Tự bảo vệ mình khỏi các tà thể tâm lý và lực khuynh loát

Khi lần đầu tiên bạn nghe nói tới sinh thể vô hình đang tìm cách ảnh hưởng bạn một cách hung hãn, thì bạn có thể cảm thấy sợ hãi. Làm sao bảo vệ mình khỏi cái gì vô hình? Có thể nó khiến bạn nhớ lại thuở nhỏ sợ các ma quỷ, tà linh và ác quỷ mà bạn biết đến qua truyền thống văn hóa của mình? Tuy nhiên, tự vệ tâm lý không khó như bạn tưởng

Thoạt nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng nếu bạn mở tâm ra với sự hiện hữu của các tà thể vô hình, thì sự cởi mở này chứng minh là bạn có khả năng tự vệ. Tại sao? Bởi vì mở tâm ra với điều mà giác quan và trí năng của bạn không thấy được chỉ có thể đến từ trực giác. Và trực giác là phương cách tối hậu để bảo vệ mình khỏi các tà thể tâm lý và lực khuynh loát

Nhiều người mở tâm đón nhận Tâm lý Nhận biết Cao là những người có nhiều trực giác:

  • Bạn có thể nhớ lại hồi nhỏ mình có cảm nhận vi tế là có một thế giới hay một từng thế giới mà bạn cảm nhận được nhưng tâm vỏ ngoài không thể nắm bắt được chăng?
  • Bạn có thể cảm nhận có một sinh thể lớn hơn hay một sinh thể tâm linh luôn ở bên cạnh bạn?
  • Bạn có thể cảm nhận mình nối kết với một sinh thể vĩ đại hơn mình?
  • Bạn có thể cảm nhận là có nhiều điều cần biết về cuộc sống hơn những gì bạn được dạy ở trường và trong lớp giảng tôn giáo cuối tuần?
  • Thậm chí bạn có thể cảm nhận có những sinh thể đen tối đang tìm cách ảnh hưởng bạn và có những nơi có rung động thấp kém hơn?

Chúng ta cần phân biệt ở đây giữa cõi vật lý và 3 cõi cao hơn. Ở cõi vật lý, người khác có thể gây tổn thương cho bạn khi bạn không hề làm bất cứ điều gì để khiến họ hành động như vậy. Tuy nhiên, các tà thể tâm lý và hầu hết các lực khuynh loát hiện hữu trên các cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và ở các cõi này, không ai có thể xâm nhập hay ảnh hưởng tâm bạn nếu ý chí tự do của bạn không cho phép.

Cho nên khi nói đến việc bảo vệ trường năng lượng của bạn khỏi những lực thấp này, thì cách bảo vệ tốt nhất là có ý thức. Một khi bạn biết và hiểu cách các lực này vận hành, thì bạn có thể lấy những quyết định một cách ý thức ngăn cản chúng xâm nhập và ảnh hưởng tâm bạn. Lẽ tất nhiên, bạn không thể có ý thức về tà thể khi bạn chối bỏ sự hiện hữu của chúng và bám víu vào thái độ “mọi chuyện đều tốt cả”. Và đây chính là lý do tại sao Tâm lý Nhận biết Cao đề cập đến các lực này.

Nhận biết rõ hơn về các lực thấp

Hầu hết mọi người thường bắt đầu bằng cách tìm hiểu một số bài giảng vỏ ngoài nói về các lực thấp. Lẽ dĩ nhiên, cái bài dạy trên trang mạng Tâm lý Nhận biết Cao được thiết kế cho người bắt đầu, nhưng cũng có nhiều bài dạy khác của các chân sư thăng thiên trên những trang mạng khác.

Mục đích của những bài giảng này không phải là cho bạn hiểu biết trí năng về cách các lực thấp tìm cách ảnh hưởng bạn. Mục đích thật là khiến sự phân biện trực giác của bạn trở nên bén nhạy để bạn có thể bắt đầu cảm nhận cá nhân mình đang bị ảnh hưởng ra sao và sau đó khắc phục những ảo tưởng đã khiến bạn dễ bị tấn công

Một lần nữa, các lực thấp không thể xâm nhập trường năng lượng của bạn nếu bạn không cho phép. Khốn nỗi, các lực này có thể đã xâm nhập tâm bạn trong một kiếp trước, cho nên bạn không nhớ được một cách ý thức việc gì đã xảy ra. Nhưng các bài giảng được thiết kế để lần hồi giúp bạn có những trực giác nội tâm để nhận ra được những ảo tưởng nào đã khiến bạn dễ bị xâm nhập.

Bạn thường bắt đầu học những bài giảng bên ngoài và sau đó bạn có một sáng ngộ (insight) trực giác là những lời dạy này áp dụng ra sao với bản thân bạn. Khi bạn dần dần thấy những lớp lừa dối sâu hơn do các lực khuynh lóat tạo ra, trực giác của bạn sẽ bén nhạy hơn. Điều này sẽ rốt cuộc cho bạn khả năng đọc rung động của mọi chuyện, như ý tưởng, con người hay nơi chốn. Có thể là bạn đã có khả năng cảm thấy là một số địa điểm trong thành phố có năng lượng đen tối hơn ngoài thiên nhiên?

Bạn có thể tối hậu đạt tới mức phân biện mà lực khuynh loát không thể đánh lừa bạn vì bạn cảm được rung động của chúng. Ví dụ bạn có thể học cách nhận ra rung động đằng sau một giáo lý tâm linh và biết nó tới từ cõi cảm xúc, cõi lý trí, cõi bản sắc hay đến từ các chân sư thăng thiên nơi cõi nhận biết cao hơn

Khiến trực giác bén nhạy là một tiến trình tuần tự, nhưng có một dụng cụ đơn giản có thể giúp bạn trong nhiều tình huống. Có thể bạn đã nghe thấy câu “Dùng trái tim của bạn nhé”. Ngay giữa lồng ngực cùng mức với trái tim của bạn là một trung tâm năng lượng. Bạn có thể nhanh chóng học cách hòa điệu vào trung tâm trái tim đó và “đọc” được là các chuyện bên ngoài đang ảnh hưởng năng lượng nơi trung tâm trái tim bạn ra sao. Ví dụ, bạn đang đọc về một ý tưởng. Nó làm năng lượng bạn dâng lên hay trùng xuống? Bạn cũng làm thế với một tình huống hay một người khác. Nếu điều gì làm năng lượng bạn trùng xuống, thì hiển nhiên có điều gì đó khiến bạn phải cẩn trọng

Bảo vệ và trong lọc năng trường của bạn

Bước tự vệ đầu tiên là bạn gia tăng khả năng nhận biết để bạn sẵn lòng công nhận sự hiện hữu của các lực thấp. Bước này quan trọng nhưng chỉ là bước đầu. Bước thứ nhì là bạn nhận ra rằng các lực này luôn tìm cách ảnh hưởng bạn bằng cách dùng năng lượng thấp, năng lượng rung động ở mức sợ hãi thay vì mức tình thương.

Điều này có nghĩa là một cách tự vệ tâm lý hữu hiệu là học hỏi cách đối phó với năng lượng và sau đó biết cách áp dụng hiểu biết này, như có trình bày trong các bài giảng khác của khóa này. Các lực thấp tìm cách ảnh hưởng năng lượng bằng những cách như sau:

  • Chúng muốn phóng vào tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc của bạn một dòng năng lượng thấp mãnh liệt đến độ bạn bị choáng ngợp. Khi đó chúng có một ngõ để xâm nhập vào tâm bạn, hoặc khiến bạn làm những điều mà bình thường bạn không làm và thậm chí khiến bạn bị suy sụp tinh thần. Năng lượng mà chúng phóng vào bạn sẽ khuấy động và nhân lên bất cứ năng lượng thấp nào đã tích lũy trong năng trường của bạn.
  • Chúng tìm cách hút năng lượng ra khỏi năng trường của bạn, một phần để chúng có thức ăn, phần khác để khiến bạn vơi đi khả năng chống cự chúng. Điều này giống như một  số trò chơi máy tính, khi bạn có cái khiên năng lượng bảo vệ mình nhưng nó bị hao mòn sau những cuộc tấn công liên tục
  • Chúng tìm cách phóng chiếu ý tưởng vào tâm bạn để ảnh hưởng bạn. Ý tưởng cũng là một dạng năng lượng.
  • Chúng tìm cách cắm vào năng trường bạn một “cái móc tâm lý” bao gồm có một ảo tưởng và một dây trói bạn vào tà thể hay lực khuynh loát. Chúng sau đó có thể dùng dây trói này để lôi kéo tâm bạn, lôi kéo cảm xúc và tư tưởng của bạn theo một hướng nào đó.

Dựa trên những lý do trên, hiển nhiên là bạn cần thực hiện những điều sau đây:

  • Bạn cần cầu thỉnh một tấm khiên bảo vệ chung quanh bốn tầng của tâm hay năng trường của bạn.
  • Bạn cần chuyển hóa và nâng lên tất cả những năng lượng sợ hãi đã tích lũy trong năng trường của bạn.
  • Bạn cần cắt đứt mọi dây trói buộc bạn với các sinh thể thấp để chúng không thể để móc vào tâm bạn
  • Bạn cần nhìn xuyên thấu và buông bỏ những ảo tưởng mà chúng đã phóng chiếu vào trong tâm bạn. Khi các ngã này đã tan biến thì tà chúng không còn lối vào năng trường bạn nữa.

Những điều trên bạn không thể tự mình thực hiện được. Bạn cần một dòng năng lượng có tần số cao, và như chúng tôi có giải thích, năng lượng này đến từ các chân sư thăng thiên. Do đó, cách thiết lập một hệ thống phòng vệ tâm lý hữu hiệu là bạn có một quan hệ làm việc với các chân sư thăng thiên.

Như đã nói trước đây, điểm bắt đầu là bạn cầu thỉnh sự che chở của Đại Thiên thần Michael, cầu thỉnh ngọn lửa tím của Saint Germain để chuyển hóa các năng lượng thấp, và bạn cầu thỉnh Astrea giải thoát bạn bằng cách cắt đứt các dây trói bạn vào các lực thấp. Tuy nhiên, có nhiều chân sư thăng thiên khác và nhiều loại năng lượng tâm linh khác mà bạn có thể cầu thỉnh. Cũng có nhiều bài thỉnh khác được thiết kế để giúp bạn phơi bày và khắc phục các ngã tiềm thức của bạn. Xin bạn xem phần Bài Chú, Bài Thỉnh trên trang mạng chansuthangthien.org để thấy tất cả các bài này.

Làm cách nào khởi sự việc khắc phục các ngã

Nếu bạn lần đầu tiên đi theo một con đường có hệ thống để giải quyết các ngã của mình, khi bạn tìm cách bắt đầu như thế nào thì bạn có thể cảm thấy choáng ngợp và rối mù. Mục đích bài viết này là giúp bạn làm việc này dễ hơn.

Có thể là bạn đã có sự thôi thúc học khóa Tâm lý Nhận biết Cao (Higher Awareness Psychology) này vì bạn muốn thay đổi một vấn đề đặc thù nào đó trong đời mình. Nếu quả là vậy, xin bạn đọc tiêu đề thứ nhì sau đây.

Quyết định mình muốn giải quyết vấn đề gì

Nếu bạn không có một vấn đề đặc biệt nào cần giải quyết, thì dưới đây là một số đề nghị. Trước tiên hết, xin bạn tìm cách thu hẹp lại thành một vấn đề đặc thù càng rõ càng tốt. Lẽ tất nhiên, bạn có thể nói: “Tôi muốn nâng cao tâm thức của mình,” nhưng công việc này cần thời gian và bạn khó đo lường tiến bộ của bạn. Sẽ dễ làm việc hơn nếu bạn nói: “Tôi muốn khắc phục vấn đề nổi giận của tôi.”

Hoàn cảnh vật lý của bạn

Bạn hãy xem xét hoàn cảnh vật lý trong đời mình. Bạn có thấy bạn gặp đi gặp lại mãi một số hoàn cảnh? Bạn có đôi khi tự hỏi: “Tại sao chuyện này cứ xảy ra cho tôi?” Hay: “Tại sao chuyện kia không bao giờ xảy ra cho tôi?”

Bạn cũng có thể nhìn hoàn cảnh sống chung chung của bạn và tự hỏi: “Tại sao tôi chọn sinh ra vào hoàn cảnh này? Có một vấn đề tâm lý nào mà tôi muốn ép mình phải trực diện bằng cách sinh ra trong gia đình này, phái tính này, chủng tộc này, nhóm sắc tộc này, quốc gia này chăng?

Bạn có thấy được những người chung quanh mình có những vấn đề tâm lý nào chăng? Không có nghĩa là bạn cũng có cùng vấn đề với họ, nhưng cũng có thể là như vậy. Cũng có thể là bạn muốn ép mình khắc phục phản ứng của mình với những người có vấn đề này.

Hoàn cảnh xúc cảm của bạn

Bạn có cảm xúc nào chế ngự đời mình không như sợ, giận hay dễ cảm thấy xấu hổ? Nếu có, bạn hãy thử bước lui lại và tự hỏi bạn sợ điều gì, điều gì khiến bạn cảm thấy giận? Bạn cố trả lời càng rõ càng tốt. Bạn thử tìm đằng sau cảm xúc có lời nói gì không, chẳng hạn như: “Tôi cảm thấy giận vì…”

Lẽ tất nhiên, cảm xúc có thể chung chung, nhưng chúng thường bị khởi động bởi những tình huống đặc thù bên ngoài. Do đó, bạn có thể xem xét những khuôn nếp phản ứng của mình. Có tình huống nào khởi động cảm xúc chế ngự đời bạn không? Có những người nào khiến bạn có những cảm xúc nào đó?

Suy nghĩ của bạn

Tâm lý trí của bạn phản ứng ra sao trước một số tình cảnh? Bạn có nhận thấy mình nghĩ đi nghĩ lại một tình huống, bị ám ảnh bởi chuyện đã xảy ra và mình có thể hành động khác chăng? Nếu bạn có khuynh hướng bị ám ảnh bởi một vấn đề thì đây là chỉ dấu bạn có một khuôn nếp phản ứng.

Bạn có thể liên kết khuôn nếp suy nghĩ đó với một số cảm xúc đặc thù chăng? Có tư tưởng nào khởi động cảm xúc của bạn? Hay chính cảm xúc khởi động một dòng tư tưởng? Bạn có thể tìm ra một khuôn nếp suy nghĩ dính liền với cảm xúc? Tỷ dụ như bạn cảm thấy một số điều không được xảy ra trong đời bạn hay một số điều người khác không được làm?

Bạn có những ý tưởng chung chung nào về cuộc sống? Bạn có cảm thấy bị choáng ngợp khi đối mặt với một hoàn cảnh khó giải quyết hay khi hoàn cảnh này như ép bạn phải phản ứng một cách nào đó? Bạn có thường nghĩ: “Tôi quá chán ngán chuyện…” Hay bạn có những suy nghĩ nào khác thường xuyên khởi lên?

Bản sắc của bạn

Xem xét hành động, cảm xúc và ý nghĩ thường dễ làm hơn, trong khi xem xét bản sắc sẽ đến sau. Chúng tôi sẽ có thêm bài giảng về đề tài này trong các phần sau. Khi bạn sẵn sàng đi bước này, bạn có thể xem xét gia đình và xã hội đã nuôi dạy bạn có một loại bản sắc nào. Sau đây là vài ví dụ:

  • Bạn có được nuôi dạy để xem mình và nhóm của mình chống đối một nhóm người khác?
  • Bạn có được nuôi dạy để có một hình ảnh lý tưởng về một người nam phải như thế nào, tỷ dụ một người nam cứng rắn.
  • Bạn có được nuôi dạy để có một hình ảnh lý tưởng về một người nữ, ví dụ thế nào là người mẹ, người nội trợ tốt hay người tùng phục nam nhân?
  • Bạn có được nuôi dạy để coi mình thuộc thành phần nghèo của dân chúng và chấp nhận những giới hạn cho sự trù phú của mình?
  • Bạn có được nuôi dạy để coi mình là người tội đồ?
  • Bạn có được nuôi dạy để chấp nhận một số giới hạn về những gì bạn có thể làm được trong đời, như được đi học hay ra mở công ty của chính mình?
  • Bạn có được nuôi dạy để xem mình là một sinh thể giới hạn, đặc biệt là giới hạn trong việc nâng cao trạng thái tâm thức lên trên mức được xem là bình trường trong tập thể của bạn?

Bắt đầu làm việc với một vấn đề

Một khi bạn tìm ra vấn đề mình muốn giải quyết, thì bạn làm gì đây? Bước đầu tiên là bạn cần nhận ra những thành phần khác nhau của vấn đề.

Bất cứ vấn đề tâm lý nào trong cốt lõi đều có một hay một cặp ngã tiềm thức. Các ngã này thường được tạo ra khi bạn phản ứng lại một tình huống đặc thù, có thể là một tình huống khiến bạn bị chấn thương tâm lý nặng nề hay một tình huống tiến thoái lưỡng nan. Những kẻ khuynh loát là chuyên viên đưa bạn vào những tình huống tương tự.

Cốt lõi của việc khắc phục bất cứ vấn đề nào là vạch trần các ngã này ra và thấy được một cách ý thức là chúng dựa trên những niềm tin và giả định nào. Bạn cần thấy được quyết định nào của bạn đã tạo ra các ngã đó, thấy được chúng giới hạn bạn như thế nào, và sau đó một cách ý thức bạn thay thế quyết định cũ với một hiểu biết cao hơn.

Thấy được quyết định nguyên thủy ấy không nhất thiết dễ dàng và một lý do là năng lượng đã bị các ngã đó tha hóa, thường qua nhiều kiếp đầu thai. Chuyện thường xảy ra là một vấn đề tâm lý bị che khuất bởi năng lượng cảm xúc đã tích lũy. Cho nên khi bạn bắt đầu nhìn vào tiềm thức, thì bạn gặp ngay năng lượng này. Năng lượng có thể mạnh đến độ nó tạo một vòng xoáy kéo hút tâm cảm xúc của bạn vào một cảm giác choáng ngợp. Bạn cảm thấy chỉ nhìn vào vần đề đã là một khó khăn quá độ.

Nếu bạn chưa giảm thiểu sức hút của vòng xoáy năng lượng này, thì bạn sẽ không cách chi thấy được niềm tin nằm phía dưới. Thật vậy, không giải quyết năng lượng này là lý do khiến nhiều người đã phí biết bao nhiêu giờ tâm lý trị liệu mà không đạt được kết quả. Cho nên, bước đầu tiên để giải quyết một vấn đề là cầu thỉnh năng lượng từ các chân sư thăng thiên và hướng năng lượng đó đến việc chuyển hóa năng lượng sợ hãi trong bạn. Bạn có thể dùng các bài chú và bài thỉnh được đăng ở nhiều nơi nhưng bạn cũng có thể tìm thấy thêm nhiều bài chú bài thỉnh khác trên trang mạng chansuthangthien.org. Nơi đây bạn có thể tìm thấy một bài thỉnh giải quyết vấn đề mà bạn đang muốn giải quyết.

Một khía cạnh khác của vấn đề năng lượng là có thể có những tà lực đã xâm nhập vào trường năng lượng của bạn xuyên qua các ngã. Nếu bạn muốn giải quyết một vấn đề thật nặng nề, thì học hỏi đoạn viết về Tự Bảo vệ Tâm lý sẽ lợi lạc cho bạn. Cầu thỉnh năng lượng của các chân sư sẽ giúp bạn giảm ảnh hưởng của tà lực.

Bạn cần kiên nhẫn với quá trình. Trong thời đại thẻ tín dụng này, chúng ta đã trở nên ghiền nghiện thói muốn được thỏa mãn tức khắc. Nhưng bạn nên nhớ bạn có thể đã mang vấn đề này trong nhiều kiếp cho nên các ngã của bạn có thể ẩn trốn đằng sau một lượng năng lượng tha hóa đồ sộ. Do đó, bạn cần thời gian để chuyển hóa đủ năng lượng để các ngã không ẩn trốn được nữa.

Thấy được các ngã

Một khi đã chuyển hóa đủ năng lượng, bạn có thể bắt đầu thấy các ngã đằng sau vấn đề. Đôi khi bạn dễ dàng nhận ra ngã nhưng đôi khi không phải chỉ có một ngã mà là một nhóm ngã. Ngã đầu tiên khiến bạn phản ứng một cách nào đó và từ đó dẫn đến việc tạo ra những ngã khác. Cho nên bạn cần làm việc qua nhiều lớp ngã trước khi bạn tới được ngã đầu tiên.

Chìa khóa để giải quyết ngã là bạn thấy được quyết định của bạn đã tạo ra ngã đó. Quyết định này luôn dựa trên một tầm nhìn thế giới hạn hẹp, một ảo tưởng hay tin tưởng nào đó. Một khi bạn thấy được sự giới hạn của tin tưởng này, bạn có thể giải quyết nó và để cho ngã chết đi.

Quá trình này không máy móc. Không thể thiết lập một quá trình từng bước bảo đảm là bất cứ ai cũng giải quyết được các ngã khi theo quá trình này. Lý do là tin tưởng và quyết định của mỗi cá nhân đều khác nhau. Nó dựa vào cách bạn nhìn vấn đề với tầng tâm thức mà bạn có ở thời điểm đó.

Bạn bắt đầu bằng cách xem xét vấn đề từ nhiều góc độ. Các bài giảng trong khóa Tâm lý Nhận biết Cao có thể giúp bạn, nhưng có thể bạn cũng cần học thêm về môn tâm lý học hay khoa tự giúp (self-help). Trong nhiều trường hợp quyết định của bạn dựa trên một câu nói, có nghĩa là có một câu nói khác có thể giúp bạn nhìn thấy quyết định đó và giải quyết nó. Đó là lý do tại sao bạn có thể cần đọc nhiều lời giảng dạy hay nói chuyện với những người khác nhau cho tới khi bạn tìm ra câu nói khiến bạn có trải nghiệm sáng ngộ khi bạn bất chợt “nhìn thấy” quyết định đằng sau ngã.

Điều bạn muốn đạt được là tới điểm cái ta ý thức bước ra ngoài cái ngã tiềm thức, nhìn thấy cái ngã này từ bên ngoài, nhìn thấy nó giới hạn bạn như thế nào và nhìn thấy tin tưởng nằm đằng sau nó. Khi bạn đã tách cái ta ý thức ra khỏi ngã tiềm thức, thì bạn sẽ tự nhiên buông bỏ ngã tiềm thức. Giống như bạn nghĩ mình đang cầm một sợi dây và chợt nhận ra đó là một con rắn. Bạn chẳng cần phân tích dài dòng để buông nó ra.

Lúc đầu, quá trình này có thể khiến bạn cảm thấy rối mờ nhưng bạn nên nhớ là bạn không đơn độc. Cái Ta Cao của bạn có thể thấy các ngã tiềm thức từ bên ngoài và bất cứ lúc nào cũng có thể cho bạn nội kiến (insight) mà bạn cần.

Giống vậy, bạn có một hay nhiều vị chân sư thăng thiên đã làm việc với bạn thường là qua nhiều kiếp sống. Họ cũng thấy vấn đề từ bên ngoài và cho bạn những nội kiến trực giác. Những nội kiến này đến với bạn qua trực giác. Chắc chắn bạn đã từng dùng trực giác của mình bởi vì nếu không thì bạn đã không mở tâm đón nhận các bài giảng của khóa Tâm lý Nhận biết Cao. Cho nên vấn đề là bạn chỉ cần xin được sự trợ giúp và mở tâm đón nhận câu trả lời.

Bạn có thể tăng cường trực giác bằng cách làm những điều sau:

  • Tìm hiểu vấn đề một cách miên mật trong một thời gian để bồi đắp sự căng thẳng sáng tạo.
  • Xin cái Ta Cao của bạn hay một chân sư thăng thiên giúp bạn thấy các ngã tiềm thức và các tin tưởng đằng sau chúng.
  • Buông vấn đề ra và đi vào trạng thái tâm trung hòa.
  • Điểm chính là bạn cần bồi đắp sự căng thẳng sáng tạo nhưng chính căng thẳng này ngăn cản bạn nghe được câu trả lời. Cho nên khi đi vào tâm trung hòa không chờ đợi hay đòi hỏi câu trả lời thì bạn mở tâm hơn để nghe thấy nó.

Bạn nên nhớ là các ngã tiềm thức sẽ ngăn chặn bạn nghe thấy câu trả lời vì chúng tạo nên một phin lọc nhận thức. Có nghĩa là tâm ý thức của bạn sẽ dễ coi nhẹ câu trả lời, lọc nó ra ngoài hay phản bác nó. Đó là lý do vì sao bạn chỉ nghe thấy câu trả lời khi bạn trung hòa. Chuyện thường xảy ra là bạn làm việc với một vấn đề, bạn buông nó ra và một thời gian sau, bạn bất thần nghe thấy câu trả lời một cách hoàn toàn bất ngờ.

Điều bạn tìm là một trải nghiệm xoay chuyển nhận biết ý thức (conscious awareness) của bạn để thay vì nhìn vấn đề qua phin lọc nhận thức của ngã, thì cái ta ý thức của bạn nhìn thấy ngã từ bên ngoài. Bạn thốt lên: “Ồ, nó là thế đấy” hay “Bây giờ tôi thấy nó rồi.”

Bạn trải nghiệm xoay chuyển nhận biết của mình lên một tầng cao hơn. Chắc chắn bạn đã có trải nghiệm như thế, bằng không bạn đã không mở tâm đón nhận các bài giảng của khóa Tâm lý Nhận biết Cao. Bạn chỉ cần ý thức hơn về quá trình này và cách tạo ra một trải nghiệm xoay chuyển. Nó sẽ xảy ra khi bạn áp dụng các bài giảng và dụng cụ của khóa Tâm lý Nhận biết Cao.

Một thí dụ khắc phục một ngã tiềm thức

Như một thí dụ về cách làm việc để giải quyết một vấn đề, bạn hãy xem xét trường hợp bạn bị một người hại hay ngược đãi và bạn cảm thấy khó có thể tha thứ người đó và bỏ chuyện đó lại đằng sau. Khi nghĩ về chuyện đó thì bạn cảm thấy đau đớn vì bạn cảm thấy năng lượng tức giận, do đó bước đầu tiên bạn phải giải quyết năng lượng cảm xúc.

Tối thiểu bạn nên thực hành chương trình đọc bài chú (9 lần mỗi ngày) hay đọc bài thỉnh Đại thiên thần Michael, Saint Germain và Astrea như mô tả sau đây. Trước khi đọc bài chú hay bài thỉnh,thì bạn hãy xin được giúp đỡ để giải quyết vấn đề, tỷ dụ như:

Đại thiên thần Michael, hãy che chở và niêm con khỏi những tà thể tập thể của giận dữ và phục hận để chúng không thể phóng chiếu bất cứ năng lượng thấp nào vào trường năng lượng của con.

Saint Germain, xin thày gửi hàng hàng đại dương ánh sáng tím vào trường năng lượng của con để nó tiêu trừ tất cả các năng lượng tích đọng của giận dữ, cảm thấy bất lực và ý muốn phục hận.

Astrea, hãy cắt đứt những dây trói buộc con vào các tà thể tập thể và các kẻ khuynh loát đang tìm cách giam hãm con vào vòng xoáy của giận dữ. Xin thày cắt đứt các trói buộc này để con tự do bước đi và làm công việc được ấn định trong chương trình cuộc Đời của con.

Khi bạn cảm thấy năng lượng đã bớt cường độ, thì bạn hãy đọc bài Nguyện Phép lạ về Tha thứ của Mẹ Mary mỗi ngày trong vòng 33 ngày, hay nhiều hơn nếu bạn cảm thấy cần thiết. Bạn hãy cẩn thận suy ngẫm những câu trong bài nguyện để xem các câu đó có giúp bạn thấy một số ngã tiềm thức đặc thù của bạn chăng.

Bạn có thể sẽ nhận ra có năng lượng thô của giận dữ và không tha thứ trong tâm cảm xúc của bạn. Khi năng lượng đó được chuyển hóa thì bạn có thể khám phá đằng sau năng lượng có một ngã tin rằng nổi giận là phản ứng chính đáng và cần thiết trước những gì người kia đã làm tới bạn. Cũng có thể có suy luận và tin tưởng rằng nổi giận là phản ứng duy nhất mà bạn có thể có.

Trong cõi lý trí có thể có một ngã tìm cách thu hút bạn vào việc phân tích tình huống không ngừng nghỉ, suy nghĩ xem bạn có thể hành xử cách nào khác chăng, người kia đã phải làm gì hay không được làm gì. Ngã này tin chắc chắn phải có một giải pháp có thể giải quyết vấn đề.

Bạn có thể cắt đứt vòng xoáy bất tận đó bằng cách xem xét một số bài giảng trong khóa Tâm lý Nhận biết Cao liên quan đến việc tiến triển trên con đường tâm linh. Thực sự thì sự việc xảy ra trong quá khứ không còn ảnh hưởng bạn nữa. Điều ảnh hưởng bạn là những ngã mà bạn đã tạo ra. Do đó, không có gì để phân tích, không cần tìm giải pháp nào cả. Giải pháp DUY NHẤT là bạn bỏ chuyện đó lại đằng sau bằng cách để cho ngã muốn tìm giải pháp chết đi.

Cũng có thể có một ngã trong thể lý trí cảm thấy vì bạn đã bị ngược đãi, nên người kia phải bị trừng phạt hoặc bị buộc phải thấy là họ đã làm sai. Thêm vào đó, bạn cũng có thể thấy có một ngã nói rằng vì bạn là người tâm linh, nên bạn không được để bụng. Cũng có thể có một ngã khác phóng chiếu là vì bạn là người tâm linh, bạn không được cảm thấy giận dữ.

Bạn nên dùng các bài giảng về con đường nhận biết cao để rọi ánh sáng vào các niềm tin đó và tự hỏi việc nào quan trọng hơn giữa việc khiến người kia thấy họ sai và việc bạn tiến bộ trên con đường tâm linh.

Có một tà thể tập thể rất dũng mãnh cho rằng bạn không thể tha thứ khi người kia chưa hội đủ một số điều kiện, tỷ dụ như chứng tỏ sự hối lỗi. Nếu không thì bạn đã để họ thoát tội mà không bị trừng phạt. Nhưng sự thực là nếu bạn không tha thứ thì tà thể này có thể móc vào trường năng lượng của bạn và đánh cắp năng lượng của bạn.

Khi bạn duy trì một mối liên hệ năng lượng với người đã làm hại bạn, thì bạn trói buộc bạn vào người đó và vào tà thể tập thể. Nếu một người đã hại bạn, thì tại sao bạn lại muốn buộc mình vào người đó? Có tốt hơn chăng cho bạn là bạn bỏ chuyện đó lại đằng sau và hoàn toàn tự do khỏi người đó và tình huống đó?

Làm sao bạn giành lại tự do? Bằng cách tha thứ vô điều kiện, nói cách khác là không đòi hỏi người kia thay đổi gì cả. Người đó đã hại bạn vì họ ở trong một trạng thái tâm thức nào đó. Việc người đó ở trong tâm thức đó không gây thiệt hại gì đến bạn, nhưng việc bạn buộc mình vào người đó gây thiệt hại cho bạn. Do đó, tha thứ là cách duy nhất để bạn giành lại tự do.

Ở tầng bản sắc có thể có một ngã cảm thấy bất lực trước những người hung hãn sẵn sàng làm hại người khác. Ngã này có thể đã được tạo ra vì trong một kiếp trước bạn bị những kẻ khuynh loát tấn công. Bạn có thể tìm đọc bài giảng về đề tài này trong một phần khác.

Bạn hãy ghi nhận là hiểu bằng trí năng khác với chuyển đổi nhận biết. Bằng cách dùng các dụng cụ đã được đề cập đến và nghiên cứu các bài giảng trong khóa Tâm lý Nhận biết Cao hay các bài giảng khác về lòng tha thứ, bạn có thể dần dần tách rời cái ta biết khỏi đám ngã không chịu tha thứ. Bạn có thể tới điểm thấy là người bị thiệt hại nhất khi không tha thứ chính là bạn.

Khi làm vậy thì bạn có thể dần dần tách cái ta biết khỏi các ngã đó, cho tới khi bạn thấy chúng từ bên ngoài, thấy là chúng đang giới hạn sự tiến bộ tâm linh của bạn và khi đó bạn tự nhiên để chúng chết đi từng ngã một. Bạn sẽ cảm thấy một sự nhẹ nhõm to lớn và đây sẽ là một bước tiến lớn trên con đường dẫn tới nhận biết cao.

Lẽ tự nhiên, toàn bộ các bài giảng về khóa Tâm lý Nhận biết Cao được thiết kế để giúp bạn thấy và tách mình ra khỏi những ngã tiềm thức. Do đó, khi bạn nghiên cứu bài giảng và thực hành các dụng cụ thì bạn có thể có những nội kiến trực giác cho bạn thấy bước kế tiếp bạn cần làm việc trên vấn đề gì. Nghiên cứu Tâm lý Nhận biết Cao không phải là để đạt được một hiểu biết trí năng, mà là có trải nghiệm chuyển đổi và nâng tâm thức lên cao hơn.

Canh thức Chữa lành Tâm linh

Ghi chú: Canh thức 500 của Mẹ Mary vẫn tiếp diễn trong thời gian chúng ta thực hiện Canh thức Chữa lành Tâm linh!

Dựa trên thành quả mà các đệ tử đã gặt hái được qua Canh thức Thượng sư, chúng tôi rất hân hoan tổ chức canh thức này cho cộng động các đệ tử chân sư thăng thiên khắp thế giới. Chúng tôi hy vọng là chúng ta sẽ đạt được nhiều kết quả tốt đẹp cho mỗi người trong chúng ta cũng như là trên tâm thức đại chúng.

Canh thức Chữa lành Tâm linh sẽ bắt đầu ngày 1 tháng 9 năm 2022 and sẽ kéo dài cho tới khi chúng ta học xong 4 quyển sách sau đây:

  • Chữa lành chấn thương tâm linh
  • Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng
  • Hoàn thành tiềm năng tâm linh cao nhất
  • Làm hòa với hiện diện trên trái đất

Cách tham gia canh thức:

  • Chúng ta sẽ tiến hành canh thức bằng cách đọc một bài thỉnh mỗi ngày
  • Chúng ta sẽ đọc mỗi bài thỉnh trong 9 ngày
  • Các bạn nên sắp xếp để đọc bài truyền đọc liên hệ đến bài thỉnh trong thời gian 9 ngày chúng ta đọc bài thỉnh, do đó bạn nên đọc một phần bài truyển đọc mỗi ngày
  • Ghi chú: nếu bạn khám phá ra Canh thức sau khi chúng tôi đã bắt đầu, thì bạn đừng bắt đầu từ đầu mà hãy nhập vào cùng cả nhóm theo lịch trình dưới đây.

Sau đây là lịch trình đọc quyển sách thứ nhất:

Sách: Chữa lành chấn thương tâm linh

1 | Thỉnh cầu tự do khỏi phản-tình thương

Ngày đầu: 1/9
Ngày cuối: 9/9

2 | Thỉnh cầu tự do khỏi chấn thương nhập đời

Ngày đầu: 10/9
Ngày cuối: 18/9

3 | Thỉnh cầu chữa lành chấn thương tâm linh

Ngày đầu: 19/9
Ngày cuối: 27/9 

4 | Thỉnh cầu Tình thương Thiêng liêng

Ngày đầu: 28/9
Ngày cuối: 6/10 

5 | Thỉnh cầu viễn quan về cách hành xử của con

Ngày đầu: 7/10
Ngày cuối: 15/10  

6 | Thỉnh cầu tự do lấy quyết định

Ngày đầu: 16/10
Ngày cuối: 24/10   

7 | Thỉnh cầu làm hòa với hiện diện trên trái đất

Ngày đầu: 25/10
Ngày cuối: 2/11   

8 | Thỉnh cầu điều hành cơn giận một cách tâm linh

Ngày đầu: 3/11
Ngày cuối: 11/11   

9 | Thỉnh cầu tự do khỏi giận dữ với chính mình

Ngày đầu: 12/11
Ngày cuối: 20/11    

10 | Thỉnh cầu tự do khỏi cái Ta Ban sơ

Ngày đầu: 21/11
Ngày cuối: 29/11     

11 | Thỉnh cầu tự do khỏi ham muốn quá mức

Ngày đầu: 30/11
Ngày cuối: 8/12    

Canh thức thỉnh cầu các Thượng sư (Vigil to the Chohans), bắt đầu 1/11/2021

Ghi chú: Canh thức thỉnh cầu Mẹ Mary vẫn tiếp tục trong thời gian canh thức thỉnh cầu các Thượng sư!

Vào tháng 9/2021, Chân sư MORE và bảy vị Thượng sư có gợi ý là chúng ta, cộng đồng đệ tử chân sư thăng thiên toàn cầu, tham dự một canh thức thỉnh cầu bảy vị Thượng sư và Đại thượng sư. Có nghĩa là chúng ta đọc tất cả các bài thỉnh trong quyển “Tự do khỏi phàm linh nội tại” và các quyển từ “Khai ngộ thần bí về quyền năng” tới “Khai ngộ thần bí về tự do”.

Đây sẽ là một canh thức thỉnh cầu rất dũng mãnh vì chúng ta sẽ cùng làm và như vậy tăng ảnh hưởng theo cấp số nhân. Đây là một cơ hội độc nhất để phát triển cá nhân đồng thời ảnh hưởng tâm thức đại chúng và giúp người khác phát triển.

Sau đây là chỉ thị chính xác của Chân sư More:

Thày xin gợi ý, các thày bảy vị Thượng sư xin gợi ý, là các con, cộng đồng đệ tử toàn cầu,  khởi sự sau khóa Hội thảo trên mạng tại Hàn Quốc một canh thức thỉnh cầu bằng cách đọc các bài thỉnh trong cả 8 quyển trong bộ sách Khóa tự điều ngự. Sứ giả sẽ hướng dẫn thêm làm sao thực hiện khóa này một cách thực tiễn, nhưng thày khuyến khích tất cả các con hãy tham dự khóa này. Nếu các con chưa đọc các quyển sách, thì các con hãy đọc những chương tương ứng với các bài thỉnh mà các con đọc.

Bạn có thể đọc thêm về bối cảnh của canh thức thỉnh cầu trong bài truyền đọc “Vị thày hóa trang là con kiến”.

Làm sao tham dự canh thức thỉnh cầu

Chúng ta sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 11 năm 2021 và mỗi ngày đọc một bài thỉnh trong vòng 3 ngày để đạt được tối đa kết quả. (Nếu bạn hụt một ngày thì bạn vẫn tiếp tục tham dự canh thức thỉnh cầu được). Bạn đọc bài thỉnh ở nhà bạn và vào lúc nào thuận tiện cho bạn. Chúng ta sẽ không cố đọc cùng một lúc, vì nếu chúng ta làm cùng ngày thì cũng đủ.

Nếu bạn chưa đọc các quyển sách, thì xin bạn đọc những chương tương ứng với các bài thỉnh mà bạn đọc.

Sau đây là lịch trình với tựa quyển sách, tựa bài thỉnh và ngày mà chúng ta sẽ đọc bài thỉnh:

Sách: Tự do khỏi phàm linh nội tại

4 | Thỉnh cầu khai ngộ

Ngày 1, 2, 3 tháng 11 năm 2021

6 | Thỉnh cầu nhận biết đồng sáng tạo

Ngày 4, 5, 6 tháng 11 năm 2021

8 | Thỉnh cầu nhận biết năng lượng

Ngày 7, 8, 9 tháng 11 năm 2021

10 | Thỉnh cầu nhận biết cao hơn về trái đất

Ngày 10, 11, 12 tháng 11 năm 2021

12 | Thỉnh cầu tự do khỏi tâm thức chết

Ngày 13, 14, 15 tháng 11 năm 2021

14 | Thỉnh cầu phơi bày tâm thức chết

Ngày 16, 17, 18 tháng 11 năm 2021

16 | Thỉnh cầu tự do khỏi ý định hung hãn

Ngày 19, 20, 21 tháng 11 năm 2021

18 | Thỉnh cầu tự điều ngự liên tục

Ngày 22, 23, 24 tháng 11 năm 2021

20 | Thỉnh cầu tự do khỏi đồng hóa với phàm linh

Ngày 25, 26, 27 tháng 11 năm 2021

Sách: Những khai ngộ thần bí về uy lực

6 | Thỉnh cầu uy lực và ý chí

Ngày 28, 29, 30 tháng 11 năm 2021

8 | Thỉnh cầu uy lực và minh triết

Ngày 1, 2, 3 tháng 12 năm 2021

10 | Thỉnh cầu uy lực và tình thương

Ngày 4, 5, 6 tháng 12 năm 2021

12 | Thỉnh cầu uy lực và gia tốc

Ngày 7, 8, 9 tháng 12 năm 2021

14 | Thỉnh cầu uy lực và chữa lành

Ngày 10, 11, 12 tháng 12 năm 2021

16 | Thỉnh cầu uy lực và an bình

Ngày 13, 14, 15 tháng 12 năm 2021

18 | Thỉnh cầu uy lực và tự do

Ngày 16, 17, 18 tháng 12 năm 2021

Sách: Những khai ngộ thần bí về minh triết

5 | Con thỉnh cầu tánh linh thày Lanto

Ngày 19, 20, 21 tháng 12 năm 2021
(Nghỉ Giáng sinh và Tân niên từ 22/12/2021 đến 1/1/2022)

7 | Con thỉnh cầu hợp nhất với thày Lanto

Ngày 2, 3, 4 tháng 1 năm 2022

9 | Con thỉnh cầu động lực dựa trên tình thương

Ngày 5, 6, 7 tháng 1 năm 2022

11 | Con thỉnh cầu động lực trong sáng tìm minh triết

Ngày 8, 9, 10 tháng 1 năm 2022

13 | Con thỉnh cầu thái độ chiến thắng liên tục

Ngày 11, 12, 13 tháng 1 năm 2022

15 | Con thỉnh cầu minh triết của Phật

Ngày 14, 15, 16 tháng 1 năm 2022

17 | Con thỉnh cầu tự do trong tánh linh

Ngày 17, 18, 19 tháng 1 năm 2022

Sách: Những khai ngộ thần bí về tình thương

5 | Con thỉnh cầu tình thương để tiêu trừ trò chơi quyền lực

Ngày 20, 21, 22 tháng 1 năm 2022

7 | Con thỉnh cầu tình thương quân bằng trí năng

Ngày 23, 24, 25 tháng 1 năm 2022

9 | Con thỉnh cầu tình thương tuôn chảy tự do

Ngày 26, 27, 28 tháng 1 năm 2022

11 | Con thỉnh cầu tình thương triệt tiêu phán xét

Ngày 29, 30, 31 tháng 1 năm 2022

13 | Con thỉnh cầu chân lý đó có tự do phát biểu

Ngày 1, 2, 3 tháng 2 năm 2022

15 | Con thỉnh cầu phụng sự dựa trên tình thương

Ngày 4, 5, 6 tháng 2 năm 2022

17 | Con thỉnh cầu tự do thương yêu

Ngày 7, 8, 9 tháng 2 năm 2022

Sách: Những khai ngộ thần bí về ý định

5 | Thỉnh cầu uy lực của ý định

Ngày 10, 11, 12 tháng 2 năm 2022

7 | Thỉnh cầu ý định đầy minh triết

Ngày 13, 14, 15 tháng 2 năm 2022

9 | Thỉnh cầu ý định dựa trên tình thương

Ngày 16, 17, 18 tháng 2 năm 2022

11 | Thỉnh cầu ý định tự lực

Ngày 19, 20, 21 tháng 2 năm 2022

13 | Thỉnh cầu viễn quan thuần khiết

Ngày 22, 23, 24 tháng 2 năm 2022

15 | Thỉnh cầu an bình trong phụng sự

Ngày 25, 26, 27 tháng 2 năm 2022

17 | Thỉnh cầu tự do sáng tạo

Ngày 28 tháng 2, 1 và 2 tháng 3 năm 2022

Sách: Những khai ngộ thần bí về viễn kiến

5 | Thỉnh cầu một viễn kiến cao hơn

Ngày 3, 4, 5 tháng 3 năm 2022

7 | Thỉnh cầu ý chí quy hàng

Ngày 6, 7, 8 tháng 3 năm 2022

9 | Thỉnh cầu một viễn kiến cao hơn cho động lực của con

Ngày 9, 10, 11 tháng 3 năm 2022

11 | Con thỉnh cầu tự do khỏi phóng chiếu ra ngoài

Ngày 12, 13, 14 tháng 3 năm 2022

13 | Con thỉnh cầu tự do không phóng chiếu vào trong tâm

Ngày 15, 16, 17 tháng 3 năm 2022

15 | Thỉnh cầu sự chữa lành chân chính

Ngày 18, 19, 20 tháng 3 năm 2022

17 | Con thỉnh cầu viễn kiến vượt quá vật chất

Ngày 21, 22, 23 tháng 3 năm 2022

Sách: Những khai ngộ thần bí về an bình

5 | Thỉnh cầu kỹ năng sống không tạo nghiệp

Ngày 24, 25, 26 tháng 3 năm 2022

7 | Thỉnh cầu viễn quan thấy mọi điều kiện là cơ hội

Ngày 27, 28, 29 tháng 3 năm 2022

9 | Thỉnh cầu tự do khỏi đổ lỗi

Ngày 30 và 31 tháng 3, 1 tháng 4 năm 2022

11 | Thỉnh cầu tự do khỏi tinh thần cầu toàn

Ngày 2, 3, 4 tháng 4 năm 2022

13 | Thỉnh cầu tự do khỏi trách nhiệm giả

Ngày 5, 6, 7 tháng 4 năm 2022

15 | Thỉnh cầu bình an trong quan hệ

Ngày 8, 9, 10 tháng 4 năm 2022

17 | Thỉnh cầu tự do khỏi trốn tránh

Ngày 11, 12, 13 tháng 4 năm 2022

Sách: Những khai ngộ thần bí về tự do

5 | Thỉnh cầu tư duy nghệ thuật

Ngày 14-22 tháng 4 năm 2022

7 | Thỉnh cầu ý niệm thực tiễn về cái thực

Ngày 23 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 2022

9 | Thỉnh cầu tình thương Sứ mệnh Thiêng liêng của con

Ngày 2-10 tháng 5 tháng 4 năm 2022

11 | Thỉnh cầu ý niệm mới về thực tại

Ngày 11-19 tháng 4 năm 2022

13 | Thỉnh cầu viễn quan làm sao con đồng sáng tạo

Ngày 20-28 tháng 5 năm 2022

15 | Thỉnh cầu thể hiện qua buông bỏ

Ngày 29 tháng 5 đến 6 tháng 6 năm 2022

17 | Thỉnh cầu tự do khỏi cái ta có tầm quan trọng

Ngày 7-15 tháng 6 năm 2022

Làm thế nào bạn có thể giúp chân sư thay đổi thế giới

Hầu hết những ai nhiệt tình với giáo lý của các chân sư thường trực nhận, nhiều khi từ nhỏ, rằng cuộc đời mình có một mục đích. Chúng ta sống trên địa cầu là để giúp cải thiện cuộc sống chung quanh, đem lại những thay đổi tích cực khiến cho thế giới tốt đẹp hơn trước. Các chân sư thăng thiên giải thích rằng đó là vì nhiều dòng sống đã tình nguyện đầu thai trên hành tinh này vào một thời điểm vô cùng quan trọng.   

Địa cầu chúng ta hôm nay đang đi hết một chu kỳ tâm linh có tên là Thời đại Song ngư để bước vào chu kỳ tiếp theo là Thời đại Bảo bình. Vị thày trông coi chu kỳ 2000 năm kế tiếp này là chân sư Saint Germain, và thày đã có những hoạch định để đem lại một thời hoàng kim với những bước tiến vượt bực  trong mọi lãnh vực cuộc sống. Nhiều người trong chúng ta đã tình nguyện hiện thân để giúp Saint Germain đem thời hoàng kim này vào hiện thực. Chúng ta sẽ làm như thế nào?

Mỗi chúng ta đều có một Sứ vụ Thiêng liêng đặc biệt cho mỗi người. Chúng ta đã thảo ra sứ vụ này cùng với các chân sư của mình trước khi ra đời trong kiếp này. Đối với một số người, sự đóng góp của họ cho thời hoàng kim là đi vào một lãnh vực cụ thể của xã hội và giúp mang lại thay đổi trong lãnh vực đó. Những người đó không cần biết đến các chân sư hay học hỏi giáo lý của các thày.

Nhiều người khác thì có sẵn trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình là mình sẽ tìm kiếm một giáo lý của chân sư rồi, trong sự ý thức, nỗ lực giúp chân sư thị hiện thời hoàng kim. Chúng ta có thể thực hiện điều này bằng nhiều cách: 

  • Chúng ta có thể nâng cao nhận thức và hiểu biết về cách vận hành của thế giới, về những động lực căn bản quyết định độ tiến bộ của xã hội, và qua đó chúng ta có thể đóng góp phát huy nhận thức của tập thể về những diễn biến âm thầm đằng sau dáng vẻ bên ngoài. Các thày đã cho chúng ta rất nhiều những bài dạy và sách vở để chúng ta hiểu biết về điều này.
  • Chúng ta có thể nâng cao tâm thức cá nhân bằng cách bước đi con đường tâm linh do các chân sư đề xướng. Khi nâng cao tâm thức, chúng ta cũng kéo theo tâm thức tập thể (vì chúng ta đang đầu thai trong thân vật lý) và điều này giúp mọi người trong mọi tầng lớp xã hội chấp nhận những ý tưởng mang lại tiến bộ dễ dàng hơn. Một lần nữa, các thày đã giảng dạy rất nhiều trên trang mạng và sách vở để giúp chúng ta bước trên đường tâm linh.
  • Vì chúng ta có thể cầu thỉnh ánh sáng tâm linh từ các chân sư để chuyển hóa những năng lượng sợ hãi trong năng trường cá nhân, chúng ta cũng có thể làm điều tương tự trong năng trường tập thể. Điều này sẽ thanh lọc tâm thức tập thể và giúp mọi người thoát khỏi những khuôn nếp tư tưởng cũ để họ mở tâm ra chấp nhận những ý tưởng mới. Trong trang web này có hẳn một mục gồm nhiều Dụng cụ Thăng vượt cho mục tiêu này. Ngoài ra một số sách cũng đăng tải những dụng cụ đó.
  • Chúng ta có thể nhận thức rõ ràng hơn về các tà lực đang ráo riết hoạt động chống lại tiến bộ và về phương cách chúng thao túng và bịt mắt loài người. Chúng ta có thể nhất quyết không để cho những hiện tượng này được chấp nhận trên hành tinh này. Do Luật Tự quyết, một khi có đủ túc số những người đang đầu thai quyết định như thế, các chân sư có quyền loại bỏ các tà lực đã xâm nhập vào một số hiện tượng. Chẳng hạn, nếu có đủ túc số những người quyết định nạn ấu dâm không thể được dung thứ, các thế lực đứng đằng sau có thể bị loại bỏ.
  • Chúng ta có thể gọi lên những lời thỉnh cầu cụ thể để các chân sư yêu cầu sự phán xét của Ki-tô đối với tà lực và cho phép các chân sư loại bỏ chúng.

Động lực cơ bản trên địa cầu là các chân sư có quyền năng loại bỏ nhanh chóng mọi đen tối khỏi hành tinh này, nhưng không phải lúc nào các thày cũng có thẩm quyền để ra tay bởi vì loài người đang đầu thai phải quyết định những gì không thể được chấp nhận. Khi chúng ta thỉnh cầu các thày, chúng ta cũng cho phép các thày sử dụng quyền năng để hành động. Các thày có quyền năng, còn chúng ta có thẩm quyền. Khi chúng ta sử dụng thẩm quyền của mình để kêu gọi các thày ra tay trên địa cầu, các thày mới có ủy quyền sử dụng quyền năng của mình, và đó là yếu tố duy nhất khả dĩ đem lại thực sự những thay đổi đáng kể cho hành tinh tăm tối này.

144 tầng tâm thức

Trong bài này, xin trình bày khái quát về 144 tầng tâm thức có thể có trên địa cầu – và tại sao lời dạy này lại quan trọng. Đối với chúng ta là người đang đầu thai trên trái đất, tâm thức của mỗi chúng ta nằm ở một trong số 144 tầng tâm thức này. Khi hiểu rõ các tầng tâm thức thì chúng ta cũng sẽ có cái nhìn bao quát hơn về đường tu tâm linh cũng như về sự tương tác với người khác.     

Toàn bộ 144 tầng tâm thức có thể chia làm ba phân nhóm chính như sau:

  • Tâm thức thấp hơn tầng 48,
  • Tâm thức nằm giữa hai tầng 48 và 96,
  • Tâm thức cao hơn tầng 96.

Khi một dòng sống lần đầu tiên hiện thân trên địa cầu, thường thường dòng sống đó đầu thai ở tầng tâm thức thứ 48. Người đó có hai chọn lựa:

  • Hoặc khởi sự bước đi lên, tìm cách thực hiện sự khai ngộ sẽ đưa người đó lên tầng 49 để rồi tiếp tục lên mãi cho đến tầng cao chót thứ 144, là điểm sẽ thăng thiên trở lại với cõi tâm linh,
  • Hoặc từ chối cuộc khai ngộ hướng thượng và bắt đầu đi xuống tầng 47 và thấp hơn nữa.

Ở tầng thứ 48

Khi bạn khởi sự ở tầng 48, bạn mang hai đặc tính. Thứ nhất, bạn ý thức rằng bạn vẫn có sự nối kết với một cái gì rộng lớn hơn bản ngã của mình. Cái rộng lớn đó là Hiện diện TA LÀ của bạn, nhưng ở tầng 48, bạn không chiêm nghiệm được Hiện diện một cách rõ ràng, trực tiếp. Tuy nhiên, bạn vẫn có cảm nhận về một thực tại cao hơn, vẫn cảm thấy mình là thành phần của một toàn thể rộng lớn trong cõi vật chất. Quan trọng nhất, bạn cảm thấy hành vi của mình sẽ đem lại hậu quả cho mình và cho người khác. Vì vậy ở mức 48 này, có rất nhiều loại hành động ích kỷ mà bạn sẽ gạt đi không làm.

Đặc tính thứ nhì, bạn cảm nhận rằng cuộc sống hay thực tại có nhiều điều mà mình chưa hiểu biết hoàn toàn. Vì thế mà bạn giữ một tinh thần cởi mở đối với các giáo lý hay các vị thày tâm linh, và đó là cách duy nhất để bạn vượt qua các cuộc điểm đạo và tiến bước cao hơn.   

Bởi vì bạn không thể đứng yên một chỗ, bạn bắt buộc phải chọn đi lên tầng 49 hay đi xuống tầng 47. Nếu bạn chọn đi xuống, bạn sẽ từ chối cuộc khai ngộ có tiềm năng nâng bạn đi lên. Nói cách khác, tầng 47 là sự tha hóa của tầng 49, và cứ thế nói rộng ra, tầng tâm thức thấp nhất là sự tha hóa của tầng 96. Hãy thử nhìn cách phân nhóm này cặn kẽ hơn.

Dưới tầng thứ 48

Tại sao một dòng sống lại có thể chọn đi xuống thấp hơn tầng thứ 48? Có hai lý do chính. Một là vì người đó quan sát thấy người khác ở những tầng thấp hơn dường như có thể hành động ích kỷ mà không phải lãnh chịu bất cứ hậu quả nào. Và nó quyết định nó cũng muốn kinh nghiệm những hành vi của một sinh thể tách biệt. Rất có thể nó cũng đã bị luận lý phản-Ki-tô lừa dối, bảo nó đây là cách duy nhất để nó có thể quyết định một cách thực sự tự do.  

Lý do thứ hai là dòng sống đó coi những người đang hành động ích kỷ là mối đe dọa cho chính mình hay cho một công cuộc gì lớn hơn mình, thậm chí đe dọa cả kế hoạch của Thượng đế cứu vớt thế gian. Và nó cảm thấy nó phải tìm cách cứu nguy những người đó, hay buộc họ phải ngừng những hành vi ích kỷ. Khi làm vậy, nó rơi vào ngụy biện rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Điều cốt yếu bạn cần hiểu là bạn chỉ có thể đi xuống dưới mức 48 bằng cách vô hiệu hóa cảm nhận nối kết mà bạn đang có với cái ta tâm linh của mình cũng như mọi sự sống. Để thực hiện điều này, bạn tạo ra tự ngã thấp kém hầu biện minh cho những lựa chọn và hành động của bạn trong cương vị một sinh thể tách biệt. Như thế, tự ngã ra đời từ luận lý phản-Ki-tô, cũng gọi là lý luận gian manh của rắn. Cách dùng từ này lấy thẳng từ Kinh thánh và câu chuyện Eva bị rắn lừa dối ăn trái cẩm.

Câu chuyện của Eva mang một ý nghĩa biểu tượng thâm sâu, trong đó trái cấm chính là tâm thức coi mình là một sinh thể tách biệt, gọi là tâm thức tách biệt hay tâm thức nhị nguyên. Đúng ra, nó không là cái gì cấm kỵ đâu, nhưng nó biểu tượng cho một sự khai mở đặc thù, bởi vì một khi bạn chuốc lấy tâm trạng này thì bạn sẽ đánh mất cái khung nền để có thể thoát ra trở lại. Trong hoàn cảnh lý tưởng, bạn sẽ không phải giải quyết vấn đề này cho tới khi gần đạt đến tầng 96.    

Bạn chỉ có thể đi vào tâm thức nhi nguyên bằng cách vô hiệu hóa cảm nhận mình có sự kết nối với thực tại rộng lớn, và bạn làm điều này khi bạn tin vào luận lý bảo rằng bạn có quyền định ra một thực tại riêng của mình. Bạn trở thành “giống như một Thượng đế biết thiện ác”, có nghĩa là bạn định đoạt cái gì là thiện, cái gì là ác, và như thế bạn luôn luôn có lý và bất cứ ai chống đối bạn sẽ luôn luôn sai trái.

Vấn đề là một khi bạn bước vào tâm thức này, bạn sẽ mất liên lạc với thực tại có khả năng giúp bạn rút trở ra. Tâm thức này biến thành một vòng xoáy ngày càng mãnh liệt, khiến bạn tin chắc rằng bạn có khả năng, và có quyền, định nghĩa thế nào là thật hay giả, bất kể thẩm quyền nào bên ngoài ngã tách biệt của bạn. Ví dụ điển hình của những nhân vật lịch sử bị kẹt cứng trong tư duy này là các nhà độc tài tin rằng mình hoàn toàn chính đáng khi mình sát hại bất cứ ai cả gan chống lại mình, thậm chí còn sát hại cả một dân tộc. Và bạn cũng có thể thấy tấm gương của một số nhà lãnh đạo tôn giáo hay tâm linh xem mình là đại diện duy nhất của Thượng đế trên thế gian, kể cả cho mình là hiện thân độc nhất của Thượng đế.

Khi bạn bị cuốn vào vòng xoáy đi xuống như vậy, bạn sẽ không còn mở tâm ra để lắng nghe vị thày tâm linh nơi cõi thượng thăng nữa. Thế nhưng bạn vẫn có khả năng mở tâm ra trở lại khi bạn trải qua một kinh nghiệm thức tỉnh do đã “chạm đáy”, và bạn nhận ra là mình cần thay đổi chính mình. Khi đó, bạn sẽ khởi sự một vòng xoáy đi lên, nhưng bạn phải biết rằng tiến trình ngoi lên này sẽ khó khăn gấp bội hơn là nếu bạn đã khởi hành từ mức thứ 48.

Lý do là vì bạn sẽ chỉ có thể lật ngược hành trình khi bạn trải qua một kinh nghiệm vật lý đập vỡ cái ý thức muốn kiểm soát và tự túc độc lập. Để thoát khỏi nhà tù của ngã riêng biệt, một cái gì đó phải đập cho ngã riêng biệt này tan vỡ – hay ít ra làm rạn nứt. Đương nhiên, kinh nghiệm này thường vô cùng khó khăn, đau đớn.

Sau khi quay đầu hoàn toàn, bạn vẫn phải đối mặt với một chặng đường gian nan để leo ngược lên cấp 48 hay cao hơn. Lý do là vì bạn vẫn phải vác theo cái tự ngã mà bạn đã tạo ra nơi mình. Tỷ đụ như bạn đã xuống đến tầng tâm thức thấp tột cùng thì bạn sẽ không bỏ được cái ngã kềm chế này cho tới khi bạn đạt sự khai ngộ của tầng 96. Và nếu bạn từ chối thực hiện sự khai ngộ này, bạn sẽ “rớt” trở xuống tầng thấp nhất.

Giữa tầng thứ 48 và 96

Nếu bạn khởi hành từ tầng 48 và leo lên từ đó, bạn sẽ bước vào một chặng đường dẫn bạn đi qua toàn bộ các khai ngộ của bảy tia sáng tâm linh. Từ tầng 48 đến 54 là tia thứ nhất, hay tia gốc, tia Alpha. Nhưng bạn cũng có một tia phụ là tia Omega. Xin được giải thích như sau.  

Ở tầng 48, Alpha của bạn là tia thứ nhất, và Omega của bạn cũng là tia thứ nhất. Ở tầng 49, Alpha là tia thứ nhất nhưng Omega là tia thứ hai – và cứ như thế cho đến tầng 54, ở đó Alpha của bạn là tia thứ nhất và Omega của bạn là tia thứ 7. Qua tới tầng 55, Alpha đổi sang tia thứ hai và Omega là tia thứ nhất, vân vân và vân vân.

Mục đích của cách sắp đặt này là khi bạn bước qua trọn đường tu, bạn sẽ lần lượt học hỏi cách sử dụng cả bảy năng lượng cơ bản mà các Elohim đã sử dụng để tạo ra vũ trụ vật chất. Bạn cũng sẽ tìm được sự quân bình nơi cả bảy tia sáng để bạn có thể sử dụng mà không rơi vào cực đoan. Chẳng hạn, tia thứ nhất là tia của ý chí và quyền lực, và tất nhiên bạn không muốn noi theo những tấm gương đầy rẫy trong lịch sử của những nhân vật lạm dụng quyền lực.    

Càng tới gần mức 96, bạn nhận biết càng rõ rệt – qua sự nhận biết nội tâm và trực nghiệm – rằng mình là nhiều hơn một sinh thể vật chất. Bạn bắt đầu nhận ra là thế giới vật chất không còn quyền năng gì trên Tánh linh của mình.

Bạn cũng bắt đầu chấp nhận mình không là một cái ngã tách biệt, họăc hoàn toàn độc lập như khi còn ở dưới tầng thứ 48, hoặc được kết nối với một cái gì cao thượng hơn. Thay vào đó, bạn bắt đầu xem mình là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của mình. Bạn thấy được sự hợp nhất chiều dọc với Hiện diện và sự hợp nhất chiều ngang với mọi sự sống.

Sự khác biệt mấu chốt là liệu bạn có nhận ra được rằng, ngược với giai đoạn ở dưới tầng 96 khi bạn còn phải nâng ngã lên – cái ngã tuy nối kết nhưng vẫn riêng biệt – khỏi tâm thức đại chúng, thì ở trên tầng 96, bạn chỉ có thể tiến bước bằng cách bỏ hẳn ý muốn nâng ngã riêng biệt mà chỉ còn tập trung vào việc nâng cao toàn thể. Nếu bạn không buông được ngã riêng biệt, rất có thể bạn sẽ rơi tuột xuống tầng tâm thức thấp nhất (y như bạn cũng có thể rơi từ một tầng giữa 48 và 96 xuống tầng tâm thức tương ứng).

Ở tầng thứ 96

Tầng thứ 96 là tầng nơi đấng Ki-tô xuất hiện, và bạn chuyển tiếp từ một ý niệm bản ngã cá nhân sang một ý niệm về cái ta đại đồng. Tất cả các tầng từ 96 đến 144 chỉ là những cấp thành tựu quả vị Ki-tô khác nhau, nơi bạn đạt được tầm nhìn ngày càng toàn bộ và rộng khắp vũ trụ. Dần dà, bạn sẽ càng trở nên tự đủ, trong ý nghĩa là bạn không còn phụ thuộc vào một giáo lý hay một vị thày vỏ ngoài, mà sẽ khởi sự nhận được hướng dẫn từ Hiên diện TA LÀ của mình cũng như trực tiếp từ các chân sư.   

Tuy nhiên, khả năng tự đủ này không phải là cùng cái ảo giác độc lập mà bạn từng có khi còn ở dưới mức 48, vì bây giờ bạn đã buông bỏ cái ngã cá nhân và chỉ còn xem mình đơn giản là cánh cửa mở cho Hiện diện, như đã được giải thích trong bài giảng về cái Ta Biết.

Khái quát

Các giáo lý và phương tiện tu tập trên trang mạng này chủ yếu nhắm tới những hành giả đang ở giữa hai tầng 48 và 96 trên bước đường đi lên. Đây là đường tu bảy tia sáng, con Đường Thăng vượt.

Tất nhiên, giáo lý này cũng sẽ hữu ích cho những ai tuy còn ở dưới mức 48 nhưng đã quay đầu toàn diện và đã sẵn sàng tạo ra cho mình, hoặc đẩy mạnh thêm, một vòng xoáy ốc hướng thượng. Bạn đã phải xuống thấp hơn mức 48 do đã từ chối một trong những cuộc khai ngộ của bảy tia sáng, thì bây giờ bạn cũng có thể sử dụng các giáo lý và phương tiện này để chứng đạt các khai ngộ đó.

Ngoài ra cũng có một số lời dạy cùng dụng cụ đề cập tới tia sắng thứ 8 là Tia Hội nhập, để bạn hội nhập toàn bộ bảy tia sáng. Bạn cũng sẽ tìm thấy một số giáo lý về bất nhị, là thử thách chính yếu ở những tầng cao hơn tầng 96.

Cất bước trên đường tu tâm linh

Bài này chỉ nhằm đưa ra một cái nhìn khái quát về những bước khởi đầu trên đường tu tâm linh mà các chân sư thăng thiên giảng dạy. Trang mạng này có đăng nhiều bài giảng đầy đủ hơn của các chân sư về đề tài này. Bạn có thể tìm thấy bài truyền đọc của các thày dưới hình thức bài rời hay sách in, hoặc bạn cũng có thể tham khảo lời giải đáp của các thày cho những câu hỏi của người tầm đạo.   

Đường tâm truyền và đường công truyền

Thời nay, mạng internet đã giúp cho việc tra cứu đường tu tâm linh trở nên dễ dàng hơn bao giờ, vì vậy nhiều người đã có dịp đọc được những bài giảng về đường đạo được phổ biến rộng rãi. Tuy nhiên, không chắc là ai ai cũng đã nắm được đường tu tâm linh thực sự là gì. Điều quan trọng mà bạn cần hiểu là đường tu mà các chân sư chủ trương hôm nay rất khác với cách trình bày cố hữu của đa số các tôn giáo về sự cứu rỗi hay giải thoát.

Phần lớn các tôn giáo dạy rằng con người bị chìm đắm trong một tâm trạng khiến mình không thể chiêm nghiệm được sự sống vĩnh hằng nơi một cõi thanh cao được mô tả bằng nhiều cách. Để được phép nhập vào cõi đó, chúng ta phải hội đủ một số yêu cầu, và thường thường đó là những yêu cầu vỏ ngoài. Nói cách khác, nếu bạn là tín đồ của một tôn giáo công truyền, hết lòng tuân thủ mọi đòi hỏi và vâng lời các bậc lãnh đạo tôn giáo mình, bạn sẽ chắc chắn được lên cõi trời cho dù bạn không thay đổi mảy may tâm thức của mình.

Hầu hết chúng ta khi lớn lên đều bị cái nhìn này ảnh hưởng, và chúng ta có thể nghĩ rằng để được cứu rỗi, chúng ta chỉ cần chiều lòng một vị Thượng đế xa vời ở trên trời với quyền năng đáp ứng mọi lời cầu của mình, và ngài sẽ mở cửa cho chúng ta bước vào vương quốc của ngài mà không đòi hỏi chúng ta xét lại tâm lý mình. Bạn có nhớ lời dạy của Giê-su về những người chỉ nhìn thấy cái giằm nhỏ xíu trong mắt người khác mà bỏ qua cái xà to tướng trong chính mắt mình? Suốt hàng ngàn năm, nhiều tôn giáo đã duy trì niềm tin cho rằng chúng ta có thể bước vào cõi trời bằng cách thỏa mãn một số đòi hỏi vỏ ngoài, nghĩa là có thể được cứu rỗi mà không cần phải thay đổi chính mình, thay đổi tâm lý và tâm thức mình. Giê-su bảo đó là một lối suy nghĩ hoàn toàn sai lầm.  

Rất có thể chính bạn cũng đã từng nghi hoặc về con đường công truyền này, vì thế mà bạn mới mở lòng ra cho các giáo lý tâm linh. Nếu đường công truyền cho phép bạn vào cõi trời mà không cần cải thiện bản chất tâm lý mình, cõi trời đó nhất định phải đầy rẫy những con người ích kỷ, ghen tị, nhỏ nhen. Thật là vô lý, và điều này dẫn đến một kết luận thâm sâu.

Vào được cõi cao hơn KHÔNG PHẢI chỉ là chuyện thỏa mãn một số đòi hỏi vỏ ngoài. Hội đủ tư cách bước vào cõi thanh cao là cả một tiến trình NỘI TÂM đòi hỏi chúng ta thanh lọc toàn bộ tâm lý mình để vượt qua mọi tâm tính vị kỷ đã khiến cho cuộc sống trên địa cầu đầy xung đột và đối xử tồi tệ. Bản chất của đường tu tâm linh là nâng cao tâm thức mình để thăng vượt mọi xu hướng nhỏ nhen, ích kỷ mà nhiều người coi là bản tính bình thường của con người. Các chân sư dạy rằng đó không phải lả chân tính của chúng ta. Thượng đế đã không sinh tạo ra chúng ta là những sinh thể ích kỷ, mà chính chúng ta đã trở thành ích kỷ khi mình bước xuống những tầng tâm thức thấp kém. Cách duy nhất để thoát khỏi tình trạng này là lật ngược tiến trình hầu vươn lên những tầng tâm thức cao hơn.  

Tất nhiên là sẽ cần thời gian để thích ứng với thực tế này. Nhiều người tìm thấy đường tu dưới hình thức một con đường công truyền đưa lên tâm thức cao hơn. Nhiều giáo lý và vị thày tâm linh giảng đạy một con đường tiệm tiến thay vì đốn ngộ, nhưng các vị đó vẫn chủ trương phải học hỏi một số giáo lý và tu tập một số kỹ thuật nhất định, có nghĩa là bạn vẫn không phải xem xét đến phần tâm lý sâu xa bên trong.  

Nếu bạn đang theo một đường tâm linh như thế ở một trình độ phù hợp với bạn thì điều đó không có gì sai trái. Tuy nhiên, một đường công truyền như vậy không phải là con đường được các chân sư giảng dạy ở đây. Những giáo lý được trình bày ở đây dành cho những ai đã sẵn sàng bước vào đường tu tâm truyền, sẵn sàng nhìn thẳng vào tâm lý mình mà nhìn nhận rằng “Chính tôi cần thay đổi chứ không phải ai khác, không phải thế giới và cũng không phải Thượng đế. Không, tôi mới là người phải thay đổi”. Một khi chấp nhận điều này rồi thì làm thế nào cất bước trên con đường nội tâm này?

Bản chất của đường tu tâm linh là nâng cao tâm thức

Như đã trình bày trong bài về 144 tầng cấp tâm thức, có sự cách biệt mênh mông giữa tầng tâm thức thấp nhất và tầng cao nhất mà nhân loại có thể có trên địa cầu. Không ai có thể lấp trọn khoảng cách đó trong một bước nhảy vọt, nghĩa là sự đốn ngộ không thể xảy ra cho những ai còn ở những mức thấp. Vì thế các chân sư dạy rằng chúng ta cần bước tới lần hồi từ thấp lên cao.

Có nhiều cách để trình bày vấn đề này và đây là một cách. Tỷ như bạn đang đứng ở tầng tâm thức cao nhất (tầng thứ 144) và bạn lần lượt bước xuống các tầng thấp hơn. Mỗi lần bạn bước xuống một nấc như thế là một lần bạn chuốc lấy một ảo tưởng nào đó về chính bạn, về thế gian và về cách bạn tương tác với thế gian. Càng xuống thấp hơn thì tâm bạn sẽ càng bị vây bủa mù mịt trong ảo tưởng. Tâm ý thức của bạn không thể nhìn rõ ràng nữa mà chỉ thấy mọi thứ qua hàng hàng lớp lớp ảo tưởng.    

Nếu toàn bộ những lớp ảo tưởng này bỗng nhiên được gỡ bỏ, bạn có thể rơi ngay vào một cuộc khủng hoảng bản sắc, vì các ảo tưởng đó đã sáp nhập thành một phần không thể thiếu trong ý niệm bản sắc của bạn. Mỗi chúng ta đều cần đến một ý niệm bản sắc để sinh hoạt trên hành tinh dày đặc, cam go này. Chúng ta cũng cần sự liên tục, cho nên nếu bất chợt bị lột mất mọi ảo tưởng, chúng ta sẽ không còn biết mình là ai nữa và rất có thể sẽ trở nên điên dại (như đã xảy ra cho một số người).

Vì vậy các chân sư chủ trương một đường tu tuần tự. Chúng ta khởi sự ở mức tâm thức hiện thời của mình khi lần đầu tiên chúng ta nhận ra có đường tu dẫn đến những tầng tâm thức cao hơn. Rồi chúng ta sẽ tiến từng bước một, và với mỗi bước, chúng ta sẽ vượt qua một ảo tưởng cụ thể. Một khi thoát được ảo tưởng đó, chúng ta sẽ cần chút thời gian để điều chỉnh ý niệm bản sắc của mình trước khi có thể đi bước kế tiếp.

Vậy nếu bạn nhận ra đường tu tâm linh ở tầng tâm thức thứ 48, bạn sẽ không có nhu cầu biết đến những giáo lý sẽ phơi bày toàn bộ mọi ảo tưởng ở các tầng trên, mà chỉ cần vượt qua ảo tưởng của tầng 48 này, rồi bước lên tầng 49 giải quyết tiếp ảo tưởng ở đó.

Hai khía cạnh của phát triển tâm linh

Vậy thì cốt lõi của sự phát triển tâm linh nằm ở chỗ khắc phục ảo tưởng, nhưng ảo tưởng nằm ở đâu? Như đã giải thích trong một bài khác, mỗi chúng ta đều có bốn tầng của tâm, hay bốn thể phàm. Các thể này được tạo bằng năng lượng với độ rung khác nhau. Dày đặc nhất là thể xác vật lý (và cái tâm gắn liền với thể xác), rồi đến cảm thể, trí thể, và bản sắc thể là phần tương đối thanh nhẹ nhất. Nơi mỗi thể, chúng ta đều mang ảo tưởng.

Điều quan trọng là hiểu rằng chúng ta được nuôi dưỡng bởi một dòng năng lượng xối xuống từ chân ngã, và năng lượng này đầu tiên sẽ đi qua bản sắc thể trước khi chảy tiếp xuống các thể kia. Có nghĩa là các ảo tưởng chúng ta mang nơi bản sắc thể nằm ở mức cao hơn trí thể, và ảo tưởng đó không thể bị cái trí lý luận, phân tích thách đố. Cũng vậy, ảo tưởng nơi trí thể không thể bị cảm thể thách đố.

Chức năng của ảo tưởng là gì? Ảo tưởng giống như một cái phin lọc tô màu năng lượng chảy xuống từ chân ngã. Chẳng hạn, nhiều người mang ảo tưởng nơi cảm thể rằng sự nóng giận là một điều có thể chấp nhận trong một số tình huống, thậm chí còn là cách phản ứng duy nhất. Khi chúng ta phản ứng nóng giận trước ngoại cảnh, năng lượng chảy qua ảo tưởng này sẽ bị giảm độ rung, nên nó không thể chảy ngược trở lên chân ngã. Có nghĩa là năng lượng bắt buộc phải tích tụ lại trong cảm thể, với hai hệ quả:

  • Năng lượng chất chứa sẽ lôi kéo tâm chúng ta về phía nó, tức là chúng ta sẽ có xu hướng phản ứng với cùng năng lượng này trong tương lai. Có càng nhiều năng lượng nóng giận trong cảm thể thì chúng ta sẽ càng dễ phản ứng nóng giận trong nhiều tình huống. Do vậy mà một số người luôn luôn phản ứng nóng nảy trong mọi hoàn cảnh và còn căm giận cả cuộc sống nói chung.
  • Năng lượng chất chứa sẽ tạo thành một chướng ngại khiến tâm ý thức không làm sao thấy được cái ảo tưởng đằng sau năng lượng, và chúng ta không thể hướng nhìn lên những thể cao của mình.     

Bây giờ giả tỷ bạn đã nhận biết được đường tu tâm linh và quyết định mình sẽ tu tập để phát triển tâm linh. Cốt lõi sự phát triển của bạn nằm ở chỗ bạn nhìn thấu được một số ảo tưởng, rồi hóa giải hay thăng vượt chúng. Nhưng nếu nơi bốn thể phàm, bạn có mang năng lượng sợ hãi (như mỗi chúng ta đều mang trên địa cầu rối ren này), chính năng lượng đó sẽ ngăn cản bạn thấy được ảo tưởng. Năng lượng cảm xúc cũng sẽ ngăn cản bạn nhìn xa hơn những ảo tưởng ở mức vật lý hay cảm xúc.  

Đối với đa số chúng ta, vấn đề hàng đầu khi chúng ta mới tìm thấy đường tu là năng lượng của sợ hãi trong cảm thể. Nói vậy nghe hơi trừu tượng, khó hiểu, nhưng thật sự không có gì bí ẩn. Năng lượng chỉ đơn giản là sóng rung động ở một độ rung nào đó. Nhưng năng lượng cũng có thể được nâng lên độ rung cao hơn hay kéo xuống độ rung thấp hơn. Vậy làm sao đưa năng lượng nóng giận lên độ rung cao hơn? Chúng ta phải hứng lấy những sóng năng lượng với độ rung cao và hướng nó về năng lượng nóng giận. Đây là một quy trình khoa học: khi hai sóng năng lượng gặp gỡ, chúng tạo ra cái mà các khoa học gia gọi là hình giao thoa, có nghĩa là cả hai sóng phối hợp lại thành một hình thức năng lượng mới với độ rung mới.

Để giúp chúng ta biến đổi năng lượng của mình nơi bốn thể phàm, các chân sư đã trao cho chúng ta một số dụng cụ để mở khóa dòng năng lượng xối xuống từ các thày, và hướng nó về những điểm nơi năng lượng bị tắc nghẽn trong bốn thể phàm. Khi làm điều này một cách hệ thống, chúng ta sẽ lần hồi biến hóa năng lượng sợ hãi đã tích trữ từ nhiều kiếp, đưa đến một số kết quả:

  • Chúng ta giảm bớt náo động và hỗn loạn nơi các trường năng lượng, hay tâm, của mình.
  • Chúng ta bắt đầu cảm thấy làm chủ đời mình nhiều hơn.
  • Chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm, bằng lòng hơn.
  • Chúng ta ít đau đớn hơn khi nhìn thẳng vào tâm lý mình để phát hiện những vết thương và cản trở ở đó, do năng lượng đã bớt gay gắt.
  • Chúng ta dần dần nhận ra một số khuôn nếp phản ứng cùng những tin tưởng đứng đằng sau, và điều này giúp chúng ta vượt qua ảo tưởng và tiến thêm một bước trên đường tu.
  • Với tâm bớt mê mù, chúng ta nhìn xa hơn những cái tâm cảm xúc để nhìn vào các tầng cao hơn của tâm, rồi giải quyết các ảo tưởng ở đó. Như thế chúng ta có thể hiểu sâu các giáo lý tâm linh cao hơn mà lúc đầu chúng ta không thể nắm bắt.         

Từ thập niên 1930, các chân sư thăng thiên đã phổ biến những dụng cụ cầu thỉnh ánh sáng tâm linh như trên, và hàng triệu người sử dụng đã nghiệm thấy hiệu quả trong việc biến hóa năng lượng. Nhưng cho dù biến hóa năng lượng là động cơ phát triển tâm linh, chúng ta vẫn phải biết cách cầm tay lái để hướng sự phát triển đó về những mục tiêu xây dựng đem lại thành quả lớn nhất. Và ở điểm này, sự hướng dẫn của chân sư thật là quý báu vì các thày đã từng bước trên con đường chúng ta đang đi và có thể dìu dắt chúng ta vượt qua mỗi chặng đường.

Giai đoạn khởi đầu trên đường tâm truyền

Các chân sư bảo rằng khi đầu thai lần đầu trên địa cầu, một sinh thể sẽ giáng thế ở tầng tâm thức thứ 48. Sinh thể đó có hai chọn lựa, hoặc đi lên về hướng tầng thứ 144, hoặc đi xuống các tầng thấp hơn. Do các điều kiện khuấy động trên hành tinh này, đa số chúng ta trong tiền kiếp đã bước xuống những vùng thấp hơn tầng 48. Chúng ta không cần phải cảm thấy tội lỗi về sự thể này, bởi vì địa cầu chỉ giản dị là một cái máy giả thực tại để mình sống qua một số trải nghiệm. Đa số chúng ta cần đi xuống dưới tầng 48 để chiêm nghiệm đời sống ở đó.

Nhưng khi dấn thân xuống dưới tầng 48, chúng ta cũng đánh mất sự tiếp xúc ý thức với Hiện diện TA LÀ của mình cũng như với các chân sư. Chúng ta vẫn có thể nhận được sự hướng dẫn nào đó từ các thày nhưng chỉ trong một số hoàn cảnh cùng cực. Vì mất liên lạc ý thức, chúng ta bước vào cái mà các chân sư gọi là Trường đời Cay đắng. Nghĩa là chúng ta sẽ học hỏi từ những sự việc xảy ra cho mình nơi cõi vật lý, học hỏi qua sự chọn lựa rồi nếm mùi hậu quả của chọn lựa. Và chúng ta học hỏi bằng cách lặp đi lặp lại một số khuôn nếp cho đến khi mình cảm thấy chán ngấy và quyết định bỏ lại đằng sau tầng tâm thức đó.  

Như vậy chúng ta có khả năng tiến bước để leo lên trở lại tầng thứ 48, là tầng mình sẵn sàng tìm kiếm đường tu nội tâm. Đây là khi chúng ta mở tâm ra học hỏi từ các vị thày tâm linh, kể cả qua sự quan sát người khác. Hay nói cách khác, chúng ta mở tâm ra để học hỏi từ kinh nghiệm của người khác thay vì phải học từ mỗi lỗi lầm của chính mình.     

Đây cũng là giai đoạn khi mình nhận ra sự khác biệt then chốt giữa hai con đường công truyền và tâm truyền. Chúng ta ngộ ra rằng những gì xảy ra trong tâm – là kinh nghiệm cuộc sống, hay kinh nghiệm SỰ SỐNG – không phải là kết quả bắt buộc của những gì xảy ra ở ngoài tâm. Sự phát triển tâm linh để điều ngự bản thân chính là làm chủ được các tình huống tâm lý nội tâm, hầu chúng ta có thể toàn quyền chọn lựa trạng thái tâm mà mình muốn, bất kể ngoại cảnh là gì. Điều này đã được Giê-su, Phật và các vị thày tâm linh khác minh chứng qua cuộc đời của các thày.    

Có một quy luật vũ trụ nói rằng: Khi trò sẵn sàng thì thày xuất hiện. Điều này có nghĩa khi đạt đến tầng thứ 48, chúng ta phải cố tìm một giáo lý tâm linh nào giúp mình đi theo con đường nội tâm. Xin mở ngoặc ở đây, bạn không cứ là đang ở tầng 48 khi bạn tìm thấy giáo lý tâm linh trong kiếp này, bởi vì nhiều người tâm linh đã đạt cao hơn thế trong những kiếp trước và khởi bước trong kiếp này ở một mức cao hơn.

Nhưng tầng 48 đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn vô cùng quan trọng trên đường tu dẫn tới tầng thứ 96. Giai đoạn này có nhiều đặc điểm, mà quan trọng hơn cả là khả năng tự kéo mình ra khỏi từ lực kềm tỏa của tâm thức đại chúng. Theo các chân sư, người ở dưới mức 48 thường bị tác động nặng nề bởi tâm thức đại chúng, và một số còn trở thành những con rối ngờ nghệch bị đại chúng giật dây từ tứ phía. Hiện tượng a dua này thấy rõ nơi nhiều người, dù là theo đạo hay theo thời trang. Đa số hành giả tâm linh đã vượt qua giai đoạn này suốt đời, và đó là lý do chúng ta hay bị người đời bài xích vì không làm giống mọi người.

Để thoát khỏi sự lôi kéo của đại chúng, chúng ta phải giải thoát bốn thể phàm của mình khỏi các ảo tưởng có mặt nơi các tầng từ 48 đến 96, và cũng phải chuyển hóa những năng lượng sợ hãi ở bốn thể phàm, là những năng lượng mà tâm thức đại chúng lôi kéo. Và các ảo tưởng là yếu tố khiến chúng ta cảm thấy mình bị áp lực phải chiều theo chuẩn mực của đại chúng. Và đây là sự phối hợp của những tin tưởng với năng lượng đã tích tụ, tạo ra một khuôn nếp phản xạ – hay hồn bóng nội tại, hay ngã – khiến chúng ta có xu hướng phản ứng tự động trước một tình huống nào đó mà không chọn lựa cách đáp ứng một cách ý thức. Hay cũng có thể nói rằng phát triển tâm linh là sự giành lấy tự do đáp ứng của mình trước ngoại cảnh, là chọn lựa tự do thay vì bị buộc vào một khuôn nếp sẵn có.

Vì đây là một giai đoạn vô cùng quan trọng nên các chân sư đã cho đăng tải một loạt sách độc đáo nhằm dẫn dắt chúng ta từng bước từ tầng tâm thức 48 đến tầng 96 (xem dưới đây). Khóa học Điều ngự Bản thân này là những bài học tâm linh trực chỉ và dễ theo học nhất từng được ban cho nhân loại. Bộ sách này là một phương tiện tuyệt vời cho mọi hành giả tầm đạo, kể cả ở những mức tâm thức cao hơn vì nó giúp chúng ta vượt qua mọi cuộc điểm đạo mà không thiếu sót một yếu tố nào.  

Một khúc rẽ quyết định

Khi đạt đến tầng tâm thức thứ 96, chúng ta đối mặt với một cuộc khai ngộ chủ chốt. Suốt thời gian nâng tâm thức từ mức 48 đến 96, chúng ta đã cần xây dựng một ý niệm bản ngã mạnh mẽ để không bị tâm thức đại chúng kéo xuống. Điều này hoàn toàn thích đáng vì bản ngã này sẽ chở chúng ta cho tới mức 96. Nhưng ở điểm mốc này, cái ngã đã đưa mình tới tầng 96 sẽ không thể đưa mình lên tiếp những tầng cao hơn. Đây là sự nhận thức cốt yếu mà ít giáo lý tâm linh nào nói đến.

Trong suốt giai đoạn trước, cái ngã này đã đặt trọng tâm để đứng riêng biệt khỏi tâm thức đại chúng, hay nói cách khác, nó chú tâm vào việc làm sao hơn người, làm sao tinh tấn hầu vượt trội hơn người khác. Đây là lý do nhiều hành giả tâm linh mơ ước đạt được những khả năng phi thường hay siêu nhiên, và ngay cả một số thày tâm linh cũng tuyên bố mình có khả năng như thế.

Ở tầng thứ 96, cuộc điểm đạo mà chúng ta đối diện bắt buộc mình phải tự hỏi, liệu mình sẽ xây dựng tiếp cái ngã đó và khiến nó càng đặc biệt hơn nữa, hay là mình sẽ sẵn sàng nghe lời gọi của Giê-su mà từ bỏ đời sống đề bước chân theo thày? Câu hỏi đặt ra là mình có chấp nhận buông bỏ cái ngã riêng biệt này, từng mảnh một, để nhận lấy tâm thức cao hơn vượt ngoài mọi sự chú tâm vào ngã? Liệu mình sẽ đi tiếp đường tu với động lực trụ vào bản thân, hay là mình sẽ chuyển đổi động lực đó thành sự phụng sự tha nhân, hay sự phụng sự chân sư là những bậc đang phụng sự toàn thể nhân loại?

Trang mạng này đăng tải rất nhiều giáo lý của các chân sư về đường tu này dẫn đến quả vị Ki-tô. Ngoài các bài truyền đọc, còn có hai quyển sách này (chưa dịch ra Việt ngữ):

  • Master Keys to Personal Christhood
  • Master Keys to Spiritual Freedom

Những giai đoạn cao hơn

Người tầm đạo thường mơ ước mãnh liệt rằng một ngày nào đó mình sẽ đạt được một tâm thức tối hậu, sẽ giải thoát khỏi mọi tự ngã và có được những khả năng phi thường hay siêu phàm. Trong một số tổ chức tâm linh, người ta tin rằng vị sáng lập hay vị đạo sư đã đạt được tâm thức như thế. Các chân sư dạy rằng tuy chúng ta sẽ nâng tâm thức tới những tầng ngày càng cao hơn, nhưng khi nào chúng ta còn hiện thân trong cõi vật lý thì chúng ta không thể đạt được trạng thái tối hậu. Lý do là vì trái đất này là một hành tinh vô cùng dày đặc và người nào đạt được tâm thức cao như vậy sẽ không thể cầm giữ được thể xác của mình mà sẽ thượng thăng.

Các chân sư dạy rằng chúng ta sẽ tiếp tục lần hồi tiến bước và sẽ ngày càng nhìn thấu rõ hơn những ảo tưởng cực kỳ vi tế, cho đến khi đạt tới tầng tâm thức thứ 144 là điểm chúng ta thăng thiên. Và một lần nữa, các chân sư đã có giảng dạy rất nhiều về con đường này dẫn đến mức 144, trong sách in lẫn trong bài truyền đọc trên trang mạng này.

Giai đọan chót từ tầng 96 đến 144 đòi hỏi chúng ta đi sâu xa hơn nữa vào tâm lý mình, đi trở ngược lại mỗi kiếp sống cho tới kiếp đầu thai đầu tiên trên địa cầu, và có thể còn xa hơn nữa. Đây là một lời dạy sâu xa gấp bội mọi điều mà bạn có thể tìm thấy trong ngành tâm lý chính mạch hay hầu hết các giáo lý tâm linh. Các chân sư đã cho chúng ta nhiều lời dạy để hướng dẫn chúng ta trong giai đoạn chót này, trong đó có một bộ sách thâm sâu nhất từ trước tới giờ mô tả cuộc giáng thế của nhiều người tâm linh từ những hành tinh gọi là “tự nhiên” nơi xung đột và chiến tranh hoàn toàn vắng bóng. Đây là hai quyển đầu trong nguyên bộ sách đó (chưa dịch ra Việt ngữ):

  • My Lives with Lucifer, Satan, Hitler and Jesus
  • Healing Your Spiritual Traumas

Một khóa học điều ngự bản thân không tìm thấy ở đâu khác

Các chân sư thăng thiên luôn luôn tìm cách tạo mọi dễ dãi để thật nhiều người phát hiện được đường tu tâm linh của mình rồi cất bước đi theo. Một đằng, các thày không ngừng đưa ra những giáo lý ngày càng cao cấp hơn, và đằng khác, các thày cũng trình bày giáo lý làm sao cho dễ hiểu, dễ áp dụng hơn đối với nhiều người hơn. Trong nỗ lực mới nhất, các chân sư đã cho phát hành một loạt sách nhằm dẫn dắt hành giả qua các mỗi điểm khai ngộ từ tầng tâm thức 48 cho đến 144.    

Bộ sách này có tên là “Con đường điều ngự bản thân”, gồm có một quyển mở đầu và một quyển cho mỗi tia sáng tâm linh trong số bảy tia. Mỗi quyển như thế gồm có bảy chương được truyền đọc bởi vị thượng sư của mỗi tia sáng, cùng với một loạt bài thực tập để giúp bạn hấp thụ bài giảng.

Đây là một cơ hội quý báu chưa từng thấy cho người tầm đạo, một khóa học có hệ thống để vượt qua từng cuộc điểm đạo từ tầng 48 đến tầng 96. Bạn có thể theo học toàn khóa cho dù bạn đang ở một mức cao hơn 48, bởi vì đây là cơ hội để bạn duyệt lại một số bước tu tập mà bạn có thể đã bỏ sót hoặc chưa hấp thụ đầy đủ trước đây. Làm vậy, bạn sẽ bảo đảm không còn gì có thể kéo bạn trở xuống mức thấp hơn tầng thứ 96 được nữa.    

Đây là nguyên bộ sách (chưa dịch ra Việt ngữ):

  • Flowing with the River of Life
  • The Creative Power Within
  • The Mystical Initiations of Wisdom
  • The Mystical Initiations of Love
  • The Mystical Initiations of Intention
  • The Mystical Initiations of Vision
  • The Mystical Initiations of Peace
  • The Mystical Initiations of Freedom

Hiểu biết các thành phần của ngã có thể biến đổi trải nghiệm cuộc sống

Có thể loạt bài này về các thành phần của con người toàn diện đã khiến bạn nghĩ rằng con đường tâm linh phức tạp và đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn là bạn tưởng? Nếu vậy thì bạn không nên nản lòng. Như trang web này có giải thích, quả là có một hệ thống tu tập sẽ lần hồi cải thiện cuộc sống của bạn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể thay đổi cách nhìn cuộc đời với kết quả an lạc tức khắc.    

Một số giáo lý tôn giáo hay tâm linh hứa hẹn một lối thoát dễ dàng, một con đường tu tập sẽ tự động dẫn bạn đến cứu rỗi. Nhưng trên thực tế, cách chân chính duy nhất là xây dựng lại ý niệm bản sắc của mình một cách hệ thống cho đến khi bạn hoàn toàn chấp nhận con người mà bạn thật là. Và điều này sẽ khôi phục sự hợp nhất giữa chân ngã và phàm ngã của bạn. Con đường này sẽ đòi hỏi công sức, bởi vì bạn phải thanh lọc cả bốn thể phàm cho không còn tin tưởng nhị nguyên hay năng lượng tha hóa nào nữa. Tuy nhiên vẫn có một lối thoát dễ dàng… tương đối.

Lối thoát đó là nhận ra rằng cái Ta Biết luôn là cái gì nó nghĩ nó là. Cái ta ý thức của bạn có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì nó chọn, và nó có thể thay đổi ý niệm bản sắc đó trong nháy mắt. 

Có thể nói, tự ngã đã xây dựng một nhà tù tư duy làm bằng các tin tưởng ích kỷ cùng năng lượng tha hóa trong bốn thể phàm. Bạn thử mường tượng nhà tù đó giống như một cái hộp nhỏ bằng gạch với một cửa sổ nhỏ xíu nằm ngay cửa ra vào. Tự ngã đã lường gạt cái Ta Biết bước vào nhà tù rồi tin rằng không thể nào thoát ra. Như vậy, cái ta ý thức của bạn đang nhìn ra thế giới, và nhìn vào chính mình, từ góc độ hạn hẹp của một người ngó ra từ nhà tù của tự ngã. Đây là nguyên nhân khiến bạn cảm thấy bế tắc, bạn cho rằng cuộc đời là khổ não và dường như không có lối thoát.

Kỳ thực, cửa nhà tù không có khóa. Cái Ta Biết có khả năng – vào bất cứ lúc nào – quyết định mở cửa ra và bước ra ngoài nhà tù. Làm như thế không có nghĩa là nhà tù đã biến mất, vì bạn vẫn phải giải hóa các tin tưởng vị kỷ cùng các năng lượng tha hóa hầu lại làm chủ bốn thể phàm. Nhưng một khi bạn đã bước ra ngoài thì quan điểm của bạn về cuộc sống sẽ thay đổi lớn lao. 

Bạn sẽ không còn cảm thấy bị giới hạn hay bế tắc nữa, và cuộc sống sẽ không còn hiện ra là một chuỗi đau khổ triền miên. Bạn sẽ nhận ra sự thật trong câu châm ngôn xưa cổ rằng bạn không là một con người đang cố trải nghiệm cõi tâm linh, mà là một sinh thể tâm linh đang có một trải nghiệm thế gian. Và nếu bạn không ưa trải nghiệm thế gian này, thì bạn có thể thay đổi trải nghiệm đó bằng cách đi theo con đường tâm linh.

Bây giờ bạn có thể dùng cái ta Ki-tô của mình như là vị dẫn đường để bạn tìm lại bản sắc chân thực. Bạn sẽ bắt đầu nhận ra và chấp nhận rằng mình là một sinh thể tâm linh. Bạn sẽ khởi sự cảm được sự tự do cùng niềm vui của một người tìm ra mình là ai, tại sao mình lại ở đây, và làm thế nào mình thực hiện được những mục tiêu cao cả nhất. Mục đích duy nhất của trang mạng này là trao cho bạn sự hiểu biết cùng những phương tiện để giúp bạn nắm được niềm tự do tâm linh đó.   

Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo đã lớn lên và được dạy rằng chỉ có Giê-su mới có khả năng hợp nhất với Thượng đế bởi vì thày là đứa Con một của Thượng đế, và bạn sẽ mang tội báng bổ nếu bạn dám nghĩ mình cũng làm được như Giê-su. Nhưng Giê-su không hề xưng mình là đứa Con một của Thượng đế. Thày nói rõ:  

“Ta không thể tự mình làm nổi việc gì”. (John 5:30)

“Ta không tự mình làm điều gì, nhưng ta nói những gì Cha ta đã dạy ta” (John 8:28)

Giê-su dùng từ “Cha” để biểu tượng cho Hiện diện TA LÀ của thày, hoặc vị thày tâm linh của thày. Như thế, chính Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ đã ban cho Giê-su quyền năng làm những điều mà thày làm. Chỉ vì bốn thể phàm của thày hoàn toàn thuần khiết – để cho ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ có thể chảy xuống thông suốt – mà thày đã có những quyền năng sáng tạo vượt xa con người bình thường. Bí mật đã bị hầu hết các tôn giáo chính mạch bưng bít là mọi con người đều có một Hiện diện TA LÀ, và Hiện diện TA LÀ trong bạn cũng có cùng quyền năng như Hiện diện TA LÀ trong Giê-su. Vì vậy Giê-su mới dạy: 

“Quả thật, quả thật, ta nói cùng các con, kẻ nào tin ta cũng sẽ làm những việc ta làm, lại còn làm những việc lớn hơn nữa, vì ta đi về cùng Cha ta” (John 14:12)

Bạn, tức là phàm ngã bạn, sẽ không thể làm được những việc của Giê-su, thế nhưng Thượng đế có thể làm cùng những việc qua bạn như ngài đã làm qua Giê-su. Giê-su chỉ phi thường vì thày không còn chối bỏ Thượng đế ở trong thày, và vì vậy Thượng đế đã làm việc qua thày mà không gặp trở ngại nào. Còn bạn thì đã bị lập trình để ngăn chặn dòng Ánh sáng và Tình thương của Thượng đế chảy vào phàm ngã, nhưng bạn có thể vượt qua lập trình đó nhờ tâm Ki-tô. Và khi đó bạn sẽ biết, sự thật Ki-tô sẽ giải thoát bạn khỏi các ảo tưởng của tự ngã.

Khi bạn biết sự thật này, bạn có khả năng đạt được cùng tâm thức hợp nhất với Hiện diện TA LÀ như Giê-su đã chứng tỏ. Giê-su đã hiện thân để chỉ cho bạn con đường mà mọi người đều có tiềm năng đi theo. Giê-su muốn ai ai cũng xem thày như một tấm gương để noi theo, chứ không là một thần tượng để thờ cúng. Giê-su đã đến để chứng thực một nguyên lý căn bản của đường tu tâm linh, đó là: Khi một người làm được thì tất cả cũng làm được.

Tâm thức hợp nhất với Hiện diện TA LÀ là tiềm năng lớn nhất của bạn trên trái đất, và một khi bạn đạt tới, bạn sẽ hoàn thành chức năng của mình là đồng sáng tạo với Thượng đế. Chỉ khi nào có đủ túc số những người đạt được tâm hợp nhất này trong nhân loại thì ngày trở về của Ki-tô mới xảy đến, nước Trời mới thị hiện trên địa cầu, mở ra một thời Hoàng kim thanh bình, giác ngộ.

Rất có thể bạn đã tình nguyện đầu thai trong thời buổi này để góp sức đem lại Thời Hoàng kim. Rất có thể bạn đã luôn luôn cảm nhận địa cầu có điều gì không ổn, thiếu sót, cần thay đổi. Rất có thể bạn đã luôn luôn mong mỏi một điều gì tốt đẹp hơn, phong phú hơn – một thiên đàng đã đánh mất, tức sự hợp nhất với chân ngã của mình. Chính vì vậy mà chìa khóa để bạn hoàn thành bản thân và cải thiện thế giới là đi theo tiếng gọi muôn thuở: “Loài người, hãy tự biết mình – tức là hãy biết cái Ta của mình là Thượng đế.”

Con người thật của bạn là Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết chính là Hiện dịên TA SẼ LÀ. Hãy cả gan biết được điều đó. Hãy cả gan thể hiện được ở dưới tất cả những gì mình là ở Trên.

Điều ngự tâm tiềm thức

Tiềm thức là một đề tài vô cùng phức tạp, cho nên muốn hiểu hay muốn điều ngự tiềm thức không phải là chuyện đơn giản. Hiện có nhiều luận thuyết (trong các môn tâm lý, tự cải tiến hay tâm linh) đưa ra những phương thức giản tiện để giúp bạn vượt qua mọi khó khăn. Tuy nhiên một khi bạn tìm hiểu thêm về tiềm thức, bạn sẽ biết là không có cách giải quyết nhanh chóng. Nhưng bạn cũng sẽ nhìn ra là có một giải pháp dài hạn khả dĩ đưa đến thăng vượt.

Như đã có giải thích, tâm tiềm thức có bốn tầng lớp, tương ứng với bốn tầng bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Các tầng này hình thành một cấu trúc có trên có dưới, tức là không có gì ở tầng dưới (như trong tâm vật lý chẳng hạn) có thể đi ngược lại tầng trên (như tâm xúc cảm trong ví dụ này). Tại sao điểm này quan trọng? Xin thưa, nếu bạn muốn điều ngự đời mình, bạn cần chỉ đạo được tiềm thức, bởi vì đối với hầu hết mọi người, chính tiềm thức định đoạt cách bạn phản ứng trong phần lớn các tình huống. Và tiềm thức không là gì khác hơn một chiếc máy tính tinh vi. 

Lập một chương trình máy tính

Hãy lấy một trải nghiệm thường tình nào đó. Nếu bạn lặp đi lặp lại trải nghiệm này, bạn sẽ tạo ra trong tiềm thức một “chương trình điện toán” có khả năng hoạt động mà không cần đến tâm ý thức của bạn góp phần vào. Lấy chuyện đi xe đạp chẳng hạn; một khi bạn đã tập được cách đạp xe, bạn sẽ không bao giờ quên nữa. Bạn có thể không đi xe hàng chục năm trời nhưng khi bạn ngồi lên yên xe trở lại, chương trình trong máy tính tiềm thức của bạn sẽ lập tức tiếp quản.

Điều quan trọng ở đây là nếu bạn gặp một tình huống nào đó nhiều lần, và nếu mỗi lần bạn có phản ứng giống nhau, máy tính của tiềm thức sẽ tạo ra một chương trình dựa trên giả thuyết là bạn sẽ luôn luôn muốn có cùng phản ứng đó trong một tình cảnh tương tự. Và một khi chương trình được thiết lập, nó sẽ nằm im trong tiềm thức, chờ dịp kích hoạt khi một tình huống thích hợp xảy ra. Và khi điều này xảy đến, chương trình liền đứng ra thay thế phản ứng của bạn, và nó sẽ làm hết sức để vô hiệu hóa ý chí có ý thức của bạn. Đây là lý do rất nhiều người cảm thấy bất lực khi muốn thay đổi một cách ý thức một số khuôn nếp phản xạ.     

Vấn đề lớn là rất nhiều chương trình như thế đã được lập ra trong quá khứ, trong tiền kiếp hay vào thời thơ ấu. Hãy lấy ví dụ một chương trình khá phổ biến. Giả dụ khi còn nhỏ, bạn bị một khuôn mặt uy quyền như một phụ huynh hay một thày giáo mắng mỏ, nhục mạ. Bạn lập ra một chương trình trong tiềm thức để bạn chịu đựng mọi sự hành hạ mà không có lời biện bạch. Đây là một phản ứng bình thường đối với một đứa trẻ không có chọn lựa nào khác, vì nó không thể cãi lại hay bỏ đi nơi khác. Nhưng một khi chương trình đã đặt vào máy tính tiềm thức rồi, chương trình này sẽ ở lại đó suốt đời.

Cho nên khi bạn lớn lên, hoặc nhiều kiếp sau đó, bạn lại gặp một khuôn mặt uy quyền có thói hay mắng mỏ, chương trình tiềm thức được kích hoạt và bạn sẽ phản ứng y như khi chương trình được tạo ra lúc trước. Cái khác là bây giờ bạn đã trưởng thành và bạn có nhiều chọn lựa hơn khi còn nhỏ. Bạn có khả năng đáp lại hay bỏ đi nơi khác, nhưng không, trong chương trình không có những giải pháp này, và nó chỉ có thể lặp lại mãi mãi.    

Lối thoát

Cách duy nhất bạn có thể thoát khỏi khuôn nếp là sử dụng tâm ý thức, và đây là chỗ mà nhiều người bị mắc bẫy khi họ dùng một cách thức không mấy hiệu nghiệm hoặc chỉ gây thêm vấn đề cho họ. Cách thức này là sử dụng ý chí có ý thức của mình để gạt bỏ lập trình của tiềm thức. Làm vậy có thể thành công nhưng bạn sẽ phải trả giá.

Hãy lấy một ví dụ cụ thể. Có anh kia mang sẵn một chương trình trong tiềm thức khiến anh luôn tin mình kém cỏi, và mỗi khi tình huống kích hoạt tin tưởng đó, cảm xúc lại đau nhói lên quá sức chịu đựng của anh. Vì anh tin anh không có cách nào trốn tránh nỗi đau, anh chỉ thấy một cách duy nhất để bớt đau là làm cho tâm mình tê dại. Anh nốc một ly rượu hay tìm một lối thoát tạm bợ nào khác, nhưng anh chỉ rơi thêm vào những tình huống khiến mình càng cảm thấy kém cỏi.

Rồi một ngày kia có điều gì đó khiến anh hiểu ra là anh không thể tiếp tục say rượu, và anh nhất quyết không uống nữa. Anh dùng sức mạnh ý chí có ý thức để tự cảnh giác mỗi khi thèm rượu, rồi anh bác bỏ và gạt đi cơn thèm. Lúc đầu, chiến lược này đòi hỏi một nỗ lực phi thường, nhưng sau một thời gian, nó trở nên dễ dàng hơn. Lý do là vì anh đã tạo ra một chương trình tiềm thức mới nhằm bãi bỏ chương trình cũ.

Vấn đề hiển nhiên là chương trình cũ vẫn nằm nguyên ở đó trong tâm tiềm thức của anh. Cái mới đã gạt bỏ được cái cũ trong một vài tình huống mà anh đã gặp, nhưng bất cứ lúc nào một tình huống mới có thể hiện ra khiến chương trình cũ lại hiệu nghiệm trở lại, gạt bỏ chương trình mới sang một bên. Nếu thế thì anh sẽ lại rơi vào thói cũ mà thôi.

Vậy có phương cách nào khác hay không? Thưa có, và đó là sử dụng khả năng của tâm ý thức để vén lên bức màn của tiềm thức và nhìn thẳng vào cái chương trình nguyên thủy đã khiến mình cảm thấy kém cỏi. Một khi thấy rõ nó là gì thì cũng thấy nó bắt nguồn từ một quyết định cụ thể. Và một khi thấy được quyết định này là sai lầm, anh ta có thể dùng khả năng của tâm ý thức để thay thế bằng một quyết định tốt đẹp hơn, và chương trình cũ tiêu tan.

Đây là một phương cách khả thi. Nói cho đúng, đó là phương cách khả thi duy nhất để tiến bước vững chãi trên con đường điều ngự bản thân – và cũng là nền tảng để điều ngự mọi hoàn cảnh trong thế giới vật chất. Chỉ có một vấn đề nhỏ là nó không nhanh chóng. Nó cần thời gian và nỗ lực, nhưng trên hết, nó cần mình phải sẵn sàng nhìn sâu vào tiềm thức và quyết định sáng suốt hơn. 

Hiểu cách thăng vượt các chương trình tiềm thức

Bây giờ hãy trở lại trường hợp anh bạn nghiện rượu do mặc cảm tự ti. Uống rượu là một hành vi vật lý, được kích hoạt bởi một chương trình tiềm thức nơi tâm vật lý, khiến cho cơ thể thèm thuồng cảm giác tê dại do rượu đem lại. Và mặc dù cơn thèm có thể khó giải quyết hay đòi hỏi biện pháp vật lý, ở nguyên thủy nó được kích hoạt bởi một chương trình của tâm. Mỗi chương trình của tâm đều khởi nguồn từ một tin tưởng, cho nên cách hiệu nghiệm để đánh bại chương trình là khiến cho tin tưởng bước ra khỏi tiềm thức, lộ diện trong ý thức, rồi được thay đổi một cách ý thức.   

Ở mức xác thân, có thể có những tin tưởng bảo rằng chuyện uống rượu để giải tỏa nỗi đau là chính đáng hay cần thiết. Nhưng sâu bên dưới là nỗi bất lực thoát khỏi nỗi đau tinh thần, cho nên chỉ có một cách là loại trừ mọi cảm giác. Một khi bạn nhận ra điều này, bạn sẽ thấy rõ chương trình này dựa trên tin tưởng là bạn không thể thoát khỏi nỗi xúc cảm đau đớn. Điều này phần nào không sai, bởi vì ở mức vật lý, bạn không thể giải quyết hay chấm dứt một xúc cảm đau đớn. Tuy nhiên, cái Ta Biết không phải lả tâm vật lý. Cái Ta Biết là cái gì nhiều hơn tâm vật lý.

Nhận ra điều này rồi, bạn có thể suy nghĩ rằng nếu nỗi đau khởi nguồn từ tầng cảm xúc, thì bạn có thể vén thêm tấm màn lên để nhìn vào cảm thể một cách ý thức. Nếu bạn giải quyết được vấn đề ở đó thì nỗi đau tinh thần sẽ không còn nữa, và bạn cũng không còn lý do gì làm tâm mình tê dại. 

Tất nhiên, chiến lược này cũng có một nhược điểm, bởi vì khi bạn bắt đầu dùng ý thức nhìn vào cảm thể, bạn sẽ gặp tận mặt xúc cảm đau đớn nằm ở đó, và điều này có thể vừa đáng sợ vừa quá sức chịu đựng. Thật sự, nhiều người sẽ chỉ bước vào cảm thể bởi vì một nguyên cớ nào đó (như nghiện rượu chẳng hạn) đã gây ra quá nhiều nỗi đau tinh thần đến độ họ chấp nhận đau đớn ngắn hạn để thay đổi cuộc sống dài hạn.     

Các dụng cụ thăng vượt còn cho bạn một chọn lựa khác. Như đã có giải thích, một chương trình của tiềm thức khởi nguồn từ một tin tưởng. Tin tưởng này giống như một hòn đá ném xuống dòng suối, rồi sỏi nhỏ lẫn bùn đất sẽ tụ lại chung quanh, khiến cho bạn nhìn từ hạ nguồn không thể thấy được hòn đá.

Tuy nhiên, “bùn đất” trong tâm chỉ đơn giản là năng lượng. Ở nguyên thủy, năng lượng này đến từ cái ta tâm linh, rồi bị hạ thấp độ rung, bị tha hóa, bởi những tin tưởng gây giới hạn. Khi bạn nhìn vào cảm thể, đầu tiên bạn sẽ gặp một đống năng lượng cảm xúc, khiến bạn bị choáng ngợp không thấy được tin tưởng sai lầm lẩn trốn đằng sau cái đống đó.

Các dụng cụ thăng vượt sẽ cho bạn khả năng nâng cao rung động của năng lượng qua sự chuyển hoá hay tái tạo phẩm chất. Và như thế, bạn sẽ có thể bước sâu vào cảm thể mà không còn cảm thấy đau đớn, hay bớt đau hơn, hầu phơi bày tin tưởng nằm bên dưới dễ dàng hơn.      

Là người đã dùng thử cả những cách trị liệu truyền thống lẫn không truyền thống, tôi (Kim Michaels) có thể bảo đảm với bạn rằng các dụng cụ thăng vượt có khả năng cải thiện đáng kể mọi tu tập khác của bạn.

Nhưng trước khi bàn quá xa, hãy trở về với tiến trình trước mặt. Một khi bạn phơi bày một tin tưởng gây giới hạn nơi tâm cảm xúc, bạn sẽ thấy nó chỉ là kết quả của một xung lực đến từ tâm lý trí. Chẳng hạn, tâm cảm xúc có thể tin rằng trong một số tình huống, bạn thực sự kém cỏi và bạn không thể có phản ứng nào khác hơn là cảm thấy tự ty. Nhưng khi bạn xem xét tin tưởng này, bạn sẽ thấy nó đến từ niềm tin rằng bạn bị bế tắc, không có chọn lựa nào khác. Và khi bạn xem xét niềm tin này đến từ đâu, nó dẫn bạn vào tâm lý trí. Một lần nữa, bạn sẽ gặp một số năng lượng tha hóa, nhưng thay vì gây cho bạn đau đớn trong cảm xúc, nó sẽ chỉ khiến bạn nghi ngờ, bối rối. Và một lần nữa, năng lượng này có thể được giải thể bằng các dụng cụ thăng vượt.

Rồi bạn sẽ phơi bày ra những tin tưởng sâu thẳm hơn nơi tâm lý trí, thường thường liên quan tới một cách nhìn nào đó về thế giới. Trong thế giới quan này, bạn chia con người làm hai loại: những người bề trên (các khuôn mặt uy quyền) và những người bề dưới thấp kém, không làm sao ngoi lên khỏi vị thế hiện tại của mình.     

Rồi bạn có thể tự hỏi niềm tin đó từ đâu đến, và nó sẽ dẫn bạn vào tầng bản sắc, là tầng sâu nhất của tâm phàm. Ở đây, rất có thể bạn sẽ phơi bày ra một niềm tin sâu hơn nữa, rằng trên căn bản bạn chỉ là một sinh thể hạn chế, bất lực. Bạn cũng có thể tìm thấy niềm tin rằng mình là một con người với tất cả những giới hạn của người phàm phu. Hoặc bạn có thể tìm ra niềm tin rằng bạn thuộc về một giai cấp sinh thể phải phục dịch cho một giai cấp cao hơn mình.     

Một lần nữa, bạn sẽ đối mặt với những năng lượng vô cùng dày đặc, trọng trược, nhưng chúng cũng có thể được chuyển hóa. Một khi bạn chất vấn các niềm tin mà bạn gặp gỡ, bạn có thể nhận biết được mình là cái Ta Biết, là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ của mình. Và thật là chuyện vô nghĩa nếu muốn đánh giá chính mình trên căn bản một thước đo nhị nguyên, tương đối, chia con người thành cao với thấp. Bạn là một sinh thể độc nhất, và khi bảo là độc nhất thì không thể đem ra so sánh. Bạn cũng có thể nhận biết mình là một sinh thể tâm linh mà không một giới hạn thế phàm nào có thể ảnh hưởng.   

Hiển nhiên, nơi bốn tầng của tâm chứa đựng nhiều tin tưởng sai lạc, được vun bồi suốt nhiều kiếp đầu thai. Bạn cũng sẽ phải đối mặt với tâm thức tập thể, cũng được bồi đắp từ rất lâu. Mặc dầu vậy, với kiên trì và bằng cách sử dụng mọi phương tiện sẵn có (như các kỹ thuật trị liệu và tự lực bổ sung cho các dụng cụ thăng vượt) bạn có thể tiến bước. Khi nghĩ rằng các tin tưởng tiềm thức đã mất bao nhiêu kiếp để tạo dựng, thật là điều đáng kinh ngạc khi bạn có khả năng vượt qua tất cả chỉ trong một kiếp – nếu bạn thực sự chuyên cần.  

Tự ngã gây rối như thế nào

Bạn nên biết là tự ngã sẽ khiến cho tiến trình trên phức tạp hơn nếu bạn không hiểu rõ tự ngã vận hành thế nào. Vấn đề căn bản là tự ngã sẽ chỉ sai khiến được bạn khi nó có thể ẩn núp khỏi tầm nhận biết ý thức của bạn. Và nơi nào là nơi tốt nhất để nó lẩn trốn? Trong tâm tiềm thức, dĩ nhiên. Và điều này có nghĩa, tự ngã sẽ mong muốn tiềm thức tiếp tục tiềm ẩn như cũ.

Có một bài giảng quan trọng nơi Giê-su giải thích cách tự ngã giành lấy quyền quyết định của bạn, nhưng vẫn có một số quyết định mà chỉ có bạn mới có thể lấy được. Bạn cần ghi nhớ điều này, vì cách duy nhất để vô hiệu hóa tự ngã là hiểu rằng trong quá khứ, bạn đã từng quyết định rằng có những quyết định bạn không muốn lấy, và vì vậy bạn đã cho phép tự ngã quyết định dùm bạn. Thậm chí bạn đã tạo ra tự ngã để nó làm chuyện đó.   

Cách duy nhất để bạn phá vỡ sự kềm kẹp của tự ngã là quyết định một cách ý thức là bạn sẵn sàng lấy những quyết định đó. Ấy nhưng khi ở khởi đầu bạn quyết định từ chối quyết định, bạn tưởng rằng mình không có chọn lựa nào tốt cả, và cũng không có chọn lựa nào mà không đem lại cảm xúc tiêu cực. Khi sử dụng các dụng cụ thăng vượt ở đây, bạn có khả năng vô hiệu hóa năng lượng cảm xúc, và vì thế khi bạn hòa điệu với chân ngã, bạn có thể nhìn thấy nhiều chọn lựa khác hơn. Nhờ vậy, bạn sẽ hiểu ra rằng mình luôn luôn có giải pháp giúp mình tăng trưởng. 

Tâm xác thịt

Để vẽ ra toàn bộ bức tranh của tâm tiềm thức, chúng ta cần xét đến bộ phận mà các chân sư gọi là tâm xác thịt. Ngay trong tên gọi cũng đã hàm ý một tầng trong tâm liên quan đến các chức năng của cơ thể vật lý. Chẳng hạn, bạn không cần dùng đến ý thức để bảo tim đập hay tế bào sản xuất protein. Bạn thử tưởng tượng, nếu phải ý thức từng hoạt động của hàng tỷ tế bào và phải ra lệnh cho chúng hoạt động, thì có lẽ bạn sẽ không còn sức chú tâm ý thức nào để làm bất cứ việc gì khác, chứ đừng nói tới chuyện vui hưởng cuộc đời.

Một phần nào đó, tâm xác thịt chỉ đơn giản là một máy siêu điện toán điều khiển các chức năng của một cơ thể cực kỳ phức tạp được Tánh linh sử dụng như phương tiện biểu hiện trong thế giới vật chất. Vấn đề hiện ra khi chiếc siêu máy tính đó xử sự như một sinh vật riêng rẽ, tựa như trong sách truyện khoa học viễn tưởng.

Nghĩa là điểm mấu chốt là như sau: Bộ não xác thịt là một máy tính nhằm giúp bạn sử dụng cơ thể vật lý, nhưng nếu bạn không để ý – và tất nhiên không ai trong chúng ta đã được dạy dỗ điều này – kẻ phục dịch có thể trở thành chủ nhân. Và nhất định chuyện này sẽ ngăn cản bạn tăng trưởng tâm linh.   

Trong nhiều tôn giáo và ngay cả một số giáo lý tâm linh, cơ thể vật lý được mô tả là xấu xa, hay ít nhất cũng là kẻ thù của sự tinh tấn tâm linh. Các chân sư không hề dạy như vậy. Các thày dạy rằng cơ thể vật lý là phương tiện cho chúng ta tinh tấn tâm linh, và như thế chúng ta cần tôn trọng và chăm sóc nó. Song song, chúng ta cũng không được cho phép cơ thể cùng những ham muốn của nó điều khiển đời sống mình.

Chúng ta sẽ làm được điều này nếu nhận thức chiếc máy tính điều hành cơ thể thật ra không biết suy nghĩ. Nó đơn giản chỉ biết thi hành các chương trình, và nó sẽ tiếp tục chạy mãi cho đến khi tâm ý thức chúng ta đặt ra những lằn ranh. Cơ thể có một số nhu cầu căn bản, và bộ não xác thịt sẽ tìm cách đáp ứng các nhu cầu đó mà không cần cân nhắc các vấn đề nhân đạo hay tinh thần.     

Ví dụ, một nhu cầu căn bản của cơ thể là sự an toàn, và đối với tâm xác thít, không có gì sai trái nếu bạn ra tay giết người, hoặc bạn vô hiệu hóa một mối đe dọa nào đó, kể cả khi đó là một người. Một số nhà độc tài hay trùm ăn cướp có thể sát hại bừa bãi bất cứ ai họ coi là đe dọa mà không cần nghĩ xem đe dọa đó có hợp lý hay không. Lý do là vì những người như vậy đã cho phép bộ não xác thịt chiếm lấy đời họ – ít ra là ở khía cạnh này.   

Một ví dụ khác là thức ăn. Tâm xác thịt sẽ ăn bất cứ gì có sẵn mà nó thích, và nó sẽ ăn nhiều tối đa. Nó không biết tự hạn chế, và đây là trường hợp những người ăn quá mức hoặc ăn những thức độc hại chỉ vì họ bị sai khiến bởi tâm xác thịt.

Một ví dụ nữa là nhu cầu sinh sản truyền giống. Tâm xác thịt không có giới hạn nào về tình dục, và không những thế, nó còn được lập trình để tìm kiếm tình dục tối đa với càng nhiều người càng tốt. Một số người tự xem mình là sành điệu khi họ cố tình đi ra ngoài chuẩn mực một người phối ngẫu duy nhất, nhưng khi làm vậy, họ không biết rằng họ đang bị tâm xác thịt điều khiển.

Vậy làm thế nào tránh được tâm xác thịt cai quản đời mình đây? Điều này là một phần tự nhiên trong tiến trình bước vào tâm tiềm thức. Tâm xác thịt đúng ra phải là kẻ phục dịch cho bạn, có nghĩa bạn là người định ra các ranh giới nơi nó được phép sinh hoạt tình dục chẳng hạn. Thế nhưng ở một thời điểm trong quá khứ, một số người đã quyết định họ không muốn lấy quyết định ý thức về chuyện này, và như thế họ đã để yên cho tâm xác thịt thay thế họ điều khiển cơ thể. Đứng đằng sau quyết định buông xuôi này là một niềm tin tưởng. Một khi bạn phơi bày tin tưởng đó ra, bạn sẽ lấy lại chủ quyền khỏi sự chi phối của tâm xác thịt và các lằn ranh ý thức của bạn sẽ được tái thiết lập.

Tự ngã con người

Tương tự như “linh hồn”, từ “tự ngã” cũng đã được sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau tùy theo giáo lý tâm linh, các bộ môn tâm lý hay tự cứu. Việc định nghĩa tự ngã vốn khó khăn chính vì tự ngã làm méo mó cái nhìn của chúng ta. Vì vậy khi bước trên đường tu tâm linh, bạn sẽ phải đối đầu với những biểu hiện khác nhau của tự ngã.

Như được trình bày trong nhiều bài khác, trên địa cầu có tất cả 144 tầng tâm thức. Khi lần đầu tiên cái Ta Biết xuống đầu thai nơi địa cầu, tâm thức của nó ở mức thứ 48. Lúc đó chọn lựa mở ra cho nó là nó có thể tiến lên ngày càng cao hơn trong một vòng xoáy hướng thượng. Từ tầng 48, nó có thể tuần tự nâng cao tâm thức cho đến khi đạt tầng thứ 144 rồi thăng thiên.  

Mỗi tầng tâm thức như thế tương ứng với một khía cạnh của tự ngã. Chính tự ngã này khiến cho tầng tâm thức đó có vẻ như thực, như có một sức mạnh giữ cái Ta Biết ở lại mức đó. Nói cách khác, tự ngã sẽ tìm cách khiến cho cái Ta Biết tin rằng mình không thể, hoặc không được phép, hoặc không cần vượt lên trên mức hiện tại. Cho nên để bước từ một tầng tâm thức lên tầng trên, cái Ta Biết sẽ phải thăng vượt khía cạnh đặc thù của tự ngã ở tầng này.   

Mặc dù điều này nghe có vẻ khó khăn, nhưng thật sự không khó lắm đâu một khi bạn dùng trực giác mà thấy được cách vận hành của tự ngã. Tự ngã chỉ có một vài lựa chọn giới hạn, một vài mánh khóe ở mỗi tầng tâm thức mà bạn có khả năng nhận diện.

Thủ thuật chính của tự ngã là đánh lạc hướng sự chú ý khiến bạn không quay vào nội tâm. Giê-su có nói một câu thật chí lý khi thày hỏi tại sao chúng ta cứ tìm cái dằm gỗ trong mắt anh em mà không nhìn thấy cái xà to tướng trong mắt mình. Lý do chính là vì tự ngã có tài đánh lạc hướng khiến bạn tưởng mình phải làm một cái gì đó, phải giải quyết một vấn đề, phải chú ý vào một chuyện gì đó ở bên ngoài mình.    

Chìa khóa để nâng tâm thức từ một tầng lên tầng trên là nhìn vào nội tâm mình và đi đến hai kết luận:

  • Tầng tâm thức hiện tại của tôi đang hạn chế tôi và tôi không còn muốn ở mức này nữa.
  • Tôi, nghĩa là cái Ta Biết, là nhiều hơn tầng tâm thức hiện hữu, tức là tôi có khả năng tự tháo gỡ ra khỏi ý niệm bản ngã hiện thời để vươn lên – hay tái sinh – ở một ý niệm bản ngã mới.

Nhưng trước khi bạn tới mức sẵn sàng để cho cái ngã cũ ra đi, bạn phải nhìn thấy rõ chân tướng của nó. Và bạn sẽ không thể làm điều này khi nào bạn còn hướng nhìn ra ngoài, còn cố thay đổi người khác hay thế giới chung quanh theo nhãn quan của mình ở tầng tâm thức hiện tại của mình.

Như đã có giải thích, tâm thức hiện tại của bạn hình thành một phin lọc nhận thức. Khi nào bạn còn nhìn thế gian xuyên qua phin lọc, bạn bắt buộc thấy thế gian một cách nào đó, và tự ngã sẽ cố thuyết phục bạn rằng cách đó là thực tại tối hậu, là chân lý tuyệt đối và là cách duy nhất để nhìn cuộc đời. Nghĩa là bạn không thể, không có quyền và không cần đặt ra bất cứ nghi vấn nào.

Bạn cứ tưởng tượng một ván cờ tướng mà người ta đã thay đổi luật lệ đến độ bạn không thể chiếu tướng đối thủ, hay nói cách khác, bạn không thể thắng ván cờ cho dù bạn có đi những bước tài tình thế nào chăng nữa. Cho nên, hoặc bạn cứ tiếp tục chơi trò này vĩnh viễn, hoặc sẽ tới một lúc bạn tỉnh giấc và từ chối chơi tiếp. Dù bạn có làm gì thì bạn sẽ không thể thăng vượt tâm thức hiện thời của mình cho tới khi bạn bắt đầu chất vấn phin lọc nhận thức – và tự ngã sẽ làm đủ mọi cách để ngăn cản bạn.

Tự ngã đã tạo ra một con đường giả hiệu mà chúng ta có thể gọi là con đường vỏ ngoài, con đường công truyền. Nó muốn bạn nghĩ rằng bạn có thể hội đủ điều kiện để thăng thiên bằng cách thay đổi người khác hay thay đổi thế giới. Nhưng con đường chân chính là con đường nội tâm, nơi bạn thấy rõ cách duy nhất để bạn có đủ tư cách thăng thiên là phải thay đổi chính mình – thay đổi ý niệm của mình về bản ngã. Và cách duy nhất để vươn lên một ý niệm bản ngã cao hơn là cho phép ngã cũ chết đi. Muốn ngã cũ ra đi thì phải thấy được nó đang hạn chế mình, nó là không thực. Phải thấy được cái Ta Biết là nhiều hơn ngã, nghĩa là Ta Biết sẽ không chết khi ngã tiêu. Và để đạt tới mức đó, bạn phải nhìn xuyên qua lớp hỏa mù mà tự ngã đã tung ra trong tâm bạn.  

Các tầng của tự ngã

Như có trình bày với 144 tầng tâm thức, đường tu tâm linh gồm có ba giai đoạn chính. Khi lần đầu tiên xuống cõi trần, bạn ở mức thứ 48, nghĩa là bạn nhận biết thế giới qua phin lọc nhận thức tương ứng với tầng tâm thức này. Ở mức này, bạn cảm nhận mình liên hệ với một cái gì cao rộng hơn mình, nhưng bạn chưa nhận thức rỏ ràng Hiện diện TA LÀ của mình.

Bạn cũng cảm nhận thế giới là một toàn thể, tức là việc làm của bạn sẽ ảnh hưởng đến toàn thể và do đó cũng ảnh hưởng đến bạn. Bạn không hiểu rõ tại sao sự thể lại như vậy nhưng bạn có thể cảm thấy qua trực giác, và vì vậy có những chọn lựa mà nhất định bạn sẽ không lấy. Chẳng hạn, bạn sẽ không có hành vi nào sẽ gây hại rõ ràng cho người khác, bởi vì bạn cảm thấy nó sẽ không có lợi cho bản thân mình.

Cái Ta Biết có quyền tự quyết và nó có trách nhiệm quyết định dựa theo phin lọc nhận thức hiện thời của nó. Vì thế ở mức thứ 48 này, bạn sẽ lưỡng lự không biết mình nên đi lên hay đi xuống, tạo một vòng xoáy hướng thượng hay một vòng xoáy hướng hạ.

Ở dưới tầng tâm thức thứ 48 là những tâm thức với một điểm chung, đó là niềm tin tưởng vi tế rằng cứu cánh có thể biện minh cho phương tiện. Hậu quả là khi bạn bước vào các tầng này, bạn đánh mất cảm giác nối kết với cái ta tâm linh, nối kết với mọi sự sống. Nói cách khác, một khi bạn xuống thấp hơn tầng 48, cái tự ngã mà bạn tạo dựng sẽ khiến bạn tin rằng mình là một sinh thể tách biệt, sinh hoạt trong một thế giới đầy những con người và đồ vật tách biệt. Và vì thế, bạn cảm thấy hoàn toàn chính đáng khi bạn làm một số chuyện chỉ có những sinh thể tách biệt mới làm, tức là bạn có quyền làm bất cứ điều gì mình muốn bất kể hậu quả cho người khác.  

Người bạn đồng hành bắt buộc của tâm thức này là một cảm giác lẻ loi, luôn bị đe đọa bởi người khác hay bởi ngoại cảnh vật chất. Và cũng không kém bắt buộc là một tâm trạng muốn kiểm soát người và vật cho bằng được, khởi sinh từ những đe đọa mà mình cảm nhận. Càng đi xuống các tầng tâm thức thấp thì càng gặp những con người muốn kềm kẹp, khống chế người khác, thậm chí còn giết hại những ai mình không thể kiểm soát.

Đối với những người này, cách cư xử như thế có vẻ hoàn toàn chính đáng và cần thiết, lý do là vì họ hoàn toàn đồng hóa với cái tự ngã tương đương với tầng tâm thức của họ. Họ hoàn toàn tin tưởng vào nhận thức mà họ nhận được qua tự ngã, và do đó hành vi của họ hiển nhiên là chính đáng, cần thiết hoặc không thể tránh được. Ở những mức tâm thức thấp nhất, bạn sẽ tìm thấy những người tuyệt đối tin rằng hành động của mình là cách phục vụ chính đáng cho những lý tưởng cao thượng, và ví dụ điển hình là Hitler, Stalin và Mao.

Như vậy chúng ta có thể thấy tự ngã có ba tầng cấp khác biệt:

  • Dưới mức thứ 48 là vùng tâm thức nơi tự ngã hung hãn tìm cách kiểm soát và thống trị người khác. Những người như thế luôn phải đấu tranh chống lại một cái gì đó ở ngoài họ. Tự ngã ở mức này thường xông xáo tìm cách giành lấy quyền quyết định thay cho bạn, hoặc it ra kiểm soát các quyết định của cái Ta Biết.
  • Giữa hai tầng tâm thức 48 và 96, tự ngã không có khuynh hướng hung hãn, kềm chế đối với người khác, mà tìm cách kiểm soát chính bạn. Đa số người tâm linh đều ở mức này, có nghĩa họ đấu tranh chống lại một cái gì đó bên trong.  
  • Giữa hai tầng tâm thức 96 và 144, tự ngã trở nên vi tế hơn. Ở đây, bạn nỗ lực tìm kiếm một sự quân bình tế nhị, một đằng không cho phép cõi vật chất sai khiến được mình – vì bạn tự xem mình là Tánh linh – và đằng khác trau dồi niềm tôn trọng hoàn toàn đối với quyền tự quyết của người khác, nghĩa là không rơi vào cạm bẫy bó buộc người khác phải cải thiện, mà chỉ đánh động họ qua sự nêu gương.

Điểm mấu chốt là tự ngã có thể được xem là một phin lọc tô màu nhận thức. Khi bạn ở tầng tâm thức thấp nhất, bạn mang tới 144 lớp màu của phin lọc này. Điều này có hai hệ quả. Thứ nhất, bạn không thể trải nghiệm trực tiếp ánh sáng thuần khiết xối xuống từ Hiện diện TA LÀ. Cái Ta Biết đồng hóa với tầng tâm thức của nó đến độ nó khó lòng nào tự chiêm nghiệm mình là nhận biết thuần khiết, và do đó nó không thể “thấy” được nó là cái gì nhiều hơn ngã của nó (đây là lý do một số người sẵn sàng giết người để bảo vệ cái ngã không thực của mình). Thứ hai, cái Ta Biết hoàn toàn bị thuyết phục rằng nhận thức của nó là thực, thậm chí còn tin là nó có quyền định đoạt thế nào là thực hay không thực.

Trong tâm trạng này, bạn nằm ngoài vòng tiếp cận của một vị thày tâm linh, đặc biệt là các chân sư thăng thiên. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là bạn coi như “hư mất”, không có đường về, mà có nghĩa là bạn chỉ có thể học hỏi qua một cách mà thôi mà các chân sư gọi là Trường đời Cay đắng. Bạn học hỏi bằng cách không ngừng chiến đấu chống lại một đối lực nào đó, cho tới khi rốt cuộc bạn đi tới kết luận, “Chống đối nó như vậy là đủ rồi. Nhất định phải có cách nào khác hay hơn. Cuộc sống không thể chỉ có bây nhiêu.”

Và ở điểm này, một sự chuyển đổi tâm thức có thể xảy đến đưa bạn lên cao hơn, và bạn sẽ chiến đấu chống lại một đối tượng khác, cho tới khi bạn cũng chán ngán trải nghiệm này. Và sẽ tới lúc bạn leo lên được mức thứ 48, nơi tâm bạn mở ra để có thể đón nhận lời chỉ dạy của các chân sư qua trực giác.     

Khi bạn tiếp tục leo lên, bạn sẽ từ từ bóc vỏ từng lớp phin lọc nhận thức. Tiến trình này tiếp diễn cho tới tầng 144 khi bạn lột bỏ lớp cuối cùng và không thể duy trì thân thể vật lý nữa. Và bạn thăng thiên vào cõi tâm linh.

Tuy nhiên có một sự chuyển hướng quan trọng xảy ra ở mức 96, bởi vì ở mức này, bạn bắt đầu cảm nhận trực tiếp tính duy nhất chiều dọc với Hiện diện TA LÀ của mình, và đồng thời tính duy nhất chiều ngang với mọi sự sống. Giê-su đã đến để ban cho nhân loại tấm gương sáng của một người đã đạt tầng tâm thức thứ 96 và cao hơn nữa. Vì vậy thày có nói, “Ta và Cha ta là một”, và “Hễ con làm việc đó cho kẻ hèn mọn nhất trong anh em ta, con cũng đã làm cho ta.”     

Ở mức thứ 96, bạn bắt đầu trực tiếp nhìn thấy mọi sự sống là một – đây gọi là tâm thức Ki-tô. Ở mức này, bạn bắt đầu nhìn thấu qua phin lọc nhận thức do tâm phản Ki-tô tạo ra mà qua đó mọi sự sống đều tách biệt. Sự lừa dối về tính chất tách biệt của sự sống là lừa dối tối hậu mà bạn phải vượt qua trước khi có thể thăng thiên, bởi vì ở cõi tâm linh không hề có gian dối đó. Chỉ trong cõi vật chất, gian dối này mới có thể tồn tại, bởi vì vật chất dày đặc tạo ra cảm giác mọi “vật” đều có vẻ tách biệt, và thế giới vật chất cũng tách biệt khỏi Thượng đế.

Tới đây, chúng ta có thể liên kết với bài viết trước về linh hồn. Khi cái Ta Biết lần đầu giáng thế ở tầng thứ 48, có một tự ngã hiện diện như một thành phần của bản ngã mà bạn khoác vào ở mức này. Trong trường hợp bạn lựa chọn đi xuống các tầng thấp hơn tầng 48 (không phải ai ai cũng lựa chọn như thế), bạn sẽ tạo thêm một lớp tự ngã, là cái tự ngã hung hãn muốn kềm chế người khác. Tự ngã này sẽ gia nhập linh hồn bạn và bạn sẽ mang nó từ kiếp này sang kiếp khác cho tới khi bạn thăng vượt nó.

Bình chứa cái ta và bốn thể phàm

Trang web này đã có mấy chỗ trình bày cặn kẽ về bốn tầng của tâm, hay bốn thể phàm của bạn, cho nên bài này chỉ xin đưa ra một khái quát tóm lược.  

Trong biểu đồ sau đây, hình người ở giữa tượng trưng cho bạn, một dòng sống đang tiến hóa. Biều đồ cho thấy dòng sống của bạn trong tiềm năng cao nhất, nghĩa là bạn đã thoát khỏi tâm thức nhị nguyên và mang tâm Ki-tô. Vì vậy, phàm ngã phản ánh sự toàn hảo của Chân ngã bạn. Bạn ở bên dưới có khả năng là tất cả những gì bạn là ở bên Trên.   

Chartwebsite

Hình người đàn ông Vitruvian của Leonardo DaVinci, với tay chân dang rộng, tượng trưng cho phàm ngã bạn trong một thế hoàn toàn quân bình. Có một hình tròn bao quanh hình người đó, tượng trưng cho tính duy nhất của cõi tâm linh. Hình vuông tượng trưng cho vũ trụ vật chất, được sinh tạo trong một tiến trình “biến tròn thành vuông”, tức là tiến trình Tánh linh biến thành vật chất.

Hình vuông tượng trưng cho bốn nguyên tố cơ bản, là lửa, không khí, nước và đất. Số bốn cũng biểu tượng cho bốn tầng của cõi vật chất và bốn thể phàm của bạn, lả bản sắc thể, trí thể, cảm thể và thân thể vật lý.

fourbodieseps

Hình người dưới có thể gọi là bình chứa của cái ta, bởi vì nó chứa đựng cả bốn thể phàm của bạn. Những thể này gồm có năng lượng đan xen vào lẫn nhau. Chúng đồng hiện hữu trong cùng một khoảng không gian mà chỉ khác nhau về tần số rung động. Đó là:

  • Bản sắc thể, còn được gọi là thể ether, mang trong nó ý niệm bản sắc mà bạn có về chính mình. Chẳng hạn: tôi tự xem mình là thế nào, tôi nhìn Thượng đế ra sao, tôi nhìn thế giới như thế nào, và tôi nhìn sự tương tác giữa cả ba là gì? Tôi có xem mình là một sinh thể tâm linh, có mặt nơi đây để ngự trị trên địa cầu? Hay là tôi tự coi mình là một sinh thể vật chất, một sản phẩm của địa cầu mà tôi không có khả năng thay đổi?   
  • Trí thể chứa đựng mọi suy nghĩ của bạn. Ở nơi đây, bạn hình thành hình tư tưởng về những việc cụ thể mà bạn muốn làm trong thế giới vật chất cũng như cách hoàn thành những công việc đó. Hình tư tưởng này dựa trên ý niệm bản sắc mà bạn lưu giữ trong bản sắc thể, và chính bản săc này sẽ vẽ ra cái khuôn khổ định đoạt những gì bạn nghĩ bạn có thể làm hay không thể làm. Vì vậy, nếu bạn xác định mình là một con người phàm thế thì bạn sẽ hạn chế ngay những gì bạn nghĩ mình có thể thực hiện.
  • Cảm thể dĩ nhiên là trụ sở mọi cảm xúc của bạn. Cảm xúc là năng lượng trong chuyển động. Ý nghĩ chỉ đơn giản là hình tư tưởng, và để biến thành hành động hay thị hiện thành hình tướng cụ thể, ý nghĩ phải được đưa vào chuyển động và đây là điều xảy ra nơi cảm thể. Tuy nhiên, cảm thể cũng chứa đựng ham muốn của bạn, và những ham muốn này có thể đối chọi với những mục đích cao hơn của bạn. Trong điều kiện lý tưởng, cảm xúc phải là sự phản ánh của ý tưởng, và ý tưởng phải phản ánh bản sắc, và cao hơn, bản sắc phải phản ánh cá thể Thiêng liêng của bạn. Nhưng điều thường xảy ra là cảm xúc cứ khăng khăng muốn đi đường riêng của nó, và nó tìm cách điều khiển cuộc đời bạn thay vì để cho tư tưởng bạn chỉ đạo.         
  • Não bộ vật lý và bộ óc xác thịt. Nhiều nhà khoa học duy vật tin rằng mọi ý nghĩ, cảm xúc đều là sản phẩm của não bộ vật lý. Và mặc dù điều này không đúng, phải nói là quả thật não bộ là một máy tính rất phức tạp hoàn toàn đủ khả năng để sản xuất không ít ý tưởng và cảm xúc.  

Tuy nhiên, não bộ vật lý chỉ là cái phần cứng cho một tầng mức của tâm mà các chân sư gọi là tâm xác thịt. Đây là cái tâm phụ trách trông coi các nhu cầu của xác thân vật chất, chẳng hạn như các nhu cầu về an toàn, thực phẩm và truyền giống của con người.

