Thượng đế cũng đã thấy được là con khó lòng nào mang vô số phiên bản như vậy mà vẫn duy trì được một ý niệm toàn vẹn nào đó. Cho nên con chỉ là một cái Là duy nhất, nhưng tất nhiên cái Là đó, Bản thể đó, có nhiều tầng cấp.

Cho nên thực tế là nếu con chọn một chọn lựa nào đó ở đây trong cõi vật lý, thì con không chỉ trải nghiệm hệ quả của chọn lựa đó trong tâm ý thức của con – bởi vì cái tâm rộng lớn của con bao gồm cả các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc của hành tinh địa cầu. Và con sẽ cũng trải nghiệm hệ quả các chọn lựa của con ở các tầng cấp đó, tùy theo trạng thái tâm thức và con tự đặt mình ở đâu. Bởi vì như thày Maitreya đã giải thích trong sách của thày, tuy chỉ có một tầng cấp trong vũ trụ vật lý, nhưng có nhiều tầng cấp trong các cõi cảm xúc và lý trí, và ngay cả cõi bản sắc – tức cõi êthe – cũng có một số phân chia.

Con là một Bản thể duy nhất hiện hữu trong nhiều chiều kích

Con rất có thể sống trên địa cầu trong một thân xác vật lý nhưng lại mang một trạng thái tâm thức thấp khiến con hòa điệu cảm thể với một tầng khá thấp của cõi cảm xúc. Cho nên hoàn toàn có khả năng là con trải nghiệm một sự cố vật lý nào đó, và trong tâm con, trải nghiệm đó trở thành rất tiêu cực và bị chi phối bởi lòng sợ hãi. Trong khi đó, một người khác có trạng thái tâm thức cao hơn hoà điệu với những tầng cao hơn của cõi cảm xúc, có thể kinh qua cùng hoàn cảnh vật lý của con nhưng trải nghiệm của họ thì khác hẳn – một trải nghiệm ít sợ hãi hơn hẳn.

Điều ta muốn trao cho con ở đây là khái niệm rằng con là một Bản thể duy nhất, một cái Ta duy nhất, nhưng con hiện hữu trong nhiều chiều kích. Và con có thể xem các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất là những vũ trụ song song, những thế giới song song. Nơi đây trong cõi vật lý, cơ thể của con có thể có một số hành động, nhưng điều sẽ định đoạt trải nghiệm sống của con không phải là hành động vỏ ngoài, mà thực sự là cách con cảm nhận hành động đó, hay hệ quả của hành động đó, cách con trải nghiệm hoàn cảnh của con như thế nào.

Điều ta đang cố giải thích cho con là có một thực tế ở đây, để khi con nhìn vào nhân loại, con thấy được là có nhiều nhóm người có thể được xếp trên một cái thang theo tầng tâm thức của họ. Và mỗi tầng như vậy – nếu có thể nói như thế – đang sống trong một vũ trụ song song. Bởi vì mặc dù tất cả mọi người đều có một cơ thể vật lý, nhưng trong tâm thức họ lại hòa điệu với những tầng khác nhau của cõi cảm xúc và lý trí. Và tầng cấp nơi họ đang bắt sóng sẽ định đoạt cách nhìn của họ về thế giới vật chất cũng như cách họ trải nghiệm cuộc sống – nó sẽ quyết định trải nghiệm sống của họ sẽ như thế nào.

Tâm thức trên thang tần số cao hay thấp

Điểm này liên quan rất nhiều đến lời dạy mà ta đã ban ra trong thời gian qua, tức là con có thể chia loài người thành ba lớp: lớp 10% trên cùng là những người có nhận thức tâm linh cao nhất, lớp 10% dưới cùng là những người vị kỷ nhất, chỉ chú trọng đến bản thân, và số 80% còn lại trong quần chúng nói chung nằm đâu đó ở giữa. Ta muốn con hiểu ở đây là điều định đoạt vị trí của một người trên cái thang nói trên không phải là quyền lực vỏ ngoài mà là trình độ tâm thức của người đó.

Hiển nhiên, những người nắm nhiều quyền lực nhất trên địa cầu không nhất thiết – và thực ra cũng rất hiếm hoi – nằm trong lớp 10% trên cùng. Nhưng lớp 10% trên cùng này không hề cao trội hơn mọi người khác, bởi vì muốn là thành phần của 10% trên cùng, con phải khắc phục được nhị nguyên cũng như nhu cầu xem mình tốt đẹp hơn người. Con cũng không được rơi vào đối nghịch của nó là sự khiêm tốn giả dối, mà con bước vào nhận thức thực tế mà chúng tôi đã nói đến trong các bài truyền đọc vừa qua trong hội nghị này, là con chỉ đơn giản nhận ra mình là ai, rằng mình là một người đồng sáng tạo cùng với Thượng đế. Đó là điều sẽ định đoạt con có nằm trong số 10% trên cùng hay không. Cho nên con không được cho phép tự ngã biến lời dạy này của chúng tôi thành một lời dạy về cao trội, rồi con cảm thấy tự hào, bởi vì nếu vậy thì con vẫn chưa hiểu được lời dạy này đâu.

Quả thực là có những người đã hoà điệu tâm thức mình với các tần số cao hơn, với những đài phát thanh truyền rải chân lý từ cõi các chân sư thăng thiên. Và như vậy, họ cũng nâng cao tâm thức của họ đến mức họ có thể bắt sóng một đài khác hơn là đài phát thanh mà đa số con người sử dụng, chắc chắn khác hơn lớp 10% dưới cùng thường chỉ bắt được đài phát thanh được gọi là địa ngục.   

