Đạo đức giả không cần ghi danh!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su ngày 5/7/2005 qua trung gian Kim Michaels.

Tự ngã mất hết quyền lực khi con thấy nó thật là gì

Ta là Giê-su. Ta cũng xin bồi thêm thần lực của ta cho phong trào các vị Bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Ta đến đây để ở lại với các con, và ta cam kết sẽ khai ngộ cho bất cứ ai sẵn lòng buông bỏ tự ngã của mình – bất cứ ai sẵn lòng vạch trần tự ngã để nhìn thấy nó thật là gì, và như thế tự tách mình và tách cái Ta Biết ra khỏi nhà tù của tự ngã. 

Quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng ta là một vị thày dễ tính. Nhưng ta là một vị thày thẳng thắn. Ta không đùa, và ta sẽ không đùa với bất cứ ai đến với phong trào này. Bởi vì nếu con không sẵn lòng buông bỏ tự ngã, con có thể tự do đi nơi khác, nơi người ta sẽ o bế tự ngã của con thay vì giúp con tách rời khỏi tự ngã.

Nhưng khi ta nói ta là một vị thày thẳng thắn, ta không bảo ta là một vị thày không yêu thương. Và điều quan trọng là con nên suy ngẫm về sự khác biệt này, vì thực sự, tình thương của ta là tình thương toàn hảo đánh bật mọi nỗi sợ hãi ra ngoài. Và ta biết thừa là nhiều người rất sợ tự ngã của mình bị phơi bày ra, sợ điều gì đó sẽ xảy ra cho mình khi mình không thể còn ẩn náu đằng sau các lý lẽ khôn ngoan mà cái tâm nham hiểm của Rắn đã nặn ra để lừa gạt các dòng tiến hóa trên hành tinh này.  

Hãy ngừng nhón gót chung quanh tự ngã

Quá nhiều học trò tâm linh đã nhón gót đi vòng quanh, tránh né đề tài tự ngã mặc dù chúng tôi, các chân sư, đã giảng dạy trong mấy tổ chức tâm linh trước rồi. Họ đã sợ rằng nếu tự ngã của họ bị phơi bày, họ sẽ phải trải qua một cơn biến động nào đó, họ sẽ đánh mất giá trị về bản thân, hay bằng nhiều cách, họ sẽ chìm vào một cơn khủng hoảng bản sắc.  

Thật ra con chỉ cần chuyển đổi ý niệm bản sắc của con đi một chút mà thôi. Con cần bắt đầu tự hỏi: “Biết những gì tôi biết về con đường tâm linh – và mục đích đạt được tự do trong tâm thức Ki-tô, mục đích chứng nghiệm được tự do rộng lớn khi mình vượt khỏi và đứng trên tự ngã – biết được những gì tôi biết, thực sự có thành phần nào của tự ngã mà tôi không sẵn sàng từ bỏ hay không, nếu tôi có thể nhìn thấy?” Và ta nghĩ khi con trầm tư về điều này, con sẽ thấy được trong tim con là quả thực không có điều gì mà con không sẵn sàng buông bỏ để đến gần hơn với tình yêu Thượng đế, để là con người mà con là, và biểu hiện con người đó. Khi con nhận ra điều này, con không cần phải sợ tự ngã nữa, hay sợ phải phơi bày tự ngã nữa.

Con sẽ không cần sợ mình phạm lỗi, vì dù con có làm lỗi thì điều đó hoặc sẽ phơi bày một phần của tự ngã, hoặc sẽ giúp con vượt qua tự ngã. Tự ngã không còn bất kỳ quyền năng nào trên con. Nó chỉ có quyền năng nếu con chưa nhìn thấy nó, hay con chưa thấy nó thực sự là ảo tưởng và như vậy con mới chưa thể tách rời khỏi nó. Ngay khoảnh khắc con nhìn thấy nó, và ngay khoảnh khắc con quyết định tách rời khỏi nó, nó sẽ không có quyền năng gì trên con nữa, và con sẽ bước tới đâm xuyên qua nó. Và khi con bắt đầu nhận ra điều này, con sẽ thấy con đường vượt khỏi tự ngã không khó lắm đâu. Đó không phải là một con đường đầy sợ hãi, không là một con đường đáng xấu hổ, không là một con đường nơi mình cảm thấy bại trận hay thua kém do mình vẫn còn khía cạnh này hay khía cạnh nọ của tự ngã.   

Con là nhiều hơn tự ngã rất nhiều. Và ta sẽ nhắc đi nhắc lại cho con rằng con là nhiều hơn. Con là nhiều hơn rất nhiều và đó là điều mà chúng tôi yêu thích. Và khi con nhận ra con nhiều hơn tự ngã đến chừng nào thì việc buông bỏ tự ngã sẽ không là vấn đề nữa. 

Thế đấy, cốt lõi của tự ngã chỉ có vậy – hoặc con không nhìn thấy nó, hoặc con không sẵn sàng bỏ nó đi. Tự ngã luôn luôn cố gắng lẩn trốn. Nó luôn cố nói với con là con không thể đi bước kế tiếp trên đường tu, con không thể bước ra ngoài cửa nhà tù. Nhưng rồi khi con nhận thấy con có khả năng tiến bước trên đường tu, nó sẽ cố bảo con là con thực sự không muốn bước tới hay con không được phép bước tới.

Tự ngã ngăn cản con đi bước kế tiếp

Trong bản chất, tự ngã chính là yếu tố ngăn con đi bước kế tiếp để đến gần hơn với Thượng đế. Thật sự, tự ngã cũng có nhiều đặc tính khác nhưng tinh túy của nó là nó ngăn con đi bước kế tiếp trên đường đạo. Và khi con bắt đầu ngộ ra điều này – và ngộ ra rằng phần lớn cái ta của con hoàn toàn nhất quyết đi bước kế tiếp đó – thì tại sao con lại sợ tự ngã? Tại sao con lại sợ nó được phơi ra? Con phải chào mừng khi thấy nó được vạch trần, bởi vì bây giờ con có thể nói: “À, tôi đã thấy nó rồi. Bây giờ tôi có thể buông nó ra.”  

Như ta có trình bày vào dịp lễ Phục sinh, chìa khóa để vượt qua và bước đi trên đường tu tâm linh là con phải từ bỏ tất cả những thứ gì không thực. Con phải buông nó ra, con phải cho nó ra đi. Nhưng con sẽ không thể buông nó, con sẽ không thể cho nó ra đi cho đến khi con đã sở hữu nó, đã nắm lấy chủ quyền trên nó. Cho nên có thể nói, tự ngã trước tiên sẽ cố ngăn con nắm lấy chủ quyền cái thành phần đó của tự ngã, ngăn con nhìn thấy hoặc nhìn nhận nó. “Phải, cái phần này của tự ngã còn nằm trong bình chứa ngã của tôi.” Và sau đó nếu con thấy nó rồi, nó sẽ cố ngăn cản con buông cho nó ra đi bằng cách khiến con nghĩ rằng con cần đến nó.

Và đây là chìa khóa – nhận ra rằng con sẵn sàng buông cho nó ra đi vì con yêu thích một điều gì khác hơn là ở lại trong vùng an toàn của con. Và ta sẽ có mặt ở đây để giúp tất cả những ai sẵn sàng buông cho tự ngã ra đi. Khi nào thích hợp hơn và các chu kỳ lần lượt trải ra, ta sẽ ban thêm một số giáo lý và dụng cụ tâm linh mới về đề tài này. Nhưng ngay bây giờ ta sẽ nói: “Saint Germain đã tuyên bố rõ ràng là thày sẽ không mất thì giờ với tự ngã của bất kỳ ai nữa. Nếu con muốn là một học trò của Saint Germain và giúp thày thị hiện Thời đại Bảo bình, thì con hãy vứt bỏ tự ngã của con trước khi con tiếp cận với thày.” Đúng thế, ta là vị thày sẽ giúp con vứt bỏ tự ngã đó để con có thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hầu đồng sáng tạo Thời Hoàng kim với Saint Germain.   

Con đường khiêm tốn toàn diện

Vì vậy ta sẽ treo lên một cái bảng, bởi vì ta đang tìm kiếm những ai sẵn sàng giúp một tay trong việc đồng sáng tạo Thời Hoàng kim. Có thể con đã thấy người ta dựng tấm bảng trước các cơ sở kinh doanh với dòng chữ: “Cần người giúp việc. Ghi danh bên trong.” Ta đang dựng tấm bảng này lên vì ta đang cần sự trợ giúp của con. Và con phải vào bên trong để ghi danh, có nghĩa là con vào trong nội tâm mình, bước vào bên trong, phát hiện tự ngã đó và buông cho nó ra đi.  

Tuy nhiên ta cũng có một số điều kiện. Hai ngàn năm trước đây, ta đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và năng lực để ứng xử với những người không sẵn lòng xét xem là mình có cần thay đổi, là mình có một tự ngã hay không. Đây là những người tự coi mình là toàn hảo, là minh triết, là người được Thượng đế chọn lựa và không cần thay đổi. Chỉ có người khác là có vấn đề, cần thay đổi mà thôi. Bảng hiệu của ta sẽ có dòng chữ lớn: “Cần người giúp việc. Ghi danh bên trong.’ Nhưng bên dưới cũng có hàng chữ nhỏ viết rằng: “Kẻ đạo đức giả miễn đăng ký.”

Con đường mà ta trao cho con là cùng con đường ta đã đưa ra 2000 năm về trước. Đó là con đường khiêm tốn toàn diện. Và ngay cả các môn đệ của ta đã sống ba năm với ta cũng đã không hiểu được trọn vẹn con đường này. Và đó là tại sao họ đã bắt đầu tranh cãi nhau để xem người nào là người cao cả nhất trong bọn họ sau khi ta ra đi. Ngay lúc đó, ta như bị giáng một cú vào đầu khi ta chợt hiểu: “Có nghĩa chăng là sau ba năm trời, họ vẫn chưa hiểu được thông điệp của mình? Họ vẫn chưa thâm nhập và thấy được đường đạo là gì?”  

Ngày hôm nay, tình thế của ta sáng sủa hơn nhiều vì hiện có nhiều người thấy được đường đạo là gì. Đó không phải là con đường đúng đắn cho phàm phu, tức là sự tôn vinh tự ngã, mà là con đường khiêm tốn toàn diện, buông bỏ mọi niềm kiêu hãnh của tự ngã, hầu con có thể bước ra khỏi nó và tự giải thoát. Đây là con đường mà ta trao cho con. Ta trao cho con với tất cả tình yêu thương. Và ta sẽ dẫn dắt con trong tình yêu thương cho tới điểm tự do đó. Nhưng ta cũng phải nói, tình thương không luôn luôn mềm mại, vì có khi con cần một bàn tay cứng rắn để con tỉnh ngộ. Và cách cư xử này của ta đối với con cũng liên quan đến cách con nên tiếp cận với người khác về con đường tâm linh.

Làm thế nào giúp Giê-su đánh thức người đời

Khi con tiếp cận với người khác và còn mắc kẹt phần nào trong tự ngã, con sẽ không nói gì trừ khi người ta hỏi, và điều này cũng hữu lý thôi. Con để yên cho họ hỏi, xong con cho họ điều mà họ cần. Tuy nhiên sẽ tới một điểm khi con đạt được một mức độ kết hợp với cái ta Ki-tô của con, và con có đủ sự tự do để không còn cố áp đặt tin tưởng của tự ngã lên người khác nữa. Trái lại, con thực sự đang sống, đang thở, để giải phóng loài người. Và con không rời Thượng đế của con, con luôn đồng bộ với Tượng đế của con.      

Ở điểm đó, con không còn cần phải bận tâm đến chuyện để cho người ta hỏi rồi mới trả lời, vì bây giờ con nhận ra là trên địa cầu có quá nhiều người còn mê ngủ, còn vướng chặt trong vô minh đến độ họ không biết hỏi cái gì. Họ không biết hỏi như thế nào, thậm chí họ còn không dám hỏi. Vậy thì làm sao họ có thể giải thoát được đây? Họ sẽ không thể giải thoát nếu con cứ ngồi ì ở đó chờ cho họ đặt câu hỏi, và họ sẽ không biết hỏi chuyện gì.

Vì vậy con phải là người chủ động, như ta đã từng làm rất nhiều lần trong đời ta. Ta đã đến với mọi người. Ta sẵn sàng bước ra trước mặt họ, nói khích họ và bảo: “Anh chị đang ngủ say! Anh chị cần thức dậy!” Ta đã sẵn lòng lật bàn của bọn đổi tiền đã len lỏi vào nhà thờ – tức là nhà thờ nội tâm của con tim và tâm trí – để buôn bán những sản phẩm dối gạt của chúng trong ngôi đền Thượng đế.  

Và khi con đạt đến một mức độ nào đó của tâm Ki-tô, con sẵn sàng sử dụng cách tiếp cận này – không nhất thiết một cách thiếu tình thương, nhưng sẽ tới một điểm khi con biết rõ trong thâm sâu cách tiếp cận nào là thích hợp nhất cho mỗi người. Và cho tới khi con nhận được sự hướng dẫn rõ ràng đó, ta gợi ý con nên tiếp cận như thế này: “Anh chị biết là có một cách hay hơn phải không? Anh chị biết là mình không cần sống qua những chuyện này? Anh chị biết là mình không cần phải chịu đựng vấn đề này. Anh chị thật sự có khả năng giải quyết. Anh chị có khả năng buông bỏ nó. Anh chị có muốn biết làm thế nào không?”  

Hay con cũng có thể nói: “Anh chị có biết là tôi cũng từng trải qua cùng vấn đề đó, và đây là cách tôi đã làm để vượt qua. Anh chị có muốn tôi giúp không?” Và nếu họ từ chối, có thể con sẽ thử thêm một lần nữa, tối đa ba lần. Nhưng nếu họ từ chối con ba lần, con hãy rút về và tự nhủ: “Tôi đã làm xong bổn phận của mình đối với dòng sống này, bây giờ tùy dòng sống đó có muốn vươn lên và yêu cầu sự giúp đỡ hay không.”   

Hãy cầu thì sẽ nhận được. Cho nên yêu cầu là một việc làm chính đáng. Nhưng như ta đã nói, nếu dòng sống đó không biết phải hỏi gì, phải yêu cầu gì, thì làm sao họ có thể hỏi được câu hỏi hữu ích? Vậy thì con hãy giúp họ bằng cách đặt câu hỏi cho họ. Giúp họ nhận ra là họ có thể biết nhiều hơn, có thể hỏi nhiều hơn về sự sống. Và nếu con hỏi ta thì ta sẽ, qua cái ta Ki-tô của con, giúp con giúp được người khác. Cho nên, con hãy ghi danh với ta ở bên trong.

Nhận biết sự Tĩnh lặng Bất tận!

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 5/7/2005.

TA LÀ Phật nơi đỉnh đầu,  tĩnh tọa trong thiên bào. Và con sẽ nhìn thấy ta khi Ánh sáng Mẹ được nâng lên đỉnh đầu và ngàn cánh hoa sen mở ra để hiển lộ Hiện diện của ta. Ta đến đây để trao uy lực của tất cả các vị Phật có liên hệ với địa cầu cho phong trào mới của các vị Bảo hộ Ánh sáng Mẹ bởi vì, quả thực, việc bảo hộ cho Ánh sáng Mẹ quan trọng đến như vậy. Đó là chìa khóa chủ yếu để thị hiện Thời Hoàng kim.  

Tại sao thời gian được tạo ra và như thế nào

Có một mối quan hệ quan trọng giữa Mẹ và Phật. Phật giữ sự quân bình cho không gian, trong khi Mẹ giữ sự quân bình cho thời gian. Không gian là gì? Thời gian là gì? Không gian là không gian nơi hình tướng có thể được thị hiện từ hư vô. Thời gian là một cảm nhận khoảng cách. Bình thường con nghĩ về không gian như là một khoảng cách, nhưng thời gian cũng là một khoảng cách, bởi vì kỳ thực, có thể nói là thời gian không hiện hữu. Và tại sao thời gian không hiện hữu? Vì thời gian không thực.  

Thời gian là một cảm nhận khoảng cách so với vị trí trong Dòng sông Sự sống mà đáng lý con đã đứng nếu con không dấn sâu vào tâm thức nhị nguyên và tách mình ra khỏi dòng chảy của Dòng sông Sự sống. Dòng sông cứ tiếp tục chảy khi con bước ra khỏi sông. Và sông cứ chảy tiếp nữa. Và chỗ đứng của con trong dòng sông sẽ tiếp tục bị bỏ trống chừng nào con còn ở lại trên bờ sông của nhị nguyên.

Và đó là cách mà Ánh sáng Mẹ cho phép con tạo ra ảo ảnh tách biệt riêng của con. Thế nhưng Quy luật của Thượng đế quy định rằng ảo ảnh không thể là ảo ảnh mãi mãi, bởi vì Thượng đế thương yêu con, và ngài không muốn con đời đời bị kẹt lại trong nhà tù mà chính con đã dựng lên cho con. Và như vậy, thời gian trở thành một hệ lụy của việc con bước ra khỏi Dòng sông Sự sống.  

Do đó, ngay khi con bước ra khỏi dòng sông đó, kim đồng hồ bắt đầu quay, và con sẽ không thể duy trì ảo ảnh đó mãi mãi. Sẽ đến một thời điểm khi con phải lấy quyết định tối hậu rằng con sẽ phục vụ cho ai. Liệu con sẽ chọn cái chết của sự tự hủy diệt, hay là cái sống của sự tái nhập vào Dòng sông Sự sống? Và khi con lao mình vào dòng sống đó một cách vô điều kiện – là những điều kiện mà con đã sử dụng để biện minh cho việc ở lại trên bờ – thì con sẽ nhanh chóng bắt kịp lại vị trí chính đáng của con trong dòng sông Thượng đế.  

Và khi con về lại chỗ đó, con vượt khỏi thời gian – cho dù con vẫn duy trì sự tập trung vật lý vào địa cầu, con có thể thực sự vượt khỏi thời gian. Và đó là tại sao những ai đã đạt đến giác ngộ đều nhận ra là tất cả mọi thứ trên địa cầu chỉ là tấm màn của Maya, tấm màn ảo ảnh, bởi vì rốt cuộc nó không thực. Đằng sau tất cả những thứ đó là Dòng sông Sự sống, và họ biết phần lớn Bản thể của mình ở trong dòng sông.  

Phật tọa thiền hoa sen

Rất nhiều người trong số các con vẫn tự hỏi: “Sứ vụ của tôi trên địa cầu này là gì? Tại sao tôi ở đây? Tôi đã đến đây để đem lại gì?” Chìa khóa để tìm ra tại sao con ở đây là kết nối lại với Tĩnh lặng của Phật. Đây là điều mà ta ban tặng cho con – sự tĩnh lặng – sự tĩnh lặng của Phật vượt khỏi những xáo động đang diễn ra trong cõi giới này của thời gian, Biển Luân hồi.

Và do đó ta cho con hình ảnh sau đây để con hình dung, khi con thấy mình trong nhịp sống hối hả của chợ búa, và con nhận biết con bị phân tâm, hay căng thẳng hay trĩu nặng, con hãy bước sang một bên và nói: “À, tôi đang bị vướng vào bùn ở đáy hồ. Nhưng bây giờ tôi sẽ tìm ra điểm tĩnh lặng trong tim tôi, tôi sẽ tìm ra hạt giống của hoa sen, và tôi sẽ để cho nó nẩy mầm, gửi một cuống hoa lên mặt nước.”

Và con hình dung Ánh sáng Mẹ màu trắng dâng lên từ gốc lên đến đỉnh đầu, và khi nó tới đỉnh đầu, đóa hoa sen ngàn cánh nở ra. Và bây giờ con đã hết ở trong bùn vì con đang ngồi như là Phật – với Hiện diện của ta chồng lên con – và con đang nổi trên mặt nước. Con đang nổi trên Biển Luân hồi, và không có gì bên dưới mặt nước có thể chạm vào con, bởi vì mặt nước này lặng yên như biển thủy tinh.   

Đó là tĩnh lặng. Và thỉnh thoảng, con hãy dành thời gian bước ra ngoài để tận hưởng tĩnh lặng. Thế gian quá ồn ào. Con hãy tắt máy thu thanh. Tắt âm nhạc. Rút phích điện những chiếc máy làm tiếng động mà người ta đã phát minh ra để ngăn con trải nghiệm Tĩnh lặng Bất tận.    

Kết hợp Phật và Ki-tô

Con đã được nghe về những Ngọn lửa của Thượng đế và ta sẽ giảng dạy thêm một chút cho con. Nhiều người trong số các con đã thắc mắc làm thế nào có một lời dạy tâm linh kết hợp Phật với Ki-tô. Đâu là mối liên hệ giữa Phật và Ki-tô? Này con, Phật và Ki-tô là biểu tượng cho hai trách vụ tâm linh nhằm dẫn dắt cuộc tiến hóa của địa cầu đến cứu rỗi, đến giác ngộ.

Phật và Ki-tô làm điều đó hai cách khác nhau. Phật là đấng ngồi trên mặt Biển Luân hồi, cầm giữ quân bình và viễn quan, cầm giữ sự quân bình toàn hảo cho Ánh sáng Mẹ. Ki-tô là đấng đi xuống Biển Luân hồi đó, đến với những ai bị lạc lối trong vô minh và không có khả năng đặt ra những câu hỏi sẽ giải thoát họ. Và thày ban cho họ một ly nước lạnh nhân danh Ki-tô.   

Điều này không có nghĩa là thày trao cho họ giáo lý tâm linh tối thượng, bởi vì thật sự nhiều người chưa sẵn sàng nhận lấy đâu. Và như vậy, khi Giê-su nói rằng con được quyền đi vào xã hội để lay động những ai còn đang bị kẹt, thày không muốn nói là con phải cho họ giáo lý tâm linh cao nhất mà con có thể với tới. Con cần hòa điệu vào tâm hồn người đó và tự hỏi: “Điều gì sẽ giúp cho dòng sống này bước đi bước kế tiếp? Đây là ly nước lạnh mà ta sẽ tặng họ”. Đó là chức năng của Ki-tô.

Khi con áp dụng điều trên vào khái niệm Ngọn lửa Thượng đế có hai phương diện, con có thể nói rằng ngọn lửa Alpha cũng là ngọn lửa của Phật. Đây là ngọn lửa giữ cân bằng cho địa cầu. Còn ngọn lửa Omega là ngọn lửa của Ki-tô. Đây là ngọn lửa mà con đem đến cho những ai còn lạc lối trong vô minh hầu họ có thể thức tỉnh. Chắc con đã có nghe Ki-tô là Hoàng tử của Hòa bình. Vậy Phật là Hoàng đế của Hòa bình. Phật ngồi trên ngai, cầm giữ viễn quan cho vương quốc, chỉ đạo cho hoàng tử đi vào đời và giải phóng những ai bị sa vào bùn.   

Cho nên, ngọn lửa của Ki-tô là Lời đã hiện thân. Và Giê-su đã chẳng nói hay sao – cho dù thày mang danh là Hoàng tử của Hòa bình – thày đã chẳng nói hay sao: “Đừng tưởng rằng ta đến để đem bình an cho thế gian. Ta đến để đem một thanh gươm” (Matthew 10:34)? Vậy thanh gươm này của Ki-tô là gì? Đó là Lời, là Lời hiện thân chẻ đôi cái thực khỏi cái không thực, hầu con người thấy tự ngã của mình và sự không thực của tự ngã, nhờ vậy mới có thể tự do chọn lựa tách mình khỏi tự ngã. Đó là thanh gươm của Ki-tô. Và đó là tại sao, thực sự, Ki-tô đã không đến để đem lại an bình cho thế gian. Thày đã tới để lay chuyển những ai bị kẹt trong vô minh, kẹt trong kiêu hãnh, kẹt trong đạo đức giả, và thách đố họ vươn lên cao hơn.   

Thày đã đến để phân rẽ anh em với anh em, trong ý nghĩa là thày thà nhìn thấy con người xung đột – vì xung đột sẽ phơi bày tự ngã, phơi bày những điều tồi tệ nhất trong họ – hầu họ thấy được khía cạnh này của tự ngã trong họ. Thày thà nhìn thấy loại xung đột đó – xung đột dẫn đến thăng tiến – còn hơn là nhìn thấy mọi người thờ ơ, mê ngủ, như thể tê dại, bước đi trong cuộc sống như người mộng du.  

Và thật vậy, Ki-tô đến để quấy rầy, để khuấy động, để khiến cho con người tỉnh giấc thờ ơ. Thế nhưng, Ki-tô là Hoàng tử của Hòa bình bởi vì chỉ khi nào con sẵn sàng chiến đấu với tự ngã thì con mới đạt được hòa bình đích thực của sự giải phóng khỏi tự ngã. Làm sao có được hòa bình nếu con người còn bị kẹt trong tự ngã? Ki-tô đến để trao cho họ thanh gươm sẽ cho phép họ tách rời cái Ta Biết khỏi tự ngã. Và đó là sự khác biệt giữa những ngọn lửa Thượng đế của con. Con cầm giữ một sự quân bình cho địa cầu, nhưng con cũng đến đây để đem lại một thanh gươm và để là Hoàng tử Hoà bình đó – tức con sẵn sàng lay động những ai tưởng mình an bình nhưng chi là sự bình an giả trá.

Và như vậy, ta đến để đóng góp uy lực hoà bình của ta, uy lực tĩnh lặng, cho những ai sẽ bảo hộ Ánh sáng Mẹ. Bởi vì, thực sự, nếu con chưa bao giờ tiếp xúc với tĩnh lặng của Phật, làm thế nào con có thể bảo hộ Ánh sáng Mẹ đây? Con sẽ chỉ bị lôi cuốn vào thêm một cuộc chiến đấu nhị nguyên khác giữa những con người đắm chìm trong tự ngã của mình.

3 | Hãy giải thoát con khỏi hình ảnh thiếu thốn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 5/4/2005.

Bây giờ thì chúng ta đã thấy là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế một hành tinh có thể cho con người một cuộc sống dồi dào. Chúng ta cũng đã thấy tình trạng dồi dào này hiện nay không được thể hiện trên trái đất. Chúng ta đã tới được kết luận là cách giải thích hợp lý duy nhất sự kiện mà ta quan sát là có điều gì đó đã xảy ra trong xã hội con người ngăn cản sự thị hiện của ý muốn Thượng đế là cho tất cả các con của ngài được cuộc sống sung túc. Hầu hiểu được điều này, con cần có hiểu biết rộng hơn mình là ai và mục đích con được sinh ra là gì trước khi được gửi tới một hành tinh nhỏ như hạt bụi nằm trong một vũ trụ vô tận. Con là ai và tại sao con có mặt trên trái đất?

3.1. Hai khía cạnh của Thượng đế

Hầu trả lời các câu hỏi này, thày phải vượt lên trên những điều được giảng dạy bởi hai nền tôn giáo ngự trị xã hội Tây phương, là Cơ đốc giáo chính thống và khoa học duy vật. Cả hai hệ thống niềm tin này đều khẳng định họ nắm chân lý tối hậu về sự hiện hữu của Thượng đế và nguồn gốc vũ trụ. Nếu con chọn tin một trong hai lời khẳng định này thì thày không thể dạy con chìa khóa của đời sống dồi dào. Các chìa khóa cốt yếu không thể tìm được trong khuôn khổ của cả hai hệ thống niềm tin này. Con có thể thắc mắc tại sao thế và câu trả lời là nếu Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật có thể cho con người chìa khóa của đời sống dồi dào thì chắc hẳn đời sống dồi dào này đã được thị hiện trên trái đất từ lâu rồi. Chỉ những ai sẵn sàng nhìn quá các hộp tư duy tạo ra bởi hai hệ thống niềm tin này mới tìm thấy những chìa khóa thực giúp con người kế thừa sự dồi dào của vương quốc Đấng Cha.

Để cho con chìa khóa kế tiếp, chúng ta cần bước lùi khỏi hiện trạng trên trái đất. Thật ra, chúng ta cần bước ra ngoài toàn bộ vũ trụ vật chất này. Giê-su nói nhà của Cha ta có nhiều căn, và như thày đã nói trước kia, vũ trụ của Thượng đế  có nhiều chiều kích, nhiều tầng cấp. Đây là điều mà tín đồ các tôn giáo thường gọi là thiên đàng hay cõi tâm linh. Thiên đàng có khá nhiều tầng và vì hiện nay khoa học biết rằng tất cả đều là năng lượng nên chúng ta hiểu được dễ dàng các tầng này khác nhau ra sao. Các khoa học gia biết rằng vũ trụ vật chất không được cấu tạo bằng hai yếu tố vật chất và năng lượng như giác quan của chúng ta bảo chúng ta. Quả thực, vũ trụ vật chất không được tạo ra từ vật chất; nó được tạo ra từ năng lượng vì vật chất giản dị là một dạng năng lượng. Tầm quan trọng của sự kiện này là toàn bộ vũ trụ vật chất được tạo ra từ cùng một chất đã tạo ra cõi tâm linh hay thiên đàng. Các nhà khoa học gọi chất này là năng lượng nhưng Thánh kinh gọi nó là ánh sáng. Kinh Sáng thế Ký (Genesis) nói cho con sự sáng tạo vũ trụ bắt đầu như thế nào. Nó bắt đầu với mệnh lệnh của Thượng đế khi ngài nói: “Ánh sáng hãy có mặt!” (Genesis 1:3). Bởi vì Thượng đế toàn năng nên ánh sáng mặt.

Tại sao Thượng đế bắt đầu tiến trình sáng tạo với sự sáng tạo ánh sáng? Ánh sáng hay năng lượng là một chất không có hình tướng nhưng có tiềm năng khoác vào bất kỳ hình tướng nào. Ngay cả khoa học cũng đồng ý điểm này. Lý thuyết khoa học hiện hành, đặc biệt là phương trình nổi tiếng của Einstein E=mc2 nói rằng vật chất đơn giản là năng lượng đã khoác lên một hình tướng trông thấy được. Năng lượng được xem là một dạng rung động và khoa học đã phát hiện nhiều loại năng lượng có thể đặt trên một thang đo từ tần số thấp lên cao. Ta có thể lý luận dễ dàng rằng các dạng năng lượng thô hơn mang vào hình tướng của vật chất, chúng rung động ở các tần số thấp hơn các năng lượng tinh tế hơn như quang tuyến X (có thể thâm nhập vật chất “rắn đặc”) hay ngay cả năng lượng tinh tế hơn nữa như tư tưởng. Những quan sát khoa học này đưa tới kết luận là vũ trụ được tạo ra từ năng lượng vô hình, tinh tế hơn và cơ bản hơn khi năng lượng này được hạ độ rung cho tới khi nó mang vào hình tướng của năng lượng vật lý và chất vật lý. Hiện nay các khoa học gia chưa giải thích được điều này xảy ra như thế nào nhưng sẽ không bao lâu nữa họ sẽ khám phá một cách giải thích khoa học.

Sự khác biệt giữa thiên đàng và cõi phàm là một sự khác biệt về rung động. Hành tinh trái đất và toàn bộ vũ trụ vật chất được tạo ra từ một chất cơ bản có khả năng mang vào vô hạn hình dạng, hình tướng và đặc tính khác nhau. Năng lượng hay ánh sáng này có thể có nhiều tầng rung động khác nhau nên con có thể thiết lập một thang đo rung động đi từ chậm lên nhanh, từ dày đặc lên tinh khiết hơn. Khi con đi từ rung động thấp lên cao, cuối cùng thì con sẽ tới điểm có một lằn ranh vô hình. Khi con vượt lằn ranh này, con rời vũ trụ vật chất đi vào cõi tâm linh. Khi con tiếp tục đi từ cõi tâm linh thấp lên các tầng rung động cao hơn và cao hơn nữa, con tới những tầng cao hơn của cõi tâm linh. Nếu con đi tiếp tới rung động cao nhất có thể có được trong toàn thế giới hình tướng, con đạt tới ánh sáng tinh khiết của Thượng đế và vượt quá nó là chính đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo này là một Sinh thể có ý thức đã khởi sự tiến trình sáng tạo mà con là một phần trong đó. Đấng Sáng tạo không phải là khía cạnh duy nhất hay tối hậu của đấng mà con người gọi là Thượng đế. Nếu con thật sự bước lui khỏi thế giới hình tướng – thế giới đã được sáng tạo qua sự nhào nắn ánh sáng thành hình tướng, nhào nắn ánh sáng vô hình tướng thành hình tướng – thì con có thể bắt đầu quán Bản thể thật của Thượng đế. Có những tôn giáo trong thế giới này nói rằng Thượng đế, trong nghĩa tối hậu, không thể biết tới được. Có những tôn giáo mô tả Thượng đế tối hậu như “cái trống không” vì nó không mang hình tướng hay tính chất nào mà ta có thể mô tả bằng bất kỳ hình ảnh hay ngôn từ nào tìm thấy trong vũ trụ này. Con ghi nhận lời răn đầu tiên trong mười điều răn là: “Con không được có thần nào khác trước ta” (Exodus 20:3). Nghĩa thật là con không bao giờ có thể lấy một hình tướng nào đó, một hình tượng khô chết nào đó và xác nhận rằng hình tượng đó tượng trưng trọn vẹn Thượng đế. Theo nghĩa tối hậu, Thượng đế vượt quá thế giới hình tướng do Thượng đế tạo ra – đấng Sáng tạo vượt quá tạo vật của ngài. Như Giê-su đã nói: “Người đầy tớ không lớn hơn Chủ mình” (John 13:16). Con không thể dùng từ ngữ và hình ảnh của thế gian này và phóng chiếu chúng lên Thượng đế tối hậu và tuyên bố rằng giờ đây con đã mô tả Thượng đế một cách chính xác và đầy đủ. Đây là sự thờ phượng thần tượng, và như chúng ta sẽ thấy sau này, đây là một trong những vấn đề lớn ngăn cản không cho đời sống dồi dào được thị hiện trên trái đất. Nhưng mở rộng tâm và chiêm nghiệm Bản thể của Thượng đế vẫn là điều quan trọng.

Điều chúng ta có thể nói dựa trên những bàn luận trước, là Thượng đế phải có hai khía cạnh. Trong nghĩa tối hậu Thượng đế là tất cả những gì là: “Không có Ngài, chẳng vật chi được tạo ra mà đã được tạo ra” (John 1:3), nghĩa là trước khi bất cứ gì được tạo ra, chỉ có Thượng đế hiện hữu. Thượng đế này phải là một Sinh thể viên mãn và tự đủ. Thượng đế không có nhu cầu sáng tạo một vũ trụ. Nếu Thượng đế là cái Tất cả, tại sao Thượng đế cần sáng tạo một vũ trụ trong đó có những sinh thể có ý thức có thể biết được sự hiện hữu của Thượng đế? Thượng đế theo nghĩa tối hậu không có nhu cầu được con người biết tới hay thờ phượng, vì Thượng đế là cái Tất cả cho nên ngài viên mãn và hoàn toàn tự đủ. Vì sự kiện giản dị là con hiện hữu và sống trong thế giới có hình tướng – và do đó khác với cái Tất cả trong đó không có hình tướng – chúng ta có thể thấy Thượng đế tối hậu, tự đầy đủ và vô hình tướng không thể là khía cạnh duy nhất của Thượng đế. Phải có một khía cạnh khác mà thày gọi là đấng Sáng tạo. Đây là khía cạnh của Thượng đế muốn sáng tạo, muốn là nhiều hơn cái trống không vô hình tướng. Đây là khía cạnh của Thượng đế đã sáng tạo vũ trụ mà con đang sống trong đó.

3.2. Con có khả năng sáng tạo đời sống dồi dào

Thượng đế này đã sáng tạo vũ trụ như thế nào? Đấng Sáng tạo sáng tạo mọi thứ từ chính Bản thể của ngài, bởi vì đâu có gì khác ngoài Thượng đế để sáng tạo từ đó. Đấng Sáng tạo khác với Thượng đế vô hình tướng ở điểm Thượng đế vô hình tướng không thay đổi trong khi đấng Sáng tạo tăng triển không ngừng, mở rộng không ngừng, tự thăng vượt không ngừng. Khi Moses hỏi tên Thượng đế, thì câu trả lời là: “YOD HE VAW HE,” thường được dịch ra là: “TA LÀ CÁI TA LÀ (Exodus 3:14). Thật ra, như nhiều nhà học giả về Kinh thánh biết, lời dịch chính xác hơn là: “TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ.” Cách dịch này nắm bắt được sự kiện Thượng đế giữ đúng chính lời răn của ngài. Ngài không thật sự cho Moses một cái tên bởi vì ngài không muốn con người dùng ngay cả một danh xưng để tạo ra một hình ảnh khô chết, một hình ảnh đứng yên về Thượng đế. Thay vào đó, vị Thượng đế trên núi truyền tải sự kiện Thượng đế luôn luôn thay đổi, cho nên Thượng đế sẽ là cái mà ngài sẽ là mỗi lúc. Nếu con muốn biết Thượng đế, thì con không thể bám chặt vào bất kỳ hình ảnh nào, con phải tuôn chảy với sự tự thăng vượt của Thượng đế, con phải nhập vào Dòng sông sự Sống là cái Tất cả của Bản thể của Thượng đế, bao gồm cả thế giới trong đó con sống, nhưng không chỉ giới hạn trong đó.

Trong Bản thể Thuần khiết của Thượng đế, trong Thượng đế vô hình tướng, không có thay đổi. Làm sao có thay đổi trong cái vô hình tướng? Làm sao có sự tiến triển trong cái tự nó đầy đủ trong chính nó? Trong khía cạnh Sáng tạo của Thượng đế, có sự chuyển động không ngừng vì khía cạnh này của Thượng đế hiện hữu với mục đích sáng tạo và trở nên hơn nữa. Đấng Sáng tạo là gì? Là một Sinh thể tự nhận biết có ba khả năng. Khả năng đầu là tự nhận biết, là khả năng biết mình hiện hữu. Khả năng thứ nhì là tưởng tượng, là khả năng tưởng tượng một hình tướng chưa được thị hiện trong bất kỳ vũ trụ nào. Nếu không có khả năng tưởng tượng trong đấng Sáng tạo, làm sao Thượng đế sáng tạo được điều gì mới? Khả năng thứ ba mà đấng Sáng tạo vui hưởng là khả năng chọn lựa. Khi đấng Sáng tạo sáng tạo vũ trụ mà con sống trong đó, ngài phải chọn lựa. Con nhìn thế giới trong đó con đang sống và con coi biết bao nhiêu thứ là đương nhiên. Tại sao bầu trời màu xanh mà không phải một màu nào khác? Tại sao trái đất tròn mà không phải một hình dạng nào khác? Các nhà khoa học của con liên tục khám phá những ví dụ cho thấy vũ trụ được thiết kế thật tinh xảo và tinh tế. Nếu những lực giữ hạt nhân của hạt nguyên tử có cường độ khác đi chút xíu, thì hạt nguyên tử không giữ chặt được và vật chất sẽ không hiện hữu. Nếu trọng lực khác đi chút xíu, các hành tinh và mặt trời sẽ không thể ở trong quỹ đạo của chúng được. Tại sao tất cả mọi thứ như chúng là? Bởi vì khi Thượng đế thiết kế vũ trụ này, đấng Sáng tạo của con đã lấy một số chọn lựa.

Một trong những chọn lựa của đấng Sáng tạo của con là ngài không muốn sáng tạo toàn bộ vũ trụ này một mình. Đấng Sáng tạo của con quyết định sáng tạo những sinh thể tự nhận biết là nối dài của chính ngài và phú cho các sinh thể này quyền năng sáng tạo, là tự nhận biết, tưởng tượng và tự quyết. Đó là lý do tại sao Thánh kinh nói rằng Thượng đế sáng tạo con người theo hình ảnh của ngài và giống ngài. Thượng đế sáng tạo một số sinh thể tự nhận biết và các sinh thể này được thiết kế như là những nối dài của đấng Sáng tạo. Họ được thiết kế để du hành vào thế giới do chính đấng Sáng tạo khởi sự tạo ra và phục vụ như những người đồng-sáng tạo có khả năng xây dựng trên nền tảng do đấng Sáng tạo đặt ra. Ta có thể nói đấng Sáng tạo sáng tạo từ bên ngoài và các sinh thể đồng-sáng tạo sáng tạo từ bên trong. Con có thể lý luận tại sao đấng Sáng tạo làm như vậy và có nhiều lý do chính đáng. Sự thật cơ bản là sự hiện hữu của con chứng minh là đấng Sáng tạo đã lấy chọn lựa đó. Thượng đế đã chọn sáng tạo con như là một sinh thể tự nhận biết. Con có thể biết con hiện hữu, con có trí tưởng tượng cho phép con hỏi những câu hỏi như mình là ai, mình từ đâu tới và tại sao mình ở đây.

Những câu hỏi này chứng minh con không đơn giản là sản phẩm của một trò chơi may rủi hay một tiến trình tiến hóa vô tri. Chính sự kiện con có thể hỏi những câu hỏi này chứng minh con là hậu duệ của một sinh thể có tự nhận biết. Đó là lý do tại sao con có khả năng tưởng tượng điều mà giác quan không cảm nhận được. Con cũng có khả năng hình thành một khái niệm hay một thiết kế trong tâm và sau đó dùng thân vật lý để xây dựng một căn nhà thể hiện toàn hảo tâm ý của con. Con có khả năng chọn lựa thiết kế nhà mình ra sao. Các khả năng này đều không tìm thấy nơi loài thú mặc dù các khoa học gia cho rằng con tiến hóa từ loài thú. Đó là lý do tại sao con có giá trị hơn loài chim và tại sao Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ hoàn toàn có khả năng cho con cuộc sống dồi dào chính là ước muốn thật của Thượng đế. Vì Thượng đế đã cho con trí tưởng tượng và ý chí tự do, vì Thượng đế đã thiết kế con là người đồng-sáng tạo với ngài, nên cuộc sống dồi dào giản dị không thể do một nguồn ngoại lai trao cho con được. Con phải dùng trí tưởng tượng và ý chí tự do của con để thị hiện cuộc sống dồi dào trong phạm vi ảnh hưởng của con. Con phải lấy quyết định ngự trị “trái đất”, có nghĩa là chính tâm của con và cõi vật chất.

Thượng đế đã sáng tạo một vũ trụ có thể cho con cuộc sống dồi dào, nhưng ngài đã không sáng tạo một vũ trụ sẽ tự động cho con cuộc sống dồi dào đó. Thượng đế đã không sáng tạo con như một rô bốt vô tri mà là một sinh thể có tự nhận biết với khả năng biết mình là ai, mình từ đâu tới và mình có tiềm năng đi tới đâu. Trong các bài sau thày sẽ giải thích chính xác con có tiềm năng đi tới đâu, nhưng bây giờ chỉ cần nói con có tiềm năng quyết định thị hiện cuộc sống dồi dào hay thị hiện cuộc sống giới hạn, thiếu thốn và đau khổ. Con có khả năng chọn lựa và con có khả năng tưởng tượng, và với hai khả năng này, con sáng tạo trải nghiệm của mình. Con sáng tạo điều mà nhiều người trên trái đất gọi lầm là “thực tại” nhưng nó quả thực chỉ là một ảo ảnh, phóng chiếu lên màn ảnh của cuộc sống bởi tâm con người đã quên tiềm năng sáng tạo thực của họ.

Trước khi con có thể thừa kế vương quốc của Đấng Cha của con, con phải hiểu con thật sự được sáng tạo theo hình ảnh và giống như đấng Sáng tạo của con. Điều này không có nghĩa đấng Sáng tạo có một thân vật lý và trông giống một con người. Điều này không có nghĩa đấng Sáng tạo nói năng giống Charlton Heston. Nó có nghĩa là con được sáng tạo với khả năng tưởng tượng điều chưa được thị hiện và khả năng quyết định tâm ảnh nào sẽ được thị hiện trong cõi vật lý và đấy cũng là những khả năng mà đấng Sáng tạo đã dùng để sáng tạo con và vũ trụ nơi con đang sống.

3.3. Con có thể chọn lựa vượt thăng trạng thái tâm thức đã tạo ra thiếu thốn và khổ đau

Giờ đây chúng ta có thể có một câu trả lời cho câu hỏi chuyện gì đã trục trặc từ phía các con, chuyện gì đã trục trặc trên hành tinh trái đất, đã ngăn cản không thị hiện được ý muốn của Thượng đế muốn cho tất cả một cuộc sống dồi dào. Câu trả lời quá ư giản dị, và mong muốn cao nhất của thày là mọi con người tới được điểm hiểu sự thật này. Câu trả lời là đời sống dồi dào không thị hiện trên trái đất vì hầu hết con người không dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của họ, chưa dùng khả năng sáng tạo theo tiềm năng cao nhất. Thay vì dùng uy lực sáng tạo để thị hiện một cuộc sống dồi dào và liên tục gia tăng sự dồi dào này, con người đã dùng trí tưởng tượng để tưởng tượng một thế giới với sự dồi dào giới hạn, một thế giới thiếu thốn. Họ đã chọn chấp nhận đây là thực tại duy nhất khả dĩ trên hành tinh trái đất và khi họ chấp nhận nó, họ đã biến nó thành một thực tại tạm bợ, nhưng huyễn ảo. Giờ đây con thấy là vì Thượng đế đã cho con tưởng tượng và quyền tự quyết và vì Thượng đế không giới hạn món quà của ngài, ngài cho phép các con của ngài sáng tạo một thực tại tạm bợ kém xa cuộc sống dồi dào mà ngài đã hình dung trước khi ngài gửi những đứa con này xuống thế giới vật chất. Ta có thể hiểu đây cũng khế hợp với ý chí cao của Thượng đế vì ý chí cao đó là con du hành vào thế giới hình tướng và con gặt hái kinh nghiệm liên quan tới cách dùng các khả năng sáng tạo của con một cách tốt nhất cho con và tốt nhất cho tất cả mọi người trong đó con là một thành phần.

Nếu trong tiến trình học hỏi này con cần phải đau khổ trong một thời gian với trạng thái thiếu thốn và giới hạn thì Thượng đế cho phép điều này xảy ra. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái giới hạn. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái đau khổ trong một thời gian vô hạn định. Thượng đế luôn luôn hy vọng con rốt cuộc sẽ tới điểm quyết định con không còn chấp nhận đau khổ và thiếu thốn như hậu quả không tránh được của cuộc sống trên trái đất. Thượng đế luôn luôn hy vọng là một số người trong nhân loại và rốt cuộc là toàn thể nhân loại sẽ thức tỉnh thấy sự thật là đời sống không nhất định phải khổ đau và có một chọn lựa khác hơn nhà tù. Chọn lựa khác đó là thăng vượt trạng thái tâm thức đã tạo ra những điều kiện hiện hành trên trái đất.

Vượt thăng trạng thái tâm thức giới hạn này chính là điều mà mọi tôn giáo chân chính và mọi giáo lý tâm linh chân chính đều hướng tới. Con nghĩ tại sao Giê-su được gửi xuống trái đất? Chính là để chỉ cho con thấy con không phải bị giới hạn bởi các điều kiện nhân phàm này. Con có thể vượt thăng chúng, con có thể biến nước của tâm thức nhân phàm thành rượu của một trạng thái tâm thức cao hơn qua uy lực của tâm con. Con có thể nhân các ổ bánh và cá lên và do đó gia tăng sự dồi dào vật chất của con qua uy lực của tâm con. Con còn có thể vượt thoát cái chết vật lý và tái sinh trong một trạng thái tâm thức cao hơn, một hình thức sống cao hơn trên một cõi cao hơn.

Câu trả lời giản dị cho câu hỏi chuyện gì đã sai trật, điều gì đã ngăn cản sự dồi dào của Thượng đế thị hiện trên trái đất, đó là con người đã sử dụng sai uy lực sáng tạo của họ. Họ đã đánh mất viễn quan rõ rệt của Thượng đế về cuộc sống dồi dào. Thay vào đó, hầu hết đã tập trung trí tưởng tượng của họ vào một hình ảnh giả dựa trên khái niệm dồi dào của Thượng đế có giới hạn và không có đủ cho tất cả mọi người. Chỉ một số nhỏ có thể sung túc và đa số phải sống nghèo khó. Nhân loại đã bị khuynh loát để dùng quyền tự quyết của họ để chấp nhận hình ảnh giả này và chấp nhận nó không thể tránh được. Đó là lý do tại sao hình ảnh giả đã trở thành một hiện thực tạm bợ mà nhiều người lầm tưởng là một hiện thực trường tồn.

3.4. Vương quốc Thượng đế ở bên trong con

Chìa khóa mà con cần để trải nghiệm cuộc sống dồi dào là nhận chân chính con không cần chấp nhận hình ảnh giả này, thực tại giả này. Con có thể chọn tách mình ra khỏi hình ảnh giả này, con có thể tách mình ra khỏi nó trong tâm thức. Bằng cách thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của con, con có thể vươn lên và giải thoát trí tưởng tượng và ý chí của con để cuối cùng chấp nhận cuộc sống dồi dào thay vì cuộc sống giới hạn. Chìa khóa cốt yếu để thừa kế vương quốc của Cha con là nhận chân con phải dùng quyền tự quyết của mình để thanh lọc trí tưởng tượng để con có thể sáng tạo cuộc sống dồi dào thay vì tiếp tục sáng tạo một cuộc sống giới hạn và khổ đau. Cha con hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng thiết kế của ngài là cho con uy lực sáng tạo để con có thể hoàn thành vương quốc này từ trong tâm con. Nếu con muốn dồi dào đích thực, con phải chiêm nghiệm và thấm nhập câu nói của Giê-su: “Vương quốc Thượng đế ở trong con” (Luke 17:21). Con không thể đi tìm một Thượng đế bên ngoài sẽ cho con vương quốc.

Khi con nhận ra con có khả năng bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con trên trái đất, con có khả năng tái tạo mọi khía cạnh của kinh nghiệm sống của con trên trái đất, con đã đi một bước cốt lõi trên con đường trở về vương quốc của Cha con. Thày biết rõ con đã bị lập trình để tin rằng những gì con thấy chung quanh mình là một thực tại không thể tránh và con không có khả năng bên trong con để giải thoát mình khỏi thực tại giả định đó. Giê-su đến với một mục đích duy nhất là để chỉ cho con thấy ảo tưởng đó là lời dối trá và con quả thật có vương quốc Thượng đế bên trong con. Lý do là vì Thượng đế đã thiết kế con theo hình ảnh của ngài và giống ngài. Thượng đế cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Lý do duy nhất khiến con hiện nay trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn và khổ đau là vì con và một số đông người trên hành tinh này đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để đồng-sáng tạo giới hạn và khổ đau đó. Khi con bắt đầu giải phóng trí tưởng tượng của con và dùng quyền tự quyết thuận theo các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con có thể tái tạo lại kinh nghiệm sống của con. Khi đủ người làm chuyện đó, các con có thể tái tạo kinh nghiệm sống tập thể trên hành tinh này. Thật vậy con có thể đồng-sáng tạo một thực tại phản ánh ý muốn thật của Thượng đế cho hành tinh này, một hành tinh có khả năng nuôi dưỡng nhiều tỷ người đều có được cuộc sống dồi dào.

Qua kinh nghiệm sống của con và sự giáo dục con nhận được trên hành tinh này, con đã bị lập trình để nghĩ những giới hạn hiện có trên trái đất là thật và không tránh được. Có thể là một phép lạ nào đó của Thượng đế có thể thay đổi nó, nhưng phép lạ như vậy hiển nhiên sẽ không xảy ra. Con đã bị lập trình để nghĩ con không có uy lực sáng tạo bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con và do đó con là nộ lệ của hoàn cảnh bên ngoài vượt quá quyền kiểm soát của con. Đấy là ảo tưởng, đấy là lời dối trá không liên quan gì tới sự thật của Thượng đế. Sự thật là đấng Sáng tạo đã cho con khả năng sáng tạo của chính ngài. Thượng đế đã sáng tạo con theo hình ảnh của ngài và giống ngài để con có uy lực bên trong để tái tạo cuộc sống dồi dào chung quanh con. Như một tập thể, chỉ một số nhỏ người cũng có thể tái tạo cuộc sống dồi dào trên trái đất. Đây là chân lý mà Giê-su muốn đem lại khi tới đây, đây là chân lý mà Phật muốn đem lại khi tới đây, đây là chân lý mà tất cả những vị lãnh đạo tâm linh, tiên tri và đại diện của Thượng đế chân chính muốn đem lại khi tới đây. Khi con nhận ra chân lý này, con có thể bắt đầu bước đi trên con đường có hệ thống, lô gíc dẫn con từng bước một tới điểm con tái tạo cuộc đời mình để nó thẳng hàng với viễn quan dồi dào, với niệm tinh khôi được gìn giữ trong tâm Thượng đế.

Phần còn lại của khóa học này sẽ chú trọng vào việc trao cho con hiểu biết và những bước thực tập thực tiễn mà con cần để giải thoát mình khỏi mọi hình ảnh giả về Thượng đế, mọi hình ảnh giả về chính con và mọi hình giả về vũ trụ nơi con đang sống. Thày sẽ giúp con là sinh thể mà con đã được thiết kế để là. Thày sẽ giúp con vận dụng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để có thể đem lại cho con cuộc sống dồi dào mà con muốn và đồng thời cũng đem lại đời sống dồi dào cho mọi sự sống khác trên hành tinh này.

3.5. Thượng đế muốn con thị hiện vương quốc qua chính uy lực sáng tạo của con

Quả thật Đấng Cha vui vẻ muốn cho con vương quốc. Đấng Sáng tạo muốn con cảm thấy con đem lại vương quốc đó qua chính uy lực sáng tạo của con, con thị hiện vương quốc qua khả năng mà Thượng đế trao cho con, khả năng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Đây là ý muốn của Thượng đế, đây là lý do tại sao Thượng đế gửi con người xuống trái đất với mệnh lệnh hãy “nhân lên” và “ngự trị” (Genesis 1:28). Ngài muốn con nhân khả năng sáng tạo của con và con dùng tâm mình để ngự trị vũ trụ vật chất, để con có thể đem sự dồi dào của Thượng đế vào vũ trụ vật chất này. Qua việc con ngự trị, tâm làm chủ vật chất, vũ trụ vật chất này có thể trải bày sự toàn hảo của Thượng đế và do đó thật sự trở nên vương quốc của Thượng đế.

Thượng đế có khả năng sáng tạo một hành tinh có cuộc sống dồi dào mãi mãi. Thượng đế không muốn làm vậy bởi vì làm sao con học được điều gì khi sống trong một hành tinh như thế? Con sẽ bị giới hạn thành một sinh thể chỉ biết thích ứng, một con thú, thay vì là một sinh thể đồng-sáng tạo có tự nhận biết. Thượng đế sáng tạo một hành tinh có tiềm năng thị hiện đời sống dồi dào nhưng đời sống dồi dào chưa được hoàn toàn thị hiện vật lý. Sau đó, ngài gửi các con trai và con gái của ngài đi vào thế giới này và họ có tất cả những gì họ cần như khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và quyền tự quyết để ngự trị hành tinh này và mang sự dồi dào của Thượng đế vào thị hiện vật chất. Họ có thể xây dựng thêm trên nền tảng được Thượng đế tạo ra để cho các con trai và con gái của Thượng đế có thể xây dựng vương quốc Thượng đế trên hành tinh trái đất bằng chính những khả năng do Thượng đế trao cho họ.

Đây là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế, đây là mong muốn nguyên thủy của Thượng đế, đây là thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Không có gì thay đổi kế hoạch của Thượng đế, không có gì thay đổi tiềm năng của hành tinh trái đất có thể trải bày sự toàn hảo của Thượng đế. Tạm thời các con trai và con gái của Thượng đế đã chọn dùng khả năng sáng tạo của họ để tạo ra khổ đau và thiếu thốn thay vì dồi dào. Chuyện này xảy ra chỉ vì họ đã rơi vào trạng thái vô minh nên không nhận ra toàn bộ khả năng sáng tạo của họ. Họ không hiểu tầm quan trọng và uy lực của quyền tự quyết của họ. Họ không hiểu cái bao la và tiềm năng của trí tưởng tượng của họ, họ không hiểu là họ không cần phải bị giới hạn bởi các hình ảnh bất toàn mà họ có thể tái tạo lại ngay cả thực tại vật lý qua uy ực của tâm họ.

Thực tại vật lý, tình trạng thiếu thốn mà con trải nghiệm trên hành tinh này không do Thượng đế tạo ra, nó do tâm tức tập thể của nhân loại tạo ra. Nó được tạo ra qua uy lực của tâm, khi con người hình dung một trạng thái thiếu thốn và sau đó dùng uy lực ý chí của mình để chấp nhận tình trạng này là miên viễn và không tránh được. Con yêu dấu, thày xin con so sánh những khái niệm này với một câu nói quan trọng nhất của Giê-su: “Không có đầy tớ nào làm tôi hai chủ được: bởi vì anh sẽ ghét người này và yêu người kia; hoặc anh sẽ gắn bó với một người và khinh chê người kia. Ngươi không thể vừa làm tôi Thượng đế vừa làm tôi Ma môn.” (Luke 16:13). Cách giải thích ý nghĩa tâm linh của câu nói này là “ma môn” tượng trưng cho trạng thái tâm thức nhân phàm, trạng thái chấp nhận thiếu thốn và giới hạn là không tránh được. Điều này khiến cho con người bỏ toàn cuộc đời tích lũy các vật của thế gian – là ma môn – thay vì trực tiếp đem lại sự dồi dào từ kho vô tận của Thượng đế. Giê-su nói là con phải chọn làm tôi người chủ nào, hình ảnh giả của thiếu thốn do tâm thức tập thể tạo ra hay thực tại về cuộc sống dồi dào của Thượng đế. Giê-su nói là con không thể làm tôi cả hai ông chủ này cùng một lúc, thật sự có nghĩa là con không thể cùng một lúc ở trong hai trạng thái tâm thức tương phản. Con không thể trung thực với thực tại dồi dào của Thượng đế và cùng lúc chấp nhận hình ảnh thiếu thốn và khổ đau do con người tạo ra. Con phải tập trung tâm vào “thực tại” này hay thực tại kia, và hình ảnh mà con tập trung vào sẽ cho con trải nghiệm vật lý đó. Vật chất sẽ khoác vào những hình tướng mà con giữ trong tâm mình. Uy lực sáng tạo của con sẽ đem lại cho con trải nghiệm vật lý của điều mà con cầm giữ trong tâm mình. Nếu con muốn sự dồi dào của Thượng đế, con phải làm tôi vị thày của thực tại của Thượng đế và con phải ngưng làm tôi vị thày giả của ảo tưởng nhân phàm. Con phải làm công việc giải thoát trí tưởng tượng của con khỏi mọi hình ảnh và tin tưởng giả. Con phải dùng quyền tự quyết để chọn đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để quy định vũ trụ này.

Chỉ khi con đi qua sự biến đổi tâm thức này con mới giải phóng mình khỏi người đốc công đang giam hãm con trong cái hộp của giới hạn và đau khổ, cái hộp thực sự chỉ hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể. Trạng thái tâm thức mà hầu hết con người hiện nay chấp nhận như thực tại của họ là trạng thái mà Giê-su gọi là “chết”, có nghĩa là cái chết tâm linh. Nếu con muốn thoát khỏi nhà tù nhân phàm, con phải chọn trạng thái tâm thức cao hơn, tâm thức của sự sống.

Con hãy suy ngẫm câu nói trong Cựu ước Kinh: “Ngày nay, ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, phước lành và rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống”. (Deuteronomy 30:19). Thượng đế đã cho con trí tưởng tượng cho phép con chấp nhận một hình ảnh thật hay một hình ảnh giả. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết để chọn hình ảnh nào con sẽ thị hiện trong vũ trụ này. Ngay lúc này, con có tiềm năng giải thoát mình khỏi gông cùm của tâm thức chết và bước vào tâm thức của sự sống là cánh cửa duy nhất dẫn con tới vương quốc của Cha con. Trạng thái tâm thức này là Tâm Ki-tô Hoàn vũ mà Giê-su đã mô tả khi thày nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai đến Đấng Cha mà không qua ta” (John 14:6).

Con có sẵn sàng theo thày trong hành trình sẽ giúp con khám phá lại khả năng sáng tạo thật của con và giúp con giải thoát mình khỏi gông cùm của sự chết và giới hạn đã được đặt lên con? Con có sẵn sàng vươn lên và trở thành người con trai hay người con gái thật mà con được thiết kế để là khi đấng Sáng tạo thiết kế con theo hình ảnh của ngài và giống ngài? Nếu con sẵn sàng thì con hãy nắm tay thày trong khi thày trao cho con thêm nhiều chìa khóa dẫn tới đời sống dồi dào.

5 | Một cái nhìn kỹ hơn về cái ta

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/4/2005.

5.1 Con là một quả cầu nhỏ trong quả cầu lớn

Trái tim yêu dấu của thày, đã đến lúc chúng ta cần nhìn kỹ hơn xem con thực sự là ai, nhìn cái Ta của con kỹ hơn. Trước đây, thày có nói là con được sinh tạo từ Bản thể Thượng đế. Thày nói rằng nguồn gốc bản sắc của con, nguồn gốc cái Ta của con, là sự nhận biết thuần khiết. Từ nhận biết thuần khiết này, cá thể của con được hình thành, và đây là điều có thể gọi là cái Ta Biết hay cái ta ý thức. Cái Ta Biết này là điều cho con cảm nhận là con hiện hữu, và con hiện hữu như một sinh thể riêng biệt. Cảm nhận hiện hữu là một trạng thái nhận biết rất thuần khiết và phổ quát, và thật sự nó không mang một đặc tính cá nhân nào. Ở cốt lõi của nhận biết này là cảm nhận con hiện hữu như một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, nhưng nhận biết của con lại tập trung vào một điểm đặc thù trong tổng thể đó. Thay vì con có tầm nhận biết bao trùm tất cả của Đấng Sáng tạo ra con – mà chúng ta có thể nói đang đứng ngoài tạo vật nhìn vào trong – thì con có một nhận biết cục bộ, địa phương. Con ở trong tạo vật, nhìn tạo vật từ bên trong, từ một vị trí quan sát nhất định bên trong tổng thể.

Chúng ta có thể so sánh điều này với điều thày đã đề cập trước đây về quá trình tạo dựng thế giới hình tướng. Đấng Sáng tạo rút mình khỏi một không gian nhất định và tạo ra một khoảng trống không. Ngài co mình lại thành một điểm dị biệt (singularity). Công việc của Đấng Sáng tạo là lấp đầy khoảng trống không, trước tiên qua việc định ra một quả cầu đứng riêng biệt với khoảng trống không, do chứa đựng một chút ánh sáng. Quả cầu này trở thành vũ trụ vĩ mô (macrocosm). Trong quả cầu này Đấng Sáng tạo hiện diện hằng thường, tuy nhiên giờ đây ngài rút mình từ một quả cầu nhỏ hơn và co lại thành một điểm độc nhất. Điểm này trở thành cái Ta Biết và quả cầu thì trở thành bình chứa cái ta của con, quả cầu cái ta của con. Con là một quả cầu bên trong quả cầu lớn hơn của tâm thức Đấng Sáng tạo, con là vũ trụ vi mô (microcosm) trong vũ trụ vĩ mô của Đấng Sáng tạo của con. Nhiệm vụ của con là nhân lên những gì con đã được Thượng đế phú cho con, nhân lên khả năng và vốn liếng của mình, để con có thể cai quản – trước hết cai quản quả cầu cái ta tức là vũ trụ vi mô, sau đó cai quản quả cầu lớn hơn tức là vũ trụ vĩ mô, có nghĩa là vũ trụ vật chất. Khi con đã cai quản quả cầu cái ta của con, đổ đầy nó với ánh sáng thuận theo các định luật của Thượng đế, con sẽ trở thành một sinh thể Ki-tô (Christed being), một sinh thể tâm linh bất tử. Điều này sẽ cho con uy lực để cai quản trái đất, thị hiện trong cõi vật lý vương quốc của sự sống dồi dào của Thượng đế. Con sẽ là ở dưới này tất cả những gì con là ở Trên – con sẽ là “Trên sao dưới vậy”. Điều này, và chỉ có điều này, mới đem lại vương quốc Thượng đế xuống trái đất.

Cái Ta Biết thật sự là cốt tủy của bản sắc cá nhân của con, tuy vậy nó là một trạng thái nhận biết thuần khiết. Nó có một nhận biết cá nhân nhưng nó không có những đặc tính cá nhân. Nó không thể tự biểu đạt trực tiếp trong thế giới hình tướng. Để tự biểu đạt, nó phải có một cá thể, một ý niệm bản sắc mà qua đó nó có thể biểu hiện. Một lần nữa, con hãy so sánh với chiếc máy chiếu phim. Nếu trên máy chiếu không có cuộn phim nào thì nó chỉ chiếu được lên màn hình một hình vuông ánh sáng màu trắng. Nó cần một cuộn phim để có thể chiếu ra những hình ảnh cụ thể sẽ làm dấy động và khiến cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng. Giống như một máy chiếu phim có thể chiếu ra hình ành xuyên qua bất cứ cuộn phim nào, thì cái Ta Biết cũng có khả năng tự biểu đạt xuyên qua bất kỳ ý niệm bản sắc nào. Cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với – và nó có thể tự đồng hóa như – bất cứ gì nó muốn. Nhiệm vụ của cái Ta Biết là xây dựng ý niệm bản sắc của nó, và Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn lựa tùy theo trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Thượng đế đã cho con quyền tự do “đặt tên” bản sắc của con, thậm chí đặt tên cả cho mọi thứ trên địa cầu tùy theo ý niệm bản sắc của con (Genesis 2:19).

Cái Ta Biết không khởi sự như một tờ giấy trắng. Nó có một nền tảng để từ đó xây dựng ý niệm bản sắc của nó, cụ thể là cá thể thiêng liêng neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ thường hằng nơi những rung động cao hơn ở cõi tâm linh, và cá thể của nó không thể nào biểu hiện trực tiếp trong vũ trụ vật chất. Cá thể của nó chỉ có thể được biểu đạt khi cái Ta Biết dùng cá thể này để xây dựng một ý niệm bản sắc giống như cuộn phim trong máy chiếu phim.

Quả cầu cái ta của con có một phần cao và một phần thấp. Phần cao ngụ nơi cõi tâm linh và chứa đựng Hiện diện TA LÀ của con. Phần thấp rung động trong quang phổ tần số của vũ trụ vật chất, và chính qua phần thấp này mà con tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Con hãy so sánh với con số “8”, hình số tám. Phần trên hình số tám ở cõi tâm linh, phần dưới ở trong cõi vật chất, và cái Ta Biết thì ở giữa, ngay điểm gặp gỡ, điểm eo. Chốc nữa thày sẽ cho con lời dạy chi tiết hơn về phần thấp của quả cầu cái ta của con, nhưng ngay bây giờ khái niệm quan trọng là cái Ta Biết điều khiển ánh sáng của Hiện diện TA LÀ để ánh sáng chảy xuyên qua một ý niệm bản sắc mà nó xây dựng. Ý niệm bản sắc này có thể dựa trên bất cứ gì cái Ta Biết đã cho phép đi vào phần thấp của quả cầu cái ta. Con có thể xây dựng ý niệm bản sắc này trên tảng đá của Ki-tô, tức cá thể neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ, hay trên cát lún của tâm thức nhị nguyên.

Đây là tại sao cái Ta Biết có khả năng trở thành nhiều hơn hay ít hơn những gì con đã được sinh tạo. Con có thể hoặc khuếch trương cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, hoặc xây dựng một bản sắc kém hơn những gì ngài hình dung cho con. Con có quyền tự do chọn bất cứ gì, nhưng con sẽ không tránh khỏi trải nghiệm những gì con đã chọn. Con sẽ nhìn thấy thế giới qua phin lọc của ý niệm bản sắc mà con xây dựng, và con sẽ tự biểu đạt theo bản sắc này. Bản sắc của con sẽ định đoạt những gì con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ, và tất nhiên điều này sẽ định đoạt những gì được phản chiếu cho con.

5.2. Con có quyền chọn cái ta của con bất cứ lúc nào

Vậy chúng ta có ba khía cạnh của bản thể con. Chúng ta có phần cao của quả cầu cái ta, và phần này được lấp đầy bởi Hiện diện TA LÀ của con. Cái ta tâm linh này chứa đựng bàn mẫu thiêng liêng của con, là cá thể do Đấng Sáng tạo của con quy định và được ghi lại mãi mãi trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Sau đó chúng ta có cái Ta Biết, nằm ngay điểm eo giữa hai phần cao và thấp của quả cầu cái ta. Và chúng ta có phần thấp của quả cầu cái ta, là phần cái Ta Biết sử dụng để tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Trong phần thấp này có ý niệm bản sắc của con cư ngụ, là cuộn phim qua đó con phóng chiếu hình ảnh lên màn hình của cuộc sống, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tương tự như khoảng trống không, phần thấp bình chứa cái ta của con vẫn chưa đầy khi dòng sống của con bước vào hiện hữu. Vẫn còn chỗ trống, và nhiệm vụ của con chính là khiến nó đầy. Vấn đề đặt ra là con – nghĩa là cái Ta Biết – sẽ cho phép những gì đi vào bình chứa cái ta? Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn cách mình sẽ xây dựng ý niệm bản sắc của mình như thế nào.

Quyền tự do này là cơ hội tuyệt hảo để con trở thành nhiều hơn những gì con được sinh tạo, để xây dựng trên nền tảng mà Thượng đế đã thiết lập, để là nhiều hơn một con rô-bốt. Con làm được vậy bằng cách thể hiện ý niệm cái ta của mình trong thế giới hình tướng. Bằng cách diễn đạt khả năng sáng tạo của mình và chứng kiến kết quả, con bồi thêm nội dung cho bình chứa cái ta. Khi con làm vậy trong sự hòa hợp với định luật Thượng đế, con sẽ chỉ bồi đắp những yếu tố bền vững, bất diệt vào bình chứa cái ta. Những yếu tố này con có thể chuyển lên phần trên của quả cầu cái ta, và chúng được lưu trữ trong tâm Ki-tô – mà Giê-su từng gọi là kho báu của con tích lũy trên thiên đàng (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con cũng có thể dùng khả năng sáng tạo của mình theo một cách lạc điệu với định luật cùng ý định sáng tạo của Thượng đế. Khi con làm vậy, con cũng sẽ bỏ thêm gì đó vào bình chứa cái ta nhưng cái này sẽ ở lại trong phần thấp của quả cầu. Con bỏ vào những yếu tố hữu diệt không có tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy mà con có thể tạo ra một cái ta hữu diệt, một ý niệm cá thể kém hơn những gì Thượng đế đã cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu.

Cốt lõi của bản sắc con, cái Ta Biết, độc lập với những nội dung có mặt hay không có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt lẫn cái ta hữu diệt, có nghĩa đó là một trạng thái nhận biết thuần khiết hoàn toàn tự đủ. Về việc biểu đạt khả năng sáng tạo của con trong thế giới hình tướng, cái Ta Biết không thể làm chuyện này một mình. Để tự biểu đạt, cái Ta Biết phải để cho ánh sáng của nó rọi chiếu qua nội dung bình chứa cái ta, vì chính nội dung này sẽ định đoạt những hình ảnh được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cái Ta Biết là một trạng thái nhận biết thuần khiết tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta đang có mặt trong quả cầu cái ta của nó. Cái Ta Biết có thể biểu đạt qua cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, tùy theo con đồng hóa với cái ta nào vào lúc đó.

Vì cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, có thể nói là nó không có ý niệm cá thể cố định nào, ý niệm bản sắc cố định nào. Cái Ta Biết là Bản thể thuần khiết của Thượng đế tập trung vào con như một sinh thể cá biệt, nhưng nó có tiềm năng đồng hóa với bất cứ gì. Nó được tạo ra như một thái cực đối với cái ta bất diệt của con, nhưng nó có thể đồng hóa với bất cứ gì nó chọn, kể cả cái Tất cả của Bản thể Thượng đế, cái ta bất diệt của con, cái ta hữu diệt của con hay bất cứ gì khác trong thế giới hình tướng. Cụ thể, nó có thể tự đồng hóa là một hòn đá nếu nó chọn như vậy. Cái Ta Biết là trụ sở của quyền tự quyết của con, trụ sở của khả năng chọn lựa của con. Con là những gì con xem mình là, con là những gì con chọn mình là – và con có thể thay đổi chọn lựa này bất cứ lúc nào.