Câu hỏi chủ yếu bây giờ được đặt ra là: trong số bốn thể phàm, tâm ý thức của bạn tập trung vào thể nào nhiều nhất?  

Đối với phần lớn nhân loại, sự nhận biết ý thức được tập trung vào xác thân vật lý và thế giới vật chất. Điều này có nghĩa, phần lớn ý nghĩ và cảm xúc của họ là sản phẩm của não bộ vật lý và tâm xác thịt. Ví dụ, rất nhiều người hướng hầu hết chú tâm của mình vào các nhu cầu bản năng của cơ thể là an toàn, thực phẩm, quần áo và tình dục.  

Trong khi đó thì số lớn những người tâm linh đã mở rộng tỉnh giác ý thức của mình để bao gồm ít nhất là một phần của ba thể cao hơn. Bạn cần tiếp tục phát triển nhận biết ý thức này, vì đây là chìa khóa để bạn điều ngự cả bốn thể phàm, biến chúng thành những phương tiện hữu ích trong sứ mệnh tâm linh của bạn trong thế gian.

Bạn đã mất liên lạc với cái ta tâm linh của mình như thế nào

Điều chủ yếu mà bạn cần nắm là bốn thể phàm của bạn tạo thành một phin lọc tô màu ánh sáng xối xuống phàm ngã từ Hiện diện TA LÀ. Tất cả là năng lượng và tất cả được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Yếu tố giúp bạn sống còn và cho bạn khả năng hành động trong thế giới vật chất chính là dòng năng lượng chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ của bạn vào bốn thể phàm.   

Lý tưởng nhất, bạn cần phú cho năng lượng này một rung động tích cực – sẽ nâng cao bản thân cùng mọi sự sống – để nó có thể chảy ngược trở lên cái ta tâm linh. Ở đó, năng lượng sẽ được sinh sôi khiến bạn nhận được dồi dào hơn nữa, và nhờ vậy khả năng sáng tạo của bạn cũng gia tăng. Cuộc sống của bạn cứ thế mà nhân lên, tựa như một vòng xoáy hướng thượng giúp bạn hoàn thành mục đích hiện thân của bạn, đồng thời bạn cũng ngự trị được các hoàn cảnh vật chất xung quanh.   

Dòng năng lượng này ví như luồng ánh sáng phát ra từ bóng đèn trong máy chiếu phim vậy. Khi dòng ánh sáng này đi qua bốn thể phàm, nó sẽ bị tô màu bởi nội dung được chứa ở đó – gồm những hình ảnh, tin tưởng cùng năng lượng. Cũng tương tự như ánh sáng trong máy chiếu phim bị tô màu bởi hình ảnh in trên cuộn phim, chỉ khác là ở đây bạn có tới bốn cuộn phim.  

Nếu nơi bốn thể phàm, bạn chứa những tin tưởng và hình ảnh không đồng điệu với Chân ngã bạn – nhất là những tin tưởng tự tôn và ham muốn ích kỷ – bạn sẽ áp đặt hình ảnh bất toàn lên ánh sáng tâm linh, dẫn đến những hành động thiếu quân bình đem lại khổ đau trong đời bạn. Điều này có thể tạo ra một vòng xoáy ốc đi xuống, tạo ra ngày càng nhiều đau khổ hơn.  

Mỗi khi bạn áp đặt hình ảnh bất toàn lên ánh sáng, bạn sẽ sản xuất năng lượng có độ rung thấp hơn. Năng lượng tha hóa này không thể vượt ngược trở lên cái ta tâm linh để vun bồi cho kho tàng mà bạn cất giữ nơi cõi trời, và nó cũng không thể nhập vào các rung động thanh cao của cõi tâm linh. Cho nên hành vi ích kỷ của bạn sẽ phá đứt dòng chảy hình số 8. Năng lượng tha hóa không có chỗ nào khác mà đi sẽ bắt buộc ở lại mãi mãi ở cùng độ rung, và vì nó không thể tự nhiên biến mất, nó phải tích tụ lại nơi bốn thể phàm.      

Năng lượng này hình thành một phin lọc, một tấm màn che. Trong tiếng Anh, “veil” là màn che, nếu đổi thứ tự chữ viết sẽ biến thành “evil” tức là xấu ác, hàm ý xấu ác chẳng qua chỉ là một tấm màn năng lượng. Tấm màn này sẽ ngăn chặn mối liên hệ của bạn với cái ta tâm linh, nó từ từ tạo ra một đám mây mù che mất tầm nhìn của bạn, khiến bạn tưởng mình là một con người phàm phu bị giam cầm trong vũ trụ vật chất và không còn biết gì khác hơn. Bạn cũng mất dần khả năng sáng tạo, đến nỗi bạn tưởng nơi địa cầu bạn không thể làm gì khác hơn là sử dụng thân thể vật lý của mình. Và như vậy, năng lượng tích tụ đã cướp đi quyền năng lý trí của bạn.    

Khi bạn hiểu rằng những gì xảy ra trong tâm ý thức – kể cả mọi tình huống ngoại cảnh – chỉ đơn giản là hình ảnh được chiếu lên màn ảnh của tâm mình và ánh sáng tâm linh, bạn sẽ biết rằng muốn thay đổi bộ phim cuộc đời, bạn phải đi thẳng vào phòng chiếu phim để thay đổi cuộn phim trên máy chiếu, tức là bốn cuộn phim nơi bốn thể phàm. Cuộc đời ở mức ý thức có thể ví như tầng cấp của màn ảnh. Nếu bạn không thích bộ phim đang chiếu trong rạp, làm sao bạn có thể thay phim khác nếu bạn chỉ cố thay đổi màn ảnh? Bạn sẽ dễ thành công hơn nếu bạn tác động thẳng lên gốc rễ của vấn đề là cuộn phim trên máy chiếu, tức là nội dung của bốn thể phàm.      

Khi bạn hiểu được cách vận hành này và muốn tinh tấn trên đường tâm linh, có hai yếu tố chủ yếu trở nên hiển nhiên:

  • Bạn phải thanh lọc mọi tầng lớp của tâm – cả bốn “thể” phàm của mình – để không còn những tin tưởng bất toàn khiến mình làm nhơ năng lượng tâm linh và đối đãi cuộc đời với những cảm xúc tiêu cực.
  • Bạn phải thanh lọc – chuyển hóa – năng lượng tha hóa đang tích trữ trong bốn thể phàm. Bạn phải trút bớt gánh nặng trước khi cất bước leo ngọn núi cao.   

Các dụng cụ thăng vượt chính là để giúp bạn thực hiện điều này.

Hiểu sâu sắc hơn về linh hồn

Có một số từ ngữ đã trở nên gần như vô nghĩa vì quá nhiều người đã sử dụng với dụng ý khác hẳn nhau. Đó là trường hợp từ “hồn”, hay “tâm hồn” hay “linh hồn”. Trong nhiều thế kỷ, từ này đã khoác lấy bao nhiêu ý nghĩa khác nhau tùy theo tôn giáo hay giáo lý tâm linh, nhiều khi còn được sử dụng mà không có định nghĩa rõ ràng, chắc hẳn là vì người ta cho rằng ai ai cũng hiểu là gì rồi.    

Trong các đợt giáo lý trước đây, các chân sư cũng đã dùng từ “linh hồn” như hầu hết giáo lý khác, tức là không định nghĩa rõ ràng. Nhưng ngày nay, các thày cho chúng ta một cách hiểu trau chuốt hơn và chia linh hồn, hay phàm ngã, thành mấy phần riêng biệt.

Nhiều người tâm linh chia sẻ quan niệm đầu thai và người ta thường cho rằng linh hồn là bộ phận được đầu thai. Điều này dẫn đến ý tưởng khá phổ biến là linh hồn được tạo ra ở một cõi cao hơn trước khi nó đi xuống cõi vật chất. Và như thế, linh hồn cũng chính là cái sẽ thăng lên trở lại cõi tâm linh.

Nếu hiểu như vậy thì vấn đề được đặt ra là bạn phải làm gì để linh hồn có đủ tư cách trở lên cõi tâm linh, và điều này dẫn đến hai ý tưởng cũng khá phổ biến:

  • Linh hồn đã “sa ngã”, hay đã rơi suống một trạng thái thấp hơn và đã mất tư cách ở lại cõi tâm linh, cho nên bạn sẽ phải đền bù những lỗi lầm mà bạn đã phạm vào, phải gột rửa cho linh hồn trong sạch hay phải nâng nó thăng lên.
  • Linh hồn có khả năng trở nên hoàn thiện, cho nên bạn có nhiệm vụ cải hóa cho nó toàn hảo (tùy theo bạn định nghĩa thế nào là “toàn hảo”).

Nhưng gần đây với khái niệm về cái Ta Biết được các chân sư giảng dạy, cách hiểu của bạn về linh hồn sẽ hoàn toàn đổi khác. Điểm then chốt là hiểu rằng Ta Biết mới là cái đi xuống từ cõi tâm linh ở ban đầu để khởi sự một tiến trình hiện thân trong cõi vật chất. Và vì vậy, chính cái Ta Biết mới có tiềm năng thăng trở lại cõi tâm linh.  

Tuy nhiên, tiến trình thượng thăng KHÔNG xảy ra vì cái Ta Biết đã đền bù cho một trạng thái bất toàn nào đó hay cố gắng trở thành toàn hảo dựa theo một số tiêu chuẩn thế gian, nhân tạo. Trái lại, cái Ta Biết CHỈ có thể thượng thăng khi nó làm tròn tiềm năng cao nhất của nó, tức là đạt được tỉnh giác thuần khiết nơi nó là cánh cửa mở cho Hiện diện.     

Có hai điều xảy ra cùng một lúc. Thứ nhất, Hiện diện có thể tự biểu đạt qua cánh cửa mở của Ta Biết bằng cách để cho ánh sáng nó tràn xuống cõi vật chất. Và thứ hai, Hiện diện có thể trải nghiệm thế giới vật chất xuyên qua tấm kính trong suốt của Ta Biết.

Nói cách khác, ở tâm thức cao nhất, cái Ta Biết không có chút ý niệm cá thể nào hay ý niệm bản ngã tách biệt nào. Nó chỉ thấy, không hơn không kém, rằng nó là cánh cửa mở để Hiện diện biểu đạt trong thế gian và là tấm kính trong suốt để Hiện diện trải nghiệm thế gian. Cái Ta Biết thấy nó là khía cạnh Ta Sẽ Là của Hiện diện TA LÀ.

Cái Ta Biết trong tâm thức cao nhất không hề có phin lọc nhận thức. Vì vậy nó không ngăn chặn hay cản trở bất cứ biểu đạt nào của Hiện diện, đồng thời nó cũng không ngăn cản bất cứ trải nghiệm nào của nó đi lên Hiện diện. Cái Ta Biết không phán xét theo hình dạng bên ngoài, mà chỉ tạo cơ hội cho Hiện diện đánh giá các trải nghiệm của nó, rồi học hỏi từ trải nghiệm và lưu giữ thành quả trong căn thể. Bạn hãy so sánh tiến trình này với cách thức chúng ta thường dùng tiêu chuẩn thế gian để đánh giá những trực nhận của mình. Và không những thế, chúng ta còn thường hay có những chuyện giấu giếm Thượng đế. Bạn cần hiểu rằng cái Ta Biết đã không giáng thế với tâm thức thấp kém như vậy, và bạn cần hiểu tại sao.

Cái Ta Biết giáng thế như thế nào

Như đã trình bày, thế giới vật chất được tạo ra từ ánh sáng tâm linh đã bị hạ thấp độ rung, và tỷ lệ hạ giảm được thể hiện qua bảy tia sáng. Điều này có nghĩa là thế giới vật chất ở ban đầu có một độ rung đặc thù do được sinh tạo từ những năng lượng dày đặc hơn cõi tâm linh. Đó là lý do chúng ta không trực tiếp nhận biết được cõi tâm linh qua giác quan vật lý. Giác quan chúng ta đã được điều chỉnh để đồng điệu với tần số vật chất, ở một độ rung thấp kém đến nỗi chúng không tài nào vượt qua hố ngăn cách để mà bắt được các rung động tâm linh (tuy nhiều người tâm linh vẫn có khả năng cảm nhận năng lượng tâm linh, bằng trực giác chứ thường không bằng giác quan vật lý).

Cõi vật chất dày đặc có mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho các sinh thể tự nhận biết phát triển, là chúng ta. Khi đi xuống một cõi không còn nhận thức tâm linh trực tiếp, chúng ta mới có cơ hội nâng cao tâm thức lần hồi cho đến khi có thể phụng sự như một cánh cửa mở giữa hai cõi tâm linh và vật chất. Và khi đi muốt tiến trình này, chúng ta cũng giúp nâng cao rung động của chính cõi vật chất cho tới khi nó rung động đồng bộ với cõi tâm linh.

Trong phần trình bày ở đây, bạn cần nắm rõ là cái Ta Biết khi giáng thế vẫn chưa đạt được khả năng tự nhận biết cao nhất. Cái Ta Biết ra đời với một ý niệm về cái ta cô đọng tựa như đầu que diêm, nhưng lại có tiềm năng nâng lên qua nhiều tầng mức để đạt được cùng ý niệm bản ngã rộng khắp như Đấng Sáng tạo.

Khi đi xuống vùng rung động dày đặc của vũ trụ vật chất, cái Ta Biết cần một “cỗ xe”, một phương tiện biểu hiện, nghĩa là một ý niệm bản ngã được tạo bằng cùng những rung động của cõi vật chất. Và đây là điểm quan trọng cần hiểu rõ: cái Ta Biết chỉ khoác lên mình phương tiện đó, chứ nó KHÔNG trở thành phương tiện. Cái Ta Biết hoàn toàn KHÔNG thay đổi trong nguyên tiến trình này, mà chỉ có ý niệm bản ngã – tức sự nhận thức của nó – mới thay đổi. Một lần nữa, nó giống như một diễn viên mặc y phục vào và vẽ thêm hóa trang để diễn xuất một vai tuồng trên sân khấu, và tất nhiên diễn viên có thể cởi áo ra dễ dàng như khi mặc vào.   

Vậy thì ở ban đầu, cái Ta Biết giáng thế với một ý niệm bản ngã gồm cùng những rung động cơ bản như khi vũ trụ vật chất lần đầu tiên được sinh tạo. Chính cái ngã này, cỗ xe này, được chúng ta gọi là linh hồn khi chúng ta nhìn từ một góc độ cao hơn.

Xin bạn lưu ý, linh hồn này không hề được tạo ra nơi cõi tâm linh, nó cũng không được tạo ra bằng rung động của cõi tâm linh. Như Kinh thánh viết, nó sinh ra từ bụi, nghĩa là từ năng lượng vật chất. Vậy thì trong cách nhìn này, linh hồn đã không đi xuống thì cũng không thể thăng lên. Cái thăng lên là cái Ta Biết nhưng chỉ khi nào nó không còn đồng hóa với linh hồn nữa mà ngược lại đã đạt tới tiềm năng cao nhất – là sự tỉnh giác thuần khiết nơi nó thấy nó với Hiện diện là một.

Tuy nhiên, vẫn còn một sự phân biệt mà bạn cần nắm. Hầu hết mọi người đều xem linh hồn là cá tính, tính tình, nhân cách (personality) hoặc là cá thể, sắc tính (individuality) của mỗi người. Linh hồn ra đời và bị ảnh hưởng sâu đậm bởi những hoàn cảnh có mặt trong vũ trụ vật chất vào lúc cái Ta Biết giáng thế lần đầu. Tính tình và cá thể đó là sản phẩm của những trải nghiệm mà bạn sống qua trong suốt thời gian bạn ở lại thế gian, và hẳn nhiên bạn đã bỏ thêm rất nhiều thứ khác vào cái Ta Biết nguyên thủy.

Cá tính và cá thể vỏ ngoài nói trên không phải là con người thực của bạn. Thực sự bạn là cá thể trụ vững nơi Hiện diện TA LÀ. Cá thể này có thể được biểu đạt qua cái Ta Biết, nhưng sự biểu đạt sẽ bị ngăn trở, hoặc tô màu bởi cái cá tính vỏ ngoài mà bạn đã dựng lên khi bạn tương tác, phản ứng với các hoàn cảnh của cuộc sống vật chất.

Như vậy, mục đích của bạn KHÔNG PHẢI là làm cho cá tính vỏ ngoài của mình đẹp đẽ hơn, mà là thăng vượt hẳn cá tính. Điều này có hai hệ quả. Linh hồn được tạo ra từ một số tin tưởng khiến cho năng lượng tâm linh bị giảm độ rung. Có thể nói, những ý tưởng hay tin tưởng đã nhào nặn linh hồn bạn đã tạo ra một cái khuôn, hay một giỏ lưới, thành một cái “rọ” nơi năng lượng tha hóa chồng chất ngày càng dày đặc. Năng lượng càng dày đặc thì cái Ta Biết sẽ càng đồng hóa chặt chẽ hơn với linh hồn và bạn sẽ càng khó khăn hơn thoát khỏi đồng hóa.   

Vì vậy, chìa khóa phát triển tâm linh là nâng cao rung động của năng lượng đã tích tụ trong linh hồn, và trang web này có những pháp tu thăng vượt để giúp bạn làm việc đó. Khi độ dày đặc giảm bớt, cái Ta Biết sẽ bắt đầu hé thấy một tầng tỉnh giác cao hơn. Đầu tiên sẽ chỉ là một vài tia chớp trực giác ngắn ngủi, hay một cảm nhận mông lung rằng cuộc sống không chỉ có bây nhiêu. Sau đó sẽ là cảm nhận mình là một phần của sự sống rộng lớn. Và cuối cùng bạn sẽ thấy thoáng hiện tỉnh giác thuần khiết khi bạn trực nhận cái Ta Biết thực sự là nhiều hơn cá thể phàm phu.       

Và đây là lúc bạn thật sự chất vấn những tin tưởng tạo nên linh hồn bạn, và bạn sẽ lần hồi nâng cao ý niệm bản ngã đến mức hòa nhập vào Hiện diện. Song song, bạn cũng giúp nâng cao rung động của vũ trụ vật chất, tra vấn các tin tưởng trong tâm thức đại chúng, và giúp mọi người nâng tâm thức dễ dàng hơn. Và một ngày sẽ đến khi có đủ số người cũng thực hiện được điều này thì toàn thể hành tinh sẽ được nâng lên, và sự thật về thế giới tâm linh sẽ là chuyện tất nhiên đối với mọi người.

Nhưng hãy trở lại đề tài chính yếu của chúng ta ở đây. Cá tính và cá thể vỏ ngoài – tức là cái ngã vỏ ngoài – mà bạn hiện có đã được bạn bồi đắp suốt nhiều kiếp sống khi bạn phải phản ứng trước những hoàn cảnh bất toàn của thế giới vật chất. Vì vậy, nó không bao giờ có thể được hoàn thiện để thăng lên cõi tâm linh. Chỉ có cái Ta Biết mới có thể thượng thăng, tức là cùng cái Ta Biết đã từng giáng thế. Có điều là Ta Biết chỉ thượng thăng được một khi nó đã giải thoát khỏi sự đồng hóa với ngã vỏ ngoài.

Nó tự giải thoát bằng cách thăng vượt các tin tưởng gây giới hạn và nâng cao các năng lượng cấu tạo linh hồn. Cho nên cũng có thể nói rằng linh hồn được nâng lên, nhưng khi nâng lên, linh hồn không còn tách biệt nữa. Đúng hơn, các tin tưởng gây giới hạn được hóa giải, các năng lượng thấp kém được gia tốc lên rung động cao hơn. Tỷ như nếu bạn đặt nồi nước lên bếp và đun sôi cho tới khi cạn nước, liệu bạn sẽ bảo là nồi nước đã được đem lên một cõi cao hơn? Hay đúng hơn, nước đã gia tốc, biến hóa thành hơi nước là trạng thái cao hơn?  

Đa số chúng ta đã chẳng may đi lạc vào một con đường tu tập vỏ ngoài khi chúng ta sử dụng giáo lý tâm linh để làm đẹp linh hồn mình, để nó hoàn thiện theo một số tiêu chuẩn nào đó. Nhưng linh hồn sẽ không bao giờ toàn hảo, mà trái lại chúng ta phải để cho nó lần hồi giải thể. Thánh Paul có nói, “Tôi chết mỗi ngày”, có nghĩa là mỗi ngày một chút linh hồn lại chết đi khi các tin tưởng gây giới hạn được bỏ lại. Chính Giê-su cũng đã cho phép mình bị đóng đinh trên thập tự giá để biểu tượng cho cái Ta Biết bị đóng cứng trong sự đồng hóa với ngã vỏ ngoài, tức là linh hồn. Cử chỉ chót của Giê-su trên thập tự là “trút bỏ cái bóng”, tượng trưng cho mảnh vụn cuối cùng của linh hồn còn sót lại.    

Như Giê-su nói, “Không người nào có thể lên trời mà đã không xuống từ trời”. “Người” trong câu này chính là cái Ta Biết đã đi xuống rồi sẽ thăng lên một khi nó nhận biết được bản sắc chân thực của mình – là khía cạnh Ta Sẽ Là của Hiện diện TA LÀ. Nói cách khác, “linh hồn” không phải là cái gì đã đầu thai lúc ban đầu. Linh hồn chỉ là cái gì đã được tạo dựng và bồi đắp trong suốt nhiều kiếp sống. Cho nên tuy cái Ta Biết lẫn linh hồn đều tái đầu thai, nhưng chỉ có cái Ta Biết mới hiện thân lúc ban đầu.

Trong những trang kế tiếp, chúng ta sẽ xét đến một vài khía cạnh khác của phàm ngã, trong đó có cả những thành phần của linh hồn.

Ngọn lửa ba nhánh và ngọn lửa bảy nhánh

Các chân sư thường dạy rằng động lực cuộc sống là ánh sáng tâm linh xối xuống từ Hiện diện Ta Sẽ Là của bạn. Ánh sáng đi vào phàm ngã, đầu tiên qua luân xa thứ 8, gọi là “Phòng kín của tim” nằm ngay sau luân xa tim.

Nơi phòng kín, ánh sáng chia làm ba, gọi là ngọn lửa ba nhánh, mà người ta thường minh họa là một ngọn lửa vật lý bật ra từ một chấm sáng màu trắng, và gồm có ba “nhánh”. Ba nhánh đó là:

  • Xanh, tương ứng với tia sáng tâm linh thứ nhất, tia ý chí.
  • Vàng, tương ứng với tia sáng tâm linh thứ nhì, tia trí tuệ.
  • Hồng, tương ứng với tia sáng tâm linh thứ ba, tia tình thương.

Lời dạy này quan trọng ở chỗ là trên đường tu, bạn sẽ không tiến được quá một mức nào đó cho đến khi bạn quân bình cả ba nhánh lửa. Nếu bạn lạm dụng một trong ba nhánh (ý chí, trí tuệ hay tình thương), ngọn lửa ba nhánh của bạn sẽ bị giảm kích thước lần hồi cho đến khi ánh sáng chỉ còn đủ để giữ cho cơ thể vật lý khỏi chết.    

Chẳng hạn, có những người có quyết tâm và ý chí mãnh liệt, nhưng họ lại thiếu trí tuệ để biết sử dụng ý chí một cách khôn ngoan, hoặc họ thiếu tình thương để không bức hiếp hay làm tổn thương người khác. Cũng có những người có hiểu biết trí tuệ cao siêu nhưng lại thiếu quyết tâm để hoàn thành công việc, hoặc không đủ yêu thương cần thiết để nâng kiến thức lên thành minh triết. Còn một số khác nữa thì tuy có khả năng bày tỏ yêu thương cao độ, nhưng lại yêu thương một cách thiếu chín chắn, hoặc bị kẹt trong những mối quan hệ lệ thuộc chỉ vì họ không đủ nghị lực khước từ.   

Khi ngọn lửa ba nhánh của bạn thiếu quân bình, năng lượng cũng sẽ biểu hiện thiếu quân bình và bị tha hóa. Năng lượng này tích tụ lại trong trường năng lượng của bạn, nhưng nếu bạn dùng các pháp tu thăng vượt trong trang mạng này, bạn có thể biến đổi năng lượng, nâng nó lên cao hầu đưa nó chảy ngược lên Hiên diện của mình. Nhiều lời cầu thỉnh đăng tải ở đây sẽ giúp bạn vượt qua những tin tưởng tinh tế đang khiến bạn tỏ ra mất quân bình, và lần hồi bạn sẽ đưa ngọn lửa ba nhánh trở về cân bằng.

Một khi ngọn lửa ba nhánh cân bằng giữa ý chí, trí tuệ và tình thương, bạn có quyền lựa chọn sử dụng tia sáng thứ tư để gia tốc chính mình lên một tầng cao hơn. Và lúc đó, bạn sẽ bắt đầu biểu lộ những đức tính của các tia sáng thứ năm, sáu và bảy, và ngọn lửa ba nhánh của bạn biến thành ngọn lửa bảy nhánh, thể hiện toàn bộ tiềm năng của Hiện diện trên cả bảy tia sáng.

Điều này đòi hỏi bạn tìm được cách thể hiện quân bình giữa các tia thứ năm của viễn quan hay sự viên mãn, tia thứ sáu của hòa bình và phụng sự, và tia thứ bảy của tự do. Các dụng cụ thăng vượt cũng sẽ giúp bạn thực hiện việc này.

Cái ta Ki-tô của bạn

Trong biểu đồ cũ, hình người đứng ngay giữa, ở điểm gặp gỡ chính giữa hình số 8, biểu tượng cho cái ta Ki-tô của bạn.

Chartwebsite

Đó là thể làm trung gian giữa Hiện diện TA LÀ và cái phàm ngã bị chìm đắm trong vòng nhị nguyên, cụ thể là cái Ta Biết khi nó đồng hóa với phàm ngã. Có thể nói cái ta Ki-tô của bạn là vị thày tâm linh đã được gửi xuống sau khi bạn đánh mất liên lạc với chân ngã. Đấng ấy nằm bên trong bình chứa bản ngã, do đó bạn có thể tiếp xúc bất cứ lúc nào bằng cách chú tâm vào tim và kich hoạt khả năng trực giác của mình. Giê-su có giảng về cái ta Ki-tô trong những câu này:

“Ta sẽ cầu Cha , và Cha sẽ ban cho con một Đấng An ủi khác, để ở với con mãi mãi” (John 14:16)

“Nhưng Đấng An ủi, tức là Đức Thánh linh mà Cha đã nhân danh ta gửi xuống, Đấng ấy sẽ dạy dỗ con mọi sự, nhắc nhở cho con nhớ mọi điều mà ta đã nói với con” (John 14:26)

Bạn không cần có khả năng tâm linh siêu phàm để nghe được tiếng nói nhỏ nhẹ, lặng im của cái ta Ki-tô của mình. Nhưng bạn cần lưu ý, cái ta Ki-tô KHÔNG nhìn bạn hoặc cuộc sống của bạn xuyên qua phin lọc nhận thức hiện thời của bạn. Kỳ thực, mục đích của cái ta Ki-rô là đưa ra cho bạn – trong mọi tình huống – một chọn lựa khác hơn là phin lọc hiện hữu.

Điều này không phải là cái ta Ki-tô sẽ trao cho bạn một chân lý tuyệt đối tối hậu nào đâu, bởi vì cái ta Ki-tô biết rất chính xác loại giải pháp nào bạn có thể chấp nhận được dựa trên phin lọc của bạn. Trên thực tế, mục tiêu của cái ta Ki-tô chỉ là mở ra một khung cảnh cao hơn phin lọc hiện thời của bạn một bước mà thôi.

Hành trình từng bước nhỏ

Cái ta Ki-tô của bạn biết rõ bạn cần phải lần hồi tiến bước trên con đường tu gồm nhiều bước nhỏ sẽ dẫn bạn từ tâm thức hiện tại đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đấng ấy không có ý định khiến bạn đi nguyên hành trình đó trong một bước nhảy ngàn dặm – như nhiều người tầm đạo cố làm – mà trái lại sẽ giúp bạn tuần tự tiến một bước, rồi lại một bước nữa. 

Điều này có nghĩa, KHÔNG BAO GIỜ có chuyện cái ta Ki-tô không thể đến được với bạn. Bạn luôn luôn có khả năng nghe được cái ta Ki-tô, và vấn đề duy nhất là liệu bạn có sẵn sàng mở tâm, và mở tim ra, để nhận đón cái gì nằm ngoài phin lọc nhận thức của mình hay không. Nếu bạn không sẵn sàng vươn ra ngoài phin lọc thì bạn sẽ không thể nghe thấy tiếng nói của cái ta Ki-tô. Thay vào đó, bạn sẽ chỉ nghe được những tiếng ồn ào của tự ngã, của tâm thức đại chúng hay các loại thày giả, đang rót vào tai bạn những gì bạn muốn nghe. 

Điều khôn ngoan là hiểu rằng ngã vòng ngoài luôn luôn mong muốn có ai đó xác nhận những gì nó đang làm hay đang tin tưởng. Vì cái ta Ki-tô muốn giúp bạn vượt khỏi hiện trạng cho nên nó sẽ không bao giờ xác nhận chuyện đó cho bạn. Tức là nếu chúng ta càng mong mỏi được xác nhận thì chúng ta sẽ càng mất đi khả năng nghe thấy tiếng nói nhỏ nhẹ, lặng im của cái ta Ki-tô.    

Cái ta Ki-tô thật sự không có ý định giúp bạn thoải mái dễ chịu mà chỉ muốn bạn tăng trưởng. Tự ngã mới là kẻ muốn bạn ngừng trệ, cho nên nó sẽ nói những điều để bạn mát lòng để bạn tiếp tục nằm dưới quyền kiểm soát của nó. (Tự ngã cũng sẽ không ngần ngại thao túng để bạn bị bực bội, lo lắng, nếu nhờ đó nó có thể kiểm soát bạn).

Giê-su có dạy về tầm quan trọng của sự hòa điệu với cái ta Ki-tô qua câu, “Nhưng trước hết, con hãy tìm Nước Thượng đế và sự công chính của ngài thì mọi điều khác sẽ được ban thêm cho con” (Matthew 6:33).

Bạn cần biết, tự ngã sẽ luôn luôn tìm cách thay thế cái ta Ki-tô. Một cách nó thường làm là khiến bạn dùng lý luận để bác bỏ những cảm nhận trực giác của bạn. Nói cho đúng, tự ngã luôn cố tự xưng nó là thẩm quyền tối thượng trong đời bạn, một địa vị mà đáng lý cái ta Ki-tô phải nắm giữ cho đến khi cái Ta Biết đạt được hợp nhất với Hiện diện TA SẼ LÀ. Tự ngã giàn dựng một số điều tin tưởng thành chân lý không thể chối cãi, và như thế nó tạo ra một chiếc hộp tư duy chung quanh tâm bạn. Chính vì lý do này mà nhiều người không dám nhìn ra ngoài hộp tư duy để lắng nghe tiếng nói của cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô LUÔN LUÔN tìm cách dẫn dắt bạn ra ngoài BẤT CỨ hộp tư duy nào, và như vậy sẽ thách thức các tin tưởng mà tự ngã xem là không thể sai lầm.      

Khi bạn đi trên đường tu tâm linh, lần hồi bạn sẽ nhập vào tâm Ki-tô, có nghĩa là bạn có được tầm nhìn và phân biện sẽ giúp bạn nhìn thấu vô số ảo tưởng mà tâm phản Ki-tô tạo ra. Nhờ thế, bạn sẽ tái lập sự trong sáng trong bốn thể phàm khỏi vòng kềm tỏa của các tin tưởng ích kỷ là đầu mối của khổ đau. Chính nhờ tâm Ki-tô mà bạn sẽ ngự trị, trước tiên trên bốn thể phàm, và sau đó trên toàn cõi vật chất. 

Lúc đầu, cái Ta Biết sẽ xem cái ta Ki-tô là một vị thày bên ngoài, nhưng lần hồi bạn sẽ cảm nhận ngày càng sâu xa sự hợp nhất với vị thày đó, với kết quả là sự kết hợp thần bí khi bạn trở thành cô dâu của Ki-tô và đạt được hợp nhất với cái ta Ki-tô của mình. Lúc đó, bạn sẽ thừa nhận cái Ta Biết đã ngồi vào địa vị xứng đáng là đấng Ki-tô nơi chính bạn. Bạn đã trở thành Ki-tô Hằng sống.

Và bạn sẽ “như Trên, dưới vậy”, nghĩa là Hiện diện TA SẼ LÀ của bạn ở trên có khả năng tác động trong thế gian xuyên qua phàm ngã của bạn ở dưới. Ý niệm bản sắc của bạn trong thế gian phản ánh sắc tính tâm linh của bạn trụ vững nơi Hiện diện. Bạn đã ngự trị địa cầu, như được biểu tượng qua quả cầu nằm dưới chân hình người Vetruvian đang dang tay dang chân trong biểu đồ bên trên. Và lúc đó, bạn có thể nói cùng với Giê-su, “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, nay ta cũng làm việc như vậy” (John 5:17).

.

Luồng năng lượng giữa cái ta tâm linh và phàm ngã

Trong biểu đồ dưới đây, bạn có thấy cái hình số 8 màu vàng chạy vòng quanh  hai vòng tròn ở trên lẫn dưới? Hình số 8 này tượng trưng cho dòng chảy năng lượng từ Hiện diện TA SẼ LÀ vào phàm ngã của bạn.

Chartwebsite

Khi bạn tự đồng hóa với ngã vỏ ngoài và có những chọn lựa thiếu ý thức, bạn khiến cho năng lượng bị mất phẩm chất, không thể thăng ngược trở lên cõi tâm linh. Đó chính là những năng lượng tha hóa chồng chất lại trong trường năng lượng cá nhân của bạn.

Năng lượng tha hóa này làm nghẽn sợi dây nối kết trực giác của bạn với tầng trên là Hiện diện, đồng thời nó siết giảm luồng năng lượng chảy xuống từ Hiện diện TA SẼ LÀ, và kết quả là khả năng sáng tạo của bạn bị hạn chế. Khi bạn lần hồi loại bỏ phin lọc nhận thức của ngã vỏ ngoài, dòng chảy hình số 8 được phục hồi, và giờ đây năng lượng có thể chảy trở lên cõi tâm linh (căn thể của bạn) nơi nó được sinh sôi và gửi trở xuống cho bạn. Và khi bạn sinh sôi của cải tâm linh thì khả năng sáng tạo cũng phát huy. Giê-su có giải thích điều này trong ngụ ngôn các ta-lăng:

“Kẻ nào đã có thì sẽ được ban cho nhiều hơn, và sẽ được dư giả. Còn kẻ nào không có thì sẽ bị lấy mất ngay cả những gì mình có” (Matthew 13:12)

Cách thực sự để sinh sôi của cải tâm linh là quên bản thân, nỗ lực nâng cao tất cả mọi sự sống. Để làm điều này, bạn cần trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện mình, thay vì đeo đuổi những mục đích chỉ nhằm nâng cao cái ngã riêng biệt và hạ thấp hoặc tước đoạt từ tha nhân. Và việc làm này chỉ trọn vẹn một khi cái Ta Biết đạt được sự hợp nhất với Hiện diện, tức là khi tự ngã phàm phu đã được vượt bỏ. Khi đó, bạn mới thật sự thấy mình là người đồng sáng tạo với Thượng đế và bạn nhận ra mình là một với Hiện diện của mình.    

Qua chứng ngộ này, gọi là quả vị Ki-tô, bạn sẽ nhận ra mọi người đồng sáng tạo khác cũng đến từ cùng một nguồn gốc như mình, và như vậy mọi người đều là một phần của Thân thể Thượng đế trên địa cầu. Cách thực sự để tự năng mình lên là giúp đỡ một cách vô vị lợi mọi người khác vượt qua tự ngã và đạt được tự do tâm linh. Giê-su có mô tả tính duy nhất của toàn thể sự sống như sau:

“Ta nói thật với con: Khi con làm việc gì cho người hèn mọn nhất trong số anh em ta, thì con đã làm cho ta vậy” (Matthew 25:40)

“Còn kẻ nào muốn đứng đầu trong số các con, hãy làm tôi mọi cho các con” (Matthew 20:27).

“Còn ta, khi ta thăng lên khỏi địa cầu, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” (John 12:32).

Tông đồ Paul cũng giảng dạy về sự duy nhất của sự sống như sau:

“Cho nên chúng ta là nhiều người mà lại là một thân thể duy nhất trong Ki-tô, và mỗi người đều là phần chân tay của nhau” (Romans 12:5)

“Như thân thể là một, và có nhiều chi thể, và mọi chi thể của một thân thể đó tuy nhiều nhưng lại là một thân thể duy nhất, thì Ki-tô cũng y như thế” (1Corinthians 12:12)

Căn thể của bạn

Trên biểu đồ bên dưới, bạn sẽ thấy một số vòng màu bao quanh hình cầu trong suốt ở giữa biểu tượng cho Hiện diện TA LÀ của bạn.

Chartwebsite

Các vòng tròn nhiều màu này miêu tả mức thành tựu mà bạn đã thu thập được suốt hành trình trong thế giới vật chất, là khả năng điều ngự mà bạn đã đạt được trên cả bảy tia sáng tâm linh. Sự điều ngự này là kết quả của những kinh nghiệm học hỏi tích cực của bạn – và xin lưu ý, ngay cả những điều mình tưởng là lầm lỗi cũng có thể chuyển thành kinh nghiệm hoc hỏi tích cực. Bất kể bạn làm gì dưới trần gian thì Hiện diện TA LÀ của bạn vẫn học hỏi và kết nhập bài học đó vào căn thể của bạn.

Cho nên điều sáng suốt là bạn nhìn được cuộc đời như một cuộc thử nghiệm khoa học và hiểu được quan hệ toàn hảo giữa Hiện diện và cái Ta Biết của mình. Cái Ta Biết có quyền tự quyết và nó sẽ có những chọn lựa trong đời dựa theo nhận thức của nó trong thế giới vật chất. Nó có thể tự xem nó là chân ngã hoặc là phàm ngã. Nếu như nó tự đồng hóa với ngã vỏ ngoài, thì nó sẽ chỉ có thể quyết định dựa trên phin lọc nhận thức, vì chính cái phin lọc này đã nặn ra ngã và là cái lăng kính mà xuyên qua đó nó nhìn mọi thứ.

Như vậy, không những cái Ta Biết quyết định dựa theo nhận thức, mà nó còn đánh giá kết quả những quyết định đó cũng dựa theo phin lọc nhận thức. Cho nên khi bạn tự phán xét mình, bạn cũng sử dụng chính cái phin lọc mà bạn đã dùng khi lấy quyết định. Điều này Giê-su gọi là “phán xét theo hình dạng bề ngoài”.   

Ngược lại, Hiện diện của bạn KHÔNG nhìn thế gian qua phin lọc nhận thức. Nó nhìn thấu qua sự trong sáng pha lê của tâm Ki-tô. Và nó KHÔNG phán xét bạn khi bạn tự phán xét mình hay khi người khác phán xét bạn. Bởi thế nên Giê-su mới dạy rằng, trừ khi chúng ta trở thành như trẻ nhỏ thì chúng ta không thể vào được Nước Trời. Nước Trời là một ẩn dụ để chỉ một trạng thái tâm thức khi cái Ta Biết tự thấy mình là phần nối dài của Hiện diện.

Điều này có nghĩa là bạn không còn tự phán xét qua phin lọc nhận thức của ngã vòng ngoài, mà bạn nhìn các chọn lựa cùng những hậu quả của chúng y như Hiện diện của mình đang nhìn. Và đây là cách DUY NHẤT để thăng vượt cảm giác tội lỗi nhức nhối mà tất cả chúng ta đã từng trải qua, một cảm giác dễ khiến mình bị tê liệt.

Kinh thánh có nói đến căn thể trong những câu sau đây:

“Các con chớ chứa của cải trong thế gian, nơi sâu mối và rỉ sét làm hư hại và kẻ trộm đục vách lấy đi. Nhưng phải chứa của cải ở trên trời, nơi chẳng có sâu mối, rỉ sét làm hư hại, cũng chẳng có kẻ trộm đục vách lấy mất. Bởi vì của cải con ở đâu thì tim con cũng ở đó” (Matthew 6:19-21).

“Giê-su nhìn người đó mà cảm thương, rồi nói: Nhưng con còn thiếu một điều. Con hãy đi về, bán hết gia sản, tặng hết cho người nghèo, thì con sẽ được của báu trên trời. Rồi con tới đây, vác thập tự giá và theo ta” (Mark 10:21).

Căn thể của bạn ví như một tài khoản ngân hàng vũ trụ nơi bạn có thể rút ra những gì mình cần để phát triển tâm linh và hoàn thành mục đích đầu thai của mình trên địa cầu. Một khi cái Ta Biết đã lột bỏ được ngã vỏ ngoài và phin lọc nhận thức, Hiện diện TA SẼ LÀ của bạn sẽ tự do biểu thị xuyên qua bạn, và điều này có nghĩa, những thành đạt của bạn nơi căn thể sẽ được biểu đạt một cách trọn vẹn xuyên qua bạn. 

Cái ta tâm linh

Hầu hết những người tâm linh đều biết mình không chỉ là xác thân vật lý mà thôi. Nhiều người tin rằng mình là một linh hồn cư ngụ nhất thời trong thân xác này và đã từng ngụ trong những thân xác khác trong quá khứ. Nhiều người tin là ở ban đầu chúng ta đều đến từ cõi tâm linh và vì vậy có tiềm năng trở về đó. Và nhiều người cũng tin rằng đấng đã gửi mình xuống thế gian này là chính chúng ta trong phần thanh cao của mình.     

Phần thanh cao đó thường có tên là cái ta tâm linh, hay cái ta cao hơn, chân ngã, chân nhân. Từ thập niên 1930, các chân sư thăng thiên đã gọi đó là “Hiện diện TA LÀ”. Từ này một phần diễn tả sự cảm nhận cốt yếu là chúng ta hiện hữu, tồn tại – sự cảm nhận rằng “ta là”. Phần khác, từ này cũng nói lên sự liên hệ của chúng ta với Thượng đế, là Đấng mà Moses từng gọi tên là “TA LÀ”. 

Trong quá khứ, mối quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và phàm ngã thường được mô tả theo cách như sau:

Chartwebsite

Hiện diện TA LÀ của bạn là quả cầu trắng chính giữa ở trên bạn, có các vòng màu bao quanh tượng trưng cho căn thể (xem giải thích ở một bài sau). Phàm ngã của bạn, hay linh hồn, là hình người nhỏ ở phía dưới, và phàm ngã này được kết nối với Hiện diện TA LÀ qua một ống ánh sáng, hay sợi dây pha lê. Nằm ở giữa cả hai là cái ta Ki-tô của bạn, đó là trung gian, là sợi dây kết nối Hiện diện của bạn với linh hồn bạn.

Biểu đồ trên thật không có vấn đề gì, duy bạn cần phải thận trọng vì đó chỉ là một trong nhiều cách để biểu tượng Hiện diện của bạn, và là một cách trình bày theo lối đường thẳng. Rõ ràng nó dựa trên cái nhìn cố hữu xem cõi trời, hay cõi tâm linh, là một địa điểm trong không gian nằm ngay trên bạn.    

Vào thời Trung cổ, nhiều tín đồ Cơ đốc giáo tin rằng nếu bạn từ mặt đất bay lên không trung, bạn sẽ đi xuyên qua một cái màng để vào Nước Trời. Thời nay, hỏa tiễn hiện đại đã chứng minh cách nhìn này không đúng lắm, vì vậy chúng ta nên xem lại biểu đồ trên với một con mắt thông thoáng hơn. Nhưng một lần nữa, biểu đồ dưới đây vẫn chỉ là một cách diễn đạt mà thôi – và tương đối vẫn còn đường thẳng – để biểu tượng cho mối quan hệ giữa phàm ngã và Hiện diện TA LÀ của bạn.

AANEWChartwebsite

Trong biểu đồ mới này, Hiện diện TA LÀ và căn thể bao trùm quanh bạn, tức là không có khoảng cách không gian nào cả. Cách trình bày này biểu hiện cấu trúc nhiều tầng của thế giới hiện tượng. Như trình bày ở một nơi khác, Đấng Sáng tạo đã sinh tạo bầu cõi đầu tiên từ chính Bản thể ngài, có nghĩa là Bản thể Thượng đế là cái tinh túy nằm ẩn sẵn trong mọi thứ. 

Sau khi bầu cõi thứ nhất thượng thăng, các sinh thể ở đó tạo ra bầu cõi thứ nhì từ bản thể của họ. Và tiến trình này cứ tuần tự trải ra cho đến bầu cõi chúng ta, trong đó vũ trụ vật chất này là một thành phần. Nói cách khác, cái nhìn cổ điển về một Thượng đế xa vời nằm tuốt trên cao, thật là không đúng. Có một hệ thống thứ bậc qua bảy tầng lớp dẫn lên Đấng Sáng tạo, nhưng mỗi tầng dưới không hề bị chia cách khỏi tầng trên, mà là sự nối dài liên tục của tầng trên.

Như vậy không có chia cách. Hiện diện TA LÀ của bạn là sự nối dài của một sinh thể nơi cõi tâm linh. Và cái Ta Biết – tức chính bạn khi bạn giáng thế lúc ban đầu – là sự nối dài của Hiện diện đó. Thực sự, bạn không tách biệt khỏi Hiện diện. Bạn hiện hữu trong cùng khoảng không gian, trong cùng quả cầu của Hiện diện mình.

Ý niệm tách biệt là sản phẩm của phin lọc nhận thức hiện thời của bạn. Nếu bạn nghĩ phin lọc này thể hiện thực tại thì đương nhiên bạn sẽ tự đồng hóa với những gì bạn nhìn thấy qua phin lọc – một sinh thể tách biệt. Nhưng nếu bạn tự gỡ mình ra khỏi phin lọc (là ý niệm bản ngã của bạn), bạn sẽ trở về trạng thái tỉnh giác thuần khiết, là sự tỉnh giác nguyên thủy khi bạn giáng thế. Khi đó, bạn sẽ chứng nghiệm sự hợp nhất ngày càng thâm sâu với Hiện diện TA LÀ cho đến khi bạn sẽ thốt lên cùng với Giê-su, “Ta với Cha ta là một”.

Tới điểm đó, bạn sẽ hoàn thành một lời dạy khác của Giê-su, “Ta là cánh cửa mở mà không người nào có thể đóng lại.” Bấy giờ bạn là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ của mình có thể biểu thị tự do trong thế gian, bởi vì khi bạn vẫn còn đồng hóa với ngã vỏ ngoài, thì dòng tuôn chảy từ Hiện diện còn bị phin lọc nhận thức ngăn chặn, gạn bỏ – dù là toàn diện hay chỉ một phần.

Điều này có nghĩa là quan hệ của bạn với Hiện diện của bạn có mấy giai đoạn, từ thấp lên cao:

  • Ở thấp nhất, bạn không có quan hệ gì với Hiện diện. Bạn không biết gì về nó, hoặc nó chỉ là một khái niệm trừu tượng, không có bất cứ liên hệ nội tâm trực giác nào với bạn.
  • Bạn có sự kết nối nào đó với Hiện diện, nhưng bạn vẫn thấy nó bị tách biệt bởi một khoảng cách hay một rào cản. Bạn đang cố gắng tăng cường sự nối kết (thường hiện ra như là trực giác), nhưng nếu còn khái niệm nối kết thì vẫn ám chỉ còn có tách biệt. Ở giai đoạn này, chúng ta thường có linh hứng trực giác, có những kinh nghiệm thần bí hoặc giao cảm với một cái gì cao rộng hơn, khiến chúng ta mở tâm ra với con đường tâm linh. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn những phin lọc nhận thức kềm chế bước tiến của mình trên đường tu.
  • Bạn bắt đầu nhận ra nhu cầu phải tự tháo gỡ khỏi phin lọc nhận thức và đạt được tỉnh giác thuần khiết. Và bạn bắt đầu tra vấn phin lọc một cách hệ thống, và bạn nỗ lực nhìn thế giới không thông qua một phin lọc nào.
  • Bạn thấy bạn là một với Hiện diện của bạn, là sự nối dài của Hiện diện. Điều này có nghĩa, bạn biết rõ mình không phải là phàm ngã hoặc xác thân, cho dù bạn vẫn phải dùng cả bốn thể phàm của mình như một phương tiện biểu thị trong cõi vật chất. Bạn biết mình không phải là những cá tính vỏ ngoài, tự ngã hay ngã tách biệt. Bạn chỉ đơn giản là cánh cửa mở, một tấm kính trong vắt.

Bản mẫu thiêng liêng của bạn

Hiện diện TA LÀ chứa đựng bản mẫu thiêng liêng cho sắc tính của bạn, tức là tất cả những đặc tính khiến bạn là một biểu thị độc nhất của Bản thể Thượng đế. Bản mẫu này đã được tạo ra bởi cha mẹ tâm linh của bạn – là những Đấng hiện hữu nơi một trong nhiều cõi tâm linh – và bản mẫu này bất biến, thường hằng.    

Chính vì muốn biểu thị bản mẫu thiêng liêng như một món quà cho hành tinh mà Hiện diện TA LÀ của bạn đã tạo sinh ra bạn. Còn bạn thì là cái Ta Biết, được ra đời với chức năng làm cánh cửa mở để cho Hiện diện biểu thị món quà đó và đồng thời cũng trải nghiệm thế gian. Nói cách khác, tiềm năng lớn nhất của mình là làm cánh cửa mở, qua đó sắc tính được cất giữ trong Hiện diện có dịp biểu đạt tự do. Đây là điều mà Giê-su muốn nói đến qua câu, “Ta không tự làm được điều gì” và “Chính Cha trong ta làm mọi việc”.   

Vì Hiện diện TA LÀ ngụ ở một cõi có rung động cao hơn vũ trụ vật chất, cho nên nó không thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi bất cứ lỗi lầm nào bạn mắc phải trong cõi này. Dù bạn có phạm lỗi lầm nào đi nữa thì bản sắc chân thực của bạn cũng không bị tác động. Vì thế, dù bạn có cảm thấy đau khổ hay lầm lỗi đến đâu, bạn vẫn LUÔN LUÔN có khả năng nối kết lại với Hiện diện của mình, mở khoá tiềm năng tâm linh thực sự của mình.    

Đây là một cơ năng an toàn trong thiết kế vũ trụ của Thượng đế, và bạn không bao giờ có thể đánh mất ý thức hợp nhất với chân ngã của mình, cho dù tự ngã sẽ ra sức cưỡng lại sự hợp nhất đó để kéo giữ bạn trong tâm trạng tách biệt khỏi Thượng đế.  

Hai khía cạnh của Hiện diện TA LÀ

Một trong những lời dạy nền tảng của các chân sư thăng thiên là mọi thứ trong thế giới hình tướng đều là sự biểu đạt của Dấng Sáng tạo duy nhất, bất khả phân chia. Nhưng để tạo ra một thế giới gồm hình tướng đa dạng, Đấng Sáng tạo duy nhất phải trước hết biểu hiện như hai thái cực hỗ tương. Hai thái cực này có thể gọi là Âm và Dương, nam và nữ, lan ra và co lại, hay Alpha và Omega. 

Tuy nhiên, điểm mấu chốt ở đây là bất kỳ hình tướng nào muốn bền vững cũng phải sinh ra từ sự phối hợp hài hòa của cả hai. Vì thế trong bất kỳ hình tướng nào được tạo ra từ sự duy nhất của Đại đoàn Chưởng giáo, cả hai khía cạnh trên đều có mặt, có nghĩa là Hiện diện của bạn cũng có hai khía cạnh cơ bản đó.

Ở phần trên có nói đến tên gọi “Hiện diện TA LÀ” xuất xứ từ danh xưng mà Thượng đế đã phán cho Moses. Trong hầu hết các văn bản Kinh thánh, tên gọi này được dịch là “TA LÀ CÁI TA LÀ”. Tuy nhiên, một số học giả Kinh thánh có biết tới một cách dịch bản gốc tiếng Do Thái chính xác hơn, là “TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ”  

Như vậy, Hiện diện của bạn có hai khía cạnh:

  • TA LÀ CÁI TA LÀ là khía cạnh Alpha của Hiện diện bạn. Đó là trung tâm bất biến, bất di bất dịch, kết nối bạn với Đại đoàn Chưởng giáo và, ở tột cùng, với cái TA LÀ CÁI TA LÀ của Đấng Sáng tạo.
  • Còn khía cạnh TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ chính là động lực khiến Hiện diện của bạn biểu đạt trong thế giới vật chất. Có nghĩa cái Ta Biết của bạn là sự nối dài xuất thân từ khía cạnh TA SẼ LÀ này đây.

Bạn cần suy ngẫm điểm quan trọng này: khía cạnh TA LÀ là trung tâm bất biến, bất di bất dịch của Hiện diện, trong khi khía cạnh TA SẼ LÀ không ngừng thay đổi, hay đúng hơn, nó không ngừng tự vượt thăng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với bạn, bởi vì nó sẽ giúp bạn nhận rõ bạn thực sự có thể vượt thăng mọi hạn chế trong thế giới vật chất hoặc bất cứ “lỗi lầm” nào trong quá khứ.

Cách để thực sự thăng vượt là trụ vững trong dòng chảy không ngừng của khía cạnh TA SẼ LÀ, hầu bạn không làm mồi cho sự dối trá – do tự ngã và các thế lực thế gian đề xướng – rằng bạn bị trói chặt trong hoàn cảnh vật chất, hoặc không bao giờ thoát được các lỗi lầm đã phạm. Giê-su gọi dối trá đó là “ông hoàng thế gian”, nó chỉ muốn bạn – bạn trong nghĩa Tánh linh – bị trói buộc trong hoàn cảnh và lầm lỗi thế gian. Cái Ta Biết chỉ là phần nối dài của khía cạnh TA SẼ LÀ của Hiện diện, và một khi bạn chấp nhận điều này, bạn sẽ có khả năng thăng vượt mọi hoàn cảnh.  

Đù biết vậy nhưng ông hoàng thế gian là sự tẩy não mạnh mẽ, tinh vi, đã thấm sâu vào tâm thức tập thể từ rất lâu nay, ảnh hưởng tất cả chúng ta. Cách duy nhất để vượt qua nó là biết chắc rằng Tánh linh sẽ không bao giờ bị ràng buộc bởi bất cứ gì trong thế gian, và bất cứ lúc nào cũng sẽ tự biểu đạt hoàn toàn tự do. Đây KHÔNG PHẢI là cái tự do ích kỷ khiến bạn làm theo ý mình mà không chịu đối mặt với hậu quả.

Mong muốn của Tánh linh là cải hóa các điều kiện giới hạn của thế gian để thực hiện tiềm năng cao nhất. Và bạn không thể cải hóa thế gian nếu bạn nghĩ rằng mình bị các điều kiện hiện tại ràng buộc mình. Cho nên, chỉ khi nào cái Ta Biết trở thành một cánh cửa mở thì bạn mới có thể thật sự nhập dòng Hiện diện TA SẼ LÀ, sáng tạo và vô điều kiện, mà không gì có thể kềm chế.

Nói cách khác, cái Ta Biết thực sự không bao giờ nên nghĩ, hoặc nói, là “ta là”. Thay vào đó, nó luôn luôn nên xem mình là “ta sẽ là”. Nếu bạn nghĩ “ta là cái ngã hạn hẹp này” thì chọn lựa duy nhất để thoát khỏi ngã là bạn cố biến nó thành cái gì khác. Nhưng nếu bạn nghĩ “ta sẽ là”, bạn không cần thay đổi ngã mà chỉ cần đơn giản tự nhủ, “Ta sẽ là nhiều hơn cái ngã này”. Sự khác biệt thật là thâm sâu.

Cốt lõi của con người phàm là gì?

Bạn thử xem xét những câu sau đây:

  • Thực sự, tôi là cái tôi là.
  • Nhưng lúc này và ở đây, tôi là cái mà tôi nghĩ tôi là.
  • Hiện có một khoảng cách giữa cái tôi là và cái tôi nghĩ tôi là.
  • Mục đích tối hậu là khép khoảng cách này lại.

Ý nghĩa những câu trên thật đơn giản: Ngay trong lúc này, bạn đang nhìn tất cả mọi thứ – kể cả chính mình – qua một phin lọc nhận thức, một ý niệm về bản ngã. Nhưng cái ngã này không thực là bạn. Đó chỉ là một nhân cách vỏ ngoài mà con người thực của bạn đang sử dụng để trải nghiệm thế gian từ một góc độ nào đó.

Hãy thử nhìn ví dụ này. Quanh thế giới, chúng ta có thể thấy rất nhiều nơi có hai nhóm khăng khăng đối chọi với nhau. Hoặc chúng ta nhìn vào lịch sử thì có ví dụ các cuộc thập tự chinh vào thời trung cổ. Chúng ta chứng kiến hai nhóm người đều theo đạo nhưng lại tin rằng đạo của mình mới là chân đạo duy nhất. Cả hai nhóm tin rằng họ được Thượng đế ủy nhiệm để thiết lập tôn giáo tối thượng trên trái đất, và Thượng đế còn bảo họ rằng họ được quyền sát hại tín đồ tôn giáo kia vì lý do đó. Và hai bên cứ thế giết nhau mãi nhân danh cùng một Thượng đế.        

Chỉ có hai cách giải thích điều này mà thôi:

  • Hoặc Thượng đế là một Thượng đế kỳ lạ muốn con người nhân danh mình để giết hại lẫn nhau,
  • Hoặc cái nhìn của chúng ta về Thượng đế, và về mối quan hệ của mình với Thượng đế, có điều gì thật thiếu sót. 

Nói cách khác, khi có hai phe cho rằng chỉ có tôn giáo mình là đúng thì thường tình phải kết luận cả hai phe không thể nào đúng cùng một lượt. Nhưng nếu vượt lên trên sự thường tình thì chúng ta sẽ có thể hỏi: “Lỡ cả hai đều sai thì sao?”

Khoác lên một phin lọc nhận thức

Chẳng hạn, nếu bạn tự xem mình là một người đạo Cơ đốc thì có nghĩa gì? Có nghĩa là bạn đã khoác lên một phin lọc nhận thức. Khi bạn nhìn cuộc sống qua phin lọc này, sẽ có một số câu hỏi mà bạn sẽ tự động gạt ra. Có thể bạn tin những câu này cấm ngặt không được hỏi, hoặc bạn thấy không cần hỏi. Hoặc có những điều bạn cho là đương nhiên rồi, không cần nghi vấn hay đặt vấn đề.  

Vì vậy, nếu bạn nhìn cuộc sống qua một phin lọc nhận thức Cơ đốc giáo, bạn sẽ tin rằng để lên được thiên đường, bạn phải là một tín đồ Cơ đốc ngoan đạo, phải cố gắng làm sao để mọi người khác cũng trở thành người Cơ đốc như mình. Kết quả là bạn sẽ không bao giờ đặt câu hỏi thật giản dị này: “Liệu trên thiên đường có người nào đạo Cơ đốc hay không?” 

Về điều này, Giê-su có dạy một câu mà bạn cần để ý, “Không người nào lên được trời mà đã không từ trời đi xuống.” Hàm ý vô cùng thâm sâu: Chúng ta đã từng bước xuống từ cõi tâm linh với một tâm thức nào đó, nhưng khi sống dưới trần gian địa cầu, chúng ta đã khoác lấy một cái ngã vỏ ngoài, một phin lọc nhận thức. Và cách DUY NHẤT để thăng lên trở lại cõi tâm linh là phải thăng vượt MỌI phin lọc nhận thức có mặt ở địa cầu.  

Vậy thì trên thiên đường có người Cơ đốc hay người Hồi giáo nào không? Thưa không, trên thiên đường chỉ có những cá thể của Thượng đế mà thôi. Cách duy nhất để vào thiên đường là đã vượt qua và bỏ lại MỌI cái nhãn, mọi đặc tính được gán ghép dưới địa cầu. Mục đích KHÔNG PHẢI là trở thành một người ngoan đạo Cơ đốc hay một người tâm linh tốt thiện, mà là nhận ra mình thực sự là một sinh thể tâm linh vượt ngoài mọi nhãn hiệu do thế gian định nghĩa.    

Phin lọc nhận thức hạn chế bạn như thế nào?

Bây giờ hãy rời lý thuyết để nhìn thẳng vào hiện trạng của bạn. Có lẽ bạn xem mình là một thể sống hạn chế vì bạn tin chắc rằng bạn bị một số hoàn cảnh bên ngoài gò bó. Nói cách khác, bạn tin rằng ngoại cảnh vật chất có quyền năng trên bạn.

Nhưng trải nghiệm sống của bạn có phải chăng là sản phẩm của một sự chọn lựa – là chọn lựa khi con người nguyên thủy của bạn quyết định khoác lên một cái ngã nào đó? Cái ngã đó vận hành như một phin lọc nhận thức, và khi nào bạn còn nhìn đời qua nó thì bạn sẽ còn thấy sự chi phối của ngoại cảnh hoàn toàn có thực.

Nói cách khác, ở một thời điểm của quá khứ – có lẽ trong một tiền kiếp xa xôi – con người nguyên thủy của bạn đã quyết định khoác lên mình một cái ngã giới hạn. Nó giới hạn vì nó định nghĩa một số điều kiện ngoại cảnh là hiện thực tuyệt đối, và bởi thế chúng mới có quyền năng trên bạn.

Nếu điều này nghe vẫn còn hơi lý thuyết thì bạn hãy thử nhìn vào một ví dụ cụ thể trong lịch sử. Khoảng 500 năm trước đây, hầu hết mọi người ở Âu châu đều tin chắc chắn, tuyệt đối, rằng trái đất này bằng phẳng. Bạn hãy tự hỏi: “Vậy 500 trước, trái đất có thật bằng phẳng hay nó vẫn tròn như bây giờ?”

Rõ ràng trái đất đã không thay đổi hình dạng và cái duy nhất đã thay đổi là cách nhìn trái đất của con người. Đó là một phin lọc nhận thức đặc thù khiến người ta tin vào một sự thật “không thể chối cãi” là địa cầu bằng phẳng. Phin lọc này đã giới hạn con người bằng rất nhiều cách, như khi người ta tin rằng vượt đại dương tìm đất mới là một chuyện nguy hiểm điên rồ.  

Cho tới khi bạn còn nhìn cuộc sống qua phin lọc đã nhào nặn bản ngã mình thì bạn sẽ không bao giờ đặt lại vấn đề liệu ngoại cảnh vật chất có thực và có quyền gì trên bạn hay không. Cách duy nhất để bạn thăng vượt các điều kiện ngoại cảnh là chất vấn chính cái phin lọc đã khiến chúng hiện ra như thật. Nhưng đằng khác, bạn sẽ không bao giờ làm được điều đó nếu bạn còn nhìn cuộc đời từ bên trong phin lọc nhìn ra. Đây là vòng luẩn quẩn muôn thuở của bài toán làm người.   

Bạn KHÔNG là cái ngã hiện tại

Vậy bạn có lối thoát nào chăng? Tất nhiên là có, và đó là nhận ra bạn không phải là cái ngã hiện tại. Kỳ thực, bạn là một sinh thể đã giáng thế từ cõi tâm linh, mà đã là tâm linh thì không thể bị bất cứ gì ở địa cầu tác động lâu dài. Bạn chỉ đơn giản khoác lấy một cái ngã hạn hẹp tạm thời. Bạn sẽ tưởng mình là ngã khi nào bạn còn nhìn qua phin lọc của ngã, nhưng dù bạn có tưởng mình là gì thì bạn vẫn luôn luôn là cùng sinh thể tâm linh đã giáng thế.   

Bước kế tiếp là xét xem bằng cách nào con người thuần khiết của bạn đã khoác lấy cái ngã hiện hữu? Để làm vậy, nó tự phóng chiếu vào ngã, tương tự như một diễn viên mặc bộ trang phục cùng trang điểm để diễn xuất trên sân khấu. Ngã hiện tại của bạn chỉ đơn giản là một vai tuồng mà bạn đã chọn trình diễn trên sân khấu cuộc đời. Rồi khi nào bạn chán ngấy chuyện diễn xuất thì bạn có thể cởi trang phục ra và trở về con người thật của mình. 

Làm thế nào bạn có thể thăng vượt được ngã hiện thời? Bằng cách nhận ra rằng con người thuần khiết của bạn đã tự phóng chiếu vào ngã, và như vậy cũng có tiềm năng tự tháo gỡ khỏi ngã. Để thực hiện điều này, bạn cần nhận ra con người thực của bạn có tiềm năng đạt được tâm thức trinh nguyên, tức là khi bạn không còn bất cứ phin lọc nhận thức nào nữa. Bạn chỉ đơn giản nhìn mọi tình huống của cõi vật chất mà không gán ghép bất cứ nhãn hiệu hay phán đoán nào, bởi vì dán nhãn với phán đoán là sản phẩm của phin lọc nhận thức.

Các chân sư thăng thiên đã đặt tên cho con người giáng thế nguyên thủy đó là cái “Ta Biết”. Tuy nhiên bạn không nên quá câu nệ danh xưng, bởi vì cùng khái niệm này cũng được tìm thấy trong các giáo lý huyền bí khác dưới những tên gọi khác. Chẳng hạn, vị sáng lâp Phật giáo Tây tạng, Padma-Sambhava, gọi đó là “tỉnh giác thuần khiết” hay “nhận biết trần trụi”. Thiền Phật giáo gọi là “tâm sơ” và Giê-su có dạy phải trở thành trẻ nhỏ để bước vào Nước Trời.  

Điều cần nắm rõ là cái Ta Biết không hề bị ngã hiện thời thay đổi lâu bền – tương tự như con mắt bạn không bị cặp kính màu vàng biến đổi. Cho nên cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng đạt được một trạng thái tỉnh giác thuần khiết, không còn một phin lọc nhận thức nào của thế gian. Bạn thấy mọi thứ như là.

Đức Phật gọi đó là “tâm thanh tịnh”, và Giê-su cũng có đề cập trong câu, “Khi mắt con đơn nhất, toàn thân con tràn ngập ánh sáng”. Bạn thử suy ngẫm về câu chót này. Khi cái nhìn của bạn “đơn nhất”, tức là khi nó không còn bị bất cứ phin lọc nhận thức nào phân chia, bạn sẽ thấy mọi thứ trong vũ trụ vật chất được tạo bằng ánh sáng. Điều này sẽ giúp bạn thăng vượt giới hạn của mình như thế nào?   

Gỡ bỏ các phin lọc nhận thức

Như đã trình bày, mọi thứ trong vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng ánh sáng tâm linh đã mượn lấy một hình dạng tạm thời. Khi bạn chứng nghiệm mình là một sinh thể tâm linh, bạn biết rõ các hình dạng tạm thời ấy của thế giới vật chất không thể sai khiến được Tánh linh của mình. Và như vậy, bạn khởi sự tháo gỡ một cách có hệ thống các phin lọc đã khiến bạn tưởng lầm mình là một thể sống hạn chế bất lực trước các điều kiện vật chất. Khi đó, bạn cũng bắt đầu hoàn thành lời hứa của Giê-su rằng mỗi chúng ta đều có khả năng làm được những việc mà thày đã làm và ngay cả những việc lớn hơn thế nữa.

Thế nào là phin lọc nhận thức? Nó gồm có hai phần tạo thành – một số tin tưởng (thường là những tin tưởng tiềm thức) và năng lượng mà phẩm chất đã bị các tin tưởng này biến đổi suốt nhiều kiếp đầu thai. Nói cách khác, ngã vỏ ngoài được tạo bằng những tin tưởng và năng lượng có tần số thấp.

Sự phối hợp giữa những tin tưởng mà chúng ta không bao giờ chất vấn – thường là vì chúng ta không thấy chúng chỉ là niềm tin tưởng – và năng lượng với tần số thấp, tạo thành một phin lọc ngăn chặn một số rung động, trong khi lại cho phép một số khác đi qua. Ẩn bên dưới, thường là sự đánh giá tốt-xấu hay đúng-sai. Và do đánh giá mà có sự phân chia, khiến chúng ta bị kẹt trong cái vòng triền miên tìm cách tránh né hay tiêu diệt những gì mình thấy là xấu, và đồng thời sở hữu hay kiểm soát những gì mình xem là tốt. 

Cái Ta Biết trong trạng thái thuần khiết thấy rõ mọi hình dạng trong cõi vật chất chỉ là hình dạng không hơn không kém. Hình dạng không có quyền năng gì trên bạn là Tánh linh trinh nguyên. Cho nên trở về nhận thức thanh tịnh là cách duy nhất để không cho phép ngoại cảnh vật chất có quyền hạn gì trên mình.

Tại sao bạn lại khoác một cái ngã giới hạn

Vậy thế tại sao bạn lại phải mượn lấy một cái ngã giới hạn? Mục đích cuộc sống có hai phần căn bản. Một là để bạn mở rộng sự nhận biết. Và hai là để bạn giúp nâng cao độ rung của hành tinh nơi bạn đầu thai.

Việc hiện thân trên trái đất là một cách để giúp bạn tăng trưởng và đồng thời giúp nâng cao địa cầu. Tuy nhiên để đầu thai, cái Ta Biết không thể giáng thế trong trạng thái thuần khiết của nó. Nó phải tự phóng chiếu vào một cái ngã được tạo bằng cùng những rung động đã cấu tạo hành tinh vật chất. Bằng cách khoác lấy cái ngã giới hạn này rồi lần hồi thăng vượt nó mà bạn mới có thể tăng trưởng bản thân. Và song song, bạn cũng đóng góp nâng cao toàn thể địa cầu.

Nhưng bạn cũng cần biết, địa cầu hiện tại đang ở một trạng thái thấp hơn hẳn trạng thái nguyên thủy khi các Elohim tạo dựng ở ban đầu. Hầu hết mọi giáo lý tôn giáo hay tâm linh đều có đạy về một địa cầu ban sơ với cuộc sống tinh thần cao hơn bây giờ, và nhân loại chúng ta thì đã từng nếm cảnh thụt lùi, sa ngã.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng bước “sa ngã” đó đã xảy ra vì một số người đã quyết định khoác lấy những cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Khi làm vậy, họ có khả năng sinh sống như những sinh thể tách biệt mà không xem xét hậu quả dài hạn đem đến cho người khác, cho toàn thể hay cho chính mình. Hiện thời, hầu hết mọi người trên địa cầu đều sinh hoạt trong những cái ngã tách biệt như thế, và đó là lý do chúng ta chứng kiến quá nhiều xung đột đến như vậy.

Cho nên rất có thể trong quá khứ, bạn đã quyết định bạn muốn trải nghiệm thế gian qua trung gian một cái ngã giới hạn, hoặc bạn muốn làm những chuyện mà chỉ một sinh thể tách biệt có thể làm được. Nhưng đằng khác, nếu bạn là người có khuynh hướng tâm linh, cũng rất có thể là bạn đã cố tình khoác lấy cái ngã giới hạn này để chứng tỏ cho người khác thấy rằng mỗi chúng ta đều không chỉ là phàm phu, và chúng ta không bắt buộc phải bị ngoại cảnh hạn chế. Thay vào đó, chúng ta có khả năng vươn lên cao hơn mọi cái ngã và giúp đồng sáng tạo một thế giới mới vượt khỏi mọi giới hạn hiện hữu.

Nếu bạn cảm thấy điều vừa rồi đúng với bạn thì những dụng cụ thăng vượt được đăng tải trên trang mạng này sẽ là phương cách để bạn vượt lên trên các phin lọc nhận thức hiện thời, hầu đạt được trạng thái tỉnh giác thuần khiết là tiềm năng cao nhất của bạn. Khi đó bạn sẽ hoàn thành mục đích đầu thai của mình là trở thành cánh cửa mở cho phần cao thượng của chính mình. Và đề tài này sẽ được bàn đến trong bài kế tiếp.

Tuy nhiên, cũng cần nói rõ ngay một điều. Đâu là thử thách lớn nhất trên đường tu tâm linh? Đó là sự buông bỏ mọi quan điểm cùng tin tưởng sẵn có – buông bỏ mọi phin lọc nhận thức. Nhưng rất nhiều người trong số chúng ta sẽ đi qua một giai đoạn lầm lạc khi chúng ta tưởng mình đã tìm được một giáo lý tâm linh chân chính, và bây giờ mình không còn nhu cầu thăng vượt thêm nữa. Chúng ta tưởng mình không cần thăng vượt vì chắc chắn những tin tưởng này sẽ được chứng thực khi mình bước vào cõi trời. Ấy nhưng trên thực tế, bất cứ giáo lý nào có thể diễn tả bằng lời nói cũng đều không là thực tại tâm linh trọn vẹn. Cho nên thử thách thực sự cho người tìm đạo phải là buông bỏ tất cả, đặc biệt những gì mình tin là không cần đặt vấn đề.   

Bạn sẽ không thể thăng vượt nếu bạn còn nắm giữ một cái gì – bám mắc vào một ý niệm nào, như người đạo Phật thường nói. Chỉ khi nào bạn buông bỏ mọi “vật” và đạt được sự tỉnh giác thuần khiết, trần trụi, chỉ khi nào bạn không còn có những phán xét thế phàm hay đánh giá chủ quan dựa trên hình dạng thế gian, thì những hình dạng hiện hữu trên địa cầu mới không còn quyền năng trên bạn nữa.     

Tại sao cần hiểu biết cái ta?

Bạn hãy thử nhìn xem, bạn đang trải nghiệm đời mình như thế nào? Rất có thể bạn đang gặp một số hoàn cảnh mà bạn cảm thấy gò bó, như thể chúng đang sai khiến mình vậy. Và ban tự hỏi, “Làm cách nào tôi có thể thăng vượt được hoàn cảnh này đây?”   

Nếu bạn suy xét bằng trí khôn thường tình, hẳn bạn sẽ nghĩ cách duy nhất để vượt qua một hạn chế nào đó là thay đổi hoàn cảnh bên ngoài đã gây ra hạn chế đó. Nói cách khác, chỉ có một cách để thay đổi trải nghiệm về cuộc sống là phải thay đổi ngoại cảnh. 

Vấn đề với cách nhìn này là trong đời thiếu gì những yếu tố mà mình dường như không thể kiểm soát, hoặc có rất ít quyền hạn kiểm soát. Và như vậy, bài toán đặt ra thật là hắc búa: Làm thế nào tôi có thể thay đổi trải nghiệm về đời sống nếu tôi không thể kiểm soát những yếu tố ngoại cảnh mà tôi nghĩ đang chi phối trải nghiệm của tôi?  

Làm sao thoát được bế tắc, thoát được vòng luẩn quẩn này đây? Hay là chúng ta thử đặt câu hỏi một cách khác đi: “Có thật là các yếu tố ngoại cảnh sai khiến tôi, hay chúng CHỈ có thể sai khiến nếu tôi nghĩ chúng có khả năng sai khiến mình?” Nói cách khác, ai sai khiến ai, và ai nắm giữ quyền hạn sai khiến? Quyền hạn này có nằm bên ngoài mình (có nghĩa chúng ta sẽ hoàn toàn bó tay không làm gì được) hay là nó nằm trong tâm mình (có nghĩa chúng ta CÓ KHẢ NĂNG làm được cái gì đó),

Có thật là những “vật” trong vũ trụ vật chất có quyền hạn trên chúng ta, hay là chúng chỉ có quyền hạn cho tới một mức nào đó mà chúng ta cho phép chúng? Có thể chăng chìa khoá cho bài toán này nằm ở chỗ chúng ta cần hiểu sâu sắc hơn mình là ai?

Vậy thì bạn là ai đây? Bạn thử nghĩ xem, lỡ cái gì định đoạt trải nghiệm cuộc sống của bạn ngay lúc này chỉ đơn giản là một cái ngã? Tất nhiên đó là một cái ngã tin rằng hoàn cảnh bên ngoài là có thực và có khả năng sai khiến bạn – hay nói đúng hơn, sai khiến ngã.

Khi đặt câu hỏi khác đi như thế, chúng ta mở ra một cách nhìn mới về cuộc đời. Những gì bạn đang trải nghiệm ngay lúc này chẳng qua chỉ là do bạn đang nhìn cuộc đời qua một cái ngã nào đó. Nhưng đây có phải là cách duy nhất để trải nghiệm cuộc đời hay không?

Và bạn thử nghĩ, lỡ cái ngã này tương tự như một phin lọc nhận thức, như bạn đang đeo một cặp mắt kính màu vàng vậy? Bạn đeo kính vàng nhìn lên trời xanh dương mà cứ nhất định là trời màu xanh lá cây. Phải chăng là bạn chưa từng nhìn trời mà không đeo kính, như là có ai đã đeo kính áp tròng màu vàng lên mắt bạn ngay từ khi bạn chào đời? Tất nhiên là bạn sẽ lớn lên luôn tin chắc rằng màu trời thật sự là xanh lá cây, và bạn sẽ không thể tưởng tượng được có cách nào khác để trải nghiệm màu trời.

Vậy chúng ta có thể mô tả vấn đề cốt lõi của nhân sinh quan là như sau:

  • Chúng ta trải nghiệm cuộc sống qua một phin lọc nhận thức.
  • Chúng ta không biết đó chỉ là một trong nhiều phin lọc có thể có.
  • Chúng ta nghĩ rằng những gì mình thấy qua phin lọc là cách duy nhất để trải nghiệm cuộc sống.
  • Chúng ta nghĩ rằng những gì mình thấy qua phin lọc là thực tại.

Và bây giờ chúng ta có thể thấy rõ, ngoại cảnh sai khiến được mình chẳng qua là do mình tin rằng cái gì mình thấy qua phin lọc là một thực tại đứng ngoài độc lập với mình.

Khi bạn bắt đầu nhận ra rằng cái nhìn của mình về đời sống chỉ là sản phẩm một cái ngã, một phin lọc nhận thức nào đó, thì cả một vùng trời lạ thường mở ra cho bạn. Bây giờ bạn có thể đặt câu hỏi đổi đời: “Cái ngã hiện thời của tôi có phải là cách duy nhất để nhìn cuộc đời, hay là có cách nhìn nào khác – một cách nhìn sẽ giúp tôi thăng vượt các hạn chế hiện tại của mình?”

Nhìn chung quanh, bạn có thể dễ dàng nhận thấy nhiều người không nhìn đời giống mình. Dễ hiểu thôi, bởi vì họ trải nghiệm cuộc sống qua những cái ngã, những phin lọc nhận thức khác bạn. Đó là lý do bạn cảm thấy khó lòng đồng ý với họ, hay ngay cả giao tiếp với họ. Nếu bạn đeo kính vàng còn họ đeo kính đỏ thì làm sao đồng ý với nhau về màu trời?  

Hiểu vậy rồi, chúng ta sẽ làm gì đây? Đầu tiên chúng ta có thể khởi sự một tiến trình tinh luyện, mở rộng những phin lọc nhận thức của mình bằng cách tìm hiểu thêm về các đề tài đời sống và tâm linh. Việc làm này, nhiều người trong chúng ta đã từng làm khi học hỏi giáo lý tâm linh. Nhờ lãnh hội sâu sắc hơn các khía cạnh tâm linh của đời sống, chúng ta thay đổi được nhận thức về cuộc đời.      

Tuy nhiên chúng ta cũng thấy được phương cách này có một số hạn chế. Chẳng hạn, nhiều người tâm linh vẫn còn mang một số tính nết hay thói quen mà họ không thể nào vượt bỏ được. Không những thế, có khi chúng ta còn dùng cả giáo lý tâm linh để dựng lên một phin lọc nhận thức mới, khiến mình bị hạn chế y như trước tuy rằng hình thức có thể khác. Một số còn bị kéo vào vòng tranh luận khi cố thuyết phục người khác rằng “phin lọc nhận thức của tôi mới đúng, phin lọc của anh sai” – một cuộc tranh cãi đã kéo dài từ rất lâu trên hành tinh này. Thậm chí một số còn cảm thấy mình hơn người do thày mình hay giáo lý của mình đã đem lại cho mình những nhận thức cao siêu hơn mọi người khác.

Tất nhiên, nói vậy không có nghĩa là việc học tập giáo lý tâm linh là sai trái, hay việc mở rộng phin lọc nhận thức là vô ích. Nhưng đó phải chăng chỉ là một giai đọan nhất thời, và trên đường tu tâm linh còn nhiều giai đoạn khác cao hơn? Nếu thật vậy thì những giai đoạn kế tiếp sẽ là gì?

Có lẽ đã đến lúc bạn cần tự đặt một câu hỏi khác hơn: “Liệu tôi có thể trải nghiệm cuộc sống mà không qua bất cứ một phin lọc nhận thức nào không?” Nói cách khác, có thể nào tôi thăng vượt mọi phin lọc nhận thức thay vì chỉ mở rộng phin lọc? Và câu này dẫn tới một câu khác nữa: “Ở cốt lõi, tôi là gì?”

Các luân xa và đặc tính

Sự hiểu biết về trường năng lượng của con người đã có từ thuở xa xưa ở phương Đông và từ lâu người ta biết rằng hào quang con người có một số trung tâm nhất định. Những trung tâm này được gọi là luân xa – hay chakra, một từ tiếng Phạn có nghĩa là “bánh xe”. Hiểu biết về luân xa sẽ giúp bạn như thế nào?

Luân xa thực sự là các lối mở, hay cổng ra vào, giữa giải tần số vật chất với giải tần số cao hơn mà người ta thường gọi là cõi tâm linh. Năng lượng có tần số thanh cao tuôn chảy từ cái ta tâm linh của bạn – cái ta cao hơn, tạm gọi là chân ngã – xuống bốn tầng của tâm bạn (bốn thể phàm) thông qua các luân xa. Và cũng thông qua luân xa mà các ấn tượng chảy ngược trở lên, hầu chân ngã có thể trải nghiệm thế giới vật chất qua trung gian bạn. Nhờ thế mà những kinh nghiệm tiến hóa của bạn mới được đưa vào lưu trữ trong căn thể, cung cấp cho bạn cái động lượng sáng tạo để bạn lần hồi đạt được sự điều ngự của tâm trên vật chất.

ChakrasHires

Yếu tố duy trì sự sống của bạn là một dòng năng lượng tâm linh xối xuống từ chân ngã. Dòng năng lượng này luôn luôn có sẵn, nhưng có một quy luật tâm linh định rằng nếu bạn muốn nhận được điều gì từ trên, thì ở dưới bạn phải có một cái chén để hứng lấy. Và đây chính là nguồn gốc của Chén Thánh, biểu tượng cho cái chén tiếp nhận năng lượng từ trên cao. Cái chén nơi năng lượng của Tánh linh chảy vào chính là bảy luân xa trong hào quang của bạn.  

Tại sao lại có bảy luân xa? Như đã trình bày ở những nơi khác, vũ trụ vật chất được tạo ra từ bảy loại năng lượng tâm linh khác nhau, bảy tia sáng. Mỗi tia tương ứng với một trong bảy luân xa chính.

Khi bạn tiếp nhận ánh sáng nơi một luân xa, bạn sẽ dùng ánh sáng này để biểu hiện khả năng sáng tạo của mình. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hàng đầu là liệu bạn có mục đích nâng mọi sự sống đi lên (với động cơ là tình thương) hay chỉ nâng cái ngã tách biệt (với động cơ là sợ hãi).

  • Nếu bạn biểu hiện khả năng sáng tạo dựa trên tình thương, bạn sẽ khởi sinh ra một luồng phản hồi gửi ánh sáng trở ngược lên qua luân xa. Luồng này sẽ được chân ngã sinh sôi nẩy nở, khiến ánh sáng đi vào luân xa được khuếch trương và khả năng sáng tạo của bạn được tăng triển.
  • Nếu bạn biểu hiện khả năng sáng tạo dựa trên sợ hãi, sẽ không có luồng phản hồi nào trở ngược lên chân ngã và cũng không có gì đề sinh sôi. Thay vào đó, bạn sẽ phát ra năng lượng có tần số thấp, và năng lượng này bắt đầu tích tụ lại trong luân xa. Dần dần, nó sẽ ngăn chặn hay đóng hẳn luân xa lại, và càng ngày sẽ càng có ít ánh sáng từ chân ngã luồn qua được.   

Bạn thấy đó, khi tất cả bảy luân xa đều mở, ít ra là một phần, thì sẽ có một dòng năng lượng chảy liên tục từ chân ngã xuống phàm ngã và ngược trở lên. Năng lượng này tạo thành một hình số 8. Càng nhiều năng lượng chảy qua thì bạn sẽ càng tỉnh giác và sáng tạo hơn. Cho nên đối với mỗi hành giả tầm đạo chân thành, việc giữ gìn luân xa cho thuần khiết là một điều quan trọng sống còn. Chính Giê-su cũng từng dạy một truyện ngụ ngôn với ý như thế, về bảy nữ đồng trinh khôn ngoan luôn luôn chuẩn bị sẵn “ngọn đèn” của mình để chờ khi nào chàng rể đến mời đi.

Ngược lại, nếu luân xa bị ô nhiễm, bạn sẽ có một dòng năng lượng rất thấp, có khi chỉ đủ để giữ cho cơ thể vật lý sống còn. Thật ra một số người đã đóng hẳn luân xa của mình đến độ họ phải đi đánh cắp năng lượng của người khác thì mới làm được bất cứ chuyện gì, hay thậm chí để mình khỏi chết.

Đặc tính của bảy luân xa chính

Bây giờ đã rõ tại sao việc giữ gìn luân xa thanh khiết là điều quan trọng, đó là để bạn có được dòng năng lượng tối đa. Hầu hết những người quan tâm đến tâm linh đều có ít nhất một luân xa mở rộng vừa phải, và chính điều này cho phép chúng ta nhận ra nhu cầu phát triển tâm linh. Thế nhưng chúng ta cũng thường có ít nhất một luân xa tương đối khép đóng, và điều này khiến mình dường như không thăng vượt được một số khuôn nếp cố hữu.

ChakrasHires

Vấn đề ở đây là các luân xa có độ mở khác nhau, do đó chúng ta có khuynh hướng biểu hiện khả năng sáng tạo của mình một cách thiếu quân bình. Một thí dụ điển hình là nếu một người có Luân xa Cổ họng (trung tâm của quyền năng) tương đối mở, nhưng Luân xa Tim (trung tâm của tình thương và từ bi) đóng kín, thì người đó sẽ có khuynh hướng biểu hiện quyền năng mà không được tình thương quân bình lại, và điều này nhất định dẫn đến việc lạm dụng quyền hành. Lịch sử thế giới đầy rẫy ví dụ những khốn khổ lầm than mà sự thể này gây ra.

Mỗi luân xa tương ứng với một trong bảy tia sáng tâm linh. Toàn bộ vũ trụ được sinh tạo từ sự phối hợp tần số năng lượng của bảy tia này. Như đã trình bày, hành tinh địa cầu được tạo ra ở khởi đầu trong sự cân bằng hoàn toàn giữa bảy loại năng lượng. Cho nên trong thiên nhiên cũng có sự cân bằng, không có thiên tai và cũng không thiếu lương thực hay tài nguyên. Xác thân con người không bao giờ bị đau ốm hay phải già đi.

Sở dĩ tình trạng cân bằng nguyên thủy đó bị đánh mất là vì loài người qua các thời đại đã biểu hiện khả năng sáng tạo của mình một cách thiếu cân bằng. Mỗi tia trong số bảy tia sáng đều có một số đức tính khi nó thuần khiết. Khi bạn nhận ánh sáng của một tia sáng qua luân xa mình và bày tỏ nó trong tình thương, bạn hoàn toàn có khả năng sáng tạo mà không làm xáo trộn sự quân bình. Nhưng khi bạn xuống thấp hơn tầng mức của tình thương thì bạn sẽ tạo ra sự mất quân bình.

Bao nhiêu những sự mất quân bình mà bạn chứng kiến trên trái đất đều là do loài người đã làm tha hóa các đức tính thanh khiết của bảy luân xa. Cho nên yếu tố khiến cho một luân xa bị đóng kín chính là sự tha hóa các đức tính thanh tịnh của luân xa đó. Trong phần sau đây, xin liệt ra mỗi luân xa với đặc tính riêng.

Tên luân xa và vị trí

Mỗi hệ thống tu tập đều đặt cho luân xa những cái tên có phần hơi khác nhau. Trong trang mạng này, xin sử dụng tên gọi dựa theo giáo lý của các chân sư thăng thiên:

  • Luân xa Đỉnh đầu
  • Luân xa Mắt thứ ba
  • Luân xa Cổ họng
  • Luân xa Tim
  • Luân xa Đám rối dương
  • Luân xa Hồn
  • Luân xa Gốc

Hình dạng

Các luân xa thường được mô tả với hình dạng giống như bông hoa có số cánh khác nhau. Có những cách mô tả khác là như cái van, hay thậm chí một động cơ phản lực có cánh bằng kim loại có khả năng mở ra hay đóng lại để điều chỉnh lưu lượng không khí.

Tia ánh sáng tương ứng

Các chân sư dạy rằng mỗi luân xa tương ứng với một tia sáng tâm linh đặc thù. Mỗi luân xa được thiết lập với chức năng làm cánh cửa mở cho các đức tính tâm linh của tia sáng để biểu hiện qua trung gian phàm ngã của bạn. Khi tất cả mọi luân xa đều hoạt động tối ưu, bạn sẽ có dòng sáng tạo tối đa mà bạn sẽ biểu hiện một cách quân bình. Sự quân bình bảo đảm có dòng phản hồi chảy trở ngược lên chân ngã của bạn nơi nó sẽ được sinh sôi và gửi trở xuống. Điều này có nghĩa là bạn sẽ tăng trưởng khả năng sáng tạo theo cấp số nhân – miễn là bạn duy trì được sự quân bình.

Màu sắc

Mỗi luân xa có một màu săc đặc thù. Trong các hệ thống khác nhau, màu sắc này được mô tả khác biệt. Như có một hệ thống phổ thông mô tả luân xa thấp nhất là màu đỏ trong khi Luân xa Tim được cho là màu xanh lá cây. Trang mạng này không có ý nói rằng hệ thống này đúng hay hệ thống kia sai, mà xin mô tả các luân xa trong cùng màu sắc với tia sáng tâm linh tương ứng.

Đức tính thuần khiết

Mỗi luân xa có một số đức tính thuần khiết do tia sáng tương ứng định ra. Nếu bạn nhận ra là mình có khả năng biểu hiện một số đức tính được liệt kê, bạn có thể lượng định xem luăn xa nào của mình có phần thanh khiết hơn. Nếu bạn thấy thiếu sót một số đức tính nào đó thì đây là dấu hiệu luân xa tương ứng chưa mở hẳn. Làm vậy rồi, bạn có thể sử dụng các dụng cụ thăng vượt để thanh lọc luân xa đó. Sau đây là mô tả từng luân xa.

Luân xa Đỉnh đầu

Kim Crown_Chakra_2

Thường được xem là tia sáng của minh triết, giác ngộ và tự hiểu biết, tuy nhiên ở mức sâu hơn, đây là luân xa đem lại khả năng nhận rõ tính không thực của ngã tách biệt cũng như ảo tưởng của ý niệm tách biệt. Qua Luân xa Đỉnh đầu, con người chiêm nghiệm sự thật cơ bản rằng mọi sự sống đều là một, và không có gì có thể tách rời khỏi Đấng Sáng tạo hiện diện khắp mọi nơi. Một đức tính khác của một Luân xa Đỉnh đầu thuần khiết là sự cởi mở đối với hiểu biết siêu việt, và sự chứng nghiệm rằng chân lý có nhiều cách diễn tả chính đáng khác nhau, nhưng mọi diễn tả đều tụ về cùng một thực tại bất nhị nằm bên dưới.    

Các mặt tha hóa của Luân xa Đỉnh đầu:

Mặt tha hóa của Luân xa Đỉnh đầu là minh triết giả hiệu, khi con người tưởng là mình biết tất cả, hay mình nắm một chân lý tối hậu. Ảo tưởng này là hệ lụy của ảo tưởng nhị nguyên, lầm tưởng rằng thực tại có thể chia ra thành từng phần riêng biệt, và tâm tách biệt có quyền và có khả năng định ra phần nào là đúng, phần nào là sai.

Sự tha hóa của Luân xa Đỉnh đầu thường được thấy nơi những người tin tuyệt đối là mình đúng – đặc biệt những ai đã trở nên cuồng tín – và sẵn sàng cưỡng ép người khác phải tuân theo ý mình. Một sự tha hóa khác là chủ nghĩa trí thức, qua đó người ta sẵn sàng tranh cãi để ủng hộ hay chống đối một ý tưởng mà không chịu vượt lên trên ý tưởng đó để trực nghiệm Tánh linh vượt mọi ngôn từ.

Luân xa Mắt thứ ba

Kim Third_Eye_Chakra_2

Thường được xem là trụ sở của sự thật và viễn kiến – nhưng viễn kiến về điều gì? Mắt thứ ba là chỗ trụ của viễn kiến đơn nhất, như được minh họa trong câu nói của Giê-su, “Nếu mắt con đơn nhất, toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng”. Viễn kiến đơn nhất chính là viễn kiến Ki-tô nhìn thấu suốt qua mọi nhị nguyên. Đây là sự chứng ngộ rằng tất cả mọi cách diễn đạt “sự thật” trong cõi vật chất đều thiếu sót so với Tánh linh Sự Thật, có nghĩa là để chạm được chân lý, chúng ta phải vượt trên mọi cách diễn đạt vỏ ngoài.

Làm được vậy thì sẽ thấy mọi phân chia đều không thật, và hiểu được mình phải nâng cao mọi sự sống. Đây là tính phân biện Ki-tô, khả năng nhận diện tức thì và nhìn thấu qua mọi gian dối của nhị nguyên, bởi vì nhị nguyên luôn chỉ nâng một bên và dìm bên kia xuống. Điều này được phản ánh trong câu chuyện Vườn Eden khi rắn gieo ngờ vực vào tâm Eva với lời dụ dỗ, “Ông bà chắc chắn sẽ không chết đâu”. Với một Luân xa Mắt thứ ba đã thuần khiết, bạn nhìn thấu lý luận gian manh của rắn. Bạn cũng thấy rõ mọi hình tướng của cõi vật chất đều tạm bợ, và bạn trụ trong niệm tinh khôi rằng mọi người cùng mọi điều kiện sẽ được chuyển hóa.

Những mặt tha hóa của Luân xa Mắt thứ ba:

Tha hóa của luân xa này là sự thiếu viễn kiến, thiếu khả năng phân biện giữa Chân lý bất nhị và vô số những “sự thật” nhị nguyên, vốn tạo lòng ngờ vực, tuyệt vọng rằng sự thật không thật có. Đó cũng là sự lầm tin rằng chỉ có một sự thật duy nhất là sự thật của mình. Do tin rằng mình nắm sự thật duy nhất đó mà đâm đầu giao chiến với bất cứ ai ủng hộ một ý thức hệ khác biệt, thậm chí còn cảm thấy việc phê phán và tiêu diệt những tư tưởng đối lập là cần thiết và có chính nghĩa. Sự tha hóa của Luân xa Mắt thứ ba biểu hiện nơi những người hay phê phán người khác hoặc ý kiến khác mình, lại còn chụp mũ họ là người xấu, mà không biết rằng tất cả chỉ là hình tướng phù du.    

Luân xa Cổ họng

Kim Throat_Chakra_2

Thường được xem là trụ sở của quyền năng và ý chí, tuy nhiên nếu hiểu sâu sắc hơn thì là nơi trụ của nghị lực sáng tạo. Đây là ý muốn tự biểu thị – tuy nhiên trong dạng thuần túy là sự biểu thị sắc thái tâm linh. Một Luân xa Cổ họng thuần khiết sẽ khơi dậy nghị lực sáng tạo, được biểu hiện qua sự sốt sắng trải nghiệm cho dù kết quả trải nghiệm không thể đoán trước. Đây cũng là thái độ sẵn sàng nhập vào dòng sống và tích cực học hỏi từ mỗi kinh nghiệm.

Luân xa Cổ họng thanh khiết khiến cho con người cảm thấy mọi việc đều có tầm quan trọng, cuộc đời vô cùng hứng thú, và mỗi cá nhân có khả năng thật sự thay đổi cục diện. Luân xa Cổ họng cũng là trụ sở của ý muốn nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình.   

Những mặt tha hóa của Luân xa Cổ họng:

Khi tha hóa, nghị lực sáng tạo trở thành nỗi sợ hãi những gì mình không nắm biết, dẫn đến sự lạm dụng quyền lực nhằm kiểm soát mọi tình huống, kể cả kiểm soát người khác. Đương sự sợ hãi không dám tiến hành những công việc không bảo đảm trước được kết quả, và khi đó, tất nhiên khả năng sáng tạo bị  thui chột.  

Những người có Luân xa Cổ họng ô nhiễm thường lao vào trò tranh giành quyền lực để cố kiểm soát cho sự việc đạt được kết quả mình muốn. Nhưng điều này bóp chết cái lực sống trong mỗi sự sống luôn mong muốn thăng vượt lên, và cuối cùng chỉ có tự ngã được cảm thấy an toàn trong sự nắm giữ và sỡ hữu cái gì nó muốn trong thế gian. Hậu quả là đương sự muốn sở hữu luôn cả người khác – một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xung đột trong nhân loại. Trong những trường hợp nhẹ, người đó sẽ sợ sáng tạo, cảm thấy bất lực và tin rằng cuộc đời không còn gì đáng làm, hay mình có đóng góp cũng chẳng đưa tới đâu. 

Luân xa Tim

Kim Heart_Chakra_2

Một điểm quan trọng cần hiểu là ba luân xa nằm ở phần cao của cơ thể là trụ sở của cái thường được gọi là tâm trí, đặc biệt là khả năng hình thành những suy nghĩ, những giải thích rõ ràng và chi tiết. Khác hẳn là ba luân xa nằm ở phần dưới của cơ thể, là trụ sở của cảm xúc với xu hướng lưu chảy mà không nhất thiết giải thích được tại sao. Cảm xúc chảy theo những gì nó cảm thấy đúng đắn, hoặc (nếu bị tha hóa) nó cảm thấy thích thú. Luân xa Tim nằm ở ngay giữa ba luân xa cao và ba luân xa thấp, lý do là vì bạn chỉ có thể quân bình tâm trí và cảm xúc, quân bình não trái và não phải, qua một Luân xa Tim thuần khiết.

Luân xa Tim thường được xem là trụ sở của tình thương, từ bi, bác ái, và khả năng thưởng ngoạn cái đẹp và tính vị tha. Tuy nhiên trong cách hiểu sâu xa, Luân xa Tim là nơi trụ của sự quân bình. Đằng sau Luân xa Tim là một luân xa thứ 8, gọi là Phòng kín của Tim. Chính ở luân xa này mà ánh sáng từ chân ngã của bạn xối xuống. Sau đó ánh sáng đi vào Luân xa Tim để từ đó được phân phối đến các luân xa khác. Điều này có nghĩa là nếu Luân xa Tim bị ô nhiễm bởi những biểu hiện ô uế của tình thương, thì ánh sáng truyền đến các luân xa kia cũng sẽ bị vấy bẩn ngay từ đầu.

Tình thương có thể được xem như cái lực giữ thăng bằng cho sự sống, tạo sự quân bình giữa hai thái cực của tạo hóa – là lực lan ra (dương, hay Cha) và lực co lại (âm, hay Mẹ). Nếu hai lực này không hài hòa thì sẽ có xu hướng đẩy một trong hai ra cực điểm. Mất quân bình có nghĩa là hoặc lan ra quá xa và bị nổ tan tành, hoặc không xa đủ, tức là không đạt thành quả và tự tiêu diệt do co lại quá trớn.

Một Luân xa Tim thuần khiết cho bạn khả năng chứng nghiệm tính vô điều kiện, tức là thực tại vượt khỏi hai đối cực do tâm nhị nguyên dựng ra. Nếu nhị nguyên có mặt, bạn sẽ cảm thấy nó ngay, cho dù bạn có thể chưa thanh lọc Luân xa Mắt thứ ba và Luân xa Đỉnh đầu, là hai luân xa cho bạn khả năng giải thích cặn kẽ. Đơn giản, bạn cảm thấy những gì có điều kiện là “không ổn” vì bạn đã chứng nghiệm trong tim bạn bản chất vô điều kiện của Thượng đế và của thực tại.

Một người với Luân xa Tim thuần khiết sẽ cảm nhận sâu xa trong nội tâm mình sự duy nhất của mọi sự sống, và từ đó có khả năng phân biện giữa điều gì “ổn” khi mọi sự sống được nâng lên, và điều gì “không ổn” khi chỉ có một phần nâng lên và phần kia bị kéo xuống. Nơi Luân xa Tim, bạn có thể nhận ra điều nào là điều phải, cho dù lý trí bạn (các luân xa cao) chưa thể giải thích tại sao, và cũng vậy, bạn sẽ nhận ra khi nào ba luân xa thấp bị lòng vị kỷ thúc đẩy, và như vậy bạn đạt được quyền năng quân bình các luân xa. 

Những mặt tha hóa của Luân xa Tim:

Tha hóa chính của Luân xa Tim là sự thiếu quân bình, nhưng nó có thể diễn tả bằng nhiều cách vi tế. Có một cách thường gọi là tình yêu, nhưng kỳ thực chỉ là nỗ lực sở hữu và kiểm soát người khác. Đưa đến cùng cực, nó có thể biểu hiện qua sự thù ghét và ý muốn trừng phạt hay tiêu diệt những ai từ chối bị kiểm soát. Chẳng hạn, nhiều người đem lòng thương yêu nhưng lại tỏ ra muốn sở hữu đối tượng mình yêu thương.

Một cách tha hóa khác là tin rằng mọi phương tiện đều chính đáng để đạt được mục đích, có nghĩa là khi mình say đắm một “chính nghĩa” rồi thì mình có quyền cưỡng ép hoặc giết hại người khác để phục vụ chính nghĩa. Hình thức tha hóa này của tình thương đã gây ra những tội ác tàn bạo nhất trong lịch sử loài người. Ít có ai ngoan cố bằng những người bị lòng cuồng tín làm cho Luân xa Tim bị mất quân bình. Đây cũng chính là lý do khiến người ta tin rằng mình phải giết người để chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thượng đế.

Luân xa Đám rối dương

Kim Solar_Plexus_Chakra_2

Thường được xem là trụ sở của an bình, nhưng là “sự an bình vượt mọi hiểu biết”, vì sự hiểu biết có được là qua các luân xa cao hơn tim. Cho nên đây là nội tâm không dao động khi không một hình tướng nhị nguyên nào còn khả năng lôi kéo mình, là sự tĩnh lặng thâm sâu dù đang đứng giữa cảnh binh đao sôi động, là khi chúng ta cảm được lực lôi kéo vào vòng chao đảo của giận dữ mà vẫn trụ vững nơi trung tâm, không nhập cuộc.       

Khi an định như vậy thì mới có thể thật sự quên mình phục vụ tha nhân, vì khi đó mới có trực giác đem lại sự hài hòa trong mọi tình huống. Và tất nhiên, hài hòa là chìa khóa để giúp con người vượt lên trên những vật lộn nhị nguyên hầu tìm đến điểm chung. Một người với Luân xa Đám rối dương thuần khiết, nhất là khi các luân xa cao cũng đã thuần khiết, sẽ có biệt tài kết hợp mọi người để luôn luôn tìm được điểm gặp gỡ chung.

Những mặt tha hóa của Luân xa Đám rối dương:

Tha hóa dễ thấy nhất của Luân xa Đám rối dương là sự nóng giận và dao động, thể hiện qua cách cư xử hung hãn nhằm cưỡng ép người khác thay đổi, hoặc trừng phạt những ai chống cự lại. Đây là sự bất an vượt mọi hiểu biết, bởi vì không có cách nào bình tĩnh lý giải với một người có một Luân xa Đám rối dương xao động. Trong cơn nóng giận, đượng sự hành xử mù quáng, lầm lỡ để rồi lại hối tiếc, kể cả những chuyện mà ai ai cũng thấy là sai trái nhưng đương sự thì hoàn toàn không biết trong cơn đui mù lúc đó. 

Một tha hóa khác mà có người xem là tính hiếu hòa, nhưng thực sự chỉ là tính thụ động, từ chối có lập trường trong mọi hoàn cảnh. Người bị tha hóa như vậy thường nhận vai mình là nạn nhân, chỉ biết phản ứng trước những thế lực từ ngoài và từ chối nhận trách nhiệm cuộc đời mình. Một số khác đánh mất mọi cá thể đến độ mình hùa theo đám đông để hành động mù quáng, hay mình mù quáng đi theo một lãnh tụ quyền uy. Một nét tha hóa khác là đui mù tưởng rằng bạo hành và vũ lực có thể là một giải pháp khả thi, có khi còn là cách phản ứng hợp lý nhất, thậm chí là cách phản ứng duy nhất.

Luân xa Hồn

Kim Seat_of_Soul_Chakra_2

Thường được xem là trụ sở của tự do, tha thứ và công lý, tuy nhiên hiểu sâu xa hơn thì Luân xa Hồn là nơi trụ các đức tính vui đùa, sẵn sàng đón nhận cuộc đời như trong câu nói của Giê-su, “Trừ khi con trở thành như một trẻ thơ thì con không thể vào được Vương quốc”.

Khi bạn thể hiện Luân xa Hồn thuần khiết, bạn cảm nhận cuộc đời tốt thiện trong bản chất. Bạn có mặt trong đời để biểu lộ chính mình và nô đùa với tất cả. Bạn không lo lắng về đời sống hay khắc khoải về tương lai. Bạn hoàn toàn tin cậy Tánh linh sẽ che chở mình và Mẹ sẽ nuôi dưỡng mình. Bạn tràn ngập niềm tự do phơi phới, bạn mong muốn thưởng thức cũng như tô thắm cuộc đời qua sự bày tỏ sáng tạo. 

Những mặt tha hóa của Luân xa Hồn:

Sư tha hóa chủ yếu của Luân xa Hồn là xu hướng nhìn cuộc đời với thái độ cực kỳ hệ trọng. Điều này biểu hiện qua sự tha hóa của cả tự do lẫn công lý, và cả hai phối hợp lại khiến bạn cảm nhận cuộc sống là cuộc tranh đấu triền miên, thậm chí bạn phải phấn đấu chống lại một lực lượng bất công đang tìm cách tước đoạt tự do của bạn. 

“Hãy cười nhạo ác quỷ thì hắn sẽ chạy đi mất”, câu châm ngôn này quả là chí lý, bởi vì khi bạn xem điều gì quá nghiêm trọng thì bạn trao cho nó quyền hạn tác động trên bạn. Tất nhiên trên đời cũng có nhiều chuyện bất công hạn chế tự do của bạn, vậy có nghĩa chăng là bạn nên xem nhẹ tất cả? Nói cho đúng, bạn cần giữ quân bình, và Giê-su có một nói câu khác cũng chí lý không kém, “Hãy khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu”. Quả thật, bạn cần tìm sự quân bình giữa ngây thơ và thái độ nghiêm trọng quá đáng khiến bạn cảm thấy không thể nào tự do được nếu bạn chưa đổi được những điều kiện của thế gian vốn đã sẵn tạm bợ. 

Sự tha hóa cùng cực của Luân xa Hồn là tư duy cuồng đại, qua đó người ta đinh ninh rằng thế giới là một cuốc chiến vĩ đại giữa thiện và ác, và mọi phương tiện đều chính đáng hầu đánh bại phe ác. Hậu quả là một sự vô cảm toàn diện đối với mạng sống, dẫn đến những sự dã man không kể xiết đối với con người. Và như mọi chuyện, vô cảm đối với người khác xuất phát từ vô cảm đối với chính mình.

Khi Luân xa Hồn của bạn bị ô nhiễm, bạn thường nghĩ rằng một vấn đề mà có mặt trên thế giới là do người ta không coi trọng nó như bạn. Nhưng khi khắc phục được sự mất quân bình này, bạn sẽ hiểu ra rằng vấn đề đó cứ vẫn tiếp tục chỉ vì người ta coi trọng nó quá đáng, và như vậy họ tưởng rằng thế giới vật chất có quyền năng trên cả Tánh linh của họ. Kỳ thực, tất cả chúng ta đều là những sinh thể tâm linh, và một trong những công tác sau cùng của chúng ta trên điạ cầu là chứng tỏ rằng mọi điều kiện vật chất không thể hạn chế Tánh linh cùng sự biểu hiện Tánh linh trong thế gian. Chìa khóa của tự do là cho phép chân ngã mình biểu thị qua chính mình, để sự nô đùa của con-người-trẻ-thơ thiêng liêng được biểu lộ, vì con người đó biết rõ nó là một với Cha. Cùng với Thượng đế thì mọi chuyện đều hoàn thành.

Luân xa Gốc

Kim Base_Chakra

Thường được xem là trụ sở của sự thuần khiết, hy vọng và kỷ luật bản thân, tuy nhiên nếu hiểu sâu xa hơn, Luân xa Gốc chính là mặt tương tác giữa Tánh linh với thân thể và thế giới vật chất. Ở mức Luân xa Gốc, vấn đề đặt ra là liệu bạn có cho phép thế giới vật chất áp đảo Tánh linh, và như vậy giới hạn cách biểu đạt của bạn trong thế gian hay không. Bạn có tin rằng các điều kiện của thế gian vật chất là có thật, thường trực và bất biến, hay là bạn hiểu được mình có khả năng cởi trói quyền năng sáng tạo để gia tốc thế gian vật chất – yếu tố Mẹ – khỏi mọi hoàn cảnh hiện tại?   

Với một Luân Gốc thuần khiết, bạn sẽ gỡ mình ra khỏi ảo tưởng cho rằng hình tướng vật chất là có thật, thường trực. Và như thế, bạn không còn bị kẹt trong cái chu kỳ bất tận khiến mình luôn tìm cách thỏa mãn những ham muốn thấp kém, xác thịt, phàm phu. Thay vào đó, bạn sẽ xem thế gian chỉ là một phương tiện để phát triển khả năng tự nhận biết, qua đó bạn tự động xa lánh những sinh hoạt không phục vụ mục đích này. Nhưng đồng thời, bạn cũng hiểu sâu sắc rằng không hề có sự xa lánh, mà chỉ có sự “tâm linh hóa” mọi sinh hoạt cuộc sống.   

Khi mọi luân xa đều thuần khiết, bạn sẽ thấy ảo giác cuối cùng cần vượt qua trên hành trình tâm linh là ý niệm có sự phân cách giữa cõi tâm linh và cõi vật chất, giữa sinh hoạt tâm linh và sinh hoạt vật chất. Thay vào đó, bạn sẽ trụ trong duy nhất, và mọi việc bạn làm đều trở thành những sinh hoạt tâm linh. Làm được vậy thì cũng hoàn thành được mục đích nguyên thủy khi bạn hiện thân làm người, là gia tốc các rung động của toàn thể vũ trụ vật chất lên cao hơn để nó trở thành một phần trường cửu của cõi tâm linh. 

Những mặt tha hóa của Luân xa Gốc:

Tha hóa của Luân xa Gốc thường được xem là bợn nhơ và hỗn loạn, nhưng hiểu sâu sắc, đó là sự lầm tin rằng các điều kiện hiện tại là có thật, là điều tự nhiên phải như thế, là vượt ngoài khả năng thay đổi của mình. Bạn bắt đầu tin rằng thế gian tách hẳn khỏi cõi tâm linh, thậm chí còn có thể thuộc về ác quỷ – mình không làm sao thay đổi được thì tốt nhất nên bỏ mặc cho nó làm sao cũng được.   

Thậm chí bạn còn tin rằng mình không có quyền là một người tâm linh trong thế gian này, và không được quyền biểu hiện những đức tính tâm linh của mình trong thế gian. Thay vào đó, bạn cho rằng phải chấp nhận và thích nghi với mọi điều kiện hiện hữu, và ở cùng cực, bạn tin chắc rằng mình là một sinh thể hoàn toàn vật chất, một sản phẩm của vũ trụ vật chất, đã đến từ bụi thì phải trở về với bụi. Với tâm thức đó thì không còn hy vọng gì gia tốc lên một trạng thái cao hơn. Thế nhưng sự sống lại là sự gia tốc để không ngừng Hơn Nữa, cho nên Giê-su mới gọi tâm thức này là “chết”, có nghĩa là chết tâm linh.  

Tại sao cần quan tâm đến năng trường cá nhân?

Đa số những ai mở tâm ra với trang mạng này có lẽ đã biết về trường năng lượng bao quanh cơ thể con người, thường gọi là hào quang. Có lẽ bạn cũng biết trường này gồm có một số tụ điểm, thường gọi là luân xa, và có cả thảy 7 luân xa chính.

Bài này nhằm mô tả khái quát trường năng lượng của bạn. Riêng các luân xa thì sẽ được đề cập ở bài viết sau. Đây hiển nhiên không phải là toàn bộ giáo lý mà chỉ là một số điều tối thiểu mà bạn cần biết để sử dụng các dụng cụ tu tập một cách hiệu quả.  

Quan tâm làm gì?

Như được trình bày ở vài nơi khác, các yếu tố chính hạn chế con người bạn là những tin tưởng gây giới hạn và những năng lượng có tần số thấp mà bạn đã tích lũy. Những tin tưởng và năng lượng này cất giữ ở đâu? Xin trả lời: trong trường năng lượng cá nhân của bạn, là một phần của cái mà các nhà tâm lý học truyền thống gọi là tiềm thức.

ChakrasHires

Chỉ điều này thôi cũng đủ để thấy được năng trường cá nhân của bạn ảnh hưởng lớn lao đến cảm giác thảnh thơi dễ chịu của bạn trong đời sống. Ngày nay, đa số chúng ta đều nhận thức được tầm quan trọng của vệ sinh cá nhân. Cơ thể vật lý của bạn chắc chắn sẽ đến lúc lấm bẩn, thậm chí có thể bị nhiễm vi khuẩn hay vi-rút gây ra bệnh tật. Cho nên nếu bạn ngừng giữ gìn vệ sinh cơ thể, trước hết cảm giác dễ chịu của bạn sẽ suy giảm, rồi đến lượt sức khỏe thể xác, và cuối cùng cơ thể của bạn có thể qua đời.

Thế nhưng tại sao khi cơ thể bạn bị lấm bẩn, tinh thần của bạn cũng bị ảnh hưởng và bạn cảm thấy mệt mỏi hay “bẩn thỉu”? Đó là vì mọi thứ đều là năng lượng, nghĩa là mọi bộ phận của sự sống có một thành phần năng lượng. Khi cơ thể bạn dính chất bẩn, cái cáu ghét vật chất mà bạn nhìn thấy đó chỉ là phần nổi của một tảng băng. Cáu ghét được tạo bằng một số tần số năng lượng, trong đó có những năng lượng mà mắt bạn không thể nhìn thấy. Nhưng chính những tần số vô hình này lại ảnh hưởng năng trường cá nhân của bạn.    

Vấn đề với đa số chúng ta là chúng ta lớn lên trong một xã hội không dạy dỗ gì về tầm quan trọng của các năng lượng vô hình. Nếu xã hội đã ý thức hơn thì hẳn điều này đã trở thành kiến thức phổ thông. Trong một tương lai không quá xa, sự kiện này sẽ trở thành một kiến thức phổ biến và ở học đường trẻ em sẽ được giáo dục về sự cấu tạo của xác thân vật lý lẫn của những thể năng lượng cao hơn.  

Như đã giải thích, bạn có bốn tầng trong tâm và cũng có bốn tầng trong trường năng lượng. Trong một số giáo lý, những tầng này được gọi là “bốn thể phàm”. Thực tế đơn giản là để vệ sinh cá nhân được chu toàn, bạn phải giữ cả bốn thể phàm sạch sẽ. Xà phòng sẽ giúp bạn giữ vệ sinh cơ thể, còn các dụng cụ tu tập thăng vượt sẽ giúp các thể năng lượng luôn luôn sạch sẽ.

Nói chung, đây là động lực khiến bạn muốn cảm nhận năng trường của mình nhưng có một động lực khác sâu xa hơn.

Cái nào đến trước, hào quang hay cơ thể?

Chắc bạn cũng biết câu đố quen thuộc: “Cái nào đến trước, con gà hay quả trứng?” Bạn mà suy nghĩ thì sẽ hoang mang lắm. Con gà đầu tiên bắt buộc phải đến từ một quả trứng, nhưng trứng lại do gà đẻ ra cho nên phải có một con gà khác đến trước con gà đầu tiên. May mắn thay, chúng ta không phải bối rối về mối quan hệ giữa cơ thể và hào quang.

Tất cả chúng ta đều đã lớn lên với một thế giới quan xoay quanh vũ trụ vật chất bởi vì vũ trụ đó có thể được nhận thức bởi giác quan vật lý cũng như bởi khoa học. Cách nhìn này đã được khoa học duy vật củng cố khi chủ nghĩa duy vật cho rằng ngoài vật chất ra thì không có gì khác. Nói cách khác, chúng ta đều đặt trọng tâm vào vật chất, khiến chúng ta dễ tin rằng vật chất là chất cơ bản, là nguyên nhân. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng vũ trụ vật chất hiện hữu độc lập với tâm mình và do đó tâm có rất ít ảnh hưởng trên vật chất – tâm chỉ có thể phản ứng với vật chất chứ không thể tác động trên vật chất.

Vì vậy khi lần đầu tiên nghe nói có một năng trường bao quanh cơ thể, chúng ta rất dễ nghĩ ngay rằng năng trường này phải do cơ thể sản xuất ra, rằng cơ thể là nguyên nhân và hào quang là kết quả. Tất cả chúng ta đều được dạy rằng từ trường chung quanh thỏi nam châm xuất phát từ cái khối sắt vật lý đó, cho nên chúng ta cũng nghĩ tương tự về hào quang. Và hẳn bạn sẽ tìm được những lời dạy mô tả hào quang là sản phẩm của cơ thể.

Thế nhưng công thức đơn giản của Einstein E=mc2 đã minh chứng là cách nhìn trên không đúng với khoa học. Trong cốt lõi, công thức của Einstein bảo rằng thế giới được cấu tạo bằng duy một chất mà thôi, là năng lượng. Vật chất thực sự chỉ là năng lượng đã khoác lấy một hình dạng khiến nó hiện ra là rắn chắc và không thay đổi đối với giác quan chúng ta. Kỳ thực, năng lượng mới là chất cơ bản nằm bên dưới. Có nghĩa là năng lượng là nguyên nhân và cái mà chúng ta gọi là vật chất chỉ đơn giản là kết quả của một số hiện tượng xảy ra ở những mức sâu hơn của năng lượng lỏng.  

Như vật lý lượng tử đã chứng minh, có một cõi năng lượng với tần số cao vượt ngoài giải tần số của vật chất. Thế giới được tạo ra bằng cách lấy năng lượng cao tần đó, kéo thấp độ rung xuống, rồi một khuôn đúc sinh tạo của tư tưởng được phóng chiếu lên trên nó. Điều này có một ý nghĩa sâu xa: từ trường KHÔNG do cục sắt sản xuất ra mà cục sắt chỉ đơn giản là thành phần dày đặc nhất của một trường năng lượng rộng lớn hơn.

Con mắt vật lý của chúng ta chỉ thấy được phần dày đặc nhất của cái trường này, và đó là lý do tại sao chúng ta lẫn lộn nguyên nhân với kết quả. Sự thực là nguyên nhân nằm ở các tầng cao của năng trường, và mọi thứ thị hiện trong cõi vật chất chỉ là kết quả của những nguyên nhân mà chúng ta không thấy. Có nghĩa là cơ thể con người KHÔNG tạo ra hào quang. Hào quang là một trường năng lượng phức tạp gồm có mấy lớp, làm bằng năng lượng với tần số khác nhau, và cơ thể chỉ là cái phần đặc nhất của trường mà thôi.

Như vậy cơ thể vật lý phát xuất từ trường năng lượng. Năng lượng cấu tạo cơ thể vật lý của bạn đã đến từ một cõi cao hơn. Đầu tiên độ rung của nó bị kéo thấp xuống tầng bản sắc của tâm bạn (bản sắc thể), và ở đây nó khoác lấy một hình dạng tùy theo những tin tưởng của bạn về bản sắc mình. Với hình dạng này, năng lượng sau đó được đưa thấp xuống trí thể của bạn, nơi hình dạng đó trở nên cụ thể và chi tiết hơn. Rồi nó được đưa tiếp xuống cảm thể, và một lần nữa hình dạng càng cụ thể hơn nữa. Và cuối cùng nó được đưa xuống giải tần số rung động của vật chất nơi nó sẽ tác dụng lên cơ thể vật lý của bạn.

Hiểu biết này quan trọng ở chỗ là tất nhiên, bất cứ một tình trạng nào của cơ thể vật lý it khi có nguyên nhân ở mức cơ thể, mà nó khởi đầu là một tin tưởng gây giới hạn nơi bản săc thể, rồi nó ngày càng cụ thể hơn khi nó bị nhào nặn bởi các tin tưởng gây giới hạn nơi các thể liên tiếp sau đó: trí thể, cảm thể, xác thể. Có nghĩa là nếu bạn muốn thực sự giải quyết một tình trạng trong cơ thể thì bạn không thể chỉ tác động cơ thể, bởi vì đó là tầng kết quả, mà bạn phải tác động cả ba thể cao là tầng nguyên nhân. Hiển nhiên, đây chính là mục đích của các dụng cụ tu tập thăng vượt được đăng tải ở đây. Các dụng cụ này sẽ giúp bạn như thế nào?

Các dụng cụ thăng vượt giúp bạn thanh lọc hào quang

Hãy thử xem xét một ví dụ cụ thể. Giả sử có một anh kia mang niềm tin trong thể bản sắc rằng anh là một sinh thể tách biệt, sinh sống trong một thế giới nơi mọi người đều mải mê trục lợi, sẵn sàng dùng vũ lực để giành giựt của cải của anh. Khi năng lượng cao tần từ cái ta tâm linh xối chảy xuống thể bản sắc của anh, nó sẽ bị tô màu bởi tin tưởng đó và khoác lấy rung động của năng lượng sợ hãi.

energyaboveeps

Tin tưởng tách biệt này sẽ phối hợp với năng lượng sợ hãi, rồi được truyền xuống trí thể. Trong cấu trúc của tâm, trí thể nằm ở dưới bản sắc thể, hay nói cách khác, những gì chứa đựng trong bản sắc thể tạo ra một khung sườn và trí thể chỉ có thể hoạt động trong khung sườn đó mà thôi.

Trí thể tiếp cận với nhiều loại tư tưởng hơn là bản sắc thể, và vì vậy trí thể có thể mang nhiều tin tưởng khác nhau, trong số đó có những tin tưởng đi ngược lại hay đặt vấn đề với bản sắc thể. Tuy nhiên khi bản sắc thể càng chất chứa nhiều năng lượng sợ hãi thì mãnh lực của những tin tưởng này phóng chiếu vào trí thể sẽ càng lớn, và do đó trí thể sẽ càng khó cưỡng lại. Đây là lý do một người có thể dùng lý trí để hiểu được câu “không được làm cho người khác những gì mình không muốn người khác làm cho mình”, nhưng lại không có khả năng thể hiện câu này trong hành động. Những tin tưởng trong trí thể không làm sao cãi lại những xung lực từ bản săc thể gửi xuống.     

Sự tin tưởng rằng mình là một sinh thể tách biệt sinh sống trong một thế giới thù địch làm nảy sinh một số tin tưởng nơi trí thể. Những tin tưởng này cũng sẽ tạo ra năng lượng có tần số thấp, và một gói năng lượng sẽ lại được gửi xuống cảm thể. Một lần nữa, nếu năng lượng thấp tụ lại trong hai thể ở trên càng nhiều thì cảm thể sẽ càng có ít khả năng đi ngược lại những gì nó nhận được từ trên.

Nguyên tiến trình này được lặp lại ở mức của cơ thể vật lý là nơi mà hầu hết mọi người đều đặt trọng tâm ý thức. Kết quả là bây giờ anh kia đã trở thành một người tin như đinh đóng cột rằng mình là một sinh thể tách biệt, tin rằng mình có thể chính đáng sử dụng vũ lực hay bạo lực để tự bảo vệ trong một thế giới thù địch và vì thế anh phải không ngừng giao chiến với vô số kẻ thù có thật hay tưởng tượng.

Bây giờ giả thử anh ta có được một kinh nghiệm thức tỉnh (có lẽ vì cơ thể anh bị thương tích hay đau ốm) và anh quyết định mình sẽ thay đổi đời mình. Anh khởi sự nhìn vào tâm lý anh, xét xem tại sao mình cứ cảm thấy bắt buộc phải giao tranh với mọi người.

Nhìn khách quan, hiển nhiên là nếu anh muốn thật sự thay đổi đời anh, anh sẽ cần bước vào một tiến trình có hệ thống nhằm lật mặt những tin tưởng gây giới hạn nơi cả bốn tầng của tâm, cho đến khi anh nhận diện những niềm tin sâu xa nơi bản sắc thể và bắt đầu chuyển đổi chúng một cách ý thức. Các tin tưởng gây giới hạn này được sắp xếp thành một kim tự tháp, và ở trên cùng kim tự tháp là một cái chóp. Chóp đó là niềm tin tưởng rằng mình là một sinh thể tách biệt.  

Vấn đề là khi anh khởi sự nhìn sâu vào tâm lý mình, tâm ý thức của anh sẽ khó lòng nhìn thấy rõ ràng, lý do là vì năng lượng với tần số thấp đã tích tụ trong tiềm thức của anh. Một phần năng lượng này nằm ngay ở mức vật lý và nó che chắn khiến anh có thể khó nhìn thấy những gì xảy ra nơi cõi cảm xúc. Cũng vậy, năng lượng tích tụ ở cõi cảm xúc sẽ ngăn chặn cái nhìn của anh vào cõi tư tưởng, vân vân.

Do chúng ta sống trong một thế giới có nhiều tranh chấp, xung đột và bạo lực, rất có thể hầu hết chúng ta đã tích tụ rất nhiều những loại năng lượng thấp kém trong cả bốn tầng của tâm, hay trường năng lượng. Vì vậy rõ ràng vấn đề trước mắt là phải khởi sự vứt bớt những năng lượng này đi. Như đã giải thích ở nơi khác, cách hiệu quả để làm điều này là thỉnh cầu năng lượng cao tần từ cõi tâm linh để chuyển hóa năng lượng có tần số thấp. Đây là một trong những công dụng của các dụng cụ thăng vượt hầu tạo thêm sức mạnh cho bạn tu tập. Đặc biệt là các bài chú rất hiệu nghiệm để cầu thỉnh ánh sáng.   

Khía cạnh kia là bạn cần khởi sự phát hiện và thay đổi những tin tưởng gây giới hạn nơi bốn tầng của trường năng lượng của bạn. Và một lần nữa, các dụng cụ thăng vượt được lập ra để giúp bạn thực hiện điều này. Các bài cầu thỉnh sẽ đặc biệt thích hợp cho công việc đó. Tất nhiên, việc học hỏi giáo lý tâm linh và tâm lý cũng nằm chung trong tiến trình này.

Bạn cần ý thức rõ vấn đề chủ yếu ở đây. Năng lượng của bạn có một cấu trúc thứ bậc trên dưới. Đối với hầu hết mọi người, tâm ý thức thường đặt trọng điểm nơi tầng của cơ thể và tâm vật lý, nhưng đây là tầng thấp nhất, tầng của kết quả. Bạn chỉ có thể thành công thăng vượt các giới hạn nơi thể này bằng cách đi vào những tầng cao hơn là tầng của nguyên nhân. Đó là tại sao bạn có thể lợi lạc rất nhiều khi bạn phát huy sự nhận biết của mình về năng trường và thanh lọc năng trường này.

Các dụng cụ thăng vượt giúp bạn bảo vệ hào quang

Nếu bạn đã từng theo học một khóa cấp cứu, hẳn bạn cũng biết nguyên tắc đầu tiên của cấp cứu là phải ngăn chặn tai nạn. Khi trên xa lộ xảy ra một tai nạn, công việc đầu tiên của người cấp cứu KHÔNG PHẢI là chăm sóc người bị thương mà là bảo đảm không cho có tai nạn khác xảy ra gây thêm thương tích. Đối với hào quang của bạn cũng vậy.

Việc thanh lọc hào quang đương nhiên là quan trọng, nhưng quan trọng không kém là phải bảo vệ cho nó không nhận thêm năng lượng ô uế. Bạn sống trong một thế giới nơi tất cả đều là năng lượng. Bất kỳ tình huống nào mà bạn gặp trong đời, bạn sẽ phải bước chân vào một “bát cháo năng lượng”. Bạn ưa cái gì thì cái đó cũng ưa bạn. Cho nên nếu bạn mang năng lượng nóng giận trong hào quang, nó sẽ thu hút thêm năng lượng nóng giận từ hào quang của người khác, hay thậm chí từ cả trường năng lượng tập thể bao quanh toàn địa cầu.   

Bạn cũng nên lưu ý rằng song song với sự tranh giành của cải vật chất, còn có sự tranh giành năng lượng. Có những người sẽ cố đánh cắp năng lượng tâm lý hay năng lượng sống của bạn. Lại có những người khác cố kiểm soát bạn bằng cách phóng ra năng lượng với tần số thấp vào hào quang của bạn.

Bạn có thể nhận thấy điều này: tại một số nơi bạn cảm thấy như có sự rung động dữ dội hơn, kích động hơn bình thường, trong khi tại một số nơi khác sự rung động bình thản, êm ả, sảng khoái hơn. Bạn cũng có thể nhận thấy sau khi đi mua sắm ở đâu đó, bạn cảm thấy mệt mỏi, như mất sức sống vậy. Đó một phần là do bạn đã tiếp thu năng lượng có tần số thấp từ những người chung quanh, và phần khác vì họ đã rút mất năng lượng cao tần khỏi hào quang bạn.

Vậy đâu là chìa khóa để cải thiện vấn đề này? Trong ngắn hạn, bạn cần cầu thỉnh ánh sáng cao tần để tạo thành một vòng chắn năng lượng chung quanh hào quang mình. Chắc hẳn bạn đã từng xem phim khoa học viễn tưởng có những chiếc phi thuyền không gian được bao bọc bởi một vòng chắn vô hình mà đạn dược với tia laser không thể xuyên thủng. Bạn cũng vậy, bạn muốn có một tấm khiên chung quanh hào quang của mình.

Dạng năng lượng cao tần hiệu quả nhất để bảo vệ bạn là năng lượng của tia sáng thứ nhất, màu xanh lam. Nơi tia sáng thứ nhất có hai đấng tâm linh có thể giúp bạn thiết lập một vòng chắn bảo vệ chung quanh hào quang. Đó là Đại thiên thần Michael và Elohim Hercules. Bạn có thể tìm thấy những bài chú hai vị thày này ở mục Bài chú. Trong mục những bài Cầu thỉnh, bạn cũng có thể tìm thấy một bài cầu thỉnh Đại thiên thần Michael rất hiệu nghiệm để cầu thỉnh sự bảo vệ của thày.

Vòng chắn bảo vệ chung quanh hào quang bạn có hai chức năng. Nó có rung động thanh cao đến độ bất cứ gì mang rung động thấp hơn sẽ không thể xuyên qua được, có nghĩa là năng lượng thấp không thể xâm nhập hào quang của bạn và đồng thời những năng lượng cao cũng khó lòng bị cưỡng hút ra ngoài.   

Nhưng bạn cần ghi nhớ rằng năng lượng là sóng, vì thế nó vận hành như mọi loại sóng khác. Khi một làn sóng năng lượng thấp đập vào lá chắn, nó giao thoa với năng lượng của lá chắn, tạo ra một mô thức giao thoa. Kết quả là năng lượng thấp được nâng cao độ rung và được vô hiệu hóa. Nhưng đồng thời, năng lượng của lá chắn cũng phần nào bị hạ thấp độ rung, không còn bảo vệ bạn hữu hiệu như trước đó.  

Nói cách khác, khi bạn sinh hoạt trong ngày, cái lá chắn mà bạn đã thỉnh cầu sẽ lần hồi bị vữa ra (tốc độ phân rã tùy thuộc vào khối năng lượng thấp có mặt trong môi trường xung quanh). Cho nên bạn có nhu cầu củng cố lá chắn một cách thường xuyên. Để thực sự bảo đảm một tấm khiên bảo vệ hữu hiệu, bạn cần thỉnh cầu năng lượng lửa xanh mỗi ngày.

Quyền tự quyết có thể làm yếu ánh sáng mà bạn thỉnh cầu

Điều quan trọng mà bạn cần hiểu là giữa các chân sư thăng thiên và các thế lực thấp kém có một sự khác biệt thiết yếu. Các chân sư thăng thiên tôn trọng quyền tự quyết của bạn một cách tuyệt đối, nghĩa là các thày sẽ KHÔNG BAO GIỜ đi ngược lại những lựa chọn của bạn. Xin đưa ra một ví dụ.

Giả thử bạn đọc lời chú mỗi ngày để cầu thỉnh vòng chắn quanh hào quang của mình. Khi bạn đọc chú, vị chân sư đỡ đầu bài chú – chẳng hạn Đại thiên thần Michael – sẽ phóng ra một lượng ánh sáng cho bạn. Một khi bạn đã nhận được năng lượng thì nó vượt ngoài tầm kiểm soát của thày và bạn có toàn quyền sử dụng theo ý muốn.  

Lấy ví dụ một người ham thích vào quán bar nhậu nhẹt. Anh ta cũng có sở thích tâm linh và biết được bài chú. Anh cầu thỉnh Đại thiên thần Michael và thày trao cho anh một số năng lượng che chở. Xong anh khám phá mình có thể đi chơi quán bar mà không cảm thấy khổ não gì sau đó. Anh bèn tiếp tục đi nhậu và cùng lúc anh cũng cầu thỉnh năng lượng tâm linh để bảo vệ anh khỏi những hậu quả của hành vi mình.  

Việc rải truyền năng lượng tâm linh tuân theo một quy luật đơn giản mà Giê-su đã minh họa qua ngụ ngôn về các ta-lăng. Câu chuyện kể rằng có người chủ kia sắp sửa đi xa, trao cho ba người giúp việc mỗi người một số tiền ta-lăng. Khi chủ trở về, ông hỏi họ đã làm gì với ta-lăng của họ. Trong khi có hai người đã tăng trưởng số ta-lăng và được chủ tưởng thưởng thì người thứ ba lại đem ta-lăng mình chôn cất dưới đất. Và người đó bị chủ lấy lại.

Khi chân sư thăng thiên ban cho bạn ánh sáng, mục đích của thày là bạn sẽ sinh sôi nẩy nở ánh sáng đó và sử dụng ánh sáng để có những chọn lựa không còn hạn chế mình. Nếu bạn dùng ánh sáng để tiếp tục có những chọn lựa gây giới hạn, điều đơn giản sẽ xảy ra là chân sư sẽ từ chối ban cho bạn thêm ánh sáng dù bạn có đọc nhiều bài chú đến đâu đi nữa.     

Một điều quan trọng nữa là cách sử dụng quyền tự quyết của bạn có thể vô hiệu hóa vòng chắn của bạn. Như trong trường hợp bạn dùng dụng cụ thăng vượt để cầu thỉnh năng lượng thanh cao của tình thương được lưu trữ trong hào quang. Nếu bạn có vòng chắn bảo vệ, không ai có thể cưỡng bức bạn mà lấy nó đi và không một mãnh lực nào có thể cưỡng hút ra khỏi hào quang của bạn. Thế nhưng nếu bạn có hành động thiện cảm đối với một người nào đó thì sự chọn lựa này của bạn sẽ tạo ra một lỗ hổng trong vòng chắn. Có thể nói, dù vòng chắn tâm linh sẽ che chở bạn khỏi các thế lực bên ngoài, nhưng nó không thể che chở bạn khỏi chính bạn.   

Điều muốn nói ở đây là bạn không thể cầu thỉnh năng lượng tâm linh rồi cứ thế chắc bụng rằng mình không cần phải ý thức về những chọn lựa của mình hay về môi trường chung quanh. Mục đích cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh là để trấn tĩnh trường năng lượng. Khi năng trường bớt rối loạn, tầm nhìn của bạn sẽ sáng rõ hơn. Bạn sẽ phát triển khả năng nhận thức được những sinh hoạt nào khiến cho năng lượng thanh cao bị hút mất và sinh hoạt nào khiến cho năng lượng thấp kém xâm nhập vào năng trường. Và dần dần, khả năng này sẽ trở thành nền tảng giúp bạn có những chọn lựa thuận lợi cho sự tinh tấn tâm linh, cho đến khi bạn không cần sự bảo vệ đó nữa.     

Dụng cụ thăng vượt giúp bạn tái lập dòng năng lượng sống

Hầu hết chúng ta đã thu nạp quá nhiều năng lượng thấp và quá nhiều điều tin tưởng gây giới hạn đến độ ánh sáng từ cái ta tâm linh không thể chảy ở dạng thuần túy qua các năng trường của chúng ta. Hào quang chúng ta không đầy ắp năng lượng cao tần, với hệ quả là có những khoảng trống trong hào quang. Có lẽ bạn đã từng nghe câu nói: “Thiên nhiên không thích khoảng trống”, ý là khi có nơi nào trống trải thì lập tức sẽ có cái gì đó nhảy vào lấp đầy.

Nhưng khi bạn dùng các dụng cụ thăng vượt, bạn sẽ lần hồi thanh lọc hào quang mình không còn những năng lượng với tần số thấp lẫn những tin tưởng gây giới hạn nữa. Kết quả là hào quang trở lại trạng thái tự nhiên, có nghĩa năng lượng cao tần từ cái ta cao hơn của bạn có khả năng chảy xuyên qua bạn một cách thông thoát, không còn bị những thứ chất chứa trong hào quang ngăn trở hay giảm thiểu.

Thật vậy, trong trạng thái tự nhiên, hào quang vận hành giống như một mặt trời. Có quá nhiều năng lượng thanh cao chảy xối qua đến nỗi không còn chỗ nào cho những năng lượng thấp kém tích tụ lại. Và bất kỳ năng lượng nào do người khác phóng vào bạn cũng tự nhiên được chuyển hóa, tương tự như khi bạn ném bất cứ vật gì vào mặt trời thì vật đó cũng sẽ bị ánh sáng toát ra từ mặt trời thiêu hủy.  

Khi bạn đạt đến trạng thái tự nhiên này, không những bạn sẽ được bảo vệ mà bạn còn có khả năng sử dụng năng lượng cao tần chảy xuyên qua bạn để làm phong phú thêm cuộc sống của mọi người. Bạn sẽ biến thành một mặt trời luôn tỏa ra ánh sáng một cách hoàn toàn vô vị lợi cho mọi sự sống chung quanh. Và khi ngày càng có nhiều người trở thành những mặt trời sống như thế, toàn thể hành tinh sẽ được nâng lên.   

Bạn hãy giữ hình ảnh trí tuệ này trong tâm mình. Và cũng không kém trí tuệ là khi bạn hiểu được rằng tiến trình nói trên sẽ đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực kiên trì hầu thăng vượt mọi năng lượng và niềm tin đang làm nghẽn dòng chảy của năng lượng qua hào quang mình. Và bước kế tiếp là phải tìm hiểu những trung tâm năng lượng trong hào quang.   

Sứ vụ Thiêng liêng hầu vươn lên trên xấu ác

Nếu bạn cảm thấy muốn giúp hành tinh này thoát khỏi những hành vi hung ác vừa kể, hẳn bạn đã thấy con đường duy nhất để thực hiện điều này. Vì luật tự quyết, bạn không thể ép buộc người khác từ bỏ cách hành xử vô minh của họ. Bạn có thể cố gắng soi sáng họ, nhưng cách hay nhất là truyền đạt qua sự làm gương. Cho nên việc tiên khởi là bạn cần nâng cao tâm thức chính mình và trầm mình trong tâm Ki-tô. Khi bạn thanh lọc tâm mình, bạn sẽ loại bỏ những yếu tố có thể mở đường cho tà lực xâm nhập vào tâm thức. Bạn sẽ đạt được trạng thái bất khả xâm tâm linh mà Giê-su nói tới trong câu, “Ông hoàng của thế gian đến nhưng không thể nắm được gì trong ta” (John 14:30).    

Nâng cao tâm thức không phải là một phương cách thụ động chỉ nhắm vào chính mình. Như đã giải thích, bản chất của sự sống là tính duy nhất. Tâm và trường năng lượng cá nhân của bạn hiện hữu bên trong môi trường rộng lớn là tâm tập thể và trường năng lượng của hành tinh. Khi bạn nâng cao tâm thức, bạn không thể tránh khỏi kéo cả toàn thể đi lên, và chỉ khi tâm thức tập thể nâng cao thì một số biểu hiện vô minh mới được loại trừ khỏi trái đất.  

Giê-su hiểu rõ nguyên tắc này, vì vậy thày mới nói, “Và nếu ta thăng lên khỏi địa cầu, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” (John 12:32). Bây giờ bạn đã thấy rõ mình có tiềm năng nhập vào tâm Ki-tô và làm những việc Giê-su đã làm. Cho nên việc lớn nhất mà bạn có thể đóng góp cho tương lai địa cầu là đặt trọng tâm vào quả vị Ki-tô cá nhân mình. Nhờ đó, bạn sẽ nâng cao tối đa tâm thức tập thể và trở thành cánh cửa rộng mở, đem lại giải pháp mới cho những vấn đề cũ. Khi có đủ túc số những người cũng thực hiện được điều này, ánh sáng tập thể của họ trở thành ánh bình minh khai mào một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn.  

Trước khi bạn ra đời đầu thai, bạn đã cùng với các vị thày tâm linh của bạn thảo ra một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp này. Sứ vụ đó bao gồm mục đích toàn bộ khi Hiện diện Ta Là của bạn gửi bạn xuống thế gian. Nó thể hiện cá thể thiêng liêng của bạn, là món quà tâm linh đặc biệt, là ngọn lửa tâm linh mà chỉ có bạn mới đem lại được cho địa cầu. Như Giê-su có nói, “Hãy để cho ánh sáng của con chiếu sáng trước mọi người, để họ thấy được việc lành của con và tôn vinh Cha con ở trên trời” (Matthew 5:16). Ấy thế nhưng khi bạn bị rơi xuống một tâm thức thấp kém, bạn đã gây nghiệp với người khác, đã chấp nhận những tin tưởng sai lầm và đã lạm dụng năng lượng. Vì vậy một phần quan trọng trong những mục tiêu của bạn trong kiếp này sẽ là khắc phục quá khứ bằng cách đi theo con đường tâm linh được phác họa trên trang mạng này.

