19 | Một câu hỏi về thời gian

Câu hỏi: Xin các chân sư trao cho chúng con một lời dạy sâu xa hơn về sự không hiện hữu của thời gian và về thực tại tâm linh. Chúng con biết là một số sự việc diễn ra theo trình tự thời gian, chẳng hạn như việc đổ đầy một bầu cõi tân lập với ánh sáng. Nếu thời gian không hiện hữu và mọi sự đều xảy ra cùng một lúc, làm thế nào chúng con có thể gắn liền việc này với ý chí tự quyết, vì ý chí tự quyết có cơ hội bước theo hướng hoàn thành con đường quả vị Ki-tô hoặc theo hướng ngược lại? Từ nhãn quan thế tục của chúng con, việc đó xảy ra ở một thời điểm cụ thể. Các sinh thể ở cõi tâm linh cảm nhận thời gian trôi qua trên trái đất như thế nào?

Trả lời của Phật Gautama: Con yêu dấu, thày chính là người đã nói: “Thời gian không có,” và tất nhiên câu này là một công án. Chắc chắn thời gian hiện hữu ở một mức độ nào đó. Chắc chắn thế gian mang tính chất đường thẳng ở một mức độ nào đó. Có một sự trải bày tuần tự từ giai đoạn trước sang giai đoạn sau. Con có thể nói là toàn bộ thế giới quan mà các thày đã trao cho con là sự kiện Đấng Sáng tạo đã khởi sự sáng tạo qua việc tạo ra một khoảng trống, xong ngài tạo ra một tiến trình cho các sinh thể đồng sáng tạo lấp đầy khoảng trống này – và đây là một tiến trình hoàn toàn đường thẳng. Từ nhãn quan này, con có thể nói là con có thể xem thời gian như một trình tự tiến hành từ một giai đoạn sang giai đoạn kế tiếp, qua đó một giai đoạn tạo ra một biểu hiện đặc thù sẽ đặt nền tảng cho sự phát triển tiếp theo của các biểu hiện trong giai đoạn kế tiếp. Nếu con nhìn thời gian theo cách này thì chắc chắn thời gian hiện hữu. Điều thày muốn con và mọi người nói chung quán chiếu qua câu “Thời gian không có” là sự kiện thời gian không nhất thiết phải giống hệt cách nhìn hiện thời của con bằng tâm thức gọi là “bình thường” trên trái đất. Không như cách nhận thức bình thường của con, thời gian không hẳn là đường thẳng, khắc sâu vào đá, không thể tránh khỏi hay không thể thay đổi.

Một khía cạnh của vấn đề này là toàn bộ giáo lý các thày đã trao cho con về cách làm thế nào con loại bỏ các ngã tách biệt và nhờ vậy chữa lành bốn thể phàm của con. Chúng ta có thể nói là ở một thời điểm trong quá khứ xa xôi con đã trải qua một chấn thương nhập đời, và thời điểm này không còn nữa, thời điểm này đã đi qua. Bây giờ con đang ở một thời điểm khác nhưng con vẫn mang chấn thương nhập đời này theo con. Con vẫn bị nó tác động vì các khoảnh khắc sau đó, các khoảnh khắc đến sau chấn thương nhập đời, đã bị chấn thương nhập đời đưa vào một hướng đi nhất định. Mọi chuyện xảy ra sau đó được xây dựng trên nền tảng chấn thương nhập đời.

Nếu con không thể thay đổi thời gian, nếu con không thể thay đổi quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian – mà qua đó con có thể đi trở ngược quá khứ để giải quyết chấn thương nhập đời – thì làm thế nào con sẽ giải thoát khỏi chấn thương được đây? Con thấy là ngay khoảnh khắc Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo, phải có một sự trải bày diễn ra một cách đường thẳng, mà con gọi là thời gian, để các sinh thể này sử dụng quyền tự quyết của họ. Như vậy họ mới thấy được là khi họ phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì sau đó một thời gian Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trình diễn nó ra thành những hoàn cảnh vật lý. Những hoàn cảnh vật lý này không chỉ biến mất sau một tích tắc mà chúng có thể tồn tại trong một khoảng mà con gọi là thời gian.

Để sử dụng quyền tự quyết, phải có thời gian hiện hữu để một số biểu hiện được duy trì. Tuy nhiên để đảm bảo quyền tự quyết không trở thành một hệ thống tự hạn chế – tức một hệ thống nơi con lần lần càng tạo thêm hậu quả cho chính mình, rồi với thời gian con mang các hậu quả này theo con cho tới mức chúng trở nên khắc nghiệt đến độ chẳng bao lâu con không còn chọn lựa nào nữa, con không còn quyền tự quyết nữa – để tránh kịch bản này xảy ra, thời gian không thể chỉ đi theo một hướng độc nhất. Phải có cách nào đó để con quay lại thay đổi quá khứ. Cách đây hai triệu năm có thể đã có một tình huống vật lý nơi con phải chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng khía cạnh tích cực của thời gian là thời gian đã trôi qua. Và tình huống vật lý này không còn nữa.

Đây là một ân huệ, vì ngược với những gì các tác giả khoa học viễn tưởng muốn con tin, con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý có khả năng quay trở lại một tình huống xảy ra hai triệu năm trước để con du hành về đó trong cõi vật lý và thay đổi vật lý. Chuyện này không thể làm được, không bao giờ có thể làm được. Nhưng điều con có thể làm được là tạo ra một cỗ máy vượt thời gian trong chính tâm con. Kỳ thực trong bài tập mà Mẹ Mary dẫn con đi qua bảy khu vườn trở về rạp hát nơi chấn thương nhập đời của con đã diễn ra, Mẹ đã trao cho con một cỗ máy như vậy để con có thể quay về khung cảnh khi tình huống đó vẫn tồn tại. Tình huống không còn tồn tại trong cõi vật lý nhưng nó còn tồn tại trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con. [Xem bài tập này trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]

Con có thể quay trở về đó trong cỗ máy vượt thời gian xuyên qua các thể này, làm tan biến những vết tích còn sót lại ở đó, những khuôn đúc, những giới hạn, những cái ngã, bất kể con muốn gọi là gì cũng được. Con làm nó tan biến đi, thế là con thay đổi quá khứ cho dù thời gian đã trôi qua. Con đã thay đổi quá khứ của con. Qua việc loại bỏ ngã gốc của mình, con không còn là cùng con người mà con đã từng là, khi chính ý niệm bản sắc của con, cách con tư duy về cuộc sống và cách con cảm nhận cuộc sống bị ngã gốc đó pha màu. Con đã trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô. Đây ít nhất là một tầng cấp cho thấy tại sao thày bảo rằng thời gian không có. Thời gian không phải là một lượng gì cố định.

Bây giờ nói về quyền tự quyết, luôn luôn đã có bàn cãi về đề tài này trong số những người tâm linh lẫn các triết gia. Chẳng hạn những ai theo tôn giáo sẽ nói: “Nếu Thượng đế là đấng toàn tri thì ngay từ khởi thủy ngài đã phải biết rõ kết cuộc. Thượng đế phải biết kết quả chung cuộc của vũ trụ sẽ ra sao trước khi ngài khởi đầu tiến trình sinh tạo vũ trụ. Và nếu Thượng đế biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra thì làm sao con người có quyền tự quyết được?”

Và câu trả lời là như sau: đó là một cái nhìn sai lạc về Thượng đế, một hình ảnh sai lạc về Thượng đế mà sa nhân đã cốt ý đưa ra nhằm gây bối rối theo kiểu này. Thượng đế không toàn tri theo nghĩa ngài biết chính xác tất cả mọi chuyện sẽ diễn bày. Ngài biết một số sự việc tổng quát nhưng ngài không biết rõ mọi chi tiết. Kỳ thực ngài đã nói, Đấng Sáng tạo đã nói: “Ta ban quyền tự quyết cho các con. Ta ban cho các con khả năng làm cho ta ngạc nhiên.” Cho nên từ một quan điểm truyền thống, Thượng đế không toàn tri.

Thậm chí con có thể thấy các nhà duy vật bảo rằng mọi chuyện đều được quy định bởi các định luật tự nhiên. Có một hình ảnh cố hữu cho rằng thế giới giống như một chiếc đồng hồ vĩ đại, và nếu con biết tất cả các điều kiện ban đầu khi thế giới khởi sự, thì bằng cách biết rõ mọi định luật tự nhiên con có thể tiên đoán chính xác thế giới sẽ như thế nào ở bất kỳ thời điểm nào trong tương lai. Con có thể đoán trước được tương lai nếu con biết rõ các điều kiện nguyên thủy cùng các định luật tự nhiên. Cách nhìn này cũng hoàn toàn sai lạc vì quan điểm duy vật không ngó gì đến quyền tự quyết, nó bỏ qua thực tế rằng vũ trụ vật lý chỉ là hệ quả của những gì xảy ra trong ba thể cao hơn. Sự biểu hiện vật lý chỉ là sản phẩm của những gì xảy ra ở mức tâm thức. Như các thày đã nói, tâm thức có trước, biểu hiện vật lý có sau. Cho nên đơn giản những quan điểm như trên đều sai lạc. Con quả là quyền tự quyết.

Con sắp sửa làm gì đây trong một phút nữa: Thượng đế không làm sao biết được, Thượng đế không quy định được, Thượng đế không giới hạn được, và các định luật tự nhiên cũng không giới hạn được. Con có thể nhìn một người nào đó, nhìn vào trạng thái tâm lý của họ, nhìn vào các ngã tách biệt mà họ đang mang, và con có thể tiên đoán với một độ chính xác rất cao là họ sắp sửa làm gì trong một phút nữa. Tuy nhiên với thời gian, con không thể biết được liệu họ sẽ quyết định thay đổi hay không. Ngay cả những người hoàn toàn không biết đến các chân sư thăng thiên, họ vẫn có thể lấy quyết định: “Tôi đã chán chê loại trải nghiệm này rồi. Tại sao tôi cứ làm đi làm lại cùng một chuyện này mãi mãi? Tôi chọn lựa thay đổi. Tôi sẽ ngừng làm chuyện đó.”

Suốt chiều dài lịch sử, con người đã có những chọn lựa như vậy và chính điều này đã đem lại tiến bộ cho bản thân họ cũng như cho nền văn minh của họ. Một khi con hiểu rõ ngã tách biệt, con có thể loại bỏ chúng, con có thể để cho chúng chết đi, và sau đó với mỗi cái ngã chết đi như vậy, con sẽ có thêm quyền tự quyết. Quả là con có quyền tự quyết nhưng con chỉ có thể chọn các chọn lựa mà con nhìn thấy. Các chọn lựa mà con nhìn thấy ngay bây giờ tùy thuộc vào toàn bộ bốn thể phàm của con, vào các ngã tách biệt, vào sự pha màu mà con đang mang. Một số những ngã tách biệt này sẽ che chắn nhiều tùy chọn khỏi mắt con, cho nên con chỉ không thể thấy chúng, và nếu con không thấy chúng là chọn lựa thì con không thể nắm lấy chọn lựa đó. Nói cho cùng, quyền tự quyết và sự nhận biết gắn liền rất chặt chẽ với nhau. Con có thể nói là con luôn luôn có quyền tự quyết chọn lựa các tùy chọn mà con thấy được ở mức tâm thức hiện thời của con. Ý chí tự do của con chỉ tự do như những gì con có thể nhìn thấy.

Hẳn nhiên quyền tự quyết là một thực tế, và bất kỳ triết lý nào, hệ tư tưởng nào mà bác bỏ quyền tự quyết hay tìm cách giới hạn quyền tự quyết qua một yếu tố nào đó mà con không có khả năng chủ động, bất kỳ hệ thống nào như vậy đều xuất phát từ tâm trí của sa nhân. Các thày không bảo là tất cả những ai đề xướng những loại hệ thống như vậy đều là sa nhân, nhưng ý tưởng nguyên thủy đã khởi lên từ tâm  trí sa nhân. Mục đích chủ yếu của chúng không phải là giới hạn dân số loài người mà giới hạn các chọn lựa mà quần chúng có thể lấy, hay đúng hơn, mà mỗi cá nhân có thể lấy. Chúng muốn hạn chế quyền tự quyết của con.

16 | Con không là nô lệ của thời gian

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 2/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Điều thày muốn trình bày trong bài giảng này là một số chủ đề có vẻ không liên quan nhưng thật sự có liên quan với nhau. Hãy cho thày bắt đầu với một điều tuyệt đối cần thiết trên con đường quả vị Ki-tô, con đường quả vị Phật, là con hiểu rằng cái ngã mà con đã có khi con tìm thấy giáo lý lần đầu và thức tỉnh với sự hiện hữu của một đường tu tâm linh, ngã này không thể đưa con đến quả vị Ki-tô hay quả vị Phật.

Các con vừa đọc bài thỉnh về ngã gốc qua đó con học được là ngã gốc phải chết đi thì con mới tái sinh vào một ngã mới [từ quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Tất nhiên đây là một tiến trình hoàn toàn có giá trị, nhưng con không nên đặt mình vào tâm thái nghĩ rằng ngay cả nếu con cảm thấy ngã gốc đã chết, thì ngã mới mà con tái sinh vào đó là cái ngã con sẽ đem theo con cho tới khi thăng thiên. Chắc chắn con đừng rơi vào ảo tưởng cho rằng đây là cái ngã sẽ thăng thiên.

16.1. Thăng thiên sau khi cân bằng toàn bộ nghiệp quả

Trong đợt truyền pháp này, các thày đã cho con một số lời dạy về tiến trình thăng thiên và cái có thể gọi là “tâm lý của sự thăng thiên” cao hơn hẳn những gì các thày đã trao truyền trong mọi đợt truyền pháp trước đây. Không có nghĩa là các giáo lý trước không có giá trị hay không thể đưa hành giả đến điểm thăng thiên. Có một số người trong tiền kiếp đã gần điểm thăng thiên đến độ các giáo lý trước đã có thể dẫn họ đi những bước chót đến mức sẵn sàng thăng thiên, nhưng loại người như vậy không nhiều lắm. Con cũng biết là trong đợt truyền pháp trước có dạy là con có thể thăng thiên sau khi chỉ cân bằng 51% nghiệp quả của mình. Thày sẽ nói là có rất rất ít người đã có thể dùng giáo lý trước để cân bằng được 100% nghiệp quả (cũng có nghĩa là giải quyết xong tâm lý mình) và nhờ vậy thăng thiên khỏi địa cầu. Có thể nói là họ “sạch bong”, sạch không còn bất kỳ chướng ngại nào và ngay lập tức họ trở thành một chân sư thăng thiên.

Tuy nhiên, với giáo lý các thày trao truyền ngày nay đi sâu hơn hẳn vào tâm lý con người, mục đích của các thày là giúp cho một nhóm đông đảo hơn có thể cân bằng nghiệp quả, giải quyết tâm lý của mình rồi có được một ít thời gian trong trạng thái này trước khi họ rời bỏ thân xác vật lý và thăng thiên khỏi hành tinh. Con cần nhìn nhận việc tiết lộ tuần tự là một tiến trình tuần tự. Điều này hiển nhiên mang nhiều hệ quả, nhưng một hệ quả là một số điều giảng dạy trước đây tuy đúng đắn vẫn chưa đầy đủ và chỉ là một cái nhìn giới hạn, một cái nhìn đơn giản hóa về chủ đề.

Quá nhiều người trong các đợt truyền pháp trước đã không đặt câu hỏi: “Nếu một chân sư thăng thiên là một sinh thể đã cân bằng mọi nghiệp quả thì liệu một người thăng thiên – gọi tạm như vậy – đã cân bằng 51% nghiệp quả có trở thành một chân sư thăng thiên sau khi ‘thăng thiên’ hay không?” Người ta cũng đã không hỏi: “Nếu một người đã cân bằng 51% nghiệp quả và do đó không phải trở lại đầu thai vật lý, liệu vị này đã thực sư thăng thiên và trở thành chân sư thăng thiên hay không?” Câu trả lời hiển nhiên là “Không!” Làm sao con có thể trở thành một chân sư thăng thiên nếu còn vẫn còn nghiệp chưa cân bằng và tâm lý chưa giải quyết từ trái đất? Nếu việc này xảy ra thì thật không lô-gíc, con yêu dấu. Cho nên các con, ít ra một số các con, cần nhìn nhận đó là một lời dạy được giản dị hóa chứ không phải là tầm hiểu trọn vẹn về đề tài này. Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con cần giải quyết xong xuôi mọi chuyện con cần giải quyết trên địa cầu trước khi con có thể thăng thiên và trở thành một chân sư thăng thiên. Như Mẹ Mary có giải thích, tất nhiên cũng có một số người chỉ còn sót lại nghiệp quả đối với chính mình, có nghĩa là nói chung, những gì còn sót lại chỉ là tâm lý chưa giải quyết mà họ có thể giải quyết ngoài hiện thân vật lý.

Vậy tại sao lại có sự đặc miễn chỉ cần cân bằng 51% nghiệp quả? Chính là vì có quá ít người thăng thiên. Với độ dày đặc của tâm thức tập thể, thật quá khó thăng thiên với 100% nghiệp quả đã cân bằng và tâm lý đã giải quyết. Để đẩy nhanh tiến trình nâng cao tâm thức tập thể, một sự đặc miễn đã được ban ra là nếu có ai cân bằng được – giải quyết được – 51% thì người đó không phải trở lại hiện thân vật lý. Họ có thể gia nhập một chương trình đặc biệt ở cõi ê-the nơi họ nhận được sự trợ giúp để giải quyết bất cứ gì còn sót lại. Làm như vậy sẽ dẫn họ đến điểm thăng thiên trọn vẹn nhanh chóng hơn so với tiến trình tái đầu thai trong một cơ thể vật lý, rồi lớn lên cho đến tuổi trưởng thành để có thể đón nhận đường tu tâm linh và bước chân một cách ý thức hơn. Điều này đã gia tốc tiến trình khi một số người đã có thể giải quyết bất cứ gì vẫn chưa giải quyết, rồi thăng thiên nhanh chóng hơn thay vì phải trở lại đầu thai.

Loài người đã bước vào một chu kỳ mới và các thày có chủ ý giúp đỡ một nhóm đông đảo hơn nhiều đi qua tiến trình giải quyết trọn vẹn tâm lý của mình trong khi còn đang hiện thân. Việc này nhắm trước hết vào các avatar, nhưng giáo lý cũng hoàn toàn có giá trị và hữu ích cho những cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt được một mức tăng triển tâm linh nào đó. Nó cũng hữu ích cho những ai tuy không đúng nghĩa là avatar nhưng có thể đã đến từ một số hành tinh khác đã thăng thiên và họ đã không thể thăng cùng với hành tinh của họ hay cùng với các dòng sống còn lại của hành tinh họ.

16.2. Tinh túy của đường tu là để cho ngã chết

Tất nhiên đây là thách thức mà các thày đã đặt trước mặt con. Con cần nhận ra ở đây là khi con kinh qua một giai đoạn nhất định, chẳng hạn khi con phát hiện ngã gốc như một avatar và con để cho ngã này chết đi, con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới. Chắc chắn có những cái ngã con đã tạo ra sau khi con tạo ra ngã gốc. Con vẫn có một cái nhìn nào đó về bản thân, một cái nhìn nào đó về trái đất, có nghĩa là khi con tạo ra một ngã mới sau khi khắc phục ngã gốc thì ngã mới này không nhất thiết là cao nhất. Hay nói đúng hơn, ngã này không phải là cao nhất có thể. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa trong tâm thức, sẽ có một số điểm nơi con cần đứng lui lại, xem xét ý niệm bản ngã của mình lúc đó và một lần nữa để nó chết đi hầu con có thể lại tái sinh. Con có thể tái sinh trong Ki-tô, con có thể tái sinh trong Phật. Có lẽ con đang bắt đầu nhận ra là tinh túy của đường tu tâm linh là thấy mình có một ý niệm bản ngã giới hạn và mình để cho nó chết đi.

Cho tới giờ các thày đã đề cập đến một số ngã đặc thù là những cái ngã phản ứng được tạo ra để ứng phó với một tình huống đặc thù trên trái đất. Chẳng hạn như khi con tìm thấy con đường tâm linh, con tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên – và con bắt đầu học hỏi, bắt đầu thực hành, và có lẽ con gia nhập một tổ chức mang một số nét văn hóa tổ chức – thì kỳ thực con đang tạo dựng một ngã mới. Điều này con không bao giờ ngừng làm, không những trong kiếp này mà cả trong tiền kiếp. Con tạo dựng một số ngã, nói đúng ra không để phản ứng lại một hoàn cảnh chấn thương đặc thù. Kỳ thực con tạo dựng những cái ngã để đáp ứng với cái hiểu và cái biết mà con đang có. Con đang vươn lên một tầm nhận biết cao hơn và con tạo ra một ngã mới dựa trên tầm nhận biết cao hơn này. Khi con lên đến những tầng cao của đường tu, con cần trở nên ý thức về quá trình này, vì suốt một thời gian dài, quá trình xảy ra trong tiềm thức và con không biết là mình đang tạo ra một ngã mới.

Đến một điểm con cần ý thức quá trình này, con cần nhìn thấy: “Tôi đã kinh qua những gì từ khi tôi nhận biết ý thức về đường tu? Trải nghiệm của tôi là gì, sáng ngộ nào tôi đã thu hoạch?” Nói chung con nhìn lại đường tu của con cho tới điểm này và con có thể thấy: “Tôi đã kinh qua những gì, tôi đã chấp nhận những niềm tin nào dựa trên giáo lý tôi đã đi theo, tôi đã tham gia những tổ chức nào? Và kết quả là tôi đã tạo ra những loại ngã nào?” Như Quan Âm có nói, một số người bước vào giáo lý với mong muốn cảm thấy cao trội, và có thể họ sẽ không bao giờ buông được cái ngã cao trội họ đã tạo dựng do là đệ tử của chân sư thăng thiên. Tuy vậy, đa số các con không có vấn đề này nhưng các con đã có tạo dựng những cái ngã khác.

Một lần nữa, không có sự chê trách nào ở đây. Một phần tự nhiên trên hành trình phát triển là con tạo dựng những ngã mới này dựa trên nhận biết và mong muốn của con, những gì con muốn biểu đạt, những gì con muốn trải nghiệm, những gì con muốn thực hiện ở đây trên trái đất. Tất cả các thày cũng từng làm y như vậy. Thày chỉ muốn con nhận biết là nhiều các con đã tới điểm sẵn sàng trở nên ý thức về tiến trình này. Con hãy nhìn vào bản thân và xét xem cho tới giờ con đã tạo dựng loại ngã nào, và liệu ngã này có dựa trên một tầm nhìn hạn hẹp, một cái hiểu hạn hẹp. Khi con làm vậy, một số các con sẽ nhận ra là mình có một cái ngã được tạo dựng trên cơ sở một tầm nhìn nhất định về đường tu, một tầm nhìn nhất định về bản thân từ nhiều năm trước. Nhưng bây giờ trong một phần tâm con, con đã đạt được một cái hiểu cao hơn, một cái nhìn cao hơn, những sáng ngộ cao hơn, một góc độ cao hơn. Cho nên con cần dần dần nhìn thấy là cái ngã con đã tạo ra ở một giai đoạn trước trên đường tu không còn giúp con tăng triển nữa. Thật ra nó còn giới hạn sự tăng triển của con theo một cách nào đó, nó đang cầm chân con lại vì cái nhìn của con đã lỗi thời, đặc biệt về các khả năng của con.

16.3. Những cái ngã giới hạn khả năng của con

Các thày đã từng giảng bằng nhiều cách về việc con cần kinh qua giai đoạn khắc phục sự thúc giục muốn làm một việc gì đó trên trái đất. Tất nhiên việc kinh qua giai đoạn này hoàn toàn cần thiết, nhưng một khi con đã đi muốt giai đoạn này thì con nhận ra mục đích thực sự của con ở đây là để là chính mình, để biểu đạt chính mình. Biểu đạt chính mình có nghĩa là con cho phép Hiện diện TA LÀ của con biểu đạt chính nó xuyên qua con, vì con ngộ ra khi con là chính mình thì cũng có nghĩa con ở trong một trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ. Vậy con có thể được lợi lạc nếu con nhận ra là ngay từ thuở chấn thương nhập đời, con đã tạo dựng một số ngã mang một cái nhìn nhất định về những gì con có thể làm trên trái đất, những gì con được phép làm trên trái đất, những gì con phải làm trên trái đất, và những ngã này có thể đã được củng cố hay điều chỉnh cho tinh vi hơn khi con tìm thấy con đường tâm linh.

Các thày đã có nói là khi con phát hiện một con đường tâm linh, con xem mình là một đệ tử tâm linh. Các thày cũng nói là có một giai đoạn phát triển rất dài khi đường tu tâm linh là một khái niệm hữu ích, xây dựng. Nhưng nếu trong thời gian hiện thân còn lại của con, con vẫn tiếp tục xem mình là một đệ tử thì sẽ tới một điểm nó không còn xây dựng nữa, bởi vì khái niệm đường tu ngụ ý: “Tôi ở một tầng cấp nào đó. Có một tầng cấp cao hơn tôi có thể leo lên nhưng tôi chưa lên đến đó.” Chẳng hạn con có thể nói: “Tôi đang ở tầng tâm thức thứ 88, có tất cả 144 tầng và tôi chưa ở tầng 144.” Tự thân câu nói này không thành vấn đề vì hiển nhiên con sẽ cần thời gian để lên đến tầng 144 và một số các con sẽ không lên đến đó cho tới khi con gần sẵn sàng rời bỏ hành tinh. Nhưng dù sao thì giữa tầng 88 với 144, có một số giai đoạn mà các thày đã đặt tên, chẳng hạn là quả vị Ki-tô. Có thể có một điểm khi con mang trong tâm một hình ảnh mình là một đệ tử đang tiến về hướng quả vị Ki-tô nhưng mình vẫn chưa đến đó. Nếu con mãi mãi bám giữ ý niệm bản ngã này thì làm thế nào con trở thành Ki-tô đang hiện thân được?

Nhưng này con yêu dấu, lại có nhiều ví dụ đệ tử của chân sư thăng thiên đã nghe nói về con đường quả vị Ki-tô và quyết định với tâm vỏ ngoài và tham vọng vỏ ngoài: “Phải, tôi đã là Ki-tô Hằng sống rồi đó.” Thế là họ xông ra ngoài, cho rằng họ phải làm những gì họ phải làm: phán xử sa nhân, đánh thức người khác, phóng tia sáng xanh vào người khác hay bất cứ gì khác. Thày không nói đến những chuyện như vậy mà thày nói đến thời điểm khi con đã tận dụng các dụng cụ mà các thày cho con, con đã chân thành nỗ lực khắc phục ngã gốc cùng nhiều ngã khác, cho nên con đã đạt đến một mức nào đó nhưng con vẫn cứ bám giữ một ý niệm bản ngã được tạo ra ở một mức thấp hơn. Ở mức trước đây, việc đặt quả vị Ki-tô làm mục tiêu là một điều chính đáng khi con chưa đến đó. Giờ đây con đã đạt đến một mức nào đó, ví dụ tầng 110. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với tầng này. Có một cấp độ quả vị Ki-tô tương ứng với mỗi tầng tâm thức từ 97 trở lên – mặc dù chúng ta có thể nói là sẽ tới điểm các cấp độ quả vị Ki-tô dần dần hoà quyện vào các cấp độ quả vị Phật. Nếu con đến tầng 110 mà vẫn còn giữ hình ảnh mình đã tạo ra ở tầng 95 thì hình ảnh này đang cầm chân con lại.

16.4. Công nhận quả vị Ki-tô của mình

Sẽ tới điểm con cần nhìn nhận, như sứ giả này ở một thời điểm đã sẵn sàng nhìn nhận là ông đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó. Điều này không có nghĩa là ông rơi vào hoang tưởng cho rằng mình đã đến mức tối thượng, nhưng ông đã đạt được một mức nào đó và ông cần phải thực tế và công nhận điều này. Sự thể cũng giống như vậy đối với nhiều các con. Thật ra con đã đạt được một mức nào đó trên đường tâm linh nhưng con chưa dám thừa nhận vì con vẫn giữ ý niệm bản ngã con đã tạo ra ở mấy cấp thấp hơn điểm hiện thời của con.

Đúng, tất nhiên là luôn luôn có rủi ro con có thể làm vậy quá sớm khi con chưa hẳn sẵn sàng, nhưng chúng ta cần chấp nhận rủi ro này vì trên thực tế, chuyện xảy ra thường hơn là con không thừa nhận tiến bộ của mình. Điều thày muốn nói ở đây – một lần nữa để khai triển những gì Quan Âm đã giảng – là một số người xây dựng một ý niệm bản ngã vào thời điểm họ khám phá giáo lý lần đầu xong họ cứ nghĩ là họ phải đem nó theo mình. Đây là một ảo tưởng toàn diện và cũng rất nguy hiểm. Không có ai đã từng thăng thiên mà lại thăng thiên với cái ngã họ đã có ở khởi đầu kiếp đầu thai chót hay khi họ tìm thấy đường tu. Không có ai đã từng thăng thiên với ý niệm bản ngã của họ khi họ đạt đến tầng 144, vì hành động cuối cùng trước khi thăng thiên chính là để cho ngã chót cùng này chết đi và khắc phục ảo tưởng chót cùng này.

Tiến trình thăng thiên thật ra là tiến trình để cho hết ngã này tới ngã khác chết đi và sẵn lòng tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Để cho một cái ngã chết đi, con phải sẵn lòng chất vấn cái mà chúng ta có thể gọi là ảo tưởng, thậm chí cả sự nhận biết mà ngã dùng làm cơ sở. Con có thể nói là ở tầng 88, con đã thu hoạch một sáng ngộ mà con không có ở tầng 87. Đó là một sáng ngộ có giá trị, chỉ có điều đó không phải là sáng ngộ cuối cùng. Nếu con xây dựng một ý niệm bản ngã dựa trên sáng ngộ này, con không thể thực sự bảo rằng sáng ngộ này là một ảo tưởng, nhưng nếu con nghĩ đó là một sáng ngộ tối hậu nào đó, hay một cái ngã tối hậu mà con đã tạo dựng, thì chắc chắn đây là một ảo tưởng. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói mỗi lần con bước lên tầng tâm thức kế tiếp, có một cái ngã chết đi và một ngã khác sinh ra, nhưng con không nhất thiết phải ý thức điều này ở mỗi bước. Nhưng đúng là có những thời điểm con cần đứng lui lại và nhìn vào ý niệm bản ngã của mình. Và một trong những thời điểm này là khi con bắt đầu nhìn nhận là con đã đạt được, con đã chứng được một cấp độ nào đó của quả vị Ki-tô. Hiển nhiên cái ngã con có trước đó dựa trên ý tưởng rằng quả vị Ki-tô vẫn nằm đâu đó trong tương lai ở một mức cao hơn, cho nên ngã này phải chết đi. Và để ngã này chết đi, con phải thấy nó, thấy sự giới hạn của nó.

Giống như trường hợp Quan Âm đã giảng, nếu có ai đã xây dựng cảm nhận là mình cao trội, có thể họ sẽ rất khó lòng chất vấn cái ngã họ có. Đây là tại sao, tiếc thay, các thày chứng kiến một số đệ tử của chân sư thăng thiên bị kẹt cứng trong một ý niệm bản ngã nhất định và đơn giản không thể bước tới cho đến hết kiếp đó. Các thày rất muốn nhìn thấy điều này không xảy ra cho bất cứ ai đã nghe nói hay tìm thấy giáo lý. Có bảo đảm được không? Tất nhiên là không, nhưng ít nhất các thày đã nói ra rất rõ. Giáo lý đã được ban ra và các thày phải trao tự do cho giáo lý, phải trao tự do cho mọi người sử dụng giáo lý theo ý họ.

16.5. Hiện tượng “tiểu đạo sư”

Bây giờ có một chủ đề khác mà thày muốn đề cập ở đây là toàn bộ khái niệm về thời gian. Hôm qua thày đã đưa ra một số nhận xét về thời gian [Xem chương chót trong sách này] nhưng thày muốn nói thêm một chút về chủ đề này. Con có thể lấy nhiều góc nhìn khác nhau về một đề tài như thời gian. Con có thể mô tả nhiều cách khác nhau. Điều thày sẽ trao con ở đây chỉ là một cách thôi, không phải là cách tuyệt đối, chót cùng hay duy nhất.

Thời gian là gì? Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể nói thời gian không có sự hiện hữu khách quan. Nếu con lấy quyển sách Những kiếp sống của tôi, có rất rất nhiều yếu tố quan trọng trong sách này nhưng từ góc độ thày đang trình bày ở đây, yếu tố quan trọng nhất được đưa ra ở ngay phần giới thiệu, viết rằng: “Mọi người trên trái đất đều đang có một trải nghiệm chủ quan. Tất cả mọi vấn đề trên trái đất đều được gây ra bởi một số người muốn nới rộng trải nghiệm chủ quan của họ để nó trở thành có vẻ phổ quát do sự kiện người khác chấp nhận trải nghiệm chủ quan của họ thay vì chính trải nghiệm chủ quan của mình.”

Đây là điều con thấy lặp đi lặp lại suốt chiều dài lịch sử, rõ ràng và điển hình nhất trong các tôn giáo khi có ai đó đi theo một tôn giáo xong khởi xướng một cuộc thánh chiến để cải đạo mọi người khác, hay trong trường hợp cùng cực, sát hại những người không chịu cải đạo. Con cũng thấy một điều tương tự xảy ra trong số đệ tử của chân sư thăng thiên. Thày không chỉ đang nói đến mong muốn cải đạo người khác để người ta đi theo giáo lý chân sư, mà thày muốn nói đến sự kiện đôi khi các thày chứng kiến đệ tử của mình sử dụng một yếu tố trong giáo lý mà họ xem là rất quan trọng – mà họ xem là đã giúp họ hay có ý nghĩa đối với họ – rồi họ nắm lấy cái này và muốn người khác phải chấp nhận quan điểm này.

Một lần có một đệ tử của chân sư thăng thiên đã gọi đó là hội chứng “tiểu đạo sư”, qua đó người ta có xu hướng – sau khi đã theo học giáo lý được một thời gian – tạo ra một đẳng cấp nào đó hay có thể một bè phái nơi họ cảm thấy mình là đệ tử cao cấp, và họ tự xưng là một loại “tiểu đạo sư” với ý định tập hợp các đệ tử khác thành một đoàn môn đệ sẽ đi theo cách diễn giải và cái nhìn đặc thù của họ về giáo lý.

Thày không chê trách ai ở đây. Thật không thể tránh được chuyện này xảy ra trong bất kỳ phong trào tâm linh hay tôn giáo nào. Điều tự nhiên là một số đệ tử tinh tiến hơn bắt đầu chỉ dạy cho các đệ tử khác. Nhưng điều thày nói đến ở đây là nhiều người như vậy bước vào tâm thái chẳng khác gì cái tâm thái mà con thấy nơi mọi phong trào tôn giáo khi họ tìm cách cải đạo người khác. Con cũng gặp tâm thái này nơi các nhà khoa học duy vật tìm cách cải tạo người khác theo mình. Con chui vào tâm thái này khi con tự thuyết phục là cách mình nhìn giáo lý, nhìn cuộc sống, nhìn Thượng đế, nhìn khoa học hay bất kể gì khác là cách tối hậu hay cách đúng đắn duy nhất, cho nên nếu người khác chấp nhận đi theo quan điểm của mình thì sẽ tốt biết mấy cho họ. Này con, với tất cả những lời dạy mà các thày đã trao cho con, con phải có thể – và tất cả các con sẽ có thể nếu các con sẵn lòng – bước lui lại để nhận ra là cho dù con ở tầng tâm thức nào, thậm chí cả tầng 144, con vẫn đang có một trải nghiệm không tuyệt đối. Trải nghiệm của con không phải là phổ quát theo nghĩa là nó phải áp dụng cho mọi người.

Cho dù con ở tầng 144, thật không chính đáng nếu con cố khiến người khác phải sống đời họ dựa trên trải nghiệm của con. Trong phần giới thiệu sách cũng có nói là con có thể đạt tới điểm con không còn một trải nghiệm chủ quan theo nghĩa thấp, nhưng con vẫn đang có một trải nghiệm cá nhân, và lý do khá giản dị. Ở các tầng tâm thức thấp hơn, con trải nghiệm cuộc sống xuyên qua ngã vỏ ngoài và ngã này là một tập hợp tất cả ngã tách biệt kia. Ở các tầng thấp đó, con không có sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con bước lên cao hơn, con lột bỏ một số ngã vỏ ngoài này. Trải nghiệm của con ngày càng ít chủ quan hơn, ít bị pha màu hơn bởi các ngã tách biệt, bởi tâm thức tách biệt, bởi tâm thức nhị nguyên. Con ngày càng trở nên hòa điệu hơn với Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ của con không phải là một sinh thể phổ quát toàn vũ, đó là một sinh thể cá biệt.

Hiện diện TA LÀ trải nghiệm hoàn cảnh trên địa cầu xuyên qua cá thể đó. Hiện diện TA LÀ của con có một trải nghiệm về trái đất khác với Hiện diện TA LÀ của một người khác, và điều này hoàn toàn chính đáng, hoàn toàn ổn thỏa. Điều thày nói ở đây là thế này: Tới một điểm trên đường tu con sẽ cần xoay chuyển và nhìn nhận là người khác không nhằm mục đích có được cùng trải nghiệm như con đang có. Họ nhằm có trải nghiệm riêng của họ. Điều này không có nghĩa là con không thể nói chuyện với họ, tìm cách giúp họ hay tạo cảm hứng cho họ hay bất cứ gì khác, mà có nghĩa là tới một điểm con sẽ bước cao hơn và tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết, qua đó con không còn tìm cách áp đặt trải nghiệm cá nhân của mình lên người khác.

Cũng không có nghĩa là con cần, theo thành ngữ quen thuộc, “câm miệng lại” và không nói năng gì với người khác mà trái lại, thay vì cố thay đổi cách họ trải nghiệm cuộc đời, con chia sẻ trải nghiệm của con. Có một sự khác biệt – thày cũng biết là có khi điều này có vẻ không khác biệt gì hết hay sự khác biệt quá vi tế – nhưng có một sự khác biệt cơ bản giữa việc áp đặt trải nghiệm của mình lên người khác và việc chia sẻ trải nghiệm. Cách thứ nhất mang một yếu tố ép buộc, còn cách thứ hai thì không. Đây là một thử thách, một sự khảo hạch mà con cần vượt qua, và con có khả năng vượt qua với các giáo lý con đã có trong tay.

16.6. Không phải ai ai cũng muốn thoát khổ

Đến một điểm con sẽ chỉ đơn giản lột bỏ cái ngã đang cho con lòng ham muốn đó vì đó là một cái ngã phản ứng với các điều kiện trên trái đất. Các thày có nói, ví dụ con thấy con người đau khổ. Trước khi con đến đây như một avatar, con đã đoán chừng, con đã chờ đợi là nếu con chỉ cho mọi người cách khắc phục đau khổ thì họ sẽ đón nhận lời con và cố gắng thoát khổ. Lý do là vì con, như một avatar và dựa trên trải nghiệm của con, sẵn lòng khắc phục các giới hạn cùng niềm đau khổ của mình. Nếu có ai chỉ cho con cách nào thoát khỏi khổ đau, con sẽ sẵn lòng làm theo và con chờ đợi mọi người cũng giống như con. Một lần nữa, điều này dựa trên trải nghiệm của con. Việc chờ đợi người khác sẽ muốn thoát khổ là chuyện lô-gíc trên một hành tinh tự nhiên nhưng không áp dụng được trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tại sao một số người trên địa cầu đau khổ? Tại vì họ chưa chán chê trải nghiệm khổ đau. Khi con bảo họ không được đau khổ và làm thế nào họ có thể chấm dứt đau khổ, họ không thấy nó can hệ đến họ. Đó là chính con đang cố gắng thúc ép trải nghiệm chủ quan của con (rằng họ không được khổ đau) lên họ. Tới một điểm con cần làm việc trên ngã này để nhìn thấy nó. Con buông nó ra, con từ bỏ mong muốn khiến người khác sống theo cách nhìn của con. Một khi con đã buông bỏ ngã này, con có thể bước lui lại một chút và nhận ra là bất cứ khi nào con cảm thấy một sự bó buộc nào đó trong cách mình quan hệ với người khác, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự căng thẳng, thì đó là vì có một cái ngã. Ngã này khởi nguồn từ chính thái độ, chính lòng ham muốn thúc ép kinh nghiệm chủ quan của mình lên người khác để khiến họ phải sống cuộc đời của họ dựa theo trải nghiệm chủ quan của con, thay vì đơn giản chấp nhận rằng trải nghiệm chủ quan của con hoàn toàn có giá trị với con, nhưng trải nghiệm chủ quan của họ cũng hoàn toàn có giá trị với họ cho dù trải nghiệm này có là gì ở giai đoạn hiện thời của họ.

Thật ra không bao giờ cần thiết hay chính đáng để con bảo: “Trải nghiệm chủ quan của tôi sẽ tốt hơn cho người khác. Sẽ tốt hơn nếu họ có trải nghiệm của tôi, hay ít ra nếu họ sống đời họ theo trải nghiệm của tôi chứ không theo trải nghiệm của họ.” Việc một người có trải nghiệm chủ quan của một người khác không bao giờ là tốt hơn. Điều luôn luôn tốt hơn cho họ là họ có trải nghiệm chủ quan mà chính họ đang có, vì đây là cách duy nhất họ có thể tăng triển.

16.7. Thời gian là một trải nghiệm chủ quan

Hồi nãy thày đang bắt đầu nói về thời gian thì có vẻ như thày đã chệch sang đề tài ngã tách biệt và vấn đề con áp đặt trải nghiệm chủ quan của con lên người khác, nhưng thày đã nói gì chứ? Thày nói rằng thời gian là một trải nghiệm chủ quan, đó là sản phẩm của một trải nghiệm chủ quan. Thời gian, trong cách nhìn của con người trên trái đất, không phải là một hiện thực khách quan. Nó hoàn toàn là một trải nghiệm chủ quan, tất nhiên được tạo ra một cách tập thể suốt một thời gian rất dài. Con người đã bỏ ra rất nhiều năng lượng của lý trí-cảm xúc-bản sắc để tạo ra cái nhìn hiện thời về thời gian, và cái nhìn này có thể được xem như một ngã tách biệt có mặt trong tâm thức tập thể. Con người nghĩ rằng thời gian rất đường thẳng, rằng họ không thể thay đổi thời gian. Con không thể đi trở ngược thời gian, con không thể thay đổi quá khứ. Như các thày đã giảng, sa nhân muốn con tin là con không thể thoát ra khỏi các lỗi lầm con đã phạm phải trong quá khứ.

Có một trải nghiệm về thời gian đã trở nên rất phổ thông trên địa cầu và tại sao như thế? Thật sự là vì sa nhân đã muốn đem trải nghiệm chủ quan của chúng về thời gian rồi xuất khẩu nó, phóng chiếu nó lên mọi người trên trái đất, và phần lớn chúng đã thành công trong việc này. Đó là tại sao thật ra các phim ảnh, sách báo thách thức quan niệm của con người về thời gian phần nào chính đáng. Mặc dù con không thể chế tạo một cỗ máy vật lý để du hành thời gian như trong phim kể truyện người ta chế được cỗ máy vật lý để trở ngược về quá khứ, nhưng phần nào loại phim như vậy vẫn giúp thách thức cái nhìn rất cứng nhắc về thời gian mà người ta thường có.

Bây giờ câu hỏi là như sau. Phải, đúng là có một cái nhìn tập thể về thời gian nhưng con là một đệ tử tâm linh trưởng thành. Con đã tu tập rất nhiều, con đã phần lớn tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Đến một điểm con cần xem xét: “Đâu là cái nhìn chủ quan của tôi về thời gian, cái nhìn cá nhân của tôi về thời gian?” Hiển nhiên ở một mức cá nhân, con thấy là con đã làm một việc trong quá khứ và việc này đã tạo ra một số hậu quả mà con đem vào cái con xem là tương lai. Con mang quan điểm là hoàn cảnh hiện thời của con bị ảnh hưởng bởi quá khứ của con ở một mức độ nào đó. Thậm chí con có cả những giáo lý tâm linh sẽ củng cố cho quan điểm này, theo nghĩa là con đã tạo nghiệp trong tiền kiếp và nghiệp này đang tác động đến hoàn cảnh hiện thời của con. Rất nhiều người cảm thấy nếu có gì xảy ra cho họ: “Ồ, chắc hẳn đây là kết quả nghiệp chướng của tôi.”

16.8. Một cái nhìn cao hơn về nghiệp quả

Trong nhiều trường hợp, con yêu dấu, những gì xảy ra cho một đệ tử tâm linh không phải là kết quả nghiệp chướng cá nhân của con. Đó là kết quả của sự kiện con đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Có rất nhiều chuyện có thể xảy ra do người khác gây ra, do hành động hay trạng thái tâm thức của họ gây ra, hay do một nghiệp chướng tập thể gây ra nhưng không phải do nghiệp chướng cá nhân của riêng con. Đó là tại sao như thày đã nói, có thể tới một điểm con sẽ lợi lạc nếu con bước lui lại và xem xét cái nhìn về bản thân mà con đã tạo ra dựa trên giáo lý tâm linh, ngay cả dựa trên giáo lý về nghiệp quả. Có thể con đã xây dựng cái nhìn: “Phải, tôi mang nghiệp từ tiền kiếp. Nếu có điều gì tệ hại xảy ra cho tôi, đó là do nghiệp này và tôi cần đọc thỉnh đọc chú hay tập yoga hay bất cứ gì khác hầu chuyển hóa nghiệp quả cho nó không còn nữa.” Nếu như con đã bước trên đường tu được khá lâu và đã thực sự thỉnh cầu đủ lửa tím để hoán chuyển toàn bộ năng lượng cấu tạo nghiệp chướng của con thì điều gì xảy ra? Có nghĩa chăng là con đã cân bằng nghiệp quả của con? À, con đã chuyển hóa năng lượng. Đó là một khiá cạnh của nghiệp quả, nhưng các chân sư kia đã dạy con điều gì về những hình ảnh con còn cầm giữ từ quá khứ?

Nếu con mang hình ảnh về bản thân là con chưa cân bằng hết nghiệp quả thì thật ra con vẫn chưa thoát khỏi nghiệp quả của con. Có lẽ vẫn có một cái ngã thực sự không muốn nhìn nhận là con không còn nghiệp nữa, vì ngã này lo sợ nếu có gì xấu xảy ra cho con, làm sao con sẽ giải thích được ngoại trừ đó là kết quả của nghiệp chướng? Con có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng và tự hỏi tại sao Thượng đế lại để cho chuyện xấu kia xảy ra cho mình nếu con không có nghiêp quả. Con cho rằng lý do chuyện xấu xảy ra cho con là vì con đang bị trừng phạt về những việc xấu con đã làm trong quá khứ. Nhiều người suy nghĩ như vậy.

Nhưng con yêu dấu, dựa trên giáo lý các thày đã cho con, con có thể bước lên một bực và nhận ra là nhiều các con thật ra đã hoàn tất quá trình mà nhiều phong trào tâm linh, ngay cả các phiên bản về nghiệp ở Đông phương, đã mô tả là sự cân bằng nghiệp quả. Nếu có điều tệ hại xảy ra cho con, đó không phải là kết quả của nghiệp chướng cá nhân, không phải là kết quả một lầm lỗi con đã phạm phải, mà là sự kiện con sống trên một hành tinh phi tự nhiên rất dày đặc, rất hỗn tạp. Như các chân sư khác đã nói, con không thể nào tiên đoán chắc chắn và chính xác các sự việc xảy ra. Con hãy dùng câu chuyện ẩn dụ về sự khác biệt giữa viên đạn từ cây súng trường và chùm đạn bắn ra từ súng shotgun. Con không thể đoán trước đường bay của một hạt nhỏ trong nguyên chùm đạn từ lúc nó được bắn ra cho đến lúc nó chạm mục tiêu. Không thể nào tiên đoán được vì quá nhiều hạt nhỏ đang chạm vào nhau, giao với nhau và biến đổi nhau và vì thế chúng cũng đổi đường bay.

16.9. Vũ trụ không phải là một cỗ máy

Điều tương tự cũng xảy ra trong hiện tại. Con không thể bảo là một người đã cân bằng nghiệp quả cho nên không có gì tệ hại được phép xảy ra cho họ. Vì con vẫn đang sống trong một cơ thể vật lý trong một môi trường nhất định, có một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp được tạo ra bởi người khác và được duy trì bởi người khác. Không có cách nào, ngay cả đối với một chân sư thăng thiên, để tiên đoán chính xác biến cố nào sẽ xảy đến trong phần đời còn lại của con. Mọi sự quá hỗn loạn, quá bất ngờ đến độ nhiều nhà khoa học phải gọi đó là những “biến số ẩn giấu”. Đối với một chân sư thăng thiên, các biến số này không ẩn giấu. Chỉ có điều, con yêu dấu, vũ trụ không phải là một chiếc đồng hồ, nó không phải là một cỗ máy. Có thể có một hoàn cảnh mà các thày là chân sư thăng thiên có thể nhìn thấy tất cả mọi yếu tố góp phần vào đó, nhưng các thày vẫn không biết được chính xác một người sẽ chọn làm gì. Tất nhiên các thày có thể thấy được xác suất họ sắp sửa chọn làm cùng một việc mà họ đã chọn làm suốt 50 kiếp vừa qua, nhưng các thày không thể biết chắc và do đó không thể tiên đoán chính xác phần còn lại của kiếp này sẽ mang hình dạng ra sao. Nó tùy thuộc vào chọn lựa của con cũng như chọn lựa của nhiều người khác, nó tùy thuộc vào cách tất cả mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp này sẽ tương tác như thế nào, giao thoa như thế nào với nhau.

Thật không có cách nào mà bảo được trên một hành tinh như trái đất là nếu con không còn nghiệp quả thì không có gì xấu xa có thể xảy đến cho con trong phần còn lại của kiếp này. Chuyện này đơn giản không thể có. Cho nên con cần buông bỏ ngã này. Con cần chấp nhận: “Tôi đã cân bằng nghiệp quả của tôi,” xong con cũng cần chấp nhận: “Vì tôi đang sống trên một hành tinh như trái đất cho nên có thể một chuyện gì đó sẽ xảy ra cho tôi mà không phải là nghiệp của tôi. Nhưng tôi sẽ không trách Thượng đế, tôi sẽ không tự trách mình, tôi sẽ không trách ai hết. Tôi sẽ chấp nhận nó như nó là, sử dụng nó tốt nhất và bước đi tiếp.”

Điều này đòi hỏi một sự xoay chuyển, và đây cũng là một phần của sự chấp nhận mình là một sinh thể Ki-tô. Con yêu dấu, khi Giê-su khởi sự kiếp đầu thai chót của thày, thày có mang một ý niệm bản ngã nào đó. Xong thày đã tuần tự bồi đắp và tinh chế ý niệm bản ngã này, cho nên khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày đã làm vậy với một ý niệm bản ngã nào đó. Dựa trên bản ngã này, thày đã có một số chờ đợi như khi thày bảo là không có gì thật sự tệ hại có thể xảy ra cho mình. Và nếu có thì Thượng đế sẽ gửi thiên thần xuống làm phép lạ để giải cứu thày khỏi sa nhân. Giê-su đã giải thích đây chính là cái ngã mà thày đã phải cho phép chết đi khi thày treo thân trên thập tự giá.

Con không phải chờ cho đến khi con mãn thời gian hiện thân này để buông bỏ những ngã đó. Con có thể khởi sự làm vậy ngay bây giờ. Con có thể tới điểm thực sự chấp nhận là con đã đạt được một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó, và nếu có việc gì “xấu xa” xảy ra cho con thì rất có thể đây là một phần con đường quả vị Ki-tô của con khi con phải kinh qua trải nghiệm đó, phải chứng tỏ một cách ứng xử cao hơn và không dính mắc. Con phải chứng tỏ làm thế nào con có thể ứng phó với trải nghiệm này mà không còn ngã gốc hay những cái ngã con đã khắc phục.

16.10. Thời gian có và cũng không có

Vậy thời gian là gì? Tại sao thày đã nói là thời gian không có? À, là vì thời gian không có một sự hiện hữu khách quan nào, ít ra theo cách nhìn của mọi người. Bây giờ để minh họa cho điểm này, hãy để thày trình bày một điểm thày đã gợi ý trước đây. Theo truyền thống, hình học nói rằng có ba chiều kích trong không gian: chiều dài, chiều rộng, chiều cao. Con có hệ thống tọa độ truyền thống với ba trục và con bàn về một thế giới ba chiều nơi con có thể di chuyển. Con có thể đi bộ ở lầu này, đi tới và đi lui, nhưng con cũng có thể đi lên lầu trên nếu có một lầu trên, hay con có thể đi xuống lầu dưới. Con có thể di chuyển trong cả ba chiều.

Bây giờ cũng theo truyền thống, các nhà khoa học bảo rằng thời gian là chiều thứ tư, nhưng họ cũng nói thời gian hoàn toàn đường thẳng cho nên con không thể đi ngược thời gian. Tất nhiên con không thể nhảy về phía trước bước vào tương lai. Thực tế là từ nhãn quan thăng thiên, các thày nhìn thời gian cũng giống như các chiều kích kia tức là một chiều kích không đường thẳng. Con có thể đi tới hay đi lui trong thời gian. Con hãy tưởng tượng con đang đứng trong một quảng trường rộng lớn, một mặt phẳng rộng lớn, và con bắt đầu bước tới theo một hướng. Bây giờ con tưởng tượng có ai đến nói với con: “Bạn sẽ không bao giờ đi lùi lại được, bạn chỉ có thể bước tiếp theo cùng một hướng.” Phải, đó là điều đã xảy ra cho thời gian. Tất nhiên con cần hiểu điều này thấu đáo. Ví dụ con đến một thành phố. Có một quảng trường ngay trung tâm thành phố. Con đang đứng giữa quảng trường rồi bắt đầu bước tới theo một hướng, giả sử con bước một trăm mét. Con quẹo ở góc phố và quang cảnh con vừa thấy hồi nãy bây giờ không còn nữa, nó khác đi rồi. Con đã di chuyển vị trí của con trong không gian cho nên con có một tầm nhìn khác, một quang cảnh khác so với khi con cất bước. Con đứng ở nơi con đang đứng trong không gian.

Con có thể đi trở về điểm khởi đầu nhưng con không thể trở về đó chỉ bằng một bước nhảy. Con phải đi một số bước để về đó. Con cũng có thể di chuyển về một phía khác nhưng một lần nữa, con không thể nhảy xa đằng trước. Con phải đi từng bước một. Chúng ta có thể nói là ở bất kỳ điểm nào trong không gian, con đều có một tầm nhìn nhất định, một quang cảnh nhất định, thậm chí một ý niệm bản ngã nhất định. Có một cái ngã, một ý niệm bản ngã dựa trên điểm con đang đứng ngay bây giờ và những gì con có thể nhìn thấy. Về cơ bản, hiện tượng này cũng xảy ra y như vậy trong thời gian – thời gian cũng y như vậy trên cơ bản. Ở bất cứ thời điểm nào con cũng đứng ở một vị trí nhất định trên một dòng thời gian – nếu có thể gọi như vậy – nhưng thật sự đó là một điểm trong không gian của thời gian, một điểm trong chiều kích thời gian. Bất cứ lúc nào con cũng ở một vị trí đặc thù và ngay lúc đó con có một ý niệm bản ngã đặc thù.

Bây giờ sự khác biệt trong chiều kích thời gian là như sau: Giả sử con khởi đầu nơi quảng trường đó ở trung tâm thành phố. Con có một chiếc máy ảnh có khả năng chụp hình chính xác những gì mắt con thấy đằng trước khi đầu con hướng về một hướng. Con đứng đó, con chụp hình. Con bước đi một bước, con lại chụp hình và tấm hình cho thấy nhãn quan của con đã thay đổi như thế nào. Tất nhiên quang cảnh sẽ không khác lắm, tuy nhiên với mỗi bước đi nếu con cứ tiếp tục chụp hình thì sau khi con đi được một trăm mét chẳng hạn và đã quẹo quanh góc phố, hình chụp đã thay đổi khá nhiều. Bây giờ giả sử con mang theo con tất cả những hình chụp này, để cái nhìn của con về nơi con đang đứng trong không gian bị tác động bởi tất cả những cái nhìn trước đây mà con đã có trong không gian.

Trong cốt yếu, đây chính là điều con làm trong chiều kích thời gian. Đã có một thời điểm khi con hình thành một cái ngã, chẳng hạn ngã gốc. Từ đó trở đi, con đã mang ngã này theo con và ngã này đã thiết lập một khuôn khổ quy định cách con nhìn cuộc sống trên trái đất, cách con nhìn bản thân con trên trái đất. Thay vì chụp một tấm ảnh mới cho mỗi lúc, cho mỗi bước, con đã không ngừng bồi đắp thêm cho tấm ảnh cũ. Và điều này quyết định cách con nhìn chính con và cuộc đời trong giây phút bây giờ, có nghĩa là trên cơ bản, con đã đem theo con một cái gì đó từ quá khứ, và con yêu dấu, chính cái này là ý nghĩa của thời gian đối với con.

16.11. Cỗ máy du hành thời gian của riêng con

Thời gian chủ quan của riêng con chính là các hình ảnh được tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con. Đây là tại sao từ một nhãn quan thăng thiên, các thày thấy được thời gian chỉ là một chiều kích khác và mình có khả năng di chuyển trong chiều kích này. Con có thể học cách di chuyển trong chiều kích này. Như Chân sư MORE có nói, các thày đã cho con một cỗ xe vượt thời gian với giáo lý của các thày. Các thày đã cho con khả năng đi trở ngược và nối kết lại chẳng hạn với hình ảnh mà con đã tạo ra trong chấn thương nhập đời hay bất kỳ hình ảnh nào con tạo ra trong một kiếp trước. Con có thể nhận biết hình ảnh đó, thấy rõ nó đã tạo ra một ngã tách biệt, và con để cho ngã chết đi mà không cố giải quyết hoàn cảnh con đã không thể giải quyết vào lúc đó. Con không thay đổi gì hết trong cõi vật lý. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết đi, và trong tiến trình chót cùng, con nhận ra có một hình ảnh do ngã này cầm giữ và con tẩy xóa hình ảnh này đi, con tẩy xóa ký ức này đi.

Đấy là một cỗ máy vượt thời gian. Đấy là du hành trong thời gian. Tất nhiên khi con đạt đến các tầng nhận biết cao hơn cùng các tầng quả vị Ki-tô cao hơn nữa, con sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy một số hoàn cảnh tương lai. Nhiều các con đã có cái nhìn hé thoáng về một hoàn cảnh, hay con gặp những hoàn cảnh mà con có cảm tưởng mình đã gặp rồi trong quá khứ. Đột nhiên con nhận ra là con ở trong một tình huống vật lý mà con đã nhìn thấy trước đây trong giấc mơ hay trong khải tượng. Đây là một ví dụ làm thế nào con cũng có thể du hành vào tương lai. Có một số trường hợp việc nhìn thấy trước tương lai sẽ hữu ích và thích hợp đối với một sinh thể Ki-tô, tuy nhiên đây là một khả năng con cần sử dụng thận trọng. Thật không có lý do chính đáng nào khiến con muốn biết tất cả mọi sự sẽ xảy ra cho con trong thời gian hiện thân còn lại của con, vì như các thày có nói, làm thế nào con tăng triển từ một tầng tâm thức lên tầng cao hơn? Con tăng triển bằng cách đáp ứng các tình huống dựa trên mức tâm thức hiện thời của con nhưng con vẫn sử dụng tình huống này để với lên một tầm nhìn cao hơn – đó chính là cách con tăng trưởng.

16.12. Sống trong hiện tại khi hiện tại là một khoảng thời gian

Có một lý do khác nữa khiến con phải thận trọng khi dùng khả năng này. Giả sử con đang có một viễn quan về những gì sẽ xảy ra trong mười năm nữa, một tình huống sẽ xảy ra mười năm nữa. Con có thể lấy ví dụ của Giê-su có khải tượng là mình sẽ bị đóng đinh ở thành Jerusalem. Liệu khải tượng này về tương lai có được tạc vào đá hay không? Các thày chẳng đã nói với con là quá khứ không được tạc vào đá và con có thể đi trở ngược để thay đổi nó hay sao? Vậy làm sao tương lai có thể tạc được vào đá? Giữa thời điểm bây giờ và mười năm nữa, con sẽ kinh qua rất nhiều trải nghiệm, rất nhiều bước. Chính con sẽ lấy nhiều quyết định và người khác cũng sẽ lấy nhiều quyết định. Mặc dù con có thể di chuyển trong chiều kich thời gian và hé thấy tương lai, nhưng con không thể biết được điều này sẽ trở thành hiện thực. Đó là tại sao việc nhìn thấy tương lai rồi tin tuyệt đối nó sẽ xảy đến là một điều phần nào phản xây dựng, thậm chí còn nguy hiểm là đằng khác. Rất có thể con sẽ có những quyết định và người khác cũng có những quyết định sẽ chuyển đổi phương trình, chuyển đổi sự tương tác vô cùng phức tạp giữa các sóng năng lượng, khiến cho những gì con hé thấy không trở thành hiện thực. Nói cách khác, nếu con nhìn thấy tương lai thì nó sẽ chỉ xảy ra nếu không có gì thay đổi.

Nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên, con có thể đoan chắc là có gì đó sẽ thay đổi, cho nên tấm hình chụp về tương lai mà con đang có rất có thể sẽ không còn chính xác nữa trong vòng mười giây. Vậy tại sao con lại cần đến nó? Tại sao con lại muốn có nó? Thật sự khi con càng bước lên cao hơn trên đường tu, con sẽ càng bớt quan tâm đến tương lai, con càng ít mong muốn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai. Nhiều người đạt đến một cấp độ quả vị Ki-tô hay quả vị Phật nào đó không còn quan tâm đến quá khứ, không còn quan tâm đến tương lai. Họ chú tâm vào hoàn cảnh ngay trước mặt, không cứ là giây phút hiện tại như một khoảnh khắc trong thời gian, mà vào hoàn cảnh hiện thời của họ và hoàn cảnh này có thể kéo dài một khoảng thời gian. Chẳng hạn nếu con cố đạt một mục tiêu như xây một căn nhà chẳng hạn, con không thể xây nhà trong giây phút hiện tại. Con không thể xây nhà nếu con sống trong hiện tại và chỉ chú tâm vào khoảnh khắc hiện tại. Tất nhiên con không bàn đến quá khứ xa xôi hay tương lai xa xôi. Con quyết định: “Tôi sẽ khởi sự tiến trình dẫn tôi đến việc xây căn nhà này.” Rồi có thể con sẽ tốn một năm để xây căn nhà. Nhưng bây giờ con đã kinh qua tiến trình này được ba tháng và con vẫn có thể nhìn trở ngược thời gian và bảo: “Đây là cách tôi đã hoạch định ba tháng trước đây.” Con vận hành trong một khoảng thời gian kéo dài một năm để xây căn nhà.

Đó là tại sao thày nói là con không nhất thiết, như một sinh thể tiên tiến, sống trong hiện tại và hiện tại này là một khoảnh khắc. Con có một khoảng thời gian để làm việc nhưng con không bị gánh nặng của những sự việc xảy ra hai triệu năm trước hay trong kiếp trước hay trong tuổi thơ ấu. Con không vẫn đổ lỗi cho cha mẹ đã nuôi con như thế nào khi con còn nhỏ. Con không quan tâm đến những gì sẽ xảy đến trong mười năm nữa. Con ngộ ra một điều, con ngộ ra tinh túy của những gì các thày đã dạy con. Con không ở đây để hoàn thành một mục tiêu vật lý đặc thù nào. Mục đích đời con không phải là xây căn nhà kia. Mục đích của việc xây nhà là để cho con một trải nghiệm. Thật chẳng có gì quan trọng nếu con xây căn nhà rồi hai năm sau có trận động đất phá sập hoàn toàn, vì con vẫn đã có được trải nghiệm xây dựng căn nhà. Nếu căn nhà bị động đất phá hủy thì con lại có thêm chính trải nghiệm này.

Con có thấy không, con yêu dấu, sẽ tới một điểm con đã khắc phục những cái ngã muốn kiểm soát mọi khía cạnh của đời con và do đó cũng muốn có khả năng kiểm soát tương lai. Có một cái ngã rất rất quan tâm đến chuyện kiểm soát tương lai vì ngã này đã được thiết kế, được lập trình để đảm bảo là con không bao giờ gặp lại trải nghiệm đau đớn con đã gặp trong quá khứ. Cho nên ngã này muốn kiểm soát tương lai để con có thể tự bảo vệ khỏi mọi chuyện xấu xa xảy đến cho mình. Một khi con buông bỏ nó cùng những cái ngã khác, con thấy rõ là con đang ở trên một hành tinh phi tự nhiên. Thật chẳng nghĩa lý gì trên một hành tinh phi tự nhiên mà lại cố sống cùng loại đời sống mà con đã quen sống trên một hành tinh tự nhiên. Trên hành tinh tự nhiên, con có thể xây một căn nhà và nó sẽ ở đó vĩnh viễn. Không có rủi ro động đất, hỏa hoạn, bão lụt hay bất cứ chuyện gì có tiềm năng phá hủy nhà con, nhưng trên hành tinh phi tự nhiên sẽ không như vậy. Cho nên con vẫn có thể quyết định: “Tôi muốn có trải nghiệm xây nhà ở đây trên trái đất,” nhưng khi đó, con sẽ mở tâm để nhận ra là trong trường hợp căn nhà bị phá hủy – và tất nhiên thày không bảo là căn nhà sẽ bị phá huỷ – thì đây chỉ là thêm một loại trải nghiệm con có thể có trên địa cầu. Do đó con có thể nói: “Ồ, quả là bổ ích khi tôi trải nghiệm chính mình trong hoàn cảnh này khi căn nhà của tôi bị phá tan tành.” Đây chỉ là một trải nghiệm khác, một cơ hội khác để con là chính con bất kể điều kiện gì trên trái đất.

16.13. Tự do trải nghiệm cuộc sống

Con thấy đó, con yêu dấu, tới một điểm con sẽ bắt đầu xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Xuôi chảy với Dòng sông sự Sống không có nghĩa là không có gì xấu xa xảy ra cho con – con không thể bị đau ốm, con không thể bị tan nát nhà cửa, con không thể bị mất tiền bạc, con không thể thế này, không thể thế kia – mà thật ra nó có nghĩa là con sẽ không có một trải nghiệm tồi tệ nào, bởi vì cho dù điều gì xảy ra, con cũng không trải nghiệm nó xuyên qua cái ngã tách biệt phải xét đoán mọi thứ là tốt hay xấu. Đấy là khi con tự do xuôi chảy với Dòng sông sự Sống do con không có định kiến nào về những gì phải hay không được xảy ra. Con hãy lấy ví dụ tình cảnh của Giê-su khi thày bảo các tông đồ là thày sẽ đi Jerusalem, sẽ gặp khổ nạn, sẽ bị trấn áp và đóng đinh. Peter nói với thày: “Xin ngài tránh xa, chuyện này sẽ không xảy ra đâu.” Tại sao Peter lại nói như vậy? Vì ông có một ngã tách biệt với một cái nhìn rất đặc biệt, một cái nhìn tôn thờ thần tượng về những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho Ki-tô Hằng sống. Đây là một cái nhìn hoàn toàn chủ quan mà Peter đang cố phóng chiếu lên Giê-su, và vì Giê-su ở một mức quả vị Ki-tô cao hơn Peter nên thày đã từ chối tuân theo hình ảnh chủ quan của Peter. Để giúp Peter bứt ra khỏi hình ảnh chủ quan này, thày mới nói: “Lùi ra sau ta, Satan.”

Theo một nghĩa nào đó, con có thể mô tả tâm thức Satan là khi con phóng chiếu một hình ảnh chủ quan lên người khác và muốn họ chối bỏ trải nghiệm chủ quan của riêng họ để hoặc họ có trải nghiệm của con – mà tất nhiên họ không thể thực sự có được – hoặc ít ra họ sống cuộc đời họ dựa trên trải nghiệm chủ quan của con. Đến một điểm con sẽ khắc phục cái ngã cứ muốn đánh giá từng trải nghiệm, từng sự việc xảy ra cho mình theo thang điểm tốt hay xấu, đúng hay sai, được hay không được xảy ra. Con không còn sợ hãi những gì không được xảy ra. Con sẵn lòng xuôi chảy với bất kỳ tình huống nào xảy đến mà con nhận ra là không thể tránh được.

Bây giờ nếu con nhìn lại một tổ chức của chân sư thăng thiên trước kia, con có một vị sứ giả và trong tổ chức hầu hết mọi người đều xem bà đã đạt được một tầng tâm thức rất cao. Nhiều người đã hành xử đối với bà y như Peter đã hành xử đối với Giê-su. Họ phóng chiếu một cái nhìn lên bà về những gì phải hay không được xảy ra. Thế rồi chuyện gì đã xảy ra? Bà lâm trọng bệnh và nhiều người đâm ra bối rối, xốn xang, tức giận về điều xảy ra. Họ đã có một cái nhìn là bà phải hướng dẫn họ cho hết phần còn lại của đời họ, phải giúp họ bước trên đường tu mà không phải nhận trách nhiệm về bản thân vì họ chỉ cần đi theo chân đạo sư.

Thế rồi khi bà không còn khả năng làm công việc này nữa, họ nổi cơn phẫn nộ và vô cùng xét đoán. Một số còn viện cớ này để bác bỏ cả đường tu, họ từ chối bước đi tiếp trên đường tu, họ quay trở về lối sống ăn chơi, lối sống hưởng thụ, và họ lại làm tất cả những thứ họ đã nhịn không làm suốt một thời gian dài. Con yêu dấu, tại sao lại có chuyện như vậy? À, là vì như các thày đã gợi ý trước đây, có quá nhiều đệ tử không sẵn lòng chuyển bước đi tiếp. Cho nên đây là một cách để bắt buộc họ phải đương đầu với một điều trong tâm họ mà họ đã không sẵn lòng đương đầu cho tới nay.

16.14. Để cho thời gian co sụp

Để quay lại điểm đầu, trải nghiệm chủ quan của con về thời gian dựa trên bất kỳ ngã nào con đã tạo ra trong quá khứ mà con vẫn mang theo con, vì chúng đang ảnh hưởng đến cách con nhìn bản thân và cuộc sống trong giây phút hiện tại. Chúng cũng ảnh hưởng đến những gì con nghĩ về tương lai. Nếu con nhìn thấy tương lai của mình ngay bây giờ, đó sẽ là một tương lai dựa trên các ngã tách biệt con đang có ngay bây giờ và cách chúng ảnh hưởng tương lai của con. Khi con bắt đầu vứt bỏ các ngã này đi thì ngay lúc đó con thay đổi phương trình tương lai của con. Con cũng đang thay đổi quá khứ của con. Theo một nghĩa nào đó, con đang triệt tiêu, con đang tẩy xóa, con đang xóa sạch quá khứ của con.

Các thày đã có nói là con không thể nào thăng thiên trong quá khứ. Con cũng không thể thăng thiên trong tương lai. Con chỉ có thể thăng thiên trong hiện tại. Điều gì xảy ra khi con ở tầng 144 và như các thày đã giảng, con đứng đó và chỉ cần một bước nữa thì con sẽ bước vào cõi thăng thiên? À, ngay lúc đó con cần nhìn lại trái đất, con cần nhìn xem có bất cứ gì níu kéo con trở về đó hay không. Cái có thể níu kéo con trở về đó là bất cứ dính mắc nào con có, bất cứ ngã nào, bất cứ gì từ quá khứ mà con cảm thấy chưa được giải quyết. Đó chính là quá khứ của con đang kéo con về. Đằng khác nếu con có bất cứ gì trên trái đất mà con chưa làm, chưa hoàn tất, bất cứ gì mà con muốn làm, muốn trải nghiệm, thì cái đó là tương lai của con đang kéo con về trái đất.

Con thấy đó, để có thể thăng thiên, con phải đạt tới điểm không còn quá khứ nào trên địa cầu vì không có gì chưa giải quyết mà con kéo lê theo con. Đồng thời, con không có tương lai nào trên địa cầu vì con không có viễn kiến muốn làm bất cứ gì trên địa cầu. Khi, nếu có thể gọi như vậy, dòng thời gian của sự có mặt của con trên trái đất co sụp lại – sự co sụp của một hàm sóng, theo từ được dùng trong vật lý lượng tử – và khi thời gian không còn kéo dài được nữa, tức là không có quá khứ, không có tương lai và thời gian co sụp lại thành một khoảnh khắc độc nhất, thì đó chính là khoảnh khắc con thăng thiên. Đây mới thực sự là ý nghĩa tối hậu của câu nói: “Thời gian không có, thời gian không còn nữa.”

16.15. Làm hòa với việc mình ở đây

Làm thế nào con có thể dùng các lời dạy này để làm hòa với việc mình ở đây trên địa cầu? À, tự thân các lời dạy này có thể giúp con xoay chuyển tầm nhìn của con. Để thày lấy ví dụ một trải nghiệm mà sứ giả này đã có khi ông còn nhỏ và ông kinh qua một trải nghiệm rời khỏi thân xác (out-of-body experience). Ông đã bước ra ngoài cơ thể của ông, đi vào một đường hầm rồi một vùng ánh sáng, sau đó ông trở lại trong cơ thể. Ông nhận ra là mặc dù trải nghiệm này vô cùng thâm sâu, ông không có nhu cầu lặp lại. Trải nghiệm này đã chứng tỏ cho ông – không phải về mặt lý thuyết mà ở một mức độ trải nghiệm – là có gì đó vượt khỏi thế giới vật chất, và cái đó giúp ông ngộ ra là mình sẽ không mãi mãi ở lại trong thế giới vật chất. Cho nên ông đã từ bỏ nhu cầu cố gắng có thêm trải nghiệm tâm linh, và kể từ đó ông đã không làm bất cứ gì để có trải nghiệm tâm linh. Có một số trải nghiệm tâm linh đã xảy ra tự phát nhưng ông chưa bao giờ nỗ lực hay cưỡng ép để có trải nghiệm như vậy. Con có thể làm giống như thế.    

Con có thể xoay chuyển và ngộ ra là sau khi con thăng thiên, thời gian mà con chứng kiến trên địa cầu sẽ không áp dụng cho con nữa. Theo nghĩa đen, con có cái người ta gọi là sự vĩnh hằng, nhưng đó không thật là vĩnh hằng bởi vì ở cõi thăng thiên luôn luôn có sự tiến bộ. Con có một khoảng thời gian dài gần như vô lượng so với khoảng thời gian con có trên trái đất. Ngay cả khi con nhìn vào chiều dài hai triệu năm con đã sống trên trái đất, thời gian con có ở cõi thăng thiên dài hơn vậy một cách bất tận.

Con có tiềm năng làm cuộc xoay chuyển là nói: “Tại sao tôi lại vội rời bỏ nơi đây đến như vậy? Có lẽ chăng tôi muốn trải nghiệm cảm giác ở cõi thăng thiên là như thế nào?” Phải, nhưng nếu con có nguyên một vĩnh hằng để trải nghiệm cõi thăng thiên và con chỉ có một thời gian giới hạn trên địa cầu, tại sao con lại vội vã lánh xa địa cầu để trải nghiệm những gì con sẽ dư thì giờ trải nghiệm? Tại sao con không làm hòa với việc mình ở đây trên trái đất, biết rằng mình sẽ chỉ ở lại ngắn ngủi, và sau đó con nói: “À, vì tôi chỉ có một thời gian hạn chế trên địa cầu, tại sao tôi không tận dụng tốt nhất thời gian tôi có? Tại sao tôi không tìm kiếm những trải nghiệm tốt đẹp nhất mà tôi có thể có trong thời gian sót lại trên địa cầu, thay vì cứ luôn cảm thấy như thể mình bị chậm trễ và phải rởi khỏi nơi đây cho bằng được?”

Con yêu dấu, các thày đã nói điều này trước đây rồi. Có những chân sư đã thăng thiên (và họ đã cần thăng thiên trong một thời hạn nào đó) nhưng họ đã nhìn lại địa cầu từ cõi thăng thiên và nghĩ: “À, ước gì tôi đã thong thả, ước gì tôi đã có nhận biết để vui hưởng cuộc sống trên địa cầu trọn vẹn hơn, vui hưởng các trải nghiệm tôi có thể có, vui hưởng mình là chính mình trong các hoàn cảnh mình sống qua trong cõi vật lý.” Thày hy vọng một số các con sẽ được cảm hứng từ sự kiện này để sử dụng cuộc sống tối đa hầu con không nghĩ như thế sau khi thăng thiên.

Thày cũng có thể nói là con càng an bình với việc mình ở địa cầu thì con sẽ càng tận dụng được trải nghiệm của mình, càng tác động mạnh mẽ đến tâm thức tập thể, càng kéo tâm thức tập thể đi lên. Đương nhiên con sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên khi con thăng thiên, nhưng thày có thể cam đoan với con là sức kéo của con sẽ mãnh liệt hơn gấp bội khi con vẫn còn điểm trụ neo của một cơ thể vật lý trong bát cung vật lý, song song với một mức nhận biết cao hơn khi con đón nhận trọn vẹn việc mình ở đây, mình an bình, mình vui hưởng cuộc sống ở đây trên địa cầu.

Con yêu dấu, như chính thày đây sau khi chứng ngộ dưới cây Bồ đề và vượt qua thử thách của quỷ Mara, thày cũng đã đạt tới điểm có thể vui hưởng trọn vẹn việc mình ở đây trên trái đất. Cám dỗ của Mara là gì? Đó là thày phản ứng lại chúng, khiến thày không thể an bình trọn vẹn, không thể là chính mình trọn vẹn, không thể vui hưởng trọn vẹn mình là chính mình trên trái đất do tất cả các điều kiện đó. Trong những năm chót của thày khi thày giảng dạy, thày đã có một cảm nhận liên tục là mình vui hưởng sự trải nghiệm các tình huống trải bày ra trước mắt mình trong cõi vật lý, vui hưởng việc tương tác với các đệ tử, nhìn thấy đệ tử tăng triển hay không tăng triển cho dù trường hợp của họ là gì. Thày không có chủ đích. Thày không có tiếc nuối. Thày không có một ý định nào về những gì phải xảy ra. Thày chỉ vui hưởng là bản thân mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào thày chứng kiến trong cõi vật lý. Con yêu dấu, đó là một niềm vui rất lớn. Và điều này cũng có nghĩa là tất nhiên, thày không có hối tiếc nào về quá khứ.

16.16. Không tiếc quá khứ, không sợ tương lai

Chủ đề chót mà thày muốn đề cập – và thày biết thày đã lạm dụng sự kiên nhẫn của con rồi đó – nhưng con thấy không, mục đích đưa ra bài truyền đọc dài dòng này là để dạy con về tính kiên nhẫn. Thày không thể làm vậy một cách lý thuyết. Con phải trải nghiệm. Liệu con có đang vui hưởng trải nghiệm mà con đang có, trải nghiệm chính con đang lắng nghe bài truyền đọc của Phật? Con có vui hưởng trải nghiệm này không? [cử tọa: “Có.”] À, riêng thày chắc chắn đang vui hưởng trải nghiệm trao truyền bài giảng này cho con.

Chủ đề chót của thày. Quá nhiều đệ tử tìm thấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi nghĩ: “Ồ, tại sao tôi đã không tìm thấy giáo lý này sớm hơn? Tôi đã lãng phí bao nhiêu thời giờ. Tôi đã đến tuổi này rồi, tôi chỉ còn bấy nhiêu năm nữa thôi. Tại sao tôi đã không tìm ra giáo lý sớm hơn?” Xong họ nói: “Bây giờ tìm thấy giáo lý rồi, tôi cần tận dụng mỗi giây phút trong ngày để đọc chú và theo đuổi tăng triển tối đa.” Nói chung, họ quên không vui hưởng hiện tại, vui hưởng trải nghiệm của mình. Con yêu dấu, điều này liên quan đến một chủ đề rộng lớn hơn nhiều, là khi con bắt đầu suy nghĩ trong viễn quan dài hạn của một người avatar rằng có lẽ con đã ở đây hai triệu năm rồi. Con đã kinh qua đủ mọi trải nghiệm, làm thế nào con có thể tránh chuyện hối tiếc quá khứ? Làm thế nào con có thể tránh chạm đến chấn thương nhập đời và không hối hận việc này đã xảy ra, hối hận cách phản ứng của con, hay những gì con đã làm nhiều kiếp trước đây và những gì con đã làm trong kiếp này, vân vân và vân vân? À, chìa khóa cho vấn đề này các thày đã trao con rồi đó, cụ thể là con biết rõ dù chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ, con vẫn có khả năng tẩy xóa nó đi.

Như các thày đã giảng, không có biến cố khách quan nào còn hiện hữu trong một khoảng không gian vật lý nào của quá khứ. Bát cung vật lý đã bước tới rồi. Tất cả còn sót lại là những gì nằm trong tâm thức của con, và con có sự hiểu biết, con có các dụng cụ để tẩy xóa nó đi. Nếu con biết con có khả năng tẩy xóa bất cứ gì đã xảy ra trong quá khứ, tại sao con lại phải hối tiếc về quá khứ? À, chính con thì không hối tiếc mà có một ngã tách biệt đang có những hối tiếc này. Chính con có thể nhìn ra ngã tách biệt đó, buông nó ra và nói: “Mi đã ảnh hưởng ta đủ lâu rồi. Thế là xong. Mi đã ra đi.”

Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng cuộc sống vì giờ đây con đạt tới điểm nhận ra là nếu quá khứ không tác động đến con nữa thì tại sao con lại cần lo sợ về tương lai? Tại sao con cần lo sợ mình có thể lầm lỗi trong tương lai?

Một số các con đã đạt đến một mức nào đó trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy mình đã vứt bỏ được một số điều đau buồn từ quá khứ, nhưng vẫn còn một nỗi sợ hãi những gì có thể xảy ra trong tương lai. “Nếu như tôi phạm lỗi lầm thì sao? Nếu như tôi làm một việc gì mà tôi không nên làm?” Con biết không, con yêu dấu, bất cứ gì con có thể làm trong tương lai cũng chỉ là thêm một chọn lựa khác. Với trạng thái tâm thức của con hôm nay đã cao hơn, có rất ít xác suất chọn lựa của con hôm nay sẽ trầm trọng như trong quá khứ. Nếu các chọn lựa quá khứ trầm trọng đến vậy mà còn có thể tẩy xóa được – như con đã trải nghiệm – thì chắc chắn bất cứ gì xảy ra trong tương lai cũng có thể được tẩy xóa. Vậy tại sao con phải lo sợ về tương lai?

Nếu con không có hối tiếc nào về quá khứ thì mặt bên kia của đồng tiền là con cũng không có nỗi sợ nào về tương lai. Đây là lúc con có thể bắt đầu vui hưởng giây phút hiện tại, như thày vừa nói, trong khoảng thời gian mà con đang hoạt động. Khoảng thời gian này không phải là một khoảng cố định. Nó uyển chuyển tùy theo con đang làm gì. Như thày đã giảng, nếu con chú tâm xây một căn nhà, con sẽ cần đến một khoảng thời gian để hoàn tất căn nhà trong cõi vật lý. Nếu con chú tâm vào việc đánh răng thì tất nhiên con sẽ không cần đến nguyên một năm, vân vân. Con có cái nhìn rất linh hoạt uyển chuyển này về thời gian, nó đi vào rồi nó đi ra và nó thay đổi trong những tình huống khác nhau.

16.17. Đừng trở thành kẻ nô lệ của thời gian

Đó cũng là một khía cạnh trong việc đạt tới điểm con không là kẻ nô lệ của thời gian. Thời gian không sai khiến được trải nghiệm của con trên địa cầu. Con có thể nói là hầu hết mọi người đều là nô lệ của thời gian. Thời gian là ông chủ của họ. Con có thấy biết bao người luôn nhìn đồng hồ không, vì họ phải có mặt ở một nơi nhất định vào một thời điểm nhất định. Con đạt tới điểm con chỉ xuôi chảy với Dòng sông sự Sống.

Tất nhiên là thời gian hiện hữu. Có một phạm vi thời gian nào đó. Con nhìn về tương lai. Hay con nghĩ trở ngược về một thời quá khứ khi con đã quyết định thực hiện một ý định nào đó, vân vân. Nhưng con không bị thời gian sai khiến. Thời gian không là chủ nhân của con. Con không là kẻ nô lệ. Thời gian chỉ là một công cụ.

Chẳng khác gì khi con di chuyển trong không gian. Nếu con di chuyển trong không gian và thấy mình ở một nơi mình không muốn, con chỉ việc di chuyển đến một vị trí khác trong không gian, và thời gian cũng giống như vậy. Con tẩy xóa một chuyện gì đó từ quá khứ. Con di chuyển đến một vị trí khác. Thật không thành vấn đề cho con. Con không bị nó sai khiến.

Một lần nữa, đây là một niềm vui lớn cho thày được trải nghiệm chính mình đang tương tác với các con. Thày đã tương tác với mỗi người và từng người trong số các con như con đã cho phép thày làm như vậy suốt bài truyền đọc này. Thày có thể lại làm vậy nữa khi con nghe lại hay khi con đọc bài giảng. Có lẽ con đã không để ý điều này nhưng con có thể dần dần để ý thấy trong tương lai. Con có thể đạt tới điểm trải nghiệm: “Làm thế nào tôi thực sự trải nghiệm chính mình trong Hiện diện của Phật Gautama?” Con có thể có cùng trải nghiệm này với bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào khác gần gũi nhất với tim con. Con yêu dấu, đó là ý nghĩ chót mà các thày mong muốn cho con trong đơn vị, trong khóa giảng này mà các thày vừa trao cho con về cách làm thế nào con khởi sự với ngã gốc rồi khắc phục được nó để con có thể an bình với việc mình ở đây trên trái đất.

Các thày vô cùng biết ơn các con đã sẵn lòng tổ chức và tham gia vào các buổi hội nghị dẫn đến hội nghị hôm nay. Hiển nhiên các thày rất mong chờ những gì các thày sẽ có thể trao cho con trong tương lai. Các thày có rất rất nhiều lời dạy khác mà thày sẽ không tiết lộ bây giờ vì một phần của toàn bộ trải nghiệm là con trải nghiệm giáo lý mà không có lời báo trước hay kỳ vọng nào cả. Con sẽ dễ trải nghiệm hơn với tâm trẻ thơ không phóng chiếu bất kỳ phin lọc nào lên đó. Và như vậy, lời dạy sẽ có tác động tối đa trên con. Và như vậy các thày gửi lòng biết ơn sâu xa nhất đến các con.

7 | Sáng tạo trong một thế giới lượng tử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và như các con cũng bắt đầu nhận thấy, ý định của thày là bắt được chú ý của con và khiến các chân sư khác phải chờ phát biểu trong hội nghị này. Dù sao thì các thày ở cõi thăng thiên không có chuyện cạnh tranh với nhau, ngược hẳn với những gì con thấy quá thường trên địa cầu với quá nhiều ganh đua. Cạnh tranh sinh ra từ đâu? Nó sinh ra từ một số ý tưởng rất vi tế do sa nhân cài đặt cho rằng có cái đúng và cái sai, có cái gì tuyệt đối, có cái gì tối thượng. Cho nên một người có thể đúng hay có thể sai, có thể thắng hay có thể thua. Chính tư duy này đã xâm nhập, đã thấm sâu vào hầu như mọi khía cạnh của xã hội.

Con có thể nói là có sự cạnh tranh rõ rệt trong một cuộc thi đấu thể thao khi ai nấy tranh đua để xem ai là người chạy nhanh nhất, ai là người nhảy cao nhất, v. v… Trong trường hợp này, sẽ có một người chiến thắng còn những người kia thì phải tìm chỗ đứng thấp hơn trong tôn ti đẳng cấp vừa xuất hiện. Dựa trên những gì con có thể thấy trong các cuộc tranh tài thể thao, con có thể nói là không có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo, ít ra không phải là cùng kiểu cạnh tranh. Nhưng kỳ thực có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo để xem tôn giáo nào nắm được chân lý cao nhất, tôn giáo nào là tôn giáo chân chính duy nhất. Nếu con nhìn Giáo hội Công giáo tuyên bố chỉ có tôn giáo họ có thể đảm bảo sự cứu rỗi của con, thì đây là một tư duy cạnh tranh: ”Chúng tôi là số một, thật ra chỉ có độc nhất chúng tôi, chúng tôi là kẻ chiến thắng, còn mọi người khác là kẻ thua cuộc. Những người kia không theo đạo chúng tôi là kẻ thua cuộc và họ sẽ bị xuống địa ngục.”

Ý tưởng này thâm nhập rất sâu xa vào tư duy của hành tinh. Như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để trái đất bị nát bét là phóng ra ý tưởng có cái đúng và cái sai. Có một chuẩn mực, và con cần phải so sánh mọi việc mình làm hay mọi sự xảy ra với chuẩn mực này, con đánh giá xem nó đúng hay sai.

7.1. Hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh

Trong hội nghị này các thày trình bày về việc giúp con người làm hòa với việc mình ở trên địa cầu. Điều thày sẽ nói ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy. Thày sẽ dùng ví dụ của các avatar vì đây là ví dụ rõ nét nhất. Con thấy đó, con yêu dấu, một trong những khác biệt tinh tế giữa hành tinh tự nhiên và phi tự nhiên là trên một hành tinh tự nhiên không có sự cạnh tranh. Các thày đã có nói là một trong những bí ẩn cốt lõi khởi lên từ quyền tự quyết là việc con ở đây trên hành tinh này trong khi có người khác sống trong môi trường gần kề bên con và cả trên hành tinh. Làm thế nào con quân bình được việc thực thi quyền tự quyết của con với quyền tự quyết của mọi người khác?

Sa nhân chỉ có một giải pháp độc nhất cho chuyện này, đó là chúng tìm cách nâng ý muốn của chúng lên thành ý muốn thống trị mà ai ai cũng phải tuân theo. Đây không phải là cách vận hành ở hành tinh tự nhiên. Ở hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh. Làm thế nào các sinh thể trên hành tinh tự nhiên, những người đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, tránh được xung đột, tránh bị cảm thấy đối chọi với nhau? Thật ra họ không tránh làm vậy, mà họ chỉ không tạo ra cạnh tranh do họ không ở trong tâm thái tách biệt. Họ không tự xem mình là sinh thể tách biệt.

Trên một hành tinh tự nhiên, con không xem mình có một ý chí tách biệt với ý chí của mọi người khác. Con thấy mình là thành phần của một tổng thể và có nhiều sinh thể khác cũng là thành phần của tổng thể này. Tổng thể này lớn đến đâu tùy thuộc vào mức độ tăng triển của con, mức độ nhận biết mà con đã đạt được. Đối với một số người trên hành tinh tự nhiên, tổng thể mà họ là thành phần có thể là một nhóm nhỏ, từa tựa giống như cái con gọi là gia đình trên trái đất. Trên hành tinh tự nhiên có những người chỉ mới khởi đầu là người đồng sáng tạo và họ sống trong những nhóm nhỏ như vậy, trên nhiều phương diện cô lập với phần còn lại của dân cư trên hành tinh của họ. Họ bắt đầu tăng triển trong một nhóm nhỏ nơi họ có thể dễ dàng quân bình ý chí cá nhân của họ với ý chí của những người đồng sáng tạo khác. Họ tránh khỏi xung đột vì họ đều quen biết nhau, họ biết rõ người khác muốn gì và họ có thể hợp tác.

Khi các sinh thể tăng triển nhận biết trên hành tinh tự nhiên, họ mở mang nhận thức về các sinh thể khác trên hành tinh, và giờ đây họ nhận thức được một nhóm lớn hơn. Điều xảy ra là bấy giờ họ tụ họp lại ở những nơi có người với cùng sở thích. Ngay cả trong sách Những kiếp của tôi, con cũng đọc thấy lời tường thuật về vai chính trong truyện tham gia vào kịch nghệ, rồi sau đó vào chính quyền, rồi sau nữa vào việc tu tập tâm linh. Con có thể nói là trên hành tinh tự nhiên, con có thể có chẳng hạn một số thành phố dành riêng cho nghệ thuật biểu diễn, một số thành phố dành riêng cho âm nhạc, một số cho nghệ thuật thẩm mỹ, một số cho khoa học, vân vân.

Người nào có cùng sở thích như vậy sẽ tập hợp lại và hình thành một đơn vị. Có thể trong một thành phố sẽ có nhiều đơn vị khác nhau và họ đều quen biết nhau, họ không xung đột và ý chí của họ không đụng độ. Họ đến với nhau quanh một mục tiêu chung mà họ cùng đeo đuổi. Mỗi người biết rõ là mình có một khu vực, một quả cầu nơi mình biểu đạt sự sáng tạo cá nhân của mình, và ở đó, họ tự do biểu đạt sáng tạo của họ mà vẫn ăn khớp, phù hợp với tổng thể rộng lớn. Giữa người này với người kia không có đụng độ, không có tranh đua, mà họ cùng làm việc với nhau hướng đến một mục tiêu chung.

Đây cũng chính là điều đã xảy ra trên trái đất trước khi con người rơi xuống nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng cảm nhận được điều này trong bản thân mình – cảm giác vô cùng vi tế, trực nhận, là họ phải có thể hợp tác với nhau chung quanh một mục tiêu chung mà không bị xung đột. Yếu tố đã phần lớn che lấp trực nhận này là sa nhân, là chuẩn mực đúng-sai. Một người có thể sai hay có thể đúng, và chỉ có một cách đúng thôi. Trên một hành tinh tự nhiên không có đúng-sai mà có nhiều cách đúng. Mọi cách đều đúng và mọi cách đều là những biểu đạt sáng tạo cá nhân. Không có gì sai hay đúng, và ngay cả chuyện cân nhắc đúng-sai cũng không khởi lên trong tâm con người trên hành tinh tự nhiên.

7.2. Đồng sáng tạo xảy ra thế nào trên hành tinh tự nhiên

Vậy khi con đến một hành tinh phi tự nhiên như trái đất thì chuyện gì xảy ra, con trải nghiệm thế nào như một avatar? Ở hành tinh tự nhiên con làm việc trong một đơn vị với người khác, với các sinh thể khác. Đây là một đơn vị hài hòa vì các con có một mục tiêu chung. Hãy thử lấy một ví dụ thực tế. Các con có mục tiêu chung là xây cất một toà nhà thật đẹp. Con có một viễn kiến toàn bộ về tòa nhà nhưng toà nhà đòi hỏi nhiều kỹ năng khác nhau: có thợ nề, có thợ mộc, có thợ sơn, có thợ làm đồ sắt, có người trang trí, có người lo về nghệ thuật, người này người nọ. Đủ loại kỹ năng cá nhân sẽ cần thiết để hoàn tất tòa nhà. Không có cạnh tranh vì mỗi nhóm người như vậy đều có một lãnh vực riêng nơi họ có thể biểu lộ sáng tạo, một phạm vi ảnh hưởng riêng của mình. Họ không đụng độ với nhau mà họ cộng tác để thực hiện mục tiêu chung là xây tòa nhà. Con hiểu là trên một hành tinh tự nhiên có một khoảng không gian chung, một viễn quan chung, một mục đích chung, và ở trong đó có những khu vực cá nhân cho sáng tạo. Là một cá nhân đồng sáng tạo, con là một phần của tổng thể, con biết con làm việc với người khác nhưng con cũng cảm thấy là mình có dư không gian để biểu đạt sự sáng tạo của mình.

Hệ quả là gì? Con yêu dấu, hệ quả là một người đồng sáng tạo làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật trên hành tinh tự nhiên cũng y hệt như trên trái đất. Có Ánh sáng Mẫu-Vật, và con dùng tâm con để tạo thành một hình ảnh, con áp chồng hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thế rồi Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào hình tướng đó. Và sự khác biệt giữa hành tinh tự nhiên với trái đất là như sau. Ở một hành tinh tự nhiên, con không dùng cơ thể vật lý của mình nhiều lắm; hầu hết tạo vật của con trên hành tinh tự nhiên đều được kết đọng (precipitate). Cơ thể vật lý có một số công dụng vì nó không được con xem là tách biệt với ba thể kia. Con ý thức, con nhận biết mình đang đồng sáng tạo với tâm mình – với tâm bản sắc, lý trí lẫn cảm xúc – để đưa vật thể vào cõi vật lý. Không giống như trên trái đất nơi con nghĩ là hầu hết mọi chuyện con cần làm để đem vật vào cõi vật lý phải được thực hiện bởi cơ thể – hay bởi một phần nối dài của cơ thể là một loại máy móc hay công nghệ – thì trên hành tinh tự nhiên, con nhận biết rõ hơn hẳn là con dùng tâm con. Con nhận biết là con đang đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con và phóng chiếu chúng ra, áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi một nhóm người hội tụ xung quanh một mục tiêu chung, điều xảy ra là tâm họ phối hợp lại với nhau ở mức bản sắc, và sau đó họ sáng tạo trong khuôn khổ Ánh sáng Mẫu-Vật. Cũng gần giống như khi các thày nói về cách sáng tạo của Đấng Sáng tạo, thì trước tiên Đấng Sáng tạo tạo ra một khoảng trống, xong phóng chiếu một bầu cõi vào khoảng trống, và trong bầu cõi này các hình tướng có thể được sinh tạo. Tương tự như vậy trên hành tinh tự nhiên, những người đã quyết định đồng sáng tạo, chẳng hạn xây một toà nhà, thì họ sẽ đến với nhau. Trước tiên họ cùng thiền định với nhau và họ hình dung, họ tạo ra khoảng trống. Họ tạo ra khoảng trống xong họ dùng tâm phóng chiếu ra một quả cầu. Họ đổ đầy khoảng trống với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động tới một mức nào đó, tức là Ánh sáng Mẫu-Vật đã sẵn sàng khoác lấy hình tướng nhưng hình tướng chưa được phân biệt. Giờ đây, tất cả những người có chân trong tổng thể đó biết rõ là họ đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật này. Họ có sự kết nối trong tâm họ nhưng đồng thời mỗi sinh thể cũng biết là mình có một quả cầu riêng nơi mình đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật, và vì vậy mình đang dùng tâm mình để tạo thành hình ảnh được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

7.3. Việc đến địa cầu tạo cảm giác như thế nào

Điều xảy ra trên hành tinh tự nhiên là Ánh sáng Mẫu-Vật rất dễ khoác vào hình tướng được một cá nhân đồng sáng tạo phóng chiếu lên nó. Ở đó không có sự chống đối. Cho nên khi con đến như một avatar từ một hành tinh tự nhiên, con mang sẵn thói quen là làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật thật dễ dàng. Con có thể dễ dàng phóng chiếu một tâm ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật và nó sẽ lấy ngay hình tướng này. Một trong những cú sốc lớn mà con gặp phải khi con đến địa cầu như một avatar là trên địa cầu tiến trình đồng sáng tạo nhàn nhã này không thể xảy ra. Nó không thể xảy ra vì mấy lý do. Một lý do là vì Ánh sáng Mẫu-Vật ở một hành tinh tự nhiên có độ rung cao hơn Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo trái đất. Độ rung càng cao thì ánh sáng càng linh hoạt, càng dễ khoác vào hình tướng mà con phóng chiếu lên nó với ba thể cao của con. Ánh sáng có rung động cao sẽ uốn theo tâm ảnh dễ hơn vì nó không dày đặc, không đông cứng bằng.

Con đến trái đất và cú sốc đầu tiên con gặp phải là vật chất ở đây sao dày đặc đến thế, Ánh sáng Mẫu-Vật sao dày đặc đến thế. Con cũng cần nhận ra ở đây là trên điạ cầu thật hiếm hoi – không phải là không có nhưng khá hiếm hoi – một nhóm người có thể tụ lại xung quanh một mục tiêu chung, một viễn quan chung. Cũng có một số ví dụ khi hàng triệu người cộng tác với nhau để xây kim tự tháp hay xây dựng một thành phố, v. v… Nhưng trong hầu hết trường hợp, điều này đã xảy ra theo một cách mà chúng ta có thể gọi là quản lý từ trên xuống, tức là có một người giống như một nhà độc tài phán quyết: “Chúng ta sẽ xây cung điện này.” Thế là ông ta cưỡng bách mọi người phải tuân theo viễn quan này và xây cung điện. Không có nghĩa là ai ai cũng đã đồng tình với viễn quan này hay đã chấp nhận đó là điều họ muốn làm. Họ bị buộc phải làm cho nên họ làm theo. Con có thể nói là mặc dù họ làm việc với nhau nhưng họ không hợp tác trong cùng tinh thần hợp nhất mà con thấy trên hành tinh tự nhiên.

Con yêu dấu, kết quả của sự thể này là khi người ta không có viễn quan chung, khi người ta không chấp nhận viễn quan và nó bị áp đặt lên họ, thì họ không thể phối hợp tâm họ để trước hết tạo ra khoảng trống rồi sau đó đổ đầy khoảng trống này với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Con không thể tiếp cận cái chúng ta có thể gọi là “nguyên liệu thô” có thể rất dễ dàng khoác vào hình tướng. Nguyên liệu này có khả năng được tạo ra trên trái đất, như nếu con có một nhóm người đến được với nhau trong một trạng thái hợp nhất hài hòa thì họ có khả năng tạo ra nguyên liệu này. Sẽ khó hơn là trên một hành tinh tự nhiên nhưng có thể làm được. Trên trái đất rất hiếm khi người ta làm được vì thường thường sa nhân đã có thể chen chân vào tiến trình và buộc mọi người phải tạo ra một cái gì sẽ tôn vinh sa nhân. Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh tự nhiên con sẽ không thấy ai tạo ra một cung điện để vua chúa hay hoàng đế ngồi trên ngôi báu ra vẻ oai phong lẫm liệt.

Trên trái đất, con không có một nguyên liệu thô có thể dễ dàng khoác vào hình tướng. Song song với việc con không có một nguồn năng lượng chung, con cũng không có một tình trạng nơi mỗi người đồng sáng tạo, mỗi một cá nhân đều có quả cầu riêng, lãnh vực riêng của mình để có thể sáng tạo. Con không có một không gian chung và con không có một không gian cá nhân để đồng sáng tạo. Điều con thấy trên trái đất là khi người ta muốn sáng tạo một cái gì, họ không thể tạo ra quả cầu riêng biệt chứa Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Họ phải làm việc với quả cầu chung, với năng lượng chung, với cái các thày đã gọi là sự rung động cơ bản hay rung động nền của hành tinh. Đây là nguyên liệu thô của họ. Hay nói cách khác, tất cả mọi người trên trái đất phải dùng cùng một nguyên liệu thô.

Đồng thời con cũng thấy là trên trái đất, con rất khó có quả cầu sáng tạo riêng của con. À, con có thể nhìn lịch sử và thấy được một số người đã xoay sở để tạo ra một quả cầu sáng tạo nào đó. Có thể đây là những nhà văn có khả năng viết một tác phẩm vượt khỏi tâm thức tập thể. Có thể là những họa sĩ đã vẽ những bức tranh hoàn toàn mới lạ, không theo cách truyền thống chút nào. Đó là vì những người này đã có thể tạo ra một khoảng trống trong tâm họ được phần nào che chắn khỏi tâm thức tập thể. Con cũng thấy được là những hình thức sáng tạo này là nỗ lực sáng tạo cá nhân. Một họa sĩ ngồi trong xưởng vẽ của ông tạo ra bức tranh mà không có ai khác ở đó.

Nhưng khi con có một hoàn cảnh với hai hay nhiều người hơn cộng tác thì lập tức con có một cơ chế vận hành hoàn toàn khác, qua đó họ không còn không gian cá nhân của họ nữa. Họ cùng nhau làm việc trong một không gian chung, và trong bản chất, điều này có nghĩa là những gì cá nhân con làm sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể của mọi người trên hành tinh. Một lần nữa, con có thể tìm thấy những tình huống có một nhóm người đã xoay sở để tách ra riêng rẽ, chẳng hạn nơi một tu viện hay một cộng đồng hẻo lánh, cho nên họ đã có thể phần nào cách ly khỏi tập thể, nhưng họ vẫn phải làm việc với cái năng lượng cơ bản dày đặc hơn. Họ vẫn phải làm việc trong một môi trường nơi mặc dù họ đã tự cách ly đôi chút, họ vẫn không được tự do khỏi tâm thức tập thể, cho nên có sự nhiễu sóng không ngừng từ tâm thức tập thể.

7.4. Đồng sáng tạo vận hành như thế nào trên địa cầu

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang xem xét làm thế nào con có thể thực sự đồng sáng tạo một điều gì trên một hành tinh như trái đất. Về cơ bản, đây là cùng một tiến trình như ở hành tinh tự nhiên nhưng với một vài khác biệt. Trên hành tinh tự nhiên, con hình thành một hình ảnh trong tâm ý thức của con. Con sử dụng tâm bản sắc, tâm lý trí, tâm cảm xúc, nhưng còn hình thành hình ảnh này trong tâm ý thức. Xong con gửi một xung lực vào hệ thống năng lượng. Con gửi vào đó một sóng năng lượng, hay đúng hơn một sóng năng lượng phức tạp, một khuôn đúc sóng năng lượng mang một hình ảnh trên đó. Con gửi nó từ cõi vật lý, từ tâm ý thức, vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, nơi nó đi nguyên chu trình quay trở về qua cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc, rồi vào cõi vật lý. Điều đáng nói là trên một hành tinh tự nhiên không có gì can thiệp vào tiến trình này. Những gì con gửi ra từ tầng vật lý, từ tầng ý thức, sẽ trở lại tầng vật lý trong dạng thuần khiết của nó.

Nhưng trên trái đất thì khác hẳn. Con lập ra hình ảnh với tâm ý thức, phóng chiếu nó vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc trên trái đất rồi cho nó đi hết quy trình trở lại cõi vật lý. Vì trái đất là một môi trường vẩn đục và dày đặc đến như vậy cho nên sóng năng lượng mà con gửi ra gặp phải nhiều sự nhiễu sóng, cả trên đường đi lên lẫn đường đi xuống trở lại vật lý. Điều này có nghĩa là gần như con không thể nào hình thành một hình ảnh trong tâm rồi gửi nó ra mà biểu hiện được nó y như con đã hình dung. Đứng về mặt thực tiễn thì chuyện này không thể xảy ra.

Tại sao thật quan trọng con nên biết điều này trong tư cách một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đã tinh tiến trên đường tâm linh? Bởi vì đây là cách duy nhất con có thể làm hòa với việc con ở đây. Đây là cách duy nhất con có thể tránh khỏi cảm nhận là mình ngu ngốc, mình bất cập, mình không tốt đủ. Đây là cách duy nhất con có thể tránh phán xét nỗ lực sáng tạo của mình dựa theo tiêu chuẩn của sa nhân, tức là nỗ lực này phải toàn hảo, nếu không thì nó không tốt đủ. Trên cơ bản, đây là điều sa nhân đã tạo ra. Chúng đã tạo ra trên trái đất một tư duy bảo rằng: Nếu sáng tạo của con không toàn hảo – dựa trên một chuẩn mực không bao giờ được định rõ – thì nó không tốt đủ. Do sự dày đặc của môi trường trên trái đất, gần như không ai có thể lập ra một hình ảnh trong tâm mà biểu hiện ra được hoàn cảnh vật lý. Cho nên nếu con chấp nhận lối suy nghĩ của sa nhân thì con không thể thoát khỏi tình trạng mãi mãi cảm thấy là bất cứ gì mình sáng tạo cũng không tốt đủ. Nếu con mang tư duy này của sa nhân rằng nó phải toàn hảo theo một chuẩn mực nào đó thì con không bao giờ có thể thoả mãn với tạo vật mình đã đồng sáng tạo.

7.5. Sẽ bao giờ có gì tốt đủ hay không?

Đó chính là tại sao thày cho con lời dạy này để con khởi sự tái lượng định cách tiếp cận của con đối với mọi chuyện con làm – bất cứ chuyện gì con làm trên trái đất. Con thử nhìn xem cách mình làm cha mẹ, nhìn xem xã hội mang tư duy con phải là bậc cha mẹ toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Thế nào là bậc cha mẹ toàn hảo? Có người sẽ bảo đó là cha mẹ có con cái toàn hảo, nhưng con dư biết là con cái của con đã đến đây với một tâm lý từ rất nhiều tiền kiếp, và nhiệm vụ của con làm cha mẹ không phải là thay đổi hay kìm nén tâm lý đó. Có bao giờ con có được một đứa con toàn hảo – nếu có chuyện toàn hảo nơi một đứa trẻ? Với thái độ thường thấy như vậy trong xã hội ngày nay, làm cha mẹ có nghĩa là con tự buộc mình phải cảm thấy bất mãn cho đến hết kiếp, vì con mình sẽ không bao giờ thỏa mãn được tiêu chuẩn toàn hảo đó.

Nếu con muốn là một nhà văn thì cũng tương tự như vậy. Nhiều người mong muốn viết lách gì đó nhưng họ bị ám ảnh bởi nhu cầu đánh giá xem tác phẩm của mình có đủ tốt hay không, đến độ họ cảm thấy: “Ồ, nó sẽ không bao giờ tốt đủ,” và họ không dám phổ biến. Rốt cuộc nhiều người trong số đó trở thành những nhà bình phẩm hay biên tập viên chuyên nghề lượng định tác phẩm của người khác để không bao giờ mình có rủi rỏ bị người ta bình phẩm – nhưng đây là một vấn đề khác.

Thật sự đây là một khuôn nếp con gặp trong mọi khía cạnh của đời sống khi con thấy rất rất nhiều người mang tư duy là hoặc mình toàn hảo, hoặc mình không đủ tốt. Do đó họ không dám biểu đạt một cái gì từ nội tâm của họ. Thay vào đó, họ đi tìm một vị thế đánh giá công việc của người khác. Họ là người luôn luôn chỉ trích nhưng chính họ thì không bao giờ là đối tượng của sự chỉ trích. Có ai bình phẩm người bình phẩm bao giờ đâu? Thế là họ khóa chặt dòng sáng tạo của họ và củng cố cho tư duy phán xét của sa nhân.

Nhưng một lần nữa, con ở đây như một avatar đã đến địa cầu. Từ hành tinh tự nhiên, con đã quen có thể thị hiện bất cứ gì mình hình dung. Xong con đến địa cầu, con hình dung cái gì đó, con gửi xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất nhưng cái quay trở lại, cái được thị hiện, thì không đúng y như cái con đã hình dung. Thật là dễ cho nhiều người trong chúng ta – thật ra hầu hết chúng ta – bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã và nói: “Ồ, nếu cái thị hiện khác xa cái tôi hình dung đến vậy thì chắc chắn tôi không tốt đủ. Bỗng nhiên tôi là một người đồng sáng tạo không tốt đủ vì tôi không thể thị hiện những gì tôi hình dung.”

Thày vừa nói con điều gì, con yêu dấu? Trên trái đất con không có một con đường thông thoáng để viễn quan con được gửi ra và quay trở về mà không bị nhiễu sóng. Con có một môi trường năng lượng vô cùng hỗn tạp với quá nhiều cảm xúc xuất phát từ lòng sợ hãi, quá nhiều ý tưởng méo mó trong cõi lý trí, quá nhiều hình ảnh sai lạc trong cõi bản sắc. Khi con gửi một sóng năng lượng vào các cõi này, một sự nhiễu sóng khổng lồ sẽ xảy ra. Con biết rất rõ là khi hai sóng năng lượng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa làm thay đổi cả hai sóng.

Chúng ta có thể nói là khi con gửi ra một xung lực sáng tạo, xung lực này là một làn sóng năng lượng. Khi nó di chuyển qua bốn tầng của cõi vật chất, nó chạm mặt một số sóng năng lượng khác từ tâm thức tập thể. Khi hai sóng tương tác thì cả hai đều biến đổi. Có nghĩa là khi con gửi ra một viễn quan sáng tạo, nó gặp phải một năng lượng tiêu cực và sự tương tác này biến đổi cả hai làn sóng. Kỳ thực con đã đóng góp vào việc nâng cao tâm thức tập thể qua nỗ lực sáng tạo của con, nhưng con không thấy được chuyện này. Điều con thấy là cái quay trở về con thấp hơn rất nhiều những gì con đã hình dung, cho nên con cảm thấy: “Liệu mình đã làm được gì hữu ích hay không?” Nhưng con đã. Con đã nâng cao năng lượng đến giao thoa với viễn quan của con. Tất nhiên là năng lượng này cũng đã làm nhiễu viễn quan của con khiến nó không được biểu hiện trong dạng thuần khiết của nó.

Tại sao thày lại nói điều này cho con? Một lần nữa, là vì đơn giản con không thể phán xét nỗ lực sáng tạo của mình ở đây trên trái đất theo một trong hai cách, hoặc theo cách con vẫn quen làm trên hành tinh tự nhiên, hoặc theo cách sa nhân muốn con phán xét nỗ lực của con. Con phải nhận thức con đã quen phán xét nó như thế nào trên hành tinh tự nhiên, cũng như sa nhân muốn con phán xét nó như thế nào ở đây, và con vứt bỏ cả hai cách. Con khẳng định là cả hai không hiệu lực trên một hành tinh như trái đất.

7.6. Phán xét nỗ lực sáng tạo của mình trên trái đất

Sứ giả này đã lớn lên trong một môi trường quen sử dụng súng ống, cho nên thày đã cho ông hình ảnh này mà thày sẽ dùng ở đây. Có hai loại súng thông thường được người ta dùng để săn bắn trên trái đất. Một loại gọi là súng trường, loại kia gọi là shotgun. Súng trường bắn ra một viên đạn, còn súng shotgun bắn ra cả chùm đạn nhỏ hơn. Hẳn các con đã thấy những mục tiêu ở trường bắn – mục tiêu làm bằng giấy có những vòng tròn đồng tâm và ở giữa là vòng tròn số 10. Khi con nhắm mục tiêu bằng súng trường, con có thể đặt viên đạn ngay vòng số 10 vì đó là viên đạn độc nhất và đường đạn tương đối chính xác. Bây giờ con tưởng tượng con đứng trước mục tiêu với khẩu shotgun và người ta bảo con đặt một hạt nhỏ tí ngay điểm số 10 y như con vừa làm với súng trường, chuyện này có thể làm được không?

Có thể chứ, nhưng con sẽ không có cách chi đoán trước được kết quả của phát bắn, vì con bắn ra một chùm đạn nhỏ với đường đạn không rập khuôn và không chính xác lắm, ít ra là một đường đạn con không thể tính trước được. Trong số mấy trăm hạt nhỏ đó có thể có một hạt sẽ trúng số 10, nhưng cũng có thể không có hạt nào. Con có thể bắn một trăm lần mà vẫn không có hạt nào trúng số 10. Con không thể làm gì khác được. Vấn đề không ở chỗ con sẽ nhắm nòng súng cho chính xác hơn, mà vấn đề là thực tế vật lý của súng shotgun.

Ý thày muốn nói ở đây là sa nhân bảo con: “Bạn phải bắn trúng số 10 mỗi lần như một,” nhưng súng của con là một khẩu shotgun. Thật chẳng nghĩa lý gì mà con phải phán xét nỗ lực của mình như thể con có một cây súng trường, bởi vì con không thể chắc chắn là con sẽ bắn trúng số 10. Nếu chuyện này xảy ra thì nó hoàn toàn ngẫu nhiên, chúng ta có thể nói như vậy, vì chắc chắn đây không phải là chuyện khoa học chính xác. Con yêu dấu, sa nhân đòi hỏi con phải làm chuyện bất khả thi, thế nhưng chúng phán xét con như thể cái bất khả thi đó là khả thi. Điều này không thực tế, giản dị là nó không thực tế. Con không thể xét mình là bất toàn do con đã không làm nổi một chuyện không thể làm – đó là điều vô lý. Ấy thế nhưng con đã bị lập trình hết kiếp này đến kiếp khác để con tự đánh giá mình theo kiểu đó.

Đây là một lập trình rất sâu đậm, nó vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Con yêu dấu, con đã có các dụng cụ rồi đó và con sẵn sàng nâng mình lên khỏi tâm thức đó. Đối với một số các con, đây chỉ là vấn đề xoay chuyển tâm con. Đối với một số khác, nó sẽ đòi hỏi một chút nỗ lực vì con mang những cái ngã tách biệt mà con cần nhìn thấy, con cần thấy chúng như chúng là, và để cho chúng chết đi. Một lần nữa, con đã có các dụng cụ rồi, và điều con nhận ra là khi con buông các ngã đó ra, khi con thoát ra khỏi ý tưởng là mình phải có thể làm chuyện bất khả thi – ý tưởng là nếu mình không làm được chuyện bất khả thi thì mình bất toàn – thì con có thể tìm ra một cách hoàn toàn mới để an bình trên trái đất, một cách hoàn toàn mới để là người sáng tạo và nỗ lực sáng tạo. Con có thể gửi ra một xung lực mà không bị nản lòng bởi những gì quay trở lại, vì con biết xung lực của con đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao tâm thức tập thể, cho dù những gì quay trở lại không hoàn toàn đúng như con đã gửi ra.

7.7. Trở nên ngày càng sáng tạo hơn

Con yêu dấu, khi con nâng cao tâm thức của con, lý tưởng là con nên ngày càng sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là con phải trở thành một nghệ sĩ, một nhạc sĩ hay bất cứ gì khác. Con có thể trở nên ngày càng sáng tạo hơn khi con khởi lên những ý tưởng mới, những cách làm tốt hơn. Thậm chí con trở nên sáng tạo hơn theo nghĩa là con thiện nghệ hơn trong việc biểu hiện cuộc sống thường nhật mà con thực muốn. Đây không luôn luôn là chuyện biểu hiện một cái gì giống như một tác phẩm nghệ thuật chẳng hạn, mà con xem đời sống thường nhật là một hình thức nghệ thuật khi con biểu hiện cách sống mà con muốn có. Đây cũng là một hình thức sáng tạo.

Con yêu dấu, con nhìn xem bao nhiêu nghệ sĩ, bao nhiêu nhà văn, vân vân… và con thấy một số đã rất lập dị, thậm chí còn hơi ngông cuồng nữa. Nhiều người vô cùng bất mãn với chính tác phẩm của họ, họ chưa bao giờ cảm thấy những gì họ tạo ra là đủ tốt, họ chưa bao giờ vẽ được nàng Mona Lisa với nụ cười đúng y như họ muốn nàng phải có. Thực tế ở đây là hầu hết các nghệ sĩ vĩ đại nhất, danh tiếng nhất, mặc dù họ có thể được quần chúng ái mộ nhưng chính họ lại không toại nguyện với nỗ lực của họ, và lý do thật giản dị. Con nhìn vào Mona Lisa và con nhìn vào bức tranh. Con không thể thấy được viễn quan mà Leonardo da Vinci đã có trong tâm khi ông vẽ bức tranh. Con không thể thấy được là những gì ông vẽ xuống tấm vải không đúng như những gì ông mường tượng trong tâm và do đó ông không hài lòng với nó. Điều tương tự cũng xảy ra với hầu hết mọi nghệ sĩ khác.

Tác phẩm không đúng hoàn toàn như những gì họ muốn. Một lần nữa, trên một hành tinh phi tự nhiên, thật không thực tế và không xây dựng mà chờ đợi là con có thể thị hiện trong vật lý đúng như những gì con hình dung trong tâm. Đơn giản là nó không thực tế. Khi con chấp nhận sự thể này, con có thể bắt đầu làm hòa với sự kiện là mặc dù con không biểu hiện đúng như con hình dung, nhưng con vẫn đang giúp cho thế giới tốt đẹp hơn vì con đang gửi ra những xung lực năng lượng nâng cao tâm thức tập thể.

Con có thể đi xa hơn và đơn giản nhận ra là con không ở đây để đưa ra một tác phẩm toàn hảo nào đó. Con ở đây để đưa ra một cái gì cao hơn những gì hầu hết mọi người có thể hình dung. Không quá cao đến độ họ không thể nối kết, nhưng con chứng tỏ là có một cách tốt hơn, có một hình thức sáng tạo cao hơn. Không có toàn hảo nào mà con cần với tới, con yêu dấu. Như các thày đã nói rất nhiều lần, nếu con đạt được tầng tâm thức thứ 96 thì con đã tự nâng mình lên cao hơn hẳn tâm thức tập thể rồi. Thật chẳng ích gì mà con phải tự mắng nhiếc vì mình chưa đến được tầng 144.

Dù con có đang ở tầng nào thì cũng hoàn toàn chấp nhận được. Các thày chấp nhận con như con người con là, ở tầng tâm thức đó. Các thày không đòi hỏi con phải ở tầng 144. Các thày chỉ nhìn xem làm cách nào đưa con lên tầng kế tiếp. Một khi con hiểu điều này, một khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể an bình với việc mình ở nơi mình đang đứng. Do đó con cũng có thể an bình với việc mình ở trên địa cầu nơi các nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ tạo được đúng kết quả con hình dung. Thay vì tự trách móc, con chỉ chấp nhận mọi chuyện là như vậy.

7.8. Cách tiếp cận lượng tử đối với sự sáng tạo

Chúng ta thử trở về với ngụ ngôn về súng trường và súng shotgun. Có thể con không bắn trúng số 10 với súng shotgun nhưng chắc chắn con có thể bắn trúng mục tiêu nói chung, và điều này cũng giống vậy trên trái đất. Con cần cảm thấy thỏa mãn nếu con bắn trúng mục tiêu chứ không nhất thiết phải trúng hồng tâm ở chính giữa. Con có thể đi xa hơn một chút và nhìn vào những gì các nhà khoa học đã khám phá về thế giới lượng tử, thế giới của các hạt hạ nguyên tử. Họ phát hiện ra electron là một hiện tượng kỳ lạ. Họ phát hiện ra sự hiện hữu của một điều họ gọi là “vấn đề đo đạc lượng tử.” Con có thể đo vị trí của một electron nhưng khi đó, nếu con biết vị trí này thật chính xác, con sẽ hoàn toàn không biết gì về vận tốc của nó, động lượng của nó. Và ngược lại, con có thể dùng một phương pháp khác để đo động lượng, nhưng nếu vậy thì con không biết gì về vị trí của nó. Con không thể biết mọi chuyện cùng một lúc. Có nghĩa là con không thể tiên đoán chính xác electron sẽ ở đâu trong tương lai.

Điều này, một lần nữa, ngược lại với hình ảnh cố hữu về một vũ trụ tựa như cỗ máy đồng hồ, theo đó nếu con biết các điều kiện sơ khởi thì con có thể tiên đoán mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Trong gần một thế kỷ qua, các nhà vật lý lượng tử đã chứng minh là việc tiên đoán như vậy không thể xảy ra trong thế giới lượng tử. Và ngay cả trong thế giới vĩ mô, điều này cũng không thể làm được. Các nhà khoa học đã tưởng điều này có thể làm được chỉ vì họ nghĩ là họ chỉ cần xem đến một số rất ít điều kiện. Kỳ thực, có rất nhiều điều kiện hơn là khoa học thời Newton biết đến, và do đó có những ẩn số mà họ đã không thể xem xét. Ngay cả ở mức vĩ mô họ cũng không thể tiên đoán được, nhưng với vật lý lượng tử thì các nhà khoa học đã chứng minh là việc tiên đoán chính xác không thể xảy ra. Điều con có thể làm là con có thể đo đạc một số lớn electron, rồi sau đó suy ra một giá trị trung bình để nhờ vậy con tiên đoán xác suất một electron đơn lẻ có thể ở vị trí nào ở một thời điểm nào đó. Con có thể tiên đoán một xác suất chứ không phải một kết quả chính xác. Điều này cũng có thể áp dụng cho các nỗ lực sáng tạo của con. Con có thể lập ra một hình ảnh về cái con muốn biểu hiện, con có thể gửi nó ra ngoài, nhưng con không thể tuyệt đối chắc chắn là nó sẽ thị hiện đúng y như vậy. Chỉ có một xác suất mà thôi.

Như vậy có nghĩa là con không thể bảo hình ảnh phải thị hiện chính xác. Con cần thực tế và nói: “Chắc chắn cái tôi gửi ra sẽ bị nhiễu sóng, cho nên cái quay trở về sẽ phần nào bị sự giao thoa làm cho méo mó đi, và nó sẽ không hoàn toàn đúng như cái tôi đã hình dung.” Rồi con cần đạt tới điểm nhận ra là con đã gửi ra viễn quan cao nhất mà con có thể vào thời điểm đó. Con đã phóng nó ra với mãnh lực tối đa mà con có thể trong trạng thái tâm thức của con lúc đó. Cái quay trở về đơn giản là cái cao nhất mà con có thể sản xuất trong những điều kiện vốn có là chính trạng thái tâm thức của con lẫn trạng thái tâm thức tập thể. Trong những điều kiện con phải làm việc, đó là thành quả tốt nhất có thể. Con không cần phải đánh giá là nó không toàn hảo hay tồi tệ vì nó không đúng hẳn như con hình dung. Vậy điều con có thể làm là nói: “Thôi được, có sự khác biệt giữa những gì tôi gửi ra và nhận trở lại, làm thế nào tôi có thể giảm thiểu sự khác biệt đây? Làm thế nào tôi cho nó bớt đi?”

Con có thể làm vậy bằng cách nâng cao tâm thức của con, loại bỏ một số ngã đó đã có thể khiến con có một viễn quan bất toàn hay thấp hơn khả năng của con, hay chúng đã có thể khiến con không dùng đủ uy lực khi con phóng chiếu nó ra. Con có thể thanh lọc bốn thể phàm để sự nhiễu sóng càng ít càng tốt trong các thể của chính con. Lẽ tự nhiên, những gì có mặt trong các thể cao của con sẽ giao thoa với viễn quan con gửi ra, ngay cả với khả năng hình thành viễn quan của con. Đấy là điều con có thể làm, và sẽ thật chính đáng nếu con nói: “Đã có sự khác biệt giữa cái tôi hình dung và cái tôi thị hiện. Tôi cần làm việc trên bản thân tôi và tâm thức của tôi.” Điều này không có nghĩa là con bất mãn với chính con. Con yêu dấu, cho dù con có đạt đến tầng tâm thức 144 thì trên địa cầu con vẫn không thể thị hiện đúng y như con hình dung. Tại sao vậy? Là vì như thày đã nói, trên trái đất con không có một quả cầu cá nhân nơi tâm con là tâm duy nhất tác động lên một phần cụ thể của Ánh sáng Mẫu-Vật và nhờ vậy nội dung trong tâm là hình tướng chính xác mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào. Ở đây con làm việc trong một không gian chung. Con phải chấp nhận là con đang ở trên một hành tinh với vật chất dày đặc và một tâm thức tập thể cũng dày đặc.   

7.9. Hãy bằng lòng với việc nâng cao tâm thức

Con phải cho phép những thứ đó can thiệp vào viễn quan của con vì một phần mục đích con sống và sáng tạo ở đây là để nâng cao tập thể. Con làm vậy bằng cách gửi ra một viễn quan cao nhất có thể và cho phép nó giao thoa, tương tác với tập thể. Có lẽ con chỉ thấy được là tập thể đang kéo thấp viễn quan con xuống, nhưng sự thật là viễn quan con cũng kéo tập thể đi lên. Đây chính là một phần ý nghĩa của việc đồng sáng tạo trên một hành tinh phi tự nhiên. Khi đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, con có quả cầu riêng của con, con có thể thị hiện đúng y như trong tâm con. Nhưng đây không phải là sự thể trên một hành tinh phi tự nhiên. Con không có quả cầu riêng của mình, cho nên con không thị hiện đúng được như con hình dung. Dẫu sao thì khi con kinh qua tiến trình này, tiến trình sáng tạo này, con cũng giúp nâng cao tâm thức tập thể.

Sứ giả này trong những năm đầu làm sứ giả đã cảm thấy phần nào bất mãn vì sách của ông đã không trở thành sách bán chạy nhất – hay đúng hơn không phải là sách của ông vì ông không xem là sách của mình mà là sách của các chân sư. Ông nghĩ: “Tại sao mọi người không chịu đọc lời dạy của các chân sư thăng thiên?” Và ông đã học cách nhận ra đây chỉ đơn giản là một viễn quan không thực tế. Thật không thực tế mà chờ đợi mọi người trên trái đất sẵn sàng nhận giáo lý của chân sư thăng thiên, vậy tại sao con lại chờ đợi là một quyển sách của chân sư thăng thiên sẽ đứng đầu trên danh sách bán chạy?

Sách bán chạy là sách phù hợp với mức tâm thức của mọi người, bởi vì nếu không, họ sẽ không thể thấy được trong sách có gì, thậm chí không thể nhìn nhận điều này. Ông đã học được là ông không thể đánh giá nỗ lực sứ giả của mình dựa trên sự kiện sách bán chạy hay không. Ông chỉ đơn giản bằng lòng với sự kiện sách đã có mặt trong bát cung vật lý, nơi người ta có thể tìm đọc ngay bây giờ hay mai hậu trong những thập niên tới. Đây không phải là vấn đề có bao nhiêu người, vì sự thành công của con như một người đồng sáng tạo trong bát cung vật lý không tùy thuộc vào sự công nhận của 80% quần chúng. Thày tin rằng con cũng thấy là nó không tùy thuộc vào sự công nhận của lớp 10% thấp nhất, đặc biệt là của sa nhân. Như một người đồng sáng tạo với một nhận thức tâm linh nào đó, con sẽ không bao giờ, không bao giờ có được sự công nhận từ sa nhân. Chuyện này giản dị sẽ không xảy ra, con yêu dấu. Con sẽ không bao giờ có sự công nhận đó được, cho nên việc chờ đợi chỉ là một kỳ vọng không thực tế. Con phải buông nó ra.

7.10. Nhìn nhận là con không thể làm hài lòng một số người

Con phải đạt tới điểm nhìn nhận là trên hành tinh này có những người con không thể làm hài lòng. Một số các con có thể có người thân thiết trong gia đình thuộc loại này. Vấn đề không nhất thiết là bảo họ là sa nhân, mà vấn đề là nhìn nhận: “Tôi sẽ không bao giờ làm hài lòng được người đó. Vậy tại sao tôi lại bận tâm? Tại sao tôi không chuyển quan tâm sang những người tôi có thể quan hệ tích cực? Tại sao tôi phải ở gần những người hay chỉ trích, tiêu cực hoặc luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn? Tôi có quyền chuyển sang những ai tôi cảm thấy đồng điệu thay vì những kẻ bị phiền hà bởi rung động của tôi và muốn bài bác tôi.” Khi con ngừng phán xét bản thân theo tiêu chuẩn của sa nhân hay quan điểm của người khác – là những người có thể bị ảnh hưởng bởi tiêu chuẩn của sa nhân – thì con có thể bắt đầu cảm thấy là mình thực sự có thể sáng tạo trên địa cầu.

Con có thể an bình sáng tạo cho dù nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ biểu hiện được những gì con có thể hình dung. Con cần nhìn nhận ở đây là khi con là một avatar hay một đệ tử tâm linh tiên tiến – kể cả khi con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu – con có khả năng hình dung một điều gì đó vượt xa những gì một người trung bình có thể hình dung, vượt xa những gì có mặt trong tâm thức tập thể. Lẽ tự nhiên khi con gửi ra xung lực này vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, nó sẽ gặp nhiễu sóng từ tâm thức tập thể vì nó gặp phải rất nhiều năng lượng thấp. Nhưng đây không phải là một thảm họa. Không phải là lỗi con nếu nó không thể hiện đúng như con đã hình dung. Con cần nhận ra là nó vẫn đem lại tác dụng tích cực, cho nên nỗ lực sáng tạo của con vẫn đáng công sức.

7.11. Một động lực cao hơn khi sáng tạo

Tất nhiên khi con nhận ra điều này, khi con xoay chuyển như vậy, con đạt tới điểm con không còn sáng tạo bởi vì con muốn: (1) biểu hiện một kết quả đặc thù nào đó, và (2) được người khác công nhận và chứng thực.

Những thứ đó không còn thôi thúc con nữa. Tiền bạc không còn thôi thúc con. Cái thôi thúc con là điều thày đã đề cập trong một bài giảng trước và cũng là mục đích thực sự của con khi con đến địa cầu, đó là con trải nghiệm chính mình ở đây. Con có thể tới điểm làm người sáng tạo mà phần thưởng cho sự sáng tạo của con không phải là những gì được thị hiện trong vật lý, không phải là sự công nhận, không phải là tiền bạc, mà là kinh nghiệm biết rằng con đã cố gắng trong môi trường đặc thù này. Con đã cố gắng – con đã thị hiện một cái gì cao hơn những gì có trước đó.

Phần thưởng của con chỉ đơn giản là thu hoạch kinh nghiệm này. Con có thể đạt tới điểm, cho dù con đang hiện thân trong vật lý, là con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Khi con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ đang trải nghiệm các nỗ lực sáng tạo của con như thế nào, đây là hình thức khen thưởng cao nhất cho nỗ lực của con. Tự thân nỗ lực này trở thành phần thưởng cho chính nó. Nó trở thành một tiến trình tự củng cố mà qua đó con sẽ không ngừng với lên cao hơn, không phải từ một cảm nhận thiếu thốn mà từ cảm nhận là con biết mình có khả năng hoàn thành một điều gì đó. Biết được những gì mình đã hoàn thành đem lại cho con cái biết là con có thể hoàn thành nhiều hơn. Con không bất mãn, con không luôn cảm thấy nó không đủ tốt, mà con cảm thấy những gì con đã tạo ra thực sự tốt đủ.

Vì con đã tạo ra cái đó, giờ đây con thấy là con có thể tạo ra cái gì cao hơn nữa, và con có thể cứ tiếp tục làm vậy. Không từ một cảm nhận thiếu hụt mà từ một cảm nhận dồi dào, một cảm nhận là con đầy ắp. Con đầy ắp. Con không có “lỗ hổng” nào trong bản thân mà con tìm cách lấp đầy. Niềm vui bây giờ là cảm thấy ly nước đang tràn ra ngoài. Đây là cảm nhận liên tục là cái chén của dòng chảy sáng tạo của con đang tràn ra ngoài và được gửi vào môi trường của con. Chính cái đó cho con niềm vui, niềm toại nguyện và sự tràn trề đến độ nó tràn cả ra ngoài. Cái đó, thày mong muốn con có được, con yêu dấu, và thày hy vọng một số các con sẽ dùng những lời dạy này để đạt được. Vì đó cũng chính là điều con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là tiềm năng cao nhất của con trong kiếp sống này mà con đã muốn chứng được.

9 | Tự dạy mình tẩy xóa ký ức

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị ở Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày muốn khai triển những gì thày đã trao con hôm qua cùng những gì Mẹ Mary đã trao con và hướng về đề tài làm thế nào con có thể khắc phục quá khứ của con. Trong số các con hôm nay có một người nói với sứ giả này là ông vẫn cảm thấy bị kẹt trong quá khứ, sống trong quá khứ, nhìn lại quá khứ, thậm chí còn ao ước một thiên đàng đánh mất mà mình đã trải nghiệm ở một thời điểm trong quá khứ. Nhiều, rất nhiều người tâm linh khắp nơi trên thế giới mang cảm nhận là mình đã đánh mất cái gì đó và tất nhiên, đúng là con đã mất một cái gì. Con đã mất sự trong trắng mà con có trước khi đến đây, và theo một nghĩa nào đó, giáo lý của các thày cũng có thể gọi là một nỗ lực để giúp con hồi lại, giành lại sự trong trắng này.

Bây giờ, làm thế nào con thoát ra khỏi cảm giác mình sống trong quá khứ, bị vướng buộc vào quá khứ? À tất nhiên, các thày đã trao cho con nhiều dụng cụ và giáo lý rồi. Rõ ràng là một khi con làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, đã cuốn hút con vào những nghĩ ngợi về một số tình huống đã qua thì việc này sẽ giúp con thoát ra khỏi. Khi con giải thể một số ngã, khi con thấy chẳng hạn nếu con đã phải chịu một chấn thương, đã tạo ra một cái ngã để đáp trả lại nó, để phản ứng lại nó, thì khi nhận diện được ngã và để cho nó chết đi, ít nhất con sẽ thoát ra khỏi tình huống đó.

9.1. Khắc phục nỗi sợ phải lấy quyết định

Hơn vậy, có những cái ngã không thực sự do con tạo ra để phản ứng lại một tình huống đặc thù. Chúng được tạo ra để phản ứng lại cảm giác mình là người đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Chúng ta còn có thể nói là những ngã này có mặt rất rõ ràng trong tâm thức tập thể. Thật khó lòng mà không bị chúng ảnh hưởng, đặc biệt sau khi con phải chịu một chấn thương nhập đời và bị sốc là các điều kiện trên trái đất có thể khác xa đến vậy so với những gì con đã hình dung trước khi đến đây. Thật quá dễ để con khoác vào một số những ngã tập thể này đã được tạo ra suốt một thời gian rất dài, và như các thày đã nói, chúng được tạo ra để đối phó với một hoàn cảnh mà con người không thể sống chung. Con không thể sống nổi với hoàn cảnh, con không thể trốn chạy khỏi nó, cho nên con phải tìm được cách ứng phó với nó, để ít nhất con có thể sống cho dù là không thoải mái hay an bình.

Có những cái ngã đã quanh quẩn trong tâm thức tập thể từ rất lâu, và một trong những ngã này tất nhiên – để khai triển những gì Mẹ Mary vừa giảng – là cái ngã bảo rằng con phải toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Ngã này khiến con cảm thấy là nếu con đã làm chuyện gì mà chính con hay người khác gọi là lỗi lầm, thì con sẽ không thể trốn thoát khỏi nó. Thậm chí tôn giáo còn thường bị người ta sử dụng để lập ra chuẩn mực cho cách cư xử của mọi người. Nếu con làm chuyện gì mà tôn giáo của con liệt vào loại tội lỗi, con cảm thấy mình bị ô uế bởi tội lỗi này cho đến ngàn đời. Người ta còn đưa ra khái niệm về tội tổ tông, qua đó con sinh ra đã là người có tội do những gì cha mẹ con đã làm hay tổ tiên con đã làm, đi ngược về tận thời Adam và Eva. Rõ ràng con có thể thấy những loại tư tưởng như vậy vi phạm hoàn toàn thực tế của quyền tự quyết. Nhưng chúng ta không nên đi quá sâu vào chuyện này mà hãy tập trung vào sự kiện là có đủ loại ngã muốn con nghĩ rằng một khi con đã làm một việc gì con chấp nhận là sai lầm thì con không thể thoát ra khỏi, và như các thày đã nói, con không thể gỡ bỏ tình huống vật lý đó.

Vậy thì làm sao con có thể thoát khỏi quá khứ con đây? À, thày là chân sư, là Thượng sư của Tia thứ Nhất của Ý chí Thượng đế, vậy làm thế nào con thoát khỏi quá khứ của mình? Nói cho cùng, con phải lấy một quyết định để được tự do. Hiển nhiên thày đã không giúp con nhiều lắm khi thày nói: “Con phải lấy một quyết định để được tự do khỏi quá khứ.” Đa số các con sẽ cảm thấy: “Nhưng con làm thế nào chứ?” Thậm chí con có thể sợ lấy quyết định nữa là đằng khác. Nhưng con cần nhận ra ý chí là một động lực vô cùng đũng mãnh – cái ý chí muốn là con người mà con là, ý chí muốn là một người sáng tạo, ý chí muốn sáng tạo một điều gì chưa có mặt bây giờ.

Đây là một mối đe dọa to lớn cho sa nhân cùng sự kiểm soát của chúng trên địa cầu. Chúng không muốn con sáng tạo. Chúng không muốn con khởi lên một điều gì mà chúng không thể đoán trước. Nếu chúng không thể đoán trước thì chúng không thể kiểm soát. Để dùng cách diễn tả của Nada, chúng muốn “đập dí” sự sáng tạo của con để nó không phá rối hiện tình trong xã hội mà chúng kiểm soát. Một cách để chúng làm vậy là qua cái chuẩn mực bảo rằng con phải toàn hảo nếu không thì con tồi tệ, và chúng khiến con cảm thấy là con đã lầm lỗi. Nhưng làm thế nào con đã lầm lỗi chứ? Bằng cách lấy một quyết định.

Có một cái ngã đã có mặt trong tâm thức tập thể từ lâu đời, nó bảo rằng việc lấy quyết định thật nguy hiểm, và như một cá nhân, con thật sự nên ngừng lấy quyết định. Con nên tuân theo chuẩn mực, tuân theo tiêu chuẩn, tuân theo quy luật, hành xử y như mọi người khác. Theo một nghĩa nào đó, con vẫn lấy quyết định nhưng trong một khuôn khổ được quy định rất hạn hẹp. Con không đang có những quyết định sáng tạo – những quyết định mới mẻ, những quyết định thử nghiệm. Con chỉ đang “làm”, đang quyết định giống y như mọi người khác đã từng quyết định. Ngã này phóng chiếu vào con là nếu con làm vậy, con sẽ an toàn, con sẽ chuẩn, con sẽ không lầm lỗi, con sẽ không bị lên án, con sẽ không bị coi rẻ. Con thấy ở đây có một cái ngã tập thể rất mạnh mẽ không muốn ai có những quyết định sáng tạo cá nhân. Ngã này nói: “Bạn đừng lấy quyết định, bạn không thể phạm lỗi.”

9.2. Quyết định là mình không sợ quyết định

Đương nhiên nếu con đã đến trái đất như một người đồng sáng tạo, như một avatar, hay nếu con là một cư dân nguyên thủy đã phát triển đến một tầng tâm thức nào đó, con không thể an bình nếu con rơi vào tâm thái đó. Nếu con đem ngã này vào bốn thể phàm của con, con không thể an bình với việc mình ở trên trái đất vì con thừa biết là con không đang hoàn thành mục tiêu của mình khi đến đây. Con không đang hoàn thành tiềm năng cao nhất của con, con không tăng triển, con không tự thăng vượt. Con không thể an bình với ngã đó. Chừng nào con không sẵn lòng lấy quyết định thì con sẽ không thể an bình – chỉ giản dị vậy thôi. Con cần làm gì để vượt qua bế tắc, vượt qua thế lưỡng nan này? À con yêu dấu, con cần lấy quyết định – chỉ giản dị vậy thôi.

Và đây cũng là điểm mà ngay cả giáo lý các thày trao truyền đôi khi cũng có thể cho con một cái nhìn hơi méo mó. Con chỉ việc trở về thời thập niên 1930 khi Saint Germain lần đầu tiên ban truyền kỹ thuật thỉnh cầu ngọn lửa tím, con thấy một số học trò của chân sư thăng thiên suy luận rằng tất cả những gì họ cần làm là thỉnh cầu đủ ngọn lửa tím thì một buổi sáng họ sẽ thức dậy sẵn sàng thăng thiên. Tất nhiên là chuyện này không bao giờ xảy ra, và như các thày đã nói, đây không phải là một con đường máy móc.

Con có thể lấy các lời dạy mà các thày ban ra ngày nay và bảo: “À, tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh, thì tôi sẽ giải tỏa năng lượng cảm xúc đang kéo tôi trở về quá khứ, rồi tôi cần giải thể những ngã này thì một ngày kia tôi sẽ được tự do khỏi quá khứ.” Tất nhiên, việc giải tỏa năng lượng và loại bỏ ngã sẽ giúp con giảm thiểu lực kéo của quá khứ trên con. Nhưng đâu là cái “tôi” mà quá khứ lôi kéo? Các thày đã gọi đó là cái Ta Biết, đơn giản để diễn tả là có một thành phần trong con người phàm của con – cái bản thể đang hiện thân – và thành phần này không phải là bốn thể phàm của con, không phải là ngã tách biệt của con, cũng không phải là ý niệm nhân cách của con, mà là cái gì vượt khỏi những thứ đó. Đó là cái cho con sự tự nhận biết giúp con bước lui lại khỏi hoàn cảnh hiện tại, khỏi ý niệm bản sắc hiện tại của mình, và quyết định là con muốn thay đổi.

Mỗi khi con nhận diện: “Ồ, tôi có một ngã tách biệt trong bản thể tôi đang phóng chiếu là có vấn đề này tôi phải giải quyết,” cái gì là cái có khả năng nhận ra như vậy? Đó là cái Ta Biết. Đó là thành phần trong con có khả năng ý thức được tâm thức của con, ý thức được những gì đang diễn ra trong tâm thức con. Con thấy là nhân cách vỏ ngoài của con, chẳng hạn, hoàn toàn bị bao trùm trong hoàn cảnh hàng ngày. Nhân cách vỏ ngoài không thể bước lui lại và nói: “Bây giờ đến lúc tôi cần hành xử khác hơn.” Nhưng đó là điều cái Ta Biết có thể làm khi nó ý thức được khả năng này của nó. Nó có khả năng bước lui lại.

Một ngã tách biệt không thể bước lui lại, nó không thể nói: “Ồ, tôi muốn giải thể chính tôi.” Cái Ta Biết có thể bước lui lại và nói: “Tôi muốn giải thể ngã này vì nó không phải là cái ta của tôi, nó không phải là con người tôi là.” Mỗi khi con nhận biết có một ngã tách biệt, đó chính là cái Ta Biết đang sử dụng khả năng của nó để ý thức những gì đang xảy ra trong tâm con. Con có thể nói đó là thành phần trong tâm con có khả năng ý thức về phần còn lại của tâm. Đây chỉ là một cách diễn tả.

Vậy con sẽ cần gì để cho một ngã tách biệt chết đi? Ấy, cái Ta Biết phải lấy một quyết định, và đâu là quyết định con phải lấy để cho bất kỳ ngã nào chết đi? Như các thày đã giảng, có một cái ngã phóng chiếu ra là có một vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn để khai triển thêm bài giảng vừa rồi của Mẹ Mary, lấy ví dụ có một ngã tách biệt phóng chiếu là con cần phải toàn hảo, nếu không thì con rất tệ. Ngã không bao giờ có thể chất vấn chuyện này, nó sẽ tiếp tục phóng chiếu vào con là con cần cố gắng trở nên ngày càng tốt hơn để có thể toàn hảo. Hoặc có một ngã khác phóng chiếu là khi con không toàn hảo – và hiển nhiên, con không bao giờ toàn hảo được – thì con phải cảm thấy tủi hổ. Rồi có một ngã khác nữa phóng chiếu là con phải ngừng cố gắng vì rõ ràng con không đủ tốt, hay có gì đó sai quấy với con, vân vân.

Các ngã này không bao giờ có thể khắc phục được sự lập trình của chúng. Điều cái Ta Biết cần làm là nhìn ra ảo tưởng đằng sau sự phóng chiếu của ngã, nhìn ra vấn đề do ngã phóng chiếu là không thực và vì vậy không có giải pháp. Không hề có giải pháp nào. Toàn hảo là gì? Chưa bao giờ có ai định nghĩa được toàn hảo là gì vì nó không thể được định nghĩa, vì đó là một khái niệm vô nghĩa. Cho nên con yêu dấu, đó là một vấn đề không thể giải quyết. Con không thể trở nên toàn hảo. Một khi cái Ta Biết thấy được điều này, nó có thể lấy quyết định: “Tôi không còn muốn chú ý của tôi bị buộc chặt vào việc cố giải quyết vấn đề bất khả này.” Và con để cho ngã chết đi.

9.3. Con đường thoát khỏi quá khứ

Đối với việc khắc phục quá khứ thì có lẽ nó hơi khác một chút. Cho dù con cũng có một cái ngã phóng chiếu là con không thể thoát khỏi quá khứ, nhưng đâu là vấn đề mà ngã này phóng ra? Đó không hẳn là một vấn đề đơn giản vì ngã không thật sự phóng chiếu là có gì đó con cần giải quyết – vì không có chuyện gì để giải quyết. Quá khứ, theo ngã này, đã được khắc trên đá nên con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Điều mà ngã thật sự phóng chiếu là con phải cảm thấy tồi tệ về những gì đã xảy ra trong quá khứ và con phải tiếp tục cảm thấy như vậy. Thật không có vấn đề gì cần giải quyết ở đây, theo nghĩa là ngã không cho con một lối thoát.

Một số các ngã kia, chúng cho con một lối thoát, ít ra ảo tưởng là một ngày con có thể trở nên toàn hảo. Nhưng ngã này không cho con lối thoát vì con không thể thay đổi quá khứ dựa theo những gì nó phóng chiếu. Tất nhiên con có thể nhìn ra đây cũng là một tình huống bất khả, nhưng hầu hết mọi người đều đã được lập trình từ nhiều tiền kiếp để tin rằng có một sự thật nào đó ở đây, theo nghĩa là con không thể thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, con không thể gỡ bỏ những gì con đã làm. Nếu con đã phạm vào cái gọi là lỗi lầm thì con không thể hoàn nguyên.

Vậy con có thể làm gì để vượt quanh vấn đề, để nhìn nó một cách khác? Con có thể khai triển những gì thày đã trao cho con trong bài giảng trước khi thày nói là mọi chuyện con làm đều được làm với năng lượng cơ bản, dạng cơ bản của Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo bốn thể phàm của trái đất, bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất trên trái đất. Có một năng lượng ở đó, và tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng này. Đơn giản, như các thày đã giảng, năng lượng này giống như những cái chấm trên một màn hình có thể bật hay tắt, có thể khoác vào những màu sắc và hình thù khác nhau, có thể sắp xếp thành những mô thức khác nhau.

Như thày đã nói, con cần bắt đầu luyện tập để thấy được năng lượng đằng sau các hình ảnh mà tâm con phóng chiếu lên năng lượng. Hiển nhiên đây không phải là một công việc dễ dàng như các thày mô tả, vì một lần nữa, từ rất lâu tâm thức tập thể đã bị đông đặc lại chung quanh một số hình ảnh như chẳng hạn thế nào là tội lỗi, thế nào là sai trái. Con phải xấu hổ vì đã làm chuyện sai trái, và con phải cảm thấy là mình không bao giờ có thể được chuộc lỗi. Tất cả những thứ này và nhiều, rất nhiều thứ nữa có mặt trong tâm thức tập thể, nhưng con vẫn có thể luyện tập để nhận ra là tất cả đều được tạo bằng năng lượng và năng lượng thì chỉ là năng lượng. Đó chỉ đơn giản là năng lượng.

Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó, như trong ví dụ thày đã cho là màn hình chiếu bóng có một số hình ảnh con đang xem, nhưng thực sự đó chỉ là những mô thức ánh sáng. Con có thể nhìn vào một tình huống nào đó trong quá khứ xuyên qua một cái ngã đặc thù bảo rằng con đã phạm lỗi lầm và con không bao giờ có thể chuộc lỗi và con phải xấu hổ. Con có thể nghĩ là tình huống đó đã xảy ra cho nên nó có một thực tế khách quan nào đó. Nó không chỉ là một chuyện chủ quan. “Không, chuyện đó đã xảy ra. Người khác đã thấy nó xảy ra. Thượng đế đã thấy nó xảy ra.” Mắt trời nhìn thấy mọi chuyện và mắt trời đã thấy nó xảy ra, và Thượng đế sẽ mãi mãi cầm giữ hình ảnh lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Mọi người khác sẽ mãi mãi cầm giữ lỗi lầm của con và con sẽ không bao giờ thoát ra được. Nói cách khác theo sự phóng chiếu của các ngã và sa nhân, một tình huống đã xảy ra trong quá khứ với một thực tế khách quan. Và đây là điểm con có thể bắt đầu chất vấn điều này và ngộ ra một sự thật vô cùng, vô cùng đơn giản.

9.4. Quá khứ của con không có thực tế khách quan

Thượng đế, như các thày đã nói: Thượng đế Sáng tạo không ngó đến bất cứ gì xảy ra trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Cho đến khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ hoàn toàn không nhìn đến nó. Tâm thức Thượng đế mãnh liệt đến độ nó sẽ có đủ loại tác động, và ngài đã ban quyền tự quyết cho các sinh thể đồng sáng tạo của ngài. Nói chung, một bầu cõi chưa thăng thiên ra đời khi Thượng đế tạo ra một bầu cõi, gửi sinh thể đồng sáng tạo vào đó rồi nói: “Bây giờ các con hãy đi ra và làm bất cứ gì các con muốn trong bầu cõi này vì ta sẽ không nhìn đến nó.” Khi bầu cõi thăng thiên thì Đấng Sáng tạo sẽ nhìn, nhưng trước đó thì không. Thượng đế đích thực không phán xét con, không lên án con và không cầm giữ hình ảnh về những gì con đã làm trong quá khứ. Loại thượng đế nào mới cầm giữ? À, các thượng đế giả do sa nhân tạo ra, nhưng liệu đó có phải là thượng đế mà con cần quan tâm hay không? Thày không nghĩ vậy, con yêu dấu, khi con biết những gì con biết.

Nếu Thượng đế không cầm giữ hình ảnh về sự việc trong quá khứ, thì hình ảnh những việc con đã làm sẽ tồn tại ở đâu? Đâu là nơi một hình ảnh khách quan sẽ tồn tại? À, con có thể nói: “Trong các Hồ sơ Akasha.”

Phải, trong Hồ sơ Akasha có ghi lại những gì con đã làm trong quá khứ, nhưng đó không phải là một bản ghi những gì con đã nhìn thấy, hay sa nhân đã nhìn thấy, hay người khác đã nhìn thấy. Đó là một bản ghi những sóng năng lượng, những mô thức sóng năng lượng. Hồ sơ Akasha chỉ đơn giản ghi nhận mà không đưa ra một phán xét nào về cách con nhìn tình huống xảy ra. Những hình ảnh mà con gán lên đó, những xét đoán mà con gán lên đó bảo rằng con đã lầm lỗi, không hề được ghi lại trong Hồ sơ Akasha. Các mô thức sóng năng lượng được ghi lại ở đó nhưng chỉ vậy thôi. Hồ sơ Akasha không nhìn sự việc một cách ý thức và đưa ra lời phán xét việc làm của con là sai trái và con phải cảm thấy như thế nào.

Vậy thì những ý tưởng kia bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng được cất ở đâu chứ? À, chúng có thể nằm trong tâm của người khác, và một số những người này có thể là sa nhân. Vậy cái nằm trong tâm người khác – và chắc chắn cũng nằm trong tâm sa nhân – cái đó có khách quan không? Không đâu, đấy là một xét đoán hoàn toàn chủ quan.

Có một nơi khác nữa mà bản ghi các lầm lỗi cũ của con có thể được cất giữ là trong bốn thể phàm của chính con, trong chính tâm con – nhưng cái này có khách quan không? Cũng không, đấy không phải là một thực tại khách quan vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào nội dung tâm thức con, kể cả những ngã tách biệt đã pha màu nhận thức của con.

Hẳn con thấy được điều thày đang nói chứ, con yêu dấu? Không hề có một thực tế khách quan nào trong những gì con đã làm trong quá khứ. Phải, có một mô thức sóng năng lượng nào đó trong Hồ sơ Akasha, nhưng toàn bộ ý tưởng cho rằng con là kẻ có tội, rằng con là người xấu, rằng con đã lầm lỗi, thì cái này không có bất kỳ thực tế khách quan nào. Nó không được ghi lại ở bất cứ đâu.

Các thày là chân sư thăng thiên, các thày không giống như Thượng đế của Kinh Cựu ước. Các thày cũng không cầm giữ một hình ảnh nào về con. Các thày có thể thấy một số điều con làm nhưng các thày không phán xét con với tâm thức nhân gian. Các thày không phán xét con gì hết. Các thày chỉ nhìn con từ nhãn quan các thày, và điều này thì các thày đã cho con hé thấy nhiều lần, nó rất khác với nhãn quan con người. Một lần nữa, những gì con đã làm trong quá khứ không hiện hữu trong bất kỳ thực tại khách quan nào cả. Chỉ có chính con hay những người khác mới có thể phú cho nó một sự hiện hữu lâu dài. Đây tất nhiên là một trong những ân sủng của việc tái đầu thai – nếu có thể nói như vậy. Nếu con sống thọ một ngàn năm và có những người con đã quen biết cả ngàn năm, thì họ vẫn có thể giơ ngón tay lên bảo rằng: “Bạn có nhớ bạn làm gì cách đây 992 năm không?” Nhưng với tuổi thọ ngắn ngủi mà các con có, họ chỉ có được vài chục năm để giơ ngón tay như vậy. Ở đây con thấy được là có một thực tế đi đôi với việc đầu thai, và thực tế này là như sau: Con có thể đem theo con từ kiếp này sang kiếp khác các hình ảnh cá nhân chủ quan của mình về những gì mình đã làm trong một tiền kiếp, con có thể đem chúng theo con trong bốn thể phàm của con – thường thường thì con không ý thức, nhưng con có thể đem chúng theo với con. Còn những người khác, họ không đem theo các hình ảnh này với họ. Họ có thể mang theo một cảm nhận nào đó về mối quan hệ với con nhưng không phải là chi tiết cụ thể.

9.5. Biết ký ức được lưu trữ ở đâu

Nói cách khác, nếu con lấy một tình huống đã xảy ra cho con cách đây 300 năm có liên quan đến hai người khác, con có thể đặt mình vào một trạng thái hồi quy thôi miên (hypnotic regression), quay trở lại tiền kiếp đó và lấy lại ký ức đó. Con có thể đưa hai người kia cũng trở về tiền kiếp, lấy lại và đánh thức lại ký ức của họ về kiếp đó, và họ sẽ nhớ lại những gì chính họ đã làm cùng cách nhìn của họ về tình huống. Nhưng họ sẽ không nhớ được chi tiết những gì con đã làm cùng cách nhìn của con về tình huống. Con cần hiểu ở đây là con mang với con từ tiền kiếp những gì chính con đã làm và cách nhìn của con, nhưng người khác thì không thể nhớ lại việc con đã làm 300 năm về trước. Con cần nhìn nhận ở đây là ký ức của con về quá khứ chỉ thực sự hiện hữu trong bốn thể phàm của con mà thôi.

Như các thày đã có nói, con không có quyền năng thay đổi các thể phàm của người khác, nhưng con quyền năng làm chủ bốn thể phàm của con và loại bỏ những gì con muốn loại bỏ ra khỏi chúng. Trở về với câu nói của thày rằng Hồ sơ Akasha không ghi lại cách con nhìn việc làm của con mà chỉ ghi lại một số mô thức sóng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đi dạo trong công viên gần nhà nơi đó có một sân chơi cho trẻ em, con nghe thấy tiếng ồn ào rất lớn ở đó và con lại gần để tìm hiểu xem chuyện gì. Con thấy một người đàn ông đứng đó nhìn xuống bãi chơi cát, la hét rất to tiếng. Con tiến lại gần và nhận ra một người cha đang nói chuyện với đứa con hai tuổi đang xây một lâu đài cát xinh xinh trên bãi chơi cát. Ông ta quở trách đứa con hai tuổi sao lại xây lâu đài cát xấu xí, sao nó hư đốn vì lâu đài sẽ không bao giờ được xóa bỏ, sao nó đã làm hỏng cát, sao tội của nó rất lớn – đủ lời mắng nhiếc mà người cha đổ lên đầu con mình. Đứa bé trông rất sợ hãi, nó không thích bị la mắng.

Thoạt đầu con rất bối rối trước tình huống này, nhưng rồi con nhận ra là điều người cha thực sự muốn nói là đứa bé khi xây lâu đài bằng cát đã phạm một lỗi lầm sẽ không bao giờ tẩy xóa được. Bất chợt không suy nghĩ, con bước vào nói: “Này ông bạn, ông hãy nhìn này,” và con lấy tay gạt phăng chiếc lâu đài cát đi, khiến cho cát trở lại tình trạng nguyên sơ của nó. Không còn hình thù gì ở đó nữa mà chỉ còn cát thôi. Con nói: “Đấy, ông có còn trách con ông là nó đã phạm một lỗi lầm không bao giờ xóa bỏ được hay chăng?” Người cha tất nhiên không biết nói gì cho nên con bước đi, và trong khi con bước ra khỏi sân chơi thì con nghĩ: “Hay thật, mình vừa chặn họng được ông này.”

Thế rồi trước sự ngỡ ngàng của con, con nhận thấy một tấm gương đứng ngay ở đó, con chợt soi vào gương và con ngộ ra: “Ủa, mình có đang làm y như vậy đối với chính mình hay chăng? Mình có đang tự mắng nhiếc vì mình đã xây một lâu đài bằng cát, đã phạm một lỗi lầm không bao giờ tẩy xóa được, trong khi kỳ thực bất cứ gì mình đã làm trên hành tinh này đều được làm với năng lượng mềm mại như cát, và mình có thể đưa năng lượng trở về trạng thái không phân biệt của nó cũng dễ dàng như đống cát mình vừa gạt phăng hồi nãy?” Con ngộ ra đây chính là điều con đã từng làm – không phải là con mà là một ngã tách biệt đặc thù trong bản thể con đã từng làm, không những trong kiếp này mà rất có thể trong nhiều tiền kiếp, có lẽ suốt hai triệu năm trời. Đây là một trong những cái ngã tập thể mạnh mẽ nhất ở đây trên trái đất, nó khiến con người nghĩ rằng một khi mình đã xây một lâu đài cát bị dán nhãn là “sai lầm” hay “tồi tệ” thì lâu đài sẽ không bao giờ tẩy xóa được.

9.6. Quyết định xóa bỏ lâu đài cát

Nhưng đó là một lâu đài cát. Thày không cần biết con đã làm bất cứ gì trong một kiếp trước. Một số đệ tử của chân sư thăng thiên đã có những hé thoáng hay hồi tưởng hay hồi quy về tiền kiếp, và họ nhìn thấy họ đã khiến cho cả một nền văn minh sụp đổ. Nhưng thày không cần biết con đã làm gì, con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một lâu đài bằng cát và con có thể gạt bay nó đi. Con sẽ cần gì để gạt bay nó đi? Trong nhiều trường hợp khi con làm gì đó tác động đến người khác, con đã tạo ra điều các thày gọi là nghiệp, mà thực sự chỉ là một dạng năng lượng tha hóa. Con có thể làm một số chuyện. Con có thể hối chuộc với người kia, và nhiều người trong các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Cho dù con đã làm ai tổn thương trong một dĩ vãng xa xôi, con đã đền bù trong kiếp trước rồi.

Con có thể đọc chú, đọc thỉnh để làm tan năng lượng. Con có thể giải thể cái ngã đã khiến con hành xử như vậy, và con yêu dấu, nhiều người trong các con đã làm rất nhiều việc như vậy rồi trong các kiếp trước. Nhiều người trong các con có khả năng sử dụng các dụng cụ do các thày trao truyền đã rất nhanh chóng đạt tới mức con đã đền bù, con đã làm những gì cần làm để được tự do khỏi quá khứ, ngoại trừ chỉ một điều thôi, và điều này là lấy quyết định ý thức là con sẽ gạt bay lâu đài cát kia đi. Lâu đài cát là hình ảnh con cầm giữ trong tâm mà con đang áp chồng lên cát, lên năng lượng, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Như thày đã nói, đó là ký ức của con về một sự cố. Đó chính là hình ảnh con đang cầm giữ, và khi con nhận biết mình đã làm gì đó trong quá khứ vẫn đè nặng lên mình, thì con hãy dùng các dụng cụ, con hãy làm những gì cần làm. Con phải nhận biết, con phải nhạy cảm với sự kiện là sẽ tới điểm khi điều duy nhất, điều tuyệt đối duy nhất, còn sót lại cho con làm là gạt bay hình ảnh con cầm giữ trong tâm con.

Cái đó đòi hỏi con lấy một quyết định, quyết định ngừng bám lấy hình ảnh đó về bản thân, rằng mình là một người xấu xa đã phạm phải lỗi lầm hay những chuyện như vậy. Con có nhận ra điều thày vừa nói cách đây mấy phút? Đấng Sáng tạo không ngó đến những việc con làm trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Ngài đã nói: “Một bầu cõi chưa thăng thiên là một bãi chơi cát vũ trụ.” Không có gì con làm có thể khiến cho cát bị tổn thương, không có gì con làm có thể trở nên vĩnh hằng. Con hãy đơn giản gạt bay cái hình ảnh con cầm giữ trong tâm rằng mình là người xấu, mình là người có tội, mình là một kẻ thất bại không có quyền ở đây, không muốn ở đây, thù ghét ở đây – tất cả hình ảnh loại đó. Sẽ tới điểm con phải đơn giản nhìn vào hình ảnh và gạt bay nó đi. Không có gì phải giải quyết, không có gì phải làm ở đây, hãy chỉ gạt bay nó đi và cho phép mình quên mất là hình ảnh đã từng hiện hữu.

9.7. Chất vấn thực tế của “thế giới thực”

Con có thể luyện tâm mình để nhìn xa hơn các hình ảnh và thấy được năng lượng đang rung động nhịp nhàng đằng sau hình ảnh. Con còn có thể luyện tâm để thấy thế giới vật lý là một rạp hát. Khi con bước lên sân khấu và đi ra phía sau dàn trang trí, con thấy tất cả chỉ là chuyện dàn dựng. Không có gì ở đây là thực, không có gì ở đây là thường hằng. Nó trông có vẻ thực từ một góc nhìn nào đó, cụ thể là từ góc nhìn của khán giả. Đâu là mục đích của một vở kịch trong nhà hát? À, là để cho khán giả một loại trải nghiệm đặc thù. Nếu con đang theo dõi kịch Hamlet của Shakespeare và có những diễn viên xuất sắc hiểu cách nhập vào vai diễn, thì con cũng có thể nhập vào vai đó và có một trải nghiệm độc đáo khi xem màn trình diễn. Cũng đúng y như vậy với mọi thứ khác xảy ra trong cái con gọi là “thế giới thực”.

Có lẽ ảo tưởng lớn nhất mà sa nhân đã áp đặt lên nhân loại là bảo rằng mọi chuyện xảy ra trên trái đất là “thế giới thực.” Chẳng có gì thực trong đó theo một nghĩa khách quan. Toàn bộ mục đích của trái đất là đem lại cho các dòng sống một trải nghiệm đặc thù. Tất nhiên, con yêu dấu, để có được trải nghiệm này thì con phải tin là nó thực. Là một đệ tử tâm linh tinh tiến, sẽ tới điểm con sẵn sàng chất vấn cái thực của trải nghiệm mà mọi người khác đang có. Liệu có một thế giới khách quan chăng? Như các nhà vật lý học đã đặt câu hỏi, liệu thế giới có mặt ở đó hay không khi không có ai đang nhìn? Câu trả lời là năng lượng có ở đó, nhưng các hình ảnh do tâm con người tạo ra khi họ nhìn năng lượng thì không có đó. Chúng không có thực tại khách quan nào cả.

9.8. Tẩy xóa quá khứ

Con yêu dấu, con có hiểu những gì thày nói ở đây? Không, con không hiểu, và đó là tại sao con cần suy nghiệm điều này và suy nghiệm thêm nữa. Nếu có cây đổ trong rừng và không có ai ở đó, thì liệu nó có tạo tiếng động hay không? Nếu cây đổ thì sẽ có một số sóng năng lượng hiện hữu, là sóng năng lượng cấu tạo cái con gọi là cây. Các sóng này chuyển động cho tới khi chúng tương tác với các sóng năng lượng cấu tạo mặt đất. Điều này tạo ra một mô thức giao thoa sẽ gửi ra những sóng năng lượng khác nữa mà con nhận thức là âm thanh. Các sóng năng lượng vẫn ở đó nhưng đó không phải là âm thanh. Đó chỉ là sóng năng lượng mà thôi.

Bây giờ con thử lấy tình huống này. Chúng ta đang ở Đông Âu cho nên chúng ta hãy thử nhìn vào việc Liên Xô chiếm đóng Đông Âu. Nếu không có người nào ở đây thì liệu chuyện này đã có xảy ra hay không? À, nếu không có ai ở đây thì nó đã không xảy ra, sẽ không có ai để khiến nó xảy ra. Vấn đề ở đây là, liệu đã có một sự cố khách quan nào diễn ra hay không? Có, đã có một mô thức nào đó, một sự tương tác nào đó, một mô thức sóng năng lượng vô cùng phức tạp, nhưng trải nghiệm mà người ta có không nằm ở mức sóng năng lượng, nó nằm trong tâm con người. Người ta gọi đó là cái gì đó, người ta nhìn nó theo một cách nào đó.

Thày không đang chê trách ai ở đây, con yêu dấu. Thày không chê trách các dân tộc Đông Âu cảm thấy mình bị Liên Xô đàn áp, ức chế. Thày không đổ lỗi cho họ mà thày chỉ muốn nói là đã có một tình huống khách quan theo nghĩa là một số người đã thực hiện điều con gọi là chiếm đóng Đông Âu, trấn áp người dân nước khác. Có những người đã làm công cụ cho việc thực hiện điều này trong cõi vật lý. Nhưng cách con người trải nghiệm điều này là sản phẩm của một mô thức giao thoa, một sự tương tác giữa các sóng năng lượng được kích hoạt bởi đoàn quân chiếm đóng của Liên Xô với các sóng năng lượng trong tâm những người bị chiếm đóng. Đã có một trải nghiệm mà mọi người ở cả hai bên đã nếm trải, nhưng đây không phải là một trải nghiệm khách quan. Kỳ thực con có khả năng bước lui lại để có được một tầm nhìn hoàn toàn mới lạ về chuyện này. Thay vì nhìn các biến cố mà mọi người đều đồng ý là đã diễn ra, con có khả năng nhìn các sóng năng lượng để thấy chúng giống như hạt cát trong bãi chơi cát. Bất kể có bao nhiêu người đã tham gia vào biến cố này, các năng lượng vẫn có thể dễ dàng được tẩy xóa và đem trở về trạng thái nền của chúng.