Cái Ta Biết phải tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta nào đó, một ý niệm bản sắc cá nhân nào đó. Như thày vừa trình bày qua phúng dụ máy chiếu phim, phải có một cuộn phim để ánh sáng có thể rọi qua hầu có những hình ảnh khác biệt được chiếu lên màn hình. Hình ảnh trên cuộn phim là các đặc tính cá nhân, các tin tưởng và hình ảnh về bản thân có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết giống như người điều khiển máy chiếu quyết định cuộn phim nào được đặt vào máy. Con đã được sinh tạo như một cái ta bất tử, và con có thể bồi đắp cho cái ta bất tử này bằng cách biểu đạt chính mình qua những hình ảnh đồng điệu với quy luật Thượng đế. Nhưng ở một thời điểm trong quá khứ, cái Ta Biết đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, và nó đã cắn vào quả trái của hiểu biết về thiện ác. Khi nó làm vậy thỉ nó đã bỏ vào bình chứa cái ta một số nội dung, và nội dung này thì dựa trên “sự thật” tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô.

Lúc đầu, các yếu tố nhị nguyên không đến nỗi ảnh hưởng biểu đạt sáng tạo của con hay cảm nhận mình là ai. Chúng chưa thể che khuất hay làm lu mờ cái ta bất diệt của con. Nhưng khi con cứ tiếp tục thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con càng ngày càng bỏ thêm nhiều nội dung hữu diệt vào bình chứa cái ta, và lần hồi chúng bắt đầu che phủ cái ta bất diệt. Điều này khiến con trở thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, xong khi con ngày càng phân rẽ hơm, cái Ta Biết bắt đầu đặt trọng tâm nhiều hơn vào ý niệm cái ta nhị nguyên. Điều này củng cố cho cái ta hữu diệt và bồi thêm nhiều nội dung nhị nguyên hơn nữa. Tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng hạ, rốt cuộc dẫn đến một điểm tới hạn khi cái Ta Biết quyết định là, quả thực, mình là một sinh thể thế phàm hữu diệt thay vì một Sinh thể tâm linh bất diệt đang tự biểu đạt qua một hình tướng hữu diệt.

5.3. Con ở trong Nước Trời ngay lúc này

Cái Ta Biết sẽ luôn luôn là cái gì nó nghĩ nó là. Bất cứ lúc nào, cái Ta Biết cũng có thể lấy quyết định thay đổi ý niệm bản sắc của nó. Cái Ta Biết là sự cá thể hóa (individualization) của Bản thể Thượng đế, và Thượng đế đã tiết lộ cho Mô-sê tên gọi: “Ta sẽ là cái Ta sẽ là,” có nghĩa là Thượng đế giữ quyền thăng vượt chính mình mọi lúc và bất cứ lúc nào. Tương tự như thế, con cũng có quyền thay đổi bản sắc của con bất cứ lúc nào, và con có quyền tự thăng vượt hay tự thoái hóa.

Con có thể đã xây dựng một cá thể rất công phu phức tạp dựa trên các hình ảnh và tin tưởng nhị nguyên. Con có thể đã đồng hóa với cái ta hữu diệt đó suốt nhiều kiếp trước. Con có thể đã quên mất mình là một sinh thể tâm linh, mình có một cái ta bất diệt. Thậm chí con có thể tin rằng con không có cách chi thay đổi được ý niệm cái ta của mình hay vượt xa hơn cái ta hữu diệt. Bí ẩn thực sự của cuộc sống là, bất cứ lúc nào, con – nghĩa là cái Ta Biết – là cái con nghĩ con là. Bất cứ lúc nào con cũng có quyền năng xoay chuyển cảm nhận mình là ai. Ngay lúc này đây, con có sức mạnh của quyền tự quyết để quyết định một cách ý thức là con không còn tự đồng hóa với một sinh thể thế phàm hữu diệt nữa, mà con chấp nhận sự thật con là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tạm thời biểu đạt chính mình qua một hình dạng hữu diệt.

Có một sự phân biệt vi tế ở đây. Thày đã nói với con về khái niệm đường tu và thày đã so sánh với một cầu thang hình xoắn ốc. Cầu thang xoắn ốc có nhiều bực riêng biệt, mỗi bực tượng trưng cho một quyết định dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con đi xuống một bước, con đã lấy quyết định chấp nhận một lời dối nhị nguyên nào đó và bỏ nó vào nội dung bình chứa cái ta của con, con biến nó thành một thành phần của cái ta hữu diệt của con. Điều này chuyển đổi cái ta đi chút xíu, và con rời xa hơn cái ta bất diệt, con dấn sâu hơn vào cái ta hữu diệt. Để đi lên cao hơn bực thang đó, con phải nhìn thấu ảo tưởng nhị nguyên đó và quyết định bỏ nó lại đằng sau, bằng cách chấp nhận sự thật của Ki-tô sẽ thay thế lời dối của phản Ki-tô, và như vậy con thoát khỏi ảo tưởng.

Hầu hết mọi người trên trái đất đã bước xuống nhiều bực trên chiếc cầu thang dẫn vào tâm thức nhị nguyên. Từ vị trí con đang đứng, thật không có đường tắt nào sẽ đưa con trở lên ý niệm cái ta bất diệt bằng một bước nhảy duy nhất. Không có cách nào mà tránh né tiến trình thay thế các chọn lựa nhị nguyên bằng chọn lựa dựa trên tảng đá của tâm thức Ki-tô. Làm như vậy sẽ tước đi quyền tự quyết của con và cắt ngang toàn bộ mục đích của sáng tạo, cụ thể là con tăng triển qua các chọn lựa mà con lấy. Nếu con đã bước xuống một số bực thang trên cầu thang xoắn ốc, con chỉ có thể đi lên bằng cách bước lên từng bực và thay thế ảo tưởng mà bực này tượng trưng bằng sự thật Ki-tô. Con phải làm điều này qua những chọn lựa ý thức mà chỉ có con mới có thể lấy.

Mỗi bước con đã đi xuống cầu thang xoắn ốc tượng trưng cho một lời dối nhị nguyên mà con đã bỏ vào bình chứa cái ta. Các lời dối này đang nằm trong bình chứa đó và chúng sẽ nằm yên ở đó cho tới khi con giải quyết chúng qua những chọn lựa tốt hơn. Cái Ta Biết có một nhận biết độc lập so với nội dung bình chứa cái ta. Ngay lúc này, con có thể chọn tái nối kết nhận biết ý thức của mình với cảm nhận thuần khiết của Bản thể con, với ý niệm nhận biết thuần khiết, với ý niệm cái ta thuần khiết mà con vốn thực là. Ý niệm cái ta thuần khiết của con đã không hề biến đổi khi con chọn tạo ra một cái ta hữu diệt và tạm thời đồng hóa với nó. Ý niệm cái ta thuần khiết của con vẫn hiện hữu trong dạng nguyên thủy của nó, và con có khả năng xoay chuyển ý niệm bản sắc để rời xa cái ta hữu diệt về hướng cái ta bất diệt. Đây là ý nghĩa thực trong lời dạy của Giê-su rằng một người phải tái sinh về mặt tâm linh, phải tái sinh trong Tánh linh (John 3:5) để có thể bước vào Nước Trời.

Mọi thứ đều được tạo thành từ chất liệu của Thượng đế, từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi thứ đã được tạo thành, mọi thứ trong thế giới hình tướng. Thượng đế ở ngay đây với con ngay lúc này, ngài có mặt ở mọi nơi, và do đó vương quốc Thượng đế thực sự đang ở đây với con. Nếu con sẵn lòng, con có thể xoay chuyển ý niệm cái ta của con, ý niệm bản sắc của con, để chấp nhận con đang ở trong Nước Trời rồi, ngay lúc này. Điều này sẽ không lập tức thay đổi nội dung bình chứa cái ta. Cũng không có nghĩa là con có thể lập tức thể hiện trong thế gian này cái ta bất diệt của con, cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn mang cái ta hữu diệt, cá thể người phàm đang che mờ cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn phải đi qua tiến trình vứt bỏ, một cách quy củ, các lời dối nhị nguyên đang cấu thành cái ta hữu diệt hầu con có thể tỏ lộ cái ta thiêng liêng của mình.

Nhưng khi đi qua tiến trình này, con không phải tiếp tục đồng hóa với cái ta hữu diệt. Con không phải tiếp tục nghĩ rằng, một cách nào đó, con không xứng đáng hay không có khả năng bước vào vương quốc Thượng đế vì con có cái ta hữu diệt này. Con không cần phải cảm thấy mình bị đày khỏi Nước Trời, đày khỏi Vườn Eden, và mình sẽ không thể bước vào Vườn cho tới khi mình sạch hết cái ta hữu diệt. Khi Giê-su nói rằng Nước Trời ở trong con, thày thực sự muốn nói Nước Trời là một trạng thái nội tâm, một trạng thái tâm thức. Thày muốn nói Nước Trời sẽ biểu hiện trong đời con khi cái Ta Biết tự đồng hóa ở trong Nước Trời. Ý niệm bản sắc này độc lập với nội dung bình chứa cái ta. Con có khả năng dời chuyển ý niệm cái ta xa khỏi một con người thế phàm bị tước mất sự sống dồi dào, bị chia cách khỏi Nước Trời. Con có khả năng xoay chuyển ý niệm cái ta và chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh, và không gì trong thế gian này có thể lấy đi bản sắc thực của mình. Con có thể chấp nhận là con đang ở trong Nước Trời ngay lúc này.

5.4. Mất cái ta hữu diệt, con được cái ta bất diệt

Con là một người tìm cầu tâm linh, và con vẫn biết con là nhiều hơn xác thân vật lý của con. Có một sinh thể lớn hơn, mà hầu hết mọi người đều gọi là linh hổn nhưng thật ra là cái Ta Biết. Cái Ta Biết tạm thời mặc vào cơ thể vật lý giống như thân con mặc vào một chiếc áo choàng. Cái ta hữu diệt mà con đã tạo ra có thể so với thân thể vật lý của con. Nó không phải là cái ta thực của con y như thân thể không thực là con. Nó chỉ đơn giản là một chiếc áo choàng mà cái ta thực của con đang mặc ngay lúc này. Con không thể lập tức vứt bỏ cái ta hữu diệt đó đi vì nó phải được giải thể từng bước một, từng quyết định một. Nhưng con có thể lập tức vứt bỏ ý niệm rằng con bị giam cầm, bị kẹt cứng trong cái ta hữu diệt. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quyết định bước đến cánh cửa nhà tù, kéo tay nắm và nhận ra là mặc dù cánh cửa có rất nhiều ổ khóa khác nhau, kỳ thực nó không khóa gì hết. Bất cứ lúc nào con cũng có thể mở cửa ra và được tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới, rằng con đang đứng ngoài nhà tù.

Có một sự khác biệt to lớn và cơ bản giữa việc nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù cái ta hữu diệt và nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù, con tưởng rằng con, nghĩa là cái Ta Biết, bị giới hạn trong nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù, con thấy rõ cái Ta Biết nhiều hơn nhà tù gấp bội. Con có thể so sánh nhà tù này với một cái hộp to bằng căn nhà, xây cất bằng gạch với một cánh cửa bằng thép. Khi con ở trong hộp, con tưởng thế giới là một cái hộp bằng gạch. Khi con ở bên ngoài, con thấy rõ bình chứa cái ta lớn hơn hộp rất nhiều. Hộp vẫn hiện hữu trong bình chứa cái ta của con nhưng con không bị hạn chế trong đó.

Thày nói điều này cho con vì mấy lý do. Một lý do là vì nếu con có thể chấp nhận ý niệm bản sắc rộng lớn hơn của con và được tái sinh trong cái ta lớn này, con sẽ lập tức bắt đầu cảm thấy một sự nối kết chặt chẽ hơn với cái Tất cả của Thượng đế. Điều này sẽ khiến đường tu của con vui thú hơn rất nhiều, an bình hơn rất nhiều. Cũng từa tựa như thay vỉ con có món nợ và cảm thấy mình không có đồng nào tiêu pha, thì con dư giả tiền bạc cất trong ngân hàng.

Thày cũng nói điều này với con vì một lý do rất thực tiễn. Khi con ở trong hộp bằng gạch, con nghĩ đó là cái ta thực của con, cá thể thực của con. Trong tiềm thức, con biết con là một sinh thể tự nhận biết đúng lý phải đồng-sáng tạo qua việc biểu đạt cá thể của mình. Con không thể chịu nổi ý nghĩ mình không có cá thể nào để biểu đạt. Nếu con cho rằng cái ta hữu diệt là cá thể duy nhất của mình, thì con sẽ dính mắc tình cảm với mỗi khía cạnh của cái ta hữu diệt đó, với mỗi viên gạch của cái hộp đó. Nếu một vị thày tâm linh đến bảo con là con phải vứt bỏ một viên gạch đi, con sẽ không chịu hay không thể làm được vậy, vì con có cảm tưởng là nếu con buông một phần của cái ta hữu diệt thì con cũng đánh mất một phần cá thể của mình. Sự phân biệt vi tế là cái ta hữu diệt hoàn toàn dựa trên, được xây bằng lời dối nhị nguyên từ tâm phản Ki-tô. Mỗi lời dối như vậy là một viên gạch cấu tạo cái hộp đang giam giữ con. Để loại bỏ cái hộp khỏi bình chứa cái ta, con phải đục bỏ từng viên gạch một cách hệ thống và quăng nó đi. Với mỗi viên gạch con vứt bỏ, con thăng lên một bực trên cầu thang xoắn ốc.  

Nếu con nhìn cuộc sống từ bên trong hộp, con sẽ nghĩ mỗi viên gạch là một phần không thể thiếu, không thể thay thế của cá thể thực của con. Nếu con mất tất cả gạch, con sẽ là con số không, con sẽ là một vỏ rỗng, con sẽ là một lỗ đen không chút cá tính. Nỗi sợ lớn nhất của bất kỳ sinh thể tự nhận biết nào là đánh mất ý niệm bản sắc của mình, cho nên con sợ buông ra các lời dối nhị nguyên mà con tưởng là một phần của cá thể con. Đây chính là điều sẽ biến đường tu thành một cuộc vật lộn, một con Đường Thương khó, khi tâm vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép tâm tiềm thức phải buông bỏ một viên gạch của cái hộp. Tâm tiềm thức bám chặt lấy viên gạch đó như là chuyện sống chết, và đây là điều tâm tiềm thức, cái ta hữu diệt của con tin chắc như vậy. Đây là vì sao quá nhiều người, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các đạo khác và phong trào Thời mới, luôn luôn vật lộn trong một trận chiến gian nan liên tục. Với tâm vỏ ngoài, họ nhận ra là họ cần thay đổi đời họ, và họ đã dùng một giáo lý tâm linh vỏ ngoài nào đó để tạo dựng một tâm ảnh về con người mà họ cần là hầu được cứu rỗi, hay trở thành con người tâm linh mà họ muốn trở thành. Tâm vỏ ngoài tìm cách ép uổng tâm ảnh này lên tâm tiềm thức, hầu tâm ảnh có thể thay thế ý niệm cái ta hiện thời của họ. Phần tiềm thức trong tâm họ cưỡng lại chuyện này, vì vậy trong bản thể họ luôn luôn có sự vật lộn, một cuộc chiến biến họ thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, một ngôi nhà xây trên cát. Đây là tại sao nhiều người tìm kiếm tâm linh cảm thấy mình tiến bộ rất ít, tại sao mình cảm thấy như thể mỗi lần mình tiến lên một bước thì có gì đó kéo mình trở ngược lại một hai bước.

Con có quyền tự quyết, cho nên con hoàn toàn có quyền tiếp tục vật lộn cho đến hết kiếp, thậm chí trong nhiều kiếp sống, nếu đó là điều con muốn. Thày không có mong muốn bảo con phải bước theo đường đời của con như thế nào. Nhưng thày mong muốn nói với con là đường tu tâm linh, con đường đến sự sống dồi dào, con đường đến cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu, không cần phải là một cuộc vật lộn. Con có khả năng bước ra ngoài cái hộp của cái ta hữu diệt. Khi con bước ra ngoài, con thấy và con biết con là nhiều hơn cái ta hữu diệt. Con vẫn còn cái hộp bằng gạch đó trong bình chứa cái ta, nhưng vì con biết con là nhiều hơn hộp, vì con nhìn thế giới từ ngoài hộp, con không còn dính mắc tình cảm nào nữa với từng viên gạch cấu thành cái hộp. Con thừa biết là nếu con vứt bỏ một viên đi, con không hề mất ý niệm bản sắc của con. Vứt bỏ một viên gạch không còn là vấn đề sinh tử nữa. Con không cần đánh nhau để cố giữ gạch vì con biết chúng không là một phần của con người thực của con. Khi con ngộ ra sự thật này, việc buông bỏ các viên gạch dễ hơn quá đỗi. Giờ đây con có thể buông chúng nhanh hơn gấp bội, với ít khổ não và đau đớn hơn gấp bội. Thay vì cảm thấy như thể mình sắp chết mỗi khi mình bỏ một viên gạch, con cảm thấy con sắp được sống dồi dào hơn với mỗi viên gạch mà con vứt bỏ, với mỗi viên gạch không còn nặng gánh trên hành trình leo núi của con.

A con yêu dấu, con có cảm được sự khác biệt to lớn điều này sẽ đem lại trong đời con? Con có cảm được là chỉ bằng một bước tái sinh tâm linh, con có thể xoay chuyển mọi chuyện trong đời mình? Khi con đi qua ngưỡng cửa nhà tù và bước ra ngoài cái ta hữu diệt của mình, mọi chuyện trong đời con sẽ thay đổi – trong nghĩa đen. Cách con nhìn mọi thứ sẽ thay đổi. Toàn bộ quan điểm của con về cuộc sống sẽ thay đổi trong bản chất, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ khuếch đại muôn phần. Mặc dù sự mở rộng này có thể là một thay đổi to lớn lúc đầu, con sẽ nhanh chóng bắt đầu cảm thấy là mình đã về nhà và mọi chuyện đúng ra phải như thế này. Ý niệm cái ta tự nhiên của con chính là sinh thể tâm linh thuần khiết mà con là. Thật không tự nhiên chút nào khi ý niệm cái ta bị giam trong một cái hộp nhỏ xíu bằng gạch, cho nên khi con bước ra ngoài hộp, cụ thể con sẽ cảm thấy như mình về nhà. Và quả thực con đã về nhà, con đã về nhà là vương quốc của Cha con, tức là ý niệm cái ta mà Cha con đã dành sẵn cho con ngay từ ban đầu.

5.5. Cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn

Con yêu dấu, thày không biết có thể nói gì hơn để thuyết phục con những lời này là sự thật. Khi thày nhìn loài người như thày đã quan sát suốt 2000 năm qua và hơn nữa, thày thấy được là hầu hết mọi người trên hành tinh đều kẹt cứng trong những chiếc hộp nhỏ xíu bằng gạch. Mỗi người đã giới hạn ý niệm cái ta của mình trong chiếc hộp nhỏ cấu tạo cái ta hữu diệt của họ. Một số còn không biết là có một cánh cửa. Một số khác biết là có cửa nhưng họ tin chắc là cửa bị khóa, và họ không buồn bỏ công ra để thử xem chuyện này có thật hay không. Họ tin là họ không có cách chi thoát ra khỏi hộp. Một số còn tin là họ không có nhu cầu trốn thoát – họ đã tôn cái ta hữu diệt, và trong một số trường hợp ông hoàng của thế gian, lên làm kẻ cai trị đền thờ của họ. Một số đã thức tỉnh là họ có thể mở các ổ khóa để cuối cùng mở cửa, nhưng họ vẫn tin là họ sẽ bị kẹt bên trong cho đến khi ổ khoá cuối cùng được mở.   

Thày đã hợp nhất với tâm thức cùng Bàn thể của khía cạnh Mẹ của Thượng đế. Như Giê-su đã nói: “Và vua phán, mỗi lần các con làm như vậy cho người anh em bé nhò nhất của ta, thì các con đã làm cho chính ta vậy” (Matthew 25:40). Là Mẹ Thượng đế, thày cảm thấy cùng một tình thương cho mỗi người và mọi người trên trái đất này. Thày không mong gì hơn được nhìn thấy mỗi người và mọi người trong các con thoát ra khỏi nhà tù đang giam con trong bóng tối. Thày không mong gì hơn nhìn thấy con mờ cửa nhà tù và chạy ra ánh nắng rực rỡ, lòng tràn ngập niềm tự do quá mới đến độ con bật cười, hét lên sung sướng, chẳng khác gì trẻ nhỏ chạy vui trên đồng cỏ nở hoa trong ánh nắng rực rỡ của ngày xuân đầu tiên.

Mong muốn lớn nhất của thày là được thấy mọi người thoát khỏi nhà tù của tâm mình, thoát khỏi những cái hộp nhỏ bằng gạch, và ngộ ra mình thực sự là ai. Thày không muốn thấy con người cố leo lên cầu thang xoắn ốc mà mỗi bực phải giao chiến với con rồng của cái ta hữu diệt, giống như thánh George đánh nhau với rồng vậy. Thày muốn thấy con tách mình ra khỏi, tách cái Ta Biết ra khỏi cái ta hữu diệt để con có thể bước lên mỗi bực trên cầu thang xoắn ốc với niềm vui, với cảm giác an bình đến từ sự nhận biết rằng những gì con bỏ lại đều là không thực. Đây là niềm vui biết rằng mỗi lần con buông bỏ một lời dối nhị nguyên thì con cũng tiến một bước gần hơn trạng thái tự do biểu hiện cá thể thiêng liêng của mình.

Khi con biết điều này thì việc buông bỏ các hạn chế cũ, buông bỏ ý niệm cái ta hữu diệt, sẽ không gắn liền với nỗi sợ mất mát mà gắn liền với niềm vui thu hoạch. Thay vì cảm thấy mình bị mất gì đó, con nhận ra là kỳ thực con đang được gì đó – ý niệm cái ta cũ được thay thế bằng một ý niệm cái ta lớn hơn, đẹp hơn. A con yêu dấu, chính cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn, và cảm nhận vật lộn thì khởi lên từ sự dính mắc tình cảm của con với cái ta hữu diệt. Dính mắc này khởi lên từ nỗi sợ rằng nếu con mất đi một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ không có gì để thay vào chỗ đó. Đây là một niềm tin chỉ có mặt khi con nhìn cuộc đời từ bên trong chiếc hộp cái ta hữu diệt. Ngay khi con mở cửa tù ra và bước vào ánh nắng rực rỡ của Hiện diện TA LÀ của con, con sẽ thấy là khi con thay thế một phần của cái ta hữu diệt, khi con buông bỏ một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ làm lộ ra phần tương ứng của cái ta bất diệt từng bị ảo tưởng hữu diệt che mờ. Con không mất gì hết trong quá trình này, mà con chỉ được một cái gì đẹp hơn, sáng giá hơn vô lượng – và đây chính là ý nghĩa thật sự của sự sống dồi dào. Con có thể có tất cả của cải trên thế gian, nhưng chừng nào con còn kẹt trong chiếc hộp của cái ta hữu diệt, con sẽ không bao giờ có được sự sống dồi dào, con sẽ không bao giờ thoát khỏi nỗi sợ thiếu thốn. Đây là ý nghĩa thật sự của lời dạy của Giê-su: “Người nào được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì?” (Mark 8:36). Chỉ có một cách để đạt sự sống dồi dào, đó là bước ra ngoài chiếc hộp của cái ta hữu diệt, và nhờ vậy con tìm được sự dồi dào mà Thượng đế cho con miễn phí, vì ngài rất vui lòng ban cho con vương quốc của ngài.

Việc bỏ lại một đồng của cái ta hữu diệt thật là đáng tiền vì thay vào đó con nhận được bạc triệu của cái ta bất diệt. Con trở nên sẵn lòng, thậm chí con còn háo hức muốn phơi bày những lời dối của cái ta hữu diệt. Con trở nên sẵn lòng với tới sự thật của tâm Ki-tô sẽ thay thế lời dối của tâm phản Ki-tô. Con đã khắc phục nỗi sợ không dám xem xét các ảo tưởng của phản Ki-tô. Con không còn sợ việc phơi trần các lời dối nhị nguyên của cái ta hữu diệt vì con không còn đồng hóa với chúng nữa.

5.6. Con có khả năng là Ki-tô Hằng sống

Điều ngăn cách con với sự sống dồi dào chỉ là một sự xoay nhẹ chiếc la bàn của nhận thức, la bàn của cái ta. Con cần dời ý niệm cái ta xa khỏi cái ta hữu diệt và chấp nhận cái Ta lớn hơn mà con là. Một khi con đã xoay chuyển như vậy, con đường đi lên trở nên dễ dàng vì giờ đây con nhận ra với Giê-su: “Ách của ta dễ chíu, gánh của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30). Đó là khi con khắc phục nỗi sợ ngăn cản hầu hết mọi người thực hành một trong những câu quan trọng nhất của Giê-su. Có lẽ con nhớ Giê-su có nói: “Nếu ai muốn đi theo ta thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập tự giá của mình mà đi theo ta” (Matthew 16:24). Nhiều tín đồ Cơ đốc đã đọc câu này mà không hiểu được ý nghĩa, cho nên họ đã nhắm mắt làm ngơ hay đã bác bỏ nó với một đường lý luận nhị nguyên.

Khi Giê-su bảo từ bỏ chính mình, thày muốn nói đến những người đã tự đồng hóa với cái ta hữu diệt. Cái ta mà con từ bỏ để đi theo Giê-su không phải là cái ta thực; đó là cái ta hữu diệt. Con từ bỏ nó bằng cách chối bỏ nó là cái ta thực, bằng cách chối bỏ niềm tin là nó có bất kỳ uy quyền gì trên con, bằng cách chối bỏ ảo tưởng là cái ta hữu diệt có thể ngăn con đi theo Ki-tô. Con nhận ra và chập nhận sự thật là cái ta hữu diệt, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên trong, lẫn các thế lực của thế gian này, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên ngoài, không thể nào ngăn con đi theo Ki-tô. Không gì có thể ngăn chặn con, ngoại trừ những gì con cho phép cản đường con do con đồng hóa với nó hay sợ không dám nhìn nó.

Bây giờ con cũng có thể nhìn ra ý nghĩa câu “hãy vác thập tự giá của mình và đi theo Ki-tô”. Thập tự giá là một biểu tượng cho cái ta hữu diệt được cấu tạo bởi nhiều lời dối nhị nguyên mà con đã dần dà chấp nhận. Chúng hình thành một cấu trúc trong thế giới vật chất, và cái Ta Biết bị đóng đinh – bị giữ mải mê – vào cây thập tự. Thập tự giá có bốn nhánh, và như thày sẽ giải thích chốc nữa, điều này tượng trưng cho bốn tầng cấp của dải tần số vật chất mà chúng ta có thể gọi là bốn thể phàm của con. Mỗi thể phàm đã bị các lời dối nhị nguyên làm cho ô nhiễm. Vác thập tự giá của mình có nghĩa là con sẵn lòng tham gia vào tiến trình thanh lọc một cách hệ thống mỗi thể phàm của con cho không còn lời dối nhị nguyên nào khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Khi con khắc phục các lời dối này, khi con khắc phục cho đến kẻ thù cuối cùng của cái chết – bởi vì con cho phép cái ta hữu diệt của con được chết trên cây thập tự – con sẽ được phục sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô. Con sẽ không còn là một người đi theo Ki-tô nữa, mà con là Ki-tô Hằng sống ngay nơi con đang đứng. Như Giê-su đã chứng tỏ, con có khả năng là Ki-tô Hằng sống ngay đây trên trái đất.

Khi con đạt được trạng thái tâm thức này, con không còn đi theo đường tu tâm linh với mục đích tăng triển cá nhân mình nữa. Giờ đây con đã đạt được sự nhận biết lớn hơn rằng con là một với tổng thể, với Thân thể Thượng đế trên trái đất. Bằng cách là Ki-tô Hằng sống hiện thân trên trái đất, con có thể phụng sự như một cánh cửa mở để đem ánh sáng Ki-tô vào tâm thức tập thể của nhân loại. Con có thể giúp thanh lọc bốn thể phàm của tâm thức đại chúng, giúp người khác khám phá và đi theo đường tu tâm linh dễ dàng hơn. Khi đó con có thể nói cùng với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi trái đất, ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta” (John 12:32).

Đó là lý do Giê-su đã đến địa cầu. Thày đã gánh lấy tội lỗi của thế gian, nhưng đâu là tội lỗi của thế gian? Tội lỗi của thế gian là những lời dối nhị nguyên mà con người đã chấp nhận và bây giờ đã trở thành một thành phần của tâm thức tập thể. Giê-su đã gánh lấy một khía cạnh đặc thù của những lời dối nhị nguyên này, là xu hướng của con người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng, các thày giả, những kẻ đã nổi loạn chống lại Thượng đế và đã đến trái đất để đánh lừa loài người hầu chứng minh là họ biết hơn cả Đấng Sáng tạo. Đó là những con rắn, đó là những thế lực của phản Ki-tô đã âm mưu điều khiển loài người trong một thời gian rất dài. Giê-su đã khoác lấy chính xu hướng này, là xu hướng mù quáng đi theo kẻ cầm đầu mà không chịu lãnh trách nhiệm về đời mình và con đường của mình. Suốt 2000 năm qua thày đã gánh lấy tội lỗi đó, trạng thái tâm thức nhị nguyên đó, mong rằng loài người sẽ dùng giáo lý của thày để biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, để mài sắc khả năng phân biện cá nhân của mình, hầu nhìn thấu các lời gian dối do các lãnh đạo mù đó chủ xướng.

Vì lãnh đạo mù đã xâm nhập đạo Cơ đốc, hầu hết mọi người vẫn chưa có cái hiểu ý thức về sự hiện hữu của lớp lãnh đạo mù và làm thế nào tâm thức nhị nguyên của họ đã ảnh hưởng mọi khía cạnh cuộc sống trên trái đất. Nếu con không nhận ra là con bị kẹt trong một ảo ảnh thì làm sao con có thể thoát khỏi ảo ảnh đó? Do sứ vụ của Giê-su, hàng triệu người trên trái đất đã được chuẩn bị để có thể rất mau chóng giải thoát mình khỏi ảo ảnh nhị nguyên này và ngộ ra mình đã là người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng. Trên hành tinh này có một tiềm năng thực sự cho một sự thức tỉnh hàng loạt, qua đó hàng triệu người sẽ đạt được nhận biết mới về khía cạnh tâm linh của cuộc sống cùng con đường chân chính đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Điều này có thể xảy ra một sớm một chiều, và chắc chắn có thể xảy ra trong vòng một chục năm.

Nếu quả thật điều này xảy ra, con sẽ thấy hành tinh này thay đổi sâu đậm. Con sẽ thấy hành tinh địa cầu bước vào một thời đại hoàng kim của tự do lớn hơn, cả tự do vật chất lẫn tinh thần, và của dồi dào lớn hơn, cà dồi dào vật chất lẫn tinh thần. Đây là tiềm năng thật sự của thời đại hôm nay. Đây là một tiềm năng rất gần trở thành hiện thực vật lý, nhưng sẽ không thể là một hiện thực cho đến khi một khối người tới hạn (critical mass) chấp nhận đó là một hiện thực vật lý. Để chấp nhận vương quốc Thượng đế là một thực tại biểu hiện trên trái đất, con phải trước tiên chấp nhận vương quốc Thượng đế như một thực tại trong chính tâm thức và bản thể của con. Mục đích khóa học này không chỉ là để giúp con có được sự sống dồi dào cho con, mà giúp con nhìn ra là con đang ở đây để làm người tiên phong cho một thời đại hoàng kim sẽ đem lại sự sống dồi dào cho mọi người, bằng cách vĩnh viễn trục xuất những kẻ cầm đầu mù quáng – cùng với tâm thức tách biệt và thiếu thốn của họ – ra khỏi hành tinh.

5.7. Hoàn thành sứ vụ của Giê-su

Giê-su có nói: “Ta đã đến thế gian để phán xử, để những ai không thấy thì có thể thấy, còn ai đang thấy thì hóa mù” (John 9:39). Phán xử là một cơ hội để một người đứng trước một chọn lựa có thể chọn là ngày hôm nay mình sẽ phục vụ cho ai. Chọn lựa thực sự là liệu người đó sẽ phục vụ tâm Ki-tô hay tâm phản Ki-tô. Mọi khía cạnh cuộc sống trên hành tinh này đã bị tâm phản Ki-tô ảnh hưởng, với hậu quả là hầu hết mọi người không có chọn lựa nào giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô. Tất cả những gì họ đã được dạy dỗ để tin tưởng đều bị tâm phản Ki-tô chi phối. Làm sao họ có được cơ hội chọn lựa sẽ phục vụ ai đây? Họ sẽ chỉ có được cơ hội này khi họ gặp một người thể hiện được một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn họ. Khi gặp người này, họ chợt nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, họ nhận ra có một trạng thái tâm thức cao hơn. Đây chính là điều xảy ra khi người đời gặp Giê-su.

Thày đã bước chân với Giê-su rất nhiều lần, và thày đã thấy người ta phản ứng thế nào khi gặp Giê-su. Hiển nhiên là có nhiều loại phản ứng, nhưng thày có thể nói là rất ít người có thể gặp Giê-su bằng xương bằng thịt mà vẫn thờ ơ. Gần như ai ai cũng cảm được có gì đặc biệt nơi Giê-su, không phải là con người vỏ ngoài có gì đặc biệt mà họ cảm thấy Giê-su đã đạt được tâm thức Ki-tô, Giê-su là cánh cửa mở cho Ánh sáng Ki-tô hoàn vũ chiếu rọi vào bóng tối của thế gian. Khi gặp Giê-su, ký ức nội tâm của họ được đánh thức, và giờ đây họ có cơ hội nhìn nhận ký ức nội tâm này và cất bước trên con đường dẫn vể nhà. Một số đã chọn phủ nhận ký ức đó hay dùng một đường lý luận nhị nguyên để bác bỏ nó, nhưng ít ra họ đã có một cơ hội.

Khi họ gặp ánh sáng từ cao rọi xuyên qua Giê-su, họ có cơ hội chọn lựa, hoặc quay đầu lại và phụng sự ánh sáng đó, hoặc cứ tiếp tục phục vụ bóng tối của tâm phản Ki-tô. Liệu họ có sẵn lòng nhìn nhận rằng nếu Giê-su đã có thể đạt được quả vị Ki-tô thì có lẽ chính họ cũng có thể? Hay họ sẽ chối bỏ là họ có tiềm năng khoác vào tâm Ki-tô và cho phép tâm này ngụ trong họ vì tâm này cũng ngụ trong Ki-tô Giê-su (Philippians 2:5)? Đây là chọn lựa chân thực mà con người trong thời đại này phải đối mặt. Liệu họ sẽ tiếp tục đi theo các lãnh đạo giả của phản Ki-tô, hay rốt cuộc họ sẽ tách mình ra khỏi nhị nguyên và bước theo sự thật Ki-tô?

Con yêu dấu, con phải đối mặt với chọn lựa này ở mức cá nhân, và thày đã làm tất cả những gì thày có thể nghĩ tới để giúp con dễ chọn lựa hơn, là con chọn chấp nhận tiềm năng Ki-tô của mình, cất bước trên con đường Ki-tô, chối từ cái ta hữu diệt của mình, vác cây thập tự của mình và noi theo gương Giê-su. Khi con đi theo con đường này và khoác vào một phần lớn hơn của quả vị Ki-tô của mình, đến lượt con thật sự trở thành công cụ cống hiến cho người khác cùng chọn lựa đó. Mỗi người đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết, cho nên con và mọi người đều có quyền chối bỏ con đường quả vị Ki-tô hay tiềm năng đi theo con đường này. Dù người khác có chấp nhận hay chối bỏ tiềm năng cùa họ, đây không phải là quan tâm của con. Vai trò của con là cống hiến cho họ cơ hội chọn lựa, xong con để yên cho họ quyết định họ muốn làm gì với chọn lựa. Để có thể cống hiến chọn lựa cho họ, chính con phải tự thân bước trên con đường này và thể hiện một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó cho phép người khác cảm được nơi con có gì khác lạ, rằng con có gì đó mà họ không có. Cái con có chính là ánh sáng lớn hơn của đứa Con Thượng đế (the Son of God), của Mặt trời Thượng đế (the Sun of God).

Khi họ cảm được ánh sáng này, nó sẽ đánh thức lại trong họ ký ức nội tâm là cuộc sống có gì nhiều hơn, và nhiều người trong số họ sẽ nhận chân được ký ức này. Họ sẽ nhìn con và nói: “Bạn không khác tôi bao nhiêu. Nếu bạn có thể trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng Thượng đế thì có lẽ chính tôi cũng có thể?” Giê-su đã đến hành tinh này để chứng tỏ qua tấm gương của mình con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Vì các thày giả đã thâm nhập đạo Cơ đốc và biến Giê-su thành một thần tượng, rất ít người trên hành tinh đã làm theo gương của thày. Đó là vì sao thời đại hôm nay rất cần đến những người sẵn lòng nhìn thấu giáo điều tôn thờ thần tượng mà thày giả đã xây dựng và thay vào đó bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân.

Chỉ khi nào hàng triệu người làm như vậy thì trong tâm thức tập thể mới có thể có một sự thức tỉnh. Người ta có thể chấp nhận con đường quả vị Ki-tô vì con đường này được chứng minh cho họ qua tấm gương của những người cũng giống như họ. Quá nhiều người đã lớn lên và được dạy dỗ để thấy Giê-su rất khác mình, và họ không thể nhận ra chính họ trong con người Giê-su. Làm sao họ có thể chấp nhận câu nói của thày rằng những ai tin thày sẽ làm được những công việc thày đã làm (John 14:12)? Làm sao họ có thể xem thày là một tấm gương để noi theo nếu thày quá khác họ – nào thày sinh ra từ một nữ đồng trinh, nào thày chính là Thượng đế ngay từ đầu, nào thày có thể làm tất cả những phép lạ kia mà họ không thể làm?

Âm mưu của các thày giả là phá hoại sứ vụ của Giê-su. Thày đang ở đây, đang trao cho con khóa học này, vì thày yêu con và thày yêu Giê-su. Thày muốn thấy sứ vụ của Giê-su trở thành một chiến thắng trên hành tinh này. Thày muốn thấy điều đó vì tình yêu vô biên của thày cho Giê-su, nhưng xin con chấp nhận là thày không yêu Giê-su nhiều hơn con. Vì tình yêu của thày cho con nên thày cũng muốn thấy con khám phá sự thật về sứ vụ của Giê-su để con có thể bước chân theo và giải thoát mình khỏi tâm phản Ki-tô. Thày muốn con được tự do khỏi kẻ thù bên ngoài tức ông hoàng của thế gian, lẫn kẻ thù bên trong tức cái ta hữu diệt của con.

Tình yêu của thày vô điều kiện, và thày sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào giam con lại trong cái ta hữu diệt này. Thày đã đến để trao con một khóa học chứa đựng sự thật có khả năng giài thoát con, nếu con đón nhận nó và cho phép nó tác động giống như chất men sẽ nâng cao toàn bộ tâm thức của con (Matthew 13:33). Nếu con chấp nhận sự thật mà thày cho con, sự thật này quả thực sẽ giải thoát con khỏi mọi lời dối của phản Ki-tô. Đây không chỉ là một lời hứa suông. Đây là thực tế!

Vấn đề hầu hết mọi người phải đối mặt là họ đã lớn lên trong một thế giới đầy rẫy tin tưởng nhị nguyên. Họ sống trong nhà tù con người phàm và họ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ gì bên ngoài nhà tù. Họ sống trong một cái hộp bằng gạch hoàn toàn tăm tối và họ nghĩ không có gì khác hơn bóng tối. Khi con mở cửa tù ra và ánh sáng rực rỡ của mặt trời chiếu rọi qua cánh cửa, ảo tưởng cho rằng chỉ có bóng tối sẽ lập tức tan biến.

Bóng tổi không có thực thể trong Thượng đế. Cái gì không có thực chất bất diệt không thể có quyền lực nào trên con vì con là một sinh thể tâm linh bất diệt. Nó chỉ có thể ảnh hưởng con chừng nào con nghĩ nó có thực chất. Ngay khi ánh sáng Ki-tô đi vào bản thể con và xua tan ảo tưởng cho rằng không có gì khác hơn nhị nguyên, con sẽ giải thoát khỏi ảo tưởng đó. Đây không phài là chuyện mơ mộng ao ước, mà là một thực tế con có thể chứng minh bằng cách đi vào một căn phòng tối và bật đèn lên.

5.8. Đem ánh sáng vào bóng tối

Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Mục đích của cuộc sống là đem ánh sáng vào bóng tối của khoảng trống không. Khoảng trống không nguyên thủy không có gì trong đó và vì thế nó tối. Bóng tối này không thiện mà cũng không ác, nó chỉ đơn giản là sự thiếu vắng ánh sáng. Nó không là cùng một thứ với điều con người gọi là ác. Vì con người đã thử nghiệm với quả trái của hiểu biết về thiện ác, cho nên họ đã tạo ra một tình trạng có hai đối cực tương đối che khuất cả ánh sáng của Thượng đế lẫn bóng tối nguyên thủy của khoảng trống không. Loài người, bị cầm đầu bởi lãnh đạo mù là các thày giả, đã bị lừa gạt để mà tạo ra những hình ảnh tương đối, nhị nguyên, của riêng mình về thiện và ác. Ác có vẻ tối tăm và thiện có vẻ sáng sủa, và đó là tại sao Paul mới nói: “Chính Satan cũng hóa thành một thiên thần ánh sáng” (2Corinthians 11:14). Cả hai đối cực tương đối này đều không thể hiện thực chất của ánh sáng Thượng đế lẫn bóng tối của khoảng trống không. Cả hai đều không có thực tế tối hậu nào vì chúng chỉ hiện hữu như những hình ảnh tạm thời được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật bởi các sinh thể tự nhận biết đang mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô.

Vì con người bị lừa dối nên họ đã dần dần tin rằng cái ác là một thực tế hiển hiện, rằng nó tồn tại thực sự như là đối nghịch của Thượng đế. Họ đã dần dần tin rằng những gì được các thẩm quyền tôn giáo hay chính trị định nghĩa là thiện cũng thật sự là thiện trong thực tại của Thượng đế. Đây chẳng qua là một màn ngụy trang. Cả thiện lẫn ác khởi lên từ tâm thức nhị nguyên đều không có thực tế tối hậu nào. Điều con người gọi là ác chỉ đơn giản là một ảo tưởng khi ánh sáng Ki-tô vắng mặt. Ngay cả điều con người gọi là thiện cũng chỉ là cái thiện tương đối, đó cũng là một ảo tưởng khi cái thiện lớn hơn vắng mặt, cái thiện tuyệt đối của tâm Ki-tô. Con người đã bị mắc kẹt vào một trò chơi bất tận dựa trên ảo tưởng là có một cuộc chiến giữa thiện và ác trên hành tinh này. Nhưng trận chiến chỉ diễn ra giữa cái thiện tương đối và cái ác tương đối, và cả hai lực này đều do tâm thức nhị nguyên quy định. Chúng không có thực tế nào, chúng không có lẽ thật nào trong chúng, chúng không có sự sống nào trong chúng. Đằng sau các ảo tưởng này, đằng sau các ảo ảnh hiện ra trong sa mạc, là thực tại của Thượng đế neo trụ hằng thường trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tâm thức phản Ki-tô không thật sự đối chọi với tâm Ki-tô vì sự thật Ki-tô không hề có đối nghịch.

Các thế lực phản Ki-tô tin là họ đối nghịch với tâm Ki-tô, nhưng sự đối nghịch này chỉ hiện hữu trong tâm họ. Nó chỉ có thể hiện hữu vì họ bám vào cái ta hữu diệt sinh ra từ sự tách biệt với cái Tất cả. Đối với Thượng đế thì không có thực tế nào trong họ, không có sự sống nào trong họ. Tất cả mọi thứ họ đã gầy dựng trên trái đất giống như Tháp Babel. Họ tìm cách cưỡng chiếm thiên đàng bằng cách xây dựng một tòa tháp cao tới tận trời, nhưng đó chỉ là một ngôi nhà xây trên cát. Chắc chắn nó sẽ sụp đổ vì lực co lại của Đấng Mẹ sẽ hủy diệt nó, y như mọi thứ khác không thẳng hàng với thực tại của Thượng đế cũng bị hủy diệt.

5.9. Bước ra khỏi tâm thức vật lộn

Con có thể tiếp tục trò chơi quanh co, trò chơi nhị nguyên này, qua đó con có thể nghĩ mình là một người tâm linh hay mộ đạo đang rõ ràng chiến đấu về phe Ki-tô bằng cách đánh nhau với các thế lực mà con tin là xấu ác. Kỳ thực con chỉ là một con tốt trong ván cờ nhị nguyên của phản Ki-tô nơi không bên nào đại diện cho sự thật tuyệt đối của Ki-tô. Nhiều người sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này. Họ sẽ khó lòng thừa nhận là những gì họ đã luôn luôn tin tưởng là đại nghĩa cao cả thật ra có thể là một ảo tưởng dựa trên tâm phản Ki-tô. Nhiều người cũng sẽ khó lòng tin rằng một người tâm linh không nên chiến đấu chống lại cái ác của con người. Tại sao con nghĩ Giê-su lại nói: “Nhưng ta nói với con, đừng chống cự cái ác. Trái lại, nếu có ai tát con bên má phải, con hãy quay má trái luôn cho họ” (Matthew 5:39)? Giê-su đang bảo những ai theo thày hãy vươn lên cao hơn trò chơi nhị nguyên của thiện ác tương đối. Khi con chiến đấu với cái ác của con người, con chỉ tự nhốt mình chặt hơn vào trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Con có thể tiếp tục trò chơi này cho đến mãn kiếp và thêm nhiều kiếp nữa. Khi con mệt mỏi cuộc đấu tranh bất tận này, thày sẽ ở đó để chỉ cho con thấy là có một cách khác. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi cuộc vật lộn nhị nguyên không bao giờ chấm dứt giữa hai thế lực, vì cả hai đều không thuộc về Thượng đế. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi mọi cuộc vật lộn bằng cách đưa con vượt khỏi các lực đối chọi và nhập vào cái một của tâm Ki-tô nơi không có phân rẽ, không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17). Mọi thiện ác tương đối được thay thế bởi ánh sáng thuần đơn của Mặt trời Thượng đế.

Giê-su đã đến để cống hiến loài người con đường này 2000 năm về trước. Giê-su đang ở đây ngày hôm nay để cống hiến con đường này cho con. Như thày vẫn nói: “Ta sẽ ở với con luôn luôn, ngay cả đến ngày tận thế” (Matthew 28:20). Ngày tận thế không có nghĩa là trái đất sẽ không còn tồn tại, như nhiều người Cơ đốc tin tưởng. Ngày tận thế có nghĩa là sự chấm dứt nhị nguyên, sự tận cùng của nền thống trị của nhị nguyên trên hành tinh này. Ngày tận thế có nghĩa là thời điểm có một số người tới hạn thăng lên tâm thức Ki-tô. Họ đòi lại trái đất cho Ki-tô để Thượng đế có thể trục xuất ông hoàng của thế gian khỏi thế gian. Ki-tô sẽ hiện ra như vị vua sẽ mãi mãi ngự trị trên trái đất vì trái đất giờ đây đã trở thành vương quốc của Thượng đế.

Con có thể là một người đi tiên phong cho sự kiện này, nhưng con chỉ có thể làm vậy nếu con sẵn lòng vác cây thập tự của mình và thanh lọc bản thể mình một cách hệ thống cho không còn lời dối nào của phản Ki-tô. Nếu con sẵn lòng đi theo con đường chân truyền này thì thày sẽ sẵn lòng nắm tay con và đồng hành với con trên mỗi bước cuộc hành trình. Con đường này không phải là con Đường Thương khó, không phải là một cuộc chiến đấu bất tận. Con đường chân truyền của Ki-tô là con đường tình thương, con đường an lạc, con đường tự do, con đường của sự sống dồi dào. Con có khả năng thoát khỏi cảm nhận vật lộn bằng cách xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình xa khỏi cuộc chiến đấu nhị nguyên.

Một số người đã sẵn sàng làm cuộc xoay chuyển này, và họ có thể làm vậy tức khắc. Thật sự con chỉ cần một quyết định, và con không thể lấy quyết định nào trong quá khứ cũng như trong tương lai. Con chỉ có thể lấy quyết định trong hiện tại, nghĩa là con có thể lấy quyết định từ bỏ cuộc chiến đấu bất cứ lúc nào. Con sẽ không thoát khỏi cuộc chiến cho đến khi con quyết định là con còn không chấp nhận hình ảnh cuộc sống là một cuộc chiến. Con không thể lấy quyết định này cho đến khi con quyết định là con lấy quyết định ngay bây giờ.

Thày biết rõ là đối với một số người, thời điểm họ có thể lấy quyết định này vẫn chưa đến. Lý do là vì họ vẫn quá đồng hóa với cái ta hữu diệt. Nếu đây là trường hợp của con, đừng sợ hãi. Trong phần còn lại của khóa học này, thày sẽ cho con những dụng cụ cần thiết để con tự giải thoát khỏi ách thống trị của cái ta hữu diệt này, hầu con có thể chấp nhận tự do của mình, là sự tự do con chưa hề mất bao giờ, mà trái lại vẫn luôn thuộc về con để con đòi lại trong hiện tại vĩnh cửu – tức là giây phút độc nhất hằng có.

3 | Cái ta hữu diệt ngăn chặn sự dồi dào như thế nào?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 13/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, thày biết khi thày nói với con rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết đi thì chuyện này nghe có vẻ to tát quá. Nó không đến nỗi to lớn như nó có vẻ. Tất cả mọi sinh thể tự nhận biết mang nỗi sợ rất lớn bị mất bản sắc của mình, ý niệm cái ta của mình. Sự tồn tại của con dựa trên sự kiện con có những đặc tính cá nhân khiến con là một sinh thể cá biệt. Con được sinh tạo để nhân rộng cá thể của mình và nắm quyền cai quản, trước tiên cái ta của mình, và sau đó thế giới nơi con sống. Điều cuối cùng con muốn là đánh mất cá thể của con, đánh mất cái ta của con. Thoạt nhìn, thật có vẻ đáng sợ khi nghĩ đến việc mình phải bỏ ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Tuy nhiên, ý niệm bản sắc hiện thời của con không phải là cá thể thật của con. Ngược lại, đó là một hình ảnh hạn hẹp về chính mình đang che phủ vẻ đẹp bội phần cùng sự toàn hảo của cá thể mà Thượng đế đã phú cho con.

Con đã có mất gì không khi cơ thể của con đi qua tiến trình lớn lên từ một hài nhi thành một người trưởng thành? Chắc chắn con đã mất cơ thể một đứa bé và bây giờ con có cơ thể một người trưởng thành, nhưng liệu đây là mất mát hay thật ra là một món lợi? Nếu thày bảo thày sẽ cho con một triệu đô nếu con cho thày một đô, liệu con có mất gì chăng trong trao đổi này? Ừ con sẽ mất một đô, nhưng thay vào đó con được một triệu và như vậy con vẫn được lời quá đỗi so với trước đó. Con thật không mất gì cả khi cái con mất được thay thế bởi cái gì tốt hơn. Cá thể đích thực của con – mà Thượng đế đã cho con lúc ban đầu – đẹp và tuyệt hảo hơn một triệu lần so với cá thể con đã được dạy dỗ để chấp nhận trong thế giới duy vật hôm nay. Không có mất mát gì mà chỉ có lợi lạc cho con cũng như cho cái Ta lớn, tức là Thân thể Thượng đế mà con là một thành phần.

Khi con bước xuống trạng thái tâm thức thấp hơn, tâm thức nhị nguyên, tâm phản Ki-tô, con đã làm vậy một cách lần hồi. Khi con đi ngược trở lên tâm thức Ki-tô, trở lên bản sắc thực của con, điều này cũng sẽ xảy ra lần hồi. Con sẽ không gặp phải tình trạng ý niệm cái ta hiện thời chết đi mà không có gì thế vào đó. Con sẽ lần hồi vươn lên một ý niệm cái ta cao hơn và một giá trị bản thân cao hơn, cho nên con không bao giờ phải cảm thấy mất mát mà chỉ cảm thấy lợi lộc. Thật không có gì phải sợ. Khi con bước qua các chương kế tiếp và thực hành các dụng cụ thày cho con trong khóa này, một ngày kia con sẽ khắc phục nỗi sợ đó vì con mở cửa ra với Sinh thể lớn hơn mà con thực là. Rồi khi con bước trên con đường tuần tự nhằm tái lập sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, một ngày kia con sẽ trải nghiệm một tia sáng từ mặt trời Hiện diện TA LÀ rọi trực tiếp vào bản thể thấp của con. Khi tia sáng này tràn ngập bản thể con, con sẽ trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Hiện diện của con cùng Đấng Sáng tạo của con đã dành cho con. Tình thương tuyệt hảo này sẽ xua tan mọi nỗi sợ của con.

3.1. Con sẽ vật lộn nếu con không để cái ta hữu diệt chết đi

Con yêu dấu, tại sao thày lại nói với con rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết? Tại sao thày lại gửi cho con một thông điệp có vẻ đáng sợ và không mấy hấp dẫn đối với cái ta hiện thời của con? Tại sao thày thẳng thắn như vậy thay vì bán cho con một thông điệp nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn hơn, sẽ khiến đường tu có vẻ dễ dàng hơn, êm xuôi hơn? Tại sao tạo rủi ro làm hoảng sợ những ai không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ của mình? Thày làm việc này vì nhiều lý do, nhưng một trong các lý do chính là vì thày muốn trao cho con con đường chân chính dẫn đến sự sống dồi dào, thậm chí sự sống vĩnh hằng.

Các đạo sư giả sẽ hứa hẹn là con có thể biểu hiện dồi dào của Thượng đế, hay ngay cả được cứu rỗi, mà không phải buông bỏ ý niệm cái ta hiện thời của mình, không phải để cho ý niệm cái ta hữu diệt (mortal) chết đi. Đây là một thông điệp vô cùng hấp dẫn cho cái ta hữu diệt của con, và cũng là tại sao những ai bị kẹt trong cái ta hữu diệt đó sẽ vui lòng mua hàng của đạo sư giả. Đây cũng là con đường có vẻ đúng đắn cho con người phàm nhưng sẽ không bao giờ có thể dẫn đến sự sống dồi dào đích thực kéo dài đến vĩnh hằng. Động lực trước hết và trên hết khi thày trao cho con sự thật khó ưa và ngược với thị hiếu con người chính là vì đó sự thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát con.

Một lý do quan trọng khác là khi con biết và chấp nhận sự thật rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết – để con có thể được tái sinh vào một cái ta cao hơn, tâm linh hơn – thì đường tu của con sẽ dễ dàng hơn gấp bội. Suốt 2000 năm kể từ khi thăng thiên, thày đã chứng kiến hàng bao triệu người thành tâm cố gắng thực hành các lời dạy mà Giê-su yêu dấu của thày đã ban ra. Thày đã nhìn thấy biết bao con tim chân thành xả thân bước trên con đường mà các giáo hội Cơ đốc chính thức truyền lại cho họ. Vì các giáo hội này đã loại bỏ một số khái niệm cốt yếu nhất mà Giê-su đã dạy – họ đã tước mất chìa khóa của hiểu biết – cho nên hầu hết tín đồ Cơ đốc thành tâm không có được tầm hiểu chân chính về việc để cho cái ta hữu diệt chết đi rồi từ đó tái sinh vào một ý niệm cái ta tâm linh, bất diệt. Nhiều người trong số đó bị kẹt vào con đường giả, tìm cách toàn thiện cái ta hữu diệt, tìm cách thích ứng nó theo những gì họ được dạy bảo là các lý tưởng do Ki-tô giảng dạy. Điều này đã khiến nhiều người dùng tâm vỏ ngoài tạo dựng một lý tưởng, một hình tư tưởng, một thần tượng về một tín đồ chân chính của Ki-tô phải như thế nào, phải cư xử ra sao. Họ đã bỏ ra cả đời người, thường thường với lòng thành tâm và sùng bái cao độ, tìm cách dùng ý chí vỏ ngoài để uốn nắn bản thân mình cho rập khuôn hình tư tưởng đó.

Đây thường là một cuộc vật lộn gian nan, và lý do đơn giản là vì cho đến khi con để cho cái ta hữu diệt chết đi, không thể nào tránh được con là một ngôi nhà bị phân rẽ với chính nó (Mark 3:25). Mỗi lần cái Ta Biết bước một bước gần hơn với quả vị Ki-tô, cái ta hữu diệt sẽ kéo con ngược lại, và như thế con bị kẹt trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan được Paul mô tả: “Tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn” (Romans 7:19). Điều này đã khiến biết bao người thành tâm cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi vì họ không thể sống theo hình ảnh mà giáo hội của họ đã cho họ, một tâm ảnh ngay từ đầu đã dựa trên nhị nguyên của phản Ki-tô. Đó là một hình ảnh giả trá, có nghĩa là không một ai có thể sống đúng theo thần tượng đó về con người toàn hảo, một thần tượng không ăn nhập gì với sự toàn hảo của con tim. Con có nhớ lời Giê-su bảo rằng chỉ những ai có lòng trong sạch mới thấy được Thượng đế (Matthew 5:8)? Ý nghĩa thật là Thượng đế không đòi hỏi con biểu hiện một sự toàn hảo vỏ ngoài, thế phàm, dựa trên một lý tưởng xuất phát từ tâm phản Ki-tô, mà ngài tìm một phẩm chất nội tâm, cụ thể là sự tinh khiết của tim con. Làm thế nào con đạt được con tim tinh khiết? Bằng cách để cho cái ta ô nhiễm, cái ta hữu diệt chết đi, hầu nó có thể được thay thế bởi cái ta thực của con, cái ta mà Thượng đế đã tạo ra trong sự toàn hảo thiêng liêng chưa bao giờ xa rời toàn hảo.

3.2. Lực phản Ki-tô của lớp thượng tôn quyền lực

Ôi con yêu dấu, khi thày nghĩ đến nỗi khổ biết bao người sùng đạo chân thành phải chịu đựng, tim thày tràn ngập lòng trắc ẩn pha chút buồn bã. Thày thấy biết bao người bước chân trên con Đường Thương khó trọn một kiếp người, và có khi cả mấy kiếp, cho đến khi cuối cùng họ kiệt sức vì căng thẳng và nhận ra có gì đó không ổn, có gì đó thiếu sót. Thường thường họ không hiểu nổi cái không ổn là gì, và cuối cùng thì nhiều người cảm thấy chắc hẳn mình đã bị hứa hão, mình đã bị Giê-su hứa hão. Mặc dù họ đã theo con đường mà Giê-su dường như đã vạch, họ đã không đạt đến trạng thái tâm thức, trạng thái ân sủng mà họ gọi là quả thánh hay bất kỳ tên gọi nào khác. Nhiều người như thế rốt cuộc thất vọng về đạo Cơ đốc chính thống và họ tức giận với chính Giê-su. Nhiều người hiện đang đầu thai trong xã hội duy vật hôm nay và đang chối bỏ đạo Cơ đốc, đã trong nhiều kiếp cần mẫn bước theo con đường do các giáo hội Cơ đốc chính thống vạch ra. Họ đã quá thất vọng với con đường đó đến độ trong kiếp này họ sẽ không chấp nhận sự đạo đức giả của đạo Cơ đốc chính thống được nữa. Thế là họ vứt đứa bé Ki-tô cùng với nước tắm dơ của giáo hội, và họ bỏ luôn cả Giê-su cùng với thông điệp của thày. Một số trở thành những kẻ vô thần, những tín đồ của tôn giáo khoa học duy vật. Một số khác không theo bất kỳ tôn giáo nào, chìm đắm trong lòng thờ ơ đối với khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Nhiều người gia nhập cái gọi là phong trào Thời Mới cho nên họ quyết định đi theo những giáo lý hay đạo sư tâm linh khác, nhưng họ tránh né Giê-su như hủi lở.

Đây là một gánh nặng trĩu trong tim thày vì thày biết rõ niệm tinh khôi mà phong trào Cơ đốc đã có thể trở thành. Thày thấy được tác động to lớn mà phong trào này đã có thể đem lại trên hành tinh trái đất nếu ít nhất một túc số tín đồ Cơ đốc đã kiên trinh với các lời dạy tâm truyền của Giê-su. Hãy tưởng tượng điều gì đã có thể xảy ra nếu, trong 2000 năm qua, thông điệp chính của phong trào Cơ đốc khẳng định Giê-su là một tấm gương để noi theo, rằng mọi người đều có tiềm năng bước theo vết chân thày và đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Hãy nhìn vào tác động của sứ mạng ngắn ngủi của Giê-su trên hành tinh này, rồi nhìn xem tác động đã có thể như thế nào nếu hàng ngàn người đạt được cùng một trạng thái tâm thức như thày và đã đem lại những ý tưởng cùng lời dạy mới hầu đưa nhân loại tiến tới.

Với mức tâm thức và hiểu biết hiện tại của con, có thể con khó hình dung được chuyện gì đã có thể xảy ra, nhưng thày có thể cam đoan với con là địa cầu sẽ khác hẳn ngày nay đến mức con khó lòng nhận diện được. Trước đây thày có yêu cầu con xem xét cuộc vật lộn của con người, cuộc đấu tranh quyền lực của con người. Thày có nói là ngày nay con chứng kiến tình trạng một thiểu số thượng tôn quyền lực đã thành công chiếm đoạt quyền lực, của cải cùng tài nguyên thiên nhiên. Nếu lời hứa đích thực của đạo Cơ đốc đã được hiện thực, thì tầng lớp thượng tôn quyền lực kia đã từ lâu biến mất khỏi trái đất, và con đã chứng kiến một xã hội có sự dồi dào và bình đẳng lớn hơn rất nhiều cho mọi người.

Khi con nhìn địa cầu hôm nay, liệu con có thể thực sự tin rằng Giê-su mong muốn một xã hội bất công với một vài phần trăm dân số ở các nước giàu có kiểm soát phần lớn của cải? Liệu con có thể thực sự tin rằng Giê-su mong muốn một xã hội toàn cầu với một vài nước giàu có tiêu thụ phần lớn tài nguyên, trong khi hàng triệu trẻ em tại các nước nghèo có nguy cơ chết đói – và thật vậy mỗi năm có hàng triệu đứa bé chết đói? Con thử hình dung vị thày tâm linh đã mở rộng vòng tay đến người cùi và nhiều thành phần bị ruồng bỏ khác, sẽ chấp nhận và khoan thứ một tình trạng như thế? Ôi con yêu dấu, vậy con có cảm được lòng sôi sục của thày khi thày nói với con rằng sự kiện đạo Cơ đốc chính thống đã được dùng để biện minh cho bất công này là một điều ghê tởm, một sự nhạo báng hoàn toàn các lời dạy nội tâm của Giê-su? Giê-su đã chẳng dạy hay sao: “Hễ các con làm việc đó cho người hèn mọn nhất trong số anh em ta, thì con cũng đã làm cho ta” (Matthew 25:40)? Thày đã chẳng dạy mọi người hãy làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình hay sao (Matthew 7:12)?

Sự kiện giáo lý nguyên thủy của Giê-su bị đánh mất quả thực là thảm kịch lớn nhất đã xảy ra trên hành tinh địa cầu trong lịch sử được ghi lại. Đó là một thảm kịch chính vì tiềm năng để xây dựng một xã hội dồi dào với cơ hội bình đẳng cho mọi người đã lớn đến như vậy. Lời hứa đó cho đến giờ vẫn chưa thành hiện thực. Thay vào đó, đạo Cơ đốc chính thống đã biến thành công cụ cho các thày giả sử dụng những phiên bản hủ hóa của giáo lý Giê-su để biện hộ cho chủ nghĩa thượng tôn và siết cổ quần chúng. Con hãy nhìn vào thực tế lịch sử – suốt nhiều thế kỷ – chính giáo hội tự nhận mình là giáo hội chân chính duy nhất của Giê-su Ki-tô đã bóp nghẹt đời sống tư tưởng và tôn giáo ở châu Âu như thế nào. Con nhìn xem làm thế nào trong thời đại đen tối, Giáo hội đã ngăn chặn mọi tư tưởng mới và mọi sáng chế mới khởi phát, và do đó đã giữ toàn bộ xã hội trong tình trạng lạc hậu nơi người dân phải làm nô lệ cho một thiểu số thượng tôn. Con nhìn xem làm thế nào cùng giáo hội đó đã cố ngăn chặn sự phát triển của khoa học, giáo dục và công nghệ nhằm giảm bớt gánh nặng của người dân thường. Con nhìn xem làm thế nào cùng giáo hội đó đã xây cất những nhà thờ và cung điện nguy nga cho lãnh đạo của mình trong khi phần lớn dân chúng chết đói hay phải sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực. Liệu con có thể bảo rằng một giáo hội như thế đại diện cho Giê-su Ki-tô và giáo lý đích thực của thày?

Không, con không thể. Nếu con thành thật với chính mình, con sẽ nhận ra sự dối trá của một số giáo điều chính thống cùng khoảng cách vĩ đại giữa quả trái của đạo Cơ đốc chính thống với các lời dạy chân truyền của Ki-tô. Giê-su đã chẳng cảnh báo con về tiên tri giả hay sao: “Qua quả trái của chúng mà con biết chúng” (Matthew 7:20)? Và thật vậy, thày giả ở khắp mọi nơi, trong nhà thờ, trong chính quyền, trong truyền thông, trong khoa học. Họ là kẻ dùng quyền lực của mình để giữ vững cho hiện trạng không thay đổi, để bảo con rằng cái ngã hữu diệt là thẩm quyền tối thượng trên hành tinh trái đất, và không có thẩm quyền nào cao hơn sự thật tương đối mà – vào lúc này – họ tuyên bố là sự thật tuyệt đối, và họ dùng cái đó để bào chữa cho đặc quyền đặc lợi của họ. Trên hành tinh này có một thiểu số thượng tôn đã dùng cái ta khởi lên từ trạng thái nhị nguyên, từ sự thật tương đối của ngã hữu diệt, để dựng lên một ông thần, một thượng đế giả, một thần tượng. Sự thật tương đối này của phản Ki-tô đã được cả giáo hội lẫn chính quyền nâng lên thành một sự thật tuyệt đối, không thể nghi ngờ và không thể thách thức. Đây đúng là sự gớm ghiếc của hoang tàn (Daniel 11:31) đang đứng ngay nơi thánh là nơi lẽ ra không nên đứng (Mark 13:14), và đây là lý do thực sự tại sao Giê-su đã lật bàn của bọn đổi tiền trong nhà thờ. Nếu Giê-su còn bước chân trên mặt đất ngày hôm nay, thày sẽ lại lật bàn của những kẻ đang bày hàng quảng cáo cho một sự thật tương đối dựa trên tâm phản Ki-tô trong cả giáo hội lẫn chính quyền, trong truyền thông, trong hệ thống giáo dục, trong các hệ thống chăm sóc sức khỏe và mọi lãnh vực khác của xã hội.

Tại sao thày lại đề cập vấn đề này một cách nhiệt thành như thế? Vì thày hy vọng sẽ lay con dậy với sự thật rằng nếu con muốn thực sự giành lại ý niệm cái ta bất tử của con, bản sắc tâm linh thực sự của con, con không thể chờ đợi điều này xảy ra mà không gặp sự kháng cự, chống đối từ các thế lực của thế gian. Các thế lực này đã hoành hành từ rất lâu trên hành tinh này, và chúng chính là thế lực đã giết chết Giê-su khi thày còn bước chân trên mặt đất và thách thức quyền lực của chúng trên loài người. Các thế lực này biết rõ là nếu người dân bắt đầu tin rằng Nước Trời ở bên trong mình (Luke 17:21) thì chúng sẽ không còn quyền lực nào nữa. Chúng đã phải giết chết vị thày đang trao sự thật đó cho dân chúng, là sự thật sẽ giải thoát họ khỏi lớp thượng tôn quyền lực.

Sau khi chúng giết Giê-su, chúng cũng toan giết tất cả những ai theo thày, và cuối cùng chúng thành công trong việc giết chết tấm gương của thày. Suốt gần 2000 năm, hiếm có ai dám bước theo chân Ki-tô, và không có ai dám tuyên bố mình là Ki-tô Hằng sống trước mặt các thế lực tại chức. Nhiều người tâm linh chân thành đã bước theo con đường vỏ ngoài, một con đường có vẻ đúng đắn đối với những ai bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con đường này không bao giờ có thể dẫn họ đến mục tiêu đích thực là thay thế cái ta hữu diệt bằng cái ta thực. Con đường này không bao giờ có thể giúp họ giành lại quả vị Ki-tô của họ ở đây trên trái đất.

3.3. Con ý thức lực chống lại bước tăng triển của con

Con yêu dấu, nếu con muốn đòi lại ý niệm bản sắc bất tử của mình, con phải đi theo bước chân của Giê-su và xác nhận quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Khi làm vậy, con sẽ phải đâm thủng lực chống đối quả vị Ki-tô của con được biểu hiện qua lực phản Ki-tô đã chi phối mọi lãnh vực đời sống trên hành tinh. Trên hết và trước hết, con sẽ phải chọc thủng sự lập trình mà con đã hứng chịu từ thuở thơ ấu, thậm chí từ nhiều kiếp trước – một lập trình mà mục đích duy nhất là khiến con phủ nhận quả vị Ki-tô của mình.

Thày không nói điều này để gây sợ hãi trong con, mà thày nói điều này để cho con một ý niệm thực tế về những gì con cần làm hầu biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Thày cũng nói điều này vì khi con nhận ra có lực chống lại quả vị Ki-tô của mình, con đạt được một tầm hiểu hoàn toàn mới và do đó con nhận được uy lực để khắc phục sự chống đối. Những gì con không biết quả thực có khả năng làm hại con, và nhiều người chân thành tìm cầu tâm linh đã bị cầm chân hay đã bỏ ngang bước tiến của mình vì họ không biết đến thế lực đang chống phá sự phát triển của họ. Làm sao con có thể tự vệ trước những gì con không hiểu hay không biết đang có mặt?

Suốt 2000 năm qua, thày đã chứng kiến hàng triệu người thành tâm nỗ lực để biểu hiện một trạng thái tâm thức tâm linh hơn, một cái nhìn tâm linh hơn về cuộc sống. Thày đã thấy họ trong đạo Cơ đốc, trong nhiều đạo khác và trong phong trào Thời Mới, thậm chí cả các phong trào không tâm linh công khai. Thày thấy họ, thày thấy được lòng thành tâm của họ, tình thương yêu trong tim họ. Thày cũng thấy mặc dù họ thành tâm và cố gắng vượt bực, họ vẫn không đạt được tiến bộ họ mong muốn. Họ không đạt được tiến bộ cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô. Nhiều người trong số họ cứ theo mô thức tiến lên một bước xong lùi lại một hay hai bước.

Ôi con yêu dấu, nếu con đã tham gia lãnh vực tự cải thiện (self-help) trong một thời gian, hay bất kỳ lãnh vực tu tập tâm linh nào, có lẽ con đã nhận thấy điều đó trong chính đời mình hay con đã quan sát thấy trong đời người khác. Quá nhiều người đột nhiên thức tỉnh và nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ tìm thấy một giáo lý nào đó, một quyển sách hay một vị thày, bảo rằng cuộc sống là nhiều hơn, rằng họ có khả năng vươn cao hơn các hạn chế hiện tại của mình và biểu hiện một cuộc sống dồi dào hơn, cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ trở nên rất nhiệt tình, và lý do là vì sâu thẳm trong chính họ, họ biết đó là sự thật, rằng họ có khả năng vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Ký ức nội tâm này đã được Thượng đế ghi sâu vào trong họ, không bao giờ có thể bị mất đi hoàn toàn. Khi con tìm được một vị thày hay một lời dạy vỏ ngoài gợi lại ký ức này, con biết là nó thực, và ngay lập tức con tỏ ra nhiệt tình. Tiếc thay, khi tới việc biểu hiện tâm thức cao hơn đó, biểu hiện lời hứa của giáo lý vỏ ngoài đó, hầu hết mọi người đều thấy rất khó thực hiện. Nhiều người đã nỗ lực chân thành, có khi hàng chục năm trời, mà vẫn không thực sự cảm thấy mình có tiến bộ, không thực sự cảm thấy lời hứa của giáo lý vỏ ngoài thành hình trong đời mình. Một số bỏ cuộc trong tuyệt vọng, họ bỏ luôn ý tưởng một con đường tâm linh, cho rằng đó chỉ là lời hứa hão huyền của một thày giả nào đó. À con yêu dấu, đây chính là âm mưu đằng sau hoạt động của các thày giả.