Bạn nên biết trong số những người tâm linh nhất, có nhiều người có tiềm năng quân bình được nghiệp quả và giải quyết mọi tin tưởng bất toàn để thăng hoa vĩnh viễn sau kiếp này. Và chính vì bạn khao khát thăng hoa, rất có thể bạn đã nhận chịu vô số thử thách cam go. Có thể nói bạn đã cố tình chọn trả càng nhiều nghiệp quả, chuốc lấy càng nhiều vấn đề càng tốt để trang trải cho xong và giành được sự tự do vĩnh viễn.       

Bạn cũng nên biết, nhiều người tâm linh đã tự nguyện gánh lấy nghiệp quả cùng năng lượng tha hóa và tin tưởng bất toàn của tâm thức đại chúng hoặc của một số cá nhân khác. Điều này giải thích phần lớn những gánh nặng mà bạn đã nhận lãnh, nhưng xin bạn hãy nhớ, bạn không đầu thai chỉ để gánh chịu suốt đời, Sứ vụ Thiêng liêng của bạn phần nào là để chứng tỏ cho mọi người thấy tiềm năng mà mỗi người đều có để vươn lên khỏi những giới hạn thế phàm qua sự cải tiến tâm thức. Cho nên nếu bạn thực sự gắng sức, bạn sẽ khắc phục được mọi khó khăn và minh chứng con đường thoát khỏi bóng tối, bước vào ánh sáng.     

Tóm lại, rất có thể trong Sứ vụ Thiêng liêng của bạn có cả ý muốn theo đuổi con đường quả vị Ki-tô cá nhân hầu chứng minh cho người khác. Và thật vậy đối với nhiều người, việc xem mình là Giê-su để bước đi theo gương thày là một chuyện rất khó khăn. Nhưng nếu họ có thể thấy được hàng ngàn người thời nay chứng thực được con đường đó, thì họ sẽ thức tỉnh và nhận ra tiềm năng tâm linh của họ.    

Do mối liên hệ giữa tâm thức và vật chất, hiển nhiên mỗi vấn đề trên địa cầu là sự phản ánh của tâm thức tập thể trong nhân loại. Cho nên cách hữu hiệu duy nhất để giải quyết bất cứ vấn đề gì là nâng cao tâm thức tập thể. Nhưng trên thực tế, chỉ có 10% dân số, là những người đứng đầu nhân loại mới có thể thực hiện được điều đó. “Đứng đầu” ở đây không có nghĩa là giàu có hay có địa vị cao nhất trong xã hội, mà là trưởng thành nhất về tâm linh cùng tâm thức Ki-tô.  

Phần lớn dân số nhân loại, khoảng 80%, đã bị tâm thức đại chúng áp đảo đến độ họ chỉ biết đi theo, hoặc đi theo số 10% ở trên cùng, hoặc đi theo số 10% ở dưới cùng tức những người có tâm thức thấp nhất. Những người này thường ham muốn quyền lực và họ lập thành một lớp thượng lưu quyền lực đã gây ra hầu hết các tội ác trong lịch sử chỉ vì họ áp dụng châm ngôn cố hữu của triết lý nhị nguyên, là cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Để chống cự lại tầm ảnh hưởng của họ, số 10% ở trên cùng cần nâng cao tâm thức rồi làm chứng cho sự thật thăng vượt mà họ đã nhìn thấy. Nhờ đó tâm thức tập thể sẽ dâng lên, và một khi sự thay đổi xảy ra, một số vấn đề đặc thù sẽ không thể chấp nhận được nữa và các điều kiện trong xã hội sẽ bắt đầu cải hóa. Đó chính là phương cách mà thể chế dân chủ đã ra đời, hay chế độ nô lệ được chính thức bãi bỏ. Không một vấn đề nào có thể tự dưng biến mất mà tâm thức không nâng cao. Bạn phải bắt đầu bằng một người, là chính BẠN. Cho nên câu hỏi duy nhất còn lại là, “Liệu tôi sẽ chọn là Ki-tô, hay tôi sẽ chọn không là Ki-tô?”

Tại sao thế giới lại có xấu ác?

Nhà tâm lý học M. Scott Peck kể rằng suốt mấy thập niên hành nghề, nhiều người đã hỏi ông, “Tại sao thế giới lại có xấu ác?” nhưng không ai từng hỏi ông câu hỏi cũng không kém hợp lý, “Tại sao thế giới lại có tốt thiện?”… cứ như thể là ai nấy đều biết thế giới căn bản là tốt thiện và sự xấu ác chỉ là một điều không bình thường.

Dựa trên bài viết trước, rõ ràng xấu ác là kết quả của tâm thức phản Ki-tô đã tạo điều kiện cho con người tách biệt khỏi mục đích và quy luật của Thượng đế. Nó đã giam hãm con người sau một tấm màn ảo tưởng, từ đó phát sinh ra nhiều hình thức hành vi ích kỷ. Do con người không nhìn thấy được bản chất duy nhất của sự sống nên cứ tưởng mình có thể làm hại người khác mà không tổn thương gì đến mình. Người ta đặt ra những định nghĩa riêng của mình về thiện và ác, khiến họ có thể tin rằng Thượng đế sẽ thưởng công cho họ khi họ giết hại tín đồ của một tôn giáo khác. Thật ra, họ không biết gì hơn nên cũng chẳng làm gì được hơn.

Tâm phản Ki-tô là chọn lựa đi kèm với quyền tự quyết và nó sẽ luôn luôn là sự cám dỗ cho bạn cho tới khi bạn đạt đến bản sắc cao nhất là sự nhận biết mình là con của Thượng đế, là chính Ki-tô hiện thân. Ngay đến Giê-su mà còn bị ác quỷ cám dỗ khi thày khởi sự sứ mạng của thày. Cho nên xấu ác không phải do Thượng đế tạo ra, nó không phải là đối cực của Thượng đế, và nó không cần thiết để thiên ý được hoàn thành. Trái lại, xấu ác là kết quả của một lựa chọn, một lựa chọn thiếu hiểu biết. Nó phát xuất từ sự vô minh, nhưng không phải vô minh trong nghĩa dốt nát mà một hình thức cố tình vô minh khi chính mình tạo ra ảo tưởng rằng hành vi của mình không có gì xấu ác.  

Điều này giải đáp một câu hỏi nữa, đó là tại sao Thượng đế lại cho phép rắn có mặt trong Vườn Eden. Trong định nghĩa rộng nhất của rắn, đó là biểu tượng cho tâm phản Ki-tô, là cám dỗ mà người đồng sáng tạo phải đối mặt trước khi đạt quả vị Ki-tô trọn vẹn, như Giê-su đã từng đối mặt. Nhưng rắn còn có một ý nghĩa cụ thể hơn, là biểu tượng cho những kẻ đồng sáng tạo đã cố tình phản nghịch lại quy luật Thượng đế và đang cố ngăn cản mục đích của Thượng đế thành hình.   

Những bài trước đã có trình bày về tiến trình sáng thế khi Thượng đế sinh tạo ra một số bầu cõi trong hư không. Một bầu cõi tân lập chỉ có một lượng ánh sáng hạn chế, tạo cơ hội cho tâm phản Ki-tô có mặt ở đó. Vì bóng tối còn quá dày đặc nên các ảo tưởng của tâm phản Ki-tô chưa bị lộ nguyên hình. Nhưng khi bầu cõi gia tăng ánh sáng đến một mức quyết định, nó sẽ thăng lên một độ rung cao hơn và ánh sáng sẽ mạnh mẽ đến độ không còn bóng tối nào có thể hiện hữu. Khi đó, tâm phản Ki-tô sẽ không thể tồn tại vì không còn vùng tối nào nữa cho nó ẩn nấp.  

Bầu cõi có thăng lên được là nhờ đa số dòng sống ở đó cũng đã thăng lên. Tuy nhiên vì mỗi người có quyền tự quyết, cho nên không có gì bảo đảm mọi người trong bầu cõi đều đồng ý hay tham gia tích cực vào tiến trình đó. Rất có thể là vẫn còn một số dòng sống bám víu vào những ảo tưởng của tâm phản Ki-tô. Luật tự quyết cho phép họ cứ tiếp tục trong tâm trạng đó một thời gian, nhưng khi bầu cõi thượng thăng, họ không thể ở lại với bầu cõi nếu họ vẫn bám mắc vào ảo tưởng. Họ sẽ phải đi tới một nơi nào khác, tức là một nơi còn đủ bóng tối để dung thứ ảo tưởng tách biệt của họ. Cụ thể, điều này có nghĩa là họ sẽ phải đi xuống bầu cõi mới lập, tức là bầu cõi được sinh tạo tiếp theo sau khi bầu cõi trước đã thăng thiên. Tiến trình này được mô tả trong Kinh thánh:

“Tôi lại nghe có tiếng nói lớn trên trời rằng: Bây giờ sự cứu rỗi và sức mạnh đã đến, cùng với vương quốc Thượng đế chúng ta và quyền năng đấng Ki-tô của ngài, vì kẻ buộc tội anh em chúng ta, kẻ đã ngày đêm buộc tội anh em trước mặt Thượng đế, nay đã bị quăng xuống rồi.

“Anh em đã khắc phục nó bằng huyết Chiên Con và bằng lời chứng của mình; anh em chẳng tiếc đời sống của mình cho đến chết.

“Bởi vậy, hỡi các tầng trời và các đấng ở đó, hãy vui mừng đi! Khốn nạn thay cho các cư dân của đất và biển, vì ác quỷ đang giận dữ đến cùng các người, bởi vì nó biết thời gian của nó chỉ còn ngắn thôi” (Khải huyền 12).

Đoạn trích hơi khó hiểu ở trên mô tả những gì xảy ra khi bầu cõi ở ngay trên vũ trụ vật chất chúng ta thượng thăng để nhập cõi tâm linh. Những kẻ đồng sáng tạo còn dính mắc tâm phản Ki-tô và từ chối thăng hoa, bắt buộc phải đi xuống vũ trụ vật chất. Họ đầu thai trên địa cầu và điều này giải thích tại sao lại có một số người hình như hoàn toàn quyết tâm xấu ác trên hành tinh chúng ta. Hơn thế nữa, họ lập thành một “thế lực” xấu ác ẩn nấp đằng sau tấm màn những năng lượng tha hóa mà nhân loại đã tạo nên, và họ tìm cách khuynh loát những con người đang hiện thân. Các sinh thể không xác này có mặt trong trường năng lực bao quanh trái đất, và họ có khả năng ảnh hưởng nhân loại qua tự ngã của nhân loại. Đó là tại sao những tin tưởng nhị nguyên cùng năng lực tha hóa đang nuôi dưỡng tự ngã của bạn là những cánh cửa để họ xâm nhập vào tâm thức bạn. Và điều này giải thích tại sao nhiều khi chúng ta có thể mất kiểm soát đời mình.      

Điều quan trọng nhất cần hiểu là các sinh thể này đã bị cắt đứt khỏi nguồn năng lựợng xối xuống từ bản ngã tâm linh của họ. Vì vậy họ không thể nhận được năng lượng trực tiếp từ trên, mà họ chỉ có thể sống còn bằng cách đánh cắp năng lượng từ những người vẫn còn giữ liên hệ với cái ta tâm linh của mình. Đó là tại sao một số người, cũng như một số hồn không xác, luôn tìm cách xúi giục nhân loại có những hành vi tha hoá năng lương. Bởi chỉ khi nào độ rung năng lượng bị kéo xuống thấp thì họ mới có thể thấm hút vào bản thân họ.  

Và đây là lời giải thích cho những hành vi tàn bạo tồi tệ nhất mà hành tinh này có thể chứng kiến, như những cuộc chiến vô nghĩa, lạm dụng tình dục trẻ em, hiếp dâm, giết người hàng loạt cùng đủ loại tội ác dã man khác. Khi bạn nhìn vào những hành vi đó, hẳn bạn sẽ nghĩ, “Tại sao người ta làm những chuyện đó, mục đích là gì?” Thật sự, những kẻ làm vậy chẳng có mục đích gì hết. Chẳng qua tâm trí họ đã bị tạm thời – thậm chí, vĩnh viễn – chiếm đoạt bởi một thế lực đang khuynh loát họ với mục tiêu duy nhất là sản xuất cái năng lượng tha hóa mà nó cần hầu sống sót.

Bởi thế cho nên phần lớn những xung đột giữa con người với nhau kỳ thực chỉ là một cuộc chiến tranh giành năng lượng tâm linh. Những kẻ không thể nhận được năng lượng tự trong bản thân bắt buộc phải đi lấy cắp từ những ai vẫn còn nhận được. Kẻ bần cùng phải lấy từ những người có của.   

Trái cây của hiểu biết thiện ác

Câu chuyện Vườn Eden trong Kinh thánh chứa đựng nhiều biểu tượng về sự lựa chọn giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô xảy ra trong nội tâm mỗi người. Thượng đế được mô tả trong chuyện kỳ thực là một vị chân sư tâm linh đã chứng đạt tâm Ki-tô toàn vũ, cho nên thày đại diện cho đấng Ki-tô toàn vũ. Chân sư là vị thày dẫn dắt Adam và Eva – biểu tượng cho một số đông những người đồng sáng tạo – trên đường tu đạt quả vị Ki-tô cá nhân. Nhóm người đồng sáng tạo đó khởi sự với một khả năng tự nhận biết hạn chế và một bản sắc sinh thể tách biệt, nhưng đường tu tập sẽ đưa họ hợp nhất với nguồn cội, tìm lại bản sắc chân thực là những đứa con của Thượng đế. Kinh thánh có nói về Ki-tô như vầy, “Thế nhưng người nào mà tiếp nhận ngài, ngài sẽ ban cho quyền năng trở thành con Thượng đế” (John 1:12). Cho nên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cũng là Con đường của Duy nhất.

Trên chặng đường tâm linh, học trò phải đối mặt và khắc phục được cám dỗ dùng tâm phản Ki-tô để tách mình ra khỏi vị thày và nguồn cội của mình, và thay vào đó tìm cách hợp nhất với nguồn cội. Điều này được biểu tượng qua “trái cây của hiểu biết thiện ác” trong vườn Eden. Chìa khóa để lãnh hội ẩn ý đằng sau biểu tượng này là nhận ra một sự khác biệt vi tế nhưng thiết yếu. Với tâm Ki-tô, bạn nhìn thấy rõ Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của tất cả, tức là có một thực tại duy nhất nằm bên dưới những hình dạng muôn vẻ. Bạn thấy được mục đích của Đấng Sáng tạo và lợi ích cho bản thân mình khi mình tuân thủ quy luật của ngài. Bạn cũng thấy cái ta cao hơn của mình đã quyết định tạo ra cái Ta Biết để góp phần vào tíến trình sáng tạo của Thượng đế. Vì thế không hề có mâu thuẫn nào giữa mục đích của Đấng Sáng tạo và những ước muốn cao quý của bạn.

Trong tâm Ki-tô có một tiêu chuẩn tuyệt đối để phân biệt thiện hay ác, đó là chân hay giả. Tâm Ki-tô biết rõ điều chân là hợp nhất với mục đích cùng quy luật Thượng đế, còn điều giả là tách rời khỏi mục đích lẫn quy luật Thượng đế.

Khi bạn nhìn thế giới với tâm phản Ki-tô, bạn không thể nhận ra tính duy nhất nằm ẩn dưới mọi sự sống cùng mục đích và quy luật Thượng đế. Tức là tâm phản Ki-tô không thể nhìn thấy thực tại, mà nó chỉ nhìn thấy một hình ảnh của thực tại do nó dựng ra, phóng chiếu lên thực tại. Điều này được nhấn mạnh trong hai điều răn đầu trong số mười điều răn, “Con không được có thần nào khác trước ta. Con không được làm bất cứ tượng chạm nào cho con” (Exodus 20). Ý muốn nói rằng khi bạn nhìn thế giới với tâm phản Ki-tô, bạn tạo ra một hình tư tưởng về Thượng đế mà bạn muốn thấy, xong bạn phóng chiếu hình ảnh đó lên Thượng đế, để rồi bạn thờ phượng một thần tượng, làm che mất Đấng Sáng tạo chân chính vượt mọi hình tướng.  

Trong tâm phản Ki-tô, không có tiêu chuẩn tuyệt đối nào để phân biệt thiện và ác, mà trái lại thiện ác trở thành những khái niệm tương đối, chỉ tồn tại trong mối quan hệ với nhau. Thiện là đối nghịch của ác, và ác là đối nghịch của thiện. Ấy vậy mà tâm phản Ki-tô lại cố định nghĩa cả thiện lẫn ác, nhưng cả hai đều xa rời thực tại, và cái thiện của phàm phu không làm sao đồng điệu được với cái thiện tuyệt đối của Thượng đế. Chính vì cái nhìn này mà con người có thể tạo ra một tấm màn ảo tưởng chia cách họ với nguồn cội, rồi họ quên luôn nguồn cội đó. Đấy cũng là lý do họ có thể tin rằng mình là những con thú thông minh thay vì là những đấng tâm linh, hay là những kẻ tội lỗi đốn mạt thay vì là con của Thượng đế. Thậm chí, họ còn tin rằng họ là những con người rất sùng đạo, bảo đảm sẽ được cứu rỗi mai hậu, trong khi họ vẫn bị giam trong cái tâm tách biệt, không làm sao bước vào Nước Trời ở ngay tâm họ bây giờ.

Đó là tại sao Giê-su nói đến con đường chân và con đường giả như sau: “Con hãy vào cửa hẹp, vì cửa rộng với đường lớn dẫn đến hủy diệt, mà kẻ vào đó lại nhiều. Song cửa hẹp với đường chật mới dẫn đến sự sống, và kẻ tìm được thì ít.” (Matthew 7) 

Đây là một điều mà bạn cần tận tình suy ngẫm cho đến khi hoàn toàn nhập tâm. Lý do là vì bạn đã lớn lên trong một xã hội bị tâm phản Ki-tô ảnh hưởng bằng nhiều cách rất tinh vi. Nhiều cơ chế đủ loại trong xã hội đã có thể tự ý định nghĩa thế nào là “sự thật” mà họ cam đoan là không thể sai lầm. Chính vì có quá nhiều đoàn nhóm tuyên bố mình nắm giữ “sự thật” chắc nịch như thế – thay vì tìm về chân lý Thượng đế trong viễn kiến trong suốt – mà hành tinh chúng ta phải chứng kiến vô số xung đột dường như không cách nào giải quyết. Những “sự thật” đó do con người tạo ra khiến cho hai nhóm thù địch có thể giết hại lẫn nhau nhân danh cùng một Thượng đế. Nhưng đây không do tôn giáo sai lầm mà do loài người thực hành tôn giáo sai lầm.  

Thực tế là mọi vấn nạn hiện nay trên địa cầu đều do con người bị mù quáng bởi tâm phản Ki-tô. Và có quá nhiều vấn nạn và xung đột dường như vô phương cứu chữa là vì con người tiếp tục nhìn tình thế với cái tâm phản Ki-tô chỉ biết lý luận nhị nguyên, tương đối. Có một quy luật ngàn đời nói rằng bạn không thể giải quyết một vấn đề với cùng cái tâm thức đã tạo ra vấn đề. Mỗi vấn nạn trên địa cầu đều có cách giải quyết cả, nhưng để tìm thấy cách giải quyết tốt nhất đó, bạn phải trước hết nâng tâm thức mình lên cao hơn cái tâm thức đã gây ra vấn nạn. Và bởi vì mọi vấn nạn đều xuất phát từ tâm phản Ki-tô cho nên bạn phải vươn lên tâm Ki-tô trước tiên. Chính vì vậy mà Giê-su mới nói, “Trước tiên con phải quăng cây đà khỏi mắt mình, rồi con mới thấy rõ để lấy hạt bụi khỏi mắt anh em” (Matthew 7:5).   

Hiện nay có hàng triệu người đã tình nguyện đầu thai vào đúng thời điểm này trong lịch sử vì họ mong muốn giải quyết những vấn đề tràn lan trên địa cầu, giúp đưa địa cầu vào một kỷ nguyên mới tốt đẹp hơn, hay ngay cả một Thời Hoàng kim hoà bình thịnh vượng. Tuy nhiên để điều này thành hình, nhân loại phải học đầy đủ bài học mà đáng lý đã phải học từ Giê-su và sứ mệnh của thày khi trước. Bài học căn bản là bạn có một chọn lựa khác hơn là cái “sự thật” tương đối, nhị nguyên của tâm phản Ki-tô. Tâm phản Ki-tô chỉ biết suy nghĩ trong đối cực hai bên, một bên phải đúng và bên kia phải sai. Nhưng Giê-su dạy rằng khi nào cái nhìn còn bị chia đôi thì cả hai đối cực đều không đúng, “Ánh sáng của thân thể là con mắt; cho nên khi mắt con đơn nhất, toàn thân con cũng sẽ tràn ngập ánh sáng; nhưng khi mắt con xấu ác, thân con cũng sẽ tràn ngập bóng tối.” (Luke 11:34)

Con mắt xấu ác chính là viễn kiến bị phân chia giữa hai đối cực tương đối của tâm phản Ki-tô. Cho nên để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng cá nhân, bạn phải trước hết nâng cao tâm thức hầu bắt đầu nhìn vượt thấu tấm màn do cái nhìn nhị nguyên phản Ki-tô dựng lên. Và chỉ khi nào mắt bạn đơn nhất, có nghĩa khi cái nhìn không còn chia thành đối cực tương đối, thì bạn mới thấy rõ cách giải quyết những vấn đề cá nhân cùng những vấn nạn to lớn hơn. Chỉ khi nào có đủ túc số những người đạt được viễn kiến đơn nhất của tâm Ki-tô thì họ mới có thể nâng xã hội vào một kỷ nguyên mới. Bởi vậy, điểm khởi đầu là tẩy sạch những ảo tưởng phản Ki-tô khỏi tâm mình và vươn lên viễn kiến Ki-tô – khi đó bạn sẽ tìm được giải pháp cho những vấn đề mà bạn đã tới đây để giải quyết.

Như Giê-su có nói, “Nhưng trước hết, con hãy tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của ngài, rồi tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con” (Matthew 6:33). Nước Trời tức là tâm thức Ki-tô, và khi bạn có được thì giải pháp cho mọi vấn để sẽ được ban thêm cho bạn. Và một lần nữa, Giê-su cũng nói, “Điều đó loài người không thể làm được, nhưng với Thượng đế thì mọi điều đều làm được” (Matthew 19:26). Bạn chỉ có thể ở nơi Thượng đế qua tâm Ki-tô.

Ki-tô và phản Ki-tô – LÀ hay không là

Khi Đấng Sáng tạo quyết định ban quyền tự quyết cho con người đồng sáng tạo, ngài thừa biết họ có thể lạm dụng khả năng sáng tạo của mình. Hậu quả sẽ là một tấm màn được tạo ra từ những năng lực bị tha hóa cùng các tin tưởng sai lạc. Tấm màn sẽ chia cách họ (trong chính tâm họ chứ không phải trên thực tế) khỏi các vị thày tâm linh, khỏi cái ta tâm linh của họ và Đấng Sáng tạo. Rồi họ sẽ quên mất nguồn gốc cùng bản sắc tâm linh và tin rằng chẳng qua mình chỉ là những con thú có tiến hóa, là sản phẩm của di truyền và môi trường. Làm thế nào giảm thiểu rủi ro đây? Và làm thế nào Đấng Sáng tạo có thể bảo đảm họ luôn luôn có sự chọn lựa để trở về bản sắc chân thực của mình cho dù đã rơi xuống những vùng tâm thức tối tăm nhất? Đấng Sáng tạo phải thiết lập một cơ cấu an toàn trên toàn vũ trụ – một giải pháp xem ra thật tài tình.  

Như đã giải thích, Đấng Sáng tạo khởi đầu tiến trình sáng thế bằng cách co rút Bản thể mình vào một điểm dị biệt, mở ra một vùng hư không chung quanh. Nhưng sau đó, ngài lại không ngừng lan rộng để cuối cùng lấp đầy khoảng hư không đó. Nghĩa là trong tiến trình sáng thế có hai lực căn bản, một lực lan ra (Thượng đế Cha) và một lực co lại (Thượng đế Mẹ). Nếu lực lan ra chiếm ưu thế, năng lượng Đấng Sáng tạo sẽ mặc sức bành trướng rồi nổ tung, trong khoảnh khắc lấp đầy khoảng hư không. Còn nếu lực co lại chiếm ưu thế, tất cả sẽ rút sâu vào một lỗ đen và không một cấu trúc nào sẽ có thể tồn tại. Vì mục đích của sáng tạo là cung ứng một nhịp tăng trưởng lần hồi để những người đồng sáng tạo có điều kiện phát triển khả năng tự nhận biết, cho nên phải có một lực nào đó để giữ cán cân thăng bằng giữa hai lực lan ra và co lại, bảo đảm một độ tăng trưởng quân bình sẽ lần hồi dẫn đến mục tiêu tối hậu.

Lực được thiết lập để tạo quân bình này giữa lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ là đứa Con Một của Thượng đế, tức là tâm Ki-tô toàn vũ, mà Kinh thánh gọi là Ngôi Lời. Đây là tâm toàn vũ vượt trên mọi con người, tuy nhiên một cá nhân vẫn có khả năng chứng đạt hợp nhất với tâm đó để trở thành đấng Ki-tô trong hiện thân, trở thành Ngôi Lời nhập thế. Trên thực tế, tiềm năng cao nhất cho mọi con người là cho phép cái tâm đã từng ngụ nơi Ki-tô Giê-su vào ngụ nơi mình. Và như thế họ sẽ hoàn thành chức năng là người đồng sáng tạo hoàn toàn giác ngộ đã đem tâm ngự trị vật chất, như Giê-su và các vị giác ngộ khác đã làm.   

Tâm Ki-tô là yếu tố kết hợp đằng sau hằng hà biểu thị của thế giới hình tướng.  Tâm Ki-tô chứa đựng bản mẫu cuộc sáng thế, kể cả mục đích của Đấng Sáng tạo cùng mọi quy luật tâm linh lẫn quy luật thiên nhiên. Và như Kinh thánh có dạy, “Không có ngài thì không gì được tạo thành” (John 1:3), nghĩa là đằng sau mọi hình dạng vỏ ngoài là thực tại duy nhất của tâm Ki-tô. Hệ quả của điều này là bạn không bao giờ có thể đánh mất khả năng tìm lại bản sắc chân thực của mình.

Cho dù bạn có rơi xuống một tầng tâm thức thấp hơn hẳn tâm thức nguyên thủy khi bạn được sinh tạo, bạn sẽ không bao giờ bị mất tâm linh hoàn toàn. Bạn LUÔN LUÔN có khả năng vươn về tâm Ki-tô là vị cứu tinh thực sự của nhân loại. Chính Giê-su cũng có đề cập đến tâm Ki-tô nhưng vì chỉ được phép giảng dạy bằng ngụ ngôn, cho nên thày đã dùng một tên gọi biểu tượng là “Nước Trời”. Thật vậy, thày nói rằng Nước Trời ở ngay trong bạn (Luke 17:21), có nghĩa Nước Trời là một trạng thái tâm thức.

Tâm Ki-tô là yếu tố kết hợp, bảo đảm sự hợp nhất giữa Đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, mà cụ thể nhất là những con người đồng sáng tạo với khả năng tự nhận biết và quyền tự quyết. Vì có quyền tự quyết nên con người phải được cho phép đi ngược lại quy luật Thượng đế. Tuy nhiên, họ không thể đi ngược lại quy luật đó khi họ vận dụng tâm Ki-tô, có nghĩa là tâm Ki-tô có một đối nghịch, là tâm phản Ki-tô.

Tâm phản Ki-tô tạo cơ hội cho người đồng sáng tạo tự tách rời khỏi Thượng đế và các vị thày tâm linh. Làm vậy, họ dựng ra một tấm màn khiến họ tưởng mình bị chia cắt khỏi Đấng Sáng tạo, chia cắt khỏi người khác và chia cắt khỏi hành tinh nơi họ sinh sống. Do vậy mà họ có thể quên mất mục đích sáng tạo của Thượng đế là gì, hoặc họ có thể cố tình đối nghịch lại mục đích đó và từ chối chu toàn chức năng của mình.

Một khi bạn chiêm nghiệm được phần nào tâm Ki-tô, bạn sẽ thấy được tính duy nhất của mọi sự sống, và bạn sẽ không thể làm tổn thương một người khác. Sở dĩ Giê-su dạy bạn hãy làm cho người khác những gì bạn muốn họ làm cho mình là vì thày đã thấm nhuần tính duy nhất của mọi sự sống. Thày biết rõ những gì bạn làm cho người khác thì bạn cũng làm cho chính mình, cho cái ta lớn hơn. Thế nhưng khi bạn bị mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô, bạn cứ đinh ninh rằng mình riêng biệt hẳn với cái ta lớn đó, thậm chí rằng cái ta lớn đó không hề có. Từ đó mới nổi lên ảo tưởng rằng bạn có thể làm hại người khác mà mình sẽ không hề chi. Hơn thế, bạn sẽ ảo tưởng rằng việc làm của mình không hề có hậu quả nào, và mình có thể gạt gẫm được vũ trụ, trốn tránh hậu quả.     

Chắc hẳn bạn đã nghe câu hỏi đặt ra trong vở kịch Hamlet nổi tiếng của Shakespeare, “Là hay không là, đó mới là vấn đề”. Câu này có một ý nghĩa thâm sâu, “Là Ki-tô hay không là Ki-tô, đó mới là vấn đề thực sự”. Bạn có tiềm năng là Ki-tô hiện thân, nhưng chỉ có bạn mới trả lời được câu hỏi, liệu tôi sẽ chọn là Ki-tô, hay tôi sẽ chọn không là Ki-tô.

Kết nối lại với vị thày tâm linh

Để học những bài học trong đời, bạn có hai lựa chọn. Bạn có thể tiếp tục Trường đời Cay đắng nơi đó bạn phải tự tìm lấy lối thoát và tự quân bình lấy nghiệp quả. Hoặc bạn có thể nỗ lức hòa giải với vị thày tâm linh của bạn, nhờ đó bạn nhận được sự hướng dẫn cùng hồng ân của thày. Sự hòa giải này với vị thày tâm linh là một trong những mục đích chính của đường tu tâm linh. Bạn có thể cất bước trên đường bằng cách tìm hiểu các giáo lý tâm linh vỏ ngoài và thực hành các kỹ thuật thanh tẩy bốn thể phàm của bạn. Khi bạn loại bỏ những tin tưởng sai lầm và các năng lượng đã bị tha hóa, bạn sẽ lần hồi lấy lại một cách tự nhiên mối liên hệ nội tâm trực tiếp với cái ta Ki-tô của bạn, với Hiện diện Ta Là của bạn cùng (các) vị thày tâm linh của bạn.

Có rất đông vị thày tâm linh đang phụng sự trong công tác nâng cao tâm thức loài người, và mỗi chúng ta đều có một vị thày cá nhân như thế. Các thày đã từng là linh hứng đằng sau nhiều tôn giáo lớn và nhỏ trên thế giới – ở dạng nguyên thủy của các tôn giáo đó – cũng như đã rải truyền nhiều khám phá khoa học. Người ta gọi các thày bằng nhiều tên như Đại đoàn Thượng thăng, Đại đoàn Chưởng giáo, Đại Bạch Huynh đệ (màu trắng ở đây là màu ánh sáng các thày, không phải màu da) hay giản dị là các chân sư thăng thiên. Các thày phụng sự theo từng chu kỳ, hay khoảng thời gian nhất định, nhiều khi kéo dài khoảng 2000 năm.

Chân sư Giê-su đến Trái đất cách đây 2000 năm để đặt nền tảng cho chu kỳ tâm linh gọi là Thời đại Song ngư, với ý định là loài người sẽ học hỏi gương của thày, cất bước đi theo con đường mà thày vạch ra và nhờ đó đạt được cùng một trạng thái tâm thức như thày đã biểu lộ. Đó là tại sao tông đồ Paul có nói, “Hãy để tâm này trong con cũng chính là tâm ở trong Ki-tô Giê-su” (Philippians 2:5) và Giê-su cũng có dạy, “Ai tin ta thì việc gì ta làm, người ấy cũng sẽ làm” (John 14:12).

Trái đất hiện đang chuyển sang chu kỳ tâm linh kế tiếp gọi là Thời đại Bảo bình. Bình thường, nhân loại sẽ dựa trên nền tảng tâm thức đã xây dựng trong thời đại trước hầu đạt tự do tâm linh cao hơn trong thời đại này. Nhưng tiếc thay, giáo lý tâm truyền của Giê-su đã bị hiểu lầm phần lớn và do đó đa số nhân loại không hề biết rằng mục đích của mình là đạt được tâm thức Ki-tô.

Dẫu vậy, vẫn có nhiều người nhạy bén tâm linh với tỉnh giác cao độ cảm nhận được rằng họ có một sứ mệnh và đóng góp quan trọng trong thời đại hôm nay. Lý do là vì họ đã chọn hiện thân trong kiếp đầu thai này để giúp tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình chuyển tiếp từ tâm thức Song ngư sang tâm thức Bảo bình. Nếu bạn đã đọc quyển sách này cho đến trang này thì rất có thể bạn là một trong những người đó. Bạn sẽ không bao giờ cảm thấy hoàn toàn thoả mãn cho tới khi bạn nối kết lại với sứ mệnh tâm linh cùng nhiệm vụ thiêng liêng của mình. Để hiểu trọn vẹn sứ vụ này là gì, bạn cần hiểu rõ sự khác biệt giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô.

Sự Sa ngã của loài người

Khi cái Ta Biết lần đầu tiên bước xuống cõi vật chất, bạn chỉ có một ý niệm tự nhận biết rất hạn chế. Bạn là phần nối dài của Hiện diện Ta Là của bạn nhưng bạn không ý thức điều đó, cũng như bạn không ý thức về cá thể tâm linh của mình. Bạn không biết gì về các quy luật của Thượng đế, cho nên bạn vi phạm những quy luật này và làm tha hóa năng lượng tâm linh mà không hề hay biết. Có vẻ như chuyện này không mấy công bằng khi bạn phải chịu trách nhiệm về những quy luật mà bạn không biết, tuy nhiên điều thực sự xảy ra đã không hẳn là như vậy.

Đối với một người đồng sáng tạo tân lập, việc bước xuống cõi vật chất lần đầu tiên không giống như là mình bị quăng vào một khu rừng rậm mà không có địa bàn. Thật ra, người đó bước vào một bầu cõi được che chở an toàn dưới sự trông coi của một vị thày đến từ cõi tâm linh ở ngay trên vũ trụ vật chất. Vị thày sẽ hướng dẫn người đó và giải thích một cách ưu ái rằng mọi hành động đều mang hậu quả. Vị thày cũng nhận trách nhiệm về nghiệp quả của học trò, nghĩa là khi trò học xong bài học thử nghiệm, vị thày sẽ quân bình nghiệp quả đã phát sinh để trò có thể tiếp tục tu học mà không bị những lầm lỗi của mình cản bước.  

Nhiều tôn giáo trên thế giới vẫn còn giữ những truyền thuyết hay hình ảnh của thời lý tưởng đó. Ví dụ phổ biến nhất ở Tây phương là câu chuyện Vườn Eden. Câu chuyện kể lại bằng thần thoại một sự kiện đã xảy ra cho mỗi con người trên địa cầu, nghĩa là Adam và Eva không phải là hai sinh thể độc nhất có mặt nơi Địa đàng. Mỗi người trong chúng ta đều từng khởi đầu trong trạng thái tâm ở vườn Địa đàng dưới sự trông nom trực tiếp của một vị thày tâm linh. Thế nhưng như câu chuyện kể tiếp, con người bắt đầu hồ nghi vị thày mình và do đó phải rời khỏi khu vườn. Kỳ thực, họ không hề bị đuổi ra khỏi vườn, mà đơn giản họ đã kéo thấp độ rung của tâm thức, khiến cho họ mất hẳn ý thức về Địa đàng và cũng mất liên lạc với thày. 

Sau khi trò không còn liên hệ với thày nữa, luật tâm linh quy định rằng thày không thể tiếp tục mang hộ nghiệp quả cho trò. Thày không thể chịu trách nhiệm về nghiệp quả của trò một khi trò không còn được mình trông coi. Khi chưa chia cách, người đồng sáng tạo còn được học hỏi về hậu quả việc làm dưới sự hướng dẫn trìu mến của thày. Nhưng sau Bước Sa ngã, người đồng sáng tạo phải tự học lấy qua tấm gương vũ trụ. Tấm gương này phản hồi lại cho mỗi người tất cả những gì người đó đã gửi ra vũ trụ qua việc làm của mình. Và Kinh Sáng thế mô tả sự kiện đó như sau, “Người sẽ làm lụng đổ mồ hôi trán mới có mà ăn” (Genesis 3:19). 

Nói cách khác, trong Kế hoạch A lý tưởng, người đồng sáng tạo sẽ không bao giờ phải nếm mùi đau khổ phàm thế vì luôn luôn nhận được hướng dẫn của một vị thày làm tấm đệm giữa họ và nghiệp quả của họ. Nhưng khi họ bị mất liên hệ với thày thì Kế hoạch B phải được kích hoạt. Một khi không còn sẵn sàng nhận sự chỉ dẫn nữa thì người đồng sáng tạo phải tự học lấy bài học nhân quả. Đó gọi là Trường đời Cay đắng để đối lại với Trường Chỉ đạo Thiêng liêng.  

Người đồng sáng tạo đã tự cách ly khỏi thày tất nhiên sẽ không còn nhận được hướng dẫn nữa. Cứ thế, họ tạo thêm nghiệp quả và phải tự gánh lấy. Luật quân bình nói rằng nếu bạn tạo nghiệp trong cõi vật chất, bạn sẽ không thể thăng trở lại cõi tâm linh cho đến khi nghiệp quả được quân bình. Khi vẫn còn trong lớp học tâm linh, người đồng sáng tạo có một cơ thể tương đối thuần khiết, không hề biết già hay đau ốm. Nhưng một khi nghiệp quả chồng chất thì cơ thể vật lý bắt đầu già đi và biểu hiện bệnh tật, khiến cho mạng sống ngày càng ngắn ngủi, và do đó nghiệp quả không thể được quân bình trước khi thân xác qua đời. Tới điểm này thì Kế hoạch C phải nhập cuộc, nghĩa là con người sẽ phải tái đầu thai để có thêm nhiều cơ hội chuộc lại nghiệp cũ. Chính vì vậy mà bạn sẽ tiếp tục đầu thai trên địa cầu cho tới khi bạn học xong mọi bài học và quân bình đủ số nghiệp quả.

Luật quân bình

Khi vũ trụ vật chất được sinh tạo, ánh sáng trong bầu cõi chúng ta có một cường độ và một độ rung nhất định. Đây là cái vốn khởi đầu mà khoa học gọi là “bức xạ nền của vũ trụ”. Ý định nguyên thủy là những vị đồng sáng tạo sẽ dùng khả năng sáng tạo của mình đề nâng cao cả cường độ lẫn độ rung của ánh sáng, cho tới khi vũ trụ vật chất trở thành một thành phần của cõi tâm linh.

Nếu nhân loại đã sinh sôi khả năng của mình trong quá khứ thì địa cầu này đã không có đau khổ. Tuy nhiên vì có quyền tự quyết nên con người cũng có quyền lạm dụng khả năng sáng tạo để sản sinh ra ánh sáng ở một độ rung thấp hơn độ rung nguyên thủy. Điều này tạo ra một sự mất quân bình trong vũ trụ, và nếu muốn tăng trưởng thì trước tiên chúng ta phải khôi phục lại sự quân bình. 

Khi lần đầu bạn đi xuống vũ trụ vật chất, ban được ban cho một lượng ánh sáng nhất định cùng với quyền tự quyết muốn làm gì với ánh sáng đó thì làm. Nếu biết sử dụng ánh sáng trong tình yêu thương, bạn sẽ nâng cao độ rung cùng cường độ, và như thế bạn hòa hợp với mục đích của tạo hóa. Nhưng nếu bạn sử dụng một cách ích kỷ, hay thậm chí một cách hủy hoại bản thân, thì bạn sẽ kéo thấp độ rung và tạo ra một sự mất quân bình trong vũ trụ.

Bạn có toàn quyền làm bất cứ gì mình muốn, nhưng luật tự quyết không vận hành riêng rẽ. Nó không thể tách rời khỏi luật nhân quả. Khoa học gọi đó là luật tác động và phản ứng, còn một số giáo lý tâm linh thì gọi là nghiệp quả. Ngắn gọn, luật này nói rằng bạn phải chịu trách nhiệm về cách mình sử dụng Ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu biết sử dụng trong tình thương, bạn sẽ nâng cao chính mình cùng mọi sự sống, và khả năng của bạn sẽ gia tăng. Nhưng nếu sử dụng ích kỷ, bạn sẽ tạo ra một món nợ đối với sự sống, và bạn sẽ không thể tiến bước cho tới khi trả hết nợ, quân bình lại nghiệp quả và thanh lọc mọi năng lượng đã bị dùng bất chính. Nói cách khác, bạn hoàn toàn tự do làm gì cũng được nhưng mỗi hành động đều có hậu quả, và bạn không thể tránh khỏi nếm mùi hậu quả.   

Mục đích của vũ trụ là để bạn phát triển khả năng tự nhận biết, nghĩa là bạn có mặt ở đây để học hỏi. Bạn học hỏi bằng cách làm một cuộc thử nghiệm rồi nhận lấy hậu quả của thử nghiệm. Nếu hành động không có hậu quả thì làm sao bạn học hỏi đây? Và nếu bạn không học từ hành động của mình thì làm sao bạn có thể phát triển khả năng tự nhận biết và hoàn thành mục đích cuộc sống?

Nói cách khác, bạn không được sinh tạo với mục đích hưởng thụ mãi mãi những thú vui nơi hành tinh này. Cái ta cao hơn của bạn cũng không muốn bị kẹt mãi trong một ý niệm bản sắc hạn chế coi mình chỉ là một kẻ tội đồ đáng thương hay một con thú thông minh. Bạn đã xuống đây để phát triển khả năng tự nhận biết để rốt cuộc sẽ thăng lên những tầng học hỏi cao hơn. Câu hỏi được đặt ra bây giờ là bạn đã học hỏi từ hậu quả việc làm của bạn như thế nào.  

Luật Thượng đế không phải là sự trừng phạt

Nếu loài người là những Thượng đế chưa thành thì tại sao chúng ta lại có thể rơi xuống một mức tâm thức có những biểu hiện quá xa rời Thượng đế đến thế? Lý do là vì Đấng Sáng tạo không hề tạo ra chúng ta là những người máy bắt buộc phải làm theo ý ngài và tuân theo luật của ngài. Bạn có quyền tự quyết, và quyền này sẽ không đầy đủ nếu bạn không có quyền bất tuân quy luật Thượng đế.

Tuy nhiên, có quyền tự quyết không có nghĩa là bạn bắt buộc phải đi ngược lại quy luật Thượng đế, hoặc bạn sẽ chỉ thực sự tự do khi bạn làm vậy. Để minh họa, hãy so sánh những chọn lựa trong đời với chuyện lái xe. Người ta xây đường xá để bạn có thể di chuyển nhanh chóng từ nơi này tới nơi khác, và luật lưu thông là để giúp bạn đi lại an toàn. Bạn có thể dùng đường lộ để đi bất cứ nơi đâu, và nếu bạn bỏ đường lộ chạy xe xuống ruộng, rất có thể bạn sẽ phá hư thiên nhiên hoặc bị sa vào bùn. Do bất chấp luật lệ giao thông, bạn có thể gây ra tai nạn, thương tích cho bạn và cho người khác. Cho nên thật là phi lý nếu bảo rằng đường xá và luật giao thông hạn chế khả năng đi lại của bạn. Không kém phi lý là bảo rằng quy luật Thượng đế hạn chế quyền tự quyết của bạn cùng khả năng sáng tạo của bạn.

Quy luật của Thượng đế không phải là chiếc áo bó, buộc chặt tay chân. Tuân theo luật Thượng đế không có nghĩa bạn chỉ có một chọn lựa duy nhất hay bạn mất quyền tự quyết. Tiếc thay, một số tôn giáo đưa ra hình ảnh một Thượng đế nóng giận, phán xét ở trên trời, sẵn sàng kết tội và đày bạn xuống địa ngục nếu chẳng may bạn phạm luật của ngài. Điều này đã khiến nhiều người có xu hướng bác bỏ luật Thượng đế, hay ít ra bác bỏ tôn giáo. Trên thực tế, luật Thượng đế cho phép bạn biểu đạt khả năng sáng tạo của mình một cách vô hạn. Đúng hơn, quy luật này được thiết lập để giúp bạn tự do biểu đạt sáng tạo nhưng không hủy hoại chính mình, hủy hoại người khác hay cả hành tinh nơi bạn sinh sống.

Hãy thử nhìn vấn đề từ góc độ Đấng Sáng tạo. Khi ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo, Thượng đế đã chấp nhận một rủi ro tính toán. Rất có thể một người nào đó sẽ tự hủy hoại, hoặc nhiều người tập họp lại thành những phe nhóm hủy hoại lẫn nhau, và như thế nhân loại có tiềm năng tự hủy dịêt hoặc hủy diệt hành tinh. Nếu điều này không may xảy đến thì hẳn mục đích ban đầu để nâng cao tâm thức những sinh thể đồng sáng tạo coi như bằng thừa. Cho nên Thượng đế phải có cách giảm thiểu rủi ro.

Một cách là thiết lập một số quy luật để dẫn dắt người đồng sáng tạo trong cách dùng khả năng sáng tạo của mình. Và một cách khác là ưu ái trông coi họ khi họ cất bước trên hành trình làm người, để họ dễ dàng học hỏi từ những bài học thử nghiệm của họ.

Một quy luật tâm linh căn bản là mọi thứ đều được tạo bằng một chất duy nhất, là Ánh sáng Mẫu-Vật. Muốn tạo ra bất cứ gì trong thế giới vật chất, bạn phải có một lượng Ánh sáng Mẫu-Vật rung động trong dải tần số của cõi vật chất. Cách tự nhiên để có ánh sáng đó là tiếp nhận trực tiếp từ Hiện diện Tà Là của bạn. Khi bạn lần đầu tiên bước vào cõi vật chất, bạn được ban cho một lượng ánh sáng làm vốn khởi đầu. Nếu bạn biết dùng khôn khéo, bạn sẽ được ban cho nhiều hơn, và nhờ đó khả năng sáng tạo của bạn gia tăng. Và dòng ánh sáng từ Hiện diện Ta Là cũng tăng theo, và đời sống của bạn sẽ đi lên trong một vòng xoáy, nâng cao mãi khả năng tự nhận biết cùng sự dồi dào vật chất.

Như đã có đề cập, Giê-su đã dùng ngụ ngôn về ba người đầy tớ để minh họa cho quy luật nói trên (Matthew 25:14). Phúc âm kể lại, có một ông chủ kia trước khi đi xa, giao phó một số của cải (ta-lăng, có nghĩa là vàng bạc, và cũng nghĩa là tài năng) cho ba người đầy tớ. Khi ông trở về, ông hỏi mỗi người đã sử dụng các ta-lăng đó như thế nào. Hai người đầy tớ đã sinh sôi thêm ta-lăng thì được ông tưởng thưởng nhiều hơn, còn người thứ ba đem chôn ta-lăng dưới đất thì không những đã không sinh sôi gì thêm mà còn bị lấy lại. Tuy có vẻ khắc nghiệt thật nhưng quy luật này hoàn toàn khách quan.

Mục đích của cuộc sống là tăng trưởng, nghĩa là mọi thứ phải nhân lên. Nếu bạn sinh sôi thêm ánh sáng cùng khả năng sáng tạo thì bạn cũng nâng chính mình lên đồng bộ với mọi sự sống. Còn nếu không sinh sôi những gì được ban cho, tức là nếu bạn xử sự ích kỷ, thì bạn sẽ suy giảm chính mình cũng như mọi sự sống. Và như vậy, dòng ánh sáng từ Hiện diện Ta Là của bạn cũng sẽ giảm theo và cuộc sống bạn bị cuốn vào một vòng xoáy đi xuống. Khả năng tạo vật chất dồi dào sẽ bị sút kém và khả năng tự nhận biết sẽ co cụm lại thành tâm trạng chỉ biết có mình. Tất cả với hậu quả là bạn cảm nhận cuộc sống là đau khổ và bạn là nạn nhân oan ức của một Thượng đế nóng giận đang trừng phạt bạn.

Kỳ thực, Thượng đế không bao giờ trừng phạt một ai. Thượng đế chỉ lập ra một số quy luật khách quan áp dụng cho mọi người. Nếu bạn nhảy ra khỏi một chiếc máy bay mà không mang dù, quy luật khách quan của trọng lực sẽ kéo bạn xuống đất và bạn sẽ toi mạng. Đó không phải là trừng phạt của Thượng đế mà chỉ là hậu quả máy móc của một chọn lựa vô minh của bạn.

Đấng Sáng tạo tạo ra vũ trụ như thế nào?

Vì cái Tất Cả không có hình tướng riêng biệt, cho nên có lẽ cách hình dung giản tiện nhất cho chúng ta là một không gian trống trơn hay một tờ giấy trắng. Tất Cả không phải là không gì, mà không là một vật gì. Vì vậy mới lấy một khoảng không gian trắng xóa để minh họa cho tính cách vô hình tướng, vượt mọi khái niệm hay mọi hình tượng thế gian.

Đấng Sáng tạo quyết định tạo ra một thế giới có những hình tướng riêng biệt, và trong hành động sáng tạo đầu tiên, ngài vẽ ra một ranh giới quả cầu chung quanh mình. Ranh giới này phân chia Đấng Sáng tạo khỏi Tất Cả, và nhờ vậy, nó tạo ra một khoảng không gian trong Tất Cả, đầy ắp chính tâm thức cùng Bản thể của Đấng Sáng tạo.

AACircle

Sau đó, ngài rút Bản thể ngài vào trung tâm quả cầu, tụ thành một điểm dị biệt. Phần còn lại trong quả cầu trở nên trống rỗng, tạo thành một vùng hư không đứng riêng biệt khỏi Tất Cả, nhưng vẫn chưa có bất cứ một hình thể nào thị hiện trong đó. Tuy nhiên, vì hư không này không còn viên mãn như Bản thể Đấng Sáng tạo, cho nên những hình thể tách biệt có khả năng được sinh tạo trong đó.

AACirclecontract

Từ điểm dị biệt ở trung tâm, Đấng Sáng tạo phóng ra một phần Bản thể mình, tuy nhiên đây không phải là cái nổ lớn hỗn loạn như được mường tượng trong thuyết Big Bang của ngành vật lý. Thay vào đó, Đấng Sáng tạo tự phóng mình ra dưới hình thức một quả cầu bao quanh điểm dị biệt. Quả cầu này đứng riêng biệt khỏi vùng hư không chung quanh, và nó chứa đựng cái tinh chất căn bản sẽ cấu tạo tất cả mọi thứ. Chất này chính là ánh sáng trong câu “Ánh sáng hãy có mặt” của Kinh thánh. Khoa học gọi đó là năng lượng, còn trang mạng này gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật.

AAvoid

Bầu cõi đầu tiên này chưa chứa đầy ánh sáng. Thật ra, nó ẩn chứa rất nhiều bóng tối, nhưng không phải là bóng tối xấu ác mà đơn giản chỉ là sự thiếu vắng ánh sáng. Trong bầu cõi đầu tiên này, Đấng Sáng tạo lập ra một số hình thể, một số cấu trúc nhất định để làm nền tảng cho sự sống. Rồi ngài phóng chiếu những thành phần nối dài của ngài với khả năng tự nhận biết vào bầu cõi đầu tiên đó, và bầu cõi đó trở thành tầng thị hiện đầu tiên của thế giới hình tướng.

Những sinh thể nối dài này của Đấng Sáng tạo ra đời cốt ý là để trở thành những vị đồng sáng tạo, nhưng ở khởi đầu, họ chỉ có một ý niệm bản sắc cùng một khả năng tự nhận biết vô cùng hạn chế. Sở dĩ họ cảm nhận được tách biệt là vì bầu cõi đầu tiên vẫn chưa đầy ánh sáng và cảm nhận tách biệt chỉ có thể tồn tại ẩn nấp trong những vùng bóng tối.

Thuở ban đầu, các vị đồng sáng tạo đầu tiên được dạy dỗ bởi Đấng Sáng tạo. Khi lớn lên, họ biết tự túc và làm chủ được khả năng sáng tạo của mình. Tâm họ điều ngự được vật chất, có nghĩa là họ ngày càng thành thạo hơn trong việc đồng sáng tạo nơi bầu cõi của họ. Điều này có hai tác dụng. Một đằng, họ xây được thêm nhiều cấu trúc để bổ sung cho nền tảng mà Đấng Sáng tạo đã thiết lập. Đằng khác, họ đem vào bầu cõi họ thêm nhiều ánh sáng từ nguồn vô tận của Đấng Sáng tạo.   

Bởi thế, bầu cõi thứ nhất này sẽ tới lúc đạt được một cường độ ánh sáng mãnh liệt khiến cho không một sinh thể nào ở đó còn ảo tưởng mình bị tách biệt khỏi nguồn cội, tách biệt khỏi các sinh thể khác, hay thậm chí tách biệt khỏi những cấu trúc nền tảng của bầu cõi. Khi toàn bộ ánh sáng của bầu cõi đạt tới một cường độ quyết định thì tất cả mọi thứ đều hiển lộ rõ mồn một nguồn gốc của tất cả là ánh sáng và tâm thức của Đấng Sáng tạo. Mọi vị đồng sáng tạo đều đạt được tâm giác ngộ, qua đó họ chứng nghiệm trực tiếp mình là những phần nối dài, là những cá thể của Đấng Sáng tạo.

Giờ đây, Đấng Sáng tạo lại tự phóng chiếu vào vùng hư không để tạo ra một bầu cõi mới, đứng riêng khỏi hư không. Bầu cõi này cũng lại chứa một lượng ánh sáng giới hạn thôi. Những vị đồng sáng tạo đã điều ngự được bản thân trong bầu cõi đầu, nay sử dụng khả năng đó để dựng lên những cấu trúc nền tảng cho sự sống ở bầu cõi thứ hai. Khi công việc này xong xuôi, các chân sư từ bầu cõi đầu phóng chiếu những phần nối dài của mình với khả năng tự nhận biết vào bầu cõi thứ hai.

Và cũng như trước, thế hệ thứ hai của các sinh thể đồng sáng tạo cũng chỉ khởi đầu với một khả năng tự nhận biết hạn chế và một bản sắc tách biệt. Tuy nhiên, nhờ được dạy dỗ bởi các chân sư từ bầu cõi đầu trong vai trò cha mẹ tâm linh, họ lại thành công điều ngự được bầu cõi của họ, và rồi bầu cõi này cũng thực hiện được đầy đủ cường độ ánh sáng cần thiết.

Lại tới lúc Đấng Sáng tạo thiết lập bầu cõi thứ ba. Một số chân sư từ bầu cõi thứ hai quyết định tiếp tục nâng tâm thức để có thể nhập với bầu cõi thứ nhất. Và cũng có một số khác quyết định trở thành chân sư hầu thiết lập các cấu trúc nền tảng và sinh tạo các vị đồng sáng tạo cho bầu cõi thứ ba.

Và cứ như thế, tiến trình được lập lại. Sự sống lại sinh ra sự sống và một số tầng cấp, hay bầu cõi, được ra đời trong vùng hư không. Bầu cõi mới phải ra đời trong sự tranh sáng tranh tối, tuy phân rời khỏi hư không nhưng chưa sáng bằng các bầu cõi cao hơn. Nhưng một khi đạt được cường độ đủ để thăng hoa, nó cũng sẽ được gia nhập cõi tâm linh.

Như vậy, vũ trụ vật chất của chúng ta đây chỉ đơn giản là bước mới nhất trong quá trình tăng trưởng nói trên. Như các bầu cõi trước, vũ trụ vật chất cũng được sáng tạo với một lượng ánh sáng hạn hẹp, và điều này cho phép các vị đồng sáng tạo trong bầu cõi này – tức là chính bạn và mọi người khác ở đây – vào đời với bản sắc sinh thể tách biệt. Vì ánh sáng còn yếu cho nên vật chất ở đây hiện ra rắn chắc hơn, khác các hình thể thanh nhẹ nơi cõi tâm linh. Cũng chính vì các điều kiện này mà một người có thể tin rằng không có gì khác ngoài vũ trụ vật chất, hay tin rằng thế giới này bị chia cắt khỏi cõi tâm linh bởi một hàng rào không thể băng qua.

Nhưng kỳ thực, vũ trụ vật chất được tạo bằng cùng một chất như mọi cõi khác của thế giới hình tướng, là Ánh sáng Mẫu-Vật. Dù vũ trụ vật chất làm bằng ánh sáng rung động thấp hơn, nhưng ánh sáng này có sẵn tiềm năng nâng lên cùng độ rung với cõi tâm linh, và khi điều này xảy ra, toàn bộ vũ trụ sẽ thăng lên một tầng mức cao hơn. Tiến trình thượng thăng này là mục đích vỏ ngoài đằng sau việc sáng tạo cõi vật chất.

Còn mục đích bên trong thì sao? Thưa phải, mục đích thực sự là vũ trụ vật chất được thiết lập như một phòng thí nghiệm khoa học cho các vị đồng sáng tạo được gửi tới đây. Chỉ khi nào họ nâng cao tâm thức thì họ mới trở thành những cánh cửa mở mang lại thêm ánh sáng tâm linh vào cõi vật chất. Và chỉ có ánh sáng đó mới nâng cao được rung động của vũ trụ vật chất. Bằng cách phụng sự trong vai trò đó và gắng sức sáng tạo để giúp nâng cao thế giới, họ sẽ gia tăng khả năng tự nhận biết cho tới khi đến lượt họ cũng thăng hoa vào cõi tâm linh.

Và đó tất nhiên là mục đích thực sự của việc sáng tạo vũ trụ vật chất. Tất cả mọi sự đều xoay quanh việc phát triển khả năng tự nhận biết, với kết quả tối hậu là chính bạn cũng tăng triển mãi cho đến khi đạt được tâm thức của Đấng sinh tạo thế giới hình tướng.

Bạn chính là Thượng đế chưa thành. Đây không phải là một câu nói phạm thượng mà là thực tế cao nhất.

Thượng đế đến từ đâu?

Bạn đang sống trong vũ trụ vật chất, vũ trụ này được tạo bằng những năng lượng rung động trong một dải tần số nhất định. Giác quan vật lý của bạn chỉ có khả năng phát hiện được tầng thấp nhất trong dải tần số đó, là vũ trụ vật lý làm bằng vật chất. Còn tâm ý thức, hay cái ta ý thức của bạn, mới có khả năng bắt được và chiêm nghiệm những tầng cao hơn – là năng lượng cảm xúc, rồi cao hơn nữa là lý trí và bản sắc.

Nếu cứ theo đó gia tăng độ rung thì bạn sẽ vượt khỏi cả bốn tầng của vũ trụ vật chất, đạt tới tầng thấp nhất của cõi tâm linh. Nơi cõi này có rất nhiều đấng tâm linh, trong số đó có những đấng đã tạo ra vũ trụ vật chất kể cả hành tinh địa cầu chúng ta. Tên gọi thông thường cho những đấng ấy là Elohim, là danh từ số nhiều để chỉ chung vị Thượng đế hay Đức Chúa Trời của Kinh Cựu ước. Một số trong các đấng tâm linh kể trên đã từng hiện thân trong một thân thể vật lý nhưng bây giờ đã thượng thăng để về lại cõi tâm linh. Bạn cũng vậy, khi nào bạn quân bình được mọi nghiệp quả, giài quyết xong mọi tin tưởng sai lầm bằng cách nhập một với tâm Ki-tô và hoàn thành mục tiêu nguyên thủy khi bạn đến trái đất, thì bạn cũng sẽ là một sinh thể thăng hoa, một chân sư thăng thiên.

dialmindeps

Sau khi thượng thăng, bạn sẽ trở thành một sinh thể tâm linh, vô sinh vô diệt, nghĩa là bạn sẽ không cần phải trở về đầu thai ở địa cầu nữa. Khi đó, bạn có hai chọn lựa. Chọn lựa thứ nhất, bạn có thể quyết định tiếp tục tự tăng triển để thăng mãi xuyên qua nhiều tầng lớp của cõi tâm linh cho đến khi bạn chứng được tâm thức cao nhất, bình thường gọi là tâm thức Thượng đế. Chính vì bạn có tiềm năng đạt được trọn vẹn tâm thức Thượng đế mà Giê-su mới nói, “Các con là những vị Thượng đế” (John 10:34).

Chọn lựa thứ nhì của bạn là tạm gác con đường phát triển bản thân để phụng sự loài người vẫn chưa thăng khỏi địa cầu, và như vậy bạn trở thành một vị thày tâm linh cho những ai chưa thăng hoa. Và đây là trường hợp của Giê-su. Krishna, Phật Thích Ca, là những vị thày được biết tới nhiều nhất.

Nếu tưởng tượng bạn cứ leo mãi các tầng lớp của cõi tâm linh, cuối cùng thì bạn sẽ tới tầng cao nhất của thế giới hình tướng. Nơi đây là rung động thanh cao nhất mà Ánh sáng Mẫu-Vật có thể có được. Nếu cũng vượt luôn mức này thì bạn sẽ đạt tới Đấng đã sinh tạo ra thế giới hình tướng. Đây là Đấng mà phần lớn các tôn giáo gọi là Thượng đế tối thượng hay Đấng Sáng tạo.

Đa số các tôn giáo dạy rằng ở trên Đấng Sáng tạo không có gì khác. Nhưng nếu thật vậy thì Đấng Sáng tạo từ đâu đến? Kỳ thực, vẫn còn một tầng lớp vượt cả Đấng Sáng tạo, gọi là Tất Cả. Nhưng tầng này thì vượt khỏi mọi cái biết của con người, mọi hình ảnh, chữ nghĩa, thậm chí mọi khái niệm được dùng để mô tả. Một khi bạn còn ở địa cầu, bạn không thể hiểu được trọn vẹn tâm thức của Tất Cả là như thế nào. Đọc tiếp, bạn sẽ hiểu tại sao.

Trong Tất Cả, có những Đấng trí tuệ, tự nhận biết, nhưng lại không xem mình là tách biệt với các Đấng khác hay với Thượng đế. Các ngài biết mình là Thượng đế, là biểu đạt của Thượng đế, bởi vì trong Tất Cả, tất cả đều được nhìn rõ là biểu đạt của Thượng đế. Trong Tất Cả chỉ có một Thượng đế duy nhất nhưng cách biểu đạt thì vô số. Ở đó không thể nào có ảo tưởng rằng có một ai hoặc một cái gì tách biệt khỏi Thượng đế. Các Đấng nơi Tất Cả không thể tạo dựng một bản sắc sinh thể tách biệt, và cũng không từng chứng nghiệm bất cứ điều gì tách biệt khỏi Tất Cả – bởi vì nói cho cùng, không cái gì có thể đứng ra ngoài cái là tất cả.

Tuy vậy, các Đấng nơi Tất Cả thấy được một ích lợi nào đó trong việc tạo dựng một thế giới nơi tách biệt được phép xảy ra. Trong một thế giới như thế, một cá thể sẽ khởi sự với một ý niệm bản sắc rất giới hạn như là một sinh thể tách biệt, nhưng dần dần sẽ phát triển khả năng tự nhận biết cho tới khi đạt đến tâm thức Tất Cả, và khi đó thì sẽ nhập vào Tất Cả với một nhận thức thực nghiệm về sự tách biệt và do đó sẽ trân quý Tất Cả nhiều hơn.    

Đấng đã tạo ra thế giới hình tướng nơi bạn sinh sống đã từng một thời là một Đấng nơi Tất Cả. Đấng ấy đã tình nguyện đưa mình ra khỏi Tất Cả và, từ chính bản thể và tâm thức mình, tạo ra một thế giới dường như đứng tách biệt khỏi Tất Cả. Thế giới đó cho phép những hình tướng tách rời tồn tại, tưởng chừng như không biểu hiện Thượng đế duy nhất. Ở đó cũng hiện hữu những sinh thể tách biệt không ý thức mình là biểu hiện của Thượng đế duy nhất.

Ở buổi đầu, ý niệm bản sắc cùng khả năng tự nhận biết của những sinh thể này vô cùng hạn hẹp, khiến họ tưởng mình bị chia cắt khỏi nguồn cội của mình, bị chia cắt khỏi đồng loại cùng thế giới chung quanh. Nhưng họ sẽ dần dần nâng cao tâm thức cho đến khi họ nhận ra tính duy nhất của mọi sự sống. Lúc đó, hoặc họ sẽ bước vào Tất Cả với tâm thức Thượng đế trọn vẹn, hoặc họ sẽ trở thành Đấng Sáng tạo cho những thế giới hình tướng khác. Nhưng cho tới khi họ chứng đạt được tâm thức Thượng đế thì họ không làm sao mường tượng được Tất Cả là như thế nào.

Họ là chính bạn đó. Bạn được sinh tạo với một khả năng tự nhận biết giới hạn nhưng bạn lại mang sẵn một tiềm năng phát triển vô hạn. Phát triển khả năng tự nhận biết chính là mục đích sinh tạo của thế giới hình tướng. Đó là mục đích của tất cả sự sống.

Dòng chảy tâm thức

Có lẽ bạn đã từng cố gắng cải thiện đời mình qua một số phương pháp tu tập tâm linh hay tâm lý, để rồi chỉ nhận thấy mình có nhiều khuôn nếp rất khó thay đổi? Hay có lẽ bạn quen biết ai đó từng tham gia những nhóm tâm linh hàng mấy chục năm trời mà hình như vẫn chẳng thay đổi gì mấy? Tại sao những hứa hẹn của các vị thày tâm linh và chuyên gia về ngành tự cứu tâm lý lại khó thực hiện đến vậy?

Phải chăng là vì chúng ta đã bị xã hội lập trình để luôn luôn đi tìm giải pháp ở tầng lớp kết quả thay vì tầng mức nguyên nhân? Giả dụ bạn ngồi xem phim trong rạp hát và không ưa bộ phim đang được chiếu trên màn ảnh. Bạn muốn đổi phim khác, nhưng vì không biết có phòng chiếu phim ở đằng sau, bạn chỉ tìm cách thay đổi màn ảnh ở đằng trước, thì có ích gì?   

Tất nhiên là bạn không thể thay đổi bộ phim ở tầng lớp của màn ảnh, bởi vì màn ảnh chỉ có thể phản ảnh những gì được chiếu trên đó. Màn ảnh là tầng kết quả – kết quả của một tầng mức thâm sâu hơn, là nguyên nhân. Xã hội tân thời đã lập trình để chúng ta tin rằng thế giới vật chất gồm cả nhân lẫn quả, tức là chúng ta có khả năng thay đổi đời mình bằng cách thay đổi thế giới vật chất – thế giới của hành động và tư tưởng ý thức.

Kỳ thực, thế giới vật chất cũng giống như bộ phim trình chiếu trên màn ảnh vậy, và hình chiếu phát xuất từ những tầng nguyên nhân sâu xa hơn. Những tầng nguyên nhân đó chính là ba tầng cao của tâm, vượt trên cái tầng ngoại tâm mà nhiều người gọi là tâm ý thức.

Giả thử bạn muốn thay đổi một số khía cạnh đời mình. Xã hội hiện đại đã lập trình để bạn tin rằng nếu mình muốn giải quyết một vấn đề thì mình phải tìm hiểu vấn đề đó ra sao. Cho nên bạn gắng sức học tập một số giáo lý tâm linh, tìm hiểu khoa tâm lý, hay một số lý thuyết về tự cứu tâm lý. 

Tìm hiểu như vậy không phải là vô ích, tuy nhiên như bạn cũng biết, rất nhiều người hiểu rất kỹ về những đề tài tâm linh hay tâm lý nhưng họ vẫn không thay đổi được những khuôn nếp căn bản trong đời họ. Cái gì thiếu sót? Có lẽ là sự thấu hiểu nhân và quả.

Như được trình bày ở một phần khác, con người có bốn tầng của tâm. Tầng thấp nhất là tâm vật lý, và đa số chúng ta đều nhận biết được tâm này. Tầng cao hơn là cảm xúc, sau đó là tầng lý trí và trên cùng là tầng bản sắc.

Điều cần nắm vững ở đây là bốn tầng này nằm theo thứ bậc trên dưới nhất định như vậy. Ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuống từ cái ta cao hơn của bạn sẽ gặp bản sắc thể trước tiên. Ở đây, nó sẽ bị nhuộm màu bởi những điều tin tưởng vi tế của bạn ở tầng này, có nghĩa là những tin tưởng đó hợp thành một cái khung nền, một hộp tư duy, cho mọi thứ đến sau.  

Khi ánh sáng xuống đến trí thể, nó đã bị giới hạn trong cái hộp của cõi bản sắc ở trên, và nó không có khả năng tháo gỡ hay đi ngược lại. Bây giờ tới lượt trí thể tô thêm màu sắc của nó cho ánh sáng, có nghĩa là cái hộp sẽ trở nên hạn hẹp, cứng ngắc hơn khi ánh sáng xuống tới cảm thể. Và tiến trình này lại tiếp diễn cho tới khi ánh sáng chỉ còn lại một cái hộp teo tóp trong tâm vật lý.     

Kết luận là nếu bạn tìm cách thay đổi cách cư xử của mình bằng cách gia tăng sự hiểu biết ý thức thì xác suất thành công sẽ rất it, bởi vì bạn chỉ cố sửa sang tầng thấp nhất là cái tâm vật lý nơi hầu hết mọi chuyện đã ngã ngũ. 

Như bạn cũng biết, phim hiện ra trên màn ảnh là sự phóng chiếu của cuộn phim trong máy chiếu. Vậy bạn thử tưởng tượng bạn có bốn cuộn phim, và cuộn đầu sẽ đặt ranh giới cho cuộn sau, rồi cuộn sau đặt ranh giới cho cuộn sau nữa, và cứ thế… thì bạn sẽ hiểu rằng nếu bạn thực sự muốn thay đổi đời mình, bạn sẽ phải tìm về những tầng ngày càng sâu hơn để thay đổi ở đó.

Tại sao điều này quan trọng? Giả dụ bạn nhất quyết trong tâm ý thức là bạn muốn thay đổi đời mình. Bạn ngồi kiểm điểm lại hoàn cảnh đời sống, rồi trong ý thức bạn quyết định làm một cái gì đó. Nhưng quyết định này dựa trên gì? Trên những gì bạn có thể thấy. Dù bạn có thực lòng cố gắng biết mấy thì bạn cũng chỉ chọn được những gì bạn có thể thấy.

Trở lại ví dụ chiếu phim, bộ phim đang trình chiếu là một phim quái vật mà bạn không thích chút nào. Bạn muốn đổi phim khác. Giả dụ bạn đang ngồi ngay cái bàn máy nơi người ta chọn phim, và bàn máy này màu nhiệm ở chỗ bạn có thể chọn bất cứ phim nào mình muốn.

Bàn máy có nhiều cái nút đủ màu. Màu đỏ là những phim quái vật, màu xanh là phim hành động, màu hồng là phim tình yêu, v. v… Nhưng khổ nỗi, bạn đang đeo cái kính lọc chỉ thấy được màu đỏ. Những cái nút khác vẫn nằm yên ở đó, nghĩa là mọi chọn lựa đều mở ra cho bạn. Nhưng bạn chỉ có thể chọn lựa những gì bạn thấy mà thôi, và vì bạn đeo kính lọc, bạn chỉ thấy và chỉ có thể bấm nút màu đỏ, là phim quái vật. Tức là dù có đổi phim thì bạn vẫn sẽ coi phim quái vật. Bạn tưởng đã thay đổi hoàn cảnh đời mình, nhưng màu sắc cuộc đời vẫn nguyên xi.

Cho nên đâu là chìa khóa để thay đổi hoàn cảnh của bạn? Đó là có thêm nhiều sự chọn lựa mà bạn có thể thấy. Và đâu là chìa khóa của cái thấy? Đó là gỡ bỏ những cái phin lọc nhận thức đang khiến bạn đui mù đối với một số chọn lựa. Những phin lọc này nằm nơi bốn tầng của tâm bạn, và phin lọc ảnh hưởng đời bạn nhiều nhất là nơi tầng cao nhất, bản sắc thể.

Vậy làm sao đây để nhận ra phin lọc nhận thức nơi những tầng thâm sâu của tâm? Đây không phải là cái gì mình có thể nắm bắt được bằng hiểu biết trí thức. Ngược lại là đằng khác, quá nhiều hiểu biết trí thức về tâm linh hay tâm lý có thể dẫn tới kết quả đối nghịch. Lý do là vì hiểu biết nằm ở tâm ý thức, và để vượt lên khỏi mức này, bạn cần tâm ý thức lắng xuống. Hiểu biết có khuynh hướng gia tăng nhiễu loạn trong tâm ý thức, khiến cho sự vượt lên khó khăn hơn. 

Điều quan trọng để thăng vượt phin lọc nhận thức là sự chiêm nghiệm – chiêm nghiệm những tin tưởng đang tô màu và giới hạn cái nhìn của mình về cuộc đời và giới hạn mình như thế nào. Một khi thấy rõ mình đang giới hạn chính mình làm sao, thì tự khắc sẽ quyết định để cho tin tưởng đó ra đi, và thay thế nó bằng thực tại thăng vượt mà mình đang nhìn thấy. Và thật vậy, cho tới khi bạn thấy được thực tại thăng vượt thì bạn sẽ không thể biết được những tin tưởng kia là giới hạn.

Cách vận hành của các dụng cụ tu tập trên trang này thật giản dị. Chìa khóa để thăng vượt giới hạn của mình là phơi bày và vượt qua, một cách ý thức, những phin lọc nhận thức nơi những tầng cao của tâm. Những phin lọc này giống như những cuộn phim mà chúng ta chiếu lên màn ảnh để đồng sáng tạo hoàn cảnh đời mình. Đó mới là nguyên nhân, chứ những gì xảy ra trong cuộc sống vật chất hay tâm ý thức chỉ là kết quả. Để thay đổi bộ phim trên màn ảnh, bạn chỉ cần thay cuộn phim trong máy chiếu.  

Như có giải thích ở nơi khác, một điều rất hữu ích mà bạn có thể làm là chuyển hóa các năng lượng có tần số thấp đang ngăn chặn bạn nhìn thấy các tin tưởng đang giới hạn mình. Đó là lý do các bậc thày tâm linh đưa ra những phương pháp tu tập nhằm chuyển hoá hay giải tỏa năng lượng có tần số thấp.

Các dụng cụ tu tập trong trang web này cũng nhắm vào việc đó. Chúng sẽ giúp bạn nhận ra rằng ở cốt lõi con người phàm của mình là cái Ta Biết. Dĩ nhiên đây chỉ là một tên gọi, điều quan trọng là nhận ra cốt lõi của mình là sự nhận biết thuần khiết. Điều này có nghĩa là bạn hoàn toàn không có nhu cầu nhìn đời qua các phin lọc nhận thức nằm nơi bốn tầng của tâm.

Bạn có khả năng trở về tâm nhận biết thuần khiết, và thay vì nhìn qua những phin lọc nhận thức, bạn nhìn thẳng vào những phin lọc. Cũng giống như bạn nhìn căn nhà từ ngoài thay vì bị nhốt trong nhà và nhìn ra thế giới từ những cánh cửa sổ. Nói cách khác, cái Ta Biết vốn bị phóng chiếu vào trong phin lọc nhận thức thì bây giờ nó có khả năng đứng ra bên ngoài.  

Khi còn trong phin lọc, bạn sẽ không thể nào thấy được phin lọc. Chỉ khi nào bạn trải qua một kinh nghiệm tĩnh lặng nội tâm, một tâm thức vượt khỏi bình thường, thì những tấm kính màu mà trước kia bạn không thấy mới hiện rõ ra là những tấm rào cản. Và đó là lúc bạn tinh tấn thật sự, vì bạn đang thăng vượt phin lọc thay vì nhất định chúng là thực tại trong vắt. Bây giờ bạn biết rõ mình đang đeo kính màu vàng và không còn cố thuyết phục người khác rằng trời xanh dương thực sự là màu lá cây.

Đây là lý do sâu xa tại sao một số vị thày tâm linh chủ trương thiền định hoặc những phương pháp định tâm. Cũng vậy, một số vị thày hay tạo ra bất ngờ khiến cho học trò chấn động, đánh rơi con mắt cũ mà nhìn với con mắt mới. Đó là trường hợp của Thiền, chỉ cốt gạt cho tâm bước ra ngoài các phin lọc bình thường của nó, nhờ đó nó thấy được thực tại là một cái gì khác hẳn.         

Vậy bạn có thấy không, phát triển tâm linh không phải là thâu thập ngày càng nhiều kiến thức, mà là làm sạch tâm mình khỏi các phin lọc nhận thức mà mình đã tạo ra do phản ứng với thế giới vật chất. Đây là cách duy nhất chúng ta có thể làm tròn sứ mệnh đồng sáng tạo của mình, nghĩa là thay vì sáng tạo trong khuôn khổ những điều kiện đời sống, chúng ta giữ cho viễn kiến mình thuần khiết và làm cho thế giới vật chất thăng vượt những giới hạn cố hữu của nó.

Kỳ thực, bạn chính là bạn đó – là con người mà cái ta cao hơn của bạn thấy bạn. Thế nhưng trong không gian và thời gian, bạn là con người mà bạn tưởng bạn là – và bạn lấy quyết định dựa trên những gì bạn thấy. Chìa khóa để thay đổi đời mình là thay đổi cái bạn tưởng là bạn, để bạn thấy mình thực là ai. Chỉ khi bạn thay đổi tầng bản sắc thì bạn mới thấy được tất cả những chọn lựa mở ra cho bạn, và chỉ khi đó bạn mới tự do chọn lựa.

Một thế giới quan năng lượng – Làm sạch năng lượng

Nếu bạn đi trở ngược vài thế kỷ thôi, con người thời đó chưa hiểu biết gì về vi khuẩn hay hóa chất, và vì vậy cũng không hiểu được nhu cầu giữ sạch cơ thể hay giữ cho thức ăn khỏi bị hư thối. Bạn có thể nghĩ thời đó sao lạc hậu thế – người ta không biết cả giữ vệ sinh tối thiểu.   

Nhưng bạn thử tưởng tượng xem một người sống trong tương lai sẽ nghĩ gì về chúng ta bây giờ, chắc hẳn cũng lạc hậu lắm, không biết cả chuyện giữ vệ sinh năng lượng. Vì tuy rằng hiện nay chúng ta được học rằng mọi vật đều là năng lượng, nhưng thật sự chúng ta chưa hiểu nên không áp dụng được hiểu biết này vào bản thân. Chúng ta chưa cảm thấy nhu cầu phải giữ sạch năng lượng của mình y như chúng ta giữ sạch thân thể. 

Kim Chakra_Man_Oval_1

Nhưng khám phá của Einstein rằng tất cả đều là năng lượng có hệ lụy trên mọi khía cạnh của đời sống. Nếu tất cả là năng lượng thì tâm chúng ta cũng phải được tạo bằng năng lượng. Điều này không khó hình dung lắm đâu, vì ý nghĩ và cảm xúc hiển nhiên là những hình thức năng lượng. Nhưng nếu ý nghĩ và cảm xúc là nội dung của tâm, thì tâm là gì?  

Năng lượng có hai cách biểu hiện. Nó có thể là một làn sóng di chuyển trong một môi thể, giống như âm thanh di chuyển trong không khí hoặc những gợn sóng trên mặt biển cả. Nhưng nó cũng có thể lấy hình dạng của một trường năng lượng đứng yên một chỗ. Và như vậy, tâm cũng là một trường năng lượng, trong đó ý tưởng và cảm xúc là những làn sóng. Làn sóng có thể xuất xứ từ trong trường hoặc từ ngoài đi vào trường, và một khi đã vào rồi thì làn sóng có thể ở lại trong trường hoặc được phóng ra bên ngoài.    

Trường năng lượng của tâm có thể được hình dung thế nào? Như bạn cũng biết, một thỏi nam châm có một từ trường bao quanh, và hẳn bạn đã nhìn thấy những hình chụp từ trường. Địa cầu chúng ta cũng có một trường vô hình bao quanh. Vậy bạn cứ hình dung tâm bạn như một trường năng lượng bao quanh thân thể vật lý của bạn.

Từ hàng chục thế kỷ, con người đã giả định về một trường năng lượng như vậy, gọi là hào quang. Một số nhà thần thông có khả năng nhìn vào trường năng lượng để chẩn bệnh, cả bệnh vật lý lẫn bệnh tâm thần. Mấy chục năm gần đây, một vài nhà khoa học đã dùng dụng cụ khoa học để đo trường năng lượng của con người.

Cho dù những điều này chưa đi vào khoa học chính mạch và chắc chắn chưa được biết đến rộng rãi, nhưng sự hiện hữu của một trường năng lượng chung quanh cơ thể có cơ sở khoa học. Chẳng hạn, người ta có thể dùng một loại máy chụp hình số đặc biệt gắn vào máy điện toán để hiển thị trường năng lượng trên màn ảnh, và rất có thể trong tương lai kỹ thuật này sẽ phát triển thêm để trở hành một phương tiện chẩn bệnh hữu ích. Và khi đó, trường năng lượng con người sẽ thực sự đi vào hiểu biết chính mạch. Nhưng chúng ta đâu phải chờ tới lúc đó!

Một khi đã chấp nhận tâm mình là một năng trường thì chúng ta có thể bắt tay ngay vào công việc, tìm hiểu xem tình trạng của trường có ảnh hưởng thế nào trên các ý nghĩ và cảm xúc ý thức của mình. Như vậy chúng ta sẽ bắt đầu làm chủ được năng trường thay vì bị nó điều khiển. Và điều này khiến chúng ta quan tâm đến các điều quan trọng sau:

Nhu cầu giữ sạch năng lượng

Trường năng lượng của bạn không phải là một cái gì đứng riêng rẽ. Khi bạn tương tác với ai đó, trường năng lượng của bạn cũng tương tác với trường của người kia qua sự trao đổi năng lượng. Người đó có thể gửi năng lượng vào trường của bạn, hoặc lấy năng lượng khỏi trường của bạn. Chắc hẳn bạn đã từng nhận thấy khi có ai chửi mắng bạn trong cơn giận dữ, bạn sẽ cảm thấy buồn bực hay tức giận. Lý do là vì cơn giận của họ phát ra những làn sóng năng lượng, phóng nó vào trường của bạn, nơi nó làm xáo trộn các làn sóng cảm xúc đang sẵn có ở đó. Và hẳn bạn cũng nhận thấy sau khi ở gần một người phiền muộn, mình cũng bị mệt mỏi lây theo, như bị mất hết sinh lực. Và quả thật là thế, người đó đã hút mất năng lượng của bạn khiến bạn cảm thấy kiệt quệ.  

Như vậy thì bạn có thể phân năng lượng làm hai loại: năng lượng với độ rung cao khiến mình cảm thấy thư thái hơn, và năng lượng với độ rung thấp khiến mình cảm thấy khổ não hơn. Đã là sóng năng lượng thì mỗi cảm xúc đều có một tần số rung động riêng, như bạn có thể thấy rõ giận hờn có một độ rung thấp hơn hẳn tình yêu. Và do vậy, chúng ta cần có một cách thức nào đó để lọc lựa năng lượng từ ngoài xông vào trường của mình, ngăn chặn không cho năng lượng thấp xâm nhập và đồng thời cho phép năng lượng cao đi vào. Đó cũng giống như hệ thống đề kháng của cơ thể mình vậy, và cũng thế, bạn có khả năng cải thiện sức khỏe toàn diện của mình bằng cách bảo vệ trường năng lượng khỏi những làn sóng thấp kém.    .

Kim Chakra_Man_Oval_1

Nhưng chuyện gì xảy ra cho năng lượng thấp khi nó lỡ vào được trường của mình? Khoa học bảo rằng, một khi làn sóng năng lượng đã thể hiện thành rung động thì nếu để yên, nó có khả năng giữ nguyên hình dạng đó hoài hoài. Nói cách khác, một khi rung động thấp đã có mặt trong trường, nó sẽ ở đó rất lâu. Với thời gian, nó còn có thể tích tụ thêm, khiến bạn cảm thấy khổ não hơn nữa. Có lẽ bạn đã từng gặp những người do nóng nẩy chồng chất, nổi giận đùng đùng đến mất hết tự chủ – đó phần nào là do năng lượng giận dữ đã chất đống trong trường của họ. Bệnh trầm cảm cũng tương tự như vậy, phần nào do năng lượng tiêu cực chất chứa. 

Tâm ý thức của bạn – ý tưởng và cảm xúc – được tạo bằng năng lượng. Như nam châm thu hút mảnh sắt, năng lượng cũng có một sức hút điện từ. Một khối sóng giận dữ trong trường năng lượng là một thỏi nam châm to tướng thu hút tâm ý thức của bạn vào với nó, khiến bạn dễ dàng phản ứng giận dữ.    

Tâm căng thẳng cũng là một hình thức năng lượng thấp chồng chất trong trường của bạn. Cho nên chìa khóa để quản lý căng thẳng là học cách bảo vệ trường của mình không cho năng lượng thấp xâm phạm, đồng thời làm sạch trường cho không còn những năng lượng đã lỡ xâm nhập.

Điều đáng mừng là việc chuyển hóa năng lượng thấp thành năng lượng cao thật sự không có gì khó. Nếu tâm bạn có khả năng tiết ra những làn sóng thấp như giận dữ thì nó cũng có khả năng chuyển hóa những làn sóng đó. Đề tài này sẽ được bàn chi tiết hơn ở một phần sau.   

Tâm thức đại chúng

Và điều này dẫn tới một nhận định rộng lớn hơn. Năng trường của bạn nằm trong năng trường rộng lớn của toàn địa cầu. Một phần của trường này được tâm lý học gọi là “vô thức tập thể”, mà chúng ta có thể hiểu là trường năng lượng bao quanh quả địa cầu, giống như một cái kho chứa những năng lượng của lý trí và cảm xúc đã được nhân loại sản sinh ra từ thuở hồng mang. Vì năng lượng có thể giữ vững độ rung của nó và tích tụ lại, thật là dễ hình dung một trường tập thể chứa đựng một khối khổng lồ những sợ hãi, tức giận và thù ghét. Nếu bạn để cho trường của bạn mở toang ra tâm thức đại chúng này, bạn sẽ rất khó làm chủ đời mình.

Một ví dụ điển hình về tác động của tâm thức đại chúng trên tâm cá nhân là đám đông. Đã có vô số trường hợp tâm con người bị đám đông áp đảo đến độ mình đồng ý làm những chuyện mà bình thường mình không bao giờ làm, như giết người chẳng hạn. Nhiều người cũng bị lôi cuốn chạy theo xu thời, như khi họ hùa theo quan điểm của số đông, hoặc mê thích kiểu cách thời trang. Nếu muốn làm chủ đời mình thì thiết yếu phải đứng ra ngoài tâm thức đại chúng. 

Năng lượng trong vòng xoáy đi xuống

Nhưng tất nhiên, năng lượng thấp không cứ là phải xâm nhập trường của bạn từ ngoài. Bạn dư khả năng sản xuất những thứ đó từ bên trong khi bạn có cảm xúc tiêu cực như sợ hãi hay tức giận. Những năng lượng này sẽ chồng chất trên đống cảm xúc cũ, khiến bạn rơi vào một vòng xoáy ốc kéo bạn đi xuống, để rồi cuối cùng bạn bị mất chủ quyền. Có lẽ bạn đã thấy rõ là để làm chủ đời mình, một phần thiết yếu là phải học cách không đáp trả cuộc đời với những cảm xúc tiêu cực. Bạn có khả năng làm được điều này bằng cách giải quyết mọi tin tưởng làm tổn hại tâm mình cũng như chuyển hóa những năng lượng thấp kém. Trang mạng này có thể giúp bạn qua các dụng cụ tu tập được đăng tải ở đây.      

Và điểm chót có lẽ quan trọng hơn cả: để cảm thấy thư thái, bạn cũng cần nẩy sinh những năng lượng thanh cao trong trường cá nhân của mình. Trước mọi hoàn cảnh cuộc đời, bạn cần học cách phản ứng tích cực, nhưng hơn thế nữa, bạn cần học làm thế nào để nhận thêm năng lượng từ chính cái nguồn của những năng lượng thanh cao. Nguồn đó chính là bạn trong những thể cao, cho nên bạn cần chiêm nghiệm dòng năng lượng đang tuôn chảy tự nhiên từ chân nhân xuống phàm nhân. Nhờ vậy bạn sẽ nắm rõ hơn cách thức bảo vệ và làm sạch trường năng lượng của mình.

Dưới đây xin gợi ý một vài hướng tu tập với thể năng lượng:

  • Bạn phải học cách ngăn chặn năng lượng tiêu cực xâm nhập trường năng lượng.
  • Bạn phải học cách thanh lọc những năng lượng đã nằm sẵn trong trường năng lượng.
  • Bạn phải học cách ngừng khởi sinh năng lượng tiêu cực trong chính tâm mình.
  • Bạn phải học cách gia tăng dòng năng lượng tích cực từ những phần thanh cao của bản thân mình.

Vài điểm chính trong thế giới quan của các chân sư

Thế giới quan của các chân sư phức tạp do có nhiều tầng lớp, trả lời được mọi thắc mắc mà người tâm linh đặt ra về cách thế gian vận hành cũng như về sáng thế. Nhưng muốn nắm được trọn vẹn thì chúng ta không những phải bỏ công tìm hiểu mà còn phải đổi mới các công cụ tư duy của mình. Vì vậy ở đây chỉ xin tóm lược một vài điểm chủ yếu.

Thật ra thế giới quan của chân sư có thể dễ dàng giải thích qua một số khám phá của khoa học hiện đại, tuy nhiên trang mạng này không có ý định dùng lý lẽ để chứng minh tại sao các chân sư hiện hữu, cũng như không thấy cần thiết phải dùng khoa học để kiểm chứng sự hiện hữu đó. Bạn chỉ có thể xác nhận sự hiện diện của các thày cùng giá trị giáo lý các thày qua một kinh nghiệm trực giác nội tâm mà thôi.

Tất cả đều là năng lượng

Chúng ta lớn lên và thấm nhuần một thế giới quan không mấy phù hợp với các khám phá của khoa học, một phần là vì giác quan chúng ta đã tạo ra một hình ảnh quá thuyết phục về một thế giới làm bằng vật chất rắn đặc. Thế nhưng từ năm 1905, Albert Einstein đã phá tan cái nhìn cố hữu đó qua công thức giản dị: E = mc2.   

Thuyết tương đối của Einstein và những thuyết sau đó của ngành vật lý lượng tử chứng minh rằng vật chất rắn đặc thật sự không có. Đó chỉ là sự tạo dựng của lý trí, một tạo dựng dựa trên những cảm nhận của giác quan. Kỳ thực, vật chất không rắn đặc mà hoàn toàn được cấu tạo bằng năng lượng, mà năng lượng thì là một dạng rung động. Năng lượng không có gì rắn đặc hơn một tia sáng hay một gợn sóng trên mặt đại dương – nó không ngừng rung động. Nhưng năng lượng rung động cũng có thể hiện ra dưới hình thức đứng yên, là trường năng lượng, và điều này chính là hình dạng rắn đặc mà giác quan có cảm tưởng nắm bắt.    

Đặc trưng của năng lượng là độ rung. Chẳng hạn, ánh sáng màu đỏ có rung động thấp hơn ánh sáng màu xanh dương. Nghĩa là chúng ta có thể xây dựng một cái thang trải dài từ những rung động thấp cho đến những rung động cao, tựa như gam nốt trong âm nhạc vậy.

Trên cái thang đó, con mắt chúng ta chỉ có thể bắt được một dải rung động giới hạn mà thôi, gọi là ánh sáng nhìn thấy. Nhưng khoa học có thể đo được nhiều hình thức rung động khác vượt ngoài khả năng phát hiện của giác quan. Chẳng hạn ánh sáng hồng ngoại rung động thấp hơn, và ánh sáng cực tím thì cao hơn dải tần số có thể nhìn thấy. Và như vậy khoa học mở ra một thế giới rung động năng lượng vượt khỏi khả năng phát hiện cùa giác quan thể xác lẫn của dụng cụ khoa học hiện đại, với hệ quả là khả năng hiện hữu của một cõi rung động năng lượng vượt ngoài tầm đo đạc của dụng cụ vật lý hiện tại. Hơn thế nữa, cõi này cũng vượt luôn khả năng của mọi loại dụng cụ vật lý trong tương lai. Thật sự, chúng ta đang chạm một điểm mà hầu hết mọi tôn giáo cùng mọi truyền thống tâm linh trong lịch sử đều nói tới, đó là sự hiện hữu của một cõi tâm linh, hay gọi nôm na là cõi trời, vượt trên vũ trụ vật chất.

Trong thế giới quan của chân sư, quả là có một cõi vật chất nơi con người sinh sống, và ở cao hơn có một cõi tâm linh nơi các chân sư hiện diện. Tuy nhiên, không như cách trình bày của một vài tôn giáo, không hề có một lằn ranh bất khả xâm nào giữa hai cõi đó. Cả hai cõi được tạo bằng cùng một chất căn bản, là năng lượng mà thôi. Sự khác biệt không phải ở thể chất, mà ở độ rung. Năng lượng vật chất cũng chính là năng lượng tâm linh mà tần số đã bị hạ giảm từ cao xuống thấp.

So với cõi vật chất chỉ có một dải tần số hạn chế thì cõi tâm linh có một dải tần số rộng lớn hơn rất nhiều. Thường chúng ta không thể nhận thấy năng lượng tâm linh vì giác quan đã bị điều chỉnh để chỉ bắt được rung động của cơ thể, mà chúng ta gọi là vật chất rắn đặc. Các chân sư không bảo rằng vật chất không hiện thực, mà chỉ dạy rằng vật chất là năng lượng rung động trong một dải tần số nhất định, và ở ngoài dải đó có dải tần số khác rộng lớn hơn gấp bội.     

Nếu chúng ta cứ tiếp tục dùng giác quan mà chiêm nghiệm mọi thứ, và nếu dụng cụ khoa học không tài nào phát hiện được năng lượng tâm linh, thì làm sao chúng ta hy vọng nhận biết được cõi tâm linh đây? Vẫn được chứ, vì chúng ta có một dụng cụ vượt ngoài giác quan. Dụng cụ đó chính là tâm, nhưng là một khía cạnh đặc biệt của tâm.  

Chủ nghĩa duy vật khoa học đã dựng lên một hàng rào giữa tâm và vật, nhưng hàng rào này đã bị phá sập trong thập niên 1920 khi ngành vật lý lượng tử khám phá cấu tạo của vật chất là những hạt hạ nguyên tử mà tâm con người có khả năng tương tác. Chủ nghĩa duy vật vốn quan niệm rằng một nhà thử nghiệm khoa học là một quan sát viên hoàn toàn khách quan, không ảnh hưởng gì đến hiện tượng được quan sát. Họ bảo phải làm vậy để loại bỏ mọi tác động của tâm con người, vì theo họ, tâm người vốn chủ quan.

Nhưng mơ mộng đó về một quan sát viên khách quan đã bị cơ học lượng tử đánh đổ. Ở những tầng sâu nhất của vật chất nơi rung động khoác lên hình dạng vật chất “rắn đặc”, không hề có quan sát viên khách quan. Tâm của người thử nghiệm chính là một thành phần không rời của một “toàn cảnh đo đạc” nơi tâm quan sát góp phần sáng tạo những gì được quan sát.

Các chân sư giải thích là tâm người quan sát thực ra là một trường năng lượng. Những hiện tượng hạ nguyên tử được quan sát cũng là một trường năng lượng. Và dụng cụ được sử dụng để quan sát (máy gia tốc hạt) cũng là một trường năng lượng. Khi cả ba trường năng lượng này tương tác, chúng tạo ra một mô thức giao thoa, và “vật” được quan sát chẳng qua chỉ là cái mô thức đó.

Nói cách khác, một nhà khoa học dù tận tụy đến mấy cũng không thể quan sát một hạt hạ nguyên tử như nó thực là. Ông ta chỉ quan sát một hiện tượng được tạo dựng phần nào bởi chính tâm của ông, và hiện tượng đó đã bị tâm ông ảnh hưởng. Một số triết gia cũng đi đến kết luận tương tự, như Immanuel Kant nói rằng chúng ta không thể thấy vật như nó là, mà chỉ thấy được một cái gì đó đã bị tác động bởi phin lọc nhận thức của mình.

Điều này có nghĩa, chúng ta không thể thực sự hiểu thế gian, hoặc thực sự quan sát thế gian, nếu mình chưa tìm hiểu tâm mình cùng những phương thức mà tâm sử dụng để đồng sáng tạo thế gian. Những giáo lý và dụng cụ tu tập của chân sư đăng tải trên trang web này có mục đích giúp bạn làm điều đó, qua sự hiểu biết và điều ngự tâm mình.  

Nhân tiện xin nói thêm, cơ học lượng tử đã chứng minh giấc mơ quan sát khách quan của chủ nghĩa duy vật không thể thực hiện được nếu chúng ta loại trừ tâm ra, mà ngược lại chúng ta phải thấu hiểu tâm. Vậy thì tâm đáng lý phải là lãnh vực khoa học quan trọng hơn cả, bởi vì không có gì không bị tâm ảnh hưởng. Và tất nhiên, tâm chính là đề tài chủ yếu của khoa học tâm linh.   

Chúng ta là ai?

Theo lời dạy của các chân sư, các khám phá trên đưa tới kết luận tự nhiên là thế giới vật chất giống như một cái máy giả thực tại (reality simulator). Vật chất rắn đặc mà chúng ta thấy thật ra không rắn đặc. Mọi thứ trên địa cầu được tạo bằng năng lượng rung động, nhưng khi chúng ta nhìn nó qua phin lọc nhận thức của giác quan và cái tâm vỏ ngoài, nó hiện ra như một thế giới vật chất rắn đặc. Chính điều này khiến cho đa số con người tin mình bị giới hạn bởi khả năng ít ỏi của cơ thể vật lý, thậm chí con tưởng tâm mình là sản phẩm của não bộ vật lý.

Các chân sư dạy rằng chúng ta là những sinh thể tâm linh, nghĩa là cốt lõi của tâm mỗi người đã được sinh tạo trong cõi tâm linh. Sau đó chúng ta mới đi xuống vùng năng lượng vật chất nơi tâm mình nhập vào xác thân vật lý dày đặc. Sau một thời gian dài, đa số chúng ta đã quên mất nguồn gốc tâm linh của mình, rồi tin chắc như đinh đóng cột vào hai loại ảo tưởng phổ biến trên địa cầu, đó là (1) ảo tưởng mình là kẻ có tội do một Thượng đế giận dữ sinh ra, và (2) ảo tưởng mình là những sinh thể hoàn toàn vật chất, một loại thú vật đã tiến hóa.      

Con người quên mất nguồn gốc của mình, một mặt là do đã sử dụng quyền tự quyết của mình một cách thiếu quân bình, và mặt khác vì bị khuynh loát bởi một số sinh thể cực kỳ ích kỷ muốn lập thành một giai cấp thượng lưu quyền lực. Con đường tâm linh mà các chân sư chủ trương nhằm giúp chúng ta tự giải thoát khỏi cả hai loại ảnh hưởng này.

Dù chúng ta đã quên mất nguồn gốc tâm linh nhưng chúng ta không thể đánh mất khả năng tìm lại nhận thức đó. Vậy thì bất cứ lúc nào chúng ta cũng có thể khởi sự một tiến trình, gọi là đường tu tâm linh, nhằm giải thoát bản thân khỏi những ảo tưởng đang trói buộc đa số chúng ta vào trái đất. Tất nhiên hành trình này sẽ không nhanh chóng, nhưng chắc chắn đó là một hành trình thực tiễn sẽ thay đổi lớn lao ngoài sức tưởng tượng cách chúng ta kinh nghiệm cuộc sống trên địa cầu.

Kinh nghiệm đời sống

Tại sao có người hạnh phúc, hài lòng với đời mình trong khi người khác lại buồn khổ, bất mãn? Tại sao có người nhìn đời tích cực nhẹ nhõm trong khi người khác như phải quằn lưng gánh vác cuộc đời? Chúng ta đều sống trên cùng một hành tinh, vậy tại sao trải nghiệm khác nhau như vậy?   

Các chân sư dạy rằng quả thật là có một môi trường vật lý gọi là địa cầu. Tất cả chúng ta đều sống ở đây, và tuy rằng hoàn cảnh ở mỗi nước mỗi khác, nhưng tựu trung, tâm chúng ta đều có cùng một cơ cấu vận hành. Tâm chúng ta tương tác với môi trường, nhưng cái tạo ra trải nghiệm nội tâm KHÔNG PHẢI là hoàn cảnh bên ngoài mà là hoàn cảnh bên trong.

Môi trường chúng ta sống là một trường năng lượng. Tâm chúng ta, kể cả tâm vô thức, cũng là trường năng lượng. Hai người khác nhau có thể có cùng hoàn cảnh bên ngoài, nhưng kinh nghiệm cuộc đời tùy thuộc vào những gì xảy ra bên trong tâm mỗi người, kể cả những lớp tiềm thức của tâm. Đó là lý do tại sao hai người gặp cùng ngoại cảnh mà nội cảnh lại khác nhau.  

Đa số chúng ta được dạy dỗ rằng cách duy nhất để cải thiện kinh nghiệm đời sống là thay đổi ngoại cảnh. Chúng ta được dạy dỗ rằng kinh nghiệm bên trong chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh bên ngoài. Nếu nghĩ vậy thì thật là thối chí, bởi vì trong đời hẳn sẽ có một số điều kiện sống – kể cả những người chung quanh mình – mà mình không có khả năng thay đổi. Từ đó sẽ cảm thấy bất lực vì các chọn lựa để cải tiến đời mình trông ra thật giới hạn.

Nhưng chúng ta không nên thất vọng bởi vì có một lối thoát hiển nhiên. Đó là nhận ra rằng nội cảnh mới thật sự định đoạt kinh nghiệm sống của mình, và chúng ta có tiềm năng điều ngự cái tâm đó. Khi làm vậy, chúng ta sẽ cải thiện kinh nghiệm sống cho dù ngoại cảnh không thay đổi. Nhưng hơn thế, chân sư còn dạy rằng một khi tâm được điều ngự thì chính những hoàn cảnh bên ngoài cũng có thể thay đổi tốt hơn. Muốn hiểu điểm này, cần hiểu thế gian được sáng tạo thế nào.

Sáng tạo địa cầu

Chân sư dạy rằng hành tinh của chúng ta được bảy vị chân sư thăng thiên sáng tạo, gọi là các Elohim. Các thày dùng năng lượng tâm linh mà các thày đã phú cho bảy loại rung động khác nhau. Sau đó các thày kết hợp viễn kiến, sử dụng quyền năng tâm mình để phóng chiếu viễn kiến đó vào năng lượng tâm linh ban sơ qua những chiếc khuôn đúc tạo sinh. Năng lượng lấy hình tướng của những hình ảnh phóng chiếu ra, và đó là phương thức mà hình thể được tạo dựng.

Địa cầu nguyên thủy do các Elohim tạo ra có rung động cao hơn bây giờ rất nhiều. Như được gợi ý trong một số huyền thoại sáng thế, con người nguyên thủy có đời sống tinh thần cao hơn. Vào thời thuần khiết ban sơ đó, chúng ta có khả năng đồng sáng tạo mọi thứ mình cần qua quyền năng tâm mình, tức là chúng ta không phải làm việc nặng nhọc để nuôi cơ thể.  

Nhưng qua một tiến trình sẽ được giải thích ở một phần khác, chúng ta đánh mất tỉnh giác về quyền năng sáng tạo ban đầu của mình và rơi xuống một tầng tỉnh giác thấp hơn để rồi quên mất nguồn gốc của mình. Từ đó tới nay, chúng ta đã đồng sáng tạo ra tất cả mọi hạn chế và xung đột được thấy ngày nay, và đó là lý do chúng ta phải “làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn”.

Nói cách khác, loài người đã dùng cái mẫu nguyên thủy thanh cao của các Elohim rồi đồng tạo ra hoàn cảnh bất toàn hiện tại của mình. Nhưng không nên nản lòng, vì nếu chúng ta đã tạo ra hoàn cảnh này bằng cách phóng chiếu hình ảnh ô uế, thì chúng ta cũng có khả năng tháo gỡ bằng cách chiếu chồng lên những hình ảnh thanh khiết. Vậy điều chúng ta cần làm trước hết là thanh tẩy tâm mình cho không còn hình ảnh cùng năng lượng ô uế.

Chúng ta có thể làm điều này cho cá nhân mình. Với hệ thống tu tập mà các thày chỉ dạy, chúng ta sẽ cải thiện trước hết kinh nghiệm sống của mình, rồi sau đó cải thiện hoàn cảnh cá nhân. Thời nay với ngày càng nhiều người cùng đi trên hành trình tâm linh, chúng ta cũng sẽ cải thiện được hoàn cảnh chung trên toàn địa cầu mà tâm thức tập thể đã gây ra. Như vậy, nâng cao tâm thức cá nhân cũng sẽ năng cao tâm thức tập thể.   

Các chân sư đã trao cho chúng ta một phương pháp thiết thực, không những để hồi phục sự thanh khiết nguyên thủy của địa cầu, mà còn để xây dựng tốt đẹp hơn nữa. Các Elohim chỉ đặt nền tảng, còn chúng ta với khả năng đồng sáng tạo mới có thể làm cho địa cầu tốt đẹp hơn nữa.   

Những tầng lớp của tâm

Như chân sư đã giải thích, thế giới vật chất được tạo nên bằng cách lấy năng lượng từ cõi tâm linh rồi kéo độ rung thấp xuống. Chỉ có các chân sư mới có quyền năng làm điều này và đó là chức năng của các thày. Khi đưa năng lượng xuống tần số vật chất, các thày trao cho chúng ta một phần năng lượng đó – là nguồn sinh lực đằng sau mọi nỗ lực đồng sáng tạo – để chúng ta toàn quyền sử dụng.   

Trong ý định nguyên thủy, chúng ta là người đồng sáng tạo với chân sư. Khi tiếp nhận dòng năng lượng sáng tạo từ chân sư, chúng ta phóng chồng lên hình ảnh của tâm mình để tạo ra hình thể. Có nghĩa là nguyên vũ trụ vật chất này được đứng vững nhờ dòng năng lượng tâm linh do các thày cho tuôn chảy xuống cõi vật chất. Đây không những là dòng sinh lực để chúng ta sống còn, mà còn là dòng tâm thức để chúng ta tự nhận biết. Đa số nhân loại không hay biết gì về năng lượng sáng tạo này, và cũng không nhận được nhiều lắm. Nhưng là người tu tập theo chân sư thì khác, chúng ta sử dụng năng lượng một cách tỉnh giác hơn và do đó nhận được nhiều ánh sáng hơn để mình sáng tạo nhiều hơn.

Muốn tăng trưởng khả năng sáng tạo, chúng ta phải sẵn sàng xem xét nội dung tâm mình, vì ở đó đang tồn tại một số điều kiện có thể ngăn cản dòng sáng tạo chảy xuống. Tức là chúng ta phải sẵn sàng xem xét mọi tin tưởng mình đang có, không chỉ ý thức mà cả tiềm thức, bởi vì những lớp tâm tiềm thức này ảnh hưởng sâu đậm khả năng sáng tạo cùng kinh nghiệm sống của mình.

Các thày dạy rằng con người có bốn tầng trong tâm phàm:

  • Tầng ý thức, nơi chúng ta nhận biết ý tưởng cùng cảm xúc của mình, và lấy những quyết định ý thức.
  • Tầng cảm xúc, nơi cảm xúc trú ngụ.
  • Tầng lý trí, nơi ý tưởng trú ngụ, trong đó có nhiều ý tưởng tiềm thức.
  • Tầng bản sắc, nơi chúng ta cảm nhận sâu xa mình là ai.

Phần lớn sinh hoạt nơi ba tầng cao (tình cảm, lý trí, bản sắc) đều ẩn khuất khỏi sự nhận biết ý thức, và điều này tác động chúng ta rất sâu đậm. Chẳng hạn, chúng ta có những khuôn nếp trong tâm khiến mình luôn phản ứng một cách nhất định trước một tình huống nào đó, nghĩa là mình đánh mất khả năng phản ứng ý thức, hay không biết ngừng lại để thay đổi cách phản ứng. Nhưng một khi bước vào đường tu tâm linh thì có một yếu tố trở nên vô cùng quan trọng, đó là giành lại quyền quyết định ý thức khỏi sự chi phối của tiềm thức, và tự tháo gỡ khỏi các cơ cấu tiềm thức đang giới hạn mình.  

Cách sắp xếp làm bốn tầng kể trên đi từ ý thức vào tiềm thức, vậy bây giờ chúng ta hãy thử sắp lại theo độ rung năng lượng. Khi làm vậy, thứ tự sẽ lật ngược, và chúng ta sẽ hiểu trọn vẹn hơn. Như đã trình bày, ở trên cõi vật chất có một cõi tâm linh. Cõi này được tạo bằng cùng một “chất” với cõi vật chất, chỉ khác ở độ rung động cao hơn mà thôi. Độ rung động này bị kéo thấp xuống khi chảy vào cõi vật chât, hay nói cách khác, có một dòng năng lượng chảy từ cõi tâm linh xuống cõi vật chất, tuy nhiên trước khi xuống được cõi vật chất hay vật lý thì nó phải chảy qua ba cõi khác.  

Ba cõi “trung gian” này chính là cõi vận hành của ba tầng cao của tâm – cõi bản sắc ở tầng cao nhất là cõi vận hành của bản sắc, cõi lý trí là cõi vận hành của tầng lý trí, và cõi cảm xúc của tầng cảm xúc. Như vậy khi năng lượng tâm linh chảy xuống, trước hết nó bị kéo thấp xuống độ rung của cõi bản sắc. Năng lượng gặp gỡ những khuôn đúc tạo sinh nằm ở nơi đây và khoác lấy hình dạng của khuôn, là những hình dạng bản sắc. Chẳng hạn nếu chúng ta xem mình là một loài thú tiến hoá, thì tự động cái khuôn bản sắc này sẽ hạ thấp năng lượng xuống, hạn chế khả năng sáng tạo.

Sau khi chảy qua cõi bản sắc, năng lượng lại bị kéo thấp xuống độ rung của cõi lý trí. Một lần nữa, nó lại biến dạng theo những khuôn đúc tạo sinh nằm ở đây là tư tưởng. Chẳng hạn nếu nghĩ mình chỉ là sinh vật thuần vật chất thì ý tưởng này sẽ giới hạn khả năng sáng tạo của mình đáng kể.  

Năng lượng chảy tiếp xuống cõi cảm xúc, và y như trên, nó lại lấy hình dạng của các khuôn đúc của tình cảm. Chỉ sau khi đi qua ba cõi, năng lượng mới xuống đến cõi thấp nhất là tầng ý thức của tâm, và bây giờ thì chúng ta mới có khả năng sử dụng nó một cách ý thức. Nhưng vì nó đã chảy qua ba tầng cõi nơi nó đã bị thâu hẹp lại, cho nên ý thức ở cõi thấp hơn chỉ thấy được sót lại rất ít chọn lựa.

Hiển nhiên, những khuôn đúc nằm sâu nhất trong chúng ta là ở cõi bản sắc. Một khi năng lượng tâm linh đã khoác lấy hình tướng của khuôn bản sắc thì cõi thấp hơn là lý trí sẽ không có khả năng đi ngược lại hình tướng đó.

Cũng vậy, cảm xúc không thể nào đi ngược lại những khuôn nếp sinh tạo của lý trí. Và bởi vì cảm xúc thường sôi sục hỗn độn, nên chúng ta sẽ không ý thức được tác động của những cái khuôn lý trí này. Đó là tại sao nhiều người khi bị cuốn xoáy trong cơn bức xúc nóng giận cảm thấy hoàn toàn bất lực, không làm sao vận dụng được tâm ý thức để nhận diện những khuôn nếp nằm sẵn ở trên đã tạo ra phản ứng ở dưới. Và họ biến thành kẻ nô lệ của khuôn nếp, phản ứng máy móc và mù quáng trước ngoại cảnh.    

Vậy thì bạn thử suy ngẫm xem về quyền tự do chọn lựa. Giả thử bạn có một bản sắc hạn hẹp, nó sẽ giới hạn những gì bạn nghĩ bạn có thể hoàn thành trong đời sống. Mọi ý tưởng của bạn ở tầng dưới sẽ bị nhốt trong ranh giới mà bản sắc đã vạch ra, và trong tiềm thức, bạn sẽ bác bỏ một số ý tưởng là không thực tế. Xuống dưới hơn, cảm xúc của bạn chỉ có thể sinh sản trong cái khung mà ý tưởng đã dựng lên, khiến bạn phản ứng trong sự sợ hãi hay sự giới hạn. Khi cuối cùng bạn đối mặt với một tình huống bên ngoài, phản ứng của bạn hầu như đã hoàn toàn được định trước bởi những cái khuôn ở ba cõi trên. Bạn có rất ít khả năng dùng ý thức của mình ở cõi dưới để đi ngược lại khuôn nếp hầu sử dụng quyền tự do của mình. Nhưng nếu bạn đi theo đường tu của các chân sư, bạn sẽ có thể từ từ lấy lại khả năng chọn lựa tự do và ý thức.

Thay đổi tâm thức đại chúng

Như vậy, đường tu mà các chân sư giảng dạy giúp chúng ta lấy lại quyền làm chủ trên cả bốn tầng của tâm. Chúng ta biến các trói buộc tiềm thức thành ý thức, rồi chúng ta hóa giải chúng. Kết quả tức thì là mình tự giải thoát khỏi những khuôn nếp xúc cảm đang hủy hoại mình. Xa hơn, sẽ tự giải thoát khỏi những khuôn nếp tư tưởng đang hạn chế mình. Và với thời gian, sẽ phát hiện và thay đổi một cách ý thức những khuôn nếp bản sắc đang tước đoạt quyền sống của mình.

Trước hết, tiến trình này sẽ cải thiện kinh nghiệm sống của chúng ta. Chúng ta lấy lại khả năng chọn lựa những phản ứng tốt đẹp trước mọi tình huống ngoại cảnh, và nhờ thế đạt được an bình nội tâm. Nhưng xa hơn, chúng ta sẽ được cả khả năng thay đổi ngoại cảnh chung quanh và đồng sáng tạo một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi có nhiều người cũng làm được vậy, tâm thức và hoàn cảnh sống tập thể sẽ cải thiện theo (như chúng ta đã thấy xảy ra ở môt số nơi).   

Trên mặt tập thể, nhân loại cũng có bốn tầng của tâm y như mỗi chúng ta có bốn tầng trong tâm cá nhân. Tần số rung động của bốn tầng tập thể này cấu tạo thành vũ trụ vật chất. Sống trong xã hội, con người thường bị các khuôn nếp phản ứng tập thể đó áp đảo, khuất phục. Ví dụ như ở vùng Trung Đông, người dân ở đó khó lòng thoát khỏi sự oán giận khi mình bị ngập đầu trong năng lực căm hờn tràn lan khắp nơi chốn.  

Khi cất bước trên đường tu tâm linh, chúng ta sẽ tuần tự gỡ bỏ mọi ảnh hưởng của tâm thức tập thể trên tâm mình. Như khi giải thoát tình cảm mình khỏi năng lượng của nóng giận, thì lập tức trong tâm sẽ không còn chút năng lượng nào mà sự nóng giận tập thể có thể chụp lấy để mà áp đảo, khuất phục ý chí chúng ta.

Tất nhiên là khi sống trong tập thể, chúng ta sẽ không tránh được ảnh hưởng của tâm thức tập thể. Tuy nhiên một khi đã tự tháo gỡ khỏi sức hút của tâm tập thể, mối quan hệ của chúng ta với tập thể sẽ trở thành lợi lạc cho tập thể. Trước kia thì bị tập thể chế ngự, nhưng bây giờ với tâm thức cao hơn, chúng ta có khả năng tác động ngược trở lại, tức là đóng góp để nâng cao tâm thức mọi người, giảm bớt – và cuối cùng gỡ bỏ – những sinh hoạt đang hủy hoại địa cầu.

Các chân sư rất rõ ràng về điểm này: chìa khoá để cải thiện điều kiên sống trên địa cầu là nâng cao tâm thức của tập thể. Tại sao? Bởi vì mọi điều kiện tiêu cực trên thế giới đều do tâm tập thể đồng tạo ra. Lấy bạo lực chẳng hạn, nó không ngừng tái tạo và sinh sản bởi vì năng lực tâm linh chảy xuống tập thể cứ bị các khuôn nếp bạo lực nơi lý trí và cảm xúc làm cho ô uế.

Chìa khoá để thay đổi các điều kiện vật chất không nằm trong nỗ lực thay đổi vật chất, mà trong sự cải thiện ở ba tầng cao khiến cho cải thiện vật chất thị hiện dễ dàng hơn. Chẳng hạn, chúng ta không thể áp đặt một thể chế dân chủ khi tâm thức tập thể chưa sẵn sàng, thế nhưng một khi tâm thức đã nâng cao thì một thể chế dân chủ sẽ dễ dàng thành hình.

Và đây là lý do tại sao các chân sư nói rằng chỉ cần một số nhỏ những người tâm linh trở nên tỉnh giác để kích hoạt những thay đổi to lớn trong xã hội và cuối cùng sẽ thay đổi cả bộ mặt hành tinh vật lý. Nhiều người tâm linh đang đầu thai cảm nhận khá rõ rằng đây là mục đích đầu thai của mình trong thời đại hôm nay. Chúng ta có mặt ở đây để đem lại một số thay đổi quan trọng và đóng góp khởi hiện một thời hoàng kim. Các chân sư đã trao cho chúng ta giáo lý cùng những dụng cụ tu tập dũng mãnh nhất để chúng ta làm tròn mục đích sống của mình – mục đích sống này chính là lý do chúng ta đầu thai.

Các chân sư thăng thiên được biết đến nhiều nhất

Dưới đây là những chân sư thăng thiên quen thuộc nhất.

Giê-su

Chân sư thăng thiên Giê-su từng hiện thân cách đây 2000 năm như nhân vật Jesus lịch sử, thế nhưng sứ mạng cùng thông điệp thực sự của thày rất khác với những gì được đạo Cơ đốc chính mạch mô tả. Chân sư Giê-su đã hiện thân để chứng thực một con đường dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn – là quả vị Ki-tô cá nhân – mà mỗi người trong chúng ta đều có tiềm năng chứng đạt. Nhưng các tà lực đã khiến cho thông điệp của thày bị tha hóa, biến thày thành một ngoại lệ mà không ai có thể theo chân. Bạn có thể đọc thêm nhiều bài viết, bằng Anh ngữ, về đề tài này trên trang riêng của Giê-su.

Suốt 2000 năm qua, cũng được gọi là Thời đại Song ngư, Giê-su đã là vị chân sư chủ yếu trông coi sự phát triển tâm linh của địa cầu. Trách vụ này hiện do chân sư Saint Germain đảm nhiệm, là người sẽ trông coi sự tiến hóa của địa cầu trong 2000 năm tới, Thời đại Bảo bình. Giê-su vẫn giữ trách vụ Đấng Cứu thế của Hành tinh, cũng như trách vụ Thày giáo của Thế giới cùng với chân sư Kuthumi.

Trái với những gì đạo Cơ đốc chính mạch tin tưởng, Giê-su không sinh ra khác gì tất cả chúng ta, và thày đã từng sống qua rất nhiều kiếp đầu thai trước khi đạt đến mức tâm thức cho phép thày thực hiện sứ mạng của mình qua khuôn mặt lịch sử Jesus. Bạn có thể đọc về những tiền kiếp của thày trong quyển sách “My lives with Lucifer, Satan, Hitler and Jesus”.

Mẹ Mary

Chân sư thăng thiên Mẹ Mary từng hiện thân là thân mẫu của Giê-su cách đây 2000 năm. Trước đó, thày cũng đã nhiều lần đầu thai và ở cuối đời trong kiếp sống làm mẹ của Giê-su, thày đã thăng thiên.

Chân sư Mẹ Mary đảm nhiệm trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho địa cầu cùng với Quan Âm và một số chân sư nữ khác. Mẹ Mary rất tích cực trong đợt truyền pháp lần này và đã đưa ra rất nhiều bài truyền đọc, bài cầu nguyện tràng hạt và bài cầu thỉnh để giúp chúng ta vượt qua các giới hạn của tâm lý mình cũng như các điều kiện luôn biến đổi của thế giới.

Saint Germain

Chân sư thăng thiên Saint Germain là chân sư chủ yếu trông coi địa cầu, hay vị đứng đầu địa cầu, trong chu kỳ 2000 năm sắp tới gọi là Thời đại Bảo bình. Thày đã hoạch định sự hiển thị của một Thời Hoàng kim cho nhân loại với những tiến bộ vượt bực về công nghệ, chính quyền và văn hóa, nhưng trên hết là sự phát triển tâm linh của mọi người trên trái đất.

Chân sư Saint Germain cũng là vị thượng sư của Tia sáng Thứ bảy của tự do. Thày đã có vô số kiếp đầu thai, trong đó có những kiếp là Joseph (thân phụ của Giê-su), Roger Bacon, Francis Bacon and bá tước Saint Germain. Thày thăng thiên vào ngày 1 tháng 5 năm 1684.

Trong thập niên 1930, Saint Germain được sự miễn phép của Hội đồng Nghiệp quả để phổ biến những hiểu biết chân truyền về Ngọn lửa Tím qua một tổ chức có tên là I Am Movement (Phong trào Ta Là) do Guy Ballard khởi xướng. Saint Germain cũng trông coi một tu viện tâm linh mang tên Cave of Symbols (Hang Biểu tượng).

Phật Gautama

Chân sư thăng thiên Gautama từng hiện thân là đức Phật lịch sử cách đây 2500 năm. Như Giê-su bị đạo Cơ đốc công truyền nâng lên thành một đấng khác bịêt với mọi người, một số giáo lý đạo Phật cũng làm điều tương tự với Gautama. Tuy nhiên, thày sinh ra cũng giống như mọi người trong chúng ta và đã đầu thai trong nhiều kiếp trước khi đạt được mức tâm thức cho phép thày thực hiện sứ mạng chứng thực con dường dẫn tới quả vị Phật.  

Chân sư Gautama hiện đảm nhiệm trách vụ Phật Hành tinh và thày cũng trấn giữ không gian cho địa cầu, có nghĩa là thày cầm giữ sự quân bình tâm linh để không gian có thể hiện hữu dưới một hình dạng tiến chậm hơn mức tiến hóa của phần còn lại của vũ trụ (tức là vật chất ở đây dày đặc hơn mọi nơi khác), nhờ đó mà quyền tự quyết mới có thể được thực hiện trên địa cầu.

Đại thiên thần Michael

Đại thiên thần Michael là vị đại thiên thần của Tia sáng Thứ nhất của ý chí và quyền năng cùng với Đại thiên thần nữ Faith. Thày thường được biết đến như là đấng bảo vệ con người khỏi các tà lực và trong mục đích đó, thày đã cung ứng một số bài chú và bài nguyện tràng hạt.

Một điều quan trọng cần hiểu là tuy rằng Đại thiên thần Michael thường là đấng khống chế tà lực, nhưng thày không tự xem mình phải chống đối hay chiến đấu với các tà lực. Trái lại, chính tà lực mới thấy mình đối chọi với thày, trong khi thày thì thấy mình bất động. Như thế, sự hung dữ của chúng lại là yếu tố kềm chế chúng, vì thày chỉ đơn giản không lay chuyển và phản chiếu lại cho chúng những gì chúng phóng ra về phía thày.

Nhiều người nhận được những kết quả rất tốt đẹp, và thường là mau chóng, khi thỉnh cầu sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael.

El Morya – Master MORE

Chân sư thăng thiên MORE là vị thượng sư của Tia sáng Thứ nhất của ý chí và quyền năng. Thày được biết đến qua nhiều bài giảng dạy tâm linh và những đợt truyền pháp trước đây dưới danh tính El Morya, tuy nhiên trong đợt truyền pháp này, thày đã đổi tên là MORE (HƠN NỮA) hầu hối thúc học trò của thày đã dựng lên một hình tư tưởng quá cứng ngắc về thày. Thày thách thức chúng ta hãy nhận ra thày là nhiều hơn tất cả những hình ảnh mà chúng ta có về thày.

Chân sư MORE đã đầu thai nhiều lần, trong số đó có Thomas More và nhà thơ Thomas Moore nước Ireland, trước khi thày thăng thiên năm 1898. Trước khi thăng thiên, thày có tham gia vào việc thành lập Hội Thông thiên học cùng với chân sư Kuthumi.

Quan Âm

Chân sư Quan Âm được nhiều người biết đến ở phương Đông như là một trong những vị thánh của đạo Phật. Thày được biết đến như là vị Bồ tát của lòng từ bi và nhân ái, hay là vị nghe được tiếng khóc của chúng sinh. Truyền thuyết kể rằng vào thời điểm thày chuẩn bị thăng thiên, thày nghe thấy tiếng kêu gào của loài người đau khổ và nguyện ở lại địa cầu trong tư cách một chân sư thăng thiên để cứu giúp tất cả những ai chưa siêu thoát.

Chân sư Quan Âm đảm nhiệm trách vụ Mẹ Thiêng liêng cùng với Mẹ Mary và cũng có tên là Nữ thần Bi mẫn. Trong quá khứ, thày đã từng là vị thượng sư của Tia sáng Thứ bảy.

Lord Maitreya

Chân sư Maitreya được biết đến như là vị Đại Khởi xướng. Một số giáo lý của các chân sư thăng thiên dạy rằng Vườn Eden là một trường học tâm linh (hay trường bí giáo) mà Maitreya là vị khởi xướng chủ yếu, tức đấng gọi là “Thượng đế” hay “Chúa Trời” trong kinh Sáng thế. Tuy nhiên, có giáo lý của các chân sư cũng dạy rằng sau khi Sanat Kumara đến địa cầu, Gautama và Maitreya là hai vị đầu tiên hưởng ứng xin theo. Gautam thăng thiên trước, Maitreya thăng thiên sau. Vì Gautama thăng thiên cách đây 2500 năm và Vườn Eden thì được thiết lập trước đó rất lâu, hình như có sự mâu thuẫn ở đây.  

Tuy nhiên, một khi chúng ta hiểu rằng danh tính của các chân sư thật ra cũng là danh hiệu của trách vụ, thì mâu thuẫn này không còn. Song song với sự tiến hóa của địa cầu và ngày càng có nhiều người thăng thiên, các trách vụ của Đại đoàn Chưởng giáo có thể thay đổi vị phụ trách, và một chân sư mới có thể vào thay thế chân sư cũ. Quả thật là có một chân sư tên là Maitreya đứng đầu trường bí giáo gọi là Vườn Eden. Vị ấy không đầu thai làm người mà thăng lên một bầu cõi cao hơn. Sau đó, có một vị khác đã thăng thiên và tiếp quản trách vụ đó cùng với danh tính Maitreya.

Sanat Kumara

Chân sư Sanat Kumara có một lịch sử vô cùng lâu đời. Thày không đến từ một hành tinh đặc biệt nào có tên gọi. Thày từng khôi hài tự ví mình là “kẻ hốt rác của vũ trụ”, ý muốn nói là thày đã “du hành” đến một số hành tinh đang đứng trên bờ vực của sự hủy diệt hầu giúp đưa những hành tinh này xoay chuyển, bước vào một vòng xoáy ốc đi lên. Vị đối tác tinh thần của Sanat Kumara là chân sư Venus.

Trước khi đến địa cầu, Sanat Kumara đã phụng sự trên hành tinh Venus. Cách đây rất lâu, địa cầu rơi xuống một tầng tâm thức thấp kém đến độ các hội đồng vũ trụ phải tính đến chuyện để cho địa cầu tự hủy. Sanat Kumara tình nguyện đến làm việc với địa cầu, và cùng với thày có 144,000 dòng sống ở Venus cũng quyết định theo chân để đầu thai trên trái đất. Sanat Kumara thiết lập một khu an toàn ở cõi bản sắc, nơi đó các dòng sống từ Venus được từ hóa. Một trường học huyền bí được dựng lên trong cõi vật lý ở một vùng mà bây giờ là sa mạc Gobi. Bạn có thể đọc thêm về những sự kiện này trong sách “My lives with Lucifer, Satan, Hitler and Jesus”.   

Serapis Bey

Chân sư Serapis Bey là vị thượng sư của Tia sáng Thứ tư. Thày cũng đứng đầu một tu viện tâm linh quan trọng dành riêng cho các hành giả cần sự giúp đỡ để bước vào vòng xoáy đi lên hầu đạt đủ tư cách thăng thiên.

Danh sách các chân sư giữ trách vụ trong bảy tia sáng

Các Elohim

  • Tia thứ nhất: Elohim Hercules
  • Tia thứ hai: Elohim Apollo
  • Tia thứ ba: Elohim Heros
  • Tia thứ tư: Elohim Purity và Astrea
  • Tia thứ năm: Elohim Cyclopea
  • Tia thứ sáu: Elohim Peace
  • Tia thứ bảy: Elohim Arcturus và Victoria.

Các Đại thiên thần

  • Tia thứ nhất: Đại thiên thần Michael
  • Tia thứ hai: Đại thiên thần Jophiel
  • Tia thứ ba: Đại thiên thần Chamuel và Charity
  • Tia thứ tư: Đại thiên thần Gabriel
  • Tia thứ năm: Đại thiên thần Raphael
  • Tia thứ sáu: Đại thiên thần Uriel
  • Tia thứ bảy: Đại thiên thần Zadkiel.

Các Thượng sư

  • Tia thứ nhất: El Morya – Master MORE
  • Tia thứ hai: Lanto
  • Tia thứ ba: Paul the Venetian
  • Tia thứ tư: Serapis Bey
  • Tia thứ năm: Hilarion
  • Tia thứ sáu: Nada
  • Tia thứ bảy: Saint Germain.

Các tia sáng tâm linh

Tia sáng tâm linh là một khía cạnh ít được thông hiểu trong hành trình tâm linh nhưng lại thật quan trọng. Xin đơn cử một vài lý do chủ yếu:

  • Bất cứ gì bạn làm trong đời đều sử dụng năng lượng của một trong bảy tia sáng tâm linh. Toàn thể thế giới vật chất được tạo bằng bảy tia sáng.
  • Mỗi hạn chế mà bạn phải đối mặt trong cuộc sống đều xuất xứ từ sự tha hóa của một hay nhiều tia sáng.
  • Cách DUY NHẤT để thăng vượt một hạn chế nào đó là giải thoát mình khỏi (1) niềm tin tưởng đã tạo ra hạn chế, và (2) năng lượng thấp kém được phát sinh.
  • Cách DUY NHẤT để biến hóa năng lượng thấp kém xuất phát từ tia sáng tha hóa là cầu thỉnh năng lực thuần khiết của chính tia đó, bởi vì mỗi tia là thuốc giải độc cho năng lực tha hóa của tia đó.

Nói ngắn gọn, chỉ qua sự hiểu biết các tia sáng tâm linh mà bạn mới có thể thật sự nhận diện và vượt qua những hạn chế mà bạn đương đầu. Xin mô tả sau đây mỗi tia sáng trong hai cách sử dụng, thuần khiết hay tha hóa. Với mỗi tia sáng, một số “nhân sự” có trách vụ tâm linh cũng được liệt kê:

  • Vị Elohim đại diện cho trách vụ xây dựng vũ trụ vật chất.
  • Vị Đại thiên thần đại diện cho trách vụ trung gian hay sứ giả giữa cõi tâm linh và vật chất.
  • Thượng sư là vị chân sư đảm nhiệm chủ yếu trách vụ trợ giúp loài người trên đường khai ngộ dẫn đến thượng thăng.

Tia thứ nhất

Kim Throat_Chakra_2

  • Màu sắc: Xanh dương
  • Luân xa liên hệ: Cổ họng
  • Elohim: Hercules và Amazonia
  • Đại thiên thần: Michael và Faith
  • Thượng sư: Chân sư More, cũng được biết dưới danh tính El Morya, Morya, Master M, M, hoặc Bapu.

Các đức tính thuần khiết:

Thường được xem là tia sáng của quyền năng và ý chí, tuy nhiên nếu hiểu sâu sắc hơn thì tia thứ nhất biểu tượng cho nghị lực sáng tạo. Đây là ý muốn tự biểu thị, sốt sắng trải nghiệm cho dù kết quả trải nghiệm không thể đoán trước. Đây cũng là thái độ sẵn sàng nhập vào dòng sống và tích cực học hỏi từ mỗi kinh nghiệm.

Tia thứ nhất khiến cho con người cảm thấy mọi việc đều có tầm quan trọng, cuộc đời vô cùng hứng thú, và mỗi cá nhân có khả năng thật sự thay đổi cục diện một cách tích cực. Tia thứ nhất cũng là chìa khóa khiến cho con người hào hứng nâng cao toàn thể thay vì chỉ nâng cao chính mình.    

Những mặt tha hóa:

Khi tha hóa, nghị lực sáng tạo trở thành nỗi sợ hãi những gì mình không nắm biết, dẫn đến sự lạm dụng quyền lực nhằm kiểm soát mọi tình huống, kể cả kiểm soát người khác. Đương sự sợ hãi không dám tiến hành những công việc không bảo đảm trước được kết quả, và khi đó, tất nhiên khả năng sáng tạo bị  thui chột.   

Những người có tia thứ nhất tha hóa thường lao vào trò tranh giành quyền lực để cố kiểm soát cho sự việc đạt được kết quả mình muốn. Nhưng điều này bóp chết cái lực sống trong mỗi sự sống luôn mong muốn thăng vượt lên, và cuối cùng chỉ có tự ngã được cảm thấy an toàn trong sự nắm giữ và sỡ hữu cái gì nó muốn trong thế gian. Hậu quả là đương sự muốn sở hữu luôn cả người khác – một nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xung đột trong nhân loại. Trong những trường hợp nhẹ, người đó sẽ sợ sáng tạo, cảm thấy bất lực và tin rằng cuộc đời không còn gì đáng làm, hay mình có đóng góp cũng chẳng đưa tới đâu.  

Tia thứ hai

Kim Crown_Chakra_2

  • Màu sắc: Vàng
  • Luân xa liên hệ: Đỉnh đầu
  • Elohim: Apollo và Lumina
  • Đại thiên thần: Jophiel và Christine
  • Thượng sư: Chân sư Lanto.

Các đức tính thuần khiết:

Thường được xem là tia sáng của minh triết, giác ngộ và tự hiểu biết, tuy nhiên ở mức sâu hơn, đây là tia sáng đem lại khả năng nhận rõ tính không thực của ngã tách biệt cũng như ảo tưởng của ý niệm tách biệt. Qua Tia thứ Hai, con người chiêm nghiệm sự thật cơ bản rằng mọi sự sống đều là một, và không có gì có thể tách rời khỏi Đấng Sáng tạo hiện diện khắp mọi nơi. Một đức tính khác của Tia thứ Hai là sự cởi mở đối với hiểu biết siêu việt, và sự chứng nghiệm rằng chân lý có nhiều cách diễn tả chính đáng khác nhau, nhưng mọi diễn tả đều tụ về cùng một thực tại bất nhị nằm bên dưới.     

Các mặt tha hóa:

Mặt tha hóa của Tia thứ Hai là minh triết giả hiệu, khi con người tưởng là mình biết tất cả, hay mình nắm một chân lý tối hậu. Ảo tưởng này là hệ lụy của ảo tưởng nhị nguyên, lầm tưởng rằng thực tại có thể chia ra thành từng phần riêng biệt, và tâm tách biệt có quyền và có khả năng định ra phần nào là đúng, phần nào là sai.

Sự tha hóa của Tia thứ Hai thường được thấy nơi những người tin tuyệt đối là mình đúng – đặc biệt những ai đã trở nên cuồng tín – và sẵn sàng cưỡng ép người khác phải tuân theo ý mình. Một sự tha hóa khác là chủ nghĩa trí thức, qua đó người ta sẵn sàng tranh cãi để ủng hộ hay chống đối một ý tưởng mà không chịu vượt lên trên ý tưởng đó để trực nghiệm Tánh linh vượt mọi ngôn từ.

Tia thứ ba

Kim Heart_Chakra_2

  • Màu sắc: Hồng
  • Luân xa liên hệ: Tim
  • Elohim: Heros và Amora
  • Đại thiên thần: Chamuel và Charity
  • Thượng sư: Chân sư Paul the Venetian.

Những đức tính thuần khiết:

Thường được xem là tia sáng của tình thương, từ bi, bác ái, vị tha, bất vụ lợi và khả năng thưởng ngoạn cái đẹp. Tuy nhiên trong cách hiểu sâu xa, tia thứ ba là chỗ trụ của sự quân bình.

Tình thương có thể được xem như là lực giữ thăng bằng cho sự sống, tạo sự quân bình giữa hai thái cực của tạo hóa – là lực lan ra (dương, hay Cha) và lực co lại (âm, hay Mẹ). Nếu hai lực này không hài hòa thì sẽ có xu hướng đẩy một trong hai ra cực điểm. Mất quân bình có nghĩa là hoặc lan ra quá xa và bị nổ tan tành, hoặc không xa đủ, tức là không đạt thành quả và tự tiêu diệt do co lại quá trớn.

Với đức tính của tia thứ ba, bạn có khả năng chứng nghiệm tính vô điều kiện, tức là thực tại vượt khỏi hai đối cực do tâm nhị nguyên dựng ra. Nếu nhị nguyên có mặt, bạn sẽ cảm thấy nó ngay, cho dù bạn chưa giải thích được cặn kẽ. Nhị nguyên luôn luôn có điều kiện, và bạn cảm thấy nó “không ổn” vì bạn đã chứng nghiệm trong tim bạn bản chất vô điều kiện của Thượng đế.   

Một người với tia thứ ba thuần khiết sẽ cảm nhận sâu xa trong nội tâm mình sự duy nhất của mọi sự sống, và từ đó có khả năng phân biện giữa điều gì “ổn” khi mọi sự sống được nâng lên, và điều gì “không ổn” khi chỉ có một phần nâng lên và phần kia bị kéo xuống. Bạn sẽ nhận ra điều nào là điều phải, cho dù lý trí bạn chưa thể giải thích tại sao, và cũng vậy, bạn sẽ nhận ra những điều gì do lòng vị kỷ thúc đẩy, và như thế bạn đạt được khả năng quân bình bản thân.  

Những mặt tha hóa:

Sự tha hóa của tia thứ ba nói chung là thiếu quân bình, nhưng nó có thể diễn tả qua nhiều cách vi tế. Có một cách thường gọi là tình yêu, nhưng kỳ thực chỉ là nỗ lực sở hữu và kiểm soát người khác. Đưa đến cùng cực, nó có thể biểu hiện qua sự thù ghét và ý muốn trừng phạt hay tiêu diệt những ai từ chối bị kiểm soát. Chẳng hạn, nhiều người đem lòng thương yêu nhưng lại tỏ ra muốn sở hữu đối tượng mình yêu thương.

Một cách tha hóa khác là tin rằng mọi phương tiện đều chính đáng để đạt được mục đích, có nghĩa là khi mình say đắm một “chính nghĩa” rồi thì mình có quyền cưỡng ép hoặc giết hại người khác để phục vụ chính nghĩa. Hình thức tha hóa này của tình thương đã gây ra những tội ác tàn bạo nhất trong lịch sử loài người. Ít có ai ngoan cố bằng những con người bị lòng cuồng tín làm cho nhân sinh quan mất hẳn quân bình. Đây cũng chính là lý do khiến người ta tin rằng mình phải giết người để chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thượng đế.

Tia thứ tư

Kim Base_Chakra

  • Màu sắc: Trắng ngần
  • Luân xa liên hệ: Gốc
  • Elohim: Purity và Astrea
  • Đại thiên thần: Gabriel và Hope
  • Thượng sư: Chân sư Serapis Bey

Các đức tính thuần khiết:

Thường được xem là sự thuần khiết, hy vọng và kỷ luật bản thân, tuy nhiên nếu hiểu sâu xa hơn, tia thứ tư chính là mặt tương tác giữa Tánh linh với thân thể vật lý và thế giới vật chất. Ở mức tia thứ tư, vấn đề đặt ra là liệu bạn có cho phép thế giới vật chất áp đảo Tánh linh, và như vậy giới hạn cách biểu đạt của bạn trong thế gian hay không. Nói cách khác, bạn có tin rằng các điều kiện của thế gian vật chất là có thực, thường trực và bất biến, hay là bạn hiểu được mình có khả năng cởi trói quyền năng sáng tạo để gia tốc thế gian vật chất – yếu tố Mẹ – khỏi mọi hoàn cảnh hiện tại?    

Với đức tính của tia thứ tư, bạn có quyền năng gỡ mình ra khỏi ảo tưởng cho rằng hình tướng vật chất là có thật, thường trực. Và như thế, bạn không còn bị kẹt trong chu kỳ bất tận khiến mình luôn tìm cách thỏa mãn những ham muốn thấp kém, xác thịt, phàm phu. Thay vào đó, bạn sẽ xem thế gian chỉ là một phương tiện để phát triển khả năng tự nhận biết, qua đó bạn tự động xa lánh những sinh hoạt không phục vụ mục đích này. Nhưng đồng thời, bạn cũng hiểu sâu sắc rằng không hề có sự xa lánh, mà chỉ có sự “tâm linh hóa” mọi sinh hoạt cuộc sống.    

Và thật vậy, ảo giác cuối cùng cần vượt qua trên hành trình tâm linh là ý niệm có sự phân cách giữa cõi tâm linh và cõi vật chất, giữa sinh hoạt tâm linh và sinh hoạt vật chất. Thay vào đó, bạn sẽ trụ trong duy nhất, và mọi việc đều trở thành tâm linh. Làm được vậy thì cũng hoàn thành được mục đích nguyên thủy khi bạn hiện thân làm người, là gia tốc các rung động của toàn thể vũ trụ vật chất lên một bực để nó trở thành một phần trường cửu của cõi tâm linh.  

Những mặt tha hóa:

Tha hóa của tia thứ tư thường được xem là bợn nhơ và hỗn loạn, nhưng hiểu sâu sắc, đó là sự lầm tin rằng các điều kiện hiện tại là có thật, là điều tự nhiên phải như thế, là vượt ngoài khả năng thay đổi của mình. Một người như vậy sẽ tin rằng thế gian tách hẳn khỏi cõi tâm linh, thậm chí còn thuộc về ác quỷ – mình không làm sao thay đổi được thì tốt nhất nên bỏ mặc cho nó làm sao cũng được.    