Tất nhiên, đây sẽ là một công việc phức tạp vì mọi người liên hệ sẽ phải quyết định buông bỏ các hình ảnh của mình về quá khứ. Nếu chẳng hạn như dân tộc Estonia hội tụ lại, nhìn vào quá khứ của mình và nói: “Chúng tôi như một tập thể sẽ buông bỏ mọi cảm xúc mình đã có về quá khứ. Chúng tôi sẽ hoàn toàn để cho các cảm xúc này ra đi. Thậm chí chúng tôi sẽ không tha thứ cả cho người Nga về những gì họ đã gây cho chúng tôi. Chúng tôi sẽ buông bỏ toàn bộ ý tưởng là có gì đó cần phải tha thứ. Chúng tôi sẽ gạt bay các hình ảnh mình còn cầm giữ.” Nếu mọi người đều làm vậy thì rất có thể dân tộc Estonia sẽ vô cùng mau chóng thoát ra khỏi quá khứ của họ.

Thày không nói đây là một kịch bản có nhiều xác suất xảy ra trong vòng hai tuần tới. Nhưng thày sẽ nói, cách duy nhất để bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào thoát ra khỏi quá khứ là đạt tới điểm họ có thể nói: “Bất cứ gì đã xảy ra chỉ là lâu đài cát. Trong tầm nhìn vũ trụ dài hạn thì nó cũng chỉ đáng kể như một lâu đài cát. Nó chỉ là một tương tác của sóng năng lượng. Thật là vô nghĩa mà cầm giữ một hình ảnh về nó, gọi nó là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ. Câu hỏi thật sự ở đây là: Chúng ta có muốn thoát ra khỏi nó hay không? Và nếu chúng ta muốn thoát ra thì chẳng có gì ở đây phải giải quyết. Chúng ta không phải trừng phạt bất cứ ai. Chúng ta không phải thay đổi bất cứ gì trong cái quá khứ không thể thay đổi. Chúng ta chỉ phải nhận ra là điều buộc chặt chúng ta với quá khứ là hình ảnh của chúng ta về quá khứ. Chúng ta phải quyết định gạt bay nó đi. Thế là chúng ta tự do.”

Tất nhiên, họ sẽ phải làm công việc dọn sạch tất cả các năng lượng cần được tiêu hủy, tất cả các ngã cần được giải quyết cùng tất cả những thứ như vậy. Thày không bảo là nó rất có thể xảy ra, con yêu dấu, mà thày chỉ nói là nó có khả năng xảy ra, và thày nói vậy để con – ở mức cá nhân của con – có thể nhận ra là mặc dù việc khiến mọi người đồng ý là một chuyện phức tạp, nhưng tuyệt đối không có gì ngăn cản con nhìn vào quá khứ của chính con. Con có khả năng buông bỏ bất kỳ hình ảnh nào mà con nhận biết, khi con dùng dụng cụ của các thày để quay trở về các chấn thương trong tiền kiếp, để nhìn lại hoàn cảnh trong rạp hát, xem lại buổi trình diễn, và con có thể thấy sinh thể đó bị đóng băng trong thời gian và các sinh thể kia cũng bị đóng băng trong thời gian là vì con còn cầm giữ một hình ảnh về nó. Con có khả năng nhìn thấy nó và để cho nó ra đi, để cho nó chảy tan ra, con yêu dấu. Đây là những gì con có quyền năng làm được và con có thể dùng các dụng cụ này.

9.9. Gạt bay đi hình ảnh ký ức

Như thày đang nói với con ngay bây giờ, sẽ tới một điểm khi con đã dùng đủ các dụng cụ đến độ điều duy nhất còn sót lại là con nhận biết là con, trong tâm con, còn bám giữ một hình ảnh và con quyết định gạt bay nó đi. Khi con lấy bài giảng vô cùng thâm thúy của Mẹ Mary, điều con đã thực sự quyết định làm, điều đã đem con đến hành tinh này chính là sự kiện con đã muốn – Hiện diện TA LÀ của con đã muốn – trải nghiệm chính mình trên hành tinh này, trong môi trường này. Đấy, những cái ngã con mang, những hình ảnh con giữ về quá khứ bảo rằng con đã lầm lỗi, chúng đang ngăn chặn con trải nghiệm chính mình trên hành tinh này. Con không đang trải nghiệm cái ta thực của con mà con đang trải nghiệm cuộc sống trên trái đất qua một cái ngã đặc thù.

Các thày đã giảng là cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết – đây chỉ là từ ngữ thôi con – nhưng theo một nghĩa nào đó, cái Ta Biết trung hòa đối với việc con ở trên trái đất. Nó có một sự tò mò nào đó về việc ở trên trái đất: “Khi mình trải nghiệm tình huống này thì mình sẽ cảm thấy gì?” Đây là tại sao con đã bước vào rất nhiều hoàn cảnh trong tiền kiếp, vì cái Ta Biết bảo rằng: “Mình sẽ cảm thấy gì đây, mình sẽ trải nghiệm chính mình như thế nào trong hoàn cảnh này đây?” Khi con khoác vào và tạo ra các ngã tách biệt thì trải nghiệm của con bị những ngã này pha màu. Điều các thày nói với con là con có khả năng quay trở về điểm khi cái Ta Biết, trong tư cách là nhận biết thuần khiết, một cái ta trung hòa, sẽ chỉ đơn giản trải nghiệm các điều kiện một cách trung hòa. Con cũng có thể vươn lên cao hơn và trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm hoàn cảnh đó như thế nào. Đây là khung tham chiếu tối hậu cho phép con bước ra khỏi sự đồng hóa với các điều kiện con gặp, ở trong bốn thể phàm của con lẫn ở ngoài bốn thể phàm của con.

Các thày đã dạy con là con mang những ngã đó trong bốn thể phàm. Ngã đó là gì chứ? Chúng được cấu tạo bằng sóng năng lượng của Ánh sáng Mẫu-Vật này, những cái chấm này mà một mô thức đã được áp chồng lên. Thế thì ngã chỉ là một hình ảnh, và con có thể nhìn vào ngã và quyết định gạt bay nó đi. Các thày đã bảo con trước đây là con hãy để cho ngã chết đi, nhưng nếu con thấy sự hữu ích trong việc xem ngã là một hình ảnh và tưởng tượng con chỉ cần tẩy xóa hình ảnh này y như một lâu đài trên bãi cát, thì con hãy sử dụng cách hình dung này thay vào đó. Cách nào hiệu quả hơn cho con thì con cứ dùng.

Con cần tìm ra cách để dần dần nhận diện là thực tế duy nhất ở đây, điều duy nhất còn sót lại, là hình ảnh và con đang tẩy xoá hình ảnh này đi. Con cho nó ra đi. Điều này, con yêu dấu, không đến nỗi khó khăn lắm nếu con dùng tất cả các dụng cụ mà con có. Thày hoàn toàn công nhận là con không thể làm vậy trong vòng năm phút. Không có ai trong các con có thể làm được ngay lập tức, nhưng vậy thì đã sao? Nếu con đã đầu thai trên trái đất này suốt hai triệu năm trời và chỉ trong vòng vài năm con có thể khắc phục tất cả những tập khí cũ đó, tất cả những ngã đó mà con đã khoác vào, thì thật nhanh quá sức rồi đó. Khi con nhìn trong chiều dài thời gian vũ trụ thì nó ngắn chưa bằng một chớp mắt.

9.10. Khắc phục sự nóng lòng

Chỉ còn một điều nữa mà thày muốn nói. Thày cũng biết là thày đã cho con rất nhiều rồi, nhưng thày là chân sư MORE cho nên thày sẽ cho con nhiều hơn, và điều này đơn giản là như sau. Ở một mức độ nào đó, điều này cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu đã đạt đến một tầng nào đó, nhưng trước hết nó áp dụng cho các avatar. Nếu con nhìn một avatar đã đến trái đất và sống ở đây rất lâu đời – hai triệu năm không phải là thời gian tất cả các con đã sống ở đây, nhưng một số – nhưng dù sao thì tất cả các con đã ở đây rất lâu. Đâu là đặc tính mà con thấy nơi mọi avatar? Đơn giản là điều này, con yêu dấu: sự thiếu kiên nhẫn. Các con đều rất, rất thiếu kiên nhẫn.

Trước hết, các con thiếu kiên nhẫn với chính mình. Một lần nữa, câu này không có ý chê trách gì con. Con yêu dấu, nếu con đã quen biết thày khi thày còn trong hiện thân vật lý thì con đã có thể thấy tính thiếu kiên nhẫn gần như lên đến cực điểm – nếu con đã thấy Saint Germain, hay thậm chí con có thể thấy câu chuyện về Giê-su nóng lòng đối với các tông đồ như thế nào. Con yêu dấu, các thày không chê trách gì con nhưng các thày sẽ nói là tất cả các con đều có thể được lợi lạc nếu con nhận biết là mình mang xu hướng vô cùng nóng lòng đối với bản thân mình. Khi có ai nói là con có khả năng thực hiện một điều gì, con cảm thấy mình chỉ cần búng tay là phải làm được ngay. Con hãy cho con một chút thời gian – cho con một chút thời gian.

Thậm chí con có thể ngẫm xem là sa nhân rất lão luyện trong việc khiến cho các sinh thể tâm linh bị trật đường rày trên con đường phát triển quả vị Ki-tô, đặc biệt là các avatar. Chúng rất giỏi làm chuyện này. Khi con đạt đến một tầng nhận biết nào đó, chúng sẽ cố khiến con khoác vào một số ngã nhất định sẽ làm trật bánh xe tăng triển của con. Một trong những ngã này là ý tưởng khiến con nóng lòng, rằng con phải có khả năng thực hiện một việc gì đó rất nhanh. Con có thể nhận ra đây là một ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con yêu dấu. Hãy cho con một chút thời gian. Con hãy thiền quán về Phật Gautama vì thày thật sự là vị chân sư có thể giúp con khắc phục tính thiếu kiên nhẫn, giúp con nhận ra rằng thời gian mặc dù nó có ở đó nhưng nó không quan trọng gì lắm. Liệu con sẽ tốn năm phút hay năm năm? Thật chẳng quan trọng gì lắm, và như vậy con có thể khắc phục tính nóng lòng này. Con có thể cho mình một chút thời gian.

Thày nói ra điều này vì đối với hầu hết các con, vấn đề không phải là con hóa ra dễ dãi và nói: “Ồ chân sư bảo là tôi có rất nhiều thời gian, cho nên tôi sẽ thư giãn và thôi không đọc thỉnh và cũng không học sách về ngã gốc nữa. Tôi sẽ không quan tâm đến chuyện đó. Tôi sẽ chỉ lo vui hưởng cuộc đời và tự ban cho mình một ly sô-cô-la ngon lành.” Đây không phải là mối nguy cho hầu hết các con. Nó có thể là mối nguy cho một số, và con cũng thấy nhiều người trong lãnh vực Thời mới có đúng cái tư duy này: “Mọi chuyện đều tốt đẹp cho nên chúng ta hãy thư giãn và tận hưởng cuộc đời.” Dẫu vậy, vấn đề của con là con thiếu kiên nhẫn, và tính thiếu kiên nhẫn sẽ làm gì con? Nó ngăn cản không cho con an bình với việc mình ở đây.

Chủ đề của hội nghị này là gì? An bình với việc mình ở đây trên trái đất. Con hãy để ý tính thiếu kiên nhẫn, thấy nó là một cái ngã, và con chỉ quyết định là con không cần quá khắt khe với chính mình. Con không cần hoàn thành mọi chuyện trong vòng năm phút vì theo một nghĩa nào đó, thời gian không có. Thời gian là một ảo tưởng tập thể do tâm thức tập thể tạo ra. Nó được phép tồn tại vì đối với một số người, ý tưởng rằng thời gian có thể cạn kiệt chính là động lực duy nhất sẽ khiến họ ngừng làm những gì họ đang làm.

Với lời này, thày đã nói xong những gì thày muốn trao cho con – ít nhất trong bài giảng này – cho nên thày cảm ơn sự chú ý của con. Thày muốn các con biết, con yêu dấu, là với số người có mặt ở đây lẫn số người trên chương trình phát sóng, các con đã tạo được một tầm ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể, ở Đông Âu lẫn ở tất cả mọi quốc gia nơi các con sinh sống hay kết nối. Các bài thỉnh mà các con vừa đọc rất nhiều uy lực, rất sâu sắc và chúng tác động rất mạnh mẽ, đặc biệt khi có thật nhiều người cùng đọc tạo nên một hiệu ứng nhân lên gấp bội. Thày có thể cam đoan với con là con đã hoàn tất một công việc rất tuyệt vời trong hội nghị này, và thày muốn bày tỏ lòng biết ơn cùng sự khen ngợi của các thày. [Các tham dự viên trong hội nghị cùng đọc các bài thỉnh trong sách Chữa lành chấn thương tâm linh]

11 | Lên tiếng từ một tâm thái an bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su, và ở đây thày muốn đưa ra một số nhận xét về một chủ đề có thể gây bối rối. Thày hiểu hoàn toàn là chủ đề này gây bối rối cho một số các con. Đó là chủ đề quả vị Ki-tô, làm thế nào con thực thi quả vị Ki-tô của con khi lên tiếng trên trái đất. Nếu con ở trong tư duy đường thẳng, con có thể nói là các lời dạy mới nhất mà các thày trao truyền – trong năm qua hay lâu hơn một chút – mâu thuẫn với giáo lý các thày đã trao truyền trước đây. Các thày đã nói là một phần của quả vị Ki-tô của con là lên tiếng, và bây giờ có vẻ như các thày lại bảo rằng con không nên lên tiếng và thay vào đó con nên làm việc trên các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt của con và khắc phục chúng.

Con yêu dấu, chìa khóa để giải quyết điều có vẻ bí ẩn như vậy là nhận ra con đường tâm linh có một số giai đoạn. Có một số tầng khai ngộ mà con kinh qua trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Các thày đã trao con một khóa học về tự điều ngự, và khoá học này được thiết kế để đưa con người từ tầng tâm thức thứ 48 lên tầng 96. Tầng 96 là điểm con bắt đầu thực thi quả vị Ki-tô, nhưng hiển nhiên, có một khoảng cách giữa tầng 96 với tầng 144. Con có thể thấy là tất nhiên, những gì con đạt được hay có khả năng đạt được ở tầng 96 chưa phải là quả vị Ki-tô trọn vẹn. Khi con bước lên cao hơn và cao hơn nữa cho đến tầng 144, con có khả năng thể hiện và biểu lộ – nếu có thể gọi như vậy – những trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô.

11.1. Khía cạnh trải nghiệm của quả vị Ki-tô

Điều này có nghĩa là khi các thày đưa ra một giáo lý áp dụng cho đệ tử ở tầng 96 hay khoảng đó, dĩ nhiên đây không phải là cùng giáo lý các thày sẽ đưa ra cho những ai ở các tầng cao hơn. Chẳng hạn như khi thày đưa ra khóa học về quả vị Ki-tô [Chìa khóa Chỉ đạo cho quả vị Ki-tô Cá nhân] cùng nhiều giáo lý lúc ban đầu trong đợt truyền pháp này, thì giáo lý đã được đưa ra cho tầng tâm thức khởi sự. Những gì các thày trao truyền bây giờ nhắm đến các tầng quả vị Ki-tô cao hơn, qua đó con cần nhìn nhận là trên đường tu tâm linh có những điều không thể được truyền dạy một cách lý thuyết. Con cần một sự tương tác giữa một đằng là việc tiếp nhận giáo lý cùng sự hiểu biết, và đằng khác là việc thực hành, biểu đạt các giáo lý này và thu hoạch trải nghiệm. Con không trở thành Ki-tô bằng cách ngồi trong lớp học và nhận lời dạy từ một vị thày cho dù vị này đã chứng quả vị Ki-tô. Phải có một yếu tố trải nghiệm nào đó qua sự kiện con bước ra ngoài và nếm mùi trải nghiệm.

Trong những giai đoạn sơ khởi của đợt truyền pháp này, điều mà thày cùng các chân sư khác đã bảo học trò làm là hãy đi ra ngoài và lên tiếng với tầm hiểu biết và nhận biết mà mình có lúc đó. Nhưng tất nhiên, các thày cũng dư biết là học trò sẽ bước ra với một khối lượng ngã tách biệt nào đó và sẽ cảm thấy một sự cưỡng bách phải lên tiếng. Các thày biết là một số đã rất bất đắc dĩ lên tiếng vì những ngã tách biệt mà họ đã vun trồng trong tiền kiếp bảo họ là chuyện lên tiếng thật nguy hiểm, thật không an toàn, và họ không nên lên tiếng gì hết.

Các thày biết là một số người khác lại có tham vọng lên tiếng, hoặc vì họ muốn làm việc gì quan trọng, hoặc họ muốn được các chân sư thăng thiên công nhận, được người khác hay thế giới công nhận, hay đủ loại động cơ khác mà con người có thể có. Các thày cũng biết mình cần phải trao giáo lý cho con người rồi để yên cho mọi người muốn dùng thế nào cũng được, vì cho dù họ có lên tiếng hay không, họ vẫn có được một số trải nghiệm sẽ giúp họ tiến bộ tới mức họ sẵn sàng nhận một giáo lý cao hơn.

Và đó là điều đã xảy ra. Đã có đủ số người vươn lên tới mức họ sẵn sàng nhận được giáo lý cao hơn mà các thày đang ban ra bây giờ. Chúng ta có thể nói là một khối tới hạn (critical mass) trong số các con đã vươn đến mức này, nhưng thày cũng ưa nói là một khối người không phán xét (uncritical mass) trong số các con đã vươn đến mức này vì các con đã vươn lên bằng cách khắc phục thái độ phán xét mà qua đó con cảm thấy phải chỉ trích, phải xét đoán, phải đánh giá mọi chuyện. Đây chính là điểm đặc trưng cho các tầng quả vị Ki-tô cao hơn.

11.2. Quả vị Ki-tô không là một tiến trình đường thẳng

Ở các tầng quả vị Ki-tô thấp hơn, con bắt đầu nhận biết là theo cách nhìn của con ở tầng này, có nhiều sự việc không phải lẽ trên trái đất. Chúng không phù hợp với tầm nhìn cao hơn, chúng không phù hợp với cách mọi chuyện nên diễn ra và chúng cần được thay đổi. Như các thày đã có nói về các avatar đến hành tinh này với cảm nhận mình phải thay đổi nhiều thứ trên trái đất, thì trong những giai đoạn sơ khởi của quả vị Ki-tô con thường bước ra với thái độ là con phải thay đổi một điều gì đó. Con phải khiến cho mọi người nhìn thấy những gì họ chưa thấy, con phải đem lại một sự khác biệt và tạo sự thay đổi.

Đây chính xác là thái độ nhiều avatar đã có khi đến trái đất. Kỳ thực con cần trải nghiệm này trong kiếp sống này để gắn kết lại với động lượng đó. Có những avatar khác đến trái đất mà không lên tiếng, họ không muốn lên tiếng và họ quyết định là họ không muốn lên tiếng trên hành tinh này. Một số những người này đã không bước ra lên tiếng, nhưng điều này vẫn cho họ trải nghiệm nhận được giáo lý và làm gì với giáo lý.

Tuyệt đối không có gì sai trái khi con làm vậy. Như các thày đã nói rất nhiều lần, con có quyền ở một tầng tâm thức nào đó và con có quyền tự biểu đạt dựa theo tầng tâm thức này – không có gì sai trái và các thày hoàn toàn không chê trách gì con. Như Nada đã giải thích cặn kẽ trong sách của thày, các thày chấp nhận con cho dù con có ở tầng tâm thức nào và các thày chỉ nhìn xem làm thế nào giúp được con thăng lên tầng kế tiếp.

Đương nhiên điều này không có nghĩa là các thày muốn con ở lại tầng thấp của quả vị Ki-tô cho đến mãn kiếp. Các thày muốn con có một trải nghiệm nào đó về các tầng thấp, thế rồi phối hợp với những lời dạy các thày đang cho con, các thày muốn giúp con vươn lên những tầng quả vị Ki-tô ngày càng cao hơn. Rồi sẽ tới điểm con đạt đến tầng quả vị Ki-tô nơi con phải chất vấn những gì mình đã làm trước đó. Thày biết là một số người sẽ rơi vào một tư duy đường thẳng vì họ muốn nghĩ là nếu họ đã nhận được một giáo lý chân truyền từ một chân sư thăng thiên về quả vị Ki-tô, thì giáo lý này là tuyệt đối, do đó tất cả những gì họ cần làm là cứ việc đi theo cho đến hết kiếp này.

Thày biết có những người muốn nghĩ như vậy, nhưng đơn giản là họ không nắm bắt được ý nghĩa của quả vị Ki-tô trong tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ, và do đó thày không thể cung ứng cho họ. Các thày là chân sư thăng thiên có thể ban một số lời dạy cho những người mang tư duy này, nhưng nếu họ không lưu ý đến lời dạy, nếu họ không xoay chuyển thái độ của họ, thì theo quy luật – thậm chí cả Luật Tự quyết – các thày phải để yên cho họ và không tìm cách bắt họ nhìn ra những gì họ không muốn nhìn thấy.

Vì vậy cho nên các thày sẽ tập trung nỗ lực vào những ai sẵn lòng nhìn ra là trên con đường quả vị Ki-tô sẽ đến lúc con cần chất vấn chính những điều đã đưa con đến mức này của quả vị Ki-tô. Đây không phải là một chuyện con làm chỉ một lần. Đây là một công việc con không ngừng làm, vì con càng lên cao hơn về hướng tầng 144 thì nhịp độ con cần tự chất vấn sẽ càng dồn dập hơn. Thật ra ở những tầng tâm thức cao hơn, con cần tra vấn tất cả mọi thứ ở tầng hiện tại của con hầu thăng lên tầng kế tiếp.

11.3. Đặc tính tuần tự của quả vị Ki-tô

Điều các thày nói với con bây giờ với các giáo lý về avatar, về việc khắc phục chấn thương nhập đời, khắc phục các ngã tách biệt, là ở các tầng thấp hơn của quả vị Ki-tô, điều chấp nhận được – điều cần thiết vì đây là một phần của đường tu – là con lên tiếng với mức nhận biết mà con có, với các ngã tách biệt mà con có lúc đó. Ngay cả nếu nó khiến con bước ra ngoài và cư xử một cách hơi mất cân bằng, có thể quá mạnh mẽ, có thể quá ngoan cố, có thể quá “lửa xanh” (như Chân sư MORE gọi như vậy), thì cách hành xử này của con vẫn chấp nhận được vì con không thể làm gì khác hơn. Chính nhờ con làm vậy mà con nhận được sự phản hồi, con nhận được một khung tham chiếu cho phép con nhìn ra là có lẽ mình phải điều chỉnh cách tiếp cận của mình.

Đó chính là điều sẽ mở tâm con ra để con nói: “Ừ nhỉ, có lẽ tôi đã đến một mức quả vị Ki-tô khi các giáo lý đã đưa tôi đến đây không thể đưa tôi xa hơn được nữa.” Trong bản chất, như các thày đã có giảng, điều này cũng giống như trường hợp một đứa trẻ mới học đi xe đạp phải cần đến hai bánh xe nhỏ ở hai bên (bánh xe tập) để giúp nó giữ thăng bằng. Phải tới một điểm đứa trẻ đã học được cách giữ thăng bằng trên xe đạp thì nó có thể vứt bỏ hai bánh xe tập đi. Nếu con thấy một người lớn đi xe đạp mà vẫn gắn bánh xe tập thì con sẽ nghĩ người này vẫn chưa nắm được một điều gì đó.

Đường tu tâm linh cũng tương tự như vậy. Đó là vì sao các thày đã nói là con cần xem xét phương thức vận hành của con [modus operandi, xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Con cần xét xem con nhìn trái đất như thế nào: Đây có là một hành tinh thân thiện hay thù địch? Cơ thể này thân thiện hay thù địch? Thượng đế thân thiện hay thù địch? Các chân sư thăng thiên là những vị thày thân thiện hay thù địch? Con cần xem xét những điều đó. Con cần nhìn vào bản thân. Thậm chí con có thể nói: “Tôi có một cái nhìn thân thiện hay một cái nhìn thù địch về chính mình?” Sự thù địch đến từ đâu? Nó chỉ có thể đến từ một ngã tách biệt bị tâm thức sa nhân ảnh hưởng, và do đó tất nhiên nó cần được phép chết đi.

Điều thày muốn cho con ở đây về quả vị Ki-tô và việc lên tiếng là như sau: Việc khắc phục ngã gốc của con, khắc phục tất cả hay hầu hết các ngã tách biệt không có nghĩa là con không lên tiếng nữa. Đạt được sự an bình với việc mình ở trên trái đất – là mục đích của chúng ta trong hội nghị này – không có nghĩa là con sẽ không lên tiếng. Nhưng có nghĩa là con sẽ lên tiếng một cách khác, với một thái độ hoàn toàn khác. Con không bị một ngã tách biệt thúc đẩy con lên tiếng. Con không bị một động lực cưỡng bách con phải lên tiếng. Con không lên tiếng với thái độ là mình phải tạo được một kết quả nào đó. Con không lên tiếng vì con phải thuyết phục hay cải đổi người khác.

Con lên tiếng với thái độ là con ở đây để cho người khác một khung tham chiếu mà họ không đang có bây giờ, xong con để họ hoàn toàn tự do chọn xem họ muốn làm gì với khung tham chiếu này. Con cho họ những gì trước đó họ không có. Con cho họ một nền tảng để họ chọn lựa tốt hơn, chọn lựa cao hơn, chọn lựa nhận biết hơn, nhưng con để yên cho họ chọn như thế nào và chọn những gì. Đây không phải là nhiệm vụ của con trong khuôn khổ Luật Tự quyết. Nhiệm vụ của con là cho họ sự tùy chọn, sự chọn lựa để họ chọn tự do hơn, nhưng sau đó con vẫn cho phép họ chọn bất cứ gì họ muốn. Đó là tại sao điều cốt yếu là con buông bỏ toàn bộ thang điểm tương đối, so sánh của sa nhân về thế nào là toàn hảo và bất toàn, thế nào là đúng và sai cùng toàn bộ tư duy này. Con sẽ tốn một chút thời gian, các thày cũng biết vậy, nhưng điều quan trọng là con bắt tay vào việc để vươn lên tới mức con có thể phát biểu từ một trạng thái nội tâm an bình khi con lên tiếng.

11.4. Phát biểu từ sự an bình nội tâm

Khi con làm vậy, con sẽ hoàn thành hai chuyện: Con sẽ giải phóng người khác để họ tự do phản ứng theo cách họ muốn đối với những gì con nói. Và con sẽ giải phóng chính mình để con tự do phản ứng như con muốn cho dù người ta có chọn lựa thế nào. Con không phiền hà, con không nản lòng. Con không bực tức, con không cảm thấy mình bị chối bỏ khi người ta không tiếp nhận những gì con nói. Kỳ thực con cảm thấy an bình nội tại, niềm vui nội tại là con đã nói nó ra, con đã đem nó ra trước công chúng, con đã đưa nó ra để mọi người sử dụng, và đó chính là mục đích của con. Đó là phần thưởng của con: biết rằng nó đang có mặt trong cõi vật lý và để yên cho mọi người tự do chấp nhận hay bác bỏ.

Con yêu dấu, một số các con có thể cần phải kinh qua một giai đoạn ngừng lên tiếng nếu con đã lên tiếng, để con chỉ nói rất ít. Sứ giả này có mô tả ông cảm nhận như thế nào: ông không còn có quan điểm về bất cứ gì nữa. Dù vậy ông vẫn lên tiếng về đủ loại đề tài, nhưng ông không lên tiếng vì ông có một quan điểm mà ông muốn người ta chứng thực. Đây là điểm con cũng có thể đạt tới, và ở đây thày khuyên con nên xem xét hai điều khi con lên tiếng.    

Một là con có thể chia sẻ những gì con suy nghĩ, những gì con cảm nhận, cách con trải nghiệm vấn đề như thế nào. Con có thể chia sẻ những việc con làm, những việc con chọn làm hay chọn không làm và tại sao như vậy. Con không cố thuyết phục bất cứ ai. Con không bảo ai phải làm gì. Con chỉ đơn giản chia sẻ suy tư của riêng con, cái hiểu của riêng con, ngay cả quá trình đã dẫn con đến cái hiểu đó.

Điều này hoàn toàn khác với việc con đi ra bảo người khác là họ phải nghĩ gì hay tin gì và tìm cách thuyết phục hay cải đạo họ. Con chỉ đơn giản chia sẻ tiến trình của con, và như các thày có nói nhiều lần con yêu dấu, cho dù sa nhân có nghĩ gì, cho dù người khác có nghĩ gì và họ không muốn con làm phiền họ như thế nào, con vẫn có quyền sống trên hành tinh này, con vẫn có quyền biểu đạt bản thân con cùng những kết luận con đã đạt được, những sáng ngộ mà con đã có và quá trình mà con đã kinh qua. Con có quyền chia sẻ những thứ đó.

Nếu điều này làm cho người khác bực bội, con tuyệt đối không cần phải phản ứng lại. Con có thể cho họ tự do chọn cảm thấy như vậy nếu họ muốn, nhưng điều này không ngăn cản con, nó không làm con nản lòng. Đồng thời nó cũng không khiến con khăng khăng muốn thuyết phục họ nhiều hơn. Con không phát biểu với nhu cầu được người khác chứng thực hay đồng ý với con. Cách họ phản ứng lại những gì con nói thật không quan trọng gì với con. Đây là một khía cạnh của việc lên tiếng. Con hãy chia sẻ bản thân con, chia sẻ sáng ngộ của con, tiến trình của con. Hãy chia sẻ cái đó.

Còn cách kia để lên tiếng mà thày đề nghị với con là thay vì con trình bày điều gì là đúng hay sai, là cái này hay cái nọ, con nói về hậu quả của một hành động đặc thù, một quan điểm hay một ý thức hệ hay một hệ tư tưởng đặc thù. Con có thể làm vậy bằng nhiều cách. Chỉ lấy một ví dụ, hôm qua có một người hỏi sứ giả này về vấn đề người nhập cư vào châu Âu, và ông bày tỏ quan điểm đây là hậu quả của việc các nước giàu có ở Âu châu đã không làm đủ. Các nước này đã không sử dụng sự giàu có của mình để trợ giúp người dân châu Phi đạt được mức sống cao hơn ở ngay xứ họ. Cho nên thật sự các biến cố này đang ép buộc các nước giàu phải nhìn ra những gì họ không chịu nhìn thấy, để họ nhận lãnh trách nhiệm mà của cải của họ đã giao phó cho họ. Ông bày tỏ là thật ra tình thế đã bó buộc các nước giàu phải lấy một số chọn lựa. Hoặc họ có thể tiếp tục cho phép người di dân nhập cư với tất cả các hậu quả gây ra cho xã hội họ – họ sẽ làm gì đây với quá nhiều người như vậy? Liệu họ sẽ giam giữ hết trong “trại tập trung” hay họ sẽ tìm cách hội nhập, nhưng làm thế nào hội nhập quá nhiều người như vậy đến từ một nền văn hóa khác lạ? Rõ ràng là hầu hết các nước này sẽ hiểu ra là nếu họ cứ tiếp tục cho phép người di dân vào nước thì họ sẽ khiến cho các hệ thống hiện hữu của họ bị quá tải.

Hoặc vấn đề này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn lực hơn hẳn, hoặc có một chọn lựa khác là họ phải tìm cách chặn đứng làn sóng di dân, và ở đây lại có hai chọn lựa. Họ có thể dùng lực lượng hải quân đem tàu vào Địa trung hải đánh chìm bất cứ thuyền bè nào chở người di dân từ Phi châu. Đây là một cách chặn đứng làn sóng, nhưng tất nhiên nó không phù hợp với cách nhìn của hầu hết các nước Âu châu về chính mình. Nếu đây không là một biện pháp khả thi thì đâu là chọn lựa duy nhất còn lại? Đó là xây dựng một cách giải quyết hoàn toàn mới mẻ, là đi đến các nước Phi châu và cải thiện mức sống ở ngay đó hầu người dân không còn muốn bỏ nước ra đi. Không phải là những ai sinh ra ở châu Phi đều có một mong muốn tối thượng và vô độ muốn di dân sang châu Âu. Hầu hết đều thích ở lại châu Phi hơn do họ đã quen với khí hậu nóng ấm, và họ thật không muốn đến sống ở những nước như Đan Mạch chẳng hạn nơi mùa đông thật ảm đạm lạnh lẽo. Họ thà ở lại xứ họ nếu họ có thể có được một mức sống tạm đủ. Đây chính là điều sẽ đòi hỏi các nước Âu châu, ngay cả Liên Âu, có một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ và dành ra nguồn lực để thực hiện, thay vì như hiện nay chỉ có một chương trình viện trợ nước ngoài mang tính chất vá víu mà chẳng giải quyết được vấn đề.

Trên đây chỉ là một ví dụ về cách con có thể trình bày một vấn đề mà không bảo người khác đúng hay sai, không bảo người khác phải tin gì mà chỉ đơn giản nhìn vào các hậu quả. Đâu là hậu quả của sự việc đang xảy ra? Vì hẳn là ở đây có một tình trạng đang diễn ra. Chúng ta không thể búng ngón tay để làm cho nó biến mất, cho nên chúng ta sẽ đối phó như thế nào? Chúng ta tự nhìn mình như thế nào, và điều này có nghĩa thế nào đối với những chọn lựa mà chúng ta có thể chọn trong thực tế?

11.5. Ki-tô không có quan điểm cố định

Con có thể chuyển cách thức vừa rồi sang nhiều lãnh vực khác của xã hội bởi vì, con yêu dấu, con không nhất thiết – như một sinh thể Ki-tô – phải có một quan điểm cố định về những gì phải xảy ra trong tình thế này. Cái nhìn bao quát của con như một sinh thể Ki-tô ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô là con muốn mọi người – mọi người can hệ đến tình trạng này, ngay cả một xã hội hay một dân tộc hay Liên Âu hay Hoa Kỳ hay ai khác nữa – trở nên ý thức hơn để họ có thể có những chọn lựa nhận biết hơn. Và đó là mục đích của con: nâng cao sự nhận biết, chứ không cứ là chế tạo một kết quả vỏ ngoài đặc thù. Kết quả thực sự mà con muốn hòa nhập là việc nâng cao nhận biết. Ở các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con bắt đầu hòa điệu nhiều hơn với các chân sư thăng thiên. Cho nên con sẽ hòa nhập một cách tự nhiên vào mục đích chủ yếu là nâng cao tâm thức, chứ không phải tạo ra một kết quả đặc thù như Saint Germain đã nói mấy lần.

Đó là một số gợi ý rất sáng giá cho một số các con đang ở tầng mức này. Thày hoàn toàn nhận ra đây cũng là một thử thách cho con, vì để bước ra ngoài và lên tiếng mà vẫn an bình, để giải phóng người khác và giải phóng chính con, nó đòi hỏi con phải chữa lành chấn thương nhập đời của con. Nó đòi hỏi con phải khắc phục các ngã tách biệt đó đang cưỡng bách con phải ảnh hưởng người khác. Như các thày đã nói mấy lần, con cần khắc phục cơ chế muốn thay đổi người khác để cảm thấy dễ chịu hơn về bản thân, hay để tránh cảm giác tiêu cực khi, nói chung, con muốn thay đổi người khác để con không phải thay đổi chính con.

Một lần nữa con yêu dấu, tại sao các thày đã không cho con những lời dạy này mười năm về trước? Bởi vì vào lúc đó, các thày chưa cho con các dụng cụ để con có thể thực hành lời dạy. Giờ đây các thày đã cho con các dụng cụ và đó là tại sao các thày cũng cho con lời dạy. Một lần nữa, các thày đã phải làm việc một cách tuần tự. Các thày làm vậy vì nhiều lý do và như các thày có giảng, các thày rất vui mừng có được một số lượng không phán xét trong các con đã vươn lên đến mức sẵn lòng tiếp nhận lời dạy, suy ngẫm lời dạy, học sách, áp dụng các kỹ thuật và thực sự bỏ ra nỗ lực mà nhiều các con đã bỏ ra để chữa lành chấn thương nhập đời đó.

Hãy đừng nản lòng nếu con chưa hàn gắn được chấn thương nhập đời vũ trụ của con. Đừng bị nản lòng nếu con vẫn còn ngã tách biệt khởi lên trong con. Sứ giả này đã làm việc trên tâm lý mình nhiều hơn hầu hết mọi người suốt 40 năm trời và ông đã khắc phục được chấn thương nhập đời của ông, nhưng ông vẫn có ngã tách biệt khởi lên. Lẽ tự nhiên nếu con đã sống nhiều, rất nhiều kiếp trên trái đất này, đã có rất nhiều trải nghiệm khó khăn trong nhiều kiếp, thì con đã tạo ra nhiều ngã tách biệt và con sẽ cần thời gian để giải quyết lần lần cho hết. Vậy có sao đâu, con yêu dấu?

11.6. Con được phép không lên tiếng

Điều thày sẽ làm bây giờ với bài truyền đọc này là thày cho phép con bỏ qua một bên bất kỳ cảm giác cưỡng bách nào là con phải lên tiếng. Thày cho phép con, nếu con muốn, bước lui lại và nói: “Tôi sẽ ngừng lên tiếng một thời gian. Tôi sẽ ngậm miệng lại, vứt bàn phím máy tính đi và không lên tiếng. Tôi cho phép mình không phát biểu, mà thay vào đó tôi tập trung vào bên trong để giải quyết chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt đã cưỡng bách tôi phải nói ra, đã cho tôi nhu cầu phải thuyết phục người khác, đã khiến tôi muốn được chứng thực, muốn được công nhận, muốn tạo ra một cảm giác bên trong hay muốn né tránh một cảm xúc tiêu cực.”

Thày làm điều này vì thày muốn con có một chút nghỉ ngơi để con có thể chữa lành và khắc phục khuôn nếp mà một số các con đã xây dựng, qua đó con đã phần nào xung đột hay ít ra có mối quan hệ đối nghịch với nhiều người khác. Con yêu dấu, thật không cần thiết con phải đi ra khích bác mọi người để bày tỏ quả vị Ki-tô của con. Nếu con nhìn quanh thế giới, con có thể thấy rất nhiều người ở ngoài kia đang lên tiếng một cách đối nghịch, khiêu khích, hung hãn – rất nhiều người như vậy.

Nếu con cứ tiếp tục làm cùng một chuyện và mong đợi là kết quả sẽ khác đi thì con điên rồi đó. Đã có rất nhiều người lên tiếng kiểu này từ rất lâu nay. Chúng ta cần khác hơn. Chúng ta cần một tiếng nói khác. Chúng ta cần những người có khả năng phát biểu một cách khác, như thày vừa vạch ra, bằng cách chia sẻ chính bản thân của mình và trình bày các hậu quả. Nhưng vượt khỏi cả những thứ đó, chúng ta cần những cách lên tiếng khác, chẳng hạn khi con trình bày về một tầm nhìn cao hơn. Thay vì tạo ra cảm tưởng: “Đây là sự thật duy nhất, đây là những gì bạn phải tin, nếu không thì bạn ngu lắm,” thì con có thể nói: “Nhưng giả sử có một cách khác để nhìn sự việc này thì sao? Nếu như có một góc cạnh khác về vấn đề này thì sao? Thế còn điều kia, và thêm điều kia, và điều kia nữa thì sao?”

Đây có thể là một điều quá mới mẻ, quá khác lạ, quá hiếm khi áp dụng, đến độ người ta sẽ ngạc nhiên và bất chợt người ta sẽ nói: “Ừ nhỉ, đây là một điểm chúng ta chưa bao giờ nghe nói tới. Chúng ta lắng nghe xem.” Kỳ thực nó có thể đem vào hiện thực điều mà các thày đã có đề cập về nước Mỹ là các thày mong muốn thay đổi toàn bộ diễn ngôn công cộng, không những ở Mỹ mà ở mọi quốc gia. Chúng ta vứt bỏ kiểu tranh luận công cộng do các nhà báo đề xướng, qua đó họ luôn luôn mang sẵn hậu ý muốn mô tả sự việc theo một cách mặc dù họ tuyên bố là họ khách quan. Hoặc theo kiểu các nhà chính trị bị kẹt trong trò chơi đảng phái muốn đảng mình là đảng vượt trội, đến độ họ không thể hợp tác trong bất cứ chuyện gì.

Toàn bộ lối suy nghĩ đen trắng nhị nguyên này từng chi phối diễn ngôn công cộng từ quá lâu nay, các thày mong muốn nhìn thấy nó được thay thế bởi một tiếng nói khác. Thẳng thắn mà nói, nếu chính các con không thể đưa ra tiếng nói khác biệt này thì ai đây sẽ có thể? Để lên tiếng với một tiếng nói khác, con phải khắc phục những ngã tách biệt kia, và các con đây là những người trên toàn hành tinh này đang đến gần nhất với mục tiêu đó. Thày không đang nói vậy để áp lực con mà để cho con một lượng định thực tế. Một số các con khi nghe hay đọc câu nói này của thày sẽ biết liền: “Phải, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Thật ra đây là điều tôi mong muốn. Tôi không bao giờ muốn lên tiếng theo cách tôi đã từng làm, cách này luôn luôn cho tôi một phản ứng tiêu cực. Tôi đã muốn tìm một tiếng nói khác để lên tiếng và giờ đây tôi bắt đầu nhìn ra. Chắc chắn tôi sẽ làm việc trên bản thân mình cho đến khi tôi tìm được tiếng nói nội tâm của tôi, tiếng nói đích thực của tôi. Và khi tôi tìm thấy, tôi sẽ lên tiếng. Tôi nhất định sẽ lên tiếng.”   

Với lời này, con yêu dấu, thày cảm ơn con đã dành sự chú ý, đã hiện diện ở đây hay trên làn sóng trực tuyến. Thày cảm ơn tất cả những ai đã đón nhận các lời dạy mới từ quyển sách Các kiếp của tôi trở đi và đã sẵn lòng đem ra áp dụng. Thày biết là nhiều người trong các con đã nghiệm thấy những tiến bộ to lớn. Một số các con còn bày tỏ là ngày hôm nay con không thể nào tin được mình đã đổi khác đến chừng nào so với một năm trước. Đây là niềm vui lớn nhất của các thày: nhìn thấy học trò của mình đón nhận giáo lý và sử dụng để vươn lên cao hơn, qua đó con cảm thấy mình có tiến bộ, mình có an bình. Sự kiện một số người đã ngộ đạt như vậy trong vòng một năm có nghĩa là tất cả các con cũng đều có thể làm được trong một thời gian vừa phải. Không có một người nào ở đây, không có một người nào đã đón nhận các lời dạy này mà không mang tiềm năng đạt được trạng thái an bình đó trong một thời gian tương đối ngắn – ngắn hơn rất, rất nhiều so với thời gian con đã bước chân trên đường tu tâm linh, ít ra đối với những ai đã bước chân được vài năm.

Lẽ tự nhiên, nếu con chỉ mới nhập cuộc vào tuần rồi thì sẽ không hẳn là như vậy. Dẫu sao thì con yêu dấu, các thày vô cùng phấn khích – nếu chúng ta có thể dùng từ này cho một chân sư thăng thiên không thể nào nản chí. Các thày rất vui mừng nhìn thấy tiến bộ mà tất cả các con đã có. Mặc dù một số các con có thể cảm thấy mình tiến bộ chưa đủ, nhưng thày có thể cam đoan với con là con đã có tiến bộ, và bước đột phá mà con đang tiến đến, nó gần hơn là con tưởng. Với lời này, con hãy nhận sự biết ơn của thày. Con hãy nhận Ngọn lửa Vui mừng của thày, vì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với các con theo cách này, được trải nghiệm các con, con yêu dấu. Trải nghiệm chính các con.

Đây là niềm vui lớn cho thày. Thày sẽ nói là tất nhiên con không nên nghĩ là khi thày phát biểu qua trung gian một người sứ giả, đây là thời điểm duy nhất thày có thể trải nghiệm con. Thày có thể trải nghiệm con bất cứ lúc nào nhưng thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết. Nếu con lấy nội dung bài thỉnh này cùng với bài truyền đọc trước về cách vận hành của con – mong muốn trốn tránh các chân sư – thì tất nhiên là thày sẽ tôn trọng. Kỳ thực, một số các con có thể được trợ giúp bằng cách quyết định mời thày đến trải nghiệm con. Có thể con sẽ chỉ cần, một lúc nào đó khi con yên lặng, nhắm mắt lại, trụ vào tim và nói: “Giê-su, con mời thày đến trải nghiệm con.” Có lẽ khi làm vậy, con sẽ có thể trải nghiệm được thày và thày nghĩ việc này sẽ làm con vui.

5 | Giành lại quyền được quên mà Thượng đế đã ban cho con

Bài truyền đọc của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE, và thày rất vui mừng trao cho con bài giảng tiếp nối bài năm ngoái về đề tài vô cùng sâu xa và quan trọng này, là chấn thương nhập đời và làm thế nào con khắc phục được chấn thương đó. Con có thể xem những gì Phật Gautama vừa giảng trong phần vấn đáp về thời gian và sự kiện là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những gì đã xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy du hành thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ [Xem chương chót trong sách này]. Như Gautama vừa nói, quả thật Mẹ Mary đã cho con một cỗ máy vượt thời gian qua bài thực tập của thày về cách con có thể quay trở về trải nghiệm chấn thương nhập đời đó [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh].

Thày muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian nữa. Con thấy đó, con yêu dấu, điều sa nhân muốn con nghĩ là quá khứ đã được tạc vào đá và không thể thay đổi. Một khi con đã lầm lỗi trên trái đất, con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm. Bây giờ con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã đi thăm Vạn lý Trường thành ở Trung quốc hay Kim tự tháp ở Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hay bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá đồ sộ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó với hai bàn tay trần? Phải, con không thể, và tại sao như vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là chất xi-măng giữ đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy theo kích thước những viên đá. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như con có thể đập đá ra thành vụn nhỏ như cát? Và giả sử con có một cái máy phóng tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì chuyện gì sẽ xảy ra?

À, đây chính là quyền năng mà các thày đã trao cho con qua các bài chú, bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập vỡ tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số người đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao thì các thày không có ý định gửi học trò của mình đi vòng quanh thế giới đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều các thày quan tâm hơn nhiều là giúp con đập đổ những bức tường kiên cố trong chính tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân.

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như các thày đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm tan năng lượng, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như các thày cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải có một trải nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con được thực sự tự do. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

5.1. Ý thức được tiến trình thấy

Đây là điều thày muốn cống hiến cho con. Con cần khởi sự – mới đầu có thể từ từ – nhưng con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó có thể hình dung, tưởng tượng, và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết qua trí năng, rằng toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang chấn thương nhập đời này trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, đơn giản là nó đã bị thời gian tẩy xóa. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – do cái cọ vĩ đại của thời gian đã biến mọi sự thành cái đang là bây giờ. Như Gautama nói: Cái đang là bây giờ quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một hiện thực vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một dấu in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao của con, và theo một nghĩa nào đó cũng trong cơ thể vật lý của con.

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào con thoát khỏi dấu in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (nhưng đặc biệt là bộ não) và tâm vỏ ngoài của con nhìn và nhận thức tình huống – nói chung, nhận thức mọi chuyện? Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả này, là một bức tường khá vững chắc, và cái con thấy thật ra là một hình ảnh. Các thày đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy bức tường mà nó chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, giống như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là khi bộ não áp đặt một số hình ảnh lên trên các tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không đang thấy. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không đang thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu đến từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusion) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận diện. Một khi nó có đủ xung động để hình thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó áp chồng cái mô thức lưu trữ này lên những gì con đang nhìn và nói: “À, đây là cái đó.”

Tất nhiên, chuyện này đã tiếp diễn trên trái đất suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi sự từ số không, nó không phải tự huấn luyện từ đầu và xây dựng từng hình ảnh về cái này là gì, cái kia là gì. Não bị buộc chặt vào động lượng tập thể đó, cho nên nó đã mang sẵn một số lập trình: “Đây là ngọn cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân”. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô thức mà không những chính con đã nhìn thấy từ trước mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy từ trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn bằng ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp nữa, khi nói chung, vỏ não thị giác nhận ra hình thù. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và chất liệu của bức tường, nhưng bộ não có thêm chức năng khác là chuyển thành lời nói, chẳng hạn: “Đây là một bức tường”. Thêm một lớp phủ được đắp lên hình ảnh, và như vậy loài người đã có một động lượng rất lâu đời áp chồng ngôn từ lên mọi thứ.

5.2. Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, thật ra con đã tự giới hạn mình vì con củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ vật sẽ giống như cách con dán nhãn và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không thể nhìn xa hơn sự lập trình – ít ra là hầu hết mọi người không thể. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này.” Con đã buộc mình vào động lượng tập thể, và con đã xây dựng động lượng riêng của con trong bao nhiêu tiền kiếp.

Khi các thày nói là có một giai đoạn hay một tình huống trong quá khứ con phải trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn – và các thày có cho con một ví dụ, như trong sách Những kiếp  của tôi mô tả nhân vật chính trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn – thì con bị lập trình, bộ não của con bị lập trình để nó áp chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm này như thế đó”. Và bây giờ câu hỏi đặt ra là: Làm thế nào con có thể thực sự thoát khỏi một tình huống trong quá khứ của con? Chừng nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao của con, cái dấu in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã gắn liền với tình huống, chừng nào những thứ này còn được cất giữ ở đó thì con không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Điều thày nói với con là con có thể bắt đầu tái huấn luyện chính mình. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ có thể hữu ích nếu con thử lấy một vài trong số rất nhiều những ảo thị đã được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mang hình dáng hoặc một cô gái trẻ đẹp, hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù, vân vân. Nếu con chưa bao giờ xem ảo thị thì con nên xem thử để nó giúp con hiểu là con thực sự không thể nào tin vào giác quan của mình. Con không thể tin được bộ não vì trong não có một lập trình khiến con thấy vật theo một cách không phải là cách nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy gì đó trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con hoàn toàn mải mê với bộ phim đến độ con có cảm giác mình đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có thể luyện tập để nhận ra là những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không biểu hiện một thực tại vật lý nào (vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn vậy, con có thể tập nhìn chúng như những mô thức gồm có vô số chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể tới mức luyện tập cho mắt đổi tiêu cự đôi chút, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những mảng tia sáng đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như vậy một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể luyện tập để thấy bức tường này sau lưng sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức mà thôi.

Hồi con còn nhỏ, chắc đã có người chỉ con dùng kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên báo. Và con thấy được những gì có vẻ là một số mảng hình hay một số hình thù kỳ thực chỉ là những chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì chấm càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm càng cách xa nhau. Tất cả chỉ là những chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn thấy hình thù. Cho nên con có thể luyện tập để tập trung vào chấm thay vì hình ảnh. Rồi con có thể áp dụng kỹ thuật này vào mọi tình huống trong đời, tuy ngay lúc này việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.

5.3. Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành đơn vị nhỏ hơn

Điều thày mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này khi con cảm thấy một sự việc đau đớn đã xảy ra. Bây giờ con có thể xem xét: Khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con khơi dậy là gì, hay hình ảnh mà ba thể cao của con khơi dậy là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một nhãn quan đường thẳng là nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi hình ảnh đó, vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra, và con không thể thay đổi nó được. Không có gì con có thể làm để thay đổi nó.

Tất nhiên, đây là điều sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng luyện tập để đưa những hình ảnh này lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là hình thù và hình ảnh mà con đang có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những mô thức nguyên tử, hạt electron, hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành bộ phận nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào có thể. Như thày nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát để con có thể dời chuyển viên đá dễ dàng hơn. Đây là điều con có thể luyện tập để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hay những hình ảnh mà con đã kềm nén nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.

Con có thể luyện tập để nhận ra một cách ý thức: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã áp chồng lên ánh sáng.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại thật sát thì tất cả những gì con thấy chỉ là chấm, vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thày yêu cầu con hãy luyện tập, và một lần nữa, điều này liên quan đến việc con bước vào nỗi đau, tuy nhiên bây giờ con không bước vào nỗi đau nhưng con bước vào một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm.

Con bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho đến khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra những cái chấm này chính là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được áp chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn chấm mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng có thể dễ dàng biểu diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đang biểu diễn hình ảnh con đang có. Hơn thế nữa, thật ra những chấm này có thể được giải phóng khỏi cái khuôn đúc đã được áp chồng lên chúng, hầu chúng trở về với trạng thái nền (ground state), là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung hòa và không biểu hiện bất cứ hình ảnh nào.

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung lên và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, làm phân hủy hình dạng của hình ảnh, chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước của biển cả, hay cát của sa mạc, hay không khí của trời xanh. Nhưng chúng trở thành vô đặc tính, vô hình dạng. Hình ảnh được giải thể và con để cho nó ra đi. Giống như thể con đang lấy một quyết định, và ở một điểm nào đó con đang lấy một quyết định, và con nói: “Tôi để cho hình ảnh này chết đi. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

5.4. Bí quyết để lãng quên

Con yêu dấu, quá nhiều người khắp thế giới bị những tình huống từ quá khứ ám ảnh một cách liên tục, hay ít ra một cách thường xuyên, và dường như họ không thể nào quên được. À, vậy bí quyết để lãng quên là gì chứ? Đó là con nhận ra ký ức của con được lưu trữ (như các thày đã nói) một phần dưới dạng năng lượng, năng lượng cảm xúc. Chẳng hạn, lòng sợ hãi, sự tức giận hay bất cứ gì khác đều được cất giữ, và con có thể giải thể năng lượng qua các bài chú, bài thỉnh của con. Hơn vậy, ký ức cũng được lưu trữ dưới dạng hình ảnh trong bộ não, trong ba thể cao của con. Các hình ảnh này đã được áp chồng lên những hạt mà con có thể gọi là hạt lượng tử, là Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất kỳ tên gọi nào con muốn. Đây là những hạt có khả năng khoác vào, hay được sắp xếp thành đủ loại hình thể, đủ loại hình thù, đủ loại mật độ và màu sắc khác nhau. Con có khả năng tháo gỡ các hình ảnh mà tâm con đã phóng chiếu lên hạt và giải phóng hạt khỏi hình ảnh. Khi con thực sự làm như vậy, hình ảnh sẽ không còn đó nữa và, thần diệu thay, ký ức cũng biến mất.

Khi con suy ngẫm về điều này, ký ức là một cái gì con có trong cõi vật chất, trong bốn tầng của cõi vật chất. Phải có một cỗ xe có khả năng chuyên chở ký ức. Hầu hết các ký ức được lưu trữ như thế nào? Dưới dạng hình ảnh thị giác. Các thày đã có đề cập đến các Hồ sơ Akasha và có một sự tương đồng nào đó với ba thể cao của con, ở chỗ là có một môi thể lưu trữ – là những hạt nói trên – có khả năng khoác vào hình ảnh và nhờ vậy duy trì hình thù này vĩnh viễn.

Con có thể luyện tập để đi vào bên trong, nhìn lại hình ảnh đó, nhưng sau đó con nhìn vượt khỏi hình ảnh và giải phóng các hạt để chúng trở về trạng thái nền của chúng. Khi chúng trở về trạng thái nền, hình ảnh tan rã và chính cái đó là cỗ xe của ký ức. Một khi cỗ xe của ký ức tan rã thì ký ức cũng tan theo, con yêu dấu. Đây là cách làm thế nào con có thể quên được.

Công việc này có thể đòi hỏi nỗ lực từ con, nhưng thú vị ở đâu nếu con không có việc gì để mà nỗ lực? Có thể con sẽ chán ở đây trên hành tinh này, và như nhiều các con đã bày tỏ, thật không có nhiều việc lắm để cá nhân con làm hay trải nghiệm, không có nhiều công việc cho con. Tất nhiên là có việc này là con muốn được tự do. Nhiều người trong các con muốn tiến bước, nhưng con không thể tiến bước cho đến khi con cũng tự do khỏi ký ức.

Con yêu dấu, trong một quyển sách được trao truyền trong một đợt truyền pháp trước có một lời tường thuật về ba người đệ tử đến khóa nhập thất của thày ở Darjeeling, và họ được cho xem Hồ sơ Akasha trình chiếu một tình huống trong quá khứ của họ. Thế rồi thày đã lấy một viên ngọc, dùng viên ngọc này để phóng tia sáng vào tình huống đó và xóa bỏ nó trong Hồ sơ Akasha. Đây là một lối minh họa được sử dụng trong quá khứ khi các thày giảng dạy cho một tầng tâm thức thấp hơn. Nó có một độ thực tế nào đó, theo nghĩa là con có thể huấn luyện tâm mình để trở thành cánh cửa mở cho một tia sáng từ một cõi cao hơn. Tia sáng có thể đến từ Hiện diện TA LÀ của con, nó có thể đến từ một chân sư thăng thiên mà con đã lựa chọn – và lẽ tự nhiên, thày cống hiến sự trợ giúp của thày ở đây. Nếu con hòa điệu với thày và con hình dung là thày đang gửi đến con một tia sáng vào hình ảnh đó, và qua đó thày khiến cho các hạt rung động nhanh hơn đến độ chúng nhảy ra khỏi mô thức định sẵn trong hình ảnh và trở về trạng thái nền của chúng, thì đây cũng có thể là một bài hình dung hữu ích cho con.

5.5. Không có gì là rắn đặc

Con cần trước tiên luyện tập để thấy được hình ảnh mà con mang trong tâm thật sự được cấu tạo bằng những hạt đó, và vì vậy hình ảnh sẽ linh hoạt uyển chuyển. Nó có thể dễ dàng tan rã, nó không được tạc trên đá, nó không phải là một bức tường kiên cố. Tất nhiên con có thể tiếp tục làm vậy và nhận ra là một bức tường không có gì kiên cố, nhưng quan tâm của thày ở đây là thày không muốn con làm những loại thủ thuật này mà con dành nỗ lực để thực hiện kỳ công thực sự sáng giá là xóa bỏ các ký ức đau buồn của con, cho dù từ những kiếp trước hay từ kiếp này.

Con yêu dấu, tất nhiên đây không phải là một điều con đã được dạy ở lớp mẫu giáo. Vì vậy, có thể nó sẽ đòi hỏi ở con một nỗ lực nào đó, một sự suy tư nào đó. Nó đòi hỏi con tái trang bị, chuyển hóa tâm con để dần dần chấp nhận là không có gì trong thế giới vật lý và vật chất, không có gì trong cả bốn cõi của vật chất, là rắn chắc như đá. Không có gì là không thể thay đổi, vì tất cả mọi thứ đều được cấu tạo bằng những hạt ánh sáng kia mà trên đó một hình ảnh đã được áp chồng lên.

Những hạt ánh sáng này kỳ thực không phải là hạt ánh sáng như khoa học bảo con là ngay cả hạt hạ nguyên tử cũng đều là hạt. Nếu con đã đọc về vật lý lượng tử, con sẽ biết là các nhà khoa học bị bối rối bởi sự kiện một electron có thể hiện ra dưới cả hai dạng hạt lẫn sóng. Họ gọi đó là lưỡng tính sóng-hạt và họ không làm sao giải thích được. Thực tế là ý tưởng cho rằng cái lưỡng tính hạ nguyên tử kia là một hạt, chỉ là một hình ảnh mà các nhà khoa học mang theo trong tâm họ vì nó gắn liền với một cái gì họ có thể thấy được bằng giác quan vật lý. Họ mang theo hình ảnh này trong tâm và họ muốn áp chồng hình ảnh này lên thế giới lượng tử mà họ vừa khám phá. Cách duy nhất để hiểu được tầng cấp lượng tử là nhận ra rằng nó tuyệt đối không liên hệ gì đến thế giới vĩ mô mà con thấy với giác quan của con.

Cách duy nhất để thực sự hiểu được thế giới lượng tử cùng mối tương quan của nó với thế giới vĩ mô là nhận ra thế giới vĩ mô không được tạo bằng hình thù. Nó được tạo bằng hạt, hay đúng hơn, bằng những thực thể nhỏ hơn mà trên đó hình ảnh đã được áp chồng lên. Một hòn đá không phải là hòn đá, đó là một tập hợp những thực thể ánh sáng, những đơn vị ánh sáng, đã bị cưỡng ép vào một mô thức nhất định và chúng đang biểu hiện mô thức này ra bên ngoài. Rất có thể chúng sẽ được giải phóng khỏi mô thức để trở về với trạng thái nền của chúng, hay chúng có thể biểu hiện một mô thức khác. Một lần nữa, có thể các con hơi bị đuối sức khi phải hình dung toàn bộ thế giới vật lý là linh hoạt và được tạo bằng hạt hay bằng những thực thể nhỏ hơn, nhưng chắc chắn con thấy được là những hình ảnh con cầm giữ trong tâm, những hình ảnh về quá khứ, cũng không được tạo bằng một chất vật lý kiên cố như đá. Thật vậy, chúng được tạo bằng một loại thực thể khác, cho nên chúng linh hoạt uyển chuyển.

Kỳ thực, toàn bộ vũ trụ vật chất được cấu tạo bằng cái mà các thày gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật có những đơn vị cực nhỏ. Nếu chúng ta muốn dùng cùng thuật ngữ của khoa học, chúng ta có thể nói là thật vô nghĩa mà bàn về hạt, vì một hạt trải ra trong không gian. Đó là một cái chấm với một kích thước nào đó. Còn các đơn vị cấu tạo Ánh sáng Mẫu-Vật, măc dù chúng không nhỏ một cách vô hạn, nhưng chúng nhỏ đến độ chúng vượt khỏi khả năng phát hiện của giác quan vật lý hay ngay cả các loại dụng cụ dựa trên ánh sáng khả kiến (visible light), bước sóng (wavelength) của ánh sáng khả kiến.

Con cũng biết là kính hiển vi có khả năng phóng lớn các vật thể nhỏ. Nó giúp con nhìn thấy những vật con không thể thấy bằng mắt trần. Dẫu vậy, những gì con có thể thấy bằng kính hiển vi có giới hạn vì kính hiển vi quang học chỉ có thể hoạt động với ánh sáng khả kiến. Ánh sáng khả kiến có một bước sóng tối thiểu, và bất kỳ vật nào nhỏ hơn bước sóng của ánh sáng sẽ không thể thấy được trong kính hiển vi quang học. Chuyện này không thể làm được. Vấn đề cũng tương tự như vậy với các thực thể nói trên, các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật, chúng không thể được phát hiện bởi bất kỳ dụng cụ nào do khoa học chế tạo vì đây là những dụng cụ vật chất, mà Ánh sáng Mẫu-Vật thì không vật chất. Nó trở thành vật chất khi có một hình ảnh được áp chồng lên nó.

Ngay cả trong thế giới lượng tử, con cũng có tình trạng một hạt có thể xuất hiện từ hư vô rồi lại biến mất. Các nhà khoa học bàn về một trạng thái chân không (vacuum state), một trường lượng tử (quantum field) hay một số tên gọi khác, là khi một hạt có thể đột nhiên xuất hiện rồi biến mất vì nó đi vào hay đi ra khỏi một trạng thái nào đó. À, đây là cách con có thể hình dung Ánh sáng Mẫu-Vật. Con có thể nói là Ánh sáng Mẫu-Vật không nằm trong cõi vật lý nhưng nó có thể được kéo vào quang phổ vật lý (physical spectrum). Thế rồi những cái chấm nhỏ đó của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được sắp xếp lại thành một mô thức nào đó, nhưng Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ ở lại trong mô thức này trong cõi vật lý chừng nào còn có cái gì phóng chiếu hình ảnh lên nó. Lý do trái đất có một số biểu hiện do con người tạo ra kéo dài trong thời gian là vì tâm thức tập thể liên tục phóng chiếu một số hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

5.6. Con có những ký ức tiềm thức

Điều thày đang giảng cho con là lý do con mang ký ức về quá khứ – hay một hồ sơ, một ghi nhận về quá khứ hay bất kỳ tên gọi nào khác – là vì tâm con đang áp chồng hình ảnh đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Sự thể này ngăn cản không cho các đơn vị của Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái nền của chúng và lại đi ra khỏi cõi vật lý. Con có thể phản bác: “Nhưng làm sao con làm chuyện này được khi con không mang một ký ức ý thức nào về chấn thương nhập đời của con?” Con có mang một ký ức tiềm thức.

Ký ức không chỉ là ký ức có ý thức mà thôi, và đây là tại sao chúng ta có thể nói là những gì con nhớ một cách ý thức thì gọi là ký ức, còn những gì con không nhận biết ý thức gọi là hồ sơ. Đôi khi các thày đã dùng cách phân biệt này. Con cũng có thể nói là có ký ức ý thức hay vô thức. Tất cả các con đều biết là thỉnh thoảng có một sự kiện nào đó mà con biết rõ con đã nghe nói trong quá khứ nhưng con không thể hồi tưởng ngay bây giờ một cách ý thức. Thế rồi khi con suy nghĩ thêm, nó bỗng bật lên và bây giờ con nhớ lại. À, hiển nhiên ký ức này đã có mặt ở đó cho dù nó không nằm trong tâm ý thức của con, và các tình huống từ quá khứ cũng tương tự như vậy. Chúng còn nằm đó là vì tâm tiềm thức của con không ngừng phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều con có thể luyện cho tâm con làm là nhìn ra hình ảnh không phải là một hình ảnh vật lý, một hình ảnh cố định không thay đổi. Nó được cấu tạo bằng những cái chấm nhỏ li ti của Ánh sáng Mẫu-Vật. Xong con có thể quyết định trong ý thức và nói: “Vụt” và làm cho hình ảnh tan biến. Để điều này có thể xảy ra, có thể con sẽ cần đọc một lượng bài chú và bài thỉnh để làm tan năng lượng cảm xúc. Như các thày đã nói, có thể con sẽ phải tới điểm xem nó như là một ngã tách biệt, nhìn ra là có một cái ngã tách biệt kỳ thực đang duy trì hình ảnh đó, đang muốn duy trì hình ảnh đó. Con có thể quyết định ngừng nuôi dưỡng nó với năng lượng và chú ý của con. Khi con làm theo những bước khác mà các thày đã cho con trước đây, thì có thể sẽ tới điểm khi tất cả những gì còn sót lại chỉ là ký ức. Con đã làm tan năng lượng, năng lượng cảm xúc, con đã làm tan ngã tách biệt, con đã để cho nó chết đi, nhưng vẫn còn lại một ký ức mà vì một lý do nào đó con nghĩ con phải bám lấy.

Trong một số trường hợp, có một cái ngã nghĩ rằng nó phải bám lấy ký ức và con có thể đạt tới điểm nhìn ra ngã này. Thậm chí, thỉnh thoảng, đây chỉ là vấn đề làm cuộc xoay chuyển ý thức, một quyết định ý thức là: “Tôi không phải bám giữ tất cả mọi ký ức về những chuyện đã xảy ra cho tôi trên hành tinh này.”

Tại sao, con yêu dấu, tại sao con không phải nhớ lại? Các sa nhân và tự ngã của con sẽ la hét vào mặt con: “Không, bạn không thể đơn giản quên nó đi! Chuyện đó đã thực sự xảy ra! Chính bạn đã làm chuyện đó, bạn phải ghi nhớ mãi mãi!” Tại sao con cần ghi nhớ mãi mãi chứ con? Các thày đã dạy con điều gì? Cho dù con đã kinh qua chuyện gì trên hành tinh này, đã trải nghiệm nó như thế nào xuyên qua phin lọc bốn thể phàm của con, thì Hiện diện TA LÀ của con có một kinh nghiệm hoàn toàn khác. Kinh nghiệm này mới là kết quả vững bền, là thành quả lâu dài mà con muốn thành tựu qua việc hiện thân trên trái đất. Kinh nghiệm này được lưu trữ vĩnh viễn trong căn thể của con. Đấy chính là cái thực. Đấy chính là cái tồn tại. Đấy chính là điều con đã muốn gặt hái từ việc hiện thân trên trái đất.

Còn những ký ức kia mà con mang trong bốn thể phàm không có giá trị nào trường tồn. Tại sao chúng lại phải tồn tại? Tại sao con lại phải đem chúng theo con? Tại sao con không nhìn chúng và nói: “Vụt, thế là mi đã tan mất”?  

Con yêu dấu, con hãy đơn giản chấp nhận là con có quyền quên đi. Chừng nào con còn có năng lượng tha hóa và ngã tách biệt thì con không thể quên được, nhưng một khi con đã làm tan cả hai thì con có quyền được quên. Đây là một quyền con người, một nhân quyền – chúng ta có thể nói như vậy – và quyền này phải nằm trong danh sách những quyền hạn bất khả xâm phạm mà Đấng Sáng tạo đã phú cho mọi con người. Con có quyền được quên, một quyền mà Thiêng liêng đã ban cho con.

Thày hy vọng là con sẽ nắm lấy lời dạy này và bắt đầu sử dụng quyền này. Nếu con muốn thày giúp đỡ, thày HƠN là sẵn sàng giúp con.

Lấy lại quyền được quên, là quyền Thượng đế đã ban cho con

Bài giảng của Chân sư MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018 nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia. Bài này trích từ cuốn sách “Làm hoà với sự hiện diện của mình trên địa cầu” (Making peace with being on Earth).

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE. Thật là vui mừng cho ta đến đây để gửi con phần tiếp theo của bài giảng hồi năm ngoái của ta về đề tài vô cùng quan trọng và sâu sắc này là chấn thương nhập đời và làm thế nào vượt qua chấn thương đó. Con có thể xem lại những gì Phật Gautama đã nói trong phần vấn đáp vừa rồi về thời gian. Thày nói là nếu con không thể đi trở ngược thời gian để thay đổi những sự việc xảy ra trong quá khứ, nếu con không có một cỗ máy vượt thời gian, thì con không thể tự giải thoát khỏi quá khứ. Như thày Gautama nói, Mẹ Mary quả thực đã cho con một cỗ máy vượt thời gian trong bài thực tập về cách thức trở về với kinh nghiệm chấn thương nhập đời [xin tham khảo sách “Chữa lành chấn thương tâm linh”]

Ta muốn cho con thêm một cỗ máy vượt thời gian. Con yêu dấu, con thấy đó, các sa nhân muốn con nghĩ rằng quá khứ được khắc cứng trong đá và không thể thay đổi. Một khi con đã phạm phải một lỗi lầm trên địa cầu thì con sẽ không bao giờ thoát được khỏi nó. Vậy con hãy tưởng tượng con đang đứng trước một bức tường đá thật lớn. Nếu con đã thăm viếng Vạn lý Trường thành bên Trung quốc hay Kim tự tháp Ai cập, hay Bức tường Than khóc ở Jerusalem hoặc bất kỳ thành vách nào ở đây nơi thành phố Tallinn và bất kỳ thành phố xưa cổ nào trên thế giới, thì thật ra con không cần tưởng tượng. Con biết rõ cảm giác đứng trước một bức tường đá khổng lồ. Làm thế nào con có thể đập vỡ vách tường đó xuống với hai bàn tay trần? Phải, con không thể làm được, và tại sao vậy? Một phần là vì đá rất cứng, và phần khác là vì những viên đá được dán chặt lại với nhau.

Trước tiên con hãy tưởng tượng con có thể gỡ vữa ra, là cái xi-măng giữ viên đá dính chặt với nhau. Tất nhiên nếu viên đá dính không chặt, công việc phá bỏ bức tường sẽ dễ hơn một bực. Thế nhưng cũng không dễ lắm, tùy thuộc vào kích thước những viên đá. Điều gì sẽ xảy ra nếu con có thể đập nhỏ đá ra thành vụn tựa như cát vậy? Và giả như con có một cái máy phóng ra một loại tia sáng có khả năng biến đá thành vụn nhỏ như cát thì điều gì sẽ xảy ra?    

Thật vậy, đó chính là quyền năng mà chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con qua các bài chú và bài thỉnh. Tất nhiên con không thể dùng bài chú để đập tường đá thành vụn, mặc dù trên lý thuyết nếu có đủ số đông đứng trước tường đá thì việc này cũng khả dĩ. Nhưng dù sao đi nữa, chúng tôi không hề có ý định gửi học trò chúng tôi đi khắp thế giới mà đập đổ tường đá rồi bị bỏ tù về tội phá hoại di tích lịch sử. Điều chúng tôi quan tâm là đập đổ những bức tường kiên cố trong tâm con đang giam hãm và buộc chặt con vào một khuôn nếp phản ứng đối với các sinh thể sa ngã.   

Đương nhiên, con có những bài chú và bài thỉnh mà như chúng tôi đã nói nhiều lần, con có thể sử dụng để làm cho năng lượng tan rã, và khi năng lượng giảm bớt, con sẽ dễ dàng hơn thoát khỏi khuôn nếp. Tuy nhiên như chúng tôi cũng đã dặn nhiều lần, con cần phải trải qua một kinh nghiệm ý thức, một quyết định ý thức, trước khi con thực sự tự do. Đó không phải là một tiến trình máy móc.

Nhận biết tiến trình thấy

Đây là điều ta muốn đề nghị với con. Con cần khởi sự – mới đầu chỉ cần từ từ – con cần khởi sự huấn luyện tâm con cho nó hình dung, tưởng tưởng và cuối cùng thấy rõ và chiêm nghiệm một điều mà cho tới giờ con chỉ biết trong trí thức, tức là toàn bộ thế giới vật chất được xây dựng bằng năng lượng. Bây giờ con hãy tưởng tượng là con biết trong quá khứ con đã trải qua một tình huống vô cùng đau đớn và con đang mang cái chấn thương nhập đời đó trong con. Tình huống đó được cấu tạo bằng chất gì? Như Phật Gautama có nói, thời gian đã trôi qua và tình huống vật lý không còn hiện diện nữa, nó đã bị thời gian xóa sạch. Hay có thể nói, nó đã bị thời gian sơn lên một lớp sơn – cái cọ khổng lồ của thời gian đã biến mọi sự thành sự thể của hiện tại. Và Gautama bảo: Hiện tại quả thật có thể bị quá khứ ảnh hưởng, tuy nhiên quá khứ không còn ở đó như một thực tại vật lý nữa. Nó chỉ ở đó như một vết in hay một hình ảnh trong tâm con, trong ba thể cao hơn của con, và trong một nghĩa nào đó cũng trong thể xác vật lý của con.     

Câu hỏi bây giờ là làm thế nào thoát khỏi vết in đó? Điều con cần suy ngẫm trước hết là làm thế nào bộ não vật lý, đôi mắt vật lý của con (đặc biệt là bộ não) và ngoại tâm của con nhìn và nhận thức tình huống – đúng hơn, nhận thức mọi chuyện. Ngay bây giờ con đang ngồi ở đây, con đang nhìn bức tường sau lưng vị sứ giả, là một bức tường khá vững chắc, và cái gì con thấy thật sự là một hình ảnh. Chúng tôi đã có giảng là mắt con không thực sự nhìn thấy một bức tường mà chỉ đơn giản nhận được những xung động gửi vào trong mắt, đập vào võng mạc (retina) dưới dạng những tia sáng. Mắt con không thực sự thấy mà chỉ phản ứng lại tia sáng. Phản ứng này trong mắt được chuyển thành một tín hiệu, y như tín hiệu số trong máy tính. Tín hiệu này được gửi đến cái mà con gọi là vỏ thị giác (visual cortex) trong não.  

Bây giờ bộ não có tác dụng giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý. Dụng cụ chủ yếu giúp con tạo ý nghĩa cho thế giới vật lý là bộ não khi nó áp đặt một số hình ảnh lên trên những tín hiệu đến từ mắt. Mắt con không nhìn thấy. Trong một nghĩa nào đó, có thể nói là não cũng không nhìn thấy. Não chỉ đơn giản lấy tín hiệu từ mắt rồi sắp xếp lại thành một hình ảnh ăn khớp với những gì não đã chứa sẵn trong kho dữ liệu của nó. Như được chứng minh trong vô số hiện tượng ảo thị (optical illusions) mà con đã được thấy, não không thực sự thấy cái gì ở trước mặt con. Nó tìm kiếm một mô thức ăn khớp với một cái gì đã nằm sẵn trong kho dữ liệu của nó. Nó không nhìn vào chính xác những tín hiệu đến từ mắt mà tìm kiếm một mô thức mà nó có thể nhận ra. Một khi nó có đủ xung động để tạo thành một mô thức quen thuộc, thì nó sẽ ngừng phản ứng, ngừng nhìn vào xung động từ mắt, và bây giờ nó chồng cái mô hình nó cất giữ đè lên trên cái mà con đang nhìn, và nó nói: “À, đây là cái đó.”    

Hiển nhiên, điều này đã tiếp diễn trên địa cầu suốt hàng triệu năm qua. Khi con đầu thai trong kiếp này, bộ não của con không khởi đầu từ con số không, nó không phải tự đào tạo từ đầu và xây đắp từng hình ảnh của cái này hay cái kia. Nó bị buộc chặt vào động lượng tâm thức tập thể nói trên, cho nên nó đã mang sẵn một số chương trình nội tại: À, đây là cái cây, đây là hòn đá, đây là biển cả, đây là bầu trời, vân vân và vân vân. Con có sẵn một kho dữ liệu những mô hình mà không những con đã nhìn thấy trước rồi mà cả tâm thức tập thể cũng đã nhìn thấy trước. Cho nên con đã quen nhìn mọi thứ dưới dạng hình ảnh và con dán nhãn lên mọi thứ. Con thường dán nhãn qua ngôn từ, và điều này lại bồi thêm một lớp phức tạp mới trong khi vỏ não thị giác chỉ nhận ra hình dạng mà thôi. Vỏ não thị giác có thể nhìn vào hình thù, màu sắc và nét lồi lõm của bức tường, nhưng não có một chức năng khác để chuyển dịch thị giác đó thành lời nói, và nó nói: “Đây là bức tường”. Có thêm một lớp được đắp lên trên hình ảnh, và như vậy loài người đã mang theo một động lượng rất lâu đời đặt ngôn từ lên mọi thứ.  

Con bị kẹt trong nhận thức như thế nào

Trong Thánh kinh có kể rằng Thượng đế ban cho Adam quyền năng đặt tên cho từng loài động vật trên địa cầu. Một số người tin rằng nếu con biết tên của vật thì con có quyền năng trên vật đó. Thực tế sâu sắc hơn là một khi con đặt tên cho một vật, con đã thực sự tự giới hạn mình vì con đã củng cố cho hộp tư duy của con. Con nghĩ rằng vật đó sẽ giống như cái mà con đã dán nhãn, và nó sẽ luôn luôn như vậy. Con không có khả năng nhìn xa hơn sự lập trình đó – it ra là hầu hết mọi người. Và do đó con nghĩ: “Cái đó là như thế này”. Con đã buộc con vào động lượng tập thể, và con cũng xây dựng động lượng của con trong suốt bao nhiêu tiền kiếp.   

Hồi nãy ta có nhắc tới một thời điểm hay một tình huống khi con đã trải qua một kinh nghiệm vô cùng đau đớn, và như cuốn sách “Những cuộc đời của tôi” (My Lives) có cho một ví dụ nơi nhân vật trong truyện phải nếm mùi một hoàn cảnh vô cùng khó khăn, thì con đã được lập trình, bộ não của con đã được lập trình hầu nó đặt chồng một hình ảnh và ngôn từ lên trên kinh nghiệm đó, và nó nói: “Kinh nghiệm đó như thế đó”. Và câu hỏi được đặt ra: Làm thế nào con có thể thực sự giải thoát khỏi một tình huống của quá khứ? Cho đến khi nào con còn giữ trong não, ngay cả trong ba thể cao hơn của con, cái vết in của tình huống đó cùng những hình ảnh hay những ngôn từ mà con đã liên kết với tình huống, cho đến khi nào mà những thứ đó còn ở đó thì con sẽ không thể thoát khỏi tình huống từ quá khứ.

Ta nói với con là con nên khởi sự tập tành lại chính con. Con có thể rèn luyện tâm con để nó phản lệnh bộ não. Sẽ thật hữu ích nếu con thử nhìn lại rất nhiều những ảo thị từng được đăng tải. Ảo thị điển hình là một hình vẽ mà con có thể nhận ra là một cô gái trẻ đẹp hoặc một bà cụ da dẻ nhăn nheo tùy theo con chú mục như thế nào. Có những ảo thị với đủ loại màu sắc, hình thù vân vân và vân vân. Nếu con chưa bao giờ nhìn ảo thị thì con nên thử nhìn để nó giúp con hiểu ra là con thực sự không thể tin vào giác quan của mình. Con không thể tin vào bộ não vì trong đó có sự lập trình khiến con nhìn thấy đồ vật không đúng như nó thực là.

Con có thể tiến thêm một bước và tưởng tượng con đang ngồi trong một rạp chiếu phim. Con nhìn thấy hình ảnh trên màn hình, và bởi vì rạp chiếu bóng tối om cho nên rất có thể con sẽ hoàn toàn mải mê với bộ phim, đến độ con có cảm giác con đang sống trọn cốt truyện đang được trình chiếu trên màn hình. Chắc chắn con bị cuốn hút vào đó đến nỗi con quên hết mọi chuyện. Con có khả năng tự rèn luyện để nhận ra rằng những hình ảnh đang được chiếu lên màn hình không những không thể hiện một thực tại vật lý nào (bởi vì con dư biết là chúng chỉ là những tấm hình trên một cuộn phim đặt trong máy chiếu) mà hơn thế nữa, con có thể tập nhìn thấy chúng như là những mô hình gồm có vô số những chấm nhỏ đủ màu được chiếu lên màn ảnh. Con có thể đạt đến mức khi con tập cho mắt con nhìn lệch tiêu cự cho hơi mất nét, và thay vì con thấy rõ từng người hay từng vật, thì con chỉ nhìn thấy những trường tia sáng đủ màu đang được chiếu lên màn ảnh. Khi con tập như thế một thời gian, con sẽ lần hồi đạt đến mức con áp dụng được vào cuộc sống hàng ngày. Con có thể rèn luyện để thấy bức tường này sau lưng vị sứ giả không thực là bức tường. Đó chỉ là một số tia sáng tạo thành một số mô thức nào đó.

Hồi con còn nhỏ, thế nào cũng có người bảo con thử dùng cái kính lúp để nhìn kỹ một tấm ảnh in trên tờ báo. Và con có thể thấy được những gì có vẻ là những hình thù thực sự chỉ là những cái chấm đen được sắp xếp theo những mật độ khác nhau. Màu đen càng đậm thì những cái chấm đó càng xít lại gần nhau. Màu đen càng lạt thì chấm đứng càng xa nhau. Tất cả chỉ là những cái chấm đen đã đánh lừa bộ não của con nhìn ra hình thù. Cho nên con có thể tự huấn luyện để tập trung vào những cái chấm thay vì vào hình ảnh. Rồi con áp dụng vào mọi tình huống trong đời, nhưng ngay lúc này thì việc áp dụng vào những tình huống đặc thù trong đời chưa quan trọng lắm.  

Đập vỡ hình ảnh quá khứ thành mảnh nhỏ

Điều ta mong muốn con khởi sự làm là nhìn vào những tình cảnh trong quá khứ của con. Có thể là con cảm được chấn thương nhập đời và con cảm thấy nó chưa được giải quyết. Cũng có thể con đã gặp một tình huống nào khác, ngay cả một tình huống trong kiếp này, khi con cảm thấy một điều gì đau đớn đã xảy ra. Con thử xét xem là khi con nghĩ lại tình huống đó, hình ảnh mà bộ não của con đưa lên, hay hình ảnh mà ba thể cao hơn của con đưa lên, là gì? Hình ảnh đó là gì? Con có thể nói từ một góc cạnh đường thẳng nào đó, rằng nếu con còn ký ức, nếu con còn một hình ảnh từ quá khứ, thì con sẽ không bao giờ thoát được khỏi hình ảnh đó, bởi vì những gì đã xảy ra thì đã xảy ra và con không thể thay đổi được. Con không thể làm gì được để thay đổi nó.  

Nhưng tất nhiên, đấy là điều mà các sa nhân muốn con tin chứ không phải là sự thật. Con có khả năng tập tành để đưa những hình ảnh đó lên tầm nhìn nội tâm của con. Xong con có thể tập nhìn thấy chúng, không phải như là những hình thù và những hình ảnh mà con có, mà chỉ đơn giản là những mô thức tia sáng, hay những khuôn mẫu hạt nguyên tử, hạt electron và hạt hạ nguyên tử – hay bất cứ cách nào mà con có thể hình dung. Con đập vỡ hình ảnh ra thành những mảnh nhỏ bằng bất cứ cách hình dung nào. Như ta nói ở trên, nếu con đứng trước một bức tường đá, con có thể đập vỡ các viên đá cho vụn ra thành hạt cát hầu con có thể đem đá đi dễ dàng hơn. Đây là điều mà con tập tành để giải quyết những hình ảnh từ quá khứ vẫn ám ảnh con, hoặc những hình ảnh mà con đã kềm nén xuống nhưng mỗi lần con chạm vào chấn thương nhập đời thì con lại khơi nó dậy.  

Con có thể tu tập để nhận ra một cách ý thức rằng: “Hình ảnh này chỉ là một hình ảnh mà bộ não và các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của tôi đã chồng lên đó.” Thực tế là nó không còn là một tình huống vật lý nữa. Nó chỉ là một hình ảnh. Hình ảnh này được cấu tạo bởi những hạt ánh sáng điện từ nhỏ xíu, là những cái chấm. Hình ảnh được tạo bằng chấm. Thậm chí con có thể ngắm một bức tranh của trường phái Ấn tượng, và nếu con đứng ở xa, con sẽ không thể nhìn thấy những cái chấm mà hoạ sĩ đã sử dụng để vẽ tranh. Khi con lại gần và gần hơn nữa, con bắt đầu nhìn thấy chấm, và khi con xích lại gần sát thì tất cả những gì con thấy được chỉ là những cái chấm, bởi vì con không thể thấy hình ảnh nữa. Vậy thì ta yêu cầu con hãy tự rèn luyện, và một lần nữa, điều này cũng liên quan đến chuyện con bước vào nỗi đau. Nhưng bây giờ con không bước vào nỗi đau nữa mà đó chỉ là một hình ảnh thị giác mà con có trong tâm con.  

Con hãy bước tới hình ảnh gần hơn và gần hơn nữa cho tới khi con chỉ còn nhìn thấy những cái chấm. Rồi con nhận ra rằng chính những cái chấm này là thực tại sâu xa hơn. Hình ảnh chỉ là cái gì được đặt chồng lên bởi bộ não và bởi các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Còn những cái chấm kia mới là thực tại. Và con cũng nhận ra là chấm luôn chuyển động, chúng linh hoạt, chúng không ngừng rung động, và chúng sẽ dễ dàng trình diễn bất cứ hình ảnh nào khác y như chúng đã diễn xuất hình ảnh mà con hiện có. Hơn thế nữa, những cái chấm đó có thể thực sự thoát khỏi cái khuôn đúc đã được áp đặt lên chúng, hầu chúng có thể trở về với trạng thái nguyên thủy, là trạng thái tự do nơi chúng hoàn toàn trung dung và không hiển thị bất cứ hình ảnh nào.  

Con có thể hình dung hình ảnh đó dần dần tan ra thành từng mảnh nhỏ, và những mảnh này bắt đầu rung và chuyển động. Chúng chạy tứ phía, khiến cho hình thù trên hình ảnh bị phân hủy và chỉ còn lại một màu đồng nhất. Con có thể thấy chúng biến thành giống như nước trong đại dương, hay cát trong sa mạc, hay không khí trong bầu trời xanh. Chúng trở thành vô hình thù, vô hình tướng. Hình ảnh được giải thể và con để yên cho nó ra đi. Giống như con đang lấy một quyết định, và ở một điểm con sẽ lấy một quyết định, và con nói: “Tôi đề cho hình ảnh này chết. Tôi để cho nó tan biến. Giản dị là tôi đã quên nó rồi.”

1 | Sống với những gì con không thể chung sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thật là niềm vui và đặc ân rất lớn cho thày được khai mạc hội nghị này và được chào đón các con – những người có mặt ở đây trong vật lý cũng như những người nối kết qua internet. Chủ đề nguyên thủy được đề nghị cho hội nghị này là: “Làm thế nào giúp cho con người ở Đông Âu được hòa bình,” nhưng các thày cảm thấy không chỉ người ở Đông Âu mới có thể được lợi lạc từ những bài giảng các thày muốn ban truyền. Chắc chắn con người ở khắp mọi nơi đều gặp khó khăn để cảm thấy an bình với việc mình sống trên trái đất. Con yêu dấu, điều các thày mong muốn đạt được trong hội nghị này là trao cho con một số lời dạy không chỉ dành riêng cho các avatar hay các đệ tử của chân sư thăng thiên, mà về lâu dài có thể dành cho tất cả mọi người trên địa cầu, ngay cả các cư dân nguyên thủy của địa cầu hoặc những ai tới đây từ những hành tinh khác đã rơi xuống dưới mức tự nhiên của hành tinh đó.

1.1. Xét lại cái gì là bình thường

Hiển nhiên, con yêu dấu, con đã lớn lên trên địa cầu và hầu hết các con đã lớn lên với một hình ảnh cho rằng có lẽ trái đất là hành tinh duy nhất trong vũ trụ có bất kỳ dạng sống nào. Có lẽ đây là một hành tinh rất quan trọng đối với Thượng đế – nếu con đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo. Có lẽ con đã lớn lên với ý tưởng mình là một loài vượn đã tiến hóa, và xác suất để sự sống hiện diện nhỏ đến độ nó chỉ xảy ra trên rất ít hành tinh. Do con đã lớn lên với quan điểm cho rằng rất có thể địa cầu là hành tinh duy nhất, dần dà con đã chấp nhận rất nhiều điều kiện được thấy trên trái đất mà không hay biết. Điều này không có nghĩa là con đã chấp nhận chúng là tốt, nhưng có thể con đã chấp nhận chúng là bình thường, là tự nhiên hay không thể tránh khỏi. “Chuyện nó tất phải như vậy thôi.”

Tất nhiên, điều này dính liền với giáo lý các thày đã trao cho con những năm qua rằng một khi con bị kẹt vào một trạng thái tâm thức nhị nguyên thì con không thể thoát ra khỏi trừ khi con có một khung tham chiếu chỉ cho con thấy là ở ngoài trạng thái tâm thức này có một cái gì, có một cách nhìn khác hơn về cuộc sống. Con yêu dấu, lẽ tự nhiên khi con đã lớn lên trong môi trường hiện thời trên trái đất, con đã không nhận được một khung tham chiếu như vậy. Ví dụ, không ai nói cho con biết là có những hành tinh tự nhiên nơi rất nhiều hiện tượng con thấy trên trái đất không hề biểu hiện, không hề xảy ra. Con đã lớn lên với cảm giác là thật chẳng ích gì mà chất vấn những chuyện đang xảy ra, vì hiển nhiên đó là chuyện bình thường. Điều cần làm là con tìm cách sống chung với nó mà thôi.

1.2. Khả năng thích ứng có may lẫn rủi

Con thấy đó, con yêu dấu, ở đây chúng ta đang chạm đến một đề tài – theo một nghĩa nào đó – vừa là một điều may lẫn một điều rủi. Tất nhiên, nó liên hệ phần nào đến một hiện tượng đã được các nhà tiến hóa học nói đến, là làm thế nào một giống loài có thể thích ứng với môi trường của nó. Mặc dù nhiều nhà tiến hóa học luôn luôn bênh vực chủ thuyết về sự tồn tại của kẻ mạnh nhất, nhưng nếu con thực sự nhìn vào lịch sử tiến hóa, con sẽ thấy kẻ sống còn không phải là kẻ mạnh nhất, không phải là kẻ hung hãn nhất như một số nhà khoa học đó muốn con nghĩ. Không đâu con yêu dấu, người sống còn là những người dễ thích nghi nhất. Lý do loài người đã lan tràn đến mọi nơi trên trái đất và là giống loài thành công nhất trên trái đất – ít ra từ một góc nhìn tiến hóa – là vì con người có khả năng thích nghi cao hơn bất kỳ loài nào khác mà con gặp trên địa cầu. Tại sao loài người thích nghi giỏi hơn mọi loài động vật? Vì con người không phải là một con thú. Con không phải là một loài cao hơn loài vượn một bước như các nhà tiến hóa học muốn con tin. Con là một sự nhảy vọt lượng tử so với loài vượn vì con có sự tự nhận biết, và chính khả năng tự nhận biết này đã giúp con người thích nghi với rất nhiều điều kiện khác nhau.

Một loài thú phần lớn được lập trình để cư xử một cách nhất định. Có nghĩa là con thú, nếu nó gặp phải một môi trường thù địch, sẽ không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi cách cư xử của mình như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?” Và nó cũng không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi môi trường như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?”  Một loài thú không có khả năng đó, nhưng con người thì có, và điều này chứng tỏ cho bất cứ ai sẵn sàng nhìn vào dữ kiện, là con người không phải là con thú. Con không là một con thú đã tiến hóa xa hơn, vì người ta không thể tìm thấy một loài thú nào có khả năng này ở một cấp độ thấp hơn. Thày biết sẽ có người nghĩ ra một vài ví dụ, nhưng sự thật là con không thể tìm thấy loài thú nào có một cấp độ tự nhận biết thấp hơn loài người để từ cấp độ đó nó có thể từ từ tiến hoá đến cấp độ tự nhận biết của loài người. Để những loài thú cao cấp nhất đến được mức loài người, chúng sẽ phải thực hiện một bước nhảy vọt lượng tử ví chúng phải được trao cho khả năng tự nhận biết đó từ một nguồn cao hơn – khả năng này không thể do tiến hóa.

Khả năng thích nghi của loài người là một điều may theo nghĩa con có thể thích ứng với nhiều môi trường khác nhau. Nhưng đó cũng là một điều rủi theo nghĩa chính khả năng này có thể khiến con nhìn vào điều kiện hiện tại của địa cầu và quyết định: “Ồ, tôi chỉ cần sống chung với nó. Tôi không thể nào thay đổi nó được. Thật chẳng có ích gì mà đặt nó thành vấn đề. Tôi chỉ có thể sử dụng nó tốt nhất mà thôi.” Và do đó suốt chiều dài lịch sử, loài người đã thích ứng với rất nhiều điều kiện mà họ đã có thể thay đổi nếu họ ý thức là họ có khả năng thay đổi, nếu họ có viễn quan là mọi chuyện có thể thay đổi như thế nào cùng sự sẵn lòng thực hiện cuộc thay đổi. Đây chính là khả năng mà các sa nhân đã dùng để kiểm soát quần chúng hết thời này đến thời khác, hết văn minh này đến văn minh khác, thậm chí từ thuở xưa hơn cả lịch sử được ghi chép. Những gì con gọi hiện nay là lịch sử, tất nhiên, là một sự xuyên tạc do sa nhân vì chúng không muốn con biết đến quá trình lịch sử của các nền văn minh đã biến mất nhưng đã tiến xa hơn hẳn nền văn minh hiện đại.

Lý do là vì, một lần nữa, chúng không muốn con có một khung tham chiếu cho thấy là đã từng có những nền văn minh quá khứ tiến hóa cao gấp bội nền văn minh hiện tại nhưng các văn minh đó đã sụp đổ do ảnh hưởng của sa nhân. Và như vậy, nền văn minh của con không những có khả năng tiến hoá xa hơn nữa mà cũng có khả năng suy tàn – nếu con cho phép sa nhân tiếp tục sai khiến mọi chuyện. Chúng không muốn con có khung tham chiếu này mà con đã có thể nhận được nếu con biết lịch sử các nền văn minh đã qua. Chúng muốn con tin rằng các con là một giống loài với một quá trình rất ngắn, cho dù là một vài triệu năm theo như khoa học công nhận, hay là 6000 năm theo người Cơ đốc cực chính thống cũng như hầu hết các tín đồ tin vào kinh Cựu ước cho rằng Thượng đế đã tạo ra địa cầu trong dạng hiện hữu chỉ mới gần đây thôi. Lẽ tất nhiên, Thượng đế (trong tư cách là sinh thể cao nhất trong vũ trụ mà chúng ta gọi là Đấng Sáng tạo) không hề tạo ra địa cầu trong dạng hiện thời, vì chắc chắn ngài đã có thể hình dung ra một hành tinh không có bóng dáng chiến tranh, loạn lạc, bạo lực cùng tất cả mọi thứ khác.

Con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây – những người tâm linh, cho dù con là một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đang bắt đầu nâng cao tâm thức mình – là một điều vô cùng giản dị. Con đã kế thừa từ giống loài của con, từ tâm thức tập thể, từ cha mẹ, từ các thế hệ trước, khả năng thích nghi với các điều kiện vật chất, khả năng chấp nhận các điều kiện này là bình thường và tìm được cách sống chung với chúng. Đây là một khả năng đã phục vụ nhân loại một cách nào đó, nhưng đối với con là người tâm linh, đã đến lúc trên bước đường tăng triển con phải xem xét nó và quyết định: “Tôi sẽ vươn lên cao hơn động lượng tập thể muốn thích nghi với các điều kiện vật lý.” Các thày đã nói với con những gì suốt những năm qua qua các lời giảng? Rằng con không ở đây để chấp nhận các điều kiện hiện thời và thích nghi với chúng. Con ở đây để nâng cao điều kiện hiện thời, nâng cao tập thể, thậm chí nâng cao cả các điều kiện vật lý. Con không thể làm điều này nếu con là một con thú có kỹ năng thích nghi. Con chỉ có thể làm được khi con công nhận mình là một sinh thể tâm linh và con quyết định: “Tôi sẽ vươn lên khỏi cái kỹ năng chấp nhận, thích nghi với các điều kiện hiện hành.”

1.3. Các điều kiện con không thể sống chung

Để hiểu điều này đầy đủ và thực hiện những gì thày đang trình bày với con, con cần nắm vững bối cảnh các thày đã rất cẩn thận trao cho con – bắt đầu từ trước hội nghị năm ngoái ở đây tại Estonia nhưng chắc chắn cũng ngay trong hội nghị đó – là các giáo lý về chấn thương nhập đời và ngã gốc [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy của địa cầu, đã tới một lúc con phải chạm mặt với những điều kiện khốc liệt đến độ con phải gánh chịu chấn thương nhâp đời đó – hay chấn thương điạ cầu đó, là từ mà các thày dùng đối với các cư dân nguyên thủy. Sau đó con đã tạo ra ngã gốc là một cái ngã phản ứng. Điều con cần bắt đầu suy nghiệm ở đây là cho dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy, một khi con đạt đến một nhận biết nào đó thì trong nội tâm, con biết là mọi sự không nhất thiết phải xảy ra như chúng đang xảy ra trên trái đất. Có một giải pháp thay thế, có một cách khác hơn, và mọi sự có thể tốt hơn. Có thể con không diễn đạt được điều này bằng lời nói, ngay cả con không ý thức được rõ ràng, nhưng con có một khung tham chiếu rằng những chuyện đang diễn ra ở đây trên địa cầu không phải là cao nhất.

Điều lạ lùng ở đây – và điều này rõ rệt nhất nơi các avatar cho nên thày sẽ dùng ví dụ này – là như một avatar con đến hiện thân lần đầu trên địa cầu, và cho dù con không giữ được ký ức ý thức về cuộc sống trên hành tinh tự nhiên, con vẫn mang một cảm nhận mạnh mẽ rằng nhiều điều mình gặp trên trái đất không phải là cao nhất và có một cách sống khác hơn. Mọi sự không cứ phải y như vậy. Thế là giờ đây con bị mắc kẹt – nếu có thể nói như vậy vì đây là điều hầu hết chúng ta đều cảm nhận – mắc kẹt trong xác thân vật lý dày đặc này giữa thế giới vật lý dày đặc này. Chung quanh con là những người khác cũng mang một xác thân vật lý, và cho dù con có cảm gì hay nghĩ gì thì họ cũng có khả năng làm con tổn thương, khả năng sử dụng xác thân vật lý của họ để làm hại xác thân vật lý của con.

Con không thể làm gì để tránh chuyện này một khi con ở trong cơ thể vật lý. Cho dù người ta có làm gì con, con cũng không thể tránh khỏi sự kiện con đang ở trong một cơ thể vật lý và con nhìn, con trải nghiệm những gì xảy ra trên trái đất. Các thày đã từng nói là con có thể là một avatar nhìn xuống địa cầu và con quyết định mình muốn đến đây đầu thai, và hiển nhiên con có thể thấy được nhiều điều kiện không phải lẽ, nhưng con không thể kinh nghiệm các điều kiện này từ xa. Con sẽ không trải nghiệm địa cầu bằng xương bằng thịt cho đến khi con bị mắc kẹt, bị dính chặt trong một xác thân vật lý. Một khi con ở đây, một khi con ở trong xác thân này thì bỗng chốc con trải nghiệm địa cầu là như thế nào. Thậm chí con trải nghiệm năng lượng ở đây quá dày đặc, tâm thức tập thể quá dày đặc với biết bao lòng căm hận, thù địch lẫn sợ hãi. Con trải nghiệm nó một cách con không bao giờ tưởng tượng nổi như một avatar. Thực tế là một phần nỗi chấn động mà con cảm thấy liên hệ đến một điều kiện đặc thù – một điều kiện với nhiều xác suất nhất hay có lẽ là điều kiện chủ chốt – mà con đã xem xét trước khi đến địa cầu rồi quyết định là mình muốn góp phần loại trừ nó khỏi địa cầu. Giờ đây con ở trong cơ thể, con đang trải nghiệm điều kiện này, con thấy nó dữ dội đến chừng nào, nó nặng nề đến chừng nào, nó khó khăn đến chừng nào, thì con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với nó. Tôi không thể sống với điều kiện này có mặt trên trái đất.”

Có thể cá nhân con không bị tra tấn như được mô tả trong sách Những kiếp của tôi. Không phải tất cả các con đều phải hứng chịu kiểu tấn công cá nhân hung ác đến vậy. Một số các con bị cú sốc chỉ do đã chứng kiến người ta phải sống và khổ đau như thế nào. Là avatar, con chưa bao giờ chạm trán với sự thể như vậy trên một hành tinh tự nhiên và con cảm thấy không một ai phải sống trong điều kiện như thế. Cho nên con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với tình trạng này trên hành tinh này. Tôi không thể sống trong một môi trường có tình trạng này hiện hữu.”

Đó là phản ứng của con. Con chiu rút vào chính mình, theo nghĩa đen. Con bị chấn động đến độ gần giống như con cố kéo nguyên hào quang của mình trở vào bên trong một điểm an toàn nơi con có thể quên đi sự có mặt của điều kiện đó. Thế nhưng con không thể làm vậy vì như thày vừa nói, con bị kẹt cứng trong cơ thể vật lý của mình. Không có cách nào thoát ra khỏi cơ thể vật lý. Thế rồi khi cú sốc ban đầu tan đi đôi chút, con phải đối mặt với một thực tế vô cùng phũ phàng. Tất cả mọi thứ trong cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể của con nói với con: “Tôi không thể sống trên hành tinh này khi điều kiện này có mặt. Tôi không thể sống với nó.”  Nhưng cơ thể vật lý của con khi nó đói meo, nó sẽ bảo con phải sống trên hành tinh này và con phải làm mọi điều cần thiết để giữ cho cơ thể sống còn.

1.4. Xem cơ thể là kẻ thù

Đây là lúc nhiều người trong các con trải nghiệm một sự phân rẽ giữa cơ thể vật lý và ba thể phàm cao hơn. Gần như thể con phải dựng lên một loại hàng rào nào đó giữa thể vật lý và ba thể cao để bảo vệ các thể cao khỏi những gì xảy ra trong cõi vật lý, có lẽ cả những gì cơ thể vật lý trải nghiệm. Nếu con đã bị tra tấn chẳng hạn, con sẽ phải tạo ra rào cản này để nỗi đau của cơ thể không tác động quá dữ dội lên ba thể cao. Hầu hết các con đã dựng lên sự phân rẽ này mà con vẫn mang theo cho đến giờ. Con có thể thấy làm thế nào suốt các thời đại, người tâm linh đã xem cơ thể mình là một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh. Họ thường nói đến những ham muốn của thể xác, ham ăn, ham tình dục, đủ loại dục vọng khác nhau, và họ xem đó là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh.

Nền tảng của điều này là cú sốc tiên khởi khi con toan dựng lên hàng rào đó như một cơ chế phòng thủ. Tất nhiên ở một mức độ nào đó, con nhận ra là xác thân vật lý của con nằm trong cõi vật lý và người khác cũng có xác thân của họ. Họ có thể xông tới làm hại xác thân con nhưng họ không thể làm tổn thương ba thể cao của con dễ như vậy. Nếu con có thể phóng chiếu hay tạo ra một rào cản thì phần nào con có thể tự bảo vệ mình. Điều thày nói với con là tất cả các con đều đã chạm mặt cơ chế đó và con đã cảm thấy: “Tôi không thể sống với điều kiện này trên trái đất.” Thực tế phũ phàng là con phải sống ở đây trên trái đất. Vậy con làm gì đây? Làm thế nào đối phó đây? Như thày vừa nói, con thường hay đối phó bằng cách buộc mình vào cái cơ chế thích nghi tập thể đã được tạo ra bởi mọi người khác trong gia đình con, trong dân tộc con, trong văn hóa của con, trong nền văn minh của con – thậm chí trong toàn bộ giống loài và có thể nói trong tâm thức tập thể nói chung. Con tự buộc mình vào đó và con nhận ra là trên một hành tinh như thế này, con phải thích nghi thôi. Con phải chấp nhận các điều kiện như chúng đang trải bày, và con tận dụng theo cách tốt nhất. Phần nào đó sâu thẳm trong tiềm thức của con, con đã lấy quyết định: “Tôi không thể sống với chúng nhưng tôi sẽ phải sống với chúng, và để sống với chúng, tôi phải chấp nhận niềm tin này hay niềm tin kia.”

Có thể con đã chấp nhận chuyện này không thể tránh, không thể né khỏi, và nếu con làm một số việc thì con sẽ tránh được cái điều kiện mà con không thể chung sống. Con có thể tránh không đích thân trải nghiệm nó, con có thể cách ly khỏi nó. Con thấy nhiều người ở các nước tiền tiến đã tự cách ly khỏi rất nhiều điều kiện đang diễn ra trong thế giới thứ ba, chẳng hạn nhiều người ở nước tiền tiến không thể sống nổi nếu chính con mình bị chết đói hay thiếu ăn, nhưng họ lại có thể sống nổi nếu hàng triệu trẻ em trong thế giới thứ ba bị chết đói hay thiếu ăn. Một lần nữa, thày không đang chê trách mà thày chỉ đưa ra một ví dụ về cơ chế mà qua đó con có thể tự cách ly khỏi một điều kiện để vẫn sống được trên hành tinh này, vẫn sinh hoạt được trên hành tinh này.

1.5. Cơ chế sống còn

Điều chúng ta đi đến ở đây chỉ đơn giản là một cơ chế sống còn. Thậm chí nó có thể là một cơ chế sống còn vật lý, qua đó con cố gắng tự cách ly bằng cách tránh đầu thai nơi những khu vực trên địa cầu gặp nhiều chiến tranh, nhiều bệnh tật hay nạn đói hay bất cứ gì khác. Đối với đa số các con, nó chủ yếu là một cơ chế sống còn ở tầng cấp cảm xúc, lý trí hay bản sắc hầu con có thể tồn tại trên một hành tinh mang sẵn điều kiện mà con không thể chung sống. Bởi vì nếu phần nào con cách ly khỏi nó và cá nhân con không chạm mặt trực tiếp với nó, thì con có thể sống với sự có mặt của nó trên hành tinh – nhưng ở một nơi nào khác chứ không ở ngay nơi con sống.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày không nói điều này để trách móc con. Các thày đều đã đầu thai trên địa cầu và đã từng làm y hệt như con để có thể sống ở đây. Điều thày muốn nói là đối với các con đã theo học giáo lý cho đến điểm này, các con đã sẵn sàng nhìn vào vấn đề này. Con đã sẵn sàng nhìn vào các cơ chế sống còn và con cũng sẵn sàng khởi sự vươn lên cao hơn để con có thể sống trọn trên địa cầu chứ không chỉ sống còn mà thôi. Con thực sự an bình với việc mình ở đây và do con đã an bình, con có thể vui hưởng cuộc sống trên địa cầu. Thậm chí con vui hưởng việc biểu hiện chính mình, biểu hiện cái ta thực của mình ngay đây trên địa cầu.

Lẽ tự nhiên con yêu dấu, khi con tới đây và nếu con là một avatar (hay ngay cả một cư dân nguyên thủy), các con đều có mong muốn biểu hiện bản thể thực của con, khả năng sáng tạo thực của con trên địa cầu và con biết đó là cách duy nhất địa cầu sẽ cải tiến. Cách duy nhất con có thể giúp địa cầu tiến bộ là khi con biểu lộ con người mà con thực là, biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Nhưng khi con tạo ra cái cơ chế sống còn đó, kỳ thực con đã nói: “Chừng nào cái điều kiện mà tôi không thể chung sống còn hiện hữu trên trái đất, tôi sẽ không thể tự do biểu hiện chính mình, tôi không thể sáng tạo.” Nhiều các con thậm chí đã cảm thấy – nếu có thể gọi như vậy – một tình đoàn kết nào đó với những người đang đau khổ trên trái đất. Nhiều các con đã tạo ra một cơ chế vô cùng sâu đậm trong tiềm thức nơi con có lòng trắc ẩn đối với một nhóm người đặc thù đang đau khổ vì một điều kiện đặc thù. Nói chung, ở một thời điểm con đã quyết định: “Tôi không thể an bình, tôi không thể hạnh phúc, tôi không thể sáng tạo, tôi không thể tự biểu đạt chừng nào những người kia còn bị đau khổ bởi điều kiện đó.”

1.6. Đóng chặt sáng tạo không phải là giải pháp

Con yêu dấu, đó là một cách phản ứng rất dễ thông cảm. Như thày vừa nói, tất cả chúng ta đều đã bước vào đó. Các thày đã thăng thiên cũng đã đạt tới một điểm khi các thày nhận ra là mặc dù phản ứng đó dễ thông cảm, nó không xây dựng, vì tại sao con đã đến địa cầu như một avatar chứ? À, vì con muốn loại trừ chiến tranh chẳng hạn. Làm thế nào con có thể đóng góp loại trừ chiến tranh? Chỉ bằng cách biểu lộ sự sáng tạo của bản thể cao hơn của con. Nếu con đóng chặt sáng tạo lại (vì con cảm thấy gắn kết với người đau khổ) thì con cũng đóng chặt khả năng thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện. Con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách đau khổ y như những người đang đau khổ, và con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách cắt đứt sáng tạo của mình, bước vào một trạng thái sống vắng bóng mọi niềm vui vì con cho rằng con không thể vui được khi người khác còn đau khổ. Đây không phải là cách thức loại trừ một tình trạng mà con đã đến đây để góp phần loại trừ.

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa nếu con muốn tác động tích cực đến địa cầu, con sẽ không thể làm được điều này bằng cách suy nghĩ hay nhìn vấn đề y như mọi người khác vốn nhìn. Con không thể giúp khắc phục một vấn đề, một điều kiện, bằng cách thích nghi với điều kiện đó như mọi người vốn thích nghi. Các thày cần con bắt đầu suy ngẫm điều này và như thày đã nói, bắt đầu xét xem: “Đâu là những điều kiện trên địa cầu khiến tôi xốn xang nhiều nhất? Đâu là những điều kiện khiến tôi xốn xang nhiều nhất?” Thày Nada đã có giảng điều này trong sách của thày [Những Khai ngộ Thần bí về An bình] khi Nada yêu cầu con làm bài tập trong sách, nhưng các thày cũng đã yêu cầu con xem xét vấn đề này trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Bây giờ thày đây lại yêu con lần nữa. Thày yêu cầu các con trong tư cách nhóm hãy duyệt lại và thảo luận về vấn đề này. Đâu là những điều kiện trên trái đất khiến con không thể chung sống trong phần sâu thẳm của bản thể con? Rồi có lẽ các con thảo luận xem con đã làm thế nào để vẫn sống được trên trái đất trong khi điều kiện đó vẫn hiện hữu và con đã phải làm gì để đạt đến điểm đó. Xong con có thể bắt đầu xét xem làm thế nào con có thể tự giải thoát khỏi điều kiện đó.

Con thấy đó con yêu dấu, một lần nữa, điều vô cùng quan trọng là con cần nhìn nhận những gì các thày đã nói ở đây. Khi con đến địa cầu – dù con là avatar hay một cư dân nguyên thủy phải chạm mặt với sa nhân lần đầu – con ở một tầng tâm thức nào đó. Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi, và do sự kiện con ở đây (mặc dù như thày vừa nói, có thể con đã thích nghi với một số điều kiện hay con đã rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ) thì con vẫn đã thu hoạch một nhãn quan khác hơn, một độ trưởng thành cao hơn sau khi sinh sống trên một hành tinh như thế này. Có nghĩa là giờ đây con có thể nhìn vào quyết định ban đầu của mình khi con quyết định sẽ thích nghi thế nào với hoàn cảnh. Con có thể nhìn nó từ một góc độ rộng lớn hơn. Con có thể thấy nó giới hạn con ra sao và do đó con đạt tới điểm nhận diện nó là một cái ngã. Con đã tạo ra một cái ngã cho phép con sống trên địa cầu trong khi điều kiện đó vẫn có mặt, nhưng ngã này cũng có chức năng cắt đứt khả năng sáng tạo của con. Con có thể nhận diện ngã đó, xem xét nó từ ngoài, nhận ra nó không phải là con và do đó con có thể quyết định để cho nó chết đi.

1.7. Thoát khỏi vấn đề mà không giải quyết vấn đề

Con hãy ghi nhận tất cả mọi điều các thày vừa trình bày. Ngã này có thể nghĩ là con không thể an bình trên địa cầu chừng nào một điều kiện nào đó hiện hữu. Do đó nó có thể phóng chiếu vào con là con cần phải giải quyết điều kiện đó trước khi con có thể an bình, nhưng như các thày đã nói, thật sự không phải vậy. Chính con – cái Ta Biết – có khả năng nhìn ra đó chỉ là một cái ngã đang phóng chiếu quyết định phi lý này vào con, và con có khả năng quyết định: “Đây không phải là quyết định mà tôi muốn sẽ quy định tôi, quy định cuộc sống của tôi trên địa cầu này nữa.” Con có thể quyết định để cho ngã chết mà không cần phải giải quyết vấn đề, cái vấn đề mà ngã đã phóng chiếu cho con giải quyết.

Vì vậy con yêu dấu, công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên mà thày giao cho con trong hội nghị này là mở ra cuộc thảo luận về các đề tài này. Trước hết con hãy nhận diện các điều kiện con không thể sống với. Con yêu dấu, con cần nhận thức là có một phần của cơ chế thích nghi qua đó nhiều người trong các con, những người tâm linh, đã cảm thấy mình cần phải tỏ ra tích cực, mình cần có một cái nhìn tích cực về cuộc sống trên trái đất. Cho nên đôi khi con có xu hướng phủ nhận các cảm xúc tiêu cực của mình. Con đi vào phủ nhận, con che giấu chúng, và con không nhìn nhận là mình đã có cảm xúc tiêu cực. Như ngay cả Phật Gautama cũng có nói, điều hoàn toàn chấp nhận được là con công nhận mình có một số cảm xúc rất mãnh liệt về một số điều kiện trên trái đất. Hoàn toàn chấp nhận được là con đưa chúng lên mức nhận biết ý thức để con có thể thỉnh gọi và làm tan biến năng lượng. Và nhờ vậy, con nhìn ra cái ngã đã tạo ra những cảm xúc này và để cho ngã đó rốt cuộc chết đi.

Con không thể làm được điều này nếu con luôn luôn muốn duy trì cái cảm nhận cực đoan của một số người theo phong trào Thời Mới: “Ô mọi chuyện đều tốt hết.” Như các thày đã nói, con là một người biết suy nghĩ thì con không thể nhìn vào các điều kiện trên trái đất rồi bảo là mọi chuyện đều tốt hết, vì rõ ràng là không. Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con biết rõ điều này nhưng thỉnh thoảng con vẫn có những cảm xúc mà con không nhận diện – mà con không thật sự sẵn lòng nhận diện vì chúng làm con sợ hãi đôi chút. Con không biết làm gì với chúng nhưng thày nói với con điều này: Con hãy nhận diện các cảm xúc này, đây là một phần bài tập của con cho hội nghị này. Và một khi con đi vào sâu hơn, các thày sẽ giúp con đối phó với chúng, khắc phục chúng và giải thoát khỏi chúng để con có thể an bình với việc mình ở đây trên hành tinh này. Và nhờ con an bình cho nên con có thể thực sự góp phần vào việc loại trừ một điều kiện nhất định.

Và như vậy, thày cảm ơn con với bài truyền đọc khai giảng này, thày cảm ơn con đã hiện diện, đã tham dự hội nghị này, đã sẵn lòng làm thành viên của mạn đà la này. Con có khả năng thực hiện một điều gì đó cho tâm thức tập thể mà chưa một nhóm người nào đã từng làm theo cách này – một nhóm người sẵn lòng thực hiện việc này một cách ý thức trong bát cung vật lý. Và thày cảm ơn con đã làm vậy.

3 | Trải nghiệm chính mình trên địa cầu

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary và thày muốn tiếp nối bài truyền đọc trước của thày cùng cuộc thảo luận của các con. Thày biết ơn các con đã sẵn lòng chia sẻ cảm nghĩ của mình về việc hiện diện trên trái đất. Cho dù các cảm nghĩ này có tích cực hay không mấy tích cực, điều quan trọng là con chia sẻ và sẵn sàng thừa nhận cảm xúc của mình. Lẽ tự nhiên, không cảm xúc nào là sai trái. Cảm xúc mà con có là những cảm xúc con có. Chắc chắn đây là một hành tinh thật khó khăn, đặc biệt nếu con đến từ bối cảnh một hành tinh tự nhiên. Nếu con là một cư dân nguyên thủy của trái đất và đã sống ở đây lâu hơn nhiều, con sẽ không có cùng cảm xúc đó, mà lẽ tự nhiên con sẽ cảm thấy đây là một hành tinh tích cực hơn hẳn so với sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và địa cầu. Điều quan trọng là con cần thừa nhận cảm xúc của mình, vì như các thày đã nói nhiều lần, con không thể thực sự khắc phục được cảm xúc, khắc phục được ngã cho đến khi con ý thức có ngã hiện hữu, ngã có mặt ở đó, và ngã có một số cảm xúc.

3.1. Ai đang có cảm xúc?

Một khi con đưa cảm xúc ra ánh sáng, con có thể bắt đầu xem xét: Cảm xúc đến từ đâu? Thậm chí con có thể đặt câu hỏi: “Ai đang cảm xúc như vậy, là chính tôi hay một cái ngã?” Lẽ tự nhiên, đó là một cái ngã đang cảm xúc như vậy vì cảm xúc có liên hệ đến trái đất. Có nghĩa đó là một cảm xúc phản ứng, và chỉ một cái ngã phản ứng mới có thể có cảm xúc như vậy. Nhưng con – trong tư cách mà các thày gọi là cái Ta Biết – thật ra con không cảm xúc. Cảm xúc có thể có mặt trong cảm thể của con và con có thể trải nghiệm thế giới qua sự pha màu, qua cái phin lọc của cảm xúc đó, nhưng con không thực sự cảm xúc. Thày cũng hiểu là con cảm thấy như thể mình đang có cảm xúc, và hậu quả là cảm xúc đang con. Lý do là vì con bị đồng hóa với một cái ngã và con chưa nhìn ra đó là một ngã tách biệt, đó không phải là con. Đấy là tại sao con có công thức – mà các thày đã trao cho con trước đây – về cách làm thế nào con nhận diện được các ngã này, làm thế nào con xoay chuyển ra khỏi chúng và cuối cùng để cho chúng chết đi.

Khi con làm vậy, và một khi con đã thỉnh cầu sự tiêu hủy hay biến hóa của năng lượng chất chứa trong ngã, thì con có thể giải thoát khỏi cảm xúc đó. Nhờ vậy con có thể tự do đón nhận cuộc sống của mình trên trái đất với một cảm nhận tích cực. Lý do các thày yêu cầu con biểu lộ bất kỳ cảm xúc nào con có là để con không phải sống thời gian còn lại của mình trên hành tinh này với gánh nặng của các cảm xúc tiêu cực rất mãnh liệt này. Thày có thể cam đoan với con là chính thày đây khi còn hiện thân đã có những cảm xúc rất tiêu cực về việc mình ở trên trái đất. Hoàn toàn không có chuyện thày muốn cho con hình ảnh là thày có gì khác con, rằng thày cao hơn con đến độ thày không có những cảm xúc đó. Thày đã từng có nhiều cảm xúc giống như các con vừa bày tỏ hôm nay.

3.2. Cảm nhận của con về người khác

Nếu con xem những gì được nói ở đây, con có thể thấy là nói chung, có một sự khác biệt giữa cảm nhận của con về trái đất và cảm nhận của con về con người. Sẽ hữu ích nếu con có thể – chỉ trong suy nghiệm riêng tư – nhìn xem con cảm thấy gì về người khác. Xong con có thể tìm cách phân biệt. Liệu cảm tưởng mà con có, chẳng hạn rằng “người ta thật ngu ngốc”, liên quan đến mọi người hay chỉ một số người? Và nếu vậy thì loại người nào? Nhiều khi con sẽ thấy là những cảm xúc mãnh liệt nhất về người khác đều liên quan đến sa nhân. Cảm xúc đó do sa nhân gây ra. Điều sa nhân đã làm gì con hay con đã chứng kiến sa nhân làm gì tới người khác khiến con có cảm xúc rất mãnh liệt về con người. Xong con có thể bắt đầu phân biệt xem, có lẽ, con không có cảm xúc này về mọi người. Có nghĩa là con có thể bắt đầu có một quan hệ khác hơn với hầu hết mọi người mà con gặp, vì chắc chắn hầu hết mọi người con gặp đều không là sa nhân, mặc dù nhiều người trong các con – không phải tất cảmột số các con – đã có quan hệ với sa nhân trong kiếp này hay nhiều kiếp trước.

Thày có nói trước đây là thày mong muốn con đừng nhìn thày như thể thày là sa nhân, đừng liên hệ với thày xuyên qua những hình ảnh và kỳ vọng do sa nhân tạo ra. Thày cũng mong muốn con quan hệ với người khác như thể họ không phải là sa nhân, để con phân biệt và nhận ra là các cảm xúc mãnh liệt nhất của con về người khác liên quan đến sa nhân. Do đó con không thể đánh giá hay liên hệ với người khác, với mọi người khác, dựa trên các cảm xúc này. Có nghĩa là con có thể bắt đầu làm dịu bớt cái nhìn của mình về người khác để con thấy không phải ai ai cũng như vậy. Con không dựa trên sa nhân để suy diễn về mọi người, và con không để cho sa nhân tô màu cái nhìn cùng quan hệ của con với mọi người.

Nhiều người trong các con cảm thấy là mình đã đến đây phần nào để giúp người khác bằng nhiều cách, có lẽ cũng để giáo huấn người khác. Tất cả các con đều cảm thấy là, đúng vậy, con đã bị sa nhân đối xử thật tàn tệ, nhưng nhiều các con cũng cảm thấy mình bị đa số con người trên địa cầu đối xử thờ ơ. Hoặc họ đã không đếm xỉa gì đến con, hoặc họ đã phần nào thiếu thân thiện, không muốn bị phiền hà. Đây là một cảm giác rất phổ biến trong số các avatar, nói chung trong số những người tâm linh, rằng người ta không muốn lắng nghe con. Họ không muốn nghe con trình bày về cáí hiểu tâm linh, cái biết tâm linh của con. Họ không muốn bị xáo trộn mà chỉ muốn sống theo cùng lối sống như cũ, họ không muốn thay đổi. Nhiều các con đã cảm thấy lẻ loi. Con đã cảm thấy bị ruồng bỏ. Chính do cơ chế này mà con đã cảm thấy mình không thuộc về nơi đây. Điều này không dính dáng trực tiếp đến sa nhân mặc dù sa nhân cũng đã cố trấn áp con vì con dạy cho con người những điều sa nhân không muốn họ biết. Dù sao thì phản ứng mạnh mẽ hơn mà con gặp phải là từ những người chỉ không muốn nghe con nói bất cứ gì con muốn nói, họ không muốn nghe thông điệp của con đem lại.

3.3. Quyền tự quyết và cảm nhận của con về con người

Đây là một đề tài sẽ cần con làm việc thêm từ phía con trước khi con có thể đạt tới điểm làm hòa với sự kiện – một sự kiện mà con có thể quan sát thấy – là hầu hết mọi người trên địa cầu không muốn nghe một lời dạy tâm linh. Như các thày có nói, thật ra họ không muốn thoát khỏi khổ đau của họ cho dù con có thể chỉ cho họ cách làm thế nào. Để làm việc này, rất có thể con sẽ phải xem xét những gì thày vừa nói về nhu cầu phát triển một lòng tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Điểm này có hai phần. Con tôn trọng quyền tự quyết của người khác và đồng thời con cũng tôn trọng quyền tự quyết của chính con. Quả thật có hai khía cạnh mà con cần suy ngẫm. Trước nhất, như một avatar từ hành tinh tự nhiên, con đến từ một môi trường nơi không ai cưỡng ép quyền tự quyết của ai. Đây là một trong những đặc tính chủ yếu của một hành tinh tự nhiên. Cư dân trên hành tinh tự nhiên không có nhu cầu cưỡng ép quyền tự quyết của ai khác.

Khi con đến đây, con mang sẵn lòng tôn trọng quyền tự quyết, nhưng rất có thể sau khi chạm mặt với sa nhân và chứng kiến cách họ khuynh loát mọi người trên trái đất như thế nào, thì con quên mất lòng tôn trọng này. Thậm chí con còn có thể khoác lấy thái độ là bởi vì con người đã bị sa nhân cưỡng bức và khuynh đảo, cho nên việc con tìm cách đánh thức họ dậy một cách hơi mạnh bạo cũng chấp nhận được. Con không khuynh đảo giống như sa nhân, nhưng con ép họ phải nghe những gì con nói.

Một số các con có thể nhìn lại một số lời dạy cũ mà các thày đã trao truyền về ý nghĩa việc là Ki-tô trên địa cầu, rằng con ở đây để lay chuyển hiện trạng chứ không ở đây để bỏ mặc mọi người trong cùng trạng thái như trước. Con thấy Giê-su thách đố mọi người, lật bàn của kẻ đổi tiền, thách thức các thày thông giáo và người Pha-ri-si, thách đố những ai thày gặp, ví dụ như qua câu “Ai trong số các người sạch tội thì cứ việc ném đá trước đi!” cùng nhiều tình huống khác. Con có thể nhìn vào đó và nói: “Nhưng nếu chúng ta ở đây để tạo sự thay đổi tích cực và nếu con người bị mắc bẫy sa nhân đến vậy, thì có thể chúng ta cần phải mạnh tay đâm thủng sự kháng cự đó để chạm họ với một thông điệp nào đó.” Không cứ các luận điểm này là vô giá trị nhưng câu hỏi là như sau: Con đang hành xử từ tâm thái nào đây? Điều các thày kêu gọi các con làm – các con là avatar – là bước lên mức cao nhất con có thể trên trái đất. Con có thể làm bất cứ gì con chọn làm trên trái đất, nhưng hành động của con không dựa trên các ngã phản ứng đó, nó không đến từ ngã gốc cùng tất cả mọi ngã khác con đã tạo ra.

Con thấy đó, con yêu dấu, người ta có thể nhìn Giê-su với tâm vỏ ngoài, chụp lấy các lời dạy về quả vị Ki-tô xong quyết định với tâm vỏ ngoài: “Đây là những gì tôi sẽ làm để đánh thức mọi người.” Suốt những thập niên các thày trao truyền giáo lý qua nhiều tổ chức khác nhau, các thày đã chứng kiến một số người phản ứng theo kiểu đó. Con thấy ở Kazakhstan, Chân sư MORE đã ban bài truyền đọc vô cùng sâu sắc về một đợt truyền pháp trước, khi người ta háo hức dùng “tia sáng xanh” để xông ra ngoài đánh thức người khác [Xem sách Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh Cao nhất]. Điều con nhận thấy là mặc dù mục đích cũng chính đáng nhưng cách thực hiện thì lại dựa trên những cái ngã vỏ ngoài mà họ đang mang. Gần giống như thể một số người đã sống qua bao nhiêu kiếp bực dọc với việc mình có mặt trên trái đất, đến độ giờ đây họ cảm thấy các chân sư thăng thiên vừa cho họ toàn quyền xông ra ngoài để hung hăng chiếu “tia sáng xanh” vào người khác. Giờ đây họ làm vậy để đền bù cho tất cả những kiếp dài bực dọc kia, giờ đây họ có thể hoàn thành mục tiêu họ đã đặt ra.

Con thấy không, con yêu dấu, những người đó không an bình với việc họ ở trên địa cầu. Giê-su cũng không luôn luôn an bình khi thày thách thức người khác. Nhưng điều này không có nghĩa là con không thể vươn đến mức con có thể sống trên địa cầu và có lẽ thách thức người khác – nếu việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con và cũng là điều con cảm nhận – nhưng con làm vậy từ một tâm thái an bình. Như vị sứ giả này có nói hồi nãy, con không đang cố thay đổi người khác để tránh một cảm xúc tiêu cực trong chính mình hay về chính mình, vì con đã giải quyết xong cảm xúc đó nơi chính con. Con đã loại bỏ các ngã tách biệt đó và nhờ vậy con an bình khi con tương tác với người khác.

3.4. Ép buộc người khác vì lợi ích của họ

Vậy thì làm thế nào con đạt tới điểm cảm thấy an bình khi tương tác với người khác cho dù họ có phản ứng thế nào đối với con? Con cần kinh qua tiến trình mà sứ giả này đã mô tả và nhận ra là trước khi ông đến đây, ông tưởng ông đến đây để thay đổi địa cầu, nhưng dần dà ông đã sẵn lòng nhận ra đó không phải là cách hiểu cao nhất về lý do ông đến địa cầu. Kỳ thực ông đến địa cầu để thay đổi chính mình, để ông có một số trải nghiệm và nhờ vậy phát triển lòng chấp nhận trọn vẹn đối với quyền tự quyết mà trước đó ông không có – một sự chấp nhận mà nhiều các con đây cũng đã không có trên một hành tinh tự nhiên.

Đây là một bí ẩn! Trên một hành tinh như trái đất nơi con chứng kiến sa nhân không ngừng khuynh loát và cưỡng bức quyền tự quyết của loài người, làm thế nào con chống chọi được đây? Làm thế nào đối phó? Con sẽ xô đẩy quyền tự quyết của người khác đến chừng nào vì con nghĩ đó là lợi ích của họ? Sứ giả này đã sẵn lòng nhận diện một sự thật đơn giản: Mặc dù có những sa nhân ác ý thao túng quyền tự quyết của nhân loại, nhưng cũng có nhiều sa nhân tin rằng chúng thao túng quyền tự quyết của người khác vì lợi ích của những người đó. Chúng tin là chúng đang tranh đấu cho một chính nghĩa cao cả, và cứu cánh này quan trọng đến độ nó có thể biện minh cho phương tiện, là cưỡng ép quyền tự quyết của những người không biết gì hơn.

Thậm chí con còn có thể nhận ra là sa nhân, khi chúng khuynh đảo con người trên trái đất, phần lớn cũng mang cùng một nỗi bực dọc giống như con, là người ta không chịu đáp ứng, người ta không ưa thay đổi, và người ta chỉ muốn sống theo cùng một lối sống hết kiếp này đến kiếp khác. Con có thể dần dần nhận ra là con không thể, trong tư cách một avatar, cho phép mình có thái độ bảo rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện, rằng việc thúc ép người khác vì lợi ích của họ là chuyện chấp nhận được. Điều này con chỉ có thể nhận ra khi con suy ngẫm sự thật này: Quyền tự quyết là tuyệt đối. Đấng Sáng tạo đã tạo ra một tạo vật rồi đã gửi những sinh thể tự nhận biết vào đó, trao cho họ quyền tự quyết tuyệt đối. Họ hoàn toàn tự do thăm dò bất cứ việc gì có thể làm được với quyền tự quyết.

Một khía cạnh của sự việc này là khi con hoàn toàn có quyền tự quyết, con không khởi sự với mức tâm thức cao nhất. Con khởi sự với một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp, nhỏ như cái chấm, và con dùng quyền tự quyết của mình dựa trên bản ngã này. Thật ra, dù con ở tầng tâm thức nào đi nữa, và dù con có là một chân sư thăng thiên hay không, thì con vẫn luôn luôn sử dụng quyền tự quyết của mình dựa trên ý niệm bản ngã của con lúc đó. Con không thể làm gì khác hơn.

Câu hỏi đặt ra là: Ngã đó thấy nó tách biệt như thế nào so với các sinh thể khác? Tất cả các con đều đã lớn lên trong một môi trường nơi con không đơn độc – ở đó có nhiều sinh thể khác. Bí ẩn ở trung tâm quyền tự quyết là: “Làm thế nào tôi quân bình được quyền tự quyết của tôi với quyền tự quyết của những người quanh tôi?” Đây là bí ẩn cốt lõi, và kỳ thực con sẽ không giải quyết nó được cho đến khi con thăng thiên. Cho nên thày không chờ đợi là con sẽ nhất thiết – ở tầng tâm thức hiện thời của con cho dù đó là tầng nào – giải quyết được nó trọn vẹn. Thày chờ đợi là con sẽ suy ngẫm về bí ẩn này và bước về hướng thực sự chấp nhận quyền tự quyết cùng ý nghĩa của tự quyết.

3.5. Con sẽ phải dấn sâu vào tách biệt đến chừng nào?

Điều con nhận ra ở đây là khi Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho những người đồng sáng tạo, ngài ban cho họ quyền tự do thám hiểm bất cứ điều gì có thể làm được với ý chí tự do. Một trong những điều này là con có thể đóng vai một cái ngã tách biệt. Và câu hỏi thực sự là như sau: Con sẽ cần dấn thân vào tách biệt sâu đến bao nhiêu trước khi con ngộ ra đó không còn là điều con muốn làm nữa?

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói sa nhân cũng giống như những nhà thám hiểm. Chúng thám hiểm: “Tôi có thể dấn thân bao xa vào tách biệt trước khi tôi không chịu nổi nữa?” Con có thể nói là phải có người đi vào tách biệt để tâm thức tập thể có ý niệm về: Đâu là hậu quả của việc chọn lựa trong tách biệt? Con có thể đi vào một cuộc thảo luận triết lý hơn và nói: “Liệu những người đó có sử dụng ý chí tự do hay không? Liệu sa nhân có một ý chí tự do hay không khi tầm nhìn của chúng dựa trên một ý niệm bản ngã vô cùng tách biệt?”

Đó không phải là điều thày muốn đào sâu ở đây. Điều thày muốn nói là con có quyền tự quyết theo nghĩa là bất kể bản ngã của con là gì, bất kể con đã phát triển bản ngã nào, con vẫn được phép chọn những chọn lựa mà con có thể thấy từ ngã đó. Những chọn lựa này đều mang hậu quả và con sẽ trải nghiệm hậu quả đó. Có thể nói đây chính là cơ chế an toàn. Con càng đi sâu vào tách biệt, càng khiến cho môi trường của mình dày đặc hơn, thì con sẽ càng phải đấu tranh nhiều hơn để dùng quyền tự quyết xuyên qua ngã đó. Cho nên đó chính là điều sẽ rốt cuộc đưa con tới điểm con phải thốt lên: “Nhất định phải có một cách thực thi ý chí của tôi cao hơn cách này. Nhất định phải có một ý chí tự do hơn cái tôi đang có ngay bây giờ.”

Là một avatar, điều con có thể làm là nói: “Để quyền tự quyết trải bày ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nơi tôi đang sống, phải có một số sinh thể dấn thân vào tách biệt sâu như sa nhân đã dấn thân. Phải có những hành tinh nơi các sinh thể này có thể tự bày tỏ, và địa cầu là một trong những hành tinh đó.” Nếu thế thì câu hỏi còn lại sẽ là: Tại sao trong tư cách là avatar con đã chọn đến hành tinh này? Con đã chọn đến đây là vì con cũng muốn có được trải nghiệm sinh sống trên một hành tinh nơi một số người đã đưa ý chí “tự do” của họ đến những mức vị kỷ và tách biệt cùng cực. Con muốn có trải nghiệm đó. Điều này, rất có thể con đã quên mất, và con cũng quên mất lý do tại sao. Sứ giả này cho đến nay đã ngộ ra là ông đã muốn trải nghiệm đó vì ông muốn đạt được một sự chấp nhận trọn vẹn về quyền tự quyết mà ông không có được trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng đây vẫn chưa là cái hiểu tối hậu.

3.6. Tự trải nghiệm trên một hành tinh dày đặc

Thật ra con đã không đến đây vì con muốn thay đổi người khác hay thay đổi hành tinh. Con đã không đến đây vì con muốn giải cứu hay cứu độ bất cứ ai, hay vì con muốn phán xử sa nhân hay thay đổi sa nhân. Con đã không đến đây chỉ vì con muốn có một tầm hiểu sâu sắc hơn về quyền tự quyết. Con đã đến đây là vì con muốn trải nghiệm bản ngã của con trong loại môi trường này. Con muốn trải nghiệm chính mình là con người như thế nào trong một môi trường dày đặc như trái đất.

Con có thể nói: “Làm sao tôi có thể ngu ngốc đến độ muốn điều đó?” Nhưng đây không phải là vấn đề ngu ngốc. Con thấy đó, con yêu dấu, trên các hành tinh tự nhiên có nhiều sinh thể khác nhau. Có nhiều loại hành tinh tự nhiên khác nhau. Hành tinh được mô tả trong sách Những Kiếp của Tôi chỉ là một ví dụ hành tinh tự nhiên. Có những hành tinh tự nhiên nơi con gặp một số sinh thể vô cùng nhiệt tình muốn tiến triển. Ngay cả trên hành tinh tự nhiên cũng có một số sinh thể nhiệt tâm muốn tiến triển hơn người khác. Có thể đến một điểm con cảm thấy con đã thám hiểm một hành tinh tự nhiên đầy đủ hết mức rồi, con đã trải nghiệm mọi chuyện có thể được trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên.

Đúng vậy, con đã có thể đi tới một hành tinh tự nhiên khác biệt với hành tinh con từng sinh sống và con đã có thể có được một trải nghiệm khác hơn. Một số các con biết được là có những hành tinh phi tự nhiên, và đơn giản con đã quyết định: “Tôi đã nếm trải đủ mọi chuyện tôi có thể tưởng tượng nổi về cuộc sống trong một môi trường như hành tinh tự nhiên, nhưng bây giờ tôi muốn nếm trải xem cuộc sống sẽ ra sao trên một hành tinh phi tự nhiên.” Đây là một mong muốn rất chính đáng, rất có giá trị, vì thật ra nó giúp nâng cao tâm thức tập thể trong toàn bầu cõi. Cho nên mới có những sinh thể – là những sinh thể đã đi xa nhất có thể ở hành tinh tự nhiên – bảo rằng: “Để đạt một trình độ tự điều ngự cao hơn, tôi muốn trải nghiệm một môi trường hoàn toàn khác lạ vì tôi muốn trải nghiệm chính mình là như thế nào, mình phản ứng như thế nào, mình tự nhìn mình như thế nào trong loại môi trường đó.”

Các thày đã cho con lời dạy trước đây là để bước vào hiện thân trên một hành tinh như địa cầu, con phải bước xuống tầng tâm thức thứ 48. Con phải đi xuyên qua mọi tầng ở trên tầng 48, khoác vào từng ảo tưởng một cho tới khi con khoác vào tất cả mọi ảo tưởng ở tầng 48. Sau đó con đi vào hiện thân lần đầu tiên như một avatar ở tầng này, và con nhìn hành tinh xuyên qua tầng tâm thức này, con phản ứng lại hành tinh xuyên qua tầng tâm thức này.

Con yêu dấu, không có gì trục trặc sai trái ở đây. Con có hiểu chăng? Không có gì trục trặc trong quá trình này. Con chỉ đơn giản làm những gì phải làm để con có thể đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Chuyện này không ngu ngốc. Chuyện này không sai trái. Đây là một chọn lựa con đã lấy. Những gì con muốn trải nghiệm đúng như những gì con đã trải nghiệm trên địa cầu, cụ thể là con đã đến đây với một trình độ tâm thức nào đó tương ứng với hành tinh. Có thể nói, tầng tâm thức thứ 48 đại khái là tầng cơ bản, tầng tự động ở địa cầu. Đây là tầng con bước xuống để trải nghiệm cảm giác mình là mình trên hành tinh địa cầu. Điều con thực sự muốn là trải nghiệm: “Tôi cảm thấy thế nào khi tôi là tôi trên địa cầu?” Và điều này, con đã trải nghiệm đó. Con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng có thật là tôi đã trải nghiệm điều này? Nếu tôi trải nghiệm nó qua tầng tâm thức thứ 48, nếu tôi đã hứng chịu chấn thương nhập đời (mà con bảo là không thể tránh được, nhưng dù sao nó cũng rất đau đớn) và nếu tôi đã tạo ra ngã gốc cùng tất cả những ngã kia và tôi đã trải nghiệm địa cầu xuyên qua đó, thì liệu tôi có thực sự trải nghiệm chính mình là như thế nào không?”

Con yêu dấu, thày hiểu là con không thể hiểu ngay tức thì khi thày nói với con điều đó, nhưng chắc chắn con có thể suy ngẫm. Con có thể dần dần đạt tới điểm nhận ra là mặc dù rất nhiều trải nghiệm con đã có trên trái đất đã bị pha màu bởi một trạng thái tâm thức nào đó, một ngã vỏ ngoài nào đó, nhưng đằng sau tất cả, con vẫn trải nghiệm được cảm giác mình là như thế nào trong một môi trường như vậy. Cái này vượt khỏi các ngã vỏ ngoài cùng phản ứng của ngã vỏ ngoài. Nó sẽ đòi hỏi con làm việc một chút để kết nối với nó.

3.7. Kết nối với bản chất tâm linh của con

Các thày đã từng giảng cho con về việc kết nối với nhân tính cơ bản của con, nhưng có thể nói là vượt lên trên, đây còn là vấn đề kết nối với bản chất tâm linh của con, với cá thể cơ bản của con. Các thày đã gọi đó là Hiện diện TA LÀ của con, và các thày có nói là cá thể chân thực của con được chứa đựng trong Hiện diện TA LÀ. Tuy nhiên con yêu dấu, đó là gì chứ? Đâu là nơi con đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu? Không phải trong ngã vỏ ngoài. Không phải trong ngã gốc. Thậm chí không phải luôn trong cái Ta Biết. Cái đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu là Hiện diện TA LÀ của con. Ở tầng mức đó, con đã có trải nghiệm mình là như thế nào trên địa cầu. Con đã có trải nghiệm này ngay từ khi con đến đây lần đầu tiên.

Hiển nhiên, thày cũng biết con không kết nối được với nó một cách ý thức. Con đã có một trải nghiệm khác ở tầng mức cái Ta Biết khi con đồng hóa với các ngã vỏ ngoài, với bốn thể phàm, và con đã trải nghiệm xuyên qua phin lọc đó. Điều các thày muốn nói với con ở đây là với giáo lý các thày đã trao truyền về việc khắc phục ngã gốc cùng các ngã kia, con thực sự có khả năng đạt tới điểm trải nghiệm – con, cái Ta Biết, có thể trải nghiệm khi con đang đầu thai – những gì Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm. Con có khả năng trải nghiệm là chính mình, là Hiện diện TA LÀ hiện thân trên địa cầu, trong khi con đầu thai trên địa cầu. Trải nghiệm này là cách tối hậu để con làm hoà với việc mình ở đây trên trái đất.

Nhưng này con, thày muốn trình bày với con là hầu hết các con – thật ra thày có thể nói tất cả các con – đều đã từng có những thoáng trải nghiệm thế nào là chính mình trên địa cầu. Đôi khi con đã có một cảm nhận vô cùng vi tế nhìn cuộc sống một cách khác hơn. Có lẽ đó là một cảm nhận yêu thương, một cảm giác nối kết, một cảm giác nhìn địa cầu mà không đeo vào cái phin lọc bình thường của sự phán xét; con chỉ ngắm nhìn cái đẹp, có thể là cái đẹp của thiên nhiên, có thể là cái đẹp của con người, hay có lẽ vẻ đẹp của đứa bé ngủ say. Cho dù đó là gì đi nữa, đây là những khoảnh khắc con bắt được một vẻ đẹp nào đó.

Đằng sau cái đó còn có thể có cảm nhận là con hoàn toàn trung hòa đối với mọi sự xảy ra trên địa cầu. Con không phân tích hay phán xét mà con chỉ trải nghiệm. Con đang trải nghiệm nó không qua tất cả những cái ngã tách biệt kia, mà kỳ thực con trải nghiệm như sinh thể mà con thực là. Không có phán xét, không có phân tích, không có mục đích. Không có gì mà con phải làm. Con chỉ trải nghiệm địa cầu. Đây là một trải nghiệm mà dần dần con có thể có được ngày càng thường xuyên hơn. Chúng ta có thể gọi đó là con ở trong tâm thái trung hòa, nhưng chúng ta cũng có thể mô tả nó nhiều cách khác. Con có thể nói là con ở trong một trạng thái hợp nhất, một trạng thái nối kết, con không cảm thấy mình lẻ loi ở đây trên trái đất. Con không cảm thấy mình không thuộc về nơi đây vì con đang nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và vì vậy con cũng thuộc về mọi nơi khi con nối kết như vậy.

Điều hoàn toàn thông cảm được là sự kiện hầu hết các con đã không cảm thấy mình ở nhà mình trên hành tinh này. Chính thày đây cũng đã không cảm thấy mình ở nhà khi thày còn hiện thân. Ngay cả trong kiếp đầu thai chót, thày cũng không cảm thấy ở nhà. Khi thày đứng đó trước cây thập giá và chứng kiến con trai mình lìa đời, thày đã không cảm thấy ở nhà chút nào trên hành tinh này. Thày chỉ muốn đi khỏi nơi đây. Dẫu vậy, thày cũng có những lúc cảm nhận được sự nối kết đó, sự hợp nhất đó, và thày an bình khi ở đây. Đối với con khi con tiếp tục làm việc trên ngã tách biệt và loại bỏ ngã gốc, con có thể đạt tới điểm con nói: “Tại sao tôi lại chọn đến trái đất nhỉ? Bởi vì tôi, sinh thể rộng lớn hơn mà tôi LÀ, đã muốn trải nghiệm chính tôi trong loại môi trường này.”

Khi con không bị tất cả ngã tách biệt kia lôi kéo vào các khuôn nếp phản ứng, con có thể có được trải nghiệm này. Bất kể hành tinh này như thế nào, bất kể nó gian nan thế nào, con người khó khăn thế nào, con vẫn cảm thấy con đang là chính mình trên hành tinh này. Thày hiểu hoàn toàn là đối với đa số các con, cảm giác này sẽ bắt đầu khi con một mình, khi con ở trong một tâm thái thiền định, tĩnh lặng và không có gì bên ngoài quấy rầy con. Sau đó con có thể có những hé thoáng nhận biết cao hơn. Thày cũng gợi ý là mặc dù thày đã không thực hiện được trong kiếp đầu thai chót, và Giê-su cũng không thực hiện được trong kiếp đầu thai chót, nhưng thày vẫn muốn gợi ý cho con là hầu hết các con đều có khả năng trong kiếp này đạt tới điểm cảm thấy như vậy trong mọi lúc. Nó chỉ trở thành một hậu cảnh cho trải nghiệm của con trên trái đất.

Có thể con sẽ vẫn gặp một số tình huống rất căng thẳng khi con không nhận biết ý thức là cảm giác đó có mặt. Con tập trung vào tình huống mà con phải đương đầu. Một khi tình huống được giải tỏa, con có thể học cách quay trở lại trạng thái nhận biết nối kết rộng lớn hơn, hầu con không bao giờ cảm thấy đơn độc ở đây. Con không bao giờ cảm thấy là mình không thuộc về nơi đây vì con nhận ra địa cầu không phải là nhà mình. Không có gì trong bát cung vật chất là nhà mình. Hiện diện TA LÀ của con mới là nhà của con. Khi con kết nối với Hiện diện TA LÀ đó, thì bất cứ nơi đâu con cũng ở nhà, vì môi trường vỏ ngoài không thật quan trọng nữa.

3.8. Những gì phải hay không được xảy ra trên địa cầu

Con sẽ cần gì để tiến lên trạng thái đó? Thày biết thày đang đặt ra một mục tiêu hơi cao. Thày không chờ đợi con sẽ làm được trong vòng năm phút. Con cần gì để khởi sự? Con cần phải suy ngẫm trước hết về quyền tự quyết. Khi con hiểu những gì thày vừa nói, rằng trái đất chỉ đơn giản là một hành tinh cho các sinh thể đã chọn thám hiểm xem họ có thể dấn thân vào tách biệt sâu đến chừng nào trước khi họ không chịu nổi nữa, thì con có thể thấy thật là vô nghĩa mà đặt ra cái gì phải xảy ra hay cái gì không được xảy ra trên một hành tinh như trái đất.

Có thể con mang một ký ức nào đó về hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn trái đất và thấy con người đau khổ đến chừng nào do chiến tranh, xung đột hay điều này điều nọ. Con có thể bảo là con người không được đau khổ, cho nên các biểu hiện kia không được có mặt. Đây là một mối quan tâm chính đáng trên một hành tinh tự nhiên, nhưng nó không có giá trị trên một hành tinh phi tự nhiên. Nó không xây dựng. Nó chỉ đặt con vào một tâm trạng phản xây dựng sẽ ngăn cản con an bình với sự có mặt của con trên trái đất. Khi con xét đoán là một điều gì không được xảy ra trên trái đất thì ngay giây phút đó, con đã tự đặt mình vào một chiếc hộp nơi con không thể an bình.

Con cần tìm được cách chuyển tâm để nhận ra là bất cứ điều gì xảy ra trên địa cầu đều là do có ai đó chọn biểu hiện điều đó vì họ cần đến trải nghiệm đó. Nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết – và con sẽ cần lòng tôn trọng này để có thể an bình trên một hành tinh như thế này – thì con có thể nói: “Tôi cần cho phép những người đó đau khổ như họ đã chọn đau khổ. Tất nhiên tôi cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của tôi để tôi không phải đau khổ giống như họ. Tôi không phải đồng cảm với họ. Thậm chí tôi không phải thương hại họ. Tôi không phải chú ý đến đau khổ của họ nếu cái đó lấy mất sự an bình của tôi.”

Điều thày muốn nói ở đây là con cần phải kinh qua một giai đoạn, như các thày đã có trình bày, là con lựa bỏ ra khỏi đời con một số chuyện không mang tính xây dựng cho sự tăng triển của con. Con nói: “Ngay bây giờ, thật không xây dựng cho tôi nếu tôi cảm thấy thương hại hay trắc ẩn đối với những người đang đau khổ. Vì vậy, tôi có thể chấp nhận là tôi không dành sự chú ý của mình cho nỗi đau khổ của họ.”

Có thể điều này không phải là mãi mãi, nhưng con cần phải đi muốt cơ chế này mà thày đang mô tả, khi con cảm thấy có điều gì không được xảy ra và nó tước đi an bình của con. Để con tìm thấy an bình, thật cần thiết và cũng chấp nhận được là con kinh qua một giai đoạn khi, trên cơ bản, con bỏ qua sự đau khổ của người khác và tập trung vào việc khắc phục tất cả những ngã tách biệt kia, những ngã phản ứng kia. Có thể sẽ tới một ngày khi con đạt được một mức độ bình an nội tâm thì bấy giờ, con có thể quay ra ngoài và tìm cách giúp đỡ người khác, thách đố người khác hay bất cứ gì con cảm thấy cần làm, nhưng con làm vậy từ một trạng thái an bình nội tâm thay vì từ một trạng thái bất an, một trạng thái bực dọc, một trạng thái nơi con không ngừng xét đoán là có điều gì không được có mặt ở đây.

3.9. Con không ngu ngốc

Con thấy không, con yêu dấu, những gì sứ giả này vừa nói quả là đúng. Khi con cảm thấy mình ngu ngốc đã đến đây, thì tự động con cũng bắt đầu xét đoán là người khác ngu ngốc khi họ không đáp ứng với con và không để cho con giúp họ. Điều này cũng có nghĩa là con đang tự giam mình trong một chiếc hộp nơi con tự phán xét là mình có thể ngu ngốc hay sai lầm khi đến địa cầu.

Con yêu dấu, điều trước tiên, chính sa nhân đã đặt ra chuẩn mực này trên địa cầu và con đã dần dà chấp nhận chuẩn mực của sa nhân. Giờ đây con đang tự phán xét mình y như sa nhân phán xét con, chứ không như các chân sư thăng thiên nhìn con. Hơn thế nữa, con yêu dấu, con cũng không đang tôn trọng quyền tự quyết của con. Như thày đã nói: Tại sao con chọn đến địa cầu chứ? Là vì con muốn tự trải nghiệm chính mình trong môi trường này. Con yêu dấu, làm thế nào chọn lựa này sai lầm được chứ? Làm sao có chuyện sai lầm khi con mong muốn trải nghiệm chính mình trong một môi trường đặc thù? Đây chính là mục đích và ý nghĩa của một người đồng sáng tạo. Chắc chắn là khi con vươn lên những tầng nhận biết cao hơn thì mục đích của con là tự trải nghiệm trong một môi trường đặc thù, và bằng cách nhìn xem mình đáp ứng thế nào với môi trường này thì con tăng trưởng. Không bao giờ có thể có gì sai quấy trong chọn lựa này. Đơn giản, đó là một chọn lựa rất chính đáng và sáng giá. Con đã chọn đóng góp để nâng cao bầu cõi của con bằng cách đến một hành tinh như địa cầu và trải nghiệm chính mình ở nơi đây.

Con có thể nói: “Thế còn chuyện con muốn giúp nâng cao địa cầu thì sao? Chẳng phải tất cả chúng con đều là người đồng sáng tạo và mục đích chúng con là nâng cao toàn bầu cõi, và hiển nhiên một hành tinh phi tự nhiên chẳng cần được nâng lên hay sao?” Điều này đúng, nhưng câu hỏi là: Làm thế nào con giúp nâng cao địa cầu, một hành tinh như địa cầu? Không phải bằng cách làm cái gì đó! Nếu con đã quên, con hãy đọc lại quyển sách của thày Nada một lần nữa, ở đó thày giảng về việc ở đây mà không làm gì và làm thế nào con người đã tạo ra tất cả mọi vấn đề khi cố làm một cách cưỡng ép. Làm thế nào con thực sự nâng cao được địa cầu? Bằng cách ở đây, bằng cách ở ngay đây.

Không cứ là những gì con có thể làm hay có thể nói bên ngoài sẽ thay đổi được địa cầu, mà là chính sự kiện con đã đến đầu thai, và vì vậy ở một mức độ nào đó, con là một điểm trụ neo, một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Nếu con thực sự muốn đóng góp thay đổi địa cầu, con hãy trở thành một cánh cửa càng ngày càng mở rộng hơn cho Hiện diện TA LÀ. Con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa. Con không xét đoán trong tâm vỏ ngoài là con phải làm hay không được làm gì, rằng ánh sáng phải chiếu toả như thế nào, rằng thay đổi nào là cần thiết và người khác phải phản ứng ra sao. Con yêu dấu, con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa. Đây là cách thực sự thay đổi địa cầu. Không bao giờ có chuyện con phải xuống đây ở tầng tâm thức 48 và ngay lập tức là một cánh cửa hoàn toàn rộng mở cho Hiện diện TA LÀ của con, mà đây là một tiến trình vì con khoác vào tâm thức tầng 48 rồi chứng tỏ làm cách nào con có thể vươn lên từ đó.

Con yêu dấu, hãy nhìn lại các kiếp sống của con, rồi nhìn xem con đang đứng ở điểm nào. Tại sao con đang ngồi đây nghe bài truyền đọc này? Vì con đã chứng tỏ được tiến trình nâng cao tâm thức của con, con đã chứng tỏ được điều đó qua cuộc đời của con cho tới điểm này. Thày không bảo là con sai lầm, hay thiếu sót, hay con làm chưa đủ. Thày chỉ nói là con có khả năng đưa tiến trình này xa hơn nữa, cho đến một điểm con chứng tỏ làm cách nào người ta có thể khởi sự ở một tầng tâm thức nào đó, đạt được an bình nội tâm và hoàn toàn an bình với việc mình ở đây trên một hành tinh như thế này. Đó chính là tiềm năng cao nhất của con, là những gì hầu hết các con đều đã ấn định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình là tiềm năng cao nhất. Con đã muốn đến đây để chứng tỏ sự an bình.

Cho nên không có chuyện gì đáng trách, không có chuyện con đã làm gì sai trái. Con đã làm đúng y như những gì con cần làm. Con chỉ cần bước thêm một số bước để đạt đến an bình nội tâm khi con thật sự vui hưởng trải nghiệm bản thân mình trên hành tinh này mà con gọi là trái đất. Cho dù có khó khăn đến đâu, con vẫn có thể tránh bị lôi kéo vào tất cả những khó khăn đó, con vẫn có thể trải nghiệm Bản ngã của mình, trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang nhìn và đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Đó, con yêu dấu, là an bình.

Bất kể hành tinh này có như thế nào, con hãy yên tâm là ngay từ giây phút con hiện thân ở đây lần đầu – cho dù cái Ta Biết hay ngã vỏ ngoài đã nếm trải những gì – thì Hiện diện TA LÀ của con vẫn hoàn toàn an bình với mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Hiện diện TA LÀ của con biết rõ là cái ta thực của con không thể bị bất cứ gì xảy ra trên trái đất tác động. Con đã biết điều này trước khi con đến đây, và con yêu dấu, đó là tại sao việc con đến đây không phải là một lựa chọn ngu ngốc. Con chỉ quên mất nhận biết này mà thôi.

Các thày đã cho con các dụng cụ để con hồi lại nhận biết đó, và nhờ vậy con cũng hồi lại niềm an bình mà con đã có trước khi đến đây.

Tại sao tiết lộ tuần tự?

Bài truyền đọc của Phật Gautama qua Kim Michaels ngày 24/6/2018 nhân buổi hội thảo tại Kazahstan. Đây chỉ là một trích đoạn. Phần còn lại của bài truyền đọc này, cùng với một bài thỉnh dựa trên bài truyền đọc, có thể được tìm thấy trong cuốn sách “Fulfilling you highest spiritual potential”.

Phật TA LÀ. Gautama là danh tính mà ta đã dùng khi làm việc với cuộc tiến hóa của địa cầu. Một số các chân sư khác vừa cho các con một tầm nhìn về những đợt truyền pháp trước của chân sư cũng như về kết quả đạt được. Ta muốn khai triển tầm nhìn này, quay trở lại thời điểm khi ta hiện thân trong xác thân vật lý và giảng dạy trong cõi vật lý cách đây 2500 năm.

Thần tượng hóa đức Phật

Truyện kể rằng sau khi ta đi theo con đường tu khổ hạnh và ngộ ra những giới hạn của đường tu này, ta đã chứng ngộ Bát chánh đạo, hay con đường của Phật, và nhập niết bàn. Ta giác ngộ. Rất, rất nhiều Phật tử cho đến tận ngày nay sau bao nhiêu thế kỷ vẫn nhìn sự kiện trên với một hình thức thần tượng hóa. Họ cho rằng hoặc ta là đấng duy nhất có khả năng giác ngộ, hoặc ta là bậc chứng đạt tối thượng, hoặc nữa, ta đã đạt đến trạng thái giác ngộ tối hậu tuyệt đối.      

Nói cách khác, họ nghĩ là sự giác ngộ ta đạt được 2500 năm trước là trạng thái tuyệt đối, cao nhất sẽ không bao giờ vượt qua được. Tuy nhiên, khi con xem xét thực tế mà các chân sư đã giảng dạy về 144 tầng tâm thức, thì con có thể tự đặt câu hỏi này: Khi ta giác ngộ cách đây 2500 năm và đạt đến tầng tâm thức thứ 144, liệu tầng 144 thời đó có cùng là tầng 144 thời nay hay không? Nếu con trả lời, “Phải, đó là cùng một trình độ tâm thức” thì kết quả sẽ là gì? Kết quả là hành tinh này đã không hề tiến bước trong suốt 2500 năm qua. Nghĩa là giáo lý mà ta giảng dạy cách đây 2500 năm đã không đưa tâm thức nhân loại lên cao một mảy may nào và do đó đã thất bại trong mục đích. Nhưng kỳ thực, tầng 144 ngày hôm nay cao hơn tầng 144 thời 2500 năm trước rất nhiều, cũng như nó cao hơn cách đây 2000 năm khi Giê-su chứng đạt, thậm chí cao hơn cả cách đây 100 năm khi các chân sư MORE (El Morya) và Kuthumi giác ngộ ở mức này, và ta có thể đưa ra nhiều ví dụ khác.

Tâm thức được nâng lên như thế nào?

Vậy thì điều gì nâng cao tâm thức? Trước hết như khía cạnh Omega, tâm thức tập thể được nâng lên. Điều này xảy ra khi trên địa cầu có đủ một túc số những cá nhân đã nâng được tâm thức mình, họ kéo theo số 80% hay 90% còn lại và do đó mức dưới cùng cũng được nâng theo. Có thể có những thời điểm khi một sự chuyển vọt xảy ra trong tỉnh giác tập thể và con người quyết định không thể chấp nhận một số biểu hiện nào đó được nữa. Kết quả là tầng tâm thức dưới cùng của nhân loại được nâng lên và những sinh thể ở tầng tâm thức đó sẽ không được phép đầu thai nữa.  

Nhưng tầng tâm thức cao nhất thì sao, cái gì nâng nó lên? Để điều này xảy ra, phải có một người lên đến tầng 144 của thời đó, rồi phát huy cao hơn nữa trong thời gian họ còn tại thế và chưa thăng thiên. Trong một nghĩa nào đó, đây là điều mà ta đã làm cách đây 2500 năm, tuy rằng ta đã nhập niết bàn ở mức thứ 144 của thời đó. Khi ta trở lại xã hội trong sứ vụ giáo huấn, ta đã không trở lại với một tâm thức đã đạt đến tuyệt đối. Ta vẫn còn tinh tấn, vẫn phát huy và tự thăng vượt trong suốt những năm tháng giảng dạy. Và ta đã nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Giê-su, tất nhiên, cũng đã làm một điều tương tự, và mọi chân sư khác cũng vậy, và đó là cách thức tâm thức cao nhất được nâng lên. Một số trong các con cũng có tiềm năng đóng góp vào tiến trình này, nghĩa là con đạt tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời xác thân và sử dụng thời gian đầu thai của mình để giúp nâng tầng này lên cao hơn.    

Vậy như con thấy, toàn bộ quan niệm cho rằng một giáo lý có thể là tuyệt đối, hay một trạng thái tâm thức có thể là tuyệt đối, hoàn toàn là ảo tưởng. Ảo tưởng đó tất nhiên là Maya, là một hình chiếu của các sinh thể sa ngã. Vì chúng không thể thăng vượt nên chúng cũng không muốn ai khác thăng vượt. Chúng nghĩ ra đủ mọi cách gian xảo để khiến cho mọi người tin là mình không thể thăng vượt được. Chúng muốn con nghĩ rằng ta đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu tuyệt đối, rằng ta là một ngoại lệ và không ai khác có thể chứng đạt cao hơn. Chúng cũng muốn con tin rằng Giê-su đã đạt tới một trình độ mà không ai có thể sánh kịp.

Trong suốt 2500 năm qua, thật sự chỉ có tương đối ít người sử dụng được giáo lý đạo Phật để đạt tới tầng tâm thức thứ 144 rồi lên cao hơn nữa. Một số các vị đó được biết đến trong truyền thống Phật giáo, nhưng cũng có những vị khác không được biết đến do họ không có sứ vụ ngoài quần chúng. Chắc chắn khi ta nhìn lại, Phật giáo đã có đóng góp vào bước tiến của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

Mỗi giáo lý thích hợp cho một tầng tâm thức

Một khi con hiểu được tâm thức ngày nay cao hơn 2500 năm trước (tức là nguyên cái thang tâm thức đã dời chuyển lên cao hơn), thì con cũng thấy được giáo lý thời đó đã được giảng dạy cho những người ở một tâm thức thấp hơn trình độ trung bình của thời nay. Điều này phần nào cho thấy sự cần thiết của một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là ở bất kỳ thời điểm nào, giáo lý chỉ có thể giảng dạy cho trình độ tâm thức hiện diện nơi những con người thời đó. Nhưng giáo lý không nhất thiết chỉ nhắm vào những mức trung bình hay mức thấp nhất của nhân loại, bởi vì cũng có một số giáo lý được truyền dạy cho những hành giả trong số 10% trên cùng.

Dù sao thì con luôn luôn cần nhìn nhận là khi một giáo lý đặc thù được đem ra truyền dạy, giáo lý đó phần lớn phải phù hợp với trình độ tâm thức trên hành tinh vào thời điểm đó. Nếu lời dạy này đem lại kết quả thì tâm thức sẽ chuyển vọt. Và khi ấy, chuyện gì sẽ xảy ra? Điều lý tưởng có thể xảy ra là có một số người nhận được lời dạy và đem ra thực hành để đạt tầng thứ 144. Lúc đó họ sẽ trở thành những công cụ của tiến hóa để đem lại một giáo lý mới, đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, hay một cách diễn giải mới cho giáo lý cũ. Và như vậy họ có thể đem lại một giáo lý phù hợp với mức tâm thức cao hơn vừa đạt được nhờ giáo lý cũ. Hiển nhiên điều này có nghĩa là trong lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ được dừng lại. Và trên một khía cạnh nào đó, điều này cũng thật đáng buồn – nếu chúng ta có thể dùng từ này – nếu những người theo giáo lý cũ tự khép kín lại đối với mọi điều mới mẻ, trở thành những kẻ giáo điều, và cũng trở thành những nhân tố làm cho giáo lý bị mất đi hiệu quả. Quả thực họ đã không cho phép giáo lý thăng vượt lên.      

23 | Là Ki-tô trong Thời Hoàng kim của Saint Germain

Chân sư Thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Saint Germain. Thày muốn giảng thế nào là Ki-tô Hằng sống và Phật Hằng sống đang hành động trong Thời Bảo bình. Thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động trong Thời Song ngư? Nó có nghĩa là con hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô và con đi vào một trạng thái hợp nhất với thày để nhận được một điều gì đó từ thày, hoặc cho đời sống cá nhân của con hoặc để phụng sự người khác và xã hội.

23.1. Cần làm gì để đưa ra một ý mới

Giờ đây con có thể nhìn vào những thay đổi đã được đem lại trong Thời Song ngư và con có thể thấy là tất cả những người đã có thể đem lại đóng góp tích cực trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống và xã hội, những người đó đã hòa điệu được phần nào với Ki-tô hành tinh, là Giê-su trong thời đại đó. Lẽ tất nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả những ý được đưa ra trong 2,000 năm qua đều chỉ đến từ Giê-su nhưng chúng đến xuyên qua Giê-su như vị trưởng giáo của Thời Song ngư. Do đó ta có thể nói là nếu con nhìn vào nhiều người đã đem lại ý mới trong một số lãnh vực, thì họ đã hòa điệu được với Giê-su, do đó họ đã mở tâm ra đón nhận một số ý.

Giờ đây nếu con nhìn một số những người này, thì con có thể thấy là nhiều người còn không phải là tín đồ tôn giáo hay tâm linh. Nhiều người có một số vấn đề tâm lý chưa giải quyết, một số thói quen khác lạ, ngay cả một số niềm tin chắc chắn là không phù hợp hay không thẳng hàng với giáo lý chân sư thăng thiên. Tuy nhiên, họ phần nào hòa điệu được với các thày nên xuyên qua đám mây mờ của tất cả những chuyện vỏ ngoài trong tâm của họ, đã có một khe hở để ý tưởng có thể đi xuống tâm họ – và điều này tất nhiên cũng sẽ xảy ra trong Thời Bảo bình. Để có thể hòa điệu với Chân sư Thăng thiên Saint Germain, con người không cần biết là thày hiện hữu, tin giáo lý các chân sư thăng thiên, đi theo giáo lý này, thực tập giáo lý này. Họ không cần giải quyết hết các vấn đề tâm lý của họ. Lý do thật giản dị. Việc đem tới một ý tưởng mới có khía cạnh alpha và khía cạnh omega. Khía cạnh alpha là ý tưởng đến từ cõi thăng thiên. Khía cạnh omega là để có thể nhận được một ý tưởng và áp dụng nó, thì những người này phải có chuyên môn trong một lãnh vực đặc thù. Nếu thày muốn đem lại một ý mới trong ngành giáo dục, thày cần người có kiến thức, có chuyên môn, có kinh nghiệm nào đó trong ngành này. Lẽ tất nhiên thày cũng cần một người có thể hòa điệu với thày, ít nhất là trong một khoảng khắc ngắn và do đó nhận được ý đó.

Có rất nhiều người chân thật mong muốn thấy một lãnh vực nào đó của đời sống được cải thiện. Những người đó có kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của họ, họ đã nghiên cứu và bỏ tâm trí vào tiến trình đem lại một ý mới, một sự cải tiến. Nhưng trong một số trường hợp, họ có thể có một hiểu biết không hoàn hảo về lãnh vực của họ hay về sự cải thiện cần đem lại nhưng họ có một mong muốn chân thật.

