Chấn thương nhập đời nguyên thủy

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 5 năm 2015. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Quả thực TA LÀ Chân sư Thăng thiên More và trong quá khứ ta được biết tới dưới các tên M, Morya, El Morya, Bapu hay một số tên khác. Một cái tên chứa đựng những gì? Thày hơn bất cứ danh hiệu nào. Thày là hơn chân sư MORE. Thày hơn tất cả những gì trước đây. Hình ảnh nào trong bát cung vật lý trên một hành tinh như trái đất có thể nắm giữ được một chân sư thăng thiên? Không một hình ảnh nào cả! Con yêu dấu, không một điều gì có thể nắm giữ được thày bao giờ. Bất cứ hình ảnh nào được phóng chiếu lên thày từ sa nhân hay học viên của chân sư thăng thiên – không nhất thiết là hai nhóm này không trùng khớp – thày sẽ hơn hình ảnh đó.

Con sẽ không bao giờ với được tới thày nếu con nắm chặt một hình ảnh từ quá khứ. Quá khứ là gì? Một giây trước đây là quá khứ, con yêu dấu. Con suy nghĩ nhanh nhất mà con làm được, thì đó đã là quá khứ. Con có nhận ra chăng là tâm con người có một khoảng cách trong đó nó thể phân biệt được thời gian? Khoảng cách đó rất gần với một giây, nhưng thực ra con có thể phân biệt thời gian trong khoảng cách ngắn hơn thế.

Đó là quá khứ. Khi khoảng cách đó đã trôi qua, tất cả mọi thứ trước đó là quá khứ. Bây giờ con có thể nói: “Khoảng cách này quá ngắn khiến tâm ý thức của tôi không thể bắt kịp. Tôi không thể nghĩ một cách có ý thức: ‘Ồ, điều này là quá khứ. Bây giờ tôi đang ở trong hiện tại.’” Không đâu, con không làm được điều này, nhưng tại sao con cần phân biệt giữa quá khứ và hiện tại và tương lai? Tại sao cần có cái gì khác ngoài cái hiện tại?”

3.1. Tại sao con cần thời gian?

Tại sao con cần phân chia thời gian thành quá khứ, hiện tại và tương lai? Hãy tuôn chảy với hiện tại vĩnh hằng. Lúc ấy con là hơn tất cả cái gì con là trước đó, dù rằng không có cái trước đó, không có cái sau đó, chỉ có cái ngay bây giờ. Đây là niềm vui thực khi con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Những biểu hiện của phản-tình thương muốn chia chẻ mọi thứ, xếp mọi thứ vào thể loại tách biệt. Rồi chúng muốn nói là chuyện xảy ra trong quá khứ sẽ ảnh hưởng hiện tại và quyết định tương lai.

Con nghĩ về khái niệm nghiệp quả của người Ấn độ cho rằng mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của con được định trước bởi nghiệp quả từ các kiếp trước. Con yêu dấu, nếu quả thực như vậy thì toàn thể mục đích cuộc sống là gì đây? Phải chăng mục đích cuộc sống là mở rộng tâm thức của mình? Làm sao mở rộng tâm thức? Bằng cách chọn lựa. Nếu mọi chuyện trong hiện tại của con đều bị quá khứ quy định thì còn chỗ nào cho con chọn lựa nữa đây?

Con có thể nói: “Nhưng nghiệp quả của tôi do những chọn lựa trong quá khứ của tôi tạo ra.” Phải, đúng đấy, nhưng nếu những chọn lựa quá khứ của con có thể tước đi khả năng chọn lựa trong hiện tại của con thì làm sao con học hỏi được? Vậy mục đích cuộc sống ở đâu? Con có nghĩ chăng là một Thượng đế đầy tình thương có thể nào sáng tạo một vũ trụ trong đó con có thể lấy một chọn lựa và chọn lựa này sẽ tước đi khả năng phá bỏ chọn lựa cũ bằng một chọn lựa mới? Thượng đế nào lại làm như vậy? Chắc chắn không phải Thượng đế mà thày biết.

Có thể đó là thượng đế mà sa nhân đã chế ra mà nhiều người trên trái đất thờ phượng vì họ nghĩ vị thượng đế này cần thờ phượng. Con yêu dấu, vị thượng đế giả do sa nhân chế ra cần được con người thờ phượng bởi vì thượng đế đó không thật và do đó không thể nào nhận được năng lượng từ cõi tâm linh mà thày cảm nhận lúc nào cũng đang tuôn chảy qua thày. Thượng đế đó cần năng lượng của con người và đó là lý do tại sao vị ấy cần được thờ phượng. Làm sao một Thượng đế vô hình tướng lại có thể cần bất cứ gì từ con người trên trái đất? Đúng thật là Thượng đế vô hình tướng cần một điều: ngài cần cho ra từ chính ngài và ngài cần có những ai sẵn sàng nhận. Đó là cách để khép kín vòng chảy hình số tám. Đó là điều Thượng đế thật muốn. Thượng đế muốn tuôn chảy, muốn là hơn nữa qua con khi con trở nên hơn nữa.

3.2. Làm thế nào Thượng đế trở nên hơn nữa

Đấng Sáng tạo vũ trụ đã đạt được tâm thức của các đấng Sáng tạo. Ngài không thể trở nên hơn nữa bằng cách Sáng tạo nhiều hơn. Ngài trở nên hơn nữa bằng cách tạo ra những nối dài của chính ngài và gửi các nối dài này xuống một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi các phần nối dài này tăng triển tâm thức, thì đấng Sáng tạo trở nên hơn nữa qua họ. Tại sao đấng Sáng tạo lại sáng tạo một vũ trụ trong đó con không thể trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc trở nên hơn nữa, con bị giới hạn trong việc thăng vượt? Không một Thượng đế nào làm điều này – ngoại trừ thượng đế giả không có thật.

Thày không còn chú ý tới các thượng đế giả này. Tại sao con lại cần chú ý tới họ? Tại sao con nghĩ con cần chú ý tới họ?

Con yêu dấu, con hãy nhìn lại chính mình và hãy chân thành với chính mình. Hầu như mỗi người chúng con đều mang một hình ảnh giả về thượng đế, không những trong kiếp này mà ngay cả trong các kiếp trước. Thày không trách cứ con về chuyện này. Khi con đã sống nhiều kiếp trên hành tinh này, con không tránh khỏi bị nhồi sọ, lập trình với hình ảnh giả của thượng đế này.

Thày không đang cố gắng tìm lỗi nơi con. Thày cũng không yêu cầu con tìm lỗi nơi mình. Thày chỉ muốn con nhìn nhận: “Ồ, đúng rồi, tôi có khuynh hướng nhìn Thượng đế như vậy và lẽ dĩ nhiên đây không phải là Thượng đế chân chính.” Rồi con quyết định buông bỏ hình ảnh giả này. Con sẵn sàng thoát khỏi các hình ảnh này.

3.3. Con thật sự từ đâu đến

Con yêu dấu, sa nhân làm cách nào để đánh bẫy con trong cái ta tách biệt, trong tâm thức nhị nguyên? Con có nhận ra chăng là đa số các con đã có lúc ở trên cõi ê-the và nhìn xuống trái đất? Đa số các con là những người tâm linh không được sinh tạo để đầu thai lần đầu trên trái đất. Các con đã đầu thai trên những hành tinh khác trước đó.

Các con đã tới điểm có chọn lựa tự do không cần phải trở lại hành tinh cũ của mình nữa. Con có thể đầu thai trên một hành tinh khác. Con nhìn vào trái đất và thấy ở đó có nhu cầu vì con thấy các cư dân nguyên thủy ở đó đều bị mắc bẫy trong một tấm màn, trong một vòng xoắn ốc đi xuống. Con thấy được là cách thực tế duy nhất để đem lại thay đổi là có người không bị mắc bẫy trong xoáy ốc xuống đầu thai. Người đó có tầng mức tâm thức cao hơn và do đó có thể nâng các cư dân lên cao hơn. Con nhìn trái đất ở giai đoạn đó và con quyết định con muốn xuống đầu thai nơi đó.

Đối với một số người trên trái đất, đây là lần đầu họ đầu thai trên hành tinh này. Ngay cả một số người tâm linh đã là linh hồn trưởng thành, đây là lần đầu thai đầu tiên của họ trên hành tinh này. Nhiều linh hồn đã đầu thai lần đầu tiên trên trái đất vào thời điểm này vì họ muốn giúp vào việc chuyển tiếp từ thời đại Song ngư sang thời đại Bảo bình, và họ muốn giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng Kim. Nhiều người trong các con đã giúp Saint Germain biểu hiện Thời đại Hoàng Kim trên các hành tinh khác trước khi đến trái đất, cho nên các con muốn góp phần vào công việc này. Cũng có một số đông các con đã ở trên trái đất này nhiều kiếp.

Tuy nhiên, đã có một lúc khi con đi xuống đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Thày có thể bảo đảm với con rằng – và thày cần bảo đảm với con vì con đã dồn nén ký ức này – ở trên bát cung ê-the và nhìn xuống trái đất là một chuyện. Đúng vậy, lẽ dĩ nhiên con có thể thấy là có vấn đề trên trái đất. Con có thể thấy nhiều hoàn cảnh đáng lý không được như thế. Đó chính là lý do vì sao con muốn xuống đây và trợ giúp. Ở trên bát cung ê-the không cách chi con có thể biết được là kiếp đầu thai trên trái đất dày đặc như thế nào. Con không thể nào biết được.

3.4. Cú sốc khi đầu thai

Lúc mà con đầu thai trong xác thân vật lý lần đầu tiên và lúc con ý thức chuyện gì xảy ra trên hành tinh này, thì con bị một cú sốc. Không người nào mà không bị cú sốc nặng nề khi đầu thai lần đầu tiên ở đây (sau khi trái đất đã bắt đầu đi vào vòng xoáy hướng hạ). Có thể con nghe có người nói chuyện về cú sốc khi sanh ra trong kiếp này. Đa số mọi người đã dồn nén ký ức này, nhưng con có thể trở về điểm đó và trải nghiệm lại nó và qua đó vượt qua chấn thương nhập đời này. Ở đây thày nói đến chấn thương đầu thai lần đầu.

Các sa nhân, ít nhất là một số trong các sa nhân, biết chuyện gì đang xảy ra. Một số trong họ có khả năng theo dõi biết được khi một dòng sống mới đầu thai lần đầu trên trái đất. Các sa nhân này ở trên cõi bản sắc nhưng họ có hàng ngũ dưới họ, hàng ngũ giả dưới họ, ở các cõi lý trí, tình cảm và vật lý. Họ có khả năng hòa điệu với dòng sống của con và biết được là con là loại dòng sống như thế nào. Sau đó họ có thể ra lệnh cho bộ hạ của họ, từ các cõi cao xuống tới cõi vật lý, dàn xếp để cho con phải chịu đựng một hoàn cảnh khe khắt nhất, kinh khủng nhất, ghê tởm nhất mà con có thể tưởng tượng được. Họ biết chính xác hoàn cảnh nào đối với con kinh khủng nhất và họ sẽ dùng bộ hạ của họ để bắt con phải chịu hoàn cảnh vật lý mà con xem là kinh khủng nhất có thể xảy ra cho mình.

Nhiều người đã phải đối đầu với chiến tranh, tra tấn hay những hình thức bạo hành khác. Đây là biểu hiện của phản-tình thương, là một sự hủ hóa của tia sáng thứ nhất của uy lực. Các sa nhân trong cả bốn bát cung đã lạm dùng quyền lực xâm phạm con đến độ con cảm thấy điều này kinh khủng tuyệt đối và làm con bị chấn động tuyệt đối. Con cảm thấy chuyện này không được xảy ra cho bất cứ ai. Giản dị là nó không được xảy ra.

Khi con phản ứng như thế là lúc con đi vào tâm thái bị sốc. Khi con còn ở trên bát cung ê-the, con có thể thấy có những chuyện xảy ra trên hành tinh, nhưng con không sống trong đó và con biết là con không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra trong bát cung vật lý. Khi con xuống đầu thai, thì gần như không tránh được là con đã quên đi mình là một sinh thể tâm linh không thể nào bị ảnh hưởng bởi chuyện gì xảy ra trong bát cung vật lý. Khi con ở trong xác thân vật lý, con trải nghiệm cái đau, cái chấn thương, cái khổ đau của thân vật lý. Con không giữ được sự nhận biết là: “Ồ, tôi là một sinh thể tâm linh, và không có điều gì xảy ra cho thân thể vật lý quy định được tôi.” Có một điểm khi xác thân bị tra tấn tới mức đó, bị đau đớn tới mức đó thì gần như không ai có thể không dính mắc vào cái đau này.

3.5. Vết thương của cơn đau tối đa

Có một điểm khi các sa nhân xâm phạm con bị chấn thương đến độ họ buộc con phải trải nghiệm cơn đau tối đa. Con lúc ấy không thể không dính mắc. Có một trạng thái đau đớn tối đa mà tất cả chúng ta đều đã trải nghiệm khi đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Nó trở thành một vết thương trong bản thể của con, một vết thương trong hồn con, trong bốn thể phàm của con. Ở thời điểm đó, cơn đau này làm con choáng ngợp và nó quả thực đã choáng ngợp con, khi con ở tầng tâm thức của con lúc đó.

Thày không trách cứ con chút nào. Thày cũng đã phản ứng y như vậy khi đầu thai lần đầu. Mọi người đã từng đầu thai ở đây đều đã làm như vậy. Mục đích của thày ở đây là giúp con nhìn nhận chấn thương nhập đời vũ trụ này và giải thoát mình ra khỏi nó. Một số các con cảm nhận được nó như thế nào. Một số các con có thể xem xét được: “Điều gì làm tôi bị xáo trộn nhất trên trái đất? Hoàn cảnh nào tôi thật sự muốn trừ tiệt? Chuyện gì tôi thật sự cảm thấy không được xảy ra?”

Có thể là con không trải qua hoàn cảnh này trong kiếp này nhưng con đã thấy người khác bị như thế và con nói: “Chuyện này quả thật không được xảy ra.” Cảm tưởng này dính liền với điều đã xảy ra cho con trong lần đầu thai đầu của con. Nếu con quán chiếu nó, con sẽ thấy rõ hơn nó là gì bên trong con.

Lẽ dĩ nhiên quán chiếu thôi không đủ. Con cần nhận ra là có một số lượng năng lượng đã bị tha hóa qua vết thương đó. Con cần kêu gọi các thày, thỉnh cầu ánh sáng để tiêu trừ nó để con tới được điểm mà con có thể bắt đầu nhìn vào nó. Thày nói thật với con: chỉ có một cách để con giải thoát mình khỏi chấn thương này. Đó là con làm điều mà tự ngã của con, các sa nhân hay hầu hết con người đều không muốn con làm – đó là con đi thẳng vào chấn thương đó và trải nghiệm nó trở lại.

3.6. Nhu cầu trải nghiệm lại chấn thương

Không cách chi giúp con giải thoát mình khỏi bất kỳ kinh nghiệm nào mà con đã trải qua trên trái đất bằng cách trốn chạy kinh nghiệm này và nỗi đau mà nó đã gây ra. Con không thể thoát khỏi bất cứ điều gì bằng cách trốn chạy nó. Con chỉ thoát được khi con đi thẳng vào nó, trải nghiệm nó, và vì tâm thức của con đã được nâng lên, nó không còn quy định con nữa. Con không còn tự đồng hóa mình với nó. Con không còn bị nó giam hãm. Các sa nhân muốn con tin, tự ngã muốn con tin rằng nếu con đi vào nỗi đau nguyên thủy đó, con sẽ chết. Con sẽ bị choáng ngợp trở lại. Nó sẽ quá sức chịu đụng của con. Nhưng con thấy chăng, con đã tiến hơn so với lần đầu tiên khi con xuống hành tinh này. Hầu hết các con đã tiến rất xa trong tâm thức và do đó chuyện này giống như một người trưởng thành trở về nhìn một chấn thương thời trẻ thơ hay chấn thương nhập đời.

Con có thể đối phó với nó bây giờ vì con nhận ra rằng con không trải nghiệm nó như lúc nó xảy ra lần đầu. Con không bị choáng ngợp. Con không hoàn toàn nhập vào nỗi đau. Con có thể tách mình ra khỏi nỗi đau. Khi con đi vào chấn thương đó, thì con trải nghiệm rằng: “Tôi vẫn còn ở đây. Tôi vẫn còn sống. Tôi đâu có chết. Tôi không bị tiêu hủy. Tôi không bị nỗi đau nuốt chửng. Tôi chỉ đang đứng ở đây, đang nhìn dòng năng lượng xoắn tít này, và tôi đang nhìn những niềm tin, và tôi đang nhìn tất cả những sinh linh trong cõi trung giới, và tôi nhận ra rằng đây không phải là tôi. Đây chỉ là một cái gì mà một phần của tôi, cái ta vỏ ngoài của tôi, đã trải nghiệm. Nhưng tôi hơn kinh nghiệm này, và do đó tôi có thể nhìn nó và nói: “Ngươi không còn sở hữu ta nữa. Ngươi không quy định ta nữa. Đây không phải cái ta là. Bớ Satan, ngươi hãy lui ra đằng sau ta, vì ta thấy được ngươi không thật, ta thấy và ta trải nghiệm cái thật của chính ta và cái thật của các chân sư thăng thiên.”

3.7. Các chân sư sẽ hỗ trợ các con

Các thày không nói rằng con phải làm việc này một mình. Chân sư nào mà con cảm thấy thân thiết nhất trong tim con, chân sư đó sẽ hỗ trợ con làm việc này. Các thày sẽ hỗ trợ con rất xa trên con đường này. Nhưng sẽ tới một điểm mà các thày không thể giúp con thêm nữa, lúc ấy con phải bước bước đó một mình, cái bước cuối cùng khi con đối đầu với ác quỷ trong chính mình, theo câu ngạn ngữ bình dân, và thấy chúng không thật.

Con hiểu là thày đang cho con ở đây chìa khóa về cách sa nhân đã giăng bẫy con người. Họ lạm dùng quyền lực mà họ có trong bát cung vật lý để con bị chấn thương. Đây là cái không thực mà con nghĩ là thực, ý tưởng cho rằng những điều đã xảy ra cho con trong quá khứ đang quy định kinh nghiệm sống hiện tại của con và đang quy định chuyện gì sẽ xảy ra cho con trong tương lai. Ảo tưởng này chính là điều thày muốn phá tan trong con.

Họ thực sự muốn nói với con là những gì con dùng ý chí làm trong quá khứ đã ngăn cản những gì con có thể dùng ý chí làm trong hiện tại và miên viễn về sau. Đây là biểu hiện của phản-tình thương. Thày nhất quyết muốn thấy con thoát khỏi điều đó, nếu con muốn, nhưng con phải có ý muốn. Thày không muốn hộ con được.

Một khi con đã muốn, thày có thể củng cố chọn lựa của con. Thày có thể giúp con, nhưng thày không thể thúc đẩy con chọn lựa như thế. Đây là chọn lựa của con, nhưng con cần có hiểu biết. Đây là điều thày có thể giúp con, thày có thể cho con hiểu biết tuyệt đối là không có chọn lựa nào mà không thể đảo ngược lại được bằng một chọn lựa cao hơn. Đây là một quy luật vĩnh hằng. Đó là lý do vì sao một hành tinh có thể bị rơi vào một tình trạng thấp kém như con thấy với trái đất hiện nay bởi vì quyền tự quyết không có giới hạn. Nhưng quy luật này cũng áp dụng cho cả hai chiều.

3.8. Ta có thể tháo gỡ điều ta đã sáng tạo

Con có thể sáng tạo bất cứ khổ đau nào mà con muốn, ngay cả khổ đau mà con không muốn một cách ý thức. Con cũng có thể tháo gỡ bất cứ khổ đau nào mà con đã sáng tạo. Con có thể giải thoát con khỏi nó.

Thày đã thoát khỏi mọi khổ đau trên trái đất. Thày đã thoát khỏi chấn thương nhập đời của thày đã đi theo thày cho tới kiếp đầu thai cuối cùng của thày. Con đừng lầm lẫn, chấn thương nhập đời sẽ là điều cuối cùng con khắc phục trước khi con tự do để thăng thiên vì nó là điều đầu tiên đã giam bẫy con trong trạng thái tâm thức thấp. Thách đố, cái bẫy họ giăng, là khi con bị chấn thương nhập đời, chấn thương đầu tiên, thì lẽ dĩ nhiên con trải nghiệm là có một lực bên ngoài áp đặt kinh nghiệm này lên con. Quả thực, đây chínhmột lực bên ngoài trong bát cung vật lý đã áp đặt nó lên con, đích danh lực đó là sa nhân và tay sai của họ.

Điều mà sa nhân phóng chiếu lên con là con có mặt ở đây để khắc phục, để tống khứ những lực đã bắt con phải chịu chấn thương đó để người khác không bị chấn thương như thế. Họ phóng chiếu lên con là con phải tham gia vào một cuộc đấu tranh nào đó, một cuộc chiến chống lại các lực bên ngoài này. Họ muốn con tin rằng một khi các lực này bị loại trừ ra khỏi trái đất, con sẽ thoát khỏi chấn thương của mình.

Con thấy chăng, con đâu có mời các lực này đến trái đất. Họ được mời tới bởi những chọn lựa khác, bởi những sinh thể khác đã chọn lựa. Con không thể tháo gỡ chọn lựa của những sinh thể đó. Vậy con có thể làm gì? Con có thể tháo gỡ chọn lựa của chính mình. Con có thể nhận ra: “Tôi có mặt ở đây để mang lại thay đổi tích cực cho hành tinh này. Nhưng tôi không mang lại thay đổi tích cực bằng cách đánh nhau với sa nhân và tà lực. Tôi mang lại thay đổi tích cực bằng cách vượt thăng trạng thái tâm thức của họ. Làm sao tôi làm được điều này? Bằng cách thăng vượt trong tôi tâm thức đã khiến tôi phản ứng lại họ và phản ứng này tạo cho tôi chấn thương nguyên thủy đó.”

Đây là phụng sự cao nhất của con trên trái đất. Khi con giải thoát mình khỏi trạng thái tâm thức đó, thì con sẽ kéo tập thể lên và kéo tất cả mọi người khác đang đầu thai lên. Đây là điều con tới đây để làm. Khi con phản ứng như thế thì con có làm sai không, con có làm điều xấu không? Không đâu, con mang trạng thái tâm thức này với con, nhưng con không phải mang nó theo con mãi mãi. Con không mang nó với con để có động lực đánh nhau với sa nhân. Con mang nó vào để chứng minh là bất cứ điều gì con mang vào – một điều kiện trong thế gian này – con có thể thăng vượt nó. Con có thể thăng vượt nó bằng sức mạnh ý chí của mình, ý chí muốn tự do, ý chí muốn hơn nữa.

3.9. Muốn cho các con hơn nữa

Thày là Chân sư Thăng thiên MORE. Thày chỉ muốn một điều cho con là con hơn nữa. Khi con có ý chí muốn hơn nữa, con đang mời thày vào đời của con để giúp con và hỗ trợ con tối đa. Thày không muốn áp đặt con bất cứ cách nào. Thày chỉ muốn con biết là thày có mặt ở đây để giúp con khi con quyết định: “Tôi muốn HƠN NỮA.”

Như Mẹ Mary đã nói – và đó là một trong những lời dạy sâu sắc nhất mà con nghe được từ xưa tới nay – là khi con không muốn hơn nữa, con đang nói trong tiềm thức: “Chân sư MORE, thày hãy để con yên một mình. Con chưa kinh nghiệm đủ trạng thái kém hơn. Con chưa sẵn sàng muốn hơn nữa.” Lúc mà con quyết định con sẵn sàng hơn nữa, thì đó là lúc thày thật sự có thể giúp con bằng một cách mà con hiện nay không thể nào mơ tưởng được.

Thày không đặt giới hạn cho những gì có thể xảy ra hay mức mà con có thể trở nên hơn nữa. Sẽ không bao giờ có một điểm khi thày muốn kềm giữ không cho con trở nên hơn nữa. Thày không sợ con vượt qua thày, giống như nhiều cha mẹ và thày cô trên trái đất đã sợ. Không điều gì khiến thày vui thích hơn là thấy con trở nên hơn nữa.

Thày cũng không so sánh. Con không thể nào trở nên hơn thày bởi vì con chỉ có thể trở nên hơn chính mình, hơn cái con là. Đây là cách chúng ta tiến triển và nhận ra mình là sinh thể vô biên. Đây không phải là chuyện so sánh. Trong cõi thăng thiên mọi so sánh và phê phán giá trị đều tan biến. Thày không hơn Saint Germain. Thày là MORE và Germain là Germain, nhưng người này không hơn người kia. Thày trở nên hơn MORE và Germain trở nên hơn Germain, và đó là chuyện phải lý. Ở đây không có sự đe dọa. Con trở nên hơn là con.

Thày mong muốn con cũng được như thế. Con đã bị lập trình quá sâu đậm trên trái đất khiến con nghĩ con là kém hơn, con nhất thiết phải kém hơn, con phải kém hơn, con chỉ có thể kém hơn, con không được phép là hơn nữa. Thày nói với con: “Con là hơn nữa! Con được phép là hơn nữa.” Vì sao thày nói được như thế? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Nhất. Thày là sinh thể quyết định Tia thứ Nhất có thể biểu hiện như thế nào trên trái đất, và thày cho phép con hơn nữa. Thày là sinh thể duy nhất được cho phép con như thế vì đấy là chức vụ của thày trong đại đoàn chưởng giáo, và thày cho phép con là hơn tất cả những gì con là từ trước tới giờ.

Với câu trên, con yêu dấu, thày cám ơn con đã chú ý, đã thương yêu thày, một tình thương sâu đậm và thày cảm được là rất nhiều đệ tử chân sư thăng thiên dành cho thày. Dù các con gọi thày bằng danh hiệu nào, thày cũng sẽ đáp ứng. Thày cũng muốn cho con biết là thày hơn tất cả các danh hiệu, như con cũng hơn tên của con. Bởi chưng, có gì nắm giữ được Tánh Linh? Chắc chắn là chẳng có điều gì trên một hành tinh như trái đất này.

Quả thực, thày là Tánh Linh, và con cũng vậy. Trong cái biết này chúng ta là một. Thật sự, chúng ta hơn là một vì ngay cả cái một cũng là một khái niệm có thể bị gán một đối trọng. Cái mà chúng ta thực là không có đối trọng. Nó chỉ là.

Con có thể yêu mình không?

Bài truyền đọc này được Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary trao truyền ngày 22 tháng 5 năm 2015 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Kim: chúng ta hãy nói nhiều lần câu này: “Mẹ Mary, con yêu Mẹ.”

Tất cả: Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ.

[Mẹ Mary]: Các trái tim yêu dấu của thày, thày chính thực là Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary. Thày… yêu… con. Thày yêu con, mỗi người và tất cả chúng con. Các con có tin rằng thày yêu con không?

Nhiều người: Có.

Tất cả các con có tin rằng thày yêu con không?

Tất cả: Có.

Các con có thật sự tin rằng thày yêu con không?

Tất cả: Có.

Các con có tin bằng trái tim và không bằng miệng là thày yêu con không?

Tất cả: Có.

Vậy, các con hãy trả lời thày bằng trái tim mà không bằng miệng, vì thật quá dễ để nói những lời mà người ta chờ đợi con nói, làm những việc mà người ta chờ đợi con làm, cảm nhận những chuyện mà người ta chờ đợi con cảm nhận, nghĩ những điều mà người ta chờ đợi con nghĩ, và thấy con như là người mà người ta chờ đợi con là.

Bây giờ, các con có thể tin rằng thày yêu con. Các con có thể cảm nhận là thày yêu con. Một số các con có thể cảm nhận tình yêu của thày với các con, nhưng câu hỏi lớn mà thày muốn hỏi các con tối nay là: “Các con có thể yêu mình không? Các con có thể thực sự yêu mình không? Các con có thể yêu cái “ta”, chứ không phải chính mình, không?

1.1. Hai cái ta

Các con có thấy nhu cầu phân biệt hai cái này không? Các con đều nghĩ mình là “chính mình” nhưng con cần nhận ra là có nhân cách vỏ ngoài, cái ta vỏ ngoài, và có bản thể bên trong, cái ta nội tại. Sau đó, con có thể chấp nhận con là cái “ta”, không phải nhân cách vỏ ngoài, mà là cái ta mà con là.

Vì sao thày lại muốn con phân biệt giữa hai cái ta này? Bởi vì có rất ít người trên thế gian này, và chắc chắn là rất ít người sống tại châu Âu, phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta thuần khiết, Bản ngã thuần khiết. Vì sao họ không phân biệt được? Bởi vì, họ đã bị lập trình bởi sa nhân – qua nhiều, nhiều kiếp – để không làm được sự phân biệt này.

Đặc tính của sa nhân là gì? Họ không phân biệt được cái ta vỏ ngoài và cái ta thực. Họ đã đồng hóa với cái ta vỏ ngoài, với cái ta tách biệt. Nếu họ phân biệt được hai cái ta, thì họ đã biết họ không phải là cái ta vỏ ngoài, họ đã biết là họ là một phần của cái Ta Một của Thượng đế. Do vậy, họ đã không hoàn toàn bị mắc kẹt vào tâm thức sa ngã.

Họ muốn tất cả các con nhìn mình như họ nhìn chính họ. Đây là định nghĩa của giáo đoàn tâm linh giả, mà các thày cũng đã gọi là thiểu số tự tôn quyền lực. Họ là những sinh thể đã từ lâu bác bỏ ý niệm Thượng đế yêu họ. Thày có thể hiện ra trước mắt họ và nói với họ là thày yêu họ, nhưng họ sẽ không thể chấp nhận được tình yêu này, vì nếu họ chấp nhận nó, thì họ sẽ bị chuyển hóa bởi tình yêu của thày. Họ không muốn bị chuyển hóa, do đó chọn lựa duy nhất của họ là bác bỏ tình yêu của thày.

1.2. Tình yêu có điều kiện là một sự gian dối

Họ đã làm gì con? Họ đã khiến con tin rằng tình yêu của thày là một tình yêu có điều kiện, nó tùy thuộc vào việc con có đáp ứng được một số điều kiện mà họ đã đặt ra hay không.  Qua đó, họ đã dựng họ thành Thượng đế vì họ đã nói: “Chúng tôi có thể quy định những điều kiện mà ngay cả Thượng đế cũng phải tuân theo trước khi Thượng đế có thể ban phát tình thương cho những người đang hiện thân trên trái đất.” Lẽ dĩ nhiên, đây là một sự gian dối, một ảo tưởng, nhưng làm sao con nhận ra điều này? Làm sao người dân châu Âu có thể nhận ra điều này khi các nhà lãnh đạo của họ, qua rất nhiều thế kỷ, đã nói với họ một điều khác?

Lẽ đương nhiên, con đã bắt đầu thấy ra điều này. Thày nhận biết điều này rất rõ, nhưng thày muốn chỉ cho con thấy là con vẫn còn một phần trong bản ngã của mình. Điều này áp dụng cho tất cả các con không chừa một ai, ngay cả vị sứ giả đang nói lên những lời này. Các con có những chỗ con không thể hoàn toàn yêu mình được trong bản thể của con. Đây là điều mà thày muốn giảng ngày hôm nay.

Thày đã khiến các con phân biệt giữa cái ta nội tại và cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt. Các thày có lý do khi làm điều này. Các thày nhận ra rằng, vì sự lập trình nặng nề mà các con đã trải qua, các thày không thể khiến các con khởi sự bằng cách thương yêu cái ta vỏ ngoài. Các con đã bị lập trình, đã bị điều kiện hóa, để nghĩ rằng tình yêu của Thượng đế là một tình yêu có điều kiện. Con nghĩ rằng con không thể nào yêu cái ta vỏ ngoài, rằng Thượng đế không thể nào yêu cái ta vỏ ngoài.

Các con nhìn thày như Mẹ Mary, như một sinh thể đã thăng thiên, như một đại diện của Mẹ Thiêng liêng, và trong tâm con nâng thày lên cao hơn con, trên phương diện địa vị hay ít ra là trình độ tâm thức. Có thể nói là thày, lẽ dĩ nhiên, cao hơn các con vì thày đảm trách một vai trò trong đại đoàn hoàn vũ cao hơn vai trò mà bất cứ sinh thể chưa thăng thiên nào có thể nắm giữ. Thày dĩ nhiên cũng đã thăng thiên, do đó tâm thức thày cao hơn tâm thức các con. Nhưng thày không cao hơn các con theo nghĩa của sa nhân, và các phán xét giá trị của họ. Thày là một với cái Tâm Một, cái Tất cả, và các con cũng là một với Tâm Một đó. Các con đã bị lập trình bởi những kẻ đã chối bỏ sự thực này để con chối bỏ mình là một với Tâm Một, do đó trong tâm con đã nâng thày lên cao hơn con.

1.3. Một cái nhìn mới về cái ta vỏ ngoài

Con có thể nhìn vào ý niệm thày giữ niệm tinh khôi (immaculate concept) về con, và con có thể cảm nhận hay nghĩ rằng thày nhìn vào viễn quan cao nhất, tiềm năng cao nhất mà con có thể đạt được, vào trạng thái khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn. Con có thể nghĩ đó là điều thày thấy và yêu. Nhiều người trong các con có một ý muốn, thường tiềm ẩn, muốn che giấu cái ta nhân gian của con khỏi mắt thày, vì con nghĩ nếu thày thấy sắc thái đó của cái ta nhân gian, thì thày không thể nào yêu cái ta nhân gian đó. Con cũng có thể nghĩ là thày sẽ kết án con, ruồng bỏ con, mắng mỏ hay phát vào mông con (hay bất cứ điều gì khác mà con hình dung một bà mẹ hay làm). Con yêu dấu, con thấy chăng là qua bài giảng này thày muốn thách đố quan niệm đó của con về con và về thày.

Quả đúng là con cần khởi sự con đường tu bằng cách nhận ra con hơn cái ta vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài. Con cần bắt đầu tách mình ra khỏi nhân cách vỏ ngoài vì đó là cách con kết nối với cái ta cao hơn của mình. Hầu hết các con đã bắt đầu tiến trình này. Một số các con đã có những tiến triển khả quan. Điều mà thày muốn cho các con ở đây là bước kế tiếp. Đây là điểm con bắt đầu nhìn cái ta vỏ ngoài một cách khác. Con không xem nó như kẻ địch của sự tăng triển tâm linh của mình. Con không xem nó như một cái gì xấu, tà ác hay ô uế đến độ thày sẽ lên án con vì con đã có nó.

Các thày đã làm một việc chính đáng khi cho con cảm tưởng là tự ngã của con đang chống trả sự tăng trưởng tâm linh của con, và con cần vượt lên trên nó, thăng vượt nó. Trong một số lần giảng trước, các thày đã trao cho các con khái niệm “kẻ đứng trên ngưỡng cửa” là kẻ cần phải bị trói buộc và tiêu trừ. Đây đều là những khái niệm có giá trị. Ở đây thày không chối bỏ những gì đã được giảng trước đây, nhưng thày muốn nói cho con biết là có nhiều giai đoạn trong tiến trình tiết lộ tuần tự, tiến trình đi trên con đường tâm linh một cách tuần tự.

Sẽ có một lúc con cần phải chất vấn giáo lý mà con đã dùng ở một tầng thấp hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không thấy giáo lý đó sai hay không có giá trị. Con nhận ra là bất cứ giáo lý nào được giảng ra bằng ngôn từ đều có giới hạn. Nó có thể hiểu được dễ dàng theo cách là nó chỉ có thể dẫn con tới một tầng mức nào thôi. Có thể nói là giáo lý có thể dẫn con tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể dẫn con đi xa hơn. Nó cũng có thể trở nên một vòng khép kín giữ con ở lại một tầng nào đó. Thày muốn cho các con một cái nhìn mới về chính mình – về cái ta vỏ ngoài và cái ta nội tại của con. Con có thể gặp những hoàn cảnh trong đời sống hàng ngày khiến con bị xáo trộn. Con có thể bị khó chịu, con có thể nổi giận, con có thể sợ hãi, hay con có thể có khuôn nếp cảm xúc nào khác. Con cảm thấy đây không phải là tiềm năng cao nhất của mình, không phải là cách cư xử lý tưởng của mình. Con cảm thấy là con không muốn thày thấy con trong hoàn cảnh đó. Nhiều người trong các con đã chia cuộc đời thành từng ngăn. Một hình thức cực đoan của hiện tượng này là hiện tượng có nhiều tín đồ Cơ đốc giáo – như người ta thường hay nói – đi lễ nhà thờ và xưng tội mỗi Chủ nhật, và sau đó ra ngoài đời và gây tội sáu ngày còn lại trong tuần với lương tâm an ổn. Hầu hết các người đang đầu thai đều đã ít nhiều làm chuyện này. Một cách nói là họ phân biệt đạo và đời. Con tách việc tìm đạo ra khỏi đời sống hàng ngày.

1.4. Thăng vượt sự tự phán xét

Các con đều có một thủ tục, hay ít nhất là đa số các con có một thủ tục, đọc bài chú bài thỉnh. Nhiều người trong các con đã thu xếp thời gian, vào một không gian riêng biệt để đọc bài chú và bài thỉnh. Khi con cảm thấy con ở trong một khung cảnh được kiểm soát trong đó con đang làm một sinh hoạt tâm linh, thì con muốn có thày bên cạnh và nhìn con. Khi con đang la mắng con cái hay đang mất hài hòa trong sở làm, thì con mong muốn thày không có đó, thày không thấy các chuyện đó. Vì sao con lại có sự phân biệt này? Con có nghĩ là thày có sự phận biệt này chăng? Con có nghĩ là thày có thể đứng đây và nói là thày yêu con và tình yêu của thày vô điều kiện, vậy mà khi con làm một số chuyện không phù hợp với những gì con nghĩ một người tâm linh phải làm, thì thày sẽ không còn thương yêu con nữa? Đúng đó, đó là điều nhiều người trong các con nghĩ vì đó là cách tự ngã nghĩ. Đó là cách cái ta vỏ ngoài đã được lập trình để nghĩ. Nó chỉ có thể thấy tình yêu có điều kiện.

Thày không phân biệt như vậy. Thày không có phán xét giá trị, ít ra là theo nghĩa con gọi phán xét giá trị. Thày muốn cho con khái niệm là con cần nhìn vào chính mình, nhìn vào cái ta vỏ ngoài của mình, nhìn cách con hành xử hàng ngày, một cách khác. Con hãy thử phá bỏ sự phân biệt để con cho phép mình thoát khỏi khuynh hướng phán xét mình. Con hãy thử hỏi tại sao con phán xét, tại sao con có ý tưởng là trong cương vị một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên, thì con phải cư xử cách này hay cách khác, và con không bao giờ được làm điều này hay điều nọ.

Con yêu dấu, con hiểu rằng thày đã từng đầu thai trên trái đất. Con có thể có một hình ảnh tuyệt vời về thày dựa trên những hình vẽ thày ngồi ôm trong lòng hài nhi tinh khôi là Chúa Hài đồng. Con có thể nghĩ rằng, dựa trên các hình ảnh tôn vinh này, khi thày hiện thân trên trái đất – khi Giê-su còn thơ ấu, khi có trẻ em khác trong nhà – thì nhà của thày lúc nào cũng sạch sẽ tuyệt hảo, trật tự tuyệt hảo, và thày không bao giờ lớn tiếng với các con. Con có thể nghĩ vậy, nhưng đây không phải là sự thật. Lúc đó, thày ở trong kiếp đầu thai cuối của thày, giống như nhiều người trong các con hiện nay. Lúc đó thày đã đạt được thành quả tâm linh đáng kể, nhưng thày bảo đảm với con là đã có những lúc thày mất bình tĩnh. Có những lúc thày bực bội các con, bực bội Joseph, và đã có những lúc thày to tiếng la mắng.

Điều này có thể khiến con ngỡ ngàng, nhưng thày muốn cho con thấy là thày lúc đó là một con người đang đầu thai trong một hành tinh rất dày đặc trong một tình huống rất căng thẳng. Các con cũng đang ở trong một hoàn cảnh rất căng thẳng vì đây là những thập niên rất căng thẳng khi Thời đại Song ngư chuyển tiếp sang Thời đại Bảo bình. Thày có thể bảo đảm với các con là bất cứ ai đang là một người tâm linh, đang cố gắng đạt được một tầng tâm thức cao hơn, đều bị một áp lực to lớn, một mức độ phóng chiếu to lớn, trong thời này.

Có những lực không muốn con thành công. Họ không muốn con nâng tâm thức mình lên. Họ không muốn con thể hiện quả vị Ki-tô. Họ khẩn thiết muốn con bám chặt vào ý tưởng cho rằng – vì con có khuyết điểm nào đó, vì con đã phạm một lỗi lầm nào đó hôm qua hay 30 năm về trước – nên con không xứng đáng đại diện các chân sư thăng thiên, con không xứng đáng thể hiện quả vị Ki-tô hay đứng lên đòi hỏi bất cứ điều gì có thể cải thiện đời sống trên trái đất. Họ khẩn thiết muốn con bám chặt ảo tưởng đó.

Thày muốn con nhìn vào cái ta vỏ ngoài của mình một cách khác. Như thày có giảng, có một giai đoạn trên con đường tu khi con cần nhìn tự ngã, cái ta vỏ ngoài, như một cái gì đang chống trả sự tăng triển của con, đang kềm giữ sự tăng triển đó, và con cần phải đối phó với nó. Con cần thỉnh cầu để năng lượng được chuyển hóa. Con cần thấy ra những ảo tưởng. Con có thể cần kêu gọi Đại thiên thần Michael trói buộc kẻ đứng trên ngưỡng cửa, trói buộc tự ngã của con, trói buộc đủ loại tà lực đang tấn công con qua tự ngã và kẻ đứng trên ngưỡng cửa.

Đây đều là những bước tu tập chính đáng, nhưng khi con đã làm xong những bước này và đã vươn lên tầng cao hơn, thì hành động này không còn là hành động xây dựng nữa. Không phải là cái ta vỏ ngoài và tự ngã của con không còn chống trả việc con đi trên con đường tu. Chúng vẫn tiếp tục làm chuyện này – nếu con chó phép chúng. Đây chính là điều thày muốn nói với các con: “Hãy ngưng cho phép chúng”.

1.5. Khiến tự ngã trở nên vô hiệu

Cách làm điều này là con nhìn cái ta vỏ ngoài, tự ngã của mình, không như kẻ địch cũng không như một đồng minh của việc tăng triển tâm linh của mình, nhưng coi nó không có ảnh hưởng gì trên việc tăng triển tâm linh của mình. Con cần nhìn vào nó và nói: “Tôi nhìn nhận là tôi có khuynh hướng này. Tôi thấy đây là một phần của cái ta vỏ ngoài của tôi, nhưng nó không phải là tôi. Nó sẽ không quy định được tôi, nó sẽ không kềm giữ được tôi trên con đường tâm linh. Nó sẽ không khiến tôi lẩn trốn Mẹ Mary.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là thày chấp nhận hoàn toàn Luật Tự quyết và quyền tự quyết của riêng con. Nếu con nói: “Mẹ Mary, con không muốn thày nhìn vào con trong hoàn cảnh đó”, thì thày sẽ không nhìn vào con. Nhưng, con yêu dấu, nếu thày không nhìn vào con thì thày sẽ không thể giúp con. Thày không thể quay mắt không nhìn con đồng thời giữ niệm tinh khôi về con. Con quả thực đã muốn thày, không giữ niệm tinh khôi về con trong chính những hoàn cảnh mà con cần thầy làm việc đó.

Con có thấy chăng? Khi con đang ở trong trạng thái hài hòa toàn hảo và an bình toàn hảo, thì con không thực sự cần thày giữ niệm tinh khôi về con, đúng không con? Chính khi con đang bất hài hòa là lúc con cần thày giữ sự quân bình cho con. Trong những tình huống đó, rất nhiều khi con đã mặc nhiên nói: “Ôi Mẹ Mary, đừng nhìn vào con lúc này. Thày hãy để con một mình.” Con nghĩ rằng, nếu thày thấy con trong trạng thái đó, thì thày sẽ không thương yêu con.

Khi thày nói: “Thày yêu con” thì thày không phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta nội tại của con. Lẽ dĩ nhiên, thày biết con là ai. Thày biết cái ta nội tại là thực. Thày biết là cái ta vỏ ngoài không thực, nhưng ngay lúc này nó là một phần của toàn bản thể của con, và thày yêu con như tổng thể đó, như toàn bộ sinh thể mà con là.

Thày nhận ra một sự kiện rất giản dị, mà thày rút ra từ kinh nghiệm bản thân: khi ta đang hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì ta không thể tránh có một cái ta vỏ ngoài. Con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà được hoàn toàn tự do khỏi cái ta vỏ ngoài, vì nếu vậy con đã không thể chịu nổi cuộc sống ở nơi đây. Có quá nhiều chuyện đang xảy ra lúc này trên trái đất, và nếu con hoàn toàn nhìn nhận chúng, thì con giản dị không thể đương nổi việc mình đang đầu thai ở đây. Lòng từ bi của con sẽ thực sự phân tán hào quang của con vì con muốn giúp tất cả những người đang chịu đau khổ.

Cái ta vỏ ngoài gần như là một cái khiên bảo vệ giúp con có mặt trên hành tinh này. Nó giúp con sinh hoạt trong đời sống hàng ngày, nhưng nó cũng giúp con chú tâm vào việc nâng cao tâm thức của mình. Để có thể làm việc này trên một hành tinh như trái đất, con cần một cái mộc chắn chung quanh mình. Con hầu như cần miếng che mắt, như ngựa kéo xe cần che mắt, để con không thấy tất cả những chuyện đang xảy ra. Đây chỉ giản dị là một cơ chế tự vệ cần thiết.

1.6. Vì sao con cần yêu cái ta nhân gian

Lẽ đương nhiên, thày cũng biết là khi con có cái ta vỏ ngoài, thì nó là cái nó là. Nó được sanh ra từ tâm thức nhị nguyên. Nó có mâu thuẫn nội tại, phân chia nội tại, nên con sẽ bị kéo đi nhiều hướng. Sẽ có những hoàn cảnh bên ngoài quá sức chịu đựng của con. Khi con cái của con đang la hét và không chịu nghe lời, thì con có thể cảm thấy bị choáng ngợp và cảm thấy bực tức, như thày đã từng như vậy, con yêu dấu.

Thày không biết con có hình ảnh gì về các sinh thể đã thăng thiên từ trái đất. Con có thể nghĩ rằng Giê-su là một người toàn hảo khi thày đầu thai, nhưng thày đã nói với con là Giê-su không như vậy. Giê-su có lúc bất hài hòa. Giê-su cũng có thể nổi giận. Khi người khác tới gặp Giê-su, thì Giê-su có thể rất cộc lốc, nói rất thẳng, một cách hầu như gay gắt. Thày có thể hiểu vì sao. Giê-su rất chú tâm vào nội tâm của mình, nên khi người khác xáo trộn sự chú ý của thày, thì thày gặp khó khăn bắt nhịp cầu giữa hai thế giới.

Con có thể nghĩ El Morya, hay Chân sư MORE, trong kiếp đầu thai cuối lúc nào cũng thoải mái, bình tĩnh và làm chủ tâm mình. Nếu con nhìn vào một số tiền kiếp của thày, thì con sẽ thấy là Chân sư MORE đã có những lúc bị choáng ngợp bởi năng lượng và đã phản ứng bằng nhiều cách. Các con đều nghĩ Saint Germain là Người Thần kỳ của Châu Âu. Đúng vậy, khi thày được đặc miễn để hiện thân trong một xác thân vật lý, thì thày lúc đó đã ở trong trạng thái thăng thiên, và thày lúc nào cũng thoải mái, bình tĩnh, và làm chủ tâm mình. Nhưng đó là sau khi thày đã hội đủ điều kiện để thăng thiên. Trước đó, không phải lúc nào thày Saint Germain cũng trong trạng thái hoàn toàn hài hòa.

Không có ai đã thăng thiên vì đã là người toàn hảo dựa trên một chuẩn mực nào đó do sa nhân quy định. Các thày đã thăng thiên vì đã nhận ra được là chuẩn mực sa ngã này không quy định được mình nữa, và điều này có một ý nghĩa duy nhất: bất cứ cái ta nhân gian nào còn sót lại, con cần yêu nó. Con sẽ tới điểm con cần yêu cái ta nhân gian của mình, cái ta vỏ ngoài, cái tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa, hay bất cứ tên gì khác con dùng để gọi nó. Như thày đã nói, có một giai đoạn trên con đường tu khi con cần nhìn nó như một đối thủ chống trả sự tăng triển tâm linh của con. Con cần phải tách mình ra khỏi nó. Khi con đã phần nào tách mình ra khỏi nó, nếu lúc đó con còn nhìn nó như một đối thủ, như một kẻ địch, thì con vẫn còn để nó quy định mình. Khi con bị cái ta vỏ ngoài làm cho hoàn toàn mù lòa thì nó quy định con, nhưng khi con chống lại nó, xem nó như kẻ địch cho việc tăng triển tâm linh của mình, thì nó cũng quy định con, bằng một cách khác.

Con tới điểm nhận ra bước tới là con không còn xem cái ta vỏ ngoài như một kẻ địch nữa. Con nhận ra nó không thể quy định con, nó không thể ngưng hành trình tu tập của con. Lúc đó, nếu con không còn xem nó như một kẻ địch, thì bước hợp lý kế tiếp là con thương yêu nó. Quả thật, rất khó thương yêu cái gì mà ta coi là kẻ địch. Để con hoàn toàn giải thoát mình khỏi kẻ địch đó, thì con phải tới điểm mà Giê-su hai ngàn năm trước đây đã dạy con người làm: hãy thương yêu kẻ địch của mình. Khi đó, họ không còn quy định mình nữa.

Con yêu dấu, điều gì quy định con? Con là một sinh thể tâm linh; vậy một sinh thể tâm linh là gì? Đối với một sinh thể tâm linh đang hiện thân, lý tưởng nhất là nó là một cánh của mở cho tình thương vô điều kiện. Chuyện gì xảy ra khi con nghĩ mình có một kẻ địch và con nói: “Tôi không thể thương yêu kẻ địch này, tôi không thể biểu lộ tình yêu với kẻ địch này”? Con đang để cho kẻ địch đó cắt đứt dòng chảy của tình thương vô điều kiện chảy xuyên qua con. Con đang để cho kẻ địch đó quy định con vì lúc đó con không còn là một sinh thể tâm linh nhìn mình như là cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện. Con nhìn mình như một cái gì khác, một cái gì kém hơn.

Hãy thương yêu kẻ địch của mình – và con sẽ được giải thoát khỏi họ và tâm thức mà họ đại diện. Con sẽ được tự do để là người mà con là: một cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện. Con được tự do để chấp nhận hoàn toàn, với tất cả bản thể của mình, là Thượng đế yêu con, là thày yêu con. Và lúc đó con có thể yêu cái ta của mình. Con có thể yêu cả phần “cái ta” và phần “của mình” của bản thể của con.

1.7. Làm hòa với việc có cái ta vỏ ngoài

Con sẽ tới điểm phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta thật, giữa cái thật và cái không thật. Con không còn cần che giấu cái ta không thật khỏi mắt thày hay mắt con. Con thấy nó không thật, con thấy nó không quy định được mình, nhưng con không cảm thấy bị nó đe dọa. Con thực sự còn không quan tâm đến nó. Nó không quan trọng gì hết. Con có thể nói với trí đường thẳng là thày đang mâu thuẫn với những gì thày nói trước đây, nhưng nếu con vượt quá trí đường thẳng, thì con sẽ nhận ra là thày đang nói tới một tiến trình. Có một giai đoạn con cần tách mình ra khỏi cái ta vỏ ngoài, và con làm chuyện này bằng cách thấy mình khác cái ta vỏ ngoài. Nhưng cũng có giai đoạn con cần thăng vượt cái ta vỏ ngoài, và con yêu dấu, khác với những gì đa số các con nghĩ, điều này không có nghĩa là con không còn cái ta vỏ ngoài.

Điều đó có nghiã là con tới điểm cái ta vỏ ngoài còn sót lại chỉ đủ để giữ con hiện thân trong cõi này. Do đó, nó không đe dọa sự tăng trưởng tâm linh của con hay công việc phụng sự người khác của con. Khi con tới điểm đó thì con không cần quan tâm đến nó nữa. Con không cần phân tích nó nữa, tìm cách lột mặt nạ nó và khám phá: “Tự ngã của tôi là gì? Chuyện gì đang xảy ra? Tôi đang tin điều gì đây?” Tất cả những dụng cụ tâm linh đó đều có giá trị, nhưng con sẽ tới điểm con không cần quan tâm quá đáng đến các dụng cụ đó hay đặt trọng tâm vào chúng.

Lẽ dĩ nhiên, con cần tìm ra một điểm quân bằng. Các thày không muốn trở về trạng thái tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài và không nhìn ra những gì con cần khắc phục. Con có thể tới điểm con đã làm hòa với sự kiện là, khi con còn đầu thai trên trái đất, con sẽ còn một số sắc thái của cái ta vỏ ngoài. Nếu đôi khi con rơi vào khuôn nếp đó thì con không cần lên án mình.

Con đừng nên theo tư duy cuồng đại (epic mindset) và nghĩ rằng con đã phạm một lỗi lầm mà con không bao giờ có thể xóa bỏ. Và bây giờ Mẹ Mary sẽ không yêu con nữa, Mẹ Mary sẽ không tiếp xúc với con trong ba tháng, hay bất cứ điều gì khác mà con nghĩ. Con không cần tự trừng phạt mình. Con không cần ép buộc mình làm công tác chuộc tội, tỷ dụ như: “Bây giờ thì tôi phải đọc 350 câu Chào mừng Mẹ Mary vì tôi đã quát mắng các con”, hay bất cứ gì khác mà người ta thường làm. Họ nghĩ rằng bằng cách nào đó họ có thể bù đắp, và thày sẽ đột nhiên thương yêu họ trở lại sau khi họ đã làm công tác máy móc này hay thắp đủ số ngọn nến trong nhà thờ.

Con cần tới điểm nhận ra đây không phải là lối thày suy nghĩ, không phải là lối thày cảm nhận, không phải là lối thày nhìn vào con. Thày là một chân sư thăng thiên. Thày không phải là một sa nhân. Thày không nhìn con như sa nhân nhìn con. Nếu con yêu thày, thì xin con ngưng phóng chiếu lên thày là thày nhìn con giống như sa nhân nhìn con, vì thày không làm như vậy!

Thày có vẻ nghiêm khắc quá không? Đó là vì thày muốn cắt xuyên qua sự chống kháng của cái ta vỏ ngoài, vì nó sẽ không chịu nhìn nhận là thày không giống hình ảnh của thày mà sa nhân đã tạo ra. Thày là một chân sư thăng thiên. Thày từ chối tuân theo hình ảnh của sa nhân. Thày tuyệt đối từ chối. Do đó, khi thày có một vị sứ giả chịu làm cánh cửa mở, thì thày sẽ phát biểu vào cõi vật chất. Hàng tỷ người cần nghe lời này: thày là một sinh thể có tự do của Thượng đế ban cho. Thày không bị trói buộc bởi tâm thức của những người đang đầu thai hay của sa nhân, dù họ có đang đầu thai trong cõi vật lý hay không. Thày đã thoát khỏi mọi thứ đó. Thày muốn con cũng thoát khỏi các thứ đó. Con không thể hoàn toàn thoát khỏi nó – thày không thể giúp con tới mức tối đa – nếu con không nhận ra là thày không bị các thứ đó ảnh hưởng.

1.8. Chối bỏ tình yêu vô điều kiện

Tình yêu của thày không có điều kiện. Có những người tuyệt đối từ chối không chịu nhìn nhận có tình thương vô điều kiện. Ta có thể tìm thấy họ trong mọi giáo hội và phong trào tâm linh và các nơi khác. Hoặc họ là sa nhân đang đầu thai hoặc họ bị tâm thức sa ngã làm cho hoàn toàn mù lòa. Không thể có cách giải thích nào khác. Thượng đế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ tuân theo tâm thức của sa nhân hay của những sinh thể chưa thăng thiên.

Một trong những biểu hiện dữ dội nhất của phản-tình thương là nghĩ rằng một người đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất có thể quy định là Thượng đế sẽ hành xử, suy nghĩ và nhìn cuộc đời như thế nào. Đây là sự kiêu mạn tâm linh hoàn toàn và tuyệt đối. Có những sa nhân đang đầu thai trên trái đất hay ở trung giới (astral phane), hay đang có mặt trong các cõi lý trí và bản sắc của trái đất, nghĩ rằng họ là những sinh thể cao cả và tinh xảo. Như Giê-su đã nói: “Ta biết người qua quả trái của họ”.

Con chỉ cần nhìn chuyện gì đang xảy ra trên trái đất để thấy rằng đây không phải là một hành tinh cao cả lắm. Nếu trái đất không phải là một hành tinh cao cả, thì những sa nhân liên hệ với trái đất không thể quá tinh xảo – ngoại trừ trong chính tâm họ. Không phải là điều khó hiểu để nhận ra rằng trên một hành tinh có quá nhiều biểu hiện của phản-tình thương, quá nhiều chiến tranh, xung đột, thì những người đã tạo ra hoàn cảnh này không thể là những sinh thể tinh xảo. Vậy các con hãy ngưng đi theo họ.

