Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên PadmaSambhava ngày 27/11/2011, nhân một hội nghị tại Sneek, Hòa Lan.
Phật TA LÀ.
PadmaSambhava là tên ta.
Cái Một là lửa của ta.
Bất nhị là sân chơi của ta.
Không gì chế ngự được ta,
vì ta không cầu tiếng thơm,
ta không biết xấu hổ,
và ta không bao giờ như cũ.
Tại sao khi ta đang giảng thì ta lại bảo sứ giả này cầm một sọ người và một bông hồng? Con thử ngẫm xem ý nghĩa biểu tượng mà loài người đã phóng chiếu vào hai vật này xuyên qua các thời đại là gì.
Sọ người thường là biểu tượng cho sự chết, ngay cả có lẽ cho bóng tối, cho địa ngục, cho những gì đối chọi với Thượng đế. Bông hồng thường là biểu tượng cho cái đẹp, cho nữ tính thiêng liêng, cho thi ca và những gì gây phấn chấn.
Thế nhưng trong thời đại khoa học của con, con dư biết rằng sọ người lẫn bông hồng đều được tạo bằng phân tử. Phân tử được tạo bằng nguyên tử, nguyên tử được tạo bằng hạt hạ nguyên tử, và hạt hạ nguyên tử được tạo bằng năng lượng thuần khiết.
Liệu con có nghĩ một hạt nguyên tử trong chiếc sọ người kia biết rằng nó là thành phần của một đơn vị được loài người gọi là sọ người và gán cho một số cảm xúc lẫn một số liên tưởng? Liệu con có nghĩ hạt nguyên tử trong bông hồng kia biết tới ý nghĩa biểu tượng mà con gán cho bông hồng? Không đâu, bởi vì hạt nguyên tử chỉ giản dị là.
Cho nên mục đích của ta là gì khi cầm hai biểu tượng này lên? Đó là để cho con một khung tham chiếu về mục đích của giáo lý đức Phật, về mục đích của giáo lý mà chính ta đã ban truyền khi đem đạo Phật sang Tây Tạng và khởi sự các môn phái bất nhị. Đó cũng là cùng mục đích mà Giê-su đã giảng dạy cũng như tất cả mọi vị thày chân truyền đã cống hiến suốt các thời đại.
Đó là để giúp con thấy được rằng những sự liên kết mà con gán cho các biểu tượng, cho những vật tựa như bông hồng hay sọ người, chẳng qua chỉ là những hình ảnh trong tâm. Chúng chỉ hiện hữu trong tâm. Chúng được tạo ra trong tâm. Chúng chỉ có thể được giải thể nơi chúng được tạo ra, tức là trong tâm – trong tâm của con.
Tâm ảnh được tạo ra như thế nào
Chắc chắn ý nghĩa biểu tượng mãnh liệt được phóng chiếu vào sọ người suốt các thời đại đã không được tạo ra – trong dạng rộng của nó – trong tâm cá nhân con. Phần lớn hệ thống biểu tượng đen tối được tìm thấy trên hành tinh này đã được tạo ra trong tâm của những sinh thể bị rơi vào bẫy của tách biệt. Họ đã phóng chiếu nó lên người khác, và lần hồi họ đã tạo dựng toàn bộ ảo giác này trong tâm thức tập thể. Đa số các con đã đầu thai lần đầu trên địa cầu sau khi ảo giác đó được tạo dựng – cái ảo giác của sự chết trong tâm thức tập thể. Cho nên con đã nhận nó từ ngoài; con đã không chỉ ngồi đó mà tự mình tạo ra nó.
Tuy nhiên, đây là chìa khóa cốt yếu cho những ai muốn hiểu rõ giáo lý của Phật. Cho dù con đã nhận nó từ ngoài hay nó đã khởi phát từ trong tâm con, thì con cần hiểu rằng những gì hiện hữu trong tâm con ngay lúc này đã không thực sự đến từ ngoài. Tâm con đã có đáp lại một sự phóng chiếu từ ngoài, nhưng cái đang hiện điện trong tâm con không phải là sự phóng chiếu đó mà là phản ứng. Cái đang kìm hãm con không phải là hành động của người khác gây ra cho con, mà đó là phản ứng của con đối với mọi xung lực đến từ ngoài tâm con.