Khi con tìm hiểu về một số khoa học gia đã đem lại ý tưởng mới trong lãnh vực khoa học, con sẽ thấy là có đôi lúc họ bị choáng ngợp. Họ căng thẳng quá và họ quyết định ngưng nghỉ, không chú tâm vào đề tài nghiên cứu hàng ngày của họ. Khi họ rút lui và buông không nghĩ về đề tài thì bỗng nhiên có một khe hở mở ra cho một “lóe sáng cảm hứng” giáng xuống và ngay lúc đó họ nhìn vấn đề với một góc nhìn mới. Họ thấy được một ý mới và lúc đó họ có thể tiến tới.

23.2. Cảm hứng vượt quá bộ óc vật lý

Ngay cả những nhà khoa học duy vật nhất cũng nhìn nhận rằng họ cần một cảm hứng nào đó. Họ không muốn suy đoán xem cảm hứng này từ đâu tới, nhưng ta không cần suy đoán nhiều để nhận ra là cảm hứng đó không đến từ bộ óc vật lý. Nếu bộ óc đã có thể đem lại ý tưởng thì chắc chắn trong thời gian nhà khoa học dốc sức dùng bộ óc vật lý để tìm giải đáp cho vấn đề thì bộ óc vật lý đã phải đưa ra cho vị đó đáp số.

Nhà khoa học có được lời giải khi đứng lui lại, không dùng tâm vỏ ngoài nữa, và khi ấy có một khe hở cho cảm hứng tràn vào từ một cõi cao hơn. Do đó trong Thời Bảo bình, ta có thể nói tiến trình này sẽ càng ngày càng được biết nhiều hơn, trở nên thông thường hơn, theo nghĩa con người bắt đầu hiểu và công nhận trực giác thực sự là chìa khóa.

Trực giác thường chỉ được mở khóa khi con đã đi qua giai đoạn tiếp cận vấn đề với tâm vỏ ngoài, hết sức tìm cách hiểu nó, thực sự muốn tìm cách cải thiện và khi ấy con tạo nền móng. Giống như ý tưởng các thày đã đưa ra trong Thời Song ngư về Chén Thánh được nâng lên để thuốc tiên của Tánh linh có thể rót vào. Nếu không có chén thánh, thày không thể rót gì vì sẽ chỉ uổng phí mà thôi. Ở đây có tác động alpha và omega. Omega nâng chén thánh của tâm lên và sau đó alpha mở tâm ra, dùng khả năng trực giác thay vì tâm vỏ ngoài để mở tâm ra đón nhận ý tưởng từ trên xuống.

Có thể nói đây là tiến trình là Ki-tô hành động trong Thời Bảo bình. Con hòa điệu với thày, vì dù có những chân sư khác (và chắc chắn sẽ có những chân sư khác sẽ mang lại ý tưởng mới), họ sẽ sẽ đi thông qua chức vụ mà thày là. Lẽ tất nhiên, nếu con là đệ tử chân sư thăng thiên và biết mình đặc biệt đồng cảm với một chân sư nào đó, con nên chú tâm vào chân sư đó và không nhất thiết vào thày. Thày không muốn nói là con chỉ chú tâm vào riêng thày mà thôi nhưng thày muốn nói là những ý tưởng mới sẽ đi thông qua chức vụ mà thày là người lãnh đạo.

23.3. Kết quả nỗ lực của các chân sư

Bây giờ thày muốn gia tốc sang một đề tài khác. Thày muốn nhìn trở lại những tổ chức chân sư thăng thiên trước mà các thày đã bảo trợ, như thày MORE đã làm hôm trước. Thày muốn con xem xét câu hỏi: thày đã bước ra làm việc công khai trong thập niên 1930 và bảo trợ Phong trào TA LÀ (I AM Movement) và sau đó các thày đã bảo trợ một số tổ chức khác, vậy kết quả của những nỗ lực này là gì? Có bao nhiêu đệ tử chân sư thăng thiên đã thực sự tới điểm biểu lộ quả vị Ki-tô, nhận được ý mới từ các chân sư thăng thiên và mang chúng vào một lãnh vực nào đó của xã hội? À, thày không muốn ở đây bàn luận số lượng. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là quả thực số người biểu lộ quả vị Ki-tô không nhiều như các thày hy vọng. Thày muốn bàn thảo nguyên nhân vì sao lại như vậy.

Điều thày muốn cho các con thấy là trong hai ba năm vừa qua, các thày đã cho các con một cái nhìn sâu sắc hơn về cách các thày nhìn vấn đề làm sao làm việc với nhân loại khi chưa thăng thiên. Các thày đã nói tới những khó khăn gặp phải, giống như khi thày Giê-su nói các thày giống như những người bán xe cũ dùng chước “nhử hàng thấp mời hàng cao.” Các thày cần đưa ra giáo lý hấp dẫn mức tâm thức hiện hành của con người để họ chịu học giáo lý. Sau đó, khi họ đã đi vào rồi, thì các thày hy vọng có thể trao cho họ một giáo lý cao hơn giúp họ tăng triển thay vì ve vuốt tự ngã và khiến nó cảm thấy hơn người khác.

Điều các thày đã phải làm trong những giai đoạn trước – vấn đề mà các thày đối diện lúc ấy – là tâm thức tập thể rất, rất dày đặc. Để các đệ tử chịu tham gia (thậm chí để thức tỉnh họ thấy được con đường đạo, để khiến họ bước vào đường đạo), các thày phải truyền cho họ một cảm giác phấn khởi, một mong muốn làm điều gì đó. Một số đệ tử mô tả trạng thái này như là họ “đang bốc lửa”, họ đang “nổ lửa”. Các thày cần làm thế vì lý do đơn giản là tạo động lượng giúp các đệ tử thoát khỏi tâm thức tập thể, tâm thức đại chúng. Tuy thế, vấn đề không tránh được là đệ tử quá nồng nhiệt trong việc thay đổi thế giới cho Saint Germain đến độ bị mất quân bằng. Các thày có nói trước đây là nhiều đệ tử có cái nhìn đúng về điều cần làm nhưng lại có cái nhìn sai lệch hay thiếu sót về cách thực hiện.

23.4. Đệ tử mất quân bằng

Các thày đã thấy nhiều người đệ tử biết đến sự hiện hữu của Saint Germain và ước muốn đem lại thời đại hoàng kim của thày. Các đệ tử này bừng bừng hứng khởi muốn bước ra ngoài xã hội, muốn phất tay thay đổi toàn thế giới và họ tiếp cận người khác một cách rất bất quân bằng nên họ đã khiến người khác tránh xa họ hoặc họ đã gánh chịu phản ứng tiêu cực từ người khác.

Các thày thấy nhiều đệ tử bước ra ngoài xã hội với phong cách bán hàng rất bất quân bằng giống như cách hành xử của các nhóm Cơ đốc tái sinh và nhiều nhóm khác. Họ bỗng nhiên cải đạo theo một hệ thống niềm tin nào đó và sau đó bước ra ngoài xã hội và nghĩ rằng họ phải cải đạo toàn thế giới theo đạo của họ. Họ bị tâm thức tập thể chống đối và gặp phản ứng tiêu cực của những người khác, do đó họ từ trạng thái hưng phấn giả tạo rơi xuống chỗ chán nản. Một số trở nên nản chí, ngay cả bỏ giáo lý đi hay quyết định rút lui. Lẽ tất nhiên các thày không muốn thấy phản ứng này nơi đệ tử, nhưng vào thời điểm đó, không thể tránh được điều này xảy ra nơi một số đệ tử.

Một số đệ tử khác chọn một hướng quân bằng và dài hạn hơn. Họ tìm cách cân bằng nghiệp quả hay làm những gì họ thấy cần làm để tiến triển trên đường tu tâm linh. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại trở nên thụ động và không thực sự cảm thấy mình có thể đóng góp gì cho xã hội. Nhiều người lý luận rằng điều họ có thể đóng góp cho xã hội là qua việc đọc chú. Lẽ tất nhiên, việc đọc chú có giá trị nhưng điều đó khiến họ trì hoãn hay hủy bỏ quả vị Ki-tô của họ, vì họ có tiềm năng cao hơn là chỉ đọc chú. Con có thể nhìn lại các phong trào đó và thấy họ bỏ ra rất nhiều thì giờ đọc chú. Tuy nỗ lực này có kết quả tích cực, nhưng trong một số trường hợp nó đã khiến người đệ tử trì hoãn quả vị Ki-tô của họ. Họ không biểu hiện quả vị Ki-tô, và để tránh phản ứng tiêu cực họ lý luận trong tâm rằng: “Tôi cầu thỉnh ngọn lửa tím là đủ rồi, tôi không cần bước ra ngoài và tiếp cận với xã hội.”

Mặt khác, có những đệ tử quá háo hức bước ra ngoài để cải đạo người khác đến độ rơi vào phản ứng bất quân bằng. Để tránh đề tài này trở nên quá nghiêm nghị, thày muốn thêm vào đây một chút hài hước. Bên Hoa Kỳ có một tổ chức tên là Những Người Theo dõi Cân nặng (Weight Watchers) và có một câu chuyện hài hước về những người này là khi họ hội họp, tất cả nắm tay nhau và hát vì đấy là cách duy nhất để bảo đảm là không ai ăn uống được! Con cũng có thể chế ra câu chuyện hài hước tương tự về đệ tử chân sư thăng thiên: Vì sao họ phải đọc chú nhiều giờ như vậy? Bởi vì đấy là cách duy nhất khiến họ không ra ngoài và gặp rắc rối! Đây là một phần lý do các thày phải khuyên các đệ tử của các tổ chức trước đọc nhiều giờ chú như vậy. Đó là cách duy nhất để ngăn cản một số người đi ra ngoài xã hội và hành động với phản ứng rất bất quân bằng vì họ đã quá hăng hái, quá bốc lửa muốn thay đổi thế giới cho Saint Germain.

Họ tức khắc nghĩ rằng thay đổi thế giới cho Saint Germain hay cứu rỗi thế giới có nghĩa là thuyết phục tất cả người khác theo giáo lý chân sư thăng thiên và tổ chức cá biệt của họ. Thày muốn nói thật rõ, dù các thày đã nói điều này từ trước, là trong Thời Bảo bình các thày không hề mong muốn mọi người nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên. Chắc chắn là các thày không mong muốn tất cả mọi người nhìn nhận một giáo lý hay một tổ chức chân sư thăng thiên đặc thù, kể cả giáo lý mà các thày đang trao truyền qua vị sứ giả này.

23.5. Không có mục đích cải đạo mọi người

Có thể là khi xã hội tiến sâu hơn vào Thời Bảo bình sẽ có một sự công nhận phổ quát về sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên và một sự đón nhận phổ quát giáo lý chân sư thăng thiên. Thày nói “có thể” vì không thể nào tiên đoán khoảng thời gian. Khi nào thì chuyện này xảy ra? Nó sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó nhưng khi nào? Trong tương lai gần, chắc chắn là trong thời gian còn lại của kiếp sống các con, con cần phải minh định rõ trong tâm là biểu hiện quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải đi ra ngoài xã hội và cải đạo tất cả mọi người theo giáo lý đặc trưng này hay chấp nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên hay giáo lý của các thày. 

Là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình có nghĩa là, trước tiên hết, như thày đã nói, con hòa điệu với thày và nhận được một ý tưởng mà con có thể thực hiện trong chính cuộc sống của con, qua đó con giúp ích những người chung quanh trong vòng ảnh hưởng cá nhân của con, hay đem lại lợi ích nào đó cho xã hội. Đây không phải là chuyện bước vào một cuộc thánh chiến để cải đạo người khác đi theo một hệ thống tin tưởng đặc trưng.

Quả thực một trong những thử thách của Thời Song ngư là khắc phục được tâm thức thánh chiến này. Lẽ tất nhiên con có thể thấy được nhiều người trong đó có cả nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã không vượt qua được thử thách này. Điều chúng ta cần trước tiên hết trong Thời Bảo bình là các đệ tử làm việc giải quyết tâm lý cá nhân của mình, dùng giáo lý (đặc biệt là giáo lý về chấn thương nhập đời và về tất cả những ngã mà con đã tạo ra, từ ngã gốc đến các ngã khác) để giải quyết ngã gốc và các ngã khác. Điều này có nghĩa là theo khía cạnh alpha của đường tu, con được tự do hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên, vì các ngã này không ngăn chặn sự hòa điệu của con nữa.

Mặt khác, theo khía cạnh omega, con có tự do bước ra ngoài xã hội và cống hiến người khác những gì con nhận được từ các thày, nhưng con làm việc này một cách hoàn toàn quân bình. Nói cách khác, con không làm việc này vì con bị ảnh hưởng của chấn thương nhập đời và ngã gốc của mình. Con không làm việc này vì con muốn bù đắp bất cứ gì, con muốn được trọng vọng, con muốn người khác công nhận giá trị của con hay bất cứ lý do nào phát xuất từ các ngã tách biệt mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại chuyện con tới đây và cảm thấy bị hất hủi.

Khi con nhìn lại các đệ tử chân sư thăng thiên trong quá khứ, tại sao họ đã không biểu hiện và không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của họ? Ấy chính là vì họ chưa giải quyết ngã gốc của họ. Tại sao thời ấy các thày không trao truyền các giáo lý liên hệ? Bởi vì các giáo lý này, vì nhiều lý do, không thể trao truyền được trong Thời Song ngư và qua một tổ chức đã được đặc biệt thành lập để đạt mục tiêu mà thày More đã mô tả khi trước. Hành tinh, tâm thức tập thể, các đệ tử chân sư thăng thiên giản dị là chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này.

23.6. Làm việc với các ngã tách biệt của con

Các con có thể thấy là các thày đã đợi mười lăm năm với người sứ giả này để trao truyền các giáo lý này. Các thày đã cẩn thận dẫn con từ từ tới điểm có hiểu biết giúp con chấp nhận và áp dụng các giáo lý này. Thày muốn nói một điều rất rất rõ và rất rất thẳng: tất cả các con đã học hỏi các giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này, thày mạnh mẽ khuyên bảo các con sử dụng những giáo lý mới nhất về avatar, chấn thương nhập đời, ngã gốc và các ngã khác và cách khắc phục chúng.

Con đừng giả sử là con đã làm những chuyện này rồi. Nếu con chưa học và áp dụng các giáo lý này, con đừng giả sử là con không cần làm việc với chúng. Nếu con xem trọng chuyện hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng và phụng sự các chân sư thăng thiên thì con phải dùng các giáo lý này. Con hãy tuần tự làm việc để khắc phục ngã gốc và các ngã khác để việc phụng sự của con không bị pha màu hay thậm chí bị điều khiển bởi các ngã ngày và chấn thương nhập đời. Con sẽ không hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con cho tới khi con thoát khỏi tất cả tập hợp các ngã này. Thày muốn trao cho các con lời giảng về chuyện này, một lần nữa dựa trên các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây.

Làm sao con nhận ra con có ngã gốc hay con chưa giải quyết nó? Lẽ tất nhiên các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về đề tài này nhưng thày muốn giảng thêm. Điều các thày thấy nơi nhiều đệ tử là các con gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên vì có cảm nhận rõ ràng là mình có mặt trên trái đất để làm một chuyện gì, các con cảm thấy phải làm một điều gì. Giờ đây, các thày đã nói với các con là nhiều người trong các con (đa số các con) đã tới trái đất như một avatar muốn tới trái đất để làm điều gì đó. Các thày cũng đã giảng là tầm nhìn mà con có trước khi xuống đây không phải là tầm nhìn cao nhất, do đó quả thực con đã tới đây với cảm giác bắt buộc phải làm điều gì đó.

Sau đó, khi con bị chấn thương nhập đời, thì một số các con đã xây dựng một ngã khác cho con một cưỡng bách mới, hoặc một chuyển hướng mới cho cưỡng bách đầu tiên, qua đó bây giờ con phản ứng lại một điều kiện trên trái đất và cảm thấy mình phải làm điều gì liên quan tới điều kiện này. Thày chỉ muốn cho con thấy là nếu con cảm thấy một sự cưỡng bách phải làm điều gì đó, một sự thúc đẩy muốn làm điều gì đó (mà con cảm thấy con phải làm), thì con biết nó đến từ ngã gốc và các ngã khác. Con biết có cái gì đó con chưa giải quyết.

23.7. Cá nhân hóa cuộc sống trên trái đất

Giờ đây, một chuyện khác cũng xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời (như các chân sư khác, đặc biệt là thày MORE đã giải thích), là tất cả mọi chuyện trên trái đất, cuộc sống của con trên trái đất, đều giống như liên hệ thẳng đến cá nhân con, và con bắt đầu cá nhân hóa mọi chuyện. Điều đó thực sự nghĩa là gì? Ấy, điểm chính yếu là con trở nên rất nhạy cảm về cái ta của mình, con rất nhạy cảm về cái ta của mình.

Gần như có một phần của con người con luôn luôn giám sát mình, phân tích, đánh giá, phán xét cách con đang sống, nhưng con không làm vậy dựa trên quan sát nội tâm – con làm vậy dựa trên quan sát người khác phản ứng với con ra sao. Nhiều người trong các con có thể nhận ra điều này trong tâm mình. Có một phần của con luôn luôn đang giám sát con và lượng định và phê phán. Có một phần của con làm chuyện này vì sau khi bị chấn thương nhập đời, con đã tạo ra ngã tách biệt để làm chuyện đó.

Các thày đã nói là Cái Ta Biết có khả năng tự nhận biết nhưng điều thày đề cập ở đây không phải là tự nhận biết – ta có thể gọi nó là sự nhạy cảm về cái ta vì con nhạy cảm về cái ta của mình. Con rất rất nhạy cảm với cách người khác phản ứng với con. Chuyện xảy ra ở đây là khi con tới trái đất, con bị chấn thương nhập đời và cảm thấy bị chê bai hay phớt lờ. Con tạo ra một ngã muốn bù đắp điều đó, muốn hủy bỏ vấn đề, hủy bỏ điều sai trái mà con cảm thấy đã xảy ra.

Có một ngã thúc đẩy con muốn được chú ý. Một phần động lực thúc đẩy con làm điều gì trên trái đất đến từ mong muốn được chú ý, con muốn làm điều gì quan trọng mà người khác sẽ nhìn nhận và công nhận. Con có một ngã muốn được người khác chấp nhận và ngã này thúc đẩy con làm điều gì đó. Có thể là nó đã thúc đẩy con suốt đời làm người khôi hài luôn luôn kể chuyện diễu, hay làm người thông tuệ luôn luôn biết điều người khác không biết. Có vô số những ngã này nhưng căn bản là con muốn được người khác nhìn nhận và xác chứng giá trị của mình cho nên con làm những việc đó để được điều này.

Mặt khác con lại có ngã nhạy cảm lúc nào cũng lượng định xem người khác phản ứng ra sao với mình. Khi họ không hoàn toàn chấp nhận con, con cảm thấy mình không thoải mái bằng nhiều cách. Con có thể cảm thấy mắc cở, con có thể cảm thấy bị hất hủi, con có thể cảm thấy mình kém cỏi, con có thể cảm thấy mình đã sai lầm. Bất kể dạng nào, lúc nào cũng có một cảm xúc đi kèm theo.

Con ở trong thế kéo-đẩy này và cuộc đời con xoay quanh cơ chế đó. Một mặt, con đi tìm sự chấp nhận của người khác và mặt kia con né tránh phản ứng tiêu cực của họ. Con thấy chăng là có một ngã thúc đẩy con muốn người khác phản ứng lại con để con được họ chấp nhận, nhưng ngã kia lại sợ mọi phản ứng tiêu cực? Con luôn luôn ở trong trạng thái phải liều lĩnh. Đây là một chuyện nhiều rủi ro vì con bị thúc đẩy tìm cầu sự chú ý của người khác nhưng nếu họ phản ứng không chấp nhận thì con rơi vào ngã kia với phản ứng tiêu cực. Cả cuộc đời con có thể bị điều khiển bởi hai ngã này. Lẽ tất nhiên điều này đã xảy ra với nhiều người, nhưng các thày đã thấy nhiều đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào khuôn nếp này.

Quả thật, vị sứ giả này đã rơi vào khuôn nếp đó trong phần đầu cuộc đời ông, lúc nào ông cũng bị thúc đẩy để cư xử theo cách đó. Với một số các con, khuynh hướng này bắt đầu từ tuổi thơ ấu nhưng lẽ tất nhiên với tất cả các con, nó đã có từ nhiều kiếp. Nhiều người trong các con kinh nghiệm là khi mình còn nhỏ, con tìm ra rất nhanh là con có thể làm cho người lớn cười. Con cảm thấy thoải mái khi con làm cho người lớn cười. Con tiếp tục làm vậy cho đến ngày hôm nay nhưng nếu họ không cười, con cảm thấy xốn xang. Một lần nữa, có lực kéo và đẩy này.

Một số các con nhận ra khi còn nhỏ, con khôn hơn trẻ em khác cho nên con có thể có những ý mà trẻ em khác không nghĩ ra được. Con tiếp tục làm vậy cho đến ngày nay để người khác nể phục con vì con đưa ra những ý hay, và một số các con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để làm việc này. Nhưng khi người khác không đồng ý, con rơi vào phản ứng tiêu cực.

Điều thày mong muốn là con tới điểm giải quyết được cả tập đoàn ngã gốc và các ngã khác. Toàn thể lực kéo và đẩy này, toàn thể trận chiến gay go đang xảy ra trong tâm con tan biến đi. Con không còn bị mắc kẹt vì vừa tìm cầu điều bất khả thi, vừa hổ thẹn và xốn xang khi không đạt được điều bất khả thi đó. Con thấy là điều đó bất khả thi, không cần thiết và hoàn toàn không thật.

Khi con thấy được điều này, khi con tách mình ra khỏi các ngã này, thì con có thể nhìn chúng và giản dị bỏ chúng đi. Con không cần giải quyết vấn đề mà ngã phóng chiếu vào con. Con không cần đạt được điều kiện, con không cần thay đổi toàn thế giới để cảm thấy thoải mái hơn. Con chỉ cần để cho ngã chết đi. Đây là điều thày mong thấy nơi con. 

23.8. Con không phải là Ki-tô qua một ngã tách biệt

Đây là cách con có thể bắt đầu là Ki-tô Hằng sống trong Thời Bảo bình. Thay vì bị điều khiển bởi những ngã vỏ ngoài này thì con có thể nhận sự điều khiển từ bên trong, từ thày. Con thấy chăng, con yêu dấu, đâu là vấn đề chính mà thày thấy nơi các đệ tử chân sư thăng thiên khiến họ không ảnh hưởng được thế giới ở mức họ có thể làm được? Lý do chính xác là vì họ có những ngã đó, những ý tưởng đó trong tâm vỏ ngoài của họ. Họ đến với một giáo lý chân sư thăng thiên, họ lấy một điều gì đó từ giáo lý mà họ nghĩ chứng thực cách họ tiếp cận cuộc sống xuyên qua một ngã tách biệt này. Lúc đó, họ thực sự tin rằng cách là Ki-tô trên trái đất là hành động xuyên qua ngã tách biệt đó.

Một số đã tạo ra một ngã tách biệt khiến họ cảm thấy phải thách thức tất cả mọi người. Các người khác sống trong một trạng thái ảo tưởng, họ không muốn bước ra khỏi trạng thái đó – con phải thách thức họ (con nghĩ thế). Giờ đây con đã gia nhập giáo lý chân sư thăng thiên, và con có nhiệt tâm muốn bước ra ngoài xã hội và thức tỉnh mọi người. Bỗng nhiên cái ngã dựa trên mong muốn thách thức người khác nghĩ nó là Ki-tô đang thách thức người khác.

Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên cảm thấy là chính họ đã trải nghiệm mình thức tỉnh khi nghe một bài truyền đọc trong đó các thày nói một điều gì với giọng mạnh mẽ và nghiêm khắc. Điều này khiến họ thấy một điều mà trước đó họ không thấy. Đôi khi các thày cần phải nói với một giọng nói đầy uy lực để đâm thủng sự dày đặc của tâm thức đại chúng và tâm thức con người. Giờ đây các đệ tử này mong muốn tạo trải nghiệm này nơi người khác. Họ nghĩ rằng họ phải bước ra ngoài xã hội và phóng tia sáng xanh tới người khác và nói chuyện với họ với giọng rất mạnh mẽ và nghiêm khắc để họ thức tỉnh. Nhưng lối cư xử này bắt nguồn từ đâu? Nó đến từ cái ngã cảm thấy bị hất hủi khi bị chấn thương nhập đời và kể từ ngày ấy nó tìm cách làm điều gì để người khác không thể phớt lờ hay bác bỏ. Đây là một phản ứng bất quân bằng. Nó sẽ không đem lại kết quả và con sẽ không bao giờ cảm thấy an bình, không bao giờ cảm thấy dễ chịu. Con sẽ không bao giờ cảm thấy hoàn thành điều con tới đây để hoàn thành khi con còn hành động xuyên qua các ngã này. 

Một lần nữa, như các chân sư khác đã nói trong hội nghị này, các thày đã trao cho con các giáo lý, các thày đã trao cho con dụng cụ. Con yêu dấu, thày xin con dùng chúng vì khi con dùng chúng và khi con khắc phục được ngã gốc đó, thì con sẽ cảm thấy giống như người sứ giả này. Ông đã nói rằng trong bốn mươi năm nỗ lực trên đường tâm linh, dùng đủ loại giáo lý và bài tập, dùng đủ loại dụng cụ tâm lý và pháp trị liệu, không thứ nào đem lại cho ông sự tiến triển đột phá như các giáo lý về ngã gốc này. Điều này cũng có thể xảy ra cho con và đã xảy ra cho một số các con đã dùng nó. Con yêu dấu, con biết là Giê-su đã cho con nhiều ý tưởng và đã nói rằng con không cần phải chú tâm vào tất cả các ý này. Con chỉ cần lấy ý nào hấp dẫn con, nhưng thày hy vọng là ý về ngã gốc sẽ hấp dẫn tất cả các con vì tất cả các con đều được lợi lạc từ nó.

Giờ đây thày có thể bảo đảm với con là nhiều người trong các con, và nhiều người sẽ bị thu hút bởi giáo lý trong tương lai, các con có tiềm năng làm điều có giá trị và quan trọng trong xã hội. Để con hoàn thành được điều mà các thày ở Hòa Lan gọi là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, giản dị là con phải khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, như thế sự đóng góp vào xã hội của con không bị pha màu bởi các ngã này. Nếu như thế, con sẽ không đạt được tiềm năng cao nhất của con và con yêu dấu, các thày mong muốn con đạt được tiềm năng cao nhất, tiềm năng cao nhất mà con đã chọn. Con chọn nó vì con biết con có thể làm được, vì con sẽ gặp được giáo lý này và sẽ chấp nhận nó. Cố nhiên thày trông chờ con, tất cả các con sẽ đóng góp gì đó vào Thời Bảo bình.

23.9. Tôn sùng người sứ giả

Giờ đây con biết các thày có nói về sự sùng bái Giê-su trong Thời Song ngư. Các thày đã nói tới điều này trong 70-80 năm qua trong các tổ chức chân sư thăng thiên. Giê-su đúng lý là một tấm gương cho người đi trên con đường tu dẫn tới quả vị Ki-tô nhưng nhiều, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên vẫn chưa giải thoát họ khỏi hình ảnh sùng bái Giê-su, do sa nhân dựng lên và phóng chiếu qua giáo hội Công giáo và các giáo hội Cơ đốc giáo khác. Họ vẫn nghĩ Giê-su ở trên cao tít và không cách chi họ làm được điều Giê-su đã làm. Các thày đã cố gắng xua tan sự sùng bái này và chắc chắn quyển sách Các Kiếp sống của Tôi là một bước quan trọng để giúp mọi người phá bỏ sự sùng bái Giê-su.

Các thày cũng muốn đoan chắc là các đệ tử đã mở tâm đón nhận các giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này không dựng lên một sự sùng bái nào đó đối với ông. Nếu con nhìn lại cuộc đời của ông, thì con sẽ thấy ông sinh ra trong một gia đình bình thường, được nuôi dạy bình thường. Các thày không bao giờ nói và ông cũng không bao giờ nói là ông có gì đặc biệt, hay vì lý do nào đó ông đã tiến hóa hơn khi tới trái đất hay trong các kiếp trước ông đã trải qua những tiến trình khiến ông tiến hóa hơn ngày hôm nay. Thày cũng biết là trong các đợt truyền giảng trước, người ta đã nói rằng làm một sứ giả rất rất là khó và phải được huấn luyện trong hàng triệu năm. Các thày không bao giờ nói điều này về người sứ giả này vì các thày không muốn dựng lên sự sùng bái ông. Con biết là ông tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, ông áp dụng giáo lý này, ông cố gắng giải quyết các vấn đề tâm lý của mình và ông tuần tự tiến trên đường tu cho tới khi ông tới điểm mở tâm ra để làm điều gì đó, để có một quan hệ trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên. Trước khi ông bắt đầu trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật (Ask Real Jesus), ông trải qua kinh nghiệm mà ông đã mô tả là ông cảm thấy ông buông bỏ các tham vọng nhân gian của mình và lúc đó ông cảm nhận được Hiện diện của Giê-su.

Lúc đó, có thể nói ông ở trong cùng tình thế như Giê-su trong bữa tiệc cưới ở Cana. Ông đứng trước ngã ba đường và ông có thể đi đường này hay đường kia. Ông có thể nói: “Ồ, tôi không thể làm điều này được” hay ông có thể làm điều ông đã làm và nói: “Tôi sẵn sàng làm điều này mặc dù tôi nhìn nhận mình chưa toàn hảo, tôi chưa hoàn toàn giải quyết tâm lý mình, tôi chưa hoàn toàn biểu hiện quả vị Ki-tô.” Điều này có nghĩa là khi ông bắt đầu trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật, chắc chắn là ông chưa hoàn toàn trong tâm thức Ki-tô. Chắc chắn là ông ở một mức tâm thức thấp hơn nhiều so với ngày hôm nay.

23.10. Con không cần phải toàn hảo

Câu hỏi ở đây là: Con có cần phải toàn hảo để làm một điều nào đó cho các chân sư thăng thiên? Câu trả lời là “Không.” Các thày mong đợi tất cả các con không dựng lên một sự tôn sùng nào đó đối với người sứ giả này và nói: “Ồ, con không thể làm điều người sứ giả này đã làm.” Giờ đây, con có thể nhìn những gì người sứ giả này đã làm trong công việc đón nhận giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý, thêm giáo lý và thêm giáo lý cho tới khi số lượng trở nên, thành thật mà nói, choáng ngợp đối với đa số các con. Con có thể nói: “Nhưng tôi sẽ không bao giờ có thể mang lại nhiều giáo lý đến thế, tôi không bao giờ có thể làm điều mà người sứ giả này đã làm.” Con hoàn toàn đúng, con yêu dấu, con không thể làm điều người sứ giả này đã làm. Điều con có thể làm là làm điều người sứ giả này không thể làm vì tất cả các con đều là những cá thể độc nhất. Con có một Hiện diện TA LÀ độc nhất, con có tiểu sử độc nhất trên trái đất, con có kinh nghiệm độc nhất trong kiếp sống này và do đó con có thể làm điều mà người sứ giả này không làm được.

Có một điều con có thể làm là đem lại món quà mà không ai khác đem lại được. Như các thày đã nói trước đây, không có so sánh trong sự độc đáo. Con hãy nhìn vị sứ giả này như một nguồn cảm hứng nhưng con đừng thần tượng ông và cho rằng mình không thể làm được điều gì đặc biệt so với điều ông đã làm. Không có lý do gì để con so sánh mình với bất cứ ai. Trọng tâm là: Giải quyết tâm lý của mình, hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình, là cánh cửa mở để  biểu lộ cá thể độc đáo của mình. Con hãy lấy những chọn lựa mà con, như Cái Ta Biết đang hiện thân, hoàn toàn được phép chọn lựa: đó là điều con muốn biểu hiện, điều con muốn trải nghiệm, điều con muốn vui huởng trên trái đất.

Mỗi người và tất cả mọi người trong chúng con đều có tiềm năng đi tới một nhóm người nào đó mà không ai khác tới được. Có thể nói rằng người sứ giả này có thể tới một mạn đà la gồm một số người nào đó. Có rất nhiều người khác trên trái đất ông không tới được. Nhiều người trong các con có thể tới được những người này. Mỗi người trong các con đều có một mạn đà la gồm những người mà con có thể tiếp cận được, con có thể giúp tiến lên cao hơn.

Do đó, thày giản dị nói với con: Hãy lấy cảm hứng từ người sứ giả nhưng đừng nản chí khi nhìn người sứ giả. Hãy dùng ông như nguồn cảm hứng và nói: “Tôi nhìn thấy đây là một người đã tìm được sứ mệnh độc đáo của mình, món quà độc đáo của mình. Tôi muốn xét xem ông ta làm như thế nào và tôi ứng dụng được điều gì, tôi học được điều gì từ hành trình của ông.” Sau đó, con chú tâm vào việc đem lại món quà của con, sự đóng góp của con. 

Con yêu dấu, một số các con có một lãnh vực chuyên môn trong thế giới và con có tiềm năng đem lại một số ý trong lãnh vực chuyên môn này. Ngay cả nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, tiềm năng của con là đem lại một ý tưởng, thì con hãy chú tâm vào ý tưởng đó và bình an biết rằng đây là cống hiến của con. Con hãy đoan chắc đây là ý tưởng cao nhất mà con có tiềm năng đem lại thể theo Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Con yêu dấu, con cũng hãy nhìn nhận là điều con có thể thấy nơi người sứ giả này là, khi con xuống đầu thai trên trái đất, con có một Sứ vụ Thiêng liêng, và sứ vụ đó có một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao. Lẽ tất nhiên con muốn đoan chắc là con biểu hiện tiềm năng cao nhất, nhưng người sứ giả này đã biểu hiện tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của ông một thời gian trước đây rồi. Những gì ông đã mang lại từ lúc ấy vượt quá tiềm năng đó. Nhiều người trong các con cũng có thể vượt quá tiềm năng cao nhất mà con quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình vì con soạn ra Sứ vụ với tầm nhìn con có lúc ấy. Bây giờ thì con đã nâng tâm thức lên cao hơn, hay ít nhất con có tiềm năng nâng tâm thức bằng cách khắc phục ngã gốc, thì con có thể lên cao hơn thế. Lẽ tất nhiên, các thày luôn luôn vui mừng khi thấy các đệ tử của mình vượt thăng chính họ. Không phải là các thày mong cầu kết quả đặc trưng nào nhưng các thày mong thấy các đệ tử thăng vượt chính họ.

Con yêu dấu, khi một đệ tử đạt tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của mình, các thày không muốn người này ngừng ở đó trong phần còn lại của kiếp sống. Lẽ tất nhiên, các thày muốn người đệ tử đó tiếp tục thăng vượt chính mình và đây là điều mà một số các con quả thực có tiềm năng làm được. Với tất cả những giáo lý các thày đã trao truyền, các con có tiềm năng né tránh những cạm bẫy mà các thày đã thấy trong các đợt truyền giáo trước, khi các đệ tử chân sư thăng thiên rơi vào tư duy mà các thày đã mô tả.

23.11. Tìm ra một hướng đi quân bằng

Con có tiềm năng theo một hướng đi quân bằng hơn khiến con có thể bắt đầu thực sự tạo được ảnh hưởng. Con có thể bước ra ngoài và biểu hiện mình như Giê-su đã khuyến khích con làm qua mạng Internet. Một lần nữa con không cần lúc nào cũng nói đến chân sư thăng thiên hay giáo lý chân sư thăng thiên. Con hoàn toàn tự do dùng một số ý tưởng của các thày và trình bày chúng trong một bối cảnh trung hòa mà không cần nói chúng phát xuất từ các chân sư thăng thiên. Nói cách khác, vấn đề các thày thấy trong quá khứ là các đệ tử nghĩ rằng điều quan trọng nhất là làm sao đem con người tới chỗ chấp nhận giáo lý chân sư thăng thiên. Không đâu, con yêu dấu, điều quan trọng nhất là làm sao con người chấp nhận một số ý tưởng sẽ giúp xã hội hay các cá nhân tiến lên.

Con đừng dựng lên rào cản trước mặt những người này và bắt họ phải nhảy qua rào cản và chấp nhận chân sư thăng thiên trước khi họ nhận ý tưởng. Con cứ thoải mái trao cho họ ý tưởng và để cho các ý tưởng này tự làm việc trong tâm họ. Con không làm vậy để gặt hái một kết quả bởi vì, con yêu dấu, khi con đã loại bỏ ngã gốc và các ngã khác, thì con không đến với mọi người để tạo nên một cảm xúc trong con hay để né tránh một cảm xúc trong con. Con có thể là cánh cửa mở, có nghĩa là con tự do trao cho họ ý tưởng và con tự do để họ tự do đón nhận nó. Nhiều nhiều lần, con yêu dấu, một ý tưởng đi vào tâm của họ, họ có thể gạt bỏ nó ở tầng tâm ý thức nhưng nó đi vào tâm họ và bắt đầu một tiến trình hóa kim cần thời gian để nó trồi lên trên tâm ý thức. Đôi khi nó cần vài năm và bỗng nhiên một hôm tâm những người này xoay chuyển và giờ đây họ chấp nhận ý tưởng đó mà không thực sự hiểu tại sao.

Con hãy an vui với việc trao ý tưởng và để cho ý tưởng làm việc của nó. Trên cơ bản, đây là chuyện đã xảy ra cho con khi con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Có ý tưởng nào đó đã thu hút con vào giáo lý nhưng có một số ý khác cần một thời gian dài để trổ mầm và giúp con tới chỗ của con ngày hôm nay. Con sẵn sàng đối phó với ngã gốc và khắc phục nó, và qua đó khắc phục chướng ngại lớn nhất trong lịch sử các avatar đã ngăn cản họ có ảnh hưởng mà họ có tiềm năng có trên trái đất.

Tới đây thì thày muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với hội nghị này, đối với những người tổ chức và những người tham dự. Tất cả các con đều là một phần của khía cạnh omega khi các con tương tác với các thày trong hội nghị và các con trở thành các trạm phát sóng các ý tưởng vào tâm thức đại chúng.

Con có thể thấy là có dòng chảy hình số tám giữa các thày Ở Trên và các con ở đây trong hội nghị. Có dòng chảy số tám theo đường dọc và có dòng chảy số tám theo đường ngang giữa các con ở đây và những người khác trên thế giới và tâm thức đại chúng. Đây là điều các thày muốn thiết lập một cách thường trực. Lẽ tất nhiên nó đã có phần hiện hữu nhưng các thày muốn dòng chảy số tám đường ngang này mạnh mẽ hơn nhiều. Nó chỉ có thể xảy ra khi mỗi cá nhân các con thiết lập dòng chảy số tám với các thày và nó chỉ có thể xảy ra khi con gỡ bỏ các rào cản (một lần nữa) và con đã có sẵn giáo lý để hoàn thành việc này.

Con yêu dấu, thày gửi tới con niềm biết ơn sâu xa. Với tư cách Trưởng giáo của Thời Bảo bình, lòng biết ơn của thày bao gồm sự biết ơn của tất cả các chân sư thăng thiên, đặc biệt là quý thày đã có thể nói chuyện trong hội nghị này và lẽ tất nhiên thày Gautama sẽ nói sau đây. Tới đây thì thày niêm các con trong tình yêu mà Thày LÀ, thực sự là tình yêu có thể khiến vật chất ca hát. Vật chất trong bốn thể phàm của các con đã ca hát trong hội nghị này, và thày hy vọng con sẽ giữ cho nó ca hát một thời gian dài, đúng thực là ca hát trong một thời gian vô hạn định, trong suốt thời gian còn lại của con ở đây – và xa hơn nữa.

25 | Sẵn sàng nhận giáo lý

Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 24 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật. Gautama là danh hiệu ta dùng khi làm việc với các dòng tiến hóa trên trái đất. Một số chân sư thăng thiên đã cho con tầm nhìn ngược trở về các đợt truyền pháp trước kia của các chân sư thăng thiên và nhìn kết quả của những lần ấy. Thày muốn mở rộng tầm nhìn thêm, trở về thời gian thày còn hiện thân và truyền pháp ở cõi vật lý cách đây 2,500 năm.

25.1. Tôn sùng Phật

Kinh điển nói là sau khi thày tu tập theo con đường khổ hạnh và nhận ra những hạn chế của nó, thày khám phá bát chánh đạo hay con đường đạo của Phật, và thày đạt niết bàn, thày giác ngộ. Nhiều, nhiều Phật tử, ngay cả bây giờ sau nhiều thế kỷ nhìn các điều này với tâm sùng bái. Hoặc họ cho rằng thày là sinh thể duy nhất đạt giác ngộ từ xưa tới nay, hoặc thày là sinh thể cao nhất hoặc thày đạt được một trạng thái giác ngộ tối hậu, tuyệt đối.

Nói cách khác, họ nghĩ trạng thái giác ngộ mà thày đạt được cách đây 2,500 năm là một trạng thái tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được và không bao giờ vượt qua được. Tuy thế, nếu con xét đến hiện thực mà các thày truyền dạy cho các con về 144 tầng tâm tức, thì con có thể tự đặt câu hỏi: Khi thày đạt giác ngộ cách đây 2,500 năm, thì lúc đó thày đạt tới tầng tâm thức 144. Tầng tâm thức 144 cách đây 2,500 năm có giống y hệt tầng tâm thức 144 ngày nay chăng? Giờ đây, nếu câu trả lời là: “Đúng, giống y hệt nhau,” thì hệ quả là gì? À, hệ quả là hành tinh đã không tiến bộ gì cả trong 2,500 năm vừa qua. Hệ quả là giáo lý mà thày đã trao truyền 2,500 năm trước đây đã không nâng tâm thức của hành tinh lên và do đó đã không đạt được mục đích. Sự thực là tầng 144 ngày nay cao hơn rất nhiều tầng 144 vào 2,500 năm trước, hay 2,000 năm trước khi Giê-su đạt tầng đó, hay ngay cả khoảng 100 năm trước khi chân sư MORE và Kuthumi đạt được tầng này, và sẽ tiếp tục như thế.

25.2. Tâm thức được nâng lên như thế nào

Vậy thì điều gì nâng tầng tâm thức đó lên? À, trước tiên thì tâm thức tập thể được nâng lên và đây là khía cạnh omega. Chuyện này xảy ra khi đủ túc số tới hạn các cá nhân đã nâng cao tâm thức của họ và kéo theo 80% hay 90% thành phần thấp nhất và do đó tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên. Cũng có thể có lúc tâm thức tập thể xoay chuyển và con người quyết định là họ không còn nhấp nhận một sự biểu hiện nào đó nữa. Hệ quả là tầng tâm thức thấp nhất được nâng lên và những người ở tầng tâm thức thấp nhất cũ không được phép hiện thân nữa.

Tuy nhiên điều gì nâng tầng tâm thức cao nhất lên? Ấy, một ai đó phải đạt được tầng 144 của thời của họ và sau đó tiến lên cao hơn trước khi thăng thiên. Đó là điều thày đã làm 2,500 năm trước đây, dù rằng thày nhập niết bàn ở tầng 144 của thời đó. Khi thày trở lại để làm sứ vụ giáo hóa, thày không trở lại với trạng thái tâm thức tuyệt đối. Trong những năm thày giáo hóa, thày vẫn tiếp tục tăng trưởng, tiến triển và thăng vượt chính mình. Thày nâng tầng 144 lên một mức cao hơn. Lẽ tất nhiên, Giê-su cũng làm như thế, các chân sư khác cũng làm như thế và đó là cách tầng 144 được nâng lên. Một số các con có tiềm năng góp phần vào tiến trình đạt tới tầng 144 trước khi con sẵn sàng rời thân vật lý, do đó vẫn tiếp tục tiến cao hơn khi còn hiện thân và nhờ vậy con giúp nâng tầng này lên.

Con thấy chăng là toàn bộ khái niệm cho rằng một giáo lý có thể tuyệt đối, một trạng thái tâm thức có thể tuyệt đối, hoàn toàn là một ảo tưởng, nó là màn huyễn của Maya, lẽ tất nhiên nó là phóng chiếu của sa nhân. Họ không thể thăng vượt chính họ và vì vậy họ không muốn ai khác thăng vượt chính mình. Họ đã chế ra đủ loại mánh khóe tinh xảo để khiến con người nghĩ rằng điều này bất khả thi. Họ muốn con nghĩ rằng thày đã đạt được một trạng thái tâm thức tối hậu, tuyệt đối, thày là một trường hợp ngoại lệ, không ai có thể tiến xa hơn thày. Họ cũng muốn con nghĩ rằng Giê-su đạt được một tầng tâm thức không ai làm theo được.

Trong 2,500 năm qua, quả thực đã có một số tương đối nhỏ cá nhân đã dùng giáo lý Phật giáo để cũng đạt tới tầng 144 và vượt quá tầng này. Một số người được biết tới trong truyền thống Phật giáo, một số người khác không được biết tới vì họ không có sứ vụ công cộng. Điều chắc chắn là khi thày nhìn trở về quá khứ, Phật giáo đã đóng góp vào sự tiến triển của tâm thức tập thể và nâng cao các tầng tâm thức.

25.3. Mỗi giáo lý đều nhắm tới một tầng tâm thức

Như vậy, khi con nhận ra là tâm thức ngày nay cao hơn tâm thức cách đây 2,500 năm (toàn bộ 144 tầng tâm thức đã dời lên cao hơn ngày trước) thì con cũng có thể thấy là giáo lý được trao truyền rất lâu trước đây thực sự đã được trao truyền cho một tầng tâm thức thấp hơn là tầng tâm thức trung bình ngày nay. Lẽ tất nhiên điều này phần nào cho thấy nhu cầu tiết lộ tuần tự. Điều này cũng cho thấy là bất cứ giáo lý được trao truyền ở một thời điểm nào cũng chỉ có thể được trao truyền cho một tầng tâm thức lúc đó. Điều này không có nghĩa là giáo lý được trao truyền cho tầng tâm thức trung bình hay tầng tâm thức thấp nhất, vì có một số giáo lý nhắm tới những người ở tầng 10% cao nhất.

Tuy nhiên, con luôn cần nhận ra rằng khi một giáo lý đặc trưng được trao truyền, chính yếu nó được trao truyền dựa trên tầng mức tâm thức của hành tinh vào thời điểm đó. Nếu giáo lý thành công, thì tâm thức sẽ xoay chuyển. Lý tưởng thì chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? À, trong hoàn cảnh lý tưởng thì có một số người hấp thu giáo lý đó, dùng giáo lý để đạt tầng tâm thức 144. Sau đó họ trở thành dụng cụ để đem lại một giáo lý mới, hay đem lại một khía cạnh mới của giáo lý cũ, một cách diễn giải mới về giáo lý cũ. Do đó, họ có thể đem lại một giáo lý thích ứng với tầng tâm thức mới đã được đạt tới nhờ giáo lý cũ. Lẽ tất nhiên, điều này cũng có nghĩa là trong hoàn cảnh lý tưởng, tiến trình tiết lộ tuần tự không bao giờ ngưng. Điều này cũng có nghĩa là một điều đáng buồn (nếu chúng ta muốn dùng từ ngữ này) là khi các môn đồ của một giáo lý trở nên giáo điều, đóng tâm lại với bất cứ điều gì mới và do đó họ trở nên công cụ quả thực phá hủy hiệu lực của giáo lý. Họ không cho phép giáo lý thăng vượt.

Khi thày truyền pháp 2,500 năm trước đây, con thấy (nếu con đọc một số kinh điển) là thày kể một câu truyện hay một giai thoại. Sau đó cũng giai thoại này, dùng cùng lời lẽ, được nhắc lại ba lần. À, điều này cần thiết vì sự dày đặc của tâm thức vào thời điểm đó và cũng vì thời đó không có văn bản ghi lại. Lúc đó chỉ có truyền thống truyền khẩu và thay vì con người có một văn bản để đọc nhiều lần thì họ nghe ba lần và nhờ vậy nắm bắt rõ hơn. Điều này dẫn tới một đề tài mà thày muốn đề cập là đề tài lặp đi lặp lại.

25.4. Các chân sư có lặp đi lặp lại không?

Các thày có bao giờ lặp đi lặp lại khi trao truyền các bài truyền giảng chăng? Một số các con sẽ nói ngay tức khắc: “Có, các thày thường nói về cùng đề tài, các thày thường trao truyền một giáo lý gần như y hệt giáo lý đã được dạy trước đó.”

Ấy, con yêu dấu, vậy các thày lặp đi lặp lại không? Hay các thày luôn luôn trao truyền một giáo lý dựa trên tâm thức lúc đó và tâm thức người đón nhận – những người mà các thày nhắm tới. Khi con nhìn trái đất, thì con thấy sự chuyển động không ngừng của khuôn đúc rất rất phức tạp của tâm thức đại chúng, cũng như là của tâm thức cá nhân của tất cả những người ở trên một tầng tâm thức nào đó – tầng thứ 48. Những người ở dưới tầng này thường không chuyển động hay họ chuyển động theo tâm thức đại chúng vì họ bị tâm thức đại chúng chế ngự.

Khi con đi lên trên tầng 48, con bắt đầu giành lại được cá tính của con và điều này có nghĩa là con luôn luôn di động. Nếu con có thể nhìn một hình ảnh biểu trưng cho trái đất ở tầng tâm thức, thì con sẽ thấy một mô hình vô cùng phức tạp những dòng sóng năng lượng và hình ảnh. Để minh họa điều này (thày nhấn mạnh đây là một minh họa, không hoàn toàn sát sự thật và chính xác), ta có thể nói là tâm thức tập thể trên trái đất trông giống mô hình rất tinh vi của những sóng năng lượng đang rung động để tạo thành một số hình ảnh. Giống như con người có thể có hình ảnh trong tâm họ, tâm tập thể cũng có thể có hình ảnh. Nó giống như mấy tấm hình chụp mà từ xa trông như một tấm hình nhưng khi lại gần thì con thấy là hình lớn được tạo thành từ nhiều hình chụp nhỏ riêng rẽ. Ta cũng có thể so sánh nó với khái niệm ảnh ba chiều (hologram), duy có điều là tất cả những hình nhỏ tạo nên tổng thể không giống nhau vì những nhóm người khác nhau và những cá nhân khác nhau có những hình ảnh khác nhau, ít nhất là khác nhau một chút, ở trong tâm họ. Đây là một tấm hình vô cùng phức tạp. Giờ đây, nếu con thấy được nó, con sẽ thấy là nó không bao giờ đứng yên, nó luôn luôn di động. Nói cách khác, đây là một tiến trình. Có lúc đi lên, có lúc đi xuống, nhưng không bao giờ đứng yên.

Sẽ không bao giờ có trường hợp con có thể chụp một bức hình của tâm thức tập thể và hai giờ đồng hồ sau con chụp lại và có cùng một tấm hình. Con có thể chụp tấm hình với khoảng thời gian ngắn nhất và tốc độ màn trập ngắn nhất mà máy hình của con có thể làm được, giả dụ như một phần 5,000 của một giây. Ngay sau đó con chụp lại và hai tấm hình sẽ không giống nhau. Mọi chuyện di động nhanh đến độ đó. Khi các thày trao truyền một bài truyền đọc, nó dựa trên phương trình rất phức tạp đang hiện hữu trong tâm thức tập thể của toàn thể, nhưng đặc biệt hơn là trong tâm thức tập thể của nhóm người mà các thày đang hướng dẫn.

Giờ đây, những người nghe bài giảng hay đọc bài giảng, nếu họ thực hiện tiềm năng cao nhất của bài giảng thì họ dùng bài giảng để xoay chuyển tâm thức của họ. Điều này có nghĩa là một khi họ cho phép tâm xoay chuyển, thì phương trình của tâm thức đại chúng lẫn tâm thức nhóm và tâm thức cá nhân đều xoay chuyển. À, lẽ tất nhiên, ngày nay ta có công nghệ cho phép con thu âm bài truyền đọc và in nó ra. Con có thể đọc bài truyền đọc lần đầu tiên, con có thể hấp thu nó ở mức cao nhất mà con có thể có ở tầng tâm thức hiện hành của con. Con có thể trải nghiệm sự xoay chuyển và lúc đó phương trình tâm thức của con đã xoay chuyển. Sau đó, con có thể trở lại, đọc bài truyền đọc lần thứ nhì, và dù các từ ngữ vẫn y hệt như trước, nhưng trải nghiệm của con khi đọc lần thứ nhì không giống trước vì tâm con đã xoay chuyển khi đọc lần đầu. Có nghĩa là lần thứ nhì này con có thể hấp thu điều gì đó mà con không hấp thu lần đầu.

Thày không nói là lần đầu tiên con đọc một bài truyền đọc, thì con cần rút tỉa được hết mọi thứ theo khả năng của mình. Thày chỉ muốn nói là con cần cho phép bài truyền đọc xoay chuyển tâm thức của con, để con có một trải nghiệm xoay chuyển. Nếu con làm vậy, con có thể đọc trở lại cùng bài truyền đọc đó (năm phút sau đó hay năm tháng sau đó) và con sẽ không có cùng trải nghiệm. Có nghĩa là con có thể xoay chuyển tâm thức lần thứ nhì, nắm bắt nhiều hơn từ bài truyền đọc và có nghĩa là lần thứ ba con cũng có một trải nghiệm khác và tiếp tục như thế. Điều này có thể tiếp tục xảy ra trong một thời gian dài cho nhiều người trong các con. Điều này có nghĩa là khi con tới điểm con đọc một bài truyền đọc và con không cảm thấy xoay chuyển thì có thể có hai nguyên do. Một là con đã rút tỉa được hết những gì con có thể lấy được từ bài truyền đọc đó vào lúc này và do đó con cần học cái gì khác để tiếp tục xoay chuyển tâm thức. Nguyên do thứ hai là con đã đóng tâm lại vì con cảm thấy là con đã biết điều mà bài truyền đọc đang cố nói.

Giờ đây, ta lấy trường hợp con không nghe lại cùng một bài truyền đọc nhưng con nghe các thày trao truyền một bài truyền đọc khác nói về cùng một số khái niệm. Một lần nữa câu hỏi là: Con có xoay chuyển tâm thức khi nghe bài truyền đọc đầu tiên trong đó các thày đề cập đến chủ đề đó? Nếu con có xoay chuyển, thì con có thể nghe bài truyền đọc thứ nhì và sẽ rút tỉa được điều gì mà con không rút tỉa được khi nghe bài đầu. Do đó, con thực sự không cảm thấy là các thày đang lặp đi lặp lại.

25.5. Sự phức tạp của các bài truyền đọc

Con nhận ra rằng trong buổi hội nghị này, những người trong các con thực sự muốn mở tâm với các thông điệp mà các thày trao truyền, với năng lượng mà các thày tỏa xuống, thì các con đã xoay chuyển tâm thức nhiều vô cùng. Điều này có nghĩa là nếu con quay trở lại và nghe lại bài truyền đọc đầu tiên của thày Quan Âm, thì con sẽ rút tỉa được nhiều hơn từ bài này so với lần con nghe trực tiếp. Đó là vì bài truyền đọc kích động tiến trình xoay chuyển dẫn con tới tình trạng hiện hành.

Giờ đây một lần nữa, các thày thực sự không bao giờ lặp đi lặp lại cho dù các thày dùng từ ngữ rất tương tự và nói về cùng các khái niệm. Trong một số trường hợp, đó là vì các thày quả thực đang nói chuyện với một cử tọa khác một chút. Có thể nói là một số điều mà các thày đã nói trong hội nghị này đã được nói ra vì các thày ở một vị trí địa dư đặc thù và đang nói với những người sống trong khu vực này, là vùng Á châu nới rộng.

Giáo lý các thày không bị giới hạn bởi vị trí địa dư. Có một số yếu tố trong các bài truyền đọc được trao truyền trong hội nghị này thích nghi cho riêng vị trí địa dư này. Một số yếu tố khác thích ứng với sự kiện là ngay cả trong khoảng thời gian tương đối ngắn từ khi giáo lý về ngã gốc được trao truyền ở Estonia, đã có sự xoay chuyển, không những trong tâm thức tập thể mà cũng có trong tâm thức của nhóm đệ tử. Những đệ tử đã thu nhập những bài truyền đọc này và áp dụng chúng, đã góp phần lớn tạo nên sự xoay chuyển đó.

Điều mà các thày trao truyền bây giờ dựa trên phương trình rất phức tạp đang có mặt bây giờ và ở đây. Lẽ tất nhiên các con không trải nghiệm nó vì sẽ bị choáng ngợp. Các thày thực sự trải nghiệm nó khi các thày lên kế hoạch trao truyền một bài truyền đọc. Đó là lý do tại sao thày giản dị cho con biết để con biết các thày làm việc như thế nào, tại sao đôi khi các thày nói về cùng các khái niệm nhưng từ những góc độ khác. Con hầu như có thể nói là tuy các từ ngữ giống nhau, nhưng khuôn đúc, hình học trên các cõi cao hơn (cõi tình cảm, lý trí và bản sắc) có thể rất khác. Điều này có nghĩa là từ tầm nhìn của các thày, các thày thấy rõ ràng những khác biệt và các thày cũng thấy là đôi khi từ ngữ chủ yếu là chén thánh để các thày rót những khuôn đúc hình học vào ba thể cao hơn.

25.6. Lạm dụng một giáo lý tâm linh

Giờ đây, chúng ta lấy giáo lý này và nhìn trở về khoảng thời gian 2,500 năm từ khi thày giảng Kinh Pháp Cú và Bát Chánh Đạo. Điều đạt được, lẽ tất nhiên, là có sự xoay chuyển tâm thức nhưng sự xoay chuyển này không đạt được tiềm năng cao nhất – tại sao vậy?  À, lý do chính là lúc nào cũng có một nhóm đệ tử có khuynh hướng dùng giáo lý với tâm đường thẳng, phân tích. Họ muốn phân tích giáo lý, đặt giáo lý vào một bối cảnh đường thẳng hay dòng thời gian. Họ đã làm điều mà các chân sư khác đã nói tới trong hội nghị này: họ dùng giáo lý để xác chứng và củng cố các ngã tách biệt mà họ đã tạo ra do chấn thương nhập đời.

Các avatars luôn luôn muốn hiểu, và đây là một mong muốn lành mạnh và chính đáng. Điều con cần nhận ra là mong muốn này có thể bị pha màu và thậm chí bị phá hoại bởi các ngã tách biệt này. Một số ngã có nhu cầu kiểm soát để chúng có thể tin là bây giờ chúng đã tìm thấy một giáo lý tuyệt đối giải thích sự vận hành của vũ trụ, đây có thể là pháp Phật hay Cơ đốc giáo, Hồi giáo, thuyết Cộng sản, thuyết duy vật hay bất cứ gì khác.

Sau đó họ sẽ dùng giáo lý trước để xây dựng ý niệm giáo lý này tuyệt đối. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng và phân tích yêu thích điều này. Do đó, không những họ phá hoại sự tiến triển của chính họ, nhưng (ta có thể nói như vậy) khi những đệ tử này trở thành giáo sĩ đoàn của một tôn giáo, thì họ có thể phá hoại sự tiến triển của toàn bộ phong trào bằng cách cản trở sự thăng vượt của giáo lý. Đây là điều con đã thấy xảy ra với nhiều tôn giáo và đó là lý do vì sao con thấy thày thách thức các thày Bà la môn của Ấn giáo. Con cũng thấy Giê-su thách thức các thày Thông giáo và Pha-ri-si của Do thái giáo.

Mục đích của thày là chỉ cho các con, những đệ tử chân sư thăng thiên, là đây chỉ là khuynh hướng của một số ngã tách biệt, hoặc muốn đặt mọi chuyện trong một bối cảnh tuyệt đối, hoặc muốn an toàn, hoặc muốn có cảm giác là mình quan trọng hay đã đạt được thành quả nào đó. Bất cứ điều gì ngã vỏ ngoài cần, nó có thể dùng tâm đường thẳng. Kết quả là bắt đầu từ thời điểm 2,500 năm trước (lẽ tất nhiên từ cả trước đó từ thời Ấn độ giáo và suốt tận các tổ chức chân sư thăng thiên), các thày đã thấy một tỷ lệ đệ tử có tâm thức này: họ mở tâm với giáo lý nhưng họ tiếp cận giáo lý bằng tâm vỏ ngoài, phân tích, tâm rất đường thẳng tất nhiên bị pha màu bởi các ngã. Tâm đường thẳng rất nhạy cảm với sự lặp đi lặp lại vì tâm đường thẳng, tất nhiên, mang tính chất đường thẳng vì nó có một dòng thời gian. Nó luôn luôn so sánh hiện tại với quá khứ và trong một số trường hợp phóng chiếu tới tương lai.

Khi tâm đường thẳng gặp một giáo lý tâm linh, thì nó rút tỉa từ đó những gì nó rút tỉa được, chủ yếu là một hiểu biết vỏ ngoài, trí năng, thuận lý, lý luận. Nó dùng hiểu biết này để phân tích giáo lý, phân rẽ nó thành nhiều thành phần và nói: “Được rồi, phần này đi vào danh mục này trong kho dữ liệu của tôi, phần kia đi vào danh mục kia.” Lúc đó, khi người đệ tử nghe một giáo lý khác nói về những khái niệm tương tự, tâm đường thẳng sẽ nói: “Ồ, tôi không cần cất ý niệm này vào danh mục vì tôi đã có nó trong kho dữ liệu rồi, đây là một sự lặp lại.” Nó lờ khái niệm đó, nó không nhận ra điểm vi tế là khái niệm này được giảng một cách khác. Tâm đường thẳng không thể nhận ra bất cứ điểm gì mới mẻ khi nghe lại.

Đó là lý do vì sao con có những đệ tử trong mọi tổ chức chân sư thăng thiên, trong mọi tôn giáo và triết lý thần bí khác mà các thày đã trao truyền (lẽ tất nhiên trong cả những giáo lý mà các thày không trao truyền, nhưng do sa nhân và đoàn chưởng giáo giả chế ra). Các thày đã thấy các đệ tử đó đi vào trạng thái tâm cho phép họ tới điểm cảm thấy: “Giờ đây, tôi nắm được căn bản của giáo lý.” Kể từ đó, trên cơ bản họ ngưng tiến triển. Hoặc nếu có điều mới lạ hiện ra mà họ chưa có trong kho dữ liệu thì họ sắp xếp nó vào một danh mục. Người đệ tử sẽ tới điểm cảm thấy: “Tôi đã hiểu được khuôn đúc tổng thể của giáo lý.” Kể từ điểm đó, họ nghĩ là tất cả mọi điều khác được giảng sau đó chỉ là chi tiết phải phù hợp vào khuôn đúc tổng thể đó.

25.7. Sơ tâm

Tuy nhiên, con yêu dấu, khi con cho phép mình tạo ra khuôn đúc đó trong tâm (là bây giờ con đã nắm được căn bản của giáo lý), thì điều con nắm được dựa trên tầng tâm thức hiện hành của con. Nó không là – nó không là – hiểu biết và trải nghiệm cao nhất. Quả thật, sự khác biệt giữa các đệ tử đến với một giáo lý, sau đó ngưng tiến triển và dậm chân tại chỗ và các đệ tử vẫn tiếp tục tiến triển là các đệ tử loại thứ hai không dính mắc vào chuyện nắm bắt tổng thể giáo lý. Họ quả thực sẵn sàng tiếp cận giáo lý với cái tâm mà Giê-su gọi là tâm trẻ thơ hay người Phật tử gọi là Sơ tâm (tâm của người bắt đầu), cái tâm nhìn mọi sự như mới.

Thoảng hoặc, con cho phép mình bỏ qua bên cái mà con nghĩ là sự nắm bắt cơ bản hay nắm bắt tối hậu giáo lý. Con cho phép mình vào trạng thái tâm trung hòa và con đọc và nghe giáo lý như mới. Lúc ấy con sẽ nhận được một điều gì ngay cả từ một giáo lý mà con đã đọc trước kia nhưng chưa nhận được điều đó. Đó là lúc giáo lý, ngay cả khi con đã đọc nó nhiều lần, có thể tạo sự xoay chuyển tâm con. Nói cách khác, sự lặp lại (mà một số đệ tử nhận thấy) ở trong tâm chân sư thăng thiên hay trong tâm người đệ tử?

Thày góp ý với con là câu trả lời thật sự không quan trọng. Vì điều quan trọng là sự tiến triển hay không tiến triển của con không nằm trong tâm các chân sư thăng thiên – nó nằm trong tâm của con. Điều này nghĩa là gì? Nó có nghĩa là, như các chân sư khác đã gợi ý, khi con khắc phục được ngã gốc và các ngã tách biệt khác phát xuất từ nó, thì con thật sự có thể thăng vượt tâm đường thẳng, phân tích. Con không còn nhu cầu phải kiểm soát hết mọi thứ, phải có nắm bắt căn bản về vũ trụ. Lúc ấy con có thể tiếp cận giáo lý với một mức độ tự do cao hơn trước kia nhiều vì con không bị pha màu bởi các ngã tách biệt này.

25.8. Các ngã tách biệt sợ giáo lý mới

Trên cơ bản, tất cả các con có thể thấy là ở một số điểm trên con đường tu, con đã nhận được một giáo lý mới khuấy động điều gì đó trong con, kích động điều gì đó trong con. Thí dụ, khi Giê-su giảng về tự ngã, thì một số đệ tử bị kích động bởi các bài giảng này. Thậm chí có một số đệ tử sợ phải đọc bài giảng kế tiếp về tự ngã vì tự ngã của họ lo sợ bài giảng sẽ phơi bày khía cạnh đó của tự ngã.

Con sẽ luôn luôn có khuynh hướng là ngã tách biệt cảm thấy nó đang kiểm soát con và đường tu của con, và nó sợ một giáo lý mới có thể đe dọa cảm giác nó đang làm chủ tình hình. Nếu con nhận ra điều này trong con, thì con chỉ cần dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để bước lui lại và nhận ra đây chỉ là một ngã tách biệt đang cảm thấy như vậy. Đây không phải là con vì con không thể bị đe dọa bởi bất cứ điều gì có thể giúp con vượt thăng chính mình. Cái Ta Biết, khi nó ý thức bản thể thực của nó, không thể bị đe dọa bởi bất cứ giáo lý nào.

25.9. Từ kết quả tới tiến trình

Khi con đã khắc phục được ngã gốc và các ngã khác, thì con có thể tiến tới điểm con có tiềm năng xoay chuyển. Các chân sư khác đã đặt nền móng, đã nói về điều này và thày không có gì nhiều hơn để nói thêm ngoại trừ chỉ cho con thấy sự xoay chuyển là con chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Các thày đã trao cho các con giáo lý là con bắt đầu (đa số các con) như những avatars trên các hành tinh tự nhiên. Con bắt đầu với một ý niệm bản ngã giới hạn. Con đã mở rộng nó bằng cách thử nghiệm khả năng đồng-sáng tạo của con. Nhiều người trong các con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ hình dung một hoàn cảnh hay hình thể nào đó trong cõi vật lý và sau đó thị hiện hình thể đó.

Quả thực con đã xây dựng một động lượng mạnh mẽ khiến vật chất tuân theo những hình ảnh và khuôn đúc trong tâm con. Con đã tu tập để đạt được tâm làm chủ vật chất. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy sự đau khổ, thì con nghĩ: “Tôi muốn xuống dưới đó và thị hiện một kết quả tích cực để giải thoát con người khỏi khổ đau.” Các chân sư khác đã nói là động cơ nguyên thủy đưa con xuống đây không phải là động cơ cao nhất. Để thực sự có tự do thăng thiên, con cần xét lại động cơ của con dựa trên tâm thức cao hơn mà con có bây giờ. Qua đó, con buông bỏ động cơ lúc trước và các niềm tin đằng sau nó. Như một avatar thì niềm tin chính mà con cần buông bỏ để thăng thiên là gì? À, đó là con cần xoay chuyển từ chú tâm vào thành quả sang chú tâm vào tiến trình.

Các thày có nói với con là trên cõi thăng thiên có sự phát triển không ngừng, và con có thể tiến triển đến tận tâm thức Đấng Sáng tạo. Các thày có nói là không ai trên trái đất sẽ đạt được trạng thái giác ngộ tối hậu mà sau đó không thể tiến triển nữa. Con hãy tự hỏi: “Đấng Sáng tạo đã tạo ra cái gì? Phải chăng là một kết quả, một kết quả cố định, hay một tiến trình kéo dài mãi mãi, mãi mãi?” Lẽ tất nhiên câu trả lời là Đấng Sáng tạo không chú tâm vào việc tạo một kết quả mà chú tâm vào tiến trình. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ để tạo thuận lợi cho tiến trình này. “Tiến trình nào?,” con có thể hỏi. Tiến trình tự thăng vượt, mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống.

Tâm đường thẳng sẽ hỏi: “Ấy, nhưng sự thăng vượt hàm ý có sự chuyển động từ một giai đoạn lên giai đoạn kế tiếp. Nếu tôi cứ tiếp tục hết đoạn đường phía trước, thì sẽ phải tới một điểm tối hậu của sự thăng vượt nơi tôi đạt đến tầng tối hậu và không thể thăng vượt nữa. Nếu tôi phóng chiếu ngược về sau, phải có một điểm mà trước đó không có thăng vượt vì thăng vượt khởi sự ở đó lần đầu tiên.” Con yêu dấu, đây là giới hạn chính của tâm đường thẳng. Dòng sông sự Sống không có khởi đầu và không có kết thúc. Tâm đường thẳng sẽ không bao giờ nắm được điều này. Các ngã tách biệt mà con đã tạo ra trên trái đất sẽ không bao giờ nắm được điều này. Cái Ta Biết có thể nắm điều này. Nó không thể hiểu, con không thể hiểu là không có khởi đầu, không có kết thúc nhưng con có thể trải nghiệm, con có thể trải nghiệm dòng chảy và sự liên tục của dòng chảy.

25.10. Làm sao các avatars có thể ngăn chặn sự thăng thiên của mình

Con có tiềm năng dùng các giáo lý và dụng cụ để xoay chuyển, và sự xoay chuyển này là chuyển từ chú tâm vào kết quả sang chú tâm vào tiến trình. Tại sao điều này lại quan trọng nhiều như vậy? Bởi vì, con yêu dấu, các thày đã nói gì về sự thăng thiên? Con tới điểm con đứng trước cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên. Nếu con bước qua thì con thăng thiên, nhưng để có thể bước qua, con phải quay đầu nhìn lại trái đất để xem có điều gì thu hút con trở lại không.

Chuyện gì xảy ra nếu con xuống trái đất như một avatar với viễn quan muốn đạt một kết quả nào đó nhưng con vẫn chưa đạt được kết quả đó? À, như vậy làm sao con thăng thiên được? Câu trả lời đơn giản là: Con không thể! Điều này có nghĩa là con có thể tới điểm là trong mọi diện khác con đã hội đủ điều kiện thăng thiên. Nhưng trong lãnh vực đặc biệt này con chưa hội đủ điều kiện vì con chưa chịu thua, con chưa buông bỏ, con chưa bỏ đi sự dính mắc muốn đạt kết quả đó trên trái đất.

Điều này cũng có nghĩa là con đang cho phép sự thăng thiên của con tùy thuộc vào chọn lựa của người khác trên trái đất, khi họ ở trong trạng thái tâm thức thấp hơn con rất nhiều. Hiển nhiên, lý do tại sao con không tạo được kết quả mong muốn trên trái đất là vì những người khác không muốn thay đổi. Điều này có nghĩa là trong vị thế một avatar, con nay có thể rơi vào tâm thức sa ngã và bước ra tìm cách ép uổng người khác phải thay đổi, nhưng lẽ tất nhiên, làm điều này sẽ không cho phép con thăng thiên.

Con cũng có thể đi vào trạng thái không biết phải làm gì. Con như đang lơ lửng trong trống không, con đang di động thì bị khựng lại, như người ta nói. Con quả thật có thể ngồi yên một thời gian (thậm chí trong nhiều kiếp sống) không biết làm sao giải quyết bài toán bí ẩn là có điều gì trên trái đất mà con không thể để dở dang được.

Con thấy chăng ở đây câu hỏi trọng yếu cho người avatar? Con nghĩ rằng (hay ít nhất con có khuynh hướng nghĩ như vậy cho tới khi con khắc phục được các ngã gốc) điều duy nhất đưa con tới trái đất là để làm dịu nỗi đau khổ ở đây và đem lại một thay đổi tích cực. Con cảm thấy nếu con không tạo được sự thay đổi đó, thì có thể là con đã lầm lẫn khi tới đây, có thể là con đã lãng phí thời giờ, có thể là con không thể rời nơi đây, hay bất cứ điều gì khác. Con bất an, con không toại nguyện. Cách duy nhất để con thăng thiên như một avatar, không phải là con thành tựu viễn kiến ban đầu khi xuống đây, nhưng là con thăng vượt nó, con tiêu tán nó, con vứt nó đi, con buông bỏ nó, con không dính mắc với nó, con cho cái ngã chết đi và con nói: “Nó có đáng gì đâu đối với con? Con sẽ đi theo thày – Giê-su, Phật, Saint Germain, thày MORE,” hay bất cứ ai mà con xem là vị thày riêng của con. 

Bằng cách dùng các giáo lý về ngã gốc, con có thể tới điểm giải quyết vấn đề. Người sứ giả này đã trải nghiệm điều này sau nhiều tháng làm việc với các giáo lý này. Trong ông có sự xoay chuyển và bỗng nhiên ông nhận ra, ông trải nghiệm, ông hoàn toàn chấp nhận: “Tôi không phải làm gì hết trên trái đất.”

Điều này không có nghĩa là con thăng thiên ngay tức khắc. Con có thể tiếp tục hiện thân, con có thể sống một cuộc đời năng động. Thậm chí, con có thể, từ một nhãn quan vỏ ngoài, làm nhiều chuyện nhưng con không hành động qua sự pha màu của ngã gốc và các ngã khác nữa. Các ngã này cảm thấy con phải làm điều gì đó, con phải thành tựu điều gì đó, việc con tới trái đất phải đáng công sức mình. Việc con tới trái đất đã đáng công sức con vì con đã xoay chuyển tâm thức và như các thày khác đã nói, đây chính là mục đích cao hơn. Khi con làm hòa với điều này, đấy là lúc con đã đạt được một phần của quả vị Phật, nếu ta có thể nói quả vị Phật có nhiều mức độ.

25.11. Là Phật hành động

Lúc đó, con có thể là Phật hành động trên trái đất nhưng điều này không thể xảy ra cho tới khi con khắc phục điều mà ta có thể gọi là sự dính mắc gốc đó. Thày mong muốn có thể trao truyền giáo lý này 2,500 năm trước đây nhưng không làm được lúc ấy vì phương trình của khuôn đúc trong tâm thức tập thể chưa sẵn sàng. Bây giờ thì nó đã sẵn sàng. Lẽ tất nhiên, dù các thày nhấn mạnh nhiều đến các giáo lý này tại hội nghị này và hội nghị trước, không có nghĩa là tất cả mọi người đã sẵn sàng nhận các giáo lý này.

Con có thể nhìn đoàn đệ tử theo học giáo lý được trao truyền qua người sứ giả này và các giáo lý chân sư thăng thiên khác, và không phải tất cả đệ tử đều sẵn sàng nhận giáo lý về ngã gốc. Họ chưa áp dụng hết các giáo lý trước bởi vì, như các chân sư khác đã nói, các thày đã cẩn thận xây dựng để tới mức có thể trao truyền các giáo lý này. Con cần có giáo lý về tự ngã. Con cần có giáo lý về nhị nguyên và tư duy cuồng đại. Con cần có giáo lý về 144 tầng tâm thức. Con cần có khái niệm về xoay chuyển lên cao hơn, khắc phục các phàm linh nội tại và tự ngã tách biệt và do đó xoay chuyển từ một tầng tâm thức lên tầng trên.       

25.12. Mơ mộng một giáo lý cao hơn

Một lần nữa, sẽ có những đệ tử sẽ dùng tâm vỏ ngoài để quyết định: “Chúng tôi cần những giáo lý này và cần chúng ngay bây giờ.” Nhưng họ có thể chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý vì họ chưa dùng đủ các giáo lý mà họ đã có rồi, họ chưa xoay chuyển tâm thức đủ. Nói chung, con có thể nói là điều mà các thày thấy (khi nhìn lại khoảng thời gian 2,500 năm qua và xa hơn nữa) là lúc nào cũng có một số đệ tử không nắm bắt được cơ chế căn bản mà thày mô tả ở đây: Là con cần lấy một giáo lý và cho phép nó xoay chuyển tâm thức của con.

Chỉ khi nào con làm xong điều đó thì con mới sẵn sàng nhận giáo lý cao hơn. Sẽ luôn luôn có một nhóm đệ tử rơi vào trạng thái tâm cảm thấy chút ít bực bội vì họ biết trong nội tâm là họ đã không tiến triển tới mức có thể đạt được với giáo lý mà họ đã có. Thay vì chịu nhìn vào chính mình và nhận ra lý do vì sao họ không tiến triển, thì họ đổ lỗi rằng lý do họ không tiến triển là vì có một giáo lý cao hơn mà họ chưa được nhận. Phải chi họ có được giáo lý cao hơn đó, thì sau đó họ sẽ sáng ngộ, họ sẽ tiến bộ. Đây là một vòng xoáy bất tận.

Các thày đã thấy một số người đến với một giáo lý chân chính, đón nhận giáo lý này, đạt tiến bộ nhưng sau đó dậm chân tại chỗ, không muốn tiến xa hơn vì họ không muốn xoay chuyển để đi vào con đường tu nội tâm và nhìn chính mình. Họ ngưng trệ và họ đứng tại chỗ. Đôi khi họ trở nên bực bội, cảm thấy mình là nạn nhân, hay trách cứ người khác về chuyện họ không có giáo lý. Thậm chí họ trách cứ vị đạo sư đã không thăng tiến đủ vì đây là lý do vì sao họ không thăng tiến được. Hoặc họ chỉ trích giáo lý, chỉ trích những người khác. Hoặc, như các chân sư khác đã nói, họ cảm thấy vì họ đã học giáo lý từ lâu, nên chắc chắn họ đã đạt tới một tầng cao. Do đó, họ cảm thấy có quyền phê phán và dùng tia màu xanh để tấn công những người mới tới học.

Tất cả những tình huống này có thể xảy ra nhưng con yêu dấu, con thấy chăng, sự thật là như sau. Nếu con đổ lỗi cho người thày, giáo lý, người khác, điều kiện vật lý, chiêm tinh, sa nhân, thời tiết hay cái này cái nọ – khi con còn chỉ tay đổ lỗi cho cái gì ở bên ngoài, nghĩ rằng sự tiến bộ của con tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài, thì con chưa hoàn toàn đi theo con đường tu nội tâm. Nếu con chưa hết lòng theo con đường tu nội tâm, thì con chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý về ngã gốc – con chưa sẵn sàng nhận các giáo lý này. Con hãy đoan chắc là con đã nắm bắt ý nghĩa của con đường tu nội tâm, hết lòng đi theo nó, sẵn sàng nhận trách nhiệm về đời mình và nhìn vào tâm mình trước khi con nhận các giáo lý này.

Lẽ tất nhiên, các thày trao truyền các giáo lý này vì quả thực có một số đông đệ tử đã theo học các giáo lý và áp dụng chúng một thời gian, và họ sẵn sàng. Cho nên, các thày rất hân hoan, các thày rất, rất biết ơn là các con đã nâng mình lên tới điểm có thể nhận các giáo lý này và đồng thời là dụng cụ để lan tỏa các xung lực này vào tâm thức đại chúng.

Khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện – nghĩa là khi đệ tử chưa sẵn sàng thì vị thày không thể xuất hiện. Niềm vui lớn nhất của chân sư thăng thiên là gì? Là có thể xuất hiện và trao truyền giáo lý. Niềm biết ơn lớn nhất mà các thày có là gì?  Đó là khi các đệ tử đã làm cho họ sẵn sàng, cho phép các thày xuất hiện với một giáo lý mới. Các con yêu dấu, thày có lòng biết ơn sâu xa với các con vì các con đã làm như vậy. Các thày biết ơn các con vì có hội nghị này. Tất cả các con, những người tổ chức hội nghị cho đến những người tham dự, các thày biết ơn tất cả các con. Trong ngọn lửa Biết ơn này, lòng biết ơn của tâm Phật, thày niêm các con và thày niêm hội nghị này trong tình yêu của tim thày.

11 | Tâm trạng khó xử khi ở trên trái đất

Chân sư Thăng thiên Vairochana qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

Thày quả thực là vị Phật Thiền định được biết tới như Vairochana. Lẽ tất nhiên, thày cũng là, dưới tầm nhìn của các con, Chân sư Thăng thiên Vairochana. Thày tới đây để cho các con một cái nhìn về cách con có thể tới gần hơn quả vị Phật hành động trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Để đạt mục đích này, các thày là các Phật Thiền định trước kia có đưa ra khái niệm là điều ngăn trở con là Phật hành động là các chất độc tâm linh. Thuốc giải các độc tố này là các ngọn lửa cá biệt mà các thày đại diện. Lẽ tất nhiên, giáo lý này không đi ngược lại các giáo lý mà các con đã được trao truyền liên quan đến ngã gốc và các ngã tách biệt xuất phát từ ngã gốc. Con có thể nói một cách chắc chắn là mọi ngã đều dựa trên một, hay nhiều hơn một, chất độc tâm linh.

11.1. Không biết mình là ai

Một số các con biết thày là thuốc giải của chất độc vô minh, và chất giải độc, minh triết của thày là Minh triết Toả khắp. Vô minh là gì? Ấy, nó tất nhiên có rất nhiều hình dạng và dáng vẻ và ta có nhiều cách để diễn tả nó bằng ngôn từ. Chắc chắn một cách diễn tả là nói vô minh là không biết cái ta, không biết mình là ai.

Lẽ tất nhiên, đây có vẻ là một nghịch lý. Các thày đã trao truyền giáo lý về cái Ta Biết đi xuống bốn tầng của bầu cõi chưa thăng thiên. Đây là một giáo lý rất thâm thúy. Một số các con đã nghiên cứu giáo lý này đến độ có cảm giác con hiểu nó bằng trí năng và hầu như coi nó là đương nhiên. Con không hoàn toàn biết giáo lý đó thâm thúy như thế nào, đúng thực là cách mạng như thế nào nếu ta so sánh với đa số các giáo lý có mặt trên trái đất trong suốt chiều dài lịch sử.

Hầu như con có thể sử dụng một giáo lý tâm linh để tạo ra một hình thức vô minh mới khi con cảm thấy, với tâm vỏ ngoài, là con biết giáo lý đó. Do đó, con không tìm một hiểu biết sâu sắc hơn, hay đúng hơn, một trải nghiệm sâu sắc hơn. Con đã hầu như coi cái Ta Biết như một khái niệm khác.

Khi con thực sự xem xét giáo lý về cái Ta Biết, thực sự nắm bắt được nó, trải nghiệm thực tại của nó, thì con nhận ra, con trải nghiệm, là cái Ta Biết chỉ là một khái niệm nhưng nó cũng hơn một khái niệm. Con không thể hoàn toàn thể nhập giáo lý khi con nhìn cái Ta Biết với tâm vỏ ngoài, đặc biệt là tâm trí năng, phân tích. Con chỉ có thể thấy rõ giá trị của giáo lý khi con trải nghiệm mình là một sinh thể vô hình tướng. Khi con có trải nghiệm đó, thì con thấy giá trị của giáo lý, con hoàn toàn thể nhập và áp dụng giáo lý. Khi con còn ngồi nhìn với lý trí, tạo nên khái niệm cái Ta Biết và nhìn nó từ ngoài xa, thì con chưa sử dụng giáo lý.

Ta có thể nói là với mọi giáo lý đã được trao truyền trong suốt chiều dài lịch sử, kể cả giáo lý được Gautama truyền dạy 2,500 năm về trước, thì nếu con dùng giáo lý để tạo một khái niệm chứng thực cảm nhận xa cách, thì con đã dùng sai giáo lý – ít ra, nếu con không cố gắng vươn lên hơn nữa.

11.2. Từ giáo lý đến trải nghiệm

Cái gì là phương châm, châm ngôn, câu đầu môi của người đệ tử tâm linh chân chính? Ấy, điều đầu tiên là con cần biết hiểu giáo lý không đủ, con cần trải nghiệm thực tại đằng sau giáo lý. Một giáo lý được diễn tả bằng lời nói, tất nhiên chỉ là một loại bảng chỉ đường, một biểu tượng dẫn tới một trải nghiệm vượt quá ngôn từ. Chỉ khi nào con có trải nghiệm thì con mới tận dụng được giáo lý. Đây có lẽ là vấn đề vô minh lớn nhất nơi các đệ tử tâm linh. Họ nghĩ rằng giáo lý vỏ ngoài, và hiểu nó bằng tâm vỏ ngoài, là đủ. Họ không vượt lên trên ngôn từ để tới trải nghiệm. Phương châm đầu tiên là: “Vượt quá giáo lý để tới trải nghiệm.” Châm ngôn thực mà người đệ tử tâm linh có thể dùng cho mình là: “Bao giờ ta cũng có thể trải nghiệm nhiều hơn.” Bao giờ ta cũng có thể trải nghiệm nhiều hơn!

Thày LÀ vị Phật Thiền định có thuốc giải – kỳ thực, thày thuốc giải của chất độc vô minh. Nếu con hòa điệu với thày, trải nghiệm Hiện diện của thày, thì con có thể khắc phục mọi vô minh. Trên lý thuyết, con có thể hòa điệu với thày, nhập một với thày, và chỉ trong giây khắc mọi vô minh của con sẽ bị thiêu hủy bởi Hiện diện của thày. Các thày không chủ trương điều này vì các con ở đây để có một trải nghiệm, nhiều loại trải nghiệm.

Các thày đã trao truyền giáo lý là khi con xuống trái đất lần đầu, con trải qua giai đoạn trầm mình trong cõi này. Sau đó, con trải qua giai đoạn thức tỉnh, và con xuống đây để có trải nghiệm là con dần dần đi xuống, dần dần trầm mình, và sau đó dần dần thức tỉnh. Con không ở đây để trải nghiệm thức tỉnh trong một khoảnh khắc. Con tới đây để trải nghiệm thức tỉnh dần dần, thức tỉnh từng bước nhỏ bằng cách nâng tâm thức mình lên đến tầng 144.

Ta có thể nói giai đoạn thức tỉnh bắt đầu ở tầng 48 và con dần dần thức tỉnh cho tới khi con tới tầng 144. Con chưa hoàn toàn tỉnh thức khi con ở tầng 144, nhưng lúc đó con đã đạt được tầng tâm thức cao nhất có thể có trên trái đất. Sau đó, con thăng thiên từ trái đất và bước vào một vòng xoắn thức tỉnh lên những tầng tâm thức càng ngày càng cao trong vị thế một chân sư thăng thiên. Các thày là chân sư thăng thiên luôn luôn tiếp tục tăng triển tâm thức. Ngay cả ở cương vị các Phật Thiền định, vẫn có tăng triển. Đó là lý do vì sao thày nói, nếu con muốn tiến một bước quan trọng trong việc khắc phục vô minh, thì con hãy chú tâm vào bất kỳ trải nghiệm nào mà con đang hiện có, lúc nào cũng có nhiều điều khác để trải nghiệm.

11.3. Định nghĩa vô minh

Vô minh là gì? Có vô minh trên một hành tinh tự nhiên chăng? Ấy, có đó, có vô minh theo nghĩa khi con bắt đầu như một sinh thể mới trên một hành tinh tự nhiên, con khởi sự với một nhận biết nhỏ như cái chấm. Sau đó con dần dần nới rộng nhận biết đó ra. Con cũng có thể nói là ngay trên cõi thăng thiên cũng có vô minh, theo nghĩa thày có tự nhận biết như một Phật Thiền định, nhưng thày không phải là đấng Sáng tạo. Thày không ở tầng tự nhận biết của đấng Sáng tạo, do đó thày vô minh vì thày không trải nghiệm những gì có thể trải nghiệm ở tầng tự nhận biết của đấng Sáng tạo. Nhưng con cần hiểu là trên cõi thăng thiên, và ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, không có những loại rào cản ngăn chặn hiểu biết mà con có trên trái đất.

Trên cõi thăng thiên, thật sự không có rào cản ngăn chặn hiểu biết nào hết. Con có thể đi bất cứ đâu con muốn. Đó là lý do tại sao, khi ông Mark Prophet thăng thiên như Chân sư Thăng thiên Lanello, lời đầu tiên ông thốt lên là: “Tôi ở bất cứ đâu trong tâm thức Thượng đế.” Ông nhận ra rằng ông nay không còn hiện thân trong cõi vật chất nữa thì ông có thể đi tới bất cứ nơi nào trong tâm thức Thượng đế. Không có rào cản nào ngăn con tới nơi con muốn tới. Lẽ tất nhiên, trên cõi thăng thiên vẫn có tiến trình dần dần nâng cao sự tự nhận biết của mình. Không ai có thể chỉ một bước chuyển từ tâm thức chân sư thăng thiên lên tầng tâm thức của đấng Sáng tạo.

Trên một hành tinh tự nhiên, con cũng tiếp cận hiểu biết, kinh nghiệm, thông tin dễ hơn trên trái đất. Con có thể thăm dò bất cứ gì ở tầng tâm thức đó của hành tinh tự nhiên. Nhưng trên trái đất, vì đã trở thành một hành tinh phi tự nhiên, có nhiều rào cản ngăn cản con hiểu biết, và ngay cả trải nghiệm. Ta có thể nói là nếu con nhìn phía sau của thày thì con thấy một bức màn lớn. Làm sao con tạo vô minh trên trái đất? À, các thày có giảng là khi con đi xuống tầng tâm thức 48, thì con khoác vào một ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức mà con đi xuống, bắt đầu với ảo tưởng ở tầng tâm thức 144, sau đó 143, vân vân. Với mỗi ảo tưởng, coi như con dựng lên một bức màn như bức màn sau lưng thày. 

Công dụng của bức màn này là gì? Khi con đứng bên này bức màn thì con không thể thấy những gì đằng sau nó. Ta có thể nói đây là toàn bộ chức năng của một hành tinh có vật chất dày đặc. Nó cho phép con có một ý niệm bản ngã khiến con không thấy một số chuyện. Mục đích là gì? Mục đích là để con có thể thăm dò tất cả những gì có thể làm được với tự nhận biết và quyền tự quyết.

Quyền tự quyết cho phép con được quyền có bất cứ trải nghiệm nào mà con muốn. Con trải nghiệm bằng cách nào? Bằng cách tạo ra một cái ngã và trải nghiệm thế gian, cuộc đời và chính mình xuyên qua ngã đó. Trên một hành tinh tự nhiên, có một số loại ngã mà con không thể tạo ra, vì trên một hành tinh tự nhiên con có nhận biết cao hơn trên trái đất. Tỷ dụ, con không thể tin rằng con là một sinh thể hoàn toàn tách biệt, và chung quanh con là những sinh thể tách biệt khác.

Con không thể tin rằng con có thể làm người khác tổn thương mà không bị ảnh hưởng. Trên một hành tinh tự nhiên, con trải nghiệm con là một phần của tổng thể, và bất cứ điều gì con làm đều ảnh hưởng tổng thể. Bất cứ điều gì người khác làm đều ảnh hưởng con. Có một số trải nghiệm của ngã mà con không thể có trên một hành tinh tự nhiên. Do đó sự kiện có hành tinh phi tự nhiên hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền tự quyết vì như vậy những ai muốn trải nghiệm một ý niệm bản ngã hạn hẹp hơn có thể đầu thai nơi đó.

Ta có thể nói một cách tổng quát nhất là vô minh có mặt khi con có rào cản ngăn chặn những gì con có thể thấy, có thể biết, có thể trải nghiệm. Con tạo ra một ngã hạn hẹp bằng cách khoác vào các ảo tưởng, dựng lên rào cản trong tâm mình, để có một số chuyện con không thể thấy. Đó là cách con có trải nghiệm trầm mình. Luật tự quyết cho phép con đi hết những gì con có thể tưởng tượng trên con đường giới hạn ý niệm bản ngã của mình. Tuy nhiên, các thày đã giảng là khi đó con sẽ trải nghiệm các hậu quả của chọn lựa của mình khi ánh sáng Mẫu-Vật biểu hiện những gì con phóng chiếu lên nó xuyên qua ý niệm bản ngã của con. Đúng, điều này quả thật đúng, nhưng việc này có một khía cạnh khác. Đó là con cũng sẽ trải nghiệm chính mình.

11.4. Trải nghiệm chính mình

Ta có thể nói có hai khía cạnh, alpha và omega, khi con là người đồng-sáng tạo. Trong các bài giảng trước, các thày đã chú tâm nhiều đến quyền tự quyết. Con có quyền tự quyết, con có ý chí lấy chọn lựa. Con có ý chí phóng chiếu lên ánh sáng Mẫu-Vật và đồng-sáng tạo. Khía cạnh alpha là con có tự nhận biết. Lẽ tất nhiên, tự nhận biết có thể có nhiều nghĩa.

Sự tự nhận biết mà con có trên cõi thăng thiên cao hơn rất nhiều sự tự nhận biết mà con có trên một hành tinh tự nhiên, và sự tự nhận biết này cao hơn rất nhiều cái con có trên trái đất. Tuy nhiên, bất kể loại ngã nào mà con tạo ra, bất kể độ vô minh mà ngã đó có, con không thể hoàn toàn mất tự nhận biết. Con có thể giới hạn nó, ta có thể nói con có thể giới hạn khía cạnh tự (ngã), nhưng con vẫn sẽ có một hình thức nhận biết. Con không chỉ trải nghiệm những gì Ánh sáng Mẫu-Vật biểu hiện những gì con phóng chiếu lên nó qua cái ngã, con cũng trải nghiệm chính mình xuyên qua ngã đó.

Ta có thể nói là cái Ta Biết, là nhận biết thuần khiết, thực sự cần trải qua một tiến trình. Khi cái Ta Biết được tạo ra, nó không biết nó phải làm gì với chính nó trong tư cách một sinh thể không hình tướng. Nó cần trải nghiệm hành trình trầm mình vào một hình thức ngã hạn hẹp và sau đó dần dần thức tỉnh. Chỉ khi nó đã trải qua tiến trình trầm mình và thức tỉnh thì nó mới có thể hoàn toàn chấp nhận nó là một sinh thể vô hình tướng. Chỉ khi nó trải nghiệm trở lại nó là một sinh thể vô hình tướng, và hoàn toàn chấp nhận nó là một sinh thể vô hình tướng, thì nó mới có thể thăng thiên. Nói cách khác, cái Ta Biết không thể được tạo ra và ngay sau đó quyết định thăng thiên.

Điểm chủ yếu trong ý niệm cái Ta Biết là nó thăm dò các lãnh vực của quyền tự quyết cho tới khi nó chán ngán những trình độ biểu hiện quyền tự quyết có thể có trong một bầu cõi chưa thăng thiên – và sau đó nó thăng thiên. Sau đó, nó bắt đầu thăm dò quyền tự quyết ở một tầng cấp mới, lần này nó nhập một với Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ có một tầm nhìn hoàn toàn khác sau khi đã gửi một phần của chính nó vào bầu cõi chưa thăng thiên, tầm nhìn này nó không thể có nơi cõi thăng thiên. Ta có thể nói đây là mục đích vì sao các bầu cõi chưa thăng thiên được tạo ra, ngay cả vì sao các bầu cõi được tạo ra với độ dày đặc ngày càng cao vì như vậy chúng cho con một tầm nhìn khác. Hiện diện TA LÀ có được một tầm nhìn khác khi gửi một phần của chính nó xuống trải nghiệm các cõi dày đặc hơn từ bên trong.

11.5. Cho con người một khung tham chiếu

Vì sao con người trên trái đất vô minh? À, đó là vì họ vẫn ở trong giai đoạn trầm mình. Giờ đây, thể theo lời bài cầu thỉnh tuyệt diệu mà các con đã đọc trước bài truyền đọc này, và lẽ dĩ nhiên bài truyền đọc của Gautama là căn bản của bài cầu thỉnh đó, thì nhiều người trong các con đã đến trái đất như một avatar. Các con đến từ các hành tinh tự nhiên. Con tới trái đất, và khi con tới đây con có trong tâm ý tưởng là con đến đây để giải thoát con người khỏi khổ đau, khỏi vô minh. Con thấy từ hành tinh tự nhiên là trên một hành tinh phi tự nhiên, con người có một ý niệm bản ngã thấp hơn nhiều. Họ bị mắc bẫy trong một hình thức vô minh tạo ra khổ đau.

Khổ đau này không có trên hành tinh tự nhiên, do đó con nghĩ: “Con người bị mắc bẫy trong vô minh, và tôi cần đến đây, tôi muốn đến đây để giúp họ giải thoát khỏi vô minh.” Như Gautama đã giảng trong bài truyền đọc [được ấn hành trong quyển Chữa lành chấn thương tâm linh, cùng với bài cầu thỉnh được nêu lên ở trên], trước khi con thăng thiên như một avatar, con cần khắc phục ý muốn đó. Con cần làm hòa với luật tự quyết. Con cần làm hòa với sự kiện con người có quyền chọn lựa ở trong một ý niệm bản ngã giới hạn những gì họ có thể thấy. Họ có quyền có trải nghiệm đó. Con không ở đây để thay đổi trải nghiệm của họ, để ép buộc họ phải thay đổi. Con ở đây để cho họ một khung tham chiếu.

Đây là một điều cơ yếu mà con cần nhận ra trên con đường tới quả vị Phật, vì khi con còn duy trì ý tưởng là con (như sinh thể mà con thấy con là) ở đây để tạo thay đổi hay để áp đặt thay đổi lên trái đất, thì con không thể là Phật cũng như là Ki-tô Hằng sống. Con sẽ hành động xuyên qua các ngã vỏ ngoài đó. Con yêu dấu, con cần nhận ra là khi con xuống đây, khi con bị chấn thương nhập đời và tạo ra ngã gốc và các ngã khác, thì ngã gốc và tất cả các ngã bắt nguồn từ ngã gốc đã được tạo ra trong vô minh.

Con có nghe câu Giê-su nói về người mù dắt người mù. Ấy, khi con còn hành động xuyên qua ngã gốc và các ngã tách biệt khác, thì con là người mù đang tìm cách dắt người mù. Họ có thể mù hơn con, nhưng kỳ thực sự khác biệt này tương đối và chẳng có bao nhiêu giá trị. Khi con vẫn còn bị mù quáng bởi ngã gốc (là một ngã phản ứng, nó phản ứng lại các điều kiện con trải nghiệm trên trái đất), thì con không thể thoát khỏi các điều kiện thế gian. Con yêu dấu, nếu con không giải thoát khỏi điều kiện thế gian, thì làm sao con giúp người khác giải thoát?

Con đang tìm cách nâng họ ra khỏi trạng thái vô minh của họ và mang vào trạng thái vô minh của con. Đây không phải là cách hành xử của Phật. Phật là người, trước tiên, cải sửa chính mình để khắc phục vô minh mà con khoác vào sau khi con tới trái đất. Một lần nữa, thày không lên án con. Con không làm gì sai trái. Chuyện giản dị là như một avatar đầu thai xuống trái đất, để có thể làm tấm gương cho người khác noi theo, thì con phải trầm mình vào trái đất. Con làm việc này bằng cách tạo ra ngã gốc sau khi bị cú sốc khi con trải nghiệm sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và một hành tinh phi tự nhiên.

11.6. Không thể tránh được chấn thương nhập đời

Các thày đã trao truyền khái niệm là nhiều người trong các con đã bị sa nhân tấn công rất hung hãn. Điều này là sự thật, nhưng ngay cả trên một hành tinh phi tự nhiên không có sa nhân, một avatar khi đi xuống một hành tinh như vậy cũng bị chấn thương nhập đời vì sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và một hành tinh phi tự nhiên quá lớn, và con không thể chuẩn bị khi còn đang ở trên hành tinh tự nhiên. Con giản dị không thể trải nghiệm, khi ở trên hành tinh tự nhiên, thế nào là sống trên một hành tinh phi tự nhiên. Con phải đầu thai xuống hành tinh phi tự nhiên để có thể trải nghiệm điều đó, và kinh nghiệm đó sẽ cho con một cú sốc.

Nhiều cư dân nguyên thủy của trái đất không trải nghiệm một cú sốc tương tự vì họ đã sống trên trái đất và đã trải nghiệm sự tuột dốc dần dần dẫn tới điểm sa nhân có thể đầu thai ở đây. Họ bị cú sốc, gọi là chấn thương địa cầu, khi họ gặp sa nhân. Ngay cả nếu con không gặp sa nhân, thì con, như một avatar, cũng vẫn bị chấn thương nhập đời khi con đầu thai xuống một hành tinh phi tự nhiên.

Con không có lý do gì để hối tiếc những gì đã xảy ra. Điều quan trọng là con nhận ra là chỉ khi nào con thức tỉnh khỏi những ảo tưởng của ngã gốc, thì con mới có thể hoàn thành mục tiêu mà con có khi con xuống hành tinh này. Con không thể là Ki-tô hành động, con không thể là Phật hành động. Con không thể đem lại ánh sáng, con không thể là tấm gương, con không thể cho con người một khung tham chiếu. Con không thể giúp họ thoát khỏi vô minh vì con bị mắc kẹt trong hình thức vô minh của chính mình.

Ngã gốc giúp con làm gì? Nó cho phép con quên đi cú sốc ở trên trái đất, dù đó là chấn thương do sa nhân tạo ra hay chỉ vì con trải nghiệm một tương phản. Cú sốc lớn đến độ nó khiến con cảm thấy, nó khiến con nghĩ: “Tạo sao tôi lại tới hành tinh này?” Điều này khiến con bất an nhưng lúc đó con không có câu giải đáp, và do đó con đã tạo ra ngã gốc như một bức màn, như một rào cản. 

Giờ đây, khi con còn nhìn cuộc sống trên trái đất xuyên qua ngã gốc, thì con không thấy cú sốc, con không thấy chấn thương. Lẽ tất nhiên, nó vẫn còn đó. Đó là lý do vì sao con không thể hoàn thành mục tiêu khiến con tới đây trừ khi con dùng kinh nghiệm cao hơn mà con đạt được trên trái đất và sự tăng trưởng mà con đã đạt được ở đây để đi trở về chấn thương nhập đời, nhìn nó và làm hòa với sự việc con ở trên trái đất bằng cách của riêng con.

11.7. Giải đáp chuyện khó xử về việc sống trên trái đất

Ta có thể nói là trước khi con xuống đây như một avatar, con có trong tâm một lý do khiến con muốn tới đây. Khi con xuống đây và trải nghiệm đời sống ở đây như thế nào, thì con bắt đầu hoài nghi lý do đó. Điều con cần làm bây giờ ở tầng tâm thức hiện tại của con là đi trở về, nhìn lý do khiến con tới đây và giải đáp tình trạng khó xử mà con phải chạm trán khi ở đây. Điều này giản dị có nghĩa là con cần nhìn lý do khiến con tới đây dưới một ánh sáng mới. Con cần phải thấy là một số khía cạnh của lý do khiến con tới đây dựa trên điều mà Gautama đã gọi, trong bài truyền đọc của thày, là ham muốn quá đáng. Con cần tới điểm con buông bỏ nó, con từ bỏ nó, con quẳng nó đi để con không còn dính mắc vào những gì con hoàn thành hay không hoàn thành trên trái đất.

Như Gautama có giảng, con vẫn còn trói buộc giá trị của mình vào thành quả, vào việc mình làm, vào kết quả mà con tạo ra. Giờ đây thì con đã trải nghiệm độ dày đặc của trái đất, và con nhận ra là con không thể nào tạo được kết quả mà trước khi con đến đây con nghĩ con có thể hoàn thành. Thay vì bị bất toại nguyện, con cần tới điểm con làm hòa với sự kiện là con tới đây để tăng trưởng, và đây là cách nhanh chóng nhất giúp con tăng trưởng, khi con có tâm thái trước khi con xuống đây. Con cần làm hòa với việc con đã tới đây, đã sống ở đây, đang ở đây ngay lúc này. Nếu con chưa làm hòa với việc mình tới đây, và mình đang ở đây, thì con không thể làm hòa với việc rời khỏi nơi này vì con nghĩ còn chuyện gì đó con cần thành tựu mà con chưa thành tựu. Khi con còn cảm giác đó, và vì con là một người đồng-sáng tạo rất nhiệt thành, thì con không thể ra đi.

Khi con xuống đây như một avatar, đó là vì con có ước muốn tăng trưởng lớn lao và điều này có nghĩa con không thể để chuyện gì dang dở, chưa hoàn thành. Nếu như một avatar con đã định cho mình một mục đích ở tầng thấp, thì con nghĩ mục đích đó phải được hoàn thành trước khi con đi bước tiếp. Điều các thày kêu gọi con làm là đạt được một tầng trưởng thành hơn như một avatar, và nhận ra là có hai cách bước tiếp khi mình có một mục đích. Một cách là hoàn thành mục đích cho tới khi con thấy trải nghiệm như thế đủ rồi, cách kia là nhìn mục đích và nhận ra nó không phải là mục đích cao nhất. Nó không thực sự biểu đạt con người mà con là. Do đó, con giờ đây thấy là khi con từ bỏ mục đích đó, thì con thấy một mục đích cao hơn. Con thấy mục đích cao nhất luôn luôn là tăng trưởng sự tự nhận biết. Đó là lúc con tới điểm làm hòa với việc giá trị của con dựa trên con người mà con là, dựa trên Hiện diện TA LÀ thay vì dựa trên những thành đạt, cho dù những thành đạt này được tạo ra trên trái đất hay trên một hành tinh tự nhiên.

Những thành đạt của con trong bầu cõi chưa thăng thiên này không quy định giá trị của con. Con người mà con là mới quy định giá trị của con. Đây là một hình thức vô minh đặc trưng mà con có trước khi con tới đây. Con không hoàn toàn nắm bắt và chấp nhận là con có giá trị vì con là chính mình chứ không phải do những gì con làm.

Giờ đây các thày nhận ra đây là một thách thức rất vi tế cho các người đồng-sáng tạo. Lẽ tự nhiên, con được tạo ra với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm. Làm sao con nới rộng ý niệm bản ngã đó? Bằng cách làm, bằng cách đồng-sáng tạo. Con trải qua một giai đoạn trong đó ý niệm giá trị của con như một người đồng-sáng tạo trong một bầu cõi chưa thăng thiên dính liền với những gì con đồng-sáng tạo, những kết quả mà con tạo ra. Điều mà các thày giản dị muốn con nhận biết là có một lúc con cần bước lên một tầng cao hơn và bắt đầu giải thoát mình khỏi ý niệm giá trị của mình dính liền với kết quả tạo ra. Con cần tới điểm con bắt đầu vui hưởng tiến trình đồng-sáng tạo thay vì kết quả của việc đồng-sáng tạo.

Đây là một chủ đề mà thày sẽ để các vị thày khác khai triển, vì thày đã trao cho các con những gì thày muốn trao.

13 | Nỗi giận tiềm ẩn của người tâm linh

Chân sư Thăng thiên Akshobya qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Thiền định Akshobya, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Akshobya nhưng tất nhiên, thày hơn mọi tên gọi. Chất độc mà thày đã chọn làm việc giữ quân bằng cho trái đất là giận dữ và thù hận. Giận dữ là gì? À, ngôn ngữ bị giới hạn khi mô tả cảm xúc vì cảm xúc thường phức tạp, chúng hơn ngôn từ.

13.1. Dồn mình vào góc tường

Chúng ta hãy chú tâm vào hai loại sinh thể. Chúng ta có sa nhân, chúng ta có avatar. Sa nhân có nỗi giận sâu thẳm đối với Thượng đế, các sa nhân khác, con người, các avatar, các sinh thể Ki-tô, các sinh thể Phật. Nói tóm lại họ giận mọi thứ trừ chính họ. Ấy, thực ra nỗi giận của họ sự giận dữ chính họ nhưng họ không thấy điều này.

Giờ đây, nếu con nhớ lại bài giảng trước thì con thấy là vô minh tạo ra một bức màn, và con không thấy những gì đằng sau bức màn. Khi một avatar tới trái đất và bắt đầu hoài nghi, hay nhận cú sốc khi nhận ra lý do nguyên thủy khiến mình tới đây sẽ không thể hoàn thành, thì con tạo ra ngã gốc để che giấu cú sốc là con phải duyệt lại cách hành xử của mình.

Giống như vậy, trong bầu cõi đầu khi một sinh thể sa ngã, sa nhân đó đã xây dựng một ý niệm bản ngã cao đẹp vì cho rằng mình đang làm điều tốt. Khi các chân sư thăng thiên khiến họ phải đối đầu sự thực là điều họ làm không tốt, vì nó chỉ vị kỷ, thì sa nhân đó cũng trải nghiệm một cú sốc và đã tạo ra một ngã để che giấu cú sốc từ lúc đó. Sa nhân đó đã có thể tránh duyệt lại cách hành xử của y và tới điểm xem xét: “Ồ, có gì trong thái độ, cách hành xử, niềm tin của tôi, cách tôi nhìn đời, cách tôi nhìn thế gian, không phải là cách cao nhất? Phải chăng tôi phải thay đổi cách tôi nhìn thế gian?”

Ta có thể nói rằng khi con tới trái đất như một avatar, con bị cú sốc khi nhận ra lý do con tới trái đất không thể hoàn thành được. Con tạo ra ngã gốc để tránh không phải đối phó với câu hỏi: “Có gì trong lý do tôi tới đây, thái độ của tôi, cách tôi nhìn trái đất, cần phải thay đổi chăng?” Con đã tạo ra ngã đó để tránh phải xem xét một vấn đề sâu xa hơn. Nhưng chuyện xảy ra khi con tiếp tục đầu thai (như một sa nhân từ một bầu cõi cao hơn hay như một avatar xuống trái đất) thì qua kinh nghiệm sống, con trải nghiệm là có một số vấn đề dường như con không thể giải quyết.

Lý do con không thể giải quyết vấn đề là vì con không chịu xem xét vấn đề nguyên thủy bị ngã gốc che giấu. Qua hành động tạo ngã gốc, con đã giới hạn cái thấy của mình, và do đó có một số vấn đề con không thể giải quyết. Khi con tiếp tục đầu thai, con tạo ra càng ngày càng nhiều ngã khác là hậu duệ của ngã gốc, và các ngã này tạo thêm càng ngày càng nhiều giới hạn. Vì mỗi lần con tạo ra một ngã, thì con tạo một giới hạn. Với mỗi giới hạn, con lại có thêm một vấn đề con không thể giải quyết cho tới khi con giải quyết cái ngã.

Con có thể nói là mỗi ngã giới hạn cái thấy của con. Với một cái thấy giới hạn thì có một vấn đề mà con không thể giải quyết, nhưng con làm gì? Con không thể giải quyết vấn đề nhưng con phải phản ứng lại vấn đề. Con xử lý việc này ra sao? Con tạo thêm một ngã dựa trên một giới hạn khác, và điều này tạo một vấn đề khác mà con không thể giải quyết.

13.2. Nỗi giận tích lũy

Cảm xúc dần dần trở nên càng ngày càng mãnh liệt, và đó là lý do vì sao, như Chân sư MORE có nói, ngay cả đệ tử tâm linh cũng có thể càng ngày càng tích lũy thêm sự bực bội. Con trải nghiệm là con đang ở trong một hoàn cảnh không thoải mái. Con cảm thấy bị giới hạn, con cảm thấy bị vây hãm. Con trải nghiệm bị điều kiện vây hãm và con không có uy lực để thay đổi hoàn cảnh. Con bị giới hạn bởi các vấn đề mà con không thể giải quyết – đó là cách con cảm nhận tình hình. Lý do con cảm nhận như vậy là vì con nhìn vấn đề xuyên qua một cái ngã, nhưng con không thấy điều này. Do đó, con thấy có một vấn đề mà con không thể giải quyết. Như các thày đã nói, con cảm thấy cá nhân mình bị tấn công vì con cảm thấy bị vây hãm và không thể đi nơi nào khác. Đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy.

Nỗi giận tích lũy vì càng ngày càng có nhiều vấn đề mà con không thể giải quyết. Vì mỗi lần con phản ứng lại một vấn đề, thì con tạo ra một ngã khác và điều này lại tạo thêm một vấn đề khác, và con cảm thấy như vấn đề không bao giờ dứt. Đây là câu chuyện con quái vật trong hang động cứ mọc lên bảy cái đầu mới mỗi khi con chặt đứt một đầu của nó. Đó là lý do vì sao nỗi giận tích lũy. Đó là sự bực bội, là năng lượng tích lũy, là căng thẳng càng ngày càng mãnh liệt, và đây là lý do khiến con giận dữ. Đó là lúc con tới điểm áp lực trở nên mạnh đến độ con không thể tránh biểu lộ nỗi giận. Lẽ tất nhiên, con không biểu lộ nỗi giận với chính mình, mà biểu lộ nó tới người khác.

Nhận ra các điểm khác biệt giữa trường hợp sa nhân và avatar có lợi ích nào cho con? Sa nhân đã có một khoảng thời gian dài hơn rất nhiều để tích lũy sự bực bội của họ, và do đó nỗi giận của họ mãnh liệt hơn. Nỗi giận của họ có cường độ cao đến độ nó đã chuyển dạng thành thù hận. Khác biệt này vi tế và không quan trọng lắm. Lẽ tất nhiên thù hận có cường độ hơn giận dữ rất nhiều và nó hướng thẳng tới một số điều kiện mà con đã nhận diện là nguyên do, nguyên do chính của vấn đề. Đối với nhiều sa nhân, đối tượng này là Thượng đế vì họ nghĩ Thượng đế là nguyên do các vấn đề của họ. Nhiều sa nhân có nỗi giận rất mãnh liệt đối với Thượng đế nhưng vì họ không thể làm gì để trừng phạt Thượng đế (tuy đó là điều họ muốn làm) nên họ đem nỗi giận này trút lên người khác và tìm cách trừng phạt các người đó. Đó là lý do vì sao, khi con là một avatar xuống trái đất, họ nhìn con như một mối đe dọa và họ tìm cách trừng phạt con.

13.3. Các avatar giận chính mình

Con thực sự làm gì với nỗi giận? À, nỗi giận bắt nguồn từ cảm giác bực bội vì con không có quyền lực để giải quyết một vấn đề. Sau đó, có một cơ chế tâm lý vận hành là nếu con trải nghiệm con có thể trút cơn giận lên một người khác (và khiến người đó cảm thấy khổ sở với chính họ như chính con cảm thấy với chính mình) thì con cảm thấy mình có uy lực. Con không có uy lực để giải quyết vấn đề đã khiến con giận dữ, nhưng con có uy lực khiến người khác cảm thấy khổ sở. Điều này giúp con khuây khỏa được một lúc, vì dù sao con cũng có chút ít uy lực.

Đó là lý do vì sao con thấy một số người (ngay cả trong các phong trào tâm linh, như Chân sư MORE có đề cập đến) đã biểu lộ hành động mà họ cho là dùng ánh sáng xanh để giúp người khác thức tỉnh, nhưng kỳ thực họ đang biểu lộ nỗi giận của họ. Nếu con đi sâu vào tâm lý con người, thì con thấy vì sa nhân đã có rất nhiều thời gian để tạo ra thật nhiều ngã, nên họ thù hận người khác, Thượng đế, Ánh sáng Mẫu-Vật, hay bất cứ gì khác.

Với nhiều avatar thì lòng thù hận hay nỗi giận của họ hướng về chính họ. Họ cảm thấy một sự bực bội nào đó, và nhiều khi, trong tâm con, con thấy đây là sự bực bội với một số điều kiện trên trái đất. Thí dụ, nhiều khi con cảm thấy có một số điều kiện trên trái đất đang giới hạn con và khiến con cảm thấy không vui với chính mình. Sự thực là nếu con nhìn sâu hơn, thì cảm xúc này bắt nguồn từ cú sốc khi con nhận ra mục đích nguyên thủy khiến con tới trái đất không thể hoàn tất được. Do đó, con cảm thấy giận chính mình vì đã lấy chọn lựa tới đây: “Tại sao tôi lại có thể ngu dốt như vậy khi quyết định tới hành tinh này?” Nhiều người trong các con sẽ nhận ra là con đã tạo ra ngã gốc và các ngã khác để che giấu nỗi giận đó. Nay các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về chấn thương nhập đời, thì một số các con đã thực sự tới điểm sẵn sàng nhận diện cảm xúc đó trong tâm mình, và đây là một điều rất quan trọng mà con cần làm.

13.4. Tạo ra ngã để đè nén nỗi giận

Như một người tâm linh, điều rất quan trọng là con cho phép mình nhận ra là con có các ngã đó, con có sự bực bội đó, con có nỗi giận đó. Như một người tâm linh, điều quan trọng khác là con chấp nhận là con đã tìm cách tạo ra các ngã đó để đè nén nỗi giận vì con nhận ra, ở một tầng nào đó của con người mình, là một người tâm linh không được cảm thấy giận dữ. Điều quan trọng, như vị bào huynh quý của thày có nói, là con nhận ra là khi con tiếp nhận một giáo lý tâm linh, thì con thực sự có thể tạo ra một số ngã dựa trên giáo lý đó. Con tiếp nhận giáo lý Phật an lạc, Phật không dính mắc, do đó, con cảm thấy, nếu con là một đệ tử của Phật, thì con phải tạo ra một ngã để đè nén nỗi giận. Con có thể đi về phương Đông và thấy nhiều vị tăng ni đã là đệ tử trung thành và nhiệt tình của Phật giáo trong nhiều chục năm trong kiếp sống này, thậm chí trong nhiều kiếp trước. Họ có vẻ rất an bình, rất hài hòa và một số quả thực như thế. Nhiều người trong các vị đó đã quả thực tạo ra những ngã rất, rất dũng mãnh nhằm đè nén nỗi giận để nó không bao giờ biểu lộ ra – nhưng nó vẫn còn đó. Các thày kêu gọi các con, là đệ tử chân sư thăng thiên đã mở tâm đón nhận giáo lý này, đừng sợ nhận ra là trong con người mình có một hay nhiều ngã có sự giận dữ.

Một số các con đã kinh qua khổ đau mãnh liệt đến độ đã lấy vào một số phóng chiếu của sa nhân và hỏi: “Tại sao Thượng đế không thay đổi phương trình tự quyết, tại sao Thượng đế lại để con người bị đau khổ, tại sao Thượng đế lại để tôi bị đau khổ?” Con cảm thấy có nỗi giận nào đó với Thượng đế vì ngài đã ban cho con quyền tự quyết. Con có thể cảm thấy (khi con kinh qua đau khổ cùng cực trên trái đất, là điều không thể có trên hành tinh tự nhiên): “Tại sao Thượng đế lại để tôi lấy chọn lựa xuống trái đất? Thậm chí, tại sao Thượng đế lại cho tôi quyền tự quyết?” Đây là một phóng chiếu của sa nhân mà con đã mang vào tâm mình, nhưng điều quan trọng là con nhìn nhận mình có ngã đó. Chỉ khi con nhận ra là trong bốn thể phàm của mình có ngã cảm thấy giận dữ đó, thì con mới có thể tách mình ra khỏi ngã đó.

13.5. Khắc phục nỗi giận

Vậy con có thể làm gì? À, lẽ tất nhiên con có thể theo phương pháp mà các thày đã trao truyền, nhận diện ngã tách biệt, nhận ra là ngã tách biệt cảm thấy giận dữ đó đang phóng chiếu một vấn đề. Tỷ dụ, nó có thể phóng chiếu vấn đề là: “Thượng đế đáng lẽ phải thay đổi luật của ngài và không cho phép quyền tự quyết đem lại khổ đau như thế này.” Khi con còn ở bên trong ngã đó, thì con phóng chiếu ra ngoài, con nghĩ: “Làm sao tôi có thể khiến Thượng đế thấy sai lầm của ngài và thay đổi tình trạng này?” Lẽ tất nhiên con không thể. Khi con hiện thân trên một hành tinh như trái đất, con không thể nói chuyện với đấng Sáng tạo và nói: “Tại sao ngài không thay đổi luật của ngài?”

Đấng Sáng tạo không thể nghe con, con không thể vươn tới tâm thức đấng Sáng tạo. Ngã đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp. Tất cả các ngã mà con đã tạo ra đều đưa ra một vấn đề không thể có giải đáp vì vấn đề chỉ hiện hữu do nhận thức của ngã đó, một nhận thức giới hạn. Vấn đề không phải là một vấn đề có thực, nó là một vấn đề nhân tạo, được tạo ra bởi một nhận thức giới hạn. Vấn đề không bao giờ có giải đáp. Cách giải quyết duy nhất là thấy ngã tách biệt có một nhận thức giới hạn. Nó không phải là con. Con là cái Ta Biết. Con có khả năng bước ra ngoài ngã đó và đón nhận một nhận biết cao hơn, mà các thày đã trao truyền với giáo lý về quyền tự quyết.

Do đó, con có thể tới điểm thấy ngã đó không thật, vấn đề không thật, có nghĩa là con không cần giải quyết vấn đề. Con không cần khiến đấng Sáng tạo thấy luật tự quyết là một sai lầm. Do đó, con có thể tới điểm thấy ảo tưởng và buông bỏ nó. Sau đó, con có thể nhìn ngã tách biệt và nhận ra là cách giải thoát khỏi nó không phải là giải quyết vấn đề mà là để cho ngã chết đi.

13.6. Thuốc giải chất độc giận dữ

Giờ đây các thày đã trao truyền cho các con các dụng cụ để giải trừ chất độc giận dữ, nhưng thày vẫn muốn giúp con bằng cách cống hiến thuốc giải độc tố giận dữ của thày. Thuốc giải này gọi là Minh triết Như Tấm gương. Con yêu dấu, khi thày yêu cầu con xem xét sự kiện con có một cái ngã giận dữ, thì ban đầu con có thể cảm thấy rất quan ngại. Con sợ là nếu con, như một đệ tử tâm linh, nhìn nhận nỗi giận của mình thì con sẽ tự lên án mình. À, Chân sư MORE đã trao cho các con chìa khóa để khắc phục ngã phán xét.

Nếu con chú tâm vào chuyện này trước và loại bỏ ngã phán xét đó, thì con sẽ không phán xét mình đã có nỗi giận. Con có thể nhìn nó một cách trung hòa. Điều thày cống hiến con là Minh triết Như Tấm gương. Nếu con bỏ thời gian đọc câu chú, hòa điệu với Sinh thể của thày, thì thày sẽ giúp con nhận ra chuyện đó. Thày sẽ giúp con hòa điệu với Minh triết Như Tấm gương để con có thể tới điểm con thấy trong tấm gương những gì bên trong mình mà không phán xét.

Giờ đây thày biết rất rõ là con có thể xem xét tình trạng trái đất, và có lẽ phụ nữ dễ nghĩ theo chiều hướng này hơn nam nhân. Nhiều phụ nữ không thích tấm gương vì nó cho họ thấy như họ là, không như điều họ cảm thấy họ phải biểu hiện ra. Có một chấn thương liên quan đến phụ nữ đã được tạo ra trên trái đất nhưng con cũng có thể khắc phục nó bằng Minh triết Như Tấm gương của thày bằng cách tự đặt cho mình một câu hỏi. Con yêu dấu, nếu con đang ăn điểm tâm và có một miếng thức ăn giắt vào răng, thì con có muốn sinh hoạt suốt ngày với miếng thức ăn giắt vào răng mà mọi người đều thấy, hay con muốn nhìn vào tấm gương trước khi con ra khỏi nhà, thấy miếng thức ăn, gỡ nó đi và được giải thoát khỏi nó suốt cả ngày?

Lẽ tự nhiên, với nỗi giận cũng vậy. Con có một ngã cảm thấy giận dữ. Con yêu dấu, chuyện con đến trái đất như một avatar và tạo ra một ngã giận dữ, là điều không thể tránh vì đây là một hành tinh rất thấp, rất dày đặc. Điều này không thể tránh. Tất cả chúng ta đều đã tạo ra một ngã tương tự, kể cả Giê-su, như được chứng minh trong quyển Các kiếp sống. Con có muốn sống phần còn lại cuộc đời với ngã đó hay con muốn nhìn vào tấm gương mà thày cống hiến, lấy nó ra khỏi răng, loại nó ra khỏi bốn thể phàm, cho nó chết đi và được giải thoát khỏi nó trong suốt phần còn lại của cuộc đời?

13.7. Minh triết Như Tấm gương không phán xét

Một lần nữa, điều này dính liền với việc các thày chấp nhận con vô điều kiện và không phán xét con. Con yêu dấu, thày là một Phật Thiền định, thày hiện diện ở một tầng tâm thức cao hơn tâm thức trái đất rất, rất nhiều. Tuyệt đối không có gì trên trái đất xáo trộn thày. Không có gì trên trái đất ảnh hưởng thày. Vì không có gì trên trái đất ảnh hưởng thày, nên thày không cảm thấy bị đe dọa bởi bất cứ gì trên trái đất. Vì thày không cảm thấy bị đe dọa, nên thày không cần phán xét điều gì trên trái đất, do đó thày không phán xét con. Thày chỉ mong muốn giải thoát con. Thày cống hiến Minh triết Như Tấm gương vì khác với các tấm gương trên trái đất, Minh triết Như Tấm gương mà thày là giúp con có thể, khi con hòa điệu với nó, thấy mà không phán xét. Con có thể thấy một ngã mà không thấy qua một ngã khác. Nói cách khác, con có thể thấy ngã giận dữ mà không thấy nó qua ngã phán xét. Con chỉ thấy nó.

Minh triết Như Tấm gương là như thế. Nó không nhị nguyên, nó giúp con thấy một điều kiện nhị nguyên mà không phán xét nó qua một điều kiện nhị nguyên hay một ngã khác. Không có cách nào vượt lên trên sự giận dữ ngoài cách làm tan biến ngã giận dữ. Khi con đã giải quyết ngã gốc, thì con rất dễ nhìn các ngã giận dữ và khiến chúng tan biến đi. Lúc đó, con có thể bắt đầu xem xét: “Tại sao tôi lại tới trái đất? Tôi có một chờ đợi thiết thực, hay tôi đã có một ước muốn không thiết thực, một ước muốn quá đáng theo nghĩa đó là một ước muốn bất khả thi, không thể hoàn thành.”

Lúc đó, con có thể bắt đầu xem xét: “Tại sao tôi lại muốn thay đổi người khác khi họ có quyền tự quyết?” Sau đó, con có thể tới điểm không cảm thấy bị đe dọa bởi sự kiện người khác bác bỏ con, người khác không thay đổi. Con không có trong mình một ngã cảm thấy bứt rứt vì người khác vẫn đang đau khổ. Do đó, con không cần phải thay đổi họ để giải quyết cảm xúc bên trong chính mình. Con có thể buông bỏ sự phán xét cho rằng đau khổ là không tốt, và các người đó đáng lẽ không được đau khổ.

13.8. Giải thóat ý chí của mình khỏi ý chí của người khác

Con yêu dấu, con thấy chăng là trong con có một ngã dựa trên nhận thức mà con có trước khi con tới đây, nhưng nó được tạo ra sau khi con thấy độ dày đặc của hành tinh này và con cảm thấy: “Nhưng tôi không thể thay đổi người khác, họ không chịu lắng nghe tôi, họ không đáp ứng lại những gì tôi làm.” Lúc đó, con tạo ra cái ngã cảm thấy đáng lẽ con không nên tới đây. Mỗi khi con thấy người khác đau khổ, thì con cảm thấy sự bực bội bắt nguồn từ ngã đó. Con dấy lên lòng từ bi trước nỗi khổ đau của người khác nhưng con cảm thấy không thể giúp họ thay đổi để không đau khổ nữa.

Điều này khiến con đau khổ. Nó khiến con đau khổ vì con cảm thấy việc con tới đây vô nghĩa và điều này dính liền với cảm giác bực bội nơi con. Phương pháp tối hậu để giải quyết nỗi giận là thấy được ngã đó, và thấy là cảm giác của con về việc con hiện thân trên trái đất vẫn còn dính liền với người khác và sự khổ đau của họ. Cách con cảm nhận chính mình và việc con xuống đầu thai trên trái đất là, một lúc nào đó, con đã quyết định là khi người khác còn đau khổ, thì con không thể thoải mái với việc mình ở trên trái đất, con không thể cảm thấy an bình sống trên trái đất. Thậm chí con không thể cho phép mình cảm thấy vui tươi và hạnh phúc khi người khác còn đau khổ.

À, bây giờ con có thể tới điểm giải quyết tầm nhìn hạn hẹp của con về luật tự quyết. Con nhận ra là người khác có quyền chọn lựa đau khổ trong một thời gian dài cho tới khi họ chán ngán kinh nghiệm đó và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ. Con vẫn có quyền tự quyết, và việc con trói buộc các chọn lựa của mình vào các chọn lựa của người khác, là điều không phải, là điều phạm luật. Như một đệ tử tâm linh, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình có nghĩa là ngưng không để những chọn lựa của mình bị ảnh hưởng bởi chọn lựa của người khác. Con ngưng không để các chọn lựa của mình chờ đợi người khác lấy một số chọn lựa. Con nhận ra là con cần hoàn toàn (và đây là trách nhiệm tối thượng khi con đầu thai trên trái đất) giải thoát quyền tự quyết của mình khỏi ý chí của người khác.

Con cần tới điểm con có thể lấy chọn lựa cho chính mình mà hoàn toàn không tùy thuộc vào người khác. Con cần nhận ra là con có quyền chọn lựa sống an bình, sống hạnh phúc trên trái đất ngay cả khi người khác vẫn chọn lựa đau khổ. Khi con có thể nhận ra điều này, thì con nhận ra không có lý do gì để con cảm thấy bực bội khi sống trên trái đất. Lúc đó, con có thể nhìn cái ngã cảm thấy luật tự quyết sai lầm, luật tự quyết phải được thay đổi. Con có thể nhìn cái ngã (tất cả mọi ngã cảm thấy bực bội, cảm thấy giận dữ) và con buông bỏ nó – con để cho nó chết đi.

Con có thể thấy là ở đây không có vấn đề gì cần giải quyết. Con chỉ để cho ngã chết đi. Con có thể để nó chết đi bằng cách nhìn vào tấm gương vì Minh triết Như Tấm gương giúp con không những thấy những gì có trong tâm thức mình, mà cũng giúp con ngước nhìn lên và thấy là con hơn những ngã đó rất nhiều. Con là cái Ta Biết là một sinh thể vô hình tướng, do đó con không bị mắc kẹt trong các ngã đó – trừ phi con để cho mình bị mắc kẹt. Con hơn thế, con là Hiện diện TA LÀ ở trên, và nó tự nó xứng đáng tự trong bản chất của nó. Do đó, giá trị của con trên trái đất không tùy thuộc các kết quả mà con đạt được trong việc thay đổi người khác.

Một lần nữa, con có thể tới điểm con tiến thêm một bước tới gần hơn việc chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả. Đây là một chủ đề mà các chân sư khác sẽ khai triển thêm, vì tất cả các thày đang xây dựng chủ đề tiến trình thay vì kết quả.

Khi con còn bị mắc kẹt trong các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh, thì con không thể chú tâm vào tiến trình thay vì kết quả. Con sẽ chú tâm vào kết quả vì các ngã phóng chiếu tới con là có một kết quả mà con phải thể hiện. Đó là một kết quả bất khả thi và các thày muốn giúp con thấy điều này bằng cách phơi bày các ngã phát xuất từ các chất độc tâm linh. Tới đây thì thày đã trao cho các con món quà của thày.

15 | Bình đẳng làm tan biến lòng tự cao và tự ti

Chân sư Thăng thiên Ratnasambhava qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Ratnasambhava. Thày là thuốc giải của độc tố kiêu mạn. Kiêu mạn là gì? À, lẽ đương nhiên kiêu mạn có nhiều cấp độ, có nhiều dạng. Ta cần khẳng định là ngay cả trên hành tinh tự nhiên cũng có kiêu mạn. Lý do giản dị là khi con bắt đầu hiện thân như một người đồng-sáng tạo, thì con có một ý niệm bản ngã rất bé nhỏ (như các thày đã nói: nhỏ như cái chấm), và phận sự của con là dần dà phát huy nó bằng cách thử nghiệm. Con đồng-sáng tạo dựa trên cái ngã mà con có, trải nghiệm kết quả, sau đó nới rộng cái ngã, đồng-sáng tạo tiếp, và cứ như thế.

15.1. Kiêu hãnh tự nhiên và phi tự nhiên

Chuyện hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh là khi con trải qua tiến trình đó trong một thời gian dài, thì con trải nghiệm mình có một sự thiện xảo nào đó, một thành đạt nào đó. Con đã đạt được khả năng hình dung và biểu hiện nào đó, không những chỉ là các vật thể mà thậm chí cả hoàn cảnh sống. Hầu như không thể tránh (và sự thực là không có gì đáng chê trách) là khi con tăng trưởng nhận biết để sáng tạo, thì con phát triển ý niệm con đã thành tựu được gì đó. Con đã đạt được một trình độ trưởng thành, tinh tiến và thiện xảo nào đó. Lẽ tự nhiên, con có thể quay lại nhìn ý niệm bản ngã mà con có khi trước và thấy là con đã phát huy nó như thế nào, con đã tăng trưởng như thế nào, con có cảm nhận là con thực sự có thể thể hiện một cái gì đó.

Con có thể lấy lời dạy của Giê-su: “Tự ta không làm được gì.” Trên một hành tinh tự nhiên, con trải nghiệm trực tiếp là con không đang thể hiện với tư cách một ngã tách biệt mà con là một phần của tổng thể, năng lượng của con tới từ Hiện diện TA LÀ của con. Con biết khả năng thể hiện của con không chỉ do các thành đạt của con, tuy nhiên con phát triển ý niệm là con, như cái ngã mà con thấy con là, có khả năng thể hiện. Điều này tất nhiên hoàn toàn đúng – con quả thực có khả năng đó. Con đã phát huy ý niệm bản ngã và con có khả năng thể hiện một cái gì đó mà con không thể thể hiện lúc ban đầu.

Ta có thể nói con có một niềm kiêu hãnh tự nhiên khi con cảm thấy hãnh diện về những thành đạt và khả năng của mình. Đây có là một chất độc tâm linh theo sát nghĩa chăng? À, quả thực là không nếu xét theo cách con dùng từ chất độc tâm linh trên một hành tinh phi tự nhiên, vì con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt. Con không ở trong nhị nguyên và do đó con không có niềm tự hào như con thấy trên trái đất.

Con cần hiểu là những người trong các con đã tới trái đất như một avatar, thì các con đã tới với cảm nhận mình đã có một số thành đạt, có khả năng thể hiện – tuy rằng, khi con xuống đầu thai thì con mất đi nhận biết có ý thức về các khả năng này. Con cần nhận ra là con mang theo mình một cái gì đó từ khoảng thời gian con sống trên hành tinh tự nhiên.

15.2. Các avatar đầu thai trên trái đất

Các thày có giảng là khi con xuống đầu thai trên trái đất, ngay cả khi con là một avatar, bất kể trước đó con đã có thành đạt gì, thì con phải xuống ở tầng tâm thức 48, và mang vào tất cả các ảo tưởng ở mỗi tầng từ tầng tâm thức của con xuống tới tầng đó. Điều này có nghĩa là tâm ý thức của con ở tầng tâm thức 48.

Con làm gì trên một hành tinh tự nhiên? À, con cũng xây dựng một cái gì tương tự như cái các thày đã gọi là bốn thể phàm trên trái đất. Con xây dựng một ý niệm bản sắc, con xây dựng một hiểu biết về cách vận hành của tiến trình đồng-sáng tạo, và con xây dựng một số cảm xúc. Con mang theo những thành phần này, ít ra là một phần, khi con xuống trái đất và con dùng chúng để hình thành các thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của con. Nói cách khác, khi con tới trái đất như một avatar, con không bắt đầu từ số không khi con tạo ra bốn thể phàm để hiện thân tại đây. Con mang theo mình một cái gì đó từ hành tinh tự nhiên. Điều này có nghĩa là, tuy tâm ý thức của con ở tầng 48 (và do đó con không nhớ một cách ý thức là con tới từ một hành tinh tự nhiên), con vẫn có một số cảm giác, một số ký ức. Con cũng có một số khả năng, vì lẽ tất nhiên, con dễ quán triệt tiến trình đồng-sáng tạo hơn một dòng sống mới được tạo ra ở tầng đó.

Khi con tới trái đất, con trải nghiệm là con khôn ngoan hơn, tài ba hơn, con có nhiều khả năng hơn đa số những người đang hiện thân trên trái đất. Giờ đây, điều rối rắm là như một avatar, lẽ tất nhiên, con bị chấn thương nhập đời. Chuyện đã xảy ra là sa nhân tìm cách hạ nhục con và nói là con không có quyền ở trên trái đất, con đáng lẽ không được tới đây, vân vân. Khi đó con tạo ra ngã gốc, và do đó con không thấy thế khó xử mà sa nhân đã đặt con vào. Điều này khiến con tạo ra những ngã khác có cảm giác là nay con cần phải chứng minh giá trị của mình trên trái đất. Con cần biện minh, con cần giải thích sự hiện diện của mình. Con cần chứng minh cho chính mình là con xứng đáng, con có quyền ở trên trái đất, con không phải là người xấu, vân vân.

15.3. Lòng tương kính đối với sa nhân

Tình trạng này có thể dẫn tới việc tạo ra các ngã rất thiết tha được một thành đạt nào đó, một khả năng đặc biệt nào đó trong thế giới vật chất, kể cả với thân thể vật lý. Con thấy có nhiều avatar trong nhiều kiếp sống đã trở nên thiện xảo với thân thể của họ. Có những trường hợp họ đã trau dồi võ thuật và trở nên những chiến sĩ thượng thặng. Họ đã phát triển khả năng đặc biệt trong các lãnh vực nghệ thuật, âm nhạc, thể dục, thể thao vân vân.

Khi con trải qua nhiều kiếp sống cố gắng chứng minh giá trị của mình, thì có hai chuyện có thể xảy ra. Thứ nhất, con sẽ trải nghiệm là xét theo quan niệm bên ngoài con không bao giờ thực sự mãn nguyện với những thành đạt của mình. Con không bao giờ làm vừa ý sa nhân, con không bao giờ chứng minh được giá trị của mình dưới mắt họ. Đồng thời, con cũng không chứng minh được giá trị của mình duới mắt đa số con người trên trái đất. Họ có thể nhìn con với đôi mắt khâm phục vì con có khả năng mà họ không có, nhưng điều này không thực sự khiến con mãn nguyện.

Con tích lũy một sự bực bội, và điều này có nghĩa là để cảm thấy mình thành đạt, con có nếp sống mà người ta gọi là chuột chạy đua hay chạy trên máy chạy. Con phải chạy càng ngày càng nhanh, làm càng ngày càng nhiều, thành tựu càng ngày càng hơn. Sự thực là ngày nay con thấy nhiều người không bao giờ cảm thấy đủ dù họ thành tựu bao nhiêu. Bất kể số tiền họ kiếm được, bất kể thành quả họ gặt hái trong lãnh vực nào đó, bất kể bao nhiêu danh vọng họ đạt được, họ vẫn không bao giờ cảm thấy đủ.

Tỷ dụ, con thấy một số thể tháo gia lúc trẻ đã đi dự Thế vận hội và đoạt được nhiều huy chương và phá nhiều kỷ lục thế giới. Họ cảm thấy hưng phấn tột bực vì họ cảm thấy được sự chứng nhận tối hậu. Sau đó, vì dòng chảy tàn nhẫn của thời gian dần dần đuổi bắt họ nên họ không còn đạt được những thành quả đó nữa. Lúc đó, họ rơi vào trầm cảm vì họ không còn được chứng nhận nữa nhưng họ vẫn cảm thấy cần sự chứng nhận này.

Nhiều avatar đã trải qua hoàn cảnh này từ kiếp này sang kiếp khác, tốn rất nhiều công sức để xây dựng khả năng nào đó trong kiếp sống này, để rồi mất nó và kết thúc kiếp sống cảm thấy chán nản và thiếu tự tin. Điều này có thể khiến một số dòng sống dần dần xây dựng một ngã thường trực hơn mà họ mang từ kiếp này sang kiếp khác, và ngã này cho họ cảm giác tự tôn. Lúc đó họ dùng tâm thức nhị nguyên, lẽ tất nhiên lúc nào cũng hàm ý hay dính liền với tâm phán xét giá trị. Họ đã bị rơi vào cạm bẫy của sa nhân và dùng tâm thức nhị nguyên để tạo ra một ngã có niềm tự hào cao vời vợi coi mình đặc biệt, tinh tiến hơn người khác và do đó được quyền có địa vị nào đó, đặc quyền nào đó, vân vân. 

Điều thày muốn nói là qua tiến trình này một số avatar đã bị lừa để hành xử giống như sa nhân. Con có thể nhìn về thời Trung cổ và thấy là có một số vị vua và giới quý tộc cảm thấy họ xứng đáng được hưởng đặc quyền. Một số trong các người đó là sa nhân và một số là avatar. Họ thường giao tiếp với nhau, như quyển sách Các kiếp sống của tôi đã mô tả, vì con thường thấy là sa nhân thực ra cũng có nhiều khả năng thể hiện kết quả vật lý, do quá trình rất dài của họ. Sa nhân và avatar đã hầu như phát triển tinh thần tương kính vì cả hai nhóm nhận ra là nhóm kia đã có một số thành đạt.

15.4. Nhìn nhận là trong con có ngã tự hào

Điều này tất nhiên không áp dụng cho sa nhân trên cõi bản sắc và cũng không áp dụng cho mọi sa nhân đầu thai trên trái đất. Nhưng con có thể có tình huống một số sa nhân trên trái đất (không nhất thiết là các sa nhân xấu ác nhất) đã phát triển một tình bằng hữu với các avatar vì họ tôn trọng khả năng thể hiện thành quả vật lý mà cả hai nhóm đều có. Do đó, họ củng cố lẫn nhau niềm tự hào của họ.

Có những avatar đã cảm thấy rất khó cắt đứt dây trói buộc họ vào các dòng sống đó, các sa nhân đó. Một avatar có thể cảm thấy rất, rất khó cắt đứt những dây trói đó. Con không dễ nhìn nhận mình đã phát triển lòng ngưỡng mộ và kính trọng sa nhân. Con có thể làm chuyện này bằng cách nhận ra đây là, lẽ tất nhiên, một cái ngã trong con đã phát triển điều này, và ngã đó là một hậu duệ của ngã đã cho con cảm giác tự hào.

Giờ đây, giống như trường hợp giận dữ, con không phải cảm thấy tội lỗi. Không ai lên án con vì con nhìn nhận là trong tâm mình có yếu tố tự hào. Khi con nhìn sự vận hành, sự vận hành tâm lý, trong đời sống của một avatar, đã tới một hành tinh như trái đất, đã phải kinh qua những chuyện mà con đã kinh qua, thì con không thể tránh tạo ra ngã đó. Giản dị là con sống trên trái đất, con ở trong một thân thể vật lý, con phải giáp mặt các điều kiện trên trái đất (mà các thày đã nhiều lần nhắc lại là rất khó khăn, rất dày đặc). Khi con ở tầng tâm thức nào đó, thì con cần phản ứng lại các điều kiện đó với tầng tâm thức đó. Cách duy nhất để phản ứng ở tầng 48 là con tạo ra một ngã dựa trên ảo tưởng ở tầng 48. Một lần nữa, con có thể thấy là con không thể tránh tạo ra các ngã đó. Các thày chỉ giản dị kêu gọi con nhìn nhận là con có các ngã đó, và nhận ra là đã đến lúc con để cho chúng chết đi. Một lần nữa, các thày đã trao cho con giáo lý và dụng cụ để làm công việc này.

Lẽ tất nhiên, sa nhân có niềm tự hào ăn sâu, rắn đặc hơn rất nhiều những gì một avatar có thể tạo ra trong một thời gian ngắn. Dù con có đầu thai trong hai triệu năm trên trái đất, thì đây vẫn là một khoảng thời gian rất ngắn so với sự có mặt của sa nhân từ các bầu cõi trước. Điều con nhận ra ở đây là niềm tự hào của họ mãnh liệt hơn rất nhiều và rất dính liền với giận dữ.

Lẽ tất nhiên đây là một hình thức vô minh rất dày đặc mà họ có. Thày không nói là lòng tự hào của con tương đương với lòng tự hào của sa nhân, tuy chúng có điểm tương đồng và con có thể có lòng tương kính đối với họ. Con có thể rũ bỏ lòng tự hào dễ hơn sa nhân rất nhiều. Tuy lẽ tất nhiên họ cũng có tiềm năng dùng cùng tiến trình mà con đã dùng: nhận diện một ngã, để cho nó chết đi. Lẽ tất nhiên, một sa nhân rất khó bước ra ngoài ngã mà họ đang mang, nhìn nó từ bên ngoài, nhận diện nó là một ngã không thực, và để cho nó chết đi, nhưng việc này vẫn khả thi và trên căn bản tiến trình vẫn là một.

15.5. Bình đẳng làm tan biến kiêu mạn

Món quà mà thày muốn cống hiến các con là minh triết của thày, là Minh triết Bình đẳng, vì đây là chất giải tối hậu cho độc tố kiêu mạn. Lẽ tất nhiên, minh triết này có nhiều tầng. Như một avatar, ở tầng thứ nhất con nhận ra một cách ý thức là một trong những chất độc mà con phải khắc phục trên trái đất là lòng kiêu mạn. Con đã tạo ra một ngã có tính kiêu mạn. Vậy con có thể làm gì để xoay chuyển tâm thức và không còn tự đồng hóa với ngã đó nữa?

À, con bắt đầu bằng cách sử dụng Minh triết Bình đẳng để nhận ra điều mà các thày đã dạy về tâm thức nhị nguyên. Tâm thức nhị nguyên luôn luôn có hai đối cực, nhưng nó lúc nào cũng gán lên các đối cực này một phán xét giá trị: một bên tốt, một bên xấu. Con có thể sử dụng, hòa điệu và kêu gọi sự Hiện diện của thày bằng cách dùng câu chú của thày để thực sự trải nghiệm là nhị nguyên không có thật.

Do đó, con nhận ra ý niệm một đối cực tốt hơn cái kia, bên này tốt bên kia xấu, chỉ giản dị là một ảo tưởng. Con có thể thấy là nhị nguyên có cái gì không thật. Thày biết rất rõ là nhiều người trong các con đã học giáo lý của các thày về nhị nguyên, nhưng vẫn có cái mà Chân sư MORE gọi là “khoảng cách” giữa giáo lý và trải nghiệm sự hiện thực của giáo lý. Đây là chỗ Minh triết Bình đẳng có thể giúp con.

Chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa trong việc dùng Minh triết Bình đẳng. Con ngồi đây, con có giác quan vật lý, con có nhận biết có ý thức. Thày muốn con nhìn vào trái đất, nhìn vào cuộc sống với mắt tâm của con. Con thấy tất cả những điều kiện đa dạng mà con đã trải nghiệm trong cuộc đời mình. Con thấy sự đa dạng lạ thường đó. Con thấy có một số người đang khổ đau, một số người đang giao chiến, một số người đang có cuộc sống an bình, vân vân. Lẽ tự nhiên, con khó nhìn tất cả các điều này mà không khởi lên tâm phán xét giá trị, nói rằng một số điều kiện không cao nhất vì chúng tạo khổ đau, và một số điều kiện khác chắc chắn phải cao hơn vì chúng không tạo khổ đau. Giờ đây, với Minh triết Bình đẳng, con có thể bắt đầu bước lui lại khỏi kịch bản rất đa dạng đó. Thày muốn con xem xét sự kiện mọi vật thể mà con thấy trên trái đất đều được cấu tạo từ vật chất. Cái gì cấu tạo ra vật chất? À, khoa học cho con biết là vật chất được cấu tạo bởi nguyên tử. Các hiện tượng vật chất mang nhiều hình dạng, nhưng chúng đều được cấu tạo từ các viên gạch căn bản là nguyên tử. 

Con biết là có 108 nguyên tử – đúng ra thì có nhiều hơn nhưng khoa học chỉ mới khám phá ra 108 nguyên tử. Con biết là bất cứ hiện tượng vật chất nào mà con có thể phát hiện bằng giác quan đều do các nguyên tử đó tạo thành, hoặc từ một nguyên tử hay nhiều nguyên tử phối hợp với nhau. Con yêu dấu, khi con nhìn ở tầng vĩ mô với giác quan của con, thì con có thể thấy có một người đang có một vết thương chưa lành đang chảy mủ và trong đó lúc nhúc ruồi và dòi bọ. Với tâm ý thức bình thường của con, hiện tượng này giống như một sự lố bịch vì nó tạo khổ đau.     

15.6. Nhiều tầng lớp ý nghĩa

Giờ đây, con hãy cho phép mình thấy là hiện tượng đó được tạo nên bởi vật chất, và vật chất được cấu tạo bằng nguyên tử. Nếu con có thể xoay chuyển viễn quan của con để chỉ thấy các nguyên tử (nói cách khác, thay vì thấy một vết thương chưa lành thì con thấy một tổ hợp nguyên tử, thay vì thấy dòi bọ đang bò trong vết thương thì con thấy một tổ hợp nguyên tử), thì phán xét giá trị ở cấp vĩ mô là hiện tượng này xấu, có nghĩa lý gì ở cấp các nguyên tử chăng? Các nguyên tử có nghĩ rằng: “Ồ, tôi đã thể hiện một dòi bọ và điều này xấu?” À, lẽ dĩ nhiên chúng không nghĩ vậy! Chúng chỉ thể hiện cái khuôn đúc đã được gán lên chúng. Điều thày muốn nói ở đây là: Phán xét giá trị tốt xấu hiện hữu ở cấp vĩ mô trong tâm vật lý, nhưng nó không hiện hữu ở tầng sâu hơn. Nó không có nghĩa gì cả ở tầng sâu hơn.

Điều con cũng nhận ra là khi con hòa điệu với tầng sâu hơn của các nguyên tử, thì các nguyên tử không bị trói buộc vào hình tướng. Các nguyên tử có thể dễ dàng thoát khỏi hình tướng dòi bọ để hợp thành một đóa hoa tuyệt đẹp. Đối với các nguyên tử, hợp thành hình tướng này không khó hơn hình tướng kia. Chuyện hoàn toàn khả thi là các nguyên tử đang cấu tạo dòi bọ được giải thoát và trở thành thành phần của một bông hồng. Sự thực là những nguyên tử đang cấu tạo dòi bọ có thể trước đó đã cấu tạo một bông hồng. Con thấy là không có gì ở cấp vĩ mô của thế giới vật lý có tính chất thường hằng. Chúng đều phù du. Giờ đây, lẽ tất nhiên con có thể đi xuống một tầng sâu hơn nữa. Nguyên tử được cấu tạo bởi các hạt cơ bản. Các hạt cơ bản nằm ở lằn ranh giữa vật chất và năng lượng, do đó chúng thực sự một phần là sóng năng lượng. Con có thể đi xuống tầng sâu hơn và chỉ thấy các sóng năng lượng. Mọi thứ đều do sóng năng lượng tạo thành, đều là một mô thức rất rất phức tạp nhiều sóng năng lượng giao thoa với nhau. Ở tầng sóng năng lượng, một lần nữa phán xét giá trị ở tầng vĩ mô lại không có giá trị, không có ý nghĩa gì. Ở đó chỉ có các sóng năng lượng.

Lúc đó, con có thể xem xét tất cả các đế quốc oai dũng do con người dựng nên, tất cả các cấu trúc mà họ đã xây dựng để bồi đắp lòng kiêu mạn, ý niệm họ thành đạt, ý niệm họ đặc biệt. Con hãy nhìn những thành quách quyền lực này và tự hỏi: “Ở tầng sóng năng lượng, chúng có thường hằng chăng, chúng có uy lực chăng?” “Không đâu!”

Con có thể nhận ra là những chuyện xảy ra trên trái đất chỉ là một trò chơi. Đó là một màn kịch mà con người dựng lên để có một số trải nghiệm cho tới khi họ chán ngán trải nghiệm đó. Sau đó, như một đệ tử tâm linh, con có thể bắt đầu xem xét: “Con có thật sự cần cảm thấy mình hơn người khác chăng? Có phải chăng là trong nhiều kiếp sống con đã có trải nghiệm này, và đã đến lúc con suy ngẫm: “Tôi đã chán chuyện này chưa? Có phải chăng là tôi đã chán ngán trò chơi hơn kém nhân tạo, phù du và vô nghĩa này?”

15.7. Tự ti cũng là kiêu mạn

Giờ đây, một số các con có thể nhận ra là con có một ngã khác không cảm thấy tự tôn mà cảm thấy tự ti. Con yêu dấu, đây thật sự cũng là một hình thức kiêu mạn vì con vẫn gán một phán xét giá trị lên chính mình. Con nghĩ mình có thể làm gì ở đây? Con đang nghĩ là con biết rõ hơn Thượng đế là con thấp kém. Thượng đế không tạo ra con thấp kém. Con không được tạo ra như một sinh thể thấp kém, nhưng nay con nghĩ con biết mình thực sự là một sinh thể thấp kém – và đây là kiêu mạn. Con nghĩ con biết rõ hơn đấng Sáng tạo, hơn Cội nguồn của mình. Con có thể tới chỗ nhận ra là con chán ngán cảm nhận thấp kém hay cao cả hay bất cứ hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng ra.

Con có thể tới điểm viễn quan của con bỗng nhiên xoay chuyển và con thấy sâu hơn tầng vĩ mô. Con thấy là ở tầng sâu hơn của nguyên tử, của sóng năng lượng, của Ánh sáng Mẫu-Vật, thì tất cả các hình ảnh này đều không thật, đều vô nghĩa. Sau đó, con tới điểm thấy không phải con tin như vậy, mà là một ngã tách biệt. Ngã tách biệt giống y như một máy điện toán: nó cũng không thật. Do đó, con có thể tới điểm nhìn nó và nói: “Ta để cho mi chết đi. Ta không muốn mi trong con người ta nữa, ta để cho mi chết đi.”

Khi ngã đó trút khỏi con thì con cảm thấy một cảm giác tự do vĩ đại. Dù con cảm thấy tự tôn hay tự ti, thì qua bao nhiều kiếp sống, cảm giác đó, ảo tưởng đó đã trở nên càng ngày càng khó duy trì. Mỗi ngày con phải nỗ lực nhiều hơn để duy trì nó. Có nghĩa là nó khiến con căng thẳng hơn. Con cần dồn vào đó nhiều năng lượng tinh thần và chú tâm hơn. Một khi con ngưng không làm việc đó nữa, thì bỗng nhiên sự chú tâm của con được giải thoát. Bỗng nhiên, con có cảm giác an bình mà con không thể có khi con ở trong vòng vận hành của tự tôn-tự ti.

Đó là Minh triết Bình đẳng mà thày cống hiến các con. Con quả thực có thể thiền quán chung quanh chủ đề Minh triết Bình đẳng. Con có thể thực tập những bước mà thày đã vạch ra, hay con cũng có thể thực tập một bài hình dung. Con hình dung trái đất với tất cả các ngọn núi cao, tất cả các thành thị tráng lệ. Sau đó, con thấy, nếu con có thể khiến thời gian trôi nhanh hơn, tất cả các ngọn núi bị bào mòn, tất cả các thành thị bị đổ nát, tất cả mọi thứ đều trở thành cát bụi, gạch vụn, nguyên tử, sóng năng lượng. Rốt cuộc chỉ còn sự bình đẳng hoàn toàn của Ánh sáng Mẫu-Vật.

Các thày có nói là Ánh sáng Mẫu-Vật có thể được nâng lên và có được tự nhận biết, nhưng đó là Ánh sáng Mẫu-Vật chứ không phải những cấu trúc được xây dựng từ Ánh sáng Mẫu-Vật trên một hành tinh như trái đất. Chúng sẽ không bao giờ đạt được tính chất thường hằng. Do đó, khi Ánh sáng Mẫu-Vật có tự nhận biết, thì nó sẽ trút bỏ các hình tướng đó. Chúng sẽ dần dần sụp đổ và không còn gì nữa cả cho tới khi chỉ còn ánh sáng thuần khiết tồn tại.

Con có thể hình dung và thiền quán trên chủ đề này, và thực tập này sẽ giúp con thoát khỏi vòng vận hành không những của lòng tự tôn-tự ti mà ngay cả tất cả các hậu duệ của tâm thức nhị nguyên lúc nào cũng nâng cái này lên và so sánh cái này với cái kia. Tới đây thì thày cảm ơn các con đã chú tâm nghe bài này và đón nhận món quà của thày.

17 | Phân biện cho con biết khi nào là đủ

Chân sư Thăng thiên Amitabha qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Amitabha (A Di Đà). Thày là thuốc giải của chất độc được gọi là thèm muốn, tham lam và khát ái. Lẽ tất nhiên, những cảm xúc này là biểu tượng của một hiện tượng phức tạp. Tham lam là gì? Khái ái là gì? Đa số coi khát ái là khát ái vật lý, là những ham muốn của cơ thể vật lý, và coi tham lam là sự ham muốn tiền tài, nhưng thực ra chúng hơn thế rất nhiều. Đó thực sự là cảm giác con không bao giờ thấy đủ với một thứ nào đó, và điều này phần nào là một sự nghịch lý. 

17.1. Chất độc trở thành cỗ máy chạy

Nếu con xem lại những giáo lý mà các thày đã trao truyền, thì các thày có nói là những sinh thể tự nhận biết được đấng Sáng tạo ban cho quyền tự quyết. Họ có quyền sáng tạo và có bất cứ trải nghiệm nào mà họ mong muốn, và có thể tiếp tục có những trải nghiệm đó khi họ còn mong muốn và cho tới khi họ chán ngán. Vậy tại sao ta lại nói việc con muốn càng ngày càng nhiều một thứ gì đó là một chất độc tâm linh? Có phải chăng ham muốn có càng ngày càng nhiều tiền là chuyện phải lẽ, nếu đó là trải nghiệm mà con mong muốn? Có phải chăng thèm khát tình dục, thức ăn hay bất cứ khoái lạc xác thân vật lý nào khác là chuyện phải lẽ, nếu đó là trải nghiệm mà con mong muốn? Con chỉ cần tận hưởng những thứ đó, có tối đa những gì con muốn để mau chóng tới điểm chán ngán chúng.

Có một số trường phái triết học Đông phương chủ trương có hai con đường dẫn tới giác ngộ. Một là con đường hiền giả trong đó con buông bỏ lạc thú thế gian, và con đường kia là tận hưởng các lạc thú đó cho tới khi con chán ngán. Tất cả các quan điểm này đều là quan tâm chính đáng. Tuy nhiên, chức năng của một chất độc (và đây là lý do vì sao các thày gọi chúng là chất độc) là nó giam con vào cạm bẫy. Nó giăng bẫy để con rơi vào vòng lẩn quẩn, vào cỗ máy chạy không ngừng nghỉ khiến con chạy lòng vòng, có thể con chạy càng ngày càng nhanh nhưng không thực sự đi đến đâu. Sự thực là, nếu con lấy một người đang tận hưởng các lạc thú của xác thân vật lý, thì nếu y không bị ảnh hưởng bởi chất độc tham lam và khát ái thì y quả thật có thể tới điểm chán ngán các lạc thú đó trong vòng vài kiếp sống và sau đó buông bỏ chúng.

Điểm chính là với dòng thời gian, chất độc đã được tạo ra trên trái đất bởi sa nhân. Khi con người đem chất độc đó vào người mình, thì họ không thể nào thấy đủ. Họ không thể có cảm giác thỏa thuê vì chất độc tham lam và thèm muốn ngăn chặn cảm giác thỏa thuê, cảm giác thấy đủ.

Lẽ tất nhiên, điều này liên quan đến giáo lý mà các thày đã trao truyền về các ngã mà con đã tạo ra. Con tạo ra một ngã cảm thấy thiếu khả năng khi sống trên trái đất. Một avatar thường tạo ra một ngã như vậy khi bị chấn thương nhập đời. Con cảm thấy có cái gì thiếu thốn, có cái gì trống vắng, có cái gì thiếu hụt trong con người mình. Ngã đó chủ yếu được lập trình để khỏa lấp lỗ hổng đó và nó tạo ra các ngã khác nói: “Nếu bạn có đủ tiền thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ tình dục thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn có đủ trọng vọng thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn hoàn thành đủ công việc thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi đủ số người khác thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.” “Nếu bạn thay đổi điều kiện này hay điều kiện nọ trên trái đất thì bạn sẽ lấp đầy lỗ hổng.”

Trong trường hợp một avatar thì câu chuyện trải bày như sau: con tới trái đất để đem lại một thay đổi tích cực. Con kinh qua một chấn thương. Nó khiến con cảm thấy có lỗ hổng, trống vắng. Con tạo ra các ngã phóng chiếu tới con là nếu con có đủ điều kiện này hay điều kiện nọ, thì con sẽ cảm thấy đầy đủ.

Lẽ tất nhiên, cảm giác này dính liền với động lượng tập thể mà sa nhân bắt đầu tạo ra ở bầu cõi thứ tư khi họ bắt đầu sa ngã, và tiếp tục được bồi đắp cho tới ngày nay. Khi con bị chất độc đó ảnh hưởng, thì con không bao giờ cảm thấy đầy đủ. À, con có thể cảm thấy phần nào đủ trong những phút giây ngắn khi con có những trải nghiệm rất cùng cực. Như một huynh đệ của thày có nói, con có trường hợp một thể tháo gia phá kỷ lục thế giới và đoạt huy chương Thế vận hội và có cảm tưởng ngây ngất trong một thời gian ngắn, nhưng sau đó lại cảm thấy không đủ. Hoặc y cần thêm nữa hoặc y rơi vào bệnh trầm cảm lúc nào cũng theo sau trạng thái ngây ngất, vì nó là đối cực của sự ngây ngất. Cái gì bay lên cao sẽ phải rơi xuống. Đó là lý do vì sao ước muốn chính đáng có một loại trải nghiệm nào đó bị tha hóa bởi chất độc để trở thành một sự tìm cầu không bao giờ dứt càng ngày ngày càng muốn nhiều hơn mà không bao giờ thấy đủ, không bao giờ khiến con người cảm thấy mãn nguyện.

17.2. Minh triết Phân biện

Có nhiều người trên trái đất bị sa vào cạm bẫy của các ham muốn (mà các avatar thường không có) lạc thú vật lý và tận hưởng một số điều trên trái đất. Vì con là một avatar nên đây không là mối quan tâm cho con. Các người kia sẽ dần dần được kéo lên khi tâm thức tập thể được nâng lên, và một số trong các người đó sẽ có thể khắc phục các ham muốn đó và tiến lên làm chuyện khác. Khi tâm thức tập thể được nâng lên thì con người quả thực sẽ có thể hòa điệu với Minh triết Phân biện và bắt đầu tự hỏi họ có bao giờ cảm thấy đủ chăng. Con cần uống bao nhiêu ly bia? Con cần có bao nhiêu túi xách tay trong tủ, vân vân và vân vân. Con thấy chăng, sự thực là bên phương Tây là nơi đã có nền văn hóa tiêu thụ từ nhiều thập niên thì đã có người bắt đầu tự đặt những câu hỏi tương tự, và lẽ tất nhiên họ đã làm vậy từ khá lâu nay.

Điều thày muốn cống hiến con, như một avatar, là sự trợ giúp của thày để con nhận được minh triết là thuốc giải độc của thày. Đó là Minh triết Phân biệt (discriminating) hay Minh triết Phân biện (discerning). Có sự khác biệt giữa phán xét giá trị và phân biệt hay phân biện. Phân biệt được dùng với ý nghĩa cao của nó, không phải là ý thường dùng ví dụ như phân biệt đối xử với ai đó dựa trên chủng tộc. Đó là lý do vì sao thày chọn dùng từ phân biện, Minh triết Phân biện.

Khi con hòa điệu với Minh triết Phân biện, thì con có thể bắt đầu tự hỏi mình những câu hỏi đó. Con có thể bắt đầu nhận diện là con có, thí dụ, trong con người mình ước muốn thấy một thay đổi nào đó trên trái đất. Con mong muốn thấy con người thức tỉnh và không chìm đắm trong một sinh hoạt khiến họ đau khổ. Khi con hòa điệu với Minh triết Phân biện, thì con có thể nhớ lại những giáo lý mà các thày đã trao truyền về quyền tự quyết, và tự hỏi xem có hợp lý chăng là con có ước muốn đem lại một thay đổi, hay thấy có sự thay đổi, khi sự thay đổi này tùy thuộc các chọn lựa của người khác.

Con có thể dùng giáo lý để hòa điệu và trải nghiệm thực tại là con không thể, trong cương vị một avatar, cho phép mình có một ngã phóng chiếu tới con là tâm thái của mình, sự an bình nội tâm của mình, tùy thuộc vào chọn lựa của người khác. Con có thể tới điểm thấy là con có một ngã đang phóng chiếu tới con là con phải giúp đem lại một sự đổi thay nào đó và con không thể cảm thấy đầy đủ khi con người vẫn còn bị đau khổ, thí dụ như bị một căn bệnh hay bị thảm tử vì chiến tranh. Điều này có nghĩa chính yếu là trong cả hai trường hợp, con không thể cảm thấy đầy đủ cho tới hết kiếp sống này. Nạn chiến tranh hay tảy trừ được một căn bệnh có thể sẽ không xảy ra khi con hết kiếp sống này, tùy theo số tuổi của con bây giờ.

Như vậy có nghĩa là cho đến hết kiếp sống này, con phải sống với lỗ hổng đó. Con có thể tới điểm nhận ra là con không muốn như vậy. Lúc đó, một lần nữa con có thể dùng giáo lý để nhận ra là một ngã tách biệt đã cho con cảm giác là nhu cầu đó phải được hoàn thành. Con có thể nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi.

Con cũng có thể dùng Minh triết Phân biện để hòa điệu, thiền quán về minh triết đó. Con có thể hình dung nó như một lưỡi dao rất mỏng, rất sắc, làm bằng một chất liệu rất cứng. Hoặc con hình dung nó như một tia laser có thể chọc thủng sự dày đặc của tâm thức nhị nguyên, và qua đó phân biện cái thật và cái không thật, cho phép con thấy đâu là một ước muốn bất khả thi, một ước muốn không thể hoàn thành.

17.3. Xem xét động cơ nguyên thủy của con

Sau đó, con có thể xem xét động cơ nguyên thủy đã thúc đẩy con tới đây, và một lần nữa, thấy là con có một ước muốn không thể hoàn thành trước khi con tới đây. Con chỉ có thể hoàn thành ước muốn đó bằng cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác và điều này vừa trái luật vừa không phải là điều con muốn làm. Nếu con thực sự trụ trong Minh triết Phân biện thì con sẽ thấy là con thực sự không có một ước muốn cao khi con muốn thay đổi chọn lựa của người khác. Đó là một ước muốn trái luật, bất khả thi, không thể hoàn thành, dựa trên một trạng thái tâm thức thấp hơn trạng thái tâm thức mà con có ngày hôm nay.

Lúc đó, con có thể bắt đầu tách những ngã đó ra, tách mình ra khỏi các ngã đó, nhận diện chúng và thấy chúng như chúng là. Thường có thể có nhiều hơn một ngã. Có thể con cần vật lộn một chút với chúng, vì một lần nữa, vấn đề là: con tới đây với thiện ý. Con bị một cú sốc và bắt đầu nghi ngờ ý định của mình, nghi ngờ viễn quan nguyên thủy của mình. Con có thể cần làm việc để tới điểm có thể thấy và nhìn nhận đó là một viễn quan thấp. Viễn quan đó dựa trên một ảo tưởng và do đó con có thể buông bỏ nó. Con có thể buông bỏ cái ngã muốn biện hộ cho lý do vì sao con tới đây, muốn biện minh, giải thích, chứng thực là chuyện con làm không có gì sai trái.

Quả thực là chuyện con làm không có gì sai trái, nhưng nó dựa trên trạng thái tâm thức mà con có lúc đó, và đó không phải là trạng thái tâm thức cao nhất. Đó không phải là trạng thái tâm thức mà con có khi con thăng thiên. Bởi vì con đã trải qua một thời gian dài trên trái đất, con nay có tiềm năng vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và qua đó vươn lên tầng tâm thức nơi con có thể thăng thiên.

Con quả thực không có thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên nhưng con có thể thăng thiên từ địa cầu. Đó là lý do vì sao ta có thể nói là chuyện con xuống địa cầu là điều chính đáng. Đó là một điều chính đáng trong tiến trình tăng trưởng dài hạn của con. Con chỉ cần nhận ra là lý do mà lúc đó con nghĩ đã khiến con xuống địa cầu không chính đáng, không tối hậu. Minh triết Phân biện có thể giúp con cắt đứt những bợn nhơ trong tâm mình, trong đó cũng có một ngã cảm thấy không bao giờ chán việc tạo thay đổi trên trái đất – cho tới khi tất cả mọi người được giải thoát, và điều đó tất nhiên là một công trình rất dài hạn.

Bằng cách sử dụng Minh triết Phân biện, bằng cách đọc câu chú của thày, hòa điệu với Sinh thể của thày, con có thể giải thoát mình khỏi các động lượng mà nhiều người trong các con đã mang theo mình từ hai triệu năm. Con có thể khắc phục các động lượng đó, mau chóng tiến bộ và đạt được cảm giác an bình hơn mà tất cả các thày mong con đạt được. Con yêu dấu, đây là món quà mà thày tặng con.