Bởi vì con thấy đó, quả thực có địa ngục hiện hữu trong cõi cảm xúc. Đó là cõi của những người đã trở thành vị kỷ – đã bị nuốt sống bởi lòng oán giận của họ đối với Thượng đế cũng như đối với bản thân họ – đến độ họ đã tạo ra một cõi nơi oán hận trở nên mãnh liệt, sôi bỏng và được trải nghiệm như những ngọn lửa địa ngục thiêu đốt họ trong nỗi đau đớn triền miên. Đối với những con người bị mắc kẹt trong cõi đó, cho dù họ bị dằn vật triền miên như vậy, nhưng họ không luôn luôn nhận thức được điều đó, vì họ bị cuốn hút trong nỗi oán giận Thượng đế đã tiêu hủy khả năng nhận biết của họ đến độ họ không còn nhận ra là nó khó chịu đến chừng nào, và họ mong muốn thoát ra khỏi đó đến chừng nào.     

Tâm thức là một lực hút

Khi con nhìn vào cái thang của lớp 10% dưới cùng, 10% trên cùng và 80% ở giữa, con thấy trên thang đó có nhiều tầng cấp khác nhau. Và khi con nhìn những người hiện đang đầu thai trong số 10% dưới cùng, con sẽ thấy là những người ở các tầng cấp thấp nhất hiện thân cho một trạng thái tâm thức đặc thù. Những người này hình thành một lực hấp dẫn, một trọng lực, tìm cách lôi kéo tâm trí của mọi người khác xuống tầng tâm thức của họ.

Họ làm vậy không chỉ xuyên qua tâm họ, mà họ làm vậy xuyên qua hành động, bằng cách dính dấp, lôi kéo mọi người vào những cuộc chiến hầu mọi người bị mắc bẫy trong chiến tranh, mắc bẫy trong giao tranh. Và mặc dù có người đã vươn lên được trong danh dự, nhưng nhiều người khác bị rơi xuống những loại xu hướng tồi tệ như thú vật, chẳng hạn họ có thể giết bất cứ ai xem chừng đang cản đường họ, hay chiếm một ngôi làng rồi hãm hiếp tất cả phụ nữ trong làng, hay hoàn toàn coi thường mạng sống với nhiều cách khác nữa. Và như vậy, họ kéo con người xuống mức của thú vật, và họ kéo cả những ai nhìn vào hành vi tàn ác đó rồi nổi giận và tìm cách trả thù. Họ tạo ra một vòng xoáy ốc hướng hạ, và mọi người bị kéo xuống thấp hơn và thấp hơn nữa.     

Có những con người trong số 10% dưới cùng sống trong một vũ trụ đặc thù mà con là người tâm linh không thể nào tưởng tượng nổi. Thật ra ta không khuyến khích con cố tưởng tượng ra cách họ trải nghiệm cuộc sống như thế nào. Bởi vì chính ta đã bước xuống địa ngục – nghĩa là ta đã bước xuống mức tâm thức của họ để tìm cách đưa họ đi lên – nhưng ta chỉ làm công việc đó sau khi ta đã tái sinh, cho nên ta đã rũ bỏ xong thân xác cùng với tâm thức phàm phu. Và chắc chắn ta không khuyến khích con bước xuống tầng mức đó khi con còn đang hiện thân trong một cơ thể vật lý. Chuyện đó chỉ dành riêng cho một số rất ít người, và vì vậy con cần nỗ lực nâng cao tâm thức của mình thay vì đưa nó xuống thấp… trừ khi, tất nhiên, nếu con cần đi xuống để xem xét chính tâm lý của mình trong tiền kiếp và tháo gỡ một quyết định mà con đã lấy khi con còn ở một mức tâm thức thấp hơn. Nhưng con không hòa điệu với tâm thức của người khác, vì con không cần tháo gỡ quyết định của họ, bởi vì chỉ có họ mới làm được việc đó mà thôi.

Lớp 10% trên cùng phải đem lại thay đổi tích cực

Thông điệp mà ta muốn mọi người hiểu ở đây là Thượng đế đã giao cho con người quyền ngự trị trên trái đất. Những ai nằm trong số 10% dưới cùng là những kẻ đui mù, và họ là những kẻ mù đang cố dẫn đầu những kẻ mù khác là quần chúng nói chung. Họ hung hãn, họ hoàn toàn vị kỷ, và con không thể chờ đợi là họ sẽ bỗng dưng thức tỉnh rồi bắt đầu nâng cao tâm thức của họ hay nâng cao tâm thức lớp 80% quần chúng.

Ta không đang nói là đã không có ai trong số 10% dưới cùng từng thức tỉnh, vì chuyện đó đã từng xảy ra nhưng chỉ cho một số rất ít. Cho nên điều ta muốn nói là con không thể chờ đợi những thay đổi tích cực cho hành tinh này từ lớp 10% dưới cùng đó. Vậy thay đổi tích cực phải đến từ đâu? Nhìn vào lớp 80%, con sẽ thấy họ thường theo chân người khác, họ không có một ý thức về cái ta đủ mạnh để đi ngược lại số đông, để từ chối chui vào cái khuôn do xã hội quy định. Vậy thì thay đổi tích cực phải đến từ đâu? Chỉ có thể từ lớp 10% trên cùng, con yêu dấu, và đây là điều con cần nhận ra.