Con hãy ngưng nghĩ rằng họ có khả năng hay thẩm quyền quy định các chân sư thăng thiên phải nghĩ hay cảm nhận như thế nào, hay các chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói điều gì, hay các chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói qua vị sứ giả nào.

Thày không thể giúp những ai đang phóng chiếu một hình ảnh sa ngã lên thày, dù người đó nhìn nhận thày là một chân sư thăng thiên. Thày không thể giúp người đó, vì thày không thể và không muốn vi phạm quyền tự quyết của họ, cho dù đó không phải là một quyết định có ý thức của họ. Do đó, thày không thể giữ niệm tinh khôi về họ trong những hoàn cảnh khi họ cần đến nhất. Có những người tin rằng họ là người tâm linh, và ngay cả là đệ tử chân sư thăng thiên, nhưng họ lúc nào cũng ở trong trạng thái tâm thức không phù hợp với tiềm năng cao nhất của họ. Họ cần thày giữ niệm tinh khôi cho họ, nhưng họ lại không chịu để thày làm chuyện này. Hậu quả là tâm thức họ trở nên một vòng xoắn ốc khép kín và tự củng cố. Họ tin rằng họ đang tiến bộ trên con đường tâm linh. Họ tin rằng họ sẽ thăng thiên trong kiếp sống này. Họ giống y như những tín đồ Cơ  đốc giáo tin rằng Giê-su sẽ cứu rỗi họ ở cuối kiếp sống này, và họ sẽ lên Thiên đàng vì họ đã là những tín đồ Cơ đốc giáo tốt.

1.9. Chuyển đổi tâm thức và sự thăng thiên

Nếu con không chuyển đổi tâm thức, thì làm sao con vào được cõi thăng thiên? Con yêu dấu, để thăng thiên không có điều kiện nào khác hơn là trạng thái tâm thức của con. Không có cái gì bên ngoài mà con có thể làm để hội đủ điều kiện thăng thiên. Con có hiểu điều này chăng?

Đây là hệ quả của sự kiện tình thương của Thượng đế không có điều kiện. Điều này cũng có nghĩa là không có gì con có thể làm trên trái đất, không có điều kiện nào mà con có thể quy định và làm tròn trên trái đất, có thể ép buộc Thượng đế phải cho con vào Vương quốc của ngài. Con sẽ vào Vương quốc khi con ngưng ép buộc Thượng đế phải cho con vào, và chấp nhận là Thượng đế sẽ cho con vào khi con không còn bất cứ điều kiện nào trong tâm quy định cách con hay Thượng đế phải hành xử.

Thày không muốn nói là con có thể làm bất cứ gì con muốn. Khi con là một với Hiện diện TA LÀ và cái ta cao của con, con sẽ không muốn làm hầu hết những điều mà người phàm muốn làm. Đấy không phải là vì con ép buộc mình không được làm những điều đó dựa trên một lý tưởng tâm linh nào đó. Nhưng sẽ là vì con tự nhiên chọn lựa không muốn làm những điều đó. Con không có một lượng định giả tạo nào về điều phải làm hay không được làm. Con chỉ đơn giản trôi theo dòng chảy với chính mình, với cái ta cao của mình.

1.10. Tiến lên làm việc khác thay vì phân tích

Hành tinh này là một hành tinh dày đặc. Cuộc sống ở đây sẽ có lúc hỗn độn, và tuy con đã đạt được một tầng cao trên con đường tâm linh, sẽ có những hoàn cảnh khiến con rơi xuống thấp hơn. Sẽ có lúc con vẫn cảm thấy bực bội. Sẽ có lúc con vẫn cảm thấy chán chường. Điều thày muốn nói là có một giai đoạn trên con đường tâm linh khi con cần nhìn vào những hoàn cảnh đó, nhận ra mô thức đằng sau chúng, và tiêu trừ chúng. Nhưng có một giai đoạn cao hơn khi con cần, thỉnh thoảng, cho phép mình không toàn hảo. Lúc đó, thay vì lên án mình, thay vì phân tích quá mức: “Vì sao tôi lại làm chuyện này?” thì con chỉ giản dị bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác. Con chỉ bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác.

Nếu con đang đi bộ ngoài đường và trời đổ mưa và con vào nhà với nước mưa trên áo choàng, thì con có lên án mình vì có nước mưa trên áo choàng chăng?  Con có bao giờ phân tích quá đáng vì sao nước mưa lại dính trên áo choàng, hay con chỉ giản dị rũ áo, treo nó lên mắc áo, và tiếp tục công việc thường ngày của mình?

Con yêu dấu, con hãy ngưng nghĩ rằng thày đang nhìn con và phán xét con như con phán xét chính mình. Thày không phán xét bất cứ ai, nam hay nữ. Thày không phán xét bất cứ sinh thể nào, dù họ là sa nhân đen tối nhất mà con có thể tưởng tượng. Thày không phán xét. Thày yêu con mà không có điều kiện nào. Thày yêu toàn thể cái con là. Thày biết rằng một phần của tiến trình tăng triển trong một bầu cõi chưa thăng thiên, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, là con đi vào tâm thức nhân gian và sống trong đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm này. Lúc ấy, con tách mình ra khỏi tâm thức đó và con nói: “Tôi không còn muốn tâm thức này nữa. Nó không phải là tôi nữa. Nó không quy định được tôi.”

Con yêu dấu, đây chỉ là một phần của con đường tâm linh. Con hãy giải thoát mình khỏi tâm thái luôn luôn phán xét, lượng định và phân tích. Con hãy hướng về điểm con thấy mình làm một điều gì không toàn hảo, nhưng thay vì lên án và phân tích việc làm của mình, thì con chỉ nhìn nó và nói: “Rồi sao?” Và sau đó con bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác.

Bây giờ, con yêu dấu, nếu con chăm chú lắng nghe thì con sẽ nghe được tất cả các quỷ dữ trong trung giới đang chu réo lên và nói con không được chấp nhận điều mà thày đang nói: “Con không được tin lời nói này. Đây chắc chắn là một giáo lý giả. Chuyện này không thể nào đúng được.” Chúng khẩn thiết muốn con bác bỏ những điều thày nói, vì chỉ khi con từ chối tình thương vô điều kiện thì chúng mới nắm được con. Nếu con buông bỏ ảo tưởng này, thì đa số các con sẽ cảm thấy được tự do như chưa bao giờ mình được tự do. Con sẽ được tự do là chính mình.

Tại sao con lại nghĩ thày muốn con là ai khác? Tại sao con lại nghĩ là thày muốn con phải sống theo một tiêu chuẩn, một hình ảnh nào đó về người đệ tử chân sư thăng thiên, người tâm linh gương mẫu? Thày thấy là Thượng đế đã phú cho con, mỗi người trong các con, một cá tính độc đáo. Thày muốn con biểu lộ cá tính đó đến mức tối đa trong cuộc sống thường ngày của con. Thày muốn con đem lại món quà của con cho hành tinh này, món quà mà con đã quyết định mang tới trước khi con đầu thai.

Thày không muốn con tuân theo một chuẩn mực vỏ ngoài về người tâm linh gương mẫu. Thày muốn con là cái con là. Con không thể là cái con là nếu con cứ luôn luôn phê phán và phân tích và nghĩ mình phải sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài hay mẫu mực nào đó. Thày không thể giữ niệm tinh khôi về con nếu con nghĩ thày là người đã áp đặt tiêu chuẩn đó lên con.

Con yêu dấu, thày xin con hãy ngưng nghĩ rằng con cần giấu giếm điều gì với thày. Thày là một bà mẹ đầy kinh nghiệm. Thày đã thấy tất cả mọi chuyện mà những con hư có thể làm, tuyệt đối tất cả mọi chuyện, khởi đầu bằng Giê-su có lúc rất hư. Con đừng nghĩ con có thể khiến thày kinh ngạc. Con đừng nghĩ con có thể khiến thày quay mặt đi không nhìn con.

Thày mong rằng có những ngôn từ mà thày có thể dùng để thày có thể với tay vào trong tâm của con và xoay mũi kim của tâm thức của con để nó vào khớp và con được tự do. Thày biết rằng những ngôn từ này không có. Do đó, thày phải cho con những ngôn từ mà con có thể nghe, và thày hy vọng là với thời gian con sẽ cho phép chúng trổ mầm và mọc lên tới điểm bông hồng của trái tim sẽ nở ra và con có thể chấp nhận tình yêu của thày đằng sau những ngôn từ đó. Đây là tình thương không chuyển tải được bằng ngôn từ và không thể bị ngôn từ hạn chế, tình yêu mà TA LÀ.

Thày yêu con. Con có sẽ yêu mình như thày yêu con chăng?

Một dụng cụ để chữa lành chấn thương tâm lý

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 5 năm 2015. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, đại diện cho Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Thày trao truyền giáo lý này để cho các con một dụng cụ có thể dùng lại nhiều lần để chữa lành bất cứ loại vấn đề hay chấn thương tâm lý nào. Nó đặc biệt được thiết kế để giúp con chữa lành điều mà các thày gọi là “chấn thương nhập đời vũ trụ.” Đây là một dụng cụ dành cho những người đã đạt được một trình độ nào đó trên con đường tâm linh. Dụng cụ này không được dùng với lòng tham vọng phàm phu, muốn mọi người xem mình là một học viên cao cấp hay muốn nghĩ rằng mình sẵn sàng với bất cứ chuyện gì.

Các con cần quen thuộc với giáo lý của các thày về chấn thương nhập đời vũ trụ, các con cần quen thuộc với giáo lý của các thày về tà lực và các con cần cầu thỉnh sự bảo vệ (từ Đại Thiên thần Michael) mỗi lần dùng dụng cụ này. Sau khi con làm bài tập hình dung mà thày sẽ trao truyền, con cũng cần đọc một bài thỉnh thích ứng với bất cứ vấn đề tâm lý nào mà con đang đối phó. Các thày có trao truyền rất nhiều bài thỉnh nhằm giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau của tâm lý (xin xem trang mạng chansuthangthien.org), nhưng thày đề nghị con bắt đầu với bài thỉnh để giúp con người yêu chính mình (tỷ dụ như bài INV05 Bài thỉnh để thương yêu chính mình). Con cũng có thể tạo ra một canh thức từ bài tập này. Con làm bài tập mỗi ngày một lần và sau mỗi lần hình dung, con đọc một trong các bài thỉnh từ bộ sách Khóa học về Sung túc (Course in Abundance) vì khi kết hợp chúng với bài tập hình dung, cả hai sẽ tác động hỗ tương nhau để đạt mục đích chữa lành các vấn đề tâm lý của con.

Đây là một dụng cụ mà con không được dùng nếu con có vấn đề tâm lý nghiêm trọng đòi hỏi sự can thiệp của người chuyên nghiệp. Con không được dùng nó nếu con đang trong một trạng thái mất quân bình nặng. Không phải dụng cụ này tự thân nó nguy hiểm, nhưng vì sự hình dung sẽ đưa con đi sâu vào tâm lý mình. Nó có thể sẽ khơi ra những sự mất quân bình mà con không nhất thiết đối phó được nếu con không đang ở trong một trạng thái tương đối quân bình nào đó. Sau khi đã cảnh báo các con, lẽ dĩ nhiên là thày rất vui mừng được trình bày cho các con một dụng cụ giúp các con chữa lành tâm lý mình và đạt được trạng thái mà vị thày yêu dấu Saint Germain của chúng ta gọi là “tự do tâm trí”. Bây giờ chúng ta bắt đầu bài hình dung.

(Ghi chú: Bạn có thể hình dung bằng cách dùng cuốn sách và đọc từng đoạn một, sau đó bạn nhắm mắt lại và hình dung. Tuy nhiên, bạn có thể nhận ra rằng sẽ dễ hơn nếu bạn dùng một bản thu âm để bạn có thể giữ mắt nhắm. Bạn có thể nghe bản thu âm của bài này bằng tiếng Việt bằng cách bấm vào nối kết ở đầu trang mạng này. Bài thu âm các bài tập trong sách này bằng tiếng Anh có thể mua được từ www.morepublish.com).

5.1. Bắt đầu hình dung

Con hãy hình dung con đang đứng trước một bức tường. Bức tường này rất cao. Con còn không thể thấy được đầu bức tường. Bức tường kéo dài cả hai phía và con không thể thấy nó ngừng ở đâu. Con thấy được là bức tường rất dày, làm bằng đá, nhưng không phải là đá mà con biết ở trên trái đất. Nó là một chất rung động ở mức độ cao hơn.

Do đó, con nhận ra là bức tường này tạo nên một rào cản bất khả xâm phạm đối với bất cứ năng lượng thấp nào mà con gặp trên trái đất. Không có điều gì trên trái đất có thể đi qua bức tường này. Một khi con vượt qua bức tường, con sẽ được bảo vệ, hoàn toàn bảo vệ và niêm phong khỏi mọi năng lượng tiêu cực có thể đè nặng con, có thể đã đè nặng con trong kiếp này hay các kiếp trước.

Bây giờ con hình dung có một cánh cổng. Cánh cổng mở ra trước mặt con dù có vẻ không có ai mở nó. Bây giờ con cần quyết định con có muốn đi vào cổng hay không, hay con muốn đứng tại chỗ con đang đứng và không tham gia bài hình dung này.

Bây giờ Mẹ sẽ coi rằng nếu con tham gia, thì con đã chọn lựa đi qua cổng. Con nghe tiếng cổng đóng lại sau lưng và con biết con được bảo vệ và niêm khỏi bất kỳ năng lượng tiêu cực nào trên trái đất, trong các cõi tình cảm, lý trí hay bản sắc.

5.2. Luân xa gốc

Bây giờ con nhìn quanh và con thấy một khu vườn rất đẹp. Nó có những bãi cỏ rộng, xanh mướt, xa xa có những lùm cây làm nền và có những thảm hoa hình cong uốn lượn đầy những hoa nở rộ. Có tiếng chim hót trong nền cảnh và ngoài ra mọi thứ đều yên tĩnh. Khi con đi bộ trên cỏ, nó mềm đến độ chân con gần như lún xuống. Mẹ yêu cầu con, khi con tập bài hình dung này một mình, con hãy thăm thú khu vườn này bao lâu cũng được, (nếu cần, con ngưng bài thu âm đi) và con thong thả thăm thú khu vườn.

Khi con đi loanh quanh khám phá, sẽ có lúc con gặp một hàng rào cây cao và ở đấy có một lối để đi qua. Lối đi qua này có một cánh cổng. Cánh cổng đang mở, giống như con từng thấy trong một số khu vườn, nó được làm bằng lưới kim khí cho phép không khí thông qua.

Con nhận ra con có thể đi qua cổng. Lỗ hổng to đủ để con qua được, nhưng con không qua được nếu con mang bất cứ ba lô nào trên lưng.

Bây giờ thì con nhận ra mình có một cái ba lô buộc vào lưng. Nó là nỗi niềm lo lắng nào đó của con về thế gian, hay một chấn thương nào đó con đã trải nghiệm trong kiếp này.

Bây giờ Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa gốc của mình để xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình hay bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời. Chúng hiện lên trong tâm khi con hòa điệu với luân xa gốc của mình.

Mẹ không yêu cầu con đi sâu vào nó nhưng con chỉ cần có một ấn tượng về nó. Con nhận ra rằng niềm lo lắng hay chấn thương này là cái mà con mang trên lưng. Để có thể đi qua cánh cổng, con cần đặt cái ba lô xuống và để nó bên ngoài cổng.

Con không cần phân tích hay đi vào bên trong nó hay bị nó làm choáng ngợp. Con chỉ giản dị nhìn thấy nó và con quyết định:  “Tôi sẵn sàng muốn để nó qua một bên ngay lúc này để tôi có thể đi qua cổng và xem bên kia có gì.”

Bây giờ con hình dung là con bỏ cái ba lô xuống, để nó bên ngoài cổng và con bước qua cổng.

5.3. Trung tâm luân xa hồn

Giờ đây con thấy mình ở trong một khu vườn khác, còn ấm cúng mật thiết hơn khu vườn đầu. Khu vườn này đầy hoa, chúng có vẻ như tỏa chiếu ánh sáng. Khu vườn này tuyệt diệu, được thiết kế để trẻ thơ vui chơi. Con nghe thấy văng vẳng từ xa tiếng cười của trẻ thơ. Con cũng có thể cảm thấy như muốn bỏ thì giờ để khám phá khu vườn, khám phá xem mình cảm thấy thế nào khi ở trong sự rung động vui chơi của trẻ thơ.

Khi sẵn sàng, con sẽ thấy là trong khi con đi loanh quanh khu vườn, con tới một cánh cổng khác ở hàng rào cây khác. Giống như cánh cổng đầu tiên, có một khe hở con có thể bước qua. Bây giờ con thấy mình có một ba lô khác trên lưng.

Bây giờ Mẹ yêu cầu con hòa điệu với trụ sở của luân xa hồn và một lần nữa, con xét xem mình có lo lắng hay chấn thương nào liên quan tới trung tâm của hồn, sự sáng tạo của hồn, sự vui chơi của trẻ thơ. Rồi con giản dị nhìn nó và con quyết định: “Phải, tôi muốn đi qua cổng, do đó tôi sẽ bỏ ba lô này bên ngoài.”

Con hình dung mình gỡ ba lô xuống và con lại đi qua khe hở nhỏ hơn khe hở đầu. Không biết làm sao mà con nhỏ hơn một chút so với lúc con bắt đầu.

5.4. Luân xa rối dương (solar plexus)

Một khu vườn khác mở ra. Khu vườn này hoàn toàn yên lặng, ngay cả tiếng chim hót cũng không còn. Nó chính là sự tĩnh lặng.

Con đi bộ trong khu vườn này, và con nhận thấy là ngay cả bước chân của con cũng không tạo ra tiếng động. Con nhận thấy mình đang lắng nghe hơi thở mình, nhưng ngay cả hơi thở của con cũng không tạo ra âm thanh. Dường như là khu vườn hút âm thanh và con cảm thấy ôi sao tự do khi không còn mang theo tiếng động của thế gian trong mình nữa.

Sau một lúc, con đi tới một cánh cổng khác. Bây giờ Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa rối dương của con. Một lần nữa, con hãy hòa điệu vào bất kỳ niềm lo lắng nào, bất kỳ chấn thương nào mà con nhận ra. Con chỉ giản dị nhận biết nó và con biết nó đang ở trong một ba lô khác không biết làm sao đã hiện ra trên lưng con.

Một lần nữa, con quyết định: “Tôi sẽ không đi sâu vào nó, tôi sẽ để ba lô này xuống vì tôi muốn đi qua cánh cổng tới.”

Con hình dung để ba lô bên cạnh cổng, đi qua khe hở nhỏ hơn một chút và con bây giờ cũng nhỏ bé hơn một chút.

5.5. Luân xa tim

Bây giờ con bước vào một khu vườn có ánh sáng màu hồng xinh đẹp. Nó đầy hoa hồng, hoa màu hồng đủ dạng, đủ cỡ. Khu vườn thật đẹp, thật yên tịnh.

Con cảm nhận được một sự rung động gần giống – gần giống như tình yêu, nhưng không giống bất cứ tình yêu nào con đã biết trên trái đất. Nó là tình yêu vô điều kiện

Một lần nữa, con có thể đi thăm thú khu vườn như ý muốn, nhưng tới một lúc thì con quay trở lại và bây giờ con khám phá một cánh cổng khác. Lần này thày yêu cầu con hòa điệu vào luân xa tim của con và một lần nữa con đi tìm bất kỳ niềm lo lắng hay gánh nặng nào, bất kỳ chấn thương nào liên quan tới tim, tới tình yêu, bị thất vọng trong tình yêu, cảm thấy tình yêu của mình bị từ chối.

Con chỉ thấy nó ở đó; con không đi sâu vào nó. Con nhận ra rằng nó lại ở trong cái ba lô mà con mang theo và ba lô này không thể lọt qua cánh cổng. Một lần nữa con quyết định: “Tôi muốn đi qua cánh cổng.” Con để ba lô xuống và bây giờ một phiên bản nhỏ hơn nữa của con đang đi qua cánh cổng.

5.6. Luân xa cổ họng

Đằng sau cánh cổng này là một khu vườn khác, nhưng không phải là khu vườn cây. Đây là một khu vườn ngọc quý, với những khối pha lê xanh dương đẹp khắp nơi, đủ dạng đủ cỡ. Có ánh sáng chiếu vào khu vườn và được phản chiếu lại bởi tất cả các khối pha lê, tạo nên những mô hình đủ loại.

Có những lối đi giữa các khối pha lê, trông gần giống như những thảm hoa bằng pha lê. Khi con đi vào trong khu vườn, một lần nữa con có thể thong thả thăm thú.

Một lúc sau thì con tìm thấy một cánh cổng khác. Lần này con cần hòa điệu với luân xa cổ họng và một lần nữa nhận ra bất kỳ chấn thương nào, bất kỳ nỗi lo lắng nào liên quan tới đời sống, liên quan tới nói lên quan điểm mình hay không nói lên, liên quan tới tổ chức, chính quyền hay bất kỳ quan tâm tương tự.

Một lần nữa, lẽ dĩ nhiên, con thấy là những nỗi lo lắng này không lấp đầy tâm con, nó lấp đầy chiếc ba lô của con. Ba lô này lại xuất hiện lần nữa. Một lần nữa, ba lô này không lọt qua cánh cổng được nhưng con có thể lọt qua. Con cũng quyết định bỏ xuống ba lô này, và con đi qua cánh cổng. Con thấy mình nhỏ hơn vì con nhẹ hơn, con ngây thơ hơn, con giống trẻ thơ hơn.

5.7. Luân xa con mắt thứ ba

Bây giờ con thấy một khu vườn khác và con kinh ngạc vì nó vĩ đại. Nó có quang cảnh trải rộng với phong cảnh mênh mông và những cánh đồng đầy hoa, những áng mây đủ hình tượng và đủ loại cảnh tượng mỹ miều rộng lớn bao la.

Một lần nữa con thăm thú khu vườn và lần này con có thể đi nhanh hơn. Con có thể đi với tốc độ của ánh sáng và thấy đủ mọi thứ. Con có thể thăm thú như ý mình muốn.

Một lúc sau thì con lại tìm thấy một cổng khác. Lần này con hòa điệu với luân xa con mắt thứ ba của con và con nhận ra bất kỳ tình huống nào, bất kỳ nỗi lo lắng nào, bất kỳ chấn thương nào khởi lên liên quan tới viễn quan, liên quan tới khả năng nhìn của con, liên quan tới khả năng biết và hiểu của con.

Một lần nữa con nhận ra nỗi lo lắng hay chấn thương này chỉ nằm trong chiếc ba lô nên nó không chiếm cứ tâm con. Một lần nữa con quyết định bỏ ba lô xuống và con đi qua cánh cổng.

5.8. Luân xa đỉnh đầu

Lần này con thấy một khu vườn ấm cúng mật thiết. Giữa vườn là hình tượng đức Phật ngồi trong sự yên tịnh toàn hảo. Thày ngồi trên một bông sen ngàn cánh nổi trên mặt hồ nước tĩnh lặng. Con ngạc nhiên trước vẻ đẹp và yên tịnh của cảnh này.      

Một lần nữa có những lối đi để con thăm thú nếu con muốn và con có thể thăm thú một thời gian.

Một lần nữa sẽ tới lúc con tìm thấy một cánh cổng khác và con nhận ra là con cần hòa điệu với luân xa đỉnh đầu và nhận ra bất kỳ nỗi lo lắng nào, bất kỳ chấn thương nào liên quan tới nhận biết, tới minh triết, tới sự bình an khi biết rằng mọi sự đều là Phật tánh.

Một lần nữa con nhận ra chúng chỉ nằm trong chiếc ba lô. Chúng không chiếm cứ tâm con và con quyết định bỏ ba lô xuống và một lần nữa con đi qua cánh cổng.

5.9. Với Mẹ Mary

Bên kia cánh cổng không phải là một khu vườn. Con bỗng nhiên cảm thấy mình trong thân thể một hài nhi ngồi trong lòng của Mẹ. Bây giờ con hình dung con là một hài nhi và Mẹ đang ôm con trong lòng. Lòng Mẹ ấm áp, con hoàn toàn được bảo vệ, được bảo bọc bởi Hiện diện nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng.

Con đã bỏ lại đằng sau những nỗi lo và bây giờ con là một hài nhi ngây thơ, nằm trong lòng Mẹ Thiêng liêng. Nếu con muốn, Mẹ sẽ đong đưa con, Mẹ sẽ hát bài ru con. Nếu con muốn bú sữa mẹ, con cứ tự nhiên vì Mẹ không cảm thấy ngần ngại về chuyện thân thể và nhu cầu dinh dưỡng của nó. Con có thể uống dòng nuôi dưỡng tinh khiết của Mẹ Thiêng liêng cho tới khi con no đủ.

Bây giờ Mẹ muốn con hình dung, bằng cách nào cũng được, là con đi ngược lại tiến trình sanh đẻ đã đưa con đầu thai tại đây. Một lần nữa con đi vào không gian eo hẹp chật chội của ống sinh và con cảm thấy bị gò ép khắp chung quanh mình. Thay vì con sốc vì bị đẩy mạnh ra, bây giờ con đang nhẹ nhàng lướt ngược dòng ống sinh để tới một chỗ an toàn, ấm áp, nuôi dưỡng là bụng của Mẹ Thiêng liêng. 

Bây giờ con ở trong bụng của Mẹ Thiêng liêng – trong bụng của Mẹ. Đây là biểu tượng chúng ta đã vượt qua kiếp đầu thai hiện thời của con, chúng ta đã vượt qua mọi dính mắc và mọi nỗi lo lắng thường khiến con chú tâm vào thân thể vật lý hiện thời của mình, cuộc sống hiện thời của mình và thế giới trong đó con sống. Chúng ta đã bỏ chúng lại đằng sau, ở bên ngoài cổng.

Bây giờ chúng ta được nuôi dưỡng, chúng ta cảm thấy an toàn và do đó chúng ta sẵn sàng đi xuống một đường hầm đang mở ra trước mặt chúng ta. Đây là một đường hầm dẫn về các kiếp trước của con trên hành tinh này.

5.9. Tìm hiểu các kiếp trước

Chúng ta đi trong đường hầm này tay trong tay, Mẹ dẫn con đi, giúp con cảm thấy an toàn, và chúng ta nhận biết là có những cánh cửa ở dọc theo đường hầm. Đây là những cánh cửa dẫn tới những kiếp trước của con.

Có thể sẽ có lúc trong tương lai, khi con dùng bài tập này, con sẽ cảm thấy bị thôi thúc muốn đi vào một trong những cánh cửa đó và nhìn xem chuyện gì xảy ra trong kiếp đó. Nếu con làm điều này trong tương lai, con có thể dùng kỹ thuật mà Mẹ sẽ trao cho con sắp tới đây, để giải quyết bất kỳ chấn thương nào ở một kiếp sống trước. Mục đích bài tập này là đưa con trở về quá khứ xa và đó là lý do vì sao chúng ta không đi vào bất kỳ những cửa này. Mẹ biết là có khi chúng ta đi qua một cánh cửa và hầu như có một từ lực thu hút sự chú ý của con khiến con muốn đi vào. Lúc đó Mẹ sẽ quàng tay qua vai con và nói: “Chưa phải lúc, chúng ta có chuyện khác cần nhìn vào ở phía xa hơn của đường hầm.”

Chúng ta đi bộ qua hết cánh cửa này tới cánh cửa nọ. Không cánh cửa nào có sức thu hút con mạnh đến độ Mẹ không thể dìu con đi qua nó. Giản dị là chúng ta cho phép chúng mờ nhạt đi. Chúng không quan trọng, nhưng chúng ta đi càng ngày càng xa ngược dòng mà con gọi là thời gian. Thực ra, chúng ta cứ tiếp tục di chuyển, gần giống như khi con di chuyển trên trái đất một cách tự do về bất cứ hướng nào. Chúng ta chỉ quyết định di chuyển về hướng dẫn tới lần đầu thai đầu tiên của con trên hành tinh trái đất.

5.10. Rạp hát

Sau một lúc, bất thình lình chúng ta thấy mình đã tới cuối đường hầm. Không còn cánh cửa nào khác bên hông, nhưng có một khung cửa ở cuối đường hầm.

Khi chúng ta đi qua khung cửa này, chúng ta thấy mình đứng trong một rạp hát. Có những dãy ghế ngồi, có một con đường ngay giữa dẫn lên sân khấu. Ngay trước mặt là sân khấu. Có những cảnh dựng và trang hoàng công phu trên sân khấu.

Bây giờ Mẹ nắm tay con và chúng ta ngồi xuống trong những ghế đó. Khi chúng ta ngồi xuống, thì dường như buổi trình diễn bỗng nhiên bắt đầu. Những nhân vật xuất hiện từ hai bên, họ đóng những vai trò khác nhau, vở kịch được diễn ra.

Con hoàn toàn không nhập vào cảnh trên sân khấu; con chỉ quan sát thôi. Vở kịch đang diễn ra. Có thể con cũng không thấy màn kịch nào cả, có thể con chỉ có một số cảm giác, một số cảm nhận. 

Có thể lần đầu tiên con làm bài tập này thì con chưa sẵn sàng nhìn thấy chi tiết. Bất cứ điều gì con thấy, bất cứ điều gì con nhận thấy, bất cứ điều gì con trải nghiệm, bất cứ điều gì con cảm nhận, nó hòa điệu tâm con vào hoàn cảnh chấn thương đầu tiên mà con gặp phải khi đầu thai trên hành tinh này.

Con có thể cảm thấy một số cảm xúc, con có thể có một số ý tưởng, con có thể hoàn toàn bình tĩnh. Những chuyện này đều được cả vì Mẹ đang ở bên cạnh con. Mẹ đang hướng dẫn con, Mẹ đang bảo vệ con và không điều gì có thể làm con choáng ngợp, không điều gì xấu sẽ xảy ra cho con. Bất cứ điều gì xảy ra cho con lúc đó không thể xảy ra nữa, con yêu dấu. Nó không thể xảy ra cho con bây giờ, vì con không còn là con người đã gặp chuyện đó vào lúc đó.

Con có thể thấy có một người trên sân khấu đang bị một hoàn cảnh chấn thương, nhưng con không thực sự đồng hóa mình với người đó. Con thấy vở kịch đang diễn ra, nhưng con không bị lôi cuốn vào đó. Con đang không ở trên sân khấu quan sát truyện đang xảy ra, con đang ngồi với Mẹ bên cạnh con và con đang quan sát nó từ bên ngoài.

Sau một lúc thì vở kịch đã trải bày xong. Dường như tất cả các nhân vật đã xuất hiện trên sân khấu đã đóng băng lại. Con có thể tưởng tượng một sân khấu trên đó tất cả các diễn viên bỗng nhiên đóng băng, gần giống như con ngưng một cuộn phim thành một bức tranh tĩnh. 

Lúc đó, Mẹ nắm tay con. Chúng ta đi theo con đường chính giữa rạp về phía sân khấu. Chúng ta đi dọc một bên sân khấu và có một tấm màn mà chúng ta vén lên và bây giờ chúng ta bước vào hậu trường.

Bây giờ thì con ở hậu trường với Mẹ và điều mà con cảm thấy rất thật khi nhìn từ phía trước bây giờ chỉ vỏn vẹn là cảnh trí và dụng cụ sân khấu, chỉ trông giống thật khi nhìn từ một góc độ nào đó. Khi nhìn từ phía trước thì ta có cảm tưởng là ta đang nhìn vào một thế giới thật. Bây giờ ở hậu trường, con thấy là mọi thứ đều là dàn dựng và không có gì trong đó là thật cả. Tất cả như màn ảo thuật, tất cả là một vở kịch đang được diễn ra.

5.11. Trên sân khấu

Bây giờ lẽ dĩ nhiên là chúng ta bước lên sân khấu. Một lần nữa, Mẹ nắm tay con. Nếu con muốn, Mẹ sẽ bế con. Chúng ta đi về phía nhân vật chính đã trải qua một biến cố chấn thương.

Chúng ta thấy là chấn thương lớn đến độ chính vì nó mà người đó bị đóng băng. Người đó, sinh thể đó vẫn còn bị đóng băng ở đó và đã bị đóng băng như vậy từ khi biến cố xảy ra.

Tất cả những nhân vật còn lại cũng bị đóng băng nhưng chúng ta nhận ra họ không phải là những nhân vật thật bị đóng băng từ lúc đó, họ chỉ là cảm nhận của nhân vật chính. Tuy rằng có những sinh thể đã hành động như thế ở thời điểm quá khứ đó, nhưng họ đã đổi khác với thời gian. Những gì còn lại trong rạp hát là hình ảnh mà nhân vật chính có về các nhân vật đó và những gì họ đã làm đối với nhân vật chính này.

Bây giờ chúng ta bước tới gần người này và Mẹ cho con thời gian để con tự điều chỉnh. Con cảm thấy gần giống như con đang nhìn một người lạ nhưng có dáng vẻ gì quen thuộc về người này. Con quay nhìn Mẹ có ý hỏi. Mẹ quỳ xuống bên cạnh con, vòng tay ôm vai con và nói: “Con có thấy chăng là có một thời con đã đồng hóa mình với người này và con thấy chăng là bây giờ con đã hơn người này rất nhiều?” Bỗng nhiên con hơi rúng động và thân thể con giựt nảy lên vì con nhận ra đây chính là con ở thời điểm đó. Tuy cảnh tượng có vẻ đáng sợ, nhưng Mẹ đang ở bên cạnh con và con cũng nhận ra rằng: “Nhưng tôi không còn là người này nữa. Tôi đã tiến hơn trên biết bao nhiêu mặt.”

Bây giờ Mẹ nói với con là rạp hát này hiện hữu trong tâm thức con, trong trường năng lượng của tâm thức con. Tâm thức con, toàn bộ tâm thức con, ngày nay hơn thế rất nhiều. Con nói: “Làm sao con biết được điều này?” Mẹ nói: “Có đúng chăng là con đã đi qua bảy khu vườn? Các khu vườn này là tâm thức của con, tâm thức mà con đã gày dựng từ ngày con đầu thai lần đầu trên trái đất. Con hãy chiêm nghiệm vẻ đẹp của các khu vườn này và con có thể thấy là ngày hôm nay con hơn rất nhiều con người đã đầu thai lần đầu trên trái đất này.” 

Bây giờ con thấy được là diễn biến chấn thương đầu tiên này là một cú sốc vô cùng nặng cho con vì sự tương phản giữa những gì con biết trước khi con xuống trái đất và trải nghiệm khốc liệt khi con tới hành tinh này. Dù rằng ở thời điểm đó nó là một cú sốc đối với con, con nhận ra rằng bây giờ con biết nhiều hơn nhiều, con đã trải nghiệm nhiều hơn nhiều trên hành tinh này, con đã có nhiều trải nghiệm tích cực trên hành tinh này, con đã có những thành tựu trên hành tinh này. Qua sự điều ngự bảy tia sáng con đã tạo ra những khu vườn xinh đẹp mà con đã thấy.

Thực sự là diễn biến đầu tiên này, dù nó là một cú sốc vào thời điểm đó, ngày nay không còn quy định con nữa. Con không còn là sinh thể bị đóng băng vào lúc đó. Nó chỉ là một phần của con. Nó vẫn là một phần của con vì nó bị đóng băng vào lúc đó và con chưa trở về để nhìn lại nó.

Bây giờ con đang ở đây với Mẹ, con nhìn nó và con thấy là con hơn thế rất nhiều. Do đó, con có thể nhìn chấn thương đầu tiên này. Con thực sự có thể đi vào trong nó và trải nghiệm nó trở lại. Con sẽ không có cùng trải nghiệm mà con có lần đầu.

Sau đó con nhận ra rằng nếu con muốn giải thoát mình khỏi chấn thương, con thực sự cần cho phép mình đi vào bên trong con người trên sân khấu đã bị đóng băng vào quá khứ.  Thoạt tiên con do dự: “Nhưng Mẹ Mary, con có thể ra khỏi nó được không?” Mẹ nói: “Nhưng con có thể nắm tay Mẹ trong suốt thời gian này, và nếu con không tự mình ra khỏi được, Mẹ sẽ kéo con ra. Điều này, Mẹ hứa với con.”

Con nhìn vào mắt Mẹ và Mẹ thấy được con nhất quyết chuyển hóa: “Tôi đã mang chấn thương này trong tôi đủ lâu rồi và do đó tôi sẽ đi vào trong đó và trải nghiệm nó lại.”

Bỗng nhiên, con chui vào nhân vật đầu tiên ấy, con người đầu tiên ấy, và bây giờ con đang trải nghiệm lại diễn biến gây chấn thương này. Ở điểm này, có thể là nó không đến với con trong chi tiết, nhưng con có thể có một cảm xúc mạnh. Con có thể có nỗi đau, có thể có cái gì kéo hút con và con cho phép mình trải nghiệm nó một thời gian. Có thể là một giây, có thể là vài giây, có thể lâu hơn. Khi con sẵn sàng, con cảm thấy Mẹ đang kéo tay con. Khi con bất thình lình chuyển sự chú ý ra khỏi cái đau, khỏi chấn thương và hướng về Mẹ, con thấy là con nhẹ nhàng chui tuột ra khỏi nhân vật. Mẹ còn không phải kéo con ra vì con đã nhẹ nhàng chui tuột ra khỏi nhân vật.

Một lần nữa, con giống một trẻ thơ đang ngồi trong lòng Mẹ. Mẹ đang vỗ về con, Mẹ đang ôm con trong lòng và bỗng nhiên con có thể nhìn hoàn cảnh với tâm hoàn toàn bình an. Con nhìn hoàn cảnh và con nhận ra nó cũng chỉ là một diễn biến, giống như nhiều diễn biến khác. “Có rất nhiều diễn biến khác trên trái đất không ảnh hưởng đến tôi, không quy định được tôi. Nhưng trong tâm của tôi, tôi đã coi diễn biến này đặc biệt, tệ hơn thực tại rất nhiều, nhưng nó chỉ là một diễn biến, nó chỉ là một điều gì đã xảy ra.”

“Do đó, tôi nhận ra là có rất nhiều diễn biến khác mà tôi đã buông bỏ và chắc chắn tôi cũng có thể buông bỏ diễn biến này. Tôi có thể buông nó xuống, tôi không phải nắm giữ nó. Tôi không phải nắm chặt nó nữa. Nó không có chỗ đứng trong bản thể của tôi. Tôi không muốn nó, tôi không cần nó. Tôi muốn thoát khỏi nó. Tôi muốn vui chơi trong các khu vườn mà không bị nó đè nặng và không bị nó lôi kéo trở về diễn biến đó.”

“Dường như là hoàn cảnh thật không còn đó nữa. Nó đã thay đổi với thời gian, nó đã hoàn toàn chuyển biến và không còn ở đó nữa. Nó chỉ có mặt trong tâm của tôi mà thôi, nó chỉ hiện hữu ở trong tâm của tôi mà thôi. Tôi không còn muốn nó trong tâm mình nữa và tôi có quyền lực thay đổi tâm mình. Tôi có thể thay đổi bất cứ điều gì xảy ra trong tâm mình.”

Bỗng nhiên con cảm thấy hứng khởi và con nói: “Mẹ Mary, hãy giúp con thoát khỏi cái này, hãy giúp con thoát khỏi toàn bộ kịch bản này.” Mẹ nói: “Chắc chắn là Mẹ sẽ giúp con.”

Trước hết, Mẹ muốn con trở về với nhân vật bị tổn thương đó và Mẹ cần con thương yêu nhân vật đó, yêu mình như mình là ở thời điểm đó, yêu mình như con cảm thấy Mẹ yêu con. Con yêu phản ứng của mình.

Bỗng nhiên, con nhận ra là sau khi hoàn cảnh xảy ra, nỗi đau mãnh liệt đến độ con quả thực đã trách mình đã phản ứng như thế. Con trách mình là mình đã phản ứng lại hoàn cảnh và cách phản ứng này đã tạo ra nỗi đau của mình. Con trách mình và con nghĩ lẽ ra con phải có khả năng kinh nghiệm hoàn cảnh đó mà không đau đớn, không phản ứng lại.

Con yêu dấu, không ai trong chúng ta có thể tránh phản ứng lại chấn thương khốc liệt mà chúng ta gặp khi đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Chưa một ai trong chúng ta đã tránh khỏi chuyện phản ứng và con không cần đòi hỏi mình không phản ứng. Dù con đã phản ứng thế nào chăng nữa, con có thể thoát khỏi nó. Con có thể thoát khỏi nó bằng cách yêu cái ta đã phản ứng.

Khi con đi vào cái ta đó và yêu nó, con cảm thấy là nhân vật đã đóng băng vào quá khứ bỗng nhiên bắt đầu tan băng, chảy ra, trở nên lỏng. Nó không còn cứng ngắc nữa, nó không còn là cái vỏ cứng nữa. Nó lỏng ra, nó tuôn chảy và con thấy nó lỏng đến độ bỗng nhiên nó trở thành một vũng nước trên sàn.

Sau đó, con nhận ra là Mẹ đưa cho con một miếng vải và nói: “Con chùi vũng nước này đi và đưa lại cho Mẹ.” Con chùi vũng nước đó khỏi sàn và con đưa lại cho Mẹ miếng vải ướt. Mẹ đưa nó vào luân xa tim của Mẹ và chuyển hóa nó.

Con bây giờ cảm thấy một gánh nặng vừa trút khỏi con và con cảm thấy có sự thôi thúc kéo con trở về một trong các khu vườn đó để thăm thú cảnh đẹp. Con cũng nhận ra rằng tuy con cảm thấy tự do hơn, con vẫn còn ở trên sân khấu đó vì các nhân vật khác vẫn còn đóng băng trong quá khứ.

Con nhìn Mẹ và hỏi: “Nhưng tại sao con vẫn còn ở đây? Tại sao các nhân vật kia vẫn còn ở đó khi họ chỉ là những cảm nhận trong tâm của con?” Mẹ nói với con là khi chấn thương đầu tiên đó xảy ra, con để cho tâm bị ám ảnh bám mắc vào một hình ảnh đặc thù về mình và đấy cũng chính là hình ảnh con vừa làm cho tan. Con cũng để cho tâm bị ám ảnh bám mắc vào một cách nhìn đặc thù về những sinh thể đã làm chuyện đó đối với con và cái nhìn này bị đóng băng trong quá khứ.

Do đó, con cần lau dọn thêm một chút nữa. Điều con cần làm và Mẹ sẽ hướng dẫn con làm là con ngồi trên sân khấu. Con nhìn một nhân vật hiện lên trong tâm con, một hình ảnh. Có thể là hình ảnh không nhiều chi tiết nhưng con có cảm tưởng là có cái gì ở đó, và nó nguy hiểm, nó là một mối đe dọa đối với con và nó muốn hại con.

Bây giờ con nhận ra rằng con không phải là sinh thể có mặt ở đó lúc khởi thủy. Con không sợ hãi; con đang ở đây với Mẹ. Con tự do bên trong con và do đó con có thể nhìn hình ảnh mà con có trong tâm, hình ảnh mà con đã tạo dựng trong tâm vào lúc đó và con có thể yêu hình ảnh đó. Con có thể gửi tình yêu tới nó. Khi con làm vậy, con thấy cái vỏ cứng bắt đầu mềm đi, chảy ra, trở thành nước. Một lần nữa nó biến thành một vũng nước trên sân khấu. Mẹ đưa cho con một miếng vải khác và một lần nữa con lau vũng nước đó, đưa lại cho Mẹ và Mẹ tiêu trừ nó trong luân xa tim của Mẹ.

Cũng có thể có những nhân vật khác trên sân khấu và khi con làm bài tập này trở lại, mỗi lần lại có một nhân vật khác khởi lên trong tâm con. Bây giờ con biết công thức rồi. Con yêu nó cho tới khi nó chảy ra, trở thành nước và con lau chùi nó và con đưa lại cho Mẹ và Mẹ tiêu trừ nó.

5.12. Dùng bài tập cho các chấn thương khác

Có thể sẽ tới một lúc khi con làm bài tập này và không còn nhân vật nào hiện lên trong tâm con và sân khấu trống rỗng. Khi tới điểm này thì con đã sẵn sàng bỏ sân khấu lại đằng sau. Con vẫn có thể làm bài tập này và khám phá thấy rằng có một trong những cánh cửa trong đường hầm có sức thu hút con. Con có thể đi vào và con thấy một sân khấu khác với một kịch bản khác. Con có thể làm theo cùng công thức đó, đi vào trong nhân vật và nhận ra rằng nhân vật không phải là mình. Con gửi tình yêu tràn ắp nhân vật, làm nó tan lỏng đi và sau đó con coi xem có nhân vật nào khác không. Con nhận ra rằng họ chỉ bị đóng băng trong quá khứ và con làm cho họ tan lỏng ra và con lau chùi họ, nói theo nghĩa bóng.

Có thể sẽ tới điểm mà con có thể đi bộ qua đường hầm này và không có gì thu hút con nữa. Lúc đó, con không có nhu cầu lặp lại bài tập này. Trong phần đầu, Mẹ muốn đưa con trở về chấn thương đầu tiên hết của con và thật sự làm cho tất cả những nhân vật đã xúc phạm con trong kịch bản đó tan lỏng đi. Khi con thoát khỏi chấn thương nhập đời đầu tiên, chuyện giải quyết bất kỳ chấn thương nào mà con gánh chịu trong bất kỳ kiếp đầu thai nào sau đó sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Đó là lý do tại sao Mẹ đã đưa con thẳng tới điểm khởi đầu, thay vì giải tỏa các chấn thương khác xảy ra sau này, gần kiếp đầu thai hiện nay của con hơn và do đó, có thể nói là chúng thu hút con mạnh hơn. Có thể là chúng dễ hóa giải hơn, nhưng con không dễ hóa giải chúng nếu con chưa hóa giải chấn thương đầu tiên. Mọi chấn thương khác đều liên hệ tới nó, đều được xây dựng trên nó. Do đó, khi trở về nguồn gốc, con yêu dấu, và giải tỏa chấn thương đầu tiên này, chúng ta tạo điều kiện để giải tỏa tất cả các chấn thương khác.

5.13. Rời rạp hát

Bây giờ Mẹ muốn con hình dung chúng ta ở trên sân khấu và ít nhất lúc này không còn nhân vật nào hiện lên trong tâm con. Đã tới lúc rời rạp hát và một lần nữa chúng ta đi ra khỏi cửa và đi vào đường hầm. Bỗng nhiên, chúng ta đã trở về và con lại trải nghiệm tiến trình sinh ra đời một lần nữa. Nhưng lần này, không có gì đau đớn, con còn không cảm thấy bị chật chội trong ống sinh.

Bỗng nhiên con trở về hiện thân là một trẻ thơ ngồi trong lòng Mẹ. Con có thể ngồi trong lòng Mẹ, như ngồi thiền, bao lâu con muốn trước khi con hoàn thành bài tập này và đọc bài thỉnh cuối. Mẹ sẽ ôm con bao lâu con muốn, cho tới khi con cảm thấy sẵn sàng, con cảm thấy trọn vẹn, con cảm thấy đã lành lặn đủ để trở về thân vật lý của con và sự nhận biết của kiếp sống hiện nay. Lẽ dĩ nhiên con trở về bằng cách đi qua các cánh cổng tượng trưng cho các luân xa của con.

Ở các cánh cổng con có thể nhặt lên chiếc ba lô mà con đã bỏ lại đằng sau. Có thể là con không ý thức con đã làm vậy nhưng không sao cả, nhưng cũng có thể là có điểm con bỗng nhiên do dự và nhận ra mình có chọn lựa: “Tôi sẽ nhặt lên chiếc ba lô này hay tôi để nó lại ở đây?” Lúc đó, có thể là con quyết định để nó lại và con trở về với cảm giác nhận biết bình thường của mình nhưng với cảm giác nhẹ nhàng hơn vì không còn mang theo chiếc ba lộ nặng chĩu như thế nữa.

Có thể con tới điểm khám phá mình đã làm tan luôn chiếc ba lô và con không còn ba lô nào nữa. Con có thể làm lại bài tập và đi qua các cửa mà không cần để lại gì đằng sau vì con đã chuyển hóa chúng.

5.14. Chấp nhận Tình thương Thiêng liêng

Điều Mẹ muốn con ghi nhớ từ bài giảng này là phần khó khăn nhất khi đầu thai trên trái đất là chúng ta không thể thực sự chấp nhận tình thương Thiêng liêng. Rất nhiều khi đó là vì chấn thương nhập đời đầu tiên quá kinh khủng và khiến chúng ta cảm thấy rằng nếu Thượng đế thật sự yêu chúng ta, thì ngài không thể nào cho phép để chúng ta phải chịu chấn thương này. Đáng lẽ ra ngài không được cho phép chúng ta phải chịu một chấn thương như vậy, đáng lẽ ra ngài phải bảo vệ chúng ta bằng cách nào đó.

Đây là một bí ẩn. Đây là một bí ẩn cần thiết mà con cần suy ngẫm, cần gia tốc, cần con phải thách thức cách nhìn đời của mình, thách thức những ý tưởng mà sa nhân đã phổ biến về một Thượng đế đầy giận dữ, một Thượng đế xa cách, hay không có Thượng đế, cho tới khi con nhận ra là con đã chọn lựa đầu thai.

Con biết tình trạng trên hành tinh này. Con có cảm nhận là con sẽ gặp khó khăn nhưng con không thể biết chính xác sẽ khó khăn đến đâu bởi vì chúng ta không thể biết được mình sẽ trải nghiệm một tình huống như thế nào bằng cách phóng chiếu tới tương lai. Con không thể biết được mình sẽ phản ứng chính xác như thế nào trong tương lai cho tới khi con trải nghiệm nó.

Lý do con chọn đi vào hoàn cảnh này, lẽ dĩ nhiên, trước tiên hết là vì con xuống trái đất với một mục đích tích cực. Một lý do khác là vì con biết là bất kỳ chấn thương nào mà con phải gánh chịu khi đầu thai trên trái đất, con sẽ có thể thoát khỏi nó. Nó không thể thật sự tiêu hủy con, thay đổi con hay chạm tới con. Có thể là con cảm thấy nó có thể chạm tới con, nhưng nó không thể nào chạm tới sinh thể vô hình tướng mà con thật sự là. Do đó, con biết là bất kỳ chuyện gì xảy ra, con sẽ có thể tháo gỡ được khi con có hiểu biết và được giúp đỡ. Con cũng biết là sẽ có các chân sư thăng thiên và các đại diện của Mẹ Thiêng liêng sẵn sàng giúp đỡ con, như Mẹ đây đang được hân hạnh giúp đỡ con.

Do đó con biết, như Shakespeare đã nói: “Cả thế giới là một sân khấu.” Con biết là những gì xảy ra trong cõi vật chất của trái đất giống như những gì xảy ra trong một rạp hát. Nó không thật. Con biết là khi con ở trong rạp hát, vở kịch có thể tác động mạnh tới con. Con có thể có phản ứng xúc động, nó có thể khuấy động nhiều ý nghĩ trong con. Nhưng con không đồng hóa mình với vở kịch, con không nghĩ mình là một trong những nhân vật trên sân khấu.

Ngay cả khi con ở trong một vở kịch và con là một trong những diễn viên, con có thể sống trong vai tuồng đó nhưng con biết một khi con rời sân khấu, con sẽ rời vai tuồng đó. Lý do vì sao con đồng hóa mình với trái đất là vì chấn thương nhập đời khốc liệt đến độ nó khiến con nghĩ chấn thương này đã thay đổi con và giờ đây con đã trở thành một sinh thể bị thương tích. Nó đã khiến con tự đồng hóa mình với nhân vật mà con thủ vai trong tất cả các kiếp đầu thai của mình.

Điều con có thể đạt được khi làm bài tập này một số lần, là con tới được điểm con không còn tự đồng hóa mình với nhân vật đầu tiên bị tổn thương trong chấn thương nhập đời đầu tiên. Con cũng không tự đồng hóa mình với bất kỳ vai trò nào khác mà con đã thủ vai trong các kiếp đầu thai khác. Con cũng không hoàn toàn tự đồng hóa mình với vai trò con đang thủ vai trong kiếp đầu thai này.

Khi con tới được điểm này, thì tâm trí của con đạt được một sự tự do mới khi con nhận ra rằng, đúng vậy, con sinh trưởng trong một gia đình nào đó, một quốc gia nào đó, một nền văn hóa nào đó. Các thứ đó có một lịch sử đi ngược dòng thời gian. Con đã bị ảnh hưởng bởi môi trường của mình, con đã bị ảnh hưởng bởi gen của mình. Ngoài những yếu tố đó, con cũng đã có nhiều kiếp sống trước đã ảnh hưởng mình, nhưng tất cả đã được giải tỏa tới điểm chúng không quy định được hướng đi của phần còn lại của kiếp đầu thai này của con. Con có tự do chọn lựa mình sẽ là ai trong phần còn lại của kiếp sống này.

Thật là một niềm vui lớn lao nhất cho Mẹ khi Mẹ giúp dẫn con tới điểm tự do lý trí, tình cảm, bản sắc và vật lý này. TA LÀ Mẹ Mary và TA LÀ mãi mãi Mẹ thiêng liêng của con.

16 | Tình thương và Tự do

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015, đăng ngày 9/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba và thày tự do. Thày tự do vì thày đã vượt qua những hủ hóa của tình thương.

16.1. Khái niệm tình yêu tự do

Khi con tới tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày, thày sẽ cho con cơ hội để vượt qua một trong những hình thức hủ hóa tình thương phổ thông nhất trên trái đất. Đó là khái niệm đã trở nên rất phổ quát vào thập niên 1960, gọi là “tình yêu tự do”.

Trong nhiều trường hợp, tình yêu tự do có nghĩa là có quan hệ tình dục tự do với càng nhiều người càng tốt. Con có thấy chăng là, trong thập niên 1960, cũng có một phong trào kêu gọi cho phụ nữ nhiều quyền tự do và bình đẳng hơn? Cùng lúc, có khuynh hướng đề cao khái niệm tình yêu tự do.

Vào thời đó, tình yêu tự do thường có nghĩa gì? Trong thời đại trước, khi một người đàn ông cưới người phụ nữ mà y có quan hệ tình dục, thì người phụ nữ được bảo vệ phần nào vì có một mối quan hệ ổn định. Theo quan niệm tình yêu tự do thì đâu là sự bảo vệ cho người phụ nữ? Phải chăng quan niệm tình yêu tự do chính yếu phục vụ người đàn ông, giúp họ biểu lộ động lực có tình dục với nhiều người đàn bà khác nhau mà không phải chịu trách nhiệm gì? Quan niệm này giải phóng phụ nữ hay áp đặt lên họ một hình thức bạo ngược mới, khi họ trở nên một đối tượng tình dục thay vì một người bạn đời?

Một điều lạ kỳ là phong trào tình yêu tự do cũng đã có một kết quả tích cực, vì nó đã khiến các khuôn mẫu cũ giữa hai giới bị phá vỡ. Như thày đã giảng trong các bài trước, tình hình trên trái đất đã đen tối đến độ đôi khi cần biện pháp quyết liệt để phá vỡ các khuôn mẫu cũ. Điều này không có nghĩa là các thày là chân sư thăng thiên ủng hộ các biện pháp này, nhưng chỉ có nghĩa là các thày nhận ra là có trường hợp không thể làm gì khác hơn. Các thày giản dị để con người phát biểu đến cùng cực các khuynh hướng mà họ có trong tâm thức họ, vì đằng nào thì họ cũng không nghe lời khuyên của các thày. Có lẽ con cũng nhớ lời dạy trẻ thơ: nếu không chịu nghe thì sẽ phải cảm nhận. Điều đáng tiếc là đây là cách mà nhiều người học hỏi. Họ chỉ học qua đau khổ. Họ không dễ dàng tiếp nhận lời chỉ dẫn Thiêng liêng.

Khi con nhìn phong trào tình yêu tự do, thì con có thể so sánh nó với câu ngạn ngữ phổ thông là không có bữa cơm nào miễn phí. Tình yêu tự do có thật tự do chăng? Con sống trong một thế giới trong đó mọi chuyện đều là năng lượng. Tất cả những gì con làm, con đều làm với năng lượng. Khi con có tình dục với nhiều người khác nhau, thì mỗi lần con đều trao đổi năng lượng. Khi con lấy năng lượng từ người bạn tình dục và làm cạn kiệt nguồn năng lượng của mình, thì điều này giải thoát con hay là một gánh nặng? Trên đường dài, con có tự đốt cháy mình chăng khi con có tình yêu tự do?

Khi con quan sát những người đã thí nghiệm tột cùng trong thập niên 1960 thì con thấy rằng, khi họ vừa có tình dục với nhiều người vừa dùng ma túy, thì quả thật là họ đã tự đốt cháy họ. Luân xa của họ bị cạn kiệt. Họ bị kích thích quá độ và không thể đương nổi nữa. Cấu trúc năng lượng mỏng manh của luân xa bắt đầu suy sụp và luân xa không còn toàn vẹn nữa.

Nhiều người thuộc phong trào híp pi vào thập niên 1960 và sau đó đã phải bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Năng lượng của họ bị cạn kiệt đến độ không còn đủ năng lực hay sự toàn vẹn để giúp họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Chúng ta phải làm gì trước sự kiện tình thương trên trái đất quá dính liền với sinh hoạt tình dục?