19 | Khắc phục ghen tị bằng thành tựu tất cả

Chân sư Thăng thiên Amogasiddhi qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Amogasiddhi. Thày là thuốc giải của chất độc ghen tị. Ghen tị là gì? Nó từ đâu tới? Nó phát xuất, như các chất độc khác, từ sa nhân vì sau khi họ sa ngã họ trải nghiệm một điều mà họ không trải nghiệm trước đó. Trước khi họ sa ngã, trong nhiều trường hợp họ đã đạt được thành đạt cao trong việc đồng-sáng tạo, hay ít nhất là trong việc làm chủ cõi vật chất trong các bầu cõi khi họ sa ngã, tức là các bầu cõi thứ tư, thứ năm hay thứ sáu. Một số các sa nhân đó đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ để kiểm soát, tìm cách duy trì một cái gì hay một trạng thái nào, thay vì chịu buông bỏ một trạng thái giới hạn để đồng-sáng tạo một cái gì cao hơn.

19.1. Ghen tị phát khởi như thế nào

Đó là, như các thày đã giảng, nguyên lý căn bản của tiến trình đồng-sáng tạo. Con sáng tạo xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con. Con trải nghiệm sự trải bày vật lý của sự sáng tạo đó. Sau đó, con cải thiện ý niệm bản ngã của mình, nâng nó lên cao hơn, và đồng-sáng tạo một cái gì hơn trước dựa trên ngã mới đó. Tiến trình này đòi hỏi con để cho ngã trước chết đi. Nếu con không chịu làm điều này thì con rơi vào tâm thái tìm cách duy trì hoặc ngã cũ hoặc trạng thái mà con đã đạt được trong cõi vật lý. Khi con chưa sa ngã thì con vẫn nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con và con quả thực có thể dùng ánh sáng đó để sáng tạo tình trạng kiểm soát đó.

Một số các sa nhân nguyên thủy đã xây dựng ý niệm họ là những sinh thể cao nhất, tinh tiến nhất, thiện xảo nhất, uy dũng nhất trong ốc đảo nhỏ bé mà họ đã tự tạo cho họ. Họ thường có nhiều môn đồ khẳng định và công nhận họ cao cả, họ là người lãnh đạo, họ có uy quyền nhất. Họ có ý niệm bản sắc là sinh thể cao cả, và do đó họ không có nhu cầu ghen tị vì họ nghĩ họ ở địa vị cao nhất. Điều này tất nhiên chỉ xảy ra trên những thế giới mà các con gọi là hành tinh trong bầu cõi này. Lúc đó chỉ có một số nhỏ hành tinh nơi sa nhân được phép xây dựng các nền văn minh “tinh xảo” của họ.

Chỉ khi bầu cõi sẵn sàng thăng thiên thì sa nhân mới phải đối mặt với các chân sư thăng thiên. Chỉ lúc đó họ mới nhận ra là các tạo vật của họ, những gì họ đồng-sáng tạo, không cao cả như họ nghĩ. Sau đó, sa nhân sa xuống bầu cõi kế tiếp được tạo ra. Lúc đó, họ dần dần nhận ra, khi họ liên hệ với những sinh thể mới được tạo ra trong bầu cõi đó và một số sinh thể khác mà họ gặp (tương đương với các sinh thể mà ta gọi là avatar trong bầu cõi này) là họ bị cắt đứt khỏi Hiện diện TA LÀ của họ. Thực ra thì sa nhân không nhận ra điều này nhưng họ trải nghiệm có một số sinh thể khác có nhiều ánh sáng tâm linh hơn họ, nhiều năng lượng sáng tạo hơn họ.

Ta có thể nói là sa nhân không còn là người đồng-sáng tạo nữa vì họ không thể đồng-sáng tạo với Hiện diện TA LÀ, vì họ không còn nhận năng lượng sáng tạo từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ chỉ có thể phản-sáng tạo bằng cách lấy ánh sáng đã được mang vào thế giới, bầu cõi, nơi họ sinh sống. Họ không thể tạo tác cái mới, do đó họ tìm cách, một lần nữa, tạo ra đế quốc nơi họ có thể tôn mình lên địa vị lãnh đạo.

Những môn đồ đã sa ngã theo họ lại tôn vinh họ như lãnh đạo nên họ đã có thể xây dựng những đế quốc như vậy. Thỉnh thoảng một số sinh thể có ánh sáng tâm linh được gửi xuống các hành tinh, các đế quốc đó, để chứng minh cho sa nhân thấy là họ có cái gì mà những sa nhân, thoạt trông rất uy dũng, thiện xảo, không có. Đó là nguồn gốc của ghen tị. Sa nhân thấy ánh sáng nơi người khác, những người vẫn còn là người đồng-sáng tạo, và họ thèm muốn ánh sáng đó. Họ nhận ra ở tầng nào đó trong tâm họ, là họ không thể có ánh sáng đó khi họ còn trong tâm thức sa ngã. Họ không chịu buông bỏ tâm thức sa ngã nên họ không thể có ánh sáng đó.

19.2. Thù hận ánh sáng

Điều này dẫn họ tới điểm thù hận ánh sáng, thù hận các avatar, thù hận những người có khả năng đồng-sáng tạo. Giận dữ là một cảm xúc cùng cực, nhưng thù hận còn cùng cực hơn nữa. Giận dữ khiến con muốn trừng phạt người khác, còn thù hận khiến con muốn tiêu hủy họ. Sa nhân phát triển ý muốn tiêu hủy nhưng ý muốn này rất dính liền với lòng ghen tị vì họ nghĩ (hay con có thể nói là họ trải nghiệm) là họ không thể có điều mà các avatar và người đồng-sáng tạo có. Lẽ tất nhiên, họ có thể có ánh sáng nếu họ chịu buông bỏ ngã sa ngã và đi vào tiến trình dần dần thăng vượt các ngã, vươn lên tầng tâm thức cao hơn và như vậy nhận được lại ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ. Vì họ không chịu làm điều này nên họ trải nghiệm, theo tầm nhìn của họ, là họ không thể có ánh sáng.

Ngay khi sa nhân tới một hành tinh, như khi họ tới trái đất, thì họ lập tức đưa vào tâm thức nhị nguyên. Họ tạo ra phán xét giá trị giữa những người đúng, những nguời sai, những người cao cả hơn, những người thấp kém hơn, những người uy dũng nhất, thiện xảo nhất và những người không được xem là uy dũng, thiện xảo. Lúc đó, con có một lực lượng sa nhân năng động không nhất thiết muốn tiêu hủy các cư dân nguyên thủy của trái đất (vì họ thực sự muốn kiểm soát những người này) nhưng họ cũng muốn các cư dân nguyên thủy cảm thấy ghen tị sa nhân vì sa nhân có uy quyền và có phần nào khả năng điều ngự cõi vật chất.

Sa nhân tất nhiên tìm cách lấy chất độc mà họ đã mang theo họ và ta có thể nói, xuất cảng nó tới tất cả mọi người trên trái đất và đặt mọi người vào tâm thái so sánh. Lẽ tự nhiên, con chỉ có lòng ghen tị khi con ở trong tâm thức nhị nguyên và có tâm phán xét giá trị khiến con so sánh mọi thứ dựa trên thang điểm có hai đối cực, trong đó một bên tốt hơn bên kia. Cốt lõi ý tưởng có một điều gì tốt hơn điều khác bắt nguồn từ tâm thức nhị nguyên và chất độc ghen tị.

19.3. Khắc phục ghen tị

Thày là thuốc giải chất độc ghen tị và thuốc này được gọi là Minh triết Thành tựu Tất cả. Lẽ tự nhiên, từ một tầm nhìn nào đó, từ một tầng tâm thức nào đó, nó sẽ như sau: “Tôi trải nghiệm là trên trái đất có những người có cái gì mà tôi không có. Tôi mong muốn có cái đó. Vậy nếu tôi có Minh triết Thành tựu Tất cả của Amogasiddhi, thì tôi phải có quyền năng có được bất cứ điều gì tôi mong muốn trên trái đất, và khi đó tôi không phải cảm thấy ghen tị bất cứ ai vì không ai có gì hơn tôi.”

Đây là cách con người đã nhiều lần suy luận từ khi giáo lý này được trao truyền, nhưng Minh triết Thành tựu Tất cả không chính xác là như vậy. Thày muốn cho các con một vài ý tưởng về đề tài này. Khi con, như một người đang đầu thai trên trái đất, cảm thấy ghen tị, thì con đang cảm thấy ghen tị hay đó là một ngã tách biệt? Dựa trên giáo lý các thày, thì lẽ tất nhiên con biết đó là một ngã tách biệt cảm thấy như vậy. Các thày đã giảng gì về các ngã tách biệt? Chúng phóng chiếu là có một vấn đề cần giải quyết. Có một điều kiện cần được hoàn thành và sau đó con sẽ có được cảm giác nào đó.

Nói cách khác, con đang cảm thấy ghen tị, nhưng nếu con có được điều con thèm muốn, thì con sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Đó là lối suy luận của các ngã đó. Các ngã đó sẽ nói: “Hãy xin thày Amogasiddhi và được Minh triết Thành tựu Tất cả để ta có được điều kiện mà ta mong muốn, lúc đó bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa. Bạn sẽ không cảm thấy ghen tị nữa khi ta, ngã tách biệt, có được điều ta mong muốn.”

Lẽ tất nhiên, Minh triết Thành tựu Tất cả cho phép con, như cái Ta Biết, bước ra ngoài ngã đó và thấy là điều ngã đó muốn lại là một thí dụ khác của mục tiêu bất khả thi, ước muốn bất khả thi. Ngay cả khi con có được điều mà ngã phóng chiếu là con phải có, thì con vẫn không khắc phục được chất độc ghen tị vì chính chất độc là chất độc.

Niềm tin con thèm muốn điều gì và con cần phải có điều gì chỉ là một ảo tưởng mà chất độc ẩn núp đằng sau. Đây là một sự phân biệt mà ngã không thể thấy. Nó chỉ có thể như một máy điện toán, được lập trình để theo đuổi một mục tiêu. Con thèm muốn uy lực, thì ngã phóng chiếu là con cần phải có uy lực. Con sẽ không bao giờ an bình khi con chưa có uy lực đó. Con yêu dấu, chính sự ghen tị những người có uy lực là chất độc, là điều kiện. Thày muốn cho con một hình ảnh tương tự: ta hãy giả dụ hầm nhà con ngập nước nhưng con không biết là hầm đầy nước. Trong nhà con có một người duy nhất đi xuống hầm, y biết là hầm đầy nước nhưng y không muốn cho con biết điều đó. Thay vào đó, y phóng chiếu vào tâm con hay nói với con là căn nhà của con cần một mái mới và khi con có một mái mới thì con sẽ cảm thấy thoải mái hơn.

Chúng ta giả sử ở đây là tuy con không biết một cách ý thức là căn nhà của con đầy nước nhưng con – bỗng nhiên – cảm thấy bất an khi ở trong nhà mình. Người kia phóng chiếu là nguyên do sự bất an là vì người hàng xóm có một mái mới tuyệt đẹp. Con cần có một mái tốt hơn họ, và sau đó con sẽ cảm thấy thoải mái trở lại. Nhưng nguyên do con cảm thấy bất an là vì hầm đầy nước. Mái nhà mới của con có kiểu cách thế nào chăng nữa thì con có thể rút nước khỏi hầm chăng? Không, vì chất độc vẫn còn đó và chuyện giản dị là có một ngã đang phóng chiếu ảo tưởng là con cần có điều mà ngã thèm muốn.

Nếu con ghen tị người có địa vị hay danh dự nào đó trong xã hội, thì ngã phóng chiếu là con cần danh dự đó, và sau đó con sẽ được bình an. Không phải sự thiếu danh dự khiến con bất an, mà đó là chất độc tâm linh ghen tị khiến con cảm thấy như vậy. Đó là lý do vì sao có được danh dự không chấm dứt lòng ghen tị. Chỉ khi con vứt bỏ chất độc thì con mới chấm dứt được sự bất an.

Làm sao con loại bỏ chất độc? Lẽ tất nhiên, một phần là con tới điểm thấy nó và hiểu chất độc là gì. Con hiểu có một ngã tách biệt đang dùng chất độc để phóng chiếu là con cần làm một điều gì, sau đó con tách mình ra khỏi ngã đó và buông bỏ nó. Phần kia là con đem thuốc giải vào bản thể mình, thuốc giải này có khả năng tiêu trừ, xua đuổi, làm tan biến chất độc. Đó là lý do vì sao các thày cống hiến sự trợ giúp của các thày, của tất cả các thày, để con có thể hòa điệu với bản thể các thày, và mở tâm, mở bốn thể phàm để đón nhận một dòng thuốc giải sẽ tiêu trừ chất độc. Mọi chuyện đều xoay vần chung quanh quyền tự quyết. Đó là lý do vì sao con cần thấy một số chuyện, nhận ra một số chuyện. Các thày sẽ giúp con tới điểm đó, con có thể tới điểm đó bằng cách dùng các giáo lý mà các chân sư khác đã trao truyền về ngã gốc, ngã tách biệt, vân vân.

19.4. Lòng ghen tị sa nhân

Các thày có nói là một số avatar đã có quan hệ nào đó với một số sa nhân – hai bên đã nảy sinh sự tương kính. Các avatar ngưỡng mộ khả năng làm chủ vật chất của sa nhân. Có một một số avatar có lòng ghen tị sa nhân vì sa nhân có tài kiểm soát vật chất, không phải đồng-sáng tạo mà kiểm soát. Đó là lý do vì sao Minh triết Thành tựu Tất cả có thể giúp con thấy là kiểm soát vật chất thực ra không phải là một thành tựu cao. Nó chắc chắn không phải là một thành đạt thành tựu tất cả, cho dù những gì sa nhân có thể làm được trên một hành tinh như trái đất trông có vẻ vĩ đại. Những gì con có thể thành tựu qua tư duy kiểm soát, tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên, có giới hạn. Tất cả những gì con sáng tạo – phản-sáng tạo  – xuyên qua tư duy sa ngã sẽ chịu định luật thứ nhì của nhiệt động học, như các thày có gọi quy luật này, hay là Thịnh nộ của Shiva, hay là lực co thắt của đấng Mẹ. Nói cách khác, nó sẽ có một đối cực. Sẽ có sự căng thẳng giữa hai đối cực, và rốt cuộc chúng sẽ tiêu hủy lẫn nhau.  

Sa nhân càng có nhiều uy quyền, thì uy quyền này sẽ tạo sự chống đối càng lớn. Do đó, rốt cuộc sẽ tới điểm các thành tựu của hai bên sẽ tiêu trừ lẫn nhau. Đây không phải là thành tựu thực sự. Thành tựu thực sự đạt được qua tiến trình đồng-sáng tạo qua đó con đồng-sáng tạo xuyên qua ngã hiện tại của con, dùng phản hồi để nới rộng ý niệm bản ngã và sau đó đồng-sáng tạo cái gì hơn nữa. Con có thể tiếp tục tiến trình này mãi mãi vì khi con đồng-sáng tạo thì con không tạo ra sự đối kháng chống lại tạo vật của con.

Minh triết Thành tựu Tất cả sẽ chỉ cho con thấy sự khác biệt giữa phản-sáng tạo và đồng-sáng tạo và qua đó giúp con thấy là, như một avatar, con có ước muốn chân thực muốn cải thiện chính mình, muốn tăng trưởng ý niệm bản ngã, muốn gia tăng các thành tựu, nhưng điều này chỉ có thể tác thành qua sự đồng-sáng tạo, chứ không phải qua sự phản-sáng tạo. Cảm giác thành tựu thật mà con có thể có là nhận ra, như Giê-su đã chứng minh, con không thể tự mình làm gì cả bằng ngã vỏ ngoài, ngã hạn hẹp mà con khoác vào khi ở trên trái đất. Chỉ khi con nối kết với cái ta cao của con, với Hiện diện TA LÀ của con, thì con mới thật sự đồng-sáng tạo.

19.5 Ghen tị Giê-su

Một đề tài khác mà thày muốn nêu lên ở đây là có một số người đồng-sáng tạo, một số avatar, có lòng ghen tị các avatar khác. Tỷ dụ, một chuyện thông thường là các avatar có lòng ghen tị Giê-su hay đức Phật hay một số người khác được công chúng biết đến vì một lý do tích cực nào đó.

Chúng ta hãy chú tâm ở đây vào trường hợp Giê-su. Các giáo hội Thiên chúa giáo đã xây dựng một sự sùng bái Giê-su vĩ đại, và các giáo hội này đã do sa nhân dàn dựng lên để là công cụ cho họ. Ngay cả một số đệ tử tâm linh, kể cả đệ tử chân sư thăng thiên, vẫn sùng bái Giê-su. Quyển sách mới xuất bản, Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su, đã tìm cách phá vỡ sự sùng bái đó và cho các con thấy là Giê-su là một avatar, và các con cũng là avatar, và Giê-su có nói: “Công việc ta làm, các con cũng có thể làm.”  Các chân sư thăng thiên luôn luôn nói: “Việc một người đã làm, tất cả đều làm được.” Điều này cần được hiểu trong khung cảnh những giới hạn của thực tại thực tiễn trên một hành tinh như trái đất.

Điều thày muốn nói ở đây là dù con không biết một cách ý thức là con là một avatar, thì con có cảm giác vi tế, nội tại, trực nhận là: “Tại sao Giê-su lại được nâng lên địa vị khuôn mặt tâm linh cơ yếu của thời Song ngư?” Nhiều người trong số các con có thể cảm thấy trong mình có một ngã nói: “Tại sao là Giê-su mà không phải là tôi?” Giờ đây, con nên hiểu lý do vì sao con có thể cảm thấy như vậy là vì ở một tầng nào đó của bản thể của con (không phải ở tầng ý thức), con nhận ra mình là một avatar, Giê-su cũng là một avatar, và do đó con có tiềm năng đảm trách địa vị mà Giê-su đã đảm trách.

Con biết, ở một tầng nào đó của bản thể của con, là sa nhân đã không nói sự thực khi họ nói rằng: “Giê-su rất độc đáo và quá khác biệt nên bạn không thể nào làm được những gì Giê-su đã làm.” Con có cảm giác nội tại là Giê-su đã nói sự thật khi thày nói là con có thể làm công việc mà thày đã làm. Vì con bị chấn thương nhập đời (hay vì con đã tạo ra ngã gốc, hay vì con muốn bù đắp những mất mát mà con cảm thấy mình đã phải gánh chịu khi xuống trái đất), nên điều này đã khiến con muốn nâng mình lên, chứng minh giá trị của mình, chứng minh vì sao việc con tới trái đất là đúng. Các ý tưởng đó có thể khiến con dấy lên lòng ghen tị: “Vì sao là Giê-su, mà không phải là tôi?”

Đây là chỗ con có thể dùng Minh triết Thành tựu Tất cả để nhận ra là có một thực tại thực tiễn trên trái đất. Có trình tự các chu kỳ nối tiếp nhau. Khi mỗi chu kỳ khai mở, ít ra là khi Thời đại Song ngư khai mở, cần có một người hiện thân các khai ngộ của Thời đại Song ngư.

Chúng ta bây giờ đang bước vào Thời đại Bảo bình, được gọi là thời đại cộng đồng. Do đó, trong Thời đại Bảo bình không có nhu cầu có một người là tấm gương cao cả. Nhưng quả thực là có nhu cầu có nhiều người nêu gương thế nào là Ki-tô trong Thời đại Bảo bình. Trong thời Song ngư có nhu cầu có một người thể hiện tiềm năng là Ki-tô trong thời Song ngư, vì tình trạng của hành tinh và tâm thức tập thể lúc đó. Vì một số lý do, và các thày đã diễn bày một số các lý do đó trong quyển Các kiếp sống của tôi, Giê-su là người được lựa chọn, và đã chọn lựa nâng mình lên tới điểm có thể đảm trách địa vị đó. Minh triết Thành tựu Tất cả có thể giúp con thấy thực tại thực tiễn đó, và nó cũng có thể giúp con nhìn xa hơn và thấy là các thành đạt của Giê-su không làm giảm đi những thành đạt của chính con. Con là một thành viên của mạn đà la các avatar đã tới hành tinh này. Dù các con có thể đã tới từ những hành tinh khác nhau nhưng các con đều thuộc mạn đà la đó. Mạn đà la đó dựa trên cái Một và điều một thành viên của mạn đà la đạt được sẽ nâng tất cả lên. Con, như một avatar, không có lý do gì để ghen tị những thành đạt của Giê-su vì con đã dự phần vào thành đạt đó – nếu con chấp nhận mình thuộc mạn đà la đó.

Do đó, cũng không có lý do gì để một người trong nhóm các con ghen tị người khác trong nhóm. Có một số người đã đến đây, trải nghiệm việc vị sứ giả này nhận bài truyền đọc, và một phần trong họ đã cảm thấy: “Tại sao là ông ta mà không phải là tôi?” Một số người đã bỏ đi vì họ không giải quyết được lòng ghen tị đó, một số đã nổi giận, một số đã tìm cách hạ bệ người sứ giả và chỉ trích ông điều này điều nọ.

Đây chắc chắn là điều đã xảy ra trong các đợt truyền giáo trước, và quả thực là trong đợt truyền giáo kế trước vị sứ giả đã phải cam chịu nhiều hơn rất nhiều. Một số người đã nghĩ họ có thể làm một sứ giả tốt hơn bà, và đã chỉ trích bà là không giỏi đủ, phạm lỗi lầm này hay lỗi lầm nọ, có biệt tật này hay biệt tật nọ, vân vân và vân vân. Một số những người đó là sa nhân không sẵn sàng cải tạo chính mình, nhưng một số đã là avatar.

Điều con cần nhận ra ở đây là con có tiềm năng thấy là lòng ghen tị đó đến từ một ngã tách biệt mà con đã tạo ra vì con cần bù đắp cảm giác mất mát khi con tới trái đất. Nếu con đối mặt ngã đó và khắc phục nó, thì con sẽ khắc phục được lòng ghen tị người sứ giả. Con có thể thấy là con thuộc mạn đà la và do đó con có một món quà độc đáo mà con có thể mang lại trong Thời đại Bảo bình. Con có thể làm điều này bằng cách cộng tác với vị sứ giả, nhưng con cũng có thể đi ra ngoài xã hội và đem lại món quà của riêng con.

19.6. Chú tâm vào món quà độc đáo của con

Khi con sử dụng Minh triết Thành tựu Tất cả thì con nhận ra là điều con thật sự tới đây để hoàn thành không phải là mục tiêu đã được quy định bởi các ngã tách biệt phát xuất từ ngã gốc. Các mục tiêu đó đều là mục tiêu giả sẽ không giúp con cảm thấy mình đã hoàn thành lý do vì sao mình tới trái đất.

Con cần làm điều mà các thày đã giảng: nhìn vào động cơ thúc đẩy mình tới đây, nhận ra nó không nhất thiết là động cơ cao nhất đã thúc đẩy con và nhận ra là, trước tiên hết, lý do thực đưa con tới trái đất là tăng triển sự tự nhận biết của mình. Đây là nguyên do cận kề hay là lý do omega. Lý do alpha là con tới trái đất để là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, qua đó con có thể mang vào bát cung vật lý món quà độc đáo của con. Khi con nhận ra là sự thành tựu tất cả của con là mang lại món quà độc đáo của mình, thì con cũng nhận ra là tuyệt đối không có lý do gì để con ghen tị người khác khi người đó đang biểu lộ món quà độc đáo của họ.

Tất cả các con và mỗi người trong các con đã tới đây như một avatar đều có tiềm năng đem lại cho hành tinh này một món quà tuyệt đối độc đáo. Như các thày có nói: “Trong cái độc đáo không thể có so sánh, và khi không có so sánh thì không thể có ghen tị.” Những gì Giê-su đã làm không tốt hơn hay quan trọng hơn những gì con có thể đem tới. Những gì người sứ giả này đang làm không tốt hơn hay quan trọng hơn món quà của con. Tất cả các con – món quà của các con đều quan trọng như nhau.

Con có thể cần sử dụng Minh triết Bình đẳng để thấy là Thượng đế không phân biệt và đặt phán xét giá trị lên các người đồng-sáng tạo đang là biểu hiện của Tâm Một. Khi con thực sự áp dụng Minh triết Phân biện, con có thể thấy là một Hiện diện TA LÀ không hơn một Hiện diện TA LÀ khác. Không có phán xét giá trị nào áp dụng cho các Hiện diện TA LÀ. Mỗi Hiện diện đều độc đáo.  

Câu hỏi duy nhất – quả thật vậy – có thể đặt ra cho con là: “Cánh cửa của tôi mở đến độ nào cho Hiện điện TA LÀ của tôi?” Nếu con nhìn một người khác và có thể thấy: “Ồ, cánh cửa cho Hiện diện của người này rộng mở hơn là cánh cửa của tôi,” thì lúc đó thay vì khởi lên lòng ghen tị, con nói: “Nhưng tôi chỉ cần nhìn vào các ngã tách biệt mà tôi có đang ngăn chặn tôi là cánh cửa mở, đang đóng lại các khe mở, đang lọc lựa đi những gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi. Khi tôi loại trừ các ngã đó thì tôi đạt được thành tựu tất cả là cánh cửa hoàn toàn mở cho Hiện diện TA LÀ của tôi, và đây là điều cho tôi ý niệm thành đạt tối hậu trên trái đất. Tất cả những mục tiêu kém hơn do các ngã tách biệt quy định đều là mục tiêu giả và chúng sẽ không cho tôi cảm giác thành đạt tối hậu, cảm giác mãn nguyện tối hậu, cảm giác an bình tối hậu với việc mình ở trên trái đất, đã tới trái đất, đã mang lại món quà và vĩnh viễn rời bỏ trái đất khi thăng thiên.

Đó là điều thày cống hiến các con, nếu các con hòa điệu với thày xuyên qua Minh triết Thành tựu Tất cả. Con quả thực có thể thành tựu mọi điều trên trái đất, không phải tất cả những điều mà các ngã tách biệt của con mong muốn, hay người khác mong muốn, hay sa nhân đã phóng chiếu là con phải mong muốn. Nhưng là tất cả những điều mà Hiện diện TA LÀ của con mong muốn hoàn thành xuyên qua con, và con, như cái Ta Biết, mong muốn hoàn thành khi con nhận ra con là một sinh thể vô hình tướng và con không đồng hóa với các ngã tách biệt – con để chúng chết đi. Con yêu dấu, khi cái Ta Biết là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, thì nó không trở thành một người máy, một con rối bị giựt dây. Con vẫn còn những chọn lựa mà con phải lấy như cái Ta Biết: con muốn hoàn thành những gì, con muốn trải nghiệm những gì, con muốn vui hưởng những gì. Con không lấy những chọn lựa này xuyên qua sự đồng hóa với một ngã tách biệt. Con lấy chọn lựa tự do trong cương vị một sinh thể vô hình tướng về những gì con muốn trải nghiệm trong hình tướng, những gì con muốn hoàn thành trong hình tướng, những gì con muốn vui hưởng khi vẫn còn trong xác thân vật lý. Đây là những chọn lựa tự do và là những ước muốn chính đáng. Không có gì sai trái khi một cái Ta Biết có ước muốn trải nghiệm một sắc thái nào đó của đời sống trên trái đất, muốn hoàn thành cái gì đó trên trái đất, muốn vui hưởng cái gì đó khi còn hiện thân trong cõi vật lý. Đây là một chọn lựa tự do mà con lấy. Không phải là một chọn lựa mà con bị một ngã tách biệt bắt buộc phải lấy và không bao giờ đem lại cho con cảm giác thành đạt, vui sướng và an bình khi sống ở đây.

Các con yêu dấu, bài giảng này đã đem lại cho thày một cảm giác thành đạt vì thày đã được phép đem lại món quà này và các con đã sẵn lòng nhận nó. Dòng chảy hình số tám đã khép và thày tri ân con đã giúp nó có mặt.

21 | Ý chí của Hiện diện TA LÀ là ý chí của con

Chân sư Thăng thiên Vajrasattva qua trung gian Kim Michaels, ngày 23 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

Ta chính thật là Phật Vajrasattva. Thày là thuốc giải của chất độc không-muốn và không-là. Vậy, các chất độc này là gì? Ấy, các thày đã trao truyền cho các con những giáo lý rất thâm sâu về quyền tự quyết. Thành thật mà nói, các giáo lý về quyền tự quyết này vượt quá tất cả những gì đã được trao truyền trước đây trên hành tinh này. Thày không nói như vậy để đề cao giáo lý này nhưng để giúp con nhận định là có nhiều chuyện để con suy ngẫm, vì cách duy nhất để khắc phục không-muốn và không-là là có một hiểu biết sâu sắc về luật tự quyết hơn đa số con người trên trái đất.

21.1. Quyền tự quyết vừa có giới hạn vừa tự do

Thày mong muốn cho con một cái nhìn về chủ đề này. Điều mà các thày đã giảng là đấng Sáng tạo tạo ra những sinh thể đồng-sáng tạo như các phần nối dài có tự nhận biết của chính Ngài, và Ngài cho các sinh thể này quyền tự quyết. Quyền tự quyết. Giờ đây, đa số con người trên trái đất, khi nghe khái niệm hay cụm từ “quyền tự quyết”, thì họ nghĩ là lúc nào ý chí của họ cũng có giới hạn, lúc nào các chọn lựa của mình cũng có giới hạn, những chọn lựa mà con có thể chọn. Như các thày có giảng, điều này đúng theo nghĩa khi con khởi sự như một người đồng-sáng tạo, con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua ý niệm bản ngã của con lúc đó, và Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày sự phóng chiếu đó.

Ý niệm bản ngã đương thời của con giới hạn quyền tự quyết của con theo nghĩa ý niệm bản ngã của con giới hạn những gì con có thể thấy, hình dung, tưởng tượng. Quyền tự quyết bị giới hạn theo nghĩa các chọn lựa mà con có thể thấy bị giới hạn bởi viễn quan, tầm nhìn của ý niệm bản ngã đương thời của con. Không có giới hạn theo nghĩa con được tự do thăm dò bất cứ gì con có thể làm như một người đồng-sáng tạo trên một hành tinh chưa thăng thiên.

Điều này có nghĩa con được tự do nâng ý niệm bản ngã của mình lên, nới rộng ý niệm bản ngã đó tới mức tối đa có thể đạt được trong một bầu cõi chưa thăng thiên, để sau đó con thăng thiên. Sau đó, lẽ tất nhiên con có thể tiếp tục thực thi ý chí của mình trên cõi thăng thiên. Sự thực là ý chí của con sẽ tự do hơn, tuy sự tự do này khác những gì con có thể hình dung khi vẫn còn hiện thân trong cõi vật lý.

Bằng cách dùng quyền tự quyết con cũng có chọn lựa đi ngược lại và giới hạn ý niệm bản ngã của mình, thậm chí đi vào nhị nguyên, tạo ra một ngã tách biệt và sau đó thăm dò toàn bộ những gì con có thể hình dung và làm xuyên qua ngã tách biệt đó. Giờ đây, có người sẽ nói: “Nhưng tôi không có quyền tự do hoàn toàn làm bất cứ gì tôi muốn xuyên qua ngã tách biệt vì có luật nhân quả, hay vì có những giới hạn khác, hay vì người khác, hay vì cách Ánh sáng Mẫu-Vật vận hành. Nói cách khác, những chọn lựa trước của tôi giới hạn những chọn lựa đương thời của tôi, và như vậy tôi không thực sự có quyền tự quyết.”

Ấy, như các thày có giảng trước đây, thực tại đơn giản là nếu con lấy một chọn lựa và chọn lựa này không có hậu quả, thì con đã không thực sự chọn lựa. Khi con chọn lựa phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã đương thời của con, thì nếu Ánh sáng Mẫu-Vật không gửi trả lại con tín hiệu nào, không trải bày những gì con phóng chiếu lên nó, thì con đã không thực sự lấy một chọn lựa. Như các thày cũng có giảng, những gì con đang trải nghiệm trong thế giới vật chất là kết quả của những gì con đã phóng chiếu xuyên qua ý niệm bản ngã của con.

Con có chọn lựa nới rộng ý niệm bản ngã đó. Không phải chỉ những điều con nhận trở lại như hoàn cảnh vật lý sẽ thay đổi (ít ra là dần dần thay đổi), mà cách con trải nghiệm những thay đổi vật lý đó sẽ thay đổi ngay tức khắc khi con thay đổi ý niệm bản ngã của mình. Tuy con trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, nhưng con vẫn có quyền tự do thăng vượt hay hạn chế ý niệm bản ngã của mình, thăng vượt hay hạ xuống.

21.2. Định nghĩa của không-muốn

Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt mà thày muốn giảng cho các con. Thày sẽ bắt đầu, như một thí dụ, với trường hợp các sa nhân. Trong bầu cõi thứ tư có một số sinh thể đã dùng khả năng đồng-sáng tạo của họ, kể cả ánh sáng mà họ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của họ, để bắt đầu tạo tác một cách kiểm soát thay vì sáng tạo. Họ đã tạo dựng cho họ một số hành tinh nơi họ đã xây dựng những nền văn minh rất tinh xảo, nhưng có nền văn hóa và môi trường rất kiểm soát. Đây là một cấu trúc rất có thứ bậc, trong đó một hay vài sa nhân có quyền lực tuyệt đối trên hàng tỷ người đầu thai trên hành tinh đó.

Chuyện xảy ra với các sinh thể đó là họ bắt đầu nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả, vì có thể nói là dân chúng tuân theo họ và nhiều khi gánh chịu hậu quả việc làm của các lãnh tụ. Các lãnh tụ có thể ngồi trong tháp ngà, như con thấy các nhà vua hay hoàng đế thời xưa, và dân chúng làm mọi công việc và lãnh chịu mọi vấn đề. Các lãnh tụ có thể xây dựng ảo tưởng là quyền tự quyết có nghĩa là họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả.

Lúc đó, ảo tưởng này có thể khiến các sinh thể đó có tâm thái đặc biệt đặt trọng tâm vào chính họ. Tuy họ chưa là sa nhân, nhưng họ trở nên quá vị kỷ đến độ có thái độ, có niềm tin rằng: “Nếu tôi thực sự có quyền tự quyết, nếu tôi – như chỉ riêng tôi, như một sinh thể tách biệt – thực sự có quyền tự quyết, thì toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của tôi.” Ta có thể nói đây là sự trải bày tối hậu của quyền tự quyết. Đây cũng là ảo tưởng tối hậu của quyền tự quyết và quả thật đó là sự chối bỏ quyền tự quyết và do đó là định nghĩa của không-muốn.

Những sinh thể trong bầu cõi thứ tư đó có ảo tưởng, dựa trên trải nghiệm của họ trên hành tinh của họ, và vì hành tinh đó đa phần tuân theo ý chí của họ, là toàn thể vũ trụ cũng phải tuân theo như vậy. Lẽ tất nhiên, họ không nhận ra là phần còn lại của bầu cõi đang thăng thiên và đã gần tới điểm thăng thiên. Họ không nhận ra ảo tưởng của họ cho tới khi các chân sư thăng thiên khiến họ phải đối mặt với ảo tưởng đó. Họ bỗng nhiên tỉnh ngộ và họ quyết định là nếu toàn thể vũ trụ không tuân theo ý chí của họ như một cá nhân, thì họ không thực sự có quyền tự quyết. Do đó, đấng Sáng tạo đã lừa họ, đây là một sự gian dối, họ đã không thực sự nhận được quyền tự quyết.

21.3. Ảo tưởng không-muốn

Giờ đây, lẽ tất nhiên con có thể thấy là ảo tưởng này chỉ có thể khởi lên nơi một sinh thể hoàn toàn coi mình là trọng tâm của vũ trụ, không tôn trọng, không có tình anh em, không có sự hợp nhất, không có lòng từ bi đối với tất cả các sinh thể khác. Họ cư xử như thể đây là một hành tinh với hàng tỷ người sống trên đó và tất cả những người đó phải tuân phục ý chí của một cá nhân.

Xa hơn nữa, họ cũng nói là tất cả các tỷ hành tinh khác trong bầu cõi, với không kể siết tỷ tỷ sinh thể, cũng đều phải tuân theo ý chí của họ. Hơn thế nữa, cõi thăng thiên đã thăng thiên và trở nên thường hằng cũng phải tuân phục ý chí của một cá nhân đó. Đấng Sáng tạo phải tuân phục ý chí của một cá nhân đó. Lẽ tất nhiên, ta có thể nói đây là sự trải bày cùng cực của quyền tự quyết. Con có thể đặt mình vào trạng thái tách biệt, trạng thái coi mình là trọng tâm cùng cực đến độ con tin rằng toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi tâm linh, và đấng Sáng tạo đều phải tuân phục ý chí của con.

Lẽ tất nhiên, điều này có nghĩa là con tin rằng tất cả những sinh thể khác, kể cả các chân sư thăng thiên và đấng Sáng tạo, phải đình chỉ quyền tự quyết của họ để cho con ảo tưởng là ý chí của con hoàn toàn tự do. Lẽ tất nhiên, đây là một sự hiểu lầm hoàn toàn chỉ có thể có khi con ở trong trạng thái tách biệt dựa trên nhị nguyên.

Khi các sinh thể này phải chạm trán các chân sư thăng thiên, thì một số thực sự nhận ra ảo tưởng của họ. Một số nhận ra điều này và do đó họ được trợ giúp và được thăng thiên cùng với phần còn lại của bầu cõi. Những sinh thể không chịu thấy ảo tưởng, mà chối bỏ đây là ảo tưởng, thì sa ngã và lúc đó họ rơi vào một tình trạng hoàn toàn khác.

Trước đó, họ vẫn nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ tha hóa ánh sáng đó với tâm thức nhị nguyên và họ dùng ánh sáng để không những xây dựng ý niệm họ là sinh thể tách biệt quan trọng hơn tất cả các sinh thể khác, mà còn dùng hết khả năng để kiểm soát người khác và thậm chí kiểm soát cả vật chất. Giờ đây thì họ đầu thai vào bầu cõi kế tiếp được tạo ra. Bầu cõi này dày đặc hơn bầu cõi trước. Bỗng nhiên, khả năng kiểm soát vật chất mà họ có trước đó không còn mạnh mẽ như trước.

Cùng lúc họ không nhận được ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của họ, do đó họ không thể vượt qua sự dày đặc của vật chất như họ đã làm được trong bầu cõi đầu của họ. Lúc đó, họ trải nghiệm là họ không thể duy trì ý niệm: “Tôi là người duy nhất có tầm quan trọng và toàn thể vũ trụ phải tuân phục những chọn lựa của tôi.” Lý do họ không thể duy trì ý niệm này là vì, trong bầu cõi mà họ sa vào, họ không có nhiều uy lực bằng khi họ sống trong bầu cõi đầu của họ.

21.4. Nguồn gốc của không-là

Điều này khiến một số sa nhân đã rất tức giận và họ đi vào tâm thái quyết định là họ sẽ làm hết sức mình để chứng tỏ là đấng Sáng tạo sai, chứng tỏ là đấng Sáng tạo đã sai lầm khi ban cho con người quyền tự quyết, và dùng mọi cách để chứng tỏ là đấng Sáng tạo sai. Điều này tất nhiên đặt họ vào một cuộc tranh chấp kịch liệt đã khiến cuộc sống của họ càng thêm khó khăn, khiến tâm thái họ càng thêm căng thẳng. Điều này có nghĩa, như các thày có giảng về định luật, là họ càng ngày càng tạo thêm nhiều chống đối. Điều này được trải bày trên một số hành tinh nơi sa nhân tụ tập trong bầu cõi mà sa nhân rơi vào. Trong bầu cõi trước, hoặc có một sinh thể hay có một số nhỏ nắm quyền kiểm soát một hành tinh và họ đã có thể đồng ý phân chia quyền lực.

Điều này không còn xảy ra trong bầu cõi nơi họ sa vào. Lúc nào cũng có ít nhất hai sa nhân trên một hành tinh và họ không thể đồng ý với nhau. Điều này có nghĩa là nay các sa nhân chống đối lẫn nhau và họ tranh chấp quyền lực với nhau khiến cuộc sống của họ càng căng thẳng hơn, càng nặng nề hơn. Họ càng ngày càng cần gắng sức hơn để xây dựng cảm giác là họ làm chủ tình hình.

Lúc đó có một số sa nhân đã dấn thân vào cuộc tranh chấp quyền lực đó, dùng tất cả năng lượng và chú tâm của họ để đánh bại đối thủ hay chứng minh Thượng đế sai hay bất cứ chuyện gì khác. Có một số khác, ít ra là tạm thời, đã chán ngán cuộc tranh chấp quyền lực. Vì họ không chịu từ bỏ ảo tưởng là vũ trụ phải tuân phục ý chí của họ, và vì vũ trụ hiển nhiên không tuân phục ý chí của họ, nên họ quyết định là họ không muốn sống ở đây. Họ không muốn tham gia vào cuộc sống trong vũ trụ này.

Đây là lúc họ tạo ra và đi vào tâm thái không-là. Họ không muốn hiện hữu, họ không muốn có ý thức, họ không muốn có nhận biết. Ta có thể nói chất độc này có hai mặt hay ta cũng có thể nói là có hai chất độc. Con có hiện tượng này trong tất cả các bầu cõi nơi sa nhân đã sa vào, họ đã tạo ra động lượng rất mạnh mẽ của không-muốn và không-là.

21.5. Sự bí ẩn của không-muốn

Động lượng không-muốn không nhất thiết có nghĩa là con không có ý chí. Có một số người trên trái đất, thường không phải là sa nhân, bị ảnh hưởng bởi chất độc không-muốn đến độ họ không còn ý chí. Con có thể nói đây là trường hợp của những người đã thần phục sa nhân. Họ đi vào trạng thái không-muốn, từ bỏ ý chí của họ để tuân theo ý chí của sa nhân.

Sa nhân không đi vào tâm thái không có ý chí. Họ có ý chí lầm lạc khi họ tìm cách ép buộc vũ trụ phải tuân theo ý chí của họ. Đây là không-muốn theo nghĩa nó đi ngược lại toàn bộ mục đích của luật tự quyết là khi con phóng chiếu điều gì lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trải bày những gì con phóng chiếu. Điều này cho con tiềm năng nới rộng ý niệm bản ngã của mình và do đó nâng cách con thực thi quyền tự quyết.

Trên căn bản, con khiến ý chí của con được tự do hơn khi con nới rộng ý niệm bản ngã của mình. Khi con thu hẹp ý niệm bản ngã thì con khiến ý chí của mình kém tự do tuy rằng con có thể tưởng lầm là mình có thêm quyền lực vì người khác quy phục ý chí của họ dưới ý chí của con – nhưng đây chỉ là một ảo tưởng. Ý chí của con trở nên ngày càng hạn hẹp hơn khi con giới hạn ý niệm bản ngã của mình, con giới hạn những gì con có thể thấy.

Giờ đây con có thể nói đây là một sự nghịch lý vì một số sa nhân thực sự có nhiều hiểu biết về cách vũ trụ vận hành hơn nhiều người trên trái đất. Đúng vậy, vì họ đã thu nhập được hiểu biết này qua nhiều kiếp sống trong nhiều bầu cõi. Điều con cần nhận ra là đây không phải là hiểu biết cao nhất về vũ trụ. Đó là một hiểu biết được thu nhập qua một kinh nghiệm rất dài dùng ngã tách biệt.

Họ không thực sự hiểu cách vũ trụ vận hành, nhưng họ hiểu cách vật chất vận hành. Do đó, họ học được qua kinh nghiệm họ vận dụng vật chất với tâm thức sa ngã và cách đánh cắp ánh sáng từ các sinh thể khác thay vì nhận ánh sáng từ cõi tâm linh. Theo nghĩa đó, họ có đôi chút hiểu biết, họ có đôi chút thiện xảo. Họ có thể có nhiều hiểu biết trên mặt trí thức nhưng đây không phải là hiểu biết thực sự. Đây không phải là hiểu biết phát xuất từ một ý niệm bản ngã nới rộng. Ta có thể nói là có hiểu biết, có minh triết, có hiểu biết trí năng và có trải nghiệm trực tiếp, trải nghiệm trực giác, trải nghiệm thần bí về một trạng thái tâm thức cao hơn.

21.6. Avatar và không-muốn

Sau đó trên trái đất ta có hoàn cảnh các avatar xuống đây và gặp gỡ sa nhân. Lúc đó, tình trạng của một avatar đã tiến hóa trên hành tinh tự nhiên là gì? À, như một avatar, con không có ý niệm mình là một sinh thể tách biệt. Con có ý niệm mình là một sinh thể cá biệt và một số avatar đã trải nghiệm là họ đã tự nâng họ lên trên mức trung bình trong môi trường sống của họ, và họ đã có được khả năng cao hơn những sinh thể khác trên hành tinh tự nhiên của họ.

Họ đã có đôi chút khả năng điều ngự, có cảm giác là họ có thể khiến vật chất tuân phục ý chí của họ. Điều này không có nghĩa là người avatar đã phát triển ý tưởng là toàn thể vũ trụ phải tuân phục ý chí của mình, vì người đó biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn. Trên một hành tinh tự nhiên con không thấy sự mâu thuẫn giữa việc con thực thi ý chí của mình và những sinh thể chung quanh mình thực thi ý chí của họ. Trên một hành tinh tự nhiên sự mâu thuẫn đó không có. Sau đó, chuyện xảy ra là người avatar, vì một số lý do (không phải với tâm thức sáng ngộ), đã quyết định đi xuống trái đất.

Con xuống đây như một avatar và trước khi con xuống đây, con có ý muốn tạo một thay đổi tích cực trên trái đất. Con rất tự tin là con có thể thực hiện điều này vì con đã quen, khi ở trên một hành tinh tự nhiên, là khi con chuyên cần thì con có thể thể hiện bất cứ gì mình hình dung. Lúc đó, con không nhất thiết hình dung là con muốn xuống đây và trừ khử mọi xấu ác trên trái đất, nhưng đa số các avatar chú tâm vào một vấn đề đặc trưng. Họ quyết định xuống đây để trừ khử một hình thức khổ đau cá biệt, và họ có nhiều tự tin là họ sẽ thực hiện được điều đó. Không nhất thiết là bằng cách làm việc đơn độc vì đôi khi các avatar quyết định xuống đây như một nhóm.

Con tới đây với lòng tự tin là con có thể thực hiện mục tiêu. Sau đó, con tới đây và con trải nghiệm, thứ nhất: sa nhân và cách họ tấn công con, tìm cách hủy tiêu diệt con, và thứ hai: nhân loại nói chung và các cư dân nguyên thủy của trái đất không sẵn sàng chấp nhận những gì con đem lại như con nghĩ. Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong cuộc đời một avatar, con bắt đầu hoài nghi có thể thực hiện mục tiêu của mình, có thể thực sự thể hiện ý chí của mình.

Đây cũng là một cú sốc và một phần của chấn thương nhập đời, khi con không thể hiểu vì sao bỗng nhiên vật chất không tuân phục ý chí của con. Con đã không nhận ra độ dày đặc của trái đất, so sánh với những gì con biết trên hành tinh tự nhiên. Con cũng không hiểu tại sao con người không đáp ứng lại ý chí của con và những cố gắng trợ giúp của con, tuy con đang chỉ cho họ thấy một cách rõ ràng để thoát khổ đau.

Bỗng nhiên, con bắt đầu hoài nghi: “Tôi có thể thực sự thực hiện mục tiêu đã khiến tôi đến đây chăng, và nếu tôi không thể, thì tôi chắc hẳn đã sai lầm khi tới đây. Tôi chắc hẳn đã sai lầm khi quyết định tới đây.” Một avatar khó đối phó với tình trạng này vì trên một hành tinh tự nhiên con không bao giờ nghi ngờ khả năng thực hiện những gì con hình dung và con không bao giờ cảm thấy mình đã lấy một quyết định sai. Con không bao giờ cảm thấy mình đáng lý không nên lấy quyết định đó.

Lúc đó, con bắt đầu nghi ngờ quyết định tới trái đất. Con cảm thấy đây là một quyết định sai, và cảm giác này có phần do con ở trên một hành tinh dày đặc nơi nhị nguyên thịnh hành. Do đó, con bắt đầu tự hỏi: “Vì ý chí con người trên trái đất quá thiếu tự do, vậy thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì?” Khi con gặp sự chống đối của sa nhân và thấy là họ muốn tiêu diệt con, thấy họ nói với con là con không có quyền ở đây, con không có quyền thách thức họ. Khi con gặp sự thờ ơ của các cư dân trên trái đất, thì con có thể (không phải tất cả, nhưng có nhiều, các avatar đã làm như vậy) tạo khe hở trong tâm mình để chất độc không-muốn xâm nhập, chất độc này do sa nhân tạo ra và mang vào hành tinh này.

Bỗng nhiên con bắt đầu cảm thấy: “Bày tỏ ý chí của tôi trên hành tinh này có ích lợi gì chăng? Có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân. Để sống còn, có lẽ tôi không nên thách thức sa nhân, để tránh bị họ giết và tra tấn trong mọi kiếp sống. Có lẽ tôi không có quyền tìm cách giúp các cư dân trên trái đất thoát khổ nếu họ không muốn thoát khổ.” Lúc đó, thay vì làm chuyện mà các thày khuyến khích các con làm, là duyệt xét lại động cơ khiến con tới đây và nhận ra nó dựa trên một ảo tưởng, thì con quyết định: “Tôi không muốn làm gì cả trên hành tinh này. Tôi không muốn thực thi ý chí của tôi trên hành tinh này.”

Cũng có một số avatar, như được mô tả trong quyển sách Các kiếp sống của tôi, đã đi vào cực đoan ngược lại, và bày tỏ ý chí của mình một cách rất rất mạnh mẽ và rất rất quyết liệt. Họ muốn chứng tỏ là sa nhân sai hay họ chiến đấu chống lại sa nhân, họ chống trả sa nhân hay họ hành động để con người trên trái đất thực sự thấy là có lối thoát khỏi khổ đau.

Có hai đối cực. Một số từ bỏ ý chí của mình, trong khi một số khác quả thực đã làm theo lối không-muốn tích cực của sa nhân. Một số khác lấy thái độ không-muốn tiêu cực. Kết quả là gì?

21.7. Avatar và không-là

À, kết quả là một giai đoạn rất hỗn loạn, cũng được mô tả trong quyển sách qua việc nhân vật chính đánh nhau với sa nhân trong khoảng một triệu năm. Giai đoạn này dài bao nhiêu tùy mỗi avatar, nhưng đánh nhau quá lâu thì sẽ có một điểm con giản dị bị kiệt sức. Con quá mệt mỏi, con chán ngán đánh nhau. Hoặc con ở trong một trạng thái tâm tiêu cực quá lâu nên bắt đầu cảm thấy là đời sống trên trái đất càng ngày càng vô nghĩa. Nếu con đang đánh nhau, thì con cảm thấy đánh nhau càng ngày càng vô nghĩa, nhưng điều này cũng nhanh chóng đưa con tới chỗ cảm thấy cuộc sống trên trái đất vô nghĩa.

Đó là lúc con mở cửa trong tâm để chất độc không-là xâm nhập, lúc đó con cũng có thể có khuynh hướng tạo một ngã cảm thấy cuộc đời không đáng sống. Có thể là con cảm thấy cuộc đời trên trái đất không đáng sống nhưng con không thấy lối thoát. Hoặc con cảm thấy là cuộc đời nói chung không đáng sống, không đáng để có ý thức, để có tự nhận biết. Sau đó, con bắt đầu phủ nhận sự tự nhận biết và cảm thấy Thượng đế đáng lẽ không nên cho con tự nhận biết vì nó chỉ tạo khổ đau. Cảm tưởng này dẫn đến đủ loại hình thức chê trách Thượng đế, hay chất vấn tại sao Thượng đế không đổi ý về quyền tự quyết, hay những câu hỏi tương tự. Điều cốt yếu ở đây là, tương tự như mọi chuyện khác mà các thày đã giảng, không phải con cảm thấy như vậy, mà là một ngã tách biệt.

Một khi ngã tách biệt được tạo ra thì nó liên tục phóng chiếu tới con là cuộc đời không đáng sống hay không đáng bỏ sức đấu tranh. Nhiều avatar đã làm gì? À, một số trải qua một giai đoạn tìm cách khiến tâm thức bị tê dại. Họ theo đuổi đủ loại ghiền nghiện khiến họ càng ngày càng bớt ý thức. Một số khác tìm cách rút lui khỏi thế gian, tỷ dụ như làm tu sĩ trong nhiều truyền thống tôn giáo. Hoặc giống như nhiều người tâm linh thời nay, khi họ rút lui khỏi đời sống năng động, không muốn tham gia vào cuộc sống năng động, hoặc sống một cuộc sống tương đối năng động nhưng không thực sự bỏ tâm trí vào, lúc nào cũng ngồi giữa hai ghế, tìm cách làm tối thiểu để đủ sống nhưng không thực sự tham gia vào bất cứ khía cạnh nào của cuộc sống.

21.8. Lối thóat qua ý chí kim cương

Lẽ tất nhiên, lối thoát là dùng các giáo lý mà các thày đã trao truyền về lý do tại sao con xuống trái đất như một avatar, nhận ra là động cơ đưa con tới đây dựa trên một ảo tưởng, đối phó với ngã gốc để giải thoát mình khỏi ngã gốc. Lúc đó, con bắt đầu thấy là lý do duy nhất khiến con cảm thấy đời không đáng sống, không đáng bỏ sức tranh đấu hoặc con không thể tỏ bày ý chí của mình trên hành tinh này, là vì con chưa hiểu một số chuyện.

Giờ đây thì con bắt đầu hiểu những chuyện đó. Con có thể bắt đầu xem xét những lý do khiến con tới đây. Do đó, con cũng thấy là tâm thức đó, chất độc không-muốn và không-là đó, không có giá trị gì cả. Như mọi chất độc, nó dựa trên một ảo tưởng. Sau đó, nếu con chịu làm theo lời thày hướng dẫn, thì con có thể hấp thu thuốc giải cho độc tố không-muốn, được gọi là Ý chí Kim cương.

Tên gọi này tất nhiên có nghĩa là ý chí đó không thể bị bất cứ điều gì trên trái đất lay chuyển. Con cũng biết là kim cương là chất cứng nhất mà con người hiện nay biết đến và do đó không có gì có thể khiến nó bị suy suyển. Ý chí Kim cương không thể bị ảnh hưởng bởi không-muốn, không-là hay ngay cả phản-ý chí, là ý chí rất hung hãn của sa nhân.

Khi con hòa điệu với thuốc giải đó và cho phép nó thấm vào bản thể của mình, thì nó sẽ tiêu trừ mọi tàn dư của không-muốn và không-là trong con. Điều này có nghĩa là con có thể bắt đầu đạt được một cảm giác an bình cao hơn rất nhiều. Các thày đã trao truyền giáo lý và dụng cụ tâm linh thực sự giúp con tới điểm con làm hòa với cách trái đất hiện đang vận hành. Con có thể nhận ra mục đích của nó, sự trải bày của luật tự quyết, sự kiện trái đất không phải là một hành tinh tự nhiên. Tất cả những giáo lý đó mà các thày đã trao truyền có thể giúp con tới điểm con nhận ra mục đích, mục đích thực sựcao hơn, đã khiến con tới trái đất là để tăng trưởng sự nhận biết tới điểm con có thể thăng thiên từ trái đất.

Lúc đó, con có thể trụ vững trong sự kiện là ở tầng Hiện diện TA LÀ của con, có ý chí đi vào một bầu cõi chưa thăng thiên và thăng thiên từ bầu cõi đó. Đây cũng là ý chí kim cương vì nó cao hơn bất cứ mọi chuyện trên trái đất, có nghĩa là không có gì mà cái Ta Biết trải nghiệm trên trái đất có thể thay đổi ý chí của Hiện diện TA LÀ.

Khi con bắt đầu nối kết lại với Hiện diện TA LÀ và nhận ra rằng, như cái Ta Biết, con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, con không hề xa cách nó hay chống đối nó, thì con cũng nhận ra là ý chí của Hiện diện cũng là ý chí của con. Con có ý chí tăng trưởng tâm thức của mình. Con có ý chí thăng thiên. Đó là lúc con có thể bắt đầu thấy là bất kể mọi điều kiện trên trái đất, các điều kiện này – bất kể chúng là gì – tạo cơ hội toàn hảo để con thăng thiên. Con yêu dấu, con có thể thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên, nhưng vì con chưa có những trải nghiệm đa diện mà con có thể có trên một hành tinh phi tự nhiên, nên con không thăng thiên với cùng sự nhận biết.

21.9. Một thăng thiên cao hơn từ hành tinh phi tự nhiên

Tiến trình thăng thiên trên căn bản vẫn là một. Con khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm, con xây dựng một số ngã. Ngay cả trên hành tinh tự nhiên con cũng xây dựng các ngã, tuy chúng không hoàn toàn giống các ngã tách biệt trên trái đất. Để thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên con phải tới chỗ thấy chúng là ngã, thấy là con chỉ dùng chúng như cỗ xe trong nỗ lực đồng-sáng tạo và con phải buông bỏ chúng, con phải để chúng chết đi. Con không có những ngã đó khi con xuống hành tinh tự nhiên, do đó con không thể thăng thiên từ hành tinh tự nhiên với các ngã đó.

Trên trái đất con cũng trải qua tiến trình tương tự. Con phải tới điểm thấy là con có một số ngã trong bốn thể phàm của mình và con cần để chúng chết đi. Vì trên trái đất con có nhiều loại ngã hơn trong bốn thể phàm của mình nên con thực sự thăng thiên với một trình độ nhận biết cao hơn. Trong căn thể của con có nhiều kinh nghiệm tích cực hơn, và do đó khi con thăng thiên từ một hành tinh phi tự nhiên thì Hiện diện TA LÀ của con có một nhận biết cao hơn so với khi con thăng thiên từ một hành tinh tự nhiên.

Đó là lúc con có thể thực sự làm hòa với việc mình ở đây và nói: “Bất kể những gì tôi nghĩ trước khi tới đây, hành tinh này cho tôi một cơ hội thăng thiên tuyệt diệu.” Sau đó, con có thể tới điểm con không còn nhìn lại quá khứ nữa và nói: “Ồ, tôi đã sai lầm khi tới đây” hay “Tôi đã sai lầm khi ở trong ảo tưởng khiến tôi tới đây.” Con chỉ nhìn vào chuyện đó và nói: “À, tôi ở trạng thái tâm thức đó vào lúc đó và tôi đã lấy quyết định tốt nhất mà tôi có thể lấy lúc đó, vì tôi có cái ngã mà tôi có lúc đó.” Sau đó con có thể buông bỏ mọi cảm giác hối tiếc. Con có thể giản dị an bình với sự kiện đây là con đường thăng thiên mà con đã chọn, và nó hoàn toàn thỏa đáng theo bất cứ tiêu chuẩn nào của cõi thăng thiên.

Do đó, con có thể tới điểm con nói: “Phần còn lại của kiếp sống này là cơ hội toàn hảo, lý tưởng để tôi thăng thiên, để tôi xem xét các phản ứng của mình, nhận diện các ngã còn tồn tại và để chúng chết đi. Cũng để tôi là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ bày tỏ chính nó, để tôi, như cái Ta Biết, tới điểm giải thoát khỏi tất cả các ngã thấp và có ý chí tự do trải nghiệm và biểu lộ chính mình trên hành tinh này.” Đây là lúc con tới điểm, như các thày đã giảng, con xoay chuyển sự chú tâm của mình từ việc đạt kết quả trên trái đất sang việc thực sự chào đón và vui hưởng tiến trình sống trên trái đất, tiến trình biểu lộ chính mình trên trái đất và tiến trình thăng thiên từ trái đất.

Các thày có thêm điều để giảng ngay cả về đề tài này, nhưng thày để công việc này lại cho Gautama. Thày đã trao cho các con món quà mà thày muốn trao, và thày biết ơn các con đã nhận nó. Tới đây thì thày chúc các con: hãy đi trong sự an bình tuyệt đối của Ý chí Kim cương.

9 | Đã đến lúc con biểu lộ quả vị Ki-tô

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, và thày tới đây hôm nay để trao truyền một phần nữa của những bài giảng mà thày dự định trao truyền trong hội nghị này chung quanh đề tài làm sao là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Giờ đây thì các con đã nhận được một bài giảng tuyệt vời và đa diện của Chân sư MORE sớm ngày hôm nay. Bài giảng đó quả thực có nhiều lớp, nhiều tầng cấp để các con suy ngẫm. Con thực sự có thể nói là bài giảng đó diễn tả đầy đủ con đường tâm linh. Nếu con thể nhập hoàn toàn mọi khía cạnh của bài giảng đó, thì câu hỏi là con có cần gì thêm nữa chăng.

9.1. Là Ki-tô mà không cuồng tín

Tất nhiên, vì Chân sư MORE là người trao truyền bài giảng, thì có thêm nữa có thể được trao truyền. Lẽ tự nhiên, giáo lý về ngã gốc cốt yếu cho việc là Ki-tô hành động. Con hãy hình dung một nhóm chiến sĩ Cơ đốc giáo tham dự Thập tự chinh đang ngồi trên yên ngựa bên ngoài một ngôi làng ở miền Trung đông. Họ đặt tâm vào trạng thái hỗn loạn và hầu như đồng thanh hét lên: “Đây là ý muốn Thượng đế!” Sau đó, họ rút kiếm, phi ngựa vào ngôi làng và giết đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tin rằng họ làm việc này nhân danh Ki-tô và để phục vụ Ki-tô. Họ có phải là Ki-tô hành động không? À, lẽ dĩ nhiên các con biết là không. Tuy nhiên con cần tự hỏi: “Làm sao tôi có thể là Ki-tô hành động mà không đi vào trạng thái tâm bất quân bằng vì quá hăng hái, quá nhiệt thành, gần như là cuồng tín?”

Chân sư MORE có nói đến các đợt truyền giáo lý chân sư thăng thiên trước, và các đệ tử đã phản ứng như thế nào trong các tổ chức đó. Các thày đã thấy nhiều đệ tử trở nên quá nhiệt thành, quá bất quân bằng trong nhiệt tâm muốn làm một cái gì, khiến họ đã bước ra hành động một cách bất quân bằng, khác cách hành xử của Ki-tô hành động, tuy rằng một số các đệ tử này tin chắc là họ đang biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tất nhiên các thày đã trao cho con chìa khóa cốt yếu để tránh phản ứng đó. Đó là con cần khắc phục ngã gốc và các ngã khác được tạo ra sau ngã gốc. Cái ngã nhất định cần an toàn, lẽ dĩ nhiên, có thể khiến con trở nên cuồng tín. Một khi con đã xây dựng ý niệm an toàn dựa trên một hệ thống hay niềm tin vỏ ngoài nào đó, thì con không muốn mất đi sự an toàn đó. Do đó, con trở nên cuồng tín chống trả tất cả những gì con nghĩ đang đe dọa ý niệm an toàn đó. 

Quả thật con cũng có thể có một ngã nữa, như các thày đã giảng, quan tâm không muốn bị sai, không muốn bị chứng tỏ là mình sai, muốn mình không bao giờ sai. Vì sa nhân cho con cảm tưởng là con sai trong kiếp đầu thai đầu, nên ngã đó lúc nào cũng muốn làm đúng. Một khi nó đã tự thuyết phục chính nó là nó đã làm đúng hay đang làm đúng, thì nó rất, rất ngần ngại xem xét mình có thể bị sai chăng.

9.2. Người tốt khó cứu rỗi nhất

Con yêu dấu, hai ngàn năm trước đây, thày có một lời tuyên bố khá bí hiểm là một tội đồ dễ được cứu rỗi hơn là một phú ông được vào thiên đàng. Lẽ tất nhiên, khi thày nói “phú ông” thì thày không nhất thiết chỉ một người có tiền của, nhưng là một người cảm thấy mình đã làm nhiều điều thiện. Điều nghịch lý mà ta có thể thấy nơi đạo Cơ đốc, các tôn giáo khác hay ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên, là đôi khi những người rất, rất khó giúp nhất là những người hoàn toàn tin chắc họ là người tốt và đã làm nhiều điều tốt.

Con hãy nhớ lại lời Chân sư MORE nói về các đệ tử tin chắc là họ xứng đáng được một địa vị trong tổ chức tâm linh vì họ đã lâu năm tham gia tổ chức và chuyên cần theo đúng những thực tập vỏ ngoài và làm đúng mọi chỉ thị. Con có thể thấy một thí dụ, nhưng con cũng có thể vào các giáo đoàn Cơ đốc giáo và thấy những người suốt đời tin chắc là họ đang làm việc thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, họ đang theo lời răn của Ki-tô hãy thương yêu người láng giềng, hãy cư xử tốt với mọi người, hãy tham gia vào công việc từ thiện. Có nhiều vị linh mục Cơ đốc giáo, và nhiều tín đồ không phải là linh mục nhưng đã tham gia vào việc từ thiện theo đúng tinh thần Cơ đốc giáo, cho rằng vì họ đã phụng sự, đã cư xử tốt và suốt đời làm nhiều điều tốt, nên họ bảo đảm sẽ được cứu rỗi trên căn bản những hành động vỏ ngoài đó.

Lẽ tất nhiên, thày có tuyên bố một số câu có thể được diễn giải để mở khóa hiểu biết là điều này không đúng. Vương quốc của Thượng đế ở bên trong ta. Cái gì ở bên trong ta? Đó là tâm hồn của con. Ấy, nếu con không giải quyết tâm lý, khắc phục tất cả các ngã, thì làm sao con vào được vương quốc? Con thấy chăng, điều này, một lần nữa, dính liền với bài giảng của Chân sư MORE về sự tha hóa của đạo Cơ đốc đã tạo ra con đường vỏ ngoài, giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động và bảo đảm. Nhiều tín đồ Cơ đốc giáo theo con đường vỏ ngoài này vì họ không có gì khác và hoàn toàn tin tưởng rằng một khi họ làm tất cả những điều vỏ ngoài đó thì họ đương nhiên sẽ được vào vương quốc sau kiếp sống này.

Đây không phải là mối quan tâm chính của bài giảng này của thày, thày chỉ nêu ra như một ví dụ. Mối quan tâm chính của thày, lẽ tất nhiên, là các đệ tử chân sư thăng thiên. Con cần nhận ra ở đây là một số các con, khi con gánh chịu chấn thương nhập đời hay các biến cố tạo nên chấn thương đó, thì sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm điều gì sai, hay con đã sai lầm khi có mặt trên trái đất, con đã sai lầm khi tới đây.

9.3. Không muốn bị sai

Chuyện luôn luôn xảy ra là sa nhân đã khiến con cảm thấy là con đã làm một việc gì rất sai trên trái đất đến độ con không bao giờ có thể chuộc lại lỗi đó. Như các thày có giảng, một khía cạnh của ngã gốc là con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm chuyện này nữa.” Con làm gì lúc đó? Con tạo ra một ngã tách biệt, được lập trình để con chắc chắn không bao giờ bị chứng minh là mình sai. 

Con yêu dấu, con đã làm gì sau đó? Qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng động lượng làm những chuyện mà con cho là đúng, bằng cách lúc nào cũng làm chuyện được quy định là đúng bởi nền văn hóa, bởi tôn giáo của con bằng cách làm việc từ thiện, giúp đỡ người khác, vân vân và vân vân. Lẽ tất nhiên, dựa trên con đường vỏ ngoài của đạo Cơ đốc, một số các con có động lượng từ các kiếp trước tin rằng nếu con làm các chuyện vỏ ngoài đó, nếu con phụng sự như vậy, thì con chắc chắn hội đủ điều kiện để thăng thiên.

Các thày đã nói đi nói lại điều gì? Khi con đứng trước cổng vào thiên đàng, nếu con muốn dùng hình ảnh đó (và các thày biết con cần một hình ảnh, nhưng đó chỉ là một hình ảnh) thì con đứng trước cổng vào cõi thăng thiên và con phải chọn lựa đi qua cổng đó. Con phải lấy một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa tự do, con yêu dấu. Làm sao con, cái Ta Biết, lấy một chọn lựa tự do? Con chỉ làm được khi con không còn bất cứ ngã nào tô màu viễn quan của con. Cái ngã được lập trình để khiến con cảm thấy mình không bao giờ sai vì đã luôn luôn làm điều tốt, nó đang ngăn cản con thăng thiên – nếu con không buông bỏ được nó. Con không thể thăng thiên nếu con không buông bỏ nó, và con không thể buông bỏ nó nếu con chưa nhìn thấy nó. Lẽ tất nhiên, con không thể nhìn thấy nó nếu con quá sợ thấy điều gì sai trong con người mình. 

Con yêu dấu, con thấy chăng là các thày đã trao truyền giáo lý là các thày thương yêu con vô điều kiện. Các thày chấp nhận con vô điều kiện, nhưng nếu con còn cái ngã không bao giờ muốn bị chứng minh nó sai, thì con không thể thực sự chấp nhận tình thương và sự chấp nhận của các thày. Con sẽ luôn luôn sợ mình sai, cảm giác là có một số điều kiện sẽ khiến con bị sai, ngay cả ý niệm là con có thể sai. Con không thể thăng vượt ý niệm đó nếu con vẫn còn cái ngã đó, vì ngã đó không thể chất vấn lập trình cơ bản, ảo tưởng cơ bản đã tạo ra nó.

Cái ngã không thể chất vấn lập trình đó. Khi con còn nhìn mình xuyên qua phin lọc của ngã đó thì con cũng không thể chất vấn lập trình đó. Con, như cái Ta Biết, có thể bước ra ngoài ngã và thày trao truyền giáo lý đặc trưng này để giúp cái Ta Biết bước ra ngoài ngã đó và nhận ra có hai điều ngăn cản con thăng thiên. Một là con ở trong trạng thái tâm rất tiêu cực, vị kỷ, ích kỷ, lúc nào cũng đấu tranh với người khác, làm bất cứ điều gì con muốn mà không màng hậu quả. Nói cách khác con là một người mà một số các con gọi là người xấu. Có một điều khác ngăn cản con bước vào thiên đàng, đó là con là một người mà một số các con coi là người tốt, con muốn giữ hình ảnh đó đến độ con không chịu chất vấn là trong con có thể có cái gì không “đúng”, theo nghĩa nó không cho phép con bước vào trạng thái thăng thiên.

Khi con nhìn mình xuyên qua ngã đó thì con nghĩ là nếu trong con có cái gì không đúng, thì nó chắc hẳn phải sai. Tức là điều này phải có nghĩa là con sai, và do đó con không thể nhìn nó. Điều duy nhất có thể phá bế tắc là cái Ta Biết bằng cách nào đó được cảm hứng, được thúc đẩy để bước ra ngoài ngã đó và thấy nó chỉ là một cái ngã. Nó chỉ là một cái ngã, và chỉ có ngã đó tin rằng con sẽ tự động vào thiên đàng khi con làm các việc tốt. Nó chỉ là một cái ngã, và như tất cả các ngã, nó dựa trên một ảo tưởng. Khi con, cái Ta Biết, nhận ra điều này, thì con nhận ra là ngã đó không phải là con. Con nhận ra là con không thể mang ngã đó theo con vào cõi thăng thiên.

Vì sao con không thể mang nó theo con vào cõi thăng thiên? Vì con không mang nó theo con khi con xuống trần thế. Không ai có thể trở về thiên đàng trừ những ai đã xuống từ thiên đàng. Không có ngã nào – không có ai – có thể trở về thiên đàng trừ cái ta đã đi xuống từ Hiện diện TA LÀ. Chuyện thật giản dị như vậy đó. Đó chỉ là một cái ngã, nhưng thày cần con nhận ra là người tốt, nghĩ mình tốt và đã luôn luôn tốt, có thể là một trở ngại cho việc thăng thiên. Nó chỉ là một ngã khác mà con cần buông bỏ. Nếu con còn muốn làm điều tốt dựa trên ngã đó, thì con không thể là Ki-tô hành động. Vì con đang muốn làm điều tốt để tránh không bị chứng minh mình sai. Nói cách khác, hành động của con có tính chất vị kỷ. Hành động của con trụ chung quanh ngã thấp đó, không phải chung quanh cái ta thật của con. Nó là động cơ thúc đẩy con hành động, không phải là quả vị Ki-tô, không phải là tâm thức Ki-tô.

9.4. Con đã là Ki-tô hành động

Điều này đã được nói ra, và thày muốn đi sang phần khác. Thày nhận ra, như Chân sư MORE có nói, là mỗi khi các thày trao truyền một giáo lý, thì có nhiều người trong các con ngồi nghe, tìm hiểu giáo lý nhưng vẫn có cảm giác có một khoảng cách. Các thày đã trao truyền dụng cụ để con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, và khi con làm xong thì khoảng cách sẽ biến mất. Nhưng thày vẫn muốn đưa thêm vài nhận xét ở đây, vì thày muốn con nhận ra là tất cả các con đã là Ki-tô hành động ở một mức nào đó, và đa số các con đã là Ki-tô hành động trong kiếp sống này. Chỉ là con không ý thức điều này, và con không phải lúc nào cũng là Ki-tô hành động. Con đã là Ki-tô hành động một số lần, có thể là với một số các con chỉ xảy ra một ít lần, nhưng tất cả các con đã từng là Ki-tô hành động. 

Điều này lại liên quan đến một khía cạnh khác của đạo Cơ đốc giả, đó là sự sùng bái vĩ đại được dựng lên chung quanh con người thày. Giê-su được đặt lên trên bệ cao như người Con của Thượng đế, một người sinh ra đã toàn hảo, vân vân và vân vân. Một con quái vật rất dũng mãnh đã được tạo ra trong tâm thức tập thể cho rằng muốn là Ki-tô thì con hầu như phải toàn hảo. 

Một số các con cũng đã tạo ra ngã đó, một ngã tương tự. Đúng thực là đa số các con phần nào có ý tưởng là con chỉ có thể được cứu rỗi, vào thiên đàng hay thăng thiên khi con đạt được tiêu chuẩn gần như siêu nhân đó. Do đó, con cảm thấy là khi con chưa hội đủ chuẩn mực đó, hay con không hội đủ tiêu chuẩn trong mọi lúc, thì con không thể là Ki-tô.

Ý niệm nguyên thủy về Ki-tô là gì? Ý nghĩa việc Ki-tô đầu thai, nhập vào xác thịt là gì? Nó có nghĩa là tâm thức Ki-tô có thể được biểu đạt xuyên qua một cỗ xe chưa hoàn toàn sạch những ngã tách biệt đó.

Như các thày đã giảng, cái Ta Biết có khả năng bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại của con. Khi điều đó xảy ra thì con là cánh cửa mở để tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con, để tâm thức Ki-tô tự biểu lộ xuyên qua con. Như thày có nói: “Tự ta không làm được gì, đó là cha ta (Hiện diện TA LÀ, Thánh linh) làm việc.” Nó làm việc khi con có cửa mở trong tâm thức của mình.

Như các thày có giảng, con không thể ép việc này xảy ra. Con thực sự không thể làm gì. Con không thể tạo ra một con đường máy móc tự động dẫn con tới điểm con là cánh cửa mở. Con không cần ép nó xảy ra, con chỉ cần ngưng không ép nó không xảy ra. Sự thực là nó mưa xuống cả người công chính lẫn người bất chính. Tánh linh lúc nào cũng tuôn xuống từ Trên cao. Như thày có nói: “Ta sẽ xin Cha ta và ngài sẽ gửi các con một đấng an ủi khác.” Khi thày thăng thiên, một phần động lượng của thày, Tánh linh của thày, được rải truyền xuống trái đất và nó vẫn tuôn xuống trong suốt hai ngàn năm qua. Con không cần hội đủ điều kiện nào để nhận nó, con cũng không thể ép nó tuôn qua con.

Tánh linh lúc nào cũng rải xuống. Con chỉ cần có cửa mở trong bốn thể phàm để Tánh linh có thể tuôn vào. Tất cả các con đã có lúc thoáng nhận, vì lý do nào đó, ngã vỏ ngoài được gạt qua bên, cái Ta Biết bước ra ngoài trạng thái tâm bình thường của nó, trạng thái đồng hóa với một ngã vỏ ngoài bình thường của nó, và bỗng nhiên có một cái gì khác tuôn vào. Cái “gì khác” đó, lẽ tất nhiên, là ý nghĩa thế nào là Ki-tô hành động. Đó là lúc con là cánh cửa mở biểu hiện cái gì vượt quá trạng thái nhận biết bình thường của đa số con người. Đa số con người chưa bao giờ trải nghiệm cái gì khác, cái gì cao hơn trạng thái nhận biết bình thường. Thày nói các con trao tặng người khác món quà của sự chấp nhận, nhưng con cũng có thể trao tặng người khác bất cứ trải nghiệm nào vượt quá trạng thái tâm thức bình thường của họ. Đó là biểu đạt Ki-tô, đó là Ki-tô hành động.

9.5. Vượt lên trên hình ảnh cố định về Ki-tô

Việc đó có nhiều hình thức, con yêu dấu, và chìa khóa là mở tâm, là dụng cụ để tâm thức Ki-tô biểu hiện, đó cũng là không chờ mong và không có định kiến là Ki-tô phải biểu hiện hay không được biểu hiện như thế nào. Các thày đã trao cho các con khái niệm là thày đã làm việc đó bằng nhiều cách. Thày đã trao cho một người một ly nước lạnh vì đó là gì người đó cần lúc đó, nhưng thày cũng trao cho người đó cảm giác y được chấp nhận, và đó là điều mà người ấy trước đó chưa từng có, và đó là phần phụ trội vượt quá ly nước.

Có quá nhiều đệ tử tâm linh, và đặc biệt là đệ tử chân sư thăng thiên, đã dùng giáo lý các thày để củng cố một ngã vỏ ngoài là một hậu duệ của ngã gốc. Họ đã tạo ra một hình ảnh rất, rất, rất cố định về thế nào là Ki-tô hành động cho riêng họ cũng như là thày khi thày hiện thân trên thế gian. Nhiều người trong họ sẽ sững sờ nếu họ gặp thày khi thày hiện thân. Niềm tin của nhiều người sẽ bị lung lay, như niềm tin của nhiều Ki-tô-hữu bị lung lay nếu họ thấy thày như thày thực sự là lúc đó.

Điều con có thể làm được, là dùng cái Ta Biết để nhìn tâm mình và thấy các định kiến và chờ đợi Ki-tô phải như thế nào và không được như thế nào. Con thấy trong kinh điển là có những người đã bài bác thày vì thày uống rượu, vì thày sinh ra ở Nazareth, vì thày đã làm chuyện này chuyện kia. Có những người đã bài bác thày vì hình dạng của thày, cách thày phục sức, cách thày cư xử, cách thày phát biểu.

Con yêu dấu, lúc nào cũng sẽ có người tìm thấy lỗi nơi người sứ giả, người đại diện Ki-tô. Điều này tất nhiên bắt nguồn từ sa nhân luôn luôn phán xét Ki-tô Hằng sống. Chính sa nhân và thái độ của họ đã tạo ra thái độ rất phán xét mà con tìm thấy nơi nhiều tổ chức tâm linh, kể cả, lẽ tất nhiên, các tổ chức mà Chân sư MORE đã phơi bày trong bài giảng trước. Con cần trung thực nhìn xem con có một ngã có ý phán xét Ki-tô Hằng sống phải như thế nào, vì đó sẽ là một trong những lý do vi tế nhưng hữu hiệu nhất để đóng cửa không cho Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con. Nếu con cảm thấy là cách Thánh linh biểu hiện phải tuân theo chuẩn mực của con, chuẩn mực mà con có trong ngã đó, thì Thánh linh sẽ không thể tuôn chảy. Thánh linh thổi nơi muốn, không phải nơi con muốn, không phải nơi ngã vỏ ngoài muốn và chắc chắn là không phải nơi sa nhân muốn nó tuôn chảy – vì sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy gì hết.

Điều bí ẩn đơn giản là con có thể nói là sa nhân không muốn Thánh linh tuôn chảy và phần lớn họ đã thành công trong việc này. Vì sao Thánh linh không làm gì để cải sửa việc này, như một câu hỏi đã nêu lên hôm nay? “Vì sao Thượng đế không thay đổi kế hoạch của ngài để thuận theo ý kiến của tôi về vũ trụ?” Đó là cốt yếu của tâm thức sa ngã: “Vì sao Thượng đế không thay đổi để tôi không phải thay đổi?” Con có thể nói là Thánh linh đáng lẽ phải làm điều gì để giải tỏa tình trạng bế tắc mà sa nhân đã đặt hành tinh này vào.

Thánh linh tôn trọng quyền tự quyết, và do đó con có thể nói là câu: “Thánh linh thổi nơi nó muốn” không nói lên một hiểu biết đầy đủ. Câu này được đưa ra để cho thấy là Thánh linh không tuôn chảy theo ý kiến, chờ mong và chuẩn mực của con người. Mặt khác, như thày vừa giảng, Thánh linh luôn luôn tuôn chảy, vấn đề chỉ là khi không có khe mở thì nó không thể biểu đạt trong bát cung vật lý, và đúng thực là ngay cả trong cả ba bát cung trên cũng vậy.

Đó là lý do vì sao Thánh linh chờ dịp một người mở cửa để nó tuôn chảy. Khi cửa được mở thì dòng chảy có mặt. Các thày đã trao cho các con nhiều ý tưởng, nhiều dụng cụ, và khi con phối hợp với các dụng cụ về chấn thương nhập đời và ngã gốc, thì con sẽ có thể tiến bộ rất, rất đáng kể. Con có thể tới điểm con bắt đầu là cánh cửa mở rộng hơn và con không cảm thấy bắt buộc phải biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không cảm thấy bị bắt buộc làm điều này, con không sợ làm điều này, con không quan tâm về điều này. Con chỉ đơn giản để nó xảy ra và con nhận ra là khi con để nó xảy ra, khi con ở trong trạng thái tâm trung hòa, thì không những dòng chảy sẽ có mặt mà thêm nữa con không có các quan tâm là con có đang làm đúng hay không, làm như vậy có được không, hay có tốt đủ không.

9.6. Phân tích mình một cách quá đáng

Giờ đây, lúc khởi đầu con quả thực có thể thấy một số quan tâm khởi lên, và nhiều người trong các con đã có kinh nghiệm này. Con đứng trước một hoàn cảnh, và con cảm thấy có một dòng chảy khác thường xuyên qua con, khác với tâm thức bình thường của con. Sau đó, con phân tích và lượng định: “Tôi làm như vậy có được chăng? Đó có phải là biểu lộ cao nhất của Ki-tô chăng? Đó có thật là Ki-tô chăng? Tôi có nên không hành động như vậy chăng? Tôi có nên không nói điều đó chăng?”

Con cần phải sẵn sàng nhận ra là khi con bắt đầu dám biểu lộ mình nhiều hơn, thì con sẽ có những thách đố tương tự khởi lên sau đó. Lúc đó, con dùng điều đó như một cơ hội để nhận ra là có một ngã vỏ ngoài khác đang tạo phản ứng đó nơi con. Và con dùng công thức: nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó và để nó chết đi – con để nó chết đi, con yêu dấu.

Con thấy chăng, khi con tới điểm con bắt đầu mở tâm hơn để đón nhận dòng chảy của Ki-tô, thì tất cả các mối quan tâm con có đang làm đúng hay không sẽ tan biến đi. Con sẽ tới điểm con nhận ra rằng: “Chuyện đã xảy ra như nó đã xảy ra.”  

9.7. Không có biểu đạt Ki-tô tối hậu

Có một bước quan trọng trước khi con tới điểm đó, đó là con nhận ra là không thể có biểu hiện Ki-tô tối hậu và tuyệt đối, vì lý do giản dị là trái đất là một hành tinh phi tự nhiên. Một biểu hiện của Ki-tô lúc nào cũng xảy ra trong một tình huống cá biệt. Nó được biểu lộ cho con người ở một tầng tâm thức nào đó. Con yêu dấu, nó không có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức cao nhất, nó chỉ có mục đích nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. 

Vậy điều này nghĩa là gì? Điều này có nghĩa là khi con có bất cứ biểu lộ Ki-tô nào trên thế giới, thì tâm phản-Ki-tô có thể xem nó, phân tích nó và tìm thấy lỗi nơi nó. Đó là điều mà Chân sư MORE đã giảng sáng nay, là có một số đệ tử đã đi vào tâm thái phán xét, thực sự có nghĩa là họ đã dùng tâm phản-Ki-tô để tìm lỗi. Con có thể thấy là một số câu hỏi nêu lên chiều hôm nay được đặt với tầng tâm thức thực sự muốn tìm lỗi nơi giáo lý hay vị thày. Lẽ tất nhiên, đây là điều tâm phản-Ki-tô lúc nào cũng làm.

Con cần nhận ra ở đây là ngoài các ngã của con, mà con mang trong bốn thể phàm, còn có động lượng ở cấp hành tinh của phản-Ki-tô lúc nào cũng tìm cách xen vào và thách thức mọi biểu hiện của Ki-tô, tìm cách hạ thấp nó. Nó có hai mục đích. Con có một người đang là cánh cửa mở để Ki-tô biểu lộ và con có một hay nhiều người đang tiếp nhận sự biểu lộ đó. Các lực phản-Ki-tô, tâm phản-Ki-tô, muốn gieo nghi ngờ vào tâm những người đang nhận món quà để họ bắt đầu nghi ngờ và ngay cả bác bỏ nó. Nó muốn gieo nghi ngờ vào tâm người đang là cánh cửa mở và đang trao món quà để người đó nghi ngờ khả năng làm dụng cụ của Ki-tô trong tương lai, và do đó có thể dần dần quyết định khóa tâm lại hay áp đặt một chuẩn mực vỏ ngoài lên Ki-tô.

Con cần giản dị nhận ra là lực phản-Ki-tô này tất nhiên có khả năng phóng đại hay sử dụng bất cứ ngã nào mà con có. Con thực sự cần nhận ra là dù con đã khắc phục được các ngã trong bốn thể phàm của con, lực này vẫn có thể phóng chiếu tới con từ bên ngoài. Con chỉ cần nhận ra lực này, và biết nó có mặt. Nó sẽ luôn luôn phóng chiếu vào con.

Sau đó, con cần nhận ra là con không cần làm gì cả. Con không cần tự bảo vệ mình. Con không cần tìm cách phản bác nó. Con không cần tìm cách trả lời các câu hỏi được nêu lên từ trạng thái tâm này, vì, như thày có giảng, các câu hỏi này không bao giờ có giải đáp. Nếu con tìm cách trả lời một câu hỏi, thì bảy câu hỏi khác sẽ bật ra. Con chỉ cần nhận biết là lực đó có mặt, nhận ra nó như nó là và để nó đi xuyên qua con. Khi con chưa hóa giải các ngã thì nó sẽ không đi xuyên qua con mà sẽ chạm một trong các ngã đó và phóng đại nó lên. Khi con đã hóa giải các ngã thì con chỉ để nó đi xuyên qua con. Như thày có nói: “Chuyện ấy quan hệ gì tới con, con hãy theo thày.” Lúc ban đầu, con sẽ được trợ giúp nếu con quay về hướng thày và thực sự hình dung là con để cho nó đi xuyên qua con và chú tâm vào thày. Con còn không chú ý tới nó nữa.

Giờ đây, tất nhiên đây là một thăng bằng tế nhị vì tự ngã của con muốn nghĩ là nó không thể sai lầm và do đó con không bao giờ cần chú ý đến các lời chỉ trích. Đôi khi con cần chú ý đến phản hồi của người khác. Con có thể tập phân biện trường hợp một người giản dị phát biểu mối quan tâm của họ, và trường hợp lời chỉ trích đến từ tâm phản-Ki-tô. Con có thể tập nhận ra sự khác biệt. Một người có thể phản hồi để cho con thấy cách họ phản ứng ở tầng tâm thức của họ. Điều này có thể giúp con điều chỉnh cách con phát biểu khi con tiếp cận những người này, dựa trên hiểu biết về trình độ tâm thức của họ. Khi con cảm thấy là lời chỉ trích đơn giản phát xuất từ phản-Ki-tô đang tìm cách hạ bệ con, thì con chỉ để nó đi xuyên qua con.

Khi thày nói là con cần mở tâm đón nhận phản hồi của người khác, thì thày cũng nói điều này một cách thận trọng, vì con không nên phân tích mình quá đáng. Con cần là cánh cửa mở, cần giữ tâm trung hòa, cần ở trong trạng thái tâm trung hòa và để Tánh linh tự biểu lộ. Thành thực mà nói, đây chính là thách thức lớn nhất khi con bắt đầu có thêm quả vị Ki-tô. Con cần không đóng tâm mình nhưng cũng đừng phân tích quá đáng vì như vậy sẽ mất đi tính linh động tự phát. Đây là một thăng bằng tế nhị. Thày phải đối đầu khó khăn này khi thày hiện thân trên trái đất, tất cả các thày đều gặp khó khăn này trước khi thăng thiên. Con cần đối mặt khó khăn này và giải quyết theo cách của riêng con vì (một lần nữa) không có một biểu hiện tuyệt đối của quả vị Ki-tô. Do đó, con cần nhận ra rằng bất kể hình thức Ki-tô nào mà con có thể thể hiện đều không sai trái. Rất có thể là có một cách thể hiện Ki-tô cao hơn, nhưng điều này không có nghĩa cách con thể hiện là sai. Con không cần đi vào tư duy thắc mắc: “Làm vậy có sai chăng?”

Con cần buông bỏ tư duy này, con yêu dấu, và mặc dù con đã làm tan biến một ngã nào đó, con thực sự sẽ tới điểm con cần lấy quyết định một cách ý thức: “Tôi sẽ không tham dự vào chuyện này nữa, tôi sẽ còn không chú tâm tới nó nữa. Tôi chú tâm là cánh cửa mở và tôi cho phép người khác phản ứng bất cứ cách nào họ muốn.”

9.8. Muốn giúp người khác quá mức

Khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và rất muốn giúp đỡ người khác, thì việc này có thể là một trở ngại cho đường quả vị Ki-tô của con. Khi đó con có tâm thái: “Làm sao tôi có thể giúp người khác.” Vị sứ giả này đã có tâm thái này trong nhiều kiếp sống, kể cả kiếp này, ngay cả sau khi ông đã trở thành sứ giả. Làm sao ông có thể giúp người khác tốt nhất và làm sao ông không gây trở ngại cho Tánh linh thể hiện xuyên qua ông?

Suy ngẫm chuyện này tất nhiên là điều chính đáng, nhưng con phải tìm ra điểm cân bằng tế nhị. Con trước tiên cần làm việc để khắc phục các ngã vỏ ngoài của mình để con được giải thoát khỏi chúng và không cảm thấy bắt buộc phản ứng lại người khác. Con cần tới điểm con thực sự không phản ứng lại người khác và việc họ chấp nhận hay không chấp nhận những gì họ được cống hiến xuyên qua con. Con quan sát, con có thể học hỏi từ những gì con quan sát nhưng con không phản ứng. Con không cảm thấy phải thay đổi chính mình dựa trên phản ứng của họ vì con nhìn nhận là phản ứng của họ là sản phẩm của trình độ tâm thức của họ, kể cả những ngã mà họ chưa giải tỏa.

Nhiều người sẽ tới con khi con đạt được một phần quả vị Ki-tô và họ mang một ngã chưa được giải tỏa, và ngã này pha màu cách họ nhìn con đường tâm linh. Họ đã dùng giáo lý trên con đường tâm linh để củng cố và công nhận giá trị của ngã đó. Giờ đây, họ tới con và họ muốn con cũng công nhận giá trị của ngã đó. Có khi họ giận dữ, có khi họ thất vọng, có khi họ bắt đầu tố cáo con không là đại diện thật của Ki-tô khi con không công nhận cái ngã mà họ không chịu tách rời và buông bỏ. Con cần nhận ra điểm này. 

Con yêu dấu, thày nhận ra là một lần nữa các thày đã phóng tới con thật nhiều khái niệm. Con không cần chú tâm ngay lúc này đến tất cả những gì thày nói ở đây. Con cần tìm ra một điều trong bài truyền đọc mà con cảm thấy ứng dụng cho con ngay lúc này và con thể nhập điều đó. Con chấp nhận là các điều khác mà thày nói áp dụng cho người khác ở các tầng tâm thức khác. Có khi một số điều mà thày nói không còn áp dụng cho con vì con đã vươn lên trên tầng tâm thức đó. Có khi có những điều sẽ áp dụng cho con trong tương lai khi con đã vươn lên một tầng tâm thức nào đó.

9.9. Không có khoảng cách giữa con và Tánh linh

Như Chân sư MORE có nói, các thày bị giới hạn khi thuyết giảng bằng ngôn từ. Quả thực con cần tới điểm con không tìm cách là Ki-tô dựa trên một cảm nhận xa cách, dựa trên một khoảng cách. Khi con khắc phục ngã gốc và các ngã khác, khi con tới điểm mà Chân sư MORE mô tả là con không coi con đường tâm linh xoay quanh cá nhân mình, đó là lúc không còn cơ chế trong tâm con tìm cách lọc lựa những gì đến từ Tánh linh. Lúc đó ngay cả ý niệm là con “ở đây” và Tánh linh ở “trên kia” cũng không còn nữa. Tánh linh đang gửi đến con một cái gì tuôn chảy xuyên qua tâm con. Con có thể vượt qua cảm giác tách biệt. Nhiều người trong các con không thể nắm bắt điều thày đang giảng nhưng một số có thể. Tất cả các con rốt cuộc sẽ có thể nắm bắt điều đó.

Sẽ có một điểm không có cấu trúc nào trong tâm khiến con nghĩ là con phải hành xử như thế nào khi con là Ki-tô Hằng sống. Do đó, con không nhìn sự việc qua tâm trí, con chỉ giản dị trải nghiệm là có khe mở, có dòng chảy và sau đó con trải nghiệm dòng chảy đang xảy ra.

Vị sứ giả này đã nhiều lần được hỏi là ông trải nghiệm thế nào khi nhận một bài truyền đọc và ông đã tìm cách giải thích một cách tương tự. Không phải là ông thấy ông ở dưới đây, thày ở trên kia và thày đang rải truyền ngôn từ từ cõi thăng thiên, ông nghe được trong tâm và phát biểu ra. Không phải vậy, ông và thày đạt được trạng thái Hợp nhất, và ngôn từ tuôn chảy xuyên qua tâm vị sứ giả và ông nghe thấy chúng cùng lúc với khi chúng được nói ra, vì không có khoảng cách. Do đó, khi không có khoảng cách, thì không có chỗ để tâm thức của con, tâm thức của người khác và tâm thức sa ngã xen vào tiến trình. Trong tiến trình không có khoảng cách. Không có cấu trúc, không có cơ chế. Đó là một dòng chảy trực tiếp, một biểu đạt trực tiếp và con không phân tích nó trước khi nó xảy ra, vậy con cần gì phân tích khi nó đã xong? Con chỉ để nó tuôn chảy và sau đó để nó là như nó là, để con là như con là, để người khác là như họ là. Hãy để họ phản ứng theo cách họ phản ứng. Khi con trung hòa khi món quà được trao tặng, thì nó xứng đáng được trao tặng. 

Lẽ tất nhiên, người khác chỉ có thể nhận đầy đủ món quà khi họ trung hòa, nhưng trách nhiệm của con là giữ mình trung hòa. Giữ người khác trung hòa không phải là trách nhiệm của con. Trách nhiệm của con là trao món quà, là cánh cửa mở để trao tặng món quà. Con không có trách nhiệm cách người khác nhận nó. Đó là trách nhiệm của họ. Khi con đã thấy rõ điều này trong tâm mình, thì con có thể tránh các cám dỗ và phóng chiếu rất rất vi tế đến từ sa nhân muốn đem con tới điểm lần biểu đạt quả vị Ki-tô đó là lần cuối con cả gan để chuyện này xảy ra xuyên qua con.

9.10. Biểu lộ Ki-tô trên mạng

Thày thực sự có một điều nữa mà thày muốn trao truyền, đó là chúng ta đã tới điểm các thày đã trao truyền đủ giáo lý xuyên qua vị sứ giả này. Trong những người đang theo học giáo lý này, có một số mới gia nhập, một số khác đã học giáo lý này được một thời gian, nhưng các con đã sẵn sàng bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô một cách trực tiếp hơn. Lẽ tất nhiên, có rất, rất nhiều cách để làm việc này nhưng chắc chắn một trong những cách đó là qua mạng Internet.

Trong khóa học về quả vị Ki-tô của thày (sách Chìa khóa chính yếu để đạt quả vị Ki-tô cá nhân) thày đã đề ra cho những ai hoàn tất khóa học công việc viết lại câu chuyện cuộc đời mình. Với hiện tượng viết blog trong thời hiện đại, tại sao không viết câu chuyện này như một blog?

Tại sao không tạo ra một trang mạng hay một blog lấy giáo lý chân sư thăng thiên và áp dụng vào một lãnh vực cá biệt? Con cũng có thể lấy một lãnh vực cá biệt, tìm kiếm tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền liên quan đến lãnh vực đó, lấy ra tất cả những điều mà các thày đã nói và để các ý đó vào một trang mạng. Con có thể viết lại một cách trung hòa với ngôn từ của chính con để người đọc không cần phải tin các chân sư thăng thiên hiện hữu, hay con cũng có thể trích dẫn lời các thày nếu con ghi rõ xuất xứ. Có rất nhiều cách con có thể dùng mạng Internet để biểu lộ quả vị Ki-tô, và qua đó tiếp xúc được nhiều người hơn là con có thể tiếp xúc tận mặt. Đây cũng có thể là một cách để con luyện tập cách con biểu lộ quả vị Ki-tô và quan sát những phản ứng khởi lên trong con. Con cũng có thể thành lập, nếu con muốn, một nhóm người để hỗ trợ lẫn nhau. Một số các con có kinh nghiệm dùng máy điện toán và có thể giúp những ai ít có kinh nghiệm, và do đó các con bắt đầu hỗ trợ lẫn nhau. Các con cũng có thể giúp lượng định lẫn nhau, phản hồi tới các người trong nhóm, và qua đó chia xẻ nhiều, nhiều điều. Con có thể tạo ra một hiện diện trên mạng Internet hiện chưa có, chưa bao giờ có mặt trên mạng vì các con tới từ những quá trình khác nhau nhưng cũng có những điểm tương đồng, một sự hợp nhất thâm sâu với những điều các con phát biểu, vì các con đã đạt được một trình độ sáng suốt và nguyên vẹn, đã chữa lành tâm lý và buông bỏ các ngã vỏ ngoài.

Đã đến lúc các thày khuyến khích các con làm công việc này. Lẽ tất nhiên các con có quyền tự quyết. Thượng đế không muốn con người bị ép buộc. Các thày không muốn các con tự ép buộc mình làm việc này nhưng quả thật là một số các con đã sẵn sàng làm việc này dưới hình thức nào đó. Đã đến lúc các con đứng lên và ngưng ý nghĩ là vị sứ giả là người duy nhất phải dựng lên các trang mạng. Con hãy nhận ra là con cũng có tiềm năng, kinh nghiệm và chứng đạt để làm một cái gì đó. Một lần nữa, con nên hiểu rõ. Điều con có thể biểu đạt lúc này không phải là biểu đạt tối hậu của Ki-tô, nhưng khi con biểu đạt nó bây giờ thì con có thể hoàn chỉnh nó. Nếu con không biểu đạt nó lúc này thì con sẽ không có cơ hội hoàn chỉnh và con sẽ không tiến triển.

Con hãy xem xét trở lại tình huống bữa tiệc cưới ở Cana. Lúc đó thày đứng trước một ngã rẽ trong cuộc đời. Thày sẽ bắt đầu sứ vụ công chúng của thày hay thày đình chỉ nó? Ấy, nếu lúc ấy Mẹ Mary không thúc bách thày, thì thày đã không làm được việc đó. Thày đang thúc bách con. Nếu thày không chấp nhận sự thúc bách của Mẹ Mary và cả gan tiến hành sứ vụ của thày, thì có chăng một tấm gương ở đầu thời Song Ngư để con người noi theo? Ấy, có thể là thày sẽ làm sau đó – có thể.

Con không thể biết ngày mai sẽ ra sao. Con chỉ có thể biết hiện tại, con chỉ có thể hành động trong hiện tại. Có thể bây giờ là “hiện tại”, là lúc con đứng lên và biến nước lã của tâm thức thế gian trong một lãnh vực nào đó của cuộc sống thành rượu của tâm thức Ki-tô tuôn chảy xuyên qua con!

Con yêu dấu, tới đây thì thày cảm ơn con đã chú tâm nghe bài giảng này, thày cảm ơn con đã sẵn sàng làm chiếc loa lan tỏa bài giảng này tới tâm thức tập thể của hành tinh, sẽ đem lại kết quả sâu rộng, vượt quá những gì con có thể biết với tâm vỏ ngoài. Quả thực, con có thể nói là sứ vụ công chúng của thày hai ngàn năm trước đây đã là cực alpha, và những gì các thày đang trao truyền qua tiến trình tiết lộ tuần tự này, không chỉ qua vị sứ giả này và còn xuyên qua nhiều vị sứ giả khác, là cực omega. Khởi đầu của thời đại Song ngư – kết cuộc của thời đại Song ngư, nhưng thực sự, thời Song ngư không thể tới kết cuộc trọn vẹn khi chưa có một biểu đạt công chúng của giáo lý thực của Ki-tô.

Con có thể là một thành phần của biểu đạt đó, một phần của làn sóng công chúng khi bỗng nhiên mọi người có cơ hội giáp mặt giáo lý thực của Ki-tô, một cơ hội mà họ không có được trong suốt thời Song ngư. Khi con người được nhận cơ hội đó, thì lúc ấy chung cuộc sẽ tới, không phải là chung cuộc của thế giới, mà là chung cuộc của thời Song ngư. Lúc ấy, hành tinh có thể hoàn toàn bước vào thời Bảo bình. Chúng ta có thể bắt đầu chú tâm xây dựng thời Hoàng kim của Saint Germain thay vì tìm cách đuổi kịp, cứ tìm cách hoàn tất tất cả những điều chưa được hoàn thành trong thời Song ngư.

Con có thể quan tâm là con đã sẵn sàng làm chuyện này chưa, con có xứng đáng làm việc này chưa. Những quan tâm này bắt nguồn từ ngã gốc và các ngã khác. Do đó, thày chỉ có thể nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta, và ta sẽ biến con thành người chài lưới đàn ông, đàn bà và trẻ em.”

7 | Hiểu thấu tiết lộ tuần tự

Chân sư Thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên MORE, cũng được biết trong các đợt truyền giáo trước như El Morya, Chân sư M, Bapu hay đơn giản là Morya, do đó thày có nhiều tên. Thày hơn là một cái tên, do đó thày tìm cách vụt đi trước các đệ tử muốn gán một hình ảnh tôn thờ vào một danh hiệu nào đó. Thày biết rõ là nhiều đệ tử sẽ và đã bác bỏ tất cả các điều mà thày giảng ngày hôm nay vì thày đã đổi tên từ El Morya sang Chân sư MORE. Tuy nhiên, điều này thích hợp, vì có những đệ tử phải bác bỏ điều thày đang giảng vì họ không thuộc mạn đà la, đợt truyền giáo mà thày đang hướng bài giảng này tới. Tuy nhiên, có một số đệ tử sẽ được lợi lạc từ bài giảng này, nếu họ chịu mở tâm ra đón nhận.

Mỗi lần các thày bảo trợ một tổ chức, và các thày đã bảo trợ nhiều tổ chức hơn các con (đa số các con) biết, thì có một nhóm người, một mạn đà la, mà các thày nhắm tới khi bảo trợ tổ chức đó. Có một số người khác đáng lẽ không thuộc tổ chức đó. Khi các thày bước sang bảo trợ một tổ chức khác, thì điều thích hợp và tự nhiên là những người thuộc mạn đà la của tổ chức trước không đi theo với các thày. Tuy nhiên, lúc nào cũng có trong một tổ chức một số người không thuộc mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, và do đó, họ tự do đi theo các thày khi các thày chuyển sang bảo trợ một tổ chức khác.

7.1. Con đường tâm linh lúc trước và ngày nay

Giờ đây, các con yêu dấu, thày muốn bắt đầu bằng cách nói thêm về câu hỏi được đặt ra tối hôm qua về cách các thày đã trình bày con đường tâm linh trong đợt truyền giáo trước ở tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải đăng Trên Đỉnh núi), thậm chí đi trở ngược về tổ chức I AM Movement (Phong trào TA LÀ). Thày sẽ nói về sự tương phản giữa cách các thày trình bày con đường tâm linh lúc đó và ngày nay, với các giáo lý mới nhất về cách thể hiện quả vị Ki-tô, cũng như là các giáo lý về ngã gốc, cái Ta Biết, là người đồng-sáng tạo, biểu hiện tiềm năng sáng tạo của mình – là các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong những năm vừa qua. Như vị sứ giả này đã nêu lên, không có sự mâu thuẫn trong bản chất các đợt truyền giáo, nhưng nếu con nhìn từ một tầm nhìn nào đó, thì con sẽ thấy có mâu thuẫn. Con nên hiểu là đợt truyền giáo trước ở Summit Lighthouse đã được các thày tạo dựng với mục đích chính là giúp một mạn đà la đệ tử đạt được một số khai ngộ cốt yếu cho họ.

Điều cốt yếu trong việc phát triển cá nhân của họ là họ đạt được các khai ngộ đó, và điều cốt yếu cho hành tinh là có một số người, một số lượng tới hạn người (critical mass), đạt được các khai ngộ đó. Tổ chức Summit Lighthouse đã thu hút nhiều người khác không thuộc mạn đà la đó. Họ đã được lợi lạc khi tham gia vào Summit Lighthouse, và họ đã đóng góp nhiều cho tổ chức, họ đã đóng góp thêm nhiều vào động lượng, và quả thực họ đã giúp các thày đạt được nhiều thành quả từ tổ chức Summit Lighthouse hơn những gì các thày có thể đạt được qua các người thuộc mạn đà la. Cũng đã có nhiều người tâm linh không gia nhập Summit Lighthouse, một phần vì các thày không hướng họ về tổ chức đó. Đây là một số đề tài mà thày muốn thảo luận trong bài giảng này.

7.2. Đợt truyền giáo cuối cùng của thời Song ngư

Thày muốn bắt đầu với sự kiện tổ chức Summit Lighthouse là, như Giê-su đã trình bày trước đây, đợt truyền giáo cuối cùng (hay ít ra là đợt truyền giáo công chúng cuối cùng) mà các thày có thể bảo trợ trong thời Song ngư. Điều này không có nghĩa, như một số người đã diễn giải, là đó là đợt truyền giáo quan trọng, chung cuộc và tuyệt đối nhất mà các thày trao truyền trong thời Song ngư. Tổ chức Summit Lighthouse đã được lập ra với một số mục đích, nhưng mục đích mà thày muốn thảo luận ở đây, liên quan đến mạn đà la mà tổ chức được tạo ra để phục vụ, là một mục đích rất đặc thù. Mục đích đó là để giúp một nhóm dòng sống đạt được các khai ngộ của thời Song ngư mà họ chưa đạt được trong thời Song ngư. 

Con có thể nói như thế này: khi hành tinh bước sang một thời đại tâm linh mới, khi hành tinh chuyển từ thời đại trước sang thời Song ngư, thì có một nhóm người mà ta có thể nói, từ một tầm nhìn nào đó, đã là động cơ thúc đẩy sự tăng triển của hành tinh trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Nói cách khác, họ ở một giai đoạn trong tiến trình tăng triển cá nhân khiến họ có tiềm năng đạt được các khai ngộ của thời đại sắp tới. Do đó, khi họ đầu thai trong thời đại đó, họ có thể đẩy mạnh sự tăng triển tâm linh, sự tăng triển của tâm thức Ki-tô, của thời đại đó. Tuy nhiên, để có thể đẩy mạnh tâm thức tập thể, họ phải đạt được các khai ngộ của thời đại đó, các khai ngộ nền tảng của thời đại đó.

Mỗi thời đại có một số khai ngộ nền tảng. Hai ngàn năm trước đây, Giê-su đã khai mở thời đại Song ngư; thày đã tạo dựng nền tảng cho thời Song ngư. Giê-su đã trình bày các khai ngộ đó trong giáo lý nguyên thủy, toàn bộ của thày. Ngay cả trong giáo lý công chúng được bảo tồn trong kinh điển, con cũng tìm được một số lượng tới hạn các khai ngộ này để tạo xoay chuyển tâm thức, đôi khi được trình bày một cách ẩn dụ và đôi khi một cách thẳng thắn hơn.

Thày không nói ở đây là các kinh sách về cuộc đời và lời giảng của Giê-su đã mô tả các khai ngộ này một cách đầy đủ, vì chúng chắc chắn không làm được công việc này. Nhưng Giê-su có trao truyền một khuôn đúc có thể khai triển thành phong trào mà thày hình dung, một phong trào dựa trên Thánh linh, dựa trên Ngôi lời Hằng sống được nói ra. Một phong trào như thế đã có thể đẩy mạnh thời đại Song ngư, đẩy mạnh sự tăng triển của tâm thức tập thể.

7.3. Con người không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư

Chuyện đã xảy ra là không có đủ số người trong mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ của thời Song ngư trong những thế kỷ đầu của thời đại đó. Đó là lý do vì sao sa nhân đã có thể xâm nhập và biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của đế quốc La Mã, và từ lúc đó trở đi, đạo Công giáo coi như đã bị tổn hại không thể cứu vãn. Điều này có nghĩa là không có giáo lý công chúng chỉ dẫn con người đạt các khai ngộ của thời Song ngư.

Lẽ tất nhiên, đây không phải là kế hoạch nguyên thủy nhưng các thày luôn luôn tôn trọng quyền tự quyết (thày dùng chữ “các thày” để chỉ các chân sư thăng thiên, vì tất nhiên là trong thời Song ngư chính thày chưa là một chân sư thăng thiên, và do đó thày đã không dự phần vào các cuộc bàn thảo đó). Các chân sư thăng thiên luôn luôn xem xét con người đáp ứng ra sao trước các khai ngộ. Cho dù con người có đáp ứng hay không, các thày luôn luôn tìm một phương cách giúp con người vươn lên cao hơn.  

Trong thời Song ngư, các thày đã tạo cảm hứng và bảo trợ một số tổ chức. Đây là thời Giáo hội Công giáo đàn áp tất cả các người “không tin đạo”. Các tổ chức này đã hoạt động bí mật, các thày đã đề cập đến các hội Rosicrucian và Freemason nhưng cũng có tổ chức khác. Các thày cũng đã bảo trợ một số sáng kiến và tổ chức tại những vùng trên thế giới nơi giáo hội Công giáo không có ảnh hưởng mạnh mẽ. Thày không muốn các con giới hạn tầm nhìn của mình và nghĩ rằng các thày đã chỉ làm việc với một số ít tổ chức. Các thày đã làm việc, như các thày luôn luôn làm, với nhiều cá nhân và nhóm người khi họ sẵn sàng mở tâm đón nhận giáo lý ở một tầng mức nào đó.

Tuy nhiên, điều thày muốn các con nhận ra là khi thời Song ngư đã tới lúc gần chấm dứt, thì chuyện rõ ràng là không đủ số lượng tới hạn người thuộc mạn đà la Song ngư nguyên thủy, không đủ số lượng tới hạn các dòng sống đó, đã đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các thày đã quyết định (và lần này thày có dự phần vào các cuộc bàn thảo vì thày đã thăng thiên) là các thày sẽ thành lập một tổ chức khác với mục đích chính yếu giúp các dòng sống đó đạt các khai ngộ của thời Song ngư. Liên quan đến tổ chức Summit Lighthouse, thì tổ chức này được thành lập với mục đích chính giúp nhóm dòng sống cá biệt đó đạt được những khai ngộ mà họ cần đạt khi thời Song ngư chấm dứt.

Chính thày có thuộc vào mạn đà la ở đầu thời Song ngư chăng? Có, thày thuộc mạn đà la đó. Kuthumi cũng vậy, cũng như là Saint Germain và lẽ tất nhiên Mẹ Mary. Mẹ Mary thăng thiên rất sớm, Saint Germain cần thêm chút thời gian. Kuthumi và thày đi đoạn hậu và cần rất nhiều thời gian để thăng thiên, nhưng các thày rồi cũng đã thăng thiên. Do đó, các thày đã quyết định là thày là vị chân sư chính bảo trợ tổ chức Summit Lighthouse.

Các con nhận ra là mục đích duy nhất (ít ra là mục đích chính) là giúp mạn đà la đặc thù của các dòng sống đó, các người chưa đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nói theo từ ngữ hiện đại thì đây là một hình thức quản trị khủng hoảng. Nói cách khác, thời Song ngư đã gần hết, cát trong đồng hồ cát đã gần cạn, và các dòng sống đó vẫn chưa đạt được khai ngộ. Thày không nói là tất cả các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đều phải đạt được các khai ngộ trong khoảng thời gian 2000 năm đó. Thày muốn nói là cần một số lượng tới hạn đạt được các khai ngộ đó, và lúc đó chưa đủ túc số đó. Như một hình thức quản trị khủng hoảng, các thày thảo luận và định ra những gì các thày có thể làm để giúp các dòng sống đó (ít ra là một số lượng tới hạn trong nhóm đó) vượt qua trở ngại và đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Các cuộc thảo luận đó là khuôn đúc nền tảng của tổ chức Summit Lighthouse và nói chung tất cả những gì đã xảy ra trong tổ chức đó đều liên quan tới mục đích đó.

7.4. Các khai ngộ của thời Song ngư

Đâu là những khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư, không chỉ những người thuộc mạn đà la nguyên thủy và toàn thể nhân loại? À, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su và xem xét khuôn đúc mà Giê-su đã tạo dựng. Sau đó, con có thể xem xét các giáo lý mà các thày đã trao truyền, và lẽ tất nhiên, con yêu dấu, con có thể diễn tả chúng bằng nhiều cách khác nhau. Không phải chỉ có một cách duy nhất để diễn tả chúng bằng ngôn từ, mà có nhiều cách. Con có thể dùng từ vựng khác nhau. Thày không muốn đưa ra cảm tưởng là cách thày diễn tả ở đây là cách diễn tả duy nhất.

Chắc chắn là một cách để diễn tả các khai ngộ của thời Song ngư là: Trong thời Song ngư, con người cần giải thoát mình khỏi ách thống trị và nô lệ của sa nhân. Làm sao con giải thoát mình khỏi sa nhân? Cách duy nhất là đạt được tâm thức Ki-tô. Tâm thức Ki-tô là sợi dây điều giải (mediator) Tánh linh và vật chất, nó là cái được Thượng đế gửi xuống. Để làm gì? Không phải để cứu rỗi con người, như các giáo phái Cơ đốc giáo tuyên bố, nhưng để cho con người một khung tham chiếu, giúp con người có một khung tham chiếu khi họ trải nghiệm chứ không chỉ hiểu tâm thức Ki-tô. Con có thể so sánh với tảng đá Ki-tô tất cả các dối trá và ảo tưởng được phóng tới con, được sa nhân lập trình vào tiềm thức của con.

Con thấy là tất cả các ảo tưởng, triết lý, lý thuyết và luận thuyết đều là cát cuốn bay theo gió. Con có thể so sánh chúng với tảng đá không thể lay chuyển, theo nghĩa nó không có tính chất nhị nguyên. Lẽ tất nhiên, nó không đứng yên vì Ki-tô di chuyển cùng với hướng đi lên của toàn thể vũ trụ, do đó ta có thể nói là Ki-tô luôn luôn tiến triển. Đối với các con đang đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên do nhị nguyên thống trị, thì nó là một tảng đá mà con có thể nương tựa và dùng làm nền móng vững chắc để lượng định các ý tưởng của sa nhân.

Vậy ta có thể nói là các khai ngộ mà con người cần đạt trong thời Song ngư là noi theo gương của Giê-su, tin tưởng Giê-su, làm công việc mà Giê-su đã làm và sau cùng làm những công việc to lớn hơn những gì Giê-su đã làm. Như các thày đã nói nhiều lần, noi theo gương Giê-su thay vì chờ đợi Giê-su sẽ tới và cứu rỗi lúc cuối thời. Vậy câu hỏi trở nên: “Làm sao con người có thể noi theo gương của Giê-su?” Con có thể nhìn lại quá khứ và biện bác là vì con người không có được một bản viết các giáo lý chân thực của Giê-su, nên họ không thể noi theo gương của Giê-su, họ không thể đạt các khai ngộ – có một khoảng cách.

7.5. Khoảng cách giữa giáo lý và ứng dụng

Đây là một đề tài mà thày muốn luận giảng: khoảng cách. Câu hỏi trở nên là: chúng ta hãy giả dụ sa nhân không xía vào công việc của trái đất. Nói cách khác, không có gì ngăn trở các chân sư thăng thiên thể hiện trong bát cung vật lý đúng y những gì các thày muốn thể hiện. Các thày có thể nào trao truyền một giáo lý đầy đủ đến độ bất cứ ai theo và áp dụng giáo lý đều đạt được tâm thức Ki-tô chăng?

Nhiều người trong các con, nếu con xem xét phản ứng của mình trước câu hỏi này, sẽ thấy là trong tâm thức của mình có một niềm tin là: Đúng vậy, điều này phải khả thi. Giờ đây, con yêu dấu, một lần nữa các thày không muốn chê trách con hay khiến con không thoải mái, nhưng thày phải nói rất thẳng thắn là niềm tin này là một ảo tưởng, và nó có thể là một ảo tưởng nguy hiểm. Ảo tưởng này chính thực là lý do chính khiến nhiều người thuộc mạn đà la nguyên thủy của thời Song ngư đã không đạt được các khai ngộ của thời Song ngư.

Thày muốn trình bày ở đây một tóm lược ngắn các sự kiện lịch sử. Có những người đã nói: “Tại sao Giê-su không viết lại những giáo lý chân thực của thày để con người có một văn bản đầy đủ, mà họ có thể theo và áp dụng?” Ấy, thày sẽ trả lời câu hỏi này sau, nhưng chúng ta có sự kiện lịch sử là Giê-su đã không viết lại những giáo lý của thày, Giê-su đã không để lại một văn bản chính thức.

Trong mấy thế kỷ đầu, đạo Công giáo là một phong trào đa dạng, khá hỗn loạn gồm nhiều nhóm và môn phái, một phần do các phương tiện truyền thông thiếu vắng của thời đó, và phần khác là Giê-su mong muốn là những người khác nhau, những nhóm khác nhau có thể trải nghiệm Cơ đốc giáo theo cách riêng của họ.

Sau đó, tới thời điểm then chốt trong lịch sử khi sa nhân trong cõi bản sắc đã thành công trong việc thuyết phục một sa nhân đang đầu thai là y đã trực quan Ki-tô và do đó y biến phong trào Công giáo thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La mã. Từ lúc đó, sa nhân đã vững tay điều khiển Cơ đốc giáo. Con có thể thấy là suốt thời Trung cổ, họ đã dùng khả năng điều khiển Cơ đốc giáo để ảnh hưởng và kiểm soát các nước Tây Âu và xã hội Âu châu. Chuyện đã xảy ra thời đó là một số tổ chức bí mật đã bộc phát: hội Rosicrucian, hội Freemason vân vân. Các tổ chức này dựa trên một con đường tu tuần tự, một con đường dẫn con người đi từng bước về hướng những tầng tâm thức cao hơn, hay ít ra là những khai ngộ cao hơn. Sau đó, chúng ta thấy lịch sử dần dần đi tới điểm ảnh hưởng của giáo hội Công giáo bắt đầu suy thoái. Khoa học xuất hiện, và không lâu sau thì thuyết duy vật trở nên dụng cụ chính của sa nhân. Nhưng sa nhân không thể kiềm hãm con người càng ngày càng nhận ra nhu cầu đi theo một con đường khai ngộ, một con đường tuần tự dẫn tới các tầng tâm thức cao hơn.

Sa nhân đã không thể ngăn nổi nhận biết này tuy họ rất muốn làm được chuyện đó. Đã có lúc nhân loại có nhận biết cao hơn về nhu cầu này, và điều này đã khai mở điều kiện cho phép các chân sư thăng thiên bước ra và công khai tiết lộ sự hỗ trợ của mình và do đó bắt đầu trao truyền giáo lý về con đường khai ngộ.

7.6. Những giới hạn của các sứ giả được bảo trợ

Con có thể nói là một khi các thày có một vị sứ giả được bảo trợ thì chắc hẳn các thày có thể nói bất cứ điều mình muốn qua vị sứ giả đó. Điều này vừa đúng vừa không đúng, vì tuy nhiều người trong các đợt truyền giáo trước không muốn nhìn nhận, các thày có bị giới hạn trong những gì có thể trao truyền qua một vị sứ giả được bảo trợ. Có hai giới hạn. Giới hạn thứ nhất là trình độ tâm thức của vị sứ giả quy định giáo lý trao truyền xuyên qua tâm vị sứ giả đó có thể cao đến chừng nào. Nói cách khác, nếu vị sứ giả chưa đạt được một số khai ngộ, thì tâm của vị ấy rất khó nhận được các khuôn đúc về các khai ngộ cao hơn và chuyển chúng thành ngôn từ.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là tiến trình không thích nghi, vì con yêu dấu, có lợi ích gì trao truyền một giáo lý cao đến độ không ai đang đầu thai có thể hiểu thấu được? Nói cách khác, các thày luôn luôn nhìn một sứ giả được bảo trợ và cân nhắc: “Có đủ số người có khả năng tiếp thu tầng giáo lý này chăng?” Nếu không có đủ thì các thày sẽ không trao truyền giáo lý đó vào lúc đó. Lẽ tất nhiên, đó là lý do vì sao các thày đã trao cho các con khái niệm tiết lộ tuần tự.

Một chuyện trớ trêu là trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước, đã có những người tin rằng tổ chức của họ và có lẽ nhiều tổ chức trước đó, đã thuộc vào tiến trình tiết lộ tuần tự được các thày bảo trợ, nhưng kỳ lạ thay, tiến trình này ngưng lại khi tổ chức của họ chấm dứt. Khi tổ chức của họ không còn một vị sứ giả thì tiến trình tiết lộ tuần tự vì lý do nào đó chấm dứt. Đây là một điều trớ trêu to lớn, một điều trớ trêu to lớn mà ta cần suy ngẫm. Thày biết là những đệ tử bị vướng mắc trong điểm trớ trêu này có lẽ sẽ không suy ngẫm điều đó, nhưng sự việc này cần được nói ra và phóng chiếu vào tâm thức tập thể.

Điều quan trọng cho tất cả các con đã mở tâm đón nhận, là tiết lộ tuần tự là một tiến trình liên tục mà các thày không dự kiến sẽ chấm dứt trong thời đại Bảo bình. Sẽ có tiết lộ tuần tự liên tục, có thể sẽ có một vài gián đoạn vì một số lý do, nhưng sẽ có tiết lộ tuần tự trong suốt 2000 năm tới của thời Bảo bình. Do đó, trong thời Bảo bình, nghĩ rằng có một giáo lý tối hậu, tuyệt đối hay chung cuộc là chuyện hão huyền. Đó là một giáo lý làm viên gạch dẫn lối trong tiến trình tiết lộ tuần tự trải dài suốt thời Bảo bình. Tiến trình này sẽ trải bày chính xác ra sao tùy thuộc cách con người đón nhận giáo lý, và cũng tùy thuộc Saint Germain ấn định giáo lý nào được trao truyền vì Saint Germain là vị lãnh đạo chính của thời Bảo bình.

7.7. Con đường dẫn tới quả vị Ki-tô không máy móc

Trở lại ý ban đầu của thày, có thể nào các thày, ngay cả vào thời nay khi các thày có một sứ giả được bảo trợ, trao truyền một con đường khai ngộ, một giáo lý có hệ thống phác họa những thực hành, khai ngộ và bước tiến đầy đủ đến độ bất cứ ai chân thành theo đuổi và thực hành sẽ chắc chắn đạt được tâm thức Ki-tô? Ngay cả trong trường hợp không có nhiễu sóng hay giới hạn từ tâm thức tập thể, ngay cả nếu các thày có các điều kiện có thể gọi là “lý tưởng” (tuy các điều kiện lý tưởng này thật sự vô nghĩa và không thể quy định), thì các thày cũng không thể vạch ra một con đường tu có thể bảo đảm kết quả. Lý do, con yêu dấu, là vì con đường quả vị Ki-tô không máy móc, không tự động. Có thể có văn bản tự động, nhưng không có quả vị Ki-tô tự động.

Con yêu dấu, ngay từ khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ thì sa nhân đã tìm cách tha hóa nó. Họ đã làm được chuyện này phần lớn nhờ những gì họ đã tạo ra trong thời Song ngư. Nếu con nhìn vào những gì sa nhân đã làm khi giáo hội Công giáo được thành lập, thì con thấy là họ chối bỏ con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, nhưng họ cũng biết là họ cần cho con người cái gì đó để thay thế. Nói cách khác, họ biết là họ không thể khiến mọi người chối bỏ Thượng đế hay chối bỏ là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ đã tìm cách làm chuyện này, như thày sẽ giải thích ở phần sau, nhưng điều họ bắt đầu với giáo hội Công giáo là họ nhận ra rằng: “Có một số người tin vào một hình thức nào đó của Thượng đế, cõi tâm linh và đời sống sau cuộc sống trần thế. Chúng ta không thể phá hủy những niềm tin này trong ngắn hạn, do đó chúng ta phải cho họ cái gì khác.” Điều sa nhân đã cho con người (chính yếu) là một con đường cứu rỗi máy móc, tự động.

Cơ đốc giáo là gì? Nó là hứa hẹn con được cứu rỗi một cách bảo đảm, tự động, nếu con tuân theo một số luật lệ vỏ ngoài do giáo hội vỏ ngoài đặt ra. Con thấy chăng, họ bỏ đi con đường nội tâm chân thật dẫn tới quả vị Ki-tô, và thay vào đó họ cho con người một cứu rỗi vỏ ngoài, máy móc, tự động. Chuyện gì đã xảy ra khi các thày bắt đầu trao truyền giáo lý về một con đường khai ngộ? Nhiều người đã diễn giải theo những gì họ được lập trình để nghĩ trong thời Song ngư, là nếu họ theo con đường khai ngộ đó một cách nghiêm túc, thì họ sẽ bảo đảm đạt được kết quả. Thí dụ, ngày hôm nay có những người trong hội Freemasons tin rằng nếu họ theo đủ 33 bước do tổ chức ấn định thì họ sẽ đạt được một tầng tâm thức cao hơn. Con thấy chăng, con yêu dấu, sự thực là tuy một con đường tu có mục đích dẫn con tới một tầng tâm thức cao hơn, nhưng thi hành các bước khai ngộ vỏ ngoài không đồng nghĩa với đạt được một tầng tâm thức cao hơn.

Con yêu dấu, con hãy lắng nghe thật, thật kỹ những gì thày đang nói, vì thày đang trao cho các con chìa khóa cơ yếu để các con hiểu thế nào là Ki-tô Hằng sống đang hành động. Con không thể quy định Ki-tô Hằng sống phải cư xử hay không được cư xử như thế nào. Con không thể chế ra một định nghĩa nói rằng: “Ki-tô Hằng sống như thế này, đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống làm, và đây là những điều mà Ki-tô Hằng sống không làm.”

Lẽ tất nhiên, con có thể định một số điều. Ki-tô Hằng sống sẽ không đi bắn giết người khác, nếu ta muốn nói một cách quá đáng. Có một số chuyện mà Ki-tô Hằng sống sẽ không làm vì Ki-tô Hằng sống không hành động do lòng ích kỷ, sợ hãi hay để chứng minh bất cứ điều gì. Nhưng con không thể chế ra một định nghĩa là Ki-tô Hằng sống phải hành động chính xác ra sao. Đó là lý do vì sao con không thể vạch ra một con đường tu đưa con tới quả vị Ki-tô một cách máy móc, tự động.

Trở lại khái niệm khoảng cách mà thày đã nêu lên, điều thày muốn nói ở đây là: Tại sao Giê-su đã không viết ra giáo lý? Bởi vì nếu Giê-su viết ra giáo lý của thày, thì con người sẽ dùng quyển kinh đó để định ra một con đường vỏ ngoài, máy móc, tự động dẫn tới quả vị Ki-tô. Nói cách khác, họ sẽ nghĩ là họ có thể dùng giáo lý đó (được mệnh danh là giáo lý chính thức của Giê-su) để định ra một con đường máy móc. Sa nhân thể nào cũng đã làm như vậy ngay từ đầu, vì có nhiều người, đặc biệt vào thời đó, chấp nhận chuyện này. Thí dụ, người Do thái chấp nhận ý niệm là muốn được cứu rỗi thì con phải rửa sạch tội lỗi, và con làm việc này bằng cách dùng máu của các con vật tế thần. Ấy, còn gì máy móc hơn thế!

Con thấy là ngay thời nay, người Do thái vẫn theo một số quy luật hành xử vỏ ngoài. Con thấy là con người luôn luôn có khuynh hướng tìm một con đường tu máy móc, và tại sao vậy? Vì họ không muốn làm điều mà Giê-su đã dạy họ: Hãy nhìn vào cái đà trong mắt mình thay vì nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em.

7.8. Hãy ngưng phóng chiếu vấn đề ra bên ngoài mình

Đâu là cách khác để mô tả khai ngộ cốt yếu của thời Song ngư? Đó là câu nói con người cần ngưng nhìn vào cái giằm trong con mắt người anh em và thay vào đó bắt đầu nhìn vào cái đà trong mắt mình. Nói cách khác, con người cần ngưng phóng chiếu là vấn đề ở ngoài kia, và nguyên do đau khổ của họ là điều kiện bên ngoài. Thay vào đó, họ cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ, nhìn vào phản ứng của họ, nhận ra là các phản ứng đó phát xuất từ một cấu trúc nào đó trong tâm lý của họ, và mạnh dạn tiếp tục công việc quán sát nội tâm, một cách hoàn toàn chân thành, cho đến khi họ thấy điều đang giới hạn họ và do đó có thể buông bỏ nó.

Có những người đã làm được chuyện này trong thời Song ngư. Một số đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo và đã học các kinh sách đầy thiếu sót về Giê-su nhưng tuy thế vẫn hiểu được nhu cầu nhìn vào chính mình, nhìn vào tâm thức của mình. Đâu là thay đổi cốt yếu, quyết định cần xảy ra để đạt được các khai ngộ của thời Song ngư? Đó là con phải ngưng phóng chiếu ra ngoài. Con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và đi vào bên trong.

Giê-su đã đạt quả vị Ki-tô như thế nào? À, điều này tất nhiên không được mô tả trong kinh sách, nhưng Giê-su đã trải qua một tiến trình. Nếu con đọc kỹ thì con có thể thấy một vài gợi ý, tỷ dụ như khi ở bữa tiệc cưới ở Cana, Mẹ Mary đã phải đốc thúc để Giê-su bước ra và bắt đầu sứ vụ công chúng của thày. Con có thể thấy là Giê-su đã rút lui vào nơi hoang vắng trong 40 ngày, và đó là một giai đoạn tự quán sát cao độ. Tất nhiên con cũng biết, từ các giáo lý mà các thày đã trao truyền, là Giê-su đã du hành về phương đông và đã trải qua ở các nơi đó một số hình thức khai ngộ, đã theo một con đường tu. Điều đầu tiên mà Giê-su đã làm (và điều này Giê-su khó diễn tả vào thời đó vì con người không có hiểu biết về tâm lý), là quan sát chính mình, các phản ứng của mình, liên tục nhìn vào nội tâm, nhìn vào tâm lý của mình và nhận ra các giới hạn.

Con yêu dấu, thày có nói là các thày không thể vạch ra một giáo lý bảo đảm kết quả, và sẽ luôn luôn có một khoảng cách. Khoảng cách đó là gì? Đó là: hoặc con người sẽ tiếp cận giáo lý một cách máy móc và muốn theo nó như một con đường vỏ ngoài, hoặc họ sẽ bước lên một mức cao hơn, nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của mình và dùng giáo lý để quan sát chính mình và các phản ứng của mình. Một vị thày có thể nào ép buộc đệ tử thực hành tự quán sát chăng? Không, không thể được. Một vị thày tâm linh, và đặc biệt các chân sư thăng thiên, tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Các thày không thể và không muốn ép buộc đệ tử. Các thày có thể trao truyền giáo lý, các thày có thể gợi ý. Nếu con xem lại các đợt truyền giáo trước thì con sẽ tìm thấy các gợi ý này, nhưng nhiều người lúc đó đã không thấy được các gợi ý đó.

7.9. Khoảng cách trong tâm con người

Các thày hiểu rất rõ, con yêu dấu, là khi con nhìn lại tổ chức Summit Lighthouse, phong trào TA LÀ (I AM Movement), hội Thông thiên học (Theosophy) và các tổ chức khác mà các thày đã bảo trợ hay đã góp tay vào (và có nhiều tổ chức khác), thì các thày hiểu rất rõ là có một khoảng cách trong tâm các người đệ tử. Họ mong muốn đón nhận giáo lý. Họ mong muốn tìm hiểu giáo lý. Họ mong muốn thực tập những thực tập mà các thày trao truyền. Một số rất hăng hái và trở nên rất nhiệt thành, rất triệt để trong việc thực hành. Tuy nhiên, đọc cầu thỉnh ngọn lửa tím trong mười tiếng đồng hồ làm sao có thể giúp con thực tập tự quán sát, nếu con nghĩ tất cả những gì con cần là thực tập vỏ ngoài?

Nói cách khác, con có thể lấy giáo lý, làm những thực tập mà các thày đã trao truyền nhưng vẫn phóng chiếu ra bên ngoài, vẫn nghĩ con đường tu là con đường vỏ ngoài, thậm chí còn xây dựng trong tâm niềm tin rằng: “Tôi thật sự không cần xem xét chính mình. Tôi chỉ cần cầu thỉnh đủ ngọn lửa tím.” Hoặc con cũng có thể dần dần xây dựng một niềm tin còn nguy hại hơn nữa, là điều mà nhiều đệ tử Summit Lighthouse đã làm.

Con thấy chăng, con yêu dấu, là con gặp một giáo lý – mà thày thẳng thắn nhìn nhận là các thày đã phần nào chế dầu vào lửa. Giê-su trước đây đã đưa ra hình ảnh là các thày giống như những người bán xe cũ dùng chiến thuật bán hàng gọi là “nhử hàng thấp, mời hàng cao”.  Các thày phải trao truyền một giáo lý vỏ ngoài hấp dẫn đủ để con người có thể chấp nhận và xử lý, và là điều họ cần ở trình độ tâm thức hiện tại của họ. Sau đó, các thày phải hy vọng là một khi họ đã đến với giáo lý, thì họ sẽ sẵn sàng bước lên cao hơn tầng tâm thức đó và nhận lãnh một hiểu biết sâu sắc hơn của giáo lý.

7.10. Mạn đà la của thời Song ngư

Con người cần gì vào lúc đó? À, đây là điểm con cần xem xét những người thuộc vào mạn đà la nguyên thủy ở đầu thời Song ngư. Những dòng sống đó tất nhiên chưa biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng họ có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là một tiềm năng – họ chưa đạt được quả vị Ki-tô. Trong suốt thời Song ngư, các dòng sống này đã đầu thai, đa số hầu như liên tục, trong nhiều bối cảnh khác nhau. Vì những người này đã đạt một trình độ nào đó ở đầu thời Song ngư, nên mỗi lần đầu thai họ đều có cảm nhận họ phải làm điều gì, họ phải thành tựu điều gì, họ phải tìm ra điều gì. Họ cần tìm ra con đường tu, họ cần phải tiến triển trên con đường đó. Nói chung thì họ đầu thai với cảm nhận đó. Trong số đó, những người đã tìm ra con đường nội tâm thì không có cảm tưởng thiếu vắng to lớn.

Những người này theo con đường nội tâm, nhưng có một số khác không thể (hay đúng ra thày phải nói là họ không muốn) khám phá con đường nội tâm, áp dụng con đường nội tâm, nhìn nhận con đường nội tâm. Qua những kiếp đầu thai trong thời Song ngư, họ càng ngày càng có cảm giác bực bội vì họ biết họ chưa đạt được những gì họ cần đạt. Đồng thời, con yêu dấu, họ bắt đầu nhận ra là họ quả thực có một tâm thức cao hơn nhiều người chung quanh họ. Một số trong họ nhận ra điều này ngay từ lúc đầu và tiếp tục mang theo cảm nhận này.

Cảm giác bực bội vì có hiểu biết nội tại là mình chưa đạt được những tiến bộ mà mình cần đạt, phối hợp với hiểu biết hay quan sát là mình vẫn tiến bộ hơn những người chung quanh, tạo ra nơi những người đệ tử đó một cảm nhận, một nhu cầu về hai chuyện: thứ nhất là họ cần được chứng thực là họ có trình độ cao hơn những người khác. Thứ hai, họ cần cảm thấy họ đang làm chuyện gì quan trọng trên hành tinh này. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không chỉ trích ai. Thày chỉ đang giản dị mô tả cơ chế trong tâm các đệ tử đó.

Khi các thày thành lập tổ chức Summit Lighthouse, các thày biết các đệ tử đó có những nhu cầu đó, và các thày đã trao truyền một số giáo lý đáp ứng những nhu cầu đó. Đó là lý do vì sao đã có một số lời tuyên bố khiến các đệ tử tin rằng sẽ có một tiết lộ tuyệt đối, chung cuộc, và đó sẽ là giáo lý chính cho 2000 năm sau đó, và điều này có nghĩa là họ chắc chắn là những đệ tử rất cao cấp vì họ đã nhận diện được giáo lý.

Một số đệ tử trong đó quả thật có trình độ cao hơn đa số dân chúng trên trái đất, nhưng thực sự thì đây không phải là một chuẩn mực so sánh ở mức cao và do đó không phải là lý do để có niềm kiêu hãnh tâm linh. Lẽ tất nhiên, niềm kiêu hãnh tâm linh không nề hà chuẩn mực so sánh ở tầng cấp nào, vì điều quan trọng cho nó chỉ là: “Tôi có trình độ cao hơn người khác chăng?” Con có thể thấy điều này ở khắp nơi trên thế giới: con người tìm ra đủ cách để cảm thấy hơn người khác dựa trên một số tiêu chuẩn nhân tạo.

7.11. Nhu cầu làm một việc gì quan trọng

Nhu cầu thứ hai của các đệ tử đó là cảm giác họ đang làm việc gì quan trọng. Các thày đáp ứng nhu cầu này bằng các bài chú và bằng cách hướng đệ tử đọc chú giải quyết những vấn nạn thế giới. Tới đây, các con hãy thận trọng: các bài chú có hiệu quả, không thể chối cãi điều này được. Không thể chối cãi là các đệ tử Summit Lighthouse đã có tầm ảnh hưởng quan trọng cơ yếu trên hành tinh và sự tiến triển của hành tinh. Thày hoàn toàn không có ý giảm danh dự hay hạ thấp tầm quan trọng của công việc đã được hoàn thành.

Như vậy con cũng có thể hiểu là thành quả này đã nuôi dưỡng (nếu họ đọc được hay nghe được những lời này) cảm giác là họ rất quan trọng. Bất cứ những gì các thày nói thì con người luôn luôn có thể diễn giải lệch hướng, đây là một rủi ro mà các thày phải chấp nhận. Tuy nhiên, có nhiều người không thuộc mạn đà la nguyên thủy đã tới Summit Lighthouse và đọc cầu chú, và đây là một phụng sự tuyệt vời. Nhưng với những người thuộc mạn đà la nguyên thủy thì có một số đã tiếp thu được giáo lý và thực tập của Summit Lighthouse và đã nhảy vọt, thu hẹp khoảng cách và bước vào con đường nội tâm. Một số đã làm được việc này nhưng một số khác không làm được.

Những người này đã dùng giáo lý của Summit Lighthouse để củng cố điều mà Giê-su và Quan âm đã giảng: Xuất phát từ ngã gốc, con đã tạo ra một cái ngã khác muốn cảm thấy, không những là nó hiểu cách vận hành của vũ trụ, nhưng nó được an toàn và an ninh. Đã có đệ tử ở Summit Lighthouse đã dùng giáo lý của các thày để củng cố cái ngã đó.  

Tuy nhiên, những đệ tử đó cũng giáp mặt một khai ngộ mà đa số không nhận ra. Con thấy chăng, con yêu dấu, trong Summit Lighthouse có ý tưởng là con có thể trượt một khai ngộ và điều này có hậu quả rất tai hại – ý tưởng này thực ra có giá trị phần nào. Thày không nói là các con, hiện đang trong một đợt truyền giáo khác, cần quá chú tâm vào việc này, nhưng con được lợi ích nếu con hiểu vấn đề này.

Như thày có nói, thực tế là có một mạn đà la gồm một số dòng sống ở đầu thời Song ngư có tiềm năng đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm thức tập thể, nhưng với điều kiện các dòng sống đó đạt được các khai ngộ của thời Song ngư. Nếu họ không đạt được các khai ngộ này, thì họ sẽ gặp một số vấn đề ở cuối thời Song ngư.

Con cần nhận ra là khi các thày thành lập một tổ chức nhằm giúp các đệ tử chưa đạt được các khai ngộ của một thời đại nào đó, thì các thày phải chấp nhận một số rủi ro. Rủi ro đó là các thày đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Con hiểu rằng trong 2000 năm thời Song ngư, các đệ tử đó đã có thời gian. Nếu trong một kiếp đầu thai con không đạt được khai ngộ, thì con có cơ hội đạt được trong kiếp tới. Nhưng nay con tới đoạn cuối của thời Song ngư. Lúc đó, con có một nhóm đệ tử đang sống kiếp cuối của họ trong thời Song ngư. Nếu họ không đạt được khai ngộ trong kiếp sống đó thì họ khó có thể đầu thai trở lại trong thời Bảo bình. Đây không phải là trường hợp của tất cả mọi người trên trái đất nhưng đó là trường hợp của các thành viên của mạn đà la nguyên thủy. Họ đã có cơ hội biểu hiện quả vị Ki-tô trong thời Song ngư nhưng nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó có thể đầu thai vào thời Bảo bình.

Đây không phải là một tai họa, vì nếu họ không đầu thai được trên trái đất thì chắc chắn có một số hành tinh khác có thể đón nhận họ. Nhưng điều tốt hơn, vì một số lý do, là các đệ tử này ít nhất tới được điểm họ quân bình đủ nghiệp quả để không cần đầu thai trở lại. 

Các thày đã trao truyền một số khuôn đúc và rải truyền Ánh sáng xuyên qua tổ chức Summit Lighthouse với mục đích giúp các đệ tử đó quán triệt khai ngộ của thời Song ngư. Nói cách khác, để giúp họ thu hẹp khoảng cách, bước vào con đường nội tâm và qua đó đạt được khai ngộ của thời Song ngư. Thày sẽ nêu lên một cái nhìn vi tế hơn về việc này.

7.12. Tiềm năng cao và thấp của thời Song ngư

Tiềm năng cao nhất của thời Song ngư là con biểu hiện quả vị Ki-tô, nhưng bao giờ cũng có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Tiềm năng thấp nhất là con vững chắc bước vào con đường nội tâm. Con có thể nói là với các dòng sống thuộc mạn đà la nguyên thủy, giá chót là vào cuối thời Song ngư họ đã bước vào con đường nội tâm. Nếu họ không làm được việc này thì họ sẽ khó đầu thai vào thời Bảo bình. Đó là điều các thày muốn làm: giúp họ tới được điểm đó.

Tổ chức Summit Lighthouse đưa ra một số khai ngộ cốt yếu mà ta có thể nói đã đặt các đệ tử đó trước tình trạng ăn-cả-hay-về-không. Hoặc các đệ tử đó đạt được khai ngộ hoặc họ không đạt được, không có gì ở giữa. Nếu họ không bước vào con đường nội tâm, thì họ trượt. Nếu họ không biểu hiện quả vị Ki-tô nhưng bước vào con đường nội tâm, thì họ có thể tiếp tục tiến triển. Họ sẽ không hoàn thành được tiềm năng cao nhất của họ, nhưng họ có thể tiến lên. Ngược lại, nếu họ không đạt được khai ngộ của chu kỳ Song ngư thì họ sẽ không thể đầu thai trở lại trên trái đất, ít nhất là trong một khoảng thời gian.

Các thày đã quan sát được gì nơi các đệ tử? Ấy, nhiều đệ tử đã đạt được các khai ngộ và đã ít nhất bước vào con đường nội tâm. Điều này có nghĩa là mục tiêu của Summit Lighthouse đã thật sự được hoàn thành. Các thày đã thành công trong việc giúp một số lượng tới hạn đệ tử thuộc mạn đà la nguyên thủy đạt được các khai ngộ thấp nhất của thời Song ngư và bước vào con đường nội tâm. Với kết quả này, các thày có thể nói là mục tiêu đã được hoàn thành nhưng tiềm năng cao nhất không được hoàn thành vì đã không có nhiều đệ tử đạt được quả vị Ki-tô hay dám biểu hiện quả vị Ki-tô.

Điều đáng chú ý mà thày sẽ trình bày ở đây, là tại sao chuyện này đã không xảy ra. Thày đã trao cho các con chìa khóa để tìm ra giải đáp. Đó là vì tại Summit Lighthouse vẫn còn quá nhiều đệ tử coi quả vị Ki-tô như một con đường vỏ ngoài, như một con đường máy móc: nếu con đọc đủ số bài chú, thì con không thực sự cần xem xét tâm lý của mình.

Các thày có trao truyền giáo lý về nhu cầu giải quyết tâm lý, tuy các thày không thể giảng ở trình độ mà các thày đang giảng hiện nay. Các giáo lý đã được trao truyền lúc đó, cũng như là các dụng cụ tâm linh. Các thày có trao truyền giáo lý, có khi ẩn dụ, về con đường nội tâm. Các đệ tử có thể tìm ra những điều họ cần nếu họ chịu tìm, nhưng có một nhóm đệ tử không chịu tìm. Điều này bắt nguồn từ điều thày đã giảng, là các đệ tử thời Song ngư này đã xây dựng cảm giác bực bội kèm theo cảm giác tự cao.

7.13. Phán xét người khác

Khi cảm giác bực bội nội tâm (do không biết mình đang ở đâu hay biết mình đang không ở nơi mình đáng lẽ phải ở) phối hợp với ước muốn được cao cấp hơn người khác khiến các đệ tử đó có một trạng thái tâm đặc biệt. Đó chính thực là trạng thái tâm của các thày thông giáo (scribe) và pha-ri-si (pharisee) thời Giê-su, mà Giê-su đã nhiều lần thách thức.

Đây là trạng thái tâm rất phán xét người khác dựa trên một cấu trúc vỏ ngoài gồm một số quy luật và luật lệ, thậm chí gồm cả khái niệm con đường khai ngộ, các khai ngộ cốt yếu mà đệ tử cần đạt được, và hình ảnh về cách một đệ tử chân sư thăng thiên phải đi đứng, hành xử và hành động. Các người đệ tử đó muốn tin rằng, khi họ tuân theo các quy luật vỏ ngoài và nghi thức một cách sùng kính, ta cũng có thể nói là một cách cuồng tín, hay như đang bị bệnh loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive-compulsive) (là một câu nói thời thượng của thời nay), thì họ sẽ tự động đạt được tiến bộ.

Giờ đây, con có một nhóm đệ tử gia nhập tổ chức Summit Lighthouse, nhiều người ở tuổi tương đối trẻ. Họ quyết định trở thành nhân viên và làm việc cho tổ chức, họ có thể là nhân viên trong nhiều năm, chăm chỉ làm theo những gì họ được dạy, và thực hành các nghi thức vỏ ngoài. Họ dần dần xây dựng ý tưởng là vì họ đã làm tất cả các công việc vỏ ngoài đó, thì họ phải đạt được một cấp bậc uy quyền nào đó. Do đó, họ phải có khả năng phán xét người khác và có uy quyền để nói lên sự phán xét đó.

7.14. Đệ tử mà El Morya mất

Con yêu dấu, thày không thể nói hay làm gì được để giúp các đệ tử đó. Như một chân sư thăng thiên đã bỏ vào rất nhiều thành quả tâm linh của mình vào việc bảo trợ tổ chức đó, thày phải nhìn nhận một cách thành thực và thẳng thắn là thày đã mất các đệ tử đó. Mặc dù thày đã nỗ lực bảo trợ tổ chức và trao truyền giáo lý, thày đã mất các đệ tử đó. Thày không thể giúp họ. Thày không nói điều này với lòng hối tiếc, nhưng nói lên điều này trong cõi vật lý là một chuyện quan trọng vì một số lý do. Thày đơn giản chấp nhận sự trải bày của luật tự quyết. Thày chấp nhận là thày, như vị chân sư bảo trợ tổ chức, đã không giúp được các đệ tử đó. Thày không nhìn vào chính mình và nói là thày đã thất bại theo nghĩa thày đã không đủ khả năng hay thày đã có thể làm một cách nào khác, thày chỉ giản dị nêu lên sự kiện, thày chỉ nhận xét như vậy. Thày không có gì để nói với hay nói về các đệ tử này – họ đằng nào cũng không muốn nghe. Thày muốn mô tả sự việc này cho những ai mở tâm đón nhận vì chuyện quan trọng là con xem xét việc này. Con có thể nhìn vào thời Song ngư và thấy biết bao tổ chức tôn giáo hay tâm linh, cũng như là các tổ chức chính trị, có mô thức phán xét người khác dựa trên một số tiêu chuẩn vỏ ngoài được quy định trên trái đất. Như các thày đã nhiều lần thuyết giảng trong nhiều bài về tâm thức nhị nguyên và sa nhân, các tiêu chuẩn này tất nhiên do sa nhân quy định.

7.15. Bước vào con đường nội tâm

Điểm quan trọng mà con cần rút tỉa là con đường quả vị Ki-tô không máy móc. Điều quan trọng không phải là học một số giáo lý, thực hành một số thực tập, đạt được một số khai ngộ – điều quan trọng là bước vào con đường nội tâm.  Một khi con đã bước vào con đường nội tâm, thì con vượt lên trên ý niệm có thể trượt thử thách. Nếu con quan sát phản ứng của mình, thì con không thể trượt thử thách. Con có thể chưa thấy một số chuyện, nhưng đó là chuyện con chưa thấy. Nếu con sẵn lòng quan sát chính mình thì con đã đi trên con đường nội tâm, và vấn đề chỉ là con tiến triển bao nhiêu và đi nhanh chừng nào. Có khi con tiến triển nhanh hơn và có lúc khác con cần thì giờ để giải quyết một vấn đề.

Chắc chắn là với giáo lý mà các con đã nhận được về ngã gốc thì con có tiềm năng tiến triển rất nhanh và tới điểm con không những đi vào con đường nội tâm mà còn được giải thoát khỏi cái ngã phản ứng. Lẽ tất nhiên, đây là điều kiện chính yếu để đi vào con đường nội tâm dẫn tới quả vị Ki-tô hay để là Ki-tô Hằng sống, tức là con không phản ứng lại những chuyện xảy ra trên thế gian.

Con có thể nhìn vào tất cả các tổ chức đó và thấy khuynh hướng phán xét, khuynh hướng phán xét người khác. Con hãy nhìn vào khu vực này của thế giới và thấy rằng trong thời chế độ Sô viết, nhiều người dân Liên bang Sô viết tin rằng, vì họ là công dân Liên bang Sô viết, nên họ hơn những người bên ngoài Liên bang Sô viết. Họ rất khinh chê xã hội Tây phương mà họ coi là đồi trụy, hay bất cứ điều gì khác. Con hãy nhìn xem có biết bao nhiêu người ngày nay có thái độ phán xét. Nhiều người dân Hoa kỳ tin rằng Hoa kỳ là quốc gia cao quý nhất thế giới và nhìn các nước khác với con mắt đầy phán xét, và quên nhìn cái đà trong con mắt của tâm hồn dân tộc Mỹ. Con có thể thấy rất, rất nhiều thí dụ tương tự trên khắp thế giới. Con hãy nhìn thời đầu thế kỷ trước, ý niệm hơn người của người dân các nước Đức, Pháp, Anh đã đưa tới Thế chiến Thứ nhất và sau đó Thế chiến Thứ hai. Tinh thần này đã có thể đưa tới Thế chiến Thứ ba nếu các thày không thành công trong việc đưa ra một số biện pháp vá víu, kể cả số lượng lớn các bài chú đã được đọc tại Summit Lighthouse.

7.16. Cái ngã đối phó với việc bị phán xét

Những người trong các con đang hay đã từng biết và tham gia vào Summit Lighthouse, và sẵn sàng mở tâm đón nhận bài giảng này của thày, thì có thể dùng bài này như một phương tiện để làm hòa với kinh nghiệm của mình với tổ chức đó. Một số trong các con có vết thương tâm lý từ thời sinh hoạt trong Summit Lighthouse, trước nhất là vì đã giáp mặt một số người có tâm rất phán xét. Như thày có từng nói hồi thời Summit Lighthouse, có một số đệ tử mà các thày không dám đưa vào tổ chức đó. Lý do chính yếu là vì đây là những linh hồn ngây thơ và các thày không muốn họ giáp mặt tâm thức rất phán xét chi phối tổ chức đó và vẫn còn ảnh hưởng nó ngày nay.

Sau đó, con yêu dấu, con có thể dùng bài giảng này để nhận ra, như vị sứ giả này đã nhận ra trước khi nhận bài truyền đọc này, là để đối phó với tâm thức đó (không những trong Summit Lighthouse nhưng từ sa nhân nói chung và từ các tổ chức mà con đã tham gia trong thời Song ngư, tỷ dụ như Giáo hội Công giáo) con đã tạo ra một cái ngã để đối phó với sự phán xét của người khác, sự lên án của người khác. Chuyện rất quan trọng cho con là con tới điểm nhận diện cái ngã đó, con thấy là nó có trong tâm thức của con, và ở mỗi người nó mỗi khác.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Khi một người phán xét tôi, kết tội tôi, và tố cáo là tôi đã làm điều gì sai, thì tôi đối phó với chuyện này như thế nào? Tôi cảm thấy gì? Cảm xúc của tôi là gì? Niềm tin đằng sau là gì?” Sau đó, con có thể dõi lên thể bản sắc và thấy là nó phát xuất từ ngã gốc như thế nào, và con phản ứng ra sao khi sa nhân chê bai con. Điều này sẽ giúp con nhận diện ngã đó, tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó, và thấy là bất kể vấn đề nào mà ngã đó nêu lên là con cần giải quyết, hay bất kể điều kiện nào mà con cần hội đủ để tránh bị phán xét, chúng đều không thật, đều là ảo tưởng. Ngay cả khi con hội đủ điều kiện, sa nhân sẽ vẫn tiếp tục kết tội con, họ sẽ luôn luôn kết tội con. Một khi con nhận ra điều này, con có thể đi một bước rất, rất quan trọng và không coi cá nhân mình là trọng điểm của con đường tu. Các thày đã giảng điều này trước đây nhưng thày muốn cho con một tầm nhìn khác về vấn đề này.

7.17. Không coi cá nhân mình là trọng điểm của đường tu

Con yêu dấu, con hãy xem xét trường hợp một avatar đã sống lâu năm trên một hành tinh tự nhiên nơi không có sa nhân. Con chưa bao giờ giáp mặt với sự kết tội đó, chưa bao giờ, trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con tới trái đất, và có thể là trong kiếp đầu thai đầu, con giáp mặt sự tấn công trực tiếp và mạnh mẽ của sự kết tội của sa nhân. Chuyện gì đã thực sự xảy ra trong tiến trình đó? Ấy, khi con ở trên hành tinh tự nhiên con ở trong trạng thái tâm mà các thày, khi so sánh với chuyện con trải nghiệm trên trái đất, có thể gọi là “không coi cá nhân mình là trọng tâm”.

Con không quá chú tâm vào chính mình, con chú tâm là một phần của tổng thể, đang làm việc cho tổng thể, đang làm việc để nâng cao tổng thể. Đây là trạng thái tâm tự nhiên trên một hành tinh tự nhiên. Giờ đây, con xuống trái đất với ý định làm việc cho tổng thể và nâng cao tổng thể. Con đã quen là khi con làm như vậy thì con nhận được một phản hồi tích cực. Ít ra thì con không bị chê bai khi làm vậy. Bỗng nhiên, con trải nghiệm là sa nhân tố cáo, tấn công, lên án, phán xét, chê bai con. Con bị một cú sốc và nghĩ: “Ồ, họ đang làm các chuyện này đối với tôi. Họ nói là tôi có điều gì sai trái. Tôi chưa bao giờ trải nghiệm chuyện này. Vì sao họ lại nói là tôi có điều gì sai trái? Tôi tới đây với thiện ý tốt nhất. Tôi chỉ muốn tới đây để giúp tổng thể nhưng họ lại nó là tôi sai trái, tôi có điều gì sai trái?”

Bỗng nhiên, lần đầu tiên trong đời, con phải đối mặt với câu hỏi này. Vì con là một dòng sống có thói quen nhìn vào chính mình và xem xét phản ứng của mình, nên con không quen kết tội và bị kết tội. Con xem xét chính mình, lẽ tự nhiên con xem xét chính mình và nói: “Nhưng, có thể nào họ có lý chăng? Tôi đã làm gì sai trái trên hành tinh này chăng?” Bỗng nhiên, con bị phóng vào mối nghi ngờ và con bị ép buộc phải phản ứng. Lúc đó con làm gì? Các thày có giảng là con tạo ra một cái ngã, đó là ngã gốc.

Đúng vậy, nhưng ngã gốc là gì? Nó là một ngã đặt trong tâm vào cá nhân mình. Bỗng nhiên, từ không đặt trọng tâm vào cá nhân mình trên hành tinh tự nhiên, con tới trái đất, con trải qua một chấn thương, và nay con nhìn cuộc đời của mình trên trái đất qua một ngã một cách rất cá nhân. Trên một hành tinh tự nhiên, ý niệm bản ngã của con rất bao la, nhưng trên một hành tinh phi tự nhiên con bị dồn vào một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp coi mình là trung tâm của vũ trụ cá nhân của mình. Giống như là con nhìn mọi chuyện từ trung tâm điểm đó, con từ trung tâm điểm đó nhìn ra bên ngoài. Bỗng nhiên, mọi chuyện trở nên cá nhân trên hành tinh này. Bỗng nhiên, con nghĩ là có thể con đã thất bại, có thể con đã làm điều gì sai trái trên hành tinh này. Ngã gốc được tạo dựng chung quanh nỗi sợ thất bại, và đó là lý do vì sao con coi cá nhân mình là trọng tâm khi tiếp giáp mọi sự việc.

Các thày đã cố gắng giảng cho các con là hành tinh này là một hành tinh phi tự nhiên, nơi đây không có gì thường hằng, mọi chuyện như là kết quả của cuộc chơi trong bãi cát. Các thày đã trao truyền các giáo lý đó, nhưng các thày cũng biết các thày đối mặt với tình trạng mà các thày luôn luôn phải đối mặt, đó là khoảng cách. Khi con chưa nhìn ra và giải quyết ngã gốc, thì con không thể ngưng coi cá nhân mình là trọng tâm của cuộc đời mình trên trái đất. Con không thể nhìn vào cuộc đời trên trái đất và nói: “Ấy, tôi sẽ chỉ cần xây một lâu đài cát khác, hay tôi sẽ chỉ phá lâu đài cát cũ và bãi cát sẽ trở về trạng thái tinh khôi của nó.” Cũng giống như dùng gậy đánh vào mặt nước. Con có đánh mạnh đến đâu, thì mặt nước sẽ vẫn trở về trạng thái tĩnh lặng.

Con yêu dấu, chúng ta đang bước vào thời Bảo bình. Con hãy giống như nước nếu con muốn đạt được các khai ngộ của thời Bảo bình. Con thấy chăng, con yêu dấu, khi con nhìn vào ngã đó và xem xét cách con phản ứng lại sự phán xét, và sau đó cho ngã đó chết đi, thì bỗng nhiên cuộc đời không còn xoay quanh cá nhân con nữa. Không có lý do nào để phán xét chính mình vì con nhận ra là các thày không phán xét con. Các thày có thể nói là các thày không phán xét con, nhưng khi con còn cái ngã đó, thì con không thể thực sự hiểu thấu lời giảng của các thày. Chắc chắn là con không thể chấp nhận nó. Khi con đã giải thoát khỏi ngã đó, thì con có thể trải nghiệm điều Giê-su đã trao truyền ngày hôm qua: sự chấp nhận vô điều kiện mà các thày dành cho con.

7.18. Kẻ mạo danh El Morya do đệ tử tạo ra

Con yêu dấu, vì sao thày lại có ý đổi tên mình? Bởi vì trong Summit Lighthouse, các đệ tử đã tạo dựng hình ảnh El Morya như một người trọng kỷ luật khắt khe. Có một số đệ tử thực sự tin rằng họ đã đạt được tới trình độ khiến họ có thể, thậm chí có bổn phận, “rọi ánh sáng xanh” vào các đệ tử khác (như lời họ nói) bằng cách cho các đệ tử này biết El Morya sẽ nói gì về tự ngã, hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa, của họ. Họ dung dưỡng hình ảnh là thày là một người trọng kỷ luật khe khắt và đặt ra rất nhiều điều kiện mà các đệ tử phải hội đủ.

Hình ảnh này trở nên quá đậm nét nên thày quyết định là thày muốn làm hai chuyện. Hoặc thày lay động các đệ tử có hình ảnh này để họ có thể bắt đầu thoát khỏi hình ảnh đó. Hoặc thày thu hút đệ tử mới biết thày với một tên mới (Chân sư MORE) và do đó không cần phải đi vào khuôn đúc cũ vẫn còn đó. Điều thực sự xảy ra là các đệ tử tại Summit Lighthouse đã tạo ra một El Morya giả, một người mạo danh El Morya, như một người trọng kỷ luật đầy lòng phán xét. Họ vẫn còn duy trì kẻ mạo danh này cho tới ngày nay. Một số đệ tử tôn thờ kẻ mạo danh đó và nghĩ rằng đó là con người thật của thày tuy rằng thày đã nói là không phải vậy. Các người đó đã mất thày, và thày đã mất họ. Thày chấp nhận điều này. Thày biết là các đệ tử đó sẽ không chấp nhận điều này, vì nếu họ chấp nhận thì họ sẽ phải thay đổi. Họ thật sự sẽ phải nhìn vào chính họ, nhận ra là họ có lòng phán xét lớn, và họ hầu như không thể làm được chuyện này.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng tại sao các đệ tử đó hầu như không thể làm được chuyện đó? Chuyện này rất, rất đơn giản. Nếu con đã xây dựng một động lượng phán xét người khác vì họ đã làm lỗi lầm này hay lỗi lầm khác, thì chuyện gì sẽ xảy ra nếu con nhìn nhận là con sai khi phán xét người khác? Ấy, con chỉ có thể phán xử dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Con sẽ phải nhìn nhận là con đã sai. Nếu con nhìn nhận là con sai, thì con vẫn còn động lượng phán xét. Lúc đó, thay vì luôn luôn tìm cái giằm trong con mắt người anh em và phán xét họ, thì nay con đã nhìn nhận cái đà trong con mắt mình, thì con sẽ phải phán xét mình như con đã từng phán xét người khác, có thể là suốt 2000 năm qua hay còn nhiều hơn thế nữa. Những người đệ tử đó sẽ không thể chịu được gánh nặng tâm lý của sự lên án chính mình đó.

Mốt số ít người đã chuyển từ phán xét người khác sang phán xét chính mình, và họ hầu như bị loạn trí hay bị vấn đề tâm lý trầm trọng. Lẽ tất nhiên, thày không muốn bất cứ ai phải gánh chịu gánh nặng này. Nếu các đệ tử có thể đón nhận giáo lý mà các thày trao truyền, thì họ sẽ có thể thấy không phải họ đang phán xét người khác. Đó là một cái ngã tách biệt mà họ đã tạo ra, và họ đã tạo ra ngã tách biệt này khi sa nhân khiến họ phải chịu chấn thương nhập đời.

Do đó, nếu họ sẵn lòng đón nhận giáo lý và dùng các dụng cụ tâm linh, thì họ có thể tách mình ra khỏi cái ngã đó và nói: “Đúng rồi, tôi nhìn nhận là chuyện này đáng lẽ không được xảy ra, nhưng nó đã xảy ra, tuy nhiên thực sự không phải là tôi đã làm chuyện đó, mà là cái ngã tách biệt và bây giờ tôi biết tôi hơn ngã tách biệt đó. Do đó, tôi có thể tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: ‘Tôi cho bạn chết đi.’” Họ có thể nhận ra, nếu họ thực sự đón nhận các giáo lý này, là họ không cần bù đắp vì đã có tâm phán xét. Họ không cần thay đổi gì nơi vỏ ngoài hay chỉnh sửa điều gì hay giải quyết vấn đề nào. Họ chỉ cần nhận diện ra cái ngã và để nó chết đi. Tất nhiên, họ cũng cần đọc một số lượng bài chú để chuyển hóa năng lượng đã bị tha hóa xuyên qua ngã đó, nhưng đây là một chuyện mà họ rất có khả năng làm.

7.19. Tất cả đều có một lối thoát

Tất cả các đệ tử chân sư thăng thiên đều có một lối thoát nếu họ muốn được giải thoát. một lối thoát. Con có thể khắc phục mọi chuyện vì mọi chuyện mà con đã làm, mà con nghĩ đáng lẽ không nên như vậy, đều được làm xuyên qua một ngã tách biệt. Khi con cho ngã đó chết đi thì con được tái sinh, con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Con có thể vẫn còn một số ngã tách biệt khác, do đó con không nên có ảo tưởng là con đã sạch tự ngã, con đã hoàn toàn hay giác ngộ. Con là một sinh thể mới trong Ki-tô. Mỗi lần con rũ bỏ một cái ngã thì con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã cao hơn. Thày chỉ muốn như vậy, con yêu dấu. Tất cả các chân sư thăng thiên chỉ muốn thấy con như vậy, thấy con đi vào tiến trình tái sinh liên tục. 

7.20. Thu hẹp khoảng cách

Một lần nữa, và thày biết là thày đang thử thách sức chịu đựng của các con, thày trở lại khoảng cách! Các thày biết là ngay cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, nhiều người đã đón nhận giáo lý, đã thực hành các thực tập, nhưng họ vẫn cảm thấy có khoảng cách. Họ nhìn vào mục tiêu đạt quả vị Ki-tô và thấy nó ở trên kia, trong khi họ ở dưới này, có một khoảng cách giữa nơi họ đang là và nơi họ phải là, và họ không thấy làm sao thu hẹp khoảng cách.

Họ xem xét giáo lý và họ nghiên cứu giáo lý và nghĩ là phải có điều gì họ đã bỏ sót và không nhận ra đó là cái gì. Các thày nay đã trao cho các con các giáo lý về cách thu hẹp khoảng cách với ngã gốc, và các ngã tách biệt khác.

Điều mấu chốt là nhận ra là con không thể giải quyết bất cứ vấn đề nào mà ngã tách biệt phóng chiếu tới con – con chỉ có thể cho ngã đó chết đi. Đó là lý do vì sao các thày đã nói là con không thể bước vào con đường quả vị Ki-tô khi con còn tìm cách làm việc này xuyên qua một trong các ngã phản ứng đó. Con không thể là Ki-tô xuyên qua một ngã đang phản ứng lại sa nhân.

Một khi con đã khắc phục được ít nhất là một vài ngã đó, và con đã bớt coi cuộc đời xoay quanh cá nhân mình, thì con có thể bắt đầu là Ki-tô. Lúc đó, con không đi trên con đường Ki-tô để cảm thấy an toàn, hơn người, để giải quyết một vấn đề, để bù đắp một sai lầm mà con đã phạm, để được chứng thực hay công nhận. Con trở lại thuở con ở trên hành tinh tự nhiên và làm việc cho tổng thể, ít ra là như con thấy nó lúc này, và đó là chuyện con đã làm trên hành tinh tự nhiên. Con chưa giác ngộ khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa thăng thiên khi con ở trên hành tinh tự nhiên. Con chưa ở trạng thái tâm thức cao nhất mà con có thể đạt được khi con ở trên hành tinh tự nhiên, nhưng con có tâm thái sống không xoay vần chung quanh cá nhân mình.

Ngôn từ đã tới giới hạn của chúng. Thày chỉ có thể cống hiến các con một cái gì vượt quá ngôn từ và đó là tình thương mà thày dành cho tất cả và mỗi người các con. Con yêu dấu, không có gì trên trái đất thật sự dành cho cá nhân con vì không có gì trên trái đất hướng về cái Ta Biết, là cái gì vượt quá hình tướng.

Có một số điều kiện, đặc tính, năng lượng, khuôn đúc liên quan tới cá nhân con. Sự chấp nhận vô điều kiện của Giê-su dành cho riêng cá nhân con. Tình thương của thày dành riêng cho cá nhân con, cái ta thật của con. Ngay cả cái “ta” mà con là trong trạng thái tâm thức hiện tại, thày thương yêu nó như nó là ngay lúc này, và mỗi ngày thày sẽ thương yêu con hơn nữa. Con chỉ có thể chấp nhận cái hơn nữa đó khi con mỗi ngày trở nên hơn nữa bằng cách buông bỏ các ngã đang là ít hơn.

Thày thương yêu con khi con còn các ngã đó nhưng con không thể trải nghiệm tình thương của thày xuyên qua cái ngã. Chỉ khi nào con cho ngã chết đi, thì con mới trải nghiệm là thày thương yêu con hơn nữa, thực sự không phải vì thày thương yêu con nhiều hơn nhưng vì con trải nghiệm tình thương của thày nhiều hơn. Tới đây thì đã quá đủ ngôn từ rồi, quá đủ ngôn từ rồi, con yêu dấu. Không có lượng ngôn từ nào có thể thu hẹp khoảng cách, chỉ có một sự chuyển đổi tâm mới có thể thu hẹp khoảng cách.