Đây là chìa khóa đích thực cho sự giác ngộ. Tất cả những gì đang cản trở con giác ngộ, đang giữ con kẹt lại trong Biển Luân hồi, “vật đó” đang nằm trong tâm con. Vật đó – phản ứng đó, nhận thức đó, tâm ảnh đó – đã được tạo ra trong tâm con. Và vì vậy, nó chỉ có thể được giải hóa ngay nơi nó được tạo ra: trong tâm con.
Chừng nào con còn phóng chiếu là người khác phải chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm con, thì con không thể đạt được giác ngộ. Đó là chuyện không thể, y như chiếc sọ người này không thể nào bỗng nhiên biết nói. Chừng nào con còn phóng chiếu là Thượng đế phải chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm con, chừng nào con còn phóng chiếu là người khác hay tà lực phải chịu trách nhiệm về những gì diễn ra trong tâm con, thì con không thể đạt đến giác ngộ.
Đổ trách nhiệm cho thày sẽ không giúp con học bài học
Nhưng ở một tầng cấp sâu hơn nữa, có một sự phóng chiếu còn vi tế hơn mọi thứ khác, đó là sự phóng chiếu được thày Maitreya mô tả thật chi tiết trong sách Chìa khóa cho Tự do Tâm linh (Master Keys to Spiritual Freedom) là khi con phóng chiếu rằng vị thày phải chịu trách nhiệm những gì diễn ra trong tâm con.
Chính điều này đã khiến con rời bỏ nơi trú ẩn an toàn, khu Vườn Eden – nếu có thể gọi như vậy – là biểu tượng cho dòng tông các vị đạo sư chân truyền đi trở ngược xuyên qua các hàng ngũ tâm linh cho đến Đấng Sáng tạo. Vườn Eden nhằm mục đích bảo vệ các dòng sống tân lập để họ tìm được nơi vị đạo sư một hệ tham chiếu, hầu họ có thể đối phó với sự khai ngộ không thể tránh khỏi của cõi vật chất được biểu tượng trong Kinh Sáng thế qua hình ảnh quả trái của cây hiểu biết thiện ác.
Đó chính là tâm thức nhị nguyên, như chúng tôi gọi như vậy ở phương Đông. Và như đã được giải thích, đó không chỉ là khi có một sự khác biệt hiện hữu, mà là khi có hai biểu hiện của sự khác biệt có thể đối chọi với nhau, hay bị tách rời khỏi tổng thể. Đây chính là lời gian dối, là ảo tưởng cứ giữ con kẹt lại trong Biển Luân hồi, trong vòng khổ đau – bởi vì con không ngừng phóng chiếu ra là con cần phải thay đổi một cái gì hay một ai đó ở ngoài phạm vi quyền tự quyết cá nhân của con.
Phạm vi quyền tự quyết của con là gì chứ? Đó chính là tâm con! Con không chịu trách nhiệm bất cứ gì ở ngoài phạm vi tự quyết của con. Cho nên con cũng không chịu trách nhiệm những gì diễn ra trong tâm của anh chị em con.
Và như các Thượng sư đã giảng dạy, chừng nào con còn phóng chiếu ra để tìm cách thay đổi người khác – thay đổi tâm họ, thay đổi phản ứng của họ – thì con sẽ không thể nhìn vào chính con. Và nếu con không nhìn vào chính mình thì con không thể thấy được chính những phản ứng, những khuôn nếp trong tâm con đang giam giữ con lại.
Công việc của sa nhân thật dễ dàng
Vì con chẳng thấy hay sao với tất cả những giáo lý chúng tôi đã ban truyền, là sa nhân có một công việc thật dễ dàng khi chúng quyết định chống lại Thượng đế và kéo mọi người xuống vòng xoắn ốc dường như bất tận của hành động và phản ứng? Con chẳng thấy hay sao là chúng chỉ cần làm đúng một chuyện: tạo ra một hành động vượt ngoài những gì con chờ đợi như một sinh thể mới đầu thai trên địa cầu?
Một khi chúng đã khiến con bị chấn động bởi một điều gì đó mà con không chờ đợi, thì con dễ dàng cảm thấy là mình phải phản ứng lại cái đó. Lúc đầu, con chỉ phản ứng chút đỉnh. Nhưng khi chúng cứ tới tấp làm tiếp thì cuối cùng con đã vượt qua một lằn ranh khi con không chỉ phản ứng mà thôi. Giờ đây con bắt đầu nghĩ, bởi vì những chuyện chúng làm là sai trái, cho nên con phải có hành động để chặn đứng sai trái đó và phục hồi điều phải.