Điều đầu tiên mà chúng ta phải nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, đã thăng thiên. Điều này có nghĩa là các thày đã thăng vượt một tâm thức rất phổ quát trên trái đất. Các thày không sợ nói về tình dục. Các thày không ngại ngùng gì khi nói về vần đề này hay mọi vấn đề khác. Vì sao lại có quá nhiều người tâm linh, đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là đệ tử chân sự thăng thiên tại Hoa Kỳ, lại không thể thảo luận thoải mái về tình dục? Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Điều này không thể tới từ cõi thăng thiên, phải vậy chăng?

Sự rụt rè này chỉ có thể có vì con vẫn còn bị ảnh hưởng bởi một khía cạnh đặc thù của tâm thức sa ngã muốn con dồn nén đòi hỏi tình dục và năng lực tình dục. Sa nhân muốn con cảm thấy xấu hổ khi nhìn nhận rằng mình có đòi hỏi tình dục và cơ thể mình có một số nội tiết tố và nhu cầu. Con không được công khai thảo luận những chuyện này mà phải giấu giếm.

Đây là một sự hủ hóa đã có từ lâu đời. Con có nghĩ rằng sự dồn nén năng lực tình dục và tránh thảo luận về tình dục có trước thập niên 1960, đã do các chân sư thăng thiên chủ trương hay ủng hộ? Nếu con nghĩ như vậy thì con đã lầm rồi.

16.2. Năng lực tình dục không phải là nguyên nhân sa ngã

Một số các con đã nghe hoặc đọc rằng Giê-su có ý định giải thoát phụ nữ khi thày hành đạo hai ngàn năm trước đây. Thày có thể cam quyết là Giê-su không bao giờ ngần ngại nói về tình dục, tuy rằng điều này khó làm trong bối cảnh văn hóa lúc bấy giờ. Chính Giáo hội Công giáo đã thực sự bắt đầu việc dồn nén năng lực tình dục và loại bỏ mọi thảo luận về tình dục. Giáo hội khiến người ta tưởng tình dục là nguyên nhân của sa ngã. Ngay một số đệ tử chân sư thăng thiên vẫn tin điều này.

Làm sao tình dục lại có thể là nguyên nhân sa ngã khi sa ngã xảy ra trong bầu cõi trước? Lúc đó, con người không có cơ thể với những đặc tính giống như cơ thể con người hiện nay trên trái đất. Trong những bầu cõi đó, năng lượng không thô đặc như hiện nay. Do đó, lúc đó không cần có giao hợp để tạo ra một trẻ sơ sinh.

Làm sao giao hợp có thể là nguyên nhân của sa ngã? Điều này đã không xảy ra. Chính những sinh thể rơi vào tâm thức sa ngã và việc họ chống đối Thượng đế và luật tự quyết đã là nguyên nhân của sa ngã. Họ không muốn con biết điều này nên họ tìm cách đánh lạc hướng với đủ mọi nguyên nhân khác. Cho rằng năng lượng tình dục, hành động giao hợp là nguyên nhân của sa ngã là một cách tiện lợi để đổ lỗi cho phụ nữ.

Điều phổ quát trên trái đất là đàn ông có thúc đẩy tình dục cao hơn nhưng họ lại nói chính phụ nữ đã quyến rũ họ. Đây chính là khuynh hướng của tự ngã luôn luôn phóng chiếu là vấn đề ở bên ngoài mình. Phụ nữ bị đổ lỗi đã quyến rũ đàn ông trong khi sự thực là chính đàn ông đã không làm chủ được thúc đẩy tình dục của họ. Họ không làm chủ được vì họ không được nói chuyện tự do về đề tài này, do nền văn hóa đã trở nên lệch lạc và xếp đề tài này thành điều cấm kỵ. Đây là một cực của tâm thức sa ngã, nhưng cực kia là tự do tình yêu và tự do tình dục. Hai cực này sẽ không dẫn con tới thiên đàng. Hai cực này sẽ không dẫn con tới thiên đàng nơi hạ giới.

16.3. Khác biệt giữa tình dục và tình yêu

Khi con tới tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày thì con nên chuẩn bị tình thần để thảo luận về tình dục. Con sẽ không đạt được khai ngộ ở tầng này nếu con không chịu xem xét đề tài tình dục và sự liên hệ của nó với tình yêu. Tình dục không đồng nghĩa với tình yêu. Con người có thể biểu lộ tình thương, ngay cả tình yêu giữa một người nam và một người nữ, mà không có tình dục. Thày không nói điều này thông thường, thày chỉ nói điều này khả thi.

Khi con bắt đầu tăng triển trên con đường tâm linh, thì ban đầu con sẽ qua một giai đoạn xáo trộn trong đó con bắt đầu nhìn vào một số điều mà con chưa quan tâm trước đó. Trong nhiều trường hợp, các điều này đã bị nền văn hóa nơi con lớn lên loại bỏ. Có bao nhiêu người trong các con đã lớn lên trong một khung cảnh có thể tự do nói chuyện về tình dục? Có rất ít. Khi con tới khóa nhập thất của thày, mình sẽ ngồi xuống trong một khung cảnh an toàn, thương yêu, và mình sẽ xem xét đề tài tình dục và tình yêu – và mình sẽ thảo luận đề tài này. Mình sẽ thảo luận đề tài này cho tới khi con có thể thoải mái nói về đề tài này ở cõi ê-the. Thày đang giảng bài này dưới dạng vật chất vì thày hy vọng con sẽ dùng được nó để mang xuống tâm ý thức của con những khai ngộ mà con đã trải nghiệm ở cõi ê-the.

Vì sao xem xét chủ đề tình dục lại quan trọng? Con rất cần học cách biểu lộ tình yêu một cách tự do. Vì tình dục đã trở nên quá đồng nghĩa và quấn bện với tình yêu, nên trên hành tinh này không thể nào biểu lộ tình yêu tự do nếu con không xem xét và vượt qua các hủ hóa tình yêu liên quan đến tình dục. Điều lý tưởng nhất là con có thể biểu lộ tình yêu một cách tự do với một người khác phái tính (và thật ra cùng phái tình cũng vậy) mà không khuấy động năng lượng tình dục hay sự thu hút giữa hai người. Đây cũng là một bước cần thiết để thành công trong mối quan hệ.

16.4. Thu hút tình dục và nghiệp quả

Chúng ta hãy thẳng thắn và nhìn nhận rằng con, như những người tâm linh khác, thường tiến triển rất nhanh. Con giải quyết nghiệp quả nhanh hơn những người không biết tâm linh và không có được giáo lý và các dụng cụ do các chân sư thăng thiên cung cấp. Trong thời trước, vào thời thế hệ cha mẹ của con, điều hay xảy ra là một người nam và nữ thu hút lẫn nhau và trở nên vợ chồng vì họ cần quân bình nghiệp quả với nhau. Trong nhiều trường hợp, họ cần cả một đời người để quan bình nghiệp quả đó. Với giáo lý và dụng cụ do các chân sư thăng thiên cung cấp, nếu con ở trong một quan hệ tạo nên bởi nghiệp quả, con có thể quân bình nghiêp quả này rất nhanh chóng. Bất cứ quan hệ nào mà con có trên trái đất đều một phần do nghiệp quả. Con không thể có quan hệ với một người trên trái đất mà không có nghiệp quả với người đó.

Chuyện gì xảy ra khi con bị thu hút bởi một người vì con có nghiệp quả cần quân bằng với người đó? Con cưới và có con với người đó. Sau một vài năm, sự mới lạ của mối quan hệ bị hao mòn đi. Con cũng cần làm nhiều công việc nhàm chán cần phải làm để nuôi con, để kiếm sống, vân vân, và bỗng nhiên sự mới lạ và thu hút biến mất. Cũng có thể là con đã quân bằng nghiệp quả đã khiến con tới với người kia. Lúc đó, một trong hai người (hay cả hai) gặp một người khác và con cảm thấy có nghiệp quả với người đó. Điều này hay khiến con có thu hút tình dục với người đó.

Lúc đó, con có nên ngưng mối quan hệ trước, bỏ rơi con cái, khiến chúng phải chịu tất cả những hệ lụy khi cha mẹ chia tay, để đi với người bạn mới? Con có nên có con với người này, và sau vài năm con sẽ làm gì, khi nghiệp quả đã cân bằng, khi sự mới lạ đã hao mòn, và có một người mới mà con cảm thấy bị thu hút? Con có thể tiếp tục như vậy suốt đời, và một người có thể có bao nhiêu gia đình trong một kiếp sống? Bao nhiêu gia đình một người có thể bỏ rơi trong một kiếp sống mà không trở nên một gánh nặng?

Mẫu đồ của gia đình trong thời hoàng kim là tạo môi trường cho mọi người trong gia đình đạt được tối đa phát triển. Phát triển luôn luôn là mục đích cốt yếu. Mẫu đồ gia đình của thời hoàng kim không đòi hỏi hôn nhân phải kéo dài trọn đời hay cho tới khi con cái trưởng thành. Sẽ có những trường hợp điều lợi ích nhất cho sự phát triển là hai người bạn đời chấm dứt hôn nhân, ngay cả khi đã có con với nhau. Theo mẫu đồ của thời hoàng kim thì chuyện này sẽ ít khi xảy ra vì đa số sẽ có một trình độ trưởng thành cao hơn khi có quan hệ tình yêu. Họ sẽ chỉ quyết định có con khi đã quyết định cùng nhau nuôi con và cho con cái một môi trường ổn định. Môi trường này sẽ không giống những gì con thấy thời xưa khi người ta ở lại với nhau mà không tăng triển, nhưng là một môi trường sinh động trong đó có cơ hội tăng triển.

Làm sao thực hiện được điều này? Con có thể làm được khi con nhất quyết tôn trọng mối quan hệ và nhất quyết nuôi con trong mối quan hệ đó. Chuyện gì xảy ra khi, sau vài năm, con gặp một người khác giới tính và cảm thấy bị thu hút bởi người đó? Điều này có nghĩa là con có nghiệp quả với người đó. Làm sao con cân bằng nghiệp quả này? Con có thể cân bằng nghiệp quả nếu con tách tình thương khỏi tình dục. Lúc đó, con có thể có một quan hệ thương yêu và biểu lộ tình yêu chân thật với người đó mà không có quan hệ tình dục, vì quan hệ tình dục tạo ra nhiều rắc rối. Điều này có nghĩa là con có một quan hệ thương yêu với người đó mà vẫn duy trì được hôn nhân, vì con không ngoại tình và do đó người chồng hay vợ của con không cảm thấy bị đe dọa.

16.5. Những dây năng lượng trong quan hệ tình dục

Đồng thời, con có thể giải quyết nghiệp quả với người mới mà không có quan hệ tình dục với người đó. Con sẽ tăng triển nhanh hơn so với tình trạng hiện nay khi một người bị thu hút bởi người khác vì có nghiệp quả với người đó, hai người có quan hệ tình dục với nhau và có thể có con với nhau. Khi có con với nhau, có quá nhiều dây năng lượng khiến phá vỡ chúng tạo nên căng thẳng.

Thiết lập một quan hệ là thiết lập một mạng dây năng lượng rất phức tạp giữa hai người. Những mối dây này càng phức tạp hơn khi hai người có con với nhau. Cắt đứt mối quan hệ luôn luôn là một mối căng thẳng, ít nhất là trên mặt năng lượng. Vì cắt đứt một quan hệ thường đi đôi với cảm xúc tiêu cực, nên căng thẳng lại thêm nữa. Thiết lập một mối quan hệ mới cũng là một nguồn căng thẳng, nhất là khi thời nay người bạn đời mới của con có con cái từ một mối quan hệ trước, và con cũng vậy. Như vậy có rất nhiều chuyện rắc rối có thể xảy ra. Thày đang không bàn về chuyện đúng hay sai. Thày chỉ giải thích cho con thấy những rắc rối xảy ra trên lãnh vực năng lượng. Trong thời hoàng kim, con người, đặc biệt là những người tâm linh, cần phải tìm ra một cách cân bằng nghiệp quả hay có một quan hệ với một người khác mà không ôm thêm những rắc rối do việc có quan hệ tình dục, hay có con chung với nhau.

16.6. Tình yêu mà không có tình dục

Bằng cách đó con sẽ có thể tăng triển nhanh hơn, và như vậy có nghĩa là con có thể có quan hệ với một người khác giới tính, hay cùng giới tính, mà không nghĩ rằng tình yêu chỉ có thể được biểu lộ bằng tình dục. Con cần tìm ra một cách biểu lộ tình yêu chân thật, là cách nhanh nhất cân bằng nghiệp quả, mà không ôm thêm những rắc rối do một quan hệ tình dục tạo ra, thường là nguyên nhân khiến quan hệ cũ tan vỡ.

Thày biết là có một số người tự coi mình rất tiến bộ sẽ nói: “Nhưng ta có nên cố gắng đạt được tình trạng lý tưởng chăng, trong đó con vẫn nhất quyết bảo tồn mối quan hệ cũ và nuôi con, đồng thời có quan hệ tình dục với người khác khi mình cảm thấy cần?” Thày không nói là điều này không thể làm được, nhưng thày muốn nói là điều này rất khó thực hiện, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay của trái đất.

Có điều gì khác biệt khi con bước qua lằn ranh và có một quan hệ vật lý, tình dục. Hai bên liên hệ với nhau gần gũi hơn nhiều. Con có thể tránh tạo ra những hệ lụy nhưng đây là điều rất khó làm trong một môi trường như trái đất. Nếu con là người thực tế và thực tiễn, con sẽ nhận ra là con sẽ tiến triển nhanh hơn nếu con không có quan hệ tình dục với tất cả những người con có nghiệp quả cần cân bằng trong kiếp sống này.

16.7. Cân bằng nghiệp quả trong một quan hệ tình dục

Chắc con cũng hiểu, phải không con, là nếu con có nghiệp quả với một người khác giới tính, thì con không thể cân bằng nghiệp quả đó bằng cách lờ đi không có quan hệ với người đó hoặc có một quan hệ hời hợt trong đó hai bên chỉ lịch sự với nhau? Để cân bằng nghiệp quả, điều hay cần xảy ra là hai bên thảo luận một cách chân thật vì sao họ lại cảm thấy có sự thu hút. Có thể họ cần bày tỏ với nhau những chuyện sâu kín và cá nhân, và tự do biểu lộ tình thương cho nhau nhưng không đi tới giai đoạn vật lý, hay ít nhất là tình dục. Đây là cách nhanh nhất để cân bằng nghiệp quả và giải quyết mối quan hệ giữa hai người.

Thày không nói ở đây là con không nên có nhiều quan hệ tình yêu trong một kiếp sống, nhưng các con chắc cũng đều nhận ra là số quan hệ tình yêu mà con có thể có có giới hạn. Có một giá phải trả nếu con muốn có nhiều quan hệ tình yêu, đặc biệt là quan hệ tình dục. Đa số những người có nhiều bạn tình dục đã cạn kiệt năng lượng của họ và nhận năng lượng từ những người đó tạo nên một gánh năng cho họ. Đó là lý do vì sao thày nói là nếu con có thể tìm cách biểu lộ tình yêu mà không cần tới tình dục, thì con có thể cân bằng nghiệp quả và tiến triển nhanh hơn. Con không thể làm điều này nếu những người khác giới tính mà con bị thu hút đều trở nên quan hệ vật lý, tình dục. Đây là cách cao để có tình yêu tự do mà không phải là tình dục tự do.

Con muốn gì: tăng triển tối đa hay vui thú tối đa? Các thày nhìn nhận rằng năng lượng tình dục đã bị nền văn hóa Cơ đốc dồn nén trong hơn 1700 năm, do đó cần có một giai đoạn con người có một quan niệm tự do hơn về tình dục để giải quyết sự dồn nén đó. Để đạt mục đích này, một số người cần có nhiều người bạn đời trong một kiếp sống và có một số quan hệ trong đó trọng tâm là tình dục.

Các thày không nhất thiết chống việc con giải quyết việc dồn nén tình dục và các ham muốn tình dục của mình. Có những lúc các thày cũng đã làm như Giê-su khi thày nói với Giu-đa: “Bất kỳ chuyện con làm, hãy làm nhanh.” Nếu con có chuyện gì cần giải quyết, thì con cứ tiến hành và sau đó trở lại thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay ít nhất là các khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng. Giải quyết các vấn đề chắc chắn thuộc vào Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng có thể đây không phải là phần quan trọng nhất của sứ vụ phụng sự thế gian của con.

Nếu trong nhiều kiếp con đã sống trong một nền văn hóa bắt con dồn nén ham muốn tình dục và năng lượng tình dục, thì con có thể cần vượt lên trên điều đó, giải quyết vấn đề đó. Nếu con tìm được một người bạn đời có cùng ước muốn, và cả hai đều ý thức là các con chỉ giúp nhau giải quyết vấn đề này, thì đây có thể là một cách để các con tăng triển. Thày cực lực khuyên con nên giải quyết ham muốn và thúc đẩy tình dục với tối thiểu bạn đời. Con càng có nhiều bạn đời thì con càng cạn kiệt năng lượng. Đây giản dị là thực tế của hoàn cảnh hiện nay trên trái đất.

16.8. Một quan điểm tự nhiên hơn về tình yêu và tình dục

Ở khóa nhập thất của thày, thày muốn giúp con vượt qua ảo tưởng của tình yêu tự do và ảo tưởng tình dục cần phải dồn nén. Thày giúp con có một quan điểm tự nhiên về tình yêu và tình dục. Làm sao con có thể có một quan điểm tự nhiên về tình yêu khi con nghĩ tình yêu chỉ có thể được biểu lộ qua tình dục? Con hãy ngẫm xem là quan điểm phản tự nhiên về tình dục trên trái đất này đã tạo nên một gánh nặng khiến con không thể có một quan điểm tự nhiên về tình yêu nếu con nghĩ tình yêu và tình dục lúc nào cũng phải đi đôi với nhau. Bước đầu là con phải tách tình yêu khỏi tình dục. Sau đó, con có thể xây dựng một quan điểm tự nhiên hơn về tình yêu, và con dùng nó để xây dựng một quan điểm tự nhiên hơn về tình dục. Lúc đó, con được giải thoát khỏi quan điểm phản tự nhiên về cả tình yêu lẫn tình dục. Tình dục đương nhiên là một đề tài phức tạp. Thày không có ý định giảng giải đầy đủ về đề tài này ở đây. Thày chỉ muốn khuấy động trong tâm ý thức của con một số điều mà mình đã giải quyết ở tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày.

Mục đích của thày ở khóa nhập thất là giúp con biểu lộ tình thương một cách tự do hơn. Chương trình nhập thất của thày giúp con giải quyết các hủ hóa tình thương có mặt trên hành tinh này để con có thể tự do biểu lộ tình thương. Con có thể biểu lộ tình thương qua bất kỳ quan hệ nào. Con có thể tự do biểu lộ tình thương cho con cái, cha mẹ, bạn đồng nghiệp, bạn bè và người phối ngẫu của mình.

Thế gian rất cần có những người có thể tự do biểu lộ tình thương dưới bất kỳ hình thức nào thích hợp dựa trên bản chất vật lý của mối quan hệ. Thế gian rất cần những người biết sự khác biệt giữa điều thích hợp và không thích hợp, không dựa trên tiêu chuẩn cũ của sự dồn nén tình dục nhưng theo cái nhìn cao của điều gì giúp tăng triển.

16.9. Dòng chảy alpha và omega của tình thương

Các thày mong muốn là những học viên tới khóa nhập thất của Tia thứ Ba sẽ đạt được nhiều tiến bộ trong khả năng tự do biểu lộ tình thương. Một khi con vượt qua trở ngại biểu lộ tình thương, thì con cũng cần xây dựng khía cạnh Omega của việc tiếp nhận tình thương. Có lợi ích gì chăng khi con biểu lộ tình thương nhưng người kia không biết tiếp nhận tình thương? Làm sao con có thể giúp người khác biểu lộ tình thương một cách tự do hơn nếu con không biết tiếp nhận tình thương từ người đó?

Khi có sự tuôn chảy tự do giữa hai cực Alpha và Omega, thì sự sống mới nảy sinh – đó là cách năng lượng sáng tạo vận hành. Nguyên lý này đã tạo ra toàn thể thế giới hình tướng. Cách Alpha và Omega tương tác trong dòng chảy tự do của tình thương sinh ra sự sống mới, hình tướng mới, biểu hiện mới, và biểu hiện hữu hạn mới của Tánh linh vô hạn. Vì chúng là biểu hiện tự do nên không bị giam vào một khuôn nếp. Chúng được tự do tuôn chảy và trở nên hơn nữa. Chúng thuộc vào Dòng Sông sự Sống, chúng thuộc về động lực khiến toàn thể Dòng sông trở nên hơn nữa trong vũ điệu liên tục của Thượng đế.

Tình thương chỉ có thể biểu hiện khi được tuôn chảy. Không ai sở hữu tình thương, không ai sản xuất ra nó, ta chỉ có thể để nó tuôn chảy xuyên qua ta. Con càng là cánh cửa mở cho tình thương (con càng cho phép nó được biểu lộ tự do hơn xuyên qua con), thì càng có thêm tình thương được đem vào thế giới này xuyên qua các luân xa và cỗ xe tâm hồn của con. Cỗ xe tâm hồn không phải là cánh cửa mở cho tình thương, cũng không phải là các luân xa. Chính cái Ta Biết là cánh cửa mở cho tình thương, và cái Ta Biết càng ý thức nó là nhận biết thuần khiết, là cánh cửa mở, thì càng có nhiều tình thương tuôn chảy xuyên qua nó vào các luân xa và cỗ xe tâm hồn. Một khi tình thương vào các luân xa và cỗ xe tâm hồn thì nó sẽ được biểu hiện trong thế gian. Để tình thương có thể biểu hiện tự do, thì luân xa và cỗ xe tâm hồn của con cần càng sạch càng tốt khỏi các hủ hóa khiến dòng tình thương bị giới hạn, ngăn chặn, hay lạc hướng.

Trong các thời đại trước, khi năng lực tình dục bị dồn nén thì dòng chảy tình thương bị giới hạn. Phong trào tình yêu tự do mở lối cho dòng chảy, nhưng nó bị đẩy lạc hướng thành năng lực tình dục. Thực sự không phải tình thương được biểu hiện, mà chỉ là các ham muốn thấp của thân thể vật lý, các ham muốn này tương tự như ham muốn của thú vật.

16.10. Biểu lộ động lực tình dục một cách trách nhiệm

Nếu con nhìn vào thú vật thì con thấy là chúng có động lực tình dục, nhưng hầu như không có thú vật nào có sinh hoạt tình dục nhiều bằng con người. Lý do một phần là vì con người có một trình độ tâm thức cao hơn nên không sống chỉ để thỏa mãn những động lực thú vật, tỷ dụ như động lực truyền giống. Con người có thể tìm thú vui trong bất kỳ sinh hoạt nào, kể cả sinh hoạt tình dục, và không có điều gì sai trái với điều này. Để tiếp tục hưởng thú vui tình dục thì con phải nhận ra rằng nếu ham muốn thú vật về tình dục vật lý không còn dính liền với nhu cầu truyền giống, thì sẽ không còn gì giới hạn nó ở cấp vật lý.

Điều này có thể dẫn đến bệnh ghiền tình dục khi con người không bao giờ có đủ tình dục và cảm thấy không trọn vẹn khi không ở trong, hay gần, trạng thái giao hợp khoái lạc, và điều này không thể xảy ra liên tục. Con cần nhận ra là khi thân thể vật lý và nhu cầu truyền giống không còn giới hạn động lực tình dục, thì cái tâm cao cần giới hạn nó để con tìm ra một thế quân bình giúp con sinh hoạt bình thường. Con có thể nghĩ là những người ghiền tình dục vui thú có tình dục, nhưng thực ra thì không phải vậy. Họ có một động lực bắt buộc họ phải làm theo, và hầu như lúc nào họ cũng không thỏa mãn vì đang không có tình dục hoặc không thỏa mãn khi đang có tình dục vì sau đó chuyện gì sẽ xảy ra khi họ lại cảm thấy trống trải trở lại? Làm sao họ lại có thể đáp ứng cơn ghiền?

Như một người tâm linh, con có thể định cho mình một mục đích chính đáng, đó là tới được điểm có thể biểu lộ động lực tình dục một cách trách nhiệm tức là không cản trở việc tăng triển, và không hạ năng lượng xuống hay làm cạn kiệt năng lượng. Con có một người bạn đời cũng có một trình độ trưởng thành và tự do, và con có thể có tình dục và vui thú sinh hoạt này, không phải như một thú vui thú vật, nhưng là một sự vui thú cao đến từ cảm nhận gần gũi, ngay cả hợp nhất, với một người khác.

16.11. Một hình thức hợp nhất cao

Các con chắc cũng biết là có mộ số vị thày ở phương Đông, như thày Padma Sambhava, đã dạy phương pháp tình dục tâm linh (tantric sex). Trong khuôn khổ bài giảng này, thày không khuyến khích các con học pháp này vì đây là một đề tài rộng lớn hơn nhiều. Thày chỉ nêu lên để chỉ cho các đệ tử chân sư thăng thiên thấy là dồn nén động lực tình dục không nhất thiết là cách duy nhất hay cao nhất để đạt được tiến bộ tâm linh. Con có thể giải thoat động lực này để tới điểm con có thể biểu lộ nó một cách quân bình, khiến cho tình dục trở nên vui thú theo nghĩa cao đồng thời giúp con thiết lập một sự gần gũi, hay hợp nhất, với một người khác. Đây có thể là một bước trên tiến trình bước ra ngoài cỗ xe tâm hồn và tái lập sự nhận biết mình kết nối với một cái gì lớn hơn chính mình và mình là nhận biết thuần khiết.

Hình thức cao nhất của giao hợp tình dục chỉ có thể có được khi cả hai người bạn đời có một trình dộ nhận biết cao rằng mình là cái Ta Biết và mình là nhận biết thuần khiết. Nếu cả hai con giúp nhau bước ra ngoài tâm thức bình thường của mình và cả hai đều trải nghiệm giao hợp tình dục như một trạng thái nhận biết thuần khiết, thì lúc đó con đạt được mực tiêu của phương pháp tình dục tâm linh. Mục đích không phải là đat được khoái lạc cao nhất. Mục đích là đạt được mức hợp nhất cao nhất thông qua sự thuần khiết của nhận biết, khi mà ranh giới giữa con và người bạn đời tan ra và cái Ta Biết của một người tuôn chảy vào cái Ta Biết của người kia. Lúc đó các con hình thành hai cực cao và sáng tạo.

Khi hai chân sư thăng thiên họp lại để hoàn thành một mục đích, thì các thày hòa trộn hai sinh thể của mình. Các thày không có giao hợp tình dục, nhưng các thày hòa trộn sinh thể của mình. Chính nhờ sự hòa trộn này, khi các thày hình thành hai cực Alpha và Omega, mà các thày tạo ra một hình tướng mới, một kết quả mới, một xung lực năng lượng mới. Đây là cách cõi tâm linh vận hành. Con không thể hoàn toàn rập khuôn nơi cõi vật lý, nhưng con có thể cố gắng đạt được phần nào. Điều này có thể đạt được qua giao hợp tình dục. Nhưng nó cũng có thể đạt được không qua giao hợp tình dục.

Thày đang cho con một viễn kiến cao của một việc có thể đã khiến con hoang mang, tức là vì sao một số người, nay đã là chân sư thăng thiên, lại thực hành tình dục tâm linh. Như mọi chuyện khác, phương pháp tình dục tâm linh đã bị hủ hóa. Nó đã bị biến thành động lực để đạt được một kết quả vật lý. Nếu con có thể tách rời khỏi ý niệm hủ hóa này và tìm hợp nhất trong dòng chảy tự do, qua một biểu lộ tình thương, thì nó có thể là một dụng cụ giúp con đạt được tiến bộ tâm linh và tự do tình dục. Có phải chăng là thày nói là các đệ tử chân sư thăng thiên đều phải thực hành tình dục tâm linh? Dĩ nhiên là không.

Con có thể đạt tiến bộ tâm linh bằng cách khác, và đó là lý do vì sao các thày đã giảng dạy con đường tự điều ngự gồm giáo lý và phương pháp thỉnh cầu ánh sáng để giúp con đạt được cùng mục đích. Thày đương nhiên khuyên con theo học con đường tự điều ngự, nhưng thày cũng muốn cho con biết với tâm ý thức những điều mà thày thảo luận với con ở tầng ê-the của khóa nhập thất của thày. Con cần biết những khía cạnh của tình thương và tình dục để giải thoát mình khỏi những quan niệm lệch lạc hiện diện trong tâm thức tập thể, đang tìm cách dùng tình dục, nhưng cũng dùng cả tình thương, để ngăn chặn hay làm trệch hướng sự phát triển tâm linh của con.

Chỉ có người có hiểu biết mới có được tự do. Hiểu biết không những là uy lực, nó cũng là chìa khóa đưa tới tự do. Con không có tự do bằng cách trốn tránh một sinh hoạt nào đó. Con chỉ có tự do khi nhận ra ảo tưởng đã sinh ra sinh hoạt đó và chọn lựa thăng vượt nó một cách tự do và hiểu biết. Đó chính là tự do, tự do trong hiểu biết.

16.12. Tốt nghiệp từ Tia thứ Ba

Ở khóa nhập thất của thày, thày mong muốn dẫn con tới điểm con đạt được tự do trong hiểu biết liên quan đến chủ đề tình thương. Bây giờ thì thày dẫn con tới buổi lễ tốt nghiệp khóa nhập thất bằng cách dẫn con tới một căn phòng đặc biệt. Trong phòng này, con sẽ được mời ngồi vào một chiếc ghế rất thoải mái, giống như ngai của nhà vua.

Một khi con an tọa, con sẽ thấy căn phòng mở rộng ra. Con không thấy các bức tường và chỉ thấy thế giới vật lý bao la. Sau đó, con thấy xa hơn nữa và thấy toàn thể vũ trụ bao la cùng với các bầu cõi khác. Đây là món quà chia tay mà thày muốn trao cho con, cảm nhận về sự bao la vô tận của tình thương tuôn chảy tự do xuyên qua mọi tầng của vũ trụ. Thày cho phép con trầm mình trong trải nghiệm đó bao lâu cũng được, nhưng sẽ có một lúc con tự nhiên bước ra khỏi trạng thái đó và nhận biết trở lại chính mình và cỗ xe tâm hồn của mình trên trái đất. Đây là lúc thày có thể quàng tay vào vai con và dìu con ra khỏi cửa và bước vào một căn phòng có một luồng ánh sáng trắng chói lọi. Luồng ánh sáng trắng được tạo ra bởi vị Thượng sư và huynh đệ yêu dấu của thày là thày Serapis Bey, đang đợi con để dẫn con tới tầng khai ngộ kế tiếp ở khóa nhập thất của thày.

Lúc đó con chứng kiến điều cho các thày, các Thượng sư, một niềm vui mãnh liệt. Điều gì cho thày, một Thượng sư, niềm vui lớn nhất? Đó là đã dẫn được một đệ tử qua tất cả các tầng khai ngộ ở khóa nhập thất của thày. Lúc nào thày cảm thấy được niềm vui này? Khi thày chuyển con tới vị Thượng sư kế tiếp. Khi thày dẫn con tới thày Serapis, có một lúc hai thày nhìn vào mắt nhau và hai thày hòa trộn vào trạng thái hợp nhất của cõi thăng thiên. Không có gì cần nói với ngôn từ thế gian, nhưng cả một thế giới được diễn tả vượt lên ngôn từ. Thày Serapis cảm nhận được niềm vui của thày, và thày đáp ứng lại với niềm vui nhận con như đệ tử của thày. Niềm vui lớn nhất của thày Serapis là dẫn con qua các tầng khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, nhưng thày chỉ có thể bắt đầu hành trình này khi con đã sẵn sàng vì con đã đạt hết các khai ngộ ở khóa nhập thất của Tia thứ Ba.

Có một lúc hai thày chia sẻ niềm vui vô hạn đó. Nếu con chú tâm thì con có thể thoáng thấy nó và cảm thấy niềm vui khi con biết rằng con là nguyên nhân của niềm vui của các thày. Cảm nhận này có thể sẽ cho con động lực để tiến bộ thêm nữa. Thày bảo đảm với con là con cần động lực này để đạt được những khai ngộ mạnh hơn trong khóa học của thày Serapis, vì các khai ngộ này có thể mạnh mẽ hơn các khai ngộ ở khóa của thày. Thày đương nhiên không muốn tiết lộ những gì đang chờ đợi con, vì chắc hẳn là các khai ngộ của Tia thứ Tư sẽ thú vị hơn khi mình không biết chuyện gì sẽ xảy ra.

Thày đang đùa với con ở lúc cuối này, vì trong suốt các bài giảng thày không khôi hài bao nhiêu. Thày bảo đảm với con là thày khôi hài hơn ở khóa nhập thất của thày. Nhưng không dễ biểu lộ khôi hài trong một quyển sách, vì khôi hài là một đề tài dễ tạo xung đột trên trái đất. Các thày nói chung tránh khôi hài trong các quyển sách có thể tới tay nhiều người thuộc nhiều nền văn hóa khác nhau. Thày bảo đảm với con là ở khóa nhập thất, các thày có thể vượt qua các trở ngại này, và sự thực là các khóa nhập thất vui vẻ hơn những gì con mường tượng khi đọc sách.

Thày chân thành hy vọng là sự biểu hiện tình thương của thày đối với con dưới một hình thức vật lý sẽ cho con cảm hứng mang xuống cõi vật lý những gì con đã học ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the. Thày biết rõ là có người tìm ra và đọc quyển sách này mà không trải qua các khai ngộ trong các tầng nội tâm. Bất cứ ai cũng có thể đọc quyển sách này như một tò mò trí thức, hoặc họ cũng có thể đọc với mục đích chê bai. Thày cho rằng ít người đọc với mục đích này có thể đọc hết quyển sách. Và dù mục đích của họ có như thế, họ vẫn nhận được một cơ hội để chọn tình thương. Nếu họ quyết định không chọn tình thương, thì thày cũng biết là thày đã đạt mục đích của thày là cho quyển sách này ra đời.

Thày đã trình bày cơ hội để chọn tình thương. Thày hoan hỉ cho con tự do chọn lựa tuyêt đối, vì thày có tự do tuyệt đối thương yêu, tuôn chảy với tình thương và biểu lộ tình thương.

TA LÀ Paul người Venice. Ta là chân sư thăng thiên. Ta là Thượng sư của Tia thứ Ba, tia của tình thương vô hạn, không ràng buộc, không thể so sánh, vô điều kiện.

14 | Tình thương và Phụng sự

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015, đăng ngày 8/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba của Tình thương Thiêng liêng. Khi con tới tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với khai ngộ của tình thương phối hợp với Tia thứ Sáu của Bình an và Phụng sự. Trước khi con có thể phụng sự với tất cả khả năng của mình, con cần đạt được bình an, vậy chúng ta hãy xem xét những hủ hóa tình thương liên quan đến bình an.

14.1. Quan điểm thế gian về tình thương

Đa số các người đến khóa nhập thất của thày trên con đường tự điều ngự đã bị ảnh hưởng sâu đậm bởi quan điểm thế gian về tình thương. Trên trái đất ta thấy phản tình thương biểu hiện quá nhiều, đặc biệt là những biểu hiện của phản an bình và sự hung hãn của những người chơi trò quyền lực, lúc nào cũng sử dụng quyền lực và lạm dụng quyền lực. Vì trong nhiều kiếp con đã lớn lên và trải nghiệm điều này, là nạn nhân của những người quyền lực, nên điều tự nhiên là con tìm một cách sống khác. Sâu thẳm trong nội tâm, con cảm nhận là tình thương là cách khác đó. Con cũng thấy có một số triết lý có mặt ngoài kia nói rằng: “Tình thương thắng tất cả. Tình thương chữa lành hết mọi sự. Tình thương là tất cả những gì con cần,” và những quan điểm tương tự.

Nhiều người đã tin vào triết lý hiện diện trong tâm thức tập thể trên trái đất cho rằng tình thương đối nghịch với quyền lực vì tình thương lúc nào cũng dịu dàng, tử tế, màu hồng và mềm mại. Con nghĩ tình thương là bình an, theo nghĩa bình an là thụ động.

Các thày đã giảng là bình an không thụ động, chắc chắn không phải là giữ cho mọi người vui lòng, và tình thương cũng vậy. Con không thể cảm thấy bình an với tình thương nếu con không sẵn lòng biểu hiện tình thương qua mọi khía cạnh của nó. Tình thương có thể dịu dàng và tử tế, nhưng tình thương chỉ dịu dàng và tử tế khi con người cần những điều này để chữa lành một chấn thương hay một vết thương. Trên một hành tinh đầy chiến tranh như trái đất, con người rất cần tình thương dịu dàng này. Điều này không thể chối cãi. Thày không nói biểu lộ tình thương như vậy là sai.

Điều thày muốn nói là con không thể bình an khi biểu hiện tình thương nếu con không nhận ra là tình thương, cốt lõi của tình thương, là giúp con người thăng vượt và trở nên hơn nữa. Nếu con người cần một hành động của tình thương thẳng thắn hơn, nghiêm khắc hơn, cường độ hơn, thì đó là điều các chân sư thăng thiên sẽ trao truyền. Nếu con muốn an bình khi phụng sự trên con đường tự điều ngự, phụng sự tha nhân, con phải là cánh cửa mở cho sự biểu hiện trực tiếp hơn của tình thương.

14.2. Học những khía cạnh của tình thương

Mỗi một tia tâm linh đều có một dải tần số, như ta có thể thấy nơi các tia màu sắc. Đa số nghĩ tình thương màu hồng, nhưng thật sự dải tần số trải ra tới cường độ cao nhất, giống như tia laser, của lửa màu ngọc đỏ. Rất nhiều học viên khi tới tầng này của khóa nhập thất của thày nghĩ tình thương màu hồng. Rất nhiều người đã lớn lên với cha mẹ hoặc khuôn mặt uy quyền khác lạm dụng quyền lực, và đa số cho thái độ đó là không thương yêu.

Dĩ nhiên lạm dụng quyền lực là không thương yêu. Nhưng sự biểu hiện uy lực để thức tỉnh con và giúp con tiến lên cao hơn hay nhận ra là con cần ngưng các khuôn nếp tự phá hoại, không phải là lạm dụng quyền lực. Khi giúp con, như một trẻ thơ, bước ra ngoài các khuôn nếp tự phá hoại, là biểu lộ tình thương.

Con cần học phân biện giữa một biểu hiện uy lực đúng đắn và sự làm dụng quyền lực. Con có thể học điều này bằng cách học hỏi các khía cạnh khác nhau của tình thương. Nếu con chỉ thấy tình thương màu hồng, con sẽ không bao giờ nhìn nhận một biểu hiện đúng đắn của uy lực. Con sẽ thấy một biểu hiện uy lực thẳng thắn như một lạm dụng quyền lực, nhưng điều này không đúng. Khi con mở lòng đón nhận các khía cạnh màu ngọc đỏ của tình thương, thì con sẽ bắt đầu thấy là cường độ có khi cần thiết để giúp một người trèo ra khỏi vòng xoắn hướng hạ đang kéo người đó xuống.

14.3. Biểu hiện cường độ của tình thương

Chuyện gì xảy ra khi một người bị kẹt trong một vòng xoắn hướng hạ? Con có thể bước vào, cầu thỉnh năng lượng, tiêu hủy năng lượng đang vận chuyển vòng xoắn và qua đó khiến vòng xoắn chậm lại và giúp người đó có thể thoát ra khỏi nó. Con cũng có thể nhận ra là khi một người đang trong một vòng xoắn đi xuống, thì họ đang chuyển động. Nếu con có thể gia tốc sự chuyển động đó, thì con có thể giúp họ bay văng ra khỏi vòng xoắn.

Một số các con có lẽ đã trải nghiệm trong đời mình trường hợp cha mẹ, người phối ngẫu, hay đạo sư đưa ra một nhận xét với cường độ cao đến độ lời đó cắt xuyên qua hàng rào phòng thủ thông thường của con. Lời nói đó khiến tâm con bị chấn động khiến con mở tâm đón nhận một thực tại cao hơn. Chỉ một nhận xét cũng đủ để kéo con ra khỏi khuôn nếp tự phá hoại và bước đi theo một hướng mới. Đó là tình thương. Đó là một biểu hiện tình thương. Nó có thể pha trộn với uy lực, nhưng trên căn bản đó là tình thương như một đối tác của sợ hãi.

Lạm dụng quyền lực lúc nào cũng bắt nguồn từ sợ hãi. Một biểu hiện uy lực đúng đắn vượt lên trên mức rung động đó. Nó rung động với tình thương, tình thương cường độ. Ta không nên nhầm cường độ và sự khe khắt. Cường độ không phải là khe khắt, mà là sự tự tại không lay chuyển. Tới đây thì chắc con đã thấy là tự ngã luôn luôn tìm cách kéo mọi sự xuống mẫu số chung thấp nhất và khiến con vui lòng. Có lúc cần cường độ để kéo con ra khỏi vòng xoắn giữ cho con vui lòng, trạng thái tâm thức giữ cho con vui lòng. Thày có nói là trong quan hệ phải có giao tiếp tự do, nhưng điều này không thể đạt được nếu các người liên hệ chưa đạt được các khai ngộ của Tia thứ Sáu và nhận ra là tình thương không phải lúc nào cũng bình an.

Con có quyền đối xử một cách cường độ với người bạn đời của con. Nếu con không cư xử vì sợ hãi, nếu cường độ của con dựa trên tình thương, thì điều này được phép làm trong quan hệ tình yêu. Trong quan hệ lý tưởng thì phải được phép. Trong một quan hệ, nếu một hay cả hai người bạn đời có thể đạt được cường độ nào đó, thì đó là một yếu tố quý giá trong mối quan hệ. Dĩ nhiên điều quan trọng là con sẵn sàng nhìn vào chính mình và nhận ra là mình cư xử với cường độ dựa trên tình thương hay lạm dụng quyền lực dựa trên sợ hãi. La lối người bạn đời vì mình giận dữ hay sợ hãi không giúp xây dựng mối quan hệ.

14.4. Giao tiếp tự do không phải là lạm dụng quyền lực

Có thể con cần dành một khoảng thời gian để con tự do phát biểu và người bạn đời của con học chịu đựng việc này. Sau đó con có thể xem xét những khuôn nếp mà con có, khiến chúng hiện rõ cho con và người bạn đời, để các con có thể tự do thảo luận chúng. Ở đây thày không muốn nói tới những khuôn nếp lệch lạc mà ta có thể thấy nơi rất nhiều quan hệ, nghĩa là một trong hai người bạn đời lên cơn bực bội và bắt đầu la hét, và người kia khép tâm lại và rút vào vỏ ốc của mình.

Nếu các con đã thiết lập được tự do giao tiếp thì con có thể cho phép một người biểu lộ bất cứ cảm xúc nào có trong tiềm thức. Mục đích là để các cảm xúc này phơi bày ra và qua đó bắt đầu chuyển hóa chúng, khám phá khuôn nếp và ảo tưởng đằng sau chúng, để có thể vượt thăng chúng. Mục đích của giao tiếp tự do không phải là để một người có thể biểu lộ mãi mãi cảm xúc dựa trên sợ hãi mà không bao giờ tìm cách giải quyết chúng.

Con yêu dấu, nếu con quan niệm tình thương là cái gì mềm mại, màu hồng và thụ động, thì câu nói “tình thương là tất cả những gì con cần” không đúng. Nhưng nếu con nắm vững tất cả mọi khía cạnh của tình thương, thì con có thể nói là tình thương là tất cả những gì con cần, vì lúc đó tình thương bao gồm tất cả bảy tia sáng với các đặc tính của chúng. Tất cả những gì con cần trong thế giới vật chất là bảy tia sáng. Con có thể thăng thiên khi con điều ngự cả bảy tia sáng. Nếu con điều ngự Tia thứ Tám của Tổng hợp và một số các tia bí mật thì còn tốt hơn nữa, nhưng con có thể thăng thiên khi con đạt được sự điều ngự bảy tia sáng. Bảy tia sáng là tất cả những gì con cần.

Nhiều quan hệ tình yêu bị kẹt trong một khuôn nếp trong đó hai người bạn đời cảm thấy lúc nào cũng cần phải dịu dàng. Điều này đặc biệt đúng khi hai người bạn đời đều là người tâm linh, đã tìm ra con đường tâm linh và đã thực hành trong một thời gian. Điều này lại đúng hơn nữa khi hai người đã học một số giáo lý Đông phương.

Giáo lý Đông phương khuyến khích con tìm về nội tâm. Các phương pháp như yoga, nhiều trường phái thiền, quán sát hay giữ chánh niệm đều có mục đích tìm sự tĩnh lặng nội tâm. Thày không nói các phương pháp này sai, nhưng nếu con đã chọn đầu thai vào phương Tây, thì con có thể suy ngẫm thấy rằng phương pháp Đông phương muốn con ngồi thiền trong hang động và giữ quân bình tâm linh bằng cách giữ tâm mình an bình, có thể không thích hợp với phương Tây.

Muốn thời hoàng kim được biểu hiện thì điều cần thiết là các người tâm linh khắp thế giới, kể cả ở phương Đông, có vai trò tích cực trong xã hội. Con cần đòi hỏi, và chứng minh qua gương sống của mình, một cách hành xử cao hơn là khuôn nếp không-bình an cũ. Đôi khi, điều cần xảy ra là có người biểu lộ bằng lời nói cường độ của ngọc đỏ. Đôi khi, trên diễn đàn công cộng, cần có người đứng lên, khiến mọi người phải chú ý, và phá tan màn mê chướng đang cản trở sự tiến bộ trong lãnh vực nào đó. Ai sẽ là người làm công việc này, nếu không phải là các người tâm linh? Ai sẽ làm việc này nếu con bị kẹt trong quan niệm lúc nào cũng phải trở về nội tâm, lúc nào cũng an lạc? Làm sao con thiết lập được một quan hệ bình an thật sự nếu con không vượt qua mọi yếu tố không-bình an và phản-bình an?

14.5. Các hủ hóa bình an

Thày đã nói gì trong các bài giảng trước? Mọi đức tính của Thượng đế đã bị sa nhân hủ hóa bằng cách thiết lập một đối cực tương đối, nhị nguyên. Điều này cũng xảy ra với đức tính bình an. Ở một đầu là hung hãn và chiến tranh. Ở đầu kia là một người hoàn toàn bình an và do đó thụ động. Đây không phải là Trung đạo. Đây không phải là con đường hoàng kim, trung dung của thời hoàng kim. Rất nhiều người tâm linh bị kẹt trong tư tưởng đây là cách họ phải cư xử, kể cả trong các mối quan hệ tình yêu.

Con thấy trường hợp các vợ chồng rất tâm linh và tham gia vào nhiều sinh hoạt tâm linh. Họ đã tới điểm mà nhiều cặp vợ chồng đã đạt được trên thế giới. Họ đã thừa nhận mình là ai, các vết thương và vấn đề mà họ có, và tránh khuấy động những vấn đề khó khăn. Họ đã đặt hài hòa và an bình như mục đích của mối quan hệ của họ tới độ điều này trở thành một ngăn trở thay vì động lực cho sự tiến bộ của họ.

Đây không phải là an bình thật sự vì an bình thật sự không tạo nên một tình trạng hòa bình đứng yên trên trái đất. Nó tạo nên một nền hòa bình năng động trong đó có tăng triển tối đa vì không có khái niệm hay xung đột kéo con người vào khuôn nếp tranh chấp. Những khuôn nếp này cướp năng lượng của con và đẩy con từ cao điểm sang hạ điểm khiến con mất đi an bình nội tâm và sự chú tâm vào Hiện diện TA LÀ của con.

Nếu hai chúng con là người tâm linh trong quan hệ vợ chồng thì các con nên sẵn sàng trực diện các vấn đề dù rằng làm như vậy sẽ nhất thời tạo bất hòa. Nếu các con sử dụng các dụng cụ tâm linh mà các thày đã cung cấp, các con sẽ có khả năng dần dần giải quyết các vấn đề đó. Lúc đó các con sẽ có một mối quan hệ chân thật hơn, và chắc chắn là trọng tăng triển hơn. Quan hệ này có thể sẽ giúp con thể hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình ở một mức cao hơn vì con có thể tự do biểu lộ những khía cạnh cường độ của tình thương. Cường độ này là chìa khóa của phụng sự thật sự.

14.6. Cần những người tâm linh trong xã hội

Tia thứ Sáu là tia của bình an và phụng sự, nhưng sa nhân đã hủ hóa khái niệm bình an bằng cách nói rằng những người trọng hòa bình theo nghĩa giữ cho mọi người vui lòng là những người phụng sự chân chính.

Nhiều người, ngay cả nhiều người tâm linh, cho rằng nếu muốn giúp đời thì họ phải tìm một việc làm trong một địa hạt phụng sự. Tỷ dụ như trong các ngành bác sĩ, y tá, giáo sư, từ thiện hay tương tự. Thày hoàn toàn không chỉ trích những người làm như vậy. Các người tâm linh rất cần trong các địa hạt này.

Thày chỉ muốn cho con thấy là nếu con nghĩ các người tâm linh chỉ nên làm việc trong các địa hạt này, thì con có thể đã dùng tâm ý thức đóng cửa việc thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Con đang phủ lên mình một lớp màn có thể khiến tâm đóng lại và không nhận ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Những người tâm linh cần thiết trong mọi lãnh vực của xã hội. Quả thật là có một số công việc con nên tránh, tỷ dụ như những việc dính tới tội ác, việc phi pháp hay việc khuynh loát người khác.

Ngay cả trong thương trường – là lãnh vực có khi có nhiều trường hợp hủ hóa – cũng có nhu cầu có người có khuynh hướng tâm linh đồng thời hiểu rõ thương trường từ bên trong. Những người này có thể là phương tiện để biểu hiện sáng kiến mới, họ cũng có thể có cường độ cần thiết để gióng lên tiếng nói trong một số trường hợp cá biệt (trong một thương vụ cá biệt nào đó) hoặc để giúp xã hội mở ra một đường hướng mới liên quan đến thương mại hay tiền tệ.

Xã hội cần một hệ thống tiền tệ mới, đây là một điều các thày đã nói tới. Hệ thống này sẽ không được hình thành chỉ với hành động thụ động. Cần có người cầm Ngọn lửa Hồng ngọc để chặt đứt sự đối kháng, sự đối kháng cực kỳ mạnh mẽ, để biểu hiện một hệ thống tiền tệ thực sự đem lại lợi ích cho quần chúng thay vì giới thượng lưu quyền lực.

14.7. Vượt qua phản ứng khi bị lên án

Khi con đến tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối diện một thử thách rất gay go. Con cần phải đối diện thử thách không bị ảnh hưởng bởi sự lên án của tâm thức sa ngã. Làm sao con giữ được tâm an bình trên một hành tinh như địa cầu khi sa nhân tới và lên án con một điều gì đó và con lập tức mất bình an? Khai ngộ đặc thù mà con đối diện ở khóa nhập thất của thày giúp con học đối phó với hoàn cảnh bị lên án là con không thương yêu vì con dám biểu hiện mình một cách tự do hơn.

Các thày sẽ dạy con làm sao thực hiện điều này. Các thày sẽ chỉ cho con thấy là con đã rơi vào một khuôn nếp phản ứng khi bị lên án. Các thày sẽ giúp con thấy phản ứng này từ đâu tới, và vòng xoắn năng lượng nào đã nuôi dưỡng nó. Các thày sẽ giúp con đi vào vòng xoắn đó, đi vào tận cùng của nó và thấy ra ảo tưởng đằng sau nó. Lúc đó, con có thể nhìn phàm linh và nói: “Quỉ Xa-tăng, hãy đứng sau lưng ta. Mi không còn nắm được gì nơi ta nữa.”

Rất nhiều người thiện tâm đã làm việc phục vụ công chúng. Họ đã đứng lên tranh đấu cho một sự thay đổi nào đó, một ý mới nào đó. Họ đã gặp sự đối kháng không thể tránh được của những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã. Không có địa hạt nào trên trái đất mà con có thể nêu lên một ý mới hay một thay đổi tích cực mà không va chạm những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã muốn chống lại bất kỳ thay đổi nào.

Biết bao người đã gặp sự đối kháng này và đã có một phản ứng chống đỡ hoặc đã phản ứng bằng cách nâng cao cường độ, có khi đi vào lạm dụng quyền lực. Một khi họ phản ứng như vậy thì những người trong tâm thức sa ngã sẽ lên án là họ không trọng hòa bình, không thương yêu, không tử tế, không thật sự phụng sự, chỉ tìm cách gây rối loạn – và nhiều lối lên án khác mà những người kẹt trong tâm thức sa ngã có thể tìm ra. Ta không cần phải liệt kê tất cả các lời lên án này ở đây vì có quá nhiều đến độ có thể viết kín nhiều quyển sách. Có rất nhiều người thiện tâm có trong Sứ vụ Thiêng liêng ý muốn đem lại thay đổi đã bị quá chấn động, rối loạn tâm và bất an đến độ họ rút lui khỏi việc phục vụ công chúng.

Ta đã thấy điều này xảy ra rất nhiều lần. Những người thiện tâm không thể chấp nhận sống trong khung cảnh lệch lạc, phán xét có mặt trong quá nhiều địa hạt trên trái đất. Con nghĩ tại sao những người tham gia chính trị lại cư xử như vậy? Có một phin lọc đã loại ra khỏi môi trường này tất cả những người tử tế và yêu thương cũng như là những người yêu thương cường độ. Không một người tích cực nào có thể chịu nổi môi trường chính trị trong nhiều quốc gia. Chỉ còn lại trong đó những người đã quá kẹt vào tâm thức sa ngã hay có quá nhiều tham vọng nên sẵng sàng chịu đựng mọi chuyện để nắm được quyền lực.

Đâu là chìa khóa để tránh phản ứng như vậy? Chìa khóa là hòa nhập với cốt lõi của tình thương, là động lực giúp con người vượt thăng và trở nên hơn nữa. Động lực này được cân bằng bởi sự tôn trọng quyền tự quyết. Điều hay khiến con nản chí khi con tham gia một công việc phụng sự công chúng là con có một viễn quan rõ ràng những gì cần cải thiện. Con gắng công đem lại một thay đổi vật lý nào đó. Khi con gặp những người đối kháng không chịu nhìn sự việc giống con, thì con có phản ứng chống đỡ. Tới một lúc thì con chán ngán bị đối kháng và lên án và con nói: “Vậy tôi sẽ để quý vị yên và quý vị có thể làm bất cứ gì quý vị muốn.”

14.8. Trình bày một cơ hội chọn lựa

Phản ứng trên của con chính là điều những người trong tâm thức sa ngã mong muốn. Họ đã hành xử nhiều lần như vậy trong quá khứ, và họ biết rất rõ cách đánh vào các điểm yếu và tạo nên phản ứng như trên. Để tránh rơi vào khuôn nếp này, con cần nhận ra là tình thương không mong cầu đạt được một kết quả vật lý trên trái đất này. Tình thương chỉ muốn đưa ra cho con người một chọn lựa tự vượt thăng. Khi con tham gia một địa hạt phụng sự công chúng và trình bày một ý mới hay một đề nghị thay đổi, con đã cho những người liên hệ một cơ hội chọn lựa giải pháp cao hay thấp.

Tâm ý thức của con có thể khiến con nghĩ là nếu họ không chọn giải pháp cao, thì công việc phụng sự của con đã thất bại. Thày là Thượng sư và thày không nhìn sự việc như vậy. Thày không thấy là cố gắng của con đã thất bại, vì con đã làm gì? Con đã cho con người một chọn lựa mà trước đó họ không có. Con đã buộc họ phải chọn lựa, vì đây là quyền của con theo luật tự quyết vì con đang đầu thai trong thế giới vật lý. Dù họ chọn giải pháp cao hay thấp, con đã làm công việc phụng sự.

Quả thật là nếu họ chọn giải pháp thấp thì các kết quả vỏ ngoài mà con cố gắng đạt sẽ không được biểu hiện. Nhưng sẽ vẫn có một kết quả vì họ tiến thêm một bước về hướng bị phán xử và về hướng bị loại ra khỏi trái đất [muốn biết thêm về đề tài này, xin đọc sách Vũ trụ quan về sự xấu ác]. Trên đường dài, các cố gắng của con sẽ có ảnh hưởng tích cực trên trái đất. Con đã có một đóng góp quý báu, và con nên thỏa mãn đã trình bày cho con người một chọn lựa, và để cho họ quyền quyết định. Bằng cách đó, con tránh trói buộc sự phụng sự của mình vào việc đạt được kết quả nào đó.

Con hãy nhớ lại điều thày giảng về sự thực, về chuyện tránh buộc người bạn đời của con nhìn đời giống như con, và cho phép vị đó nhìn đời theo cách của họ. Nguyên tắc đó cũng áp dụng vào việc phụng sự công chúng. Có thể có những người bị kẹt trong tâm thức sa ngã, hay họ ở một trình độ tâm thức thấp hơn nên không thể thấy ra viễn quan cao của con. Họ có quyền ở mức tâm thức hiện tại của họ. Con có quyền ở mức tâm thức của con. Con có quyền phát biểu viễn quan của con, nhưng họ cũng có quyền phản ứng lại sự phát biểu của con theo trạng thái tâm thức của họ.