5 | Chấp nhận là Ki-tô chấp nhận con

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày tới đây để trao cho các con một bài nữa trong số các giáo lý mà thày có ý định trao truyền trong hội nghị này dưới chủ đề làm sao là Ki-tô Hằng sống hành động. Giờ đây các con yêu dấu, khi thày trao truyền quyển Chìa khóa cơ yếu đưa tới quả vị Ki-tô cá nhân, thì thày ở trước tình trạng mà thày có đề cập tới sáng nay, đó là các thày cần nhận ra con người đang ở tầng tâm thức nào – tâm thức tập thể ở tầng nào, các người tâm linh ở tầng nào, các giáo lý nào đã được trao truyền trước đây, giáo lý nào có thể trao truyền bây giờ. Thày đã trao truyền một khóa học với mục đích đi tới con người (ngay cả một số người có quá trình Cơ đốc giáo và do đó đã lớn lên với một cái nhìn truyền thống về Ki-tô và đạo Cơ đốc) và cho họ một giáo lý có thể giúp họ tiến gần hơn quả vị Ki-tô.

Khóa học đã giúp một số người đã sẵn sàng, nhưng lẽ dĩ nhiên vào lúc đó, không có khóa học nào có thể đưa những người chưa sẵn sàng vượt trở ngại và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô. Lý do là vì, như thày có giảng sáng nay, nếu con chưa chạm trán, thấy rõ ngã gốc và để cho nó chết đi, thì con không thể bắt đầu dám biểu lộ quả vị Ki-tô, vì con không có tự do biểu lộ nó.

5.1. Là Ki-tô nghĩa là gì

Bây giờ thì các thày đã trao truyền giáo lý về ngã gốc, nên lẽ dĩ nhiên các thày có thể giảng cho các con nhiều hơn về thế nào là Ki-tô Hằng sống. Trên căn bản, Ki-tô Hằng sống là một sinh thể không phản ứng lại điều kiện trên trái đất, không bị lôi cuốn vào vòng xoáy phản ứng lại những gì người ấy trải nghiệm trên trái đất. Có nghĩa là con không phản ứng lại trái đất xuyên qua phin lọc của ngã gốc mà con tạo ra khi bị chấn thương nhập đời. Đúng thực là khi con còn ngã gốc, thì như thày có giảng năm ngoái, nó sẽ pha màu cách con tiếp cận cuộc sống trên trái đất. Ta có thể nói là khi con còn ngã gốc, thì con không thực sự có tự do là Ki-tô vì ngã gốc được tạo ra như một phản ứng lại những gì con trải nghiệm trên trái đất.

Khi con còn tìm cầu an toàn, an ninh, muốn bù đắp lại điều con đã làm trong quá khứ, thì mọi việc con làm đều bắt nguồn từ nhu cầu đó: nhu cầu muốn hiểu và đặt sự việc vào bối cảnh, nhu cầu làm chủ tình hình, nhu cầu cảm thấy an toàn, nhu cầu được bù đắp. Thậm chí con sẽ dùng giáo lý tâm linh để tìm cách thỏa mãn nhu cầu đó. Do đó, con không thể thực sự là Ki-tô vì Ki-tô là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất. Con không thể là trung gian giữa Tánh linh và cõi vật chất khi con chưa tạo được đường dây chắc chắn nối kết con với cõi tâm linh và con dám tự do biểu lộ trong cõi vật chất những điều được truyền qua đường dây nối kết đó.

Nếu con không nối kết với cõi tâm linh thì con không thể là người trung gian. Mặt khác, nếu con không có tự do để biểu lộ bất cứ xung lực nào chảy qua đường dây nối kết đó, thì con cũng không thể là người trung gian, ít ra là con không thể là người trung gian hoàn toàn. Con có thể nói: “Vậy thì làm sao con người có thể đạt được phần nào quả vị Ki-tô khi chưa có giáo lý về ngã gốc?”

Ấy, lý do là, lẽ dĩ nhiên, không tuyệt đối cần thiết có giáo lý về ngã gốc để khắc phục được ngã gốc. Các thày đã trao cho các con dụng cụ gì để khắc phục ngã gốc? Nó dựa trên nguyên liệu chính trên con đường tâm linh: sự quán sát chính mình.

Qua các thời đại, đã có một số người, một số ít người, đã có thể sử dụng khả năng của cái Ta Biết bước ra ngoài ý niệm bản ngã hiện tại và quán sát chính nó, quán sát cái ngã vỏ ngoài, từ bên ngoài. Do đó, con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi nó, và do đó, con có thể, lẽ dĩ nhiên, biểu lộ một phần quả vị Ki-tô. Một số các con đã làm điều này trước khi con nhận được giáo lý này. Tuy nhiên, các thày trao truyền giáo lý này vì đã đủ túc số những người sẵn sàng nhận giáo lý và có thể sử dụng nó để gia tốc sự tăng triển của họ, và tới điểm, thay vì chỉ chợt thoáng có quả vị Ki-tô, thì họ có thể biểu lộ nó một cách liên tục hơn. Nhiều người trong các con đã đạt được một thành quả tâm linh nào đó trong những kiếp trước và đã thiết lập được đôi chút nối kết nội tâm. Do đó, con đã có thể đôi khi biểu lộ quả vị Ki-tô. Trong nhiều trường hợp, con đã không làm được đến mức tối đa, là điều con mong muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này.

5.2. Món quà tiềm ẩn của Ki-tô

Bây giờ thì thày trao cho con một giáo lý giúp con tiến xa hơn trong việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Tất nhiên, thày giả sử một lần nữa là con học một cách nghiêm túc, và con đã dùng những giáo lý mà các thày đã trao truyền trong quyển Các kiếp sống của tôi và quyển Chữa lành chấn thương tâm linh để bắt đầu khắc phục ngã gốc. Một khi con đã bắt đầu khắc phục ngã gốc thì con sẽ dễ hiểu những gì thày giảng ở đây.

Giờ đây con yêu dấu, thày muốn con bước lui khỏi toàn bộ tấm màn bao phủ do đạo Công giáo chính thức tạo ra, đặc biệt là trong 17 thế kỷ vừa qua từ ngày Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập. Thày muốn con cố gắng bước lui khỏi tất cả những thứ đó – tất cả những diễn giải tân thời về Giê-su và ý nghĩa của Ki-tô. Con hãy bước lui lại và nhìn vào những điều mà con biết về cuộc đời của thày, chuyện gì đã thực sự xảy ra. Thày đã muốn hoàn thành chuyện gì? Thày thực sự muốn cho con người cái gì? Tuy những điều này không được mô tả rõ ràng trong Thánh kinh, nhưng ít ra cũng đã có một số gợi ý trong đó. Thày lúc nào cũng tìm cách cho con người trải nghiệm là có cái gì cao hơn tâm thức hiện tại của họ, có một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức hiện tại của họ. Đó là một công việc rất khó khăn, ít ra thì đó là một công việc không thể hoàn thành một cách tuyệt đối, vì, như các thày đã giảng cho các con, trên trái đất có 144 tầng tâm thức.

Trong kiếp sống đó của thày, trong khoảng 3 năm thày truyền giáo, thày đã gặp những người thuộc đủ 144 tầng tâm thức, hay đúng hơn thì thày ít nhất đã gặp những người ở các tầng tâm thức thấp trong khi thày gặp vài người ở tầng 144. Thày có gặp một số vị đó trước khi thày bắt đầu 3 năm truyền giáo, nhưng trong thời gian thày truyền giáo ở Palestine, thì thày thực sự không gặp ai ở các tầng tâm thức cao. Tuy nhiên, khi con gặp một người ở tầng tâm thức thấp thì con không thể trao cho họ cùng giáo lý mà con trao cho người ở tầng tâm thức cao. Con không đạt được lợi ích gì khi con tìm cách trao cho những người ở dưới tầng 48 giáo lý mà con trao cho người ở trên tầng 48, vì họ sẽ không thể nào hiểu được. Con có nghe câu chuyện thày gặp một người đang khát nước và thày đã không tìm cách trao cho y một giáo lý tâm linh mà thày nhân danh Ki-tô trao một ly nước. Con thấy là thày thay đổi món quà để thích nghi với tầng tâm thức của con người. Tuy nhiên điều thày muốn nói và dạy cho con là có một điều Thánh kinh không nói tới và đa số người tâm linh thần bí thuộc nhóm Thời đại Mới cũng thực sự không hiểu. Đó là khi thày trao cho con người điều gì phù hợp với tầng tâm thức của họ, thày cũng trao cho họ một cái gì khác. Ngay cả khi thày cho một người ly nước lạnh, thày cũng trao cho họ từ thày điều gì đó nhiều hơn là nước. Cái nhiều hơn đó là gì vậy? Ấy thày sẽ trình bày điều này theo hai cách.

5.3. Con không thể hiểu Ki-tô

Nhiều người trong các con, là những người tâm linh, quen học một giáo lý và tìm cách hiểu giáo lý đó. Nếu con nhìn thành phần những người tâm linh và tín đồ các tôn giáo, thì con thấy là có nhiều người nghĩ rằng (đặc biệt là trong thời đại hiện đại này là thời có nhiều người bị ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ lý luận, duy lý, đường thẳng) vấn đề là hiểu giáo lý. Thày đồng ý là có câu ngạn ngữ: “Chân lý sẽ giải thoát con người”, và con người ngày nay lý giải là chân lý nghĩa là một hiểu biết. Con bị vướng kẹt trong một ảo tưởng, và một khi con có được hiểu biết xóa tan ảo tưởng, thì con được giải thoát khỏi ảo tưởng. Tất nhiên điều này đa phần đúng. Con có thể vượt qua ảo tưởng bằng cách thấy chúng là ảo tưởng và do đó được giải thoát khỏi chúng.

Có một truyện ngụ ngôn cổ của Ấn Độ nói rằng nếu con cầm trong tay một cái gì con nghĩ là con rắn thì con sợ, nhưng khi con thấy đó là một sợi dây thừng, thì cơn sợ tan biến đi. Câu truyện này có giá trị, nhưng tuy thày cũng muốn trao truyền hiểu biết qua các giáo lý, nhưng đây không phải là điều chính yếu mà thày muốn trao truyền. Thực ra, khi thày trao truyền một giáo lý, thì nó chỉ như một cỗ xe, giống như ly nước lạnh là một cỗ xe. Ly nước lạnh là cỗ xe đem lại món quà mà thày muốn trao cho một người ở một tầng tâm thức nào đó. Khi thày trao truyền bất cứ gì, thì đó là một cỗ xe cho món quà lớn hơn mà thày muốn trao. Món quà lớn hơn đó là gì? Ấy, đây là một câu hỏi mà con có thể đặt ra cho chính mình: “Tôi có thể hiểu Ki-tô bằng tâm đường thẳng, phân tích của tôi chăng? Tôi có thể hoàn toàn hiểu Ki-tô chăng?” Câu trả lời rất rất rõ và dứt khoát: “KHÔNG!” Con không thể hoàn toàn hiểu Ki-tô. Con có thể hiểu một số khía cạnh và đặc tính của Ki-tô. Con có thể hiểu sự tương phản giữa điều rõ ràng là phản Ki-tô và sự hiểu biết cao hơn về Ki-tô. Có một số chuyện con có thể hiểu, nhưng con không thể nào nắm bắt toàn bộ Ki-tô bằng cách hiểu. “Minh triết là điều chính yếu, và con hãy tìm cầu minh triết với tất cả sức hiểu biết của con.” Câu này có giá trị tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể đưa con đi quá tầng đó.

5.4. So sánh hiểu và nắm bắt

Vì chúng ta đang sống trong thời đại trí năng, nên thày muốn trình bày là có sự khác biệt giữa hiểunắm bắt. Con có thể hiểu một điều gì đó một cách đường thẳng, phân tích mà không nắm bắt điều đó. Con có câu ngạn ngữ cổ nói rằng: “Ta không thể nhìn ra khu rừng nếu ta nhìn vào các cây.” Con quá chú tâm vào chi tiết và mất đi khả năng bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Tâm đường thẳng, phân tích hay có tác dụng đó trên con người.

Họ quá chú tâm vào các chi tiết được diễn tả bằng lời mà tâm đường thẳng có thể xử lý, phân tích, xếp loại, dán nhãn và xếp gọn ghẽ vào danh mục hay hộp trong kho tài liệu. Vì họ quá chú tâm vào các chi tiết, nên họ không thể bước lui lại và thấy toàn bộ viễn cảnh. Con không thể nắm bắt Ki-tô bằng cách xem xét các chi tiết, các khía cạnh. Con chỉ có thể thực sự nắm bắt Ki-tô khi con bước lui lại và trải nghiệm Ki-tô. Nói cách khác, nắm bắt Ki-tô không phải chuyện hiểu, mà là chuyện trải nghiệm, con có thể nói đó là một tiến trình kinh nghiệm. Những điều thày trao truyền cho con người trong kiếp hiện thân, thày luôn luôn tìm cách trao cho họ món quà lớn hơn để họ có thể trải nghiệm là có cái gì vượt xa hơn tâm thức hiện tại của họ.

Ít ra là họ có thể trải nghiệm là thày ở trên tầng tâm thức hiện tại của họ. Thày ở tầng tâm thức cao hơn, do đó việc ở tầng tâm thức cao hơn là điều khả thi. Lẽ dĩ nhiên, sự trải nghiệm của họ tùy thuộc tầng tâm thức của họ. Một người ở tầng tâm thức thứ 3 không thể nào thấu suốt và trải nghiệm Ki-tô ở mức độ hoàn toàn như một người ở tầng tâm thức 96. Bất kể con đang ở tầng tâm thức nào, con có thể trải nghiệm là có một bước ở trên tầng của mình, vì con lúc nào cũng có khả năng thấu suốt và trải nghiệm bước ở ngay trên tầng tâm thức của con. Thày tìm cách trao gì cho con người?

5.5. Ki-tô và quyền tự quyết

Đây là nơi con cần sử dụng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền vì thày không thể giảng hết trong một bài truyền đọc. Thày chỉ có thể nói những điểm nổi bật nhất, và con cần tìm những giáo lý giảng tường tận hơn, nếu có một vài khía cạnh mà con không hiểu thấu. Điều mà các thày đã giảng là quyền tự quyết có tính cách tuyệt đối, con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó.

Khi Thượng đế ban cho những phần nối dài của ngài quyền tự quyết, thì ngài không chế ra một tiêu chuẩn quy định thế nào là chọn lựa đúng và chọn lựa sai. Đấng Sáng tạo không có trong tâm ngài sự phán xét là con người phải sử dụng quyền tự quyết như thế nào. Do đó, đấng Sáng tạo ban con người quyền tự quyết, và con người có hoàn toàn tự do sử dụng nó. Mục đích của đấng Sáng tạo khi làm vậy, lẽ dĩ nhiên, là để tạo ra những phần nối dài của ngài lúc đầu có, điều mà các thày đã gọi một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, và dần dần nới rộng nó ra cho tới khi nó trở thành sự trọn vẹn của tâm thức của đấng Sáng tạo. Mục đích tối hậu của đấng Sáng tạo là tạo ra các đấng Sáng tạo khác. Để có thể tăng triển tới tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, thì con bắt đầu như một người đồng-sáng tạo với một ý niệm bản ngã hạn hẹp và dần dần tăng trưởng nó lên.

Cách duy nhất để tăng trưởng ý niệm bản ngã là con có quyền tự quyết, con chọn lựa. Con tạo ra một cái gì, con trải nghiệm tạo vật đó và sau đó con lượng định dựa trên kinh nghiệm của mình: “Tôi muốn thêm trải nghiệm này hay tôi muốn một trải nghiệm cao hơn. Tôi muốn có thêm kinh nghiệm tương tự, hay tôi muốn cái gì hơn nữa?”

Để tiến trình này được trải bày, các người đồng-sáng tạo phải hoàn toàn có quyền tự quyết vì con phải được làm bất cứ chuyện gì con muốn làm, bất cứ chuyện gì con có thể tưởng tượng, bất cứ chuyện gì con hình dung. Con cần được cho phép sáng tạo ra nó, trải nghiệm hậu quả và sau đó dần dần quyết định là con muốn một trải nghiệm càng ngày càng cao hơn. Đó là cách tiến trình này vận hành, đây là cách tiến trình tăng trưởng tâm thức vận hành. Con hiểu là các thày đã trao truyền những giáo lý rất thâm sâu, rất tinh vi về sự thành hình của các bầu cõi. Khi một bầu cõi được tạo ra, thì nó không thường hằng, các sinh thể trong đó không thường hằng, và đó là để họ được cơ hội làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết.

Giờ đây, lẽ tất nhiên làm sao con có quyền tự quyết? Đây là một điểm mà con người thường ngộ nhận vì họ bị sa nhân đánh lừa, vì sa nhân lúc nào cũng tìm cách gây nghi ngờ. Sa nhân muốn con tin rằng có quyền tự quyết có nghĩa là con làm bất cứ điều gì con muốn. Điều này đúng theo một cách nhìn nào đó. Khi con có quyền tự quyết, thì con có thể làm bất cứ điều gì con muốn, nhưng con sẽ làm chuyện này như thế nào? Ấy, con làm một chuyện bằng cách tạo ra một khuôn đúc trong tâm, phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng theo khuôn đúc. Lúc đó con trải nghiệm điều con sáng tạo, hay đúng hơn con đồng-sáng tạo.

Nếu con không trải nghiệm hậu quả của những chọn lựa của mình, thì coi như con đã không lấy chọn lựa nào, con đã không thật sự thực thi quyền tự quyết. Nếu một chọn lựa không có hậu quả, thì đó không là một chọn lựa và con không thể học hỏi gì từ chọn lựa đó. Con chỉ có thể học hỏi bằng cách tạo ra một hậu quả và trải nghiệm hậu quả đó. Điều mà sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một chọn lựa giới hạn con và khiến con khó chịu, thì đáng lẽ con không phải trải nghiệm hậu quả đó. Nếu con thực sự có quyền tự quyết, thì đáng lẽ con phải có khả năng tránh những hậu quả.

Con yêu dấu, đây là một điều mà sa nhân không hiểu thấu, và đa số con người, thành thực mà nói, cũng không hiểu thấu vì hành tinh này đã quá bị ảnh hưởng bởi sa nhân. Con lúc nào cũng có thể thoát khỏi hậu quả của những chọn lựa trước của con. Các thày đã từng nói: Bất cứ điều gì con tạo ra, con đều có thể sáng tạo lại cái mới. Con yêu dấu, mánh lới là: “Làm sao con phóng chiếu một khuôn đúc lên Ánh sánh Mẫu-Vật?”

Con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm của mình, và con phóng chiếu qua ngã đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con ở trong một ý niệm bản ngã nào đó và phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thì con tạo ra một hậu quả đặc thù là một sự phóng chiếu ra ngoài của ngã đó. Điều mà sa nhân muốn con tin là con có thể tránh thoát hậu quả mà không cần tiêu hủy cái ngã. Sự thực là con có thể tránh thoát hậu quả của các chọn lựa trước của con, nhưng cách duy nhất là con thăng vượt cái ngã mà con đã tạo hậu quả xuyên qua nó . Nếu con tiếp tục phóng chiếu qua ngã đó, thì con sẽ tạo lại và tạo lại cùng những hậu quả. Chuyện giản dị như vậy đó, con yêu dấu. Chuyện giản dị như vậy đó.

5.6. Tăng trưởng xuyên qua hậu quả

Làm sao con học hỏi? Làm sao con tăng trưởng? Con tăng trưởng bằng cách phác họa một cái ngã dựa trên ý niệm bản ngã hiện tại của con, có thể là một ý niệm bản ngã rất thu hẹp, như cái chấm, và vị kỷ. Con phóng chiếu xuyên qua ngã đó và con trải nghiệm hậu quả. Nếu con muốn có thêm các hậu quả đó thì con tiếp tục phóng chiếu xuyên qua cái ngã đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Khi con chán ngán kinh nghiệm đó thì con có thể bước ra ngoài cái ngã, hay ít ra con có thể mở rộng và tinh luyện ngã đó và tạo ra một kinh nghiệm cao hơn qua ngã mới. Đó là cách vận hành của đồng-sáng tạo. Sa nhân, lẽ dĩ nhiên, đã khiến con người quên đi cơ chế đó. Tuy nhiên, sự kiện đơn giản là: bất cứ gì con đồng-sáng tạo xuyên qua một ngã, thì con có thể thăng vượt bằng cách tạo ra một ngã mới và đồng-sáng tạo qua ngã đó. Sau đó, do những chu kỳ của thế giới vật chất, con sẽ trải nghiệm một hậu quả mới.

Thày cũng đã nói điều gì khác? Thượng đế không phán xét cách con thực thi quyền tự quyết trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Nói cách khác, Thượng đế cho phép con đầu thai với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm qua đó con đương nhiên rất chú tâm vào chính mình. Lúc đó, con không có khả năng xem xét là các chọn lựa của mình ảnh hưởng đến người khác như thế nào, ảnh hưởng toàn thể hành tinh hay toàn thể vũ trụ như thế nào. Con không có sự nhận biết đó. Con chỉ chú tâm đến “tôi, đối với tôi, cho tôi.” Những gì tôi làm ảnh hưởng đến tôi như thế nào? Khi con dần dần mở rộng ý niệm bản ngã của con, thì con càng ngày càng nhận biết các chọn lựa của con ảnh hưởng tổng thể như thế nào. Con càng ngày càng nhận biết là con đích thực là một phần của tổng thể. Do đó, con ảnh hưởng tổng thể, và tổng thể ảnh hưởng con.

Cách con tăng trưởng tâm thức, khi con tới tầng đó, là con tinh luyện ý niệm bản ngã của con để nó càng ngày càng trở nên một với tổng thể, càng ngày càng là Một. Con đi vào cái Một, thay vì chú tâm vào ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt. Sau đó, con có thể tới điểm con ở trong cái Một nhiều đến độ con có thể buông bỏ ngã tách biệt và thăng thiên. Lúc đó, con trở nên một sinh thể thường tồn, và một khi bầu cõi có đủ túc số các dòng sống, các người đồng-sáng tạo đã tới được điểm đó, thì toàn thể bầu cõi sẽ trở nên thường tồn.

5.7. Xây dựng tâm thức Ki-tô

Con cần gì để tới điểm không còn ý muốn thực thi quyền tự quyết một cách ích kỷ? Ấy, trên cơ bản con cần trải nghiệm là con đã làm đủ, không nhất thiết là tất cả những gì con có thể làm một cách ích kỷ nhưng ít ra là số lượng tới hạn của những gì con có thể làm một cách ích kỷ, nên chính con đã chán ngán việc đó. Thượng đế không phán xét cách con tiến hành tiến trình này. Con đã được ban quyền tự quyết, con đã được ban một khoảng thời gian rất, rất dài để khám phá tất cả các ngõ ngách của sự ích kỷ, của lòng vị kỷ. Khi con đã chán ngán không muốn khám phá các ngõ ngách đó, thì con bắt đầu thăng vượt chúng. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền khái niệm con đi xuống, và khi con đi xuống thì con đi vào giai đoạn trầm mình. Con trầm mình vào trong môi trường, con xây dựng một cái ngã dựa trên môi trường đó. Sau đó, khi con bắt đầu thức tỉnh thì con bắt đầu mở rộng ý niệm bản ngã để nhận biết tổng thể thay vì chỉ nhận biết một phần rất nhỏ của tổng thể. Con làm việc này bằng cách trải qua giai đoạn trầm mình, tự đồng hóa mình với ngã tách biệt, phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và trải nghiệm hậu quả. Sau đó, khi con đã chán ngán việc này thì con bắt đầu thức tỉnh. Con bắt đầu nhận biết các hậu quả của mình ảnh hưởng ra sao, đầu tiên là các người khác, sau đó là môi trường lớn hơn nơi con sống, và sau đó toàn bộ bầu cõi. Có thể nói đây là tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là trung gian giữa đấng Sáng tạo và tạo vật của ngài, giữa Tánh linh và vật chất, giữa cõi tâm linh và bầu cõi chưa thăng thiên. Tâm thức Ki-tô nhận biết là có một cõi tâm linh bên trên bầu cõi này. Nó cũng nhận biết bầu cõi là một tổng thể, mọi chuyện đều nối kết với nhau, mọi chuyện là Một. Ngay cả khoa học ngày nay đã nhận ra và chứng minh qua vô vàn thử nghiệm là toàn thể vũ trụ là một tổng thể tương liên. Chưa ai rút tỉa hệ luận triết lý của các khám phá khoa học này, nhưng khoa học đã chứng minh những điều đó. 

Đây là gì con thấy xuyên qua tâm thức Ki-tô – con nhận biết tổng thể. Giờ đây, khi con bắt đầu vươn lên trong tâm thức Ki-tô, thì tất nhiên con cũng bắt đầu có hiểu biết vỏ ngoài giúp con thấy sự tương phản giữa các ảo tưởng nhị nguyên, sự dối trá của sa nhân và nhận biết cao hơn của Ki-tô dựa trên nhận biết tổng thể, tức là tất cả đều nối kết với nhau.

5.8. Làm hòa với quyền tự quyết

Khi con bắt đầu nhận biết điều trên, thì con bắt đầu nhìn thấy rõ các ảo tưởng mà sa nhân đã tạo ra liên quan đến quyền tự quyết. Trong tiến trình này (và các thày đã trao truyền các dụng cụ tâm linh để đối phó với ngã gốc) con sẽ tới điểm làm hòa với quyền tự quyết. Con có thể chấp nhận quyền tự quyết, con cũng có thể làm hòa với việc con sống trên trái đất, con có thể chấp nhận trái đất như nó đang là ngay lúc này.

Làm sao con có thể chấp nhận trái đất trong trạng thái rất bất toàn hiện tại của nó? À, con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận quyền tự quyết, và chấp nhận là những gì con thấy trên trái đất là sự trải bày trong vật chất của những gì có trong bốn thể phàm của đa số nhân loại đang đầu thai trên trái đất. Chúng là sự trải bày của tâm thức tập thể. Chúng cần thiết, vì con người cần trải nghiệm. Như thày có giảng, con cần trải nghiệm một số chuyện để có thể tăng triển. Khi con bước vào nhị nguyên, là chuyện phải xảy ra trên một hành tinh không tự nhiên, thì con cần phải thấy nó trải bày trong vật chất vì con không có khả năng học bằng tâm. 

Các thày có giảng là tất cả các con là sinh thể trải nghiệm. Đó là lý do các thày đã cho con tầm nhìn trong quyển Các kiếp sống của tôi là một số các con đã đầu thai trên trái đất trong một thời gian rất dài. Con có thể suy ngẫm, như thày có nói vào đầu năm, là tại sao cần nhiều thời gian như vậy? Đó là vì con cần có một số kinh nghiệm. Khi con bắt đầu hiểu luật tự quyết, con nhận ra là có một số người trên trái đất vẫn chưa trải nghiệm đủ loại kinh nghiệm mà con thấy họ đang kinh qua. Con có thể tới điểm chấp nhận sự việc đó, làm hòa với sự việc đó. Do đó, con tự giải thoát mình khỏi sự phán xét, khỏi tâm thức tập thể, khỏi con quỷ dữ phán xét mà sa nhân đã tạo ra cho rằng có những chuyện sai trái, có những chuyện đáng lẽ không được xảy ra.

Con có thể tới điểm nhận ra, như chính vị sứ giả này đã nhận ra, là ngay cả khi con người bị đau khổ thì các đau khổ này là kết quả của những chọn lựa của họ. Họ không biết một cách có ý thức là họ đã lấy những chọn lựa đó, tuy thế họ vẫn có thể chọn nâng tâm thức mình lên và bắt đầu nhìn vào chính mình thay vì nhìn vào các điều kiện bên ngoài.

Con yêu dấu, chắc con cũng nhận ra là khi một người còn phóng chiếu rằng: “Tôi đau khổ vì những điều kiện bên ngoài”, thì các vị thày tâm linh không thể dạy người đó. Họ chỉ học được khi họ bắt đầu chịu xem xét là có thể có điều gì trong tâm họ đã ít nhất là một phần của sự đau khổ của họ. Con yêu dấu, những người không thể học từ một vị thày tâm linh cần thấy các điều kiện trải bày trong vật chất – dù họ không nhận ra và nhìn nhận là chính tâm thức của họ đã tạo ra các điều kiện đó. Đó là cách duy nhất khiến họ rốt cuộc chán ngán kinh nghiệm này và kêu lên cầu cứu.

Con yêu dấu, con có thể tới điểm nhìn phương trình trên trái đất và làm hòa với các việc đang xảy ra trên trái đất. Con làm hòa với việc con hiện diện trên trái đất. Tuy nhiên, con chỉ có thể tới điểm này khi con đã bắt đầu khắc phục được ngã gốc vì trước đó, ngã gốc sẽ níu kéo con vào việc phản ứng lại các điều kiện trên trái đất. Do đó, con sẽ phán xét các điều kiện này xuyên qua ngã gốc. Lẽ tất nhiên, vì chính ngã gốc đã tạo ra chấn thương và khiến con đau khổ, nên nó chỉ thấy được là các điều kiện đó sai trái và không được xảy ra. Con thấy chăng, con không thể an bình với quyền tự quyết và các điều kiện trên trái đất nếu con nhìn xuyên qua ngã gốc, con chỉ làm được chuyện này khi con bắt đầu tách mình ra khỏi nó.

5.9. Sự chấp nhận của Ki-tô

Con yêu dấu, khi con tới điểm làm hòa với luật tự quyết, thì con cũng tới điểm khác là món quà mà thày thực sự muốn đem lại cho mọi người. Đó là, con có thể hiểu được là Ki-tô chấp nhận con như con là, bất kể trình độ tâm thức của con ra sao. Các con cần chiêm nghiệm để có thể hoàn toàn thấu hiểu điều này vì con đã bị lập trình trong suốt 17 thế kỷ của đạo Công giáo chính thức muốn con tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện.

Thày nhắc lại một lần nữa. Con đã bị sa nhân lập trình trong 17 thế kỷ để tin rằng Ki-tô chỉ chấp nhận con khi con hội đủ một số điều kiện và các điều kiện này được quy định ở đây trên trái đất – có nghĩa đó là những điều kiện có thể hiểu được bằng tâm nhị nguyên, tâm đường thẳng, thậm chí là tâm sa ngã. Lẽ tất nhiên, Ki-tô vượt lên trên tâm đó và do đó các điều kiện đó không thể nào là điều kiện của tâm Ki-tô. Sa nhân không nắm được là tâm Ki-tô không có điều kiện vì đấng Sáng tạo không có điều kiện và tâm Ki-tô biết là luật tự quyết cần tự trải bày và biết việc này sẽ được hoàn thành như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên.

Tâm Ki-tô biết đây không phải là loại hành tinh duy nhất, và có hàng tỷ hành tinh khác. Nó có tầm nhìn rộng lớn hơn và biết rằng những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé tên là trái đất này không phải là một thảm họa cho toàn thể vũ trụ. Khi con ở trên trái đất, con muốn nghĩ rằng (vì sa nhân muốn con nghĩ là trái đất rất quan trọng) trái đất có lẽ là hành tinh duy nhất có sự sống trong toàn thể vũ trụ và Thượng đế rất quan tâm theo dõi những gì đang xảy ra trên trái đất.

Trên thực tế, khi con có tâm Ki-tô thì con có tầm nhìn rộng lớn hơn và thấy rằng những chuyện đang xảy ra trên trái đất không ảnh hưởng toàn thể vũ trụ vì hành tinh này quá bé nhỏ và không thể kéo toàn thể vũ trụ xuống theo với nó, vì có hàng tỷ hành tinh khác đang theo một vòng xoáy đi lên. Chuyện đang xảy ra trên trái đất được phép xảy ra vì các dòng sống đang đầu thai trên trái đất chưa chán ngán kinh nghiệm họ đang có trên trái đất.

Giờ đây, khi con có tầm nhìn đó, khi chính con bắt đầu trải nghiệm chuyện đó, thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi: “Ki-tô hay Giê-su (nếu con muốn mật thiết hơn) có chấp nhận tôi như tôi đang là ngay bay giờ chăng?” Khi con tự hỏi mình như vậy, và khi con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, thì con có thể trải nghiệm là, đúng vậy, thày, Giê-su Ki-tô, chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ.

Con không cần hội đủ điều kiện nào để xứng đáng được thày chấp nhận. Thày lúc nào cũng đã chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thậm chí có một số trong các con đã gặp thày 2000 năm trước, khi các con có tâm thức thấp hơn ngày nay rất nhiều, nhưng thày lúc đó đã chấp nhận con. Trong 2000 năm qua, một số các con đã mang trong mình cái ngã vỏ ngoài được tạo dựng theo tâm thức phán xét của sa nhân, cho rằng thày không chấp nhận con ngay bây giờ vì con vẫn chưa sống theo đúng chuẩn mực toàn hảo. Khi con còn nhìn cuộc đời xuyên qua phin lọc của ngã gốc, thì con sẽ không thể khắc phục được ảo tưởng đó. Con sẽ nghĩ (vì ngã gốc chỉ có thể nghĩ như vậy), là chắc hẳn phải có một số điều kiện mà con phải hội đủ để Ki-tô có thể chấp nhận con – nhưng đây là một lời gian dối của sa nhân.

Khi con bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc thì con có thể tới điểm tự đặt câu hỏi một cách có ý thức. Lúc đó, nếu con mở tim đón nhận thày thì thày sẽ cho con (tùy khả năng tiếp nhận của con) trải nghiệm trực tiếp là thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Đây chính là trải nghiệm mà thày muốn trao cho tất cả mọi người 2000 năm trước đây, và thày muốn trao cho mọi người ngày hôm nay.

5.10. Trao cho người khác sự chấp nhận của Giê-su

Thày đang không đầu thai trong cõi vật chất, vậy làm sao thày trao cho mọi người trải nghiệm này? Thày chỉ có thể vì co. trao cho họ xuyên qua con, nhưng con không thể là dụng cụ giúp thày trao trải nghiệm đó cho người khác khi con chưa tự mình trải nghiệm và chấp nhận là thày chấp nhận con.

Thế nào là Ki-tô đang hành động? Ấy, điều này có nhiều nghĩa, lẽ tất nhiên, nhưng điều thày muốn trình bày trong bài giảng này, là điều đó có nghĩa con trở thành một dụng cụ để trao cho tất cả mọi người mà con gặp (bất kể họ đang ở tầng tâm thức nào) trải nghiệm là con chấp nhận họ như họ đang là và con không phán xét họ.

Giờ đây, thày biết là dù con đã bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, con vẫn còn những cái ngã khác, như các thày đã giảng, mà con đã tạo ra trong những kiếp sống tiếp theo sau kiếp sống đầu. Điều này có nghĩa là nhiều người trong các con cần làm công việc quét dọn và nhìn vào các ngã này và thấy khi con đã tạo ra một cái ngã có một tiêu chuẩn nói rằng: “Mọi chuyện phải được phán xử tùy theo chúng đúng hay sai, vì có những chuyện chắc chắn đúng và những chuyện chắc chắn sai, phải có chân lý và phải có dối trá, phải có sự sai trái.” Phải có chuyện này và phải có chuyện kia. Con có thể bắt đầu tách mình ra khỏi những ngã đó vì con cần ghi chặt trong tâm ý niệm duy nhất sau đây: phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô. Phán xét nhị nguyên không dính dáng gì đến phân biện Ki-tô.

Sa nhân không thể có phân biện Ki-tô. Họ muốn con nghĩ rằng con có thể mài dũa phán xét nhị nguyên tới điểm nó cho con vào nước Trời. Chính một số sa nhân đã tin như vậy. Chuyện này không thể xảy ra! Con có thể dùng tất cả các giáo lý mà các thày đã trao truyền về sa nhân và sự sa ngã và thấy là chuyện này không thể xảy ra.

Phân biện Ki-tô – đúng vậy, có một chân lý tuyệt đối mà phân biện Ki-tô biết. Do đó, phân biện Ki-tô có thể thấy các sai lầm và dối trá. Khi con gặp một người và con có phân biện Ki-tô, thì con có thể thấy là người đó đang ở một tầng tâm thức rất ích kỷ. Người đó có thể tin nhiều ảo tưởng, người đó có thể đang làm một số hành động rõ ràng xâm phạm quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, sau đây là sự nhận biết cốt yếu: dù con thấy trình độ tâm thức của một người, dù con thấy hành động của họ, nhưng con vẫn có thể (khi con ở trong tâm Ki-tô) tỏa ra sự chấp nhận người đó. Không phải là chấp nhận những chuyện họ đang làm, không phải là chấp nhận những điều họ tin, nhưng chấp nhận là đằng sau tất cả các ngã vỏ ngoài đó, có một cái Ta Biết là một phần nối dài của Bản thể của đấng Sáng tạo.

5.11. Thượng đế chỉ muốn giải thoát con người

Trong một số trường hợp, khi cái Ta Biết của người đó trải nghiệm sự chấp nhận vô điều kiện của con, thì cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi các ngã thấp kém và ít ra là trong một khoảnh khắc, kết nối trở lại và trải nghiệm nó là một sinh thể vô điều kiện, nó là một sinh thể không hình tướng không bị lệ thuộc vào bất cứ điều kiện nào có hình tướng. Con yêu dấu, bất kể con nghĩ gì, hậu quả của việc thực sự làm hòa với luật tự quyết là con nhận ra là Thượng đế không muốn trừng phạt bất cứ ai, bất kể họ đã làm gì. Thượng đế chỉ có một mong muốn: đó là giải thoát con người.

Điều này có nghĩa là con có thể gặp một người đang ở trong trạng thái tâm thức thấp nhưng người đó vẫn xứng đáng được cơ hội giải thoát. Do đó, người đó vẫn xứng đáng được nhận xuyên qua con sự chấp nhận vô điều kiện của Ki-tô Hằng sống, của Ki-tô Hoàn vũ, của Ki-tô thăng thiên mà thày là. Thày còn không muốn con chấp nhận người khác với tâm vỏ ngoài. Thày muốn con bỏ tâm vỏ ngoài sang một bên để có thể là cánh cửa mở giúp họ nhận được một xung lực chấp nhận từ thày. Con có chịu để thày phán xét ai xứng đáng được nhận sự chấp nhận, thay vì để tâm vỏ ngoài của con phán xét điều đó? Lúc đó con sẽ có thể bước một bước vĩ đại, một bước quyết định, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, một bước quyết định dẫn tới biểu lộ quả vị Ki-tô với tiềm năng cao nhất mà con đã quy định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

Một lần nữa, điều này không có nghĩa con chấp nhận tất cả mọi chuyện mà người khác đang làm. Không có nghĩa là con không thách đố người khác. Không có nghĩa là con không phơi bày, một cách bình tĩnh và thẳng thắn, cho họ thấy những gì họ đang làm. Vượt lên trên tất cả các hành động này là sự chấp nhận.

Giờ đây, nếu con xem quyển sách Những kiếp sống của tôi, thì con thấy nhân vật trong quyển sách gặp Lucifer khi y trải qua sự phán xử cuối cùng, và nhân vật đã rốt cuộc có thể biểu lộ tình thương vô điều kiện tới Lucifer. Đây là điều duy nhất đã thực sự khiến tâm của Lucifer xoay chuyển. Giờ đây, lẽ tất nhiên, con nhận ra – thày tin như vậy – là các thày đã dùng tên Lucifer trong quyển sách vì đây là tên mà đa số con người đã gán ghép cho các thiên thần sa ngã và các sinh thể tăm tối. Điều này không có nghĩa là, trong suốt chiều dài lịch sử của hành tinh này, không có nhiều sinh thể đã dùng tên Lucifer và đã bị đem ra phán xử ở những thời điểm khác với những gì được mô tả trong quyển sách. Một lần nữa, con đừng quá chú tâm vào những điểm vỏ ngoài đó. Con hãy nhìn quá những điểm vỏ ngoài và nhận ra là điểm quan trọng trong quyển Những kiếp sống của tôi là câu chuyện được kể và biểu tượng của nó. Con yêu dấu, nếu Lucifer xứng đáng được chấp nhận vô điều kiện, thì chắc hẳn tất cả các sinh thể mà con có thể gặp trong phần còn lại của kiếp sống này cũng xứng đáng như vậy.

5.12. Đình chỉ phán xét

Một lần nữa, con có chịu đình chỉ phán xét với ngã vỏ ngoài của con và để cho thày phán xử ai xứng đáng được nhận một xung lực chấp nhận từ thày? Lẽ tất nhiên, muốn làm vậy thì con cần trước tiên trải nghiệm là thày chấp nhận con như con đang là, ngay cả các ngã vỏ ngoài mà con đang có, ngay cả với khuynh hướng phán xét mà con có thể đang có. Thày chấp nhận con như con đang là ngay bây giờ. Thày chấp nhận là Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, và điều này đã cho phép con tạo ra ý niệm bản sắc mà con đang có ngay lúc này. Thày không hề muốn trách mắng con, trừng phạt con, khiến con cảm thấy khổ tâm. Thày chỉ mong muốn cho con sự chấp nhận vô điều kiện rằng bất kể điều gì con đã làm trên trái đất, bất kể những gì con đã trải nghiệm trong các kiếp trước, thày chỉ có một mong muốn: giúp con được tự do khi con muốn được tự do. Đây là mong muốn duy nhất của Ki-tô. 

Sẽ có nhiều người không thể chấp nhận những gì thày vừa nói vì họ vẫn còn bị giam hãm trong tâm phán xét và ý nghĩ cho rằng khi con đã làm một chuyện gì rất xấu, tỷ dụ như giết hàng triệu người, thì con xứng đáng bị trừng phạt. Con yêu dấu, con không cần bị Thượng đế trừng phạt vì con đã tự trừng phạt chính mình. Để có thể giết hàng triệu người, con đã phải đặt mình vào trạng thái tâm thức tạo nơi con đau khổ cùng cực. Do đó, khi con còn ở trong trạng thái tâm thức đó, như sa nhân đã ở trong một thời gian rất, rất dài, thì con đã tự trừng phạt chính mình. Thượng đế có lý do gì trừng phạt thêm khi Thượng đế thấy là hành động đó được tạo ra bởi một cái ngã không thật?

Con lại nhận ra là: quyền tự quyết là quyền tự do lựa chọn vì con lúc nào cũng có thể vươn lên trên những gì con tạo ra trước đó. Con không bao giờ có thể lấy một chọn lựa ngăn cản con lấy những chọn lựa mới. Điều này sẽ đi ngược lại những gì nhiều người trong các con đã trải nghiệm. Con đã trải nghiệm lấy một chọn lựa ở khoảng đầu cuộc đời, và việc đó đã tạo ra hậu quả vẫn còn ảnh hưởng con mấy chục năm sau đó. Tuy nhiên, con yêu dấu, con vẫn có chọn lựa tách mình ra khỏi cái ngã xuyên qua đó con đã lấy những chọn lựa đầu.

Con yêu dấu, sau đây là một sự thực tuyệt đối: nếu con có thể hoàn toàn tách mình ra khỏi tâm thức đó, thì con thực sự có thể tháo gỡ các hậu quả vật lý. Nhiều người trong các con sẽ không có khả năng hoàn toàn khắc phục cái ngã trước, nhưng con sẽ có thể vươn mình lên cao hơn rất nhiều nên con sẽ nhìn hậu quả một cách khác. Do đó, con không bị chúng làm con đau khổ như lúc trước.

Con yêu dấu, như thày có nói, con có thấy chăng là sa nhân muốn con nghĩ là nếu con lấy một quyết định mà con không thích, thì nếu con thực sự có quyền tự quyết, và nếu quyền tự quyết đó cho con quyền hoàn toàn tự do hành động, thì con đáng lẽ không phải gánh chịu những hậu quả. Như thày có nói, con vẫn có quyền tự quyết dù con đã lấy rất, rất nhiều chọn lựa trong những kiếp trước và con đã tạo ra ý niệm bản ngã mà con hiện có. Con có thể nói: “Nhưng ý niệm bản ngã này có rất ít chọn lựa, bị giới hạn rất nhiều trong việc chọn lựa.” Và điều này đúng. Con đã tạo ra một cái ngã giới hạn, và nó có ít chọn lựa, vì con yêu dấu, cứ mỗi lần con tạo ra một cái ngã trong bốn thể phàm thì con giới hạn những chọn lựa mà con có thể thấy. Con nhìn xuyên qua phin lọc của cái ngã đó và nó loại bỏ đi những chọn lựa khác.

Nhưng bất kể cái ngã mà con tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có thể khởi sự tiến trình thức tỉnh, bắt đầu thức tỉnh khỏi sự đồng hóa với các ngã đó, và do đó, để cho chúng chết đi từng ngã một – loại bỏ các phàm linh nội tại đó.  Chọn lựa đó con lúc nào cũng có và khổng thể nào đánh mất. Những người trong các con đã chấp nhận trải qua tiến trình đó, như một số các con đã làm, thì biết là tự do của con đã tăng trưởng và con hiện nay nhìn đời một cách khác hơn cách con nhìn đời vài năm trước đây.

Thày khuyến khích con xem xét mình phản ứng ra sao với bài giảng này. Nếu con vẫn nghĩ là con vẫn chưa hoàn toàn nắm được nó, con chưa thể hoàn toàn chấp nhận nó, nếu con vẫn cảm thấy nỗi đau bị giới hạn và con không chắc điều thày nói chính thực là sự thực, thì con nên tìm hỏi những người đã đi xa hơn con trên tiến trình này. Con hãy nói chuyện với các vị đó, lắng nghe họ, xin họ giải thích những thấu hiểu nào đã giúp họ. Lúc đó, có thể con sẽ thấy là họ đã cho con cảm hứng để tiến bước kế tiếp trên con đường tu, giúp con tới điểm con được tự do. Con đã làm hòa với việc mình ở trên trái đất, nhưng đầu tiên hết, hơn tất cả mọi thứ, con có thể tới điểm chấp nhận mình như con là ngay lúc này. Con sẽ không cảm thấy mình toàn hảo hay mình không cần tăng trưởng nữa, nhưng con có thể chấp nhận mình vì con đã trải nghiệm là thày chấp nhận con.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày xin con đình chỉ sự phán xét chính mình, và ngưng phóng chiếu lên thày là thày đang phán xét con như con phán xét chính con – và vì con phán xét mình bất toàn, nên thày không thể nào chấp nhận con. Xin con để cho thày là quan tòa xét xử xem thày có chấp nhận con hay không? Do đó, con đặt mình trong trạng thái tâm nói rằng: “Ồ, tôi không phải là người phán xét xem Giê-su có sẽ chấp nhận tôi hay không. Giê-su sẽ là người phán xét, và do đó tôi phải hoàn toàn cởi mở đón nhận bất cứ điều gì Giê-su muốn cho tôi. Tôi không thể phán xét là Giê-su không thể nào chấp nhận tôi, vì như vậy tôi không cởi mở với thày, tôi không để thày là người xét xử.”

Con có thể làm việc trên vấn đề này, và tới điểm con đặt mình vào trạng thái tâm trung hòa. Nếu con có thể trung hòa thì con sẽ trải nghiệm là thày chấp nhận con. Tại sao vậy? Vì ngay lúc này thày đang đứng cạnh mỗi người chúng con, và thày đang đưa bàn tay ra và nói: “Con có vui lòng chấp nhận chăng là thày chấp nhận con hoàn toàn và vô điều kiện?” Thày cống hiến sự chấp nhận của thày, con yêu dấu. Nếu con không trải nghiệm được sự cống hiến của thày, thì lý do chỉ có thể là con bác bỏ nó, hoặc có ý thức hoặc vô thức. Món quà của thày đã được trao ra. Con có chấp nhận nó chăng? Vậy bây giờ, thày cảm ơn con đã chấp nhận, thày cảm ơn con đã lắng nghe bài giảng này và là dụng cụ để lan tỏa nó vào tâm thức tập thể.

3 | Khắc phục khía cạnh kiểm soát của ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 21 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su, hay như đôi khi ta nói, TA LÀ Chân sư Thăng thiên Giê-su Ki-tô. Tại sao đôi khi thày nói Giê-su và đôi khi thày nói Giê-su Ki-tô? Không có lý do nào cả, các con yêu dấu, ngoài chuyện thày cảm thấy muốn biểu lộ mình ra sao vào lúc đó.

Vì sao một số các con lại đặt chú tâm và tìm hiểu tại sao đôi khi thày làm điều này và đôi khi thày nói điều kia? Đó là, vì con đã bị cú sốc khi gặp gỡ sa nhân, con đã tạo ra một cái ngã trong thể bản sắc muốn cảm thấy nó có sự hiểu biết nào đó về thế giới và thế giới vận hành ra sao để nó có thể cảm thấy an toàn.

3.1. Bao nhiêu người đã biểu lộ quả vị Ki-tô?

Các con yêu dấu, câu hỏi mà thày muốn nêu ra với các con trong bài giảng này là như sau. Đã từ nhiều thập niên nay, các thày là chân sư thăng thiên đã trao truyền giáo lý qua trung gian một số vị sứ giả được bảo trợ và có khả năng nhận truyền đọc trực tiếp từ các thày. Ngay từ lúc khởi đầu của đợt truyền giáo của Lời Hằng sống này, các thày đã trao truyền giáo lý là thày không phải là một thần tượng và là một ngoại lệ như đạo Cơ đốc chính mạch đã mô tả thày. Trái lại, thày đáng lẽ phải là tấm gương cho thấy tiềm năng mà tất cả mọi người đều có. Giờ đây, nếu con nhìn trở lại suốt mấy chục năm trao truyền giáo lý, thì con thấy là các thày đã thu hút trong khoảng thời gian đó nhiều triệu người đã (ít nhất ở một trình độ nào đó) học hỏi giáo lý của các thày. Khi con nhìn trở lại sự kiện này, thì câu hỏi đặt ra là: “Có bao nhiêu người đã có thể dùng giáo lý mà các thày trao truyền để thể hiện và biểu lộ một phần quả vị Ki-tô? Bao nhiêu người đã có thể khắc phục lập trình chối bỏ mình có tiềm năng trở thành Ki-tô và thực sự bắt đầu thực hiện tiềm năng là Ki-tô?” Đây là câu hỏi mà thày muốn các con suy ngẫm, thậm chí thảo luận trong hội nghị này, và dĩ nhiên, sau đó nữa.

Đây không phải là một câu hỏi chung chung vì sao đã không có nhiều người hơn làm việc này. Lẽ dĩ nhiên, như các con ở đây cũng biết, mục đích là xem xét chính mình. Câu hỏi cũng là: “Vì sao tôi chưa thể hiện một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn?” Giờ đây, con yêu dấu, thày muốn các con biết, vì một số các con chưa hoàn toàn chú ý việc này, là các thày đã (quả thực là ngay từ lúc khởi đầu nhưng đặc biệt là trong những năm gần đây) tìm cách giúp các con xoay chuyển tâm thức của mình.

3.2. Tự do khỏi tâm phán xét

Con thấy chăng, con yêu dấu, là sa nhân đã từ muôn thuở, nhưng đặc biệt là qua các giáo hội Cơ đốc chính mạch, tạo ra quan niệm tội lỗi. Con không toàn hảo vì lý do mơ hồ nào đó, và Thượng đế là một đấng giận dữ trên trời sẽ phán xử con và hoặc sẽ đày con xuống đia ngục hoặc đưa con lên thiên đàng. Họ còn tìm cách phóng chiếu là thày, trong tư cách Ki-tô Hằng sống hay Ki-tô Hành tinh, đang phán xét các con và sẽ hoặc giơ ngón cái lên để cho con vào thiên đàng hay hạ ngón cái xuống để đày con xuống đia ngục. Các thày đã tìm cách giúp con thấy là đây không phải là sự thật.

Trong hai năm vừa qua, đặc biệt là các vị Chân sư Nữ và chính yếu là Mẹ Mary, đã tìm cách giúp con thấy là các thày hoàn toàn không phán xét con, và điều chắc chắn là các thày không phán xét con như sa nhân phán xét con và như sa nhân đã khiến con phán xét chính mình. Thày muốn con rất rất rất rõ trong tâm là thày không muốn trao truyền giáo lý này và nêu câu hỏi kia ra vì thày muốn con phán xét chính mình và cảm thấy hổ thẹn vì con đã không biểu hiện một trạng thái cao hơn của quả vị Ki-tô. Mục đích của Ki-tô Hằng sống là gì? Mục đích của thày, như Ki-tô Thăng thiên, là gì? Mục đích của tất cả các chân sư thăng thiên là gì? Con yêu dấu, các thày chỉ có một mục đích duy nhất. Thày xin các con hãy ghi chặt trong tâm là các chân sư thăng thiên chỉ có một mục đích duy nhất. Đó là giải thoát con. Tâm con sẽ nói ngay tức khắc: “Giải thoát khỏi cái gì? Các chân sư thăng thiên muốn giải thoát con khỏi cái gì?” Các thày muốn giải thoát con khỏi cái tâm đang đặt ra câu hỏi đó vì chính cái tâm đó đang khiến con bị mắc kẹt.

3.3. Làm cách nào truyền ra giáo lý

Con yêu dấu, con hiểu chăng là các thày trên cõi thăng thiên luôn luôn giám sát hiện trạng hành tinh? Các thày có tầm nhìn rất dài hạn, và trong một thời gian rất dài, các thày bị giới hạn trong những gì các thày có thể làm, giáo lý nào có thể truyền ra. Con có hiểu chăng là nếu con nhìn lại giáo lý mà các thày đã trao truyền từ gần một thế kỷ vừa qua, thì con có thể tự hỏi: “Tại sao các giáo lý này không được trao truyền sớm hơn?” Ấy, chính thực là các giáo lý đó đã được trao truyền sớm hơn, nhưng trong một khung cảnh riêng tư, thường là bí mật.

Lúc trước không có cách nào trao truyền các giáo lý đó một cách công cộng. Nguyên do một phần là vì sa nhân đã thành công trong việc hủ hóa Cơ đốc giáo và biến Cơ đốc giáo thành dụng cụ chính yếu để thực sự che giấu giáo lý chân thực của Ki-tô, và giáo lý đó có mục đích giải thoát con người. Suốt nhiều thế kỷ, ở Châu Âu và các nơi khác, không thể nào giảng công cộng các giáo lý mà các thày đang trao truyền. Lẽ dĩ nhiên, cũng có thêm khía cạnh hoàn toàn thực tiễn, thực dụng là làm sao phân phối giáo lý.

Các con có lẽ cũng biết là trong thập niên 1930 các thày có bảo trợ một tổ chức tên là Phong trào TA LÀ (I AM Movement). Khi con nhớ lại thời đại đó, là một điều mà những người trong các con đã lớn lên trong thời đại mạng Internet khó lòng mường tượng, thì con thấy là phương tiện truyền thông chính yếu của thời đó là hệ thống bưu điện. Sa nhân đã làm được chuyện gì? Họ đã khiến chính phủ liên bang Hoa Kỳ ngăn chặn không cho Phong trào TA LÀ, ít nhất là trong một thời gian, sử dụng hệ thống bưu điện. Con thấy là chỉ sau khi mạng Internet ra đời thì các thày mới có cơ hội tốt hơn để trao truyền giáo lý và đem giáo lý tới một cử tọa rộng lớn hơn.

3.4. Điều gì ngăn chặn quả vị Ki-tô

Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng luôn luôn giám sát tâm thức tập thể và sự tăng triển của tâm thức tập thể. Trong hầu hết mọi thời đại đều có một số người, một số ít cá nhân, đã mở tâm đón nhận giáo lý dạy cách giải thoát chính mình. Nhưng chỉ trong một hoặc hai thập niên cuối tâm thức tập thể mới lên tới mức để các thày có thể trao truyền các giáo lý thật sự rất tiên tiến và tinh vi mà các thày đã trao truyền qua vị sứ giả này, khởi đầu bằng chủ đề tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại cho đến các giáo lý cuối liên quan đến chấn thương nhập đời.

Giờ đây con yêu dấu, thày Quân Âm đã cho các con nhiều chìa khóa quan trọng trong bài truyền đọc, mà thày khuyên các con nên nghiên cứu nhiều lần, nhưng thày sẽ xây dựng thêm trên nền móng mà Quan Âm đã thiết lập. Một lần nữa, câu hỏi: Có nhiều người đã được nhận giáo lý vỏ ngoài là Giê-su Ki-tô không phải là một ngoại lệ mà là một tấm gương mà mọi người có thể noi theo nếu họ chịu chuyên cần áp dụng giáo lý. Nhiều người trong số các người đó cũng đã được trao truyền một số dụng cụ tâm linh thực tiễn như: cầu thỉnh ánh sáng tím, các bài chú và các dụng cụ khác mà họ có thể sử dụng. Vì sao rất nhiều người đã không thể nhập và áp dụng giáo lý và dụng cụ tới điểm họ thể hiện được quả vị Ki-tô? Một lần nữa, thày không trách cứ ai, con yêu dấu. Thày không trách cứ, thầy cũng không nói là con đáng lẽ phải thể hiện một trình độ cao hơn của quả vị Ki-tô. Các thày chỉ muốn có một cuộc nói chuyện để xem xét một cách bình tĩnh và vô tư cơ cấu đang ngăn chặn con người thể hiện quả vị Ki-tô.

Lẽ dĩ nhiên, lý do vì sao các thày đã rất thận trọng và tuần tự trao truyền các giáo lý vì chúng đều liên quan tới điều mà các thày nay gọi là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Nói cách khác, dù con là một cư dân nguyên thủy của trái đất hay con đã tới đây từ một thế giới khác, một hành tinh khác, có thể là một hành tinh tự nhiên, thì đề tài này cũng áp dụng cho con. Sự kiện đơn giản là (và các thày đã nói điều này nhiều lần nhưng thày lặp lại ở đây): khi con đầu thai lần đầu trên một hành tinh như trái đất (kể cả các con đã đầu thai ở đây nhiều lần rồi) và giáp mặt sa nhân lần đầu và trải nghiệm ý chí vô giới hạn sẵn sàng làm ác của họ, muốn hành hạ con và người khác, thì con bị một cú sốc, một chấn thương. Chuyện này đã xảy ra cho tất cả chúng ta đã từng đầu thai trên trái đất.

3.5. Chê trách mình vì đã phản ứng

Một lần nữa, không ai chê trách ai, không có lý do gì để cảm thấy tiếc nuối, nhưng một số các con, nhiều người trong các con, vẫn tự chê trách mình. Con yêu dấu, con vẫn nghĩ, như vị sứ giả này vẫn nghĩ cho tới khi ông nhận được giáo lý về ngã gốc vào tháng 12 vừa qua, là con đáng lẽ phải tìm ra được một cách nào đó để tới đây như một avatar mà không bị suy suyển bởi những gì xảy ra trên trái đất, con đáng lẽ phải tránh để tay mình lấm bùn.

Con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã cảm thấy như vậy, và thày cần con tới điểm thấy một cách có ý thức cái ngã đó, thấy nó là một cái ngã, thấy nó hiện diện trong thể bản sắc của con và lan cả xuống thể lý trí và thể tình cảm. Thày cần con bước lui lại và tách mình ra khỏi ngã đó, là cái ngã nghĩ con đáng lẽ phải hành xử khác hơn. Ngã đó cũng là cái ngã sẽ lấy giáo lý mà thày đang trao truyền và nói: “Tôi đáng lẽ phải thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn, và tại sao tôi đã không làm vậy?”

Ấy, con yêu dấu, vì sao con đã không thể hiện quả vị Ki-tô sớm hơn? Con đã không làm được vì con trước đây không có hiểu biết và các giáo lý để đối phó với ngã gốc. Điều duy nhất nào, điều tuyệt đối duy nhất nào, đã ngăn chặn người tầm đạo chân thành biểu lộ quả vị Ki-tô? Con hãy ghi nhận! Thày không nói tất cả mọi người vì khi con nhìn vào tập thể con người trên trái đất, thì họ có nhiều cái ngã khác nhau ở nhiều trình độ khác nhau. Thày muốn nói tới những người tầm đạo chân thành đã nghiên cứu giáo lý của các thày, đã áp dụng giáo lý, có khi suốt nhiều năm. Điều duy nhất nào đã ngăn cản con là Ki-tô Hằng sống đang hành động? Ấy, điều duy nhất đó là ngã gốc.

Quân Âm đã thuyết giảng đề tài này, và thày sẽ tiến thêm bước nữa. Khi con giáp mặt sa nhân lần đầu (hay ít nhất là khi con lần đầu nhận ra là họ có khả năng làm ác vô giới hạn, họ không có giới hạn hay lằn ranh nào ngăn cản họ làm hại người khác hay giới hạn hình thức tàn phá và đau khổ mà họ tạo ra) thì con bị một cú sốc. Cú sốc đó lớn đến độ con thực sự không thể sống với nó, con không thể xử lý nó.

3.6. Con đã tạo ngã gốc như thế nào

Tình trạng của con như sau: lúc đó con đang ở trong một thân thể vật lý, con không thể rút mình ra khỏi thân thể vật lý, con không thể giản dị bước lui lại và nói: “Ồ, tôi không muốn ở trên hành tinh này nữa, tôi cởi bỏ thân thể vật lý này và tôi trở về hành tinh nơi tôi ở trước kia.” Con không thể làm việc này được! Con ở đây, con ở trong thân thể vật lý, con nhận ra là có những sinh thể (các thày đã gọi họ là sa nhân, con có thể đã thấy họ như cái gì khác) sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để hại con và tiêu diệt con hay các người khác. Con không tránh xa họ được nhưng con không thể sống với ý nghĩ họ đang có mặt ở đây, với nỗi sợ họ sắp làm thêm điều gì đây.

Khi con quan sát tất cả các khổ đau mà sa nhân tạo ra, thì con bỗng nhiên giáp mặt một tình trạng khó xử. Con đang ở trên trái đất, con không thể rời trái đất và do đó con phải tìm ra một cách để sống ở đây trong khi vẫn biết rằng sa nhân cũng có mặt ở đây. Con làm sao giải quyết vấn đề này? Ấy, con giải quyết vấn đề bằng cách tạo ra ngã gốc. Như thày Quan Âm có giảng, ngã gốc có nhu cầu tạo ra một quan niệm tổng quát về trái đất, về cách trái đất vận hành, vì sao Thượng đế lại để cho cái ác có mặt, tại sao cái ác lại có mặt trên trái đất. Con cũng nhận ra một khía cạnh của ngã gốc có mục đích chính yếu khiến con cảm thấy an toàn, giúp con cảm thấy thăng bằng khi sống trên trái đất này.

Điều thày muốn nói là: trước khi con gặp gỡ sa nhân, con cảm thấy tương đối an toàn. Con có một cảm nhận thăng bằng, một cảm nhận liên tục, một cảm giác tin tưởng nơi cuộc sống, tin tưởng vào tương lai. Khi con gặp gỡ sa nhân và thấy họ không có giới hạn nào cho ý muốn làm điều ác, thì con bỗng nhiên đánh mất đi điều mà ta có thể gọi là sự ngây thơ của tuổi thơ. Con mất đi cảm giác an toàn, an ninh, thăng bằng nội tại. Mục đích chính yếu của ngã gốc là tái lập nơi con một cảm giác an toàn, một cảm giác thăng bằng nào đó, và nó làm công việc này thế nào? Nó làm công việc này bằng nhiều cách. Nó tạo ra nhiều cái ngã, tùy theo nội dung tâm lý của riêng cá nhân con, tùy theo những gì con trải nghiệm, không những trong kiếp đầu thai đầu khi con gặp gỡ sa nhân và còn trong những kiếp sau đó. Nó là một cơ chế khá phức tạp, tuy nhiên điều thày muốn trao truyền là có một khía cạnh của ngã gốc muốn tạo cảm giác an toàn, thăng bằng, phần nào làm chủ cuộc sống và cuộc sống của con trên trái đất.

Con yêu dấu, một lần nữa các thày không chê trách con. Các thày không nói các điều này sai trái. Các thày không nói là đáng lẽ con không nên làm như vậy – tất cả chúng ta đều đã làm như vậy.  Con có thể làm gì khi bị cú sốc khi gặp gỡ nhũng sinh thể sẵn sàng làm bất cứ gì để tiêu diệt mình? Điều con nay có thể làm, và con đã có giáo lý để làm việc này, là con bắt đầu nhìn vào ngã gốc, khía cạnh của ngã gốc muốn an toàn, muốn kiểm soát.

3.7. Kiểm soát thế giới để cảm thấy an toàn

Ta có thể nói một cách thật thẳng thắn là khía cạnh này của ngã gốc muốn kiểm soát thế giới để nó cảm thấy được an toàn. Cơ cấu rất giản dị: nếu con cảm thấy mình làm chủ tình hình, thì con cảm thấy an toàn. Nếu con nhìn một cách thành thực, thì con thấy đây là động lực thúc đẩy rất nhiều sa nhân. Họ cảm thấy không an toàn một cách cơ bản, và vì họ không bao giờ trở về được với cái một (trừ phi họ quay đầu đi ngược lại, là điều mà họ không chịu làm) nên họ không thể khắc phục cảm giác không an toàn, và đó là lý do họ phải có kiểm soát tối hậu.

Vì sao Stalin lại sẵn sàng giết hại hàng triệu người? Vì y có nhu cầu kiểm soát đó. Điều này chỉ cho con thấy là y có một nỗi sợ hãi rất lớn, và do đó y có một trình độ tâm linh rất thấp. Nếu con cần giết người khác để cảm thấy được an toàn, thì dĩ nhiên con có một nỗi sợ khủng khiếp, và nỗi sợ này làm chủ đời con. Do đó, bất kể thế giới thấy con như thế nào, con là một sinh thể bất lực. Con bên ngoài có thể có nhiều quyền lực, nhưng trong nội tâm thì con bất lực. Stalin là một trong những sinh thể bất lực nhất mà con thấy trong lịch sử cận đại. Lẽ dĩ nhiên, Hitler cũng bất lực như vậy, và Mao Trạch Đông còn bất lực hơn cả hai người kia nữa.

Con thấy những điều này và do đó con cần nhận ra là con có khuynh hướng đó, và khuynh hướng đó dễ hiểu và không thể tránh, nhưng điều con có thể tránh là vác cái ngã đó theo mình cho đến hết kiếp sống này. Đó là lý do vì sao các thày đã trao truyền giáo lý này, để giúp con vứt bỏ gông cùm nặng chĩu của sự ghiền nghiện an toàn, của cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn mà con có trong thể bản sắc của con. Con có thể tới điểm nhìn vào nó, thấy nó, thấy nó như nó là, bước lui lại và nhận ra: “Đây không phải là tôi. Đây không phải là tôi”.

Giờ đây con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên biết rất rõ là các thày phải giữ một cân bằng tế nhị khi hành xử. Để giải thoát các con, các thày cần làm hai chuyện. Thứ nhất, các thày cần giúp con thấy là con không tự do. Điều này có thể khiến con rất rất bức xúc. Con có biết vì sao con lại bức xúc? Ấy, con cảm thấy bức xúc vì cái ngã kiểm soát mà con đã tạo ra để có được cảm giác an toàn và thăng bằng, cần cảm thấy nó có một hiểu biết cơ bản về cách hành tinh này vận hành.

Lẽ dĩ nhiên, con bị mắc kẹt vì cái ngã đó. Chính cái ngã đó đã giam hãm con hơn bất cứ gì khác. Khi các thày bắt đầu phơi bày sự hiện diện của cái ngã đó, thì nó sẽ phản ứng ra sao? Nó sẽ coi việc phản bác lời giảng của các thày là chuyện sống còn của nó, để con không chấp nhận điều các thày nói, không coi điều các thày nói là quan trọng, không đem ra áp dụng điều các thày nói. Con có thể nhìn vào chính mình, và một thử nghiệm rất tốt là con lấy quyển Các cuộc đời của tôi và xem xét con phản ứng ra sao với quyển sách đó. Quyển sách càng khiến con bức xúc bao nhiêu, thì càng chứng tỏ là con có cái ngã đã quen cảm thấy, có thể qua nhiều kiếp sống, là nó phần nào nắm được cách thế giới vận hành. Nó làm chủ được tình hình, nó đã tìm ra một hệ thống ấn định rằng nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác, thì con sẽ được an toàn.  

3.8. Khắc phục cái ngã muốn kiểm soát một cách bệnh hoạn

Giờ đây con yêu dấu, ta có thể coi là cái ngã đó có phần đúng. Điều kiện chính yếu nào khiến con không được an toàn trên trái đất? Đó là sa nhân. Vì sao họ lại tấn công con? Vì sao họ tìm cách tiêu diệt con? Đó là vì nỗi sợ cơ yếu nhất, lớn nhất của họ là có ai trở thành Ki-tô Hằng sống, có ai dám biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là nỗi sợ cơ yếu nhất của họ. Do đó, khi có ai tới hành tinh này hay đã nâng mình lên một trình độ nào đó của quả vị Ki-tô, thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để tiêu diệt người đó và ngăn chặn không để người đó biểu hiện quả vị Ki-tô.

Chuyện gì xảy ra khi con giáp mặt sa nhân và trải nghiệm là họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì trong khả năng họ để tiêu diệt cá nhân con? Con bị một cú sốc, một chấn thương, và kết quả là con tạo ra một khía cạnh của ngã gốc muốn kiểm soát. Một lần nữa, điều này dễ hiểu. Con ở trong cõi vật lý, con trải nghiệm là có người muốn giết con, muốn tra tấn, chê bai, hạ nhục con, làm tất cả gì họ có thể làm để hủy hoại con. Con không thể ra khỏi thân xác này. Con có thể không có khả năng rời xa họ. Con có thể làm gì để có thể sống sót trong tư tưởng và cảm xúc không những trong kiếp sống này mà còn trong các kiếp sống tới? Ấy, cái ngã kiểm soát nhận ra rất nhanh là theo nhận thức của nó, cách duy nhất để cảm thấy an toàn trên trái đất là không là Ki-tô trên trái đất, không thách thức sa nhân. Nếu con không thách thức sa nhân bằng cách là Ki-tô, thì họ sẽ không đụng đến con, và nhận định này đúng. Nếu con không thách thức sa nhân, họ sẽ để con yên. Con nhận ra ở đây là cái ngã kiểm soát đã tạo được cảm nhận là nó sẽ được an toàn, an ninh nếu nó ở trong một số giới hạn và không làm gì để thách thức sa nhân.

Một số các con đã sống với cảm giác an ninh này trong nhiều, nhiều nhiều kiếp. Đúng thực là tất cả các con đều có ít nhiều cảm giác an ninh. Không phải tất cả các con đều có cảm giác này suốt nhiều kiếp vì một số các con đã phải chịu cảnh chiến tranh hay biến cố chấn thương khác trong một kiếp gần đây. Do đó con không có được cảm giác an ninh trong suốt một khoảng thời gian dài, nhưng một số khác đã có được cảm giác an ninh trong một thời gian rất dài. Chuyện gì xảy ra khi các thày trao truyền giáo lý về ngã gốc và quả vị Ki-tô? Điều xảy ra, như Quan Âm đã giảng, là con trải qua một giai đoạn sử dụng giáo lý của các chân sư thăng thiên để củng cố cảm tưởng của ngã kiểm soát là nó làm chủ tình hình trên trái đất.

Con cũng có thể lấy giáo lý mà các thày đã trao truyền và sử dụng nó để củng cố một thế giới quan nào đó. Một lần nữa, ta trở lại câu hỏi ở trên: vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý này đã mấy thập niên mà có quá ít người đã có thể biểu lộ quả vị Ki-tô? Đó là vì đa số những người theo giáo lý chân sư thăng thiên đã không thách thức khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, cái ngã kiểm soát. Họ không bao giờ thách thức nó. Một phần là vì họ không có giáo lý vì các thày đã phải tiến hành một cách tuần tự và dần dần xây dựng cơ sở giáo lý. Một lần nữa, thày không chê trách ai cả. Thày không có cảm nghĩ: “Ồ, họ đáng lẽ phải có khả năng làm chuyện này.” Thày chỉ đơn giản mô tả chuyện đã xảy ra để các con nào mở tâm đón nhận có thể hiểu và vươn lên cao hơn.

3.9. Trì hoãn biểu hiện quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, con người đã làm gì với giáo lý chân sư thăng thiên? Họ đã tạo ý niệm là: “Đúng rồi, tôi thấy là Giê-su đã đầu thai để là một tấm gương và tôi thấy là tôi có tiềm năng biểu hiện quả vị Ki-tô.” Trong những đợt truyền giáo trước, các đệ tử chú tâm nhiều hơn đến việc hội đủ điều kiện để thăng thiên, giống như con thấy nhiều người trong các phòng trào Cơ đốc giáo chú tâm vào việc được cứu rỗi. Nói cách khác, các thày có giảng trước đây là giáo hội Công giáo đã từ khởi thủy quy định mục đích cuộc sống trên trái đất là chịu đau khổ, rằng con chỉ là một tội đồ, con không có tiềm năng là Ki-tô trên trái đất, điều con cần quan tâm là chuyện gì xảy sau kiếp sống trên trái đất để con có thể được cứu rỗi và lên thiên đàng. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã giản dị lấy giáo lý của các thày và xây dựng ý niệm là mục đích chính yếu của đệ tử chân sư thăng thiên là hội đủ điều kiện thăng thiên. Lẽ dĩ nhiên, chuyện này xảy ra ở cuối hay sau kiếp sống này.

Quan niệm này, một lần nữa, lại dùng giáo lý để trì hoãn việc là Ki-tô, trì hoãn việc trải qua một thay đổi quyết định. Con như nói rằng: “Ồ, tôi chỉ cần kêu gọi đủ ánh sáng tím trong phần còn lại của cuộc đời để quân bằng ít nhất 51 phần trăm nghiệp, và sau đó tôi sẽ thăng thiên sau kiếp sống này và tôi sẽ không phải là Ki-tô, tôi không phải thách thức sa nhân.” Một lần nữa, thày không chê trách ai mà chỉ muốn có một cuộc thảo luận thẳng thắn, trực tiếp, giản dị về chuyện gì xảy ra.

Lẽ dĩ nhiên, các thày đã bắt đầu trao truyền một số giáo lý xuyên qua vị sứ giả này, thực sự là ngay từ đầu, đã rất thách thức và đi xa hơn những gì được truyền giảng trong các đợt truyền giáo trước, như: tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại. Nếu con nhìn tiến trình trao truyền giáo lý qua vị sứ giả này, thì con thấy đã có một số giai đoạn trong đó các thày đã nâng giáo lý lên một tầng cao hơn. Một số các đệ tử đã từng tham gia các đợt truyền giáo trước đã không chịu được các giáo lý mới này. Họ đã làm gì? Ấy, họ đã phải dựng lên một loại kịch bản cho họ một cớ để rút lui, thậm chí nói vị sứ giả đã trở thành một sứ giả giả, đã không còn được các thày ủy quyền, hay một số điều khác.

Tất cả các chuyện này đều bắt nguồn từ sự kiện các giáo lý đó thách thức ý niệm an ninh của ngã kiểm soát của các người đó. Họ đã dùng các giáo lý trước để củng cố ý niệm họ làm chủ tình hình. Giờ đây thì các thày trao truyền giáo lý mới làm xáo trộn ý niệm làm chủ tình hình nơi một số người. Họ đã tới điểm, ít ra là trong tiềm thức, nhận ra là họ thực sự không thể chấp nhận giáo lý này và đồng thời bảo tồn ý niệm làm chủ tình hình của họ. Giáo lý đã thách thức một trong những ảo tưởng mà họ đã sử dụng để xây dựng ý niệm họ làm chủ tình hình.

Họ tới điểm bắt buộc phải chọn lựa: Con nóng hay lạnh? Con có sẽ theo Ki-tô Hằng sống hay không? Họ đã chọn không theo và họ cần tìm ra một bào chữa, và bào chữa tiện lợi là (giống như trong các đợt truyền giáo trước): “Ồ, vị sứ giả đã không còn được các thày ủy quyền, ông ấy hay bà ấy đang trao truyền giáo lý giả, các chân sư không còn bảo trợ tổ chức này nữa, các chân sư không bao giờ có thể nói những chuyện như vậy, các chân sư không bao giờ nói thẳng là không nên ăn đường.” Vân vân và vân vân. Các thày đã thấy những lời bào chữa này từ đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên nay. Một lần nữa, thày không chê trách ai, thày không có ý niệm chuyện gì đáng lẽ phải làm và đáng lẽ không được làm, nhưng các thày phải nói là với tầm nhìn từ cõi thăng thiên, các thày đã tới điểm thấy cái ngã nhân gian, cái ngã kiểm soát này, hành xử quá nhiều lần nên đã đến lúc các thày đơn giản nêu vấn đề một cách thẳng thắn và công khai để không ai có thể giải thích bẻ quẹo đi.

3.10. Mục đích kiếp sống này của con là gì?

Sự kiện đơn giản là: khi thày hiện thân trên trái đất trong một thân thể vật lý, thì thày đã nhiều lần thách thức con người. Một lần nữa, con nhận ra là thày chỉ có ba năm và thày phải thách thức con người: họ muốn theo thày và vươn lên cao hơn, hay họ ở lại nơi họ cảm thấy an ninh, an toàn. Một lần nữa, thày phải làm công việc này ở đây. Một lần nữa, thày sẽ không chê trách ai, thày sẽ không nói con phải làm gì và không được làm gì. Ở đây, con cần nhận ra, con cần quyết định là mục đích của con trong kiếp sống này là gì. Con có thể quyết định là con thoải mái ở trình độ làm đệ tử chân sư thăng thiên và hiểu biết giáo lý. Con có thể tiếp tục thực hành giáo lý ở tầng đó, nhưng con cần tự hỏi phải chăng mục đích mà con muốn hoàn thành, điều mà các thày đã gọi vào đầu mùa hạ, là tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con? “Mục đích của tôi có phải chăng là biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng cao hơn những gì tôi đã làm được cho tới nay?” Nếu đây là mục đích của con, và một lần nữa thày không chê trách con, thày còn không nói là nếu đây không phải là mục đích của con, thì con nên rút lui khỏi giáo lý. Con vẫn có thể tiếp tục nghiên cứu giáo lý bằng bất cứ cách nào con muốn. 

Điều mà thày cần trải bày trước mắt con là: con không thể là Ki-tô Hằng sống đồng thời duy trì cảm giác được an ninh và làm chủ tình hình. Chuyện này không thể làm được, con không thể thờ hai chúa, con không thể thờ Thượng đế và thế gian. Thế gian ở đây là biểu tượng của khía cạnh của ngã gốc luôn luôn muốn làm chủ tình hình để cảm thấy an toàn.

Con có câu ngạn ngữ trong ngôn ngữ Hoa Kỳ: “An toàn hơn ân hận,” nhưng câu này do sa nhân đề ra vì Ki-tô vừa không an toàn vừa không ân hận. Đó là một trạng thái tâm thức mà con chỉ đạt được khi con nhìn vào khía cạnh kiểm soát của ngã gốc, sẵn sàng nhìn nó, tách mình ra khỏi nó và để cho nó chết đi, như các thày đã giảng và cho con dụng cụ để làm. Một lần nữa, các thày không định ra một mục đích mà các con không thể đạt được vì các thày đã rất thận trọng, đã đi từng bước trong việc trao truyền giáo lý và dụng cụ, để con có thể thành công.  

3.11. Con người đã làm gì để được cảm thấy an toàn

Con yêu dấu, nếu con nhìn ngược dòng lịch sử, thì con thấy có một số người đã rất thiện xảo trong việc kiểm soát ngoại cảnh của họ để được cảm thấy an toàn, đến độ họ đã tạo ra động lượng tự cô lập và cách ly khỏi thế giới. Tỷ dụ, con có thể thấy là thời Trung cổ, có nhiều vị vua, hoàng hậu và giới quý tộc đã thành công trong việc đạt được địa vị cao và sống một cuộc đời thoải mái, đặc quyền. Họ đã xây các bức tường dày và có đạo quân bao bọc chung quanh họ và họ đã sống trong tháp ngà và cảm thấy an toàn vì họ đã tự cô lập và cách ly khỏi những gì xảy ra trên thế giới. Họ không thực sự thấy sự thống khổ của thần dân họ, những người đang gìn giữ nếp sống của họ, giúp họ được cảm thấy an toàn.

Con thấy có những người đã dùng giáo lý tâm linh để xây dựng một tu viện hay một loại tịnh thất tâm linh nơi họ sống, một lần nữa, cô lập và cách ly khỏi thế gian. Một số các con đã làm điều này trong các kiếp trước. Đây có thể là một hành động xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nếu đó là cái ngã kiểm soát của con mong muốn được cảm thấy an toàn, thì nó không còn giúp con tăng triển nữa.

Thày muốn con ngẫm nghĩ chuyện sau đây. Nếu con đọc Phúc âm Tô-ma (Gospel of Thomas) thì con thấy trong đó có nói là con sẽ tới điểm con có được một số hiểu biết và sau đó con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con vượt qua sự xáo trộn thì con sẽ cai quản tất cả, nghĩa là chính tâm mình. Con sẽ là một vị điều ngự, con sẽ có tự điều ngự.

Điều thày đang cho con là hiểu biết con có một khía cạnh của ngã gốc muốn làm chủ tình hình. Khi thày trao cho con hiểu biết này, thì con sẽ bị xáo trộn, vì ngã đó sẽ phản ứng như là mạng sống của nó bị đe dọa – và mạng sống của nó quả thực bị đe dọa. Khi con thấy là con không cần ngã đó nữa, thì con có thể để nó chết đi, và nó sẽ chết đi. Nó không muốn chết, do đó nó sẵn sàng giữ con bị mắc kẹt trong cảm nhận bất an toàn để duy trì sự hiện hữu của nó. Con sẽ bị xáo trộn, nhưng khi con dùng các giáo lý và dụng cụ tâm linh để giải thoát mình khỏi khía cạnh đó của ngã gốc và để nó chết đi, thì con sẽ được bình an. Lúc đó, con sẽ cảm thấy tự do, và con sẽ có một cảm giác tự do mới mà hiện nay con không thể tượng tượng nổi.

3.12. Con an toàn như một sinh thể vô hình tướng

Làm sao con tới được điểm đó? Ấy, các thày đã trao cho các con biết bao nhiêu giáo lý về cái Ta Biết. Tầm quan trọng của giáo lý đó là: con thực sự đầu thai ở đây như một sinh thể vô hình tướng đã đi xuống thế giới hình tướng. Các thày có nói là để phát biểu trong thế giới hình tướng, con cần tạo ra một số cấu trúc trong bốn thể phàm nhưng con không là các tạo vật này. Điều đã xảy ra khi con bị chấn thương nhập đời là con đã tạo ra ngã gốc và con bắt đầu nghĩ con là ngã gốc, hay ít ra là con phải là nó để được an toàn trên trái đất. Nếu con thực sự dùng các giáo lý về cái Ta Biết, thì con có thể nhận ra con vẫn là một sinh thể vô hình tướng, và với tư cách một sinh thể vô hình tướng, con không thể bị tổn thương bởi bất cứ điều gì xảy ra trên trái đất. Con có thấy chăng điều thày đang cống hiến con? Thày đang bày ra trước mặt con sự sống và cái chết. Thày đang bày ra trước mặt con hai chọn lựa. Một bên là tâm thức chết, do cái ngã kiểm soát đại diện, nó nghĩ con chỉ có thể an toàn khi con làm chủ thế gian. Nó thực sự nghĩ là cách duy nhất để được an toàn (tối hậu) trong thế giới này là kiểm soát toàn bộ thế giới. Đó là cái chết, vì lẽ dĩ nhiên, con sẽ không bao giờ kiểm soát được thế giới hoàn toàn. Không một cá nhân nào sẽ có thể làm được điều này.

Chọn lựa kia là sự sống. Đó là con nhận ra là con không cần kiểm soát thế giới để được an toàn. Con cần nối kết trở lại. Con cần thức tỉnh trở lại. Con cần biết một cách ý thức con là một sinh thể vô hình tướng. Lúc đó, con nhận ra là con được an toàn trong thế giới này ngay khi thế giới ở trong trạng thái hiện nay. Con có thể an toàn mà không cần kiểm soát thế giới, và con yêu dấu, chỉ khi nào con cảm thấy an toàn mà không cần kiểm soát thế giới thì con mới có thể bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Chỉ lúc đó thì con mới dám thách thức sa nhân. 

Con yếu dấu, thày không muốn chỉ trích bất cứ cá nhân nào, nhưng con thấy là trong quá khứ có những người đã quá quan tâm bị sa nhân tấn công hay tiêu diệt, nên họ lúc nào cũng muốn tự bảo vệ họ khỏi nguy cơ đó. Làm sao con có thể sống như vậy lâu dài? Lúc nào cũng lo bảo vệ mình là một căng thẳng quá lớn, và trong thời đại này, hy vọng là con sẽ không bị sa nhân giết hay tra tấn, vì con người đã vượt qua giai đoạn này. Ta có thể nói là ngày nay, con có thể biểu lộ quả vị Ki-tô an toàn hơn trong quá khứ. Tuy nhiên, con vẫn cần tới được điểm khắc phục nỗi sợ sa nhân. Họ không điều khiển cuộc đời con, họ không là khung tham chiếu của con. Các chân sư thăng thiên, Hiện diện TA LÀ của con, thế giới vô hình tướng là khung tham chiếu của con. Đó là lúc con cảm thấy an toàn khi biểu hiện quả vị Ki-tô.

Làm sao con có thể thở thành Ki-tô hành động? Ấy, con không thể là Ki-tô hành động khi con còn cái ngã kiểm soát trong thể bản sắc, nó cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ khiến con mất an toàn và nó sợ chuyện gì có thể xảy ra nếu con biểu hiện quả vị Ki-tô.

3.13. Khắc phục nhu cầu an toàn

Con yêu dấu, con cần tìm ra cách khắc phục ý muốn kiểm soát thế giới để thỏa mãn nhu cầu an toàn. Đây là điều mà thày đã giúp con nhận thức. Như thày đã nói, các thày đã trao truyền cho các con giáo lý về ngã gốc, và cách khắc phục nó. Nếu con sử dụng giáo lý đó, nếu con sẵn sàng buông bỏ ngã gốc, nếu con sẵn sàng bị xáo trộn tạm thời cho tới khi con áp dụng giáo lý, thì con sẽ tới điểm con được giải thoát.

Như các thày có nói trước đây, một cái ngã nội tại lúc nào cũng được tạo ra để giải quyết một vấn đề nào đó trên trái đất. Nó được thiết kế với một lập trình và một cấu trúc để giải quyết vấn đề đó. Ngã đó sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con là vấn đề có thật, vấn đề đó hiện hữu, vấn đề đang ảnh hưởng con và con phải làm điều gì đó để giải quyết vấn đề. Cái ngã kiểm soát đó sẽ phóng chiếu tới con là: “Cái ác có thật, có một nguy cơ thật, con có thể bị hành hạ, con cần cảm thấy an toàn, con cần phải làm điều gì đó để cảm thấy an toàn.” Con yêu dấu, có điểm (mà ngay Thánh kinh cũng đã đề cập) mà thày nói với người muốn chôn cất thân sinh: “Điều đó đâu có ý nghĩa gì với con, con hãy theo ta, và để người chết chôn cất người chết.” 

Con có sẵn sàng cùng thày đi lên một tầng tâm thức cao hơn chăng? Nếu có, thì con hãy nắm lấy bàn tay mà thày chìa ra và để thày dẫn con đi cho tới lúc con đã neo mình thật chặt vào Ki-tô nên có thể nhìn ngã kiểm soát và nói: “Tôi không còn cần bạn nữa vì nay tôi đã nắm tay Giê-su Ki-tô thăng thiên, và đó là sự an toàn của tôi. Trong Ki-tô tôi được an toàn, tôi được cứu rỗi, tôi được nối kết với cái Một, tôi biết tôi là một sinh thể vô hình tướng và do đó không thể bị tiêu hủy hay đe dọa bởi bất cứ điều gì trong thế gian này. Tôi về nương tựa nơi Ki-tô, không nơi cái ngã vỏ ngoài muốn kiểm soát thế giới.”

Con yêu dấu, con muốn gì, cái chết hay sự sống? Đây không phải là một chọn lựa được-hết-hay-mất-hết, như thày đã nói. Thày nhận ra là một số người chưa sẵn sàng đón nhận giáo lý này. Con có thể cần thời gian trước khi cảm thấy sẵn sàng. Nếu như vậy thì con hãy tiếp tục học hỏi giáo lý và áp dụng giáo lý trong phạm vi khả thi. Nhưng một số các con đã sẵn sàng để bước lên một tầng cao hơn.

Con không thể, con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể sánh vai đi cùng thày, con không thể nắm tay thày khi con chưa bắt đầu tách mình ra khỏi ngã gốc, cái ngã kiểm soát nhất định cần cảm thấy nó làm chủ thế gian. Do đó, nó không thể bỏ lại lưới đánh cá để cùng đi với Ki-tô Hằng sống, bỏ lại tất cả đằng sau. Con không cần bỏ lại tất cả đằng sau theo nghĩa vỏ ngoài, nhưng con cần bỏ ngã đó lại đằng sau. Đó là điều duy nhất ngăn trở con biểu lộ quả vị Ki-tô.

3.14. Các chân sư phải giữ cân bằng tế nhị

Con yêu dấu, các thày luôn luôn phải giữ một cân bằng tế nhị. Con có thể tiếp nhận được tới đâu? Điều gì con không thể chấp nhận? Con sẵn sàng nhận điều gì? Con không sẵn sàng nhận điều gì? Khi thày hiện thân trên trái đất, có nhiều lần thày đã thách thức con người một cách rất trực tiếp. Các thày đã kể câu chuyện là thày đi tới trước mặt một số đệ tử và nói: “Hãy buông lưới đánh cá và theo ta.” Sau đó, thày quay lưng lại và bước đi, và nếu họ không đi theo thày thì họ đã lỡ cơ hội. Đây không phải là cách các thày ứng xử bây giờ với các giáo lý này. Các thày nhận ra là các con có thể cần thì giờ để thể nhập giáo lý, để hoàn toàn đón nhận một số giáo lý. Các thày không muốn tạo ra hình ảnh là tất cả các con đều phải sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô ngay hôm nay. Các thày nhận ra là một số các con cần phải qua một số bước.

Thày hy vọng là các con cũng nhận ra là các con cũng cần giữ một cân bằng tế nhị. Con phải nhận ra là con theo các giáo lý này vì con muốn tăng triển trên con đường tâm linh, nhưng có một khía cạnh của ngã vỏ ngoài, là ngã gốc, không muốn con tăng triển. Đúng, có những lúc con có thể nói: “Con chưa sẵn sàng nhận giáo lý này, con cần thêm thì giờ, con cần qua một số bước trước khi con hoàn toàn đón nhận nó.” Con cũng sẽ tới điểm con cần nói: “Có phải chăng là cái ngã kiểm soát của tôi muốn tôi nghĩ là tôi chưa sẵn sàng? Thực sự thì tôi đã sẵn sàng, vậy câu hỏi là: ‘Tôi có chịu làm hay không?’” Có lúc con cần đốc thúc mình, có lúc con cần bước lui lại, nhìn vào gương và nói: “Tôi đang ở đâu trên con đường tâm linh? Phải chăng là tôi đã để cái ngã kiểm soát cho tôi cảm giác là tôi sẽ thoải mái nếu tôi ở lại tầng này và không đi xa hơn nữa? Phải chăng tôi đã sẵn sàng tiến một bước quyết định, bỏ lại đằng sau một cái gì đó, và hoàn toàn đón nhận một ngày mới? Phải chăng tôi đã sẵn sàng trực tiếp giáp mặt các chân sư thăng thiên?” Một số các con vẫn có thể cần theo một giáo lý vỏ ngoài, nhưng cũng có một số đã sẵn sàng để nói: “Tôi có nên mãi mãi thụ động ngồi đây và lắng nghe một vị sứ giả có khả năng nối kết với các chân sư thăng thiên, hay tôi đã sẵn sàng có một nối kết trực tiếp hơn với các chân sư thăng thiên?”

Một giáo lý lúc nào cũng được trao truyền ở nhiều tầng khác nhau. Ta có thể nói là lúc nào cái ngã kiểm soát của con cũng có một cớ để không áp dụng giáo lý. Con là người quyết định, con có trách nhiệm lượng định: “Lúc nào thì tôi chưa sẵn sàng và lúc nào thì đây chỉ là một cái cớ mà ngã kiểm soát dùng để nói tôi chưa sẵn sàng.”

Đến đây thì thày đã trao truyền những gì thày muốn trao truyền lúc này. Thày cảm ơn các con đã chú ý nghe, đã sẵn sàng chịu đựng một bài giảng, lẽ dĩ nhiên, sẽ gây xáo trộn. Con yêu dấu, con có thật sự chờ đợi là con tới một hội nghị với chủ đề “Là Ki-tô Hằng sống” mà không bị xáo trộn chăng? Bởi vì nếu con chờ đợi như vậy, thì con nên nhìn vào cái ngã đó và nói: “Ồ, bây giờ thì tôi thấy bạn rồi. Tôi không phải là bạn.”

Đây có thể là bước khởi đầu để con tách mình ra khỏi cái ngã đó, và nhận ra là cái ngã đó, lẽ dĩ nhiên, có một chờ đợi không thực tế về ý nghĩa của quả vị Ki-tô. Nó nghĩ con có thể là Ki-tô mà không cần thách thức sa nhân, hay đúng hơn là không cần thách thức ý niệm làm chủ tình hình của ngã kiểm soát. Con yêu dấu, chuyện này không thể xảy ra. Thày đã nói như vậy trước đây. Thày sẽ nói lại một lần nữa, vì thày cần nói cho tới khi con chợt hiểu ra: “Con không thể thờ hai chủ.” “Từ nay về sau, con muốn thờ chủ nào?”

1 | Các ngã theo sau ngã gốc

Chân sư Thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels, ngày 20 tháng 6 năm 2018. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Kazakhstan.

TA LÀ Phật Quan Âm, thày được nhiều người trong khu vực này của thế giới biết đến như vị Bồ tát của Từ bi, tuy nhiên thày hơn rất nhiều những gì các con người nghĩ về thày trong khu vực này của thế giới. Lẽ tự nhiên, thày nhìn nhận và hân hoan thấy sự sùng kính mà nhiều người bày tỏ với thày và lòng thương yêu mà họ trút vào các câu niệm chú tuyệt vời, giống như chính các con đã làm trong giờ đồng hồ vừa qua. Các con đã thực sự đạt được thành quả lớn trong việc yên lắng thể tình cảm của trái đất. 

1.1. Vũng nước xoáy của sự sợ hãi

Các trái tim yêu dấu của thày, sa nhân đã làm gì trên thể tình cảm của trái đất? Họ đã làm nhiều chuyện, nhưng điểm cơ yếu mà thày muốn các con chú ý là họ đã gài vào một vũng nước xoáy, vũng xoáy sợ hãi. Vũng xoáy này mạnh lạ thường. Nếu con nhìn vào nhân loại ở khắp nơi trên thế giới, thì con thấy là rất, rất nhiều người sống suốt đời với cảm thể của họ bị buộc chặt, bị điều khiển, và đôi khi bị choáng ngợp bởi vũng xoáy sợ hãi trong cảm thể của hành tinh hay trong tâm thức tập thể.

Rất, rất nhiều người đã sống với nỗi sợ hãi đó, có khi trong nhiều kiếp sống, nên trong kiếp này họ không thể cảm nhận điều gì mà không bị choáng ngợp bởi nỗi sợ trong cảm thể. Con yêu dấu, con không thể trở thành, con không thể , Ki-tô hành động khi con còn sự sợ hãi trong cảm thể. Con chắc chắn không thể là Ki-tô hành động khi nỗi sợ đó dính liền với vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh. Lẽ đương nhiên con không thể là Phật nếu con còn sợ hãi, nhưng một số các con chưa thực sự nhận ra là con không thể là Ki-tô nếu con còn sự sợ hãi trong cảm thể.

Do đó, thày giảng bài này không những cho các con hiện diện ở đây mà cho toàn thể đệ tử khắp nơi trên thế giới. Thày nói với tất cả những ai tự nhận mình là đệ tử chân sư thăng thiên, cho dù họ có công nhận vị sứ giả này hay không, thày nói với tất cả những người tâm linh, những người mở tâm đón nhận khía cạnh tâm linh của sự sống, và thày nói vào tâm thức tập thể: “Con không thể là Ki-tô nếu cảm thể của con bị buộc vào động lượng sợ hãi của hành tinh này.”

Con yêu dấu, vì sao cảm thể của con lại bị buộc vào động lượng sợ hãi của hành tinh? Ấy, điều này liên quan đến giáo lý mà các thày đã trao truyền về chấn thương nhập đời. Một số các con (không phải tất cả, nhưng một số) khi đầu thai lần đầu trên trái đất, khi phải gánh chịu biến cố chấn thương do sa nhân gây ra, thì con bị cú sốc quá mạnh nên đã bị một vết nứt trong cảm thể của mình. Các đợt sóng năng lượng đầy rung động sợ hãi, bất hài hòa và hỗn loạn đã qua vết nứt này tràn vào cảm thể của con.

Lẽ đương nhiên, các thày đã trao truyền giáo lý qua quyển sách Các cuộc đời của tôi, là nhiều người trong các con là avatar. Lẽ dĩ nhiên, không phải tất cả các con đều là avatar. Một số các con là cư dân nguyên thủy của trái đất. Sau khi sa nhân tới đầu thai ở đây, thì các con cũng phải gánh chịu một hình thức chấn thương đã khiến con bị một cú sốc lớn đến độ con đã mở cửa cảm thể của mình cho năng lượng sợ hãi này tràn vào.

1.2. Giữ con buộc chặt vào sợ hãi

Sa nhân đã rất khôn ngoan, hung hãn và kiên trì trong việc giữ sợi dây buộc cảm thể của con vào động lượng sợ hãi của hành tinh. Con yêu dấu, sợ hãi là một cảm xúc. Sợ hãi hiện diện, ít ra là ở mức cơ bản, trong thể tình cảm. Nó là một năng lượng, một rung động, một động lượng. Nó xô dạt, nó di động, thường khi một cách bất hài hòa và hỗn loạn. Một khi con bị chìm trong đó và bị nó choáng ngợp, thì con có thể làm gì? Ấy, như nhiều người trong các con đã biết, khi mình bị chìm trong nó thì mình không dễ thoát ra khỏi nó. Vì khi con thực sự ở trong rung động sợ hãi, thì cảm thể của con ở trong tình trạng hỗn loạn đến độ thể lý trí của con không thể thủ vai trò chính đáng ngự trị thể tình cảm. Các thày đã trao truyền giáo lý là năng lượng tuôn chảy từ Hiện diện TA LÀ xuống thể bản sắc, qua thể lý trí, thể tình cảm và xuống thể vật lý của con.

Các thày cũng đã trao truyền giáo lý, trong quyển sách mới, là trên trái đất con có thể phải gánh chịu một chấn thương mạnh đến độ dòng năng lượng chảy ngược lại, tức là khi con bị đau đớn thể xác quá mạnh, thì năng lượng chảy ngược lên thể tình cảm, thể lý trí và thể bản sắc, ít ra là phần dưới của thể bản sắc. Một khi con gánh chịu chấn thương đó, thì con đánh mất dòng chảy năng lượng nguyên thủy, và con khó tái lập lại nó nếu con chưa khắc phục được chấn thương nhập đời nguyên thủy.

1.3. Những cư dân nguyên thủy của trái đất

Tuy các thày có trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời cho các avatar, nhưng giáo lý mà thày trao truyền ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của trái đất vì các con cũng đã phải gánh chịu một chấn thương. Nó không phải là chấn thương nhập đời theo nghĩa chấn thương xảy ra trong kiếp đầu thai đầu của các con trên trái đất. Nó xảy ra sau khi các con đã đầu thai trên trái đất từ rất lâu, và sa nhân được phép đầu thai ở đây. Do đó nó không phải là một chấn thương nhập đời theo đúng nghĩa, nhưng nó vẫn là một chấn thương. Gọi nó là chấn thương nhập đời hay chỉ vỏn vẹn là chấn thương chỉ là cách dùng ngôn từ, nhưng nó áp dụng cho tất cả các con là những người tâm linh.

Các thày biết rất rõ là khi các thày trao truyền một giáo lý thì giáo lý đó không thể áp dụng cho tất cả mọi người. Quyển sách mới được trao truyền trong bối cảnh một avatar tới từ một hành tinh tự nhiên, và do đó người này còn giữ trong tiềm thức ký ức cuộc sống ra sao trên một hành tinh tự nhiên. Lẽ đương nhiên, trong quyển sách cũng có giáo lý áp dụng cho cư dân nguyên thủy của trái đất, chính yếu là giáo lý về chấn thương nhập đời, nhưng giáo lý về hành tinh tự nhiên cũng vậy. Các con là những cư dân nguyên thủy của trái đất, các con đã trải nghiệm trái đất ở một trạng thái cao hơn tình trạng từ khi sa nhân tới đây, và trong thời gian trước đó nữa. Nếu trái đất không xuống thấp hơn trạng thái hành tinh tự nhiên, thì sa nhân đã không thể đầu thai ở đây, họ đã không được phép đầu thai ở đây.

Điều thày muốn trình bày với các con là cư dân nguyên thủy của trái đất, là các con dễ bị vết nứt trong thể tình cảm hơn các avatar. Đối với các cư dân nguyên thủy thì trái đất là khung tham chiếu chính yếu, trong khi đối với các avatar thì khung tham chiếu chính yếu là hành tinh tự nhiên. Các con là cư dân nguyên thủy bị buộc chặt vào trái đất hơn. Do đó, con dễ đi vào rung động sợ hãi chuyện gì có thể xảy ra cho trái đất, chuyện gì có thể xảy ra nơi bát cung vật lý. Có nhiều khả năng là những người trong số các con là những cư dân nguyên thủy đã bị buộc chặt vào vòng xoáy sợ hãi của hành tinh.Nếu đây là trường hợp của con, thì điều rất quan trọng, điều cực kỳ quan trọng, là con cắt đứt sợi dây buộc này trước khi con có thể mang vào quả vị Ki-tô.

1.4. Thoát khỏi nỗi sợ hãi

Con phải làm gì khi con nhận ra là con đang ở trong sự rung động, trong vòng xoáy của sợ hãi? Ấy, như thày đã nói, con không thể làm giống như một số người khác là dùng thể lý trí để bắt đầu suy luận về nỗi sợ, lý luận vì sao nỗi sợ không hợp lý, vì sao nó dựa trên một ảo tưởng, và vì sao con người không nên sợ hãi như vậy. Một số người có thể khống chế nỗi sợ bằng cách đó, nhưng nhiều người thì không làm được, đặc biệt khi họ bị buộc chặt vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

Vậy con làm được gì? Ấy, con không thể dùng thể bản sắc hay thể lý trí để khống chế thể tình cảm. Con không thể dùng thể tình cảm để khống chế thể tình cảm. Ấy, phải chăng chuyện hợp lý, con yêu dấu, là khi con bị ảnh hưởng của dòng năng lượng chảy ngược, thì con có thể dùng thể vật lý để khống chế thể tình cảm, để cai quản thể tình cảm?

Con có thể làm chuyện này bằng nhiều cách, nhưng việc các con đã làm là niệm chú (chanting) trong suốt một giờ vừa qua là một thí dụ dùng khả năng của thân thể vật lý. Con có thể đọc một bài thỉnh, hay đọc một bài chú, nhưng nhiều khi niệm chú như các con vừa làm là hữu hiệu nhất. Con có thể dùng bản thu âm của lời niệm chú để làm chủ thể tình cảm mỗi khi con cảm thấy có sự xáo trộn. Khi con dùng khả năng của thể vật lý để niệm chú, để dùng uy lực của lời nói, uy lực của giọng nói của con, thì con có thể yên lắng thể tình cảm. Một khi con đã có được ít nhiều an tịnh trong thể tình cảm, thì con có thể kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên, như Đại thiên thần Michael, Astrea, Mẹ Mary hay các vị chân sư khác, để giúp con cắt đứt sợi dây buộc con vào động lượng sợ hãi của hành tinh.

1.5. Nghi ngờ là cánh cửa mở cho sợ hãi

Các con nên biết là tuy các thày có nói về dòng năng lượng chảy ngược, nhưng một cảm xúc không bao giờ tự nó có mặt một mình. Một cảm xúc dựa trên một niềm tin trong thể lý trí, và một niềm tin trong thể lý trí dựa trên một ý niệm bản sắc trong thể bản sắc. Trước khi con có thể cắt đứt động lượng, thì con cần nhận ra là sợ hãi không tự nó khởi lên. Nó lúc nào cũng phát xuất từ lòng nghi ngờ. Nghi ngờ là cánh cửa mở đưa sợ hãi vào cảm thể của con, và nghi ngờ bắt đầu trong thể lý trí nhưng nó bắt rễ từ thể bản sắc.

Giờ đây, con yêu dấu, trong một số bài truyền đọc gần đây các thày có đề cập đến những giới hạn của tâm đường thẳng, phân tích, lý luận, duy lý. Các con đã làm gì trong một giờ niệm chú? Nếu con trụ trong trái tim và thực sự cho phép mình tuôn chảy với lời niệm chú, tuôn chảy với làn sóng âm thanh, tuôn chảy với nhịp điệu, thì con đã vô hiệu hóa tâm đường thẳng, phân tích, lý luận, duy lý. Lúc đó tâm con mở ra để con thấy mối nghi ngờ đằng sau nỗi sợ.

Con có thể dễ nhận ra và nhìn nhận là con có nỗi sợ, và con sợ cái gì, con sợ điều kiện gì. Nhưng mối nghi ngờ nào trong thể lý trí đã mở cửa cho nỗi sợ? Nó có thể là, như một thí dụ trong số nhiều thí dụ, là con đã bị sa nhân đặt con vào một hoàn cảnh khiến con bị giết, hoặc nhiều người trong gia đình hay xã hội của con bị giết. Do đó, trong thể lý trí của con có mối nghi ngờ là con đã không bảo vệ được mình khỏi tình huống đó, con đã không tránh né được nó, Thượng đế đã không bảo vệ được con, không có lực nào trên thế gian có thể bảo vệ được con.

Một khi con nhận diện mối nghi ngờ, thì nó từ đâu đến? Nghi ngờ là một điều kiện của thể lý trí, và nó bắt nguồn từ sự kiện tâm phân tích có thể xem xét bất cứ vấn đề gì và tìm ra luận cứ ủng hộchống vấn đề đó, và nó có thể tiếp tục như vậy không bao giờ dứt.

Tình trạng này giống như một trận bóng bàn giữa hai ngã nội tại, hai phàm linh nội tại, trong thể bản sắc của con. Một ngã đưa ra một luận cứ với ngã kia. Ngã kia phản bác lại luận cứ đầu và đưa ra một luận cứ khác và con thấy như hai ngã đó đưa banh qua lại – hai ngã đó đánh banh qua lại bằng các luận cứ. Con đứng giữa, không biết luận cứ nào là luận cứ tối hậu, luận cứ nào đúng, luận cứ nào không đúng.

Cái “ta” đứng giữa là ai vậy? Đó là cái “ta” mà con thấy con là trong thể bản sắc. Cái “ta” đó được tạo ra lúc nào? Lúc con nhận chịu chấn thương! Cho dù đó là chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu, khi con nhận chịu chấn thương đó, thì con tạo ra một bản sắc. Bản sắc đó mang theo nó niềm tin là khả năng của con trên trái đất có giới hạn. Có điều gì đó giới hạn khả năng của con, và do đó có điều kiện nào đó trên trái đất, do sa nhân tạo ra, mà con không thể khắc phục, tránh né hay bảo vệ mình khỏi nó. Con là một sinh thể giới hạn, con tự bản chất là một sinh thể giới hạn – cái ngã đó tin như vậy.

1.6. Giải bùa mê

Vậy con làm sao thoát khỏi thế bí này? Con yêu dấu, vì sao các thày đã không trao truyền giáo lý này một hai năm trước đây, khi nó ứng dụng cho nhiều người? Ấy, đó là vì các thày không muốn trao truyền một giáo lý mà không cho các con một dụng cụ để giải quyết vấn đề mà các thày nêu ra. Cho tới khi các thày trao truyền giáo lý về chấn thương nhập đời, mà nay ta cũng có thể gọi là chấn thương địa cầu, thì các con không có dụng cụ để khắc phục vấn đề. Cho dù con là một cư dân nguyên thủy hay một avatar, thì con đã có những dụng cụ trong quyển Chữa lành chấn thương tâm linh, để bắt đầu nhận ra chấn thương nhập đời và dần dần khắc phục nó.

Khi con khắc phục chấn thương nhập đời, thì con sẽ cảm thấy – đúng theo nghĩa đen – (như nhiều người trong các con đã có thể chứng nhận) là gánh nặng của thế gian đã trút khỏi hai vai con. Đó là gánh nặng thế gian mà con đã mang trên hai vai từ lúc con nhận chịu chấn thương đó. Nó tạo một khe hở trong tâm buộc con vào các năng lượng thế gian, các năng lượng này có thể là vũng nước xoáy sợ hãi của hành tinh, hay động lượng nào khác trên thể lý trí hay thể bản sắc của hành tinh. Con đã bị buộc vào động lượng đó và do đó con đã mang gánh nặng của các năng lượng này, gánh nặng của năng lượng thế gian. Khi con dùng các dụng cụ và giáo lý để khắc phục chấn thương nhập đời, thì con có thể khắc phục nỗi sợ hay bất cứ mọi động lượng khác mà con có trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm, và điều này cho con một cảm giác tự do mới.

1.7. Khắc phục nghi ngờ

Con yêu dấu, thày nói sợ hãi bắt nguồn từ nghi ngờ, nhưng nghi ngờ bắt nguồn từ một ý niệm bản sắc giới hạn. Cách duy nhất để thực sự khắc phục sợ hãi là khắc phục nghi ngờ, nhưng làm sao con khắc phục nghi ngờ? Chỉ bằng cách nhận ra con hơn bản sắc đó, con hơn cái ngã mà con mang theo trong thể bản sắc của con. Cái “ta” nào hơn? Ấy, như thày đã nói, cái “ta” nào đang trải nghiệm nỗi sợ? Cái “ta” nào đang nghi ngờ? Đó là cái “ta” mà con đã tạo ra trong thể lý trí khi con phản ứng lại chấn thương mà sa nhân đã áp đặt lên con. Cái “ta” có khả năng nhận ra nó hơn cái “ta” đó là cái mà các thày đã gọi là cái Ta Biết. Cái Ta Biết không thể bước ra ngoài cái “ngã sinh diệt” khi con còn chấn thương nhập đời, vì chấn thương kéo cái Ta Biết vào chỗ tự đồng hóa với ngã sinh diệt, ngã thế gian.

Khi con giải tỏa chấn thương nhập đời, thì con có cơ hội sử dụng khả năng mà các thày gọi là trực giác (các thày cũng gọi nó là nhận biết thuần khiết) khi con trải nghiệm con bước ra ngoài cái ngã, cái ngã thấp. Lúc đó, con có một trải nghiệm, con yêu dấu, và trải nghiệm mà con có được qua nhận biết thuần khiết, lẽ dĩ nhiên, vượt quá bất cứ gì con thấy hay trải nghiệm trong bát cung vật lý. Nó cũng vượt quá bất cứ mọi cảm xúc con có trong thể tình cảm. Nó vượt quá bất cứ mọi lý luận, suy luận, luận cứ mà con có trong thể lý trí. Nó vượt quá bất cứ ý mọi niệm bản sắc mà con có trong thể bản sắc. Một khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết hay trải nghiệm sự nối kết, sự tuôn chảy với Hiện diện TA LÀ, thì con có một tầm nhìn khác về mọi chuyện đang xảy ra trong bốn thể phàm của con. Con chưa thể thực sự đạt được trạng thái này khi con chưa giải quyết chấn thương nhập đời.

Nhưng, con yêu dấu, các thày không bao giờ nói là khi con khắc phục được chấn thương nhập đời thì con đã khắc phục được mọi khía cạnh của tâm lý của con. Con cũng biết thí dụ của những cục nước đá bó chặt với nhau rất chặt chẽ nhưng có một cục nước đá giữ mọi cục kia tại chỗ, và khi con rút nó ra, thì số còn lại sẽ bắt đầu tuôn chảy. Con biết là thời xa xưa con người biết xây vòm hình cung và họ phải chống giữ những tảng đá hai bên cho tới khi họ đặt đá đỉnh vòm lên trên cùng. Ấy, chấn thương nhập đời của con và cái ngã được tạo ra, mà các thày đã gọi là ngã gốc, nó chính là đá đỉnh vòm của vòm hình cung của con người phàm của con, của cấu trúc nhân phàm của con, của cấu trúc bốn thể phàm của con.

Một khi con rút nó ra, thì con sẽ rất dễ dàng bắt đầu di chuyển các tảng đá khác và khống chế chúng. Đó là lúc con có thể bắt đầu nhận diện một số động lượng trong một trong bốn thể phàm của con, và sau cùng trong cả bốn thể phàm của con. Một số các con, và điều này có thể làm các con ngạc nhiên, đã đi trên con đường tâm linh từ nhiều năm hay nhiều chục năm, nhưng con khám phá là con còn một số ghiền nghiện vật lý hoặc một số dây trói buộc con vào một số sinh hoạt vật lý mà con cảm thấy mình phải làm. Một số các con sẽ khám phá mình có một dây trói buộc mình vào vũng nước xoáy tình cảm của tâm thức tập thể, hay một số khuôn nếp cảm xúc khác. Một số các con sẽ khám phá mình có khuôn nếp lý trí muốn tranh cãi, muốn lý luận, muốn lượng định và phân tích mọi chuyện. Một số các con sẽ nhận ra mình có ước muốn hiểu mọi chuyện, và một số các con sẽ khám phá mình có trong thể bản sắc một động lượng, một loại ghiền nghiện, dựa trên ngã gốc.

1.8. Tìm cách hiểu mọi chuyện

Đây không phải là ngã gốc mà là một nhánh của ngã gốc. Sau khi con tạo ra ngã gốc, thì con bắt đầu tạo ra những ngã khác để phản ứng lại các điều kiện trên trái đất, và chúng có nhiều hình thức khác nhau. Hai ngã chính là con tìm cách lượng định mọi chuyện đang xảy ra trên trái đất, và tìm cách đặt mọi chuyện trong một bối cảnh rộng hơn ngõ hầu hiểu được chúng. Tất cả các con, kể cả vị sứ giả này, khi bắt đầu học giáo lý chân sư thăng thiên đã dùng giáo lý để tạo ra một thế giới quan, một quan niệm về vũ trụ trong thể bản sắc giúp con hiểu những chuyện xảy ra trên trái đất và những chuyện con đã kinh qua trên trái đất.

Con vẫn nghĩ là thể bản sắc của con cần có một hiểu biết tối hậu có thể giúp con giải thích và hiểu mọi chuyện trên trái đất. Con yêu dấu, chuyện này sẽ không bao giờ, không bao giờ xảy ra. Trước tiên, vì bất cứ ngã nào con có trong thể bản sắc đều không có khả năng hiểu, nhưng thứ đến, vì có một số hiện tượng không thể hiểu được. Đây là một điểm quan trọng mà quyển sách Những cuộc đời của tôi đã nêu ra. Có một số điều sa nhân làm mà ta không thể giải thích hay hiểu bằng tâm đường thẳng, duy lý, phân tích. Đôi khi họ cố ý làm một số chuyện để làm con hoang mang, và có khi khác họ làm một số chuyện không có lý do nào khác ngoài ý muốn làm ác, hay như câu nói trong quyển sách: “Để là một nghệ nhân vẽ tranh với máu nhân loại.” Con không thể nào giải thích chuyện này.

Lẽ dĩ nhiên, con có thể có một hiểu biết nào đó, và đó là điều các thày đã trao truyền trong quyển sách và các giáo lý khác về sa nhân, về những chuyên họ làm, về lý do vì sao họ ở đây. Con yêu dấu, con không thể thực sự hiểu xuyên thấu nếu con không bước ra ngoài cái ngã trong thể bản sắc và nối kết thẳng với Hiện diện TA LÀ của con và các chân sư thăng thiên. Con sẽ nhận được, không phải là một hiểu biết mà một trải nghiệm toàn bộ từ các thày, từ Hiện diện TA LÀ của con. Con yêu dấu, có khác biệt giữa hiểu biếttrải nghiệm. Nhiều người trong các con đã tới điểm sẵn sàng trải nghiệm, sau khi đã bắt đầu làm việc với chấn thương nhập đời và khắc phục chấn thương nhập đời.

Tất cả các con đều đã trải nghiệm một cách nào đó sự hiện thực của giáo lý mà các thày trao truyền, vì nếu không thì con đã không có mặt ở đây. Khi con khắc phục chấn thương nhập đời, thì con yêu dấu, con có thể đi vào tiến trình nới rộng một cách có ý thức khả năng trải nghiệm thực tại, một thực tại cao hơn. Thực tại cao hơn đó là gì? Ấy, con yêu dấu, nó không dựa trên bất cứ điều gì mà thể bản sắc của con có thể hiểu, thể lý trí của con có thể hiểu, thể tình cảm của con có thể tiếp cận, hay óc vật lý của con có thể xử lý. Nó vượt quá bốn thể phàm của con. Nó là một ý niệm thực tại vượt lên trên bốn thể phàm, và là điều duy nhất giúp con biết cái thật và cái không thật trên hành tinh này, là nơi mà sa nhân đã dùng tâm nhị nguyên để khiến mọi chuyện mờ tối một cách cùng cực.

1.9. Bù đắp những mất mát

Trên đây thày có nói con có hai khuynh hướng trong thể bản sắc. Một khuynh hướng tìm cách hiểu và đặt vào bối cảnh. Khuynh hướng kia tìm cách bù đắp những gì con cảm thấy bị mất mát khi con nhận chịu chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu. Khi sa nhân cho con cú sốc thì con tạo ra một ngã trong thể bản sắc dựa trên ý niệm mất mát. Có thể là con đã mất một số chuyện vỏ ngoài nhưng con thực sự đã mất gì? Con đã mất đi sự ngây thơ của trẻ thơ, ý niệm nội tại về thực tại. Đó là điều con mất. Từ lúc đó, cái ngã do con tạo ra trong thể bản sắc đã luôn luôn tìm cách bù đắp sự mất mát đó, bằng nhiều cách.

Trong thể bản sắc của con có một cái ngã muốn tìm một bản sắc nào đó. Con thấy một kết quả tối cực của khuynh hướng này nơi một số người cảm thấy họ đặc biệt vì họ thuộc một dòng tâm linh, họ thuộc một dòng họ, họ có một khả năng hay đức tính đặc biệt, họ là một linh hồn già cũ, hay bất cứ lý do nào khác. Quan niệm này đáp ứng nhu cầu của cái ngã muốn bù đắp.

Có nhiều cách khác để đạt cùng mục đích, và tất cả các con khi mới vào con đường tu cũng đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để bù đắp cảm giác mất mát nguyên sơ. Khi con tìm ra giáo lý của các chân sư thăng thiên (mà con tin có mức thực tại cao) thì con bỗng nhiên cảm thấy mình không quá thiếu khả năng, thiếu sót hay bất trọn vẹn như cái ngã trong thể bản sắc cảm thấy. Khi đó một số các con đã tạo ra ngã mới trong thể lý trí luôn tìm cách bù đắp bằng cách tỏ ra mình rất thông minh, thông thái, hợp lý, duy lý, rất giỏi biện luận hay suy luận. Con nghĩ như vậy sẽ bù đắp sự mất mát khi con cảm thấy mất khả năng biết đâu là thực đâu là không thực khi sa nhân gieo mối nghi ngờ vào tâm con. 

Một số khác đã tạo ra cơ chế bù đắp trong thể tình cảm bằng cách dùng thể tình cảm để bù đắp nỗi sợ, khắc phục nỗi sợ, chối bỏ nỗi sợ, đè nén nỗi sợ để con không cảm thấy sợ hãi. Con có thể thấy một số người trong các phòng trào tâm linh đã tạo cho mình hào quang nói nhỏ nhẹ, đi chậm rãi, có vẻ hoàn toàn làm chủ tâm nhưng họ đã làm được chuyện này bằng cách đè nén cảm xúc. Một số các con đã nhận ra là đôi khi mình có cảm xúc khởi lên. Đó có thể là do các con đã có một động lượng rất mạnh trong thể lý trí đè nén cảm xúc, nhưng điều này không lành mạnh và sẽ không giúp con giải thoát khỏi cảm xúc. Con cần tới điểm nhìn nhận là không phải con có cảm xúc, mà là có một ngã trong thể cảm xúc có cảm xúc, và con không phải là ngã đó. Do đó, con có thể để cho ngã đó chết đi và con có thể kêu gọi các chân sư thăng thiên tiêu trừ nó cùng với động lượng năng lượng đằng sau nó.

Một số khác đã tạo ra cơ chế bù đắp trong thể vật lý, ở tầng vật lý. Đối với một số các con, điều này thể hiện qua mong muốn làm việc với thân thể vật lý. Rất rất nhiều lực sĩ tập thể hình trên thế giới tìm cách tập cho thân thể trở nên lực lưỡng và mạnh mẽ để cảm thấy bất bại trên mặt vật lý. Đây là một cơ chế bù đắp cho sự có mặt của ngã trên các thể cao cảm thấy rất yếu đuối nơi thể vật lý. Một số khác thích tập võ. Trong những thời đại trước, võ thuật đã được dùng để giúp một số người phát triển tâm linh. Nếu con sống trong một thời nhiều bạo hành, trong một văn hóa nhiều bạo hành, thì học võ để có khả năng tự vệ có thể là một viên đá dẫn tới phát triển tâm linh. Con yêu dấu, một khi con đã đi vào con đường tâm linh của các chân sư thăng thiên và nhắm tới biểu hiện quả vị Ki-tô, thì con không cần võ thuật nữa, con có thể vượt lên trên nó.

Một số khác đã dùng những cách khác, thú vui khác trong bát cung vật lý. Đó có thể là một số ghiền nghiện vật lý giúp con khuây khỏa cảm giác thiếu khả năng hay yếu đuối mà con bình thường cảm thấy. Một số người khác làm những chuyện khác như: làm một số chuyện vật lý, trở nên thiện xảo trong một số công việc vật lý, như trong sự nghiệp, trong việc làm, du lịch, thông thạo mọi chuyện, có một kỹ năng vật lý. Con có thể thấy một số người trên mạng Internet có kỹ năng vật lý kỳ dị hay khả năng kỳ dị với thân thể, và một lần nữa, đây là một cơ chế bù đắp.

Có rất nhiều hình thức bù đắp và thày sẽ không tìm cách liệt kê hết ra ở đây. Điều quan trọng là một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời hay chấn thương địa cầu, thì con có thể bắt đầu truy tìm chúng trong bốn thể phàm của con. Con sẽ có thể bắt đầu tháo gỡ chúng, và con có thể học cách nhận diện và khắc phục khuynh hướng cảm thấy bị bắt buộc phải theo đuổi một số sinh hoạt. Mỗi khi con cảm thấy bị bắt buộc, cũng là điều mà Phật đã gọi là “dính mắc”, thì con biết là có một ngã đang giới hạn con trên con đường tâm linh và ngăn trở con trở thành Ki-tô hành động.

Con yêu dấu, tới đây là chấm dứt bài giáo lý mà thày muốn trao truyền cho các con. Thày nhận ra đây là một bài dài cho ngày đầu ở hội nghị này. Nhưng mặt khác, các con đã tự chuẩn bị quá chu đáo qua các sinh hoạt mà các con đã làm hôm nay và qua một giờ niệm chú, nên thày cảm thấy trao tặng các con món quà hỷ lạc từ tim thày là điều thích ứng. Thày mong các con nhận ra là thày không muốn cho con một gánh nặng vì nay con cần phải xem xét chính mình và cảm thấy khổ tâm vì đã có động lượng này hay động lượng khác.

Thày cho con một cơ hội giải thoát, và trong giải thoát có niềm vui. Thật sự là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì ta có thể nói là chỉ có giải thoát mới đem lại niềm vui, niềm vui thực sự, niềm vui an bình. Nhiều người trên trái đất cho rằng khi họ đạt được một thành tựu nào đó, một chiến thắng nào đó, thì họ cảm thấy vui mừng, họ cảm thấy niềm vui chiến thắng, nhưng đó không phải là niềm vui an bình, niềm vui nội tại hay niềm vui Thiêng liêng.

Ấy, THÀY LÀ niềm vui Thiêng liêng và thày sẽ trao cho con niềm vui Thiêng liêng của thày, nếu con hỏi thày.

15 | Phán xử của Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su.  Ý định của thày trong bài giảng này là trao cho con một số lời dạy sẽ không áp dụng cho mọi người, chắc chắn không cho tất cả mọi người có thể tìm thấy lời dạy này hiểu theo nghĩa rộng. Nó sẽ áp dụng cho nhiều người trong số các con, và thày khuyên con không nên ngồi đây và dùng tâm vỏ ngoài để xét đoán xem nó có áp dụng cho con hay không. Con không thể biết được điều này với tâm vỏ ngoài và con không nhất thiết có thể biết được ở mức nhận biết hiện thời của con. Con sẽ biết được khi con vươn lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và có được một tầm nhìn rõ ràng hơn về các tầng cao hơn này.

15.1. Những người làm ngơ hay phủ nhận các thế lực bóng tối

Con yêu dấu, nếu con nhìn hành tinh địa cầu hôm nay, con có thể thấy như các thày vừa đề cập, là có rất nhiều nhóm người khác nhau ở nhiều tầng tâm thức khác nhau, với nhiều hệ thống tín ngưỡng cùng nhiều thế giới quan khác nhau. Tuy nhiên, điều thày muốn con lưu ý ở đây là có một thành phần trong lãnh vực tâm linh – những người trong phong trào Thời Mới, thần bí, huyền bí, với tâm cởi mở – tin rằng hoặc không có bóng tối, không có thế lực bóng tối, hoặc trong cương vị là người tâm linh họ không nên chú ý tới các thế lực đó, vì làm như vậy sẽ trao cho chúng quyền năng.

Lẽ tự nhiên, các thày đã ban cho con qua đợt truyền pháp này nhiều lời giảng về các sinh thể sa ngã. Các thày đã cho con những lời dạy về khái niệm avatar, về sự kiện con đã đến địa cầu và đã phải hứng chịu chấn thương từ sa nhân như thế nào. Vậy thì liệu điều người ta bảo có đúng hoặc có thật hay chăng, rằng tà lực không hiện hữu hay con không nên chú ý đến chúng? Đây là một vấn đề tế nhị, theo nghĩa là trên địa cầu chỉ có một ít người không cần chú ý đến tà lực.

Trên thực tế, bất cứ ai là avatar đều phải lưu ý đến việc tìm hiểu sa nhân và những điều chúng làm, vì chúng chính là những kẻ đã tấn công con khi con đến với sứ mạng này, chúng là kẻ đã khiến con tạo ra ngã gốc của con. Chừng nào con còn không sẵn lòng nhìn vào sự hiện hữu của tà lực và cách chúng đã chi phối con như thế nào trong quá khứ, thì con không thể thoát ra khỏi ngã gốc. Và nếu con không thoát ra khỏi ngã gốc thì con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.  

Thực tế đáng buồn là có đến hàng chục ngàn, ngay cả hàng trăm ngàn người trong lãnh vực Thời Mới có một tiềm năng cao trong Sứ vụ của mình, nhưng chừng nào họ còn duy trì thái độ là họ phài làm ngơ trước tà lực và không để ý đến chúng, thì họ vẫn tự cắt đứt khỏi việc hoàn thành tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ của họ. Họ đã đạt đến một trình độ nào đó và có thể họ cảm thấy rất thoải mái ở mức đó, phần nào vì họ có cảm giác: “Làm gì có tà lực nào đang tấn công tôi.” Tất nhiên, tà lực không đang tấn công họ vì họ không là mối đe dọa cho tà lực.

15.2. Điều tà lực sợ nhất

Vậy cái gì là mối đe dọa cho tà lực? Đâu là điều chúng cực kỳ muốn tránh? À, điều chúng muốn tránh là có người đang đầu thai vật lý vươn lên tới mức có thể nhìn nhận một cách ý thức là mình có một mức độ quả vị Ki-tô, và vì vậy mình có cơ hội và thẩm quyền để thách thức sa nhân và sự hiện diện của chúng trên trái đất. Đây là điều chúng sợ hãi tột độ, vì chúng thừa biết là một khi con lên tới mức đó thì chúng sẽ không thể nào cản bước con. Chúng biết là nếu chúng cố ngăn chặn con thì sẽ dẫn đến việc chúng bị phán xử.

Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra đối với nhiều người trong các con, cũng như đối với một số những ai tìm được lời dạy này trong phạm vi rộng lớn hơn, khía cạnh cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại sự phán xử của Ki-tô trên sa nhân cùng tâm thức của sa nhân. Khi con nhìn vào cuộc đời của thày, con sẽ thấy thày đối đầu với sa nhân như thế nào, và con có thể nhìn vào chính con ngày nay và suy ngẫm xem điều này có nghĩa gì đối với con hôm nay.

Không nhất thiết phải giống như những gì con thấy trong đời thày, mà có nghĩa là con cần đạt tới điểm con nhìn nhận đó là một phần của Sứ vụ của con. Con nhận xét điều đó bên trong con – chứ không phải vì thày đang nói với con hay vì con đang đọc bài truyền đọc này. Thày không muốn con đọc bài này rồi quyết định bằng tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ lên đường tham gia cuộc thánh chiến, vạch mặt sa nhân, thách thức sa nhân.” Nó phải đến từ bên trong, và con yêu dấu, nó sẽ chỉ đến khi nào con giải quyết được chấn thương nhập đời mà sa nhân đã sử dụng để làm con tê liệt, để ngăn cản con là người mà con là trên hành tinh này.

15.3. Con bị chấn thương nhập đời quy định

Con hiểu chứ, con yêu dấu, có một cơ chế có thể khởi động ngay cả khi con đã có các lời dạy mà con đã nhận được cho tới giáo lý về chấn thương nhập đời. Gần như thể trong cương vị một đệ tử tâm linh, con bước vào một tâm thái cho rằng chỉ cần đạt được ngày càng nhiều hiểu biết hơn về đường tu tâm linh, ngày càng nhiều hiểu biết hơn về tự ngã, về tâm lý, về cách chữa lành tâm lý của mình. Gần như thể con đã tạo ra một cái ngã nghĩ rằng con đang tiến bộ, nhưng nếu con nhìn kỹ ngã này, nó cũng nghĩ rằng sự đột phá tối hậu vẫn nằm đâu đó trong tương lai. Một ngày nào đó, đột phá sẽ xảy đến nếu con cứ tiếp tục làm những gì con đang làm bây giờ. Như bào huynh yêu dấu của thày, Saint Germain, có nói: Có một thời con đã tiến bộ một cách tiệm tiến, và cũng có những thời khi con cần thực hiện một xoay chuyển cách mạng trong tâm thức.

Xoay chuyển cách mạng mà con cần thực hiện nếu con muốn bước lên một tầng cao hơn, là nhìn nhận rằng điều quy định con như một sinh thể hiện thân trên địa cầu chính là chấn thương nhập đời của con. Nó đã quy định con từ kiếp đầu thai đầu tiên. Tất cả những thứ khác mà con có thể đã làm – các loại liệu pháp khác nhau, tu học những giáo lý khác nhau, thực hành các dụng cụ tâm linh – đều đã giúp đem lại cho con một sự thay đổi tiệm tiến, và con đã có tinh tấn khi làm vậy. Nhưng chúng sẽ không thực sự xoay chuyển tâm thức của con vì chúng không động đến chấn thương nhập đời – như thể chúng chỉ chạy vòng quanh chứ không đâm thẳng vào vấn đề. Đó là tại sao con cần làm cuộc xoay chuyển và nhận ra là đã đến lúc con biết rõ từ bên trong (vì con nhận diện được sự thật trong lời dạy các thày) rằng bước kế tiếp của con là nhìn trực diện vào chấn thương nhập đời này. Con không thể cứ đi vòng quanh, con không thể cứ tránh né vấn đề. Con không thể đặt trọng tâm vào điều gì khác, con không thể nghĩ rằng nếu con cứ tiếp tục đọc thỉnh và học hỏi giáo lý thì một ngày kia, đùng một cái, chuyện đó sẽ xảy ra. Nó sẽ không xảy ra. Có thể con cần phải lấy một quyết định ý thức là con sẽ đối đầu với nó, đâm thẳng vào nó và phát hiện ra làm thế nào sa nhân khiến con tê liệt.

Quyển sách Các kiếp của tôi có mô tả một cách như vậy, và lẽ tự nhiên, sa nhân có nhiều cách khác nhau để làm chuyện đó. Một số các con đã hứng chịu chấn thương nhập đời khi thiện ý của con bị sa nhân gạt gẫm, con bị chúng lừa dối xong bị chúng phản bội. Nhiều loại cảnh huống khác cũng có tác động. Cho tới khi con phát hiện chấn thương nhập đời đó, con sẽ không thể thực sự hiển thị và chấp nhận quả vị Ki-tô của mình, con không thể chấp nhận mình là Ki-tô trên địa cầu. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì trong cốt lõi, sa nhân đã làm gì khi chúng gây chấn thương nhập đời cho con? Phải, chúng đã tạo ra một sự phân rẽ trong bản thể con, trong bốn thể phàm của con. Cốt lõi của sự phân rẽ này không hẳn là lòng sợ hãi cho dù con có thể nghĩ vậy. Cốt lõi của sự phân rẽ này là lòng ngờ vực. Kẻ thù quỷ quyệt nhất trên đường tu tâm linh kỳ thực là lòng ngờ vực.

15.4. Khắc phục nỗi ngờ vực cốt lõi

Con đã đến đây như một avatar với ý định tốt đẹp nhất, thế rồi sa nhân giáng chấn thương đó lên con, và bỗng nhiên con bắt đầu nghi ngờ: “Tôi có nên đến đây chăng? Liệu tôi có quyền đến đây chăng? Ở đây người ta có đón nhận tôi chăng? Liệu tôi có thể là chính mình và biểu đạt chính mình trên hành tinh này chăng? Liệu tôi có cần biến thành một người khác để người ta chấp nhận tôi chăng?” Tất cả những nghi vấn như vậy, gần như vô số những nỗi ngờ vực đủ loại.

Trong nhiều trường hợp, con thấy điều đó bên trong con, rằng con có thể tự nghi ngờ rất nhanh chóng. Điều này cũng có mặt tốt của nó, theo nghĩa là con có tâm cởi mở, con cởi mở để nhìn vào bản thân và tự thay đổi. Đây là một điểm tích cực đã giúp con tăng triển trên đường tu. Nhưng con cũng phải nhìn nhận một mối nguy tiềm tàng vì con thấy có những người trên địa cầu với tâm hoàn toàn khép kín. Họ tin tuyệt đối là họ đúng, và ít ra trên bề nổi, họ có vẻ không có chút nghi ngờ gì là họ đúng. Tất nhiên ở mức thật sâu thẳm, ai ai cũng đều mang những nỗi nghi ngờ khác nhau, nhưng nhiều người vẫn đưa ra được một bộ mặt, một nhân cách, qua đó họ phóng chiếu ra bên ngoài rằng họ đúng và họ biết là họ đúng, và hình như họ không có nghi vấn nào hết.

Một số các con quen biết những người như vậy, và một số các con đã ngồi đó tự hỏi: “Làm thế nào họ có thể tự tin đến thế? Tại sao tôi lại nghi ngờ chính mình đến như vậy?” Nhiều các con sẽ nhận ra là mình mang khuynh hướng tự ngờ vực đó – đặc biệt khi con phải chạm trán với những người có tính tình gọi là vô cùng quyết đoán, áp đảo. “Ồ, hay là có lẽ họ đúng chăng?” Thế là bỗng nhiên con rơi vào một vòng luẩn quẩn trong tâm, và vòng luẩn quẩn này được tạo ra bởi tâm đường thẳng, tâm phân tích.

Tâm phân tích có khả năng làm gì chứ? Nó luôn luôn có thể nghĩ ra đủ loại luận cứ chống lại hay thuận theo bất kỳ quan điểm nào, bất kỳ đề tài nào. Nó có thể tranh luận từ cả hai phe về một vấn đề. Khi con mang khuynh hướng nghi ngờ đó, tâm phân tích của con luôn luôn có thể đưa ra luận cứ tại sao con có thể sai lầm, hay có lẽ con không nên lên tiếng. Có lẽ con không nên thách thức người đó? Lỡ rốt cuộc họ đúng thì sao? Hay có lẽ họ được quyền xử sự như vậy, và có lẽ con nên bỏ qua và tuân phục họ, hay con nên rút lui và để yên cho họ mà không thách thức họ?

Con hiểu điều thày vừa nói ở trên: Mối lo sợ lớn nhất của sa nhân là có Ki-tô Hằng sống trong hiện thân sẽ thách thức chúng. Chúng đã làm gì chứ? Với mỗi avatar đến địa cầu này, chúng đã mưu toan cài đặt một yếu tố ngờ vực hầu con không dám thách thức chúng. Điều chúng tuyệt đối không muốn là con đạt tới một mức quả vị Ki-tô rồi thách thức chúng. Chúng đã làm hết sức để ngăn cản chuyện này, và công cụ chủ yếu của chúng là yếu tố ngờ vực chúng đã cài đặt trong con.

Chỉ khi nào con nhìn một cách ý thức vào chấn thương nhập đời thì con mới phát hiện những gì con nghi ngờ về quyền con được ở đây, quyền con là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân, quyền thách thức sa nhân, quyền biểu đạt con người mà con là, quyền biểu đạt bản sắc tâm linh cao hơn của con. Chỉ khi nào con xem xét nỗi nghi ngờ thì con mới thấy là sa nhân đã dùng một quan điểm nhất định, một tin tưởng nhất định, để cài đặt nghi ngờ đó trong con. Tin tưởng đó là một ảo tưởng. Tại sao đó là một ảo tưởng? Vì nó nhị nguyên, có nghĩa là khi con xem xét niềm tin đó riêng rẽ thì nó có vẻ chính đáng. Khi con bước lui lại và nhận ra là trong nhị nguyên bất kỳ quan điểm nào cũng có đối cực, thì con thấy được đối cực của quan điểm đã khiến con ngờ vực. Khi đó con thấy là con cũng có thể nghĩ ra những quan điểm chính đáng để hỗ trợ cho đối cực này, và đó là lúc con thấy không một quan điểm nào trong số đó là thực tại tối hậu.

15.5. Lựa bỏ nỗi nghi ngờ hiện sinh

Con có hiểu chăng, con yêu dấu? Sa nhân chỉ có thể hoạt động trong nhị nguyên. Nhị nguyên luôn luôn là một đối cực. Làm sao sa nhân có thể khoác vào bất kỳ dáng vẻ thẩm quyền nào? Làm sao chúng khiến người ta tin rằng đây có một quan điểm, một quan điểm nhị nguyên, và đó là chân lý tuyệt đối? À, chúng chỉ làm được vậy bằng cách phớt lờ đối cực nhị nguyên ngược lại, bằng cách giảm giá trị của nó, che giấu nó và khiến cho mọi người làm ngơ hay nghi ngờ nó. Và như vậy, chúng tâng một đối cực lên thành chân lý tuyệt đối. Đôi khi chúng cũng gán cho đối cực ngược lại là xấu ác, và tất nhiên, con có thể thấy sự thể này khắp thế giới khi người ta khêu lên: đúng và sai, sự thật và dối trá, tư bản và cộng sản, Cơ đốc giáo và mọi tôn giáo khác, vân vân và vân vân. Quá nhiều đối cực nhị nguyên với một bên hoàn toàn tốt và bên kia hoàn toàn xấu.

Khi con nhìn thấy điều này ở mức cá nhân trong chính chấn thương nhập đời của mình, nhìn thấy làm thế nào con đã khoác vào một tin tưởng nhất định đã khiến con ngờ vực là con có quyền ở đây – và sau đó con thấy là nó có một đối cực ngược lại và con có thể tranh luận thuận hay chống hoài hoài – thì con có thể lui lại và nói: “Tôi chán ngán chuyện tranh luận quá rồi. Tôi để cho ngã gốc này chết đi. Đơn giản tôi sẽ lựa bỏ sự ngờ vực ra khỏi bản thể của tôi.” Điều quan trọng nhất con có thể lựa bỏ ở những tầng cao của Sứ vụ Thiêng liêng là cái chúng ta có thể gọi là sự ngờ vực hiện sinh (existential) về quyền con có mặt nơi đây.

Con yêu dấu, một trong những mô thức thông thường do sa nhân tạo ra (là một mô thức mà sứ giả này chưa nhận ra một cách ý thức cho đến khi thày ban lời dạy này) là khiến con nghĩ rằng, vì con đã làm hay đã nói một điều gì bất toàn trên địa cầu (trong cảnh huống đã gây ra chấn thương nhập đời), cho nên con không có quyền thách thức sa nhân. Nói cách khác, con nghĩ là mình phải toàn hảo, và nếu con không toàn hảo thì con không được thách thức chúng. Nhiều người trong các con có thể nhận diện ra nét này.

Sứ giả này đã có một trải nghiệm lý thú khi lái xe đến hội nghị này. Trong cuộc trò chuyện và không suy nghĩ gì trước, ông nói: “Bạn biết đấy, thật ra tôi chưa bao giờ phát hiện ra điều gì xấu ác trong con người tôi.” Xong ông ngừng lại, giật mình bởi câu nói của mình, vì ông chưa từng nghĩ đến chuyện đó trước đây. Sự thật là tuy ông đã sẵn lòng quan sát bản thân, đã nhìn sâu vào tâm lý mình, ông chưa bao giờ khám phá một yếu tố xấu ác nào trong bản thể của ông. Điều này cũng đúng cho hầu hết các con và hầu hết những ai sẽ đọc bài giảng này. Con yêu dấu, điều này cũng đúng cho mỗi avatar. Trong bản thể của con không có xấu ác – chưa bao giờ có. Ngay cả với tất cả những chấn thương mà con đã kinh qua trên hành tinh này, con đã không cho phép một yếu tố xấu ác nào xâm nhập vào bản thể con.

Vì vậy, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? À, có nghĩa con không phải là một sinh thể sa ngã. Con không giống như các sinh thể sa ngã. Cho nên mặc dù con có thể không toàn hảo theo một chuẩn mực nhân thế nào đó, con có quyền thách thức sa nhân.

15.6. Làm thế nào thách thức sa nhân

Con có quyền, không nhất thiết là đứng lên buộc tội chúng sai trái, vì sa nhân rất thích tạo ra một trận chiến nhị nguyên khi có một người bảo: “Bạn sai rồi!” và một người khác lập tức có phản ứng bênh vực, cãi lại: “Không, chính bạn mới sai chứ!” Thế là nổ ra một tranh chấp dai dẳng sẽ không bao giờ ngừng lại.

Thật ra đây không phải là chuyện thách thức sa nhân bằng cách bảo chúng sai. Cách thực sự để thách sa nhân là nói: “Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn cuộc sống. Có một cách nhìn khác hơn là cách mà bạn đang nhìn mọi chuyện! Có một giải pháp thay thế. Có một mức tâm thức khác hơn là tâm thức mà bạn đang có.” Vậy đâu là giải pháp thay thế? Nói cho cùng và theo nghĩa phổ quát nhất, đó chính là Ki-tô, tâm thức Ki-tô là giải pháp thay thế cho tâm thức sa ngã.

Đương nhiên, điều này có thể được diễn đạt nhiều cách khác nhau. Con có thể bước vào bất kỳ lãnh vực nào của cuộc sống, và một khi con lên những tầng cao hơn đó của Sứ vụ Thiêng liêng, con sẽ phát triển được sự phân biện Ki-tô giúp con bước vào – và nhiều người trong các con sẽ thấy là kỳ thực mình có khả năng làm vậy. Nó khởi sự với một khả năng đọc được rung động. Trong các cuộc bàn luận tại đây, nhiều người đã bày tỏ là ở một thời điểm nào đó, con đã tìm được một giáo lý tâm linh hay một đạo sư hay một ý tưởng nào đó, và con chỉ cảm nhận: “Ồ, tôi không mặn mà cái này. Tôi sẽ không bước vào cái này.” Đây là khởi đầu của phân biện khi con có khả năng đọc được độ rung.

Tâm vỏ ngoài của con không thể nói ra bằng lời tại sao con cảm thấy như vậy hay cảm giác đó là gì, nhưng khi con bước lên cao hơn trong quả vị Ki-tô, con sẽ bắt đầu có khả năng diễn tả điều đó qua lời nói. Con bắt đầu có thể bước vào gần như mọi khía cạnh cuộc sống, hay ít ra những lãnh vực mà con hiểu biết thành thạo, và con có thể nhận diện: “Đây là một ý tưởng nhị nguyên. Đây là một quan điểm thiếu quân bình.” Con không cần phải công khai lên án cái đó là xấu ác hay sa ngã hay bất cứ gì khác. Con tìm được cách dùng ngôn từ mà mọi người có thể liên hệ và chấp nhận. Con có thể bày tỏ đó không phải là quan điểm cao nhất mà có một giải pháp thay thế. Đây là một cách thách thức tâm thức sa ngã.

15.7. Ứng phó với những tấn công cá nhân

Đối với một số các con, điều cũng có thể xảy ra ở một mức cá nhân hơn là con gặp những người hoặc là sa nhân, hoặc có tâm thức sa ngã, và con thách thức họ trực tiếp. Một số các con đã chọn có sa nhân trong gia đình hay quan hệ của mình. Con yêu dấu, không cần phải thách thức sa nhân bằng cách nhảy vào xung đột nhị nguyên với họ. Kỳ thực, cách xây dựng hơn, ít ra trong một thời gian, có thể là khoác vào tư duy là con không thách thức các sinh thể sa ngã, mà con thách thức tâm thức sa ngã, vì sẽ dễ dàng hơn nếu con giữ chuyện này ở một mức phi cá nhân (impersonal). Con thấy đó, con yêu dấu, khi sa nhân cảm thấy họ bị thách thức, họ sẽ làm gì chứ? Luôn luôn họ sẽ buộc tội ngược lại. Con có thể nói với họ: “Tôi không đồng ý với những ý tưởng bạn đưa ra,” nhưng bản năng của sa nhân sẽ khiến họ tấn công con một cách cá nhân.

Làm thế nào ứng phó với một cuộc tấn công cá nhân mà con có thể gặp, như chẳng hạn sứ giả này chắc chắn đã từng gặp rất nhiều lần? À, chừng nào con còn mang ngờ vực đó trong bản thể của con thì việc ứng phó sẽ rất khó khăn. Là người với tâm cởi mở, tự nhận biết và tự xem xét, khi có ai nói gì đó về con thì con luôn luôn cân nhắc: “Có thể nào họ đúng chăng? Tôi có cần thay đổi hay không? Tôi có quá hung hãn hay không? Tôi có như thế này, tôi có như thế kia?” Một lần nữa, làm thế nào con loại bỏ được ngờ vực chứ? À, chỉ bằng mỗi một cách là nhìn vào chấn thương nhập đời của con.

Khi con đạt tới điểm nhận ra là mình có quyền được ở đây và trong bản thể con không có gì xấu ác, thì con không thách thức người khác để hạ thấp hay chỉ trích họ, mà con có quyền biểu lộ con người mà con là. Thật ra con có thể đạt tới điểm con không thách thức tâm thức sa ngã với ý định vỏ ngoài sẽ thách thức tâm thức sa ngã. Con không cố tình đứng lên bới móc: “Đâu là những điều sai trái, những điều xấu xa, những ý tưởng sai lầm, đâu là những chuyện tôi có thể thách thức?” Con chỉ đơn giản là chính con. Con bắt đầu biểu đạt chính con, những gì con biết, những sáng ngộ mà con có, những kinh nghiệm mà con đã nhận được. Khi làm vậy tất nhiên, con sẽ thách thức tâm thức sa ngã, và đôi khi con sẽ gặp chính các sa nhân cảm thấy con đã tấn công cá nhân họ vì họ luôn luôn xem mọi chuyện là cá nhân. Cách duy nhất để thực sự ứng phó là con không xem cách phản ứng của họ nhắm vào cá nhân con, bởi vì một lần nữa, con không làm chuyện này do một thâm ý cá nhân – có đúng không con? Con có thể nhìn nhận khi con nhìn lại đời mình, là khi con nói ra điều gì hay bày tỏ một quan điểm, con muốn người khác đồng ý với con vì như vậy con sẽ cảm thấy mình được xác chứng. Nếu họ bất đồng với con thì vết thương mà con mang bên trong được khơi dậy, nỗi bất an, nỗi ngờ vực, rồi con sẽ đau lòng. Con mang thâm ý cá nhân mong muốn người khác đồng ý với con hầu con không phải cảm thấy đau lòng. Đó là ý thày muốn nói qua từ “thâm ý cá nhân” đối với một avatar.

Con yêu dấu, một avatar không có thâm ý cá nhân giống như sa nhân là hà hiếp người khác để được lợi lộc. Đây có thể gọi là thâm ý cá nhân tổn thương của một avatar, là khi con tìm cách thay đổi người khác để bù đắp cho vết thương của con. Tất nhiên, một khi con loại bỏ được vết thương này thì con không cần làm vậy nữa. Thậm chí con không làm vậy nữa với thái độ là mình phải thay đổi một điều gì đó trên trái đất. Như các thày đã nói, con đạt tới điểm con chỉ đơn giản là chính mình, con tỏa rạng những gì đến với con từ bản thể cao hơn của con, con đồng sáng tạo, và chính điều này sẽ thách thức sa nhân.

15.8. Thực hiện cuộc xoay chuyển Ki-tô

Tuy nhiên như các thày cũng đã nói, có thể sẽ tới những điểm một khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con đã tiêu hủy năng lượng, con đã buông bỏ ngã tách biệt đó, có lẽ cả ngã gốc, nhưng vẫn có một cái ngã tách biệt khác cứ suy nghĩ rằng con không được thách thức, hay không được trực diện, hay không được nhẫn tâm, hay bất kỳ ý tưởng nào đại loại như vậy. Nói cách khác, con đã thật sự sẵn sàng để bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thách thức các ý tưởng sa ngã, nhưng lại có cái ngã tách biệt kia ở bên trong đang chặn con lại vì con nghĩ mình không được làm vậy bởi một lý do nào đó.    

Có lẽ con nghĩ: “Tôi là một người tâm linh, tôi phải hiền từ hòa nhã với mọi người,” như nhiều người thiện tâm trong lãnh vực Thời Mới thường nghĩ vậy. Con cần sẵn lòng nhìn vào ngã tách biệt đó và nói: “Đâu là cách biểu đạt quả vị Ki-tô mà tôi đã thấy được khi tôi ở mức nhận biết cao nhất của mình? Đâu là điều tôi đã quyết định muốn biểu hiện?” Xong con nhìn ngã đó và bảo: “Tôi sẽ không cho phép ngã này đứng chắn đường tôi đi. Tôi sẽ để cho nó chết, và tôi sẽ làm một cuộc xoay chuyển cách mạng ý thức trong tâm rằng tôi sẵn lòng là Ki-tô Hằng sống trong hành động. Tôi sẵn sàng biểu đạt bất cứ gì đến từ Hiện diện TA LÀ của tôi, ngay cả khi nó thách thức hay làm phật lòng hay xúc phạm người khác.”

Con yêu dấu, các thày đã có nói, quả vị Ki-tô không phải là chuyện thi đua để được lòng mọi người, hay để khiến cho ai nấy ưa mình hoặc mình cảm thấy thoải mái. Con sẽ thấy là khi thày bước chân trên địa cầu khắp các lối đường bụi bặm của đất Palestine, thỉnh thoảng thày có gặp những người cảm thấy vô cùng khó chịu chỉ do Hiện diện của thày, vì ánh sáng mà thày tỏa rạng đã khuấy động những con quỷ bên trong họ – nếu có thể nói như vậy – và bỗng nhiên những con quỷ này la lớn, hét vào mặt thày. Thày không bảo là điều này sẽ nhất thiết xảy ra cho con, nhưng con cần nhìn nhận là khi con có càng nhiều ánh sáng thì một số người sẽ càng cảm thấy xốn xang khi họ gặp ánh sáng. Con cần đạt tới điểm con không dùng phản ứng của người khác để mà nói: “Ồ, tôi đã làm gì sai trái? Có điều gì không ổn với tôi? Tôi đã không nên làm chuyện này hay chăng?”

Một lần nữa, con đạt tới điểm là con chấp nhận quyền tự quyết. Con xoay chuyển một cách ý thức là con chấp nhận quyền tự quyết. Con chấp nhận con có quyền là con người mà con là. Con chấp nhận người khác có quyền phản ứng lại theo mức tâm thức của họ. Rồi một lần nữa, con có quyền tiếp tục là con người mà con là, bất kể phản ứng của họ là gì. Phản ứng của họ là gì chứ? Nói cho cùng, đó là kết quả những chọn lựa của chính họ.

Có thể họ mang một khuôn nếp tâm lý, có thể họ mang một số phàm linh nội tại, có thể họ mang những con quỷ đang kiểm soát họ và khiến họ phản ứng như vậy cho nên họ không đang chọn lựa một cách ý thức. Nói cho cùng, khi con nhìn ngược trở lại quá trình của dòng sống đó, dòng sống của họ đã làm một số chọn lựa dẫn họ đến mức nhận biết hiện tại. Cách họ phản ứng với con là kết quả những chọn lựa đó. Con yêu dấu, đó là quyền tự quyết của họ, không phải quyền tự quyết của con. Con không có thẩm quyền gì trên quyền tự quyết của họ. Khi con hoàn toàn công nhận là con không có thẩm quyền trên quyền tự quyết của một người khác thì con cũng công nhận là con không trách nhiệm về chọn lựa của họ hay hậu quả của chọn lựa đó.

15.9. Lý tưởng Bồ tát

Và đây là điểm con cần nhận ra là với tư cách một avatar, nhiều người trong các con đã đến đây vì con đã nhìn vào địa cầu, nhìn vào đau khổ trên trái đất và có lòng trắc ẩn đối với những ai đang bị khổ đau. Đây là một lý tưởng được diễn tả tại phương Đông, đặc biệt liên quan đến thày Quan Âm, qua lý tưởng Bồ tát. Truyện được kể ở phương Đông là Quan Âm đã đạt tới điểm thày hội đủ tư cách thăng thiên – hay Niết bàn theo cách gọi như vậy – và thày đã có thể rời khỏi địa cầu. Nhưng khi thày sẵn sàng bỏ lại địa cầu, thày đã ngoái nhìn lại một lần chót và nghe thấy tiếng than khóc của thế gian, của những người đang đau khổ, và thày quyết định ở lại với trái đất để cứu giúp loài người vượt qua khổ đau. Đó chính là lý tưởng Bồ tát của một người đã đủ tư cách thăng thiên nhưng vẫn chọn ở lại với địa cầu. Nhưng câu chuyện trên có thể dễ dàng được chuyển sang trường hợp của nhiều avatar cũng đã quyết định đến địa cầu vì đã nghe thấy tiếng than khóc và nhìn thấy đau khổ của thế gian.

Các thày đã trao cho con những gì? Sứ giả này đã ngộ ra điều gì khi suy nghiệm các giáo lý về chấn thương nhập đời? Đó là con, như một avatar, chưa ở trong trạng thái tâm thức thăng thiên khi con quyết định đến địa cầu. Con có một mức tâm thức cao hơn ở đây, con đến từ một hành tinh tự nhiên. Một lần nữa, trong bản thể con không có xấu ác, nhưng con vẫn mang một điều gì đó chưa giải quyết, một điều gì đó mà con chưa học xong. Đâu là điều mà con chưa học? À, đó là bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết. Đây là một trong những thử thách lớn nhất mà con có thể gặp.

Con yêu dấu, con có thể lập luận rằng vấn đề duy nhất của sa nhân là chúng đã không hoàn toàn trải nghiệm và chấp nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Chúng vẫn cố tìm những cách thức để khuynh đảo quyền tự quyết, quyền tự quyết của người khác, hay tìm cách căng rộng quyền tự quyết của chúng ra – sa nhân tưởng như vậy – để nó cho chúng nhiều tự do hơn, vì chúng không hiểu là chúng đã có tự do tuyệt đối rồi.

Con hiểu chứ con? Một số sa nhân sẽ không nhìn nhận là chúng đang có quyền tự quyết tuyệt đối. Chúng đã tạo ra trong tâm tấn tuồng cuồng đại cho rằng Thượng đế đang hạn chế quyền tự quyết của chúng, cho nên cách duy nhất để biểu lộ quyền tự quyết là nổi loạn chống lại ngài, bằng cách làm ngược lại những gì ngài muốn chúng làm. Chúng chỉ không chịu nhìn nhận là thượng đế đó – thượng đế muốn chúng làm cái gì đó – chính là sự tạo dựng của chúng chỉ hiện hữu cho tâm chúng. Trong khi đó thì Đấng Sáng tạo đích thực đã nói rằng: “Con có quyền tự quyết hoàn toàn.” Một trong những thử thách lớn nhất cho một sinh thể tự nhận biết, cho dù sa ngã hay không sa ngã, là nhìn nhận bản chất tuyệt đối của quyền tự quyết.

Là một avatar, con đã chưa nắm bắt được toàn bộ bản chất tuyệt đối của tự quyết. Khi con nhìn xuống trái đất và thấy người ta đau khổ, con chỉ có thể lý luận là có gì đó đã bị lệch lạc, hư hỏng, do họ đã chọn lựa sai lầm. Và nhiệm vụ của con, nhiệm vụ mà chính con đã tự giao phó, là con sẽ đi xuống giúp họ có những chọn lựa đúng hơn – không phải bằng cách thao túng họ mà qua nhiều cách khác. Nhiệm vụ của con như một avatar có phải là đến đây và làm gì đó để sửa đổi chọn lựa của người khác hay không?

15.10. Sự khác biệt cơ bản của quyền tự quyết

Tuyệt đối là không! Theo Định luật Tự quyết, đó không phải là nhiệm vụ của con. Điều này có nghĩa chăng là con không thể giúp được ai? Không, không có nghĩa như vậy. Có một sự khác biệt cơ bản giữa tư duy là con cần làm gì đó để thay đổi người khác, và tư duy là con ở đây để trưng ra cho họ thấy một giải pháp thay thế cho trạng thái tâm thức hiện tại của họ. Đây là một khác biệt cơ yếu.   

Nó không có vẻ gì là một khác biệt lớn lắm, nhưng một khi con suy nghiệm ý tưởng này trong tâm và thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm, con có thể đạt tới điểm thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng mà Saint Germain nói đến. Bỗng nhiên con ngộ ra khác biệt đó cơ yếu đến chừng nào. Điều đó, con yêu dấu, sẽ là thử thách lớn nhất của con như một avatar trên địa cầu. Con sẽ phải sẵn lòng làm những gì Saint Germain đã nói đến: Nhìn nhận là mình đã sai lầm. Không cứ là con đã sai trái – sai trái trong nghĩa xấu xa, tà ác – khi con đến địa cầu. Nhưng con phải nhìn nhận là thái độ mà con đã có, đã đưa con tới trái đất, cần phải ra đi. Thái độ đó không quân bình. Nó bất toàn. Nó không là tối hậu. Nó không là tâm thức Ki-tô. Con phải sẵn lòng nhìn nhận điều này vì cho tới khi con nhìn nhận điều đó trong tư cách một avatar thì con sẽ không thể rời nơi đây.

Chừng nào con còn nghĩ lý do mình đến địa cầu, hay sự thành công của mình trên địa cầu, là để thay đổi một ai khác, thay đổi các chọn lựa tự quyết của họ, thì con không thể buông hành tinh này ra. Sẽ có thêm nhiệm vụ nào khác mà con phải làm, một vấn đề nào khác mà con phải giải quyết, một cuộc tranh đấu cuồng đại nào khác mà con phải hoàn tất. Nó có thể cứ tiếp diễn mãi mãi, con yêu dấu. Đó là một trong những điều các thày muốn chỉ ra cho con thấy trong quyển sách Các kiếp của tôi, khi thày đã bỏ ra hai triệu năm trời để vượt qua cái ảo tưởng đã đưa thày tới đây. Nó có thể kéo dài lâu hơn thế nữa.

15.11. Trong Sứ vụ của con có việc thăng thiên hay không?

Con cần nhận diện là nếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có khả năng con sẽ thăng thiên sau kiếp này, thì việc thăng thiên sẽ đòi hỏi ở con những gì? Đôi khi, và đặc biệt trong các tổ chức chân sư thăng thiên trước đây, các đệ tử có một cái nhìn gần như máy móc về thăng thiên. Con nghĩ là nếu con làm việc này và làm việc kia, và nếu con hiểu điều này và hiểu điều kia thì đùng một cái, con sẽ thăng thiên! Một lần nữa, sẽ không bao giờ có chuyện “đùng một cái”. Thăng thiên sẽ cần gì? Sẽ cần (như sứ giả này đã nhìn thấy trong một ánh chớp trực giác cách đây nhiều năm) là con đạt tới điểm con đứng trước cánh cổng đó. Trước khi con có thể bước qua cổng, con phải ngoái nhìn lại trái đất. Thày cũng biết có những truyện kể rằng những ai ngoái nhìn lại sẽ biến thành cột muối, nhưng điều này sẽ không xảy ra khi con ở mức thăng thiên. Con phải nhìn lại. Con phải nghe thấy tiếng than khóc của thế gian. Xong con phải duyệt lại bản thể của mình và nói: “Có còn gì trên trái đất mà tôi không thể bỏ lại?”

Chỉ khi nào con nhận ra là không còn gì trong bản thể mình đang níu kéo mình ở lại trái đất, chỉ khi đó con mới có thể quay gót và chọn lựa: “Tôi rời bỏ hành tinh này vĩnh viễn. Tôi buông bỏ khả năng ảnh hường hành tinh này, một khả năng mà tôi chỉ có được khi tôi hiện thân trong vật lý. Tôi buông bỏ nó! Tôi lựa bỏ nó ra!” Sau đó con có thể thăng thiên, nhưng đây là một chọn lựa và đó phải là một chọn lựa hoàn toàn có ý thức. Không thể có bất cứ gì trong bản thể con mà con chưa nhìn vào, bởi vì khi đó, ông hoàng của thế gian này sẽ nắm được cái đó nơi con và y sẽ lôi con trở lại.

Bây giờ có một điểm nữa. Các thày công nhận là mỗi khi các thày ban ra một lời dạy, nó có thể khiến cho một số người diễn giải theo một cách hơi thiếu quân bình. Các thày đã ban ra rất nhiều lời dạy về thăng thiên, và suốt nhiều thập niên nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã mang ý tưởng là điều duy nhất thực sự quan trọng, điều duy nhất mà con thực sự phải làm như một đệ tử của chân sư, là nỗ lực đạt đến thăng thiên. Con cần thăng thiên càng nhanh càng tốt, chắc chắn sau kiếp này nếu có thể hay trong kiếp tới. Đây là trường hợp cho một số các con nhưng không phải cho tất cả các con.

Chúng ta đang sắp sửa đem lại được gì cho hành tinh này? Thời đại Hoàng kim của Saint Germain! Có những sinh thể đang đầu thai, kể cả các avatar, muốn góp phần trong công cuộc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain. Tất nhiên, điều này sẽ không xảy ra toàn bộ trước khi con mãn kiếp sống hiện thời, ngay cả nếu con vẫn còn trẻ tuổi vào lúc này. Có thể một số các con đã không thảo vào Sứ vụ của mình việc thăng thiên sau kiếp này vì con muốn đầu thai liên tục hầu giúp thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain, hay thậm chí còn được trải nghiệm Thời Hoàng kim. Điều này, con chỉ có thể thấy được một khi con lên đến các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, và một lần nữa, con chỉ thấy được nó rõ ràng một khi con giải quyết chấn thương nhập đời.

Con hãy công nhận điều này, con yêu dấu: Nhiều avatar, do cường độ và nỗi đau của chấn thương nhập đời, có mong muốn thoát khỏi nơi đây vì họ nghĩ họ sẽ tránh xa khỏi chấn thương nhập đời của họ. Tất nhiên là khi con thăng thiên, con sẽ rời xa khỏi chấn thương nhập đời, nhưng con sẽ không thăng thiên cho tới khi con đã nhìn sâu vào nó và trực diện với nó. Có một cơ chế trốn chạy là khi người ta cảm thấy: “Ồ, đương đầu với chấn thương nhập đời thật quá sức của tôi, cho nên tôi sẽ chỉ tập trung vào chuyện thăng thiên, và tôi chắc chắn tôi có thể làm được mà không phải giáp mặt với chấn thương nhập đời.” Chuyện này không thể làm được, con ạ!

Một lần nữa, điều gì sẽ giúp con góp phần vào việc thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain? Điều gì sẽ cho phép con trải nghiệm và thực sự vui hường nó được? Đó là con giải quyết chấn thương nhập đời của con. Không có nghĩa là khi con giải quyết chấn thương nhập đời thì con sẽ tự động thăng thiên hay con sẽ phải thăng thiên. Con ạ, con có thể chọn ở lại trái đất và nói: “Thày biết đó, con đã phải vật lộn với chấn thương nhập đời này suốt hai triệu năm qua, chắc chắn con sẽ muốn được kinh nghiệm hành tinh này mà không có nó.” Thật không có gì sai trái nếu con chọn như vậy, con yêu dấu – ngay cả nếu con có thể tùy chọn thăng thiên hay không.

Tất nhiên như các thày đã nói trong các đợt truyền pháp trước, cũng đúng là khi có ai thăng thiên thì điều này sẽ tác động tích cực đến địa cầu. Sự thăng thiên sẽ kéo tâm thức tập thể đi lên. Chắc chắn khi có ai giải quyết được chấn thương nhập đời và bắt đầu biểu đạt quả vị Ki-tô của mình thì điều này cũng tác động tích cực nếu con ở lại trong hiện thân. Một lần nữa, đây không phải là một điều ép buộc cho con. Đã có những đệ tử của chân sư gần như cảm thấy mình bị buộc phải thăng thiên, hay phải nỗ lực thăng thiên vì họ phải làm vậy để giúp địa cầu. Nhưng con có quyền định đoạt tuyệt đối: “Tôi muốn ở lại trong hiện thân và giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain.” Con yêu dấu, nếu ngày mai tất cả các con đều thăng thiên hết thì sẽ còn ai nữa để đem lại Thời Hoàng kim đây? [Có người trong cử tọa trả lời “Chúng con!”] Không, vì con sẽ thăng thiên, và một khi con thăng thiên, con sẽ không thể đem nó vào thị hiện vật lý.

15.12. Thăng thiên hay không thăng thiên

Con yêu dấu, đã từng có những thời đại trước trên trái đất (các thày đã có giảng về các giống dân gốc và những điều tương tự), đã từng có những chu kỳ khi một nền văn minh dần dần vươn lên một trình độ rất cao và có một nhóm dòng sống đã đóng góp đắc lực để đưa nền văn minh lên mức đó. Lý do họ đã góp phần nâng cao nền văn minh là vì họ cũng đã nâng cao tâm thức của họ và bắt đầu thể hiện quả vị Ki-tô. Tất nhiên khi làm vậy, họ đã hội đủ tư cách thăng thiên. Họ có sự chọn lựa tự quyết: thăng thiên hay không thăng thiên. Đã xảy ra những trường hợp khi quá nhiều dòng sống già dặn đó chọn thăng thiên cùng một lúc, đến độ sau khi họ bước ra khỏi hiện thân thì nền văn minh đã rất nhanh chóng rơi vào một vòng xoáy hướng hạ và sụp đổ. Có thể nói là đã không có đủ số người đầu thai để cầm giữ sự cân bằng tâm linh và duy trì nền văn minh trong vòng xoáy hướng thượng. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là sa nhân đã có thể dọn tới, nắm giữ quyền bính và kéo nền văn minh đi xuống.    

Con phải thận trọng và nhìn nhận là luôn luôn có một thế quân bình cần tìm ra. Một lần nữa, các thày không đang nhìn trở ngược lại và trách cứ những người kia đã chọn thăng thiên. Họ có quyền chọn như vậy, và đó chính là sự thử thách cho những ai nhìn vào những ví dụ đó mà vẫn còn ở tầng thấp hơn. Liệu họ sẽ bước lên và lấp đầy khoảng trống, hay là họ sẽ cho phép sa nhân đi vào chiếm lấy khoảng trống? Đó đã là chọn lựa và thử thách cho những người đó. Sự việc đã trải bày ra thế nào thì cũng hoàn toàn tốt thôi.

Thày chỉ giản dị nói với con là trong tư cách một đệ tử chân sư thăng thiên, con không cần phải dồn hết tâm trí vào ý nghĩ: “Tôi phải thăng thiên sau kiếp này.” Không có gì mà con phải làm cả. Chắc chắn con có thể phụng sự đời sống, phụng sự địa cầu, phụng sự Saint Germain bằng cách ở lại trong hiện thân sau khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời và nhờ vậy cũng có nhiều khả năng hơn để là một cánh cửa mở.

15.13. Sứ vụ Thiêng liêng đã không bị ép buộc lên con

Quyền tự quyết là tuyệt đối, cho nên trong cõi tự quyết không thể có bất cứ gì tuyệt đối mà con phải làm hay không được làm. Con thấy đó, thật quan trọng khi con đến được điểm này vì, con yêu dấu, để hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con phải khắc phục ý niệm là có gì đó ép buộc lên con. Thậm chí con có thể có một cái ngã tách biệt đã nghe nói về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, đã học giáo lý của các thày, nhưng vẫn cảm thấy Sứ vụ đã bị ép buộc lên con. Có thể chính con đã tự ép buộc Sứ vụ lên bản thân mình! Đó là điều mà ngã này cảm nhận.