Như vậy con bắt đầu phóng chiếu ra những hành động của chính con. Rồi người khác cũng bắt đầu phản ứng lại hành động của con, và điều này gây sốc cho con nhiều hơn nữa, vì con có cảm tưởng là con chỉ có thiện ý thì tại sao họ lại phản ứng khi con bảo họ phải làm gì? Đấy, con yêu dấu, họ phản ứng lại vì cùng cái lý do mà con phản ứng. Đây là một cơ chế vô cùng giản dị một khi con hiểu – một khi con nhìn thấy, một khi con trải nghiệm, một khi con có khung tham chiếu của một vị đạo sư chân chính. Vị này không ở trong nhị nguyên cho nên có thể chuyển cho con luồng ánh sáng là thuốc giải độc duy nhất cho các độc tố của nhị nguyên.
Thực tế đơn giản là như sau: Con đã được vị đạo sư chân truyền hướng dẫn là khi con dấn thân vào một cõi nơi quyền tự quyết là quy luật tối hậu, thì con không thể cho phép mình mang kỳ vọng về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Thế nhưng sự kiện này đã xảy đến cho nhiều người – và con yêu dấu, nó hoàn toàn thông cảm được. Có lẽ con cảm thấy một nét nghiêm nghị trong giọng nói của ta? Đó là vì ta có ý định đâm thủng qua các lớp dày đặc đã được dựng lên trong tâm thức đại chúng. Nhưng mãnh lực này cũng chính là ngọn lửa tình thương của Tia sáng Hồng ngọc vốn chỉ chứa đựng tình thương trìu mến nhất.
Bởi vì chúng tôi, tất cả chúng tôi, đều hiểu rõ việc bước vào cõi đó khó khăn đến chừng nào. Chúng tôi hiểu rõ sự quyến rũ của tâm nhị nguyên vi tế tới chừng nào. Dù sao thì ta cũng không ở đây để lên án và hạ thấp con mà để cho con cái chìa khóa hầu thoát khỏi nhị nguyên. Và chỉ có một chìa khóa mà thôi, đó là nhận ra điều sau đây: Con đã được vị đạo sư hướng dẫn là trong cõi này, quyền tự quyết ngự trị tối cao. Cho nên con có một phạm vi tự quyết của con, và đó là tâm con.
Tạo một hành động để ảnh hưởng chọn lựa của người khác
Tuy nhiên, có khả năng con dùng tâm mình để tạo ra một hành động và phóng chiếu nó ra bên ngoài tâm con với mục đích cố tình ảnh hưởng tâm người khác. Con biết rõ là con không thể cho phép mình chờ đợi là sẽ không phải gặp chuyện như vậy. Bởi vì hầu như không thể tránh được là con sẽ phải chạm trán với một ai đó ở ngoài tâm con, ở ngoài phạm vi quyền tự quyết của con, sẽ phóng chiếu một hành động chống lại con với mục đích cố tình thay đổi một điều gì đó trong phạm vi tự quyết của con, thay đổi suy nghĩ của con, thay đổi hay ảnh hưởng chọn lựa của con.
Và như vậy, điều xảy ra cho biết bao người là họ dần dần quên mất lời hướng dẫn nói trên. Và một lần nữa, không có sự khiển trách nào ở đây. Đơn giản là chuyện đó đã xảy ra, và nó xảy ra vì con làm một chọn lựa. Như Maitreya đã giải thích trong sách của thày, mỗi dòng sống đều có một lý do riêng để làm chọn lựa đó. Không có lý do nào là sai, không có lý do nào hay hơn lý do kia – đó là lý do của riêng con.
Khi con phát hiện ra lý do cá nhân đó, con có tùy chọn để thay đổi nó. Nhưng con sẽ không thể phát hiện được nó trừ khi con bắt đầu nhìn vào bên trong chính mình. Và để bắt đầu nhìn vào, con phải phá vỡ cái chu kỳ hành động và phản ứng. Và vì vậy con phải nhận ra một sự thật giản dị mà đức Phật đã dạy cũng như tất cả những vị trong dòng tông đức Phật: Cho dù người khác có làm gì con thì cũng không có định luật tự nhiên nào, hay quy luật tâm linh nào, bảo rằng con phải phản ứng lại.