Có lẽ con từng nghe câu nói dân gian này: “Sự nản lòng là công cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ.” Câu này có chút sự thật trong đó, mặc dù ác quỷ còn nhiều dụng cụ khác có nhiều khả năng kéo con ra khỏi đường tu chân chính. Lòng chán nản là một vấn đề rất thực cho mọi người tìm kiếm tâm linh. Nếu con đã trải nghiệm nó trong đời mình, hay quan sát thấy nó trong đời người khác, con sẽ biết việc tiến bước trên con đường tâm linh không nhất thiết là dễ. Tại sao không dễ? Nó khó chính là vì có gì đó con chưa biết, có gì đó con không hiểu. Điều con không biết là có sự chống phá đường tiến bộ của con. Quá nhiều người chưa được dặn dò là có một lực đối chọi với tiến bộ tâm linh. Đạo Cơ đốc truyền thống có thể bàn đến ác quỷ hay phản Ki-tô, nhưng nếu đạo Cơ đốc chính thống không vạch ra được một con đường khả thi dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân, làm sao họ có thể cho con một tầm hiểu đích thực về lực chống lại bước tu của con? Nhiều giáo lý Thời Mới cũng bàn về một đường tu tâm linh nhưng lại ngần ngại nói tới một thế lực chống lại bước tiến của con. Còn toàn bộ giới thẩm quyền trong lãnh vực khoa học thì bác bỏ bất cứ gì không thể được khoa học chứng minh, và họ chế giễu quan điểm cổ xưa bảo rằng có những “tà linh” có thể ảnh hưởng đời con.

Làm sao con sẽ có thể tiến bước nếu con không biết là có sự chống đối, con không hiểu bản chất của sự chống đối cũng như cách nó lấn át tư duy của con và ý niệm cái ta của con? Con sẽ khiến cho bước tiến khó khăn hơn gấp bội nếu con cứ mãi không biết đến vấn đề này. Cũng giống như thể con leo núi mà không biết mình đang kéo theo một chiếc neo thuyền to tướng cứ mắc vào mỗi kẽ đá.

3.4. Đối mặt với nỗi sợ và lòng sợ hãi

Nhiều người sẽ phản ứng với lòng sợ hãi khi thày nói về tà lực hay lực phản Ki-tô. Một cựu tổng thống Mỹ từng nói: “Chúng ta không có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ,” và thày muốn giải thích cho con tại sao câu nói này chí lý. Trạng thái tâm thức hiện tại của con, ý niệm cái ta hiện thời của con, dựa trên – hay ít ra bị ảnh hưởng bởi – sự thật tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Tác động của tâm phản Ki-tô là nó tạo ra một tâm ảnh, một thần tượng che khuất thực tại, che mờ sự thật. Có thể nói tâm thức Ki-tô giống như một ngọn đèn sáng rực chiếu lên vạn vật từ mọi hướng để không tạo bóng tối và không có gì bị che giấu. Mọi thứ đều có thể được nhìn thấy dưới ánh sáng rực rỡ của Mặt trời Thượng đế, của tâm Ki-tô. Không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17), không có chỗ nào cho sự dối trá hay lừa lọc.

Một khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, bỗng nhiên có một tình trạng mang khả năng dối trá và lừa lọc. Bản chất của nhị nguyên là khả năng tạo ra một tâm ảnh che khuất thực tại, che mờ sự thật. Thế là con có một hoàn cảnh nơi con có thể tạo ra một bề mặt che giấu cái gì đó đằng sau. Tâm ảnh này có thể che khuất sự thật nhưng nó cũng có thể che giấu một dối trá, che giấu những ý định không trong sáng. Thế là chúng ta có khả năng là một sinh thể tự nhận biết có thể đánh lừa một sinh thể khác một cách cố tình và ác ý. Khi con còn ở trong sự thật của tâm thức Ki-tô thì không có gì bị che giấu và mọi chuyện hiện ra như thật là. Trong tâm thức Ki-tô không có dối trá, không có lừa lọc, không có khuynh loát, không có giả vờ để khiến cho mọi chuyện bề ngoài có vẻ an toàn nhưng bên dưới lại ẩn giấu hiểm nguy. Khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, dối trá và lừa lọc có thể xảy ra và đó là tại sao Giê-su mới nói, ác quỷ là cha đẻ của lừa dối (John 8:44). Cách giải thích rộng rãi nhất về khái niệm ác quỷ là bảo rằng ác quỷ là tâm thức phản Ki-tô, qua đó một sự thật tương đối đã thay thế sự thật tuyệt đối.

Trạng thái nhị nguyên này mở ra khả năng là một tình huống trông bề mặt có vẻ yên ổn nhưng bên dưới lại tiềm ẩn những mối nguy có thể chặn nghẽn bước tiến của con đến quả vị Ki-tô. Sự lừa dối ở khắp mọi nơi chung quanh con. Con biết rất rõ người ta có thể nói dối, người ta có thể giả vờ làm bạn với con nhưng kỳ thực họ là kẻ thù. Đó là tại sao Giê-su nói về những kẻ đội lốt chiên nhưng bên trong là loài sói đói mồi (Matthew 7:15). Suốt lịch sử được ghi chép, lọc lừa đã là một phần không thể tránh của cuộc sống trên hành tinh địa cầu. Lọc lừa không thể tránh được chừng nào con người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên ngăn cản mình nhìn ra sự thật tuyệt đối cùa Ki-tô. Một khi có một túc số tới hạn những người vươn lên được tâm thức Ki-tô, lọc lừa sẽ không thể có mặt trên trái đất được nữa. Những kẻ dùng lừa dối để đoạt đặc quyền đặc lợi đều không muốn thấy ngày đó xảy đến. Họ sẽ làm tất cả trong khả năng của họ để ngăn chặn chuyện này xảy ra. Thật không khó gì nhìn thấy là suốt chiều dài lịch sử đã có một thiểu số quyền lực đối chọi với bước tiến của loài người về phía tự do lớn hơn, bình đẳng và công bằng lớn hơn trong xã hội. Con hãy nhìn sự chống phá việc thiết lập thể chế dân chù. Và hãy nhìn vua nước Anh chống đối như thế nào sự trỗi dậy của các thuộc địa ở Mỹ cùng nỗ lực của họ nhằm thiết lập một hình thức chính quyền mới đem lại tự do công bằng cho mọi người.

Quả thật trên hành tinh địa cầu có một thế lực chống đối sự tiến bộ để cố duy trì đặc quyền đặc lợi. Thường thường người ta không nhận chân thế lực này. Nó được che giấu khỏi con mắt của hầu hết mọi người trên hành tinh, và thực sự nếu con nhìn vào lịch sử, con sẽ thấy lực này chỉ có thể sống sót bằng cách ở trong bóng tối hay giả vờ là cái gì khác hơn. Một khi nó bị phơi bày và được nhìn thấy đúng như nó là, hầu hết mọi người trên hành tinh sẽ quyết định tách mình ra khỏi nó và như vậy từ chối trao quyền lực cho nó.

Thế lực phản Ki-tô sẽ luôn luôn tìm cách ẩn náu hay khoác vào hình dạng một lực thiện lành. Cho nên lực đối lập bước tiến của con về hướng quả vị Ki-tô sẽ không hiển nhiên chút nào, nó sẽ lẩn trốn trong bóng tối nơi con khó lòng nhìn thấy. Tại sao điều này quan trọng đến vậy? Con hãy xét những gì thày vừa nói với con ở đây trong bối cảnh câu nói rằng chúng ta không có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ.

Đâu là cốt tủy của sợ hãi? Đó là khi con bị dội bởi cái gì đó, con muốn tránh xa khỏi cái gì đó. Tác động tâm lý của sợ hãi là một khi con sợ điều gì, con sẽ không muốn nhìn nó nữa, con muốn làm ngơ hay chạy trốn khỏi nó. Không chịu nhìn sẽ tạo nên sức mạnh cho phản Ki-tô – vì phản Ki-tô hoàn toàn dựa trên lừa dối. Đây là một lợi thế kinh hồn, không những nó có thể chặn nghẽn sự tăng trưởng cá nhân của con mà nó cũng có thể cầm chân đà tiến bộ của xã hội. Lòng sợ hãi của con người và sự không sẵn lòng nhìn vào điều mình sợ, trở thành một tình trạng lưỡng nan, một thế kẹt dường như không lối thoát.

Nếu con muốn thị hiện cuộc sống dồi dào, thật chỉ có một cách duy nhất để con làm được. Đó là vươn lên cao hơn ý niệm cái ta hạn chế dựa trên nhị nguyên, có nghĩa là dựa trên những dối trá và lừa lọc của tâm phản Ki-tô. Con phải làm vậy, con phải trèo ngược lên cầu thang theo cùng một cách như con từng đi xuống cầu thang, nghĩa là bằng cách lấy những quyết định có ý thức. Nếu con sợ không dám xem xét sự hiện hữu của một thế lực phản Ki-tô, nếu con sợ không dám nhìn vào những dối trá do thế lực này chủ xướng, con sẽ không có hy vọng thoát khỏi dối trá. Biết bao người chân thành tìm kiếm tâm linh đã kìm hãm bước tiến cá nhân của mình chính vì họ không chịu đối mặt với nỗi sợ của mình. Họ không chịu quay mặt lại mà nhìn vào thế lực đang cưỡng chống bước tiến của họ bằng cách giữ họ kẹt lại trong một loạt những dối trá cầm tù tâm họ.

Những dối trá của phản Ki-tô có thể vi tế, nhưng một khi con nắm được phần nào sự thật Ki-tô, chúng sẽ không khó lột mặt lắm đâu. Nhưng trước khi con có thể lột mặt dối trá của phản Ki-tô, con phải sẵn lòng nhìn chúng. Nếu con quá mắc kẹt trong sợ hãi đến độ con sợ cả chuyện liếc nhìn những gì con đang lê theo sau, làm sao con có thể thoát khỏi nó đây? Nếu con đi lên sườn núi và cảm thấy mình đang kéo theo cái gì đó sau mình, nhưng con lại sợ quay đầu lại mà nhìn, làm sao con có thể trút bỏ gánh nặng đó xuống? Điều đang ngăn cản bước tiến của con trên đường tu tâm linh là gánh nặng những lừa dối của phản Ki-tô mà con kéo theo sau vì con vẫn cho phép chúng ở lại trong tâm thức mình, trong bình chứa cái ta của mình. Con cho phép chúng ở lại vì con chưa nhìn chúng để thấy chúng như chúng là – những ảo tưởng không chút thực thể nào. Như Giê-su có nói về ác quỷ, “chúng không có chút lẽ thật nào nơi chúng” (John 8:44), cho nên chúng cũng không có quyền lực thực sự nào trên con. Nếu một ý tưởng không là gì khác một ảo tưởng, làm sao nó có thể có quyền lực thực sự trên con? Ngay khoảnh khắc con thấy nó là ảo tưởng, nó mất hết sức mạnh ảnh hưởng con. Nó chỉ có thể duy trì quyền lực bằng cách khiến con sợ nhìn vào ảo tưởng.

3.5. Lòng sợ hãi không có gì để sợ

Con yêu dấu, thật chỉ có một cách để khắc phục nỗi sợ, và đó là nhận ra điều đáng sợ duy nhất là lòng sợ hãi. Tác động tâm lý của sợ hãi là sự tê liệt, nghĩa là con không sẵn lòng nhìn vào điều con sợ. Nếu con không sẵn lòng nhìn vào điểu kiện mà con sợ, làm sao con có thể nhận diện là nó khởi lên từ nhị nguyên của phản Ki-tô và do đó không có chút thực thể nào? Làm sao con có thể khắc phục ảo tưởng rằng điều kiện không thực này có thể có bất kỳ quyền lực nào trên con?

Tất cả mọi em nhỏ đều từng sợ bóng tối, nhưng cuối cùng chúng đã khắc phục nỗi sợ đó bằng cách sẵn lòng đối mặt với nó, sẵn lòng ra ngoài đường buổi tối hay bước vào phòng tối để chứng nghiệm là không có gì xấu xảy ra cho mình. Con nhìn xem, vào thời Trung cổ, người ta sợ nhiều loại bệnh tật đến chừng nào vì người ta không hiểu bệnh tật do vi khuẩn gây ra. Một khi hiểu ra trong nước uống có vi khuẩn nguy hiểm thì họ học cách lọc nước và nhờ vậy khắc phục được nỗi sợ bệnh tả và nhiều bệnh khác, và điều này cho họ sức mạnh loại trừ nhiều loại bệnh tật.

Sợ hãi là một sức mạnh trói buộc con, nó giữ con trong cái bẫy, trong nhà tù. Yếu tố chủ yếu giam hãm con trong nhà tù thế phàm chính là lòng sợ hãi. Cái gì sẽ giải thoát con khỏi nhà tù? Như Giê-su đã nói, chính sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). Để tìm ra sự thật này, con phải sẵn lòng đối mặt với nỗi sợ, con phải sẵn lòng nhìn vào điều kiện mà con sợ. Khi con hiểu ra những điều kiện này là gì, con sẽ thấy là con không có lý do gì để sợ chúng.

Một khi con hiểu các điều kiện có vẻ quá đáng sợ khi con còn vô minh, con sẽ thấy là con có một cách để khắc phục các điều kiện này và bỏ chúng lại đằng sau. Đây là tinh túy của đường tu tâm linh, cụ thể là con đối mặt các nỗi sợ của mình và ngộ ra là mình không có lý do gì để sợ. Khi con ngộ ra con không có lý do gì để sợ một điều kiện đậc thù thì con đã khắc phục hạn chế đó và tiến một bước gần hơn sự sống dồi dào.

Đây là cốt tủy của con đường khắc phục. Trên hết, đó là khắc phục các điều kiện trong tâm lý của mình, cụ thể là nỗi sợ khiến mình sợ tiến thêm một bước hay sợ bỏ lại đằng sau một hạn chế nào đó. Sợ hãi luôn luôn là nỗi sợ một điều gì chưa biết, nó luôn luôn nẩy lên từ sự thiếu hiểu biết, từ vô minh. Con nghĩ có một điều kiện mà con không có cách phòng vệ hay thoát khỏi, và do đó con sợ ngay cả việc xem xét điều kiện đó kỹ càng hơn. Ý nghĩ rằng con không thể phòng vệ chỉ hiện hữu trong tâm con, nó dựa trên sự thiếu hiểu biết hay thông tin sai trật. Một khi con khắc phục vô minh này, con sẽ nhìn ra cách khắc phục điều kiện đó và bỏ nó lại đằng sau. Đường tu là con đường khắc phục vô minh, cái vô minh khởi lên từ nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, và thay thế nó bằng sự thật không phân rẽ của Ki-tô.

3.6. Nhìn xuyên thấu tâm phản Ki-tô với mắt trẻ thơ

Hãy để thày trở lại khái niệm có một thế lực phản Ki-tô đang chống đối đường tu đến quả vị Ki-tô của con. Đây chính là thế lực đã giết Giê-su 2000 năm về trước. Thày Giê-su được Thượng đế gửi xuống để làm người tiên phong cho một thời đại mới nơi con người đáng lẽ phải khắc phục được lòng sợ hãi của mình để không còn là kẻ theo chân mù quáng các lãnh đạo mù quáng rồi té xuống hố sâu của nhị nguyên và tương đối (Matthew 15:14). Thế lực phản Ki-tô đã giết chết Giê-su, và con biết qua lịch sử chúng cũng toan giết chết mọi tín đồ Cơ đốc trong những thế kỷ sau đó. Khi thế lực này nhận ra là chúng không thể giết chết phong trào Cơ đốc thì chúng ra tay cách khác. Chúng đổi chiến lược dựa trên phương châm: “Nếu bạn không thể đánh bại người ta thì bạn hãy nhập bọn với người ta.” Thế là những người đại diện cho lực phản Ki-tô, những kẻ giảng đạo giả mà Giê-su đã nói sẽ đến mạo danh thày (Matthew 24:5), gia nhập đạo Cơ đốc. Chúng dùng loại vũ khí là vũ khí phổ thông nhất của chúng: chiến lược chia và trị. Bằng cách xâm nhập đạo Cơ đốc, chúng biến nó thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó. Sau một thời gian, chính phân rẽ này cũng được tẩy xóa khi đạo Cơ đốc thay thế giáo lý chân truyền của Ki-tô bằng một tượng khắc, một hình giả, biến Giê-su thành một thần tượng chứ không là một tấm gương.

Quả thực như vậy, trên hành tinh trái đất có một thế lực bên ngoài sẽ chống đối bước tiến của con về cuộc sống dồi dào. Trên hết và trước hết, lực này sẽ tìm cách giữ con trong vô minh, không biết gì về khả năng đạt được cuộc sống dồi dào và tâm thức Ki-tô. Nếu chuyện này không thành, chúng sẽ tìm cách đánh lạc hướng con để con đi theo đường tu giả, tìm cầu vinh quang cho cái ta hữu diệt thay vì khắc phục cái ta hữu diệt và được tái sinh về mặt tâm linh. Nếu lực phản Ki-tô không thể ngăn con khám phá đường tu chân chính, chúng sẽ tìm đủ mọi cách để biến con thành một ngôi nhà phân rẽ với chính mình, để con nghi ngờ chính mình có khả năng hay xứng đáng bước theo đường tu. Chúng sẽ tìm cách khiến con ngờ vực mỗi khía cạnh của con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, để hoặc con từ bỏ đường tu, hoặc con cứ đi mãi mà không bao giờ tới.

Điều gì khiến cho lực phản Ki-tô này có thể chi phối đời con, ảnh hưởng tâm thức con? Chúng nắm được gì trong con để dùng làm vũ khí chống lại con, để gieo hạt giống ngờ vực trong tâm con – y như Rắn đã gieo ngờ vực trong tâm Eva? Chúng có thể dùng gì để biến con thành một ngôi nhà phân rẽ với chính mình? Cái đó là sự kiện con mang trong quả cầu cái ta, trong bình chứa cái ta của con, một số tin tưởng khởi lên từ dối trá của phản Ki-tô, những dối trá nham hiểm của rắn. Đây là điều Giê-su đã giải thích qua câu: “Ông hoàng của thế gian có thể đến mà không nắm được gì nơi ta” (John 14:30). Ông hoàng của thế gian chính là tâm phản Ki-tô. Sự kiện y không nắm được gì nơi Giê-su cho thấy Giê-su đã vươn lên tới mức thanh lọc được tâm mình, cả tâm ý thức lẫn tâm tiềm thức, cho không còn một yếu tố nào của phản Ki-tô, một dối trá nào của rắn. Vì Giê-su không còn dối trá nào trong bản thể cho nên ông hoàng của thế gian không nắm được gì để có thể biến Giê-su thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó. Không có cách chi khiến cho thày ngờ vực chính mình, ngờ vực Thượng đế hay nghi ngờ đường tu, vì thày đã tái lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của thày, mà qua đó thày tiếp cận được sự thật Ki-tô sẽ tức khắc xua tan các lừa lọc dối trá của tâm phản Ki-tô.

Thày hiểu hoàn toàn là trong trạng thái tâm thức hiện tại, con vẫn mang một số yếu tố phản Ki-tô trong bản thể con. Thày hoàn toàn không chê trách gì con vì đây là hậu quả không thể tránh của việc con lớn lên trong thế giới ngày nay. Thày hiểu hoàn toàn là con có một số nghi ngờ vì con mang các yếu tố phản Ki-tô này trong con, và các nghi ngờ đó khiến con sợ hãi. Con không có lý do gì để sợ dối trá của phản Ki-tô vì con có khả năng khắc phục dối trá bằng cách với lên sự thật Ki-tô. Chừng nào con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, chừng nào con còn tin một số lời dối nhị nguyên, tâm thức con sẽ là một ngôi nhà xây trên cát (Matthew 7:26), nghĩa là xây trên sự thật tương đối của phản Ki-tô. Nếu “sự thật” của con tương đối thì các thế lực phản Ki-tô sẽ luôn luôn nắm được gì đó trong con để chúng có thể khuynh loát con, khiến con bước vào tâm thức ngờ vực dẫn đến sợ hãi. Chừng nào con còn cho phép những yếu tố nhị nguyên ở lại trong tâm thức, trong bình chứa cái ta, con sẽ không bao giờ hoàn toàn thoát được sợ hãi. Tâm phản Ki-tô sẽ luôn luôn có cách thao túng con để con nghi ngờ chính mình hay nghi ngờ Thượng đế. Chính lòng ngờ vực này làm sợ hãi nẩy sinh.

Nếu con nghi ngờ Thượng đế sẽ bảo vệ con khỏi mọi tà ác thì con không thể tránh sợ tà ác. Khi con có sự thật của tâm Ki-tô, con sẽ biết là không có lý do gì để sợ tà ác vì nó chỉ có thể ảnh hưởng con nếu con mang một số yếu tố nhị nguyên trong tâm thức con. Khi con cho phép sự thật Ki-tô ngụ trong con và xua tan mọi bóng tối, ông hoàng của thế gian sẽ không nắm được gì nơi con nữa để mà có thể kiểm soát con qua sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác.

Những ý tưởng trên gắn liền với điều thày vừa nói ở đầu chương rằng ý niệm cái ta hữu diệt của con phải chết đi. Ý niệm cái ta hữu diệt của con dựa trên và sinh ra từ tâm thức nhị nguyên, nghĩa là nó hoàn toàn dựa trên những dối trá của tâm rắn. Chừng nào con – tức cái Ta Biết – còn bám giữ các yếu tố này của cái ta dựa trên nhị nguyên, con sẽ không thể tiến bộ tối đa trên đường tu tâm linh. Các thày giả, thế lực phản Ki-tô, biết điều này rất rõ, và chính vì vậy chúng đã mưu toan đặt con vào một thế lưỡng nan không lối thoát. Trong trạng thái tê liệt này, con mang một số dối trá phản Ki-tô trong bình chứa cái ta của mình, nhưng đồng thời con lại sợ nhìn chúng. Nếu con sợ nhìn vào các lừa dối của phản Ki-tô, con sẽ không có cách nào nhìn ra chúng là lừa dối, chúng là ảo tưởng, chúng không có quyền lực gì trên con. Và các lừa dối đó sẽ có quyền lực trên con mặc dù chúng không có thực thể gì hết. Chúng đích thực là ảo tưởng, nhưng chừng nào con còn sợ nhìn chúng và nhận ra chúng là ảo tưởng thì chúng sẽ nắm quyền lực trên con, chúng sẽ vẫn giam con chặt trong nhà tù tinh thần của những hạn chế, thiếu thốn, khổ ải và đau đớn.

Chừng nào con còn bám giữ ý niệm cái ta hữu diệt, hay một nét nào đó của cái ta này, con sẽ không bao giờ hoàn toàn khắc phục được các lời dối mà từ đó cái ta hữu diệt nẩy sinh. Con sẽ không bao giờ giải thoát khỏi một số ảo ảnh. Ở đầu khóa học này, thày đã cho con hình ảnh con bị giam trong một nhà tù và nhà tù này có cánh cửa với một số ổ khóa. Mỗi ổ khóa trên cửa tù tượng trưng cho một lời dối đặc thù của phản Ki-tô, một lời dối nham hiểm của rắn. Để tìm ra chìa khóa sẽ mở một ổ khoá đặc thù, con phải nhìn vào lời dối đó, con phải nhận thức được đầy đủ và có ý thức tại sao đó là một lời dối, tại sao đó là một ảo tưởng và tại sao không gì không thực có thể có quyền lực thực sự trên con.

Chắc hẳn con đã từng nghe truyện cổ tích về bộ quần áo mới của nhà vua. Con nhớ có một nhóm thợ may đến chầu vua, hứa sẽ may cho vua một bộ áo lộng lẫy nhất chưa ai từng thấy trên đời. Nhóm người này không những đã lừa được nhà vua mà toàn bộ triều đình, thậm chí cả quần dân trong nước, để ai nấy tin rằng nhà vua mặc quần áo. Sự lừa dối của họ toàn diện đến độ không một ai có thể, hay sẵn lòng, thực sự xem xét để mà nhận ra đó là một trò lừa – cho đến khi vua đi trước cặp mắt ngây thơ của một đứa bé. Rốt cuộc đứa bé ấy thốt lên: “Uả sao vua không mặc gì cả?” Trong một khoảnh khắc, tất cả mọi người bừng tỉnh, họ ngộ ra sự thật mà họ đã không thể nhìn thấy chỉ vì họ đã không sẵn lòng nhìn kỹ hơn vào trò lừa.

Con hãy suy ngẫm tình trạng tương tự trên địa cầu. Có một nhóm người thượng tôn quyền lực đang đầu thai trong cõi vật lý và đằng sau họ là một thế lực phản Ki-tô. Suốt hàng ngàn năm trời, lực lượng tổng hợp này đã xoay sở để kiểm soát hầu hết mọi người trên hành tinh. Quyền lực và hệ thống kiểm soát của họ dựa trên một loạt những lời gian dối, cho nên quyền lực của họ tồn tại và chỉ tiếp tục tồn tại chừng nào nào ai nấy trên hành tinh còn tin vào những lời dối đó. Thế lực phản Ki-tô này chỉ có một cách duy trì quyền lực, là giữ cho mọi người mê muội, không thể nhìn xuyên qua những lời dối làm cơ sở cho quyền lực đó. Một vũ khí họ dùng để duy trì ảo ảnh là khiến mọi người sợ nhìn vào ảo ảnh.

3.7. Nhà tù của con không có khóa

Con yêu dấu, lực phản Ki-tô này thừa biết là ngay khi con quyết định nhìn vào một trong những lời dối đó, con có tiềm năng nhìn xuyên qua nó. Họ biết là nếu con vượt quá sự thật tương đối của tâm thực nhị nguyên và tìm cầu sự thật của Ki-tô, con không thể tránh nhìn xuyên qua lời dối. Con sẽ thấy đó là một ảo tưởng, đó là một ngôi nhà xây trên cát, những bãi cát lún của tâm thức nhị nguyên. Thế lực phản Ki-tô cũng biết Giê-su đã đưa ra một lời hứa chân thực khi thày nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho con” (Matthew 7:7). Họ biết là trong tim con có chìa khóa của hiều biết. Khi con quyết định dùng chìa khóa này của hiểu biết và thỉnh một hiểu biết cao hơn về một khía cạnh đặc thù của cuộc sống, con sẽ được trao hiểu biết cao hơn đó. Lực phản Ki-tô cũng biết là trước khi con có thể thỉnh sự thật sẽ giải thoát con, con phải khắc phục nỗi sợ nhìn vào lời dối. Con cũng phải khắc phục nỗi sợ khiến con có thành kiến và bị dính mắc với một tâm ảnh nhất định bảo rằng cuộc sống phải như thế này hay thế khác. Con phải sẵn lòng nhìn xa hơn sự thật tương đối mà hiện giờ con nghĩ là sự thật tuyệt đối. Con phải sẵn lòng mở tâm ra sự thật cao hơn của Ki-tô. Nếu con sẵn lòng bước theo lời gọi của Giê-su để trở thành giống như trẻ nhỏ (Matthew 18:3) – nghĩa là con sẵn lòng nhìn một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nhìn một sự thật tương đối nào đó, với tâm ngây thơ và cởi mở của trẻ nhỏ – thì con sẽ được trao sự thật cao hơn của tâm Ki-tô. Và khi con có sự thật này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu lời dối gian và thấy đó là một ảo ảnh toàn diện, và do đó nó không có quyền lực gì trên con.

Các tà lực trên hành tinh này không có quyền lực gì trên con ngoại trừ quyền lực mà con cho chúng qua quyền tự quyết của con. Có một sự thật trong câu nói rằng nếu người ta biết tốt hơn thì người ta sẽ làm tốt hơn. Con có đồng ý chăng là nếu con biết rõ một hạn chế mình phải đối mặt dựa trên gian dối, rằng nó chẳng hơn gì một ảo ảnh, thì con sẽ có thể tự giải thoát ra khỏi hạn chế? Có lẽ con còn nhớ thuở là một đứa bé đi bộ trên vỉa hè và được bảo rằng giẫm phải vết nứt trên vỉa hè là điềm xui xẻo, hay có lẽ con từng tin một điều dị đoan tương tự của tuổi thơ ấu? Một niềm tin như thế có thể tác động rất lớn trên cách con đi đứng, thế rồi đến một thời điểm con chỉ đơn giản quyết định là chuyện đó không thể nào có thật. Từ giây phút đó trở đi, ảo ảnh không còn quyền lực trên con nữa và giờ đây con có thể tự do bước chân trên đường đời. Hãy thử tưởng tượng là suốt nhiều năm trời, con từng sống với niềm tin mình nợ ngân hàng một số tiền rất lớn, con đã lo âu không biết làm thế nào trả nợ và đời con đã khổ sở vì thế. Rồi một buổi sáng, con nhận được thư ngân hàng cho hay họ đã tính lộn và con không nợ gì hết. Liệu con sẽ tiếp tục bám giữ nỗi lo âu? Liệu con sẽ khăng khăng đòi trả hết món nợ dù đó chỉ là ảo ảnh? Hay con sẽ đơn giản bỏ nó qua bên và tiếp tục cuộc sống của mình?

Con hiện đang bị giam trong nhà tù của các giới hạn phàm phu và đau khổ. Nhà tù này chỉ thật sự hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể của nhân loại. Nhà tù có một cánh cửa và cánh cửa thì có nhiều ổ khóa, nhưng mỗi ổ khóa tượng trưng cho một ảo tưởng, một lời dối của rắn nham hiểm. Bí mật thực sự của cuộc sống là mặc dù các ổ khoá dường như đang khóa chặt cánh cửa, không một ổ nào là khóa cả. Cái dường như đang khóa chặt cánh cửa của nhà tù con người là một loạt những ảo tưởng nẩy lên từ sự thật “tương đối”, từ các dối trá của rắn, của tâm phản Ki-tô. Kỳ thực, cánh cửa của nhà tù con người không hề được khóa!

Con đinh ninh là mình bị kẹt trong tù, nhưng trong suốt thời gian đó cửa tù vẫn mở. Con chỉ không lấy can đảm để nhìn các ổ khoá kỹ hơn và khám phá là chúng không có khả năng ngăn ai mở cửa. Người ta bị giam trong tù chỉ vì họ cứ tin vào ảo tưởng cánh cửa bị khóa. Kỳ thực, cửa tù không khóa. Khi con ngộ ra sự thật này, con có thể ngay lập tức bước đến cửa, mở cửa ra và bước ra ngoài. Và như thế con bỏ lại đằng sau các hạn chế thế phàm.

Thày biết rõ hoàn toàn là trong trạng thái tâm thức hiện tại của con, con rất khó lòng nào tin được điều thày vừa nói với con. Thế nhưng đó là sự thật tuyệt đối. Tại sao việc chấp nhận sự thật này lại khó đến vậy? Nó khó là vì con vẫn còn một số “sự thật” tương đối trong bình chứa cái ta, một số ảo tưởng mà con tin là thật. Ý niệm cái ta của con vẫn dựa trên các lời dối nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, và chừng nào con còn bám lấy chúng, con sẽ không thể chấp nhận là cánh cửa của nhà tù con người thật ra không khóa. Mỗi lời dối hiện ra như một ổ khóa sẽ giữ con lại trong một trạng thái giới hạn, ngăn con thoát ra khỏi nhà tù con người. Chừng nào con còn tin những lời dối đó và chưa nhận ra chúng là ảo ảnh, tất nhiên con không thể chấp nhận sự thật rằng cánh cửa không khóa. Thày không chờ đợi con có thể lập tức chấp nhận là cánh cửa không khóa và cứ thế bước qua ngưỡng cửa. Đây là tại sao thày đã đến để cống hiến cho con một con đường tuần tự hầu con có thể, một cách có hệ thống, nhìn xuyên qua mỗi lời dối trong bình chứa cái ta. Khi con nhìn xuyên thấu một lời dối, con có thể gạt bỏ nó như chuyện không thực, như một ảo ảnh, rồi nhờ vậy con tự giải thoát khỏi nó. Bởi vì với mỗi lời dối con bỏ lại đằng sau, con tiến thêm một bước gần hơn việc thị hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Vào một điểm nào đó trong tương lai, có lẽ một tương lai không xa lắm, con sẽ đột nhiên đạt đến một điểm mấu chốt, một điểm không quay lại.

Trước kia khi con bước xuống dưới mức tâm thức Ki-tô, con đã khởi sự rất lần hồi nhưng cuối cùng con đã đến một điểm không quay trở lại khi con quên mất sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Bây giờ đi ngược trở lên chiếc cầu thang, con sẽ đến cùng điểm đó từ hướng ngược lại. Khi con vượt quá điểm này, con sẽ tái lập sự kết nối ý thức với Hiện diện TA LÀ. Con sẽ biết thật sự rằng đường tu có thực, rằng lời hứa của tâm thức Ki-tô là một thực tế mà con có khả năng thị hiện trong đời mình.

3.8. Tấm gương của Giê-su là sự phục sinh, không phải là nỗi thương khó

Chắc chắn con đã thấy những lâu đài cổ với một tháp tròn bằng đá, và trong tháp đá có một chiếc cầu thang vòng xoắn ốc. Phía trên cùng của cầu thang xoắn ốc là một cửa mở dẫn lên mái lâu đài tắm mình trong ánh nắng rực rỡ. Khi con bắt đầu đi xuống cầu thang xoắn ốc, ánh nắng vẫn chói rọi xuyên qua cửa, phản chiếu trên tường cầu thang. Khi con tiếp tục bước xuống, nó uốn mình cho tới một điểm con không thể nhìn xuyên qua cửa nữa để thấy trời xanh. Con không biết ánh nắng đến từ đâu nhưng con vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng phản chiếu trên tường.

Khi con đi xuống thêm nữa, con lại đụng một điểm mấu chốt khác. Khi con đi quá điểm này, con không còn nhìn thấy ánh phản chiếu trên tường, và từ đó trở đi, con không còn bằng chứng trực tiếp nào cho thấy có ánh nắng chiếu qua cánh cửa ở đầu cầu thang. Khi con tiếp tục đi xuống, càng ngày con càng chìm vào bóng tối cho tới khi con xuống đến hầm mộ bên dưới lâu đài, và ở nơi đây thì con bị bao trùm trong bóng tối toàn diện.

Đây là một cách minh họa cho những gì xảy ra trong tâm thức con. Con khởi sự ở trên đầu cầu thang nơi con có thể trực tiếp nhìn thấy trời xanh và ánh nắng. Điều này, tất nhiên, tượng trưng cho Hiện diện TA LÀ của con và ánh sáng Thượng đế chiếu rọi qua Mặt trời của bản thể con. Khi con đi xuống cầu thang, bước xuống tâm thức nhị nguyên, con đánh mất sự kết nối trực tiếp có ý thức với Hiện diện TA LÀ của con. Con vẫn còn chút ký ức về phần cao hơn của bản thể con. Nhưng khi con đi xuống sâu hơn, ngay cả ký ức này con cũng mất, và câu hỏi duy nhất còn lại là con đã thực sự bước xuống cầu thang bao xa. Vì con đang đọc khóa học này, cho nên con đã không bước xuống đáy chót cùng của cầu thang. Hay cũng có thể con đã làm vậy trong một tiền kiếp nhưng từ lâu con đã bắt đầu leo lên trở lại. Nếu con không đi trên hành trình hướng thượng thì con đã không mở tâm ra cho khóa học này hay bất kỳ ý tưởng nào thày đang trình bày cho con.

Con nên cho phép mình nhận biết bằng nội giác rằng con đã bước chân trên con đường tâm linh rồi, con đường sẽ dẫn tới sự sống dồi dào của tâm thức Ki-tô. Con nên cho phép mình cảm thấy là con đã neo trụ trên con đường này và cảm nhận đây quả thực là một chiến thắng. Nếu con chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này trước đây, thày yêu cầu con hãy bỏ ra chút thì giờ để quán chiếu sự kiện con đang đi trên con đường về nhà và con đã thực hiện được những tiến bộ đáng kể.

Khi con mang cảm giác mình đã neo vững trên đường tu, thày sẽ yêu cầu con suy ngẫm điều thày vừa bảo con trong chìa khóa này, cụ thể là tại sao việc cho phép ý niệm cái ta hữu diệt chết đi lại quan trọng đến thế. Cái ta hữu diệt này là một gánh nặng mà con lê theo sau lưng, một quả tạ khiến việc đi lên cầu thang xoắn ốc khó khăn một cách không cần thiết. Nếu con chịu quay đầu lại để nhìn quả tạ đằng sau, con sẽ có thể cắt sợi dây đang buộc nó với con. Khi quả tạ rơi xuống, con sẽ dễ dàng leo thang hơn rất nhiều.

Nếu con không chấp nhận sự kiện ý niệm cái ta hiện tại của con phải chết đi trước khi con có thể leo bước kế tiếp trên cầu thang xoắn ốc, con sẽ khiến cuộc sống của con gian nan hơn rất nhiều. Đường tu tâm linh có thể trở nên vất vả đau đớn đến độ nó thực sự biến thành Con đường Thương khó mà biết bao tín đồ Cơ đốc tin rằng họ phải đi theo để được cứu rỗi. Vào thời Trung cổ, hầu hết tín đồ Cơ đốc tin rằng đó là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi, rằng đó chính là con đường Giê-su đã chứng tỏ. Họ bị ám ảnh bởi biến cố đóng đinh và nỗi khổ của Giê-su trên thập tự giá, và họ đinh ninh rằng để theo đạo Cơ đốc, ho cũng phải đau đớn như Giê-su đã đau đớn.

Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ hình tư tưởng rằng cuộc sống là đau khổ, Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ thị hiện những điều kiện vật lý xác nhận hình ảnh của con. Đây chính là điều đã xảy ra cho nhân loại vào thời đại đen tối. Người ta quá chú tâm đến đau khổ đến độ họ đã tạo ra sự đau khổ vỏ ngoài được thể hiện trong thời đại đen tối đó. Đối với một số người trong thế giới ngày nay, điều này sẽ khó chấp nhận, nhưng dù sao thì đó lả sự thật.

Người ta quá chú tâm vào khổ đau do đã chấp nhận một hình ảnh giả, một thần tượng khắc, về giáo lý của Giê-su. Mặc dù Giê-su đã có đau đớn trên cây thập tự, nhưng thày chỉ ở trên thập tự vài giờ. Toàn bộ cuộc đời của thày kéo dài đến 33 năm và mục vụ công cộng của thày thì kéo dài 3 năm. Có công bằng hay không, có phải lẽ hay không, nếu chúng ta để cho mấy giờ chót trên thập tự giá trở thành hình ảnh chủ yếu, hình ảnh quyết định mà chúng ta lưu giữ về cả cuộc đời, về sứ mạng cùng lời dạy của Giê-su? Có đến hàng ngàn và hàng ngàn người từng bị đóng đinh vào thời buổi đó. Chẳng có gì trong việc đóng đinh Giê-su khiến thày là một người đặc biệt. Điều khiến Giê-su đặc biệt là thày đã phục sinh, thày đã lại hiện ra trong thân xác tâm linh phục sinh của thày sau khi bị hành quyết. Điều khiến Giê-su đặc biệt là trước khi bị đóng đinh, thày đã chứng tỏ khả năng điều ngự của tâm trên vật chất, và điều này là bí quyết thật sự của sự sống dồi dào. Giê-su đã không đến để chứng tỏ Con đường Thương khó, một con đường khổ ải. Thày đã đến để làm chứng cho sự sống dồi dào cũng như con đường dẫn đến dồi dào. Đó là vì sao thày nói: “Ta đã đến để họ có sự sống, và có sự sống này dồi dào hơn” (John 10:10).

Giê-su đã làm chứng cho sự sống dồi dào bằng cách chữa lành người bệnh tật, vực người chết sống dậy, biến nước thành rượu, hóa bánh và cá thành nhiều, đi bộ trên nước và ban ra những lời dạy mở rộng trái tim nhiều người. Giê-su thực sự đã đến để chứng minh rằng mọi người đều có khả năng khắc phục cảm giác vật lộn, chiến đấu, và thay vào đó thị hiện sự sống dồi dào. Đâu là bí quyết để khắc phục cảm giác vật lộn? Đó là khắc phục ý niệm cái ta dựa trên hình tư tưởng rằng đời sống là một cuộc đấu tranh, cái ta khởi lên từ sự tách biệt khỏi Thượng đế và dồi dào của Thượng đế. Chỉ khi nào con khắc phục được ý niệm cái ta này thì con mới ngừng phóng chiếu hình ảnh đấu tranh vào tấm gương vũ trụ. Chỉ khi nào con ngừng phóng chiếu hình ảnh như vậy thì tấm gương mới ngừng phản chiếu lại cho con những điều kiện vật chất biến cuộc sống thành một cuộc chiến đấu. Chỉa khóa là nhận ra con là nhiều hơn hình ảnh giới hạn đó về chính mình. Thực tại đích thực của con là cái Ta Biết, nhưng con chỉ nhìn xuyên qua ý niệm cái ta hữu diệt, gần như thể con đang mang một cặp kính màu. Khi con cho phép cái ta hữu diệt chết đi, điều này không có nghĩa là cá thể của con sẽ chết, vì cái Ta Biết không thể nào chết. Cho phép cái ta hữu diệt chết đi có nghĩa là cái Ta Biết sẽ được tự do để nhận lấy một ý niệm cái ta cao hơn, cái Ta Biết được tái sinh vào ý niệm cái ta tâm linh của con.

3.9. Hãy nhận tình yêu của thày

A con yêu dấu, con có cảm được Hiện diện của thày với con chăng khi thày trao cho con những lời này? Con có cảm được tình thương mãnh liệt từ trái tim một người Mẹ, là tình thương của Mẹ không ao ước gì hơn thấy những đứa con yêu của mình thoát khỏi nỗi sợ bóng tối? Con có cảm được lòng thày muốn ôm con chặt trong vòng tay ấm áp, muốn nói với con rằng con không có gì phải sợ và mọi chuyện sẽ yên lành? Con có cảm được lòng thày muốn vuốt tóc con, muốn lau nước mắt trên má con, muốn nhìn thẳng vào mắt con và nói: “Con ơi, mọi chuyện sẽ tốt lành. Hãy quên đi quá khứ, hãy bước ra khỏi hầm tối nơi con từng run sợ, hãy bước vào nắng ấm sẽ làm tan chảy mọi sợ hãi của con.”

Thày là người Mẹ tâm linh của con và thày ở đây để giải thoát con. Hầu giải thoát con khỏi mọi hạn chế, trước hết thày phải giải thoát con khỏi nỗi sợ khiến con sợ nhìn vào lời dối nằm ngay tâm điểm của mỗi hạn chế con phải đối mặt. Con hãy nắm lấy tay thày và chúng ta cùng chạy vào ánh nắng, chúng ta cùng bật cười để tan đi nước mắt, tan đi những nỗi sợ của cái ta hữu diệt. Thay vào đó, hãy đón chào mặt trời của ngày mới, ý niệm cái ta mới, nhờ vậy con quên đi cái ta cũ. Trong sự quên lãng này, con cho phép cái ta cũ chết đi mà không để ý thấy là nó không còn. Con giống như đứa bé mải vui đùa với đồ chơi mới đến độ nó quên bẵng mất đồ chơi cũ, cái đồ chơi đã mòn nát trên bãi chơi cuộc đời. Con chú tâm vào cái ta mới đến độ con quên tất cả về cái ta cũ, vì vậy con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới, vào một bản thể mới. Con được tái sinh vào niệm tinh khôi được cất giữ vĩnh hằng trong tâm Ki-tô nhưng cũng được giữ chặt trong trái tim của Mẹ tâm linh của con. Thảy đang giữ chặt niệm tinh khôi cho con, như thày đã từng giữ cho Giê-su cho đến ngày sứ mạng của Giê-su thành tựu.

Thày yêu con và tình yêu của thày vô điều kiện. Thày biết rõ tiềm năng thật của con và thày sẵn lòng giúp con vươn lên trên mọi điều kiện đang ngăn con biểu hiện tiềm năng này trọn vẹn trên trái đất. Con hãy nắm lấy tay thày và thày sẽ bước đi với con, y như thày đã bước với Giê-su trên mỗi bước đường dẫn Giê-su đến quả vị Ki-tô cùng sự thăng thiên vào ánh sáng.

1 | Con là một người đồng-sáng tạo

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, con có thể tự hỏi làm thế nào một sinh thể được thiết kế như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế – một sinh thể đi ra từ cái Tất cả của tâm thức Thượng đế, một sinh thể thật sự là Thượng đế đang biểu hiện như một dòng sống cá biệt – lại có thể đánh mất sự nhận biết về cái Tất cả nơi nó xuất phát. Đây là một câu hỏi mà con có thể lợi lạc khi quán chiếu.

1.1. Bí ẩn về sự cá biệt trong cái Tất cả

Câu hỏi này không có câu trả lời độc nhất vì mỗi người đồng-sáng tạo được thiết kế như một cá thể độc đáo. Lý do chính xác đã khiến con mất nối kết với nguồn cội của con sẽ không giống như một người khác. Chìa khóa để hiểu được bí ẩn này là suy ngẫm nan đề làm thế nào con cân bằng được việc biết mình là một sinh thể cá biệt, nhưng đồng thời mình cũng là một biểu hiện của cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Đây là thử thách chủ chốt đi kèm với món quà được ban cho con là cá thể và quyền tự quyết của con. Chưa có người đồng-sáng tạo nào đã có thể tránh né thử thách này. Nhiều người đã khá dễ dàng đáp ứng được thử thách, nhưng nhiều người khác phải mất nhiều thời gian mới giải được bí ẩn. Một phần đáng kể những người đồng-sáng tạo, kể cả hầu hết mấy tỷ dòng sống hiện đang cư ngụ trên hành tinh trái đất, vẫn chưa giải quyết được bí ẩn, chưa giải đáp được câu đố về cá thể con người.

Bí quyết để giải đáp bí ẩn là nhận ra ý nghĩa việc con là một sinh thể cá biệt. Con là ai, con là gì, đâu là cốt lõi của bản sắc con? Mọi tạo vật đều khởi đầu với điểm dị biệt (singularity) của Đấng Sáng tạo. Ở khởi đầu duy chỉ có Thượng đế, Đấng Sáng tạo, và Thượng đế đã là – và đang là – một Sinh thể trọn đủ. Đấng Sáng tạo có khả năng tự nhận biết và ngài có một ý niệm rõ ràng về bản sắc của mình. Đấng Sáng tạo khởi sự bằng cách tạo ra hai lực cơ bản, là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực này không chỉ đơn giản là lực vô tri như các lực tự nhiên mà con vốn thấy trên hành tinh trái đất, chẳng hạn như trọng lực và từ lực.

Hai lực tâm linh cơ bản này được chỉ đạo bởi hai sinh thể có tự nhận biết, là hai vị đồng-sáng tạo đầu tiên xuất thân từ Đấng Sáng tạo. Hai sinh thể này được Kinh thánh gọi là Alpha và Omega, sự khởi đầu và sự kết thúc. Họ không tách rời khỏi Đấng Sáng tạo mà thực sự là những phần nối dài, những cách hiển thị của Đấng Sáng tạo. Đó là tại sao Thánh kinh có ghi câu: “Ta là Alpha và Omega, sự khởi đầu và sự kết thúc – Thượng đế phán như vậy, tức là Đấng hiện có, đã có và còn đến, Đấng toàn năng” (Revelation 1:8). Vậy thì chúng ta có Đấng Sáng tạo đã tự biểu hiện là hai sinh thể tự nhận biết, hai đấng đồng-sáng tạo. Mỗi sinh thể này đều có khả năng tự nhận biết cho nên cũng có một ý niệm về cái ta, biết mình là một sinh thể riêng biệt, một cá thể riêng biệt. Bởi vì Alpha và Omega được Đấng Sáng tạo sinh tạo trực tiếp, cho nên sự nối kết của họ với Đấng Sáng tạo vững chắc và trực tiếp đến độ một sinh thể ở cấp này khó lòng nào đánh mất ý thức về mối nối kết đó, về sự hợp nhất đó.

1.2. Cây sự Sống

Alpha và Omega tạo ra hậu duệ, và có một số sinh thể tự nhận biết đã xuất thân trực tiếp từ Alpha và Omega. Sau đó những đứa con trực tiếp của Alpha và Omega tạo ra hậu duệ riêng của mình, rồi cứ thế xuyên qua nhiều bầu cõi sáng tạo. Không một hình ảnh đường thẳng nào có thể mô tả hoàn toàn chính xác thực tại tâm linh. Vì tâm con vẫn còn bị lập trình theo lối suy nghĩ đường thẳng quá đỗi, cho nên thày đang cố làm chuyện bất khả thi là mô tả sự thể này một cách đường thẳng. Tất cả mọi sinh thể tự nhận biết trong toàn bộ thế giới hình tướng đều là phần tử của cùng một dòng dõi dẫn ngược trở lên một Đấng Sáng tạo duy nhất. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành.” Nếu lấy hình minh họa một cây gia phả, chúng ta có thể thấy cây gia phả có nhiều nhánh tượng trưng cho nhiều thế hệ khác nhau. Con càng xa Đấng Sáng tạo bao nhiêu trên Cây sự Sống thì sự nối kết của con với Đấng Sáng tạo sẽ càng xa cách bấy nhiêu. Con càng xa Đấng Sáng tạo bao nhiêu thì con sẽ càng dễ đánh mất ý thức về sự nối kết này. Con có thể quá chú tâm vào cá thể riêng của mình đến độ cuối cùng con quên bẵng mất nguồn cội của mình, và con xem mình là một sinh thể tách biệt đang trôi nổi giống như con thuyền trôi dạt trên đại dương bất tận.

Nhưng hình ảnh cây gia phả cũng có những hạn chế nghiêm trọng khi con xem đến Thân thể Thượng đế, Cây sự Sống. Trong một cây gia phả bình thường, con sinh ra ở một vị thế nào đó và con không thể thay đổi vị thế này. Nhưng trong Thân thể Thượng đế, mỗi sinh thể tự nhận biết cho dù xuất thân từ đâu, đều có cơ hội vươn lên xuyên qua các tầng cấp khác nhau cho đến khi rốt cuộc nó đạt đến tâm thức trọn vẹn của Thượng đế. Và cũng giống như vậy, một sinh thể tự nhận biết có thể tuột xuống dưới mức nó đã sinh ra, và do đó nó có thể xa cách tâm thức Thượng đế nhiều hơn nữa.

Điều gì sẽ định đoạt con lên cao hơn hay xuống thấp hơn trên Cây sự Sống? Yếu tố quyết định là ý niệm cái ta của con, sự tự nhận biết của con, ý niệm bản sắc của con. Con sinh ra trong một gia đình nào đó và gia đình con có một dòng dõi có thể truy ngược lên nhiều thế hệ. Gen của con và cách nuôi dạy đã ảnh hưởng đến con người mà con là hôm nay, con người mà con xem mình là. Điều nhiều người không nhận ra là ý niệm bản sắc của con không hề cố định. Mặc dù nó có thể bị tác động bởi những lực bên ngoài, con có tiềm năng nắm chủ động cái ta của mình, thay đổi ý niệm cái ta theo viễn quan cao nhất của con.

Cơ thể vật lý của con là sản phẩm các gen di truyền trong gia đình con, và sự dạy dỗ con nhận được là sản phẩm của thế giới quan cùng nền văn hóa gia đình và xã hội. Nhưng con vẫn là một cá nhân riêng biệt, và con có khả năng vươn lên cao hơn nguồn gốc gia đình con theo nhiều cách, như nhiều người đã chứng tỏ. Vì con thực sự là một sinh thể tâm linh cho nên con có quyền tự do hoàn toàn để vươn lên cao hơn ý niệm bản sắc hiện tại của con, thậm chí vươn lên cao hơn cả ý niệm bản sắc mà cá thể con được sinh tạo. Cốt lõi con người con là ý niệm cái ta, ý niệm bản sắc của con.

1.3. Bản sắc của con không cố định bất biến

Khi Đấng Sáng tạo ban cho con khả năng tự nhận biết, khả năng tưởng tượng và quyền tự quyết, ngài đã tạo ra một sinh thể không có bản sắc cố định bất biến. Theo nghĩa đen con chính là con người mà con nghĩ mình là, con là con người mà con thấy mình là. Nếu con thấy mình là một đứa con của Thượng đế thì con chính là con của Thượng đế. Nếu con thấy mình là môt người phàm trần hữu diệt (mortal) thì con chính là một người phàm trần hữu diệt, ít ra trong thế giới của thời gian và không gian. Con có khả năng thay đổi ý niệm bản sắc của con, thay đổi nhận biết về mình bằng cách dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình. Con có thể quên hay phủ nhận mình là con trai hay con gái của Thượng đế và thay vào đó hình dung, chấp nhận bản sắc mình là một kẻ tội đồ hữu diệt. Cũng vậy, con có khả năng bỏ lại đằng sau ý niệm bản sắc giới hạn của một người phàm trần và đòi lại bản sắc thực mà con đã có khi bước vào hiện hữu. Xong con có thể xây dựng dựa trên niệm tinh khôi đó và trở nên nhiều hơn nữa so với khi con được sinh tạo, và đây chính là kỳ vọng mà Đấng Sáng tạo dành cho con.

Để hiểu được những khái niệm này, có thể con sẽ cần một chút suy tư bằng trái tim, vì tâm phân tích sẽ không thể giải quyết những gì có vẻ mâu thuẫn đối với nó. Tâm Ki-tô Hoàn vũ lưu trữ bản mẫu thiêng liêng, niệm tinh khôi của cá thể con, là cá thể được ban phú cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu. Bản mẫu này không bao giờ có thể bị mất, và sinh thể tâm linh lớn hơn mà từ đó con xuất phát sẽ tồn tại ở cõi tâm linh cho dù con có làm gì ở đây trên trái đất. Trên hết và trước hết, sinh thể tâm linh này là Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ của con là một thành phần của cây gia phả đi ngược trở lên Đấng Sáng tạo, có thể xuyên qua nhiều thế hệ hay cấp bậc. Như một sinh thể cá biệt, con là nhiều hơn Hiện diện TA LÀ của con, nhiều hơn cây gia phả của con và nhiều hơn cả Đấng Sáng tạo của con. Khi thày nói “nhiều hơn,” thày không có ý so sánh như thể con hơn Thượng đế. Điều thày muốn nói là con có một ý niệm tự nhận biết đặc thù vượt ngoài sự tự nhận biết của Đấng Sáng tạo cùng các thành viên trong gia đình tâm linh của con.

1.4. Hai khía cạnh của tự nhận biết

Con có một ý niệm tự nhận biết đặc thù, và ý niệm này gồm có hai khía cạnh: một là “nhận biết,” hai là “tự” – hay cái ta. Con nhận biết là con hiện hữu, con có bản thể, con mang sự sống. Nhận biết này tập trung vào cái con xem là “cái ta” của con, bản sắc của con. Nhận biết của con là bình chứa bản thể con, và ý niệm cái ta là nội dung trong bình chứa bản thể của cá nhân con. Nhận biết đem lại cho con hiện hữu, và cái ta thì đem lại cho sự hiện hữu của con một trọng tâm cụ thể và từ đó một cách để con tự biểu đạt trong thế giới hình tướng.

Sự nhận biết độc lập với cái ta, theo nghĩa là nó không tùy thuộc bất kỳ hình tướng nào. Nó có thể tồn tại như là nhận biết thuần khiết mà không tập trung vào – hay xuyên qua – một cá thể đặc thù, và chính nhận biết này là cốt lõi của bản thể Thượng đế. Thượng đế tối thượng là một trạng thái nhận biết thuần khiết, và nhận biết này thì vượt khỏi hình tướng, có nghĩa là nó không bao giờ có thể bị mất hay chia cắt. Nó có thể biểu đạt qua một hình tướng cụ thể, qua một cái ta cá nhân, bởi vì “không có ngài thì không tạo vật nào được tạo thành”. Nội dung của cái ta cá nhân này có thể che mờ nhận biết thuần khiết, thế nhưng nhận biết thuần khiết thì bất biến và trường cửu. Như một câu tục ngữ Ấn cổ đã nói: “Con người đến và con người đi, nhưng Ta thì tiếp tục mãi mãi.”

Ý niệm cái ta có thể thay đổi, tùy thuộc vào cách con nhìn mình như thế nào, con tưởng tượng mình ra sao, và con quyết định cái gì là thực và là một phần của chính con. Nó tùy thuộc hoàn toàn vào nội dung mà con bỏ vào bình chứa cái ta, và tất nhiên, ý niệm cái ta của con có thể bị ảnh hưởng bởi thế giới hình tướng. Đây là tại sao cái Ta Biết có thể bị lạc trong hình tướng và quên mất nhận biết thuần khiết là nguồn cội của nó. Con có thể thay đổi nhận biết về mình bằng cách thay đổi ý niệm cái ta, thay đổi nội dung bình chứa bản thể của con.

Nhận biết của con giống như một tờ giấy trắng, và trên tờ giấy này Đấng Sáng tạo đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về bản mẫu thiêng liêng của con. Khi con bắt đầu chấp nhận một ý niệm thấp hơn về cái ta thì con dùng mực đen vẽ nguệch ngoạc lên giấy. Nếu con cứ tiếp tục làm vậy, rốt cuộc sẽ tới điểm những nét vẽ nguệch ngoạc này không chỉ che phủ bản mẫu thiêng liêng của con mà cả tờ giấy trắng bên dưới. Nhận biết thuần khiết và khuôn đúc cái ta tâm linh của con bị che lấp bởi một mạng lưới chằng chịt những gạch đen không có cấu trúc rõ ràng nào. May mắn thay, gạch đen không dùng mực không thể tẩy xóa mà được vẽ lên một tấm nhựa trong, có nghĩa là cả tờ giấy trắng lẫn bản mẫu ban đầu vẫn nguyên vẹn, không hề gì.

Trước khi một hình tướng cụ thể có thể được tạo ra, nó phải hiện hữu như một tâm ảnh trong tâm có tự nhận biết. Cái tâm tự nhận biết mà thày vừa gọi là Tâm Ki-tô Hoàn vũ là kho lưu trữ vĩnh viễn cho tâm ảnh, cho bản mẫu mô tả cá thể của con, cá thể mà con đã có khi được sinh tạo. Khi con phát triển khả năng tự nhận biết, đúng ra con sẽ xây dựng thêm trên nền tảng đó và khuếch trương ý niệm cái ta để con trở thành nhiều hơn những gì con đã là lúc ban đầu. Khi con đồng-sáng tạo thuận theo các định luật của Thượng đế, ý niệm cái ta mà con khuếch trương cũng sẽ được ghi lại trong tâm thức Ki-tô. Một khi đã thu hoạch thì thành tựu của con không bao giờ có thể bị mất.

1.5. Cái Ta Biết là cái nó thấy nó là

Trước khi một hình tướng có thể hiển thị, tâm ảnh phải được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tâm ảnh, bản mẫu cho bản sắc cá nhân của con, không phải là một sinh thể tự nhận biết có khả năng bước vào thế giới hình tướng và hành xử ngay như một người đồng-sáng tạo. Bản mẫu, niệm tinh khôi, chỉ là một ý tưởng được giữ trong tâm của Sinh thể tâm linh lớn hơn nơi con đã xuất thân. Đó là một sinh thể mang tiềm năng chứ không là một sinh thể đã hiển thị. Cái đi vào thế giới hình tướng là cái Ta Biết, là cái ta tự nhận biết của con, nó nhận biết chính nó là một sinh thể riêng biệt có cá thể. Thượng đế trước hết tạo ra bản mẫu cho bản thể con, nhưng bản mẫu này chỉ trở nên sinh động khi ngài thổi sự sống vào nó bằng cách cho phép một phần Bản thể ngài làm linh hoạt cái ta với nhận biết thuần khiết.

Khi ý niệm cái ta lần đầu tiên được tạo ra, tất nhiên nó hoàn toàn thẳng hàng với bản mẫu thiêng liêng của con. Đến khi nó du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng trí tưởng tượng cùng quyền tự quyết của nó, nó có thể trở nên nhiều hơn hay ít hơn bản mẫu nguyên thủy. Bản mẫu thiêng liêng cho bản sắc của con được lưu trữ vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ, nhưng cái Ta Biết, tức ý niệm cái ta hiện thời của con, bất cứ lúc nào cũng là cái nó nghĩ nó là, cái nó thấy nó là. Có nghĩa là khi con thay đổi nhận biết về mình thì con người cũ của con, ý niệm cũ về cái ta, sẽ chết đi và không còn nữa. Khi một hạt lúa nảy mầm trên mặt đất, hạt lúa đó không còn nữa. Nó đã biến thành mầm và hạt thì không còn hiện hữu. Khi mầm mọc thành cây thì đến lượt mầm không còn nữa. Nó vẫn hiện hữu như một khái niệm, nhưng nó không hiện hữu như một thực tế hiển thị vì nó đã được thay thế bởi cây lúa.   

Điều này nghe có vẻ trừu tượng nhưng con hãy nhìn trải nghiệm của mình trong kiếp sống này mà xem. Khi con lên 5, con không nhìn thế giới hay nhìn chính con giống như bây giờ. Con có một tầm nhìn khác, rất có thể một tầm nhìn hạn hẹp hơn. Ngày hôm nay đứa bé đó ở đâu? Thực tế là nó không còn tồn tại. Thân xác đứa bé không đang tồn tại trong hình dạng thuở trước nữa, mà sự tồn tại này chỉ kéo dài ở chỗ nó đã lớn lên thành thân xác hiện thời của con. Ý niệm cái ta của đứa bé 5 tuổi cũng không tồn tại trong dạng cũ vì nó đã phát triển thành ý niệm cái ta mà con đang có hôm nay. Thày phải cảnh báo là cách ẩn dụ này có một số giới hạn vì những gì đã xảy ra cho con vào tuổi thơ ấu có thể đã tạo ra những vết thương tâm lý vẫn ảnh hưởng con đến ngày nay. Tuy vậy, ẩn dụ này vẫn minh họa được sự kiện là sự tự nhận biết có mặt trước đây đã được thay thế bởi một ý niệm rộng lớn hơn về cái ta.

1.6. Cái chết của cái ta tâm linh

Thày khuyến khích con hãy quán chiếu điều này trong tim và tìm kiếm cái hiểu trực giác từ bên trong vượt ra khỏi những lời thày đang trao cho con. Khi lần đầu tiên con dấn thân vào thế giới hình tướng trong tư cách một sinh thể riêng biệt, ý niệm cái ta mà con mang là sự biểu đạt của bản mẫu thiêng liêng của con, là cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. Trong một thời gian, con đã xây dựng thêm ý niệm cái ta này. Rồi ở một điểm nào đó trong quá khứ xa xôi, con bắt đầu đi theo hướng ngược lại. Con bắt đầu thu hẹp ý niệm cái ta của con thay vì khuếch trương. Thay vì mở rộng nối kết với Hiện diện TA LÀ, con đã bắt đầu hạn chế dần mối nối kết này. Con giới hạn ý niệm cái ta của con và chú tâm nhiều hơn vào nội dung của bình chứa bản thể, dần dần quên mất chính bình chứa. Con tập trung hơn vào ý niệm cái ta mà con đã tạo dựng dựa trên trải nghiệm của mình trong thế gian thay vì ý niệm cái ta bất tử được lưu giữ trong tâm Ki-tô.

Lúc đầu đây là một diễn biến xảy ra từ từ, nhưng đến một thời điểm then chốt, con vượt quá điểm có thể quay ngược – mặc dù luôn luôn có khả năng con quay trở lại bản mẫu thiêng liêng của con. Một khi con đã vượt quá điểm này, con bị kẹt lại trong ý niệm cái ta hạn chế mà con đã tạo dựng. Con đánh mất sự kết nối ý thức với Hiện diện TA LÀ và do đó con quên mất nguồn cội thực của mình. Ý niệm cái ta của con không còn dựa trên sự kiện con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, vĩnh viễn nối kết với Hiện diện. Giờ đây con dựng lên một ý niệm cái ta mới dựa trên sự tách biệt với Hiện diện TA LÀ, hay đúng hơn tách biệt với hình ảnh về Thượng đế mà con đã xây đắp từ các tư tưởng được tìm thấy trong thế gian.

Chắc hẳn con từng đặt một nồi nước lên bếp và bật lửa. Trong một thời gian, nước dần dần hâm nóng và con không thấy có gì thay đổi. Nhưng khi nước nóng đến một nhiệt độ nhất định, sẽ có bong bóng nổi lên và chỉ ít lâu sau, nước lặng biến thành nước sôi sùng sục. Nếu con tiếp tục đun nồi nước, cuối cùng toàn bộ khối nước sẽ bốc lên thành hơi. Các phân tử nước vẫn còn ở đó, nhưng chúng đã khoác lấy một hình dạng khác hẳn, không còn là nước lỏng nữa. Bây giờ chúng hiện ra dưới dạng hơi nước, một dạng vô hình với những đặc tính khác nước lỏng. Mặc dù phân tử nước vẫn tồn tại nhưng nồi nước con đã đặt lên bếp lửa không còn nữa.

Trong một tiến trình rất lần hồi, con bắt đầu chìm xuống một ý niệm bản sắc thấp hơn. Lúc đầu hầu như con không nhận thấy là mình đang tách ly khỏi Hiện diện TA LÀ thay vì tiến lại gần hơn. Rồi đến một điểm sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ bị thu hẹp đến một giai đoạn quyết định, và thật đột ngột con đánh mất sự nhận biết ý thức về mối nối kết đó. Đây đúng là chuyện xảy ra chớp nhoáng. Con có thể hình dung con kéo căng một sợi dây cao su nhiều lần mà không làm nó đứt, luôn luôn có thể đưa nó về hình dạng nguyên thủy. Thế rồi tới điểm nó đứt thì ngay lúc đó con không thể đem nó về hình dạng nguyên thủy được nữa. Sự thể này được minh họa trong câu đồng dao quen thuộc về anh chàng Humpty-dumpty bị ngã nặng. Tất cả voi ngựa lẫn quân lính của nhà vua – tượng trưng cho bất kỳ thế lực nào của thế giới vật chất – cũng không thể gắn lại cho Humpty liền lặn như cũ.

Trước khi con đánh mất nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn coi mình là một sinh thể tâm linh nối kết với một cái gì lớn hơn mình, nối kết với một cái gì vượt ngoài thế giới vật chất. Sau khi con đi quá điểm tách biệt thì con thấy mình là một cá nhân riêng biệt, tách rời khỏi cái mà giờ đây con nhận thức là một Thượng đế bên ngoài, và tách rời khỏi các sinh thể tự nhận biết khác. Con không còn xem mình là một sinh thể tâm linh mà một sinh thể bị giam cầm trong giới hạn của thế giới vật chất, giới hạn của thời gian và không gian. Sự thay đổi này gây ấn tượng rất mạnh, mạnh đến nỗi cái biết về mình như một sinh thể tâm linh, cái ta mà con là trước khi tách biệt, lăn ra chết. Ý niệm cái ta mà con đã có trước khi đi quá điểm then chốt đó, không còn nữa. Nó đã được thay thế bằng một ý niệm cái ta mới không còn dựa trên sự nối kết với nguồn cội mà dựa trên sự tách biệt khỏi nguồn cội của con. Cái Ta Biết vẫn duy trì một sự tồn tại liên tục, nhưng nội dung của bình chứa cái ta đã khác hẳn – có thể còn đi ngược lại – bản mẫu thiêng liêng của con.

1.7. Ẩn dụ trong câu chuyện Adam và Eva

Hành trình đi xuống một ý niệm cái ta thấp hơn được Thánh kinh mô tả trong câu chuyện Sa ngã của Adam và Eva. Ngược với niềm tin phổ biến nơi các cộng đồng chính thống, đúng lý câu chuyện này không bao giờ được hiểu theo nghĩa đen. Câu chuyện không mô tả hai vị tổ tiên của toàn bộ nhân loại, mà thay vào đó minh họa cho quá trình sa ngã – sa ngã xuống một ý niệm cái ta thấp hơn, một trạng thái tâm thức thấp hơn – mà mỗi con người đang sống trên địa cầu đều đã trải qua trong quá khứ xa xôi, nghĩa là nhiều kiếp trước đây. Nếu con có thể chấp nhận sự thật này, con sẽ học được những bài học quý báu từ câu chuyện Adam và Eva. Còn nếu con không chấp nhận, con sẽ tiếp tục kẹt lại trong cách diễn giải chính thống. Nhưng nếu con dính mắc với cách diễn giải chính thống thì con đã không đang đọc loạt bài này – con đã từ lâu gán cho nó một cái nhãn dị giáo hay báng bổ.

Con yêu dấu, con hãy xem xét câu chuyện Adam và Eva. Con sẽ nhận thấy có một người nam và một người nữ. Con sẽ nhận thấy câu chuyện kể rằng Adam được tạo trước, rồi Eva mới được tạo ra từ chiếc xương sườn của Adam. Kỳ thực điều này nhằm minh họa cho sự kiện Hiện diện TA LÀ của con là khía cạnh nam, hay tâm linh, của toàn bộ bản thể con. Cái Ta Biết, ý niệm cái ta đã bước xuống thế giới vật chất, là thái cực nữ của toàn bộ bản thể con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ vĩnh hằng nơi cõi tâm linh và không bị bất cứ gì xảy ra trong thế gian này ảnh hưởng. Không phải Hiện diện TA LÀ bị Rắn dụ dỗ rồi rơi vào tâm thức tách biệt, tâm thức nhị nguyên, mà là khía cạnh nữ của bản thể con, cái Ta Biết, đã bị dụ cắn vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức của thiện ác tương đối. Đây chính là tâm thức khiến con nghĩ rằng con có thể chế ra định nghĩa riêng của mình về thiện và ác thay vì chấp nhận định nghĩa tuyệt đối của tâm thức Ki-tô – rằng thiện có nghĩa là thuận theo các định luật của Thượng đế, và ác có nghĩa là đối nghịch lại tổng thể.

Trong câu chuyện Adam và Eva, con thấy Eva bị dụ dỗ bởi một cái gì bên ngoài nàng. Có mấy cách diễn giải có giá trị về Rắn sẽ minh họa những khía cạnh khác nhau của quá trình Sa ngã. Trong khuôn khổ cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay, thày muốn dùng cách diễn giải rộng nhất, phổ quát nhất, và nói rằng Rắn biểu tượng cho một trạng thái tâm thức là bạn đồng hành tất yếu cho quyền tự quyết của con. Khi Thượng đế ban cho con quyền tự quyết, điều không thể tránh khỏi là con đạt được khả năng đi ngược lại các định luật của ngài thay vì tuân theo. Đây là sự cám dỗ đi kèm với sự kiện con là một sinh thể tự nhận biết với trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Con tưởng tượng ra chuyện khả thi là mình có thể đi ngược lại định luật của Thượng đế và con có thể quyết định làm như vậy. Cám dỗ này luôn luôn có mặt như một tiềm năng, nhưng con không bắt buộc phải tham gia, đắm mình vào đó. Một người đồng-sáng tạo có tự nhận biết hoàn toàn có khả năng gạt bỏ cám dỗ này và tiếp tục đồng-sáng tạo trong khuôn khổ định luật Thượng đế. Nhưng một số người đồng-sáng tạo lại chọn nhìn vào cám dỗ, rồi bắt đầu phân vân không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình quyết định đi ngược lại định luật Thượng đế và phớt lờ sự hướng dẫn từ Trên.