Hơn vậy, người với tia thứ tư tha hóa tin rằng mình không có quyền là một người tâm linh trong thế gian này, và không được quyền biểu hiện những đức tính tâm linh của mình trong thế gian. Người đó cho rằng phải chấp nhận và thích nghi với mọi điều kiện hiện hữu, và ở cùng cực, sẽ tin chắc rằng mình là một hình thể hoàn toàn vật chất, một sản phẩm của vũ trụ vật chất, đã đến từ bụi thì phải trở về với bụi. Với tâm thức đó thì không còn hy vọng gì thăng vượt lên được nữa. Thế nhưng sự sống lại là sự thăng vượt không ngừng, cho nên Giê-su mới gọi tâm thức này là “chết”, có nghĩa là chết tâm linh.   

Tia thứ năm

Kim Third_Eye_Chakra_2

  • Màu sắc: Xanh lục bảo
  • Luân xa liên hệ: Mắt thứ ba
  • Elohim: Cyclopea và Virginia
  • Đại thiên thần: Raphael và đức Mẹ Mary
  • Thượng sư: Chân sư Hilarion

Các đức tính thuần khiết:

Thường được xem là trụ sở của sự thật và viễn kiến – nhưng viễn kiến về điều gì? Tia thứ năm là chỗ trụ của viễn kiến đơn nhất, như được minh họa trong câu nói của Giê-su, “Nếu mắt con đơn nhất, toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng”. Viễn kiến đơn nhất chính là viễn kiến Ki-tô nhìn thấu suốt qua mọi nhị nguyên. Đây là sự chứng ngộ rằng tất cả mọi cách diễn đạt “sự thật” trong cõi vật chất đều thiếu sót so với Tánh linh Sự Thật, có nghĩa là để chạm được chân lý, chúng ta phải vượt trên mọi cách diễn đạt vỏ ngoài.

Làm được vậy thì sẽ thấy mọi phân chia đều không thật, và hiểu được mình phải nâng cao mọi sự sống. Đây là tính phân biện Ki-tô, khả năng nhận diện tức thì và nhìn thấu qua mọi gian dối của nhị nguyên, bởi vì nhị nguyên luôn chỉ nâng một bên và dìm bên kia xuống. Điều này được phản ánh trong câu chuyện Vườn Eden khi rắn gieo ngờ vực vào tâm Eva với lời dụ dỗ, “Ông bà chắc chắn sẽ không chết đâu”. Tia thứ năm giúp bạn nhìn thấu lý luận gian manh của rắn. Bạn cũng thấy rõ mọi hình tướng của cõi vật chất đều tạm bợ và bạn trụ trong niệm tinh khôi rằng mọi người cùng mọi điều kiện sẽ được chuyển hóa.

Những mặt tha hóa:

Tha hóa của tia thứ năm là thiếu viễn kiến, thiếu khả năng phân biện giữa Chân lý bất nhị và vô số những “sự thật” nhị nguyên, vốn tạo lòng ngờ vực, tuyệt vọng rằng sự thật không thật có. Đó cũng là sự lầm tin rằng chỉ có một sự thật duy nhất là sự thật của mình. Do tin rằng mình nắm sự thật duy nhất đó mà đâm đầu giao chiến với bất cứ ai ủng hộ một ý thức hệ khác biệt, thậm chí còn cảm thấy việc phê phán và tiêu diệt những tư tưởng đối lập là cần thiết và có chính nghĩa. Tia thứ năm tha hóa biểu hiện nơi những người hay phê phán người khác hoặc ý kiến khác mình, lại còn chụp mũ họ là người xấu, mà không biết rằng tất cả chỉ là hình tướng phù du.     

Tia thứ sáu

Kim Solar_Plexus_Chakra_2

  • Màu sắc: Tím và vàng
  • Luân xa liên hệ: Đám rối dương (solar plexus)
  • Elohim: Peace và Aloha
  • Đại thiên thần: Uriel và Aurora
  • Thượng sư: Chân sư Nada

Các đức tính thuần khiết:

Thường được xem là tia sáng của an bình, nhưng là “sự an bình vượt mọi hiểu biết”. Đây là nội tâm không dao động khi không một hình tướng nhị nguyên nào còn khả năng lôi kéo mình, là sự tĩnh lặng thâm sâu dù đang đứng giữa cảnh binh đao sôi động, là khi chúng ta cảm được lực lôi kéo vào vòng chao đảo của giận dữ mà vẫn trụ vững nơi trung tâm, không nhập cuộc.        

Chỉ khi an định như vậy thì mới có thể thật sự quên mình phục vụ tha nhân, vì khi đó mới có trực giác đem lại sự hài hòa trong mọi tình huống. Và tất nhiên, hài hòa là chìa khóa để giúp con người vượt lên trên những vật lộn nhị nguyên hầu tìm đến điểm chung. Một người với đức tính tia thứ sáu, nhất là khi các luân xa cao đã thuần khiết, sẽ có biệt tài kết hợp mọi người để luôn luôn tìm được điểm gặp gỡ chung.      

Những mặt tha hóa:

Tha hóa dễ thấy nhất của tia thứ sáu là sự nóng giận và dao động, thể hiện qua cách cư xử hung hãn nhằm cưỡng ép người khác thay đổi, hoặc trừng phạt những ai chống cự lại. Đây là sự bất an vượt mọi hiểu biết, bởi vì không có cách nào bình tĩnh lý giải với một người đã tha hóa tia thứ sáu. Trong cơn nóng giận, đượng sự hành xử mù quáng, lầm lỡ để rồi lại hối tiếc, kể cả những chuyện mà ai ai cũng thấy là sai trái nhưng đương sự thì hoàn toàn không biết trong cơn đui mù lúc đó.  

Một tha hóa khác mà có người xem là tính hiếu hòa, nhưng thực sự chỉ là tính thụ động, từ chối có lập trường trong mọi hoàn cảnh. Người bị tha hóa như vậy thường nhận vai mình là nạn nhân, chỉ biết phản ứng trước những thế lực từ ngoài và từ chối nhận trách nhiệm cuộc đời mình. Một số khác đánh mất mọi cá thể đến độ mình hùa theo đám đông để hành động mù quáng, hay mình mù quáng đi theo một lãnh tụ quyền uy. Một nét tha hóa khác là đui mù tưởng rằng bạo hành và vũ lực có thể là một giải pháp khả thi, có khi còn là cách phản ứng hợp lý nhất, thậm chí là cách phản ứng duy nhất.

Tia thứ bảy

Kim Seat_of_Soul_Chakra_2

  • Màu sắc: Tím
  • Luân xa liên hệ: Nơi trụ của hồn (vùng đan điền)
  • Elohim: Arcturus và Victoria
  • Đại thiên thần: Zadkiel và Amethyst
  • Thượng sư: Chân sư Saint Germain và Quan Âm

Các đức tính thuần khiết:

Thường được xem là tia của tự do, tha thứ và công lý, tuy nhiên hiểu sâu xa hơn thì tia thứ bảy là nơi trụ các đức tính vui đùa, sẵn sàng đón nhận cuộc đời như trong câu nói của Giê-su, “Trừ khi con trở thành như một trẻ thơ thì con không thể vào được Vương quốc”. Khi bạn thể hiện đặc tính thuần khiết của tia sáng thứ bảy, bạn cảm nhận cuộc đời tốt thiện trong bản chất. Bạn có mặt trong đời để biểu lộ chính mình và nô đùa với tất cả. Bạn không lo lắng về đời sống hay khắc khoải về tương lai. Bạn hoàn toàn tin cậy Tánh linh sẽ che chở mình và Mẹ sẽ nuôi dưỡng mình. Bạn tràn ngập niềm tự do phơi phới, bạn mong muốn thưởng thức cũng như tô thắm cuộc đời qua biểu hiện sáng tạo.  

Những mặt tha hóa:

Sư tha hóa tia thứ bảy là xu hướng nhìn cuộc đời với thái độ cực kỳ hệ trọng, qua đó cả tự do lẫn công lý bị tha hóa. Bạn cảm nhận cuộc sống là cuộc tranh đấu triền miên, thậm chí bạn phải phấn đấu chống lại một lực lượng bất công đang tìm cách tước đoạt tự do của bạn.  

“Hãy cười nhạo ác quỷ thì hắn sẽ chạy đi mất”, câu châm ngôn này quả là chí lý, bởi vì khi bạn xem điều gì quá nghiêm trọng thì bạn trao cho nó quyền hạn tác động trên bạn. Tất nhiên trên đời cũng có nhiều chuyện bất công hạn chế tự do của bạn, vậy có nghĩa chăng là bạn nên xem nhẹ tất cả? Nói cho đúng, bạn cần giữ quân bình, và Giê-su có một nói câu khác cũng chí lý không kém, “Hãy khôn ngoan như rắn và vô hại như bồ câu”. Quả thật, bạn cần tìm sự quân bình giữa sự ngây thơ và thái độ nghiêm trọng quá đáng khiến bạn cảm thấy không thể nào tự do được nếu bạn chưa đổi được những điều kiện của thế gian vốn đã sẵn tạm bợ.  

Sự tha hóa cùng cực của tia thứ bảy là tư duy cuồng đại, qua đó người ta đinh ninh rằng thế giới là một cuộc chiến vĩ đại giữa thiện và ác, và mọi phương tiện đều chính đáng hầu đánh bại phe ác. Hậu quả là một sự vô cảm toàn diện đối với mạng sống, dẫn đến những sự dã man không kể xiết đối với con người. Và như mọi chuyện, vô cảm đối với người khác xuất phát từ vô cảm đối với chính mình.

Khi tia thứ bảy bị tha hóa, bạn thường nghĩ rằng một vấn đề mà có mặt trên thế giới là do người ta không coi trọng nó như bạn. Nhưng khi khắc phục được tha hóa này, bạn sẽ hiểu ra rằng vấn đề đó cứ vẫn tiếp tục chỉ vì người ta coi trọng nó quá đáng, đến nỗi nó chi phối cả Tánh linh của họ.

Kỳ thực, tất cả chúng ta đều là những sinh thể tâm linh, và một trong những công tác sau cùng của chúng ta trên địa cầu là chứng tỏ rằng mọi điều kiện vật chất không thể hạn chế Tánh linh cùng sự biểu hiện Tánh linh trong thế gian. Chìa khóa của tự do là cho phép chân ngã mình biểu thị qua chính mình, để sự nô đùa của con-người-trẻ-thơ thiêng liêng được biểu lộ, vì con người đó biết rõ nó là một với Cha. Cùng với Thượng đế thì mọi chuyện đều hoàn thành. 

Tia thứ tám

  • Luân xa liên hệ: Phòng kín của tim
  • Đại thiên thần: Uzziel
  • Thượng sư: Đại thượng sư

Tia sáng tâm linh thứ tám có tên là Tia Tổng hợp, vì ở đây bạn phải tổng hợp các đức tính của cả bảy tia sáng ở trên. Tức là bạn đã hoàn toàn vượt qua sự tha hóa của bảy tia đó, bởi vì nếu không, chúng sẽ ngăn cản bạn thực hiện sự tổng hợp tất cả các tia.

Làm sao có những bài truyền đọc trên trang web này?

Để thực sự hiểu được các chân sư giao tiếp như thế nào với loài người đang đầu thai, bạn cần hiểu rõ Luật Tự quyết. Mục đích cuộc sống chúng ta là phát triển khả năng tự nhận biết, và điều này xảy ra khi chúng ta tương tác với thế gian, hành động qua một số lựa chọn, rồi phải nếm mùi hậu quả những lựa chọn đó. Có thể nói, địa cầu giống như một lớp học rộng lớn nơi chúng ta là những học trò với tiềm năng học hỏi.

Trong khắp vũ trụ vật chất, có nhiều nơi khác cũng là trường học với những đặc tính mỗi nơi mỗi khác. Riêng ở địa cầu, trường học chúng ta khá đăc biệt ở chỗ chúng ta có thể chiêm nghiệm cuộc sống trong vai trò một sinh thể tách biệt – tách biệt khỏi Thượng đế và cũng tách biệt khỏi mọi sinh thể khác – để rồi nhờ chiêm nghiệm đó mà tỉnh ngộ.  

Kinh nghiệm này có được là vì năng lượng cấu tạo địa cầu rất dày đặc. Ở nhiều hành tinh khác, năng lượng đã thăng lên một độ cao hơn, khiến cho “vật chất” không nặng nề như ở đây mà trái lại được nhận biết như một chất thanh nhẹ – là ánh sáng tâm linh – vì thế mà không thể ảo tưởng rằng mình là tách biệt. Ngược lại trên địa cầu, chúng ta có quyền chọn cách cảm nhận tách biệt.      

Tại sao phải giữ cho mỗi người có thể phủ nhận sự có mặt của các chân sư

Theo Luật Tự quyết, tỷ trọng của năng lượng cấu tạo một hành tinh là kết quả trực tiếp của tâm thức dân cư ở đó. Chắc rồi địa cầu cũng sẽ một ngày nâng cao rung động để không ai còn tin được là vật chất tách rời khỏi Tánh linh, và các chân sư – cùng với nhiều người chúng ta đang hiện thân – đang nỗ lực để đạt được mục đích đó. Nhưng cho tới khi có đủ túc số những con người đã nâng cao tâm thức để kích hoạt sự chuyển vọt này thì các chân sư sẽ phải tôn trọng Luật Tự quyết.

Một hậu quả của điều này là các chân sư sẽ không thể bỗng dưng hiện ra trên trời hoặc bất cứ nơi đâu để chứng minh một cách không thể chối cãi rằng cõi tâm linh có thật. Thay vào đó, các thày chỉ có thể giao tiếp với nhân loại trong sự tôn trọng những người còn tin vào ảo tưởng tách biệt. Nói cách khác, nguyên tắc mà các thày phải noi theo là tôn trọng quyền tự quyết của những con người chưa thấy được chân lý. Những người đó, tức là đa số nhân loại, vẫn có toàn quyền phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, phủ nhận sự thật của một cõi tâm linh vượt ngoài cõi vật chất, phủ nhận các chân sư, và tất nhiên cũng phủ nhận họ có thể giao tiếp với chân sư.    

Trong điều kiện như vậy, các chân sư phải liên lạc với nhân loại một cách nào đó mà những người không tin vẫn có thể bác bỏ. Cho tới giữa thế kỷ 19, các thày vẫn chưa được phép tiết lộ sự hiện hữu của mình qua các phương tiện truyền thông đại chúng, chẳng hạn như sách viết bởi vì bất cứ ai cũng có thể tìm đọc. Thay vào đó, các thày phải giới hạn việc làm trong một số hội kín, qua đó các thày chỉ tiết lộ cho những thành viên đã được khai mở.   

Vào nửa sau của thế kỷ 19, các thày được phép xuất hiện trên một số phương tiện công cộng, như sách vở và các tổ chức công khai rao truyền mối liên hệ với chân sư. Và từ đó đã có một loạt sách viết cùng những dụng cụ tu tập được một số tổ chức hay cá nhân phát hành. Tuy vậy trong mỗi trường hợp, không có bằng cớ hiển nhiên nào chứng minh xuất xứ là từ những đấng đã thăng vượt thế gian vật chất.

Làm sao bạn biết được là thật?

Nếu bạn nghiên cứu cuộc tranh luận giữa hai phe vô thần và hữu thần, hẳn bạn cũng thấy rõ cuộc tranh luận có thể kéo dài hàng thế kỷ về sự hiện hữu của Thượng đế mà không phe nào đưa ra được bằng chứng thuyết phục. Lý do là bởi bản chất lý trí con người, người ta có thể tranh cãi mãi mãi mà không đạt được một giải đáp cuối cùng.

Có cách nào đi xa hơn tình trạng bế tắc đó của trí não? Thưa có, đó là khả năng trực giác. Bạn chỉ có thể chấp nhận sự hiện hữu của chân sư qua một kinh nghiệm nội tâm, trực nhận hoặc thần bí. Bạn sẽ biết mà không cần bất cứ lý lẽ nào do tư duy đường thẳng cung cấp.

Vậy làm sao bạn biết được giáo lý trên trang web này xuất phát thật sự từ chân sư? Bạn sẽ chỉ biết được nếu rung động của trang này đánh động một cái gì đó nơi nội tâm bạn. Nếu bạn không cảm thấy gì thì có lẽ bạn nên thôi đọc và đi tìm một giáo lý nào khác đồng điệu với tâm bạn hơn.

Còn đối với những bạn bén nhạy trực giác, có một cách khá dễ để biết được đâu là thật hay giả. Khi đọc, bạn hãy hoà điệu nơi con tim và quan sát xem bạn chiêm nghiệm giáo lý như thế nào. Năng lực vi tế bên trong bạn có dâng lên hay là bị kéo xuống? Nếu năng lực đi lên thì hẳn đây là dấu hiệu rất tốt rằng giáo lý này sẽ giúp bạn nâng tâm thức.

Các chân sư giao tiếp thế nào?

Chân sư có nhiều cách giao tiếp với con người. Thật sự chúng ta không nên phân tích quá chi ly và bỏ chân sư vào những cái hộp của lý trí đường thẳng – là loại lý trí sẽ khiến cho chân sư không giúp đỡ mình được– nhưng chúng ta có thể chia cách thức giao tiếp thành hai loại: trực tiếp và gián tiếp.

Cách gián tiếp có thể được ví như đài phát thanh hay đài truyền hình. Các thày không ngừng phát ra một số năng lượng cùng những thông điệp từ cõi thượng thăng. Nhưng điều quan trọng cần hiểu ở đây, chúng ta không thể nhận bắt những tín hiệu này bằng tâm thức “bình thường” của mình. Tâm chúng ta có khả năng bắt được những sóng đó, nhưng không ở mức tâm thức bình thường mà chỉ ở một mức cao hơn. Cho nên bất cứ ai nâng cao tâm thức đều có khả năng bắt sóng từ chân sư.

Trong lịch sử đã có nhiều người sử dụng được khả năng này. Trong nhiều trường hợp, các đương sự hoàn toàn không ý thức tư tưởng từ đâu đến, cho nên gọi đó là cảm hứng, nàng thơ hay nàng nhạc. Một số người cả đời chỉ nhận được linh hứng đúng một lần, trong khi một số người khác có thể hòa điệu thường xuyên hơn. Nhưng nói chung, chính qua sự phát sóng liên tục như vậy mà các chân sư đã có thể đem lại nhiều tư tưởng mới vào thế gian vật lý để đẩy mạnh tiến hóa của nhân loại.

Ngoài cách gián tiếp nói trên, các chân sư cũng giao tiếp với con người một cách trực tiếp. Điều này chỉ xảy ra với những người đã nhận ra sự hiện hữu của các thày. Đã có những trường hợp người ta nhận được thông điệp, viết thành sách nhưng không nói rõ nguồn gốc. Và cũng có khi người ta công khai nhìn nhận nội dung là từ chân sư, như trong trường hợp một chân sư giảng dạy trực tiếp qua một sứ giả đang hiện thân làm người. Cách thức này thường được gọi là thông điệp hay “bài truyền đọc”. Thông điệp là khi sứ giả biên chép lại, còn bài truyền đọc là khi sứ giả dùng giọng nói của mình để đọc to, có khi trước mặt một cử tọa.

Những giáo lý và dụng cụ tu tập đăng tải trên trang web này tiếp nối truyền thống giảng dạy trực tiếp của các chân sư. Từ năm 2002, tôi, Kim Michaels, đã nhận được bài đọc lẫn công cụ tu tập từ các thày, và tuy rằng tôi đã làm việc này từ nhiều năm, tôi vẫn có cảm giác đang tập sự. Tôi thiển nghĩ địa cầu quả là một mái trường, và khi nào mình còn ở đây thì việc học tập sẽ còn tiếp diễn.

Trong một số tổ chức, người nhận bài đọc có tên là “sứ giả”. Thành thật mà nói, theo thiển ý của tôi, đây là một vai trò thật hèn mọn. Nhưng tiếc thay, một số tổ chức lại có khuynh hướng thần tượng hóa, biến sứ giả thành một người quan trọng hơn mọi thành viên khác, gần như là tụ điểm nối kết với chân sư. Nhưng tôi thì xem mình là một cánh cửa mở mà thôi. Tôi biết rõ mỗi người trong chúng ta đều có khả năng hòa điệu và liên lạc trực tiếp với các thày, và mục đích của trang web này chính là để bồi sức cho mọi người đạt được điều đó.

Bài truyền đọc là gì?

Đối với nhiều người tâm linh, tiến trình giao tiếp với chân sư thường có tên chung là “mở kênh” (channeling), nhưng từ này lại chứa đựng rất nhiều hiện tượng khác nhau một trời một vực. Vì vậy tôi xin trình bày những điều xảy ra khi tôi nhận sóng từ chân sư. Tôi hoàn toàn không có ý định so bì mà chỉ muốn trình bày sự kiện một cách chân thực.   

Bài truyền đọc là khi tôi hòa điệu tâm tôi với Hiện diện của một vị chân sư nào đó. Tôi không xuất vía và trở nên vô thức, vì theo chỗ tôi hiểu, các chân sư không hợp tác với kênh xuất vía. Đó là vi phạm quyền tự quyết, bởi vì người đồng bóng không ý thức được ai sẽ nhập hồn, sẽ làm gì hay nói gì trong buổi lên đồng. Riêng tôi thì hoàn toàn tỉnh thức trong nguyên tiến trình. Vả lại tôi đã được học tập để giữ tâm mình hoàn toàn trung dung, thuần khiết, để mọi ý tưởng cùng cảm xúc cá nhân của mình không can dự vào.  

Thường thường, tôi không ý thức trước những gì chân sư sẽ nói trong bài đọc, nhưng cũng có khi tôi cảm nhận được đề tài sẽ là gì, và tôi hay nhận thấy một cái mầm ý tưởng đã được truyền trước đó vào tôi để tôi có thể bắt đầu. Một khi bài truyền đọc khởi sự, công vịêc của tôi là giữ vững tâm hòa điệu với chân sư mà không bị chia trí bởi tiếng động chung quanh (tôi đã từng đọc trước những cử tọa đông đến trăm người và ở nơi công cộng) hoặc cả những tiếng động trong tôi. Nhiều khi tôi hoàn toàn không biết trước chân sư sẽ nói gì, nhưng dù cho bài đọc kéo dài hơn một tiếng đồng hồ, tôi vẫn giữ được một nội dung trơn tru từ đầu đến cuối – một điều mà cái trí vỏ ngoài của tôi không có khả năng làm được.

Tôi không nhận được thông điệp của chân sư dưới hình thức lời nói mà tôi nghe được trong tâm rồi lặp lại. Tôi cũng không nhìn thấy chữ viết hiện ra trước mắt để mà đọc lên. Tôi chỉ hòa điệu với một dòng tâm thức vượt khỏi mọi hình thức từ ngữ đường thẳng. Dòng tâm thức này được diễn đạt thành lời bởi chính tâm tôi. Tôi có thể nghe được từng lời thốt ra khi phát biểu, nhưng tất nhiên, tôi hoàn toàn có khả năng ngừng lại bất cứ lúc nào nếu tôi muốn.

Tuy nhiên, phần quan trọng nhất của một bài truyền đọc không phải là lời nói, mà là dòng ánh sáng tâm linh tuôn ra trong lời nói. Cái trí đường thẳng có thể nắm bắt được ý nghĩa, nhưng nếu bạn chỉ đọc, hoặc nghe, một bài truyền đọc với thuần lý trí thì bạn sẽ bỏ lỡ phần quan trọng nhất là ánh sáng.

Vì tôi đã làm công việc này từ rất lâu nên tôi cũng phần nào quen thuộc, nhưng gần đây tôi có một kinh nghiệm lý thú. Trong một buổi hội đàm, tôi nhận bài đọc của Đại thượng sư (Mahachohan). Trong cử tọa có một người lần đầu tham dự nên bán tín bán nghi. Sau khi tôi đọc xong, ông ta bảo tôi rằng theo ông, không một người nào có thể nói chuyện cả tiếng đồng hồ với một giọng dũng mãnh đến như vậy, và đến chót lại còn tăng cường độ lên một bực. Tôi phải công nhận là ông nói đúng, và về điểm này tôi xin trình bày thêm như sau.  

Bài truyền đọc thường kéo dài hơn một tiếng, và suốt bài đọc, tôi ở trong thế đứng. Tuy vậy tôi không bao giờ cảm thấy mệt mỏi, dù là mệt thể chất, cảm xúc hay tinh thần. Trái lại tôi cảm thấy mình tràn trề sinh lực và tâm thức sáng rõ hơn một bực. Nếu như tôi cảm thấy kiệt quệ thì đó mới thật là đáng lo, bởi vì như vậy có nghĩa vị đọc bài cho tôi đã hút mất năng lượng của tôi. Nhưng không, các chân sư đã cho tôi thêm thật nhiều ánh sáng và đồng thời các thày cũng gửi tràn ngập ánh sáng cho cử tọa. Nếu bạn muốn tận dụng ích lợi của một bài truyền đọc thì bạn nên cố bắt được phần ánh sáng, tốt nhất là bằng cách lắng nghe băng ghi âm.   

Tâm thức sứ giả có thay đổi thông điệp không?

Tâm thức chân sư cao hơn tâm thức bình thường ở địa cầu rất nhiều. Khác biệt lớn nhất ở chỗ các thày không suy nghĩ với lý trí đường thẳng. Các thày có sự nhận biết hình quả cầu. Mà tâm quả cầu thì khó lòng nào diễn tả được hết thành lời nói.

Tức là thông điệp của chân sư bắt buộc sẽ bị tô màu bởi ngôn từ được sử dụng cùng gốc gác văn hóa của sứ giả. Thêm vào đó, nếu sứ giả tin tưởng mãnh liệt vào điều gì đó thì sẽ không thể truyền đạt những tư tưởng đối chọi với tin tưởng này. Đó là lý do tôi luôn luôn cố gắng là một “cánh cửa mở”, nghĩa là tâm tôi sẽ không chứa đựng bất cứ gì có thể bóp méo thông điệp.

Tôi từng gặp nhiều người cho rằng sứ giả giỏi là một người có khả năng diễn tả hoàn toàn ý chân sư mà không thêm vào màu sắc. Nhưng qua kinh nghiệm bản thân và được chứng kiến một số sứ giả khác, tôi phải kết luận rằng chúng ta cần hiểu vấn đề này sâu sắc hơn. Không thể nào có chuyện tâm thức sứ giả không ảnh hưởng thông điệp được, bởi vì cách chúng ta sử dụng ngôn ngữ vốn là một tiến trình vô thức.

Thêm vào đó, bởi vì tôi không xuất vía cho nên chân sư sẽ phát biểu qua khả năng ý thức của tôi. Chân sư chỉ có thể sinh sôi những gì đã có sẵn trong tâm thức tôi, và một cách tự nhiên, tôi sẽ dùng những từ ngữ và khái niệm mà tôi quen thuộc. Cũng vì vậy mà chân sư không thể truyền đọc về một đề tài hoàn toàn xa lạ đối với tôi bởi vì chẳng có gì để mà sinh sôi.   

Bạn có thể cho đây là một giới hạn, nhưng theo tôi hiểu thì không phải vậy. Như được giải thích ở nơi khác, trên địa cầu có cả thảy 144 tầng tâm thức, và tuy rằng bài truyền đọc của chân sư có thể được hiểu ở cả 144 tầng, thông địêp sẽ hữu ích nhất cho những ai cùng chia sẻ một số đặc tính với sứ giả, như về tâm thức, gốc gác văn hóa hay tâm linh. Nói cách khác, chân sư chọn một sứ giả cốt ý là để chạm được một loại cử tọa nào đó, và vì vậy ngôn từ cùng khái niệm của sứ giả sẽ không là một trở ngại khi cử tọa đã sẵn chia sẻ cùng tâm trạng với sứ giả. Nhưng đồng thời cũng có một điều bạn cần hiểu, cả sứ giả lẫn cử tọa không được nghĩ rằng đây là cách DUY NHẤT mà chân sư có thể phát biểu.

Mục đích của chân sư là dùng một sứ giả nào đó để giúp một loại cử tọa đặc thù thăng vượt hộp tư duy và tâm thức hiện tại. Điều khó khăn là thông điệp đến từ một cõi ở ngoài hộp tư duy, và chúng ta phải vươn theo thông điệp này mà đi lên thay vì kéo nó xuống, nhét nó vào hộp tư duy. Tôi đã từng gặp nhiều người chỉ muốn chân sư xác nhận cho họ những điều mà họ muốn nghe, và tôi thiển nghĩ chúng ta cần luôn cảnh giác để giữ tâm mình mở rộng, đón nhận những luồng tư tưởng vượt ngoài hộp tư duy của mình.    

Khi truyền đọc, một thông điệp quả cầu luôn bị biến dạng thành ngôn từ đường thẳng. Cho nên để tận dụng ích lợi của bài truyền đọc, bạn cần vượt qua cái trí phân tích và đánh động khả năng trực giác của mình. Xin nhấn mạnh hơn nữa, điều quan trọng nhất trong bài truyền đọc KHÔNG PHẢI là từ ngữ được dùng, bởi vì cái trí đường thẳng sẽ luôn luôn tìm được đủ cách để tranh luận trên từ ngữ. Bạn cần nhận ra cái gì đó đến thẳng từ cõi trên, rồi sử dụng cái đó làm phương tiện nâng cao tâm thức, cho tới khi bạn chiêm nghiệm được các thày trực tiếp nơi nội tâm sâu xa. Tôi mong rằng các bài truyền đọc của tôi sẽ giúp bạn chứng nghiệm được điều này, và tôi cũng mong bạn sẽ không bao giờ cho phép chúng giới hạn sự giao tiếp nội tâm của bạn.

Để kết thúc chủ đề này, xin nói thêm là có khi tôi cũng nhận được thông điệp mà tôi ghi thẳng xuống thay vì đọc lên rồi ghi lại sau. Những dụng cụ tu tập như các bài chú hay bài thỉnh, thường được chép thẳng xuống như vậy, nhưng cũng có trường hợp bài cầu thỉnh dựa theo một bài truyền đọc.

Trước khi chia tay, xin gửi bạn đoạn trích sau đây từ một bài giảng của thày Giê-su về bốn cõi của vũ trụ vật chất, trong đó có lời cảnh báo về cách giao tiếp với những cõi trên.

Lời cảnh báo của Giê-su

Tâm con người có khả năng hoạt động như chiếc máy radio. Như ta vừa nói, có rất nhiều làn sóng vô tuyến xâm nhập vào căn phòng mà con đang ngồi. Nếu con bật máy lên, con có thể bắt được từng làn sóng bằng cách quay cái nút. Máy radio biến sóng năng lượng thành âm thanh nghe thấy, mà con nhận biết là những đài phát thanh khác nhau. Tâm con có khả năng tựa như chiếc máy radio vậy, nó có thể bắt sóng của mọi tầng cấp vũ trụ vật chất. Nó cũng có thể bắt được các tầng cấp trong cõi tâm linh. Nói cách khác, tâm con người có khả năng vượt ra ngoài cõi vật chất để đồng điệu với những sinh thể trí năng ở các cõi cảm xúc, tư tưởng, bản sắc, hoặc cả cõi tâm linh nữa.

Một hệ quả của lời dạy này là nếu con cố bắt liên lạc với sinh thể trí năng ở những cõi khác, con cần biết rằng không phải ai ai ở đó cũng thiện lành. Rất có thể một số đã từng cố tình đối nghịch lại các quy luật của Thượng đế, và họ sẽ cố lôi kéo con làm điều tương tự.

Đã từng có một thời cả bốn cõi đều có những sinh thể thiện lành trú ngụ ở đó. Thế nhưng cõi cảm xúc bây giờ bị ô nhiễm, tha hóa đến độ không còn ai tốt nữa. Tất cả mọi sinh thể nơi cõi cảm xúc đều đã mất quân bình, họ tin rằng mục tiêu có thể biện minh cho mọi phương tiện, và phương châm của họ là “nếu thích thú thì cứ việc làm tới”. Trên địa cầu có nhiều người hiện thân tâm thức này bởi vì cảm thể họ bị mất quân bình do đồng cảm với cõi cảm xúc. Và họ trở thành nô lệ cho bọn thao túng đang hoành hành ở đó.

Cõi tư tưởng cũng bị ô nhiễm nặng nề, nhưng vẫn còn một số sinh thể không ác ý. Tuy vậy, rất nhiều trong số đó còn bị kẹt trong cách suy nghĩ rằng họ có thể hiểu được mọi chuyện bằng lý trí. Thậm chí, một số còn đinh ninh họ thông hiểu thế gian hơn cả Thượng đế và do đó họ hiểu rõ hơn Thượng đế phải vận hành vũ trụ làm sao. Đây là sự kiêu căng của trí thức, và con sẽ thấy trên địa cầu cũng có nhiều người hiện thân lòng tự kiêu này. Lý do là vì trí thể của họ đã đồng tình với những sinh thể tự kiêu nơi cõi tư tưởng. 

Cõi bản sắc là cõi tương đối trong sạch nhất, cho dù cũng bị ô nhiễm bởi một ý niệm bản sắc sai lầm. Ở đây có những sinh thể tự xem mình tách biệt với Thượng đế, và họ phóng chiếu cái nhìn này vào tâm thức loài người. Nhưng song song cũng có những sinh thể trong cõi ether giữ vững được bản sắc đúng đắn rằng mình là sinh thể tâm linh.

Các thày trong Đại đoàn Thăng thiên giáo hóa để phục vụ loài người. Các thày sẵn sàng giao tiếp với bất cứ ai để giúp họ tiến bước trên đường tu tâm linh. Khi địa cầu còn trong sáng, các thày đã có thể hiện ra trước con người trong cõi vật chất, và ai nấy đều có thể gặp gỡ, đàm đạo với các thày. Điều này xảy ra không phải vì các thày đã hiện ra trong một thể xác vật lý, mà vì tâm thức con người thời đó còn trong trắng đến độ có thể nhận biết các thày trong “thân thể” tâm linh của các thày. Với giác quan vật lý, họ nhìn thấy được thân tâm linh của các thày.

Nhưng ngày nay, những sự mất quân bình mà loài người tạo ra đã kéo thấp độ rung của toàn cõi vật chất, và việc nhận biết các thày đã trở nên khó khăn hơn. Con người không thể nhận biết các thày qua giác quan của cơ thể, trừ những trường hợp hiếm hoi khi các thày mượn tạm một thân thể vật chất.

Cho nên muốn giao tiếp với Đại đoàn Thăng thiên trong thế giới hiện đại, con phải nâng cao tâm thức, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của mình. Con chỉ tạo được quân bình bằng cách đạt đến trung đạo của tâm thức Ki-tô. Nếu con không quân bình trong tâm Ki-tô thì con sẽ không liên lạc được với Đại đoàn Thăng thiên. Nhưng tiếc thay, con vẫn có khả năng liên hệ với các sinh thể trú ngụ nơi các cõi phàm. Con đừng quên rằng chúng bị kẹt lại ở đó chính vì chúng đã mất quân bình trong một hay nhiều thể. Cho nên nếu con muốn giao tiếp một cách an toàn với cõi trên, con cần phải vươn lên tâm thức Ki-tô, và điều này có nghĩa con phải quân bình cả bốn thể phàm của con.

Đại đoàn Chưởng giáo

Trước tiên chúng ta hãy nhìn từ góc độ địa cầu. Vũ trụ vật chất được cấu tạo bởi những năng lượng rung động trong một khoảng tần số nhất định. Ở ngay trên khoảng tần số này là tầng thấp nhất của cõi tâm linh. Bên trên cõi tâm linh còn nhiều cõi khác nữa, trải ra trong 6 bầu cõi – vì chúng ta là bầu cõi thứ bảy – trải mãi cho tới Đấng Sáng tạo. Trong mỗi bầu cõi đều có một đoàn chưởng giáo, tức một hàng ngũ những đấng tâm linh coi sóc bầu cõi.

Cõi vật chất đã được sinh tạo bởi những đấng ở cõi ngay trên cõi chúng ta, với rung động cao hơn chúng ta một bậc. Những đấng này, chúng ta thường gọi là các chân sư đã thăng thiên. Các chân sư còn sử dụng danh tính “Đại đoàn Thăng thiên”, là toàn thể các đấng ở tất cả các bầu cõi trên chúng ta. Tuy nhiên, phần lớn những đấng này không có tương tác gì với chúng ta ở địa cầu.

Cho nên từ góc nhìn loài người, chúng ta chỉ có thể bàn tới đoàn chưởng giáo ngay trên chúng ta một vài tầng mà thôi. Và sau đây là những đấng quen thuộc nhất:

Các chân sư mới thăng thiên

Khi mới thăng thiên từ thế giới vật chất, vị tân chân sư thường dành thì giờ để làm quen với tầm tỉnh giác mới cùng thế giới tâm linh mà bây giờ thày có khả năng tiếp cận một cách ý thức. Tuy nhiên, những vị nào đã từng giảng dạy loài người từ thời còn chưa thăng hoa thì có thể nhận ngay một trách vụ giáo huấn.    

Các Thượng sư

Có cả thảy bảy tia sáng tâm linh, là những quang phổ năng lượng căn bản cấu tạo vũ trụ vật chất. Để bước trên đường tu tâm linh và có đủ tư cách thăng hoa, chúng ta cần làm chủ, điều ngự cả bảy tia sáng này. Cho nên cũng có thể mô tả đường tu tâm linh như một trình tự qua đó chúng ta phải học qua đủ cả bảy tia sáng.

Để sự tu tập được tốt đẹp, mỗi tia sáng có một số chân sư chủ trì, đây là những vị thày sẽ giúp chúng ta vượt qua những cuộc điểm đạo đặc thù của tia sáng. Vị đứng đầu giáo đoàn đó có tên là Thượng sư (Chohan), và như vậy mỗi tia sáng đều có một Thượng sư, tương tự như vị hiệu trưởng một trường học vậy.    

Thượng sư có thể hiện ra như phái nam hay phái nữ, và không phải vị nào cũng có tương ứng trong phái đối diện. Chẳng hạn một thượng sư nam có thể không có tương ứng phái nữ, bởi vì vị nữ chưa thăng thiên, hoặc vị nữ đã chuyển sang những cõi khác và không còn liên hệ với địa cầu nữa.

Các Đại thiên thần

Có một nhánh đặc biệt nơi cõi thượng thăng sẽ không bao giờ đầu thai là các thiên thần. Thiên thần có nhiều trách vụ khác nhau, nhưng đối với chúng ta, có lẽ hữu ích nhất là trách vụ giúp chúng ta tăng trưởng. Các thiên thần cũng được tổ chức theo bảy tia sáng thành từng đoàn, và mỗi đoàn như thế có một Đại thiên thần đứng đầu. Vậy mỗi tia sáng đều có một Đại thiên thần được ủy nhiệm.

Các Đại thiên thần Archangels đều là phái nam, nhưng các thày cũng có tương ứng phái nữ, gọi là Archeia, chẳng hạn thái cực phái nữ của Đại thiên thần Michael là vị Archeia có tên là Faith.

Các Elohim

Vũ trụ vật chất được tạo thành từ năng lượng của bảy tia sáng khi độ rung động của tia sáng được hạ thấp xuống theo một tỷ lệ nhất định. Một bản mẫu bằng trí năng được dùng làm khuôn để nhào nắn năng lượng đó, và từ đó những kiến trúc nền tảng của vũ trụ vật chất được thành hình.

Những đấng khởi xướng và trông coi tiến trình này thường được gọi là Elohim. Và ở đây cũng như trên, có cả thái cực nam lẫn nữ, chẳng hạn Elohim Hercules có tương ứng nữ là Amazonia.

Một trong những Elohim được cầu thỉnh nhiều nhất là Astrea, là vị Elohim của Tia thứ tư, Tia Thuần khiết, có thể giúp bạn loại bỏ các năng lượng thấp kém hay thế lực đen tối trong từ trường của bạn.

Mặt trời Trung tâm

Mức cao nhất trong cõi thượng thăng mà chúng ta có thể biết, được biểu tượng qua hai đấng có tên là Alpha và Omega. Người ta bảo rằng hai đấng này ngụ nơi “Mặt trời Trung tâm”, nhưng đây không phải là mặt trời vật lý của vũ trụ vật chất đâu, đành tạm gọi là một “địa danh” trong cõi tâm linh.

Như đã trình bày, ở trên bầu cõi chúng ta có cả thảy sáu bầu cõi. Mỗi bầu cõi tạo thành một cấu trúc có tầng cấp, phần nào tương tự như một kim tự tháp. Nơi mỗi bầu cõi có một mặt trời trung tâm là nơi trụ trì của hai đấng Alpha và Omega, và nơi bầu cõi thứ nhất ở trên cùng là mức tối thượng của Alpha và Omega, tức là những đấng biểu hiện trực tiếp Đấng Sáng tạo.

Tuy nhiên, điều bạn cần hiểu là phần trình bày ở trên chỉ là một cách biểu tượng đường thẳng, và tất nhiên với tư duy đường thẳng, chúng ta không thể nào nắm bắt được thực tại tâm linh với vô số chiều kích ở nhiều tầng tâm thức. Cho nên bạn không nên đặt quá nhiều tầm quan trọng cho chữ nghĩa cùng cách diễn đạt, bởi vì cách duy nhất để nắm được thực tại đó là qua sự chứng nghiệm trực tiếp.

Và một điều nữa, các chức vị liệt kê ở đây cần được bạn hiểu trong ý nghĩa trách vụ, nghĩa là đấng đảm nhiệm trách vụ có thể thay đổi với thời gian. Chẳng hạn, vị Đại thiên thần của Tia thứ nhất là một trách vụ đã từng được giao phó cho nhiều vị khác nhau, và đó là lý do tại sao danh tính những vị phụ trách có thể khác biệt trong những bài giáo lý ở những thời điểm khác nhau. 

Một số danh xưng khác

Thần và Nữ thần

Dù các Elohim có khi được gọi là Thần và Nữ thần, nhưng có một số đấng khác đã đạt đến tầng cấp Thần, chẳng hạn Nữ thần Tự do, Nữ thần Công lý (Portia) và Nữ thần Từ bi (Quan Âm).

Các Logos của thái dương hệ

Mỗi thái dương hệ đều có một mặt trời và mỗi mặt trời vật lý có một cặp trưởng lãnh với nhiệm vụ giữ cho mặt trời luôn là một cánh cửa mở giữa cõi vật chất và cõi tâm linh. Nếu vì lý do nào đó, năng lượng ngừng tuôn chảy từ cõi tâm linh vào thái dương hệ thì lập tức sự sống nơi thái dương hệ sẽ không thể tiếp tục. Hai vị trưởng lãnh của mặt trời chúng ta là Helios và Vesta.

Chủ tể Thế gian

Mỗi địa cầu có một đấng giữ trách nhiệm Chủ tể Thế gian. Đấng này phải đạt được quả vị Phật, tức là đã điều ngự không gian. Đây là đấng giữ sự quân bình tâm linh để địa cầu có thể hiện hữu trong không gian. Vị Chủ tể Thế gian cho hành tinh chúng ta là Phật Gautama, hay Phật Thích Ca.  

Đấng Ki-tô của hành tinh hay của cá nhân

Mỗi hành tinh đều có một đấng giữ trách vụ Ki-tô. Tuy rằng Ki-tô mang một ý nghĩa đặc thù trong đạo Cơ đốc, nhưng “Ki-tô” thật sự là một danh hiệu toàn vũ mang ý nghĩa bao quát là tánh hợp nhất giữa Đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài.  Cũng vì vậy mà mỗi khi có ai thăng vượt được ảo tưởng tách biệt thì người ấy được gọi là đã đạt tâm thức Ki-tô, một điều kiện phải có trước khi thăng thiên. Khi Giê-su nói, “Ta là con đường, sự thật và sự sống, và không ai đến với Cha mà không qua ta”, thì thày không ám chỉ bản thân trần thế của thày mà thật sự nói về tâm thức Ki-tô.

Hiện nay, Giê-su là vị nắm giữ trách vụ Ki-tô cho hành tinh chúng ta.  

Ki-tô toàn vũ

Mỗi hành tinh có một chân sư giữ trách vụ biểu tượng cho tâm thức Ki-tô toàn vũ nơi hành tinh đó. Cho địa cầu, vị này là Maitreya. Thày Maitreya chính là vị chân sư được mô tả – một cách méo mó và thô – qua nhân vật “Thượng đế” trong câu chuyện Vườn Eden trong Kinh thánh. Sự thật đằng sau huyền thoại này là Maitreya từng là vị thày, và hiện nay vẫn là vị thày, chủ trì ngôi trường tâm linh – có khi cũng gọi là Trường Bí giáo – nơi mọi dòng sống phải kinh qua để chuẩn bị cho cuộc đầu thai trên địa cầu hầu có đủ khả năng đương đầu với những khai ngộ được biểu tượng qua sự dày đặc của địa cầu.

Các vị Thày của Nhân loại

Đây là những vị trông coi mức phát triển tổng quát của tâm thức loài người, định đoạt những phương cách hay nhất để truyền dạy các bài học toàn vũ cũng như những giáo lý mới cần ban hành ở một thời điểm nào đó, dựa trên trình độ tinh tấn – hay thiếu tinh tấn – của tâm thức tập thể. Trách vụ này hiện được giao phó cho Giê-su và Kuthumi.

Hội đồng Nhân quả và các vị Chủ tể Nghiệp quả

Các chân sư dạy dỗ nhân loại thường có hai cách giáo huấn. Đối với những ai đã mở tâm với giáo lý tâm linh, các thày luôn khuyến khích chúng ta sử dụng giáo lý để tự quan sát rồi tự thăng vượt. Nhưng đối với những ai chưa bén nhạy với giáo lý thì các thày sẽ để yên cho chúng ta tự thân chiêm nghiệm lấy những hậu quả vật lý của tâm thức mình. Đây chính là Trường đời Cay đắng mà nhiều người cũng gọi là “nghiệp quả xấu”.     

Để trông coi luồng giáo huấn qua bài học nghiệp quả, có một hội đồng được thành lập gồm 8 vị chân sư. Điều cần hiểu là cho dù người ta hay gọi là “nghiệp quả xấu” nhưng kỳ thực nghiệp quả không hề có mục đích trừng phạt một ai. Trái lại, giáo dục là chủ đích duy nhất. Chân sư cố tìm cách dạy dỗ những người do ảo ảnh mà tự đẩy mình ra ngoài tầm tác động của các giáo lý tâm linh.

Cũng vì vậy mà Hội đồng Nhân quả có quyền nán giữ lại một biện pháp nhân quả nào đó nếu nhận thấy đương sự đã học được, hoặc sắp sửa học được, bài học cần học. Ngược lại, Hội đồng cũng có thể kích hoạt nghiệp quả sớm hơn đối với những người bị trôi cuốn vào một vòng xoáy đi xuống và đang đối xử tồi tệ với người khác.

Nói vậy để hiểu rằng công việc của Hội đồng vô cùng phức tạp. Các thày không những phải cân nhắc nghiệp quả cá nhân của từng dòng sống, mà còn phải xét đến nghiệp quả của từng đoàn nhóm hay toàn nhân loại nói chung. Các thày cũng là những vị quyết định ai sẽ là người sắp đầu thai, và đã có những trường hợp xảy ra khi một dòng sống bị khước từ tái đầu thai trên địa cầu vì đã lạm dụng các cơ hội thăng vượt trước đây.  

Hội đồng Nhân quả cũng có nhiệm vụ giáo huấn trực tiếp chúng ta trong khoảng cách giữa hai kiếp đầu thai. Cùng với các vị thày tâm linh khác, các vị trong Hội đồng giúp mỗi dòng sống thảo ra những nét chính của kiếp tới bằng cách trù định xem hoàn cảnh đời sống nào sẽ hữu ích nhất cho dòng sống. Mục đích là để giúp cho dòng sống học được những bài học cần thiết và biểu lộ Sứ vụ Thiêng liêng của mình, tức là mòn quà mà dòng sống đem đến cho cuộc đời.

Hiện các thành viên của Hội đồng Nhân quả là: Đại chỉ đạo Thiêng liêng, Nữ thần Tự do, Pallas Athena, Nada, Portia (Nữ thần Công lý), Quan Âm (Nữ thần Từ bi), Elohim Cyclopea và Vajrasattva.

Các đức Phật Thiền định

Trong truyền thống đạo Phật, đây là những vị Phật “bản sơ”, tức là chưa từng hiện thân như Phật Gautama. Ở cõi tâm linh có cả thảy sáu vị, mỗi vị biểu tượng cho liều thuốc giải độc của một loại độc tố tâm linh. Bằng cách cầu thỉnh Hiện diện của Phật Thiền định, bạn sẽ được trợ giúp để thăng vượt được độc tố.

Các chân sư có gì đặc biệt?

Nếu bạn đọc trang mạng này với tinh thần cởi mở, chắc hẳn bạn đã ý thức được rằng cuộc sống không chỉ là những gì mà đại đa số người ta đeo đuổi. Ngoài chuyện kiếm tiền để sống no đủ và tiêu thụ thoải mái, hẳn là phải có một cách sống nào khác nhiều ý nghĩa hơn chứ.

Con đường chúng ta theo là một con đường có hệ thống dẫn đến những tầng tâm thức cao hơn những gì mà hầu hết mọi người xem là bình thường. Tên gọi thông thường là đường tu tâm linh, mà đã nói tới tu tâm linh thì nghĩ ngay đến vị thày tâm linh. Trên địa cầu có rất nhiều vị thày tâm linh với giáo lý và phương pháp khác nhau, và chắc hẳn bạn cũng đã từng tiếp xúc với một số vị như thế.

Bạn sẵn sàng học với vị thày nào?

Nói cho cùng thì ai ai cũng bước đi trên đường tu tâm linh cả, chỉ có cái là không phải ai cũng biết điều đó. Trong tiến trình nâng cao tâm thức, có một quy luật vũ trụ nói rằng: “Khi trò sẵn sàng thì thày xuất hiện”.

Nhưng đa số con người không sẵn sàng đi theo một vị thày một cách ý thức như vậy. Họ đi theo con đường vô ý thức, và trên con đường “không thày” đó, những hoàn cảnh mà họ gặp trong đời sống nghiễm nhiên trở thành người thày của họ. Đó chính là Trường đời Cay đắng.   

Ngày nay, những người đã đủ thức tỉnh để có thể bước đi trên đường tu tâm linh một cách ý thức ngày càng đông hơn. Theo quy luật nói trên thì đã đến lúc họ gặp gỡ vị thày của họ, dưới hình thức một người hay một giáo lý. Đó là lý do mà bạn đã gặp gỡ tận mặt những vị thày và những giáo lý mà từ đó bạn đã học hỏi.

Với lòng chung thủy tự nhiên, chúng ta thường có khuynh hướng xem vị thày hay giáo lý đó là con đường tối thượng mà chúng ta nguyện sẽ theo đuổi cho tới khi nhắm mắt. Tuy nhiên, như mọi con đường, đường tu tâm linh cũng có nhiều chặng.

Chúng ta thường khởi đầu ở một mức tâm thức nào đó, và vị thày ở mức đó sẽ dẫn chúng ta tới một mức cao hơn. Nhưng một khi tới mức cao hơn rồi, chúng ta sẽ cần đến một giáo lý khác hơn. Cho nên để tiến bước tốt nhất, chúng ta luôn phải mở tâm ra tìm vị thày kế tiếp của mình.

Rất nhiều người sẽ nhận thấy suốt đường tu tập đã qua, mình đã tìm được nhiều vị thày, hết vị này rồi đến vị kia, tạo thành một cái chuỗi đi lên biểu lộ cho sự phát triển tâm thức không ngừng của mình. Một khi đã nâng tâm thức và nội tâm đã sẵn sàng thì vị thày kế tiếp sẽ xuất hiện trong đời mình. Để đi về đâu?

Thày thế gian và thày thăng thiên

Địa cầu rất may mắn không thiếu các vị thày tâm linh chân chính. Nhiều vị được xem là đã đạt được quyền năng đặc biệt hoặc tâm thức giải thoát tối thượng.

Tuy nhiên vì còn hiện thân trong xác thân vật lý, điều này có nghĩa là tâm thức chưa hoàn toàn thăng vượt được mọi đặc tính con người. Nếu bạn cảm thấy là mình đã học hỏi tối đa từ các vị ấy rồi thì bước tới của bạn sẽ là gì?

Mọi con đường tâm linh đều có mức đến, giống như mọi trường học cũng đều có kỳ thi tốt nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trường học thế gian, một người không còn nhu cầu ở lại hiện thân trong thế gian nữa.  

Kỳ thi tốt nghiệp này có tên là tiến trình thăng thiên. Thăng thiên không phải là lần lần tiến tới trong sự liên tục, mà là một bước nhảy quyết định, một bước nhảy vọt lượng tử trong tâm thức. Muốn hội đủ tư cách thăng thiên, một người phải buông bỏ MỌI ý muốn cá nhân cùng mọi đặc tính thế phàm.    

Điều này có nghĩa, người đó phải giải quyết toàn vẹn mọi phản ứng đã thành khuôn nếp trong tâm lý mình, và đạt tới mức không còn tự ngã hoặc bất cứ một cái ngã tách biệt nào nữa. Khi sắc thái cuối cùng của tâm lý thế phàm bị loại bỏ thì mới bước vào vòng xoáy ốc thăng thiên, khi đó vị đó không còn là một con người nữa mà trở thành một sinh thể thăng thiên. Vị ấy cũng được gọi là chân sư bởi vì đã trở thành một bậc thày đã điều ngự nội tâm của mình.

Sau khi thăng thiên, một số chân sư sẽ tiếp tục thăng nữa trong cõi tâm linh ở trên vũ trụ vật chất, nhưng cũng có một số khác tình nguyện ở lại với địa cầu, tất nhiên là trong một cái thân “phi vật chất” để giúp đỡ phần nhân loại chưa thăng.

Nói tóm gọn, chân sư là một vị đã hoàn toàn thăng vượt mọi lợi ích bản thân. Chân sư không cần bất cứ điều gì từ chúng ta, cho dù đó là tài chánh hay năng lượng tâm lý, sự vâng lời hay lòng tôn sùng đời đời của chúng ta.     

Những điểm lợi mà chân sư cho chúng ta

Khi trợ giúp chúng ta, một vị chân sư thăng thiên sẽ hoàn toàn không có hậu ý gì. Vì đã thăng vượt mọi cảm nhận tách biệt, các thày sống trọn trong sự hợp nhất với mọi sự sống. Đối với các thày, cách duy nhất để thăng vượt mình là phải tìm cách thăng vượt tất cả mọi người, và trong đó có chúng ta đó.  

Các thày giản dị chỉ muốn giúp chúng ta giải thoát khỏi ảo tưởng làm người bởi vì chính các thày đã giải thoát. Vì đã bước qua cùng con đường chúng ta đang đi qua nên các thày là những vị dẫn đường lý tưởng. Vì đã gian nan như chúng ta nên các thày mới hiểu rõ cách vượt qua mọi gian nan, mọi giới hạn của chúng ta.  

Nhưng điều quan trọng cần nắm ở đây là các thày sẽ hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của chúng ta. Tại sao vậy? Chúng ta đã lỡ đánh mất sự hiểu biết về thực tại tâm linh do một số lựa chọn trong những kiếp trước, cho nên muốn gỡ bỏ những hạn chế hiện tại, chúng ta cần nhìn vào tâm lý mình, nhận ra rằng chính những chọn lựa đó đã hạn chế mình, và phát hiện những ảo ảnh mà chúng ta xem là thực.

Nhưng các chân sư cũng biết rõ chúng ta không thể vượt qua mọi ảo ảnh cùng một lúc được. Chúng ta cần đi theo một con đường tuần tự, gỡ bỏ từng ảo ảnh một, vì nếu không, chúng ta sẽ có nguy cơ đánh mất ý niệm hiện hữu liên tục, thậm chí có thể mất cả bản sắc của mình. Vì vậy các chân sư sẽ không bao giờ cưỡng ép chúng ta. Sự giúp đỡ của các thày sẽ chỉ tới mức chúng ta sẵn sàng chấp nhận mà thôi. 

Tại sao bạn chưa bao giờ nghe đến các chân sư thăng thiên?

Suốt đời, đa số chúng ta chưa từng nghe đến các chân sư, vì sao thế? Có lẽ cách giải thích thông thường nhất là vì nhân loại đã sinh tạo ra một tâm thức tập thể nơi đó tâm mỗi người còn ở mức rất thấp, cho nên cần được phép nghi ngờ sự có mặt của chân sư hầu quyền tự quyết được tôn trọng.

Mỗi người có toàn quyền phủ nhận sự hiện hữu của một thế giới vượt ngoài vũ trụ vật chất mà họ quen thuộc, hoặc phủ nhận những đấng tâm linh khác hẳn với những đấng mà các tôn giáo chính mạch mô tả. Các chân sư không có quyền tiết lộ, hay chứng minh một cách không thể chối cãi, sự hiện hữu của mình cho những ai chưa sẵn sàng cất bước trên đường tu tâm linh.  

Vì vậy mà hiện nay các thày chỉ giảng dạy chúng ta qua trung gian một số vị đã được đào tạo khả năng trình bày giáo lý từ cõi thượng thăng. Trang mạng này là bản dịch Việt ngữ của những giáo lý được truyền đạt qua một sứ giả như thế.

Số lớn các bài vở trên trang này là bài truyền đọc trực tiếp của các chân sư. Sứ giả được sử dụng ở đây đã từng được huấn luyện khả năng gạt qua mọi quan tâm cá nhân hầu đạt được một nội tâm hoàn toàn trung dung, khác hẳn với hiện tượng đồng bóng. Nhờ vậy mà chân sư có thể nói chuyện qua miệng sứ giả và giảng dạy trực tiếp cho chúng ta.

Như đã trình bày trong một bài khác, giáo lý truyền đọc vẫn cần phải “đi qua” tâm thức sứ giả, có nghĩa đó không phải là một bằng chứng bất khả phản bác về chân sư – một điều mà chân sư muốn tránh – và một người chưa sẵn sàng nhận giáo lý vẫn có thể dễ dàng phủ nhận giá trị của giáo lý, phủ nhận thẩm quyền của sứ giả và cả tính trung lập của sứ giả.    

Làm sao biết được giáo lý này chân thực?

Tất nhiên khi xem xét một giáo lý mới mẻ, điều quan trọng là phải tìm xem giáo lý đó có chân truyền hay không. Đặc điểm của trang mạng này là vị sứ giả ở đây không dám tự xưng mình có thẩm quyền hay tài năng gì đặc biệt.

Bằng chứng chân truyền hay không thật ra nằm ở tác dụng mà giáo lý gợi lên trong tâm thức bạn. Bạn có khả năng cảm được rung động nơi tim bạn, phải không? Khi đọc những lời dạy này, bạn có nhận thấy một cảm giác phấn chấn nơi tim, hay là nó gây nơi bạn một cảm giác lún xuống? Lời dạy có tạo linh hứng sâu sắc khiến bạn cảm thấy đang thoát khỏi ảo tưởng hiện tại?   

Nếu bạn cảm thấy phấn chấn, hay nói cách khác, nếu lời dạy rung động đồng nhịp với nội tâm bạn, điều này có nghĩa là bạn đã được hướng dẫn để vào nơi đây. Trang mạng này có cái gì đó đáp ứng được nhu cầu của bạn, nó đang giục bạn bước chân tiếp trên con đường mà bạn đang đi.  

Xin nhấn mạnh là trang mạng này không bao giờ tuyên bố giáo lý đăng tải ở đây là những giáo lý tối thượng, hay tối hậu, trên địa cầu. Sẽ không có chuyện so sánh với các giáo lý tâm linh khác, và bạn sẽ không bao giờ bị yêu cầu tham gia một tổ chức nào, hoặc bị đòi hỏi phải trung thành với sứ giả hoặc ngay cả với giáo lý. Và cũng hoàn toàn không có đòi hỏi bạn phải ngừng học tập các giáo lý khác.   

Giản dị, bạn hãy sử dụng những giáo lý này cho tới khi nó còn đồng điệu với nội tâm bạn và còn giúp bạn tăng trưởng tâm linh. Nhưng cũng xin nhớ rằng muốn tăng trưởng, bạn cũng cần buông bỏ một số ảo tưởng mà cho tới giờ bạn còn xem là thật. Đây là một tiến trình cam go vì trong tâm lý chúng ta, luôn luôn có những lực muốn cưỡng cản lại. Những lực đó thường mang tên là tự ngã, và nhiều lần bạn sẽ phải trực diện với câu hỏi, liệu tôi sẽ nghe lời chân sư để mà chất vấn ảo tưởng, hay là tôi sẽ nghe lời tự ngã đang cố biện hộ cho ảo tưởng?

Các lời dạy trên trang web này nhắm thẳng vào mục đích đó, là tra vấn mọi ảo tưởng của con người trên địa cầu. Nếu bạn sẵn sàng làm điều này – nhanh hay chậm tùy bạn – thì bạn sẽ thấy giáo lý của chân sư mở ra những chân trời vô biên.

Nghĩa là sao? Giáo lý được đọc ra thành lời, được viết xuống thành chữ, dù sao cũng đã mang sẵn nhiều giới hạn, và do đó không phải là cứu cánh. Mục đích cao xa là bạn đạt tới mức không cần tới giáo lý nữa, bởi vì bạn đã sử dụng giáo lý để liên hệ thẳng trong nội tâm với cá nhân các chân sư. Chỉ mong sao những giáo lý này sẽ rút ngắn thời gian bạn còn cần đến nó.

Chúng ta có thể làm gì cho các chân sư?

Hiểu rõ bài toán của địa cầu

Nhiệm vụ của các chân sư là nâng tâm thức địa cầu đến một mức khi các giới hạn, khó khăn và xung đột hiện tại không còn thị hiện nữa. Các thày cũng có nói đến việc thị hiện một thời hoàng kim với những tiến bộ vượt bực mà đa số chúng ta khó lòng mường tượng nổi huống hồ là chấp nhận. Thật sự, các thày có đủ quyền năng để gỡ bỏ mọi vấn đề do loài người gây ra, tuy nhiên làm như vậy có phi lý lắm không?  

Như đã trình bày, địa cầu là một trường học cho tất cả chúng ta. Đây là môi trường được lập ra để chúng ta có cơ hội học tập cách sử dụng khả năng đồng sáng tạo của tâm mình. Vì vậy thế giới vật chất được thiết kế để phóng chiếu mọi hình ảnh trong tâm con người thành những hoàn cảnh thực tế bên ngoài. Hiện trạng của thế giới chẳng qua chỉ là kết quả sáng tạo tập thể của chúng ta từ rất lâu nay, cho nên nếu các chân sư bỗng dưng quyết định xóa hết mọi tệ đoan khỏi mặt đất thì làm sao chúng ta học hỏi được điều gì?   

Nhiều người sẽ bảo, “Nhưng chúng tôi nào có biết chính chúng tôi đã tạo ra vấn đề cho chúng tôi?” Phải, đây là một tình trạng không tự nhiên chút nào. Nó hiện diện vì đa số chúng ta không chịu nhận trách nhiệm làm chủ bản thân mình, và chúng ta cũng bị thao túng bởi một nhóm người không đúng nghĩa là người vì quá ích kỷ. 

Kết quả là địa cầu ngày nay là một vùng tranh tối tranh sáng nơi con người tạo ra những điều kiện bất toàn cho mình mà không hề hay biết mình là tác giả. Chúng ta không chịu nhìn nhận rằng cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài là thay đổi hoàn cảnh bên trong, những hình ảnh trong tâm mình. Thay vào đó, chúng ta nắm lấy những cái cớ vặn vẹo do cac hệ thống tư tưởng đưa ra  – từ tôn giáo, ý thức hệ chính trị cho đến chủ nghĩa duy vật – để phóng chiếu ra là mình là nạn nhân của một ngoại cảnh vượt ngoài quyền hạn của mình.

Bài toán của địa cầu là như sau: các chân sư có cả minh triết lẫn quyền năng để giúp loài người cùng với chân sư đồng sáng tạo những điều kiện tốt đẹp, nhưng các thày chỉ giúp được nếu chúng ta sẵn sàng thay đổi chính mình. Quy luật vũ trụ không cho phép các thày vi phạm quyền tự quyết của chúng ta, và các thày cũng chẳng bao giờ có ý muốn đó. Trong khi đó thì lại có một nhóm sinh thể khác sẵn lòng xâm phạm quyền tự quyết này bằng cách thao túng để chúng ta tiếp tục sống trong sự hạn chế và chấp nhận cho họ sai khiến. Nhóm sa nhân này lập thành một giai cấp thượng lưu quyền lực, và như lịch sử cho thấy, họ không ngần ngại khuynh loát và gây ra đau khổ để mà chiếm hữu mọi đặc quyền đặc lợi.     

Cho nên điều đầu tiên chúng ta có thể làm để giúp chân sư là tìm hiểu tình trạng thật sự của thế giới bằng cách nhìn xem tâm lý mình đã bị sa nhân chi phối như thế nào. Giáo lý của các thày trên trang này sẽ giúp bạn trong việc đó.

Trao cho chân sư thẩm quyền thay đổi địa cầu

Như nói ở trên, các chân sư có đủ quyền năng để thay đổi mọi điều kiện bất toàn, nhưng vì luật tự quyết, các thày không có thẩm quyền làm điều đó. Vậy ai có thẩm quyền? Chính chúng ta đây, những người đang đầu thai. Chúng ta không có quyền năng nhưng lại có thẩm quyền. Còn các thày thì có quyền năng mà không có thẩm quyền. Vậy giải pháp hữu lý nhất là chúng ta hãy sử dụng thẩm quyền của mình để cho phép các thày dùng quyền năng của các thày chuyển đổi thế gian. Chỉ cần tương đối ít người làm được điều này thì sẽ có được kết quả tích cực.

Tuy nhiên, bởi vì địa cầu là một trường học, cho nên mỗi chúng ta không thể cho phép chân sư thay đổi địa cầu nếu chính cá nhân mình chưa học xong những điều mà mọi người cần học trên hành tinh này. Là người tâm linh, chúng ta có thể sử dụng những giáo lý của chân sư để có nhận biết cao hơn về sự vận hành của tâm mình lẫn của thế giới. Một khi tăng trưởng nhận biết và hàn gắn các vết thương trong tâm lý mình, chúng ta sẽ nâng tâm thức và có đủ nhận biết để chuyển giao thẩm quyền cho chân sư.

Tiến trình này có hai yếu tố:

  • Những ai đã nâng cao tâm thức và học xong những bài học cần thiết, đều có thể trao cho chân sư thẩm quyền loại bỏ một số sinh thể cực kỳ ích kỷ khỏi địa cầu. Đây là những sinh thể luôn kéo thấp tâm thức tập thể khiến cho nhân loại khó lòng nhìn thấu được một số ảo tưởng.
  • Chúng ta đạt được đủ túc số những người không chấp nhận một điều kiện nào đó kéo dài và nhất quyết tự giải phóng khỏi điều kiện đó. Số người này không nhất thiết phải nhận biết cao độ như người tâm linh mà chỉ cần đạt tới quyết định rằng “như vậy là đủ rồi”.          

Lấy một ví dụ điển hình là sự xuất hiện của dân chủ. Trong phần lớn lịch sử, xã hội loài người chỉ biết có chuyên chế bạo ngược dưới bàn chân của những lãnh đạo chỉ yêu có mình, quy tụ thành giai cấp thượng lưu quyền lực. Nhưng thế nào cũng đến lúc sẽ xuất hiện một số ít người có khuynh hướng tâm linh đã học được một số bài học dẫn dắt đến lý tưởng dân chủ do chân sư rải xuống. Với thời gian, con số những người chán ghét chuyên chế sẽ ngày càng đông hơn, cho đến một thời điểm quyết định khi họ đạt được con số đủ để tác động một số quốc gia. Đây là thời điểm mà các chân sư nhận được thẩm quyền để nhập cuộc, đem lại những thể chế dân chủ đầu tiên cho nhân loại. Tiến trình này gần như không có giới hạn.

Trong tương lai, ngày sẽ càng có nhiều người biết đến các chân sư, và điều này sẽ khai mào một sự cộng tác có ý thức giữa nhân loại và các chân sư, đẩy mạnh sự phát triển tâm thức dẫn đến thời hoàng kim.    

Thỉnh cầu chân sư hành động

Là người đang hiện thân trong thế gian, chúng ta có thẩm quyền kêu gọi các chân sư hành động trên địa cầu. Một phần, chúng ta có thể thỉnh cầu một sự phóng thích năng lực tâm linh từ chân sư, và phần khác, chúng ta có thể hướng dẫn tác động này của chân sư về một lãnh vực đặc thù nào đó.

Trên trang mạng này, các thày có truyền dạy rất nhiều dụng cụ tu tập như thế. Có mấy loại dụng cụ khác nhau nhưng chủ yếu thì có hai:

  • Các bài chú, với vần điệu như thơ mà bạn có thể đọc lên mạnh mẽ, nhịp nhàng. Những bài này thu hút mạnh mẽ một số năng lực tâm linh từ các chân sư.
  • Các bài thỉnh, phối hợp lời chú với một số lời tự xác định tích cực hầu kêu gọi các thày tác động trong lãnh vực mong muốn.

Cả hai loại dụng cụ tu tập đều hiệu năng dũng mãnh, một đằng sẽ giúp bạn nâng tâm thức cá nhân, đằng khác thanh lọc năng lượng trong tâm thức tập thể, tác dụng trên số đông để họ đạt đến quyết định “như vậy là đủ rồi”.

Một khía cạnh khác it được biết đến là chúng ta có thẩm quyền kêu gọi sự phán xét tâm linh đối với nhóm thượng lưu quyền lực cực kỳ ích kỷ. Trong phán xét tâm linh, các chân sư bắt buộc các sinh thể đã lạm dụng, khuynh loát con người, phải trực diện với việc làm của họ và nhìn nhận hậu quả mà họ gây ra cho người khác, một điều mà họ luôn tìm cách trốn tránh hay tự bào chữa. Họ sẽ phải chọn lựa giữa hai con đường, hoặc sửa đổi việc làm, hoặc bị dời chuyển khỏi địa cầu.  

Hiện nay có một số rất đông những sinh thể như thế đang hoành hành nơi những tầng cõi gắn liền với địa cầu, và họ không ngừng thao túng loài người để đồng sáng tạo những điều kiện hiện tại. Tác dụng của họ giống như thôi miên vậy, tức là họ tạo ra một tấm màn ảo ảnh khiến cho đa số không thể nhận ra thực trạng của trái đất. Tâm thức tập thể bị kéo xuống thấp, chính vì vậy mà nhiều người tuy nhìn thấy vấn nạn và mong trừ bỏ nó đi nhưng lại để cho nó cứ kéo dài triền miên. Một ví dụ điển hình là thời đại phong kiến khi suốt cả ngàn năm trời, các vua chúa đã khiến cho dân chúng bị thôi miên, không làm sao thoát khỏi chế độ chuyên chế đã biến họ thành nô lệ của một thiểu số.

Các chân sư có quyền năng loại bỏ khỏi địa cầu mọi sinh thể cực kỳ vị kỷ, nhưng các thày cần nhận được thẩm quyền từ ai đó. Các thày cũng cần chúng ta nâng cao tâm thức tập thể, sẵn sàng tự mình chuyển hóa thay vì ngồi trông ngóng một vị cứu tinh ở đâu bay đến.  

Và về điểm này, các chân sư thật không giống chút nào hình ảnh thông thường của vị cứu tinh từ trên trời bay xuống vung tay đập tan mọi xấu ác. Chính chúng ta những người đang đầu thai phải là cứu tinh của mình, bằng cách nâng cao nhận biết hầu có thể cộng tác với các chân sư trong thế liên đới cộng sinh. Tự chúng ta không thể làm được gì, nhưng cùng với các chân sư thì mọi chuyện đều khả dĩ. Một mình các chân sư cũng không có thẩm quyền làm gì được. Chỉ khi quyền năng phối hợp với thẩm quyền thì mọi chuyện mới khả dĩ.    

Quảng bá tư tưởng và năng lượng vào tâm thức tập thể

Chân sư dạy rằng tâm thức tập thể hiện nay trên trái đất rất nặng trược. Trong tâm nhân loại chất chứa nhiều tư tưởng sai lầm cùng nhiều năng lượng sợ hãi như tức giận, oán hận, ghen ghét, v. v… Chúng tràn ngập, áp đảo tâm tư mỗi người, khiến chúng ta mất đi khả năng nắm bắt, đón nhận những luồng tư tưởng mới có thể đem lại giải pháp cho những vấn đề của xã hội hay của chính mình.  

Thật sự chỉ có một lối thoát mà thôi, đó là biến hóa các năng lực sợ hãi đó bằng cách gửi vào tâm thức tập thể những luồng năng lực yêu thương, đồng thời gỡ bỏ ảo ảnh bằng cách phóng ra tư tưởng mới có tiềm năng minh triết. Chúng ta có thể giúp chân sư bằng cách cho phép các thày sử dụng luân xa của mình để quảng bá năng lực yêu thương cùng tư tưởng mới. Có mấy cách để làm điều này.    

Như khi chân sư đọc bài giảng qua sứ giả và chúng ta lắng nghe, chúng ta có thể cho phép chân sư sử dụng luân xa mình để các thày “phát thanh” với một sức mạnh lớn hơn, đi xa hơn, tới nhiều người hơn.

Khi chúng ta lắng nghe một bài giảng được thâu thanh, một hiện tượng tương tự cũng xảy ra, nhưng với cường độ thấp hơn. Còn nếu chúng ta chỉ đọc bài giảng thôi thì kết quả cũng có, nhưng ít hơn nữa.

Khi sử dụng những bài chú và bài thỉnh của chân sư, cần lưu ý rằng cả năng lực lẫn ý tưởng đều được quảng bá. Bài chú mạnh mẽ nhất trong việc quảng bá năng lực, nhưng ít hơn đối với ý tưởng. Còn bài thỉnh thì ngược lại, vô cùng dũng mãnh với tư tưởng nhưng ít hơn với năng lực.

Khi cả hai cộng lại thì ngày sẽ càng có nhiều người thoát được từ trường lôi kéo của tâm thức đại chúng. Có như vậy họ mới dễ dàng rút ra khỏi các khuôn nếp phản ứng tiêu cực cố hữu, và tâm họ được tự do hơn để bắt được và tiếp nhận những ý tưởng mà trước kia họ không thể tiếp cận, rồi từ đó họ có hành động tương ứng. Đây là công tác vô cùng quan trọng để khởi hiện thời hoàng kim. Nhiều người tâm linh đã tình nguyện làm việc này trong kiếp hiện tại và đó là Sứ vụ Thiêng liêng mà họ đã chọn. Bạn thử dùng trực giác xem điều này có đúng với bạn hay không.       

Khởi hiện một thời hoàng kim

Cũng giống nhiều giáo lý tâm linh khác, các chân sư dạy rằng địa cầu trải qua những chu kỳ nối tiếp nhau. Với mỗi chu kỳ, năng lực tâm linh được truyền xuống phù hợp với nhu cầu học hỏi của nhân loại vào lúc đó, và trong số các chân sư có một vị đứng ra giữ vai trò chủ yếu trông coi sự phát triển của nhân loại trong toàn chu kỳ.

Khoảng 2000 năm vừa trôi qua là Thời đại Song ngư và vị chân sư chủ yếu là thày Giê-su. Thày đã hiện thân ở ngay khởi đầu Thời đại hầu nêu gương sự chứng đạt tâm thức mà nhiều người trong chúng ta có khả năng đạt được trong chu kỳ này. Nói cách khác, nhiều người tâm linh có tiềm năng thể hiện cùng trạng thái tâm thức mà Giê-su đã nêu gương, và hiện có khoảng 10,000 vị đang đứng trên ngưỡng cửa ý thức được tiềm năng đó. Về đề tài này, Giê-su đã có rất nhiều bài giảng cùng sách viết mà bạn có thể tìm thấy trên mạng này.   

Nhưng hiển nhiên, nhiều người không xem Giê-su là tấm gương để noi theo, trái lại họ coi Giê-su như một vị cứu tinh từ ngoài. Ý tưởng này là sự thêu dệt của sa nhân, đặc biệt sau khi giáo hội Công giáo La mã thành lập. Một trong những bài học căn bản mà nhân loại đáng lý phải lãnh hội trong Thời đại Song ngư là khắc phục thái độ từ chối trách nhiệm – chính thái độ đó khiến người ta trông mong một vị cứu tinh từ ngoài đến để giải quyết mọi khó khăn cho mình. Thế nhưng chúng ta mới là kẻ đồng sáng tạo mọi điều kiện sống hiện hữu, và chúng ta cũng là người có quyền năng tái sáng tạo địa cầu trong một viễn kiến thăng vượt hơn.

Nếu đã học được bài học trên trong chu kỳ trước thì nhân loại đã sẵn sàng hơn để khởi đầu chu kỳ tiếp theo là Thời đại Bảo bình. Thời đại mới này được thày Saint Germain trông coi, dẫn dắt phát triển loài người trong 2000 năm sắp tới. Saint Germain có chương trình khởi hiện một Thời Hoàng kim đem lại những thay đổi to lớn cho thế giới.

Saint Germain còn nói rằng viễn kiến của thày khác xa tình trạng hiện nay đến độ đa số chúng ta không thể mường tượng được nó có thể lớn lao như vậy hay không chấp nhận được nó có thể xảy ra. Nhưng một lần nữa, thời hoàng kim sẽ không tự dưng xảy đến. Nó phải thuận theo Luật Tự quyết, tức là chính chúng ta phải khiến cho nó xảy ra, phải nâng viễn kiến tới mức mình hoàn toàn chấp nhận những viễn kiến thay đổi của Saint Germain.

Cho nên chìa khoá là nâng cao khả năng nhận biết hầu đồng điệu với Saint Germain cùng các chân sư đang chuẩn bị Thời đại Bảo bình. Chúng ta làm điều này qua giáo lý cùng những dụng cụ tu tập được các thày giảng day, nhưng thêm vào đó, chúng ta cũng cần học hỏi một số chủ đề hữu ích và hấp dẫn đối với chúng ta để có được sự hiểu biết kỹ thuật cụ thể hầu nắm rõ viễn kiến của các thày.  

Bởi vì viễn kiến chỉ là một phần, và phần kia là làm thế nào biến nó thành hiện thực. Nhân loại sẽ cần đến nhiều người với kỹ năng chuyên môn trong nhiều lãnh vực đời sống, không chỉ là khoa học và công nghệ mà còn cả chính trị với văn hóa.

Là người chuộng tâm linh, chúng ta cũng cần học hỏi một số đề tài mà mình quan tâm, không cứ là để trở thành nhà chuyên môn mà để giúp các nhà chuyên môn nhận bắt tư tưởng mới từ Saint Germain cho dù họ chưa biết đến các chân sư thăng thiên. Và thật vậy, như chân sư có nói, mọi người không nhất thiết phải biết tới hay chấp nhận các thày hầu đóng góp. Các thày không cần tiếng tăm mà chỉ muốn địa cầu tốt đẹp hơn, cho nên các thày sẽ làm việc với bất cứ ai có tâm rộng mở. Chúng ta, những người tâm linh, có thể phụng sự đắc lực bằng cách hỗ trợ tinh thần cởi mở đó để tư tưởng của Saint Germain được đón nhận và biểu hiện.   

Các chân sư giúp chúng ta như thế nào?

Đa số những ai mở tâm ra với sự hiện hữu của các chân sư thường xem mình là người tâm linh hơn là người đi theo một tôn giáo. Chúng ta không chấp nhận hình ảnh Thượng đế và quan điểm về tâm linh mà tôn giáo chính mạch đưa ra. Nhưng chúng ta cũng không thể phủ nhận mọi sự thật tâm linh để mà đi theo chủ nghĩa khoa học duy vật. Chúng ta luôn trực nhận rằng cả hai hệ thống tư tưởng đó đều có cái gì thiếu sót và thực tại tâm linh là nhiều hơn như vậy. 

Sự trực nhận này của chúng ta rằng sự sống có một khía cạnh tâm linh sâu xa hơn, các chân sư xác nhận là không sai. Quả là có một cõi tâm linh vượt ngoài cõi vật chất và ở đó có những sinh thể trí tuệ, tự nhận biết. Những đấng ấy sẵn sàng chỉ dạy chúng ta về thực tại tâm linh, giúp chúng ta nâng cao khả năng nhận thức để có thể liên lạc trực tiếp với các thày mà không qua trung gian của một ai hay một tổ chức nào.

Giúp chúng ta hiểu mục đích đầu thai

Đa số những người tâm linh đều trực nhận mạnh mẽ rằng cuộc sống có một ý nghĩa, rằng mỗi chúng ta đều có mục đích rõ ràng khi ra đời trên một địa cầu mà phần lớn đều xem là rất khó khăn, thậm chí còn thô sơ. Tại sao chúng ta lại đầu thai ở đây, và mục đích cuộc sống thật sự là gì? Các chân sư đã trả lời những câu hỏi này trong rất nhiều bài giảng, cho nên trong bài này chỉ xin tóm lược một số lý do khiến chúng ta đã chọn đầu thai ở thời điểm đặc biệt này:

  • Trước hết, chúng ta có mặt ở đây để nâng cao tâm thức của riêng mình. Có một số bài học tâm linh mà chúng ta cần phải học, và địa cầu này với tất cả sự đảo điên của nó lại là môi trường đào tạo tốt nhất cho chúng ta. Giáo lý của chân sư sẽ giúp chúng ta phát hiện mục đích đầu thai thật sự của mỗi người là gì.
  • Mỗi chúng ta đều có một Sứ vụ Thiêng liêng mà chính mình đã thảo ra cùng với các chân sư thăng thiên trước khi đầu thai. Sứ vụ này kê rõ chúng ta sẽ ra đời ở đâu, gặp gỡ những ai, làm những nghề gì, cần học những bài học tâm linh gì và cần làm gì để cải thiện xã hội.
  • Đa số chúng ta, nếu là người đã mở tâm về các chân sư, hẳn đã từng nâng tâm thức mình tới mức trở nên người hữu ích cho tha nhân, cho xã hội hay cho địa cầu nói chung. Xin dành lại đề tài này cho một dịp khác vì chân sư có giảng dạy rất nhiều về sự phục vụ tha nhân và hỗ trợ cho các thày.
  • Các chân sư dạy rằng địa cầu trải qua những chu kỳ tâm linh. Thời gian 2000 năm qua là Thời đại Song ngư và vị chân sư chủ yếu trông coi địa cầu suốt thời gian đó là thày Giê-su. Bây giờ chúng ta vừa bước sang Thời đại Bảo bình dưới sự trông coi của thày Saint Germain. Saint Germain có chương trình thị hiện một Thời Hoàng kim cho trái đất, và đang có nhiều người tâm linh tình nguyện hiện thân trong thời điểm này chính là để đóng góp vào công việc đó. Song song, cũng có nhiều người ra đời hiện nay cốt ý để giúp cho Giê-su phục hồi giáo lý chân chính của thày – những giáo lý từng bị đạo Cơ đốc chính mạch làm cho biến dạng. Bởi vì muốn cho địa cầu thật sự lật qua trang bước vào Thời đại Bảo bình thì sẽ cần thật nhiều người lãnh hội được chân pháp của Giê-su.

Giúp chúng ta qua những lời dạy tâm linh

Đối với đa số chúng ta, có lẽ lợi ích nhất khi tiếp xúc với các thày là số lượng giáo lý rất lớn mà các thày truyền dạy. Là những nhà giáo dục tâm linh cho toàn thể nhân loại trên một địa cầu vô cùng thử thách, các thày không chỉ dạy về các đề tài tâm linh mà còn phải hướng dẫn chúng ta trong những hoàn cảnh thực tế của đời sống hàng ngày.    

Trang mạng tiếng Việt này là sự rút tỉa một số bài vở chọn lọc từ mạng lưới Ascended Master Light gồm một số trang web bằng tiếng Anh đã từ nhiều năm qua đăng tải hàng trăm bài truyền đọc và những lời vấn đáp của các chân sư qua trung gian vị sứ giả là ông Kim Michaels, cùng với nhiều bài viết và bộ sách của chính ông. Nếu bạn muốn tham khảo trực tiếp toàn bộ những tài liệu rất phong phú này bằng Anh ngữ thì xin truy cập trang web nói trên.    

Riêng trang tiếng Việt này thì xin bạn xem đây là một khu vườn nhỏ quy tụ một số bài vở đã được chọn ra để đáp ứng phần nào nhu cầu tu tập của người Việt trong hoàn cảnh đặc thù của chúng ta. Đối với những bạn mới vào đây tìm hiểu, trang này có một số bài vở căn bản để làm nền tảng giáo lý giúp bạn đi tới. Còn đối với những bạn mong muốn đào sâu hơn, trang này cũng có nhiều bài vở được cập nhật đều đặn nhằm đánh động cảm hứng của bạn ở những mức thâm sâu hơn.

Giúp chúng ta phân biện giữa thực tại và ảo tưởng

Trong thời buổi internet hôm nay, người ta có khả năng tung ra đủ loại luận điệu cùng phản luận điệu, và cả những giả thuyết kỳ quặc nhất. Vậy làm thế nào biết được sự thật ở đâu, hay phải chăng đó chỉ là những ảo tưởng được nặn ra bởi những kẻ muốn thao túng xã hội, thậm chí cả những người có thiện chí nhưng phần nào ngây thơ? Trong hoàn cảnh đó, giáo lý của các chân sư có thể là một điểm tựa cho chúng ta vì giáo lý xuất phát từ một tâm thức không có chút mục đích vụ lợi.   

Chúng ta sử dụng giáo lý các chân sư để thêm khả năng phân biện giữa chân và giả. Thật vậy, nhờ giáo lý mà chúng ta thấu hiểu được những phương thức nhằm thao túng tâm lý nhân loại, đặc biệt là tâm thức nhị nguyên và tư duy cuồng đại đã ăn sâu vào tiềm thức chúng ta và từng được các hệ thống chuyên chế sử dụng trong suốt chiều dài lịch sử.

Một điểm giáo lý quan trọng là sự hiện diện của một lớp thượng lưu quyền lực (hay nói đúng hơn, một vài nhóm thượng lưu quyền lực) với ý định thao túng xã hội để chiếm lãnh mọi đặc quyền đặc lợi của xã hội. Các nhóm này gồm một số sinh thể đã từng, ở một thời điểm rất xa trong quá khứ, nổi loạn chống lại tiêu chí tối thượng của vũ trụ là luôn luôn tự thăng vượt. Do vậy mà họ bị rớt khỏi ý hướng đi lên của vũ trụ để rồi bị té ngã, cho nên gọi họ là sa nhân. Các sa nhân hoàn toàn ích kỷ, như chúng ta có thể thấy nơi những kẻ mang tâm lý chỉ biết có mình, hay những loại bệnh nhân cách khiến họ thù ghét con người. Ở trong họ không có tình thương và họ chỉ cố sức lợi dụng và khuynh loát con người bằng cách nhồi sọ với những tư tưởng dối trá.

Nhưng với giáo lý của chân sư, bạn có thể phơi bày những dối trá tinh vi đó ở ngay trong tâm mình. Đây là bước cốt yếu để bạn tự giải phóng và đạt được một tâm thức cao hơn.

Giúp chúng ta năng lực tâm linh

Nâng cao tâm thức không chỉ là chuyện tích lũy cái hiểu và cái biết, mà còn phải nâng cao phẩm chất của năng lượng.

Như Albert Einstein đã minh chứng, mọi vật trong thế giới vật chất được cấu tạo bởi năng lượng. Điều này có nghĩa là mọi hành động, cảm xúc hay ý nghĩ của chúng ta đều sản sinh ra những xung động năng lượng. Chúng ta thật sự không thể làm được việc gì, thậm chí không thể tồn tại, nếu chúng ta không sử dụng năng lượng, cả vật lý lẫn tâm lý.  

Là con người, chúng ta đã được ban cho quyền tự quyết, cho nên chúng ta có toàn quyền sử dụng mọi nguồn năng lượng mà mình có. Tuy nhiên chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về cách sử dụng năng lượng ra sao, hay đúng hơn, về cách chúng ta ảnh hưởng chất lượng của năng lượng đó như thế nào. Có hai lựa chọn:

  • Hoặc chúng ta phú cho năng lượng một độ rung cao hơn, tức một rung động phát xuất từ tình thương. Trong trường hợp này, năng lượng được tuần hoàn lên cõi tâm linh nơi đó nó sẽ được cái ta cao hơn của chúng ta cùng các chân sư làm cho sinh sôi nẩy nở. Kết quả là chúng ta sẽ được nhận thêm dồi dào năng lượng mới để mà hành động và nâng cao tâm thức.
  • Hoặc chúng ta phú cho nó một rung động thấp hơn phát xuất từ sợ hãi. Loại năng lượng này không cách nào thăng được lên cõi tâm linh, và như thế nó bắt buộc phải ở lại cõi phàm nơi nó tích tụ lại trong từ trường bao quanh thể xác. Năng lượng sợ hãi này là chướng ngại cản bước phát triển khả năng tự nhận biết của chúng ta, và với thời gian, nó sẽ tác hại đến cả những hoàn cảnh đời sống của mình. Đây chính là hiện tượng được nhiều truyền thống tôn giáo gọi là nghiệp quả.

Nói ngắn gọn, chẳng qua chúng ta bị hạn chế trong đời là vì năng lượng sợ hãi mà mình đã tạo ra trong quá khứ. Nếu thực sự muốn tinh tấn trên đường tu và cải thiện đời sống của mình thì chúng ta phải tìm cách nâng cao rung động của những lực thấp kém này. Chỉ có một cách thiết thực mà thôi, đó là tiếp cận năng lượng thanh nhẹ ở các tần số cao, hướng nó về những luồng năng lượng ở tần số thấp để nhờ đó lực thấp được nâng lên. Và như vậy gánh nặng của trọng trược phải tan biến.     

Vai trò của chân sư trong tiến trình này là cung cấp nguồn năng lượng với tần số cao – là năng lượng tâm linh – để chúng ta tự giải thoát khỏi lực thấp. Nhưng bạn cần hiểu, các thày không thể tự tay gỡ bỏ năng lượng thấp dùm chúng ta, bởi vì địa cầu này cốt yếu là một trường học nơi chúng ta phải tự làm lấy. Nhưng nếu chúng ta sẵn sàng nâng tâm thức mình và ngừng sản xuất lực thấp, thì năng lực tình thương đó được tuần hoàn lên cõi tâm linh để các chân sư làm cho sinh sôi nảy nở.

Và đó là tác dụng của những bài chú hay bài thỉnh, là những dụng cụ tu tập được các thày chỉ dạy qua trang mạng này. Khi sử dụng những dụng cụ này, chúng ta phát ra những lời kêu gọi có tác dụng hướng dẫn năng lượng tâm linh. Khi năng lượng được các thày sinh sôi, chúng ta dựa vào đó mà dần dần thoát khỏi các xu hướng vị kỷ, trút được gánh nặng của lực thấp, và đồng thời cũng quân bình lại nghiệp quả của mình.     

Giúp chúng ta qua sự hướng dẫn nội tâm cá nhân

Các chân sư hoàn toàn không muốn bạn lệ thuộc vào giáo lý các thày được đăng tải ở đây, hay lệ thuộc vào vị sứ giả đã chuyển đạt giáo lý đó. Điều mà các thày mong muốn là bạn dần dần nâng tỉnh giác cho đến mức có khả năng tự mình liên hệ trực tiếp trong nội tâm với các thày.  

Vì hiện nay khoảng cách giữa tỉnh giác bình thường của bạn và tâm thức chân sư còn quá lớn, cho nên điều đó có thể sẽ đòi hỏi thời gian, dài hay ngắn còn tùy vào những gì bạn từng làm trong quá khứ nữa. Nhưng đây là mục tiêu không ngoài tầm tay của mỗi người tu tập. Và trang mạng này có mục đích giúp bạn đạt tới mức đó khi bạn nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ chân sư, hoặc nếu bạn đã nhận được rồi mà chưa rõ thì sẽ được rõ hơn.   

Vì bạn đã tìm thấy trang web này, rất có thể là bạn đã nâng tâm thức mình lên cao hơn mức gọi là bình thường. Trong tâm linh có một quy luật quen thuộc nói rằng, “Khi trò sẵn sàng thì thày xuất hiện”. Do bạn tìm thấy trang này, rất có thể những giáo lý và dụng cụ tu tập ở đây là những gì bạn đang cần đến trong giai đoạn hiện tại của bạn.     

Khi bạn tinh tấn, sẽ đến một lúc chân sư sẽ có khả năng làm việc thẳng với bạn. Bạn sẵn sàng thì vị thày của bạn sẽ xuất hiện.

Giúp chúng ta qua tư tưởng và phát minh mới

Như đã trình bày, chân sư Saint Germain có chương trình khai sáng một Thời Hoàng kim trên địa cầu. Tuy nhiên vì mọi chuyện phải thuận theo quy luật tự quyết của mỗi cá nhân cho nên thày không thể tự ý thị hiện điều này mà phải cần đến chúng ta.

Trước khi Thời Hoàng kim có thể hiện diện, tâm thức tập thể của con người cần chuyển vọt nhiều đợt. Số người đón nhận và lãnh hội được luồng tư tưởng mới của Saint Germain phải đạt tới một con số đủ lớn thì chuyển đổi mới xảy ra. Đó là lý do nhiều người tâm linh đang đầu thai trong lúc này để hậu thuẫn cho công cuộc thoát xác được đề xướng.      

Và thật vậy, Thời Hoàng kim đòi hỏi rất nhiều tư tưởng mới được đem vào hiện thực vật chất trong mọi địa hạt của cuộc sống. Vì quyền tự quyết của mỗi người phải được tôn trọng, các tư tưởng này không thể ép uổng từ trên xuống được. Trái lại, chính nhân loại đang đầu thai phải tự mình hòa điệu tâm mình với cõi thượng thiên để trở nên nhạy bén với tư tưởng ở đó.  

Muốn vậy thì phải có một trực giác rộng mở và sự hòa điệu cao độ với các chân sư. Thêm vào đó, còn cần cả kỹ năng chuyên môn nữa. Nhiều người tâm linh đã tình nguyện làm công việc nhận luồng tư tưởng đổi mới. Bạn cũng vậy, bằng cách sử dụng giáo lý và dụng cụ tu tập ở đây, bạn cũng có thể phát triển khả năng bắt được tư tưởng trực tiếp từ chân sư.

Giúp chúng ta đạt tâm thức cao hơn một bực

Chân sư dạy rằng đại đa số nhân loại vẫn còn bị kẹt trong vùng tâm thức khiến cho mọi nhận biết về cuộc sống đều bị bóp méo. Trớ trêu thay, chính bóp méo này khiến cho chúng ta không thể ý thức được tình trạng bóp méo. Có nghĩa là chúng ta chỉ thấy ảo tưởng nhưng không thể thoát ra khỏi ảo tưởng và cứ tưởng lầm đó là thực tại.   

Bạn thử quan sát điều này. Trong đời, mỗi cá nhân thường đều có những quan điểm và tin tưởng khác nhau, thế nhưng đa số chúng ta lại tin rằng chỉ có mình là nắm được sự thật tối hậu. Dưới mắt chúng ta, mọi người khác nhất định phải sai nếu họ không nhìn nhận sự thật duy nhất của chúng ta.  

Theo lẽ thường tình, khi quan điểm trái ngược nhau đến chỗ không thể dung hòa như thế thì không thể có chuyện mọi quan điểm đều đúng hết. Nhưng biết đâu, lỡ tất cả đều sai hết thì sao?

Thật vậy, các chân sư dạy rằng phần lớn chúng ta bị kẹt trong tâm thức tách biệt, nơi đó chúng ta thấy mình là những con người tách biệt. Chúng ta đinh ninh rằng mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình (Thượng đế), tách biệt khỏi môi trường (thiên nhiên) và tách biệt cả với mọi người khác. Tâm thức này sinh sản ra tất cả mọi hình thức tranh chấp bất đồng giữa con người.

Ảo tưởng tách biệt khởi đầu với tâm thức nhị nguyên. Trong nhị nguyên, tất cả mọi thứ đều chia ra làm hai đối cực, chẳng hạn đúng-sai, tốt-xấu. Nhị nguyên bắt buộc chúng ta phải chọn một trong hai, bởi vì ngoài hai cái đó ra thì không có lựa chọn nào khác. Đồng thời có cả sự đánh giá chủ quan, hoặc tốt hoặc xấu, và không có gì ở giữa.  

Đến khi nào con người còn bị kẹt trong nhị nguyên thì bất kể lý lẽ là gì đi nữa, người ta cũng sẽ luôn luôn tìm được một lý lẽ đối chọi để chứng minh rằng mình đúng và người bất đồng với mình bắt buộc phải sai. Đây chính là lý do người ta có thể biện minh cho chuyện giết người. Tâm thức này không thể dẫn tới hòa bình như lịch sử đã chứng minh hùng hồn.  

Nhưng chúng ta có một lối thoát khỏi nhị nguyên, các chân sư dạy như thế. Lối thoát đó, cả đức Phật lẫn đức Giê-su đều biểu hiện. Ở căn bản là khả năng phân biện giữa ảo tưởng nhị đối – luôn luôn là một cặp bị chia hai bởi sự đánh giá chủ quan – và cái nhìn thăng vượt. Các thày gọi đó là khả năng phân biện Ki-tô, là khả năng nhìn vượt lên trên những mối chia rẽ để thấy được sự duy nhất nằm bên dưới mọi sự sống.      

Ai ai cũng có thể đạt được tâm thức Ki-tô nếu chuyên cần trau dồi. Trên trang mạng này, bạn có thể tìm thấy nhiều bài giảng cùng dụng cụ mà các chân sư đã ban ra để giúp bạn tu tập. Theo các thày, khắp địa cầu hiện nay có tới 10,000 vị đang đầu thai đã biểu hiện được tâm thức Ki-tô ở một trình độ nào đó, dù rằng trong số đó cũng có nhiều vị chưa ý thức được và cũng chưa thực hiểu tâm thức đó là gì. Nếu như tất cả những vị đó tự biết mình hơn và kết hợp lại, hẳn là họ sẽ nâng cao tâm thức tập thể và đem lại nhiều thay đổi lớn lao cho hành tinh này.      

Tâm thức Ki-tô không phải là một trạng thái tĩnh mà là một tiến trình năng động nâng cao tâm thức. Cao hơn nữa gọi là tâm thức Phật, khi sự hợp nhất được cảm nhận sâu xa, đặc biệt là sự hợp nhất với nguồn cội, và trong đó có cả sự hợp nhất với những thể chân của chính mình. Trên trang mạng này cũng có nhiều bài giảng dạy của chân sư về cách chứng đạt tâm thức này.

Thăng thiên – giải thoát khỏi vòng luân hồi

Theo giáo lý của chân sư, phần lớn các tôn giáo cùng những phong trào tâm linh thời nay thường đưa ra một hình ảnh thiếu thiết thực về sự thăng thiên, cứu rỗi. Hình ảnh thông thường là một tiến trình tự động, gần như máy móc, qua đó chúng ta sẽ tự động giải thoát nếu mình trở thành tín đồ của một tôn giáo, dốc lòng tuân theo mọi giới luật được tôn giáo quy định và trả sạch mọi nghiệp quả đã chồng chất. Nhưng sự thật, ở cõi tâm linh không hề có sự vị kỷ tách biệt mà chúng ta thấy ở địa cầu. Tức là để nhập vào cõi tâm linh, chúng ta phải một cách hoàn toàn ý thức, nâng tâm thức mình vượt lên trên mọi sự vị kỷ phát sinh từ ảo tưởng tách biệt và tâm thức nhị nguyên.

Địa cầu là một trường học nơi chúng ta được ban cho cơ hội chiêm nghiệm cuộc sống như thể mình là một thể sống tách biệt. Do ảo tưởng tách biệt mà chúng ta tin rằng chúng ta có thể tác động trên người khác, hoặc tác động trên thiên nhiên, mà không ảnh hưởng gì tới mình. Có khi chúng ta còn ảo tưởng rằng mình có thể làm bất cứ điều gì mình muốn mà không phải chịu hậu quả, ít ra là trong kiếp hiện tại. Với tâm thức nhị nguyên, những ảo tưởng đó càng được củng cố hơn, bởi vì trong lý luận nhị đối, mọi cư xử của con người đều có thể được biện minh là đúng. Ví dụ điển hình nhất là những nhà độc tài trong suốt lịch sử đã có thể dùng lý luận nhị nguyên để biện hộ cho những hành động tàn sát vô số sinh linh.  

Chân sư dạy rằng khi nào chúng ta còn bị kẹt trong ảo tưởng đó và hành động như một thể sống tách biệt, thì chúng ta không thể rời bỏ hành tinh chúng ta. Lý do thật giản dị: khi chưa học xong cách vượt lên trên ảo tưởng tách biệt thì chúng ta chưa thể thi đậu kỳ thi tốt nghiệp để có thể rời mái trường địa cầu.

Mọi điều chúng ta làm trên địa cầu là qua năng lượng, phần lớn là năng lượng tâm lý. Chúng ta nhận năng lực này từ cái ta cao hơn của chúng ta cùng các chân sư. Chúng ta có toàn quyền biến hóa năng lượng đó theo ý muốn của mình, chỉ có điều là song song, chúng ta cũng trách nhiệm về phẩm chất của nó. Như đã trình bày, chúng ta có hai con đường:   

  • Nếu năng lượng được phú cho rung động của tình thương do chúng ta đã phần nào nhìn vượt lên trên ảo tưởng tách biệt, thì nó sẽ thăng lên cõi tâm linh nơi nó sinh sôi trước khi được phản hồi về chúng ta. Chúng ta sẽ dùng năng lượng khởi sắc ấy để nâng tiếp tâm thức mình cho đến thoát hẳn khỏi tách biệt.
  • Nếu năng lượng bị phú cho rung động của sợ hãi, nó không thể thăng lên và nó trở thành những cái kho chứa trong tâm tiềm thức của mình, tạo thành gánh nặng ngàn cân khiến mình không thể gỡ khỏi sự chi phối của tách biệt. Đây là hiện tượng nghiệp quả mà một số tôn giáo và truyền thống tâm linh nói đến.

Tâm thức tách biệt giống như cái xoắn ốc ngày càng mãnh liệt kéo mình đi xuống. Một phần là vì năng lực sợ hãi tồn đọng lại với thời gian, nhưng hơn thế, mỗi lần chúng ta cư xử tách biệt thì ảo tưởng tách biệt lại càng vững chắc, và khi đó thì chẳng làm sao chúng ta vào được cõi tâm linh. Quá trình này, các chân sư gọi là Trường đời Cay đắng. Khi ảo tưởng tách biệt ngày càng dũng mãnh thì cuộc sống sẽ càng thêm khốc liệt, cho đến khi khổ quá chúng ta bắt buộc phải xét lại nguyên cái tâm thức và lối sống đã kéo mình lún sâu vào đau khổ.     

Vấn đề là khi chúng ta bị kẹt trong tách biệt, chúng ta cứ nghĩ là mình sống trong một môi trường tách biệt với những người tách biệt khỏi mình. Từ đó mới lầm tưởng rằng ngoại cảnh không phải do mình tạo ra hay phóng chiếu ra từ tâm mình. Kỳ thực, thế giới vật chất có thể ví như một tấm gương vũ trụ khổng lồ phản chiếu mọi thứ chứa đựng trong tâm chúng ta – cả trên bình diện cá nhân lẫn tập thể – trở ngược về chúng ta dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất chi phối đời sống. Mọi xung đột, mọi vấn nạn đang xảy ra trên trái đất hiện nay kỳ thực chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức tập thể loài người.

Khi nào chúng ta còn tin vào cái ảo tưởng vô cùng phổ biến này thì khi đó sẽ còn phải ngồi lại lớp học trần thế, trói chặt vào chu kỳ sống, chết và tái đầu thai. Các chân sư nhìn nhận sự thật của hiện tượng đầu thai cũng như nghiệp quả, nhưng những lời dạy của các thày đi xa hơn mọi điều mà bạn đã từng đọc được ở nơi khác.

Rốt cuộc sẽ tới một khúc rẽ nơi chúng ta phải đặt lại vấn đề ảo tưởng ngoại cảnh và thử tìm xem có cách nhìn nào khác về cuộc đời hay chăng. Làm vậy, chúng ta mới thực sự nắm lấy vận mạng của mình thay vì cứ đổ lỗi cho ngoại cảnh nghiệt ngã. Khi nào bước đến khúc rẽ đó thì chúng ta mới có thể nói là mình sẵn sàng bước vào đường tu tâm linh. Đây là con đường dẫn mình vượt khỏi tách biệt và nhị đối, để qua từng bước chiêm nghiệm, mình đạt đến những tầng cao hơn của thực tại tâm linh.   

Rồi khi đạt tới tầng tâm thức cao đó, sẽ đến lúc chúng ta không còn nhu cầu tái đầu thai nữa. Đây là bước chót dẫn thẳng đến thăng thiên khi chúng ta vĩnh viễn chia tay trái đất.

Các chân sư mang danh hiệu thăng thiên là vì các thày đã từng thăng thiên từ hành tinh này hay một hành tinh nào khác. Rất nhiều các vị hiện đang phục vụ cho trái đất đã từng là người sống trên trái đất và đã thăng thiên từ trái đất, và điều này quý giá làm sao khi các thày có thể dùng kinh nghiệm bản thân để giúp chúng ta cũng thăng thiên như các thày. Các chân sư biết rõ mọi thử thách đặt ra cho một hành tinh có vật chất nặng trược và tâm thức không mấy cao như địa cầu. Vì hiểu rõ bản chất của những ảo tưởng đang bao trùm chúng ta mà các thày sẽ giúp được chúng ta theo chân các thày.

Thế nào là một chân sư thăng thiên?

Xin bắt đầu bằng câu hỏi này dành cho bạn: “Bạn là gì?” Ở cốt lõi, có thể trả lời: bạn là một sinh thể có khả năng tự nhận biết. Bạn biết là bạn hiện hữu (phần “nhận biết”) và bạn cũng ý thức được bạn là ai (phần “tự”). Trong hiện tại, khả năng tự nhận biết này của bạn tập trung vào cõi vật chất và tiêu điểm là xác thân vật lý của bạn. Tuy nhiên, bạn cũng có thể nhận biết mình là cái gì khác nữa.

Chân sư cũng là đấng tự nhận biết. Nhưng chân sư đã nâng cao, hoặc gia tốc, khả năng tự nhận biết đến mức không còn tập trung vào cõi vật chất nữa, mà vào những cõi rung động thanh cao hơn được thường được gọi là cõi tâm linh.

Mỗi sinh thể tự nhận biết đều có tiềm năng đi muốt tiến trình gia tốc nói trên để đạt tới cao điểm gọi là sự thăng hoa, hay thăng thiên. Chính bạn cũng có tiềm năng này, bạn có thể nâng cao khả năng tự nhận biết của mình cho tới khi bạn điều ngự được cả tâm mình lẫn cõi vật chất chung quanh. Rồi bạn có thể nhảy vọt một bước, nâng tự nhận biết tới một mức chưa từng đạt tới và khi ấy bạn không còn cần đến xác thân vật lý nữa. Thay vì xác thân vật lý, bạn sẽ sinh hoạt trong một cái “xác” trong nhẹ được kết tạo bởi những rung động thanh cao của cõi tâm linh.

Một số chân sư đã từng là con người đầu thai trên trái đất này, không khác gì bạn hay tôi (Kim Michaels) bây giờ. Các thày hiểu rõ mọi điều mà bạn đang trải qua bởi vi chính các thày cũng đã phải vật lộn với cõi vật chất dày đặc y như bạn. Và đó là lý do chân sư là những vị thày lý tưởng để hướng dẫn bạn khỏi rơi vào những lầm lỗi mà các thày đã vấp phải. Còn bạn, bạn chỉ cần đi theo đường lối mà chân sư đã khai thông cho bạn xuyên qua rừng rậm của tâm thức con người.   

Tất nhiên cũng có một số chân sư đã thăng thiên ở những hành tinh khác ngoài trái đất, và có cả những vị chưa bao giờ xuống hiện thân trong bầu cõi chúng ta. Vậy xin mô tả dưới đây từng thành phần xuất xứ.  

Các đấng đã từng đầu thai và đã thăng thiên

Trước hết xin nhìn từ góc cạnh một người đang đầu thai trên địa cầu. Vũ trụ vật chất thật sự là một “bộ máy” phản hồi tinh vi nhằm giúp mỗi chúng ta phát triển khả năng tự nhận biết qua sự phản hồi.

Nhiều người không ưa từ “trường học”, nhưng ở đây, khái niệm trường học khá thích hợp với câu chuyện của chúng ta. Đa số trường học đều có một kỳ thi ra trường, và nếu thi đậu thì chúng ta sẽ được tự do xông ra đời mà không còn bận bịu chuyện học vấn nữa. Cũng vậy, nếu chúng ta không ngừng nâng cao tâm thức và thăng vượt khả năng tự nhận biết của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra?  

Đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ được “thi ra trường”, qua đó chúng ta nhập vào một tiến trình “tốt nghiệp” mọi sự học hỏi của vũ trụ vật chất. Đây là một tiến trình thâm sâu, phức tạp, đòi hỏi chúng ta chấm dứt mọi sự đồng hóa với ngã tách biệt để chuyển sang một nhận thức tự nhận biết mới. Trong tâm thức mới này, chúng ta hợp nhất toàn vẹn, ở trên thì hợp nhất với cõi tâm linh, và ở dưới với mọi sự sống trong cõi thế gian này. Mọi ham muốn hay dính mắc đối với thế gian đều được bỏ lại.

Tiến trình này thường mang tên là đường tu tâm linh, với giai đoạn gia tốc chót gọi là xoắn ốc thăng hoa, dẫn tới sự thăng thiên. Một khi thăng thiên, chúng ta sẽ mãi mãi giải thoát khỏi địa cầu cùng vũ trụ vật chất. Vì đã điều ngự được tâm mình nên trở thành bậc thày và mang danh hiệu “chân sư thăng thiên”.

Cuộc thăng thiên đó, nhiều dòng sống đã thực hiện được trong suốt quá trình của trái đất trải dài hơn lịch sử chính thức rất nhiều. Mỗi chân sư khi mới thăng thiên đều có hai lựa chọn: hoặc đi tiếp tới những vùng cao vô tận của cõi tâm linh, hoặc ở lại với địa cầu hầu trợ giúp phần nhân loại chưa thăng thiên.

Nhiều vị chân sư đã chọn con đường thứ hai này để ở lại giúp chúng ta. Vì đã trải qua kinh nghiệm đầu thai trên hành tinh chúng ta hay một hành tinh nào khác, và đã thăng vượt được cõi đời dày đặc ở đây cho nên các thày hiểu rõ mọi khó khăn mà chúng ta phải đương đầu. Nhờ khả năng quý giá đó mà các thày mới giúp được chúng ta khai ngộ chính những điều mà các thày đã khai ngộ.   

Các đấng không từng đầu thai

Vũ trụ được tạo ra như một cấu trúc nhiều tầng. Bầu cõi nơi chúng ta sinh sống được tạo ra bởi một số sinh thể ở bầu cõi nằm ngay trên. Và bầu cõi đó lại cũng được tạo ra bởi sinh thể ở bầu cõi cao hơn nữa, và cứ như thế, lớp lớp họp thành một dãy cấu trúc nhiều tầng dẫn ngược lên Đấng Sáng tạo của chúng ta.

Điều quan trọng cần hiểu là một sinh thể chỉ có khả năng sinh tạo bầu cõi dưới mình một khi đã hợp nhất với các đấng đã tạo ra mình và nguyên hàng ngũ tâm linh ở trên. Nói cách khác, đây là điều khác biệt căn bản giữa cõi vật chất và cõi tâm linh: chúng ta trong cõi vật chất xem mình là những sinh thể tách biệt sinh sống trong một thế giới tách biệt, nhưng muốn vào được cõi tâm linh, chúng ta phải vượt qua ảo tưởng này và thật sự hòa nhập vào tánh duy nhất của mọi sự sống.

Cho nên khi sinh thể ở cõi cao sinh tạo một cõi mới chưa thăng hoa, thì cõi mới này như được tiết ra từ bản thân mình. Nói cách khác, vị sáng tạo không xem bầu cõi mới là cái gì riêng rẽ mà là chính mình. Có điều, bầu cõi mới ấy được tạo với rung động nặng trược hơn. Mục đích là vị sáng tạo sẽ phái xuống những thành phần nối dài của mình để đầu thai trong cõi mới, với thân thể được cấu tạo bằng năng lực ở đó.

Sáng tạo như vậy có hai mục đích. Một là để nâng cao rung động của bầu cõi mới cho đến khi cõi này thăng hoa, hợp lại với cõi tâm linh. Và hai – mục đích thâm sâu của cả tiến trình – là những thành phần nối dài đó có sắc tính đặc thù, là những cá thể sẽ phát triển khả năng tự nhận biết bằng cách giúp cho bầu cõi của họ thăng hoa.

Cho nên một đằng có thể nói, các vị sáng tạo bầu cõi chúng ta đã không đầu thai trọn vẹn trong cõi chúng ta. Nhưng nhìn cách khác cũng có thể nói, các vị ấy đã hiện thân trong bầu cõi chúng ta qua trung gian những cá thể nối dài được phái xuống. Những cá thể nối dài này không phải là những nhân vật bí hiểm xa lạ nào đâu, họ chính là chúng ta đó!  

Hóa ra chúng ta đã bị nhồi sọ để rồi cứ tin rằng là mình chỉ là những con người hạn chế đủ mọi mặt – thậm chí có thể là những kẻ có tội – nhưng thực sự chúng ta là phần nối dài của các đấng tâm linh đã sinh tạo bầu cõi chúng ta. Nói cho cùng thì mục đích của đường tu tâm linh và thăng thiên chẳng qua chỉ là để chúng ta chấp nhận trọn vẹn bản sắc đích thực của mình, rằng chúng ta là những cá thể nối dài của nguyên cái chuỗi tâm linh ở trên chúng ta.

Điều quan trọng là đây: cho dù rất nhiều vị trong Đại đoàn Thượng thiên không hiện thân hoàn toàn, nhưng các thày lại hiện thân qua trung gian chúng ta – là những phần nối dài của các thày. Cho nên hình ảnh cố hữu về một Thượng đế xa xăm và nóng giận ngồi ngự ở đâu đó trên mây không ăn khớp chút nào với thực tế. Không có chuyện nổi giận, phán xét hay lên án chúng ta, mà các chân sư kỳ thực chỉ mong nâng chúng ta lên cao để nhập lại cùng với các thày.    

Dù trong hiện tại, chúng ta có thể quên rằng mình là thân nối dài của các đấng thăng thiên, nhưng các thày thì không bao giờ quên đâu. Các thày nâng chúng ta lên chính là vì không thể quên được chúng ta là một phần của các thày. Khi được nâng lên như thế, chúng ta sẽ không mất hẳn cá thể của mình. Ngược lại là đằng khác, chúng ta sẽ hòa nhập với cá thể tâm linh chân thật của mình, và đồng thời cũng thăng vượt mọi hạn chế của cái gọi là cá thể phàm phu, là cái ngã tách biệt. Chẳng có gì mất mà chỉ có được thêm.  

Các chân sư thăng thiên là ai?

Các chân sư thăng thiên là những vị đã vượt lên trên tâm thức loài người và đã cống hiến bản thân để giúp chúng ta cũng sẽ thăng thiên như các thày. Qua lời dạy và các dụng cụ tu tập tâm linh, các thày giúp chúng ta kết nối lại với mục đích nguyên thủy của mình khi mình hiện thân làm người trên quả địa cầu đầy thử thách này.

Chính vì tâm thức cao hơn hẳn chúng ta mà các thày mới có khả năng giúp được chúng ta như vậy. Cho nên nếu chúng ta tưởng mình có thể đứng nguyên ở mức tâm thức cố hữu của mình mà nắm bắt được trọn vẹn các thày, thì e rằng chúng ta chỉ khiến cho sự vượt thăng của mình khó khăn hơn mà thôi. Một vài lời giải thích đơn giản về các thày thật là không thể đủ vào đâu.

Tuy nhiên trong ý nghĩa phổ quát nhất, chúng ta có thể nói rằng các chân sư thăng thiên là những vị thày tâm linh cho mọi người trên trái đất. Các thày đã nhận làm công việc giúp tất cả chúng ta nâng cao tâm thức, cả trên bình diện cá nhân lẫn tập thể. Công việc này không dễ chút nào vì chúng ta ở những trình độ tâm thức rất khác nhau. 

Chỉ cần nhìn qua lịch sử cũng như hiện tại thì sẽ thấy ngay nhân loại đa dạng vô cùng trong các quan điểm, tín ngưỡng cùng cách cư xử. Vì thế các thày không thể chỉ dùng một phương cách giàng dạy độc nhất, mà phải thích ứng phương cách đó với trình độ tâm thức của mỗi người. Nói chung có hai cấp độ:

  • Tuyệt đại đa số con người chưa có tâm thức ở mức sẵn sàng chấp nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên,
  • Và một số ít đã nâng tâm thức mình đến mức có thể thấy được bước tự nhiên kế tiếp của mình trên đường phát triển nội tâm là sự nhận diện các chân sư.

Từ rất lâu, các chân sư đã không ngừng làm việc với địa cầu chúng ta, nhưng các thày đã kín đáo ẩn mặt trong phần lớn thời gian đó. Chúng ta không biết đó thôi chứ các thày đã luôn luôn gieo những hạt mầm thăng tiến vào tâm thức loài người qua những luồng tư tưởng tâm linh hay thực dụng, như qua các phát minh trong các ngành công nghệ, văn hoá hay nghệ thuật. Và như thế, tâm thức tập thể của nhân loại được nâng lên, chẳng hạn khi ý thức về dân chủ xuất hiện, hoặc khi con người nhận thức rõ ràng hơn về những giá trị của quyền sống và quyền làm người.     

Tâm thức tập thể luôn luôn được nâng lên khi có một số ít người mở tâm ra nhận lấy những tư tưởng mới đó, rồi từ đó nó dần dần lan rộng trong quần chúng cho đến khi một sự chuyển vọt xảy đến. Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều ví dụ như vậy, như khi dân chủ khai sinh, khi chế độ nô lệ được hủy bỏ, hoặc giới phụ nữ dần dần được hồi phục bình quyền.  

Nay với tâm thức tập thể cao hơn trước, các chân sư đã bắt đầu lộ diện qua một số phương tiện phổ thông như sách vở và mạng internet. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người biết đến các thày, rồi học tập giáo lý các thày một cách ý thức, cũng như sử dụng các dụng cụ tu tập tâm linh được các thày ban ra.

Trang mạng này không có tham vọng nhắm đến tất cả mọi người, mà chỉ xin dành tặng cho những ai có tâm mở đối với các chân sư, sẵn sàng nắm lấy những giáo lý và dụng cụ tu tập được đăng tải ở đây để sử dụng một cách ý thức. Bằng cách áp dụng giáo lý, bạn có khả năng nâng cao tâm thức mình cùng cải thiện hoàn cảnh đời sống của mình. Bạn cũng sẽ có khả năng đóng góp nâng cao tâm thức tập thể và giúp cho địa cầu này vượt qua phần lớn những khó khăn hiện tại. Nhờ đó biết đâu chính bạn cũng sẽ tìm ra phương hướng cho đời mình, một điều mà chắc hẳn bạn đã mong mỏi từ lâu.    

Làm sao bạn biết được những giáo lý này có thích hợp với bạn hay không? Bạn chỉ biết được trong nội tâm mà thôi, qua trực giác. Nếu bạn đã sẵn sàng nhận giáo lý này thì hẳn bạn cũng đã phát triển trực giác rồi. Vậy bạn hãy thử hòa điệu với cảm giác trong tim mình khi bạn học tập giáo lý và thử nghiệm các dụng cụ tu tập ở đây. Nếu giáo lý thích hợp thì bạn sẽ biết ngay trong tim mình. 

Các chân sư thăng thiên dạy trực tiếp thế nào?

Các chân sư đã công khai giảng dạy trực tiếp từ hơn một thế kỷ nay qua một số vị sứ giả khác nhau. Gọi là “lời dạy trực tiếp” nhưng là lời dạy được phát biểu qua một người làm trung gian, như sau:

  • Lời dạy được công khai nhìn nhận là của các chân sư, chứ sứ giả không phải là tác giả những lời đó.
  • Lời dạy được truyền đạt qua tâm sứ giả và do đó có thể nhuốm một ít màu sắc văn hóa từ phía sứ giả, nhưng lời dạy vượt trội hẳn khả năng tư duy hiện hữu trong tâm sứ giả.  

Trong quá khứ, các chân sư đã từng sử dụng nhiều người làm trung gian trong nhiều vai trò sứ giả khác nhau, nhưng những lời dạy trực tiếp nhất thường là những “bài truyền đọc”. Trong phương thức này, sứ giả được huấn luyện để nâng tâm thức mình lên đến mức có thể đồng điệu với chân sư, hầu chân sư dùng tâm và giọng nói của sứ giả để phát biểu trực tiếp lời mình. Lời dạy được gọi là “bài truyền đọc” vì đó chính là chân sư đọc qua sứ giả.

Xin nhấn mạnh đây không phải là đồng bóng, vì vị sứ giả của chân sư không ở trong trạng thái xuất vía, mà trái lại hoàn toàn sáng suốt, tỉnh thức suốt bài đọc. Sứ giả có khả năng chấm dứt buổi đọc bất cứ lúc nào. Vì giữ được tâm trung dung cho nên không có vấn đề cố tình tô màu hay bóp méo lời dạy.

Tuy vậy, vì lời dạy dược chuyển qua tâm sứ giả cho nên nó phải dựa vào ngôn ngữ, kiến thức cùng văn hóa của sứ giả. Chẳng hạn, nếu sứ giả hiểu biết rất ít về cơ học lượng tử thì chân sư không thể phát biểu về đề tài đó. Chân sư chỉ có thể sinh sôi những gì đã có sẵn trong tâm thức sứ giả mà thôi.

Hẳn điều này sẽ giới hạn những gì chân sư có thể phát biểu, nhưng đó cũng có thể là một điểm lợi cho những ai có cùng văn hóa với sứ giả vì lời dạy trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn. Tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là không một sứ giả nào có khả năng chuyển đạt mọi loại giáo lý mà các thày muốn truyền dạy. Không một sứ giả hay một tổ chức nào đã, hoặc sẽ, có thể dành độc quyền tiếng nói của các chân sư.

Tại sao giáo lý chân sư hữu ích cho chúng ta?

Lợi ích tiềm tàng lớn nhất nằm ở chỗ các chân sư có tâm thức cao hơn hẳn chúng ta trên cơ bản. Các thày đã vượt lên trên mọi quan điểm hay thành kiến, mọi loại ích kỷ, sợ hãi hay ảo tưởng của con người. Các thày cũng vượt trên mọi sự phân biệt trên trái đất, dù là những nhân vật quyền uy, những tổ chức, quốc gia hay truyền thống văn hoá. Các thày chỉ mong muốn giúp đỡ mọi người bất kể người đó là ai. Vấn đề duy nhất là mọi người có mở tâm ra để được giúp đỡ hay không mà thôi.   

Các chân sư nhìn thế gian từ một tầm góc khác hẳn chúng ta, và điều này vô cùng quý báu ở chỗ chúng ta được trao một cái khung chuần với ba sự thật căn bản:

  • Có một tâm thức vượt cao hơn và xa hơn tâm thức con người bình thường. Hẳn là có cái gì đó ở bên ngoài hộp tư duy giới hạn của chúng ta.
  • Mỗi sinh thể tự nhận biết (self-aware being) có sẵn tiềm năng vượt lên trên tâm thức con người bình thường để đạt đến tâm cao của chân sư. Mỗi người trong chúng ta đều có khả năng đó, nhưng muốn vậy, chúng ta phải trở nên tỉnh giác hơn bây giờ.
  • Có một hệ thống tu tập để đưa chúng ta từ bất cứ tầng tâm thức nào trong hiện tại đến sự tỉnh giác bao la của tâm thức thăng hoa. Mỗi chúng ta đều có khả năng trở thành chân sư thăng thiên, và khi đó chúng ta cũng thăng vượt được mọi khổ đau cùng hạn chế của loài người. Con đường này có tên là đường tu tâm linh.   

Khả năng tự nhận biết cao độ là cách giúp chúng ta vượt lên trên mọi vấn đề cùng hạn chế cá nhân. Đó cũng là cách duy nhất để giúp địa cầu vượt lên trên mọi vấn đề do con người gây ra – mà mọi vấn đề của địa cầu đều do con người gây ra cả. Điều này chúng ta làm được bởi vì mỗi chúng ta là phân tử của tâm thức tâp thể, và khi nâng tâm thức cá nhân thì chúng ta cũng kéo cả tập thể đi lên.

Biết vậy nhưng tâm thức rộng lớn của chân sư là điều khó đạt nhất đấy. Tại sao thế? Vì khi nào chúng ta còn bị tấm màn ảo tưởng của nhận thức con người che chắn, thì chúng ta rất khó nắm bắt được cái gì không có màn che. Chúng ta luôn có khuynh hướng đánh giá mọi thứ dựa trên cái nhìn giới hạn cố hữu, muốn gò ép mọi điều mới vào những cái khuôn cũ để xác nhận những điều mình đã sẳn tin là sự thật.

Thói quen này từng được nhà hiền triết Cổ Hy Lạp Plato minh họa trong ngụ ngôn hang đá. Trong hang đá ngụ ngôn, có một nhóm người bị xiềng xích quay mặt vào tường, đối lưng với cửa hang. Ngoài hang có người ta đi lại bình thường, nhưng kẻ bị xiềng trong hang thì chỉ thấy được bóng chiếu trên tường. Người trong hang cố hết sức nắm được thực tại ngoài hang, nhưng vô ích, vì họ chỉ thấy được những cái bóng của thực tại mà thôi.

Con người có khuynh hướng muốn xác nhận những điều mình đã sẵn tin tưởng, cho nên chúng ta thường chụp lấy bất cứ tư tưởng nào, dù là từ tôn giáo, triết học, ý thức hệ chính trị hay giáo lý tâm linh. Và rất có thể bạn cũng sẽ mượn lời dạy của các chân sư để củng cố cho những điều bạn sẵn tin, nhưng nếu chẳng may bạn làm vậy thì sẽ không thể nào thoát được tâm thức hiện hữu của mình.

Và đây là vấn đề chúng ta phải trực diện: Liệu chúng ta sẽ cố gò ép lời dạy của chân sư vào trong cái hộp tư duy kín mít của mình, hay chúng ta sẽ dùng lời dạy đó để tra vấn các ảo tưởng và mở rộng cái hộp đó ra? Nếu chúng ta chọn cách thứ nhất thì sẽ không thể nào nâng tâm thức lên một bậc được. Còn nếu chọn cách thứ hai thì hộp tư duy sẽ ngày càng rộng rãi hơn cho đến khi nó không còn tồn tại được nữa, và lúc đó chúng ta sẽ được quyền thênh thang bước ra khỏi cái hang của Plato để nhìn thực tại với con mắt của chân sư.

Mục đích duy nhất của trang mạng này là để giúp bạn cất bước trên con đường tâm linh đó, để nó dẫn bạn tới một tầng tỉnh giác cao hơn. Bài vở trong trang này sẽ chỉ dẫn tường tận về từng giai đoạn trên đường, nhưng nói cho cùng thì chỉ có bạn mới có thể quyết định cất bước, quyết định sử dụng những giáo lý được trình bày. Và dù bạn có quyết định thế nào đi nữa thì các chân sư cũng sẽ hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của bạn.

Đối phó với nỗi bất mãn sâu sắc về cuộc sống

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã đem lại giáo lý trong tư cách là sứ giả, nó đã giúp tôi rất nhiều. Tôi đã tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hơn 20 năm về trước. Tôi đã nỗ lực khám phá mục đích thực của mình là gì, sứ vụ thiêng liêng của mình là gì. Tôi đã thiết lập sự nối kết với cái ta cao hơn của mình, học cách nhận biết những thông điệp của cuộc sống, học cách tha thứ và yêu vô điều kiện. Nhờ quá trình này mà đời tôi đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy bất mãn, tôi đánh mất ý nghĩa của cuộc sống, tôi cảm thấy như mình không đang sống cuộc đời của mình. Và tôi phải mất một thời gian để tìm lại động lực giúp mình bước tới. Tôi muốn hiểu gốc rễ của nỗi bất mãn sâu xa này. Làm thế nào chữa lành những chấn thương tình cảm và lý trí đó? Làm thế nào giữ cho sự nối kết với cái ta cao hơn của tôi được thường trực và ổn định, hầu tôi có thể thị hiện một cách ý thức vương quốc của Thượng đế trên địa cầu và hoàn thành một cách ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Dựa trên kinh nghiệm bản thân, tôi xin nói là trong số những người tâm linh có một loại giấc mơ – chính tôi cũng đã mang giấc mơ này khi còn trẻ, và tôi đã thấy rất, rất nhiều người mang cùng giấc mơ đó như thế này: Nếu chúng ta tìm được giáo lý tâm linh đúng đắn, và nếu chúng ta tu học thật hăng say, thì nhất định chúng ta sẽ đạt tới điểm đột phá. Và khi chúng ta đột phá thì chúng ta sẽ giác ngộ – hay bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta có về giác ngộ – và giờ đây mọi chuyện sẽ tuyệt vời.

Bản thân tôi đã mang giấc mơ này trong nhiều năm trời. Tôi còn nhớ vào thập niên 1990, tôi hay nghĩ: “Trời, mình đã giải quyết được quá nhiều thứ trong tâm lý mình rồi, không hiểu bây giờ còn bao nhiêu nữa?” Thế rồi sau khi nhận được tất cả các lời dạy về chấn thương nhập đời, về việc đi xuống từ một hành tinh tự nhiên đến trái đất, phải hứng chịu chấn thương nhập đời và sinh sống một thời gian rất dài trên địa cầu, cái nhìn của tôi đã đổi khác, vì tôi ngộ ra là trên một hành tinh như trái đất không hề có một trạng thái nào là vĩnh viễn, vì đây là một hành tinh phi tự nhiên.

Chừng nào còn đầu thai thì chúng ta sẽ còn kinh qua nhiều chuyện trong tâm lý mình, hoặc là tâm lý của riêng cá nhân mình, hoặc một điều gì đó mình đã lấy vào từ tâm thức tập thể và đang cố xử lý. Cho nên chúng ta đang  luôn luôn đối phó với một điều gì đó.

Tôi nghĩ bước đầu tiên – ít ra là điều mà tôi đã làm – là tôi đã từ bỏ ý tưởng mình sẽ đạt được một loại đột phá nào đó và thế là mình ở trong trạng thái tâm thức tối thượng, mình đã giác ngộ. Tôi nhận ra là luôn luôn sẽ có những chuyện khởi lên trong tâm lý mình.

Một điều nữa mà tôi thấy được khi tôi nhìn lại quá trình hơn 40 năm bước chân trên đường tâm linh, là có một số chu kỳ, một số giai đọan nhất định. Có những giai đọan mà chắc chắn chúng ta tăng triển.

Thông thường khi bạn tìm thấy một giáo lý mới, bạn rất hào hứng với nó, bạn cố gắng thực hành, nhưng bạn làm vậy với một viễn quan nhất định về những việc cần làm. Chẳng hạn khi tôi khám phá ra phong trào Summit Lighthouse thì tôi đang ở một mức tâm thức nào đó và tôi nhìn con đường tâm linh theo một cách nào đó, và vì vậy tôi tiếp cận nó theo cách đó. Nhưng tôi cũng có thể thấy là một vài lần tôi đã bước đến một bước ngoặt. Nơi đó là điểm mà đúng lý tôi cần bước lên một mức cao hơn trên đường tu, nhưng tôi lại mang một thái độ, một cách nhìn, một phin lọc nhận thức nào đó ngăn cản tôi bước tới. Như thể tôi bị dính mắc vào một cách nhìn nhất định về đường tu.

Đó là những giai đọan mà tôi có thể nhìn lại và thấy là mình không còn hào hứng nữa, có lẽ mình bất mãn, hay có lẽ như bạn vừa nói, tôi đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống vì nó không hẳn có ý nghĩa như trước nữa. Nó không khiến tôi phấn chấn. Tôi không cảm thấy có chuyện gì đang xảy ra vì tôi không đang tăng trưởng. Khi bạn không tăng trưởng thì bạn trở nên bất mãn.

Không chỉ là vấn đề những chấn thương cần chữa lành. Đó có thể là một chấn thương mà chúng ta cần đương đầu, tuy nhiên cũng có thể là chúng ta cần xoay chuyển thái độ của mình – như tôi vừa trình bày, chúng ta cần từ bỏ ý tưởng về một sự đột phá tối hậu. Như chẳng hạn, từ bỏ ý nghĩ là mình phải tinh tấn hơn hiện thời. Ý tôi muốn nói là tôi có thể nhìn lại và thấy rất nhiều người trong giáo lý của chân sư thăng thiên nghĩ rằng: “Tôi đã học các giáo lý này từ 10, 20 năm qua, tôi phải tiến hơn thế này chứ. Tôi phải an bình, tôi phải thế này, tôi phải thế kia, tôi phải nối kết được một cách thường trực với cái ta cao hơn của tôi. Tôi phải có khả năng thị hiện bất kỳ đời sống nào mà tôi muốn.”

Tôi nghĩ sẽ tới một điểm bạn cần xoay chuyển và bước ra khỏi tư duy đó, bạn cần buông các ý nghĩ đó và nhận diện đường tu là thực sự một tiến trình không ngừng, luôn luôn xem xét chính mình, luôn luôn nhìn vào tâm lý của mình để nhận ra một giới hạn nào đó, một cái ngã nào đó, rồi để cho nó ra đi.

Khi bạn từ bỏ mong muốn đạt được một sự đột phá tối hậu nào đó, thì tâm bạn sẽ an bình, vì bạn không còn luôn luôn cảm thấy mình phải tốt hơn, hay mình phải đạt tới một điểm nào khác, hay mình phải tinh tấn hơn nhiều. Bạn biết là bạn đang tăng triển mỗi ngày, đơn giản là bạn an bình là con người mà bạn là, ở nơi bạn đang đứng trên đường tu cho dù bạn chưa toàn hảo.

Tôi không lo lắng mình đang ở mức tâm thức nào. Bạn có thể bảo chuyện này dễ quá vì tôi biết mình ở mức cao hơn tầng 96, nhưng dù sao thì tôi không quan tâm đến chuyện đó. Tôi chỉ tiếp tục tìm kiếm điều kế tiếp mà tôi cần xử lý trong tâm lý của mình, và tôi xử lý nó. Tôi không mang cảm nhận là tôi phải ở một nơi nào khác. Tôi không còn cảm nhận này nữa. Thuở trước, tôi cứ cho rằng: “Ồ, tôi phải là một sứ giả toàn hảo, tôi không được lầm lỗi hay cái này cái nọ.”

Bây giờ nếu tôi làm lỗi, tôi sẽ học hỏi từ lỗi lầm xong tôi lại tiến tới. Nếu có điều gì khởi lên trong tâm lý, tôi sẽ xem xét nó xong tôi giải quyết nó. Tôi không kháng cự lại việc xem xét một vấn đề nào như nhiều năm về trước khi tôi cưỡng lại vì tôi không thể chịu nổi trong tâm lý mình có một loại vấn đề nào đó.

Tôi nghĩ đây chỉ là chuyện xoay chuyển, là nhận ra đường tu là một tiến trình không ngừng tiếp diễn. Chúng ta sẽ lần hồi tự cải thiện, rồi khi nào chúng ta đạt đến một trạng thái tâm thức tối thượng thì đó sẽ là lúc chúng ta không còn bám giữ cái thân xác vật lý này nữa. Chúng ta sẽ thăng thiên. Đó là cách nhìn của tôi, mong là nó đã hữu ích.

2 | Giới thiệu Chân sư MORE

Khi bạn bắt đầu con đường tâm linh dưới sự hướng dẫn của bảy vị Thượng sư, thì Chân sư MORE là vị đầu tiên mà bạn gặp. Thay vì chú tâm vào việc trải nghiệm chân sư MORE, bạn hãy quay ngược lại và tưởng tượng nhìn mọi sự qua nhãn quan của thày. Chân sư MORE là vị đầu tiên gặp các học viên đến từ nhiều quá trình khác nhau và lẽ hiển nhiên một số vẫn còn những góc cạnh gồ ghề. Một số mang theo những vết thương đủ loại và một số có ý muốn được một vị chân sư thăng thiên ve vuốt tự ngã của họ.

Chân sư MORE phải tìm cách ứng phó với nhiều loại học viên và lẽ dĩ nhiên thày ứng phó bằng cách thể hiện những đức tính của Tia thứ Nhất. Nếu bạn đến với Chân sư MORE với ý muốn giấu giếm vết thương hay trò chơi tự ngã của mình, thì bạn sẽ thấy thày rất nghiêm khắc, không khoan nhượng và không có tình cảm cá nhân. Đó là do đức tính uy lực và ý chí của Tia thứ Nhất không chịu uốn mình theo mong muốn của người phàm. Nói cách khác, chân sư MORE không chơi trò chơi tự ngã.

Nhưng nếu bạn trung thực và sẵn sàng muốn nhìn vào các vết thương và ngay cả những trò chơi tự ngã của mình, thì bạn sẽ tìm thấy nơi chân sư MORE một vị thày vô cùng yêu thương, sẵn sàng hỗ trợ sự tăng triển của bạn đến mức tột cùng. Chân sư MORE muốn thấy nơi các đệ tử của thày một đức tính đặc biệt, đó là tính thẳng thắn và trung thực sẵn sàng nhìn mình trong gương.

Nếu bạn mở lòng nhận thày chỉ cho bạn những khía cạnh của tự ngã của bạn thì thày sẽ làm một cách bạn chưa bao giờ gặp trên trái đất. Thày sẽ thẳng thắn phơi bày một trò chơi của tự ngã nhưng thày cũng chỉ thật rõ là bạn hơn tự ngã của bạn. Thày sẽ nói rõ là thày là người ủng hộ kiên định cái ta thật của bạn. Thực ra, lúc đầu thày có thể thấy và ủng hộ cái ta thật của bạn nhiều hơn chính bạn.

Không gì so sánh được với tình thương mà bạn cảm nhận từ Chân sư MORE khi bạn thấy và từ bỏ một cách ý thức một khía cạnh của tự ngã của bạn. Lý do một phần do tình thương của Chân sư MORE đối với nhân loại nhưng phần khác do thày thăng thiên năm 1898 và do đó thày rất ý thức tiến bước trên con đường tâm linh khó khăn như thế nào trên hành tinh hỗn loạn này của chúng ta. Điều này giúp thấu thấu hiểu thật rõ điều kiện sống của con người trong thời đại này và do đó thày có kiên nhẫn vô biên với những ai sẵn sàng làm việc trên chính mình – và rất ít kiên nhẫn với những ai chơi trò ú tìm với tự ngã của mình.

Tu viện nhập thất chính của chân sư MORE tọa lạc trên Darjeeling, Ấn độ và khi bạn tới đó trong thể cao của bạn, bạn được một người gác cửa trông thô lỗ tiếp đón. Người ấy sẽ cư xử với bạn rất vô lễ, có thể là còn nói chửi bới bạn. Tác phong này là để sàng lọc nhanh chóng những dòng sống nào chưa sẵn sàng đón nhận những khai ngộ được cống hiến tại Darjeeling. Nếu bạn tới với kỳ vọng không thiết thực là một vị thày tâm linh phải hay không được đối xử như thế nào với các học viên thì người gác cửa của Chân sư MORE có thể sẽ tổn thương tự ngã bạn đến độ bạn quyết định rút lui khỏi khóa nhập thất. Tuy thế bạn sẽ luôn luôn được đón nhận khi bạn tới với tâm sẵn sàng vượt quá những chờ đợi của bạn và một khi bạn vào khóa học, bạn sẽ thấy là Chân sư MORE sẽ vượt quá kỳ vọng của bạn vì thày sẽ luôn luôn làm bạn ngạc nhiên.

Nhiều kiếp đầu thai của Chân sư MORE được biết tới và trong nhiều kiếp thày là một người lãnh đạo, ngay cả là một vị vua hay một chính khách. Tuy nhiên để tỏ rõ bối cảnh thày muốn đề cập tới kiếp áp chót của thày là nhà thơ người Ái Nhĩ Lan (Irish) Thomas Moore. Trong kiếp đó thày biểu hiện sự dịu dàng âu yếm là đức tính nảy sinh sau khi bạn tuần tự phát triển các đức tính của Tia thứ Nhất. Một khi bạn đã biểu thị đủ uy lực và quyết chí, bạn sẽ nhận ra là đằng sau mong muốn nhào nắn thế giới theo ý chí của bạn, có một cách nhìn khác triết lý hơn, thậm chí thi vị hơn.

Cho nên, Chân sư MORE ý thức rõ là đằng sau mong muốn biểu thị quyền năng sáng tạo của bạn, có một dòng sống tuôn chảy nhẹ nhàng không dùng sức mạnh để ép uổng người khác theo ý chí của mình. Quả thực Chân sư MORE đã biểu thị đức tính này trong nhiều kiếp trước của thày. Thày cũng biểu lộ tính hài hước kỳ thú, thậm chí thày còn khôi hài trên đường đi tới đoạn đầu đài trong kiếp thày là Thomas More, là người bị vua hành quyết và người vua này chẳng thấy có gì thi vị hay khôi hài trong mối tương tác giữa hai người.

Khi bạn tới điểm bạn có thể cười tự ngã của mình, bạn sẽ nhận ra là Chân sư MORE sẽ nhìn bạn với ánh mắt thương yêu nhất, có khi thày còn nói một câu hài hước phơi bày cái lố bịch của tự ngã tự xem mình rất quan trọng. Và nếu bạn có thể cười cùng với thày, thì bạn sẽ khám phá là cười với Chân sư MORE là một trải nghiệm kỳ thú và giải phóng. Gần đầy Chân sư MORE đã đạt tầng cấp thành tựu của quả vị Phật.

1 | Giới thiệu Tia thứ Nhất

Màu của Tia thứ Nhất: Xanh sáng như điện

Luân xa tương ứng: Luân xa Cổ họng

Elohim của Tia thứ Nhất: Hercules và Amazonia

Đại thiên thần và Nữ Đại thiên thần: Michael và Faith

Thượng sư của Tia thứ Nhất: Chân sư MORE, còn được biết như El Morya, Morya, Chân sư M, M, hay Bapu.

Bài chú của Tia thứ Nhất: 1.01 Bài chú Elohim Hercules, 1.02 Bài chú Đại thiên thần Michael, 1.03 Bài chú Chân sư MORE.