Điều đó con phải hiểu là chỉ nằm độc nhất trong tâm con. Hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp có một ai đó tấn công con và con có hành động né tránh hay thậm chí tự vệ. Nhưng hành động vỏ ngoài này vẫn không có nghĩa là con phải phản ứng lại bên trong tâm con bằng cách tạo ra những khuôn nếp cảm xúc và lý trí sẽ lưu lại trong tâm ngay cả khi hành động vỏ ngoài đã chấm dứt.
Con thấy đó – như Phật đã chứng tỏ và Giê-su cũng đã chứng tỏ – con hoàn toàn có khả năng ở trong thế gian mà không thuộc về thế gian, con có thể trải nghiệm những hành động đến với con từ người khác mà không khởi lên một phản ứng nội tại tạo ra một khuôn nếp bên trong chính con. Và khuôn nếp này lần hồi tạo ra một cái trớn cho tới khi khuôn nếp đó, những năng lượng cảm xúc và lý trí đó, trở nên mãnh liệt đến độ con mất sự kiểm soát của tâm con. Con mất sự kiểm soát các phản ứng của con.
Và giờ đây con bắt đầu nghĩ là để bảo vệ bản thân, hay để bảo vệ kế hoạch của Thượng đế, hay để quảng bá một đại nghĩa tối thượng nào đó, con phải ra tay hành động. Con phải thay đổi những ai đang tìm cách thay đổi con, vì bây giờ con đã tin vào lời gian dối rằng có những điều phải và những điều trái. Cho nên những gì mà con trải nghiệm người khác gây cho con là trái, và con phải chỉnh đốn lại sai trái đó.
Bị đánh lừa bởi thiện ý
Con có thấy chăng là biết bao người suốt các thời đại đã có thể mang thiện ý tốt lành nhất để làm công việc của Thượng đế, nhưng họ đã bị đánh bẫy để mà sử dụng những phương thức rõ ràng đi ngược lại kinh sách của chính tôn giáo mình, hay đi ngược lại những gì ai ai cũng biết là cách cư xử phải lẽ đối với người khác? Bởi vì tất nhiên, tất cả các con đều biết theo một nghĩa nào đó, việc một người can thiệp vào quyền tự quyết của một người khác là không phải lẽ. Nhưng con cũng cần biết trong cõi này nơi quyền tự quyết ngự trị tối cao, rằng con sẽ không thể tránh gặp chuyện đó.
Cho nên, thay vì cố thay đổi chọn lựa và hành động của người khác, điều con cần làm là tập trung hoàn toàn vào chính con. Và con tập trung vào việc không phản ứng lại, không tạo ra một khuôn nếp phản ứng. Và khi con lỡ tạo ra những khuôn nếp như vậy – như tất nhiên tất cả chúng ta đều đã làm khi chúng ta đầu thai và phải đối phó với cõi vật lý – thì con nỗ lực gỡ bỏ khuôn nếp đó ngay lập tức.
Nếu con muốn giác ngộ, nếu con muốn thăng thiên trong kiếp này, nếu con muốn đạt được tâm an bình, nếu con muốn hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, thì con cần làm một chọn lựa, lấy một quyết định, là bắt đầu tháo gỡ các khuôn nếp hành động và phản ứng. Con cho là con phải phản ứng lại khi người ta làm hay nói một số điều. Con cho là con phải hành động, ngay cả trong dài hạn, do con nghĩ là việc phụng sự Thượng đế có nghĩa là mình phải tìm cách ảnh hưởng người khác. Và như thế, con phóng chiếu ra một tầm ảnh hưởng từ chính tâm con.
Con cần suy ngẫm sự khác biệt tinh tế đó, vì tất nhiên con cần nhận ra rằng quả trái của sự hiểu biết thiện ác tượng trưng cho đặc tính chủ yếu của tâm nhị nguyên: rằng không có câu nói nào là tuyệt đối, không có lập luận nào là tuyệc đối. Con có thể chụp lấy chữ nghĩa và bẻ cong đủ kiểu để biện luận chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ vấn đề nào.
Con chẳng thấy các thày thông giáo và Pharisi đã bẻ cong ngôn từ để phản bác lại Ki-tô Hằng sống hay sao, khi Ki-tô đứng ngay trước mặt họ bằng xương bằng thịt? Con chẳng thấy là xuyên qua các thời đại, mọi vị đạo sư chân truyền đều đã phải đối mặt với một số người gọi là đệ tử chỉ đến để tranh cãi ở trình độ chữ nghĩa, để vặn vẹo ngôn từ, để phóng chiếu ra một cách diễn giải nào đó?