Đúng thực là họ có quyền sử dụng viễn quan cao của con để thăng vượt trạng thái tâm thức của họ, nhưng nếu họ không chịu làm điều này, thì họ có quyền từ chối. Con không có quyền phản ứng tiêu cực khi người khác thực thi quyền tự quyết của họ. Con nên – và đây là trách nhiệm của con – có trạng thái tâm không đòi hỏi người khác lấy một chọn lựa nào đó. Con nên thỏa mãn đã cho họ cơ hội chọn lựa.

Đó là cách con phụng sự một cách cao: không phải qua việc tạo ra một kết quả vật lý, mà qua việc trình bày cho con người một cơ hội chọn lựa điều gì cao hơn trình độ tâm thức hiện nay của họ. Đó là tất cả những gì các thày, các Thượng sư, đang làm.

Nếu con nghĩ là các thày, bảy vị Thượng sư và Đại Thượng sư, đang ngồi trên đây lập ra kế hoạch tinh vi làm sao thay đổi từng chi tiết nhỏ trên cõi vật lý, thì con đã không hiểu các thày. Đúng thực là thày Saint Germain có một kế hoạch đem tới thời hoàng kim. Nhưng kế hoạch đó không đuợc khắc trên đá. Nó không được quy định vào chi tiết. Thời hoàng kim không thể được áp đặt trên nhân loại. Nó phải được chọn.

Thày Saint Germain có một kế hoạch làm sao trình bày cho nhân loại một số ý cao giúp nhân loại có cơ hội chọn lựa. Thày Saint Germain không đòi hỏi kết quả nào đó vào một ngày nào đó. Thày Saint Germain đã đạt được quả vị Phật. Thày biết rằng nếu thời hoàng kim không được biểu hiện dưới một hình thức nào đó ngày hôm nay, thì chuyện đó có thể xảy ra ngày mai hay trong một thế kỷ.

14.9. Cân bằng hành động dứt khoát và kiên nhẫn

Có những lúc con cần cấp bách thay đổi cái gì đó trong đời mình. Có thể con cần cấp bách nỗ lực lên một trình độ tâm thức cao hơn trong một thời gian rất ngắn vì con cần phải thực hiện một thành phần nào đó của Sứ vụ Thiêng liêng của con ở một thời điểm nào đó. Cũng có thể con cần nâng cao cường độ để hội đủ điều kiện để thăng thiên trong kiếp này. Nhưng con đừng rơi vào cạm bãy của tư duy cuồng đại và nghĩ rằng một số thay đổi bên ngoài nhất định phải xảy ra vào một thời điểm nào đó. Nghĩ như vậy chỉ khiến con xa rời bình an. Điều đó sẽ khiến con không phụng sự dựa trên tình thương mà phụng sự dựa trên sợ hãi, khiến con càng ngày càng bực bội cho tới khi con bị kiệt sức và không chịu nổi nữa.

Đã rất nhiều lần các thày thấy một người có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc đem lại thay đổi nào đó trong một lãnh vực nào đó của xã hội. Nhưng vì người đó bị rơi vào khuôn nếp mà thày đã mô tả và phản ứng lại tâm thức sa ngã, nên vị ấy rút lui khỏi lãnh vực đó. Nếu thay vì làm như vậy, vị ấy có cái nhìn đường dài hơn và kiên nhẫn hơn, thì vị ấy đã có thể đạt được thành quả lớn hơn trong một thời gian dài hơn. Có thể rằng vị ấy không đạt được đúng kết quả vị ấy hình dung khi quyết định rút lui, nhưng một số kết quả đáng kể cũng được thành tựu.

14.10. Vượt qua tâm thức bây-giờ-hay-không-bao-giờ

Thế giới không tiến triển bằng những bước nhảy vọt vĩ đại. Thế giới tiến bộ qua từng bước nhỏ. Mỗi người trong chúng con có mặt trên đời để đóng góp vào những bước nhỏ đó. Thỉnh thoảng, có một người đem ra một ý mới có ảnh hưởng sâu rộng hơn, nhưng đa số các con có mặt trên đời để giúp thế giới tiến lên qua những bước nhỏ. Điều này có nghĩa con cần kiên nhẫn. Con cần bình an. Con cần tránh rơi vào tư duy bực bội và nghĩ rằng: “Chuyện này phải xảy ra ngay bây giờ. Bây giờ hay không bao giờ!”

Chính tự ngã của con, sa nhân và phàm linh nội tại muốn con nghĩ như vậy. Có bao giờ con bước vào một tiệm bán xe và có một người bán hàng thiện nghệ muốn bán con một chiếc xe cũ? Các người bán hàng đó được huấn luyện để tạo ra một cảm giác khẩn cấp. Nếu con không ký hợp đồng ngay bây giờ, con sẽ làm mất đi cơ hội tuyệt vời mà họ nói họ đang cống hiến con. Vì sao con nghĩ con người tham gia chiến tranh? Đó là vì họ bị lừa là tình hình khẩn cấp nên có chuyện gì đó cần xảy ra ngay bây giờ! Con yêu dấu không bao giờ có tình trạng bây giờ hay không bao giờ!

Phương Đông có câu ngạn ngữ: “Người tới, người đi, nhưng ta tiếp tục mãi mãi”. Dòng Sông sự Sống tuôn chảy mãi mãi. Hoàn cảnh tới, hoàn cảnh đi, nhưng Dòng Sông sự Sống tiếp tục tuôn chảy. Một cơ hội mới sẽ hiện ra. Chắc chắn là có trường hợp không lấy cơ hội đưa đến hậu quả tai hại. Nhưng điều này không có nghĩa là cơ hội học hỏi đã bị mất, và đó là điều mà các thày là Thượng sư muốn chú tâm tới.

Thày có nói định nghĩa của quỷ Xa-tăng là gì? Đó là quan niệm Tánh linh phải quy thuận điều kiện đương thời của vật chất. Làm sao con thăng vượt các điều kiện đương thời? Con không thể thăng vượt chúng khi con rơi vào trạng thái bị chúng quá ảnh hưởng đến độ nghĩ rằng phải thay đổi chúng ngay lúc này. Chúng phải được thay đổi bằng cách duy nhất mà ngay lúc này con thấy chúng có thể thay đổi. Như vậy có nghĩa là người khác phải làm theo ý con muốn. Nếu họ không tự nguyện làm vậy thì họ phải bị ép buộc làm theo. Đây là lý do vì sao chiến tranh và xung đột bắt đầu. Đây là lý do vì sao đối thoại bị cắt đứt.

Con hiện đang có một viễn quan. Viễn quan đó không phải là viễn quan cao nhất. Nếu con tiến bộ trên con đường tu, con sẽ không có viễn quan đó suốt đời con. Rất có thể là ngay lúc này con có viễn quan đúng đắn về điều cần phải thay đổi, nhưng cũng có thể là con không có viễn quan cao nhất về cách nó phải thay đổi. Nếu con trình bày cho mọi người một cơ hội, như con thấy hiện nay, và họ chọn lựa không theo, thì con không nên bực bội. Con hãy trở về nội tâm. Con xem xét phản ứng của mình. Con tránh khuôn nếp tiêu cực. Con xin được hướng dẫn và chỉ thị để con thấy vấn đề từ một tầm nhìn cao hơn. Sau đó, con chờ cơ hội mới để trình bày đề nghị từ một viễn quan cao hơn, trưởng thành hơn.

Cùng lúc thì con cũng biết là hành tinh tiếp tục tiến triển, và nó tiến triển theo một vòng xoắn đi lên. Ngay cả những người đang chống đối con hiện nay cũng có thể bị bó buộc phải thay đổi. Khi có cơ hội mới, có thể họ sẽ sẵn sàng chấp nhận. Đột nhiên, tình hình được an bày khác hơn trước và có thể có lối mở mà trước đó không có. Nếu trước đó con có phản ứng dựa trên sức mạnh, dựa trên sợ hãi thì có thể con đã rút lui khỏi lãnh vực đó. Hoặc con đã tạo nên nhiều mâu thuẫn với những người liên hệ và họ đã đóng tâm không chịu nghe con nữa, và cơ hội thứ nhì cũng có thể bị mai một.

14.11. Xung đột là bây-giờ-hay không-bao-giờ. Bình an tiếp tục mãi mãi.

Xung đột hay xảy ra vì quan niệm bây giờ hay không bao giờ. Làm sao con có thể là một sứ giả hòa bình khi con có trạng thái tâm đó? Xung đột là bây giờ hay không bao giờ; bình an tiếp tục mãi mãi. Cơ hội đến, cơ hội đi, nhưng một cơ hội mất đi không biến đi mãi mãi. Bánh xe lại lăn và một cơ hội lại xuất hiện. Đây là cách con học phụng sự trong an bình.

Tình thương lúc nào cũng muốn thăng vượt, nhưng con không thăng vượt khi con có một viễn quan là có kết quả tối hậu cần được biểu hiện. Lúc đó dòng chảy của tình thương bị khóa lại. Nếu con ở bên ngoài tư duy bây-giờ-hay-không bao-giờ, tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, tư duy theo-tôi-hay-đi-chỗ-khác, thì con có thể ở trong dòng chảy của tình thương. Con chỉ cần đợi cơ hội kế tiếp.

Nếu con không được một cơ hội kế tiếp vì người khác vẫn tiếp tục chống đối, thì con hành động như thày đã từng giảng. Con chú tâm vào phản ứng của mình, và con có thể sẽ tới điểm biết là lúc này không phải là lúc giận dỗi bỏ đi khỏi lãnh vực này. Nhưng là lúc tuôn chảy tới mức phụng sự kế tiếp, bất kỳ hình thức phụng sự này là gì. Ngay lúc đó con có thể không thấy hình thức phụng sự này là gì, nhưng con chắc chắn không thấy nó nếu con ở trong tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả.

Làm sao hai người có thể phụng sự nhau trong một mối quan hệ khi mỗi người có một quan niệm người kia phải thay đổi ra sao và mối quan hệ phải như thế nào, và cả hai đều có tư duy tất-cả-hay-không-có-gì-cả, bây-giờ-hay-không-bao-giờ? Phụng sự người khác là cho người đó cơ hội tăng triển, không phải là đạt được một kết quả bên ngoài. Con hãy kiên nhẫn với chính mình và với người bạn đời.

Nhiều người trong chúng con quá nóng nảy, hay quá chán chường với xung đột và nói: “Tôi cần an bình ngay bây giờ!” Ta chỉ có thể đạt an bình bằng kiên nhẫn. Không ai đã đạt an bình mà không qua cánh cửa kiên nhẫn, và điều này có khi đòi hỏi chịu đựng đau khổ lâu dài. Con đau khổ bao lâu tùy thuộc vào con cần bao lâu để buông bỏ dính mắc vào kết quả bên ngoài. Con không thể đạt được bình an khi con còn dính mắc vào kết quả bên ngoài. Con yêu dấu, điều này không thể làm được.

Con có thể sẽ đạt dược một kết quả bên ngoài, nhưng con không tạo ra kết quả đó bằng cách dính mắc vào nó, vì con không phải là người tạo tác. Dòng chảy của Tánh linh, Dòng Sông sự Sống là người tạo tác. Con cung cấp chén thánh để dòng tình thương chảy vào, và con để tình thương làm công việc của nó. Lúc đó, con được bình an, bất kỳ kết quả vật lý là gì. Con được bình an khi con để tình thương tuôn chảy, và qua đó trình bày cho mọi người một cơ hội chọn lựa một con đường cao hơn, con đường của tình thương, con đường của bình an.

TA LÀ Paul người Venice.

12 | Tình thương và Sự thật

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 7/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Điều gì xảy ra khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày? Đây là điểm con gặp tình thương phối hợp với Tia thứ Năm, thường được gọi là tia của sự thật hay chân lý. Ông Pontius Pilate đã từng hỏi Giê-su: “Sự thật là gì?” Câu hỏi này đáng để chúng ta suy ngẫm.

12.1. Thực tại và cách chúng ta cảm nhận thực tại

Pontius Pilate đại diện cho một người có tâm thức ở dưới tầng 48. Giê-su đại diện cho một người có tâm thức rất gần tầng 144. Khi con tới gần tầng 144, con có thể biết đâu là sự thật. Khi con ở dưới tầng 48, con không thể nào biết sự thật. Khi con tới khóa nhập thất của thày, con không ở dưới tầng 48, nhưng con cũng không ở gần tầng 144.

Con có thể nào biết sự thật ở tầng tâm thức của con khi con tới khóa nhập thất của thày chăng? Con có thể biết một biểu hiện của chân lý cao hơn lúc con ở dưới tầng 48. Con không thể biết trọn vẹn chân lý mà con biết được khi con tới gần tầng 144. Đây là một điều rất quan trọng mà con nên ghi nhớ. Vậy con biết được gì? Làm sao con thấy được chân lý khi con đang ở đâu đó giữa tầng 48 và 96 trên con đường tự điều ngự?

Con chỉ thấy chân lý xuyên qua cỗ xe tâm hồn là phương tiện con dùng để biểu hiện trong thế giới vật chất. Điều này không có nghĩa là con không thể trải nghiệm chân lý dưới hình thái trong sạch của nó. Cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài và không tự đồng hóa với cỗ xe tâm hồn. Giống như con có khả năng trải nghiệm tình thương vô điều kiện, thì con cũng có khả năng trải nghiệm chân lý vô điều kiện, nhưng chân lý vô điều kiện không có điều kiện.

Chúng ta cần thấy một khác biệt vi tế mà đa số người trên hành tinh còn không thể hiểu được. Họ không thấy sự khác biệt này là cần thiết, vì họ không thấy sự khác biệt giữa thực tại và cách họ cảm nhận thực tại. Họ nghĩ rằng điều mà họ thấy qua cỗ xe tâm hồn là thực tại, là chân lý, nhưng điều này không đúng, phải không con? Con đã bắt đầu vượt lên trên tầng 48 và con đã bắt đầu tách mình ra khỏi, không còn tự đồng hóa, với cỗ xe tâm hồn.

12.2. Cỗ xe tâm hồn không phải là kẻ thù của con

Đây là điều con cần phân biệt: cỗ xe tâm hồn không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con. Nó có thể là kẻ thù, và chắc chắn nó kẻ thù khi con ở dưới tầng 48. Khi con ở dưới tầng 48, cỗ xe tâm hồn, trong đó có tự ngã, kéo con xuống những khuôn nếp vị kỷ dựa trên sợ hãi. Con tìm cách bảo vệ tự ngã và cái ta phàm phu thay vì vươn lên trên tự ngã và các khía cạnh vị kỷ của tâm thức con người.

Tâm thức con người và tự ngã đặt lên trên cỗ xe tâm hồn một lớp phủ có pha màu. Khi con vượt lên trên tầng 48, con bắt đầu thoát khỏi khuynh hướng vị kỷ đó. Khi con vươn lên cao hơn nữa về hướng tầng 96 trên con đường tự điều ngự, con rũ bỏ những khuynh hướng đó thêm nữa. Nhưng không có nghĩa là lúc đó con đã rũ bỏ cỗ xe tâm hồn.

Mục tiêu của con đường tự điều ngự từ tầng 48 đến tầng 96 là giúp con phát triển khả năng sáng tạo để con có thể biểu lộ nó toàn vẹn hơn trong thế giới vật lý. Khi con biểu lộ khả năng sáng tạo, con cần một cỗ xe để biểu lộ. Con cần bốn thể phàm của con. Đó là lý do vì sao cái Ta Biết, là trạng thái nhận biết thuần khiết, không thể biểu lộ sự sáng tạo. Đó là lý do vì sao cái Ta Biết cần tạo ra cỗ xe tâm hồn, trong đó có bốn thể phàm. Nó không cần phải tạo ra tự ngã, nhưng nó đã làm điều này trên trái đất vì hành tinh này rất dày đặc. Công việc chính trên con đường tự điều ngự là vượt lên trên tầm ảnh hưởng của tự ngã để làm chủ cỗ xe tâm hồn, thay vì để tự ngã làm chủ cỗ xe tâm hồn và kéo con vào những khuôn nếp dựa trên sợ hãi có mục đích bảo vệ tự ngã.

12.3. Cỗ xe tâm hồn được hình thành như thế nào

Thày đã có giảng là con cần ngưng trong lọc các phàm linh nội tại và rũ bỏ chúng, nhưng các phàm linh nội tại không phải là cỗ xe tâm hồn trong hình thức trong sạch của nó. Các phàm linh nội tại được tạo ra bởi các sợ hãi của tự ngã và cảm nhận méo mó của nó. Chúng được tạo ra dựa trên một ảo tưởng, là ảo tưởng nhị nguyên, nhưng con có thể thanh lọc chúng khỏi cỗ xe tâm hồn. Điều này không có nghĩa là cỗ xe tâm hồn có thể thăng thiên, nhưng có nghĩa là con có một cỗ xe trong sạch hơn giúp con biểu lộ chính mình trong thế giới vật chất.

Con đã hình thành cỗ xe tâm hồn của con như thế nào? Con đã hình thành nó dựa trên sự cá biệt mà Hiện diện TA LÀ của con sẵn có, vì nó được tạo ra với tính cá biệt này. Hiện diện TA LÀ của con có một khuôn đúc cá biệt độc nhất, khác với khuôn đúc của tất cả các sinh thể tự nhận biết khác trong thế giới hình tướng. Con đã tạo ra cỗ xe tâm hồn dựa trên tính cá biệt của Hiện diện TA LÀ của con tuy lúc đó con không hoàn toàn là Hiện diện TA LÀ.

Con cũng tạo cỗ xe tâm hồn dựa trên những trải nghiệm mà con kinh qua trong thế giới vật chất. Nếu con đã đầu thai trên trái đất một thời gian dài, và con chắc chắn đã làm điều này khi con sẵn sàng gia nhập khóa nhập thất của thày, thì tính cá biệt của con, của cỗ xe tâm hồn của con, đã bị ảnh hưởng bởi những trải nghiệm của con trên trái đất. Đời sống con người là như vậy. Tất cả chúng ta đã đi qua tiến trình này khi chúng ta đầu thai trên trái đất.

Công việc giữa tầng 48 và 96 là thanh lọc cỗ xe tâm hồn khỏi ảnh hưởng của tự ngã, nhưng không phải là loại bỏ cỗ xe tâm hồn hay tước tính cá biệt khỏi cỗ xe tâm hồn. Đây là công việc khi con vượt lên trên tầng 96, vì đó là giai đoạn con bắt đầu giải thoát cái Ta Biết khỏi những khía cạnh của cỗ xe tâm hồn không dựa trên sợ hãi.

Ta có thể nói là trong giai đoạn đầu, con xây dựng một cỗ xe tâm hồn trong sạch để con có thể dùng nó để biểu lộ chính mình, nhưng trong giai đoạn sau con bắt đầu ngưng không tự đồng hóa với cỗ xe tâm hồn để nhận ra mình là – con – Hiện diện, là một nối dài của Hiện diện. Cỗ xe tâm hồn chỉ là một cỗ xe giúp sự sáng tạo chảy xuyên qua để vào thế giới vật chất. Con có thể nghĩ là ở trên tầng 96, con phá bỏ tính cá biệt và cỗ xe tâm hồn mà con đã xây dựng ở dưới tầng 96, nhưng điều này không đúng. Khi con tới tầng 144, con vẫn còn cá tính.

Con có thể thấy là Giê-su có một cá tính rõ rệt. Thánh kinh không mô tả điều này một cách trung thực, nhưng thày có một cá tính. Điều này không là một vấn đề vì thày không tự đồng hóa với nó. Có người có thể nhìn sự việc này và nói rằng đấng Ki-tô hiện thân không thể có cá tính như vậy, và dùng điều đó như lý cớ để chối bỏ thày. Một số người gặp gỡ Giê-su thời đó đã hành xử như vậy, nhưng đó là chọn lựa của họ, chứ không phải là trách nhiệm của Giê-su. Con có thể có một số khía cạnh của cá tính con người khi con thăng thiên, nhưng điều này không ảnh hưởng việc thăng thiên. Nó chỉ là một cỗ xe.

Vì sao thày lại giảng con những điều này? Vì nó liên quan đến các khai ngộ mà con sẽ đối mặt ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày. Một trong những hủ hóa tình thương mà con phải đối mặt ở khóa nhập thất của thày chính là khuynh hướng nghĩ rằng chân lý chỉ thể hiện theo một cách. Nếu con thực thương yêu ai và muốn giải phóng người đó, thì con phải giúp họ thấy chân lý.

Con yêu dấu, nếu con đứng nhìn mặt trời lặn về phương Tây thì con có một tầm nhìn nào đó về thế giới. Nếu con quay người lại và nhìn về hướng khác, thì con không còn thấy mặt trời nữa, phải không con? Khi con, là cái Ta Biết, quay về bên trong và rút ra khỏi cỗ xe tâm hồn, thì con có thể ngước nhìn lên và thấy Hiện diện TA LÀ của con. Có thể con sẽ trải nghiệm chân lý vô điều kiện, nhưng con cũng sẽ trải nghiệm là chân lý vô điều kiện không thể biểu hiện qua ngôn từ, hoặc hình ảnh, lý thuyết hay triết lý.

Nếu bây giờ con quay đầu và nhìn ra thế giới vật chất qua con mắt cỗ xe tâm hồn thì chuyện gì sẽ xảy ra? Lúc đó con sẽ nhìn thế gian xuyên qua cỗ xe tâm hồn và tính cá biệt nội tại trong nó. Con có thể nhìn vào khái niệm chân lý xuyên qua cỗ xe đó, nhưng điều thày muốn con suy ngẫm là con không thể nào thấy được chân lý tuyệt đối và vô điều kiện xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình.

Ngay nơi đó chính là sự hủ hóa tình thương, khi ý muốn cái gì hơn nữa bị tâm thức sa ngã hủ hóa thành ý muốn cái gì tối hậu. Con có lòng khao khát tự nhiên muốn biết chân lý, nhưng khao khát đó bị hủ hóa thành khao khát muốn biết một chân lý tuyệt đối mà cỗ xe tâm hồn có thể hiểu được.

12.4. Sự thực cao hơn không phải là chân lý duy nhất

Đó là chỗ con tạo bối cảnh gây ra rất nhiều vấn đề trong quan hệ con người mà con có thể thấy trên trái đất, không những trong quan hệ tình yêu mà còn trong đủ loại quan hệ giữa con người. Con người tin rằng điều họ thấy xuyên qua cỗ xe tâm hồn của họ là một chân lý có ý nghĩa cao cả và tuyệt đối. Nhiều khi họ tin rằng một tôn giáo hay hệ thống triết học đã quy định chân lý trong thánh kinh của tôn giáo hay hệ thống đó. Nếu con chấp nhận tôn giáo đó thì con thấy chân lý trong đó, vì con chấp nhận những gì tôn giáo đó nói về thế giới, kể cả thế giới tâm linh. Điều này không đúng, vì bất kỳ tôn giáo nào được diễn tả bằng ngôn từ hay hình ảnh của thế gian chỉ có thể đưa ra một ước phỏng của chân lý. Các thày đã nhiều lần nói điều này. Giáo lý vỏ ngoài, ngay cả giáo lý vỏ ngoài mà chính các thày trao truyền, chỉ là phương tiện giúp con vượt lên trên chúng để đạt được kinh nghiệm nội tâm về cái gì không có điều kiện, không thể được diễn tả bằng ngôn từ hay hình ảnh, và chắc chắn là không thể bị hạn chế bởi ngôn từ và hình ảnh.

Thí dụ ta có hai người. Họ đều khao khát chân lý. Họ đều mong muốn tăng triển. Họ nhận ra là điều ngăn trở con người tăng triển là vì họ bị mắc kẹt trong ảo tưởng. Họ nhận ra cách để vượt qua ảo tưởng là nhận ra nó là ảo tưởng, nhưng họ vẫn có thể bị mắc kẹt trong bẫy vi tế của tâm thức sa ngã. Tâm thức sa ngã nói rằng muốn khắc phục dối trá, ta cần thấy chân lý. Điều đúng là muốn khắc phục một dối trá nào đó, ta cần thấy nó là một dối trá. Điều đúng là muốn nhận ra một ảo tưởng nào đó là một dối trá, ta cần thấy một biểu lộ cao hơn của sự thực, nhưng một biểu lộ cao hơn của sự thực không đồng nghĩa với “chân lý duy nhất” theo nghĩa tối hậu.

12.5. Khắc phục ảo tưởng của chân lý tối hậu

Lý do vì sao con bị kẹt trong một ảo tưởng không phải là vì con ngu dốt. Lý do là vì con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Khi con nhìn qua phin lọc nhận thức ở tầng tâm thức đó, thì ảo tưởng giống như thật. Khi con chấp nhận ảo tưởng, đó là vì con thấy nó là sự thật.

Con không ở tầng tâm thức 144, con đồng ý chứ? Ở tầng tâm thức hiện tại của con, con không thể thấy chân lý tối hậu. Ta hãy giả thử là ở tầng tâm thức hiện tại của con, con nhận ra là trong một kiếp trước, khi con ở một tầng tâm thức thấp hơn, con đã chấp nhận một ảo tưởng. Ảo tưởng này đã nằm trong tiềm thức của con từ thời đó và nó ảnh hưởng con. Nó đã trở thành một phàm linh nội tại. Bây giờ thì con thấy phàm linh nội tại đó là giả. Con thấy nó là một khuôn nếp không xây dựng mà con muốn loại bỏ, và sau đó con thấy được ảo tưởng.

Vì sao bây giờ con thấy được một ảo tưởng mà trước kia con tưởng là sự thật? Đó là vì con đã lên một tầng tâm thức cao hơn. Con bây giờ thấy một điều mà trước kia con tưởng là sự thật, thực sự không phải là sự thật mà là một ảo tưởng. Khi đó, con cần tránh không tin các sa nhân, các thày giả và tự ngã của mình khi chúng thì thầm vào tai con là con đã thấy được chân lý tối hậu. Trái lại, con cần khiêm nhường nhận ra là điều con đang thấy là điều mà con có thể thấy ở tầng tâm thức hiện nay của con, nhưng vì con vẫn ở rất xa tầng 144 nên con chưa thấy được bóng dáng của chân lý tối hậu. Điều con đang thấy thể hiện tầng tâm thức hiện tại của con, nó không phải là chân lý tối hậu.

Bây giờ con cần tiến thêm một bước nữa và nhận ra rằng điều con đang thấy không những là một biểu hiện của tầng tâm thức hiện tại của con, mà nó còn thể hiện cá tính của con, cá tính của cỗ xe tâm hồn của con. Khi con còn xác thân vật lý thì con sẽ không bao giờ thấy được chân lý tối hậu. Con sẽ luôn luôn thấy nó xuyên qua cỗ xe tâm hồn của mình.

Ở đây có hai khía cạnh mà con cần nhận ra. Ở bên dưới là cá tính của cỗ xe tâm hồn của con, và con sẽ giữ một phần cá tính đó cho tới khi con thăng thiên. Ở bên cạnh là con đường song song của tầng tâm thức của con, là một trong 144 tầng. Con càng tới gần tầng 144 thì nhận thức của con càng tinh khiết, nhưng nó vẫn là một nhận thức cá biệt.

12.6. Cạm bẫy nghĩ mình phải thuyết phục người khác

Khi con nhận ra điều trên thì con tránh rơi vào cạm bẫy đã quyến rũ rất nhiều người. Khi con thương yêu một người, muốn giúp người đó, và thấy họ đang bị kẹt trong một khuôn nếp, thì con nghĩ cách duy nhất để giúp họ là khiến họ thấy chân lý như con thấy. Con hãy nhìn lại những quan hệ của con với người khác và nhớ lại những trường hợp mà con thấy một người – có thể là một đồng nghiệp, người thủ trưởng, cha mẹ mình, con cái mình hay vợ chồng – cần phải thấy một điều mà con thấy nơi họ, nhưng chính họ lại không thấy được? Có phải chăng là tất cả chúng ta đã trải qua những trường hợp tương tự khi chúng ta đầu thai trên trái đất này? Các con có đang kinh nghiệm điều này ngay bây giờ chăng?

Bây giờ con hãy suy ngẫm một điểm vi tế khác nữa. Rất có thể là con có một cái nhìn chính xác là người kia cần vượt qua một khuôn nếp, và người đó đang không thấy khuôn nếp đó hay ảo tưởng đằng sau nó. Rất có thể con thấy rõ điều này, và có thể đúng là người đó cần phải thay đổi. Nhưng, người đó sẽ không thay đổi bằng cách thấy sự thật như con thấy.

Tại sao vậy? Đó là vì sự thật mà con thấy không phải là chân lý tối hậu và chỉ là một chân lý cá biệt. Nó là chân lý cá biệt của con, dựa trên cá tính của cỗ xe tâm hồn của con và trình độ tâm thức hiện tại của con. Điều con thấy không phải là chân lý. Thật ra con cũng không thấy tình trạng của người kia và mối quan hệ giữa con và người đó một cách khách quan và sáng suốt. Điều con thấy là một cảm nhận do cỗ xe tâm hồn con tạo ra. Con đang nhìn sự việc qua một cặp kính mờ, có pha màu. Điều này không có gì sai trái. Ngay lúc này, con không thể làm gì khác.

Điều mà thày muốn chỉ cho con thấy là người kia bình thường sẽ không thấy điều con cảm nhận, vì người đó có cá tính riêng của cỗ xe tâm hồn của họ và họ cũng có trình độ tâm thức riêng của họ. Người đó có thể có một trình độ tâm thức cao hơn hay thấp hơn trình độ của con. Nếu người đó ở trình độ tâm thức thấp hơn con, cũng không có nghĩa là người đó sẽ nâng tâm thức mình lên bằng cách nhìn thấy điều mà con thấy. Người đó vẫn cần thấy sự việc dựa trên cỗ xe tâm hồn của mình và trình độ tâm thức của mình.

12.7. Tự ngã ham muốn được phổ quát

Một hủ hóa phổ thông của tự ngã là nó không nhìn nhận là nó nhìn tất cả mọi việc như một cảm nhận cá biệt. Tự ngã khát khao biến cảm nhận cá biệt của nó thành một sự việc phổ quát bằng cách khiến người khác chấp nhận nó như “sự thực duy nhất”. Đây là điều thày mong giúp con thấy và chất vấn khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày. Điều mà thày mong giúp con nhận ra là tầm nhìn của con sẽ luôn luôn mang tính chất cá biệt khi con còn hiện thân trong cõi vật chất. Điều mà một người khác thấy cũng luôn luôn mang tính chất cá biệt khi người đó còn hiện thân. Người đó sẽ không tăng triển bằng cách thấy sự việc như con thấy. Người đó sẽ tăng triển khi có một tầm nhìn sáng suốt hơn dựa trên cá tính riêng của họ.

Con lên một tầng cao hơn khi con có một tầm nhìn sáng suốt hơn, nhưng cỗ xe tâm hồn của con vẫn dựa trên tính cá biệt của Hiện diện TA LÀ của con. Phải chăng là thày đang nói là Hiện diện TA LÀ cũng có một tầm nhìn cá biệt về thế giới? Đúng vậy. Con sẽ có một tầm nhìn cá biệt cho tới khi con là một với tâm thức của đấng Sáng tạo. Và có khi còn cao hơn nữa, vì lúc đó con là một đấng Sáng tạo cá biệt. Con sẽ không có tầm nhìn nhị nguyên như khi con còn hiện thân, khi con chưa thăng thiên, nhưng tầm nhìn của con vẫn cá biệt. Làm sao có thể khác hơn được?

Cái gì khiến thày là Paul người Venice, mà không phải là Hilarion? Cái gì khiến thày khác thày Hilarion? Thày Hilarion và thày không là một. Các thày có thể hòa nhập và cộng tác năng lượng của mình khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, nhưng hai thày không phải là một. Thượng đế không muốn hai thày trở thành một. Khi hai thày tiến triển thêm trên con đường tiến hóa của mình, sẽ không có một điểm mà hai thày sẽ mất tính cá biệt của mình. Con có nghĩ rằng Alpha và Omega không có cá tính chăng? Dĩ nhiên là không phải vậy. Không ai mất đi cá tính của mình. Con nâng nó lên trình độ càng ngày càng cao hơn. Thày biết là tâm đường thẳng, tâm phân tích không dễ hiểu được điều này, nhưng con nên suy ngẫm với tâm thức hiện tại của con.

12.8. Hai người bạn đời sẽ không thấy bất kỳ chuyện gì hoàn toàn giống nhau

Điều thày có thể làm ở khóa nhập thất của thày là chỉ cho con thấy là cỗ xe tâm hồn của con ảnh hưởng cái nhìn của con về mọi chuyện trên thế gian này. Cái Ta Biết của con có khả năng bước ra ngoài phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn. Con có thể trải nghiệm một thực tại cao hơn, nhưng khi con nhìn về thế gian, khi con không nhìn về Hiện diện TA LÀ, thì con thấy sự việc xuyên qua phin lọc nhận thức của cỗ xe tâm hồn.

Người phối ngẫu trong quan hệ tình yêu của con sẽ không bao giờ – không bao giờ – nhìn đời giống y như con. Đây là một trong những nguyên do phổ thông nhất tạo xung đột trong quan hệ tình yêu. Con nghĩ, vì con đã được dạy dỗ để nghĩ như vậy, là con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó rất giống con. Nhưng sự thực là con có sự thu hút với người bạn đời vì người đó có thể giúp con thấy điều gì đó nơi mình bằng cách phơi bày nó ra. Người đó phơi bày bằng cách nào? Bằng cách khiến con phản ứng lại điều họ làm, chứ không phải bằng cách khiến con thấy sự việc giống như họ thấy.

Thày biết là điều thày vừa nói không giúp các quan hệ tình yêu vận hành suôn sẻ. Đa số không có khái niệm là họ cần nhìn vào cách họ phản ứng lại người bạn đời của họ để khám phá ra những vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ. Thay vào đó, họ nghĩ rằng, trong một quan hệ tình yêu lý tưởng, hai người phối ngẫu nên nhìn sự việc y như nhau. Điều này sẽ không bao giờ xảy ra. Ngay cả nếu điều này có thể xảy ra, thì nó cũng sẽ không giúp con tăng triển.

Chuyện gì xảy ra khi thày hợp lại với thày Hilarion? Chuyện xảy ra là thày nhận ra là thày Hilarion không nhìn sự việc giống như thày. Vì thày là một chân sư thăng thiên, thày không thấy điều đó là một mối đe dọa. Thày nhận ra là thày Hilarion có một quan điểm khác, và điều này có thể giúp thày nhìn vấn đề một cách khác hơn và giúp thày thấy được một cách giải quyết rộng rãi hơn. Đây là sức mạnh của sự khác biệt. Khi thày thấy thày Hilarion nhìn tình hình khác thày, thì ý niệm bản ngã của thày được mở rộng. Thày Hilarion cũng mở rộng ý niệm bản ngã của mình khi thấy thày nhìn tình hình một cách khác.

Đây là trạng thái lý tưởng cho các quan hệ tình yêu trên trái đất. Nhưng điều này không xảy ra vì con người đã bị lập trình để tin một cách lệch lạc rằng, nếu muốn có một quan hệ hài hòa thì hai người bạn đời phải nhìn sự việc giống y như nhau. Nếu con muốn có một quan hệ hài hòa thì con cần nhận ra là cách con nhìn đời là một tầm nhìn cá biệt, và người bạn đời của con không nên nhìn sự việc giống như con và chấp nhận tầm nhìn của con. Người bạn đời của con nên mở rộng tầm nhìn cá biệt của vị ấy, nhưng tầm nhìn này phải được phép giữ cá tính của nó.

Nếu cả hai người trong quan hệ tình yêu đều chấp nhận điều này, và cho phép người kia phát triển theo cách của riêng họ, thì con có thể có một quan hệ hài hòa giúp cả hai tăng triển. Nếu một trong hai người bạn đời không nhận ra điều đó và tiếp tục đòi hỏi người kia phải nhìn đời theo ý mình, thì con không thể có một quan hệ hài hòa. Điều này giản dị không thể có được. Con có thể làm gì để khắc phục khuôn nếp lệch lạc này trong quan hệ tình yêu?

12.9. Phin lọc nhận thức khiến giao tiếp bị che mờ

Ở khóa nhập thất của thày, thày chỉ cho con thấy rõ điều gì xảy ra khi con ở trong một tình huống có sự bất đồng ý kiến hay quan điểm. Thày có thể chỉ cho con trên một màn ảnh cách con nhìn vào tình huống này. Thày có thể chỉ cho con thấy là quan điểm của con bị pha màu. Thày có thể chỉ cho con thấy bằng hình ảnh.

Nếu con muốn có một sự so sánh thô thiển, thì con hãy thử tưởng tượng một cảnh thiên nhiên rất đẹp. Thày cho con đeo vào một cặp kính màu. Con đã nhìn thấy quang cảnh trong khi không đeo kính và con nhìn thấy quang cảnh khi đeo kính, do đó con thấy được là cảm nhận cá biệt của con đã pha màu điều con thấy. Sau đó, thày cho con đeo một cặp kính khác, là cặp kính của người bạn đời của con, và lúc đó con thấy quang cảnh hiện lên ra sao cho người bạn đời của con. Con thấy là cặp kính của con đã loại bỏ một số khía cạnh của quang cảnh khiến con không thấy chúng. Cặp kính đó cũng nhấn mạnh một số khía cạnh khác, khiến chúng trở nên quan trọng hơn với con. Chúng ta có thể thấy kết quả qua một đồ hình: điều gì đã bị nhận thức của con loại đi, và điều gì đã được nhấn mạnh?

Sau đó, thày chỉ cho con thấy đồ hình của tình huống dưới mắt người bạn đời của con mà không có pha màu. Sau đó thày chỉ cho con đồ hình của cách con nhận thức: điều gì bị loại bỏ và điều gì được nhấn mạnh. Sau đó thày chỉ cho con thấy đồ hình của cách người bạn đời của con nhận thức: điều gì bị loại bỏ và điều gì được nhấn mạnh. Con có thể thấy là có một số trường hợp điều mà phin lọc nhận thức của con nhấn mạnh (tức là thấy quan trọng) lại bị phin lọc nhận thức của người bạn đời của con loại bỏ.

Làm sao mà hai con có thể hiểu nhau khi người bạn đời của con không thể thấy một điều mà con cho là rất quan trọng? Như con đã trải nghiệm nhiều lần, hai con nói mà như người kia không nghe. Tình trạng này giống như hai người đang không dùng cùng một ngôn ngữ. Các con có thể đang nói tiếng Anh, tiếng Pháp hay tiếng La tinh, nhưng các con đang không dùng một ngôn ngữ giúp các con thông cảm. Bây giờ thì con thấy lý do vì sao, và khi con bắt đầu thể nhập ý nghĩa của điều đang xảy ra thì con bắt đầu thấy, một cách ý thức, cách cải thiện sự giao tiếp với người bạn đời của mình.

Để bắt đầu con cần vượt qua niềm tin lệch lạc là người bạn đời của con có thể nhìn đời giống như con. Sau đó con cần vượt qua niềm tin lệch lạc là mọi chuyện sẽ tốt hơn nếu người bạn đời của con nhìn đời giống như con. Sau đó con tiến tới tôn trọng sự việc người bạn đời của con không nhìn đời giống con là điều thuận lý, vì người đó lúc nào cũng sẽ nhìn đời xuyên qua phin lọc nhận thức của họ – và tầm nhìn này lúc nào cũng có tính cá biệt. Thay vì bắt đầu một trò chơi quyền lực nhằm ép người bạn đời của mình nhìn đời giống mình, thì con có thể tránh dùng áp lực. Chuyện gì hay xảy ra trong nhiều cuộc đối thoại giữa hai người bạn đời? Một trong hai người trở nên bực bội và muốn người kia nhìn đời giống mình. Sau đó, người đó tìm cách đổ lỗi hay khiến người kia cảm thấy tội lỗi, hay dùng một tình cảm nào khác dựa trên sợ hãi, để khiến người kia chấp nhận cảm quan của mình.

Phương pháp này có bao giờ thành công? Nó có bao giờ đưa tới một cuộc đối thoại xây dựng giữa hai người chăng? Câu trả lời dĩ nhiên là không, vậy tại sao con lại cứ muốn tiếp tục khuôn nếp này? Cách duy nhất để vượt ra khỏi khuôn nếp là tôn trọng sự việc người bạn đời của mình không nhìn đời giống mình là điều thuận lý. Điều thuận lý là người bạn đời của con nhìn đời theo cách của họ. Điều con có thể làm là nói cho người bạn đời cách con nhìn đời, cách con cảm nhận tình hình. Con cũng có thể tìm cách giúp người bạn đời của con thấy rõ họ thấy hay cảm nhận hoàn cảnh như thế nào.

12.10. Giúp hai người bạn đời giao tiếp rõ ràng

Con người thường không rõ họ đang thấy hay cảm nhận một hoàn cảnh như thế nào. Con có thể giúp người bạn đời của con thấy rõ, nhưng con không được tìm cách ép uổng người đó nhìn đời giống như con. Con cần phải lựa chọn muốn người bạn đời của mình nhìn đời giống mình, hay giúp người đó thấy rõ cảm nhận cá biệt của mình là gì.

Nếu con chọn giúp người bạn đời thấy rõ cảm nhận cá biệt của mình, thì đây là nền móng để tạo nên một mối giao tiếp xây dựng giữa hai người. Nếu cả hai người bạn đời đều chọn cách này, thì các con có được một mối giao tiếp xây dựng giúp con giải quyết sự căng thẳng và xung đột vì không ai muốn ép uổng người kia phải nhìn đời “giống mình”. Con có thể chấp nhận những khác biệt của nhau như một điều tích cực, một chất xúc tác giúp tăng triển.

Rất có thể là khi các con giúp nhau giao tiếp rõ ràng và tôn trọng ý mỗi người phát biểu, thì các con sẽ nhận ra hai người giản dị rất khác nhau. Lúc đó các con cần phải lựa chọn. Các con có thể xây dựng một quan hệ dựa trên sự tôn trọng khác biệt chăng? Các con có thể vượt qua ước muốn không thể đạt được muốn tìm một người bạn đời hoàn toàn giống mình và luôn luôn nhìn đời giống mình? Các con có thể chấp nhận một người bạn đời khác mình, và thấy điều này như một nguồn tăng triển và dùng nó một cách xây dựng? Cũng có thể là các con sẽ thành thực nhận ra là sự khác biệt giữa hai người quá lớn, và do đó hoặc các con không thể chung sống trong một quan hệ xây dựng, hoặc các con không thể hỗ trợ nhau thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì quá khác nhau.

Có thể là sau khi đã trao đổi với nhau rõ ràng, điều chính đáng là hai người chia tay và đi con đường riêng của mình. Lúc đó, các con có thể làm việc này một cách an bình và hài hòa hơn là nếu mối quan hệ tan vỡ vì giao tiếp lệch lạc.

Thày tìm cách giúp học viên đến khóa nhập thất của thày thấy rõ cách họ giao tiếp, cách họ cảm nhận sự thật và khả năng giao tiếp một cách cởi mở. Sau khi thày đã làm việc với người học viên một thời gian, thì thày tìm cách giúp người học viên thấy vấn đề thực, sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người. Các học viên có khi khó hiểu được điều này.

Trước khi thày khai triển điều này, thì thày muốn nói như sau: Nếu cả hai vợ chồng có thể tới khóa nhập thất của thày cùng một lúc, và cả hai có cùng trình độ tâm thức, thì thày có thể làm việc đồng thời với cả hai người và giúp họ (khi họ ở trong trạng thái tâm ý thức) giải quyết nhiều chuyện trong quan hệ giữa họ. Nhưng thực tế là rất ít khi người vợ và người chồng cùng lúc ở cùng một trình độ tâm thức.

Khi con tới tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, thì thường khi người bạn đời của con ở tầng tâm thức thấp hơn con, nhưng cũng có trường hợp hiếm hoi là vị ấy ở tầng tâm thức cao hơn. Điều này khiến người phối ngẫu của con khó chấp nhận điều mà con đã chấp nhận về việc giao tiếp, và do đó con cần phải kiên nhẫn và chịu đựng khi làm việc với người phối ngẫu của mình. Nếu con mang được xuống tâm ý thức những điều con học được ở khóa nhập thất của thày, thì con cũng không thể đòi hỏi người phối ngẫu của con, đang có trình độ tâm thức nhiều bước dưới con, phải cải thiện cách cư xử. Một lần nữa, con cần kiên nhẫn.

12.11. Vấn đề sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người

Vấn đề sâu thẳm trong sự giao tiếp giữa con người là gì? Điều gì thường ngăn chặn sự giao tiếp giữa con người? Con có một tiêu chuẩn vỏ ngoài khiến con nghĩ rằng quan hệ hài hòa dựa trên sự giống nhau. Ở trình độ tâm thức hiện tại của con, còn ở xa dưới tầng 144, con vẫn còn nhiều thành phần của tự ngã, và tự ngã luôn luôn cảm thấy bị đe dọa bởi khác biệt.

Mục đích của con gồm hai khía cạnh. Khía cạnh “mục đích” là quan hệ hài hòa, và khía cạnh “làm sao” là cách để đạt mục đích. Con nghĩ con chỉ thực hiện được mục đích bằng cách biến người bạn đời giống mình, tìm một người bạn đời giống mình hay khiến người bạn đời nhìn đời giống mình. Con nghĩ rằng nếu cả hai người nhìn đời giống nhau, thì con sẽ có một quan hệ hài hòa. Nhưng trên thực tế, con sẽ có một quan hệ chết trong đó không có tăng triển.

Vấn đề trong quan hệ giữa con người là con tìm cách thiết lập một trạng thái thường trực có tính chất thiên đàng trong thế giới vật chất. Thực tế sâu thẳm, mà các thày tìm cách giúp con nhận ra trong khóa học này, là thế giới vật chất luôn luôn ở trong trạng thái chuyển tiếp – và điều này rất tốt!

Con hãy đón nhận sự chuyển tiếp! Con hãy đón nhận thay đổi. Con hãy trôi theo Dòng Sông sự Sống. Con đừng tìm cách ngưng bất kỳ điều gì trên trái đất ở một trạng thái nào đó. Con đừng tìm hạnh phúc nơi điều kiện vỏ ngoài của thế gian. Con hãy tìm hạnh phúc bên trong, bằng cách tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống.

Nếu con lúc nào cũng tìm cách giao tiếp dựa trên ý niệm tìm cầu hài hòa, thì rất có thể con sẽ tìm cách dùng áp lực để khiến người bạn đời của con nhìn đời giống con. Hoặc con rơi vào khuôn nếp khác cũng rất phổ thông trong sự giao tiếp giữa con người, là con không nói một điều nào đó vì con không muốn làm người bạn đời bực bội.

Vấn đề thực trong sự giao tiếp giữa con người, là hầu như con không bao giờ nói một cách tự do với người khác. Tình trạng này phổ quát trên trái đất đến độ học viên không thấy hay không tin là có thể giao tiếp một cách tự do với một người khác. Đây là kết quả của kinh nghiệm sống của con. Con gặp một người, con nói một chuyện mà con nghĩ hoàn toàn vô sự, và đột nhiên người kia cảm thấy bị va chạm và trở nên rất bực bội. Con ngồi đó và không hiểu tại sao người đó lại phản ứng như vậy.

Khi con đã trải nghiệm điều này nhiều lần với cha mẹ, anh chị em, thày giáo, vợ chồng hay con cái, thì con tạo một khuôn nếp khiến con không tin mình có thể tự do phát biểu. Con lúc nào cũng tìm cách lượng định xem người kia sẽ phản ứng ra sao trước khi con nói điều gì. Như vậy làm sao con có thể tự do giao tiếp?

12.12. Cố gắng đạt được tự do giao tiếp

Thày muốn cho con một mục đích khác. Khi con có một quan hệ tình yêu, con đừng đặt mục đích tạo một quan hệ hài hòa. Con hãy đặt mục đích cố gắng tạo điều kiện để cả hai có thể phát biểu tự do.

Con hãy tìm cách giúp nhau tới điểm cả hai người không phản ứng với nhau qua tự ngã. Con hãy đặt mục đích cho người kia tự do phát biểu mà không sợ phản ứng tiêu cực của con. Con hãy cho mỗi người quyền tự do ngôn luận.

Con hãy suy ngẫm về quyền tự do ngôn luận được coi là được hiến chương các nước dân chủ bảo đảm. Trong bất cứ xã hội nào, ngôn luận có thực sự tự do chăng khi con nói điều gì và bị một phản ứng tiêu cực khiến mình rất khó chịu? Con có thực sự được hoàn toàn tự do nói điều mình muốn nói? Thày không nói rằng có thể có một xã hội trong đó con người có quyền tự do nói bất cứ điều gì mình muốn mà không bị phản ứng từ một số người nào đó.

Thày cũng không nói rằng, trong một quan hệ giữa hai người, con có thể nói bất cứ điều gì con muốn mà không bị người kia phản ứng. Con có thể đặt mục đích cho mỗi người quyền tự do nói bất cứ gì họ muốn, và sau đó, cho người kia quyền tự do nói lại bất cứ gì người đó muốn dựa trên phản ứng của họ.

Nếu con cố gắng thì có thể tới điểm con không phản ứng dựa trên sợ hãi, dù người kia nói điều gì khiến con phản ứng. Điều con có thể làm là nói: “Vợ hay chồng tôi nói điều này. Tôi cảm thấy phản ứng này nơi tôi, nhưng thay vì biểu lộ phản ứng này bằng cách tỏ ra bực bội, tôi sẽ đứng lùi lại và mô tả phản ứng của tôi cho vợ hay chồng tôi.” Có điểm khác biệt giữa cảm thấy giận và phát biểu sự giận dữ đó bằng lời nói, và cảm thấy giận và bước ra ngoài cảm giác giận và nói với người vợ hay chồng: “Hãy để tôi mô tả tôi cảm thấy gì khi anh/em nói điều này.”

Khi con làm như vậy, thì con khiến cuộc giao tiếp đỡ căng thẳng. Một người phối ngẫu có thể nói bất cứ điều gì họ muốn và người kia không cần phải đè nén phản ứng, vì đây không phải là một khuôn nếp lành mạnh. Thay vào đó, con có thể mô tả phản ứng của mình, và con có tự do làm điều này. Điều này giúp người phối ngẫu nhận ra rằng, khi họ phát biểu cách nào đó thì họ tạo phản ứng nơi con. Lúc đó, con có thể nhìn phản ứng của mình và xem có cách nào để vượt qua nó.

Trong nhiều trường hợp, con sẽ thấy là người phối ngẫu của con hoàn toàn không biết là con đã phản ứng như vậy và tại sao con lại phản ứng như vậy. Người phối ngẫu của con không có ý định làm con giận dữ (hay có cảm xúc nào khác). Sau đó, các con có thể bắt đầu thảo luận chuyện gì đã xảy ra. Con có thể bắt đầu hỏi vì sao người phối ngẫu của con lại cần nói điều khiến con giận dữ. Khuôn nếp nào đã khiến cho người phối ngẫu của con nói chuyện đó? Người phối ngẫu của con phản ứng ra sao khi con giận dữ, khi con biểu lộ sự giận dữ? Con có thể dần dần xây dựng sự thông cảm khiến con không phản ứng lại nhau dựa trên nỗi sợ bị đe dọa hay bị hất hủi.

12.13. Kết quả của giao tiếp lệch lạc

Khi con giao tiếp lệch lạc và muốn người phối ngẫu của con nhìn đời giống mình, thì kết quả là gì? Thày đã nói là ước muốn khiến người phối ngẫu của mình nhìn đời giống mình là điều hoàn toàn không thể làm được, do đó điều đó sẽ không xảy ra. Con cảm thấy gì khi người phối ngẫu của con không nhìn đời giống con? Con cảm thấy bị hất hủi!

Khi con xây dựng phương thức giao tiếp tự do mà thày đã trình bày, con sẽ tới điểm cả hai người bạn đời không cảm thấy bị hất hủi khi không được hiểu. Con cũng có thể tới điểm bắt đầu thấy việc người bạn đời không nhìn đời giống mình là một điều lợi ích. Điều đó giúp con có một tầm nhìn rộng rãi hơn, và giúp con mở rộng ý niệm bản ngã của con và khả năng phản ứng một cách xây dựng.

Khi thày và học viên quan sát các mối quan hệ trên trái đất ở khóa nhập thất của thày, ta có thể thấy một cách dễ dàng vì sao sự giao tiếp giữa con người hay bị ngăn chặn. Có rất nhiều trường hợp hai người bạn đời ngồi đó và cảm thấy có sự căng thẳng giữa họ, và một hoặc cả hai ngậm miệng và không dám phát biểu những gì họ cảm thấy. Điều này chỉ khiến tình thế trở nên căng thẳng hơn. Nó tích lũy năng lượng sợ hãi vì khi con đè nén cảm xúc của mình thì con tạo ra năng lượng sợ hãi.

Tại sao con lại đè nén cảm xúc của mình? Con sợ phản ứng sẽ hướng tới con khi con phát biểu cảm xúc của mình, do đó chính sự sợ hãi đã đè nén cảm xúc của con. Con sợ sự phản ứng đến độ sự sợ hãi của con mạnh hơn cảm xúc của con do đó con đè nén cảm xúc. Điều này chỉ có tác dụng gia tăng sự căng thẳng. Nó tạo ra niềm uất hận đối với người bạn đời, vì con nghĩ rằng chính vì lỗi người đó mà con không phát biểu được cảm xúc của mình. Phải chăng đó là lỗi người bạn đời của con, hay đó chỉ là sự vận hành lệch lạc của các quan hệ trên trái đất, đã được tạo ra trong hoàn cảnh dễ đưa tới thất bại? Con có thể bắt đầu bước ra ngoài tiến trình này chăng, nhận biết nó một cách ý thức, và làm việc với nhau cho tới khi con cho phép mỗi người nói điều gì họ cần nói, và cho phép người kia nói điều người đó cần nói để trả lời? Thay vì phản ứng dựa trên sợ hãi chỉ có tác dụng tạo ra một vòng xoắn hướng hạ càng ngày càng ngăn trở sự giao tiếp giữa hai người, thì con có thể dần dần xây dựng một vòng xoắn hướng thượng mở rộng dòng chảy giao tiếp giữa hai người.

12.14. Quan hệ hài hòa và giao tiếp tự do

Con yêu dấu, có thể con mơ ước có một quan hệ hài hòa, nhưng nó không thể thành tựu bằng cách trấn áp sự giao tiếp. Quan hệ hài hòa không thể có được khi cả hai người bạn đời, hay ngay cả chỉ một người, không dám phát biểu tự do. Nếu con tới điểm cả hai người có thể phát biểu tự do, thì con có thể có một quan hệ hài hòa, nhưng con sẽ có một quan hệ giúp tăng triển. Khi con trao người kia quyền tự do, thì con cũng tự cho mình quyền tự do, và do đó căng thẳng tan biến. Phải chăng chính căng thẳng đã tạo ra bất hài hòa?

Con không xây dựng hài hòa bằng cách tạo sự giống nhau. Con xây dựng hài hòa bằng cách xây dựng giao tiếp tự do cho phép khác biệt được phát biểu tự do mà không tạo căng thẳng. Đó là điều các thày tìm cách dạy con ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày.

Người phối ngẫu của con có thể không ở cùng trình độ tâm thức với con, nhưng vị đó vẫn có thể chấp nhận một số ý mà thày vừa trình bày. Con có thể dùng các ý này trong tâm ý thức của con để cải thiện sự giao tiếp trong tất cả các mối quan hệ của con. Con có thể sẽ gặp trường hợp người kia không chịu thay đổi, nhưng đó sẽ chỉ là một cơ hội để con mở rộng khả năng giao tiếp tự do của mình. Và con sẽ rốt cuộc tuôn chảy về một tình huống khác.

Con có thấy chăng điều thày muốn dạy con ở đây? Con đừng tìm cách ép uổng khi ở trong một mối quan hệ. Con hãy làm việc để cải thiện chính mình, con hãy tiếp tục làm như vậy, bất kỳ người kia phản ứng ra sao. Lúc đó, con sẽ càng ngày càng buộc chặt mình vào Dòng Sông sự Sống cho tới ngày con có thể buông bỏ các mối dây ràng buộc con vào một cảnh huống và tuôn chảy đi, bất kỳ sự tuôn chảy này diễn đạt ra sao trên cõi vật lý.

Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng hơn bất cứ quan hệ nào. Nếu cả hai người đều theo con đường tâm linh, thì họ phải có khả năng chấp nhận điều này cho cả hai người. Con không thể chờ đợi người bạn đời của con tạm ngưng hay hủy bỏ một phần quan trọng của Sứ vụ Thiêng liêng của người đó để duy trì một quan hệ mà con coi là đúng hay hài hòa. Nếu cả hai con đều thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con sẽ thấy là cả hai người sẽ thực thi được Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong lúc cả hai có quan hệ với nhau. Hoặc con thấy cả hai không thể thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của mình và vẫn có quan hệ với nhau, lúc đó các con sẽ chia tay trong sự hài hòa, hiểu biết và chấp nhận.