1.1. Các đức tính trong sáng của Tia thứ Nhất

Theo truyền thống Tia thứ Nhất được xem là tia của uy lực và ý chí nhưng hiểu sâu hơn thì nó tượng trưng cho động lực sáng tạo. Nó là ý muốn tự biểu hiện, ý chí muốn thử nghiệm, ngay cả khi không biết trước kết quả của thử nghiệm. Nó cũng là ý chí sẵn sàng trôi theo dòng sống và học hỏi từ mỗi kinh nghiệm. Tia thứ Nhất dấy lên cảm nhận là mọi thứ trong đời sống đều quan trọng, cuộc sống đầy hứng thú và mỗi cá nhân quả thực có thể đem lại một sự khác biệt tích cực. Tia thứ Nhất cũng là chìa khóa của ý chí muốn làm việc để nâng cao tất cả thay vì chỉ nâng cao mình mà thôi.

1.2. Những tha hóa của Tia thứ Nhất

Tha hóa của ý chí sáng tạo là nỗi sợ những gì chưa biết. Nó được biểu hiện qua ý muốn lạm dụng quyền lực để kiểm soát hoàn cảnh của mình kể cả kiểm soát người khác. Cũng có nỗi sợ tham gia những sinh hoạt mà mình không đoán trước được hay không bảo đảm được kết quả; thái độ này lẽ dĩ nhiên bóp nghẹt tính sáng tạo. Những người tha hóa các đức tính của Tia thứ Nhất thường tham gia những trò chơi quyền lực với người khác, dựa trên ý muốn kiểm soát kết quả. Họ cũng có thể chỉ trích hay lên án kịch liệt những người không thuận theo cách nhìn đời của họ.

Tha hóa những đức tính của Tia thứ Nhất dẫn tới nỗ lực muốn dập tắt chính năng lực của sự sống, năng lực này hướng tới sự tự thăng vượt và thay vào đó bảo vệ ngã tách biệt và những gì ngã này muốn sở hữu trong thế giới. Nó dẫn tới ý niệm sở hữu những người khác và đây là một trong những nguồn gốc tranh chấp chính yếu trên hành tinh này. Trong những trường hợp nhẹ hơn, có người sợ sáng tạo và cảm thấy mình bất lực, cảm thấy không có gì thật sự quan trọng và một cá nhân không thể đem lại sự khác biệt, do đó tại sao mình phải cố gắng.

1 | Biểu thị quyền năng sáng tạo của bạn

Như đã giải thích trong Lời Mở đầu, cuốn sách đầu tiên của bộ sách này là cuốn Uy lực của cái Ta. Chương này tóm tắt những ý chính được trình bày trong sách đó. Nó được viết chủ yếu cho những ai chưa đọc sách Uy lực của cái Ta.

1.1. Vật chất = Năng lượng

Ngay bây giờ, tự nhận biết của bạn đang chú tâm vào một “phần nhỏ” của một thực tại rộng lớn hơn. Phần nhỏ này là cái mà chúng ta thường gọi là “vũ trụ vật chất”. Vũ trụ này chính xác là gì? Năm 1905, Albert Einstein công bố thuyết tương đối được biết nhiều nhất qua phương trình E=mc2. Phương trình này chứng minh là cái mà chúng ta gọi là “vật chất” không phải là một chất tự nó hiện hữu – mà nó do tâm chúng ta dựng nên. Thực ra, vật chất được làm ra từ năng lượng và năng lượng là một dạng rung động.

Hệ quả là vật chất là năng lượng rung động trong một quang phổ đặc thù. Nhưng thực ra rung động nằm trên một dải liên tục vô tận, gồm những rung động thấp mà giác quan chúng ta có thể phát hiện cho tới những rung động cao đến độ chúng ta không phát hiện được bằng giác quan hay thiết bị máy móc. Điều này có nghĩa là có một dải rung động rộng lớn vượt quá cái mà chúng ta gọi là vũ trụ vật chất.

Con người thường chỉ ý thức được một phần nhỏ của toàn bộ quang phổ rung động nhưng điều này không có nghĩa là phần còn lại của dải rung động không có thực. Thực tế là nếu không có một thế giới rộng lớn hơn vượt quá thế giới vật chất, thì thế giới vật chất này không thể hiện hữu. Điều này cũng đã được phương trình của Einstein chứng minh. Chúng ta có thể chia hai vế hai bên dấu bằng bởi cùng một hệ số và chúng ta có được một công thức mới:

Bây giờ thì ta có c2 ở trên và dưới lằn phân số bên phía phải. Vì chúng loại lẫn nhau nên ta có công thức mới như sau:

Công thức mới này nói cho chúng ta biết là mọi thứ đều là năng lượng, m thật sự được tạo thành từ một dạng năng lượng, E, rung động ở một tầng cấp rung động rất cao. Như vậy, thế giới vật chất được tạo ra từ những năng lượng cao và thanh đã giảm độ rung xuống bởi một hệ số hạ giảm rất lớn, là bình phương của vận tốc ánh sáng (c2). Nói cách khác, cái mà chúng ta gọi là thế giới vật chất được cấu tạo từ năng lượng cao mà chúng ta có thể gọi là năng lượng tâm linh.

Điều này nghĩa là thế giới vật chất không tự nó hiện hữu. Thực ra, thế giới vật chất còn không hiện hữu như một đơn vị tách biệt. Nó chỉ có vẻ như thế đối với chúng ta bởi vì với tầng tâm thức hiện nay của chúng ta, chúng ta không nhận ra được các rung động cao. Nhưng đây không phải là cách duy nhất để chúng ta nhận ra sự sống.

1.2. Mọi sự đều là Tâm thức

Dựa trên các thuyết của Einstein, các nhà vật lý học khác đã phát triển môn cơ học lượng tử và họ đã chứng minh là ở tầng cơ bản nhất của vật chất là một dạng tâm thức. Tâm chúng ta có thể tương tác với tâm thức đó, có nghĩa là tâm chúng ta không thể do não bộ vật lý tạo ra. Tâm chúng ta phải hiện hữu trước não bộ. Thật vậy, một số nhà vật lý học đã kết luận là toàn thể vũ trụ là một cái tâm vĩ đại, chứ không phải là một cỗ máy vĩ đại. Điều này có nghĩa tâm thức là thực tại cơ bản.

Điều này nêu lên câu hỏi là các rung động rất cao đã giảm hạ như thế nào để tới được tầng cấp của vũ trụ vật chất? Và câu trả lời hiển nhiên cho những người tâm linh là công việc này được thực hiện bởi những sinh thể tâm linh ở cõi cao. Những sinh thể này được gọi là “chân sư thăng thiên” trong bộ sách này. Thực ra chỉ có một tâm thức duy nhất, một tâm duy nhất, đó là tâm của đấng Sáng tạo. Nhưng tâm một này đã biểu hiện chính nó như một đại đoàn chưởng giáo tâm linh tạo thành một “chuỗi sinh thể” đi từ đấng Sáng tạo tới tầng rung động thấp nhất là vũ trụ vật chất.

Ai là những sinh thể ở tầng thấp nhất của chuỗi sinh thể này? Ấy, đó chính là chúng ta, những con người. Chúng ta là những nối dài của các chân sư thăng thiên ở cõi tâm linh thấp nhất, cõi ở ngay sát trên thế giới vật chất về mặt rung động. Thực ra, một phần của bản thể chúng ta ngụ vĩnh viễn ở cõi tâm linh. Nó là cái ta cao của chúng ta, còn gọi là Hiện diện TA LÀ.

Chúng ta chính thật là sinh thể tâm linh và chúng ta đã đi xuống vùng năng lượng dày đặc của cõi vật chất và khoác vào những thể được cấu tạo bằng năng lượng của cõi vật chất này. Nhưng tâm chúng ta vẫn là sinh thể tâm linh, nghĩa là chúng ta có tiềm năng ý thức nhận biết mình là ai và từ đâu tới. Khi đạt được nhận biết này, chúng ta cũng có thể hoàn thành mục đích tại sao chúng ta xuống đây, đó là phụng sự trong vai trò người đồng-sáng tạo.

Trái đất được tạo ra bởi một nhóm bảy sinh thể tâm linh gọi là Elohim. Nhưng họ chỉ tạo ra trái đất từ bên ngoài và họ không hoàn tất công trình sáng tạo. Chúng ta là những người đồng-sáng tạo và nhiệm vụ của chúng ta là hoàn tất công trình sáng tạo trái đất từ bên trong. Khi chúng ta phát huy trọn vẹn quyền năng sáng tạo của cái Ta, thì chúng ta có hai khả năng cơ yếu. Tâm chúng ta có thể là cánh cửa để nhận đón ánh sáng tâm linh từ cõi cao, hạ giảm rung động của nó và dùng nó để sáng tạo trong cõi vật chất. Tâm chúng ta cũng có khả năng hình thành các hình tư tưởng và áp chồng chúng lên ánh sáng tâm linh, từ đó chúng ta có thể sáng tạo những cấu trúc vật lý.

1.3. Tự nhận biết nhỏ như cái chấm

Nếu chúng ta là sinh thể tâm linh, thì tại sao hầu hết chúng ta quên sự kiện này và thay vào đó coi mình là những con người bị giới hạn? Câu trả lời là trái đất được thiết kế như một trường học hay một phòng thí nghiệm trong đó chúng ta có thể mở rộng nhận biết mình là ai và tăng triển khả năng sáng tạo mà chúng ta có. Cho nên chúng ta không xuống đầu thai với nhận biết đầy đủ mình là ai. Thay vào đó, chúng ta xuống đầu thai với tự nhận biết nhỏ như cái chấm và việc của chúng ta là dần dần mở rộng tự nhận biết đó. Đây là cách chúng ta tăng triển tự nhận biết cho tới khi chúng ta tốt nghiệp trường học trái đất và trở thành chân sư thăng thiên.

Cốt lõi bản thể của bạn được các chân sư thăng thiên gọi là “cái Ta Biết”. Đây là trụ điểm của khả năng tưởng tượng và ý chí tự quyết của bạn. Cái Ta Biết không phải là một sinh thể tách biệt nhưng là một nối dài của cái ta tâm linh hay Hiện diện TA LÀ. Do đó, nó có khả năng phóng chiếu nó vào bất kỳ hoàn cảnh nào trong thế giới vật chất và trải nghiệm hoàn cảnh đó từ bên trong.

Để có thể phóng chiếu mình vào thân vật lý, trước tiên cái Ta Biết phải phóng chiếu nó vào một cái “ta” được tạo bằng năng lượng của cõi vật chất. Một khi cái Ta Biết ở trong cái ta như thế, nó sẽ nhìn cuộc đời qua phin lọc nhận thức của cái ta đó. Điều này giải thích tại sao chúng ta có thể quên nguồn gốc tâm linh của mình và lại tin rằng chúng ta là những con người bị giới hạn. Một khi ở trong cái ta vật chất, mọi điều chúng ta “thấy” qua cái ta đó đều xác nhận chúng ta là những sinh thể vật chất bị giới hạn.

Tuy thế chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn quên mình đã tới từ một cõi bên ngoài thế giới vật chất và ngã vật chất. Đó là lý do tại sao có biết bao nhiêu người khao khát đi tìm một thế giới cao hơn hay khao khát muốn hiểu biết khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Việc chúng ta quên cội nguồi tâm linh của mình không sai trái và cũng chẳng tội lỗi. Thực ra chúng ta tăng triển tự nhận biết qua chu trình quên mình là ai và sau đó dần dần thức tỉnh nhận ra bản sắc thật của mình.

1.4. Hiện diện TA LÀ của bạn

Bạn có mặt ở đây vì Hiện diện TA LÀ của bạn gửi cái Ta Biết xuống đây. Hiện diện TA LÀ có hai mục đích khi gửi một phần nối dài của nó xuống cõi vật chất.

Một mục đích là nó muốn trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong vì trải nghiệm này giúp cho Hiện diện có được một tầm nhìn quý giá về thế giới tâm linh và giúp nó biết nó là ai. Có nghĩa là không có điều gì bạn trải nghiệm trong kiếp này hay các kiếp trước là vô bổ. Ngay cả khi bạn trải nghiệm một hoàn cảnh rất khó chịu, Hiện diện TA LÀ của bạn có thể học từ đó bằng cách xác nhận: “Tôi hơn thế này.” Và bạn có thể vượt thăng trải nghiệm – bất cứ trải nghiệm nào – khi bạn thức tỉnh nhận ra sự thật bạn là cái Ta Biết, bạn là nhận biết thuần khiết không thể bị đổi thay bởi bất cứ gì trên trái đất.

Mục đích thứ hai là Hiện diện TA LÀ muốn tăng triển khả năng đồng-sáng tạo của nó và nó làm điều này bằng cách biểu hiện những khả năng sáng tạo này qua cái Ta biết. Lẽ tất nhiên điều này chỉ có thể xảy ra trọn vẹn sau khi cái Ta Biết thức tỉnh và thấy mình là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Đấy là lúc bạn có thể biểu thị trọn vẹn tiềm năng sáng tạo của mình, là điều mà Giê-su mô tả khi thày nói: “Những điều này con người không làm được nhưng với Thượng đế mọi điều đều làm được.”

Giê-su và các chân sư tâm linh khác đã tới để cho chúng ta thấy toàn bộ tiềm năng sáng tạo của chúng ta. Chúng ta không thể biểu thị tiềm năng này khi chúng ta còn xem mình là những con người. Nhưng khi chúng ta thức tỉnh nhận ra bản sắc thật của mình, chúng ta trở thành cánh cửa mở mà không con người nào có thể đóng lại. Mục đích của bộ sách này là giúp bạn phát triển trọn vẹn quyền năng sáng tạo của bạn. Điều này chính xác nghĩa là gì?

1.5. Bảy tia sáng tâm linh

Ở phần trước chúng tôi nói mọi sự trong vũ trụ vật chất được làm nên từ năng lượng tâm linh được hạ giảm độ rung xuống. Einstein nói hệ số hạ giảm là một hằng số toán học nhưng trên thực tế có bảy hệ số hạ giảm. Các chân sư thăng thiên dạy rằng có bảy tia sáng tâm linh đóng vai trò hạ giảm năng lượng tâm linh xuống tầng cấp rung động có thể dùng để hình thành những gì mà chúng ta thấy là vật thể vật chất.

Có một số chân sư thăng thiên phụng sự trong mỗi tia của bảy tia. Tầng cao nhất là tầng của các Elohim và các thày là những sinh thể lúc đầu đã hạ thấp rung động của năng lượng tâm linh cho tới khi có đủ chất liệu để xây dựng hành tinh trái đất. Các Elohim vẫn tiếp tục phụng sự bằng cách gửi năng lượng tâm linh xuống cõi vật chất, nhưng giờ đây thì việc này chủ yếu xảy ra xuyên qua chúng ta.

Tầng kế tiếp là là tầng của các Đại thiên thần phục vụ như một loại trung gian hay sứ giả giữa chúng ta và cõi tâm linh. Điều này cần thiết vì chúng ta đã quên nguồn cội tâm linh của mình và vì vậy không thể dùng trực tiếp năng lượng tâm linh. Các Đại thiên thần phụng sự bằng cách cho chúng ta năng lượng dưới dạng bảo vệ tâm linh, chữa lành hay những dạng khác.

Tầng kế tiếp là tầng của các Thượng sư là những vị giáo học của mỗi tia sáng tâm linh. Vai trò chính của các thượng sư là đến với chúng ta ở tầng tâm thức hiện thời của chúng ta và sau đó dần dần tìm cách thức tỉnh chúng ta để chúng ta nhận biết bản sắc thật của mình và tiềm năng sáng tạo của mình. Bảy vị Thượng sư đã bảo trợ bộ sách này cùng với Đại thượng sư Maha Chohan là vị trưởng giáo của cả bảy tia sáng.

Chìa khóa để tự điều ngự là biết bảy tia sáng tâm linh và phát triển trọn vẹn khả năng đồng-sáng tạo của bạn. Mỗi tia có một số đặc tính tích cực và bạn biểu thị quyền năng sáng tạo của mỗi tia qua các đặc tính tích cực của nó. Ví dụ, Tia thứ Nhất là tia của quyền năng sáng tạo và ý chí, nghĩa là bạn tìm cách sáng tạo điều gì có lợi ích cho tất cả mọi người thay vì chỉ lợi ích cho chính mình như một sinh thể tách biệt. Khi làm thế, biểu hiện sáng tạo của bạn chỉ có tác dụng tích cực mà thôi. Kết quả là quyền năng sáng tạo của bạn sẽ được nhân lên và bạn sẽ cảm thấy càng ngày càng tự do.

Mỗi tia cũng có những tha hóa của chúng. Ví dụ, tha hóa của Tia thứ Nhất là mong muốn kiểm soát người khác và ép người khác tuân theo mình. Khi bạn biểu hiện quyền năng tiêu cực qua những ham muốn và xúc cảm thấp, thì kết quả là năng lượng tâm linh bị hạ giảm hơn khi bạn biểu hiện qua đặc tính tích cực rất nhiều. Điều này có nghĩa là nỗ lực sáng tạo của bạn sẽ không được nhân lên, và kết quả là bạn cảm thấy kém tự do.

1.6. 144 tầng tâm thức

Các chân sư thăng thiên dạy rằng khi một sinh thể tự nhận biết mới lần đầu tiên đầu thai trên trái đất, thì người ấy xuống với một tầng tâm thức đặc thù. Có tất cả 144 tầng tâm thức có thể có được trên trái đất. Khi bạn đạt tới tầng 144, bạn đã học xong các bài học trên trái đất và bạn có thể thăng thiên. Nếu bạn xuống tầng tâm thức thấp nhất, bạn không thể đầu thai trên trái đất nữa và bạn phải đi tới những thế giới thấp hơn hành tinh này.

Một dòng sống mới lần đầu tiên đi xuống ở tầng tâm thức thứ 48. Nó sẽ đi xuống một môi trường học hỏi được bảo vệ dưới sự giám sát trực tiếp của bảy vị Thượng sư. Nếu nó tuân theo khóa học vạch ra, nó sẽ dần dần nâng tâm thức của nó từ tầng tâm thức 48 lên tầng 96. Trong tiến trình nâng cao tâm thức này, nó sẽ học cách dùng mỗi tia sáng cho tới khi nó điều ngự tất cả các tia và có thể biểu thị các tia một cách quân bình. Sau đó nó tiến lên những tầng học hỏi cao hơn vượt trên tầng 96.

Tuy nhiên, một dòng sống có thể quyết định dùng khả năng đồng-sáng tạo của mình cho mục tiêu ích kỷ. Có nghĩa nó có thể đi xuống hay rơi xuống thấp hơn tầng tâm thức thứ 48. Bình thường điều này có nghĩa là dòng sống đó mất đi sự tiếp xúc trực tiếp với các thày tâm linh của mình. Thay vào đó nó sẽ học bằng cách chứng kiến vũ trụ vật chất hành xử như một tấm gương, gửi trả lại cho nó hoàn cảnh vật lý tương ứng với tầng tâm thức của nó. Đó là lý do tại sao hầu hết con người trên trái đất thấy đời sống là một sự vật lộn qua đó lúc nào họ cũng đang đối chọi với thiên nhiên, người khác hay ngay cả Thượng đế. Đây là điều mà các chân sư thăng thiên gọi là Trường đời Cay đắng.

1.7. Về cuốn sách này

Mục đích của bộ sách này là cống hiến mọi người một lời nhắc nhở từ bên ngoài về con đường nội tâm chân chính để đạt được tự điều ngự. Cuốn sách đầu tiên của bộ sách, cuốn Uy lực của cái Ta, giới thiệu tổng quát con đường tâm linh, bao gồm những giải thích sâu xa hơn về những khái niệm đề cập ở trên.

Cuốn sách này gồm hai phần. Phần Một gồm một loạt bài thuyết giảng do chính Đại Thượng sư trao truyền và như đã nói, thày là trưởng giáo của tất cả các tia. Các bài giảng của thày sẽ cho bạn những tuệ trí quý giá và những dụng cụ để đi trên con đường tự điều ngự và nó cũng cho bạn nền tảng tốt để tham gia bài tập ở Phần Hai. Nó cũng cho bạn nền tảng tốt để dùng mỗi cuốn sách sau đó.

Phần hai của cuốn sách sẽ giới thiệu tổng quát về bảy tia sáng tâm linh và các Thượng sư phục vụ như những vị thày tâm linh của mỗi tia. Nó cũng cống hiến bạn những bài tập thực tiễn giúp bạn cầu thỉnh năng lượng thanh khiết của bảy tia sáng trong thời gian bảy tháng.

Mỗi cuốn sách sau đó trong bộ sách sẽ được dành cho một tia sáng. Như đã giải thích, bạn cần sử dụng cả bảy tia để đạt được tự điều ngự và mở khóa toàn bộ quyền năng sáng tạo của mình. Cho nên, bạn sẽ rốt cuộc cần tất cả các cuốn sách sau đó. Tuy nhiên, khi bạn hoàn tất khóa học bảy tháng này, bạn có thể có trực giác biết mình cần làm việc ngay với một trong bảy tia sáng. Nếu vậy, lẽ dĩ nhiên bạn có thể tìm học sách của tia đó thay vì bắt đầu với Tia thứ Nhất.

Trừ khi bạn có cảm nhận mạnh mẽ mình cần làm việc với một tia sáng, thì bạn nên bắt đầu với cuốn đầu tiên về Tia thứ Nhất và tuần tự học tiếp tất cả các cuốn sau theo thứ tự. Đây là cách tốt nhất để tiến tới tầng tâm thức 96. Tiến trình này cũng thích ứng với bạn dù bạn đang ở tầng tâm thức nào hiện nay.

Toàn thể bộ sách được thiết kế để ai ai cũng dùng được, ngay cả những người đang ở dưới tầng 48. Nhưng lẽ tất nhiên không sách nào có thể làm mọi thứ cho bạn. Sách chỉ là những lời nhắc nhở để bạn ý thức và nếu bạn tận dụng những lời nhắc nhở này, chúng sẽ giúp bạn phát triển sự tiếp xúc nội tâm với Hiện diện TA LÀ của bạn và các chân sư thăng thiên. Điều này giúp bạn nhận được hướng dẫn trực giác từ bên trong, một sự hướng dẫn dành cho riêng bạn và nó vượt lên trên những gì bạn nhận được từ bất cứ sách nào.

1.8. Bài truyền đọc là gì?

Các chương trong Phần Một là những bài truyền đọc trực tiếp từ Đại Thượng sư. Trong Phần Hai, mỗi chương gồm một bài truyền đọc ngắn từ vị Thượng sư của một tia. Bài truyền đọc là một dạng giao tiếp từ các chân sư thăng thiên, qua trung gian một người đã được huấn luyện để tiếp nhận các thông điệp này của các thày. Trong trường hợp của tôi, tôi bắt đầu làm công việc truyền đạt này từ năm 2002 và tôi đã nhận được trên một ngàn thông điệp của các chân sư.

Để nhận được một bài truyền đọc, tôi hòa điệu tâm thức mình với vị chân sư và tôi cảm nhận thày tỏa ra một dòng ánh sáng và tâm thức. Tôi không thực sự thấy hay nghe những dòng chữ nhưng tôi hòa điệu vào dòng ánh sáng và tâm thức của thày và dòng đó được chuyển thành chữ nói trong tâm tôi. Do đó, tôi không biết điều gì đang được nói ra cho tới khi chính tôi nghe mình nói dòng chữ đó. Như vậy có ít rủi ro tâm thức của tôi xen vào hay pha màu thông điệp của thày, vì tùy chọn duy nhất mà tôi có được là ngừng bài truyền đọc.

Điều này không có nghĩa là thày có thể nói bất cứ điều gì thày muốn nói xuyên qua tôi, vì tôi cần phải có chút hiểu biết về các khái niệm mà thày đang đề cập. Chẳng hạn, một chân sư không thể trao truyền một bài giảng có chất lượng về vật lý nguyên tử qua tôi vì tôi không có đủ hiểu biết về đề tài này. Như vậy sự chuyển dịch thông điệp của vị chân sư thành ngôn ngữ quả thực tùy thuộc vào những khái niệm có trong tâm tôi và khả năng dùng từ ngữ của tôi. Nguyên tắc là các vị chân sư sử dụng những gì người sứ giả có trong tâm thức của sứ giả và nhân chúng lên. Lẽ tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là các thông điệp sẽ dễ hiểu hơn cho những ai cùng một nền văn hóa với người sứ giả. Có thể nói người sứ giả đại diện cho một nhóm người, và tâm thức của người sứ giả chuyển dịch thông điệp khiến nó thích ứng với tâm thức người nhận.

Một bài truyền đọc không đơn giản nhằm mục đích đem lại một sự hiểu biết đường thẳng mà tâm vỏ ngoài có thể nắm được. Các chân sư gài nhiều điều vào một bài truyền đọc, trước hết là một dòng ánh sáng tâm linh mà bạn có thể tiếp nhận. Chính thực là dòng ánh sáng này, hơn là các chữ, đã khiến bài truyền đọc là những dụng cụ tuyệt vời giúp bạn tự thăng vượt. Nếu bạn mở tâm ra khi bạn nghe bài truyền đọc hay ngay cả đọc nó, thì nó có thể xoay chuyển tâm thức bạn ngay tức khắc, đặc biệt nếu bạn đã có sẵn đồng cảm với vị chân sư đang nói.

Quả thực bạn có thể tiếp nhận ánh sáng của chân sư khi đọc bài truyền đọc. Nhưng bạn sẽ có một trải nghiệm mạnh hơn khi nghe bản thu âm bài truyền đọc. Trong tiệm sách trên mạng của chúng tôi (www.morepublish.com) bạn có thể mua và tải xuống thu âm của các bài truyền đọc (bằng tiếng Anh) trong cuốn sách này.

Lời mở đầu

Cuốn sách này là một phần của bộ sách Con đường Tự Điều ngự. Bộ sách này nhằm mục đích cống hiến bạn một khóa học toàn bộ để bạn biết và đạt đuợc những sáng ngộ huyền bí về bảy tia sáng tâm linh. Các sách trong bộ sách này theo một tiến trình và bạn nên học và thực tập các cuốn sách theo thứ tự chúng được phát hành.

Cuốn sách này là cuốn thứ hai trong bộ sách và cuốn đầu tiên là cuốn Uy lực của cái Ta. Cuốn sách đầu giới thiệu nhiều khái niệm cơ bản về con đường tâm linh mà bạn cần biết để có thể tận dụng cuốn sách này và các cuốn sách sau. Cho nên bạn nên đọc cuốn Uy lực của cái Ta trước khi đọc cuốn sách này và các cuốn sau đó trong bộ sách.

Cuốn sách này nhằm mục tiêu dạy bạn biết làm sao bạn đã dùng quyền năng sáng tạo của mình để tạo ra những phàm linh nội tại đã trở nên một thành phần của tâm tiềm thức của bạn. Những phàm linh này gần giống những chương trình máy tính điều khiển những phản ứng của bạn trong một số tình huống. Các phàm linh này hữu dụng trong một thời gian nhưng khi bạn tới lúc cần bước lên một tầng cao hơn trên con đường tâm linh, thì các phàm linh này sẽ ra sức chống lại sự tăng trưởng của bạn. Nếu bạn không ý thức về những phàm linh này và cách khắc phục chúng, thì bạn khó lòng vươn lên cao hơn một tầng tăng triển tâm linh nào đó.

Cuốn sách này được thiết kế như một sách thực tập hầu giúp bạn thể nhập và áp dụng giáo lý tốt hơn. Bạn sẽ đạt được kết quả tốt nhất nếu bạn đọc bài thỉnh tương ứng với chương mà bạn đang học (từ Chương 3 tới Chương 21). Bạn nên đọc một bài thỉnh đặc thù mỗi ngày một lần trong chín ngày và bạn học một phần của bài truyền đọc tương ứng với bài thỉnh trước hay sau khi đọc bài thỉnh. Mỗi buổi tối bạn hãy kêu gọi được dẫn tới nơi nhập thất của Đại Thượng sư ngụ trên Tích Lan.

Bạn đọc bài thỉnh ra tiếng, qua đó bạn thỉnh năng lượng tâm linh có độ rung động cao. Bạn có thể xem thêm chi tiết về các bài thỉnh và cách đọc thỉnh nơi trang mạng www.chansuthangthien.org. Một số bài thỉnh trong trang mạng đó đã được thu âm, và bạn có thể đọc bài thỉnh cùng với bản thu âm.

Qua trang mạng www.chansuthangthien.org, bạn cũng có thể biết thêm về các chân sư thăng thiên và cách các thày trao truyền các bài truyền đọc. Nếu bạn không quen thuộc với quan niệm sa ngã và sa nhân thì bạn có thể đọc quyển Cosmology of Evil (chưa được dịch sang tiếng Việt). Quyển sách này giải thích một cách đầy đủ nhưng dễ hiểu vì sao có những sinh thể hoàn toàn không tôn trọng quyền tự quyết (hay mạng sống) của con người. Quyển sách giải thích tại sao các sinh thể đó sẵn sàng làm mọi chuyện để kiểm soát chúng ta và tiêu diệt những ai không chịu bị kiểm soát.

2 | Giới thiệu Đại Thượng sư Maha Chohan

“Maha” nghĩa là đại, điều này có nghĩa là Đại thượng sư Maha Chohan là người lãnh đạo hay người điều khiển bảy vị thượng sư. Đại thượng sư thật ra là tên chức vụ và không phải danh tánh của một cá thể. Do đó, trong dòng thời gian, đã có những vị chân sư khác nhau nắm giữ chức vụ này. Vị chân sư hiện thời nắm giữ chức vụ này đã không công bố danh tánh thăng thiên của thày.

Vị chân sư hiện nay nắm giữ chức vụ Đại thượng sư đã từng hiện thân như nhà thơ Hy lạp Homer, nổi tiếng là tác giả trường thi Iliad và Odyssey. Các thiên anh hùng ca này biểu trưng cho hành trình mà tất cả chúng ta sẽ đi qua, đối mặt với các “quái vật” trong tiềm thức mình để tìm đường về nhà hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của mình. Trong kiếp cuối cùng, Đại thượng sư hiện thân như một người chăn cừu tầm thường, chứng tỏ là không phải lúc nào các chân sư thăng thiên cũng hiện thân như những nhân vật lỗi lạc trong lịch sử. Điều này có nghĩa là những người như chúng ta cũng có thể thăng thiên.

Đại thượng sư là vị giám đốc của Đền thờ Xoa dịu, địa điểm ở cõi bản sắc bên trên hòn đảo Tích Lan. Đền thờ này cũng là điểm kết tụ hành tinh cho các năng lượng của đấng Thánh linh, và Đại thượng sư là vị đại diện hành tinh của lực tâm linh này.

Thánh linh là một năng lượng hay một lực chuyển động được tạo ra từ nỗ lực sáng tạo gộp chung tất cả những sinh thể đã nâng cao tâm thức của họ từ khi thế giới hình tướng được sinh tạo. Nói cách khác, mỗi lần chúng ta biểu lộ sự sáng tạo trong tình thương người để nâng cao toàn thể sự sống, chúng ta gia nhập dòng chảy sáng tạo của Thánh linh, cũng được gọi là Dòng sông sự Sống.

Điều này có nghĩa là khi động lực và ý định của chúng ta trong sáng, Thánh linh sẽ khuếch đại các nỗ lực sáng tạo của chúng ta. Chúng ta cũng có thể thỉnh cầu Thánh linh giúp chúng ta nhìn thấy bất cứ yếu tố không trong sáng nào trong bản thể chúng ta. Và chúng ta có thể thỉnh cầu năng lượng chuyển hóa toàn khắp của Thánh linh để thanh tẩy bốn thể phàm của chúng ta khỏi mọi bất toàn. Cầu thỉnh Thánh linh rất hiệu nghiệm vì nó được tạo ra từ nỗ lực sáng tạo của cả bảy tia sáng, có nghĩa là nó kết hợp đặc tính tích cực của cả bảy tia sáng một cách hoàn toàn quân bình.

Vậy ta có thể nói là Đại thượng sư là nguyên mẫu của một sinh thể có sự quân bình toàn hảo giữa bảy tia sáng. Khi con gặp Hiện diện của Đại thượng sư, ngay lập tức con kinh ngạc thấy thày khác biệt bảy vị Thượng sư. Một vị Thượng sư đã đạt được thành tựu trên cả bảy tia sáng, nhưng vì vị Thượng sư là đại diện chính của một tia sáng, lẽ tự nhiên thày tỏa rạng đức tính của tia sáng đó nhiều hơn.

Đại thượng sư đã điều ngự được cả bảy tia sáng, kết hợp với Tia thứ Tám của Phối hợp. Cho nên, con sẽ trải nghiệm Hiện diện của thày dưới hai dạng. Nếu hiện thời con đang dụng công với một tia đặc thù, Đại thượng sư có thể điều chỉnh dáng vẻ của thày để tỏa rạng đặc tính của tia sáng đó mạnh hơn. Nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy Hiện diện của thày thay đổi hay lung linh liên tục khiến cho thày không duy trì lâu ánh sáng rực rỡ của một tia đặc thù. Thay vào đó, con có thể thấy rõ là Hiện diện của thày sẽ thay đổi, tỏa rạng một màu rồi chuyển sang tỏa rạng cầu vồng có cả bảy màu.

Đứng trong sự Hiện diện của Đại thượng sư, con nhanh chóng nhận ra là con được hoàn toàn bao bọc trong một vòng năng lượng rất ư thoải mái và xoa dịu. Đó là vì Đại thượng sư luôn luôn hòa điệu với dòng chảy của Thánh linh, và do đó thày có thể thấy được là mọi dáng vẻ bên ngoài trên trái đất tối hậu không có thật, và chúng cũng đang ở trong một tiến trình thay đổi liên tục. Con có thể đến với Thượng sư với tâm nặng chĩu hay có vấn đề, nhưng nếu con cố gắng làm cho tâm vỏ ngoài yên lắng và hòa điệu với Hiện diện của thày, thì con sẽ nhanh chóng cảm nhận là tất cả các vấn đề này đều thăng vượt được.

Con nhanh chóng nhận ra là Đại thượng sư có khả năng xoa dịu rất cao vì thày tuyệt đối không có một chút nào dấu vết của chỉ trích, lên án hay phán xét. Làm sao thày có thể phê phán bất cứ ai khi thày biết là mọi dáng vẻ bên ngoài đều tạm bợ và không tránh khỏi chuyện chúng sẽ thay đổi vì lực hút từ tính của Thánh linh?Để có thể cảm nhận được lực này, con hãy để ý là chúng ta không thực sự cảm nhận được là trái đất lúc nào cũng đang di động trong không gian. Tuy nhiên khoa học đã khám phá rằng toàn bộ vũ trụ đang nở ra, như thế thái dương hệ của chúng ta lúc nào cũng được kéo đi theo dòng sông vũ trụ khổng lồ này. Lẽ tự nhiên, không có lực nào trên trái đất có thể cưỡng lại hay ngưng lại lực chuyển động vũ trụ này. Và tương tự, không có lực nào trong tâm con người có thể ngưng dòng chảy của Thánh linh được.

Dĩ nhiên là chúng ta có quyền tự quyết, do đó chúng ta có thể đóng cửa lại để Thánh linh không thể nào tuôn chảy qua bản thể của cá nhân chúng ta. Tuy nhiên, sự cưỡng chống lại Thánh linh không thể kéo dài mãi mãi, bởi vì khi toàn thể vũ trụ tiếp tục chuyển động, việc chống lại dòng chảy càng ngày càng khó hơn và khó hơn cho chúng ta. Cho nên, chúng ta sẽ tới một điểm tâm quá hỗn loạn đến độ chúng ta không còn chịu đựng được nó nữa, và rốt cuộc chúng ta sẽ buông bỏ phần nào nỗ lực cưỡng chống dòng chảy của Thánh linh. Vì biết được điều này, Đại thượng sư không có nhu cầu chỉ trích chúng ta, nhưng thày luôn luôn sẵn sàng giúp chúng ta buông bỏ sự chống cự và buông mình xuôi theo dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Đại thượng sư tìm cách giúp con biết là con có thể buông bỏ bất cứ khía cạnh nào của ngã tách biệt, và khi con làm thế, Thượng đế sẽ “không còn nhớ tội lỗi của con nữa.” Như thế, Thượng sư giúp con thấy là thực sự chẳng có vấn đề gì cần giải quyết, chẳng có nhu cầu bù đắp cho bất kỳ thiếu sót nào, lỗi lầm nào hay bất toàn nào.

Con chỉ đơn giản buông bỏ các ảo tưởng và cầu thỉnh bảy tia sáng và Thánh linh chuyển hóa tất cả các năng lượng tha hóa và sau đó con được tự do tuôn chảy trở lại với lực luôn luôn thăng vượt phấn chấn mà Đại thượng sư là một với. Nếu con cho phép Đại thượng sư, thày sẽ giúp con cũng cảm thấy mình là một với lực đó. Khi ấy con sẽ biết rằng cảm nhận hợp nhất này đáng để con buông bỏ mọi khía cạnh của cái ngã vỏ ngoài. Vì quả thực không có gì so sánh được với sự hợp nhất đó; nó là Hòn ngọc rất Quý giá và đối với Đại thượng sư, không niềm vui nào lớn lao bằng khi thày có thể ban Hòn ngọc này cho những học viên đã đạt được các khai ngộ của Thánh linh. Buổi lễ này diễn ra tại sảnh đường chính của đền nhập thất của thày, nơi có sự tập trung mạnh mẽ của các năng lượng của Thánh linh.

Phật Thiền định là để bạn thiền quán

Hỏi: Trong bài thỉnh Đông Tây về việc tìm lại những mảnh hồn thất lạc và trong phần thỉnh Ratnasambhava, có đề cập đến Viên ngọc Toại ý tuyệt vời của các thày. Xin các thày vui lòng giải thích đó là gì? 


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 11/1/2021.

Thật sự tôi cảm nhận là các thày không muốn giải thích điều này vì các Phật Thiền định, ít nhất trong một số phong trào Phật giáo, được xem là những vị Phật để thiền quán. Nói cách khác, bạn cần thiền quán về các vị Phật này, và mặc dù chúng ta xem Phật Thiền định là chân sư thăng thiên – lả những sinh thể thăng thiên cụ thể – các thày không muốn cho chúng ta một cái gì cụ thể mà tâm đường thẳng có thể sử dụng để phân loại, hiểu biết hay lý giải.

Điều quan trọng về Phật Thiền định là bạn nên dùng các thày trong chức năng của các thày. Chúng ta có thể thiền quán về các thày, chúng ta có thể đọc những bài thỉnh nhắc đến các thày, và trong quyển sách “Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh cao nhất” có nhiều bài thỉnh như vậy. Bạn cũng có thể nhìn vào các phẩm chất mà các vị Phật này biểu tượng cùng những mặt tha hóa khi chúng ta làm tha hóa các phẩm chất đó. Bạn có thể thiền quán và thỉnh cầu sáng ngộ trực tiếp từ các Phật Thiền định. Nhưng bạn phải vượt qua tâm đường thẳng và bỏ nó qua bên. Và đó là tại sao các thày không muốn trao truyền một lời dạy mà tâm đường thẳng có thể chụp lấy, vì làm như vậy kỳ thực có thể chặn nghẽn sự hòa điệu trực giác của bạn.  

Chọn lựa tự quyết của người khác có thể ảnh hưởng những gì xảy ra cho bạn

Hỏi: Có thật chúng ta là kẻ sáng tạo thực tại của mình đến độ mọi thứ chúng ta trải nghiệm trong thế giới hình tướng đều do chính mình tạo ra trong ba thể cao qua các tin tưởng, các ý nghĩ và các cảm xúc trước khi chúng ta trải nghiệm? Điều này bao gồm tất cả mọi trải nghiệm tiêu cực nhất của chúng ta, tất cả mọi thứ do sa nhân gây ra cho chúng ta, tất cả mọi chuyện đã xảy ra cho chúng ta trong khi đầu thai vật lý. Có phải là chúng ta đã tự điều chỉnh rung động cho xứng hợp với những gì sắp xảy ra cho mình? Hay có thể có điều gì xảy ra mà chúng ta đã không tạo ra và cũng không điều chỉnh rung động cho xứng hợp?


Trả lời của ông Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Tôi xin trả lời câu hỏi này vì các chân sư đã ban ra một số bài truyền đọc trong mấy năm qua. Các thày nói rằng, trước hết, bạn đang sống trong một thế giới có những sinh thể tự nhận biết khác có quyền tự quyết, cho nên rất có thể một ai đó quyết định gây cho bạn một điều gì mà bạn đã không tạo ra. Vậy bạn cần nhìn nhận là bạn đang sống trên một hành tinh với rất nhiều người khác và các chọn lựa tự quyết của họ sẽ ảnh hưởng đến những gì xảy ra cho bạn. Không phải chỉ có những chọn lựa tự quyết của bạn mà thôi.

Thêm vào đó tất nhiên, bạn sống trên một hành tinh phi tự nhiên có rất nhiều người ở trong tâm thức nhị nguyên. Hành tinh này rất rất hỗn tạp và hiển nhiên nó còn bị sa nhân chi phối. Chẳng hạn bạn có thể thấy những gì các chân sư giảng dạy về các avatar. Bạn đã đến trái đất như một avatar, bạn hứng chịu một sự cố vô cùng đau thương khiến bạn bị chấn thương nhập đời và tạo ra ngã gốc. Bạn đâu có cái ngã này trong bản thể của bạn khi bạn đến đây như một avatar? Bạn đã không tạo ra một khuôn đúc rung động trong ba thể cao xứng hợp với những gì sa nhân gây cho bạn, cho nên cái này là do sa nhân áp đặt lên bạn.

Kể từ thuở đó, chúng ta đã tạo ra trong ba thể cao của mình tất cả những cái ngã tách biệt phản ứng lại những điều kiện trên trái đất. Sau khi tạo ra những ngã này, điều chúng ta có thể nói là trong nhiều trường hợp, chúng ta đều mang một cái ngã mang tin tưởng là những chuyện tệ hại có thể xảy ra cho mình, và rất có thể ngã này đã kết đọng những chuyện xảy ra đó vì chúng ta cần phải nhìn ra ngã này và buông nó ra.

Dẫu sao chúng ta vẫn phải sống trên một hành tinh hỗn tạp có quyền tự quyết, cho nên chúng ta phải tìm ra một thế cân bằng tế nhị, là nói rằng: “Tôi nhận trách nhiệm về trạng thái tâm thức của tôi. Tôi nhận ra là trạng thái tâm thức của tôi sẽ có ảnh hưởng trên những gì xảy ra cho tôi.” Nhưng sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi bạn nhận ra là không phải mọi thứ xảy ra cho mình đều có thể được giải thích bởi một điều gì đó trong trạng thái tâm thức của mình. Ở điểm này, bạn cần bắt đầu xem xét: “Thật ra không phải những gì xảy ra cho tôi là do tâm thức tôi định đoạt, mà phản ứng của tôi trước hoàn cảnh mới do tâm thức tôi định đoạt.”

Và đây chính là điểm bạn có thể tới mức nhận ra giai đoạn kế tiếp của bạn là tu tập để thay đổi cách phản ứng của mình trước mọi sự việc xảy ra trên địa cầu. Bạn khắc phục các khuôn nếp phản ứng và thấy chúng đều khởi lên từ một ngã tách biệt. Cho nên khi một điều gì xảy ra cho bạn, không cứ là bạn cần nói: “Liệu tôi có điểm gì tiêu cực trong tâm thức của tôi khế hợp với sự cố kia?” mà bạn có thể nhìn vào phản ứng của mình và nói: “Phản ứng của tôi nói lên điều gì về những ngã tách biệt mà tôi đang có?” Rồi bạn làm việc với điểm đó, bạn nhìn ra nó và bạn để cho ngã tách biệt chết đi. 

Bạn cần tới được một điểm trên đường tu khi có những chuyện không mấy tich cực xảy ra cho mình nhưng bạn không phản ứng lại nữa. Bạn không có phản ứng nào hết, bạn có càng ít phản ứng càng tốt. Đây là điều được minh họa qua câu nói của Giê-su: “Ông hoàng của thế gian này cứ việc đến nhưng không nắm được gì nơi ta,” hay là câu chuyện về đức Phật ngồi dưới cây Bồ đề có quỷ Mara đến đối đầu, cố khiến cho thày phản ứng lại.

Đây là một điểm có tính xây dựng trên đường tu khi bạn đã bước chân trên đường tâm linh được một thời gian và cảm nhận mình đã cân bằng phần lớn nghiệp chướng của mình, cho nên những gì xảy ra cho mình không phải là nghiệp quả hay một việc gì mình đã làm trong quá khứ, nhưng bạn vẫn có thể sử dụng nó như một cơ hội để xem xét phản ứng của mình. Chúng ta cần nhìn nhận là khi nào chúng ta còn sống trên trái đất – một hành tinh phi tự nhiên – thì chúng ta phải cho phép quyền tự quyết trải bày, và điều này có nghĩa là chúng ta rất có thể sẽ chạm trán với một số tình huống.

Như bạn có thể nói là nhiều người đã bị đại dịch corona tác động, nhiều người đã mất việc làm. Bạn có thể cũng bị như vậy và nói: “Ồ, chắc cá nhân mình có vấn đề gì tiêu cực đã khiến mình bị mất việc làm chăng?” Nhưng bạn cũng có thể nói: “Đơn giản đây có phải là sự trình chiếu của tâm thức tập thể đã gây ra cơn đại dịch này, và có lẽ vai trò của riêng tôi trong nguyên chuyện này là xem xét phản ứng của mình và nhìn ra cơ may mình có thể rút tỉa từ biến cố này? Có lẽ tôi có thể đưa đời mình vào một hướng đi mới chăng? Liệu tôi sẽ khắc phục được một số ngã tách biệt và điều này sẽ giúp tôi khắc phục phản ứng để tôi nhìn ra cơ hội này? Tôi có thể xem đây là một cơ hội, tôi có thể thấy được hướng đi mới để mà bước theo.”

Đó chỉ là một trong nhiều ví dụ bạn có thể xem xét khuôn nếp phản ứng của mình. Thường thường các khuôn nếp phản ứng sẽ ngăn bạn xem biến cố là một cơ hội. Chúng ta phải nhận thức là đôi khi sự việc xảy ra là một cơ hội. Chẳng hạn nếu bạn bị mất việc, rất có thể đã đến thời điểm trong Sứ vụ Thiêng liêng bạn cần tìm một cách kiếm sống khác, một ngành nghề khác. Và như vậy nếu bạn cho phép các ngã tách biệt khiến mình phản ứng lại tình huống, thì bạn sẽ không nhìn ra đó là một cơ hội. Bạn không thể thấy cánh cửa đang mở ra cho bạn. Nhưng nếu bạn khắc phục được các khuôn nếp phản ứng, bạn sẽ thấy đó là một cơ hội mới và bạn nói: “Đâu là hướng đi mới tôi có thể theo trong đời tôi? Và làm thế nào tôi có thể xoay chuyển hoàn cảnh hiện thời thành một cơ hội tăng triển?”

Các chân sư là ai?

Các chân sư thăng thiên là những vị đã vượt lên trên tâm thức loài người và đã cống hiến bản thân để giúp chúng ta cũng sẽ thăng thiên như các thày. Qua lời dạy và các dụng cụ tu tập tâm linh, các thày giúp chúng ta kết nối lại với mục đích nguyên thủy của mình khi mình hiện thân làm người trên quả địa cầu đầy thử thách này.

Chính vì tâm thức cao hơn hẳn chúng ta mà các thày mới có khả năng giúp được chúng ta như vậy. Cho nên nếu chúng ta tưởng mình có thể đứng nguyên ở mức tâm thức cố hữu của mình mà nắm bắt được trọn vẹn các thày, thì e rằng chúng ta chỉ khiến cho sự vượt thăng của mình khó khăn hơn mà thôi. Một vài lời giải thích đơn giản về các thày thật là không thể đủ vào đâu.

Tuy nhiên trong ý nghĩa phổ quát nhất, chúng ta có thể nói rằng các chân sư thăng thiên là những vị thày tâm linh cho mọi người trên trái đất. Các thày đã nhận làm công việc giúp tất cả chúng ta nâng cao tâm thức, cả trên bình diện cá nhân lẫn tập thể. Công việc này không dễ chút nào vì chúng ta ở những trình độ tâm thức rất khác nhau. 

Chỉ cần nhìn qua lịch sử cũng như hiện tại thì sẽ thấy ngay nhân loại đa dạng vô cùng trong các quan điểm, tín ngưỡng cùng cách cư xử. Vì thế các thày không thể chỉ dùng một phương cách giàng dạy độc nhất, mà phải thích ứng phương cách đó với trình độ tâm thức của mỗi người. Nói chung có hai cấp độ:

  • Tuyệt đại đa số con người chưa có tâm thức ở mức sẵn sàng chấp nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên,
  • Và một số ít đã nâng tâm thức mình đến mức có thể thấy được bước tự nhiên kế tiếp của mình trên đường phát triển nội tâm là sự nhận diện các chân sư.

Từ rất lâu, các chân sư đã không ngừng làm việc với địa cầu chúng ta, nhưng các thày đã kín đáo ẩn mặt trong phần lớn thời gian đó. Chúng ta không biết đó thôi chứ các thày đã luôn luôn gieo những hạt mầm thăng tiến vào tâm thức loài người qua những luồng tư tưởng tâm linh hay thực dụng, như qua các phát minh trong các ngành công nghệ, văn hoá hay nghệ thuật. Và như thế, tâm thức tập thể của nhân loại được nâng lên, chẳng hạn khi ý thức về dân chủ xuất hiện, hoặc khi con người nhận thức rõ ràng hơn về những giá trị của quyền sống và quyền làm người.     

Tâm thức tập thể luôn luôn được nâng lên khi có một số ít người mở tâm ra nhận lấy những tư tưởng mới đó, rồi từ đó nó dần dần lan rộng trong quần chúng cho đến khi một sự chuyển vọt xảy đến. Chúng ta đã từng chứng kiến nhiều ví dụ như vậy, như khi dân chủ khai sinh, khi chế độ nô lệ được hủy bỏ, hoặc giới phụ nữ dần dần được hồi phục bình quyền.  

Nay với tâm thức tập thể cao hơn trước, các chân sư đã bắt đầu lộ diện qua một số phương tiện phổ thông như sách vở và mạng internet. Nhờ đó, ngày càng có nhiều người biết đến các thày, rồi học tập giáo lý các thày một cách ý thức, cũng như sử dụng các dụng cụ tu tập tâm linh được các thày ban ra.

Trang mạng này không có tham vọng nhắm đến tất cả mọi người, mà chỉ xin dành tặng cho những ai có tâm mở đối với các chân sư, sẵn sàng nắm lấy những giáo lý và dụng cụ tu tập được đăng tải ở đây để sử dụng một cách ý thức. Bằng cách áp dụng giáo lý, bạn có khả năng nâng cao tâm thức mình cùng cải thiện hoàn cảnh đời sống của mình. Bạn cũng sẽ có khả năng đóng góp nâng cao tâm thức tập thể và giúp cho địa cầu này vượt qua phần lớn những khó khăn hiện tại. Nhờ đó biết đâu chính bạn cũng sẽ tìm ra phương hướng cho đời mình, một điều mà chắc hẳn bạn đã mong mỏi từ lâu.    

Làm sao bạn biết được những giáo lý này có thích hợp với bạn hay không? Bạn chỉ biết được trong nội tâm mà thôi, qua trực giác. Nếu bạn đã sẵn sàng nhận giáo lý này thì hẳn bạn cũng đã phát triển trực giác rồi. Vậy bạn hãy thử hòa điệu với cảm giác trong tim mình khi bạn học tập giáo lý và thử nghiệm các dụng cụ tu tập ở đây. Nếu giáo lý thích hợp thì bạn sẽ biết ngay trong tim mình. 

Các chân sư thăng thiên dạy trực tiếp thế nào?

Các chân sư đã công khai giảng dạy trực tiếp từ hơn một thế kỷ nay qua một số vị sứ giả khác nhau. Gọi là “lời dạy trực tiếp” nhưng là lời dạy được phát biểu qua một người làm trung gian, như sau:

  • Lời dạy được công khai nhìn nhận là của các chân sư, chứ sứ giả không phải là tác giả những lời đó.
  • Lời dạy được truyền đạt qua tâm sứ giả và do đó có thể nhuốm một ít màu sắc văn hóa từ phía sứ giả, nhưng lời dạy vượt trội hẳn khả năng tư duy hiện hữu trong tâm sứ giả.  

Trong quá khứ, các chân sư đã từng sử dụng nhiều người làm trung gian trong nhiều vai trò sứ giả khác nhau, nhưng những lời dạy trực tiếp nhất thường là những “bài truyền đọc”. Trong phương thức này, sứ giả được huấn luyện để nâng tâm thức mình lên đến mức có thể đồng điệu với chân sư, hầu chân sư dùng tâm và giọng nói của sứ giả để phát biểu trực tiếp lời mình. Lời dạy được gọi là “bài truyền đọc” vì đó chính là chân sư đọc qua sứ giả.

Xin nhấn mạnh đây không phải là đồng bóng, vì vị sứ giả của chân sư không ở trong trạng thái xuất vía, mà trái lại hoàn toàn sáng suốt, tỉnh thức suốt bài đọc. Sứ giả có khả năng chấm dứt buổi đọc bất cứ lúc nào. Vì giữ được tâm trung dung cho nên không có vấn đề cố tình tô màu hay bóp méo lời dạy.

Tuy vậy, vì lời dạy dược chuyển qua tâm sứ giả cho nên nó phải dựa vào ngôn ngữ, kiến thức cùng văn hóa của sứ giả. Chẳng hạn, nếu sứ giả hiểu biết rất ít về cơ học lượng tử thì chân sư không thể phát biểu về đề tài đó. Chân sư chỉ có thể sinh sôi những gì đã có sẵn trong tâm thức sứ giả mà thôi.

Hẳn điều này sẽ giới hạn những gì chân sư có thể phát biểu, nhưng đó cũng có thể là một điểm lợi cho những ai có cùng văn hóa với sứ giả vì lời dạy trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn. Tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là không một sứ giả nào có khả năng chuyển đạt mọi loại giáo lý mà các thày muốn truyền dạy. Không một sứ giả hay một tổ chức nào đã, hoặc sẽ, có thể dành độc quyền tiếng nói của các chân sư.

Tại sao giáo lý chân sư hữu ích cho chúng ta?

Lợi ích tiềm tàng lớn nhất nằm ở chỗ các chân sư có tâm thức cao hơn hẳn chúng ta trên cơ bản. Các thày đã vượt lên trên mọi quan điểm hay thành kiến, mọi loại ích kỷ, sợ hãi hay ảo tưởng của con người. Các thày cũng vượt trên mọi sự phân biệt trên trái đất, dù là những nhân vật quyền uy, những tổ chức, quốc gia hay truyền thống văn hoá. Các thày chỉ mong muốn giúp đỡ mọi người bất kể người đó là ai. Vấn đề duy nhất là mọi người có mở tâm ra để được giúp đỡ hay không mà thôi.   

Các chân sư nhìn thế gian từ một tầm góc khác hẳn chúng ta, và điều này vô cùng quý báu ở chỗ chúng ta được trao một cái khung chuần với ba sự thật căn bản:

  • Có một tâm thức vượt cao hơn và xa hơn tâm thức con người bình thường. Hẳn là có cái gì đó ở bên ngoài hộp tư duy giới hạn của chúng ta.
  • Mỗi sinh thể tự nhận biết (self-aware being) có sẵn tiềm năng vượt lên trên tâm thức con người bình thường để đạt đến tâm cao của chân sư. Mỗi người trong chúng ta đều có khả năng đó, nhưng muốn vậy, chúng ta phải trở nên tỉnh giác hơn bây giờ.
  • Có một hệ thống tu tập để đưa chúng ta từ bất cứ tầng tâm thức nào trong hiện tại đến sự tỉnh giác bao la của tâm thức thăng hoa. Mỗi chúng ta đều có khả năng trở thành chân sư thăng thiên, và khi đó chúng ta cũng thăng vượt được mọi khổ đau cùng hạn chế của loài người. Con đường này có tên là đường tu tâm linh.   

Khả năng tự nhận biết cao độ là cách giúp chúng ta vượt lên trên mọi vấn đề cùng hạn chế cá nhân. Đó cũng là cách duy nhất để giúp địa cầu vượt lên trên mọi vấn đề do con người gây ra – mà mọi vấn đề của địa cầu đều do con người gây ra cả. Điều này chúng ta làm được bởi vì mỗi chúng ta là phân tử của tâm thức tâp thể, và khi nâng tâm thức cá nhân thì chúng ta cũng kéo cả tập thể đi lên.

Biết vậy nhưng tâm thức rộng lớn của chân sư là điều khó đạt nhất đấy. Tại sao thế? Vì khi nào chúng ta còn bị tấm màn ảo tưởng của nhận thức con người che chắn, thì chúng ta rất khó nắm bắt được cái gì không có màn che. Chúng ta luôn có khuynh hướng đánh giá mọi thứ dựa trên cái nhìn giới hạn cố hữu, muốn gò ép mọi điều mới vào những cái khuôn cũ để xác nhận những điều mình đã sẳn tin là sự thật.

Thói quen này từng được nhà hiền triết Cổ Hy Lạp Plato minh họa trong ngụ ngôn hang đá. Trong hang đá ngụ ngôn, có một nhóm người bị xiềng xích quay mặt vào tường, đối lưng với cửa hang. Ngoài hang có người ta đi lại bình thường, nhưng kẻ bị xiềng trong hang thì chỉ thấy được bóng chiếu trên tường. Người trong hang cố hết sức nắm được thực tại ngoài hang, nhưng vô ích, vì họ chỉ thấy được những cái bóng của thực tại mà thôi.

Con người có khuynh hướng muốn xác nhận những điều mình đã sẵn tin tưởng, cho nên chúng ta thường chụp lấy bất cứ tư tưởng nào, dù là từ tôn giáo, triết học, ý thức hệ chính trị hay giáo lý tâm linh. Và rất có thể bạn cũng sẽ mượn lời dạy của các chân sư để củng cố cho những điều bạn sẵn tin, nhưng nếu chẳng may bạn làm vậy thì sẽ không thể nào thoát được tâm thức hiện hữu của mình.

Và đây là vấn đề chúng ta phải trực diện: Liệu chúng ta sẽ cố gò ép lời dạy của chân sư vào trong cái hộp tư duy kín mít của mình, hay chúng ta sẽ dùng lời dạy đó để tra vấn các ảo tưởng và mở rộng cái hộp đó ra? Nếu chúng ta chọn cách thứ nhất thì sẽ không thể nào nâng tâm thức lên một bậc được. Còn nếu chọn cách thứ hai thì hộp tư duy sẽ ngày càng rộng rãi hơn cho đến khi nó không còn tồn tại được nữa, và lúc đó chúng ta sẽ được quyền thênh thang bước ra khỏi cái hang của Plato để nhìn thực tại với con mắt của chân sư.

Mục đích duy nhất của trang mạng này là để giúp bạn cất bước trên con đường tâm linh đó, để nó dẫn bạn tới một tầng tỉnh giác cao hơn. Bài vở trong trang này sẽ chỉ dẫn tường tận về từng giai đoạn trên đường, nhưng nói cho cùng thì chỉ có bạn mới có thể quyết định cất bước, quyết định sử dụng những giáo lý được trình bày. Và dù bạn có quyết định thế nào đi nữa thì các chân sư cũng sẽ hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của bạn.

Làm sao biết được mình là avatar

Hỏi: Làm sao một người có thể tìm ra mình là một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu, hay một loại gì khác nữa?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Không hiểu bạn có đọc quyển sách mới hay chưa? Tôi xin trả lời câu hỏi này, và quyển sách mới đó là “My Lives with Lucifer Satan Hitler and Jesus”. Từ “avatar” đã được sử dụng trong một số giáo lý trước đây – một số là của các chân sư thăng thiên và một số giáo lý tâm linh khác nữa. Tôi không chắc chắn 100% nhưng tôi nghĩ từ này có thể đã được bà Blavatsky và giáo lý Thông thiên học đề xướng. Không hiểu trong số các bạn có ai biết rõ hơn không?

Và tất nhiên, từ này được dùng trong phim Avatar. Trong các trò chơi máy tính cũng có khái niệm avatar. Nhưng trong nhiều giáo lý của các chân sư thăng thiên, một avatar được xem là một sinh thể vô cùng tiến hóa đã đến trái đất. Cũng có một số giáo lý nói rằng, chẳng hạn, Giê-su là một avatar, và đó là lý do thày đặc biệt đến như vậy.

Điều này trớ trêu, vì như tôi vừa nói chuyện với một vị hồi nãy, giáo lý của các chân sư dạy rằng Giê-su không phải là đứa con duy nhất của Thượng đế, rằng thày đã từng có nhiều kiếp đầu thai, và trong một số kiếp này, thày không nhất thiết là đã luôn luôn làm điều phải. Cho nên có một phần giáo lý kéo Giê-su xuống khỏi bệ, nhưng có một phần giáo lý khác lại vẫn duy trì quan điểm thờ thần tượng và bảo rằng khi thày xuống thế gian, thày đã rất đặc biệt rồi. Sự thể này tất nhiên là phản tác dụng.

Cho nên cuốn sách này (My Lives with Lucifer, Hitler and Jesus) cố gắng vượt quá việc huyền thoại hóa và thần tượng hóa tất cả các khái niệm đó, kể cả về Giê-su. Nó cố gắng đưa ra quan niệm một avatar là một người không là dân cư nguyên thủy của địa cầu, không là một sa nhân, và cũng không là một người đã phải đến đây do nghiệp quả.

Có những người, những dòng sống đã đầu thai ở đây từ những hành tinh khác và đã tạo nghiệp nơi những hành tinh đó, chẳng hạn khi hành tinh đó được thăng lên thì họ đã không đủ nâng tâm thức, nên đã phải chuyển tới địa cầu nơi mức tâm thức thấp hơn. Nhưng một avatar không đến đây đầu thai vì lý do đó, mà đã lựa chọn đến đây với một mục đích trong tâm là, trên cơ bản, tham gia vào một sứ mạng cứu nguy và nâng cao địa cầu lên một tầng tâm thức cao hơn.

Trong cuốn sách mới này có nói rằng, trên cơ bản, hầu hết những người rất tâm linh và cởi mở đối với các giáo lý tâm linh – kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên nhưng không chỉ của chân sư thăng thiên – đều là avatar. Giả thuyết hợp lý là nếu bạn là một người rất tâm linh từ rất lâu và cũng rất cởi mở, thì rất có thể bạn đã tới đây như một avatar.

Trong sách nói rằng Giê-su đã từng là một avatar, nhưng có rất nhiều vị khác nữa, hay đúng hơn, có hàng triệu người là avatar đã đến địa cầu. Điều mà các chân sư mong muốn chúng ta làm là xóa bỏ khoảng cách mà chúng ta thường đã dựng lên giữa chúng ta và các chân sư, là khi chúng ta đặt chân sư lên một cái bệ không thể nào với tới. Các chân sư mong muốn chúng ta nhận ra là rất nhiều người đã đến địa cầu với một mục đích giúp cho điạ cầu thức tỉnh, và để đánh thức địa cầu thì chúng ta phải đánh thức chính mình. Đấy là không muốn nói tới một số cư dân nguyên thủy của trái đất cũng là người tâm linh.

Làm thế nào bạn có thể tìm ra nguồn gốc của mình là thế này hay thế kia? Bạn chỉ có thể biết được trong nội tâm qua trực giác. Nhưng như một giả định chung chung, tôi sẽ nói rằng bạn là avatar nếu bạn có tâm cởi mở đối với những giáo lý này, trừ khi bạn có trực nhận mạnh mẽ bạn là thế khác. Cuốn sách này là một cuốn tiểu thuyết, và nó được viết ở ngôi thứ nhất, tức là “tôi đã trải nghiệm điều này”, “tôi đã làm công việc kia”. Tất nhiên, tên tôi được in ngay trên bìa sách, nhưng không có nghĩa cuốn sách là một tự truyện. Tôi không xem là mình đã trải qua tất cả mọi điều mô tả trong sách, nhưng tôi cảm thấy tôi đã trải qua một số, và quyển sách là một bản trích yếu tất cả những trải nghiệm của nhiều avatar khi họ đến đây.

Trong sách có mô tả một số hành tinh nơi không hề có chiến tranh, bạo động hay đủ loại thị hiện khác, cho nên chúng có tên là hành tinh “tự nhiên”. Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên như thế, trực tiếp xuống một hành tinh như địa cầu. Cho nên như tôi vừa nói, có một số người khác từ một số hành tinh không phải là hành tinh tự nhiên cũng đã đầu thai ở đây. Nói cách khác, nếu hành tinh đó ở một mức thấp hơn hành tinh tự nhiên, và khi hành tinh đó thăng lên, người đó đã được chuyển sang địa cầu vì đã không nhảy vọt lên theo, thì những người như vậy không phải là avatar. Họ đến từ hành tinh khác nhưng không phải là avatar.

Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên nơi không có chiến tranh, bạo lực, sát hại hay hỗn loạn. Điểm này vô cùng quan trọng, vì như các chân sư đã giảng qua những bài truyền đọc và bây giờ qua sách, bạn không thể nhảy thẳng từ một hành tinh tự nhiên xuống một hành tinh như địa cầu mà không trải nghiệm khủng hoảng và chấn thương. Cho nên để chữa lành, nhiệm vụ của mỗi avatar bây giờ là: thứ nhất, hoàn thành sứ mạng mà bạn đã đến đây để thực hiện, và thứ hai, rời khỏi nơi đây.

Chúng ta phải nhìn nhận là chấn thương có đó, rồi chúng ta phải chữa lành. Bởi vì nếu không, chúng ta sẽ bị kẹt mãi trong khuôn nếp đó. Như được mô tả trong cuốn sách, nhân vật chính phải chạm trán với sa nhân, bị sa nhân đối xử tệ hại, và rồi anh ta đã bắt đầu phản ứng lại sa nhân, rơi vào chu kỳ phản ứng khi anh giao chiến với sa nhân, và với ý định cao thượng nhất, anh đã cố gắng ngăn cản chúng giết hại và gây đau khổ cho người khác. Anh ta tưởng rằng cách duy nhất để ngăn chặn chúng là phải tiêu diệt chúng.

Nhưng ngay cả khi chúng ta không chiến đấu trực diện với sa nhân, thì cũng có một số khuôn nếp phản ứng khác mà chúng ta có thể mắc phải. Chẳng hạn như khi chúng ta nghĩ mình không thể thách đố chúng, rằng mình phải quy phục chúng, hay đứng ngoài và im miệng không thốt lên lời nào có thể khiến chúng nổi giận. Và còn có nhiều khuôn nếp phản ứng khác nữa, và khi nào chúng ta còn khuôn nếp phản ứng lại sa nhân thì chúng ta sẽ không thể thăng thiên. Và bởi chúng ta đến từ mức đó cho nên chúng ta phải ý thức được khuôn nếp, phải giải quyết và thăng vượt khuôn nếp.

Lời mở đầu

Cuốn sách này là sách bài tập đi kèm theo cuốn truyện Các Kiếp Sống Của Tôi Với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su. Cuốn truyện đưa ra ý là nhiều người tâm linh đã tình nguyện đến trái đất và họ được gọi là những avatar. Chúng ta, những người avatar,  đã gánh chịu những chấn thương tâm linh sâu đậm vì những gì những gì chúng trải qua trên trái đất. Nhiều người trong chúng ta vẫn còn mang những chấn thương này. Điều này giải thích tại sao đôi khi chúng ta có thể có cảm tưởng là chúng ta đang không tiến bộ trên con đường tâm linh hay tại sao có một số vấn đề mà chúng ta không khắc phục được.

Cuốn sách này gồm những giáo lý giảng rộng thêm các khái niệm này và đồng thời cho các bạn những dụng cụ thiết thực giúp bạn chữa lành chấn thương và khắc phục bất kỳ nét tiêu cực nào trong thái độ của bạn đối với cuộc sống trên hành tinh này. Xin bạn lưu ý là bạn nên đọc cuốn truyện trước khi dùng cuốn sách này. Lý do là vì cuốn truyện chứa đựng nhiều giáo lý quan trọng có thể giúp bạn khởi sự tiến trình chữa lành. Sau đó, sách này sẽ cho bạn những dụng cụ thiết thực để tiếp tục và hoàn tất tiến trình.

Cuốn sách này bao gồm một số bài thỉnh mà bạn nên đọc to ra tiếng. Nếu bạn không quen thuộc với chuyện đọc thỉnh, bạn có thể tìm thấy những bài viết giảng giải và hướng dẫn đọc thỉnh trên trang mạng www.chansuthangthien.org. Bạn cũng có thể đọc các bài thỉnh cùng với một bản thu âm. Chúng tôi sẽ dần dần thực hiện các bài thu âm và đăng lên trang mạng www.chansuthangthien.org.

Khóa nhập thất của chân sư ở cõi ether

Hỏi: Xin các chân sư tiết lộ nhiều hơn về các khóa nhập thất ở cõi ether?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 11/9/2018.

Tôi nghĩ tôi có thể cho bạn một ít dữ kiện về đề tài này vì các chân sư đã có giảng dạy cho tôi. Trên căn bản, các chân sư có mặt ở đây là để giúp chúng ta bằng nhiều cách. Nhưng trong hầu hết trường hợp, các thày không được phép đi xuống hiện thân vật lý hay đầu thai vật lý. Có những trường hợp hiếm hoi khi người ta đã trông thấy các thày, nhưng thật là hiếm có. Nói chung, các thày không được phép đi xuống thấp hơn tầng bản sắc, cũng được gọi là cõi ether trong một số giáo lý. Các chân sư khi phát biểu qua tôi thường gọi đó là cõi bản sắc để tương ứng với bốn thể của chúng ta. Nhưng cõi này cũng có thể gọi là cõi ether.

Các chân sư có cho biết cõi ether có tất cả 33 tầng, và trong 11 tầng thấp nhất có thể có sự hiện diện của các sinh thể sa ngã. Cho nên không có khóa nhập thất nào ở dưới tầng này. Các khóa tu của các thày diễn ra ở 22 tầng cao của cõi ether. Khoá học có nhiều mục đích, và một trong số đó là thật khó khăn cho chúng ta du hành trong các thể tinh tế của mình lên cõi tâm linh. Nhưng mỗi chúng ta đều có một thể bản sắc đã vốn nằm sẵn trong cõi bản sắc, và tùy theo chúng ta tập trung vào tầng bản sắc nào, việc du hành vào khoá tu của các thày không đến nỗi phải vượt qua một khoảng cách quá lớn.     

Chúng ta có thể đến đó và học hỏi một số bài học cụ thể. Chúng ta không cứ là sẽ nhớ được một cách ý thức, tuy rằng cũng có người nhớ được. Nhiều người chiêm nghiệm, ngay trước khi họ thức dậy, cái mà họ gọi là giấc mơ sáng suốt (lucid dream), một giấc mơ tương đối rõ ràng là họ đã tham gia vào một môi trường học hỏi nào đó. Tôi đã từng trải nghiệm điều này mấy lần trong đời tôi, một cảm giác mình đang đi học với một số người khác. Đó là một ví dụ nhớ lại một cách ý thức mình đã tham gia vào một khóa tu ở cõi ether. Nhưng ngay cả khi bạn không nhớ trong ý thức, bạn vẫn có thể đã ghi lại những bài học bạn đã học. Đôi khi bạn có thể thức dậy với một cái hiểu sâu sắc mà bạn không hề có khi đi ngủ tối hôm trước, và bạn chợt hiểu một điều gì đó. Hoặc trong ngày, bạn đột nhiên hiểu ra một điều gì, và đó có thể là kết quả của việc tham gia khoá học.  

Thêm vào đó, tất nhiên, các chân sư có thể truyền rải ánh sáng qua trung gian các lớp nhập thất này ở cõi ether vào các cõi khác: lý trí, cảm xúc, vật lý. Đây là một mục đích khác của khoá tu. Bạn có thể tìm thấy nhiều bài mô tả các khoá nhập thất đó trong giáo lý của những đợt truyền pháp trước. Có một phong trào có tên là “I AM Movement” có giữ một số bài tường thuật, chẳng hạn về Hang Biểu tượng (the Cave of Symbols) mà thày Saint Germain phụ trách trên tiểu bang Wyoming tại Hoa Kỳ. Có lời tường thuật rất tỉnh táo trong cuốn sách “Unveiled Mysteries”.

Cũng có một cuốn sách rất hay do Summit Lighthouse xuất bản tựa là “The Masters and their Retreats” với danh sách tất cả các chân sư, tất cả các khóa nhập thất cùng địa điểm vật lý với bài tường trình ngắn, hay có khi dài, về các khoá này. Nếu bạn muốn tìm hiểu đề tài này, cuốn sách đó là nguồn tài liệu hàng đầu cho bạn.

Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su – Chương 25

Trong chương này, bốn vị Gautama, Maitreya, Giê-su, và tác giả, lúc đó đều chưa thăng thiên, nghe chân sư thăng thiên Sanat Kumara giảng về sa nhân tại trường bí giáo của người gốc Kim tinh.

Sanat Kumara: “Trong bầu cõi thứ tư, một số người đồng-sáng tạo nắm lấy vai trò lãnh đạo trên một số hành tinh và dựng lên những nền văn minh rất tinh xảo. Các nền văn minh này giống những gì các con có thể thấy trên trái đất, với một lãnh tụ tối cao ở địa vị cao nhất. Lẽ tất nhiên, trong nhị nguyên lúc nào cũng có hai đối cực, cái này không thể có mặt mà không có cái kia. Khi trên một hành tinh có một người đồng-sáng tạo chọn lựa nâng một cực lên địa vị tuyệt đối, thì không thể tránh có một người đồng-sáng tạo khác nâng cực đối lập lên địa vị tuyệt đối. Và không thể tránh là hai vị lãnh tụ sẽ đối chọi nhau.

Khi bầu cõi thứ tư càng ngày càng tới gần điểm thăng thiên, thì con thấy tình trạng này trải bày trên một số hành tinh. Con thấy có hai nền văn minh đều có lãnh tụ tối cao và họ chống đối nhau trong một trận chiến mà họ coi có tầm quan trọng cuồng đại. Khi bầu cõi tới gần điểm thăng thiên, thì các sinh thể có tâm thức nhị nguyên cảm thấy có một lực lôi kéo họ, và điều này khiến họ cảm thấy một sự cấp bách. Họ dùng tư duy nhị nguyên để diễn giải là điều này có nghĩa là họ cần cấp bách thắng đối thủ. Họ cũng có thể tin rằng việc thắng đối thủ là điều sống còn cho đại nghĩa của vị thần linh của họ hay cho tương lai vũ trụ.

Khi bầu cõi thứ tư tiến gần hơn điểm thăng thiên, thì ở một số hành tinh cuộc đấu tranh này đi tới chỗ cùng cực, dẫn tới tình trạng giống như hiện tượng mà ngày nay con gọi là chiến tranh. Trong một số trường hợp, một nền văn minh đã phá hủy nền văn minh đối lập. Các lãnh tụ phe thắng thế đã diễn giải tình hình như là họ đã cứu nguy vũ trụ hay kế hoạch của Thượng đế.

Theo luật tự quyết thì các chân sư thăng thiên phải để yên con người khi họ đi vào nhị nguyên. Trên những hành tinh phi tự nhiên đó, tất cả nhân loại đầu thai trên hành tinh đã chọn đi vào nhị nguyên và tin thế giới quan do các lãnh tụ đề xướng. Các thày không có quyền can thiệp vào nếu con người không yêu cầu, và con người rất ít khi yêu cầu khi họ ở trong nhị nguyên. Nhưng, vì toàn bầu cõi đã đến gần điểm thăng thiên, thì luật tạo hóa đòi hỏi các thày phải bắt buộc các người đồng-sáng tạo trên các hành tinh phi tự nhiên phải đối đầu nhu cầu thay đổi. Một hành tinh chỉ có thể thăng thiên khi các cư dân dùng quyền tự quyết để quyết định thăng thiên, do đó nếu họ không chịu từ bỏ nhị nguyên thì họ không thể thăng thiên cùng với toàn bầu cõi. Nhưng mặt khác, họ không thể lấy quyết định tự do khi họ không trải nghiệm có gì khác nhị nguyên.

Khi các chân sư thăng thiên xuất hiện trên số ít hành tinh phi tự nhiên đó, thì các cư dân và lãnh tụ không thể chối bỏ là có một thực tại cao hơn. Đây là lần đầu tiên từ khi họ đi vào nhị nguyên, họ có một chọn lựa thật sự tự do. Đa số các người đồng-sáng tạo chọn chấp nhận đề nghị theo một con đường dẫn họ ra ngoài nhị nguyên. Họ nhận được mọi trợ giúp mà họ cần, và sẵn sàng thăng thiên cùng với các phần khác của bầu cõi thứ tư.

Nhưng có một số lãnh tụ tối cao và đàn em của họ bác bỏ những gì các chân sư thăng thiên cống hiến. Điều này có nghĩa là họ không thể thăng thiên cùng với bầu cõi thứ tư, nhưng sự thăng thiên của cả bầu cõi không thể bị đình chỉ vì một số quá nhỏ người đồng-sáng tạo không thăng thiên.

Điều này không phải là một vấn đề và cũng không phải là điều bất ngờ. Bầu cõi thứ tư thăng thiên, và các sinh thể không chịu thăng thiên được đặt vào một thế giới tạm bợ chờ lúc bầu cõi thứ năm được tạo ra. Khi bầu cõi này đã sẵn sàng hiện thân, thì các sinh thể nhị nguyên đầu thai vào đó và họ được đặt vào một số hành tinh được tạo ra hợp với trình độ tâm thức của họ. Ta có thể nói là các sinh thể đó đã sa xuống bầu cõi thứ năm thay vì tình nguyện đầu thai vào bầu cõi thứ năm.

Họ cảm thấy họ bị ép buộc phải đầu thai ở bầu cõi thứ năm ngược lại ý muốn họ, nhưng đó chỉ là trải nghiệm của riêng họ. Sự thực là tình trạng đó là kết quả của những chọn lựa của họ, nhưng vì họ không chịu nhìn nhận điều này, nên họ trải nghiệm họ bị ép buộc vào bầu cõi thứ năm. Do đó họ lại tin chắc hơn là có một lực ngoại lai chống lại quyền tự quyết của họ.

Các sinh thể đó sa xuống bầu cõi thứ năm vì họ không chịu thăng thiên cùng bầu cõi thứ tư. Do đó, thày gọi họ là “sa nhân” để nói là họ sa vào môi trường hiện tại của họ thay vì tự nguyện hiện thân, như trường hợp các người đồng-sáng tạo.

Trong bầu cõi thứ năm và thứ sáu, lại có thêm sinh thể sa ngã, và đó là lý do vì sao bầu cõi này là bầu cõi thứ bảy, cũng là bầu cõi dày đặc nhất, từ khởi đầu đã có một số sa nhân. Lúc đầu họ chỉ ở trên một số hành tinh được đặc biệt tạo ra cho họ, nhưng sau đó họ đã lan sang một số hành tinh khác khi những cư dân hạ thấp tâm thức tập thể đến độ sa nhân có thể đầu thai vào đó.

Đó là lý do vì sao trên trái đất có những sinh thể hoàn toàn không tôn trọng các cư dân nguyên thủy. Các sa nhân tự coi họ cao hơn tất cả các sinh thể sinh ra trong bầu cõi này rất nhiều. Nhìn dưới một góc độ nào đó thì ta có thể nói là họ cao hơn, vì họ có hơn rất nhiều kinh nghiệm dùng nhị nguyên để lừa đảo, khuynh loát và ép uổng người khác. Do đó, trong lãnh vực ép uổng người khác, thì sa nhân quả thật ‘tinh khôn’ hơn.

Họ không ở đây vì họ muốn ở đây, tuy rằng họ đã chọn lựa đi vào một tiến trình mà hậu quả hành động của họ dẫn họ tới đây. Họ chống đối việc họ ở đây, và mỗi người trong số họ đã tạo dựng một thế giới quan giải thích tại sao họ ở đây, tại sao điều này bất công, và vì sao thượng đế đã sai lầm khi để chuyện này xảy ra. Một số sa nhân đã tạo dựng một số lý giải để chứng tỏ vị thượng đế mà chính họ tạo ra đã sai lầm, và họ tìm cách dùng nhân loại như một dụng cụ để chứng minh điều đó. Họ còn nghĩ vai trò của họ là sửa sai những lỗi lầm của thượng đế của họ, và họ nghĩ họ là những người thực sự hiểu cách vũ trụ vận hành, và do đó họ phải là những người điều khiển mọi việc. Một số trong họ tin rằng thượng đế đã sai lầm khi cho con người quyền tự quyết, và họ tin rằng họ có quyền áp đặt ý chí của họ lên tất cả những sinh thể dưới họ. Hiểu được ý đồ này là chìa khóa để hiểu cách sa nhân suy nghĩ và vì sao họ lạnh lùng và coi thường mạng sống và quyền tự quyết của con người.

Bây giờ thì thày thấy các con có nhiều câu hỏi, vậy chúng ta hãy tiếp tục cuộc thảo luận này dựa trên các câu hỏi đó.

***

Giê-su: “Chúng con đều có kinh nghiệm gặp trong nhiều kiếp sống những người rất khác chúng con vì họ hoàn toàn không tôn trọng sự sống. Chúng con gọi họ là những “Người môi giới quyền lực và kiểm soát” (NMGQLKS) vì họ sẵn sàng dùng bạo lực để kiềm chế người khác và họ không màng hậu quả trên người khác. Con bây giờ thấy là hiểu biết của chúng con dựa trên những gì chúng con quan sát trên trái đất, và bài giảng của thày về sa nhân cho chúng con một tầm nhìn rộng rãi hơn nhiều. Xin thày cho chúng con biết thày coi những người mà chúng con gọi là NMGQLKS ra sao, và họ liên quan ra sao với sa nhân?”

Sanat Kumara: “Không phải tất cả các NMGQLKS đều là sa nhân, và không phải mọi sa nhân đều là NMGQLKS. Có một số lãnh tụ mà con thấy ngày hôm nay, và con đã gặp trong các kiếp sống trước, đã không sa xuống từ một bầu cõi trước. Tất cả mọi NMGQLKS đều bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên, vì nếu không thì họ đã không sẵn sàng áp bức người khác. Tuy nhiên, có một số đã đi vào tâm thức nhị nguyên trong bầu cõi này, có nghĩa là họ đã nhất thời khoác lấy tâm thức và có tiềm năng xoay chuyển ra khỏi tâm thức đó khi bầu cõi này thăng thiên. Có một sự xoay chuyển xảy ra khi bầu cõi đầu tiên của một sinh thể thăng thiên và y từ chối không chịu xoay chuyển để bước ra khỏi nhị nguyên. Khi y sa xuống bầu cõi tới thì y quên đi chi tiết vì sao y lại sa xuống, nhưng y giữ lại thế giới quan mà y đã xây dựng trước khi sa xuống. Vì y đã quên đi vì sao y lại có thế giới quan đó, và quên đi là thế giới quan đó đã bị các chân sư thăng thiên thách thức, nên y tự đồng hóa mình với thế giới quan đó nhiều hơn. Điều này không có nghĩa là y không thể thức tỉnh khỏi nhị nguyên, nhưng y khó làm điều này hơn rất nhiều. Điều này đòi hỏi nhiều tính khiêm cung hơn, và đa số sa nhân rất kiêu ngạo, xem mình là đúng và nhiều tính tự tôn nên họ rất khó nhìn nhận họ đã sai lầm và những niềm tin mà họ coi là tuyệt đối thực ra chỉ tương đối.

Thày biết khó phân biệt một sa nhân và một NMGQLKS đã đi vào nhị nguyên trong bầu cõi này, nhưng một sa nhân sẵn sàng đi xa hơn trong nỗ lực chứng minh thế giới quan của mình đúng. Một NMGQLKS đi vào nhị nguyên trong bầu cõi này thường chú tâm vào việc nắm quyền lực cho chính mình, trong khi các sa nhân thường có một ý đồ vượt quá quyền lực cá nhân.”

Giê-su: “Xin thày đem những điều thày vừa giảng áp dụng vào những sinh thể mà chính chúng con đã gặp?”

Sanat Kumara: “Lucifer, Satan và Maleve đều là sa nhân. Lucifer và Satan sa ở bầu cõi thứ năm, và Maleve sa ở bầu cõi thứ sáu. Lucifer và Satan tất nhiên là sa nhân vẫn đang hành xử như NMGQLKS. Nhưng Maleve đã bắt đầu con đường đi ra khỏi tâm thức nhị nguyên, một phần do cô đã gặp hai người các con. Cô không còn hành xử như một NMGQLKS theo nghĩa cô không còn tìm cách áp chế người khác bằng phương tiện vật lý. Điều này chứng tỏ sa nhân có thể thức tỉnh, một phần vì chán ngán tâm thức nhị nguyên và các đấu đá mà nó tạo ra, và một phần do gặp các sinh thể không sống trong nhị nguyên hay ít sống trong nhị nguyên bằng họ.

Lucifer và Satan đại diện hai cực đối nghịch. Như thày có giảng, đấng Sáng tạo đã phát khởi sự sáng tạo của thế giới hình tướng. Ngài làm việc này bằng cách tạo một vòng biên chung quanh ngài và rút ngài vào một điểm dị thường ở trung tâm khoảng không đó. Từ đó, ngài phóng mình ra ngoài và tạo bầu cõi thứ nhất. Có hai lực sáng tạo căn bản, một lực lan tỏa, hướng ngoại, và một lực co thắt, hướng nội. Mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo thành từ sự tương tác cân bằng giữa hai lực đó. Nếu chỉ có lực lan tỏa, thì hình tướng không thể tồn tại, vì nó sẽ bị nổ tung. Nếu chỉ có lực co thắt, thì hình tướng không thể tồn tại, vì nó sẽ bị sụp đổ.

Đấng Sáng tạo đại diện lực lan tỏa hay nguyên tố Cha, và thế giới vật chất đại diện lực co thắt hay nguyên tố Mẹ. Khi hai lực cân bằng thì một hình tướng được duy trì lâu bền. Sự tương tác luôn luôn biến hóa giữa hai lực khiến sự tăng trưởng xảy ra.  Nguyên tố Cha luôn lôn thúc đẩy hình tướng thăng vượt chính nó. Nguyên tố Mẹ có chức năng duy trì hình tướng một thời gian đồng thời ngăn ngừa hình tướng trở nên thường trực. Nếu một hình tướng bị kẹt, thì nguyên tố Mẹ sẽ khiến nó rốt cuộc sụp đổ. Lẽ tất nhiên, hình tướng được tạo ra bởi các sinh thể đồng-sáng tạo có tự nhận biết, và nguyên tố Cha thúc đẩy họ tiếp tục tăng trưởng khả năng sáng tạo của họ. Nguyên tố Mẹ sẽ rốt cuộc tiêu hủy các hình tướng mà họ không chịu buông bỏ, nhưng mục đích là để giải thoát linh thể sáng tạo bị giam hãm trong tạo vật của chính nó. Chức năng của nguyên tố Mẹ là cho phép con sáng tạo một hình tướng bất quân bằng và duy trì nó một thời gian, nhưng không thể duy trì mãi mãi. Nguyên tố Mẽ sẽ không cho phép con bị kẹt trong hình tướng đó mãi mãi.

Tâm thức nhị nguyên lấy hai lực căn bản đó và tha hóa chúng. Lucifer đại diện sự tha hóa của nguyên tố Cha vì y có ý đồ chứng minh một điều gì đó. Các con đã trải nghiệm là ý đồ này thay đổi qua các kiếp sống, nhưng đó là vì y bị kiểm soát bởi một sinh thể trong cõi bản sắc, tên là Giáo chủ Bóng tối. Một số sa nhân có ý đồ chứng tỏ thượng đế sai. Thực ra họ không tìm cách chứng minh là đấng Sáng tạo sai, vì một sinh thể trong nhị nguyên không thể mường tượng đấng Sáng tạo. Họ đang tìm cách chứng minh một thượng đế giả do họ tạo ra đã sai lầm. Đây là một hình ảnh của thượng đế đã được tạo ra trong bầu cõi thứ tư, và được củng cố trong các bầu cõi thứ sáu và thứ bảy. Lucifer và các sa nhân khác đã tin vào sự hiện hữu của thượng đế đó trong một khoảng thời gian rất dài và đã tự đồng hóa với hình ảnh thượng đế đó. Con luôn luôn thấy nơi Lucifer ý đồ chứng minh điều gì, và đó là lý do vì sao y muốn lừa gạt và khuynh loát các con để các con ủng hộ y. Y cần chứng tỏ điều gì, nên y phải thuyết phục các con, chứ không chỉ giản dị bắt buộc các con tuân phục.

Satan đại diện sự tha hóa của nguyên tố Mẹ. Y tìm cách dùng lực căn bản của nguyên tố Mẹ để tạo tàn phá và hỗn loạn. Tuy nhiên, y không làm điều này để giải thoát linh thể của con, nhưng để nô lệ nó bằng cách khiến nó mắc kẹt trong việc đối chọi với y và các nỗ lực tàn phá của y. Ta có thể nói đây cũng là một ý đồ, vì Satan thường bị các sinh thể sa ngã trong cõi tư tưởng và cảm xúc kiểm soát. Các sinh thể này không ‘tinh khôn’ như các sinh thể trong cõi bản sắc, nhưng họ vẫn thông minh, một cách nhị nguyên và đường thẳng, hơn đa số con người đang đầu thai. Tuy nhiên, trong khi hành động của Lucifer có một cơ sở hợp lý, thì hành động của Satan thường khi không có cơ sở nào khác hơn là ý muốn tàn phá, cho y cảm giác có nhiều quyền lực. Y càng tàn phá thì càng cảm thấy có quyền lực. Và y khẩn thiết cần quyền lực vì y đã trải nghiệm là y không thể chế ngự Lucifer, và y trải nghiệm là y không thể chế ngự hai con.”

Gautama: “Thày nói là khi bầu cõi của chúng con được tạo ra, thì sa nhân chỉ có thể đầu thai vào một số hành tinh được đặc biệt tạo ra cho họ. Nhưng sau đó, thì họ đã lan sang một số hành tinh khác vì cư dân ở đó đã hạ tâm thức tập thể xuống. Xin thày mô tả chuyện gì đã xảy ra cho trái đất? Con phỏng đoán là trái đất không được tạo ra cho sa nhân?”

Sanat Kumara: “Trái đất được tạo ra như một hành tinh tự nhiên. Khi trái đất được tạo ra, một đợt người đồng-sáng tạo xuống đầu thai ở đây, và mọi chuyện xảy ra giống như những gì các con đều đã trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên. Làn sóng sống đầu đó, hay chủng tộc gốc đó, đã nâng cao tâm thức của họ, và xây dựng thêm trên nền móng mà họ được phú cho. Khi họ đã nâng tâm thức cá nhân và tập thể tới một mức nào đó, thì họ đều thăng thiên. Sau đó, một đợt thứ hai đầu thai, và họ cũng đều thăng thiên. Đợt thứ ba cũng vậy. Nhưng khi đợt thứ tư xuống đầu thai, thì một sự chuyển đổi xảy ra.

Đợt đồng-sáng tạo thứ tư quyết tâm thử nghiệm nhị nguyên hơn ba đợt trước. Điều này không có nghĩa là họ đi vào các tầng thấp của nhị nguyên. Họ không dùng bạo hành hay áp chế, và chiến tranh chưa có mặt trên trái đất. Họ đã phát triển những nền văn minh rất tinh xảo, tinh xảo hơn những gì các con đã từng chứng kiến trên trái đất rất nhiều. Không có gì tiêu cực trong bản chất các nền văn minh đó, nhưng các nhà lãnh đạo đã khai triển những thế giới quan mà họ tin là tuyệt đối. Lẽ tất nhiên, chúng cũng bất di dịch. Một khi con đã quy định một điều gì là tuyệt đối, thì làm sao con có thể tăng trưởng vượt lên nó được?

Luật tự quyết quy định là một nhóm đồng-sáng tạo có quyền tạo ra bất cứ tình huống nào mà họ muốn trên hành tinh của họ. Lẽ tất nhiên, họ sẽ trải nghiệm hậu quả của những gì họ tạo ra, và điểm hy vọng là khi họ đã trải nghiệm một tình huống nào đó trong một thời gian dài, thì họ sẽ chán ngán và mong muốn cái gì hơn thế. Đó là vì một người đồng-sáng tạo là một nối dài của tâm đấng Sáng tạo, và đấng Sáng tạo luôn luôn có ý chí tăng trưởng, có ý chí hơn nữa. Đây là lý do vì sao đấng Sáng tạo đã quyết định sáng tạo. Động lực tự thăng vượt là động lực sâu thẳm nhất, căn bản nhất nơi mỗi chúng ta.

Các lãnh đạo đợt đồng-sáng tạo thứ tư đã dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một thế giới quan cho rằng tăng trưởng không cần thiết, và thậm chí bất kỳ thay đổi nào cũng nguy hiểm. Hậu quả là họ tự cắt đứt liên hệ trực tiếp với các chân sư thăng thiên. Các thày không thể thách thức thế giới quan của họ. Họ cũng tin rằng vai trò của họ là duy trì vĩnh viễn nền văn minh của họ và đó là sứ vụ cao cả nhất của họ. Như thày có nói, nền văn minh đó rất tinh xảo và các cư dân có đời sống rất thoải mái, sung túc và an toàn. Dưới mắt họ, đó là thiên đàng hạ thế.

Tuy nhiên, có một giá phải trả. Thày có mô tả là các sinh thể trong bầu cõi thứ tư đã dùng các đối cực của nhị nguyên để tạo ra mâu thuẫn giữa nhau. Một khía cạnh khác của tâm thức nhị nguyên là con người có thể tới điểm xem đối cực là nguy hiểm. Trái đất lúc đó không có chiến tranh như ngày nay, nhưng có lúc có mâu thuẫn giữa những đối cực nhị nguyên. Một số lãnh tụ đã khắc phục điều này bằng cách đề ra triết lý mâu thuẫn là nguy hiểm. Lẽ tất nhiên, điều này không sai, nhưng các lãnh tụ này đã tạo ra một triết lý có mục đích chủ yếu trừ bỏ mọi mâu thuẫn trong xã hội bằng cách khiến mọi người giống nhau, và ngăn trừ mọi sáng chế hay thay đổi, ngay cả những thay đổi cải thiện. Duy trì hiện trạng trở nên thượng đế của họ.

Điều này dẫn tới một nền văn minh đã tạo ra nhiều biện pháp tinh xảo để dạy dỗ con người theo một lối nào đó, thậm chí không cho phép cha mẹ dạy dỗ con cái. Việc dạy dỗ trẻ em do cơ quan nhà nước đảm trách, đây là một sự tảy não trẻ em bằng cách phá hủy cá nhân tính của chúng. Kết quả là một xã hội có rất ít khác biệt ý kiến. Xã hội đó rất tân tiến và có triết lý chung cho rằng mục đích chính yếu của xã hội là duy trì hiện trạng bằng cách tránh mâu thuẫn. Nhưng mục đích này đi ngược mục đích của tạo hóa vì không cư dân nào của xã hội đó tăng trưởng. Do đó, xã hội đó không thể duy trì lâu dài, nhưng các chân sư thăng thiên không có cách nào khiến các cư dân nhận ra điều này. Họ đã quả thật đóng cửa không cho ý kiến nào thách thức thế giới quan chính thức chen vào, vì họ coi đó là một hiểm nguy có thể đưa đến mâu thuẫn. Các lãnh tụ của nền văn minh đó đã dễ dàng loại bỏ các ý kiến có khả năng cứu vãn nền văn minh khỏi nạn tự hủy.

Các chân sư thăng thiên không có chọn lựa nào khác hơn là để yên các cư dân trái đất một thời gian, với hy vọng là họ sẽ chán ngán tình trạng bất động và muốn nhiều hơn. Lẽ tất nhiên, một số cá nhân có chán ngán và các chân sư thăng thiên hướng dẫn trái đất vào lúc đó đã làm việc với họ. Tuy nhiên, thời gian tiếp tục trôi qua và việc nền văn minh không tự thay đổi trở nên quá rõ. Điều này có nghĩa là nền văn minh bắt đầu khơi động nguyên lý trong nguyên tố Mẹ hay nguyên tố Vật chất, là lực co thắt.

Nền văn minh đó rất tiến bộ và mọi thành viên cảm thấy đời sống họ an toàn và trong tầm kiểm soát. Bỗng nhiên, những trục trặc xảy ra và họ không hiểu tại sao. Các chân sư thăng thiên có thể giảng cho họ rõ, nhưng họ không mở tâm lắng nghe. Thay vì thích nghi theo hoàn cảnh bằng cách chất vấn các niềm tin của họ, thì nền văn minh lại tự đồng hóa mình hơn với các niềm tin đó. Các lãnh tụ tạo ra huyền thoại một lực bên ngoài tìm cách phá hủy những gì họ tạo dựng, và khuyến khích dân chúng kháng cự lực đó, có nghĩa là họ khiến mọi người bám chặt hơn vào các niềm tin hiện hành.

Lẽ tất nhiên, khi các lãnh tụ tìm cách giải thích có lực bên ngoài tìm cách phá hủy nền văn minh, thì họ cũng đưa ra ý kiến quy lỗi cho một số người vì họ khác đám đông. Sự thực là có một số người sẵn lòng chất vấn thế giới quan đang thống trị, và nay họ bị dán nhãn là nguyên do các vấn đề. Những người có tiềm năng cứu rỗi nền văn minh bị biến thành kẻ thù.

Trên một hành tinh tự nhiên, các cư dân lúc nào cũng nhận biết hoàn cảnh vật lý là kết quả trạng thái tâm thức của họ. Họ cũng duy trì quyết tâm tăng trưởng, và họ biết là tăng trưởng xảy ra khi có sự tương tác giữa những người khác nhau. Do đó, cá nhân tính, sự khác biệt và đa diện được coi là cội nguồn của tăng trưởng vì chúng tạo ra căng thẳng sáng tạo đưa đến đổi mới.

Một khi hiểu biết này bị mai một, là chuyện lúc nào cũng xảy ra khi con người đi vào nhị nguyên, thì có thể có một sự xoay chuyển khiến cả hành tinh bắt đầu thấy sự khác biệt như nguồn mâu thuẫn thay vì căng thẳng sáng tạo. Lúc đó con người bắt đầu phân cực thành nhóm, và một số nhóm bắt đầu có tư duy cuồng đại, cho rằng có một đại nghĩa tối hậu và có một số người đang đóng góp vào đại nghĩa đó trong khi có một số người chống phá. Lúc đó, thay vì sử dụng khả năng sáng tạo để đồng-sáng tạo một trạng thái cao hơn cho hành tinh, con người dùng quyền năng của mình để ngăn chặn người khác ngõ hầu duy trì hiện trạng, mà hiện trạng không thể duy trì vì không có gì trong thế giới hình tướng có thể đứng yên mãi mãi.

Chính lúc các cư dân một hành tinh hạ thấp tâm thức tập thể đến chỗ đó, là lúc hành tinh tự mở cửa để sa nhân có thể đầu thai vào. Các chân sư thăng thiên hướng dẫn trái đất lúc đó có một chọn lựa tế nhị. Họ có thể dễ dàng tiên đoán là nếu để yên cho trái đất, thì các cư dân sẽ củng cố vòng xoáy hướng hạ mà họ đã tạo ra. Điều này sẽ dẫn tới, trong một tương lai tương đối gần, sự phá hủy hoàn toàn của hành tinh qua các biến cố được gọi là thiên tai. Cư dân của một hành tinh có quyền năng tạo dựng một vòng xoáy hướng hạ tự củng cố khiến lực co thắt của nguyên tố Mẹ khiến hành tinh sụp đổ qua các biến cố khủng khiếp. Do đó, các chân sư có thể thấy là nếu để yên cho trái đất, thì trái đất sẽ tự hủy. Vì tạo dựng một hành tinh đòi hỏi nhiều đầu tư chú ý và năng lượng, nên các chân sư thăng thiên đã quyết định cho phép sa nhân đầu thai vào đây như một thử nghiệm thức tỉnh cư dân trái đất thấy vấn đề mà họ đã tạo ra qua hành động của họ.”

Sanat Kumara dừng lại và nhìn chúng tôi. Maitreya lên tiếng: “Suy luận nào đưa tới quyết định cho phép sa nhân đầu thai ở đây?”

Sanat Kumara: “Khi một hành tinh đã đi quá trớn đến độ tiêu hủy gần kề, thì các chân sư thăng thiên không dễ chọn lựa. Các thày không thể ép buộc các cư dân thay đổi, và rất có thể là khi họ nhìn thấy nhu cầu thay đổi, thì đã quá muộn để cứu hành tinh. Đây không nhất thiết là một sự mất mát. Tạo dựng một hành tinh đòi hỏi một đầu tư đáng kể, nhưng nó chỉ là một cái gì được tạo ra với mục đích giúp các người đồng-sáng tạo tăng trưởng tâm thức. Khi họ thấy là họ đã đóng góp vào việc phá hủy cả một hành tinh, thì nhiều người đồng-sáng tạo đã thức tỉnh và lấy chọn lựa dẫn họ vào con đường đi ra khỏi nhị nguyên. Do đó việc hành tinh tự hủy cũng có thể có kết quả tích cực. Tuy nhiên, các thày có nỗ lực cuối cùng để tránh chuyện này xảy ra, và một cách là cho phép sa nhân đầu thai vào hành tinh.

Trong trường hợp trái đất, vấn đề chính yếu là niềm tin tuyệt đối cần tránh mâu thuẫn. Khi cho phép sa nhân như Lucifer và Satan đầu thai xuống trái đất, chẳng bao lâu niềm tin này không thể duy trì. Nền văn minh đồng dạng đã đe dọa phá hủy trái đất chẳng bao lâu bị thay thế bởi nhiều nền văn minh khác nhau và càng ngày càng khác nhau. Điều này có hậu quả là một số người đồng-sáng tạo đã nhận ra là sự giống nhau phá hủy sáng tạo, và kết quả là một số đông người đồng-sáng tạo đã thăng thiên theo dòng thời gian.

Lẽ tất nhiên, có một giá phải trả, là điều không thể tránh khi có tâm thức nhị nguyên. Chẳng bao lâu sa nhân đem tới chiến tranh trên bình diện quy mô và lúc đó có một thời kỳ chiến tranh và xung đột trở nên phổ thông trên trái đất. Tuy nhiên, ngay cả việc này cũng có một số hậu quả tích cực. Thày không muốn biện hộ cho chiến tranh, thày chỉ muốn chỉ cho các con thấy là tất cả những hành động nhị nguyên đều đưa tới thái quá. Chuyện càng trở nên thái quá, thì con người lại có thêm cơ hội chán ngán và bắt đầu muốn một cách sống khác. Điều này cho phép các chân sư thăng thiên nhập cuộc và chỉ dẫn cách sống khác. 

Điều con thấy trên trái đất là một số linh hồn đã trải nghiệm xung đột. Sau đó họ đã trải nghiệm một xã hội đặt căn bản giống nhau. Sau đó, họ lại trải nghiệm chiến tranh còn tệ hại hơn nữa do sa nhân đem lại. Chuyện tự nhiên là khi một hành tinh rơi vào một cực đoan, thì con người có khuynh hướng chuyển sang cực đoan kia. Nhưng vì trái đất đã làm qua chuyện này rồi, nên mâu thuẫn cùng cực do sa nhân tạo ra khiến một số người nhận ra là cả hai đối cực nhị nguyên không đứng vững, và do đó họ mong ước một con đường cao hơn. Và khi con người hỏi, thì các thày được phép cho họ thấy con đường cao hơn đó, và đó là vươn lên trên nhị nguyên.”

***

Sanat Kumara: “Khi một hành tinh đã đi vào tình trạng không tăng trưởng và không mâu thuẫn, thì các thày khó giúp các cư dân hơn là khi có đa diện. Lẽ tất nhiên, sa nhân thiện nghệ trong việc tạo đa diện, nhưng họ cũng thiện nghệ trong việc dùng đa diện để tạo mâu thuẫn. Mâu thuẫn cũng có thể hủy hoại một hành tinh. Chọn lựa mà các thày phải đối mặt là các thày có thể đứng yên nhìn nền văn minh đồng dạng phá hủy trái đất (và lúc đó điều này chắc chắn sẽ xảy ra) hoặc các thày cho phép sa nhân đầu thai xuống đây và tạo mâu thuẫn. Điều này cũng có thể dẫn tới sự hủy hoại của trái đất, nhưng điều này không chắc chắn xảy ra.

Điều này không có nghĩa là các chân sư thăng thiên cộng tác với sa nhân. Sa nhân không muốn dính dáng đến các thày và họ kịch liệt bác bỏ là các thày có thật. Các con có thể thấy là không có tôn giáo nào trên trái đất đề cập đến các chân sư thăng thiên vì lý do đơn giản là sa nhân đã tìm cách loại trừ sự hiện diện của các thày ra khỏi các kinh sách dành cho con người trên trái đất.

Tuy nhiên, các thày vẫn là các sinh thể có quyền quyết định ai được phép đầu thai vào một hành tinh. Lẽ tất nhiên, khi các thày cho phép sa nhân đầu thai vào địa cầu, thì các thày cũng mở đường để các sinh thể như các con đầu thai vào đây. Các sinh thể đầu thai xuống trái đất có trình độ tâm thức nằm trong một khoảng nào đó. Sa nhân đầu thai xuống đây có một trình độ tâm thức thấp hơn. Quy luật tạo hóa nói rằng khi các sinh thể có trình độ tâm thức thấp được phép đầu thai vào một hành tinh, thì các sinh thể có trình độ tâm thức cao tương ứng cũng có thể đầu thai để giữ cán cân do cư dân nguyên thủy tạo ra.

Điều này bảo đảm là sa nhân chỉ có thể kéo một hành tinh xuống tới một mức độ nào đó. Nỗ lực kéo xuống của họ sẽ được cân bằng bởi tâm thức cao của các sinh thể đang tìm cách nâng hành tinh lên. Bằng cách cho phép sinh thể với tâm thức thấp và cao đầu thai vào một hành tinh, các cư dân nguyên thủy của hành tinh cũng được cơ hội chọn lựa theo ai: theo các avatar hay theo sa nhân.

Việc thờ cúng tổ tiên

Hỏi: Tại Hàn quốc, chúng tôi có một nghi lễ thờ cúng để tưởng nhớ tổ tiên đã khuất. Ý kiến của ông về điều này sa sao?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 30/3/2017.

Theo tôi, đây là một nghi lễ phần nào thuộc về quá khứ và không thuộc về Thời đại Bảo bình. Nghi lễ này tạo sự ràng buộc với tổ tiên cùng những cách sinh hoạt cũ. Làm thế nào một xã hội thăng vượt được nếu quá ràng buộc vào quá khứ? Theo ý tôi, đìều này sẽ lần hồi phai nhạt đi trong Thời đại Bảo bình. Tôi nghĩ có thể các chân sư sẽ muốn bình luận gì thêm, nhưng nếu bạn nhìn vào vấn đề một cách lô-gíc, bạn có hai hướng suy nghĩ. Hoặc bạn có thể từ bỏ tập quán này và nói: “Chúng ta không thấy cần thiết nữa”. Hoặc bạn có thể tự vấn: “Đâu là tổ tiên đích thực của chúng ta?”  Đó không phải là cha mẹ hay ông bà chúng ta bởi vì trước cha mẹ và ông bà thì có ai? Nếu bạn đi ngược lên mãi, sẽ tới điểm bạn tìm ra đó là các chân sư thăng thiên. Các chân sư là tổ tiên thật sự của chúng ta, chúng ta khởi nguồn từ đó vì chúng ta là những sinh thể tâm linh.

Tôi thiển nghĩ một xã hội sẽ rất, rất khó lòng tăng triển nếu mình quá ràng buộc vào tổ tiên mình. Tôi thiết nghĩ nếu mình cho rằng tổ tiên đang chú tâm nhìn mình, theo dõi và phán đoán từng động thái trong đời mình, thì điều này phần nào không lành mạnh. Tôi cho rằng nó có thể không lành mạnh cho chính linh hồn của tổ tiên, bởi vì nếu bạn có sự ràng buộc tình cảm mạnh mẽ thì cũng giống như bạn đang muốn giữ chân cha mẹ mình ở lại với mình, và điều này sẽ gây trở ngại cho cha mẹ rời bỏ thế gian mà tiến về những chân trời mới.  

Đã có khá nhiều sách viết – tôi không rõ là sách có bán tại Hàn quốc hay không, nhưng bên Mỹ chẳng hạn thì đã có – về những người đã có trải nghiệm cận tử. Liệu ở Hàn quốc có quan niệm này không? Đây là những người đã qua đời về mặt vật lý, tuy nhiên họ vẫn có trải nghiệm và tỉnh lại để kể lại câu chuyện của họ. Họ kể rằng khi thân xác qua đời, mỗi người sẽ vẫn sống tiếp, sẽ bước vào cõi bản sắc rồi thường sẽ có một thời gian để nghỉ ngơi và học hỏi trước khi tái đầu thai trong một kiếp mới. Hầu có thể bước tới và đi vào ánh sáng, bạn phải có khả năng buông bỏ lại kiếp sống đã qua của mình, bỏ lại xác thân vật lý cũng như gia đình và xã hội của mình. Nếu con cháu quá bám giữ và không buông ra cho cha mẹ hay ông bà mình ra đi, thì làm sao linh hồn ra đi được đây?    

Tôi thiết nghĩ nhiều linh hồn sẽ bị vướng lại và đây là điều mà các chân sư thăng thiên gọi là những hồn không xác, là hồn không thể nào bước đi tiếp để mà tái đầu thai. Hồn thường bị kẹt lại trong cõi trung giới hay cõi tình cảm. Nó bị kẹt ở đó và nó có cảm giác tựa như con cháu của nó đang ngăn cản nó bước tới, và vì thế nó cố ảnh hưởng ngược lại trên con cháu. Tình thế trở thành thật phức tạp, thật khó khăn. Điều lành mạnh hơn nhiều là bạn cứ để yên cho linh hồn các vị ấy siêu thoát. Linh hồn sẽ tiếp tục bước tới, và chính bạn cũng tiếp tục bước tới và giải thoát khỏi quá khứ.

Quá khắt khe với bản thân

Hỏi: Nếu mình quá khe khắt với bản thân, nếu mình tự phê phán quá mức, liệu mình có phải hoá giải sự tự phán này nếu mình muốn tiến bước? 


Trả lời của ông Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan. Đăng ngày 14/12/16.

Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều quá khắt khe với chính mình vì chúng ta đã lớn lên như vậy. Hãy nhìn vào hình ảnh Thượng đế mà chúng ta đã được dạy dỗ, một vị quan tòa ở trên trời, và nếu chúng ta phạm phải lỗi lầm, chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục mãi mãi. Rồi chúng ta bị trừng phạt và phải chịu đau khổ đời đời.

Rất nhiều người đã được nuôi lớn trong hình ảnh đó. Ngay cả khi không bị vậy thì cũng có một tâm thức tập thể khiến chúng ta tự phán xét gay gắt khi mình phạm lỗi. Khi tôi mới cất bước trên con đường tâm linh và ngay cả khi tôi đã tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên, tâm thức này vẫn bám theo tôi. Tôi mường tượng các chân sư giống như Thượng đế nóng giận trên trời. Các thày không nóng giận tuy nhiên dường như các thày vẫn phán xét. Tôi phải toàn hảo. Tôi phải làm mọi công tác vỏ ngoài cho tươm tất, và trong một tổ chức mà tôi là thành viên, người ta đặt trọng tâm to lớn trên những công tác vỏ ngoài, như phải mặc đúng loại quần áo nào, không được lái xe màu đỏ, tất cả những chuyện vỏ ngoài như thế. 

Tôi đã nhận ra là thử thách thực sự trên đường tâm linh là mình tự chấp nhận mình là phần nối dài của Thượng đế. Làm thế nào chấp nhận được điều này? Bạn tự chấp nhận bằng cách nhận ra là Thượng đế thương yêu bạn vô điều kiện. Thế gian thì bảo rằng có thể có một Thượng đế và Thượng đế này có thể thương yêu bạn nếu bạn hội đủ một số điều kiện nào đó. Đó thật là một năng lượng ác ý và hăm doạ của thế gian muốn chúng ta phải tin vào điều đó. Điều này cũng gắn liền với chủ đề của hội nghị về phản tình thương, bởi vì thế gian nhất định muốn chúng ta tin là chúng ta phải hội đủ một số điều kiện.

Đó là lý do tôi nghĩ mình hay tự phán xét – vì chúng ta cho rằng mình không toàn hảo, và nếu mình không hội được những điều kịên đó, Thượng đế sẽ không còn thương yêu mình nữa, hoặc bất kỳ biện pháp nào mà mình có thể tưởng tượng. Tôi nghĩ thử thách lớn nhất trên đường tu là mình thực sự chấp nhận tình thương vô điều kiện. Tôi đã từng chứng nghiệm điều này một lần, và tôi đã viết lại câu chuyện đó. Một lần tôi chứng nghiệm được sự hiện diện của Thượng đế, và có lẽ tôi mất thêm ba năm trời để nghiền ngẫm và thể nhập chứng nghiệm đó. Cuối cùng một hôm, một ý nghĩ bỗng lóe ra trong tôi: Nếu tình thương Thượng đế vô điều kiện thì tôi phải hội những điều kiện gì để xứng đáng với tình yêu đó? Câu trả lời thật hiển nhiên – không thể nào có điều kiện gì mà tôi phải hội được hầu nhận được tình thương vô điều kiện. 

Chỉ có một điều kiện thôi, đó là tôi phải đón nhận tình thương đó. Tôi phải chấp nhận tình thương đó. Và tôi phải nhìn lại chính mình và tự hỏi: “Tin tưởng nào trong tôi đang ngăn cản tôi đón nhận món quà mà Thượng đế đang cho tôi một cách vô điều kiện bất cứ lúc nào?” Tôi thiển nghĩ, cho tới khi nào mình chưa thấy được điều này một cách ý thức, chưa thấy được sự lừa dối và ngụy biện của thái độ phán xét thì mình chưa được giải thoát khỏi nó. Mình sẽ vẫn tiếp tục đuổi theo đống vàng ở cuối cầu vòng, và càng đuổi thì cầu vòng sẽ càng chạy đi xa hơn. Chúng ta sẽ không bao giờ tới được cho đến khi chúng ta nhận ra là cuộc chạy đuổi này hoàn toàn vô ích.  

Làm thế nào biết các chân sư thăng thiên có thật

Hỏi: Nếu con được thấy các chân sư trong hiện thân vật lý – nếu có thể nói như vậy – thì con sẽ an tâm là các thày có thật, nhưng điều này cũng sẽ cản trở sự thật rằng chúng ta không chỉ là con người vật lý. Cho nên con phải vượt qua giác quan vỏ ngoài. Nhưng con sẽ an tâm biết mấy nếu con có thể nhìn thấy các thày tận mắt. Như con đây, con không nhìn thấy các thày. Con luôn tự hỏi là mọi người khác nhìn các thày như thế nào, và trong hội nghị này con nhất định sẽ mở mắt ra thật to để mà nhìn, nếu có thể nói như vậy.


Trả lời của ông Kim Michaels tại một hội nghị ở Hòa Lan. Đăng ngày 7/12/2016.

Vâng, tôi hiểu điều bạn nói. Khi bạn trở thành một học trò của chân sư thăng thiên, bạn đang đi ngược lại tâm thức tập thể vốn phủ nhận các chân sư thăng thiên hay cõi tâm linh là thực. Hoặc cũng có thể họ không phủ nhận nhưng họ bảo – như Giáo hội Công giáo chẳng hạn: “Người bình thường không thể nào có trải nghiệm đó. Chỉ có các tu sĩ và những bậc thật đặc biệt mới có thể nhìn thấy trực tiếp, cho nên bạn chỉ cần tin theo những gì chúng tôi nói với bạn.” Và đó là điều chúng ta đã lớn lên và được dạy dỗ.

Bạn đang thực sự đi ngược lại tâm thức tập thể, cho nên tất nhiên, sẽ rất tuyệt nếu bạn nhận được một sự chứng thực nào đó. Riêng tôi cảm thấy chính mình đã nhận được rất nhiều sự chứng thực là các chân sư thăng thiên có thật, nhưng không ở tầng cấp giác quan vật lý. Tôi nghĩ có lẽ hầu hết các bạn ở đây cũng đã nhận được một lời xác nhận nội tâm vượt khỏi giác quan vật lý mà các bạn vẫn biết rõ là thực. Tôi cảm thấy đây là một phần quan trọng trong giai đoạn của địa cầu mà chúng ta đang sống qua.

Tôi nghĩ có thể sẽ đến một thời trong tương lai khi các thày sẽ hiện thân vật lý hay có thể nhìn thấy trong cõi vật lý. Tuy nhiên, điều này sẽ xảy ra một khi hầu hết mọi người không còn cần đến nó nữa vì tâm thức loài người đã được nâng cao. Thử thách ngay bây giờ cho chúng ta những người tâm linh là chúng ta cần chứng tỏ là mình sẵn lòng đi xa hơn những loại chứng cớ vật lý, đi xa hơn giác quan vật lý mà vẫn chấp nhận được là có điều gì rất thực.

Điều này khiến tôi nhớ lại một câu chuyện cũng na ná như vậy. Tại Đan Mạch có một quyển sách vừa được phát hành vào mùa xuân năm nay, tựa đề là: “Tôi đã gặp Giê-su.” Đây là một phụ nữ Đan Mạch, một nhà báo. Bà đã lớn lên trong một gia đình theo chủ nghĩa Mác phủ nhận mọi điều tâm linh. Bà chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ và cũng chưa bao giờ để ý đến tâm linh. Rồi trong một chuyến công tác tại Tây Ban Nha, bà bước vào một nhà thờ cổ, và đột nhiên bà thấy Giê-su hiện ra đứng ngay bên cạnh mình. Đó là một khải tượng. Giê-su không đang ở đó trong vật lý, nhưng thày rất thực. Như thể bà đang nhìn thấy thày tận mắt, giống như một cửa sổ mở ra và bà nhìn thấy thày đứng đó trên đất Israel trong trang phục của thời đó. Giê-su nói chuyện với bà bằng tiếng Aramaic. Chỉ sau này bà mới biết đó là tiếng Aramaic, và tuy bà không hiểu được ngôn ngữ nhưng bà vẫn nắm được những gì thày cố truyền đạt cho bà.

Mặc dù bà đã được nuôi dạy để chối bỏ mọi thứ tâm linh, nhưng bà không thể phủ nhận những gì mắt bà nhìn thấy. Trong mấy năm đầu, bà không thổ lộ với ai về trải nghiệm của mình. Là một ký giả, bà đi khắp mọi nơi phỏng vấn tất cả các chuyên gia về hóa học não bộ hay cách vận hành của bộ óc. Mặc dù bà không nói rõ trong sách của bà, cá nhân tôi cảm thấy là bà chỉ muốn tìm được ai đó sẽ nói với bà: “Ồ, đó chỉ hoàn toàn là một ảo giác. Hãy bỏ qua chuyện đó đi.” Nhưng bà ngạc nhiên không thấy ai nói với bà như vậy.

Mọi người đều nói là người ta chưa hiểu hết mọi điều về não lẫn về tâm. Một số còn bảo rằng trong tâm phải có nhiều hơn là những gì người ta có thể giải thích về bộ não vật lý. Dường như ai ai cũng đưa đẩy tới mức rốt cuộc bà nói: “Thôi được rồi, tôi phải viết trải nghiệm của tôi thành sách.” Thế là bà viết sách và được một nhà xuất bản nổi tiếng phát hành. Sách trở thành một cuốn bán chạy nhất.

Tôi thấy câu chuyện này rất thú vị ở chỗ nó mang cùng động lực như câu hỏi của bạn. Bà ấy đã có một trải nghiệm nội tâm nhưng nó quá thực đến độ bà không thể phủ nhận được. Bà đã cả gan đứng trước mặt tất cả những người hoài nghi. Bà chờ đợi là người ta sẽ tấn công mình, nhưng bà ngạc nhiên khi không ai tấn công. Tôi nghĩ lý do là vì bà quá thành thật về trải nghiệm của bà. Bà không cố giảng đạo cho bất cứ ai. Bà không nói gì về ý nghĩa trải nghiệm của bà, mà bà chỉ nói: “Tôi đã có trải nghiệm này và tôi không thể phủ nhận nó. Nó đã ảnh hưởng tôi như thế này và tôi đã cảm thấy như thế đó.” Bà mô tả nguyên quá trình mà bà kinh qua.

Tôi cho rằng, theo một nghĩa nào đó, đây cũng chính là những gì tất cả chúng ta đang kinh qua. Chúng ta ở đây để chứng tỏ cho người khác. Chúng ta không nhất thiết ở đây để thu hút, lôi kéo người khác vào giáo lý của chân sư thăng thiên hay vào một nhóm, một triết lý, một vị thày hay bất cứ gì khác. Nhưng chúng ta ở đây để làm chứng cho sự thật rằng vượt quá cõi vật lý có một cái gì rất thực, một cái gì quý báu đối với chúng ta.

Liệu chúng ta có phán xử sa nhân?

Hỏi: Thày Giê-su bảo rằng: Đủ rồi, như vậy là đủ rồi. Và chúng con đọc nhiều bài thỉnh để phán xử và nói: Đủ rồi, như vậy là đủ quá rồi. Và chúng con kêu gọi để các sa nhân bị loại bỏ. Liệu chúng ta có cần phán xử chúng không, hay là chúng có sự chọn lựa, hoặc bước vào ánh sáng, hoặc ở lại trong bóng tối? 


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 6/11/2016.

Tôi xin trả lời câu này vì nội dung đã được trả lời trong một bài truyền đọc trước. Vâng, các sa nhân có sự chọn lựa. Trước đây, một số người cho rằng loại bỏ sa nhân có nghĩa là dùng vũ lực để kết liễu chúng, nhưng chúng luôn luôn được phép chọn lựa là chúng có sẽ đáp ứng với ánh sáng hay không.  

Nếu chúng không đáp ứng thì đây không thật sự là một sự trừng phạt. Điều thực sự xảy ra là nếu chúng không thấy được là địa cầu đang nâng cao và chúng không muốn cùng lên cao với địa cầu, thì đây sẽ không còn là một môi trường thích hợp để chúng thăng tiến nữa. Và chúng sẽ chỉ tạo thêm nghiệp quả cho chúng thôi.    

Kỳ thực, việc loại bỏ chúng ra và đưa chúng đến một môi trường khác là một việc làm từ bi, vì ở một môi trường khác chúng sẽ có cơ hội thăng tiến tốt hơn là ở đây. Nhưng đồng thời, chúng cũng không thể kìm hãm sự thăng tiến của mọi người khác trên địa cầu.  

Giới thiệu Tia thứ Hai 

Màu sắc Tia thứ Hai: Màu vàng hoàng kim

Luân xa tương ứng: Đỉnh đầu

Elohim của Tia thứ Hai: Apollo và Lumina

Đại thiên thần của Tia thứ Hai: Jophiel và Christine

Thượng sư của Tia thứ Hai: Chân sư Lanto

Bài chú cho Tia thứ Hai: 2.01 Bài chú Elohim Apollo, 2.02 Bài chú Đại thiên thần Jophiel, 2.03 Bài chú Chân sư Lanto (Xin xem ở cuối sách). 

Đức tính thuần khiết của Tia thứ Hai 

Thường được xem là tia sáng của minh triết, giác ngộ và tự hiểu biết, tuy nhiên ở mức sâu hơn, đây là tia sáng đem lại khả năng nhận rõ tính không thực của ngã tách biệt cũng như ảo tưởng của ý niệm tách biệt. Qua Tia thứ Hai, con người chiêm nghiệm sự thật cơ bản rằng mọi sự sống đều là một, và không có gì có thể tách rời khỏi Đấng Sáng tạo hiện diện khắp mọi nơi. Một đức tính khác của Tia thứ Hai là sự cởi mở đối với hiểu biết siêu việt, và sự chứng nghiệm rằng chân lý có nhiều cách diễn tả chính đáng khác nhau, nhưng mọi diễn tả đều tụ về cùng một thực tại bất nhị nằm bên dưới.

Các mặt tha hóa của Tia thứ Hai

Mặt tha hóa của Tia thứ Hai là minh triết giả hiệu, khi con người tưởng là mình biết tất cả, hay mình nắm một chân lý tối hậu. Ảo tưởng này là hệ lụy của ảo tưởng nhị nguyên, lầm tưởng rằng thực tại có thể chia ra thành từng phần riêng biệt, và tâm tách biệt có quyền và có khả năng định ra phần nào là đúng, phần nào là sai.

Sự tha hóa của Tia thứ Hai thường được thấy nơi những người tin tuyệt đối là mình đúng – đặc biệt những ai đã trở nên cuồng tín – và sẵn sàng cưỡng ép người khác phải tuân theo ý mình. Một sự tha hóa khác là chủ nghĩa trí thức, qua đó người ta sẵn sàng tranh cãi để ủng hộ hay chống đối một ý tưởng mà không chịu vượt lên trên ý tưởng đó để trực nghiệm Tánh linh vượt mọi ngôn từ.

Giới thiệu Chân sư Lanto

Bạn có bao giờ xem những bộ phim có những pha người ta sử dụng ánh sáng và phin đặc biệt để khiến cho màu sắc thật rạng rỡ như được phủ một lớp hoàng kim hay không? Nếu vậy thì bạn đã thoáng thấy được quang cảnh bạn đứng trước Hiện diện của Chân sư Lanto, hay Đức Lanto. Hào quang của thày rộng lớn, tràn ngập ánh sáng màu vàng hoàng kim đến độ bạn tưởng như mình đang sống trong một thế giới khác nơi mọi vật đều minh bạch trong sáng, đều lề lớp gọn gàng mà không gì có thể xáo trộn được sự an bình. Và quả vậy, sự thật đúng là như thế.  

Thày Lanto đã có mấy kiếp đầu thai tại Trung hoa cổ đại, nổi bật nhất là Chu Công, được xem là vị đã khởi xướng truyền thống minh triết Trung hoa mà về sau được biết đến qua sách viết của Khổng Tử. Thày Lanto thăng thiên vào năm 500 trước Công nguyên và từ lâu nay đã chứng đạt quả vị Phật. Trong một kiếp hiện thân, thày đã sùng kính Thượng đế đến độ người đời có thể nhìn thấy một vầng vàng kim chói rạng ở giữa ngực thày, ngay luân xa tim. Kể từ đó, vầng sáng vàng kim đã tỏa ra rộng lớn khắp xung quanh hình dạng ê-the của thày. Khi bạn đứng trong vùng bức xạ này, quả là bạn được bước vào một thế giới khác, nơi không gì có thể được che giấu khỏi tầm nhìn xuyên thấu của con mắt minh triết, con mắt đơn nhất có khả năng nhìn xuyên qua mọi hư ảo của tâm thức nhị nguyên.

Thày Lanto đã vượt xa mức chứng đạt cần thiết cho một vị Thượng sư nhưng thày đã chọn phụng sự trong vai trò này do lòng thương yêu những anh chị em chưa thăng thiên của thày. Chính tình yêu đó – được biểu lộ qua minh triết toàn hảo và luôn thăng vượt của Tia thứ Hai – sẽ biến đổi tất cả những ai chuyên cần tu tập để hội đủ tư cách trở thành đệ tử của thày.

Bạn cần những gì để hội đủ tư cách làm đệ tử của thày Lanto? Bạn chỉ cần sẵn lòng lui lại một bước và nhìn vào phin lọc nhận thức của mình. Thày sẽ chỉ cho bạn thấy sự khác biệt giữa phin lọc nhận thức cá nhân của bạn và thực tại được chứng nghiệm qua Ngọn lửa Giác ngộ neo trụ nơi khóa nhập thất Royal Teton, nằm bên trên núi Grand Teton tại tiểu bang Wyoming, Hoa kỳ.

Đây là một cơ hội thật đặc biệt, bởi vì khi bạn thấy rõ nhãn quan của mình về cuộc sống đã bị phin lọc nhận thức tô màu như thế nào, bạn sẽ không có cảm giác là mình lầm lạc hay ngu ngốc. Khi nhìn ra tính không thực của cuộc sống thì bạn cũng nhìn ra thực tại ở đằng sau, có nghĩa là bạn nhìn ra con người thực của mình không qua một phin lọc nào. Bạn thấy phin lọc nhận thức của mình chỉ đơn giản là một cái gì mình đã khoác vào, và bạn đã khoác nó vào vì những lý do có vẻ như chắc nình nịch trong nhãn quan tâm thức cũ. Nhưng giờ đây từ một trạng thái tâm thức cao hơn, tại sao bạn lại phải bám víu lấy nó, một phin lọc nhận thức mà bạn thấy rõ là hạn hẹp và không còn phản ánh được con người thực của mình?

Thày Lanto có khả năng vô song giúp đỡ các học trò của thày nhìn xuyên thấu những điểm vi tế trong lô-gíc gian manh của rắn, tức hình thức suy luận nhị nguyên. Thày biết rõ đây là một tiến trình tuần tự, và thày luôn có cái nhìn dài hạn, một đặc điểm của truyền thống minh triết ngàn đời. Vì thày đã chứng đạt tâm Phật, thời gian không còn là một yếu tố đối với thày, và vì thế thày có sự kiên nhẫn vô hạn đối với học trò của mình.

Nếu bạn đến với thày với mong muốn bênh vực hay biện hộ cho tự ngã của bạn, nếu bạn tìm cách thuyết phục thày bằng lối suy luận của rắn, thày sẽ kiên nhẫn lắng nghe bạn chừng nào bạn còn tiếp tục phóng chiếu lên thày. Bạn sẽ không tìm thấy sự phản hồi nào ngoại trừ một nụ cười trìu mến, và nụ cười này thường khiến cho tự ngã bị khích động nhiều hơn bất kỳ lời khiển trách nào. Và nếu bạn cứ tiếp tục phóng chiếu lô-gíc của rắn, cuối cùng bạn sẽ không thể tránh khỏi đâm vào một ngõ cụt luận lý, nơi bạn đạt tới trạng thái sẽ mở tâm bạn ra cho sự hướng dẫn của thày Lanto, là trạng thái bối rối.

Một khi bạn xoay chuyển và quyết định là bạn mong muốn thày giúp bạn thoát ra khỏi thế bí triết lý đó, thày sẽ hướng dẫn bạn tùy theo mức chứng đạt cũng như sự sẵn lòng của bạn để nhìn xa hơn nhị nguyên. Một khi bạn ngừng tìm cách trốn chạy, bạn sẽ nhận ra sự hướng dẫn của thày thật xuyên thấu, tuy rằng luôn luôn thương yêu một cách vô điều kiện. Vì thày nhìn xuyên qua tất cả mọi điều kiện mà cái tâm quanh co của rắn đã thiết lập, thày cũng sẽ không chấp nhận bất kỳ điều kiện nào thay thế cho con người thực của bạn.

Do không ngừng hỗ trợ cái ta thực của mình mà cuối cùng các đệ tử sẽ nhận ra rằng thày Lanto nhìn thấy nơi mình một cái gì đó mà chính mình không nhìn thấy. Khi bạn thực sự mong muốn nhìn mình qua chính mắt của Lanto, bạn sẽ không phát hiện ra minh triết mà sẽ phát hiện tình thương vô bờ bến, vô điều kiện, vượt khỏi cả bảy tia sáng nhưng lại chảy xuyên qua cả bảy tia sáng. Đó là lúc bạn sẽ thấy mắt thày lấp lánh sáng ngời, và nụ cười của thày sẽ biến đổi từ một nụ cười xa vời của Phật thành một nụ cười thật gần gũi, đón nhận và tán thành.

Uy lực của cái Ta – Chương 7 – Điều ngự phản ứng của bạn

Ta hãy nhìn vào cuộc sống của bạn như bạn đang trải nghiệm nó ngay bây giờ. Giả dụ như bạn đang trải qua những hoàn cảnh sống làm cho bạn cảm thấy mình bị hạn chế, vì có vẻ như những hoàn cảnh này có ảnh hưởng lớn trên bạn. Vậy thì câu hỏi cần đặt ra là: “Làm sao tôi có thể vượt lên trên những hoàn cảnh này đây?”

Sự khôn ngoan thường tình và kinh nghiệm chung nói với ta là cách duy nhất để vượt lên trên một sự giới hạn là thay đổi chính cái hoàn cảnh bên ngoài đang giới hạn mình. Nói cách khác, cách duy nhất để ta thay đổi Kinh nghiệm Sống của mình là thay đổi cái gì đó bên ngoài chúng ta.

Vấn đề với giải pháp này là có rất nhiều hoàn cảnh bên ngoài mà ta có rất ít quyền lực để thay đổi thậm chí chẳng có quyền lực gì cả để thay đổi. Nói cách khác, bí mật của cuộc sống là ở đây: Làm sao ta thay đổi được Kinh nghiệm Sống của mình trong khi mình không có quyền lực trên các hoàn cảnh bên ngoài mà chúng ta nghĩ rằng đang khống chế Kinh nghiệm  Sống của chúng ta?

Làm sao ta có thể thoát ra khỏi ngã bí này? Hay là ta thử hỏi câu hỏi kiểu khác: “Có thật sự là các chuyện bên ngoài có quyền lực trên Kinh nghiệm Sống của ta chăng, hay chúng chỉ có quyền lực mà ta trao cho chúng?”. Nói cách khác, trung tâm quyền lực nằm ở đâu đây? Nó ở ngoài ta (như vậy có nghĩa là ta không thể làm được gì cả), hay nó ở trong chính tâm của ta, có nghĩa là ta có thể làm được cái gì đó?

Như đã nói ở trước, không phải ai ai cũng sẵn sàng đón nhận giáo lý của các chân sư. Thế nào là sẵn sàng? Bạn sẵn sàng khi bạn đã bước qua lằn ranh mà bạn nhận ra rằng bạn thật sự có thể thay đổi hoàn cảnh bên ngoài bằng cách thay đổi hoàn cảnh bên trong mình. Vậy thì bạn phải làm gì để thay đổi hoàn cảnh bên trong của bạn? Bạn phải thay đổi sự Trải nghiệm cuộc Sống của bạn.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng có một sự khác biệt quan trọng giữa hoàn cảnh bên ngoài và bên trong; có sự khác biệt giữa cuộc sống của bạn và Kinh nghiệm Sống của bạn. Các thầy dạy rằng chìa khóa để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của bạn bắt đầu bằng cách thay đổi cái gì đang diễn ra trong tâm của bạn. Lý do là cái gì thật sự quan trọng không phải là chuyện gì xảy ra bên ngoài mà là phản ứng tâm của bạn đối với những sự việc bên ngoài đó. Phản ứng của bạn xảy ra trong chính tâm của bạn. Phản ứng đó do những yếu tố trong tâm của bạn tạo ra, có nghĩa là bạn có thể điều khiển những yếu tố đó.

Kinh nghiệm Sống của bạn  KHÔNG phải do sự việc bên ngoài tạo ra mà nó là PHẢN ỨNG của bạn trước sự việc này

Các chân sư thăng thiên dạy rằng chìa khóa để khai mở uy lực của cái Ta là làm chủ được phản ứng của bạn trước bất cứ chuyện gì trong thế giới vật chất. Các thầy dạy rằng một khi bạn điều ngự được phản ứng của mình, bạn thật sự có quyền lực thay đổi nhiều hoàn cảnh bên ngoài của mình. Hạn chế duy nhất là Quy luật Tự quyết, có nghĩa là khi bạn đã điều ngự được chính mình, bạn sẽ không muốn can thiệp chút nào vào quyền tự quyết của người khác. Như vậy bạn không muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài đi ngược lại ý muốn của họ.

Theo các chân sư thăng thiên, tất cả chúng ta đã bị tẩy não, bị lập trình để tin vào một ý tưởng gian dối vĩ đại. Sự gian dối này có hai vế. Vế đầu là bạn phải phản ứng lại các hoàn cảnh của thế giới vật chất. Vế kia là sự phản ứng của bạn tùy theo hoàn cảnh bên ngoài. Các thầy dạy rằng chân lý sâu xa là bạn là một sinh thể tâm linh. Như bạn sẽ nhận ra khi đọc chương kế tiếp, không có chuyện gì trong thế giới vật chất này có thể ảnh hưởng tới cốt lõi của bản thể của bạn. Như vậy chẳng có quy luật tự nhiên nào nói rằng bạn phải phản ứng với sự việc xảy ra trong thế giới này. Cũng chẳng có quy luật nào nói rằng bạn phải phản ứng tùy theo những hoàn cảnh bạn đang gặp.

Giê-su đã cho chúng ta lời dạy tuyệt vời nhất về điểm này, nhưng tiếc thay đại đa số tín đồ Thiên Chúa giáo không nhìn thấy ý nghĩa thật của lời thầy dạy. Bạn nghĩ đi về ý niệm chìa má bên kia này. Giả dụ có người kia tới gần bạn và tát mạnh vào một má của bạn. Phản ứng “bình thường” là gì? Nó sẽ là “phản ứng đánh hay chạy”, có nghĩa là bạn sợ quá và chạy hay bạn giận lên và đánh lại. Bây giờ như Giê su nói, làm sao bạn có thể bình tĩnh đứng yên ở đó và cho phép người kia tiếp tục tát bạn vào má còn lại. Bạn chỉ làm được điều này khi bạn đã hoàn toàn làm chủ được phản ứng của bạn với mọi hoàn cảnh.

Bạn không phản ứng giống như đại đa số khi bạn vượt được lên trên khuynh hướng tấn công hay tháo chạy của người thường. Bạn phải làm chủ tâm của bạn mạnh đến độ bạn chẳng có phản ứng gì cả, ít nhất là phản ứng của con người thường, khi bạn bị tát vào má. Bạn phải làm chủ tâm của bạn mạnh đến độ bạn không cho phép bất cứ ai áp lực được bạn phải rơi vào trạng thái tấn công hay tháo chạy. Bạn không cho phép bất cứ điều gì thuộc thế gian vật chất này quyết định được chuyện gì xảy ra bên trong tâm của bạn. Đây là chìa khóa chính yếu của sự tự điều ngự, và trải qua bao nhiêu thời đại các vị thầy thần bí đã dạy điều này. Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn điều này.

7.1. Chìa khóa thiết yếu cho sự tự điều ngự

Bạn là một sinh thể tâm linh. Như đã nói, tiềm năng cao nhất của bạn là khi tâm bạn trở thành cánh cửa mở cho năng lượng của cõi tâm linh. Bây giờ chúng ta hãy quay trở lại những điều được nói trong các chương trước và xem xét kỹ hơn uy lực là gì. Bởi vì chúng ta sống trong thế giới mà mọi thứ đều là năng lượng, lẽ dĩ nhiên uy lực là năng lượng. Để thể hiện bất cứ uy lực nào ta cần có năng lượng làm động lực. Nhưng chúng ta có thể nói tới hai loại năng lượng: tâm linh và vật chất.

Như chúng ta đã thảo luận ở trên, uy quyền tối hậu của cái Ta là năng lượng tâm linh đến từ các chân sư. Nhưng đây là điểm khác biệt quan trọng giữa đa số các tôn giáo và giáo lý của các chân sư. Đa số các tôn giáo mô tả bạn như những con người trên cơ bản là bất lực, do đó cần một vị cứu tinh từ bên ngoài đi xuống và làm cái gì đó giúp bạn. Thiên chúa giáo là một ví dụ điển hình đã biến Giê-su thành một trộn lộn lạ lùng của ông Già Nô-en cộng với siêu nhân Superman. Nếu bạn tốt lành, bạn sẽ nhận được quà trên thế gian này, và rốt cuộc thầy sẽ ôm bạn trong cánh tay thầy và đưa bạn bay lên thiên đàng. Thực ra, Giê-su xuống đây để cho chúng ta một tấm gương về tiềm năng mà tất cả chúng ta đều có, khi chúng ta khai mở được uy lực của cái Ta.

Vậy thì đây là chìa khóa mà bạn cần nhận ra: uy quyền thực không đến từ bên ngoài của bạn. Các chân sư thăng thiên không phải là những vị thầy làm phép lạ, sẽ làm bất cứ điều gì cho bạn. Ngược lại, các chân sư thăng thiên sẽ cho bạn quyền lực tâm linh để bạn làm cái gì đó cho chính bạn. Điểm tinh tế phải nhận ra là quyền lực mà bạn nhận được từ các chân sư sẽ không đến từ bên ngoài và không thể nào đến từ bên ngoài của bạn. Nó đến từ bên trong của bạn, nó phải đến từ bên trong và sẽ đến từ bên trong của bạn. Điều này có nghĩa là bạn không thể nào nhận được quyền lực này khi bạn còn đi tìm kiếm nó ở bên ngoài của bạn.

Uy quyền thực không đến từ bên ngoài của bạn. Các chân sư thăng thiên không phải là những vị thầy làm phép lạ, sẽ làm bất cứ điều gì cho bạn. Ngược lại, các chân sư thăng thiên sẽ cho bạn quyền lực tâm linh để bạn làm cái gì đó cho chính bạn.

Bạn hãy thử nghĩ theo một kiểu khác nhé. Chúng ta biết là tiềm năng cao nhất của bạn là trở thành cánh cửa mở cho quyền lực đến từ cõi tâm linh. Nhưng làm sao bạn trở thành cánh cửa mở được đây? Bằng cách bạn vượt lên trên thói quen phản ứng với mọi chuyện trên thế gian này và cho phép chuyện trên thế gian định đoạt phản ứng của bạn.

Bây giờ, mình trở lại chuyện có người tát vào một bên má của mình. Nếu bạn phản ứng với sự giận dữ hay sợ hãi là bạn đã đóng cửa lại với uy lực cao của mình. Giống như bạn nói: “Tôi biết rồi. Tôi biết cách giải quyết chuyện này một mình tôi, như vậy tôi không cần uy lực của mấy người ở trên nữa đâu.” Điều mà Giê-su thực sự nói với chúng ta là khi chúng ta vượt lên trên những khuôn nếp phản ứng của người phàm này, chúng ta tránh không phản ứng theo cách thấp kém. Ngược lại chúng ta giữ mình trong trạng thái trung dung, không dính mắc, cởi mở. Chính nhờ sự cởi mở này mà uy lực tâm linh sẽ tuôn chảy xuống chúng ta.