Con cần nhận diện liệu con có mang khuynh hướng này hay không, xong con cần xem xét nó và nói: “Tôi không cần ngã này nữa. Tôi để cho nó chết đi.” Con không thể hoàn thành tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình cho tới khi con chấp nhận nó một cách trọn vẹn và tuyệt đối. Nói cách khác, con không thể cảm thấy là mình đã có những chọn lựa trước khi đầu thai, nhưng bây giờ con ở đây và thấy rõ kiếp hiện thân vật lý và mọi chuyện trên địa cầu khó khăn đến chừng nào, thì con đâm ra nghi ngờ là con có thể làm tròn hay đương nổi các chọn lựa đó. Thậm chí, con còn không chắc chắn là mình sẵn lòng thực hiện các chọn lựa này, cho nên bên trong con cảm thấy một xung đột nào đó, gần như thể con là – như thày từng nói cách đây 2000 năm – “một ngôi nhà bị phân rẽ chống lại chính nó” liên quan đến Sứ vụ của con.

Nếu bên trong con có phân rẽ, một đằng là nội dung của Sứ vụ Thiêng liêng mà chính con đã chọn đặt vào đó, và đằng khác một ngã tách biệt với ý chí khác hơn, thì con cần xem xét nó. Con không thể làm tròn tiềm năng cao nhất của Sứ vụ chừng nào con còn kéo lê cái ngã này theo con.

Một lần nữa, con cần làm cuộc xoay chuyển cách mạng là nhìn vào nó và nói: “Được rồi, tôi sẵn sàng xem xét nó, tôi sẵn sàng bước sâu vào trong đó, tôi sẵn lòng trải nghiệm niềm tin đứng đằng sau nó.” Rồi con nhìn ra tính không thực của lý do và con nói: “Không, đây không thực là chọn lựa của tôi. Đây có thể là chọn lựa của ngã tách biệt. Tôi nhìn thấy đây là chọn lựa của ngã tách biệt, vì bất kể những gì đã tạo ra ngã tách biệt – một chấn thương, một tin tưởng sai lầm, bất kể – thì bây giờ tôi đã thấy nó rồi và tôi chọn để cho nó chết. Xong tôi chọn ôm lấy những gì tôi đã thực sự đặt vào Sứ vụ, vì tôi sẵn sàng vươn lên mức tâm thức mà tôi đã có khi tôi đặt những điều đó vào Sứ vụ.” Chỉ khi nào con buông ngã tách biệt này thì con mới có thể thực sự vươn đến đó. Và chỉ khi đó con mới có thể ôm lấy Sứ vụ của mình – ôm một cách trọn vẹn.

Con yêu dấu, khi con nhìn lại cuộc đời của thày cách đây 2000 năm, nếu con thực sự thành thật, con sẽ có thể thấy thày là Ki-tô Hằng sống, nhưng theo một cách nào đó, thày là Ki-tô Hằng sống bất đắc dĩ. Chẳng hạn con thấy trong tình thế trước các biến cố dẫn đến việc thày bị bắt và đóng đinh, thày ngồi trong Vườn Gethsemane. Có người bảo rằng những giọt mồ hôi thày đổ ra là máu và có người thì bảo là không, nhưng chuyện này không phải là vấn đề. Vấn đề là thày đã thốt lên: “Cha ơi, nếu đây là ý muốn của Cha, hãy cho chén này lìa khỏi con.” Tuy vậy, sau đó thày lại nói: “Song không theo ý muốn của con mà theo ý muốn của Cha.”

Điều này cho con thấy gì? Rằng ngay cả thày đây, ở mức quả vị Ki-tô mà thày đã chứng được, vẫn còn phân rẽ trong bản thể mình khi thày cảm thấy có một ý muốn của thày và có một ý muốn cao hơn. Phải chăng Thượng đế đang ép buộc lên thày? Không, chính thày đã chọn lựa như vậy khi thày lập ra Sứ vụ của mình. Thày đã chọn lựa, nhưng vẫn có một thành phần trong cái ta vỏ ngoài của thày, trong nhân cách vỏ ngoài của thày, một cái ngã tách biệt vẫn chưa hoàn toàn ôm lấy và chấp nhận chọn lựa đó. Ý thày muốn nói là thế này: Điều đó, tất nhiên, cũng hoàn toàn tốt thôi. Nó xảy ra 2000 năm về trước vào một thời tâm thức dày đặc hơn rất nhiều. Khi đó thày là một trong những người đi tiên phong chứng tỏ tâm thức Ki-tô. Điều đó tốt hoàn toàn vào thời buổi đó, nhưng trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng bước lên cao hơn nữa, tiềm năng khắc phục sự phân rẽ đó trong bản thân mình và ôm lấy trọn vẹn Sứ vụ của con.

Hiển nhiên đây là điều thày mong muốn nhìn thấy nơi con, con yêu dấu. Liệu điều này có nghĩa là con sẽ hiển thị một mức quả vị Ki-tô cao hơn thày cách đây 2000 năm hay chăng? “Đúng vậy! Có thể nghĩa là vậy cho con đó!” Con không nghĩ đó là điều thày mong muốn cho con sao? Con yêu dấu, con có nghĩ là thày – chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – lại mang chút tham vọng của tự ngã bảo rằng: “Ta đã từng là người chứng tỏ quả vị Ki-tô trên trái đất và ta không muốn bao giờ có người qua mặt được ta” hay sao?

Thày muốn con hoàn thành những công việc lớn lao hơn thày thuở trước – thày đã nói vậy cách đây 2000 năm. Thật không phải là vấn đề của thày nếu con đã không tin thày! Thày an bình với chuyện đó, thày phó mặc cho quyền tự quyết của con, và thày chỉ muốn chỉ ra cho con thấy đây là cách nhìn của thày. Thật sẽ là niềm vui tột cùng cho thày được chứng kiến nhiều người – một vạn người – hiển thị một tầng của quả vị Ki-tô cao hơn những gì thày đã có thể hiển thị cách đây 2000 năm, cho dù như thày vừa nói, họ có biểu lộ quả vị Ki-tô đó qua một lối sống phần nào “bình thường”.

Con yêu dấu, thật là niềm vui tột cùng cho thày được trao con bài giảng này và thật sự được thấy những xoay chuyển tâm thức nơi những ai đã hấp thụ được. Thày sẽ vui mừng biết mấy được thấy nó lan tỏa ra như những vòng tròn trên mặt nước, giúp cho ngày càng nhiều người hơn đạt tới mức chấp nhận hoàn toàn tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình – chấp nhận trọn vẹn các chọn lựa của chính mình.

17 | Tầm nhìn omega về sự phán xử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Con yêu dấu, khi con trải nghiệm một bài giảng như bài chúng ta vừa trải nghiệm của Giê-su, thày nhớ lại khi hiện thân cùng với Giê-su, thỉnh thoảng thày ngồi đó mà cảm thấy gần như kinh ngạc khi nghe Giê-su phát biểu. Trong Kinh thánh có kể lại, “không có một người nào nói chuyện giống như người này,” và chắc chắn Giê-su có một cách sử dụng ngôn ngữ thật độc đáo, đẹp tuyệt vời. Ngay cả khi là một chân sư thăng thiên, tất nhiên thày cũng có thể trải nghiệm một bài truyền đọc. Thày trải nghiệm nó một cách khác hơn vì không những thày trải nghiệm sinh thể thăng thiên đang phát biểu như vị đó đang ở cõi thăng thiên, mà thày cũng trải nghiệm những gì tuôn ra qua trung gian sứ giả này.

Khi con xét đến sự khó khăn, khoảng cách rung động, khoảng cách trong mức tâm thức, khi con xét đến địa cầu này dày đặc chừng nào, thì con thấy được nỗi khó khăn trong việc đem Bản thể của một chân sư thăng thiên vào cõi này qua trung gian những lời nói của thế gian. Con phải ngưỡng phục khả năng của Giê-su đã có thể bày tỏ Bản thể của thày nhiều đến như vậy trong cõi dày đặc này. Nhưng con cũng phải gần như kinh ngạc khi thấy làm thế nào nguyên tiến trình giao tiếp từ cõi thăng thiên thông qua một sứ giả chưa thăng thiên lại có thể thực hiện được.

Đôi khi các thày biết là các đệ tử của mình có thể xem việc này là đương nhiên, họ cảm thấy: “Vậy à, chuyện này xem có vẻ dễ quá – sứ giả chỉ việc đi lên đó, nhắm mắt lại rồi mọi chuyện bắt đầu tuôn chảy.” Khi con nhận thức độ dày đặc của cõi này, đó thật là một tiến trình độc đáo mà con không nên cảm thấy nó quá dễ đến độ xem đó là chuyện thường tình.

17.1. Mặt omega của sự phán xử

Điều thày mong làm hôm nay là đem lại cho con phần nào góc nhìn omega của bài giảng của Giê-su. Mỗi lần các thày đề cập đến việc đem lại phán xử Ki-tô và thách thức sa nhân, luôn luôn có một tỷ lệ trong số các con sẽ có một phản ứng cưỡng lại. Không phải là thày đang chỉ trích con có phản ứng như vậy. Thày sẽ chỉ ra cho con thấy là có hai khía cạnh trong lý do vì sao con lại có phản ứng, vì sao con có thể cảm thấy do dự ngần ngại, vì sao con có thể không thích công việc này: “Có thật đây là việc của tôi? Tôi nên làm gì đây? Tôi không xem mình là một người hướng ngoại, tự tin lắm,” cùng nhiều ý nghĩ khác mà con có thể có.  

Con yêu dấu, như Giê-su đã nói, vũ khí chủ yếu của sa nhân là lòng ngờ vực, và tất nhiên nhiều người trong các con mang lòng ngờ vực này. Thật ra, tất cả các con nếu chưa giải quyết chấn thương nhập đời đều sẽ ngờ vực, lòng ngờ vực của sa nhân. Một phần trong phản ứng mà con có thể có chỉ đơn giản phát xuất từ đó. Con chưa giải quyết xong ngã gốc của con cho nên con mới cảm thấy do dự như thế. Thày có thể cam đoan với con là một khi con giải quyết ngã gốc, con sẽ không còn do dự như vậy nữa, ít ra khi con làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su nói đến.

Dù sao thì điều thày muốn trình bày là như Giê-su có nói, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con sẽ thăng thiên sau kiếp này. Cũng vậy, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc xông ra thách thức sa nhân một cách công khai. Điều Giê-su nói đến là khía cạnh alpha của việc thách thức sa nhân, là khi con lên tiếng về các ý tưởng của chúng, thậm chí con có thể sẵn sàng chạm trán với chúng ở mức cá nhân và cho phép chúng tấn công con hầu chúng phải nhận phán xử Ki-tô. Đối với những con còn lại, việc này không nằm trong Sứ vụ của con, không phải là những gì con đã ghi vào Sứ vụ về cách biểu hiện quả vị Ki-tô của mình ra sao. Và tất nhiên như mọi thứ khác, quả vị Ki-tô cũng có một mặt alpha và một mặt omega.

Vậy đâu là cách omega để thách thức sa nhân và đem lại phán xử Ki-tô trên sa nhân? Con yêu dấu, đó là yêu thương sa nhân. Ở tầm mức cá nhân, đây có thể là khi con chọn có quan hệ với sa nhân, dù trong phạm vi gia đình hay một mối quan hệ nào khác. Con đã chọn có liên hệ mật thiết với một số sinh thể sa ngã nhất định. Nếu con hòa điệu với Sứ vụ và nhìn xem những gì được thảo vào đó, có thể con sẽ nhận ra là kỳ thực con sẽ hiểu lầm Sứ vụ của con nếu con quyết định bằng tâm vỏ ngoài, dựa trên các lời dạy đã được ban ra, rằng: “Bây giờ tôi cần phải thách thức những người đó.” Nếu con là người uy thế trong giới quen biết của con, con quyết định: “Tôi cần thách thức người này.” Hay nếu con cảm thấy ai đó có thể là sa nhân, con nghĩ con cần thách thức người đó.  

Thày yêu cầu con hãy hòa nhập và không vội bắt đầu thách thức bất cứ ai cho đến khi con biết trong Sứ vụ mình có gì, cho đến khi con cảm thấy điều này đến từ bên trong. Không phải là con cần có một ấn tượng tận mắt về Sứ vụ rồi con xông ra thách thức sa nhân. Không, con đi theo trực giác của con. Nếu con nhận được thúc giục của trực giác để thách thức ai đó thì con cứ việc làm, nhưng con không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con phải thách thức họ.

Đặc biệt đối với các con cảm thấy do dự, thày yêu cầu con hãy trước tiên làm việc với chấn thương nhập đời của mình. Ngay cả khi con đã khắc phục được chấn thương nhập đời, thày yêu cầu con hãy hoà nhập và nhìn xem: “Việc tôi xông ra thách thức người khác có thật là chọn lựa của tôi không? Hay thay vào đó, chọn lựa của tôi là thương yêu họ?” Sau đó con cần nhận ra là trong việc hoàn thành ý muốn và tiềm năng cao nhất cho Sứ vụ của con, chúng ta không đang nói đến chuyện yêu thương sa nhân theo cách thế phàm. Chúng ta đang nói đến việc yêu thương sa nhân theo một cách mà các thày gọi là vô điều kiện, và bây giờ thày muốn trình bày sự khác biệt cho con thấy.

17.2. Tình yêu nhân thế và tình yêu vô điều kiện

Con thấy đó, con yêu dấu, cách vô điều kiện, tình yêu vô điều kiện chỉ có thể được trao khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời của mình – nếu con là một avatar. Nếu con không là avatar mà là một cư dân nguyên thủy của trái đất, con cần vươn lên một mức cao của quả vị Ki-tô trước khi con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện, vì tất nhiên, tình yêu có điều kiện xuất phát từ một tâm lý chưa giải quyết. Nhiều khi các thày đã gọi đó là tình yêu sở hữu khi con nghĩ mình yêu ai đó, nhưng con làm vậy là vì con cho rằng người kia có thể cho con điều gì đó sẽ giúp con trở nên trọn vẹn, hoặc sẽ che lấp vết thương của con để con không cảm được vết thương. Đó là tại sao khi người ta yêu, người ta thường ở trong một trạng thái hưng phấn không cảm thấy vết thương của mình, hay bay bổng lên chín tầng mây và mọi chuyện đều tuyệt vời.

Lý do đơn giản là vì ngay lúc này họ không nhìn thấy vết thương, họ không đang cố giải quyết nó. Nhưng rồi một khi tuần trăng mật kết thúc, họ bắt đầu lại cảm được vết thương. Và họ phóng chiếu: “Ồ, người này không phải là tình yêu đích thực mà tôi hằng khao khát, cho nên tôi cần tìm người khác.” Tất nhiên, chuyện này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần.

Chừng nào con còn mang những vết thương đó, đặc biệt là chấn thương nhập đời, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện. Lấy ví dụ tình huống được mô tả trong quyển Các kiếp của tôi là sự phán xử của Lucifer, khi nhân vật chính trong sách bày tỏ tình yêu vô điều kiện đối với Lucifer – và đó là cơ hội chót của Lucifer. Liệu y sẽ đáp lại tình yêu vô điều kiện được biểu lộ bởi một người y đã quen biết trong cõi đầu thai vật lý? Nếu sa nhân không đáp lại tình yêu vô điều kiện thì đó chính là sự phán xử đối với sa nhân, là sự phán xử của Ki-tô.

Có thể một số các con cảm thấy đây là điều con chủ tâm muốn làm. Có một ai đó trong phạm vi ảnh hưởng của con mà con cảm thấy không nên thách thức. Vai trò của con không phải là thay đổi họ mà chỉ đơn giản là giúp họ nhìn ra một cách khác, một trạng thái tâm thức khác, cho nên cuối cùng sẽ tới một điểm con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện. Có lẽ không nhất thiết họ là sa nhân, có lẽ họ là một người hay một cư dân nguyên thủy của trái đất, thậm chí còn có thể là một avatar. Họ có khả năng biến đổi khi trải nghiệm một dạng tình yêu khác hơn là loại tình yêu họ đã từng trải nghiệm trên địa cầu.

Chắc chắn đó là một cách để con chứng tỏ là có một trạng thái tâm thức khác. Nói cách khác, điều hoàn toàn chính đáng trong khía cạnh alpha của quả vị Ki-tô là con bày tỏ một số quan điểm cùng ý tưởng, hay ngay cả con thách thức ý tưởng của người kia và giải thích tại sao đó là những ý tưởng nhị nguyên và tại sao chúng không phải là cao nhất. Nhưng khía cạnh omega là khi con chứng tỏ một trạng thái tâm thức khác hơn qua tình yêu vô điều kiện, qua việc yêu thương người khác. Hiển nhiên, điều này cũng áp dụng cho các thành viên trong gia đình con dù họ có là sa nhân hay không. Tất nhiên, thày không bảo con hãy đi vòng quanh, điểm mặt từng người con gặp và cố xét đoán họ với tâm vỏ ngoài: “Người này có phải là sa nhân hay chăng?” Vì như vậy, con có thể đặt ra trong tâm mình đủ loại tiêu chuẩn bảo rằng khi có ai xử sự thế này thế kia thì bắt buộc họ phải là sa nhân.

Con yêu dấu, các thày đã chứng kiến trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên nguyên cả tổ chức với hàng ngàn thành viên dựng lên một nếp văn hóa vô cùng xét đoán. Trong một số trường hợp, mọi người tin chắc những người kia đều là sa nhân, và các thày đã thấy hiện tượng này biến thành gần như một bộ môn thi đấu nơi người ta tranh nhau phơi bày người nào là sa nhân, người nào không. Họ chạy loanh quanh buộc tội lẫn nhau, và nói chung, họ nghĩ bất cứ ai bất đồng với mình đều phải là sa nhân. Hiển nhiên, đây không phải là một tâm thái cân bằng và cũng không phải là điều các thày khuyến khích.

Tương tự, các thày cũng không khuyến khích con rơi vào xu hướng được tìm thấy trên thế giới gọi là thiện cảm dành cho ác quỷ, khi con nghĩ rằng con phải yêu tất cả mọi người. Thày Giê-su đã có nói về những người trong cộng đồng Thời Mới không chịu thừa nhận bất kỳ sự xấu ác nào. Có một số người khác tuy thừa nhận có xấu ác trong thế gian nhưng lại cho rằng cách khắc phục xấu ác là qua tình thương. Đúng vậy, cách khắc phục xấu ác là qua tình yêu nhưng đó phải là tình yêu vô điều kiện. Nếu không, nếu đó là tình yêu sở hữu, thì sa nhân sẽ chỉ đơn giản sử dụng tình yêu đó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng.

17.3. Có quan hệ với sa nhân

Hẳn là có một số trong các con sẽ cần nhìn ra là để vươn lên tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con cần nhìn nhận là con từng ở trong mối quan hệ với một sa nhân nào đó trong nhiều kiếp sống. Con sẽ cần tới điểm nhận diện điều này, và khi đó, con cần nhìn xem các vết thương, các cơ chế đã buộc con vào sa nhân đó là gì. Con cần nhìn xem các tin tưởng đứng đằng sau là gì, và cuối cùng con sẽ lần lần nhận ra là ở một tầng cấp nào đó của bản thể con, con đã nghĩ là mình có khả năng thay đổi sa nhân đó qua việc quan hệ với họ. Bằng cách yêu thương họ, con có thể thay đổi họ.

Đây là khi con cần bước lên một bước và thể nhập những gì Giê-su đã nói về sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Con không ở đây để thay đổi bất cứ ai dù là sa nhân hay không. Có thể nói, con đặc biệt không ở đây để thay đổi sa nhân. Nếu con cố thay đổi một cư dân nguyên thủy của trái đất thì trong nhiều trường hợp, người đó sẽ làm ngơ con. Nhưng sa nhân sẽ không làm ngơ con nếu con cố thay đổi chúng, chúng sẽ sử dụng con, chúng sẽ dùng ý muốn thay đổi của con đối với chúng để buộc chặt con lại với chúng, và ít nhất, để bòn rút năng lượng, đánh cắp năng lượng của con. Trong những trường hợp khác, chúng sẽ khuynh đảo, hay ngay cả tìm cách tiêu diệt con qua mong muốn cải tạo sa nhân của con.

Là một avatar, con thực sự phải đạt tới điểm nhận diện xem con đã rơi vào khuôn nếp đó hay không, con có ý muốn thay đổi sa nhân hay không. Sau đó, con phải hoàn toàn buông bỏ cái đó, phải để cho ngã đó chết đi. Con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô nếu con ở trong tâm thái đó, mà trong cốt lõi là một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân. Mong muốn cải tạo sa nhân sẽ luôn luôn nảy sinh từ chấn thương nhập đời khi con phải gặp chúng lần đầu tiên. Con đã bị chấn động, rồi một cách nào đó con đã tạo ra – trong nhiều trường hợp – cái quá trình lập luận rất dài dẫn con từng bước đến kết luận là những gì sa nhân đã gây cho con cũng trưng bày những gì chúng gây cho hành tinh. Và cách tốt nhất để giúp thay đổi hành tinh là con lựa ra một sa nhân nào đó, con có quan hệ thân thiết và nỗ lực cải tạo sa nhân đó.

Thế là cái đó trở thành một phần ngã gốc của con. Có thể có nhiều thứ khác trong ngã gốc mà qua đó con nghĩ con phải đem lại một số thay đổi cho địa cầu. Trong số đó là ý muốn thay đổi một sa nhân. Con không thể thực sự giải quyết ngã gốc cho đến khi con nhìn vào ý muốn thay đổi sa nhân này trước tiên và con buông nó ra. Con từ bỏ ý muốn đó vì con nhìn nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết, con nhìn nhận đó không phải là lý do con ở đây.

Ý muốn thay đổi một sa nhân không phải là cốt lõi ngã gốc của con. Cốt lõi ngã gốc là phản ứng của con trước chấn thương hay sự tàn bạo, sự lừa dối con đã phải đối mặt bất kể đó là gì. Để đối phó với chấn thương, con đã tạo ra cái ngã muốn cải tạo một sa nhân. Có thể nói đó là một khía cạnh của ngã gốc, nhưng ngã gốc của con đã không khởi đầu theo cách như vậy. Đây là tại sao để đi sâu vào cốt lõi của ngã gốc, con phải trước hết buông bỏ mong muốn cải tạo một sa nhân.

17.4. Sa nhân có thể được cải tạo hay không?

Điều này tất nhiên dẫn đến đề tài: “Sa nhân có thể được cải tạo hay không?” Thày sẽ xin con xem xét một câu hỏi chính xác hơn: “Liệu tôi sẽ bao giờ cải tạo được một sa nhân không?” Câu trả lời là: “Không, hoàn toàn không.” Không có gì chính con có thể làm hay nói sẽ cải tạo được một sa nhân. Hơn vậy nữa, không có gì con có thể làm hay nói sẽ thay đổi được bất cứ người nào khác. Tại sao vậy? Vì quyền tự quyết. Tuy nhiên, có nghĩa chăng là con bất lực, có nghĩa chăng là sự có mặt của con ở đây là bằng thừa? Không!

Để một người thay đổi, sẽ cần gì? Để một sa nhân thay đổi rồi bước theo một con đường hướng thượng, sẽ cần gì? Cả hai sẽ cần làm một chọn lựa. Con không thể buộc người khác chọn lựa. Con có thể buộc họ hành xử theo một cách nào đó và đây chính là điều sa nhân đã cố làm. Sa nhân cũng đã cố khuynh đảo và lừa dối để con phải lấy một số chọn lựa.

Nhưng nói cho cùng, con không có quyền lực để buộc người khác chọn lựa. Con có thể, như sa nhân thường làm, lợi dụng tâm lý của người kia và nhờ vậy thúc ép chọn lựa của họ. Con hiểu thày nói chứ: Ngay cả nếu con thúc ép chọn lựa của người khác thì việc này sẽ không cải tạo được họ, nó sẽ không cải tạo được sa nhân, nó sẽ không thay đổi được người kia theo một chiều hướng tăng triển tích cực.

Con có thể thay đổi họ theo một chiều hướng tiêu cực bằng cách cưỡng ép chọn lựa của họ, nhưng con không thể ép buộc một chọn lựa tích cực. Chọn lựa tích cực phải đến từ bên trong dòng sống đó, và trong nhiều trường hợp, chọn lựa sẽ chỉ đến sau khi họ đã nếm đủ một số trải nghiệm. Tất nhiên, điều con có thể làm là con có thể tạo cảm hứng cho họ chọn lựa cao hơn bằng cách chỉ ra cho họ thấy một giải pháp thay thế trạng thái tâm thức của họ, một con đường cao hơn. Bằng cách tạo cảm hứng và chứng tỏ cho họ thấy, con có thể khiến họ làm một chọn lựa khác. Không phải con đã bước vào tâm họ và tạo ra thay đổi trong đó, mà chính họ đã tự nguyện chọn lấy một chọn lựa khác.

Hiển nhiên, nếu họ không thấy con chứng tỏ trạng thái tâm thức cao hơn đó – hay như Giê-su nói: nếu thày đã không chứng tỏ là con có khả năng bước trên trái đất trong Tâm thức Ki-tô – thì họ đã không có sự tùy chọn. Đó chính là điều con có thể làm. Con có thể cho họ sự tùy chọn nhưng con không thể cưỡng ép chọn lựa của họ. Tất nhiên là con có thể làm giống như sa nhân và cố buộc mọi người phải chọn theo chiều hướng hạ, nhưng con yêu dấu, đó chắc chắn không phải là lý do con ở đây như một avatar. Con hãy nhìn vào bãi chiến trường trên trái đất, và đâu là nguyên do chứ? Là vì sa nhân đã buộc con người phải lấy những chọn lựa đẩy họ vào một vòng xoắn ốc hướng hạ. Như thày vừa nói, con không thể ép buộc một ai làm những chọn lựa sẽ đưa họ vào xoắn ốc hướng thượng. Là một avatar, con cần hoàn toàn rũ bỏ ý muốn cải tạo hay thay đổi bất cứ ai. Chỉ khi đó, con mới có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện.

17.5. Con không thể có tình yêu vô điều kiện

Tại sao thày lại nói là con không thể tình yêu nhân thế nhưng con có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện? À, là vì tình yêu nhân thế là tình yêu sở hữu, có nghĩa là con có thể sở hữu nó, con có thể lấy nó làm của riêng. Trên thế giới có những người, thậm chí nhiều người, nghĩ họ là người tâm linh, là người Thời Mới, là người tràn đầy yêu thương. Họ yêu thương theo cách phàm phu, qua đó trong tiềm thức họ sử dụng tình yêu để được một cái gì đó từ người kia.

Trong một số trường hợp, họ không có ý định xấu ác, họ không thực sự trực tiếp lợi dụng người khác, nhưng bên trong, họ thầm mong người ta xem mình là tràn đầy tình thương. Khi họ bày tỏ tình yêu với ai đó, họ muốn khiến người kia chứng thực mong muốn của họ được xem là một người đầy tình thương. “Ồ, sao bạn là người hết lòng đến thế,” và như vậy họ cảm thấy mình được tán thành, tự ngã cảm thấy nó được tán thành.

Con không thể sở hữu tình yêu vô điều kiện, con không thể sở hữu tình yêu không sở hữu, nhưng con có thể mở tâm ra với nó như con mở tâm ra với quả vị Ki-tô. Tình yêu vô điều kiện là gì? À, đó chính là khía cạnh omega của tâm thức Ki-tô. Con không thể sở hữu tâm thức Ki-tô, con không thể cưỡng ép tâm thức Ki-tô. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài – tâm nhị nguyên, tâm phân tích – để cưỡng ép. Con có thể mơ tưởng mình là Ki-tô nhưng làm vậy sẽ không biến con thành Ki-tô. Con có thể cố tạo ra những hiện tượng có vẻ cho thấy là tâm con có quyền năng to lớn trên vật chất, như ngay cả Lucifer cũng đã làm được trong sách. Đó không phải là quả vị Ki-tô. Con có thể có tình yêu nhân thế và khiến người ta nghĩ con có nhiều tình thương đến thế, nhưng đó không phải là tình yêu Ki-tô. Như các thày đã nói, Thánh linh thổi nơi đâu nó muốn, thì tình yêu Ki-tô cũng chảy như vậy, nhưng nó chảy vào bất cứ nơi nào có một lối mở. Phải có một lối mở, và nếu con mong muốn thay đổi người khác thì trong bản thể con sẽ không có khe hở để tình yêu vô điều kiện có thể chảy vào.

Rất, rất có thể là nếu con biểu lộ tình yêu vô điều kiện với một sa nhân thì y sẽ chối bỏ nó. Y sẽ bị bối rối bởi tình yêu đó, thậm chí y còn có thể buộc tội con, hay lánh xa và không muốn liên hệ với con nữa. Điều này con cần chấp nhận. Các thày đã có giảng về những cuộc xoay chuyển cách mạng. Các thày có nói là có thể đến một điểm khi con đã giải quyết tâm lý của mình, đã giải quyết ngã gốc và chấn thương nhập đời của mình, đã tiêu hủy hết năng lượng, đã để cho ngã chết đí, nhưng lại có một ngã tách biệt khác vẫn còn một sự gắn buộc nào đó.

Chẳng hạn con cảm thấy là nếu con là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện thì con không thể bị chối bỏ, người khác không được chối bỏ con. Đã có những người đạt tới mức quả vị Ki-tô để có thể trở thành cánh cửa mở cho việc biểu lộ tình yêu vô điều kiện đối với một người khác, thế rồi tình yêu đó bị bác bỏ, và bởi vì họ mang cái ngã tách biệt đó cho nên đôi khi họ có thể rơi xuống một vòng xoáy hướng hạ. Họ bị dao động quá đỗi khi tình yêu đó bị từ chối đến độ nó kéo họ xuống một mức tâm thức thấp hơn. Thậm chí họ còn có thể quyết định sẽ không bao giờ tỏ lộ tình yêu vô điều kiện nữa.

Con cần nhìn nhận là ngay cả khi con có khả năng làm cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện, con vẫn có thể còn cái ngã tách biệt đó cầm giữ một loại hình ảnh nào đó về những gì phải xảy ra khi con biểu lộ tình yêu vô điều kiện. Ví dụ, con có thể mang một cái ngã cầm giữ một hình ảnh về những gì phải xảy ra khi con nói lên sự thật của con và thách thức sa nhân hay khi con thể hiện bản thể cao của con.

17.6. Tránh cảm thấy bị chối bỏ

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa quả vị Ki-tô – khi con là Ki-tô Hằng Sống, khi con thể hiện quả vị Ki-tô – không có nghĩa là con tuyệt đối hoàn hảo, là con đã giải quyết xong mọi khía cạnh của tâm lý mình và con đã lên tới tầng 144. Con có thể, ngay khi con bước cao hơn tầng 48, có được những thoáng hiện khi con biểu hiện quả vị Ki-tô hay thậm chí một dạng cao hơn của tình thương. Khi con lên cao hơn tầng 96, con có thể có những thoáng hiện – ngày càng thường xuyên hơn, trong khoảng thời gian dài hơn – ngụ trong tâm thức Ki-tô. Con đang biểu lộ tình yêu vô điều kiện nhưng tất nhiên, con vẫn phải bước tiếp lên cho tới tầng 144. Có nghĩa là vẫn còn những ảo tưởng mà con chưa khắc phục, và một số ảo tưởng này có thể liên hệ tới việc con nghĩ rằng người khác phải hồi đáp con một cách trong sáng khi con tiếp cận họ trong sự trong sáng.

Con thấy đó con yêu dấu, các avatar đều đến từ những hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, con quen với tình trạng khi con làm gì đó cho một ai với ý định trong sáng, thì người đó sẽ không trở mặt mà kết tội là con xấu. Khi con làm điều gì cho một sa nhân, hay ngay cả cho những con người trên địa cầu, có thể họ sẽ chối bỏ con một cách vô cùng hung hãn, hiểm độc, tàn nhẫn, cáo buộc. Ngay cả khi con đạt tới điểm có thể biểu hiện quả vị Ki-tô, cho dù là khía cạnh alpha hay omega, con vẫn cần lưu ý có thể còn một cái ngã, một ảo tưởng mà con chưa buông bỏ, và ngã này khiến con cảm thấy bị gạt bỏ, hay khiến con rơi vào những loại phản ứng tiêu cực khác khi người ta không phản hồi theo cách con chờ đợi.    

Vậy trong những trường hợp đó, con cần sẵn lòng nhìn vào chính mình và nắm lấy đó như một cơ hội khắc phục thêm một ảo tưởng, buông bỏ thêm một ngã tách biệt, hầu vươn lên tầng kế tiếp nơi con có thể biểu hiện tình yêu vô điều kiện nhiều hơn, ít dính mắc hơn với cách người ta tiếp nhận tình yêu đó. Nói cho cùng, để biểu hiện trọn vẹn tình yêu vô điều kiện, con cần phải hoàn toàn không dính mắc với cách phản hồi của người khác vì con không có bất kỳ ý định nào khi hành xử như vậy. Đóa hoa hồng nở ra trong vườn không hề có ý định lôi kéo người đi dạo phải dí mũi vào bông hoa. Nó không hề cảm thấy bị bỏ bê khi ai nấy đều rảo bước đi qua, bận rộn với chiếc điện thoại cầm tay vì họ nhất định phải trả lời cái SMS mới nhất cho bằng được.    

17.7. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô có thể đau đớn

Đây là những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Thày cũng hiểu đây không phải là những tầng thấp của quả vị Ki-tô. Con không cần tự trách mình khi con phản ứng như vậy. Một lần nữa, con không phải hoàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp hơn, con sẽ gặp một số tình huống, một số thời điểm, khi con là cánh cửa mở và có cái gì tuôn chảy qua con, có thể là một ý tưởng cao hơn, có thể là tình yêu vô điều kiện. Thế rồi bỗng chốc, giây phút huyền diệu đó bị phá vỡ, nếu có thể nói như vậy. Bây giờ con bước ra ngoài, trở về với mức tâm thức bình thường của mình, có nghĩa là con lại sử dụng mức tâm thức bình thường của con để phản ứng lại các hậu quả của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Nói cách khác, con phản ứng lại phản ứng của người khác, không ở mức quả vị Ki-tô con vừa biểu hiện trước đó mà với tâm thức bình thường của con.

Con yêu dấu, điều này không thể tránh khỏi, đó là một phần của con đường quả vị Ki-tô. Con có thể nghĩ chuyện này đã không xảy ra cho Giê-su nhưng hiển nhiên là nó đã xảy ra cho thày. Giê-su đã trải qua một giai đọan vô cùng do dự  biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thày thật nhạy cảm trước phản ứng của mọi người. Con thấy đó con yêu dấu, tất cả các thày đều đã kinh qua giai đọan này và các thày hoàn toàn không muốn khiến con nản lòng. Điều các thày muốn con nhận ra là sự kiện này không thể tránh khỏi. Con phải kinh qua giai đọan tạm thời này khi con xoay vào rồi lại xoay ra khỏi tâm thức Ki-tô, khiến con không thể tránh phản ứng lại trong tâm thức bình thường của mình những hậu quả của việc bày tỏ quả vị Ki-tô.

Điều này có nghĩa là nó có thể đau đớn, và nó có thể khó khăn. Thậm chí con còn có thể cảm thấy mình đã làm gì sai. Con đã quá mạnh mẽ, con đã quá cương nghị, hay con đã quá trìu mến, quá tốt bụng hay bất cứ gì khác. Con cần học cách nhìn xuyên thấu qua điều đó và nhận ra là phản ứng này trong con là một cơ hội để bước lên tầng tâm thức kế tiếp, để vượt qua ảo tưởng gắn liền với tầng tâm thức hiện thời và bước lên một tầng cao hơn nơi con có khả năng thể hiện nhiều quả vị Ki-tô hơn. Và khi con trở nên ý thức về quá trình này, con có thể mau chóng thực hiện cuộc xoay chuyển qua đó con không còn tự trách mình nữa, con không còn tự mắng mỏ, con không còn cảm thấy mình bất toàn. Con chỉ đơn giản nhận rõ sự thật tuyệt đối mà thật ra các thày đã cố truyền đạt cho con qua bộ sách về con đường tự điều ngự.

17.8. Phản ứng ở mức tâm thức của con

Trong quyển sách thứ sáu [Những Khai ngộ Thần bí về An bình], thày Nada đã nỗ lực hết sức giúp con nhìn ra là trên đường tu sẽ tới một điểm khi con nhìn nhận là con chưa đạt đến tầng tâm thức cao nhất. Con sẽ nhìn nhận là con đang ở tầng 87 chứ không phải tầng 144. Không ai đòi hỏi con phải có khả năng đối phó với cuộc sống trên địa cầu như con có thể làm ở tầng 144. Việc con phản ứng lại cuộc sống với tâm thức của tầng 87 – hay bất kỳ tầng nào khác ở chỗ con đang đứng – cũng hoàn toàn tốt thôi, hoàn toàn chấp nhận được từ các thày là chân sư thăng thiên.

Các thày không bao giờ đòi hỏi hay chờ đợi con phải phản ứng với một tầng cao hơn. Các thày không bao giờ lên án con vì con không phản ứng ở tầng cao hơn. Thày thừa biết đã từng có một số lời dạy và tổ chức của chân sư thăng thiên tạo ra một nếp văn hóa trách móc mọi người là không toàn hảo. Một lần nữa, các thày phải khởi đầu ở một điểm nào chứ.

Nhưng con có tiềm năng bước lên một mức nơi con có thể, theo một nghĩa nào đó, làm hòa với chính con người mà con đang là ngay bây giờ. Điều này không có nghĩa là con ngừng tăng triển và đi vào tâm thái nghĩ rằng: “À thế là tôi vô ngã rồi, tôi toàn hảo rồi, tôi không cần tăng triển nữa, tôi không cần xem xét bản thân nữa.” Con có thể làm hòa với sự kiện con đang đứng ở tầng tâm thức này, thay vì tự trách móc hay cảm thấy mình bị chậm trễ và đúng lý mình phải ở tầng cao hơn.

Các thày không muốn con sống hết kiếp đầu thai này mà cứ không ngừng cảm thấy mình còn tụt hậu, mình chưa đủ tốt. Con đang tốt đủ ở tầng tâm thức mà con đang đứng, và con không có lý do gì để lên án chính mình đã phản ứng ở tầng tâm thức này, thậm chí phản ứng lại việc mình đã biểu lộ quả vị Ki-tô cùng cách phản ứng của người khác.

Phản ứng của con, khi con sẵn lòng xem xét nó, là cơ hội để con nhìn ra ảo tưởng ở tầng hiện thời của con rồi vươn lên tầng kế tiếp. Đường tu luôn luôn đã từng là như vậy và sẽ luôn luôn là như vậy. Cũng y như vậy 2000 năm về trước khi Giê-su tiến gần đến tầng 144. Và cũng sẽ là như vậy cho tất cả chúng ta là những người đã từng hiện thân. Điều này sẽ không thay đổi chừng nào địa cầu chưa là một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên là có thể có một sự chuyển đổi khi tầng tâm thức thấp nhất hiện thời không còn được phép có mặt trên địa cầu nữa.

17.9. Không có gì không ổn với vật chất

Cơ chế căn bản của đường tu là con đang ở một tầng nào đó. Con phản ứng theo cách như vậy. Bằng việc xem xét phản ứng, con có thể nhìn thấy cái ảo tưởng ở tầng đó hầu con vươn lên tầng kế tiếp. Đó là cơ học căn bản của đường tu tâm linh. Có thể nó có vẻ không hào nhoáng như một số người tưởng tượng, nhưng thày tin tưởng nhiều người trong các con đã tới được điểm nói rằng: “Tôi đã chán chê ảo tưởng rồi, tôi đã chán chê những mơ tưởng hoành tráng, tôi chỉ muốn biết đường tu vận hành như thế nào để tôi có thể tiến bước nhanh nhất, và tôi có thể vượt lên trên những cách phản ứng mất quân bình, tiêu cực, tự trách đó, và cảm thấy an bình khi ở đây.”

Nói cho cùng, con yêu dấu, làm thế nào con có thể an bình khi ở đây? À, con cần giải quyết chấn thương nhập đời vì chính đó là điều đã bứng con ra khỏi sự an bình con có trước đó khi con vừa đến đây như một avatar. Một phần trong tiến trình này, ngay cả khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, là sẽ vẫn còn một ngã tách biệt mà con cần xem xét. Ngã này tùy theo mỗi cá nhân, nhưng đó là ngã tách biệt con đã tạo ra khi con phản ứng lại cõi vật chất, cõi của vật chất, cõi của Mẹ, trong tình trạng nó hiện hữu trên trái đất. Con nhận thấy là trong tư cách một avatar, con đến từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất không dày đặc như thế này. Vật chất ít dày đặc thể hiện qua nhiều cách, nhưng một cách thể hiện là con không gặp phải những loại hậu quả con thấy trên trái đất. Trên một hành tinh tự nhiên, tâm con có quyền năng lớn hơn rất nhiều để thay đổi vật chất, và vật chất cũng sẵn sàng đáp ứng nhiều hơn với tâm con.

Con đã quen với việc mình có thể phạm vào cái con gọi là lỗi lầm. Nó có tạo ra một hậu quả vật lý nhưng khi con sẵn lòng đứng lui lại và thay đổi tâm thức, thì con có khả năng tháo gỡ và hoàn nguyên hậu quả vật lý đó. Nhưng khi con bước xuống trái đất và nhận ra là mình có thể làm một chọn lựa tạo ra một hậu quả vật lý và con không thể khắc phục hậu quả đó cho đến mãn kiếp đầu thai này – và thậm chí nó có thể đeo đuổi con trong cả những kiếp sau – thì con bị cú sốc. Con bị chấn động thấy vật chất dày đặc đến như vậy.    

Con hãy lưu ý là điều này không liên quan gì đến sa nhân cùng chấn thương nhập đời mà chúng đã áp đặt lên con. Đó chỉ đơn giản là phản ứng của con trước độ dày đặc quá đỗi của vật chất trên địa cầu, đến độ con có thể gây ra hậu quả mà con không thể dễ dàng tháo gỡ và nó sẽ dây dưa rất lâu. Điều này tạo ra một cái ngã tách biệt phản ứng, qua đó con thường xuyên rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với cõi Mẹ. Con thường cảm thấy là con không thể thoải mái, con không thể an bình trong cõi Mẹ, rằng có một cái gì không ổn với cõi Mẹ, rằng cõi Mẹ không được như vậy.

Con cần bước tới cuộc xoay chuyển cách mạng là con sẵn lòng nhìn vào vấn đề đó và thực sự chấp nhận hành tinh địa cầu như một công cụ giáo huấn cho một bực thang tâm thức nhất định. Cho nên để cung cấp cho con người những bài học mà họ cần học, vật chất cần phải dày đặc như nó vốn dày đặc. Vật chất cần phải ù lì đối với tâm con người như nó vốn ù lì. Bởi vì nếu không, tuyệt đại đa số loài người trên trái đất sẽ không học được bài học của mình.  

Tuy nhiên, là một avatar, con không phải học cùng những bài học mà hầu hết mọi người khác trên địa cầu phải học. Do đó con có khả năng khắc phục, nhưng con sẽ chỉ có thể khắc phục nếu con sẵn lòng nhìn vào vấn đề, nếu con sẵn lòng bước tới điểm con chấp nhận chẳng có gì là không ổn với vật chất.

17.10. Phản ứng của con đối với vật chất

Chính phản ứng của con đối với vật chất đã khiến con nghĩ vật chất có gì đó không ổn. Cho nên việc giải quyết ngã tách biệt này là trách nhiệm của con. Chỉ khi nào con làm vậy thì con mới có thể tự do đón nhận sự hiện thân của mình trong cõi vật lý.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải an bình với sự kiện mình ở trong hiện thân vật lý. Vào thời của Giê-su, việc này khó thực hiện hơn rất nhiều, và đó là vì sao ngay cả Giê-su cũng không làm được hoàn toàn. Trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng đó. Đối với những ai trong số các con muốn ở lại trong hiện thân để đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, điều vô cùng quan trọng là con đạt tới điểm khắc phục được mong muốn thoát ra khỏi nơi đây. Con khắc phục cảm giác là có gì không ổn khi vật chất đang là cái nó là. Con chấp nhận có mặt ở đây, con chấp nhận vật chất như nó vốn là.

Tất nhiên, làm sao con có thể chấp nhận vật chất như nó là nếu con không chấp nhận chính con một cách trọn vẹn, và làm sao con có thể chấp nhận mình trọn vẹn nếu con không vượt qua chấn thương nhập đời? Con thấy tất cả đều ăn khớp với nhau như thế nào. Con thấy tại sao các thày đã không ban ra giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đưa ra giáo lý về chấn thương nhập đời. Khi con là một avatar, tất cả mọi thứ, con yêu dấu, đều xoay quanh chấn thương nhập đời. Như trong thành ngữ thông dụng, đó là con voi to tổ bố nằm chình ình ở đó mà không ai muốn nhắc tới. Có điều, tất nhiên, ngã gốc của con không phải là một con voi và nó cũng không to tổ bố. Nó chỉ là một cái ngã gần như không thực, không đến nỗi khó giải quyết như con tưởng. Đây chỉ là vấn đề sử dụng các dụng cụ, sử dụng các bài tập mà thày đã cho con, để con bước xuống thật sâu qua các khu vườn, rồi bước vào rạp hát và đơn giản nhìn thấy nó [Bài tập này có trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. 

Một khi con xoay chuyển khỏi ngã gốc, con sẽ ngạc nhiên sao chuyện này có vẻ dễ đến thế. Dĩ nhiên, các thày hiểu rõ là con không thể cưỡng ép bằng tâm vỏ ngoài. Con không thể dùng ngã gốc để xoay chuyển ra khỏi ngã gốc.

17.11. Tiếp tục dùng các dụng cụ

Cách con nhìn mọi thứ trên địa cầu, cách con nhìn giáo lý, là xuyên qua phin lọc của ngã gốc. Đó là tại sao các thày đã ban cho con những lời dạy có dụng ý đánh gạt tâm vỏ ngoài của con. Đó là tại sao các thày đã cho con những bài tập có khả năng lần hồi dẫn con tới điểm con có thể thực hiện xoay chuyển đó và nó xảy ra một cách tự nhiên. Con phải sẵn lòng áp dụng các dụng cụ, đi qua nguyên tiến trình. Con phải sẵn lòng mở tâm ra để nhìn thấy một điều gì mà con chưa thấy trước đây, thậm chí thấy cả ngã gốc. Con cần nhận thức là trong cương vị cái Ta Biết, con có khả năng tách mình ra khỏi ngã gốc, và đó là cách duy nhất con có thể thấy nó từ bên ngoài. Đó là cách duy nhất để con thấy nó. Con có các dụng cụ rồi nhé.  

Một lần nữa, con yêu dấu, đừng rơi vào phản ứng bảo rằng: “Ồ, Mẹ Mary nói chúng ta có tất cả dụng cụ nhưng tôi vẫn không thể nhìn thấy ngã gốc. Tôi đang làm gì sai đây?” Đó chính là ngã gốc đang nói chuyện đấy. Một lần nữa, hãy tiếp tục dùng các dụng cụ. Con yêu dấu, nếu con đã mang ngã gốc trong hai triệu năm qua, con không phải tự trách oán nếu con không thể giải tỏa nó trong vòng một tuần sau khi nhận được lời dạy. Có thể con sẽ tốn thời gian, nhưng lâu hay chậm sẽ chẳng quan trọng gì miễn là nó xảy ra. Miễn là nó xảy ra trong kiếp này thì con đã đột phá và hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con như một avatar. 

Với lời này, con yêu dấu, thày muốn tỏ lòng biết ơn đến tất cả các con đã đến tham dự hội nghị này. Không có nghĩa là thày sẽ niêm hội nghị vì đức Phật sẽ làm việc đó, nhưng thày muốn bày tỏ lòng biết ơn của Mẹ đối với sự sẵn lòng của các con, không những đã đến tham dự mà còn sẵn lòng áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền qua bộ sách về ngã gốc, vân vân.

Chắc chắn nếu không có một túc số tới hạn những đệ tử – cả những người có mặt ở đây lẫn những người không có mặt – đã tu tập những lời dạy này, thì các thày đã không thể đưa ra những gì vừa được đưa ra. Thày tin tưởng các con sẽ nhận diện đây là một bước cao hơn. Chắc chắn đây là một bước cao hơn tất cả những lời dạy khác mà con có thể tìm thấy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng. Nó sẽ tạo uy lực cho nhiều người đột phá lên tầng cao hơn rồi nhờ vậy hoàn thành tiềm năng cao nhất của mình. Các thày rất biết ơn đã có thể ban truyền các dụng cụ này. Tất nhiên là các thày đã luôn luôn có thể làm vậy, nhưng các con cũng bắt đầu nhận ra – phải vậy không? – là các thày không thể đưa ra hết những gì mình có. Phải có một tiến trình tương tác qua lại, qua đó chỉ khi nào con người chấp nhận và áp dụng một lời dạy thì các chân sư mới có thể đưa ra lời dạy cao hơn.

Đối với những ai đã có, thì nhiều hơn sẽ được trao cho họ. Đó chính là nguyên tắc của việc nhân ta-lăng lên gấp bội. Các thày biết ơn các con đã nhân ta-lăng để các thày cũng có thể nhân nỗ lực đem lại nhiều hơn. Chẳng phải đây là một điệu vũ tuyệt vời hay chăng?  

19 | Rút không gian khỏi một số điều kiện mất quân bình

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Một vị Phật có thể thêm gì cho cuộc thảo luận về Sứ vụ Thiêng liêng? Có thể có một vài đệ tử của chân sư thăng thiên mang trong Sứ vụ của mình tiềm năng biểu hiện ít nhất một mức độ nào đó của quả vị Phật trong kiếp này. Tuy nhiên, nhiều người đã sẵn sàng biểu hiện quả vị Phật từ các kiếp trước sẽ không cần đến một lời dạy vỏ ngoài, họ sẽ không đi tìm một giáo lý vỏ ngoài hay một vị thày vỏ ngoài. Dẫu sao, thày sẽ vẫn trao cho con một vài ý nghĩ về sự khác biệt giữa quả vị Phật và quả vị Ki-tô.

19.1. Hơi thở ra và hơi thở vào

Mặc dù cách đây không lâu các thày đã có đề cập ở một mức độ nào đó, điều thày muốn trình bày ở đây là quả vị Ki-tô là một hoạt động hướng ngoại hơn. Quả vị Phật là một hoạt động hướng nội hơn. Con có thể nói quả vị Ki-tô là hơi thở ra và quả vị Phật là hơi thở vào. Khi con đến hành tinh này trong tư cách avatar, con ở giai đoạn quả vị Ki-tô. Theo một nghĩa nào đó, con thở ra chính bản thân con để hiện thân trên trái đất.

Nhiều các con hiện đang ở trong giai đoạn hướng nội. Theo một nghĩa nào đó, tất cả các con đều ở trong giai đoạn hướng nội khi con lại hít vào chính bản thân mình cho thoát khỏi đủ loại vướng mắc với thế gian này. Đúng là một số các con, như đã nói, có thể chọn ở lại trong đầu thai hầu đóng góp cho Thời đại Hoàng kim của Saint Germain. Tuy vậy, để đạt tới điểm có khả năng hoàn thành tiềm năng đó, con đang đi qua giai đoạn thở vào, con đang rút mình ra khỏi các vướng mắc vào các hoàn cảnh nghiệp tạo, lựa bỏ ra những điều đang khiến con xao lãng Sứ vụ Thiêng liêng của mình, và trước tiên hết, giải quyết chấn thương nhập đời của con để ở trong một tâm thái trung hòa.

Chúng ta có thể nói, theo một nghĩa nào đó, rằng quả vị Phật và quả vị Ki-tô có thể đơn giản được xem là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình tiến hóa. Như các thày đã giảng nhiều lần, con không cần phải toàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Toàn hảo nghĩa là gì? Theo một nghĩa nào đó, nó có nghĩa là con không cần phải giải quyết hoàn toàn tâm lý của con, kể cả chấn thương nhập đời, để bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều các thày đã bày tỏ là con không nên sợ biểu lộ quả vị Ki-tô, và con cần khởi sự làm vậy mà không nghĩ mình đã đạt đến một giai đoạn tối hậu nào đó. Tất nhiên cũng thế, quả vị Phật – bất kể những gì đã được tôn giáo đạo Phật phóng chiếu ra – cũng không phải là giai đoạn tối hậu. Các thày đã nói, không có gì xảy ra trên trái đất là tối hậu. Ngay cả cõi thăng thiên cũng mang tính liên tục không ngừng, thì làm sao bất cứ gì có thể là tối hậu được? Làm sao sự giác ngộ có thể tối hậu? Làm sao niết bàn có thể là một trạng thái bất biến?

Sẽ tới một điểm khi con đã giải quyết một phần rất lớn của tâm lý mình, kể cả chấn thương nhập đời cùng các ngã tách biệt của con. Con sẽ có thể gọi đó là các giai đoạn cao hơn của quả vị Ki-tô, vì khi đó trong bốn thể phàm của con có rất ít lực kháng cự lại ánh sáng đang tuôn chảy xuyên qua con. Đây cũng là điểm khi con – một số các con, không phải tất cả, vì nhiều người trong các con vẫn muốn năng động trong xã hội – con bắt đầu dời chuyển nhiều hơn vào tâm thức Phật, sự nhận biết của Phật.

19.2. Phật năng động như thế nào

Không phải là Phật không thể năng động trong xã hội. Có lẽ Phật tìm ra một cách khác để năng động trong xã hội. Đây là một điều rất vi tế, rất cá nhân. Con có thể nhìn thấy sự khác biệt trong cuộc đời của Giê-su khi thày hướng ngoại, thày bước ra ngoài, thày gặp mọi người, nhiều khi còn đối đầu với những người đó, trong khi chính Phật đây thì lại thiết lập một đạo tràng và để mọi người đến với Phật. Phần nào, đây là sự khác biệt giữa hai cách tiếp cận.

Theo một nghĩa nào đó, Ki-tô bước ra ngoài cũng giống như khía cạnh hướng ngoại của Thượng đế Cha, giai đoạn lan ra. Còn Phật thì giống như Mẹ, giai đọan hướng nội, co lại. Hơi thở ra và hơi thở vào.

Một số các con sẽ đến một điểm khi con bắt đầu ngộ ra là những gì con làm bên ngoài không còn thật sự quan trọng nữa. Điều này không có nghĩa là con phải rút lui ra khỏi cuộc sống năng động ngoài xã hội, thiết lập một đạo tràng hay sống ở nơi hẻo lánh. Con vẫn có thể sống một “cuộc đời bình thường”, có gia đình, có công ăn việc làm, có một sự nghiệp nào đó, nhưng con làm vậy một cách khác.

Con ngộ ra là các hoạt động vỏ ngoài đó không quy định được con. Chúng không thu hút toàn bộ sự chú ý của con. Nhiều khi trong giai đoạn quả vị Ki-tô, con vô cùng tập trung vào công việc mình đang làm và toàn bộ chú ý của con bị lôi kéo vào đó. Như thể con mê mải trong hoạt động. Khi con đạt đến quả vị Phật, gần như có thể nói là con tham gia vào hoạt động nhưng có một phần trong tâm con không bị hấp thu vào đó.

19.3. Tôi đang ở tầng tâm thức nào?

Vậy thì làm thế nào con đến được giai đoạn đó? Về điểm này, thày muốn khai triển thêm những gì Mẹ Mary vừa giảng về nhu cầu làm hòa với việc mình hiện thân, làm hòa với cõi Mẹ, làm hòa với quyền tự quyết, làm hòa với trình độ tâm thức hiện thời của mình. Có thể sẽ tới một điểm con không còn nghĩ tới chuyện: “Tôi đang ở tầng tâm thức nào đây?”

Con biết đây là một quá trình không ngưng nghỉ. Con biết con đang làm hết sức để nâng cao tâm thức mình. Con không quan tâm đến chuyện con đang đứng nơi đâu trên thang điểm. Con cố gắng mà không cố gắng. Con không đang vật lộn. Thậm chí con không có cả mục tiêu. Con không ở trong một tâm thái so sánh.

Con đang, như các thày đã diễn tả bằng ngôn từ, xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Con đang xuôi chảy với cuộc sống. Con không có cả một mục tiêu rõ rệt để cố hướng tới. Con không có cả một tầm nhìn sáng tỏ về một Sứ vụ Thiêng liêng dường như đang chỉ ra cho con những bước đi mà con phải bước để đạt tới một mục tiêu nhất định. Con gần như chảy theo cuộc sống, và cho dù tình huống nào có ngóc đầu lên, con cũng không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là mình sẽ làm gì. Con chỉ trực nhận rồi con làm theo.

19.4. An bình trong mọi hoàn cảnh

Để thực sự đến được giai đoạn này, con phải thực hiện một trong những cuộc xoay chuyển cách mạng đó, là con an bình với bất kỳ hoàn cảnh nào mình gặp. Có một giai đoạn của quả vị Phật khi con có khả năng thị hiện những hoàn cảnh vỏ ngoài mà con mong muốn. Nhưng để đến được giai đoạn đó, con phải kinh qua một giai đoạn tạm thời, là con nhìn nhận con sẽ không bước qua một tình huống cho tới khi con có thể ở trong tình huống mà không bị dính mắc và nhờ vậy được an bình. Con đã làm hòa với tình huống.

Một khi con giải quyết chấn thương nhập đời và chấp nhận quyền tự quyết, con sẽ có thể làm hòa với bất kỳ hoàn cảnh nào. Con không có vết thương cá nhân nào mà con đang cố bênh vực hay đền bù. Cho nên con có thể để cho mọi người tự do đi vào bất cứ tâm thức nào mà họ đi vào, và họ tự do trải bày ra bất cứ gì họ đang trải bày. Điều này không có nghĩa là nếu người ta hành xử một cách mất quân bình và không chịu thay đổi thì con phải ở lại trong hoàn cảnh đó. Nhưng con cũng không chạy trốn khỏi hoàn cảnh để che chở các vết thương riêng của con.

Con có thể tới điểm con tự nhủ: “Liệu tôi có thể ở trong hoàn cảnh này mà vẫn an bình?” Có, con có thể. Con nhận ra là con có thể. Con đã đạt đến một mức độ toàn vẹn, không dính mắc, nơi con có thể an bình trong hoàn cảnh đó cho dù người khác không an bình. Một khi con đến được chứng ngộ này, con có thể đi bước kế tiếp và tự hỏi: “À, nhưng sự kiện tôi có thể an bình trong tình huống này có nghĩa chăng là tôi muốn ở lại trong tình huống?” Rồi con có thể chọn bước ra khỏi tình huống. Việc này có thể làm phiền người xung quanh vì rất có thể con sẽ không đưa ra được một lý do mà họ có thể hiểu, lý do tại sao con lại bước ra khỏi tình huống đó. Con chỉ đơn giản bước ra.

19.5. Vấn đề giải thích

Con yêu dấu, điều gì đã cầm chân nhiều người không đạt được cái mà các thày gọi là sự không dính mắc của Phật? Đó là họ cảm thấy họ cần phải thực hiện hay phải sống đúng theo một tấn tuồng nào đó, một truyện kể nào đó trong tâm họ. Các thày đã có giảng về những tấn tuồng cuồng đại. Nhiều người trong số các con vẫn còn mang cái ngã tách biệt đã dựng lên một hình ảnh về con người tâm linh mà con phải là. Một phần trong đó là con có một ngã tách biệt cảm thấy cho dù con có làm gì hay chọn làm gì, thì con phải có khả năng đưa ra một lời giải thích tại sao con làm vậy – đặc biệt một lời giải thích phải hữu lý đối với ngã tách biệt đó, có lẽ đối với người khác và thậm chí đối với cả sa nhân.

Nói cách khác, con có một vấn đề giải thích. Con có một cái ngã cảm thấy con phải có thể tự biện hộ, con phải có thể giải thích động lực của con, lý do con làm việc con đang làm. Điều này dính liền với ý tưởng một tấn tuồng cuồng đại hay một cốt truyện mà qua đó như một người tâm linh, con làm một số chuyện và không làm một số chuyện khác. Và con làm những gì con đang làm vì một lý do đặc thù chứ không phải một lý do nào khác. Chắc chắn con không thể làm bất cứ gì mà không có khả năng giải thích lý do tại sao con làm.

Nhiều người không thể bước vào sự không dính mắc của Phật vì ngay trong tâm họ có một câu chuyện phải trải bày ra, họ mang tấn tuồng cuồng đại đó, họ mang cái nhìn đó về một người tâm linh. Họ cảm thấy phải luôn luôn sống trọn với câu chuyện đó, và nếu không làm vậy được thì họ phải có thể giải thích tại sao. Ngay cả khi họ có những quyết định nằm trọn trong hình ảnh của họ thì họ vẫn phải có thể giải thích tại sao họ làm vậy.

Các thày đã nói về điều gì? Về việc con làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ ngụ ở cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ có thể có một động lực để biểu đạt một điều gì đó xuyên qua con. Liệu động lực này có thể biểu đạt qua ngôn từ, đặc biệt những ngôn từ mà một mức tâm thức thấp hơn có thể hiểu được? Các thày đã nói đến việc biểu lộ cá thể Thiêng liêng của con. Cá thể này nằm vượt ngoài thế gian này. Con có nhất thiết đưa ra được một lời giải thích hợp lý, thường tình, dựa trên thực tế và nhân quả về lý do tại sao con biểu đạt một điều gì đó hay không?

19.6. Cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống

Con yêu dấu, có những đệ tử tâm linh, đặc biệt trong thế giới Tây phương, đã tiến bộ đáng kể. Những đệ tử này đã sẵn sàng biểu hiện một tầng mức nào đó của quả vị Phật nhưng họ vẫn chưa khắc phục được ngã tách biệt đó. Nếu con đã lắng nghe những gì các thày nói thì điều các thày thực sự muốn nói là con thử để ý xem có hai tiến trình diễn ra song song trên đường tu tâm linh của con. Có một tiến trình mà các thày đã giải thích, cụ thể là con mang trong bốn thể phàm của con một số vết thương hay chấn thương. Điều này đã tạo ra các phàm linh nội tại, các ngã tách biệt và ngay cả ngã gốc – vẫn chỉ là một ngã tách biệt trong số nhiều ngã khác – và những thứ này nằm trong bốn thể phàm của con. Để hóa giải chúng và được tự do, con phải thực hiện một khía cạnh gần như máy móc là thỉnh cầu năng lượng sẽ biến hóa năng lượng cấu tạo chúng. Con cũng phải làm công việc ý thức là đi sâu vào chúng, nhìn ra niềm tin hay ảo tưởng làm nền tảng cho chúng, rồi một cách ý thức, con chọn một thực tại cao hơn.

Bây giờ điều các thày đang nói là cho dù con đã làm những công việc đó, có thể vẫn còn một cái ngã tách biệt được tạo ra, chẳng hạn, trong khi con bị chi phối bởi chấn thương nhập đời cùng ngã gốc của con. Ngã tách biệt này giờ đây có một cái nhìn về thế nào là con người mà con phải là, thế nào là một người tâm linh mang chấn thương nhập đời đó. Cho dù con đã giải quyết chấn thương nhập đời, con cũng cần giải quyết cái ngã tách biệt đang cầm giữ hình ảnh cho rằng con phải là người như thế nào.

Con cũng có thể diễn tả điểm này một cách khác, cụ thể là có một tiến trình giải quyết tất cả những thứ kia – có thể nói là các chấn thương, vết thương, ngã tách biệt, phàm linh nội tại giống như những thỏi nam châm đang thu hút nhận thức của cái Ta Biết, đang thu hút sự nhận biết cho nó đồng hóa với chúng. Đây là những cái gì rất đặc thù, cá biệt. Nhưng vượt ngoài những thứ đó ra còn có cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Suốt thời gian dài con từng đầu thai, rất có thể là ở một tầng cấp nào đó, con đã mang những vết thương, chấn thương, ngã tách biệt đó. Nhưng có một tầng cấp khác nơi con đã tạo dựng một cách nhìn tổng thể về cuộc sống trên địa cầu và cách con nhìn chính mình trong quan hệ với cuộc sống trên địa cầu.

Đó là một cái ngã tách biệt, nhưng có lẽ sẽ hữu ích nếu con nghĩ bao quát hơn và thấy đó là cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Nhiều người trong các con, đặc biệt nếu con đã lớn lên trong thế giới Tây phương, mang một tư duy rất đường thẳng cho rằng luôn luôn có nhân và có quả. Đối với con, điều này có nghĩa là mỗi khi con làm việc gì thì đó là quả. Vi vậy con phải có một lý do mà con có thể giải thích cho người khác, đặc biệt những ai bị tác động bởi việc làm của con. Con cũng phải có một lý do mà con có thể giải thích cho chính mình, kể cả tâm vỏ ngoài, thậm chí các ngã tách biệt của con. Nếu con không thể giải thích thì nhất định sẽ có một ngã tách biệt nào đó, có lẽ mấy cái ngã tách biệt, sẽ chất vấn việc con đang làm, có lẽ còn buộc tội con đã làm gì sai trái.

Cũng có thể có những người khác và tất nhiên là sa nhân cũng đang truyền bá trong tâm thức tập thể cách nhận thức chung chung là con luôn luôn phải có một lý do, và lý do này phải thỏa đáng theo một tiêu chuẩn nhất định. Nếu con là người Công giáo thì có những điều người ta chờ đợi con phải làm. Nếu con không làm hay làm cách khác, con phải có khả năng giải thích – và nếu thế, may ra con vẫn được phép làm vậy. Chắc chắn nếu con làm điều gì không thể chấp nhận và con không thể giải thích, thì con sẽ bị lên án. Điều tương tự cũng xảy ra trong hầu hết mọi môi trường khác trên địa cầu, ngay cả các tổ chức tâm linh và Thời Mới, thậm chí – như các thày đã đề cập – các tổ chức của chân sư thăng thiên trong quá khứ đã có một xu hướng phán xét lẫn nhau vô cùng mạnh mẽ.

Điều thày muốn nói là sẽ tới một điểm khi con bắt đầu bước vào quả vị Phật, con có thể được lợi lạc nếu con xem xét quá trình này, xem xét cái nhìn tổng thể của con về cuộc sống. Sau đó con sẽ có thể nói: “À, có một khái niệm là khi tôi làm việc gì, tôi phải có một lý do mà tôi có thể giải thích, nhưng tại sao tôi phải làm vậy chứ? Tại sao tôi phải tự biện hộ? Tôi là một sinh thể độc lập với quyền tự quyết y như mọi người. Tôi gần như hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của người khác. Chẳng phải là tôi cũng phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của tôi hay sao, và như vậy tôi có thể nói là tôi không có bổn phận giải thích tại sao tôi làm? Thậm chí tôi không cần giải thích cả cho chính mình. Nếu tôi hành động theo sự thôi thúc từ Hiện diện TA LÀ của tôi, tại sao tôi phải biện minh và giải thích để tâm đường thẳng có thể nhét nó vào hệ thống tin tưởng mà nó đã bị nhồi sọ trong kiếp này lẫn nhiều kiếp trước? Tôi chẳng có thể nhìn vào tâm này hay sao, xem nó là một ngã tách biệt, và hơn thế, còn xem nó là một cái nhìn tổng thể về cuộc sống mà tôi đã bước vào?” Rồi con nói: “Tôi không muốn tuân theo thế giới quan này, hệ thống tin tưởng này nữa. Tôi không muốn đóng vai trong tấn tuồng cuồng đại này nữa. Tôi không muốn kéo dài truyện kể cá nhân về con người mà tôi phải là trong vũ trụ vật chất này nữa. Tôi sẵn sàng đập tan hàng rào và bước vượt ra ngoài.”

19.7. Cầm giữ không gian trên địa cầu

Đây là những giai đoạn cao nhất của quả vị Ki-tô. Đây là những giai đoạn của quả vị Phật, những giai đoạn sơ khởi. Những ai trong số các con cần đi qua giai đoạn này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình có thể dùng lời dạy này để nhanh chóng bước qua tiến trình đó. Khi con tới điểm sẵn sàng làm một việc mà con không thể giải thích, không thể biện hộ theo một cách để người khác có thể hiểu và chấp nhận, hay để tâm vỏ ngoài của con có thể hiểu và chấp nhận, thì con sẽ trải nghiệm một tầng cấp tự do mới. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con sẽ làm một số chuyện ngông cuồng vỏ ngoài, mà có nghĩa là ở bên trong, con sẽ cảm nhận một tự do mới. Điều này có thể dẫn con đến một giai đoạn khi con suy nghiệm ý nghĩa thực sự của việc là Phật trong hiện thân, hay việc đạt đến một mức độ tâm thức Phật khi con còn đầu thai. Về điểm này, thày sẽ giảng thêm. Mặc dù thày vẫn biết chỉ có một số ít người sẵn sàng nắm bắt được, thày cảm thấy việc truyền rải lời dạy này trong bát cung vật lý là quan trọng.

Người ta bảo rằng đức Phật cầm giữ không gian cho địa cầu. Trách vụ của thày trong Đại đoàn Thăng thiên là Chủ tể Thế gian (Lord of the World) nơi thày ngồi như đức Phật và cầm giữ không gian. Thật khó lòng diễn tả bằng ngôn từ nhưng con có thể nói thế này: Trong Ánh sáng Mẫu-Vật và ngay trong chính không gian, có sẵn một cơ chế khiến cho một số biểu hiện có thể rất nhanh chóng tạo thành một vòng xoắn ốc hướng hạ tự nó tăng cường, và chẳng hạn đối với một hành tinh, xoắn ốc này có thể khiến cho hành tinh tự hủy diệt.

Về cơ bản, ở đây chúng ta có thể nói là nếu không có gì giảm bớt hiện tượng trên thì những hành tinh nơi sa nhân đã đầu thai sẽ rất nhanh chóng tự hủy diệt. Các hành tinh này sẽ rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ và đơn giản sẽ bị năng lượng làm nổ tung. Điều xảy ra trong quá trình này không hoàn toàn giống như quá trình lỗ đen (black hole) nhưng con có thể dùng lỗ đen để minh họa. Con cũng biết là trong một lỗ đen khi con vượt quá một chân trời nhất định, các định luật tự nhiên sẽ ngưng hoạt động. Nói cách khác, nếu một hành tinh bị suy thoái đến mức đó, không gian sẽ co lại và hành tinh sẽ sụp vào bên trong. Vậy Phật làm gì? Phật ngồi đó nơi cõi thăng thiên, cầm giữ sự quân bình tâm linh và ngăn chặn không cho không gian – là không gian trong đó địa cầu có thể tồn tại – bị co lại và sụp xuống để biến thành một điểm dị biệt (singularity).

Chúng ta có thể giải thích điều này cách khác. Mặc dù mọi thứ đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật (mỗi cấu trúc mà con thấy trên địa cầu đều được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật) nhưng không một cấu trúc nào có thể hình thành trừ khi có một khoảng trống để nó hình thành trong đó. Trước khi một hành tinh được các Elohim tạo dựng, trước hết không gian phải được khoanh tròn cái đã, rồi sau đó Ánh sáng Mẫu-Vật mới có thể tạo ra các cấu trúc sẽ lấp đầy khoảng không gian đó. Đức Phật cầm giữ không gian. Các Elohim tạo ra địa cầu, rồi các sinh thể cứ thế mà hiện thân và tùy ý sử dụng địa cầu.     

Ở một thời điểm đã có quyết định là trái đất sẽ là một hành tinh nơi sa nhân được phép đầu thai, cho nên lúc bấy giờ cần đến một sinh thể với tâm thức Phật có khả năng cầm giữ không gian cho trái đất hầu trái đất không bị co sụp lại. Tất nhiên, vị Phật đó không phải là thày vì khi đó thày chưa thăng thiên, nhưng hiện nay đây là trách vụ thày đang đảm nhiệm. Thuở đó có một vị Phật khác cầm giữ không gian, cũng như đã có nhiều vị Phật khác kể từ đó đến nay.

Sẽ tới một điểm khi con đạt được một tầng mức nào đó của quả vị Phật thì con sẽ không chỉ bắt đầu hiểu được khái niệm này một cách trí thức, mà con sẽ bắt đầu trải nghiệm thực tại này bên trong bản thân con. Sau đó con sẽ ngộ ra là khi con đạt đến một mức tâm thức Phật trong khi mình còn đầu thai vật lý, con có khả năng hình thành một dòng chảy hình số 8 với thày, với đức Phật mà thày là. Con thấy đó, trong tư cách là Phật, thày nguyện cầm giữ không gian cho trái đất để tất cả chúng sinh đầu thai trên trái đất có thể làm bất cứ gì họ muốn với quyền tự quyết của họ mà không khiến cho trái đất sụp đổ.

Hiển nhiên, con là một trong những sinh thể đang đầu thai trên trái đất, cho nên con có thể nhận ra một điều sâu xa ở đây. Tại sao trên địa cầu lại có chiến tranh? À, trong nhãn quan rộng lớn, chính thày đang cầm giữ không gian cho phép sa nhân gây chiến. Có phải chỉ sa nhân mới quyết định có chiến tranh trên trái đất? Không, không đâu con. Trên trái đất có chiến tranh là vì loài người đầu thai đang cho phép trong tâm họ, trong bốn thể phàm của họ và trong tâm thức tập thể, có một khoảng không gian nơi chiến tranh có thể hiện hữu.

Nói cách khác, thày đang cho phép không gian tồn tại trong ý nghĩa rộng lớn, nhưng thật ra những gì được biểu hiện trong cõi vật lý đòi hỏi phải có những người đầu thai cung cấp khoảng không gian trong tâm họ để chuyện này xảy ra. Sự kiện thày cầm giữ không gian không có nghĩa là phải có chiến tranh trên địa cầu. Cho nên chiến tranh chỉ có mặt khi những người đang đầu thai cho phép nó xảy ra. Điều con có thể khởi sự làm (khi con đạt đến những tầng đó của tâm thức Phật) là nhìn nhận rằng bởi vì con đang đầu thai vật lý, bởi vì con đã đạt đến mức độ không dính mắc giúp con không còn tìm cách trải bày ra một câu chuyện cá nhân hay một tấn tuồng cuồng đại, cho nên con đang ở trong một trạng thái tâm thức không dính mắc, không ràng buộc. Và vì con không bị ràng buộc cho nên con có sự tùy chọn để quyết định rút lại không gian khỏi một số biểu hiện nhị nguyên.

Thày không khuyên con bắt đầu ngay với chiến tranh vì đó là một vấn đề to lớn, nhưng thày đề nghị con hãy tìm một biểu hiện nào hấp dẫn đối với cá nhân con. Xong con hãy trước hết suy ngẫm điều đó, con rút lại không gian khỏi biểu hiện đó trong bốn thể phàm của con, nhưng sau đó con có thể bắt đầu mở rộng tầm hoạt động, con lần hồi đạt tới điểm con rút không gian khỏi tâm thức tập thể.  

19.8. Một vị Phật có thể làm được bao nhiêu

Thày sẽ nói với con là chỉ một người với tâm thức Phật cũng có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó – không phải chiến tranh, bởi vì nó sẽ đòi hỏi nhiều người hơn với tâm thức Phật. Nhưng trong các lãnh vực khác không mang động lượng mạnh mẽ, quả thật con có thể rút lại không gian. Chẳng hạn, rất có thể sẽ chỉ cần một người với đủ trình độ quả vị Phật để rút không gian khỏi tệ nạn ấu dâm, có nghĩa là không một kẻ ấu dâm nào sẽ có thể đầu thai trên địa cầu sau thời hạn đó.

Tuy nhiên có một số lãnh vực nơi một vị Phật duy nhất không thể thay đổi tình thế, nhưng bằng cách rút lại không gian, con sẽ tạo dễ dàng cho đủ số người đi đến quyết định: “Chúng tôi không còn muốn biểu hiện này trong xã hội chúng tôi hay trên hành tinh chúng tôi nữa.” Và khi chúng ta ngày càng bước sâu hơn vào Thời đại Hoàng kim, thì nhận thức toàn cầu sẽ ngày càng nâng lên – và con đã bắt đầu thấy sự tăng trưởng này rồi đó, nhưng nó sẽ còn tăng trưởng hơn nữa. Rồi sẽ tới điểm khi loài người nhận ra là những gì chúng ta cho phép biểu hiện trên hành tinh là thẩm quyền quyết định của chúng ta. Đó là lúc một vị Phật đang hiện thân có khả năng rút không gian khỏi một biểu hiện nào đó, và việc này sẽ tạo rất nhiều dễ dãi cho một túc số tới hạn những con người tiến tới quyết định vỏ ngoài: “Chúng ta muốn hành tinh này không còn bóng dáng tệ nạn nô lệ, buôn người, lạm dụng ma túy, hay thao túng nền kinh tế, tất cả những biểu hiện đó.” Và cuối cùng, có thể động lượng sẽ mãnh liệt đến độ sẽ có đủ số người quyết định là chúng ta muốn hành tinh không còn bóng dáng chiến tranh nữa. Điều này có thể xảy ra. Nó sẽ xảy ra.  

Con thấy đó, con yêu dấu, đây là một số lời dạy cho một số các con. Nhiều người trong các con sẽ có thể bỏ nó qua một bên. Nhưng thày đề nghị con đừng bỏ qua cái ý tưởng là tuy con có thể giải quyết ngã gốc cùng các ngã tách biệt khác của con, nhưng vẫn còn thiếu một cái gì, đó là sự xoay chuyển trong thái độ toàn diện của con, trong cách con nhìn chính mình.

19.9. Những người không tiến bước

Nếu con nhìn vào các phong trào tâm linh, con sẽ thấy trong nhiều trường hợp có những người đã tham gia một phong trào, đã đi theo một giáo lý và ngay cả đã áp dụng giáo lý và tu tập một số kỹ thuật suốt nhiều thập niên. Họ có tầm hiểu biết to lớn về đường tu tâm linh, một tầm hiểu biết trí thức và đường thẳng. Thậm chí họ còn có thể dựng lên một nhân cách vỏ ngoài biết “đi đứng đúng điệu, nói năng đúng điệu” và hành xử như một người tâm linh. Vì vậy họ có thể tỏ ra rất tâm linh, hài hòa, cân bằng và tự chủ. Nếu con nhìn với con mắt nội tâm, con sẽ thấy tất cả chỉ là vỏ ngoài. Họ đã không thật sự thay đổi cái nhìn tổng thể về cuộc sống và về chính họ. Thật sự có thể nói là nếu nghĩ theo cách 144 tầng tâm thức, có những người có thể đã theo giáo lý của chân sư thăng thiên hàng 30 năm trời nhưng họ chỉ vươn lên được từ tầng 60 đến tầng 68 chẳng hạn, trong khi họ có tiềm năng vươn lên cao hơn rất nhiều trong thời gian đó. Tại sao họ không lên cao hơn được? Đó là vì cái nhìn tổng thể của họ về bản thân đã không chuyển đổi. Họ đã không sẵn lòng bước qua cuộc xoay chuyển cách mạng đó.

Như thày có nói, có một số người đã không tiến bộ cho dù họ đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài. Cũng có một số người khác đã làm tất cả những thứ vỏ ngoài, và một cách nào đó, họ đã chứng đạt một mức tâm thức nào đó, nhưng họ đã không xoay chuyển cái nhìn tổng thể về cuộc sống cho tới mức chấp nhận được là họ đã tiến bộ. Như sứ giả này một số năm về trước đạt tới điểm ông nhận ra là một phần tự ngã của ông muốn cảm thấy mình là một đệ tử tâm linh cao cấp, nó muốn tự hào về chuyện này. Ông nhận ra là để tránh cảm thấy tự hào, ông không dám thừa nhận là mình đã tiến bộ. Ông phải kinh qua một quá trình tự nhủ rằng: “Tôi có tin là các giáo lý tâm linh hiệu nghiệm hay không? À, nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và nếu tôi đã áp dụng giáo lý từng nấy năm trời thì tôi đã phải có tiến bộ. Vì nếu giáo lý hiệu nghiệm thì tôi phải tiến bộ. Và nếu tôi không tiến bộ, tại sao tôi cứ mất công áp dụng giáo lý làm gì? Và nếu tôi không tin giáo lý hiệu nghiệm, tại sao tôi lại mất công áp dụng giáo lý? Nếu tôi tin giáo lý hiệu nghiệm và tôi đã áp dụng giáo lý, thì bắt buộc tôi đã phải có tiến bộ. Nhìn nhận điều này có gì sai trái đâu?”

19.10. Chấp nhận con có thể là một công cụ

Ông trải qua một cuộc xoay chuyển khi ông thừa nhận là ông đã có một số tiến bộ, và đó chính là tại sao ông đã có thể đồng ý khi Giê-su đến gần ông và nói: “Con có sẵn lòng làm điều này cho thày không?” Ông đã có thể chấp thuận: “Thưa vâng, có lẽ quả thật con có thể là một công cụ.” Điều này cũng áp dụng cho con. Nhiều người trong các con đã tu tập, đã tiến bộ, nhưng vẫn còn một sự xoay chuyển mà con chưa trải qua cho nên con không thể nhận công việc đó.

Có những đệ tử. mặc dù đã học giáo lý và dường như cũng đã tu tập, vẫn chưa thực sự xoay chuyển tâm thức ở bên trong. Điều họ đã làm vỏ ngoài là họ đã tạo dựng cái nhân cách cho rằng họ là người tâm linh, cho nên họ tưởng là họ đã chứng đạt nhiều hơn thực tế. Song con có một số đệ tử đã kinh qua những bước tiến nội tâm nhưng họ lại có một nhân cách vỏ ngoài không cho phép họ nhìn ra điều đó, cho nên họ không công nhận bước tiến của họ.

Tất nhiên, đa số các con đều thuộc loại đệ tử đã có tiến bộ, con đã tu tập nhưng con chỉ đơn giản không dám nhìn nhận chuyện này. Con đã không dám đứng lui lại để thấy có một loại ngã tách biệt ngăn cản con nhận ra mình đang đứng ở đâu trên đường tu và tiềm năng của con là gì ở mức hiện tại của mình.

Điều này áp dụng cho hầu hết các con. Con có thể được lợi lạc nếu con suy ngẫm điểm này và sẵn lòng xoay chuyển và nhìn nhận: “Tôi là một đệ tử đã tiến khá xa trên đường tu. Tôi đã phần nào trưởng thành. Tôi có một số chứng đạt tâm linh cho nên tôi có khả năng làm cánh cửa mở. Tôi có khả năng phụng sự. Tôi có khả năng vun bồi sự hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Tôi biết được bước kế tiếp của tôi trong Sứ vụ Thiêng liêng. Tôi thực sự có khả năng làm gì đó trên địa cầu, không phải vì tôi là tác nhân mà vì tôi có thể đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ của tôi và cống hiến một cái gì chính đáng, có giá trị, đáng trân trọng, xây dựng và tốt đẹp.”

Bao nhiêu người trong các con đã dám nhìn nhận điều này nơi bản thân mình? Con yêu dấu, Thánh linh, Hiện diện TA LÀ của con, các chân sư thăng thiên, tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu con cứ nhất định bám giữ một cái nhìn hạn chế về chính mình, tất nhiên các thày sẽ không áp đặt lên con và buộc con làm cánh cửa mở. Các thày không thể đạp cửa cho nó mở ra, mà chỉ có con mới có thể mở cửa. Nhiều các con có khả năng làm cuộc xoay chuyển này rất nhanh chóng, con chỉ cần cả gan chấp nhận là mình đang ở một mức của đường tu – thật không quan trọng đó là mức nào – nơi con có thể là cánh cửa mở một phần nào đó. Thế thì con hãy dám đảm nhận điều này, hãy dám biểu lộ nó. Con hãy bình an với nó. Bình an với bất kỳ phản ứng nào mà con có thể nhận từ môi trường chung quanh.

Con yêu dấu, đây là bài giảng mà thày đã muốn đem lại. Thày cũng muốn cảm ơn con đã có mặt ở đây. Thày bày tỏ lòng biết ơn đối với những ai sẽ học hỏi những lời dạy này, áp dụng lời dạy, áp dụng các dụng cụ và như vậy bắt đầu nắm bắt được các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình và cả gan đem ra thực hiện. Với lòng biết ơn của Phật, thày niêm con và thày cũng niêm hội nghị này. Bình an của thày sẽ luôn luôn ở bên con – bất cứ khi nào con muốn!

7 | Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Thày mong muốn nói chuyện với con về đề tài quả vị Ki-tô và mối liên hệ với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Các thày đã giảng dạy cho con về điều mà chúng ta có thể gọi là “giai đoạn công phu” (work phase) trong Sứ vụ của con. Khi con bước vào kiếp đầu thai – nếu con là một học trò tâm linh già dặn – con biết là con có một số công việc cần làm liên quan đến việc cân bằng nghiệp quả, thu nhận sáng ngộ và kinh qua những trải nghiệm sẽ xoay chuyển tâm thức của con. Là một học trò tâm linh chín chắn hơn, thường khi con sẽ dự định hoàn tất sớm sủa giai đoạn công phu này trong đời mình hầu con có thể tiến bước tương đối nhanh chóng và chuyển sang các giai đọan khác của Sứ vụ Thiêng liêng.

7.1. Làm cho xong giai đoạn công phu

Điều xảy ra khá thường là trong những thập niên đầu trong đời, các con thường rất bận rộn, miệt mài trong các mối quan hệ, trong việc nuôi con, kiến tạo sự nghiệp, bỏ sức ra làm việc… tất cả những thứ đó. Như thể đó là một chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) mà qua đó con cảm thấy mình phải làm tất cả những thứ đó và phải làm ngay lập tức. Thật ra đó cũng không đến nỗi là ám ảnh vì đơn giản con chỉ mong muốn làm cho xong hầu con có được tâm trí minh mẫn, có lẽ một cơ hội trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình, để con tập trung nhiều hơn vào các giai đoạn sau.

Đối với đa số các con, một cách để cân bằng nghiệp quả là qua các mối quan hệ. Đó là tại sao con thường thấy người ta lập gia đình khá sớm và cũng có con khá sớm. Có thể con sẽ có nhiều hơn một mối quan hệ. Đó có thể là những quan hệ rất nồng nàn mãnh liệt. Đây là một trải nghiệm con muốn kinh qua nhanh chóng. Con rất muốn bước qua nhanh chóng mặc dù con không hiểu điều này một cách ý thức.

Đối với nhiều người, một giai đoạn khác sẽ đến, thường là khi con tìm ra một giáo lý tâm linh. Con nhận ra là có một con đường tâm linh và con cất bước trên con đường đó. Rất nhiều người cũng trở nên vô cùng nhiệt tình và chuyên tâm khi bước đi trên con đường này. Cho dù giáo lý tâm linh là gì, họ cũng học tập một cách háo hức, thực hành bất kỳ dụng cụ hay kỹ thuật nào được ban truyền. Gần như có thể nói là họ làm vậy một cách ám ảnh cưỡng chế, bởi vì đây là điều họ cần làm để vươn lên một mức tâm thức cao hơn, một tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình.

7.2. Không cần tiếc nuối

Một kết luận con có thể rút tỉa từ hiểu biết trên là tất cả các con tuyệt đối không có lý do gì để cảm thấy bất kỳ loại tiếc nuối hay cảm giác tiêu cực nào về những điều mình đã kinh qua trong đời mình. Con có thể nhìn lại đời con và con có thể xét đoán với tâm vỏ ngoài là rất nhiều chuyện con đã kinh qua không hẳn là tâm linh. Những chuyện đó không mấy hài hòa mà lại quá sôi nổi, nồng nhiệt. Con có thể nhìn lại rồi tiếc nuối: “Ước gì tôi đã không làm điều đó.”

Con yêu dấu, tại sao con làm những việc con đã làm? Con đã kinh qua trải nghiệm đó vì đó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho dù nó mang ý nghĩa gì đối với cá nhân con, con đã cần đến trải nghiệm đó để hoàn tất cái mà các thày gọi là giai đoạn công phu trong Sứ vụ Thiêng liêng. Các thày cũng có thể gọi đó là giai đoạn chuẩn bị, vì con đang chuẩn bị bản thân cho giai đoạn sáng tạo hơn trong Sứ vụ của con. Như các thày đã nói, con đơn giản nhận ra là con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó trong kiếp này nhưng con đã bước vào kiếp này ở một mức tâm thức thấp hơn. Cho nên con muốn xoay chuyển tâm thức càng nhanh càng tốt để có thể vươn lên những tầng cao hơn. Chỉ khi nào con đến được những tầng cao hơn đó thì con mới bắt đầu nhìn thấy những khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ của con.

Điều các thày đã nói là con không thể thực sự dời chuyển tâm thức của mình một cách lý thuyết và trí thức. Con cần có một số trải nghiệm để dời chuyển tâm thức. Tại sao con làm những việc con đã làm? Vì trong tiềm thức, con biết là con cần đến những trải nghiệm đó. Con muốn có trải nghiệm đó càng mau sớm càng tốt để con có thể dời chuyển tâm thức của con.

Con yêu dấu, cho dù các trải nghiệm đó là gì thì một cách nào đó, chúng cũng đã chuyển dời tâm thức của con. Thày biết là hầu hết các con sẽ nhìn lại đời mình và nói: “Nhưng cũng đã có một số trải nghiệm khó khăn đến độ tôi bị rơi vào một vòng xoáy tiêu cực, và trong nhiều năm trời, nó đã khiến tôi bị trầm cảm hay bị xáo trộn hay bị khổ tâm.”

7.3. Dời chuyển ra khỏi tiếc nuối

Vâng, con yêu dấu, nhưng khi con sẵn lòng nhìn ngược lại và sử dụng các dụng cụ thày đã ban cho con, thì con sẽ có thể khắc phục nó và thực hiện cuộc xoay chuyển mà con đã trù liệu cần xảy ra qua trải nghiệm đó. Và một khi con xoay chuyển, con yêu dấu, trải nghiệm sẽ không quan trọng nữa. Thày cũng biết là một trải nghiệm đau thương có thể tích tụ năng lượng trong bốn thể phàm của con. Tuy nhiên, con đã có các dụng cụ để chuyển hóa nó và nhờ vậy để cho nó ra đi. Nhiều lần, con yêu dấu, con không nhận ra là khi con có trải nghiệm như vậy, con đã phản ứng ở mức tâm thức của con vào lúc đó. Giờ đây khi con đã nâng cao tâm thức thì con nhìn lại quá khứ với đôi chút hối tiếc. Có thể là từ cảm nhận của người học trò tâm linh mà con muốn trở thành, con đã không nên làm điều đó. Con yêu dấu, cảm giác nuối tiếc đó – khi con tự trách móc hay xấu hổ – xuất phát từ một cái ngã nội tại thường là một thành phần của tập hợp ngã gốc.

Nếu con có thể nhận diện là con đang nhìn lại quá khứ với lòng nuối tiếc hay cảm giác tiêu cực, thì con cần biết đó là một cái ngã nội tại. Đó là một ngã tách biệt và thật ra nó có thể phần nào được tạo ra bởi một giáo lý tâm linh mà con đã tiếp nhận. Vì một lý do nào đó, con đã diễn giải giáo lý đó và con đã tạo ra cái ngã đang trách móc ngã, đang cảm thấy xấu hổ như thể mình không đủ tốt, và cảm thấy (như nhiều các con có thể cảm thấy) rằng một người tâm linh đích thực đã không thể nào làm chuyện đó – nhưng chính con lại làm chuyện đó. Con cho rằng sự kiện con hành xử như vậy có nghĩa là bây giờ con đã vĩnh viễn đánh mất cơ hội, con sẽ không bao giờ chuộc lỗi được trong kiếp này và do đó kiếp này bị lãng phí. Con không thể làm gì khác hơn là ngồi đó trong buồng tối mà khóc cho đến mãn kiếp.

Con yêu dấu, thày có vẻ đang nói đùa, nhưng những ai cảm thấy mình đã làm chuyện gì tồi tệ đến độ mình không thể là người tâm linh chân chính, thường nghĩ là mình không thể nào đến gần các chân sư thăng thiên, bởi vì chắc chắn các thày sẽ lên án con y như con đang lên án chính mình. Biết bao nhiêu lần các thày đã nói với con là các thày không nhìn con như con nhìn chính con? Các thày không trách móc con như con đang tự trách mình.

Điều thày muốn nói với con ở đây là như sau: “Con yêu dấu, đừng bao giờ cho rằng một chân sư thăng thiên sẽ lên án con về bất cứ điều gì con đã làm.” Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất – là giải thoát con. Các thày sẵn sàng giúp con giải thoát khỏi bất cứ gì từ quá khứ của con.

7.4. Quả vị Ki-tô và tha thứ

Đây là một trong những khía cạnh của quả vị Ki-tô. Khi con bắt đầu có khả năng mà các thày gọi là phân biện Ki-tô, con sẽ đạt tới điểm trải nghiệm là mình có thể được tha thứ, được cứu chuộc. Con có khả năng khắc phục, vươn lên cao hơn bất cứ gì đã xảy ra trên trái đất này. Thật ra thày có thể nói với con là có nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, thậm chí cả những người đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist), đã hiểu rõ điều này hơn cả nhiều người trong phong trào Thời Mới hay học trò của chân sư thăng thiên. Phần nào, đó là vì những người Cơ đốc đó không mang khái niệm là do họ bước trên đường tu cho nên họ cần nắm trách nhiệm xem xét tâm lý của mình và buông bỏ những gì cần buông. Dù vậy, họ vẫn trải nghiệm được thực tại là Ki-tô có khả năng cứu chuộc họ khỏi mọi tội lỗi, và họ chấp nhận như thế.

Nhưng các con thì khác, các con có một mức độ trách nhiệm cao hơn về bản thân. Điều này rất tốt, nhưng con cần nhận ra là trong con có một cái ngã tách biệt đã chụp lấy tinh thần trách nhiệm này và biến nó thành tiêu cực bằng cách khiến con nghĩ mình luôn luôn phải toàn hảo. Con nghĩ có một số chuyện đáng lẽ con đã không được làm và con sẽ không thể được tha thứ hay cứu chuộc. Nói cách khác, con sẽ không bao giờ vượt lên cao hơn cái đó.

Tất nhiên, ngã đó dựa trên sự kiện là ngay từ khi sa nhân bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã phóng chiếu vào tâm thức tập thể ý tưởng là có một số chọn lựa tự quyết của con sẽ không thể được khắc phục qua những chọn lựa khác hơn. Một lần nữa như các thày đã giảng nhiều lần, quyền tự quyết cho phép con chọn lựa bất cứ gì con muốn bất cứ lúc nào – có nghĩa là bất cứ lúc nào, con cũng có thể lấy một chọn lựa sẽ hoàn toàn thay thế chọn lựa cũ. Không bao giờ con lấy một chọn lựa mà không có khả năng tránh khỏi hậu quả của nó qua một chọn lựa mới. Đấy, thày biết rất rõ là ngay lập tức sẽ có một phần trong bản thể con phản bác lại là trong bát cung vật lý, có thể vào thời trẻ con đã có những chọn lựa mang lại hậu quả mà con không thể thay đổi chỉ qua một chọn lựa mới.

7.5. Điều kiện vật chất không thể ngăn cản tâm thức xoay chuyển

Phải, con yêu dấu, điều đó đúng. Tuy nhiên, bao nhiêu lần các thày đã nói với con là không có một điều kiện vật chất nào mà con có thể đem theo con lên cõi thăng thiên? Do đó, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con thăng thiên. Cũng vậy, không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con cứ tiến lên tới tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng, vì thật sự không có một điều kiện vật chất nào có thể ngăn cản con xoay chuyển tâm thức của con. Chính sự chuyển đổi tâm thức sẽ đưa con tới mức có thể thăng thiên.

Điều này dẫn con tới điểm con có thể bước vào các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng. Tất cả chỉ là vấn đề dời chuyển tâm thức. Con nhìn nhận là một mặt, do độ dày đặc của cõi vật chất, một số nguyên tắc cơ học sẽ vận hành ở đây. Có một số việc con làm mang hậu quả có thể sẽ tồn tại trong suốt phần đời còn lại của con – điều này hoàn toàn đúng. Nhưng nó không thể giới hạn con tăng triển tâm thức. Đây là điều mà con khởi sự trải nghiệm khi con bắt đầu có phân biện Ki-tô, và con mở tâm ra để thực sự nắm bắt, trải nghiệm, khía cạnh này của Ki-tô – là Ki-tô đấng Cứu chuộc theo cách gọi của người Cơ đốc giáo. Con có thể gọi một tên khác. Con có thể gọi đó là Ki-tô với khả năng nâng con lên cao hơn bất cứ gì của quá khứ, hay Ki-tô với khả năng biến con thành mới, như ngay cả Paul cũng bảo: con trở thành một sinh thể mới trong Ki-tô.

Đây là một sự xoay chuyển quan trọng mà con có thể thực hiện khi con nhận ra có sa nhân hiện diện trên hành tinh. Chúng ngăn chặn con một cách rất hung hãn để con không đạt tới các giai đoạn cao trong Sứ vụ Thiêng liêng, đặc biệt là việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Công cụ chính của chúng là phong chiếu ý tưởng là con có thể có một số chọn lựa mà con sẽ không bao giờ vượt qua nổi. Đây là một lời gian dối tuyệt đối, hoàn toàn đi ngược lại khái niệm tự quyết. Vì thế con cần có phân biện này. Và đến đây, con yêu dấu, chúng ta chuyển sang một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô, hay phân biện Ki-tô, mà nhiều người trên thế giới vẫn chưa thực sự nhìn thấy.

7.6. Con không cần một vị cứu tinh từ ngoài

Một lần nữa, đây là vì các sa nhân đã làm đủ mọi cách để phá hỏng sứ mạng mà thày đã khởi xướng cách đây 2000 năm. Chúng đã làm mọi cách để khiến mọi người hiểu lầm khái niệm Ki-tô. Với việc thành lập Giáo hội Công giáo và kể từ đó, chúng đã phóng chiếu hình ảnh Ki-tô là một đấng cứu tinh sẽ đến cứu con trong tư cách một lực bên ngoài. Và do đó con không có uy lực bên trong, hay khả năng ở bên trong, để nâng cao tâm thức mình cho tới mức có thể thăng thiên.

Đây là một sự lật ngược toàn diện thông điệp mà thày đã ban truyền. Một lời xuyên tạc hoàn toàn. Cho nên như thày có nói, hầu hết các giáo hội Cơ đốc ngày nay rõ ràng đều dựa trên những lời gian dối của phản Ki-tô – ngay từ thời thành lập, nhưng đây là một vấn đề bên lề.

Điều thày muốn đưa ra là như sau: Không có điều gì từ quá khứ mà con không thể khắc phục khi con nhận ra rằng Ki-tô không phải là một cứu tinh bên ngoài. Ki-tô không ở ngoài con; Ki-tô chỉ có thể đến bên trong con. Nếu con muốn thấy Ki-tô như một cứu tinh thì Ki-tô là vị cứu tinh nội tại. Do đó, con yêu dấu, con cần nhìn nhận là con có khả năng thực sự vượt qua tất cả mọi sự việc của quá khứ, nếu con sẵn lòng nhìn vào bản thân và phát hiện trong con cái ngã tách biệt bị dính mắc với quá khứ.

Chẳng hạn, nhiều người trong các con đang bước trên đường tâm linh và đã nhận trách nhiệm về bản thân mình, các con có một cái ngã nội tại bảo rằng con phải cư xử thế nào như một học trò tâm linh. Con yêu dấu, có một tâm thức rất, rất hung hãn trên thế giới – một lần nữa, do sa nhân tạo ra cách đây hàng ngàn năm và trước đó nữa – muốn quy định những lằn ranh, những cách xét đoán, những chuẩn mực về cách hành xử của con người. Một phần của quả vị Ki-tô là đạt đến nhận thức là con không thể chứng được các giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng bằng cách tuân thủ những tiêu chuẩn nội tại đó mà con đã tạo ra cho bản thân mình.

Các thày đã nói đến những tiêu chuẩn vỏ ngoài mà xã hội áp đặt lên con, nhưng bây giờ thày đang nói về những tiêu chuẩn nội tại mà chính con đã tạo ra, rất có thể suốt nhiều kiếp sống như một người tâm linh. Con cần xem xét điều này và con cần nhìn xem nó ăn khớp thế nào với những lời dạy mà các thày đã ban ra về chấn thương nhập đời và ngã gốc, cũng như cách con đã phản ứng khi con hứng chịu chấn thương nhập đời. Có một điều gì khiến con quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm lại điều này nữa.” Do đó, con đã tạo ra cái ngã lý luận rằng có một điều gì đó con làm đã khiến cho sa nhân hành hạ mình, và nếu con không bao giờ tái phạm thì có thể con sẽ không bao giờ bị hành hạ như vậy nữa.

7.7. Các chuẩn mực nội tại của con

Và điều này dẫn đến việc con tạo ra một chuẩn mực rằng con phải là người như thế nào. Kể từ đó, con yêu dấu, ở trong con đã có một cái ngã – trong bất kỳ hoàn cảnh nào khi con đầu thai trên địa cầu, trong tuổi thơ ấu lẫn tuổi thanh niên – cứ năng động rà xét xã hội nơi con sống, đánh giá xã hội để tìm xem những điều cấm kỵ, những tiêu chuẩn, những phép tắc. Xong nó định ra một khuôn khổ, một mô thức, một chuẩn mực quy định những gì con phải làm và những gì con không được làm. Rồi nó phóng chiếu ra là nếu con tuân thủ cái đó thì con sẽ an toàn, con sẽ yên ổn, con sẽ được chấp thuận.

Đây là điều mà hầu hết các con – thật ra thày phải nói tất cả các con – đã làm ở một điểm nào đó. Mặc dù một số các con đã bắt đầu khắc phục được, tất cả các con đã chụp lấy nó và chuyển nó vào đường tu tâm linh khi con tìm ra đường tu. Nhìn lại các đợt truyền pháp trước, các thày có thể thấy nhiều học trò đã lấy một giáo lý của chân sư thăng thiên rồi sử dụng để lập ra một chuẩn mực khác cho những gì họ phải làm hay không được làm.

Con yêu dấu, con sẽ nhìn nhận ở đây, đó là một chuẩn mực phản ứng – con đang phản ứng lại các điều kiện trong thế giới vật chất. Điều này có thể hiểu được, nhưng đâu là mục đích của việc Giê-su hiện thân chứ? Có phải là để phục tùng các điều kiện của thế gian như sa nhân muốn Ki-tô làm? Hay là để trao cho mọi người một khung tham chiếu mà họ có thể nhìn thấy và không thể phủ nhận, rằng có một cái gì vượt khỏi các điều kiện của thế giới vật chất? Đương nhiên là câu trả lời thứ hai. Tuy vậy, đây là một sự cân nhắc và phân biện con phải tinh tế lắm mới nhìn ra được, vì như Kinh thánh cũng nói, khi Ki-tô bước vào hiện thân thì Ki-tô cũng bước vào thế giới vật chất.

7.8. Sự hiện thân của Ki-tô

Bây giờ thày muốn đưa ra một vài nhận xét về khái niệm Ki-tô hiện thân. Hiển nhiên, các tín đồ Cơ đốc giáo đã một lần nữa làm cho chuyện này rối beng khi bảo rằng cách đây 2000 năm, thày đã là hiện thân duy nhất của Ki-tô – trên thiên đàng có một đấng Ki-tô tuyệt đối, hoàn vũ nào đó đã chọn hiện thân trong hình dạng nhân thế của thày. Sự thật mà các thày đã trao cho con, cả trong cuốn sách chót về Những kiếp của tôi lẫn các giáo lý khác, là quả thật có một tâm thức Ki-tô hoàn vũ nhưng không phải vì vậy mà tâm thức Ki-tô hoàn vũ có thể hiện thân bất cứ lúc nào cũng được. Nó đòi hỏi phải có một con người trong hiện thân đã nâng cao tâm thức của mình lên tới mức bỗng nhiên tâm Ki-tô hoàn vũ có thể khởi sự tỏa rạng qua người đó.

Con cũng có tiềm năng cho Ki-tô hiện thân trong con khi con đạt đến mức tâm thức đó. Điều này quan trọng vì mấy lý do. Quan trọng hơn cả là vì nó chứng tỏ rằng khi Ki-tô hiện thân – nếu có thể nói như vậy – hay bắt đầu tự biểu hiện trong thế gian này, thì Ki-tô không làm vậy một cách hoàn toàn độc lập với các điều kiện trong thế gian. Khi thày xuất hiện cách đây 2000 năm tại Israel, thày đã hóa thân là một đứa trẻ trong kiếp hiện thân đó. Thày đã lớn lên trong môi trường đó, đã hấp thụ phần lớn môi trường đó, và tất nhiên rất nhiều điều thày nói ra được thích ứng với tín ngưỡng và thế giới quan của con người thời đó. Một thế cân bằng cần được tìm thấy, qua đó Ki-tô không đi vào thế gian để cho mọi người một giáo lý tuyệt đối vì họ sẽ không thể liên hệ với nó. Ki-tô phải thích nghi, như con thấy trong câu chuyện người đàn ông khát nước, khi thay vì cho ông ta một bài thuyết giảng tâm linh thì thày đã cho ông một ly nước lạnh.

Như các thày đã giảng, đây là nguyên tắc Ki-tô đến gặp gỡ con người ở ngay điểm tâm thức của họ và trao cho họ một cái gì có khả năng nâng họ lên bước kế tiếp, và – mong thay – cái đó sẽ dẫn họ vào con đường sẽ tiếp nối mãi cho tới điểm thăng thiên. Một mặt con có thể thấy là Ki-tô tự biểu hiện (tức hiện thân) trong thế gian, và ở một mức nào đó, Ki-tô cũng thích nghi với các điều kiện trong thế gian.

Câu hỏi mà tất cả các con cần giải quyết về mặt cá nhân là: “Tôi sẽ thích nghi tới đâu và tôi sẽ vượt xa hơn bao nhiêu?” Khi con bắt đầu đạt đến những tầng của Sứ vụ Thiêng liêng nơi con sẵn sàng (con bắt đầu) thể hiện quả vị Ki-tô của mình, thì việc thể hiện quả vị Ki-tô không phải là chuyện thích nghi với các điều kiện của thế gian. Đó là chứng tỏ rằng sự thăng vượt các điều kiện đó là điều khả dĩ.

Con hiểu điều thày đang nói chứ? Làm thế nào con có thể chứng tỏ cho người khác rằng việc thăng vượt một mức tâm thức nào đó là khả dĩ? À, trước tiên con phải khoác vào mức tâm thức đó. Đó là tại sao con đã đầu thai trong một gia đình, một quốc gia, một nền văn hóa nào đó. Con trầm mình vào đó một thời gian. Xong khi con sẵn sàng khởi sự biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, con vượt khỏi mức đó. Không phải việc biểu hiện quả vị Ki-tô là sự trầm mình vào nền văn hóa đó đâu, mà là vượt ra khỏi nó. Một lần nữa tất nhiên, con không ở đây để vượt quá cao đến độ người ta không thể kết nối với con, mà con ở đây để chứng tỏ rằng việc vượt ra khỏi là điều khả dĩ, rằng có một cái gì đó vượt ra khỏi.

7.9. Quả vị Ki-tô là một cái gì cá nhân

Quả vị Ki-tô là gì? Nó rất cá nhân. Đó là tại sao một trong những điều tệ nhất mà con có thể làm cho bản thân mình là nhìn vào cuộc đời của thày rồi sử dụng để tạo ra một chuẩn mực cho cách hành xử của một sinh thể Ki-tô. Nhiều người đã làm điều này. Các tín đồ Cơ đốc hiển nhiên đã làm điều này, nhưng nhiều học trò của chân sư thăng thiên cũng đã làm một chuyện tương tự. Con thấy đã có những tổ chức của chân sư thăng thiên mà trong đó mọi người đều chú tâm vào việc tự phán xét lẫn phán xét người khác để xem ai nấy có tuân thủ chuẩn mực đó hay không – một chuẩn mực mà họ nghĩ các chân sư đã quy định.

Trong quả vị Ki-tô không hề có chuẩn mực. Đây là điều con cần nắm bắt trước khi con có thể thực sự bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Tất cả tùy vào mỗi cá nhân. Con đã đầu thai trong một hoản cảnh đặc thù, đã khoác vào một số điều kiện, một tâm thức tập thể nào đó từ gia đình, quốc gia, vân vân. Biểu hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là chứng tỏ có một cái gì cao hơn chuẩn mực đó. Lúc đầu, nó sẽ không cao hơn nhiều lắm, mà nó sẽ cao hơn một chút để ai nấy vẫn có thể liên hệ với con.

Khi con tiến hơn, có thể con sẽ lên cao hơn và cao hơn nữa. Có thể con sẽ tới một điểm khi những ai đã từng lớn lên cùng với con không còn liên hệ được với những gì con biết và hiểu về cuộc sống, và đây là một chuyện khác. Điều thày đang cố chỉ cho con thấy ở đây là nhiều người trong các con có một cái nhìn lý tưởng, lãng mạn, xa vời về thế nào là biểu hiện quả vị Ki-tô. Kỳ thực ở những giai đoạn sơ khởi, quả vị Ki-tô là một cái gì rất thực tiễn liên quan đến những điều kiện trong môi trường hàng ngày. Có thể đó chỉ là một cách làm tốt hơn, một cách nhìn khác hơn về một số chuyện, là không quá coi trọng một số sự việc, không tự xem mình hay xem cuộc sống là quá hệ trọng. Chẳng hạn con có thể vui sống hơn người khác, hay con không đến nỗi bị ám ảnh cưỡng chế về một số khía cạnh trong văn hóa của mình, như con không ghét bỏ những ai sống bên kia biên giới, hay bên kia đường, hay bên kia bất cứ gì khác.

Con có thể chứng tỏ một phương cách khác, một cách nhìn khác, và đó là một khía cạnh trong quả vị Ki-tô của con ở khởi đầu. Nhiều người trong các con có thể nhìn lại đời mình và nhận thấy: “Nhưng trong phần lớn đời tôi, tôi đã chẳng làm vậy hay sao?” Và con nói đúng – con đã làm vậy. Nhiều người trong các con đã làm vậy. Thày chỉ mong giúp con nhận biết về điều đó và nhìn nhận rằng đó là một biểu hiện của quả vị Ki-tô của con. Khi con công nhận là con đã có biểu hiện quả vị Ki-tô thì con sẽ dễ dàng hơn chấp nhận là mình thực sự có thể là Ki-tô trong hành động. Con thực sự có khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô trên địa cầu và đó không nhất thiết là một điều gì xa vời, như cách nhìn lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã dựng lên về cuộc đời của thày.

Bây giờ nếu con lấy cuốn sách Những kiếp của tôi cùng với những gì thày đã giảng trong các bài truyền đọc và vấn đáp khác, con sẽ thấy cuộc đời của thày không có gì giống như cái lý tưởng mà người đạo Cơ đốc đã tạo ra. Thày có nói trước đây là con đã rất có thể suy luận rằng điểm kết liễu đời thày đã là một thất bại toàn diện. Thật sự thày đã hoàn thành được việc gì trong đời sống vỏ ngoài chứ? Thậm chí thày đã không thu hút được cả những môn đệ có khả năng nắm bắt thông điệp mà thày đã đến để ban truyền.

Thày không đang cố hạ thấp những gì đã xảy ra, mà thày đang cố khép lại khoảng cách mà nhiều người trong các con đang có trong tâm mình. Con có cái ngã nội tại đó mang nỗi ám ảnh cưỡng chế phải chỉ ra những thiếu sót và lầm lỗi của mình, đến độ con sẵn sàng tin vào sự phóng chiếu rằng bởi vì con đã phạm tất cả những lầm lỗi đó, cho nên con không thể nào là Ki-tô trong kiếp đầu thai này được. Thày đang cố chỉ cho con thấy rằng làm Ki-tô là một tiến trình. Nó bắt đầu thật nhỏ xong nó có thể ngày càng lớn hơn. Con cần công nhận là nó không thể xảy ra đùng một cái. Nó chỉ có thể xảy ra bằng cách con bước đi từng bước một, dần dần nhận ra là con có khả năng làm cánh cửa mở cho Ki-tô.

7.10. Sứ vụ Thiêng liêng và tự quyết

Con yêu dấu, vậy thì làm Ki-tô có nghĩa là gì? Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình có nghĩa là gì? Một lần nữa, trên thế giới có một tâm thức do sa nhân tạo ra muốn chụp lấy mỗi ý tưởng, mỗi khái niệm, và thu hẹp nó xuống một chuẩn mực đường thẳng hầu tâm phân tích có thể phân loại và dán nhãn.

Có một vị trong số các con vừa chia sẻ là khi anh ấy đến dự hội nghị này thì có người đã hỏi anh: “Giáo lý mà bạn đang tu tập là gì chứ?” Anh đã không thể tìm ra một cái tên vì các thày đã cố tình không đặt tên. Đó là một ví dụ người ta bị tâm thức của sa nhân ảnh hưởng mà không hay biết, và tâm thức này khiến họ luôn luôn muốn gắn nhãn cho mọi sự. Họ luôn luôn muốn gọi tên để họ có thể phân loại, và thế là cái đó giờ đây phải đi vào khuôn mẫu. Tất nhiên, đây chính là điều mà sa nhân đã toan tính làm với Ki-tô, nhưng thực tế của Ki-tô là Ki-tô không bao giờ tuân theo một mẫu mực nào.

Vậy có tiêu chuẩn nào quy định cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào trong hoàn cảnh đặc thù của con hay không? Không, không có. Tuy nhiên, điều này dẫn đến câu hỏi tiếp theo. Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con có điều gì được quy định về quả vị Ki-tô không? Liệu Sứ vụ Thiêng liêng giống như một chuẩn mực về cách con phải cư xử trong kiếp này và do đó cũng về cách con phải biểu hiện quả vị Ki-tô của mình?

Quyền tự quyết có vai trò gì trong Sứ vụ Thiêng liêng? Liệu Sứ vụ của con có giống như một chiếc áo tù bó tay bó chân hay không? Trong những năm đầu của đời con, con không nhận thức về Sứ vụ của mình cho nên con khá rộng tay làm bất cứ gì con muốn. Rồi tới một điểm có sự chờ đợi là con sẽ bước vào nhận thức về Sứ vụ của mình, và khi đó có vẻ chọn lựa duy nhất còn lại cho con là: “Liệu tôi sẽ mặc vào chiếc áo tù này hay tôi không mặc vào?” Nếu con quyết định mặc vào chiếc áo bó tay của Sứ vụ Thiêng liêng thì phần đời còn lại của con sẽ đi theo một đường rày máy móc vì giờ đây con sẽ chỉ biết tuân theo Sứ vụ đã được vạch ra cho con. Chuyện đó, tất nhiên, không phải là ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng.

Đầu tiên các thày đã nói rằng chính con là người chọn lựa Sứ vụ Thiêng liêng của con. Rồi sau mấy thập niên giảng dạy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, các thày đã thấy nhiều học trò diễn giải theo nghĩa Sứ vụ là do một đấng thần thánh nào đó thảo ra, và bây giờ đấng này đang cố áp đặt nó lên con để biến con thành một con múa rối. Đây chính là tại sao một số sa nhân đã tạo ra ý tưởng là con chỉ có thể giành được quyền tự quyết bằng cách nổi loạn chống lại Thượng đế. Có những sa nhân cả quyết rằng chỉ khi chúng nổi loạn và từ chối thăng thiên thì chúng mới thực sự có được quyền tự quyết. Hiển nhiên đây là một ảo tưởng, vì thử hỏi ý chí tự do của con sẽ tự do tới đâu nếu con đang phản ứng lại một cái gì khác? Ý chí đó sẽ tự do y hệt như khi con tìm cách tuân theo cái khác đó. Ý chí của con sẽ chỉ tự do một khi con chọn lựa từ bên trong.

Không cần đi sâu hơn vào một cuộc thảo luận triết lý, thực tế ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con không hề vạch ra cách con phải sống cả đời mình như thế nào trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Các thày đã nói là kỳ thực, con sẽ không bao giờ có được một tầm nhìn rõ ràng về toàn bộ Sứ vụ của mình, mà con sẽ chỉ nhìn thấy từng giai đoạn một – tại sao như vậy? À, bởi vì nếu có một Sứ vụ thật chi tiết và nếu con thấy được nó toàn bộ, thì nó sẽ giống như một con đường máy móc. Con sẽ chỉ giản dị bước hết bước này tới bước khác và đi theo đúng như vậy. Sự thật là Sứ vụ của con được lập ra, như các thày đã giảng, để trên hết nâng cao tâm thức của con, và làm thế nào con nâng cao tâm thức chứ? Bằng cách tiếp cận mỗi hoàn cảnh ở mức tâm thức hiện thời của mình, rồi con chọn lấy một chọn lựa để vươn lên khỏi tâm thức đó hầu đối phó với một vấn đề nhất định. Khi con vươn lên và trải nghiệm một cách nhìn cao hơn về vấn đề, đó là khi con đã nâng cao tâm thức lên nấc kế tiếp. Sứ vụ của con xác định hoàn cảnh mà con cần bước vào để trải nghiệm một điều kiện nhất định, nhưng nó không xác định con phải phản ứng lại điều kiện đó như thế nào. Cái đó là chọn lựa của con.

7.11. Thăng vượt nhận thức của con

Con yêu dấu, con cần thận trọng ở đây. Nhiều người trong các con đã tưởng tượng là Sứ vụ Thiêng liêng định rõ một số điều kiện vỏ ngoài. Ví dụ, con sẽ phải gặp gỡ và kết hôn một người nào đó và có X đứa con. Dựa theo đó thì nhiều người trong các con nghĩ rằng nếu con không gặp người đó – hay nếu con gặp nhưng lại quyết định không kết hôn – thì con không làm tròn Sứ vụ của mình. Sứ vụ Thiêng liêng không như vậy, nó không rõ ràng, đặc thù như vậy. Sứ vụ Thiêng liêng là để con xoay chuyển tâm thức của con.

Đối với mọi điều kiện vỏ ngoài, con có rất nhiều chọn lựa. Phải, ở những giai đoạn đầu, trong giai đoạn công phu của Sứ vụ Thiêng liêng, nhiều khi con mang nghiệp với một người nào đó và cách nhanh nhất để giải quyết nghiệp quả là có mối quan hệ với người đó. Cho nên con có thể nói: “Được, thật ra tôi đã quyết định là tôi muốn ở trong quan hệ này, cho nên khi tôi xuống đây đầu thai, đó chính là điều tôi phải làm.” Tuy vậy, con có một phạm vi chọn lựa rộng lớn trong cách đáp ứng với tình huống đó: Con sẽ ở lại bao lâu trong quan hệ, con sẽ phản ứng thế nào với mối quan hệ, vân vân. Một khi con tiến xa hơn giai đoạn công phu này và không còn phải đương đầu quá nhiều với các điều kiện nghiệp quả nữa, thì con bắt đầu bước vào giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ của con.

Đột nhiên, con có rất nhiều chọn lựa khác hơn. Có nghĩa là, ví dụ, không chỉ có một nghề nghiệp, một loại việc làm hay sự nghiệp mà con có thể có. Ngay cả khi con chọn một nghề nghiệp nhất định thì con cũng không chỉ có một cách đeo đuổi duy nhất. Đời con không giống như một đường rày. Sứ vụ của con không đặt cuộc đời con trên một con đường rày sẽ hạn chế các chọn lựa của con. Con luôn luôn có nhiều chọn lựa, nhiều phương thức trong những gì con làm cũng như trong cách con làm.

Con yêu dấu, điều thày nói ở đây áp dụng cho các học trò tâm linh ở những tầng cao hơn. Lẽ tự nhiên, rất nhiều người ở những mức tâm thức thấp hơn bị chi phối nhiều hơn bởi các tình huống nghiệp tạo, cho nên những chọn lựa trong tiền kiếp đã tạo ra các hậu quả đang giới hạn chọn lựa của họ trong kiếp này. Con có thể đi xuống một tầng tâm thức nơi con gặp những người có rất ít chọn lựa ý thức mở ra cho họ. Phải chăng đó là điều kiện vỏ ngoài đang giới hạn họ, hay là tâm thức của họ bị giới hạn đến độ họ không sẵn lòng vượt ra khỏi cách nhận thức cố hữu của họ về thế giới?

Điều thày nói với con ở đây là con cũng có một nhận thức nào đó về thế giới, và con sẽ cần thăng vượt nó để có được nhiều tự do hơn, nhiều chọn lựa hơn. Đâu là cái đang giữ con lại? Cái gì khiến con đôi khi có cảm tưởng Sứ vụ Thiêng liêng là một chiếc áo tù bó tay, hay đời con hoàn toàn bị ngoại cảnh định đoạt? Đó là vì con mang một cái ngã nhất định đang có một nhận thức nhất định, và nhận thức này xoay quanh việc con nhìn và phản ứng lại tình huống vỏ ngoài như thế nào.

Đâu là một khía cạnh khác của quả vị Ki-tô? Là khi con nhận ra là con không ở đây để làm nô lệ cho những tình huống vỏ ngoài. Con ở đây để thăng vượt chúng, và điều này không có nghĩa là, chẳng hạn, nếu con có con cái, con sẽ bỏ rơi chúng, đào tẩu lên núi Himalaya và ngồi trong hang đá. Không, nó có nghĩa là con vượt thăng cách nhìn, cách tiếp cận, cách phản ứng của mình đối với việc có con, hầu con tìm ra một cách nhìn cao hơn không bị quá mắc kẹt trong khuôn nếp hiện thời.

7.12. Làm thế nào thực sự thay đổi đời mình

Điểm này khơi lên một đề tài khác mà nhiều người trong các con thắc mắc: “Làm thế nào con có thể thực sự thay đổi đời mình? Làm thế nào con có thể có được những điều kiện tốt đẹp hơn? Con muốn làm chuyện này, con muốn làm chuyện kia. Con muốn nhiều tiền hơn hay việc làm tốt hơn vì con rất muốn được tự do đi du lịch đây đó, gặp gỡ người ta, thăm nhiều nền văn hoá khác nhau, cái này cái nọ” (đây thật sự là ước muốn của nhiều người).

Thế là bây giờ chúng ta đến với chủ đề là làm thế nào thay đổi tình huống vỏ ngoài để tạo điều kiện thuận lợi cho viễn quan hay mong muốn của mình. Đây là một chủ đề rất phức tạp mà thày sẽ không đưa ra một lời giảng chung cuộc, vì thày Saint Germain cũng có một vài điều muốn nói, và cả các chân sư khác nữa. Điều thày muốn cho con là phân biện Ki-tô đi theo hai đường.

Trước hết, phân biện Ki-tô có thể cho con một viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng là con có khả năng thị hiện một hoàn cảnh vật lý cao hơn hiện tại, một hoàn cảnh nơi con có nhiều tự do hơn. Đây là một viễn quan về những gì có thể xảy ra, nhưng mặt khác cũng có khía cạnh omega về điểm này: Phân biện Ki-tô cũng có thể cho con viễn quan là đôi khi kỳ thực, mong muốn hay viễn quan của con dựa trên ngã gốc. Như chân sư MORE đã nói, ngã gốc của con mang một cơ chế đền bù, và cơ chế này đôi khi đem lại cho người tâm linh một ước muốn trốn thoát khỏi một số điều kiện nào đó.

Thật ra phản ứng này đến từ ngã gốc. Một khía cạnh của điều này là khi con đến hành tinh này như một avatar, con đến với một thái độ tích cực mong muốn đem lại một thay đổi tích cực. Rồi con cảm thấy mình bị sa nhân bác bỏ, trấn áp. Thế rồi con tạo ra ngã gốc và kể từ đó con đã cảm thấy: “Tôi không thể là chính tôi trên hành tinh này, tôi không thể là con người mà tôi là, tôi không thể biểu hiện bất cứ gì tôi muốn, tôi không thể sáng tạo vì tôi luôn luôn phải nhìn xem người ta sẽ phản ứng ra sao. Liệu người ta sẽ làm gì, sẽ nói gì, sẽ nghĩ gì? Họ sẽ chối bỏ tôi như thế nào? Họ sẽ làm gì với tôi đây?”

Con vẫn có mong muốn tự biểu đạt nhưng con lại có một cơ chế ngăn cản con tự biểu đạt. Điều mà phân biện Ki-tô có thể giúp con là khiến con nhìn ra cảm nhận đó đến từ ngã gốc – cảm nhận rằng mình không thể là chính mình trên địa cầu. Lý do là vì ngã gốc giống như một chiếc máy tính. Nó không có khả năng tự nhận biết. Nó không thể nghĩ cái gì là đúng hay sai. Ngã gốc dựa trên nhận thức rằng chính các điều kiện vỏ ngoài trên địa cầu mới ngăn cản con là người mà con là, ngăn cản con biểu đạt chính con. Kỳ thực, một khi con có phân biện Ki-tô, con sẽ thấy rõ không phải các điều kiện vỏ ngoài đang ngăn cản mình là chính mình, mà ngã gốc.

Khi con đến trái đất lần đầu tiên, có lẽ cách đây rất lâu, con đã có sẵn một mức nhận biết nào đó. Mặc dù mức đó có thể cao hơn đa số cư dân trên địa cầu vào thời ấy, đó vẫn chưa phải là mức tối hậu. Ngay cả nếu con đến từ một hành tinh tự nhiên, đó cũng chưa phải là mức tối hậu. Kể từ đó, con đã tăng triển về mặt tâm thức cho dù con có thể không hay biết một cách ý thức. Nhưng con đã có tăng triển, và đó là tại sao các thày đã nói là con có khả năng đi ngược dòng thời gian và tái trải nghiệm chấn thương nhập đời của mình với một phản ứng khác hơn trước. Đó là cách con có thể gạt bỏ ngã gốc, và các thày đã cho con dụng cụ để làm việc này.

Khi con làm vậy, điều thật sự bắt đầu xảy ra là giờ đây con lần lần khởi sự chất vấn tất cả những rào cản đó (mà con mang trong bốn thể phàm) đang bảo con là con không thể là chính mình, rằng con không thể tự biểu đạt. Sau đó con có thể bắt đầu xem xét và hòa điệu với: “Tôi thực sự là ai? Đâu là cá thể tâm linh của tôi trong Hiện diện TA LÀ? Đâu là ý nghĩa của việc biểu đạt cá thể tâm linh đó ở đây trên trái đất?” Bỗng nhiên, con yêu dấu, một khi con bắt đầu chấp nhận và trải nghiệm rằng con có khả năng là chính mình trên địa cầu, con sẽ khắc phục được mong muốn trốn chạy nói trên, luôn luôn muốn làm một người khác hay sống ở một nơi khác. Đó là cái mong muốn cứ nghĩ rằng: “Nếu như điều kiện vỏ ngoài thay đổi và xảy ra như tôi nghĩ nó phải xảy ra, thì khi đó tôi mới có thể là chính tôi.”

7.13. Không có điều kiện lý tưởng cho quả vị Ki-tô

Con yêu dấu, các thày đã có nói là có một tâm thức khiến con nghĩ là khi nào con hội được điều kiện vỏ ngoài lý tưởng thì khi đó con mới có thể là Ki-tô. Nhưng Ki-tô không cần điều kiện vỏ ngoài lý tưởng, vì chức năng của Ki-tô chính là để chứng tỏ có một cái gì cao hơn bất kỳ điều kiện nào mà Ki-tô trải nghiệm. Không hề có điều kiện lý tưởng để biểu hiện quả vị Ki-tô. Nếu con cứ ngồi đó chờ đợi một số điều kiện vỏ ngoài trước khi con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô hay là chính mình, thì con sẽ phải chờ đến mãn kiếp – và nhiều kiếp kế tiếp nữa – trước khi con chợt hiểu ra: “Ồ, đáng lý ra tôi đã phải bắt đầu ngay ở nơi tôi đang đứng và biểu hiện quả vị Ki-tô ở ngay tầng này, và đó là cách tôi bước lên một tầng cao hơn.”

Và đó cũng chính là cách mà các điều kiện vỏ ngoài của con sẽ thay đổi. Điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu thay đổi khi con quyết định là con sẽ khởi sự ngay nơi con đang đứng và cả gan biểu hiện một sắc thái đó của cái ta cao hơn ngay ở đây, ngay lúc này. Đó là điều mà vị sứ giả này đã quyết định năm 2002. Đó là tại sao, một cách lần hồi, các điều kiện vỏ ngoài của ông đã thay đổi đến mức ông đã có thời gian lẫn sự tự do để tập trung vào công việc ông đang làm, thay vì phải đi làm kiếm sống, vân vân.

Những điều tương tự có thể xảy ra cho nhiều người trong số các con. Không nhất thiết theo cùng một cách nhưng chắc chắn theo cách là các điều kiện vỏ ngoài sẽ lần hồi thay đổi để con có thể cảm thấy chúng không đang hạn chế con là chính con, hạn chế con biểu đạt những gì con ở đây để biểu đạt. Nó có thể xảy ra như vậy khi con đạt tới những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, nhưng để đạt đến mức đó sẽ đòi hỏi những gì?  

Nó đòi hỏi con xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu. Như lời thày đã dạy cách đây 2000 năm, con nhìn nhận: “Con không thể làm gì được một mình, nhưng với Thượng đế thì mọi việc đều khả dĩ.” Đó là cách thày đã diễn tả vào thời đó, nên con hãy để thày diễn đạt lại dựa theo giáo lý các thày đã cho con: “Với ngã vỏ ngoài và quyền năng của ngã vỏ ngoài, con không thể thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con. Nhưng bằng cách nối kết lại với Ki-tô trong con, bằng cách nhận diện Ki-tô trong con, khi đó con sẽ có khả năng thay đổi điều kiện vỏ ngoài của con.”

Để nối kết lại với Ki-tô trong con và bắt đầu biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, điều này sẽ đòi hỏi những gì? Con yêu dấu, nó đòi hỏi nơi con một quyết định có ý thức: “Tôi sẽ không làm nô lệ cho các điều kiện vỏ ngoài của tôi. Tôi sẽ là cánh cửa mở, tôi sẽ biểu đạt chính mình cho dù điều kiện vỏ ngoài có là gì. Tôi sẽ làm điều gì đó ngay lập tức, tôi sẽ nhân lên các ta-lăng mà tôi được ban cho, tôi sẽ nhân lên hoàn cảnh mà tôi đang gặp ngay lúc này.” Sau đó, một khi con đã đi bước nhỏ đầu tiên đó, định luật sẽ trải bày ra không sai sót: Sẽ có một sự nhân lên từ cõi tâm linh. Và khi con tiếp tục làm vậy, lần hồi điều kiện vỏ ngoài của con sẽ bắt đầu xoay chuyển.

Có thể một số các con cũng sẽ nhận thấy là thật ra, có một số điều kiện vỏ ngoài mà con không trù liệu thay đổi vì công dụng của chúng là để con bày tỏ một cách ứng phó cao hơn đối với chúng. Đây không chỉ là chuyện thoát ra khỏi một số điều kiện mà con không ưa, vì chúng có thể là một phần của quả vị Ki-tô của con. Thật ra, có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con biểu hiện quả vị Ki-tô trong những điều kiện đó hầu người khác thấy được là chúng có thể được thăng vượt.

Một lần nữa, đây là một điểm phân biện tinh tế. Con yêu dấu, đây cũng là sự kiện khi con vươn lên cao hơn và khắc phục cơ chế đền bù – các dính mắc, như các thày cũng gọi như vậy – thì con có nhiều chọn lựa hơn. Chẳng hạn, ở một điểm nào đó con có thể chọn: “Không, tôi không muốn gặp điều kiện này nữa, tôi đã trải nghiệm nó đủ rồi,” hoặc “Tôi không muốn ứng phó với loại người này nữa. Tôi đã chứng tỏ có một tâm thức khác hơn trạng thái tâm thức của họ và tôi không muốn cứ làm mãi chuyện này cho đến hết kiếp này. Tôi muốn bước sang một cái gì khác.”

Con yêu dấu, con có rất, rất nhiều chọn lựa khác nhau. Không chỉ có một cách duy nhất để hoàn thành Sứ vụ của con và cũng không phải là nếu con không làm theo cách đó thì con sẽ không làm tròn Sứ vụ của mình. Đây không phải là chuyện “tất cả hay không có gì”. Nó không đen trắng.

7.14. Con không thể thất bại trong Sứ vụ

Miễn là con sẵn sàng xoay chuyển tâm thức, con yêu dấu, con không thể không làm tròn Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì cốt lõi của Sứ vụ chính là sự dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất có thể. Không có gì bất di bất dịch. Trước khi con đầu thai và lập ra Sứ vụ Thiêng liêng, con đã lượng định – dựa trên tâm thức con mang trong kiếp trước – những gì con có thể vươn tới trong kiếp này một cách thực tế nhất. Nhưng nếu con sẵn lòng, nếu con thật sự chuyên tâm và áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền, thì con còn có thể vươn lên cao hơn nữa. Nhiều các con có khả năng vươn lên cao hơn mức được định ra trong Sứ vụ của mình.

Một số các con đã không định ra trong Sứ vụ là mình sẽ có thể vươn tới tầng 144 trong kiếp này, nhưng một số các con có khả năng làm được điều này nếu con thực sự chuyên tâm và bước xa hơn, bởi vì việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi gì chứ? Nó chỉ đòi hỏi con sẵn lòng nhìn ra một điều gì đó mà con chưa nhìn thấy trước đây, sẵn lòng quyết định là con sẽ không bị giam hãm trong mức tâm thức này, sẵn lòng bước ra ngoài. Con sử dụng khả năng của cái Ta Biết để bước ra ngoài bốn thể phàm của nó và nhìn ra: “Tôi không là cái này, tôi là hơn cái này.” Không có gì được quy định từ cõi thăng thiên hay từ Sứ vụ Thiêng liêng để giới hạn con chỉ tiến được bao xa trong tiến trình này, nếu con sẵn lòng xoay chuyển.

Tuy nhiên sẽ có một giới hạn, là con cần một cảm giác liên tục, cho nên con không thể tự dưng chuyển vọt lên một mức quá cao so với mức hiện tại của con. Con không thể nhảy bước. Một số học trò tâm linh trở nên rất nóng lòng và muốn giác ngộ ngay bây giờ, trong vòng năm phút, nhưng điều này không thể làm được ngay lập tức. Con phải đi qua tất cả 144 tầng tâm thức. Con không thể nhảy từ tầng 120 lên tầng 133. Không thể được. Con sẽ đánh mất ý niệm bản sắc, ý niệm liên tục của con, và thật ra nó có thể dẫn đến bệnh tâm thần và chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều con cần nhìn nhận ở đây là con cần đi qua tất cả mọi bước, vì thật sự nếu con sẵn lòng thì không có gì sẽ giới hạn tốc độ tiến bước của con.

Con yêu dấu, lẽ tự nhiên thày có thể tiếp tục nói mãi và giảng thêm nữa về đề tài này. Các thày đã cho con nhiều giáo lý mà con có thể tu học và áp dụng trong nhãn quan mà thày vừa trao cho con về Sứ vụ Thiêng liêng và quả vị Ki-tô. Bí quyết thực sự ở đây là con đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không được quy định bởi bất cứ điều gì trên địa cầu. Tôi là một sinh thể tâm linh.” Cái Ta Biết là tên gọi mà các thày đã dùng cho sự nhận biết thuần khiết để chỉ rõ là con không bị quy định bởi bất cứ gì có hình tướng. Đó là lý do tại sao con có khả năng thăng vượt bất kỳ hình tướng nào, kể cả những hình tướng trong ngã gốc và các ngã tách biệt của con. Đây là cốt lõi của quả vị Ki-tô, mà con hoàn toàn tự quyết trong việc thực hiện và áp dụng trong kiếp này.

9 | Khía cạnh cách mạng trong Sứ vụ Thiêng liêng

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Điều thày mong muốn giảng cho con là khái niệm tiến hóa (evolution) hay tiệm tiến, so với cách mạng (revolution). Các chân sư khác đã cố trao cho con ý tưởng là Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là một mục tiêu xa vời, vượt ngoài tầm tay và không thể nào đạt được. Chắc chắn đây là một ý tưởng rất quan trọng để con thể nhập.

9.1. Giai đoạn tiến hóa và giai đoạn cách mạng

Con cần nhận diện có một khía cạnh tiến hóa trong Sứ vụ của con và một giai đoạn cách mạng trong Sứ vụ của con. Các thày đã trình bày về giai đoạn công phu trong Sứ vụ, và các thày có nói là có một giai đoạn khi con khởi sự biểu đạt quả vị Ki-tô của mình nhưng con làm vậy ngay trong hoàn cảnh mình đang gặp, và con làm từng chút một, từng bước nhỏ một. Đây là giai đoạn các thày gọi là giai đoạn tiến hóa trong Sứ vụ của con. Theo một nghĩa nào đó, giai đoạn tiến hóa này sẽ tiếp tục cho đến hết kiếp này của con. Trong Sứ vụ Thiêng liêng luôn luôn sẽ có một yếu tố tiến hóa.

Tuy nhiên, điều con cần nhận diện là sẽ tới một điểm khi con bắt đầu bước vào các giai đoạn cao hơn của quả vị Ki-tô, các giai đoạn cao hơn của đường tu. Có một số điểm, một số thời điểm then chốt trong đời con khi con không thể bước lên mức kế tiếp một cách tiệm tiến bằng những bước nhỏ. Thậm chí con không thể đi lên mức kế tiếp bằng cách ở trong trạng thái tâm thức tiệm tiến.   

Con cần biết điều này ở những tầng mức đó – không phải ở những tầng mức thấp hơn nơi con không cần quan tâm đến chuyện này. Con hãy cho phép thày bước lui lại một chút để nói rằng đối với nhiều người – nhiều người trong số các con tìm thấy lời dạy này – con vẫn còn trong giai đoạn tiệm tiến. Điều thày trao cho con ở đây sẽ không áp dụng cho con ngay bây giờ, hay có thể sẽ không áp dụng một số năm nữa, nhưng nếu con là một dòng sống tiên tiến có tiềm năng biểu hiện một mức tâm thức cao hơn trong kiếp này, thì sẽ tới một điểm con không thể tiến hơn nữa qua những bước nhỏ kia.

Theo một nghĩa nào đó, có một sự mâu thuẫn trong những gì thày đang nói với con, vì lẽ tự nhiên, các thày đã cho con khái niệm về 144 tầng tâm thức. Các thày có nói là con không thể nhảy bước, cho nên ngay cả khi con ở tầng 123, tầng kế tiếp của con là 124, và theo một cách nhìn, cái bước từ 123 lên 124 không đến nỗi to lớn lắm – đó không thật sự là một thay đổi “cách mạng”.

Ý thày muốn cho con ở đây là con vẫn bước trên đường tu qua các tầng tâm thức khác nhau, nhưng con yêu dấu, song song với con đường tiến hóa lần hồi đó có tiềm năng là con kinh qua một sự xoay chuyển trong tâm thức, một xoay chuyển trong thái độ, một xoay chuyển trong cách nhìn cuộc sống. Điều này có thể dẫn con từ mức của con trước đây lên một mức sẽ dứt khoát cao hơn, đến độ con phải thật sự xem đó là một bước cách mạng.

Nhiều người trong các con đã trải nghiệm những sự chuyển vọt tâm thức như vậy. Nhiều các con có thể nhìn lại một thời điểm khi con chưa có giáo lý tâm linh nào, rồi tới khi con tìm ra giáo lý tâm linh đầu tiên của con, đó đã là một chuyển vọt ngoạn mục nâng con lên cao hơn và thay đổi cách con nhìn cuộc sống. Con cũng có thể thấy là con đã từng có những bước khác giống như vậy khi đột nhiên con có một sáng ngộ, đột nhiên con trải nghiệm một cái gì đó và cái đó là một xoay chuyển tâm thức cách mạng, ấn tượng hơn, sâu xa hơn.

9.2. Giữ cân bằng khi chuyển vọt cách mạng

Điều thày muốn nói với con ở đây là ở những tầng cao hơn, tới một điểm con sẽ cần nhận ra là song song với sự thay đổi tiệm tiến, có thể con còn có nhu cầu kinh qua một sự chuyển vọt sâu đậm hơn, cách mạng hơn trong tâm thức. Nó chỉ có thể xảy đến nếu con sẵn lòng làm cuộc chuyển vọt đó, nếu con quyết định là mình sẽ mở tâm ra để nhận lấy cái sáng ngộ mà giờ đây con đã sẵn sàng tiếp nhận.

Con không thể làm được điều này cho đến khi con sẵn sàng. Đó là tại sao một lần nữa, thày cần nhìn lại các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên và chỉ ra cho con là đã từng có rất, rất nhiều học trò có thể bảo là mình đã kinh qua một sự chuyển đổi cách mạng trong tâm thức lẫn trong nhãn quan của mình. Rồi họ trở thành những người mà chân sư MORE mô tả là “vô cùng quả quyết, vô cùng lửa xanh và tia sáng xanh, không cho phép bất cứ gì cản đường mình, dẹp tan đối lập cũng như bất cứ ai chắn đường mình, và trực chỉ tiến tới mục tiêu.”

Tất nhiên cũng có câu chuyện vui mà người ta hay kể trong các đợt truyền pháp trước, là một ngày kia El Morya và Kuthumi được giao cho phận sự đi lên núi nhận thông điệp từ một vị thày tâm linh. El Morya xông thẳng lên núi, nhận thông điệp rồi bước thẳng xuống. Còn Kuthumi thì thong thả hơn, dành thì giờ ngắm chim chóc và thưởng ngoạn hoa đẹp, nhưng khi cả hai xuống núi thì El Morya đã quên bẵng mất thông điệp là gì, còn Kuthumi thì nhớ rất rõ. Chuyện tương tự cũng xảy ra cho nhiều học trò tâm linh, con yêu dấu, vì con có thể kinh qua một sự chuyển vọt cách mạng trong tâm thức nhưng con vẫn còn mang quá nhiều thứ của ngã gốc, con còn sót lại quá nhiều ngã tách biệt đến độ con không hiểu đúng về trải nghiệm của con.  

Điều thày đang nói là trong các đợt truyền pháp trước có nhiều đệ tử kinh qua một trải nghiệm thần bí, tâm linh chân chính, họ ngộ được một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng thế rồi tâm vỏ ngoài của họ lại diễn giải nó một cách mất cân bằng. Họ khoác vào phản ứng rất thiếu cân bằng đó và bây giờ họ trở thành những người mà họ gọi là “quyết tâm” nhưng thật ra là “mù quáng”. Họ đeo vào một miếng da che hai bên mắt khiến họ chỉ chú mục vào đúng một mục tiêu đó. Một cách nào đó, thật ra họ đang bảo với trực giác của họ, bảo tâm Ki-tô của họ, bảo cả các chân sư thăng thiên: “Đừng làm phiền tôi nữa, tôi đã có viễn quan về nơi tôi cần đến. Đừng làm tôi rối trí và cho tôi bất kỳ sáng ngộ nào khác. Tôi sẽ không cần bạn cho đến khi tôi đạt tới đích.” Đương nhiên là họ không thể đạt tới đích mà không nhận được sáng ngộ, nhưng họ lại gạt chuyện này ra khỏi tâm trí.

9.3. Nhìn thấy tiềm năng cao hơn

Điều thày cần con nhìn nhận ở đây là khi thày nói đến một sự “xoay chuyển cách mạng”, nó không thể xảy ra cho tới khi con đã sử dụng giáo lý về ngã gốc cũng như nhiều giáo lý khác mà các thày đã ban truyền về tự ngã, về các chấn thương, và con cũng đã chữa lành tâm lý mình đến một độ nào đó. Một khi con đã nhận được sự chữa lành này, con cần nhận ra là con đã đạt đến một mức nơi sự thay đổi tiệm tiến không còn là bước đi thích hợp nữa, mà có thể con sẽ phải thực hiện một cuộc xoay chuyển dứt khoát trong cách mình nhìn cuộc sống. Đương nhiên điều này áp dụng cho nhiều vấn đề. Đặc biệt nó có thể áp dụng cho câu hỏi: Là Ki-tô trong hành động có nghĩa gì đối với con? Đâu là tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ Thiêng liêng của con mà con có thể hiển thị?

Để lấy một ví dụ thực tế ở đây, vị sứ giả này đã nghe nói về giáo lý của chân sư thăng thiên lần đầu tiên năm 1984. Ông đã theo học một đợt truyền pháp trước của các chân sư, đã tìm hiểu giáo lý, đã thực hành giáo lý, đã tham dự đủ loại khóa tu tập, đi khám tâm lý gia, nỗ lực cải sửa tâm lý mình. Thế rồi vào năm 2002, ông ngộ ra là ông đã cất bước trên đường tu phần nào là do niềm tham vọng phàm phu muốn hoàn thành một việc gì quan trọng, đem lại một thay đổi quyết định và cảm thấy đời mình đã đáng sống. Trong cốt lõi, những thứ đó đều là một thành phần của ngã gốc của ông, một thành phần của chấn thương nhập đời của ông, tuy không phải là tất cả.

Đó cũng là một thành phần của cảm giác mà tất cả các con đều có, vì con đến địa cầu là để đem lại một sự khác biệt tích cực, và vì con không thể tạo ra sự khác biệt đó cho nên con mới mang nỗi thất vọng này bên trong. Ông ấy đã nhìn thấy điều này, rồi ông cũng có khả năng nhận ra là ông cần thực hiện một sự xoay chuyển dứt khoát, mạnh mẽ, hầu buông bỏ cái đó, buông bỏ tham vọng đó, rũ bỏ nó hoàn toàn. Ông đã làm được điều này, và đó cũng là lúc ông cảm thấy Hiện diện của Giê-su đề nghị ông có muốn khởi xướng một trang web nơi mọi người có thể đặt câu hỏi và nhận được trả lời của Giê-su hay không.

Nếu con nhìn vào quá trình của sứ giả này, từ năm 1984 cho đến 2002, ông đã tăng triển một cách tiệm tiến. Lần hồi, từng bước một, ông đã có chút tinh tấn trong suốt những năm tháng đó, tuy nhiên sự tinh tấn này vẫn tuần tự qua từng bước nhỏ một. Trong thế giới quan của ông và cho tới thời điểm đó, ông đã không hề nghĩ rằng mình mang tiềm năng trở thành một vị sứ giả cho chân sư thăng thiên. Ông chưa từng bất mãn với vị sứ giả trước, chưa từng ganh tị với vị đó, chưa từng có bất kỳ ý nghĩ nào là mình sẽ làm giỏi hơn hay vị đó có làm gì sai trái. Ông chỉ tận dụng giáo lý được ban truyền. Ông tự xem mình là một học trò của chân sư thăng thiên và ông sẽ cứ tiếp tục tăng triển chầm chậm từng bước như vậy bằng cách sử dụng các lời dạy của chân sư mà ông có.

Điều thày nói ở đây là bước tiến của ông từ việc là học trò của chân sư để trở thành sứ giả của chân sư không phải là một bước tiệm tiến. Nó đòi hỏi một chuyển vọt cách mạng trong tâm thức. Điều này không có nghĩa là bây giờ tất cả các con cũng sẽ nghĩ là mình phải làm giống như vậy và trở thành sứ giả cho chân sư. Điều thày muốn nói là đối với nhiều người trong các con, con có tiềm năng – ở một thời điểm nào đó trong đời mình, có lẽ không ngay bây giờ mà sau này – nhưng con có tiềm năng, như một thành phần của Sứ vụ Thiêng liêng của mình, bước lên một tầm nhìn cao hơn về cuộc sống, một cách nhìn cao hơn về bản thân, và chấp nhận tiềm năng cao hơn mà con có thể đem lại. Con không thể làm điều này theo cách tiến hóa.

Con yêu dấu, không cứ là tất cả mọi học trò của chân sư đều sẽ tiến hóa lần lần cho đến khi họ trở thành sứ giả của chân sư thăng thiên. Một học trò của chân sư có thể tiến hóa tuần tự cho đến khi sẵn sàng thăng thiên, mặc dù thày sẽ nói là để thực sự sẵn sàng thăng thiên, con cũng sẽ phải kinh qua một số chuyển vọt cách mạng trong tâm thức. Không có một con đường tiệm tiến nào sẽ dẫn con từng chút một từ điểm làm học trò tới điểm làm sứ giả – nó đòi hỏi một sự xoay chuyển cách mạng. Tương tự như vậy, nhiều người trong các con sẽ cần đạt tới điểm khi con cảm nhận: “Có một cái gì hơn nữa. Tôi chưa thể nhìn thấy nó ngay bây giờ – tại sao tôi lại chưa thể nhìn thấy?”

Lý do là vì con chưa lấy quyết định là con sẵn lòng nhìn thấy nó cho dù nó là gì và nó sẽ đòi hỏi ở con những thay đổi gì. Một khi con làm cuộc xoay chuyển cách mạng này, một số chuyện có thể sẽ phải thay đổi. Luôn luôn sẽ có tự ngã lo sợ sự thay đổi, luôn luôn sẽ có các thế lực bóng tối muốn giữ con lại trong một số ranh giới, và con sẽ phải khắc phục lực lôi kéo trọng trược này. Rồi cũng sẽ có ngã gốc không muốn con bước ra ngoài những lằn ranh nơi nó cảm thấy con được an toàn.

9.4. Sẵn lòng từ bỏ sự an toàn

Con phải đạt tới điểm con sẵn sàng không còn cảm thấy an toàn. Con yêu dấu, con có thể bước đi trên đường tu tâm linh với khái niệm là có một con đường dẫn con từ những mức tâm thức thấp lên những mức cao hơn. Con có thể tăng triển một cách tiệm tiến cho tới khi con có khả năng biểu hiện một khía cạnh nào đó của quả vị Ki-tô của con. Nếu con lấy cuốn sách Các kiếp của tôi, nó mô tả làm thế nào Giê-su, trước khi thày khởi sự sứ mạng công ích của thày tại Palestine, đã trải qua một tiến trình tiệm tiến nhằm chuẩn bị thày cho sứ mạng sau đó. Nhưng khi con nhìn vào tiến trình này, có một điểm được kể lại trong Kinh thánh (tất nhiên một cuộc xoay chuyển tâm lý phức tạp hơn đã diễn ra) qua câu chuyện tiệc cưới tại Cana. Giê-su ngồi trong tiệc cưới và nhận ra đã đến lúc thày phải bước lên bước cao hơn, nhưng thày cứ kháng cự lại và Mẹ Mary đã phải can thiệp, trao cho thày cái xung lực chót khiến thày nhìn ra là thời điểm đã đến.

Đó là lúc Giê-su kinh qua cuộc xoay chuyển cách mạng khi thày chấp nhận mình là Ki-tô Hằng sống trong hiện thân. Một số các con cũng có thể đến được điểm đó khi con chấp nhận điều này. Thày có thể cam đoan với con, đây là một sự chuyển vọt cách mạng. Không chỉ là thêm một bước nhỏ đi lên mà là một bước nhảy vọt, như người ta gọi là một bước nhảy vọt lượng tử. Con yêu dấu, con cũng hiểu là đã có một thời các nhà khoa học tin rằng thế giới là một tổng thể liên tục nơi các mức năng lượng trong hạt hạ nguyên tử thay đổi một cách lần hồi. Thế rồi Max Planck nhận được một sáng ngộ trực giác và ông nhìn ra là các mức năng lượng đó không thay đổi theo từng bước li ti cực nhỏ. Có một bước nhảy tối thiểu mà chúng phải băng qua – gọi là bước nhảy lượng tử. Trường hợp ở đây cũng giống như vậy, con đường quả vị Ki-tô có một khía cạnh tiến hóa tuần tự, nhưng con không thể mãi mãi tiến gần lại với mục tiêu, như các thày đã có giải thích qua chuyện ngụ ngôn về nghịch lý của Zeno, qua đó con luôn luôn phải đạt đến trung điểm của hành trình, rồi lại trung điểm của phần hành trình còn lại, và cứ như thế đến độ con không bao giờ tới đích.

Con không thể trở thành Ki-tô Hằng sống bằng cách bước tới dần dần, càng ngày càng đến gần hơn. Có một điểm con sẽ phải lấy quyết định và chấp nhận là mình đã thể hiện được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô, con đã đạt tới mức quả vị Ki-tô. Và kể từ lúc đó trở đi, con sẽ nhìn bản thân cũng như vai trò của mình trong thế giới một cách khác hơn. Có thể đây không là sự thay đổi lãng mạn mà người ta thường phóng chiếu.

Đây chính là điểm mà học trò trong các đợt truyền pháp trước không hiểu. Đôi khi họ nghĩ là một khi họ đã có một trải nghiệm mãnh liệt thì bỗng nhiên họ trở thành Ki-tô trong hành động, rồi từ đó vai trò của họ sẽ là đi vòng quanh để chỉ ra cách sai trái của mọi người và kỷ luật mọi người. Đây không phải là điều thày muốn nói, mà thày muốn nói đến một sự xoay chuyển vi tế hơn không khởi lên từ một niềm tham vọng vỏ ngoài. Các học trò kia trong các đợt truyền pháp trước thường mang một niềm tham vọng vỏ ngoài, một tham vọng thế phàm muốn trở thành một người quan trọng, một người có vai trò quan trọng, có địa vị quan trọng. Họ tìm cầu địa vị vỏ ngoài đó, sự công nhận vỏ ngoài đó, nhưng Ki-tô Hằng sống đâu đi tìm cái đó.

9.5. Xoay chuyển cách con nhìn thế giới vật chất

Sẽ tới điểm đó khi con cần nhận diện là mình mang tiềm năng làm cánh cửa mở để đem lại một cái gì mới, một cái gì mới một cách quyết định, có thể là trong lãnh vực chuyên môn của con, hay thậm chí trong một lãnh vực hoàn toàn khác mà con không có chuyên môn hay kinh nghiệm trước đó. Khi điều này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con cần hòa điệu vào đó. Nếu con ở trong số những người có tiềm năng đạt đến những mức tâm thức cao hơn, một trong những xoay chuyển mà con cần thực hiện là trong cách con nhìn thế giới vật chất, cách con nhìn bát cung vật lý.

Con yêu dấu, các thày có giải thích là trong chấn thương nhập đời, con đã hoàn toàn bước vào một khuôn nếp phản ứng như thế nào. Điều này có nghĩa – ngoài các vấn đề khác ra – là con nhìn vật chất như một thứ gì rắn đặc mà tâm không có khả năng thay đổi. Con yêu dấu, làm thế nào Giê-su đã biến nước thành rượu chứ? À, không phải là do Giê-su, con người vỏ ngoài của Giê-su, mà do thày đã trở thành một cánh cửa mở cho năng lượng của Thượng đế. Ý ở đây là như sau: Năng lượng của Thượng đế có khả năng thay đổi vật chất. Khi con đạt tới một mức quả vị Ki-tô nào đó, con trở thành cánh cửa mở cho những năng lượng này – nếu con có thể thực hiện cuộc xoay chuyển cách mạng đó và chấp nhận rằng vật chất có thể được tâm thay đổi! Tất cả các sa nhân, tất cả ma quỷ và rất nhiều người sẽ la hoảng lên đây là một lời nói dối, rằng chuyện này không thể nào làm được. Nhưng một trong những vòng đai cố thủ cuối cùng của sa nhân là khiến cho ai nấy nghĩ rằng trong vật chất có nhiều điều kiện mà con người không có quyền năng thay đổi.

Đây là một bước cách mạng, và bước này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của một số các con, cho dù nó có nghĩa thế nào đối với cá nhân con. Một lần nữa, thày không muốn khơi lên một tham vọng mà tự ngã của con có thể chụp lấy rồi thổi phồng lên. Chắc chắn một số các con có tiềm năng đem lại những sáng kiến mới, những công nghệ mới vượt cao hơn hẳn những gì nhân loại đang có, là những công nghệ mà thày đã gọi là “không dựa trên sức mạnh”. Những loại công nghệ này sẽ có vẻ như là ảo thuật so với những gì hiện có. Nó có vẻ như là khoa học viễn tưởng, như không thể nào xảy ra, vì nó vượt khỏi những gì hiện nay con xem là các định luật tự nhiên. Một số khác trong các con có tiềm năng trở thành những nhà chữa bệnh. Một số khác nữa có tiềm năng đem lại ý tưởng cách mạng trong từng lãnh vực của đời sống.

Con không thể hiển thị một ý tưởng cách mạng nếu con cứ ở trong một tâm thái tiến hóa tiệm tiến. Con cần làm cuộc xoay chuyển đó và mở tâm ra để thực sự làm cánh cửa rộng mở cho một số sáng ngộ cách mạng – công nghệ, tư tưởng, thậm chí cả thái độ, niềm tin hay cách nhìn cách mạng về cuộc sống. Nếu con thành thật, một số các con có thể cảm thấy sự kháng cự bên trong con đối với ý tưởng này. Nó đến từ ngã gốc hay một cái ngã tách biệt, bảo con rằng chuyện này nguy hiểm, chuyển này viển vông, chuyện này không thể nào xảy ra, rằng con không được làm theo vì con sẽ trở nên kiêu ngạo, hay bất kỳ ý tưởng nào khác mà nó sẽ phóng chiếu vào tâm con.

Mỗi cá nhân các con cần xem xét điều này và tự hỏi: “Đâu là cái cơ chế đứng đằng sau? Đâu là niềm tin đứng đằng sau? Đâu là sự giới hạn mà niềm tin này dựa trên?” Sau đó con cần dùng phân biện Ki-tô của mình, con cần làm công việc nội tâm giải quyết ngã đó, tách mình ra khỏi nó. Con cũng cần dùng phân biện Ki-tô để mở tâm ra hầu thật sự trải nghiệm thực tế của những gì con có thể hiển thị. Thày vừa lấy sứ giả này làm ví dụ để nói rằng việc ông khởi xướng trang web cùng với Giê-su không phải là một thay đổi tiệm tiến đối với ông, mà nó dựa trên một trải nghiệm có thật. Con phải trước hết sẵn lòng có trải nghiệm đó bằng cách sẵn lòng buông bỏ những niềm tin, thái độ, cách nhìn của mình về chính mình, cách nhìn của mình về thế giới. Xong con phải sẵn lòng thực hành cái nhìn mới, và phải làm vậy trong một tinh thần vừa không kiêu mạn, vừa không rơi vào đối nghịch của kiêu mạn là tự bài bác.

9.6. Tìm sự cân bằng vượt khỏi kiêu mạn và khiêm tốn giả dối 

Con phải tìm thấy một thế cân bằng vô cùng tinh tế nơi không có chỗ cho lòng tham vọng phàm phu khiến con kiêu mạn, như các thày đã chứng kiến trong các đợt truyền pháp trước. Đồng thời cũng không có sự chối bỏ bản thân khiến con hạ thấp chính mình, như các thày cũng đã thấy trong các đợt truyền pháp trước. Nói cách khác, có một số học trò đã tự cản trở mình trong việc biểu hiện quả vị Ki-tô. Và cũng có một số học trò đã sốt sắng thái quá, và thay vì biểu hiện quả vị Ki-tô thì họ lại biểu lộ các tham vọng của tự ngã rồi nghĩ đó là quả vị Ki-tô.

Con cần tìm thấy thế cân bằng đó vì đó chính là điều các thày đã chỉ dạy con một cách lần hồi, rất lần hồi. Các thày đã dẫn con tới khả năng phân biện đó và bước chân thăng bằng trên sợi dây đó, trên con đường hẹp đó thay vì con đường rộng toang. Điều này thật sự nằm trong tầm tay các con nếu con đã ghi nó như một tiềm năng vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nhiều người trong các con chưa đến được mức đó nhưng tất cả các con đều có thể hưởng lợi bằng cách ít ra giữ khái niệm này trong tâm. Một số các con sẽ tìm ra là khi con cảm thấy mình đạt tới điểm đó, điều có thể rất hữu ích là con nghe lại bài truyền đọc này, vượt ra khỏi từ ngữ để theo dõi sự rung động của từ ngữ, rồi bước theo đó cho tới Bản thể mà TA LÀ, Saint Germain, cũng như tình thương mà thày dành cho con.

Rồi khi con gắn chặt vào đó và trải nghiệm tình thương đó, con sẽ có thể trải nghiệm thực tại của tình thương mà thày cống hiến, là tình thương có khả năng làm cho vật chất ca hát. Đó là khi con cũng có thể bắt đầu trải nghiệm ánh sáng của Thượng đế, tình thương của Thượng đế, có khả năng xoay chuyển vật chất, vì nó làm cho vật chất ca hát trong một giai điệu khác hơn là giai điệu của sa nhân!

Khi đến được mức đó, một số các con sẽ có thể nhận ra là kỳ thực mình đang ở đây để biểu đạt một khía cạnh của quả vị Ki-tô của mình, qua đó con là cánh cửa mở đang gửi ra ngoài một rung động làm cho vật chất ca hát! Nó làm cho các phân tử cùng các hạt nguyên tử của vật chất vật lý khởi sự gia tốc ở một tầng cao hơn. Và như vậy, con có thể đóng một vai trò hoàn toàn mới trong công cuộc nâng cao tâm thức tập thể và đem lại Thời đại Hoàng kim.

9.7. Sứ vụ Thiêng liêng và Thời Hoàng kim

Thời Hoàng kim không thể được ép uổng lên nhân loại, cho nên phải có những người hiện đang đầu thai làm vai trò cực điện để đem lại một sự xoay chuyển trong tập thể, qua đó mọi người có thể dần dần chấp nhận trong ý thức sự hiện hữu của một cái gì cao hơn. Vào thuở khi những con người đầu tiên bắt đầu mơ tưởng sáng chế ra một cái máy biết bay, tuyệt đại đa số nhân loại vẫn chưa thể chấp nhận giấc mơ này là khả thi. Rồi khi những chiếc máy bay đầu tiên được chế tạo và trình làng, rất nhanh chóng một sự xoay chuyển cách mạng đã xảy ra trong tâm thức tập thể. Bỗng nhiên càng ngày càng có nhiều người bắt đầu chấp nhận việc bay trên không trung là chuyện có thể.

Khi chúng ta bước vào Thời Hoàng kim, nhiều cuộc xoay chuyển giống như vậy cần xảy ra trước khi thày có thể thực sự truyền rải các ý tưởng và công nghệ sẽ khiến cho Thời Hoàng kim trở thành hiện thực vật lý. Tiên khởi phải có sự nhận thức và chấp nhận trước khi sự thị hiện vật lý có thể xảy ra. Phải có một túc số tới hạn những con người chấp nhận tiềm năng cao hơn trước khi tiềm năng này có thể thị hiện. Nhiều người trong số các con có mang trong Sứ vụ của mình ý muốn trở thành những cực điện cho công cuộc này. Đó là tại sao những bài thỉnh mà con đang đọc nói đến việc góp phần đem lại sự thay đổi qua hành động trực tiếp hay qua những lời kêu gọi. “Lời kêu gọi” của con trong bài thỉnh tượng trưng cho những gì thày đang trình bày ở đây, tức là con công nhận mình có thể làm cực điện để truyền rải năng lượng có khả năng nâng cao tâm thức tập thể, làm cho vật chất ca hát, và kích hoạt cuộc xoay chuyển.

Một số các con có thể thấy là có lẽ mình không ở độ tuổi, hay có lẽ mình không đủ học hành để bước vào một lãnh vực khoa học và khởi xướng một nền công nghệ mới qua hành động trực tiếp. Điều này không thực tế đối với con trong kiếp này, nhưng nếu con cảm hứng mạnh mẽ về một dạng công nghệ mới, hay một hình thức giáo dục mới, hay một hình thức văn hóa nghệ thuật mới, thì nếu con không thể hành động trực tiếp trong vật lý, con vẫn có thể hành động trực tiếp trong tâm linh bằng cách đưa ra lời thỉnh gọi. Con có thể mở tâm ra để trở thành cực điện cho năng lượng đó, và nó có thể xoay chuyển tâm thức tập thể, thậm chí xoay chuyển cả vật chất vật lý. Chắc chắn, nó sẽ đem lại xoay chuyển trong cõi cảm xúc, cõi lý trí, cõi bản sắc, hầu mọi người chuyển đổi tâm thức mình và bắt đầu chấp nhận rằng tiềm năng không chỉ là tiềm năng mà là một cái gì có thể xảy ra thực sự. Đây không phải là chuyện khoa học giả tưởng, không phải là một giấc mơ xa vời hão huyền nào đó may ra sẽ biểu lộ trong một tương lai xa lắc. Nó thật sự có thể thị hiện ngay bây giờ, và khi nào có một túc số tới hạn những con người chấp nhận thì nền công nghệ mới sẽ được thị hiện rất nhanh chóng như con đã từng chứng kiến rất nhiều lần xuyên qua lịch sử.

9.8. Chúng ta luôn luôn có thể bước lên cao hơn

Cuộc xoay chuyển mà thày muốn con làm ở đây, tất cả các con – tất cả mọi học trò tâm linh cho dù con đang ở trình độ nào – là con nhìn nhận bất cứ lúc nào cũng có một tâm thức tập thể đang nghĩ rằng: “Ồ, chúng ta đã đạt tới mức cao nhất rồi, chúng ta không thể nào lên cao hơn được.” Con thấy đó, ngay bây giờ đang có một tâm thức tập thể bảo rằng: “Chúng ta đã đạt được một trình độ tối ưu nào đó, và mặc dù có thể sẽ có những giải pháp công nghệ mới, nhưng chúng sẽ đều nằm trong cùng một khuôn khổ như những gì đang có hiện nay. Chúng sẽ chỉ là sự cải tiến, là những cải tiến nho nhỏ, tiệm tiến, của những gì chúng ta đang có.”

Các con là học trò tâm linh, các con yêu thương Thời Hoàng kim của thày, vậy thày yêu cầu các con hãy làm một cuộc xoay chuyển cách mạng trong tâm thức, qua đó con nhận ra là những gì con đang có ngay bây giờ không đặt giới hạn cho những gì có thể được hiển thị trong tương lai! Chúng ta không thể thị hiện Thời hoàng kim mà thày hình dung bằng cách thay đổi hiện trạng một cách tiệm tiến. Chúng ta cần một số xoay chuyển cách mạng, và các con có khả năng làm cuộc xoay chuyển tâm thức này, các con chấp nhận là nó hoàn toàn khả thi, là thày cũng có khả năng, và thày đã có những sáng kiến đó rồi. Khi có đủ số người chấp nhận điều này thì nó sẽ có thể biến thành vật lý, và con cũng biến chính con thành người chấp nhận điều này. Cho nên con sẽ không để ý tới những kẻ bi quan yếm thế, những kẻ chỉ tiên tri ngày tận thế và những kẻ cho rằng không gì có thể thay đổi.

Con sẽ chấp nhận rằng sự thay đổi là trào lưu của ngày nay, của thập niên này, của thiên niên kỷ và của thời đại này, vì thày, Saint Germain, đang tuyên bố điều đó và con cũng chấp nhận lời tuyên bố của thày! Qua sự tương tác giữa thày nơi cõi thăng thiên và con nơi cõi hiện thân vật lý, tức là dòng chảy alpha và omega, dòng chảy hình số tám, thì lời tuyên bố này sẽ không thể nào không thị hiện! Chỉ là một vấn đề thời gian trước khi một túc số tới hạn con ngừơi sẽ có thể chấp nhận được điều này.

Thày đang yêu cầu con xoay chuyển để ít ra con cũng chấp nhận và đóng góp hầu biểu lộ nó thành hiện thực. Liệu con sẽ làm được cuộc xoay chuyển này hay không? Nếu được thì thày cảm ơn con đã sẵn lòng bước theo thày, đã cho phép Lời này, sự ban truyền này, khiến cho vật chất của con ca hát! Con hãy hòa điệu vào đó ngay bây giờ và cảm nhận vật chất trong bốn thể phàm của con đang hát lên một giai điệu mới.

11 | Chọn lựa ý thức và chọn lựa tiềm thức

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Chỉ đạo Thiêng liêng qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Đại Chỉ đạo Thiêng liêng – hoặc như dạo sau này thày ưa tên gọi này hơn, Chỉ đạo Thiêng liêng – vì thật sự “Chỉ đạo Thiêng liêng” vượt khỏi mọi sự phân rẽ, mọi đối cực nhị nguyên. Phân biệt giữa lớn với không lớn liệu có ý nghĩa gì chăng?

11.1. Các giai đọan ý thức và tiềm thức của Sứ vụ Thiêng liêng

Con yêu dấu, cho tới điểm này các thày đã cho con những bài truyền đọc bao gồm nhiều khía cạnh khác nhau về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Vừa rồi con đã nghe giảng là có những thời điểm con cần có một số quyết định để bước lên một tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Hầu mở tâm ra cho một sự thay đổi cách mạng, con cần lấy một số quyết định.

Theo một nghĩa nào đó, ít nhất ở những giai đoạn cao hơn, Sứ vụ Thiêng liêng của con hoàn toàn là những quyết định mà con lấy. Các thày đã giảng là có một giai đoạn công phu trong Sứ vụ, có một giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ, có một giai đoạn tiến hóa hay tiệm tiến trong Sứ vụ, và có một giai đoạn cách mạng. Để khiến con bối rối hơn nữa và đưa con – hy vọng như vậy – vào một trạng thái hoang mang huy hoàng, thày muốn đưa ra khái niệm là có một giai đoạn ý thức trong Sứ vụ và một giai đoạn tiềm thức.   

Qua khái niệm này thày muốn nói là nếu con nhìn lại đời mình, con có thể thấy con thường bị đẩy vào những tình huống mà con có thể nói là con đã không chọn bước vào một cách ý thức. Nó như tự dưng xảy ra trong hoàn cảnh như vậy, và con không ý thức được tại sao con cần làm vậy và chuyện đó nằm trong Sứ vụ của con như thế nào. Dù sao thì nó vẫn nằm trọn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con đã cần đến trải nghiệm đó. Con có thể nói: “Đúng, trong giai đoạn đó của Sứ vụ, tôi không chọn một cách ý thức những gì mình làm và tôi không cố tình chọn như vậy. Tôi không biết rõ những chọn lựa khác là gì và hậu quả sẽ ra sao.” Con có thể tự hỏi: “Ở giai đoạn đó, tôi đã thật sự chọn lựa hay không?” Thực tế dĩ nhiên là , con luôn luôn đang chọn lựa. Mọi người trên địa cầu đều không ngừng chọn lựa.