1.8. Thử nghiệm trong vô minh

Những tính toán này khởi lên trong tâm, tâm lý luận, tâm phân tích. Chúng khởi lên vì khi con là một người đồng-sáng tạo tân lập thiếu kinh nghiệm, con chưa có cái hiểu ý thức trọn vẹn về các định luật của Thượng đế. Con không hiểu trọn vẹn là các định luật này không hề hạn chế tự do sáng tạo của con, mà chỉ bảo vệ quyền tự do đó hầu con có thể biểu hiện cá thể con trong sự hài hòa với Thân thể Thượng đế. Vì mức tự nhận biết của con khuếch trương chưa đủ, con chưa hiểu rằng con là một với Thân thể Thượng đế, cho nên những gì con làm tới người khác thì con cũng làm tới chính con. Con chưa hiểu trọn vẹn rằng việc tuân thủ định luật của ngài là một việc làm có lợi cho con – vừa có lợi, vừa minh triết.

Do hiểu hạn chế như vậy mà có thể con đã phân vân không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình quyết định đi ngược lại định luật và chỉ đạo của Thượng đế. Có thể con đã bắt đầu cảm thấy định luật của ngài hạn chế tự do sáng tạo của con, và con phải được phép thử nghiệm khả năng sáng tạo mà không bị bất cứ gì cầm chân. Kỳ thực con luôn luôn được phép thử nghiệm với sáng tạo của mình, nhưng vì vũ trụ vận hành như một tấm gương cho nên không thể tránh được chuyện con phải gặt mỗi khi con gieo. Luật của Thượng đế được thiết lập để đảm bảo con chỉ gặt những kết quả tích cực sẽ khuếch trương cuộc sống của con lẫn cuộc sống của toàn bộ Thân thể Thượng đế. Luật của Thượng đế không thực sự giới hạn con, và cảm nhận giới hạn xuất phát từ một cái hiểu hạn chế về sự sống.

Con khởi đầu với một hiểu biết giới hạn về cách vận hành của thế giới nhưng Thượng đế không bỏ con một mình trong hiểu biết giới hạn đó. Câu chuyện vườn Eden kể rằng Adam và Eva đã bước đi và nói chuyện với Thượng đế. “Thượng đế” này không phải là Thượng đế trong nghĩa tối thượng mà là một đại diện của Đấng Sáng tạo trong vai trò thày tâm linh cho dòng sống của con. Vì ý niệm cái ta của con còn mới và thiếu kinh nghiệm, con vẫn là một đứa con của Thượng đế chưa trở thành một người đồng-sáng tạo hoàn toàn ý thức. Khi con bắt đầu sử dụng khả năng sáng tạo của mình và ý thức hơn về quyền năng của trí tưởng tượng và quyền tự quyết, con cũng bắt đầu ý thức hơn về quả trái của cây hiểu biết thiện ác. “Cây” này biểu tượng cho sự kiện con có chọn lựa đi ngược lại các định luật của Thượng đế một cách cố tình và tự cắt mình ra khỏi nguồn cội của mình hay không. Khi con biết trái cây này nhiều hơn, con bị dụ dỗ cắn vào hầu tìm xem chuyện gì sẽ xảy ra. Vị thày tâm linh trong vườn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con ăn trái. Vì con chưa hiểu trọn vẹn tại sao việc tuân thủ định luật Thượng đế mang lại lợi ích cao nhất cho con, vị thày phải cho con một hiểu biết giới hạn hơn. Điều này có thể so sánh với khi con dạy một đứa trẻ không nên chạm vào bếp nóng kẻo phỏng tay. Trẻ con chưa đủ kinh nghiệm để hiểu được phỏng tay có hậu quả thế nào, và trong cương vị cha mẹ có trách nhiệm, con không muốn nó bị phỏng. Con cố dạy đứa bé không nên chạm bếp nóng mặc dù nó không hiểu tại sao.

Vị thày trong vườn Eden đã dặn các sinh thể tự nhận biết dưới sự hướng dẫn của mình rằng nếu họ dự phần vào trái cây hiểu biết về thiện ác, chắc chắn họ sẽ chết. Nhiều người tâm linh nhìn vào câu chuyện này đã suy đoán rằng chắc hẳn vị Thượng đế trong vườn đã nói dối Adam và Eva. Vì thật vậy, họ đã ăn trái và đã không chết, mà họ bị đuổi ra khỏi vườn. Đây là cách suy luận với cùng tầm hiểu hạn hẹp đã khiến cho vị thày trong vườn không thể giải thích tại sao họ không nên ăn trái. Khi ý niệm cái ta của con đi quá điểm then chốt và đánh mất sự nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ, đúng là ý niệm cái ta đó đã chết và không còn nữa. Đây là điều vị thày biết rõ nhưng những người đồng-sáng tạo thiếu kinh nghiệm kia thì không thể nắm bắt. Họ chưa đủ tự nhận biết để biết rằng con chính là con người mà con nghĩ con là.

Nếu con bỏ một con ếch vào nồi nước sôi, nó sẽ cảm được sức nóng và nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu con bỏ ếch vào nồi nước lạnh rồi mới hâm nước lên, sự thay đổi sẽ từ từ đến độ con ếch không nhận ra và vì vậy nó sẽ bị luộc chín đến chết. Đây chính là điều có thể xảy ra cho một sinh thể tự nhận biết chưa hiểu được trọn vẹn các hậu quả của việc dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, với hiểu biết về thiện ác. Lúc đầu, con có thể lạm dụng trí tưởng tượng và quyền tự quyết mà không cảm ngay được hậu quả của việc làm này. Từ từ, con càng ngày càng bị bao trùm trong tâm thức nhị nguyên, nhưng sự chuyển biến xảy ra quá lần hồi đến độ con không để ý.

Cuối cùng thì sẽ đến một điểm không có trở lại khi đột ngột con chuyển sang một giai đoạn tự nhận biết khác. Giống như nước sôi biến thành hơi nước, ý niệm cái ta của con xoay chuyển và giờ đây con bị kẹt vào tâm thức nhị nguyên qua đó con xem mình tách biệt với Thượng đế. Ý niệm cái ta đã từng duy trì ít nhất một chút nối kết với Hiện diện TA LÀ của nó, bây giờ đã chết. Từ nhận biết này có một cái ta mới ra đời, thế nhưng cái ta này là một cái ngã hữu diệt dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Cái ta này giờ đây là điều cái Ta Biết tự định nghĩa mình là gì. Con là con người mà con thấy mình là, cho nên nếu con thấy mình là một con người hữu diệt tách biệt với Thượng đế thì chính con là vậy đó – ít ra ở đây và bây giờ, trong không gian và thời gian.

1.9. Cắn một miếng tâm thức Ki-tô

Trái tim yêu dấu của thày, cái chết của cái ta tâm linh của con, của ý niệm cái ta tâm linh, là vấn đề trung tâm trên hành tinh trái đất. Người ta có thể nói đây là vấn đề duy nhất trên hành tinh trái đất. Tất cả mọi vấn đề riêng biệt mà con thấy trên hành tinh này thật sự đều xuất phát từ tâm thức của thiện ác tương đối, là tâm thức nhị nguyên khiến cho các sinh thể tự nhận biết chế tạo định nghĩa riêng của mình về đúng-sai, tốt-xấu. Tất cả định nghĩa này đều chệch hướng so với thực tại của Thượng đế, với sự thật của Thượng đế, vì chúng hoàn toàn dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô là tâm thức tách biệt khỏi nguồn cội, trong khi tâm thức Ki-tô là tâm thức hợp nhất với nguồn cội của con.

Nếu mỗi con người trên hành tinh này có định nghĩa riêng của mình về thiện và ác thì không thể tránh khỏi xung đột với nhau. Nếu mỗi con người định nghĩa “tốt” là những gì tốt cho “tôi”, làm sao sẽ có được an bình và hài hòa trên hành tinh này đây? Nếu mỗi con người đều cho rằng định nghĩa của mình về sự thật là định nghĩa tuyệt đối duy nhất, có gì đáng ngạc nhiên khi chiến tranh hoành hành trên trái đất? Cách duy nhất để tạo một hành tinh hòa bình là ít ra có đủ túc số những người vươn lên cao hơn tâm thức nhị nguyên. Chỉ khi nào con người có cùng định nghĩa về thiện ác – cụ thể là định nghĩa tuyệt đối của tâm Ki-tô – thì chúng ta mới có thể hy vọng vượt qua được xung đột và chiến tranh trên hành tinh.

Khi con thấy mình là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của mình thì con nhận chân được phần nào tâm thức Ki-tô. Khi con thấy mình tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ của mình, hay tách biệt khỏi Thượng đế, con bị kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Có một giai đoạn nửa chừng nơi con có một số yếu tố của tâm thức Ki-tô lẫn một số yếu tố của tâm thức phản Ki-tô. Một khi con đi quá điểm đánh mất mọi yếu tố tâm thức Ki-tô thì con thực sự đã chết theo nghĩa tâm linh. Đó là tại sao Giê-su đã nói: “Quả thật, quả thật, ta nói với con, nếu con không ăn thịt và uống huyết đứa Con của người thì con chẳng có sự sống trong con” (John 6:53). Giê-su muốn nói là trừ khi con dự phần vào tâm thức Ki-tô, con sẽ không có sự sống trong con. Con thực sự không có sự sống tâm linh trong con nếu con không có một miếng tâm thức Ki-tô trong quả cầu cái ta của con, trong bình chứa cái ta của con.

Điều này dẫn chúng ta đến một tầm hiểu mới về ý tưởng rằng con không thể được cứu rỗi nếu không có Ki-tô, rằng Ki-tô là vị cứu tinh duy nhất, con đường duy nhất đến với Thượng đế. Như Giê-su nói: “Không người nào đến được với Cha mà không qua ta” (John 14:6). Giê-su không muốn nói con người vỏ ngoài của riêng mình là sợi dây nối con với thực tại, với sự sống của Thượng đế, mà tâm thức Ki-tô là sợi dây đó. Giê-su so sánh Nước Trời – một cách khác để mô tả tâm thức Ki-tô – với men bột (Matthew 13:33). Khi con nhào bột và bỏ men vào, toàn bộ ổ bánh sẽ nở ra và đây là lý do con có thể làm bánh mì. Chỉ khi nào con bỏ thêm một miếng tâm thức Ki-tô đã được bẻ ra cho con (1Corinthians 11:24) thì tâm thức con mới có thể nở ra cao hơn mức nhị nguyên, cao hơn tâm phản Ki-tô. Chỉ bằng cách ăn vào một miếng tâm thức Ki-tô và cho phép nó nâng cao ý niệm cái ta của mình, cho phép nó xua tan bóng tối phản Ki-tô bằng ánh sáng Ki-tô, thì con mới có thể trở về căn nhà xưa và lại chấp nhận mình là con trai hay con gái của Thượng đế.

1.10. Tái sinh trong một ý niệm cái ta mới

Điều này cũng được Giê-su giải thích khi thày bảo Nicodemus rằng muốn bước vào Nước Trời thì con phải sinh ra lần nữa (John 3:1-8). Nicodemus cãi Giê-su và hỏi làm thế nào một người có thể sinh ra lần nữa, liệu ông có thể đi vào bụng mẹ một lần thứ hai? Nicodemus bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên đến độ ông hiểu lời Giê-su theo nghĩa đen và không nắm được ý nghĩa sâu xa. Khi con bước xuống tâm thức nhị nguyên, ý niệm cái ta tâm linh của con bị chết theo nghĩa đen. Con chết trong nghĩa tâm linh vì ý niệm bản sắc của con như một sinh thể tâm linh không còn hiện hữu. Con chuyển sang một ý niệm bản sắc mới như một sinh thể hữu diệt tách rời khỏi Thượng đế. Làm thế nào trở về Nước Trời nơi con thấy mình là một đứa con của Thượng đế? Chỉ có một cách mà thôi, đó là khi ý niệm cái ta tâm linh của con được tái sinh và con lấy lại bản sắc tâm linh đúng đắn. Con có thể khởi đầu tiến trình đòi lại bản sắc thực của mình vẫn được lưu giữ như là niệm tinh khôi trong tâm Ki-tô. Khi con lấy lại hoàn toàn bản sắc này, con trở về nhà xưa, con giành lại gia sản thiêng liêng của mình. Con trở thành đứa con hoang đàng đã quay trở về căn nhà của cha sau một thời gian dài xa cách (Luke 15:11).

Khi con chuyển từ một cái ta tâm linh sang một cái ta nhị nguyên, từ một cái ta dựa trên tảng đá của Ki-tô sang một cái ta dựa trên cát lún của phản Ki-tô, thì ý niệm cái ta trước đây của con phải chết. Khi con đảo ngược chiều hướng đó và quay trở lại ý niệm cái ta tâm linh, thì cái ta mà con có ngay bây giờ, cái ta dựa trên tách biệt, cũng sẽ phải chết. Con không thể đem ý niệm cái ta này với con vào Nước Trời, và lý do thật đơn giản. Ý niệm cái ta hữu diệt đã sinh ra trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế, còn ý niệm cái ta tâm linh thì sinh ra trong hợp nhất với Thượng đế. Cái gì sinh ra từ tách biệt không bao giờ có thể bước vào hợp nhất. Cái ta hữu diệt không bao giờ có thể nắm bắt hay chấp nhận thực tại của Thượng đế. Ý niệm cái ta dựa trên nhị nguyên và tách biệt không bao giờ có thể khắc phục cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Cái có khả năng khắc phục cảm nhận tách biệt với Thượng đế là cái Ta Biết, khi con thay thế nội dung trong bình chứa cái ta với một ý niệm cái ta mới. Đó là tại sao con phải cho phép ý niệm cái ta cũ chết đi, giống như con chim Phượng bị thiêu cháy trong lửa rồi lại trỗi dậy từ đống tro tàn, bay vút lên trời cao. Con phải cho phép ý niệm cái ta hiện thời bị thiêu hủy trong ngọn lửa thiêu đốt của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi tất cả những gì không giống như chính nó – và như vậy cũng thiêu rụi tất cả những gì sinh ra từ nhị nguyên và tâm phản Ki-tô. Con phải vững tin điều này không có nghĩa là con sẽ đánh mất ý thức liên tục mình là một sinh thể riêng biệt. Thay vào đó, một ý niệm cái ta mới sẽ ra đời. Ý niệm cái ta tâm linh của con sẽ được tái sinh, được phục sinh, và nó sẽ trỗi dậy từ đống tro tàn của cái ta cũ. Ý niệm cái ta mới này sẽ có nền tảng là bản mẫu thiêng liêng mà Thượng đế đã thiết kế.

Điểm này chính là sự khác biệt cơ yếu giữa mọi thày giả và mọi vị thày chân chính. Thày giả sẽ hứa con có thể đạt được sự dồi dào của Thượng đế – một số còn hứa rằng con có thể được cứu rỗi và sống vĩnh hằng – mà không cần để cho ý niệm cái ta nhị nguyên chết đi. Họ hứa với con là họ đã khám phá một đường tắt, một sơ hở mà qua đó con có thể duy trì cái ta hữu diệt và một cách nào đó biến nó thành cái gì chấp nhận được trong mắt Thượng đế. Ôi con yêu dấu, đây là một lời hứa hoàn toàn giả dối. Đây là điều mà Kinh Cựu ước gọi là con đường có vẻ đúng cho con người phàm (Proverbs 14:12) – tức sinh thể tự nhận biết bị kẹt trong nhị nguyên – tuy nhiên kết quả là những con đường dẫn đến cái chết, vì nó giữ con kẹt lại trong tâm thức của cái chết tâm linh. Giê-su từng so sánh Nước Trời với một bữa tiệc cưới (Matthew 22:1-14). Có người kia bước vào tiệc cưới mà không mặc áo cưới – nghĩa là đã không thay thế cái ta hữu diệt bằng cái ta Ki-tô – và ông ta bị trói cả tay chân, ném ra bóng tối bên ngoài. Mặc dù việc này nghe có vẻ thô bạo, nhưng nó minh hoạ chính xác sự thật là khi con vẫn ở trong tâm thức nhị nguyên thì con còn bị buộc trói bởi các tin tưởng nhị nguyên của mình, và con phải ở lại trong bóng tối của tâm phản Ki-tô.

Ý tưởng này quan trọng đến độ thày sẽ đề cập lại tường tận hơn trong các chương tới. Khi thày trải bày ra cho con thấy sự sai lầm của hình ảnh giả này về cứu rỗi, con sẽ thật sự ngộ được chìa khóa chủ chốt trong việc trải nghiệm đời sống dồi dào ngay nơi con đang ở. Thày vô cùng phấn khích mong được có dịp trải bày cho con tầm hiểu sâu xa này về sự cứu rỗi đích thực qua cái ta được tái sinh, là con đường có vẻ sai trái đối với tâm nhị nguyên, nhưng kết quả lại là những con đường dẫn đến sự sống vĩnh hằng.

15| Đạt được một trạng thái tâm thức quân bình

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 11/4/2005.

15.1. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con

Con hãy để thày trình bày về cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi đấng Sáng tạo của con quyết định sinh tạo những cá thể hóa của chính ngài, một vấn đề khó xử hiện ra. Điều khó xử là làm sao quân bình được quan hệ giữa một cá thể của tổng thể và chính tổng thể, để cá nhân không cảm thấy tách biệt khỏi tổng thể và hành động hạ giảm tổng thể thay vì khuếch trương tổng thể.

Đấng Sáng tạo của con có một trạng thái tâm thức bao trùm tất cả. Mọi vật trong thế giới hình tướng đều nằm trong tâm thức của ngài, vì ngài đã sinh tạo tất cả từ chính chất liệu của ngài, từ Bản thể và tâm thức của ngài. Giống như thế, tất cả những thứ do các người đồng-sáng tạo có tự nhận biết, là những cá thể hóa của đấng Sáng tạo, tạo ra đều được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế. Đấng Sáng tạo của con ở trong mọi thứ đã từng được tạo thành, do đó đấng Sáng tạo của con có nhận biết ngài là Tất cả và ngài ở trong tất cả. Nói rằng đấng Sáng tạo tạo ra hình tướng không đúng. Nói rằng đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một hình tướng thì đúng hơn. Đấng Sáng tạo khoác vào một hình tướng và khoác vào sự giới hạn mà không mất đi cái Tất cả của ngài. Khi một hình tướng được đem vào hiện thực, hình tướng này hiện hữu chính vì nó có một số đặc tính khiến nó khác biệt với:

  • Cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có hình tướng
  • Cái trống không trong đó chỉ có bóng tối và vì vậy không có hình tướng
  • Những hình tướng khác trong thế giới hình tướng

Cốt lõi của một hình tướng nào đó là nó được xác định bởi các đặc tính cá biệt khiến nó trở nên khác biệt. Nếu hình tướng này không có đặc tính nào, nó sẽ vẫn còn ở trong cái Tất cả và vì vậy nó sẽ không hiện hữu như một hình tướng khác biệt. Khi đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một sinh thể có tự nhận biết, sinh thể này nhất thiết phải có đặc tính cá biệt. Nếu sinh thể không có cá thể gì cả, nó sẽ không hiện hữu như một sinh thể khác biệt, nó sẽ vẫn không thể phân biệt ra khỏi cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Trong trường hợp những hình tướng vô tri giác hay những sinh thể không có tự nhận biết (như thú vật) thì sự hiện hữu của các đặc tính cá biệt không gây vấn đề vì sự phân biệt khỏi cái Tất cả không bao giờ dẫn tới tách biệt khỏi Tất cả.

Nhưng với những sinh thể có tự nhận biết, thì một vấn đề có tiềm năng xảy ra, một loại bí ẩn xảy ra. Một sinh thể có tự nhận biết chỉ hiện hữu vì nó có nhận biết; nó biết nó đang hiện hữu. Cốt lõi của bản sắc của con là con hiện hữu như một sinh thể khác biệt với những đặc tính cá biệt và tiềm năng biểu hiện những đặc tính này qua quyền năng sáng tạo của con. Đây chính là điều con được thiết kế để làm, cụ thể là biểu hiện cá thể của con và qua đó đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế bất cứ nơi nào con ở, kể cả nơi hành tinh trái đất.

Con cũng được thiết kế để biểu hiện cá thể của con như một thành phần của Tất cả và một thành phần của Thân thể Thượng đế, là gia đình những người đồng-sáng tạo hiện hữu trong thế giới hình tướng. Con không được thiết kế để biểu hiện khả năng sáng tạo của mình như một người sống trong hư không. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con hầu nâng cao tổng thể trong đó con là một thành phần và con không bao giờ có thể tách biệt khỏi tổng thể đó. 

Con có thể sinh hoạt như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế chỉ vì con có trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Cách con biểu đạt trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con là một biểu hiện của tự nhận biết của con. Hình ảnh của con về mình quy định cách con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng chưa được biểu hiện. Nó cũng quy định con dùng quyền tự quyết như thế nào để quyết định biểu hiện hình tướng nào hay quyết định hình tướng nào con có thể và không thể biểu hiện. Khi ý niệm tự nhận biết của con thẳng hàng với thực tại của Thượng đế, tức là con là một phần của Tất cả và một phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất, thì biểu hiện cá biệt của con sẽ thẳng hàng với tổng thể.

Sự kiện con có trí tưởng tượng không có giới hạn có nghĩa con có thể hình dung một ý niệm tự nhận biết tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế và tách biệt hay thậm chí đua tranh với những sinh thể tự nhận biết khác. Sự kiện con có quyền tự quyết không có giới hạn có nghĩa là con có thể chọn chấp nhận là một hình ảnh giới hạn như thế về mình. Từ đó con có thể tạo ra một hình ảnh mới về mình dựa trên tách biệt thay vì dựa trên cảm nhận hợp nhất nguyên thủy khi con được sinh tạo.

Việc chuyện này có thể xảy ra là một khía cạnh không tránh được của quyền tự quyết và trí tưởng tượng của con. Chuyện con dùng khả năng sáng tạo của mình để tạo ra một hình ảnh hạn chế về mình như vậy, không phải là điều không thể tránh. Thượng đế làm tất cả những gì làm được để con có thể duy trì dễ dàng một hình ảnh về mình đúng đắn và xây dựng trên hình ảnh này để con trở nên hơn những gì con được thiết kế để trở thành, thay vì con tạo ra một hình ảnh về mình kém hơn những gì con đã được thiết kế để trở thành.

15.2. Người đồng-sáng tạo có thể tách mình ra khỏi tổng thể

Câu hỏi cốt lõi là làm sao một sinh thể có tự nhận biết tránh không hành xử như một người tách biệt khỏi Thượng đế, xa rời Thượng đế hay hành xử giống như mình là sinh thể tự nhận biết duy nhất trong vũ trụ hay chỉ có mình là quan trọng. Thày biết chắc con có thể thấy được tình trạng khó xử này. Thượng đế sinh tạo nhiều sinh thể có tự nhận biết để họ hành động như người đồng-sáng tạo. Không sinh thể nào trong đó được sinh tạo như một ốc đảo. Không sinh thể nào được sinh tạo là con trai cưng có thể hành xử như một ông vua và tất cả những sinh thể có tự nhận biết còn lại chỉ là tôi mọi cho người duy nhất đó. Quả như Kinh thánh nói: “Thượng đế không tuân theo con người” (Acts 10:34). Đấng Sáng tạo yêu tất cả những đồng-sáng tạo của ngài với tình yêu vô hạn. Khi tình yêu vô hạn và vô điều kiện thì không thể có so sánh và do đó không có con trai hay con gái cưng. Mọi con đều được thương yêu với cùng một tình thương bởi vì dưới mắt Thượng đế mọi con đều giá trị như nhau, đều quan trọng như nhau. Làm sao khác được nếu mỗi sinh thể có tự nhận biết được tạo ra từ cùng chất liệu của đấng Sáng tạo và mỗi sinh thể là đấng Sáng tạo biểu hiện chính ngài như sinh thể cá biệt đó?

Một khi đấng Sáng tạo đã ban cho một sinh thể có tự nhận biết trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì người đồng-sáng tạo đó có thể tách mình ra khỏi tổng thể và bắt đầu hành xử như mình tách rời khỏi người khác, thậm chí coi mình quan trọng hơn người khác. Khi hành động tách biệt ra khỏi tổng thể, sinh thể tự nhận biết đã ăn vào “trái của sự biết thiện và ác” (Genesis 2:17), mà nghĩa thật là thiện và ác tương đối. Trong tâm thức nhị nguyên này, người ta có thể so sánh và do đó người đồng-sáng tạo có thể xây dựng hình ảnh về mình như người giỏi hơn hay có giá trị hơn người khác. Sinh thể đó xây dựng ý muốn cai quản người khác và kiểm soát tổng thể thay vì làm việc để khuếch trương tổng thể.

Khi một người đồng-sáng tạo chấp nhận hình ảnh nhị nguyên này về mình là thật, thì người ấy sẽ bắt đầu hành xử như thể hình ảnh này thật. Người đồng-sáng tạo có thể dần dần tập trung vào “thực tại” do tự mình tạo ra đến độ người ấy quên bản sắc thật của mình. Người đồng-sáng tạo, đã được thiết kế để luôn luôn giữ được ý thức mình là một cá thể hóa của Thượng đế, có thể đánh mất sự hợp nhất này, có thể đánh mất trạng thái Hồng ân này và do đó rơi vào một ý niệm bản sắc giới hạn như một sinh thể tách biệt, tách rời Thượng đế và tách rời Thân thể Thượng đế.

Chuyện này có thể xảy ra ngay khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Thượng đế không mong muốn bất kỳ con trai hay con gái nào của ngài lạc trong một ý niệm bản sắc kém hơn. Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng con chỉ nhận được vương quốc khi con thấy mình là con trai hay con gái của Thượng đế có khả năng và xứng đáng nhận vương quốc này. Nếu con mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc thấp kém trong đó con xem mình tách rời khỏi tổng thể và do đó con nghĩ hoặc là con không xứng đáng nhận sự dồi dào của Thượng đế hoặc con không được quyền nhận tất cả sự dồi dào đó, con không thể nhận trọn vẹn vương quốc. Thượng đế không muốn thấy điều này xảy ra, vậy thì làm sao có thể né tránh chuyện này đây? Trên thực tế không bao giờ có thể đoan chắc chuyện này không xảy ra. Cách duy nhất để đoan chắc con không thể bị mắc kẹt trong một bản sắc thấp là tước đi trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Nếu con không có khả năng tưởng tượng một trạng thái bản sắc giới hạn và nếu con không có ý chí để chấp nhận bản sắc này là thật thì con không thể bị lạc. Nhưng nếu con không có những khả năng sáng tạo này, con không thể phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế và do đó con không thể trở nên hơn nữa. Con không thể làm công việc gia tăng cường độ của ánh sáng Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không với ánh sáng. Trở nên hơn nữa và lấp đầy khoảng trống không chính là mục đích của sự hiện hữu của con.

15.3. Sự sống luôn luôn tự thăng vượt

Câu hỏi mà đấng Sáng tạo phải đối diện là làm sao con dùng khả năng sáng tạo của con một cách an toàn nhất, có nghĩa là con sáng tạo mà không quên nguồn gốc của mình, cội nguồn của mình. Dù vấn đề này không có đáp án tuyệt đối vì con luôn luôn có quyền tự quyết, nó có một đáp án tuyệt đối theo nghĩa con không bao giờ mất tiềm năng giành lại bản sắc thật của con. Thượng đế đã thiết kế một cách tài tình để lúc nào con cũng có thể tìm về vương quốc của ngài cho dù con đã đi bao xa chăng nữa khỏi vương quốc trong tâm thức.

Đấng Sáng tạo Một bắt đầu tiến trình sáng tạo bằng cách tạo ra hai lực bổ túc. Lão giáo gọi hai lực này là Âm và Dương, nhưng thày muốn gọi chúng là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực có thể có vẻ như đối chọi nhau nhưng đây không phải là sự thật vô điều kiện. Dù chúng có vẻ như có hướng ngược nhau, chúng thật sự là những lực bổ sung nhau. Chúng không loại trừ lẫn nhau, chúng chỉ quân bình lẫn nhau. Chỉ khi hai lực này hoàn toàn quân bình thì một hình tướng bền vững mới được tạo ra.

Một cái gì bền vững có nghĩa gì? Chìa khóa là thấu hiểu chính mục đích của sự sáng tạo, cụ thể là gia tăng ánh sáng Thượng đế, mở rộng vương quốc Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không. Tăng triển không ngừng, thăng vượt không ngừng là mục tiêu. Vai trò của lực lan ra là thúc đẩy sự sáng tạo theo hướng đi ra ngoài, lan ra ngoài để nó không bao giờ đứng yên. Nó không bao giờ bị giới hạn trong một hình tướng nhất định nhưng luôn luôn tăng trưởng để hơn nữa.

Để có thể tạo ra bất cứ gì từ điểm dị đồng của đấng Sáng tạo, phải có một lực lan ra. Nếu lực lan ra là lực duy nhất, sự sáng tạo sẽ đơn giản là một sự bùng nổ liên tục trong đó không thể có được một hình tướng khác biệt nào. Lực co lại của Mẹ quân bình lực lan ra của Cha và khi có quân bình thì có thể tạo một hình tướng có thể vững bền. Hai lực sáng tạo cơ bản này đem lại nền tảng cho sự sáng tạo hình tướng. Chìa khóa cốt yếu cho sáng tạo thành công là sự quân bình đúng đắn giữa hai lực cơ bản này. Nếu lực lan ra quá mạnh, mọi hình tướng sẽ nổ tung. Nếu lực co lại quá mạnh, sự tăng trưởng sẽ dừng lại và rốt cuộc mọi hình tướng sẽ xập xuống và Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trở về trạng thái nền của nó. Phải có cái gì đó duy trì thế quân bình đúng đắn giữa hai lực này và bảo đảm là sáng tạo được bền vững mà không bao giờ đứng yên. Bền vững không đồng nghĩa với đứng yên, nó có nghĩa là vượt thăng liên tục. Tại sao thế? Bởi vì chính định nghĩa của sự sống là tăng trưởng, sự sống là cái gì luôn luôn trong tiến trình tự vượt thăng, mang nhiều thêm bản chất Thượng đế vào sự biểu hiện và do đó thay thế bóng tối trong khoảng trống không.

Lực lan ra và lực co lại không thể tự chúng tạo ra hình tướng. Lực lan ra sẽ luôn luôn lan ra và lực co lại sẽ luôn luôn co lại và nếu chỉ có một lực thì mọi hình tướng, mọi cấu trúc sẽ bị tan vỡ. Hầu tạo được một hình tướng, trước tiên hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng, như một hình tư tưởng. Hình tư tưởng này phải quân bình hai lực lan ra và co lại để hình tướng có thể vững bền trong một trạng thái sinh động trong đó hình tướng không đứng yên nhưng là một môi trường để tăng triển hơn nữa. Lực co lại của Mẹ có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-Vật. Chúng ta có thể so sánh nó như đại dương yên lặng không có sóng. Lực lan ra của Cha giống như ngọn gió thổi vào đại dương và khuấy động sóng. Những ngọn sóng trong đại dương ánh sáng vô tận là những gì hiện ra như hình tướng khác biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng khoác vào bất cứ hình tướng nào và một số những hình tướng này có thể hủy bỏ lẫn nhau giống như sóng đại dương có thể hủy bỏ lẫn nhau.

Cái gì quy định một hình tướng đặc thù được đem vào hiện thực? Những đặc tính của hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng trước khi hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cần có một khuôn đúc để lực lan ra của Cha tuôn chảy vào và khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào một hình tướng đặc thù thay vì là một sự bùng nổ bừa bãi. Lực lan ra lẫn lực co lại đều không thể tạo ra một hình tư tưởng và dùng hình này để điều khiển lực lan ra đi vào Ánh sáng Mẫu-Vật. Một hình ảnh như thế chỉ có thể được giữ trong một tâm có tự nhận biết, một tâm có trí tưởng tượng để hình dung một hình ảnh và có ý chí để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Tâm đó cũng phải có tự nhận biết, khiến nó biết nó hiện hữu và biết nó có khả năng dùng những lực sáng tạo cơ bản. Đấng Sáng tạo có tâm như thế nhưng đấng Sáng tạo không muốn tự mình tạo ra mọi sự. Đấng Sáng tạo quyết định biểu hiện chính mình như những sinh thể cá biệt có thể hành động như những đồng-sáng tạo. Những sinh thể này có khả năng của tâm để hình dung hình ảnh của một hình tướng chưa được biểu hiện và họ có thể phóng chiếu hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi lực lan ra của Cha chảy vào khuôn đúc, Ánh sáng Mẹ khoác lên hình tướng tương ứng. Tại sao những đồng-sáng tạo có khả năng này? Đó là vì họ được sinh tạo ra từ, họ là cá thể của, một khía cạnh khác của Thượng đế, một nối dài khác của Thượng đế, đó là cái mà Kinh thánh gọi là Ngôi Lời hay đấng Con trai duy nhất được sinh tạo từ đấng Cha, đầy ân huệ và lẽ thật (John 1:14).

15.4. Con sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế qua tâm Ki-tô

Nhiều người Cơ đốc đã tin rằng Giê-su Ki-tô là người Con trai duy nhất được sinh tạo từ Thượng đế hoặc Giê-su chính là Thượng đế ngay từ đầu. Ý tưởng này không đúng vô điều kiện. Vì mỗi sinh thể có tự nhận biết từng được sinh tạo đều là con trai hay con gái của Thượng đế, vì mọi vật từng được tạo ra đều đi ra từ Bản thể và tâm thức của Thượng đế, nên ta có thể xem tất cả đều là Thượng đế ngay từ đầu. Nhưng ngay lúc một hình tướng cá thể hay một sinh thể cá thể đi vào hiện hữu, thì nó mang vào những đặc tính riêng biệt và do đó nó không còn là cái Tất cả của Thượng đế nữa. Điều này áp dụng cho Giê-su Ki-tô và cũng như là con. Giê-su đi ra từ cái Tất cả của Thượng đế và thày đã là và đang là con trai của Thượng đế. Con cũng thế, con đi ra từ cái Tất cả và con cũng là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su còn xác nhận thày bình đẳng với mọi sự sống qua câu nói: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Nếu con đã lớn lên trong sự sùng bái thần tượng mà Cơ đốc giáo truyền thống cổ xúy, thì con có thể xem những lời của thày là miệt thị thần linh. Giê-su không bao giờ đặt mình tách rời người khác, thày cũng không bao giờ đặt mình cùng hàng với Thượng đế. Tại sao con nghĩ Giê-su nói: “Sao ngươi gọi ta là tốt lành, chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Giáo lý truyền thống xem Giê-su là Con trai duy nhất của Thượng đế được sinh tạo từ Thượng đế. Giê-su xem cái nhìn này là hình thức miệt thị thần linh tệ nhất và là sự nhạo báng toàn bộ sứ mạng của thày. Khi giáo hội truyền thống tạo ra giáo lý này, họ đã tách Giê-su khỏi mọi người khác và do đó thày trở thành một thần tượng thay vì là tấm gương. Giê-su không thích thấy tín đồ Cơ đốc nhảy múa chung quanh con bò con vàng này, thay vì thừa nhận sự thật là Giê-su đến để chỉ cho họ thấy họ có tiềm năng thật giành lại di sản thiêng liêng của họ. Khác biệt thực sự giữa con và Giê-su là Giê-su đã nhận ra và chấp nhận nguồn gốc của thày là một con trai của Thượng đế trong khi con vẫn chưa làm thế. Con quả thực có tiềm năng giành lại bản sắc thật của con bằng cách noi gương Giê-su và cho phép tâm này ở trong con, tâm đó cũng ở trong Giê-su Ki-tô (Philippians 2:5).

Tâm ở trong Giê-su là tâm gì? Nó là tâm Ki-tô, là Con trai thật được Cha sinh tạo, Cha ở đây có nghĩa là đấng Sáng tạo. Trạng thái tâm thức này là một tâm hoàn vũ, một ý niệm nhận biết hoàn vũ do Thượng đế đấng Sáng tạo tạo ra để phục vụ một chức năng đặc biệt là chức năng làm trung gian giữa Thượng đế và tất cả những nối dài cá thể của ngài, chính là những đồng-sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của tâm Ki-tô là bảo đảm rằng không người đồng-sáng tạo nào có thể mất đi vĩnh viễn bản sắc thật của mình hay mất đi nhận biết về các quy luật Thượng đế. Tâm Ki-tô bảo đảm mọi hình tướng được tạo ra phù hợp với các quy luật Thượng đế và hình tướng nào không thẳng hàng với các quy luật này không thể tồn tại vô hạn định.

Khi Thượng đế sinh tạo ra con, ngài cho con một cá thể độc nhất. Đây là tiềm năng sáng tạo của con và khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, một cách tự nhiên con sẽ biểu hiện cá thể của con trong mọi vật mà con sáng tạo. Cá thể của con là món quà Thượng đế cho con và khi con cho phép ánh sáng của con tỏa chiếu, cá thể của con biểu hiện như món quà của con cho thế giới. Cá thể mà Thượng đế ban cho con quả thực đẹp đẽ và tuyệt vời vượt quá những gì hầu hết con người có thể chấp nhận với ý niệm bản sắc hiện nay của họ. Như Giê-su đã nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34), nghĩa là con đã được thiết kế với một vẻ đẹp và sự toàn hảo vượt xa mức bản sắc và nhận biết phàm phu. Con được sinh tạo để trở thành vô vàn hơn những gì con có thể chấp nhận hiện nay, và cá thể mà Thượng đế ban cho con không bao giờ mất được vì nó được ghi lại vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Con trai duy nhất do Cha sinh tạo là người gìn giữ cá thể thật của con, và do đó tâm Ki-tô cũng là chìa khóa giúp con tìm lại bản sắc đó. Tâm Ki-tô là chìa khóa duy nhất cho sự cứu rỗi của con vì cứu rỗi có nghĩa là con khắc phục được ý niệm bản sắc giới hạn sinh ra từ tâm phản Ki-tô, tâm tách biệt khỏi nguồn cội của con. Để có được đời sống vĩnh cửu, con phải giành lại bản sắc sinh ra từ tâm Ki-tô, là tâm hợp nhất với nguồn cội của con.

Tâm Ki-tô cũng có vai trò hướng dẫn nỗ lực sáng tạo của con và bảo đảm là chúng luôn luôn thẳng hàng với các quy luật Thượng đế và có sự hài hòa giữa con và Thân thể Thượng đế. Không sinh thể tự nhận biết nào có thể tiếp cận ánh sáng thanh khiết của Thượng đế mà không đi qua tâm thức Ki-tô. Như Giê-su đã nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai tới được Cha ta mà không qua ta” (John 14:6). Tâm Ki-tô biết quy luật của Thượng đế và do đó nó có tiêu chuẩn tuyệt đối để lượng định xem hình tướng mà người đồng-sáng tạo hình dung hòa hợp với quy luật Thượng đế (thiện lành vô điều kiện) hay không hòa hợp với quy luật Thượng đế (xấu ác). Hầu sáng tạo một hình tướng, người đồng-sáng tạo phải hình dung hình tướng và sau đó cho phép uy lực của Thượng đế tuôn chảy qua hình tướng đó, qua đó hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Quyền năng sáng tạo hình tướng của con tùy thuộc vào cường độ và sức mạnh của ánh sáng thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Lực sáng tạo tối hậu là ánh sáng lan ra của Cha và khi con sáng tạo với ánh sáng này, con có quyền năng sáng tạo tối đa. Như Giê-su đã nói: “Con người không thể làm được nhưng đối với Thượng đế thì chẳng thế; bởi vì Thượng đế làm được mọi sự” (Mark 10:27). Hầu tiếp cận được quyền năng của Thượng đế, con phải có tâm Ki-tô và hình tư tưởng mà con hình dung phải hài hòa với các quy luật Thượng đế. Khi con hiện thân như một con người, tâm thấp của con phải trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ của con. Chính năng lượng tâm linh này trở thành lực đẩy mạnh đằng sau nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su đã nói: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì” (John 5:30) và: “Nhưng chính Cha ở trong ta làm những việc này” (John 14:10).

Khi con hình dung một hình tư tưởng dựa trên tâm Ki-tô, nó sẽ luôn luôn hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế. Như một cá nhân, con không phải là Tâm thức Ki-tô Hoàn vũ trọn vẹn, nhưng tâm thức này đã được cá thể hóa cho con. Như Giê-su đã nói: “Hãy lấy và ăn: đây là thân ta, vì các người mà bẻ ra: hãy làm điều này để nhớ ta” (1Corinthians, 11:24). Qua tâm Ki-tô được cá thể hóa này, con có thể sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và do đó những gì con sáng tạo có uy lực tối đa. Đó là lý do tại sao Giê-su, qua tâm Ki-tô đã có uy lực vượt lên trên định luật thiên nhiên và làm những điều mà con người xem là phép lạ. Sự thực là Giê-su đã dùng quy luật cao hơn thay thế định luật thiên nhiên mà khoa học hiện đang hiểu.

Khi con đi theo tiến trình dùng tâm của đấng Con để tiếp cận quyền năng sáng tạo của đấng Cha và quy định hình tướng được phóng lên Ánh sáng Mẹ, sáng tạo của con sẽ khuếch trương tổng thể. Tâm Ki-tô Hoàn vũ sẽ ghi lại mãi mãi hành động thiện lành của con để chúng không bao giờ có thể bị mất. Đây là điều Giê-su gọi là kho tàng chứa ở trên trời: “Nhưng hãy chứa kho tàng ở trên trời là nơi chẳng có sâu mối hay rỉ sét làm hư cũng chẳng có kẻ trộm phá vách vào mà lấy” (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chọn hình dung một hình tướng không hòa hợp với quy luật Thượng đế và con có thể dùng ý chí để biểu hiện hình tướng này. Để có thể biểu hiện một hình tướng không toàn hảo, con không thể dùng ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Con chỉ có chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng kém hơn, cụ thể là năng lượng tâm lý đã được đem vào sẵn trong quang phổ tần số vật lý. Con vẫn có thể sáng tạo bằng cách dùng ánh sáng này do đó các thày giả nói đúng khi họ nói con có thể tích lũy giàu có đồ sộ bằng cách dùng uy lực của tâm. Sự sáng tạo này sẽ không bao giờ mạnh mẽ bằng những gì được sáng tạo qua tâm Ki-tô. Vì chúng được sáng tạo qua tâm phản Ki-tô, con không thể tránh là con sẽ gặt những gì con gieo: “Vì chúng đã gieo gió và sẽ gặt bão lốc” (Hosea 8:7).

15.5. Con thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở

Thượng đế muốn bảo đảm là cuộc thử nghiệm quyền năng sáng tạo của con sẽ trở thành một vòng xoáy đi lên, qua đó con sẽ tăng triển tự nhận biết và tăng triển nhận biết là cái ta của con là một với Tất cả. Mọi điều con làm hòa hợp với quy luật Thượng đế được ghi lại vĩnh viễn trong tâm Ki-tô. Nó trở thành thành đạt của con, động lượng của con mà con có thể dùng làm nền tảng vững chắc, giống như tảng đá Ki-tô, để gia tăng quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Dù kho tàng đó không bao giờ có thể bị mất, con có thể dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để tách mình khỏi chúng, thậm chí đến độ con hoàn toàn quên chúng và quên bản sắc thật của mình. Khi điều này xảy ra, hiển nhiên con không thể xây dựng trên nền móng của các hành động quá khứ của con và có thể nói rằng con bị bắt buộc phải bắt đầu lại từ đầu. Vì các hành động thiện lành quá khứ của con không thể nào mất, nên kho tàng của con lúc nào cũng còn đó và đợi con. Bất cứ lúc nào, con có thể quyết định ngưng vòng xoáy đi xuống đã tách con ra khỏi cái Ta thật của con. Con có thể bắt đầu đi theo con đường tâm linh sẽ giúp con có uy lực để giành lại bản sắc thật của con. Khi con làm vậy thì con sẽ lấy lại kho tàng mà con đã cất trên thiên đàng và dùng nó như nền tảng để khuếch trương quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Bản sắc thật của con, bản sắc được xây dựng trên tâm Ki-tô, không bao giờ bị mất. Bản sắc giả, bản sắc tách biệt được xây dựng trên tâm phản-Ki-tô, quả thật sinh diệt và do đó có thể bị mất. Con phải đánh mất nó thì mới giành lại được bản sắc thực của mình.

Khi Thượng đế tạo ra thế giới hình tướng này, ngài quy định một số nguyên lý chỉ đạo để bảo đảm hệ thống các thế giới này có thể phát triển vững bền, có thể phát triển mà không nổ tung hay không co lại thành trống không. Thượng đế thiết kế những nguyên lý này để bảo đảm lực lan ra của Cha không quá mạnh đến độ nó làm nổ tung vũ trụ trong một vụ nổ vĩ đại. Cùng một lúc, Thượng đế tạo ra những quy luật để bảo đảm lực co lại của Mẹ không ngừng lại sự lan tỏa của ánh sáng để lấp đầy khoảng trống không. Nếu chuyện này xảy ra thì lực co lại sẽ bắt đầu một chu trình co lại sẽ đem mọi hình tướng trở về cái hư không mà từ đó chúng khởi đầu.

Trong khuôn khổ những nguyên lý sáng tạo do Thượng đế quy định, con có tự do không giới hạn để sáng tạo hình tướng. Là một đồng-sáng tạo với Thượng đế, sáng tạo của con không bị giới hạn bởi quy luật Thượng đế. Quy luật Thượng đế không giới hạn tự do sáng tạo của con. Chúng là một khung sườn, là những nguyên lý chỉ đạo để con có thể sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không phá hủy chính mình hay các đồng-sáng tạo khác. Quy luật Thượng đế được thiết lập để bảo đảm con có thể dùng sự sáng tạo của con để khuếch trương tổng thể bằng cách mở rộng và gia tăng cường độ ánh sáng của Thượng đế. Con nghĩ lại thày đã mô tả tiến trình sáng tạo như thế nào. Khi Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới trong khoảng trống không, thì bầu cõi này không được Ánh sáng Thượng đế hoàn toàn lấp đầy. Sau đó những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết được gửi xuống bầu cõi này để nhân lên khả năng của họ và cai quản bầu cõi, qua đó họ lấp đầy bầu cõi với ánh sáng. Sau đó bầu cõi này có thể dùng làm nền móng để mở rộng sáng tạo bầu cõi kế tiếp. Con cần nhận ra là lấp đầy một bầu cõi với ánh sáng không có nghĩa là lấp đầy nó với ánh sáng chưa được phân biệt. Một bầu cõi được lấp đầy với những hình tướng đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế nhưng chúng biểu hiện sự sáng tạo của những người đồng-sáng tạo cư ngụ trong bầu cõi đó.

Con được sinh ra để biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã ban cho con bằng cách sáng tạo những hình tướng sẽ thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở. Quả thực con có khả năng sáng tạo không giới hạn và không nỗ lực nào của con bị lãng phí. Chúng sẽ trở thành một phần của vương quốc trường tồn của Thượng đế sẽ hiện ra khi bầu cõi đạt tới một cường độ ánh sáng nào đó. Khi chuyện này xảy ra, bóng tối còn lại sẽ ít oi đến độ nó không thể che mờ thực tại bên dưới là mọi sự đã được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế, từ ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Hiểm nguy các sinh thể có tự nhận biết bị mắc kẹt trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế sẽ không còn nữa. Làm sao họ cảm nhận tách biệt được khi chung quanh họ là những hình tướng tỏa rạng ánh sáng của Thượng đế và biểu lộ sự hài hòa của quy luật Thượng đế?

Bởi vì trong vũ trụ vật chất không đủ ánh sáng, ít nhất là trên trái đất, ta không thể thấy, ít nhất là qua giác quan vật lý, là mọi thứ đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Con không thể trực tiếp thấy là Thượng đế là nguyên nhân, nguyên nhân tiên khởi, đằng sau mọi hình dáng. Đó là lý do tại sao một sinh thể có tự nhận biết có thể bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt, nghĩ rằng nó tách biệt khỏi dồi dào của Thượng đế. Khi cường độ của áng sáng được nâng lên trong hành tinh này, con sẽ thấy được ánh sáng tâm linh tỏa rạng từ mọi hình tướng và những hình tướng này hài hòa với quy luật Thượng đế. Vương quốc Thượng đế sẽ được thiết lập trên trái đất và hành tinh này sẽ trở thành ngôi sao tỏa rạng Ánh sáng Tự do, tự do khỏi tâm thức chết.

Thiết kế của bản thể con là con trở nên cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế hầu ánh sáng được khuếch trương trong thế giới này. Khi ánh sáng Thượng đế được khuếch trương, con sẽ phóng đại mọi sự sống qua các nỗ lực sáng tạo của con. Không có xung độ giữa con, một cá nhân, với các cá nhân khác. Các nỗ lực sáng tạo của con khuếch trương ánh sáng và do đó con gia tăng lượng dồi dào có mặt trên thế giới. Con phục vụ để phóng đại mọi thành phần trong thế giới này, kể cả tất cả những đồng-sáng tạo khác. Khi làm vậy, con cũng phóng đại cái ta thật của con, chính là toàn thể Thân thể Thượng đế, được hợp nhất qua thân và huyết (là tâm thức) của Ki-tô.

Thày biết những ý tưởng này có vẻ trừu tượng và khó nắm bắt cho tâm vỏ ngoài của con. Thày nhắc con là việc mở rộng tâm có nhiều giá trị lớn. Thày cũng nhắc nhở con là điều con không thể nắm bắt với trí, con luôn có thể nắm bắt với con tim. Mục đích của thày trong khóa học này không phải chỉ cho con hiểu biết trí năng. Mục đích của thày là giúp con tiến lại gần hơn tâm thức Ki-tô, có nghĩa là thày có mục đích mở rộng cả sự hiểu biết của con lẫn khả năng yêu thương của trái tim của con. Thày cho con nhiều khái niệm có vẻ khó nắm bắt với trí, là cách nhìn đời theo đường ngang và đường thẳng là đặc tính của trí, nhưng những khái niệm này có thể nắm bắt bằng cái nhìn quả cầu, đường dọc và không đường thẳng của con tim.

15.6. Tâm Ki-tô nối kết cá nhân với Tất cả

Bây giờ con hãy để thày mô tả thêm tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô quả thực là một nối dài của tâm Thượng đế. Chức năng của nó là phục vụ như mối dây kết nối giữa đấng Sáng tạo và các đồng-sáng tạo có tự nhận biết của ngài. Tâm Ki-tô có một mục đích đặc thù, một điểm tập trung đặc thù, đó là cho cá nhân sức mạnh để duy trì và mở rộng ý niệm bản sắc của mình như là một thành phần của Tất cả, nối kết với Tất cả cho tới khi sinh thể cá biệt có tự nhận biết đó phát triển thêm tự nhận biết và nhận ra cái Ta cao của mình là cái Tất cả. Điều này không có nghĩa là cá nhân mất đi tính cá biệt của nó mà có nghĩa là cá nhân nhận ra nó là cái Tất cả của đấng Sáng tạo được biểu hiện và tập trung qua cá thể của nó. Sinh thể cá nhân có tự nhận biết không còn nhìn thế giới và cuộc sống dưới tầm nhìn giới hạn của nhận biết cá nhân của nó. Nó nhìn cuộc sống dưới tầm nhìn mở rộng của đấng Sáng tạo, tỏa rạng xuyên qua cá thể của nó.

Để minh họa điều này, con hãy tưởng tượng con lớn lên trong một căn phòng không có cửa sổ. Căn phòng có một cánh cửa với một lỗ nhìn nhỏ qua đó ánh sáng mặt trời có thể chiếu vào. Con không bao giờ thấy được toàn bộ mặt trời; con chỉ thấy một tia sáng nhỏ, riêng lẻ của mặt trời. Nếu con đã lớn lên trong một căn phòng như vậy, tầm nhìn của con về mặt trời sẽ bị quy định bởi điểm quan sát của con. Con có thể tin rằng không có mặt trời hoặc tia sáng đơn lẻ đó tự nó hiện hữu. Một khi con mở cửa và bước ra ngoài ánh sáng mặt trời, con sẽ có được một nhận biết mở rộng hơn về mặt trời và sức mạnh thật của nó. Giờ đây con sẽ nhận ra mặt trời mạnh hơn tia sáng nhỏ trong phòng rất nhiều. Con sẽ nhận ra tia sáng quả thực đến từ mặt trời và không thể nào hiện hữu nếu không có mặt trời. Nhưng con vẫn thấy mặt trời ở rất xa.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con du hành đến chính trung tâm của mặt trời và nhìn thái dương hệ từ chỗ đó. Con sẽ không còn bị giới hạn bởi ấn tượng ban đầu về mặt trời, như tia sáng nhỏ chiếu qua cánh cửa. Giờ đây con trải nghiệm toàn bộ mặt trời, tuy thế con không mất đi nhận biết của con về tia sáng đơn lẻ. Con sẽ nhận biết là tia sáng đơn lẻ quả thực là một nối dài của chính mặt trời. Quả thực là mặt trời đã tỏa sáng qua lỗ nhỏ của cánh cửa, mặt trời biểu hiện chính nó là một tia sáng đơn lẻ. Không có sự tách biệt thật sự giữa nguồn gốc của ánh sáng và tia sáng đơn lẻ. Giới hạn duy nhất là kích thước của lỗ qua đó ánh sáng tỏa chiếu. Nếu con mở rộng kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, lượng ánh sáng có thể tỏa chiếu qua bản thể của con không bị giới hạn nào hết.

Khi Thượng đế sinh tạo con như một sinh thể cá biệt, con không được ban cho sự nhận biết trọn vẹn về mặt trời, có nghĩa là tâm thức của cái Tất cả của Thượng đế. Con được sinh tạo như một sinh thể cá biệt với một tia sáng tỏa chiếu qua tâm thức con. Trong trạng thái tâm thức giới hạn của con, lẽ tự nhiên là con nhìn mình là một sinh thể cá biệt, khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế. Con không đủ tự nhận biết để đồng hóa mình là một với cái Tất cả của Thượng đế, là một nối dài của cái Tất cả của Thượng đế.

Nếu mô tả điều này với từ ngữ đường thẳng mà thày đã có nói là không cho con một hình ảnh chính xác về thực tại Thượng đế, ta có thể nói là con được sinh tạo như một cá thể nhưng con có nhận biết con được sinh tạo bởi Thượng đế. Con thấy mình là một sinh thể cá biệt nối kết với một Thượng đế xa xăm. Sự nối kết của con với Thượng đế không ở ngoài con; nó ở bên trong con dưới hình dạng Hiện diện TA LÀ của con. Con coi mình như một hành tinh quay chung quanh quỹ đạo mặt trời của Hiện diện TA LÀ và được lực hấp dẫn của Hiện diện TA LÀ giữ trong một quỹ đạo ổn định. Dù con có nhận biết rõ ràng về Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn chưa có thể thấy Hiện diện TA LÀ là một nối dài, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con có khái niệm Thượng đế là một Sinh thể xa xăm vượt lên trên trải nghiệm trực tiếp của con.

Con được sinh ra với một nhận biết giới hạn tập trung vào hình tướng cá biệt của mình. Con nghĩ mình được Thượng đế sinh tạo và gửi xuống thế gian này. Con được sinh ra để mở rộng nhận biết của con cho tới khi con nhận ra đấng Sáng tạo không tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Thượng đế là Tất cả ở trong Tất cả và do đó con không được sinh tạo bởi một Thượng đế xa xăm và gửi vào một thế giới trong đó không có Thượng đế. Thượng đế ở ngay đây với con và do đó khái niệm con được sinh tạo bởi Thượng đế quá giới hạn, quá đường thẳng. Sự thực là Thượng đế đang biểu hiện chính ngài như là sinh thể cá biệt của con. Con là Thượng đế biểu lộ chính ngài như sinh thể cá biệt của con. Đó là lý do tại sao Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con (Luke 17:21). Tiến trình thức tỉnh thấy bản sắc thật của con có nhiều giai đoạn:

  • Con bắt đầu thấy mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con là nguồn cội sự sống của con.
  • Con nhận ra ánh sáng tỏa xuyên qua Hiện diện TA LÀ là ánh sáng, uy lực của đấng Sáng tạo.
  • Con nhận ra là đấng Sáng tạo ở khắp nơi trong tạo vật và do đó ánh sáng của Thượng đế có tiềm năng tỏa sáng từ bất cứ điểm nào của tạo vật.
  • Cuối cùng con tới sự nhận biết là ánh sáng không đến từ một nguồn xa xăm mà nó đến từ bên trong cái Ta của con. Lúc đó con trở thành một Sinh thể tự đầy đủ tỏa chiếu ánh sáng Thượng đế từ bên trong con, giống như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng từ bên trong chính nó.

Sau khi con được sinh tạo như một dòng sống cá biệt, con đi xuống năng lượng dày đặc hơn của vũ trụ vật chất. Cái cho phép con có được và duy trì nhận biết ý thức về Hiện diện TA LÀ của con sau khi con xuống là tâm thức Ki-tô, Con trai duy nhất được Cha sinh tạo ra. Tâm thức này được Kinh thánh gọi là Ngôi Lời và như Kinh thánh nói, mọi thứ được sinh tạo từ Con trai của Cha, từ tâm thức Ki-tô và được quy định qua Ngôi Lời. Mọi thứ từng được tạo ra bởi một đồng-sáng tạo có tự nhận biết đã đi ra từ tâm thức Ki-tô, nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi hình tướng từng được tạo ra. Không có ngài, không có cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Con, chẳng điều chi đã được làm ra được làm ra (John 1:3).

Con không bao giờ mất đi tiềm năng lấy lại tâm thức Ki-tô. Dù con xuống thấp tới đâu trong tâm thức, con luôn có tiềm năng giành lại sự kết nối với Thượng đế và bản sắc thật của con. Con không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi tâm thức Ki-tô vì nó ở trong mọi thứ, ngay cả ở trong những hình tướng không toàn hảo và không hài hòa với quy luật Thượng đế. Đó là lý do tại sao Giê-su nói đá cũng kêu lên để bênh vực Ki-tô (Luke 19:40). Một chức năng của tâm thức Ki-tô là bảo đảm những người đồng-sáng tạo không bao giờ có thể bị lạc trong tạo vật, không bao giờ có thể bị xa rời khỏi Thượng đế đến độ không có khả năng về nhà. Con không bao giờ có thể rời xa tâm thức Ki-tô do đó cảm nhận tách biệt sẽ luôn là một ảo tưởng chỉ có mặt trong tâm con. Bất cứ lúc nào, con cũng có thể bắt đầu đi trên con đường dẫn con thay thế ảo tưởng này với sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). 

15.7. Kế hoạch thiêng liêng cho sự tăng trưởng của trái đất

Thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho dòng sống của con là con bắt đầu như một sinh thể cá biệt với tự nhận biết giới hạn. Con bắt đầu như một cá thể có kết nối với Thượng đế nhưng khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế mà không tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế. Có sự khác biệt giữa có sự kết nối với cái Tất cả của Thượng đế ngược lại với tách biệt khỏi cái Tất cả bởi một rào cản không đâm thủng được. Trong trường hợp đầu, con có thể mở rộng sự kết nối và cuối cùng đạt được sự tự nhận biết mình là một với Tất cả. Trong trường hợp thứ nhì, con không có chọn lựa nào cả để trở về hợp nhất với Tất cả. 

Khi con sử dụng các quyền năng sáng tạo của con, khi con dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con, con sẽ dần dần tăng trưởng tự nhận biết. Con cũng tăng trưởng nhận biết về cách vũ trụ và các quy luật của Thượng đế vận hành. Thượng đế đã ghi khắc quy luật của ngài trong các phần sâu trong con, nghĩa là cái ta ý thức của con có thể biết các quy luật này qua tâm Ki-tô. Khi dòng sống của con bắt đầu hành trình của nó trong vũ trụ vật chất này, con không có một sự nhận biết ý thức về các quy luật của Thượng đế. Tâm vỏ ngoài của con, tâm lý luận của con không có hiểu biết về các quy luật của Thượng đế. Làm sao con tuân theo quy luật của Thượng đế được? Con làm được bằng cách dùng khả năng trực giác của con tim qua đó con hòa điệu được với Tâm Ki-tô Hoàn vũ và con tuân thủ các quy luật này mà không có sự nhận biết có ý thức về cách chúng vận hành. Khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, con sẽ dần dần mở rộng sự nhận biết của con về các quy luật Thượng đế. Con sẽ xây dựng sự hiểu biết có ý thức tại sao các quy luật vận hành thế đó, tại sao tuân thủ quy luật có lợi nhất cho con và làm sao các quy luật này quân bình các nỗ lực sáng tạo cá nhân của con với sự tốt lành cho tổng thể.

Khi con tăng trưởng tự nhận biết, dần dần con có thể nhìn vượt lên trên ý niệm cái ta cá nhân của mình. Không những con hòa điệu với sự nhận biết rộng lớn hơn về quy luật Thượng đế, con cũng bắt đầu mở rộng nhận biết về Thân thể Thượng đế, nghĩa là các đồng-sáng tạo khác. Con bắt đầu nhìn quá những ý muốn cá nhân của mình và nhận ra các đồng-sáng tạo khác không tới hành tinh này chỉ để thỏa mãn các ước muốn cá nhân của họ. Có một kế hoạch thiêng liêng để đem đến sự tăng trưởng của trái đất và kế hoạch này có sự hài hòa toàn hảo giữa cá nhân và sự tốt lành cho tập thể. Bằng cách đứng thẳng hàng với kế hoạch thiêng liêng cho Thân thể Thượng đế, con sẽ được toại nguyện hơn khi thấy những nỗ lực cá nhân của mình tăng cường và khế hợp với kế hoạch lớn hơn cho trái đất và nhân loại. Điều này sẽ cho con sự toại nguyện lớn hơn bất cứ nỗ lực cá nhân nào.

Khi con hiểu và tôn trọng người khác hơn, con tăng triển khả năng yêu thương người hàng xóm như chính mình. Quan hệ của con lúc đó sẽ dựa trên tình thương và dồi dào thay vì sợ hãi và thiếu thốn. Khi con quý trọng quy luật và tạo vật của Thượng đế nhiều hơn, dần dần con bắt đầu yêu Thượng đế với tất cả trái tim, tâm hồn và tâm trí của con (Luke 10:27). Khi con tiếp tục đồng-sáng tạo với Thượng đế và mở rộng tự nhận biết của con, con dần dần nhận ra cái ta thật của con là Hiện diện TA LÀ của con, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con bắt đầu nhận ra là, như Giê-su thốt lên, “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Con bắt đầu nhận ra là Cha con đã làm việc cho tới nay (John 5:17) bằng cách sinh tạo thế giới hình tướng như một môi trường cho sự biểu lộ sáng tạo của con. Con phải làm việc để nhân lên khả năng của con và cai quản chính ý niệm bản ngã của con. Khi con đã cai quản cái ta của con, thì con có thể cai quản hành tinh nơi con sống và giúp biến hành tinh này thành vương quốc Thượng đế, một bầu cõi được lấp đầy bởi ánh sáng và sự toàn hảo của Thượng đế, thay thế bóng tối bao trùm mặt đất.

15.8. Mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng

Cốt lõi của tâm thức Ki-tô có thể gói ghém trong một chữ và chữ này là “quân bình”. Tâm thức Ki-tô quân bình lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ qua đó các hình tướng bền vững được tạo ra, là những hình tướng quân bình toàn hảo với quy luật Thượng đế. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa một cá nhân đồng-sáng tạo và Thân thể Thượng đế, để có hài hoà toàn hảo giữa cá nhân và tổng thể. Tâm thức Ki-tô cho cá nhân đồng-sáng tạo sức mạnh để tuân thủ quy luật của Thượng đế và qua đó cá nhân dùng khả năng sáng tạo của mình để giúp khuếch trương toàn thể tạo vật và không tác động tiêu cực gì cả trên bất cứ phần nào của sự sống. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa người cá nhân đồng-sáng tạo và đấng Sáng tạo để người đồng-sáng tạo không bao giờ bị lạc trong thế giới của các hình tướng được tạo ra.

Bất cứ hình tướng nào được quy định bởi và qua tâm thức Ki-tô đều là một hình tướng toàn hảo. Nó là một hình tướng hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế, đó là tất cả người đồng-sáng tạo tăng trưởng một cách hài hòa với nhau để mọi sự sống đều trở nên hơn nữa. Chính qua tâm thức Ki-tô mà con có thể đi theo tiếng gọi của Giê-su: “Cho nên các người nên toàn hảo, giống như Cha các người trên trời, là Hiện diện TA LÀ của con, toàn hảo” (Matthew 5:48).

Sự toàn hảo mà thày nói tới không phải là loại toàn hảo mà hầu hết hình dung. Nhiều người tin vào ý tưởng nhị nguyên, ý tưởng tôn sùng rằng nếu điều gì đó toàn hảo, nó không bao giờ có thể thay đổi. Toàn bộ mục đích của sự sáng tạo vũ trụ này là sáng tạo một bầu cõi trong khoảng trống không và dần dần lấp đầy khoảng trống không đó với ánh sáng Thượng đế cho tới khi ánh sáng có thể lan rộng và lấp đầy một phần của khoảng trống không. Mục đích thực sự của sự sáng tạo, mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng, mở rộng không ngừng, thăng vượt không ngừng.

Thế giới hình tướng hiện hữu vì Thượng đế muốn hơn nữa. Ý muốn hơn nữa là động lực đằng sau mọi sáng tạo và có sẵn trong mọi tạo vật. Ý tưởng truyền thống về thiên đàng như một nơi đứng yên trong đó các thiên thần ngồi trên cụm mây hồng dạo đàn hạc miên viễn hoàn toàn xa với thực tại sôi động và năng động của Thượng đế. Thiên đàng là một nơi năng động hơn trái đất rất nhiều vì tất cả những Sinh thể trên thiên đàng đều đang liên tục làm việc để phát triển ánh sáng của Thượng đế với mục tiêu trở nên nhiều hơn trong Thượng đế, nhiều hơn trong Tất cả.

Động lực muốn hơn nữa cũng được thiết kế sẵn trong tâm thức Ki-tô và do đó tâm Ki-tô liên tục thúc đẩy những cá nhân đồng-sáng tạo để họ thực thi khả năng sáng tạo và mở rộng sự tự nhận biết của họ. Tâm thức Ki-tô thúc đẩy con trở nên hơn nữa, mở rộng tự nhận biết của con cho tới khi con đạt được trọn vẹn tâm thức Thượng đế và biết con là một cá thể của Tất cả, biết con không tách biệt khỏi Thượng đế. Thay vào đó, con là Thượng đế đang tự biểu hiện chính mình qua ý niệm cái ta cá nhân của con.

Sự toàn hảo mà thày nói tới không đứng yên, không là một hình tượng khô chết. Nó năng động, nó tăng trưởng liên tục, luôn luôn trở nên hơn nữa trong sự toàn vẹn của Thượng đế. Thày có nói trước đây với con là lực co lại của Mẹ được thiết kế có sẵn trong chính Ánh sáng Mẫu-Vật. Lực co lại này sẽ luôn tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-Vật về trạng thái cơ bản của nó nơi đó không hình tướng nào hiện hữu. Ta có thể nói lực co lại liên tục tìm cách phân hủy bất cứ hình tướng nào. Thượng đế không có ý định là mọi hình tướng đều phải phân hủy và trở thành không gì cả để vô hiệu hóa nỗ lực của các đồng-sáng tạo. Ý định của Thượng đế là không hình tướng nào đứng yên, không hình tướng nào trở nên trường tồn. Thượng đế muốn hình tướng năng động, có nghĩa là hình tướng nào cũng là nền tảng cho sự tăng trưởng thêm nữa. Thậm chí một hình tướng toàn hảo cũng phải được thăng vượt và dùng làm nền tảng để biểu thị một hình tướng cao hơn.

Tâm thức Ki-tô cho người đồng-sáng tạo sức mạnh để thiết kế một hình tướng hoàn toàn hài hòa với ý định sáng tạo của Thượng đế. Không hình tướng nào sẽ trường tồn bởi vì lực co lại của Mẹ sẽ phân hủy bất cứ gì đứng yên, bất cứ gì trở thành một hệ thống đóng như định luật thứ nhì của nhiệt động học nói. Chìa khóa để bảo đảm cho nỗ lực sáng tạo của con không bị phân hủy là gì? Chìa khóa là con ở trong tâm thức Ki-tô và con không bao giờ muốn đứng yên hay duy trì một hình tướng đặc thù. Con liên tục sáng tạo hình tướng mới tốt đẹp hơn, như thế con ở trong Dòng sông sự Sống là lực sáng tạo luôn luôn tuôn chảy, chính khía cạnh Đấng Sáng tạo của Thượng đế.

Khi con ở trong dòng chảy của sự sống, con không dính mắc vào bất kỳ hình tướng đặc thù nào. Con không mong muốn hình tướng này trường tồn, con chỉ có mong muốn duy nhất dùng hình tướng đó làm bàn đạp để mở rộng khả năng sáng tạo của con. Con không bao giờ chờ đợi con có thể sáng tạo một điều gì trở nên trường tồn. Con không bao giờ nghĩ khi một hình tướng được thay thế bởi một hình tướng khác cao hơn, nỗ lực sáng tạo của con bị lãng phí. Con nhận ra nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ bị lãng phí khi con còn ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Con tập trung vào tiến trình sáng tạo thay vì kết quả của sự sáng tạo là một hình tướng đặc trưng. Con tập trung vào hành trình thay vì nơi đến vì con nhận ra cuộc sống là một hành trình không bao giờ dứt.

15.9. Con ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt

Để minh họa điều này, con hãy xem xét một hạt lúa mì được để vào lòng đất. Có vẻ như hạt lúa bị lạc mất dưới đất nhưng sau một thời gian nó trổ mầm. Mầm lúa đẹp tươi nhưng có nhà nông nào lại muốn hạt mầm cứ ở yên như thế? Khi hạt mầm lớn lên thành cây, hình dạng của hạt mầm bị mất đi nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi; nó đơn giản chuyển hóa sang một giai đoạn mới, một hình dạng mới. Cây đẹp tươi với lá xanh nhưng cuối cùng nó biến thành một thân cây có hạt và nó đổi màu vàng. Cây xanh không còn nữa nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi. Khi người ta gặt hái lúa mì, thân cây mất đi nhưng một số hạt trở thành hạt giống cho mùa gặt năm sau và một phần của nó được dùng làm thức ăn nuôi dưỡng cho con người, những người này phục vụ như những đồng-sáng tạo trên trái đất với tiềm năng khuếch trương sự sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của nỗ lực sáng tạo thúc đẩy một hạt lúa mì nảy mầm và phát triển không phải là để sản xuất hạt mầm, cây xanh hay cây trưởng thành và duy trì hình dạng này mãi mãi. Mục đích của nỗ lực sáng tạo là thúc đẩy chính tiến trình sự sống, một tiến trình luôn mở rộng và khuếch trương tổng thể của sáng tạo của Thượng đế.

Như một người đồng-sáng tạo con không được thiết kế để dính mắc vào bất kỳ hình tướng nào cho dù nó đẹp biết bao chăng nữa hay cho dù tốn bao nhiêu công sức để tạo ra nó. Con được sinh ra để là một thành phần của Dòng sông sự Sống qua đó con liên tục dùng một hình tướng để làm bàn đạp cho một sự thành đạt sáng tạo cao hơn. Con được thiết kế để làm như thế và chỉ khi con ở trong dòng chảy của sự sống thì con mới thật sự cảm thấy mãn nguyện và sống động. Tâm thức thăng vượt liên tục là tâm thức của sự sống. Sự dính mắc vào một hình tướng và nỗ lực giữ nguyên một hình tướng là tâm thức chết, tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô khiến các sinh thể có tự nhận biết mắc kẹt trong một ý niệm bản ngã giới hạn và từ chối không thăng vượt nó. Họ kéo họ ra khỏi dòng chảy của sự sống và lực co lại của Mẹ sẽ ngay tức khắc bắt đầu phân hủy cái mà họ tìm cách nắm giữ, tìm cách sở hữu.

Đây là ý nghĩa sâu xa đằng sau lời nói của Giê-su: “Vì ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất nó, còn ai vì ta mà mất sự sống của mình thì sẽ tìm lại sự sống” (Matthew 16:25). Nếu con tìm cách bám giữ một ý niệm bản sắc giới hạn và từ chối không thăng vượt nó, lực co lại của Mẹ sẽ chắc chắn lấy đi ý niệm về sự sống này. Nếu con sẵn lòng bỏ ý niệm sự sống đứng yên này, cái hình tượng khô chết đó, để có thể vượt thăng giai đoạn đó và đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn, thì con ở trong tâm thức Ki-tô. Qua tâm thức Ki-tô này, qua sự thăng vượt liên tục này, con sẽ ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt và do đó con có đời sống vĩnh cửu.