Con hãy nhìn vào ví dụ châu Âu thời Đệ nhị Thế chiến, một cuộc xung đột giết hại hàng triệu người trên lục địa này. Hàng triệu người bị mất người thân yêu, nhà cửa hàng triệu người bị phá hủy, và cả thành phố của họ cũng bị tàn phá, cả quốc gia của họ bị tàn phá. Thế nhưng khi con đi tới một số nơi khác trên cùng lục địa châu Âu, con sẽ tìm thấy nhiều người vẫn sống cuộc sống gần như bình thường trong suốt 5 năm của cuộc chiến. Tại sao vậy, con yêu dấu? Vì họ ở một tầng tâm thức khác so với những người bị liên lụy trực tiếp vào cuộc chiến.

Con không nên tin là mọi chuyện xảy ra chỉ xảy ra như vậy. Tất cả mọi sự xảy ra là sự thị hiện của tâm thức. Có lý do khiến cho một số người tụ hợp lại và đầu thai trong cùng một khu vực, trong cùng những khu vực địa lý, và nơi đó họ đã bị trực tiếp liên lụy vào cuộc chiến. Có lý do khiến cho một số người khác đầu thai ở những nơi khác tại Âu châu và không bị liên hệ trực tiếp đến như vậy. Có một lý do cho sự thể này, và đó là mức tâm thức của họ. Cho nên điều ta đang cố giải thích là ngay cả trong một cuộc xung đột khủng khiếp như Đệ nhị Thế chiến, con sẽ tìm thấy những con người ở những tầng tâm thức khác nhau và họ sẽ có những trải nghiệm rất khác nhau về các biến cố vật lý.   

Vũ trụ song song trong tâm thức

Ngày nay, các con là những người tâm linh – nếu có thể nói như thế này – đang sống trong một vũ trụ song song so với số đông của nhân loại, cũng như so với lớp 10% dưới cùng. Con hãy suy ngẫm sự kiện con đang ngồi trong căn phòng này đây, trong tu viện của một dòng Cơ đốc giáo rất lâu đời với truyền thống tổ chức rất chặt chẽ, cố định. Con hãy suy ngẫm sự kiện con đang ngồi đây lắng nghe một người tự nhận là mình đang nói giọng nói của Giê-su đích thực, và cùng lúc đó ở dưới kia có những vị tu sĩ của dòng tu này đang cử hành thánh lễ ngày Chúa nhật, và họ cũng tự nhận là họ đang thờ phượng Giê-su Ki-tô đích thực, và chắc hẳn họ sẽ vô cùng sửng sốt nếu họ thực sự hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Con có thấy chăng là ngay cả khi con gần gũi như vậy trên phương diện địa lý, con vẫn có thể đang sống trong những vũ trụ song song trong tâm con?    

Cho nên ý tưởng đến từ nền vật lý lượng tử về các vũ trụ song song không sai, duy chỉ có điều đó không phải là những vũ trụ vật lý song song – đó không phải là những vũ trụ song song trong quang phổ rung động vật chất – mà là những vũ trụ song song trong tâm thức. Và đây chính là điều kỳ diệu của hành tinh địa cầu trong cõi vật chất. Nó cho phép mọi người – như thày Maitreya giải thích tường tận hơn trong sách của thày – ở cùng một vị trí địa lý nhưng lại ở trong những vũ trụ song song trong tâm thức.   

Quả vị Ki-tô dời chuyển toàn bộ quang phổ tâm thức

Điều này có nghĩa là có một sự tương ứng giữa vũ trụ song song nơi con sống trong cương vị một người tâm linh, với vũ trụ song song mà lớp 10% dưới cùng trải nghiệm. Có một quy luật của Thượng đế định rằng trước khi một biểu hiện nhị nguyên – một biểu hiện của bóng tối, của xấu ác – có thể được loại bỏ khỏi địa cầu, thì trong số 10% trên cùng phải có một số người đã nâng cao tâm thức tới mức họ đã tự giải thoát khỏi các khía cạnh của tự ngã đang được trình chiếu ra bên ngoài thành các biểu hiện đó của bóng tối.

Họ phải giải thoát khỏi các khía cạnh đó, nhưng họ cũng phải đứng thẳng lưng và tuyên bố: “Biểu hiện này của xấu ác không thể nào chấp nhận được nữa trong thế giới của tôi!” Chỉ khi nào con đứng trên Tảng đá của Ki-tô – vì con đã sẵn lòng loại bỏ cái xà trong mắt con, cái khía cạnh đó của tự ngã đang được trình chiếu vào thị hiện – chỉ khi đó, chỉ khi con đứng trên Tảng đá của Ki-tô, thì con mới có thẩm quyền – hay có thể nói, con mới trao cho Thượng đế thẩm quyền – để loại trừ biểu hiện xấu ác đó khỏi hành tinh, và loại bỏ những kẻ không chịu tự nguyện nâng tâm thức mình lên cao hơn nó.

Con có thấy chăng đây chính là cách tiến bộ xảy ra trên hành tinh này? Phải có những người trong số 10% trên cùng đã đạt đến trình độ quả vị Ki-tô tương ứng với trình độ tha hóa của số 10% dưới cùng. Và chỉ khi nào nhân loại có đủ túc số những con người như vậy – một lượng “tới hạn” những người đã đạt đến mức đó của quả vị Ki-tô – thì hiện tượng tha hóa ở mức đó mới có thể được loại bỏ. Và như vậy, toàn bộ quang phổ tâm thức được dời chuyển lên cao hơn. Nếu con nhìn vào quang phổ của tâm thức con người trên địa cầu, con sẽ hiểu tiến bộ xảy ra như thế nào. Toàn bộ quang phổ được nâng lên cao hơn, và lúc bấy giờ, không những lớp 10% trên cùng có khả năng bước lên một bước cao hơn, mà số 10% dưới cùng cũng không thể bước xuống thấp hơn một mức nào đó vì khi đó họ sẽ bị loại khỏi địa cầu.