Con có thể nhìn những người ở trạng thái tâm thức rất thấp và cuộc đời của họ dường như chìm trong một tình trạng xáo trộn liên tục. Luôn luôn có những điều kiện vỏ ngoài có vẻ như ép buộc họ làm chuyện này chuyện nọ, hay ép buộc họ cứ luôn bị tê liệt như thể bị tước mất hết khả năng. Con có thể nói: “Đấy, họ đang chọn lựa ở chỗ nào?” Họ có thể không đang chọn lựa trong tình huống trước mắt, nhưng tình huống của họ vẫn là hệ quả của những chọn lựa mà họ đã lấy trong quá khứ. Ngay cả trong tình huống trước mắt, mặc dù họ không đang chọn thị hiện một hoàn cảnh cụ thể, nhưng họ vẫn chọn cách phản ứng hay không phản ứng lại hoàn cảnh.

Khi con chuyển từ giai đoạn tiềm thức vào giai đoạn ý thức, không phải đột nhiên con bắt đầu chọn lựa, mà thật ra con kinh nghiệm là đột nhiên con bắt đầu chọn lựa. Lý do là vì con bắt đầu ý thức nhiều hơn về những chọn lựa mà con đang lấy liên tục. Khi con theo học và thực hành giáo lý của các thày, lúc đầu con trở nên ý thức hơn về phản ứng của mình. Con bắt đầu nhận biết là khi con ở trong một hoàn cảnh nào đó, hoàn cảnh này kích hoạt nơi con một khuôn nếp phản ứng nhất định. Sau đó con bắt đầu nhận xét điều này, và con nhận thức rõ hơn là trong một số hoàn cảnh – hay khi con ở gần một số người – con luôn luôn phản ứng theo cách đó. Và tất nhiên, các thày đã cho con những dụng cụ để đặt câu hỏi: “À, chẳng phải điều này đang chỉ ra là mình có mang một khuôn nếp phản ứng, và khuôn nếp phản ứng này đến từ một loại phàm linh nội tại hay một loại ngã nào đó, có thể là nó còn đi ngược về tuốt ngã gốc, là điểm tôi đã khởi sự giai đoạn phản ứng lại các điều kiện trên trái đất?” Như vậy con có thể dùng các dụng cụ để gia tăng sự nhận biết về cái đứng đằng sau khuôn nếp phản ứng đó. Một khi con thấy cái đứng đằng sau, con có thể thoát ra khỏi nó, thế là con không còn phản ứng cách đó nữa.

Tất nhiên, mỗi lần con khắc phục một khuôn nếp phản ứng như vậy, con sẽ mở rộng tầm nhận thức, con sẽ có thể nhìn thấy một khía cạnh khác nữa, một diện khác nữa trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Và bỗng nhiên con có khả năng làm nhiều chọn lựa ý thức hơn, vì thay vì bị một khuôn nếp tiềm thức kích hoạt phản ứng nơi mình, con không còn mang khuôn nếp đó nữa. Và do đó con có thể chọn: “Tôi muốn phản ứng thế nào trong hoàn cảnh này, tôi muốn phản ứng thế nào đối với những người này? Liệu tôi có thật muốn phản ứng lại một loại người nào đó hay tôi muốn lựa bỏ họ ra khỏi đời tôi?”

11.2. Sự sáng tạo dựa trên các chọn lựa

Điều con nhận ra ở đây là khi con chuyển sang giai đoạn sáng tạo của Sứ vụ Thiêng liêng, khả năng sáng tạo dựa trên gì? Nó dựa trên việc chọn lựa! Con yêu dấu, đã có một cuộc tranh luận rất lâu đời giữa các triết gia và các nghệ sĩ về đề tài “Sáng tạo bắt nguồn từ đâu?” Con yêu dấu, con có thể nói – và nhiều nghệ sĩ, nhà văn, họa sĩ cũng sẽ nói như vậy – rằng họ nhận được một nguồn cảm hứng. Ngày xưa, người ta hay nói đến các nàng thơ, được xem là những sinh thể phi vật chất gần giống như tiên nữ hay thiên thần, đến đậu trên vai nhà thơ để tạo cảm hứng sáng tác. Hiển nhiên, một số văn sĩ đã cảm được một luồng cảm hứng đích thực chảy qua bản thân mình, thậm chí cả một dòng chảy từ Tánh linh. Trong một số trường hợp, đó quả là một dòng Tánh linh cao, y như con đang trải nghiệm một dòng Tánh linh cao đang chảy qua tâm thức sứ giả này không do chính ông tạo ra bằng tâm thức của ông.

Con có thể nói là nếu con sáng tạo, chẳng phải là có một dòng chảy năng lượng đang đi qua Bản thể con và là cội nguồn của sự sáng tạo đó hay sao? Tất nhiên là có – đây là điều các thày đã gọi là sự đồng sáng tạo. Con nhận diện là con đang thực sự sáng tạo không chỉ bằng cách sử dùng những năng lượng sẵn có trong cõi vật chất và những khả năng sẵn có trong tâm phàm của mình, mà con đang thực sự sáng tạo bằng cách kết nối với một cái gì cao hơn ngã của mình, bằng cách làm cánh cửa mở cho cái đó, và như vậy con cho dòng năng lượng chảy vào bốn thể phàm của con hầu nó biểu lộ ra trong bát cung vật lý. Tất nhiên, dòng chảy này của Tánh linh nếu con muốn gọi như thế, hay luồng cảm hứng này, là một phần không thể thiếu của mọi sáng tạo.

Dù sao thì điểm mà nhiều nghệ sĩ hay triết gia không hiểu hoàn toàn về sáng tạo là họ nghĩ đó là một cái gì xảy ra hoặc không xảy ra, và con không thể làm gì để thay đổi nó được. Trong giới nhà văn, người ta có khái niệm gọi là “tắc ý” (writers block) khi nhà văn bị tắc nghẽn không làm sao viết nổi suốt nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm trời. Con ngồi trước tờ giấy trắng, đang say sưa viết xuống lưu loát thì bỗng nhiên tâm con rơi vào trạng thái tê liệt không thể viết được bất cứ gì.

Điều thày mong con lưu ý là sự sáng tạo đòi hỏi một số quyết định nơi con. Đó không phải là một kinh nghiệm thụ động nơi con thụ động ngồi chờ cảm hứng từ trên trời rơi xuống. Con có thể làm rất nhiều để mở tâm ra đón nhận dòng chảy Tánh linh. Có câu nói rằng: “Thánh linh thổi đâu thì thổi” (John 3:8) để diễn tả là con không thể dùng tâm vỏ ngoài để kiểm soát dòng chảy của Tánh linh. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài và một tham vọng phàm phu để cưỡng ép dòng chảy của Tánh linh. Con yêu dấu, nếu con tìm cách ép buộc dòng chảy thì con sẽ không hòa điệu được với Tánh linh, với Thánh linh, với cõi tâm linh, với các chân sư thăng thiên. Con sẽ hòa điệu với các linh thể thấp hơn nơi cõi bản sắc thấp, cõi lý trí hay ngay cả cõi cảm xúc.

Suốt dòng lịch sử, một số nhà văn và nghệ sĩ đã hòa điệu với những cõi thấp đó và đã nhận được một luồng chảy từ các linh thể thấp đó xuyên qua họ, cho phép họ sản xuất – trong một số trường hợp – một lượng văn chương và thông tin to lớn khủng khiếp, hay một lượng họa phẩm, nhạc phẩm hay bất kỳ loại tác phẩm nào khác to lớn khủng khiếp. Đây không phải là những gì các thày gọi là sáng tạo chân chính vì đó không phải là đồng sáng tạo. Nó không đồng sáng tạo với cõi tâm linh mà đồng sáng tạo với một cõi thấp hơn vẫn thuộc về thế gian này.

Con không thể ép buộc Thánh linh, tuy nhiên con cũng không thể nhận được Thánh linh bằng cách ngồi chờ. Con tìm ra con đường trung đạo, con đường thẳng và hẹp nơi con giải quyết các chấn thương riêng của mình, khắc phục các phàm linh nội tại, những cái ngã nội tại, và nhờ vậy độ cởi mở trong tâm con được gia tăng. Con cũng cần trở nên ý thức hơn là con phải chọn trở thành cánh cửa mở, con phải chọn “làm” cánh cửa mở trong một số hoàn cảnh đặc thù. Nó đòi hỏi con lấy quyết định ý thức đó. Đó có thể là nhiều quyết định ý thức khác nhau, và như các chân sư khác có đề cập sáng nay, con sẵn lòng là Ki-tô trong một hoàn cảnh đặc thù nào đó. Con sẵn sàng nhìn nhận là con có khả năng đó, con sẵn sàng với lên một ý tưởng cách mạng nào đó, hay ngay cả chỉ là một ý tưởng cao hơn mức tâm thức hiện thời của con một bực, hay cao hơn tâm thức những người chung quanh con một bực.

Con phải lấy quyết định này để mở tâm con ra. Sau đó, một khi con đã thông sạch tâm trí cùng bốn thể phàm hầu tạo khoảng trống cho ý tưởng thâm nhập vào, một khi con đã lấy quyết định ý thức là con sẵn lòng làm cánh cửa mở, thì khi đó Thánh linh sẽ chảy xuyên qua con. “Thánh linh thổi đâu thì thôi” có nghĩa là bất cứ khi nào có một khe mở, Thánh linh sẽ chảy qua đó vì các thày có quá nhiều điều muốn biểu đạt từ cõi tâm linh đến độ các thày không thể khó tính kén chọn: “À, người này không xứng đáng làm cánh cửa mở.” Ngay khi có một cánh cửa mở ra, các thày sẽ lập tức biểu đạt qua người đó một điều gì thích hợp với hoàn cảnh, thích hợp với mức tâm thức của người đó, vân vân.

Con thấy đó, con yêu dấu, trái với một ý tưởng đôi khi được truyền tụng trong giới học trò của chân sư thăng thiên, không cứ là có một số người sẽ xứng đáng làm công cụ cho Thánh linh và một số người khác thì không. Một số có thể không cởi mở, một số có thể không sẵn lòng một cách ý thức, nhưng tất cả mọi người đều xứng đáng một khi họ nỗ lực chuyên tâm. Đây không phải là một câu lạc bộ chỉ dành riêng cho hội viên.

11.3. Khai ngộ trong Thời đại Song ngư

Thường có một tâm thức rất lâu đời ngay cả trong giới đệ tử tâm linh, trở ngược lại từ thử thách của Thời đại Song ngư, là những gì con thấy đã xảy ra cho Giê-su. Thày Giê-su đã đến đây để nêu gương là mọi người đều có khả năng khoác vào tâm thức Ki-tô. Thế rồi sa nhân đã thành lập Giáo hội Công giáo, tạo ra hình ảnh Giê-su là hiện thân độc nhất của Ki-tô, ngụ ý rằng không ai khác có thể làm được vậy. Làm sao người ta tin được chuyện này? Tại sao biết bao người đã ở lại trong Giáo hội Công giáo, nhiều khi còn tái đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác trong Giáo hội Công giáo? Tại sao biết bao người Công giáo vẫn tin vào chuyện đó?

Tất nhiên đó là vì họ đã không hội đủ điều kiện và đã không vượt qua được khai ngộ của Thời đại Song ngư, là khắc phục sự sùng bái thần tượng do sa nhân tạo ra khi bảo rằng chỉ có một số người mới xứng đáng. Con cần dần dần nhìn ra quyền tự quyết là quyền tự quyết, và tự nhận biết là tự nhận biết. Mọi sinh thể tự nhận biết – tức là tất cả mọi người đầu thai trên địa cầu – đều có một đốm sáng của tâm thức Đấng Sáng tạo. Không có một đốm sáng nào của tâm thức Đấng Sáng tạo có thể xứng đáng hơn một đốm khác. Tất cả các con tự thân đều xứng đáng bởi con có tự nhận biết. Câu hỏi có thể đặt ra là: “Con đã chứng đạt đến đâu, con đến từ đâu, bốn thể phàm của con cởi mở và được chữa lành đến đâu?” Đây không phải là vấn đề xứng đáng, mà là vấn đề rộng mở để đón nhận Tánh linh.

Trong Thời đại Song ngư có thử thách phải khắc phục hình ảnh giả trá do sa nhân tạo ra là có sự phân chia giữa người có và người không có, giữa người xứng đáng và người bất xứng, giữa giai cấp quý tộc và giai cấp dân giã cùng tất cả mọi người dân khác – quá nhiều những phân chia như vậy. Hiển nhiên con cũng thấy sự thể này trong các phong trào tâm linh, thường hay sùng bái vị đạo sư của mình, cho rằng đạo sư là một người thật đặc biệt với một cái gì không ai khác có được – vì nếu không thì làm sao họ thành đạo sư hay sứ giả chứ? Họ là đạo sư hay sứ giả – một đạo sư hay một sứ giả chân chính – là vì chính họ đã bước trên đường đạo và đã chữa lành bốn thể phàm đến mức họ có thể nhận được một cái gì từ trên, nhưng điều này vẫn không biến họ thành một người xứng đáng hơn mà chỉ có nghĩa là họ đã tiến xa hơn trên đường tu. Tất cả các con đều xứng đáng như nhau, tất cả đều có một tiềm năng đồng đều để nâng cao tâm thức, chữa lành bốn thể phàm của mình và trở thành cánh cửa mở.

11.4. Tôn trọng quyền tự quyết của chính mình

Khi con làm vậy, con sẽ cảm thấy Tánh linh tuôn chảy xuyên qua con, như quả thật nhiều người trong các con đã cảm nhận được ở một mức độ nào đó. Điểm thày muốn nhấn mạnh ở giai đoạn này là con phải lấy một quyết định, đúng hơn nhiều quyết định, nhưng con phải lấy quyết định là con sẵn lòng làm cánh cửa mở, con sẵn lòng nhận được một điều gì và sẵn lòng biểu đạt điều đó – bất kể phản ứng của người khác là gì. Thày hiểu rất rõ, các thày đều hiểu rất rõ, là trước khi con đến được điểm có thể nói: “Tôi sẽ biểu đạt điều này cho dù chuyện gì xảy ra,” thì con cần chữa lành tâm lý con phần nào. Chắc chắn con cần xem xét và tách ra khỏi ngã gốc, là ngã được tạo ra khi con bị sa nhân trấn áp tàn bạo trong kiếp đầu thai đầu tiên và quyết định là mình sẽ không bao giờ nhận chịu rủi ro này nữa. Có thể sẽ có một giai đoạn khi con phải khắc phục nỗi sợ hãi này để con sẵn sàng chấp nhận rủi ro.

Con yêu dấu, khi con bắt đầu nhìn vào ngã gốc và tách mình ra khỏi nó, con sẽ cảm nhận là lòng sợ hãi hậu quả, ý niệm rủi ro, tan biến mất. Con có thể đạt tới điểm nhận ra là mình không còn cơ chế đền bù, không còn mong muốn trừng phạt sa nhân. Con cũng không có mong muốn được người khác chấp nhận hay công nhận, vì con không còn sự bất an trong bản thân khiến con muốn được người khác chấp nhận. Con có thể đạt tới điểm con nhìn nhận là mình hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết. Khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác, điều này có nghĩa là lúc con phát biểu để thể hiện một ý tưởng cao hơn, thì con cũng để cho mọi người tự do phản hồi hay không phản hồi theo bất cứ cách nào họ muốn.

Con cũng có thể nhận ra là trong khi con tôn trọng quyền tự quyết của người khác (và hầu hết các con đều tôn trọng) thì con cũng cần có một sự tôn trọng bình đẳng đối với quyền tự quyết của chính con, và điều này có nghĩa là con phải quyết định là các chọn lựa của con sẽ độc lập với chọn lựa của người khác. Con sẽ không rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với hành động của mình chỉ vì có ai đó không chấp nhận hay bác bỏ con. Con sẽ không bảo: “Ồ, tôi sẽ không bao giờ nói lên gì nữa.” Con không phải có phản ứng tiêu cực nào hết, và con không cần cảm thấy bị người khác chối bỏ nếu họ không chấp nhận những gì con nói.

Con có thể đạt tới điểm, con yêu dấu, khi vấn đề không còn đặt ra là con có ở trong tâm thái nhị nguyên nghĩ rằng mỗi khi con phát biểu thì người khác phải có phản ứng, và phản ứng này sẽ tích cực hay tiêu cực. Con có thể đạt tới điểm thậm chí con không nghĩ cả tới phản ứng có thể như thế nào. Ngay từ đầu, con đã để cho người khác tự do muốn phản ứng thế nào cũng được vì con biết chính con đã tự do không phản ứng tiêu cực lại phản ứng của họ.

Con có thể đạt tới điểm con không tự biểu đạt vì con muốn cứu nguy thế giới, thay đổi người khác hay được người khác chứng thực. Con chỉ tự biểu đạt vì đây là sự biểu đạt con người mà con là, Bản thể cao hơn của con, và đó chính là điều đem lại cho con niềm vui tột bực trên trái đất.

Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là khi con đến được điểm này, khi con nhận biết một cách ý thức là con nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, sẽ có một dòng chảy từ Hiện diện TA LÀ và những gì chảy xuyên qua con là một biểu hiện của cá thể tâm linh của con. Tuy nó được lọc qua cá thể mà con mang ở dưới này, nhưng nó vẫn giữ được một yếu tố tinh khiết nào đó biểu hiện cá tính đích thực của con. Rồi thì con sẽ trải nghiệm một niềm vui lớn hơn mọi niềm vui con đã từng trải nghiệm khi con chỉ hành động qua ngã phàm phu. Thật sự không có hoạt động nào con làm dựa trên ngã phàm phu có thể đem lại cho con một niềm vui như thế, cũng như cảm nhận tràn đầy mà con có khi con cảm được dòng chảy của Tánh linh và biết rằng con đang đồng sáng tạo.

11.5. Tự thân đó đã là phần thưởng

Đó là tại sao khi con đến được điểm này, việc biểu đạt Bản thể cao hơn của con tự thân nó đã là một phần thưởng. Cho nên Giê-su mới nói: “Con có muốn phần thưởng trên thiên đàng hay phần thưởng dưới trái đất?” Con nhận ra đây là phần thưởng trên thiên đàng và nó cao hơn tất cả mọi phần thưởng con có thể nhận được trên trái đất. Do đó con có khả năng giải thoát người khác. Con có khả năng giải thoát chính mình, và cuối cùng con có thể trụ trong trạng thái liên tục mở rộng với Tánh linh. Con không đang phán xét, đánh giá hay phân tích, mà con chỉ đang biểu đạt bất cứ gì đến với con.  

Thày vẫn biết một số người sẽ nói ngay lập tức: “Ủa, có nghĩa chăng là những người như vậy sẽ làm bất cứ gì họ muốn?” Đúng vậy, có nghĩa là họ sẽ làm bất cứ gì “họ” muốn, nhưng không phải bất cứ gì mà tự ngã của họ muốn. Khi người ta bảo: “Ồ, anh kia có thể làm bất cứ gì anh ấy muốn,” người ta thường ngụ ý anh đó là một người tuân theo tự ngã, anh có thể làm bất cứ gì mà tự ngã muốn cho dù hậu quả có là gì đối với người khác. Lẽ tự nhiên khi con hành xử từ cái ta cao hơn của con và cái ta cao đó trụ trong sự hợp nhất, nó sẽ không làm gì gây tổn thương cho người khác. Nó sẽ làm điều gì khiến cho người khác bị xốn xang hay khích động, bởi vì đó có thể là cách duy nhất có hy vọng đánh thức được họ.

Tất nhiên, một lần nữa con có thể nói, liệu Hiện diện TA LÀ của con sẽ ngồi dậy và bảo: “À há, tôi biết chính xác cách nào tôi có thể bấm trúng cái nút mà người đó nhạy cảm.” Không, Hiện diện TA LÀ của con không làm vậy. Nó chỉ tự biểu đạt chính nó, và sự biểu đạt này khác xa mức tâm thức của người kia đến độ người kia trải nghiệm như một sự khích động. Hiện diện TA LÀ không tìm cách cố tình khích động, mà nó chỉ tự biểu lộ như nó là. Đó là vì sao con có thể đạt tới điểm, ngay cả khi người kia bị khiêu khích và nổi giận hay chối bỏ con, thì con vẫn không bị dao động. Con cho phép họ có phản ứng mà họ đang có, nhưng con không cho phép phản ứng này khiến lần sau con không muốn làm cánh cửa mở nữa.

Vậy thì con cần những gì để đạt tới điểm làm cánh cửa mở và biểu hiện một yếu tố của bản thể cao hơn của con, do đó cũng biểu lộ những khía cạnh sáng tạo hơn, tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con? Một lần nữa, đây là vấn đề chọn lựa và ngày càng làm thêm nhiều chọn lựa có ý thức. Điều thày muốn trình bày với con là con đạt tới điểm con cần kinh qua một giai đoạn ngày càng ý thức hơn về sự kiện con đang lựa bỏ, con đang chọn ra những gì mình không cần nữa.

11.6. Lựa bỏ khỏi đời mình

Nhiều người trong các con đã làm việc đó để bước chân trên đường tu nhưng con có thể ý thức hơn về tiến trình này. Con cảm nhận là một hoạt động mình đã từng tham gia hay một số người mình đã từng dành thời gian với họ, quả thật khiến con bị xao lãng. Thày cũng biết là con có thể đáp lại với tâm vỏ ngoài: “Nhưng chẳng phải Giê-su đã dạy là chúng con cần đạt tới điểm mình nhìn lại đời mình mà không có tiếc nuối nào hay sao? Bởi vì bất cứ gì chúng con sống qua đều là trải nghiệm chúng con cần có.” Phải, con yêu dấu, điều đó đúng – khi con nhìn lại quá khứ. Nhưng con yêu dấu, điều đó không có nghĩa là bởi vì con không cần nuối tiếc những việc mình đã làm trước đây thì con cũng cần tiếp tục làm cùng những việc đó cho tới mãn kiếp này.

Điều thày muốn nói là khi con bước vào giai đoạn ý thức hơn này, con cần nhận thức hành tinh này là một hành tinh rất đa dạng. Trên hành tinh có rất, rất nhiều sinh hoạt khác nhau. Một số sinh hoạt có thể rất hào hứng, nhưng một số khác là do sa nhân cố tình lập ra trong mục đích duy nhất là đánh lạc hướng mọi người khỏi con đường tăng triển tâm linh hay Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Có rất, rất nhiều sinh hoạt trên địa cầu mà hầu hết mọi người đều xem là những trải nghiệm hay hoạt động bình thường, chính đáng, thậm chí còn là sáng tạo, nhưng mục đích duy nhất của chúng, thực sự, là khiến con bị phân tâm, xao lãng – chúng hút năng lượng cùng sự chú ý của con vào những chuyện có thể vui nhộn, có thể bổ ích hay ngay cả có vẻ lợi lạc và vị tha. Nhưng đối với con, đó là một sự phân tâm lôi kéo sự tập trung của con ra khỏi Sứ vụ Thiêng liêng cùng các khía cạnh sáng tạo hơn của Sứ vụ.

Lẽ tự nhiên, tất cả các con đều đã lựa bỏ nhiều thứ ra khỏi đời mình vì con cảm thấy chúng không giúp ích gì cho sự tăng triển tâm linh. Còn có nhiều hoạt động và nhiều thái độ hơn nữa mà con có thể lựa bỏ khi con trở nên ngày càng ý thức và càng làm thêm nhiều chọn lựa ý thức. Các thày có nói là con sẽ không bao giờ nhìn thấy toàn bộ Sứ vụ Thiêng liêng của con vì thật ra nó được định đoạt mỗi khi con có chọn lựa. Dù sao thì khi con mở tâm ra tiến trình này – ngay cả khi con chỉ đào sâu cái gì làm cho mình xao lãng, cái gì không – thì con sẽ bắt đầu đạt được một tư thế tập trung hơn.

Lần hồi con sẽ càng chú tâm và nhìn thấy rõ hơn vai trò đặc trưng mà con muốn cống hiến trong kiếp này là gì. Xong con sẽ cảm nhận rõ hơn: “Ồ, hoạt động này thật ra không hỗ trợ việc làm mà tôi đến đây để làm. Kỳ thực nó đang tước mất sự tỉnh thức cùng năng lượng của tôi ra khỏi việc làm.” Bỗng nhiên tự dưng con nhận ra: “Bây giờ là lúc tôi cần lựa bỏ cái này đi.” Nhận thức tự phát này sẽ không đến với con cho tới khi con quyết định một cách ý thức là con sẵn lòng xét xem hoạt động nào chỉ là một xao lãng và hoạt động nào thật sự nằm trong Sứ vụ của con.

Điều này mang nhiều hệ quả, và theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là cho hết phần còn lại của đời con và cho tới khi con thăng thiên, con sẽ lựa bỏ đi một số thứ không còn phù hợp với mức tâm thức con đã vươn tới. Thày chỉ đơn giản muốn con nhận biết nhu cầu mở tâm ra để thỉnh thoảng con lui lại một bước, nhìn cuộc đời và tự hỏi: “Tôi thực sự đang ở đây để làm gì?”

11.7. Lựa bỏ những sinh hoạt tâm linh

Đối với nhiều người trong các con, một phần của đường tu tâm linh là tham gia vào một số hoạt động mà con có thể xem là tâm linh, bổ ích, vân vân. Thày không hề trách cứ con đã tham gia, nhưng nhiều các con sẽ thấy là tới một điểm con sẽ nhận ra là con không cần đến chúng nữa. Chúng không thực sự là lý do tại sao con có mặt ở đây, không phải là những gì con tới đây để đem lại.

Con thấy đó, khi con nhìn vào lãnh vực tâm linh hay phong trào Thời Mới, nhiều người chỉ ham tò mò. Như các chân sư khác có đề cập, họ nhảy vào đủ loại sinh hoạt từ việc đọc hào quang, bói toán, chiêm tinh học, bói bài tarot, cái này cái nọ cho tới việc đọc tiền kiếp, thần thông, bất kỳ… Có hẳn một hiện tượng gồm những sinh hoạt được người ta trình bày là tâm linh nhưng mục đích chủ yếu của hầu hết đơn giản chỉ là khiến cho người tâm linh bị lạc đường khỏi mục tiêu tâm linh và Sứ vụ của mình. Một lần nữa, có thể là một số các con đã có nhận thức về một số tiền kiếp hay con tò mò muốn biết tiền kiếp của mình là gì, nhưng liệu điều này – việc bỏ thời gian và năng lượng để cố tìm hiểu mình là ai trong một kiếp trước – có thật thiết yếu cho Sứ vụ Thiêng liêng của con hay không?

Câu hỏi này cũng có thể đặt ra cho nhiều sinh hoạt khác. Nhiều người tâm linh đã trải qua một thời kỳ đeo đuổi những thứ như chiêm tinh học, số học, hay bất kể chuyện gì khác, nhưng cuối cùng thì con có thể đạt tới điểm nhận ra: “Tôi không cần cái này nữa, tôi không cần nó nữa ở mức tâm thức hiện thời của tôi.” Và khi đó, con có thể chú tâm ngày càng nhiều hơn vào những chuyện thiết yếu.

11.8. Ý định thay đổi người khác

Thế rồi tất nhiên, còn có một cám dỗ khác cũng phổ biến, vì nếu con đã đến đây như một avatar, con cũng đến với một mong muốn cải thiện địa cầu. Như sứ giả này đã ngộ ra sau khi ông nhận được các lời dạy mới nhất về ngã gốc, chính mong muốn cải thiện địa cầu này kỳ thực đã là điều ông cần khắc phục bằng cách đến địa cầu. Ông đã không khắc phục được nó trên một hành tinh tự nhiên cho nên ông đã chọn xuống trái đất, một hành tinh khó thay đổi quá đỗi, hầu tạo cho mình một cơ hội cùng cực để vượt qua mong muốn thay đổi người khác – và nói cho cùng, để thay đổi bất cứ gì.  

Con yêu dấu, con nhận thấy đó, có một sự khác biệt cơ bản giữa ý định thay đổi người khác và việc làm cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ tự biểu đạt xuyên qua con. Phải thật tinh tế thì mới hiểu được điều này, vì lẽ tự nhiên, các chân sư thăng thiên mong muốn nhìn thấy thay đổi trên địa cầu, nhìn thấy hành tinh này vươn lên tới mức con người không còn khổ đau mà lại tăng triển tâm linh một cách ý thức. Các thày đã vượt quá mức tâm thức nhị nguyên cho nên không còn ý định nhị nguyên dựa trên tư duy cuồng đại muốn đem lại một thay đổi lớn lao nào đó. Sự khác biệt ở chỗ là các thày hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết.

Nếu con đã đến địa cầu với ý định thấp hơn kia, con có thể bảo đó là một ý định nhân từ và thày sẽ không bác bỏ điều này. Đúng là một ý định nhân từ, nhưng không theo nghĩa tối hậu vì con vẫn dính mắc. Con đến đây với ý định đó, và một cách vi tế, nó vẫn nằm trong tư duy cuồng đại. Nó không cuồng đại theo cách cực đoan mà con thấy nơi sa nhân khi chúng sẵn sàng giết hại người khác để đeo đuổi đại nghĩa tối hậu của chúng. Không như sa nhân, con không tin rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nhưng dầu sao thì con vẫn cho rằng việc nhẹ nhàng thúc ép người khác để khiến họ khắc phục khổ đau của họ là một việc tốt. Đây chính là điều con cần vượt qua ở đây trên trái đất.

Con thấy đó, có rất, rất nhiều đại nghĩa khắp thế giới được miêu tả theo một cách để thu hút chú ý của người tâm linh. Khi con nhận biết là cuộc sống có một khía cạnh tâm linh, có một con đường tâm linh và có tiềm năng thị hiện một thời đại hoàng kim thì, một lần nữa, con đã buộc cái đó vào ý muốn đã đưa con xuống hành tinh này. Cho nên con lý luận với tâm vỏ ngoài: “Chắc chắn tôi ở đây để thay đổi địa cầu. Tôi ở đây để đem lại một thay đổi tích cực. Tôi có thể làm gì đây? À, có đại nghĩa này, có đại nghĩa kia, và có thêm đại nghĩa kế tiếp nữa kìa.”

Nhiều người trong các con đã kinh qua một giai đoạn với quá nhiều thứ mình muốn làm để cải thiện tình trạng trái đất đến độ con bị kiệt sức. Chú ý của con bị phân tán mỏng vì có quá nhiều đại nghĩa con muốn giúp quảng bá. Con yêu dấu, con có nhận ra đây không phải là điều sẽ có thể đưa con lên những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng hay không, bởi vì không một người nào trong các con đang ở đây để giải quyết tất cả mọi vấn đề trên trái đất? Không một người nào trong các con có thể làm được chuyện này! Khi con hiện thân trong cõi vật lý, con bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 tiếng đồng hồ, và con cần ngủ một số giờ trong số đó. Con chỉ có một số giờ nhất định để thức, một lượng chú ý nhất định, một lượng năng lượng nhất định để bỏ vào một công việc nào đó.

Điều thày muốn nói là ở những giai đoạn sơ khởi của đường tu, điều này hoàn toàn tốt thôi – con vô cùng nhiệt tình, con muốn giúp chuyện này chuyện nọ rồi chuyện kia nữa, rồi cứ thế con ôm quá tải. Một khi con bắt đầu chuyển sang giai đoạn ý thức hơn của Sứ vụ, giai đoạn sáng tạo hơn, con cần xem xét ngay cả những đại nghĩa đang thịnh hành ở ngoài kia. Con có thể phản bác: “Đó không phải là những trò giải trí do sa nhân dựng lên mà là những công cuộc đáng làm.” Có lẽ có người đã ghi vào Sứ vụ của họ ý định đeo đuổi những công cuộc như vậy, nhưng con cần cân nhắc: “Liệu những tầng cao của Sứ vụ đang bảo tôi cống hiến năng lượng của mình cho những công cuộc này chăng?” Một khi con bắt đầu thành thật xem xét và sẵn sàng lựa bỏ những việc nào không thuộc vào Sứ vụ cao hơn của con, thì con sẽ bắt đầu có một viễn quan minh mẫn hơn về trọng tâm của mình, về chuyên môn của mình, về lãnh vực nơi con có khả năng tạo được thay đổi.

Thế rồi con có thể lần hồi lựa bỏ tất cả những hoạt động không còn góp phần vào đó. Và con sẽ thấy là tâm con sẽ ngày càng hòa điệu, càng tập trung, càng đứng thẳng hàng, càng hài hòa với Hiện diện TA LÀ của con. Và do đó con sẽ cảm thấy một niềm vui và một quyết tâm ngày càng lớn hơn. Đây không thực sự là một ý chí vỏ ngoài mà đơn giản là một mong muốn tự phát để tập trung vào lãnh vực đó hầu đem nó vào hiện thực.

11.9. Tập trung nhưng không mất quân bình

Điều vừa rồi, con yêu dấu, không nên được diễn giải là con trở thành loại người giống như hình ảnh nhà bác học ngông cuồng, một người không bao giờ rời phòng thí nghiệm, mê mải viết công thức trên bảng đen để giải phương trình, quên hết mọi sự và không biết làm công việc gì khác. Như các thày đã nói, con vẫn có thể sống một cuộc đời tương đối bình thường, năng động trong xã hội. Con vẫn làm những gì con cần làm, có lẽ kiếm sống, nuôi con, bất kỳ công việc gì khác.

Chỉ có điều là trong tâm con, con biết có một hoạt động là trọng điểm chính yếu. Cũng có thể con biết là việc nuôi dạy con cái là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cũng có thể có một lãnh vực mà con cần học hỏi nghiên cứu vì con có tiềm năng đưa ra một số ý tưởng mới. Những thứ đó không xung khắc với nhau. Con chỉ nhận ra đó là một phần của Sứ vụ, có thể việc làm và sự nghiệp của con cũng nằm trong Sứ vụ. Gia đình, con cái của con là một phần của Sứ vụ và cả lãnh vực học hỏi nữa. Con yêu dấu, tham dự khóa học này hay tham dự khóa học kia, hay chạy đôn chạy đáo có thể không nằm trong Sứ vụ của con, cho nên con có thể lựa bỏ những thứ này đi.

Một lần nữa, một sự cân bằng cần được tìm thấy. Con không thể cứ tập trung hoài hoài vào một thứ thôi. Khi con tăng triển tâm thức ngày càng cao hơn, con có thể trở nên ngày càng tập trung hơn, nhưng con vẫn cần chút thời gian để thư giãn, để làm gì khác hơn.

Như sứ giả này được nhắc nhở sáng nay, sau khi đức Phật đạt đến giai đoạn giác ngộ và nhập niết bàn, thày đã bước trở ra khỏi niết bàn, đi vào xã hội và thiết lập một đạo tràng nơi thày khởi sự giảng dạy. Có nhiều đệ tử gia nhập và thày đã giảng dạy. Đây là vị Phật đã chứng quả giác ngộ nhưng dẫu vậy, mỗi năm thày chỉ dạy chín tháng mà thôi, còn ba tháng kia thày sống ẩn dật và thiền định. Nói cách khác, thày làm một việc gì khác hơn, thày nghỉ ngơi và thư giãn khỏi việc giảng dạy. Một lần nữa, con cần thực tế và nhìn nhận là cho dù con có chú tâm đến đâu thì để có được một cuộc sống tương đối năng động, bình thường, con cũng cần dành ra thời gian để làm gì đó chỉ giản dị là thư giãn. Con đưa tâm mình ra khỏi các hoạt động kia của cuộc sống bởi vì, ít ra cho tới khi con đạt đến những tầng nhận biết cao nhất, tâm con cần được xả hơi.

Thật ra thày có thể nói là ngay cả ở tầng tâm thức thứ 144, tâm con không thể cứ chú tâm vào cùng một chuyện hoài hoài. Con cần bước ra ngoài, con cần xả hơi. Một ví dụ là các nhà khoa học, suốt nhiều tuần lễ họ có thể tập trung vào một vấn đề nhất định để cố giải một bài toán vật lý, họ không ngừng viết công thức và này kia nọ. Thế rồi tâm họ mệt mỏi đến độ họ chịu thua, họ đi câu cá, và trong khi họ đứng đó với cần câu trong tay thì đùng một cái, lời giải đến với họ trong một tia chớp trực giác.

Con cần cả alpha lẫn omega, qua đó con chú tâm trong một thời gian, rồi con cần bước vào omega là khi con thư giãn và làm việc gì khác. Một số các con có thể tìm được thế quân bình này khi có lúc con sẽ tập trung vào công việc của mình, và có lúc khác con sẽ thư giãn với gia đình để nó trở thành một phần trong việc nuôi dạy con cái. Một số người khác có thể cần những loại sinh hoạt khác hơn, như đi vào thiên nhiên, làm gì đó khác lạ sẽ đơn giản kéo tâm họ ra khỏi tập trung. Con hãy lựa bỏ những hoạt động nào không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng con đừng trở nên cứng nhắc hay cuồng tín đến độ bỗng nhiên, như một số học trò của chân sư thăng thiên đã làm, con cho rằng bất cứ lúc nào trong ngày con cũng phải đang học tập giáo lý, hoặc nếu không thì con phải đang đọc chú đọc thỉnh.

11.10. Sống năng động trong xã hội

Con thấy đó, nhiều người tìm thấy đường tu tâm linh và bỗng nhiên họ quyết định tham gia một khóa nhập thất và họ sẽ khoanh chân thiền định càng nhiều giờ càng tốt. Một số người tại Ấn Độ cũng có khái niệm đi lên hang đá trên núi Himalaya để ngồi đó một mình trong một thời gian rất dài. Đối với một số người, đây có thể là một việc chính đáng, nhưng con đừng dùng ví dụ này để diễn giải là nó cũng chính đáng cho mọi người.

Như các thày có nói, nhiều người trong số các con trong kiếp đầu thai này đã tình nguyện, và đã ghi vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình, là con sẽ chứng tỏ cách làm thế nào người ta có thể bước chân trên đường tu tâm linh mà vẫn sống một cuộc đời năng động trong xã hội. Ở đây các thày không bàn đến chuyện con rút lui khỏi xã hội, rút lui khỏi gia đình hay rút lui khỏi các sinh hoạt khác, mà các thày chỉ muốn nói là trong thế giới cũng như trong đời con, có nhiều hoạt động trên cơ bản là chuyện xao lãng, phân tâm. Chúng có thể là những công cuộc đáng thực hiện nhưng con không ở đây để đặt trọng tâm vào đó.  

Khi con bước lên cao hơn, con cần ghi nhớ trong tâm là càng ngày con sẽ càng bắt đầu thu hoạch một viễn quan chọn lọc hơn về những gì con cần tập trung trong kiếp này, những gì mà chính con đã chọn chú tâm vào. Xong con chỉ lựa bỏ đi những hoạt động nào không phù hợp với viễn quan đó, nhưng con vẫn duy trì một cách sống bình thường như con vẫn sống, hoặc có lẽ con sẽ thay đổi cách sống đôi chút để nhổ đi những loại sinh hoạt đang làm tiêu hao năng lượng cùng sự chú ý của con.

Con yêu dấu, con nhìn vào thế giới và thấy có rất nhiều cách để đo đạc sở hữu của con người. Chẳng hạn: “Thế nào là một người giàu có? Có phải là một người có rất nhiều tiền, rất nhiều tài sản vật lý? Có phải là một người có nhiều tài năng? Có phải là một người có nhiều thì giờ?” Ấy, thày sẽ nói đó là một người có sự chú ý, sự chú ý còn sót lại để tập trung vào những điều quan trọng mà người đó muốn cống hiến. Con cần lưu ý đến sự kiện là trong thế gian có rất nhiều hoạt động đang lôi kéo sự chú ý của con, nhưng con hãy giữ cho sự chú ý của mình được tập trung vào điểm trọng tâm của Sứ vụ Thiêng liêng của mình. 

Và như vậy, thày đã trao cho con những gì thày muốn trao trong bài giảng này, và thày cảm ơn con đã trao sự chú ý của con cho thày.

13 | Phần thưởng cho phụng sự là tự do

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels ngày 20/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Saint Germain. Sáng nay các con vừa lắng nghe một bài giảng tuyệt vời của thày Giê-su khi thày nói là con cần có khả năng nhìn lại đời mình mà không tiếc nuối, và con lý giải tất cả những gì mình đã sống qua đều là những trải nghiệm mà mình cần có. Này con yêu dấu, như con đã bắt đầu nhận ra, thỉnh thoảng các thày ưa đưa cho con một số điều có vẻ mâu thuẫn, bí ẩn. Vậy thày sẽ đưa cho con thêm một điều nữa đây.

13.1. Khả năng nhìn nhận mình đã sai lầm

Con vừa nghe Giê-su nói rằng con cần có khả năng nhìn lại đời mình mà không hối tiếc. Thế thì thày sẽ đề nghị con suy ngẫm điều này: Đâu là đặc tính hay khả năng quan trọng nhất của một đệ tử ở các tầng cao của đường tu tâm linh khi người đó bắt đầu nhìn thấy, hay sẵn lòng nhìn thấy, những khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Con yêu dấu, đó chính là khả năng nhìn nhận mình đã sai lầm.

Làm thế nào con có thể dung hòa hai chuyện đó được đây, khả năng nhìn lại đời mình không hối tiếc và nhìn nhận là mình đã sai lầm? À, tự ngã sẽ chụp lấy lời dạy của Giê-su và bảo: “Có nghĩa là tôi phải nhìn lại đời mình và không bao giờ được thấy mình đã sai lầm. Tôi chưa từng sai lầm bao giờ. Tôi chưa từng làm gì sai trái bao giờ. Tôi đã cần trải nghiệm đó, và vì vậy không bao giờ tôi cần cảm thấy mình sai lầm, thế mà giờ đây Saint Germain lại bảo tôi phải có khả năng nhìn nhận mình sai lầm.”

Con hãy để thày cho con thêm một chút lời giảng, một nhãn quan hơi khác về điểm này. Con thấy đó, con yêu dấu, tất cả vấn đề ở đây là những gì con bỏ vào chữ “tôi”. “Tôi” phải có khả năng nhìn nhận là “tôi” đã sai lầm. Có phải cùng cái tôi mà thày đang nói tới? Đâu là cái tôi có thể sai lầm? Là ngã tách biệt. Liệu ngã tách biệt có bao giờ nhìn nhận nó sai lầm hay chăng? Không – nó không có khả năng đó. Vậy cái gì có thể nhìn nhận mình sai lầm? Cái Ta Biết – khi nào nó ý thức. Cái Ta Biết, cùng khi nó nhìn nhận nó đã sai lầm, cũng có khả năng thấy được cái đã sai lầm là ngã vỏ ngoài, là ngã tách biệt. Khi nó nhìn ra điều này, nó có thể tách mình ra khỏi ngã đó. Và do đó con nhận ra là trong khi con nhìn nhận không phải mọi chuyện mình từng làm trong đời đều hoàn hảo, thì đồng thời con cũng tách mình ra khỏi cái ngã đã khiến con hành xử như vậy.

Đây là tại sao con có thể nhìn lại đời mình mà không hối tiếc. Con thật sự có khả năng nhìn thấy một số chuyện mình từng làm là sai lầm. Giê-su hoàn toàn không hàm ý rằng mọi chuyện con từng làm đều tốt, đều đúng hay có thể chấp nhận được theo bất kỳ chuẩn mực nào của lẽ thường tình. Thày không ngụ ý là con phải nhìn lại đời mình và nói: “Ồ, tôi chỉ làm chuyện đó vì tôi cần trải nghiệm đó, cho nên tôi không cần học hỏi gì từ đó.” Hiển nhiên là con cần học hỏi từ đó, con cần xem xét tâm lý của ngã tách biệt đã khiến con làm điều đó là gì. Cho nên khi con phát hiện ra tâm lý đó, con có thể nhìn thấy cái quyết định nằm ẩn đằng sau, con có thể thay đổi quyết định đó một cách ý thức, và đó là khi con có thể để cho ngã tách biệt chết đi. Tất nhiên ở điểm này, con không phải hối tiếc gì hết vì con đã bước lên cao hơn, và đây chính là mục đích của cuộc sống.

13.2. Sử dụng và lạm dụng ngọn lửa tím

Rất nhiều năm trước đây trong một đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, thày đã công khai hóa và ban truyền những dụng cụ để thỉnh cầu năng lượng của lửa tím – là cái tên mà thày đã chọn. Trong đợt truyền pháp này, các thày đã không nhất nhiết nhấn mạnh điều này, một phần vì rất nhiều lời dạy đã được ban ra trước đây rồi, nhưng tất nhiên các thày cũng đã giải thích ngọn lửa tím là gì. Theo một cách nào đó, lửa tím là dụng cụ tẩy xóa của hoàn vũ. Đó là một năng lượng ở một độ rung động có thể được dùng để tẩy xóa mọi năng lượng thấp kém, mọi năng lượng dựa trên sợ hãi trong bốn tầng của vũ trụ vật chất.

Khi con làm một việc gì thì việc đó sản xuất ra một khối năng lượng, có khi được gọi là “nghiệp”, và trước khi con được giải thoát hoàn toàn khỏi nó thì con cần tiêu hủy nghiệp này đi. Một phương thức rất hiệu quả để làm điều này là thỉnh cầu ngọn lửa tím và sử dụng để tiêu hủy năng lượng đó. Vấn đề là như thày có nói, một số đệ tử trong các đợt truyền pháp trước đã lạm dụng sự ban phát lửa tím. Bất cứ khi nào họ làm điều gì tạo năng lượng tha hóa thì họ lại dùng lửa tím để tiêu hủy, nhưng họ không sẵn lòng xem xét cái tâm lý đằng sau việc làm của họ. Và một tuần sau họ lại lặp lại cùng cách hành xử đó rồi lại dùng lửa tím để tẩy xóa, nhưng làm vậy không thực sự giúp họ tăng triển tâm linh. Cũng giống như một số tín hữu đạo Cơ đốc, họ có thể phạm tội xong họ đi xưng tội, thế là họ cảm thấy mình đã được tha tội, và họ lại thoải mái phạm tội một lần nữa và thêm một lần nữa. Họ biết là họ luôn luôn có thể trở về xưng tội và các linh mục sẽ chỉ cần tha mọi tội cho họ.

Hiển nhiên, đó không phải là điều các thày muốn chứng kiến vì nó sẽ buộc chặt con vào một cái máy chạy bộ là khuôn nếp tâm lý mà con chưa giải quyết và không thể nào thoát ra. Kỳ thực trong trường hợp đó, ngọn lửa tím sẽ không giúp cho con thoát ra, vì thay vì bị năng lượng ngày càng đè nặng nhiều hơn thì con lại có thể tránh né không cảm thấy gánh nặng và cứ tiếp tục y như con đang làm. Điều này, hiển nhiên, không phải là điều các thày muốn thấy. Đó là tại sao trong đợt truyền pháp này, các thày đã trao cho con rất nhiều dụng cụ về tâm lý, về cách giải quyết các vấn đề đó hầu con có thể thoát ra khỏi.

13.3. Tầm quan trọng của việc sai lầm

Dẫu sao thì điều thày muốn trao cho con ở đây là mặc dù sẽ tới điểm con bắt đầu đạt được sự minh mẫn ngày càng lớn hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng vẫn có thể có một điều gì đó đang cầm chân con lại khiến con không thấy được mức kế tiếp. Cái cầm chân con lại chính là sự kiện con không thể hay không muốn nói: “Việc đó là sai.”

Hiển nhiên các thày đã trao cho con nhiều lời dạy về nhị nguyên. Khi thày bảo là con phải sẵn lòng nhìn nhận mình “sai lầm”, thày chỉ đang dùng khái niệm cùng ngôn ngữ thường được con người thời nay sử dụng. Thày có thể nói chính xác hơn rằng điều con cần sẵn lòng nhìn thấy và công nhận là con đã có một cái nhìn về cuộc sống, một cái nhìn về bản thân, một cái nhìn và một cách hiểu về giáo lý tâm linh không là cao nhất.

Con có hiểu chăng, con yêu dấu, là con có thể nhìn vào rất nhiều lãnh vực trên thế giới, chẳng hạn chúng ta có thể dùng lãnh vực tôn giáo – một người đã lớn lên trong đức tin Cơ đốc, trong giáo hội Công giáo ví dụ. Người đó đã được dạy dỗ rằng giáo hội Công giáo là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi, là giáo hội chân chính duy nhất. Y đã chấp nhận niềm tin đó và đặt tin tưởng vào đó. Rồi đến một thời điểm trong đời, y bắt đầu nhìn ra học thuyết Công giáo có một số nghịch lý, một số điều không thể được giải thích, một số điều vô lý, một số sự kiện trong lịch sử giáo hội không thể nào đồng thuận với Ki-tô – nhưng y cưỡng lại, không chịu nhìn nhận ở mức ý thức. Đâu là cơ chế tâm lý ở đây? Con có thể bảo đó là tự ngã, con có thể bảo đó là bất cứ gì, nhưng nếu con thực sự nhìn sâu vào cơ chế tâm lý thì điều nhiều người cảm thấy là như sau: Nếu họ nhìn nhận các niềm tin mà họ đã có hay đã khoác vào ở một thời điểm nào đó trong quá khứ, nếu họ công nhận các niềm tin đó không phải là cao nhất, thì có nghĩa là họ đã sai lầm, và họ không sẵn lòng nhìn nhận mình đã sai lầm. Trong nhiều trường hợp, đây có thể là lòng kiêu hãnh mà thôi. Nhưng đối với con là đệ tử tâm linh và đối với đa số các con, kiêu hãnh không là đặc tính chủ yếu trong tâm thức con. Vậy đâu là cái cơ chế ứng dụng cho rất nhiều đệ tử tâm linh?

13.4. Nghi ngờ trực giác của mình

Sứ giả này đã sống qua điều đó khi ông còn trẻ. Ông có chân trong một phong trào thiền quán, và ông cảm thấy mình đã được trực giác dẫn dắt gia nhập phong trào đó. Vì vậy ông cho rằng một khi trực giác đã bảo ông bước vào một giáo lý thì giáo lý đó và phong trào đó phải là chân chính. Sau một vài năm, ông bắt đầu nghi ngờ về sự chính đáng của phong trào. Lúc đầu ông không chịu nhìn nhận điều này vì ông sợ phải thừa nhận là phong trào này không chân chính, không là cao nhất. Lý do ông sợ nhìn nhận như vậy là vì ông sẽ cảm thấy trực giác của ông đã sai lầm khi nó bảo ông gia nhập phong trào.

Nếu trực giác của ông sai lầm và ông không thể tin vào trực giác thì liệu ông còn có thể tin vào gì nữa đây? Trong tiềm thức, ông lo sợ bị ném vào một tâm trạng ngờ vực, một vùng hoang địa nơi ông cảm thấy mình không thể tin vào bất cứ gì nữa. Rồi đến một điểm ông đã thừa nhận là phong trào đó không chính đáng hay cao nhất, và ông bỏ đi. Trong khoảng hai năm trời, ông trải qua một tâm trạng oán giận, ông cảm thấy như mình bị trực giác lừa dối, thậm chí ông còn quyết định sẽ không bao giờ tham gia một phong trào tâm linh nào khác. Đấy, như hẳn con cũng biết qua chính bản thân con, bất cứ khi nào con lấy những quyết định kiểu này: “Tôi sẽ không bao giờ làm chuyện này nữa,” thì gần như chắc chắn con sẽ phải làm chuyện đó. Rất may, sứ giả này đạt tới điểm ông lại sẵn sàng tin vào trực giác khi nó bảo ông gia nhập phong trào tâm linh tiếp theo, là một giáo lý của chân sư thăng thiên và một tổ chức được bảo trợ chân chính. Dù vậy, sự kiện này đã tốn ông nhiều năm trời để ông trả lời câu hỏi trong tâm là tại sao trực giác lại bảo ông bước vào phong trào thiền quán kia. Câu hỏi đã đòi hỏi ông hiểu ra là trên con đường tâm linh, vấn đề không phải là mình có lý theo cách nhìn của tự ngã, mà là mình có được một số trải nghiệm xoay chuyển tâm thức mình. Sau một thời gian khá dài, ông ngộ ra là trực giác của ông đã chính đáng khi nó bảo ông tham gia phong trào thiền quán kia, vì trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông có việc kinh qua trải nghiệm đó, và ở đó có một bài học mà ông cần học. Nhưng tâm đường thẳng lại diễn giải sáng ngộ trực giác đó theo nghĩa là một khi nó đã bảo ông gia nhập phong trào thì nhất định phong trào đó phải là chân chính.

Có lẽ con có thể nhận diện cùng khuôn nếp này trong chính con khi con cảm thấy mình phải làm một việc gì đó, con được trực giác thúc giục làm việc gì đó. Con hí hửng bước theo con đường do trực giác chỉ ra, thế rồi bỗng chốc con bị té xuống đống bùn cho đến ngập cổ, và con trách: “Tại sao mi lại bảo ta làm chuyện này?”

Một lần nữa, con cần nhìn nhận là con đã cần trải nghiệm đó, và sau đó tất nhiên, con có thể đi muốt tiến trình suy luận mà thày vừa mô tả và ngộ ra lý do là con cần học một bài học nào đó. Con cần phải xoay chuyển tâm thức và con chỉ có thể xoay chuyển qua trải nghiệm đó thôi.

13.5. Làm thế nào khắc phục các giới hạn

Con cũng có thể đưa tiến trình này xa hơn một bước và nhận ra là thái độ cùng các tin tưởng mà con đã có về những việc mình làm, theo một nghĩa thế phàm nào đó, có thể gọi là “sai lầm” vì chúng không đồng thuận với một thực tại cao hơn. Điều thày muốn nói là thế này: Khi con nhìn vào lãnh vực tôn giáo chẳng hạn, con có thể hỏi: “Tại sao có biết bao người vẫn trung thành với giáo hội Công giáo trong cách thức vỏ ngoài? Tại sao họ vẫn đi nhà thờ cho dù họ không đi mỗi chủ nhật? Tại sao họ vẫn có chân trong hội thánh khi họ không bao giờ đến nhà thờ?”

Con yêu dấu, phần lớn là vì họ không sẵn lòng nhìn nhận các niềm tin Công giáo hay niềm tin vào giáo hội Công giáo của họ là sai lầm. Thày cũng hiểu là có một vết nhơ, có một chấn thương gắn liền với sự sai lầm, vì sa nhân đã tạo ra một tâm thức ăn rất sâu vào thế giới, bảo rằng nếu con sai lầm thì điều này thật “xấu xa”, nó sẽ dẫn đến những hậu quả tàn khốc, con sẽ bị trừng phạt, bị đày xuống địa ngục và điều này điều nọ. Các con là đệ tử của chân sư thăng thiên và các thày đã ban cho con những dụng cụ để con có thể tự kéo mình lên khỏi tâm thức sa ngã đó. Con nhận ra là khi con sai lầm, con sẽ không hề bị kết tội đày xuống địa ngục, vì như các thày đã dạy, không có điều gì mà con không thể vượt qua. Vấn đề là làm sao con sẽ vượt qua được một điều gì nếu con không xem xét nó và không thành thật nhìn nhận là mình cần buông nó thay vì cứ nắm chặt lấy nó.

Con hãy nhìn vào thế giới tôn giáo một lần nữa, nhìn vào khái niệm xưa cổ của hệ biện giải (apologetics) Cơ đốc giáo, là một phong trào nhằm biện minh và giải thích đức tin Cơ đốc. Những niềm tin Cơ đốc đó dựa trên gì? Dựa trên những sai lạc mà giáo hội Công giáo đã cài đặt cách đây 17 thế kỷ! Liệu họ sẽ đạt được gì khi họ tìm cách giải thích cho qua những điều đã sai lạc ngay từ đầu? Tất nhiên là không đạt được gì! Họ sẽ chỉ tự đặt mình vào tâm trạng phủ nhận, và trong sự phủ nhận con sẽ không thể nào nhìn ra các khía cạnh cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Sự sẵn lòng nhìn nhận: “Các niềm tin của tôi giới hạn cho nên tôi cần buông chúng ra, tôi cần mở tâm ra một ngộ đạt cao hơn, một trải nghiệm cao hơn”, đó chính là nguyên liệu cốt yếu cho một đệ tử đang bước trên đường tu muốn nhìn thấy các tầng cao hơn của Sứ vụ mình. Quá nhiều lần con đã chứng kiến, ngay cả trong số các đệ tử của chân sư thăng thiên, sự kiện họ mang vào một niềm tin, một quan điểm nào đó, chẳng hạn quan điểm về chân sư thăng thiên, nhưng quan điểm này không khế hợp với thực tại, nó sẽ cầm chân họ lại ở một tầng tâm thức thấp hơn, và họ không thể tiến xa hơn tầng đó. Nếu họ không sẵn sàng nhìn nhận niềm tin của họ không phải là cao nhất, không đồng điệu với sự thật và họ đã “sai lầm”, thì làm thế nào họ sẽ tiến lên được đây? Làm thế nào họ thoát ra được đây?

Bây giờ, trong tổ chức của chân sư thăng thiên mà vị sứ giả này từng là một thành viên, có một khái niệm phổ biến bảo rằng bất cứ khi nào con gặp một vấn đề trong tâm lý và con chia sẻ vấn đề này với một thành viên khác: “Tôi phải làm gì trong chuyện này?” thì người kia sẽ nói: “Ồ, chỉ cần bỏ nó vào ngọn lửa tím.” Ai nấy đều nghĩ là bất cứ gì, bất cứ điều gì khó chịu, bất cứ gì khởi lên trong tâm lý thì họ chỉ cần bỏ vào lửa tím. Có một lần sứ giả này nghe thấy một thành viên trẻ tuổi trong phong trào đó nói: “Người ta luôn luôn bảo em chỉ cần bỏ nó vào lửa tím. Em làm theo nhưng nó cứ trở lại hoài!” Dĩ nhiên rồi, quá đúng. Nếu con không giải quyết cái tâm lý tiềm ẩn bên dưới thì nó sẽ trở lại hoài hoài. Con có thể thỉnh lửa tím hết lần này tới lần nọ và nó có thể giải thể năng lượng tha hóa khiến con cảm thấy nhẹ nhõm hơn, bớt gánh nặng hơn. Nhưng ngọn lửa tím không thể giải quyết tâm lý của con vì con chỉ có thể giải quyết tâm lý bằng cách lấy một quyết định có ý thức.

13.6. Giải thích tại sao mình đã không sai lầm

Con thấy được ở đây điều các thày muốn nói, khi con đi lên những tầng cao hơn của đường tu, con có tiềm năng thấy được những tầng mức cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Các thày đã nói con điều gì? Con bước vào hiện thân ở một tầng tâm thức nào đó. Sứ vụ của con được thảo ra từ một tầng tâm thức cao hơn. Làm thế nào con sẽ thấy được các tầng cao hơn của Sứ vụ? Chỉ bằng cách vươn tới tầng tâm thức đó. Làm thế nào con sẽ vươn tới tầng tâm thức đó? Chỉ bằng cách nhìn vào những niềm tin mà con đã có ở tầng tâm thức thấp hơn và nhìn nhận, thừa nhận một cách ý thức, là chúng không phải là cao nhất. Một số niềm tin đó có thể hoàn toàn không ăn khớp với thực tại, và do đó chúng sai lạc hay sai lầm. Nếu con không thể thừa nhận là mình đã sai lầm, con sẽ không thể tiến lên cao hơn một mức nào đó.

Tất nhiên các thày đã chứng kiến trong lãnh vực tôn giáo, trong lãnh vực chính trị, trong lãnh vực khoa học và ngay cả trong số các đệ tử của chân sư thăng thiên, là người ta có thể chui vào những ngõ cụt gần như không lối thoát khi cố biện giải tại sao niềm tin của mình không sai lầm, hay tại sao mình đã không sai lầm khi khoác vào niềm tin đó. Thẳng thắn mà nói, thật đáng kinh ngạc nhìn thấy trí tưởng tượng mà người ta có thể dùng để giải thích tại sao niềm tin của mình không sai, hay tại sao mình đã không sai khi tin như vậy. Điều duy nhất con thật sự cần làm là nói: “Tôi đã có những niềm tin đó vì vào thời đó, đó là những gì tôi có thể nhìn thấy. Giờ đây tôi đã vươn lên một mức tâm thức cao hơn và tôi có thể thấy nhiều hơn, nhưng để thực sự thực hiện những gì tôi thấy, tôi phải buông bỏ các niềm tin cũ. Khi tôi là trẻ nhỏ, tôi nói chuyện như một trẻ nhỏ. Bây giờ trưởng thành, tôi nên nói chuyện như một người trưởng thành thay vì cứ bám vào niềm tin của thời thơ ấu.”

Con yêu dấu, các thày chứng kiến chuyện này hoài hoài. Người tầm đạo suốt đời mong mỏi tìm được một cái gì đó. Họ tìm thấy một giáo lý tâm linh, bất kể là giáo lý nào. Tâm vỏ ngoài của họ sẽ lý luận: “Đây chắc chắn phải là giáo lý tâm linh tối hậu, là vị đạo sư tối hậu.” Họ quyết định trong tâm vỏ ngoài, có lẽ nửa chừng trong tiềm thức: “Tôi sẽ ở trong phong trào này cho hết phần đời còn lại rồi sau đó tôi sẽ thăng thiên” (hay sẽ giác ngộ, hay bất kỳ tên gọi nào khác). Rồi đến khi họ đạt mức tăng triển tối đa mà họ có thể đạt được trong phong trào này thì tâm họ đóng lại. Họ không sẵn sàng lắng nghe trực giác của họ đang hướng dẫn họ đến một giáo lý khác hơn hay một cách tiếp cận giáo lý khác hơn. Tâm họ trở nên cứng nhắc, đông đặc lại xung quanh niềm tin rằng những gì họ đang làm, những gì họ đang có, là đủ rồi.

Niềm tin này sai lầm. Nó luôn luôn sai lầm vì sự tăng triển là một tiến trình không ngừng. Tất cả các con đều đã hành xử như vậy – và không có gì đáng hổ thẹn trong việc đó. Thày không đang khiển trách con mà chỉ đơn giản chỉ ra sự việc. Tất cả các con đều đã kinh qua những điểm đó khi con nghĩ là giờ đây mình đã đạt được một tầm hiểu biết tối thượng, một niềm tin tối hậu nào đó, rằng đây chính là việc mình phải làm, vì tất cả các con vẫn đều mang một số yếu tố của tự ngã, và tự ngã muốn gì chứ? Nó muốn cảm thấy an toàn.

Con không cần hổ thẹn nhìn nhận chuyện này, đây chỉ là những gì tất cả chúng ta đều kinh qua khi hiện thân, là một phần của thân phận làm người. Có điều, người tiến bước trên đường tâm linh là người sẵn sàng xem xét chính mình và nhìn ra: “Tự ngã của tôi, những cái ngã tách biệt của tôi, chúng đều mang xu hướng này. Không thật là tôi tin rằng tôi không cần tìm kiếm một giáo lý khác hơn, mà một cái ngã tách biệt nằm trong tự ngã, và tôi thì không phải là ngã tách biệt đó. Tôi là nhiều hơn thế! Cho nên ‘cái ta’ mà tôi thực sự là đang sẵn sàng nhìn vào ngã đó và thấy rằng các niềm tin của ngã đó đã sai lầm! Chúng đã lỗi thời, chúng giới hạn, và tôi đang rũ bỏ chúng đây! Tôi đang mở tâm để thấy một cái gì tôi đã không thể thấy qua phin lọc các niềm tin giới hạn đó! Tôi đang làm cho tâm mình lỏng ra để nó không đông đặc lại xung quanh một điểm nào đó, một niềm tin nào đó.”

Con yêu đấu, đấy chính là sự khác biệt giữa những ai tiến lên các tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng để thị hiện tiềm năng cao nhất của Sứ vụ, và những ai ngừng chân lại ở một điểm nào đó trước khi đến được tiềm năng cao nhất của mình. Tất nhiên, các thày không muốn thấy con ngừng chân lại trước khi con đạt mục tiêu mà chính con đã định ra cho kiếp này. Mục tiêu đó không được áp đặt lên con mà là những gì chính con đã muốn. Đó không là điều thày muốn cho con, mà là điều con muốn cho con. Thày chỉ nhắc nhở con thôi. Thày không đang ép buộc con mà thày chỉ nhắc nhở con những gì con đã quyết định muốn làm trước khi con đầu thai. Và thày nhắc nhở làm thế nào con có thể đạt đến đó.

13.7. Quên đi các lỗi lầm của mình

Trong câu chuyện này, chỗ đứng của ngọn lửa tím là gì? À, lấy ví dụ con nhìn lại đời mình và nói: “Những gì tôi đã làm, đã tin, không phải là cao nhất.” Thậm chí có lẽ con đã làm cả những chuyện rõ ràng đã đẩy con vào một tâm trạng dựa trên sợ hãi và tạo ra năng lượng tha hóa. Sau đó con làm hai chuyện. Con sử dụng ngọn lửa tím để trùm lên toàn bộ tình huống đó và tiêu hủy năng lượng. Xong con dùng các dụng cụ và giáo lý mà các thày đã ban truyền về phàm linh nội tại, ngã tách biệt, ngã gốc, để phơi bày niềm tin nằm ẩn đằng sau và thay đổi niềm tin đó – và như vậy con để cho ngã tách biệt đó chết đi. Rồi con chấp nhận, con yêu dấu, là bây giờ con đã làm xong công việc – nó đã xong xuôi, đến độ nó không còn hiện hữu nữa!  

Trong Kinh thánh có một câu Thượng đế phán: “Ta sẽ không còn nhớ tội lỗi của họ nữa.” À, con yêu dấu, có thể là Thượng đế có khả năng quên đi tội lỗi của con, nhưng liệu con có làm được vậy không? Liệu con có thể quên đi những cái gọi là “lỗi lầm” mà con đã phạm? Điều thày muốn nói ở đây là như sau: Con có thể dùng ngọn lửa tím để tiêu hủy năng lượng, sau đó năng lượng biến mất. Nó không còn ở đó nữa như thể nó chưa bao giờ hiện hữu. Con có thể để cho ngã tách biệt đó chết đi và ngã tách biệt không còn đó nữa, như thể ngã tách biệt chưa bao giờ tồn tại. Nhưng! Có thể vẫn còn một yếu tố trong tâm thức con, và đây không phải là cái Ta Biết mà là một ngã tách biệt khác. Có thể trong tâm thức con vẫn còn một yếu tố ghi nhớ lại việc con đã làm và đang phóng chiếu là con cần tiếp tục ghi nhớ nó. Rằng con cần cảm thấy hối hận về nó, hay con cần tìm cách đền bù cho nó – hay bất cứ gì khác để con vẫn chú ý đến nó. Điều thày đang nói là một khi con đã làm xong công việc dọn dẹp, con cần bước lui lại và nhìn xem có ngã tách biệt đó đang phóng chiếu lên con – hoặc thậm chí có cả sa nhân hay người khác đang phóng chiếu cái đó lên con. Và con cần nói: “Mi không phải là ta. Ta không muốn mi trong đời ta nữa! Ta đang để cho mi chết đây!” Sau đó con cần chấp nhận là con không cần nhớ lại điều đó nữa. Con hoàn toàn không cần dành cho nó bất kỳ sự chú ý nào.

13.8. Buông bỏ những người không chịu buông bỏ

Thật ra rất nhiều các con sẽ gặp thử thách này hết lần này đến lần nọ, vì sa nhân sẽ tiếp tục phóng chiếu tới con và nhắc nhở con điều này. Có thể trong gia đình hay các mối quan hệ của con sẽ có người cứ luôn nhắc nhở con về “những chuyện con đã gây cho họ nhiều năm về trước” và tại sao con vẫn phải hối tiếc việc làm đó vì chính họ cảm thấy tổn thương. Họ đã không giải quyết được cái tâm lý đã khiến họ phản ứng lại. Họ đã không giải quyết, không buông bỏ được năng lượng. Thế thì một lần nữa, con cần nói: “Được rồi, tôi tôn trọng quyền tự quyết và tôi tôn trọng bạn có quyền tự quyết của bạn. Nếu bạn muốn ôm giữ những gì đã xảy ra trong quá khứ, tôi sẽ tôn trọng quyền bạn làm như vậy. Nhưng tôi cũng tôn trọng quyền tự quyết của tôi y như thế, tức là tôi có quyền bỏ lại chuyện này đằng sau. Nếu bạn không sẵn sàng bỏ nó lại như tôi thì cũng tốt thôi, nhưng tôi sẽ bỏ nó ra khỏi đời tôi. Tôi sẽ đứng ra ngoài nỗi khổ tâm của tôi.”

Con yêu dấu, trong một số trường hợp, con sẽ có chọn lựa là nếu có ai trong gia đình hay quan hệ của con không buông được quá khứ thì con có thể đạt tới điểm: “Tôi chỉ cần buông bạn ra. Tôi chỉ cần để bạn ra khỏi đời tôi, lựa bỏ bạn ra khỏi đời tôi, vì thật không xây dựng chút nào nếu tôi liên hệ với một người cứ mãi mãi xoay quanh dĩ vãng và không sẵn lòng vượt qua dĩ vãng.” Đây là một quyền mà con có, con yêu dấu, cho dù họ có thể trách móc và bảo con: “Bạn không thể bỏ tôi như thế này, bạn không thể tự dưng bước ra đi như thế này.” Con yêu dấu, con có quyền làm điều này nếu con cảm thấy đây là việc phải đối với con. Thày không bảo con làm gì, mà thày chỉ nói là con có quyền làm sự chọn lựa đó cho dù người kia không chịu buông quá khứ.

13.9. Nhìn ra những niềm tin vi tế hơn

Con yêu dấu, nói thật, con không thể khắc phục một niềm tin giới hạn mà không thấy là nó giới hạn. Nhưng làm thế nào con thấy được niềm tin đó giới hạn? Ít ra ở một mức nào đó, con thấy là nó giới hạn so với một niềm tin cao hơn, rộng hơn, bao quát hơn. Và điều này dẫn chúng ta nói đến một thế bí lưỡng nan mà nhiều người có thể rơi vào.

Nhiều người có một niềm tin giới hạn. Một lần nữa, hãy lấy ví dụ nhiều tín hữu Công giáo. Nếu con đã từng thử thuyết phục một số người Công giáo về các giới hạn của học thuyết và giáo hội Công giáo, con có thể cảm thấy như thể họ không nghe thấy con nói gì. Đó là vì họ ở trong một thế bí lưỡng nan. Một mặt, họ không thể thấy được niềm tin của họ giới hạn vì họ không có khung tham chiếu nào để so sánh. Mặt khác, lý do họ không có khung tham chiếu chính là vì tâm họ bị khóa chặt vào niềm tin của họ đến độ họ không thể thấy có một tầm hiểu rộng hơn.

Lẽ tự nhiên, các con là học trò tâm linh, các con đã sẵn sàng mở tâm ra một tầm hiểu cao hơn về bao nhiêu lãnh vực, bao nhiêu sự việc. Nhưng một số các con sẽ nghiệm thấy là mặc dù con mở tâm ra một cách hiểu cao hơn trong nhiều lãnh vực, vẫn có một số điều cấm kỵ, một số con “bò thiêng” đang lang thang trong cánh đồng của tâm thức con – hay chúng đang nằm nhai lại thức ăn chưa tiêu hóa, chúng nhai, nhai, nhai, hoàn toàn bằng lòng nhai đi nhai lại và nhai thêm nữa. Rồi thỉnh thoảng chúng đưa các niềm tin của con trở lên miệng và nhai, nhai, nhai thêm lần nữa! Đó là một cái ngã tách biệt đang vận hành như vậy. Con có thể gặp tình trạng là con đã khắc phục xong một số ngã tách biệt và biết rõ tiến trình này, nhưng vẫn có điều gì mà con chưa thấy. Đây chính là điểm thày muốn trình bày với con: Có thể một cách để phơi bày các niềm tin giới hạn đó, những điều cấm kỵ, những con bò thiêng đó, là khi con bị khiêu khích bởi một lời dạy của các thày, hay bị dao động bởi một sự việc nào đó – khi có chuyện gì thực sự khiến con điên tiết, thực sự xáo trộn sự thoải mái của con. Không nhất thiết là con sẽ nhìn thấy ngay lập tức niềm tin giới hạn ẩn đằng sau, và có thể con sẽ phải đào sâu hơn một chút. Con cần nhìn: “Tại sao tôi bị xáo trộn? Tại sao nó lại khiêu khích tôi?” Sau đó con cần theo dõi nó, đi xa hơn nỗi cảm xúc và cố nhìn ra cái niềm tin đã khiến con thoải mái – và ngay đó, có một con bò thiêng đang nằm, đang nhai đi nhai lại. Xong con hãy nhìn vào tầm hiểu cao hơn mà các thày đang cố truyền đạt cho con. Một khi con mở tâm ra, con sẽ có thể nắm bắt tầm hiểu cao hơn này, vì các thày đã nói với con là khi con ở tầng tâm thức 56, con có khả năng nắm bắt giáo lý ở tầng 57 hay sự nhận biết liên hệ với tầng 57. Nhưng con cần phải mở tâm ra, con không thể khóa chặt tâm con vào một niềm tin nhất định.

Một khi con mở tâm, con sẽ nhìn thấy nó. Nếu con sẵn lòng nhìn nhận là niềm tin cũ của mình là giới hạn hay “sai lầm”, con sẽ có thể bước tới. Thày chỉ đơn giản nói rằng một số các con là đệ tử cao cấp đã bước trên đường tu, đã áp dụng giáo lý, và các con đã loại bỏ được rất nhiều điều cấm kỵ, nhiều con bò thiêng đó rồi. Một số các con sẽ ngồi đó và tự hỏi: “Ủa, liệu tôi còn gì sót lại hay chăng, tôi còn bị kẹt vào những niềm tin nào chứ?” Và thật con không tìm thấy gì hết. Một số các con không còn sót lại nhiều niềm tin như vậy, nhưng thày xin nói là tất cả các con sẽ được lợi lạc nếu ít nhất con rà xét bản thân và hỏi: “Liệu có còn gì vẫn khiến tôi bị dao động không?” Chẳng hạn khi con đọc cuốn sách Những kiếp của tôi, liệu có điều gì khiêu khích con không? Có điều gì làm con bất an? Nếu có thì con hãy dõi bước theo nó, đi xa hơn cảm xúc, và đâu là niềm tin ẩn đằng sau chứ? Con sẽ tìm thấy một con bò thiêng đang nằm đó… nó đang nhai, nhai, nhai. Khi con thấy nó rồi, con sẽ có thể thốt lên: “À há! Đây chính là điều mà Saint Germain đã nói đến – mi hãy cút khỏi đây!”

13.10. Không có mức tối hậu nào trên địa cầu

Con yêu dấu, thật là một niềm vui cho các thày được nhìn thấy các con đi qua tiến trình này. Con có hiểu chăng? Các thày không đang khiển trách con, các thày không đang nói: “Con không đủ tốt.” Niềm vui của các thày là thấy con chọc thủng một niềm tin giới hạn và bỗng nhiên gánh nặng rơi khỏi vai con. Như sứ giả này đã mô tả, tất cả những giáo lý, tất cả những nỗ lực tu sửa tâm lý của ông sau 40 năm bước trên đường tu đã chưa bao giờ thực sự chạm đến cốt tủy của ngã gốc của ông. Chỉ khi ông nhận được lời dạy của Giê-su về ngã gốc hồi tháng 12 vừa rồi – chỉ cách đây mấy tháng – thì ông mới thực sự đột phá và có thể nhìn thấy một cái gì đó, có thể buông bỏ cái đó và cảm thấy một gánh nặng vĩ đại được trút khỏi chính mình.

Ông còn không dám bảo là ông đã làm xong xuôi công việc – vì sau từng nấy năm trời, ông đã học được là ông không thể tuyên bố kiểu đó. Điều thày muốn nói là như sau: Nếu một người đã bước trên đường tu lâu đến vậy mà vẫn còn những con bò đang nhai đi nhai lại thức ăn chưa tiêu hóa, thì có lẽ điều khôn ngoan là tất cả các con cũng nên nói: “Tôi có còn sót lại gì chăng? Có điều gì tôi chưa nhìn thấy? Làm thế nào để tôi nhìn ra, bởi vì thực sự tôi muốn bước lên viễn quan cao hơn của Sứ vụ của tôi. Tôi rất muốn tiến bước tối đa. Tôi rất muốn đạt đến mức tâm thức nơi tôi có thể là chính mình.”

Một cách khác để phát hiện xem con có bò thiêng, có điều gì cấm kỵ hay không, đơn giản là như sau: Con có cảm thấy mình là chính mình hay chăng? Con có cảm thấy mình tự do biểu lộ chính mình mà không sợ phản ứng của người khác? Một cách khác nữa là: Thái độ của con đối với cõi vật chất, đối với địa cầu này là thế nào? Con có thoải mái khi ở đây, con có cảm thấy mình có thể tự biểu đạt ở đây, hay liệu con cảm thấy một loại bực bội, oán giận hay hạn chế khi mình ở đây? Nếu vậy thì một lần nữa, con có một con bò thiêng đang cầm giữ con lại vì nó không chịu nhúc nhích. Con hãy dõi theo nó, xem xét nó và thừa nhận đó là một niềm tin giới hạn.

Nếu con không thể nhìn nhận mình có một niềm tin giới hạn, con yêu dấu, làm thế nào con có thể vươn lên tầng tâm thức kế tiếp đây? Các thày đã nói điều gì? Có 144 tầng tâm thức, và gắn liền với mỗi tầng có một ảo tưởng. Đến bao giờ con sẽ giải thoát khỏi mọi ảo tưởng? Đúng, đến khi con vươn tới tầng 144 và giải quyết bí ẩn này hầu con sẵn sàng thăng thiên.

Con có thể hỏi: Đâu là một đặc tính rất phổ biến trong các phong trào tâm linh, Thời Mới? Đó là niềm tin cho rằng con có thể đạt tới một giai đoạn tối hậu nào đó khi con vẫn hiện thân trên địa cầu. Con giác ngộ, con là một chân sư thăng thiên chưa thăng thiên, con vô ngã, con đã giải quyết xong tâm lý của mình, con đã tới đích! Quá nhiều người, kể cả sứ giả này trong nhiều năm trời, nghĩ rằng họ phải có khả năng đạt tới điểm đã cải sửa xong tâm lý của mình và giờ đây họ giải thoát khỏi mọi chuyện.    

Họ đeo đuổi mục tiêu đó, nhưng ai là người có thể thỉnh thoảng cảm thấy mình đã tới đích rồi chứ? Con thấy ở ngoài kia có nhiều người đưa ra tuyên bố đủ loại, chẳng hạn họ đã khắc phục được tự ngã, đã giác ngộ, đã thế này thế kia. Ai là người đã tới đích chứ? À, đó là tự ngã của họ, vì giờ đây họ nghĩ họ không còn phải tìm kiếm tự ngã nữa vì họ đã khắc phục nó xong rồi. Đó chính là lúc tự ngã thực sự có thể ngả lưng xuống và nói: “À, bây giờ ta có thể thư giãn được rồi, và ta sẽ nhai, nhai, nhai vì y sẽ không bao giờ phát hiện được ta. Thậm chí nếu ta cắn vào đùi y thì y cũng không biết là ta cắn.”

Sẽ khôn ngoan biết mấy nếu con nhận ra đây là một ảo tưởng do sa nhân phóng chiếu, được khuếch đại bởi nhiều người có thiện ý nhưng không đủ hiểu biết về đường tu. Như thày có nói, thật sự con có khả năng có một quyết định sẽ đem lại một sự xoay chuyển cách mạng, qua đó con không còn mong mỏi trạng thái “tới đích” đó trong khi con còn hiện thân. Con sẽ đạt tới đích khi con thăng thiên. Cho tới khi đó, con đừng bận tâm đeo đuổi nó. Hãy đi tìm cái ảo tưởng kế tiếp sẽ đưa con lên tầng tâm thức kế tiếp. Con yêu dấu, đó chính là sự xoay chuyển cách mạng trong nhận biết mà những người thực sự thành công trên đường tu sẽ tìm được cách thực hiện. Họ không còn chạy đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng. Họ luôn luôn dõi tìm ảo tưởng kế tiếp, bước tiến kế tiếp. Khi họ tìm ra, họ sẵn sàng nhìn nhận: “À, hóa ra cái đó là giới hạn, tôi đã sai lầm.” Không phải là “tôi” đã sai lầm, mà con tìm ra một cách nhìn khác để con không nghĩ đến cả chuyện đúng hay sai, và con nói: “Được rồi, cái này phải ra đi.” Con làm vậy tự nhiên như thể đó là bản chất thứ hai của mình và con không phải vật lộn với nó.

13.11. Vật lộn để nhìn nhận mình sai lầm

Nhiều các con, trong đó có sứ giả này khi ông còn trẻ, đã phải phấn đấu mãnh liệt, có khi nhiều năm trời, để thừa nhận là mình đã sai lầm ở một điểm nào đó. Ông có thể nhìn lại, mỉm cười và công nhận chuyện này vì ông đã vượt xa hơn, cho nên chính con cũng có thể vượt xa hơn tuy con sẽ cần một chút nỗ lực. Lúc đầu, tự ngã sẽ cưỡng chống lại con với tất cả sức bình sinh của nó. Con cũng biết – nếu con từng là một nông gia trong tiền kiếp – khi một con bò đã quyết định không chịu nhúc nhích thì không một thế lực nào trên trời hay dưới đất sẽ có thể xê nó đi.

Con yêu dấu, con hãy sẵn sàng suy ngẫm điểm này vì con sẽ trải nghiệm một niềm tự do to lớn nếu con đạt tới điểm vượt ra khỏi lực cưỡng chống đó. Con chỉ nhìn nhận đó là một niềm tin giới hạn, xong con bước lên tiếp. Tất nhiên, con sẽ phải hy sinh điều gì ở đây chứ? Một lần nữa, con phải hy sinh niềm tin ở một giáo lý tối hậu, một chân lý tối hậu, một cách hiểu tối hậu nào đó mà con có thể có được. Con yêu dấu, con hãy nhận ra điều các thày đã dạy: Chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh dày đặc như địa cầu thì con sẽ không có được một hiểu biết tối thượng về cách vận hành của vũ trụ. Điều này không thể làm được!

Con hãy xoay chuyển và nói rằng con đang có tầm hiểu biết cao nhất mà con có thể có ngay bây giờ, nhưng có một tầm hiểu biết cao hơn ở tầng tâm thức kế tiếp, rồi ở tầng kế tiếp nữa cho đến tầng 144. Con hãy nỗ lực đạt được cái đó. Luôn luôn giữ tâm mình cho thật lỏng, cởi mở để nhìn ra tầm hiểu biết cao hơn đó. Con yêu dấu, khi tâm con mở rộng và sẵn lòng, đó là lúc các thày có thể thực sự làm việc với con. Con có thể đạt tới điểm, như sứ giả này đôi khi ngồi tự hỏi, làm sao có thể tin được là quá nhiều sáng ngộ có thể đến với mình trong một thời gian rất ngắn ngủi như vậy. Nhiều người trong số các con đã có cùng trải nghiệm như thế.

Có những giai đoạn trong đời con như thể mỗi ngày hay mấy lần mỗi ngày, con nhận được một sáng ngộ cách mạng nào đó, con có được một trải nghiệm bất chợt nhìn ra một viễn cảnh hoàn toàn mới. Đây có thể là trải nghiệm thường nhật của con, và nó có thể là một trải nghiệm vô cùng hỉ lạc, vì ở các tầng thấp hơn khi tự ngã vẫn phần nào nắm giữ con thì tự ngã phóng chiếu ra là con sẽ bị mất mát gì đó nếu con từ bỏ một niềm tin đang có. Đó quả là một cuộc chiến đấu, nhưng một khi con thực hiện xoay chuyển này thì con ngộ ra: “Ừ nhỉ, buông bỏ một niềm tin cố hữu, một niềm tin giới hạn, chỉ có thể là một sự giải thoát, và đó là một niềm vui, một sự trút bỏ nhẹ nhõm, là đạt được một tầng cấp tự do mới. Nó đã chứa sẵn phần thưởng của nó rồi.

13.12. Con sẽ được gì qua đó?

Đôi khi tự ngã sẽ tìm cách mặc cả. Thậm chí, tự ngã của một số đệ tử sẽ nói với chân sư thăng thiên: “Thày Saint Germain, vậy thày muốn con từ bỏ niềm tin này à? Trong đó có gì cho con? Con sẽ được gì qua đó?” Có những học trò của chân sư thăng thiên đã tìm cách mặc cả với các thày, thậm chí còn nói rằng: “Nếu con làm điều này cho thày thì con sẽ nhận được gì đây?”

Con yêu dấu, một khi con vượt quá tâm thức đó, phần thưởng của con nằm ngay trong trải nghiệm. Nó đã gắn sẵn trong đó khi con trải nghiệm nhiều tự do hơn. Cái đó là phần thưởng của chính nó. Con cần phần thưởng nào khác nữa? Thày là chân sư của tự do cho địa cầu. Thày không cần phần thưởng nào khác hơn là trải nghiệm Ngọn lửa Tự do và biểu lộ Ngọn lửa Tự do bất cứ khi nào thày có dịp.

Tại sao thày lại tình nguyện ở lại với địa cầu và làm việc để thị hiện một thời đại hoàng kim? Có gì cho thày trong đó? Liệu thày hy vọng được thăng chức lên một cấp chân sư thăng thiên cao hơn chăng? Liệu thày nghĩ có một sinh thể vũ trụ sẽ giáng xuống đây và một buổi lễ hoành tráng sẽ được tổ chức để đeo lên cổ thày một loại huy chương gì đó? Không đâu con, phần thưởng chính là sự cảm nhận dòng chảy tự do đang xối qua Bản thể của thày.

Đúng, dĩ nhiên còn có khía cạnh omega nữa. Phần thưởng cũng là khi thày nhìn thấy mọi người được tự do. Nhưng phần thưởng hàng đầu chỉ đơn giản là cảm thấy dòng chảy của tự do, và đó là tại sao khi con tới điểm này, phần thưởng cho việc phụng sự của con chính là phụng sự! Giản dị đó là trải nghiệm cảm thấy dòng chảy. Dòng chảy, con yêu dấu. Dòng chảy – đó là tất cả. Tự ngã chỉ biết đứng yên, đó là sự chết. Nhưng dòng chảy chính là sự sống. Cho nên để phỏng theo một câu nói của người xưa: “Ta đã đặt trước mặt con sự sống và sự chết. Hãy chọn Sự Sống. Sự Sống mà TA LÀ.”

3 | Khắc phục nỗi sợ sai trái

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Thày là chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và thày muốn xây đắp thêm trên nền tảng những lời dạy của bài giảng vừa rồi. Thày đã xin con thử hình dung là con được nâng lên tới tầng mức của thày và nhìn xuống địa cầu, nhìn vào tất cả mọi nhóm người và thấy họ đều mang một trạng thái tâm thức nào đó. Họ đều có một số điểm tắc nghẽn trong bốn thể phàm khiến các thày khó lòng đưa ra một thông điệp chạm được tâm ý thức của họ. Thày cũng đã xin con nhìn vào bản thân con cũng như cách con đã lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình từ một trạng thái tâm thức cao hơn tâm thức con mang lúc con bước vào kiếp đầu thai này. Điều thày muốn trình bày tiếp ở đây là trong công việc mà các thày đang làm có một nỗi khó khăn cơ bản, theo nghĩa là khi giảng dạy về cách phát hiện và thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng, hiển nhiên các thày phải trình bày một cách tổng quát để lời dạy có thể áp dụng cho nhiều người khác nhau.

Con phải công nhận là khi con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình, đó là một tiến trình hoàn toàn cá nhân. Con gặp gỡ các chân sư cùng các vị hướng dẫn thăng thiên của con và chúng ta cùng nhìn vào dòng sống của con. Chúng ta nhìn vào những dòng sống khác mà con có mối liên hệ, qua nghiệp quả hay những loại liên hệ nào khác, và chúng ta thiết lập một kế hoạch cá nhân cho con. Lẽ tự nhiên trong một bài giảng như thế này, các thày không thể trình bày cho mỗi con Sứ vụ riêng của từng người. Điều con cần làm là sử dụng lời dạy tổng quát để khám phá ra Sứ vụ cá nhân của mình – và con sẽ làm thế nào đây?

Con yêu dấu, con chỉ có thể làm được từ bên trong. Thày cũng biết trên thế giới có rất, rất nhiều người tâm linh chân thành muốn biết mục đích đời mình là gì, cho dù con gọi đó là Sứ vụ Thiêng liêng hay một cái tên nào khác. Có lẽ chính con cũng đã làm chuyện này, hay con biết có ai đã tìm đến các nhà thần thông đủ loại, từ đồng bóng, nhà chiêm tinh cho đến người đọc sấm và thày bói tarot… bất kể, để xin họ ban cho con những lời chỉ dẫn mà con xem – nếu có thể nói như vậy – là lời chỉ dẫn không thể nhầm lẫn đối với tâm vỏ ngoài của con, theo nghĩa là con có thể nghe được bằng tai. Con yêu dấu, dựa theo đó thì con có thể nói: “À bây giờ chúng ta đã có một sứ giả do các thày bảo trợ, tại sao chúng ta không chỉ yêu cầu vị sứ giả truyền đọc dùm từ các chân sư thăng thiên và nói cho mỗi người biết về Sứ vụ Thiêng liêng của chúng ta, mỗi người 10 hay 15 phút gì đó?”

Ngoài vấn đề thời gian giới hạn, trên lý thuyết thì chuyện này có thể làm được. Các thày sẽ cho phép con đặt câu hỏi và các thày sẽ trả lời, và tiện thể các thày có thể đọc những lời tiên tri loại đó cho cá nhân từng người. Con yêu dấu, con hiểu là nếu các thày làm chuyện này thì thật sự nó sẽ phần nào đánh bại mục đích của Sứ vụ Thiêng liêng của con chứ? Vì lý do đó, các thày không khuyến khích là một khi con đã đến tầng mức này của đường tu tâm linh, con lại tìm đến bất cứ ai để xin họ nói cho con biết con cần phải làm gì, con là ai, con phải hành xử ra sao, đâu là Sứ vụ Thiêng liêng và mục đích của con, các tiền kiếp của con là gì hay điều này điều nọ. Những thứ đó thuộc về một mức tâm linh khác.

Thày không chỉ trích bất cứ ai làm chuyện đó, nhưng thày muốn chỉ ra cho con thấy rằng giáo lý mà thày trao truyền ở đây không nhắm vào mức tâm linh đó. Chúng ta có thể gọi đó là tầng mức của những người tìm cầu một sự kích động, một loại hào hứng vượt ra ngoài cuộc sống thường nhật, gần như là một loại giải trí vậy. Chúng ta có thể gọi đó là “tâm linh tiêu khiển”, nhưng các thày không muốn tỏ vẻ tiêu cực hay phê phán vì mỗi người phải đi theo con đường mà mình cần đi. Mong rằng, lần hồi, họ sẽ nâng cao tâm thức của họ. Điều thày muốn chỉ ra cho con là đối với các con đã mở tâm ra với lời dạy này, thì các con đã nâng tâm thức mình vượt khỏi tầng mức cần đến những thứ đó. Cho nên con cần nhìn nhận một điều thật đơn giản. Như thày đã nói tối qua, con đã bước vào kiếp sống hiện tại ở một tầng tâm thức nào đó. Đúng, thày đã cảnh báo là con không được quá dính mắc với tâm đường thẳng, nhưng tất nhiên các thày cũng đã cho con một lời dạy đường thẳng là trên địa cầu có thể có 144 tầng tâm thức.

3.1. Xoay chuyển tâm thức có nghĩa là gì

Để làm ví du, chúng ta thử lấy một người bước vào hiện thân ở tầng 67, và người đó có tiềm năng chứng được tầng 120 trong kiếp này. Điều này có vẻ như một bước nhảy rất lớn trong tâm thức, nhưng đối với rất nhiều các con đang ở mức này của đường tu tâm linh, đó thật không là một bước nhảy lớn lắm. Một số các con có thể đã đi vào hiện thân ở gần tầng 96 và thật sự có tiềm năng đạt đến tầng 144 trong kiếp này – không phải tất cả các con nhưng một số. Con không cần lo lắng mình đang đứng ở đâu theo nghĩa đó, vì thày chỉ đang cho con một ví dụ là con bước vào ở một mức nào đó và con có tiềm năng vươn lên một mức cao hơn. Toàn bộ mục tiêu của Sứ vụ Thiêng liêng là dẫn con kinh qua một loạt những sáng ngộ nội tâm, giải quyết tâm lý và trải nghiệm vỏ ngoài sẽ tạo điều kiện cho sự tăng triển tâm thức đó từ mức thấp nhất lên tiềm năng cao nhất.

Việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi những gì nơi con? Con yêu dấu, nếu có một khuôn mặt thẩm quyền nào đó ở bên ngoài tiết lộ cho con biết đây là Sứ vụ của con, đây là những gì đúng lý con phải làm, thì liệu điều này sẽ xoay chuyển tâm thức của con hay không? Không đâu con! Sự kiện một khuôn mặt thẩm quyền bảo con phải làm gì rồi con cố làm theo như vậy, sẽ không đem lại xoay chuyển tâm thức. Hơn thế nữa, cho dù con nhận được chỉ bảo là chẳng hạn trong Sứ vụ, con phải trở thành một nhà khoa học hạt nhân cống hiến một khám phá mới sẽ thay đổi cách sản xuất năng lượng trên địa cầu, thì rất có thể con sẽ quyết định với tâm vỏ ngoài là mình sẽ học môn vật lý hạt nhân với mục tiêu đó trong đầu, nhưng thày có thể đảm bảo với con là con sẽ không thể tìm ra khám phá đó.

Để khám phá một điều gì, hay ngay cả để nhận ra những tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng cá nhân của mình, con cần đưa tâm thức của con đi lên. Đó là tại sao việc khám phá Sứ vụ Thiêng liêng không phải là một việc con có thể làm trong một bước mà thôi. Đó là một tiến trình lần hồi, tuần tự, sẽ tiếp tục suốt đời con. Con thấy đó, con yêu dấu, con ở tầng 67 khi con mới bước vào kiếp này và con có tiềm năng đạt tới tầng 120, nhưng con không cần quan tâm đến chuyện này khi con đang ở những giai đoạn sơ khởi của đường tu.

Hãy giả sử con khám phá đường tu tâm linh ở tuổi 18 và trong thời gian đó con đã tinh tấn cao hơn tầng 67 một chút và con đang ở tầng 70. Quan tâm chủ yếu của con không phải là đạt tới tầng 120 mà là đạt tới tầng 71. Xong khi con đạt được thì con cố bước lên tầng 72 và cứ như vậy. Điều thày nói tới ở đây là một điểm rất nhiều các con có thể không nghĩ đến nhưng kỳ thực tất cả các con đều đã biết một khi con suy nghĩ thật sự. Cái biết và cái hiểu về một giáo lý tâm linh không đồng nghĩa với sự xoay chuyển tâm thức.

Con có thể dùng tâm phân tích đường thẳng để biết và hiểu một lời dạy tâm linh một cách trí thức, nhưng con vẫn chưa thật sự chuyển dời từ tầng 70 lên tầng 71. Chỉ khi nào con xoay chuyển tâm con thì con mới có khả năng nhìn thấy và thực hành tầng kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng. Con có thấy điều thày đang nói? Điều quan trọng là con nhận ra rằng việc phát hiện và thực hiện Sứ vụ của con là một tiến trình tác động qua lại sẽ tiếp diễn suốt đời con.

3.2. Không cần hốt hoảng

Đó là vì sao một số các con có thể sẽ nhìn lại đời mình và thắc mắc: “Liệu tôi đã đi theo Sứ vụ của tôi, liệu tôi đã làm gì sai sót hay không? À, thế cái lần tôi yêu người đó nhưng rốt cuộc mối quan hệ không đi tới đâu thì sao? Liệu có nghĩa chăng là một khía cạnh quan trọng trong Sứ vụ của tôi giờ đây bị chết yểu do quan hệ không thành? Hay có thể là do tôi đã lầm lỗi khi mình còn trẻ, hay tôi đã không học hành đến nơi đến chốn, hay tôi đã không tìm được việc làm kia?” Con có thể gần như rơi vào một tâm trạng hốt hoảng. Con hiểu là các thày không có ý trao cho con khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng để con rơi vào một trạng thái căng thẳng, hoảng sợ chứ con?   

Con cần nhìn nhận ở đây là con có thể nhìn ngược dòng đời và nói: “Liệu tôi có đã theo đúng Sứ vụ của mình hay không?” Nhưng thày sẽ hỏi: “Liệu con đã xoay chuyển tâm thức của con từ khi con bước vào kiếp đầu thai cho đến mức tâm thức hiện tại của con hay không?” Tất cả các con đều đã làm chuyện này, cho nên thày sẽ nói: “À như vậy thì chắc chắn con đã đi theo Sứ vụ Thiêng liêng của con rồi.” Có thể con chưa dời chuyển tâm thức nhiều đủ như con có khả năng dời chuyển. Toàn bộ mục tiêu của các thày khi trao cho con giáo lý này tất nhiên là để khiến con dời chuyển tâm thức đến điểm con bắt kịp mức tâm thức mà con đã có thể đạt được trong lý tưởng nếu con tinh tấn tối đa. Một số các con có thể hơi bị chậm trễ so với mức con đã có thể đạt đến, nhưng con có khả năng bắt kịp mau chóng bằng cách áp dụng những lời dạy mà các thày ban cho con. Nhưng đồng thời, con cũng đừng nên nuôi kỳ vọng là nếu con sử dụng giáo lý mà các thày đã ban ra (trong quyển sách này) thì chỉ trong vòng sáu tháng hay một năm, con sẽ thấy viễn quan toàn diện của Sứ vụ Thiêng liêng hiện ra trước mắt với nguyên một đoàn thiên thần thổi kèn bên sau.

Như thày vừa nói, con sẽ không thấy được trọn vẹn Sứ vụ của mình ở bất kỳ điểm nào trong đời con cho tới khi con sẵn sàng rời kiếp hiện thân. Khi đó, con sẽ nhìn thấy giai đoạn chót của nó. Con luôn luôn nhìn thấy từng chặng một. Tại sao vậy? Vì như thày nói, mục đích của Sứ vụ Thiêng liêng là để dời chuyển tâm thức con lên cao hơn. Làm thế nào con dời chuyển tâm thức chứ, con yêu dấu?

3.3. Không có chuyện cứu rỗi tức thì

Đây là một điểm mà rất, rất nhiều người tâm linh đã hiểu lầm. Nhiều người cho rằng việc bước lên một mức cao hơn trên đường tu tâm linh – cho dù họ giải thích cách nào hay diễn đạt cách nào đi nữa – chỉ là chuyện thu hoạch cái hiểu đó. Rồi khi họ có cái hiểu toàn diện, chân lý tuyệt đối, giáo lý tâm linh đẹp lộng lẫy đó, thì đùng một cái, họ sẽ giác ngộ.

Con yêu dấu, nếu con nhìn vào toàn bộ phong trào tâm linh Thời Mới, đa số người ta vẫn còn ngồi chờ “cái đùng” đó, nhưng nó sẽ không bao giờ đến. Việc dời chuyển tâm thức từ tầng 70 lên tầng 71 không phải là chuyện nhận được một sáng ngộ tối hậu nào đó. Ngay cả nếu con biết và hiểu mọi chuyện một cách trí thức, làm thế nào con sẽ chuyển dời tâm thức chứ? Kỳ thực con chuyển dời tâm thức bằng cách sử dụng mức tâm thức mà con đang có, nhưng một cách cao hơn hầu con thăng vượt mức đó.

Con có hiểu điều thày đang nói? Con không thể dời chuyển tâm thức từ tầng 70 lên 71 bằng cách tìm cầu một sáng ngộ tối hậu nào đó. Con cần một sáng ngộ con có thể nắm bắt với tầng 70 nhưng nó sẽ đưa con lên tầng kế tiếp. Đó không phải là một sáng ngộ hay một hiểu biết tối hậu. Quá nhiều người chạy theo sáng ngộ tối hậu đó. Họ cứ đuổi theo và đuổi theo mãi, họ đi từ vị thày này tới vị đạo sư khác, rồi từ đạo sư này tới vị thày khác, mong rằng vị này nắm được sáng ngộ tối hậu đó, cái sáng ngộ thứ 10 hay thứ 11 hay thứ 99, hay bất kỳ điều gì mà họ tìm kiếm. Con yêu dấu, đó không phải là cách thức con tăng triển trên đường tu.

Nếu con biết được mọi khía cạnh của Sứ vụ Thiêng liêng, nếu có ai đó bảo cho con biết, thì có xác suất cao là điều này sẽ ngăn cản con thực hiện Sứ vụ của con, vì như thày đã nói, mục đích chủ yếu của Sứ vụ là dời chuyển tâm thức. Con dời chuyển bằng cách sử dụng hiểu biết và sáng ngộ mà con đang có ở một tầng mức, nhưng con sẵn lòng nhìn xa hơn rồi có được một sáng ngộ trực giác sẽ đưa con lên tầng mức cao hơn. Đây không phải là chuyện hiểu, vì như các thày đã giảng, khi con hiểu một cái gì đó thì con đang nhìn nó từ xa. Con chỉ dời chuyển tâm thức khi con có một trải nghiệm trực giác, thần bí, trọn vẹn và bao hàm tất cả. Con yêu dấu, điều thật sự xảy ra là ở tầng 70 đó, con đang tự trải nghiệm mình một cách nào đó. Xong có một điều gì xảy đến thách thức cách nhìn của tầng 70. Nó thách thức những gì con cảm thấy thoải mái ở tầng 70. Xong trong khi con vẫn sẵn lòng xem xét nó mặc dù có một phần của tự ngã đang cảm thấy bực dọc với lời dạy, thì đó là lúc con có trải nghiệm nội tâm, trực nhận, qua đó con trải nghiệm sự thật của nó. Và trong khi con làm điều này, con cũng dời chuyển cách con trải nghiệm chính mình một chút. Thế là giờ đây con ở tầng 71. Đây không phải là một tiến trình trí thức mà một tiến trình trực giác. Đây là tiến trình dời chuyển chính bản sắc của con chứ không phải gia tăng cái hiểu trí năng.

3.4. Trải nghiệm sự xoay chuyển nội tâm

Con thấy đó, con yêu dấu, mặc dù các thày có nói là có những người tập trung trong cảm thể của mình, những người tập trung trong trí thể và những người trong bản sắc thể, đây không phải là chuyện dời điểm tập trung của tâm ý thức. Thật ra đây là chuyện dời chuyển ý niệm bản sắc của con. Đây là chuyện xảy ra ngay cả khi con tập trung vào tầng vật lý và con không nhận biết mình có một thể bản sắc. Con vẫn có khả năng đi từ một trạng thái tâm thức thấp hơn lên một trạng thái cao hơn bằng cách dời chuyển sự nhận biết mà không ý thức. Tất nhiên, khi con tập trung chú ý nhiều hơn vào thể bản sắc, con sẽ ngày càng ý thức nhiều hơn thời điểm con dời chuyển bản sắc của mình. Và như vậy con sẽ tiến bộ nhanh hơn vì con có thể sẵn lòng dời chuyển bản sắc một cách ý thức, con có thể tìm đến những sáng ngộ sẽ giúp con dời chuyển bản sắc.

Con yêu dấu, đây là những điểm quan trọng mà con cần ghi nhớ. Khi con nhận được quyển sách này, khi con khởi sự thực hành với nó, con đừng nên quá háo hức, quá vội vàng. Hãy dành thời gian để quán chiếu những sáng ngộ mà các thày đang cho con. Xem xét ý nghĩa của chúng chứ không chỉ hiểu băng trí năng, và tìm đến cái trải nghiệm xoay chuyển đó nơi con trải nghiệm ở bên trong sự thật của những lời thày nói.

Con yêu dấu, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời là những vị đạo sư, những trường bí giáo. Người ta tin rằng có một vị đạo sư hay một cơ sở nào đó, và nếu con là một học trò thì con có thể đến đó tu học. Con cố là một học trò chuyên cần, và trường học hay đạo sư sẽ dẫn con qua một tiến trình khai ngộ qua đó con lần lần nâng cao tâm thức. Con yêu dấu, điều hoàn toàn có thể xảy ra là ngay cả khi con theo học một vị đạo sư hay một trường bí giáo chân chính và con nghĩ mình đang tinh tấn do đã gia tăng hiểu biết vỏ ngoài, nhưng con vẫn không đang chuyển dời tâm thức của con. Sự xoay chuyển tâm thức chỉ có thể xảy ra từ bên trong, nó không xảy ra vì có ai đó nói cho con một điều gì – cho dù con có một đạo sư chân chính nói cho con biết điều gì đó về trạng thái tâm thức của con hay phơi bày một khía cạnh tự ngã của con. Nếu con không nhận được sự xác nhận từ bên trong, nếu con không trải nghiệm sự thật của điều đó ngay bên trong, thì nó sẽ không xoay chuyển tâm thức của con.

Điều tương tự cũng áp dụng cho tất cả mọi giáo lý mà các thày đã trao truyền qua sứ giả này hay các sứ giả khác. Con có thể học hỏi, nghiên cứu, con có thể hiểu chúng với tâm vỏ ngoài, con có thể có khả năng trích dẫn chúng, nhưng liệu nó có sẽ xoay chuyển tâm thức con hay không? Không con ạ, trừ khi con trải nghiệm được ở bên trong. Trừ khi con sẵn sàng, như các thày có dạy, để cho cái Ta Biết bước ra ngoài bốn thể phàm của con, với lên Hiện diện TA LÀ của con, với lên các chân sư thăng thiên và trải nghiệm trực tiếp sự hiện hữu của một thực tại cao hơn tâm vỏ ngoài. Chỉ có khi đó thì con mới xoay chuyển.

3.5. Nỗi sợ sai trái

Điểm thày nói với con tối qua là xét xem có điều gì mà con đã trở nên thoải mái và đang ngăn cản con thấy được giai đoạn kế tiếp trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lẽ tự nhiên, điều này có thể hoàn toàn cá nhân. Một số các con đã nhận được các sáng ngộ đó, và một số khác thì chưa nhận được và tự hỏi tại sao như vậy, nhưng thày sẽ cho con một lời dạy chung áp dụng cho tất cả các con. Lời này không nhằm áp chế sáng ngộ cá nhân của con, nhưng thày muốn chỉ ra cho con là có một điều, một tâm lý áp dụng cho mọi người trên địa cầu và do đó cũng áp dụng cho mọi người tâm linh.

Con yêu dấu, đâu là điều mà tất cả các con đều thoải mái? À, tất cả các con đều đã tìm được một mức độ thoải mái nào đó với ý tưởng là nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác thì con không thể sai trái, con sẽ được yên ổn, con sẽ được chấp thuận. Có một nỗi sợ đã được lập trình trong mọi con người trên địa cầu – vì đây là một hành tinh dày đặc – rằng con có thể sai trái. Nó đến từ đâu? Nỗi sợ hãi đó đến từ đâu? Lẽ tự nhiên, nó đến từ sa nhân, và ngay từ khi chúng bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã tạo ra toàn bộ tư duy có cái đúng và cái sai – đó chính là tinh túy của nhị nguyên. Chỉ có một sự thật duy nhất và do đó mọi sự thật khác đều phải sai, như thày vừa trình bày hôm qua. Điều này áp dụng cho quá nhiều lãnh vực của cuộc sống, và như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để tha hóa mọi chuyện trên địa cầu là phóng chiếu ra khái niệm phân biệt giữa đúng và sai. Một số chuyện thì đúng, một số chuyện thì sai.

Một khi tâm con người mang vào sự phán xét nhị nguyên tương đối đó thì tự động tiếp theo sau, con người cũng bắt đầu tạo dựng nỗi lo sợ là mình sai. Giờ đây các thày đã cho con giáo lý rằng nhiều người trong các con – ở đây thày đang nói chung chung chứ không chỉ các con – nhiều người tâm linh đã đến địa cầu như là avatar. Con đã đến đây để tạo một sự khác biệt tích cực cho hành tinh, rồi con đã trải nghiệm cách đối xử hung hãn của sa nhân khi chúng đánh gục con. Đâu là thông điệp mà chúng gửi cho con? Rằng con đã sai lầm khi con đến đây trên trái đất, con đã sai lầm khi con là chính con như một avatar trên trái đất, con đã sai lầm khi con biểu lộ con người thực của con, sự sáng tạo thực của con trên trái đất. Sự kiện đó đã cho con cái mà các thày gọi là chấn thương nhập đời. Và để đương đầu với cái đó, để sống còn về mặt tâm lý, con đã tạo ra điều mà các thày đã đề cập: những cái ngã nội tại, ngã gốc. Một phần của ngã gốc trong tất cả các con là con đã quyết định không muốn phải liên tục trải nghiệm cảm nhận là mình sai.

Mỗi người trong các con đã tìm ra cách riêng của mình để tạo dựng ý niệm: “Nếu tôi đứng yên trong vòng ranh giới nhất định này thì tôi sẽ không sai trái.” Tất nhiên, điều này đi ngược trở về thời điểm con bị chấn thương nhập đời nhưng con cũng có thể nhìn vào kiếp sống này. Con có thể thấy là con đã lớn lên và được xã hội dạy dỗ để có một số ranh giới. Nếu con ở trong vòng ranh giới đó thì con sẽ được xã hội nơi con sinh trưởng chấp nhận, con sẽ theo đúng chuẩn mực và xã hội sẽ không lên án con. Mọi người chung quanh, gia đình con cũng như môi trường của con sẽ không chê trách nếu con ngồi yên trong những ranh giới đó.

Điều thày chỉ ra cho con là tất cả các con đều mang những niềm tin vi tế đó, những cấu trúc cùng khuôn đúc trong bốn thể phàm, bảo rằng: “Nếu tôi ngồi yên trong những ranh giới này thì tôi không thể sai trái.” Thế rồi con cũng cảm nhận là chừng nào mình đứng trong ranh giới đó thì mình sẽ thoải mái. Con thoải mái là con không sai lầm theo những chuẩn mực của xã hội, tức rốt cuộc cũng là chuẩn mực của sa nhân. Con yêu dấu, bất kỳ xã hội nào mà áp đặt – lập trình công dân của mình – cái ý tưởng là có một số chuyện đúng và một số chuyện sai, thì xã hội đó đang bị sa nhân ảnh hưởng.

3.6. Chất vấn cái không thoải mái

Bây giờ lẽ tự nhiên, một số người nghe câu trên với tâm đường thẳng sẽ nói: “Liệu có nghĩa chăng là thày đang bảo không có gì đúng lẫn không có gì sai, và người ta có thể làm bất cứ gì họ muốn?” Tất nhiên là không! Như các thày đã từng nói, bất kỳ xã hội nào cũng phải quy định ra một số ranh giới. Hiển nhiên, ra đường giết người là không đúng. Điều thày nói tới ở đây không hẳn là về cách hành xử vỏ ngoài, mà nhiều hơn về cách cư xử nội tâm qua những niềm tin, những thái độ, nội dung của lời nói. Nói cách khác, vấn đề thực sự ở đây mà thày muốn con lưu ý là những gì đã được lập trình, cài đặt, trong các chuẩn mực mà mọi xã hội đều có, bảo rằng một số ý tưởng thì chấp nhận được còn một số ý tưởng khác thì sai trái. Nếu con tin vào những ý tưởng này thì con sai trái, và nếu con lên tiếng về những ý tưởng này thì con còn sai trái hơn nữa. Và nếu con dùng những ý tưởng này để hành động và thay đổi đời con thì con sai trái thực thụ.    

Lẽ tự nhiên, ở đây các thày không bảo người tâm linh đi ra ngoài kia làm đủ chuyện bất hợp pháp hay sai trái theo tiêu chuẩn bình thường của sự biết điều. Điểm các thày nói đến ở đây là con cần xét xem có những ý tưởng nào mà con sẽ không thoải mái chất vấn.

Nếu con sẵn lòng xem xét ở mức cá nhân, con sẽ có thể dần dần nhìn ra là có một số ý tưởng – cho dù chúng đến trong kiếp này hay trở về nhiều kiếp trước – mà con sẽ cảm thấy ray rứt nếu con phải chất vấn. Một cách để phơi bày sự thể này là đọc quyển sách Những kiếp sống của tôi, và con sẽ thấy nhiều người cảm thấy trong sách có những ý tưởng đã khiến họ day dứt do họ phải chất vấn những niềm tin hiện có. Tất nhiên là còn nhiều ví dụ khác như vậy, và thường khi giáo lý của các thày cũng có cùng tác động như thế.

Nếu con có thể nhận diện một ý tưởng mà con không muốn chất vấn – mà con cho là đương nhiên, mà con tin là một sự thật cao hơn – thì thày có thể cam đoan với con là cái đó nằm trong khuôn khổ thoải mái của con. Nó xuất phát từ sự kiện là nếu con không chất vấn ý tưởng đó thì con sẽ cảm thấy mình không thể sai trái, và chính điều này khiến con thoải mái.

Nếu con chất vấn ý tưởng đó, con sẽ hết thoải mái do con lo sợ mình có thể sai lầm và bị chê trách. Cho dù nỗi sợ này là gì đi nữa đối với cá nhân con – dựa trên trải nghiệm mà con đã có trong tiền kiếp khi con bị người ta bức hại thật khắc nghiệt – thì con lo sợ mình phải khui cái “hộp đầy sâu bọ” này ra và mình không thể biết trước điều gì sẽ xảy đến.

3.7. Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Điều thày mong chỉ ra cho con ở đây là nhiều người trong các con – là những người đã bước chân trên đường tâm linh một thời gian dài và đạt đến một mức tâm thức nào đó – các con đã tới điểm khi thử thách của con là biểu lộ một cách ý thức hơn quả vị Ki-tô mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng. Quả vị Ki-tô là gì? À, có nhiều cách định nghĩa, nhưng như thày Giê-su đã nêu ra mấy lần, quả vị Ki-tô là sự thách thức hiện trạng. Khi Ki-tô đi vào hiện thân, mục đích chủ yếu của Ki-tô Hằng sống trong hiện thân là thách thức hiện trạng và khiến cho con người nhận ra mình có một chọn lựa khác hơn là một trạng thái tâm thức đã trở thành một hệ thống khép kín. Thày có thể bảo đảm với con là đối với tất cả các con đã mở tâm ra những lời dạy này và đã đạt được một mức trưởng thành nào đó trên đường tu, thì các con đều đã đặt vào Sứ vụ của mình một yếu tố quả vị Ki-tô nào đó.

Các con ở đây là để thách thức hiện trạng một cách nào đó. Không cứ một cách tối hậu khi con đem lại một ý thức hệ mới, cách mạng, sẽ thách thức các ý thức hệ hiện hữu. Đối với nhiều người trong các con, con làm vậy ở mức cá nhân khi con thách thức cách nhìn của người chung quanh về một số vấn đề hay khía cạnh đời sống. Cách thức con đã trù liệu việc làm này có thể rất cá nhân, nhưng tất cả các con đều có yếu tố này trong Sứ vụ của mình. Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra rằng để có thể thực sự thấy và thực hiện điều này, con cần phải sẵn lòng nhìn vào nỗi sợ sai trái của con. Con cần nhận diện đây là một thành phần không thể thiếu của chấn thương nhập đời, một thành phần dính liền với ngã gốc. Như thày đã có nói, đây là lãnh vực mà các thày đã trao cho con rất nhiều dụng cụ trước khi đưa ra lời dạy về Sứ vụ Thiêng liêng, vì bây giờ con có thể cầm lấy quyển sách Chữa lành chấn thương tâm linh và dùng sách để nỗ lực chữa lành nỗi sợ sai trái đó.

Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con phải đạt tới điểm nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên lẫn các sinh thể sa ngã. Con nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, muốn kéo con đi lên thoát khỏi mọi giới hạn. Còn sa nhân thì muốn kéo con đi xuống và giữ con kẹt lại trong các giới hạn đó. Con có thể bắt đầu tự hỏi câu này: “Tôi sẽ muốn sống phần đời còn lại của tôi dựa theo cách nào?” Liệu con sẽ muốn sống dựa trên nỗi sợ sai lầm theo tiêu chuẩn sa nhân, hay dựa trên sự nhận biết khi con thấu hiểu giáo lý của chân sư rằng con không bao giờ sai trái khi con thách thức ý tưởng của sa nhân? Thế gian có thể bảo là con sai, nhưng các thày thì chắc chắn sẽ không bảo vậy.

Điều thật quan trọng là con hãy xem xét điều này. Không cứ là con phải ngay lập tức làm vậy một cách tối hậu, vì như thày đã nói, con hiện ở một tầng tâm thức nào đó và quan tâm chủ yếu của con là leo lên tầng kế tiếp, và điều này thường không là một bước lớn kinh khủng. Câu hỏi đặt ra là, nỗi sợ hãi sai trái mà con đang đương đầu ngay lúc này là gì chứ? Đâu là cái ý tưởng mà con có thể biểu lộ ở mức tâm thức hiện thời sẽ dẫn con lên mức cao hơn, và nỗi sợ sai trái đang ngăn cản con biểu lộ ý tưởng này như thế nào?

3.8. Thách thức ý tưởng ở mức cá nhân

Con yêu dấu, ở trên thày vừa nói rằng Sứ vụ Thiêng liêng là một tiến trình tác động qua lại. Sau đây là một ví dụ nữa: Giả thử gia đình con mang sẵn một cách nhìn, một thái độ nào đó về cuộc sống. Có một thành viên trong gia đình mang tiềm năng vươn lên cao hơn trong kiếp này nhưng bị mắc kẹt trong quan điểm đó. Một phần Sứ vụ của con là giúp cho người ấy chất vấn và vượt ra khỏi niềm tin đó, nhưng con lại sợ làm như vậy vì con cảm thấy các thành viên khác trong gia đình sẽ kết án con. Câu hỏi đặt ra là: “Làm thế nào con sẽ vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng?” Liệu con sẽ có thể vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ mà không bày tỏ tầm hiểu cao hơn mà con đã ngộ và không trao cái hiểu đó cho người kia?

Con yêu dấu, con không thể. Con không thể vươn lên mức cao hơn mà không thách thức chính mình. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì con có thể nói: “Nếu tôi bày tỏ những sáng ngộ này của tôi thì một số người trong gia đình sẽ giận tôi và họ sẽ phản ứng tiêu cực.” Thày sẽ nói vô cùng thẳng thắn với con là chỉ khi nào con bày tỏ tầm hiểu đó của con và trải nghiệm phản ứng đó của họ thì con mới bị bắt buộc phải xoay chuyển nhận thức và thái độ của mình. Chỉ bằng cách đương đầu thách thức đó, trải nghiệm thách thức đó, thì con mới có thể dời chuyển lên mức kế tiếp.

Con thấy đó, con yêu dấu, vấn đề không phải là con nhận được một hiểu biết trí thức. Không phải là chuyện con có một sáng ngộ cao hơn mọi người trong gia đình rồi con nghĩ: “Vì tôi có sáng ngộ này nên tôi đã dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn họ.” Có thể con đã dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn họ nhưng con chưa dời chuyển lên mức kế tiếp của con, và con sẽ không lên được mức kế tiếp cho tới khi con bày tỏ sáng ngộ của con, con trải nghiệm phản ứng của họ, rồi sau đó con giải quyết phản ứng nội tại nơi chính con đối với họ.

Chỉ khi nào con đương đầu với vấn đề này và tìm được cách khắc phục các khuôn nếp, các nỗi sợ, các dính mắc, cách phản ứng trong cảm xúc lẫn lý trí của con, chỉ khi đó con mới dời chuyển tâm thức lên mức kế tiếp. Con yêu dấu, đó là tại sao thày nói với con ở đây là để bước lên cao hơn và thực sự nhìn ra nhiều khía cạnh hơn của Sứ vụ một cách ý thức, con cần bước vào tâm thái không sợ nhận trải nghiệm, ngay cả khi trải nghiệm khiến con mất thoải mái, ngay cả khi nó khiến con sợ hãi. Con vẫn sẵn lòng nhận lấy trải nghiệm vì con nhận ra chỉ trong trải nghiệm thì con mới có thể xử lý các bế tắc trong tâm lý mình, nhìn ra chúng, rồi thăng vượt chúng.

3.9. Sự tăng triển đòi hỏi con tương tác với người khác

Các thày đã trao cho con biết bao dụng cụ, con yêu dấu, để thăng vượt các điểm bế tắc trong tâm lý. Con đã có đủ dụng cụ để thăng vượt chúng, nhưng điều mà nhiều các con không nhận ra là con không thể ngồi đó trong phòng riêng của mình, đọc sách và đọc thỉnh miên man rồi chứng được sự tăng triển tối đa. Con có thể trải nghiệm tăng triển bằng cách đó nhưng con cần có sự xen kẽ, sự tương tác giữa việc tu tập tâm linh và việc trải nghiệm thực tế nơi con bị thách đố, con bị thử thách, và con nhìn thấy một phản ứng trong con.

Tất nhiên đây cũng là điều mà thày vừa đề cập về nhiều người đi xem thày bói hay đồng bóng. Họ đọc sách về mục đích của cuộc sống và Sứ vụ Thiêng liêng nhưng họ lại không sẵn sàng làm công việc. Họ muốn ngồi yên nơi họ cảm thấy thoải mái. Đấy, như các thày đã từng nói, sự thoải mái và con đường tâm linh không thực sự tương hợp với nhau. Và chắc chắn hành tinh này cũng không thực sự tương hợp với sự thoải mái. Con cần thực hiện sự xoay chuyển đó khi con nói: “Tôi là ai? Tôi có là một học trò của chân sư thăng thiên hay không? Tôi có là một người quyết tâm tinh tấn tối đa trong kiếp này hay không? Nếu tôi là một người như vậy thì tôi không cần thoải mái.”

Đây không phải là chuyện thoải mái – thày không đang bảo con phải hành hạ bản thân – mà đây là chuyện nhận ra trong tâm lý con có một yếu tố mong muốn ngồi yên nơi mình thoải mái, mong muốn trốn chạy những thứ khiến mình bị day dứt. Chỉ bằng cách nhận diện cái đó và đâm thẳng vào nó – tức là sẵn lòng bước vào tình huống và trải nghiệm phản ứng của mình – chỉ khi đó thì con mới có thể nhìn thấy điểm bế tắc trong tâm lý con. Con không thể thấy nó từ xa một cách trí thức, mà con cần bước vào trong đó và trải nghiệm nó, xong con có thể dùng các dụng cụ mà các thày đã ban cho để khắc phục nó, để nhận diện ra ngã, để tách mình ra khỏi ngã và để cho ngã chết đi. Đây chính là cách vận hành của tiến trình tăng triển.

3.10. Đường tu tâm linh không dễ

Đó là một lời dạy sẽ khiến cho một số người nản lòng vì có lẽ trong nhiều năm trên đường tu tâm linh, họ đã bám vào cái lý tưởng được phóng chiếu lên tâm thức tập thể cho rằng sự tinh tấn tâm linh chỉ là một tiến trình hoàn toàn dễ dàng, tích cực và phấn chấn. Con yêu dấu, ý tưởng đó – cho rằng đường tu tâm linh không đòi hỏi khó nhọc, không đòi hỏi con hạ mình xuống chạm trán với tâm lý của mình – tất nhiên đã được sa nhân phóng chiếu ra hầu giữ chặt con người ở mức họ cứ luôn nhìn ra ngoài chính họ mà không bao giờ thực sự soi gương để nhìn vào bên trong tâm lý họ.

Hiển nhiên là con đã vượt quá mức đó rồi, vì nếu không thì con đã không đáp ứng được lời dạy này. Thày chỉ đơn giản giúp con nhận thức là con có khả năng dời chuyển một cách ý thức, vì con nhận ra là cho dù sa nhân có phóng chiều gì lên con, cho dù người khác có phóng chiếu gì lên con, thì con không bao giờ sai lầm khi con xoay chuyển tâm thức. Con không bao giờ sai lầm khi con dời chuyển tâm thức lên cao hơn.

Một khi con chấp nhận điều này trọn vẹn, một khi con trải nghiệm trọn vẹn sự thật của điều này, thì con sẽ có thể thực sự bước vào một giai đoạn mới trong cách tương tác của con với các chân sư thăng thiên, nơi các thày sẽ trở thành khung tham chiếu của con thay vì sa nhân hay người đời – hay thậm chí cả những cái ngã, những ngã tách biệt, những phàm linh nội tại – làm khung tham chiếu cho con. Con có thể bắt đầu nhận ra là các thày không bực dọc, không tức giận, không nóng lòng, không tìm cách lên án hay chỉ trích con.

3.11. Tại sao các chân sư không lên án con

Con yêu dấu, thày biết rất rõ là có những học trò của chân sư thăng thiên tin rằng, và cũng có những tổ chức của chân sư thăng thiên có nền văn hóa tập thể nơi giáo lý của chân sư được dùng để củng cố cho ý niệm sai và đúng. Đã có những tổ chức chân sư thăng thiên nơi thành viên quá quan tâm đến những chuyện ăn mặc, nói năng, đi đứng, biểu thị, suy nghĩ, cảm xúc như thế nào cho đúng đắn, rồi họ lên án lẫn nhau cũng như họ tự lên án chính họ mỗi khi họ không làm đúng theo một số tiêu chuẩn vỏ ngoài.

Vào thời buổi đó, đó là những vật liệu mà các thày phải sử dụng. Trong một số trường hợp như đã kể lại, các thày đã phải khuếch đại niềm tin đó nơi mọi người để nó trở thành cùng cực đến độ cuối cùng người ta mới chịu chất vấn nó. Con yêu dấu, với những lời dạy mà con đã có, con có thể rất nhanh chóng bước vượt qua tất cả những thứ đó và nhận ra là các thày – các chân sư thăng thiên đích thực – đã vượt khỏi nhị nguyên. Các thày không phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Các thày không chỉ trích, các thày không kết án con. Các thấy chấp nhận con hoàn toàn – chính con – mỗi người trong các con. Các thày chấp nhận con như con là, một cách vô điều kiện. Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất là giúp con trở nên nhiều hơn cái con là, bằng cách con dời chuyển bản sắc của con đi lên.

Con yêu dấu, thày thực sự mong ước là con sẽ có thể nhìn chính mình với cùng sự chấp nhận vô điều kiện mà thày nhìn con. Thày biết là nếu con áp dụng các dụng cụ mà các thày đã trao, con sẽ có khả năng bước lên điểm đó. Thày biết là con không thể bước lên điểm đó bằng cách thày bảo con, và thày không đang bảo con điều này để khiến con nghĩ là con không thể tự chấp nhận mình, con yêu dấu. Con thấy tự ngã có thể chụp lấy bất kỳ lời dạy nào rồi khiến con nghĩ: “Mẹ Mary nói là tôi cần chấp nhận chính mình vô điều kiện, nhưng tôi không làm được, cho nên tôi phải sai trái.”

Đây là loại suy tưởng chạy lòng vòng mà con có khả năng nhận diện, và con nhận ra đó chỉ đơn giản là một cái ngã tách biệt. Như vị sứ giả này có bày tỏ tối qua, trong tâm con người có một phần được lập trình để tạo dựng các vấn đề rồi phóng chiếu là con phải giải quyết vấn đề. Đấy, cũng có một phần của tâm là ngã tách biệt, được lập trình để phóng chiếu ra là con sai trái, và nó chụp lấy bất kỳ ý tưởng nào đến với con để quay ngược ý tưởng và chứng minh: “Phải, đây là thêm một cách nữa mà tôi sai trái – tôi không đáp ứng nổi tiềm năng cao nhất của mình, tôi thật kém cỏi.”

Con yêu dấu, tất cả các con đều không kém cỏi. Con đang đứng ở đúng nơi con cần đứng, vì con đang đứng ở điểm trên đường tu nơi con sẵn sàng bước lên bước kế tiếp, và đó là điều các thày chú trọng. Các thày không so sánh con với một chuẩn mực nào. Con đừng có mảy may ý nghĩ là các thày bảo là cho tới khi con đạt đến tầng tâm thức 144 thì con vẫn sai trái. Con yêu dấu, con đang bước chân trên đường tu; điều quan trọng là con tiếp tục bước từng bước một và dời chuyển đi lên. Các thày chấp nhận con như con đang là, chấp nhận con ở mức con đang đứng. Các thày mong ước là con cũng có thể chấp nhận mình như thế, con yêu dấu. Thật ra có một điểm trên đường tu nơi con không thể lên cao hơn được trừ khi con khắc phục tâm đường thẳng. Cũng có một điểm trên đường tu nơi con không thể lên cao hơn được cho tới khi con khắc phục tâm phê phán cứ không ngừng tự chỉ trích.

3.12. Không có chỉ trích nào xây dựng

Trên thế giới có một khái niệm gọi là “chỉ trích xây dựng”, nhưng con yêu dấu, chừng nào con còn ở trong trạng thái tâm thức nhị nguyên thì không có chuyện chỉ trích xây dựng. Chỉ trich là một rung động – cho dù người chỉ ra cái đó có thể “đúng” đến đâu đi nữa. Nếu người đó làm vậy ở mức tâm thức đó thì việc đó vẫn không xây dựng. Đối với bản thân con cũng vậy. Con có thể nghĩ là mình phải phê phán chính mình vì đó là cách con tăng triển. Con yêu dấu, có một cái ngã mang độ rung nhị nguyên của chỉ trích và ngã đó không thể đưa con lên cao hơn trên đường tu.

Sẽ tới một điểm con cần lui lại một bước và nhìn ra đó chỉ là một cái ngã. Không phải là vấn đề ngã đó đúng hay sai khi nó chỉ ra sự kiện, mà là việc nhận diện độ rung của ngã đó không xuất phát từ tình thương – nó xuất phát từ sợ hãi. Cho nên con cần tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: “Ta không cần đến mi nữa!” Con không cần bước vào một sự phán xét nào hết, thậm chí con cũng không cần chứng minh (như một số các con có khuynh hướng làm) và nói: “À nhưng nó đã có công dụng, nó đã giúp tôi tăng triển trên đường tu.” Có thể nó đã giúp con, nhưng con yêu dấu, điều con cần làm là nhận diện nó và bảo: “Tôi không cần đến ngã này nữa và tôi để cho nó chết đi.”

Con yêu dấu, trên đây là những gì thày muốn truyền cho con bây giờ. Một lần nữa, thày cảm ơn con đã có mặt và đã nhận biết. Tất nhiên, các thày mong mỏi sẽ trao thêm lời dạy khi nào con có dịp thực hành những lời dạy vừa được ban ra và chuyển dời tâm thức lên mức kế tiếp, là nơi con có thể nhận được lời dạy kế tiếp.

5 | Con không ở trên địa cầu để giải quyết các vấn đề

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên MORE và thật là niềm vui cho thày được nói chuyện với các con và trao cho con một lời dạy sẽ có vẻ hơi khó và hơi nặng nề đối với con. Tuy nhiên, lời giảng này thật quan trọng để con nắm bắt Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì và làm thế nào con có thể thực hiện được Sứ vụ.

5.1. Một cách tiếp cận Sứ vụ Thiêng liêng mất cân bằng

Con yêu dấu, Mẹ Mary có đặt câu hỏi là tại sao các thày đã không ban ra các giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn. Hiển nhiên Mẹ Mary đã trả lời câu đó một phần, nhưng thày muốn nêu lên một khía cạnh khác nữa. Trong một đợt truyền pháp trước, các thày đã ban ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng và cũng đã đặt nhiều trọng tâm hơn vào đó. Các thày có nói là con người cần cân bằng nghiệp quả của mình và có một phần vụ thần thánh mà mình phải hoàn thành. Các thày nhận thấy là khi ai nấy nghe giảng về khái niệm này thì trong nhiều trường hợp, họ rơi vào một phản ứng rất thiếu cân bằng. Thày không nói điều này để chỉ trích một ai. Điều thày muốn chỉ ra ở đây là nhiều học trò, đặc biệt trong các thập niên trước, khi họ nghe nói đến khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng thì họ trở nên vô cùng nhiệt tình, háo hức muốn thực hiện.

Tất nhiên là tự thân nó, lòng nhiệt tình không có gì sai trái. Trên đường tu tâm linh, con cần một độ nhiệt tình nào đó. Nhưng mặt khác, người xưa có câu ngạn ngữ: “Đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý định tốt.” Thày cũng có thể nói là chiếc xe đưa con xuống địa ngục chạy bằng nhiên liệu là những ý định nhiệt tình thái quá.

Rất, rất nhiều người đã tiếp nhận giáo lý của các thày một cách mất cân bằng. Họ dùng giáo lý để đưa họ vào một trạng thái mà họ cảm nhận là lạc quan tích cực chỉ vì họ háo hức, nóng lòng, cả quyết, “tia sáng xanh và lửa cũng xanh”, và họ không để cho bất cứ gì cản bước họ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Theo một nghĩa nào đó, nó giống như thể họ đang tham dự một cuộc đua xe băng đồng chạy khắp vùng nông thôn để đến được một mức đến. Các học trò đó náo nức đến độ họ nhảy liền lên xe, đạp ga phóng thật nhanh trên đường, khiến đá sỏi văng tung tóe tứ phía, nhưng họ lại không đem theo tấm bản đồ sẽ dẫn họ tới đích. Họ quá chú tâm vào việc chạy càng nhanh càng tốt đến nỗi họ không xét xem họ đang chạy về đâu và làm thế nào họ sẽ tới đó.

Các thày đã từng nói trước đây là một trong những vấn đề lớn với học trò của chân sư thăng thiên là các con có một viễn quan đúng đắn về những gì cần xảy ra – hay ít nhất con thấy được là một sự thay đổi cần phải xảy ra – nhưng con không có viễn quan đúng đắn về cách làm thế nào, làm thế nào để điều đó hiện thực. Một trong những lý do khiến các thày đã không đưa ra nhiều lời dạy hơn về Sứ vụ Thiêng liêng trong đợt truyền pháp này là vì các thày thận trọng hơn, dành ra nhiều thời gian hơn để dần dần vun xới cho tới điểm con có đủ hiểu biết cùng các dụng cụ thực tiễn dưới hình thức các bài thỉnh và sách sẽ giúp con thực sự đương đầu với thế lực đối lập. Tất nhiên con cũng có những dụng cụ thực tiễn để đối phó với các yếu tố trong tâm lý con đã tạo ra phản ứng mất cân bằng. Thày không chỉ nói với các con đang ngồi đây mà với cả nhiều người khác có thể đã tìm ra lời dạy này hay thậm chí nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu tiên.

5.2. Ngã gốc và sự mất cân bằng

Điều quan trọng là con cần biết, khi con tìm thấy một lời dạy của chân sư thăng thiên lần đầu, và đặc biệt khi con nghe nói về Sứ vụ Thiêng liêng (và cả về khái niệm Thời đại Hoàng kim lẫn cách làm thế nào thay đổi địa cầu), là không hiếm khi người ta tiếp nhận những lời dạy đó một cách mất cân bằng. Mất cân bằng chính xác là gì? Phần lớn đây là một vấn đề cá nhân cho nên nó tùy thuộc vào tâm lý của con. Điều nó thật sự tùy thuộc là cái ngã gốc mà con đã tạo ra để đáp ứng với chấn thương nhập đời nguyên thủy mà con trải nghiệm, rất có thể trong kiếp hiện thân đầu tiên của con (có khi không là kiếp đầu tiên nhưng một trong những kiếp sau đó).

Khi con phải kinh qua chấn thương đó, hiển nhiên con đã có một số cảm xúc, một số ý nghĩ. Điều này thường khiến con tạo ra một cái ngã tìm cầu một phương cách, có thể nói là để phục thù, bù đắp, đền bồi, chỉnh sửa chấn thương nhập đời mà con đã gánh chịu. Nói cách khác, ngã đó bảo rằng: “Sa nhân đã làm chuyện đó với tôi, tôi muốn trả đũa lại, tôi muốn… [bất cứ điều gì tùy theo mỗi cá nhân].” Con muốn làm gì đó với chúng hay con muốn một điều gì đó xảy ra cho chúng và – nếu có thể nói như vậy – điều này sẽ “gỡ huề tỷ số” để con cảm thấy như chúng nhận được hình phạt xứng đáng. Sự thể này sẽ khiến cho một số các con trở nên, như thày vừa nói, quá nhiệt tình muốn thay đổi thế giới. Trong nhiều trường hợp, nó cũng đã khiến cho một số học trò bước vào một giai đoạn nơi họ tập trung vào những thứ vỏ ngoài.    

Tất nhiên, một trong những thứ mà nhiều người đã làm là trở nên vô cùng háo hức muốn đọc các bài chú, hết giờ này sang giờ nọ – như trong đợt truyền pháp trước, họ sẽ dự lễ mấy lần mỗi tuần để đọc chú hàng giờ đồng hồ. Họ nghĩ họ phải làm điều đó để thay đổi thế giới, để trói chặt sa nhân, để cân bằng nghiệp quả và chuyển đổi địa cầu cho thày Saint Germain. Cho nên họ không có nhu cầu và thời gian hay sự chú ý để tu sửa tâm lý của họ. Tất nhiên, con có thể nhìn lại và nói: “Nhưng họ làm vậy là do những gì đã được ban ra qua các bài truyền đọc, hay ít ra do cách thức mà các bài truyền đọc được diễn giải trong văn hóa của tổ chức đó.”

Đúng vậy, nhưng một lần nữa như các thày đã trình bày mấy lần, các thày phải nhìn vào một nhóm người nhất định ở một thời điểm nhất định, xét xem họ sẵn sàng nhận được những gì, rồi trao cho họ cái đó, thỉnh thoảng còn trao cho họ một cái gì cùng cực đến độ họ sẽ chán ngán và bắt đầu phải nhìn xa hơn. Vào thời đó có một số học trò chưa sẵn sàng, nhưng một số cũng không sẵn lòng nhìn vào tâm lý của mình. Các thày đã cho họ môi trường vỏ ngoài đó nơi họ có cái cớ toàn hảo để không xem đến tâm lý của họ khi họ phải đọc tất cả những bài chú đó.

Mặt khác, họ còn nhận được nhiều lời chỉ dẫn phải đọc những bài chú nào, đến độ nếu họ theo đó mà đọc hết thì 24 tiếng một ngày cũng không đủ vào đâu. Đó là một toan tính từ phía các thày nhằm nói lên: “Đây, các thày không thể chạm được các con, các thày không thể khiến con nhìn ra những gì con cần nhìn thấy, cho nên các thày sẽ cho con nhiều đến độ cuối cùng nó sẽ quá tải, và mong thay, ít nhất có một số các con sẽ đứng lui lại và tìm ra một cách tiếp cận cân bằng hơn.” Quả vậy, một số đã nhìn ra và một số vẫn không nhìn ra – và tiếc thay, đó là sự thể các thày phải chấp nhận. Dù với lời dạy nào đi nữa, các thày cũng không thể chạm được mọi người.

5.3. Một cảm nhận cao hơn về cân xứng

Điểm thày muốn nói ở đây là trong thời đại hôm nay và trong đợt truyền pháp của các con, các con đang có một mức giảng dạy khác hơn. Điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự tăng triển của mỗi cá nhân, việc giải quyết và chữa lành tâm lý cùng những chấn thương trong quá khứ mà các thày đã đề cập với con gần đây.

Có nghĩa là con có tiềm năng tiếp cận một cách cân bằng hơn, y như những gì Mẹ Mary đã nói. Thày muốn đi vào vấn đề này sâu hơn một chút. Mục đích thực sự của các chân sư thăng thiên không phải là để chế tạo một số thay đổi vỏ ngoài nhất định trên địa cầu. Con có thể hỏi: “Nhưng chẳng phải là điều này đi ngược lại những lời dạy về Thời Hoàng kim của Saint Germain khi thày muốn cải thiện mọi khía cạnh của cuộc sống trên trái đất và đem lại một trình độ văn minh cao hơn hay sao?” À, không, con yêu dấu. Từ một nhãn quan vỏ ngoài đường thẳng thì có vẻ mâu thuẫn, nhưng ngay cả Saint Germain cũng từng nói rằng mục đích chính yếu của Thời Hoàng kim thật ra là để nâng cao tâm thức loài người, chứ không để thị hiện những kết quả vỏ ngoài đặc thù đó. Thày Saint Germain sử dụng những thứ vỏ ngoài đó như một dụng cụ để nâng cao tâm thức con người, chứ tự thân chúng không phải là mục tiêu.

Ở đây con phải nhìn nhận là các thày đã cho con khái niệm rằng địa cầu không là một hành tinh tự nhiên. Các thày đã nói với con là có hàng tỷ hành tinh khác trong vũ trụ ở mức hành tinh tự nhiên và do đó cũng không có tất cả những biểu hiện dựa trên sợ hãi mà con thấy trên trái đất. Như Mẹ Mary có gợi ý, kỳ thực có hàng tỷ hành tinh đã gia tốc, và các cư dân ở đó đã gia tốc hành tinh của họ tới một trình độ vượt xa địa cầu đến nỗi hầu hết loài người khó lòng nào hiểu nổi.

Con phải nhìn nhận là tất nhiên, nói chung như một nhóm, các chân sư thăng thiên biết rất rõ là hầu hết mọi hành tinh đều ở một trình độ rất cao. Hiển nhiên các chân sư đã chọn ở lại làm việc với địa cầu thì không quá tập trung vào các hành tinh cao đó, nhưng các thày biết là họ hiện hữu. Các thày có tương tác với các chân sư đang làm việc với các hành tinh đó, thậm chí cả với các chân sư mang viễn quan tổng thể về toàn bộ vũ trụ vật chất lẫn con đường tiến hóa của vũ trụ. Điều này có nghĩa là các thày có một ý niệm về sự cân xứng mà thường thường các con không có được trên địa cầu khi con là người đầu thai.

Nhiều người trên địa cầu rất chú tâm vào địa cầu và, tất nhiên, nhiều người cho rằng đây là hành tinh duy nhất có người ta sinh sống. Nhiều tín hữu đạo Cơ đốc cho rằng đây phải là một hành tinh thật quan trọng đối với Thượng đế, nhiều người theo phong trào Thời Mới và người tâm linh cũng xem địa cầu là quan trọng vì nó khiến cho họ cảm thấy chính họ quan trọng do họ đang sống ở đây, vân vân và vân vân.

Điều thày muốn cho con là một chút cảm nhận cân xứng của các chân sư thăng thiên. Khi con đứng lui lại một bước và ngắm nhìn toàn bộ vũ trụ vật chất, con biết qua khoa học là có hàng tỷ dải thiên hà, hàng tỷ mặt trời, hàng tỷ thái dương hệ, hàng tỷ hành tinh với tiềm năng mang sự sống. Thày nói với con, những hành tinh gọi là “tương tự như trái đất” mà khoa học đã khám phá chỉ là một phần rất nhỏ trong số những hành tinh có sự sống. Các con chỉ đang cố tìm những hành tinh có cùng một loại dạng sống như trên địa cầu. Dĩ nhiên là còn rất nhiều loại dạng sống khác không dựa trên cacbon – nếu có thể nói như vậy – mà dựa trên các nguyên tố hóa học khác và do đó không thể phát hiện được bằng giác quan vật lý cũng như bằng các loại dụng cụ khoa học dựa trên giác quan mà con có trên trái đất. Đó là tại sao con không thể nhìn thấy sự sống trên Kim tinh mặc dù các thày đã nói với con là Kim tinh có sự sống. Điều này cũng áp dụng cho rất nhiều hành tinh khác khắp vũ trụ.

Khi con bước lui lại và nhìn từ tầm nhìn rộng mở đó, con thấy rõ là tuyệt đại đa số các hành tinh đều đang gia tốc rất nhanh chóng. Cư dân ở đó đã đi vào một vòng xoắn ốc tích cực, một xoắn ốc tích cực đang tự củng cố. Khi họ tương tác với chân sư thăng thiên, khi họ nâng cao tâm thức của họ, các chân sư có khả năng trao cho họ nhiều ánh sáng hơn, thế rồi họ lại gia tốc thêm nữa và tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng thượng tích cực. Tương đối chỉ có một số ít hành tinh giống như địa cầu. Vậy thì trong viễn quan rộng lớn đó, các thày sẽ nhìn địa cầu ra sao? Hiển nhiên, các thày thấy địa cầu rõ ràng không nằm trong số các hành tinh đã bước vào một vòng xoáy tự củng cố và đang gia tốc. Trên địa cầu có một vòng xoáy hướng thượng, nhưng nó chưa bắt đầu tự củng cố do chưa đủ túc số tới hạn (critical mass) là những cư dân hiện đầu thai đã bước vào tiến trình nâng cao tâm thức của mình. Về cơ bản, địa cầu đang phần lớn được kéo lên bởi phần còn lại của vũ trụ, bởi các chân sư thăng thiên và bởi một số ít người đầu thai đang nâng cao tâm thức của mình.

5.4. Địa cầu là một dụng cụ giáo huấn

Loại hành tinh như thế này là một hành tinh mà các thày phần lớn xem là một dụng cụ giáo huấn cho những sinh thể không thể học hỏi trực tiếp từ bên trong nội tâm. Do đó họ cần một hành tinh nơi họ có thể nhìn thấy trạng thái tâm thức của họ trải bày ra trong vật lý. Đồng ý, hầu hết mọi người không nhận thức được điều này và thậm chí cũng không sẵn sàng đón nhận ý tưởng này. Nếu con nói cho họ biết, họ sẽ chỉ lắc đầu và nghĩ con điên rồi. Dù sao thì thực tế là địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người ra bên ngoài.

Khi con biết điều này, con cần tự đặt một câu hỏi đơn giản: “Nếu địa cầu đang trình chiếu trạng thái tâm thức của con người lên chính nó, thì liệu có bất kỳ điều kiện nào trên địa cầu là thực một cách tối hậu, bất kỳ điều kiện nào là bền lâu, có tuổi thọ và có giá trị trường cửu liên tục hay không?” Thực tế là trên địa cầu thật sự không có gì cần được bảo tồn, không có gì mà các chân sư thăng thiên muốn thấy được bảo tồn trong dài hạn.

Tất cả mọi thứ ở đây là một thị hiện tạm thời mà các thày thấy rõ là cần được thăng vượt trước khi trái đất trở thành một hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn địa cầu và nói: “Không hiểu nếu địa cầu chuyển đổi và trở thành một hành tinh tự nhiên, liệu sẽ có bất kỳ điều kiện hiện hữu nào sẽ tồn tại hay không?” Câu trả lời sẽ gây sốc cho rất nhiều người: “Không hẳn”. Hầu như không có bất cứ gì ở đây sẽ tồn tại trong hình dạng hiện hữu khi địa cầu trở về trạng thái hành tinh tự nhiên. Con yêu dấu, điều chủ yếu sẽ thay đổi khi địa cầu trở về trạng thái một hành tinh tự nhiên là độ dày đặc của vật chất sẽ giảm xuống và độ rung động của vật chất sẽ tăng lên. Có nghĩa là hầu hết mọi điều kiện vật lý, kể cả những gì các nhà khoa học gọi là định luật tự nhiên đang vận hành ngay bây giờ, sẽ được vượt thăng. Địa cầu sẽ gia tốc vượt ra khỏi các điều kiện đó.

Với ý tưởng này trong tâm, con có thể đạt viễn quan là đối với các chân sư thăng thiên, thật không có gì quan trọng một cách tối hậu nếu một điều kiện nào đó, một điều kiện vật lý nào đó có thay đổi hay không. Có nghĩa là khi đó, con sẽ có thể xoay chuyển – như Mẹ Mary đã nói tới – và bảo rằng: “À, vậy thì tôi cần phải làm gì đây qua Sứ vụ Thiêng liêng của tôi? Nếu tôi đã lập ra Sứ vụ ở một mức nhận thức cao hơn bây giờ, thì vào lúc đó tôi đã ghi vào Sứ vụ những việc gì tôi có ý định thực hiện trong cõi vật lý? Tôi đang ở đây để đóng góp đem lại những thay đổi nào?”

Tất nhiên đây là một câu hỏi mang tính chất rất cá nhân. Mặc dù thày có nói là các điều kiện vật lý không quan trọng một cách tối hậu (chúng là một phần của toàn bộ phương trình của địa cầu), con sẽ không thể chuyển sang Thời đại Hoàng kim hay chuyển cả địa cầu vào một trạng thái tự nhiên mà không đem lại nhiều thay đổi vật lý. Những thay đổi đó bao gồm những ý tưởng mới, những khám phá mới, những công nghệ mới, những hình thức chính quyền mới, những hình thức giáo dục mới, những hình thức văn hóa nghệ thuật mới, vân vân và vân vân. Quả thật sẽ có rất nhiều thay đổi vật lý cần xảy ra, nhưng viễn quan vô cùng quan trọng mà thày thấy cần cho con là sự kiện những thay đổi đó không là tối hậu, không là chung cuộc. Chúng chỉ là những bước đi trên một con đường, là những giai đoạn trong tiến trình chuyển tiếp.    

5.5. Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý

Điều này chủ yếu nhằm giúp con tránh rơi vào cái phản ứng khi con cho rằng một số thay đổi vật lý và một số điều kiện nhất định có tầm quan trọng tối hậu. Sự xoay chuyển mà các thày đang cố giúp con thực hiện là con thực sự thể nhập, thực sự nắm bắt, thực sự trải nghiệm sự thật mà các thày đã bày tỏ bằng nhiều cách trong suốt mấy năm qua, đó là tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Nói cách khác, có một niềm tin được người ta ưa chuộng đang bay phất phơ trong tâm thức tập thể – một phần do đạo Cơ đốc – cho rằng có một loại phép lạ nào đó từ trên sẽ có thể thay đổi địa cầu. Niềm tin này cũng một phần đến từ khoa học duy vật cho rằng chỉ một thay đổi vật lý dựa trên các định luật tự nhiên mới có thể đem lại những điều kiện mới.

Điều các thày cố giúp con thể nhập và trải nghiệm là thực tại rằng tất cả mọi thứ đều là sự trải bày ra bên ngoài của trạng thái tâm thức của nhân loại trên địa cầu. Trước khi có thể có thay đổi đích thực, thật ra trước khi có bất kỳ thay đổi nào, phải có trước tiên sự thay đổi trong tâm thức. Con có thể nhìn ngược dòng lịch sử của công nghệ chẳng hạn và con có thể nói: “Nhưng rõ ràng là có một tiến trình vật lý đã tuần tự dẫn từ khám phá này đến khám phá sau rồi khám phá sau nữa. Một nhà khoa học xây dựng trên nền tảng những gì các nhà khoa học trước đó đã tìm ra, và bỗng nhiên chúng ta có các phương trình của Einstein và thuyết tương đối, và chính cái này đã dẫn đến sự phát triển bom nguyên tử.”

Con yêu dấu, điều các nhà duy vật không nhìn thấy – vì họ không muốn nhìn vào – là trước khi tiến trình vật lý có thể xảy ra thì đã có một sự thay đổi trong tâm thức tập thể. Nếu con xem xét tất cả mọi biến cố lịch sử đã diễn ra, con sẽ thấy được – nếu con có khả năng nhìn thấy ba thể cao của tâm thức tập thể – một sự xoay chuyển, một biến đổi nào đó đã có mặt. Cho dù đó là một thay đổi gọi là tích cực hay một thay đổi tiêu cực, thì con cũng thấy được là nó đã xảy đến. Không có gì xảy ra trong cõi vật lý đã từng được quyết định hay được khởi phát duy ở tầng vật lý mà thôi. Luôn luôn có một thay đổi ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc trước khi một thay đổi vật lý có thể xảy đến. Suốt lịch sử đã diễn ra như vậy và trong tương lai cũng sẽ như vậy.

5.6. Con đã xoay chuyển tâm thức hay chưa?

Thế thì con có thể dùng điểm trên để nhìn vào chính mình cùng cách con tiếp cận đối với đường tu tâm linh, đối với khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng, và con có thể nói: “À, điều quan trọng thật sự không phải là những thay đổi vật lý mà tôi đã đến đây để đem lại. Điều quan trọng không thật sự là nhìn xem những gì tôi cần làm trong cõi vật lý.” Như thày đã nói, nhiều đệ tử trở nên nóng lòng muốn thay đổi thế giới hay thay đổi người khác đến độ họ quên không nhìn vào bản thân. Nhiều học trò khác thì không đến nỗi tập trung vào việc thay đổi người khác hay thế giới, nhưng họ lại tập trung vào câu hỏi: “Tôi cần phải làm gì trong cõi vật lý?” Như Mẹ Mary một lần nữa đã gợi ý, họ nghĩ nếu phải chi có một vị đạo sư đến bảo họ: “Con phải đem lại khám phá mới này trong lãnh vực này,” thì đó là lời duy nhất mà họ cần biết. Họ sẽ cố tìm hiểu lãnh vực đó một cách phân tích đường thẳng rồi họ sẽ đem lại khám phá mới đó. Nhưng như Mẹ Mary đã nói, con không thể thật sự làm được chuyện đó nếu con chưa xoay chuyển tâm thức của con cho tới điểm con nhận được nó từ bên trong. Và để làm điều này, có thể con sẽ phải khắc phục một số chấn thương, một số tin tưởng sai lầm, một cách phản ứng mất cân bằng nào đó, rồi khi đó con mới có thể nhận được nó từ bên trong. Con không thể nào nhận được nó từ bên ngoài.

Một lần nữa, con có thể nhìn vào chính mình, con có thể nhìn vào phản ứng của con đối với toàn bộ ý tưởng Sứ vụ Thiêng liêng, và một khi con trung thực với chính con, con có thể nhìn vào bất kỳ sự mất cân bằng nào: “Liệu tôi có nhiệt tình thái quá hay không? Liệu tôi có tập trung bên ngoài bản thân mình, tôi có tập trung vào nhu cầu xét xử các sa nhân và loại trừ chúng ra khỏi hành tinh, vào nhu cầu sáng chế và khởi xướng công nghệ mới, nhu cầu cải tổ lãnh vực chính trị, nhu cầu thay đổi người khác để khiến họ nhìn ra cách hành xử sai trái của họ, khiến họ nhìn ra giáo lý của chân sư thăng thiên cùng chân lý duy nhất hay không?” Một lần nữa, thày không hề trách cứ con khi con có những phản ứng đó. Có thể nói đó là cách phản ứng tự nhiên trên hành tinh phi tự nhiên này. Dù sao thì phản ứng như vậy sẽ không giúp con khám phá những tầng cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng, mà kỳ thực nó sẽ ngăn chặn con khám phá.

5.7. Khắc phục cảm nhận bất công

Nếu con nhận diện con đang có một sự mất cân bằng, con có thể lấy giáo lý về chấn thương nhập đời, về ngã gốc, và con xét xem sự mất cân bằng đó có thật sự khởi lên từ mong muốn trả đũa, từ mong muốn đền bù phần nào sự bất công sai trái mà con cảm thấy người ta đã gây cho con khi con hứng chịu chấn thương nguyên thủy. Thày không phủ nhận là con đã nhận chịu một điều sai trái và đó là một sự bất công. Thày chỉ đang nói là con phải tra vấn (như mọi người đều làm khi cảm thấy mình bị người khác đối xử bất công) và câu hỏi thật giản dị: “Liệu tôi có muốn trừng phạt những kẻ đã hại tôi, hay tôi muốn được giải thoát khỏi những kẻ đã hại tôi và bước đi tiếp trên đường tu tâm linh?”

Nếu con muốn bước đi tiếp thì hiển nhiên con cần nhìn vào đó và nhận ra: “Đây chỉ đơn giản là chấn thương nhập đời của tôi đang tạo ra một phản ứng. Nó đã tạo ra một cái ngã tách biệt là một thành phần của ngã gốc của tôi, và tôi không muốn vác nó theo cho đến mãn kiếp, vì tôi biết rõ tôi không thể đem nó theo tôi vào cõi thăng thiên. Tôi sẵn lòng nhìn nó và tách mình ra khỏi nó, tôi sử dụng những dụng cụ mà chân sư đã cho tôi cho đến khi tôi đạt tới điểm tôi có khả năng buông ngã ra một cách tự nhiên và để cho ngã chết.”

Con yêu dấu, với một cái ngã khởi lên từ một cảm nhận bất công, một cảm nhận có gì sai trái, một mong muốn đền bù, thì ngã đó không bao giờ thỏa mãn được. Con có thể nói: “Nhưng một số sa nhân đã khiến tôi phải chịu chấn thương nhập đời đó, và nếu chúng bị phán xử và đưa vào cái chết thứ nhì, thì cái ngã khởi lên từ chấn thương sẽ được thỏa nguyện và nó sẽ phải giải thể chứ.”

Như các thày đã nói với con nhiều lần, cho dù điều kiện gì xảy ra đi nữa, ngã sẽ không đơn giản chịu nằm xuống mà chờ chết. Nó sẽ tiếp tục làm những gì nó vẫn làm. Nó sẽ nhìn quanh hành tinh này tìm xem có nỗi bất công nào khác hay không, rồi nó sẽ phóng chiếu ra là cái đó cũng phải được đền bù hay được giải quyết, hay một người nào đó phải bị trừng phạt – vì đó là công việc mà nó vốn làm. Nó máy móc y như một chiếc máy tính vậy, và nó sẽ dằng dai, máy móc thi hành những gì nó đã bị lập trình để thi hành, tức là tìm kiếm một điều kiện vỏ ngoài nào đó để lấy cớ làm công việc của nó.

Con sẽ không giải thoát khỏi nó bất kể những điều kiện vỏ ngoài mà con có thể đem lại. Con sẽ chỉ giải thoát khỏi nó khi con nhìn nhận là vấn đề mà ngã đó đã phóng chiếu ra sẽ không bao giờ có thể được giải quyết. Con không cần giải quyết nó. Đơn giản con chỉ cần nhìn ra nó là không thực, xong con cần buông nó ra, con cần từ bỏ nó, con từ bỏ mong muốn giải quyết vấn đề – vì vấn đề không có giải pháp.

Cũng gíống như khi thày cho con tầm nhìn về địa cầu. Con có thể nhìn vào rất nhiều vấn đề, vô số vấn đề gần như vô tận đang hiện diện trên trái đất. Con có thể chú tâm vào: “Tôi phải giải quyết vấn đề này, tôi phải đọc chú để mang lại giải pháp cho vấn đề này, tôi phải làm việc này, tôi phải làm việc kia.” Con có thể tiếp tục làm vậy cho tới hết kiếp này và dồn chú ý của con ra bên ngoài để giải quyết tất cả những vấn đề đó.

Thày không phủ nhận là các vấn đề có một sự tồn tại tạm thời. Thày không phủ nhận là chúng có tác động trên con người trên địa cầu. Nhưng con sẽ không giúp cho hành tình tiến bộ bằng cách giải quyết chúng. Con sẽ giúp cho hành tinh tiến bộ bằng cách cá nhân con thăng vượt tâm thức đã phóng chiếu ra các vấn đề đó, và như vậy con kéo tâm thức tập thể đi lên, hầu mọi người lần lần nhìn ra là mình không cần tiếp tục đánh nhau với người Do Thái hay người Ả Rập hay người Palestine hay người Serbia hay người Croatia hay người Pháp hay người Anh hay người Đức hay điều này điều nọ. Chúng ta có thể giản dị bước xa khỏi những thứ đó, vì chúng ta sẽ cảm thấy vui hơn, cảm thấy hạnh phúc hơn khi chúng ta bước xa khỏi vấn đề mặc dù nó chưa được giải quyết.

5.8. Không có vấn đề nào phải giải quyết

Con thấy đó, con yêu dấu, châu Âu đã từng có một thời khi các quốc gia rơi vào tình trạng binh lửa triền miên. Rất thường khi người ta phóng chiếu ra một nỗi bất công nào đó vì có nước kia đã làm gì sai trái. Con thấy là sau Thế chiến thứ Nhất, Hiệp ước Versailles do người Pháp và người Anh chủ xướng quy cho nước Đức hành xử sai trái cho nên cần bị trừng phạt. Điều này tạo ra tiền đề cho Thế chiến thứ Hai, và cứ như vậy.

Giờ đây sau Thế chiến thứ Hai, có một nhận thức mới đã lan rộng khắp Âu châu, dẫn đến sự kiện là không một cuộc chiến lớn rộng nào đã xảy ra kể từ đó, ít nhất trong phần lớn Âu châu. Con yêu dấu, khi con nhìn vào Thế chiến thứ Hai với nước Đức bị bại trận rồi châu Âu bị chia đôi thành Đông và Tây, liệu Thế chiến thứ Hai đã giải quyết được vấn đề gì hay chăng? Không, chẳng giải quyết được vấn đề nào cả.

Nhưng tại sao đã không có chiến tranh kể từ đó? Bởi vì một túc số tới hạn trong dân chúng đã nhìn ra tính chất phi lý của tâm thức hiếu chiến đã kết đọng hai cuộc thế chiến, và mỗi người ở mức cá nhân của mình đã thăng vượt nó – rồi rốt cuộc cả tập thể cũng đạt được khối lượng tới hạn. Người dân châu Âu đã không chọn con đường dễ dàng nhất, vì tình hình đã bị đẩy tới mức cùng cực với sự diệt chủng người đạo Do Thái cùng những vụ giết người hàng loạt xảy ra trong chiến tranh – nhưng họ đã thành công. Sự xoay chuyển tâm thức chính là lý do tại sao đã không có chiến tranh, chứ không phải việc giải quyết vấn đề đặc thù đã gây ra hai cuộc thế chiến – bởi vì, một cách tối hậu, vấn đề đó không có giải pháp nào hết.

Con hãy nhìn vào các biến cố và tự hỏi: “Làm thế nào vấn đề đó có thể được giải quyết đây?” Nó không thể – vì giải pháp không hề có. Đó chính là vì sao mà cuối cùng thế chiến đã bùng nổ, vì vấn đề đã được sa nhân cố tình tạo ra để không có giải pháp và nó bắt buộc dẫn đến chiến tranh. Vấn đề chỉ được giải quyết khi có đủ túc số những người dân, cho dù có ý thức hay không, nhận ra rằng: “Không có gì ở đây có thể được giải quyết. Chúng ta chỉ có thể nhìn về phía trước mặt và quyết định thăng vượt tâm thức đó và không lại bước vào các khuôn nếp đã dẫn đến chiến tranh.”

5.9. Không có vấn đề nào phải giải quyết trong gia đình

Ở mức cá nhân cũng vậy, và trong gia đình cũng vậy. Trong mọi lãnh vực, sự thể cũng y như vậy. Hồi nãy các con có đề cập đến gia đình các con và chuyện thường xảy ra là có một khuôn nếp nghiệp quả, một khuôn nếp tâm lý đã hiện hữu từ mấy kiếp trước do các thành viên trong gia đình đã tái đầu thai với nhau hết kiếp này tới kiếp khác. Trong tư cách là học trò của chân sư thăng thiên, có lẽ con có tiềm năng đạt tới điểm là con có thể giúp cho thân nhân mình nhìn ra rằng vấn đề này không có giải pháp, rằng việc thay đổi người khác trong gia đình không thể giải quyết được chuyện gì. Đây chỉ đơn giản là chuyện nhìn thấy những gì đang diễn ra trong gia đình, động cơ đang vận hành trong gia đình, là sự biểu lộ của một trạng thái tâm thức. Cách duy nhất để thay đổi sự thể, cách duy nhất cho con được tự do, giản dị là con rời bỏ tâm thức đó, thăng vượt tâm thức đó bằng cách giải quyết nó bên trong chính con.

Đối với nhiều người trong số các con, đây chính là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con liên quan đến gia đình. Đó là con giúp cho người thân thấy được là không có vấn đề gì phải giải quyết. Chỉ có chuyện thăng vượt tâm thức, tìm ra một cách khác để nhìn nhau, để tương tác với nhau và cho phép mỗi người là con người mà mình là. Điều này đòi hỏi con tự thay đổi chính con cho tới mức con chấp nhận bản thân và cho phép mình là con người mà mình là. Chỉ khi nào con cho phép con là người con là, thì con mới có thể cho phép người khác là con người mà họ là, mà không cảm thấy mình bị đe dọa và cũng không muốn thay đổi người khác hầu con tránh né phải đương đầu với chính tâm lý của con. Con đạt tới điểm con cảm thấy thoải mái, vì người kia không còn “nhấn nút” để con cảm thấy mình không phải tự thay đổi chính mình.

Một số các con sẽ có khả năng giải thích những khái niệm này cho người thân một cách chung chung mà không đề cập đến chân sư thăng thiên, và con giúp họ nhìn ra rằng tất cả chỉ là chuyện lấy một quyết định: “Chúng ta sẽ thôi không đối xử với nhau cách đó nữa, chúng ta sẽ thôi không đổ lỗi cho nhau nữa, chúng ta sẽ thôi không tìm cách thay đổi nhau nữa, chúng ta sẽ chỉ đơn giản cho phép mỗi người là con người mà mình là, vui hưởng thời gian bên nhau khi chúng ta đang sống với nhau – hoặc nếu không, khi mỗi người bước theo đường riêng của mình.”

5.10. Không còn gì để bù đắp

Con yêu dấu, lòng nhiệt tình mất cân bằng đó đến từ đâu? Nó đến từ niềm tin cho rằng có một vấn đề nào đó tuyệt đối phải được giải quyết. Việc giải quyết vấn đề đó là chuyện nhất thiết, là quan trọng tối hậu. Đâu là cái tâm lý sâu xa nằm đằng sau? Đó là sự kiện con, như một con người, cảm thấy mình bị bế tắc do có gì đó bên trong mà con không biết làm thế nào thay đổi. Hoặc con sẽ cố không chú ý đến nó, hoặc con tìm cách phóng chiếu ra ngoài (ngã tiềm thức phóng chiếu ra ngoài) là nếu vấn đề vỏ ngoài kia được giải quyết, nếu những người kia thay đổi, thì vấn đề bên trong sẽ không còn nữa. Tại sao con đã không giải quyết được vấn đề đó chứ? À, là vì con chưa nhận được lời dạy về nguyên nhân của vấn đề, một nguyên nhân mà đối với đa số các con đi trở ngược về ngã gốc. Con thường hay cảm thấy mình bị bế tắc vì con trải nghiệm có sự mất cân bằng trong con nhưng con không biết làm thế nào giải quyết. Cho nên con cố giải quyết bằng cách thay đổi tất cả những thứ kia bên ngoài con, vì con không biết cách thay đổi bên trong con. Làm sao con biết cách thay đổi ngã gốc nếu con không biết mình có ngã gốc và ngã gốc đến từ đâu?

Đó là tại sao thày nói với con – vì con là một thành viên của đợt truyền pháp này, con cởi mở với những lời dạy này, và giờ đây con có những dụng cụ này – là con có khả năng, nếu con muốn, vượt qua rất nhanh chóng bất kỳ trạng thái mất cân bằng nào. Con yêu dấu, con có khả năng đạt tới điểm con không còn tìm cách thay đổi thế giới hay thay đổi người khác như một cách bù đắp cho một điều kiện bên trong tâm lý con. Con đã nhìn vào điều kiện đó, con đã giải quyết điều kiện đó – rồi điều gì xảy ra chứ? Một khi con đã giải quyết điều kiện đó, giải quyết xu hướng tập trung vào việc thay đổi những thứ vỏ ngoài, thì đột nhiên giờ đây con có thể bắt đầu nối kết với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Giờ đây con có thể bỗng nhiên nhìn thấy những gì con đã hoạch định thay đổi hay đem lại trên địa cầu.

Sự khác biệt là con sẽ không làm điều này từ một mong muốn bù đắp cái gì. Con sẽ làm vì một lý do hoàn toàn tích cực. Con làm như vậy vì đó là sự biểu lộ con người mà con là. Nói cho cùng, điều sẽ đem lại cho con sự an bình và niềm vui được hiện thân trên một hành tinh như thế này chính là việc biểu lộ con người mà con là. Con không dính mắc vào những kết quả vỏ ngoài, vào quả trái của việc làm, vì con tìm thấy niềm vui khi con thể hiện bản thể cao hơn của mình. Đó là tiềm năng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.11. Giai đoạn sáng tạo trong Sứ vụ Thiêng liêng

Tất nhiên là có một giai đoạn “lao động” khi có thể con phải làm một số công việc, có quan hệ với một số người, thực hiện một số việc vỏ ngoài, kinh qua một số trải nghiệm. Nhiều người trong các con đã cảm thấy qua trực giác là con đã làm những thứ đó rồi. Điều các thày cố giúp con đạt tới là con bước vào giai đoạn cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng: giai đoạn sáng tạo. Đây là điểm con có thể bắt đầu trao tặng món quà của mình và biểu đạt cái Ta của con, cái tiềm năng cao nhất mà con muốn biểu đạt trước khi con đi vào hiện thân, dựa trên trạng thái tâm thức cao hơn mà con có tiềm năng đạt tới.

Đây có thể trở thành một vòng xoáy tích cực nơi con có sự an bình khi làm người đầu thai. Con không còn thái độ khiếm khuyết cho rằng mình luôn luôn bị chậm trễ ở đằng sau và mình luôn luôn phải ở một nơi nào khác. Luôn luôn có một điều gì đó mà đáng lý mình đã phải làm nhưng lại chưa làm, và có nhiều điều hơn mà mình đã có thể làm. Thay vào đó, con an bình làm người mà con là, biết rằng con sẽ tiếp tục tiến cao hơn từng bước một cho hết phần còn lại của kiếp này. Con sẽ ngày càng cảm thấy thoải mái hơn, ngày càng sáng tạo hơn khi thể hiện sự sáng tạo của mình, và ngày càng an bình hơn khi tận hưởng tiến trình dõi nhìn đời mình trải bày ra. Đây là trạng thái mà các thày muốn con đạt được vì đó là khi con có thể thực sự vui hưởng việc mình hiện diện trên hành tinh. Con yêu dấu, liệu có lý do gì mà các thày lại không muốn con tận hưởng sự hiện thân của con?