Cho nên con không thể dựa trên ngôn từ để thực sự phân biện giữa sự thật và sai lầm. Con không thể phán đoán một người, con không thể biết rõ một người, dựa trên những lời mà họ nói ra, và đặc biệt những lời mà họ viết xuống. Và do đó con cần vượt xa hơn ngôn từ, và con có khả năng hòa nhập để cảm nhận không những độ rung của người đó mà cả ý định của họ nữa. Con có thể làm điều đó một khi con bắt đầu nhận biết khuôn nếp hành động và phản ứng nơi chính tâm con, và con cũng bắt đầu xây dựng khả năng phân biện, qua đó con cảm được điều này nơi người khác.
Thu hút thày giả
Con có thể tức khắc cảm nhận khi một ai đó đến với con, và có lẽ họ nói ra những lời lẽ dường như trung hòa hay tử tế, nhưng đằng sau có một ý định muốn ảnh hưởng ý chí tự quyết của con, muốn bắt mạch bất kỳ khuôn nếp hành động và phản ứng nào mà con đang mang trong tâm con, rồi tìm cách sử dụng để khiến con phản ứng lại – và như vậy con sẽ làm hành động mà họ muốn phóng chiếu vào tâm con. Cho nên con chẳng thấy hay sao là chừng nào con còn bị mắc kẹt, chừng nào con còn hoàn toàn đồng hóa với khuôn nếp hành động và phản ứng đó – dựa theo định luật muôn đời rằng khi học trò sẵn sàng thì vị thày sẽ xuất hiện – thì con sẽ không thể tránh khỏi bị thu hút bởi, hay chính con là người thu hút mình vào một đạo sư mà chúng ta có thể gọi là thày giả.
Bởi vì tất nhiên, câu nói “khi học trò sẵn sàng thì vị thày xuất hiện” có nghĩa là học trò luôn luôn sẵn sàng cho một vị thày nào đó, và vị thày xuất hiện chính là vị thày mà học trò có khả năng nhìn thấy ở mức tâm thức hiện thời của mình. Vì vậy khi con bị mắc bẫy và đồng hóa toàn diện với khuôn nếp hành động và phản ứng, con chỉ có thể thấy được một đạo sư cũng ở trong cùng khuôn nếp đó, nhưng là một đạo sư đã đưa khuôn nếp đó tới một mức cùng cực hơn con. Do đó vị ấy sẵn sàng phóng chiếu vào học trò của ông những gì họ phải làm, những hành động và phản ứng mà họ phải có đối với giáo lý của ông – hoặc đối với một vấn đề nào đó trong cuộc sống mà ông phóng chiếu ra là họ cần giải quyết.
Cho nên chỉ khi nào con bắt đầu nhìn ra khuôn nếp hành động và phản ứng này trong đời mình thì con mới có thể từ hóa (magnetize) chính con đến một vị thày gọi là chân chính – một cách chọn từ giả tạo, tất nhiên – hay nói cách khác, một đạo sư đã ít nhất bắt đầu nhìn thấy và tách mình ra khỏi sự đồng hóa với những khuôn nếp đó. Đó là lúc con có thể mở tâm ra với một giáo lý đến từ dòng tông của các vị thày chân truyền, là những vị thày không giảng dạy vì họ mang một khuôn nếp hành động và phản ứng mà họ muốn phóng chiếu. Họ giảng dạy vì họ không phóng chiếu – họ chỉ chia sẻ sự Hiện diện của họ tựa như mặt trời chia sẻ ánh sáng của nó.
Mặt trời không chiếu sáng trên trái đất với mục đích ảnh hưởng con người. Mặt trời là mặt trời; nó sẽ tỏa sáng ngay cả khi không có hành tinh nào quay quanh nó, vì nó là một quả cầu tự phát sáng, là cánh cửa mở giữa cõi vật chất và các cõi cao hơn. Nó chỉ đơn giản tỏa sáng vì đó là niềm vui của nó. Vị thày cũng giảng dạy vì đó là niềm vui của thày. Đó là một biểu hiện của con người mà thày là.