Hình thức thật duy nhất của đời sống vĩnh cửu không phải là một trạng thái đứng yên nhưng là một trạng thái năng động của thăng vượt liên tục. Vì con có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết, nên con là người mà con nghĩ con là. Thượng đế đã cho con quyền tạo ra bất cứ ý niệm bản sắc nào mà con muốn, ngay cả ý niệm con là người tội đồ sinh diệt. Nhưng Thượng đế không cho con quyền ở lại mãi mãi trong ý niệm bản sắc đó vì điều đó có nghĩa là con sẽ bị bỏ lại đằng sau dòng chảy sáng tạo của Thượng đế. Tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con bị mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc giới hạn, ngăn cản không cho con đời sống dồi dào? Nếu con tìm cách giữ lại một ý niệm bản sắc giới hạn, con sẽ không thể tránh mất nó. Nếu con sẵn sàng muốn tăng trưởng, con sẽ không bao giờ mất đi ý niệm bản ngã của con.

Con sẽ không bao giờ có thể duy trì một ý niệm bản sắc đặc thù, nhưng con có thể duy trì một ý niệm bản sắc liên tục thay đổi, độc lập với mọi hình tướng đã được tạo ra. Đây là ý niệm bản sắc thật của con, vượt lên trên mọi thứ trên thế gian này. Đấng sáng tạo vượt lên trên tạo vật của ngài. Giống vậy, một người đồng-sáng tạo vượt lên trên tạo vật của nó, vượt lên trên ngay cả thế giới hình tướng. Con được tạo ra như một nối dài của đấng Sáng tạo và do đó con hơn bất kỳ hình tướng nào mà con đã tạo ra trong thế giới này. Con hơn bất kỳ ý niệm bản sắc nào mà con đã tạo ra sau khi con mất đi kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và xem mình như một sinh thể tách biệt. Thượng đế cho phép con tách biệt khỏi ngài nhưng vì Thượng đế thương con vô điều kiện, nên Thượng đế không chấp nhận để bất cứ điều kiện nào giữ con vĩnh viễn tách biệt khỏi ngài. Thượng đế sẽ không cho phép bất cứ điều kiện nào khiến con vĩnh viễn mắc kẹt vào trạng thái tách biệt, lúc nào cũng kém hơn sự trọn vẹn của đời sống dồi dào.

15.10. Con phải thay đổi hoàn cảnh bên trong của con

Con yêu dấu, con hãy để thày một lần nữa cho con một khái niệm có thể khó nắm bắt với tâm đường thẳng nhưng có thể nắm bắt với con tim. Vũ trụ vật chất có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Như con biết có ba yếu tố căn bản cho phép con xem một cuộn phim. Một là màn hình và phim được chiếu lên nó, hai là cuộn phim trong máy chiếu phim và ba là ánh sáng đến từ bóng đèn trong máy chiếu phim. Bóng đèn trong máy chiếu phim có thể so sánh như lực lan ra của Cha, là động lực đằng sau sự sáng tạo mọi hình tướng. Đấy là ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Màn ảnh so sánh như Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ phản ánh lại bất cứ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó bởi máy chiếu phim. Cuộn phim so sánh như tâm thức người đồng-sáng tạo.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con đi vào một rạp chiếu phim để xem phim và hình đầu tiên của phim cứ lặp đi lặp lại hoài. Dù có một cuộn phim trong máy chiếu phim và cuộn phim đang di động nhưng mỗi hình trên cuộn phim đều giống nhau. Lẽ đương nhiên điều này không tạo nên một phim, nó tạo nên một hình đứng yên không bao lâu làm mọi người chán ngán. Điều làm nên một phim là mỗi hình trên cuộn phim khác hình trước một chút và sự kiện này cho con ảo tưởng con đang xem phim cho dù sự thật là con đang xem một bộ hình đứng yên. Bộ hình đứng yên đơn lẻ này giản dị được phóng chiếu lên màn ảnh với một tốc độ nối đuôi nhau nhanh đến độ mắt của con bị lừa và nghĩ là nó đang xem một phim liên tục.

Cuộc sống trong vũ trụ vật chất rất giống một phim. Hoàn cảnh bên ngoài con đang đối diện ngay bây giờ là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong quá khứ và đang lấy trong hiện tại. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả một hình tư tưởng mà con giữ trong tâm và phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống. Trong máy chiếu phim, một hình ảnh mới được phóng ra nhiều lần mỗi giây. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả của sự kiện tâm con phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật nhiều lần mỗi giây. Mỗi lúc con đều có cơ hội thay đổi hình ảnh con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu con không thay đổi hình ảnh, nếu con lấy vào mình một hình ảnh khô chết, con sẽ tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh và đó là lý do tại sao cuộc đời con có vẻ không bao giờ thay đổi.

Đó là lý do tại sao con gặp đi gặp lại cùng một vấn đề và tại sao có vẻ như cuộc đời con giống như một cuộc vật lộn không bao giờ dứt. Nếu hiện nay con ở trong một hoàn cảnh đem lại khổ đau cho con, lý do là con đang phóng chiếu một hình ảnh giới hạn, không hoàn hảo lên màn hình cuộc sống. Con đang phóng chiếu một hình ảnh không được tạo ra từ tâm thức Ki-tô và do đó nó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, là những quy luật được thiết kế để ban cho con đời sống dồi dào. Nếu hoàn cảnh của con không thay đổi, nếu dường như con đang bị kẹt trong những giới hạn mà con không vượt qua nổi, lý do là vì con đang phóng chiếu lặp đi lặp lại cùng một hình ảnh lên màn hình cuộc sống. Giải pháp duy nhất, cách duy nhất để con cải thiện hoàn cảnh là con phải thay đổi hình ảnh trong tâm con. Con phải bước ra ngoài trạng thái tê liệt tâm linh đang khiến tâm con, gồm trí tưởng tượng, quyền tự quyết và ý niệm bản sắc của con, bị mắc kẹt trong cùng một hình ảnh khô chết và như vậy con vi phạm điều răn thứ nhì (Exodus 20:40). Con phải biến những hình ảnh trong tâm con thành một cuộn phim để cuộc sống của con trở thành một bộ phim dần dần tiến tới một chung cuộc vui vẻ.

Albert Einstein định nghĩa điên khùng là tiến trình trong đó con cứ làm cùng một chuyện cũ nhưng chờ đợi kết quả khác đi. Trong bối cảnh chúng ta đang bàn, điều này có nghĩa là con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình tư tưởng nhưng làm sao đó, con chờ đợi bỗng nhiên một ngày màn hình sẽ trình chiếu một hình khác. Einstein là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của mọi thời vì ông đã hiểu cốt lõi của của các định luật thiên nhiên. Ông đã hiểu điều mà thày nói trước đây, ấy là vũ trụ là một tấm gương. Nếu con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ, không thể tránh được chuyện vũ trụ sẽ tiếp tục phản ánh lại con cùng một hoàn cảnh bên ngoài. Nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi hoàn cảnh bên trong của con. Nếu con muốn thay đổi điều đang được phóng chiếu lên màn hình cuộc đời con, con phải bảo đảm hình ảnh trong tâm con được quy định bởi tâm thức Ki-tô và không bởi tâm thức phản Ki-tô.

15.11. Hậu quả khi xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô

Chúng ta có thể hiểu thêm một điều từ hình ảnh của rạp chiếu phim giống như cuộc đời của con. Động lực trong máy chiếu phim là lực lan ra của Cha. Trước đây thày có so sánh lực lan ra này với một dòng chảy ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua Hiện diện TA LÀ của con và sau đó qua tâm con. Tâm con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đó, và chính hình ảnh này được phóng chiếu lên màn hình như ngoại cảnh mà con trải nghiệm trên trái đất. Lực đẩy đằng sau sự hiện hữu của con là ánh sáng Thượng đế. Nếu con tắt bóng đèn trong máy chiếu phim thì chuyện gì xảy ra? Phòng chiếu phim sẽ tối đen. Nếu con đánh mất nối kết với Hiện diện TA LÀ của con thì tâm con bị cắt khỏi nguồn ánh sáng nguyên thủy của nó. Nếu con giảm kích thước của sự kết nối với Hiện diện của con, thì giống như con hạ cường độ ánh sáng  trong máy chiếu phim.

Điều này không có nghĩa là con tự hủy hoại ngay tức khắc hay con không thể sáng tạo hình tướng nữa. Nó có nghĩa là con không thể phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống nữa bằng cách dùng ánh sáng tinh khiết của Thượng đế đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Giờ đây con bị ép buộc phải phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống bằng cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem sẵn vào quang phổ tần số vật chất. Ánh sáng này có độ rung thấp hơn, do đó nó không có cùng mãnh lực với ánh sáng tinh khiết đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ phải cần nhiều năng lượng và nhiều nỗ lực hơn để phóng chiếu hình ảnh lên màn hình cuộc sống bằng cách dùng ánh sáng có độ rung thấp hơn. Điều này giới hạn khả năng sáng tạo của con và sẽ biến cuộc đời con thành một cuộc vật lộn.

Động lực đằng sau những nỗ lực sáng tạo của con là dòng năng lượng chảy xuyên qua tâm con, giống như ánh sáng chiếu xuyên qua máy chiếu phim. Khi con có một phần tâm thức Ki-tô, con có thể nhận ánh sáng có tần số cao trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con. Giới hạn duy nhất cho quyền năng sáng tạo của con là kích thước ống dẫn kết nối ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con có ánh sáng thuần khiết này tuôn chảy qua con, thì sự sáng tạo của con không cần nỗ lực vì chính ánh sáng làm công việc. Con nhận ra sự thực của câu nói của Giê-su: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30).

Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con phải lấy năng lượng tâm lý từ cõi này trước khi con có thể sáng tạo bất cứ gì. Nếu con không hiểu tiến trình lấy năng lượng tâm lý và dùng nó để sáng tạo hình tướng, quyền năng sáng tạo của con lại bị giảm thấp hơn nữa và giờ đây con phải tích lũy dồi dào chỉ bằng cách làm việc với chất liệu vật lý. Trong cả hai trường hợp, con phải lấy năng lượng từ một nguồn cung cấp hữu hạn, thường có nghĩa là con phải cạnh tranh với người khác để lấy năng lượng đó. Con phải lấy những gì con cần bằng sức mạnh và điều này chắc chắn giam hãm con trong cỗ máy chạy kéo con vào chuỗi hành động và phản ứng, dùng sức mạnh và bị lực phản công chống lại.

Sự vât lộn này sẽ tiếp tục cho tới khi con thiết lập lại sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và kết nối này là cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi con khắc phục ý niệm tách biệt và thiết lập lại ý niệm hợp nhất với nguồn cội của con, cuộc đời con không còn là một cuộc vật lộn nữa. Uy lực của ánh sáng Thượng đế giờ đây có thể tuôn chảy xuyên qua tâm con mà không bị cản trở và như thế Cha con có thể làm việc cho đến bây giờ và con cũng làm việc (John 5:17). Như Giê-su đã nói: “Với Thượng đế mọi chuyện đều làm được” (Matthew 9:16), và do đó mọi cảm giác vật lộn đều bỏ lại đằng sau con. Lúc ấy con có thể nói cùng với Giê-su: “Vì ách của ta dễ chịu và gánh nặng của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30).

Con hãy nhớ là ngay cả khi con đã nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, thì con vẫn không thể đứng yên, con không thể sáng tạo một hình tướng và chờ đợi nó hiện hữu vô hạn định. Mục đích cửa đời sống, định nghĩa đích thực của đời sống là thăng vượt liên tục. Con phải liên tục cập nhật và cải thiện các hình tư tưởng trong tâm con. Khi con làm thế, khi con chứng tỏ sự trung tín trong một số việc nhỏ, Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều ánh sáng hơn, sẽ cho phép con sáng tạo nhiều dồi dào hơn nữa và những hình tướng đẹp hơn và toàn hảo hơn nữa.

Khi con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, hay đúng hơn bởi vì con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, con không ở trong trạng thái đứng yên. Con liên tục tăng trưởng, liên tục thăng vượt. Con toàn hảo giống như Cha con trên trời toàn hảo (Matthew 5:48) vì con liên tục trở nên hơn nữa giống như Thượng đế liên tục trở nên hơn nữa qua con.

15.12. Con sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo

Vì Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng vô hạn, chuyện có thể xảy ra là con dùng trí tưởng tượng của mình để hình dung những hình tướng không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế. Chuyện có thể xảy ra là con xây dựng một ý niệm bản ngã không phản ánh thiết kế nguyên thủy cho dòng sống của con. Thay vì xem mình là con trai hay con gái của Thượng đế, con có thể bắt đầu xem mình là một sinh thể tách biệt khỏi Thượng đế, thậm chí là một sinh thể bị Thượng đế bỏ rơi hay bị đuổi ra khỏi thiên đàng. Thậm chí con có thể xây dựng hình ảnh con chống đối Thượng đế và con ghét mọi thứ mà Thượng đế tượng trưng, bao gồm luôn cả những quy luật của Thượng đế mà con xem là một giới hạn cho tự do sáng tạo của mình.

Khi con dùng uy lực ý chí để chấp nhận một tự nhận biết giới hạn như thế là thực, thậm chí coi nó là thực tại khả dĩ duy nhất, con có thể dần dần đưa mình vào một trạng thái tâm thức trong đó con không còn có thể quy định những hình tư tưởng dựa trên tâm thức Ki-tô. Tất cả những hình tư tưởng được giữ trong tâm con được quy định bởi tâm thức phản Ki-tô, tâm thức tách biệt khỏi Thượng đế và tách biệt khỏi tổng thể. Điều này khiến cho hình tư tưởng của con càng ngày càng tập trung vào mình, càng ngày càng ích kỷ. Lúc ấy con mất đi nhận biết về tổng thể và con mất đi sự quan tâm hành động của mình ảnh hưởng người khác ra sao. Điều này có thể trở thành một vòng xoáy đi xuống dần dần kéo con xuống thấp hơn tiềm năng sáng tạo thật của con, tiềm năng thiêng liêng thật của con.

Quả thực không có giới hạn nhất định nào cho việc một sinh thể tự nhận biết có thể đi xuống thấp tới đâu dưới tầng mức tâm thức Ki-tô. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng không giới hạn. Chỉ có một giới hạn duy nhất là Thượng đế không cho con được thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô mãi mãi. Ngay khi con ăn vào trái của hiểu biết về tốt và xấu, con mất đi sự sống vĩnh cửu của tâm thức Ki-tô. Lúc đó con phải chịu những định luật thấp hơn của sinh diệt mà định luật thứ nhì của nhiệt động học chỉ là một phần. Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con không còn ở trong dòng chảy miên viễn của Dòng sông sự Sống. Con chịu sự khống chế của định luật thời gian và không gian và những luật này sẽ giới hạn con ở một nơi nhất định trong không gian và một nơi nhất định trong thời gian.

Không gian và thời gian, theo định nghĩa là những khái niệm giới hạn, con không thể ở mọi nơi trong không gian và con không thể hiện hữu mãi mãi trong thời gian. Ý niệm bản ngã giới hạn, là hậu quả của việc con tham gia vào tâm phản Ki-tô, không thể hiện hữu đời đời. Sẽ tới một ngày con phải chọn tùng phục ai, con phải chọn muốn trở về tâm thức Ki-tô và đời sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô hay con muốn tiếp tục giới hạn ý niệm bản sắc của mình theo tâm thức phản Ki-tô. Ý niệm bản sắc này chắc chắn phải chết. Đây chính là ngày phán xét được nói tới trong Kinh thánh (Matthew 10:15). Nếu con từ chối tăng trưởng về hướng tâm thức Ki-tô, nếu con từ chối thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn của con thì cơ hội để con thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô sẽ chấm dứt trong cái mà Kinh thánh gọi là cái chết thứ nhì (Revelation 2:11).

Thiết kế nguyên thủy của dòng sống của con không bao giờ có thể mất được. Thiết kế này được bảo tồn muôn thuở trong tâm Ki-tô, Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tiềm năng con được cứu rỗi, được chuộc lại, được trở về trạng thái trước kia của con, được trở về với Hồng ân, được trở về thiên đàng, không bao giờ có thể bị mất. Dù con đã làm gì chăng nữa trong thế gian này, dù con đã đi xuống dưới tầng mức tâm thức Ki-tô bao xa chăng nữa, con vẫn có tiềm năng quay đầu lại và bắt đầu hành trình đi lên sẽ đưa con về với tâm thức Ki-tô. Một chức năng của tâm thức Ki-tô là giữ cái mà ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Đây là hình ảnh được giữ trong tâm của đấng Sáng tạo thuở ban đầu khi ngài sinh tạo dòng sống của con. Đây là khái niệm quy định cá thể của con, những món quà cá biệt mà đấng Sáng tạo của con ban cho con khi lần đầu tiên ngài hình thành con. Những đặc tính này ở đây, niêm trong tâm thức Ki-tô. Nếu con sẵn lòng thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn mà con đang có, thì con có thể khám phá niệm tinh khôi này. Con có thể khôi phục lại ý niệm bản ngã, ý niệm bản sắc của con bằng cách một lần nữa hợp nhất với niệm tinh khôi. Con là cái con nghĩ con là, cho nên nếu con có thể hình dung và chấp nhận niệm tinh khôi, con sẽ là sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo.

Hành tinh trái đất lúc ban đầu được tạo ra trong một trạng thái toàn hảo cao hơn những gì được biểu hiện hiện nay. Con người đã đem hành tinh này xuống thấp hơn nhiều trạng thái toàn hảo nguyên thủy, tuy thế thiết kế nguyên thủy vẫn hiện hữu trong niệm tinh khôi trong tâm thức Ki-tô. Chuyện rất có thể xảy ra là một lượng người tới hạn có thể nâng cao tâm thức họ tới tầng mức Ki-tô và do đó họ phục vụ như những cánh cửa mở để đem niệm tinh khôi đó vào hiển thị vật lý trở lại. Hoàn cảnh hiện nay trên trái đất không gì khác hơn cuộn phim chiếu lên màn ảnh cuộc sống qua tâm thức tập thể của nhân loại. Hầu hết con người trên hành tinh này hiện nay tin vào ảo tưởng là không có hình ảnh nào khác khả thi hay thiết thực. Nếu có một số nhỏ con người từ chối không tin vào ảo tưởng đó và đặt viễn quan của họ về trái đất thẳng hàng với niệm tinh khôi, thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ hân hoan trình chiếu niệm tinh khôi này thay vì khái niệm hiện thời chịu ảnh hưởng quá lớn của tâm phản Ki-tô.

Nếu con cảm thấy những giáo lý thày trao truyền trong khóa học này khuấy động điều gì đó sâu trong trái tim của con, thì rất có thể là con đã xuống đầu thai trong lúc này vì con muốn trở thành một trong những sinh thể Ki-tô có thể giúp nâng trái đất khỏi những hạn chế hiện nay của nó và đem nó vào thời đại hoàng kim trong đó tất cả mọi người cùng chia sẻ cuộc sống dồi dào. Thày sẽ nói thêm về ý tưởng này trong các chương kế tiếp [xem Quyển Hai và Quyển Ba], nhưng bước kế tiếp là chúng ta cần hiểu nhiều hơn làm thế nào những sinh thể tự nhận biết đã đi xuống một ý niệm bản ngã hạn chế dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Khi con hiểu con đã đánh mất Hồng ân của tâm Ki-tô như thế nào, thì con cũng sẽ khám phá chìa khóa để lấy lại trạng thái Hồng ân này.

13 | Thức tỉnh khỏi ảo tưởng tập thể

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 10/4/2005.

13.1. Con có thể đồng-sáng tạo sự dồi dào với tâm thức Ki-tô

Thày muốn gom lại một số ý tưởng thày đã cho con trong các chìa khóa trước hầu thày có thể đưa ra một bức tranh mạch lạc hơn về những gì còn cần làm để biểu hiện cuộc sống dồi dào. Thày đã giải thích ý nghĩa thật của câu nói Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, là con đã được thiết kế để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được thiết kế để nhận liên tục đời sống dồi dào từ bên Trên. Con sẽ nhận cuộc sống dồi dào này dưới dạng một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục, chảy từ Hiện diện TA LÀ của con vào tâm ý thức của con. Sau đó con có thể điều khiển dòng chảy này để biểu hiện cuộc sống dồi dào trên thế gian này. Khi làm vậy, con làm tròn vai trò người đồng-sáng tạo với Thượng đế và con nhân lên năng lượng và khả năng sáng tạo mà Thượng đế ban cho con. Lúc ấy con có thể cai quản, trước tiên là chính mình và sau đó cai quản vũ trụ vật chất qua đó con giúp biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.

Lý do vì sao hiện nay con không biểu hiện đời sống dồi dào là vì con đã quên vai trò nguyên thủy của con. Con đã mất ý niệm bản sắc thật của con là một đồng-sáng tạo với Thượng đế. Thay vào đó, con đã chấp nhận một bản sắc giả, một bản sắc giả hiệu như một người phàm sinh diệt và tách biệt khỏi Thượng đế. Thậm chí con có thể tin là không có Thượng đế, không có cõi tâm linh, không có Hiện diện TA LÀ và con hoàn toàn đơn độc trong một thế giới thù nghịch và quanh mình đầy những người tìm cách lấy của con những gì mà con tin là chính đáng thuộc về mình.

Hầu hết những người đang xung đột đều bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức tập trung vào mình hay ích kỷ. Con người quá tập trung vào mình đến độ họ không còn nhận thức để nhìn bức tranh rộng lớn hơn. Họ không còn nhận thức để quan tâm đến hậu quả hành động của họ trên người khác hay thậm chí họ không còn nhận biết cao hơn là họ là một thành phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất và mọi việc họ làm đều ảnh hưởng tổng thể. Họ cũng quá ư tập trung vào cuộc sống trong vũ trụ vật chất nên chẳng còn sức chú ý để xét tới cõi tâm linh và biết được họ có thể nhận được dồi dào trực tiếp từ bên Trên thay vì phải lấy bằng sức mạnh từ thế giới này.

Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào và khắc phục cảm giác đấu tranh đang làm nhiều người mắc kẹt trong xung đột triền miên để giành giật một số tài nguyên giới hạn, con phải vượt thăng trạng thái tâm thức ích kỷ và duy vật này. Con phải vươn lên trên trạng thái đó và giành lại bản sắc thật của con là con trai hay con gái của Thượng đế, xứng đáng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con hoàn toàn đủ khả năng đồng-sáng tạo cuộc sống dồi dào ngay đây trên trái đất này. Trạng thái tâm thức cao này là tâm thức dựa trên sự hợp nhất với nguồn cội của con thay vì tách biệt khỏi Thượng đế. Đây là sự hợp nhất mà Giê-su mô tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Ý của Giê-su là: “Ta và Hiện diện TA LÀ của ta là một.” Tâm thức mà Giê-su chứng minh là ý niệm bản sắc dựa trên thực tại của con người thật của con thay vì dựa trên hình ảnh con người giả của con. Dù chúng ta có thể gọi trạng thái tâm thức này bằng nhiều tên, thày muốn gọi nó là quả vị Ki-tô cá nhân hay tâm thức Ki-tô. Vai trò của Giê-su khi xuống trái đất là để chứng minh trạng thái tâm thức này.

13.2. Tâm thức Ki-tô là tiếp cận sự sống dựa trên dồi dào và tình thương

Trước khi chúng ta tiếp tục xem xét thật chính xác cách biểu hiện tâm thức Ki-tô, thày muốn mô tả chi tiết hơn ý nghĩa của tâm thức Ki-tô. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn của cõi tâm linh mà tần số đã được hạ độ rung và đã khoác vào một hình tướng. Thước đo chính xác về sự dồi dào mà con người sẵn có trên trái đất là lượng năng lượng tâm linh đã được hạ độ rung và hiện nay rung động trong quang phổ của tần số vật chất. Một số năng lượng đã được hạ xuống quang phổ tần số của chất vật lý và một số năng lượng vẫn hiện hữu như năng lượng tâm lý. Một số năng lượng được biểu hiện thành dồi dào vật chất trong khi một số vẫn còn là tiềm năng dồi dào có thể được biểu hiện thành dồi dào vật chất qua uy lực của tâm con người.

Chìa khóa tối hậu để gia tăng dồi dào trên trái đất để tất cả đều có thể chia sẻ cuộc sống dồi dào, là đem thêm nhiều năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Chỉ có người đạt được tâm thức Ki-tô mới có khả năng đem năng lượng từ cõi tâm linh vào cõi vật chất. Chỉ có người có tâm thức Ki-tô mới có thể là cánh cửa mở để ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này và đó là lý do tại sao Giê-su có thể nói về mình: “Ta là con đường, sự thật và sự sống” (John 14:6), “Ta là cánh cửa” (John 10:9) và: “Chừng nào ta còn có mặt trên thế gian này, ta là ánh sáng của thế gian” (John 9:5). Bất cứ ai đạt được tâm thức Ki-tô có thể nói y như vậy. Mọi người đều có tiềm năng đạt được tâm thức Ki-tô.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét những cách biểu hiện dồi dào mở ra cho những người không đạt được tâm thức Ki-tô. Nếu con người tin vào triết lý duy vật không có Thượng đế hay họ tin cái nhìn chính thống thờ phượng Giê-su như một trường hợp ngoại lệ thay vì là tấm gương, họ không có chọn lựa gia tăng tổng số năng lượng hiện có trong cõi vật chất. Họ chỉ có thể gia tăng dồi dào bằng cách lấy đi từ số lượng chất liệu vật lý và năng lượng tâm lý hiện có trong hệ thống năng lượng của trái đất.

Chúng ta có thể lập ra một thang đo minh họa những ai gần tâm thức Ki-tô hay đã đi xuống thấp hơn tâm thức Ki-tô bao xa. Chúng ta hãy bắt đầu với người tiền sử sống trong hang động và trạng thái tâm thức mà y đại diện. Với người sống trong hang động, chúng ta thấy một sinh thể hoàn toàn đồng hóa với thân vật lý và đồng hóa với bản năng thấp của thân này. Người tiền sử sống trong hang động hầu như không xứng đáng với nhãn hiệu “con người” bởi vì y cư xử giống một con thú thông minh hơn là con người. Người tiền sử sống trong hang động không có mức nhận biết cao đủ để mường tượng là y có thể thay đổi môi trường. Do đó y sống như một con thú và thích nghi với hoàn cảnh, kiếm sống rất khó khăn bằng cách lấy những gì y cần từ Mẹ Thiên nhiên. Y dùng sức mạnh để lấy mọi thứ để kiếm sống, như giết thú vật hay thu thập thức ăn sẵn có.

Khi y xung đột với những người tiền sử sống trong hang động khác, thì y chỉ có phản ứng duy nhất là bảo vệ bằng bạo lực của cải mà y cho là thuộc về mình. Không có thương thuyết, không có luật pháp hay thỏa thuận giữa những bộ lạc khác nhau hay những dân tộc khác nhau để phân chia đất đai và né tránh đụng độ. Ngay khi bị khiêu khích, bản năng thú tính của y bùng lên và y phản ứng với hội chứng đánh hay chạy điển hình của loài thú. Nếu không chạy được, y sẽ quay lại và đánh. Mức mà ngày nay các nhà khoa học coi là mức khởi đầu của chuỗi tiến hóa của nhân loại tiêu biểu cho mức thấp tuyệt đối của tâm thức Ki-tô. Người tiền sử sống trong hang động không phải là mức khởi đầu của nhân loại. Nó là điểm thấp mà con người rơi xuống khi họ lạm dụng khả năng sáng tạo của họ. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho trạng thái tâm thức thấp nhất theo nghĩa khả năng sáng tạo của con người, mà thế giới hiện đại biết được.

Từ giai đoạn người tiền sử sống trong hang động, con người đi trên một tiến trình tiến lên dần dần, họ gia tăng nhận biết cách dùng khả năng sáng tạo của họ để thay đổi hoàn cảnh và thậm chí tác động lên năng lượng. Một bước nhảy vọt lớn xảy ra khi con người học cách dùng lửa, gìn giữ lửa và kiểm soát lửa để làm dụng cụ. Một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học cách xây nhà của chính mình thay vì dựa vào các hang động tự nhiên. Thêm một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học được canh nông và do đó họ có thể dùng đất đai để sản xuất nhiều thức ăn hơn so với thức ăn đến từ săn bắn. Sự tăng trưởng về văn minh được chứng kiến trong 2,000 năm qua cũng tượng trưng cho sự tăng trưởng về nhận biết cách vũ trụ vận hành. Con người càng ngày càng có khả năng thay đổi môi trường thay vì thụ động thích nghi với môi trường. Phần lớn khả năng này tập trung vào việc học hỏi cách dùng chất liệu vật lý và học quy luật thiên nhiên và do đó họ tập trung vào sự thu hoạch dồi dào từ nguồn cung cấp có sẵn trong quang phổ tần số của vật chất vật lý.

Trong thế kỷ qua, con thấy con người gia tăng nhận biết về các dạng năng lượng tinh tế hơn, kể cả hiểu biết khoa học rằng vật chất là một dạng năng lượng. Con cũng thấy con người gia tăng hiểu biết về khía cạnh tâm linh của đời sống, đưa tới nhận biết mở rộng hơn về sự kiện tâm có một ảnh hưởng lớn trên mọi khía cạnh cuộc sống, như khoa tâm lý tự giúp mình đã chứng minh. Con người ngày nay đã bước vào giai đoạn không còn giới hạn sự biểu hiện dồi dào chỉ từ chất liệu vật lý mà thôi. Con người bắt đầu biểu hiện dồi dào bằng cách dùng uy lực của tâm dù hiểu biết chính thức vẫn còn sơ khai. Nhiều người vẫn còn tập trung vào việc dùng tâm để khám phá những luật lệ sâu hơn của vũ trụ cho phép họ sử dụng vật chất tốt hơn. Càng ngày càng có thêm người tìm cách dò tìm tiềm năng tâm làm chủ vật chất qua đó họ có thể hoán chuyển năng lượng tâm lý thành chất liệu vật lý bằng cách hạ độ rung của nó và khoác vào hình tướng vật lý.

Khi nói tới sự gia tăng tâm thức con người, một khía cạnh là sự gia tăng nhận biết, gia tăng hiểu biết thế giới vận hành ra sao. Khi con gia tăng nhận biết, con biết cách dùng quy luật thiên nhiên giỏi hơn để có lợi cho con. Lúc đó con có thể bắt đầu tích cực thay đổi môi trường để nó thỏa mãn nhu cầu của con mà con không cần bỏ ra nhiều công sức. Như con thấy ngày nay trong xã hội loài người, sự gia tăng nhận biết này không phải là không có cạm bẫy. Nó không nhất thiết đem tới đời sống dồi dào hay trạng thái hạnh phúc và tâm an bình thường trực. Cách sử dụng thiếu phân biện nhận biết mở rộng hơn của nhân loại có thể gây vấn đề có tiềm năng đe dọa sự sống còn dài hạn của loài người. Gia tăng nhận biết không đồng nghĩa với tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết là một phần của việc đạt tới tâm thức Ki-tô nhưng nó không phải là tâm thức Ki-tô trọn vẹn.

Gia tăng nhận biết về cách dùng quy luật thiên nhiên mà không kèm theo gia tăng hợp nhất với Thượng đế và mọi sự sống có thể kéo con ra xa khỏi tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết về thế giới vật chất không tự động tạo ra tâm thức Ki-tô. Nó có thể cung cấp nền tảng để một người tiến lên tâm thức Ki-tô nhưng không bảo đảm điều này sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con người có thể là cái bẫy nếu nó không được cân bằng bởi tình thương trong trái tim. Sự gia tăng nhận biết xảy ra trong trí, nhưng trí không cho con người khả năng yêu thương lẫn nhau và sống hòa bình với nhau. Con người đơn giản giỏi hơn trong việc lấy mọi thứ bằng sức mạnh trong khi chìa khóa thật để có dồi dào là vượt lên trên sức mạnh và biết rằng đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc. Con có thể đạt mọi chuyện con cần qua tình thương thay vì sức mạnh.

Điều này dẫn chúng ta tới khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô, chìa khóa thật của tâm thức Ki-tô, là xoay chuyển từ cách tiếp cận sự sống dựa trên thiếu thốn và sợ hãi sang cách tiếp cận dựa trên dồi dào và tình thương. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho một điểm thấp trong dòng tiến hóa trên cả hai phương diện, nhận biết của trí về thế giới và khả năng yêu thương của con tim vượt lên trên tự ngã. Kể từ thời đó, con người đã gia tăng cả hai khả năng hiểu thế giới của trí và khả năng yêu thương của con tim. Đáng tiếc là con tim đã không mở rộng nhanh như trí. Ngày nay chúng ta thấy những người có khả năng sáng tạo công nghệ mới nhưng không có khả năng dùng nó một cách minh triết, kể cả khả năng chọn lựa không phải lúc nào cũng làm cái mà kỹ thuật có thể làm được.

13.3. Tình thương toàn hảo của Thượng đế sẽ xua tan mọi sợ hãi

Mọi xung đột của con người phát sinh từ tâm thức thiếu thốn. Trong trạng thái tâm này, cảm xúc chủ yếu là sợ hãi. Nó có thể là nỗi sợ không có đủ cho mọi người cho nên nếu tôi không lấy vật nào đó thì người khác sẽ lấy. Hoặc nếu tôi không bảo vệ những gì tôi có thì người khác sẽ lấy đi của tôi.

Trong tâm thức này, con sống trong một thế giới mà chung quanh đầy đe dọa. Khi con lúc nào cũng sợ mất mát thì bắt buộc con sẽ trở nên ích kỷ và nó ngăn chặn khả năng nghĩ tới hậu quả dài hạn của hành động của mình, nghĩ tới người khác hay nghĩ tới tổng thể. Giờ đây, chúng ta thấy tâm thức Ki-tô có hai đặc tính:

  • Một sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Điều này bao gồm sự nhận biết lớn hơn về quy luật thiên nhiên hướng dẫn sự trải bày của vũ trụ vật chất và những quy luật lớn hơn của Thượng đế cung cấp khung sườn trong đó các quy luật thiên nhiên vận hành.
  • Một sự gia tăng nhận biết con không phải là một cá nhân tách biệt khỏi tổng thể của tạo vật của Thượng đế hay tách biệt khỏi nguồn cội của con. Không người nào là một ốc đảo và để có thể thật sự hạnh phúc, con cần hiểu ra con chỉ cảm thấy hoàn toàn thỏa nguyện khi con thấy mình là một với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế trên trái đất.

Khi con xem mình là một cá nhân cô lập, tự động con rơi xuống tâm thức sợ hãi, tách biệt và thiếu thốn. Nếu con gia tăng nhận biết của trí về quy luật thiên nhiên mà không khắc phục nỗi sợ của con, con sẽ không thể chuyển nhận biết của con thành cuộc sống dồi dào hơn. Con sẽ vẫn tiếp tục bị sợ hãi kìm siết và nhận biết của con đơn giản cho con thêm phương tiện mạnh mẽ hơn để lấy dồi dào từ người khác. Gia tăng nhận biết của con không gia tăng dồi dào trên thế giới, nó chỉ gia tăng căng thẳng và bạo lực trên thế giới.

Con chỉ có thể thăng vượt nỗi sợ làm con suy hoại này bằng cách nhận ra con là một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, con là một cá thể hóa của Thượng đế. Chỉ khi nào con hoàn toàn nhận ra và chấp nhận con là một phần của tạo vật của Thượng đế thì con mới tin Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc và con không cần phải sống trong thiếu thốn hay lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Khi con có được ý niệm bản sắc này, cảm nhận con là một với mọi sự sống và con là một với đấng Sáng tạo của con, con tự động trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Thượng đế có đối với con là một nối dài của ngài. Đây là tình thương toàn hảo sẽ xua tan mọi sợ hãi ra khỏi bản thể của con. Khi con khắc phục sợ hãi, con sẽ tiếp cận cuộc sống dựa trên tình thương. Con có thể tuân theo mệnh lệnh của Giê-su thương yêu Thượng đế với tất cả con tim, tâm hồn và tâm của con và thương yêu người hàng xóm như chính mình (Mathhew 22:37).

Chìa khóa để trải nghiệm tình thương này là gì? À, phải chăng lời của Giê-su có hai nghĩa? Có thể nào chúng ta hiểu lời đó như sau: “Hãy thương yêu người hàng xóm của con như chính mình” không có nghĩa là con đơn giản thương yêu người hàng xóm giống như con thương yêu chính mình. Chúng ta có thể thấy chăng là nó có thể mang ý nghĩa thâm sâu hơn, nghĩa là con yêu thương người hàng xóm như chính con bởi vì con nhận ra người hàng xóm là con. Con nhận ra con và người hàng xóm đều là thành phần của cùng Thân thể Thượng đế và cả hai chúng con đều đến từ cùng một nguồn gốc. Con nhận ra cùng với Giê-su: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Để có thể thương yêu Thượng đế trọn vẹn với tất cả trái tim, tâm và hồn của con, con cần nhận ra Thượng đế không tách biệt khỏi con, Thượng đế là một phần của con vì con là một phần của Thượng đế. Con là một cá thể hóa của Thượng đế, do đó con yêu Thượng đế như chính con vì con nhận ra Thượng đế là cái ta thật của con, bản sắc thật của con. Điều này dẫn đến trạng thái hợp nhất với Thượng đế trong đó con không còn nghĩ cái ta vỏ ngoài, cái ý niệm bản sắc dựa trên tách biệt khỏi Thượng đế, là người hành động. Thay vào đó, con nhận ra cái ta cao, Hiện diện TA LÀ bên trong con là người hành động, là nguyên nhân đầu tiên, là nguồn cội của mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo.

Những ý tưởng này quả thực là mắt xích thiếu sót và chúng có thể giúp con bước ra khỏi tâm thức ích kỷ và tiến lên tâm thức Ki-tô. Đây là mắt xích thiếu sót có thể giúp con vươn lên từ tầng con thú thông minh lên tầng sinh thể tâm linh thật sự, một người đồng-sáng tạo thật với Thượng đế. Bước nhảy vọt này cũng lớn lao như bước nhảy vọt từ khỉ lên người mà khoa học không tìm ra mắt xích thiếu sót vì mắt xích đó là một sự nhảy vọt tâm thức.

13.4. Cần gia tăng nhận biết cùng với gia tăng tình thương

Bây giờ chúng ta hãy trở lại ý tưởng con người có thể đi xuống mức thấp hơn rất nhiều tâm thức Ki-tô. Khi con xuống tới mức thấp nhất, con quả thực sống như một con thú, thích nghi với một môi trường nào đó và lấy bằng sức mạnh bất cứ sự dồi dào nào sẵn có trong môi trường. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào mình, vào sự sống còn và mong muốn của mình. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào vũ trụ vật chất, có nghĩa là con chỉ thấy vật chất mà mắt nhìn thấy và các điều kiện khác trong thiên nhiên có thể thỏa mãn các ước muốn của con. Con không có khả năng mường tượng là có điều gì đó mắt không thấy, có điều gì đó ở một cõi cao hơn, có thể thỏa mãn mong muốn của con. Con không thể mường tượng con có thể có điều con muốn từ một uy lực cao hơn sức mạnh vật lý.

Khi con gia tăng nhận biết, con học được là đằng sau các hiện tượng mà giác quan con quan sát có một bộ nguyên tắc chỉ đạo hay quy luật thiên nhiên. Khi con bắt đầu biết các quy luật này, con có thể dùng chúng để thỏa mãn các mong muốn của con mà chỉ bỏ ít sức hơn. Thậm chí con có thể tới điểm thỏa mãn các nhu cầu của con mà không dùng sức mạnh, không lấy từ người khác hay dùng sức mạnh để lấy từ Mẹ Thiên nhiên. Một số nền văn hóa đã chứng minh họ có thể sống hòa hợp toàn hảo với môi trường của họ, luôn luôn dùng tài nguyên tái tạo được và vì vậy họ có thể duy trì một nền văn hóa cả ngàn năm mà không cưỡng hiếp môi trường và không tiêu hủy khả năng hỗ trợ họ của môi trường.

Sống hòa hợp như vậy với thiên nhiên đòi hỏi con người có nhận biết về tổng thể nhưng nhận biết này không thể đến từ trí mà chỉ có thể đến từ con tim. Những gì con thấy hiện nay trong xã hội Tây phương là sự gia tăng nhận biết về các quy luật thiên nhiên đi kèm theo nhiều khía cạnh đen tối. Rất có thể con người có thể dùng quy luật thiên nhiên để đạt được lợi thế tạm thời nhưng lại có những hậu quả lâu dài có tính cách hủy hoại chính họ hay các thế hệ mai sau. Công nghệ hiện đại đã tạo ra ô nhiễm có hậu quả lâu dài cho môi sinh và ngay cả cho gen của con người. Chỉ mới vài thập niên trước con người mới ý thức là một số hóa chất dùng để trừ những sâu trùng phiền nhiễu nhà nông cần thời gian dài để phân hủy và do đó những hóa chất này đi vào chuỗi thực phẩm, kết cuộc chúng đi vào thân thể con người đem lại nhiều hậu quả tiêu cực. Ngay cả ngày nay, con thấy con người ý thức nhiều hơn là ô nhiễm do công nghệ hiện đại gây ra có thể có những hậu quả trên khí hậu toàn cầu, khả dĩ gây ra những điều kiện khí hậu tàn khốc.

Công nghệ dựa trên sự hiểu biết thiên nhiên mà không kèm theo sự phát triển của con tim quả thực có thể cho con người một lợi thế tạm thời nhưng trong dài hạn, nó giảm thiểu lượng giàu có vật chất của hành tinh này. Loại công nghệ này là công nghệ dựa trên sức mạnh. Con người đã học được cách dùng quy luật thiên nhiên nhưng họ hành động với một trạng thái tâm thiếu thốn và sợ hãi, khiến họ muốn dùng sức mạnh để chiếm lấy thiên đường (Matthew 11:12). Vì họ dùng sáng tạo của họ một cách thiếu quân bình, Ánh sáng Mẫu-vật tạo ra môt lực đối nghịch sẽ rốt cuộc lấy đi sự an toàn mà họ cố xây dựng bằng sức mạnh.

Đây là bằng chứng rõ ràng là khi con người gia tăng nhận biết mà không cân bằng với gia tăng khả năng thương yêu cái gì lớn hơn tự ngã, thì họ sẽ không thăng vượt được trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi dẫn tới việc dùng sức mạnh. Con sẽ gia tăng quyền năng dùng sức mạnh và Mẹ Thiên nhiên sẽ phản ánh lại hành động của con qua dạng phản ứng ngược lại. Hành động mất quân bình của con càng mạnh bao nhiêu, phản ứng của Mẹ Thiên nhiên càng mạnh bấy nhiêu dưới dạng tai ương thiên nhiên. Đây đúng là những gì con đang thấy: tai ương là hậu quả của việc con người lạm dụng công nghệ. Bây giờ con thấy là nếu gia tăng nhận biết không kèm theo gia tăng tình thương và cảm nhận mình là một với mọi sự sống, thì nhân loại không tiến gần hơn việc biểu lộ tâm thức Ki-tô. Con người gia tăng quyền năng phá hoại và do đó con người gia tăng phản ứng của Mẹ Thiên nhiên, của chính Ánh sáng Mẫu-Vật.

13.5. Con sáng tạo phù hợp với quy luật Thượng đế

Tuy việc sử dụng công nghệ thiếu quân bình có thể tàn phá cõi vật lý, nhưng sự tăng trưởng nhận biết thiếu quân bình còn có hậu quả tàn khốc hơn nhiều. Ở giai đoạn tiến hóa thấp nhất của tâm thức nhân loại, còn có những người chỉ ý thức sự hiện hữu của cõi vật lý, nghĩa là họ thấy chỉ có chất liệu vật lý là tài nguyên thỏa mãn mong muốn của họ. Nếu họ không phát hiện được một vật qua giác quan thì vật đó chẳng có giá trị gì và thậm chí còn không hiện hữu. Những người này chỉ có thể có được sự dồi dào từ năng lượng đã được biểu hiện sẵn như chất liệu vật lý, như vậy lẽ tất nhiên tiềm năng tích tụ dồi dào của họ bị giới hạn. Họ phải lấy cái gì đã biểu hiện sẵn là chất liệu vật lý và như vậy họ tự đặt họ trong vị thế ganh đua với tất cả mọi người khác cùng trình độ nhận biết với họ.

Khi con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thấp này, con ý thức rằng có nhiều sự dồi dào hơn so với những gì con mắt thấy được. Nhiều người biết đến tầm quan trọng của năng lượng vô hình. Nhiều người nhìn ra giá trị của hiểu biết cao hơn về việc tạo dồi dào từ những chất bị xem là vô giá trị. Hầu hết không có hiểu biết rõ ràng, có ý thức về năng lượng tâm lý, họ còn không có hiểu biết cơ bản mà thày đã cho con trong các chương trước. Một số đã học cách tác động lên năng lượng tâm lý một cách vô thức qua uy lực của tâm họ. Nhiều người trong số họ chỉ có hiểu biết hoàn toàn trí năng về sự kiện vật chất được làm từ năng lượng và tâm của họ có uy lực tác động lên năng lượng. Những người này quả thực không phát triển con tim, họ giản dị có nhận biết trí năng rộng lớn hơn về vũ trụ vật chất và những năng lượng thuộc vũ trụ này. Họ biết vũ trụ vật chất là nhiều hơn chất liệu vật lý và chìa khóa để tích tụ lượng dồi dào to lớn hơn là học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm.

Đáng tiếc thay, con người có thể gia tăng nhận biết về khả năng của trí mà không gia tăng nhận biết về tổng thể bằng con tim. Con người có thể học cách tác động lên năng lượng tâm lý mà không gia tăng tình thương Thượng đế hay tình thương người anh em của mình. Họ có thể học cách tác động lên năng lượng trong khi họ vẫn còn hoàn toàn vị kỷ và ích kỷ. Một lần nữa, chúng ta hãy xét hai yếu tố cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô:

  • Một là sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Nó bắt đầu với sự gia tăng hiểu biết về các quy luật thiên nhiên qua đó con có thể tích tụ dồi dào bằng cách sử dụng giỏi hơn chất liệu vật lý. Bước kế tiếp là học cách dùng tâm để sử dụng năng lượng tâm lý như là nền tảng để phát sinh dồi dào vật chất.
  • Hai là sự gia tăng nhận biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn và mình thương yêu tổng thể đó như chính mình. Như thế con có thể dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với quy luật của Thượng đế để con vừa gia tăng dồi dào cá nhân vừa gia tăng tổng lượng dồi dào. Con không lấy từ người khác nhưng con thêm vào tổng lượng dồi dào có mặt trên trái đất. Cuối cùng là con có khả năng đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật lý và đấy là nguồn gốc tối hậu của sự dồi dào.

Chỉ khi tiến hóa của tâm thức mang cả hai yếu tố, thì con mới có thể tiến hóa vượt lên trên ích kỷ và không rơi vào cạm bẫy dùng khả năng sáng tạo lớn lao hơn của con một cách ích kỷ. Có một số người trên trái đất đã đạt được một trình độ cao trong khả năng tác động lên năng lượng tâm lý. Họ đã đạt được khả năng khuynh loát người khác. Tư tưởng và tình cảm của con là những dạng năng lượng. Nếu một người đã thiện nghệ trong việc khuynh loát năng lượng lý trí và tình cảm, một người như thế có thể ảnh hưởng suy nghĩ và cảm xúc của con. Người đó có thể kiểm soát con qua trí thể và cảm thể của con. Nếu con muốn một ví dụ hiển nhiên của một người có khả năng đó, con hãy xem xét vì sao Adolph Hitler đã có thể khuynh loát một phần lớn dân chúng Đức để họ trở thành những rô-bốt vô tâm phục vụ cho mưu đồ quyền lực và kiểm soát của ông.

Trong thế giới ngày hôm nay có nhiều người có khả năng này và một số đã học cách dùng khả năng này đằng sau hậu trường để đại chúng không nhận diện ra họ. Một số trong những người này thậm chí còn dùng khả năng này để nổi danh. Đây là những người đã học được cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem vào quang phổ tần số vật chất nhưng độ rung chưa hạ xuống quang phổ tần số chất liệu vật lý. Năng lượng này vẫn hiện hữu như một tiềm năng có thể khoác vào hình tướng vật lý nhưng hình tướng thực thụ chưa được xác định. Khi một người đã học cách tác động lên năng lượng, người đó trở nên thiện nghệ trong việc điều khiển năng lượng biểu hiện thành hình tướng. Điều này cho phép một người như vậy tích tụ của cải vật chất lớn lao. Một phần, họ làm được bằng cách khuynh loát người khác làm công việc thật sự đem lại giàu có nhưng giàu có được tập trung trong tay của người giật giây đằng sau hậu trường.

Đấy là những người đã đạt một khả năng dùng tư tưởng làm chủ vật chất, dùng tâm làm chủ vật chất, cao nhưng họ vẫn chưa đạt được mức làm chủ con tim tương xứng. Họ không thấy họ là một với Thượng đế hay là một với các người khác. Họ thấy họ tách biệt khỏi Thượng đế, thường khi là chống lại Thượng đế. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả và một số trong nhóm người này thậm chí tin rằng họ nhiều uy quyền đến độ họ có thể khuynh loát quy luật của Thượng đế để không gặt những gì họ gieo. Một số thậm chí có mưu đồ công khai nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và tạo ra một thế giới trong đó Thượng đế không có mặt. Họ tìm cách dùng uy lực tâm của họ để kiểm soát tất cả những người khác trên hành tinh này hầu chứng minh thế giới này là một bầu cõi nơi Thượng đế không hiện hữu và nơi không cần tới một đấng Sáng tạo thông minh. Đây là một minh chứng rõ rệt về điều mà thày đã nói với con trước đây là khi con người không có kim chỉ nam dẫn đường tuyệt đối qua sự hiểu biết các quy luật của Thượng đế, các quy luật lệ đã được ghi sâu vào tâm họ, thì họ nghĩ họ có thể trở thành luật lệ cho chính họ. Họ dùng tâm tương đối và nhị nguyên để thiết lập luật lệ của chính họ về cái gì là tốt và xấu và trong sự mù quáng và ngạo mạn, họ nghĩ luật lệ tương đối của chính họ đã thay thế quy luật tuyệt đối của Thượng đế.

Con người có thể học cách dùng uy lực của tâm để tác động lên năng lượng tâm lý mà không mở rộng con tim để cho phép mình sử dụng năng lượng đem lợi lạc cho tổng thể. Con có thể tác động trên năng lượng để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn ích kỷ của con mà không xét đến hậu quả trên Thân thể Thượng đế trên trái đất và hậu quả trên Mẹ Thiên nhiên. Đây là loại người mà Giê-su nói tới: “Nếu vì vậy mà ánh sáng của ngươi tối, sự tối tăm này sẽ lớn biết là dường bao,” (Matthew 6:23) và: “Vương quốc của Thượng đế bị cưỡng ép và kẻ hung bạo muốn dùng bạo lực để chiếm lấy thiên đường” (Matthew 11:12). Nếu con đã học cách dùng năng lượng tâm lý với mục đích ích kỷ thì con biến năng lượng này thành bóng tối. Lượng bóng tối sẽ nhiều bằng lượng ánh sáng mà con tha hóa qua việc con dùng sức mạnh để lấy từ Thượng đế cái mà Thượng đế cho con vô điều kiện nếu con sẵn lòng vượt thăng ý niệm tách biệt với Thượng đế của con.

13.6. Điều tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể

Sự gia tăng nhận biết các khả năng sáng tạo của con là một phần trong việc đạt tới tâm thức Ki-tô. Nếu nhận biết này giới hạn trong trí mà không được quân bình bởi sự phát triển của con tim thì có khả năng con người tha hóa khả năng sáng tạo của họ và dùng chúng cho những mục đích ích kỷ. Khi con đạt được tâm thức Ki-tô quân bình, khi sự gia tăng nhận biết sáng tạo của con được quân bình bởi tình yêu trong tim con, con sẽ chỉ dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với các quy luật của Thượng đế. Con sẽ không tìm cách thỏa mãn những ước muốn vị kỷ, ích kỷ vì con nhận ra con không phải là một cá nhân tách biệt. Con là một thành phần của Thượng đế và như vậy con là một thành phần của Thân thể Thượng đế. Điều gì tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể. Khi con khắc phục tâm thức sợ hãi tập trung vào tự ngã, con sẽ nhận ra không có mâu thuẫn giữa mong muốn cá nhân chân thực của con và điều gì tốt cho tổng thể Thân thể của Thượng đế trên trái đất. Con là một thành phần của tổng thể, do đó chỉ khi con khuếch trương tổng thể con mới thực sự được thỏa mãn.

Quả thực con có thể thỏa mãn các mong muốn cá nhân của con bằng một cách sẽ gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới và như vậy con cũng khuếch trương tổng thể. Khi con không gia tăng tình yêu trong tim con, tình yêu này cho con cảm nhận mình là một với tổng thể, con có thể bị mắc kẹt trong tâm mình. Lúc ấy con tin vào ý tưởng dối trá cho rằng con có quyền dùng uy lực tâm của con mà không đếm xỉa tới tổng thể. Khi con có tâm thức Ki-tô trọn vẹn, con cũng có nhận biết trọn vẹn mình là một nối dài của Thượng đế. Con có sự quân bình toàn hảo giữa mong muốn cá nhân và điều gì tốt cho tất cả mọi người khác. Con cũng biết cách thỏa mãn mong muốn cá nhân của con trong sự hài hòa với các quy luật Thượng đế, những quy luật được thiết kế để bảo đảm điều tốt nhất cho tổng thể. Sự quân bình này đạt được nhờ tâm Ki-tô vậy thì tâm nào đã cho phép con tác động lên năng lượng Thượng đế để sinh tạo hình tướng không thẳng hàng với quy luật Thượng đế? Chẳng phải nó là tâm phản Ki-tô? Chẳng phải chính tâm phản Ki-tô là tư duy cho phép một người tác động lên năng lượng nhưng không cho người đó tình yêu của con tim để dùng năng lượng phù hợp với quy luật Thượng đế?

Một số những thày giả trong lãnh vực phồn thịnh đã tìm ra cách tác động lên năng lượng tâm lý, qua đó dùng nó để khuynh loát người khác hay ngay cả tác động lên chất liệu vật lý hầu thu hút dồi dào về họ. Nếu những người này không gia tăng nhận biết của con tim, họ quả thực đang thu hút dồi dào qua tâm phản Ki-tô. Họ đang dùng uy lực của tâm họ để tác động lên năng lượng và cách này hoàn toàn không hài hòa với các quy luật Thượng đế, trong đó quy luật quan trọng nhất là Luật Tình thương đem lại sự hài hòa giữa cá nhân và tổng thể.

Con cần xem xét chủ đề này dù rằng thày ý thức là một số người cảm thấy khó chịu với chủ đề này vì nó có thể tạo sợ hãi. Không cần phải sợ các lực phản Ki-tô khi con biết cách chúng vận hành. Con chỉ sợ cái mà con không biết bởi vì nếu con không hiểu cách các lực đó đang tìm cách khuynh loát con thì làm sao con bảo vệ mình khỏi ảnh hưởng của chúng?  Khi con nhìn thấu suốt tư duy phản Ki-tô, con có thể tránh không cho những người kẹt trong tư duy này khuynh loát con hay cám dỗ con. Con có thể quở trách ác ma giống như Giê-su khi thày bị cám dỗ sau khi thày rời sa mạc (Matthew 4:1). Chỉ bằng cách quở trách tư duy phản Ki-tô đã thấm đẫm gần như mọi khía cạnh của đời sống trên hành tinh này, con mới có thể giải thoát mình khỏi tư duy này.

Làm sao con có thể hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô nếu con không giải thoát mình khỏi tư duy phản Ki-tô? Điều này giản dị không làm được. Như Giê-su đã nói, con không thể phục vụ hai chủ (Matthew 6:24). Con không thể phục vụ Thượng đế và Ma môn, con không thể phục vụ Thượng đế qua tâm thức Ki-tô lúc nào cũng tìm cách đem lại sự tốt lành nhất cho tất cả, và đồng thời phục vụ Ma môn, nghĩa là tâm thức ích kỷ, xuyên qua tâm phản Ki-tô.

Ngày hôm nay con phải chọn con sẽ phục vụ ai (Joshua 24:15), hoặc con phục vụ tâm thức của sự sống chính là tâm thức Ki-tô, hay con muốn phục vụ tâm thức chết là tâm thức phản Ki-tô. Thày nói, như Moses đã nói: “Con hãy chọn sự sống. Hãy chọn tâm thức Ki-tô là cánh cửa dẫn tới đời sống bất tử, đời sống vĩnh cửu của sự hợp nhất với cội nguồn của con và với mọi sự sống.” (Deuteronomy 30:19).

Trong suốt đời còn lại, con có thể tiếp tục gia tăng nhận biết của con về năng lượng tâm lý và cách tác động lên năng lượng này để tạo dồi dào vật chất cho cá nhân mình. Chừng nào con còn mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô, con bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Mọi hành xử của con sẽ không phù hợp với quy luật Thượng đế. Cái gì không phù hợp với quy luật Thượng đế tạo ra một xung lực mất quân bình, có nghĩa là chính Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tạo ra một xung lực đối chọi hầu duy trì quân bình trong vũ trụ.

Quả thực con có thể dùng tâm thức phản Ki-tô để tạm thời tích tụ dồi dào vật chất hay uy quyền trên trái đất này. Vũ trụ vật chất được thiết kế với sự trì hoãn, có nghĩa là một sinh thể tự nhận biết có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình và tạo ra những hình tướng không phù hợp với quy luật Thượng đế. Vì yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ vật chất, những hình tướng thiếu quân bình như vậy sẽ không tự hủy hoại ngay tức khắc. Chúng có thể hiện hữu trong một thời gian và do đó con có thể dùng tâm phản Ki-tô để tạo ra dồi dào vật chất có thể kéo dài suốt quãng đời còn lại của con. Kinh thánh nói đúng khi nói rằng con gieo gì thì gặt nấy (Galatians 6:7). Kinh thánh cũng nói đúng khi nói rằng vẫn còn sự sống sau khi thân vật lý chết (Matthew 16:28). Điều này có nghĩa là nếu con không gặt hái điều con gieo khi xác thân vật lý còn sống thì chắc chắn dòng sống của con sẽ gặt hái điều con gieo trong tương lai.

13.7. Con phải tích cực đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Nếu con đã lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc truyền thống, thì con đã bị lập trình để tin rằng con chỉ có một kiếp sống duy nhất ở đây trên trái đất. Ý tưởng hư giả này đã đi vào đạo Cơ đốc qua ảnh hưởng của những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô nhìn cá nhân tách biệt khỏi tổng thể cho nên tâm phản Ki-tô là nguồn gốc của mọi ích kỷ. Một người càng bị mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô thì người đó càng ích kỷ và ví dụ tối hậu là tâm thức của người tiền sử sống trong hang động. Khi con chỉ chú trọng tới mình, con không thể nhìn quá những mong muốn ngắn hạn của con, do đó con không thể chấp nhận ý tưởng là hành động của con có những hậu quả mà con không tránh được. Một người cực kỳ vị kỷ không thể nào chấp nhận sự thật là họ sẽ chắc chắn gặt hái trong một kiếp tương lai những gì họ gieo trong kiếp này. Đó là lý do tại sao chân lý về tái sinh bị loại bỏ khỏi Cơ đốc giáo chính thống như Giê-su đã giảng chi tiết trong sách của thày [The Mystical Teachings of Jesus, Những Giáo lý Thần bí của Giê-su].

Ngay cả Cơ đốc giáo chính thống cũng dạy là linh hồn vẫn còn sống sau khi xác thân vật lý chết đi. Cơ đốc giáo chính mạch không thể giải thích sự kiện có những em bé sinh ra với tật nguyền trong khi có những em khác hoàn toàn lành mạnh. Nếu theo giáo lý chính thống thì không có lời giải thích hợp lý nào cho sự kiện mà ta có thể quan sát này. Điều này đã khiến nhiều tín đồ Cơ đốc suy luận phải có một Thượng đế bất công trừng phạt trẻ thơ vô tội mà có vẻ chẳng có lý do gì cả. Sự thật là Thượng đế không hề trừng phạt bất cứ ai. Thượng đế giản dị đã thiết lập một vũ trụ vận hành như một tấm gương phản ánh lại cho con những gì con gửi ra ngoài. Khi con dùng khả năng sáng tạo của con không phù hợp với quy luật Thượng đế, con tạo một hành động mất quân bình. Hầu duy trì quân bình trong vũ trụ, tấm gương vũ trụ sẽ tạo ra một phản ứng ngược lại. Phản ứng này sẽ không hủy bỏ ngay lập tức hành động của con. Có một yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ và lý do là giúp con có thêm cơ hội để học hỏi.

Nếu không có sự trì hoãn, nhiều hành động của con sẽ tạo một phản ứng trả về sẽ giết con chết tức khắc. Vì có trì hoãn, con có thể làm lỗi mà không hủy hoại mình ngay tức khắc và nếu bị hủy hoại thì con mất đi cơ hội học hỏi. Con được cho thời gian giữa lúc con làm lỗi và dòng xung lực quay ngược về con từ vũ trụ. Con có thể tăng trưởng nhận biết để khi phản ứng trở về với con, con đã vượt thăng tâm thức đã tạo ra hành động nguyên thủy. Nếu con đã vượt lên trên tâm thức này, Thượng đế có chọn lựa để qua bên hay giảm thiểu phản ứng của vũ trụ để con tiếp tục có cơ hội tăng triển trong kiếp sống hiện thời của con mà không bị gián đoạn bởi hành vi từ một kiếp trước. Điều này hoàn toàn có lý khi con nhận ra là ước muốn duy nhất của Thượng đế là con tăng trưởng qua sự thăng vượt không ngừng trạng thái tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con. Thượng đế không phải là Thượng đế giận dữ và trừng phạt mà biết bao nhiêu tôn giáo đã mô tả.

Những hoàn cảnh mà con kinh nghiệm trong kiếp sống này không phải là sự trừng phạt của Thượng đế và cũng không phải là kết quả của trò chơi may rủi. Chúng là hậu quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong một kiếp trước qua những chọn lựa của con trong những kiếp đó. Hoàn cảnh hiện nay của con không do Thượng đế tạo ra; nó do chính tự ngã của con tạo ra và như thế con đang gặt những gì con đã gieo trong quá khứ. Nếu con không nhận ra điều con trải nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những nguyên nhân con đã khởi động trong quá khứ, làm sao con khắc phục được cảm giác con là nạn nhân của những lực ngoài tầm kiểm soát của con? Con được sinh ra để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được sinh ra để trải nghiệm dồi dào trong cuộc sống, con không thể thụ động ngồi chờ Thượng đế đặt dồi dào vào lòng con. Con phải đảm nhận một vai trò tích cực và đứng thẳng hàng với các quy luật Thượng đế, với Hiện diện TA LÀ của con, để con có thể thành cánh cửa mở cho ánh sáng Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy xuống thế giới này và biểu hiện sự dồi dào.

Hầu hết người trên thế giới ngày nay, dù được nuôi dạy trong một tôn giáo chính thống hay khoa học duy vật, đã bị lập trình để tin rằng họ là nạn nhân của những lực vượt quá tầm kiểm soát của họ. Hoặc họ là nạn nhân của một Thượng đế giận dữ và phán xét hay nạn nhân của luật thiên nhiên ngoài tầm kiểm soát của họ. Ngày nào con còn trong trạng thái tâm thức này và tin rằng con là nạn nhân bất lực của những lực ngoài tầm kiểm soát của con, thì làm sao con có thể thành một người đồng-sáng tạo và biểu hiện dồi dào trong đời sống qua những nỗ lực của con? Tất cả những gì con làm được là theo phương cách thụ động và hy vọng một phép lạ sẽ biểu hiện sự dồi dào trong cuộc đời của con.

Chính tư duy này đã khiến nhiều người rơi vào tròng của những thày giả hứa hẹn một kế hoạch làm giàu nhanh chóng. Khi con nghĩ chọn lựa duy nhất của con để đem lại dồi dào là tìm con đường tắt đem lại dồi dào qua một phép lạ kỳ diệu, thì con dễ bị lung lay bởi những lời hứa hẹn trống rỗng của những người tự nhận là họ đã tìm ra ngõ tắt như thế. Con sẽ là con mồi dễ bắt cho những kẻ tự nhận là họ có thể dạy con cách dùng tâm để thu hút dồi dào. Họ sẽ không cho con biết những hậu quả dài hạn hay nói cho con là hệ thống của họ sử dụng tâm phản Ki-tô.

13.8. Chỉ có hợp nhất với Thượng đế mới đem lại dồi dào vô tận của Thượng đế.

Mục đích của khóa học này là cống hiến cho con một con đường chân chính và khoa học dẫn tới dồi dào bền vững. Mục tiêu của thày không phải là chỉ con đường tắt dẫn tới dồi dào tạm bợ. Mục đích của thày là chỉ con đường chân chính dẫn tới đời sống dồi dào có thể duy trì mãi mãi nếu con tiếp tục ở trong tâm thức Ki-tô. Đó là lý do tại sao thày cần phơi bày sự dối trá không những của các thày giả mà còn của toàn bộ tư duy phản Ki-tô đang ngăn cản con làm tròn vai trò đúng đắn của con. Vai trò đúng đắn của con là người đồng-sáng tạo có ý thức có thể với lên cõi tâm linh và đem xuống nhiều năng lượng tâm linh hơn vào quang phổ tần số vật chất. Đây là cách duy nhất để gia tăng lượng dồi dào sẵn có trên trái đất và đơn giản là chuyện này không làm được qua tâm phản Ki-tô. Những người với tư duy phản Ki-tô không thể với lên cõi tâm linh. Khi con bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt khiến con chối bỏ sự hợp nhất của con với Thượng đế, thì làm sao con thiết lập được sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế? Điều này không thể làm được cho nên tâm phản Ki-tô không bao giờ có thể với lên cao hơn quang phổ tần số vật chất. Đời đời kiếp kiếp nó bị kết án phải lấy dồi dào từ thế gian này cho nên nó phải lấy bằng sức mạnh.

Ta có thể nói Thượng đế đã thiết lập một cơ chế an toàn khác trong thiết kế vũ trụ của ngài. Uy lực sáng tạo tối hậu là đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Điều này đơn giản không thể làm được bởi cái tâm bị mắc kẹt trong ích kỷ và có khuynh hướng dùng năng lượng tâm linh cho những mục đích vị kỷ. Tâm đó có thể tác động trên năng lượng tâm lý nhưng không thể tiếp cận năng lượng tâm linh. Chỉ có tâm đã khắc phục được ích kỷ qua cảm nhận hợp nhất với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế mới tiếp cận được dồi dào vô tận của Thượng đế.

Ngay cả những người đã đạt được một trình độ cao trong việc làm chủ năng lượng tâm lý vẫn chưa đạt được khả năng với lên cõi tâm linh và tải xuống nhiều năng lượng Thượng đế hơn. Họ thiện xảo trong việc tích tụ dồi dào bằng cách thu hút nguồn năng lượng tâm lý, là năng lượng cao hơn và dồi dào hơn chất liệu vật lý nhưng thấp hơn năng lượng tâm linh. Những người như vậy có thể biểu hiện nhiều dồi dào hơn là nếu họ chỉ làm việc ở tầng chất liệu vật lý. Con đừng lầm tưởng nghĩ rằng họ có sự điều ngự tâm linh chân chính hay họ có tâm thức Ki-tô. Dù những thành đạt của họ có vẻ đáng nể phục nhìn từ góc độ vỏ ngoài, nhưng chúng chẳng là gì cả dưới ánh sáng của sự thật Thượng đế. Đó là lý do vì sao Giê-su cảnh giác chúng ta đừng theo những tiên tri giả (Matthew 7:15) sẽ tới dưới danh hiệu Giê-su, một số trong họ có thể phô trương những dấu hiệu và điều kỳ lạ nhưng dưới bề ngoài đó họ là loài sói hung dữ vì trong tim họ không có tình thương.

Những người như vậy chẳng làm chút gì để gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới này. Họ đơn giản học được cách tác động lên năng lượng tâm lý đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Họ chỉ làm được chuyện này qua sức mạnh, có nghĩa là hoặc họ lấy năng lượng tâm lý từ người khác hoặc họ dùng năng lượng tâm lý để khuynh loát người khác làm công việc vật lý và sau đó cướp hoa trái lao động của những người này cho giới thượng lưu quyền lực. Đó là lý do tại sao sự tranh giành quyền lực thật sự trên trái đất là tranh giành năng lượng, kể cả năng lượng tâm lý.

Một lần nữa, con có hai cách để biểu hiện sự dồi dào. Con thực sự có thể theo những thày giả và dùng tư duy phản Ki-tô tạo ra dồi dào vật lý tạm bợ cho chính mình. Con có thể tích lũy của cải đồ sộ trong kiếp sống này qua cách đó. Con yêu dấu, thày giản dị nói sự thật cho con ở đây, thày hoàn toàn trung thực với con. Một số những thày giả ngoài kia đã quả thực nói sự thật khi họ nói họ đã khám phá một hệ thống để con có thể biểu hiện dồi dào bằng uy lực của tâm. Ta có thể nói họ không phải là thày giả theo nghĩa thấp là họ đưa ra một hứa hẹn giả. Họ nói với con rằng họ có một hệ thống có thể giúp con biểu hiện giàu có và lời tuyên bố đó là thật. Họ không cho con biết hậu quả lâu dài của cách làm này. Họ không nói với con là nếu con làm theo hệ thống của họ, con sẽ buộc mình vào tâm thức phản Ki-tô và con không thể tránh gặt những gì con đã gieo trong kiếp này hoặc trong một kiếp tương lai.

Thày ở đây để nói với con là có một chọn lựa khác là con có thể biểu hiện dồi dào mà không mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Đây là chìa khóa chân chính, không phải là chìa khóa cho sự dồi dào vật lý tạm bợ mà là chìa khóa cho đời sống dồi dào trường tồn, cho đời sống vĩnh cửu. Đây là chìa khóa dẫn con bước ra ngoài cái chết, vượt lên trên tâm thức chết để đi vào đời sống trường cửu của tâm thức Ki-tô. Khi con đạt được tâm thức hợp nhất này, chính là vương quốc Thượng đế, mọi thứ khác quả thực sẽ được cộng thêm cho con (Matthew 6:33).

Con yêu dấu, thày giả định là nếu con đang học khóa học này, con đã biết trong tim mình rằng con không hề muốn học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm thức phản Ki-tô. Con biết rất rõ con muốn về nhà nơi vương quốc đấng Cha và do đó con không tìm đường tắt. Thày tới con với tình thương lớn lao và thày chìa tay ra để thày có thể dẫn con và cho con một sự hiểu biết rộng lớn hơn về cách khắc phục tâm thức phản Ki-tô và biểu hiện tâm thức Ki-tô. Trong các chương tới, thày sẽ giải thích làm cách nào con đi theo tiếng gọi của Paul: “Hãy để cho tâm đó ngự trong con mà tâm đó cũng chính đã là tâm Giê-su Ki-tô” (Philippians 2:5).

11| Bài học bí mật đằng sau sự đấu tranh của con người

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 9/4/2005.

11.1. Hoàn cảnh bên ngoài phản ánh hoàn cảnh bên trong của con

Con tim yêu dấu của Mẹ, thày xin con bước lui lại và nhìn lịch sử những tương tác giữa con người trên trái đất. Thày xin con xem xét con người đã cư xử với nhau như thế nào xuyên suốt lịch sử được biết đến. Thày xin con tìm một chữ để mô tả tương tác giữa con người với nhau. Thày chắc chắn con có thể nghĩ ra nhiều từ có tính mô tả cao nhưng thày nghĩ con sẽ đồng ý với thày rằng một chữ mô tả đúng hơn hết cách con người tương tác với nhau là từ “đấu tranh”.