Đây là cách duy nhất mà tiến bộ có thể xảy ra. Tiến bộ không thể xảy ra một cách nào khác. Nó không thể xảy ra qua vũ lực. Nó không thể xảy ra do một quốc gia chuyên chế chinh phục cả thế giới rồi cố thiết lập vương quốc Thượng đế bằng vũ lực. Nó không thể xảy ra do một tôn giáo chế ngự cả địa cầu. Nó không thể xảy ra cách nào khác hơn là qua một sự chuyển đổi tâm thức, mà qua đó những ai mang tiềm năng phải đứng dậy, phải thỉnh lấy quả vị Ki-tô của mình, phải thanh tẩy tâm mình cho không còn một số biểu hiện của tâm thức nhị nguyên, rồi họ phải – đồng thanh, đồng tâm và đồng lòng – nói rằng chuyện đó phải chấm dứt, rằng như thế là quá đủ rồi!

Chiến thắng là sự hợp nhất của mọi con tim

Đây là những gì con đã và đang làm khi con bước theo lời dạy của chúng tôi, các chân sư thăng thiên, khi con đọc bài nguyện và bài thỉnh – con đã làm như vậy từng bước một. Nhưng lý do chúng ta đã giành được chiến thắng, như thày Saint Germain có giảng tối hôm qua, là các con đã đến với nhau trong sự hợp nhất. Có lẽ tất cả các con không nhận thức điều này, nhưng các con đã đến trong tâm hợp nhất và tim hợp nhất, trong cùng mong muốn nâng châu Âu vươn lên khỏi quá khứ, vươn lên khỏi bế tắc của quá khứ. Và các con đã sẵn lòng thăng vượt các mối chia rẽ vỏ ngoài mà người ta đã dùng để chia và trị người dân lục địa này từ quá lâu nay. Và quả thật đây là chìa khóa chủ yếu mà con cần nhận thức, mà con cần áp dụng trong đời sống và con cần tiếp tục áp dụng khi các con đến với nhau. Và chúng tôi vô cùng khích lệ khi thấy con sẵn lòng đến với nhau như một cộng đồng.

Con cần thấy là chúng tôi muốn thiết lập ở đây một dòng chảy hình số 8 giữa Âu châu và Hoa kỳ, hầu tạo thành hai thái cực là các đệ tử tại Hoa kỳ và các đệ tử tại Âu châu – và chắc chắn ta cũng kể cả Âu châu miền Đông cho tới nước Nga, và tất cả đều đến với nhau, hình thành sự hợp nhất và dòng chảy hình số 8 rồi gặp nhau. Giao điểm dòng chảy này nằm giữa Đại tây dương nơi thuở xưa đã từng hiện diện nguyên một lục địa nơi ta từng phụng sự và lãnh đạo một dòng tiến hóa tâm linh con người. Thế nhưng nền văn minh đó đã không thể duy trì được ở mức đó, để rồi cuối cùng bị chìm xuống một trình độ tâm thức thấp hơn.

Nhưng tâm thức có khả năng vươn lên trở lại, và động lượng cùng nền khoa học và các tư tưởng đã từng khởi lên trên lục địa đó có thể sẽ lại khởi lên một lần nữa – nhưng chỉ khi nào có những người giữ được sự quân bình tâm linh cho tâm thức đó bằng cách nâng cao tâm thức của chính mình. Cho nên chúng tôi đặc biệt khuyến khích các con hãy hình thành mối liên kết đó – hình thành dòng chảy hình số 8 – và nhìn xem các con có thể làm gì để tạo dựng tinh thần cộng đồng sẽ thực sự kết hợp các con.

Lắng nghe Giê-su ở bên trong

[Giê-su im lặng một lúc]. Ta im lặng vì ta muốn con trải nghiệm rằng thái cực Omega của phát biểu quả thực là im lặng. Con đừng rơi vào cái bẫy mà nghĩ rằng con luôn luôn cần lắng nghe một bài giảng vỏ ngoài, một giọng nói vỏ ngoài. Vì nếu con nghĩ rằng ta, Giê-su, chỉ có thể nói chuyện với con qua trung gian một sứ giả bên ngoài thì con đã hụt mất khía cạnh Omega trong pháp của ta. Bởi vì ta quả thật có thể nói chuyện với mỗi người trong các con ở ngay trong tim con. Nhưng để con nghe thấy ta, con phải tạo ra một khoảng trống im lặng trong tâm con – vì ta không nói to hay nói ầm ĩ, như con tưởng nếu con dựa trên bản nhạc con vừa nghe trước khi ta bắt đầu giảng.

Nhưng một lần nữa, bài hát đó là cách người ta muốn hình dung Ki-tô như một vị vua vẻ vang đến lật đổ tất cả mọi uy quyền trên trái đất. Nhưng con thấy không, ta không hề là một ông vua lớn tiếng đường đường tiến vào các thành phố Israel, mà ta là – có đúng vậy không? – một người hèn mọn cưỡi trên lưng con lừa. Và điều này biểu tượng cho sự kiện ta cũng không đến với con trong một giọng nói oai phong lẫm liệt để ra lệnh cho con. Ta đến như một giọng nói vô cùng nhỏ nhẹ để khích lệ con đạt được một hiểu biết cao hơn, hầu con có thể tự ý có những chọn lựa tốt hơn thay vì bị chỉ bảo phải làm gì.