Và đây là tại sao một trong những cạm bẫy vi tế cho nhiều học trò là cứ dõi nhìn vào một vị thày nào đó, nhìn vào giáo lý vỏ ngoài, nhìn vào ngôn từ hay cách dùng từ, nhìn vào các ý tưởng, nhìn vào chính vị thày đó – dáng vẻ ngoài của thày, cách ăn mặc của thày, cách cư xử của thày, cái này hay cái nọ của thày – và họ tập trung vào hình thức vỏ ngoài của thày thay vì nhận ra rằng hình thức vỏ ngoài chỉ là một cỗ xe, rằng nó không hẳn quan trọng bằng sự kiện nó đủ trong suốt để cho phép cõi cao chiếu xuyên qua.
Và cho dù hình dạng vỏ ngoài của thày có vẻ không được toàn hảo theo chuẩn mực của con, thì chuẩn mực đó của con cũng là sản phẩm của những khuôn nếp hành động và phản ứng mà con mang trong tâm. Cho nên nếu con tìm cách áp đặt chuẩn mực của con lên thày, thì làm sao vị thày đó có thể hữu dụng cho con được? Bởi vì cách duy nhất để vị thày hữu dụng cho con là con thấy có một ánh sáng tỏa rạng xuyên qua hình dạng vỏ ngoài của thày, rồi con với lấy ánh sáng đó, đi theo ánh sáng đó. Con hãy dõi theo ánh sáng, con yêu dấu. Con biết trong thế gian người ta thường nói: “Dõi theo đồng tiền,” nhưng ta thì nói: “Dõi theo ánh sáng!”
Hãy nhìn vượt xa hơn hình dạng vỏ ngoài của vị thày cùng giáo lý, cho dù giáo lý hay vị đó như thế nào. Hãy bước theo ánh sáng đang chiếu xuyên qua. Chính nhờ ánh sáng đó mà con sẽ có một khung tham chiếu tạo uy lực giúp con thăng vượt các khuôn nếp hành động và phản ứng đang giữ con kẹt lại ở mức tâm thức hiện thời của con. Bởi vì chỉ khi nào con cảm nhận được một cái gì vượt xa hơn đang tỏa chiếu xuyên qua vị thày thì con mới có thể bước ra ngoài các khuôn nếp đó trong tâm con – và như vậy, đột nhiên, con sẽ trải nghiệm được khoảnh khắc nhận biết thuần khiết đó.
Sự quan trọng của nhận biết thuần khiết
Và đâu là tầm quan trọng của việc con trải nghiệm nhận biết thuần khiết? Đó là vì khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng. Và như vậy con có thể nhận ra là ánh sáng mà cho tới giờ con thấy chiếu xuyên qua vị thày, giờ đây nó có thể chiếu xuyên qua con. Và như vậy con đã sử dụng vị thày trong cách cao nhất, bằng cách nhận ra là khi con bước theo một vị thày cho tới mức hiện thân được lời dạy thì con cũng hiện thân được ánh sáng, rồi con trở thành cái mắt xích kế tiếp trong dây chuỗi các vị thày chân chính.
Chính con cũng trở thành thày cho dù con không toàn hảo. Bởi vì ít ra khi con có được những thoáng hiện của nhận biết thuần khiết vượt khỏi khuôn nếp phản ứng và hành động đó, thì con trở thành một cánh cửa mở cho ánh sáng. Rồi con có thể tỏa ra một lượng ánh sáng nào đó cho ai khác.
Ánh sáng vượt khỏi lời dạy
Khi ta đưa đạo Phật đến Tây Tạng, ta đã thành lập một trường học đào tạo những đạo sư hiểu rằng mục đích của họ không cứ là đem lại một giáo lý vỏ ngoài, mà là chuyển đạt áng sáng trực tiếp đến học trò của mình, vì họ hiểu rằng cho dù giáo lý có hay đến chừng nào thì đó cũng chỉ là chữ nghĩa, và chữ nghĩa thì có thể bị bẻ cong và hiểu lầm.