Bạn có thể nghĩ rằng chìa má bên kia ra là một hành động hoàn toàn thụ động, nhưng thực ra đấy là hành động mạnh mẽ nhất mà bạn có thể làm được. Bạn hãy coi đây là một sự trao đổi năng lượng. Lẽ dĩ nhiên là người đánh bạn đang ở trong trạng thái tâm rất là phàm phu, anh ta đang phóng năng lượng thấp kém tới bạn, tức là năng lượng đã có sẵn trong quang phổ vật chất. Nếu bạn phản ứng với hành động tấn công hay tháo chạy là bạn trả đũa lại với chính năng lượng vật chất của mình. Như vậy vấn đề là coi xem ai là người mạnh nhất trong việc phóng ra ngoài năng lượng vật chất. Nhưng nếu bạn bình thản thì bạn lại cho phép uy lực tâm linh tuôn chảy xuống bạn, như vậy là năng lượng vật chất của anh sẽ gặp phải một năng lượng tâm linh mãnh liệt hơn rất nhiều. Bạn nghĩ coi, ai là người vượt lên trên trong sự trao đổi năng lượng này? Giê-su đã trao chìa khóa cho chúng ta 2,000 năm trước đây. Thầy nói, “Chính cá nhân ta chẳng làm nên việc gì,” có nghĩa là thầy hiểu ra rằng nếu thầy đồng hóa mình là một sinh thể tách biệt, thì thầy chẳng có uy lực gì cả. Thầy cũng nói rằng chính đấng cha bên trong thầy làm mọi chuyện, có nghĩa là thầy nhận ra rằng uy lực đến từ một nguồn gốc cao, nhưng cánh cửa mở cho uy lực đó chảy xuống nằm bên trong mình.

Giê-su cũng nói câu thật là sâu sắc sau đây: “Nước Chúa Trời ở trong con.” Nếu bạn thực sự hiểu câu này, bạn có thể khai mở toàn bộ uy lực của cái Ta. Để hiểu được hết ý của Giê-su, bạn cần biết cái ta là gì và nó có những phần nào. Chúng ta sẽ xem xét đề tài này trong các chương kế. Một khi bạn thấy cái ta là gì, bạn sẽ thấy cách khai mở uy lực thật của nó.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 6 – Làm cách nào neo chặt mình vào con đường tâm linh

Như đã nói ở trên, nhiều chân sư thăng thiên đã từng đầu thai trên địa cầu nên hiểu rõ địa cầu là một hành tinh phức tạp với một tâm thức đại chúng khá thô đặc. Dù các thày nhất quyết giúp tất cả mọi người trên thế gian, nhưng các thày cũng biết là nhân loại có nhiều trình độ tâm thức, do đó không thể dùng cùng một cách để dạy mọi người. Đúng ra là các thày biết là có một số người các thày không thể dạy trực tiếp được.

Nếu ta quan sát nhân loại thì sẽ thấy có một số người có trạng thái tâm cho rằng họ là nạn nhân và lúc nào cũng phải chống lại người nào khác. Những người này không sẵn sàng đón nhận các chân sư thăng thiên và giáo lý của các thày, do đó họ phải học hỏi bằng cách nhìn tấm gương vũ trụ phản chiếu lại những gì tâm họ phóng ra. Các chân sư thăng thiên gọi cách học này là học qua “trường đời cay đắng”.

Ta cũng thấy có nhiều người cởi mở với lời dạy của tôn giáo nhưng họ chưa sẵn sàng theo con đường thần bí, tức là con đường đi vào nội tâm để thực chứng tâm linh. Các chân sư có thể hướng dẫn các vị này với giáo lý bên ngoài, nhưng thông thường họ sẽ biến giáo lý này thành một loại tôn giáo nghi thức và khép kín, khác xa con đường tự vượt thăng của các thày. Một tôn giáo như vậy thường hứa hẹn là ta sẽ được cứu rỗi nếu ta tuân theo một số đòi hỏi vỏ ngoài, chẳng hạn như gia nhập một giáo hội, hay tôn thờ Giê-su là chúa hay đấng cứu thế. Nhưng, chỉ khi nào ta chán ngán tôn giáo vỏ ngoài và muốn đi xa thêm nữa thì các chân sự mới có thể dạy ta trực tiếp.

Ở đây chúng tôi không có ý định phân biệt cao thấp và nói rằng có những người tiến bộ hơn người khác. Tuy thế ta cũng phải nhận thấy là có người sẵn sàng liên hệ trực tiếp với các chân sư, và cũng có người chưa sẵn sàng. Đường ranh ở đâu? Ta phải tới điểm nhận ra một sự thực giản dị: “Nếu tôi muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài, thì tôi phải khởi sự bằng cách thay đổi hoàn cảnh nội tâm của tôi. Nếu tôi muốn thay đổi thế giới, thì tôi phải bắt đầu bằng cách thay đổi chính mình.” 

Muốn tới được điểm đó thì ta phải lấy trách nhiệm làm chủ phát triển tâm linh của mình, ngay cả sự cứu rỗi của mình. Ta phải nhìn nhận một sự thực mà Giê-su có giảng, nhưng đa số tín đồ Thiên chúa đã “lờ” đi. Như chúng ta đã thấy, con đường thần bí là tiến trình vượt qua ảo tưởng mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình. Đó là tiến trình nhập một với một cái gì lớn hơn mình. Chìa khóa để thành tựu tiến trình này là chuyển đổi quan niệm về ta, tức là chuyển đổi tâm thức. Ta phải thăng vượt cái ngã đang coi nó là một sinh thể tách biệt để được tái sinh như một Chân ngã coi mình như là phần nối dài của một đấng cao hơn.

Nói ngắn gọn là hoàn cảnh trên địa cầu phản ảnh trạng thái tâm thức của ta. Chìa khóa giúp thay đổi hoàn cảnh của ta là thay đổi trạng thái tâm thức của mình. Chìa khóa lối ra khỏi mê cung và thăng thiên khỏi địa cầu là thay đổi trạng thái tâm thức. Một khi ta chấp nhận điều này thì ta đã sẵn sàng được các chân sư dạy trực tiếp. Nếu bạn chưa tới điểm này, thì có lẽ bạn chưa tìm ra quyển sách này, và chắc chắn là bạn không thể tiếp tục đọc đến trang này. Vậy chúng ta hãy nhìn nhận điều này, và tiếp tục xem cách nào bạn có thể neo chặt mình vào con đường tâm linh do các chân sư thăng thiên vạch ra.

6.1. Giai đoạn thử thách đầu

Như đã nói ở trên, bạn cần phải sẵn sàng thay đổi chính mình, tức là trạng thái tâm thức của mình. Dĩ nhiên là sẵn sàng để thay đổi không có nghĩa là đã thay đổi. Các chân sư thăng thiên là các thày giáo, do đó các thày không đòi hỏi học sinh phải vẹn toàn mà chỉ cần chúng ta sẵn sàng học hỏi. Điểm quan trọng ở đây là khi chúng ta nghe nói về các chân sư thăng thiên thì chúng ta đã tới một trình độ trưởng thành nào đó, nhưng chúng ta cũng lê theo một số hành lý từ kiếp này hay các kiếp trước. Do đó, chúng ta cần trải qua một giai đoạn đầu qua đó chúng ta nỗ lực vứt bỏ các hành lý này.

Do đó, việc chúng ta cần phải giải quyết một vài vấn đề lúc ban đầu là điều tự nhiên. Có thể có vài điểm nơi giáo lý các chân sư mà chúng ta thấy khó chấp nhận, có thể có vài điều các thày khuyên răn mà chúng ta thấy khó thi hành, và cũng có thể có vài hành xử hay thói quen mà chúng ta cảm thấy khó rũ bỏ. Tuy nhiên, nếu chúng ta theo con đường các chân sư vạch ra thì sẽ cảm thấy – thường chỉ sau một thời gian ngắn ban đầu – là dầu chúng ta chưa về đến nhà nhưng chúng ta đã tự neo mình chặt chẽ vào một con đường hướng thượng. Chúng ta sẽ có một viễn kiến rõ ràng về mục đích và cách nào để tới đó, và chúng ta biết là nếu chúng ta kiên trì thì sẽ tới mục đích. Vậy ta cần làm gì để đến mức đó?

6.2. Hai “chân” của con đường

Như đã thấy ở trên, tất cả mọi thứ trong thế giới chúng ta sống đều được tạo thành từ năng lượng được nhào nặn thành hình tướng. Do đó, tiềm năng cao nhất của ta, trạng thái tự nhiên của ta, là tâm hay cái ngã của ta là một cánh cửa mở đón nhận ánh sáng từ cõi cao. Ta thực thi uy lực của Chân ngã bằng cách tạo một hình tư tưởng của cái gì ta muốn tạo ra và gán nó lên luồng ánh sáng chảy vào tâm ta. Như vậy, ta càng có nhiều ánh sáng chảy vào tâm thì khả năng sáng tạo của ta càng cao. Tuy nhiên, muốn mở tâm đón nhận thêm ánh sáng thì ta cần phải tảy sạch các chất đang chặn không cho ánh sáng rọi vào.

Có hai thứ chặn không cho dòng ánh sáng chảy vào tâm ta. Đó là các tin tưởng gây hạn chế nằm ở bốn từng của tâm, và các năng lượng bị tha hóa đã tồn đọng trong bốn từng của trường năng lượng. Do đó, hai chân của con đường tu tập là học hỏi giáo lý thích ứng (như về tâm linh, tâm lý, tự giúp v.v…) để nhận ra các tin tưởng gây hạn chế, và thực tập kỹ thuật tâm linh để giải trừ năng lượng tồn đọng. Tuy nhiên, mọi chuyện không quá dễ dàng như vậy.

Học hỏi một giáo lý tâm linh không giống như đi học tại trường đại học. Các chân sư thăng thiên không muốn bạn trở thành một học sinh ưu tú có khả năng học thuộc và trả bài trôi chảy. Các chân sư muốn bạn có kinh nghiện thần bí, tức là kinh nghiệm ngộ khiến bạn thực sự chuyển đổi tâm thức. Bạn có thể học giáo lý của các chân sư thăng thiên hàng chục năm mà không có một kinh nghiệm như thế. Các đệ tử rơi vào tình trạng này thường là các vị có một cái hiểu từ chương rộng lớn về giáo lý khiến họ cảm thấy hãnh diện về kiến thức của mình. Chính lòng hãnh diện này ngăn chặn kinh nghiệm ngộ, và do đó ngăn bước tiến.

Có hai thứ chặn không cho dòng ánh sáng chảy vào tâm ta. Đó là các tin tưởng gây hạn chế và các năng lượng bị tha hóa đã tồn đọng trong trường năng lượng của ta

Do đó, điều quan trọng khi ta học giáo lý là biết mục đích của giáo lý là để giúp ta kinh nghiệm ngộ. Có nghĩa là ta phải cố gắng nhận ra các thành kiến, các tin tưởng mà tự ngã không muốn ta tra vấn. Vấn đề rất giản dị. Tia lóe sáng giúp ta chuyển dời tâm thức không thể tìm thấy trong hộp tư tưởng do các tin tưởng hiện tại tạo ra – vì nếu vậy thì tâm thức của ta đã chuyển dời rồi. Do đó, ta chỉ có thể tìm thấy tia lóe sáng từ bên ngoài cái hộp do các tin tưởng hiện tại tạo ra. Có nghĩa là ta phải chịu mở tâm đón nhận những ý kiến thách đố hay vượt lên trên các niệm tin hiện tại của ta.

Nếu bạn học giáo lý của các chân sư thăng thiên với mục đích xác nhận các tin tưởng của bạn thì bạn sẽ không thể nào có kinh nghiệm ngộ. Và như thế có nghĩa là học giáo lý hoàn toàn vô ích. Nghĩa là bạn phải thử làm gì khác thay vì tiếp tục học hỏi.

6.3. Tầm quan trọng của thỉnh ánh sáng

Có hàng triệu người trong thế giới hiện đại đã học một giáo lý tâm linh nào đó. Có hàng triệu người đã thực tập một kỹ thuật tâm linh nào đó. Những người này sẽ được lợi lạc gì khi theo học giáo lý của các chân sư? Giáo lý của các chân sư khác gì những giáo lý khác?

Hiện nay, nhiều kỹ thuật thực hành tâm linh phát xuất từ phương Đông, thường là dưới dạng thiền, yoga hay niệm chú. Các chân sư thăng thiên không coi rẻ giá trị của các pháp tu này, nhưng các thày cũng gợi ý là nhiều người trong xã hội hiện đại sẽ đạt được rất nhiều lợi lạc hơn khi thực hành một kỹ thuật do các thày sáng chế ra. Kỹ thuật này dựa trên việc thỉnh ánh sáng tâm linh bằng cách dùng sức mạnh của ngôi Lời, của lời nói.

Bảy vị Elohim dùng âm thanh có nhịp điệu để khiến Ánh sáng Mẫu-Vật khoác những hình tướng trên địa cầu.

Chúng tôi có nói ở trên là bảy vị Elohim dùng âm thanh có nhịp điệu để khiến Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên những hình tướng trên địa cầu. Chúng ta đều được sinh ra để thành những đấng đồng sáng tạo với các Elohim, vậy làm sao chúng ta hoàn thành được nhiệm vụ này nếu chúng ta không dùng kỹ thuật mà các Elohim đã dùng để tạo nên địa cầu?

Dĩ nhiên là ta có thể khiến Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng bằng sức mạnh tư tưởng. Tuy nhiên, trong thế giới hiện đại, có quá nhiều năng lượng đã bị tha hóa và quá nhiều ý kiến gây giới hạn, do đó một đệ tử chỉ tập thiền thì rất khó đạt được tâm sáng suốt. Sự thực là đối với nhiều người Tây phương, nếu họ tìm cách dừng tâm lại thì họ có thể bị các năng lực tha hóa và ý tưởng bợn nhơ từ tâm thức đại chúng nhập vào tâm họ. Đó là lý do tại sao có nhiều người có những trải nghiệm rất tốt trong thời gian đầu tập thiền, nhưng sau đó không tiến bộ nữa và không đạt kết quả tốt nữa, và có khi còn bị hậu quả xấu.

Các chân sư thăng thiên giải thích là trong tình trạng năng lượng rất mạnh mẽ hiện nay, điều rất quan trọng là ta dùng kỹ thuật mạnh nhất mà ta có, đó là giọng nói của ta, tức lời nói. Khi chúng ta bị năng lực thấp vây quanh, thì việc đầu tiên ta phải làm là tạo một cái bầu che chở chung quanh tâm và trường năng lượng của ta, để không bị năng lực bên ngoài áp đảo. Và thực sự là không có cách nào hữu hiệu bằng cách dùng lời nói qua các bài chú và thỉnh mà các chân sư thăng thiên đã tận tay cung cấp cho chúng ta.

6.4. Tâm thức đại chúng

Cho tới đây chúng tôi chưa nói gì nhiều về tâm thức đại chúng, nhưng chúng ta đã thấy là mọi sự sống đều đan kết với nhau. Mối đan kết này dĩ nhiên là do tâm thức nối kết nhau. Chúng ta cũng đã thấy là khi chúng ta đi vào các lớp sâu của thế giới hạ nguyên tử, thì chúng ta gặp một trường tâm thức. Do đó, chúng ta có thể dễ hình dung là con người liên hệ với nhau qua một tâm thức đại chúng, là một trường năng lượng tập thể. Khi ta nhớ tới lịch sử đẫm máu của nhân loại – dù chỉ là trong giai đoạn rất ngắn được gọi là lịch sử được ghi chép – thì ta thấy là có thể có  – chắc chắn phải có – rất nhiều năng lượng tha hóa tồn đọng trong tâm thức đại chúng đó.

Trong trường năng lượng tập thể cũng có tất cả các ảo tưởng do tâm thức tách biệt nhị nguyên tạo ra. Và nếu ta đồng ý với một trong các ảo tưởng này – là một chuyện hầu như không thể tránh được – thì chúng sẽ mở một cánh cửa trong trường năng lượng của ta qua đó các năng lượng tha hóa từ trường tập thể có thể xông vào.

Ảnh hường của tâm thức tập thể có thể giải thích nhiều chuyện xảy ra trong đời sống chúng ta. Tại sao có ngày chúng ta cảm thấy chán nản, xuống tinh thần mà không biết vì lý do gì? Có thể chăng là những ngày đó chúng ta bị một xung kích mạnh mẽ hơn của tâm thức đại chúng tấn công? Có thể chăng là chính năng lượng của tâm thức đại chúng đã là sức mạnh áp đảo tâm con người và tạo ra các bệnh trầm cảm, nghiện ngập và các bệnh tâm thần khác? Có thể chăng là các năng lượng này đã khiến con người chán nản, khiến họ từ bỏ con đường tâm linh, có khi từ bỏ cả cuộc đời?

Các chân sư thăng thiên dạy rằng các người tâm linh đa số rất nhạy cảm. Đó là lý do vì sao chúng ta dễ đón nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Nhưng cũng vì vậy mà chúng ta cũng dễ bị các năng lượng của tâm thức đại chúng xâm nhập. Nếu ta không có được cái mà các chân sư gọi là sự phân biện, thì tâm ta sẽ mở cửa đón các năng lượng tích cực lẫn tiêu cực  – vì nhạy cảm là nhạy cảm với tất cả. Do đó, điều rất quan trọng là ta dùng một kỹ thuật tâm linh thích hợp để niêm phong trường năng lượng của mình khỏi tâm thức đại chúng, như vậy sẽ giúp ta tạo một cái bầu bảo vệ khiến ta nghe được tư tưởng của mình thay vì các âm thanh lạc sóng do tâm thức đại chúng gây ra. Nhiều người đã kinh nghiệm là cách tốt nhất để thiết lập bầu bảo vệ tâm linh chính là bằng lời nói. Những người tâm linh sẽ nhận ra một hay nhiều triệu chứng sau đây:

  • Ta cảm thấy nội tâm rối loạn, tâm trí bối rối bất an đến độ không thể thư giãn hay được chút bình an nào.
  • Ta cảm thấy chán nản, có khi đến độ trầm cảm, vì cảm thấy những gì mình làm không có kết quả gì hay không có mục đích cao cả gì.
  • Ta cảm thấy bối rối, không có viễn kiến hay cảm nhận rõ ràng mục đích đời mình là gì.
  • Ta cảm thấy có lực bên ngoài đang muốn xâm chiếm tâm mình, muốn làm chủ tư tưởng và tình cảm của mình.
  • Ta cảm thấy như có ai đang muốn điều khiển mình, và mình cảm thấy bất lực không cưỡng lại họ được. Hoặc là ta cảm thấy lúc nào cũng cần tốn nhiều năng lượng để bảo vệ mình.

Bây giờ bạn hãy nghĩ là các hiện tượng này – và nhiều hiện tượng tuong tự – có thể có cùng một nguyên do: đó là trường năng lượng của bạn không được bảo vệ khỏi năng lượng đến từ người khác hay tâm thức đại chúng. Chính năng lượng bên ngoài này khiến bạn cảm thấy bất an, choáng ngợp hay trầm cảm. Do đó, một chuyện có thể giúp bạn có hướng đi mới trong đời là học cách thực hiện hai chuyện:

  • Niêm phong trường năng lượng của mình khỏi trường năng lượng của người khác và của tâm thức đại chúng.
  • Loại bỏ các năng lượng tha hóa đã tồn đọng trong từ trường của mình.

Ta có thể coi đây là làm vệ sinh năng lượng. Với nhiều đệ tử của các chân sư thăng thiên, thì thỉnh ánh sáng tâm linh để bảo vệ và chuyển hóa năng lượng tồn đọng đã trở thành một thói quen thường nhật, một phần quan trọng và tự nhiên như là tắm rửa. Ta chăm sóc thể năng lượng của mình giống như thân thể, chỉ có khác là ta dùng kỹ thuật khác nhau để chăm sóc các thể khác nhau. Ta dùng một số dạng ánh sáng để thỉnh một áo giáp chung quanh thể năng lượng của mình, và ta dùng dạng năng lượng khác để tắm gội trong ánh lửa tím.

6.5. Hiểu các tà lực

Dù cuốn sách này không nói sâu về các tà lực, nhưng bạn cần hiểu rằng ngoài tâm thức đại chúng, còn có những lực trên hành tinh này tìm cách ảnh hưởng và kiểm soát bạn một cách hung hãn. Các chân sư nói chúng ta không nên sợ các tà lực, nhưng mặt khác đừng che mắt mình và tưởng rằng chúng không hiện diện. Các chân sư đề cập tới hai loại tà lực:

  • Ở các đoạn đầu, chúng ta có nói đến sự kiện là bắt đầu từ bầu cõi thứ tư, một số sinh thể sa ngã vào tâm thức nhị nguyên. Một số các sinh thể này đã được cho phép đầu thai xuống trái đất và một số khác vẫn có liên hệ với trái đất nhưng họ ở các cõi cảm xúc, lý trí và phần thấp của cõi bản sắc.
  • Có những tà lực được tạo ra ở cõi vật chất bằng cách tập trung năng lượng tiêu cực tới độ nó biến thành một dạng tâm thức thô sơ.

Có hai lý do quan trọng khiến chúng ta cần biết tới sự hiện hữu của các tà lực có ý đồ hung hãn. Lý do đầu tiên là chúng ta hiểu được tại sao người ta có thể có những hành vi bất nhân và tàn bạo mà chúng ta thấy xảy ra trong lịch sử và ngay cả trong thế giới hiện đại. Ví dụ, một thanh niên đi vào trường học và bắt đầu nã súng vào người khác chắc chắn là không cư xử trong trạng thái tâm thức bình thường. Tâm của em đã bị tà lực xâm nhập và khống chế. Mục đích của tà lực là ăn cắp ánh sáng của tất cả những nạn nhân trong thảm họa dã man này.

Tà lực không thể nào ảnh hưởng người khác đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Do đó, tà lực phải tìm cách lừa gạt để chúng ta mời họ vào trong trường năng lượng của chúng ta.

Nói vậy nhưng chúng ta cần hiểu rằng tà lực không thể nào ảnh hưởng người khác đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Do đó, tà lực phải tìm cách lừa gạt để chúng ta mời họ vào trong trường năng lượng của chúng ta. Nhiều người làm chuyện này mà không biết mình đang làm như thế, nhưng bạn là một học trò tâm linh thì lẽ dĩ nhiên bạn phải biết là có tà lực hiện hữu để bạn có thể bảo vệ mình không bị chúng ảnh hưởng.

Ngoài ra, ta cần biết đến tà lực vì sự hiểu biết này giúp ta thỉnh ánh sáng tâm linh để niêm chặt trường năng lượng của ta không bị các tà lực này hay năng lượng của họ phóng chiếu vào. Ta cũng có thể thỉnh ánh sáng tâm linh để cắt đứt ta thoát khỏi những tà lực đã xâm nhập vào trong tâm và trường năng lượng của ta. Các bạn có thể có thêm nhiều thông tin về các tà lực này trên các trang mạng của tôi và trong một số sách khác của tôi. Điểm quan trọng trong cuốn sách này là cho bạn thêm một cái nhìn mới là bạn có thể thỉnh ánh sáng tâm linh để vừa bảo vệ bạn, vừa cắt đứt bạn thoát khỏi ảnh hưởng của các tà lực muốn ảnh hưởng bạn một cách hung hãn.

6.6. Bài thỉnh và bài chú

Các chân sư thăng thiên đã cống hiến hai phương tiện chính để thỉnh ánh sáng tâm linh, đó là các bài thỉnh và chú. Một bài chú là một lời khẳng định có nhịp điệu gồm một số đoạn thơ thường có vần. Thông thường một bài chú cần đọc nhiều lần. Một bài thỉnh là một nghi lễ dài hơn gồm một số lời khẳng định xen kẽ với các đoạn thơ được lặp đi lặp lại nhiều lần. Trong một số trường hợp, bài thỉnh được cấu trúc bằng cách thêm lời khẳng định vào các đọan thơ trong bài chú.

Ta có thể nói là khác biệt giữa bài thỉnh và chú là bài chú là phương tiện hữu hiệu nhất giúp ta thỉnh cầu năng lượng từ một trong bảy tia ánh sáng tâm linh, trong khi bài thỉnh có hai mục đích thỉnh cầu ánh sáng đồng thời giúp ta giải trừ các tin tưởng gây hạn chế. Thường một bài chú được đọc một cách mạnh mẽ và cũng có thể đọc rất nhanh. Như thế sẽ tạo ra một tác dụng mạnh giúp ta thỉnh được một lượng ánh sáng cao. Một bài thỉnh thường được đọc chậm hơn, để ta hiểu các lời khẳng định và vì sao chúng thách đố các tin tưởng hạn chế ta, và từ đó giúp ta đón nhận các tin tưởng trao quyền cho ta. Một bài chú nhằm thỉnh cầu ánh sáng từ một tia ánh sáng trong khi một bài thỉnh nhằm giúp ta vượt qua một trở ngại, tỷ dụ như vượt qua một khủng hoảng tâm linh, hay muốn được trù phú hơn, muốn tảy sạch bốn thể phàm, rũ bỏ quá khứ, thương yêu chính mình và nhiều đề tài khác nữa.

Điểm chung của bài chú và thỉnh là ta đọc ra tiếng, và đối với một số người tâm linh thì cần phải làm quen với chuyện này. Nhiều người trong chúng ta đã quen bỏ nhiều thời gian tập thiền và sống trong yên lặng trong kiếp này cũng như các kiếp trước. Chúng ta thoải mái quay trở về nội tâm trong khi nói ra lời là một hành động hướng ra ngoài. Lúc đầu, ta hơi cưỡng chống chuyện phải nói ra tiếng, một phần vì chưa quen và phần khác vì tự ngã sẽ tìm cách ngăn cản không cho ta thỉnh ánh sáng tâm linh. Tự ngã biết là nó chỉ có thể sống trong bóng tối của tâm, do đó khi ta thỉnh cầu được thêm ánh sáng, tâm ta bớt bóng tối và tự ngã không còn bao nhiêu chỗ để núp trốn nữa.

Điểm chính ở đây là đối với nhiều người, việc đọc bài chú là cái mắt xích cho tới bây giờ vẫn thiếu sót trong đường thăng tiến tâm linh. Ta có thể dùng lời nói để cắt đứt những sợi dây trói buộc ta vào một tầng mức nào đó trên con đường tâm linh. Nhưng điều ta phải nhận ra rằng chính những sợi dây đó sẽ cưỡng chống lại việc ta dùng lời nói. Như vậy ta phải quyết tâm vượt qua sự dè dặt ban đầu. Một khi ta đã vượt qua sự cưỡng chống ban đầu này, ta sẽ nhận ra rằng dòng ánh sáng ta nhận được sẽ giúp cho tâm ta thấy mọi chuyện sáng tỏ hơn, có nhiều năng lượng hơn và cuối cùng cảm thấy ngay cả sự an lạc và tĩnh lặng nội tâm. Nghe qua thì thấy thật là ngược đời: làm một việc rất năng động mà lại là chìa khóa của tĩnh lặng nội tâm, nhưng khi ta hiểu rằng chính năng lượng hỗn loạn trong trường năng lực của ta đã cướp đi sự an lạc nội tâm, thì ta thấy được tại sao bài chú thực sự là một phương tiện quý giá để thỉnh cầu ánh sáng từ trên xuống.

Ta có thể dùng lời nói để cắt đứt những sợi dây trói buộc ta vào một tầng mức nào đó trên con đường tâm linh. Nhưng điều ta phải nhận ra rằng chính những sợi dây đó sẽ cưỡng chống lại việc ta dùng lời nói.

Ta bắt đầu dùng lời nói như thế nào đây? Giản dị lắm, ta chỉ cần lên trang mạng www.transcendencetoolbox.com . Nơi đây, ta tìm thấy rất nhiều các bài chú và thỉnh cùng với lời hướng dẫn và băng thu âm, chỉ ta cách dùng các bài này.

Tuy nhiên có một điều nên cẩn trọng. Như ta đã biết, có tất cả bảy tia ánh sáng tâm linh. Có ba vị chân sư phục vụ cho mỗi tia ánh sáng với những trách vụ đặc thù. Có tầng lớp các vị Elohim là các chân sư đã tạo ra cõi vật chất, kể cả hành tinh này. Rồi có tầng lớp các Đại thiên thần cho chúng ta những đặc tính tâm linh đặc biệt, chẳng hạn như các vị này có thể bảo vệ chúng ta. Sau đó có tầng lớp các Thượng sư là vị thày giáo chính của mỗi tia sáng.

Như vậy là có tất cả là 21 vị chân sư mà ta có thể thỉnh cho cả bảy tia sáng. Ban đầu ta có thể choáng váng với con số này. Để bớt bối rối, đây là một lời khuyên giản dị. Khi mới bắt đầu, ta cần thỉnh ba dạng ánh sáng tâm linh:

  • Ta cần tia sánh sáng thứ nhất để được bảo vệ, và tốt nhất là dùng bài chú Đại thiên thần Michael hay bài thỉnh Đại thiên thần Michael
  • Ta cần tia sáng thứ tư để cắt đứt các dây trói buộc ta với tâm thức đại chúng hay tà lực. Để đạt được mục đích này, bài chú Elohim Astrea là mãnh lực nhất.
  • Ta cũng cần thỉnh ngọn lửa tím để chuyển hóa năng lượng tha hóa đã xâm nhập vào trường năng lượng của ta. Để đạt mục đích này, ta có thể dùng bất cứ bài chú nào của tia sáng thứ bảy, ví dụ như bài chú thày Saint Germain. Hay ta có thể dùng một trong các bài thỉnh chú trọng vào một vấn đề đặc biệt như tha thứ, biết ơn hay vượt lên trên quá khứ.

Chỉ cần làm theo một chương trình giản dị là thỉnh tia sáng thứ nhất, thứ tư và thứ bảy, tùy vào thời gian ta bỏ vô đó, tương đối không lâu sau ta sẽ cảm thấy mình không còn chìm đắm trong năng lượng tiêu cực nữa. Bây giờ, đầu của ta đã ngoi lên khỏi mặt nước. Ta bắt đầu nhìn được chung quanh, hay nói đúng hơn ta có thể nhìn vào nội tâm. Lúc này ta nhận được rõ ràng hơn chỉ thị của chân ngã hay của vị chân sư đang làm việc riêng với ta. Và chính những giáo huấn nội tâm này sẽ giúp ta bước lên một mức cao hơn trên con đường tâm linh.

Thật ra ta vẫn nhận được những giáo huấn nội tâm này; nhưng vấn đề là trường năng lượng của ta có đủ yên lặng không để ta nhận được chúng trong tâm ý thức của ta. Một trong những lợi lạc chính yếu của lời nói khi ta đọc bài chú và thỉnh là nó giúp ta ngay đúng vào trọng điểm này. Nó giúp cho các giáo huấn nội tâm dễ dàng đi xuyên qua năng lượng của vô thức để tới được phần tâm ý thức của ta. Nó thật sự giúp cho cuộc sống của ta đi vào một vòng xoáy lên cao.

6.7. Một chương trình thiết thực 

Con đường tâm linh thật sự rất cá biệt. Hoàn cảnh mỗi người độc nhất vô nhị cho nên rất khó đưa ra một lời khuyên thích ứng với mọi người đọc. Một số hành giả sẽ biết ngay là phương pháp thỉnh ánh sáng đúng là điều họ cần và họ sẽ dùng phương pháp này với sự quyết tâm lớn. Cá nhân tôi đã làm như thế cách đây gần 30 năm khi tôi được nghe về các bài chú này lần đầu.

Lúc đầu tôi có do dự vì trước đó tôi đã tập thiền nhiều năm. Nhưng sau khi tôi vượt qua sự cưỡng chống ban đầu, rất mau chóng sau đó, tôi cảm thấy thời giờ tôi bỏ ra để thỉnh ánh sáng đã đem lại cho tôi lợi nhuận vĩ đại. Tôi có thể chia ra làm 3 loại tác dụng khác nhau:

  • Tôi cảm thấy được là thỉnh sự bảo vệ tâm linh của Đại thiên thần Michael có tác dụng niêm phong trường năng lượng của tôi không bị sự xâm nhập của năng lượng tiêu cực. Tôi bắt đầu cảm thấy mình bình an hơn, tôi vượt qua được tâm xáo trộn, lo lắng và căng thẳng. Tôi cảm thấy tư tưởng của tôi là của tôi, chúng nó không còn khuynh hướng chạy loanh quanh, tìm cách giải quyết chuyện này hay chuyện kia.
  • Tôi cảm thấy là thỉnh ánh sáng của Elohim Astrea giúp tôi cắt bỏ những sợi dây ràng buộc tôi với năng lượng thấp kém hay ngay cả tà lực. Tôi cảm thấy bình an hơn một cách chung chung, nhưng tác dụng kỳ diệu nhất là nó giúp tôi ngủ nhanh. Phần lớn cuộc đời của tôi, tôi ngủ rất khó, vì cái trí tôi nó cứ làm việc không ngừng. Do đó tôi cứ lăn qua lăn lại 2, 3 giờ đồng hồ trên giường cho tới khi kiệt sức thì lăn ra ngủ. Hậu quả là tôi không nghỉ ngơi đủ và buồn ngủ trong ngày. Sau khi tôi bắt đầu đọc bài chú Astrea một cách nghiêm chỉnh, chỉ hai ba tuần lễ sau là tôi đi vào giấc ngủ trong vòng 15 phút. Kết quả thật lớn lao trên cuộc sống của tôi.
  • Khi tôi thỉnh năng lượng của tia sáng thứ bảy là ngọn lửa tím, tôi cảm thấy những vết thương lòng trong quá khứ của tôi bắt đầu tan đi. Có vài ba hoàn cảnh trong thời niên thiếu của tôi lâu lâu hiện về trong tâm. Lúc ấy tôi cảm thấy đau điếng vì mãnh lực của cơn đau nguyên thủy vẫn còn trọn vẹn như xưa. Vậy mà chỉ sau vài tuần thỉnh ngọn lửa tím với tất cả sự chân thành, một hôm kia tôi khám phá ra rằng tôi có thể nhớ lại những hoàn cảnh này mà không cảm thấy đau lòng. Bởi vì tôi không có làm gì đặc biệt để tạo ra sự thay đổi này, cách giải thích lô-gíc nhất là ngọn lửa tím đã chuyển hóa năng lượng tồn trữ trong thể cảm xúc của tôi. Do đó, khi tôi nghĩ đến những hoàn cảnh xưa, chẳng còn cái bình chứa những năng lượng tha hóa có thể tràn ngập và khuấy động cảm xúc của tôi nữa.

Dựa trên kinh nghiệm cá nhân, tôi xin đề nghị một chương trình giản dị nhưng hữu hiệu cho những ai muốn bắt đầu một cách vững vàng trên con đường thỉnh ánh sáng tâm linh. Dưới đây, có ba bài chú mà tôi đã nhận được thẳng từ các chân sư thăng thiên. Có bài chú Đại thiên thần Michael để xin được bảo vệ, bài chú Elohim Astrea để cắt đứt dây trói buộc ta với tâm thức đại chúng và bài chú thày Saint Germain để chuyển hóa năng lượng tha hóa.

Tôi đề nghị bạn tự hứa với mình với tâm kiên cường là bạn sẽ đọc các bài chú này trong ba tháng và sau đó lượng định kết quả. Tôi đề nghị bạn đọc bài chú Đại thiên thần Michael trong 15 phút buổi sáng, sau đó đọc bài chú Saint Germain 15 phút. Buổi tối, bạn đọc bài chú Astrea 15 phút, sau đó đọc bài chú Saint Germain 15 phút. Tôi biết rằng đối với nhiều người bỏ ra một giờ đồng hồ mỗi ngày có vẻ rất là nhiều, nhưng nếu bạn làm thử với tất cả tấm lòng chân thành, tôi tin chắc rằng bạn sẽ gặt hái kết quả lớn lao đến độ bạn muốn tiếp tục làm hoài. Thật sự, đây là phương pháp hữu hiệu nhất mà tôi biết được để gia tốc sự phát triển tâm linh của bạn và neo bạn lại vững chắc trên con đường tâm linh mà các chân sư đã tặng cho bạn.

Tôi khuyến khích bạn thăm viếng trang mạng www.transcendencetoolbox.com

Nơi đây bạn có thể nghe bản thu âm đọc bài chú. Điều này quan trọng vì bạn sẽ học được cách phát âm và dùng nhịp điệu đúng đắn. Bạn cũng tìm thấy ở đây thông tin để vào cửa hàng trên mạng của chúng tôi để mua và tải xuống các bài thu âm đọc bài chú nhiều lần bằng anh ngữ. Đọc bài chú theo bản thu thanh là cách hay nhất để học cách kiện toàn nghệ thuật dùng âm thanh thiêng liêng. Tôi cho rằng đây là một trong những đầu tư tốt nhất vào sự phát triển tâm linh của bạn mà bạn làm được từ trước tới giờ.

Xin lưu ý là tôi không có ý nói rằng chương trình tôi đề nghị ở trên là tất cả mọi thứ bạn cần. Chương trình này là một bước khởi đầu rất tốt để bạn thông sạch những khối chướng ngại tệ hại nhất che lấp cái nhìn tâm linh của bạn và làm nghẽn dòng chảy năng lượng. Khi có thêm kinh nghiệm, bạn sẽ muốn thử nghiệm một số bài thỉnh chất vấn các tin tưởng hạn chế bạn và cùng lúc thỉnh ánh sáng. Và lẽ dĩ nhiên, bạn cũng muốn học giáo lý của các chân sư thăng hoa. Bạn tìm thấy được rất nhiều các bài giáo lý này trên các trang mạng của tôi.

Tôi mạnh mẽ khuyên bạn nên bắt đầu đọc ngay các bài chú trong khi bạn tiếp tục đọc cuốn sách này. Như tôi đã nói nhiều lần, chỉ học thôi thì không đủ đâu. Trừ khi bạn bắt đầu thỉnh ảnh sáng, cuốn sách này cũng chỉ là một hoạt động trí năng khác sẽ không nâng cao tâm thức bạn và không cho bạn những kết quả mà bạn mong muốn. Bạn hãy nhớ, hai chân của tinh tấn là học hỏi và thỉnh ánh sáng tâm linh.

(tiếp theo là các bài cầu chú 1.02, 4.01 và , 7.02, và 7.07)

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 5 – Những câu hỏi căn bản về cái ta

Nếu tâm bạn cởi mở khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ được coi là người đang đi tìm hoặc người đi tìm tâm linh. Tôi nhớ rằng, ngay cả khi còn nhỏ, tôi luôn muốn có câu trả lời cho những câu hỏi lớn của cuộc đời. Tôi muốn biết thế giới thực sự vận hành như thế nào và tôi muốn biết tại sao tôi ở đây. Giản dị là tôi không thể sống mà không có câu trả lời cho những câu hỏi này, vì vậy tôi đã tiếp tục tìm kiếm cho đến khi tôi tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên – và tôi vẫn luôn mở lòng cho những câu trả lời sâu sắc hơn. Bạn có thể đã trải qua cuộc hành trình của chính mình đã dẫn bạn đến điểm này.

Những gì tôi sẽ làm trong chương này là xem xét những câu trả lời của các chân sư thăng thiên cho những câu hỏi lớn trong cuộc sống, thường được gọi là những câu hỏi căn bản. Tôi không nói rằng đây sẽ là câu trả lời cuối cùng, vì các chương sắp tới sẽ tiết lộ các tầng lớp và sắc thái sâu hơn. Nhưng chúng tôi vẫn có thể gợi ý những câu trả lời vượt xa những gì chúng ta tìm thấy được trong hầu hết các giáo lý của tôn giáo hoặc tâm linh.

5.1. Tôi là ai? Cái ta là gì?

Như chúng ta đã thấy, khoa học đã tiết lộ rằng năng lượng là một tầng thực tế sâu hơn vật chất. Các thiên hà và lò nướng bánh đều được tạo ra từ các nguyên tử. Tuy nhiên, các thiên hà và lò nướng bánh mì không tạo ra nguyên tử; chính các nguyên tử tạo ra các thiên hà và lò nướng bánh. Nguyên tử được tạo ra từ các hạt cơ bản, và các hạt này được tạo ra từ các sóng năng lượng. Nói cách khác, vật chất không tạo ra năng lượng; mà chính năng lượng tạo ra vật chất.

Chúng ta đều biết rằng bộ não của chúng ta được tạo ra từ vật chất và suy nghĩ của chúng ta rõ ràng được tạo ra từ các sóng năng lượng. Vì vậy, nếu cho rằng chất xám giữa hai tai của chúng ta lại có thể tạo ra ý thức thì không hợp lý chút nào. Ý thức có thể được xem như một dòng chảy đi vào thế giới vật chất từ một cõi cao hơn. Tâm của chúng ta – không ít thì nhiều – đều là cánh cửa mở cho dòng ý thức tuôn chảy vào. Rõ ràng, bộ não vật lý của chúng ta thực sự có thể thay đổi trạng thái ý thức của chúng ta, và bộ não thực sự tạo ra nhiều thứ mà chúng ta thường gọi là suy nghĩ. Tuy nhiên, tác động của bộ não giống như các miếng phin lọc màu mà bạn đặt trước ánh đèn sân khấu. Chúng không tạo ra ánh sáng trắng; chúng chỉ thay đổi màu sắc.

Các chân sư thăng thiên phân biệt giữa tâm hay ý thức và những suy nghĩ và cảm xúc. Tâm là hộp chứa và tư tưởng là vật chứa trong hộp. Bộ não thực sự có thể ảnh hưởng đến suy nghĩ của chúng ta, thậm chí tạo ra một số suy nghĩ, nhưng bộ não không tạo ra ý thức. Bạn không phải là suy nghĩ của bạn; bạn là tâm của bạn, là hộp chứa đựng cái ta của bạn.

Vì vậy, bạn không phải là một sinh thể vật chất và sự tự nhân biết của bạn không phải là sản phẩm của vật chất trong bộ não của bạn. Thay vào đó, bạn là một sinh thể phi vật chất chỉ sử dụng cơ thể và bộ não với hai mục đích, đó là trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong và thể hiện khả năng sáng tạo của bạn trong thế giới này.

5.2. Cái ta đến từ đâu?

Các chân sư thăng thiên nói rằng chúng ta là những sinh thể tâm linh đã xuống cơ thể vật chất của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta không phải là những sinh thể tách biệt; chúng ta là phần nối dài của các sinh thể ở trong cõi tâm linh. Những sinh thể này đã tạo ra thế giới vật chất và những cấu trúc cơ bản trong thế giới này. Tuy nhiên, họ đã sáng tạo từ bên ngoài. Sau đó, chúng ta được cử đến đây để tiếp tục quá trình sáng tạo từ bên trong – chúng ta được tạo ra để thành người đồng sáng tạo với cha mẹ tâm linh của chúng ta.

Bản sắc khiến bạn là một cá thể độc đáo là sự nối dài của cái ta cao hơn hay cái ta tâm linh của bạn.. Chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn cái ta tâm linh này trong chương sau. Tất nhiên, cha mẹ tâm linh của chúng ta là những đứa con hoặc phần nối dài của các sinh thể tâm linh ở một bầu cõi cao hơn, và Chuỗi Sinh thể này đi ngược trở lên tới Đấng Sáng tạo.

Bản sắc khiến bạn là một cá thể độc đáo là sự nối dài của cái ta cao hơn hay cái ta tâm linh của bạn.

Các chân sư thăng thiên nói lên điều mà một số nhà thần bí đã nói từ hàng ngàn năm qua, đó là thực sự chỉ có một cái Ta, cái Ta của Đấng Sáng tạo. Mọi thứ đều được tạo ra từ cái Ta duy nhất hay cái tâm duy nhất này, và do đó không có gì thực sự tách rời khỏi cái tâm duy nhất đó. Chúng ta đã được ban cho một phần hay một đốm sáng của cái tâm duy nhất này, và đây là điều cho chúng ta sự tự nhận biết. Chúng ta có tiềm năng mở rộng sự tự nhận biết này trong khi vẫn giữ được cá thể của mình, nhưng chúng ta không thể làm điều đó với tư cách là những sinh thể tách biệt. Chúng ta chỉ có thể làm điều này bằng cách xem mình là một phần của tổng thể vĩ đại hơn –  của tâm duy nhất.

Ở cấp độ tổng thể, bạn được tạo ra như một phần nối dài của Bản thể của Đấng sáng tạo nhưng bạn có cá thể riêng. Bạn được tạo ra với một tự nhận biết có tính cách cục bộ, hạn hẹp như một điểm và mục đích của bạn là mở rộng sự tự nhận biết này, cho đến khi bạn đạt đến mức độ nhận biết giống như Đấng Sáng tạo đã tạo ra bạn. Lúc đó, bạn có thể bước vào cái Tất cả, hoặc bạn có thể trở thành một Đấng sáng tạo, tạo ra một thế giới hình tướng riêng của bạn. Đây là câu trả lời, một cách tổng quát, tại sao bạn hiện hữu như một cá thể có tự nhận biết.

Ở một cấp độ khác, chúng ta có thể xem xét lý do tại sao bạn ở trong thế giới vật chất này và mục đích của bạn khi đến đây là gì. Ở cấp độ này, bạn là một phần nối dài của cái ta tâm linh của bạn. Bạn được tạo ra để phục vụ như một người đồng sáng tạo với cái ta tâm linh của bạn và cha mẹ tâm linh của bạn. Bạn có sứ mệnh giúp nâng cao sự rung động của cõi vật chất, cho đến khi toàn cõi có thể thăng hoa và trở thành một phần của cõi tâm linh.

Tuy nhiên, mục đích thực sự chính là sự phát triển sự tự nhận biết của bạn. Thế giới vật chất chỉ đơn giản là một môi trường được thiết kế như một sân khấu hoặc phòng thí nghiệm, trong đó những sinh thể tự nhận biết có thể tăng trưởng ý niệm bản ngã của mình. Cha mẹ tâm linh của chúng ta đã sắp đặt một môi trường bên ngoài, và chờ đợi chúng ta dùng môi trường này để mở rộng nhận thức về khả năng sáng tạo, hay đúng hơn là đồng sáng tạo của mình.

Sau đó, chúng ta có thể dần dần làm chủ được môi trường của mình, và như vậy chúng ta tiếp tục xây dựng trên nền tảng đã được cha mẹ tâm linh của chúng ta định ra. Khi chúng ta đạt được khả năng làm chủ này, thì tâm chúng ta sẽ làm chủ vật chất, và khi quá trình này hoàn tất, chúng ta có thể thăng lên cõi tâm linh và trở thành những chân sư thăng thiên. Từ đó, chúng ta có thể chọn chuyển sang các cõi học tập khác, hoặc chúng ta có thể ở lại với trái đất để giúp những sinh thể chưa thăng thiên phát triển.

5.3 Ta liên hệ với Thượng đế ra sao?

Như đã nói rõ, các chân sư thăng thiên nói rằng có một Thượng đế, nhưng Thượng đế của các chân sư thăng thiên rất khác với hình ảnh Thượng đế truyền thống của Cơ đốc giáo. Đấng Sáng tạo không giống chút nào vị Thượng đế xa cách, giận dữ và hay phán xét, sẽ tống chúng ta xuống địa ngục nếu bị chúng ta làm phật lòng. Tuy rằng các chân sư thăng thiên ít khi đề cập tới Cựu Ước kinh, họ nói rằng hai điều răn đầu tiên trong số mười điều răn cho chúng ta một gợi ý quan trọng về một cái nhìn đúng hơn về Thượng đế.

Điều răn thứ nhất nói: “Trước mặt ta, ngươi không được có thần nào khác”, có nghĩa là chúng ta không bao giờ cho phép bất kỳ “thần” (hay tôn giáo) do con người tạo ra đứng giữa chúng ta và trải nghiệm trực tiếp, thần bí về đấng Thượng đế tối thượng. Điều này gắn liền với điều răn thứ hai, có nội dung: “Ngươi không được mang vào mình bất kỳ hình tượng khô chết nào.” Các chân sư nói rằng điều này không chỉ đề cập đến các thần tượng làm bằng gỗ, đá hoặc vàng. Ý nghĩa sâu xa hơn là bất kỳ hình ảnh tâm linh nào mô tả hình tướng của Thượng đế. Theo các chân sư thăng thiên, Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, nhưng như vậy, Đấng Sáng tạo hoàn toàn vượt ra ngoài mọi hình tướng.

Con người chúng ta có khuynh hướng sử dụng những gì chúng ta thấy được trong thế giới hữu hình để suy luận về những điều trong thế giới vô hình. Điều này đặc biệt không hữu ích khi nói đến Thượng đế. Theo nghĩa đen, không có gì – không có “vật” nào – trong thế giới hình tướng có thể mô tả chính xác Đấng Sáng tạo vượt ra ngoài hình tướng. Tuy nhiên, nếu tâm của chúng ta dính chặt vào một hình ảnh tư tưởng nào đó về Thượng đế, thì điều này sẽ khiến tâm chúng ta không có được một trải nghiệm thần bí về Đấng Sáng tạo thật. Bản chất của một trải nghiệm thần bí là nó đưa chúng ta vượt ra khỏi cái hộp tư duy hiện tại của chúng ta. Vì vậy, nếu chúng ta chỉ muốn một trải nghiệm thần bí phù hợp với những hình ảnh và niềm tin bên trong cái hộp tư duy của chúng ta, thì tâm của chúng ta không có tự do để có một trải nghiệm bên ngoài chiếc hộp.

Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, nhưng như vậy, Đấng Sáng tạo hoàn toàn vượt ra ngoài mọi hình tướng.

Quả thực con người có thể kinh nghiệm Bản thể của đấng Đấng Sáng tạo. Tuy nhiên, một khi đã có kinh nghiệm này, hiển nhiên việc tìm cách mô tả Đấng Sáng tạo qua lời nói hoặc hình ảnh của thế gian là điều hoàn toàn vô nghĩa.

Mối quan hệ của bạn với Đấng sáng tạo là gì? Bạn là một phần nối dài của Đấng Sáng tạo, do đó bạn là một phần của toàn bộ Bản thể của Đấng Sáng tạo. Điều này có nghĩa là Thượng đế thật không phán xét bạn. Đấng Sáng tạo đã ban cho bạn một phần của Bản thể của chính ngài, và sau đó ngài đã cho bạn hoàn toàn tự do để làm gì bạn muốn với phần đó. Một vị Thượng đế đầy tính phán xét và kiểm soát sẽ không bao giờ cho bạn tự do như thế. Vì vậy, Thượng đế thật thương yêu bạn với một tình thương hoàn toàn vượt lên trên tình thương có điều kiện mà hầu hết chúng ta chỉ biết đến trên trái đất này. Một Đấng Sáng tạo vượt lên trên hình tướng, thương yêu bạn với một tình thương vô điều kiện, phải chăng đây là một điều hoàn toàn hợp lý?

5.4 Ta sẽ đi về đâu; chuyện gì xảy ra sau khi ta chết?

Một lần nữa, câu hỏi này có thể được trả lời ở nhiều mức độ. Trong cái nhìn rộng lớn, bạn là một đấng sáng tạo đang thành. Do đó, bạn đang ở trong tiến trình mở rộng tự nhận biết của mình, cho đến khi bạn đạt đến mức độ của một đấng Sáng tạo.

Tuy nhiên, ở mức độ trước mắt hơn, nhiệm vụ của bạn là làm chủ được môi trường vũ trụ vật chất, cụ thể là hành tinh trái đất. Một khi bạn làm chủ được rồi, bạn có thể thăng lên cõi tâm linh và trở thành một chân sư thăng thiên. Vì vậy, mối quan tâm trước mắt là làm thế nào  làm chủ khả năng đồng sáng tạo của bạn và hội đủ điều kiện để thăng thiên, điều mà chúng tôi sẽ đề cập trong các chương tới.

Làm chủ môi trường thực sự có nghĩa là gì? Các chân sư thăng thiên nói rằng Giê-su, và nhiều vị thầy tâm linh khác, đã đầu thai để chứng minh tiềm năng mà tất cả chúng ta đều có. Cái gọi là phép lạ của Giê-su hoàn toàn không phải là phép lạ. Chúng là những minh chứng về khả năng tâm làm chủ vật chất mà tất cả chúng ta đều có thể đạt được, khi chúng ta đi trên con đường tâm linh đưa tới thăng thiên. Đó là lý do tại sao Giê-su nói rằng những ai tin thầy sẽ làm những việc mà thầy đã làm, mà còn làm giỏi hơn nữa.

Dựa trên điều này, hầu hết chúng ta có thể nhìn vào cuộc sống của chính mình và nói: “Chà, tôi vẫn chưa tới mức đó đâu.” Và như thế chúng ta tự hỏi chuyện gì xảy ra cho mình sau khi cơ thể chúng ta chết đi. Các chân sư thăng thiên nói rằng tất nhiên chúng ta không chết khi cơ thể chúng ta chết. Chúng ta, với tư cách là những sinh thể tự nhận biết, chắc chắn tồn tại sau cái chết của thân xác và bước vào một cõi khác. Điều này dẫn đến câu hỏi: “Nếu bạn chưa sẵn sàng thăng thiên khi cơ thể bạn chết, thì điều gì sẽ xảy ra?”

Các chân sư thăng thiên trả lời rằng bạn sẽ được cơ hội quay trở lại trong một cơ thể vật chất khác, và quá trình này sẽ tiếp tục trong nhiều kiếp nếu cần thiết, cho đến khi bạn đủ điều kiện để thăng thiên. Đây là quá trình thường được gọi là luân hồi.

Các chân sư nói rằng khi trái đất lần đầu tiên được tạo ra, nó ở trạng thái cao hơn và thuần khiết hơn ngày nay. Những làn sóng sinh thể đầu tiên trên trái đất đã xuống đầu thai trong trạng thái tâm thức cao hơn những gì được coi là “bình thường” ngày nay. Kết quả là họ chỉ cần một kiếp để đủ điều kiện thăng thiên.

Sau khi đa số cư dân trên trái đất rơi xuống trạng thái tâm thức thấp hơn mà chúng ta thấy ngày nay, sự mất cân bằng hiện ra dưới nhiều dạng, và kết quả là con người không thể duy trì một cơ thể vật lý cho suốt quãng đời khởi thủy của mình. Vì lý do này và vì  tâm thức thấp kém khiến cho việc hội đủ điều kiện thăng thiên khó khăn hơn, hầu hết chúng sinh không thể thăng thiên trong một kiếp nữa. Như vậy, luân hồi trở thành một điều tất yếu.

5.5. Tại sao luân hồi quan trọng

Một lý do khiến luân hồi quan trọng là vì nó trả lời một số câu hỏi khó trả lời nếu không có luân hồi. Hầu hết những người quan tâm đến tâm linh có lẽ đều biết rằng tâm lý con người rất phức tạp, nhưng sự phức tạp này từ đâu đến?

Theo triết học duy vật thì trước cơ thể vật chất không có gì c, vì vậy cách giải thích phổ thông là linh hồn chúng ta là sự kết hợp của những đặc tính di truyền và những ảnh hưởng từ môi trường. Tuy nhiên, điều này không giải thích được tại sao một số người có tâm lý phức tạp hơn nhiều so với người khác hoặc lại có một số người ác hơn nhiều so với những người khác?

Ví dụ, hãy nhìn vào một số người ác độc nhất trong lịch sử. Nhiều người trong số họ không có cha mẹ ác độc và họ không trải qua những chấn thương tâm lý lớn trong thời thơ ấu. Một lời giải thích hiển nhiên là những người này là tái sinh của những sinh thể già hơn đã phát triển các vấn đề tâm lý trong nhiều kiếp trước đó. Điều này cũng giải thích tại sao bất kỳ người nào bắt đầu làm việc với tâm lý của mình sẽ khám phá ra một sự phức tạp sâu rộng, với nhiều tầng của vô thức.

Đối với những người chân thành tìm kiếm con đường dẫn tới trạng thái ý thức cao hơn, sự tu tập của chúng ta sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta thừa nhận rằng mình là những sinh thể rất phức tạp bởi vì chúng ta đã tiến hóa qua nhiều kiếp sống. Vì vậy, chúng ta không thể chờ đợi rằng mình có thể tiến bộ trên con đường tu mà không cần phải đối mặt với nhiều tầng lớp của tâm lý mình. Và điều này giúp chúng ta phát triển một cách tu tập thiết thực và dài hạn, thay vì trở thành con mồi ngon cho những phương pháp tu nhanh chóng có trên thị trường tâm linh. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau, khi xem xét kỹ hơn con đường tâm linh, nhưng điều quan trọng là phải nhận thức rằng có luân hồi khi chúng ta bắt đầu nghiên cứu các khía cạnh thiết thực của con đường tâm linh.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 4 – Thế giới hình tướng được sáng tạo như thế nào?

Trong chương này chúng ta sẽ xem xét cái nhìn cơ bản về vũ trụ học của các chân sư thăng thiên, nghĩa là vũ trụ này được sáng tạo như thế nào, tại sao nó được sáng tạo và nó vận hành theo các quy luật cơ bản nào. Tôi biết rằng đề tài này có vẻ lý thuyết và trừu tượng cho một số độc giả, nhưng nó sẽ cho ta một nền móng giúp ta giải thích bản chất thật của cái ta và tiềm năng của cái ta là cánh cửa mở cho một uy lực cao hơn. Nó cũng sẽ giúp ta hiểu rõ hơn con đường tu thực tế được vạch ra trong phần sau.

4.1. Cấu trúc thứ bậc của vũ trụ

Khoa học đã cho ta thấy là vũ trụ có một cấu trúc thứ bậc. Tất cả mọi thứ ở cấp vĩ mô đều được cấu tạo bằng các phân tử, và do đó chúng chỉ có thể  được sáng tạo trong cái khung của các quy luật  điều hành chức năng của các phân tử. Tuy nhiên phân tử lại được làm bằng các nguyên tử, và như vậy chịu ảnh hưởng của những quy luật điều hành sự vận hành của các nguyên tử và tiếp tục như thế ở các tầng cấp sâu hơn. Các chân sư thăng thiên đồng ý với cấu trúc thứ bậc mà khoa học khám phá thấy, nhưng họ đi xa hơn thế rất nhiều, và rốt cuộc đi tới đấng Sáng tạo, chính là đỉnh của kim tự tháp thứ bậc.

Tuy nhiên, Đấng Sáng tạo được mô tả bởi các thầy thăng thiên rất khác với hình ảnh truyền thống của Thuợng đế. Nó đặc biệt khác với hình ảnh độc thần của một vị Thượng đế toàn nam, ngồi trên ngai vàng lớn màu trắng và phán xét loài người, đưa một số người đến sự đày đọa vĩnh viễn trong địa ngục.

Các thầy thăng thiên phân biệt giữa thế giới mà chúng ta đang sống và thế giới vượt lên trên thế giới đó. Họ nói rằng thế giới của chúng ta là “thế giới của hình tướng”, bởi vì mọi thứ trong đó đều có hình tướng làm cho nó khác biệt với các hình tướng khác. Đây là điều khiến chúng ta có thể bắt đầu với một sự tự nhận biết hạn chế và sau đó phát triển lên mức độ tự nhận biết cao hơn. Nó thậm chí khiến chúng ta có thể tin rằng chúng ta là những sinh thể riêng biệt, có nghĩa là chúng ta tách biệt khỏi Thượng đế, khỏi thế giới vật chất và khỏi những người khác.

Tuy nhiên, ngay cả điều này cũng có thể giúp chúng ta tăng trưởng sự tự nhận biết. Lý do là chúng ta phát triển sự tự nhận biết bằng cách nhận ra một cách ý thức là chúng ta đang ở trong một trạng thái hạn chế, rằng chúng ta hơn trạng thái đó, và sau đó có một lựa chọn ý thức muốn vươn lên một trạng thái cao hơn. Vì vậy, cho dù trạng thái hiện tại của chúng ta có hạn chế đến đâu, nó vẫn có thể là nền tảng cho sự phát triển của chúng ta.

4.2. Cái vượt lên trên thế giới hình tướng

Một trong những vấn đề cơ bản đối với các chân sư thăng thiên là con người chúng ta đã quá quen với cách nhìn cuộc sống dựa trên thế giới hình tướng – cụ thể là vũ trụ vật chất – và chúng ta đã quá quen với việc giao tiếp bằng lời nói. Rõ ràng từ ngữ được phát triển dựa trên một thế giới của các hình tướng riêng biệt và chúng phù hợp nhất để mô tả các hình tướng tách biệt rõ ràng với các hình tướng khác. Vì các giác quan của chúng ta được thiết kế để hoạt động với sự tương phản, vì vậy từ ngữ được tạo ra và rất phù hợp để mô tả sự khác biệt được xác định rõ ràng hoặc sự khác biệt theo cái nhìn đường thẳng.

Thật khó dùng từ ngữ để mô tả phần thực tại nằm vượt lên trên thế giới hình tướng của chúng ta. Do đó, các thầy đã ít nói về nó, nhưng họ đã đặt cho nó một cái tên: “Tất cả”. Tâm đường thẳng ngay lập tức muốn hỏi thế giới này đến từ đâu, nó được tạo ra khi nào, ai đã tạo ra nó và tại sao. Tuy nhiên, đây là những câu hỏi chỉ có ý nghĩa trong một thế giới có nhiều hình tướng khác nhau, vì chỉ trong một thế giới như vậy, người ta mới có thể tạo ra một dòng thời gian theo đường thẳng. Cái Tất Cả luôn hiện hữu và do đó không có bắt đầu hay kết thúc. Đó là một thế giới không theo đường thẳng, và do đó rất khó hiểu đối với những sinh thể trong một thế giới đường thẳng.

Hình 5 – Khoảng trống không thuộc đường thẳng

Điều quan trọng cần biết là trong Tất Cả không thể có các hình tướng tách biệt. Vì vậy, trong Tất Cả không thể làm những gì chúng ta đang làm bây giờ, cụ thể là bắt đầu với một nhận biết hạn chế và sau đó phát triển tới một trạng thái tâm thức rộng lớn hơn. Do đó, đấng tạo ra thế giới hình tướng của chúng ta đã chọn tạo ra thế giới của chúng ta như một cách để chính ngài phát triển và như một cách để chúng ta phát triển. Để làm được điều này, trước tiên, Đấng Sáng tạo của chúng ta phải tạo ra một bầu cõi có các đặc điểm hơi khác với cái Tất Cả.

4.3. Thế giới của chúng ta được sáng tạo như thế nào

Mỗi thế giới hình tướng được tạo ra bởi một sinh thể, có mức độ tâm thức của một Đấng Sáng tạo. Một đấng Sáng tạo bắt đầu quá trình tạo ra một thế giới hình tướng bằng cách đặt mình ra khỏi Tất cả. Vì chúng ta phải sử dụng các từ ngữ và khái niệm đường thẳng, chúng ta có thể nói rằng đấng Sáng tạo xác định một ranh giới bầu cõi chung quanh chính người. Người tạo ra một bầu cõi tồn tại bên trong Tất Cả, nhưng không có cùng mức độ rung động như Tất Cả. Nó được đặt riêng biệt khỏi toàn bộ.

Hình 6 – Điểm dị thường

Bước tiếp theo, đấng Sáng tạo tự rút lui khỏi không gian bên trong ranh giới này. Đấng Sáng tạo tự rút mình vào một điểm dị thường, và phần còn lại của bầu cõi trở thành một khoảng trống. Một lần nữa, chúng ta có thể nói theo từ ngữ đường thẳng rằng Tất Cả chứa đầy một dạng năng lượng rất cao, điều này không thể tạo ra sự phân chia hoặc tạo ra ấn tượng rằng một thứ gì đó tách rời khỏi Tất Cả. Để tạo ra một thế giới với các hình tướng dường như riêng biệt, trước tiên đấng Sáng tạo phải tạo ra một khoảng không không có năng lượng và không có hình tướng. Nó trống không.

Bước tiếp theo, Đấng Sáng tạo tạo ra năng lượng cơ bản sẽ được sử dụng để xây dựng thế giới hình tướng. Các chân sư gọi nó là ánh sáng Mẫu-Vật hay ánh sáng Mẹ. Sở dĩ gọi nó với cái tên nghe có vẻ nữ tính là vì để tạo ra một thế giới với những hình tướng riêng biệt, Đấng Sáng tạo phải xác định hai lực hoặc nguyên tố riêng biệt.

Đối với bất cứ thứ gì được tạo ra, cần phải có một lực lan ra hoặc bành trướng. Đây là lực mà Đấng Sáng tạo sử dụng để phóng chiếu ra thứ gì đó từ điểm dị thường ở trung tâm của khoảng trống không. Tuy nhiên, nếu lực lan ra này không được cân bằng với lực co lại, thì không có hình tướng nào có thể được tạo ra hoặc duy trì.

Để hiểu điều này, hãy nhìn vào khái niệm về Vụ nổ lớn. Các nhà khoa học nói rằng việc tạo ra vũ trụ vật chất bắt đầu khi tất cả năng lượng bị nén vào một điểm dị thường và sau đó được giải phóng trong một vụ nổ khổng lồ. Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, một vụ nổ là một lực lan ra ngoài dẫn đến sự bành trướng mà không hình thành các cấu trúc có tổ chức. Vì vậy, mô hình Vụ nổ lớn chỉ có ý nghĩa nếu có một lực co lại để cân bằng với lực lan tỏa ra. Chỉ bằng cách cân bằng sự lan tỏa, một hình tướng đặc thù mới có thể được tạo ra và duy trì theo thời gian.

Hình 7 – Bầu cõi đầu tiên trong trống không

Các thầy nói rằng Đấng Sáng tạo đã định ra một phần nối dài của Bản thể của mình, cụ thể là năng lượng vũ trụ cơ bản sẽ được sử dụng làm vật liệu xây dựng cho thế giới hình tướng. Điều này đã tạo ra cực đầu tiên, cụ thể là cực giữa Đấng Sáng tạo, đại diện cho yếu tố nam tính, lan tỏa và ánh sáng Mẫu-Vật, đại diện cho yếu tố nữ tính, co lại. Điều này hơi giống với các khái niệm được tìm thấy trong một số tôn giáo, chẳng hạn như các khái niệm của Lão giáo về Âm và Dương.

Một cách khác để nói điều này là lực lan ra đại diện cho ý thức. Một sinh thể tự nhận biết có thể hình thành một hình tư tưởng về hình tướng mà y muốn tạo ra. Sau đó, y có thể gán hoặc phóng chiếu hình tư tưởng này lên ánh sáng Mẫu-Vật, ánh sáng này sau đó khoác lên cái khuôn đúc của hình tướng được hình dung. Do đó, chúng ta có thể nói rằng yếu tố tích cực của sự sáng tạo là ý thức, nó làm cho yếu tố thụ động là năng lượng, khoác lên những hình tướng đặc thù.

Sau khi đã định ra ánh sáng Mẫu-Vật, Đấng Sáng tạo phóng chiếu ánh sáng Mẫu-Vật ra khỏi điểm dị thường, và ngài tạo ra bầu cõi đầu tiên trong khoảng không. Khoảng không trống rỗng, nhưng bầu cõi đầu tiên chứa năng lượng rung động trong một quang phổ nhất định.

4.4. Sự sáng tạo các sinh thể có tự nhận biết

Sau khi đã tạo ra bầu cõi đầu tiên này, đấng Sáng tạo sau đó xác định một số cấu trúc trong bầu cõi. Ngài đã làm như vậy bằng cách hình thành một hình ảnh trong tâm ngài và phóng chiếu hoặc gán nó lên trên ánh sáng Mẫu-Vật. Nói một cách sơ sài, chúng ta có thể so sánh ánh sáng Mẫu-Vật với một màn hình phim. Bản thân nó không có hình ảnh, nhưng nó có khả năng phản chiếu bất kỳ hình ảnh nào được phóng chiếu lên nó.

Bước tiếp theo, Đấng Sáng tạo đã tạo ra một số sinh thể có sự tự nhận biết và gửi hoặc phóng chiếu họ vào bầu cõi đầu tiên. Những sinh thể này được tạo ra từ Bản thể của chính Đấng Sáng tạo, đó là lý do tại sao họ có khả năng tự nhận biết. Tuy nhiên, sự tự nhận biết của họ không phải là sự nhận biết toàn diện của Đấng Sáng tạo; đó là một sự tự nhận biết cục bộ. Những sinh thể đầu tiên này coi bản thân là những cá nhân, điều này cho họ cơ hội bắt đầu với sự tự nhận biết cục bộ và dần dần mở rộng nó, cho đến khi họ đạt đến mức độ của Đấng Sáng tạo trong khi vẫn còn là những sinh thể có cá thể. Mục đích của Đấng Sáng tạo khi tạo ra một thế giới có hình tướng là tạo thêm nhiều người Sáng tạo hơn, điều này cũng khiến đấng Sáng tạo phát triển.

Những sinh thể đầu tiên bắt đầu với ý niệm bản sắc cục bộ, tập trung vào môi trường nơi họ sống, một môi trường mà đấng Sáng tạo đã tạo ra cho họ. Nếu phải bắt đầu trong một khoảng trống không thì sẽ rất đáng sợ cho một sinh thể mới. Một người mới được tạo ra làm sao có thể tưởng tượng được các cấu trúc và tự tạo ra chúng? Vì vậy, một sinh thể mới được bắt đầu sống trong một môi trường được xác định trước, và sau đó y dần dần học về khả năng sáng tạo của chính mình trong môi trường đó. Khi sinh thể này biết hơn về khả năng sáng tạo của mình, thậm chí y có thể bắt đầu thay đổi môi trường của mình theo viễn quan của chính mình. 

Đây là một nguyên tắc áp dụng cho tất cả những sinh thể tự nhận biết trong một thế giới có hình tướng, bao gồm chính chúng ta. Tất cả các sinh thể này đều bắt đầu với một sự nhận biết cục bộ về bản sắc, và họ bắt đầu trong một môi trường được xác định trước. Bằng cách đáp ứng với môi trường của họ, họ dần dần học được khả năng sáng tạo của mình. Tất cả những sinh thể tự nhận biết đều có những khả năng sáng tạo cơ bản giống như Đấng Sáng tạo – nhưng không ở cùng một mức độ. Họ có khả năng hình thành một hình tư tưởng và sau đó phóng chiếu hình ảnh đó lên ánh sáng Mẫu-Vật, làm cho ánh sáng mang hình tướng thực hoặc vật lý của hình ảnh.

Tất cả những sinh thể tự nhận biết cũng có ý chí tự do hoàn toàn, có nghĩa là họ có khả năng hình thành bất kỳ hình tư tưởng nào mà họ có thể tưởng tượng được. Họ cũng có khả năng và quyền phóng chiếu bất kỳ hình ảnh nào họ có thể tưởng tượng được lên ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, bởi vì họ sống bên trong một môi trường nhất định, chắc chắn họ phải trải nghiệm những hình ảnh mà họ phóng chiếu lên ánh sáng Mẫu-Vật như là một phần của môi trường vật chất của họ. Chính qua tiến trình hình thành hình ảnh, lấy quyết định phóng chiếu hình ảnh nào lên ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó trải nghiệm hậu quả của quá trình này mà chúng ta phát triển sự tự nhận biết của mình.

4.5. Sự tiếp nối của các bầu cõi

Chúng ta hãy quay trở lại bầu cõi đầu tiên. Những sinh thể trong bầu cõi này bắt đầu bằng cách khám phá khả năng sáng tạo của mình, dần dần làm chủ được môi trường của mình và bắt đầu xác định môi trường của chính mình. Tuy nhiên, khi họ làm điều này, họ cũng cảm nhận được từ bên trong là họ là một phần nối dài của một Thực tại vĩ đại hơn. Khi nhận biết rõ hơn về mối liên hệ của mình với Đấng Sáng tạo, họ bắt đầu xây dựng cảm nhận mình là một với Đấng Sáng tạo.

Khi mỗi cá nhân đạt được sự hợp nhất này, họ nhận thức được rằng “Nếu Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của tôi, thì tất cả những sinh thể khác trong bầu cõi của tôi phải đến từ cùng một nguồn gốc.” Do đó, tính hợp nhất theo chiều dọc trở thành tính hợp nhất theo chiều ngang, và tất cả các sinh thể trong bầu cõi đầu tiên bắt đầu cảm thấy đồng nhất với nhau, trong khi vẫn giữ được cá thể riêng của họ (thật ra là họ đạt được tính cá nhân thực sự như là một phần của một tổng thể lớn hơn).

Khi những sinh thể trong bầu cõi đầu tiên đạt được sự duy nhất này, họ có thể gia tốc năng lượng được sử dụng để xây dựng bầu cõi đầu tiên (nâng cao độ rung của nó). Đây là một quá trình theo đó toàn bộ bầu cõi thăng thiên lên một trạng thái cao hơn, và thấy được rõ ràng bầu cõi được tạo ra từ Bản thể của Đấng Sáng tạo. Vì vậy, trong khi các sinh thể vẫn xem mình là những sinh thể có cá thể riêng, họ không còn có thể tin rằng họ tách rời khỏi Đấng Sáng tạo hoặc tách rời khỏi nhau. Và không ai còn có thể tin rằng bầu cõi đầu tiên được tạo ra từ một chất bị tách ra khỏi Đấng Sáng tạo hoặc có sự tồn tại của chính nó. Bầu cõi đầu tiên sau đó đã trở thành một phần vĩnh viễn của cái mà chúng ta, theo quan điểm của chúng ta, gọi là thế giới tâm linh.

Sau khi những sinh thể trong bầu cõi đầu tiên làm cho bầu cõi của họ thăng thiên, họ đã đạt được mức độ điều ngự. Họ không ở cùng mức độ tự nhận biết như Đấng Sáng tạo, nhưng họ đã vượt xa mức tâm thức khi họ bắt đầu. Để cho những sinh thể này có cơ hội phát triển khả năng điều ngự của mình, Đấng Sáng tạo sau đó đã xác định một bầu cõi thứ hai trong khoảng không.

Tuy nhiên, thay vì tạo ra các cấu trúc trong bầu cõi thứ hai, Đấng Sáng tạo đã cho phép các chân sư thăng thiên từ bầu cõi đầu tiên tạo ra các cấu trúc trong bầu cõi thứ hai. Và thay vì gửi phần nối dài của chính mình vào bầu cõi thứ hai, đấng Sáng tạo cho phép các chân sư từ bầu cõi đầu tiên tạo ra phần nối dài của bản thể của họ, rồi gửi chúng vào môi trường mà họ đã tạo ra trong bầu cõi thứ hai. Như vậy, các chân sư từ bầu cõi thứ nhất đã trở thành “thượng đế” hay cha mẹ tâm linh cho sinh thể trong bầu cõi thứ hai.

Quá trình tạo một bầu cõi mới khi bầu cõi trước đó đã thăng thiên vẫn tiếp tục. Các thầy nói rằng vũ trụ vật chất là bầu cõi thứ bảy của những bầu cõi này. Điều quan trọng cần hiểu là mỗi lần một bầu cõi mới được thành lập, năng lượng cơ bản của bầu cõi đó dày đặc hơn so với năng lượng cơ bản của bầu cõi trước đó. Điều này, có nghĩa là các sinh thể trong bầu cõi dày đặc dễ cảm thấy là bầu cõi mình bị tách khỏi Đấng Sáng tạo và tự tồn tại một mình. Điều này giải thích tại sao hiện nay con người có thể tin vào hai ảo tưởng cổ điển mà nhân loại đã tin:

• Tôn giáo truyền thống, nói rằng có một vị Thượng đế, nhưng ngài là một vị Thượng đế xa xôi ngồi cao trên trời. Thế giới vật chất bị ngăn cách với vương quốc của Thượng đế bởi một rào cản, và chúng ta chỉ có thể vượt qua nó với sự trợ giúp của một số yếu tố ngoại lai được kiểm soát bởi tôn giáo vỏ ngoài.

• Chủ nghĩa duy vật, cho rằng không có Thượng đế và vật chất có thể tự tồn tại, nghĩa là nó không cần gì ngoài bản thân để tồn tại. Vì vậy, vũ trụ vật chất không được tạo ra bởi một sinh thể thông minh theo một kế hoạch đã được hình thành từ trước. Nó ra đời thông qua một quá trình hoàn toàn duy vật, được thúc đẩy bởi các sự kiện ngẫu nhiên và một tập hợp các quy luật tự nhiên mà không ai định nghĩa.

Cả hai ảo tưởng này đều được xây dựng trên ảo tưởng sâu hơn gây ra bởi phạm vi giới hạn của các giác quan vật lý của chúng ta. Chúng ta chỉ có thể phát hiện những rung động trong quang phổ tạo nên vật chất. Chúng ta không thể trực tiếp thấy rằng vật chất là một phần của chuỗi rung động liên tục lớn hơn, khiến chúng ta dễ lầm tưởng rằng chỉ có vật chất mà thôi, vật chất tồn tại tự nó hoặc vật chất tách rời khỏi Tánh linh. Con đường của nhà thần bí là một quá trình nâng cao tâm thức, cho đến khi chúng ta có những trải nghiệm trực tiếp, thần bí phá tan cái ảo tưởng nguyên thủy này của con người. 

4.6. Giới thiệu các tia sáng tâm linh

Chúng ta đã thấy rằng chúng ta có thể lấy công thức nổi tiếng của Einstein và áp dụng một phép toán đơn giản, nhờ đó chúng ta có được công thức mới này:

Như đã đề cập, công thức này cho chúng ta thấy rằng vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng của một rung động cao hơn, và năng lượng này sau đó bị giảm đi bởi một tỷ lệ nào đó. Tuy nhiên, những gì Einstein đã định nghĩa là c2 chỉ là yếu tố cuối cùng trong số những yếu tố giảm thiểu như vậy.

Các thầy thăng thiên dạy rằng bầu cõi mà chúng ta đang sống được tạo ra từ ánh sáng tâm linh đã được giảm độ rung bởi bảy yếu tố giảm thiểu. Những yếu tố này cũng có thể được mô tả như bảy loại năng lượng tâm linh, và chính sự kết hợp của bảy loại năng lượng này tạo nên quang phổ tần số vật chất.

Bảy loại năng lượng này được các thầy thăng thiên gọi là bảy tia. Các thầy dạy rằng mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được tạo ra từ sự kết hợp của cả bảy tia. Ví dụ, hành tinh trái đất được tạo ra bởi bảy sinh thể tâm linh, được gọi là Elohim. Những sinh thể này đến với nhau trong bầu cõi tâm linh và kết hợp những nỗ lực sáng tạo của họ để xác định một bản mẫu tinh thần cho hành tinh của chúng ta. Khi bản mẫu đã được xác định, họ bắt đầu quá trình dần dần gán bản mẫu lên trên ánh sáng Mẫu-Vật. Và động lực chủ yếu trong quá trình này là năng lượng và phẩm chất của bảy tia. Điều này xảy ra một phần nhờ sức mạnh của âm thanh, khi các  Elohim sử dụng những âm thanh đặc thù để tạo ra những rung động nhịp nhàng, điều này dần dần khiến năng lượng khoác lên hình tướng của bản mẫu của họ. (Ban đầu là Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Thượng đế và Ngôi Lời là Thượng đế.)

Mặc dù điều này nghe có vẻ giống như một quá trình đường thẳng, nhưng trên thực tế, nó phức tạp hơn nhiều. Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta là bảy tia có thể được coi là tạo thành bảy lớp rung động “tách biệt” năng lượng của thế giới vật chất khỏi cõi tâm linh. Vì vậy, khi chúng ta cố gắng nhìn vào thế giới tâm linh, nó như thể có bảy bức màn ngăn cách chúng ta không nhìn được rõ ràng cõi tâm linh, giống như chúng ta đang nhìn qua bảy tấm kính màu. Chừng nào tâm thức của chúng ta còn chịu ảnh hưởng của ảo tưởng tách biệt, chúng ta không thể nhìn thấu qua năng lượng của bảy tia, có nghĩa là chúng ta không thể nhìn thấy rõ ràng cõi tâm linh. Chúng ta chỉ nhìn thấy những mảnh kính màu trong kính vạn hoa của cái Ta.

Điều này có nghĩa là con đường nâng cao tâm thức của chúng ta để làm chủ cái Ta là một quá trình tu tập thông qua bảy tia, bắt đầu với tia đầu tiên và kết thúc với tia thứ bảy.

Qua tiến trình ngộ mỗi tia sáng, chúng ta thực sự hòa điệu tâm của mình với tia sáng đó và trở thành một với sự rung động của nó.

Khi chúng ta khai ngộ được tia đầu tiên, chúng ta thực sự hòa điệu tâm của mình với tia đầu tiên và trở thành một với sự rung động của nó (hoặc chúng ta cũng có thể nói rằng tâm của chúng ta bắt đầu rung động đồng bộ với tia đầu tiên). Khi sự hòa điều này xảy ra, tia sáng đầu tiên sẽ không còn tạo thành một bức màn che khuất tầm nhìn của chúng ta. Thay vào đó, chúng ta sẽ có thể nhìn thấu năng lượng của tia sáng đầu tiên và có được tầm nhìn rõ ràng hơn về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Chúng ta cũng sẽ trở thành một cánh cửa rộng mở cho những năng lượng của tia sáng đầu tiên truyền qua cái Ta, có nghĩa là chúng ta sẽ gia tăng uy lực của cái Ta.

Quá trình này sau đó có thể tiếp tục qua tất cả bảy tia, cho đến khi chúng ta bắt đầu thấy được sự duy nhất đằng sau tất cả các hiện tượng nhìn thấy được. Bây giờ chúng ta có thể nhìn xuyên qua các bức màn, và do đó chúng ta thấy được sự duy nhất đằng sau sự đa dạng. Đây là cái mà các thầy thăng thiên gọi là tâm thức Ki-tô. Quá trình này dần dần sẽ giúp chúng ta hoàn toàn làm chủ được cõi vật chất, nghĩa là chúng ta thực sự có thể làm những việc mà Giê-su đã làm. Chúng ta có thể tạo hình ảnh tinh khiết hơn và gán chúng lên trên ánh sáng Mẫu vật, nhờ đó chúng ta có thể ghi đè lên trên các hình ảnh không tinh khiết hiện đang hạn chế trái đất, chẳng hạn như dịch bệnh hoặc tài nguyên hạn chế.

Con đường khai ngộ bảy tia sáng nằm dưới sự dẫn dắt của các chân sư thăng thiên đặc biệt là các vị Thượng sư hay Chohans. Thượng sư là một vị chân sư,  “vị thày trưởng nhiệm” cho một tia đặc biệt. Trong một phần kế tiếp, chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn về các tia sáng và con đường khai ngộ, Con đường của Bảy Tấm màn che.

4.7. Bốn tầng của thế giới

Để tạo nền tảng tốt hơn cho các chương sắp tới, chúng tôi sẽ thêm một lớp thông tin phức tạp nữa. Như đã được giải thích, một bầu cõi mới được tạo ra từ năng lượng ở một mức độ rung động nào đó. Khi các sinh thể tự nhận biết sống trong bầu cõi nâng cao tâm thức của họ, họ cũng nâng cao độ rung của bầu cõi của mình, cho đến khi nó thăng thiên và trở thành một phần của thế giới tâm linh.

Nói cách khác, khi một bầu cõi được tạo ra, một năng lượng cơ bản được xác định. Đây là năng lượng thấp nhất hoặc dày đặc nhất được tìm thấy trong bầu cõi đó. Như đã nói, đối với mỗi bầu cõi mới, năng lượng cơ bản dày đặc hơn so với bầu cõi trước đó. Điều này có nghĩa là đối với bầu cõi của chúng ta, có một khoảng cách khá lớn giữa năng lượng cơ bản và năng lượng của thế giới tâm linh.

Thực tế là không thể nào hạ thấp ngay lập tức năng lượng có mức rung rất cao của cõi tâm linh xuống mức rung thấp của năng lượng cơ bản của chúng ta. Hơn nữa, ngay cả khi làm được, các sinh thể trong cõi vật chất không thể thăng hoa lên cõi tinh thần được nếu họ phải vượt qua một khoảng cách rung động quá lớn như vậy. Do đó, quá trình hạ độ rung xuống được thực hiện trong bốn giai đoạn. Điều này có nghĩa là có bốn tầng, đôi khi được gọi là “quãng tám,” trong cõi vật chất. Hãy để chúng tôi mô tả sơ sài về bốn tầng này bằng cách so sánh chúng với việc xây dựng một tòa nhà.

4 TẦNG CỦA VŨ TRỤ VẬT CHẤT
1.Tầng ether hay bản sắcĐây là tầng cao nhất, nơi bạn tìm thấy các bản mẫu tinh thần cho tất cả các hình tướng trong cõi vật chất. Bạn có thể so sánh nó với tầng cấp của một kiến trúc sư, người nắm giữ viễn quan về bản mẫu tổng thể của tòa nhà.  
2.Tầng lý tríĐây là nơi bạn tìm thấy các kế hoạch cụ thể hơn để thực hiện thành sự thật bản vẽ mẫu của các kiến trúc sư. Hãy so sánh đây với tầng cấp của các kỹ sư, những người lập kế hoạch cụ thể và chi tiết hơn về cách thực sự xây dựng tòa nhà.
3.Tầng cảm xúcĐây là nơi bạn có kế hoạch của những người hỗ trợ tài chính và chủ sở hữu của tòa nhà. Họ đưa ra quyết định bắt đầu quá trình xây dựng, do đó kích động cho mọi sự chuyển động.  
4.Tầng vật lýĐây là nơi bạn tìm thấy các kế hoạch làm việc liên quan tới công việc lao động thực sự để xây dựng tòa nhà.  

Lời giải thích ngắn gọn là bốn tầng của cõi vật chất tương ứng với bốn tầng của tâm bạn: tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng cảm xúc và tầng vật lý. Để khai mở toàn bộ uy lực của cái Ta, bạn phải thanh lọc bốn tầng này của tâm, loại bỏ các yếu tố lãm nghẽn không cho ánh sáng tâm linh tuôn chảy thông suốt qua tâm bạn. Tôi sẽ mô tả cách thực hiện điều này trong một phần kế tiếp.

4.8. Chúng ta là những nối dài của các chân sư

Chúng ta được thiết kế để trở thành người đồng sáng tạo. Thế giới của chúng ta được các chân sư thăng thiên sáng tạo ra. Họ ở cõi tâm linh ngay trên chúng ta. Chúng ta là phần nối dài của các thầy, và chúng ta được gửi đến đây để đồng sáng tạo thế giới của chúng ta từ bên trong, cuối cùng nâng nó trở thành một phần của thế giới tâm linh. Do đó, tâm của chúng ta có khả năng để hoàn thành sứ mệnh này.

Chúng ta đồng sáng tạo bằng cách sử dụng những năng lượng cơ bản của bảy tia sáng tâm linh. Theo con đường do các chân sư thăng thiên vạch ra, mỗi tia tạo nên một bức màn che. Khi chúng ta leo lên trên con đường tu, chúng ta sẽ làm chủ được tia này đến tia khác. Chúng ta học cách sử dụng năng lượng sáng tạo của tia sáng đó, và chúng ta hòa điệu tâm của mình với sự rung động của tia. Khi chúng ta đã đi qua tất cả bảy tia sáng, chúng ta đã khai mở toàn bộ uy lực của cái Ta.

Điều phức tạp của bức tranh là có một khoảng cách rất lớn về rung động giữa thế giới tâm linh và vật chất. Như vậy, quá trình hạ thấp năng lượng tâm linh xuống tầng cấp vật chất được thực hiện trong bốn giai đoạn. Kết quả là, chúng ta có các lớp trong tâm, tương ứng với bốn tầng: bản sắc, lý trí, cảm xúc và vật lý. Đối với hầu hết mọi người, các tầng cao hơn của tâm nằm ngoài ý thức. Chính trong những tầng vô thức này, chúng ta đã tích lũy những khối làm nghẽn sức mạnh sáng tạo của chúng ta – những mảnh thủy tinh trong kính vạn hoa của cái ta.

Khi chúng ta đi trên con đường của bảy tia sáng, chúng ta xóa sạch các khối nghẽn trong bốn lớp của tâm. Vì vậy, bước đi trên con đường tu của các chân sư thăng thiên là một quá trình hai việc, xóa bỏ các khối nghẽn trong bốn tầng của tâm trong khi điều ngự được bảy tia tâm linh. Khi chúng ta hoàn thành quá trình này, chúng ta sẽ khai mở quyền uy tự nhiên của cái Ta. Sau đó, chúng ta có thể hoàn thành sứ mệnh mà chúng ta chọn khi xuống thế gian này, cụ thể là để giúp đồng sáng tạo một thế giới vượt xa những gì chúng ta đang thấy trên trái đất.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 3 – Các chân sư thăng thiên có thật hay không?

Làm sao bạn biết được các chân sư thật sự hiện hữu? Nếu nhìn vào lịch sử, có hai cách để người ta trả lời câu hỏi: cái gì thực và cái gì không thực. Một cách là cách của các tôn giáo chính mạch, và họ tự cho mình cái thẩm quyền tuyệt đối và không một ai được quyền chất vấn họ. Cách thứ nhì là cách của khoa học duy vật phán rằng chỉ những gì nghiên cứu được và đo đạc được bằng dụng cụ khoa học mới có thực.

Cả hai cách này đều không áp dụng được để chứng minh các chân sư thăng thiên có hiện hữu hay không. Các chân sư không nói rằng họ có thẩm quyền dựa trên truyền thống hay dựa trên một tổ chức trong thế gian này. Thật ra, họ từ chối và không để họ bị giới hạn bởi bất cứ thẩm quyền hay tổ chức nào trên thế gian. Mặt khác, sự hiện hữu của họ không thể chứng minh được qua phương pháp khoa học (ít ra là ở thời điểm này). Vậy thì chúng ta làm sao đây, có cách gì ngoài hai cách kể trên không? Vâng, có một cách, đó là khả năng biết từ bên trong cái Ta của chúng ta.

Từ trước tới nay, cách này được gọi là cách tiếp cận trực giác hay thần bí. Nhìn lại lịch sử, cách tiếp cận thần bí là một cách khác, đứng ra ngoài thẩm quyền của tôn giáo và bằng chứng duy vật của khoa học. Đai đa số các tôn giáo chính mạch đều có một nhánh thần bí. Thật ra, chính các vị thành lập các tôn giáo này là những vị thần bí.

Bạn có thể thắc mắc tại sao mình chưa bao giờ nghe tới chữ thần bí. Nó có hai lý do. Lý do đầu tiên là cả hai tôn giáo chính mạch và khoa học duy vật đều không công nhận khoa thần bí. Lý do thứ nhì, là khoa thần bí chẳng bao giờ quảng cáo về mình, vì các nhà thần bí biết rằng con người phải đạt tới một mức độ trưởng thành tâm linh nào đó mới có thể sẵn sàng bước chân vào con đường thần bí.

Chìa khóa để có được sự khách quan thật sự là ta phải hiểu rõ về bản chất của tâm.

Con đường tu thần bí là gì? Nói một cách cơ bản, khoa thần bí nói rằng có một cách biết được thực tại vượt lên trên bất cứ thẩm quyền nào trên thế gian này, kể cả thẩm quyền của bằng chứng duy vật. Cách này là cách của nội tâm, là cách chúng ta có được trải nghiệm trực giác và thần bí. Bạn không tin những gì thẩm quyền tôn giáo hay chính trị nói, và bạn cũng không tin những gì thẩm quyền khoa học nói. Bạn chỉ chấp nhận điều đã được công nhận bởi kinh nghiệm nội tâm và trực tiếp của chính bạn.

Lẽ dĩ nhiên, các nhân vật thẩm quyền trên thế gian này sẽ nói rằng trải nghiệm cá nhân của bạn hoàn toàn chủ quan. Họ nói vậy vì họ không hiểu được bản chất của trải nghiệm thần bí, điều này có nghĩa là họ chưa bao giờ trải qua một trải nghiệm thần bí mạnh mẽ. Đúng thật là nhiều tin tưởng của con người mang tính chủ quan, nhưng đây không phải là sự thật trọn vẹn, và chính khoa học đã khám phá ra bằng chứng rõ nhất của điều này. Khoa vật lý lượng tử đã phá vỡ quan điểm duy vật cho rằng ta có thể đạt được tính khách quan bằng cách bỏ cái tâm qua một bên. Ngược lại, khoa vật lý lượng tử chứng minh cho thấy là chìa khóa của sự khách quan thật sự nằm trong sự hiểu biết về bản chất của tâm. Chính thế, từ mấy ngày năm nay, các nhà thần bí đã cầu tìm sự hiểu biết về cái tâm.

3.1. Khách quan theo cách tiếp cận thần bí

Các chân sư thăng thiên và khoa thần bí nói chung nói gì về vấn đề khách quan? Nhiều ngàn năm qua, các nhà thần bí đã nói rằng tâm con người có thể ở trong hai trạng thái tâm thức khác nhau. Trong một trạng thái thì mọi điều chúng ta nhìn thấy đều bị pha màu bởi một phin lọc, có nghĩa là kinh nghiệm của ta về thế giới hoàn toàn chủ quan. Nhưng trong trạng thái khác, ta đạt được cái thấy trong suốt và không pha màu, ta thấy mọi vật như là nó là, có nghĩa là ta có cái nhìn hoàn toàn khách quan về thế giới.

Lẽ dĩ nhiên, có một giai đoạn thứ ba, lúc ấy chúng ta bắt đầu có một cái nhìn thoáng qua của trạng thái tâm khách quan, nhưng ở mức độ nhiều hay ít, vẫn có thể xảy ra là hai người đều có kinh nghiệm thần bí thực nhưng họ lại diễn dịch nó ra ý nghĩa khác nhau. Giả dụ như một người Thiên Chúa Giáo và một người Hồi Giáo đều tin chắc là kinh nghiệm thần bí của họ xác nhận giá trị của tôn giáo của họ.

Con đường tu được các chân sư thăng thiên vạch ra là một tiến trình và lúc đầu ta sẽ có cái nhìn thoáng qua về một trạng thái tâm thức cao hơn. Dần dà ta trong lọc tâm mình và vứt đi những yếu tố chủ quan cho tới khi ta đạt được một cái nhìn trong sáng. Trạng thái tâm thức cao này có thể được gọi bằng nhiều tên như ngộ, nhận thức biết trần trụi hay tâm Ki-tô. Giáo lý của các thày thăng thiên được đề ra để giúp ta đi trọn hành trình tiến tới trạng thái tâm thức cao hơn này.

Bạn sẽ chưa thật sự nhận ra được sự hiện hữu của các chân sư cho tới ngày bạn có một trải nghiệm thần bí.

Trong thời đại này, ai cũng có thể tìm thấy được giáo lý của các chân sư trong sách và trên trang mạng miễn phí. Như vậy nhiều người có thể tìm thấy các giáo lý này mà không trải qua một kinh nghiệm trực giác. Có người có thể nhận ra giá trị của giáo lý dựa trên lý luận của lý trí vì giáo lý quả thật có thể trả lời rất nhiều câu hỏi. Nhưng để có thể giải đáp một cách thấu triệt câu hỏi rằng các chân sư có thật hay không, bạn cần phải trải qua một kinh nghiệm nội tâm. Kinh nghiệm không cho bạn cái mà chúng ta thường gọi là bằng chứng; nó cho bạn một cái “biết nội tâm” vi tế khiến bạn nhận ra rằng đương nhiên là các chân sư có thật.

Nói điều này xong thì chúng ta vẫn phải nhìn nhận là chúng ta phải cẩn thận khi nói đến kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta có thể gặp nhiều người trong đó có nhiều người đi tìm tâm linh, đã tin những điều khó có thể tin được nhất. Ví dụ như hàng năm có những người thăm viếng Jerusalem và đi theo bước chân Giê-su, và sau đó họ tin chắc rằng họ là Ki-tô tái sinh và họ có sứ mạng cứu rỗi thế giới. Khi bạn hiểu kinh nghiệm thần bí là gì, bạn nhận ra rằng có một cách đặc biệt để tiếp cận các kinh nghiệm này.

3.2. Tâm là cái kính vạn hoa

Các chân sư thăng thiên có những lời dạy rất sâu sắc về trực giác. Các thày so sánh tâm con người với cái kính vạn hoa. Bạn biết là kính vạn hoa là một cái ống, bên trong nó có nhiều phiến phân cách, giữa các phiến này có những lớp thủy tinh nhiều màu sắc. Khi ta xoay cái ống, các miếng thủy tinh đổi chỗ và tạo thành những mô hình với nhiều màu sắc khác nhau.

Các miếng thủy tinh này giống như các ý tưởng và tin tưởng chúng ta có trong tâm ý thức và vô thức của mình. Khi chúng ta gặp một hoàn cảnh sống nào đó, cái kính vạn hoa của tâm mình xoay một vòng và tạo ra một mô hình màu sắc nào đó, đấy chính là kinh nghiệm chúng ta ý thức được về hoàn cảnh đó. Hệ quả sâu sắc là kinh nghiệm mà chúng ta có về cuộc sống của mình, gọi là Kinh nghiệm Sống của chúng ta bị ấn định bởi những ý tưởng mà chúng ta có trong tâm mình khi chúng được sắp xếp theo một cách nào đó trong mỗi hoàn cảnh riêng biệt.

Các thày dạy rằng đại đa số mọi người sống một cách thiếu tỉnh thức. Gặp chuyện là phản ứng một cách tự động máy móc và chọn lựa của họ hoàn toàn chịu sự ảnh hưởng của các miếng kính trong cái kính vạn hoa của tâm. Họ phản ứng mà không hiểu tại sao họ lại phản ứng như thế, họ thường nghĩ rằng đây là cách duy nhất phải phản ứng trong hoàn cảnh đó. Những người như thế thật sự không làm chủ phản ứng của họ, bởi vì họ chưa có quán xét những ý tưởng nằm trong tâm ý thức và vô thức của họ. Họ chưa sẵn sàng để nhìn thấy cái đà trong chính mắt của họ.

Ngược lại, các chân sư tặng cho chúng ta một con đường tu tập tự điều ngự, khi ấy chúng ta sẽ từ từ đạt được sự điều ngự các phản ứng của mình trước những hoàn cảnh gặp trong cuộc sống thế gian. Chúng ta sẽ học cách lấy những chọn lựa tự do và khách quan, thay vì để cho những khuôn nếp cũ trong tâm vô thức quyết định những phản ứng của chúng ta. Tuy nhiên con đường này bắt đầu với một nhận thức cơ bản. 

Các chân sư tặng cho chúng ta một con đường tu tập tự điều ngự, khi ấy chúng ta sẽ từ từ đạt được sự điều ngự các phản ứng của mình trước các hoàn cảnh gặp trong cuộc sống.

Khi bạn nhiều vào ống kính vạn hoa, sự chú ý của bạn dễ bị thu hút vào các mô hình màu sắc phong phú, và đây là điều đại đa số người đều làm. Khi nghĩ đến tâm của mình, mình thường chú tâm tới các tư tưởng đầy ắp trong đó. Đại đa số không nhìn thấy được gì khác vượt lên trên nội dung ở trong tâm của mình. Nhưng bây giờ bạn hãy tự hỏi một câu hỏi giản dị: “Làm sao tôi thấy được các mô hình nhiều màu sắc trong kính vạn hoa vậy?” Câu trả lời là nhờ có ánh sáng đi vào từ đầu bên kia của kính, và ánh sáng này – không giống như các mô hình nhiều màu sắc – KHÔNG được tạo ra bởi kính vạn hoa. Hiểu ra điều này rất là sâu sắc nếu ta áp dụng vào tâm của mình.

Từ lâu nay các nhà thần bí đã nói rằng sự kiện chúng ta có ý thức, có sự tự nhận biết chứng minh là có một dòng năng lượng và tâm thức tâm linh đã đi vào được tâm của chúng ta từ một nguồn cao cả. Như chúng ta đã thấy, điều này hoàn toàn phù hợp với vật lý lượng tử. Chúng ta biết rằng tâm chúng ta có thể tương tác được với cấp của các hạt hạ nguyên tử, do đó lẽ dĩ nhiên là tâm chúng ta có thể là một phương tiện hay một chén thánh đón nhận dòng năng lượng tâm linh cao hơn.

Đại đa số không ý thức về dòng năng lượng này, bởi vì họ tập trung vào nội dung trong tâm thức thay vì tập trung vào chính tâm thức biết. Họ chỉ thấy những mô hình nhiều màu sắc trong kính vạn hoa, mà không chú ý tới chính cái ánh sáng đã tạo ra chúng. Khi bạn có một kinh nghiệm thần bí, đó là vì bạn đã ngẫu nhiên chú tâm tới dòng ánh sáng đằng sau các mô hình nhiều màu sắc. Bạn trải nghiệm cái biết trong một dạng thuần khiết hơn.

Tuy nhiên, đây là điểm quan trọng. Tất cả mọi người đều có khả năng có một kinh nghiệm thần bí và nhiều người đã trải qua kinh nghiệm như thế. Tuy thế biết được rằng các mô hình sặc sỡ trong tâm được tạo ra nhờ có ánh sáng từ một nguồn gốc cao rọi xuống không giống với trực nghiệm thuần khiết về ánh sáng này.

Có một điểm rất quan trọng bạn phải biết là có một dạng nhận thức vượt lên trên những mô hình sặc sỡ của các tư tưởng hàng ngày, nhưng đây cũng chỉ là bước đầu tiên của một tiến trình tuần tự. Bởi vì khi mà ta còn tìm ánh sáng qua các tin tưởng và tư tưởng mà ta đang có, thì ánh sáng đó sẽ bị pha màu bởi nội dung có trong tâm ta. Có nghĩa là ta sẽ không thấy được thực tại như là nó là.

3.3. Tinh túy của khoa thần bí

Con đường tu tập thần bí là một tiến trình, ta dần dần trong lọc tâm ta qua việc buông bỏ tất cả những ý tưởng, tin tưởng, mô hình lý thuyết và giả định hạn chế tâm và đến từ thế giới vật chất. Nói cách khác, ta từ từ vứt đi một số các miếng kính sặc sỡ, và một ngày kia ta sẽ thấy ánh sáng đi vào tâm mình mà không bị pha màu gì cả. Ta có thể gọi đây là một trải nghiệm thần bí thuần khiết, một kinh nghiệm về sự nhận biết thuần khiết. Tuy nhiên vẫn có thể còn lại một số tin tưởng hạn chế tàn dư trong tâm, và nhà thần bí chân chính sẽ tiếp tục tiến trình thanh lọc cho tới khi tâm hoàn toàn sạch trong không còn ý tưởng hạn chế nào cả.

Tại sao điều này quan trọng? Các chân sư nói rằng bạn không thể thật sự biết được là các chân sư hiện hữu cho tới khi nào bạn trải qua một kinh nghiệm thần bí. Trước đó, bạn có thể nhận biết các chân sư qua trí năng và hiểu được giá trị của giáo lý của các thày một cách hoàn toàn qua lý trí. Nhưng chỉ khi nào bạn có được một kinh nghiệm nội tâm trực tiếp, thì lúc đó bạn thực sự thấy được là các chân sư có thật, và chỉ khi đó bạn mới nhận ra giá trị lớn lao của giáo lý của các thày đối với chúng ta và thế giới này.

Điểm quan trọng hơn cả là khi ta có kinh nghiệm thần bí lần đầu, tâm của ta vẫn còn sót lại nhiều miếng kính màu. Do đó, các tin tưởng này sẽ pha màu kinh nghiệm của ta, và như vậy có nguy cơ là kinh nghiệm thần bí được dùng để công nhận giá trị của một số tin tưởng của ta.

Một nhà thần bí chân chính nhận ra rằng một kinh nghiệm thần bí thật sự có giá trị. Nhưng giá trị của nó không phải để chứng minh một tin tưởng nào đó. Giá trị của kinh nghiệm thần bí là nó chứng minh cho ta thấy là có một trạng thái tâm thức vượt lên trên TẤT CẢ tin tưởng có trên trái đất này. Giá trị của kinh nghiệm thần bí là nó chứng minh rằng có một nguồn ánh sáng ở bên ngoài cái ống kính vạn hoa eo hẹp. Và nhà thần bí coi chuyện trải nghiệm ánh sáng này không có phin lọc là ưu tiên hàng đầu.

3.4. Tại sao cách tiếp cận thần bị lại rất quan trọng?

Các chân sư thăng thiên là những nhà thần bí chân chính của mọi thời đại. Trước khi thăng thiên, họ đã liên tục chất vấn các tin tưởng cưng của họ, cho tới khi họ có càng ngày càng nhiều kinh nghiệm thần bí. Thay vì dùng những kinh nghiệm thần bí này làm bằng chứng củng cố một hệ thống tin tưởng trần thế, họ dùng những kinh nghiệm này để chứng minh nhu cầu cần phải luôn luôn nhìn vượt lên trên mọi vỏ ngoài, luôn luôn đi tìm kinh nghiệm thuần khiết, không bị pha màu của ánh sáng tâm linh. Họ xem ánh sáng là sợi dây cứu rỗi dẫn tới nguồn cội của họ, và họ cứ đi theo sợi dây cứu rỗi này cho tới khi họ thể nhập làm một với nguồn cội của họ trong nghi lễ thăng thiên.

Các chân sư chỉ có một thông điệp cơ bản: “Cái gì một người làm được, tất cả đều có thể làm được.” Các thày đã chứng minh là chúng ta có thể vượt thăng mọi hạn chế của con người, và họ muốn chúng ta biết là chúng ta cũng có thể làm được như vậy. Nhưng muốn làm được vậy, chúng ta phải liên tục vượt thăng tất cả những tin tưởng hạn chế, cho tới khi nào chúng ta đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết giúp cho chúng ta kinh nghiệm thực tại như là nó là, mà không có phin lọc và không có cảm nhận xa cách hay tách biệt. Giá trị của tiến trình vượt thăng mọi tin tưởng hạn chế đã được liên tiếp chứng minh qua mọi thời đại.

Tại sao điều này quan trọng? Bởi vì, trên thực tế, ánh sáng tâm linh muốn tuôn chảy vào thế giới này. Các chân sư thăng thiên biết rằng chìa khóa để thật sự thay đổi trái đất là làm sao cho có nhiều ánh sáng hơn tuôn chảy vào thế giới này, bởi vì khi con người thấy rõ hơn thì đương nhiên họ sẽ có những chọn lựa tốt đẹp hơn. Các chân sư lúc nào cũng sẵn sàng tuôn rải ánh sáng xuống thế gian này, vậy thì tại sao các thày không làm được chuyện giản dị ấy, cứ tuôn rải ánh sáng tràn ngập cho tới khi không còn chút bóng đen nào nữa?

Câu trả lời là Quy Luật của Quyền Tự Quyết, cho phép người dân cư trên trái đất được quyền có những kinh nghiệm mà họ muốn. Ngay bây giờ, đại đa số người dân trên trái đất đã chọn muốn có kinh nghiệm sống tách biệt khỏi Thượng đế. Kinh nghiệm này chỉ có được vì thế giới không tràn ngập ánh sáng tâm linh. Vậy thì làm sao cho có nhiều ánh sáng hơn đi vào quang phổ vật chất? Ánh sáng chỉ có thể đến qua trung gian tâm của những người đang đầu thai trên trái đất như tôi và các bạn. Chúng ta có quyền chọn để đem ánh sáng xuống qua tâm của chúng ta, dù rằng đa số mọi người vẫn còn muốn sống trong bóng tối.

Chìa khóa chân chính để khai mở ra uy lực của cái Ta không phải là một công thức thần tiên áp lực cho áng sáng đi xuống. Chìa khóa là ta phải vứt bỏ ra khỏi tâm những yếu tố đang ngăn chặn không cho dòng ánh sáng tuôn chảy.

Vậy thì tâm phải như thế nào để trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng tâm linh? Ánh sáng đến từ các chân sư thăng thiên, ở một tầng cấp cao hơn chúng ta trong chuỗi các sinh thể. Do đó, cách duy nhất để ta nhận được ánh sáng từ các chân sư là ta phải hòa điệu tâm của mình với các chân sư. Và rốt cuộc có nghĩa là ta phải đi theo con đường thần bí nhập làm một với tầng cấp thực tại ngay ở bên trên chúng ta. Chúng ta đều có tiềm năng hòa điệu tâm mình với tâm của một chân sư thăng thiên, và ngay cả cuối cùng đạt đến sự hợp nhất là một với chân sư này. Đây là con đường các sinh thể nay đã thăng thiên đã đi trước chúng ta, và chúng ta hoàn toàn có khả năng đi theo con đường này.

Tuy nhiên tiến trình hòa điệu dẫn tới sự hợp nhất là một với chân sư xảy ra trong tâm chúng ta. Bạn có bắt đầu nhận ra tại sao nó quan trọng không? Có những sách tâm linh hay sách tự giúp mình nói với bạn rằng bạn cần một loại công thức bí mật nào đó để có được sức mạnh giúp thay đổi cuộc đời của bạn. Nhưng sự thật sâu sắc là sức mạnh thật sự của cái Ta nằm trong dòng ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuyên qua tâm của bạn. Đây là một tiến trình hoàn toàn tự nhiên. Ánh sáng muốn tuôn chảy, và chắc chắn nó sẽ tuôn chảy qua một lỗ trống nào đó trong tấm màn “chia cách” cõi tâm linh và cõi vật chất.

Như vậy chìa khóa chân chính để khai mở uy lực của cái Ta KHÔNG nằm trong một công thức thần tiên áp lực cho dòng ánh sáng phải chảy xuống. Chìa khóa là bạn phải vút bỏ ra khỏi tâm những yếu tố ngăn chặn dòng chảy của ánh sáng. Khi tâm bạn được trong lọc, ánh sáng sẽ tuôn chảy một cách tự nhiên. Nhưng mọi chướng ngại cá nhân của bạn đều nằm trong tâm bạn, và bạn chỉ có thể giải quyết chúng ở bên trong tâm của bạn. Bạn chỉ có thể giải quyết chúng với những lựa chọn ý thức, khi bạn thấy được những tin tưởng đã hạn chế bạn và bạn quyết định chấp nhận một thực tại cao hơn đến từ một cái nhìn thần bí.

Các chân sư thăng thiên có một công tác khó khăn và tế nhị. Các thày có thể cho ta giáo lý vỏ ngoài, nhưng giáo lý vỏ ngoài không thể thay đổi bạn được. Giá trị duy nhất của giáo lý vỏ ngoài là bạn dùng nó như một chất xúc tác để đạt được một kinh nghiệm thần bí, trực giác. Và khi bạn có kinh nghiệm này, tâm thức của bạn sẽ chuyển hóa. Như vậy câu hỏi kế tiếp là bạn trong lọc tâm mình như thế nào đây, và chúng ta sẽ xem xét đề tài này trong một chương kế tiếp. Nhưng trước đó, ta cần phác thảo vũ trụ quan của các chân sư thăng thiên. Có một cái nhìn tổng thể rộng lớn rất hữu ích cho chúng ta trước khi chúng ta bị lôi cuốn vào chi tiết.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 2 – Các chân sư thăng thiên giúp được bạn như thế nào

Trong chương trước chúng tôi bắt đầu với khoa học. Đây là một ví dụ tốt cho thấy con người chúng ta có thể khởi đầu với những gì chúng ta thấy từ bên trong hộp tư duy của mình, rồi từ từ mở rộng tầm nhìn và hiểu thêm. Tuy nhiên, vật lý lượng tử giờ đây chứng minh cho chúng ta thấy là chắc chắn có cái gì khác vượt lên trên vũ trụ vật chất này. Và cái gì đó phải có một dạng tâm thức tinh vi hơn là tâm của chúng ta. Khoa học hiện nay chỉ dẫn chúng ta được tới điểm này; nếu chúng ta còn nhìn từ bên trong cái hộp tư duy thì chúng ta chỉ nhìn được tới đó mà thôi.

Vậy thì bây giờ chúng ta hãy hỏi một câu hỏi hợp lý: nếu có những sinh thể ở ngoài vũ trụ vật chất, nếu những sinh thể này đã sáng tạo ra vũ trụ và các đấng này đã gửi chúng ta xuống dưới đây để đồng sáng tạo thế giới này chung với họ, có lý chăng là các thày bỏ mặc chúng ta một mình sao? Và nếu các thày đã không bỏ mặc chúng ta một mình, có thể nào các thày đã cho chúng ta những giáo lý để nói cho chúng ta biết những điều mà chúng ta không thể thấy được từ bên trong cái hộp của chúng ta? Và phải chăng các giáo lý này có thể giúp chúng ta khơi mở được uy lực của cái Ta và cuối cùng thì chúng ta sẽ thăng thiên vĩnh viễn vượt qua cái hộp tư duy của con người và vũ trụ vật chất này? Nói cách khác, sẽ tới lúc trên con đường tu tập của bạn, bạn phải xét xem bạn muốn một vị thày loại nào: một vị thày nằm trong cái hộp tư duy của con người hay ở ngoài cái hộp này?

2.1 Bạn muốn một vị thày loại nào

Như chúng ta đã thấy, ngay bây giờ bạn đang nhìn đời qua một ý niệm bản sắc đặc biệt nào đó. Chúng ta có thể nói rằng bản sắc này tạo một cái hộp tư duy chung quanh con người thật của bạn, và hộp tư duy này pha màu bất cứ điều gì bạn thấy kể cả bạn thấy bạn như thế nào. Như vậy chìa khóa chính yếu để thay đổi Kinh nghiệm Sống của bạn là vượt lên trên cái hộp tư duy, để có thể nhìn lên trên những giới hạn mà mình tưởng là rất thật. Nhưng bạn không thể nào đạt được điều này nếu bạn dùng những ý tưởng, tin tưởng, kinh nghiệm và nhận thức đã có sẵn trong cái hộp.

Tại sao không được? Bởi vì tất cả những gì bạn nhìn thấy từ bên trong cái hộp nhìn ra chỉ công nhận thực tại của cái hộp. Cách duy nhất để thoát ra khỏi mê hồn trận của cái hộp là bạn phải vươn lên cao hơn để tìm một cái gì có thể chất vấn cái hộp, một khung tham chiếu vượt lên trên cái hộp. Bạn tìm đâu ra khung tham chiếu này? Câu trả lời giản dị là bạn cần một vị thày không nằm ở trong cái hộp tư duy cá nhân của bạn. Hãy để tôi giải thích điều này với một ví dụ.

Hồi nhỏ, chắc là bạn đã chơi một trong những trò đố mà bạn phải vẽ một đường xuyên qua mê cung để tới nơi có kho tàng ở giữa mê cung. Đây là một thí dụ giản dị.

Hình 3 – Mê cung

Có khi bạn đã từng thăm viếng một mê cung thật làm bằng những hàng cây cao dày đặc trồng quanh co theo một mô thức phức tạp. Một khi bạn ở trong một mê cung như thế, tầm nhìn của bạn bị giới hạn rất nhiều. Bạn chỉ còn thấy được những bức tường xanh rì tạo thành một hành lang eo hẹp. Khi bạn đi theo hành lang, bạn đụng phải một bức tường, nhưng quay qua một bên thì có lối đi tiếp. Nếu bạn quẹo, bạn lại rơi vào một hành lang khác, hành lang này lại dẫn tới hành lang khác. Đôi khi bạn tới được một chỗ có được hai hay nhiều lối ra hơn. Bạn chọn một lối, nhưng nó lại dẫn tới ngõ cụt, và bây giờ thì bạn phải đi ngược trở lại chỗ cũ của bạn. Lúc ấy bạn có thể chọn một đường khác với hy vọng nó dẫn bạn đi xa hơn.

Bạn có thấy ẩn dụ này giống như cuộc đời mình khi mình mới bắt đầu không? Chúng ta có một cái nhìn rất hạn chế về cuộc sống và chúng ta chỉ thấy được môi trường nhỏ chung quanh mình. Chúng ta không hiểu tại sao mình lại rơi vào cảnh huống rối beng này và cũng không biết nó dẫn mình đi tới ngõ cụt hay tới đâu nữa. Và vấn đề chính là khi chúng ta ở trong mê cung, chúng ta không có bản đồ, thì làm sao chúng ta biết mình đang ở đâu và tìm thấy lối ra?

Bây giờ bạn hãy tưởng tượng là trong khi bạn đang mò mẫm tìm đường thì bạn gặp một người nói với bạn rằng bà đã tìm thấy một khoảng thoáng rộng tuyệt vời trong mê cung nơi đó có một vòi nước mát. Bà chỉ lối cho bạn và sau khi quẹo chỗ này chỗ kia, bạn tìm ra nơi đó. Bạn vui sướng được ở nơi không gian mở và dòng nước thì mát rượi, nhưng được một lúc, bạn nhận ra rằng bạn vẫn còn đang bị kẹt trong mê cung và bạn vẫn không biết lối ra ở đâu, bạn còn không biết là có lối ra nữa hay không.

Người bạn đã gặp biểu trưng cho những người đã tìm thấy cái mà chính bạn chưa tìm thấy. Vì vậy họ có thể cho bạn lời hướng dẫn có giá trị. Nhưng họ vẫn còn bị kẹt trong mê cung như chính bạn. Giờ đây, hãy tưởng tượng là bạn nhận ra rằng bạn thực sự chán ngán quá cái chuyện cứ phải đi vòng vo như kẻ mù lòa. Bạn muốn một cái gì khác. Bạn muốn lời hướng dẫn của một người nào đã tìm ra giải đáp và đã tìm ra lối thoát khỏi mê cung. Bạn muốn lời hướng dẫn của một người đã tìm ra bản đồ và có thể giúp bạn vạch ra một con đường dẫn bạn thoát ra khỏi mê cung. 

Lúc đó bạn tìm ra một nơi thoáng rộng có một băng ghế. Bạn ngồi xuống và tựa lưng. Bất thình lình, bạn nhìn lên và thấy có một tòa tháp cao vươn lên từ trong mê cung. Tút trên cao của tòa tháp có một mặt phẳng tròn trên đó có nhiều người đang đứng để hướng dẫn những người đang đi lạc dưới mê cung. Bạn hiểu ra rằng vì những người đứng ở trên đó thấy được mê cung từ trên cao, họ có thể thấy được chính xác vị trí của bạn nằm ở đâu so với lối ra. Bạn liền leo lên băng ghế và bắt đầu khoa tay để tạo sự chú ý của một trong những người đang ở trên tòa tháp. Một trong những người này trông thấy bạn và hỏi bạn muốn gì. Bạn nói bạn muốn thoát ra khỏi mê cung và ông ta nói với bạn: “Hãy bắt đầu bước đi!” 

Khi bạn bắt đầu tuân theo lời hướng dẫn của người chỉ đường ở trên cao, bạn khám phá là ông có một cách hướng dẫn độc đáo. Ông không quyết định hộ cho bạn, nhưng ông ám chỉ đủ để bạn tự biết phải quyết định ra sao. Sau một lúc thì bạn cũng hiểu rằng tuy ông hướng dẫn bạn đi tới lối ra, ông không chỉ cho bạn con đường ngắn nhất. Lý do là ông biết bạn cần trải qua một số kinh nghiệm trước khi bạn sẵn sàng từ bỏ mê cung. Và ông rất khéo léo hướng dẫn bạn tới chỗ bạn cần tới để bạn có thể đi bước kế tiếp. 

2.2 Các vị thày toàn vũ của chúng ta

Cuốn sách này sẽ phác họa một con đường có hệ thống giúp bạn xây dựng mối quan hệ cá nhân với các vị thày tâm linh thăng thiên và với cái ta cao của bạn. Những người hướng dẫn đứng trên tháp cao trong mê cung giả tưởng ở trên là một biểu tượng về các vị thày này. Các thày đã từng đầu thai như chúng ta cho nên các thày hiểu chúng ta đang trải qua những gì. Nhưng các thày đã giải quyết được bí ẩn của cuộc đời con người và đã tìm được lối thoát khỏi mê cung. Vì vậy các thày có thể cho chúng ta một cái nhìn mà chúng ta là những người đang kẹt trong mê cung không thể có được. 

Chúng ta ai cũng có một vị thày như thế được chỉ định cho chúng ta và thày đã hướng dẫn chúng ta trên hành trình riêng của chúng ta những lúc chúng ta nghe được thày và vâng lời thày. Mục đích của cuốn sách này là giúp cho bạn biết một cách ý thức về các vị thày tâm linh của bạn. Như vậy bạn có thể bắt đầu nghe theo lời các thày hướng dẫn một cách tỉnh thức và chủ động hơn. Nếu được như vậy lẽ dĩ nhiên là bạn sẽ tiến bộ nhanh gấp bội.

Nếu bạn áp dụng các lời dạy và các phương pháp tu trong cuốn sách này, bạn sẽ không còn cảm thấy là mình đang lạc lối trong một môi trường thù địch và cũng chẳng đi tới đâu cả. Ngược lại bạn sẽ cảm thấy mình đang đi và trước kia cũng đã đi đúng trên con đường mà bạn cần đi để tới nơi mà bạn muốn tới trong cuộc sống. Có nghĩa là bạn sẽ tới được những nơi bạn cần thăm viếng trong mê cung trong khi bạn đang tiến gần hơn tới lối ra. Lối ra này là cánh cửa dẫn bạn vào một tầng mức thực tại rộng lớn hơn hẳn.

2.3 Bạn sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn

Như đã đề cấp, châm ngôn căn bản của các thày tâm linh là : “Khi người trò sẵn sàng, người thày sẽ xuất hiện.” Bạn đã tìm ra cuốn sách này, có nghĩa là ở một mức nào đó trong con người bạn, bạn đã sẵn sàng để đón nhận giáo lý và phương pháp tu do các chân sư thăng thiên đem lại. Tuy nhiên bạn nghĩ trở lại ẩn dụ mê cung. Sự thật là mỗi người chúng ta có một mê cung riêng mà chúng ta phải tìm đường đi ra để tìm thấy hướng đi trong cuộc sống của mình. Mê cung đó hiện hữu trong tâm của chính mình. 

Chìa khóa giúp bạn gia tăng sự nhận biết của cái Ta là trau dồi thói quen quan sát chính mình.

Mê cung riêng của bạn được tạo ra bởi những tin tưởng và kinh nghiệm mà bạn có trong suốt hành trình bạn trải qua trong vũ trụ vật chất này. Dù rằng chắc chắn là bạn sẵn sàng để học cuốn sách này ờ tầng mức sâu thẳm của con người bạn, vẫn có thể là bạn cần vượt qua một số chướng ngại trước khi bạn có thể sử dụng tối đa cuốn sách này. Bạn có thể vẫn còn những tin tưởng hay thành kiến ngăn cản không cho bạn chấp nhận những điều dạy trong sách. Hoặc chúng cũng có thể ngăn cản không cho bạn dùng những phương pháp tu mà bạn sẽ nhận được. 

Chúng ta chỉ cần hiểu một chân lý giản dị là giải quyết được vấn đề. Chìa khóa chính yếu để mở ra uy lực của cái Ta là chúng ta nhận biết được rõ hơn cái Ta đó. Chìa khóa giúp chúng ta gia tăng sự nhận biết cái Ta là trau dồi thói quen quan sát chính mình. Hãy để tôi giải thích theo một lối khác. Muốn mở ra uy lực của cái Ta thì chúng ta phải tìm đường trở về trung tâm của mê cung riêng của mình. Trung tâm này là căn phòng bí mật. Nhưng mê cung của bạn lại rất là lươn lẹo vì không có một con đường nào dẫn thẳng tới trung tâm. Bạn nhìn kỹ đi mê cung trên Hình 3. 

Các tin tưởng và thành kiến hạn chế của bạn tạo ra những bức tường trong mê cung của bạn. Chúng giống như những hàng rào cây dày đặc trong một mê cung thật ngoài đời. 

Hình 3 – Mê cung

Như vậy vấn đề không phải là tìm ra một con đường mở rộng, vì không có con đường đó. Tất cả các lối đã bị các quan niệm cưng của bạn làm nghẽn mất rồi.

Làm sao bạn phá vỡ bí ẩn này đây, làm sao bạn tới được trung tâm của cái Ta đây? Khi bạn gặp ngõ cụt, bạn phải đổi cách ứng phó. Ngõ cụt ngăn chặn bạn lại chính vì bạn có một quan niệm hay một tin tưởng mà bạn chưa bao giờ thật sự nhìn nó, vì từ trước tới nay bạn cứ đinh ninh nó đương nhiên là như vậy. Vậy thì bây giờ bạn phải lùi lại, nhìn nó và chất vấn nó. Bạn phải tự hỏi mình tại sao bạn tin điều này, và bạn phải thấy được tại sao nó ngăn cản không cho bạn tiến bộ thêm. Sau đó bạn phải quyết định đi xuyên qua nó thì lúc đó bạn sẽ thấy hiện ra con đường trước kia bị ẩn dấu đằng sau cái tin tưởng mà bạn chưa chất vấn.

Ngõ cụt chặn sự phát triển cá nhân của bạn là một quan niệm hay một tin tưởng mà bạn chưa bao giờ thật sự nhìn nó, vì từ trước tới nay bạn cứ đinh ninh nó đương nhiên là như vậy.

Hãy tưởng tượng bạn đang ở trong một mê cung thật, và sau khi đi lòng vòng một thời gian dài, bạn nhận ra rằng không có con đường nào dẫn tới trung tâm. Nhưng khi bạn xem xét kỹ, bạn nhận ra rằng giữa các cây tạo nên hàng rào có những khe hở nhỏ. Do đó, thay vì đi bên ngoài các bức tường cây, bạn phải đối phó kiểu mới và đi xuyên qua các bức tường cây. Và chỉ bằng cách này bạn mới tiến gần tới căn phòng riêng mang kho tàng của bạn.

2.4 Chân sư thăng thiên là ai?

Như chúng ta đã thấy, thế giới vật chất và tâm linh được làm bằng cùng  một chất, điểm khác biệt là tần số rung động của chất này được giảm xuống rất nhiều cho thế giới vật chất so với thế giới tâm linh. Điều này có nghĩa là không có hàng rào cản giữa thế giới tâm linh và thế giới của chúng ta. Thế giới vật chất nằm trong trường năng lượng rộng lớn của cõi tâm linh. Thế giới tâm linh bao bọc ngay chung quanh chúng ta; chỉ vì nó rung động ở một tần số cao hơn nên chúng ta không thể thấy nó. Nhưng chúng ta có thể cảm nhận được nó qua trực giác. Chúng tôi sẽ đề cập sau tới chuyện này. 

Hình 4 – Thế giới Tâm linh ở chung quanh chúng ta

Chúng ta cũng đã thấy là tâm thức của chúng ta có thể tương tác với chất lượng tử, bởi vì có một dạng tâm thức có mặt ở tầng lớp lượng tử. Tâm thức này là một số các sinh thể có khả năng tự nhận biết và chính là những vị đã tạo ra thế giới vật chất này. Có thể gọi các sinh thể này là sinh thể sáng tạo, sinh thể lượng tử hay các vị chân sư thăng thiên hay thày tâm linh của chúng ta. Riêng tôi thì thích gọi các vị đó là chân sư thăng thiên. Từ ngữ “chân sư thăng thiên” chỉ một cái gì quan trọng. Một sinh thể thăng thiên trước kia đã từng ở trong một cõi dày đặc hơn, giống như chúng ta, và sinh thể đó đã thăng thiên khỏi cõi này. Chân sư thăng thiên xứng đáng thăng thiên vì tâm của người đã làm chủ vật chất, nhờ vậy người khai mở được tiềm năng sáng tạo của mình và làm chủ được môi trường. Qua khả năng làm chủ này, người hội đủ điều kiện để thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên. Xin ghi nhớ là không phải tất cả chân sư thăng thiên đều thăng thiên từ trái đất, nhưng các vị đó đã thăng thiên từ một môi trường tương tự như của chúng ta. 

Tiến trình mà tất cả các chân sư thăng thiên đi qua chính là tiến trình mà chúng ta đang đi qua ngay bây giờ. Chúng ta đều là những chân sư thăng thiên sẽ thành. Có nghĩa là các chân sư biết rõ qua kinh nghiệm của họ những gì chúng ta đang trải qua. Các thày bắt đầu với một trạng thái tâm thức giới hạn, giống như chúng ta ngay bây giờ. Sau đó, các thày từ từ leo lên cao hơn và làm chủ nhiều hơn cho tới khi đạt tới sự làm chủ trọn vẹn và đây cũng chính là tiềm năng rất thật của chúng ta. Điều này có nghĩa là các chân sư thăng thiên là những vị thày hoàn hảo cho chúng ta. Các thày không phải là những nhân vật giống như thần thánh dũng mãnh ngồi cao chót vót trên đám mây hồng mà không chịu nhúng ta vào việc trần thế. Các thày hiểu rất rõ tâm trạng của người bị giam cầm trong thế giới vĩ mô này, nhưng mặt khác các thày cũng biết cách leo ra khỏi nhà tù này một cách có hệ thống để đạt được tâm điều ngự vật chất.

Các chân sư không có thân xác như chúng ta, vì vậy các thày không nhận thức thế giới này qua các giác quan giới hạn của thân xác. Điều này có nghĩa là các thày thấy được nhiều hơn là chúng ta thấy; các thày biết thế giới này vận hành ra sao và có cái nhìn về thế giới này rộng lớn hơn và đầy đủ hơn chúng ta. Đây lại là thêm một lý do nữa khiến cho các thày hữu ích cho chúng ta là những người đang đi tìm một sự hiểu biết cao.

2.5 Tại sao bạn chưa bao giờ nghe nói tới các chân sư thăng thiên?

Tại sao chưa có ai nói cho bạn biết về các chân sư thăng thiên từ trước tới giờ? Một phần là vì từ ngữ này mới được dùng trong vòng hơn một thế kỷ qua, nhưng trải qua lịch sử bạn đã từng nghe tới ảnh hưởng của những vị thày tâm linh toàn vũ.

Các thày tâm linh của chúng ta chỉ có một mục đích duy nhất là giúp chúng ta nâng cao tâm thức. Các thày không tìm cách – xin nhắc lại, không tìm cách – đạt mục đích này bằng cách xây dựng một tôn giáo hay hệ thống tư tưởng tối hậu. Thay vào đó, các thày làm việc với mọi người ở trình độ của mọi người và giúp cho mọi người tiến lên mức kế tiếp của mình. Các thày làm việc với một nền văn minh với thế giới quan họ hiện có, và các thày đem vào một số ý tưởng mà mọi người dễ chấp nhận nhưng các ý tưởng này giúp họ vượt cao hơn thế giới quan hiện thời của họ. Cho nên, thường khi là các thày làm việc ẩn danh bằng cách truyền tư tưởng xuống những người dưới thế gian này và những người này không biết rằng những ý tưởng xuất sắc mà họ có được thật sự đến từ các thày.

Thời đại nào cũng đã có các chân sư toàn vũ muốn giúp đỡ những ai có tâm cởi mở. Trải qua các thời đại, các thày đã tìm cách làm việc với nhiều cá nhân khác nhau để truyền xuống những ý tưởng mới, có thể giúp nhân loại ở một mức văn hóa và tâm thức nào đó tiến lên một mức cao hơn. Các thày đã truyền cảm hứng để tạo ra tất cả các tôn giáo chính của nhân loại và các tôn giáo được biết đến ít hơn. Các thày đã truyền cảm hứng cho nhiều ý tưởng triết học. Các thày đã truyền cảm hứng trong các ngành văn chương, âm nhạc, kịch nghệ và các sinh hoạt văn hóa khác. Các thày đã truyền cảm hứng cho nhiều ngành khoa học và kỹ thuật, nhờ vậy mà chúng ta có được tự do để theo đuổi sự phát triển cá nhân thay vì phải nai lưng đổ mồ hôi làm việc. 

Nhưng các thày cũng muốn cho những ai có tâm cởi mở nhận được một tổng hợp mạch lạc các ý tưởng toàn vũ. Cuốn sách này sẽ trình bày cho các bạn những ý tưởng đó. Đọc xong thì các bạn có thể đánh giá xem chúng có giúp bạn trả lời những câu hỏi cơ bản của cuộc sống.

2.6 Vì sao không có bằng chứng các chân sư có thật?

Nếu các chân sư thăng thiên đã có bên cạnh chúng ta suốt lịch sử nhân loại, tại sao sự hiện diện của các thày không được chấp nhận rộng rãi? Lý do cơ bản nhất là vì trên trái đất phải tuân theo Luật Tự Quyết. Có nghĩa là nguyên tắc có thể phủ nhận chân sư phải được duy trì, và do đó các chân sư không thể cho chúng ta bằng chứng không thể chối cãi của sự hiện hữu của họ.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng có rất nhiều hành tinh trong vũ trụ có những sinh thể có tự nhận biết như chúng ta. Một hành tinh giống như là một lớp học cho cư dân, do đó ta có thể thẩm định một hành tinh dựa trên mức độ mà các cư dân đã phát triển khả năng sáng tạo của họ. Tâm thức đại chúng đang ở mức mẫu giáo hay là các cư dân đã lên tới mức đại học?

Trái đất hiện nay có một trình độ phát triển khá thấp, có nghĩa là đa số cư dân ở dưới một trình độ nhận biết nào đó. Đó là trình độ nơi con người muốn cảm thấy mình là sinh thể tách biệt sống trong một thế giới tách biệt. Cách duy nhất để chúng ta có kinh nghiệm này là do vật chất trên trái đất thô đặc đến độ nó che lấp sự việc nó được tạo ra từ một chất tinh tế hơn. Nói cách khác, khi chúng ta nhìn vật chất qua giác quan của mình thì ta thấy vật chất có vẻ rắn chắc và có vẻ hiện hữu riêng biệt. Vật chất không có vẻ được cấu tạo bởi năng lượng tâm linh, và đó là lý do vì sao chúng ta tin rằng thế giới vật chất tách biệt khỏi Thượng đế hoặc có tính cách tự lập.

Trái đất hiện nay đang trong giai đoạn chuyển tiếp trong đó chúng ta đang lên một trình độ nhận biết tập thể cao hơn. Nhưng cho tới thời diểm này, Luật Tự Quyết ấn định là con người phải có quyền chối bỏ sự hiện hữu của Thượng đế hay các chân sư thăng thiên. Con người phải được quyền duy trì ảo tưởng họ là sinh thể tách biệt sống trong một thế giới tách biệt. Do đó, trong tương lai gần sẽ không có bằng chứng không chối cãi được là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên có thực. Có nghĩa là ta chỉ có thể chứng minh sự hiện hữu của các chân sư ở mức độ cá nhân mà thôi, đó là điều chúng ta sẽ nói tới trong chương sau.

Đó cũng là lý do giải thích phương cách trao truyền giáo lý trong quyển sách này. Vì nhu cầu có thể phủ nhận chân sư, các chân sư không thể để giáo lý rơi từ trời xuống. Do đó, các thày đã trao truyền giáo lý qua trung gian những người đã nâng cao tâm thức của họ lên mức họ có thể liên lạc trực tiếp với các chân sư và do đó nhận được ý tưởng và có khi cả lời nói từ các chân sư. Làm cách này thì một số người có thể dễ dàng chối bỏ và dán nhãn các chân sư và giáo lý của các thày cho phù hợp với hệ thống tín điều của họ.

Chúng ta cũng có thể thấy một lý do khác vì sao các bạn chưa bao giờ nghe tới các chân sư thăng thiên. Khi người đệ tử sẵn sàng, thì vị thày thăng thiên sẽ xuất hiện. Bạn không thể thực sự nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư nếu bạn chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý của các thày. Vì bạn đang đọc quyển sách này,  chắc chắn là bạn đã sẵn sàng để nhìn kỹ các chân sư và giáo lý của họ.

2.7 Vì sao các chân sư quan trọng?

Vì sao mở lòng đón nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên là một việc quan trọng? Lý do gần nhất là có những giải đáp mà chúng ta không thể có được qua phương tiện vật chất hay ngay cả với một trình độ tâm thức nào đó. Nếu bạn muốn một giải đáp vượt trên trình độ tâm thức của bạn, thì bạn cần phải tìm giải đáp này từ một nguồn bên trên trình độ của bạn. Sau đó, bạn có thể từ từ nâng tâm thức của mình lên tới mức đó, là nơi bạn có thể kiểm chứng trực tiếp các ý kiến từ bên trong cái Ta của mình.

Các bạn hãy suy ngẫm một sự kiện mà nền văn minh hiện đại đã bỏ qua, đó là việc tâm con người có thể trở thành một hệ thống khép kín. Các bạn hãy nhớ lại thời Trung cổ, khi giáo hội đã đề xướng chủ thuyết cho rằng quả đất là trung tâm vũ trụ. Thêm vào đó, giáo hội nói rằng nếu bạn chất vấn hay nhìn vượt lên chủ thuyết này thì bạn sẽ bị thiêu vĩnh viễn trong địa ngục. Nếu bạn chấp nhận ý kiến của giáo hội, thì không có cách gì để bạn chất vấn thế giới quan Trung cổ này.

Khi chúng ta lớn lên, chúng ta được dạy rằng khoa học đã tháo gỡ cái gông mà giáo hội đã quàng vào cổ nhân gian, nhưng sư thực là gì? Có thể nào là sự thực sâu xa hơn là một số các nhà khoa học ban đầu đã là những người tự coi mình là người tâm linh sâu xa, đã có khả năng hòa điệu tâm họ với các chân sư thăng thiên? Và qua sự hòa điệu đó, các nhà khai phóng tiên phong này đã nhận được cảm hứng và tuệ giác hướng dẫn họ làm sao đưa nhân loại lên mức tiến hóa kế tiếp.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng sự phát triển của hiểu biết con người không chỉ xảy ra qua việc gom hiểu biết theo chiều ngang. Nó cũng xảy ra qua khả năng của cái Ta gom hiểu biết theo chiều dọc, tức là bằng cách hòa điệu với một nguồn cao hơn. Nguồn cao hơn đó là các chân sư thăng thiên.

Như đã trình bày, nhiều chân sư thăng thiên đã từng đầu thai làm người trên địa cầu, và do đó các thày hiểu rất rõ các thách đố mà chúng ta chạm trán khi nhìn thế giới qua màn phin lọc của hộp tư duy mà ta đang có. Và đó cũng chính là lý do vì sao các thày đã xả thân giúp chúng ta vượt lên trên nhận thức giới hạn của chúng ta để chúng ta biết cái Ta nhưng thêm nữa để chúng ta tháo mở tiềm năng tiềm tàng của cái Ta. Vì sao các các thày lại làm chuyện này? Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn trong các phần kế tiếp.

2.8 Vì sao các chân sư thăng thiện lại quan tâm đến chúng ta?

Nếu các chân sư thăng thiên sống ở một cõi cao vượt lên trên các giới hạn của thế giới vật chất, thì vì sao các thày lại quan tâm đến chúng ta? Nếu cõi tâm linh tốt hơn nhiều thế giới này, thì vì sao các thày lại không chỉ vui sống trên đó và để mặc chúng ta tự lo liệu cho mình? Các thày muốn được gì nơi chúng ta, các thày có ý đồ gì chăng?

Các chân sư dạy rằng đa số chúng ta nhìn cuộc đời với tâm thức tách biệt. Bởi vì chúng ta chú tâm vào vỏ ngoài của hình tướng nên chúng ta chú tâm vào những khác biệt giữa các vật. Kết quả là chúng ta thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế và cõi tâm linh, ta thấy mình tách biệt khỏi người khác, và ta thấy mình tách biệt khỏi môi sinh, tức là trái đất nơi chúng ta sống. Chúng ta bị một màn ảo tưởng che mờ, đó là ảo tưởng tách biệt.

Đa số chúng ta nhìn cuộc đời qua tâm thức tách biệt, vì chúng ta chú tâm vào vỏ ngoài của hình tướng.

Khác với kiến quan của chúng ta, các chân sư thăng thiên không bị màn tách biệt che mờ. Các thày nhìn thế giới rất rõ ràng, giống như những gì chúng ta có thể thấy nếu dựa trên thuyết tương đối và vật lý lượng tử. Các chân sư thấy rằng, tuy có một số sự chia cách trong thế giới, nhưng không có các rào cản không thể vượt qua được.

Mọi vật được cấu tạo từ cùng một chất cơ bản đã mang nhiều hình tướng. Các chân sư dạy rằng mọi vật trong cả cõi tâm linh và cõi vật chất đều được cấu tạo bằng một chất cơ bản, mà các thày gọi là ánh sáng Mẫu-Vật hay là Ánh sáng Mẹ. Chất này tự nó không có hình tướng, và đó là lý do vì sao các dụng cụ vật chất không phát hiện được nó. Tuy nhiên, nó có khả năng khoác bất cứ hình tướng nào, và trong những phần sau chúng ta sẽ xem xét cách Ánh sáng Mẹ khoác hình tướng.

Các chân sư thăng thiên thấy tách biệt là một ảo tưởng chỉ có vẻ hợp lý khi ta nhìn thế giới qua phin lọc của một trạng thái tâm thức nào đó. Đó là tâm thức nhị nguyên, đã lọc đi thực tại tối hậu là mọi vật đều được cấu tạo bằng cùng một chất và đều sinh ra từ cùng một cội nguồn.

Các chân sư thăng thiên không tự coi họ tách biệt với chúng ta. Các chân sư tự coi mình là các phần nối dài của các sinh thể ở cõi cao hơn, và các thày coi “chuỗi sinh thể” này đi ngược lên đến tận đấng Sáng tạo. Các thày cũng coi chúng ta là các phần nối dài cuối của chuỗi sinh thể, và do đó các thày coi chúng ta như là em của mình. Các thày thấy là chúng ta chỉ giản dị bị giam đằng sau tấm màn nhị nguyên, cũng được gọi là tấm màn năng lượng. Các thày thấy rõ là ảo tưởng tách biệt đã tạo ra mọi xung đột và khổ đau trên trái đất, và do đó các thày không có ước vọng hay ý đồ gì ngoài việc cống hiến chúng ta phương tiện để chúng ta nâng tâm thức mình lên, và từ đó nhìn vượt lên trên bức màn và biết mình thực sự là ai.

2.9 Mục đích của thế giới hình tướng

Các chân sư dạy rằng mục đích của thế giới hình tướng là cung cấp một môi trường trong đó các sinh thể có tự nhận biết khởi đầu với một sự tự nhận biết rất thu hẹp, và sau đó từ từ mở rộng dần sự tự nhận biết đó. Các chân sư dạy rằng Thượng đế là một đấng không khác chúng ta trên căn bản. Đấng Sáng tạo là một Sinh thể có trình độ tự nhận biết cao nhất, nhưng vì chúng ta được cấu tạo từ bản chất đấng Sáng tạo, nên chúng ta có tiềm năng mở rộng sự tự nhận biết của mình tới cùng trình độ với đấng Sáng tạo.

Các chân sư thăng thiên không coi chúng ta khác hay thấp hơn chính họ. Các thày coi chúng ta như sinh thể chưa đạt tới trình độ tự nhận biết của mình, và các thày đã tình nguyện làm công việc hướng dẫn hay giáo huấn chúng ta. Mục đích chung của các thày là giúp chúng ta nâng tâm thức của mình, nhưng mục đích rõ rệt của các thày là giúp chúng ta nâng tâm thức của mình tới mức hoàn toàn giải thoát khỏi ảo tưởng nhị nguyên.