Ta hoàn toàn không có mong muốn bảo mỗi người trên hành tinh này phải làm gì, vì ngay cả chính ta cũng mong muốn có những giây phút yên tĩnh. Tại sao ta lại chuốc lấy phận sự biết rõ mỗi người trên địa cầu phải cư xử ra sao, để rồi ta phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa mà họ lấy, trong khi – theo luật tự quyết – chính ta không có khả năng ảnh hưởng đến trải nghiệm sống của họ? Đã biết bao lần một vị đạo sư tâm linh đã bảo mọi người phải làm gì, chẳng hạn bảo người ta phải lập gia đình với ai đó, rồi khi hôn nhân đổ vỡ – do người đó đã ngây thơ tưởng rằng một khi có đạo sư chỉ bảo thì mọi chuyện đương nhiên phải “hạnh phúc mãi mãi” – thì họ vẫn phải giải quyết vấn đề của họ, rồi họ bất mãn với đạo sư, cảm thấy lời khuyên kia là sai lầm, và họ rơi vào một trạng thái tâm thức tiêu cực.

Đây là một khuôn nếp mà con thấy lặp đi lặp lại nhiều lần với những ai đã đi theo một thẩm quyền bên ngoài, cho dù thẩm quyền đó là gì. Và thật vậy, con thấy là ở ngay nước Đức này đây khi dân Đức vào thập niên 1930 nhân mong muốn đi theo một uy quyền bên ngoài, thì đã có ngay một người xuất hiện để đảm nhiệm vai trò đó cho dân tộc Đức. Hiển nhiên là sau đó, người dân Đức hối hận mình đã đi theo lãnh tụ đó, nhưng bấy giờ họ lại đổ lỗi cho lãnh tụ thay vì nhìn nhận là lãnh tụ chỉ là một biểu hiện của chính tâm thức họ, biểu hiện chính sự từ chối nhận lãnh trách nhiệm của họ.

Cho nên con thấy đó, một lần nữa, nếu tâm thức con ở một mức nào đó thì con sẽ thu hút về phía con – hay đúng hơn, con thu hút bản thân con về phía một vũ trụ song song đặc thù nơi tất cả những gì con giữ trong tâm thức sẽ trải bày ra. Vì vậy đối với con là người tâm linh, điều ta muốn khuyến khích con xem xét là con có thể hòa điệu tâm thức mình vào sự rung động của bào huynh yêu dấu của ta, thày Saint Germain, cũng như viễn quan của thày cho một Thời Hoàng kim tại Âu châu. Xong con hãy chấp nhận Thời Hoàng kim đó chính là thực tại thị hiện trong thế giới của con.

Để việc làm này thành công, con cần, như ta đã nói, nâng cao tâm thức của mình để nó vượt khỏi các biểu hiện của tự ngã không còn chỗ đứng trong Thời Hoàng kim. Và đó là khi ta sẽ cống hiến sự trợ giúp của ta bằng cách làm giọng nói bé nhỏ bên trong – nếu quả thật con thỉnh thoảng dành cho ta một vài giây phút khi con làm cho tâm lắng đọng và con chỉ ngồi đó trong im lặng. Con hãy tắt cái máy iPod đó đi, con yêu dấu! Vì ta không mong muốn cạnh tranh với công nghệ tuyệt diệu đó. Hãy dành cho ta im lặng và ta sẽ cho con sự hướng dẫn. Mình đồng ý rồi chứ? Thế thì ta niêm con trong sự an bình của trái tim ta.

Bản sắc sa ngã và bản sắc tách biệt

Hỏi: Liệu đã từng có một thiền thần sa ngã nào đã quay đầu, nhập lại con đường và trở thành Ki-tô?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 19/5/2007.

Không, một thiên thần sa ngã không thể được cứu chuộc – vì lý do giản dị là cái Ta Biết của mọi sinh thể là điều mà nó nghĩ nó là. Cho nên nếu con nghĩ con là một thiên thần sa ngã, con không có bất kỳ hy vọng nào quay ngược trở lại, cất bước trên con đường tu tâm linh và bước vào Nước Trời.

Và đó là lý do ta đã nói: “Ai muốn cứu mạng sống của mình sẽ mất sự sống, còn ai sẵn lòng bỏ mạng sống của mình vì ta, sẽ tìm thấy sự sống”. Vậy những ai sẵn lòng từ bỏ bản sắc sa ngã của mình, tức là bản sắc tách biệt khỏi Thượng đế, chắc chắn có thể quay đầu, và điều này đã xảy ra cho nhiều cá nhân. Tuy nhiên ta phải nói là trong số những sinh thể sa ngã cứng nhắc và khép kín nhất – nhóm những sinh thể cứng nhắc và khép kín nhất – không có một ai đã được cứu chuộc cho tới giờ.  

Như các thày nay đã giải thích trong quyển sách của Maitreya lẫn quyển của Mẹ Mary, con thực sự là điều mà con nghĩ con là. Cho nên để vĩnh viễn bước vào cõi tâm linh và thăng thiên, con phải vượt qua mọi bản sắc thế gian. Ta phải nói cho con sự thật trung thực: điều gì áp dụng cho thiên thần sa ngã cũng áp dụng cho mọi ai khác đã gia nhập vào tâm thức nhị nguyên – con phải để cho ý niệm bản sắc tách biệt chết đi trước khi con thăng thiên.  