Nhưng ánh sáng không thể bị hiểu lầm. Vì học trò hoặc sẽ trải nghiệm được áng sáng, hoặc sẽ không trải nghiệm được chút nào khi y chỉ nhìn thấy những phóng chiếu mà y phóng chiếu vào thày. Cho nên họ biết rằng khi họ có thể quy tụ học trò, chia sẻ Hiện diện của họ, chia sẻ ánh sáng của họ, thì có thể sẽ tới một điểm học trò cũng trải nghiệm được ánh sáng và suy nghiệm xem ánh sáng đến từ đâu – vì y ngộ ra là ánh sáng không đến từ thày mà nó đến xuyên qua thày. Và khi y nắm bắt được thực tại này, y sẽ có thể bước vào sự nhận biết thuần khiết rồi trở thành một cánh cửa mở cho ánh sáng.
Và khi đó vị thày đã làm xong công việc chuyển đạt ánh sáng, thậm chí chuyển đạt cả giáo lý nữa. Bởi vì giáo lý là gì chứ? Phải chăng là ngôn từ vỏ ngoài? Không đâu, giáo lý chính là ánh sáng, giáo lý là Hiện diện. Vì mọi thứ đều là Phật tánh, cho nên mục đích của Phật đâu có gì khác hơn là để giúp con ngộ ra là con chính là Phật tánh – bằng cách trực tiếp trải nghiệm Phật tánh thay vì ngồi đó trong tâm mình và cho rằng mình đã hiểu Phật tánh là gì.
Nhưng con chỉ có một tâm ảnh mà thôi, và con say mê tâm ảnh đó đến độ con không muốn cả Phật đến phiền con. Vì con chỉ muốn ngồi đó đánh bóng tấm hình đó, cố làm sao cho nó thật toàn hảo, và do đó con không biết là con đã gặp Phật trên đường, và con không thể nào áp dụng lời khuyên nhủ là con phải “giết Phật khi gặp Phật.”
Và ý nghĩa câu đó, tất nhiên, là nếu con nhận dạng được Phật trong một hình tướng nào đó ở ngoài con thì tâm ảnh đó sẽ ngăn cản con chứng được Phật tánh của chính con. Và như vậy đức Phật, trong ý định tốt nhất của Phật, đã đột nhiên biến thành phản-Phật. Vị đạo sư, với ý định tốt nhất của vị đó, đột nhiên biến thành phản đạo sư. Đương nhiên, cả Phật lẫn đạo sư không tự nhìn mình theo cách đó, nhưng trong thực tế con lại nhìn họ theo cách đó, vì con từ chối thu nhận, nhập tâm và trở thành giáo lý.
Chìa khoá của giác ngộ
Đây là bài giảng mà các con đã xứng đáng nhận được qua dịp cuối tuần này khi con đi qua nguyên tiến trình mà con đã đi qua trong đời mình, khi con sẵn lòng chất vấn, sẵn lòng nhìn vượt xa hơn, sẵn lòng với tới những lời dạy cao hơn, những tầm hiểu cao hơn, những trải nghiệm cao hơn. Nhưng ta sẽ nói thêm là tất cả các con đều có thể lợi lạc nếu các con thực sự suy nghiệm và nhập tâm bài giảng mà ta đã ban ra biết bao thế kỷ trước, là bài giảng mà gần đây ta đã hướng dẫn sứ giả này tìm lại, về “Tự giải thoát qua cái thấy trong nhận biết trần trụi.”
Bởi vì một trong những cám dỗ cuối cùng mà con cần khắc phục trên đường tu tâm linh là cứ luôn luôn cố đạt được một trải nghiệm cao siêu, phi phàm. Nhưng con yêu dấu, thực tế là ý tưởng cho rằng con sẽ đạt được một trải nghiệm cao siêu nào đó khi gặp Phật hay được giác ngộ, chính là trở ngại cuối cùng trên đường tới giác ngộ. Vì như ta có nói trong bài giảng, một khi con chứng nghiệm nhận biết thuần khiết, con sẽ thấy đó có thể gọi là nhận biết “bình thường”, theo nghĩa là không có sự tương phản nào cả. Không có nhị nguyên ở đó để tạo ra sự tương phản giữa thấp và cao, giữa sướng và khổ.
Đó là tại sao đức Phật đã cố đưa ra một từ không có đối nghịch nhị nguyên. Cho nên thày đã nói đến “cực lạc”, như người ta đã dịch. Nhưng tất nhiên con vẫn có thể bảo: “Thế nhưng phản cực lạc thì sao? Hay phi cực lạc, hay vô cực lạc?” Và một lần nữa, con lại rơi vào cạm bẫy bẻ cong ngôn từ thay vì vượt khỏi ngôn từ và trải nghiệm trạng thái nhận biết thuần khiết nơi không có cao hay thấp, không có tương phản.