Một đặc tính của tương tác giữa con người là sự đấu tranh giữa các cá nhân và đấu tranh giữa các nhóm người, thậm chí đấu tranh giữa loài người và Mẹ Thiên nhiên. Con người có khuynh hướng xem mình, ngay cả đồng hóa mình như những người chống lại người khác hay thậm chí chống lại hành tinh nơi họ đang sống, hành tinh mà sự sống còn của họ tùy thuộc vào. Con có sự đấu tranh để kiểm soát đất đai, kiểm soát của cải vật chất và kiểm soát những người khác. Bây giờ thày xin con xét đến nguyên nhân chính của các đấu tranh này, của đấu tranh giành quyền lực liên tục đã tạo ra đau khổ khôn tả qua dòng lịch sử được biết đến, và thậm chí nhiều đau khổ hơn nữa trong phần lịch sử mà hiện nay khoa học gia chưa biết tới.

Lý do duy nhất đằng sau sự đấu tranh giữa con người là niềm tin không có đủ cho mọi người. Không có đủ đất đai, không có đủ tài nguyên, không có đủ thức ăn, không có đủ năng lượng. Từ đó đưa tới cảm nhận nếu con muốn có nhiều hơn thì con phải lấy từ người khác, con phải dùng sức mạnh để cưỡng đoạt. Trước đây thày có cho con hình ảnh là nếu mỗi người đều có cây đèn thần và có thể hoàn thành mọi ước muốn của mình từ ông thần trong đèn thì sẽ không có xung đột trên trái đất. Nếu tất cả mọi người có thể thành tựu ước muốn của họ mà không cần phải lấy từ người khác, sự tranh giành quyền lực sẽ chấm dứt. Ngay cả cảm nhận phải vật sẽ tan biến và biến mất như hạt sương ban mai tan theo ánh bình minh.

Ôi con yêu dấu, con thấy chăng tầm quan trọng vô cùng của khái niệm này? Con xét xem bao nhiều khổ đau gây ra bởi tranh giành quyền lực? Con xét xem hệ quả sẽ lớn lao chừng nào nếu có ít nhất một số lượng tới hạn con người được trợ giúp để khắc phục cảm nhận phải đấu tranh, khắc phục cảm nhận thiếu thốn đưa tới đấu tranh và do đó chấp nhận họ có thể có đời sống dồi dào mà không cần lấy từ người khác hay không cần cưỡng đoạt bằng sức mạnh từ Mẹ Thiên nhiên.

Thượng đế đã xây dựng một cơ chế an toàn trong chính Ánh sáng Mẫu-Vật. Cơ chế an toàn này là lực co lại tìm cách trả mọi hình tướng trở về trạng thái vô hình tướng, tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái cơ bản của nó. Bây giờ thày sẽ giải thích thật rõ ràng cho con chuyện gì xảy ra khi con người tìm cách lấy bằng sức mạnh. Nguyên lý này được mô tả bởi hầu hết mọi tôn giáo. Trong Kinh thánh con tìm thấy khái niệm gieo gì gặt nấy (Galatians 6:7). Con tìm thấy lời dạy của Giê-su: hãy làm cho người khác điều gì con muốn họ làm cho con (Matthew 7:12). Con sẽ tìm thấy khái niệm tương tự trong mọi tôn giáo và các ý này mô tả nguyên lý quan trọng nhất về cách vận hành của vũ trụ vật chất. Để mô tả điều này ngắn gọn nhất, ta có thể nói Thượng đế đã sinh tạo một vũ trụ vận hành giống như một tấm gương. Bất cứ điều gì con gửi ra dòng không gian-thời gian liên tục sẽ được tấm gương hoàn vũ gởi trả về con.

Vũ trụ được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật và như thày đã nói, Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào nhưng nó không thể tự nó tạo ra hình tướng. Ánh sáng Mẫu-Vật ngoan ngoãn khoác lên hình tướng khi một tâm có tự nhận biết tác động lên nó. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên bất cứ hình tướng nào được giữ như một hình tư tưởng trong tâm có tự nhận biết này. Bất cứ gì con giữ trong tâm con quy định hình ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và như thế hình tư tưởng này sẽ quy định hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào trong quang phổ tần số vật chất. Nếu con giữ hình tư tưởng cuộc sống là một cuộc đấu tranh, chắc chắn vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con những hoàn cảnh phản ánh niềm tin cuộc sống là đấu tranh. Chính cảm nhận đấu tranh tạo nên đấu tranh.

Luật Tự quyết không hiện hữu một mình. Thượng đế không sinh tạo một vũ trụ trong đó con có thể làm bất cứ gì mình muốn. Luật Tự Quyết hiện hữu cặp đôi với điều mà khoa học gọi là luật tác động và phản ứng. Luật này quy định là dù con có quyền phóng chiếu bất kỳ hình ảnh nào lên Ánh sáng Mẫu-Vật, con sẽ phải trải nghiệm hình tướng trong đó con đã giam cầm Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con sáng tạo điều gì thì con sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính tạo vật của con dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Điều này không những công bằng mà còn là cách duy nhất con học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con một cách tốt đẹp hơn.

Con thử tưởng tượng một vũ trụ trong đó con có thể làm bất kỳ gì mình muốn mà không bao giờ gặt hái hậu quả hành động của con. Làm sao con có thể học được gì từ việc này? Con xét xem các trẻ lớn lên với cha mẹ bảo vệ các em khỏi hậu quả của những chọn lựa của em. Các em này nhanh chóng trở nên hư hỏng vì được nuông chiều và nghĩ em có thể làm mọi chuyện mà vẫn trốn tránh được hậu quả. Các em đó càng ngày càng phá phách hơn vì em muốn cha mẹ đặt giới hạn cho những cư xử của em. Ý muốn này phát xuất từ động lực muốn học bài học trong đời sống vì con người biết nếu không có hậu quả thì không học được.

Con cũng có ý muốn mạnh mẽ muốn học bài học của đời mình. Dù tâm vỏ ngoài của con có thể chống lại quy luật gieo gì gặt nấy của Thượng đế, con người bên trong con biết ơn sự kiện Luật Nhân và Quả quy định con sẽ trải nghiệm điều con sáng tạo. Con người bên trong của con biết đây là cách học hỏi nhanh chóng cách dùng uy lực sáng tạo của mình để tạo ra trải nghiệm sống tốt nhất cho mình.

Thày hy vọng giúp con thấy dù ngay bây giờ hoàn cảnh sống của con khó khăn đến đâu chăng nữa, có một bài học ẩn giấu đằng sau. Bài học là con đã tạo ra những hoàn cảnh này trong quá khứ bằng cách tạo ra một hình tư tưởng và phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Điều này có nghĩa là con không mãi mãi bị mắc kẹt vào hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con. Bất cứ lúc nào con cũng có thể chọn thay đổi hình tư tưởng trong tâm con và phóng chiếu một hình ảnh tốt hơn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con học về các chu kỳ của năng lượng Thượng đế chảy xuyên qua các tầng của vũ trụ vật chất mà thày sẽ dạy con sắp tới, con sẽ thấy rằng chỉ là vấn đề thời gian để hoàn cảnh bên ngoài bắt đầu phản ánh những hình ảnh mới mà con giữ trong tâm con.

Cốt lõi của giáo lý của thày là nếu hiện nay con cảm thấy bị mắc kẹt trong hoàn cảnh không mong muốn, con không thật sự bị kẹt. Cảm nhận bị mắc kẹt, cảm nhận phải vật lộn chỉ hiện hữu trong tâm con người mà thôi. Khi con hiểu rộng hơn vũ trụ vận hành ra sao và hiểu rộng hơn về chính uy lực sáng tạo của con, con sẽ thấy là Thượng đế đã trao cho con quyền năng thay đổi tuyệt đối mọi hoàn cảnh, mọi giới hạn. Con có thể vượt lên trên giới hạn và biểu hiện cuộc sống dồi dào ngay đây trong thế giới này. Dù con có thể nghĩ con bị mắc kẹt trong những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con, con không bao giờ thực sự bị kẹt. Con luôn luôn có thể làm một cái gì để cải thiện hoàn cảnh của con. Dù hoàn cảnh bên ngoài là gì chăng nữa, con luôn có chọn lựa làm chủ hoàn cảnh bên trong của con, làm chủ cách con đáp ứng lại hoàn cảnh bên ngoài. Khi con nhận ra hoàn cảnh bên ngoài của con không gì khác sự phản ánh hoàn cảnh bên trong của con trong quá khứ, con biết là bằng cách thay đổi hình tư tưởng trong tâm con, chắc chắn con sẽ thay đổi điều mà tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con.

11.2. Đằng sau nhu cầu an toàn là nhu cầu được trọn vẹn

Cuộc đấu tranh của kiếp người đã kéo dài không biết bao thiên niên kỷ. Đấu tranh giành của cải vật chất, giành quyền lực hay kiểm soát, sinh ra từ cảm nhận không có đủ dồi dào trong thế giới vật lý này. Dồi dào vật chất mà ta thấy trong thế giới này không phải là một lượng cố định. Dồi dào vật chất giống như mỏm của tảng băng đá và thày chắc chắn con biết là tảng băng đá chỉ có mười phần trăm của khối lượng của nó lồi trên mặt nước. Đa phần tảng băng đá không trông thấy được và giống như vậy vật chất mà giác quan vật lý của con thấy được chỉ là một phần nhỏ của một tổng thể rộng lớn hơn. Mọi vật chất thực sự được tạo ra từ năng lượng rung động do đó dồi dào vật chất chỉ là một phần trông thấy được trong tổng lượng dồi dào trong thế giới này. Tổng lượng dồi dào trong quang phổ tần số vật chất không giới hạn trong vật chất mà con có thể thấy bằng giác quan của con. Tổng lượng dồi dào có mặt cho con người dùng tùy thuộc vào lượng năng lượng đã được đem vào hệ thống năng lượng của hành tinh trái đất.

Vật chất được tạo ra từ năng lượng và năng lượng vật lý thật ra được tạo ra từ năng lượng tâm linh vô hình đã được giam trong một hình tướng đặc thù. Vật chất là năng lượng đã bị hạ độ rung cho tới khi nó rung động trong phạm vi một quang phổ tần số nào đó. Thân vật lý của con có thể tác động trên vật chất. Vật chất đơn giản là một biểu hiện, một nối dài của những năng lượng tinh tế hơn mà giác quan vật lý của con không phát hiện được nhưng tâm của con có thể gán cho hình tướng.

Con hãy có một tầm nhìn mới về đấu tranh giành giật quyền lực của con người. Con người không chỉ ganh đua để giành giật giàu có vật chất hay của cải vật chất. Đa số những đấu tranh giữa con người không liên quan tới vật chất, nó liên quan tới cái gì đó không phải là vật chất, cái gì không phát hiện được bằng giác quan vật lý hay tiêu hóa được bởi thân thể nhưng vẫn có giá trị với con người. Cái đó là gì, chất phi vật chất đó mà con người giành giật nhau? Có phải chăng nó là những năng lượng tinh tế hơn mà giác quan không phát hiện được nhưng vẫn là một thành phần của hệ thống năng lượng của trái đất? Các năng lượng này rất cần thiết để con người cảm thấy được nuôi dưỡng, dồi dào, đầy đủ và an toàn. Con chắc có nghe câu ngạn ngữ nói rằng con người không chỉ sống bằng bánh mì, và phải chăng đây là bằng chứng con người có nhiều nhu cầu phi vật chất không thể được thỏa mãn bởi sở hữu vật chất? 

Trong nhiều trường hợp, đấu tranh giành quyền lực của con người nhằm đem lại cho họ một cảm giác nào đó. Rất nhiều người tìm cách tích lũy tiền bạc, nhưng khi con nhìn vào thế giới và những người giàu nhất, con sẽ thấy nhiều người trong số đó đã tích lũy những lượng tiền bạc khổng lồ đến độ họ không thể tiêu dùng hết cho tới cuối đời của họ. Bất cứ ai cũng có nhu cầu hữu hạn về mặt sở hữu vật chất. Con chỉ có thể mua một lượng tối đa đồ vật mà thôi, con chỉ có thể làm một số sinh hoạt tối đa nào thôi, con chỉ có thể ăn một lượng tối đa nào thôi. Sẽ tới điểm mà một người đã tích lũy đủ tiền để chu toàn tất cả những nhu cầu vật chất của y trong hết quãng đời còn lại. Con thấy rất nhiều người không thể ngừng chạy theo đồng tiền để vui hưởng số tiền họ đã có trong quãng đời còn lại. Họ bị thúc đẩy tiếp tục tích lũy thêm tiền và thêm tiền, cho dù nỗ lực tích lũy thêm tiền và bảo vệ tiền ngăn cản họ vui hưởng cuộc sống của họ. Những người này tìm gì, họ vật lộn để đạt gì? Họ vật lộn để đạt một cảm giác và cảm giác này quan trọng hơn nhiều tiền bạc hay bất cứ vui thú nào tiền có thể mua được. Họ đang vật lộn để đạt một cảm giác an toàn hay một cảm giác uy quyền, kiểm soát hay cao trội.

Trong một thời gian dài, thày rất sốt sắng tìm hiểu tâm lý con người. Là một chân sư thăng thiên, thày có khả năng nhìn vượt lên trên mọi dáng vẻ bên ngoài thường làm rối trí con người và khiến họ không thể hiểu được những gì xảy ra nơi các tầng vô thức của tâm. Cặp mắt của một sinh thể thăng thiên có thể đi xuyên thấu tất cả những màn khói che khuất lừa gạt con người. Thày thấy là đằng sau nhu cầu an toàn vỏ ngoài là một nhu cầu sâu hơn. Nhu cầu này chúng ta có thể gọi là nhu cầu được trọn vẹn.

Đây là một nhu cầu có sẵn trong chính thiết kiết của bản thể con và nó là một cơ chế an toàn khác do Thượng đế thiết kế. Mục đích của nó là ngăn ngừa không cho quyền tự quyết khiến những người đồng-sáng tạo bị lạc trong tâm thức tách biệt. Thượng đế không muốn con bị mắc kẹt trong vòng xoáy vô tận phải gặt hái hậu quả của những chọn lựa quá khứ của mình, bị các hậu quả này quy định những chọn lựa hiện tại của con, tạo thêm những hậu quả mới mà con không tránh được. Khi Thượng đế thiết kế dòng sống của con, nó được thiết kế để luôn tìm cầu sự trọn vẹn, y như Ánh sáng Mẫu-Vật được thiết kế để luôn đi tìm sự cân bằng của trạng trái nền của nó. Thượng đế không sinh tạo sự thiếu thốn hay khổ đau trên trái đất: các thứ này do tâm thức tập thể của nhân loại tạo ra sau khi con người đánh mất sự nối kết trực tiếp với cái ta tâm linh của họ, Hiện diện TA LÀ của họ. Khi nối kết này bị mất, dòng sống trải nghiệm một cảm nhận không trọn vẹn, một cảm nhận cô đơn, thậm chí một cảm nhận bị bỏ rơi. Điều này khiến dòng sống dấy lên ý muốn tái thiết lập lại sự trọn vẹn trước kia, sự đầy đủ trước kia của nó.

Con người quả thật không có ham muốn tích lũy nhiều hơn một lượng của cải vật chất nào đó. Con người không ham muốn trải nghiệm nhiều hơn một lượng thú vui thân xác nào đó. Một dòng sống có ý muốn trải nghiệm cuộc sống trong vũ trụ vật chất. Nó có thể thực hiện những mong muốn đó qua một số trải nghiệm hữu hạn hay một số sở hữu hữu hạn. Điều tạo ra khao khát không bao giờ thỏa mãn được, khao khát có thêm sở hữu, có thêm thú vui, có thêm quyền lực hay bất cứ gì khác mà con người mong muốn, thực sự là ước muốn sâu thẳm được trọn vẹn. Vì những người đồng-sáng tạo không thấy được bản chất thật của ý muốn đó và mục đích của ý muốn đó, họ tìm cách thỏa mãn ý muốn đó bằng những vật mà họ thấy được, những sinh hoạt họ trải nghiệm được. Vì các dòng sống đã quên cội nguồn tâm linh của họ và quên mục đích xuống trái đất của họ, họ không hiểu mong muốn thật của họ là gì. Vì những người đồng-sáng tạo không thấy được họ đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn trong đó họ đã đánh mất sự trọn vẹn trước kia của họ, sự thánh thiện trước kia của họ như là những sinh thể tâm linh, như là con trai và con gái của Thượng đế, họ không hiểu ra là mong muốn thật của bản thể họ là tìm lại sự trọn vẹn. Vì họ không thấy cái ta tâm linh của họ, họ không hiểu là khao khát mà họ cảm thấy là khao khát được trọn vẹn, khao khát này chỉ thỏa mãn được khi họ tái thiết lập sự nối kết với cái ta tâm linh của họ. Thay vì đi tìm vương quốc Thượng đế và sự công chính của Ngài qua đó tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho họ (Matthew 6:33), họ tìm cách thỏa mãn những mong muốn của họ bằng những vật họ có thể thấy trong thế gian này. Họ tìm cách xây dựng an toàn bên ngoài thay vì trọn vẹn bên trong

Nhiều người tìm cách thiết lập lại sự trọn vẹn bên trong bằng cách tích lũy của cải vật chất, qua đó họ xây dựng một cảm giác an toàn vật chất. Một số người đi tìm an toàn bằng cách có quyền lực trên người khác vì họ nghĩ rằng điều đó giúp họ cảm thấy trọn vẹn. Đằng sau mọi động lực muốn có của cải hay trải nghiệm bên ngoài là động lực tích lũy năng lượng. Khi dòng sống có sự kết nối đúng đắn với Hiện diện TA LÀ, nó cảm thấy một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục tuôn chảy vào mọi tầng của bản thể nó trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ. Đây là một dòng chảy tâm linh khiến dòng sống cảm thấy trọn vẹn và cảm thấy mình là một với Dòng sông sự Sống là tạo vật của Thượng đế. Dòng sống cảm thấy nó là một thành phần của cái Tất cả của Thượng đế thay vì đơn độc và không trọn vẹn. Dù người đồng-sáng tạo không ý thức chuyện gì đang xảy ra, nó có một động lực bên trong muốn có được năng lượng. Nó biết chìa khóa để thiết lập lại cảm giác trọn vẹn là năng lượng. Vì nó không hiểu cội nguồn thật và bản sắc thật của nó, một lần nữa nó nghĩ là nó phải lấy năng lượng từ thế gian và dùng năng lượng thế gian để tái thiết lập trạng thái trọn vẹn.

Năng lượng trong thế gian có tần số thấp hơn năng lượng trong cõi tâm linh. Dù con tích lũy bao nhiêu năng lượng vật chất chăng nữa, dòng sống của con sẽ không cảm thấy trọn vẹn. Cố gắng thiết lập lại trạng thái trọn vẹn bên trong bằng cách tích lũy của cải vật chất hay năng lượng vật chất là chuyện không khả thi, giống như tìm cách lắp đầy một lỗ đen không đáy. Đơn giản là điều này không thể làm được và như vậy dòng sống cố tìm cầu một điều không khả thi cho đến khi nó nâng cao hiểu biết và ngừng làm điều không khả thi. Điều duy nhất có thể tái lập cảm giác trọn vẹn là tái thiết lập nối kết trực tiếp, có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Lúc đó, con sẽ cảm thấy năng lượng tâm linh có tần số cao tuôn chảy từ Hiện diện TA LÀ xuyên qua mọi tầng của bản thể con. Con biết là con ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống, và chỉ khi con ở trong dòng chảy này thì con mới cảm thấy trọn vẹn và đầy đủ trong chính mình. Con biết là con không cần gì từ bên ngoài con vì con có Dòng sông sự Sống tuôn chảy bên trong bản thể của con.

11.3. Con phải trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế

Hãy để thày trở lại hình ảnh cây đèn thần. Nếu con có một cây đèn thần và nếu tất cả điều con cần làm là chà cây đèn và ông thần sẽ nhảy ra và hoàn thành mọi ước muốn của con, con có cảm nhận là cuộc sống trên trái đất là một sự vật lộn nữa chăng? Con có còn mất sức cạnh tranh với người khác để có được một lượng của cải vật chất hữu hạn chăng?  Con có còn mất sức tìm cách lấy của người khác nếu con có thể lấy được từ một nguồn cung cấp vô tận ở bên trong con? Phải chăng là con sẽ muốn chà cái đèn và ra lệnh cho ông thần hoàn thành các mong muốn của con bằng cách cho con năng lượng cần thiết, ngay cả năng lượng đã khoác vào hình dạng của vật chất vật lý?

Mọi điều thày đã giảng cho con cho tới điểm này có mục đích chỉ cho con thấy là quả thực con có một cây đèn thần. Thay vì tìm cách giải quyết đời sống của con bằng cách đổ mồ hôi trên trán (Genesis 3:19), bằng cách dùng sức mạnh để lấy từ người khác hay lấy từ Mẹ thiên nhiên, con có chọn lựa khác là đi vào bên trong và thiết lập lại nối kết với Hiện diện TA LÀ. Bằng cách trước hết đi tìm vương quốc Thượng đế, vương quốc mà Giê-su nói là nó ở bên trong con, con sẽ có thể nhận được từ nguồn dồi dào vô tận của Thượng đế thay vì nguồn dồi dào hạn chế từ thế gian này. Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của đấng Sáng tạo của con và Hiện diện TA LÀ nhận được năng lượng vô tận của đấng Sáng tạo sẵn có vô điều kiện trong cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con sẽ cho con tất cả năng lượng tâm linh cần có để hoàn thành tất cả mong muốn thực của con trong thế giới vật chất này. Hiện diện TA LÀ còn cho con ngay cả năng lượng tâm linh mà tâm con có thể nhận được trong một dạng có thể trở thành vật chất.

Để nhận được năng lượng này, con phải thiết lập lại ống dẫn và mở rộng nó để cái ta vỏ ngoài của con, tâm ý thức của con trở thành cánh cửa mở qua đó ánh sáng của Thượng đế, Mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con, có thể tỏa sáng xuống thế gian này và xua tan bóng tối đang khiến con cảm thấy thiếu thốn, trống rỗng, không trọn vẹn, thậm chí không có giá trị. Con yêu dấu, nếu con có thể hoàn toàn thấm nhập và chấp nhận lời dạy này, con có tiềm năng hoàn toàn xoay chuyển cuộc đời mình và đặt mình vào hướng đi có thểsẽ dẫn con tới thành tựu tối hậu mà con tìm cầu, là cảm giác trọn vẹn ở bên trong. Con có cảm giác này khi con biết điều Giê-su diễn tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30).

11.4. Cho và nhận vô điều kiện

Chắc là con đã nhận ra điều mà con người tìm cầu không phải là của cải vật chất mà là một cảm giác nội tại. Có thể con thấy cảm giác này là hạnh phúc, được toại nguyện hay ngay cả tâm an bình. Điều mà con thật sự tìm cầu là sự trọn vẹn và cái trọn vẹn này con có được bất cứ lúc nào. Hầu tìm thấy và thiết lập cảm giác trọn vẹn, con phải quay hướng chú ý của con về bên trong. Thày biết rất rõ con lớn lên trong một xã hội đã lập trình để con tin rằng nếu con có một nhu cầu hay một ước muốn thì con phải đi tìm cái gì đó ở bên ngoài con để thỏa mãn nó. Con đã lớn lên trong một nền văn hóa tiêu thụ lập trình con đi tìm một sản phẩm hay một dịch vụ để thỏa mãn ước muốn của mình. Bản chất của nền văn hóa tiêu thụ này là có người muốn bán con điều gì đó. Đằng sau đó là ý muốn sâu hơn muốn kiểm soát con qua những nhu cầu của con. Bản chất của văn hóa này thực sự là muốn cổ xúy niềm tin thế giới này là một thế giới thiếu thốn và con không có đủ ở bên trong mình để cảm thấy trọn vẹn và mãn nguyện. Con cần trao đổi điều gì đó với người khác và qua nhu cầu đó, người khác hay định chế khác có thể ảnh hưởng con, ngay cả kiểm soát con. Khi Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở bên trong con thì ông hoàng thế gian và tay sai của y quyết định giết Giê-su. Họ không muốn Giê-su tiếp tục giảng dạy bí mật duy nhất mà các lực thế gian không muốn con biết. Bí mật này là sự thật muôn đời là chìa khóa thật để thỏa mãn mọi ước muốn của con, chìa khóa thật để trải nghiệm cuộc sống dồi dào của Thượng đế, là ngừng đi tìm dồi dào bên ngoài con. Để tìm thấy dồi dào, tìm thấy trọn vẹn, con phải đi vào bên trong con, con phải đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con và qua đó con khám phá chìa khóa thật cho con cuộc sống dồi dào, đó là Hiện diện TA LÀ của con và ánh sáng tâm linh chiếu rọi qua Mặt trời bản thể của con.

Khi con nhận chân chân lý này, con trở nên tự đầy đủ trong tâm linh và do đó con không cần bất cứ gì khác từ bất cứ nguồn nào bên ngoài con. Con không còn cần bất cứ gì từ bất cứ người nào hay bất cứ định chế, tổ chức hay cơ sở thương mại nào của con người. Con thật sự độc lập theo nghĩa tâm linh. Ở đây thày không nói là con sẽ không cần hay không muốn tương tác với người khác. Thày nói là tương tác của con với người khác sẽ có một mục tiêu và mục đích hoàn toàn mới. Thay vì tương tác với người khác dựa trên cảm giác thiếu thốn, giờ đây con sẽ tương tác với người khác dựa trên cảm nhận dồi dào nội tại. Thay vì tìm cách lấy từ người khác bằng sức mạnh, con sẽ tìm cách cho người khác. Điều này không có nghĩa là con sẽ không bao giờ nhận bất cứ gì từ người khác vì con sẽ thường xuyên cho phép Thượng đế thỏa mãn những nhu cầu của con xuyên qua người khác. Khi làm vậy, con không đến từ trạng thái thiếu thốn khiến con cảm thấy thiếu hụt hay cảm thấy người khác nợ mình cái gì đó. Con sẽ không lo sợ người khác không hợp tác và con không muốn dùng sức mạnh để bắt người khác cho con cái mà con cần để cảm thấy trọn vẹn.

Con đã hiểu nguyên lý là đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc và Ngài cho con vô điều kiện nếu con sẵn sàng nhận nó vô điều kiện, nghĩa là con nhận mà không sợ hãi hay không mong chờ hay dính mắc dựa trên sợ hãi, và sau đó con chia sẻ vô điều kiện những gì con nhận vô điều kiện (Matthew 10:8). Khi một nhóm người ở trong trạng thái tâm thức này, họ sẽ cho lẫn nhau và khi làm vậy họ nhân lên khả năng của họ vượt lên trên bất cứ gì mà từng cá nhân riêng rẽ có thể đạt được. Điều này sẽ càng mang thêm dồi dào của Thượng đế vào xã hội của họ qua đó cuộc sống trở thành vòng xoáy đi lên cứ tiếp tục tăng thêm dồi dào cho tất cả.

Ôi con yêu dấu, đây là tiềm năng thật sự của xã hội con người, nghĩa là con người tập hợp với nhau để nhân lên khả năng của mỗi cá nhân và góp chung khả năng của mọi người để tổng thể trở nên nhiều hơn tổng số của các thành phần. Khi con người cho và nhận trong tinh thần vị tha, thì họ thiết lập lại sự nối kết đúng đắn với Thượng đế. Thượng đế quả thực sẽ nhân lên khả năng của họ, sẽ thật sự làm cho họ trở thành người cai quản nhiều thứ và luôn cả mang thêm dồi dào vào thế gian này. Một xã hội có thể bước vào vòng xoáy đi lên đem lại một thời đại hoàng kim của hòa bình, thịnh vượng và dồi dào cho tất cả mọi thành phần của xã hội đó. Điều này đã từng được biểu hiện trong một số nền văn minh quá khứ và một số nền văn minh đã có thể duy trì một thời đại hoàng kim như thế trong một thời gian rất dài cho tới khi con người rốt cuộc bắt đầu đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn.

11.5. Con chọn đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con

Hãy để thày giải thích cho con chọn lựa con cần lấy, chọn lựa con sẽ chọn mục tiêu gì cho phần còn lại của cuộc đời con. Tất cả vật chất có sẵn cho con người dùng trên trái đất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn. Vật chất đơn giản chỉ là mỏm của tảng đá băng của tổng số năng lượng có thể có được trong quang phổ tần số vật chất. Hầu hết năng lượng này chưa được dùng như năng lượng vật lý giống như sức nóng hay điện lực. Nó có mặt như năng lượng tâm lý có nghĩa là năng lượng lý trí và năng lượng tình cảm. Tổng lượng của dồi dào vật chất mà con người có thể sử dụng trong thế giới này không chỉ tùy thuộc vào chất vật lý mà tùy tuộc vào tổng số năng lượng có mặt trong quang phổ của tần số vật chất mà một số nhà khoa học gọi là dòng không gian-thời gian liên tục.

Ngay cả vật chất vật lý cũng là năng lượng bị giam vào một khuôn đúc. Nó là biểu hiện của Ánh sáng Mẫu-Vật, bị giam vào một hình tướng vì một tâm có tự nhận biết đã áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Trước khi Ánh sáng Mẫu-Vật bị hạ độ rung xuống và trở thành vật chất vật lý, trước tiên nó được hạ độ rung xuống quang phổ tần số của cái mà thày gọi là năng lượng tâm lý. Trước đó, Ánh sáng Mẫu-Vật rung động với tần số cao hơn của cõi tâm linh.

Sự dồi dào mà con người dùng được trong thế giới vật chất có tỉ lệ thuận với tổng số năng lượng có mặt trong toàn bộ hệ thống năng lượng của trái đất. Tổng số này bao gồm những tần số cao hơn tần số của vật chất vật lý nhưng vẫn chưa cao bằng tần số trong cõi tâm linh. Năng lượng này có thể biểu hiện dưới dạng vật chất vật lý hay năng lượng vật lý như điện lực hay ánh sáng mặt trời, hay nó có thể được biểu hiện như năng lượng tâm lý mà giác quan không phát hiện được nhưng có thể cảm nhận được dưới dạng năng lượng tình cảm và lý trí, cảm xúc và tư tưởng. Các nhà khoa học đã nói với con rằng mọi thứ đều là năng lượng có nghĩa là không gì hiện hữu mà không phải là năng lượng. Con biết rõ là con có cảm xúc và tư tưởng. Cả cảm xúc lẫn tư tưởng của con phải là những dạng năng lượng đúng theo định nghĩa của khoa học. Dù con không thể phát hiện một cách vật lý năng lượng tâm lý, con biết nó hiện hữu vì con trải nghiệm nó như một thực tại trong cảm xúc và tư tưởng của con. Con có thể đi vào tim mình và có cái biết nội tại rằng để có được dồi dào, chỉ dùng thân vật lý của con mà thôi không đủ. Con cũng cần dùng tâm của con để thu lượm năng lượng tâm lý, học cách chuyển năng lượng này thành vật chất mà con mong muốn. Điều này dẫn chúng ta tới điểm mấu chốt là điểm thày giảng cho con chọn lựa mà con đối mặt. Con có hai chọn lựa. Hầu biểu hiện nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống của con, con có thể dùng phương cách mà hầu hết người trên hành tinh này chọn. Con có thể tìm cách tích lũy một lượng chất liệu vật chất và năng lượng tâm lý lớn hơn từ kho năng lượng đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Con có thể tìm cách tích lũy bằng cách lấy dồi dào từ một kho năng lượng và vật chất hữu hạn.

Hậu quả của cách tiếp cận này là con phải dùng sức mạnh để tích lũy năng lượng và của cải vật chất. Trong nhiều trường hợp con phải tích lũy bằng cách lấy từ người khác hay từ Mẹ Thiên nhiên và cả hai có thể không chịu cho con mà không chống trả. Điều này sẽ tạo ra đấu tranh giữa con và người khác hay giữa con và thiên nhiên. Con sẽ phải giải quyết mưu sinh của con bằng mồ hôi nước mắt của mình. Con sẽ phải dùng sức mạnh để tích lũy của cải và con sẽ phải dùng sức mạnh liên tục để bảo vệ của cải khỏi các lực khác tìm cách lấy của con.

Nếu ai ai cũng tìm cách tích lũy dồi dào từ cùng một kho hữu hạn, nếu ai ai cũng tìm cách lấy được phần to hơn từ cùng một ổ bánh, thì con sẽ phải đấu tranh liên tục để đạt được và duy trì sự dồi dào của mình. Cơ chế an toàn có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tìm cách đem mọi năng lượng trở về trạng thái nền của nó, và điều này cũng sẽ tạo ra một lực tìm cách lấy đi những gì con đã lấy bằng sức mạnh. Khi con tìm cách lấy bằng sức mạnh, con đặt mình trong vị thế xung đột với tất cả mọi người khác đang dùng cùng phương cách và xung đột với chính Mẹ Thiên nhiên.

Thày chắc chắn con thấy được giới hạn của phương cách này. Thày chắc chắn con có thể thấy được trong tim con là cho dù con thành công trong việc tích lũy của cải vật chất đồ sộ, trạng thái dồi dào này sẽ không vĩnh viễn và do đó nó không là dồi dào thật sự. Con không thật sự có dồi dào với phương cách này.

Phương cách thứ nhì là con hoàn toàn trong lọc tâm con khỏi cảm giác thiếu thốn khiến con tin rằng cách duy nhất để tích lũy dồi dào là bằng sức mạnh và đấu tranh. Con có thể chọn đi theo gương của Giê-su và các thày tâm linh khác là đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con, đạt được trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, với đấng Cha tâm linh của con và sau đó cho phép ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào bản thể của con và vào thế gian, biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trong đời mình.

11.6. Con ở đây để gia tăng tổng lượng ánh sáng trong thế giới vật chất

Nếu con theo phương cách thứ nhì, thì con không tranh đua để tích lũy giàu có đến từ một lượng hữu hạn. Con không tranh đua để lấy một phần to hơn của cùng chiếc bánh. Con mở đường kết nối với sự dồi dào vô tận của Thượng đế và con cho Thượng đế niềm vui ban cho con vương quốc của ngài bằng cách gia tăng cái bánh. Cõi tâm linh không có giới hạn và do đó lượng năng lượng tâm linh mà Hiện diện TA LÀ của con có thể cho tuôn chảy qua bản thể của con cũng không có giới hạn. Giới hạn duy nhất là con có thể nhận được bao nhiêu năng lượng tâm linh qua tâm vỏ ngoài của con.

Khái niệm này là nguồn gốc của huyền thoại chiếc Chén Thánh. Chiếc Chén Thánh là một chiếc chén nhưng thật ra chiếc Chén Thánh là biểu tượng cho chiếc chén có thể chứa dồi dào của Thượng đế dưới dạng ánh sáng tâm linh. Ý nghĩa thật của huyền thoại này là tâm con, bản thể con được sinh ra để trở thành chiếc chén có khả năng chứa ánh sáng tâm linh đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Thượng đế sẽ không cho phép ngọc trai của ngài được quăng trước bầy heo (Matthew 7:6). Thượng đế sẽ không cho phép sự dồi dào của ngài bị chôn dưới đất (Matthew 25:18) hay bị rơi xuống đất khô cằn (Matthew 13:5). Thượng đế sẽ không cho con dồi dào cho tới khi con chứng minh con đã trung tín trong một số chuyện (Matthew 25:21), cho tới khi con chứng minh bản thể thấp của con đã trở thành một chén thánh sẽ dùng đúng đắn dồi dào này để con có thể là người quản lý minh triết những gì Thượng đế đã ban cho con.

Con có hai chọn lựa. Con có thể tìm cách biểu hiện cuộc sống dồi dào bằng cách lấy từ lượng năng lượng hữu hạn đang có trong quang phổ tần số vật chất. Hay con có thể tìm cách nhận dồi dào trực tiếp từ lượng vô hạn có trong cõi tâm linh. Nếu con lấy chọn lựa đầu, thì con sẽ không làm gì cả để gia tăng lượng dồi dào đang có trên trái đất. Con chỉ có thể tích lũy dồi dào cho riêng mình bằng cách lấy vật chất hay năng lượng tâm lý từ người khác. Nếu con lấy chọn lựa thứ nhì, thì không những con nhận dồi dào cho bản thân, con cũng đem thêm dồi dào vào thế gian và qua đó con gia tăng tổng số năng lượng mà mọi người có thể dùng. Khi con theo đuổi dồi dào cho riêng mình, thì con cũng gia tăng dồi dào cho toàn thể, và đây đúng thực là ý nghĩa của nhân lên tiền ta lăng của con, là nhân lên tổng lượng dồi dào trong thế giới.

Điều con đang làm thật sự là gia tăng tổng lượng ánh sáng trong thế giới vật chất và qua đó con đóng góp công sức cá nhân vào việc biến thế giới này thành vương quốc Thượng đế. Đây là lý do thực sự của sự hiện hữu của con. Con được thiết kế để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế bằng cách đem ánh sáng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất, dùng ánh sáng để xô đuổi bóng tối bằng cách tạo ra những hình tướng đẹp và quân bình toàn hảo, là biểu hiện các quy luật và sự toàn hảo của Thượng đế. Khi con làm tròn vai trò được quy định này thì Thượng đế sẽ biến con thành người cai quản nhiều việc vì con đã trung tín trong một số việc nhỏ, với một lượng ánh sáng tâm linh hữu hạn. Khi con làm tròn vai trò này, con sẽ nghe những lời nói về Giê-su: “Đây là người con trai hay người con gái yêu dấu của Ta, đẹp lòng ta mọi đằng” (Matthew 3:17).

11.7.  Niềm vui trở thành người đồng-sáng tạo với Thượng đế

Con hãy để thày cho con một chân lý sẽ giúp con dừng lại và chọn dễ dàng hơn giữa hai chọn lựa – nếu con chưa chọn. Thày có nhắc đến một số trong số đông đảo các đạo sư trong thế gian tuyên bố là họ có thể dạy con cách tích lũy nhanh chóng và dễ dàng tất cả tiền bạc mà con mong muốn. Thày có đề cập tới một số những vị này như đạo sư giả và thày sẽ giải thích tại sao họ là thày giả.

Tâm của con, có nghĩa là tâm có ý thức và tâm tiềm thức của con, có khả năng bẩm sinh áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và qua đó khiến ánh sáng đó khoác vào hình tướng do hình ảnh quy định. Qua uy lực của tư tưởng, con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đã được hạ xuống quang phổ tần số vật chất. Qua uy lực của cảm xúc, con khiến năng lượng đó chuyển động và con định hướng nó, và điều này khiến năng lượng đó hạ xuống quang phổ tần số vật chất vật lý để nó thể hiện như một thực tại trong đời sống của con.

Giê-su đã đạt được một trình độ làm chủ vật chất rất cao. Giê-su có khả năng chữa lành cho người bệnh, thậm chí thay đổi cấu trúc phân tử và nguyên tử của thân thể một người và làm cho tế bào bệnh được chữa lành tức khắc và được trọn vẹn trở lại. Giê-su có khả năng biến nước thành rượu và nhân lên các ổ bánh và số lượng cá. Đây là một khả năng có sẵn trong tâm con. Hầu hết con người trên trái đất rất xa trình độ làm chủ vật chất mà Giê-su đã chứng minh. Mọi người trên trái đất đều có khả năng làm chủ vật chất này, và đó là lý do tại sao Giê-su nói những ai tin thày sẽ làm được những việc thày đã làm (John 14:12).

Có hai cách để đạt tới sự làm chủ vật chất này. Có con đường thấp và con đường cao. Sự làm chủ vật chất mà Giê-su chứng minh rõ ràng là con đường cao vì Giê-su nhận ra là chính thày, tự bản thân mình không làm được gì cả nhưng chính đấng Cha, Hiện diện TA LÀ ở trong thày đã làm việc. Khi con nhận ra Hiện diện TA LÀ của con là nguồn gốc thật, là người làm việc thật trong cuộc sống của con, con đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và thẳng hàng với ý định sáng tạo của Thượng đế. Thiết kế của Thượng đế cho vũ trụ này là tạo ra một môi trường trong đó tất cả các người đồng-sáng tạo với Thượng đế, tất cả những sinh thể tự nhận biết, có thể sống hòa hợp với nhau và hòa hợp với tổng thể. Khi con dùng uy lực sáng tạo của con đến mức tối đa, con đem nhiều dồi dào hơn vào thế giới này và do đó con khuếch trương cái tất cả mà không lấy từ ai khác.

Con có thể dùng uy lực có sẵn trong tâm con để khuynh loát năng lượng của Thượng đế và tích lũy dồi dào cho mình mà không gia tăng tổng số dồi dào trong thế giới này. Lúc ấy con dùng uy lực của tâm con để thu hút về mình nhiều năng lượng và dồi dào vật lý hơn từ kho năng lượng đã có mặt trong hệ thống năng lượng của trái đất. Khi làm vậy, con phải lấy từ những thành phần khác của cuộc sống và con tước đi năng lượng từ những người này và từ tổng thể của cuộc sống.

Một số người khá đông trên hành tinh này đã đạt được khả năng rất cao trong việc thu hút năng lượng và giàu có vật chất về cho họ bằng cách tước đoạt bằng sức mạnh, bằng cách lấy từ số lượng dồi dào hữu hạn có mặt trong thế giới vật chất. Họ làm thế mà không hề quan tâm tới ảnh hưởng của hành động của họ trên những người khác hay trên trái đất Mẹ. Những dòng sống này đã hoàn toàn từ bỏ mọi quan tâm tới tổng thể hay ý định sáng tạo của Thượng đế. Họ xem mình tách biệt khỏi Thượng đế và đứng ra ngoài Thân thể Thượng đế. Họ tin rằng họ thuộc thành phần thượng lưu quyền lực có quyền làm bất cứ gì họ muốn, không cần biết hành động của họ ảnh hưởng các thành phần khác của cuộc sống ra sao. Họ tin rằng họ có quyền biến người khác thành nô lệ hay nông nô oằn lưng làm việc trên trái đất để sản xuất sự giàu có cho giới thượng lưu quyền lực. Nếu con nhìn vào lịch sử, con sẽ thấy trong mọi nền văn hóa và nền văn minh mà con người biết tới, sự hiện hữu của giới thượng lưu này và sự thành công của họ trong việc kiểm soát đại chúng và bắt đại chúng làm việc để đem lại cho giới thượng lưu này số lượng giàu có vật chất, quyền lực, hưởng thụ, đặc quyền và năng lượng quá đáng.

Thày có hai mục đích khi nói điều này với con. Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào của Thượng đế, con phải giải thoát mình khỏi tư duy của giới thượng lưu quyền lực này. Con phải tách ra khỏi họ và trở thành một nhóm người đứng tách ra và được chọn lựa, và thày sẽ giải thích cặn kỹ hơn điểm nay trong các bài sau. Bây giờ, mục đích quan trọng nhất của lời dạy của thày là khiến con nhận biết là giới thượng lưu này, giới thượng lưu quyền lực này, đã đạt được khả năng thu hút năng lượng tâm lý và sự giàu có vật chất cho chính họ. Họ làm chuyện này bằng cách dùng uy lực có sẵn trong tâm con người để lấy năng lượng từ những thành phần khác của cuộc sống. Không cần phải nói, đây là một sự vi phạm các quy luật của Thượng đế và do đó nó là một sự lạm dụng những uy lực sáng tạo của con người. Điều quan trọng là con hiểu rằng con thực sự có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình. Con cần hiểu điều này vì chỉ khi hiểu rồi con mới tránh bị gạt bởi các lời hứa hẹn của những người tự phong cho mình là đạo sư dạy phát đạt và hứa hẹn rằng nếu con theo họ, con có thể tích lũy giàu có bằng đường tắt.

Đoạn trước thày có nói là những chương trình làm giàu nhanh chóng giản dị không thành công và đó là sự thật. Có những người đã khám phá những cách khuynh loát năng lượng tâm lý và vật chất qua uy lực của tâm, qua đó họ có thể tích lũy một lượng giàu có đồ sộ, thông thường bằng cách ảnh hưởng người khác. Hầu hết những người này dùng khả năng này để tiếp tục tích lũy giàu có, nhưng một số trong số họ đã đặt mình vào vị trí làm thày, tuyên bố rằng họ có thể dạy con cách tích lũy giàu có giống như cách họ đã làm. Con yêu dấu, con thấy chăng cái vi tế ở đây? Những người này đem chính họ và những người giàu nhất và thành công nhất trên thế giới làm bằng chứng là hệ thống của họ sẽ đưa tới thành công. Một số trong các hệ thống đó hiệu quả, nhưng hầu hết sẽ cần một thời gian dài để học cách khuynh loát năng lượng và do đó không phải là một cách làm giàu nhanh chóng. Quả thực con có thể tích lũy giàu có bằng cách dùng uy lực có sẵn trong tâm con. Nếu con chỉ đo lường thành công dựa trên số lượng giàu có một người đã tích lũy được, con sẽ dễ bị kẹt trong ý nghĩ là con phải theo gương những người giàu có nhất trên trái đất. Con có thể dễ dàng tin những lời hứa hẹn của những ông thày dạy thành công này và họ sẽ dạy con cách lấy được dồi dào bằng sức mạnh.

Con có thể học cách dùng uy lực của tâm để tích lũy giàu có qua sức mạnh, tích lũy dồi dào bằng cách lấy từ người khác, bằng cách khuynh loát hệ thống. Thày sẽ luôn luôn tôn trọng Luật Tự quyết. Nếu con thật sự có nhu cầu trải nghiệm mình cảm thấy thế nào khi lấy dồi dào bằng sức mạnh và qua đó bị kẹt trong vòng xoáy vô tận tìm cầu tích lũy thêm và bảo vệ của cải thì thày là ai mà cản không cho con có trải nghiệm đó. Thày muốn bảo đảm chắc chắn là thày đã giải thích cho con hậu quả của việc tích lũy giàu có theo cách này. Thày đã nói với con là Luật Tự quyết có đầu bên kia là Luật Nhân và Quả. Khi con tìm cách tích lũy giàu có bằng sức mạnh, quả thực con sẽ kích hoạt những nguyên nhân sẽ quay trở về con như những hậu quả và chúng sẽ tìm cách lấy đi những gì con đã tìm cách sở hữu bằng sức mạnh.

Ánh sáng Mẫu-Vật có một cơ chế sẵn có để phân hủy mọi hình tướng bằng cách trở về trạng thái nền của nó. Con có thể dùng uy lực của tâm con để ép Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng. Khi làm thế, con tạo ra sự mất quân bằng trong Ánh sáng Mẫu-Vật vì con tạo ra một hình tướng không dựa trên nguyên lý mà Thượng đế đã dùng. Khi tạo ra mất quân bằng, Luật Nhân và Quả, luật hành động và phản ứng sẽ tự động tạo ra một lực đối chọi mạnh bằng lực đã tạo ra nó. Với mỗi hành động của con để lấy giàu có bằng sức mạnh, vũ trụ sẽ phát sinh một phản ứng tìm cách lấy đi giàu có của con. Mục đích là trái đất trở về sự quân bình và Ánh sáng Mẫu-Vật có thể trở về trạng thái nền của nó. Khi dùng sức mạnh, con có thể duy trì hình tướng mất quân bình của con trong một thời gian, nhưng điều này đòi hỏi con phải đấu tranh liên tục về phía con, một sự đấu tranh sẽ lấy đi sự chú ý và năng lượng của con cho những sinh hoạt khác. Với một số người, sự đấu tranh này ngăn họ thụ hưởng sự giàu có của họ, hay nó có thể nuốt trọn cuộc đời họ. Lẽ tất nhiên đấu tranh này ngăn cản không cho họ tăng triển tâm linh.

Nếu con muốn trải nghiệm cảm giác đấu tranh này, thì Thượng đế đã cho con quyền sáng tạo trải nghiệm này trong cuộc sống của con. Con có thể tiếp tục trải nghiệm đấu tranh trong một thời gian rất dài. Thày hy vọng là khóa học này sẽ cho con cảm hứng để nhận ra con quả thực không muốn bị kẹt trên cỗ máy chạy bộ của hành động và phản ứng này, rằng con quả thực không muốn bị nuốt trọn bởi đấu tranh quyền lực nhân phàm liên tục này. Thày hy vọng con sẽ thấy con được niềm vui lớn hơn rất nhiều khi con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, thiết lập lại nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và cho phép ánh sáng mặt trời của Hiện diện của con sáng tỏa qua bản thể của con. Niềm vui sẽ lớn hơn rất nhiều khi con tham gia vào kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế về vũ trụ này, khi con trở thành người đồng-sáng tạo với Thượng đế và qua đó cho phép uy lực của Thượng đế bên trong con biểu hiện cuộc sống dồi dào trường tồn. Niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi nhận đời sống dồi dào trực tiếp từ Trên cao thay vì lấy dồi dào từ những thành phần khác của cuộc sống bằng sức mạnh. Niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi tìm cầu dồi dào theo đường dọc thay vì theo đường ngang.

Thày hy vọng thày đã tạo cảm hứng cho con đi sâu vào trong tim và xem xét hai chọn lựa mà thày đã đưa ra cho con. Con muốn chăng bỏ hết phần còn lại của cuộc đời mình vào một cuộc đấu tranh để có một lượng dồi dào hữu hạn? Hay con muốn chuyển hướng cuộc đời mình để con có thể là một thành phần của Dòng sông sự Sống đem lại nhiều dồi dào hơn vào thế giới này? Nếu con chọn chọn lựa đầu, thày không làm được gì thêm cho con và khóa học không dạy con được điều gì có giá trị. Nếu con chọn chọn lựa thứ nhì, thày sẽ dạy con cách thiết lập lại và mở rộng nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con. Thày sẽ chỉ con cách để mở cửa xả nước lũ cho phép Dòng sông sự Sống tuôn chảy qua bản thể con và biểu hiện dồi dào thật sự, dồi dào mà các lực của thế gian không thể lấy đi. Khi con đã chọn lựa chấp nhận dồi dào từ trên Cao thì con hãy theo thày bước tới chương kế tiếp.

 

9 | Mang ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 8/4/2005.

9.1. Vũ khúc hoàn vũ

Con tim yêu dấu của Mẹ, giờ đây chúng ta tới một bước ngoặt trong loạt bài giảng này. Thày đã cho con một số ý có vẻ bí truyền và hơi rời rạc. Mỗi ý và ngay cả từ ngữ chính xác trong mỗi ý có mục đích kích hoạt ký ức nội tâm trong con hầu từng bước một giúp con nhớ lại và chấp nhận con thực sự là ai và tại sao con ở đây trên trái đất này. Trong chương này, thày sẽ giải thích cho con chính mục tiêu của sáng tạo và chính mục đích của sự hiện hữu của con, ngay cả mục đích đặc trưng đã khiến con đến hành tinh này. Nó sẽ cho con lựa chọn giữa con đường cao thị hiện sự dồi dào của Thượng đế hay con đường thấp thu thập dồi dào của trái đất. Đây là sự khác biệt giữa tìm cách dùng sức mạnh giành sự dồi dào hay cho phép Thượng đế cho con sự dồi dào vô điều kiện.

Thày đã giải thích là Thượng đế có hai khía cạnh. Một khía cạnh là đấng Sáng tạo và khía cạnh kia là Bản thể Thuần khiết của Thượng đế trong đó không có phân biệt. Nếu con chịu đi vào tim mình và nghiệm lời của thày, con sẽ nhận ra Bản thể Thuần khiết của Thượng đế là cái Tất cả. Bản thể Thuần khiết của Thượng đế viên mãn và tự đủ. Ở trong Bản thể Thuần Khiết của Thượng đế không có chỗ cho một hình tướng tách biệt khỏi cái Tất cả. Trong Bản thể Thuần khiết của Thượng đế không thể tạo ra bất cứ hình tướng riêng biệt nào, bất cứ vật gì tách biệt khỏi cái Tất cả. Trước khi có thể sáng tạo bất kỳ hình tướng nào, cần phải có một không gian nhỏ hơn cái Tất cả của Thượng đế để trong không gian “trống không” này, các hình tướng riêng biệt có thể được tạo ra, những hình tướng tách biệt khỏi cái Tất cả. Hãy so sánh với ánh sáng của mặt trời cực kỳ mạnh đến độ chỉ có ánh sáng tinh khiết và trắng có thể hiện hữu. Chỉ ở khoảng cách nào đó từ mặt trời mới có chỗ cho ánh sáng có màu và sắc độ khác nhau.

Bây giờ thày cho con một hình ảnh về tiến trình sáng tạo, nhưng thày muốn con hiểu là hình ảnh thày cho con thích nghi với trạng thái tâm thức hiện thời của con, với tâm có khuynh hướng nghĩ theo đường thẳng. Thày cho con một hình ảnh đường thẳng nhưng thày muốn con giữ trong tâm là thực tại của Thượng đế không đường thẳng. Con cẩn thận đừng lấy hình ảnh thày cho con và biến nó thành hình tượng khô chết để tưởng rằng đây là hình ảnh hoàn chỉnh về Thượng đế và về công trình sáng tạo của Thượng đế.

Thày không cho con hình ảnh này để giam tâm con trong một tầm nhìn đặc thù về Thượng đế. Thày cho con hình ảnh này để giải phóng tâm con khỏi tầm nhìn hạn chế về Thượng đế mà hầu hết con người có trên thế gian này. Thày cho con hình ảnh này với hy vọng là rốt cuộc con có thể vượt lên trên mọi nhu cầu có một hình ảnh đường thẳng về Thượng đế và từ đó trải nghiệm trực tiếp tâm thức và Bản thể quả cầu và trùm khắp của Thượng đế.

Trong cái Tất cả của Thượng đế không có hình tướng khác biệt. Khái niệm thời gian và không gian cũng không có ý nghĩa trong cái Tất cả. Để bắt đầu tiến trình sáng tạo một thế giới hình tướng, đấng Sáng tạo rút mình lại và tạo ra cái mà một số giáo lý tâm linh gọi là “trống không”.  Khi đấng Sáng tạo rút mình lại, ngài rút mình thành một điểm duy nhất. Các khoa học gia gọi nó là điểm dị biệt (singularity) và hiện nay họ cho rằng sự sáng tạo vũ trụ bắt đầu khi mọi vật chất tụ vào một điểm dị biệt. Con hãy tưởng tượng cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có không gian, không có hình tướng riêng biệt. Bây giờ đấng Sáng tạo rút mình vào một điểm duy nhất và chung quanh điểm duy nhất này ngài tạo ra một khoảng trống không ít hơn cái Tất cả.

Khoảng trống không này giống như một không gian trống rỗng vĩ đại có dạng một trái trứng. Một số người đã thấy bằng trực giác hình ảnh thần bí về sáng tạo của Thượng đế giống như trái trứng hoàn vũ. Thày không muốn con nhìn sự sáng tạo giống như trái trứng mà chung quanh không có gì hết. Thày muốn con thấy là sự sáng tạo bắt đầu như một khoảng trống không có dạng trái trứng và bao bọc chung quanh khoảng trống không này là cái Tất cả. Khoảng trống không chính là không gian trống rỗng, nghĩa là nó không có bất kỳ hình tướng nào và không có cái Tất cả của Thượng đế. Có thể nói nó không có gì trong đó – không có cái Tất cả của Thượng đế hay bất kỳ hình tướng khác biệt nào. Có thể nói nó là bóng tối vì trong nó không có chất liệu gì cả.

Nơi trung tâm của cái trống không nguyên thủy này có sự tập trung cao độ của một phần của cái Tất cả của Thượng đế đã được lấy ra để tạo cái trống không. Đây là trụ điểm của khía cạnh thứ nhì của Thượng đế, là cá nhân đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo có động lực muốn trở nên hơn nữa cho nên ngài lấp đầy cái trống không cho tới khi cái trống không một lần nữa trở thành cái Tất cả của Thượng đế. Đây là vũ khúc hoàn vũ mà một số người gọi là hơi thở vào và hơi thở ra của Thượng đế.

Thượng đế hít vào, tập trung mình vào điểm dị biệt và sáng tạo cái trống không. Sau đó Thượng đế thở ra cho tới khi hơi thở ra hoàn vũ một lần nữa lấp đầy cái trống không. Trong tiến trình tham gia vào vũ khúc hoàn vũ, lấp đầy cái trống không, đấng Sáng tạo tăng triển tự nhận biết. Tăng triển tự nhận biết là toàn bộ mục tiêu của sự sáng tạo. Tăng triển tự nhận biết không chỉ áp dụng cho Sinh thể Nguyên thủy là đấng Sáng tạo, và thày sẽ giải thích tại sao trong phần sau.

9.2. Mệnh lệnh nhân lên và cai quản

Đấng Sáng tạo hiện hữu như một điểm duy nhất, như điểm dị biệt ngay giữa cái trống không – cái trống không nhỏ hơn cái Tất cả và do đó có thể lấp đầy với hình tướng do đấng Sáng tạo tạo tác. Hành động sáng tạo tiên khởi là đấng Sáng tạo cần tạo ra một chất liệu có thể nhào nặn thành bất cứ hình tướng nào. Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy có mặt,” và Ánh sáng đã có mặt. Như Sáng thế ký (Genesis) ghi lại (Genesis 1:4), Thượng đế tách ánh sáng khỏi bóng tối nghĩa là Thượng đế tách ánh sáng có thể mang vào hình tướng khỏi bóng tối lấp đầy phần của cái trống không nơi chưa có hình tướng, chưa có ánh sáng. Mục đích chung của nỗ lực Thượng đế là khuếch trương ánh sáng cho tới khi nó lấp đầy toàn thể cái trống không và tiêu hủy bóng tối, bóng tối không phải là xấu ác nhưng đơn giản là sự vắng mặt của ánh sáng.

Hành động sáng tạo này không xảy ra trong khoảnh khắc vì dù rằng đấng Sáng tạo có uy lực Toàn năng, đấng Sáng tạo không dùng uy lực của ngài để lấp đầy khoảng trống không trong khoảnh khắc. Đấng Sáng tạo không lấp đầy khoảng trống không chỉ vì mục đích lấp đầy. Ngài lấp nó đầy dần dần để tạo cơ hội cho những sinh thể tự nhận biết do đấng Sáng tạo sinh tạo ra như những nối dài của chính ngài, có thể phục vụ như người đồng-sáng tạo và giúp lấp đầy khoảng trống không. Khi làm vậy, họ cũng tăng triển tự nhận biết và nhận biết rõ hơn họ là ai, họ từ đâu tới và họ có tiềm năng đi tới đâu. Đây là mục tiêu thật của sáng tạo, sự tăng triển tự nhận biết khiến cho ngay cả Bản thể Tinh khiết của Thượng đế cũng trở nên hơn nữa bởi vì Thượng đế trở nên hơn nữa qua tự nhận biết của mỗi đấng Sáng tạo và những người đồng-sáng tạo của ngài.

Khi đấng Sáng tạo của con bắt đầu công việc sáng tạo đưa tới sự hiện hữu của con và sự hiện hữu của vũ trụ vật chất nơi con sống, Thượng đế bắt đầu tạo ra một bầu cõi được đặt tách ra khỏi khoảng trống không. Trong bầu cõi này có một lượng Ánh sáng của Thượng đế. Ánh sáng này được đặt tách riêng khỏi khoảng trống không và nó là căn bản từ đó tạo ra hình tướng. Đấng Sáng tạo của con quả thực sinh tạo một số hình tướng trong bầu cõi ánh sáng này, nhưng đấng Sáng tạo không lấp đầy bầu cõi này hoàn toàn với ánh sáng. Đấng Sáng tạo của con sinh tạo những nối dài của chính ngài như là những sinh thể tự nhận biết và gửi họ xuống bầu cõi thứ nhất với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Nhân lên khả năng sáng tạo của con, nhân lên ánh sáng của con, nhân lên tự nhận biết của con và sau đó cai quản bầu cõi nơi con sống. Lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng cho tới khi nó thật sự trở thành vương quốc ánh sáng, vương quốc của Thượng đế. Khi ta nói một bầu cõi là vương quốc Thượng đế thì nghĩa là gì? Có nghĩa là mọi thứ đều tỏa chiếu ánh sáng và con có thể thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết đằng sau mọi biểu hiện. Con thấy Thượng đế Sáng tạo là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi hình dạng và do đó con không bao giờ đánh mất nhận biết về Thượng đế.

Khi bầu cõi đầu tiên được lấp đầy với ánh sáng tới một cường độ tới hạn, thì động lực muốn trở nên hơn nữa của Thượng đế đòi hỏi một bầu cõi khác được tạo ra. Bầu cõi thứ nhì này bao gồm một phần lớn hơn của khoảng trống không, nhưng giống như bầu cõi đầu tiên nó không được hoàn toàn lấp đầy bởi ánh sáng. Một số sinh thể có tự nhận biết được gửi từ bầu cõi thứ nhất xuống bầu cõi thứ nhì với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Một số sinh thể được gửi xuống bầu cõi thứ nhì quả thật được sinh tạo trực tiếp như những nối dài của đấng Sáng tạo, nhưng hầu hết được sinh tạo như những nối dài của những sinh thể tự nhận biết đã từng phục vụ như những sinh thể đồng-sáng tạo ở bầu cõi thứ nhất và đã lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng. Như vậy những sinh thể mới là nối dài của những sinh thể ở bầu cõi thứ nhất và những sinh thể ở bầu cõi thứ nhất là nối dài của đấng Sáng tạo.

Tiến trình cơ bản sáng tạo này đã tiếp diễn qua nhiều bầu cõi, nhiều chu kỳ. Thế giới nơi con đang sống, vũ trụ vật chất, là nối dài mới nhất của tiến trình sáng tạo. Quả thật nó là nối dài của toàn bộ tiến trình trong đó Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới, chiếm một phần lớn hơn của khoảng trống không và do đó tách phần đó ra khỏi bóng tối bằng cách lấp nó đầy với một lượng ánh sáng. Vũ trụ vật chất nơi con sống không tách biệt khỏi Thượng đế và phần còn lại của tạo vật của Thượng đế như giác quan của con, khoa học và thậm chí nhiều tôn giáo nói với con. Vũ trụ vật chất không tách biệt khỏi Thượng đế hay cõi tâm linh bởi một rào cản không xuyên thủng được. Vũ trụ là một nối dài của cõi tâm linh, nó là một nối dài của Thượng đế. Dù thày đã cho con một hình ảnh đường thẳng, thực tại của Thượng đế không hoàn toàn đường thẳng như vậy. Trong căn phòng nơi con đang ngồi có nhiều sóng radio khác nhau thâm nhập không khí. Các sóng này có tần số khác nhau và đó là lý do tại sao chúng có thể cùng hiện hữu trong cùng một không gian mà không hủy bỏ lẫn nhau. Các bầu cõi do Thượng đế sáng tạo cũng vậy. chúng cùng hiện hữu trong cùng không gian hoàn vũ, trong cùng khoảng trống không, chúng đơn giản có tần số khác nhau.

Ngay lúc này, thày không đang ngồi trên thiên đàng xa xôi từ trên cao nói xuống dưới tới con. Quả thật thày ngay ở đây với con. Khi thày truyền đọc những lời nói này qua một người sứ giả, thày hòa nhập Bản thể của thày với tâm thức người sứ giả, thậm chí với luôn cả thân thể của ông. Vì thày đã thăng vượt vũ trụ vật chất, thăng vượt thời gian và không gian, thày không bị giới hạn trong không gian hay thời gian. Nếu con sẵn lòng, thày có thể bảo đảm với con là khi con đọc những giòng chữ này, sự chú ý của con tạo ra chiếc cầu đi vào tim thày. Nếu con sẵn sàng để thày đi vào bản thể con, thày có thể bước qua cầu và hòa nhập Bản thể thày với chính bản thể con. Thày có thể nắm bàn tay con và chỉ cho con thực tại sâu xa đằng sau các câu nói của thày, thực tại không thể diễn tả bằng từ ngữ bởi vì từ ngữ quá đường thẳng.

Con không tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Ngay khi con đang ngồi đây đọc khóa học này, đấng Sáng tạo ở ngay đây với con. Đấng Sáng tạo có mặt khắp nơi trong tạo vật của ngài và do đó con không bao giờ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Con chỉ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo trong chính tâm con vì tâm tạo ra cảm nhận tách biệt. Cảm nhận tách biệt này chỉ là một ảo tưởng, một ảo giác được phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống bởi một thành phần của tâm thức con, một thành phần mà thày sẽ phơi bày trong phần sau của bài này.

9.3. Con ở đây để đồng-sáng tạo với Thượng đế

Bây giờ con để thày trở về hình ảnh mà thày đang vẽ ra về tiến trình sáng tạo. Mục đích của thày khi nói với con là con không tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con, không tách biệt khỏi các anh chị đã đi trước con và đã thăng thiên lên thiên đàng, là để con nhận ra khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể tự nhận biết đầu tiên, những sinh thể này được sinh tạo từ tâm thức và Bản thể của Thượng đế. Các sinh thể đầu tiên mà chúng ta có thể gọi là Alpha và Omega (Revelation 1:8), cái bắt đầu và cái chấm dứt, sau đó sinh tạo những sinh thể khác, những sinh thể khác lại sinh tạo những sinh thể khác, và tiếp tục như thế trong nhiều lớp sáng tạo, nhiều bầu cõi sáng tạo tương hài hoà với nhau.

Mỗi sinh thể được tạo ra, đã được sinh tạo từ Sinh thể lớn hơn của cha mẹ họ, và các cha mẹ này được sinh tạo từ Sinh thể lớn hơn của cha mẹ họ. Nếu con cứ đi ngược về thuở ban đầu, con thấy tất cả mọi sinh thể có tự nhận biết đều được sinh tạo từ Bản thể của chính đấng Sáng tạo. Con không phải là một sinh thể tách rời xuất hiện bất thình lình từ hư không. Sự thực con là nối dài, một cá thể hóa của một Sinh thể lớn hơn đang hiện hữu ngay bây giờ trên cõi tâm linh. Sinh thể lớn hơn này là một phần trong một đẳng cấp các sinh thể tâm linh tạo thành cái mà chúng ta có thể gọi là “Chuỗi Sinh thể” đi ngược về tới chính đấng Sáng tạo.

Con quả thực là một phần của Chuỗi Sinh thể này, con là một nối dài của đấng Sáng tạo, một cá thể hóa của đấng Sáng tạo qua đó Thượng đế có thể đi vào bầu cõi này của tạo vật của ngài. Thượng đế có thể hoàn tất việc làm sáng tạo của ngài từ bên trong chính tạo vật và cùng lúc ngài trải nghiệm bầu cõi này từ bên trong. Thày biết con có thể cần một thời gian để hoàn toàn chấp nhận và hiểu điều này, nhưng nếu con mời thày vào trong tim con, thày sẽ giúp con chấp nhận nguồn gốc thật và bản sắc thật của con dễ dàng hơn. Khi con chấp nhận bản sắc này, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ xoay chuyển lớn lao. Con sẽ nhận ra cuộc sống không vô nghĩa, cuộc sống không trống rỗng. Quả thực cuộc sống có một mục đích lớn hơn và con là thành phần của một kế hoạch vĩ đại nhằm xây dựng vương quốc Thượng đế ngay đây trên trái đất, qua đó sẽ biến hành tinh này thành một thế giới đẹp đến độ nó sẽ hoàn thành những giấc mơ sâu thẳm nhất, những khát khao sâu thẳm nhất của con. Có thể con đã quên những khát khao này, nhưng thày không nghĩ con quên sự kiện là khi con thấy những giới hạn, đau đớn và thống khổ trên trái đất, cái gì đó bên trong con kêu lên và nói: “Điều này không đúng, mọi chuyện đáng lẽ không được như thế này.” Điều này cho con thấy sâu trong con có ký ức là cuộc sống này hơn nữa và có một lý do cho sự hiện hữu của con, có một lý do cho sự có mặt của con trên trái đất.

Điều này quan trọng vì giờ đây con thấy cuộc đời đáng sống, cuộc đời có một mục đích lớn hơn và con cũng thấy có một mục đích lớn hơn của việc tạo sự dồi dào. Con không ở đây chỉ để đơn giản hoàn thành những mong muốn tạm thời, nhân phàm và xác thịt tập trung vào thân vật lý của con và ý niệm bản sắc dựa trên thân thể. Con hơn thân vật lý, con hơn ý niệm bản sắc thấp này. Con có một ý niệm bản sắc lớn hơn, một thành phần lớn hơn của bản thể con, và con ở đây để biểu hiện trọn vẹn bản sắc lớn hơn này, cá thể thiêng liêng này. Con ở đây để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, để đem vào thế giới này ánh sáng của Thượng đế, sự toàn hảo của Thượng đế, sự hài hòa của Thượng đế và các đức tính của Thượng đế. Con ở đây để là ánh sáng của thế gian (Matthew 5:14) và biến thế gian này thành vương quốc ánh sáng, ánh sáng tiêu hủy bóng tối đang che phủ mặt đất và tạo ra đủ loại thống khổ, đau đớn và thiếu thốn mà con đơn giản biết không thể là thiết kế của Thượng đế hay là ý muốn của Thượng đế.

9.4. Con mở rộng nối kết với Hiện diện TA LÀ

Bây giờ chúng ta hãy xem xét cụ thể hơn tại sao con đang ở trên trái đất. Khi Thượng đế sinh tạo một bầu cõi mới, Thượng đế rải vào đó một lượng ánh sáng. Thượng đế hay đúng hơn các đại diện của Thượng đế quả thực có sinh tạo một số hình tướng. Hành tinh trái đất được sinh tạo bởi bảy đại diện của Thượng đế đã tạo ra hành tinh này như một môi trường có khả năng nuôi dưỡng sự sống trong trạng thái dồi dào và quân bình. Thiết kế của Thượng đế không bao giờ nhằm giữ trái đất trong trạng thái này. Động lực đằng sau mọi sự sáng tạo là động lực trở nên hơn nữa, và Thượng đế gửi xuống thế giới này một số sinh thể tự nhận biết với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Nhân lên và cai quản nghĩa là gì? Nghĩa rốt ráo là nhân lên sự tự nhận biết của con để con nhận biết là mình có khả năng phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế.

Con ý thức là tâm thức của con, tâm của con, có khả năng là cánh cửa mở để đem xuống trái đất thêm ánh sáng của Thượng đế, thêm ánh sáng tâm linh có tần số cao, đi vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất. Khi ánh sáng được đem vào thế giới, nó tiêu hủy bóng tối và do đó thế giới này sáng hơn và rực rỡ hơn và bắt đầu biểu hiện tất cả sự toàn hảo mà ta tìm thấy trong cõi tâm linh. Khi các người đồng-sáng tạo nhân lên khả năng sáng tạo của họ, họ giỏi hơn trong việc điều khiển ánh sáng Thượng đế đi xuyên qua tâm họ, qua đó họ dùng tâm của họ để áp đặt một hình ảnh toàn hảo, quân bình và hài hòa lên ánh sáng. Chính tiến trình áp đặt một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-vật đã tạo nên hình tướng.

Như một người đồng-sáng tạo, con có hai mục đích. Mục đích đầu của con là mở rộng sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con đang cư ngụ vĩnh viễn trên cõi cao hơn. Khi con mở rộng nối kết này, nhiều ánh sáng hơn có thể chảy vào tâm thức của con. Con đem lại nhiều ánh sáng hơn cho thế giới, gia tăng tổng lượng ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng. Điều này gia tăng tiềm năng biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trên trái đất.

Chìa khóa thực để gia tăng lượng dồi dào trên trái đất là gia tăng lượng ánh sáng có trong cõi này. Khi con đã kéo ánh sáng của Thượng đế xuống từ Hiện diện TA LÀ của con, qua sự tự nhận biết tập trung trong cõi này, con có thể điều khiển ánh sáng đó và dùng nó để sáng tạo những hình tướng biểu hiện nhiều hơn sự dồi dào của Thượng đế. Sự dồi dào được thể hiện như một thực tại vật lý mà ngay cả giác quan vật lý thô thiển của thân thể cũng có thể thấy được. Điều thày vừa nói với con là chìa khóa cốt yếu của dồi dào. Nó thực là viên đá đặt nền chính mà người xây cất đã bác bỏ (Matthew 21:42), mà hầu hết không chú ý tới. Hầu hết các vị thày tuyên bố họ có thể giúp con người gia tăng sự dồi dào thế gian cũng đã không chú ý tới nó. Tại sao điều mà thày vừa nói với con quan trọng đến thế? Hãy cho phép thày bỏ ra một chút thời giờ để giải thích vì chỉ riêng điểm này có thể đem lại thành công hay thất bại cho nỗ lực muốn đạt cuộc sống dồi dào của con. Nếu con không hiểu điểm mà thày đang truyền tải, con sẽ không bao giờ đạt được dồi dào tâm linh thật sự. Con có thể hay không thể đạt được dồi dào vật chất nhưng dồi dào vật chất này sẽ không bao giờ thỏa mãn khao khát nội tâm của bản thể con.