Khi con mở rộng tầm nhìn của mình và nhận ra tầm nhìn của mình không phải là chân lý tối hậu, con sẽ càng ngày càng tự do tuôn chảy và để người khác tuôn chảy. Đây là căn bản để bắt đầu phụng sự sự sống, thay vì nghĩ rằng sự sống phải phục vụ mình – hay đúng hơn là phục vụ tự ngã, và cảm nhận nhị nguyên, vị kỷ của nó. Dĩ nhiên, đây là đề tài của các khai ngộ ở tầng kế tiếp, tầng của tia thứ sáu.

Bây giờ thì thày chúc con chiêm nghiệm niềm vui của sự giao tiếp hoàn toàn tự do với một người khác. Đây có thể là một trải nghiệm rất mãn nguyện. TA LÀ Paul người Venice.

10 | Tình thương và Tinh khiết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 6/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice, Thượng sư của Tia thứ Ba. Vì sao, ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, việc con trải nghiệm tình thương vô điều kiện lại tối quan trọng? Vì sao việc con nhận biết có ý thức tình thương vô điều kiện và biết rằng mình được thương yêu vô điều kiện lại tối quan trọng? Các trải nghiệm này quan trọng vì chúng sửa soạn con đối mặt các khai ngộ ở tầng thứ tư là nơi năng lượng của tình thương phối hợp với Tia thứ Tư là tia của Tinh Khiết. Tinh khiết lúc nào cũng là một thách đố cho các đệ tử đang đi trên con đường tâm linh.

10.1. Những khai ngộ của Tia thứ Tư

Mục đích của ba tia đầu là chuẩn bị con đón nhận những khai ngộ về tinh thiết. Thách đố chính của tinh khiết là khi con gặp Tia thứ Tư, ánh sáng trắng xuyên suốt của nó phơi bày những bợn nhơ trong con người con. Rất có thể là khi con thấy những bợn nhơ mà trước kia con không thể hay không muốn thấy, con bị xáo trộn nhiều. Con bắt đầu cảm thấy là nếu con có nhiều bợn nhơ như vậy, làm sao con được cứu rỗi? Khi con đã trải nghiệm là tình thương của Thượng đế vô điều kiện, thì con biết là bất kể những điều bợn nhơ mà con khám phá trong con người mình, con không bao giờ mất tình thương vô điều kiện của Thượng đế.

Những bợn nhơ mà con khám phá chỉ có thể là điều kiện trong thế giới vật chất. Làm sao các điều kiện trong thế giới vật chất lại có thể khiến con không xứng đáng nhận tình thương vượt lên trên điều kiện và đến từ một cõi cao? Thày biết là con hiểu được điều này bằng trí năng, nhưng con sẽ không sẵn sàng đón nhận các khai ngộ của tầng thứ tư khi con chưa trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Dĩ nhiên là thày sẽ không cho phép con đối diện các khai ngộ đó nếu con chưa sẵn sàng, vì con có thể rơi vào vòng xoáy hướng hạ của mặc cảm tự trách.

10.2. Nỗi đau đớn không thể tránh khi thấy bợn nhơ

Thày rất muốn giúp con đi con đường tu một cách suôn sẻ, nhưng thày phải nói là ở tầng thứ tư có một điều không thể tránh. Một trong những bợn nhơ mà con thấy trong con người mình chính là khuynh hướng lên án, phán xét và miệt thị mình. Con có khuynh hướng này nếu con đã sống và lớn lên trên trái đất. Không thể có cách nào khác vì hành tinh đã quá thấm đẫm tâm thức phán xét của sa nhân. Tất cả các con có khuynh hướng này khi tới khóa nhập thất của thày. Không ai có thể tránh được.

Khi con khám phá là con có khuynh hướng phán xét, một điều không thể tránh là con sẽ phán xét mình là đã có cái bợn nhơ đó. Con không hoàn toàn giải thoát khỏi tâm thức đó. Con yêu dấu, con có thấy chăng? Con có thấy cách chuyện này vận hành chăng? Làm cách nào để con tẩy sạch một bợn nhơ? Con phải bắt đầu bằng cách thấy có ý thức là mình có bợn nhơ đó. Lúc con thấy con có bợn nhơ thì con vẫn còn có nó; con chưa giải thoát khỏi nó. Khi con thấy con có một bợn nhơ, con sẽ có khuynh hướng phản ứng qua bợn nhơ phán xét chính mình. Ở tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày, có một nỗi đau đớn không thể tránh được. Đúng ra, có một nỗi đau đớn không thể tránh được ở mỗi tầng trên con đường tu.

Chúng ta, những người đã từng đầu thai trên trái đất, chúng ta biết là chúng ta không thoải mái khi nhìn lại chính mình và thấy mình có bợn nhơ, thấy mình có một khuôn nếp tai hại cho chính mình. Con sẽ không bao giờ thoải mái khi con thấy điều này. Con sẽ bị chấn động, nhưng nếu con đã trải nghiệm tình thương vô điều kiện, thì con có thể bắt đầu tìm được cách để đối phó tích cực với sự chấn động này.

Chuyện gì xảy ra khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Phần nào của con, của tâm lý, con người của con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Con có nghĩ là tự ngã có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện chăng? Dĩ nhiên là không. Trí năng phân tích có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện chăng? Không đâu, vì nó sẽ muốn cho tình thương một số đặc tính để nó phân tích và phân loại. Tình thương vô điều kiện không có điều kiện vì nó vượt lên trên tất cả những gì có thể được quy định trên trái đất.

Chỉ có một phần trong con người con có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện, đó là cái Ta Biết. Con chỉ có thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện khi cái Ta Biết bước ra ngoài cỗ xe gọi là tâm hồn, hay bốn thể phàm, tâm vỏ ngoài, tự ngã hay tên nào khác dùng để chỉ tổng hợp mà con dùng như một cỗ xe để biểu hiện trong thế giới vật chất. Khi con bước được ra ngoài nó, dù chỉ trong một khoảng khắc, đó là lúc con trải nghiệm sự vô điều kiện.

10.3. Cái Ta Biết không phản ứng

Một khi con đã trải nghiệm điều này một cách ý thức thì con có thể dùng kinh nghiệm đó để xem xét cách con phản ứng khi con phải đối đầu với điều gì đó mà con thấy trong tâm mình. Con có thể bắt đầu tự hỏi: “Cái gì đang phản ứng như vậy? Có phải là cái Ta Biết, là con người thực của mình, hay là một khía cạnh của tâm hồn là cỗ xe vỏ ngoài, hay là tự ngã, hay là một phàm linh nội tại, hay là một thói quen mà tôi đã tu bồi?” Đó là lúc con bắt đầu thấu hiểu lý do chính đã thúc đẩy các thày truyền giáo lý về cái Ta Biết. Sự thực trần trụi, thoạt tiên khó lĩnh hội, là cái Ta Biết không phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất.

Chắc con có nghe câu chuyện Phật Thích ca ngồi tọa thiền dưới cội Bồ đề, và trước khi ngài nhập Niết bàn, thì ác ma Mara xuất hiện để cám dỗ ngài. Ác ma tìm đủ mọi cách để khiến ngài phản ứng, nhưng vì ngài đã hiểu thấu suốt là ngài là sự nhận biết thuần khiết và không là bợn nhơ nào của tâm phàm phu, nên ngài đã giữ tâm vững chãi và không phản ứng. Ngài không còn điều kiện nào trong tâm nên ác ma không có gì để khiến ngài phản ứng do có điều kiện.

Điều này thoạt tiên rất khó hiểu. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên không hiểu được chuyện này, và có khi họ còn dùng nó để chối bỏ ý niệm cái Ta Biết. Con dễ chối bỏ một điều gì nếu con không thích hệ quả của nó. Thày bảo đảm với con là tự ngã không muốn biết là cốt lõi con người không phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất. Vì sao vậy? Tự ngã dùng cách gì để nắm bắt con? Bằng cách khiến con phản ứng.

Con có thể nghĩ câu nói trên mâu thuẫn. Cái Ta biết không phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất, nhưng tự ngã có thể nắm bắt con khi nó khiến con phản ứng. Làm sao lại có thể như vậy? Chuyện này có thể xảy ra vì cái Ta Biết không phản ứng khi nó biết nó là nhận biết thuần khiết, nhưng cái Ta Biết có thể nhập vào một phàm linh nội tại hay một phin lọc nhận thức. Lúc đó cái Ta Biết trải nghiệm thế giới xuyên qua phin lọc đó, và phin lọc phản ứng. Khi cái Ta Biết quên mình là nhận biết thuần khiết và tự đồng hóa với phin lọc, thì cái Ta Biết trải nghiệm là nó đang phản ứng.

Làm sao con trở nên giống Phật? Bằng cách bắt đầu nhận biết là, tuy có một tiến trình trong tâm con phản ứng lại thế giới bên ngoài, tiến trình này không phải là con. Con hơn thế. Khi con trong lọc cái Ta Biết khỏi tất cả ảo tưởng của màn huyễn Maya – ảo tưởng rằng con là cái này cái kia trên trái đất – thì lúc đó con nhận biết rằng con là nhận biết thuần khiết. Khi con biết con là nhận biết thuần khiết, con biết con không cần phản ứng lại bất cứ điều gì trên trái đất.

Thật ra con không phản ứng. Con trở nên một cánh cửa mở khi con trải nghiệm một điều kiện trên trái đất, nhưng con không phản ứng lại nó. Con để kinh nghiệm đó đi thẳng tới Hiện diện TA LÀ của con. Con cho phép Hiện diện trải nghiệm và xứ lý điều kiện đó, tạo ra một kinh nghiệm tích cực, nâng đỡ sự sống và bỏ nó vào căn thể của con. Con có thấy điểm khác biệt cơ bản chăng?

Khi cái Ta Biết quên nó là ai, nó tưởng nó là một sinh thể độc lập, tách biệt. Lúc đó, cái Ta Biết tưởng rằng nó phải phản ứng lại tất cả mọi chuyện trên trái đất, phải làm chuyện gì đó trên thế gian này, phải thành tựu điều gì, phải nhận lãnh trách nhiệm. Con tưởng con là người hành động, như Giê-su đã giảng mấy ngàn năm trước đây: “Tự ta không làm được điều gì cả.”

Khi cái Ta Biết tưởng nó là người hành động, nó tưởng nó là người phải xử lý mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất. Con không cần phải xử lý bất cứ chuyện gì xảy ra trên trái đất. Con trải nghiệm nó, và con để kinh nghiệm đó lên tới Hiện diện TA LÀ và để Hiện diện TA LÀ xử lý kinh nghiệm. Và con chờ. Nếu cần có một phản ứng bên ngoài, thì con để nó tới từ Hiện diện thay vì quyết định với tâm vỏ ngoài phải đáp ứng làm sao.

10.4. Con không phải phản ứng ngay tức khắc

Một trong những cách chính mà sa nhân, tự ngã của con, và người khác dùng để giựt dây con là đẩy con vào tình thế khiến con cảm thấy: “Đây là một chuyện tôi phải phản ứng ngay bây giờ! Không có thì giờ bước ra ngoài tâm vỏ ngoài, để kinh nghiệm dâng lên Hiện diện TA LÀ, và đợi câu trả lời của Hiện diện một cách bình tĩnh và vô tư.” Những người đó muốn con nghĩ là con không có thì giờ. Con phải phản ứng ngay bây giờ. “Tôi muốn một câu trả lời ngay bây giờ. Quý vị phải phản ứng ngay bây giờ.”

Con có thấy chăng đây là cách quan hệ tình yêu vận hành? Nhiều người trong các con đã trải nghiệm có người bạn đời trở nên khó chịu và nóng nảy, và lúc đó điều gì khiến họ bực tức nhất? Họ bực tức nhất khi con làm ngơ, không phản ứng lại sự khó chịu của họ. Lúc đó họ trở nên khó chịu tột đỉnh. Vậy con làm gì khác đi? Con nhập vào tâm vỏ ngoài và phản ứng qua tâm vỏ ngoài.

Con yêu dấu, con hãy thành thật nhìn lại cuộc đời của mình và thấy có khi nào phản ứng lại một tình thế với tâm vỏ ngoài đã cải thiện tình hình chăng? Có phải chăng là những lúc đó, con chỉ tạo ra một phản ứng nơi người kia, dẫn tới một phản ứng khác nơi con? Không lâu sau, con đã tạo một vòng xoáy hướng hạ cuốn cả hai người và khiến cả hai đều không thể phản ứng với tình thương. Hai bên bị mắc kẹt trong phản ứng qua những vết thương tâm lý của mình, và cả hai bên không có khả năng kéo mình ra và ngưng tình trạng căng thẳng, tranh cãi hay khuôn nếp mà hai bên đang kẹt vào.

10.5. Con có quyền trì hoãn phản ứng

Con có quyền trì hoãn phản ứng lại một tình thế. Thày nhìn nhận có trường hợp con cần hành động nhanh chóng. Nhưng cũng có rất nhiều trường hợp con có thể nói: “Tôi rất tiếc nhưng tôi cần thì giờ để xử lý tình hình và tìm ra một đáp ứng dựa trên tình thương.” Người bạn đời của con có thể không thỏa mãn với câu trả lời này, nhưng con có quyền đứng ra ngoài và không phản ứng lại tình hình ngay lúc đó, đặc biệt nếu con cảm thấy một phản ứng cảm xúc đang dâng lên trong con, và con biết là con sẽ lặp lại một khuôn nếp cũ.

Nhiều quan hệ đã đổ vỡ khi cả hai người đi vào khuôn nếp phản ứng khi vòng xoáy khởi sự và không ai có thể ngưng được nữa. Một khi con bị cuốn vào vòng xoáy hướng hạ và cảm thấy mình phải phản ứng ngay lúc đó, thì không còn chỗ cho một phản ứng dựa trên tình thương. Lúc đó con – cả hai người – phản ứng qua bất cứ khuôn nếp hay phàm linh nội tại nào. Nếu muốn ngưng vòng xoáy, thì ít nhất một trong hai người phải bước ra ngoài vòng xoáy, nhìn tình thế từ bên ngoài và tìm một phản ứng khác.

Cũng có thể là giải pháp này không thành công. Người bạn đời của con có thể không thay đổi, nhưng con cũng đã gây dựng một động lượng giúp con tuôn chảy qua một tình thế khác. Con sẽ không bao giờ gặt hái kết quả xấu khi con dùng một phản ứng dựa trên tình thương. Con có thể không có được một phản ứng dựa trên tình thương từ người bạn đời của con. Trong ngắn hạn, con có thể có cảm tưởng là con càng biểu lộ tình thương thì người bạn đời của con càng khó chịu. Con cần hiểu lý do tại sao.

10.6. Phàm linh tăm tối được nuôi dưỡng bởi vòng xoáy tiêu cực

Có một thước đo mà con có thể áp dụng vào hầu hết mọi quan hệ. Khi cả hai bên đều bị mắc kẹt trong phản ứng dựa trên sợ hãi thì vòng xoáy không thể ngưng được. Nếu một trong hai người có thể bước ra ngoài vòng xoáy và tìm ra một phản ứng dựa trên tình thương, thì vòng xoáy bị thách thức. Nếu người kia phản ứng bằng cách trở nên khó chịu hơn nữa, thì con biết là người đó bị mắc kẹt trong một phàm linh nội tại đang không muốn người đó được tự do có một phản ứng dựa trên tình thương.

Nếu con có thể đáp ứng với người bạn đời của mình với tình thương và người đó khó chịu hơn với con, thì con biết có phàm linh nội tại, và cũng có thể có phàm linh bên ngoài và ác quỷ đang dùng người đó để lấy năng lượng của con. Các phàm linh tăm tối đó giản dị muốn vòng xoáy tiếp tục để cả hai người đổ năng lượng vào đó. [muốn có thêm chi tiết về đề tài này, xem quyển Vũ trụ quan về sự ác độc]

Một con người lúc nào cũng đáp ứng lại tình thương một cách tương đối tích cực. Phàm linh tăm tối thì dĩ nhiên không. Chúng sẽ làm chuyện mà chúng vẫn làm: tìm cách miệt thị tình thương. Khi người bạn đời của con phản ứng lại tình thương dựa trên sợ hãi, con biết người đó không phản ứng như một con người vì đang bị mắc kẹt trong một phàm linh. Trong đa số các quan hệ, cả hai người đều bị mắc kẹt trong phàm linh. Họ phản ứng qua phàm linh và đó là lý do vì sao vòng xoáy không thể bị cắt đứt. Khi một người có thể bước ra ngoài và người kia vẫn phản ứng một cách khó chịu, thì con biết người đó đang bị phàm linh tăm tối tạm thời làm chủ.

Lúc đó con có thể đọc lời kêu gọi để xin người bạn đời của con được giải thoát khỏi các phàm linh và tà lực đó. Nếu người bạn đời của con là người tâm linh, thì con có thể nói chuyện với người đó về chuyện đọc bài chú bài thỉnh khi người đó không khó chịu. Nhưng con không thể ép buộc người đó. Con cần cho người đó thời gian. Nhưng con có thể đọc bài chú bài thỉnh. Con có thể cố gắng luôn luôn phản ứng với tình thương – ngay cả khi người bạn đời của con khó chịu. Con có thể từ chối không bị ép phải theo các khuôn nếp cũ, và con đợi đến lúc con nhận được tín hiệu từ Hiện diện TA LÀ là đã đến lúc con đi tiếp cuộc đời mình. Lúc đó con đi tiếp cuộc đời mình và tha thứ.

10.7. Thăng vượt ký ức về bợn nhơ

Nếu con không đi tiếp cuộc đời mình và ở lại trong quan hệ, thì con và người bạn đời gặp thách đố kế tiếp. Ta hãy giả thử con nhận ra là có một khuôn nếp trong quan hệ giữa hai người. Cả hai người cố gắng thấy cái gì trong chính mình đã khiến mình phản ứng, và con thăng vượt khuôn nếp đó. Sau đó, con gặp thách đố kế tiếp về tinh khiết. Một khi con đã nhìn nhận là mình có bợn nhơ, đã nhìn vào bợn nhơ và thấy ảo tưởng đã tạo ra nó, thì con sẽ làm gì để vượt qua ký ức đã có bợn nhơ đó?

Trước hết, con phải thấy bợn nhơ. Sau đó, con phải sẵn sàng đi sâu vào nó và nhận ra ảo tưởng đã khiến con phản ứng với sợ hãi. Khi con đã thấy ảo tưởng và làm nó tan đi, con được giải thoát khỏi khuôn đúc. Lúc đó con có thể dùng các bài chú và bài thỉnh mà các thày đã cung cấp để tiêu trừ năng lượng mà con đã tha hóa. Một khi con đã tiêu trừ năng lượng, thì coi như con đã thoát khỏi bợn nhơ, nhưng con chưa thoát hoàn toàn vì con vẫn còn ký ức về nó.

Con hãy lấy thí dụ một quan hệ đã bắt đầu trở nên trưởng thành và có ý thức hơn. Con và người bạn đời đã có thể thảo luận về một số khuôn nếp trong quan hệ giữa hai người. Các con đã có thể giúp nhau thấy rõ hơn phản ứng của mình và nâng mình lên khỏi chúng. Lúc đó các con phải làm gì với ký ức các con có vấn đề đó trong quá khứ, và một người thì trước kia như thế này, và người kia thì trước kia như thế nọ?

Sự thách đố của tinh khiết, của Tia thứ Tư, không phải chỉ vỏn vẹn là thay đổi thái độ, cách cư xử, niềm tin và thanh lọc năng lượng. Nó còn bao gồm thanh lọc hoàn toàn tâm khỏi ký ức. Tha thứ quan trọng, nhưng tha thứ không trọn vẹn khi con chưa quên đi điều sai. Đây là thách đố lớn nhất của Tia thứ Tư: làm sao con xóa được ký ức?

Ở đây, thày không nói tới những quan hệ trong đó có những hình thức bạo hành hiển nhiên. Thày nói tới đa số quan hệ trong đó không có bạo hành vật lý, lạm dụng tình dục hay những hành động bạo hành tương tự. Các trường hợp này phức tạp hơn và đi quá khuôn khổ của bài giảng này. Thày muốn nói tới những quan hệ đã đi vào một khuôn nếp tiêu cực. Con phải làm gì khi con đã phá vỡ được khuôn nếp? Làm sao con quên được kỷ niệm cũ?

Tình thương vô điều kiện là yếu tố cơ yếu để làm điều này. Chuyện gì xảy ra khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Con nhận ra, hay ít nhất là con bắt đầu nhận ra, là nếu tình thương của Thượng đế vô điều kiện, thì bất cứ chuyện gì con đã làm trên trái đất, con có thể thoát khỏi nó. Đây là một điều nhiều người khó chấp nhận. Ngay cả các đệ tử chân sư thăng thiên cũng không chấp nhận hoàn toàn. Lý do là vì hành tinh này đã quá thấm đẫm với tính phán xét của sa nhân.

10.8. Bản chất của tâm thức phán xét

Bản chất của tâm thức phán xét là gì? Nó muốn con cảm thấy là, vì con đã làm một chuyện cực kỳ sai trái, con không thể được cứu rỗi, con không thể trở về với tinh khiết. Vì sao Giê-su lại nói là chỉ có người xuống từ thiên đàng mới có thể trở lên thiên đàng? Đó là vì “người” xuống từ thiên đàng là cái Ta Biết, và nó là nhận biết thuần khiết. Làm cách nào cái Ta Biết thăng thiên trở về với Hiện diện TA LÀ? Cách duy nhất là nó trở thành nhận biết thuần khiết trở lại, và không tự đồng hóa với bất cứ điều kiện nào trong cỗ xe tâm hồn.

Điều mà thế gian, ác quỷ trong thế gian, muốn con tin là vì cái Ta Biết đã nhập vào tâm vỏ ngoài và nhìn thế gian qua nó, nó không thể bước ra được nữa. Ý niệm này ảnh hưởng con ra sao? Nó khiến con chấp nhận ý niệm do sa nhân tạo ra, là nếu con muốn thăng thiên trở về thiên đàng, thì con cần kiện toàn cỗ xe tâm hồn. Con cần thanh lọc những gì tâm thức phán xét định nghĩa là bợn nhơ để rồi trong cỗ xe tâm hồn chỉ còn những gì được gọi là tinh khiết. Rất nhiều người đã bị lừa bởi ý niệm này – rất nhiều người.

10.9. Phán xét chính mình và người bạn đời

Tâm thức phán xét ảnh hưởng con ra sao? Nó khiến tâm con lúc nào cũng phán xét, lượng định và phân tích chính mình. Vì con người không chịu nổi điều này, đa số làm gì? Họ vào tâm thức mà Giê-su đã mô tả khi thày nói về cái đà trong mắt mình. Con không chịu được sự thường xuyên phán xét chính mình, nhưng con không ngưng được tâm thức phán xét, nên con hướng nó về phía người khác thay vì hướng về mình. Ai là người chính mà con hướng nó tới? Đó là người bạn đời của con trong quan hệ tình yêu. Cũng có thể có người khác bị phán xét, nhưng chắc chắn là người bạn đời của con chịu phần nặng nhất. Các con đều đã trải nghiệm là khi con đang yêu thì con không làm điều này.

Con có thấy chăng là khi con đang yêu, thì khuynh hướng phán xét được tạm thời bỏ qua bên? Có phải chăng là lúc đó con nghĩ con đã tìm ra người bạn đời lý tưởng sẽ khiến con toàn vẹn và cảm thấy mãn nguyện với chính mình? Khi trạng thái ảo tưởng này tồn tại, con không có nhu cầu phán xét người bạn đời. Khi tuần trăng mật kết thúc, như người ta thường nói, con trở lại các khuôn nếp cũ. Một ngày nào đó, con nhận ra là người bạn đời không đạt được hình ảnh lý tưởng mà con có về người ấy, người ấy sẽ không khiến con toàn vẹn, sẽ không khiến con cảm thấy mãn nguyện với chính mình. Lúc đó, con trở lại khuôn nếp hướng sự phán xét về phía người khác.

Rất nhiều người bị mắc kẹt trong khuôn nếp bất mãn với chính mình đến độ họ không chịu nổi. Họ đẩy lui cảm giác này đi để sinh tồn, phóng chiếu rằng nếu người khác có tật này tật nọ, thì mình không toàn hảo cũng không sao. Con hãy đứng lui lại và tự hỏi: “Cảm giác mình là người xấu, mình thiếu khả năng, không toàn vẹn từ đâu tới?”

Làm sao cái Ta Biết có thể không toàn vẹn hay xấu khi nó là nhận biết thuần khiết và không có điều kiện? Ý niệm mình xấu từ đâu tới? Nó tới từ tâm thức phán xét. Không phải là cỗ xe tâm hồn của con là người xấu hay người tội lỗi. Ý niệm con là người xấu hay người tội lỗi chỉ phát xuất từ tâm thức phán xét do sa nhân tạo ra. Con sẽ luôn luôn cảm thấy bất mãn với chính mình cho tới khi con nhận ra cái khiến mình bất mãn là một trạng thái tâm thức mà con đã nhận vào trong cỗ xe tâm hồn của mình. Con phán xét mình theo tâm thức đó, và con chỉ thấy được những điều khiến con bất mãn.

Con có thể làm điều mà rất nhiều người tìm tâm linh đã làm: tìm cách thanh lọc mình khỏi tất cả những gì bị giáo lý tâm linh coi là “xấu”. Con có thể ra sức đọc thật nhiều bài chú bài thỉnh – hay thanh lọc mình hay nhịn ăn hay làm điều này điều nọ – cho đến khi con cảm thấy là mình đã sống theo các điều kiện mà giáo lý cho là tinh khiết. Điều mà con sẽ khám phá sau khi làm xong công việc này là, tuy con có tiến bộ, nhưng con vẫn bất mãn với chính mình. Lý do là không phải các bợn nhơ đã khiến con bất mãn, mà là tâm thức phán xét dựa trên một tiêu chuẩn quy định thế nào là tinh khiết thế nào là bợn nhơ. Con sẽ chỉ ngưng không cảm thấy bất mãn với chính mình khi con tiếp cận sự tinh khiết vô điều kiện của Thượng đế. Một khi con trải nghiệm tình thương vô điều kiện, con có thể đi tiếp cuộc đời mình và nhận ra tinh khiết cũng có tính chất vô điều kiện.

10.10. Tia của gia tốc

Đó là lý do vì sao thày Serapis Bey đã gọi Tia thứ Tư là tia của gia tốc. Thày muốn tránh dùng từ tinh khiết, vì trong tâm trí đa số từ này đối ngược với bợn nhơ. Đa số coi tinh khiết như một đặc tính nhị nguyên. Thày Serapis Bey không coi tinh khiết là một đặc tính nhị nguyên, vì thày đã thăng vượt nhị nguyên khi thày trở nên một chân sư thăng thiên. Nhiều người coi tinh khiết là nhị nguyên, và con cần gia tốc vượt lên điều đó. Con có thể tìm ra cách áp dụng tình thương vô điều kiện và gia tốc quan hệ của mình ra khỏi ký ức tổn thương cũ và khuôn nếp cũ.

Thày nhìn nhận là rất ít quan hệ tình yêu tới được mức này khi đã đi vào một vòng xoáy hướng hạ – rất, rất ít. Lý do là có một sự bất quân bình quá lớn giữa hai phái tính trên trái đất. Có một đám mây thù nghịch và chống đối rất khó chọc thủng đã được tạo ra giữa người nam và người nữ.

Nếu con đã ở trong một quan hệ đã đi vào một khuôn nếp tiêu cực và con không thoát ra được, thì thày không muốn con cảm thấy buồn phiền. Thày muốn con tha thứ mình và nhận ra là hoàn cảnh trên trái đất này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho con. Thày cũng giảng loạt bài này với hy vọng là những ai theo học khóa này sẽ có thể áp dụng lời thày giảng và gia tăng khả năng mang quan hệ tình yêu ra khỏi khuôn nếp và ký ức. Thày mong rằng những dụng cụ mà các thày cung cấp trong khóa học này sẽ giúp con thành công trong đời sống cá nhân và trong quan hệ lứa đôi. Đó luôn là mục đích của các thày.

Khi thày chỉ cho con thấy một bợn nhơ, con đừng dùng các bài giảng này để cảm thấy buồn bực với chính mình và bỏ cuộc. Con đừng cảm thấy mình sẽ không bao giờ được cứu rỗi vì con nhìn lại cuộc đời mình và thấy mình đã bị mắc kẹt trong khuôn nếp. Con nên dùng các bài giảng của thày để nhận ra rất khó duy trì một quan hệ thương yêu trên trái đất. Lúc đó, con có thể quyết định là nay con đã hiểu rõ, thì từ nay con sẽ hành xử đúng đắn hơn.

10.11. Trở nên tinh khiết sau khi thấy bợn nhơ

Làm cách nào con trở nên tinh khiết sau khi đã thấy mình có bợn nhơ? Con không thể làm được chuyện này! Thày có nói là các tà lực trong vũ trụ muốn con tin rằng một khi con đã có bợn nhơ thì con không bao giờ được cứu rỗi. Bây giờ thày sẽ nói một điều làm con chấn động: họ nói đúng đó.

Họ chỉ nói đúng theo nghĩa cái “ta” làm chuyện bợn nhơ không phải là cái Ta Biết. Đó là cái “ta” giả được tạo ra trong cỗ xe tâm hồn dưới hình thức một phàm linh nội tại. Cái “ta” đó không bao giờ thanh lọc được. Con sẽ không bao giờ cảm thấy tinh khiết khi con nhìn đời từ bên trong phàm linh đó. Làm sao con tự giải thoát khỏi phàm linh? Ở đây có thêm một điểm tế nhị khác.

Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên học giáo lý của các thày và nhận ra là họ có bợn nhơ trong các thể phàm của họ. Lẽ tự nhiên là họ muốn rũ sạch các bợn nhơ đó và họ nghĩ: “Tôi cần thanh lọc tâm và tâm hồn tôi khỏi bợn nhơ này.” Điều này có phần đúng. Trong bốn thể phàm của con, có một số năng lượng bị tha hóa bởi cái ta không trong sạch. Con cần thanh lọc các năng lượng này bằng cách thỉnh cầu ánh sáng, hướng nó về năng lượng bất toàn và nâng độ rung của năng lượng đó lên. Con không cần và không thể thanh lọc cái ta không tinh khiết. Khi con tìm cách thanh lọc cái ta không tinh khiết đó để khiến Thượng đế chấp nhận nó, thì con chỉ trói buộc mình vào cái ta không tinh khiết.

Điều con cần làm là thấy ảo tưởng đã tạo ra cái ta không tinh khiết. Một khi con thấy đó là một ảo tưởng, con sẽ tự nhiên thấy nó không có thật. Lúc đó, con có thể một cách ý thức bước ra ngoài nó bằng cách chú tâm vào sự kiện con là cái Ta Biết và con là nhận biết thuần khiết. Bất cứ điều gì con đã nhập vào chỉ là một phin lọc nhận thức. Nó khiến con thấy thế giới không tinh khiết hay thấy con không tinh khiết, nhưng con đã không trở nên không tinh khiết.

Khi con đeo một cặp kính mát và bước ra ngoài, mặt trời trông khác lạ. Sự việc con, trên trái đất, đeo một cặp kính mát có thay đổi mặt trời ở cách xa hàng triệu cây số chăng? Dĩ nhiên là không. Sự việc cái Ta Biết đeo vào một cặp kính là cái ta không tinh khiết có thay đổi Hiện diện TA LÀ chăng? Không đâu con. Sự việc con đeo vào một cặp kính có thay đổi con chăng, hay nó chỉ thay đổi cách con nhìn thế gian? Sự việc cái Ta Biết khoác vào một cái ta không tinh khiết có thay đổi cái Ta Biết chăng?

Mọi ác quỷ trên thế gian đều nói: “Có! Nó có thay đổi. Ngươi bị thay đổi khi ngươi khoác vào một cái ta không tinh khiết và đi vào thế gian. Ngươi hãy nhìn mình đã làm gì! Ngươi hãy nhìn hậu quả tai hại biết bao nhiêu! Dĩ nhiên là ngươi bị thay đổi! Ngươi không thể rũ áo bỏ đi như vậy. Chân sư đã nói dối ngươi! Chân sư nói ngươi chối bỏ những gì ngươi đã làm trong quá khứ!”

Thày không nói con chối bỏ những gì con đã làm trong quá khứ. Thày nói con nhìn vào những điều này một cách công khai và thành thật. Ác quỷ nói con là con không cần nhìn vào những gì con đã làm trong quá khứ vì con có một cách khác để thanh lọc mình và được cứu rỗi : “Giê-su sẽ trở lại và lấy đi cái ta không tinh khiết của ngươi. Ngươi không cần phải nhìn thấy nó.” Hay Krishna, hay đức Phật, hay ngọn lửa tím, hay cái gì khác sẽ làm chuyện này cho con.

Giê-su nói con hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình. Khi con thấy nó, con cũng thấy là nó là một cái ta không thật chứ không phải cái Ta Biết. Đó là lúc, con, cái Ta Biết, có thể nói: “Bạn biết không, tôi đã làm xong công việc. Tôi đã thanh lọc năng lượng mà tôi đã tha hóa qua cái ta không tinh khiết. Tôi đã thấy cái ảo tưởng. Vì tôi đã làm xong công việc, tôi có thể bỏ đi. Tôi không cần thanh lọc cái ta không tinh khiết. Tôi không cần làm cho nó được Thượng đế chấp nhận trong mắt ngài, vì nó sẽ không bao giờ được chấp nhận. Ngươi, ác ma Mara, không có gì để nắm tôi. Tôi không cần phản ứng lại những gì ngươi làm. Tôi có thể giản dị để ngươi ở đó và bỏ đi, vì ông Hoàng của thế gian không thấy gì nơi tôi mà y có thể nắm, ít nhất là vào thời điểm này, vì tôi đã trở lại trạng thái tinh khiết khi tôi xuống đây. Tôi đã trở nên một đứa trẻ thơ, trở nên cái ta ngây thơ và tinh khiết đã xuống đây.”

Khi con tới giai đoạn này, một trong hai chuyện sẽ xảy ra trong quan hệ tình yêu của con: hoặc người bạn đời của con đáp ứng và chuyển hóa, và các con có thể bắt đầu gây dựng một vòng xoáy tích cực, hoặc người bạn đời của con từ chối không thay đổi, và lúc đó con trôi tiếp theo dòng cuộc đời của con. Khi con đã trở nên ngây thơ, con không thể tiếp tục quan hệ với một người miệt thị người ngây thơ. Điều này không thể xảy ra được. Sự ngây thơ là phần thưởng của chính nó vì nó là cánh cửa đưa tới niềm hân hoan vô tận.

10.12. Quét sạch bợn nhơ khỏi ký ức

Ở khóa nhập thất của thày, thày có thể chỉ cho con thấy bằng hình ảnh trên một màn ảnh những bợn nhơ trong con người con. Phần thấp của hào quang của con, trường năng lượng cá nhân của con, tạo thành cái mà các thày có gọi là vòng đai điện tử. Tất cả các năng lượng sợ hãi mà con tạo ra quy tụ tại đây. Đa số con người có khá nhiều xáo trộn trong vòng đai điện tử này. Nếu con thấy toàn bộ nó thì con có thể cảm thấy quá sức chịu đựng. Điều thày làm ở khóa nhập thất của thày là cho con thấy một phần nhỏ, sau đó chỉ con cách chú tâm vào một việc, thỉnh cầu ánh sáng để tẩy sạch năng lượng, sau đó trụ vào phàm linh nội tại, cái ta giả đó, và thấy ảo tưởng đằng sau nó. Sau đó thày chỉ cho con thấy cách nào buông bỏ chính cái ta đó và cảm giác con là cái ta đó và dính liền với nó mãi mãi.

Thày chỉ cho con thấy là sử liệu akasha có thể bị xóa, và do đó Thượng đế không còn nhớ tới bợn nhơ đó nữa. Nếu Thượng đế không nhớ nó, thì tại sao con lại nhớ nó? Câu hỏi kế tiếp là: “Nếu con đã tẩy rửa phản ứng của con đối với người bạn đời và những điều mà người đó đã làm trong quá khứ, tại sao con lại muốn nhớ những gì người đó làm?” Thày biết là tâm vỏ ngoài sẽ nói: “Chuyện gì xảy ra nếu người bạn đời của tôi chưa giải thoát mình khỏi khuôn nếp đó? Chuyện gì xảy ra nếu người đó vẫn còn những khuynh hướng cũ và vẫn tiếp tục hành xử như trước?”

Người bạn đời của con có thể đã không vượt lên trên khuôn nếp, nhưng một khi con đã tẩy rửa được nhu cầu phản ứng lại, thì bước cuối là buông bỏ ký ức về hành động của người đó, để mỗi ngày con gặp người đó với tâm hoàn toàn mới. Người bạn đời của con có thể sẽ tiếp tục bạo hành con, nhưng nếu con không phản ứng vì con đã thoát khỏi khuôn nếp phản ứng, thì nay con lại quên đi và mỗi ngày con gặp lại người ấy với tâm hoàn toàn mới. Khi con làm được điều này, thì con sẽ tới điểm mà con có thể giản dị tuôn chảy khỏi người bạn đời không chịu thay đổi.

10.13. Rời bỏ một quan hệ và tuôn chảy đi tiếp đời mình

Thày biết là nhiều người trong số các con cảm thấy khó rời bỏ một quan hệ tình yêu. Thày đã khuyên con không nên lấy quyết định bỏ đi bằng tâm vỏ ngoài. Đó là lý do thày đã giảng cách trong lọc chính mình và các phản ứng của mình đối với người bạn đời khi con tiếp tục có quan hệ với người đó. Con càng tinh khiết thì sẽ càng dễ tới điểm con không thực sự lấy quyết định bỏ đi. Con thấy đó như là bước hợp lý kế tiếp.

Nhiều người trong các con đã lấy quyết định chia tay, nhưng vì con chưa thanh lọc các khuôn nếp phản ứng, nên con cảm thấy rất khó lấy quyết định này. Con vật lộn với quyết định đó: “Quyết định này đúng hay sai? Tôi có thể làm gì hơn nữa chăng? Tôi có phải làm gì hơn nữa chăng?” Thông thường thì quyết định chia tay là quyết định đúng, nhưng có thể nó tới hơi sớm vì con chưa thanh lọc các khuôn nếp phản ứng của mình. Đó là lý do thày khuyên con nên cố gắng vượt qua các khuôn nếp phản ứng vì con sẽ tới điểm sẽ không còn vấn đề vật lộn với quyết định nữa. Con sẽ thấy tuôn chảy ra khỏi quan hệ là bước kế tiếp tự nhiên trong cuộc hành trình của con, và con sẽ làm được điều này với tâm bình an.

10.14. Tâm thức chết ảnh hưởng quan hệ ra sao

Có một khía cạnh của tâm thức phán xét mà sa nhân hướng về các mối quan hệ tình yêu đã đưa con người tới thất bại trong quan hệ tình yêu. Mục đích của sa nhân không nhất thiết là phá vỡ quan hệ tình yêu. Mục đích của sa nhân là chà đạp con bất kể chuyện gì xảy ra.

Họ không màng nếu con trọn đời ở lại trong một mối quan hệ hạn chế trong đó cả con và người bạn đời đều theo khuôn nếp giới hạn, hoặc con rời bỏ quan hệ và tạo khuôn nếp lên án mình hay nghi ngờ mình đã quyết định đúng hay không. Chỉ cần sa nhân chà đạp được con hay khiến cho con cảm thấy mình thấp kém, hay không tinh khiết, thì sa nhân mãn nguyện – thực ra thì họ không bao giờ mãn nguyện. Nhưng ít nhất họ cảm thấy họ có quyền lực và đã chứng minh lập luận Thượng đế đã sai lầm khi cho con quyền tự quyết.

Nhiều nền văn hóa đã từ rất lâu có tâm thức là quan hệ tình yêu phải kéo dài suốt đời: “Cho tới lúc cái chết chia cách chúng tôi.” Cái chết là gì? Đó là cái chết vật lý hay là tâm thức chết? Nhiều người đã chung sống trọn đời trên phương diện vật lý, nhưng cái chết đã chia cách họ từ lâu rồi vì cả hai đã theo một khuôn nếp khiến họ không tăng triển. Đó là tâm thức chết, và nó thực sự chia cách chúng con dù chúng con vẫn chung sống trên phương diện vật lý.

Mục đích thật của chân sư thăng thiên là sự tăng triển. Tới đây chắc con đã nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, không coi trái đất là một hành tinh lý tưởng? Trái đất là một hành tinh rất thấp. Mục đích đầu thai xuống đây không phải là để trải nghiệm trạng thái thiên đàng trên hạ thế vì điều này không thể xảy ra với tâm thức tập thể hiện nay. Vậy một người tâm linh có mục đích gì khi đầu thai xuống đây? Đó là để nâng tâm thức mình lên, và qua đó nâng tâm thức tập thể lên. Con ở đây để đạt được mức tăng triển tối đa mà con có thể có trên trái đất, và sau đó rời khỏi nơi đây càng nhanh càng tốt bằng cách thăng thiên.

10.15. Mục đích tâm linh của các mối quan hệ

Mục đích của một mối quan hệ là gì? Đó là để có tăng triển tối đa, và sau đó tiếp tục con đường của mình. Điều này không có nghĩa là con cần bỏ đi theo nghĩa vật lý, nhưng có nghĩa là khi một người nam và nữ đến với nhau, họ có điều gì trong tâm lý mà họ cần giúp nhau giải quyết. Mục đích thật của một mối quan hệ là gì? Nó không phải để giúp nhau cảm thấy thoải mái. Nó không phải là để sống hạnh phúc cho tới khi đầu bạc răng long.

Vì sao các con thu hút nhau? Đó là vì người bạn đời có điều gì trong tâm lý khiến con phản ứng. Phản ứng của con cho thấy những vấn đề tâm lý chưa được giải quyết trong chính con. Người bạn đời của con là người thích hợp nhất để khui ra ánh sáng những gì trong con mà con không thể tự mình thấy. Khi hai người đến với nhau, mục đích cao của mối quan hệ là để mỗi người cho người kia thấy những gì họ không thể thấy. Khi họ đã mang ra ánh sáng yếu tố quan trọng nhất thu hút họ, thì mối quan hệ đã đạt được mục đích đầu. Kết quả cao nhất, dĩ nhiên, là mỗi người cũng giúp người kia vượt qua khuynh hướng đó.

Trong nhiều trường hợp, hai người bạn đời làm lộ ra cho nhau thấy những điều họ không muốn hay không thể thấy. Họ bị chấn động đến độ tuần tăng mật chấm dứt đột ngột, và có khi hôn nhân chấm dứt rất nhanh. Điều này không có nghĩa là mối quan hệ đã thất bại. Hai người vẫn có thể suy ngẫm về kinh nghiệm sau đó – nếu họ sẵn sàng làm điều này. Họ có thể học bài học và đi tiếp cuộc đời mình. Một mối quan hệ kéo dài dưới một năm cũng có thể đã thành công trong mục đích đầu.

Nếu hai người bạn đời có thể tăng triển sau cú chấn động đầu, thì họ có thể tiến tới thách đố tới. Sau đó, họ có thể tiến tới thách đố kế tiếp, và qua đó, hai người có thể xây dựng một mối quan hệ kéo dài trọn đời.

Trong thời đại hiện nay, nếu con là một người tâm linh quyết tâm đạt được mức tăng triển tâm linh cao nhất trong kiếp sống này, có thể đạt được thăng thiên trong kiếp này, thì chuyện con suốt đời có cùng một người bạn đời là điều khó xảy ra. Thường khi, tăng triển đối đa cần nhiều người bạn đời. Lý do là cường độ năng lượng trên trái đất quá cao. Để tăng triển tối đa, con cần trải qua nhiều tình huống để giải quyết những chuyện con cần giải quyết.

Các thày là chân sư thăng thiên không bao giờ coi một mối quan hệ đã thất bại. Các thày lúc nào cũng coi đó là một cơ hội. Con có thể nói: “Nhưng mối quan hệ kết thúc với một cuộc cãi vã lớn, và chúng con không học được bài học gì.” Thày sẽ nói: “Con chưa học được bài học. Nếu con sẵn sàng xin thày chỉ dẫn, thày sẽ giúp con học bài học. Lúc đó, người bạn đời của con có học được bài học hay không, là điều không quan trọng. Con có trách nhiệm về sự thăng thiên của chính mình, chứ không phải của người bạn đời của con.”

Bất cứ quan hệ nào chỉ đơn giản là một cơ hội. Có thể con đã không nắm lấy cơ hội, nhưng điều này không có nghĩa là con đã mất nó. Con chưa nắm lấy cơ hội, nhưng con có thể nắm lấy nó bất cứ lúc nào. Hai mươi năm sau khi một quan hệ chấm dứt, con vẫn có thể nắm lấy cơ hội.

10.16. Thày sẽ giúp con vượt qua mọi bợn nhơ

Làm sao thày có thể nói vậy? Bởi vì nếu con không nắm lấy cơ hội khi nó xuất hiện lần đầu, dĩ nhiên là con chưa giải quyết tâm lý của mình. Có nghĩa là con vẫn còn tâm lý chưa giải quyết trong con người mình. Con có thể trở ngược về hoàn cảnh lúc đó, nhớ lại và nói: “Ồ, tôi bây giờ thấy được điều mà lúc đó tôi không thấy. Hãy để tôi vượt qua chuyện này để nó không còn là một gánh nặng cho tôi nữa. Tôi không muốn phải mang gánh nặng này khi tôi đang trèo ngọn núi của cái ta. Tại sao tôi lại mang gánh nặng này lâu quá vậy? Tại sao tôi lại muốn mang nó thêm một giây đồng hồ nữa khi thày Paul người Venice đang đứng ngay cạnh tôi với nụ cười rạng rỡ và nói: ‘Con chỉ cần hỏi là thày sẽ giúp con ngay.’ Tôi sẽ nắm tay thày. Tôi sẽ vui vẻ nhận lãnh những gì thày cống hiến. Tôi sẽ nói: ‘Thưa thày Paul, xin thày giúp con trút gánh nặng này. Con chán nó lắm rồi!’”

Con yêu dấu, con thấy chăng, thày biết là con tinh khiết, thày biết là cái Ta Biết tinh khiết. Thày sẵn sàng giúp con vượt qua tất cả mọi bợn nhơ trong con người con. Tình thương có khả năng thanh lọc rất lớn.

Con sẽ không vượt qua tất cả mọi bợn nhơ khi con ở khóa nhập thất của thày, vì con đường tiếp tục với các khóa nhập thất của các Thượng sư khác. Khi con ở đây, thày sẽ cố gắng hết sức để giúp con vượt qua càng nhiều càng tốt để con sẵn sàng hơn khi con gặp các Thượng sư kia.

Thày không thấy bợn nhơ nào là thật, nhưng thày thấy con là thật. Thày chắc chắn biết TA LÀ thật. TA LÀ Thượng sư của Tia thứ Ba.

8 | Tình thương và Tình thương

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Con bây giờ đã tới tầng thứ ba ở khóa nhập thất của thày, tầng của tình thương phối hợp với tình thương. Khi con có hai lần tình thương, thì con đối mặt với cái gì? Thứ nhất, con tới chỗ khai ngộ cần vượt qua trò chơi quyền lực tinh vi đằng sau mọi hình thức ganh đua. Con có thể tự hỏi, ganh đua dính dáng gì đến tình thương? Nó là một hình thức tình thương hủ hóa. Cốt lõi của tình thương là gì? Đó là ý muốn trở nên Hơn nữa, nhưng câu hỏi là: “Hơn cái gì?”

8.1. Bản chất của trở nên Hơn nữa

Từ nhiều năm nay, các thày đã giảng giáo lý về khái niệm trở nên hơn nữa, là hơn nữa. Các thày biết là khi tâm phân tích vỏ ngoài của con nghe câu này, nó chỉ có thể phản ứng một cách. Hơn nghĩa là hơn cái gì khác. Làm sao con biết con trở nên hơn nữa nếu con không so sánh với một trạng thái trước đó, khi con ít hơn?

Làm sao con đo được sự hơn nữa? Con có nghĩ chăng là có thể đo được Chân sư MORE bằng một tiêu chuẩn thế gian? Nhiều người trong các con nghĩ như vậy vì con chưa hòa điệu với Hiện diện của thày MORE, là một cái gì vượt lên trên so sánh. Hiện diện của thày cũng vậy, Hiện diện TA LÀ của con cũng vậy.

Có một sự khác biệt tế nhị nhưng cơ bản giữa trở nên hơn nữa bằng cách trôi theo Dòng Sông sự Sống và trở nên hơn nữa bằng cách so sánh với một điều nào đó trong vũ trụ vật chất, là một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi con trở nên hơn nữa bằng cách trôi theo Dòng Sông sự Sống, con thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Con có so sánh mình với tiêu chuẩn nào chăng? Con so sánh mình với cái con là ngày hôm qua, một phút trước đây hay kiếp sống trước. Con nhìn lại và nói: “Tôi hơn cái gì tôi là trước đây.” Đây không phải là ganh đua. Đây là một hành động tự nhiên trong thế giới hình tướng: đo lường sự tiến triển của mình, đo lường mức tăng trưởng của ý niệm bản ngã của mình. Đây là một điều chính đáng, cần thiết, có ích. Nhưng khi con so sánh mình với người khác hay với một tiêu chuẩn thế gian, thì không có ích nữa. Đó là một sự hủ hóa của động lực trở nên hơn nữa, chính là cốt lõi của tình thương.

8.2. Sa nhân ganh đua với Thượng đế như thế nào

Sự hủ hóa này từ đâu tới? Hình thức ban sơ của nó đến từ lúc các sa nhân quyết định họ biết rõ hơn Thượng đế cách vận hành vũ trụ và cứu rỗi các dòng sống. Họ cũng quyết định, dù họ không hoàn toàn nhận ra điều này, là họ muốn ganh đua với Thượng đế. Con có thấy chăng, dựa trên những gì các thày đã giảng về sa nhân, là họ ganh đua với Thượng đế trong trò chơi quyền lực tối hậu? [đọc Vũ trụ quan về sự ác độc]

Ai làm chủ vũ trụ? Ai có quyền tối hậu quyết định ai được cứu rỗi và ai không được cứu rỗi? Tất nhiên là đấng Sáng tạo có quyền tối hậu. Các vị hợp nhất với đấng Sáng tạo và là thành viên của Hội đồng Nhân quả có quyền quyết định ai được cứu rỗi và ai không được cứu rỗi. Các vị đại diện đấng Sáng tạo này lấy quyết định dựa trên dòng sống đã thăng vượt chính nó như thế nào. Con có thăng vượt chính con tới điểm thăng vượt mọi sắc thái vị kỷ và bắt đầu phụng sự nâng tất cả lên? Nếu vậy thì con đã sẵn sàng thăng thiên lên cõi tâm linh và trở thành một chân sư thăng thiên. Nếu con chưa thăng vượt mọi sắc thái vị kỷ thì con chưa sẵn sàng. Đây không phải là một sự trừng phạt. Đây không phải là một bản án. Nếu con chưa sẵn sàng thì con không thể thăng thiên, giống như khinh khí cầu không thể bay lên không trung khi nó chưa đủ động lượng để khắc phục trọng lực kéo xuống của trái đất.

Sa nhân đã làm một điều hoàn toàn khác. Họ đã tạo ra một tiêu chuẩn và nói: “Con không xứng đáng được cứu rỗi nếu con không sống theo tiêu chuẩn này.” Họ đã tạo ra một đối cực giả, trong đó có tiêu chuẩn ở một bên và đối ngược với tiêu chuẩn ở bên kia. Lúc đó họ có thể so sánh người này với người kia dựa trên tiêu chuẩn và nói: “Người này đúng, người kia sai. Người này tốt, người kia xấu. Người này xứng đáng được Thượng đế cứu rỗi, người kia xứng đáng bị vĩnh viễn đày vào địa ngục.” Đây là khái niệm đằng sau sự ganh đua trên trái đất. Có nhiều người trên trái đất bị hoàn tòan vướng mắc vào sự ganh đua phù phiếm để đạt được vinh quang nào đó trên trái đất.

8.3. Ý chí cải thiện chính mình

Con cần phân biện một điều. Rất có thể xảy ra là toàn thể các dòng sống trên một hành tinh đi vào một trạng thái tâm thức khiến họ không cố gắng cải thiện chính mình. Con chắc có nghe nói về các hành tinh đã tự hủy diệt vì chiến tranh giữa cư dân. Nhưng cũng có hành tinh đã tự hủy diệt vì các cư dân đã đi vào một trạng thái tâm thức quá đồng nhất đến độ không một ai cố gắng thăng vượt ý niệm bản ngã của họ. Họ công nhận giá trị lẫn nhau trong một tình trạng kém xoàng. Ở một thời điểm trong quá khứ, trái đất đã có nguy cơ rơi vào một vòng xoáy hướng hạ như vậy. Đó là lý do vì sao nhiều loại dòng sống được phép đầu thai vào đây, trong đó có các sa nhân.

Nếu con muốn nâng tâm thức từ một tầng thấp lên một tầng cao, con cần ý chí, ý chí trở nên hơn cái mà con là trước đó. Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, ý chí này cần một động lực. Con có thể có động lực gì khi con ở dưới tầng 48? Con có thể có lòng ham muốn vinh quang nào đó trên trái đất, ham muốn hơn người khác, thắng một giải thưởng, trở nên danh tiếng, trở nên một anh hùng, được người khác trọng vọng.

Khi con nhìn vào, tỷ dụ sinh hoạt thể thao, thì thày không nói tất cả hình thức ganh đua đều hoàn toàn sai một cách tuyệt đối. Có những thể tháo gia, qua nỗ lực tranh đua, đã trau dồi ý muốn thăng vượt chính mình và qua đó chuẩn bị để khám phá con đường tâm linh. Thày không nói là trên thiên đàng có tinh thần ganh đua, hoặc ganh đua nảy sinh từ Thượng đế, hoặc các thày chân sư thăng thiên chấp nhận và khuyến khích tinh thần ganh đua. Thày chỉ muốn nói là trên một hành tinh có trình độ tâm thức của trái đất, ganh đua là một dụng cụ cần thiết giúp con người có động lực cải thiện chính mình.

Ganh đua có thể giúp con người bước lên tầng 48 nơi họ khám phá cái gì cao hơn. Thày không nói là tất cả các thể tháo gia, hay tất cả những ai tham gia vào hình thức ganh đua nào đó, đều ở dưới tầng 48, nhưng thày xác nhận là đa số những người này ở dưới tầng 48. Chỉ có một số ít đã bước lên trên tầng 48 và tham gia tranh đua vì lý do khác, nhưng đa số chắc chắn ở dưới tầng 48 và động lực thúc đẩy họ tranh đua là để so sánh mình với người khác. Họ luôn luôn so sánh mình với người khác hay với một tiêu chuẩn, tỷ dụ như phá kỷ lục thế giới, thắng nhiều trận quần vợt nhất, kiếm được nhiều tiền nhất trong bộ môn của mình, hay bất cứ điều gì khác thúc đẩy con người.

8.4. Ganh đua trong quan hệ cá nhân

Vấn đề mà tinh thần ganh đua tạo ra có thể thấy rõ nhất trong quan hệ cá nhân. Kết quả cao nhất của bất cứ quan hệ cá nhân nào là gì, tỷ dụ như quan hệ đôi lứa, hay với cha mẹ, anh chị em, hay con cái? Kết quả cao nhất của bất cứ quan hệ giữa con người là gì? Đó là cả hai bên tới điểm họ làm việc để nâng người kia lên, đồng thời họ cũng đi trên con đường tu tâm linh để thăng vượt chính mình. Đó là kết quả cao nhất. Làm sao con bước lên được mức đó khi con ganh đua với anh chị em, hay ngay cả với cha mẹ, với người vợ người chồng, đồng nghiệp trong sở, hay bạn bè? Nếu con lúc nào cũng muốn hơn người, muốn có địa vị tương xứng với người khác hay hơn họ, thì làm sao con có thể rời bỏ tinh thần ganh đua để bước vào Tánh linh Sáng tạo?

Thày có giảng về quan hệ đôi lứa trong các bài trước, và bây giờ mình xem xét nó trở lại. Nếu con trở lại vai trò nam nữ cũ xưa, con thấy không có nhiều ganh đua giữa người đàn ông và người vợ. Người đàn bà đã được giáo dục để chấp nhận chỗ đứng của mình và thấy rằng không có ích gì để tranh đua với người đàn ông.

Tình thế đó có đưa tới một số quan hệ hữu ích. Những quan hệ đó không hữu ích theo ý nghĩa cao nhất, nhưng chúng hữu ích vì người đàn bà chấp nhận là người chồng có một sự nghiệp và một địa vị trong xã hội, và bà sẽ làm mọi chuyện để giúp chồng hoàn thành sứ mệnh đó. Ngược lại, người chồng tri ân sự hỗ trợ của người vợ, và làm mọi chuyện để giúp bà tìm những sở thích của mình và tiến triển. Có nhiều quan hệ hữu ích theo cách đó vì không có ganh đua giữa vợ chồng. Như thày có nói, dĩ nhiên quan hệ kiểu này dựa trên một sự đè nén bất quân bình đối với người phụ nữ là một điều không lành mạnh một cách tối hậu hay lâu dài. Thày không chấp nhận kiểu quan hệ này. Thày chỉ nêu lên như một thí dụ của kết quả khi không có ganh đua giữa vợ chồng.