Và như vậy theo một nghĩa nào đó, thật không quan trọng nếu con đã sa ngã như thế nào hay sa ngã ở đâu, bởi vì ai ai cũng phải đi theo cùng một tiến trình. Và ta cũng nói cho con, có những sinh thể đã không sa ngã ở những bầu cõi cao hơn do đã chống đối lại Thượng đế, mà họ đã sa ngã vì những lý do có thể gọi là “ngây thơ” hơn – có thể thậm chí vì họ đã đi theo một người thày giả, vì họ đã không hẳn sẵn lòng nhận trách nhiệm về đời mình và do đó đã mong muốn ai khác lấy quyết định giùm cho mình. Và một số sinh thể như thế – là những sinh thể chưa từng biểu lộ bất kỳ xấu ác nào, chưa từng thể hiện mong muốn kiểm soát người khác – vẫn bị bao trùm trong bản sắc vị kỷ đến độ họ không chịu buông nó ra. Và như thế, ngay cả những sinh thể có vẻ vô hại và ngây thơ cũng đã đi vào cái chết thứ hai khi thời hạn của họ đã hết.    

Vậy con thấy đó, con yêu dấu, con không thể nhìn sự việc một cách hoàn toàn trắng đen rồi bảo rằng chỉ có các sinh thể sa ngã mới đi vào cái chết thứ hai. Vì thật ra con cũng có thể nói là bất cứ ai mang một bản sắc tách biệt cũng là một sinh thể sa ngã. Và nếu sinh thể đó không sẵn sàng từ bỏ bản sắc sa ngã này, cái bản sắc tách biệt, thì rốt cuộc nó cũng sẽ đi vào cái chết thứ hai khi nó hết thời hạn. 

Đạo đức giả không cần ghi danh!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su ngày 5/7/2005 qua trung gian Kim Michaels.

Tự ngã mất hết quyền lực khi con thấy nó thật là gì

Ta là Giê-su. Ta cũng xin bồi thêm thần lực của ta cho phong trào các vị Bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Ta đến đây để ở lại với các con, và ta cam kết sẽ khai ngộ cho bất cứ ai sẵn lòng buông bỏ tự ngã của mình – bất cứ ai sẵn lòng vạch trần tự ngã để nhìn thấy nó thật là gì, và như thế tự tách mình và tách cái Ta Biết ra khỏi nhà tù của tự ngã. 

Quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng ta là một vị thày dễ tính. Nhưng ta là một vị thày thẳng thắn. Ta không đùa, và ta sẽ không đùa với bất cứ ai đến với phong trào này. Bởi vì nếu con không sẵn lòng buông bỏ tự ngã, con có thể tự do đi nơi khác, nơi người ta sẽ o bế tự ngã của con thay vì giúp con tách rời khỏi tự ngã.

Nhưng khi ta nói ta là một vị thày thẳng thắn, ta không bảo ta là một vị thày không yêu thương. Và điều quan trọng là con nên suy ngẫm về sự khác biệt này, vì thực sự, tình thương của ta là tình thương toàn hảo đánh bật mọi nỗi sợ hãi ra ngoài. Và ta biết thừa là nhiều người rất sợ tự ngã của mình bị phơi bày ra, sợ điều gì đó sẽ xảy ra cho mình khi mình không thể còn ẩn náu đằng sau các lý lẽ khôn ngoan mà cái tâm nham hiểm của Rắn đã nặn ra để lừa gạt các dòng tiến hóa trên hành tinh này.  

Hãy ngừng nhón gót chung quanh tự ngã

Quá nhiều học trò tâm linh đã nhón gót đi vòng quanh, tránh né đề tài tự ngã mặc dù chúng tôi, các chân sư, đã giảng dạy trong mấy tổ chức tâm linh trước rồi. Họ đã sợ rằng nếu tự ngã của họ bị phơi bày, họ sẽ phải trải qua một cơn biến động nào đó, họ sẽ đánh mất giá trị về bản thân, hay bằng nhiều cách, họ sẽ chìm vào một cơn khủng hoảng bản sắc.  

Thật ra con chỉ cần chuyển đổi ý niệm bản sắc của con đi một chút mà thôi. Con cần bắt đầu tự hỏi: “Biết những gì tôi biết về con đường tâm linh – và mục đích đạt được tự do trong tâm thức Ki-tô, mục đích chứng nghiệm được tự do rộng lớn khi mình vượt khỏi và đứng trên tự ngã – biết được những gì tôi biết, thực sự có thành phần nào của tự ngã mà tôi không sẵn sàng từ bỏ hay không, nếu tôi có thể nhìn thấy?” Và ta nghĩ khi con trầm tư về điều này, con sẽ thấy được trong tim con là quả thực không có điều gì mà con không sẵn sàng buông bỏ để đến gần hơn với tình yêu Thượng đế, để là con người mà con là, và biểu hiện con người đó. Khi con nhận ra điều này, con không cần phải sợ tự ngã nữa, hay sợ phải phơi bày tự ngã nữa.

Con sẽ không cần sợ mình phạm lỗi, vì dù con có làm lỗi thì điều đó hoặc sẽ phơi bày một phần của tự ngã, hoặc sẽ giúp con vượt qua tự ngã. Tự ngã không còn bất kỳ quyền năng nào trên con. Nó chỉ có quyền năng nếu con chưa nhìn thấy nó, hay con chưa thấy nó thực sự là ảo tưởng và như vậy con mới chưa thể tách rời khỏi nó. Ngay khoảnh khắc con nhìn thấy nó, và ngay khoảnh khắc con quyết định tách rời khỏi nó, nó sẽ không có quyền năng gì trên con nữa, và con sẽ bước tới đâm xuyên qua nó. Và khi con bắt đầu nhận ra điều này, con sẽ thấy con đường vượt khỏi tự ngã không khó lắm đâu. Đó không phải là một con đường đầy sợ hãi, không là một con đường đáng xấu hổ, không là một con đường nơi mình cảm thấy bại trận hay thua kém do mình vẫn còn khía cạnh này hay khía cạnh nọ của tự ngã.   