Một khi chúng ta thoát được ảo tưởng đó thì chúng ta thấy mọi sự sống là một, và đó là lúc chúng ta đã đỗ kỳ thi cuối của “Trường Địa Cầu”, có nghĩa là chúng ta có thể vĩnh viễn tiến lên các cõi năng lượng cao hơn. Các chân sư thăng thiên gọi đây là tiến trình thăng thiên. Tuy Thiên chúa giáo có nói đến việc Giê-su thăng thiên, nhưng có nhiều điểm khác biệt quan trọng giữa tín điều Thiên chúa giáo và giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thiên chúa giáo dạy rằng Giê-su là người duy nhất thăng thiên, và ngay mẹ của thày cũng chỉ được “coi là” đã nhập thiên đàng. Thiên chúa giáo cũng coi tiến trình này là tiến trình vật lý nâng thân thể Giê-su lên cõi thiên đàng.

Các chân sư thăng thiên dạy là chúng ta đều có tiềm năng thăng thiên. Nhưng đây không phải là một tiến trình vật lý; đây là tiến trình qua đó chúng ta nâng tâm thức mình cho tới khi chúng ta bỏ lại thân thể vật lý và tiến lên một mức tự nhận biết cao hơn, nơi đó ta không cần một thân thể vật lý. Ngược lại, chúng ta khoác vào một thể tâm linh, tức là một thể được cấu tạo bằng năng lượng với tần số cao hơn là tần số của cõi tâm linh. Bởi vì các chân sư thăng thiên đã chạm trán cùng những thách đố như chúng ta ngày nay, nên các thày biết rất rõ làm cách nào giúp chúng ta vượt qua mọi thách đố và đạt được khả năng làm chủ chính mình.

2.10 Các chân sư thăng thiên và uy lực của cái Ta

Ở phần trên bài này chúng ta được biết là toàn thể vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng năng lượng tâm linh mà độ rung được giảm xuống quang phổ của tần số rung của vật chất. Dòng năng lượng này chính là chủ lực sáng tạo và duy trì vũ trụ. Như vậy khi các phương pháp tự giúp hay các giáo lý tâm linh nói rằng bạn có thể thay đổi hoàn cảnh sống của bạn bằng cách thay đổi tâm của bạn, chân lý sâu sắc đằng sau lời tuyên bố này là gì?

Chúng ta hãy nhìn vào sự kiện là mọi thứ ở tầng cấp vĩ mô này thật sự đều được cấu tạo bằng năng lượng. Làm sao bạn có thể thay đổi một tình trạng vật chất, tỷ dụ như một căn bệnh trong cơ thể bạn đây? Vâng, cách hay nhất để tạo thay đổi là tác động ở tầng lớp năng lượng, vì đây mới là tầng lớp nguyên nhân thay vì tác động ở tầng lớp hậu quả. Vậy thì tại sao cơ thể bạn bị bệnh? Chính vì các tế bào của bạn đã nhận quá nhiều năng lượng rung động ở tần số thấp cho nên chúng không thể hoạt động bình thường nữa. Vậy thì cách hợp lý để chữa lành cơ thể là gì? Là giải thoát các tế bào khỏi gánh nặng của năng lượng này, nhờ vậy chúng có thể hoạt động một cách bình thường trở lại.

Các nhà khoa học đã cho chúng ta thấy là khi hai sóng năng lượng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa. Một dòng sóng có tần số cao có thể nâng cao độ rung của dòng sóng có tần số thấp. Bạn hãy xem xét chuyện Giê-su đã làm những chuyện có vẻ giống như phép lạ khi thày chữa cho người bệnh được lành bệnh. Có thể nào đây không phải là phép lạ, mà Giê-su đã học được cách sử dụng trọn vẹn khả năng sáng tạo của tâm và sự chữa lành bệnh này là kết quả của khả năng đó? Có thể nào Giê-su làm chuyện này để chứng minh cho chúng ta thấy chúng ta cũng có tiềm năng này?

Một lần nữa, mọi thứ trong vũ trụ vật chất này đều được tạo ra từ các sóng năng lượng mà độ rung được hạ thấp xuống một mức nào đó. Làm sao bạn có thể thay đổi những điều kiện vật chất này? Bằng cách nâng cao độ rung của các sóng năng lượng đã tạo ra các điều kiện này. Đây không phải là lý thuyết xa vời. Đây là khoa học chắc nịch được áp dụng vào phương pháp tự giúp.

Như vật lý lượng tử đã chứng minh, có một cõi cao hơn cõi vật chất và tâm chúng ta có thể tương tác với cõi này. Sự thật sâu sắc hơn là chúng ta đã được sáng tạo để là những người đồng-sáng tạo với những sinh thể thông minh đã sáng tạo thế giới vật chất này. Chúng ta đồng-sáng tạo như thế nào? Vâng, một khía cạnh là tâm của chúng ta đã được tạo ra để trở thành cánh cửa mở, truyền các năng lượng tâm linh cao xuống quang phổ vật chất này. Ngay bây giờ thì tâm của chúng đã trở thành những cánh cửa đóng bởi vì có cái gì đó ngăn chặn lại dòng chảy tự nhiên của năng lượng sáng tạo. Chìa khóa để khơi mở uy lực của cái Ta là khôi phục lại dòng sáng tạo. 

Chúng ta đồng-sáng tạo bằng cách trở nên những cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh được truyền xuống quang phổ vật chất.

Nhưng hãy nhớ là dòng sáng tạo từ đâu tới? Các chân sư thăng thiên dạy rằng dòng sáng tạo bắt nguồn từ đấng Sáng Tạo. Năng lượng rất cao của đấng Sáng tạo được hạ độ rung xuống nhiều lần khi đi xuyên qua nhiều tầng cấp của thế giới tâm linh. Ai đã hạ thấp độ rung của năng lượng sáng tạo? Đó là các chân sư thăng thiên đã tạo ra một chuỗi sinh thể bắt đầu từ đấng Sáng tạo trải dài tới tầng cấp của chúng ta. Khi chúng ta khai mở uy lực của cái Ta, chúng ta sẽ hoàn thành đúng vai trò của mình là khoen nối kết sau cùng trong chuỗi sinh thể này. Chúng ta tìm thấy chỗ đứng của mình trong dòng sáng tạo mà các chân sư gọi là Dòng sông của sự Sống. 

Vậy thì khi chúng ta tìm ra chỗ đứng này, chúng ta lấy năng lượng sáng tạo từ đâu? Chúng ta lấy nó từ khoen nối kết ở ngay trên chúng ta trong chuỗi sinh thể. Và khoen này là các chân sư thăng thiên đang làm việc mật thiết với trái đất. Như vậy kết luận của chương này là chúng ta cần biết đến các chân sư thăng thiên bởi vì chìa khóa khai mở quyền uy của cái Ta đòi hỏi chúng ta phải làm việc với các chân sư ở ngay trên chúng ta. Chúng ta phải nhận được trực tiếp ánh sáng của các thày thì chúng ta mới khai mở được toàn bộ quyền năng sáng tạo của cái Ta. 

2.11 Hai cách thay đổi đời sống của mình

Khi chúng ta xem xét cách thay đổi hoàn cảnh vật chất của mình, thì chúng ta có hai chọn lựa. Chọn lựa đầu là chúng ta dùng năng lượng đã có sẵn trong quang phổ vật chất. Đó chính là chủ trương của phương pháp tự giúp, và một số tôn giáo và triết học tâm linh cũng giảng dạy như thế. Tuy nhiên, có ba vấn đề với chủ trương này:

  • Chỉ có mộ số lượng năng lượng hạn định trong quang phổ vật chất. Do đó, ngay từ bước đầu khả năng sáng tạo của chúng ta đã bị giới hạn.
  • Năng lượng này đã được hạ giảm xuống một mức nào đó, có nghĩa là khả năng sáng tạo của nó hạn hẹp. Ta không thể giải quyết một vấn đề do năng lượng vật chất tạo nên bằng một hình thức khác của năng lượng vật chất. Ta cần một dạng năng lượng cao hơn để thực sự thay đổi một điều kiện vật chất.
  • Có bảy tỷ người trên trái đất đang tranh giành một phần của số lượng năng lượng vật chất hữu hạn. Do đó, nếu ta muốn thay đổi đời sống bằng cách sử dụng năng lượng vật chất, thì ta phải lấy năng lượng đó từ một người nào khác. Có nghĩa là ta bị dính vào một cuộc đấu tranh trường cửu chống lại người khác, đó là điều mà ta đã chứng kiến trong suốt lịch sử nhân loại.

Chọn lựa thứ nhì là ta nhận ra rằng tâm của mình có khả năng nhận năng lượng sáng tạo từ cõi cao. Và khi chúng ta sử dụng khả năng này, thì khả năng sáng tạo của chúng ta vượt xa những gì ta có thể làm được với năng lượng vật chất. Cách để chúng ta nhận được năng lượng này là chúng ta làm việc với các đấng trên cõi cao, tức là các chân sư thăng thiên. Tuy nhiên, trước khi chúng ta tìm hiểu  thực hiện việc này như thế nào, thì chúng ta hãy tự hỏi làm sao mình biết được là các chân sư thăng thiên có thật hay không. Qua đó, ta cũng sẽ thấy tầm quan trọng của việc học cách làm việc với các chân sự thăng thiên ở mức độ cá nhân.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 1 – Khoa học và uy lực của cái Ta

Đương nhiên là hiện nay bạn chưa biểu lộ được uy lực của cái Ta, vì nếu bạn làm được thì bạn đang vui sống một cuộc đời mới thay vì đọc quyển sách này. Kết luận là uy lực của bạn đang bị ngăn chặn, không phải bởi giới hạn từ bên ngoài mà do cách bạn nhận thức cuộc đời. Nhận thức đó khiến bạn coi một số giới hạn như thật, nhưng thực ra chúng chỉ giản dị là hậu quả của cách bạn coi mình là ai.

Như vậy chìa khóa khai mở uy lực của cái Ta là bạn chuyển đổi nhận thức bạn là ai bằng cách thách đố quan niệm về đời sống của bạn. Quan niệm này là hậu quả của cái nhìn ta là ai của bạn. Và chìa khóa để thách đố cái hộp tư duy mà bạn hiện có là tìm một điểm mốc bên ngoài cái hộp đó. Bạn cần một cái nhìn khác để chất vấn thế giới quan mà bạn có qua phin lọc nhận thức của mình. Vậy câu hỏi trở thành: bạn muốn ra ngoài hộp tư duy bao xa?

Sự thực là đa số chúng ta đã chấp nhận một thế giới quan lấy đi uy lực của mình khiến chúng ta khóa lại hầu hết uy lực của cái Ta. Muốn khai mở hoàn toàn uy lực của cái Ta thì ta phải chuyển đổi sâu rộng thế giới quan và quan niệm ta là ai. Không ai có thể thay đổi lớn như vậy qua một bước nhảy vọt, do đó ta cần phải tiến hành tuần tự.

Quyển sách này sẽ giới thiệu một điểm mốc có thể kéo bạn hoàn toàn ra ngoài hộp tư duy con người. Tuy nhiên, nhằm mục đích giúp bạn bắt đầu thoải mái, tôi xin giải quyết trước vấn đề được coi là căn bản của tiến trình tự giúp. Chủ trương cơ bản của tiến trình tự giúp là ta có thể thay đổi đời mình bằng cách thay đổi thái độ hay trạng thái tâm của mình. Nhưng chúng ta lớn lên đều hấp thụ một thế giới quan khiến chủ trương này không khả thi. Thật vậy, giác quan và kinh nghiệm bình thường – và có lẽ ngay cả hệ thống niềm tin của ta – đều cho ta biết là tâm không thể điều khiển được vật chất.

Do đó, trong chương này tôi sẽ xem xét một số khám phá khoa học giúp chúng ta thách đố quan điểm tâm và vật chất không liên hệ với nhau.

1.1. Đi tìm những nguyên do tiềm ẩn

Chúng ta hãy thử lấy một thí dụ giản dị. Bạn hãy hình dung mình đang ngồi bên cái bàn và trên bàn có một quả banh. Làm cách nào bạn có thể dời quả banh đó từ điểm A sang điểm B? Bạn có thể nào trực tiếp điều khiển quả banh lăn đi bằng sức mạnh của tâm mình chăng? Hay là bạn phải dùng sức mạnh gián tiếp, tức là dùng tâm để di động bàn tay, để rồi bàn tay vật chất di động vật thể vật chất là quả banh?

Nếu bạn nghĩ thêm về vấn đề này thì bạn sẽ thấy là cách bạn nhìn vấn đề tùy thuộc cách bạn trả lời một câu hỏi khác: “Quả banh và tâm tách biệt với nhau, hay cả hai có liên hệ với nhau?”  Nếu bạn tin rằng quả banh và tâm tách biệt và không liên hệ với nhau, thì dĩ nhiên là tâm bạn không thể nào trực tiếp di động được quả banh. Nếu tâm làm bằng một chất và quả banh làm bằng một chất khác, thì chất của tâm không thể thay đổi chất của vật chất.

Nhưng khoa học hiện đại nghĩ gì về vấn đề này? Bạn cũng biết là khoa học bắt đầu vào thời Trung Cổ, khi đại đa số tin rằng quả đất là trung tâm vũ trụ. Bằng cách quan sát các thiên thể vận hành, các nhà khoa học khám phá quả đất đi vòng quanh mặt trời. Vậy chúng ta hãy xem xét một số quan sát khoa học khác để xem chúng nói gì về sự liên hệ giữa tâm và vật chất.

Để bắt đầu, chúng ta hãy nhìn nhận rằng quan niệm quả đất là trung tâm vũ trụ là một quan niệm rất phải chăng nếu ta dựa vào tri giác giác quan. Mắt ta thấy là mặt trời di động trên bầu trời, vì giác quan của ta không thể thấy là quả đất xoay chung quanh trục của nó. Tại sao giác quan của ta lại không thấy được điều này? Đó là vì chúng ta di động cùng với quả đất, do đó giác quan của ta không có điểm mốc bên ngoài quả đất. Do đó, bài học đầu tiên mà khoa học dạy ta là ta không thể tin vào giác quan mình, nghĩa là ta phải vươn tới cái gì bên ngoài phin lọc nhận thức do giác quan tạo ra.

Khoa học cũng cho ta thấy là thế giới này có nhiều lớp hay từng cấp. Cái gì ta thấy qua giác quan chỉ là lớp bên ngoài của thế giới, cũng được các nhà khoa học gọi là cấp vĩ mô. Nhưng khoa học cũng đã chứng mình rất rõ ràng là có nhiều thứ vượt lên trên cấp vĩ mô. Những gì ta nhìn thấy như thân thể con người, quả núi hay máy nướng bánh mì thật ra được cấu tạo bởi nhiều thành phần nhỏ hơn gọi là phân tử. Và phân tử lại được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn nữa gọi là nguyên tử, và nguyên tử lại được cấu tạo bởi thành phần nhỏ hơn nữa gọi là hạt cơ bản.

Một cái nhìn sâu sắc khác mà khoa học cống hiến là ý niệm về nguyên nhân và hậu quả. Có trường hợp tương quan nhân-quả rất đương nhiên ở cấp vĩ mô. Tỷ dụ, nếu bàn tay ta đẩy quả banh, thì dĩ nhiên đó là nguyên nhân khiến quả banh lăn đi. Nhưng có nhiều khi ta chỉ có thể hiểu nguyên nhân của một hiện tượng mà ta trông thấy bằng cách nhìn vào từng cấp sâu hơn hay cao hơn của thế giới. Ta thấy nhiều vật khác nhau trên quả đất, nhưng ở cấp sâu chúng đều được cấu tạo bởi nguyên tử. Do đó hình tướng các vật và cách chúng vận hành có nguyên nhân ở cấp nguyên tử. Như ta sẽ thấy trong phần sau, có những từng cấp sâu hơn cấp nguyên tử trong thế giới này.  

Một điều quan trọng khác mà khoa học đã chứng minh là những gì giác quan ta thấy như một thế giới đa dạng phức tạp thực ra chỉ là dáng vẻ bề ngoài. Khi ta đi xuống dưới cấp vĩ mô, thì càng đi sâu hay càng lên cao, càng ít đa dạng. Có hàng triệu vật trên quả đất, nhưng chúng đều được cấu tạo từ 108 nguyên tử. Và các nguyên tử đều được cấu tạo bằng cách phối hợp ba hạt cơ bản mà thôi.

1.2. Tâm điều ngự vật chất

Tất cả các điều chúng tôi mới nói trên đây đều là lẽ thường tình mà ta có thể suy diễn từ những gì ta học ở trường trung học. Chúng chỉ chứng tỏ là ta cần nhìn vượt lên trên phin lọc nhận thức của thế giới quan vĩ mô do giác quan tạo nên. Nhưng khoa học cũng có thể giúp ta vượt quá hộp tư duy đó hơn nữa.

Thế giới quan vĩ mô bị thách đố một cách chấn động lần đầu vào năm 1905 khi ông Albert Einstein công bố thuyết tương đối. Khi tôi học trung học thì vị thày vật lý của tôi dạy rằng thế giới này gồm hai nguyên tố: vật chất và năng lượng. Tôi có nghe nói về thuyết tương đối, nhưng những gì tôi được dạy vẫn dựa trên quan niệm nhị nguyên phân chia thế giới ra hai nguyên tố.  Chẳng hạn, tôi được dạy là phương trình E=mc2 của Einstein giải thích làm sao ta có thể chuyển vật chất thành năng lượng bằng cách tách nguyên tử. Tôi đoán là các bạn cũng được dạy một cái gì tương tự.

Chỉ khi tôi lớn khôn hơn thì mới hiểu phương trình của Einstein thực sự dạy ta điều gì. Bạn có thể bắt đầu hiểu bằng cách tự hỏi tại sao lại có thể chuyển vật chất thành năng lượng? Tại sao, khi ta tách nguyên tử thì có năng lượng vĩ đại phát ra? Giải đáp đơn giản là khi tách nguyên tử ta không sản xuất năng lượng trước đó không có – ta chỉ giải thoát năng lượng vốn đã có sẵn bên trong nguyên tử. Vậy, tại sao lại có năng lượng bên trong nguyên tử? Đó chính là vì thuyết của Einstein thực sự cho thấy là mọi thứ đều được cấu tạo bằng năng lượng.

Kể từ năm 1905 chúng ta đã biết là thế giới quan vĩ mô dựa trên giác quan không giải thích được thực tại. Cái gì giác quan chúng ta phát hiện như vật thể rắn chắc thật ra không rắn chắc chút nào. Vật chất được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng là một loại rung động, tức là một làn sóng dao động không ngừng. Cái gì ta thấy như vật chất rắn chắc và bất biến thực ra chỉ là làn sóng năng lượng được giam trong một cái khuôn bất động. Nhưng, như các lò nguyên tử đã chứng minh, vật chất rắn chắc có thể chuyển trở lại thành năng lượng lỏng.

Quan trọng hơn nữa, năng lượng có khả năng thay đổi vô biên. Một làn sóng năng lượng có thể chuyển thành bất cứ làn sóng năng lượng nào khác khi nó thay đổi đặc tính rung động của nó. Như thế có nghĩa là thuyết Einstein đã phá vỡ bức tường chia cắt tâm và vật chất. Vật chất được cấu tạo bởi làn sóng năng lượng, và tư tưởng cũng vậy. Dựa trên thuyết tương đối, thì chuyện tâm con người có thể tạo ra một làn sóng năng lượng mạnh đến độ có thể ảnh hưởng các làn sóng năng lượng đang cấu tạo vật chất “rắn chắc” là điều hòan toàn khả thi.  

Cái gì ta thấy như vật chất rắn chắc và bất biến thực ra chỉ là làn sóng năng lượng được giam trong một cái khuôn bất động

Nói cách khác là tiến trình tự giúp – tức là tiềm năng thay đổi hoàn cảnh vật chất bằng sức mạnh của tâm – đã có tính cách khoa học từ năm 1905. Nhân loại đã hiển nhiên coi đó là một tiềm năng thực từ lâu hơn thế nhiều. Nhưng khoa học cũng có khả năng giúp ta vượt quá hộp tư duy thông thường nhiều hơn nữa.

1.3. Một thế giới vượt quá vật chất

Sau khi Einstein công bố thuyết tương đối thì một số nhà vật lý học rất hứng khởi và quyết định nghiên cứu thế giới bên trong nguyên tử dựa trên các khám phá của Einstein. Trong mấy thập niên sau đó, họ triển khai môt ngành khoa học mới, gọi là cơ học lượng tử, với nhiều khám phá cực kỳ chấn động.

Khám phá đầu mà chúng ta sẽ xem xét được gọi là tính chất lưỡng cực sóng-hạt. Nếu ta chỉ dựa trên giác quan thì một vật phải là sóng hoặc là hạt. Nhưng các nhà vật lý học đã chứng minh là một “vật” hạ nguyên tử có khi có đặc tính của hạt và có khi có đặt tính của sóng. Tôi cho rằng đây là một chỉ dấu rõ ràng là ta cần phải nhìn vượt lên trên cái phin lọc nhận thức của quan niệm vĩ mô.

Một cách đơn giản để giải thích mâu thuẫn này là một vật hạ nguyên tử là một cái gì căn bản hơn là sóng hoặc hạt. Nhưng vì các nhà vật lý học đã cố gán ép phin lọc nhận thức sóng-hoặc-hạt vào thế giới hạ nguyên tử nên họ phát hiện đôi khi tính chất sóng và đôi khi tính chất hạt nơi các vật hạ nguyên tử . Đây cũng giống như câu chuyện ông vua không mặc quần áo, tức là các nhà vật lý học bị phin lọc nhận thức làm mù quáng nên không nhận ra được thực chất của hạt hạ nguyên tử.

Đây cũng là chỉ dấu là khi các nhà vật lý học nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử, họ đã nghiên cứu lằn ranh giữa thế giới vất chất và một thế giới rộng lớn hơn vượt quá vật chất. Những “thứ” trong thế giới rộng lớn này chưa có hình tướng, hiểu theo quan niệm bình thường về hình tướng. Nó chưa bị khóa vào quan niệm sóng hay hạt. Nó có tiềm năng khoác hình tướng của sóng hay của hạt, và dường như là hình tướng mà nó khoác bị ảnh hưởng bởi hành động con người. Nếu ta tìm một hạt, thì cái “chất lượng tử” sẽ cư xử như một hạt, và nếu ta tìm một sóng, thì nó sẽ cư xử như một sóng.

Ta đi đến kết luận là thế giới này không được cấu tạo bởi những hạt rắn chắc và bất biến. Chúng ta sống trong một thế giới lỏng và dễ uốn nắn hơn ta nghĩ. Thế giới có vẻ được cấu tạo bởi chất lượng tử không có hình tướng nhất định nhưng có thể lấy bất cứ hình tướng nào. Cũng có vẻ là tâm ta có thể ảnh hưởng hình tướng mà chất lượng tử khoác vào.

1.4. Bí ẩn của vấn đề đo lường trong thế giới lượng tử

Khi các nhà vật lý học bắt đầu nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử thì họ chờ đợi là họ có thể làm giống như các khoa học gia nghiên cứu thế giới vĩ mô, tức là họ là người quan sát khách quan các vật thể biệt lập. Nhưng họ mau chóng nhận ra rằng trong thế giới lượng tử không có người quan sát khách quan – vì không có vật thể biệt lập. Khi một nhà vật lý học dùng máy gia tốc hạt để nghiên cứu một hạt hạ nguyên tử, thì kết quả không biệt lập với tâm nhà vật lý học. Trái lại, kết quả cuộc thí nghiệm phối hợp ba yếu tố là máy gia tốc hạt, hạt hạ nguyên tử và tâm nhà khoa học. Trong thế giới hạ nguyên tử, không thể có một người quan sát khách quan. Trong thế giới hạ nguyên tử, mọi chuyện đều liên kết, và tâm khoa học gia có ảnh hưởng cơ bản và không thể tránh trên kết quả thí nghiệm.

Thêm thế nữa, các nhà vật lý học cũng khám phá là trong thế giới hạ nguyên tử, các quy luật thiên nhiên đã giải thích rất xác đáng thế giới vĩ mô, không còn ứng dụng nữa. Trong thế giới hạ nguyên tử, các quy luật thiên nhiên trở nên vô hiệu lực. Ta có thể tính một cách tuyệt đối chính xác đường bay của một hỏa tiễn phóng lên Hỏa Tinh, nhưng ta không thể tiên đoán sự vận hành của một hạt điện tử (hạt electron) chung quanh hạch nguyên tử. Làm sao giải thích được điều này?

Vì tôi không phải là một khoa học gia mà cũng không phải là người duy vật nên tôi có thể thấy một giải đáp đơn giản. Để trình bày câu giải đáp của tôi, tôi xin trở lại phương trình E=mc2 của Einstein và sự việc vật chất chỉ là một dạng năng lượng. Vật chất là năng lượng đã được giam trong một cái khuôn, do đó thay vì cư xử như một làn sóng không vị trí thì nay nó cư xử như một “hạt” có vị trí.

Một khi năng lượng đã vượt qua ngưỡng cửa đó thì nó tạo ra các hạt, được phối hợp thành các vật mà ta có thể phát hiện bằng giác quan và các dụng cụ khoa học. Đó là thế giới vĩ mô, và thế giới này quả thật tuân theo cái được gọi là quy luật thiên nhiên. Trong thế giới vĩ mô có những thứ không do tâm con người tạo ra, và do đó đúng là tâm con người không ảnh hưởng trực tiếp trên những vật đó và quy luật thiên nhiên.

Vậy quan niệm này phù hợp ra sao với khoa vật lý lượng tử? Giải thích của tôi là các khoa học gia đã chứng minh là chúng ta sống trong một thế giới có nhiều tầng lớp. Trước khi khoa vật lý lượng tử xuất hiện thì các khoa học gia chỉ biết đến một tầng lớp, một góc túi, của thế giới toàn diện, đó là thế giới vĩ mô. Thế giới lượng tử không chỉ là một phần của thế giới vĩ mô, nó là một tầng lớp cơ bản hơn nữa. Đó là lý do vì sao các quy luật thiên nhiên không hiệu lực trong thế giới lượng tử. Đó là lý do vì sao không có hạt tách biệt trong thế giới lượng tử. Và đó cũng là lý do vì sao trong thế giới lượng tử có liên hệ giữa tâm con người và cái gọi là hạt hạ nguyên tử. Các nhà vật lý cổ điển coi thế giới như là một cái máy khổng lồ trong đó mọi chuyện đều có thể tiên đoán được. Quan niệm này quả thực không áp dụng nơi tầng cấp lượng tử.

Có một số khoa học gia tiên phong đã quan niệm là thế giới giống như một cái tâm vĩ đại thay vì một cái máy vĩ đại. Điều này có nghĩa là nếu ta thực sự chấp nhận những điều mà khoa vật lý lượng tử đã chứng minh, thì ta đi tới kết luận là khoa học không thể chối bỏ ảnh hưởng của tâm con người. Biên giới tối hậu không phải là không gian, vì biên giới tối hậu là tâm thức. Dĩ nhiên, phương pháp tự giúp và các thày tâm linh đã nói điều này từ lâu nay rồi.

1.5. Không có vật gì tách biệt cả

Khi biết rằng khoa vật lý lượng tử đã chứng minh nguyên tắc không vị trí đã mấy chục năm nay, vậy tại sao thế giới quan của chúng ta không điều chỉnh theo? Ta hãy suy gẫm thêm một chút về những gì các khoa học gia đã nói. Vũ trụ được thành lập qua Vụ Nổ Lớn xảy ra cách đây khoảng 15 tỷ năm. Trong mấy phần ngàn của giây đầu, các quy luật thiên nhiên hiện hành lúc đó chưa có. Những “vật” đầu tiên xuất hiện là những gì chúng ta gọi là hạt hạ nguyên tử, vậy những vật này đã hiện diện từ lâu lắm rồi. Sau đó trải qua thêm 15 tỷ năm nữa thì con người xuất hiện, và chúng ta là những sinh thể đầu tiên có tâm thức tinh vi. Như vậy, khoảng cách giữa lúc hạt hạ nguyên tử và tâm thức con người xuất hiện là một khoảng cách tiến hóa 15 tỷ năm  – chắc bạn đồng ý đây là một khoảng cách lớn.

Khoa vật lý lượng tử đã có bằng chứng không thể chối cãi là tâm thức con người tương tác với hạt hạ nguyên tử.

Vậy mà hiện nay khoa vật lý lượng tử đã có bằng chứng không thể chối cãi là tâm thức con người tương tác với hạt hạ nguyên tử, có nghĩa là tâm thức rất trẻ của con người có thể tương tác với những “vật” già hơn 15 tỷ năm. Làm sao chúng ta giải thích chuyện này?  Theo tôi thì giải thích đơn giản là vũ trụ không được cấu tạo bằng vật chất hay năng lượng. Thực tại nền của vũ trụ là tâm thức.

Có một dạng tâm thức đã có mặt khi hạt hạ nguyên tử được cấu tạo, và đó là lý do vì sao tâm chúng ta tuy rất trẻ nhưng cũng tương tác được với các “hạt” này. Nhưng chúng ta tương tác với các hạt tách biệt hay chúng ta tương tác với tâm thức đã tạo ra và duy trì chúng?

Xin các bạn ghi nhận là ở đây tôi không chủ trương trở về chấp nhận quan niệm Do-thái-Ki-tô-giáo cho rằng vũ trụ được tạo thành bởi một Thượng đế đàn ông trong vòng 7 ngày. Tôi chỉ muốn nói là cách giải thích đơn giản nhất các khám phá của khoa vật lý lượng tử là chấp nhận là Vụ Nổ Lớn được lên kế hoạch và thi hành bởi một tâm thức lớn hơn tâm thức con người. Từ lúc đó tới ngày nay đã có một tiến trình tiến hóa tuần tự, nhưng đây không phải là một tiến trình ngẫu nhiên và vô ý thức như khoa học duy vật đề xướng. Tiến trình này đã được hướng dẫn một phần bởi một hay nhiều tâm thức lớn hơn, một phần – ít ra là ở cấp vĩ mô – bởi các quy luật thiên nhiên, và một phần bởi một yếu tố thứ ba. Yếu tố bí ẩn này là gì? Nếu tâm tức con người có khả năng tương tác và ảnh hưởng hạt hạ nguyên tử, vậy ta nghĩ gì về chuyện tâm con người có khả năng ảnh hưởng thế giới vĩ mô? Ta nghĩ gì về lý do tại sao con người lại có mặt nơi đây?

1.6. Thuyết bất định khó hiểu

Khoa vật lý học cổ điển coi vũ trụ như một cái máy, như một chiếc đồng hồ khổng lồ. Tất cả mọi vật được cấu tạo qua sự liên kết của các đòn bẩy và bánh răng cưa, và mọi chuyện vận hành theo một số quy luật bất biến. Thuyết này hàm ý ta có thể dự đoán vũ trụ vận hành ra sao. Nếu ta biết khởi điểm của vũ trụ và các quy luật thiên nhiên, ta có thể tính ra một cách chắc chắn tuyệt đối tất cả mọi chuyện sẽ xảy ra – cho tới khi vũ trụ chấm dứt.

Khi các nhà vật lý bắt đầu nghiên cứu thế giới lượng tử thì họ chờ đợi sẽ tìm thấy các hạt riêng biệt vận hành theo một số quy luật bất biến, giống như banh bi-da tí hon lăn trên mặt bàn bi-da. Nghĩa là nếu ta hiểu đủ về một hạt thì ta có thể dự đoán cách nó vận hành một cách chắc chắn. Nhưng những gì họ khám phá là một bí ẩn khác nữa không thể hình dung được nếu ta suy nghĩ theo hộp tư duy truyền thống.

Trong thế giới lượng tử, trên căn bản không thể đoán được sự vận hành của một hạt, tỷ dụ như một hạt điện tử. Lý do không phải vì ta không biết đủ về hạt điện tử, nhưng là vì thế giới lượng tử theo một nguyên tắc bất định căn bản. Thế giới lượng tử, thay vì vận hành theo một số quy luật bất biến, thì trên căn bản có tính chất bất định. Ta không thể biết được vị trí của một hạt điện tử cho tới khi ta đo nó. Nhưng lúc đó, cái gì ta đo không phải là một hạt điện tử độc lập. Khi ta đo thì ta thực sự tạo ra một hạt điện tử ở vị trí đó. Cái mà ta đo không có mặt trước khi ta quan sát nó.

Có một dạng tâm thức trong thế giới lượng tử. Điều này giải thích tại sao tâm con người lại đồng sáng tạo những hạt mà ta quan sát.

Dựa trên những gì tôi trình bày ở trên, thì một lần nữa ta có thể gợi ý một giải thích đơn giản. Khoa học đã chứng minh là phải có một dạng tâm thức trong thế giới lượng tử. Đó là cách duy nhất giải thích tại sao tâm con người lại tương tác với thực tại lượng tử và đồng sáng tạo những hạt mà ta quan sát. Mà đặc tính chính của tâm thức là gì, khi áp dụng cho các sinh thể tự nhận biết? Chính là nó không tuân theo quy luật máy móc. Nó có khả năng sáng tạo, làm một chuyện mà chưa tâm nào từng làm trước đó. Nhưng nền tảng của sáng tạo là gì? Đó là quyền tự quyết; là khả năng tưởng tượng ra việc gì chưa từng được làm trước đó và quyết định làm chuyện này lần đầu. Bây giờ nền móng đã đặt xong, vậy tôi xin các bạn cho tôi phác họa một thế giới quan có thể giúp bạn khai mở uy lực của cái Ta.

1.7. Một thế giới quan trao quyền cho ta 

Những người trong chúng ta lớn lên trong xã hội tân thời thấm nhuần một thế giới quan là một sự pha trộn lạ lùng các khái niệm tín ngưỡng thời Trung cổ, quan sát khoa học, khái niệm do khoa học duy vật đề xướng, và những gì mình quan sát bằng giác quan. Kết quả là ta có một thế giới quan gồm những điểm sau đây:

  • Chúng ta sống trong một thế giới vật chất
  • Vật chất “rắn chắc”, nghĩa là nó có chất lượng và tính chất liên tục.
  • Vật chất khó thay đổi.
  • Những vật ta thấy trong thế giới vĩ mô đều được cấu tạo bằng vật chất, và các vật này hiện hữu riêng biệt. Trái đất nơi ta sống cũng là một vật như vậy. Nó chịu ảnh hưởng của mặt trời, nhưng nó được bao quanh bởi không gian trống không khiến nó đứng riêng ra. Thân thể chúng ta cũng vậy, nó là một vật riêng biệt.
  • Vật chất và tâm đứng riêng nhau.
  • Tâm của ta không có khả năng trực tiếp thay đổi vật chất. Ta chỉ có thể thay đổi vật chất qua thân thể vật chất của mình, và qua phương tiện kỹ thuật cũng dựa trên vật chất.
  • Thế giới vật chất có quyền lực trên tâm chúng ta và giới hạn khả năng sáng tạo của ta.

Tất cả các điểm nêu trên không cho con người nhiều quyền lực lắm, vì chúng mô tả chúng ta như những sinh thể thụ động hứng chịu những gì thế giới vật chất quyết định thảy vào chúng ta. Nhưng, dựa trên các khám phá của khoa vật lý lượng tử, ta có thể thách đố tất cả các điểm trên. Thách đố cơ bản là các điểm trên đều đúng, nhưng chúng chỉ áp dụng vào thế giới vĩ mô. Và thế giới này chỉ là lớp vỏ bên ngoài nhất của thế giới rộng lớn hơn, là nơi ta đang sống.

Chúng ta hãy xem trở lại phương trình của Einstein, E=mc2. Như đã trình bày ở trên, phương trình này cho thấy là vật chất chỉ là năng lượng bị giam trong một cái khuôn không lỏng bằng. Nhưng, nếu chúng ta nói một cách khiêu khích hơn một chút, thì ta có thể nói phương trình này thực sự chúng minh vật chất không có, nó chỉ có trong trí tưởng tượng của ta mà thôi. Tôi không muốn nói là thế giới mà ta biết qua giác quan không có thật và không hiện hữu. Tôi không muốn nói là con người đã tạo ra vũ trụ trong tâm mình và do đó có thể dùng tâm thay đổi nó. Điều tôi muốn nói là vật chất không hiện hữu như những gì ta thấy biết qua giác quan, và khoa vật lý lượng tử đã chứng minh điều này. Chúng ta hãy lần lượt xem qua những điểm nêu ở trên:

  • Chúng ta sống trong một thế giới vật chất. Thực ra, chúng ta sống trong một thế giới năng lượng đã khoác một hình tướng, và ta gọi hình tướng này là “vật chất”.
  • Vật chất “rắn chắc”, nghĩa là nó có chất lượng và tính chất liên tục. Thực ra, vật chất không rắn chắc chút nào. Nó được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng là một dạng rung động.
  • Vật chất khó thay đổi. Thực ra, thay đổi tính chất sóng năng lượng là chuyện rất dễ. Cái chúng ta gọi là vật chất chỉ là sóng năng lượng bị giam trong cái khuôn. Nhưng nó vẫn là sóng, do đó rất dễ thay đổi.
  • Những vật ta thấy trong thế giới vĩ mô đều được cấu tạo bằng vật chất, và các vật này hiện hữu riêng biệt. Thật ra, không có “vật” gì tách biệt cả. Các vật chỉ có vẻ tách biệt khi nhìn dưới góc độ vĩ mô. Khi nhìn dưới góc độ sâu sắc hơn của vật lý lượng tử, mọi vật đều liên kết với nhau vì vị trí là một ảo tưởng.
  • Vật chất và tâm đứng riêng nhau. Thực ra, ở cấp lượng tử, tâm và vật chất liên kết trực tiếp với nhau. Vì tất cả mọi vật trong thế giới vĩ mô đều được cấu tạo bởi “chất” lượng tử, do đó tâm con người có tiềm năng ảnh hưởng ngay cả thế giới vĩ mô.
  • Tâm của ta không có khả năng thay đổi trực tiếp vật chất. Thực ra, vì tâm con người có thể thay đổi chất lượng tử và vì mọi vật đều được cấu tạo bằng chất lượng tử, ta có thể thay đổi vật chất. Ta hiện nay không biết dùng khả năng này, nhưng nó vẫn có đó như tiềm năng cao của con người.
  • Thế giới vật chất có quyền lực trên tâm chúng ta. Thực ra, vật chất không có quyền uy trên tâm chúng ta nhiều hơn những gì ta đã cho nó vì ta không biết đến thực tại lượng tử. Nếu ta nhìn đời qua phin lọc của hộp tư duy vĩ mô, thì vật chất có quyền uy trêm tâm chúng ta. Nhưng ta có tiềm năng bước ra ngoài hộp tư duy đó và thấy thế giới như nó thực sự là.

1.8. Một tổng thể đan kết

Dựa trên những điểm nêu trên, tôi sẽ phác họa một thế giới quan mới giải thích ta là ai, tại sao ta lại có mặt nơi đây, và tiềm năng đích thật của ta là gì. Để bắt bầu, chúng ta hãy nhìn nhận là chúng ta không sống trong một thế giới tách biệt, cô lập. Thế giới nơi ta sống là một tổng thể đan kết. Cách giải thích dễ nhất là thấy rằng thế giới vĩ mô không được cấu tạo bởi vật chất, mà được cấu tạo bởi năng lựơng. Năng lượng là một dạng rung động, và có nhiều tầng cấp rung động. Thí dụ, ta được học ở nhà trường là con mắt ta chỉ có thể nhìn thấy được một loại ánh sáng nào đó.

Có những dạng ánh sáng mà con mắt ta không nhìn được, tỷ dụ như tia hồng ngoại và tia cực tím, như trên hình 1 dưới đây:

Hình 1 – Quang phổ điện từ của ánh sáng

Khác biệt giữa ánh sáng tím nhìn thấy được và tia cực tím không nhìn thấy được là gì? Tia cực tím có một độ rung cao hơn ánh sáng nhìn thấy một chút. Ngoài điều này thì không có gì khác biệt giữa hai làn sóng, như vậy có nghĩa là không có hàng rào kiên cố nào ngăn cách ánh sáng tím và cực tím. Theo thuyết tương đối, thì ta có thể giảm độ rung của ánh sáng cực tím và biến nó thành ánh sáng tím. Phương trình của Einstein còn cho thấy đó chính là cách vũ trụ vật chất được tạo lập.

Ta đã học ở nhà trường là ta có thể lấy một phương trình toán học và chia hai vế hai bên dấu bằng bởi cùng một hệ số. Nếu ta áp dụng định lý này với phương trình của Einstein thì ta có:

Bây giờ thì ta có c2 ở trên và dưới lằn phân số bên phía phải. Vì chúng loại lẫn nhau nên ta có phương trình mới như sau:

Phương trình mới này chứng minh điều gì? Nó cho ta biết là thế giới vật chất được cấu tạo bởi một chất không phải là vật chất mà là một dạng năng lượng thuần túy. Năng lượng E này rung động ở một mức vượt quá rất nhiều những gì ta thường gọi là năng lượng, tỷ dụ như ánh sáng mặt trời hay điện năng. Nó vẫn được tạo ta từ sóng, nhưng nó rung động ở mức cao hơn tất cả những gì có trong thế giới vật chất. Do đó, để tạo ra thế giới vật chất, độ rung của năng lượng lượng tử này phải được giảm xuống một quang phổ nào đó. Theo phương trình Einstein thì hệ số giảm là bình phương của vận tốc ánh sáng.

Như các bạn cũng biết, vận tốc ánh sáng là một con số rất lớn, vậy thì bình phương của nó là một con số cực kỳ vĩ đại. Như thế có nghĩa là năng lượng nguyên thủy, E, phải được giảm bởi một hệ số vĩ đại mới trở thành năng lượng vật chất. Một khi độ giảm này được thực hiện, thì năng lượng vật chất có thể được giam trong những khuôn khiến nó hiện ra như hạt rắn chắc và có vị trí. Những hạt này sau đó được dùng để cấu tạo nên cấu trúc có vị trí khác như nguyên tử, phân tử, hành tinh, máy pha cà-phê, thiên hà và cơ thể con người.

Như vậy chúng ta thấy là chúng ta sống trong một thế giới gồm một chuỗi rung động liên tục.

Hình 2 – Một chuỗi rung động liên tục

Trên lý thuyết, ta có thể có những rung động cao tới bất tận, nhưng ít nhất ta có thể nói là có những dạng rung động cao hơn rất nhiều so với bất kể mọi thứ trong quang phổ vật chất. Đó là lý do vì sao ta không thể phát hiện những gì vượt quá thế giới vật chất khi ta dùng giác quan hay dụng cụ khoa học. Vì chúng ta sống trong quang phổ vật chất, ta chỉ có thể nhìn thấy những gì bên này chân trời quan sát. Tuy thế, dường như là các nhà vật lý lượng tử đã bắt đầu thấy những gì ngoài quang phổ vật chất. Và có thể là tâm con người, một khi được phát triển, cũng có khả năng này.

1.9. Làm sao năng lượng thuần túy trở thành vật chất

Vụ Nổ Lớn thường được mô tả như là một vụ nổ vĩ đại qua đó năng lượng và vật chất cần thiết để tạo dựng vũ trụ được phóng mạnh ra ngoài một cách ngẫu nhiên và hỗn loạn. Dựa trên những gì đã nói ở trên, ta có thể nói là Vụ Nổ Lớn thực ra đã xảy ra khi một số lượng lớn chất lượng tử được giảm độ rung cho tới khi xuống tới quang phổ vật chất. Chính việc giảm năng lượng này đã gây nên Vụ Nổ Lớn, và đó cũng là động cơ khiến vũ trụ tiếp tục bành trướng. 

Như ta đã thấy, ban đầu chất lượng tử được giảm cho tới khi nó mang một dạng mà ta gọi là năng lượng, nghĩa là giống ánh sáng, điện năng, từ tính v.v. Sau đó, những sóng năng lượng vật chất này được giam vào khuôn, cho tới khi nó trở thành hạt hạ nguyên tử. Những hạt này sau đó được kết hợp thành nguyên tử, nguyên tử được kết hợp thành phân tử, là thành phần cấu tạo các “vật” mà ta nhìn thấy được. Cái gì khiến chất lượng tử kết hợp thành cấu trúc, và cái gì quyết định hình tướng của các cấu trúc đó? Vì sao vũ trụ có cấu trúc lại có mặt, và tại sao nó lại có hình tướng mà nó hiện có?

Để giải thích vấn đề rõ hơn, chúng ta hãy xem xét giả thuyết Vụ Nổ Lớn là một một vụ nổ vĩ đại. Có lẽ bạn đã thấy trên truyền hình hình ảnh các tòa nhà bị phá nổ. Bạn có lẽ đã thấy phim chiếu chậm và thấy và sức nổ rất hỗn loạn và dường như là ngẫu nhiên. Tòa nhà bắt đầu như một cấu trúc lớp lang, nhưng sau khi bị phá nổ thì nó chỉ còn là những mảnh vụn hỗn độn rời rạc. Bạn có lẽ cũng đã xem phim chiếu ngược cảnh này, tức là từ những mảnh vụn, như một phép lạ, tự nhiên kết hợp trở lại thành một tòa nhà nguyên vẹn.

Khi năng lượng nguyên thủy giảm độ rung thì nó trở thành năng lượng vật chất có thể được giam trong những khuôn khiến nó hiện ra như hạt rắn chắc và có vị trí.

Dĩ nhiên là ta biết phim chiếu ngược này đi ngược quy luật thế giới thực. Ta không thể phá nổ một tòa nhà chung cư cũ và khiến các mảnh vụn kết hợp tự nhiên trở lại thành một số biệt thự xinh đẹp. Thực tại không xảy ra như vậy; một vụ nổ lúc nào cũng đưa tới hỗn loạn, không bao giờ tạo ra cấu trúc ngay ngắn. Tuy thế, đó chính là điều một số người cho rằng Vụ Nổ Lớn đã tạo ra – qua một tiến trình tự phát, ngẫu nhiên, không ý thức – tức là tạo nên cấu trúc cực kỳ phức tạp nhưng rất trật tự mà chúng ta gọi là vũ trụ. Ai dàn dựng chuyện này?

1.10. Vũ trụ sau Vụ Nổ Lớn

Lời giải thích là con người chúng ta không phải là sinh thể tự nhận biết duy nhất trong thế giới rộng lớn này. Bên ngoài quang phổ vật chất, có những sinh thể tự nhận biết khác. Các đấng này có khả năng sáng tạo, khiến họ có khả năng giảm độ rung của chất lượng tử xuống quang phổ thấp hơn. Đã có một nhóm các đấng đó giảm độ rung của chất lượng tử xuống quang phổ vật chất, và do đó tạo nên Vụ Nổ Lớn.

Nhưng thêm nữa, sau Vụ Nổ Lớn các đấng này không để cho vũ trụ tiến hóa một cách ngẫu nhiên. Họ đã dùng quyền năng sáng tạo của mình để hướng dẫn sự tiến hóa đó, nghĩa là chính họ đã khiến năng lượng mang hình tướng và tạo ra cấu trúc rất phức tạp. Nhưng không có nghĩa là các đấng này quản lý vi mô và điều khiển từng chi tiết nhỏ. Sau khi đã mang đủ năng lượng xuống quang phổ vật chất, họ đã quy định một số quy luật hướng dẫn sự tiến hóa của thế giới vật chất. Tuy thế, các quy luật này không giải thích được hoàn toàn tiến trình tiến hóa của vũ trụ. Ở một số thời điểm quan trọng, họ đã nhúng tay vào để đẩy tiến trình tiến hóa lên một mức độ mới.

Một trong những thời điểm đó là khi tiến trình tiến hóa đã tới mức có những thân thể có não bộ và hệ thần kinh phức tạp. Lúc đó, các đấng sáng tạo gửi những nối dài của tâm họ xuống các thân thể đó. Chúng ta chính là các nối dài đó, có nghĩa là chúng ta có cùng khả năng sáng tạo cơ bản của các “cha mẹ lượng tử” của mình. Chỉ duy có điều là chúng ta chưa phát triển được đúng mức các khả năng này.

Điều này có nghĩa là chúng ta được tạo ra để làm công việc đồng sáng tạo với các đấng ở các cõi cao hơn. Các đấng thăng thiên đó đã tạo ra thế giới vật chất từ bên ngoài, nhưng chúng ta cũng được sinh ra để đồng sáng tạo từ bên trong. Sứ mạng của chúng ta là xây dựng – hay phá vỡ đi, tùy theo ta chọn lựa ra sao – trên nền móng mà các đấng sáng tạo đã tạo ra.

1.11. Tiềm năng cao và thấp của chúng ta

Trong phần dẫn nhập, tôi có nói là chúng ta hiện nay bị giam trong một hộp tư duy hoạt động như một màn lọc ngăn cản không cho chúng ta thấy toàn bộ sự vận hành của thế giới. Trong các phần sau, chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn cái hộp tư duy này và lý do vì sao chúng ta bị giam trong đó, nhưng ở đây tôi muốn nêu lên là hộp tư duy này khiến ta nghĩ ta là những sinh thể tách biệt. Chúng ta tách biệt với cội nguồn tâm linh của mình – có người còn cho rằng cội nguồn này không có thật. Chúng ta tách biệt với các người khác – và đây là lý do giải thích vì sao con người xung đột. Và chúng ta tách biệt với vũ trụ vật chất – và đây là lý do giải thích vì sao ta có vấn đề môi sinh.

Nhưng vấn đề chính do hộp tư duy tạo ra là nó khiến ta mù quáng không thấy được tiềm năng cao của mình. Kết quả là chúng ta sinh hoạt ở một mức rất thấp, nơi đó ta nghĩ rằng mình bị thế giới vĩ mô giam hãm và giới hạn. Và đây là điều mấu chốt mà ta nên chứng ngộ: ở mức độ tâm thức hiện tại của chúng ta, chúng ta quả thật phải khuất phục các quy luật thiên nhiên vận hành ở cấp vĩ mô. Chúng ta có quyền tự quyết, có nghĩa là trong thực tế ta là gì ta nghĩ ta là. Chúng ta hiện đang nghĩ mình là con người giới hạn, và do đó ta chính là con người giới hạn.

Nhưng thực tại cao hơn là tâm chúng ta có khả năng với cao hơn tầng lớp vĩ mô. Tâm chúng ta quả thật có khả năng với tới thế giới lượng tử, và ở cấp này nó có thể tương tác với cái chất đã tạo nên thế giới vĩ mô. Và khi chúng ta học được cách dùng khả năng sáng tạo của mình để tạo thay đổi ở cấp lượng tử, thì ta sẽ tạo nên xung lực sẽ đưa đến thay đổi ở cấp vĩ mô. Các nhà vật lý học đã nhận ra rằng quy luật lượng tử phủ định quy luật thiên nhiên. Thí dụ, nếu bạn ném một trái banh chơi quần vợt vào tường thật lâu, thì sẽ có một hiệu ứng lượng tử đào hầm có tiềm năng khiến trái banh đi xuyên qua tường. Hiện nay, các nhà vật lý học cho rằng những hiện tượng lượng tử đó rất hiếm. Tuy thế, có thể chăng là ta có tiềm năng cao tạo theo ý muốn những hiện tượng phủ định quy luật vĩ mô?

1.12. Thế giới được hình thành ra sao

Bây giờ tôi sẽ trình bày thế giới được hình thành ra sao. Thế giới được cấu tạo bởi một chất cơ bản mà trong bài này tôi đã gọi là chất lượng tử. Chất này là một dạng năng lượng có độ rung rất cao. Khi nó ở độ rung cao nhất thì nó không mang hình tướng, nhưng khi độ rung giảm xuống thì nó như là đất sét có thể nhào nặn thành mọi hình tướng khác nhau. Do đó, thế giới vật chất được hình thành bằng cách mang tới rất nhiều chất lượng tử và giảm độ rung của nó cho tới khi nó rung động ở cấp mà ta gọi là năng lượng. Sau đó, một phần năng lượng đó tạo nên cái mà ta gọi là hạt hạ nguyên tử, và từ các hạt này các cơ cấu phức tạp hơn được hình thành, từ nguyên tử đến thiên hà.

Vậy ta có thể nói là chất căn bản tạo nên thế giới là một chất không hình tướng có khả năng mang mọi hình tướng. Tuy nhiên chất này tự nó không tự tạo hình tướng được. Chất lượng tử chỉ có thể mang hình tướng khi được một sinh thể có tự nhận biết ảnh hưởng. Vì sao đấng sáng tạo này lại cần thiết? Bởi vì chỉ khi có tự nhận biết thì một sinh thể mới có trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Trí tưởng tượng cho ta khả năng thấy ra một hình tướng chưa hiện có. Và quyền tự quyết cho ta khả năng phóng chiếu hình tư tưởng đó lên chất lượng tử.

Có một số sinh thể sáng tạo hiện hữu ở một độ rung bên ngoài quang phổ vật chất. Họ có khả năng giảm độ rung của chất lượng tử, có nghĩa là họ có khả năng đem thêm năng lượng vào quang phổ vật chất. Họ cũng có khả năng tạo hình tư tưởng và gán chúng lên trên năng lượng vật chất và qua đó tạo nên các hình tướng mà ta thấy trong thế giới vĩ mô. Chính những đấng này đã tạo nên thế giới vĩ mô, và họ vẫn đang phụng sự công việc duy trì và hướng dẫn sự tiến hóa của nó.

Tuy nhiên, khi thế giới vĩ mô đã đạt tới một trình độ phức tạp nào đó, thì các đấng sáng tạo gửi phần nối dài của mình vào đó. Chúng ta chính là các phần nối dài này, và chúng ta đã được ban cho cùng khả năng năng sáng tạo cơ bản của các “cha mẹ” lượng tử của mình. Hiện nay, đa số chúng ta chưa phát huy hoàn toàn khả năng sáng tạo này; chúng ta còn không biết mình có nó. Tuy nhiên, tiềm năng cao nhất của chúng ta là hoàn toàn ý thức mình là ai, làm chủ tâm mình và làm chủ khả năng đồng sáng tạo thế giới vĩ mô của mình.

Như vậy có nghĩa là chúng ta có hai chọn lựa trong đời. Ta có thể sinh hoạt ở mức độ hiện thời, có nghĩa là ta chịu khuất phục quy luật thiên nhiên và nhiều giới hạn vật chất khác. Ở mức độ này, cách duy nhất thay đổi đời sống là ta dùng cơ thể vật lý hoặc kỹ thuật có khả năng thay đổi thế giới vật chất.

Chọn lựa thứ nhì là ta thăng hoa tâm thức một cách căn bản giúp ta nhận ra mình là ai và khai mở tiềm năng sáng tạo thực của mình. Việc này sẽ cho ta quyền năng dùng tâm mình để đem chất lượng tử xuống thế giới vật chất, có nghĩa là ta có khả năng sáng tạo vượt lên trên thân thể và kỹ thuật vật chất. Nó cũng cho ta quyền năng dùng tâm mình để thay đổi ngay từng lớp lượng tử, có nghĩa là ta có thể tạo những thay đổi ở từng lớp vĩ mô mà hiện nay ta không nghĩ có thể làm được.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 10 – Cái “ta” được tạo ra trong thế giới vật chất

Có một số chữ được nhiều người dùng với ý nghĩa rất khác nhau và do đó trở thành hầu như vô dụng. Một thí dụ là chữ “linh hồn”. Chữ này đã được dùng từ nhiều thế kỷ bởi nhiều tôn giáo và giáo lý tâm linh với ý nghĩa khác nhau. Và nó cũng hay được dùng mà không được định nghĩa rõ ràng vì coi là mọi người đã rõ nghĩa của nó rồi. Các chân sư thăng thiên cho chúng ta một hiểu biết tinh tế hơn bằng cách phân chia linh hồn, hay là con người phàm, ra nhiều thành phần.

Như đã nói ở các chương trước, nhiều người tâm linh chấp nhận thuyết luân hồi, và nhiều người thường cho rằng, chính linh hồn đầu thai trở lại. Điều này cũng đưa tới quan niệm phổ thông là linh hồn được tạo ra ở cõi cao và đi xuống cõi vật chất. Như vậy cũng có nghĩa là linh hồn sẽ thăng lên và trở về cõi tâm linh. Từ đó dẫn đến hai ý niệm phổ thông về những gì bạn cần làm để linh hồn hội đủ điều kiện vào cõi tâm linh.

  • Linh hồn đã “sa xuống” và xuống một trạng thái thấp hơn, và do đó nó không còn hội đủ điều kiện để lên thiên đàng. Do đó, bạn cần đền bù những lỗi lầm đã phạm và trong lọc hay nâng cao linh hồn.
  • Linh hồn cần được kiện toàn, do đó công việc của bạn là nâng linh hồn lên một trạng thái toàn hảo (bất kể toàn hảo được định nghĩa ra sao).

Quan niệm cái Ta Biết có thể làm đảo lộn cách bạn hiểu về linh hồn. Điểm cốt lõi là cái Ta Biết chính là cái đã từ trên đi xuống và khởi sự tiến trình đầu thai vào thế giới vật chất. Do đó, cũng chính cái Ta Biết có tiềm năng thăng thiên trở về cõi tâm linh.

Nhưng tiến trình thăng thiên KHÔNG do cái Ta Biết bù đắp một trạng thái bất toàn hay tìm cách đạt được sự toàn hảo dựa theo tiêu chuẩn thế gian do con người đặt ra. Trái lại, cái Ta Biết CHỈ CÓ THỂ thăng thiên khi nó hoàn thành tiềm năng cao nhất của nó, tức là nó ở trong trạng thái nhận biết thuần khiết và đảm trách chức năng cánh cửa mở cho Hiện diện. Điểm này có hai khía cạnh:

  • Hiện diện TA LÀ có thể tự biểu lộ qua cánh cửa mở của cái Ta Biết, bằng cách để ánh sáng và cá thể của nó tuôn chảy xuống cõi vật chất.
  • Hiện diện có thể trải nghiệm thế giới vật chất qua cái Ta Biết, lúc đó là tấm kính trong không có phin lọc nhận thức.

Nói cách khác, trong trạng thái cao nhất của nó cái Ta Biết không tự coi mình là một sinh thể tách biệt. Nó tự coi nó như là cánh cửa mở, không hơn không kém, để Hiện diện tự biểu lộ trong thế giới này, và như tấm kính trong giúp Hiện diện trải nghiệm thế giới. Trong trạng thái này, cái Ta Biết tự coi mình như là sắc thái Ta Sẽ Là của Hiện diện TA LÀ.

Trong trạng thái cao nhất của nó, cái Ta Biết không có phin lọc nhận thức. Do đó nó không ngăn chặn hay giữ lại bất cứ biểu lộ nào phát xuất từ Hiện Diện, và nó không ngăn chặn bất cứ kinh nghiệm nào của nó được chuyển về Hiện diện. Cái Ta Biết không phán xét dựa trên hình tướng, nhưng cho phép Hiện diện thẩm định kinh nghiệm, và như vậy học hỏi từ chúng và tồn trữ kết quả vào căn thể (từ này sẽ được giải thích sau). Bạn hãy thử so sánh với việc mình hay đánh giá trực giác của mình để xem nó có thích hợp hay không đựa trên tiêu chuẩn thế gian. Sau đó, bạn hãy thử xem mình có hay dấu Thượng đế điều gì đó chăng. Bây giờ, chúng ta cần hiểu là cái Ta Biết ban đầu không đi xuống với trạng thái nhận biết thuần khiết. Chúng ta hãy xem vì sao.

10.1 Cái Ta Biết đi xuống như thế nào

Thế giới vật chất được cấu tạo bởi ánh sáng tâm linh đã có độ rung được giảm xuống theo các tỷ số đặc trưng của bảy tia sáng. Như thế có nghĩa là thế giới vật chất ban đầu có mức độ rung động nào đó, tức là nó được cấu tạo với năng lượng thô đặc hơn cõi tâm linh. Đó là lý do vì sao chúng ta không thấy được cõi tâm linh với giác quan của chúng ta. Giác quan của chúng ta được hòa điệu với những rung động trong quang phổ vật chất, và những rung động này hiện nay thấp hơn rung động tâm linh rất nhiều. Do đó, giác quan chúng ta không thể vượt qua hố ngăn cách để “thấy” được cõi tâm linh (nhiều người tâm linh cảm và trải nghiệm được năng lượng tâm linh bằng trực giác, nhưng thường là không qua giác quan vật lý).

Cái Ta Biết đuợc cấu tạo với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm mà nó có tiềm năng nâng cao qua nhiều mức, cho đến khi nó đạt được ý niệm bản ngã tòan khắp giống như đấng Sáng tạo.

Mục đích thế giới vật chất được tạo ra với độ thô đặc cao là để giúp những sinh thể tự nhận biết – chúng ta – phát triển. Khi chúng ta xuống một cõi trong đó ta không trực tiếp thấy được thế giới tâm linh, ta có cơ hội nâng dần tâm thức của mình lên, cho tới khi ta có thể làm công việc là cánh cửa mở giữa hai cõi tâm linh và vật chất. Khi chúng ta đi theo tiến trình này thì chúng ta cũng giúp nâng độ rung của cõi vật chất lên, cho tới khi nó bằng độ rung của cõi tâm linh.

Điểm quan trọng liên quan đến đề tài chúng ta đang thảo luận là cái Ta Biết không xuống với mức tự nhận biết cao nhất của nó. Cái Ta Biết được cấu tạo với một ý niệm bản ngã nhỏ như một chấm mà nó có tiềm năng nâng cao qua nhiều mức, cho đến khi nó đạt được ý niệm bản ngã tòan khắp giống như đấng Sáng tạo. Xin các bạn ghi nhận điều vừa nói. Công việc của cái Ta Biết KHÔNG phải là xây dựng cái ta toàn hảo trên thế gian này. Công việc của cái Ta Biết là nới rộng phạm vi nhận biết của nó. Nó làm việc này bằng cách khoác lên một cái ta hạn hẹp và vượt thăng cái ta này bằng cách nhận ra rằng: “Ta hơn cái ta này”. Mỗi lần cái Ta Biết đi qua tiến trình quên và ngộ thì nó nới rộng phạm vi nhận biết của nó. 

Để xuống tới những độ rung thô đặc của vũ trụ vật chất, cái Ta Biết cần một phương tiện, tức là một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi cùng độ rung với cõi vật chất. Đây là một điểm quan trọng mà bạn cần nhận ra: cái Ta Biết dùng phương tiện, nhưng nó KHÔNG trở thành phương tiện đó. Trong tiến trình này, cái Ta Biết KHÔNG bị thay đổi; chỉ có ý niệm bản ngã của nó – tức là nhận thức của nó – thay đổi mà thôi. Việc này cũng giống như người diễn viên khoác lên một trang phục và hóa trang để thủ một vai trò trên sân khấu kịch nghệ – tức là người diễn viên có thể cởi trang phục ra dễ dàng như khi khoác nó vào.

Lúc ban đầu cái Ta Biết xuống với một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi cùng những rung động cơ bản đã tạo ra vũ trụ vật chất. Cái ta này, phương tiện này, là cái gì chúng ta – từ một viễn quan cao – có thể gọi là linh hồn.

Nhưng các bạn cũng nên ghi nhận là linh hồn KHÔNG được cấu tạo trên cõi tâm linh, và nó cũng không được cấu tạo với những rung động của thế giới tâm linh. Như kinh Sáng-thế Ký (Genesis) đã nói, nó được cấu tạo từ tro bụi, có nghĩa là rung động vật chất.  Do đó, linh hồn – theo định nghĩa này – không đi xuống từ cõi tâm linh và do đó không thể thăng thiên. Cái Ta Biết sẽ thăng thiên, nhưng nó chỉ thăng thiên được khi nó ngưng không tự đồng hóa với linh hồn, mà trái lại đạt được tiềm năng cao nhất của nó – là trạng thái nhận biết thuần khiết qua đó nó thấy nó là một với Hiện diện.

Xin các bạn ghi nhận một điểm có thể gây ngộ nhận. Linh hồn xuống xác thân vật lý khi bạn đầu thai, và đúng là trong nhiều trường hợp nó tới từ một cõi cao hơn. Đó là vì linh hồn không bị chết khi xác thân chết đi và cái Ta Biết mang linh hồn theo sang kiếp đầu thai tới. Tùy theo trình độ tâm thức của bạn, giữa hai kiếp đầu thai linh hồn có thể lên tới những tầng cao của thế giới vật chất – chúng tôi có nói đến bốn tầng của thế giới vật chất – và sau đó nó từ đó xuống đầu thai. Tuy nhiên, những tầng này không thuộc cõi tâm linh, và do đó linh hồn vẫn không thể thăng thiên và trở thành một sinh thể tâm linh.

10.2 Vì sao linh hồn không thể thăng thiên

Có một phân biệt vi tế mà ta cần biết. Linh hồn có một tính chất mà đa số gọi là cá thể hay cá tính. Nhưng cá thể hay cá tính này được cấu tạo theo những điều kiện có mặt ở vũ trụ vật chất khi cái Ta Biết xuống lúc ban đầu.  Cá tính hay cá thể mà bạn hiện có là sản phẩm của những trải nghiệm của bạn khi bạn sống trong thế giới vật chất. Nhiều thành phần của nó có lẽ đã được thêm vào linh hồn nguyên thủy khi cái Ta Biết đi xuống.

Hình 10 – Linh hồn chứa đầy năng lượng thô đặc

Nhưng cái cá thể hay cá tính vỏ ngoài này KHÔNG phải là bạn. Thực sự bạn là cá thể được neo chặt trong Hiện diện TA LÀ. Cá thể này có thể được biểu lộ qua cái Ta Biết, nhưng cái cá tính vỏ ngoài, mà bạn đã tạo ra khi phản ứng lại điều kiện trong thế giới vật chất, sẽ ngăn chặn hoặc tô màu sự biểu lộ này.

Để thăng thiên, bạn KHÔNG cần kiện toàn cái cá tính vỏ ngoài, bạn phải vượt thăng nó. Linh hồn được cấu tạo với một số niềm tin, và chúng pha màu năng lượng tâm linh với độ rung thấp của chúng. Bạn có thể nói là những ý niệm và niềm tin quy định linh hồn của bạn đã tạo ra một khuôn đúc hay lưới thép, và năng lượng mà bạn đã pha màu qua các niềm tin đó đã lấp đầy cái “lồng” đó với độ thô đặc càng ngày càng cao. Năng lượng càng thô đặc thì cái Ta Biết càng tự đồng hóa với linh hồn, và bạn càng khó thoát ra sự tự đồng hóa đó. Đơn giản là  bạn  không thể thấy được bất cứ gì ngoài năng lượng và niềm tin của linh hồn, vì các năng lượng này tạo ra một từ trường hút sự chú ý của bạn vào cái ta thấp.

Chìa khóa để đạt tiến bộ tâm linh là bắt đầu nâng độ rung của năng lượng tồn trữ trong linh hồn. Khi độ thô đặc giảm đi, cái Ta Biết sẽ bắt đầu thoáng thấy một trạng thái nhận biết cao hơn. Lúc đầu sẽ chỉ là những tia chớp trực giác hay cảm nhận là đời sống phải có gì hơn nữa. Sau đó tới cảm nhận là mình dính liền với một cái gì cao hơn. Sau cùng bạn sẽ có những thoáng nhận biết thuần khiết là những lúc bạn trải nghiệm trực tiếp là cái Ta Biết HƠN cái cá thể thấp của bạn.

Cái Ta Biết cần một phương tiện – là linh hồn – tức là một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi cùng rung động với rung động của cõi vật chất, là nơi nó xuống.

Đó là lúc bạn có thể bắt đầu chất vấn nghiêm tức những niềm tin đã tạo nên linh hồn bạn, qua đó bạn dần dần nâng ý niệm bản ngã của mình lên, cho tới khi bạn cảm được mình là một với Hiện diện của bạn. Trong tiến trình này, bạn cũng giúp nâng độ rung của vũ trụ vật chất lên và bạn giúp chất vấn những niềm tin của tâm thức đại chúng, giúp cho người khác dễ nâng tâm thức của họ lên hơn. Khi đủ số người làm được điều này thì rốt cuộc cả hành tinh sẽ được nâng lên một mức cao hơn, lúc đó đa số sẽ thấy rằng cuộc sống hiển nhiên có một khía cạnh tâm linh.

Chúng ta hãy trở lại trọng điểm. Đó là cái cá tính hay cá thể vỏ ngoài – tức là cái ta vỏ ngoài – mà bạn hiện có đã được hình thành qua nhiều kiếp sống như một phản ứng trước những điều kiện bất toàn trong thế giới vật chất. Do đó, nó KHÔNG THỂ NÀO được kiện toàn để có thể thăng thiên lên cõi tâm linh. Chỉ có cái Ta Biết là có thể thăng thiên, đó là cái Ta đi xuống lúc ban đầu. Nhưng cái Ta Biết chỉ có thể thăng thiên khi nó ngưng không tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài nữa.

Nó làm chuyện này bằng cách vượt thăng các niềm tin gây giới hạn và nâng lên các năng lượng tạo nên linh hồn. Do đó, ta có thể nói là linh hồn được nâng lên, nhưng nó không được nâng lên như một cái ta tách biệt. Các niềm tin gây giới hạn bị tan biến đi và các năng lượng thấp được gia tốc thành rung động cao hơn. Nếu bạn để một nồi nước lên lò lửa và để nó sôi cho tới khi hết nước, thì bạn có thể nói là nồi nước được nâng lên cõi cao hay chăng? Dĩ nhiên là không, vì chính là nước đã được nâng lên và cái nồi ở lại.

Điểm quan trọng là đa số chúng ta đã bị lừa để theo một con đường vỏ ngoài, qua đó ta dùng giáo lý tâm linh để kiện toàn linh hồn theo một tiêu chuẩn nào đó. Nhưng linh hồn không thể nào kiện toàn được; ta phải để cho nó chết dần đi. Thánh Phao-lô nói: “Ta chết mỗi ngày”, có nghĩa là mỗi ngày một phần linh hồn thày chết đi vì thày rũ bỏ vài niềm tin gây giới hạn. Giê-su cho phép mình bị đóng đinh để minh họa là cái Ta Biết bị đóng đinh (tức bị tê liệt hóa) bởi nó tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài hay linh hồn. Hành động cuối cùng của Giê-su trên cây thập tự là “dứt bỏ hồn ma”, là biểu tượng của tàn dư cuối cùng của linh hồn/cái ta vỏ ngoài của thày.

Chìa khóa để đạt tiến bộ tâm linh là bắt đầu nâng độ rung của năng lượng tồn trữ trong linh hồn. Khi độ thô đặc giảm đi, cái Ta Biết sẽ bắt đầu thoáng thấy trạng thái nhận biết cao hơn.

Đó là điều Giê-su đã nói: “Chưa hề có người lên trời, trừ ra hắn từ trời xuống”. Và “người” đã từ trời xuống là cái Ta Biết, sẽ thăng thiên khi nó nhận ra cái bản sắc thật của nó – là sắc thái Ta Sẽ Là của Hiện diện TA LÀ. Nói cách khác, “linh hồn” KHÔNG xuống đầu thai lúc ban đầu. Nó là cái gì đã được tạo ra và thêm vào qua nhiều kiếp sống. Do đó, cái gì tái sinh là cả hai: cái Ta Biết và linh hồn. Nhưng chỉ có cái Ta Biết là đã xuống trần lúc ban đầu mà thôi.

Trong những trang kế tiếp, chúng tôi sẽ xem xét một số khía cạnh khác của tâm phàm, trong đó có những phần thuộc linh hồn. 

10.3. Bình chứa cái ta và bốn thể phàm

Một số giáo lý tâm linh liên kết Tánh linh hay cõi tâm linh với hình tròn là biểu tượng của cái duy nhất. Đồng thời liên kết cõi vật chất với hình vuông. Từ đó có câu nói là cõi vật chất được tạo thành bằng cách “biến hình tròn thành hình vuông”. Có giáo lý thần bí khác lại liên kết hình vuông với nền kim tự tháp. Do đó, khi ta điều ngự được bốn yếu tố của cõi vật chất, ta sẽ dần dần lên cao hơn, cho tới khi ta tới đỉnh kim tự tháp, là điểm dị thường là ngưỡng cửa nối liền cõi vật chất và cõi tâm linh. Điểm đó tương xứng với điểm kết nối ở giữa hình số tám trong hình dưới đây. Khi bạn tiến cao hơn trên con đường tâm linh thì cái Ta Biết sẽ chiếm địa vị chính đáng của nó ở đỉnh kim tự tháp của cái ta.

Hình 11 – Cái Ta Biết ở điểm kết nối giữa hình số tám
 của dòng chảy giữa cõi tâm linh và cõi vật chất

Bốn cạnh của hình vuông hay bốn yếu tố, tương ứng với những gì chúng tôi đã đề cập ở trên, tức là vũ trụ vật chất gồm bốn cõi hay bốn bát cung. Phàm ngã – là cái phương tiện mà cái Ta Biết dùng để tự biệu lộ trong cõi vật chất – cũng có bốn “thể” hay bốn từng của tâm. Đây là bốn thể năng lượng đan kết vào nhau và có mặt trong cùng một không gian vì chúng rung động ở các tần số khác nhau. Bốn thể này là:

  • Thể bản sắc, cũng được gọi là thể ê-the. Nội dung trong thể bản sắc quy định ý niệm bản sắc của bạn. Bạn nhìn mình ra sao, bạn nhìn Thượng đế ra sao, bạn nhìn thế giới ra sao, và bạn nhìn tương tác giữa bạn, Thượng đế, và thế giới ra sao? Bạn nhìn mình như một sinh thể tâm linh xuống đây để cai quản trái đất, và do đó đủ quyền năng để làm công việc này? Hay bạn nhìn mình như một sinh thể vật chất, một sản phẩm của trái đất với khả năng thay đổi hoàn cảnh hạn hẹp.
  • Thể lý trí gồm các tư tưởng của bạn. Đây là nơi bạn lập ra hình tư tưởng của những gì bạn muốn làm trong cõi vật chất và cách thực hiện chúng. Các hình tư tưởng này dựa trên ý niệm bản sắc của bạn, là nơi quy định những tham số điều khiển ý niệm bạn làm được gì và không làm được gì. Do đó, nếu bạn tự đồng hóa mình với một con người phàm thì bạn sẽ giới hạn những gì bạn nghĩ bạn có thể làm được.
  • Thể cảm xúc đương nhiên là định khu các cảm xúc của bạn. Cảm xúc có nghĩa là năng lượng chuyển động. Tư tưởng của bạn là hình tư tưởng, nhưng muốn chúng trở thành hành động hay hình tướng thể hiện, thì chúng phải được chuyển động, và việc này xảy ra nơi thể cảm xúc. Tuy nhiên, thể cảm xúc cũng chứa các ham muốn của bạn, và chúng có thể mâu thuẫn với các mục đích cao của bạn. Trong tình trạng lý tưởng thì cảm xúc phản ảnh tư tưởng, tư tưởng phản ảnh ý niệm bản sắc, và ý niệm bản sắc phản ảnh cá thể Thiêng liêng của bạn. Nhưng chuyện xảy ra khá thông thường là cảm xúc tự nó vận hành và tìm cách điều khiển đời bạn, thay vì bị cai quản bởi tư tưởng.
  • Bộ óc vật lý và “tâm thể”. Nhiều khoa học gia duy vật tin rằng mọi tư tưởng và cảm xúc của con người là sản phẩm của bộ óc vật lý. Điều này không đúng, nhưng quả thật bộ óc là một “máy điện toán” rất phức tạp có khả năng tạo ra nhiều tư tưởng và cảm giác của con người. Tuy nhiên bộ óc chỉ là phần cứng của một phần tâm con người mà các chân sư thăng thiên gọi là “tâm của thân”. Đây là cái tâm lo chu toàn các nhu cầu của cơ thể vật lý, tỷ dụ như các nhu cầu an toàn, ăn uống và sinh sản.

Câu hỏi thiết yếu bây giờ trở nên: tâm  ý thức của bạn sẽ trụ ở thể nào trong bốn thể phàm?

Với một phần lớn nhân loại thì cái biết ý thức của họ trụ vào thể vật lý và cõi vật chất. Như vậy có nghĩa là nhiều tư tưởng và cảm xúc của họ là sản phẩm của bộ óc và tâm của thân. Thí dụ, nhiều người chú tâm vào những nhu cầu cơ bản của thể xác như an toàn, thực phẩm, quần áo và sinh dục. Đa số các người tâm linh đã nới rộng cái biết ý thức của họ để bao gồm ít nhất là một phần của ba thể cao. Tiếp tục nới rộng cái biết ý thức này là chìa khóa điều ngự bốn thể phàm, khiến chúng trở thành phương tiện giúp bạn hoàn thành sứ mệnh tâm linh của bạn trong thế gian này.

10.4. Làm sao bạn mất liên lạc với cái ta tâm linh của bạn

Quan niệm thiết yếu là bốn thể phàm tạo nên một phin lọc pha màu ánh sáng tuôn từ Hiện diện TA LÀ xuống các thể phàm. Mọi thứ đều là năng lượng, mọi thứ đều được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật. Cái gì đem lại sự sống cho bạn và cho bạn khả năng hành động trong thế giới vật chất là dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống bốn thể phàm.

Trong tình trạng lý tưởng thì bạn cho nguồn năng lượng này rung động cao – nâng chính mình và tất cả mọi sự sống lên – và điều này khiến nó chảy ngược trở về cái ta tâm linh của bạn.  Lúc đó nó sẽ được tăng lên theo cấp số nhân và bạn nhận được thêm năng lượng, và như vậy gia tăng quyền năng sáng tạo của bạn. Tiến trình này khiến cuộc đời bạn theo một vòng xoáy đi lên, cho bạn thêm quyền để thực hiện lẽ sống của bạn và cai quản hoàn cảnh vật chất của bạn.

Dòng năng lượng này có thể so sánh với ánh sáng chiếu ra từ bóng đèn của máy chiếu phim. Khi ánh sáng chiếu qua bốn thể phàm thì nó bị pha màu bởi nội dung (hình ảnh, niềm tin và năng lượng) của các thể đó. Điều này giống như ánh sáng từ máy chiếu phim được pha màu bởi hình ảnh trên cuộn phim – duy có điều khác là bạn có bốn cuộn phim.

Nếu các niềm tin và hình ảnh trong bốn thể phàm của bạn không hòa hợp với con người cao của bạn – đặc biệt khi bạn có niềm tin hướng về cái ta và ham muốn vị kỷ – thì bạn sẽ áp đặt hình ảnh bất toàn lên ánh sáng tâm linh. Điều này dẫn tới hành động bất quân bình sẽ gây ra khổ đau trong đời bạn, và cũng có thể tạo ra một vòng xoáy đi xuống gây ra càng ngày càng nhiều đau khổ.

Cái gì đem lại sự sống cho bạn và cho bạn khả năng hành động trong thế giới vật chất là dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống bốn thể phàm.

Khi ta áp đặt một hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì ta tạo năng lượng có độ rung động thấp. Năng lượng đã bị tha hóa này không thể chảy trở về cái ta tâm linh và trở thành kho báu giữ trên Thiên đàng – nó không thể nhập vào rung động cao của cõi tâm linh. Do đó, hành động vị kỷ cắt đứt dòng chảy số tám và năng lượng tha hóa không có chỗ để chảy đi. Năng lượng tha hóa mà bạn tạo ra sẽ vĩnh viễn ở lại tầng rung động đó. Năng lượng này không biến đi nhưng sẽ tồn trữ trong bốn thể phàm của bạn.

Năng lượng này sẽ tạo ra một phin lọc hay một tấm màn ngăn cản bạn không tiếp xúc được cái ta tâm linh của bạn. Điều này dần dần sẽ khiến viễn quan của bạn trở nên mờ tối, cho tới khi bạn nghĩ bạn là một con người phàm bị giới hạn trong vũ trụ vật chất và không có gì ở trên vũ trụ vật chất này. Nó cũng giảm thiểu quyền năng sáng tạo của bạn, cho tới khi bạn nghĩ là cách duy nhất để làm bất cứ việc gì trên trái đất này là dùng xác thân vật lý. Năng lượng tồn đọng đã cướp đi quyền năng tinh thần của bạn.

Bạn hãy ghi nhận là năng lượng tha hóa sẽ tích lũy trong bốn thể phàm của bạn. Và khi càng có nhiều năng lượng tích lũy trong một thể nào đó, thì sự chú tâm của bạn sẽ càng bị thu hút về thể đó. Do đó, nhiều người có quá nhiều năng lượng tha hóa ở tầng vật lý nên sự chú tâm của họ thực sự bị giam trong xác thân vật lý. Có người khác sống cuộc đời họ qua cảm xúc của họ, và có những người khác nữa suốt đời chỉ chú tâm vào trí năng.

Khi bạn hiểu ra rằng những gì mà ta biết có ý thức – kể cả những hoàn cảnh vỏ ngoài của bạn – chỉ là những hình ảnh phóng chiếu lên màn ảnh của tâm bạn và của Ánh sáng Mẫu-Vật, thì bạn nhận ra rằng nếu bạn muốn thay đổi những gì được chiếu trên màn ảnh cuộc đời thì bạn phải bước vào phòng chiếu và thay các cuộn phim trong bốn thể phàm của bạn. Cuộc sống ở mức biết ý thức có thể so sánh với màn ảnh chiếu phim. Nếu bạn không thích cuộn phim được chiếu trên màn ảnh, bạn sẽ thay đổi được bao nhiêu nếu bạn chỉ tác động lên màn ảnh? Bạn sẽ thành công hơn nếu bạn đi về nguồn của hình ảnh và thay đổi các hình ảnh trên cuộn phim, tức là nội dung của bốn thể phàm của bạn. Khi bạn hiểu được sự vận hành này thì bạn sẽ thấy rõ có hai yếu tố cốt yếu giúp bạn tiến bộ trên con đường tâm linh:

  • Trong lọc mọi tầng của tâm – bốn thể phàm của bạn – khỏi những niềm tin bất toàn đã khiến bạn tha hóa năng lượng tâm linh và đáp ứng với cuộc đời với niềm tin và cảm xúc gây giới han.
  • Trong lọc –  chuyển hóa – các năng lượng tha hóa tồn trữ trong bốn thể phàm của bạn. Bạn cần bỏ bớt hành lý trước khi bạn trèo lên núi cao. Đó là lý do tại sao bạn rất cần đọc bài chú bài thỉnh, vì các bài này có khả năng thỉnh ánh sáng tâm linh xuống để chuyển hóa năng lượng trong bốn thể phàm của bạn. Chỉ khi nào bạn giảm được sức hút thì bạn mới giải thoát cái biết ý thức của bạn để nó hướng về một trong các thể cao của bạn. Chỉ khi nào bạn trong lọc được bốn thể phàm của mình thì bạn mới giải thoát được sự chú tâm của mình và hướng nó về Hiện diện TA LÀ của mình. Như tôi có trình bày, chính tôi đã đọc các bài chú từ rất lâu nay, và tôi cảm thấy là bài chú là một sức mạnh vững chắc và đều đặn đẩy tôi tiến lên trên con đường tâm linh. Tôi không nói là chỉ đọc bài chú là đủ để giúp bạn tiến bộ, vì đương nhiên là bạn cũng cần xem xét những niềm tin đang giới hạn bạn. Tuy nhiên, bài chú giống như bộ máy trong chiếc xe, và khi bạn đọc chú bạn sẽ có được sức đẩy tới. Sau đó, bạn cần lái chiếc xe để nó đưa bạn tới nơi bạn muốn đến.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 9 – Cái Ta đi xuống thế giới vật chất

Chúng ta đã thấy là các chân sư thăng thiên sáng tạo Hiện diện TA LÀ như một kho lưu trữ cá thể độc nhất (unique individuality) của bạn. Các thầy làm vậy để bảo đảm là cá thể của bạn không bao giờ bị phá hủy hay bóp méo bởi những gì bạn kinh nghiệm trong thế giới vật chất. Nhưng vì vậy Hiện diện TA LÀ không thể nào đi xuống và đi vào một cơ thể vật lý, và do đó nó phải gửi xuống một phần nối dài của chính nó. Trong chương này chúng ta sẽ xem xét phần nối dài này. Chúng ta hãy bắt đầu hiểu xem Hiện diện TA LÀ nhìn tiến trình gửi phần nối dài của nó xuống hiện thân (into embodiment) như thế nào. Hiện diện có hai mục đích khi làm vậy:

  • Nó muốn tăng triển sự tự nhận biết
  • Nó muốn nâng cao bầu cõi cuối cùng cho tới khi bầu cõi này thăng thiên và trở thành một phần của cõi tâm linh

Làm sao Hiện diện chu toàn được các mục đích trên? Nó có hai mục tiêu chính: 

  • Nó muốn kinh nghiệm thế giới vật chất từ bên trong. Lẽ dĩ nhiên là có sự khác biệt giữa nhìn thế giới này như một sinh thể tâm linh đang ngự ở cõi cao và nhìn thế giới với cái nhìn của một sinh thể đang sống trong đó và phần nào chịu sự giới hạn của thế giới đó. Hiện diện TA LÀ muốn có cái nhìn từ bên trong này và khi nhìn như thế và vượt thăng được giới hạn thì chuyện đó sẽ giúp Hiện diện mở rộng ý niệm bản ngã của mình.
  • Hiện diện muốn biểu lộ tiềm năng sáng tạo của nó trong thế giới này. Việc này có hai phần: một là biểu lộ ánh sáng tâm linh qua cá thể độc đáo của nó, và hai là đem lại nhãn quan tâm linh của Hiện diện qua lăng kính của cá thể của nó. Để minh họa điều này một cách thô thiển, chúng ta có thể nói một bầu cõi chưa thăng chỉ có một lượng ít ỏi ánh sáng, so với một căn phòng tối. Một bầu cõi sẽ đến gần mức thăng thiên khi Hiện diện TA LÀ chiếu sáng ánh sáng tâm linh của nó vào bầu cõi. Chuyện này chỉ làm được nếu Hiện diện có sự chú tâm ở bên trong bầu cõi và khi cái ta chú tâm đó tự coi mình là cánh cửa mở cho Hiện diện.

9.1. Sáng tạo một cái Ta không thể nào mất đi được

Như đã biết, các mục đích ở trên chỉ có thể đạt được qua việc Hiện diện TA LÀ tạo ra một phần nối dài của chính nó và gửi xuống thế giới vật chất. Mặt khác chúng ta cũng lo lắng là cần làm sao cho cái Ta đi xuống này không bị mắc kẹt mãi mãi trong thế giới này. Tới đây thì là một điểm vi tế khó mà hiểu được với cái trí phân tích đường thẳng. Một cách để giải thích là Hiện diện TA LÀ có hai khía cạnh:

  • Biết, tự nhận biết hay Hiện diện. Khía cạnh này không có hình tướng.
  • Cá thể. Khía cạnh này có hình tướng và muốn biểu thị trong thế giới hình tướng. Như chúng ta đã thảo luần ở các phần trước, một số nhà khoa học bắt đầu nhận ra rằng cả vũ trụ này giống như một cái tâm vĩ đại. Các nhà thần bí từ lâu nay đã nói là chỉ có một cái tâm, là tâm của đấng Sáng tạo, nhưng cái tâm duy nhất này có thể tự biểu lộ như nhiều sinh thể cá biệt. Điều quan trọng cần hiểu là Hiện diện TA LÀ tạo ra một nối dài của khía cạnh Biết. Nó tạo ra một phần nối dài của sự tự nhận biết của nó, và chính phần nối dài này đi xuống vũ trụ vật chất, trong khi cá thể thì ở lại an toàn và không đụng tới nó được nơi cõi tâm linh.

Chúng ta cũng có thể nói tự nhận biết thực sự vượt lên trên thế giới hình tướng. Nó không có hình tướng, nó không có đặc tính nào có thể bị ảnh hưởng bởi bất cứ hình tướng nào. Nhưng cá thể thì có hình tướng, và do đó nó có thể bị ảnh hưởng bởi các hình tướng khác, và đó là cách bạn tăng trưởng sự tự nhận biết. Điểm ở đây là cá thể của bạn không đi xuống nhưng ở lại an toàn nơi cõi tâm linh. Cái phần đi xuống là phần nối dài của sự tự nhận biết thuần khiết của bạn. Do đó cái Ta này không có cá thể nội tại; nó chỉ là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ.

Để minh họa một cách thô thiển, hãy mường tượng các toán cảnh sát có một cái ống mềm với một thấu kính ở cuối và họ có thể đặt cái ống này trong một căn phòng. Ống này được nối với một máy quay phim và như vậy họ có thể thấy được chuyện gì xảy ra trong phòng. Tiếp tục minh họa thô thiển này, Hiện diện TA LÀ kéo một “ống ánh sáng” đưa xuống vũ trụ vật chất và cuối ống này là một thấu kính trong veo. Thấu kính này làm việc hai chiều. Hiện diện TA LÀ có thể gửi ánh sáng xuống thế giới vật chất qua thấu kính, và nó cũng có thể trải nghiệm thế giới vật chất từ bên trong bằng cách nhìn qua thấu kính. Thấu kính chỉ giản dị là sự biết thuần khiết, và như vậy nó không thể nào bị lạc mất hay bị bóp méo bởi bất cứ cái gì nó gặp trong thế giới vật chất. Nhưng thấu kính có thể mở rộng ra và chuyện này xảy ra khi bạn tiến lên các trạng thái tâm thức cao hơn. Bạn vừa là cánh cửa mở vừa là cánh cửa rộng hơn.

9.2. Biết qua một kinh nghiệm thần bí: khai ngộ

Các chân sư thăng thiên nhận ra rằng bạn chỉ có thể biết thực tại của giáo lý này khi mà bạn có trải nghiệm thần bí mà thôi. Bình thường thì tâm con người hoàn toàn bị chú tâm hay đắm chìm trong những suy nghĩ cụ thể, những suy nghĩ có một hình tướng nào đó. Có thể so sánh các suy nghĩ này giống như đồ đạc bên trong cái bình chứa nhưng cái bình chứa là gì? Cái bình chứa là cái biết trong dạng thuần khiết của nó. Các nhà thần bí từ bao nhiêu thời đại đã nói rằng nếu chúng ta làm cho cái tâm mình lắng yên xuống được, nếu chúng ta vượt lên trên sự chìm đắm trong suy nghĩ, ta có thể kinh nghiệm được cái biết trong dạng thuần khiết của nó. Triết gia Rene Descartes có câu nói nổi tiếng: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nhà thần bí sẽ bước một bước xa hơn thế và nói: “Vâng, nhưng cái gì đã giúp cho bạn có thể nghĩ được? Đó là vì bạn Hiện diện, Có mặt, có sự tự nhận biết.” Do đó, chúng ta cũng có thể nói: “TA LÀ, do đó ta có tự nhận biết và nhờ vậy ta suy nghĩ được.”

Các chân sư thăng thiên biết rằng đối với nhiều người, ý niệm một cái Ta không có cá thể hay hình tướng đi ngược lại với tất cả những gì mọi người được dạy và tin. Do thế, những người này có thể tranh cãi ủng hộ hay chống lại ý niệm cái Ta này bằng cách dùng trí phân tích. Nhưng các chân sư cũng dạy rằng cái trí phân tích có một số giới hạn, nó chỉ có thể xử lý cái gì có hình tướng.

Chính đặc tính này của cái trí phân tích đã khiến cho chúng ta có thể tin rằng chúng ta là những sinh thể vật chất không thể thăng vượt một số giới hạn. Cái trí phân tích luôn luôn phải so sánh tất cả mọi thứ với những gì nó đã biết và cất giữ trong cơ sở dữ liệu của nó. Nhưng làm sao bạn có thể thăng vượt cái đã biết bằng cách dùng cái đã biết? Như Albert Einstein từng nói: “Bạn không thể giải quyết một vấn đề bằng cách dùng chính cái trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.”

Như chúng ta sẽ cùng thảo luận kế tiếp vô chi tiết hơn, chúng ta có thể tạo ra một cái ta được xác định dựa trên những giới hạn của thế giới vật chất. Một khi cái Ta đi xuống đã bắt đầu đồng hóa nó với một cái ta tách biệt như thế, tất cả những gì nó thấy đều bị pha màu bởi sự giới hạn, và như vậy trông dường như giới hạn là thật. Đây là một cách khác để mô tả tình thế khó xử của con người, một tình thế tiến thoái lưỡng nan.

Cách thoát ra duy nhất là có được một trải nghiệm trực tiếp làm cho bạn thấy bạn là hơn cái tự ngã thế tục và tách biệt này. Và chuyện này chỉ xảy ra khi bạn trải nghiệm được là bạn vượt lên trên các suy nghĩ bình thường của bạn trong khi bạn còn tỉnh thức và đang sống. Bạn tỉnh thức nhưng bạn không đồng hóa mình với cái ý niệm bản ngã bình thường của mình, và bạn cũng không ý thức cái ý niệm bản ngã đó. Chính kinh nghiệm thần bí này là nền tảng để bạn bắt đầu tiến trình mà bạn từ từ không đồng hóa mình với cái ngã tách biệt nữa. Như thế, cái Ta đi xuống có thể trở về trạng thái nguyên thủy của nó. Trong trạng thái này, nó nhận ra nó là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, không hơn không kém.

Nhiều người tâm linh đã có kinh nghiệm thần bí như thế, và bạn có thể là một trong những người này. Có bao giờ bạn có cảm nhận bạn có sự nối kết với cái gì đó lớn hơn, bạn hợp nhất với một thực tại lớn hơn, hay bạn hợp nhất với tất cả và ngay cả với Thượng đế? Có bao giờ bạn tỉnh thức mà bạn không biết tới môi trường chung quanh hay các tư tưởng thường đầy trong đầu của bạn? Có bao giờ bạn có hình ảnh về một thế giới hay một tầng mức thực tại vượt lên trên thế giới vật chất không? Có bao giờ bạn có cảm nhận “bạn” to lớn hơn cái thân xác của mình, hoặc bạn là một tế bào trong một cơ thể rộng lớn hơn? Có nhiều loại trải nghiệm thần bí như thế và chúng có những mức độ thuần khiết khác nhau. Nhưng điều quan trọng là bất cứ trải nghiệm nào vượt lên trên cái mà chúng ta gọi là cái biết “bình thường” của con người, cho bạn thấy là cái cốt lõi của bạn, cái Ta đi xuống, quả thật là một dạng biết thuần khiết.

Khi tâm của bạn đã được trong lọc khỏi các năng lượng tha hóa, bạn sẽ bắt đầu có trải nghiệm thần bí một cách tự nhiên và dễ dàng.

Nếu bạn chưa có các trải nghiệm này, xin đừng tuyệt vọng. Như chúng ta đã thảo luận, các chân sư thăng thiên đã cho chúng ta nhiều dụng cụ tâm linh để giúp chúng ta có những trải nghiệm về trạng thái tâm thức cao. Khi bạn trong lọc bốn tầng của tâm khỏi các năng lượng tha hóa, bạn sẽ bắt đầu có trải nghiệm thần bí một cách tự nhiên và dễ dàng. Lý do là đối với cái Ta đi xuống, nhận biết thuần khiết là trạng thái tự nhiên của nó.

Điểm quan trọng bạn cần nghiền ngẫm là cái Ta đi xuống là cái nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không có hình tướng. Như vậy nó không thể nào bị phá hủy hay bị giết bởi bất cứ cái gì trong thế giới vật chất. Nó không thể bị mắc kẹt hay bị hạn chế mãi mãi trong bất cứ hình tướng nào. Và dù bây giờ bạn đang có bất cứ ý niệm bản ngã nào, cái Ta thuần khiết mà bạn thật sự là, có tiềm năng thăng vượt mọi khía cạnh của cái bản ngã đó. Dù bạn đã kinh nghiệm điều gì bây giờ hay trong quá khứ, bạn có tiềm năng tái tạo lại ý niệm bản ngã của mình, để bạn trở thành cánh cửa mở, qua đó cá thể thật của bạn có thể tự do biểu hiện qua thấu kính của cái Ta đang ở trong thế giới này.

Lẽ dĩ nhiên chúng ta vẫn còn thắc mắc tại sao mình quên mình là một sinh thể tâm linh và chúng ta sẽ thảo luận đề tài này trong phần còn lại của chương. Nhưng trước tiên, chúng ta hãy cho cái “Ta đi xuống” một cái tên thực tiễn hơn. Dù là có thể dùng nhiều tên khác, các chân sư thăng thiên đã chọn cái tên “cái Ta biết” vì nhờ có cái Ta này mà bạn có ý thức, mà bạn biết hay nhận biết. Bạn đạt được cái biết này khi bạn biết bạn là Hiện diện TA SẼ LÀ trong khi bạn vẫn nhận biết thế giới vật chất và tiềm năng đồng sáng tạo một hình thái cao hơn của thế giới này của bạn.

9.3. Cái Ta tự biểu hiện như thế nào?

Một lần nữa, cái Ta Biết được tạo ra để giảm thiểu nguy cơ nó có thể bị lạc lối trong thế gian này. Do sự khác biệt lớn giữa độ rung của cõi tâm linh và thế giới vật chất, điều này có nghĩa là cái Ta Biết không thể trực tiếp tương tác với thân xác vật lý. Để có thể hiện thân trong thế giới này, cái Ta Biết trước tiên phải phóng chiếu nó vào một ý niệm bản ngã được cấu tạo bởi những năng lượng và hình tướng hiện có trên trái đất. Sau đó cái ta này sẽ tương tác với thân xác vật lý.

Cấu trúc này sáng suốt ở điểm nếu cái ta vật chất bị tổn thương hay hủy diệt, thì cái Ta Biết vẫn không hề hấn gì. Điều giản dị là năng lượng thấp của thế giới vật chất không thể ảnh hưởng sự nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết. Điều này hình dung không khó nếu bạn chấp nhận thuyết luân hồi. Bạn biết là linh hồn (soul) không bị hủy diệt khi xác thân vật lý chết đi. Giống như vậy, cái Ta Biết không bị hủy diệt nếu cái ta vỏ ngoài chết đi.

Tiến trình đầu thai rất phức tạp, và do đó tại đây chúng ta chỉ xem xét vấn đề một cách giản lược. Trong thiết kế nguyên thủy, chúng ta khởi đầu bằng cách xuống một môi trường được bảo vệ mà ở trên chúng tôi đã gọi là cõi bản sắc, là cõi cao nhất trong bốn cõi thuộc vũ trụ vật chất. Tại đó, chúng ta sẽ ở trong một môi trường học hỏi tâm linh một thời gian, môi trường này gọi là một trường bí giáo.

Nơi đó, chúng ta khởi sự với việc học cách khoác lên và vượt thăng một cái ta vật chất nhưng không tự đồng hóa với nó. Khi ta không tự đồng hóa mình với cái ta vật chất thì ta có thể vượt thăng cái ta đó, và chính tiến trình khoác lên và vượt thăng một cái ta sẽ khiến ta tăng trưởng mức độ tự nhận biết. Một khi ta có thêm kinh nghiệm thì ta có thể quy định các cái ta của mình, lúc đó sẽ là căn bản để chúng ta xuống một xác thân vật lý.

Một lần nữa, có khác biệt lớn giữa độ rung của cõi bản sắc và cõi vật lý. Cõi vật lý thô đặc hơn nhiều, do đó khi chúng ta bước xuống một xác thân vật lý, viễn quan của ta thay đổi hoàn toàn. Cơ thể con người đương nhiên bị nhiều điều kiện vật chất giới hạn, có nghĩa là nếu ta tự đồng hóa mình với xác thân, thì ta sẽ tin rằng các điều kiện vật chất khống chế chúng ta. 

9.4. Vì sao cái Ta lại quên nó là ai?

Bây giờ chúng ta thấy là để bước xuống mức độ dày đặc của thế giới vật chất, cái Ta Biết đã khoác lấy một cái ta được hình thành với các hình tướng và năng lượng của thế giới vật chất. Cái ta này giống như một phin lọc nhận thức mà ta có thể so sánh với một cặp kính màu. Bạn hãy thử nghĩ nếu có ai gắn vào mắt bạn một cặp kính áp tròng màu đỏ ngay từ thuở bạn mới sinh. Bạn sẽ lớn lên tin chắc là bàu trời màu tím và không thể có cách gì khác trải nghiệm bàu trời.

Bây giờ chúng ta thấy sở dĩ điều kiện bên ngoài có sức mạnh trên chúng ta, đó là vì ta tin rằng những gì ta nhìn qua phin lọc là thực tại, và tin rằng thực tại đó độc lập với cách ta nhận thức nó. Đó là gì chúng tôi đã mô tả ở các chương trước khi chúng tôi so sánh tâm con người với cái kính vạn hoa. Những mảnh kính màu trong kính vạn hoa giống như các niềm tin mà ta có trong tâm mình, và các niềm tin này khiến ta tin rằng ta là một sinh thể giới hạn, và thế giới vật chất khống chế chúng ta.

Một khi bạn nhận ra rằng cách mình nhìn cuộc đời là sản phẩm của một cái ta nào đó, một phin lọc nhận thưc nào đó, thì một triển vọng nhiều hứa hẹn hiện ra. Bạn bây giờ có thể nêu ra một câu hỏi có tiềm năng thay đổi đời bạn: “Cái ta mà ta đang hiện có, có phải là cách duy nhất nhìn thế gian chăng, hay là có cách khác ˗ một cách có thể giúp ta vượt thăng những điều đang giới hạn ta hiện nay?”

Vấn đề mấu chốt của kiếp sống con người là: Ta trải nghiệm cuộc đời qua một phin lọc nhận thức, nhưng ta không nhận ra được là nó chỉ là một trong nhiều phin lọc.

Đương nhiên là chúng ta đều thấy được là có nhiều người không nhìn cuộc đời giống như ta. Giải thích hợp lý là họ đang trải nghiệm cuộc đời qua những cái ta khác nhau, những phin lọc nhận thức khác nhau. Ý niệm này giải thích vì sao ta rất khó đồng ý với người khác, ngay cả giao tiếp cũng khó. Một người đang đeo kính màu vàng và một người đang đeo kính màu đỏ sẽ khó đồng ý bàu trời màu gì, vì cái gì họ nhìn thấy khác nhau.

Vậy ta phải làm gì? Ta có thể bắt đầu tiến trình cải thiện và nới rộng phin lọc nhận thức bằng cách gia tăng hiểu biết của mình về cuộc đời và các đề tài tâm linh. Đó là điều nhiều người trong chúng ta đã làm qua việc học hỏi các giáo lý tâm linh và phương pháp tự giúp. Ta hiểu sâu hơn khía cạnh tâm linh của cuộc sống, và qua đó ta cũng chuyển đổi được cách ta nhìn cuộc đời.

Tuy nhiên ta cũng nhận được ra rằng phương pháp này có giới hạn. Thí dụ, nhiều người tâm linh vẫn còn một số cá tính hay thói quen mà họ không thăng vượt được. Cũng có người đã lấy giáo lý tâm linh để tự tạo cho mình một phin lọc nhận thức mới, cũng giới hạn họ không kém cái phin lọc mà họ có trước khi bước vào con đường tâm linh. Nhiều người tâm linh bị dính vào cố gắng thuyết phục người khác là: “Phin lọc nhận thức của tôi đúng và phin lọc của bạn sai”. Đây là một cuộc vật lộn đã kéo dài rất lâu trên trái đất này rồi. Cũng có người có mặc cảm tự tôn, cho rằng vị thày hay giáo lý của họ giúp họ có nhận thức vượt trội hơn tất cả các nhận thức khác.  

Chúng tôi không muốn nói là ta không nên học một giáo lý tâm linh, cũng không muốn nói là ta không nên nới rộng phin lọc nhận thức của mình. Nhưng các chân sư thăng thiên cũng nói đây chỉ là một giai đoạn, và có một mức độ cao hơn trên con đường tâm linh. Mức độ này là gì?

Ta có nên tự đặt câu hỏi này chăng: “Có thể nào trải nghiệm cuộc sống mà không có bất cứ phin lọc nhận thức nào chăng?” Nói cách khác, có cách nào vượt thăng tất cả các phin lọc nhận thức thay vì chỉ nới rộng chúng thôi? Như chúng ta đã thấy, cái Ta Biết được tạo ra như là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Là cánh cửa mở có nghĩa là ta không có phin lọc nhận thức; có nghĩa là ta nhìn thế giới vật chất không qua các phin lọc được cấu tạo với các năng lượng và hình tướng được của thế gian này. Thay vào đó, ta nhìn thế giới vật chất như Hiện diện TA LÀ thấy nó; ta nhìn thấy nó với một nhận thức thuần khiết.

Đây là một quan niệm mà ta tìm thấy được trong nhiều giáo lý thần bí. Thí dụ, Padma Sambhava, người sáng lập Phật Giáo Tây Tạng, gọi nó là “nhận biết thuần khiết”, hay “nhận biết trần trụi” (naked awareness). Thiền Phật giáo gọi là “tâm ban sơ” (beginner’s mind), và Giê-su nói là chúng ta phải trở thành trẻ thơ mới vào được nước Trời. Nếu ta nhìn thế gian với nhận thức thuần khiết, ta cũng nhận ra rằng tất cả mọi thứ trong cõi đời được cấu tạo bởi một dạng năng lượng thấp hơn năng lượng từ Hiện diện TA LÀ tuôn xuống. Do đó, ta cũng trực nghiệm rằng “với Thượng đế mọi chuyện đều có thể làm được”. Năng lượng chỉ đơn giản là sóng, và một sóng có độ rung thấp sẽ thay đổi khi tiếp cận với một sóng có độ rung cao hơn. Do đó, với những ai là cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh, thì thật sự là mọi chuyện đều có thể làm được.

9.5. Chất vấn phin lọc nhận thức

Bây giờ thì ta thấy là quan niệm tăng trưởng tâm linh lên một trạng thái tâm thức cao hơn quả thật là một tiến trình qua đó ta tháo gỡ các phin lọc nhận thức mà ta đã khoác lên. Khi bạn nhìn cuộc đời với phin lọc nhận thức đang quy định quan niệm bản ngã của bạn, thì bạn không thể nào chất vấn niềm tin là điều kiện vật chất có thật và khống chế bạn. Cách DUY NHẤT giúp bạn vượt thăng được các điều kiện này là bạn phải chất vấn chính cái phin lọc nhận thức đã khiến bạn tưởng chúng là thật. Nhưng bạn không thể làm được điều này nếu bạn nhìn cuộc đời từ bên trong phin lọc nhận thức. Đây là điều mà trong các chương trước chúng tôi đã gọi là bí ẩn về con người, là thế tiến thoái lưỡng nan của cuộc sống con người. Cái Ta Biết không chất vấn được nhận thức của nó khi nó tiếp tục nhìn chính nó qua phin lọc nhận thức của cái ta vật chất.

Là cánh của mở có nghĩa là bạn không có phin lọc nhận thức. Bạn nhìn thế giới vật chất như Hiện diện TA LÀ thấy nó.

Cách duy nhất giúp bạn thoát khỏi tình trạng này là qua một trải nghiệm thần bí, qua đó bạn nhận ra rằng bạn không phải là ý niệm bản ngã hiện hành của mình. Trái lại, bạn là một sinh thể từ cõi tâm linh xuống, và vì vậy bạn không thể bị ảnh hưởng vĩnh viễn bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Sinh thể này chỉ khoác lên một cái ta hạn hẹp, và nếu bạn nhìn mình qua phin lọc của cái ta đó thì bạn sẽ nghĩ mình là cái ta hạn hẹp đó. Tuy nhiên, bất kể nhận thức hiện hành của bạn ra sao, bạn vẫn là sinh thể đã từ cõi cao xuống.

Để minh họa bằng hình ảnh, bạn hãy tưởng tượng bạn được tặng một ống nhòm. Những gì bạn nhìn qua ống nhòm, bạn thấy rõ ràng hơn là với mắt trần. Nhưng giá bạn phải trả là tầm nhìn của bạn bị thu hẹp rất nhiều. Do đó, nếu bạn muốn thấy đầy đủ viễn cảnh thì bạn phải bỏ ống nhòm ra và nhìn thế giới với mắt trần. Giống vậy, bạn có thể dần dần rút cái Ta Biết ra khỏi ống nhòm của cái ta vỏ ngoài. Sau đó, bạn sẽ cần tìm hiểu làm sao cái Ta Biết đã khoác lên cái ta hiện hành của nó. Nó đã làm việc này bằng cách phóng chiếu nó vào cái ta đó, giống như một diễn viên khoác một trang phục và hóa trang để đóng một vai tuồng trên sân khấu hay phim ảnh. Cái ta hiện hành của bạn chỉ giản dị là một vai tuồng mà bạn đã chọn trong tấn tuồng cuộc đời. Nhưng nếu bạn đã chán không còn muốn thủ vai tuồng này nữa thì bạn có thể bắt đầu trút cái trang phục đó ra.

Làm sao bạn vượt thăng cái ta hiện hành của bạn? Bạn chỉ cần nhận ra rằng cái Ta Biết đã phóng chiếu nó vào cái ta đó, và như vậy nó có tiềm năng rút nó ra khỏi cái ta đó. Cách làm điều này là nhận ra rằng cái Ta Biết có tiềm năng đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết, có nghĩa là bạn KHÔNG có phin lọc nhận thức nào. Bạn chỉ giản dị quan sát các điều kiện trên cõi vật chất mà không dán nhãn hay phán xét chúng. Dán nhãn hay phán xét là sản phẩm của phin lọc nhận thức của bạn.

Một khi bạn nhận ra rằng cái ta vỏ ngoài của bạn chỉ là một phin lọc nhận thức và không có gì bạn nhìn qua nó có thực tại tối hậu, thì bạn sẽ dễ dàng ngưng không đồng hóa mình với nó nữa. Một khi bạn đã trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết thì bạn sẽ không bao giờ hoàn toàn đồng hóa mình với cái ta vỏ ngoài nữa, tuy rằng bạn sẽ cần thêm thời gian để hoàn toàn khắc phục ý niệm đồng hóa đó.

Điều cốt yếu là bạn phải nhận ra là cái Ta Biết không bị thay đổi vĩnh viễn bởi cái ta hiện hành của bạn ˗ giống như khi bạn đeo kính màu vàng thì mắt bạn không bị thay đổi. Cái Ta Biết hoàn toàn có khả năng đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết, là khi bạn không có bất cứ phin lọc nhận thức nào của thế gian này. Bạn nhìn thấy mọi việc như chúng thực sự là.

Đó là ý của Giê-su khi thày nói: “Khi con mắt của ngươi là một thì toàn thân ngươi sẽ tràn đầy ánh sáng.” Các bạn hãy suy ngẫm câu nói này. Khi cái nhìn của bạn là “một”, có nghĩa là không bị phân chia bởi bất cứ phin lọc nhận thức nào, thì bạn sẽ thấy là mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được cấu tạo bởi ánh sáng tâm linh. Làm sao điều này lại giúp bạn vượt thăng các giới hạn của bạn?

9.6. Phá tan các phin lọc nhận thức

Như đã giải thích trong các chương trước, mọi vật trong vũ trụ vật chất đều được cấu tạo bởi ánh sáng tâm linh đã khoác lên một hình tướng tạm thời. Nhưng nếu bạn nhìn thế gian qua phin lọc nhận thức của cái ta vật chất, thì bạn sẽ tưởng các hình tướng tạm thời đó là thực.

Đây là một nguyên lý quan trọng mà ta cần hiểu. Phin lọc nhận thức của ta không có quyền hạn gì trên chúng ta cả; nhưng nó có thể tước đi quyền lực của ta, vì ta không còn khung tham chiếu (frame of reference) nào ngoài phin lọc nhận thức. Vì sao người thời Trung cổ tin rằng giáo lý Công giáo không thể sai lầm và do đó tin rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ? Chính là vì họ không có khung tham chiếu mà các nhà thiên văn học đầu tiên cống hiến, khi họ nói: “Xin lỗi quý vị, các vật thể trên bầu trời không vận hành theo giáo lý của quý vị, vậy tại sao chúng tôi lại phải làm như vậy?”

Khi cái nhìn của bạn là “một”, có nghĩa là không bị phân chia bởi bất cứ phin lọc nhận thức nào, thì bạn sẽ thấy là mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều được làm bởi ánh sáng tâm linh.

Một lần nữa, chúng ta hãy nhìn vào thí dụ một mê cung được bao bọc bởi hàng rào cây cao. Đi vào mê cung giống như mang phin lọc nhận thức, vì tất cả những gì bạn thấy là những bức tường xanh và bạn không biết được mê cung như thế nào nếu nhìn từ trên cao. Bạn không thể biết vị trí của bạn ở đâu so với lối ra mê cung.

Vậy bạn phải làm gì? Bạn có thể quờ quạng bước tới với hy vọng là sẽ may mắn tìm thấy lối ra. Hoặc bạn có thể dùng khả năng của tâm trí để bước ra ngoài tình huống, quan sát bước đi của mình và tưởng tượng ra bản đồ mê cung dựa trên những gì bạn thấy quanh mình. Nhưng có cách thứ ba là bạn nhận thấy có những sợi dây thừng từ trên thả xuống, và nếu bạn leo lên một sợi dây này thì bạn sẽ thấy được mê cung từ trên cao. Leo lên sợi dây thừng tương đương với dùng khả năng bước ra ngoài phin lọc nhận thức của cái Ta Biết.

Nguyên tắc rất giản dị. Nhận thức của ta khiến ta mù lòa không thấy được thực tại; nó cho ta một cái nhìn méo mó và sai lạc về thực tại. Nhưng nếu ta cứ nhìn qua phin lọc thì không có cách chi ta nhận ra là cái nhìn của mình bị méo mó. Để tự giải thoát khỏi phin lọc, ta cần một khung tham chiếu cho ta thấy có thực tại bên ngoài phin lọc.

Nếu bạn nhìn vào lịch sử thì sẽ thấy tất cả các tôn giáo đáng lý phải cho ta một khung tham chiếu bên ngoài phin lọc nhận thức. Cả Giê-su lẫn đức Phật đã tìm cách thách đố quan niệm con người tự coi mình bất lực. Nhưng tiếc thay con người có khả năng dùng tôn giáo để xác nhận nhận thức hiện hành của mình là đúng, và đó là lý do vì sao nhiều tôn giáo đã dìm con người sâu hơn vào quan niệm mình bất lực và cần sự trợ giúp từ bên ngoài.

Nhận thức của ta khiến ta mù lòa không thấy thực tại; nó cho ta một cái nhìn méo mó về thực tại. Nhưng nếu ta cứ nhìn qua phin lọc thì không có cách chi ta nhận ra là cái nhìn của mình bị méo mó.

Trong thời Trung cổ, con người bị giam chặt trong phin lọc nhận thức do giáo hội Công giáo tạo ra. Khoa học đã là khung tham chiếu giúp con người thấy là có thực tại bên ngoài giáo điều. Và khoa học vẫn tiếp tục đảm nhận chức năng này, nhưng ngày nay khuynh hướng duy vật đã giảm thiểu sức mạnh khai phóng của nó. Đó là lý do vì sao ngày nay nhiều người đi tìm tâm linh và thần bí, là những khuynh hướng nhìn nhận uy lực nội tại của tâm con người. Uy lực này là gì?

Nếu ta lấy khái niệm cái Ta Biết, thì sức mạnh thật của nó là ý niệm con người là một sinh thể tâm linh đã phóng chiếu mình lên cái ta hiện hành. Và chính khả năng phóng chiếu mình vào cái phin lọc nhận thức hiện hành cũng có thể được dùng để rút ra khỏi cái phin lọc nhận thức đó. Chúng tôi có nói ở trên là cách duy nhất để biết xem các chân sư thăng thiên có thật hay không là qua một trải nghiệm trực tiếp, thần bí. Trải nghiệm này là sản phẩm của cái Ta Biết phóng chiếu nó ra khỏi cái phin lọc nhận thức hiện hành của bạn.

Như đã nói ở trên, các trải nghiệm thần bí đã trực tiếp chứng minh là cái Ta Biết hơn cái ta hiện hành của bạn. Các trải nghiệm này xảy ra khi cái Ta Biết ngưng không tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài và trải nghiệm một cái nhìn chợt thoáng nó thực sự là gì. Khi bạn đi theo con đường tâm linh thì bạn sẽ có thêm những trải nghiệm như vậy, và chúng sẽ càng ngày càng rõ hơn. Rốt cuộc bạn sẽ bắt đầu trải nghiệm trạng thái nhận biết thuần khiết, khi bạn không có tư tưởng hay phán xét. Bạn giản dị trải nghiệm thế gian không qua phin lọc nhận thức nào.  Và trải nghiệm này là bằng chứng tối hậu là cái gì cái Ta Biết tự phóng chiếu vào không thể nào ảnh hưởng vĩnh viễn cái Ta.

Đây là lúc bạn thực sự tin tưởng thông điệp chính của các chân sư thăng thiên: cái Ta bị rơi vào đâu thì nó cũng có khả năng thoát ra khỏi nơi đó. Và bạn không cần tìm một đấng cứu tinh từ bên ngoài làm hộ bạn công việc đó. Bạn chỉ cần đơn giản sử dụng một cách có ý thức các khả năng đã giúp bạn nhập vào ý niệm bản ngã hiện hành của bạn. Các chân sư thăng thiên không bao giờ hứa hẹn sẽ cứu rỗi chúng ta, và cũng không làm gì hộ ta. Điều các thày nhất định sẽ làm là giúp ta khám phá ra uy lực mà ta vẫn sẵn có: đó là uy lực của cái Ta. Uy lực này đương nhiên bị che khuất bởi phin lọc nhận thức cho rằng các điều kiện vật chất khống chế được chúng ta. Do đó, khi ta vượt thăng các phin lọc nhận thức này, ta sẽ là cánh cửa mở để toàn bộ uy lực của cái ta cao chảy vào.

9.7. Làm thế nào chúng ta tạo ra một cái ta hạn chế trên Trái đất này?

Như chúng ta đã biết, hành tinh trái đất hiện nay có những sự biểu hiện không phải là cao nhất. Con người cư xử bất nhân với con người thật sự là một trong những tình trạng mà tất cả chúng ta phải vật vã ở trong đó. Hậu quả là khi chúng ta đầu thai lần đầu, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi tình trạng ô uế trên hành tinh này, và đại đa số chúng ta đã tạo ra một cái ngã mới để phản ứng lại hoàn cảnh mà chúng ta đã kinh nghiệm. Lẽ dĩ nhiên cái ngã này dựa trên một nhãn quan hạn chế mà chúng ta có lúc chúng ta đầu thai. Trong nhiều trường hợp, chúng ta chỉ giản dị khoác vào mình một cái ngã đã được định nghĩa sẵn để chịu đựng được tình trạng lúc đó của trái đất.

Hãy so sánh chuyện này với chuyện xảy ra trên một sân khấu. Hãy tưởng tượng một diễn viên mới bị đẩy ra đứng trên một sân khấu trống không giữa một buổi đại hội và được nói là anh ta phải tự chọn một vai tuồng cho mình. Lẽ dĩ nhiên anh phải hoảng sợ, do đó dễ nhất cho một diễn viên mới là anh chọn một vai tuồng nhỏ và trốn đằng sau trang phục và son phấn tô điểm mặt mày. Khi diễn viên dần dà tự tin hơn, anh có thể nhận lãnh những vai tuồng phức tạp hơn. Và trong một số trường hợp, một diễn viên còn có thể có can đảm bước ra sân khấu mà không cần đóng một vai tuồng nhất định.

Khi cái Ta Biết lần đầu tiên đầu thai, bạn khoác lên một trong những vai tuồng đã được xác định sẵn trên sân khấu của trái đất. Thế nhưng hiện nay trái đất ở trong trạng thái thấp hơn nhiều so với lúc nó được sáng tạo bởi các sinh thể thăng thiên. Gần như hầu hết giáo lý của các tôn giáo hay phong trào tâm linh đều nói tới một trạng thái cao hơn trong quá khứ và con người chúng ta đã xuống thấp hơn xưa. Vì lý do đó mà hiện nay có rất nhiều vai tuồng không hiện hữu ở trong bản mẫu nguyên thủy.

Các chân sư thăng thiên dạy rằng sự “sa ngã” này xảy ra bởi vì có một số người lựa chọn tạo ra những cái ngã dựa trên ảo tưởng tách biệt. Khi làm thế thì bạn có thể hành động như một sinh thể tách biệt mà không quan tâm tới hậu quả đối với người khác, đối với toàn thể hay đối với chính mình trong dài hạn. Hiện nay, đai đa số con người trên trái đất hành động như vậy, dựa trên một cái ngã tách biệt, và đó là lý do tại sao có rất nhiều xung đột. Có hai lý do khiến con người khoác lên một cái ngã tách biệt:

  • Trong quá khứ, bạn quyết định bạn muốn thử kinh nghiệm thế giới xuyên qua một cái ngã hạn chế và muốn làm những chuyện chỉ làm được khi bạn nghĩ bạn là một sinh thể tách biệt. Và tuy rằng chuyện này hoàn toàn được luật Tự quyết cho phép làm, một khi bạn khoác vào một vai tuồng dựa trên ảo tưởng tách biệt, bạn quên mất bạn là cái Ta Biết, là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Và như vậy cái phin lọc nhận thức thấy mình tách biệt có vẻ thật hơn là nhận thức mình là một sinh thể kết nối với người khác và với mọi sự sống.
  • Cũng có thể là bạn đầu thai không phải vì bạn muốn khoác vào vai tuồng mình là một sinh thể tách biệt. Có thể là bạn chịu khoác vào một cái ngã hạn chế để chứng minh cho người khác thấy rằng chúng ta là nhiều hơn một con người phàm và chúng ta không cần phải chịu sự hạn chế của các điều kiện vật chất. Ngược lại chúng ta có thể thăng vượt bất cứ ý niệm bản ngã nào và đóng góp vào sự đồng sáng tạo một thế giới mới vượt lên trên những hạn chế hiện nay.

Bất cứ bạn có lý do gì để khoác lên một cái ngã tách biệt, giáo lý của các chân sư thăng thiên chỉ cho bạn cách vượt lên trên phin lọc nhận thức hiện tại của bạn và đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết là tiềm năng cao nhất của bạn. Lúc đó, bạn hoàn thành được lý do tại sao bạn đầu thai : là để trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của bạn.

Bây giờ thì chúng ta thấy được thách đố lớn nhất trên con đường tu tâm linh. Đó là chúng ta phải từ bỏ tất cả những định kiến, tin tưởng và phin lọc nhận thức. Biết bao nhiêu người trong chúng ta trải qua giai đoạn cảm thấy mình đã tìm ra một giáo lý tâm linh chân chính, và bây giờ thì chúng ta không cần thăng vượt một số tin tưởng bởi vì chắc chắn chúng là đúng khi chúng ta được lên thiên đàng. Nhưng bất kỳ giáo lý nào được diễn đạt bằng ngôn từ đều kém hơn là thực tại tâm linh. Cho nên, thách đố thật sự là phải buông bỏ tất cả, đặc biệt là buông bỏ những điều mà mình tin là mình không cần phải chất vấn.

Bạn sẽ không thăng thiên được đâu khi bạn nắm giữ bất cứ cái gì, hay nói theo người Phật tử, khi bạn nắm chặt ý kiến của mình. Bạn chỉ thăng thiên được khi bạn buông bỏ tất cả mọi thứ và đạt tới trạng thái nhận biết thuần khiết, trần trụi trong đó không có sự phán xét giá trị theo con người phàm, không có phê phán theo ngoại hình. Chỉ khi nào bạn không còn phê phán theo ngoại hình của thế gian nữa thì các ngoại hình hiện thời trên trái đất mới không còn quyền lực trên bạn nữa.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 8 – Cái Ta trong cõi tâm linh

Chúng ta hãy tóm tắt những gì đã nói về sự sáng tạo thế giới hình tướng. Các chân sư thăng thiên dạy rằng vũ trụ vật chất là vũ trụ cuối trong một loạt các bầu cõi được sáng tạo từ khoảng không nguyên thủy. Mỗi bầu cõi được sáng tạo lại có rung động dày đặc hơn bầu cõi được sáng tạo trước đó, có nghĩa là chúng ta đang sống trong bầu cõi dày đặc nhất từ trước tới nay. Hậu quả là khi các sinh thể tâm linh khoác vào thân xác trên trái đất này, sự nhận thức của chúng ta về thế giới bao quanh trải qua một sự thay đổi lớn lao.

Ví dụ là đại đa số chúng ta đều thấy là chúng ta sống trong một thế giới có vật chất cứng đặc. Như đã nói ở các phần trước, vật chất không cứng đặc chút nào; nó được cấu tạo bằng năng lượng đang rung động. Tuy thế, bộ máy giác quan nhận thức của chúng ta không thể nào “nhìn” thấy được các rung động này, do đó “vật chất” có vẻ như là cứng đặc và khó thay đổi.

Như đã nói ở trước, chúng ta xuống đây để nâng cao sự rung động của bầu cõi chúng ta, cho tới khi nào nó trở thành một phần của cõi tâm linh. Khi bầu cõi được nâng lên cao, sự rung động của “vật chất” sẽ bớt dày đặc, có nghĩa là vật chất sẽ bớt cứng đặc, và nhìn thấy thanh tao hơn. Ngay bây giờ hành tinh trái đất có độ rung khá thấp, nhưng một khi nó được nâng cao, ta có thể thấy, ngay cả với giác quan của thân thể, là vật chất không tự nó hiện hữu được. Nó được cấu tạo bằng năng lượng thanh tao hơn, có nghĩa là thế giới này là sự nối dài của một thế giới cao hơn và nó không phải là một đơn vị đứng độc lập một mình.

Khi ta nhập vào một thân xác, ta “quên” đi mất mình thực sự là những sinh thể tâm linh. Điều này không có gì sai trái hay xấu vì nó nằm trong dự tính. Như ta đã biết ở các đoạn trước, thế giới hình tướng được tạo ra để giúp các sinh thể là nối dài của đấng Sáng tạo phát triển khả năng tự nhận biết. Chúng ta phát triển bằng cách bắt đầu với một ý niệm hạn chế về cái Ta và dần dần phát triển nó rộng lớn hơn.

Khi ta nhập vào một thân xác, ta “quên” đi mất mình thực sự là những sinh thể tâm linh.

Thật ra, đi xuống thế giới vật chất dày đặc này là một cơ hội lớn cho sự phát triển. Kế hoạch là chúng ta xuống đây và sẽ quên mình là sinh thể tâm linh. Tuy nhiên, trong kịch bản lý tưởng, chúng ta không bao giờ quên là mình kết nối với một cái gì bên ngoài cái ta của mình. Mình không bao giờ quên được là mình là sự nối dài của cái gì lớn hơn, và mình sẽ luôn luôn khao khát được trở về với cái bản sắc rộng lớn mà mình là trước khi mình xuống đây.

Đi xuống thế gian này và khoác lên một ý niệm ta hạn chế thật sự là một cơ hội để mở rộng cái Ta lớn hơn. Khi chúng ta đi xuống, chúng ta khoác vào một ý niệm ta phù hợp với hoàn cảnh của thế giới lúc đó. Như đã đề cập ở trên, các giác quan của thân thể vật lý khiến cho vật chất có vẻ rắn đặc và khó thay đổi, và khiến chúng ta dễ lầm tin rằng chúng ta chịu sự hạn chế của hoàn cảnh trong thế giới vật chất. Chúng ta dần dần tỉnh ngộ thoát ra khỏi ý niệm ta hạn chế này và chúng ta làm chủ được cõi vật chất, nhờ vậy chúng ta phát triển khả năng tự nhận biết.

Sau này chúng tôi sẽ giải thích chi tiết hơn, sự phát triển khả năng tự nhận biết chỉ làm được nhờ có quyền tự quyết. Cái Ta đi xuống thế giới vật chất này thật sự có quyền tự quyết. Khi ta dùng quyền tự quyết này, ta dựa vào nhận thức mà mình có ở thời điểm đó. Như vậy, một khi chúng ta đã đi xuống cõi vật chất, chúng ta bắt đầu quyết định dựa trên ý niệm ta của mình và nhận thức mà mình có trong thế giới này – không giống như nhận thức rộng lớn hơn nhiều mà chúng ta có như những sinh thể tâm linh. 

Như vậy sẽ có dễ xảy ra là chúng ta lấy quyết định dựa trên nhận thức hay niềm tin là vật chất thật sự có quyền lực trên ta. Dần dà chúng ta tạo nên một ý niệm bản sắc quên đi mình nối kết với một cái gì lớn hơn. Dần dà mình quên không còn khao khát tới một cõi khác vượt lên trên cõi vật chất, thậm chí mình cũng có thể chối bỏ mình là sinh thể tâm linh, và chấp nhận một ý niệm bản sắc thiếu quyền lực, coi mình là những kẻ mang tội hay mình là những con khỉ tiến hóa. Chúng ta còn có thể bắt đầu tin rằng chúng ta không thể vượt lên trên thế giới này bằng uy lực của cái Ta, chúng ta chẳng có uy lực của cái Ta, bởi vì chúng ta là sản phẩm của thế giới vật chất và do đó chẳng có quyền lực gì trên nó cả.

8.1. Yếu tố rủi ro cố hữu

Phương trình rất giản dị: Đi xuống thể xác trên trái đất này có cái rủi của nó. Có nguy cơ là sinh thể đi xuống bị lạc lối và bị kẹt trong một ý niệm bản sắc khiến cho y không vượt qua được những hạn chế và không trở về cõi tâm linh được.

Như đã nói, mọi sự trong thế giới hình tướng được các sinh thể tâm linh trong cõi cao hơn sáng tạo ra. Sinh thể mà bạn là, sinh thể mang cá tính độc đáo khiến bạn là bạn, cũng là sự nối dài của các chân sư thăng thiên trên cõi tâm linh. Các chân sư thăng thiên đã đi qua tiến trình đi xuống bầu cõi dày đặc và sau đó vượt lên trên được mọi ý niệm bản sắc hạn chế. Như vậy chính các thầy đã trải qua và hiểu nó khó khăn như thế nào một khi mình ở bên trong cái phin lọc nhận thức của một bầu cõi chưa thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, khi một chân sư thăng thiên sáng tạo ra một sự nối dài của mình, thầy sẽ đem kinh nghiệm này vào bản mẫu của thầy.

Tất cả chúng ta đều ý thức rằng khi mình gửi các con mình đi học và gia nhập cuộc sống của người trưởng thành, các cháu sẽ phải đối diện với những rủi ro nào đó của cuộc đời. Nếu làm được, chắc chắn chúng ta sẽ tìm cách bảo vệ các con mình để không có điều gì quá xấu xảy ra cho các cháu và như vậy mình giảm thiểu được rủi ro. Khi các chân sư thăng thiên sáng tạo ra các phần nối dài của chính các thầy, các thầy lấy một phần bản thể mình ra để sáng tạo. Việc sáng tạo một sinh thể cá biệt là cả một công trình phức tạp vừa là một sự tính toán rất khoa học vừa là một tác phẩm nghệ thuật. Cho nên nếu các chân sư chỉ sáng tạo các sinh thể và gửi các sinh thể này đầu thai trong cõi vật chất, sẽ có rủi ro thật sự là các sinh thể này bị lạc lối và như vậy các chân sư mất đi một phần của chính mình.

Để giảm thiểu rủi ro, các chân sư nghĩ ra một thiết kế tài tình. Khi sáng tạo một sinh thể cá biệt, trước hết các thầy tạo ra một cái ta luôn luôn an trụ ở cõi tâm linh. Chúng ta có thể gọi nó là cái ta tâm linh, nhưng các chân sư thường gọi nó là “Hiện diện TA LÀ.” Hiện diện TA LÀ của bạn chứa trong nó bản thiết kế rất phức tạp và tỉ mỉ đem lại cho bạn cái cá thể khiến bạn khác với cá thể của bảy tỷ người khác trên trái đất. Nó còn khác luôn cả tất cả hằng ha sa số sinh thể khác ở trên nhiều tầng lớp của cõi tâm linh.

Hiện diện TA LÀ của bạn chứa trong nó bản thiết kế rất phức tạp và tỉ mỉ đem lại cho bạn cái cá thể hoàn toàn độc đáo khiến bạn khác với mọi cá thể khác.

Hiện diện TA LÀ đích thực là một sinh thể ý thức, nó cũng hút năng lượng vào nó là Ánh sáng Mẫu-Vật. Tuy nhiên, ánh sáng của Hiện diện TA LÀ có độ rung cao hơn bất cứ cái gì tìm thấy trong vũ trụ vật chất. Điều này có nghĩa là Hiện diện TA LÀ của bạn không thể nào bị ảnh hưởng bởi các năng lượng ở trên trái dất. Bất cứ chuyện gì có thể xảy ra cho bạn trên trái đất không mảy may ảnh hưởng được tới Hiện diện TA LÀ. Như vậy là các thầy đã hoàn toàn loại bỏ được rủi ro là cái phần căn nguyên của bản thể của bạn có thể bị mất đi, thay đổi hay tàn phá bởi bất cứ chuyện gì có thể xảy ra cho bạn trên trái đất.

Lẽ dĩ nhiên điều này chỉ làm được vì Hiện diện TA LÀ được cấu tạo bởi năng lượng cao, và điều đó cũng có nghĩa là Hiện diện TA LÀ không thể đi xuống một thân thể vật lý ở trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Hiện diện TA LÀ vẫn có thể phát triển khi trụ ở cõi tâm linh như nhiều Hiện diện TA LÀ đã làm. Tuy nhiên Hiện diện TA LÀ có thể đạt được sự phát triển tối đa khi tự mình lấy quyết định gửi một phần nối dài của mình xuống một bầu cõi chưa thăng. Do đó, Hiện diện TA LÀ cần tạo ra một nối dài của chính mình rồi gửi nó đi xuống. Chuyện này xảy ra như thế nào sẽ được nói tới trong chương kế tiếp. Phần còn lại trong chương này, chúng ta sẽ nói tới một số đặc tính của Hiện diện TA LÀ. Sự quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và sinh thể đi xuống được mô tả trong hình ảnh sau đây.

8.2. Hiểu cái Ta Cao của bạn

Hình 8 – Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô của bạn

Hiện diện TA LÀ là quả cầu nội tâm ở trên bạn, chung quanh nó là những vòng tròn nhiều màu biểu trưng cho căn thể của bạn (sẽ được giải thích sau). Sinh thể đi xuống là hình ở dưới, và bạn nối kết với Hiện diện TA LÀ bởi một ống ánh sáng hay sợi dây pha lê. Giữa hai thể là cái ta Ki-tô (sẽ được giải thích sau), là cái trung gian, dây nối kết giữa Hiện diện và thể thấp của bạn.

Điều quan trọng cần biết là hình này là một trong nhiều cách để minh họa Hiện diện TA LÀ của bạn và nó khá có tính chất đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên bạn có thể thấy được là nó theo cái nhìn truyền thống là cõi trời hay cõi tâm linh ở trên bạn.

Thời Trung Cổ, người Thiên Chúa giáo tin rằng nếu bạn đi lên cao khỏi trái đất, bạn sẽ đâm thủng qua một tấm màn và đi vào cõi của Chúa. Hỏa tiễn hiện đã chứng minh điều này sai, như vậy chúng ta nên có cái nhìn rộng hơn về Hiện diện. Dưới đây là một minh họa khác để tượng trưng cho quan hệ giữa bạn và Hiện diện TA LÀ, tuy nhiên nó vẫn còn là cái nhìn đường thẳng.

Hình này cho thấy Hiện diện TA LÀ và căn thể ở ngay chung quanh bạn, có nghĩa không cách chia bạn trong không gian. Hình này dựa trên sự hiểu biết của chúng ta là thế giới hình tướng có một cấu trúc tầng lớp.

Hình 9 – Là cánh cửa mở cho năng lượng từ Hiện diện TA LÀ

Như đã giải thích ở trên, đấng Sáng tạo tạo ra bầu cõi đầu tiên từ chính Bản thể của ngài, có nghĩa là Bản thể của Thượng đế có mặt trong mọi thứ. Sau khi bầu cõi đầu tiên thăng thiên, các sinh thể của bầu cõi này sáng tạo bầu cõi thứ hai từ bản thể của họ. Tiến trình này đã tiếp tục cho tới bầu cõi hiện thời, và vũ trụ vật chất là một phần của bầu cõi đó. Nói cách khác, ý niệm truyền thống về một vị Thượng đế ở trên cao tít thật sự không đúng chút nào. Có một chuỗi thứ bậc những sinh thể tâm linh bắt đầu từ đấng Sáng tạo xuống bảy tầng cấp. Mỗi tầng không tách biệt khỏi tầng ngay trên nó; thật ra nó là sự nối dài của tầng ngay trước nó. Mỗi tầng mới được làm bằng “chất” của tầng ở trước nó, và độ rung của chất này đã được hạ giảm xuống. Không có một hàng rào cản không vượt qua được, giữa hai bên chỉ là một sự khác biệt dần dần về độ rung.

Như vậy có nghĩa là thật sự không có tách biệt. Hiện diện TA LÀ của bạn là sự nối dài của một sinh thể trong cõi tâm linh, và cái Ta đi xuống của bạn cũng là sự nối dài của Hiện diện TA LÀ của bạn. Như thế, bạn không thật sự tách biệt khỏi Hiện diện của bạn. Bạn đang hiện hữu trong không gian, trong bầu không gian của Hiện diện của bạn.

Tách biệt là hậu quả của phin lọc nhận thức hiện tại của bạn. Nếu bạn tin rằng phin lọc nhận thức của bạn cho bạn thấy thực tế, thì lúc đó bạn sẽ tự nhận mình là một sinh thể tách biệt, y như bạn thấy qua phin lọc nhận thức của mình. Nhưng khi bạn vượt thăng lên trên phin lọc nhận thức này (cũng là ý niệm về ta của bạn), bạn sẽ đạt được trạng thái nhận biết thuần khiết. Lúc đó bạn sẽ trải nghiệm một sự hợp nhất thâm sâu với Hiện diện TA LÀ của bạn, cho tới khi bạn có thể nói cùng với Giê-su: “Ta và Cha ta là một.” Lúc đó, bạn cũng hoàn thành một điều khác mà Giê-su nói, “Ta là cánh cửa mở mà không ai đóng được.” Bây giờ bạn là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của bạn và nó có thể hoàn toàn tự do thể hiện chính nó trong thế giới này. Ngày nào bạn còn coi mình là cái ta vỏ ngoài của bạn, phin lọc nhận thức của bạn sẽ chặn lại (hay lọc bớt) một phần nào dòng chảy của Hiện diện của bạn.

Tách biệt là hậu quả của phin lọc nhận thức hiện tại của bạn. Nếu bạn tin rằng phin lọc nhận thức của bạn cho bạn thấy thực tế, thì lúc đó bạn sẽ tự nhận mình là một sinh thể tách biệt,

Điểm chính là bạn thật sự không tách biệt khỏi Hiện diện của bạn, do đó không cần phải vượt qua một hàng rào cản nào hết. Hiện diện của bạn ở ngay đây với bạn, và do đó bạn chỉ cần hòa điệu cái Ta của mình với mức rung động của Hiện diện của bạn.

Như vậy quan hệ của bạn với Hiện diện của bạn có nhiều giai đoạn, từ thấp lên cao:

Giai đoạn 1: Bạn không có một kết nối ý thức nào với Hiện diện của bạn. Bạn chẳng biết gì về nó, hay nó chỉ là một ý niệm lý thuyết và bạn không có một sự kết nối nội tâm hay trực giác gì với nó.

Giai đoạn 2: Bạn có được một sự kết nối nào đó với Hiện diện của bạn, tuy nhiên bạn vẫn thấy là nó bị ngăn cách với bạn bởi khoảng cách hay một rào cản. Bạn đang tu tập để củng cố sự nối kết, nhưng khi bạn nghĩ rằng bạn nối kết hai phần với nhau lẽ đương nhiên cách suy nghĩ này ngụ ý rằng hai phần này bị ngăn cách bởi không gian. Ở giai đoạn này, mình thường có trực giác, kinh nghiệm thần bí hay một cảm nhận là mình nối kết với một cái gì lớn hơn – và những điều này mở tâm mình ra với con đường tâm linh. Tuy thế, phin lọc nhận thức của mình vẫn còn hạn chế sự tiến bộ trên con đường tu của mình.

Giai đoạn 3: Bạn nhận ra nhu cầu gỡ mình ra khỏi phin lọc nhận thức của mình để đạt một trạng thái nhận biết thuần khiết. Cho nên, bạn bắt đầu chất vấn một cách hệ thống phin lọc nhận thức của bạn. Bạn cố gắng nhìn thế giới không xuyên qua bất cứ phin lọc nhận thức nào. Bạn bắt đầu nhận ra rằng không gian không thể ngăn cách bạn khỏi Hiện diện của bạn; cảm nhận tách biệt chỉ có trong tưởng tượng của bạn.

Giải đoạn 4: Bạn thể nhập làm một với Hiện diện của bạn, bạn là phần nối dài của Hiện diện. Điều này có nghĩa là bạn biết bạn không phải là thể thấp của bạn, không phải là thân xác của bạn, dù là bạn vẫn còn dùng thân xác như một phương tiện để thể hiện mình trong cõi vật chất. Bạn biết bạn không phải là cá tính vỏ ngoài, tự ngã hay cái ta tách biệt. Bạn chỉ là cánh cửa mở, là miếng kính trong suốt.

8.3. Hai khía cạnh của Hiện diện TA LÀ của bạn 

Một trong những giáo lý nền tảng của các chân sư thăng thiên là mọi vật trong thế giới hình tướng này đều là biểu hiện của đấng Sáng tạo duy nhất, không thể chia cắt. Tuy thế để sáng tạo một thế giới có những hình tướng khác biệt, đấng Sáng tao biểu hiện mình thành hai cực bổ sung nhau. Có thể gọi hai cực này là Âm và Dương, nam và nữ, lực lan ra và co lại, Alpha và Omega.

Môi hình tướng bền vững đều được tạo ra từ sự phối hợp quân bằng của hai lực này. Do đó, trong tất cả những hình tướng được sáng tạo qua cái duy nhất của hàng ngũ tâm linh đều có cả hai khía cạnh này. Như vậy có nghĩa là Hiện diện của bạn cũng có hai khía cạnh căn bản này.

“Hiện diện TA LÀ là cái tên mà Thượng đế nói cho Moses. Đại đa số Kinh Thánh dịch ra là “TA LÀ CÁI TA LÀ.” Tuy nhiên một số học giả Kinh Thánh biết rằng cách dịch đúng hơn từ Do thái Hebrew này là “TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ.” Hiện diện của bạn có cả hai khía cạnh:

  • TA LÀ CÁI TA LÀ là khía cạnh Alpha của Hiện diện của bạn. Nó là cái trung tâm bất biến, đứng yên, kết nối bạn với hàng ngũ tâm linh và cuối cùng là với cái TA LÀ CÁI TA LÀ của đấng Sáng tạo
  • TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ là khía cạnh giúp cho Hiện diện của bạn có động lực để thể hiện bản thận trong thế giới vật chất. Có nghĩa là nó đến từ khía cạnh TA SẼ LÀ mà từ đó bạn đi xuống.