Tình hình trong thời đại tân thời ra sao? Con có một tiến trình đã đem lại một số tiến bộ trong việc giải phóng phụ nữ và cho họ bình quyền. Mình có thể bàn cãi là tiến trình này có đem lại tự do và bình quyền trọn vẹn cho phụ nữ hay không, và thày là người đầu tiên cho rằng không, nhưng đây không phải là điều thày muốn nêu ra ở đây. Điều thày muốn nói là phong trào giải phóng phụ nữ và việc phụ nữ đi làm và có sự nghiệp đã tạo nên một sự ganh đua giữa vợ chồng đã khiến nhiều quan hệ đôi lứa đổ vỡ.

Trong nhiều nền văn hóa, con có tình trạng con trai được giáo dục với tinh thần ganh đua, khi chơi thể thao, kiếm tiền hay trong nhiều sinh hoạt khác. Đồng thời, con gái được giáo dục để có học vấn, công việc làm, sự nghiệp. Người con trai không nhận ra rằng y cưới một người vợ không giống mẹ y, là người chấp nhận chỗ đứng của mình. Y chờ đợi là người vợ sẽ làm mọi chuyện mẹ y đã làm trong nhà trong khi vẫn đi làm. Dĩ nhiên là điều này chỉ đưa tới xung đột.

Đồng thời, nhiều phụ nữ cảm thấy bị áp lực hai đằng. Họ cảm thấy họ phải ra ngoài xã hội, có sự nghiệp và làm những gì cần thiết để thành công trong sở làm, nhưng đồng thời cũng phải là người vợ, người mẹ, người nội trợ gương mẫu trong gia đình. Ai có thể làm được chuyện này? Chuyện này không thể làm được, chắc chắn là đàn ông không thể làm được.

Nhiều phụ nữ đã cố gắng, cố gắng rất nhiều để làm chuyện này và khám phá ra là họ không thể. Nhiều người đã mất tự tin. Nhiều người đã bị thất vọng hay chấn thương vì tiến trình này. Nhiều hôn nhân đã đổ vỡ do sự thất vọng của cả hai bên. Điều mà con thấy trong mấy chục năm vừa qua trong các nước kỹ nghệ tân tiến các vai trò truyền thống của hai phái nam nữ đã sụp đổ và con người đã gặp nhiều khó khăn để tìm ra một cách giao tiếp mới với nhau trong quan hệ hôn nhân.

8.5. Vượt qua tinh thần ganh đua

Khi con tới tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, thày và các phụ tá sẽ giúp con nhìn lại chính mình và nhận ra con có vẫn còn bị tinh thần ganh đua ảnh hưởng hay không. Chúng tôi sẽ đặc biệt giúp con thấy liệu con có tinh thần ganh đua với người phối ngẫu, hay khuynh hướng ganh đua nếu con không có người phối ngẫu. Vượt qua tinh thần ganh đua này là một điều cơ yếu, không những để con tiến triển tâm linh, nhưng cũng để con có một quan hệ lứa đôi hữu ích.

Chìa khóa để vượt qua tinh thần ganh đua này là gì? Nó nằm ở điểm chiêm nghiệm rằng chỉ có một sự “ganh đua” thật, đó là thăng vượt ý niệm bản ngã của mình. Con có thể so sánh với chính mình khi xưa và xem là mình có tiến bộ chăng, nhưng tiến bộ là gì? Tiến bộ không phải là có thêm kỹ năng, khả năng hay địa vị trong xã hội. Tiến bộ chắc chắn không ở con số trong chương mục ngân hàng của con. Điều quan trọng là con có phải là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, và cánh cửa mở rộng bao nhiêu. Khi con nhận ra điều này, con thấy là so sánh mình với người khác, và đặc biệt với người phối ngẫu, là điều hoàn toàn vô nghĩa. Xem ai kiếm được nhiều tiền hơn có quan trọng chăng? Xem ai có địa vị cao hơn hay được nhiều trọng vọng hơn có quan trọng chăng? Những điều này không quan trọng nếu con nhận ra một chân lý sâu xa.

8.6. Một hủ hóa tình thương nguy hiểm

Sa nhân đã tìm cách hủ hóa tình thương bằng nhiều cách, nhưng có lẽ hình thức hủ hóa nguy hiểm nhất là quan niệm cho rằng phải sống theo một tiêu chuẩn thế gian mới xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế. Họ muốn con tin rằng có một Thượng đế trên thiên đàng và ngài là một Thượng đế thương yêu. Thượng đế thương yêu con, nhưng nếu con muốn nhận tình thương của Thượng đế, con phải xứng đáng. Và để xứng đáng, con phải sống theo một tiêu chuẩn do sa nhân quy định.

Con yêu dấu, điều này có hợp lý chăng? Sa nhân không có tình thương. Họ không thể tạo ra tình thương. Con không thể tạo ra tình thương; con chỉ có thể nhận nó từ bên trên. Con có thể dùng câu này như câu chú:

Con không thể tạo ra tình thương;
Con chỉ có thể nhận nó từ bên trên

Có lý gì chăng khi những người không có tình thương, đã quay lưng từ chối tình thương của Thượng đế, lại có thể quy định một tiêu chuẩn có khả năng khiến Thượng đế, một cách máy móc, sẽ cho con tình thương nếu con sống theo tiêu chuẩn đó? Thật hoàn toàn không có lý.

Thày có thể biện minh suốt ngày đêm để giúp trí phân tích của con lý luận và hiểu ra tình thương của Thượng đế là gì, nhưng thầy đã nói gì trong bài trước về trí phân tích? Nó không thể hiểu được cái vô tận vì nó luôn luôn so sánh. Nó so sánh mọi chuyện với những gì nó biết hay với một tiêu chuẩn, sau đó nó phân tích bằng cách chia ra từng phần nhỏ. Trên trái đất, con có thể lấy một hình thể và cắt nó ra từng phần nhỏ, và con có thể đi tới cái có vẻ là thành phần tối hậu, ít nhất là trong quang phổ tần số vật chất.

Nhưng tình thương không có tính chất vật lý! Nó không phải là một vật; nó không thể bị cắt ra thành phần nhỏ. Nó không có thành phần. Con có thể nói: “Nhưng tình thương cũng có sắc thái biểu hiện? Có phải chăng tình thương là cái này, là cái khác vân vân? Thày sẽ trả lời: “Tình thương không có thành phần. Tình thương không có biểu hiện.”

Chỉ khi tình thương bị bóp méo bởi tâm vỏ ngoài thì nó mới có đặc tính. Cái mà đa số gọi là tình thương hoàn toàn không phải là tình thương, và đó là vì họ đã pha màu tình thương. Tình thương mà con người biểu lộ hơn rất nhiều sự ác độc hay sợ hãi mà họ biểu lộ. Đúng thực là có những cảm xúc nhân gian có rung động cao hơn một số cảm xúc nhân gian khác. Một số điều con người gọi là tình thương có độ rung cao hơn sự giận dữ hay thù hận. Tuy nhiên, tình thương này là một cảm xúc nhân gian, so sánh, tương đối và không phải là tình thương thuần khiết – không phải là Tình thương Thiêng liêng.

Cái trí vỏ ngoài, phân tích sẽ không bao giờ hiểu được tình thương, bản chất thực của Tình thương Thiêng liêng. Cái trí vỏ ngoài muốn tình thương là một cái gì nó có thể xử lý bằng cách mô tả đặc tính, phân tích các thành phần, và so sánh với tiêu chuẩn của sự thực. Thày có thể tìm cách đưa ra lý lẽ vì sao tình thương, Tình thương Thiêng liêng, lại như nó là, nhưng trí vỏ ngoài của con sẽ có thể phản bác và đưa ra lý lẽ vì sao tình thương không thể như vậy được.

Tình thương Thiêng liêng như thế nào? Sự thực mà trí vỏ ngoài không thể hiểu, tự ngã không thể chấp nhận, là Tình thương Thiêng liêng hoàn toàn và tuyệt đối vượt lên trên mọi điều kiện. Ta có thể gọi nó là tình thương vô điều kiện vì nó là cách ngắn nhất để mô tả Tình thương Thiêng liêng. Nó vượt lên trên mọi điều kiện mà tâm thức tương đối và tách biệt có thể quy định. Đó là lý do tại sao không thể so sánh nó với bất cứ điều gì trên trái đất. Nó không thể bị đóng khung trong một tiêu chuẩn. Nó không thể bị đóng khung trong một định nghĩa.

8.7. Trải nghiệm tính chất vô điều kiện của Tình thương Thiêng liêng

Thày có thể cho con lý lẽ về điều này, nhưng thày sẽ không làm vậy vì khi con theo học khóa giảng này, con cũng tới khóa nhập thất của thày ban đêm. Ở khóa nhập thất của thày, thày có nhiều phương pháp giúp con trải nghiệm tình thương vô điều kiện, và khi con đã trải nghiệm thì không cần biện minh đúng sai. Câu hỏi là: “Kinh nghiệm tình thương vô điều kiện mà con có ở khóa nhập thất trên cõi ê-the là nơi có sự thuần khiết cao, con có thể nào chuyển nó xuống tâm ý thức của con chăng?” Tâm ý thức của con thường trụ ở cõi vật chất, là nơi có rung động thấp hơn cõi ê-the. Kinh nghiệm tình thương vô điều kiện trong tâm ý thức khó hơn rất nhiều.

Nhiều người trong các con đã trải nghiệm, ít nhất là chợt thoáng, tình thương vô điều kiện hay trạng thái tâm thức thuần khiết hay vô điều kiện. Nhiều người trong các con đã có trải nghiệm thần bí, và con chỉ cần nhận ra là các trải nghiệm này cho con thấy điều gì đó về tình thương. Con phải mở tâm và trái tim mình ra, bỏ qua bên những hình tư tưởng về tình thương cho đến khi con có trải nghiệm có ý thức về tình thương vô điều kiện.

Thày biết rõ là có người sẽ biện minh chống lại ý niệm Tình thương Thiêng liêng là tình thương vô điều kiện. Cũng có đệ tử chân sư thăng thiên, hay ít nhất là cựu đệ tử chân sư thăng thiên, sẽ biện minh chống lại ý niệm này. Khi con biện minh chống lại thì con sẽ đóng tâm vỏ ngoài không trải nghiệm được tình thương vô điều kiện một cách ý thức. Nếu con lựa chọn không trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì thày tôn trọng lựa chọn của con, nhưng thày sẽ chất vấn tại sao con lại đặt mình thành một chuyên gia về tình thương? Làm sao con có thể là một chuyên viên về tình thương nếu con không chịu trải nghiệm sắc thái cao nhất của tình thương? Con yêu dấu, điều này có hợp lý chăng?

8.8. Tình thương Thiêng liêng không có điều kiện, không thể kiểm soát

Những người mong muốn tự tôn mình như chuyên gia hay khuôn mặt uy tín trên trái đất thường bị kẹt nhất trong tâm thức sa ngã. Họ muốn kiểm soát mọi thứ, và sa nhân chắc chắn là muốn kiểm soát tình thương. Họ muốn loại bỏ Tình thương Thiêng liêng. Họ muốn ngăn chặn tất cả những người tâm linh nhìn nhận, chấp nhận hay trải nghiệm tình thương vô điều kiện. Họ cực lực mong muốn con tin rằng tình thương có điều kiện và có thể được quy định bởi tiêu chuẩn của họ.

Các con yêu dấu, tình thương vượt lên trên ngôn từ, hình tướng, hình ảnh. Nó không thể quy định được. Nó không thể sở hữu được. Nó không thể kiểm soát được. Hoặc con là cánh cửa mở cho tình thương tuôn chảy qua con, hoặc con tự cắt đứt mình ra khỏi nó. Thày có nói gì về sự sở hữu? Con muốn cái đồng hồ dừng lại. Con muốn mọi chuyện đứng yên để con có thể sở hữu cái con nghĩ con cần sở hữu. Tình thương Thiêng liêng là gì? Tại sao nó là vô điều kiện? Vô điều kiện có nghĩa gì? Nó có nghĩa không bao giờ đứng yên. Nó luôn luôn tuôn chảy và thăng vượt chính nó. Đó là lý do vì sao nó không thể bị giam trong bất cứ hình tướng nào.

Tình thương là cái luôn luôn kéo con lên để con trở nên hơn nữa, thăng vượt chính mình, và càng ngày càng gần hơn sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ và sự thăng thiên. Nếu con nghĩ con có thể ngưng dòng chảy của tình thương, tạo ra một hình tư tưởng, phóng chiếu nó lên tình thương và nói: “Đây là tình thương”, thì con quả thực không biết tình thương là gì. Tình thương không thể bị giam. Không ai có thể sở hữu nó. Tự ngã sẽ không bao giờ chấp nhận điều này. Sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận điều này, trừ phi họ đạt được giác ngộ, là điều sa nhân có thể làm, nhưng tự ngã thì không.

Con không cần phải băn khoăn về điều này khi con đi trên con đường tự điều ngự. Điều con cần quan tâm là chân thành nhìn vào tâm mình, vào cách mình được dạy dỗ, vào cách mình đã bị điều kiện hóa để có một hình tư tưởng về tình thương. Con cần chất vấn những tiêu chuẩn để giải thoát tâm mình khỏi những hình ảnh này về tình thương. Bằng cách này, con mở tâm ý thức của mình để trải nghiệm điều mà tâm ê-the của con đã trải nghiệm.

8.9. Trải nghiệm có ý thức tình thương vô điều kiện

Trong cả hai trường hợp, chính cái Ta Biết là cái ta đã trải nghiệm. Nếu con, cái Ta Biết, muốn trải nghiệm tình thương vô điều kiện một cách ý thức, và giữ sự nhận biết ý thức của kinh nghiệm này, thì con cần phải tách mình ra khỏi cái tâm tách biệt. Con cần phải xa lánh các hình ảnh giả, các hình ảnh sa ngã, về tình thương. Thày không có ý định biện minh với cái ta vỏ ngoài và thuyết phục nó là tình thương thực sự vô điều kiện. Ý định của thày là giúp con có được, trong tâm ý thức của mình, một sự nhận biết có ý thức những gì con đã trải nghiệm ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the.

Thày có thể làm gì ở khóa nhập thất để giúp con trải nghiệm tình thương vô điều kiện? Thày sử dụng cái máy mà thày đã đề cập tới, có khả năng phóng lên màn ảnh những gì có trong trường năng lượng của con ở các tầng tiềm thức. Thày có thể chỉ cho con thấy con đã hủ hóa tình thương như thế nào và dùng nó để xây tường giam tâm ý thức của con. Thày có thể chỉ cho con thấy điều này buộc con như thế nào với sa nhân, với tâm thức tập thể, với trung giới (astral plane).

Khi con thấy hình ảnh này, ban đầu con sẽ rất chấn động. Con sẽ bị chấn động khi con thấy bao nhiêu năng lượng từ Hiện diện TA LÀ bị chuyển về tình thương hủ hóa này. Con sẽ bị chấn động khi con thấy bao nhiêu năng lượng bị hút bởi các quỷ dữ và tà linh trong trung giới. Con sẽ bị chấn động khi con thấy các bồn chứa năng lượng bị hủ hóa. Con sẽ bị chấn động khi con thấy những sinh thể xấu xa và bất hòa sống trong các bồn chứa đó, đang giơ vuốt và móc bám vào trường năng lượng của con qua các hủ hóa tình thương đó. [đọc Vũ trụ quan về ác quỷ]

Khi con thấy các hình ảnh này ở cõi ê-the, thì con có động lực để nhìn vào tiềm thức của mình và khám phá những niềm tin đã khiến con hủ hóa tình thương. Con sẵn sàng nhìn vào các hình tư tưởng về tình thương đến từ tâm thức sa ngã mà con đã chấp nhận. Thày không chê trách con là đã chấp nhận chúng. Ai có thể lớn lên trên một hành tinh như trái đất, sống ở đây nhiều kiếp, mà không chấp nhận những hủ hóa tình thương đã thấm đẫm hành tinh này?

Thày không có ý định miệt thị con, và trên cõi ê-the con biết rõ điều này vì con trải nghiệm nó trực tiếp. Khi con đọc bài này với tâm ý thức, tâm vỏ ngoài của con không trải nghiệm Hiện diện của thày như khi thày đứng bên cạnh con trong thân xác. Khi con ở khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the, con trải nghiệm Sinh thể của thày, Hiện diện của thày. Con biết, con trải nghiệm, là thày không chê trách con. Điều mà con cảm thấy từ thày chính là tình thương vô điều kiện chỉ muốn nâng con lên.

Khi thày chỉ cho con thấy con bị buộc vào các lực phản tình thương này, con không cảm thấy là thày đang chỉ trích hay miệt thị con. Con chỉ cảm thấy thày muốn con được tự do, nhưng con chỉ được tự do khi con thấy. Con phải thấy làm sao con bị buộc vào các lực phản tình thương. Con phải thấy vì sao con bị buộc vào chúng bởi các niềm tin sai lầm và hình tư tưởng về tình thương. Khi con cho là tình thương có điều kiện thì con buộc mình vào các sinh thể có điều kiện đã từ rất lâu xa rời Tánh linh.

8.10. Tự ngã sẽ chối bỏ tình thương vô điều kiện

Thày có nói về một quan hệ lứa đôi trong đó con chờ đợi người yêu sẽ cho con tình thương mà con cần. Thày có nói là con có trách nhiệm lấy tình thương đó từ bên trong mình, từ Hiện diện TA LÀ của mình. Con sẽ không thể nào lấy được tình thương đó, chấp nhận được tình thương đó, nếu con chưa bắt đầu quán chiếu và chấp nhận một cách ý thức là tình thương không có điều kiện.

Nếu con thấy Thượng đế có điều kiện, thì con sẽ chối bỏ tình thương vô điều kiện. Con sẽ không nhận ra nó là tình thương vì nó không đáp ứng các điều kiện của con, định nghĩa của con, về tình thương, và do đó con nghĩ nó là cái gì khác. Cũng có thể con cảm thấy bị nó đe dọa. Chắc chắn là tự ngã của con cảm thấy bị nó đe dọa. Nếu con đồng hóa mình với tự ngã, con sẽ chối bỏ tình thương.

Tại khóa nhập thất của thày trên cõi ê-the, có học viên khi cảm nhận tình thương của thày thì chối bỏ nó. Có lúc họ co rúm lại vì ghê rợn, và lúc đó thì thày chỉ cho họ thấy trên màn ảnh tác dụng của nó, nguyên do từ đâu và niềm tin đằng sau là gì. Thày có thể chỉ cho họ thấy chuyện gì xảy ra trong trường năng lượng của họ khi một tia tình thương vô điều kiện chảy vào nó. Thày có thể chỉ cho thấy là tự ngã co rúm vì nó cảm thấy ghê rợn tuyệt đối, thù ghét tuyệt đối chống lại tình thương này và làm đủ mọi cách để đẩy lui nó. Tự ngã tìm đủ mọi cách để thuyết phục con chối bỏ tình thương vô điều kiện. Khi học viên thấy rõ hình ảnh chuyện gì đang xảy ra, thì đa số thoát ra khỏi thái độ này ngay tức khắc trên cõi ê-the. Điều thày muốn đạt được qua quyển sách này, là nói với tâm ý thức của con, và giúp con chấp nhận chuyện đó một cách ý thức.

Khi con có một quan hệ lứa đôi thương yêu, thì đúng lý con phải nhận tình thương từ người bạn đời, nhưng con làm sao có được tình thương này khi con có quá nhiều điều kiện định nghĩa tình thương? Tại khóa nhập thất của thày, thày có thể chỉ cho con thấy là trong đa số quan hệ trên trái đất, một hay cả hai người phối ngẫu chối bỏ tình thương đến từ người kia. Đàn ông không đến từ Hỏa tinh và đàn bà không đến từ Kim tinh, nhưng vì tình trạng bất quân bình quá đáng giữa hai phái tính đã chi phối trái đất từ mấy ngàn năm nay, người con trai và con gái đã được giáo dục với quan niệm trái ngược về tình thương và cảm xúc, cách biểu lộ cảm xúc và cách đáp ứng lại cảm xúc. Trong rất nhiều quan hệ lứa đôi, người phụ nữ có nhiều tự do biểu lộ tình thương và biểu lộ một cách vô điều kiện hơn là người đàn ông, nhưng trong nhiều trường hợp người đàn ông không chấp nhận được tình thương này. Y đã được giáo dục để có một hình ảnh khác là tình thương phải biểu lộ như thế nào, và y không chịu nổi khi bà vợ biểu lộ tình thương một cách tự do hay biểu lộ một hình thức tình thương cao hơn.

Mặt khác, đa số phụ nữ có vấn đề lớn khi họ biểu lộ tình thương và cảm thấy nó không được đón nhận. Họ cảm thấy bị chối bỏ, không có giá trị, bị bỏ quên. Sau khi cảm thấy bị người chồng chối bỏ, người vợ bắt đầu cảm thấy người chồng không bày tỏ đủ tình thương với bà. Dĩ nhiên là người vợ được giáo dục để nghĩ là người chồng phải biểu lộ tình thương giống như bà, nhưng làm sao y làm vậy được khi y đã được giáo dục với một quan niệm hoàn toàn khác về tình thương? Do đó hầu như không thể tránh là cả hai sẽ thất vọng. Con thường thấy mô thức qua đó người vợ cảm thấy không được thương yêu đủ và bắt đầu lên án người chồng: “Anh không thương tôi nữa. Anh không thương tôi đủ. Anh không bao giờ biểu lộ tình thương. Anh không bao giờ nói anh thương tôi.”

Khi chuyện này xảy ra, thường người đàn ông phản ứng bằng cách cảm thấy mình không có khả năng ứng xử. Có thể y cũng nhận thấy là y không biểu lộ tình thương một cách tự do. Y cảm thấy người vợ thiếu cái gì mà y không cho được. Vì y không biết phải cho làm sao nên y cảm thấy y thiếu khả năng và muốn người vợ ngừng đổ lỗi cho y. Y theo mô thức hoặc cố hết sức biểu lộ tình thương, và hy vọng như vậy sẽ đầy đủ, hoặc y chối bỏ vấn đề và bắt đầu càng ngày càng rút lui khỏi người vợ, muốn vợ ngưng không nhiều cảm xúc như vậy.

Chỉ có một giải đáp cho tình trạng này, đó là cả hai vợ chồng đều qua tiến trình vượt qua những hủ hóa tình thương mà họ đã chấp nhận khi họ lớn lên. Họ phải bắt đầu chấp nhận tình thương vô điều kiện từ Hiện diện TA LÀ của họ. Khi con mở tâm đón nhận tình thương của Hiện diện TA LÀ, con cũng sẽ bắt đầu biết cách biểu lộ nó, nếu con muốn thử làm và tiếp tục thử làm.

8.11. Tình thương vô điều kiện không đứng yên

Thày có nói là tình thương không đứng yên, vậy làm sao con trải nghiệm tình thương khi con hiện thân trên trái đất? Một số người trong các con có thể trải nghiệm là con có thể đi vào trạng thái thiền định sâu hoặc trạng thái nhập một với tổng thể, và cảm thấy tình thương vô điều kiện từ Hiện diện TA LÀ của mình, từ một chân sư thăng thiên, hay từ Thượng đế. Con cũng trải nghiệm là con không thể duy trì tình thương này khi ở trong tâm thức và sinh hoạt bình thường, hằng ngày và thức tỉnh.

Tại sao vậy? Đó là vì, khi con trải nghiệm tình thương, đó là một món quà để con mở tâm ra và để tình thương tuôn chảy xuyên qua con. Con có thể có một trải nghiệm đích thực, thần bí về tình thương vô điều kiện, nhưng đó chỉ là để con có một ý niệm đo lường cùng với tâm cao là tình thương là gì. Sau đó, con cần tiến bước kế tiếp, giống như câu truyện ẩn dụ mà Giê-su đã nói về các gia nhân được cho tiền. Có hai gia nhân đã tăng trưởng số tiền được cho, còn một người thì đem chôn xuống dưới đất. Con không nên chôn tình thương xuống dưới đất, nhưng hãy dám biểu lộ nó.

Con không thể liên tục nhận tình thương nếu con không biểu lộ nó, nếu con không để nó tuôn chảy qua con. Cách duy nhất để liên tục trải nghiệm tình thương là để nó tuôn chảy xuyên qua các luân xa, tâm, con người, lời nói, hành động của con. Tình thương muốn được biểu lộ. Nó muốn tuôn chảy. Con không thể trải nghiệm tình thương vô điều kiện như một trạng thái đứng yên. Con có thể trải nghiệm nó thoáng qua, nhưng con không thể trải nghiệm nó liên tục. Con chỉ có thể trải nghiệm tình thương một cách liên tục như một dòng suối, một dòng chảy. Làm sao có dòng chảy trừ phi có một lỗ thoát để nó chảy qua, trừ phi có một chỗ để nó chảy tới?

8.12. Một mô thức bất hài hòa trong các quan hệ

Mục đích biểu lộ tình thương cho người vợ hoặc chồng không phải là để có được một phản ứng nào đó từ người này. Đây là một mô thức bất hài hòa nhất trong các quan hệ vợ chồng. Một trong hai người vợ chồng bắt đầu nhận biết thế nào là tình thương vô điều kiện và bắt đầu biểu lộ tình thương đó với ngời kia, nhưng nó không được chấp nhận như chờ đợi, có thể vì người đó chưa sẵn sàng chấp nhận tình thương vô điều kiện. Người đầu cảm thấy tình thương của mình bị chối bỏ. Cũng có thể người đó cảm thấy bị chối bỏ và lúc đó người đó ngưng dòng chảy của tình thương. Người đó cắt đứt tình thương. Người đó nối kết sự biểu lộ tình thương của mình với cách người kia đón nhận nó.

Con yêu dấu, đây là lúc con nhận ra tính ích kỷ không phải lúc nào cũng xấu. Con sẽ tới một điểm trên con đường tu nơi con cần một hình thức cao của tính ích kỷ, và nói: “Điều gì tốt nhất cho tôi? Điều gì tốt nhất cho sự phát triển tâm linh của tôi? Có phải điều tốt nhất cho tôi là sau khi tôi nhận được hồng ân của kinh nghiệm tình thương vô điều kiện, tôi cố gắng hết sức biểu lộ nó với người bạn đời của tôi? Khi người bạn đời của tôi không thể nhận nó giống theo quan điểm của tôi, thì tôi phản ứng bằng cách cắt đứt dòng chảy tình thương. Hành động này có thực sự tốt nhất cho tôi, cho sự phát triển tâm linh của tôi chăng?”

Con yêu dấu, câu trả lời dĩ nhiên là không! Hẳn là con cũng phải thấy như thế! Cái gì tốt nhất cho con? Điều tốt nhất cho con là con tách rời sự biểu lộ tình thương với cách người bạn đời của con tiếp nhận nó, hay không tiếp nhận nó. Con không để sự biểu lộ tình thương của con tùy thuộc vào trạng thái tâm và chọn lựa của người khác. Con tiếp tục biểu lộ tình thương, và con tiếp tục gia tăng khả năng biểu lộ tình thương của mình.

Nếu con làm vậy thì một trong hai chuyện sẽ xảy ra. Hoặc người bạn đời của con sẽ dần dần chuyển hóa và có thể nhận tình thương của con, hoặc con tiếp tục nâng tâm thức của mình cho tới lúc con không thể tiếp tục có quan hệ đó nữa. Con sẽ được dòng chảy của tình thương đưa con tới một quan hệ khác, nơi con có thể biểu lộ tình thương một cách tự do hơn và tình thương đó được tiếp nhận tự do hơn.

8.13. Hãy tự do biểu lộ tình thương

Một mô thức bất hài hòa khác là con bắt đầu biểu lộ tình thương và con chờ đợi người bạn đời phải đáp ứng bằng cách biểu lộ tình thương với con. Nhưng người bạn đời con có thể không sẵn sàng làm điều này, và cũng có khi vị ấy không muốn làm điều này. Con có thể tìm cách nói chuyện với người bạn đời về nhu cầu biểu lộ đồng thời tiếp nhận tình thương, nhưng nếu câu chuyện này không dẫn đến kết quả, thì con nên chú tâm vào việc gia tăng dòng tình thương tuôn chảy xuyên qua con, gia tăng khả năng là cánh cửa mở cho tình thương tuôn vào. Con hãy gia tăng khả năng biểu lộ nó bằng những cách càng ngày càng tế nhị và tự do hơn. Con càng tự do khi biểu lộ tình thương, thì con càng giải thoát mình khỏi mối liên hệ với một người hay tình thế khiến tình thương không thể được tự do biểu lộ. Con càng biểu lộ tình thương, con càng tạo thêm động lượng sẽ tăng dần tới lúc nó đủ để mang con ra ngoài tình thế đó sang một tình thế khác nơi tình thương có thể được biểu lộ tự do.

Thày có đang nói là con phải quyết định có ý thức, với tâm vỏ ngoài, là con phải bỏ người vợ hoặc chồng nếu vị ấy không thể tiếp nhận hay biểu lộ tình thương? Không, thày không nói vậy. Thày nói là con mở tâm ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Nếu con có điều kiện và áp dụng chúng vào việc người bạn đời phải tiếp nhận hay biểu lộ tình thương theo điều kiện nào đó, thì con không mở tâm ra đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện.

Con chớ nghĩ là con có thể dùng bài giảng này của thày như một cái cớ để bỏ người vợ hoặc chồng của con. Ít nhất con đừng nghĩ là con có thể đánh lừa thày khi con làm vậy. Con hãy chú tâm vào việc mở tâm đón nhận dòng chảy của tình thương vô điều kiện. Con hãy ở lại trong quan hệ cho tới khi con nhận được từ bên trên lời hướng dẫn không thể chối cãi là đã đến lúc tuôn chảy đi. Con đừng quyết định với tâm vỏ ngoài.

Đúng thực là con nên kháng cự khi tâm vỏ ngoài tìm cách dẫn con tới quyết định đó. Con hãy học cách nhận ra khi tự ngã đang ép con lấy một quyết định. Con hãy kháng cự nó bằng cách từ chối không lấy quyết định. Con hãy học cách nhận ra những chuyển dời vi tế trong nhận biết của mình, tỷ dụ như khi con cảm thấy là sợi dây buộc con vào bờ đã nhả ra. Con cảm thấy là con được tự do trôi theo dòng chảy của cuộc sống.

8.14. Quan hệ tình yêu là một thách đố lớn

Con yêu dấu, chắc con đã bắt đầu nhận ra là khi con đến khóa nhập thất của Tia thứ Ba của thày, một trong những điểm chính mà con cần cải thiện là các quan hệ tình yêu của con. Một trong những thách đố lớn nhất mà con phải đối diện trên con đường tu tâm linh là quan hệ tình yêu của con. Thày đã nêu lên sự kiện là trên hành tinh này, quan hệ giữa người nam và nữ đã bị hủ hóa, bị mất quân bằng đến độ rất khó mà có được một quan hệ cao, một quan hệ sáng tạo.

Có quá nhiều lực đang tìm cách phá hủy các mối quan hệ tình yêu vì đây là cách hiệu quả bậc nhất để trì hoãn sự tiến bộ tâm linh của con người. Đúng thực là có những cách hiệu quả hơn, tỷ dụ như khiến con người tham gia chiến tranh và bị chết hoặc bị thương cả thể xác lẫn tinh thần. Trong những hoàn cảnh sống mà con có thể gọi là “bình thường”, quan hệ tình yêu đã khiến nhiều người đình chỉ, hay có khi bãi bỏ hoàn toàn, việc phát triển tâm linh, khi họ đi vào một mô thức tàn phá, đánh nhau với vợ hay chồng hoặc tìm cách tiêu diệt khi không kiểm soát được người này.

Thày hoàn toàn không có ý muốn con trách cứ mình nếu con không thành công trong quan hệ tình yêu. Ngược lại, thày tìm cách để con đo lường cùng với thày là quan hệ tình yêu trên trái đất là một thách đố rất lớn. Có nhiều hành tinh khác nơi quan hệ tình yêu dễ dãi đến độ con không thể tưởng tượng được. Con hãy tha thứ mình nếu con đã có vấn đề trong quan hệ tình yêu. Con hãy cố tha thứ và kiên nhẫn với người bạn đời của mình.

8.15. Tha thứ người bạn đời và đi tiếp con đường của mình

Nếu con đã trải nghiệm quan hệ tình yêu đã chấm dứt, thì con nên nhận ra điều này: điều duy nhất mà con có thể làm là tiếp tục cuộc đời của mình. Để có thể tiếp tục cuộc đời của mình, con cần rút tỉa những bài học từ quan hệ đó. Con cũng cần tha thứ, cần giải thoát người bạn đời khỏi mặc cảm tội lỗi hay đổ lỗi.

Thày biết là tự ngã của con sẽ phản ứng và nói: “Nhưng người bạn đời của tôi đã làm điều này và điều kia. Làm sao tôi có thể tha thứ được?” Con không tha thứ để giải thoát người đó khỏi những cái móc dính mắc. Con tha thứ để giải thoát con khỏi những cái móc dính mắc, vì sa nhân sẽ có những móc trong tâm con nếu con không tha thứ.

Con cần nhận biết có ý thức là điều tốt nhất cho sự phát triển tâm linh của con là con tiếp tục cuộc đời mình sau khi một quan hệ tình yêu chấm dứt. Để con có thể tiếp tục cuộc đời mình, con cần tha thứ. Con cần tha thứ người bạn đời, nhưng con cũng cần tha thứ chính mình. Con cần buông bỏ.

Có một sợi dây thừng đang buộc con vào quá khứ, đang giữ con thuyền của con ở một nơi cuộn sóng trong Dòng sông sự Sống. Con hãy đi sâu vào thể cảm xúc của mình và cảm thấy là sợi dây thừng thắt lại thành cái gút. Con hãy tháo cái gút, cầm sợi dây thừng trong tay, và mở bàn tay ra để sợi dây trôi đi. Con hãy cảm thấy là con thuyền của thể phàm của con, của tâm hồn con, nay được tự do trôi theo dòng nước để rời khu cuộn sóng và tới một phần yên lặng hơn của dòng sông.

TA LÀ Paul người Venice, và điều thày thương yêu nhất là tình thương, Điều thày thương yêu nhất sau đó là con.

6 | Tình thương và Minh triết

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 4/1/2015.

TA LÀ Paul người Venice. Thày đến đây để giảng về những khai ngộ mà con đối diện ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con lưu ý là thày không nói rằng ở tầng một con phải vượt qua tất cả khuynh hướng dùng tình thương làm trò chơi quyền lực. Con cũng có thể bắt đầu nhận ra rằng tự ngã muốn tìm ra một cái gì tối thượng. Điều này thể hiện ý muốn kiểm soát của nó. Ví dụ, nó nghĩ nếu nó tìm ra được học thuyết tối hậu, thì nó có thể hoàn toàn kiểm soát hoàn cảnh, định mệnh của nó, thế giới, người khác và Thượng đế.

Đây là điều con đặc biệt cần chú ý khi con đối mặt các khai ngộ của minh triết. Thày Lanto, sư huynh yêu dấu của thày, đã tìm cách giúp con vượt qua khuynh hướng này ở Tia thứ Hai, nhưng nhiệm vụ của thày, niềm vui của thày là giúp con vượt qua nó ở Tia thứ Ba. Ở tầng khai ngộ thứ hai ở khóa nhập thất của thày, con đối diện với bài học dùng tình thương phối hợp với Tia thứ Hai của Minh triết.

6.1. Khuôn nếp của quan hệ tình yêu hiện nay

Đây là lúc con cần bắt đầu nhìn ra xu hướng, rất phổ biến trên thế giới, đặc biệt là ở thế giới phương Tây, muốn hiểu mọi thứ và cho rằng hiểu có nghĩa là hiểu bằng trí năng. Con cần hiểu ngụ ý của thày Lanto khi thày giải thích trong cuốn sách của thày về những giới hạn của cái trí, của trí năng, nhưng thày sẽ giảng thêm về trí năng và tình thương, đặc biệt là các mối quan hệ tình yêu.

Chúng ta đã bước vào một giai đoạn tiến hóa của hành tinh này và của loài người, khi các khuôn nếp quan hệ tình yêu cũ đang bị thử thách và thường bị phá vỡ. Ví dụ, con thấy ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là thế giới được gọi là phát triển, số ly hôn hiện nay nhiều hơn so với giai đoạn gần đây trong lịch sử. Điều này có nhiều lý do, nhưng lý do căn bản chính là để bước vào Thời đại Bảo bình, con không thể tiếp tục các khuôn nếp quan hệ của thời đại Song Ngư và trước thời đại Song ngư.

6.2. Hai cực nam và nữ

Mối quan hệ giữa nam và nữ trên hành tinh này đã hoàn toàn mất quân bình từ rất lâu. Con thấy trong truyền thống văn hóa gọi là truyền thống Do thái-Cơ đốc giáo, từ thời kinh Cựu Ước mối quan hệ giữa nam và nữ đã theo sát một khuôn nếp quy định người nữ tự bản chất thấp kém hơn người nam.

Con hãy nhìn câu chuyện sáng thế trong Cựu ước kinh. Đầu tiên, Thượng đế tạo ra người nam, và sau đó, như chợt nhớ, Thượng đế tạo ra người nữ để hỗ trợ và giúp đỡ người nam. Con có thực sự nghĩ sáng thế diễn ra như vậy? Nếu con nghĩ vậy, thì thày có thể đảm bảo với con rằng khi con đến tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày, nhận thức đó sẽ bị thách đố.

Các thày, những chân sư thăng thiên, đã từ lâu bày tỏ điều gì qua sứ giả này? Các thày đã giảng rằng Đấng Sáng tạo là một, không phân chia, không thể chia cắt, nhưng khi Ngài quyết định sáng tạo, hành động sáng tạo đầu tiên là tạo ra một đối cực gồm hai lực: lực lan ra và lực co lại, tương đương với nam tính và nữ tính. Con có thực sự nghĩ rằng con có thể tạo ra một đối cực bằng cách tạo ra một sắc thái trước và sau đó tạo ra sắc thái còn lại không? Con có thực sự nghĩ rằng trong một đối cực, một sắc thái vượt trội hơn sắc thái kia? Trong một đối cực, cả hai cực được tạo ra cùng một lúc, và chúng được tạo ra trong một quan hệ cộng sinh (symbiotic) để cân bằng lẫn nhau.

Thày đã nói trong bài giảng đầu là Tánh linh đóng vai trò chính yếu trên trái đất theo nghĩa con phải tuân theo Sứ vụ Thiêng liêng của mình hơn là các yêu cầu của thế gian. Con không thể bắt Tánh linh tuân theo yêu cầu của thế gian. Lý do là trái đất là một bầu cõi chưa thăng thiên bị mất cân bằng rất nặng. Làm sao con giúp bầu cõi này thăng thiên? Con không giúp bầu cõi thăng thiên được bằng cách tuân thủ các điều kiện đến từ trạng thái tâm thức không thăng thiên, tâm thức tách biệt.

Đó là lý do tại sao Tánh linh phải đóng vai trò chính yếu, và đó là cơ sở cho câu Thánh kinh nói rằng người chồng là chủ gia đình. Câu này chỉ có nghĩa biểu tượng mà thôi. Nó không bao giờ có ý muốn nói người nam hơn người nữ. Nó không bao giờ có ý nói khía cạnh nam của đối cực Thiêng liêng cao hơn khía cạnh nữ, rằng phái nữ đã gây sa ngã và do đó bây giờ nên đổ tội cho phụ nữ. Nó không muốn nói phải chèn ép phụ nữ vào một vị thế thấp phục vụ đàn ông, vâng lời họ và im miệng trong nhà thờ.

6.3. Cân bằng thái cực nữ

Toàn bộ tâm thức chèn ép phụ nữ đã đến từ sa nhân. Họ thấy cơ hội tạo sự mất quân bình giữa hai giới tính sâu xa đến độ hai bên sẽ không bao giờ có được quan hệ bình đẳng trong đó người nam và người nữ có thể biểu lộ trọn vẹn đối cực Thiêng liêng. Sa nhân đã tạo ra một khuôn nếp khiến quan hệ tình yêu vật lý ở cõi vật chất hầu như không thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo cao nhất của nó. Đây là điều cần được khắc phục trong thời đại hoàng kim.

Khi con ở tầng của khóa nhập thất của thày, con không cần khắc phục toàn bộ khuynh hướng này cùng một lúc, nhưng con cần biết đến nó. Con cần nhận ra là nếu con có quan hệ với một người khác giới tính, cả hai người chúng con cần thăng vượt đối cực giả, sự mất quân bình cho rằng phái nữ kém hơn phái nam.

Thày biết nhiều người trong chúng con đã lớn lên trong thời hiện đại. Các con thường cảm thấy cha mẹ mình bị kẹt trong một quan hệ cổ lỗ quy định một vai trò nhất định cho phụ nữ. Các con hiện đại hơn, cân bằng hơn. Thày không tranh cãi là các con cân bằng hơn cha mẹ mình. Hầu hết các con chắc chắn là thế. Điều thày muốn nói là vẫn còn nhiều thứ phải khắc phục liên quan tới quan hệ giữa hai giới tính.

6.4. Không thể sở hữu tình thương Thiêng liêng

Tình thương có khả năng quân bằng tuyệt vời. Không thể sở hữu được tình thương. Con có thể tóm tắt như vậy bài giảng đầu của thày nếu con nắm ngụ ý của thày. Hầu hết mọi người nghĩ rằng trò chơi quyền lực sở hữu và kiếm soát của tự ngã là sở hữu và kiểm soát điều gì đó trong cõi vật lý.

Tự ngã muốn sở hữu và kiểm soát một số đặc tính sáng tạo để nó có thể hủ hóa chúng và loại chúng ra khỏi thế gian này. Tự ngã muốn hủ hóa cái nhìn của con về tình thương để con không thể là cánh cửa mở cho tình thương Thiêng liêng chảy qua con. Tình thương Thiêng liêng này có thể triệt tiêu sự mất quân bằng trong mọi quan hệ trên trái đất, nhưng nó chỉ làm được khi nó được tuôn chảy tự do. Nếu con hủ hóa nó, nếu con tìm cách ép nó vào một khuôn đúc tư tưởng dựa trên tâm thức tách biệt thì tình thương không chảy tự do được. Lúc ấy nó không chữa lành với hiệu quả tối đa được. Làm sao tình thương chữa lành được khi con tìm cách ép nó vào chính cái hình tư tưởng đã khiến con cần chữa lành? Đây là hình tư tưởng mất quân bằng khiến con cần chữa lành. Nếu con tìm cách ép tình thương tuôn chảy theo hình tư tưởng mất quân bằng đó, thì con không có tình thương Thiêng liêng. Bất cứ cái gì chảy qua con sẽ không có quyền năng chữa lành tối đa.

Điều này có hợp lý chăng? Trí năng có hãnh diện khi dùng lý trí không? Qua cái Ta Biết, con cần học cách dùng lý trí chống lại cái tâm trí thức, phân tích và lý luận. Thày không muốn nói “chống lại” theo nghĩa con đánh nhau với tâm mình. Con dùng lý trí để tránh không bị hút vào những khuôn nếp do tâm tạo ra.

6.5. Khắc phục sự mất quân bằng giữa hai giới tính

Con thấy gì trong quan hệ nam nữ trong thế giới hiện đại? Nhìn bên ngoài, con thấy số hôn nhân chấm dứt bằng ly dị nhiều hơn bao giờ hết. Nhìn bề sâu hiện tượng này, con thấy có sự chuyển đổi trong sự vận hành của quan hệ giữa hai giới. Sự chuyển đổi này có nhiều khía cạnh, nhưng thực ra động lực là nhu cầu khắc phục nhiều ngàn năm mất quân bằng. Không phải chỉ riêng người nam tạo ra và duy trì sự mất cân bằng. Con đừng lầm tưởng rằng các người nam đang hiện thân đã tạo ra sự mất quân bằng và là thủ phạm duy trì nó.

Con đang phải đương đầu với những lực vượt lên trên cõi vật lý. Chúng đã tạo ra sự mất quân bằng và điều khiển việc duy trì nó xuyên qua những người đang hiện thân sẵn lòng là công cụ cho chúng. Điều cần xảy ra là con không chịu làm công cụ nữa vì con vượt lên trên cách quan hệ nam nữ vận hành. Con cần nhận ra sự bất quân bằng trong quan hệ nam nữ không phải là điều con có thể đổ lỗi cho người phái nam.

Kể từ thời câu truyện sa ngã trong Vườn Địa đàng trong Cựu ước kinh, chuyện gì đã xảy ra giữa phái nam và phái nữ? Có phải là người nam đã đổ lỗi cho người nữ làm cho họ sa ngã? Con có nghĩ rằng con sẽ tiến bộ nếu con tạo ra một văn hóa trong đó người nữ đổ lỗi cho người nam đã chèn ép người nữ? Làm sao con khắc phục đổ lỗi bằng cách đổ lỗi thêm nữa? Người nam đã không bắt đầu chu kỳ này. Họ trở thành nạn nhân của nó, như phụ nữ cũng là nạn nhân vậy. Con cũng cần nhận ra rằng phụ nữ đã đồng ý tùng phục điều này, dù họ hiếm khi ý thức điều đó.

Họ đã mang vai trò này suốt vài ngàn năm qua. Phụ nữ trên trái đất này đã chấp nhận xem mình thấp kém hơn dựa trên những khác biệt thể lý giữa cơ thể nam và nữ. Họ cũng đã chấp nhận mình thấp kém hơn dựa trên một lý thuyết triết học được các tôn giáo cổ vũ. Ngay cả bên phương Đông với những tôn giáo không dựa trên Cựu ước kinh, con vẫn thấy bất bình đẳng giữa các giới. Con vẫn thấy phụ nữ bị chèn ép và bị xem gần như là vô tích sự vì không dễ gả chồng cho con gái.

6.6. Đổ lỗi là một sự hủ hóa tình thương

Con không thể đổ lỗi là người nam đã tạo ra tình trạng này. Con không thể đổ lỗi cho riêng truyền thống Do thái-Cơ đốc. Con có thể đổ lỗi cho sa nhân, nhưng làm thế không thật sự hữu ích. Vấn đề với tâm thức bất quân bình nam nữ là nó dùng một hủ hóa tình thương khác, hủ hóa chính là sợ hãi, nhưng đổ lỗi là một trong những hủ hóa hàng nhì. Điều con cần làm là khắc phục khuynh hướng, nhu cầu đổ lỗi. Nếu con sẵn sàng, con làm điều này ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Lúc ấy con nhận biết được rằng đổ lỗi là sự hủ hóa tình thương.  

Con thấy gì trong thế giới hiện đại này? Con thấy kiến thức được mở rộng không thể tưởng tượng được, kiến thức về sự vận hành của mọi sự. Phần lớn kiến thức này đạt được bằng tư duy đường thẳng, phân tích và trí năng. Tư duy này chắc chắn có một số đặc tính tích cực. Con đừng bị lừa mà nghĩ rằng trí năng nhất thiết là kẻ thù của phát triển tâm linh. Nó chỉ là kẻ thù khi con dùng nó một cách mất cân bằng, là điều tự ngã và sa nhân muốn. Con có thể vượt lên trên điều này vì trí năng có thể chứng minh một điều kiện là đúng hoặc ngược lại. Trí năng rất giỏi trong việc tạo ra một cách nhìn đời mất cân bằng nhưng con có thể dùng lý luận của trí năng để phơi bày sự mâu thuẫn và mất cân bằng này. Sau đó, cái Ta Biết có thể bước ra khỏi nó. Thay vì đồng hóa với trí năng và cách nhìn đời của trí năng, con có thể xem trí năng chỉ vỏn vẹn là công cụ để hoàn thành một số phần vụ trong cõi vật chất.

Con có thể ngừng không dùng trí năng để suy luận về những gì vượt quá cõi vật chất vì con có thể nhận ra chân lý mà các nhà thần bí mọi thời đại đã biết. Chân lý đó là trí năng không bao giờ có thể cho con hiểu biết chính xác về thế giới cao. Đức Phật nhận ra điều này 2,500 năm trước đây, đó là lý do vì sao thày không nói về cõi trời nhưng dạy cách làm chủ tâm mình. Con có thể nâng cao tâm thức cho tới khi con trực tiếp trải nghiệm thế giới cao bằng một cách vượt quá hiểu biết và phân tích của trí năng.

Trong thế giới hiện đại con người đã gia tăng khả năng nhận biết, nhưng giống như câu nói cũ; “Nếu bạn chỉ có một cái búa, bạn nghĩ mọi vấn đề đều là cái đinh.” Nếu dụng cụ duy nhất mà con có là trí năng, con nghĩ mọi vấn đề phải giải quyết bằng cách phân tích. Con thấy chăng những gì đã xảy ra giữa người nam và người nữ? Con người đã có nhận biết cao hơn về quan hệ tình yêu. Điều này có nhiều điểm rất tốt và rất cần thiết.

Nhân loại cần phá vỡ quan hệ cũ, không quân bình giữa người nam và người nữ. Điều này chỉ xảy ra khi nhận biết được nâng cao, nhưng nó không thể dựa trên kiến thức trí năng mà thôi. Con thấy là trong thế giới phương Tây hiện đại, người nam và người nữ đã tìm cách phân tích để giải quyết các vấn đề trong quan hệ của họ. Có một lực ngầm là lực phát triển đã tạo nên nhiều vấn đề hơn trong các mối quan hệ.

6.7. Khó duy trì quan hệ mất cân bằng.

Ngày nay một quan hệ mất cân bằng khó duy trì, khó hơn nhiều so với thời thế hệ cha mẹ con. Hầu hết các con có thể nhìn về quá khứ và thấy rằng trong thế hệ cha mẹ mình, họ có thể ở với nhau trong hôn nhân 40 hay 50 năm. Lý do một phần là vì họ chấp nhận một trạng thái cân bằng giả tạo giúp họ sống với nhau mà không thách thức nhau. Dù kết quả là một sự hài hòa bề ngoài, nhưng nó không đem lại sự phát triển.

Ngày nay, trạng thái cân bằng giả tạo này khó duy trì, và đó là lý do tại sao nhiều người trong các con có vấn đề trong quan hệ tình yêu của mình. Một quan hệ không phát triển khó duy trì hơn. Một trong hai người bạn đường cảm thấy không thỏa mãn, mối quan hệ không đạt được tiềm năng cao nhất của nó, có điều gì đó cần phải thay đổi.

Lúc đó nhiều người trong các con làm gì? Con đọc một cuốn sách hay con đi gặp một người tư vấn, và con tìm cách hiểu bằng trí năng chuyện không ổn trong quan hệ của con để con thử tìm cách hàn gắn nó. Đây vừa là sức mạnh vừa là tai họa của thế giới Tây phương: khuynh hướng phân tích mọi thứ. Con nghĩ rằng con có thể hiểu nguyên nhân một sự việc bằng cách tìm ra các thành phần cơ bản của sự việc đó. Khi con thay đổi nguyên nhân, con cũng sẽ thay đổi hậu quả. Con nghĩ rằng nếu có vấn đề giữa người nam và người nữ trong quan hệ của họ, con cần phân nhỏ vấn đề ra từng thành phần nhỏ.

Giả dụ con có mối quan hệ giữa một người nam và một người nữ. Bây giờ con chú tâm vào người nam rồi con chú tâm vào người nữ. Con nói: “Đặc tính của người nam là gì? Đặc tính của người nữ là gì?” Con đi đến một lý thuyết nghe rất hay là “người nam đến từ Hỏa tinh và người nữ đến từ Kim tinh.” Sau đó, con phân tích một số đặc tính của người nam và con nói: “Người nam hành động như thế này, và nó ảnh hưởng người nữ như thế này. Người nữ hành động như thế này, và nó ảnh hưởng người nam như thế này. Nếu người nam học cách biết họ đang làm gì và điều họ làm ảnh hưởng người nữ như thế nào, thì họ có thể thay đổi để họ không tạo ra hậu quả tiêu cực nơi người nữ. Nếu người người học để biết chính họ, họ cũng có thể thay đổi, và như thế đôi bên có thể sống hạnh phúc mãi mãi với nhau.”

Con yêu dấu, điều rất quan trọng ở đây là con phải bước lên cao hơn và vượt quá điều mà trí năng lúc nào cũng muốn làm, đó là giản dị hóa vấn đề thành các thành phần cơ bản của nó. Trí năng muốn tin rằng nó đã tìm ra điểm mấu chốt, nguyên nhân sâu xa. Khi nó hiểu được điểm này, nó cũng sẽ hiểu các khía cạnh khác của vấn đề.

Các nhà vật lý đã làm gì để hiểu thế giới vật lý? Đầu tiên họ nhìn vào các hình dáng bên ngoài. Sau đó họ thấy rằng mọi thứ được tạo ra ra từ vật chất. Vật chất được tạo ra từ phân tử. Phân tử được tạo ra từ nguyên tử. Nguyên tử được tạo ra từ các hạt hạ nguyên tử. Các nhà trí thức duy vật nói: “Bằng cách tìm ra các hạt hạ nguyên tử, chúng tôi đã thu nhỏ thế giới xuống thành các thành phần cơ bản của nó. Bây giờ vấn đề chỉ là hiểu cách các hạt hạ nguyên tử hoạt động và tìm ra hạt tối hậu, hạt-thượng đế. Khi đó chúng ta sẽ hiểu cách toàn bộ vũ trụ vận hành”. Nhưng sự thực không phải là như vậy.

6.8. Dùng trực giác để vượt quá trí năng

Trí năng có giới hạn cơ bản. Khi phân tích, giản dị hóa sự việc thành những thành phần cơ bản của nó, nó đánh mất cái gì? Nó đánh mất cái tổng thể. Có thể con đã nghe câu nói: “Tổng thể nhiều hơn các thành phần cộng lại.” Quan hệ giữa người nam và người nữ là một tổng thể và nó nhiều hơn người nam và người nữ, tâm lý của hai người. và sinh lý của hai ngời cộng lại. Nó nhiều hơn thế.

Bây giờ thày muốn con phân biện rõ ý của thày. Thày không nói phân tích các quan hệ hay phân tích tâm lý người nam và người nữ là điều sai hay vô ích. Thế giới hiện đại đã tiến bộ vì nó đã phân tích và cố gắng tìm hiểu mọi việc. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là sự tiến bộ của thế giới hiện đại đã đạt tới tối đa những gì có thể đạt được bằng cách phân tích và giản dị hóa mọi sự việc. Điều cần cho thời đại Bảo bình – điều cốt yếu để thời đại Bảo bình trở thành thời đại hoàng kim – là con người học cách phân tích tới mức tối đa và sau đó dùng trực giác để đi xa hơn nữa.

Một số người đã hiểu được điều này. Einstein, chẳng hạn, đã hiểu được phần nào và do đó đã dùng trực giác để đạt một số đột phá. Ông không hiểu đầy đủ những gì thày nói ở đây, nghĩa là ông đã cho phép trí năng áp đặt một giới hạn trên khả năng trực giác của ông. Đó là lý do tại sao ông không hoàn tất được công việc của mình và không đưa ra được lý thuyết mà ông mong mỏi tìm ra.

Lý do một phần là vì ông không nhận ra là mơ ước về một lý thuyết tối hậu là mơ ước của trí năng chứ không phải là mơ ước của trực giác. Trực giác không có nhu cầu có cái tối hậu trong thế giới vật lý, vì nó tuôn chảy với Tánh linh. Nó biết là lực tối hậu, thực tại tối hậu là dòng tuôn chảy.

6.9. Phá vỡ các khuôn nếp phản ứng trong quan hệ

Không có điều gì đứng yên, vậy làm sao có điều gì tối hậu được? Thượng đế là tối hậu, nhưng ngay Thượng đế cũng không đứng yên. Thượng đế luôn luôn thăng vượt qua con. Vậy tại sao con, khi con là khía cạnh tự thăng vượt của Thượng đế, lại nghĩ rằng mình có thể đứng yên? Điều này không hợp lý. Sa nhân không thể thấy điều này, tự ngã của con không thể thấy điều này và trí năng của con không thể thấy điều này. Nhưng con có thể thấy được, khi con ý thức mình là nhận biết không bị ràng buộc. Điều này liên quan ra sao với quan hệ giữa người nam và nữ? Con có thể giảm thiểu người nam xuống một số đặc tính không? Con không thể làm được!

Điều con có thể làm được là giúp người nam và người nữ nhận ra: “Cái ta vỏ ngoài của tôi đã bị mắc kẹt trong một khuôn nếp. Khi người bạn đường của tôi làm hay nói một số điều, cái ta vỏ ngoài của tôi phản ứng một cách nào đó và điều đó có nghĩa là tôi cãi lại.” Con cũng có thể hiểu rằng khi con phản ứng và nói điều gì với người bạn đường của mình, thì người bạn đường cũng có một khuôn nếp khác khiến người đó phản ứng một cách nào đó. Điều này có nghĩa là cả hai chúng con đi vào một vòng xoáy hướng hạ kéo năng lượng của chúng con xuống.

Con có thể hiểu điều này, và nó rất hữu ích để con phá vỡ những khuôn nếp này – nếu con sẵn sàng phá vỡ chúng, nếu đôi bên sẵn sàng phá vỡ chúng. Nếu chỉ có một trong hai người bạn đường sẵn sàng phá vỡ khuôn nếp, thì mối quan hệ không nhất thiết thăng vượt được lên trên tầng mức đó.