Điểm quan trọng nhất về sự dồi dào là mọi vật trong thế giới vật chất này, mọi vật trên hành tinh trái đất này đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Chúng được tạo ra từ ánh sáng tâm linh mà tần số được hạ xuống cho tới khi ánh sáng rung động trong quang phổ tần số tạo nên vũ trụ vật chất. Sau khi tần số được hạ thấp thì ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng trong vũ trụ này. Con là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế và tự nhận biết của con tập trung trong quang phổ tần số này. Khi con đồng-sáng tạo, con dùng tâm mình để áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật. Trước khi con có thể làm chuyện này, cần có một lượng ánh sáng đã được hạ xuống cõi này để nó rung động trong quang phổ tần số vật chất.

Tâm con có hai khả năng khi làm việc với ánh sáng Thượng đế. Tâm con có khả năng hạ thấp độ rung của ánh sáng tâm linh xuống quang phổ tần số vật chất. Một khi ánh sáng đã được hạ thấp độ rung, tâm con có thể áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng để tạo ra một hình tướng. Dù rằng hai khả năng này được thiết kế để làm việc chung với nhau, con có thể tách chúng trong tâm con. Ví dụ là nhiều người đã quên khả năng đem ánh sáng tâm linh xuống thế giới này nhưng vẫn dùng tâm họ để áp đặt hình tư tưởng lên ánh sáng dùng được trong quang phổ tần số vật chất. Trước khi một hình tướng có thể được sáng tạo, một sinh thể tự nhận biết phải với lên cõi tâm linh, nối kết với cái ta tâm linh của y và trở thành cánh cửa mở đem ánh sáng tâm linh đi vào quang phổ tần số của vũ trụ vật chất. Khi hành tinh trái đất được tạo ra, một lượng ánh sáng được đem vào quang phổ tần số vật chất bởi các Elohim. Sau khi các người đồng-sáng tạo bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, các Sinh thể tâm linh không đem thêm ánh sáng vào nữa. Bây giờ việc đem thêm ánh sáng vào quang phổ vật chất tùy thuộc vào những cư dân trái đất. Tổng lượng dồi dào có thể tạo ra được trên trái đất tùy thuộc trực tiếp vào tổng lượng ánh sáng dùng được trong năng trường của hành tinh này. Hầu hết con người đã quên mất khả năng đem ánh sáng vào thế giới này và họ đã tạo ra những hình tướng mất quân bình với ánh sáng dùng được. Lực co lại của Mẹ quả thực đã giảm thiểu lượng ánh sáng thấp hơn mức ánh sáng dùng được khi hành tinh được tạo ra. Hiện nay trên trái đất, lượng ánh sáng ít hơn so với lúc các Elohim sáng tạo hành tinh này.

9.5. Con người có khả năng tạo sự dồi dào

Thày xin con cố gắng đi vào trong tim mình và cho phép thày cho con sự hiểu biết không thể diễn đạt bằng lời nhưng có thể được kích hoạt bởi những lời mà thày gửi tới con. Con được nuôi dạy với lập trình tin rằng chỉ có một số lượng dồi dào nào đó trên thế gian. Con bị lập trình tin rằng con sống trong một thế giới quy định bởi thiếu thốn và giới hạn. Ví dụ, con được bảo là hành tinh trái đất chỉ có một lượng tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và như vậy chuyện có thể xảy ra là nhân loại tiêu dùng hết các tài nguyên này và sẽ không còn gì nữa. Nhiều nguồn thông tin  thực sự đã tìm cách khiến con tin là kịch bản này không thể tránh được và do đó con phải chấp nhận một số giới hạn trong cuộc sống của con và thậm chí cho tổng thể nhân loại. Khái niệm này không đúng một cách vô điều kiện mà cũng không hoàn toàn sai. Thày biết chắc con được bảo là hành tinh này chỉ có một lượng dầu hỏa nhất định. Khi nhân loại dùng hết dầu hỏa thì sẽ không còn gì nữa và con sẽ không thể chạy xe hơi hay đi máy bay. Một số đã cố gắng tạo ra hình ảnh một ngày tận thế gần kề khi nhân loại đã tiêu dùng hết tài nguyên trên hành tinh và toàn thể hành tinh trở nên một bãi sa mạc khô cằn không có khả năng nuôi dưỡng sự sống. Con yêu dấu, kịch bản tận thế này quả thực có thể xảy ra nhưng nó không phải là điều sẽ chắc chắn xảy ra như một số người quan niệm.

Con biết rõ con người vẫn khám phá những mỏ dầu mới. Con cũng biết là có một thời không có dầu hỏa trên hành tinh này. Dầu hỏa được tạo ra vì chất hữu cơ chết đi và qua chuyển động của trái đất nó bị lấp vùi và bị sức ép biến thành dầu. Kim cương được tạo ra khi chất than bình thường bị sức ép khổng lồ của vỏ trái đất. Vì hành tinh này có một lượng than rất lớn thì quả thực có khả năng là một lượng kim cương khổng lồ có thể được tạo ra. Thày biết một số người sẽ nói cần hàng triệu năm để tạo ra dầu và do đó nhân loại sẽ hết dầu trước khi các tiến trình tự nhiên có thể thay thế nguồn cung cấp dầu hiện nay. Điều này chắc hẳn đúng nhưng thày nhắc nhở con là dầu đã có mặt cả ngàn năm qua và thậm chí đã có người biết tới nó. Nhưng 500 năm trước đây người ta xem dầu hỏa là một tài nguyên thiên nhiên không quan trọng bởi vì lúc đó nhân loại chưa có hiểu biết dùng dầu như thế nào. Con người chưa sáng chế động cơ đốt hay bất cứ các thiết bị cơ khí khác dùng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất hàng hóa hay cho phép con người du lịch. Quan điểm hành tinh chỉ có một lượng tài nguyên giới hạn hay một lượng dồi dào giới hạn giản dị không đúng. Chỉ vài thế kỷ trước đây, dầu hỏa là một chất được coi như vô giá trị và nó chỉ trở nên có giá trị khi con người gia tăng kiến thức, nhận biết, hiểu biết và do đó thiết lập được công nghệ dùng dầu hỏa và biến nó từ một chất vô giá trị thành một tài nguyên có giá trị.

Kiến thức và hiểu biết này từ đâu tới? Con có thật sự tin là nó tới từ hư không? Hay con có thể mở tâm ra với ý tưởng là đã có một số người với lên cao hơn vũ trụ vật chất, thiết lập nối kết với cái ta tâm linh của họ và qua nối kết này họ đã có thể đem xuống những ý tưởng và hiểu biết đưa tới những phát minh mới và công nghệ mới? Chắc chắn là có một số tài nguyên trên hành tinh chỉ có số lượng giới hạn. Chắc chắn là con người có thể hết dầu hỏa và do đó mất khả năng dùng công nghệ dựa trên việc đốt dầu. Trước khi dầu hỏa trở thành một tài nguyên, nhân loại có những công nghệ thô thiển hơn dùng tài nguyên khác như gỗ và than được biến thành hơi nước. Con biết rõ là đã có công nghệ phân tách nguyên tử và chuyển đổi uranium thành nguồn tài nguyên mạnh hơn dầu. Dù thày không coi năng lượng hạt nhân là một công nghệ không có vấn đề, rất có thể có những chất liệu trên trái đất mà ngày nay xem là vô giá trị nhưng với kiến thức và hiểu biết đúng, chúng có thể trở thành nền tảng cho những công nghệ mới mạnh hơn rất nhiều công nghệ dựa trên nhiên liệu hóa thạch.

Điều rất có thể xảy ra là nhân loại có thể gia tăng lượng dồi dào hiện có trên trái đất. Qua sự nhân lên khả năng sáng tạo, qua việc nhân lên hiểu biết về các quy luật của Thượng đế, các quy luật mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ này, con người có thể thăng vượt mức nhận biết hiện nay của họ và thật sự trở nên những người đồng-sáng tạo với Thượng đế có thể tạo ra sự dồi dào từ cái mà ngày nay có vẻ là vô giá trị. Con xét xem trước kia cát là chất vô giá trị nay biến thành silicon và trở thành nền tảng của toàn bộ kỹ nghệ máy tính đã đem lại dồi dào khổng lồ trong nhiều khía cạnh cuộc sống. Con xét xem con người đang nghiên cứu cách dùng hydrogen, một chất có nhiều nhất trong vũ trụ, để dùng làm nhiên liệu cho công nghệ. Thày khuyến khích con xem xét những ý tưởng này và nhận ra kịch bản được các nhà tiên tri tận thế cổ xúy là hành tinh này sẽ trở thành một bãi sa mạc khô cằn chỉ có thể xảy ra nếu nhân loại ngưng mọi cố gắng tăng triển khả năng sáng tạo của mình. Nếu con người ngừng nhân lên khả năng của họ, uy lực sáng tạo của họ, thì quả thực xã hội con người sẽ rốt cuộc tiêu thụ hết tài nguyên hiện dùng được theo hiểu biết hiện nay của con người về các quy luật thiên nhiên. Lúc đó hành tinh này sẽ một ngày kia trở thành một bãi sa mạc không có khả năng nuôi dưỡng sự sống. Chuyện này chỉ xảy ra nếu con người chọn khóa lại khả năng sáng tạo của mình, nếu họ từ chối không nhân lên khả năng của họ và thay vào đó chôn chúng xuống dưới đất – như là một biểu tượng cho mức tâm thức hiện tại của họ.

9.6. Đem ánh sáng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất

Mọi thứ con thấy chung quanh con, thậm chí vật chất vật lý có vẻ chẳng dính dáng gì tới thế giới tâm linh, đều làm ra từ ánh sáng tâm linh. Ngay cả các nhà khoa học của con cũng nhìn nhận vật chất rắn đặc được làm bằng năng lượng rung động. Năng lượng rung động này giản dị là ánh sáng Thượng đế, ánh sáng tâm linh đã bị hạ độ rung. Lượng tài nguyên và dồi dào thấy được trong hành tinh trái đất hiện nay không được quy định một cách độc đoán mà nó cũng không phải là một lượng cố định được quy định khi trái đất được tạo ra. Lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất có tỷ lệ thuận với lượng ánh sáng tâm linh đã được các sinh thể tự nhận biết đem vào quang phổ tần số vật chất trên hành tinh trái đất. Vật chất không đến từ hư không. Nó là sản phẩm của Ánh sáng Mẹ được hạ độ rung cho tới khi nó đạt tới quang phổ tần số của vật chất. Ngược lại với những gì con được dạy và tin, lượng vật chất không cố định. Các đồng-sáng tạo của Thượng đế có thể thật sự đem thêm ánh sáng vào quang phổ tần số vật chất và tăng trưởng lượng tài nguyên thiên nhiên trên hành tinh này.

Dồi dào không phải là một lượng cố định. Con người hoàn toàn có khả năng đem lại nhiều dồi dào hơn bằng cách sử dụng hữu hiệu hơn các tài nguyên thiên nhiên hiện đang có trên hành tinh này. Con người còn có thể đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào cõi vật chất và do đó tăng trưởng lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất. Điều này mở ra những tầm nhìn hoàn toàn mới cho khả năng đạt tới đời sống dồi dào. Con có, ngay trong con, ngay trong tâm thức con, khả năng với lên cõi tâm linh, để kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, và đem ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất. Khi con làm thế, con sẽ gia tăng lượng dồi dào biểu hiện trong cuộc sống của con và con làm vậy mà không lấy dồi dào từ một thành phần nào khác của cuộc sống.

Con hãy bỏ thì giờ bước lùi lại và thực sự xem xét những gì thày đang nói. Điều thày đang nói ở đây là con có thể theo ba phương cách khác nhau để đạt được nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống:

  • Phương cách thấp nhất và thô sơ nhất là suy luận rằng chỉ có một lượng cố định dồi dào có thể dùng được trong thế gian này. Bởi vì tất cả mọi người không giàu có, hiển nhiên là lượng dồi dào trên trái đất không đủ cho mọi người. Nếu con muốn giàu, con phải lấy dồi dào từ người khác cho nên họ phải nghèo đi. Suốt dòng lịch sử mà con người biết được, một thành phần thượng lưu quyền lực nhỏ đã tin cái nhìn về lượng dồi dào cố định này. Họ đã dùng phương tiện hung hãn để đưa họ lên vị thế thượng lưu quyền lực nắm độc quyền của cải và kiểm soát tài nguyên. Họ làm điều này bằng cách biến đa số dân chúng thành tôi mọi cho họ, phục vụ họ như những con ong thợ vắt sữa các tài nguyên khan hiếm của hành tinh và tập trung các tài nguyên này cho giới thượng lưu quyền lực sử dụng. Đây là một phương cách đạt dồi dào cực kỳ thô thiển. Đây là một phương cách hoàn toàn dựa vào sức mạnh, dựa vào nhu cầu đấu tranh với người khác để giành một nguồn cung cấp dồi dào cố định và không đủ. Đây là một phương cách dựa trên triết lý thiếu thốn, triết lý đưa tới nhu cầu chiếm đoạt dồi dào bằng sức mạnh và qua đó không thể tránh việc tước đoạt dồi dào của người khác để tập trung của cải trong tay một thiểu số được chọn lựa. Phương cách này cần sử dụng sức mạnh liên tục vì giới thượng lưu không thể nào gìn giữ của cải của họ mà không liên tục bảo vệ của cải này, không những chống lại người khác mà thậm chí cũng chống lại những lực thiên nhiên tìm cách lấy đi những gì họ sở hữu. Phương cách đạt dồi dào này là một trận chiến leo dốc núi, một sự vật lộn không ngừng.
  • Một phương cách đạt dồi dào cao hơn nhiều là suy luận chúng ta có thể tạo ra nhiều dồi dào hơn bằng cách gia tăng hiểu biết của chúng ta về quy luật thiên nhiên. Qua sáng kiến và công nghệ mới, con có thể tạo ra giàu có bằng cách biến những chất vô giá trị thành tài nguyên có giá trị, hay bằng cách chuyển kiến thức thành công nghệ hữu dụng. Đây là một phương cách đạt dồi dào cao hơn rất nhiều, tuy thế nó vẫn chưa giải quyết vấn đề là hiện nay chỉ có một số năng lượng nào đó mà con người có thể dùng được trên trái đất. Điều này mang một yếu tố hạn chế và hiện nay con có thể thấy được điều này trong xã hội. Nhiều người biết ngày dùng nhiên liệu hóa thạch để chạy công nghệ của nhân loại sắp tận. Họ biết đã có những trận chiến xảy ra vì dầu hỏa và có thể có nhiều thêm những trận chiến khốc liệt khác để tranh giành dầu hỏa hay tài nguyên khác. Dù nhiều người nhìn ra nhu cầu  đem lại công nghệ mới, công nghệ đó chưa xuất hiện. Điều này cho con thấy là phương cách tạo dồi dào bằng cách dùng những tài nguyên sẵn có mang một số giới hạn. Giới hạn là vì chìa khóa thật để đem lại nhiều dồi dào hơn là đem thêm năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Như các nhà khoa học nói: “Mọi thứ đều là năng lượng.” Tổng lượng dồi dào dùng được trên hành tinh trái đất có tỷ lệ thuận với tổng lượng năng lượng có mặt trong hệ thống năng lượng của hành tinh này. Cách duy nhất để thực sự gia tăng dồi dào là gia tăng lượng năng lượng dùng được trên trái đất.
  • Phương cách đạt dồi dào thứ ba là kết hợp phương cách thứ nhì là tìm thêm hiểu biết với phương cách tâm linh chủ trương với lên cõi cao hơn để đem thêm năng lượng vào quang phổ tần số vật chất. Mục đích khóa học này là dạy con cách dùng phương cách đạt dồi dào này.

9.7. Chọn giữa tâm thức chết hay tâm thức của sự sống

Con đang đứng ở lằn ranh phân chia, lằn ranh phân chia phương cách đạt dồi dào nhân phàm, sinh diệt, dựa trên sức mạnh và phương cách đạt dồi dào tâm linh, bất tử, dựa trên tình thương. Con phải lấy một chọn lựa và chọn lựa này là chọn giữa tâm thức thiếu thốn hay tâm thức thực sự dồi dào. Nó là chọn lựa giữa tâm thức chết hay tâm thức của sự sống. Vũ trụ vật chất được sáng tạo từ ánh sáng Thượng đế. Nó được tạo ra bằng cách biến một phần của khoảng trống không thành một bầu cõi riêng biệt và lấp đầy bầu cõi đó với một lượng ánh sáng rung động trong một quang phổ tần số nào đó. Ánh sáng nguyên thủy không đủ để đuổi bóng tối đi, cho nên bóng tối còn lại trong thế giới vật chất là nguyên nhân của thiếu thốn và đau khổ mà con thấy trên trái đất. Con không thể loại bỏ bóng tối trong căn phòng vì bóng tối tự thân không có chất liệu gì trong nó. Con không thể bỏ bóng tối vô hộp hay vứt nó ra ngoài cửa sổ. Con có thể loại bỏ bóng tối bằng cách thay thế nó với cái gì có chất liệu, như ánh sáng. Cách loại bỏ bóng tối là bật đèn sáng và cách loại bỏ thiếu thốn và đau khổ trên trái đất là đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào thế giới này. Đây là một phần của tiến trình tuôn chảy miên viễn của sáng tạo của Thượng đế, Dòng sông sự Sống đời đời tuôn chảy. Thượng đế khuếch trương sáng tạo của ngài và gửi xuống những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết để họ đem lại nhiều ánh sáng hơn vào thế giới và để cho thế giới và cư dân trong đó có thể hơn nữa qua tự thăng vượt.

Thiết kế thật của Thượng đế là dồi dào là kết quả của việc đem ánh sáng từ cõi cao vào thế giới nơi con đang sống. Con có khả năng làm việc này vì con đã được thiết kế theo hình ảnh Thượng đế và giống như Thượng đế của con; con được thiết kế với trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Tâm con có thể là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này. Bằng cách gia tăng lượng ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua tâm thức của con, con chắc chắn sẽ gia tăng lượng dồi dào có mặt trong thế giới vật chất. Cơ chế an toàn của Thượng đế là con chỉ có thể mang ánh sáng từ cõi cao xuống khi con đạt được một mức nào đó của tâm thức Ki-tô.

Đây là chọn lựa con phải lấy. Con có thể theo phương cách thứ nhất và tìm cách tích lũy dồi dào bằng cách lấy từ nguồn cung cấp cố định hiện có trên trái đất. Điều này khiến con lấy dồi dào từ những thành phần khác của đời sống, qua đó con tước đoạt dồi dào của họ. Điều này cũng khiến con phải liên tục bảo vệ dồi dào mà con tích lũy và tiến trình lấy và bảo vệ sẽ tiếp tục suốt cuộc đời còn lại của con. Nếu con còn nghi ngờ những gì thày nói, con hãy nhìn cuộc sống của những người giàu nhất trên hành tinh này. Họ đã tích lũy của cải bằng cách lấy bằng sức mạnh và nhiều người trong số họ dành phần còn lại của cuộc đời để bảo vệ của cải của họ. Họ không bao giờ thấy đủ, họ không bao giờ cảm thấy hạnh phúc. Họ không bao giờ thật sự có cuộc sống dồi dào, họ chỉ có vật chất dồi dào. Họ không có khả năng biến dồi dào vật chất thành dồi dào tâm linh thật sự, hạnh phúc thật sự và tâm an bình thật sự.

Nếu đây là điều con muốn thì con có khả năng làm chuyện này. Tâm con có khả năng áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng của Thượng đế. Cách đích thật để tích lũy dồi dào là không chỉ giản dị lấy bằng vũ lực vật lý. Thực tế là tâm con lúc nào cũng đang đồng-sáng tạo, lúc nào tâm con cũng đang áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Vấn đề là Ánh sáng Mẫu-Vật từ đâu tới – ánh sáng mà con dùng để hình thành các hình tư tưởng của con. Trong thiết kế nguyên thủy của Thượng đế, con đúng lý phải duy trì sự kết nối với Hiện diện TA LÀ để con có thể đem vào thế giới này năng lượng tâm linh, ánh sáng tâm linh. Lúc đó con áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng đó và tạo tác một hình tướng vật lý sẽ trở nên sự dồi dào của con. Đây đúng là con có ông thần trong chiếc bình cho riêng mình, một ông thần có thể đáp ứng tất cả các ước mong của con mà không cần lấy từ người khác. 

Khi con đánh mất sự kết nối có ý thức với cái ta tâm linh của con, thì con không còn là cánh cửa mở để mang ánh sáng tâm linh vào thế giới này, con đã đánh mất hồng ân. Con không thể kéo xuống ánh sáng mới để tạo tác hình tướng. Điều này không có nghĩa là con không thể dùng khả năng của tâm để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nó nghĩa là con phải làm chuyện này bằng cách lấy ánh sáng đã được đem vào trong quang phổ tần số vật chất.

Khi con giữ được sự nối kết nguyên thủy với Hiện diện TA LÀ của con, số lượng dồi dào mà con có thể biểu hiện trong cuộc sống của con vô tận. Thượng đế không có giới hạn. Thượng đế không có một lượng ánh sáng hữu hạn mà các sinh thể đồng-sáng tạo có thể dùng. Thượng đế có một nguồn cung cấp ánh sáng vô tận, giới hạn duy nhất là cách người đồng-sáng tạo nhân lên khả năng sáng tạo của họ.

Tâm con là một ống dẫn giữa tâm ý thức của con và Hiện diện TA LÀ của con. Kích thước của ống dẫn quy định lượng ánh sáng có thể chảy qua nó. Lúc ban đầu, con được gửi xuống thế giới này với một kích thước nào đó của ống dẫn tâm linh của con. Con được sinh ra để nhân lên khả năng của con và qua đó con mở rộng kích thước của ống dẫn, qua đó Thượng đế sẽ cho con nhiều năng lượng tâm linh hơn và điều này sẽ gia tăng uy lực sáng tạo của con. Hầu hết con người đã quên mất nguồn gốc tâm linh thực của họ, đã đánh mất kết nối ý thức của họ với cái ta tâm linh của họ. Điều này đã thu nhỏ kích thước ống dẫn tới điểm chỉ còn đủ ánh sáng tuôn chảy để giữ cho họ và thân thể họ sống còn. Họ không có đủ ánh sáng để thật sự biểu hiện sự dồi dào từ bên trong họ. Họ chỉ còn chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng đã được đem xuống quang phổ tần số vật chất và sau đó áp đặt hình ảnh lên ánh sáng qua uy lực của tâm của họ. Chỉ có một số lượng cố định năng lượng có mặt trong hành tinh trái đất, có nghĩa là để con có nhiều dồi dào hơn, con phải lấy năng lượng từ người khác.

Điều này mở ra một tầm nhìn hoàn toàn mới về kiếp sống con người. Thày sẽ cho con một hiểu biết mới về ý nghĩa cuộc sống trên trái đất và động lực đằng sau cuộc tranh giành quyền lực của con người. Con hãy cho phép thày chỉ cho con thấy trong chương kế tiếp là con người thực sự tranh giành điều gì khi bề ngoài trông như họ đang tranh giành của cải vật chất.

7 | Con đang sáng tạo sự hài hòa hay thiếu thốn?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 7/4/2005.

Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ có khả năng cung cấp sự dồi dào vô biên, ngay cả trên hành tinh nhỏ bé mà con gọi là trái đất này. Khi Thượng đế tạo ra trái dất, ngài chỉ giản dị tạo tác một nền móng. Sau đó ngài gửi con, và nhiều người đồng-sáng tạo khác, xuống thế giới này với mệnh lệnh nhân lên khả năng sáng tạo. Con ở đây để cai quản trái đất và xây dựng thêm trên nền móng của Thượng đế và đem lại cho thế giới này tất cả sự dồi dào mà con có thể tưởng tượng và chấp nhận. Khi con người sử dụng khả năng sáng tạo của mình thuận theo những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì họ sáng tạo một sự dồi dào bền vững. Họ làm việc này mà không tước đi sự dồi dào từ các phần khác của sự sống mà trái lại khuếch đại toàn thể dồi dào trên trái đất. Toàn Thân thể của Thượng đế sẽ được phóng đại trong tiến trình này. Khi con người sử dụng đúng khả năng sáng tạo của mình thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì vũ trụ của Thượng đế được thiết kế để cung cấp đủ dồi dào cho tất cả.

7.1. Nhiều điều kiện trên trái đất do con người tạo ra

Câu hỏi chủ yếu mà ta cần giải đáp là làm sao con, như một người sống trên hành tinh địa cầu, có thể học cách sử dụng khả năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với những nguyên lý mà Thượng đế đã dùng để thiết kế toàn thể vũ trụ. Khó khăn mà chúng ta đối diện là hành tinh địa cầu hiện nay không biểu lộ thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Thay vì xây dựng một lâu đài trên nền móng mà Thượng đế đã tạo lập, nhân loại qua bao ngàn năm đã chôn vùi của cải của mình vào lòng đất. Lực co thắt của Mẹ đã bắt đầu phá vỡ ngay cả nền móng mà Thượng đế xây dựng. Thày biết đây là một ý niệm mà những người đã lớn lên trong xã hội hiện đại khó chấp nhận. Nhiều người đã được dạy dỗ để tin vào phiên bản câu chuyện thành lập hành tinh do Thánh kinh đề ra cho rằng trái đất chỉ có mặt từ vài ngàn năm nay, rằng mọi thứ đều do Thượng đế tạo ra, rằng Thượng đế chỉ có thể tạo ra sự toàn hảo, và do đó tất cả mọi chuyện phải toàn hảo. Một số người khác đã lớn lên với thuyết tiến hóa của khoa học cho rằng sự tiến hóa chỉ đi theo một hướng, và sự sống đi từ những hình tướng thô sơ đến những hình tướng phức tạp hơn.

Vì có Luật Tự quyết nên rất có thể một nền văn minh con người tiến lên một cao điểm và sau đó dần dần tiêu mòn xuống một trạng thái thấp hơn. Nhiều sắc thái của sự sống trên trái đất đã bị tâm thức nhân loại ảnh hưởng. Điều này không những chỉ áp dụng cho xã hội loài người mà còn áp dụng cho cả đến chính Mẹ Thiên nhiên. Con có thực sự tin rằng một Thượng đế đầy lòng thương yêu, có trí tưởng tượng và ý chí tự do vô biên, lại chọn lựa tạo tác các con vi rút, vi khuẩn, vật ký sinh, côn trùng độc hay hóa chất độc hại có thể tàn phá cơ thể của con? Con có thực sự tin rằng Thượng đế đã tạo ra các căn bệnh vô số trên trái đất? Nếu Thượng đế không tạo ra chúng, thì ai đã tạo ra? Câu trả lời là: chính là nhân loại. Nhân loại cộng chung đã tạo ra tất cả các điều kiện bất toàn mà con thấy trên trái đất, ngay cả các bất quân bình trong thiên nhiên.

Mọi chuyện đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ mang vào một hình tướng khi nó được khuấy động bởi một tâm, một sinh thể có tự nhận biết có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là có trí tưởng tượng và ý chí tự do. Khi con chấp nhận sự kiện này thì con nhận ra là tất cả mọi chuyện trên trái đất đều là sản phẩm của một tâm có ý thức. Thiết kế nguyên thủy của trái đất do một nhóm đại diện Thượng đế, gọi là các Elohim, tạo ra. Các sinh thể này tạo ra một hành tinh tuyệt đẹp, và vẻ đẹp mà con thấy hiện nay trong thiên nhiên chỉ là một phản ánh phai mờ của vẻ đẹp nguyên thủy mà các Elohim đã tạo ra. Hành tinh mà họ tạo ra trong bản chất có cân bằng toàn hảo, do đó con không tìm thấy bệnh tật, động đất hay bão táp. Từ thuở sáng tạo nguyên thủy đó, các thế hệ con người, các nền văn minh nối tiếp nhau đã ảnh hưởng hành tinh này và kéo nó xuống một trạng thái thấp hơn thiết kế nguyên thủy. Chuyện này đã được thực hiện do quyền năng của tâm con người, qua đó họ đã áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật những hình ảnh bất toàn không thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng.

Con người đã đi xuống, hay sa ngã vào một trạng thái tâm thức trong đó họ không còn nhận biết trực giác hay có ý thức về các quy luật của Thượng đế, những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào trong những phần thâm sâu của họ. Điều này được minh họa bởi câu chuyện trong Thánh kinh mô tả sự Sa ngã , kể rằng Adam và Eve bị đuổi ra khỏi Vườn Địa đàng. Trái cây hiểu biết thiện ác là trái cây hiểu biết thiện ác tương đối. Khi con mất liên lạc với thực tại của Thượng đế, các quy luật của Thượng đế, thì chính con trở nên luật pháp theo nghĩa con không còn thanh gậy dẫn đường chỉ cho con thật giả tuyệt đối.

7.2. Con không được dồi dào vì mất liên lạc với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế

Tất cả những gì hài hòa với quy luật của Thượng đế đều lợi lạc cho tổng thể và bền vững, và ta có thể gọi chúng là thiện hay tốt lành. Những gì đứng bên ngoài những quy luật này đều có mầm tự hủy diệt và làm hại cho tổng thể, và do đó ta có thể gọi chúng là giả hay ác. Khi con người đánh mất thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối đó, thì họ quy định khái niệm thiện ác của riêng họ. Những khái niệm này không dựa trên thanh gậy hướng dẫn của quy luật Thượng đế. Chúng dựa trên những gì con người muốn tin và những gì một số người muốn là sự thật vì chúng giúp họ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của họ mà không đếm xỉa đến tổng thể. Vì con người đã quy định thiện ác để đáp ứng mục đích của họ nên họ cảm thấy việc thỏa mãn các ham muốn vị kỷ là điều hoàn toàn chính đáng.

Khi con người không còn thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối, thì họ sẽ quy định thiện ác sao để đáp ứng mục đích của họ, mục đích vị kỷ của họ. Các nền văn minh khác nhau đã có những định nghĩa khác nhau về thiện ác. Trong đa số trường hợp, những gì không khế hợp với luật lệ do một thiểu số nắm quyền định ra bị gán nhãn hiệu ác. Chỉ những gì thẳng hàng với đòi hỏi của thiểu số cầm quyền mới được gán nhãn hiệu thiện hay chấp nhận được. Trong nhiều trường hợp, thiểu số cầm quyền hoàn toàn không đứng thẳng hàng với thực tại của Thượng đế và những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những gì họ gọi là thiện không tốt lành theo nghĩa tuyệt đối. Chúng chỉ tốt lành tương đối vì chúng chỉ tốt lành dựa trên định nghĩa vị kỷ của thiểu số cầm quyền, một định nghĩa không những chối bỏ các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà còn chối bỏ thực tại chỉ có những gì tốt lành cho tổng thể mới thực sự tốt lành cho cá nhân.

Con cần suy ngẫm – trong tim mình – khái niệm này xuất phát từ đâu. Câu chuyện Vườn Địa đàng minh họa là có một điểm Adam và Eve nhận ra là họ đã làm một điều gì đi ngược lại quy luật của Thượng đế. Nhưng thay vì trở về với Thượng đế và nhận tội và xin tha thứ, thì họ quyết định lẩn trốn Thượng đế (Genesis 2:8). Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, do đó con có quyền lẩn trốn Thượng đế nếu con muốn. Bởi vì Thượng đế tôn trọng các luật của ngài, và do đó tôn trọng chọn lựa tự quyết của con, nên Thượng đế không thể giúp con khắc phục ý niệm tách biệt đó. Nếu con muốn quay lưng lại Thượng đế, thì ngài sẽ cho phép con làm chuyện này và ngài sẽ không ép uổng con bằng bất cứ cách nào. Một khi con đã quay lưng lại Thượng đế, thì con có thể tiếp tục càng ngày càng xa rời Thượng đế trong tâm thức của con. Thượng đế sẽ không ép uổng con, Thượng đế sẽ không bắt con phải đối mặt với quyết định của mình. Thượng đế sẽ để con bước ra xa bao nhiêu cũng được nếu con muốn. Đó là lý do vì sao nhân loại đã có thể đi xuống một trạng thái tâm thức cực kỳ thấp mà con thấy trải bày hồi thời người tiền sử sống trong hang động, là một trạng thái không cao hơn loài thú bao nhiêu.

Thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại. Trước đó đã có nhiều nền văn minh đã đạt tới trình độ tinh xảo cao. Một số các nền văn minh đó vượt xa nền văn minh Tây phương hiện tại trên mặt công nghệ và văn hóa. Nhưng vì họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ nên họ dần dần đi xuống những trạng thái tâm thức và điều kiện sinh sống càng ngày càng thấp. Nếu con đã từng nghiên cứu các chuyện thần thoại, hay những gì các khoa học gia gọi là chuyện thần thoại, về các nền văn minh quá khứ, thì con sẽ biết thày đề cập đến các nền văn minh nào. Mặc dù một số chi tiết trong những câu chuyện còn sót lại từ các thời đó đã trở nên mờ tối với dòng thời gian, sự thật là đã có những nền văn minh quá khứ trên trái đất và thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại mà chỉ là một trong những điểm thấp mà nhân loại đã xuống tới.

Nếu con muốn thay đổi cuộc đời mình – để được cuộc sống dồi dào mà Thượng đế cống hiến vô điều kiện – thì con không thể thụ động và chờ đợi là Thượng đế sẽ làm hộ cho con. Con còn không thể dùng phương pháp cầu xin Thượng đế cho con cuộc sống dồi dào. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó con có quyền năng sáng tạo để thị hiện cuộc sống dồi dào bằng cách sử dụng các quyền năng đó.

Thượng đế sẽ không tạo ra đời sống dồi dào cho con; Thượng đế muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào cho chính mình. Thượng đế muốn con biết rằng con đã làm chuyện đó với quyền năng nội tại của mình – quyền năng của Thượng đế trong con – và con đã làm chuyện đó bằng cách đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Kết luận là lý do vì sao con chưa có đời sống dồi dào là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức, mà ta có thể gọi là trạng thái vô minh, nơi đó con mất liên lạc với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã sử dụng. Cách duy nhất để thoát khỏi cảm nhận thiếu thốn hiện tại và đạt được đời sống dồi dào là con thay đổi trạng thái tâm thức của mình.

7.3. Con đã dùng quyền tự quyết để tạo đời sống thiếu thốn

Con yêu dấu, thày muốn con bỏ ra vài phút để suy ngẫm về những phương pháp “làm giàu mau chóng” đang lan tràn trong xã hội Tây phương ngày nay. Con hãy xem xét là có biết bao nhiêu đạo sư đã hứa hẹn là nếu con theo phương pháp giản dị của họ hay đọc sách của họ, thì con sẽ tạo ra sự dồi dào và của cải tối hậu, và con sẽ có thể làm ra tiền nhiều vượt xa lý thường tình. Thày chắc chắn là nếu con nhận ra nhu cầu đem sự dồi dào vào cuộc đời của mình, thì con đã thử dùng một trong những phương pháp đó hoặc đã nghĩ chuyện theo chúng. Nếu con đã thử theo chúng, thì có lẽ con đã trải nghiệm là chúng không hiệu nghiệm.

Bây giờ thì thày giảng cho con là các phương pháp “làm giàu mau chóng” đó sẽ không bao giờ hiệu nghiệm trên đường dài. Thực tại giản dị là trạng thái thiếu thốn và đau khổ hiện nay của con là sự trải bày – trong vật thể vật lý – của những gì xảy ra trong tâm thức của con. Nếu con muốn thay đổi thực tại bên ngoài của con – thực tại được hình thành bởi Ánh sáng Mẫu-Vật – thì con cần trước tiên thay đổi thực tại nội tại của con, là thực tại của tâm thức của con, là những tâm ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Chỉ khi con theo trọn tiến trình thay đổi trạng thái tâm thức của mình một cách cơ bản và sâu thẳm, thì con mới thấy những cải thiện thật, chân chính và lâu bền trong hoàn cảnh bên ngoài của con.

Đây là một nguyên lý sâu sắc mà con cần hiểu nếu con muốn thể hiện đời sống dồi dào thật mà Thượng đế cống hiến con. Lý do vì sao con không có đời sống dồi dào thể hiện trong vật lý là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp, nơi đó con không sử dụng, con không có khả năng sử dụng, những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Điều các phương pháp “làm giàu mau chóng” hứa hẹn con là họ đã khám phá ra một ngõ tắt nào đó cho con của cải vật lý mà con muốn mà không cần thực sự thay đổi tâm thức của mình. Một số các phương pháp đó đề cập đến việc thay đổi tâm thức, nhưng chỉ một cách phiến diện. Họ tuyên bố là con chỉ cần theo một vài bước đơn giản, đọc một vài câu khẳng định đơn giản, thì của cải sẽ tức khắc tuôn chảy về hướng con.

Nếu con chưa chán ngán những hứa hẹn rỗng tuếch này thì thày sẽ không ngăn cản con tìm trải nghiệm đó nếu con nghĩ con cần trải nghiệm đó. Thày là một bà Mẹ đầy thương yêu, thày là một đại diện của Mẹ Thượng đế. Thày mong muốn con được sự dồi dào thực sự không thể mua được bằng tiền bạc và cũng không thể mua bằng ngõ tắt. Thày cũng thương yêu Thượng đế Cha và Luật tự quyết của ngài. Trong căn bản, Luật Tự quyết quy định rằng nếu con tách mình khỏi Thượng đế thì Thượng đế không thể cho con hướng dẫn và do đó hậu quả của hành động của con trở nên vị thày của con. Con học hỏi qua những trải nghiệm của mình.

Luật Tự quyết quy định rằng nếu con cảm thấy cần một loại trải nghiệm nào đó, thì Thượng đế sẽ cho phép con tạo trải nghiệm đó cho mình. Nếu con vẫn cần trải nghiệm nghèo đói, giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau, thì thày là ai mà có thể chối bỏ luật Thượng đế và tìm cách ép con phải chấp nhận sự dồi dào của Thượng đế? Nếu con mong muốn sự dồi dào, nhưng không sẵn sàng làm những chuyện cần làm để thể hiện sự dồi dào của Thượng đế, thì thày là ai mà có thể ngăn cản con chạy theo các đạo sư giả chỉ cho con ngõ tắt? Nếu con cần trải nghiệm đi theo một đạo sư giả như thế – cho đến khi con quá thất vọng và rốt cuộc từ bỏ giấc mộng tìm được ngõ tắt và nói: “Phải có một cách hay hơn” – thì thày là ai mà có thể đứng cản lối không cho con có trải nghiệm đó? Nếu con đã tới điểm quyết định không còn muốn những giấc mơ và ngõ tắt rỗng tuếch đó nữa, không còn muốn trải nghiệm đau đớn, thiếu thốn và khổ đau, thì thày có thể cống hiến con một cái gì. Thày có thể cống hiến con một con đường chân thật qua đó con thay đổi hoàn toàn tâm thức của mình. Con có thể đem tâm thức mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng. Khi con làm vậy thì con đem dòng sống của mình vào sự hài hòa với toàn Thân thể của Thượng đế trên cả thiên đàng lẫn trần thế. Toàn thể vũ trụ vật chất và chính Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ vui mừng đáp ứng những mong muốn thật của con. Con sẽ thấy là sự dồi dào sẽ xảy đến không phải như một phép lạ, không phải từ một lực bên ngoài con, mà qua cách sử dụng đúng đắn – cách sử dụng hài hòa và cân bằng – quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con khi dòng sống của con bắt đầu hiện sinh.

7.4. Nhập một với Dòng sông sự Sống

Con đường mà thày cống hiến là con đường thật dẫn tới dồi dào thật, không phải là một ngõ tắt, không phải là một con đường mà con người thấy có vẻ đúng, nhưng đến cuối đường là cái chết (Proverbs 14:12). Chìa khóa để đi theo con đường thật là nhận ra con đường này không có mục đích đem lại của cải tạm thời trên trái đất. Mục đích của con đường thật là thay đổi thường trực, một thay đổi tâm thức thường trực khi con sửa đổi tâm thức để nó thẳng hàng với thiết kế nguyên thủy được lưu trữ trong tâm Thượng đế khi dòng sống của con được tạo sinh. Thượng đế muốn sáng tạo những người con trai hay con gái thật của Thượng đế, được tạo sinh theo hình ảnh của ngài và giống như ngài và các người con đó dùng những quyền năng sáng tạo hoàn toàn hài hòa với tổng thể. Con không những chỉ khuếch đại dòng sống của chính mình mà còn khuếch đại kinh nghiệm sống của mọi sự sống trên trái đất, và quả thực mọi sự sống trong toàn thể vũ trụ.

Đây là trạng thái tâm thức mà Giê-su đề cập đến khi nói rằng trừ phi con hấp thu thịt và máu của người Con trai duy nhất đã được tạo sinh bởi Cha, thì con không có sự sống trong mình (John 6:53). Ý nghĩa sâu của câu này là khi con sử dụng quyền năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì con đứng thẳng hàng một cách toàn hảo với mục đích của sự sống và những nguyên lý hướng dẫn của sự sống. Con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, con là một phần của Dòng sông sự Sống, là dòng nước luôn tuôn chảy, luôn tăng trưởng bao gồm tất cả những gì đấng Sáng tạo đã tạo tác. Con luôn luôn di chuyển cùng với Dòng sông sự Sống, con luôn luôn thăng vượt chính mình, nhân các khả năng của con và trở nên hơn nữa, qua đó con đem thêm dồi dào vào cuộc đời mình. Đây là định nghĩa thật của sự sống.

Định nghĩa tâm linh của sự sống không phải là thân thể của con có còn hô hấp hay không. Đây là định nghĩa nhân phàm, sinh diệt của sự sống. Định nghĩa tâm linh thật của sự sống là con thăng vượt chính mình và trở nên hơn nữa. Khi con trở nên hơn nữa thì con trải nghiệm cuộc sống dồi dào, con là một phần của dòng chảy dồi dào luôn luôn di động của Thượng đế, là Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông đó thì con mới có đời sống tâm linh thật sự. Khi con bước ra ngoài dòng sông đó – vì con tách mình ra khỏi cái ta cao của mình, khỏi cội nguồn của mình, khi quên đi những quy luật của đấng Sáng tạo ra mình – thì con đi xuống một trạng thái tâm thức gọi là tâm thức chết khi nhìn từ góc độ tâm linh. Con đã chết theo nghĩa tâm linh, và đây là ý nghĩa sâu của câu nói của Giê-su.

Một khi con đã rơi xuống một tầng trạng thái tâm thức thấp thì làm sao con có thể vươn trở lên lại và đặt mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế? Cái gì cho phép con lấy lại gia tài thật của mình, bản sắc thật của mình như một người con trai hay con gái của Thượng đế, và nối kết trở lại với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, với phần bên trong của dòng sống của con, nơi mà Thượng đế đã đặt những quy luật của ngài? Trung gian sẽ cho phép con leo từ cái chết trở lên cuộc sống vĩnh hằng là người Con duy nhất được tạo sinh của Cha. Thật là điều đáng buồn khi ta phải công nhận là hầu hết các giáo phái Cơ đốc giáo chính mạch đều đã hiểu lầm ý nghĩa tâm linh thật của nhiều lời dạy sâu sắc nhất của Giê-su. Vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên và ý niệm tách biệt, và vì họ không chịu khắc phục trạng thái tâm thức đó, nên họ đã suy luận là Giê-su đề cập đến chính mình, con người vỏ ngoài của Giê-su khi nói câu đó. Họ suy luận là con người Giê-su là con đường, sự thật, và sự sống và do đó là chìa khóa duy nhất dẫn tới cứu rỗi (John 14:6). Kỳ thực Giê-su không ám chỉ một sinh thể đặc biệt nào, thày nói đến người Con được tạo sinh thật sự của Cha, không phải là một con người mà là một trạng thái tâm thức hoàn vũ, là tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đây là trạng thái tâm thức mà Phúc âm của John gọi là Ngôi Lời. Ban đầu có Ngôi Lời, và Ngôi Lời là Thượng đế và chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.

7.5. Ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô

Con yêu dấu, chúng ta bây giờ đã tới điểm thày có thể giải thích cho con ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô, người Con trai duy nhất được sinh tạo, Ngôi Lời. Việc đầu tiên trong công trình sáng tạo của đấng Sáng tạo là ngài tạo ra Ánh sáng. Ánh sáng là một chất không có hình tướng, nhưng nó có tiềm năng khoác vào bất kể mọi hình tướng. Nó khoác vào hình tướng không do quyền năng nội tại của nó, nhưng chỉ khi nó được tác động bởi một lực bên ngoài, một sinh thể có tự nhận biết và quyền năng sáng tạo.

Lúc ban đầu, Thượng đế đấng Sáng tạo là lực duy nhất tác động lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Lẽ tự nhiên, tất cả những gì đấng Sáng tạo tạo ra đều hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý cơ bản mà đấng Sáng tạo đã thiết kế để tạo vật của ngài được lâu bền. Ta không cần quan tâm là đấng Sáng tạo có thể tạo ra những gì vi phạm các nguyên lý, các quy luật của chính ngài. Sau khi đấng Sáng tạo đã tạo ra thiết kế cơ bản của vũ trụ thì ngài quyết định tạo ra một số sinh thể có tự nhận biết là các phần nối dài của ngài nhưng chưa có toàn thể quyền năng sáng tạo của một Thượng đế. Mục đích là đấng Sáng tạo sẽ trở nên hơn nữa qua việc tạo ra những phần nối dài của chính mình. Khi con thăng vượt chính mình và nới rộng nhận biết và quyền năng sáng tạo của mình thì con khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Thiết kế nguyên thủy là các sinh thể có tự nhận biết đó khởi sự với quyền năng sáng tạo giới hạn. Khi họ nhân khả năng của họ lên bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với quy luật của Thượng đế, thì Thượng đế sẽ tưởng thưởng họ. Như Giê-su có nói: “Tốt lắm, con là người giúp việc tốt và trung thành: con đã trung tín trong một số ít việc, ta sẽ cho con cai quản nhiều chuyện.” (Matthew 25:21). Ý nghĩa nội tại của câu nói này là khi con chứng tỏ ý muốn nhân lên khả năng của con bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì ngài sẽ ban cho con quyền năng sáng tạo lớn hơn. Con có thể nâng tâm thức và khả năng sáng tạo của mình cho tới khi con tới điểm thành tựu hoàn toàn mà Giê-su đề cập tới khi nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34).

Con đã được tạo ra với quyền năng sáng tạo giới hạn và một nhận biết giới hạn về toàn thể công trình sáng tạo của Thượng đế vì mục đích của Thượng đế là con du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng quyền năng sáng tạo của mình trên một hành tinh nhỏ bé, như trái đất. Con sẽ dần dần nâng khả năng sáng tạo và nhận biết cho tới khi con vĩnh viễn thăng lên khỏi vũ trụ vật chất và trở thành một sinh thể bất tử trên thế giới tâm linh. Từ đó con có thể tăng trưởng thêm nữa và quả thật, sự tăng trưởng này sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Khi Thượng đế tạo ra các sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và ý chí tự do thì chuyện có thể xảy ra là các sinh thể này đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hoặc vì họ lãng quên hoặc vì họ cố ý không tuân thủ. Nếu họ không thể đi ngược lại quy luật của Thượng đế, thì họ không thực sự có ý chí tự do. Như vậy chuyện có thể xảy ra là một dòng sống có thể tạo ra một điều gì không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế và do đó sẽ không chỉ đưa tới sự tiêu hủy của dòng sống đặc trưng đó mà còn có thể đưa tới sự tiêu hủy của nhiều dòng sống khác, tùy theo quyền năng sáng tạo của dòng sống đó. Để tránh chuyện này xảy ra, Thượng đế đã thiết lập vào thiết kế của vũ trụ một cơ chế an toàn khác. Thánh kinh gọi cơ chế an toàn này là Ngôi Lời hay là người con duy nhất được tạo sinh của Cha, nhưng thày lại muốn gọi là tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

Cơ chế an toàn này vận hành như sau. Dòng sống của con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con không có những quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo, con có quyền năng sáng tạo giới hạn hơn. Chúng chính yếu có cùng phẩm chất, nhưng không cùng số lượng với quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo. Điều khác biệt là đấng Sáng tạo là cái Tất cả và do đó ngài sáng tạo từ trong chính mình. Trong khi đó, con là một cá nhân do đó con không là, ít ra thì con chưa là, cái Tất cả. Con sáng tạo từ bên trong tạo vật mà đấng Sáng tạo đã tạo ra. Cơ chế an toàn của Thượng đế quy định là một người đồng-sáng tạo chỉ có thể tạo ra một cái gì bền vững khi người đó sáng tạo xuyên qua trung gian của tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là một nhận biết về các quy luật của Thượng đế không bao giờ bị tha hóa. Tâm thức Ki-tô lúc nào cũng là một với Cha và các quy luật của Cha. Khi Giê-su đạt được tâm thức Ki-tô thì thày kêu lên: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Khi con, như một dòng sống cá biệt, có nhận biết về cái Tất cả và những quy luật của Thượng đế, thì con nhận ra cá nhân mình không phải là người hành động thật, người tạo tác thật. Như Giê-su có nói: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30) và “nhưng Cha ở trong ta, ngài làm công việc” (John 14:10). Giê-su biết người làm việc thật, người sáng tạo thật không phải là con người vỏ ngoài, con người vật lý, thậm chí không phải là tâm vỏ ngoài, cái nhân cách được gọi là Giê-su Ki-tô. Người đang thực sự sáng tạo là phần cao hơn của bản thể của Giê-su, một cá thể hóa của Thượng đế được tập trung thành Hiện diện TA LÀ. Hiện diện đó sáng tạo bằng cách sử dụng năng lượng và các quy luật của Thượng đế để tạo ra hình tướng.

Tâm thức Ki-tô luôn luôn biết là tự nó không là quy luật, mà nó là một đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế, nó là một thành phần của một cái gì lớn hơn. Thượng đế đã thiết kế một số nguyên lý hướng dẫn sự tăng trưởng của mọi sự trong vũ trụ, và tâm thức Ki-tô biết rằng khi con sáng tạo một cách hài hòa với các nguyên lý đó, thì tạo tác của con sẽ bền vững và sẽ khuếch đại tổng thể. Khi con đánh mất nhận biết về các nguyên lý đó, thì lực co thắt của Đấng Mẹ sẽ khiến tạo vật của con tự tiêu hủy và điều này cũng có tiềm năng tiêu hủy một số phần khác của tổng thể.

Khi con ở trong tâm thức Ki-tô thì con không thể rơi vào trạng thái tâm thức thấp trong đó con tách mình ra khỏi Thượng đế và các quy luật của ngài, con quên mất những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào các phần nội tại của con và do đó con coi mình là quy luật. Với tâm thức Ki-tô, con không bao giờ tin vào hiểu biết của thiện ác tương đối qua đó con tự quy định các nguyên lý của riêng mình và nghĩ rằng con sẽ không chịu hậu quả khi con thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà không đếm xỉa đến ảnh hưởng trên tổng thể. Cơ chế an toàn này khiến con không thể mãi mãi quên mình là ai, mình từ đâu tới, và những quy luật mà đấng Sáng tạo đã quy định.  

Trạng thái tâm thức Ki-tô là trạng thái tự nhiên của mọi dòng sống do đấng Sáng tạo tạo ra. Vì Thượng đế đã ban cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết, chuyện có thể xảy ra là con quên mất trạng thái nhận biết tự nhiên này và qua đó con rơi vào tâm thức nhị nguyên, trạng thái tách biệt nơi con không còn biết cội nguồn thật của mình. Con cũng có thể tới điểm tin rằng con là một phàm nhân sinh diệt bị một Thượng đế đầy giận dữ kết tội phải sống một cuộc đời đầy đau đớn khổ đau và con không đủ uy lực nội tại để tự mình cải sửa tình trạng này.

7.6. Thế giới hình tướng cho phép con người đi ngược lại quy luật của Thượng đế

Sau đây là sự khác biệt chính yếu mà Thượng đế đã tạo ra khi ngài quyết định tạo ra các sinh thể có tự nhận biết. Ánh sáng Mẫu-Vật, Ánh sáng Mẹ, là cái mà các khoa học gia gọi là năng lượng. Năng lượng là một rung động và con có thể bắt đầu ở tầng rung động thấp của cõi vật chất và đi dần lên các tầng rung động cao hơn của cõi tâm linh cho tới khi con đạt tới rung động cao nhất của ánh sánh tinh khiết của chính Thượng đế. Ánh sáng đó có độ rung cao đến độ không thể có hình tướng nào hiện hữu. Không có hình tướng nào mà ta có thể phân biệt trong ánh sáng tâm linh thuần khiết. Làm sao hình tướng thành hình? Nó thành hình khi một tâm có tự nhận biết áp chồng một hình ảnh, một khuôn đúc lên ánh sáng thuần khiết và qua đó khiến nó mang vào một độ rung thấp hơn trạng thái nền của nó. Để làm chuyện này, sinh thể có tự nhận biết phải hình dung một hình tướng và sau đó dùng uy lực của tâm để áp chồng hình tướng đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Sau đây là cơ cấu an toàn cơ yếu. Chỉ khi dùng tâm thức Ki-tô, chỉ qua trung gian của tâm thức Ki-tô, thì người đồng-sáng tạo mới có thể áp chồng một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Chỉ một hình ảnh hài hòa với các quy luật của đấng Sáng tạo mới ảnh hưởng được Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều này bảo đảm là chỉ những người có tâm thức Ki-tô mới có thể tạo tác một cái gì cân bằng và bền vững. Ánh sáng Mẫu-Vật có tự trong nó một cơ chế an toàn khác, đó là nó luôn luôn muốn trở về trạng thái nền của nó. Khi một hình tướng được tạo ra trong sự hài hòa với các quy luật do đấng Sáng tạo quy định thì hình tướng đó thuộc Dòng sông sự Sống, có nghĩa là nó thuộc vào tiến trình tự thăng vượt không ngừng. Một hình tướng chỉ bền vững khi nó tự thăng vượt vì tăng trưởng là quy luật cơ bản của sự sáng tạo. Một hình tướng không hài hòa với các quy luật của Thượng đế, không tự thăng vượt và không có cân bằng giữa lực lan ra và lực co thắt, sẽ dần dần bị phá hủy bởi lực co thắt sẵn có trong Ánh sáng Mẫu-Vật, là lực đem tất cả các tạo vật không quân bằng trở về trạng thái nền. Tất cả các hình tướng được tạo ra dựa trên một hình ảnh khô chết, một hình ảnh không tự thăng vượt, sẽ không thể tránh bị lực co thắt hủy diệt. Chính lực co thắt khiến hình tướng có thể được tạo ra, nhưng nếu con dính mắc vào hình tướng – nếu con bắt đầu tôn thờ hình ảnh khô chết và từ chối tự thăng vượt – thì con bước ra ngoài Dòng sông sự Sống và rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt. Con chỉ có thể duy trì tình trạng bất quân bình đó trong một thời gian vì khi một hình tướng rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt – khi không được lực lan ra cân bằng – thì nó sẽ không thể tránh bị hủy diệt. Sự tha hóa của lực của Mẹ sẽ dẫn tới tự hủy diệt.

Trong những tầng cao nhất của vũ trụ tâm linh chỉ có những sinh thể có tâm thức Ki-tô hoàn toàn. Họ đã tạo ra những bầu cõi đẹp đẽ đến độ không ai trên trái đất có thể tưởng tượng nổi. Một số người có phước lành được ban thị giác tâm linh hay thần bí, hay đã trải qua kinh nghiệm cận tử, đã được thấy vẻ đẹp và sự toàn hảo của các cõi tâm linh hay ít ra là một số các cõi đó. Những ai chứng kiến được cảnh đó thấy rằng điều hiển nhiên là chỉ một sinh thể với một trạng thái tâm thức cao hơn rất nhiều trạng thái bình thường trên trái đất mới có khả năng tưởng tượng, hình dung những vẻ đẹp và sự toàn hảo như vậy. Con chỉ có thể tồn tại trên thiên đàng, trong cõi tâm linh khi con ở trong tâm thức Ki-tô. Trong thế giới thiên đàng con chỉ thấy những sinh thể ở trong tâm thức Ki-tô. Điều này không có nghĩa là các sinh thể trên thiên đàng không có tự do sáng tạo, vì sự thật là trong khuôn khổ quy luật của Thượng đế con không có giới hạn nào trong việc sử dụng quyền năng sáng tạo của mình.

Một sinh thể trên thiên đàng vẫn có thể chọn lựa đi ngược lại những nguyên lý sáng tạo mà đấng Sáng tạo của thế giới này đã quy định. Nếu sinh thể trên thiên đàng làm như vậy thì sinh thể đó không thể tiếp tục ở trên thiên đàng mà phải xuống một cõi thấp hơn. Đây chính là lý do vì sao cõi vật chất được thành hình. Sau khi Thượng đế và các đại diện của Thượng đế tạo ra một số tầng trên cõi thiên đàng thì đấng Sáng tạo thể hiện một tầng mới của tạo vật của ngài. Tầng này được cấu tạo bởi những năng lượng thấp hơn tất cả các năng lượng trong cõi tâm linh. Các sinh thể đã chọn đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế có thể cư ngụ nơi tầng đó. Những sinh thể này lúc đó có một nơi để thực thi những quyền năng sáng tạo của họ và nhận lãnh hậu quả của hành động của họ cho tới khi họ chán chê trải nghiệm bị giới hạn và rốt cuộc trở về với Thượng đế và nói: “Ôi đấng Sáng tạo của con, con muốn trở về nhà.”

Vũ trụ vật chất quả thật đã được các đại diện của Thượng đế tạo ra, và họ đã sử dụng tâm thức Ki-tô để hình dung một tạo vật cân bằng và hài hòa. Sau đó họ áp chồng viễn quan đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật qua đó nó mang vào một rung động thấp hơn tất cả các rung động có thể tìm thấy trong cõi tâm linh. Mặc dù vũ trụ vật chất được tạo ra bởi những sinh thể có tâm thức Ki-tô toàn hảo, nhưng vũ trụ vật chất được thiết kế để những sinh thể không hoàn toàn có tâm thức Ki-tô có thể sinh sống nơi đó. Đó là lý do vì sao Ánh sáng Mẫu-Vật được dùng để tạo ra vũ trụ này có thể được uốn nắn dễ dàng thành hình tướng không đứng thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những hình tướng này sẽ không tự hủy diệt ngay tức khắc như khi trên cõi tâm linh. Chúng có thể tồn tại tạm thời và sẽ chỉ bị tiêu hủy sau một khoảng thời gian.

Đây là một khái niệm rất vi tế mà thày biết nhiều người sẽ coi là trừu tượng. Các con sẽ được lợi lạc khi kéo giãn tâm mình để hiểu nó. Trên cõi tâm linh, trí thông minh nội tại trong Ánh sáng Mẫu-Vật khiến các hình tướng bất toàn và bất quân bình không thể nào tồn tại trong bất cứ khoảng thời gian nào. Bất cứ gì không hài hòa với quy luật Thượng đế sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc do lực co thắt của Mẹ. Trong vũ trụ vật chất, lực co thắt của Mẹ đã được điều chỉnh để các hình tướng bất toàn không tự hủy diệt ngay tức khắc, chúng quả thật có thể tồn tại một thời gian. Các khoa học gia đã khám phá ra quy luật này và gọi nó là định luật thứ nhì của nhiệt động học, cho rằng tất cả các hình tướng bất toàn rốt cuộc sẽ tan rã. Vũ trụ cho phép các sinh thể tự nhận biết đã vì vô minh hay cố ý đi xuống những tầng tâm thức thấp có cơ hội học hỏi bằng cách trải nghiệm hậu quả của hành động của họ. Những sinh thể này sẽ không thể tránh tạo ra những thứ không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Khi họ làm vậy thì họ sẽ không tạo ra cuộc sống dồi dào mà con tìm thấy trên cõi tâm linh. Họ sẽ tạo ra tình trạng thiếu thốn và giới hạn. Thượng đế hy vọng là khi các sinh thể này trải nghiệm những giới hạn, đau đớn và khổ đau mà họ đã tạo ra, thì họ sẽ rốt cuộc chán ngán trải nghiệm đó và do đó tự nguyện trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế.

Giờ đây thì chúng ta thấy sự khác biệt. Nếu một sinh thể trên cõi tâm linh quyết định nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế thì tất cả những gì sinh thể đó tạo ra sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Nếu sinh thể đó không có nơi nào khác để đi tới thì sinh thể đó sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó sẽ học được gì từ trải nghiệm đó? Nếu sinh thể đó bị hủy diệt, thì không thể có sự học hỏi. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó một sinh thể có thể đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà không tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó có thể tồn tại, tiếp tục có nhận biết. Sinh thể đó có thể hiện hữu trong cõi vật chất, và trong vũ trụ đó sinh thể đó sẽ trải nghiệm quả trái của hành động của mình, sẽ gặt những gì y đã gieo. Khi làm vậy thì sinh thể đó có tiềm năng học hỏi rằng khi y tuân theo các quy luật của Thượng đế thì y sẽ khuếch đại cuộc sống của mình và cuộc sống của tất cả các sinh thể khác. Khi y đi ngược lại những quy luật này, y giới hạn chính cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác. Luật Tự quyết được tôn trọng vì sinh thể có tiềm năng đi ngược lại các quy luật của Thượng đế, và qua đó trải nghiệm sự đau đớn, giới hạn và thiếu thốn, cho tới khi y chán ngán trải nghiệm đó và quyết định trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và tái tạo cuộc sống dồi dào là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế.

Sự khác biệt quan trọng là nếu con muốn tạo cái gì bền vững và nâng cao cuộc sống của mình và cuộc sống của mọi người trên trái đất, thì con phải sáng tạo từ tâm thức Ki-tô. Khi con không sáng tạo từ tâm thức Ki-tô, thì những gì con sáng tạo sẽ giới hạn quyền năng sáng tạo của con và khiến con trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau. Đau đớn và khổ đau xảy ra vì những gì con sáng tạo với trạng thái tâm thức thấp sẽ không tự thăng vượt. Chúng sẽ dựa trên một hình ảnh khô chết, là một hình ảnh không tăng trưởng. Nó không thể bền vững – nó sẽ không có sự sống vĩnh viễn – và do đó lực co thắt của Mẹ sẽ bắt đầu phá vỡ các hình tướng mà con đã tạo ra. Mặc dù tiến trình này sẽ mất một chút thời gian, nhưng nó là một tiến trình không thể tránh được và không thể đảo ngược được khi con ở trong trạng thái tâm thức thấp. Con chỉ có thể đảo ngược nó khi con vươn lên tâm thức Ki-tô.

Trên cõi tâm linh, các khái niệm không gian và thời gian không giống như trên trái đất. Khi con ở trên thiên đàng thì con ở trong tâm thức Ki-tô, và trong tâm thức Ki-tô con thấy mình là một với cái Tất cả. Khi con là một với cái Tất cả, thì có thể nói là con ở mọi nơi trong tâm thức của Thượng đế. Nếu con, như một dòng sống cá biệt, có tiềm năng mở rộng nhận biết của mình và ở khắp nơi trong tâm thức của Thượng đế, thì lẽ tất nhiên khái niệm không gian mang một ý nghĩa khác. Trên trái đất con trải nghiệm không gian như một giới hạn. Ý niệm tự nhận biết của con tập trung vào thân thể vật lý của con, hiện đang sống trên hành tinh gọi là trái đất, một hành tinh giống như một giọt nước trong đại dương vô tận. Khi con còn đồng hóa mình với thân thể thì ý niệm bản sắc của con bị giới hạn bởi không gian. Nó chỉ hiện hữu “ở đây”, nó tập trung vào thân thể đang ở trên hành tinh, và do đó con không thể ở mọi nơi cùng một lúc. Đây quả thật là một giới hạn trong tâm con thay vì là một giới hạn thật và không thể tránh. Thân thể vật lý của con không thể ở khắp nơi trong vũ trụ vật lý, nhưng tâm con không bị giới hạn bởi thân vật lý.

Khi con ở trong cõi tâm linh, con là một phần của Dòng sông sự Sống đang di động không ngừng và là toàn thể tạo vật của Thượng đế, là Bản thể của Thượng đế. Khi con di động cùng với Dòng sông sự Sống thì thời gian không có cùng nghĩa với thời gian trên trái đất. Trên trái đất, thời gian là một giới hạn khiến con trụ vào giây phút hiện tại. Thời gian đặt giới hạn cho cuộc sống của con vì thân thể vật lý dày đặc của con bị giới hạn trong khoảng thời gian mà nó có thể tiếp tục hiện hữu. Như Giê-su đã cố gắng cho nhân loại thấy, cái chết thậm chí là một ảo tưởng mà ta có thể khắc phục qua tâm thức Ki-tô.   

Ta có thể nói là những tọa độ của thời gian và không gian tối hậu không có thật. Chúng là sản phẩm của sự kiện vũ trụ vật chất cho phép các sinh thể tự nhận biết sáng tạo những gì không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Con càng tách mình ra khỏi sự thẳng hàng là Một với Thượng đế và thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế, thì con càng giới hạn mình, con càng giới hạn nhận biết của mình vào một địa điểm trong không gian. Con càng tách mình khỏi sự nhận biết mà các dòng sống đã có trước khi có sự Sa ngã và con càng xa rời Dòng sông sự Sống thì con càng giới hạn mình vào một lúc trong thời gian và ý niệm bản sắc của con càng tập trung vào thân thể vật lý và cuộc đời quá ư ngắn ngủi. Cuộc sống của thân thể vật lý ngắn đến độ chỉ cần dùng lý thường tình cũng thấy là không thể nào Thượng đế lại có thể thiết kế để con chỉ sống 70 năm và sau đó ngưng hiện hữu như một sinh thể có tự nhận biết.

7.7. Con lúc nào cũng có thể trở về với Thượng đế

Thày cố ý khởi đầu với một số khái niệm rất khó và trừu tượng vì chỉ khi con thiết lập một nền móng thì con mới thực sự có thể giải thoát mình khỏi tâm thức nhị nguyên đang ngăn cản con có được cuộc sống dồi dào. Để thoát được tâm thức nhị nguyên đó, con cần có tầm nhìn rộng hơn mà trên trái đất này giáo hội Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật không cung cấp. Để thiết lập một nền móng thích đáng cho phép con theo con đường mà thày cống hiến thì thày phải cho con tầm nhìn rộng hơn. Thày phải mang con ra khỏi khu rừng để con có thể thấy quá các thân cây và thấy toàn khu rừng – và do đó hiểu được là thế giới của con đã được tạo ra với mục đích gì. Con hiểu được là dòng sống của con, tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con, không chỉ giới hạn vào thế giới vật chất với những giới hạn, đau đớn và khổ đau. Con có một chọn lựa khác. Con có cơ hội vượt lên trên những giới hạn của tâm thức hiện tại, ý niệm bản sắc hiện tại của con. Con có thể vươn lên cao hơn và xây dựng một ý niệm bản sắc mới thẳng hàng với thiết kế thật của bản thể con.

Con yêu dấu, con cảm được sự thiết tha của thày chăng? Điều thày muốn truyền giảng cho con là nhân loại có một hiểu biết rất giới hạn về nguồn gốc của mình, một hiểu biết không bao gồm thực tại của con người mà con là. Khoa học và đa số các tôn giáo hiện nay đều không cho con một hiểu biết thực con là ai, con từ đâu tới và tại sao con ở đây. Nếu con không biết con là ai thì làm sao con có thể hiểu được mục đích con tới trái đất là gì? Nếu con không biết mục đích này, thì làm sao con có thể hy vọng đứng thẳng hàng trở lại với những ước muốn nguyên thủy đã khiến con tới vũ trụ này?

Thày đã cho con biết về Luật Tự quyết. Trái với hình ảnh một Thượng đế giận dữ và muốn trừng phạt mà một số tôn giáo đã mô tả, Thượng đế không giận dữ và không bao giờ trừng phạt ai. Đấng Sáng tạo có tình thương vô điều kiện đối với từng người con trai con gái của ngài, và tình thương vô điều kiện này có thể thấy rất rõ trong Luật Tự quyết cho phép con đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo nguyên thủy, thiết kế nguyên thủy mà đấng Sáng tạo có trong tâm ngài khi ngài tạo tác thế giới hình tướng, khi ngài tạo tác con. Chỉ một Thượng đế thương yêu vô điều kiện mới cho phép con đi ngược lại những quy luật của ngài qua đó con chối bỏ cuộc sống dồi dào và tạo ra trạng thái đau đớn và khổ đau thấp hơn rất nhiều những gì đấng Sáng tạo đã hình dung cho con.

Nếu Thượng đế quả thật là một bạo chúa giận dữ thì ngài đã ngăn cản không cho con làm như vậy. Nếu Thượng đế quả thật là một Thượng đế trừng phạt thì ngài đã trừng phạt con bằng cách tiêu hủy con ngay giây phút con bước ra ngoài các quy luật của ngài. Thượng đế của con là một Thượng đế thương yêu. Tình thương nguyên thủy của Thượng đế cho con, được giữ trong tim Thượng đế, không bị giảm thiểu chút nào bởi sự kiện con tạm thời chọn lựa quay lưng lại Thượng đế, chối bỏ cuộc sống dồi dào và thay vào đó tạo cho mình trạng thái giới hạn và khổ đau. Thượng đế thương yêu con y như lúc dòng sống của con được sinh tạo lúc ban đầu. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và bất kể những gì con đã làm trên trái đất, con sẽ không bao giờ mất đi tình thương đó.

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chối bỏ tình thương của Thượng đế. Vì con có trí tưởng tượng vô biên, con có thể tạo ra một hình ảnh giả về Thượng đế mô tả ngài như một Thượng đế giận dữ và trừng phạt, và con có thể chấp nhận hình ảnh này là sự thực tuyệt đối về Thượng đế. Con có thể chấp nhận là con không xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế và con bị kết án phải sống mãi mãi trong trạng thái giới hạn và khổ đau hiện tại, trạng thái tách biệt khỏi tình thương và sự dồi dào của Thượng đế. Đây là quyền của con, nhưng ngay khi con quyết định là con không muốn nắm giữ ý niệm bản sắc giới hạn đó nữa, không muốn chối bỏ sự dồi dào của Thượng đế nữa, thì Thượng đế sẵn sàng đưa con trở lại vương quốc của ngài và cho con cuộc sống dồi dào mà lúc nào con cũng được quyền có. Con chỉ cần theo những nguyên lý sáng tạo của ngài để thể hiện sự dồi dào đó vào trải nghiệm sống của con.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Thượng đế đã cho con quyền đi ngược lại các quy luật của ngài nếu con muốn. Thượng đế thậm chí thiết kế cả một vũ trụ để con có thể đi ngược lại các quy luật của ngài mà vẫn giữ được nhận thức và ý niệm cá thể, qua đó con có thể trải nghiệm hậu quả của hành động của mình, trải nghiệm thực tại giới hạn mà con đã tạo ra cho mình. Mặc dù Thượng đế cho phép chuyện này, nhưng Thượng đế lúc nào cũng giữ niềm hy vọng là – một ngày kia – con sẽ quyết định ngưng trốn chạy sự dồi dào của ngài. Con sẽ ngưng giới hạn chính mình. Con sẽ ngưng chối bỏ tiềm năng sáng tạo của mình, tiềm năng thiêng liêng trở thành một Thượng đế thực sự, một người đồng-sáng tạo thực của Thượng đế. Thượng đế hy vọng là con sẽ trở về nhà và trở thành một người đồng-sáng tạo có ý thức của Thượng đế để con biết mình là ai, con từ đâu tới. Con thực thi những quyền năng sáng tạo của mình một cách có ý thức với mục đích không chỉ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà còn khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế qua đó con là một phần của Dòng sông sự Sống, là cái gì thực sự quá diệu vợi đến độ nó vượt quá tầm hiểu biết của đa số con người trên trái đất.