Và như vậy thậm chí con có thể gọi là “nhận biết thuần khiết” được không? Không được, nhưng làm thế nào con có thể nói về điều gì mà không dùng đến ngôn từ, con yêu dấu? Đây là nỗi khó khăn mà ngay cả chúng tôi là thày chân chính cũng phải đối mặt. Nhưng chúng tôi không xem đó là một vấn đề, vì chúng tôi luôn luôn tìm cách làm nhiều hơn là từ ngữ: chúng tôi chuyển đạt ánh sáng. Mỗi bài truyền đọc được một chân sư thăng thiên ban ra là một biểu hiện của ngọn lửa tâm linh (fohat), trong đó từ ngữ là những cái chén ánh sáng. Một số đệ tử không nhìn ra điều này mà chỉ thấy được từ ngữ.
Nhưng rồi cuối cùng, nhiều người cũng sẽ cảm được là trong đó có nhiều hơn là từ ngữ. Và khi con tiếp tục bước theo cái nhiều hơn đó, tiếp tục bước theo ánh sáng, thì con sẽ đạt tới chìa khóa của giác ngộ. Nơi đó con thấy được rằng mặc dù đạo sư là một cánh cửa mở cho ánh sáng, vị ấy không phải là cánh cửa mở duy nhất, vì ngay bên trong con cũng có một cánh cửa mở khác. Và khi con trở thành cửa mở, đó chính là giác ngộ.
Có một số người muốn nắm lấy giác ngộ và phóng chiếu lên nó một khái niệm cho rằng giác ngộ có một số giai đoạn. Nhưng cũng hữu ích không kém là bảo rằng không có những giai đoạn giác ngộ, mà giác ngộ là khi con ngộ ra sự sống không đứng yên một chỗ, sự sống là thăng vượt. Và như vậy các giai đọan đó chỉ đơn giản là dòng chảy không ngừng của Dòng sông sự Sống, khi con không xem đó là những giai đoạn có thể được đặt lên một thang điểm cao thấp. Bởi vì con đã thăng vượt nhu cầu bảo rằng: “Ồ, tôi đang đứng ở tầng giác ngộ thứ 33, cho nên tôi cao hơn tất cả những ai đang đứng dưới tôi.”
Nhưng khi đó thì hiển nhiên, con chưa giác ngộ, phải không? So sánh liệu có ích chi? Lập ra thang điểm có ích gì? Phải, ở một mức tâm thức nào đó thì người ta cần làm vậy. Nhưng sẽ tới một điểm khi con vượt quá nhu cầu này, và con không quan tâm đến cả chuyện mình có giác ngộ hay đang ở tầng này tầng nọ. Con chỉ lo biểu lộ ánh sáng, để cho ánh sáng chảy xuyên qua con, chia sẻ Hiện diện của con mỗi ngày càng nhiều hơn mà không có mục đích gì hết.
Bởi vì sẽ tới một điểm khi con buông bỏ mục đích. Ở một giai đọan nào đó thì có mục đích là một điều phải lẽ, nhưng sẽ phải tới một điểm khi con buông cả khái niệm mục đích, một mục đích mà con ra sức đạt được – vì con buông bỏ ý niệm có một cái gì tách biệt với con mà con cần đi tới.
Thay vào đó, con là người mà con là. Con là cánh cửa mở cho bất kỳ biểu hiện nào mà Tánh linh quyết định biểu hiển. Con sẵn lòng mở miệng nói mà không biết điều gì sẽ được thốt ra qua cửa miệng. Cho nên thỉnh thoảng con sẽ ngạc nhiên, và người khác cũng sẽ ngạc nhiên như con, bởi những điều con nói.
Và đó chính là dòng chảy của Tánh linh, con yêu dấu. Tất cả các con đều mang tiềm năng làm cánh cửa mở. Nếu con thấy sứ giả này là cánh cửa mở thì con đừng rơi vào cạm bẫy sùng bái thần tượng, mà hãy dõi bước theo ánh sáng cho đến khi con nhìn thấy ánh sáng trong con. Bởi vì con sẽ thấy chính con cũng là cửa mở.
ĐÓ là lời dạy muôn đời, vượt thời gian. Đó cũng là món quà của ta hôm nay. Với tình yêu của ta, ta niêm con lại trong tim ta.