Con là nhiều hơn tự ngã rất nhiều. Và ta sẽ nhắc đi nhắc lại cho con rằng con là nhiều hơn. Con là nhiều hơn rất nhiều và đó là điều mà chúng tôi yêu thích. Và khi con nhận ra con nhiều hơn tự ngã đến chừng nào thì việc buông bỏ tự ngã sẽ không là vấn đề nữa. 

Thế đấy, cốt lõi của tự ngã chỉ có vậy – hoặc con không nhìn thấy nó, hoặc con không sẵn sàng bỏ nó đi. Tự ngã luôn luôn cố gắng lẩn trốn. Nó luôn cố nói với con là con không thể đi bước kế tiếp trên đường tu, con không thể bước ra ngoài cửa nhà tù. Nhưng rồi khi con nhận thấy con có khả năng tiến bước trên đường tu, nó sẽ cố bảo con là con thực sự không muốn bước tới hay con không được phép bước tới.

Tự ngã ngăn cản con đi bước kế tiếp

Trong bản chất, tự ngã chính là yếu tố ngăn con đi bước kế tiếp để đến gần hơn với Thượng đế. Thật sự, tự ngã cũng có nhiều đặc tính khác nhưng tinh túy của nó là nó ngăn con đi bước kế tiếp trên đường đạo. Và khi con bắt đầu ngộ ra điều này – và ngộ ra rằng phần lớn cái ta của con hoàn toàn nhất quyết đi bước kế tiếp đó – thì tại sao con lại sợ tự ngã? Tại sao con lại sợ nó được phơi ra? Con phải chào mừng khi thấy nó được vạch trần, bởi vì bây giờ con có thể nói: “À, tôi đã thấy nó rồi. Bây giờ tôi có thể buông nó ra.”  

Như ta có trình bày vào dịp lễ Phục sinh, chìa khóa để vượt qua và bước đi trên đường tu tâm linh là con phải từ bỏ tất cả những thứ gì không thực. Con phải buông nó ra, con phải cho nó ra đi. Nhưng con sẽ không thể buông nó, con sẽ không thể cho nó ra đi cho đến khi con đã sở hữu nó, đã nắm lấy chủ quyền trên nó. Cho nên có thể nói, tự ngã trước tiên sẽ cố ngăn con nắm lấy chủ quyền cái thành phần đó của tự ngã, ngăn con nhìn thấy hoặc nhìn nhận nó. “Phải, cái phần này của tự ngã còn nằm trong bình chứa ngã của tôi.” Và sau đó nếu con thấy nó rồi, nó sẽ cố ngăn cản con buông cho nó ra đi bằng cách khiến con nghĩ rằng con cần đến nó.

Và đây là chìa khóa – nhận ra rằng con sẵn sàng buông cho nó ra đi vì con yêu thích một điều gì khác hơn là ở lại trong vùng an toàn của con. Và ta sẽ có mặt ở đây để giúp tất cả những ai sẵn sàng buông cho tự ngã ra đi. Khi nào thích hợp hơn và các chu kỳ lần lượt trải ra, ta sẽ ban thêm một số giáo lý và dụng cụ tâm linh mới về đề tài này. Nhưng ngay bây giờ ta sẽ nói: “Saint Germain đã tuyên bố rõ ràng là thày sẽ không mất thì giờ với tự ngã của bất kỳ ai nữa. Nếu con muốn là một học trò của Saint Germain và giúp thày thị hiện Thời đại Bảo bình, thì con hãy vứt bỏ tự ngã của con trước khi con tiếp cận với thày.” Đúng thế, ta là vị thày sẽ giúp con vứt bỏ tự ngã đó để con có thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hầu đồng sáng tạo Thời Hoàng kim với Saint Germain.   

Con đường khiêm tốn toàn diện

Vì vậy ta sẽ treo lên một cái bảng, bởi vì ta đang tìm kiếm những ai sẵn sàng giúp một tay trong việc đồng sáng tạo Thời Hoàng kim. Có thể con đã thấy người ta dựng tấm bảng trước các cơ sở kinh doanh với dòng chữ: “Cần người giúp việc. Ghi danh bên trong.” Ta đang dựng tấm bảng này lên vì ta đang cần sự trợ giúp của con. Và con phải vào bên trong để ghi danh, có nghĩa là con vào trong nội tâm mình, bước vào bên trong, phát hiện tự ngã đó và buông cho nó ra đi.  

Tuy nhiên ta cũng có một số điều kiện. Hai ngàn năm trước đây, ta đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và năng lực để ứng xử với những người không sẵn lòng xét xem là mình có cần thay đổi, là mình có một tự ngã hay không. Đây là những người tự coi mình là toàn hảo, là minh triết, là người được Thượng đế chọn lựa và không cần thay đổi. Chỉ có người khác là có vấn đề, cần thay đổi mà thôi. Bảng hiệu của ta sẽ có dòng chữ lớn: “Cần người giúp việc. Ghi danh bên trong.’ Nhưng bên dưới cũng có hàng chữ nhỏ viết rằng: “Kẻ đạo đức giả miễn đăng ký.”