Con yêu dấu, thày ở đây như là một đại diện của Thượng đế Cha. Trong quá khứ thày đã chọn xuống trái đất và khoác vào một thân thể vật lý dày đặc. Thày đã chọn thăng thiên trở lại vào cõi tâm linh để chứng minh là con người có thể nâng mình lên trên các giới hạn nhân phàm, kể cả kẻ thù cuối cùng gọi là cái chết. Vì thày đã chọn hòa nhập với tâm thức của Mẹ Thượng đế, nên thày tới đây như là bà Mẹ thương yêu không có ước mong gì hơn là thấy các con của mình được hưởng những điều tốt lành nhất. Đó là lý do vì sao thày đã tới đây để cống hiến con một con đường chân chính, thật và lâu bền vĩnh viễn có thể dẫn con trở về vương quốc của Cha, là vương quốc, như Giê-su đã nói, ở bên trong con và chính là tâm thức của con. Quả thực tâm thức chính là nơi con quyết định là con sẽ trải nghiệm cuộc sống dồi dào của vương quốc Thượng đế hay con sẽ trải nghiệm cuộc sống không mấy dồi dào tạo ra bởi những người đã đánh mất nhận biết về vương quốc Thượng đế, đánh mất nhận biết về bản sắc thật và quyền năng sáng tạo của họ. Thay vì là những người đồng-sáng tạo có ý thức của vương quốc dồi dào của Thượng đế, thì họ đã trở nên những người đồng-sáng tạo vô ý thức của vương quốc thiếu thốn.

Thượng đế đã cho con quyền năng sáng tạo vô biên, theo nghĩa là con không thể khóa nó lại. Ngay cả khi con đánh mất nhận biết về các quy luật của Thượng đế, thì con vẫn tiếp tục đồng-sáng tạo và đó là lý do vì sao luật pháp tại đa số các quốc gia có câu: “Không thể viện cớ không biết luật”. Ngay cả khi con không biết các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con vẫn sáng tạo qua quyền năng của tâm. Khi con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình ảnh bất toàn và bất quân bình, thì con áp chồng những hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày những hình ảnh này, và đó là lý do vì sao con trải nghiệm giới hạn, đau đớn và khổ đau trong thế giới vật lý trên trái đất.

Thày đã cho con hình ảnh tổng quát về thực tại đời sống trên trái đất. Thể nào cũng có nhiều chi tiết cần được bổ sung. Nếu con chịu chiêm nghiệm điều thày giảng ở đây và ở trong những chìa khóa kế tiếp, thì con sẽ thấy vươn lên trên tất cả các giới hạn nhân phàm là điều khả thi. Điều khả thi là con bước ra ngoài sa mạc của giới hạn nhân phàm cho tới khi con đứng bên bờ Dòng sông sự Sống, là dòng dồi dào luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế. Điều khả thi là con buông bỏ, từ bỏ hoàn toàn trạng thái tâm thức giới hạn dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Con một lần nữa lại có thể trầm mình vào Dòng sông sự Sống và trở thành một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Khi đó không có nghĩa là con mất đi cá tính của mình. Ngược lại, con lấy lại cá tính thật của mình – thay vì cá tính giả có giới hạn mà con đã tạo dựng trong hành trình trên trái đất. Một khi con giành lại cá tính thật của mình thì con biết con không phải là một người phàm, giới hạn, sinh diệt, là một người mà bản chất là tội đồ. Trái lại con thực sự là một con trai hay con gái của Thượng đế và con có tiềm năng đồng-sáng tạo vương quốc của Thượng đế ngay đây trên trái đất. Con không những sẽ khuếch đại cuộc sống của riêng mình mà còn khuếch đại cuộc sống của tất cả mọi người cho tới khi hành tinh này được nâng lên và trải bày cùng một sự toàn hảo, cân bằng và hài hòa mà ta tìm thấy trên cõi tâm linh. Đây là ý nghĩa thật của câu đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất.

Nếu con mở tâm đón nhận những lời giảng của thày, thì có sác xuất rất cao con đã xuống trái đất với mục đích đặc trưng đem lại vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này. Con tới đây không phải vì con đã nổi loạn chống lại ý chí của Thượng đế trong một cõi khác, nhưng con tới đây vì con mong muốn đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất. Con tới đây với một sứ mệnh cứu vãn, để là một tấm gương cho những anh chị em của con đã nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và do đó đi lạc đường. Con tới đây với lòng thương yêu muốn thấy Ánh sáng Mẫu-Vật được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn mà sa nhân đã áp chồng lên nó, để Ánh sáng Mẫu-vật được tự do trải bày sự toàn hảo và vẻ đẹp mà con biết là tiềm năng thật của nó.

Con yêu dấu, nếu con vì lòng thương yêu mà tới đây thì con sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Nếu con tới đây vì những lý do khác, nhưng đã chán ngán đi ngược lại quy luật của Thượng đế và đã kết nối lại với tình thương Thượng đế trong lòng mình, thì con cũng sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Con sẽ biết điều này nếu con chú tâm vào tim mình và cảm thấy một sự khuấy động, một rung động, thậm chí những làn sóng ánh sáng tràn vào con và chứng minh cho con là những lời thày nói trong khóa học này, những lời nói bên ngoài con, đang rung động hoàn toàn cộng hưởng với điều gì đó trong tim con.

Trong các bài kế tiếp, thày sẽ giảng cái đó là cái gì nhưng bây giờ thì thày yêu cầu con chú tâm vào điểm giữa ngực, cùng độ cao với trái tim vật lý của con, và cảm nhận là những lời thày giảng đã khuấy động điều gì đó nơi con. Nếu con cảm thấy sự khuấy động này, thì con biết là con đã trên đường trở về sự toàn vẹn của người đồng-sáng tạo có ý thức mà con đã được thiết kế để là ngay từ thuở ban đầu. Con sẽ biết con đường mà thày cống hiến là thật. Khi chúng ta đi tiếp vào những chương kế tiếp thì con sẽ thấy con đường đó trải bày ra. Điều này sẽ cho con một niềm hy vọng mới, một hướng đi mới, một mục đích mới, và cảm nhận lòng thương yêu đấng Sáng tạo, tất cả sự sống và cái Ta của con như một thành phần của Dòng sông sự Sống.

5 | Tích cực nhận sự dồi dào

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 6/4/2005.

5.1. Vương quốc Thượng đế ở bên trong con

Thày ý thức là những gì thày nói con trong những chìa khóa đầu này vượt xa những gì trường Giáo lý ngày chủ nhật dạy con. Nó vượt xa những gì bất kỳ tôn giáo chính thống nào trên hành tinh này dạy con. Thày cũng ý thức là những ai mở tâm ra với khóa học này đã bắt đầu nhận ra, sâu trong tim họ, là có gì nhiều hơn trong cuộc sống so với những điều họ được dạy trong trường hay trường Giáo lý ngày chủ nhật. Họ đã sẵn sàng nhìn quá các hộp tư duy truyền thống để tìm ra giải đáp cho những câu hỏi của họ về cuộc sống. Tuy thế, chúng ta cần giải quyết một sự kiện đơn giản là nhiều tôn giáo trên thế giới đề xướng hình ảnh một Thượng đế ở bên ngoài con, như một sinh thể xa xôi tít trên trời cao. Đáng tiếc nữa là một số tôn giáo, đặc biệt ở phương Tây, miêu tả Thượng đế như một sinh thể giận dữ và phán xét.

Một số thẩm quyền tôn giáo tự đặt mình trong vị thế cho mình quyền phê phán bất cứ ai không tuân theo những gì họ tin tưởng là giáo lý thật duy nhất về Thượng đế. Nhiều người trong số những người này nhanh chóng phán xét người khác và nói rằng những ai nói lên ý kiến không đúng theo cách diễn giải Thánh kinh của họ thì những người đó phỉ báng Thượng đế hay là đại diện của phản Ki-tô. Thậm chí họ cũng nói thế về những vị thày tâm linh chân chính của nhân loại, chính là những Sinh thể đã cống hiến cuộc đời của họ để giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của mọi hình tượng khô chết. Cốt lõi của bất cứ hình thức phỉ báng Thượng đế là chối bỏ Thượng đế. Hình ảnh Thượng đế được nhiều tôn giáo đề xướng dựa trên một sự chối bỏ Thượng đế rất tinh vi. Bất kỳ tôn giáo nào đề xướng một hình ảnh Thượng đế ở bên ngoài và tuyên bố rằng đây là tất cả những gì con người cần biết về Thượng đế, hoặc đây là hình ảnh thật duy nhất về Thượng đế thì họ thực sự đang đề xướng một triết lý bắt nguồn từ sự chối bỏ Thượng đế. Thật là đáng tiếc vô cùng khi nhiều giáo hội Cơ đốc quả thực đề cao hình ảnh một Thượng đế bên ngoài này, một Thượng đế giận dữ ngự trên trời.

Nếu người Cơ đốc chịu đọc Thánh kinh kỹ hơn với tâm cởi mở và con tim, thì họ sẽ thấy chính Giê-su đã nói về một Thượng đế không ở bên ngoài. Giê-su nói về một Thượng đế mà cá nhân con có thể biết đến và thày gọi Thượng đế đó là “Cha”. Giê-su cũng trích câu trong Cựu ước Kinh: “Các ngươi là Thượng đế” (John 10:34) và thày tuyên bố là mọi người không nên đi tìm vương quốc Thượng đế bên ngoài họ bởi vì vương quốc Thượng đế ở bên trong họ (Luke 17:21). Nếu con thêm vào đó sự kiện Phúc âm John tuyên bố rõ ràng là muôn vật được Thượng đế làm nên, chẳng vật chi được làm nên mà không bởi ngài (John 1:3), thì con thấy là có một cách hiểu rộng hơn về Thượng đế đang chờ con đằng sau hình ảnh một Thượng đế bên ngoài ở trên trời.

Chỉ những ai sẵn sàng buông bỏ hình ảnh thần tượng một vị Thượng đế bên ngoài mới có thể biết được Thượng đế thực. Thượng đế này không thể biết được qua giác quan bên ngoài hay qua trí năng nhân phàm. Thượng đế này chỉ biết được qua nội giác của trực giác cũng là tâm ngây thơ, chính là chìa khóa của mọi trải nghiệm tâm linh hay thần bí. Qua trải nghiệm này, con có thể biết thực tại của Thượng đế, con có thể biết Hiện diện của Thượng đế ngay bên trong con, như Giê-su đã hứa rõ ràng. Chân lý mà Giê-su giảng là: con là con cái của Thượng đế, con là con trai hay con gái của Thượng đế, con là một phần của Thượng đế đã được cá thể hóa. Chân lý này đã bị che mờ bởi học thuyết chính thống. Con được sinh tạo theo hình ảnh của Thượng đế và giống ngài và chìa khóa để tìm ra bản sắc thật của con là đi vào nội tâm và nối kết với cái ta cao của con, cái ta tâm linh của con hay cái mà chúng tôi gọi là “Hiện diện TA LÀ.” Thày thích tên này vì chính Hiện diện này cho con tự nhận biết cho phép con biết “con là”.

Trước khi con có thể tới điểm chấp nhận hoàn toàn con là ai và tại sao con ở đây trên trái đất, con cần buông bỏ hình ảnh một Thượng đế bên ngoài. một Thượng đế là đấng Sáng tạo Toàn năng đã sinh tạo trời và đất và Thượng đế đó là một Sinh thể có tự nhận biết. Hình ảnh mô tả Thượng đế như một Sinh thể có một hình tướng đặc thù, ngự trên một thế giới cao nào đó là một hình tượng khô chết giới hạn thực tại của đấng Sáng tạo của con. Đấng Sáng tạo của con không thể bị giam hãm trong một sinh thể đặc thù ngự trên cõi cao đó và lý do thật giản dị. Như Phúc âm John viết: “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” (John 1:3), có nghĩa là đấng Sáng tạo sinh tạo mọi vật từ chính chất liệu và Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi vật mà ngài đã sinh tạo. Để con có thể hoàn tất vai trò đúng đắn của con như người đồng-sáng tạo, con cần khắc phục tâm thức tách biệt chối bỏ Thượng đế nơi con đang là – và sự chối bỏ này thực là tâm thức phản Ki-tô, là nguồn gốc của mọi sự phỉ báng Thượng đế.

5.2. Tâm thức tách biệt đã khiến con người bất nhân với nhau

Trong nhiều ngàn năm con người đã bị lập trình để tôn thờ một Thượng đế hiện hữu đâu đó trên trời nhưng không tìm thấy được trên trái đất. Họ được nuôi dạy với cái nhìn nhị nguyên về Thượng đế nói rằng họ ở đây và Thượng đế ở đâu đó chỗ nào khác. Con bị tách khỏi Thượng đế bởi một rào cản không thể xuyên thủng và cách duy nhất con được cứu rỗi và trở về vương quốc Thượng đế là tuân theo những mệnh lệnh của một tôn giáo vỏ ngoài sẽ cứu rỗi con và đưa con về nhà.

Mục tiêu chính của Giê-su là phá tan hình ảnh Thượng đế bên ngoài này. Thày đến để giúp con người ngưng thờ phượng một thần tượng và khắc phục ảo tưởng tách biệt khỏi Thượng đế khiến họ nghĩ họ cần điều gì đó hay ai đó bên ngoài giúp họ kết nối lại với Thượng đế của họ và được cứu rỗi. Con nghĩ xem khi Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con thì ý nghĩa thật của câu này là gì? Câu này có nghĩa là con không cần một giáo hội bên ngoài để đạt tới vương quốc Thượng đế. Con không cần một giới giáo sĩ thượng tôn quyền lực tuyên bố con chỉ có thể được cứu rỗi bằng cách tuân thủ tất cả mọi mệnh lệnh của họ. Họ chính là những thày tế lễ đã chống đối mọi điều Giê-su làm và họ chính là những thày tế lễ, những nhà truyền giáo giả đã giết con trai thày và người anh tâm linh của con.

Trong mọi thời đại đều có một nhóm nhỏ thượng tôn quyền lực hoàn toàn tin chắc họ biết chân lý tuyệt đối về Thượng đế. Điều mà họ coi là chân lý tuyệt đối thật ra là một ảo tưởng về Thượng đế bên ngoài, một Thượng đế tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Đây quả thực là vấn đề chính yếu mà con thấy trên hành tinh trái đất. Đây là khởi nguồn của khổ ải, đau đớn và hạn chế. Mọi hạn chế mà con người biết được bắt đầu với tư duy cho rằng con có thể phân chia tạo vật của Thượng đế ra thành nhiều bầu cõi tách biệt nhau và trong bầu cõi này, vũ trụ vật chất, không tìm thấy Thượng đế.

Chính tin tưởng này thực sự là cội rễ của mọi xấu ác vì nó cho phép những sinh thể tự nhận biết đã được thiết kế như người đồng-sáng tạo với Thượng đế bỏ qua bên bản sắc thật của họ và bắt đầu nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn trong vũ trụ này mà không phải chịu hậu quả. Chính tâm thức tách biệt, tách biệt khỏi cái Tất cả của tạo vật Thượng đế và do đó tách biệt khỏi người khác đã đưa tới tình trạng con người bất nhân với con người. Chính tâm thức này đã cho phép con người dùng khả năng sáng tạo của họ, khả năng mà Thượng đế đã phú cho họ, để tạo ra một thế giới quan hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng. Nhân loại như một tập thể đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết mà Thượng đế ban cho họ để sáng tạo ảo tưởng cho rằng thế giới vật chất dày đặc đến độ không thể tìm thấy Thượng đế nơi này. Nó cho phép một số người tin rằng quy luật của Thượng đế không áp dụng trong thế giới này và họ có thể tách mình ra khỏi luật lệ của Thượng đế và sáng tạo luật của chính họ – chính họ đã trở thành luật lệ của họ. Họ nghĩ họ đã sáng tạo chính thực tại của họ trong đó họ có thể quy định luật lệ sao cho có lợi cho họ, để họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả, không gặt hái cái họ đã gieo.

Toàn bộ tư duy này che mờ thực tại của Thượng đế trong tầm nhìn của con người. Sự thực là Thượng đế không thể bị khinh dễ (Galatians 6:7) và quy luật của ngài không bị ảnh hưởng bởi niềm tin của người phàm. Trước đây không lâu Giáo hội Công giáo đề xướng niềm tin là trái đất là trung tâm vũ trụ và mọi vì sao trên trời xoay quanh trái đất. Như ngày nay con biết, đây không phải là sự thật và khi xưa nó cũng chẳng phải là sự thật khi mọi người đều tin như thế. Trái đất không bằng phẳng khi mọi người đều tin nó bằng phẳng. Lý do là niềm tin của con người không biến điều mình tin thành sự thật khi niềm tin đó mâu thuẫn với thực tại của Thượng đế. Một niềm tin có thể che mờ tạm thời thực tại của Thượng đế trong tâm những ai tôn thờ niềm tin đó như một sự thật, những người tôn thờ một hình tượng khô chết.

Sự thực là khi Thượng đế sáng tạo vũ trụ vật chất và sinh tạo những phần nối dài có tự nhận biết của chính ngài, là những sinh thể có tự nhận biết có trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì Thượng đế rõ biết là với trí tưởng tượng và quyền tự quyết vô hạn, con có thể dùng những khả năng này để gây tổn hại cho con và những thành phần khác của tạo vật của Thượng đế. Nhiều người hiện nay bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức quá tập trung vào bản thân mình, vào cái mà họ coi là bản sắc của mình, đến độ họ thực sự không thể quan tâm đến bất kỳ phần nào khác của sự sống. Họ không chịu xét xem hành động của họ ảnh hưởng ra sao trên người khác. Khi con xem những tin tức xảy ra hôm nay thì con dễ tìm ra những ví dụ hành động ích kỷ tột độ, những người hành động như thể người khác không ra gì hay họ có thể làm bất cứ điều gì mà không phải chịu hậu quả vì họ có tiền bạc hay quyền lực. Khi Thượng đế tạo ra con, ngài không tạo ra chỉ mình con, ngài không tạo ra cả vũ trụ này để phục vụ lạc thú của riêng con. Thượng đế đã tạo ra rất nhiều sinh thể có tự nhận biết và tất cả đều được tạo ra từ chính Bản thể và chất liệu của Thượng đế. Tất cả đều thuộc vào điều mà trên thiên đàng các thày gọi là Thân thể Thượng đế.

“Thân thể Thượng đế” là một khái niệm con nên ghi nhớ vì con rõ biết là dù ngón chân út của con chỉ là một phần tương đối không đáng kể trong thân thể con, nếu ngón chân út đó bị thương, thì nó sẽ ảnh hưởng cảm giác thoải mái chung của con. Một cái đau nhói trong ngón chân út có thể khiến toàn thân con cảm thấy rất khó chịu và do đó khi con làm tổn thương người khác, điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng trải nghiệm sống của con. Khi Thượng đế sáng tạo vũ trụ này, ngài không sáng tạo nó cho riêng con. Ngài sáng tạo nó để tất cả con trai và con gái của ngài đều có cơ hội đồng đều học cách dùng khả năng sáng tạo của mình. Khi làm vậy, Thượng đế biết ngài phải xây dựng một cơ chế an toàn ngay trong thiết kế của vũ trụ. Nếu có vài con trai và con gái của ngài quên họ là một phần của Thân thể Thượng đế và bắt đầu hành xử như thể chỉ có họ là quan trọng thì số ít người này sẽ không thể tiêu diệt tất cả các anh chị em của họ hay tiêu hủy toàn bộ vũ trụ.

Nếu một xã hội không có luật lệ buộc mọi người phải chịu trách nhiệm về hành động của họ, thì xã hội đó sẽ suy đồi vì rơi vào tình trạng vô luật pháp và hỗn loạn. Những người hung hãn nhất, tàn nhẫn nhất và những người không coi trọng người khác sẽ được lợi thế quá đáng so với người lương thiện và yêu thương. Con cần tự hỏi thật nghiêm túc rằng con có tin Thượng đế đã thiết kế toàn bộ vũ trụ để người không yêu thương, bất lương và ích kỷ được lợi thế hay ngài đã thiết kế vũ trụ với một cơ chế an toàn trong đó để bảo đảm những người đã trở nên ích kỷ không thể phá hủy toàn thể vũ trụ và không thể tiêu diệt hay kiểm soát anh chị em của họ.

5.3. Ánh sáng Mẹ có khuynh hướng trở về trạng thái nền

Bây giờ con hãy cho thày giải thích một trong những cơ chế an toàn mà Thượng đế đã xây dựng bên trong thiết kế cơ bản của vũ trụ nơi con sống. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ của con là một lực lan ra, một Sinh thể lan tỏa. Chúng ta có thể gọi đây là khía cạnh Cha của Thượng đế. Nó là động lực trở nên hơn nữa, động lực tự vượt thăng vì nếu không có nó không vật gì được tạo ra từ cái Tất cả của Thượng đế – không hình tướng nào sẽ khởi lên từ Thượng đế vô hình tướng và tự đầy đủ. Đấng Sáng tạo của con, Thượng đế của con, là một ngọn lửa thiêu đốt tất cả những gì khác ngài trong một chu kỳ tự thăng vượt mãi mãi mở rộng. Lực lan ra không thể sáng tạo một hình tướng bền vững ngay cả trong một giây. Nếu vũ trụ chỉ có lực lan ra thì không gì bền vững được, mọi sự sẽ bùng nổ mà chẳng có hình tướng nào cả. Các nhà khoa học hiện nay ủng hộ thuyết Vụ nổ Lớn cho rằng vũ trụ bắt đầu với một vụ nổ vĩ đại. Nếu quả thực chỉ có lực lan ra của Cha thì vũ trụ sẽ là một vụ nổ liên tục mà không có hình tướng nào bền vững vì nó sẽ bị nổ tung ngay tức khắc bởi lực lan ra. Để sáng tạo ra hình tướng bền vững, Thượng đế phải sáng tạo một lực quân bằng lực lan ra của Cha. Lực này là lực co lại của Mẹ và chính lực này được hiện thực khi Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy có mặt.” Ánh sáng là chất có thể nhào nắn thành hình tướng và một khi nó được nặn thành một hình tướng đặc thù, nó sẽ giữ hình tướng này trong một thời gian.

Ánh sáng là biểu hiện của lực co lại của Mẹ, và toàn bộ vũ trụ nơi con sống được sáng tạo qua tương tác hòa hợp và quân bằng giữa hai lực cơ bản này. Lực lan ra của Cha bổ túc lực co lại của Mẹ, lực lan ra của Cha tác động lên chất ánh sáng của Mẹ và khuấy động nó khỏi trạng thái nền để thành một hình tướng đặc thù. Khi chỉ có lực lan ra của Cha tác động lên Ánh sáng Mẹ, thì hình tướng do Cha trực tiếp sáng tạo được bền vững vô thời hạn. Khi Thượng đế sáng tạo những nối dài có tự nhận biết của ngài, ngài rõ biết những sinh thể này thiếu kinh nghiệm khi họ dùng uy lực sáng tạo của họ. Chuyện có thể xảy ra là họ dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng không ích lợi cho chính họ hay cho tổng thể. Ngài cũng biết là tuy có những người sáng tạo những hình tướng không toàn hảo mà không ý thức họ đang làm gì, nhưng cũng sẽ có những kẻ khác lạm dụng quyền tự quyết của họ để cố ý chống lại thiết kế của Thượng đế cho vũ trụ này. Thượng đế biết các con trai và con gái của ngài cần trải qua một giai đoạn học hỏi để mở rộng hiểu biết họ là ai và thế giới này vận hành thế nào. Sau khi học xong, họ có thể dùng khả năng sáng tạo để nhân tổng thể lên thay vì tiêu diệt tổng thể và chính họ.

Một lần nữa, Thượng đế muốn toàn bộ vũ trụ không phục vụ chỉ một cá nhân mà phục vụ toàn bộ Thân thể Thượng đế. Thượng đế phải bảo đảm một cá nhân không thể lạm dụng uy lực sáng tạo của y đến độ tiêu hủy vũ trụ hay một phần của nó, và do đó phá hủy môi trường tăng triển của các con trai và con gái khác của Thượng đế. Để đạt điều này, Thượng đế phú cho Ánh sáng Mẹ sự thông minh. Khuynh hướng tự nhiên của Ánh sáng Mẹ là luôn luôn ở trong trạng thái nền, là trạng thái không biểu hiện hình tướng nào. Ánh sáng Mẹ không thể tự thân sáng tạo. Nó cần lực của một sinh thể tự nhận biết tác động lên nó bằng cách điều khiển lực lan ra của Cha. Lúc đó Ánh sáng Mẹ khoác vào hình tướng nằm trong tâm sinh thể tự nhận biết, người đồng-sáng tạo. Đây là cơ chế an toàn bảo đảm không một cá nhân đồng- sáng tạo nào có thể lạm dụng khả năng sáng tạo của y đến độ tiêu hủy toàn bộ tạo vật của Thượng đế.

5.4. Quy luật cơ bản của cuộc sống là liên tục tự thăng vượt

Kế tiếp thày sẽ giảng cho con một nguyên lý vi tế mà trí năng con người sẽ cảm thấy khó lãnh hội. Nếu con nghĩ bằng trái tim và dùng trực giác, thì con sẽ hiểu được điều thày sẽ giảng bây giờ. Thày đã nói với con là Ánh sáng Mẹ có một lực sẵn có khiến nó duy trì được trạng thái nền trong đó ánh sáng hiện hữu nhưng không mang một hình tướng phân biệt; nó trong trạng thái không phân biệt. Cần gì để khiến Ánh sáng Mẹ mang một hình tướng? Cần một tâm có ý thức và có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Tâm ý thức này phải có khả năng tưởng tượng một hình tướng cho dù hình tướng đó chưa từng được biểu hiện. Tâm này phải có uy lực của ý chí để áp đặt hình tướng này lên Ánh Sáng Mẹ và qua đó khuấy động ánh sáng ra khỏi trạng thái nền của nó. Lúc đó Ánh Sáng Mẹ sẽ sinh ra một hình tướng biểu hiện, khác với trạng thái nền của nó.

Lúc ban đầu, chỉ Thượng đế Sáng tạo mới có uy lực sáng tạo này. Thượng đế dùng uy lực sáng tạo của ngài để hình dung một vũ trụ, một thế giới hình tướng sẽ trở thành môi trường tăng triển cho các con trai và con gái của ngài. Để sáng tạo bất cứ gì có hình tướng, Thượng đế phải chọn lựa. Thượng đế có thể tưởng tượng nhiều loại vũ trụ nhưng khi muốn biểu hiện một vũ trụ đặc thù, Thượng đế phải chọn thiết kế vũ trụ này như thế nào. Các nhà khoa học tiếp tục khám phá những khía cạnh mới của bản chất tinh tế của những lực giữ vũ trụ lại với nhau, và điều này cho con thấy Thượng đế đã lấy một số chọn lựa khi ngài thiết kế vũ trụ này. Nếu các lực này chỉ bị xáo trộn một chút thôi, toàn bộ vũ trụ có thể sụp đổ ngay tức khắc. Đấng Sáng tạo của con đã tạo ra vũ trụ này với tình thương vô điều kiện cho con và với mong muốn trong sáng tạo tác thế giới này như môi trường tốt nhất giúp con tăng triển. Thày biết là cuộc sống trên trái đất có thể rất khó khăn và đau đớn và nhiều người đã lớn lên với một nỗi giận Thượng đế, hoặc che giấu hoặc công nhận. Họ được dạy dỗ là Thượng đế ở bên ngoài họ, là vị Thượng đế giận dữ ở trên trời đã áp đặt một cách không công bằng ý chí của ngài trên họ và khiến họ đau khổ. Một số người đau khổ nhiều đến độ họ tới điểm giận Thượng đế đã khiến họ hiện hữu.

Thượng đế đã không tạo ra bất cứ bất toàn nào mà con thấy trên trái đất và chúng không thuộc vào thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho vũ trụ này. Lúc ban đầu, Thượng đế đã hình dung một vũ trụ trong đó tất cả con trai và con gái của ngài luôn luôn được dồi dào, sự dồi dào mà họ có thể gia tăng bằng uy lực sáng tạo của họ. Thượng đế không hề hình dung, cho dù chỉ một thoáng, điều kiện hiện hành trên trái đất. Nỗi khổ và nỗi đau mà con thấy toàn khắp hành tinh này giản dị vượt quá tưởng tượng của Thượng đế. Ngài không bao giờ mường tượng những điều kiện như thế sẽ hiện hữu trong thế giới của ngài bởi vì, như Kinh thánh nói, mắt ngài không thể nhìn vào điều tội lỗi bất công (Habakkuk 1:13). Tuy vậy ngài cũng biết khi cho các người đồng sáng tạo trí tưởng tượng và quyền tự quyết, họ quả thực có thể sáng tạo những điều kiện không thuận theo viễn quan của ngài.

Thày muốn con quán tưởng trong tim con chính thực tế là Thượng đế chỉ có những ý định tốt nhất và yêu thương nhất trong thiết kế của vũ trụ này. Ngài không thiết kế vũ trụ để nó đem lại khổ đau cho con, Ngài không thiết kế vũ trụ để khiến con cảm thấy mình là một tội đồ khốn khổ, ngài không thiết kế vũ trụ để con nghĩ con là một phàm nhân sinh diệt, sẽ đi xuống địa ngục trừ khi con tuân theo mệnh lệnh của một giáo hội vỏ ngoài hay một vị thần bên ngoài. Thượng đế đã thiết kế vũ trụ để phục vụ như môi trường tốt nhất cho sự mở rộng các khả năng sáng tạo của con, để con có thể tự thăng vượt và trở thành một sinh thể tự do như Thượng đế, có nhận biết đầy đủ con là ai và hành động của con ảnh hưởng thế nào tới tổng thể trong đó con là một thành phần. Con không tách biệt khỏi tổng thể đó, con là tổng thể nhưng là một biểu hiện đặc biệt của nó.

Khi Thượng đế thiết kế vũ trụ này, ngài lấy một số chọn lựa. Các chọn lựa này quy định những lực căn bản giữ vũ trụ này lại với nhau. Đằng sau những chọn lựa này là một số nguyên lý sáng tạo, và nguyên lý cơ bản nhất còn không do đấng Sáng tạo quy định. Nó là nguyên lý có sẵn trong chính sự sáng tạo bởi vì mọi tạo vật, mọi hình tướng biểu hiện phát xuất từ động lực muốn hơn nữa. Nguyên lý hoàn vũ của mọi sáng tạo là sáng tạo không bao giờ ngừng, nó là một tiến trình cứ tiếp diễn mãi mãi. Quy luật cơ bản của sáng tạo, quy luật cơ bản của cuộc sống là con không thể đứng yên, hình tướng không bao giờ có thể trường tồn và mọi sinh thể tự nhận biết phải liên tục tự thăng vượt và trở nên hơn nữa bằng cách mở rộng nhận biết về quyền năng sáng tạo của mình, về bản sắc thật của mình và mình là một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo, không có nó thì không gì được sáng tạo. Cho dù con đã được phú cho trí tưởng tượng và quyền tự quyết vô hạn, con không thể dùng các khả năng sáng tạo này để tạo ra một ý niệm bản sắc đặc thù và mãi mãi ở trong ý niệm bản sắc đó. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết nên Thượng đế cho con quyền sáng tạo ý niệm bản sắc là người tội đồ khốn khổ, sống trên một hành tinh đầy khổ đau và con sẽ xuống địa ngục trừ khi con tin vào những mệnh lệnh của một giáo hội vỏ ngoài do những tội đồ khốn khổ khác dựng lên. Năng lực của sự sống đòi hỏi con không thể ở lại trong ý niệm bản sắc giới hạn này mãi mãi. Nếu con cố gắng ôm chặt ý niệm bản sắc giới hạn này, thì lúc đó lực co lại của Mẹ sẽ vận hành như một cơ chế an toàn để phá vỡ tạo vật hạn chế mất quân bằng của con, như nó đã phá hủy Tháp Babel (Genesis 11:4). Điều này sẽ xảy ra vì khi con sáng tạo một ý niệm bản sắc giới hạn, lực co lại sẽ ngay lập tức bắt đầu phân hủy bản sắc này và ngay cả những hình tướng vật lý phát xuất từ ý niệm bản sắc này. Sau một thời gian, lực co lại của Mẹ sẽ nhất định thắng và ý niệm bản sắc của con sẽ bị thách thức. Lúc ấy con sẽ bị ép phải đối diện chọn lựa được mô tả trong Thánh kinh: “Ngày hôm nay, con hãy chọn con muốn phục vụ ai” (Joshua 24:15). Câu hỏi là: “Con sẽ chọn phục vụ sự sống, có nghĩa là tăng triển, hay con chọn phục vụ sự chết, nghĩa là đứng yên rốt cuộc sẽ dẫn con tới tự hủy diệt?” Chọn lựa cơ bản của con là tự thăng vượt hay tự hủy diệt. Đó là lý do tại sao Moses nói: “Hãy chọn sự sống” (Deuteronomy 30:19). Con hãy chọn tăng triển và mở rộng ý niệm bản sắc giới hạn của con.

5.5. Sáng tạo thuận theo quy luật Thượng đế sẽ đem lại sự dồi dào bền vững

Thày biết các giáo lý này có vẻ trừu tượng nên thày muốn tìm cách trình bày thiết thực hơn bằng cách so sánh với một kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của con. Con biết rõ là khi các kỹ sư thiết kế chiếc xe của con thì họ sử dụng một số quy luật thiên nhiên, một số nguyên tắc thiết kế. Để thiết kế một chiếc xe có khả năng làm những gì con muốn nó làm, thì họ phải tuân theo một số quy luật. Hậu quả là nếu con muốn chiếc xe tiếp tục hoạt động bình thường, thì con phải tuân theo một số thủ tục bảo trì. Xe con chạy được vì bộ máy được làm bằng một số bộ phận kim loại có thể chịu áp suất cao do khí xăng nổ trong xi lanh tạo ra. Các bộ phận kim loại này sẽ hao mòn và đóng bẩn nếu chúng không được bảo vệ bởi một màng dầu. Với thời gian dầu sẽ hao mòn và đóng bẩn cho nên con phải thay dầu đều đặn. Nếu con mua một chiếc xe mới và không bao giờ thay dầu thì một ngày kia máy xe sẽ giản dị ngừng chạy. Con không thể đổ lỗi cho các kỹ sư thiết kế xe vì họ giản dị thiết kế xe theo quy luật thiên nhiên. Hậu quả không tránh được là con phải thay dầu để bảo đảm máy xe chạy tốt. Con thay dầu xe đều đặn mà không cảm thấy việc này hạn chế quyền tự do cơ bản dùng xe của con.

Các nguyên tắc cơ bản mà đấng Sáng tạo của con dùng không hạn chế tự do sáng tạo và quyền năng sáng tạo của con. Chiếc xe của con được thiết kế để cho con tự do di chuyển tối đa và con có thể đi bất cứ nơi đâu con muốn. Khi con tuân theo một số nguyên tắc bảo trì giản dị, thì chiếc xe của con sẽ tiếp tục lâu dài cho con tự do này. Nếu con cố ý hay vô tình quên đi các nguyên tắc này, xe con sẽ không chạy và con sẽ mất tự do di chuyển mà xe cống hiến. Giống vậy, vũ trụ nơi con sống vận hành theo một số nguyên lý. Khi con tuân thủ những nguyên lý này, khi con sử dụng quyền năng đồng-sáng tạo của con trong phạm vi các thông số mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì con có thể tiếp tục đồng-sáng tạo thêm sự dồi dào cho con. Nếu con đi ngược lại những nguyên tắc mà đấng Sáng tạo đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì con sẽ dần dần tạo vấn đề cho mình, con sẽ tạo hậu quả hạn chế quyền năng sáng tạo của mình.

Đây đích thực là lời giải thích cho các loại khổ đau và hạn chế mà con thấy đầy rẫy trên trái đất. Khổ đau này không phải là sự trả thù của một Thượng đế giận dữ trên trời. Nó là hậu quả tự nhiên của việc hầu hết con người trên trái đất đã lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ. Họ đã dùng trí tưởng tượng của họ để xây dựng một hình ảnh giả nói rằng trái đất này là một thế giới hạn chế không thể cung cấp đủ dồi dào cho tất cả mọi người. Họ đã dùng ý chí của họ để chấp nhận hình ảnh này như một chân lý khả dĩ duy nhất. Họ chấp nhận là giới hạn, đau đớn và khổ đau thực sự không thể tránh và họ không thể làm gì để khắc phục chúng.

Nếu con thực sự muốn có cuộc sống dồi dào, con cần áp dụng phương cách đúng để được dồi dào. Con không thể thụ động và nói con là nạn nhân, một nạn nhân bất lực trước những lực vượt quá tầm kiểm soát của mình. Con không thể áp dụng phương pháp chờ Thượng đế ở trên trời ban cho con dồi dào hay tin rằng dồi dào tùy thuộc những người khác trong thế giới này. Con cần nhận ra rằng nếu con muốn dồi dào, con cần biểu hiện nó bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con. Cốt lõi của quyền năng này là trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Con cần khiến con người mình, hiểu biết và chọn lựa của mình thẳng hàng với những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để sáng tạo ra vũ trụ này. Khi con biết những nguyên tắc này, con có thể dùng trí tưởng tượng của con trong phạm vi các thông số quy luật của Thượng đế. Khi làm thế, con đem lại dồi dào cho cuộc sống của con một cách bền vững, và thậm chí có thể gia tốc mãi mãi.

Đấng Cha rất hoan hỷ ban vương quốc cho các con và ngài đã thiết kế vũ trụ này để tất cả con trai và con gái của ngài được đời sống dồi dào. Nghĩa là họ không bị hạn chế bởi một lượng dồi dào nào đó mà dồi dào tăng trưởng liên tục. Khi mỗi người tăng trưởng dồi dào cá nhân của mình, dồi dào của tổng thể cũng tăng trưởng. Khi mỗi người liên tục tăng trưởng dồi dào của mình, không có mâu thuẫn hay xung đột giữa cá nhân và tổng thể.

5.6. Con có dồi dào khi đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Thiết kế cốt yếu của vũ trụ của Thượng đế đã tạo ra một tình trạng sống rất đặc biệt. Mọi sinh thể mà Thượng đế tạo tác được tạo ra từ Hiện diện của đấng Sáng tạo. Họ đều là các nối dài của Thượng đế, các cá thể hóa của Thượng đế, con trai và con gái của Thượng đế. Những người con thấy trên trái đất đều là nối dài của cùng một Thượng đế và do đó tất cả đều là một phần của tổng thể của Thượng đế, tức là Thân thể Thượng đế. Trong thiết kế ban đầu của Thượng đế và viễn quan của ngài về vũ trụ này, tất cả con trai và con gái của ngài đều biết trong nội tâm họ những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ này. Thánh kinh giảng điều này khi nói là Thượng đế đã đặt luật lệ của ngài trong nội tạng của con (Jeremiah 31:33). Thượng đế đã ghi mã các nguyên lý sáng tạo vào chính bản chất của bản thể con, bản chất của cái ta tâm linh của con. Khi con tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ của con, thì con biết qua bản năng và trực giác cách biểu hiện trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con một cách thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Khi đó, hành động của con không những lợi lạc cho con mà cũng lợi lạc cho những thành phần khác của cuộc sống. Khi con khuếch đại sự dồi dào của cá nhân con, con khuếch đại sự dồi dào của tổng thể.

Con sống trong vũ trụ này nhưng con không sống một mình, con không phải là người duy nhất trên trái đất này. Điều con thấy trên trái đất ngày nay là những xung đột mãnh liệt giữa cá nhân và giữa các nhóm người. Đây không phải là viễn quan và thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Trong viễn quan của Thượng đế không có xung đột giữa cá nhân hay giữa các nhóm người vì không có tách biệt giữa cá nhân và tổng thể. Trạng thái thơ ngây này, trạng thái hồng ân này, trạng thái thiên đường này chỉ có thể duy trì khi những cá nhân sử dụng quyền năng sáng tạo của họ trong khuôn khổ những nguyên lý mà đấng Sáng tạo đã quy định. Khi đủ số lượng tới hạn con người trên trái đất dùng khả năng sáng tạo của mình thuận theo quy luật của Thượng đế, thì nhiều dồi dào hơn sẽ được đem tới thế giới này và do đó nhân loại sẽ càng ngày càng tăng trưởng sự dồi dào của họ. Khi làm vậy thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì mọi người luôn luôn nhận nhiều dồi dào hơn và không có cảm nhận thiếu thốn. Khi không còn cảm nhận chỉ có một số lượng của cải hữu hạn, thì không còn nhu cầu lấy từ người khác. Tại sao phải lấy từ người khác khi con nhận trực tiếp từ Thượng đế mà không cần điều kiện nào?

Như một thử nghiệm suy nghĩ con hãy xem mình là chủ nhân cây đèn thần được nói đến trong rất nhiều truyện thần thoại. Con hãy xem mình không cần bất cứ gì từ bên ngoài để biểu hiện bất cứ gì mình muốn. Con chỉ giản dị chà vào cây đèn và khi ông thần nhảy ra từ cái bình, con cho ông biết ý muốn của mình và ông biểu hiện nó ngay tức khắc cho con. Nếu con đã có cây đèn thần, thì có bao giờ con nghĩ tới chuyện dùng sức mạnh, lừa dối hay phương tiện khác để lấy từ người khác chăng? Nếu con biết ông thần sẽ cho con bất cứ gì con muốn mà chỉ cần hỏi, thì tại sao con phải chịu nguy hiểm hay khổ nhọc lấy từ người khác chứ? Tại sao con phải tìm cách bám giữ và tích trữ những gì con có? Lẽ tất nhiên con sẽ không bao giờ làm thế; con chỉ đơn giản sử dụng cây đèn thần của con để được điều con mong muốn. Bây giờ con tưởng tượng tất cả hàng xóm của con ai cũng có cây đèn thần của riêng họ. Sẽ có xung đột nào trong cộng đồng chăng? Có ai cần bóc lột người khác chăng? Có ai cần ăn trộm của người khác chăng? Lẽ tất nhiên là không! Mọi người sẽ chỉ đơn giản chà cây đèn của mình và biểu hiện điều họ mong muốn.

Con quả thực có một cây đèn thần, nhưng ông thần trong chiếc bình không phải là một thực thể bên ngoài. Ông thần trong chiếc bình chính là cái ta tâm linh của con, Hiện diện TA LÀ của con. Qua cái ta cao này, đấng Cha, đấng Sáng tạo của con sẽ biểu hiện ý muốn cho con vương quốc của ngài. Hiện diện TA LÀ của con là kho chứa các quy luật của Thượng đế, nó là nơi Thượng đế ký thác luật lệ của ngài trong nội tạng của con. Khi con, nghĩa là cái ta ý thức của con khiến những mong muốn, trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của con (Hiện diện không phải là một thực thể bên ngoài nhưng là con người thật của con), sự dồi dào của Thượng đế sẽ được biểu hiện trong cuộc sống của con xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ không cần lấy từ người khác hay từ Mẹ Thiên nhiên, con sẽ không cần dùng sức mạnh để có thể có dồi dào của Thượng đế. Nó sẽ xảy ra nhẹ nhàng và từ bên trong.

Qua những điều trên thày không muốn nói là con không có nhu cầu tương tác với người khác. Thực tình ý muốn của Thượng đế là con người hợp tác với nhau để sáng tạo sự dồi dào. Khi mọi người làm việc với nhau, quyền năng sáng tạo của họ nhân lên lẫn nhau và khi làm việc hợp nhất họ hoàn thành nhiều hơn là khi mỗi người làm việc đơn độc. Thày không vẽ ra hình ảnh một xã hội trong đó mỗi người là một cá nhân cô lập sáng tạo chính sự dồi dào của mình mà không tương tác với người khác. Thày vẽ hình ảnh một xã hội trong đó mọi người đều thẳng hàng với các nguyên tắc sáng tạo mà Thượng đế dùng. Họ có thể góp chung uy lực sáng tạo của họ để đem lại dồi dào nhiều chưa từng thấy trên trái đất, dồi dào nhiều hơn những gì mà hầu hết mọi người trong trạng thái tâm thức hiện nay có thể tưởng tượng được.

Sự dồi dào này là tiềm năng thật của trái đất. Thượng đế không có đặt giới hạn nào vào thiết kế cơ bản của hành tinh này. Giới hạn duy nhất là những giới hạn nằm trong tâm những người đồng-sáng tạo với Thượng đế, là những sinh thể tự nhận biết mà Thượng đế cho phép ngự trị trái đất. Thượng đế đã cho con quyền đồng-sáng tạo hành tinh này theo ý con. Thượng đế đã cho con quyền sáng tạo trạng thái giới hạn và đau khổ, bóc lột, xung đột và chiến tranh hiện nay. Nếu quả thực đây là kinh nghiệm con người muốn có thì Thượng đế cho phép họ sáng tạo trải nghiệm này, ít nhất trong một thời gian. Thiết kế cơ bản của vũ trụ quy định con không thể duy trì vô thời hạn một trạng thái giới hạn. Khi con sáng tạo trạng thái giới hạn này, con kích hoạt lực co lại của Mẹ và lực này sẽ dần dần phân hủy các giới hạn mà con đã tạo ra. Trên thực tế, đây là một cơ chế an toàn để con, một sinh thể tâm linh vô hạn với tiềm năng vô hạn, không thể mãi mãi bị mắc kẹt trong một trạng thái hạn chế.

5.7. Tác dụng của lực lan ra và lực co lại

Khi con sáng tạo điều gì thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, thì tạo vật của con được bền vững. Cái gì thẳng hàng với quy luật của Thượng đế không có sẵn trong nó những lực mâu thuẫn phân hủy nó. Khi con sáng tạo điều gì ngoài quy luật của Thượng đế, con sẽ có những mâu thuẫn có sẵn bên trong, con sẽ có những lực đối chọi đưa tới xung đột. Khi một số người lạm dụng uy lực sáng tạo của họ để đi ngược lại quy luật của Thượng đế, con sẽ thấy xung đột bộc phát trong xã hội. Bỗng nhiên con thấy những nhóm người họp nhau thành phe phái và họ quy định những bản sắc đối chọi nhau. Đó là lý do tại sao con thấy tình trạng đáng buồn của hai nhóm người có thể giết nhau nhân danh cùng một Thượng đế.

Các nhà khoa học của con đã khám phá nguyên lý này và gọi nó là quy luật thứ nhì của nhiệt động học, nói rằng trong một hệ thống đóng kín sự hỗn loạn (entrôpi) sẽ gia tăng. Entrôpi nghĩa là vô trật tự và các nhà khoa học khám phá rằng trong thiên nhiên có một lực sẽ đưa mọi cấu trúc, mọi hình tướng có tổ chức trở về trạng thái năng lượng thấp nhất mà nó có thể có. Có nghĩa là mọi cấu trúc bị phân hủy thành trống không, thành hạt hạ nguyên tử. Đây là khám phá khoa học về nguyên lý cơ bản có sẵn trong Ánh sáng Mẹ, như thày đã nói trong phần trước, chính là Ánh sáng Mẹ có một lực nội tại tìm cách đem mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó. Các nhà khoa học của con không hiểu trọn vẹn quy luật này vì họ vẫn còn tập trung quá mức vào khía cạnh vật chất của đời sống. Rất đúng là Ánh sáng Mẹ sẽ tìm cách đưa mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó, nhưng lực co lại của Mẹ không làm việc một mình. Khi lực lan ra của Cha đứng vào đúng cương vị của nó như người gia trưởng theo nghĩa tâm linh thì tạo vật sẽ không bị phân hủy bởi lực co lại của Mẹ. Một hình tướng đặc thù có thể hiện hữu vô hạn định, điều này không có nghĩa là vĩnh viễn.

Nếu con sáng tạo điều gì đó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, thì hình tướng mà con sáng tạo sẽ dần dần bị phân hủy bởi lực co lại của Mẹ. Nếu vật con sáng tạo hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hình tướng của con sẽ không bị phân hủy; nó sẽ bền vững và sẽ hiện hữu vô tận trong thời gian. Thày không nói nó sẽ hiện hữu vĩnh viễn vì lực lan ra của Cha quy định là mọi hình tướng phải tự vượt thăng và trở nên hơn nữa.

Có sự khác biệt lớn lao giữa sáng tạo một hình tướng bất quân bình sẽ bị phân hủy thành trống không và sáng tạo một hình tướng quân bình sẽ khuếch trương và trở nên hơn nữa. Khi con sáng tạo hình tướng không toàn hảo, thì con đang tham gia một trận chiến khó như leo dốc núi và đây là điều dẫn tới cảm nhận thiếu thốn, vật vã và khổ đau. Con lúc nào cũng như cảm thấy mình bị chậm trễ, cảm thấy mình không bao giờ có đủ và tất cả các lực trong thế gian này hè nhau lấy đi những sở hữu của con. Ngược lại, khi con hòa hợp với Thượng đế, con sẽ không bao giờ mất cái con có, con sẽ dùng nó làm nền tảng để xây đắp thêm dồi dào.

Đây là nguyên lý mà Giê-su minh họa trong ngụ ngôn về tiền ta lăng (Matthew 25:14). Khi Thượng đế thiết kế hành tinh trái đất, ngài xây dựng nền móng. Xây dựng tòa lâu đài tùy thuộc vào con người, như trong chuyện ngụ ngôn vai trò người đầy tớ là nhân lên các tiền ta lăng mà ông chủ phó thác. Tiền ta lăng mà Thượng đế ban cho con người là uy lực sáng tạo, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Nếu con chôn những tiền ta lăng này xuống dưới đất bằng cách đi ngược lại nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, lực co lại sẽ rốt cuộc phân hủy ngay cả nền móng mà Thượng đế đã xây dựng. Một hành tinh có thể trở nên khô cằn đến độ không thể nuôi dưỡng sự sống. Loài người, qua ô nhiễm hay chiến tranh nguyên tử có thể tiêu diệt toàn sự sống trên hành tinh này và biến nó thành một hành tinh xác xơ. Khi con người nhân tiền ta lăng của mình lên, thì họ sẽ duy trì nền móng do Thượng đế xây dựng. Họ có thể xây dựng thêm trên đó và đem lại dồi dào nhiều hơn những gì Thượng đế đã xây dựng. Đây là ý muốn thực của Thượng đế.

Thượng đế không muốn con chôn vùi tiền ta lăng của con xuống dưới đất; ngài muốn con dùng các tiền ta lăng này để khuếch trương cuộc sống của con và do đó khuếch trương cuộc sống của tất cả mọi người trên hành tinh này, sau cùng dẫn tới khuếch trương đấng Sáng tạo của con. Suy cho cùng, đấng Sáng tạo của con đã gài một phần của chính ngài trong con cho nên khi con khuếch trương phần này, con khuếch trương tất cả, con khuếch trương đấng Sáng tạo. Khi con trở nên hơn nữa, Thượng đế trở nên hơn nữa xuyên qua con và đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo.

Có sự khác biệt giữa cái thẳng hàng với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế và cái không thẳng hàng với các nguyên lý này. Luật của Thượng đế nói rằng không gì có thể y như cũ. Mọi sự đều phải đi theo một trong hai hướng sau:

  • Nó phải gia tốc nghĩa là nó tự thăng vượt xuyên qua lực lan ra, hoặc
  • Nó phải chậm lại nghĩa là nó tự tiêu hủy xuyên qua lực co lại

Thày hy vọng là giờ đây con đã thấy ra nhu cầu đặt mình thẳng hàng với nguyên lý tăng triển không ngừng để con có thể sử dụng uy lực sáng tạo của con trong khuôn khổ an toàn của các quy luật Thượng đế. Thày hy vọng con có thể thấy lợi điểm của sáng tạo cái gì bền vững có thể tiếp tục tăng triển và cho con thêm dồi dào và cũng đem thêm dồi dào đến tất cả mọi người khác trên hành tinh này. Nếu con thấy tầm quan trọng của điều này và con sẵn sàng hòa hợp với Thượng đế thì chương kế tiếp sẽ chỉ cho con làm sao bắt đầu tiến trình này, hành trình trở về trái tim của đấng Sáng tạo của con, hành trình trở về hợp nhất với nguồn cội của con.

1 | Vì sao con chưa được dồi dào rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 4/4/2005.

Chúng ta hãy bắt đầu bằng kiểm điểm lại thực tại. Chúng ta hãy xem xét câu nói: “Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc”. Dù con có thể đã nghe câu nói này nhiều lần, nhưng con đã bỏ ra thì giờ để suy ngẫm xem câu này thực sự nghĩa gì chăng? Thật sự chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Đó là Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, và như vậy chỉ có thể có nghĩa là Thượng đế thực sự muốn con được vương quốc của Ngài. Thượng đế thực sự muốn con được cuộc sống dồi dào. Ngài hoan hỷ cho con sự dồi dào đó.

Nếu con nhìn cuộc đời mình và thấy là con chưa được sự dồi dào, thì con phải lý luận là có cái gì đó đã không xảy ra suôn sẻ. Có cái gì đó đang ngăn trở con có cuộc sống dồi dào mà Thượng đế muốn con có. Vậy bây giờ chúng ta hãy cùng nhau lý luận xem cái gì đã có thể ngăn trở con có cuộc sống dồi dào – nếu quả thật ước muốn và ý chí của Thượng đế là con có được sự dồi dào đó. Chuyện trục trặc gì đã xảy ra? Cái gì đã ngăn trở con có được điều mà Thượng đế muốn con có? Cái gì đã ngăn trở ý chí của Thượng đế thể hiện trên trái đất này?

1.1. Vì sao con người không có cuộc sống dồi dào vô ưu

Chúng ta hãy xem xét tình trạng trái đất. Thiên nhiên trên hành tinh này có rất nhiều vẻ đẹp tuyệt vời. Các khoa học gia mỗi ngày lại khám phá thêm là thế giới này được thiết kế thật công phu, phức tạp và kỳ diệu. Có rất nhiều hệ thống phức tạp chằng chéo lẫn nhau trên trái đất đến độ ngay cả các khoa học gia duy vật nhất không thể tránh thỉnh thoảng cảm thấy kinh ngạc và nể sợ trước vẻ đẹp, sự tinh xảo và cân xứng mà họ khám phá trong thiên nhiên. Nếu con là một người có ý hướng tâm linh, thì con sẽ đồng ý với thày khi thày nói là sự tinh xảo này tất nhiên phải do một tâm thức thiết kế, mà tâm thức này có khả năng, trí tưởng tượng và suy luận rất cao. Điều con thấy trong thiên nhiên là Thượng đế quả thực đã thiết kế một tạo vật rất đẹp và kỳ diệu, trong đó có nhiều sự dồi dào.

Nhưng khi con nhìn vào lãnh vực con người thì con thấy một hình ảnh khác. Tuy thân thể con người là tạo vật phức tạp nhất trong tất cả các tạo vật của Thượng đế, con người dường như không tìm được cách sử dụng thân thể mà không tiêu hủy chính mình, tiêu hủy người khác và tiêu hủy thiên nhiên. Trong khi trong thiên nhiên con thường thấy sự dồi dào và cân bằng, thì trong xã hội loài người con không thể thấy sự dồi dào và cân bằng đó. Con hãy nghĩ tới lời của Giê-su khi thày nói là con có giá trị cao hơn chim sẻ (Matthew 10:31). Nếu Thượng đế có khả năng chu toàn và nuôi sống loài chim, thì Thượng đế chắc hẳn phải có khả năng cho con mọi sự con cần. Nhiều người trên trái đất nhìn loài chim một cách thèm thuồng, vì chim được tự do bay đến những nơi chúng thích và chúng lúc nào cũng có vẻ tìm được lương thực như đợi chúng tới lấy. Nhiều người thì trái lại bị kẹt trong một số cảnh ngộ và không thể cục cựa. Họ phải vật lộn suốt cuộc đời để kiếm sống và nuôi chính họ và con cái. Nhiều người mơ ước có được cuộc sống vô ưu của loài chim và nghĩ rằng cuộc đời của họ trái lại là một chuỗi dài vật lộn.

Khi con nhìn vẻ đẹp và sự dồi dào mà Thượng đế đã xây dựng trong thiên nhiên, có hợp lý chăng là Thượng đế không có khả năng thiết kế một hành tinh có thể nuôi dưỡng con người với cùng sự dồi dào và vô ưu mà con thấy nơi loài chim? Có lý do nào khiến Thượng đế không thể thiết kế một hành tinh có thể cung cấp cho con đời sống tự do và vô ưu mà con có thể thấy nơi nhiều sinh vật có trí thông minh thấp hơn con người rất nhiều, và như Giê-su đã nói, có giá trị thấp hơn con người rất nhiều?

Khi con dùng lý luận để suy nghĩ một cách lô gic về vấn đề này thì con chỉ có thể có một số ít chọn lựa. Con không thể chối cãi thực tại là con người không có đời sống dồi dào. Khi con suy ngẫm quan niệm Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc, thì con phải kết luận là nếu Thượng đế muốn con người được cuộc sống dồi dào, thì nhất định có cái gì đó không suôn sẻ về phía Thượng đế hoặc về phía con.

Một lối suy luận là cho rằng dường như Thượng đế có khả năng tạo tác một hành tinh kỳ diệu và tinh xảo có thể cung cấp nếp sống dồi dào và vô ưu cho loài chim và các sinh thể không thông minh bằng con người, nhưng vì lý do nào đó Thượng đế lại không kiến tạo được một hành tinh có thể cho loài người cùng sự dồi dào và tự do khỏi ưu phiền, thiếu thốn và đau khổ đó. Con có thể suy luận là khả năng thiết kế của Thượng đế không biết vì sao bị sơ sót, và trong lãnh vực con người, Ngài đã lầm lẫn. Quả thật là đã có nhiều người suy luận như vậy. Một số là tín đồ các tôn giáo, và vì họ được dạy dỗ là họ sẽ xuống đia ngục nếu họ phỉ báng Thượng đế, nên họ mau chóng xua các ý nghĩ này qua một bên. Một số khác chịu nhìn nhận là họ có những ý nghĩ này, và thậm chí một số đã dùng đó như một lý do để chối bỏ tất cả mọi tôn giáo hay khái niệm có Thượng đế.

Nếu con có khuynh hướng nghĩ như vậy thì thày chỉ xin con làm một chuyện. Hôm nào có một đêm trời không mây nơi chỗ con ở, con hãy bước ra ngoài và nhìn lên bầu trời đêm. Con hãy nhìn lên giải Ngân hà và suy ngẫm xem trong đó có bao nhiêu vì sao. Con không cần tham khảo một sách khoa học cho con biết là các nhà khoa học đã ước tính có bao nhiêu tỷ vì sao có mặt trong đó. Con chỉ cần nhìn với mắt mình và thấy là có nhiều vì sao hơn những gì con có thể đếm. Sau đó, con hãy tự hỏi: “Nếu Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ bao la và phức tạp đến như vậy thì có lý chăng là trên hành tinh nhỏ bé mà chúng ta gọi là địa cầu này, Thượng đế đã không cung cấp được cuộc sống dồi dào và vô ưu cho sinh vật cao nhất trên hành tinh này?”

Con tim yêu dấu của thày, nếu con chiêm nghiệm điều này thì thày nghĩ con sẽ nhận ra chân lý tuyệt đối là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế hành tinh địa cầu để tất cả mọi người trên hành tinh được vui hưởng một cuộc sống dồi dào và vô ưu như loài chim. Sự kiện đa số con người không có được nếp sống đó không vì một vấn đề đến từ phía Thượng đế. Như vậy chỉ còn lại một kết luận hợp lý duy nhất. Tình trạng thiếu thốn và nghèo đói trên trái đất bắt buộc phải do một vấn đề đến từ phía con. Một chuyện gì đó xảy ra trên trái đất đã ngăn chặn ý muốn của Thượng đế được thể hiện nơi đây. Một chuyện gì đó đã xảy ra khiến thiết kế nguyên thủy của Thượng đế bị thay đổi, dẫn tới sự kiện sinh vật cao nhất và phức tạp nhất thường khi có nếp sống không dồi dào bằng nhiều sinh vật khác có trình độ thông mình thấp hơn rất nhiều.

1.2. Con người có khả năng thay đổi môi trường

Con có thể thấy có lý do khiến con muốn chất vấn hình ảnh về Thượng đế mà xã hội đã cho con từ thuở thơ ấu. Con có thể tự hỏi những câu hỏi sau đây:

  • Nếu Thượng đế quả thật toàn năng và không thể lầm lẫn như nhiều tôn giáo mô tả, và nếu quả thật Thượng đế muốn con người được cuộc sống dồi dào, vậy có thể nào ước muốn của Thượng đế lại không được thể hiện trên trái đất?
  • Điều gì có thể ngăn cản ước muốn của một Thượng đế toàn năng không được thể hiện?
  • Nếu Thượng đế hoan hỷ cho con người vương quốc, vậy tại sao con người lại không có được vương quốc đó?

Giờ đây thì con tới một kết luận thuận lý khác. Hoặc có gì trục trặc từ phía Thượng đế hoặc có gì trục trặc từ phía con. Hoặc Thượng đế sai lầm hoặc hình ảnh mà nhiều người trên trái đất có về Thượng đế sai lầm. Một lần nữa, nếu Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ bao la và tinh xảo như vậy, thì có thể nào chăng là Ngài không thông minh? Kết luận hợp lý là phải có gì trục trặc với hình ảnh mà một số tôn giáo trên trái đất đã vẽ lên về Thượng đế. Kết luận này dẫn chúng ta tới một lãnh vực thảo luận hữu ích vì chúng ta có thể bắt đầu xem xét cái gì thiếu thốn nơi hình ảnh về Thượng đế mà con đã chấp nhận.

Chúng ta đã thấy là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế một vũ trụ rất bao la và phức tạp. Chúng ta đã suy luận là một Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ kỳ diệu như vậy phải hoàn toàn có khả năng tạo tác một hành tinh nhỏ bé có thể cung cấp đời sống dồi dào và vô ưu cho mọi con người sống trên hành tinh đó. Tuy Thượng đế có khả năng và ý muốn, nhưng thực tại hiện nay trên trái đất không phản ánh khả năng và ý muốn của Thượng đế. Chuyện gì đó dã xen vào giữa bản thiết kế về trái đất mà Thượng đế giữ trong tâm Ngài và thực tại hiện đang trải bày trên hành tinh này. Điều gì có thể ngăn cản ý muốn của một Thượng đế toàn năng được thể hiện? Điều thuận lý là không có gì có thể ngăn cản ý muốn của Thượng đế được thành tựu. Kết luận duy nhất là hoặc Thượng đế không toàn năng, hoặc Ngài đã chọn xếp qua bên, ít nhất là tạm thời, những quyền năng vô hạn của Ngài trên trái đất.

Kết luận này dẫn ta tới ý tưởng là có thể Thượng đế đã cho con người quyền cai quản trái đất, như Thánh Kinh đã xác quyết rõ ràng (Genesis 1:26). Khi Thượng đế nói con người hãy cai quản trái đất, thì câu này có nghĩa gì? Phải chăng điều hợp lý là chúng ta giả sử Thượng đế đã cho con người khả năng không chỉ giản dị sống trên hành tinh này và thích nghi với hoàn cảnh thiên nhiên như con thấy với các loài thú? Thượng đế đã cho con người khả năng không chỉ giản dị thích nghi với môi trường mà cai quản môi trường đó, và thay đổi môi trường một cách tích cực và có ý thức để đáp ứng nhu cầu của mình. Con người có khả năng chọn lựa cách họ sống. Con người không chỉ giản dị là nô lệ của môi trường, hoặc thích nghi hoặc diệt vong.

Tất cả các loài thú đều thích nghi với một loại môi trường nào đó. Mặc dù ta thấy trong thiên nhiên có khả năng thích ứng rất lớn, nhưng loài thú có giới hạn trong khả năng thích nghi với môi trường. Một con thú không có sự nhận biết và khả năng sáng tạo để thay đổi môi trường một cách ý thức, hay tách ly mình khỏi môi trường. Con người có khả năng thay đổi môi trường, và không có loài thú nào có khả năng sống trong nhiều môi trường khác nhau, như con người có thể làm. Thượng đế đã phú cho con người những khả năng vượt xa những gì ta tìm thấy nơi loài thú. Con người không chỉ là một con thú tinh xảo. Con người không chỉ là một con thú đã tiến hóa cao vì con người là một bước nhảy vọt lượng tử, nếu ta dùng một danh từ hiện đại, cao hơn loài thú.

Kết luận hợp lý là Thượng đế đã tạo tác con người theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài (Genesis 1:26). Con người có tâm thức và sự tự nhận biết tinh vi đến độ thay vì chỉ giản dị thích nghi với môi trường, con người có khả năng tưởng tượng là môi trường có thể thay đổi để giúp con người có được nhiều dồi dào hơn là những gì môi trường đang hiện nay cung cấp. Con người cũng có khả năng tự do chọn lựa tích cực thay đổi môi trường thay vì chỉ thích nghi với môi trường. Những gì phân biệt con người với loài thú là sự tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết.

1.3. Con người đã tạo ra hiện trạng trái đất

Một góc nhìn tích cực là khả năng sáng tạo cho con người tiềm năng hành động như những nối dài của Thượng đế trên trái đất. Từ đó ta có một cái nhìn mới về câu chuyện sáng tạo vũ trụ như ghi lại trong kinh Genesis. Kinh này ghi rằng Thượng đế bỏ ra sáu ngày để tạo ra trái đất, các loài thú và con người. Sang ngày thứ bảy thì Thượng đế ngơi nghỉ. Có thể chăng là việc Thượng đế “ngơi nghỉ” có nghĩa là Thuợng đế tạm ngưng công việc sáng tạo trái đất của Ngài? Thượng đế làm vậy vì Ngài đã tạo ra những sinh thể được tạo ra để làm bàn tay bàn chân của Ngài trên trái đất, như các phần nối dài của Ngài trên trái đất, để họ hoàn tất công trình sáng tạo trái đất. Có thể chăng là Thượng đế đã tạo ra con người như hình ảnh của Ngài và giống như Ngài vì Thượng đế muốn con người hoàn tất công trình sáng tạo trái đất? Thay vì chỉ thụ động sống nơi này, con người có thể góp phần một cách tích cực vào công trình sáng tạo của Thượng đế, con người có thể cảm thấy họ đang đóng một vai trò tích cực và họ đang góp phần thể hiện vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này.

Thày biết những ý tưởng này vượt xa rất nhiều những gì con được dạy trong lớp dạy Thánh kinh trong trường hay những gì các khoa học gia chịu xem xét. Những ý tưởng này giải thích thực tại mà con thấy nơi cuộc đời của con và nơi đời hàng tỷ người trên hành tinh này, là con không có cuộc sống dồi dào. Sâu tận đáy thâm tâm của con, con biết là con đáng lẽ phải có sự dồi dào, con biết là cuộc đời phải khác, phải khá hơn tình trạng hiện tại. Con có thể hiểu được hiện trạng này bằng cách nhận ra mặt trái của đồng tiền, đó là sự kiện Thượng đế cho con người trí tưởng tượng và quyền tự quyết có một khía cạnh đen tối, một tiềm năng tiêu cực. Con người có thể sử dụng trí tưởng tượng để hình dung một cái gì kém hơn điều Thượng đế muốn cho họ. Con người có thể sử dụng quyền tự quyết để chọn thể hiện một tình trạng không dồi dào bằng thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Trong thiết kế nguyên thủy của Thượng đế, con người được hưởng cuộc sống vô ưu như loài thú. Thượng đế muốn con người xây dựng thêm trên nền tảng này và tạo cho chính họ nhiều dồi dào hơn những gì thiên nhiên được thiết kế để cung cấp. Nhưng con người cũng có thể đi ngược lại và phá sập nền tảng mà Thượng đế đã xây dựng, đưa xã hội loài người vào trạng thái phi tự nhiên trong đó có nghèo đói và bất công. Nếu con đi sâu vào tim mình và suy ngẫm những ý tưởng này, thì con sẽ thấy là chúng quả thật giải thích vì sao có quá nhiều bất công, đau khổ, thiếu thốn và nghèo đói trên hành tinh này. Những ý tưởng này cũng có thể giải thích vì sao, sâu trong tim con, con có cái biết nội tâm đây không phải là chuyện tự nhiên, đây là điều không phải, đây không phải là ý muốn của Thượng đế, cuộc sống đáng lẽ không như thế này.

Chúng ta đã thấy là quả thật Đấng Cha hoan hỷ cho con cuộc sống dồi dào. Đây là trạng thái tự nhiên trên hành tinh địa cầu, là tất cả mọi người được dồi dào mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo. Như Giê-su có nói: “Để con là các đứa con của Đấng Cha trên thiên đàng: vì Ngài cho ánh mặt trời soi rọi người ác cũng như người lành, và gửi nước mưa xuống người tốt và người xấu” (Matthew 5:45).

1.4. Cách tiêu cực và cách tích cực

Kết luận mà con đạt được là con người đã làm điều gì đó để ngăn trở tình trạng tự nhiên trên trái đất, ngăn trở dòng chảy của sự dồi dào của Thượng đế và ngăn không cho nó tới mọi con người. Một khi con đi đến kết luận này và chấp nhận nó – trong những vùng sâu thẳm trong con người con cũng như trong tâm ý thức – thì con có được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống và khả năng đạt được sự dồi dào. Thay vì nghĩ con đang sống trên một hành tinh nơi đó khổ đau và thiếu thốn không thể tránh, thì con nhận ra thực tại là sự dồi dào là trạng thái tự nhiên. Đây là điều Thượng đế muốn, và Ngài đã thiết kế hành tinh này với đầy đủ khả năng cung cấp sự dồi dào đó. Thày biết là con đã được dạy dỗ là lý do vì sao không có đời sống dồi dào trên trái đất là vì thiếu tài nguyên thiên nhiên, nhưng điều này không đúng. Thượng đế đã thiết kế hành tinh này để nó có mọi tài nguyên cần thiết để cung cấp một cuộc sống dồi dào cho tất cả mọi người. Đất Mẹ có khả năng cung cấp một cuộc sống dồi dào cho một số người lớn hơn số con người hiện đang sống trong lòng mẹ. Vấn đề trên trái đất là con người đã dùng tâm của mình, quyền năng của trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình, để giới hạn, làm trệch hướng, ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế.

Khi con đi tới kết luận này thì con có thể hướng những suy tư của con về cuộc sống dồi dào sang một hướng mới. Con có thể bắt đầu xem xét làm sao chính con có thể ngưng ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế để con có thể thực sự thừa hưởng vương quốc của Đấng Cha và trải nghiệm cuộc sống dồi dào khi con còn đang hiện thân trên trái đất.

Con có hai cách tiếp cận cuộc sống dồi dào. Cách tiêu cực và cách tích cực. Khi con theo cách tiêu cực thì con có thể chấp nhận là Thượng đế muốn con có được sự dồi dào, nhưng vì con hiện đang không có dồi dào, nên con chỉ có thể lý luận rằng vì một lý do bí ẩn, thần bí, không thể biết được nào đó, Thượng đế không muốn cho con cuộc sống dồi dào ngay lúc này. Vì con không hiểu được tại sao – và con không thể giải thích tại sao vì không có lý lẽ hợp lý nào – nên chọn lựa duy nhất của con là chờ đợi và hy vọng rằng, một ngày kia, Thượng đế sẽ đổi ý và cho con cuộc sống dồi dào. Cách tiếp cận tiêu cực này đặt con vào một vị thế chờ đợi, và nó biến con thành một nạn nhân bất lực của hoàn cảnh và của các lực ngoài tầm kiểm soát của con.

Khi con chọn cách tiếp cận tích cực thì con lý luận là điều tự nhiên là con có được sự dồi dào. Nếu con hiện nay không đang được dồi dào thì có cái gì ngăn cản nó. Nếu con tìm ra cái gì ngăn cản nó thì con có thể tháo gỡ những rào cản đó, và lúc đó sự dồi dào của Thượng đế sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy vào cuộc đời của con. Con yêu dấu, nếu con chấp nhận chuyện này có thể xảy ra thì con thực sự đã sẵn sàng nhận chìa khóa kế tiếp vào vương quốc mà thày sẽ trao cho con trong những chương kế tiếp.