6.10. Nhận tình thương là thuốc giải độc sợ hãi

Nói tóm lại, con sẽ không có một quan hệ thành công chỉ bằng cách phân tích mình và phân tích nhau. Con chỉ thành công khi nhận ra rằng tình thương phải luôn luôn tuôn chảy.

Điều gì đã thật sự khiến các mối quan hệ bị mắc kẹt trong những khuôn nếp giới hạn này? Đó là nỗi sợ mất mát của tự ngã, khiến nó muốn kiểm soát người bạn đường để nó không mất điều mà nó nghĩ nó chỉ có được xuyên qua người bạn đường. Tất cả con người trên trái đất đều phần nào bị ảnh hưởng bởi tâm thức tách biệt. Nếu con không bị ảnh hưởng, con không thể ở lại trong xác thân này. Con càng xuống các tầng tâm thức thấp thì càng bị ảnh hưởng. Con càng bị ảnh hưởng bởi tâm thức tách biệt, thì con càng cảm thấy cô đơn. Con cảm thấy bị mắc kẹt trong một môi trường đầy đe dọa và quan hệ của con với môi trường dựa trên sợ hãi.

Mọi người đều biết từ bên trong con người mình là tình thương là thuốc giải độc cho sự sợ hãi. Nhiều người không biết điều này một cách ý thức, nhưng nó vẫn có mặt nơi các phần sâu của tâm. Điều này có nghĩa rằng con càng bị mắc kẹt trong sợ hãi thì con càng khao khát tình yêu.

Làm sao con có được tình thương? Khi còn nhỏ, nếu con may mắn thì có được tình thương từ cha mẹ hay ít ra từ một trong hai người. Nhiều trẻ em lớn lên với cha mẹ bị mắc kẹt ở dưới tầng tâm thức thứ 48. Khi một người ở dưới tầng tâm thức thứ 48, người đó không thể cho tình yêu một cách tự do. Con cái người đó sẽ không cảm thấy nhận được đầy đủ tình thương từ cha mẹ.

Phần kia của phương trình là nếu em nhỏ ở dưới tầng tâm thức 48, em sẽ không có khả năng nhận được tình thương một cách tự do. Dù cha mẹ cho em tình thương bao nhiêu chăng nữa, em sẽ không cảm thấy đủ. Tình trạng cơ bản là hầu hết mọi người lớn lên với cảm giác không nhận đủ tình thương nên họ cảm thấy thiếu hụt. Sau đó họ vào tuổi thanh thiếu niên, kích thích tố tác động và họ bắt đầu có cảm xúc tình dục. Dựa trên nền văn hóa chung, họ nghĩ rằng cách có được tình thương mà họ hằng mong ước là tìm được một người bạn đường khác giới và có với nhau một mối quan hệ thể xác, lãng mạn và tình dục.

6.11. Thiếu hụt tình thương

Hầu hết quan hệ tình yêu trên hành tinh này bắt đầu với tình trạng hai người bạn đường cảm thấy mình thiếu hụt tình thương. Cả hai nghĩ rằng ý nghĩa của mối quan hệ là nó sẽ lấp đầy sự thiếu hụt tình thương của mình. Làm sao nó làm được? Nó làm được nếu mình nhận được đủ tình thương từ người bạn đường. Bạn đường của con cũng thiếu hụt tình thương và anh hay cô ấy cảm thấy mình không nhận được đủ tình thương khi mình lớn lên. Thày hiểu rằng con lớn lên trong một nền văn hóa lệch lạc. Con lớn lên với một cái nhìn lệch lạc về quan hệ. Con lớn lên với kỳ vọng là người bạn đường của con có thể lấp đầy nhu cầu tình yêu của con. Thày hiểu rằng con có kỳ vọng này. Thày không đổ lỗi con về chuyện này. Thày chỉ hỏi con liệu kỳ vọng này có thực tế không. Liệu rằng người bạn đường của con có thể nào lấp đầy nhu cầu tình yêu của con không?

Người bạn đường của con đã lớn lên trong cùng nền văn hóa với con. Người bạn đường của con cũng có sự thiếu hụt, cũng cảm thấy là mình không nhận đủ tình thương. Nếu con bị thiếu hụt, và người bạn đường của con bị thiếu hụt, thì làm sao người đó có thể cho con tình thương mà con cần nếu người đó không có đủ tình thương trong trường năng lượng và luân xa của anh hay cô ấy?

Làm sao người bạn đường có đủ tình thương để cho con để con lấp đầy nhu cầu của mình? Làm sao hai người cùng thiếu hụt có thể giúp nhau vượt qua sự thiếu hụt này? Điều này có hợp lý không? Chắc hẳn trí năng cũng phải nhận ra kỳ vọng này thiếu thực tế? Nếu con bắt đầu một mối quan hệ mà trong đó cả hai bên đều đặt kỳ vọng không thực tế vào mối quan hệ, thì chỉ có thể có một kết quả xảy ra: cả hai đều sẽ thất vọng với mối quan hệ.

Bây giờ con lý luận theo kiểu nền văn hóa của con đã dạy con, là điều này có nghĩa là quan hệ của con có điều gì không ổn: “Nhu cầu tình thương của tôi không được người bạn đường lấp đầy. Vậy phải có điều gì không ổn rồi. Vì tôi không được điều gì tôi cần từ người bạn đường, vậy là người bạn đường của tôi có cái gì không ổn.” Bấy giờ, hai người đi tới giai đoạn, sau khi họ làm ngơ với sự thật rằng cả hai bên đều không hài lòng với mối quan hệ, nay họ bắt đầu nhìn nhận và công khai nói lên sự không hài lòng với mối quan hệ.

Sau đó họ đến thời điểm mà họ quyết định: “Chúng ta phải làm điều gì đó.” Họ làm gì? Họ tìm một cuốn sách, họ theo một khóa học, họ tìm đến một chuyên gia tư vấn. Họ bắt đầu có những cuộc nói chuyện làm kiệt sức: “Cô/anh đã làm điều này! Cô/anh đã không làm điều này! Cô/anh làm cho tôi cảm thấy thế này. Cô/anh làm cho tôi cảm thấy thế kia.”

Con đang tìm cách làm gì đây? Nếu con đang tìm cách nhận biết những khuôn nếp lệch lạc của chính mình để thay đổi chúng, thì đây là cơ hội để con hưởng lợi lạc từ các cuộc nói chuyện này. Nếu cả hai người bạn đường đều làm điều này, nếu cả hai đều sẵn sàng nhìn vào chính mình và thay đổi khuôn nếp của mình, thì họ sẽ đạt tiến bộ. Điều thường xảy ra là cả hai đều bước vào trò chơi quyền lực ngụy trang như tình yêu, như thày đã nói trong bài giảng đầu của thày. Con dùng trí năng để phân tích người bạn đường của mình, với mục đích khiến người bạn đường thay đổi và con thì không phải thay đổi.

6.12. Giải quyết sự thiếu hụt bằng cách tập trung vào tổng thể

Con yêu dấu, đây là trò chơi cơ bản của tự ngã: Không bao giờ nhìn vào cái đà trong chính mắt mình, luôn luôn nhìn vào mảnh dằm trong mắt người bạn đường, luôn luôn phóng chiếu là vấn đề ở bên ngoài, và giải pháp là người bạn đường phải thay đổi trong khi con thì không phải thay đổi. Hoặc con cảm thấy nếu con phải thay đổi, thì con chưa thể thay đổi nếu người bạn đường chưa thay đổi. Nếu người bạn đường thay đổi và cho con tình yêu mà con cần, thì lúc đó con sẽ tự động thay đổi. Có bao nhiêu người trong chúng con đã ở trong tình trạng này? Tất cả chúng con đều đã như vậy, và người sứ giả này cũng không ngoại lệ. Con có thể bước lên và nhận ra đây lại một ví dụ khác của trò chơi quyền lực, và con đang sử dụng tình yêu như cái cớ?

Ở mặt ngoài, con có thể cảm thấy và thành thật tin rằng con chỉ làm điều này vì con muốn mối quan hệ thành công. Con chỉ tìm cách giúp người bạn đường thay đổi để anh hay cô ấy có thể thoát ra khỏi các khuôn nếp lệch lạc. Con cũng có thể cảm thấy con đang tìm cách thay đổi chính mình, thoát ra khỏi khuôn nếp của mình. Một lần nữa, con hãy lưu ý. Con có thể tiến triển bằng cách phân tích mối quan hệ, cách vận hành giữa con và người bạn đường, và phân tích tâm lý của con và người bạn đường. Con có thể tiến triển bằng cách này, nhưng con sẽ không tiến triển tối đa và con sẽ không cứu vãn được mối quan hệ bằng cách chú tâm vào tiến trình phân tích và giản dị hóa vấn đề. Một quan hệ thành công, có sự sáng tạo tối đa, chỉ có thể dựa trên một điều: chú tâm vào tổng thể.

Con làm gì khi con phân tích nguời bạn đường của mình? Con tìm cách rút người đó xuống thành một số đặc tính, một số khuôn nếp trong tâm lý. Một chuyên viên tư vấn giỏi có thể cho con thấy một số khuôn nếp trong tâm lý của con và người bạn đường, nhưng các con đang làm gì? Các khuôn nếp đó hiện hữu trong tâm vỏ ngoài. Các khuôn nếp đó không ở trong cái Ta Biết vì cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, không phân biệt và không có khuôn nếp. Khi con rút mình và người bạn đường xuống thành những khuôn nếp trong tâm vỏ ngoài, chuyện gì xảy ra? Con chỉ thấy cây, và con không thấy khu rừng của cái Ta Biết là cánh cửa mở, là ngõ vào cho Hiện diện TA LÀ của con và người bạn đường.

Tự ngã của con và tự ngã của người bạn đường sẽ không bao giờ hợp nhau. Tâm vỏ ngoài của con và tâm vỏ ngoài của người bạn đường sẽ không bao giờ thật sự sáng tạo chung với nhau. Tâm vỏ ngoài của các con có thể tìm ra một sự cân bằng nơi đó không có xung đột. Hai tự ngã của chúng con có thể đi vào trạng thái cân bằng trong đó một người ở địa vị cao và người kia ở địa vị thấp. Điều này có thể cho chúng con một sự cân bằng quyền lực trong đó chúng con có thể sống chung mà không tranh chấp liên tục.

Nhiều người trên thế gian này gọi đó là một quan hệ thành công, thậm chí là hài hòa. Đây không phải là một quan hệ sáng tạo vì quan hệ sáng tạo chỉ xảy ra khi cả hai bên đều tìm cách trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của mình. Trở thành cánh cửa mở nghĩa là vượt qua những khuôn nếp trong tâm lý để con có thể là cái Ta Biết mà không bị tâm vỏ ngoài pha màu – và con giúp người bạn đường cũng làm như vậy. Con càng phân tích người bạn đường, con càng nắm giữ ý tưởng: “Ồ, anh ấy như thế này” hoặc “Anh ấy như thế kia” hoặc “Cô ấy như thế này” hoặc “Cô ấy luôn luôn phản ứng như thế kia.” Con càng làm thế thì con càng che mờ cái Ta Biết và sự tự do tuôn chảy của nó. Con càng phân tích thì con càng thiếu sáng tạo. Một lần nữa, phân tích có thể giúp vượt qua các khuôn nếp, nhưng một khi con đã vượt qua chúng, con cần đi bước kế tiếp và cho phép mỗi người được là như họ là.

6.13. Nhận tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con

Con hãy so sánh điều thày vừa nói về sự thiếu hụt tình thương, nhu cầu có tình thương, và nhu cầu nhận tình thương từ người bạn đường. Con chỉ làm được điều này khi cả hai đều nhận ra mục đích của quan hệ giữa người nam và người nữ không phải là hai bên cho nhau tình thương. Mục đích là hai bên sáng tạo và thể hiện điều gì lớn hơn điều mỗi người có thể làm một mình vì tổng thể được phép trở thành lớn hơn sự gộp lại của các thành phần.

Con cũng cần nhận ra rằng, dù con cần tình thương, con sẽ không bao giờ nhận đủ tình thương từ người bạn đường hay từ bất cứ một con người nào khác. Con không thể nào nhận được đủ tình thương từ bên ngoài mình. Con chỉ có thể nhận được từ bên trong mình, từ Hiện diện TA LÀ của con. Không người bạn đường nào trên trái đất có thể yêu con như Hiện diện TA LÀ của con.

Nhiều người tâm linh đã bắt đầu vượt lên trên tình thương thế gian, nhưng họ vẫn nghĩ rằng nếu người bạn đường của họ thật sự tâm linh, người ấy phải có thể cho họ tình thương mà họ cần. Thày không nói rằng người bạn đường của con không được cho con tình thương khi chúng con sống với nhau trong quan hệ tình yêu. Chắc chắn là chúng con biểu lộ tình yêu cho nhau, nhưng nếu muốn mối quan hệ thành công thì cả hai bên phải vượt qua cảm giác thiếu hụt tình thương. Con không kỳ vọng và không đòi hỏi người bạn đường phải cho con tình thương, mà con chỉ có thể nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con mà thôi. Con có thể nhận được tình thương từ người bạn đường, nhưng tình thương mà con cần để vượt qua tách biệt chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con.

Thiết lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là trách nhiệm của mình con. Đây không phải là trách nhiệm của người bạn đường của con. Nó thậm chí không phải là trách nhiệm của vị thày của con, dù vị thày đó là một người đang có xác thân vật lý hay một chân sư thăng thiên. Nó là bổn phận của con.

Con cần biến trách nhiệm thành khả năng đáp ứng. Con làm điều mà thày nói trong bài giảng đầu của thày và con đặt ưu tiên đúng chỗ. Con nhận ra rằng tình yêu mà con mơ ước, tình yêu mà con thật sự cần, chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, không phải từ người bạn đường. Con không kỳ vọng và không đòi hỏi người bạn đường cho con điều mà con không thể có được từ người ấy. Con không đổ lỗi cho người bạn đường đã không cho con điều mà, nếu người bạn đường có khả năng cho con, con cũng không có khả năng nhận.

Con hiểu chăng? Vấn đề không chỉ là việc người bạn đường không thể cho con tình thương mà con cần. Đó cũng là con không thể nhận tình thương đó từ bất cứ nguồn nào bên ngoài. Con chỉ có thể nhận nó từ Hiện diện TA LÀ của con.

6.14. Ngừng đổ lỗi người bạn đường của con

Chuyện gì xảy ra khi con gặp một người và bị tiếng sét ái tình? Con trải qua trạng thái hưng phấn, con cảm thấy mối quan hệ đang thành công và tình yêu đang tuôn chảy, và con đã rốt cuộc tìm được, con nghĩ thế, tình yêu mà con cần. Như hầu hết các con đã nhận ra, tiếng sét ái tình là một trạng thái ảo tưởng. Nó là một trạng thái hưng phấn. Nó giống như ma túy.

Khi con đang yêu, con tạm bỏ qua bên một số khuôn nếp của mình. Lúc đó con nhận được một chút tình thương từ Hiện diện TA LÀ của con. Con chỉ không biết là nó đến từ Hiện diện TA LÀ, và con nghĩ nó đến từ người bạn đường của con. Chuyện gì đã xảy ra sau đó, tại sao tình yêu đó phai nhạt đi? Vì Hiện diện TA LÀ biết con cần học điều gì. Con cần nhận biết một cách ý thức là tình yêu mà con cần chỉ có thể đến từ Hiện diện TA LÀ, để con bắt đầu chú tâm vào Hiện diện TA LÀ của con. Hầu hết mọi người không làm điều này trong quan hệ tình yêu vì họ không được giảng dạy đây là điều họ cần. Lúc ấy Hiện diện TA LÀ của con phải cắt đứt dòng tình thương. Nó phải cắt đứt không phải để trừng phạt con mà vì đây là cách duy nhất để con bắt đầu suy nghĩ tại sao con không nhận được tình thương mà con cần.

Vì những gì họ biết qua sự giáo dục khi lớn lên, hầu hết mọi người đi vào khuôn nếp đổ lỗi cho người bạn đường thay vì chú tâm thiết lập sự nối kết có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Thày hoàn toàn hiểu điều này. Trong tâm thày chỉ có lòng trắc ẩn và đồng cảm với rất nhiều người không thể hành động tốt hơn vì họ không biết đúng hơn.  

Thày làm được gì ngoài chuyện cho con kiến thức để con biết đúng hơn? Thày hy vọng rằng các con nào mở tâm ra với giáo lý này và biết đúng hơn, sẽ hành động tốt hơn cho mình. Thày cũng hy vọng con sẽ lan truyền đến người khác là có quan niệm về quan hệ tình yêu khác với quan niệm bình thường.

6.15. Cân bằng giữa Alpha và Omega

Hạnh phúc tối hậu không đến từ một quan hệ tình yêu siêu phàm với người bạn đường toàn hảo trên trái đất. Hạnh phúc tối hậu chỉ đến khi con thiết lập quan hệ với Hiện diện TA LÀ của con. Con nhận ra Hiện diện TA LÀ là Alpha, khía cạnh nam của con người con. Cái Ta Biết là Omega, khía cạnh nữ của con người con. Rồi con cho phép Hiện diện TA LÀ làm chủ căn nhà của con, và con chấp nhận con là cực Omega ở thế giới vật chất, nối với cực Alpha của Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Giờ đây con có được dòng chảy đúng đắn của hình số tám trong con người con (dòng chảy số tám theo chiều dọc), và sau đó con có thể thiết lập dòng chảy số tám sáng tạo nhất với người bạn đường trên trái đất này. Con không bao giờ có thể thiết lập dòng chảy số tám chiều ngang trước khi mỗi người trong hai chúng con đạt được một mức cao của dòng chảy số tám theo đường dọc.

Ý niệm người nam và người nữ hoàn toàn bình đẳng với nhau có nghĩa gì? Điều này chỉ thành tựu khi cả hai nhận ra quan hệ của mình với Hiện diện TA LÀ của mình. Họ nhận ra và trải nghiệm là Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh và vượt lên trên mọi phê phán hay so sánh trên thế gian. Không có vấn đề mình giỏi hơn người khác. Không có vấn đề một người bạn đường cao cả hơn hay quan trọng hơn người kia.

Mỗi chúng con có Hiện diện TA LÀ của mình là một sinh thể tâm linh độc nhất. Mỗi chúng con có sứ vụ Thiêng liêng của mình. Cả hai chúng con đều quan trọng như nhau, và mối quan hệ chỉ được tiềm năng cao nhất khi con cho phép cả hai người hoàn thành sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Thày hiểu rằng đôi khi, qua sự nhận biết, con đi tới kết luận rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi những tình huống bên ngoài và những hành động quá khác thường, và do đó không thích hợp và không thiết thực để duy trì một quan hệ tình yêu. Đây cũng là một quan hệ thành công.

Một quan hệ thành công không có nghĩa là hai bên sống suốt đời với nhau. Nó là mối quan hệ mà hai bên giúp nhau trên hành trình cá nhân của mình tới một điểm nơi họ sẵn sàng đi bước kế tiếp. Nếu cả hai người nhận ra rằng bước kế tiếp trên hành trình của họ sẽ thành tựu tốt nhất nếu họ không sống chung với nhau trong một quan hệ tình yêu, đây cũng là một thành công.

6.16. Hôn nhân trọn đời?

Ý tưởng hôn nhân trọn đời từ đâu đến? Một phần nó đến từ thời xưa khi tình trạng an ninh rất thấp, đặc biệt là trong những xã hội mà người nữ không có cách chi để tự nuôi sống mình, khi chỉ có người nam mới có việc làm hay nghề nghiệp. Hôn nhân trọn đời là một dụng cụ xã hội thực tiễn, vì tốt hơn là người nam không bỏ vợ mình khi bà bắt đầu có tuổi và không thể nào đáp ứng thèm muốn tình dục của ông. Vì lý do đơn thuần thực tiễn, văn hóa thiết lập rằng người nam phải sống trọn đời với vợ mình.

Quan niệm này vẫn có giá trị trong những xã hội mà người nữ vẫn chưa có cách kiếm sống. Tất nhiên, những xã hội như thế nay đã lỗi thời. Trong thời đại hoàng kim, mọi xã hội trên trái đất cần tiến tới chỗ mà cả người nam lẫn người nữ đều có thể tự túc nuôi sống mình. Ngày nào chưa đạt được điều trên, thì chưa thể có nền văn hóa trong đó người nam có thể từ bỏ người nữ bất cứ lúc nào anh muốn. Mặt khác, thế giới công nghiệp hiện đại đã vượt khá xa tình trạng này, nên con cần nhận ra ý tưởng người nam và người nữ phải ở đời với nhau chỉ có thể đến từ sa nhân và tự ngã. Chúng muốn giam con ở một mức nào đó và ngưng sự tăng triển của con.

Nếu một người nam và người nữ có thể phát triển cùng với nhau trong quan hệ hôn nhân suốt cuộc đời thì họ nên ở lại với nhau. Nếu họ nhận ra sự phát triển của mỗi người đòi hỏi họ trôi chảy về những hướng khác nhau, thì họ nên trôi chảy về những hướng khác nhau. Thay vì đổ lỗi cho nhau hay cảm thấy tủi hổ về chuyện này, họ có thể chia tay trong tinh thần tích cực và niềm biết ơn đã hỗ trợ nhau tới mức này.

Nếu con không làm được thì con lại bị mắc kẹt trong trò chơi quyền lực khác. Con vẫn còn bị mắc kẹt trong trò chơi muốn đổ lỗi cho người bạn đường của mình, và điều này có nghĩa là con chưa đạt những khai ngộ ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Tất nhiên, thày sẽ giúp con đạt những khai ngộ này trong bài giảng kế tiếp của thày, nói về liều lượng tình thương gấp đôi mà con nhận được ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày.

TA LÀ Paul người Venice.

4 | Tình thương và Uy lực

Bài giảng của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, ngày 3/1/2015.

TA LÀ chân sư thăng thiên Paul người Venice. Thày là Thượng sư của Tia thứ Ba bình thường được gọi là tia của tình thương.

Mục đích của thày trong loạt bài giảng này là tiếp tục công việc mà các thày đã khởi sự nhằm phơi bày cho những người đang hiện thân trong cõi vật chất những khai ngộ khi tu học với bảy Thượng sư. Những khai ngộ nhằm giúp con tạo động lực mang con tới tầng tâm thức thứ 96. Nó cũng sẽ mang con quá tầng này và đạt sự khai ngộ sẽ đưa con thực sự bước vào con đường của quả vị Ki-tô, thay vì sa ngã và dùng khả năng sáng tạo gây dựng tự ngã.

4.1. Hành trình vật lý và cá nhân

Khu nhập thất của thày tọa lạc ở miền Nam nước Pháp. Nó được gọi là Lâu đài của Tự do, là tên của tòa nhà là trung tâm điểm của khu nhập thất trong cõi vật lý. Các con có thể đi tới địa khu vật lý nơi một trong những khu nhập thất của các thày tọa lạc, nhưng con nên nhớ là khu nhập thất nằm trên cõi ê-the. Điều này có nghĩa là con phải hòa điệu với một rung động cao hơn rung động của cõi vật lý. Nếu con làm điều này dễ hơn khi con đi tới địa điểm vật lý, thì đi tới là điều tốt, nhưng con không phải tới địa điểm vật lý để có thể hòa điệu với rung động tâm linh. Thày phải nói là có nhiều trường hợp một người phải làm một cuộc hành trình vật lý để hoàn thành hành trình tâm thức tương ứng.

Đây là ý niệm được mô tả qua huyền thoại Odysseus làm cuộc hành trình Odyssey. Cuộc hành trình hào hùng này là biểu tượng của cuộc hành trình tâm thức, qua đó anh chạm trán các động lực trong tâm, hay là các phàm linh, theo từ ngữ các thày dùng hiện nay. Con cũng đang làm một cuộc hành trình tương tự. Có thể nó sẽ không bao giờ được viết thành một bản anh hùng ca và có thể không ai khác ngoài con biết đến nó, nhưng nó cũng quan trọng không kém. Thày sẽ không nói nó có một tầm quan trọng vĩ đại vì các thày đã giảng về tư duy cuồng đại [đọc Tự do khỏi bi kịch của tự ngã]. Nó là một hành trình quan trọng, không phải chỉ cho riêng con, vì con cũng khai phá một con đường trong tâm thức tập thể giúp cho những người khác dễ bước theo đường tu hơn.

4.2. Cái Ta Biết lúc nào cũng tuôn chảy

Con đừng xem thường điều này, vì một hiểm nguy lớn nhất trên đường tu là cảm giác chán nản, cảm giác con đã bắt đầu quen thuộc với đường tu, quen thuộc với chỉ thị của chân sư thăng thiên. Con có thể trở nên quen thuộc với tầng tâm thức nào đó. Nhưng đó không phải là con trở nên quen thuộc, đó chính là tự ngã của con.

Cốt lõi của con người con là cái mà các thày đã gọi là cái Ta Biết. Nó được tạo từ bản thể của đấng Sáng tạo, và đấng Sáng tạo không bao giờ đứng yên, bất kể hình ảnh nào con có về ngài. Nó là một dòng sống tuôn chảy không ngừng. Cái Ta Biết không bao giờ đứng yên mà lúc nào cũng tuôn chảy. Tự ngã muốn ngừng dòng chảy của thời gian, ngừng vũ trụ vật lý, để có cảm tưởng nó đang nắm quyền kiểm soát. Khi cái Ta Biết đồng hóa với tự ngã, con nghĩ con cần phải nắm quyền kiểm soát, kể cả quyền kiểm soát việc tu hành. Khi con tới các mức khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, con đến với một quan niệm băn khoăn có phải mình là thế này, các chân sư thăng thiên là thế này và con đường khai ngộ phải như thế này? Con có thấy chăng nguy cơ của việc truyền dạy một giáo lý vỏ ngoài là con tạo ra một hình tư tưởng là thày phải dạy chúng con như thế nào. Các thày đã lặp đi lặp lại điều gì? Điều giam con trong vũ trụ vật chất chính là những hình tư tưởng của con, quan niệm thế giới vận hành ra sao, Thượng đế ra sao và con như thế nào. Con cần thăng vượt các hình tư tưởng này! Con cần đi xa hơn chúng! Làm sao các thày có thể giúp con vượt quá hình tư tưởng mà con có về các thày và giáo lý nếu các thày thuận theo chúng, và qua đó xác nhận chúng và giữ con bị giam trong đó?

Đây là điều đoàn chưởng giáo giả sẽ làm. Họ sẽ nói: “Con đúng rồi. Con nay đã có giáo lý tuyệt đỉnh trên trái đất. Con chỉ cần tiếp tục làm theo suốt đời và con sẽ bảo đảm được thăng thiên.” Họ nói con vậy để phá hoại sự thăng thiên của con, và họ biết cách tốt nhất là khiến con bám víu vào tự ngã và cảm giác mình đang nắm quyền điều khiển.

Con có biết có bao nhiêu người đã tìm tới giáo lý chân sư thăng thiên trong thế kỷ vừa qua và cảm thấy họ đã tới đích? Họ đã về tới nhà; họ đã tìm ra giáo lý tuyệt đỉnh trên hành tinh này, giáo lý này sẽ dẫn họ thăng thiên. Họ đã dùng giáo lý để củng cố cảm giác của tự ngã là nó đang nắm quyền điều khiển. Họ cảm thấy rằng vì họ đã tìm ra giáo lý vỏ ngoài và pháp tu vỏ ngoài này, họ làm chủ đường tu của họ.

Con yêu dấu, nếu con muốn làm chủ đường tu của mình thì con đâu cần các chân sư thăng thiên nữa, phải không con? Con cần một hình ảnh khô chết của chân sư thăng thiên, và con cứ khẳng định nó là thày thật. Trong trường hợp này thày không thể giúp con. Không có chân sư thăng thiên nào có thể giúp con. Con còn không thể vào khóa nhập thất của Tia thứ Ba của thày nếu con còn bám víu vào các hình tư tưởng này.

Hình ảnh con cần đập tan ở bước khai ngộ đầu tại khóa nhập thất của thày là hình ảnh con có về tình thương. Nếu con sẵn sàng thăng vượt phần nào hình tư tưởng của mình, con có thể vào khóa nhập thất của thày.

Thày bảo đảm với con là con không thể tốt nghiệp khóa nhập thất của thày Lanto nếu con chưa chứng minh là con đã sẵn sàng thăng vượt phần nào các hình tư tưởng của mình. Thày cảnh báo ở đầu quyển sách này vì có người bắt đầu đọc quyển sách này dù chưa đọc hai quyển trước.

Thày không nói rằng không ai có thể đạt được những khai ngộ của hai tia đầu và sẵn sàng đón nhận những khai ngộ của Tia thứ Ba mà không đọc hai quyển sách đầu. Họ có thể đã đạt được những khai ngộ đó trong nội tâm, nhưng không có bao nhiêu người trong trường hợp này. Con nên khiêm tốn và đọc hai quyển sách đầu trước khi đọc quyển này, nhưng nếu con có trực giác mạnh là con sẵn sàng đọc quyển này thì thày sẽ không cản ngăn con. Con hãy chắc chắn đây là trực giác đến từ nội tâm chứ không phải là niềm tự hào của tự ngã muốn chứng tỏ mình là một đệ tử cao cấp đã sẵn sàng nhận những khai ngộ về tình thương.

4.3. Khai ngộ về Tình thương và Uy lực

Chuyện gì xảy ra khi một học viên vào khóa nhập thất của thày? Khai ngộ đầu mà họ đối mặt là khai ngộ của tình thương phối hợp với uy lực của Tia thứ Nhất. Đây là một trong những khai ngộ khó khăn nhất cho những người đã hiện thân lâu đời trên trái đất. Ít có khái niệm nào bị con người hiểu lầm và lạm dụng nhiều như tình thương. Như các thày đã giải thích, mọi chuyện trên trái đất xoay vần chung quanh một trò chơi quyền lực. [đọc Tự do khỏi trò chơi của tự ngã] Đây là cốt lõi của tự ngã, là sự mong muốn cảm thấy mình đang nắm quyền điều khiển bằng cách khống chế người khác, điều kiện vật lý trên hành tinh, và ngay cả các chân sư thăng thiên và Thượng đế.

Các sa nhân đã tìm cách làm điều gì từ lần sa ngã nguyên thủy đã xảy ra từ quá lâu theo thước đo thời gian trên trái đất đến độ tâm trí con người không sao tưởng tượng được? Họ đã tìm cách điều khiển Thượng đế. Họ dùng mọi phương tiện để thực hiện ý đồ này, kể cả tình thương. Làm sao con có thể dùng tình thương để kiểm soát? Con chỉ cần nhìn vào trái đất và quan hệ giữa con người, cái mà con người gọi là quan hệ thương yêu.

4.4. Trình bày những khai ngộ của tình thương

Khi học viên tới khóa nhập thất của thày, đa số tin chắc họ đã biết tình thương là gì, cái gì không phải là tình thương, nó phải được biểu lộ như thế nào và nó không được biểu lộ như thế nào. Họ cũng khá tin tưởng vì họ là đệ tử chân sư thăng thiên có khá nhiều kinh nghiệm về đường tu, nên họ biết khá rõ những khai ngộ mà thày sẽ cho họ. Chúng ta cần khắc phục điều này như bước đầu tiên. Thày không thể khai ngộ con về con đường của tình thương nếu con có ý định dùng những hình ảnh về tình thương của mình để áp đảo thày. Thày là thày, con là đệ tử. Thày đã đạt được những khai ngộ của tình thương. Do đó, thày trình bày những khai ngộ này cho con. Không phải là ngược lại.

Khi học viên tới khóa nhập thất của thày, họ thường rất kinh ngạc khi khám phá rằng thày không phải là một vị thày dịu dàng mà họ chờ đợi nơi một chân sư của tình thương. Thày không nói là thày không dịu dàng, nhưng thày không dịu dàng lúc ban đầu khi thày cho con các khai ngộ đầu của Tia thứ Ba. Thày cứng rắn, không nhượng bộ, không thỏa hiệp.

Nhiều học viên nghĩ rằng thày đang dùng quyền lực để áp đảo họ. Thày không làm vậy. Thày chỉ phản chiếu những gì họ phóng tới thày, và đa số học viên tới khóa của thày và phóng chiếu quan niệm sai lầm rằng tình thương là một trò chơi quyền lực. Thày không nói điều này như một lời đổ lỗi. Con hầu như không thể lớn lên trên hành tinh này mà không bị lập trình để dùng tình thương trong trò chơi quyền lực. Trò chơi quyền lực này quá phổ quát, quá lan tràn nên người ta hầu như không thể lớn lên trên trái đất mà không bị nó ảnh hưởng.

Sự nghiêm nghị trong giọng nói của thày không có nghĩa là thày không chấp nhận con. Nó chỉ có nghĩa là thày cần phản chiếu điều mà con phóng tới thày, và cũng để chứng minh là, bất kể trò chơi quyền lực nào con đang chơi, nó không ảnh hưởng được thày. Thày sẽ không để con lừa thày và để con áp đảo thày, và con sẽ không áp đảo được thày bằng vũ lực mà thôi. Và con cũng không thể áp đảo thày bằng bàn tay bọc nhung của khía cạnh mềm mỏng của tình thương.

Thày đã đạt được những khai ngộ của tình thương. Không có điều gì con mang theo con từ trái đất có thể lừa hay ép buộc thày phải quy phục trò chơi quyền lực của con. Thày không thể giải thoát con khỏi trò chơi đó nếu thày quy phục nó, phải không con? Đồng thời, thày cũng không thể giải thoát con khỏi nó nếu thày đối chọi lại con và tìm cách áp đảo con. Điều thày có thể làm là chứng minh là thày không thể bị lay chuyển, thày sẽ không bị lay chuyển, không một trò chơi quyền lực nào trên trái đất có thể lay chuyển được thày – dù nó ngụy trang là tình thương khéo léo tới đâu.

Khi học viên vượt qua chấn động ban đầu vì đã gặp một vị thày rất khác những gì họ tưởng tượng, thì chúng ta có thể tiến bước kế tiếp. Vì những học viên tới khóa này đã trải qua các khai ngộ của hai tia trước nên họ thay đổi tương đối không khó khăn. Khi con dùng tâm vỏ ngoài thì khó khăn hơn một chút. Thày cho con bài giảng này dưới một hình thức mà trí vỏ ngoài của con có thể đọc và nghiền ngẫm. Nếu con đọc quyển sách này và vẫn tiếp tục đọc, thì có lẽ là con đã thay đổi trong nội tâm. Con chỉ cần để nó thấm vào tâm vỏ ngoài để sẵn sàng nhìn một cách ý thức vào cuộc sống trên trái đất và nhận ra là con người dùng tình thương để chơi trò quyền lực với nhau.

Bước kế tiếp ở khóa nhập thất là thày dẫn học viên vào một căn phòng trong đó có một dụng cụ có thể gọi là một dụng cụ công nghệ. Con đã nghe các Thượng sư khác nói về các căn phòng có những dụng cụ tương tự. Thày có một cái máy đặc biệt hòa điệu để khám phá tình thương, rung động của Tia thứ Ba. Thày dùng máy này để chỉ, như một hình ảnh, cách con người sử dụng năng lượng của Tia thứ Ba. Khi thày nói năng lượng của Tia thứ Ba, thày muốn nói tới tình thương cũng như sự hủ hóa tình thương. Thày có thể chỉ cho học viên thấy những hủ hóa tình thương trong trường năng lượng của họ. Đa số học viên còn không biết đây là sự hủ hóa. Đa số mọi người trên trái đất không biết là tình thương đã bị hủ hóa, nhưng thày có thể chỉ rõ như hình ảnh.

Thày có thể chỉ rõ những tình huống khi người học viên tương tác với người khác, hay khi con người tương tác với nhau. Thày cũng có thể đi ngược dòng thời gian và chỉ những tình huống lịch sử trong đó những người nổi tiếng đã tương tác ra sao trong những biến cố lịch sử quan trọng. Thày có thể cho thấy họ đã dùng một hình thức hủ hóa của tình thương và năng lượng tuôn chảy ra sao giữa những người đó. Thày có thể cho thấy một người đã dự trữ năng lượng tình thương hủ hóa trong tâm thức mình, và hướng nó vào tiềm thức của người khác để áp đảo hay thuyết phục họ. Qua sự áp đảo và thuyết phục đó, người kia tin rằng tình thương hủ hóa đó chính là tình thương.

4.5. Năng lượng hủ hóa của Tia thứ Ba

Đa số mọi người trên trái đất không hiểu họ đã hủ hóa tình thương như thế nào và vì sao họ làm vậy? Đó là vì họ đã coi tình thương hủ hóa là tình thương thực sự. Họ nghĩ năng lượng hủ hóa của Tia thứ Ba là tình thương thực sự. Các học viên rất chấn động khi thấy hình ảnh năng lượng bị hạ thấp hơn rung động của tình thương thuần khiết, khi thấy năng lượng thấp này được gọi là tình thương thực sự và đã được dùng trong trò chơi quyền lực để kiểm soát người khác.

Đối với học viên, đây là một thức tỉnh phũ phàng, nhưng điều may mắn là nó xảy ra ở khóa nhập thất của tình thương. Khi người học viên không còn mù quáng coi tình thương giả là tình thương thật, thì thày có thể cho y trải nghiệm tình thương thật, và đó là liều thuốc chữa lành sự chấn động khi y nhận ra phản tình thương. Phản tình thương có lẽ là sự hủ hóa được ngụy trang khéo léo nhất trên trái đất vì có rất nhiều người mong muốn tình thương, muốn thương yêu và muốn được thương yêu. Họ ngần ngại từ bỏ hình ảnh họ tưởng là tình thương thật, những điều họ đã bị điều kiện hóa để tin là tình thương thật, những điều họ đã bị lập trình để chấp nhận là tình thương thật.

Đa số học viên tới khóa nhập thất của thày, sau khi đã đạt được những khai ngộ của Tia thứ Nhất, đã vượt qua những hủ hóa tình thương hiển nhiên nhất. Nếu không thì họ đã không thể vượt lên trên tầng 48. Họ thường coi mình là người thương yêu, hay ít nhất là không bạo hành, không hung hãn – và họ quả thật như vậy. Họ đã có tiến bộ. Nếu con đang đọc bài này thì con đã tiến bộ và vượt lên trên những hủ hóa tình thương hiển nhiên nhất. Nhưng con hãy cẩn thận và nhận ra rằng nếu con đã đạt được những khai ngộ của tình thương, thì con đã không có mặt ở khóa nhập thất của thày. Con vẫn còn phải đối mặt một số hủ hóa tình thương, nhưng chúng được ngụy trang rất khéo léo.

4.6. Quan hệ tình thương hủ hóa

Thày bắt đầu bằng cách chỉ cho học viên ở khóa nhập thất thấy những hủ hóa tình thương hiển nhiên nhất. Đó là những gì con thấy nơi những người ở dưới tầng tâm thức 48, là trường hợp của đa số trên trái đất. Con cũng có thể nhìn vào chính đời mình và thấy trong số những người con quen biết có ai có quan hệ được gọi là thương yêu nhưng có những hủ hóa hiển nhiên. Con có biết cặp nào trong đó người đàn ông và người đàn bà luôn luôn chơi trò quyền lực, tìm cách đàn áp người kia? Con có biết cặp nào trong đó một trong hai người đã chiếm địa vị thượng phong và người kia đã chịu khuất phục?

Những cặp đó có vẻ sống trong một quan hệ hài hòa và bình an vì một người đã đạt được địa vị thượng phong mà y muốn, và người kia đã chịu khuất phục. Con có thể thấy những người sống như vậy 20, 30, 40 năm hay lâu hơn thế trong hôn nhân, nhưng kinh nghiệm đó có giúp họ tăng triển chăng? Không đâu con. Kinh nghiệm luôn luôn tranh chấp, cãi vã và cằn nhằn người bạn đường có giúp con tăng triển chăng? Không đâu con.

Con hãy nhìn quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Có bao nhiêu người trong số các con đã có cha mẹ muốn kiểm soát mình vì lý do nào đó? Có thể là cha mẹ con muốn con thành tựu những gì họ không làm được chính họ, có trình độ học vấn, làm những chuyện mà họ không thể làm được. Cũng có thể là họ muốn chèn ép con để con không hơn họ. Có những cha mẹ muốn con mình hơn mình, nhưng cũng có cha mẹ không muốn con mình bằng mình. Họ muốn chèn ép con họ. Cả hai mong muốn đều là hủ hóa tình thương. Cha mẹ đó tìm cách ép uổng con cái thay vì để nó khám phá nó là ai, khám phá Sứ vụ Thiêng liêng của nó và biểu lộ sứ vụ này thay vì biểu lộ một chờ mong hay khuôn đúc phàm phu do cha mẹ gán ghép.

Có bao nhiêu bà mẹ đã nghĩ rằng – vì bà đã mang đứa con trong bụng, đã hạ sinh trong đau đớn, và hy sinh cuộc đời hay sự nghiệp để nuôi đứa con – nên đứa con nợ bà điều gì? Khi người mẹ nghĩ vậy, nguyên do sâu sắc thường là bà mẹ có nghiệp quả rất nặng với dòng sống của người con trong các kiếp trước. Hạ sinh đứa con và nuôi nó là cơ hội duy nhất để bà mẹ quân bình nghiệp quả đó. Làm sao đứa trẻ lại nợ bà mẹ nếu nó đã cho bà cơ hội để quân bình nghiệp quả? Làm sao đứa con của con lại nợ con khi nó cho con cơ hội để được giải thoát? Con sẽ được tự do không nếu con cảm thấy đứa con nợ mình? Không có đâu con. Con sẽ củng cố khuôn nếp đã khiến con tạo nghiệp từ quá lâu nay. Thượng đế ơi, những người này sẽ còn chơi trò quyền lực bao lâu nữa? Tới bao giờ họ mới thôi nói là họ thương yêu một người nhưng thực sự chỉ tìm cách kiểm soát người đó trong tiềm thức?

4.7. Dùng tình yêu để tranh cãi và kiểm soát

Khi thày nói những điều này, có thể con trải nghiệm là tâm vỏ ngoài của con muốn tranh cãi với thày. Nhiều người đọc bài này sẽ nhận thấy là tâm vỏ ngoài của họ nêu ra nhiều câu hỏi và lập luận đối chọi. Thày không muốn bàn luận về những câu hỏi và lập luận đó. Điều thày muốn con nhận ra là tiến trình đang xảy ra trong tâm con.

Thày muốn con nhận ra là tâm vỏ ngoài của con đang chất vấn, tranh luận, tìm cách phủ nhận hay bác bỏ lời của thày. Con có nghĩ tại sao tâm vỏ ngoài của con lại tìm cách phủ nhận những lời đang nhằm giải thoát con? Đó là vì tâm vỏ ngoài đang chơi trò kiểm soát với con. Nếu con muốn chơi trò chơi kiểm soát với chính tâm vỏ ngoài của mình thì thày không phản đối. Luật Tự quyết cho con làm điều này, nhưng thày sẽ chất vấn con, con được lợi lạc gì khi tới khóa nhập thất của thày? Con đã sẵn sàng nhận khai ngộ về tình thương và uy lực chưa? Con có sẵn sàng nhận ra tự ngã tinh tế như thế nào trong việc sử dụng tình thương theo ý nó?

Đa số học viên tới khóa nhập thất của thày có thể dễ dàng thấy những người ở dưới tầng tâm thức 48 đã dùng tình thương để kiểm soát người khác. Đa số các con đã trải nghiệm chuyện này nơi cha mẹ hay những người quan trọng trong đời mình như người phối ngẫu, anh chị em, xếp tại sở làm, vân vân. Nhiều người trong số các con đã suốt đời thấy những lạm dụng quyền lực này.

Có người trong số các con đã nổi loạn chống lại những tình cảnh này và do đó rơi vào tình huống khó chịu. Những người thích chơi trò quyền lực không thích bị thách đố, phải không con? Họ sẽ luôn luôn làm điều gì? Họ sẽ tấn công con một cách rất cá nhân. Họ cảm thấy con đang muốn phá vỡ quyền lực của họ, và để trả đũa, họ sẽ dùng quyền lực để đập tan con. Đó là một trong những trò chơi lâu đời nhất trên trái đất.

Cái gì đằng sau trò chơi quyền lực? Tại sao con lại muốn kiểm soát? Đó là vì con sợ điều gì đó. Con sợ mất mát. Hủ hóa tối hậu, hay hủ hóa đầu tiên, của tình thương là lòng sợ hãi. Con sợ cái gì? Khi con ở trong tình thương, khi con ở trong dòng năng lượng của tình thương, con không có sợ hãi, nhưng vì sao vậy? Đó là vì con biết, con trải nghiệm, là tình thương luôn luôn tuôn chảy. Làm sao con mất mát khi con luôn luôn tuôn chảy? Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điểm này. Con hãy suy ngẫm điểm này và xem những cách nó áp dụng vào đời mình.

4.8. Nhận ra tự ngã đứng yên

Con hãy hồi tưởng thời quá khứ có công nghệ gọi là máy video thu hình hay máy video phát hình. Con có thể để một cuộn băng vào máy và phát một cuộn phim lên màn ảnh truyền hình. Cuộn băng quay trong máy, nhưng đôi khi nó ngưng hay bị kẹt và cuộn phim ngưng lại. Con yêu dấu, khi con xem một cuộn phim và nó đột nhiên ngưng lại, có phải là con tức khắc nhận ra là có gì trục trặc? Nếu con đang đi trên xe lửa và nó đột nhiên ngưng lại giữa đường, có phải là con nhận ra có gì không ổn? Nếu con đang ở trong máy bay và nó đột nhiên ngưng lại, thì chắc chắn con biết có điều gì không ổn, vì chuyện gì sẽ xảy ra cho máy bay khi nó ngưng không bay về phía trước? Nó sẽ bắt đầu rơi xuống, rất nhanh.

Chuyển động là bản chất của cái Ta Biết, đứng yên là bản chất của tự ngã. Cái Ta Biết không cảm thấy sợ hãi khi nó di động, nhưng khi nó nhập vào tự ngã, nó thấy một hình ảnh hay có một cảm giác, là một chuyện có thể đứng yên, một điều kiện có thể được duy trì trong một khoảng thời gian. Lúc đó, nó đồng hóa với ý muốn của tự ngã muốn kiểm soát bằng cách sở hữu. Tự ngã muốn sở hữu vì nó nghĩ nếu nó sở hữu điều gì đó, nó có thể kiểm soát điều đó hay người đó.

4.9. Hủ hóa của tình thương và uy lực

Tình thương hủ hóa của Tia thứ Nhất là gì? Đó là sự sở hữu, khái niệm là mình có thể sở hữu điều gì đó trên trái đất. Chắc con cũng biết như các thày đã giảng nhiều lần, là trái đất ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Trái đất là một trong những hành tinh thấp trong bầu cõi, được chỉ định là hành tinh cho những người ở tầng tâm thức đã đi rất xa vào tách biệt. Khi con người đã đi xa vào tách biệt, họ không thể tức khắc bước lên và bước ra ngoài trạng thái tách biệt. Họ không thể làm chuyện này bằng một cú nhảy. Khoảng cách quá xa.

Khi con người đã đi xa vào tách biệt, họ sợ sự chuyển động. Họ không cảm thấy sung sướng trong chuyển động. Họ sợ chuyển động, và điều này có nghĩa trái đất được thiết kế như một hành tinh nơi con có thể có cảm giác đang sở hữu điều gì. Điều này không có nghĩa là các chân sư thăng thiên chấp nhận sự sở hữu, nhưng có nghĩa là các thày dùng nó như một dụng cụ giúp con người trải nghiệm họ sở hữu một điều gì. Sau một thời gian, họ chán ngán trải nghiệm này và lúc đó họ sẵn sàng tới một trải nghiệm cao hơn.

Sở hữu không đến từ cõi tâm linh. Con có thể nói: “Nhưng thày Paul người Venice, thày có khu nhập thất này. Thày có sở hữu khu nhập thất này của thày chăng?” Không đâu con, thày không sở hữu nó. Ta có thể nói nó không là “của” thày, theo nghĩa chữ “của” dùng trong thế gian. Thày là vị chân sư hiện đang lãnh đạo khóa nhập thất này nhưng thày không tạo ra nó. Nó được tạo ra rất lâu trước khi thày thăng thiên. Sẽ có một chân sư khác, có thể là một trong số các con đang bước trên con đường tu, sẽ lấy trách nhiệm lãnh đạo khóa nhập thất này, và thày sẽ đi làm việc khác. Trong cõi thăng thiên, con không sở hữu gì cả vì con đã trở thành một với Dòng sông sự Sống, và con nhận ra là dòng sông không đứng yên. Con không có ý muốn đứng yên.

Con hãy lấy thí dụ một người bị rơi vào một dòng sông chảy xiết. Thông thường thì người đó làm gì? Y sẽ cố bám lấy một vật gì đứng yên — tỷ dụ như một hòn đá giữa dòng sông, hay một cành cây rủ xuống. Y sẽ tìm cách bơi vào bờ để đi ra khỏi dòng sông tuôn chảy. Có cách nào khác chăng? Cách khác là nhận ra dòng sông không phải là kẻ thù của mình và việc trôi theo dòng chảy có thể rất thú vị. Con thấy có nhiều người thích ngồi trong một chiếc thuyền nhỏ hay chiếc bè và trôi theo dòng sông chảy xiết. Họ nghĩ trôi theo dòng nước là một trò chơi rất thú vị, nhưng vì sao lại như vậy? Đó là vì họ ngồi trong một chiếc thuyền họ nghĩ họ làm chủ, và họ nghĩ họ làm chủ tình hình. Sự sở hữu khiến con người ở một tầng tâm thức nào đó có thể trôi theo Dòng sông sự Sống nhưng vẫn nghĩ mình đang làm chủ tình hình.

4.10. Chất vấn cảm giác sở hữu

Các con có bắt đầu thấy tình thế tế nhị mà thày phải đối đầu khi con tới khóa nhập thất của thày? Thày biết là con đã lớn lên trên hành tinh này. Có lẽ con đã đầu thai trên hành tinh trong nhiều kiếp rồi. Thày biết tâm thức con bị ảnh hưởng bởi ý muốn sở hữu, ý muốn làm chủ tình hình. Thày biết rằng khi con đi trên đường tâm linh dưới hai tia đầu, con có cảm giác con một phần làm chủ sự tu tập của mình. Chân sư MORE và đức Lanto đã cho phép con duy trì cảm giác là con vẫn làm chủ tình hình, tuy một số khai ngộ của hai thày chắc đã khiến con chấn động. Con, hay đúng hơn tự ngã của con, vẫn có cảm giác làm chủ tình hình.

Khi con tới khóa nhập thất của thày, khai ngộ đầu tiên mà con phải đối diện là con phải bắt đầu chất vấn ý muốn sở hữu, làm chủ, ý muốn ấn định đường tu như thế nào hay phải như thế nào, ý muốn cho phép thày hướng dẫn nhưng con vẫn làm chủ tình hình. Con yêu dấu, thày hướng dẫn con làm chủ tình hình, nhưng con đây là cái Ta Biết chứ không phải tự ngã. Có nghĩa là thày phải hướng dẫn con đi quá tầm kiểm soát của tự ngã bằng cách chất vấn ý muốn làm chủ của nó.

4.11. Một số học viên kháng cự khai ngộ như thế nào

Đa số học viên ở khóa nhập thất của thày kháng cự điều này. Một số kháng cự rất mạnh bạo. Một số bỏ đi, ít nhất trong một thời gian. Có một số học viên tới đây và được cho thấy là trong tiềm thức họ đã lạm dụng năng lượng tình thương vào trò chơi kiểm soát; họ quá chấn động và trở về với trò chơi kiểm soát. Họ từ chối rũ bỏ nó, biện minh rằng thày sai, rằng thày không thể là một vị thày chân chính nếu thày không bày tỏ tình thương, rằng thày không thể là Thượng sư của Tia thứ Ba nếu thày không bày tỏ tình thương.

Họ nổi giận bỏ đi và trở về với tự ngã của họ. Thường họ không nhớ chuyện này một cách ý thức, nhưng có khi họ cảm thấy ý muốn mãnh liệt chống lại một số điều kiện trên trái đất, chống lại một số người. Cũng đã có học viên tới đây và bị chấn động đến độ họ từ bỏ tâm linh trong một thời gian. Một số người kịch liệt chối bỏ tôn giáo và biện minh chống lại tôn giáo, đã từ chối không đối diện khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày.

Con là người đang đọc hay đang nghe bài giảng này, con có thể nhận thấy là tự ngã của con đang biện minh, đang phản ứng, đang cảm thấy kinh ngạc là vị Thượng sư của Tia thứ Ba lại có thể bất lịch sự, mạnh bạo như vậy – dưới con mắt của tự ngã của con. Điều con có thể nhận ra là những gì tự ngã thấy không phải là sự việc như nó . Tự ngã thấy hình ảnh mà nó phóng chiếu vào tấm gương.

Đâu là chìa khóa để bắt đầu nhận ra những trò chơi quyền lực trong đó con người dùng tình thương để thiết lập sở hữu và kiểm soát? Chìa khóa là con nhận ra cách con trải nghiệm thế giới bên ngoài không độc lập với tâm mình. Những gì con cảm thấy đang phóng đến con, mà tự ngã bảo là đến từ thế giới bên ngoài hay từ người khác, thực ra là sự phản chiếu của những gì tiềm thức con phóng ra ngoài.

4.12. Các mối quan hệ bị trò chơi quyền lực chi phối

Có những người chơi trò chơi quyền lực một cách trắng trợn bằng cách dùng năng lượng của Tia thứ Nhất và áp đảo người khác, ép họ phải quy phục. Trò chơi quyền lực dùng tình thương hủ hóa thì khác. Những người dùng tình thương hủ hóa để chơi trò chơi quyền lực nghĩ là họ đang thương yêu.

Con nghĩ là con đang phóng ra tình thương. Khi cái trở về con không phải là tình thương, con nghĩ là người kia không thương yêu, hay vị thày tự gọi mình là Thượng sư Tia thứ Ba không thương yêu, hay Thượng đế không thương yêu. Nhưng thực sự chính là tự ngã con đang không thương yêu. Nó nói nó đang thương yêu. Nó tạo bề ngoài đang thương yêu, nhưng đó không phải là tình thương đích thực. Đó là tình thương bị hủ hóa, một trong những hủ hóa quá phổ thông trên trái đất đến độ đa số bị lập trình và tưởng đó là tình thương thực sự.

Thày phỏng đoán là hơn 90̀% các quan hệ được gọi là thương yêu trên trái đất hoàn toàn bị chi phối bởi tình thương hủ hóa. Thày có nêu trường hợp cha mẹ nói mình thương yêu con mình nhưng muốn quyết định nó phải sống như thế nào. Cha mẹ này nghĩ họ làm vậy vì họ hiểu đời hơn đứa trẻ và biết đứa trẻ phải sống thế nào mới hạnh phúc và tránh được tai ương. Cha mẹ này tưởng đó là tình thương. Cũng có những đứa con đã quy thuận thái độ này của cha mẹ vì nghĩ rằng đó là tình thương. Thày không nói là con không nên nghe lời khuyên của cha mẹ mình. Con chỉ nên dùng lời khuyên này như một xúc tác để đi vào nội tâm và cảm nhận từ nội tâm là nó đúng hay sai, con có nên nghe theo hay không, hay con nên dẫn đời mình về một hướng mới.

4.13. Trách nhiệm hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng, khả năng đáp ứng

Con có một Sứ vụ Thiêng liêng không giống sứ vụ của cha mẹ, người phối ngẫu hay con cái. Con có quyền hòa điệu với sứ vụ của mình và hoàn thành nó, bất kể người khác muốn gì nơi con. Thày không nói con không có trách nhiệm với người khác, nhưng con có thấy chăng là tinh thần trách nhiệm đó được dùng trong trò chơi kiểm soát con? Con có trách nhiệm với con cái mà con đã đem vào thế gian này. Con có trách nhiệm giúp chúng có điều kiện tốt nhất khi chúng gia nhập xã hội, nhưng có phải vì vậy mà con ngưng Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con cái? Không, không phải vậy!

Các đứa con đã tình nguyện để con sinh ra chúng. Trong nội tâm chúng biết con là ai và Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì. Các đứa con đó tình nguyện, ở tầng cao của tâm chúng, đi vào một tình huống vì chúng biết đó là một cơ hội cho chúng phát triển. Có thể là con làm một chuyện con biết thuộc về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng con cái không đồng ý với tâm vỏ ngoài của chúng. Chúng phản kháng, chúng lên án con và nói con không phải là cha mẹ có trách nhiệm. Hoặc con làm một chuyện con biết thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng chuyện đó chấn động cha mẹ con và họ nói con không phải là người con có trách nhiệm. Hoặc con làm một việc khiến người phối ngẫu của mình ngạc nhiên và nói con không phải là một người phối ngẫu có trách nhiệm.

Trách nhiệm nghĩa là gì? Nó là khả năng đáp ứng. Nó có khía cạnh Alpha và khía cạnh Omega. Khía cạnh Alpha là con có thể đáp ứng khi Hiện diện TA LÀ của con gửi xuống khuôn đúc của một giai đoạn mới trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nếu giai đoạn mới này đòi hỏi con thay đổi cuộc sống bên ngoài của mình, thì con phải có khả năng đáp ứng nhu cầu đó. Khía cạnh Omega là con làm hết sức mình lo liệu hoàn cảnh thế gian của mình, kể cả những người khác. Có tinh thần trách nhiệm hoàn thành khía cạnh Omega không có nghĩa con xóa bỏ khả năng đáp ứng khía cạnh Alpha. Alpha quan trọng hơn Omega, không phải ngược lại.