Con đường mà ta trao cho con là cùng con đường ta đã đưa ra 2000 năm về trước. Đó là con đường khiêm tốn toàn diện. Và ngay cả các môn đệ của ta đã sống ba năm với ta cũng đã không hiểu được trọn vẹn con đường này. Và đó là tại sao họ đã bắt đầu tranh cãi nhau để xem người nào là người cao cả nhất trong bọn họ sau khi ta ra đi. Ngay lúc đó, ta như bị giáng một cú vào đầu khi ta chợt hiểu: “Có nghĩa chăng là sau ba năm trời, họ vẫn chưa hiểu được thông điệp của mình? Họ vẫn chưa thâm nhập và thấy được đường đạo là gì?”  

Ngày hôm nay, tình thế của ta sáng sủa hơn nhiều vì hiện có nhiều người thấy được đường đạo là gì. Đó không phải là con đường đúng đắn cho phàm phu, tức là sự tôn vinh tự ngã, mà là con đường khiêm tốn toàn diện, buông bỏ mọi niềm kiêu hãnh của tự ngã, hầu con có thể bước ra khỏi nó và tự giải thoát. Đây là con đường mà ta trao cho con. Ta trao cho con với tất cả tình yêu thương. Và ta sẽ dẫn dắt con trong tình yêu thương cho tới điểm tự do đó. Nhưng ta cũng phải nói, tình thương không luôn luôn mềm mại, vì có khi con cần một bàn tay cứng rắn để con tỉnh ngộ. Và cách cư xử này của ta đối với con cũng liên quan đến cách con nên tiếp cận với người khác về con đường tâm linh.

Làm thế nào giúp Giê-su đánh thức người đời

Khi con tiếp cận với người khác và còn mắc kẹt phần nào trong tự ngã, con sẽ không nói gì trừ khi người ta hỏi, và điều này cũng hữu lý thôi. Con để yên cho họ hỏi, xong con cho họ điều mà họ cần. Tuy nhiên sẽ tới một điểm khi con đạt được một mức độ kết hợp với cái ta Ki-tô của con, và con có đủ sự tự do để không còn cố áp đặt tin tưởng của tự ngã lên người khác nữa. Trái lại, con thực sự đang sống, đang thở, để giải phóng loài người. Và con không rời Thượng đế của con, con luôn đồng bộ với Tượng đế của con.      

Ở điểm đó, con không còn cần phải bận tâm đến chuyện để cho người ta hỏi rồi mới trả lời, vì bây giờ con nhận ra là trên địa cầu có quá nhiều người còn mê ngủ, còn vướng chặt trong vô minh đến độ họ không biết hỏi cái gì. Họ không biết hỏi như thế nào, thậm chí họ còn không dám hỏi. Vậy thì làm sao họ có thể giải thoát được đây? Họ sẽ không thể giải thoát nếu con cứ ngồi ì ở đó chờ cho họ đặt câu hỏi, và họ sẽ không biết hỏi chuyện gì.

Vì vậy con phải là người chủ động, như ta đã từng làm rất nhiều lần trong đời ta. Ta đã đến với mọi người. Ta sẵn sàng bước ra trước mặt họ, nói khích họ và bảo: “Anh chị đang ngủ say! Anh chị cần thức dậy!” Ta đã sẵn lòng lật bàn của bọn đổi tiền đã len lỏi vào nhà thờ – tức là nhà thờ nội tâm của con tim và tâm trí – để buôn bán những sản phẩm dối gạt của chúng trong ngôi đền Thượng đế.  

Và khi con đạt đến một mức độ nào đó của tâm Ki-tô, con sẵn sàng sử dụng cách tiếp cận này – không nhất thiết một cách thiếu tình thương, nhưng sẽ tới một điểm khi con biết rõ trong thâm sâu cách tiếp cận nào là thích hợp nhất cho mỗi người. Và cho tới khi con nhận được sự hướng dẫn rõ ràng đó, ta gợi ý con nên tiếp cận như thế này: “Anh chị biết là có một cách hay hơn phải không? Anh chị biết là mình không cần sống qua những chuyện này? Anh chị biết là mình không cần phải chịu đựng vấn đề này. Anh chị thật sự có khả năng giải quyết. Anh chị có khả năng buông bỏ nó. Anh chị có muốn biết làm thế nào không?”  

Hay con cũng có thể nói: “Anh chị có biết là tôi cũng từng trải qua cùng vấn đề đó, và đây là cách tôi đã làm để vượt qua. Anh chị có muốn tôi giúp không?” Và nếu họ từ chối, có thể con sẽ thử thêm một lần nữa, tối đa ba lần. Nhưng nếu họ từ chối con ba lần, con hãy rút về và tự nhủ: “Tôi đã làm xong bổn phận của mình đối với dòng sống này, bây giờ tùy dòng sống đó có muốn vươn lên và yêu cầu sự giúp đỡ hay không.”   

Hãy cầu thì sẽ nhận được. Cho nên yêu cầu là một việc làm chính đáng. Nhưng như ta đã nói, nếu dòng sống đó không biết phải hỏi gì, phải yêu cầu gì, thì làm sao họ có thể hỏi được câu hỏi hữu ích? Vậy thì con hãy giúp họ bằng cách đặt câu hỏi cho họ. Giúp họ nhận ra là họ có thể biết nhiều hơn, có thể hỏi nhiều hơn về sự sống. Và nếu con hỏi ta thì ta sẽ, qua cái ta Ki-tô của con, giúp con giúp được người khác. Cho nên, con hãy ghi danh với ta ở bên trong.