Điểm quan trọng bạn cần suy ngẫm ở đây là khía cạnh TA LÀ  là trung tâm bất biến của Hiện diện của bạn, trong khi khía cạnh TA SẼ LÀ luôn luôn thay đổi hay nói đúng hơn luôn luôn vượt thăng chính nó. Hiểu như thế thì bạn biết rằng bạn có thể vượt thăng lên bất cứ sự hạn chế nào trong thế giới vật chất và vượt thăng lên bất cứ “sai lầm” nào trong quá khứ.

Cách để vượt thăng là hòa mình với dòng chảy không ngừng của khía cạnh TA SẼ LÀ. Nhờ vậy bạn không rơi vào cái bẫy gian dối của tự ngã và các thầy giả của thế gian này. Cái bẫy ấy nói rằng bạn bị các điều kiện vật chất trói buộc và bạn không bao giờ thoát khỏi những sai lầm bạn đã làm trong quá khứ. Như Giê-su đã nói đây là ý muốn của “ông Hoàng thế gian” muốn bạn là một Tánh linh bị trói buộc bởi điều kiện trong thế giới này hay bởi các sai lầm của bạn. Cái Ta xuống đây là một phần nối dài của khía cạnh TA SẼ LÀ của Hiện diện của bạn, và một khi bạn chấp nhận sự thật này, bạn có thể vượt thăng bất cứ điều kiện nào.

Tuy nhiên hoàng thân thế gian này là một sự lập trình rất mạnh mẽ và vi tế đã thấm đậm vào tâm thức tập thể trong một thời gian rất dài và tất cả chúng ta đều bị nó ảnh hưởng. Cách duy nhất để vượt lên trên là  nhận ra rằng Tánh linh không bao giờ bị trói buộc bởi bất cứ cái gì trên thế gian này và bất cứ lúc nào nó cũng có thể biểu hiện nó theo ý nó muốn.

TA LÀ CÁI TA LÀ là khía cạnh Alpha của Hiện diện TA LÀ của bạn. Nó là trung tâm bất di dịch nối kết bạn với đấng Sáng tạo.

TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ là khía cạnh cho Hiện diện của bạn động lực để biểu hiện chính nó trong thế giới vật chất.

Đây không phải là động lực ích kỷ muốn làm gì thì làm mà không chịu đối mặt hậu quả. Đây là ý muốn của Tánh linh muốn thay đổi điều kiện hạn chế của thế giới này thành tiềm năng cao nhất. Và bạn không thể nào thay đổi thế giới này nếu bạn nghĩ sự biểu hiện của bạn phải chịu sự trói buộc của điều kiện hiện hành. Do đó, chỉ khi nào cái Ta trở thành cánh cửa mở, bạn mới có thể thực sự tuôn chảy theo dòng sáng tạo vô điều kiện và do đó vô giới hạn của Hiện diện TA SẼ LÀ của bạn.

Bạn có thể nhìn nó như thế này. Khía cạnh Hiện diện TA LÀ của bạn sẽ không thay đổi, trong khi khía cạnh Ta Sẽ Là được thiết kế để tuôn chảy theo dòng sống luôn luôn thăng vượt lên trên mình. Do đó cái Ta đi xuống có quyền tự quyết nhập vào bất cứ điều kiện nào, kinh nghiệm nào hay ý niệm bản sắc nào có thể có được trên trái đất, nhưng nó không thể bị mắc kẹt trong chúng mãi mãi. Không có cái gì mà bạn không vượt thăng lên trên được, không có hoàn cảnh nào có thể làm bạn bị mắc kẹt mãi mãi được. Tuy nhiên bởi vì cái Ta có quyền tự quyết, bạn có thể tin rằng bạn đang bị mắc kẹt trong điều kiện vật chất hay trong lỗi lầm qua khứ. Và trong tâm của bạn, bạn sẽ cứ tiếp tục bị mắc kẹt như thế cho tới ngày nào bạn kết nối lại với khía cạnh Ta Sẽ Là của bạn và quyết định mình sẽ vượt thăng lên trên các giới hạn của mình

Thật ra cái Ta không bao giờ nên nghĩ hay nói “Ta là” bất cứ điều kiện nào trong thế giới vật chất. Khi nào bạn nghĩ “Ta là cái ta thấp này” thì lúc ấy bạn đã bỏ mất quyền năng thăng vượt cái ta của mình và thăng vượt những điều kiện vật chất định nghĩa cái ta đó. Thay vào đó, cái Ta nên luôn luôn nghĩ “Ta sẽ là.” Nếu bạn nghĩ “Ta là cái ta hạn chế này,” lựa chọn duy nhất để thoát khỏi cái ta đó là thay đổi nó thành cái gì khác. Nếu bạn nghĩ, “Ta sẽ là,” bạn không phải thay đổi cái ta, bạn chỉ cần nói “Ta sẽ hơn cái ta này” hoặc “bây giờ ta là cái ta mới mà ta đang hình dung thấy.” Ở chương kế đây, chúng ta sẽ xem xét rõ hơn về cái Ta đi xuống đầu thai.

HẾT CHƯƠNG

Uy lực của cái Ta – Chương 14 – Quan điểm của chân sư thăng thiên về nghiệp quả

Đại đa số tôn giáo phương Đông có dạy về ý niệm nghiệp quả, cũng hơi giống ý niệm tội lỗi trong Thiên Chúa giáo. Nhiều người tâm linh hiện đại cũng quen thuộc với ý niệm này, nhưng các chân sư đã thăng thiên nói gì về nghiệp quả? Có phải con đường tâm linh là con đường cân bằng nghiệp quả của mình không?

Chắc chắn là các chân sư nhìn nhận nghiệp quả là có thật, nhưng các thày cũng dạy rằng ta có thể hiểu về nghiệp quả ở nhiều trình độ. Đây cũng chính là một khái niệm hữu ích mà chúng ta nên hiểu. Các chân sư dạy rằng con người ở những mức tâm thức khác nhau, do đó giáo lý ở một mức độ nào đó không thể lôi cuốn được tất cả mọi người. Vì vậy các chân sư đã tiết lộ những giáo lý khác nhau thích hợp với từng trình độ tâm thức. Chúng ta hãy cùng nhau xem chuyện này áp dụng ra sao với chủ đề nghiệp quả.

Một số tôn giáo phương Đông trình bày rằng nghiệp quả liên quan tới hành động của bạn. Nếu bạn có hành động chẳng hạn như giết người thì bạn tạo nghiệp xấu. Và nếu bạn có những hành động khác, bạn tạo nghiệp tốt. Để nhập Niết Bàn, được cứu rỗi hay được thăng thiên, bạn phải cân bằng hết tất cả nghiệp bạn đã tạo ra trong kiếp này và các kiếp trước. Một cách để cân bằng nghiệp xấu, là bạn gặp chuyện xấu xảy ra cho bạn, ví dụ như bạn bị tai nạn, bị bệnh hay bị giết chết. Một cách khác để bù đắp là bạn tạo nghiệp tốt, ví dụ như bạn phụng sự hay làm việc từ thiện. Đại đa số tôn giáo phương Đông cũng nói rằng có những cách khác để cân bằng nghiệp quả. Bạn có thể dùng những bài tập tâm linh khác nhau để hóa giải nghiệp xấu và như vậy bạn sẽ mau chóng hội đủ điều kiện để nhập vào cõi cao hơn.

Các chân sư không chối bỏ những lời dạy này về nghiệp quả và hành động. Vào thập niên 1930, một vị chân sư là Saint Germain giới thiệu ngọn lửa tím. Đây là một năng lượng tâm linh rất thích hợp để hóa giải nghiệp. Như đã nói ở trên, thày Saint Germain cũng ban xuống một số bài cầu chú để thỉnh cầu năng lượng của ngọn lửa tím.

Tuy nhiên, bạn nên chú ý là giáo lý dạy nghiệp quả liên quan tới hành động chưa đưa ra một định nghĩa thật chính xác về nghiệp quả. Cũng giống như chữ “linh hồn”, nhiều giáo lý tâm linh dùng nó mà không định nghĩa rõ ràng. Giống như với ý niệm linh hồn, các chân sư thăng thiên cho chúng ta sự hiểu biết tinh vi hơn và nhiều lớp hơn về nghiệp quả.

Thật ra các thày nói rằng nhân loại tiến hóa và trải qua những giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn của Cựu Ước kinh, chúng ta phải học bài học về cải tạo hành động bên ngoài của mình. Do đó, mới có giáo lý dạy rằng nghiệp quả là hành động. Theo giáo lý này, bạn sẽ được cứu rỗi nếu bạn né tránh hành động tạo nghiệp xấu và cùng lúc bạn phải có hành động tốt tạo nghiệp tốt. Điều này được thể hiện trong Mười Điều Răn của Cựu Ước kinh như, “Con không được làm điều này, điều kia và con không được tạo nghiệp xấu.” Cũng có ý niệm “con mắt trả cho con mắt, cái răng trả cho cái răng,” câu này dựa trên ý cho rằng nếu mình giết một người, thì mình đáng bị giết trở lại để hóa giải cái nghiệp mà chính mình đã tạo ra.

Các chân sư dạy rằng giáo lý này có giá trị đối với một tầng mức tâm thức nào đó, vì ở mức tâm thức này, những người này chỉ có thể hiểu tới đó mà thôi. Những người này cần thay đổi hành động bên ngoài của họ để bớt tạo nghiệp xấu, và cách duy nhất để động viên họ là làm cho họ sợ những điều xấu sẽ xảy ra cho họ nếu họ không thay đổi hành động. Như vậy giáo lý dạy nghiệp quả là hành động có giá trị nhưng nó không đầy đủ.

Nhân loại cần được hiểu biết cao hơn về nghiệp quả vào thời đại do Giê-su khai mạc. Bạn để ý rằng Giê-su đi xa hơn nguyên lý “con mắt trả cho con mắt” trong Cựu Ước kinh khi Giê-su dạy “hãy chìa má bên kia ra” và tha thứ “bảy mươi bảy lần.” Giê-su cũng nói với chúng ta là “cõi Trời ở trong con”. Câu này có ý nghĩa rất sâu sắc. Như đã nói trước đây, ẩn ý là “cõi Trời” là một ẩn dụ chỉ tới một trạng thái tâm thức. Điều này có nghĩa rằng mình đi vào cõi Trời không phải bằng cách làm một số hành động bên ngoài mà hơn thế nữa mình cần phải chuyển đổi tâm thức. Nói cách khác, Giê-su xuống cõi trần để dạy chúng ta là muốn cân bằng nghiệp quả không phải là chuyện giản dị cải tạo hành động bên ngoài, mà chúng ta cũng còn phải cải tạo trạng thái tâm của mình.

Với hiểu biết chúng ta có hiện nay, chúng ta có thể bước xa hơn nữa. Dựa trên những gì chúng ta đã thảo luận trước đây, chúng ta có thể thấy rằng hành động của chúng ta đến từ điều kiện trong tâm ý thức và tiềm thức của chúng ta. Nói cách khác, ta có thể có một hành động dựa trên một quyết định từ tâm ý thức. Nhưng quyết định không phải là một quyết định tự do vì nó dựa trên cái nhìn của ta. Mà ta lại không nhìn thấy như thật, cái mà ta nhìn thấy là một hình tư tưởng mà tâm ta đã tạo ra. Nó là sản phẩm của những năng lượng và tin tưởng nằm ở trong cái kính vạn hoa của tâm ta. Dựa trên điều này ta có thể nói là có ba loại nghiệp quả.

14.1 Nghiệp quả vật lý

Bây giờ chúng ta đã biết là mọi sự đều là năng lượng cho nên chúng ta phải tiến lên một bước và vượt lên trên cái nhìn cho rằng chỉ có hành động tạo ra nghiệp quả. Nếu mọi sự đều là năng lượng, điều đó có nghĩa là tất cả mọi việc chúng ta làm cũng được làm bằng năng lượng. Nói cách khác, khi chúng ta có một hành động, điều mà chúng ta làm thật sự là tạo ra một xung lực năng lượng và phóng nó ra ngoài từ bên trong của chúng ta. Chúng ta gửi xung lực đó ra vũ trụ.

Albert Einstein nói rằng vũ trụ này được tạo ra từ cái “không gian-thời gian liên tục”. Ông cũng nói rằng cái trường liên tục này có thể tạo ra một vòng đóng lại. Einstein suy luận rằng nếu bạn du hành xa ra khỏi trái đất trên một phi thuyền không gian và bạn cứ tiếp tục đi theo một hướng, rốt cuộc bạn sẽ quay trở về điểm khởi hành từ hướng đối diện. Đó là bởi vì bạn nằm trong một cái vòng của không gian-thời gian, và bạn không thoát ra khỏi nó được.

Hình ảnh này có thể giúp chúng ta hiểu được nghiệp quả vận hành như thế nào. Hành tinh trái đất chỉ là phần thấy được của một trường năng lượng rộng lớn, hay trường năng lượng liên tục. Như đã giải thích, trường liên tục này có bốn tầng, tầng ether, lý trí, cảm xúc và vật lý. Bây giờ hãy giả dụ là bạn có một hành động giết người. Hành động này tạo ra một xung lực năng lượng được gửi vào vòng năng lượng mà bạn sống trong đó. Nó sẽ đi qua cả bốn tầng, và tới một lúc nào đó, từ hướng đối diện, nó sẽ trở về điểm khởi đầu là thế giới vật chất.

Khi năng lượng nghiệp quả trở lại, nó có thể tạo ra một số sự việc trong đời sống bạn, như tai nạn, bệnh tật hay bị giết. Nếu bạn không tin vào nghiệp quả thì khó mà giải thích tại sao các sự việc này xảy ra. Nếu bạn theo đạo Ki-tô, bạn có thể nói là Thượng đế trừng phạt bạn vì tội tổ tông, nhưng đại đa số người tâm linh thì không toại nguyện với lời giải thích như vậy. Nếu bạn là người theo chủ nghĩa duy vật, bạn chỉ có thể nói rằng đây là chuyện ngẫu nhiên. Trong cả hai trường hợp, bạn yên tâm vì bạn làm được gì đây để né tránh các sự việc này? Nhưng khi bạn chấp nhận là có nghiệp quả, bạn có thêm sức mạnh, vì bây giờ thì bạn có thể làm được một số điều để né tránh những sự việc này.

Một khi bạn hiểu rằng nghệp quả là một xung lực năng lượng mà trong một kiếp trước bạn đã phóng ra vòng vũ trụ, bạn thấy được rằng bạn có thể làm một cái gì đó để hóa giải nó trước khi nó đi một vòng và quay trở về với bạn và tạo ra sự việc khó chịu trong cuộc đời bạn. Bạn làm được gì đây? Bạn có thể dùng khả năng đồng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho bạn để hóa giải năng lượng có tần số thấp.

Khoa học dạy rằng năng lượng là một dạng rung động di chuyển như một làn sóng. Lấy ví dụ một làn sóng thần. Nó là một làn sóng di động trên đại dương. Nếu bạn tạo ra được một làn sóng khác đi ngược lại, hai làn sóng sẽ gặp nhau và hóa giải lẫn nhau. Khi hai làn sóng gặp nhau chúng tạo ra một hiện tượng mà các nhà khoa học gọi là một dạng giao thoa. Và nếu bạn chọn một làn sóng tương ưng ngược lại với rung động của làn sóng kia, kết quả giao thoa có thể là sự yên bình hoàn toàn, có nghĩa là một làn sóng đã hóa giải được làn sóng kia.

Đây là căn bản cho ý niệm dùng các bài tập tâm linh để cân bằng nghiệp quả. Các bài tập này tạo ra được một dòng sóng năng lượng có tần số cao mà bạn gửi vào bốn tầng của vũ trụ. Khi nó đi ra ngoài, nó gặp dòng sóng đang đi ngược trở về của nghiệp quả từ một kiếp trước. Nếu bạn đã gởi ra đủ năng lượng có tần số cao, dòng sóng năng lượng nghiệp quả đang quay ngược trở về bạn có thể bị hóa giải trước khi nó có thể tạo ra một sự việc trên cõi vật lý. Bạn có thể hóa giải dòng nhiệp quả đang quay về ở các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc trước khi nó xuống tới cõi vật lý.

Nghiệp quả là một xung lực năng lượng, mà bạn có thể hóa giải được trước khi nó đi vòng và trở về với bạn, trước khi nó tạo ra những sự việc khó chịu trong cuộc đời bạn.

Lẽ dĩ nhiên, chúng ta thấy giáo lý này tuyệt vời quá. Bây giờ chúng ta chỉ cần làm mấy bài thực tập tâm linh – ví dụ như kêu gọi ngọn lửa tím – vậy là chúng ta thoát ra khỏi các nghiệp xấu từ quá khứ. Rồi sau đó, chúng ta sẽ được sống vui vẻ thoải mái, phải thế không ạ? Thưa các bạn đừng vội phóng nhanh như thế.

14.2 Tâm nghiệp

Các chân sư dạy rằng tuy nghiệp quả có một phần vật lý, có nghĩa nó là một xung lực năng lượng được gởi ra ngoài vũ trụ, ý nghĩa của nghiệp quả nhiều hơn là vậy. Nghiệp cũng có phần tâm và chúng ta không thể nào giải thoát khỏi nghiệp nếu không giải quyết phần tâm. Lý do là mình không thoát được tác động nếu mình không thay đổi nguyên nhân. Vậy thì cái gì sanh ra cái xung lực nghiệp quả được gửi ra trong một kiếp trước? Đó chính là trạng thái tâm thức của mình trong kiếp đó. Như vậy câu hỏi thật sự về nghiệp quả là: “Tôi đã vượt được lên trên cái trạng thái tâm thức đã khiến tôi gửi ra xung lực nghiệp chưa?”

Như vậy nghiệp là gì? Bên phương Tây nhiều người tâm linh chấp nhận có nghiệp quả, nhưng vì đạo Ki-tô nói về tội lỗi, chúng ta có khuynh hướng xem nghiệp quả xấu là một hình thức bị trừng phạt. Các chân sư có cái nhìn rất khác về nghiệp quả, vì các thày biết rằng chẳng có ai trên cõi tâm linh có ý muốn trừng phạt con người. Các chân sư biết rằng Thượng đế không có nhu cầu trừng phạt loài người vì Thượng đế đã ban cho con người quyền tự quyết.

Thượng đế không có ý kiến gì về cách bạn hành xử quyền tự quyết của bạn, vì giản dị là Thượng đế chỉ muốn bạn học hỏi, và Thượng đế cũng biết rằng vũ trụ này được thiết kế để thế nào bạn cũng học được từ cách bạn dùng quyền tự quyết của mình. Chuyện này xảy ra như thế nào? Nó xảy ra qua việc Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ mang vào hình tướng tương ưng với hình tư tưởng được phóng chiếu lên nó. Như vậy, bạn sẽ kinh nghiệm kết quả của những chọn lựa của mình.

Thế giới này được thành lập để cho chúng ta một môi trường giúp chúng ta mở rộng khả năng tự nhận biết. Chúng ta tiến bộ khi chúng ta dùng khả năng đồng sáng tạo của mình.Chúng ta dùng khả năng này bằng cách tạo ra một hình tư tưởng, rồi cho nó sức mạnh của cảm xúc và gửi nó ra ngoài vũ trụ hay là phóng chiếu nó lên trên ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu chúng ta làm vậy mà kết quả chẳng có gì khác biệt thì làm sao chúng ta học hỏi được? Chúng ta học được vì ánh sáng Mẫu-Vật sẽ biểu hiện những hình tư tưởng của chúng ta thành những sự việc trong đời sống chúng ta hay những thể dạng vật lý. Nói cách khác, nghiệp quả không phải là hình phạt. Nghiệp quả là một cơ hội học hỏi.

Bạn tạo nên một hình tư tưởng dựa trên nội dung trong tâm bản sắc và lý trí của mình. Bạn tẩm ướp nó với năng lượng từ tâm cảm xúc của mình, rồi bạn phóng nó ra ngoài, như là một hành động hay một dạng xung lực tâm thuần túy. Khi ánh sáng Mẫu-Vật gửi ngược trở lại cho bạn những hoàn cảnh sống phản ánh lại cái gì bạn đã gửi ra ngoài, bạn có cơ hội để nghiền ngẫm và lượng định. Nếu cái quay trở về không dễ chịu thì giản dị lắm, bạn chỉ việc thay đổi cái bạn gửi ra ngoài. Và lúc đó, tấm gương vũ trụ sẽ đương nhiên phản ánh lại cho bạn những hoàn cảnh sống biểu hiện cái hình tư tưởng mới mà bạn gửi cho tấm gương.

Bây giờ thì bạn đã hiểu tại sao Thượng đế hay các chân sư thăng hoa không cần phải phán xét hay trừng phạt bạn? Tự bạn phạt mình bằng cách cứ tiếp tục gửi ra ngoài những hình tư tưởng đem lại hoàn cảnh sống khó chịu. Tuy vậy các chân sư không lên án bạn về chuyện này. Các thày sẽ mãi mãi sẵn sàng đợi để giúp bạn tạo ra hoàn cảnh sống tốt đẹp hơn. Điểm gút mắc ở đây là các thày không giúp được bạn cho tới khi nào bạn bước qua một lằn ranh tâm thức, khi tâm bạn cởi mở đủ để ít nhất chấp nhận là bạn phải thay đổi cái gì bạn phóng từ tâm mình ra ngoài thì mới thay đổi được cái gì quay trở về với bạn. Các thày không bảo vệ bạn tránh hậu quả của hành động của bạn; các thày sẽ giúp bạn thay đổi hành động mình và lẽ dĩ nhiên hậu quả sẽ thay đổi theo.

14.3 Leo ra khỏi hố nghiệp quả

Lẽ dĩ nhiên vấn đề là bạn đã tạo nghiệp xấu trong nhiều kiếp và bạn không thể nào chờ đợi là bạn sẽ có thể giải nghiệp trong năm phút. Hơn nữa, làm sao bạn có sức thay đổi tâm của bạn trong khi bạn bị đè bẹp bới những hoàn cảnh sống đang dồn dập đổ lên bạn từ những nhân mà bạn đã gây ra trong quá khứ? Làm sao bạn có tâm trí để nghĩ tới chuyện tiến bộ tâm linh khi bạn đang rơi xuống cái hố nghiệp và đang vật lộn với những hoàn cảnh sống đầy hỗn loạn?

Các thày thấu hiểu điều này. Đó là lý do tại sao thày Saint Germain đã xin được đặc miễn để truyền xuống hiểu biết về ngọn lửa tím. Thày suy luận rằng nếu con người đang phải oằn lưng ra gánh nghiệp của mình thì còn đâu tâm trí để chú ý đến việc chuyển hóa tâm thức mình, cái tâm thức đã khiến họ cứ tiếp tục tạo thêm nghiệp mới hoài hoài.

Saint Germain thấy có nhiều người bị rơi vào vòng xoáy nghiệp và kẹt trong đó không nó lối ra. Trong các kiếp trước, họ đã phóng ra ngoài xung lực nghiệp và kiếp này chúng trở ngược về với họ. Nghiệp quả trở về này tạo ra những sự việc trong cuộc sống họ, nhưng buồn thay họ lại phản ứng lại với chính cái tâm thức cũ mà đã gây ra nghiệp quả đó. Giả dụ người kia đã giết người trong một kiếp trước. Trong kiếp này, nghiệp quả quay trở về qua sự việc họ bị đe dọa sẽ bị giết. Người này phản ứng lại bằng cách chống chọi lại những người đe dọa giết mình. Và như thế, cái vòng xoáy nghiệp quả lại tiếp tục vận hành.

Saint Germain suy luận rằng nếu con người được vơi bớt vòng nghiệp quả quay trở về này, họ sẽ có được đủ tâm trí để chú ý tới việc quán sát và thay đổi tâm thức của mình. Lẽ dĩ nhiên, đâu có gì bảo đảm là họ sẽ dùng cơ hội vơi bớt nghiệp này để quán tâm, vì họ cũng có thể quyết định vui hưởng thời gian tự do mới tìm lại được này. Đây là lý do tại sao Saint Germain đã xin hội đồng vũ trụ đặc miễn cho phép thày truyền xuống hiểu biết về ngọn lửa tím. Nghiệp quả cũng có khía cạnh nội tại vì mình có thể tạo ra nghiệp quả đối với chính mình.

14.4 Nguyên nhân gây nghiệp

Chỉ có một cách duy nhất có thể làm cho bạn giết người là bạn bị ảo tưởng tách biệt làm bạn mù quáng, khiến cho bạn tin rằng bạn tách biệt với người kia và người kia tách biệt khỏi bạn. Và như vậy bạn thấy rằng bạn có thể giết người đó mà chính bạn thì không bị ảnh hưởng gì.

Nhưng trước khi bạn có thể tin điều này, bạn phải chấp nhận một hình ảnh nào đó về mình. Một khi bạn đã nhìn qua tấm phin lọc nhận thức của cái ngã tách biệt, bạn sẽ dùng nó để luôn luôn phóng chiếu lên bản thân hình ảnh tương ứng. Như thế bạn phóng chiếu không ngừng bạn là một người tách biệt và như vậy cũng đồng nghĩa là bạn đơn độc, đã bị Thượng đế bỏ rơi, có quyền năng hạn chế và bạn cũng là nạn nhân của hoàn cảnh bên ngoài. Bạn cảm thấy rằng lúc nào cũng có cái gì ở “ngoài kia” đang kiểm soát đời bạn.

 Bây giờ thì chúng ta hiểu ra rằng nghiệp quả được gây ra bởi những người nhìn cuộc đời qua phin lọc nhận thức cho rằng mình là một người tách biệt. Qua cái ngã tách biệt này, bạn tạo ra một số hình tư tưởng, và bạn chuyển chúng thành những xung lực năng lượng qua sức mạnh tâm của bạn. Một số xung lực này được gửi ra ngoài đến người hay đến thế giới. Một số lại được gửi về bên trong và phóng chiếu lên chính bạn. Nó trở thành nghiệp quả nội tại, nghiệp quả ở lại trong tâm bạn.

Một khi bạn hiểu được điều này, việc dùng một kỹ thuật tâm linh để hóa giải nghiệp đang quay trở về chỉ là một giai đoạn trên con đường tu hướng đến tự do tâm linh. Muốn thực sự tự do, giải thoát khỏi nghiệp quả đang quay trở về vẫn không đủ. Bạn cần phải giải thoát bạn khỏi chính cái phin lọc nhận thức đã tạo ra xung lực nghiệp từ lúc đầu. Nếu bạn không vượt thăng lên trên cái ngã tách biệt, bạn sẽ cứ tiếp tục tạo ra nghiệp mới và không cách chi bạn có thể vượt thoát vòng sinh tử.

Nó giống như người đang trả nợ mà cứ tiêu sài tiền nhiều hơn số tiền mình kiếm được. Nếu tiền ra nhiều hơn tiền vô thì bao giờ bạn mới trả xong nợ? Bạn chỉ thật sự cân bằng được nghiệp quả khi bạn ngừng tạo nghiệp. Bạn chỉ đạt được điều này khi bạn giải thoát mình khỏi ảo tưởng mình là người tách biệt, tách ra khỏi nguồn gốc của mình.

14.5 Không  thể cân bằng nghiệp quả một cách máy móc tự động

Bạn hãy nhớ chân lý vi tế này mà ít người hiểu được. Con đường thật sự dẫn tới tự do tâm linh là phải vượt thăng lên trên ảo tưởng tách biệt. Chấp nhận giáo lý tâm linh và thực tập một kỹ thuật tâm linh không giúp bạn đạt được điều này một cách tự động đâu. Đây là một tiến trình mà bạn phải đi qua bằng cách mở rộng sự nhận biết của bạn và lấy những quyết định ý thức. Đến đây thì chúng ta có thể phác họa ra ba giai đoạn trên con đường tâm linh:

  • Mức thấp nhất là mình cải tạo hành động vì mình sợ những nghiệp quả xảy ra cho mình nếu mình có hành động nào đó. Đây là trình độ của Cựu Ước kinh: “Con không được làm điều này” và “con mắt trả cho con mắt”.
  • Mức kế tiếp là lúc bạn nhận ra rằng không những bạn phải kềm mình không được hành động tiêu cực mà bạn phải trở nên một người tốt hơn. Đây là trình độ của Tân Ước kinh, thường được gọi là Thời đại Song ngư. Vấn đề là nó có thể dẫn tới ngõ cụt khi bạn cho rằng tất cả những gì bạn cần làm là trở nên một người tốt dựa theo tiêu chuẩn do một tôn giáo hay pháp tâm linh vỏ ngoài ấn định. Ví dụ như bạn cho rằng chỉ cần làm việc tốt, việc thiện là hóa giải được nghiệp quả xấu.
  • Mức kế tiếp là mức của thời đại Bảo bình sắp tới. Bạn nhận ra là bạn cần thay đổi tâm thức bạn một cách cơ bản và vứt bỏ ảo tưởng tách biệt. Bạn bắt đầu nhận biết là vấn đề thật sự chính là cái ngã tách biệt. Ảo tưởng mình là cái ngã tách biệt là nguyên nhân khiến bạn tạo ra nghiệp xấu, như khi bạn giết người. Nhiều người tâm linh đã tìm cách bù đắp bằng cách biến cái ngã tách biệt thành một nhân vật tâm linh không bao giờ có hành động xấu. Nhưng thực chất là bạn đang dùng cái ngã tách biệt để bù đắp cho những hành động xấu mà cái ngã tách biệt đã làm trong quá khứ. Và điều này sẽ không thành công được. Cái ngã tách biệt không thể nào thăng thiên được.

Muốn thực sự tự do, chuyện giải thoát bạn khỏi nghiệp quả đang quay trở về vẫn không đủ. Bạn cần phải giải thoát bạn khỏi chính cái phin lọc nhận thức đã tạo ra xung lực nghiệp quả từ lúc đầu.

Như vậy việc cần làm ở đây không phải là làm cho cái ngã tách biệt có dáng vẻ tốt đúng theo tiêu chuẩn của một giáo lý vỏ ngoài. Việc cần làm là vượt thăng lên khỏi cái ngã tách biệt, cho nó chết đi, để cho cái Ta thật trở về với cái biết thuần tịnh mà nó là khi nó xuống cõi trần. Chỉ khi sống với cái biết thuần tịnh này bạn mới không tạo ra nghiệp quả – tốt hay xấu.

Khi bạn bắt đầu hiểu những ý này, bạn có thể hiểu cao hơn về nghiệp quả. Nghiệp quả là bất cứ xung lực nào mà bạn phóng chiếu ra từ cái ngã tách biệt. Không cần biết là xung lực đó tốt hay xấu dựa theo một tiêu chuẩn ngoài đời. Thực ra, ngay cả ý niệm tốt và xấu là sản phẩm của cái ngã tách biệt và cách suy nghĩ nhị nguyên của nó. Có một mức trên con đường tu tâm linh mà bạn cần tin rằng bạn phải tránh nghiệp xấu và tạo nghiệp tốt để được cứu rỗi. Nhưng mức kế tiếp thì bạn nhận ra rằng ngay cả nghiệp tốt cũng cản không cho bạn thăng thiên, đặc biệt là khi bạn cảm thấy mình tốt hơn người khác vì bạn tạo nghiệp tốt.

Tất cả mọi thứ đến từ cái ngã tách biệt đều tạo ra nghiệp. Tuy thế, khi bạn vượt thăng lên trên cái ngã tách biệt, hành động của bạn không tạo ra nghiệp – tốt hay xấu. Và đây là tự do tâm linh. Bây giờ thì bạn đã thấy cái nhìn cao về nghiệp quả. Trong các kiếp trước bạn đã tạo những xung lực nghiệp, và rốt cuộc thì chúng cũng sẽ quay ngược trở về bạn. Bạn có thể dùng các kỹ thuật tâm linh để tiêu trừ các xung lực nghiệp quả này trước khi nó thể hiện thành những sự việc vật lý.

Nhưng bạn cũng cần giải thoát tâm bạn khỏi những ảo tưởng sinh ra từ tâm thức tách biệt. Các ảo tưởng này là những mảnh kính màu trong ống kính vạn hoa của tâm bạn. Nếu chúng vẫn còn nằm trong đó, ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ sẽ bị pha màu. Như vậy có nghĩa là bạn cứ tiếp tục phóng ra ngoài xung lực năng lượng đã bị pha màu bởi nội dung của bốn tầng tâm của bạn.

Nói cách khác, bạn sẽ tiếp tục tạo nghiệp cho tới ngày nào bốn tầng tâm của bạn sạch trong không có ảo tưởng nữa. Con đường tu của các chân sư giúp cho bạn vượt lên trên mọi nghiệp quá khứ và hiện tại. Con đường này giải thoát bạn khỏi các vòng xoáy nghiệp quả của chính bạn, và như thế chúng không tiếp tục tự duy trì nữa.

14.6 Nghiệp quả và bảy tia ánh sáng

Như đã thấy ở trên, ta tạo nghiệp khi ta phóng ra một xung lực năng lượng, nhưng ta không tạo ra xung lực này. Ta không có khả năng tạo năng lượng, nhưng điều ta làm được là biến chế năng lượng mà ta nhận được từ Hiện diện TA LÀ của ta, là năng lượng đến từ các chân sư đã thăng thiên ở cõi cao. Năng lượng này tới ta dưới dạng bảy tia sáng tâm linh.

Mỗi tia sáng có một dạng năng lượng hay rung động riêng. Nhưng nó cũng có đặc tính khác, tỷ dụ như uy lực, minh triết, hay tình thương. Tạo nghiệp có hai khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là ta lấy năng lượng của một trong bảy tia sáng và hạ độ rung của nó xuống dưới một mức đáng kể. Nhưng ta làm sao hạ độ rung của năng lượng? Ta làm điều này bằng cách tạo một hình tư tưởng, giống như là một khúc phim trong tâm mình. Khi năng lượng thuần khiết chiếu xuyên qua khúc phim đó thì nó bị nhuộm màu và do đó độ rung bị giảm đi.

Bạn làm cách nào để tạo ra khúc phim? Bạn làm việc này khi chấp nhận một số ảo tưởng, và những niềm tin này là sự tha hóa của đặc tính thuần khiết của một một trong bảy tia sáng. Tỷ dụ, một đặc tính của tia sáng thứ nhất là uy lực. Đây là uy lực sáng tạo thuần khiết nhằm nâng mọi sự sống lên. Nhưng khi ta quan sát đời sống trên trái đất thì ta thấy là nhiều người đã tha hóa uy lực thuần khiết này. Có người dùng quyền lực để tiêu diệt hoặc điều khiển sự sống khác. Hoặc họ dùng quyền lực để nâng họ lên và dìm người khác xuống.

Như vậy, ta tạo nghiệp khi chấp nhận một số ảo tưởng, được tạo ra khi ta tha hóa đặc tính của bảy tia sáng. Như thế có nghĩa là nếu muốn cân bằng nghiệp được tạo trong quá khứ, và ngừng tạo thêm nghiệp mới, ta cần vượt qua các ảo tưởng này, để nhận ra và ứng dụng những đặc tính thuần khiết của bảy tia sáng.

14.7 Sứ vụ Thiêng liêng của bạn

Mục tiêu tối hậu của con đường tâm linh mà các chân sư thăng thiên cống hiến là giúp ta hội đủ điều kiện để thăng thiên, có nghĩa là ta không còn đầu thai trở lại trên địa cầu. Một trong những yêu cầu của sự thăng thiên là ta cân bằng nghiệp. Tuy nhiên, bạn cần nhận ra rằng khi Hiện diện TA LÀ của bạn quyết định gửi cái Ta-Ý-Thức đầu thai vào cõi vật chất này, thì nó có một mục đích tích cực. Bạn không chỉ tới đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp rồi bỏ đi. Bạn tới đây để đem lại ánh sáng tâm linh của mình như một món quà tặng, việc này sẽ giúp nâng trái đất và cả vũ trụ vật chất lên. Do đó, bạn thực sự chỉ muốn thăng thiên khi mục đích này được thành tựu.

Các chân sư dạy rằng mỗi chúng ta có nhiều chân sư thăng thiên làm phận sự tư vấn riêng cho mình. Trước khi chúng ta đầu thai, chúng ta gặp các vị tư vấn này để hoạch định một kế hoạch rõ ràng cho kiếp đầu thai sắp tới. Kế hoạch này được gọi là Sứ Vụ Thiêng Liêng của bạn. Kế hoạch này rất rõ ràng, nó phác họa nơi bạn sinh ra, ai là cha mẹ bạn, ai là con của bạn, bạn sẽ cưới ai và cộng sự với ai, bạn sẽ theo học môn gì và theo đuổi sinh hoạt tâm linh nào.

Sứ vụ Thiêng liêng dĩ nhiên chỉ là một phác thảo, và nó rất tùy thuộc quyền tự quyết của ta. Nó cũng dựa trên thực tế là ta sẽ quên nó và do đó sẽ cần khám phá nó trở lại. Tuy nhiên, nhiều người tâm linh có trực giác mục đích cuộc sống này của mình là gì, có một số chuyện mình cần làm, có một số người mình cần gặp, và một số bài học mình cần học. Chúng ta càng gia tăng khả năng trực giác (bằng cách thông sạch bốn từng của tâm mình) thì chúng ta càng nhận rõ hơn Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Điều quan trọng mà ta cần biết là mỗi người có một Sứ vụ Thiêng liêng riêng. Do đó, một người tâm linh không nên khuyên người khác phải sống cuộc đời của họ ra sao, vì như vậy không hữu dụng. Bạn thực sự không thể dùng trí vỏ ngoài để biết được Sứ vụ Thiêng liêng của người khác. Lý do là không ai có thể cho ta biết Sư vụ Thiêng liêng của ta – bạn thực sự phải khám phá ra từ bên trong. Đó cũng là một lý do tại sao Giê-su dạy ta đừng nên phán xét qua bề ngoài. Đôi lúc ta có cảm tưởng là người khác đang làm một số việc không phải, nhưng nhiều khi đó là vì họ có trực giác việc này thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của họ, và do đó người ngoài nhìn các việc này ra sao không quan trọng. Chúng ta hãy xem xét một vài thí dụ.

Sứ vụ Thiêng liêng vạch ra chủ điểm của toàn kiếp sống này, và nó tùy thuộc vị trí của riêng bạn trên con đường dẫn tới thăng thiên. Đây là một vài trường hợp tiêu biểu:

  • Có người còn quá nhiều nghiệp quả nên thực tế là họ không hội đủ điều kiện để thăng thiên trong kiếp này. Do đó chủ điểm của họ có thể là cân bằng nghiệp, có nghĩa là họ không cần tham dự vào sinh hoạt và  giáo lý tâm linh. Điều quan trọng hơn với họ có thể là gặp những người mà họ có duyên nghiệp. Thoạt trông, những người này có thể không giống người tâm linh, cũng có thể họ hay xung đột với người khác, nhưng họ đang làm thật đúng những gì họ cần làm theo Sứ vụ Thiêng liêng của họ.
  • Có người có thể gần đủ điều kiện để thăng thiên, tuy nhiên họ cần cân bằng rất nhiều nghiệp. Do đó, chủ điểm của họ là cân băng nghiệp càng nhanh càng tốt. Họ có khuynh hướng thích học giáo lý và kỹ thuật tâm linh, và họ hay cảm thấy có gì thúc đẩy họ thực hành kỹ thuật tâm linh một cách rất miên mật. Điều tốt nhất cho những người này có thể là rút lui khỏi xã hội và sống ẩn tu, ít ra là trong một thời gian. Nhưng cũng có khi những người cần cân bằng nghiệp sống cuộc đời thoạt trông rất hỗn loạn. Họ có thể có nhiều phối ngẫu, hay thay đổi việc hay ngành làm việc, hay thay đổi nơi sống, có khi sống ở nhiều nước. Điều họ đang làm là gặp tối đa các liên hệ nghiệp quả của họ.
  • Có người có thể gần đủ điều kiện để thăng thiên, nhưng để hoàn thành việc này, việc chính mà họ cần làm không phải là cân bằng nghiệp mà là biểu lộ tài năng độc đáo của họ. Với những người này, rút lui khỏi xã hội không phải là nếp sống hữu dụng nhất. Họ cần liên hệ với người khác và xã hội để có thể biểu lộ ánh sáng và tài năng. Một số người trong nhóm này cũng có thể sẽ tìm đến tâm linh nhưng cũng có nhiều người không tham gia các phong trào tâm linh. Tuy thế họ đang làm rất đúng những gì họ cần làm để cống hiến tài năng của họ cho xã hội.
  • Có người chưa sẵn sàng để thăng thiên, nhưng trên con đường tâm linh họ đã sẵn sàng đi xa hơn tôn giáo truyền thống. Do đó chủ điểm của những người này là học giáo lý để thêm hiểu biết về tâm linh.
  • Có người có thể đã gần thăng thiên, nhưng khả năng thăng thiên ở cuối kiếp sống này tùy thuộc vào kết quả giải quyết những vướng mắc tâm lý. Do đó, chủ điểm của họ không phải là học giáo lý mà là giải quyết tâm lý. Họ có thể học giáo lý và kỹ thuật thực hành, nhưng cũng có thể tham gia vào các phương pháp trị liệu. Chính họ cũng có thể trở thành nhà trị liệu hay người chữa lành, vì giúp chữa lành người khác là một cách để tự chữa lành cho mình. Những người này tìm cách giải quyết từng lớp vỏ tâm lý của họ, cho tới khi họ khám phá ra ảo tưởng tối hậu ở đáy tự ngã tách biệt của họ. Lúc đó, họ sẽ trải nghiệm một chuyển hóa lớn, và sau đó thì họ được giải thoát và có thể chú tâm vào việc cống hiến tài năng của mình.

Trên đây chỉ là một vài trường hợp trong rất nhiều trường hợp có thể xảy ra, nhưng chúng cho thấy là ta không thể phán xét người khác, và cũng không nên phán xét chính mình. Nhiều người tâm linh có tiềm năng tiến triển nhiều trong kiếp sống này, nhưng ai cũng cần qua nhiều giai đoạn. Tỷ dụ, nhiều người ở đầu đời thì dính dấp đến các tình huống do nghiệp đưa đến. Sau một thời gian họ mới tìm được con đường tâm linh, và ban đầu điều tốt nhất cho họ là xếp mọi chuyện qua một bên và chú tâm học hỏi giáo lý và kỹ thuật thực hành. Nói cách khác, điều tốt nhất cho họ là tạm thời rút lui khỏi xã hội.

Nhưng sau khi bạn đã cân bằng một phần nghiệp và giải quyết một số điều kiện tâm lý, thì điều tốt nhất là bạn nên đi ra ngoài xã hội. Lúc đó bạn đã sẵn sàng biểu lộ tài năng của mình để cống hiến, và bạn không thể làm chuyện này nếu bạn tiếp tục rút lui khỏi xã hội.

Nhiều người tâm linh đã quyết định giải quyết nghiệp và các vết thương tâm lý càng nhanh càng tốt. Đó là lý do tại sao chúng ta hay có đời sống khác thường và có vẻ hỗn loạn. Chúng ta nhiều khi không thể giải thích một cách hợp lý tại sao chúng ta lại có hành động mà thân nhân coi là điên rồ. Lý do sâu là chúng ta cần làm những việc này để cân bằng nghiệp hoặc để khiến mình phải trực diện một số vướng mắc tâm lý.

Khi bạn theo con đường mà các chân sư thăng thiên cống hiến thì bạn có thể mau chóng cân băng nghiệp, học bài học và giải quyết tâm lý. Nghĩa là sẽ có lúc bạn nhìn lại cuộc đời mình và nhận ra rằng bạn đã làm thật đúng những gì cần làm để hoàn thành Sứ vụ Thiêng Liêng của mình. Lúc đó bạn sẵn sàng tiến lên một mức sẽ đem đến cho bạn nhiều thỏa mãn và vui sướng.

Kết luận là Sứ vụ Thiêng liêng giống như một dòng sông. Nó không bao giờ đứng yên, và nếu bạn muốn hoàn thành tiềm năng cao nhất của mình, thì bạn phải sẵn sàng trôi theo dòng sông luân lưu chảy cho tới biển cả của cái ta.

14.8 Thăng thiên: mục đích tối hậu

Như đã nói ở trên, thăng thiên là mục đích tối hậu của con người trên con đường tâm linh. Tuy nhiên để hội đủ điều kiện thăng thiên, chúng ta cần đáp ứng một số yêu cầu. Thứ nhất là nghiệp. Các chân sư có nói rằng, trong những thời đại trước, con người cần cân bằng 100% nghiệp mới có thể thăng thiên. Tuy nhiên, một đặc miễn đã được ban ra, và nay chúng ta có thể thăng thiên khi cân bằng hơn 51% nghiệp. Có một số lý do tại sao đặc miễn này được ban ra.

Để hiểu rõ vấn đề, chúng ta cần biết rằng trái đất hiện đang ở lúc giao thoa giữa hai giai đoạn hay thời đại tâm linh. Như đã nói ở trên, 2000 năm vừa qua là Thời Đại Song Ngư và giai đoạn 2000 sắp tới được gọi là Thời Đại Bảo Bình. Các thời đại này có liên hệ đến chu kỳ thay đổi tiết xuân phân và thu phân, nhưng lằn ranh chính xác phân chia các thời đại không thể chỉ do sự vận hành của các tinh tú chỉ định. Đó là vì mọi chuyện trên trái đất đều tùy thuộc quyền tự quyết, do đó nhân loại chỉ chuyển qua môt thời đại mới khi có đủ số người đã chuyển hóa tâm thức của mình sang một tư duy mới, và do đó khiến tâm thức đại chúng chuyển hóa lên một mức cao hơn.

Một lý do vì sao đặc miễn cho phép thăng thiên dễ hơn được ban ra là để giúp chuyển hóa tâm thức đại chúng lên một mức cao hơn. Khi một người đủ điều kiện thăng thiên, thì việc này tạo một từ lực kéo cả tâm thức đại chúng lên. Giê-su có nói đến việc này như sau: “Và nếu ta được kéo lên khỏi trái đất, thì ta sẽ kéo theo nhiều người với ta”.

Một lý do khác là ở giai đoạn cuối của một thời đại, có một số người đáng lý đã phải thăng thiên trong thời đại trước. Nhưng nếu các vị này chưa cân bằng 100% nghiệp, thì đặc miễn cho phép thăng thiên khi cân bằng hơn 51% nghiệp dĩ nhiên là đường thực tiễn duy nhất giúp họ có thể thăng thiên. Như đã nói ở trên, tốt nhất cho những người này là họ chú tâm vào mục tiêu và làm mọi việc cần thiết để đạt mục tiêu cân bằng hơn 51% nghiệp của họ. 

Nhưng không có nghĩa là mọi người tâm linh đều phải chú tâm làm việc này. Có người chưa tới lúc thăng thiên, hoặc họ cần cân bằng 100% nghiệp trước khi thăng thiên. Các chân sư dạy rằng tuy ta có thể thăng thiên khi cân bằng hơn 51% nghiệp, ta vẫn phải cân bằng tất cả nghiệp. Và cân bằng nghiệp ở cõi tâm linh khó hơn là cân bằng nghiệp ở trần gian. Cũng có thể là bạn cần chú tâm vào một số yêu cầu thăng thiên khác, thay vì chỉ nghĩ tới việc cân bằng nghiệp.

Như đã nói ở trên, bạn không xuống đây để tạo nghiệp, cân bằng nghiệp rồi thăng thiên. Bạn đến đây để học hỏi và để biểu lộ  và cống hiến các tài năng thiêng liêng của mình. Do đó, trừ phi bạn đã thực sự đến lúc thăng thiên trong giai đoạn chuyển tiếp từ Song Ngư sang Bảo Bình này, thì bạn sẽ không muốn thăng thiên cho tới khi bạn đã học xong những gì cần học và cống hiến món quà mà bạn đem đến đây.

Bạn không thể nào thăng thiên nếu bạn muốn bỏ chạy khỏi tất cả mọi thứ trên trái đất.

Sư kiện đơn giản khác là mặc dù bạn có thể liệt kê một số yêu cầu vỏ ngoài của thăng thiên – tỷ dụ như cân bằng nghiệp và cống hiến quà tặng – nhưng cũng có yêu cầu bên trong. Ta hãy hình dung bạn đã hoàn thành tất cả các yêu cầu vỏ ngoài và đang đứng trước ngưỡng cửa dẫn tới thế giới thăng thiên. Nếu bạn có thể bước qua ngưỡng cửa là bạn thăng thiên, nhưng trước khi bước qua ngưỡng cửa, bạn phải lấy một quyết định. Và một phần quyết định đó là bạn phải muốn rời bỏ trái đất – và tất cả những gì và những ai trên trái đất – một cách vĩnh viễn.

Vậy câu hỏi là: bạn đã sẵn sàng rời bỏ trái đất vĩnh viễn hay chưa, hay là còn có cái gì đó mà bạn còn muốn làm hay trải nghiệm trên trái đất này? Một lần nữa, không có ai muốn và có thể buộc bạn phải thăng thiên. Đó là quyết định của bạn, và bạn chỉ có thể lấy quyết định này khi bạn đã chán tất cả những gì đời sống trên trái đất này có thể cống hiến bạn.

Không có nghĩa thăng thiên là một hình thức bỏ chạy. Bạn không thể thăng thiên nếu bạn muốn bỏ chạy khỏi tất cả mọi thứ trên trái đất. Do đó, bạn phải tới điểm mà tâm bạn đã làm hòa với cuộc đời trên hành tinh này. Bạn không bỏ chạy cái gì hết, bạn mở tay chào đón sự sống một cách tích cực. Tuy thế, bạn cũng cảm thấy là bạn đã trải nghiệm tất cả những gì bạn muốn trải nghiệm, và do đó bạn thực sự sẵn sàng để tiến lên một mức cao hơn.

Kết luận là mục đích thực sự của con đường tâm linh là đưa tới điểm đó, là điểm bạn làm hòa với đời sống trên trái đất, làm hòa với ước muốn trải nghiệm hay hoàn tất việc gì trên hành tinh này. Bạn không còn muốn trải nghiệm gì nữa hết, và bạn không muốn thay đổi gì nữa hết. Bạn nhìn lại quá trình sống trên trái đất này mà tâm hoàn toàn an bình, bạn rời bỏ nó với đầy tình thương, và mở tay chào đón một đời sống cao hơn với cùng tình thương đó. Do đó, an bình nội tâm có thể coi là mục đích chân thật của con đường mà các chân sư thăng thiên cống hiến.

HẾT CHƯƠNG

Sắc thái tâm linh của việc đọc bài thỉnh bài nguyện

Không phải chỉ có một cách đúng để đọc một bài thỉnh hay bài nguyện mà có nhiều cách đọc. Mỗi người khác nhau, và mỗi người sẽ chọn lựa khác nhau. Dĩ nhiên là có cách đọc bài nguyện kém hiệu quả hơn các cách khác.

Mục đích đọc bài nguyện

Điểm cơ yếu khi đọc một bài nguyện là nhớ mình đang không cầu nguyện. Mục đích của bài nguyện không phải là cầu xin một điều gì với một đấng nào đó trên trời, và đấng đó có thể sẽ đáp ứng hay không đáp ứng. Đọc một bài nguyện là một tiến trình tâm linh khoa học, có nghĩa là khi bạn đọc một bài nguyện đúng cách, thì bạn SẼ có một kết quả. Mục đích chính của việc đọc bài nguyện là kêu gọi ánh sáng tâm linh – ánh sáng có độ rung cao – từ một cõi cao. Chính ánh sáng này sẽ tạo kết quả trên đời sống cá nhân bạn hay trên một tình hình thế giới.

Kêu gọi ánh sáng tâm linh là một tiến trình hoàn toàn tự nhiên, và bạn đã được tạo ra với khả năng này ngay từ khởi thủy. Bạn có tất cả những gì cần có để kêu gọi ánh sáng, nhưng nhiều người không nhận ra là mình có khả năng này. Do đó, có thể bạn cần thực tập để nhận ra khả năng kêu gọi ánh sáng của mình và học cách tận dụng khả năng này.

Đọc bài nguyện không phải là một việc làm máy móc

Một điểm cơ yếu mà bạn cần hiểu là kêu gọi ánh sáng không phải là một việc làm máy móc. Bạn không thể đọc một bài nguyện giống như bạn đang đọc lớn tiếng một bài báo. Kêu gọi ánh sáng không phải là một tiến trình trí năng, thực sự là nó không dùng đến lý trí, hay đầu óc. Kêu gọi ánh sáng là một tiến trình trực giác, và khả năng trực giác của bạn nằm ở trái tim.

Đa số các người tâm linh đã nhận ra khả năng trực giác của mình và thường cảm nhận được nó như một cảm giác bừng cháy hay rung động nơi trái tim hay ở giữa ngực. Khi bạn đọc một bài nguyện, bạn nên hòa điệu với tim mình, và bạn muốn cảm thấy bừng cháy nơi trái tim.

Ta có thể nói là nếu bạn muốn kêu gọi ánh sáng từ một cõi cao, thì việc đầu tiên là bạn phải kết nối được với cõi đó. Và cách kết nối là qua trái tim, bằng cách khiến trái tim nhập cuộc. Nhiều người đã biết làm việc này, và nếu bạn trong số này, thì bạn cứ tiếp tục làm những gì bạn vẫn thường làm để khơi động ngọn lửa tim. Sau đó, bạn đọc bài nguyện.

Nếu bạn chưa quen khơi động sự hòa điệu (attunement) nội tâm, thì bạn nên bỏ ra ít thời gian trước khi bắt đầu đọc bài nguyện, và tìm cách hòa điệu với ngọn lửa tâm linh đang cháy trong tim bạn (tức là trung tâm năng lượng ở giữa tim bạn). Bạn có thể ngồi yên lặng và quán chiếu một hình ảnh tích cực, hướng thượng. Bạn cũng có thể nghe một bản nhạc hướng thượng hay dùng một kỹ thuật hình dung (visualisation).

Một khi bạn đã hòa điệu với ngọn lửa tim của mình thì bạn khởi sự đọc bài nguyện và cảm năng lượng tuôn chảy từ tim và thể hiện qua giọng nói – trung tâm năng lượng ở cuống họng – và lời bạn đang đọc. Lời bạn đọc trở thành những chiếc chén chuyên chở ánh sáng, và sự chú tâm của bạn hướng chúng tới các tình huống được nêu lên trong lời nguyện.

nh dung khi đọc bài nguyện

Lý do ta kêu gọi ánh sáng là để hướng nó về một hoàn cảnh nào đó mà ta muốn giải quyết. Có người nghĩ bằng lời và có người nghĩ bằng hình ảnh. Chỉ cần ngọn lửa tim của bạn có mặt thì khi bạn đọc bài nguyện, bạn sẽ kêu gọi được ánh sáng và ánh sáng này sẽ được hướng đi bởi lời bài nguyện. Nếu bạn là một người quen nghĩ bằng hình ảnh, thì bạn có thể đạt kết quả cao hơn bằng cách hình dung trong lúc đọc bài nguyện.

Bạn có thể dùng kỹ thuật tưởng tượng hình ảnh, hoặc bạn có thể giữ một hình ảnh nào đó trong tâm trong lúc đọc bài nguyện. Thí dụ, khi bạn đọc một bài nguyện để giải quyết một tình hình thế giới, thì bạn có thể hình dung một kết quả tốt đẹp liên quan đến tình hình này. Hoặc bạn có thể hình dung một quốc gia hay toàn hành tinh được bao bọc trong bầu ánh sáng trắng hoặc tím. Hay bạn có thể hình dung một người được chữa lành hay được bao bọc trong bầu ánh sáng. Bạn có thể chú tâm đến hình ảnh nhiều hơn là lời bài nguyện, nhưng điều cần thiết là tim bạn lúc nào cũng phải có mặt và bạn không bị hình ảnh lôi cuốn đi.

Nếu bạn không phải là một người hợp với hình ảnh thì không sao cả. Bạn chỉ cần chú tâm tới lời bài nguyện và đừng tìm cách hình dung nếu làm như vậy khiến bạn mất sự hòa điệu nội tâm. Nếu bạn là người hợp với âm thanh thì chú tâm tới lời sẽ có kết quả tốt nhất cho bạn.

Ta có quyền ra lệnh cho Thượng đế không?

Bạn có thể đã được dạy dỗ là đọc một bài nguyện hay một lời cầu nguyện là một tiến trình tiêu cực qua đó bạn làm một thỉnh nguyện. Tuy nhiên, trong Thánh kinh có những đoạn cho thấy ta có thể ra một hiệu lệnh. Các bạn hãy đọc những đoạn sau đây:

Thượng đế, đấng Thánh của Do Thái, tức là đấng tạo ra Do Thái, phán như vầy: Các ngươi hãy hỏi ta về việc sẽ đến liên quan đến các con ta, và hãy ra lệnh cho ta liên quan đến công việc của tay ta. (Ê-sai 45:11)

Nếu ông ra lệnh việc gì, việc ấy sẽ được thành; và ánh sáng sẽ soi sáng con đường của ông. (Gióp 22:28)

Như Mẹ Mary đã giảng trong trang mạng này, chúng ta được cấu tạo như những đồng sáng tạo của Thượng đế, và do đó chúng ta có quyền – và bổn phận thiêng liêng – kêu gọi ánh sáng. Ta không làm vậy để thỏa mãn ham muốn vị kỷ, nhưng để thể hiện kế hoạch của Thượng đế – mà cũng có người gọi là thời Hoàng Kim, hay hòa bình, hay trù phú – trên Trái đất. Đó là điều Thượng đế thực sự muốn thấy trên Trái đất, như Giê-su đã nói:

Hỡi bầy nhỏ, đừng hãi sợ; vì Cha các ngươi đã vui lòng ban cho các ngươi nước Trời. (Lu-ca 12:32)

Tuy nhiên, vì Thượng đế đã cho chúng ta quyền tự quyết, điều này không thể xảy ra nếu không có người kêu gọi nó thị hiện. Chúng ta là những người phải đứng ra cai quản, như Thượng đế đã ra lệnh cho chúng ta:

Và Chúa Trời phán rằng: Chúng ta hãy làm loài người theo hình ta và theo tượng ta, đặng chúng cai quản loài cá biển, chim trời, súc vật, côn trùng bò trên mặt đất, và khắp cả đất. (Sáng-thế Ký 1:26)

Và Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy tạo hoa trái, sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất, làm cho đất phục tùng; hãy cai quản loài cá dưới biển, chim trên trời cùng các vật sống và di động trên mặt đất. (Sáng-thế Ký 1:28)

Làm sao chúng ta cai quản? Như Giê-su đã giảng trong bài ngụ ngôn cơ yếu về các người đày tớ sanh sản thêm tiền. Như thày đã nói:

Chủ nói với hắn rằng: Hỡi đầy tớ ngay lành trung tín kia, được lắm, ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ cho ngươi làm chủ nhiều việc; hãy gia nhập sự vui mừng của chủ ngươi. (Ma-thi-ơ 25:21)

Vì kẻ nào đã có sẽ được cho thêm, và hắn sẽ trù phú; nhưng kẻ nào không có, thì sẽ bị lấy đi ngay cả những gì hắn đã có. (Ma-thi-ơ 25:29)

Như Mẹ Mary đã giảng trong trang mạng này, Đại đoàn Thăng thiên có uy lực để đem nước Trời tới Trái đất, nhưng các thày không có thẩm quyền để làm việc này. Chúng ta có thẩm quyền nhưng không có uy lực. Do đó giải pháp là chúng ta dùng thẩm quyền của mình để kêu gọi ánh sáng tới, qua đó chúng ta cho Đại đoàn Thăng thiên thẩm quyền để hành động trên trái đất. Các bài nguyện của Mẹ Mary được tạo nên với chính mục đích đó, tức là đem ánh sáng xuống thế giới vật chất, đó là chìa khóa duy nhất để thể hiện nước Trời trên Trái đất.

Vận tốc và nhịp điệu khi đọc bài thỉnh bài nguyện

Điều quan trọng nhất khi đọc bài thỉnh hay bài nguyện là giữ ngọn lửa nơi tim bạn nhập cuộc. Bạn dốc tim mình vào càng nhiều thì càng thỉnh được nhiều ánh sáng hơn. Do đó, vận tốc đọc không quan trọng bằng giữ tim bừng cháy.

Tuy thế, đọc nhanh hay chậm cũng có điểm thuận lợi khác nhau. Nếu bạn đọc chậm, bạn có thể tưởng tượng hình ảnh dễ dàng hơn và có một số người thấy rằng như vậy họ khiến trái tim họ nhập cuộc nhiều hơn. Những người đó cũng thích đọc bài nguyện hay bài thỉnh một cách sùng kính. Nhưng một điểm quan trọng khác khi đọc bài thỉnh là nhịp điệu, và khi bạn đọc nhanh thì bạn dễ đạt được một nhịp điệu tuôn chảy và hùng mạnh. Nếu bạn làm được vậy đồng thời giữ tim nhập cuộc, thì đó là một cách đọc bài thỉnh hay bài nguyện rất dũng mãnh.

Xin bạn ghi nhớ là không có cách đọc nào được xem là tốt nhất, và với riêng bạn cũng có thể không phải chỉ có một cách đọc tốt nhất. Bạn nên thử nghiệm và tìm ra cách nào tốt nhất cho bạn. Và bạn cũng đừng nên chỉ theo một cách cố định. Sẽ có trường hợp bạn đạt được kết quả tốt nhất nếu bạn đọc bài nguyện chậm rãi và với nhiều sùng kính. Nhưng cũng có thể có lần khác bạn cảm thấy đang bị năng lương tiêu cực đè nặng và lúc đó cần đọc bài nguyện với nhiều uy lực để chọc thủng màn năng lượng tiêu cực.

Đọc bài nguyện hay bài thỉnh với vận tốc cao có thể giúp bạn đạt được nhịp điệu và độ tuôn chảy tốt hơn. Làm vậy cũng giúp bạn thu ngắn thì giờ, nhưng đây là một dao hai lưỡi. Bạn chớ rơi vào cạm bẫy đọc bài nguyện nhanh để chóng xong. Nếu ngọn lửa tim bạn không nhập cuộc thì bạn sẽ không đạt được kết quả tối đa. Bạn đừng bao giờ đọc một bài nguyện nhanh tới độ bạn mất đi sự hòa điệu nội tâm. Đọc một phần bài nguyện với hòa điệu tốt hơn là đọc toàn bài một cách máy móc.

Sau đây là những cách chính để đọc bài nguyện hay bài thỉnh.

Sùng kính

Đọc bài nguyện chậm rãi trong tinh thần tôn kính và sùng kính. Đọc nhẹ nhàng, tuy vẫn có nồng độ. Chú tâm vào trái tim hoặc hình ảnh một vị chân sư mà bạn ưa thích.

Đọc có nhịp điệu, vận tốc trung bình

Đọc bài nguyện với vận tốc trung bình và để cho lời tuôn chảy. Bạn đọc nguyên một câu hay một đoạn thơ mà không ngừng lấy hơi. Bạn đọc với giọng vững chắc nhưng không lạc giọng.

Đọc có nhịp điệu, vận tốc cao

Đọc bài nguyện có nhịp điệu, nhưng đọc nhanh tùy ý thích. Tuy nhiên, bạn đừng gắng gượng. Bạn hãy để vận tốc gia tăng một cách tự nhiên trong lúc bạn đọc bài nguyện. Bạn đừng đọc nhanh đến độ bạn không còn đọc được ra chữ nữa hay không còn ngưng giữa các câu hoặc đoạn thơ. Bạn nhớ thở – như vậy bạn sẽ cảm thấy sinh động khi đọc bài nguyện.

Hát tụng

Đọc bài nguyện một cách trầm bổng, gần giống như là đang hát một bài thánh ca Gregorian. Bạn đọc nhẹ nhàng nhưng nhanh hơn, giữ nhịp điệu trong suốt bài nguyện.

Hiệu lệnh

Đọc bài nguyện chậm rãi nhưng với nhiều uy lực, với nhịp điệu gần như ngắt âm (staccato). Đọc với giọng mạnh.

Hiệu lệnh, vận tốc cao

Đọc bài nguyện với nhiều uy lực nhưng cũng đọc nhanh. Thay vì đọc kiểu ngắt âm, thì bạn đọc một cách tuôn chảy, nhưng không như đang hát tụng.

Đương nhiên là bạn có thể pha trộn nhiều lối đọc trong cùng một bài nguyện. Thí dụ, bạn có thể bắt đầu đọc kiểu hiệu lệnh, sau đó chuyển qua đọc có nhịp điệu hay theo kiểu hát tụng, và dần dần để vận tốc gia tăng một cách tự nhiên.

Cách đọc bài thỉnh bài nguyện

Bài thỉnh và bài nguyện có khác nhau không? Không, ngoài tên ra không có gì khác. Cả hai cùng có một chức năng và một tác dụng. Và bài nguyện nhất quyết không chỉ dành cho những người thuộc Cơ đốc giáo.

Đọc một bài thỉnh rất dễ. Bạn chỉ giản dị đọc ra tiếng. Dĩ nhiên là bạn có thể đọc bài thỉnh thẳng từ máy vi tính, nhưng đa số thích in ra và đọc từ bản in. Bạn có thể lưu trữ các bài chú và bài thỉnh trong máy điện thoại hay máy đọc sách điện tử của bạn và đem theo với bạn khắp nơi.

Các bạn nên biết là nhiều người tâm linh cần một chút thời gian điều chỉnh trước khi họ chịu đọc ra tiếng các bài thỉnh. Lý do là nhiều người trong chúng ta quen thiền quán trong im lặng. Tuy nhiên, một khi bạn đã thành thực quyết định thử đọc, thì thông thường bạn sẽ thấy là bạn làm quen không khó khăn. Động lực tốt nhất giúp bạn tiếp tục đọc các bài thỉnh là trải nghiệm hiệu năng của chúng. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng, so với thiền quán yên lặng, lời nói thỉnh được nhiều ánh sáng hơn gấp bội (chúng tôi không muốn nói là thiền quán yên lặng không hữu dụng; chúng tôi chỉ muốn nói là lời nói là một lực rất dũng mãnh).

Tôi nên đọc bài thỉnh ở đâu?

Bạn có thể đọc ở bất cứ đâu, tuy nhiên đa số thích ngồi trong một phòng riêng, yên tĩnh để không bị quấy rầy trong thời gian khoảng trên 20 phút là thời gian thông thường để đọc trọn một bài thỉnh (bạn cũng có thể chỉ đọc một phần của bài thỉnh nếu bạn không có thời gian đọc trọn bài).

Bạn có thể ngồi trước mày vi tính và đọc bài thỉnh, nhưng đa số thích ngồi trên một ghế thoải mái. Bạn nên ngồi tương đối thẳng, nhưng thoải mái. Tư thế này sẽ giúp năng lượng tuôn chảy dễ dàng hơn.

Tôi nên đọc bài thỉnh lúc nào?

Bạn có thể đọc bất cứ lúc nào. Nhiều người thích đọc buổi sáng vì như vậy tác dụng sẽ tiếp tục suốt ngày và giúp việc làm trong ngày dễ dàng hơn. Điều này đặc biệt ứng dụng cho các bài nguyện kêu gọi bảo vệ tâm linh, tỷ dụ như bài nguyện cho Đại thiên thần Michael hay bài thỉnh Tăng trưởng Thường nhật.

Tôi nên đọc bài thỉnh như thế nào?

Bạn chỉ giản dị đọc từ đầu bài. Các bài nguyện lúc nào cũng bắt đầu bằng một phần mở đầu thỉnh một vị chân sư thăng thiên nào đó, và có khi cũng mô tả mục đích của bài thỉnh. Sau phần mở đầu, bạn sẽ thấy một câu tương như câu này:

[đọc ở đây lời kêu gọi riêng của bạn]

Đây là nơi để bạn nói lên – ngắn hay dài tùy ý – mục đích mà bạn muốn hướng bài thỉnh này tới. Thí dụ, nếu bạn muốn giải quyết một vấn đề, thì bạn có thể mô tả vấn đề một cách chi tiết và xin vấn đề được giải quyết. Bạn đừng quên xin kết quả cao nhất – mà thường chúng ta không nhận ra với tâm vỏ ngoài của mình. Tỷ dụ, bạn có thể nói: “Nhân danh Ki-tô, con xin …”. Hoặc bạn cũng có thể kết thúc lời kêu gọi của bạn như sau: “Thể theo viễn quan cao nhất của Ki-tô, hãy để cho việc này được hoàn thành”. Hay “Thể theo ý muốn của Thượng đế, hãy để cho việc này được hoàn thành”.

Sau đó bạn tiếp tục đọc bài thỉnh. Điều duy nhất mà bạn cần biết là tất cả các bài thỉnh đều được cấu trúc với một số khẳng định cá biệt và khẳng định tổng quát, được lặp đi lặp lại. Các khẳng định cá biệt mô tả điều kiện cá biệt mà bài thỉnh muốn giải quyết. Các khẳng định tổng quát được lặp lại sau các khẳng định cá biệt.

Sau đây là một thí dụ, với khẳng định cá biệt đi trước, và đoạn thơ lặp lại theo sau.

1. Ôi Mẹ Mary, giúp con thấy được là khi con cho phép con có cảm xúc giận dữ, trách móc hay ý muốn trả thù người khác, con đang tạo ra và củng cố một vòng xoáy năng lượng tiêu cực kéo linh hồn con xuống lòng Địa ngục.

Kính mừng Mẹ Mary

Ôi Mẹ Mary, con buông bỏ nhanh
suy tư cảm xúc không đem an lành,
con buông bỏ đi khuôn nếp ảo ảnh,
con buông bỏ đi khuôn chết không lành.

Dòng sông sự Sống luôn cuộn chảy mãi,
con muốn sống hơn, con muốn lớn hoài.
Con sẽ vượt thăng hơn nữa với ngài,
niềm vui sự sống, con yêu thích mãi.

Sau khi bạn đọc xong các lời khẳng định và các đoạn thơ, thì thường có một câu chú mà bạn có thể tụng đọc, và sau cùng là phần niêm, kết thúc bài thỉnh.

Ban đầu, bạn có thể thấy việc đọc bài thỉnh hơi gay go, nhưng bạn sẽ làm quen rất mau chóng nếu bạn quyết định thành thực làm thử. Bạn nên nhớ là bằng chứng của bài thỉnh chỉ có thể thấy sau khi bạn đã đọc nó. Chỉ khi bạn làm thử – một cách thành thật – thì bạn mới biết là bài thỉnh có hiệu quả hay không.

Bạn nên ghi nhớ là cách tốt nhất để tập đọc bài thỉnh là đọc cùng với một bài thu âm.

Cách đọc bài chú và lời khẳng định

Đọc một bài chú hay lời khẳng định rất dễ. Bạn chỉ giản dị đọc bài đó ra tiếng. Dĩ nhiên là bạn có thể đọc bài chú hay khẳng định thẳng từ máy vi tính, nhưng đa số thích in ra và đọc từ bản in. Bạn có thể lưu trữ các bài chú và bài thỉnh trong máy điện thoại hay máy đọc sách điện tử của bạn và đem theo với bạn khắp nơi.

Các bạn nên biết là nhiều người tâm linh cần một chút thời gian điều chỉnh trước khi họ chịu đọc ra tiếng các bài chú hay khẳng định. Lý do là nhiều người trong chúng ta quen thiền quán trong im lặng. Tuy nhiên, một khi bạn đã thành thực quyết định làm thử, thì thông thường bạn sẽ thấy là bạn làm quen không khó khăn. Động lực tốt nhất giúp bạn tiếp tục đọc các bài chú và khẳng định là trải nghiệm hiệu năng của chúng. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy rằng, so với thiền quán yên lặng, lời nói thỉnh được nhiều ánh sáng hơn gấp bội (chúng tôi không muốn nói là thiền quán yên lặng không hữu dụng; chúng tôi chỉ muốn nói là lời nói là một lực rất dũng mãnh).

Tôi nên đọc bài chú hay khẳng định ở đâu?

Bạn có thể làm việc này ở bất cứ đâu, tuy nhiên đa số thích ngồi trong một phòng riêng, yên tĩnh để không bị quấy rầy. Vì các bài chú hay khẳng định rất ngắn, nên bạn có thể uyển chuyển với lượng thời gian mà bạn có thể dành cho việc đọc. Do đó, bạn có thể dễ dàng dùng những khoảng thời gian trống trong đời sống hàng ngày của bạn.

Bạn có thể ngồi trước mày vi tính và đọc bài chú hay khẳng định, nhưng đa số thích ngồi trên một ghế thoải mái. Bạn nên ngồi tương đối thẳng, nhưng thoải mái. Tư thế này sẽ giúp năng lượng tuôn chảy dễ dàng hơn.

Tôi nên đọc bài chú hay khẳng định lúc nào?

Bạn có thể đọc bất cứ lúc nào. Nhiều người thích đọc buổi sáng vì như vậy tác dụng sẽ tiếp tục suốt ngày và giúp công việc làm trong ngày dễ dàng hơn. Điều này đặc biệt ứng dụng cho các bài chú kêu gọi bảo vệ tâm linh, vì như vậy bạn sẽ được che chở suốt ngày. Sau đó, vào buổi tối bạn có thể đọc bài chú để chuyển hóa các năng lượng thấp và giúp bạn chặt đứt và giải thoát khỏi các năng lượng đã ảnh hưởng bạn trong ngày. Nếu bạn cần một gợi ý để khởi sự, thì tôi đề nghị bạn đọc bài chú Đại thiên thần Michael 9 lần vào buổi sáng, và sau đó đọc bài chú Astrea và Saint Germain mỗi bài 9 lần vào buổi tối.

Tôi nên đọc bài chú hay khẳng định như thế nào?

Trước hết, bạn cần phân biệt bài chú và lời khẳng định.

Lời khẳng định thì bạn chỉ cần đọc ra tiếng, và bạn có thể đọc chậm rãi đồng thời chú tâm vào tim và suy ngẫm đến các lời, hoặc bạn cũng có thể đọc nhanh hơn. Thường thì bạn chỉ đọc một lời khẳng định 1 lần hoặc 3 lần.

Bài chú thì gồm phần chú, phần mở đầu và phần niêm. Phần mở đầu kêu gọi sự Hiện diện của vị thày bảo trợ bài chú. Sau phần mở đầu, bạn tuyên đọc một câu ngắn hướng bài chú đến một vấn đề bạn muốn giải quyết. Sau đó, bạn đọc những câu chú, thông thường bạn đọc nhiều lần. Sau cùng, bạn đọc phần niêm để kết thúc buổi đọc và niêm các năng lượng và bản thân bạn.

Một số bài chú có sẵn phần mở đầu, nhưng bạn cũng có thể sáng chế phần mở đầu riêng của mình. Sau đây là một thí dụ đơn giản:

Nhân danh TA LÀ CÁI TA LÀ, Giê-su Ki-tô, con kêu gọi [tên một hay nhiều vị thày] hãy hướng ánh sáng tới: [ghi rõ điều kiện bạn muốn giải quyết] đúng theo viễn quan toàn hảo của Ki-tô.

Một số bài chú có sẵn phần niêm, nhưng bạn cũng có thể sáng chế phần niêm riêng của mình, thí dụ:

Nhân danh Ki-tô, con kêu gọi các thày niêm con và ánh sáng được thỉnh, đúng theo viễn quan toàn hảo của Ki-tô. A-men.

Một bài chú có vần, như vậy có nghĩa là bạn có thể đọc có nhịp điệu, và như vậy sẽ thỉnh được nhiều ánh sáng hơn. Bạn có thể đọc bài chú chậm rãi đồng thời suy ngẫm các lời chú, và đây là một cách tốt để khởi sự. Bạn cũng có thể đọc bài chú một cách dũng mạnh hơn, với một nhịp điệu giống như nhịp ngắt âm trong âm nhạc. Sau cùng bạn có thể đọc bài chú nhanh hơn nữa, lúc đó nó trở thành một dòng chảy tự nó có uy lực bên trong.

Vì bài chú có vần, nó có một nhịp điệu, và do đó bạn cần học nhịp điệu đúng. Để làm việc này, bạn hãy tìm các bài chú của bảy vị Elohim và nghe bài ghi âm của bài chú đó.

Bạn có thể đọc bài chú nhanh bao nhiêu cũng được, và các hành giả nhiều kinh nghiệm có thể đọc bài chú nhanh đến độ người thường không thể nghe ra các lời. Tuy nhiên, một bài chú chỉ hiệu nghiệm khi luân xa tim của bạn nhập cuộc, và do đó việc bạn nhận ra luân xa tim của mình nhập cuộc quan trọng hơn là tốc độ đọc.

Bình thường, các bạn đọc bài chú nhiều lần. Các chân sư thăng thiên cho biết là có một số con số giúp các thày nhân tác dụng bài chú lên nhiều lần.  Các con số này là 3 lần, 9 lần, 14 lần và 33 lần.

Nếu đây là lần đầu bạn thử đọc chú thì có thể bạn sẽ cần một chút thực tập để làm quen với kỹ thuật đọc chú. Bạn sẽ đạt được kết quả dễ dàng hơn nếu bạn đọc bài chú cùng với một bài thu âm.

Thấy hay không thấy tự ngã

Viết năm 2021

Với thời gian, tôi đã tương tác với một số người khiến tôi thắc mắc: “Làm sao một người có thể học hỏi và thực hành giáo lý tâm linh nhiều năm hay ngay cả vài thập kỷ mà vẫn không nắm bắt khía cạnh chủ yếu của con đường tâm linh?”. Cho nên tôi muốn chia sẻ vài ý tưởng về đề tài này.

Tôi vẫn nhớ năm 1976 khi tôi khám phá sách Tự truyện của một người Yogi của Yogananda và tôi bỏ ra một cuối tuần đọc nó ngấu nghiến. Cuốn sách này có tác động cách mạng trên tôi trên nhiều phương diện và nó kích hoạt nơi tôi cái biết nội tại là tăng trưởng tâm linh chính là việc thay đổi tâm thức. Tôi xin nhắc lại điều này: tăng trưởng tâm linh chính là việc thay đổi tâm thức CỦA TÔI. Chẳng tốt gì cho tôi khi thay đổi tâm thức người khác hay khi thay đổi điều gì đó trong thế giới vật lý. Điều duy nhất quan trọng là tôi thay đổi tâm thức CỦA TÔI.

Tôi cũng biết là không thể gian lận trên con đường tâm linh. Đại đa số con người trên trái đất chưa sẵn sàng đi vào thiên đàng hay cõi tâm linh vì tâm thức họ quá thấp hay còn tập trung vào ngã của mình. Cho nên cách duy nhất tôi có thể thăng vượt trái đất là nâng tâm thức mình vượt quá mức tâm thức thông thường của hành tinh này. Dù tôi nắm bắt được điều này, tôi vẫn còn hiểu phiến diện về cách thực hành và tôi thường không thấy được chính tôi cần thay đổi như thế nào. Do đó tôi muốn chia sẻ những gì tôi hiểu về cách chúng ta tăng trưởng trên con đường tu.

1.1. Hiểu bằng trí năng khác với chuyển hóa tâm thức

Những người trong chúng ta lớn lên trong nhiều quốc gia hiện đại đã tiếp xúc với thái độ thường không nói ra là điều duy nhất thật sự quan trọng trong cuộc sống là hiểu bằng trí năng. Trí năng là tâm đường thẳng, phân tích. Trong những năm đầu của tôi trên đường tu, tôi rất chú tâm vào việc học giáo lý tâm linh và tôi tạo ra một thế giới quan đường thẳng và trí năng trong đầu mình.

Suốt cuộc đời, tôi lúc nào cũng có những trải nghiệm trực giác cho nên tôi nắm bắt được sự khác biệt giữa hiểu điều gì bằng trí năng và thực sự thể nhập nó. Tôi có thể thấy được tu không phải là hiểu bằng trí năng vì nó chỉ đưa mình tới một mức nào thôi. Tôi thấy nơi mình và nơi người khác là ta có thể hiểu điều gì đó bằng trí năng nhưng ta không áp dụng nó cho chính mình và vì vậy tâm thức chúng ta chưa hoán chuyển. Một ví dụ thông thường là chúng ta hiểu người khác biểu lộ một sắc thái nào đó của tự ngã và họ phải thay đổi nhưng chúng ta không thấy được tự ngã của chính mình.

Do đó tôi nắm bắt được là muốn tăng trưởng tâm linh, tôi phải vượt quá cái hiểu trí năng về các khái niệm tâm linh. Một cách nào đó tôi phải quay các khái niệm này vào bên trong để có thể thấy điều gì đó bên trong mình. Tôi chưa thực sự nắm bắt ý nghĩa của điều này nhưng tôi nhận ra có điều gì đó tôi chưa thể thấy với tầng tâm thức hiện tại của tôi và mục tiêu của tôi là thấy được nó để tôi có thể xoay chuyển tâm thức mình lên một tầng cao hơn. Yogananda giải thích điều này rất rõ khi ông mô tả là trí năng của ông có ý tưởng là các vị thày chân chính sống trên núi Hy mã lạp sơn cho nên dù đã gặp thày tâm linh nơi thành phố ông ở, ông vẫn phải lên núi để tìm một trong những vị thày huyền thoại đó.

1.2. Hiểu tự ngã mà không nhìn mình trong gương

Tôi được nuôi dạy để có thái độ chất vấn mọi chuyện. Một phần là vì cha mẹ tôi nuôi dạy để tôi không quá ngây thơ và không dễ bị gạt. Một phần vì xã hội của tôi nuôi dạy lối suy nghĩ chất vấn, tìm tòi những gì cần cải thiện. Cho nên khi lần đầu tiên tôi nghe tới khái niệm tự ngã, tôi nhanh chóng xây dựng một hiểu biết trí năng về tự ngã và tôi giỏi áp dụng nó với xã hội và người khác. Tôi không giỏi được bằng vậy khi áp dụng vào chính mình.

Nhiều năm trước đây tôi đọc quyển sách của M. Scott Peck (Những người của gian dối) trong đó ông mô tả việc ông làm đầu tiên như một tâm lý gia tại một căn cứ hải quân. Có một lúc ông đi gặp người giám sát của ông và nói ông có một vấn đề với cách hành xử của một đồng nghiệp, và ông mô tả hành xử này một cách chi tiết. Người giám sát tìm cách chuyển câu chuyện từ người đó sang chính Scott Peck và rốt cuộc nói: “Không, CHÍNH ÔNG – ông Scott Peck – ÔNG có một vấn đề!!!” Ông Peck rất khó chịu và bước ra khỏi phòng, nhưng sau đó trong ông có một giọng nho nhỏ nói lên: “Có thể nào ông giám sát nói đúng chăng?”  

Tôi có trải nghiệm tương tự nhiều năm trước đây khi tôi là một nhân viên của tổ chức Ngọn Hải đăng trên Đỉnh (Summit Lighthouse) tại Montana. Tôi xung đột với người giám sát của tôi và đã thảo ra một bản báo cáo trình bày cách sắp xếp công việc có thể thay đổi thế nào. Trong vòng vài tuần lễ tôi đã tạo ra một sự dính mắc vĩ đại thấy mình đúng trong vấn đề này. Tôi nói chuyện với người khác và tôi đưa mình vào một trạng thái tâm ám ảnh cưỡng chế. Tôi đã đánh mất ý niệm tầm vóc vấn đề, và vấn đề này chiếm trọn tâm của tôi y như nó là vấn đề trọng đại nhất trong vũ trụ.

Một hôm bà Elizabeth Clare Prophet chất vấn hành vi dựa trên tự ngã của tôi. Tôi ngồi xuống và đây là lần đầu tiên, tôi như bước ra ngoài hoàn cảnh và có thể nhìn hoàn cảnh với tầm nhìn trung hòa. Lúc ấy, tôi nhận ra vấn đề này chẳng quan trọng gì cả so với sự tăng triển tâm linh và thăng thiên của tôi. Tôi quyết định quên người kia đi, quên những luận cứ cần thay đổi điều gì, thay vào đó tôi nhìn xem tôi cần thay đổi mình thế nào. Tôi thực sự buông bỏ vấn đề và tôi cảm nhận sự hiện diện đầy yêu thương của thày El Morya xuống với tôi và trải nghiệm này quả thực đã chuyển hóa tôi.

Đây là một tình huống quyết định sự thành công hay thất bại của tôi trên con đường tu. Lúc đó tôi bị kẹt trong khuôn nếp muốn thay đổi điều gì đó bên ngoài mình và tôi có thể kẹt ở đó vô hạn định. Tuy vậy vì tôi sẵn sàng nhìn vào chính mình và chọn tập trung vào việc cần thay đổi chính mình, tôi cảm nhận được tình thương mà các chân sư thăng thiên có đối với những đệ tử đã chịu đi bước quan trọng nhất này trên đường tu. Kể từ ngày đó, tôi có thói quen luôn luôn có ý thức chính mình cần nhìn thấy điều gì trong mỗi tình huống.

Tôi thường xuyên gặp những người đã đi trên con đường tâm linh nhiều năm mà vẫn chưa có bước đột phá cơ yếu này. Có thể họ hiểu điều gì đó về tự ngã nhưng họ chưa bao giờ nhìn mình trong gương và sẵn sàng muốn thực sự nhìn thấy tự ngã của mình. Hoặc giả họ đã thấy một số khía cạnh của tự ngã nhưng vẫn còn một vấn đề nào đó mà họ chưa bắt đầu thấy.

Đối với tôi khía cạnh cốt yếu nhất của đường tu là thấy được điều mà tôi chưa thấy trước đây. Tôi biết tự ngã hay các ngã tách biệt của mình sẽ chống trả điều này vì chúng biết chúng chỉ có thể sống còn và kiểm soát được tôi khi chúng giữ tôi đui mù. Tôi biết trừ khi tôi mở tâm chịu thấy một điều gì, thì tôi sẽ không thấy nó. Điều này có nghĩa là tôi không thể cho phép mình nghĩ tôi đã tới phần bằng phẳng của con đường tu, là nơi không thể tiến nữa, tôi đã khắc phục xong tự ngã và chẳng còn gì cho tôi phải thấy nữa.

Trong 45 năm trên đường tu, tôi đã thấy nhiều trường hợp những người tới điểm họ nghĩ rằng họ tinh thông đến mức không còn gì cho họ thấy nữa, do đó họ ngừng tìm kiếm. Tôi đã gặp những người tuyên bố họ không còn tự ngã, nhưng chỉ lúc sau phô bày rõ ràng hành vi dựa trên tự ngã. Lúc nào tôi cũng cảm thấy không thể cho phép mình làm vậy và các chân sư có giải thích là cho tới ngày chúng ta thăng thiên, chúng ta sẽ vẫn còn ảo tưởng mà chúng ta cần nhìn thấy.

Tôi nhận ra rằng ta có thể đi trên con đường tu nhiều năm mà tâm vẫn có thể bị đóng lại trước một số vấn đề. Chúng ta bị kẹt cứng trong một cách nhìn nào đó về một vấn đề đến độ không mở tâm ra nhận một tầm nhìn cao hơn. Tâm chúng ta bị khóa lại, đóng lại và lẽ tất nhiên chúng ta không thể tới chỗ thấy được điều chúng ta không thấy. Nhưng nếu chúng ta không tới chỗ thấy được điều chúng ta không thấy ở tầng tâm thức hiện tại của mình thì làm sao chúng ta xoay chuyển lên một tầng tâm thức cao hơn được?

Tôi biết rằng những điều trên nghe có vẻ trừu tượng nên tôi xin đưa ra một số ví dụ tôi đã gặp qua.

1.3. Chơi lá bài Trump

Có hai người tôi đã quen nhiều năm. Họ ở trong tổ chức Ngọn Hải đăng trên Đỉnh và ngay lúc ban đầu họ đã chấp nhận những giáo lý được trao truyền thông qua tôi. Đã nhiều năm tôi không gặp họ, nhưng một ngày kia họ đến tham dự một hội nghị và nêu vấn đề chuyện Trump làm tổng thống là một điều rất hệ trọng. Sau cuộc tấn công tòa nhà quốc hội Hoa Kỳ ngày 6 tháng Giêng 2021, tôi đưa ra một số nhận xét trên Facebook và bỗng nhiên một trong hai vị này bắt đầu viết về gian lận bầu cử trên trang Facebook của tôi. Tôi cố hỏi ông vài câu hỏi theo kiểu đặt câu hỏi của Socrates nhưng tôi nhận ra thật rõ là tôi không thể nói bất cứ gì khiến ông cứu xét một cách nhìn cao hơn về tình huống đó.

Khi tôi nói “cái nhìn cao hơn”, tôi không nói tới ông Trump hay cuộc bầu cử. Đối với tôi, vấn đề không phải là ông Trump và cuộc bầu cử. Vấn đề là làm sao chúng ta tăng trưởng tâm linh.

Trước tiên hết, tôi thấy là hai vị này đã cho phép mình bị lôi kéo vào tâm thái tôn thờ ông Trump, một sự tôn thờ thần tượng mà ông Trump đã xây dựng nơi rất nhiều người theo ông. Những người này nghĩ rằng ông Trump quan trọng hơn bất kể tổng thống nào khác và ông ta là hy vọng duy nhất đem lại một số thay đổi. Họ tin hầu hết những gì ông nói. Họ chỉ nhìn vào những luận cứ xác chứng cái nhìn của họ và họ loại bỏ ngay lập tức bất kỳ luận cứ nào không xác chứng lối nhìn của họ. Nhưng một lần nữa, luận cứ không phải là vấn đề, vấn đề là tư duy: “Trump không thể nào sai và tôi không thể nào sai về Trump!” Đối với tôi, đây là tôn thờ thần tượng và tôi thấy một số ví dụ khá thê thảm tư duy này đã diễn bày ra sao trong lịch sử.

Như một đệ tử tâm linh, làm sao tôi có thể cho phép mình bị thu hút vào việc xem bất kỳ một con người nào như một thần tượng? Đối với tôi không có điều gì trên thế giới này quan trọng hơn tăng triển tâm linh, vậy thì làm sao, đối với tôi, có bất kỳ vấn đề nào trên thế giới có thể quan trọng hơn việc nâng cao tâm thức của mình?

Khi một trong hai vị này nghe thấy là qua trung gian của tôi, các chân sư thăng thiên nói ông Trump là một sa nhân, thì phản ứng của bà là các thày không thể nào là các chân sư thật. Đối với tôi, điều này cho thấy tâm của bà đã bị khóa chặt trong một cái nhìn đặc thù về ông Trump và không có gì có thể thay đổi cái nhìn của bà được. Bà sẵn sàng ngay tức khắc bỏ qua bên những gì các chân sư nói để duy trì quan điểm của bà về ông Trump. Dưới mắt tôi, điều này có nghĩa là quan điểm của bà về ông Trump quan trọng hơn chuyện nâng cao tâm thức của bà. Bà đã quả thật rời bỏ đường tu và biến mình thành người đi theo một con người thế phàm.

Một vị khác đã đi trên con đường tu nhiều thập niên cũng là người theo ông Trump. Sau bầu cử, ông tin chắc ông Biden sẽ không thành tổng thống vào ngày 20 tháng Giêng 2021 nhưng ông Trump sẽ được phục chức (qua cách đặc biệt nào đó không được Hiến pháp cho phép). Chuyện không xảy ra nhưng ông không nản chí. Thay vào đó, ông nghĩ chuyện này sẽ xảy ra ngày 4 tháng 3 2021, là thời điểm người tân tổng thống nhận chức theo truyền thống từ nhiều thập niên trước đây. Điều này cũng không xảy ra và lúc ấy ông dời thời điểm tới tháng 5, rồi tháng 7, rồi tháng 8. Tôi không biết giờ đây ông có ngày nào mới chăng, nhưng điều tôi thấy là ông không hề tự hỏi: “Phải chăng cái nhìn của mình về tình huống phải thay đổi? Có điều gì ở đây tôi cần phải thấy ra?”

1.4. Khẩu trang và chủng ngừa

Một vấn đề khác khiến một số người có phản ứng mạnh là đeo khẩu trang và chủng ngừa Covid. Một lần nữa xin quý vị ghi nhận là tôi không đang nói về vấn đề, vì vấn đề không phải là vấn đề. Vấn đề thật là làm sao thay đổi tâm thức.

Tôi quen biết một số người bình thường dễ tính nhưng đột nhiên họ có quan điểm rất mạnh về các vấn đề này và hành động như thể họ xem việc thuyết phục người khác rất quan trọng. Nếu tôi thấy mình có phản ứng như thế, tôi sẽ tự hỏi tại sao tôi có thái độ mạnh mẽ đến thế về vấn đề này?

Tôi được nhiều cảm hứng khi học chuyện Phật Gautama ngồi dưới cội bồ đề, sẵn sàng nhập Niết bàn. Thử thách cuối là thày phải đối đầu với các ác quỷ của ma vương Mara. Tôi hiểu bằng trực giác thử thách là ác quỷ tìm cách khiến Phật phải phản ứng lại bất cứ điều gì trên thế giới này, và nếu thày quả thực phản ứng, thì thày không thể bỏ thế gian lại đằng sau và nhập Niết bàn.

Tôi thấy là điều này cũng áp dụng cho sự thăng thiên của tôi. Nhiều năm trước, tôi nắm bắt rằng điều làm cho tôi phản ứng với thế gian là một dính mắc. Có một vấn đề nào đó, một quan điểm nào đó mà tâm tôi bị khóa chặt trong đó. Khi tôi nghĩ quan điểm này nhất định phải đúng, thì ác quỷ lúc nào cũng có thể lôi kéo tôi vào cuộc tranh luận với nó bằng cách chất vấn con bò thánh trong tư tưởng của tôi. Tôi trải nghiệm bằng trực giác rằng khi tôi sẵn sàng thăng thiên, tôi sẽ phải nhìn lại trái đất một lần cuối và nếu có điều gì tôi còn dính mắc ở đây, thì tôi không thể mãi mãi bỏ lại đằng sau hành tinh này.

Như vậy chìa khóa để tôi thăng thiên là tôi cần khắc phục dính mắc của mình, nghĩa là khắc phục bất cứ quan điểm mạnh mẽ hay cố định nào. Tôi trải nghiệm rằng với sự nâng cao tâm thức của mình, tôi không còn bất cứ quan điểm mạnh mẽ nào nữa. Với mỗi vấn đề hay quan điểm, tôi sẵn sàng nhìn thấy một cái nhìn cao hơn. Nói cho cùng, bất cứ vấn đề nào trên trái đất cũng chỉ là một vấn đề trong thế giới vật chất và khi so sánh với sự thăng thiên thì chẳng có điều gì thuộc về vật chất là quan trọng.

Hiển nhiên khi trẻ hơn tôi không nghĩ như thế. Tôi đã kể lại sự việc xảy ra tại Ngọn Hải đăng trên Đỉnh và thời đó tôi rõ ràng ở một mức tâm thức vẫn còn xem một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mình. Cho nên tôi hiểu là một số người vẫn còn ở mức tâm thức coi trọng một số quan điểm nhưng chẳng phải là tất cả chúng ta đều có khả năng tăng triển vượt quá mức này?

Có một người nói rằng ông chưa bao giờ có vấn đề với bất cứ câu trả lời nào của các chân sư truyền tải qua tôi nhưng ông quả thực có vấn đề với một câu trả lời về chủng ngừa. Nếu tôi thấy mình có phản ứng đó, tôi sẽ tự hỏi tại sao tôi phản ứng mạnh như thế và đằng sau đó có ngã tách biệt nào đang lẩn trốn chăng. Tôi sẽ lý luận rằng bởi vì câu trả lời đó khiến tôi phản ứng, có thể là nó kích hoạt một cái ngã mà tôi chưa thấy nhưng cần thấy.

1.5. Chắc chắn là Kim sai

Một phần vì chuyện ông Trump và cuộc bầu cử và một phần vì Covid, có một số người đã bước vào trạng thái tâm dùng đủ loại luận cứ để lý luận tôi đã sai trên những đề tài này. Nói cách khác, họ tin chắc quan điểm của họ đúng, nên tôi chắc chắn phải sai vì tôi không hoàn toàn đứng thẳng hàng với họ. Vì lý do đó, một số người phủ nhận tôi là một sứ giả, một số người khác lý luận tôi là một sứ giả đáng tin với một số vấn đề khác nhưng tôi không phải là sứ giả với các vấn đề này. Tôi không trung hòa với các vấn đề đó, tôi có thành kiến cho nên tôi không có khả năng nhận được thông điệp thật từ các chân sư thăng thiên (họ tin chắc là thông điệp của các chân sư đứng thẳng hàng với quan điểm của họ).

Nói chung, tôi không tranh cãi với những người như thế vì tôi hiểu là một khi một người nghi ngờ những gì tôi nhận được từ các chân sư thì không có luận cứ nào mà cá nhân tôi có thể nghĩ ra sẽ giúp được họ. Một khi họ nghi ngờ tôi là một sứ giả, họ có thể dễ dàng vứt đi bất cứ điều gì tôi nói, vậy tôi đâu cần nói bất cứ điều gì nữa? Nhưng tôi sẽ đưa ra vài nhận xét.

Lẽ tất nhiên chuyện có thể xảy ra là tâm thức của tôi có thể pha màu thông điệp nhận được từ các chân sư. Nhưng khi tôi quan sát thái độ của mình về ông Trump và Covid, tôi không thấy mình có quan điểm mạnh mẽ. Khi tôi quan sát thái độ của một số người, tôi quả thực thấy họ có quan điểm mạnh mẽ. Cho nên tôi cảm thấy mình trung hòa trong các vấn đề này hơn những người lên án tôi không trung hòa.

Tuy nhiên, vấn đề thực ở đây không phải là tôi đúng hay sai. Vấn đề thực là: Làm sao BẠN tăng triển tâm thức? Giả dụ tôi sai và bạn có thể tìm ra luận cứ chứng minh điều này trong tâm bạn. Điều này sẽ giúp BẠN thăng vượt mức tâm thức hiện tại của bạn như thế nào? Làm sao chuyện chứng minh mình đúng sẽ giúp bạn thăng vượt chính mình?

Tôi đã nói về tình huống ở Ngọn Hải đăng. Thời đó, chính tôi có tư duy cuồng đại. Vấn đề đó quả thực quan trọng cực kỳ đối với tôi. Làm thế nào tôi đã tăng triển lên một mức tâm thức cao hơn? Không phải bằng cách chứng minh tôi đúng trong một tình huống mà giờ đây chẳng quan trọng gì với bất cứ ai. Tôi đã trăng triển bằng cách vượt thăng toàn bộ tư duy coi chuyện thế gian quan trọng đến như thế đối với tôi.

Các chân sư có nói rằng trong tâm thức nhị nguyên, chúng ta có thể minh chứng bất cứ quan điểm nào bằng cách loại bỏ đủ những bằng chứng trái ngược. Một người nói rằng nếu tôi chỉ cần nhìn vào những bằng chứng mà ông đã xem xét, thì tôi sẽ tin chắc như ông là quả thực đã có một sự gian lận bầu cử vĩ đại. Tuy thế, ông đạt được gì khi chứng minh ông đúng? Ông chỉ củng cố thêm sự đồng hóa với một ngã tách biệt đặc thù và do đó khóa chặt mình mạnh mẽ hơn nữa vào tầng tâm thức hiện tại của ông.

Vấn đề thật là tăng triển và điều này tùy thuộc vào việc chúng ta dính mắc với các quan điểm hiện thời của chúng ta mạnh mẽ chừng nào. Tôi chỉ tăng trưởng tâm thức khi thăng vượt các quan điểm hiện tại của mình và với lên một tầm nhìn cao hơn. Điều này cũng áp dụng với bạn. Nếu tôi thấy mình bị ám ảnh cưỡng chế muốn thuyết phục người khác là tôi đúng, tôi sẽ quan ngại và bắt đầu tìm cái ngã đằng sau dính mắc này.

Sau những lần tiếp xúc với những người có quan điểm mạnh mẽ về Covid và ông Trump, tôi bắt đầu xem xét tại sao tôi có phản ứng về điều này. Tôi nhận ra tôi cảm thấy mình có trách nhiệm với họ và bởi vì họ học các giáo lý được trao truyền qua tôi, tôi phải có khả năng giúp họ khắc phục dính mắc của họ. Tôi nhận ra tôi cảm thấy mình phải có khả năng tìm ra một luận cứ có thể thuyết phục những người này thấy được nhu cầu thay đổi. Và nếu tôi không thuyết phục được họ thì, vì lý do nào đó, tôi khiếm khuyết.

Tôi đang làm việc với tập đoàn các ngã này trong một thời gian khá dài. Tôi chưa thấy rõ là việc viết bài này có nghĩa là tôi đã khắc phục được chúng, hay tôi cần viết để thấy ra điều gì tôi chưa thấy. Để xem sao.

Điều tôi thấy được là khi tôi thăng thiên, không có quan điểm nào mà tôi có trên trái đất quan trọng nữa. Tôi sẽ không mang theo quan điểm trần thế của mình lên thiên đàng. Để tới được trạng thái thăng thiên, tôi phải buông bỏ TẤT CẢ các quan điểm thế tục của mình. Điều quyết định tôi thăng thiên không phải là những gì tôi nắm giữ nhưng chính là những điều tôi buông bỏ. Như những thiền gia nói, tôi không thể ôm chặt quan điểm của mình.

1.6. Cởi mở nhưng không mở quá

Từ thuở bé, tôi đã có cảm nhận là tôi luôn luôn cần tìm cái mà tôi gọi là tầm nhìn cân bằng và tránh bị lôi cuốn vào những quan điểm cực đoan. Điều này nghe hơi có vẻ mâu thuẫn vì nhiều người “bình thường” (như gia đình tôi) coi những quan niệm tâm linh của tôi là cực đoan. Hiển nhiên, người tâm linh cởi mở hơn người trung bình, bằng không chúng ta đâu mở tâm đón nhận một giáo lý tâm linh. Tuy nhiên, có một khuynh hướng là một số người tâm linh không biết ngừng ở đâu và hậu quả là họ mở tâm đón nhận quá nhiều thứ đến độ rốt cuộc họ cảm thấy hoang mang và bị choáng ngợp.

Tôi sống ở Montana khi tổ chức Ngọn Hải đăng trải qua giai đoạn được gọi là chu kỳ trú ẩn và họ xây dựng hầm trú ẩn chống bom khi có chiến tranh hạt nhân. Tôi thấy nhiều người làm việc này một cách rất mất cân bằng và họ tin thế giới sẽ tận thế. Thực tế là chính tổ chức Ngọn Hải đăng có một quan điểm mất cân bằng và đã xây dựng những hầm trú ẩn để sống sót những trận dội bom và có đủ lương thực để tồn tại bảy năm (chuyện này thực sự phá sản tổ chức). Tôi không bị lôi kéo vào tư duy này vì tôi cảm nhận bằng trực giác là nó quá mất cân bằng. Tôi cũng có cảm nhận trực giác là chiến tranh hạt nhân sẽ không xảy ra.

Tôi biết một người đã nhiều lần tin rằng thế giới sắp sửa tận thế. Ông nghĩ chuyện sẽ xảy ra vào mùa xuân sắp tới và ông tin như vậy đều đặn 30 năm nay. Thế mà ông không tự hỏi có điều gì trong tâm thức mình đã khiến ông dễ tin vào điều này hết lần này đến lần khác.

Sau đó tới chuyện Q-Anon và nhiều thuyết âm mưu khác. Tôi xem qua chúng và có thể đọc được bằng trực giác năng lượng hay sự rung động đằng sau chúng, và tôi biết cần tránh xa. Tôi nghĩ Q-Anon là trò hề cho tới ngày có một người giết con gái mình vì ông nghĩ cô bé có DNA của quỷ và một ngày kia sẽ lớn lên thành quái vật.

Tôi chấp nhận sa nhân hiện hữu và họ có ảnh hưởng lớn trên xã hội nhưng tôi không chấp nhận là có một nhóm nhỏ kiểm soát toàn thế giới. Tôi chấp nhận là có những kẻ hiếp dâm trẻ thơ nhưng khi một lý thuyết nói rằng họ đều là thuộc đảng Dân chủ thì tôi chỉ giản dị nhún vai.

Tôi đã tới điểm nhận ra rằng cân bằng mà tôi tìm không quả thực là cân bằng vì nó không là điểm ở giữa hai đối cực. Thày Gautama không xem Trung đạo là điểm nằm giữa hai đối cực nhưng là sự thăng vượt toàn bộ tâm thức chứa đựng các đối cực và điểm giữa hai đối cực.

Tôi đã gặp nhiều người tâm linh không nắm bắt được nhu cầu tìm cân bằng – hay trung hòa. Tôi nghĩ kết quả hiển nhiên nhất của sự việc này là họ không có trực giác rõ ràng. Nếu chúng ta không trung hòa, ta khó đọc được rung động năng lượng của người và ý kiến. Điều này có nghĩa là họ bị lôi kéo vào một số luận cứ và sau đó tâm lý trí của họ che mờ trực giác của họ. Họ nghĩ họ có cái biết trực giác là một lý thuyết nào đó có giá trị nhưng họ không thấy được đây không phải là trực giác trung hòa.

Như một ví dụ, tôi mường tượng là người muốn thuyết phục tôi cuộc bầu cử có gian lận sẽ nói rằng trực giác của ông nói cho ông biết đã có gian lận và trực giác của tôi không rõ ràng trên điểm này. Người tin rằng thế giới sẽ tận thế vào mùa xuân cũng sẽ nói trực giác của ông nói cho ông điều này. Thực tế là ông đã nói nhiều lần dù tôi là người sứ giả, ông xem mình tiến hóa tâm linh cao hơn tôi và đó là lý do tại sao ông thấy được các lý thuyết này có giá trị. Ông là người anh lớn giữ cân bằng cho tôi cho tới khi tôi trưởng thành đủ để thấy điều ông đã thấy rồi.

Chắc chắn rằng tôi vẫn còn có thể học những điều mới và thấy được điều mà tôi chưa thấy bây giờ và điều này xảy ra gần như mỗi ngày. Nhưng có thể tôi là một sứ giả cho các chân sư bởi vì tôi có sự cân bằng hay trung hòa nào đó, có nghĩa là tôi không có quan điểm mạnh mẽ là các chân sư phải nói hay không được nói điều gì? Tôi không muốn các chân sư xác chứng một lý thuyết mà tôi dính mắc và điều này có nghĩa là tôi có thể cho phép các chân sư nói điều các thày muốn nói, không phải nói điều mà tôi hay ai khác nghĩ các thày phải nói.

Đối với tôi, có một điểm trên đường tu mà chúng ta không đi quá được cho tới khi chúng ta vượt lên trên những đối cực và cố gắng có một tâm trạng trung hòa. Tôi không nói chuyện này dễ làm nhưng tôi thấy một số người còn chưa nắm bắt cần phải làm vậy và như thế có nghĩa là họ đang không tiến về hướng này. Họ tiếp tục bị lôi kéo vào những lý thuyết mất cân bằng và có phản ứng mạnh và đấy không phải là cách tăng triển nhanh nhất.

1.7. Tới một điểm và không muốn đi xa hơn nữa

Cách đây ít lâu, một người bắt đầu đăng trên mạng là theo ý của người đó tôi không còn là một sứ giả chân chính nữa. Lập luận của người đó là những quyển sách đầu trong bộ Con đường tự điều ngự có giá trị, nhưng kể từ quyển sách về Tình thương của Paul người Venice, tôi đã nhận được những thông điệp giả.

Tôi đã gặp người này và ông là một người có vấn đề trong quan hệ với người khác và đang sống một mình. Câu hỏi của tôi là: Có thể chăng thày Paul người Venice đã thách thức quan điểm của ông về quan hệ với người khác, và ông quá dính mắc vào quan điểm này đến độ không chịu xem xét mình có cần thay đổi nó hay chăng? Để biện minh cho việc không chịu thay đổi, ông phải chối bỏ tôi là sứ giả, và qua đó cho ông một cái cớ để không xem xét các giáo lý được trao truyền sau điểm đó, tuy các giáo lý này thực ra có có khả năng giúp ông khắc phục ngã tách biệt đó.

Tôi đã thấy trong tổ chức Ngọn Hải đăng có những người tới một điểm họ có cái gì mà họ không chịu nhìn trong chính họ, và để biện minh chuyện này họ chối bỏ người sứ giả. Nhiều năm trước đây, bà Elizabeth Clare Prophet nhận được một bài truyền đọc từ thày Maitreya dạy nên ngừng ăn đường. Cả một nhóm đệ tử ở nước Đức đã chối bỏ không nhận bà là sứ giả, và lý lẽ đưa ra không phải là những gì thày Maitreya đã nói về việc ăn đường mà vì thày đã nói với cường độ quá cao nên họ cho rằng thày Maitreya thật không bao giờ coi nhẹ quyền tự quyết như vậy.

Đối với tôi, tôi thấy thật rõ ràng là giá trị thật của các chân sư thăng thiên ở chỗ các thày không ở trong tâm thức đang bao trùm trái đất. Do đó, các thày có thể thách thức chúng ta xét lại một số điều mà chúng ta coi là đương nhiên. Nếu chúng ta không chịu cho phép ai thách thức một quan điểm nào đó của mình, thì tôi nghĩ đây là một dính mắc. Khi ta quá dính mắc vào một quan điểm thế gian đến độ chối bỏ các chân sư thăng thiên, thì thái độ này không thể nào đưa tới tăng trưởng tâm linh.

1.8. Là người đặc biệt

Trong phái Thiền Siêu việt (transcendental meditation) có nền văn hóa coi mình đặc biệt vì đang cứu rỗi thế giới qua việc thiền quán. Trong tổ chức Ngọn Hải đăng, nền văn hóa của tổ chức là chúng tôi đang cứu rỗi thế giới qua việc đọc chú và chúng tôi có giáo lý tâm linh cao nhất trên hành tinh, có nghĩa là chúng tôi là những đệ tử tâm linh tiên tiến nhất trên hành tinh. Quý vị có thể tìm thấy bất cứ tổ chức tâm linh nào và thấy là các thành viên cảm thấy họ đặc biệt vì giáo lý hay vị đạo sư của họ.

Có một giai đoạn trên con đường tâm linh khi chúng ta dùng giáo lý tâm linh để khiến mình cảm thấy đặc biệt. Điều này dễ hiểu vì đa số chúng ta là người đã bị xã hội phản tâm linh gạt bỏ. Nhưng đây chỉ là một giai đoạn, vì khi chúng ta đi quá tầng tâm thức thứ 96, thì nhu cầu cảm thấy đặc biệt dần dần phai mờ cho tới khi nó không còn quan trọng nữa. Trọng điểm của tâm thức Ki-tô là nhận ra cái một trong mọi sự sống, và bạn không thể làm điều này khi cảm thấy mình hơn người khác.

Một thí dụ là một nhóm đã giúp tôi tổ chức hai buổi hội nghị. Khi tôi gặp nhóm này lần đầu, tôi thấy rõ là nhóm này có một động lực khiến tôi tự hỏi tại sao họ lại mời tôi đến. Nhóm này được thành lập bởi một người mà đa số nhóm coi là thày tâm linh của họ. Ông này không nói tiếng Anh nên tôi không trao đổi nhiều với ông, nhưng ông đòi hỏi một sự dấn thân và trung thành khá cao từ các thành viên, và đây là một điều mà tôi không làm. Tuy thế, hội nghị đầu là một trải nghiệm tích cực.

Tại hội nghị thứ nhì, tôi cảm thấy rõ ràng có một sự xoay chuyển trong năng lượng và không khí có điều gì căng thẳng. Sau đó tôi được biết là vị lãnh đạo nhóm chờ đợi các chân sư xuyên qua tôi sẽ tấn phong ông làm sứ giả cho nước ông. Khi chuyện này không xảy ra thì ông phải tìm một lời giải thích, và lời giải thích là tôi không còn là sứ giả của các chân sư thăng thiên nữa.

Lời giải thích bên ngoài mà ông đưa ra là quyển sách Những kiếp sống của tôi không thể do các chân sư truyền cảm hứng. Tôi thấy điểm này lý thú vì quyển sách được trình bày như một câu truyện, và như vậy có nghĩa là không nên coi mọi chuyện trong đó là sự thật tuyệt đối. Nói cách khác, độc giả được tự do coi một số chuyện trong đó là hư cấu. Nhưng những người trong nhóm đã hiểu quyển sách một cách tuyệt đối, và sau đó chỉ trích nó dựa trên cách hiểu đó. Họ đặc biệt khó chịu câu chuyện nhân vật trong sách đổi xác với Giê-su trong tiến trình phiên tòa kết án Giê-su.

Nhóm đó tiến hành một giai đoạn mà họ gọi là phân biện trong đó họ so sánh những bài truyền đọc của tôi với các bài của bà Elizabeth Clare Prophet. Các thành viên được chỉ thị dùng trí phân biện của riêng mình, nhưng vị lãnh đạo và đa số thành viên lấy quyết định là tôi không còn là sứ giả nữa. Những thành viên không cùng phân biện giản dị bị đẩy ra khỏi nhóm. Một số bị áp lực thay đổi sự phân biện ban đầu của họ và đồng tình với người lãnh đạo.

Sau đó tôi được biết là trong nhóm có một nhóm nhỏ thuộc những người thân cận của vị đạo sư. Tôi được biết nhóm này coi họ là những người tâm linh tiên tiến nhất trên hành tinh. Do đó tôi có thể tưởng tượng là họ chờ đợi các chân sư tấn phong vị lãnh đạo của họ qua tôi. Thay vào đó, tôi nhận được một bài truyền đọc từ thày Sanat Kumara nói rất thẳng là chúng ta cần vượt qua cảm nhận mình đặc biệt. Tôi được biết là vị lãnh đạo cho rằng thày Sanat Kumara thật sẽ không bao giờ nói một chuyện như thế.

Một thành viên của nhóm viết thư cho tôi nói rằng vì 35 người trong nhóm họ đã quyết định tôi không còn là sứ giả nữa, nên tôi đương nhiên phải chấp nhận sự phán xử đó và từ chức sứ giả. Tôi không trả lời vì tôi không thấy làm sao có thể đi tới được các vị đó. Thay vào đó, tôi chú tâm  vào việc phụng sự mấy ngàn người trên thế giới nghĩ rằng tôi vẫn là một sứ giả của các chân sư thăng thiên.

Tôi nghĩ rằng các người đó tìm cách dùng tôi và giáo lý được trao truyền qua tôi để xác chứng nhu cầu cảm thấy đặc biệt của họ. Điều này không dễ làm với giáo lý được trao truyền qua tôi, và đồng thời cũng vì tôi không tìm cách khiến người khác cảm thấy đặc biệt. Như có lần tôi đã nói: “Bạn có thể khiến người khác làm bất cứ điều gì cho bạn nếu bạn khiến họ cảm thấy đặc biệt đủ, nhưng tôi giản dị không cần điều này.”

Tôi biết chắc là khi các người đó tố cáo tôi không còn là sứ giả nữa thì họ cảm thấy rất đặc biệt. Dù sao thì họ đã nghĩ tôi trước đó là một sứ giả chân chính và họ đã nhận ra điều này, do đó họ đặc biệt. Giờ đây họ nhận ra tôi không còn là sứ giả nữa, và như vậy họ đặc biệt hơn tôi vì họ thấy được điều này.

Chủ đề của bài viết này là những gì giúp chúng ta tăng trưởng. Những người đó có tăng trưởng chăng khi nhận ra tôi là một sứ giả, khi họ không thực sự áp dụng giáo lý? Và họ có tăng trưởng chăng khi họ tố cáo tôi, hay họ chỉ đơn giản củng cố cái ngã kẹt trong tầng tâm thức vẫn còn nhu cầu cảm thấy mình đặc biệt? Và phải chăng họ đã củng cố cái ngã ở tầng cho rằng mọi sự phải trắng hay đen, hoặc cái này hoặc cái kia?

Khi tôi mới vào con đường tâm linh thì tôi có nhu cầu cảm thấy mình đặc biệt, và nền văn hóa của nhóm Ngọn Hải đăng cho tôi phương tiện để xây dựng cảm nhận này. Vì tôi đã nâng tâm thức mình lên nên vấn đề cảm thấy đặc biệt dần dần phai mờ đi. Ta có thể lập luận là trong cương vị một người sứ giả, tôi có thể dễ dàng nâng mình lên vị thế người rất đặc biệt, nhưng tôi nhận ra tôi không còn nhu cầu so sánh mình với người khác. Tôi không muốn tương tác với người khác với quan niệm mình hơn họ. Tôi muốn tương tác với người khác mà không ở trong động lượng nhị nguyên, hơn thua hay bằng.

1.9. Coi mình rất hệ trọng

Năm 2009 tôi ly dị người vợ thứ nhì của tôi, và lúc đó chúng tôi lãnh đạo một phong trào tâm linh nhỏ. Bà quyết định tấn công tôi trên mạng Internet, tố cáo tôi không là sứ giả và tìm cách mô tả tôi là một người chồng không xứng đáng. Một nhóm nhỏ theo bà trong khi đa số ở lại với giáo lý được trao truyền qua tôi.

Ngay từ đầu tôi đã biết là tôi không thể cho phép mình trả lời các lời cáo buộc mà bà loan tải trên trang mạng của bà, qua điện thư và trên Facebook. Trong tâm ý thức của tôi, thì lý do một phần là tôi không muốn khiến bà đau đớn bằng cách chứng tỏ bà sai, và phần kia vì tôi nhận ra tôi không có hy vọng thuyết phục được bà và những người theo bà. Tôi có thể thấy bà và các người theo bà đã xoay chuyển tâm họ vào một trạng thái tâm khiến tôi không thể tới họ. Do đó, thay vì bỏ thì giờ tìm cách thay đổi người tôi không có hy vọng giúp đỡ, tôi chú tâm vào việc giúp đỡ người mà tôi có thể giúp đỡ.

Lúc đó tôi có cảm nhận là có một khai ngộ quan trọng mà tôi cần trải nghiệm khi tôi để cho bà nói bất cứ gì bà muốn nói về tôi. Tôi nghĩ lúc đầu bà muốn tôi lên tiếng đáp trả để bà có thể lôi tôi vào một cuộc chiến không bao giờ dứt, như bà đã từng làm với một số người khác. Khi tôi không hồi đáp thì bà nhận ra là bà có thể nói bất cứ gì bà muốn và bà bắt đầu đưa ra những lời cáo buộc đi ngược lại sự thật, có khi còn là chuyện hoàn toàn dựng đứng. Tôi nghĩ bà bị kẹt trong nhu cầu giữ chú ý của các người theo bà bằng cách liên tục đưa ra những chuyện động trời về tôi.

Phải nhiều năm sau tôi mới nhận ra đây là, đối với tôi, một trải nghiệm tương tự như bị đóng đinh trên thập tự. Có thể nói tôi bị đóng đinh trên mạng Internet và tôi bất lực không thể tự bảo vệ. Tôi không thể bước xuống khỏi cây thập tự. Điều tôi có thể làm được là nhìn vào phản ứng của mình và xem xét mình có thể học hỏi được gì từ trải nghiệm. Tôi quả thấy nhiều điều tôi có thể học, nhưng tôi xin nêu ra ở đây một hai điểm liên quan đến đề tài của chúng ta.

Nếu lượng định một cách khách quan thì tôi đã là một người chồng tốt hỗ trợ người vợ thứ nhì của tôi trong suốt 20 năm. Tôi cảm thấy bất công là tôi bị cáo buộc là người chồng xấu xa nhất từ trước đến nay. Khi tôi chiêm nghiệm chuyện này, thì một hôm tôi chợt nhận ra: “Tôi có một dính mắc với chuyện được coi là một người tốt”. Ngay tức khắc tôi nhận ra điều này đúng. Được người khác xem mình là người tốt là điều rất quan trọng đối với tôi. Khi tôi nhìn sâu hơn thì tôi nhận ra tôi có một hình ảnh về mình như một người tốt không bao giờ muốn tổn thương ai, và điều này trên căn bản là một chiếc áo tù buộc tay tôi. Lúc nào tôi cũng phải sống đúng theo hình ảnh này. Cho tới nay, điều này không khó làm nhưng nay tôi bị tố cáo oan thì vấn đề trở nên hiển nhiên cho tôi. Tôi bắt đầu làm việc trên dính mắc này và dần dần buông bỏ nó. Để làm được chuyện này, tôi phải buông bỏ tất cả mọi dính mắc đến cách người khác nhìn tôi và nói về tôi. Lẽ tất nhiên, đây là một bước nhất thiết cho một người có hiện diện trên mạng Internet.

Trong khi tôi tiếp tục suy ngẫm thêm (tiến trình này kéo dài vài năm), thì một hôm tôi thấy là đặc tính chính của bà vợ trước của tôi là bà lúc nào cũng coi mình hệ trọng. Bà lúc nào cũng tin chắc là khi bà nói điều gì, thì mọi người không những phải tin bà mà còn phải coi điều bà nói cũng hệ trọng như bà. Do đó, sau khi bà tuyên bố là sau khi ly dị bà, tôi nay đã trở thành một sứ giả giả hiệu, thì bà chờ đợi là mọi người phải chấp nhận điều đó. Tôi không nghĩ bà có thể tưởng tượng là người khác có thể nhìn bà và không tin chuyện này đúng. Tôi không nghĩ bà hiểu được một số người có thể đọc được sự rung động của bà và thấy sự việc bà tự nhận mình là một người tiến bộ cao đồng thời làm đủ mọi chuyện để miệt thị một người khác, là điều không hợp lý.

Sau đó tôi nhận ra là trong đời tôi, tôi đã từng gặp nhiều người cũng coi họ rất hệ trọng. Đúng theo thói quen của tôi, tôi bắt đầu xem xét vì sao tôi lại gặp quá nhiều người như vậy, hay nói cách khác tôi cần nhận được thông điệp gì từ những người như thế. Sau một thời gian, tôi chợt nhận ra: “Tôi cũng coi mình quá hệ trọng!” Đây là một kết luận không dễ vì tôi có thể thấy tôi luôn luôn là một người có nhận biết về chính mình, có thể nói là tự giác quá độ. Tôi luôn luôn sẵn sàng chất vấn chính mình, là điều mà nhiều người nghiêm trọng đó không chịu làm. Nhưng tuy tôi sẵn sàng chất vấn chính mình, tôi vẫn có hình ảnh mình là một người tốt, giống như một Hoàng tử cỡi Ngựa trắng, và tôi coi hình ảnh này rất hệ trọng. Tôi cũng có một số ý tưởng thế nào là một người tâm linh, thế nào là một vị thày tâm linh mà tôi coi là hệ trọng. Do đó, tôi nhận ra là điều mà tôi thấy nơi người khác tôi cũng cần thấy nơi chính mình.

Tôi thấy rõ là tôi giản dị phải buông bỏ ngã đó. Tôi đã có được đôi chút tiến bộ, nhưng phải đợi đến khi các chân sư trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ, tôi mới thật sự đột phá. Tôi nhận ra, như một avatar, tôi đã tới trái đất với thiện ý cao nhất, nhưng khi sa nhân cáo buộc tôi đủ thứ chuyện, thì việc này khiến tôi tạo ra một ngã gốc cố hết sức bảo vệ hình ảnh tôi là một người tốt. Sau một thời gian, tôi có một số đột phá khác, và tôi đạt được một xoay chuyển trọng đại trong đời khi bỗng nhiên tôi nhận ra là không có gì trên trái đất hệ trọng như tôi nghĩ chúng là. Không có quy luật hoàn vũ nào đòi hỏi tôi coi bất cứ chuyện gì trên trái đất là hệ trọng.  

Điều tôi muốn nói ở đây là tôi hoàn toàn hiểu là có những người coi ông Trump, cuộc bầu cử, chủng ngừa và việc đeo khẩu trang là những chuyện rất hệ trọng. Tôi không đang tìm cách khinh dễ những người đó. Tôi chỉ giản dị muốn nói là ở bất cứ giai đoạn nào trên đường tu, điều mình có thể thấy và điều có vẻ hệ trọng là một sản phẩm của tầng tâm thức của mình. Tiến bộ tâm linh là nâng cao tâm thức, và khi chúng ta làm chuyện này, sẽ tới một điểm những gì trước đó mình thấy rất hệ trọng lúc này không còn hệ trọng nữa. Khi tôi duyệt qua chuyện xảy ra ở tổ chức Ngọn Hải đăng, thì tôi thấy tôi đã coi hoàn cảnh và chính tôi rất hệ trọng. Nhưng ngày hôm nay, 30 năm sau, tôi không còn coi chuyện đó hệ trọng chút nào cả.

1.10. Có phân biện Ki-tô, hay không có

Có một người rất nhiệt tình muốn thuyết phục tôi là quả thực có một gian lận vĩ đại trong kỳ bầu cử vừa qua tại Hoa Kỳ. Đối với tôi, sự khăng khăng của ông rõ ràng do một dính mắc, nhưng dính mắc cái gì? Ông tuyên bố trên trang Facebook của ông là ông tin có gian lận vì ông có phân biện Ki-tô. Ông nói ông đã bỏ công nghiên cứu vấn đề, nhưng tôi thì không và đó là lý do vì sao tôi không chấp nhận có gian lận. Như vậy, có thể chăng là hai người đều có phân biện Ki-tô nhưng tới những kết luận khác nhau?

Tôi nhớ là khi tôi ở Ngọn Hải đăng, có một giai đoạn tôi cảm thấy tôi đã đạt được phần nào phân biện Ki-tô, và tôi cảm thấy tôi phân biện giỏi hơn những người không tâm linh. Điều này có lẽ đúng, nhưng ngày nay tôi thấy là thời ấy tôi vẫn còn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tư duy cuồng đại và lối suy nghĩ trắng đen. Tôi nghĩ mọi chuyện phải được đặt trên thang điểm tốt xấu, đúng sai. Do đó, tuy lúc trước tôi có một phần phân biện Ki-tô, nhưng cũng có nhiều lớp phân biện cao hơn mức phân biện tôi có thời đó.  

Điều mà tôi thấy nơi nhiều người, trong đó có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, là chúng ta trải qua một giai đoạn trong đó ta có một phần phân biện Ki-tô, nhưng nó bị pha màu bởi một số ngã tách biệt mà ta chưa khắc phục. Có nghĩa là chúng ta ở trong giai đoạn mong manh sau khi đã vượt qua khai ngộ thứ nhất của Ki-tô (nhận diện Ki-tô) nhưng chưa vượt qua khai ngộ thứ nhì, là lúc chúng ta ngưng không ép Ki-tô vào hộp tư duy của mình. Do đó chúng ta tìm cách dùng giáo lý chân sư thăng thiên và điều ta nghĩ là phân biện Ki-tô để chứng thực các ý kiến mà chúng ta tha thiết. Tự ngã vui sướng khi chúng ta đi vào phản ứng này vì lúc đó chúng ta thực sự bị kẹt cứng.

Làm sao chúng ta biết là mình chưa đạt được tầng cao nhất của phân biện Ki-tô? Ấy, khi chúng ta còn hiện thân trong thân thể vật lý thì chúng ta CHƯA đạt được tầng cao nhất của phân biện Ki-tô, vì tầng này chỉ đến khi ta nhìn thấu suốt ảo tưởng cuối cùng ở tầng 144. Tuy thế, chúng ta có thể đo lường bằng cách nhìn xem chúng ta có dính mắc vào một vấn đề, ý kiến hay hình ảnh về mình nào chăng. Chúng ta coi vấn đề hay chính mình quan trọng đến chừng nào? Nếu chúng ta không trung hòa trước một vấn đề, thì chúng ta không thể có phân biện trong sáng nhất về vấn đề đó.

Tỷ dụ, tôi dùng phân biện Ki-tô của mình để quyết định chủng ngừa bệnh Covid. Tôi không có vấn đề với ai khác nói rằng họ đã dùng phân biện Ki-tô của họ để quyết định không chủng ngừa. Nhưng nếu một người biện minh rất mạnh mẽ là người khác phải hay không nên chủng ngừa, thì tôi nghĩ người đó chưa đạt được một tầng phân biện Ki-tô cao. Tôi càng đi xa trên con đường tu thì càng cảm thấy ít có nhu cầu thuyết phục người khác. Lẽ tất nhiên từ lâu tôi đã khắc phục ham muốn lúc nào cũng đúng, và đây cũng là chỉ dấu khác của phân biện Ki-tô.

Ở trong Ngọn Hải đăng, đa số cho rằng bản chất của phân biện Ki-tô là khả năng biết đúng hay sai trước mọi vấn đề, nhưng phân biện này bị tô màu bởi tư duy trắng đen. Khi chúng ta nâng mình lên khỏi tư duy này, thì ta nhận thấy là trên một hành tinh như trái đất, không có gì thực sự trắng hay đen, vì vấn đề thực là làm sao nâng cao tâm thức con người – và điều này có nghĩa là vượt quá việc quy định mọi chuyện đúng hay sai.  

Chúng ta cũng bắt đầu thấy là vượt lên trên tất cả các khác biệt bên ngoài và xung đột, có một nhân tính cơ bản và thiết yếu. Chúng ta thấy cái một đằng sau sự khác biệt. Tôi không bao giờ quên lần tôi nói chuyện mới một người đàn ông Mỹ, và ông này kể cho tôi là ông bị gọi đi quân dịch và gửi đi Việt Nam khi ông 17 tuổi. Tôi nói: “Đúng vậy, ông lúc đó chưa đủ tuổi đi bầu nhưng đủ tuổi giết một người khác.” Ông phẫn nộ trả lời: “Đúng vậy, hoặc bị giết!”. Câu chuyện này khiến tôi nhận ra là ông hoàn toàn chú tâm vào chính mình, do đó đối với ông khía cạnh tệ hại nhất của chiến tranh là bị giết. Đối với tôi, khía cạnh tệ hại nhất của chiến tranh là giết người khác.

Tôi thấy một số người lớn tiếng (họ lúc nào cũng lớn tiếng) nói về các nhân quyền cá nhân và chính phủ không có quyền ép buộc họ phải đeo khẩu trang hay chủng ngừa. Đối với tôi, đây không phải là phân biện Ki-tô, vì khi bạn có phân biện thì lẽ tất nhiên bạn thấy là các quyền cá nhân của mình không thể thực thi mà không ngó ngàng gì đến quyền cá nhân của 300 triệu người Mỹ khác. Hiến chương có thể quy định các quyền cá nhân, nhưng cách duy nhất mà một xã hội có thể vận hành tốt là các quyền cá nhân được quân bình cùng với tổng thể. Tôi không có quyền truyền cho người khác một căn bệnh có thể chết người vì tôi từ chối đeo khẩu trang hay chủng ngừa.

Khi phân biện Ki-tô của chúng ta gia tăng thì chúng ta bắt đầu nắm bắt giáo lý của các chân sư về phin lọc nhận thức. Ở bất cứ tầng nào trong số 144 tầng tâm thức ta có một phin lọc nhận thức ngăn cản ta thấy quá một tầm nhìn nào đó. Ta có một nhận thức giới hạn và đó là lý do vì sao ta coi một số chuyện quá hệ trọng. Tôi thấy được lợi ích rất nhiều khi nhận ra rằng khi tôi tiến lên các tầng cao hơn, những chuyện trước kia rất quan trọng với tôi nay không còn quan trọng nữa. Điều này giúp tôi nhìn phản ứng của mình và nhận ra thực ra không phải là TÔI đang phản ứng, mà chỉ là một ngã tách biệt không phải là cái ta thực của tôi.

Khi chúng ta còn đồng hóa mình với một ngã đặc thù, thì chúng ta chỉ có thể thấy một cách phản ứng duy nhất trước một hoàn cảnh, và đó là tìm cách thay đổi hoàn cảnh bằng cách giải bài toán do ngã quy định. Điều này sẽ không bao giờ cho ta an bình nội tâm vì ngay cả khi vấn đề được giải quyết, thì ngay lập tức một vấn đề khác hiện ra. Ta chỉ có an bình nội tâm khi ta từ chối giải quyết vấn đề và để cho ngã chết đi. Mỗi lần ta để cho một ngã chết đi thì ta cảm thấy tự do hơn vì ta có ít vấn đề cần giải quyết hơn. Mỗi lần ta để cho một ngã chết đi thì ta có an bình nội tâm hơn vì có ít điều kiện mà ta phải phản ứng lại hơn.  Khi chúng ta không còn ngã nào khiến ta phản ứng lại chuyện thế gian, thì ta giống như đức Phật ngồi dưới cội bồ đề, và các ác quỷ của Ma vương Mara không thể khiến thày phản ứng. Như Giê-su ta nói: “Hoàng tử của thế gian tới và không nắm được gì nơi ta.”

1.11. Thách thức thấy được tự ngã

Tất cả những điều tôi nói ở trên có thể tóm lược là suốt bao năm quan sát chính mình và các người tâm linh khác, tôi thấy một lằn ranh rõ rệt. Một số người nhìn ra được tự ngã của họ và tăng triển. Một số khác không thấy được tự ngã của mình và không nâng tâm thức, tuy họ có thể gia tăng hiểu biết trí năng về các đề tài tâm linh.

Nhìn ra tự ngã không phải việc dễ làm. Trong kinh Sáng Thế ký (Genesis) có nhận xét là con rắn là con vật “tinh tế” nhất trong loài vật. Tự ngã rất giỏi dùng lý luận của rắn để lẩn trốn hay ngụy trang, và ta cần sẵn sàng xem xét chính mình để lật tảy nó. Ta cũng cần sẵn sàng chịu nỗi đau đớn khi nhìn nhận: “Tôi không giỏi như tôi nghĩ vì tôi quả thật có tự ngã”.

Tôi đã mô tả hoàn cảnh trên Ngọn Hải đăng, và đó là lần đầu tiên tôi phải nhìn nhận tôi có một tự ngã. Đây là tình huống đau đớn nhất đời tôi vì tôi đã dùng giáo lý và nền văn hóa của tổ chức Ngọn Hải đăng để củng cố hình ảnh tôi là một người tốt. Tôi muốn là một đệ tử tốt của các chân sư thăng thiên, do đó khi vị sứ giả bắt tôi phải đối diện với cư xử dựa trên tự ngã của tôi thì tôi cảm thấy rất đau đớn. Tuy nhiên, chuyện này cũng dẫn tới đột phá lớn đầu tiên trên đường tu của tôi, do đó xứng đáng để chịu nỗi đau đớn.

Lúc đó tôi không nhận ra là nỗi đau đến từ một phần của tự ngã, một ngã tách biệt, và điều tuyệt vời về ngã tách biệt là ta có thể để chúng chết đi. Và khi ngã đó chết thì cơn đau biến mất. Điều tôi muốn nói là ta rất đau đớn khi lần đầu thấy tự ngã, nhưng lần thứ nhì sẽ không đau đớn bằng. Và chúng ta có thể tới điểm thấy tự ngã không còn gây đau dớn nữa vì ta đã cho hình ảnh mình phải toàn hảo chết đi.

Tôi thấy nhiều người có hình ảnh là như một người tâm linh – thường là người tâm linh rất đặc biệt – họ phải luôn tuôn toàn hảo. Tôi nhớ là trong nhiều năm có một số cư xử dựa trên tự ngã mà tôi giản dị không thể có vì chúng khiến tôi quá đau đớn. Khi chúng ta cảm thấy như vậy, thì trong tiềm thức chúng ta sẽ chống trả không chịu thấy tự ngã, nhưng như vậy thì làm sao ta tăng triển?

Quý vị hãy ghi nhận hoàn cảnh của tôi trong Ngọn Hải đăng. Lúc đó, tôi chỉ bày một số chuyện xảy ra trong đơn vị của tôi mà tôi nghĩ không hữu hiệu và không phù hợp với lề lối sinh hoạt chuyên nghiệp. Quả thực là vài năm sau, đơn vị có một người lãnh đạo khác và vị đó thực thi những gì tôi đề nghị tuy không hề thảo luận với tôi. Do đó, tôi có thể tiếp tục biện minh là lúc đó tôi đúng, nhưng làm vậy thì có giúp tôi tăng triển chăng?   

Vào lúc đó, tôi tin chắc là tôi chỉ hành động như vậy vì tôi không muốn tổ chức Ngọn Hải đăng phí phạm tiền của vì những thủ tục không hữu hiệu. Tôi chú tâm vào tình trạng bên ngoài, và tôi nghĩ tôi có thiện tâm khi chỉ trích cách sắp xếp công việc. Nhưng ngày nay tôi thấy rõ là cốt lõi câu chuyện không dính dáng gì đến hoàn cảnh bên ngoài, mà là cái gì đó trong tâm lý của tôi. Nói cách khác, tự ngã của tôi phóng chiếu là tôi là một người tốt đang tìm cách giúp đỡ, nhưng sự thực là tự ngã đang tìm cách nhận được sự chứng thực mà nó khao khát. Nếu tôi tiếp tục chú tâm vào hoàn cảnh bên ngoài, thì cho tới ngày nay tôi vẫn còn bị kẹt cứng trong động lượng của tự ngã. Giải thoát khỏi nó cho tôi một cảm giác nhẹ nhõm và tự do lạ thường.

Đi trên đường tu không phải lúc nào cũng vui sướng. Để thật sự thấy một khía cạnh của tự ngã, chúng ta phải sẵn sàng chịu đựng nỗi đau thấy hình ảnh mà mình có về mình bị vỡ tan. Khi bà Prophet bắt tôi phải đối diện tự ngã của mình, thì tôi cảm thấy y như thể hình ảnh mà tôi có về mình bị vỡ tan và tôi sắp chết. Câu hỏi là làm sao tới được điểm mình chấp nhận thấy điều đó, thay vì để tự ngã tiếp tục lẩn trốn?

Tôi có thể dễ dàng tránh tình trạng xảy ra cho tôi trên Ngọn Hải đăng. Bây giờ nhìn lại thì tôi thấy lúc đó tôi có mong muốn tăng triển càng nhanh càng tốt, và do đó tôi cứ tiếp tục xông tới cho tới khi bà Elizabeth Clare Prophet bắt tôi phải đối diện chính mình. Tôi cần bà làm chuyện này vì tôi coi bà như người có tầng tâm thức cao hơn tôi, và do đó tự ngã của tôi không thể khiến tôi phớt lờ hay biện minh chống những gì bà nói. Và đó là lý do vì sao tôi rốt cuộc lật tảy lớp ngụy trang của tự ngã, quyết định ngưng chú tâm vào hoàn cảnh bên ngoài và nhìn vào chính mình, và nhìn nhận: “Tôi là người cần thay đổi – không phải thế giới, không phải người khác, mà là TÔI!”

1.12. Nỗi đau khi nhìn thấy tự ngã

Tự ngã lúc nào cũng tìm cách đánh lạc hướng chú ý của mình để mình tưởng có một vấn đề bên ngoài quan trọng đến độ mình phải giản dị dồn hết chú tâm vào đó, có nghĩa là mình không phải nhìn vào chính mình. Chỉ trong năm vừa rồi tôi đã thấy một số người bị ám ảnh bởi ông Trump, cuộc bầu cử, khẩu trang, chủng ngừa, cách ly và tận thế đến độ họ không nhìn vì sao họ lại có phản ứng mạnh như vậy trước các vấn đề đó.

Tôi biết những người đó nghĩ vấn đề quả thực quan trọng đến độ thuyết phục người khác (trong đó có tôi) là họ đúng là điều tối cần thiết. Tôi thấy đây là cách cư xử của tự ngã, tuy tôi biết họ sẽ không thấy như vậy. Vì sao tôi lại có thể nói như vậy? Vì một khi bạn đã thấy một số động lượng dựa trên tự ngã nơi chính mình, thì bạn sẽ dễ thấy chúng nơi người khác. Khi bạn không còn bị tự ngã của mình lừa gạt, thì bạn không thể bị tự ngã của người khác lừa gạt.

Tôi không nói ra điều này để hạ thấp những người này vì họ có tự ngã. Nhưng tôi đang cố nói thẳng với mục đích giúp những ai mở tâm thấy là khi mình có một phản ứng mạnh với bất cứ gì trên trái đất, thì có tự ngã đằng sau. Phản ứng mạnh do đó trở thành một cơ hội để thấy tự ngã, nếu mình chịu tìm kiếm.

Tôi có nói là thấy mình có tự ngã là điều đau đớn, nhưng không thấy tự ngã cũng đau đớn. Động lượng dựa trên tự ngã đem lại đau đớn vì nó đến từ một chấn thương trong quá khứ mà chúng ta cố tình che phủ để có thể sống với nó. Trước khi có tình huống trên Ngọn Hải đăng, tôi có một động lượng dựa trên tự ngã và nó khiến tôi đau đớn triền miên. Tôi đã quá quen với nỗi đau đó nên không còn nhận ra nó. Thấy tự ngã và nhìn nhận rằng đó là tự ngã khiến tôi đau nhói, nhưng một khi tôi buông bỏ nó, thì cả nỗi đau nhói lẫn nỗi đau âm ỉ (liên quan đến khía cạnh đó của tự ngã) đều biến mất.

Tôi đã thấy những người nghĩ rằng họ rất đặc biệt và là đệ tử tâm linh rất tinh thông (ngay cả là thày tâm linh), nhưng tâm thức họ không thay đổi suốt nhiều thập niên. Lý do là hình ảnh mà họ có về chính họ ngăn cản họ nhìn vào chính mình và nhìn nhận là mình có một tự ngã. Một số những người đó còn tuyên bố là họ không có tự ngã. Tôi cũng thấy là những người đó ở trong nỗi đau triền miên, nhưng họ quá quen với nỗi đau nên không nhận ra nó. Tôi thấy đây là nỗi đau mà trước đây tôi cảm thấy, và tôi mong tôi có thể giúp họ giải thoát khỏi nó.

Chúng ta ai ai đều có tự ngã và ngã tách biệt. Trong một thời gian dài, tôi e dè không chịu nhìn nhận là tôi có một vài khía cạnh của tự ngã. Rốt cuộc tôi đã khắc phục được sự e dè đó và điều này đã khiến con đường tu của tôi dễ dàng hơn nhiều. Một khi bạn đã thấy một số ngã và cho chúng chết đi, thì thấy các ngã khác sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Tôi hy vọng là đa số những ai thấy giá trị của giáo lý chân sư thăng thiên sẽ tới được sự đột phá khi thấy và để tự ngã chết mà không còn đau đớn nữa. Tôi hy vọng là bài viết này sẽ giúp một số vượt qua trở ngại. Có một giai đoạn trên đường tu khi câu ngạn ngữ “không có đau đớn thì không có lợi lạc” là đúng. Nhưng có một giai đoạn cao hơn khi lợi lạc mà không có đau đớn – và đây là điểm mà tôi hy vọng bạn đạt được.