4.14. Đòi hỏi Tánh linh phải quy thuận vật chất

Đây là tâm thức quỷ Xa-tăng, tiêu biểu bởi lời Giê-su nói với Peter (Phê-rô): “Hãy đứng sau ta, quỷ Xa-tăng”. Con không đòi hỏi Tánh linh quy thuận vật chất; đó là tâm thức quỷ Xa-tăng. Đời sống trên hành tinh này đã tạo ra quá nhiều niềm tin tương tự, tỷ dụ nếu con là một người con, một cha mẹ, một phối ngẫu, một nhân viên có trách nhiệm thì con phải khiến Tánh linh của mình quy thuận đòi hỏi của thế giới vật chất.

Nếu con sống như vậy thì con sẽ không vượt qua tầng tâm thức 48. Có nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 mà không hung hãn, ác độc hay có thể gọi là ham quyền lực. Nhiều người trong số này đã quy phục tâm thức cho rằng họ phải để Tánh linh của mình quy thuận vật chất, và đó là lý do vì sao họ không vượt lên trên tầng tâm thức 48. Họ đã khắc phục được tính hung hãn. Họ đã khắc phục những khuynh hướng ác độc, và ngay cả những khuynh hướng vị kỷ, nhưng họ không bước vào con đường tâm linh được chỉ vì họ còn tin rằng họ cần khiến Tánh linh của mình quy thuận vật chất.

Con yêu dấu, con đã nhận ra chăng? Con đường tự điều ngự mà các thày giảng dạy qua loạt bài này sẽ giúp con ngưng không để Tánh linh của mình quy thuận vật chất. Con trở nên sẵn sàng trôi theo dòng với Tánh linh. Điều này không có nghĩa con quên đi hay tạm ngưng những trách nhiệm thế gian của mình. Không có nghĩa là con đột nhiên cuốn gói và rời hoàn cảnh sống hiện tại của con, tuy rằng cũng có thể con cần làm chuyện này, như Giê-su và đức Phật đã chứng minh. Con không nhất thiết phải làm vậy, vì chuyện này tùy thuộc hoàn cảnh cá nhân. Con có thể sống một cuộc sống bình thường, có liên hệ gia đình, và đi trên con đường khai ngộ. Nhưng nó nghĩa con sắp xếp ưu tiên đúng để đặt việc đáp ứng với Tánh linh là ưu tiên chính của con. Sau đó, đáp ứng nhu cầu vật chất sẽ xảy ra trong khuôn khổ của Tánh linh và của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Thày bảo đảm với con cách tốt nhất để là một người con, cha mẹ hay phối ngẫu có trách nhiệm là theo Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nếu cha mẹ, người phối ngẫu hay con cái của con có thể chấp nhận điều này, thì con sẽ có một liên hệ cao hơn rất nhiều với họ. Nếu họ không chấp nhận Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì quan hệ của con với họ thực sự là gì? Con sẽ có một quan hệ bị trò chơi quyền lực chi phối vì con đã quy phục họ. Con đã quy phục sự sở hữu và kiểm soát của họ và tạm ngưng hay hủy bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Chắc con cũng hiểu là không ai có quyền đòi hỏi người khác tạm ngưng hay hủy bỏ Sứ vụ Thiêng liêng của mình để chiều theo ý họ? Con không có quyền này.

4.15. Vượt qua trò chơi tình thương chịu khuất phục

Làm cách nào con khắc phục toàn bộ tâm thức dùng tình thương hủ hóa để sở hữu và kiểm soát người khác? Điểm chính là con cần ngưng không dùng tình thương để sở hữu hay kiểm soát người khác. Vì con đã đạt được các khai ngộ với Chân sư MORE và Lanto nên con đã khắc phục được phần lớn khuynh hướng này.

Điều con đối mặt ở Tia thứ Ba là cảm giác con phải phục tùng những đòi hỏi của người khác. Đa số học viên tới khóa nhập thất của thày với thái độ như sau: “Tôi là một người tâm linh. Vì tôi là một người tâm linh, tôi phải bày tỏ tình thương. Nếu tôi thực sự thương yêu, tôi phải phục tùng và đáp ứng nhu cầu, mong muốn và đòi hỏi của người khác. Quan trọng hơn cả, tôi không được làm điều gì khiến người khác có thể tố cáo tôi không có tình thương.”

Con có thể nhìn lại đời mình và nhận ra con có bị kẹt trong trò chơi này chăng? Con có thể nhìn lại cuộc đời mình và nhận ra khuynh hướng làm quá sức để tránh không bị lên án là không thương yêu, không thương người, không là người tốt, không phải là con tốt, cha mẹ tốt hay vợ chồng tốt? Con có thấy chăng là nhiều người trong số các con có nỗi sợ mình không thương yêu?

Con có biết nỗi sợ này từ đâu đến chăng? Đó là tự ngã chơi trò chơi quyền lực với con. Nó tìm cách sở hữu con bằng cách khiến con nghĩ phải tùng phục hình ảnh của thế gian định nghĩa thế nào là người thương yêu. Điều tệ nhất có thể xảy ra cho con là con không xứng đáng với hình ảnh đó. Khi con tin trò bịp bợm đó của tự ngã, thì con nói gì với thày, Paul người Venice, thượng sư của Tia thứ Ba? Con nói: “Chân sư Paul, xin thày đừng thách đố hình ảnh mà tự ngã của con đã tạo ra. Xin thày đừng khiến con làm điều gì có thể khiến bị lên án là người không thương yêu. Xin thày đừng khiến con gây chấn động cho cha mẹ, vợ chồng, con cái của con hay người khác. Xin thày đừng khiến con làm hay nói điều gì khiến họ lên án con là không thương yêu. Con không chịu nổi điều này.”

4.16. Vấn đề tâm lý chưa giải quyết và lời kết án từ người khác

Làm sao thày có thể giúp con đi lên tầng cao hơn? Làm sao thày có thể giúp con đạt được khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày? Con có thấy chăng là điều người khác lên án con có thể và cũng có thể không liên quan đến con? Điều họ lên án con có thể dựa trên quan sát chính xác là con có vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Nhưng điều họ lên án cũng có thể không liên quan gì đến con. Nó phát xuất từ những vấn đề tâm lý chưa giải quyết trong tâm họ, và họ phóng chiếu những điều này lên con. Con cần hiểu rõ điều này để tự giải thoát mình khỏi những trò chơi quyền lực mà người khác dùng với con.

Thày biết rõ đây là một điểm cân bằng tế nhị. Con không thể nói: “Bất cứ khi nào có người lên án tôi, thì đó là vì họ phóng chiếu lên tôi những vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ, do đó tôi không cần đếm xỉa đến lời lên án đó. Tôi không làm gì sai cả.” Đó là một cách tự ngã con muốn con phản ứng: từ chối không nhìn vào chính mình. Cách thứ nhì mà tự ngã đánh bẫy con là quy phục những lời tố cáo đó của người khác và khiến cả cuộc đời con xoay vần chung quanh chuyện né tránh những lời tố cáo đó.

Một cách chính yếu để hủ hóa tình thương, để dùng tình thương trong trò chơi quyền lực, đó là lời đe dọa con phải là một người tốt, và điều tệ nhất, tội lỗi lớn nhất mà con có thể phạm là làm điều gì khiến người khác lên án con không thương yêu. Con có thể cảm thấy là tự ngã của con muốn con cảm thấy khi một người khác lên án con không thương yêu, thì người ấy nói đúng? Chắc hẳn phải có lý do vì sao họ lại lên án con. Chuyện này phải có nghĩa là con có sắc thái không thương yêu nào đó.

Con có thấy chăng là họ có thể đang phóng chiếu lên con một hình ảnh giả thế nào là người thương yêu? Con không có bổn phận quy thuận hình ảnh đó, con cũng không có bổn phần đáp lại lời buộc tội này. Con không cần phản bác lại. Con không cần lên án ngược lại các người đó, vì như vậy con lại rơi vào trò chơi quyền lực. Con không cần phải giải thích. Con không cần phải biện minh.

Điều con cần làm ở giai đoạn này của con đường tu của con là bắt đầu tiến trình để thày chỉ cho con là trong nội tâm con có thương yêu hay không. Con cần phải mở tâm vỏ ngoài ra để cho nó thấm xuống tới tâm ý thức của con. Mỗi đêm con xin được tới khóa nhập thất của thày trong lúc con đọc các bài thỉnh trong khóa học này. Con mở tâm ra đón nhận cái gì con chưa từng thấy trước kia. Con cần sẵn sàng chấp nhận là có thể con có sắc thái không thương yêu nào đó.

Có thể là con có một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết. Có thể là con có một thói quen là một trò chơi quyền lực. Có thể là con đang tìm cách dùng tình thương để kiểm soát người khác. Con cũng cần sẵn sàng chấp nhận là người chung quanh con cũng có thể đang làm điều này với con. Họ cũng đồng thời lên án con là con làm điều này với họ, vì họ đang phóng chiếu vấn đề tâm lý chưa giải quyết của họ. Con cần để ý cả hai khía cạnh. Con cần nhìn thấu cả hai khía cạnh để con không dùng tình thương hủ hóa trong trò chơi quyền lực chống lại người khác, và con không cho phép họ dùng nó trong trò chơi quyền lực chống lại con. Con có thấy chăng? Nếu con muốn đạt khai ngộ này, con cần khắc phục cả hai khía cạnh Alpha và Omega.

Con không cần phải hoàn toàn khắc phục điều này ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày. Khắc phục trò chơi quyền lực dùng tình thương không phải chỉ là một vấn đề dùng uy lực. Nó có bảy khía cạnh. Trong chuyện này có sự hủ hóa của cả bảy tia, và đó là lý do vì sao con cần được chỉ dẫn về các tia khác khi con tới các tầng đó ở khóa nhập thất của thày.

4.17. Buông trôi theo dòng chảy của Tình thương

Con đừng sợ hãi, con đừng chán nản. Con hãy sẵn sàng nhìn nhận là bài giảng này đã khiến con chấn động, nhưng ai bị chấn động? Đó là cái Ta Biết hay là tự ngã? Thày khiêm nhường góp ý là tự ngã, nhưng con đừng mù quáng tin lời thày. Con hãy cho phép mình hòa điệu để kinh nghiệm sự thật là gì.

Kết quả tối hậu ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày là con có một kinh nghiệm ý thức về những gì con thấy ở tầng bản sắc của tâm mình. Con trải nghiệm một cách ý thức tự ngã phản ứng ra sao trong khi cái Ta Biết thì lại cảm thấy nhẹ nhõm.

Cái Ta Biết không bao giờ kháng cự lại Dòng sông sự Sống. Tự ngã thì luôn luôn kháng cự. Khi cái Ta Biết nhìn đời qua phin lọc của tự ngã, nó vẫn không kháng cự, nó chỉ kinh nghiệm đời qua phin lọc của sự kháng cự của tự ngã. Khi con học cách nhận ra sự khác biệt giữa hai điểm này thì con đã tiến một bước lớn trên đường tu. Lúc đó con bắt đầu nhận ra uy lực tối hậu trong thế giới vật chất là buông trôi theo dòng chảy của tình thương.

TA LÀ Paul người Venice. TA LÀ chân sư thăng thiên và là Thượng sư của Tia thứ Ba của Tình thương Thiêng liêng.

Lướt sóng hay đâm đầu vào sóng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 1/1/2015.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Tại sao mọi người trên thế giới đón mừng năm mới nhiệt tình như vậy? Họ nhiệt tình vì sâu trong tâm khảm là niềm tin, thậm chí là hiểu biết, rằng họ có thể có một khởi đầu mới.

Chu kỳ nghiệp quả trong năm

Đây là tại sao việc đón chào một chu kỳ đều đặn thật là hay ho. Hầu hết mọi người đểu trải nghiệm là khi một năm trôi qua, có một sự nặng nề nào đó, một cảm nhận uể oải nào đó. Lý do là vì các vị Chủ tể Nghiệp quả (Lords of Karma) cho phép nghiệp quả đã tới hạn của hành tinh đi xuống bốn cõi của vũ trụ vật chất một cách đồng bộ với bốn tam cá nguyệt.

Như hầu hết các con đều biết, nghiệp quả đi xuống cõi bản sắc trong ba tháng đầu, cõi lý trí trong ba tháng tiếp theo, cõi cảm xúc trong ba tháng tiếp theo nữa, và cuối cùng xuống cõi vật lý trong ba tháng chót. Đến khi mọi người đã kinh qua đủ ba tháng nghiệp quả đi xuống cõi vật lý thì họ đều mệt mỏi. Họ cảm thấy gánh nặng, cảm thấy căng thẳng, và họ mong mỏi một khởi đầu mới.

Và đúng vậy mỗi năm, họ có một khởi đầu mới, vì họ trở lại đầu để phần nghiệp quả của năm sau bắt đầu lại đi xuống cõi ê-the. Đa số người ta không cảm nhận được điều này vì tâm thức chưa đủ cao để nhận biết tầng bản sắc trong chính tâm mình.

Nhưng đây không chỉ là chuyện nghiệp quả đi xuống mà thôi. Các thày, các chân sư thăng thiên, không muốn cho bất cứ ai có cảm giác là sự sống trên địa cầu, hay ngay cả việc cân bằng nghiệp quả, chỉ là một vòng tròn y hệt cứ lặp đi lặp lại một cách bất tận. Đây là một cách hiểu sai không những về lời dạy của Phật mà ta từng giảng dạy, mà cũng hiểu sai các giáo lý của đạo Ấn cùng các hệ thống tư tưởng khác tại phương Đông.

Luân hồi không chỉ là một chu kỳ thật dài mà qua đó, trên cơ bản, con quay trở lại ngay đúng điểm khởi đầu. Đây là một cách diễn giải có thể thông cảm được vì thuở xưa con người chỉ nắm được tới mức đó. Con người thời xưa quan sát bầu trời và nhận thấy một mô thức cứ lặp lại trong cách chuyển động của các vì sao và tất nhiên của cả mặt trăng lẫn hành tinh này. Như khoa học đã cho con thấy, vũ trụ không chuyển động theo hình tròn. Vũ trụ ngày càng giãn nở, thậm chí giãn nở ngày càng nhanh hơn, và do đó sự chuyển động không theo hình tròn mà hình xoắn ốc.

Sự diễn tiến của các năm trong một kiếp người cũng là một đường xoắn ốc, hay ít ra nó có tiềm năng trở thành một đường xoắn ốc hướng thượng. Điều này xảy đến khi con tận dụng cơ hội của năm tháng để cho nghiệp quả đi xuống qua cả bốn cõi thay vì ập xuống cõi vật lý cùng một lúc. Tất nhiên, hầu hết mọi người không nhận thức được ân sủng to lớn này. Họ không để ý đến nghiệp quả cho tới khi nó bắt đầu đi xuống cõi vật lý và trở nên khó làm ngơ. Nhiều người vẫn không hiểu đó là nghiệp quả, nhưng ít nhất họ sẽ cảm được sự nặng nề uể oải. Có thể họ sẽ quy cho chiều dài của ngày bị ngắn lại, nhưng dù sao thì họ cũng cảm thấy được.

Chuyển hóa nghiệp quả và bắt đầu Năm Mới

Là người có nhận biết tâm linh, con có một cơ hội tuyệt vời để sử dụng các bài chú, bài thỉnh, để chuyển hóa nghiệp quả trên ba cõi cao trước khi nó trở thành vật lý. Bằng cách đó, con có thể bước vào ba tháng chót – phần tư cuối cùng của một năm – mà không phải chịu bất kỳ nghiệp quả cá nhân nào đi xuống cõi vật lý. Có thể con vẫn cảm thấy một phần nào đó của nghiệp quả thế giới, thậm chí con có thể gánh nghiệp giùm người khác hay giùm thế giới, nhưng ít nhất con không phải chạm trán với nghiệp quả cá nhân của con. Ngay cả phần nghiệp mà con đã gánh lấy vào năm đó để cân bằng cho người khác, con cũng có thể cân bằng được trước khi nó trở thành vật lý.

Tại sao người ta đốt pháo và bắn pháo bông đủ loại vào ngày đầu năm? Tại sao người ta cần những tiếng nổ thật lớn? Tại sao người ta cần những chớp sáng chỉ lưu lại trên trời một vài giây ngắn ngủi? Mỗi điều như vậy có một chức năng khác nhau. Khi truyền thống đốt pháo khởi đầu, người ta tin rằng tiếng nổ lớn sẽ xua đuổi tà ma và niềm tin này không hoàn toàn là mê tín dị đoan.

Có những dạng tà lực, ngay cả những hồn không xác, bị hoảng sợ và trốn chạy trước tiếng động lớn. Tất nhiên chúng có thể quay trở lại sau vài ngày nhưng chúng thường sợ hãi bỏ đi một thời gian. Hiển nhiên những loài quỷ hung dữ hơn sẽ không sợ tiếng động lớn, cho nên phương cách này chỉ hiệu nghiệm giới hạn tuy rằng nó vẫn có thể đem lại một không khí lạc quan mà người ta cảm nhận được sau ngày đầu năm.

Niềm lạc quan này cũng khởi lên do ý nghĩa tượng trưng của pháo bông. Pháo bông chỉ thoáng hiện ra ngắn ngủi với dáng vẻ gần như siêu phàm, nhưng nó mang một số ý nghĩa. Ở bề mặt, nó biểu tượng cho một niềm lạc quan được người ta cảm nhận là chỉ lướt thoáng qua. Họ thấy chớp sáng lóe lên trên bầu trời, tinh thần của họ bỗng phấn chấn, họ trầm trồ kêu lên “ồ”, “à”, và họ cảm thấy nhẹ nhõm khi nhìn ánh sáng. Nhưng nó chỉ kéo dài được một chập. Đối với đa số con người, trải nghiệm mục kích ánh sáng không đem lại tác động nào dài hơn trải nghiệm thị giác, nhưng xa hơn còn có một ý nghĩa sâu sắc hơn. Bất kỳ hiện tượng nào thoáng hiện ra – cho dù do con người hay do thiên nhiên – đều có thể biểu tượng cho cách chuyển động của một cơ hội nâng cao tâm thức.

Nghiệp quả là một dòng chảy năng lượng

Mỗi năm khi nghiệp lực bắt đầu đi xuống, nghiệp quả không phải là một hình thức trừng phạt như nhiều người vẫn tưởng. Kỳ thực đó là một cơ hội, vì nghiệp hình thành một dòng chảy năng lượng. Nó chảy nhanh và luôn luôn chuyển động, và đối với tâm ý thức nó có thể khó nắm bắt. Con có thể cảm nhận nó hiện thoáng qua giống như khi con xem pháo bông trên trời, nhưng ngay khi con chú tâm vào đó thì nó đã biến mất.

Nếu con có thể nắm bắt được nó, con sẽ có thể lướt sóng theo nó, cưỡi trên dòng chảy và di chuyển cùng với nó suốt năm. Con yêu dấu, con thấy đó, từ rất lâu đã có một xu hướng – một lần nữa, đến từ các tôn giáo phương Đông – muốn mô tả nghiệp chướng như một cái gì xảy ra cho con. Nếu nó không phải là một hình phạt thì nó vẫn là một cái gì áp đặt lên con, nó bắt buộc con phải đối phó với nó. Nó là một cái gì khó chịu mà con muốn né tránh, một cái gì mà con cần quan tâm, cần cân bằng. Con cần vượt qua nó để có thể bước đi tiếp – và đây là cách hiểu của nhiều người tâm linh.

Ta muốn cho con một cái nhìn khác về nghiệp quả. Nghiệp quả là một dòng chảy. Nó có động lượng, nó có năng lượng và nó có phương hướng. Nó là một dòng chảy mà con đã tạo ra trong quá khứ. Giáo lý truyền thống về nghiệp quả bảo rằng trong quá khứ con đã làm một điều gì – hay con đã nghĩ hay đã cảm một điều gì – và cái đó đã gửi ra một xung lực năng lượng và bây giờ nó được gửi trả về con. Nếu nghiệp đó là cái mà hầu hết mọi người gọi là “nghiệp xấu” thì nó sẽ là một gánh nặng mà con cần cân bằng một cách nào đó.

Nghiệp quả là một cơ hội

Nhiều người nghĩ cách duy nhất để cân bằng “nghiệp xấu” là phải trải qua một sự kiện bất hạnh nào đó, có thể là cùng sự kiện mà con đã gây ra cho người khác khi con tạo nghiệp. Thậm chí một số đệ tử của chân sư thăng thiên cảm nhận nghiệp quả như một gánh nặng mà họ cần chuyển hóa bằng cách đọc thỉnh, đọc chú. Đó là cái gì con muốn tránh né, muốn làm cho xong chuyện càng sớm càng tốt. Nhưng trên thực tế, nghiệp quả chỉ là một hình phạt hay một gánh nặng khi con kháng cự lại nó. Thay vì làm vậy, con hãy xoay chuyển nhãn quan của mình về nghiệp quả và nhìn ra đó là một cơ hội.

Nghiệp là một năng lượng. Con biết rất rõ là nếu con nằm trên một chiếc thuyền mong manh giữa đại dương và có một ngọn sóng rất lớn ập xuống, và nếu thuyền con nằm ngược sóng hay không được xây hẳn hoi, thì thuyền có thể bị sóng đánh lật úp. Con cũng biết, có thể không qua kinh nghiệm bản thân nhưng ít ra qua quan sát, là nếu con có một tấm ván lướt sóng và con biết cách cưỡi sóng, thì không những làn sóng sẽ chở con đi xa mà lướt sóng còn đem lại cho con một cảm giác thích thú vô cùng. Thậm chí đối với một số người, nó có thể trở thành một trải nghiệm tâm linh, vì trong bản chất, lướt sóng cũng hiện thoáng qua giống như pháo bông trên trời.

Những chu kỳ đó của thiên nhiên, những chu kỳ tâm linh, ngay cả những chu kỳ nghiệp quả, không thoáng hiện ra. Chúng chỉ thoáng hiện khi con không bám chặt lấy chúng, không kháng cự lại hay tìm cách né tránh. Khi con quay đầu, khi con xoay tầm nhìn, khi con quyết định là mình sẽ sẵn lòng nhìn chúng và xem chúng như một cơ hội, thì con sẽ thấy nghiệp phản hồi hình thành một ngọn sóng vĩ đại có sức mạnh lẫn động lượng. Nếu con cưỡi ngọn sóng, không những nó sẽ chở con đi mà nó còn cho con niềm vui thú cân bằng nghiệp chướng.

Nghiệp quả không phải là một hình phạt mà là một cơ hội. Con có thể biến nó thành hình phạt – đó là cái quyền mà Luật Tự quyết đã trao cho con. Nhưng tự thân nó không phải là hình phạt. Như mọi thứ khác trong vũ trụ vật chất, nó là cái mà con muốn nó là. Nếu con biến nó thành hình phạt bằng cách kháng cự lại nó thì nó sẽ là hình phạt cho con. Vũ trụ là một tấm gương như các thày đã có nói nhiều lần. Nếu con muốn trải nghiệm sự trừng phạt do hành vi quá khứ và nghiệp quả thì con sẽ có trải nghiệm đó. Nếu con muốn một trải nghiệm tích cực là học cách cưỡi các chu kỳ và xoay chuyển động lượng cho nó thuận lợi cho mình, thì đó cũng sẽ là trải nghiệm của con, thậm chí còn là thực tại của con.

Khả năng thay đổi luôn luôn hiện hữu

Thực tại là gì? Thực tại không là gì khác hơn sự nhận thức, ít ra khi con vẫn đầu thai trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Khi con thăng thiên rồi thì con không còn nhận thức nữa. Con trải nghiệm trực tiếp, và khi đó trải nghiệm của con chính là thực tại.

Đúng hơn, chúng ta có thể nói là ngay cả các chân sư thăng thiên cũng có thể, tất nhiên, có một nền tảng nhận thức nào đó. Chẳng hạn, các Thượng sư của các tia sáng đều tập trung vào tia sáng đặc thù của mình và các thày nhìn mọi thứ từ góc độ đó. Điều này khiến các thày pha màu nhận thức của mình, nhưng không phải là cùng loại pha màu khi con chưa thăng thiên.

Khi con là một chân sư thăng thiên đã chứng tâm Phật, con dễ dàng nhìn vượt khỏi sự pha màu đó trên tia sáng và con nhận thức – đúng hơn, con trải nghiệm – không qua một phin lọc nào. Nếu con là một Thượng sư đã chứng đạt tâm Phật như một vài Thượng sư của con đã chứng đạt, thì con có thể nhìn một tình huống từ nhãn quan tia sáng của mình, nhưng điều này không có nghĩa là con không thể bước ra ngoài khi nào con muốn.

Vậy tại sao rất nhiều người đưa ra một lời quyết tâm, một lời tự hứa vào ngày đầu năm? Là do cảm nhận sâu xa đó trong nội tâm bảo họ rằng sự thay đổi có thể xảy ra, rằng họ có thể cưỡi một ngọn sóng mới, một chu kỳ mới. Đó cũng là mong muốn một cái gì mới. Niềm tin sâu thẳm bên trong rằng tiến bộ luôn luôn là một điều khả dĩ, cũng như mong muốn biến nó thành hiện thực, chính là cốt lõi của mọi tiến bộ con người, trong lãnh vực cá nhân lẫn tập thể.

Nếu trong tư cách một người đang đầu thai, con đánh mất niềm tin về khả năng có một chu kỳ mới hay mong muốn trải nghiệm một chu kỳ mới, thì con nên yêu cầu được thuyên chuyển đến một hành tinh khác. Nếu trong tư cách một chân sư thăng thiên, con đánh mất niềm tin rằng địa cầu có thể thay đổi bất kể cách hành xử của loài người có là gì, thì con cũng nên yêu cầu chuyển sang một hành tinh khác. Chắc chắn đã có những chân sư thăng thiên tới mức cảm thấy mình đã dành ra quá đủ chú ý cùng năng lượng cho địa cầu này.

Ngay cả một chân sư thăng thiên cũng có thể có ý muốn nhìn thấy nhiều thành quả hơn cho nỗ lực của mình. Và về điểm này, phải nói địa cầu là một hành tinh thách đố. Con biết rõ khi con đầu thai trên địa cầu rằng hành tinh này thách đố đến chừng nào, nhưng ta có thể cam đoan với con là ngay cả đối với các chân sư thăng thiên đang làm việc với địa cầu, đây là một hành tinh thách đố. Nếu con đã đạt đến mức chứng đạt của Phật thì chuyện này không xảy ra, nhưng trước khi con đạt đến mức đó thì một chân sư thăng thiên có thể gặp khó khăn giữ được niềm hy vọng, lòng nhiệt thành để tạo thay đổi khi con thấy nhân loại cứ lặp đi lặp lại cùng những khuôn nếp cũ. Con nhìn thấy con người khởi đầu với những ý định tốt đẹp nhất – như nhiều người thường làm vào mỗi ngày đầu năm khi họ đưa ra một lời tự hứa mới – thế rồi con thấy rất nhanh chóng họ lại bị lôi kéo trở lại khuôn nếp cũ.

Động lực của lời tự hứa đầu năm

Tại sao người ta đưa ra lời tự hứa? Bởi vì họ mong muốn thay đổi, nhưng cũng bởi vì họ cảm thấy nhẹ nhõm hơn do những yếu tố mà ta vừa trình bày ở trên. Các năng lượng đã chuyển đổi. Tự thân lễ ăn mừng Năm Mới có khả năng đập vỡ hay xua đuổi phần nào một số tà thể đang đè nặng lên họ và bỗng nhiên họ có niềm tin: “Lần này tôi sẽ làm được, tôi sẽ thành công! Năm nay tôi sẽ nhất quyết giữ lời tự hứa đầu năm!” Khi nghiệp quả bắt đầu đi xuống và họ quay về với sinh hoạt hàng ngày, khi một số tà lực hay hồn không xác cũng trở lại trong họ, thì họ bị kéo ngay về những khuôn nếp cũ. Y như thể họ đã quên mất là mình đã tự hứa những điều gì trong ngày đầu năm, y như thể không có chuyện gì xảy ra.

Khi con là chân sư thăng thiên, con có thể thấy diễn tiến này trong nhiều hoàn cảnh đời sống. Con thấy được là con người đã nhận được một hồng ân, nhận được một lời kiên định, một hướng đi. Người ta đã được tạm miễn nghiệp quả, và trong một thời gian ngắn, họ đã có mong muốn thay đổi, có ý định thay đổi cũng như niềm lạc quan là mình có thể thay đổi. Thế rồi họ lại tuột trở về nếp cũ. Thậm chí các thày còn thấy điều này xảy ra với những người có nhận thức về sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên.

Biết bao lần các thày đã nhìn họ tìm thấy giáo lý, hoặc họ tham dự một buổi sinh hoạt, rồi họ đọc chú, đọc thỉnh nhiều vô kể. Họ nỗ lực, ho nâng cao tâm thức, và trong nhiều trường hợp điều này khiến các thày quyết định gác lại một số nghiệp quả để tạo cơ hội cho họ. Thế rồi sau một thời gian, họ lại trở về khuôn nếp cũ và quên mất.

Có thể là con đã tiến lên được chút đỉnh, nhưng thay vì tiếp tục theo trớn đi lên, con lại chấp nhận mức con mới đạt được là một thế quân bình mới. Các thày đã thấy rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên trong đủ loại phong trào mà các thày đã đỡ đầu, các thày thấy họ khám phá giáo lý, khám phá tổ chức, khám phá uy lực của việc thỉnh cầu ánh sáng, và họ đã sử dụng tất cả những thứ đó hết sức nhiệt tình có khi hàng năm trời. Nhưng sau một thời gian, con bắt đầu đánh mất lòng tha thiết, đánh mất nhiệt tâm, đánh mất niềm vui.

Khi con là chân sư thăng thiên chứng kiến sự thể này cứ lặp lại hoài hoài, con có thể tới mức – không hẳn là cái mà trên địa cầu gọi là chán nản hay thất vọng – con có thể tới mức cảm thấy mình cần trải nghiệm một hành tinh khác với năng lượng thanh thoát hơn nơi con người có thể duy trì dễ dàng hơn vòng xoắn ốc hướng thượng.

Tận dụng cơ hội của mình

Điều này xảy ra đặc biệt cho những vị mới thăng thiên cách đây không lâu. Con đã nỗ lực phi thường để hội đủ tư cách thăng thiên và bây giờ sau khi thăng thiên con cảm thấy mình đầy nghị lực để trợ giúp loài người. Con nghĩ là nếu phải chi họ biết đến giáo lý, biết đến các bài chú bài thỉnh, phải chi họ được tạm gác một phần nghiệp quả, thì chắc hẳn họ cũng sẽ đầy nghị lực muốn thăng thiên như một thời con đã từng như vậy.

Nhưng khi con thấy họ không thực sự đáp ứng, họ không nắm lấy và tận dụng cơ hội được mở ra, thì có thể con sẽ bắt đầu cảm thấy một hình thức gần như nóng lòng. Con mong muốn người ta sử dụng cơ hội to lớn mà con thấy rõ họ được ban cho. Thật là hoàn toàn dễ hiểu nếu một vị tân chân sư thăng thiên cảm thấy như vậy.

Ta có thể cam đoan với con là một trong những quyển sách quan trọng nhất từng được các chân sư thăng thiên ban ra là quyển của thày Guru Ma, “Don’t drink your own Kool-Aid” [Đừng uống Kool-Aid của bạn, dịch nghĩa: Đừng chạy theo và hy sinh cho một lý tưởng ngớ ngẩn]. Sách này có nhiều diện, nhiều tầng, và nó là một cơ hội to lớn. Guru Ma đã đổ hết trái tim, tâm trí cùng bản thể của thày vào đó từ cõi thăng thiên. Thày tóm gọn toàn bộ nỗ lực của thày suốt bao nhiêu năm và cả bao nhiêu kiếp đã dẫn thày đến thăng thiên. Thật không dễ dàng cho thày khi phải chứng kiến biết bao đệ tử cũ của mình hoàn toàn phớt lờ cuốn sách hay đã bỏ nó xuống mà không chịu đọc, tin chắc rằng họ có thể biết rõ là sách không có giá trị.

Hãy sẵn lòng nhận lấy truyền pháp tuần tự

Ta đã nói gì khi ta còn hiện thân? “Đừng chấp nhận bất cứ điều gì không hợp lý. Đừng bác bỏ bất cứ điều gì là không hợp lý nếu chưa xem xét kỹ lưỡng.” Xu hướng bác bỏ mà không xem xét kỹ lưỡng nói trên là một trong những giới hạn lớn nhất mà các thày phải đối mặt trên địa cầu.

Thậm chí đó cũng là giới hạn lớn nhất mà các thày phải đối mặt với những người tự xem là học trò của chân sư thăng thiên nhưng lại không sẵn lòng nhận ra rằng – y như nghiệp quả là một cơ hội – việc truyền pháp tuần tự của các thày cũng là một cơ hội. Có thể các thày vẫn dạy lại một số điều đã dạy trong quá khứ, nhưng ngày nay có một số điều các thày không dạy giống như quá khứ.

Nếu con bước vào một tư duy nhất định thì con có thể xem những lời dạy của quá khứ là chuẩn mực tối thượng. Xong con có thể bảo, bất cứ gì đi xa hơn hay có vẻ đi ngược lại những lời dạy đó bắt buộc phải sai lầm. Nếu con làm vậy, con sẽ tự đặt mình ra ngoài dòng xoắn ốc hướng thượng của các đợt truyền pháp của các thày, bởi vì sự truyền pháp này liên tục và tuần tự.

Làm thế nào các thày truyền pháp tuần tự chứ? Bằng cách giảng dạy những điều vượt xa hơn những gì được giảng dạy trong quá khứ. Có nghĩa là đôi khi các thày sẽ thách thức những gì đã được giảng dạy trước đây để lay chuyển mọi người bước ra khỏi khuôn nếp cũ. Cũng có nghĩa là thỉnh thoảng các thày phải nói những điều gần như mâu thuẫn với những gì đã nói trước đây. Nếu con đã lấy giáo lý của quá khử và biến nó thành một cái hộp khép kín, làm thế nào các thày có thể kéo con ra khỏi hộp mà không gây cho con một chút chấn động? Nếu con bám chặt vào chiếc hộp cũ đến độ con gạt bỏ lời dạy mới mà không chịu xem xét kỹ lưỡng, thì làm sao các thày chạm được con ngày hôm nay?

Con sẽ biết ta như ta đang là hôm nay

Là chân sư thăng thiên, các thày là một với Dòng sông sự Sống không ngừng tuôn chảy. Chính dòng sông này hình thành vòng xoắn ốc hướng thượng của toàn bộ vũ trụ cùng tất cả mọi bầu cõi ở cao hơn nữa. Các thày làm thế nào? Bằng cách thăng vượt ý niệm cái ta một cách liên tục. Không có cách nào khác. Điều này có nghĩa rằng ta là Gautama, là đức Phật, vị chân sư thăng thiên đã từng giảng dạy qua một số đợt truyền pháp trước. Ta là cùng vị thày, nhưng ta không là cùng cái ta của 10, 20 hay 2500 năm về trước. Trong suốt 20 năm hay 2500 năm qua, ta đã tự thăng vượt hằng hà sa số lần rồi.

Nếu con muốn biết ta, con cần biết ta như ta đang là hôm nay. Con không thể biết ta như ta là hôm nay qua một lời dạy được ban ra trong quá khứ. Đó là tại sao biết bao người tự xem mình là Phật tử đã dùng những lời dạy mà ta đã ban ra 2500 năm về trước để, kỳ thực, tạo ra một rào cản giữa họ và ta.

Họ không muốn biết ta như một chân sư thăng thiên. Họ chỉ muốn biết ta như là hình ảnh đức Phật mà môn phái đạo Phật của họ đã tạo dựng. Họ không muốn biết ta như một vị thày hằng sống. Họ muốn thờ phượng một thần tượng, và họ muốn cảm thấy là qua sự thờ phượng thần tượng này từ xa, một ngày kia họ sẽ đạt được giác ngộ hay chứng được Niết bàn.

Làm thế nào một ai đó có thể khiến con giác ngộ bằng cách làm gì đó cho con hay làm giùm con điều gì? Giác ngộ là một tiến trình nội tâm. Đó là một sự xoay chuyển ý niệm cái ta khi con ngừng không khoác vào hình tư tưởng, khi con cả gan nhìn vào chính con mà không qua phin lọc, và con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con như nó thực là, như con thực là.

Làm thế nào con biết được đức Phật? Bằng cách thăng vượt xu hướng nhìn ta xuyên qua một phin lọc, bằng cách sẵn sàng trải nghiệm ta như ta là. Con có thể lấy một lời dạy mà ta đã ban ra 25 năm hay 2500 năm về trước, và nếu con có thể dùng lời dạy đó để hòa điệu với ta xong vượt xa hơn lời dạy để trải nghiệm hiện diện của ta, thì lời dạy đó quả thật có thể giúp con biết ta.

Nhưng nếu con biến lời dạy thành một cái hộp khép kín, thành một thần tượng, thành một hình tư tưởng, thành một phin lọc nhận thức, thì lời dạy đó sẽ chỉ đẩy con ra xa hơn trải nghiệm trực tiếp. Lời dạy đó sẽ trao cho tự ngã của con tất cả những lý do mà nó cần và nó muốn để bác bỏ trải nghiệm này. Ta thật sự mong muốn tất cả những ai xem mình là Phật tử hãy mở tâm ra để lắng nghe những gì ta vừa nói rồi hành động. Ta rất hiểu tại sao nhiều người không thể làm được điều này bởi vì họ chưa sẵn sàng biết ta như ta là, hay họ chưa sẵn sàng nhận biết Phật tánh nơi chính họ. Ta hy vọng là những ai tự xem mình là học trò của chân sư thăng thiên cũng sẽ cởi mở để biết được ta như ta là. Nếu con biết ta như ta là hôm nay, tại sao con lại không xuôi chảy với lời dạy mà ta ban truyền hôm nay?

Muốn tánh linh phải tuân theo vật chất

Khi con còn đang hiện thân, thật là quá dễ bị trơn trượt – từng bước nhỏ một và gần như không thể nào nhận ra – vào cái tâm thức vô cùng vi tế mà Giê-su đã chỉ ra khi thày thốt lên: “Bước ra sau ta, Satan!” Đây là tâm thức muốn tánh linh phải tuân theo vật chất.

Làm thế nào con sẽ thăng vượt được tâm thức hiện thời của con? Con không thể tự kéo mình lên cao bằng cách kéo sợi dây giày ở chân mình. Con không thể giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề. Con không thể thăng vượt một trạng thái tâm thức bằng cách sử dụng chính nó. Đó là tại sao con người cần đến các chân sư thăng thiên.

Nếu con không nhận được một động lực từ tánh linh, con sẽ không thể vượt lên khỏi trạng thái cũ của bản ngã. Động lực thôi thúc này từ tánh linh phải vượt ra ngoài và thách thức trạng thái tâm thức hiện tại – vì nếu không, nó sẽ không thể đưa con ra khỏi tâm thức hiện tại. Có lô-gíc không con?

Nếu con đòi hỏi động lực từ tánh linh phải thuận theo những hình tư tưởng đang quy định trạng thái tâm thức hiện thời của con, thì làm thế nào tánh linh sẽ giúp con đây? Làm thế nào các thày giúp con thăng vượt trạng thái hiện thời của con nếu con muốn các thày ép mình vào những hình tư tưởng mà con có đang quy định các thày là ai và phải nói gì?

Ta cũng biết là các chân sư đã đề cập đến chuyện này trước đây trong những bối cảnh khác. Ta chắc chắn là ta hay một chân sư khác sẽ nhắc lại một lần nữa. Mỗi lần các thày nói lên điều đó thì lại có thêm một số ít người hiểu ra. Mỗi lần các thày nói lên thì những ai nhận được nhưng lại gạt bỏ ngoài tai hay từ chối làm theo, sẽ tạo ra một nghiệp lực quay ngược về họ, và hoặc nó sẽ tạo thêm gánh nặng cho họ, hoặc nó sẽ trao cho họ một cơ hội để lướt sóng. Ngay cả khi nó gia tăng gánh nặng thì nó cũng sẽ làm xáo trộn thế cân bằng của họ, buộc họ phải thay đổi do không thể chịu đựng được nữa.

Các chu kỳ không chạy vòng tròn

Con biết chăng là ngọn sóng trên đại dương chuyển động theo hình tròn? Nếu con nhìn mặt cắt của ngọn sóng, con thấy gần như thể nước chuyển động theo vòng tròn. Người ta có thể bị cuốn vào một vòng tròn như vậy. Con bị nước sóng cuộn tròn lên con cho tới khi con chết đuối vì không thể ngoi lên.

Vậy làm thế nào một làn sóng có thể di chuyển băng qua đại dương? Là vì có một động lượng đẩy chuyển động tròn đó đi tới. Các thày mong muốn nhìn thấy tất cả học trò của mình cưỡi trên lưng chuyển động tròn thay vì bị mắc kẹt trong chuyển động và không tiến tới. Con yêu dấu, con có hiểu điều ta muốn nói?

Rất nhiều người tâm linh và người mộ đạo trên địa cầu hiểu rằng có những chu kỳ, nhưng họ xem chu kỳ là sự chuyển động hình tròn, theo đó họ chuyển quanh vòng tròn suốt năm để trở về đúng ngay điểm khởi đầu. Và cũng vậy, họ chuyển quanh vòng tròn đầu thai trong nhiều kiếp người để trở về điểm hư vô hay vô ngã. Nhưng đây không phải là cách sự sống tiến tới. Trong tiến trình tự nhiên, không có chuyển động nào vòng tròn cứ dẫm chân tại chỗ.

Một chuyển động vòng tròn đưa về điểm khởi đầu chỉ có thể hiện hữu trong một hệ thống bị ảnh hưởng bởi quyền tự quyết. Đa số con người sống trong hệ thống đó đã biến tâm mình thành những hệ thống khép kín, khiến họ tiếp tục trải nghiệm cùng một chuyện hết kiếp này sang kiếp khác với cường độ ngày càng gia tăng, cho đến khi cuối cùng họ chán ngán và muốn tiến bước cao hơn.

Tại sao người ta lại lạc quan vào ngày đầu năm? Vì người ta hy vọng là năm mới sẽ tốt đẹp hơn năm cũ, rằng một cái gì mới sẽ xảy đến. Nhưng làm sao có cái gì mới xảy đến nếu con cứ lặp lại cùng những khuôn nếp như năm cũ? Nếu vậy sự chuyển động sẽ chỉ chạy theo vòng tròn và con sẽ quay về ngay điểm khởi đầu. Cái mới chỉ có thể xảy đến nếu con đứng dậy, vươn mình lên, giữ thế thăng bằng trên tấm ván lướt sóng và con ra tay cưỡi sóng. Điều này chẳng hoàn toàn hợp lý hay sao?

Các thử thách sắp đến trong năm 2015

Con thấy đó con yêu dấu, từ tầm nhìn của ta là Phật, điều đó hoàn toàn hợp lý. Ta cũng biết là tất nhiên, con không nhìn ra, con không nhận thức lời ta nói như ta nhận thức. Con nhận thức lời ta qua phin lọc của tâm luôn tìm ra cớ để không thay đổi.

Con có muốn một cách định nghĩa thật giản dị cho tự ngã? Tự ngã là khía cạnh của tâm luôn luôn tìm ra một lý do để con không phải thay đổi.

Ta sẽ không bàn gì về năm đã qua vì nó đã trôi qua. Không gì có thể thay đổi được năm 2014. Nó là như thế đó. Nhưng ta sẽ nói một vài lời về năm 2015. Như con có thể nhớ, bắt đầu từ ngày 1/1/2013, hành tinh này đã bước vào một chu kỳ qua đó mỗi năm sẽ đem lại cho hành tinh một khai ngộ trên một tia sáng trong số bảy tia. Năm 2013 đã là Tia thứ Nhất. Năm ngoái là Tia thứ Hai, và 2015 sẽ là Tia thứ Ba của Tình thương.

Vậy trong năm tới, đâu sẽ là cuộc khai ngộ mà bản thân con lẫn hành tinh sẽ đối mặt? Có hai cách để nhìn vấn đề này. Con có một cơ hội để cưỡi ngọn sóng tình thương sẽ cuộn tròn khắp hành tinh trong ba cõi cao. Nhưng con cũng có cơ hội để không cưỡi theo sóng, và nếu vậy thì con sẽ phải đương đầu với sự tha hóa của tình thương. Tất nhiên là có nhiều cách để tình thương bị tha hóa, nhưng cách chủ yếu là qua lòng sợ hãi.

Con có hai cách con tiếp cận năm 2015. Hoặc con cưỡi ngọn sóng của tình thương, hoặc con bị làn sóng tàn bạo của sợ hãi cuốn trôi. Ta có thể cam đoan với con năm 2015 sẽ là một năm thử thách, không hẳn là qua những biến cố sẽ xảy ra trong cõi vật lý, mà qua lòng sợ hãi phát xuất từ những rủi ro mà người ta cảm nhận về một số biến cố. Con thấy gì trong năm 2014? Con thấy dịch bệnh Ebola. Năm 2015 có khả năng chứng kiến một nỗi lo sợ còn lớn hơn nữa, không chỉ là Ebola mà một số bệnh tật có thể lây lan dễ dàng. Con lưu ý là ta không bảo các bệnh dịch này sẽ nhất thiết lan truyền trong cõi vật lý, nhưng nỗi sợ hãi thì sẽ có mặt.

Con thấy gì trong năm 2014? Chiến tranh và xung đột gia tăng, từ vùng Trung đông cho đến châu Phi, tình hình tại Ukraine và sự căng thẳng leo thang giữa Nga và các quốc gia mà Nga gọi là phương Tây. Những căng thẳng này sẽ có khả năng leo thang trong năm 2015. Tuy ta không nói là rủi ro chiến tranh trong cõi vật lý sẽ cao hơn năm ngoái, nhưng nỗi sợ chiến tranh, sợ xung đột sẽ lớn hơn.

Và hiển nhiên có vấn đề kinh tế. Năm ngoái, kinh tế không đến nỗi là mối quan tâm, nhưng sang năm 2015, đó sẽ là một quan tâm lớn hơn. Một lần nữa, ta không bảo là có rủi ro rất cao xảy ra vấn nạn kinh tế trong cõi vật lý, nhưng những lo lắng về nền kinh tế sẽ nhiều hơn.

Hãy dùng năng lượng của tình thương để vượt trên sợ hãi

Điều ta yêu cầu con làm với tư cách là học trò của chân sư thăng thiên là con ý thức được khả năng cưỡi ngọn sóng tình thương thay vì đâm đầu vào vòng xoáy của sợ hãi, vào vòng tròn của sợ hãi. Hãy dùng những bài thỉnh và bài chú của con để duy trì năng lượng vượt lên trên tầng cấp sợ hãi. Các thày rất vui mừng khi nhiều người đã yêu cầu làm theo chỉ dẫn của Mẹ Mary và tham dự buổi canh thức đều đặn khi khắp nơi trên thế giới các con đọc chú cùng với nhau vào cùng ngày, có thể là cùng giờ hay cùng một lúc tùy theo múi giờ của con.

Hẳn công việc này sẽ có thể tránh được nhiều tai họa trong cõi vật lý, nhưng trước hết nó có thể giúp con giữ mình ở cao hơn tầng cấp sợ hãi. Nếu con muốn tác động tối đa đến hành tinh như các thày mong muốn, con sẽ cần giữ mình cao hơn sợ hãi trong năm sắp tới. Các thày đã ban ra giáo lý về tình thương cùng với các bài thỉnh, bài chú để thỉnh cầu tình thương. Tất nhiên, các thày sẽ cho phát hành một quyển sách mới với giáo lý lẫn bài thỉnh, nhưng sách này thì vượt thời gian cho nên con không cần chờ sách trước khi con bắt đầu thỉnh cầu tình thương cùng các năng lượng dựa trên tình thương.

Hình tư tưởng cho năm 2015

Hình tư tưởng cho năm 2015 sắp tới sẽ là gì? Tình thương thường đi đôi với màu hồng, nhưng tình thương trong dạng cao độ nhất là màu ngọc đỏ (ruby) mà như con biết, đó là màu của tia laser. Hình tư tưởng mà ta ban cho con cho năm tới là một hình Phật ở rất cao trên trái đất – mà con có thể hình dung ở trên không trung hay trong cõi ê-the. Đây là một hình Phật làm bằng một chất trong suốt, không phải là thủy tinh nhưng trông giống như thủy tinh. Chất này màu ngọc đỏ. Có một chân sư thăng thiên tên gọi là đức Phật của Tia Ngoc đỏ; tuy nhiên đây không phải là vị chân sư sẽ cầm giữ cân bằng tâm linh cho hình tư tưởng này. Ta sẽ là vị chân sư khoác vào khía cạnh Tia Ngọc đỏ của Phật và cầm giữ hành tinh này trong tâm quân bình của ta cho năm tới.

Ta sẽ ở trên đây – tức là bất kỳ nơi nào con thấy ta – trong tư cách đức Phật ngọc đỏ đó. Ta không ngồi nhắm mắt; mắt ta mở. Con có thể hình dung ta có đôi mắt mở như người thường, hay con hình dung ta với một con mắt ở giữa lông mày, và con mắt thứ ba này là con mắt đang nhìn.

Qua khả năng viển quan, ta có thể hướng một Tia Ngọc đỏ với năng lượng tình thương mãnh liệt vào bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu. Do Định luật Tự quyết, ta không thể tự mình làm điều này. Ta cần những con người đang đầu thai hòa điệu với khía cạnh Tia Ngọc đỏ của ta. Con hãy tự hình dung mình là đức Phật Tia Ngọc đỏ ở cõi vật lý, và đức Phật này hợp nhất, hay ít ra nối kết với ta trong tư cách là đức Phật Tia Ngọc đỏ ở cõi ê-the.

Sau đó con tập trung trước nhất vào việc thiết lập một sự nối kết hay hợp nhất với ta, xong con hướng tia ánh sáng laser Ngọc đỏ đó từ viễn quan của ta vào một điều kiện nào đó trên địa cầu. Con không cần biến chuyện này thành một nghi thức phức tạp nhưng ta cần con lâu lâu ý thức được. Con có thể dành ra một vài phút sau khi đọc thỉnh hay đọc chú để hòa điệu, để hình dung ta, hình dung chính con, rồi nhìn thấy ta là như thế nào, qua quyền năng và cây cầu của chú ý đang dẫn đường cho ánh sáng Tia Ngọc đỏ.

Con cần lưu ý là con không hướng ánh sáng. Con chỉ thiết lập cây cầu mà qua đó ánh sáng có thể chảy vào cõi vật lý. Điều này có nghĩa là việc duy nhất mà ta cần ở con là sự chú ý. Ta không cần quan điểm của con, cảm xúc của con, những nỗi sợ của con hay ý nghĩ của con về những gì cần hay không cần thay đổi trong hoàn cảnh hiện thời. Con càng trung hòa bao nhiêu thì càng nhiều ánh sáng sẽ chảy xuyên qua con bấy nhiêu.

Con hãy cố hiểu rằng chìa khóa của quả vị Ki-tô là không dính mắc. Con hãy hết sức không dính mắc vào hoàn cảnh mà con đang tập trung chú ý của con – cũng như tập trung chú ý của ta. Ta trung hòa đối với mọi sự xảy ra trên địa cầu.

Có lẽ “trung hòa” không phải là từ thích hợp nhất. Có lẽ “không dính mắc” cũng không phải là từ hay nhất. Có lẽ không có từ nào có thể diễn tả được tâm của Phật vì Phật vượt mọi từ ngữ, nhưng ta phải dùng ngôn ngữ để tâm con nắm bắt điều ta muốn nói. Vậy con hãy trung hòa tối đa, không dính mắc tối đa, phổ quát tối đa về tình huống trước mặt. Để yên cho ánh sáng làm công việc của nó mà không tìm cách hướng dẫn nó! Con chỉ vỏn vẹn đặt chú ý của con vào tình huống và cho phép ta hướng dẫn ánh sáng qua trung gian cây cầu là sự chú ý của con.

Lướt sóng

Đó là cách con có thể đóng góp to lớn song song với những bài chú, bài thỉnh của con. Như Mẹ Mary có nói, chắc chắn có khả năng quy tụ được 500 người đọc bài nguyện và bài chú cùng một lượt với nhau, nhưng liệu điều này có thực hiện được trong thực tế, liệu sẽ có đủ người nắm lấy ngọn đuốc và bỏ công ra làm hay không thì phải chờ xem. Nhưng chắc chắn điều hợp lý là chúng ta khởi sự tiến trình, xong hy vọng là các con sẽ có thể duy trì, xây dựng đủ động lượng và thu hút được ngày càng nhiều người hơn tham gia đưa vòng ốc xoắn đi lên.

Ta mong ta đã cho con món ăn tinh thần ở đây, không những cho năm 2015 mà cho cả những năm và thập niên sau đó. Nó có thể đem lại cho con sự khác biệt to lớn. Con có thể bắt đầu cưỡi sóng của nghiệp quả đang phản hồi thay vì đâm đầu vào ngọn sóng hết lần này sau lần khác.

Đương nhiên, nếu con muốn đâm đầu vào sóng thì ta sẽ không phản đối ý muốn trải nghiệm đó của con. Ta chỉ muốn con biết rằng lướt sóng là một chuyện hoàn toàn khả thi. Nếu con muốn trải nghiệm lướt sóng, cả ta lẫn các chân sư khác sẽ đều sẵn lòng giúp con một tay để con tự kéo mình đứng lên tấm ván – tấm ván của giáo lý các thày – và con học cách giữ thăng bằng dễ dàng hơn.

Như ta đã cố giải thích, quá nhiều lần các thày đã chứng kiến học trò tìm được giáo lý, rồi sử dụng giáo lý một cách cực đoan khiến họ bị mất thăng bằng. Cho dù có thể con chưa lướt sóng bao giờ nhưng con dư biết là nếu con không giữ được thăng bằng trên ván thì con sẽ té nhào xuống sóng nước. Các thày mong muốn thấy học trò của mình cưỡi sóng chứ không té sóng. Nếu con cũng mong muốn như vậy, ta nghĩ ta với con có thể làm việc với nhau trong năm tới và cả sau đó.

Ban thêm giáo lý

Với lời này, ta cảm ơn các con đã chú ý, đã sẵn lòng học tập và thực hành giáo lý, sẵn lòng hỗ trợ công việc phổ biến giáo lý, hỗ trợ sứ giả này trong việc đem giáo lý vào cõi vật lý. Con có thể nhìn vào các trang web được thành hình xuyên qua tâm của đúng một người, con có thể nhìn sách đã phát hành và con có thể ngạc nhiên tự hỏi: “Liệu các chân sư còn thêm bao nhiêu giáo lý nữa để ban truyền?”

Chính sứ giả này cũng đã từng ngạc nhiên, nhưng giờ đây ông đã vượt quá sự ngạc nhiên khi ông nhận ra là các thày còn muốn ban truyền nhiều hơn rất nhiều. Thậm chí ông không muốn biết sẽ còn thêm bao nhiêu nữa, vì ông sẽ bị choáng ngợp khi nghĩ đến thì giờ và công sức mình cần phải dành ra. Ta sẽ không nói cho con biết còn bao nhiêu nữa, mà ta sẽ chỉ nói với con là các thày mong muốn đem vào cõi vật lý thật nhiều giáo lý hơn nữa.

Các thày không có nhiều người mang tâm có thể làm chén thánh để nhận và truyền đạt giáo lý này. Các con hãy trao cho tâm này cơ hội để nó sử dụng những khả năng mà nó đã được đào tạo – và cũng sẵn lòng thực hiện. Quả thật, nếu không đưa ra giáo lý thì làm thế nào có được sự thay đổi? Và cũng thế, nếu giáo lý không được chấp nhận và áp dụng thì cũng chẳng có được sự thay đổi.

Mỗi người trong số các con đều cần thiết y như sứ giả này cần thiết. Tuy con không nên đặt bất cứ ai lên bệ cao, nhưng con hãy đón nhận mọi người như những cá nhân độc đáo – quan trọng một cách độc đáo – mà các con là. Đôi khi con cũng cần nhìn nhận là mình đã có đem lại một chút giá trị, mình đã có nỗ lực, mình đã có tinh tiến. Nhìn nhận như vậy sẽ giúp con giữ được cái trớn đi lên, giúp con tìm lại sự nhiệt thành mà có thể con đã đánh mất chút đỉnh giữa sự chuyển động vòng tròn của đời sống hàng ngày.

Ta có thể cam đoan với con là các thày, những người đã thăng thiên khỏi địa cầu, đều biết rõ nếp sống hàng ngày có thể nặng nề chừng nào trên một hành tinh có năng lượng dày đặc như thế này. Bước đi trên con đường tâm linh trên địa cầu không phải là một chuyện dễ. Hội đủ tư cách để thăng thiên khỏi địa cầu cũng không dễ. Nhưng như ta đã chứng minh, việc đó hoàn toàn khả thi. Và như các thày luôn nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được.”

Không cần nói gì thêm, ta chúc các con một Năm Mới vui tươi. Gautama TA LÀ!