5.12. Dành thời gian để tận hưởng cuộc sống trên địa cầu

Thày sẽ nói với con là có một số đáng kể các chân sư từng thăng thiên từ địa cầu đã nhìn lại tiến trình đầu thai của mình, từ lúc mình rơi vào những vòng xoáy hướng hạ rồi lần lần, từ từ, leo ra khỏi để đạt tới điểm hội đủ tư cách thăng thiên. Các thày nhìn lại tiến trình đó và thấy ước gì mình đã dành ra nhiều thời gian hơn trong hiện thân để thực sự vui hưởng việc đầu thai trên hành tinh. Nhưng các thày cũng thực tế và biết rằng thời buổi đó có khác, và tâm thức tập thể cũng có dày đặc hơn. Cho nên trong một số trường hợp đã có một đòi hỏi cấp bách là các thày cần thăng thiên ở một thời điểm nhất định bởi nhiều lý do khác nhau. Đơn giản là khi đó đã không phải là lúc vui hưởng.

Con có thể thấy như trong trường hợp Giê-su, thày đã thăng thiên trong vật lý ngay sau khi hoàn tất sứ vụ công ích của mình. Thế rồi thày nhận được sự đặc miễn để có thể vật chất hóa một xác thân mới và sinh sống trong xác thân này cho đến tuổi 81 khi thày thực hiện cuộc thăng thiên tâm linh chung cuộc. Trong những năm tháng sống tại vùng Kashmir, thày đã vui hưởng sự đầu thai của mình mặc dù độ dày đặc của hành tinh vào thời đó. Con cũng thấy chính thày đây trong kiếp đầu thai chót, cùng với thày Kuthumi, hai thày cũng đã có thêm thời gian. Hai thày đã có một mức chứng đạt và không dính mắc nào đó cho nên đã có thể vui hưởng sự đầu thai của mình khi đó. Sự kiện này đã không được nhấn mạnh trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên, nhưng nó đã thật xảy ra – các thày đã có được một thời gian như vậy. Với một thời gian như vậy, kết quả là con có thể thực sự đạt tới điểm hoàn toàn an bình với sự có mặt của mình ở đây, nhưng con cũng an bình với việc thăng thiên. Trong khi đó, nếu con có một lịch trình gấp rút hơn thì thường khi con sẽ không đạt tới điểm an bình khi sống trên địa cầu.

Cho nên con gần như có thể tới mức hội đủ tư cách thăng thiên nhưng con chưa hẳn an bình với việc thăng thiên. Kỳ thực, con phải bỏ thêm thời gian để giải quyết cảm nhận phi-an-bình cuối cùng đó trước khi con thực sự đạt tới điểm có thể hoàn toàn bỏ lại địa cầu ở đằng sau và bước vào trạng thái thăng thiên. Lẽ tự nhiên, các thày mong muốn những ai trong số các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này có thể chứng được mức đó, là mức con an bình và tận hưởng cuộc sống ở đây. Làm như vậy, con sẽ nêu gương là người tâm linh có thể an bình và có thể tận hưởng cuộc sống. Họ không cần rút khỏi cuộc đời để sống trong hang đá, họ không cần sống một cuộc đời khắc khổ với kỷ luật nghiêm ngặt. Thật ra họ có thể vui hưởng cuộc sống và biểu lộ niềm vui đó, và rồi họ cũng có thể an bình khi đi bước kế tiếp. Đối với các con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, đây là những trình độ cao hơn của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đối với một số các con, điều này có thể đòi hỏi con xoay chuyển nhận biết một cách ý thức để mà thực sự thấy được điều này.

Để thấy được điều này, có thể con sẽ phải sẵn lòng xem xét một số thái độ cố hữu của mình về thế nào là một người tâm linh, thế nào là một học trò của chân sư thăng thiên, thế nào là đạt được một mức tâm thức cao hơn, thế nào là tỏ lộ quả vị Ki-tô của mình hay thị hiện quả vị Phật. Con cần bỏ lại một số hình ảnh đã được tạo ra trong quá khứ về cách hành xử mà một người tâm linh phải có.

5.13. Cả gan là con người mà con là

Con cần nhận ra ở đây như Mẹ Mary đã nói, rằng Sứ vụ Thiêng liêng của con là hoàn toàn cá nhân. Không có cách nào con có thể nhìn vào quá khứ và cách phản ứng của những người tâm linh khác trong quá khứ rồi bảo: “Ồ, đây là cái khuôn mẫu mà tất cả chúng ta phải làm theo trong tương lai.” Thày Giê-su đã kinh qua những gì thày đã kinh qua 2000 năm về trước vào khởi điểm của Thời đại Song ngư. Bây giờ con đang đứng ở khởi điểm của Thời đại Bảo bình. Con sẽ không hội đủ tư cách để thăng thiên bằng cách làm giống hệt như Giê-su vì tâm thức đã chuyển đổi và các yêu cầu cũng khác hơn.

Tất cả những thứ đó được bao gồm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con đã nhìn vào thời điểm mình sẽ đầu thai, nhìn vào tâm thức của mình và con đã vạch ra một đường đi. Nếu con có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, con cũng sẽ có tiềm năng nhìn ra lần lần Sứ vụ Thiêng liêng và cách biểu hiện quả vị Ki-tô của con như thế nào. Thày chỉ giản dị nói là để làm được điều đó, con sẽ phải ngừng đặt ra bất kỳ chuẩn mực nào cho cách hành xử mà con nghĩ con phải có, cũng như những gì con nghĩ con phải làm hay không được làm.

Một lần nữa, đây không phải là chuyện bảo rằng con muốn làm gì cũng được, rằng không có gì sai trái hay không có gì phản tâm linh, mà là nói rằng: “Tôi sẽ không đi theo các tiêu chuẩn trong thế gian, các tiêu chuẩn của sa nhân, các tiêu chuẩn của tâm thức tập thể, hay ngay cả các tiêu chuẩn mà cho tới giờ tôi đã tạo ra trong kiếp đầu thai này. Thay vào đó tôi sẽ xem xét: Điều gì tôi đã ghi vào trong Sứ vụ Thiêng liêng của tôi, là những điều tôi đã chọn từ một mức nhận biết cao hơn. Tôi sẽ kéo những điều đó vào nhận thức có ý thức của mình, và tôi sẽ cả gan là con người như vậy, con người mà tôi đã muốn là trước khi tôi đầu thai – chứ không phải con người mà người khác hay sa nhân muốn tôi là, không phải con người mà các ngã tách biệt của tôi muốn tôi là.”       

Theo một nghĩa nào đó, đây không nhất thiết là một mục đích mà con có thể thị hiện trong một khoảng thời gian ngắn. Đó là một tiến trình lần hồi, như Mẹ Mary có nói là một tiến trình từng bước đạt tới sự nhận biết cao hơn đó. Đối với nhiều người trong các con, nó sẽ không đến với con cho tới phần sau của đời con. Điều quan trọng là con không hốt hoảng mà rơi vào cái khuôn mẫu tự đặt ra cho mình một thời gian biểu. Nói thật, con yêu dấu, khi con bước vào những trạng thái cao hơn của tâm thức để tiến tới tầng 144, khi con tới điểm bắt đầu làm hòa, thì thời gian không còn đường thẳng nữa. Bỗng nhiên, như Phật có nói, thời gian không hiện hữu. Ngay cả nếu con tới mức hoàn toàn an bình trong hiện thân chỉ một tuần trước khi con bỏ lại thân xác và thăng thiên, thì trong tuần lễ đó con vẫn có thể tỏa rạng nhiều ánh sáng vào tâm thức tập thể đến độ con hoàn thành được Sứ vụ Thiêng liêng của con.

5.14. Tránh đặt ra những mục tiêu đường thẳng

Con thấy tâm đường thẳng luôn luôn muốn làm những thứ mà tâm đường thẳng muốn làm. Khi con “bắt” được khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng và con có một mục tiêu, thì tâm đường thẳng sẽ muốn phát biểu: “Phải, nhưng mục tiêu này thật quá sức đối với tôi, cho nên tôi sẽ phải cố gắng xốc vác, tôi phải lập ra một thời gian biểu, tôi phải đến được điểm này, rồi tôi phải đến được điểm kia trước tuần tới. Trong vòng năm tới, tôi sẽ phải vươn lên tới mức đó, vân vân và vân vân.” Con có thể bắt đầu tạo ra trong tâm mình những cấu trúc công phu như vậy, nhưng nó có thể cản trở toàn bộ tiến trình. Bỗng nhiên nó biến thành một tiến trình đường thẳng, trong khi như các thày đã cố giải thích cho con mấy lần, đó là một tiến trình hình cầu, trực nhận và dựa trên trải nghiệm.

Đó không phải là chuyện hiểu biết, lên kế hoạch rồi quyết định với tâm vỏ ngoài, mà là thăng vượt tâm vỏ ngoài và có được những trải nghiệm không đường thẳng, không phân tích, không dựa trên tâm vỏ ngoài. Đó không là một cái gì tâm vỏ ngoài có thể nắm bắt. Chuyện thường xảy ra là khi con có một sáng ngộ “Đây là bước kế tiếp trong Sứ vụ của tôi” thì con không thể giải thích, con không thể biện minh được cho người khác. Con không thể đưa ra một lý do nào ngay cả cho chính con. Con chỉ biết: “Đây là bước kế tiếp và đây là những gì tôi đang làm.” Con học cách xuôi chảy, mà các thày gọi là xuôi chảy với Dòng sông sự Sống. Và khi con có một sáng ngộ, con không có nhu cầu biện minh cho nó và cũng không chống cự lại để thực hiện nó. Con chỉ xuôi chảy vào với nó. Vì vậy con không cần phải lên kế hoạch trước. Nhiều khi chỉ có một sáng ngộ tự phát đang có mặt ở đó, và ngay tức khắc, con xuôi chảy theo và đưa nó vào thị hiện.

Tư duy đường thẳng có thể hữu ích ở một mức nào đó trên đường tu, nhưng tới một điểm trên đường tu con sẽ không thể dùng một tiến trình đường thẳng để vượt qua khoảng cách giữa điểm con đang đứng với trạng thái thăng thiên. Tiến trình đó vẫn lần hồi, nó vẫn diễn ra từng bước một, nhưng nó không hề đường thẳng khi con có thể ngồi đó với tâm phân tích mà vạch ra kế hoạch: “Đây là cách thức tôi sẽ đi từ tầng 132 lên tầng 133 tuốt lên tới tầng 144.” Tiến trình đó hình cầu hơn nhiều, trực giác hơn nhiều, và đó là tại sao sẽ tới điểm khi con phải bắt đầu nhìn ra những giới hạn của tâm đường thẳng và vô hiệu hóa nó một cách ý thức.

Con tách mình ra khỏi nó và nhận ra tâm đường thẳng là một dụng cụ. Tự thân nó không có gì sai trái, nó chỉ là một dụng cụ tương tự như cơ thể vật lý. Cơ thể vật lý là cỗ xe để con tương tác với địa cầu. Tâm đường thẳng cũng như vậy, nhưng con đâu có cho phép các giới hạn của cơ thể vật lý quy định những gì con có thể thực hiện về mặt tâm linh và tăng triển tâm thức? Tâm đường thẳng cũng thế – con không cho phép nó giới hạn con.

Cho nên con phải đạt đến sự nhận biết ý thức cũng như quyết định ý thức là con sẽ tự gia tốc vượt khỏi tâm đường thẳng. Con sẽ ngừng tự đồng hóa với nó, con sẽ nhận ra là tâm đường thẳng sẽ luôn luôn làm những gì nó vốn làm – nó sẽ luôn luôn so sánh, luôn luôn phân tích, luôn luôn dán nhãn. Trong nhiều trường hợp, con chỉ đơn giản không đặt chú ý vào nó nữa. Con để yên cho nó làm công việc của nó, nhưng con không để ý tới nó vì con đi tìm cái sáng ngộ hình cầu sẽ có thể giải quyết bất kỳ mâu thuẫn hay nghịch lý nào mà tâm đường thẳng có thể nghĩ ra. Con cũng vô hiệu hóa mong muốn của tâm đường thẳng nhằm hoạch định từng chi tiết nhỏ nhặt trong phần đời còn lại của con. Con sẵn lòng xuôi chảy với Sứ vụ Thiêng liêng, tin tưởng rằng một khi con chuyên cần chữa lành tâm lý của mình và mở rộng tâm ra để nhận sáng ngộ, thì con sẽ nhận được những sáng ngộ đó, và khi con nhận được thì con sẽ tự động bắt tay thực hiện.

Thày đã nói nhiều hơn thày muốn, và tất nhiên đây là bản chất và niềm vui của thày. Mặc dù thày có thể tiếp tục nói nhiều hơn nữa, thày sẽ công nhận giới hạn của bát cung vật lý. Thày cảm ơn các con đã sẵn lòng trải nghiệm sự Hiện diện của thày và cũng cho phép thày trải nghiệm hiện diện của các con, vì sự tương tác với các con thật là một niềm vui. Như Mẹ Mary có nói, các thày đón nhận mỗi người trong tất cả các con một cách vô điều kiện, và thày không muốn cho con cảm tưởng – mà có thể con đã có từ những đợt truyền pháp trước – rằng thày là một sinh thể kỷ luật nghiêm khắc cứ đặt ra điều kiện là con phải đạt tới mức nào đó thì thày mới chỉ dạy con. Đối với những ai trong số các con mở tâm ra cho lời dạy này thì thật là một niềm vui cho thày được tương tác với con cho dù con tự nhìn mình như thế nào.

Một lần nữa, mong muốn của thày – mong muốn của thày – là con cũng tự nhìn mình như thày nhìn con. Đó sẽ là món quà mà thày sẽ sẵn lòng trao cho con. Quả thật nếu con cởi mở và sẵn lòng, rất có thể thày sẽ cho con một cái nhìn hé thoáng về những gì thày nhìn thấy nơi con – nếu con dành cho thày một khoảnh khắc chú ý.

1 | Con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng như thế nào

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 18/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và thật là một niềm vui rất lớn cho thày được khai mạc buổi họp mặt này để giảng dạy về cái mà các thày gọi là Sứ vụ Thiêng liêng.

“Trong một cái tên chứa đựng những gì?” như Nhà Thơ [Shakespeare] có nói. Đấy, mỗi khi các thày đưa ra một khái niệm, tất nhiên là các thày đối diện với thực tế phải dùng ngôn từ để truyền đạt những ý tưởng kỳ thực vượt khỏi ngôn từ. Các thày cũng phải đối diện với một thực tế mà không nhiều người nghĩ tới, đó là sự kiện ngôn từ được người khác nhau diễn giải một cách khác nhau, tùy theo gốc tích, văn hóa và tâm lý cá nhân của họ.

Khi các thày đưa ra một cái tên, như “Sứ vụ Thiêng liêng” chẳng hạn, nó sẽ không nhất thiết chạm được mọi người bởi vì một số đã có thành kiến với nó rồi. Họ sẽ không mở tâm ra dù chỉ để được nghe nhiều hơn về khái niệm đó, vì họ đã có một phản ứng đối với từ “thiêng liêng” hay với từ “sứ vụ”. Từ ngữ khiến cho tâm họ rơi vào một trạng thái quá phổ biến trên địa cầu, là bác bỏ mà không thực sự xem xét bằng cả tâm lẫn con tim cởi mở những gì đang ẩn giấu đằng sau từ ngữ, những gì đang được biểu đạt mà lại vượt khỏi từ ngữ.

1.1. Tập trung vào một trong bốn thể phàm

Thày mong muốn cho con một chút tầm nhìn để con thấy sự thể xảy ra như thế nào đối với các thày là chân sư thăng thiên. Thày muốn con tưởng tượng là con, ở mức tâm thức hiện thời của con, được đưa đến nơi mà con nghĩ các thày đang cư ngụ – cho dù đó là một cõi năng lượng thật cao hay bất kỳ cách hình dung nào khác. Con được đưa đến tầng mức nơi các thày cư ngụ và giờ đây con đang đứng cùng với thày nhìn xuống địa cầu. Con nhìn thấy những điều mà con không bao giờ xem xét, hay ít ra những điều mà hầu hết mọi người không bao giở xem xét. Con thấy biết bao nhiêu loại người và nhóm người khác nhau trên trái đất. Nay con cũng thấy những thứ mà con không thể thấy với mắt thịt nhưng con lại thấy từ mức của thày: Tất cả những nhóm người đó đều đang mang một trạng thái tâm thức nào đó. Con thấy điều mà con vẫn biết: Mỗi người đều có một tâm lý cá nhân, một trạng thái tâm thức cá nhân được cấu tạo bởi bốn thể phàm của họ. Con thấy mỗi người đều có một mức tâm vật lý, một mức tâm cảm xúc, một mức lý trí và một mức bản sắc.

Nay con thấy mỗi người tất nhiên cũng có cái mà các thày gọi là tâm ý thức. Con thấy mỗi người có tâm ý thức của mình tập trung vào một trong bốn thể phàm. Một số sẽ tập trung phần lớn vào thân xác vật lý của mình. Một số khác đặt nhiều chú ý hơn vào cảm xúc và họ sống cả đời họ trong cảm xúc của họ. Một số khác nữa chú tâm vào cõi lý trí và họ không ngừng suy nghĩ, phân tích. Và có một số ít thì tập trung nhiều hơn vào thể bản sắc hay tâm bản sắc của họ.

Con thấy là khi các thày ban ra một lời dạy, một trong những mục tiêu của lời dạy là làm thế nào chạm được tâm ý thức của người đó, để khiến cho người đó có được một sáng ngộ ý thức, một sự khai mở ý thức, hay một trải nghiệm “À ra thế!” nếu con muốn. Nó khiến họ xoay chuyển tâm thức để họ nhìn thấy một cái gì mà trước đó họ không thấy, và họ có được một tầm nhìn rộng mở hơn, chín chắn hơn về cuộc sống hay về hoàn cảnh cá nhân của mình. Nhờ vậy mà họ có thể chuyển sang làm những công việc mà trước đây họ không thể làm – khắc phục một số khuôn nếp cảm xúc, khắc phục một số khuôn nếp tư duy, hay ngay cả dời chuyển bản sắc mình lên một mức cao hơn.

Để thực hiện điều này, các thày cần đưa ra một lời dạy chạm được tâm ý thức của họ, như thể thày cần đâm thủng từ tầng cấp của thày để đến được tâm ý thức của họ. Bây giờ con cũng thấy là để chạm được tâm ý thức của một người nhất định, các ý tưởng cùng khái niệm mà các thày ban ra phải đâm xuyên qua các thể phàm nằm bên trên nơi mà tâm ý thức người đó đang tập trung vào. Nếu họ đang tập trung vào tầng cảm xúc thì ý tưởng của thày phải đâm xuyên qua tâm bản sắc và tâm lý trí của họ trước khi nó có thể tíếp cận với tâm ý thức, thậm chí còn phải đâm xuyên qua một khía cạnh nào đó của tâm cảm xúc nữa.

Cho nên con thấy là mỗi người đều mang một số phin lọc, một số rào cản, một số tin tưởng, một số thái độ, một số cảm xúc có khả năng ngăn chặn không cho các tư tưởng mà các thày rải truyền chạm được tâm ý thức của họ. Con hãy lưu ý, đây không chỉ đơn giản là chuyện người đó có nghe được, tìm được hay đọc được các ý tưởng đó. Họ hoàn toàn có thể đọc được một cuốn sách chứa các ý tưởng đó, nhưng trong khi họ đọc các dòng chữ thì những tầng cao hơn trong tâm họ lại ngăn chặn và lọc lựa, khiến các khái niệm không thực sự đi vào tâm ý thức của họ để mà nối kết và đem lại tác dụng. Nói cách khác, tuy họ đọc chữ nhưng họ không thực sự hấp thụ, không nắm bắt và không nối kết được với chữ.

1.2. Các giới hạn cho sự hiểu biết

Thày đã cố tình không sử dụng từ “hiểu” vì đây không chỉ là chuyện hiểu – vấn đề ở đây là thực sự nối kết với ý tưởng để nó xoay chuyển tâm thức của con. Quá nhiều người tập trung vào chuyện hiểu, và đó là vì nhiều người đã tìm ra đường tu tâm linh thường tập trung vào tâm lý trí. Họ chú tâm vào chuyện hiểu một ý tưởng, nhưng có rất, rất nhiều ví dụ về những người có một hiểu biết trí thức to lớn về các khái niệm tâm linh nhưng sự hiểu biết đó lại không xoay chuyển được tâm thức của họ. Đó là vì họ đã không thực sự nối kết, đã không thực sự trải nghiệm được ý tưởng qua trực giác. Trải nghiệm này bị chặn lại bởi cái tâm lý trí cứ muốn tìm hiểu, cứ muốn phân loại và gắn nhãn cho ý tưởng đó, hầu lý trí có thể bỏ nó vào một thư mục gọn ghẽ trong kho dữ liệu nơi nó có vẻ nằm dưới sự kiểm soát của lý trí.   

Con yêu dấu, vấn đề không phải là con giữ một ý tưởng dưới sự kiểm soát của con, bởi vì nếu tự ngã và tâm lý trí cảm thấy nó kiểm soát được một ý tưởng tâm linh thì làm thế nào ý tưởng đó sẽ xoay chuyển tâm thức con đây? Nó sẽ chỉ được xếp đống vào một hồ sơ như một cái gì con đã biết và đã hiểu ở mức độ trí thức, nhưng nó không xoay chuyển tâm thức của con.

Nếu con có thể thấy điều thày vừa nói với con, con sẽ nhận ra là có rất, rất nhiều người trên địa cầu hoàn toàn nằm ngoài tầm tiếp cận của những ý tưởng mà các thày có thể truyền rải từ tầng cấp các thày. Con cũng sẽ nhận ra là có rất, rất nhiều người mặc dù họ cởi mở với các giáo lý tâm linh – có thể họ cởi mở cả với các giáo lý huyền bí, siêu hình, Thời Mới hay thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên – nhưng họ vẫn còn mang quá nhiều thiên kiến, phin lọc lẫn định kiến mà họ không sẵn lòng tra vấn, đến độ các thày thật khó lòng tìm ra một ý tưởng rồi biểu đạt ý tưởng đó bằng những ngôn từ có khả năng chạm được tâm ý thức của họ.

Nếu con có thể thấy sự thể này với mức tâm thức hiện thời của con, rất có thể con sẽ bị chấn động đến mức con cảm thấy gần như chán nản tuyệt vọng, bởi vì con sẽ biết nói gì đây để chạm được họ? Một số các con đã từng có kinh nghiệm quen biết những người mà con đã cố chia sẻ một số điều mình tin. Và con đã bị vấp phải sự giới hạn của ngôn từ, khiến cho bất kỳ những gì con nói ra cũng không nối kết được với tâm ý thức của họ, không thực sự lay chuyển được họ.

1.3. Tại sao các chân sư không chán nản

Nếu con có thể thấy được tình huống các thày phải đối diện, xác suất là con sẽ, ở mức tâm thức hiện thời của con, cảm thấy nản lòng. Nhưng tất nhiên, thày không giảng bài này để khiến con nản lòng, bởi vì các thày không đang ở mức tâm thức của con – các thày đã thăng thiên. Có hai khía cạnh trong vấn đề này mà thày muốn lưu ý con.

Khía cạnh đầu tiên là các thày đã, tất nhiên, thực sự thể nhập và trải nghiệm thực tế của quyền tự quyết, cho nên các thày hoàn toàn không có mong muốn thay đổi con người nghịch lại với ý chí tự do của họ. Kỳ thực như đã có trình bày trong những cuốn sách mới nhất, các thày đã chấp nhận là một khi mình xem địa cầu là một cơ sở giáo dục nhằm cung cấp cho một số người những trải nghiệm mà họ mong muốn, thì mình không có chút phiền hà làm việc với địa cầu.

Nếu con có biết tới các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên thì con có thể quay trở ngược và tìm ra một số bài truyền đọc mà ngay cả trong ngôn từ được sử dụng hay trong độ rung của ngôn từ, con đã có thể nhận ra một chút cảm nhận phiền hà hay nóng lòng từ các chân sư thăng thiên. Thậm chí con có thể quay trở ngược và tìm thấy cảm nhận này trong một số bài truyền đọc sơ khởi của đợt truyền pháp này. Thày mong con nhận ra là nếu con đã phát hiện một độ rung như vậy trong một bài truyền đọc của chân sư, thì cảm giác phiền hà đó, sự rung động đó, đến từ ba thể cao của vị sứ giả. Không có cách giải thích nào khác khi nói về một sứ giả được chân sư bảo trợ, bởi vì tất nhiên các thày không hề có phiền hà. Nếu các thày có bất kỳ phiền hà nào khi làm việc với địa cầu thì từ lâu các thày đã phải trải nghiệm cái mà trên địa cầu gọi là “kiệt sức”. Thày có thể cam đoan với con là hiện tượng này không hiện hữu trong cõi thăng thiên. Không có chuyện một chân sư thăng thiên bị té gục do căng thẳng hay suy sụp thần kinh.

Các thày đã thăng thiên là do đã vượt qua mọi mong muốn thay đổi con người nghịch lại với sự tự quyết của họ. Hiển nhiên, đúng là trên địa cầu có rất nhiều hiện tượng mà các thày muốn thấy thay đổi, vì rõ ràng các hiện tượng này làm con người đau khổ.  Nhưng con không nên dựa theo đó mà suy luận rằng các thày cảm thấy nóng lòng hay bực bội nếu các điều kiện đó chưa thay đổi. Con nhận ra là từ nhãn quan của các thày, các thày không cảm thấy bất kỳ sự bất mãn nào, và do đó tất nhiên các thày không cảm thấy chán nản. Các thày làm việc với mọi người và các thày chấp nhận là mỗi con người đều có quyền tự quyết, và vì thế họ cũng có quyền ở trong trạng thái tâm thức mà họ đang có.

1.4. Không có một chân lý tuyệt đối duy nhất

Chúng ta có thể nói là bốn thể phàm của con hình thành cái mà các thày gọi là một cái ngã, nhưng các thày cũng đã nói là có nhiều cái ngã khác nhau, nhiều phàm linh nội tại khác nhau. Có tự ngã, có tâm ý thức. Vậy để dùng một từ quen thuộc đối với con, hãy đơn giản gọi đó là nhân cách (personality). Toàn bộ bốn thể phàm của con hình thành nhân cách này, và bên trong nhân cách có cái Ta Biết ở một mức tâm thức nào đó. Cái Ta Biết có thể đồng hóa nhiều hay ít với bốn thể phàm, với nội dung của bốn thể phàm, với những cái ngã nằm trong bốn thể phàm. Các thày chấp nhận đó là cách quyền tự quyết tự trình chiếu ra. Các thày chấp nhận địa cầu là một hành tinh với tâm thức thấp và độ dày đặc cao. Các thày chấp nhận trọn vẹn vai trò của mình là làm việc với mọi người ở bất kỳ mức độ tâm thức nào mà họ đang có và tìm cách giúp họ bước lên cao hơn.

Dựa theo đó, ý tưởng thày muốn truyền đạt cho con là mục tiêu của các chân sư thăng thiên không phải là để ban ra chân lý cao nhất, tuyệt đối, phổ quát và khiến cho mọi người phải chấp nhận chân lý này. Đó không là mục tiêu của các thày. Thày cũng biết điều này đi ngược lại những gì một số các con tin tưởng. Thày cũng biết điều này đi ngược lại niềm tin của rất nhiều người đã tu tập trong các đợt truyền pháp trước của chân sư. Thày chắc chắn một số người sẽ tìm kiếm các bài truyền đọc cũ của chân sư và phát hiện những câu mâu thuẫn với những gì Mẹ Mary đang nói qua Kim Michaels – và điều này hoàn toàn phải lẽ. Thực tại mà các thày đang trao cho các con, những người đã sẵn sàng bước lên một mức cao hơn, là các thày không ngồi ở trên đây với một chân lý duy nhất có sẵn và được định trước, một chân lý phổ quát tuyệt đối mà các thày đang tìm cách đem vào cõi vật lý để mọi người phải chấp nhận. Lý do là vì từ tầng cấp của thày, các thày nhận thức thật rõ ràng là không thể nào đưa ra một giáo lý duy nhất mà bảo mọi người chấp nhận được. Đơn giản là có quá nhiều mức tâm thức khác nhau giữa tầng tâm thức thấp nhất và tầng 144. Có quá nhiều nhóm người khác nhau với gốc tích khác nhau, đến từ những hành tinh khác nhau cho dù là từ địa cầu, từ các sinh thể sa ngã, hay từ đủ loại các hành tinh khác, đến độ không thể nào đưa ra một giáo lý duy nhất mà mọi người có thể chấp nhận.

Điều này phần nào là do mọi người đến từ quá nhiều gốc gác khác nhau với trình độ tâm thức khác nhau. Nhưng phần lớn, đó cũng là sản phẩm của sự kiện địa cầu là một hành tinh với tâm thức thấp và độ dày đặc cao. Cho nên ngôn ngữ, những ngôn từ được dùng làm phương tiện chủ yếu để giao tiếp trên địa cầu quá giới hạn (trường hợp sẽ khác đi nếu địa cầu ít dày đặc hơn) đến độ việc biểu đạt một chân lý thực sự phổ quát, tuyệt đối và tối thượng không thể nào thực hiện được với những ngôn từ hiện có ngày nay.

Vai trò, mục tiêu của các thày, thật rõ ràng. Các thày tìm cách làm việc với bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào cởi mở với bất cứ gì mà các thày có thể ban truyền. Hầu chạm được xuyên qua tất cả những rào cản, tất cả những phin lọc của một nhóm người nhất định nào đó, các thày phải nhìn vào xuất xứ của họ, không chỉ nền văn hóa và lịch sử của họ trên hành tinh này, mà ngay cả gốc tích vũ trụ của họ. Họ đến từ đâu? Họ có mang thành kiến gì trong tâm? Họ mang trong tâm những ý tưởng nào mà họ không sẵn lòng chất vấn?

1.5. Những ý tưởng người ta không chịu chất vấn

Con yêu dấu, con nhận thấy là hầu hết mọi người đều có trong tâm mình một khía cạnh nào đó cởi mở đối với ý tưởng mới mẻ. Có một số người không có sự cởi mở này, họ không cởi mở với ý mới, nhưng đa số thì có sẵn một sự cởi mở nào đó với ý mới. Nhưng trong tâm họ cũng có một khía cạnh qua đó họ tin rằng có những ý tưởng cơ bản nhất, đáng tin cậy nhất, cưng yêu nhất, mà họ không sẵn lòng hay không có khả năng chất vấn (thật ra hai cái này là một, vì nếu con sẵn lòng thì con luôn luôn có khả năng).

Các thày biết là trong một số trường hợp, các thày phải làm việc trong những ranh giới rất hạn hẹp vì người ta sẽ bác bỏ bất cứ gì các thày trao cho họ mà lại chất vấn những ý tưởng mà họ cưng yêu, những cách tư duy mà họ không cho ai động đến – những con bò thiêng – hay nói cách khác, những điều cấm kỵ của họ. Có nhiều người, nhiều nhóm người trên địa cầu mà các thày có rất ít khả năng giúp đỡ. Tuy vậy, các thày vẫn phóng ra một số ý tưởng để tạo cảm hứng cho ai đó viết sách, và sách có thể sẽ lay chuyển họ đôi chút. Và tất nhiên, khi con bước lên cao và cao hơn nữa, con sẽ gặp một loạt những loại người ngày càng cởi mở hơn, ngày càng ít những điều tư duy cấm kỵ mà không ai được đụng đến. Với những người như vậy, các thày ngày càng có nhiều chọn lựa hơn trong cách làm việc với họ.

Dựa trên đó, con có thể nhìn vào bản thân mình và nói: “À, vậy thì tôi đang đứng ở đâu?” Nếu con có tâm cởi mở đối với những giáo lý được các thày trao truyền qua vị sứ giả này, và nếu con không bị khiếp sợ khi đọc quyển Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su thì con đang đứng ở một trình độ cởi mở rất cao. Điều này có nghĩa là con đã sẵn sàng để thực sự bước lên một trải nghiệm cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Con có thể hỏi: “Nhưng tại sao các thày đã không đưa ra lời dạy về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn?” Lý do rất giản dị. Các thày đã tuần tự trao cho con một số lời dạy cùng dụng cụ, để đến khi các thày cho con giáo lý về những điểm chặn nghẽn Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con đã có sẵn các dụng cụ đó hầu có thể bắt đầu tu tập theo cách nhìn cá nhân của mình.

Trước hết, quyển Các kiếp sống của tôi là một dụng cụ chữa lành rất quan trọng. Thày dám nói là ngay cả vị sứ giả này trong tâm vỏ ngoài của ông cũng chưa nắm bắt được quyển sách này có bao nhiêu tầng lớp khác nhau. Tất nhiên không một ai trong các con cần nắm bắt tất cả mọi tầng lớp đó, mà con chỉ cần nhận diện là quyển sách có nhiều tầng lớp. Điều này có nghĩa là con có thể được hưởng lợi khi đọc sách nhiều lần, vì sách đó là một dụng cụ rất quan trọng trong việc chuyển đổi tâm thức của con.

1.6. Khắc phục tâm đường thẳng

Con yêu dấu, một trong những phương thức con cần để chuyển đổi tâm thức và vươn lên một mức nắm bắt cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình là con phải khắc phục sự tập trung vào tâm đường thẳng. Như thày đã nói, rất, rất nhiều học trò tâm linh tập trung tâm ý thức của mình vào tâm lý trí. Con cố học hỏi và tìm hiểu, con muốn hiểu một cách phân tích. Con thường muốn có một dòng thời gian rất đường thẳng, nắm bắt các khái niệm một cách đường thẳng. Cho tới giờ thì cách này đã không gây vấn đề cho con, nhưng sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi con không thể bước lên cao hơn nếu con tập trung vào tâm đường thẳng và – nếu có thể nói như vậy – tâm thức con bị dính mắc hay bị mắc kẹt trong tâm đường thẳng. Tại sao vậy, con yêu dấu? À, chuyện này chẳng hiển nhiên sao?

Các thày có giảng cho con rằng khía cạnh thấp nhất cùa tâm con là tâm vật lý, tiếp theo sau là tâm cảm xúc, sau nữa là tâm lý trí, và cao nhất là tâm bản sắc. Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là tâm bản sắc của con không đường thẳng và phân tích, đó là tầng trực giác cao nhất mà con có thể với tới khi con còn hiện thân. Nếu con muốn chuyển sự tập trung từ tầng lý trí lên tầng bản sắc, con sẽ không thể làm được qua tâm đưởng thẳng phân tich. Con không thể dùng phân tích để bước vào tâm bản sắc. Con chỉ có thể làm được bằng cách khai mở các khả năng trực giác của mình. Đây không phải là vấn đề kiến thức, hiểu biết và nắm bắt. Đây là vấn đề trải nghiệm một cách trực nhận, vì những gì nằm trong tâm bản sắc thật vi tế – đó là những lời dạy các thày đã trao cho con về chấn thương nhập đời vũ trụ và ngã gốc [Xem sách Chữa lành chấn thương tâm linh]. Nó vi tế và có nhiều mặt, rất nhiều mặt khác nhau.

1.7. Giáo lý cho nhiều trình độ khác nhau

Ngã gốc của con không thể được định nghĩa một cách thật đơn giản, đường thẳng, phân tích. Đây không phải là chuyện gán cho nó một cái nhãn thuộc về lý trí và bảo rằng: “À, bây giờ tôi hiểu ngã gốc của tôi rồi. Nó là cái này và bây giờ tôi có thể để cho nó chết đi.” Ấy, nếu con làm vậy thì nó sẽ vẫn còn những khía cạnh ẩn giấu mà con chưa bắt đầu nhìn thấy, vì con chỉ có thể nhìn thấy chúng qua trực giác. Làm thế nào con sẽ tiến bước trên đường tu tâm linh xa hơn tầng lý trí? Không phải bằng cái tâm đường thẳng, phân tích, trí thức đâu con. Mà chỉ bằng cách dời chuyển vào cái tâm quả cầu (spherical) trực nhận, cái tâm nhìn vào tổng thể, nhìn vào bức tranh rộng lớn và sẵn lòng nắm bắt, trải nghiệm sự thật của những gì thày vừa nói với con, cụ thể là các thày không tìm cách trao truyền cho con một chân lý tuyệt đối, đường thẳng duy nhất.

Các thày tìm cách trao truyền nhiều khái niệm và ý tưởng khác nhau, vì mục tiêu của các thày khi tương tác với địa cầu là gì chứ? Con yêu dấu, mục tiêu không phải, không phải, là trao truyền chân lý tuyệt đối. Mục tiêu là nâng cao tâm thức của con người, nâng cao trạng thái tâm thức của mỗi người, và điều này phải được thực hiện với từng cá nhân. Đó là vì sao các thày phải nhắm vào một số nhóm người và nói: “Các thày có thể ban giáo lý cho một phạm vi tâm thức nào đó, xong các thày phải chắc chắn là giáo lý chạm được một số lượng người nào đó, xong các thày sẽ trao giáo lý khác cho những tầng tâm thức khác.”  

Không ai chờ đợi một vị sứ giả duy nhất có thể tiếp cận được tất cả 144 tầng tâm thức; giản dị chuyện này không thể làm được. Các thày đưa ra giáo lý cho một tầng nào đó, và con yêu dấu, thày dám nói là với giáo lý đã ban ra qua trung gian sứ giả này, con có thể khởi sự ở tầng 48 với bộ Khóa tu tự điều ngự, Con đường tự điều ngự, xong con có thể bước lên tiếp cho đến tầng 96. Sau đó tất cả các giáo lý trong sách của thày Maitreya [Chìa khóa cho tự do tâm linh], sách của chính thày về sự sống sung túc [Khóa tu về sung túc], cuốn Những kiếp sống của tôi và các giáo lý về cách khắc phục chấn thương sẽ dẫn con lên cao hơn nữa. Con yêu đấu, thày có thể đảm bảo với con là người đọc cuốn Những kiếp sống của tôi có thể là người ở tầng 48 cho đến những tầng gần như sẵn sàng thăng thiên, và mọi người sẽ có thể tìm thấy trong đó một điều gì mới mẻ, một điều gì sẽ xoay chuyển nhãn quan của mình.

Đó là một quyển sách được trao cho một phạm vi tâm thức rất rộng, và đó là tại sao có một số điều đã được cố tình đặt vào trong sách để khích động người đọc – bởi vì mục tiêu là gì chứ? Như thày vừa nói, sẽ tới một điểm khi để đưa con lên cao hơn, các thày phải dẫn con vượt ra khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng vốn là đường thẳng – nó giống như một chiếc máy tính. Nó sẽ làm công việc mà nó vẫn thường làm – nó sẽ phân tích, nó sẽ phân loại, nó sẽ dán nhãn.

1.8. Tâm đường thẳng không thể thấy được tâm đường thẳng

Con yêu dấu, các thày có thể trình bày tất cả những điều vừa rồi và con có thể nghĩ: “Vâng, con hiểu điều thày nói về tâm đường thẳng một cách trí thức.” Con yêu dấu, tâm đường thẳng có thể có khả năng hiểu được tâm đường thẳng, nhưng nó sẽ không bao giờ thấy được chính nó từ ngoài. Tâm đường thẳng không có khả năng bước ra ngoài chính nó. Chỉ có cái Ta Biết mới có khả năng bước ra ngoài tâm đường thẳng, bước ra ngoài sự đồng hóa hiện thời của nó. Làm thế nào các thày có thể giúp con dời chuyển ra ngoài tâm đường thẳng bằng cách cho con một giáo lý thuận theo cách tư duy của tâm đường thẳng? Chuyện này không thể làm được, con yêu dấu.

Đó là tại sao một số môn phái đạo Phật mới có khái niệm công án được cố tình đưa ra để gây bối rối cho tâm đường thẳng. Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay? Đấy, toàn bộ quyển sách Những kiếp sông của tôi là một công án. Sách chứa đựng nhiều công án nhằm giúp con xoay chuyển và bước ra ngoài những tầng tâm thức khác nhau, không chỉ tâm đường thẳng mà cả cảm xúc nữa, thậm chí con xoay chuyển cả bản sắc của con. Nó cho con một trải nghiệm bất ngờ, không đường thẳng và khiêu khích sự kinh ngạc đến độ người đọc hoặc phải bác bỏ trải nghiệm đó hoàn toàn và như vậy cũng bác bỏ quyển sách, hoặc phải dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn. Có rất ít người đọc sách này mà không bị lay chuyển hay khích động – rất ít. Hiển nhiên là có một số người, hầu hết ở dưới tầng tâm thức 48 hay có lẽ cao hơn một chút, vô cùng khép kín và nhiều thành kiến. Những người như vậy có thể mang một số ý tưởng mà họ tuyệt đối không chịu chất vấn, và khi họ tìm ra là quyển sách chất vấn các ý tưởng này thì họ sẽ bác bỏ nó thôi. Rất ít người có thể đọc mà không có phản ứng nào đó, cho nên đây là một dụng cụ thật quan trọng khi con hiểu chính xác.

1.9. Nếu con tìm sự thoải mái thì con đã chọn lộn hành tinh

Có nhiều người trong số các con đã là học trò của chân sư thăng thiên từ rất lâu, có người từ hàng chục năm trời. Con cần nhận thức là có thể sẽ tới một điểm khi con biết quá nhiều giáo lý, con đã đọc quá nhiều lời dạy, đến độ con gần như đâm ra thoải mái. Con nghĩ các chân sư không thể làm con ngạc nhiên được nữa. Có một khía cạnh trong tâm con không muốn các thày tạo ngạc nhiên cho con vì con đã trở nên thoải mái với trình độ hiện tại của mình.

Con yêu dấu, thày nói với con điều này. Nếu con mong được thoải mái thì chắc chắn con đã chọn lộn hành tinh rồi đó, vì đây không phải là một hành tinh nơi con có thể tính chuyện thoải mái được. Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều người cố tạo lập cho mình một hoàn cảnh vật lý vỏ ngoài nơi họ có thể cảm thấy an toàn và thoải mái. Điều này có thể thông cảm được, nhưng con hãy nhìn lịch sử đi. Bánh xe lịch sử đã nghiền nát họ thành cát bụi. Tất cả mọi đế chề hùng mạnh đến đâu cũng đã bị nghiền nát thành cát bụi. Con không thể thực sự thoải mái trên một hành tinh như thế này.

Thách đố mà thày muốn đặt trước mặt con là như sau: Liệu con có muốn biết Sứ vụ Thiêng liêng của con hay con muốn thoải mái? Vì con không thể làm được cả hai. Đa số các con đã có một ý thức nào đó về Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Thày cũng biết là con chưa nhìn thấy được đầy đủ chi tiết, nhưng lý do tại sao thì các thày sẽ giải thích sau. Con có một ý niệm nào đó về Sứ vụ của con. Hầu hết các con đã phần lớn đi theo Sứ vụ của mình trong suốt đời mình cho dù con không ý thức chuyện này.

Điều thày muốn đặt trước mặt con là giờ đây con đã đạt tới mức có một số khía cạnh của Sứ vụ Thiêng liêng mà con chưa nhìn thấy. Một lần nữa, con đã thấy được một số khía cạnh của Sứ vụ của mình, con đã phần lớn bước theo Sứ vụ, nhưng vẫn còn điều gì đó mà con chưa thấy. Con cần tự hỏi: “Liệu tôi có sẵn lòng muốn thấy những gì tôi chưa thấy?” Nếu con sẵn lòng thì con sẽ cần nhìn nhận là con cần từ bỏ sự thoải mái của con để mà nhìn thấy. Lý do con chưa nhìn thấy là vì con đã thích nghi với một cách nhìn, một thái độ, một cách hiểu nhất định, và con không nghĩ là con cần vượt xa hơn những thứ đó. Nếu con không vượt xa hơn, con sẽ không thể nhìn thấy các khía cạnh của Sứ vụ vẫn ẩn giấu khỏi mắt con. Đây là quyết định mà con cần lấy, và chính con là người cần lấy. Trên cơ bản, thày yêu cầu là khi con đi ngủ tối nay, con hãy thỉnh cầu được dẫn đến nơi nhập thất của bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào mà con muốn đến, bất kỳ vị nào thân thiết nhất trong tim con. Xong thày xin con hãy, một cách nghiêm túc, yêu cầu được chỉ dẫn – hầu con có thể nhớ lại sáng hôm sau – điều gì đã khiến con quá thoải mái đến độ nó ngăn chặn tầm nhìn của con về Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẽ không rút tỉa được ích lợi tối đa từ lời dạy này nếu con vẫn còn bám giữ mong muốn thoải mái đó. Thày không bảo đây nhất thiết là một chuyện gì khủng khiếp to lớn mà con làm. Nó có thể là một điểm rất vi tế. Con hiểu là hầu hết các con đã đạt đến một mức trên đường tu nơi con không có rủi ro phạm lầm lỗi trầm trọng rồi bị tuột trở xuống, rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn hay bị hụt mất thăng thiên. Con đã đạt được mức khá, con đã khá tinh tấn, nhưng nếu con muốn lên cao hơn thì con không thể cho phép mình thoải mái.

Đây có thể là một điều rất vi tế qua đó con cảm thấy mình có đôi chút thoải mái, có những điều mình không cần thay đổi. Một lần nữa, thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày chỉ giản dị nói rằng nếu con thực sự muốn biết các khía cạnh ẩn giấu của Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con cần nhận thức là chúng ẩn giấu không phải vì có tà lực nào đó đang che khuất chúng, cũng không phải vì các chân sư đang chặn giữ chúng khỏi con, mà vì trong chính tâm con có một mức độ thoải mái đang ngăn cản con nhìn thấy chúng. Đây là sự xác định mà con cần làm trong ngày đầu tiên của hội nghị này để con có thể mở tâm ra nhiều hơn cho những điều các thày sẽ trao cho con trong những ngày sắp tới.

1.10. Sứ vụ Thiêng liêng được lập ra như thế nào

Bây giờ con yêu dấu, thày mong muốn trình bày chút đỉnh về cách Sứ vụ Thiêng liêng được lập ra như thế nào. Trong quyển sách của thày Nada [Những khai ngộ thần bí về an bình], thày Nada có giảng là Sứ vụ Thiêng liêng không được lập ra từ một trạng thái tâm thức thăng thiên, mặc dù tất nhiên con được sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên. Khi con đi vào kiếp đầu thai hiện tại, con có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Nói cách khác, con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó nếu con cứ tiếp tục tự thăng vượt và thật sự chuyên cần.

Nếu con sống một cuộc đời “bình thường” – nếu có thể gọi như vậy – con sẽ đạt đến cái trạng thái tâm thức thấp hơn. Sứ vụ Thiêng liêng của con được thảo ra từ tầng mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng đạt được trong kiếp này. Nói cách khác, khi các thày gặp con và lập ra Sứ vụ với con, con không đang ở cùng mức tâm thức vào cuối kiếp đầu thai trước hay mức tâm thức khi con bước vào kiếp đầu thai này. Con ở mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng với tới, cho nên khi con thảo Sứ vụ, con nhìn thấy những gì con có khả năng nhìn thấy từ mức tâm thức đó. Thày có thể cam đoan với con là khi con thảo Sứ vụ, nó không được thảo ra với tâm đường thẳng, phân tích. Các thày không ngồi đó với tâm đường thẳng mà phân tích từng khía cạnh của quá khứ lẫn tâm lý của con hay điều này điều nọ. Các thày không giống như người ta trên địa cầu khi con thấy các nhà kinh doanh hay tướng lãnh quân đội lập ra những kế sách chi tiết, đầy đủ với mọi việc cần thi hành hầu thực hiện kế sách. Đó không phải là cách thức một Sứ vụ Thiêng liêng thành hình. Nó không đường thẳng hay phân tích theo kiểu đó.

Đây là thêm một lý do cho thấy là để nắm được các khía cạnh ẩn giấu của Sứ vụ của mình, con phải khắc phục tâm đường thẳng. Nhiều người trong số các con đã trở nên thoải mái với tâm đường thẳng. Thậm chí con đã dùng cả giáo lý chân sư thăng thiên để tạo dựng một cái nhìn đường thẳng về thế giới, qua đó con cảm thấy mình đã hiểu hết cách vận hành của thế giới. Con có một ý niệm về lịch sử đã qua, về lịch sử của vũ trụ và điều này điều nọ, và con cảm thấy thoải mái trong đó. Thày nói với con là con cần bước lên cao hơn để nắm lấy tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của con. Đó là tại sao con cần sẵn lòng bước vượt ra ngoài. Con cần nhận diện mục tiêu mà cả con lẫn các thày đều có khi lập ra Sứ vụ của con là, tất nhiên, khiến con chứng được mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng chứng được.

1.11. Nếu đây là kiếp chót của con trên địa cầu

Một tỷ lệ đáng kể trong số các con có tiềm năng sống kiếp đầu thai này là kiếp chót của mình, để con có thể thăng thiên hoặc ngay sau kiếp này, hoặc ít ra sau một thời gian khi con đã giải quyết vấn đề tâm lý cuối cùng và sẵn sàng thăng thiên. Điều này có nghĩa là vấn đề các thày đặt ra cho mình khi lập Sứ vụ Thiêng liêng với con, là các thày nhìn vào mức tâm thức thấp nhất, mức tâm thức mà con đã đạt được ở cuối kiếp hiện thân trước và sẽ đem theo vào kiếp hiện thân này. Xong các thày nhìn vào tiềm năng cao nhất và nói: “Làm thế nào các thày sẽ xoay chuyển tâm ý thức của con từ mức thấp nhất đó lên mức cao nhất? Đâu là những thành kiến, những phin lọc và những điều cấm kỵ trong bốn thể phàm của con mà con cần thách đố và nhìn vượt qua để có thể dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất? Con cần kinh qua những trải nghiệm nào để có thể xoay chuyển tâm thức lên mức cao nhất?”

Con hiểu ở đây là mục tiêu của các thày không phải để khiến con nắm bắt chân lý tối thượng tuyệt đối và thông hiểu cả vũ trụ. Mục tiêu của các thày không phải là biến các con thành những nhà siêu trí thức tâm linh hiểu biết dòng diễn biến đường thẳng tuyệt đối của vũ trụ là như thế nào. Mục tiêu các thày là xoay chuyển tâm thức con một cách toàn diện, trực nhận và bao hàm tất cả – một cách trực nghiệm. Đây là mục tiêu của các thày, là những gì các thày xem xét đến.

Điều này mang rất nhiều hệ quả mà các thày sẽ nói tới. Nhưng cho ngày hôm nay, thày muốn con ghi nhớ rằng điều quan trọng là con thực hiện cuộc xoay chuyển đó khi con sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài sự thoải mái và tâm đường thẳng của con. Con phải sẵn lòng xem xét, không cứ là “tôi cần hiểu những gì”, mà “tôi cần có trải nghiệm nội tâm nào, tôi cần loại kinh nghiệm sâu xa nào, một trải nghiệm chuyển vọt, có lẽ cả một trải nghiệm chấn động, để vươn tới tiềm năng trọn vẹn nhất của tôi trong kiếp đầu thai này. Tôi sẽ cần từ bỏ những gì để đạt đến đó?”

Đó là những câu hỏi mà con có thể xem xét từ giờ cho đến ngày mai. Các con có thể bàn thảo với nhau về đề tài này nếu con thích, và giúp đỡ nhau đạt được một nhãn quan đổi khác. Con có thể nhìn vào một nhóm như thế này hay con có thể nhìn vào chính bản thân con, và con có thể nói là tất cả các con đều đang tu học cùng một giáo lý, đã áp dụng cùng một lời dạy, cho nên giữa các con đã có một mối liên kết chung. Mặt khác, các con đến từ nhiều quốc gia, nhiều nền văn hóa, nhiều hoàn cảnh gốc tích khác nhau, và có một điều mà các con có thể giúp nhau nắm bắt và trải nghiệm được, đó là mọi người không nhìn mọi thứ theo cùng một cách.

1.12. Không cảm thấy bị đe dọa bởi những khác biệt

Điều mà các con có thể giúp nhau trong một nhóm thế này là dần dần nhận ra rằng thật không có gì quan trọng nếu mỗi người có cách nhìn khác nhau. Con có thể đạt tới điểm không còn cảm thấy bị đe dọa bởi sự khác biệt của mọi người, vì con nhận ra toàn bộ cách con nhìn đời sống trên địa cầu chỉ là sản phẩm của nội dung trong bốn thể phàm của con. Những gì trong bốn thể phàm đó không thực là con, cho nên tại sao con lại bị dính mắc vào đó đến độ nó ngăn cản con thực là con, ngăn cản con biểu lộ con người thực của con? Liệu nội dung bốn thể phàm quan trọng đến độ con sẵn sàng gác bỏ con người thực của mình để bênh vực cho những ý tưởng đó, cho những cái ngã đó vì chúng không thực một cách tối hậu?    

Lẽ tự nhiên, tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng là con từ bỏ các giới hạn đó, các đồng hoá đó, cái tâm vỏ ngoài đó, các khuôn nếp cảm xúc đó, các thói quen vật lý đó. Con buông bỏ chúng vì con muốn một cái gì cao hơn. Con muốn biểu lộ con thực sự là ai. Đương nhiên đây là một điểm mà các thày sẽ đề cập nhiều hơn, vì thật là một khái niệm đáng sợ đối với một số người khi họ đặt câu hỏi: “Ủa, tôi thực sự là ai nhỉ? Nếu tôi không là cái nhân cách vỏ ngoài đó được uốn nắn khi tôi lớn lên hay ngay cả trong những kiếp trước, thì tôi là ai đây? Tôi muốn là ai đây?”

1.13. Sứ vụ Thiêng liêng có nhiều tầng lớp

Như vậy là đủ cho hôm nay. Để kết thúc, thày muốn trả lời một câu hỏi mà một số người đã đặt ra như sau: “Liệu mọi người trên địa cầu đều có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng?” Câu trả lời, theo một cách nào đó, là có – mọi người đều có. Nhưng các sứ vụ tất nhiên rất, rất khác nhau tùy theo mức độ tâm thức. Con có thể lấy ví dụ một sa nhân ở tầng tâm thức thấp tột cùng được phép hiện thân trên địa cầu, như Hitler chẳng hạn. Liệu ông ta có một Sứ vụ Thiêng liêng hay không? Có chứ, ông có một Sứ vụ Thiêng liêng vì có những chân sư thăng thiên đã gặp ông, đã bàn cãi về tiềm năng, cả tiềm năng cao lẫn tiềm năng thấp, và đã lập ra một Sứ vụ Thiêng liêng từ tầm nhìn của các thày hầu các thày giữ được niệm tinh khôi cho ông. Nhưng hiển nhiên, các thày cũng biết kế hoạch đó không nhất thiết là thực tiễn vì Hitler ở một tầng tâm thức thấp đến độ ngay cả khi ông ở ngoài hiện thân, ông cũng không có khả năng làm việc với các thày để thảo ra Sứ vụ. Ông ở trong một trạng thái oán giận, nổi loạn, chối bỏ và phủ nhận đến mức ông không thể cộng tác với các thày cho dù trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai.

Con càng đi xuống những tầng tâm thức thấp nhất thì con sẽ càng tìm thấy những người không có khả năng làm việc với các thày, ngay cả khi họ đang ở ngoài xác thân và do đó được hưởng chút nhẹ nhõm khi họ không bị bốn thể phàm chi phối. Nhưng họ vẫn không thể làm việc với các thày. Đó là lý do tại sao các thày lập ra một kế hoạch cho họ, dựa trên những gì các thày nhìn thấy nơi dòng sống của họ. Lý do các thày lập ra kế hoạch này tất nhiên không phải là vì các thày cần đến nó – mặc dù nó cũng giúp cho các thày vì trên cõi thăng thiên có những sinh thể cầm giữ niệm tinh khôi cho mọi người đang đầu thai. Lý do chính là vì nếu trong khi đầu thai, người đó quyết định là họ muốn vươn lên để đạt được hơn nữa thì họ sẽ dễ dàng hơn hòa điệu với Sứ vụ của họ và nhận được một xung lực nào đó sẽ giúp họ tiến lên cao hơn.

Khi con đi từ tầng tâm thức thấp nhất lên các tầng cao hơn, con sẽ thấy mọi người có khả năng tham gia nhiều hơn vào việc thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Điều này có nghĩa là họ sẽ có nhận thức rõ ràng hơn khi đầu thai. Họ cảm nhận là mình có một mục đích. Trên cơ bản, có thể nói là cho tới khi con lên cao hơn tầng 48 thì con mới thực sự tham dự một cách ý thức hơn vào việc thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng. Đó là tại sao rất nhiều người ở tầng tâm thức này hay cao hơn có cảm nhận là ít ra cuộc sống có mục đích, có ý nghĩa, rằng họ ở đây là có lý do, họ ở đây là để tìm ra một cái gì, khám phá một cái gì, ngay cả học hỏi, tăng triển, tiến hóa. Tất nhiên đối với họ, cảm nhận này sẽ vô cùng hữu ích vì nó giúp họ hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

1.14. Tại sao con quên Sứ vụ của con

Hiển nhiên vấn đề trung tâm với Sứ vụ Thiêng liêng là Sứ vụ được thảo ra với mức tâm thức cao nhất mà con có thể vươn tới trong kiếp sống này, nhưng khi con bước vào kiếp này thì con lại bước vào với mức tâm thức thấp nhất của con, là mức con đã đạt được trong kiếp trước. Do đó con không thể nắm được một số khía cạnh của Sứ vụ. Và do độ dày đặc của hành tinh cũng như của bốn thể phàm của con, con quên đi nhiều khía cạnh của Sứ vụ. Ít nhất con sẽ quên đi trong một vài năm đầu của kiếp đầu thai.

Có thể nói là có một giai đoạn trên đường tu tâm linh khi mục tiêu chủ yếu của đường tu, theo một nghĩa nào đó, là nhớ lại phần nào sự nhận biết về Sứ vụ của mình. Nhiều người trong các con đã phần lớn làm được việc này vì con đã sử dụng các lời dạy do các thày ban ra cùng những dụng cụ để chữa lành tâm lý, quân bình nghiệp quả, khắc phục những điểm nghẽn đó, mở tâm ra với tư tưởng mới và gia tăng khả năng trực giác của mình. Như thày vừa nói, tất cả các con vẫn còn một số khía cạnh mà các con đã trở nên quá thoải mái, và chúng đang chặn nghẽn viễn kiến kế tiếp mà con có khả năng hoàn thành, đặc biệt khi con đã nhận được những lời dạy về avatar – và tất nhiên tất cả các con đều là avatar, vì nếu không thì các con đã không ở đây để tu học cách chữa lành chấn thương nhập đời.

Con yêu dấu, điều này kết thúc những nhận xét mở đầu cho tiến trình độc đáo này sẽ dẫn con đi qua những ngày tu học sắp tới. Và như vậy, thày bày tỏ lòng biết ơn của thày đến các con đã có mặt hôm nay, vì tất nhiên, sự kiện các con có mặt rất đông đảo có nghĩa là các thày có thể đưa ra một lời dạy sâu sắc hơn bình thường. Nó trở thành một sự tương tác qua lại giữa các con với các thày. Một lần nữa, các con càng sẵn lòng từ bỏ sự thoải mái của mình thì lời dạy ban ra sẽ càng có thể cao hơn trong những ngày sắp tới. Chương trình cho lần hội nghị này không cứ là được định trước hoàn toàn. Như với mỗi hội nghị, sẽ có một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao, và tùy vào sự đáp ứng của các con mà cuối cùng các thày sẽ trình bày những gì. Thày gửi lời cảm tạ sâu xa nhất đến các con đã hiện diện ở đây, đã sẵn lòng có mặt ở đây, và cũng sẵn lòng – thày tin như vậy – vươn lên cao hơn nữa.

13 | Nắm bắt bản chất cách mạng của từ bi

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Quan Âm qua trung gian Kim Michaels ngày 2/12/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Quan Âm, và như con cũng biết, thày là chân sư cầm giữ Ngọn lửa Từ bi cho trái đất. Con yêu dấu, từ bi là gì? À, có một cái nhìn thế gian về từ bi và có một cái nhìn thăng thiên về từ bi. Hiển nhiên mục đích của thày là cho con một sự thưởng thức, một trải nghiệm về cái nhìn thăng thiên. Trước tiên chúng ta hãy xem cái nhìn thế gian. Quá nhiều lần con đã chứng kiến một tình huống, chẳng hạn có kẻ xâm lược đến chiếm đóng một ngôi làng và họ sắp sửa sát hại một người, và người đó nói: “Xin ông thương tôi.” Thế thì lòng từ bi được coi là sự kiện con không giết người đó. Người ta xem đó là từ bi. Bây giờ thày là một chân sư thăng thiên sẽ nhìn lòng từ bi như thế nào?

13.1. Hình thức phi từ bi to lớn nhất

Vậy đâu là sự phi từ bi vĩ đại nhất, sự thiếu từ bi to lớn nhất trên một hành tinh phi tự nhiên như địa cầu? Đây là một điều mà hầu hết mọi người chưa bao giờ xét đến. Các con đây có thể hiểu được điều này vì các thày đã cho con tất cả bối cảnh – các thày đã cho con rồi đó – nhưng một người trung bình sẽ không có cả từ vựng để mà hiểu được. Các thày đã nói gì với con trong các lời dạy trao truyền kể từ quyển sách Các kiếp của tôi cùng quyển sách về chấn thương nhập đời? Các thày đã nói con là một sinh thể vô hình tướng. Con đã đi xuống một thế giới hình tướng. Con đã lấy nhiều quyết định và các quyết định này đã dẫn đến hậu quả vật lý. Trong trạng thái lý tưởng – con yêu dấu, con hãy nghe thật kỹ – trong trạng thái lý tưởng như một người đồng sáng tạo, ngay cả trên một hành tinh phi tự nhiên, con phải có thể đồng sáng tạo nhưng tạo vật của con không quy định được con.

Con tạo ra một cái gì có một độ bền bỉ nào đó trong thời gian lẫn không gian. Con tạo ra một cái gì sẽ kéo dài. Nó không chỉ xuất hiện một giây rồi biến mất. Nó tồn tại trong thời gian nhưng dẫu vậy, cho dù con đã tạo ra nó, nó đúng lý không quy định được con. Con đúng lý vẫn là một sinh thể vô hình tướng. Nhưng tất nhiên chuyện gì xảy ra trên trái đất? Thày không nói điều này để chê trách bất cứ ai mà thày chỉ trình bày sự việc xảy ra như thế nào trên một hành tinh phi tự nhiên. Việc xảy ra trên trái đất là khi con tạo ra điều gì có một độ bền bỉ nào đó, con bắt đầu tự nhận diện dựa theo cái con đã tạo ra. Điều cũng xảy ra là những người khác cũng bắt đầu nhận diện con dựa theo cái đó.

Tất nhiên toàn bộ vấn đề này khởi sự với sa nhân, chúng biết rất rõ là khi một avatar đi xuống địa cầu, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48 cho nên con không có quả vị Ki-tô trọn vẹn. Vì vậy con sẽ lấy một số quyết định, con sẽ tạo ra một số điều không phải là cao nhất. Xong chúng lập ra chuẩn mực về đúng và sai, về toàn hảo và tồi tệ, để chúng có thể dễ dàng chê con là bất cứ gì con đồng sáng tạo cũng không đủ tốt, không toàn hảo và sai trái dựa theo tiêu chuẩn. Xong chúng hung hãn dùng lý cớ này để áp đặt lên con ý tưởng là chính bản thân con có gì không ổn. Nếu tạo vật của con dở thì có nghĩa là chính con cũng dở. Cho nên con dần dần bắt đầu phản ứng lại sự tấn công vô cùng hung dữ này bằng cách tạo ra những cái ngã tách biệt kia. Các ngã tách biệt đó là ngã phản ứng, chúng được tạo ra để đáp lại một điều kiện nhất định có sự bền bỉ trong thời gian và không gian. Con đã tạo ra một cái gì, rồi con bị chỉ trích hay nhục mạ vì cái đó. Và con phản ứng lại bằng cách tạo ra một cái ngã và ngã này cũng có sự bền bỉ. Khi con nhận chịu chấn thương nhập đời, như các thày đã có giảng, thế là bỗng nhiên mọi chuyện trở thành chuyện cá nhân, hay ít ra cuộc sống trên trái đất trở thành chuyện cá nhân đối với con. Con xem sự tấn công của sa nhân là một tấn công cá nhân nhắm vào con.

Vậy phi từ bi là gì? Thế nào là đối nghịch của từ bi? Đó là khi bất cứ ai, cho dù là con hay một người khác, cầm giữ trong tâm họ một hình ảnh cố định về con như một sinh thể vô hình tướng. Người đó lấy một hình ảnh có hình tướng, phóng chiếu lên con là một sinh thể vô hình tướng và nói: “Bạn là thế này này.” Họ làm đông đặc một hình ảnh của Dòng sông sự Sống. Họ lấy một hình chụp của Dòng sông sự Sống và nói: “Dòng sông như thế này này. Người ta có thể biết tất cả về dòng sông bằng cách nhìn vào tấm hình tĩnh vật này.” Đây là điều họ làm với con. Đây là điều chính con làm với con. Đây là phi từ bi. Cho nên từ bi là gì chứ? Là khi con nhận biết có một hình ảnh cố định về một sinh thể vô hình tướng, cho dù là con hay một người khác, xong con chỉ đơn giản nhả ra cho nó đi. Như Chân sư MORE đã mô tả, khi con nhìn một hình ảnh về một sự việc trong quá khứ, con có thể buông nó ra, con có thể gạt bay nó đi, con có thể từ bỏ nó, rũ bỏ nó. Đấy là từ bi.

13.2. Những đệ tử của chân sư bị kẹt lại

Về điểm này, chúng ta hãy lấy một hướng hơi khác và bàn về các đệ tử của chân sư thăng thiên. Có những người đã đến với giáo lý của chân sư, và khi họ tìm thấy giáo lý, tất nhiên là họ ở một tầng tâm thức nào đó – chuyện này không thể tránh được như con cũng hiểu. Họ có một tâm lý nào đó, họ có một số ngã tách biệt và họ đến với giáo lý của chân sư xuyên qua tầng tâm thức của họ vào lúc đó. Không ai đã làm gì khác hơn. Không có gì sai trái và cũng không có trách móc vì chuyện này đơn giản không thể tránh được. Con tìm thấy giáo lý ở một thời điểm, con nhìn giáo lý theo một cách nào đó, qua tâm thức con đang có và các ngã tách biệt con đang có.

Việc xảy ra cho một số đệ tử của chân sư thăng thiên – không phải tất cả, cũng không phải đa số, nhưng một số – là họ hình thành một quan điểm và một niềm tin rất mạnh mẽ về các thày, về giáo lý của các thày và về chính họ như một đệ tử. Họ làm vậy vì họ có một ngã tách biệt với một nhu cầu nhất định. Có thể là nhu cầu cảm thấy mình tốt đủ, mình không đến nỗi tệ, hay có thể một nhu cầu cảm thấy mình cao trội. Đặc biệt có một nhóm đệ tử có nhu cầu cảm thấy cao trội hơn người hay không chê vào đâu được, rằng mình hiểu biết những chuyện mà người khác không hiểu nổi. Khi họ tìm thấy giáo lý, họ dựng lên một hình ảnh về họ là đệ tử cao cấp, nhưng đó là một ngã tách biệt đang tạo dựng và cầm giữ hình ảnh này.

Bây giờ vấn đề là: Liệu các đệ tử này sau khi học và áp dụng giáo lý được một thời gian, có thể nào khắc phục ngã tách biệt đó hay không? Một số sẽ có thể, và như vậy họ sẽ bước tới và tăng triển. Còn một số khác, con yêu dấu, sẽ không thể hay không muốn, cho nên mặc dù họ đã học và áp dụng giáo lý và đã có tiến bộ trong những cách khác, thì trong họ vẫn còn cái ngã ban đầu đã khiến họ hình thành cái nhìn kia về bản thân và về giáo lý. Ngã này, họ chưa đụng đến. Cho dù họ đã học và áp dụng giáo lý hàng 30, 40 năm, có những đệ tử vẫn chưa đụng đến cái ngã tách biệt ban đầu này. Họ chưa bắt đầu nhìn ra đó là một ngã tách biệt. Họ tin chắc rằng cách họ nhìn các chân sư, con đường tâm linh cùng bản thân họ là cái nhìn tối hậu. Họ không cần thay đổi cái nhìn này.

Các thày có thể làm gì với những đệ tử như vậy? Theo một nghĩa nào đó, các thày không làm gì cả vì các thày không thể chạm được họ. Điều các thày làm là nói: “Bây giờ đã đến lúc đưa ra một tầng cấp giáo lý cao hơn, vì có một số tới hạn những đệ tử đã sẵn sàng nhận được.” Điều thường xảy ra sau đó là đối với những đệ tử xem mình là cao cấp, cái nhìn nguyên thủy của họ về các chân sư, về giáo lý và về chính họ sẽ bị giáo lý mới thách thức. Một số giờ đây có thể thấy được điều này, họ thấy là cái nhìn cố hữu của họ chỉ xuất phát từ một ngã tách biệt và họ có thể buông nó ra. Nhưng một số khác không sẵn lòng làm vậy, họ không sẵn lòng chất vấn hình ảnh mình là đệ tử cao trội, mình nắm chắc đường tu trong tay, mình biết rõ đường tu là gì và một đệ tử phải như thế nào. Trong nhiều trường hợp, những người này sẽ bác bỏ giáo lý mới. Rất nhiều lần trong quá khứ, các thày đã đỡ đầu một tổ chức trong một thời gian, xong đã rút lại sự đỡ đầu và ngừng trao thêm tiết lộ tuần tự cho phong trào đó. Khi các thày khởi sự một phong trào mới, một số đệ tử của phong trào cũ đã đi theo, nhưng những ai tự xem mình là giỏi giang và cao cấp nhất thì lại không theo, vì phong trào mới hơi khác lạ cho nên nó thách thức cái nhìn của họ về đường tu.

Điều này tất nhiên có thể xảy ra ngay cả trong một tổ chức như vừa xảy ra gần đây cho một số người khi các thày ban truyền giáo lý mới về ngã gốc và ngã tách biệt cùng quyển sách Các kiếp của tôi. Tại sao thày lại đề cập đến chuyện này? À, bởi vì các đệ tử đó chính là một ví dụ về sự phi từ bi. Họ đã không neo chặt vào Ngọn lửa Từ bi. Nếu con thực sự nắm bắt được từ bi là gì, con sẽ nhận ra con đường tâm linh, con Đường Quả vị Ki-tô, là một tiến trình đi qua mấy giai đọan. Khi con từ bi với bản thân và với người khác, con nhận ra là những gì áp dụng cho một giai đoạn chỉ được trao truyền để đưa con đến một tầng nào đó của đường tu. Khi con đạt đến tầng này, thách thức của con là bước lên một tầng cấp mới, và như các thày đã giảng, con không thể vươn lên tầng mới bằng cách tiếp tục làm giống như tầng cũ.

13.3. Từ bi với chính mình

Con đang ở một tầng nào đó trên đường tu. Những gì con đã làm để đạt đến điểm này hoàn toàn có giá trị, nhưng những gì đã đưa con đến đây không thể đưa con đi xa hơn. Nếu con không có lòng từ bi, con sẽ có xu hướng bám giữ một cái nhìn cố định về đường tu, về các chân sư, về chính con. Con sẽ thấy là rất rất nhiều đệ tử suốt các thời đại đã nhìn vào một đợt truyền pháp mới và tìm thấy một điểm nào đó mà họ có thể chỉ ngón tay: “Ồ, chân sư sẽ không bao giờ nói điều này. Chân sư sẽ không bao giờ diễn đạt theo kiểu đó, chân sư sẽ không bao giờ nói về các đề tài đó,” toàn những chuyện như vậy. Đây thật sự là một biểu hiện của lòng phi từ bi.

Nhưng liệu thày có nói điều này vì thày muốn mọi người đầu thai có lòng từ bi với các chân sư thăng thiên? Dĩ nhiên là không! Thày không cần đến lòng từ bi của con. Chính con mới cần đến lòng từ bi của con, vì các đệ tử kia làm gì chứ? Họ đang giam họ lại trong một hình ảnh cố định về chính họ. Cho nên họ không đang từ bi với chính họ. Hơn nữa, họ cũng thường không từ bi với các đệ tử khác. Họ trở nên rất xét đoán với các đệ tử đã bước đi tiếp, chẳng hạn. Có lẽ họ sẽ cố thuyết phục, hay hù doạ để các đệ tử này không nên bước đi tiếp, bằng đủ loại mưu chước dọa dẫm rằng giáo lý mới là sai lầm, là giả trá, là không phải chân sư và vân vân.

Ở đây có một tư duy vô cùng cứng nhắc len lỏi vào, và sự cứng nhắc này trong tư duy thiếu hẳn lòng từ bi. Con thử nhìn các tín đồ Cơ đốc cực chính thống mà xem, họ mang tư duy rất cứng nhắc rằng Kinh thánh là lời của Thượng đế và họ không cần gì khác hơn để được cứu rỗi. Đây là một biểu hiện khá cùng cực của lòng phi từ bi. Thày biết là hầu hết mọi người chưa bao giờ nhìn vấn đề này theo cách đó, nhưng đây là sự thật. Họ hoàn toàn thiếu từ bi đối với chính họ và những ai họ phán xét.

Con đây, con là đệ tử của chân sư thăng thiên thì hiển nhiên con có khả năng bước lên cao hơn vậy. Con đã mở tâm ra với giáo lý của các thày về ngã gốc, chấn thương nhập đời và tất cả các ngã tách biệt kia, thì con có thể dùng điều này để nói: “Con sẽ cần kinh qua những gì ở đây?” Thày vừa đề cập đến các đệ tử kia như một ví dụ mà thôi. Con không cần dính mắc chuyện đó, con không cần cố thuyết phục họ chút nào, mà con chỉ cần nhìn vào bản thân và nói: “Liệu tôi có mang một yếu tố phi từ bi nào đối với chính mình, hay thậm chí đối với cái nhìn của mình về người khác? Liệu tôi có xu hướng bám giữ một hình ảnh cố định về bản thân, về đường tu hay về các chân sư?” Giê-su đã giảng về cách vận hành của con trong liên hệ với các thày, nhưng quan trọng hơn, con cần hỏi: “Tôi nhìn chính tôi như thế nào?”

Điều thày muốn dẫn con đến là sự công nhận rằng đường tu tâm linh, con đường quả vị Ki-tô, có những giai đoạn riêng biệt, những thời kỳ riêng biệt. Có nghĩa là con, như một đệ tử của chân sư thăng thiên, không thể cho phép mình cầm giữ hình ảnh trong tâm rằng: “Tôi đã nắm được căn bản của đường tu. Nó bảo tôi phải làm thế này thì tôi cứ việc làm tiếp như thế cho đến hết kiếp và tôi sẽ tiến bộ tối đa.” Nhưng đơn giản là không phải vậy. Sẽ tới một điểm khi những gì con đã từng làm cho đến giờ sẽ không đưa con vào giai đoạn kế tiếp. Cho nên con cần đủ linh hoạt uyển chuyển để sẵn lòng buông bỏ hình ảnh đó về người đệ tử và về đường tu, và con nói: “Tôi thực sự cần gì để tăng triển lên giai đoạn kế tiếp?”   

Con thấy đó, con yêu dấu, có những đệ tử sẽ nhìn vào bất cứ gì mới mà các thày truyền dạy và xét đoán nó trên căn bản các lời dạy trước đó. Chẳng hạn có những đệ tử sẽ nhìn vào một đợt truyền pháp mới, so sánh với giáo lý của đợt truyền pháp trước và bảo: “Ồ cái mới này không thể nào đúng được vì nó mâu thuẫn hay nó đi xa hơn cái cũ.” Con yêu dấu, con tỉnh giấc đi nhé! Sẽ ích lợi gì mà khởi sự một đợt truyền pháp mới nếu nó không đưa ra được gì vượt khỏi cái cũ? Con hãy nhận rõ là xu hướng này có mặt.

13.4. Những cái bẫy để đánh bẫy đệ tử tâm linh  

Điểm này cho phép thày dẫn con đến một chủ đề mà thày thật muốn nói đến, đó là khi con bắt đầu giáp mặt với những vấn đề sâu thẳm của chấn thương nhập đời, của ngã gốc – cùng các ngã tách biệt kia mà con đã tạo ra ngay ở đầu thời gian sinh sống trên trái đất – con cần nhìn ra là sa nhân đã rất khéo léo gài bẫy các đệ tử tâm linh, đặc biệt là avatar. Chúng nghĩ: “Làm thế nào chúng ta có thể đánh bẫy khiến cho một avatar bám giữ một hình ảnh về chính họ sẽ ngăn cản họ thể hiện quả vị Ki-tô?” Và chúng đã tạo ra cái gần như có thể gọi là những cỗ máy nhằm mục đích đánh bẫy con người, không chỉ các avatar nhưng chủ yếu là avatar vì avatar là mối đe dọa lớn nhất cho sa nhân.

Tới một giai đoạn khi thỉnh thoảng con phải có biện pháp để khắc phục một ngã tách biệt nào đó, có vẻ như biện pháp con phải lấy rất khác với cách nhìn cố hữu của con về đường tu. Có vẻ như biện pháp này gần như cách mạng so với những gì con đã làm trước đó. Và điểm này dẫn thày đến chủ đề làm thế nào con có thể thoát khỏi những lỗi lầm mà con nghĩ con đã phạm phải trong quá khứ. Nếu con đã đến đây như một avatar – thật không thành vấn đề nếu con đã hứng chịu cùng loại chấn thương được mô tả trong sách Các kiếp của tôi hay không, vì một số trong các con đã sống qua những hoàn cảnh khác – nhưng tất cả các con trong tư cách là avatar đều đã có một thời điểm cảm thấy mình sai lầm khi mình đến hành tinh này. Điều này dựa trên trải nghiệm là tất cả những gì con làm hay đem lại, theo cách diễn đạt của Nada, đều đã bị sa nhân “đập dí xuống” và quy ghép là sai lầm. Bất cứ gì con làm đều không ổn, và chính con cũng không ổn. Nếu bất cứ gì con làm đều sai trái thì bản thân con phải sai trái. Đây là khẩu hiệu của sa nhân.

Con yêu dấu, con phải làm gì để khắc phục ngã tách biệt này? Đây là khi con cần linh hoạt uyển chuyển. Lẽ tự nhiên, các thày đã dạy là con cần nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình, về đường tu của mình, về sự phát triển của mình, vân vân. Điều thày sắp nói tiếp theo đây sẽ có vẻ đi ngược lại lời dạy đó từ một nhãn quan đường thẳng.

13.5. Hãy ngừng nhận trách nhiệm về bất cứ gì

Thật ra bây giờ thày bảo con cần ngừng nhận trách nhiệm về bất cứ việc gì con đã từng làm trên trái đất. Tại sao thày lại nói vậy? Con yêu dấu, bởi vì sa nhân đã khuynh đảo để con tạo ra một ngã tách biệt khiến con cảm thấy chính con đã làm gì sai trái. Nhưng các thày đã dạy con điều gì?

Con là ai chứ? Con là cái Ta Biết. Con là một sinh thể vô hình tướng. Con có quyền đi xuống địa cầu. Con khoác vào hình tướng của bốn thể phàm của con, con đi xuống tầng tâm thức thứ 48. Con hành xử dựa trên tầng này, con nhận được hồi đáp, xong trong kịch bản lý tưởng con tăng triển lên tầng 49. Con tăng triển lên tầng 50 và cứ như vậy con tăng triển cho đến khi con lại nhận biết: “Tôi là một sinh thể vô hình tướng. Hình tướng không quy định được tôi.” Đây là tiến trình các thày đã gọi là sự trầm mình và sự thức tỉnh. Điều sa nhân đã thành công làm được đối với nhiều các con là chúng đã cưỡng bức con tạo ra cái ngã tách biệt giờ đây cầm giữ một hình ảnh cố định về chính con – rằng con không phải là một sinh thể vô hình tướng mà là một sinh thể mang một hình tướng đặc thù, và hình tướng này thì sai trái dựa theo một tiêu chuẩn nào đó. Đối với nhiều các con, ngã này đã có mặt ngay từ kiếp hiện thân đầu tiên hay một trong những kiếp đầu tiên sau khi con đến trái đất. Ngã này con đã kéo lê theo con suốt một thời gian rất rất dài, và ngã này là một trong những yếu tố chủ yếu ngăn con vươn lên một tầng mức quả vị Ki-tô nào đó. Con không thể vươn lên quá mức này trên đường tu chừng nào con còn kéo lê nó theo con.

Con phải làm gì để khắc phục ngã này? À, đây là điều thày đề nghị con cân nhắc: Tại sao con đã làm bất cứ gì trên trái đất? Khi con đi xuống tầng 48, các thày có giảng là con khoác vào tất cả những ảo tưởng kia giống như những tấm màn mà con trùm vào. Con nhìn cuộc sống xuyên qua những tấm màn này đang bóp méo và tô màu tầm nhìn của con. Tại sao con làm điều con đã làm? Có phải là con, cái Ta Biết xem mình như một sinh thể vô hình tướng, làm những điều con đã làm? Không đâu! Con, cái Ta Biết làm những gì con đã làm không phải trong nhãn quan mình là một sinh thể vô hình tướng, mà trong nhãn quan mình là một sinh thể có hình tướng dựa trên các ảo tưởng con đã khoác vào. Đó có thực là con, có là con người thực của con, có là sinh thể vô hình tướng, hay đó là một ngã tách biệt con đã tạo ra để đi xuống cõi hiện thân vật lý?

Con có thấy ý thày muốn nói ở đây chăng? Các thày có giảng là con nhận chịu chấn thương nhập đời và sau đó con tạo ra ngã gốc, nhưng ngay cả để đi xuống tầng 48 và hiện thân, con đã phải tạo ra những ngã tách biệt đó, cái cỗ xe linh hồn đó, bốn thể phàm đó của con, đặc biệt là ba thể cao của con. Điều thày cố giúp con nhìn ra ở đây là sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh con cần đương đầu với vấn đề này.

Tất nhiên là con không thể làm vậy ở những tầng thấp hơn. Một đệ tử mới của chân sư thăng thiên không thể sẵn sàng nhận giáo lý này trừ khi con đã được chuẩn bị trong các kiếp trước. Hầu hết mọi người sẽ không sẵn sàng cho giáo lý này trong một khoảng thời gian, nhưng sẽ tới một điểm con phải bắt đầu suy nghiệm và nhận ra: “Nếu tôi thực là cái Ta Biết, nếu tôi thực là một sinh thể vô hình tướng, thì tôi không phải là bất kỳ ngã tách biệt nào của tôi. Tôi đã chỉ đồng hóa là ngã tách biệt mà thôi, vì tôi đã chui vào trong ngã và nhìn xuyên qua phin lọc đó. Giờ đây tôi bắt đầu cảm nhận mình là một sinh thể vô hình tướng thì đã đến lúc tôi bước lui lại và nói: “Phải, tôi đã hành động khi tôi mới đến địa cầu. Tôi đã hành xử hoàn toàn trong sáng với ý định tốt đẹp nhất để giúp đỡ người khác. Tôi đã bị những cú giáng tàn bạo của sa nhân và tôi đã phản ứng bằng cách tạo ra ngã tách biệt này, nó cảm thấy là tôi sai trái hay đã sai lầm khi đến hành tinh này, hay cho dù tôi tự biểu hiện thế nào trên hành tinh này thì điều đó cũng sai lầm! Chính tôi đã thiết kế ngã này, và sau khi tôi tạo ra nó, tôi đã bắt đầu lấy quyết định xuyên qua nó.”

Đây là điều mà Mẹ Mary đã phần nào gọi là những quyết định tránh né. Người ta đã cho con cảm tưởng là con sai lầm khi con biểu đạt con người thực của con. Và con quyết định: “Tôi không thể biểu hiện con người thực của tôi,” cho nên con đã bắt đầu lấy tất cả những quyết định kia để tránh bị sai lầm thêm một lần nữa. Giống như thể mục đích toàn bộ của con – hay ít ra mục đích toàn bộ của ngã này – là mình sẽ không sai lầm nữa, cho nên con đã dựa vào đó để quyết định. Vậy con có thể tự nhủ: “Phải, tôi đã làm một chuyện sai lầm .” Đó có thể là chuyện gì trong kiếp này, hay nếu con nhận ra đó là một chuyện trong tiền kiếp, con nói: “Phải, tôi đã làm chuyện đó. Từ một góc cạnh thường tình thì tôi đã làm chuyện đó, nhưng từ một nhãn quan cao hơn, có thực là tôi đã làm hay không? Có phải là tôi, sinh thể vô hình tướng, đã làm chuyện này hay kỳ thực là một ngã tách biệt đã quyết định làm vậy? Ai đã làm, tôi hay ngã tách biệt?”

Khi con bắt đầu suy ngẫm, hay dù con chỉ đặt ra câu hỏi như vậy, thì con cũng bắt đầu tách mình ra khỏi ngã tách biệt đó. Con tách cái Ta của con ra khỏi ngã tách biệt. Sau khi con làm vậy, con có thể ngộ ra: “Tôi không là ngã tách biệt đó, tôi là nhiều hơn, tôi là một sinh thể vô hình tướng.” Con có thể chợt thoáng trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết này, là cảm nhận mình đang ý thức nhưng mình không ý thức về chính mình như một sinh thể đặc thù hay về một tình huống đặc thù. Xong con ngộ ra: “Tôi không phải là ngã tách biệt. Ừ nhỉ, nếu tôi không là ngã tách biệt thì đương nhiên tôi cũng không làm những gì ngã tách biệt đã làm.” Nếu chính con không làm những gì ngã tách biệt đã làm thì tại sao con lại cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm? Tại sao con phải cảm thấy là mình trách nhiệm chuyện đó?

13.6. Con có thể gỡ bỏ những gì mình đã làm không?

Con thấy không, điều sa nhân muốn con cảm thấy là con đã phạm phải lỗi lầm khủng khiếp kia trong quá khứ và điều này chứng tỏ là con xấu xa. Con sẽ xấu xa mãi mãi, xấu xa vĩnh viễn vì con sẽ không bao giờ vượt qua được. Con sẽ không bao giờ tháo gỡ được những gì con đã làm trong quá khứ. Điều này chứng tỏ là con xấu và con sẽ xấu mãi mãi do con không thể vượt qua được. Con không thể gỡ bỏ những gì mình đã làm trong quá khứ.

Cũng đúng là từ một góc độ nào đó, con không thể thay đổi sự kiện là việc đó đã xảy ra. Tất nhiên, con có thể dùng dụng cụ các thày đã trao truyền để khắc phục ký ức, vân vân. Thày sẽ cho con ở đây thêm một dụng cụ nữa, là con nói với ác quỷ: “Được rồi ác quỷ, mi bảo là việc đó đã xảy ra và không thể được tháo gỡ. Tại sao mi lại nói điều này với ta? Ta có làm chuyện đó đâu. Đó là ngã tách biệt, nhưng ngã này không phải là ta. Phải, mi nói đúng, ác quỷ, ta đã tạo ra ngã tách biệt này. Ta nhận hoàn toàn trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt này. Mi có biết điều tuyệt diệu là gì không, ác quỷ? Cái gì ta đã tạo ra thì ta có thể giải thể. Mi không có quyền năng gì trên ngã tách biệt này. Hay đúng hơn, có thể mi có khả năng thao túng ngã tách biệt nhưng mi đã không đã tạo ra nó và mi không thể giải thể nó – nhưng ta đây có khả năng giải thể nó. Ta có khả năng để nó chết đi, và mi biết gì không? Ta đang để nó chết đi ngay bây giờ, và bây giờ nó không còn nữa. Vậy tại sao mi lại đến phiền ta? Mi hãy đi chỗ khác, hãy tìm ai khác mà làm phiền, một ai khác vẫn còn ngã tách biệt. Hãy lui ra sau ta, Satan.”

Con thấy đó, có một giai đoạn trên đường tu tâm linh khi con cần nhận trách nhiệm về bản thân, con cần đọc chú đọc thỉnh để biến hóa năng lượng, con cần làm việc trên tâm lý của con và điều này điều nọ. Thế rồi đến một điểm con sẽ cần bước lui lại, nhìn từ một góc độ khác và nói: “Bây giờ thật ra tôi cần ngừng nhận trách nhiệm.” Con vẫn là người trách nhiệm ở chỗ con nhận trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt và con cũng nhận trách nhiệm về việc để cho nó chết. Nhưng con yêu dấu, khi con để cho ngã tách biệt chết rồi, con không còn trách nhiệm gì về hành vi của nó hay xuyên qua nó nữa. Đây là điểm con cần hòa điệu với Ngọn lửa Từ bi đích thực và ngộ ra: “Tôi cần từ bi với chính tôi. Tôi cần tha thứ mình hoàn toàn và vô điều kiện về những việc tôi đã làm trong quá khứ, thậm chí cho đến độ tất cả mọi việc tôi đã làm trong quá khứ không còn quan trọng gì nữa.” Khi con nhận ra là nó không quan trọng gì nữa, con có thể làm điều Chân sư MORE đã chỉ dạy: Con có thể xóa hẳn hình ảnh là mình đã làm việc đó, cho nên ngay cả ký ức về nó cũng không còn.

Con có thể sẽ khó xóa bỏ hình ảnh cho tới khi con đã tự tha thứ mình, đã hòa điệu với Ngọn lửa Từ bi, đã sử dụng Ngọn lửa Từ bi để tẩy xóa cảm nhận tội lỗi, xấu hổ, tủi thẹn,… bất kể đó là gì. Ngọn lửa Từ bi mà thày cầm giữ là cục tẩy cho các loại cảm xúc đó. Con có thể thỉnh nó qua nhiều cách: qua bài thỉnh, ngay cả câu thần chú Om Mani Padme Hum và nhiều cách nữa để hoà nhập vào Bản thể của thày. Điều cần thiết là con phải hoàn toàn tự tha thứ chính mình và nói: “Tôi đã không làm chuyện đó. Tôi là một sinh thể vô hình tướng và tôi đã không làm chuyện đó!” Thế là con tự do.

13.7. Tự giải thoát bằng cách tha thứ tất cả những ai đã làm hại con

Điều này, tất nhiên, mới chỉ là một mặt của đồng tiền của sự tự do. Bây giờ con cần nắm lấy những gì con đã nhập tâm về bản thân mình và áp dụng vào người khác. Có ai đó đã làm con thương tổn, thậm chí ở cùng cực có sa nhân đã gây chấn thương nhập đời cho con. Chúng đã làm một điều gì đó tuyệt đối khủng khiếp, tuyệt đối hung hãn và tàn khốc. Nhưng này, tại sao con làm chuyện con đã làm chứ? À đúng vậy, con hành động xuyên qua một ngã tách biệt, con bị mù quáng bởi ngã tách biệt. Tại sao sa nhân làm chuyện chúng đã làm? Đúng vậy, chúng cũng đang hành động xuyên qua một ngã tách biệt. Ác quỷ là gì? Nó có là thần thánh gì không? Không đâu, nó là một tập hợp những ngã tách biệt. Ở đâu đó – trong con người của Satan hay của Lucifer, bất kể – có một cái Ta Biết không còn nhận biết gì về sự hiện hữu của nó, vì nó đã bị hoàn toàn chiếm lãnh và đồng hóa bởi tất cả những ngã tách biệt vô cùng hung hãn, vô cùng tiêu cực kia. Nhưng chúng vẫn là ngã tách biệt, chúng không có thực tại lâu dài nào cả, chúng không bao giờ có thể thăng thiên và trở nên thường hằng. Chúng vô thường. Và chúng sẽ bị tẩy xóa ở một thời điểm nào đó, nếu không trước khi bầu cõi thăng thiên thì chắc chắn vào lúc bầu cõi thăng thiên. Con không cần tha thứ cho một ngã tách biệt vì nói cho cùng, nó không thực, nhưng điều con cần làm là tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con.

Con cần có lòng từ bi với họ, và điều này con có thể thực hành dễ nhất với những người con quen biết trong kiếp hiện thân này, chẳng hạn như người thân trong gia đình, vợ chồng, hay cả vợ cũ, chồng cũ. Con chỉ cần đạt tới điểm nhận ra là dù họ có đã làm gì con, không phải cái Ta Biết trong con người họ đã làm điều đó mà là một ngã tách biệt. Cho nên con có thể tha thứ, con có thể từ bi với họ bằng cách không cầm giữ hình ảnh họ là ngã tách biệt, họ hành xử giống như ngã tách biệt đã hành xử với con. Con có thể tránh phản ứng: “Bạn con người như vậy, bạn loại người như thế.” Con có thể tránh được điều đó. Con có thể tẩy xóa nó đi. Con có thể đạt tới điểm tha thứ những ai đã làm hại con. Khi con làm được vậy, không cứ là con đã giải phóng cho họ, vì khi con tha thứ thì họ vẫn bị tô màu bởi ngã tách biệt cho nên họ vẫn không được giải thoát. Vậy ai sẽ được giải thoát khi con tha thứ? À, chính con đó. Con được giải phóng vì chừng nào con còn cầm giữ một hình ảnh nhất định về một người thì, thật vậy, làm sao con tự do cho được?

Làm thế nào con cầm giữ được một hình ảnh mang hình tướng về một người khác? Chỉ khi nào con có một cái ngã hữu hình đang cầm giữ hình ảnh này. Trong tư cách cái Ta Biết, con không thể cầm giữ một hình ảnh đặc thù về một người khác. Nếu con thực sự ở trong cái Ta Biết và không có ngã tách biệt nào – như khi con sẽ đạt được ở tầng tâm thức 144, hay ít ra khi con tiến đến gần đó và ngày càng có ít ngã tách biệt – con sẽ không nhìn người khác theo một cách nhất định. Con không mang một hình ảnh hay một ấn tượng định sẵn về con người của họ. Giống như thể con thức dậy buổi sáng, nhìn sang phía chồng con hay vợ con ở bên kia giường và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi: “Ủa, người này là ai vậy? Sao tôi không quen?” Con không mang theo con bất kỳ hình ảnh định sẵn nào. Giống như người ta nói, con sống trong hiện tại, theo nghĩa là mỗi hiện tại đều là một khoảnh khắc mới. Con không đòi hỏi người đó phải thỏa mãn một hình ảnh nhất định. Con không đổ lỗi cho họ về những sự việc đã xảy ra trong quá khứ. Con gặp họ mỗi lần như một người mới vì con cho phép chính mình là một người mới mỗi ngày.

Cho dù con không có người bạn đời thì khi con đạt đến các tầng tâm thức cao hơn, con cũng thức dậy buổi sáng, nhìn vào gương và nói: “Người này là ai vậy?” Con tự do khi con hỏi: “Hôm nay tôi muốn là ai đây?” Hầu hết mọi người không có tự do nói được như vậy vì họ thức dậy với một khuôn nếp đem theo từ tối hôm trước và khuôn nếp này bảo: “Đây là con người bạn sẽ phải là hôm nay! Bạn phải là đúng như thế này.” Khi con lên đến các tầng cao hơn, con càng ngày càng có nhiều tự do hơn, và lẽ tự nhiên, khía cạnh omega là con cũng trao tự do cho người khác. Có thể con biết là người ta sẽ hành xử giống như mọi ngày và không thay đổi gì hết, nhưng con không quan tâm đến điều này nữa. Con chỉ giải phóng họ, qua đó con cũng giải phóng chính con. Con nói: “Bạn có quyền hành xử giống như bạn đã hành xử hôm qua, nhưng tôi sẽ không phản ứng giống như tôi đã phản ứng hôm qua. Tôi sẽ không hành xử theo cách bạn chờ đợi tôi hành xử. Tôi sẽ hoàn toàn tự do khi tôi chọn: Hôm nay tôi sẽ muốn là ai đây?”

13.8. Không ai đã làm gì tới con

Sau khi con đã làm vậy, đã đạt đến mức tha thứ cho mình, có lòng từ bi với mình, có lòng từ bi với người khác, thì con có thể bước thêm một bước thật triệt để. Con có thể ngộ ra điều mà sứ giả này đã ngộ được trong thời gian qua khi hôm đó ông chợt hiểu: “Không ai đã làm gì tôi cả.” Con hãy suy nghiệm câu nói này. Con hãy thử tưởng tượng con thốt lên câu này trong khi con nhìn lại toàn bộ quá trình của mình trong kiếp này cùng những gì con cảm nhận được từ những kiếp trước, xong con nói: “Không ai đã làm gì tôi cả.” Và con hãy theo dõi phản ứng của con, nhìn xem bên trong con có giọng nói nào đang lên tiếng phản đối. Nếu có thì con sẽ biết là một ngã tách biệt đang có mặt, và con có thể xem xét nó hầu con thoát ra khỏi nó.

Thày vừa nói là con cần ngừng nhận trách nhiệm về hành động của mình. Con cũng rất cần ngừng nhận trách nhiệm về cách phản ứng của người khác đối với con. Lẽ tự nhiên khi con mới đến trái đất, sa nhân đã tấn công con và cố biến nó thành một sự tấn công rất rất cá nhân: Chính bản thân con có gì không ổn, chính con đã sai lầm khi làm vậy. Một khi con nhận ra sa nhân gây ra chuyện đó cho con là do chúng có ngã tách biệt, thì con có thể đạt tới điểm nói rằng: “Ồ, vậy có nghĩa là kỳ thực chúng đã không nhắm vào tôi, vì chúng chỉ hành xử theo ngã tách biệt của chúng. Nếu có ai khác đứng ở vị trí của tôi thì chúng cũng đã hành xử y như vậy với họ, có nghĩa đây không phải là chuyện nhắm vào cá nhân tôi. Đơn giản là tôi đã tạo ra một cái ngã tách biệt xem đây là một chuyện cá nhân.”

Một trong những bước tuyệt đối quan trọng nhất mà con có thể thực hiện trên con đường quả vị Ki-tô là đạt tới điểm con nhận diện trong người con có một ngã tách biệt đang phản ứng. Bất cứ khi nào có gì xảy ra cho con – có thể là khi con lầm lỗi, con làm điều gì mà con xem là ngu ngốc hay đáng hổ thẹn, con làm điều gì mà người khác không ưa hay khó chịu, hay bất cứ gì khác tùy theo mỗi cá nhân – thì đó là điều con đã làm và khi con làm như vậy, con cảm thấy chính cá nhân con đã làm chuyện kinh khủng này, đã phạm lỗi lầm này cho nên con phải có cảm xúc này. Đây chỉ là một ngã tách biệt giống như mọi ngã tách biệt khác.

Con hãy lưu ý, con yêu dấu, ngã này có thể rất khó khắc phục vì đó là cái ngã xem mọi chuyện là cá nhân. Nó khiến con cá nhân hóa mọi chuyện và nó sẽ cố khiến con cá nhân hóa cả sự kiện con mang cái ngã đang cá nhân hóa mọi chuyện. Có thể con sẽ phải gần như tự đánh lừa mình, tức là thay vì xem nó đơn giản là một ngã tách biệt, con phải bước lui lại hai lần và thấy nó là một ngã tách biệt đã khiến con bực bội với tất cả những ngã tách biệt kia cùng mọi việc con đã làm. Dù sao thì một khi con lui lại đủ, con sẽ thấy nó chỉ là một ngã tách biệt.  

Thật ra con có thể nhận thấy là cái ngã cá nhân hóa mọi chuyện đã được tạo ra để phản ứng lại việc người khác trách cứ con. Con có thể nhận ra là họ không trách cứ bản thân con mà họ chỉ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Cho dù họ đã có làm gì con thì họ chỉ đang hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Con hãy suy ngẫm câu này. Dù bất cứ ai đã làm điều gì tiêu cực cho con thì họ chỉ đang hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết của họ. Nếu họ hành xử xuyên qua tâm lý chưa giải quyết và họ trách cứ con, thì tại sao con lại phải nhận lấy trách cứ đó, xem đó là chuyện cá nhân và nói: “Ồ, chắc tôi là người đã làm họ bực mình.”

Con đã không tạo ra ngã tách biệt của họ. Con không chịu trách nhiệm về các ngã đó, cho nên con không cần xem đó là chuyện cá nhân. Con không cần cảm thấy mình trách nhiệm. Con chỉ đơn giản nhận ra là không có gì nhắm vào cá nhân con. Họ mang một ngã tách biệt khiến họ bực bội, xong họ có một ngã tách biệt khác khiến họ nghĩ sự bực bội này không phải là lỗi của họ, mà là lỗi của con đã làm gì đó, cho nên ngã tách biệt này phóng lời trách móc vào con. Nếu không phải là con mà có ai khác đang đứng ngay đó thì họ đã phóng vào người kia. Không có gì cá nhân nhắm vào con. Cái họ phóng ra là chuyện cá nhân của họ, có nghĩa là con không phải nhận lấy và biến nó thành chuyện cá nhân của con.

Một khi con nhận diện được điều này, con có thể thực hiện bước kế tiếp, có lẽ là bước cách mạng hơn cả, và nói: “À, hóa ra không ai đã làm gì tôi cả.” Một đằng, thật sự không có ai đã bực bội với con hay trách móc gì con. Chỉ đơn giản là chuyện tâm lý chưa giải quyết của họ mà họ hướng về con. Vậy con có thể nói: “Thôi được, không có gì cá nhân trong lời trách móc đó, nhưng tôi vẫn cảm thấy buồn bực vì lời này.” Và con có thể nói: “Nhưng có phải là họ đã khiến tôi buồn bực không? Không. Tôi buồn bực là vì tôi có một ngã tách biệt mà tôi đã tạo ra trong quá khứ đang làm tôi buồn bực trong loại hoàn cảnh đặc thù này. Cho nên chẳng có ai đã làm gì tôi cả, vì điều duy nhất đã tác động đến tôi không phải là việc làm của người khác, mà là phản ứng của tôi đối với việc làm này. Chính trải nghiệm nội tâm của tôi về việc làm của họ đã tác động đến tôi, chứ không phải hành động vỏ ngoài của họ.” Con thấy đó, con yêu dấu, trong tâm con khởi lên sáng ngộ là có một sự khác biệt căn bản giữa những gì người ta làm bên ngoài bốn thể phàm của con và những gì xảy ra bên trong bốn thể phàm của con.

13.9. Trách nhiệm nội tâm của con

Một lần nữa, tuyệt đối không có sự chê trách nào ở đây. Khi con đi xuống tầng 48 và chạm trán với sự hung hãn của sa nhân, con chỉ có thể phản ứng dựa trên tầng tâm thức 48. Vì vậy con không thể tránh xem đó là chuyện cá nhân và tạo ra những ngã tách biệt để ứng phó. Tất cả các thày từng hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên cũng đã đều làm vậy. Không có lý do gì con phải tự trách mình đã làm vậy, nhưng con cần công nhận là con đã làm vậy. Sau đó con cần thực hiện một cuộc xoay chuyển, thật ra con cần nhận lãnh một loại trách nhiệm khác. Con không trách nhiệm về những việc con đã làm xuyên qua một ngã tách biệt, nhưng con trách nhiệm về việc tạo ra ngã tách biệt.

Con đã tạo ra ngã đó dựa trên tầng tâm thức của con lúc đó, nhưng giờ đây con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Cho nên con có thể xem lại ngã tách biệt này và nói: “Ta không còn cần đến mi nữa vì ngày hôm nay ta không phản ứng theo cách đó. Ngày hôm nay ta đã hiểu biết hơn, ta đã trưởng thành hơn, nhưng ta vẫn còn ngã này mà ta đã đem theo suốt bao nhiêu kiếp sống. Bây giờ là lúc ta nhìn thấy nó, bây giờ là lúc ta sa thải nó và như vậy ta khoá nó lại trong Ngọn lửa Từ bi, ta sử dụng Ngọn lửa Từ bi và tự giải thoát khỏi cái ngã có hình tướng này. Ta tự giải thoát để là sinh thể vô hình tướng mà ta là. Ta ngộ ra là cho dù có ai làm gì ta, ta không phải phản ứng lại theo một cách nhất định nữa. Ta không phải phản ứng theo cách quen thuộc trước kia nữa. Và trên thực tế, cho dù có ai làm gì ta thì ta không phải phản ứng lại.”

Có một ngã tách biệt vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Tất cả mọi người đã đem nó vào hào quang của mình và cho phép nó trú ngụ ở đó. Ngã tách biệt này bảo rằng khi có ai tiếp cận con thì con phải phản ứng, con phải đáp trả. Con không thể chỉ làm ngơ. Đâu là điều tệ nhất con có thể làm cho người khác? Đó là làm ngơ họ, không phản ứng gì hết. Con hãy nhìn bao nhiêu người giận dữ tiến đến con, trách móc con chuyện gì đó. Họ chờ đợi con sẽ phản bác lại hay cảm thấy bực dọc, họ chờ đợi con sẽ đáp trả. Con yêu dấu, một trong những điều buồn cười nhất con có thể chứng kiến trên trái đất là khi có một người như vậy tiến đến trách móc con nhưng con lại không phản ứng gì hết. Con nhìn xem điều gì xảy ra khi họ không nhận được phản ứng mà họ chờ đợi.

Con yêu dấu, con có quyền tự quyết. Các thày đã chẳng nhắc nhở con quá nhiều lần rồi sao, rằng con có quyền tự quyết? Sự kiện con đầu thai trong một đơn vị gia đình hay một nhóm nào khác, hay ngay cả khi con gặp người lạ ngoài đường, không có nghĩa là con phải phản ứng, phải hồi đáp lại họ. Nếu họ tiến đến, ném vào con một điều gì mà con cảm thấy không muốn hồi đáp, thì con có tự do không hồi đáp. Con có quyền tự do bước đi, không tương tác với họ cùng sự tiêu cực của họ. Đây là một quyền con có. Đây là một quyền mà rất rất ít người sử dụng. Những ai đã sử dụng quyền này thường bị dán nhãn là lập dị, là ích kỷ, là điên rồ – họ không đáp trả lại theo cách quen thuộc của người đời.

Thày không đang bảo là bây giờ con phải bắt đầu làm ngơ tất cả mọi người. Điều thày muốn nói là có lẽ một số các con có thể nhận diện được một số người trong vòng ảnh hưởng của mình luôn luôn tìm cách lôi kéo con vào một khuôn nếp tiêu cực, cuốn hút con vào một khuôn nếp cứ mãi lặp đi lặp lại với mục đích duy nhất là giành được sự chú ý của con để họ có thể đoạt lấy năng lượng của con. Con có quyền quyết định thật đơn giản: “Tôi sẽ không đáp lại chuyện này nữa.”

Sứ giả này trong suốt thời gian ông làm sứ giả đã gặp phải khá nhiều người đến với ông với đủ loại lý do, có khi họ muốn tương tác với ông một cách hùng hổ nào đó. Những năm đầu tiên, đó là một gánh nặng cho ông vì ông cảm thấy ông phải dễ thương với mọi người, phải cố giúp mọi người. Ông đã học được, phần nào qua kinh nghiệm cay đắng, là có những người mình không thể nào giúp được. Có những người mình sẽ không bao giờ thỏa mãn được vì họ không thực sự muốn thay đổi mà chỉ muốn lôi kéo mình vào tương tác với họ. Ông đã học được là ông có quyền nói: “Có những người tôi không thể giúp đỡ và tôi chọn không giao tiếp với họ. Ngay cả việc hồi đáp tôi cũng sẽ không làm.”

Con yêu dấu, đây là một quyền hạn mà con có. Khi con thực sự suy ngẫm điều này, nếu có ai đó đến gặp con, muốn lôi kéo con vào một khuôn nếp tiêu cực và con không hồi đáp thì con đang làm gì? Con đang từ bi với họ. Làm sao con lại từ bi? À, từ bi là gì chứ? Là khi con không cầm giữ một hình ảnh cố định về chính con hay về người khác. Và đây có một người đến gặp con với một tâm thái tiêu cực, muốn kéo con vào một cuộc tranh luận. Họ chờ đợi một sự hồi đáp nào đó từ con. Con nghĩ: “Tôi sẽ hoàn toàn không hồi đáp lại chuyện này, vì nếu tôi hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì tôi sẽ chỉ xác chứng cho ngã tách biệt đó và họ sẽ không thể nào nhìn ra ngã này, họ sẽ chỉ bị cuốn hút vào việc lặp lại khuôn nếp này mãi mãi. Nhưng nếu tôi không hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì có lẽ họ sẽ nhìn lại cách phản ứng của họ, họ sẽ ngạc nhiên và có cơ hội xem xét phản ứng đó rồi tự hỏi tại sao nó lại xảy ra. Chính điều này mới có tiềm năng giải thoát được họ. Nếu tôi hồi đáp theo cách họ chờ đợi thì đảm bảo họ sẽ không thoát ra được, nhưng nếu tôi hồi đáp theo cách họ không chờ đợi, ít ra có chút khả năng là điều này sẽ giúp được họ. Và đây chính là lòng từ bi” – mặc dù, tất nhiên. người kia sẽ không nhìn thấy như vậy, và kỳ thực họ có thể sẽ lên án con là người không từ bi nếu họ dùng từ ngữ này.

13.10. Tự thăng vượt là một tiến trình không ngừng

Khi con không cầm giữ trong tâm mình bất kỳ hình ảnh cố định nào về người khác, đó là từ bi. Hệ quả là con cũng không cầm giữ một hình ảnh cố định nào về cách con hồi đáp như thế nào, ngay cả khi con đã quen biết những người đó cả đời. Con có thể chọn làm điều gì đó mà con chưa từng làm bao giờ. Con có thể chọn một cách hồi đáp mới lạ, khác hẳn cách hồi đáp trước kia của con, và đây là từ bi. Con yêu dấu, con sẽ không từ bi với chính con nếu con nghĩ rằng khi con tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên thì vào lúc đó con đã có một trạng thái tâm thức khả dĩ hiểu được trọn vẹn sự sâu sắc của giáo lý. Điều này không từ bi. Đó là hiểu lầm con đường tâm linh, vì con đường này là một tiến trình tự thăng vượt không ngưng nghỉ.

Có những người tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hay một giáo lý nào khác, và họ có một ngã tách biệt chặn đứng tầm nhìn của họ về nhu cầu tự thăng vượt không ngưng nghỉ. Kỳ thực, ngã này cho rằng toàn bộ mục đích của việc tìm ra giáo lý của chân sư thăng thiên là để xác chứng cho hình ảnh cao trội mà họ, hay ngã của họ, cầm giữ. Có những người đã bước vào giáo lý của chân sư thăng thiên, đã đi theo suốt mấy chục năm trời, nhưng mục tiêu duy nhất của họ là dùng giáo lý để xác chứng niềm tin là họ cao trội hơn người khác, cho dù là người bên ngoài giáo lý hay một người đồng môn trong cùng giáo lý. Các thày đã chứng kiến trong các tổ chức trước đây những người lập ra một đẳng cấp rõ rệt gồm các đệ tử đã theo giáo lý lâu năm nhất, gần gũi với sứ giả nhất, hay nắm giữ một địa vị nào đó trong tổ chức. Họ lập ra đẳng cấp đó mà chúng ta chỉ có thể gọi là một hàng ngũ giả trá, con yêu dấu, vì ý niệm cho rằng mình cao siêu hơn mọi người không đến từ các chân sư thăng thiên.

Có những bè phái được hình thành gồm những kẻ cho mình có đẳng cấp cao hơn mọi người khác. Đôi khi đây là những người đã theo học giáo lý của chân sư thăng thiên hàng 30, 40 năm nhưng họ vẫn chưa bắt đầu nhìn ra ngã này, có nghĩa là trong một số trường hợp, họ đã tiến bộ rất ít trong suốt 30, 40 năm trời họ tưởng họ đã đi theo và áp dụng giáo lý của chân sư thăng thiên.

Vậy các thày có làm được gì không trước sự thể này? Không, các thày không thể làm gì một cách trực tiếp, nhưng ít ra các thày có thể trình bày công khai là chuyện này có thể xảy đến cho con người. Luôn luôn có tiềm năng sẽ có những người sẵn lòng nhìn ra điều này, mặc dù nó thường rất khó khăn cho họ vì họ đã quá phê phán người khác trong một thời gian rất dài. Con yêu dấu, đâu là cạm bẫy lớn nhất trong thái độ phê phán này, một thái độ hiển nhiên thể hiện lòng phi từ bi? Đâu là cạm bẫy lớn nhất khi họ phê phán người khác? À, nó luôn luôn dựa trên thái độ xem mình là cao trội. “Tôi hiểu biết hơn, tôi có trình độ cao hơn, tôi là một đệ tử cao cấp hơn bạn, cho nên tôi có thể phê phán bạn và điều này hoàn toàn chấp nhận được. Thật ra việc tôi phê phán bạn sẽ rất tốt cho bạn.” Đây là những gì họ cảm thấy và nó khiến họ cảm thấy cao trội. Bây giờ nếu họ nhận ra là thái độ phê phán này cần ra đi, rằng nó không phải là cao nhất, thì họ sẽ nhìn sự việc như thế nào? À, họ sẽ nhìn nó xuyên qua cùng trạng thái tâm thức đã khiến họ phê phán người khác. Có nghĩa là giờ đây, họ sẽ bắt đầu phê phán chính họ cũng nghiêm khắc y như họ đã phê phán người khác.

Một số người sẽ không thể vượt được bước này trong kiếp này. Có những người – không cứ là đệ tử của chân sư thăng thiên vì con có thể tìm thấy họ khắp mọi nơi, trong lãnh vực khoa học hay tôn giáo chẳng hạn – đã khóa chặt mình lại trong niềm tin cao trội này và để khắc phục nó, họ sẽ phải tự phê phán bản thân cũng nghiêm khắc y như họ đã phê phán người khác. Họ không thể chịu nổi nỗi đau của sự phê phán cho nên họ rơi vào tâm thái phủ nhận nó cho đến hết kiếp này, có nghĩa là họ sẽ không tiến bộ gì hết. Đối với một số, họ có thể bứt ra khỏi thái độ này ở giữa hai kiếp sống. Tức là ở thời điểm họ chọn kiếp đầu thai kế tiếp giữa hai kiếp sống, họ sẽ chọn đầu thai trong những hoàn cảnh thật khiêm tốn, không mang địa vị mà còn bị trấn áp để họ có thể khắc phục niềm tin cao trội.

Tại sao thày lại trình bày điều này? Là vì thày cầm giữ Ngọn lửa Từ bi cho trái đất. Không có một đặc tính nhân gian nào mà Ngọn lửa Từ bi không thể tiêu hủy, không thể giúp con khắc phục. Nếu con nhận ra: “Tôi đã quá xét đoán người khác,” thì con đừng ngần ngại đến gần thày. Thày sẽ không phê phán con như con đang tự phê phán mình. Thày sẽ giúp con khắc phục cảm nhận cao trội, khắc phục cảm nhận phê phán bản thân, bởi vì đó là một ngã tách biệt. Có một ngã tách biệt cho con nhu cầu muốn cảm thấy hơn người, có một ngã tách biệt cho con nhu cầu phê phán. Hai ngã này làm việc đồng hành với nhau và khi chúng phối hợp thì chúng có thể khó khắc phục. Việc khắc phục sẽ không thể xảy ra nếu con không có thuốc giải độc là Ngọn lửa Từ bi.

13.11. Ngọn lửa Từ bi là khung tham chiếu của con

Nhưng này con, cùng điều này có thể áp dụng cho tất cả các con. Tất cả các con đều mang một cái ngã tự phê phán bản thân, và tất cả các con đều mang một cái ngã khác phản ứng lại sự trấn áp của sa nhân, là khi con cố tự cổ võ và con nói: “Phải, có thể là đôi khi tôi đã lầm lỗi, nhưng chắc chắn tôi không hoàn toàn vô giá trị, tôi có một số đặc tính tốt.” Con sẽ thấy rất nhiều người khi họ tìm thấy đường tu tâm linh, họ cần đến một sự công nhận kiểu đó. Đó là tại sao, chẳng hạn, họ xem bói toán hay chiêm tinh học hay bất cứ gì khiến họ nổi bật giữa đám đông. Họ cảm thấy: “Vì tôi có những con số đặc biệt này trong tên tôi hay những chùm sao này trong tử vi của tôi, cho nên tôi cũng tốt.”

Điều này cũng tốt thôi. Ở một giai đoạn nào đó trên đường tu, đó là một nhu cầu chính đáng, nhưng làm thế nào con sẽ khắc phục được chuyện này trừ khi, như thày vừa nói, con bắt đầu có lòng từ bi đối với chính con? Khi con neo trụ vào Ngọn lửa Từ bi, con nhận ra chính xác là tất cả những chuyện vỏ ngoài đó là không thực. Và vì chúng không thực cho nên chúng không quan trọng gì.

Như các thày đã có nói trước đây, con có nhu cầu đạt tới điểm con có thể nhìn vào một sự việc trên trái đất, một việc gì đó mà con đã làm trên trái đất, và nói: “Thì đã sao đâu? Thật không quan trọng, không quan trọng gì hết.” Điều này có thể khó thực hiện trừ khi con có một khung tham chiếu, và con yêu dấu, Ngọn lửa Từ bi có thể cho con khung tham chiếu này. Con ngộ ra là so với Ngọn lửa Từ bi – là một cái gì vô cùng thực một khi con trải nghiệm nó – tất cả mọi chuyện phù phiếm kia của nhân gian đều không thực. Chúng hoàn toàn vô nghĩa.

Con có hiểu điều thày đang nói ở đây? Thày không nói là thày không quan tâm đến con trong hoàn cảnh hiện tại của con. Thày luôn luôn thấy con là nhiều hơn bất kỳ hoàn cảnh vỏ ngoài nào con gặp. Cho nên thày thấy rõ là con có khả năng thoát ra khỏi nó. Thày cũng biết – và như các thày đã có nói, tất nhiên điểm này là bí quyết của giáo lý các thày đã trao con – rằng con sẽ không thoát ra khỏi hoàn cảnh hiện tại của con bằng cách làm một cái gì đó hay bằng cách giải quyết một vấn đề.

Như các thày đã giảng nhiều lần, ngã tách biệt phóng chiếu ra là có một vấn đề phải giải quyết hay một điều kiện nào đó cần thay đổi. Nhưng cho dù con có giải quyết vấn đề, con vẫn sẽ không thoát khỏi ngã tách biệt, và nó sẽ chỉ phóng thêm một vấn đề nữa. Giải pháp duy nhất là con bước ra ngoài ngã tách biệt và buông nó ra.

Thày cống hiến cho con Ngọn lửa Từ bi của thày để giúp con trong tiến trình này. Bất cứ khi nào con phải đương đầu với một ngã tách biệt, con chỉ cần hỏi thày. Con chỉ hỏi thày: “Quan Âm, hãy giúp con nhìn ra điều này. Quan Âm hãy giúp con trải nghiệm Ngọn lửa Từ bi, giúp con có được tầm nhìn, giúp con thấy được như thày đang thấy. Giúp con có được khung tham chiếu qua việc trải nghiệm sự thực của Ngọn lửa Từ bi và sự không thực của thân phận con người.”

Con yêu dấu, thật là một niềm vui rất lớn cho thày được hòa điệu với con theo cách này, nhưng sẽ là một niềm vui lớn hơn nữa nếu mỗi cá nhân con có thể thỉnh thoảng chú ý đến thày chút xíu và cho phép thày hòa điệu trực tiếp với con ngay trong tim con, một điều mà thày hoàn toàn có khả năng làm được. Tất cả các con đều có khả năng làm được nếu con chỉ dành ra một chút chú ý, có lẽ nỗ lực bước vào một tâm thái trung hòa nơi con cho phép nó trải bày ra tự nhiên thay vì mang sẵn định kiến. Nếu trước đây con chưa thể hoà điệu với thày, con hãy cố gặp thày với một tầm nhìn mới. Con hãy cố giải phóng thày, cố giải phóng con, và gặp thày như một con người mới, và sẽ tới một điểm con sẽ trải nghiệm được Hiện diện của thày nơi con.

Thoát khỏi tinh thần trốn tránh

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 24/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày rất vui mừng chào đón con ở tầng cuối cùng của khóa nhập thất của thày. Thày muốn bắt đầu bằng cách duyệt lại những gì thày nói về quan hệ giữa con người trong bài giảng trước. Con nhận ra, khi con đứng lui lại và nhìn các quan hệ giữa con người, thì đại đa số (và thày muốn nói hơn 90 phần trăm) dựa trên, bị thúc đẩy bởi, bị kiểm soát bởi phàm linh nội tại trong những con người liên hệ. Con có thể nhìn tình trạng nhiều gia đình và con thấy sự tương tác giữa những thành viên hoàn toàn bị điều khiển bởi các phàm linh nội tại mà họ đã tu bồi, có khi trong nhiều kiếp. Rất hiếm khi, hay không bao giờ, trong suốt một đời người có những giây phút sáng suốt khi con người liên hệ với nhau một cách trực tiếp, cởi mở, không có phin lọc.

Con thấy là trong nhiều quan hệ tình yêu khi hai người mới gặp nhau và yêu nhau, họ có thể có một giai đoạn cởi mở với nhau. Sau đó, khi mối quan hệ trở nên ổn định, thì phàm linh giành quyền điều khiển. Lẽ tự nhiên, như một đệ tử chân sư thăng thiên, con có thể nhìn các sự kiện này và nói: “Tôi không muốn cả đời còn lại của tôi bị điều khiển bởi phàm linh, trong đó tôi lúc nào cũng phản ứng lại phàm linh của người khác qua phàm linh nội tại của chính tôi.” Lẽ tự nhiên, con muốn cố gắng và dùng những dụng cụ mà các thày đã cung cấp để vượt lên trên những phàm linh mà con có trong các mối quan hệ với người khác.

16.1. Giải thoát khỏi áp lực bên trong

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhìn vào: “Quan hệ của tôi với các chân sư thăng thiên, với con đường tâm linh là gì? Cách tôi quan niệm con đường tâm linh có bị phàm linh ảnh hưởng chăng?” Lẽ dĩ nhiên là phần nào. Trong bài giảng trước, thày có nói là thày muốn giải thoát con khỏi mọi áp lực con cảm thấy khi là đệ tử chân sư thăng thiên đang trên con đường đi tới thăng thiên. Nếu con đứng lui lại và nhìn vào chính mình một cách thành thực, con sẽ thấy là con có một số căng thẳng về điều con phải làm và không được làm khi là đệ tử chân sư thăng thiên.

Ta đã thấy trong quá khứ có tổ chức do chân sư thăng thiên bảo trợ đã dựng lên một văn hóa tập thể dựa trên một số quy luật vỏ ngoài quy định thành viên phải làm gì và không được làm gì. Kết quả là cả tổ chức bị bao trùm bởi một phàm linh tập thể khiến họ phán xét lẫn nhau dựa trên các tiêu chuẩn vỏ ngoài đó. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tổ chức tôn giáo, nhưng con cũng thấy nơi nhiều tổ chức chính trị, và trong nhiều khung cảnh khác, trong đó, dĩ nhiên, có gia đình. Con thấy là trong thế giới có khuynh hướng đặt ra một tiêu chuẩn cư xử cho thành viên của một nhóm người, và sau đó phán xử những người không tuân theo chuẩn mực hay sự chờ đợi của tập thể.

Con yêu dấu, con có quyền tự quyết và thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Lẽ dĩ nhiên, con được phép liên hệ với các chân sư thăng thiên với khuôn nếp hiện nay qua một phàm linh nội tại được tạo ra theo một phàm linh tập thể. Tuy nhiên, nếu con muốn tiếp tục quan hệ với các vị thày tâm linh trên căn bản những phàm linh nội tại và phàm linh tập thể đó, thì thày có một yêu cầu. Con hãy để các thày, các chân sư thăng thiên, ra ngoài các trò chơi tâm lý khuynh đảo nhỏ bé của con. Con hãy tìm các thày khác để chơi các trò chơi này với con vì các thày không muốn chơi các trò chơi này.

Chúng ta đã tới điểm trong khóa tu này là nơi tất cả các thày muốn con phải đối diện nhu cầu ngưng các trò chơi này. Con hãy ngưng liên hệ với các thày qua các trò chơi thế gian này, thường do sa nhân xúi giục. Con hãy tạo dựng một quan hệ cá nhân trực tiếp hơn qua đó con tới với các thày với tâm cởi mở và ngây thơ và không nhìn các thày qua các phin lọc. Lẽ dĩ nhiên, có nhiều phàm linh tập thể mà con người đã tạo ra với các vị thày, các khuôn mặt uy quyền, và với người khác. Trong khóa tu học này, các thày đã cho con dụng cụ để nhìn thấy chúng, nhận diện chúng và vượt lên trên chúng. 

Thày muốn con, khi con hoàn tất tầng này của khóa học, dành một chút thì giờ trước khi con bắt đầu tầng thứ bảy với thày Saint Germain để xem xét quan hệ của con với chân sư thăng thiên, nhìn vào các phàm linh mà con có liên quan đến các thày, và sẵn sàng đuổi chúng đi. Thày làm điều này vì sáu vị Thượng sư đầu có mục tiêu chuẩn bị con cho những khai ngộ mà con sẽ nhận được từ Saint Germain. Những khai ngộ này rất liên quan đến cách con thực thi khả năng đồng sáng tạo. Để con thực thi trọn vẹn khả năng đồng sáng tạo, lẽ tự nhiên con cần phắc phục những ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp ngăn cản con không trở nên hoàn toàn sáng tạo vì con nghĩ cách duy nhất để sáng tạo là biểu lộ mình qua một phàm linh nội tại.

Lẽ dĩ nhiên, con không thể thực sự sáng tạo nếu con tìm cách sáng tạo qua một phàm linh nội tại. Con chỉ thực sự sáng tạo khi con đã sạch phàm linh nội tại tới mức có một kẽ hở để ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con chiếu qua và thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su nói: “Tự riêng ta (cái ta thấp, bốn thể phàm) không làm gì được. Chính là Cha ta (Hiện diện TA LÀ) trong ta làm công việc.”

16.2. Một phiên bản đặc biệt của phản ứng tháo chạy

Ở tầng cuối mà thày đi với con trên con đường tu, thày muốn nói tới một cơ chế khác đã được các tâm lý gia nhận diện. Thày đã nói tới một cơ chế muốn trốn tránh một số chuyện là tư duy thần diệu qua đó con coi mình là trung tâm vũ trụ và coi mọi việc như xảy đến cá nhân mình. Bây giờ thày muốn nói tới một cơ chế khác mà các tâm lý gia đã gọi là phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. 

Ngày hôm nay, nếu con nhìn vào nhiều người trên thế gian thì con thấy là họ tương tác với người khác dựa trên phản ứng chiến đấu. Con người rất, rất nhạy cảm và họ coi mọi việc hướng đến cá nhân họ, do đó họ rất dễ cảm thấy chính cá nhân họ bị tấn công. Khi hó cảm thấy bị tấn công, họ cảm thấy phản ứng tự vệ và đánh trả lại là chính đáng. Họ tự vệ bằng cách đánh lại người kia. Con thấy trong rất nhiều cuộc cãi vã khi một người nói điều gì khiến người kia cảm thấy bị tấn công. Người đó tấn công lại và cuộc cãi vã tiếp tục cho tới khi cả hai cạn tiệt năng lượng (trong nhất thời) và mỗi người đi một nẻo. Nhiều khi, họ trở lại sau đó và tiếp tục cãi vã khi họ đã phục hồi năng lượng.  

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên hiện tượng này do phàm linh nội tại và một số phàm linh tập thể rất dũng mạnh thúc đẩy. Thày muốn con nhận ra là con là một người tâm linh và con đã là một người tâm linh trong nhiều kiếp. Nhiều người trong số các con đang theo học khóa học này đã đi trên con đường tâm linh từ 2000 năm nay, từ khi Giê-su trao truyền giáo lý về chìa má bên kia, thương yêu kẻ thù, làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình. Con đã cố hết sức theo giáo lý vỏ ngoài của Cơ đốc giáo và con đã tìm cách chế phục phản ứng chiến đấu trong con mà nó cũng ngự trị trong tâm nhiều người trên trái đất. Phản ứng chiến đấu này, lẽ dĩ nhiên, lúc đầu do một phàm linh bên ngoài tạo ra, và phàm linh đã có từ rất, rất lâu trên hành tinh này và do đó đã trở nên rất dũng mãnh. Nó đã được liên tục củng cố và ngày nay vẫn được củng cố bởi những người hành xử như vậy. 

Nhiều người trong số các con, trong suốt 2000 năm qua, đã cố gắng tự giải thoát mình khỏi khuynh hướng đó. Tuy nhiên, vì giáo lý của Giê-su bị bóp méo và tha hóa và vì quá nhiều phần bị loại bỏ, con không nhất thiết đã làm đúng theo những gì Giê-su chỉ dạy. Lẽ dĩ nhiên, Giê-su muốn con đi trên con đường của quả vị Ki-tô trực tiếp với thày trong 2000 năm qua. Nhiều người trong các con đã không tìm được con đường này vì giáo lý vỏ ngoài của Giê-su bị bóp méo và vì các phong trào thần bí bí truyền bị Cơ đốc giáo đàn áp.

Con cần nhận ra là con có phản ứng bản năng theo mô thức chiến đấu hay tháo chạy khi con đối diện sự hung hãn của người khác. Lẽ dĩ nhiên, có một lối phản ứng khác dựa trên quả vị Ki-tô, nhưng khi con chưa thấy con đường của quả vị Ki-tô, con thường không thể thấy làm sao con có thể đáp ứng một cách trực tiếp khi bị tấn công. Do đó, đa số các con đã đi vào khuynh hướng cảm thấy không bao giờ được tỏ ra hung hãn, lúc nào cũng phải chìa má bên kia, làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình, tránh hung hãn khi con chạm mặt sự hung hãn.

Dựa trên hiểu biết vỏ ngoài đã lưu hành sau khi các giáo hội Cơ đốc giáo méo mó được thành hình, thì đây là một phản ứng chừng mực và thực tiễn. Con không thể làm gì khác. Việc con tự kỷ luật mình để không phản ứng một cách hung hãn, không ăn miếng trả miếng, là một thái độ xây dựng. Tuy nhiên, con cần nhận ra là khi con không thể đáp ứng trực tiếp với sự hung hãn, con khó tránh chuyển qua phản ứng tháo chạy. Phản ứng tháo chạy, lẽ dĩ nhiên, là khi con tìm cách tránh xa điều kiện mà con cảm thấy khó khăn hay không chịu được. Con tìm cách tránh xa người tấn công con. Điều này đã phần nào dẫn tới khuôn nếp né tránh mà thày có nói tới trong bài giảng trước, nhưng đề tài này có nhiều khía cạnh hơn nữa.

16.3. Một lối thoát do sa nhân cống hiến

Con yêu dấu, nếu con xem xét 144 tầng tâm thức, thì con thấy là giáo lý mà Giê-su trao truyền 2000 trước đây, là giáo lý vỏ ngoài được ghi lại trong kinh điển, đã thực sự nhắm vào những người có tâm thức dưới tầng 48 nhưng không quá xa tầng 48. Giáo lý được trao truyền với mục đích giúp con người mau chóng vươn lên tầng 48, và sau đó bắt đầu đi theo con đường dẫn tới tầng 96. Điều con cần nhận ra là ở mỗi tầng tâm thức từ 48 đến 96, có một ảo tưởng mà con cần vượt qua. Con cần chế phục một phàm linh tập thể và một phàm linh nội tại trong tâm con.

Ở mỗi tầng con đối diện một thử thách. Thí dụ, khi con ở tầng tâm thức 48, con nhìn đời xuyên qua một phin lọc nào đó. Có nghĩa là khi con chạm mặt một hành động nào đó từ người khác, con có khuynh hướng coi đó là một hành động hung hãn. Ở tầng 48, có một dạng phản ứng chiến đấu hay tháo chạy bình thường ở tầng đó. Ở tầng 48, nếu con có phản ứng chiến đấu thì con sẽ có hành động hung hãn dựa trên cảm xúc tức giận của mình. Rất có thể con sẽ tự bảo vệ khi bị tấn công vật lý.

Lúc đó, nếu con theo lời dạy của Giê-su khuyên nên tránh hung hãn vật lý (con nên chìa má bên kia, con không nên hung hãn) thì con sẽ làm gì? Con sẽ theo phản ứng tháo chạy, cũng bình thường ở tầng 48. Con không thể làm gì khác. Thày không nói điều này để chê trách con; ai ai trong chúng ta đều đã phản ứng như vậy. Điều con cần nhận ra là sa nhân rất xảo quyệt. Thày có nói là họ thích tạo chia rẽ ngay trong tâm con. Họ muốn đẩy con người tới chỗ không kiểm soát được đời sống của mình, tâm hoàn toàn hỗn loạn. Lúc đó, sa nhân có thể bất cứ lúc nào khuấy động họ để họ trở nên tức giận hay phản ứng một cách bất quân bằng. Có người tới điểm giản dị từ chối không chịu chơi trò chơi này nữa. Sa nhân làm gì với những người này? Nếu sa nhân không thể đẩy con người vào phản ứng chiến đấu, thì họ rất xảo quyệt đẩy con người vào phản ứng tháo chạy.

Một mặt sa nhân đưa con gặp một hoàn cảnh hung hãn khó chịu mà hầu như con không thể thoát được trong cõi vật lý. Vì họ không thể khiến con đánh lại, họ cho con một lối thoát khỏi điều kiện mà chính họ đã tạo ra. Như thày có giảng, một số có khuynh hướng theo phản ứng chiến đấu. Họ bị sa nhân làm kẹt trong khuôn nếp phản ứng hung hãn chống lại một hành động hung hãn. Những người không theo khuôn nếp này, thì họ theo (thường khi một cách vô ý thức) một lối thoát mà sa nhân cống hiến ở tầng tâm thức của họ. Điều thày muốn nói là nếu con nhìn vào các tầng tâm thức từ 48 đến 96 (và các tầng tâm thức dưới tầng 48 cũng vậy) thì con thấy ở mỗi tầng có một cơ chế trốn tránh qua đó con trốn tránh hoàn cảnh mà ở tầng đó con cảm thấy không chịu nổi, không thể đối phó nổi.

Con không thể đánh lại hoàn cảnh; con không thể sống mà phải gặp nó hoài do đó con tìm một lối thoát, một cách tránh xa nó. Các cơ chế trốn tránh này ở đâu? Có nhiều ở cõi vật lý. Con có thể thấy, tỷ dụ (thày nghĩ con có thể nhận ra dễ dàng) là chất ma túy và rượu là một trong những cơ chế trốn tránh cơ bản. Có những cơ chế trốn tránh vật lý khác, tỷ dụ như trong thời Trung cổ, con người xây lâu đài và thành quách để họ có thể sống sau những bước tường dày và cảm thấy được bảo vệ khỏi sự hung hãn. Con người cũng tìm cách tránh xa hiểm nguy tiềm tàng bằng cách dời tới những nơi hẻo lánh. Có nhiều người, tỷ dụ, đã bị dính dấp vào chiến tranh và xung đột trong kiếp này hay kiếp trước, nên đã tìm về sống như nông dân ở vùng hẻo lánh để không phải gặp chiến tranh trong kiếp sống này.

Lẽ dĩ nhiên, không có gì sa nhân làm ở cõi vật lý chỉ đơn thuần ở cõi vật lý, do đó họ cũng tạo cơ chế trốn tránh, hay cõi trốn tránh, ở cõi trung giới, cõi cảm xúc, cõi lý trí và ngay cả phần thấp của cõi bản sắc. Con có thể thấy là nhiều người đã tìm ra cách tự bảo vệ khỏi những hình thức hung hãn tệ hại nhất trong kiếp sống này. Con có thể thấy nhiều người trong các nước tiên tiến là nơi hiểm họa chiến tranh rất thấp, đã sống cuộc đời thoải mái, an toàn. Con cũng thấy những người đại phú sống trong những nơi gọi là cộng đồng đóng rào là nơi người khác không thể giản dị bước vào mà cần phải được phép. Có nhiều thí dụ con người đã tìm cách sống cách ly vật lý. Tuy nhiên, không có hành động nào đơn thuần vật lý, do đó có chuyện xảy ra trong tâm song song với hành động vật lý. Hay đúng hơn, ta có thể nói là một phản ứng trong tâm thức đã tạo ra hành động vật lý.

16.4. Trốn tránh trong tâm

Phản ứng trong tâm này được tạo thành như thế nào? Nó được tạo ra khi con có một ước muốn. Con lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm điều này nữa.” Vì con không thể hành động hung hãn chống điều đó, nên con đi vào cơ chế trốn tránh, cơ chế tháo chạy, qua đó con tìm cách trốn tránh khỏi nó trong tâm. Con chấp nhận một phàm linh tập thể, con tạo ra một phàm linh nội tại cho con (trong tâm con) một lối thoát hay một cảm giác khuây khỏa khỏi điều kiện vật lý mà con không muốn đối mặt nữa.

Con cần nhận ra là ở mỗi tầng từ 48 đến 96, có một cơ chế trốn tránh sẽ, nếu con dùng nó, buộc con vào cõi trung giới, cõi tư tưởng hay cõi bản sắc. Con bị buộc vào cõi trốn tránh của sa nhân, nơi đó con cảm thấy khuây khỏa và an toàn khỏi một số điều kiện. Con sẽ thấy, tỷ dụ, là ở cõi xúc cảm con được cho cảm giác là nếu con có đủ tiền, con sẽ được bảo vệ. Con thấy có nhiều người giàu có bị trói buộc rất chặt vào cõi này trong thể cảm xúc của họ, và họ cảm thấy an toàn khi họ có đủ tiền. Lẽ dĩ nhiên, thật ra thì không phải là tiền giúp họ cảm thấy an toàn. Đó là một cảm giác, và cảm giác này có trong thể cảm xúc của họ, nhưng nó được tăng cường bởi cái cõi trốn tránh trong thể cảm xúc của hành tinh. Có những sa nhân, tà linh và quỷ dữ ở nơi đó khiến con người cảm thấy an toàn vì như vậy họ bị ru ngủ và không đi trên con đường tới quả vị Ki-tô là nơi họ có thể tìm thấy con Đường Ki-tô, con Đường Tâm linh dựa trên Ki-tô giúp họ đáp ứng những điều kiện mà họ muốn tránh.

Thày không muốn nói là con cần đi trở ngược và xem xét mỗi tầng từ 48 đến 96 và tìm ra cơ chế trốn tránh của con. Thông thường thì con không còn một cơ chế trốn tránh ở mỗi tầng, nhưng con cũng còn một số hình thức của cơ chế trốn tránh.  Điều này, lẽ dĩ nhiên, dính liền với điều thày nói ở đầu bài, là cách con chơi một số trò chơi với ý tưởng thày giáo. Con yêu dấu, thực tế đơn giản là nhiều người đã dùng giáo lý tôn giáo hay tâm linh làm căn bản của cơ chế trốn tránh cá nhân của họ.

Con có thể thấy những hình thức cực đoan của hiện tượng này, tỷ dụ như các nhóm Cơ đốc giáo cực chính thống tin chắc là chỉ mình họ có cách diễn giải Thánh kinh chính xác. Họ nghĩ rằng vì niềm tin này, họ được bảo đảm sẽ được cứu rỗi. Nhiều người trong các nhóm đó tin rằng sự cứu rỗi đã gần kề vì bất cứ lúc nào Giê-su sẽ hiện ra trên trời, mang họ lên thiên đàng, gửi hết các người còn lại xuống địa ngục và sau đó cuộn thế giới lại như một cuộn giấy. Đây là cơ chế trốn tránh của họ. Có một số điều kiện trên thế giới mà họ không đối phó nổi, và để tránh giải quyết những vấn đề này, họ tạo ra niềm tin là bởi vì họ thuộc vào nhóm tôn giáo vỏ ngoài đó, họ sẽ được cứu rỗi. Niềm tin này khiến họ cảm thấy an toàn.

Con hiểu chăng là mục đích của bất cứ cơ chế trốn tránh nào là khiến con cảm thấy an toàn. Nó cũng ngăn cản con thăng vượt chính mình vì nếu con cảm thấy an toàn, thì tại sao con lại cần thăng vượt chính mình và đi trên con đường quả vị Ki-tô? Con chỉ cần ở lại tầng tâm thức đó và chờ vị cứu tinh bên ngoài tới và cứu con.

Con có thể thấy tín đồ nhiều tôn giáo khác cũng đã làm tương tự. Nếu con nhìn giáo lý của các nhóm Thời đại mới, con sẽ thấy là nhiều người đã chế ra những giáo lý chỉ giản dị là cơ chế trốn tránh. Con hãy lấy thí dụ sự cuồng loạn xảy ra trước năm 2012 vì có nguời cho rằng lịch cổ của người Maya chấm dứt vào năm đó. Con có thấy là biết bao nhiêu người tin rằng một biến cố trọng đại sẽ xảy ra, và vì họ là những người đã tiên đoán trước nên họ sẽ có một địa vị nổi bật sau đó. Đây là một cơ chế trốn tránh khiến con người cảm thấy an toàn, giúp họ cảm thấy họ có thể đương đầu được với đời sống trên trái đất lúc này vì họ đã tạo ra trong tâm trí họ hoàn cảnh sẽ xảy ra trong tương lai gần hay xa.

16.5. Con không cần cơ chế trốn tránh nữa

Thực tế là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất khó khăn. Có nhiều điều kiện trên trái đất khó đối phó ở mặt tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Để có thể sống ở đây, gần như không tránh được việc con cần tạo ra một cơ chế trốn tránh để con có thể cảm thấy yên ổn, an toàn. Con có thể cảm thấy phần nào quân bằng trong thế giới rất khó khăn này.

Con yêu dấu, một lần nữa thày không chê trách con. Không có gì đáng chê trách khi con tạo ra một cơ chế trốn tránh. Thày chỉ giản dị nói là ở tầng này của con đường tu, khi con chuẩn bị có liên hệ trực tiếp với Saint Germain và học cách sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình, đã đến lúc con nhìn vào các cơ chế trốn tránh hiển nhiên nhất của con và nhận ra con không cần chúng nữa ở tầng tâm thức này. Khi con đã đạt được một tầng quả vị Ki-tô nào đó, thì con không cần cơ chế trốn tránh nữa vì các điều kiện thế gian mà con cảm thấy không thể đương nổi khi con ở tầng tâm thức 48 hay thấp hơn, nay con không còn cảm thấy như vậy nữa.

Khi con đã có phần nào phân biện Ki-tô, con có thể đối phó với hoàn cảnh một cách xây dựng mà không cảm thấy quá tải. Con yêu dấu, nếu ta nói một cách thẳng thắn không vị nể, thì nếu con nhìn vào phong trào Thời đại mới, thì 98 phần trăm sinh hoạt của các nhóm đó chỉ là cơ chế trốn tránh. Điều này có vẻ sửng sốt, và nhìn dưới góc độ nào đó nó quả thật sửng sốt. Lẽ dĩ nhiên, khi con nhìn vào các tôn giáo chính thức thì tình hình cũng tương tự. Khi con nhìn vào các tổ chức chính trị, thì cũng tương tự. Nhiều người trong hai trăm năm qua tin vào chủ nghĩa Mác-xít qua nhiều hình thức cũng đã tự tạo cho họ một cơ chế trốn tránh. Có người khác cũng làm như vậy bằng cách suy tưởng một xã hội lý tưởng tương lai và họ là người tiên phong vì chỉ có họ mới thấy ra tương lai đó.

Như phần nối dài của bảy khai ngộ mà con đã nhận từ thày và các khai ngộ mà con đã nhận từ các Thượng sư khác, thày cần con sẵn sàng đứng lui lại và xem xét cơ chế trốn tránh cá nhân của con. Như một chuẩn bị để bắt đầu các khai ngộ với Saint Germain, thày cần con xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố một cơ chế trốn tránh sẵn có mà con đã mang trong nhiều kiếp.

Một trong những cơ chế trốn tránh chính yếu của những tín đồ tôn giáo là niềm tin rằng tôn giáo của họ có chân lý duy nhất, tuyệt đối hay cao nhất. Niềm tin này khiến họ cảm thấy khác những người không thuộc tôn giáo họ. Nó khiến họ tin rằng họ là những người được bảo đảm cứu rỗi trong khi những người khác thì có thể sẽ không được cứu rỗi hay chắc chắn sẽ không được cứu rỗi.

16.6. Trốn tránh không nhìn vào chính mình

Con có thể thấy là cơ chế trốn tránh cho con người một cái cớ để nói: “Nhưng tôi thuộc vào phong trào vỏ ngoài này, tôi tin vào giáo lý vỏ ngoài này, tôi không làm những chuyện họ nói tôi không được làm, và tôi làm hầu hết các chuyện mà họ nói tôi phải làm. Do đó, tôi là một thành viên ngoan đạo của giáo lý vỏ ngoài này, và do đó tôi không cần xem xét một số điều trong tâm lý của tôi. Tôi không cần nhìn vào cái đà trong chính mắt tôi.”

Đây là tác động chính yếu của các cơ chế trốn tránh đặc biệt áp dụng cho tôn giáo. Phàm linh tập thể này rất, rất mạnh trên hành tinh này. Con không thể nào đã đầu thai trên hành tinh này, bất kể dài lâu, mà không bị nó ảnh hưởng. Thày đặc biệt nói với con, như thày đã nói trước đây, là nhiều người trong các con đã chấp nhận lý tưởng không hung hãn của Cơ đốc giáo mà không nhận được trọn vẹn giáo lý về quả vị Ki-tô. Do đó con cảm thấy bị mắc kẹt, con cảm thấy bất lực. Con bị đặt vào hoàn cảnh hung hãn nhưng con không thể phản công một cách hung hãn, do đó con cảm thấy lý tưởng tôn giáo của mình đã khiến mình bất lực.

Kết quả là con cảm thấy cần trốn tránh điều mà con không thể thay đổi, điều mà con không thể đối phó. Điều mà các thày, cả sáu Thượng sư, đã dạy con trong khóa này là con không bao giờ bất lực. Không có hoàn cảnh nào trên trái đất mà con không thể đối phó được bằng cách khắc phục phàm linh nội tại đã khiến con phản ứng lại điều kiện đó với phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. Con thấy là con cần nhìn: “Đâu là những điều kiện trên trái đất mà con cảm thấy con không thể đối phó được, con không thể sống với?” Khi con nhận ra điều kiện đó thì con có thể bắt đầu nhận diện cơ chế trốn tránh mà con đã tạo ra để tới điểm biết là mình đang hiện thân ở cõi vật lý, biết là điều kiện này có mặt trên trái đất, nhưng con có được cơ chế này để cảm thấy an toàn. Con cảm thấy con có thể ổn định cuộc sống dù rằng điều kiện kia vẫn còn trên trái đất.

Con yêu dấu, thày cần con xem xét như vậy vì nếu con liên hệ với các chân sư thăng thiên và với Hiện diện TA LÀ của con qua phin lọc của các cơ chế trốn tránh, con sẽ không thể bắt đầu thực thi vai trò đồng sáng tạo thật của mình. Đúng thực là một số các con có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc đối phó với cơ chế khiến con cảm thấy có chuyện không thể chịu đựng nổi. Làm sao con có thể đối phó với điều kiện đó nếu cách con nhìn nó bị pha màu bởi cơ chế trốn tránh khiến con muốn tránh xa điều kiện đó? Không phải là con cần trải nghiệm chiến tranh, chẳng hạn, ở cõi vật lý nhưng có thể là con có nhiệm vụ thách thức một khía cạnh nào đó của tâm thức tạo ra chiến tranh. Con sẽ không làm được chuyện này nếu con còn cơ chế trốn tránh khiến con không muốn xem xét chiến tranh vì con không muốn trải nghiệm lại chấn thương mà con trải qua trong quá khứ khi chạm trán chiến tranh. Con yêu dấu, con thấy chăng khuôn nếp đó?

16.7. Tinh thần trốn tránh ngăn chặn Sứ vụ Thiêng liêng

Để thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con và giúp nâng hành tinh này lên trên một tầng tâm thức nào đó, con phải sẵn sàng nhìn vào tâm thức đó ở các tầng bản sắc, tư tưởng, và tình cảm. Con cần xem xét các ảo tưởng của chính con và các ảo tưởng tập thể liên quan đến tâm thức đó. Sau đó, con vượt qua nó trong chính con và con thách thức tâm thức tập thể bằng cách đọc bài chú bài thỉnh hay đứng lên phơi bày một điều gì đó. Điều kiện đầu tiên mà con cần thực hiện là con không còn tìm cách trốn tránh điều kiện mà con muốn thay đổi. Con không thể thay đổi điều gì bằng cách tránh xa nó, vì cách duy nhất để thay đổi một điều là xem xét nó và đi vào trong nó. Con không thể đi vào trong điều gì khi con muốn tránh xa nó trong các thể tình cảm, tư tưởng hay bản sắc. Đó là lý do vì sao từ thời cổ xưa người ta đã nói là cách duy nhất để vượt qua sợ hãi là đối mặt nó.

Các thày đã cho con dụng cụ để giúp giải quyết vấn đề. Các thày đã dẫn con đến tầng tâm thức nơi con không còn bị sợ hãi thúc đẩy. Con nhận ra khi con xem xét các nỗi sợ của mình, chúng không làm con choáng ngợp như trước khi con bắt đầu khóa học. Con toàn toàn có khả năng nhìn thẳng vào chúng và xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên như một loại cơ chế trốn tránh để con cảm thấy an toàn vì con đang học giáo lý này.

Thày cần con nhận ra là một số người trong các con đã đi vào trạng thái tâm qua đó con cảm thấy tất cả những gì con cần làm là xem xét tâm lý cá nhân của chính mình. Nếu con khắc phục mọi thứ trong tâm lý cá nhân, thì con không cần xem xét các khía cạnh của tâm lý tập thể.

Nhiều người trong các con trong quá khứ đã bị dính líu vào chiến tranh, và đã cảm thấy chiến tranh là một quái vật vĩ đại trên hành tinh, và cá nhân con không thể làm gì để giải quyết vấn đề. Con đã tạo ra cơ chế trốn tránh qua đó con không thực sự muốn nhìn vào chiến tranh và tâm thức đã tạo ra chiến tranh. Con đã dùng giáo lý của các thày để khiến con tin rằng con không cần xem xét nó, con chỉ cần xem xét tâm thức của mình mà thôi. Con yêu dấu, khi con tiến lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con cần trực diện các quái vật tập thể đó. Đây là điều Giê-su đã làm trong sứ vụ công chúng của thày. Thày không nói là con cần bắt đầu làm việc này ngay lúc này, vì thành thật mà nói, đây là việc con cần làm khi con đã đi quá tầng 96 – bằng hành động vỏ ngoài của con. Ngay lúc này, con cần nhận ra cơ chế trốn tránh và cơ chế này ảnh hưởng cách con nhìn con đường tu như thế nào. Con cũng cần nhận ra là con không thể nào hoàn toàn sáng tạo khi con còn một cơ chế trốn tránh.

16.8. Là người đồng sáng tạo

Là người đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ có nghĩa gì? Nó có nghĩa con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Thế nào là cánh cửa mở? Nó có nghĩa con không ngăn chặn những nơi mà Ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ có thể chảy qua. Nếu con có một cơ chế trốn tránh nói rằng con không muốn xem xét một điều kiện nào đó, thì làm sao Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ có thể chảy vào điều kiện đó? Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy qua bốn thể phàm của con. Nó chảy qua cây cầu của sự chú ý có ý thức của con. Nếu con không chịu đặt sự chú ý ý thức của con vào một số điều kiện, thì Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ không thể chảy qua nó vì không có sự kết nối giữa điều kiện và tâm của con. Do đó, không có sự kết nối giữa điều kiện và Hiện diện TA LÀ vì tâm của con là cái đứng giữa làm trung gian.

Điều đơn giản là đã đến lúc trong khóa học này con cần nhận ra là con đã tới trình độ không còn cần các cơ chế trốn tránh nữa. Con yêu dấu, một số trong các con có thể cảm thấy là, một lần nữa, thày đã chỉ con một điều con chưa làm đủ, một điều con cần khắc phục, một điều con thiếu sót, một điều con không làm tốt đủ. Đây không phải là điều thày đang làm. Thày đang chỉ cho con thấy là, qua quá trình học khóa học này và sẵn sàng vươn lên từ tầng 48 tới tầng này, con đã tiến triển rất nhiều. Con đã vươn lên cao hơn rất nhiều tâm thức của đa số con người trên hành tinh này.

Thày biết rằng, đã nhiều lần trong tâm vỏ ngoài con chưa nhìn nhận điều này. Các thày thường thấy hai khuynh hướng nơi các đệ tử tâm linh. Các thày thấy có một số đệ tử rất sốt sắng muốn cảm thấy họ đã đạt được điều gì, họ đã tiến bộ trên con đường tu, và điều này khiến họ hơn người khác. Đây là những người chưa khắc phục mặc cảm tự tôn. Họ có thể dùng giáo lý chân sư thăng thiên để xây dựng một sự kiêu hãnh tâm linh, cũng là một cơ chế trốn tránh. Họ cảm thấy mình hơn người khác. Đa số đệ tử của các thày không rơi vào thành phần này, nhưng lại rơi vào thành phần những người chưa hoàn toàn khắc phục mặc cảm tự ti. Những người này có khuynh hướng không thấy một cách ý thức những thành đạt và thành quả của mình.

Con yêu dấu, dù con có trong thành phần nào chăng nữa, thày cần con tới điểm không còn vấn đề tự tôn hay tự ti, thổi phồng thành đạt của mình thay hạ thấp thành đạt của mình. Điều quan trọng là phải thiết thực và nhận ra là bây giờ con đã tới một tầng cao trên con đường tâm linh. Điều này có nghĩa là có một số điều con không còn cần nữa. Con có thể nhìn chúng và con nói: “Tôi không cần điều này nữa.”

Khi con biết con không bất lực, khi con biết không có điều gì trên trái đất quy định được con, khi con biết bất cứ phản ứng nào cũng là một phàm linh nội tại và khi con biết cách khắc phục phàm linh nội tại, thì tại sao con lại cần trốn tránh bất cứ điều kiện nào trên trái đất? Con biết điều kiện chỉ có thể ảnh hưởng con qua phản ứng của con, mà phản ứng này dựa trên một phàm linh nội tại. Nếu con đuổi được phàm linh, điều kiện không thể ảnh hưởng ba thể cao của con và do đó tại sao con lại phải sợ khi xem xét nó? Tại sao con cần trốn tránh xem xét nó?

Con có thể đi vào một điều kiện ở tầng bản sắc, thấy nó ảnh hưởng bản sắc con ra sao, và nó ảnh hưởng bản sắc người khác ra sao. Con có thể đi vào điều kiện ở tầng tư tưởng, và xét xem điều kiện ảnh hưởng thể tư tưởng của con ra sao, và người khác đã chế ra những biện minh cầu kỳ như thế nào ở tầng tư tưởng. Con có thể đi vào thể tình cảm của mình, xét xem điều kiện ảnh hưởng con ra sao và thấy người khác đã dựng lên nỗi sợ hãi và thù ghét mạnh đến độ họ không thể đối phó với nó và do đó đã tìm cách trốn tránh điều kiện này. Con có thể thấy có người khác đã bị mắc kẹt trong phản ứng chiến đấu hung hãn chống lại các điều kiện này. Sau đó, khi con đã giải thoát mình khỏi các phản ứng trong chính tâm của con, thì con tự do thách thức chúng mỗi khi con có cơ hội.

16.9. Một cơ hội chưa từng có để giúp người khác

Con yêu dấu, con có nhận ra là con đang sống trong một thời đại trong đó mọi con người có cơ hội chưa từng thấy để biểu lộ chính họ dùng dụng cụ phi thường, mà con thể nào cũng đã biết tới, gọi là mạng Internet? Con có cơ hội, chưa từng có trong các thời đại trước, nói lên sự thực của mình như mình thấy ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày sẽ không nói con vào chi tiết con cần làm gì, nhưng con hãy nhìn những phương tiện hiện có trên mạng Internet và xem con có thể dùng mạng Internet để nói lên những khai ngộ mà con đạt được trong khóa học này hay trong giáo lý chân sư thăng thiên. Nếu con nhìn vào ứng dụng Facebook, thì con thấy có nhiều người (trong đó có một số trong các con) hay lặp lại những câu nói rất, rất dễ thương hay phim ngắn về chuyện này chuyện nọ, các chuyện này chỉ giản dị là chuyện vô bổ, một hình thức cơ chế trốn tránh nhằm giúp con người nhất thời cảm thấy dễ chịu.

Các đệ tử chân sư thăng thiên có thể nào dùng mạng Internet để chia sẻ một số các sáng ngộ thật, các sáng ngộ thách thức, mà con đã đạt được khi là đệ tử chân sư thăng thiên và khi theo học khóa học này? Con hãy suy ngẫm chuyện này. Một lần nữa, thày không muốn con phải cảm thấy hổ thẹn nếu con chưa làm, nhưng mặt khác thày muốn đủn con một chút về hướng thấy là con nay đã sẵn sàng nói lên sự thực của mình như con thấy nó. Con không cần phải đợi các điều kiện vỏ ngoài thuận tiện. Con chỉ cần lấy quyết định và chấp nhận là con có một điều gì mà hầu hết mọi người trên hành tinh này không có. Con có sáng ngộ, con có nhận biết, con có nhiều tự do hơn. Do đó, con có thể giúp người khác và có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là làm điều này.

Một lần nữa, một khi con đã loại cơ chế trốn tránh thì con nhận ra là con đã có cơ chế trốn tránh khiến con cảm thấy con không cần, con không nên, hay con sẽ gặp nguy hiểm nếu con thách thức các ảo tưởng và dối trá của sa nhân. Do đó, bất kể lý cớ nào mà con đã tạo ra cho mình, cơ chế trốn tránh căn bản nhất, khó loại trừ nhất, của con là con cảm thấy: “Ồ, thật ra tôi không cần biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi, ít nhất là chưa làm ngay bây giờ, hay không qua cách này hay cách nọ, hay bằng cách thách thức điều kiện này hay điều kiện nọ.” Cơ chế trốn tránh căn bản là cơ chế khiến con cảm thấy con làm đúng, con được an toàn khi con không biểu hiện quả vị Ki-tô của con, hay con chưa làm ngay bây giờ, hay con không biểu hiện nó cách này hay cách khác.

Con yếu dấu, nếu con chịu nhìn vào cơ chế này và vượt lên trên nó, thì con sẽ sẵn sàng để nhận những chỉ dẫn của thày Saint Germain. Con nhận ra là khi con đưa ra một lời hướng dẫn, con nhắm vào một trình độ nào và do đó chỉ có những người đã lên tới trình độ đó mới nhận được lợi ích của lời chỉ dẫn. Thày Saint Germain sẽ không đưa ra lời chỉ dẫn cho tầng 48. Mục đích của thày là dẫn con tới tầng 96 và đặt con vững vàng trên con đường tới quả vị Ki-tô sẽ dẫn con tới tầng 144. Thày sẽ giả sử là con tới khóa nhập thất sẵn sàng đón nhận các chỉ dẫn mà thày đã sửa soạn cho con.

Nếu con chưa sẵn sàng thì con vẫn có thể đọc quyển sách của thày Saint Germain với trí vỏ ngoài, con có thể đọc các bài thỉnh và làm các thực tập, nhưng con sẽ không nâng tâm thức mình lên. Do đó, con sẽ không thể biểu lộ khả năng đồng sáng tạo của mình. Con không thể là người có thuật biến hóa huyền bí. Con sẽ không đạt được khả năng kết đọng những thay đổi mà thày Saint Germain sẽ dạy con. Có thể nói là sáu Thượng sư đầu chỉ giản dị chuẩn bị con tới khóa học của thày Saint Germain. Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng đã chuẩn bị con cho chính các thày, vì nếu con chưa hoàn tất các khai ngộ do Chân sư MORE trình bày, thì con chưa sẵn sàng tới thày Lanto, vân vân và vân vân.

16.10. Vượt qua sự nản chí

Một đề tài mà thày muốn trình bày trong phần cuối này là sa nhân, như thày đã nói, thích tạo cho con một hoàn cảnh và sau đó khiến con cảm thấy con không có lối trốn thoát. Họ cũng thích tạo cho con một hoàn cảnh mà con cảm thấy con có lối thoát ra, con có cảm tưởng có thể tạo một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mình hay cho hành tinh – và sau đó các chuyện này không xảy ra và con cảm thấy nản chí. Người ta có câu: thối chí là dụng cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ. Nếu con nhìn lịch sử các tôn giáo trên trái đất một cách thành thực, thì con thấy rất, rất nhiều người đã cải đạo theo một tôn giáo, đã cảm thấy đầy lạc quan và hy vọng, và sau đó, có thể là sau nhiều kiếp theo tôn giáo đó, họ bị thất vọng và cảm thấy thối chí.

Các thày có nói là có nhiều người hiện sống trong thế giới Tây phương theo thuyết vô thần hay chống Cơ đốc giáo vì trong nhiều kiếp sống họ đã tin và áp dụng những nghi thức của đạo Cơ đốc giáo. Sau nhiều kiếp sống họ nhận ra rằng họ không được cứu rỗi sau kiếp đó mà phải đầu thai trở lại, thì họ bỏ cuộc không theo Cơ đốc giáo nữa, trở nên thối chí và theo khuynh hướng vô thần, duy vật hay hình thức chối bỏ tôn giáo khác. Thày muốn làm một cố gắng nhỏ giúp con đến được điểm không rơi vào bẫy của hình thức thối chí mà sa nhân muốn con rơi vào.

Con yêu dấu, nếu con đã theo học khóa học này (con đã nghiên cứu các bài truyền đọc và đọc các bài thỉnh ít nhất trong chín ngày) thì con đã tiến bộ đáng kể trên con đường tâm linh. Có thể con không cảm thấy như vậy, dù rằng đa số học viên theo học khóa này đã cảm thấy tiến cao hơn, và khóa này đã đáng công sức học. Con nhận ra tâm thức của con đã chuyển vọt. Những người trong các con chưa cảm thấy vậy, thì con có thể nhận ra bằng cách chuyển đổi thái độ của con về đời sống trên trái đất như thày có trình bày trong các bài giảng trước, nhưng thày sẽ bình luận thêm về chủ đề này ở đây.

Con yêu dấu, con có nhớ câu nói cổ: “Ly nước nửa đầy hay nửa vơi?” Câu này có nghĩa là trên một hành tinh như trái đất, rất rất dễ thấy một số điều kiện tiêu cực khiến con nhận định đời sống không thể chịu đựng được, có quá nhiều vấn đề và tiến triển quá chậm. Con thấy nhiều người tin vào các lời tiên tri tiêu cực và nghĩ rằng có tai họa nào đó sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, và do đó không có lý do để trở thành Ki-tô đang hành động. Một lần nữa đây là một cơ chế trốn tránh. Con yêu dấu, có một tâm thức nghèo đói rất mạnh trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, con biết có hàng tỷ người sống trong nạn nghèo đói. Vì sao vậy? Vì họ bị mắc kẹt trong phàm linh tập thể về nghèo đói và thiếu thốn, mà ta có thể gọi là “thái độ thiếu hụt”. Phàm linh này do sa nhân tạo ra. Ngay từ ban đầu, họ đã tạo ra thái độ thiếu hụt đó vì cuộc sống của họ dựa trên một sự thiếu hụt. Tại sao vậy? Họ không nhận được Ánh sáng từ cõi thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ bị bắt buộc phải làm những chuyện họ làm để ăn cắp ánh sáng từ bốn cõi thấp của vũ trụ vật chất, và do đó họ lúc nào cũng có trải nghiệm thiếu hụt. Lúc nào cũng thiếu hụt năng lượng, thiếu hụt tiền bạc, thiếu hụt mọi thứ. Con cần nhận ra đây là một phàm linh tập thể rất mạnh, và rất có thể con đã bị nó ảnh hưởng và đã tạo ra một phàm linh nội tại cho rằng có cái gì đó thiếu sót, có cái gì đó thiếu hụt, có cái gì vắng mặt, có cái gì đó không tốt đủ hoặc trên hành tinh, trong cuộc đời mình hay trong tâm thức mình. 

Con yêu dấu, thày không quan tâm việc con thay đổi hành tinh. Thày còn không quan tâm hoàn cảnh bên ngoài của con. Điều thày quan tâm là giúp con nhận ra là nếu con còn nhìn qua phin lọc của phàm linh nội tại này, con sẽ chỉ thấy cái thiếu sót, con sẽ chỉ thấy cái tiêu cực. Con có thể thấy tất cả những biện minh tại sao con không tốt đủ, tại sao con chưa tiến bộ đủ trên con đường tu, tại sao con chưa thăng vượt điều này điều nọ, tại sao con không đạt được trong khóa học này điều con chờ đợi khi bắt đầu khóa học. Con yêu dấu, thày đã nói gì trước đây? Khi con nghe tới Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu, con nhìn vào Sứ vụ Thiêng liêng dựa trên tầng tâm thức con có lúc đó, và con có những chờ đợi làm sao con sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Giống như vậy, khi con bắt đầu học khóa này, con ở một tầng tâm thức thấp hơn ngày hôm nay. Con mong chờ khóa học này sẽ đem lại cho con điều gì đó dựa trên tâm thức đó.

Ngày hôm nay con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và điều giản dị là con sẵn sàng nhìn vào sự mong chờ trước kia của con và nói: “Tôi không cần bạn nữa vì tôi đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và bây giờ tôi sẵn sàng nhìn khóa học, nhìn con đường tâm linh, nhìn chính mình dựa trên tầng tâm thức hiện nay của tôi.” Con yêu dấu, nếu con sẵn sàng làm bước chuyển vọt này, thì con có thể quyết định một cách ý thức – và con sẽ cần một quyết định có ý thức; điều đó sẽ không giản dị xảy ra vì con đã theo học khóa này hay làm chuyện gì khác – là con sẽ có một thái độ tích cực, một cách tiếp cận tích cực, một cái nhìn tích cực về mình, về con đường tâm linh và về sự thành đạt tâm linh của mình.

Các thày đã nói gì trong suốt khóa học này? Bất cứ phản ứng nào của con không dựa trên tình thương, không tích cực, đều đến từ phàm linh nội tại. Nếu con có phản ứng với khóa học này, với chính con, với tiến triển tâm linh qua các thiếu sót của mình, thì phản ứng này không phải là con. Không phải là cái Ta Biết đã phản ứng như vậy vì cái Ta Biết biết là không có gì trên trái đất có thể quy định nó. Đây là một phàm linh nội tại đang phản ứng, vậy con hãy sẵn sàng nhìn phàm linh nội tại này và sử dụng các dụng cụ và thủ tục mà các thày đã cung cấp để buông bỏ nó. Lẽ dĩ nhiên, con có quyền tự quyết. Nếu con muốn sống phần còn lại cuộc đời trên hành tinh này với một thái độ tiêu cực, với một cảm nhận thiếu hụt, thì thày sẽ tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu như vậy thì con không sẵn sàng đón nhận những khai ngộ mà Saint Germain cống hiến, và con sẽ không hưởng được lợi lạc gì dù con vẫn đọc quyển sách và các bài thỉnh.

Con không thể là một người đồng sáng tạo khi con ở trong trạng thái thiếu hụt. Con chỉ có thể là người đồng sáng tạo khi trong tâm con biết: “Tự con không làm được điều gì, chính đấng Cha trong con đang làm và với Thượng đế điều gì cũng có thể làm được.” Giê-su nói điều này 2000 năm trước đây. Nếu con đường tới quả vị Ki-tô được duy trì, thì con người đã có thể tới điểm không những chỉ tin và hiểu mà thực sự trải nghiệm sự thực hằng sống là con có thể đồng sáng tạo hoàn cảnh sống tốt hơn cho chính mình và đóng góp đồng sáng tạo hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới. Con đã đóng góp xây dựng hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới bằng cách vươn lên tầng tâm thức mà con đạt được ngày hôm nay. Con hãy cho phép mình công nhận điều này, cho phép mình cảm thấy, biết, và trải nghiệm là mình đã tiến triển.

Do đó, con yêu dấu, thày chỉ còn một công việc cuối. Công việc này không dựa trên các khai ngộ mà con đã nhận từ thày, mà dựa trên những gì con đã nhận được từ tất cả các Thượng sư. Đây không phải là điều chỉ mình thày, Nada, nói mà là điều cả sáu vị: Chân sư More, Lanto, Paul người Venice, Serapis Bey, Hilarion, và thày đồng nói: “Con, người giúp việc tốt và trung thành, đã làm việc giỏi. Con đã trung thành làm nhiều chuyện, bây giờ con hãy sẵn sàng để Saint Germain biến con thành người ngự trị trên nhiều chuyện.”

Tìm được bình an trong quan hệ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 23/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, lẽ tự nhiên con giáp mặt với hai liều lượng của Tia thứ Sáu. Thày muốn bắt đầu bằng khai triển thêm những điều thày đã giảng trong các bài trước, đặc biệt liên quan đến nghiệp quả. Hiển nhiên có nhiều hiểu biết, ý tưởng và lý thuyết phiến diện về nghiệp quả lưu truyền trên thế giới. Thầy cần con vượt quá những thuyết này và hiểu một cách sâu sắc hơn con tạo nghiệp như thế nào.

Có rất, rất nhiều người tin vào một triết lý Đông phương hay Thời đại mới cho rằng nghiệp quả là hậu quả của một hành động, có nghĩa là họ tin rằng nghiệp quả cơ bản là một hiện tượng vật lý. Con làm một hành động vật lý tạo ra nghiệp, và khi nghiệp quả trở lại, nó tạo ra một sự việc vật lý xảy ra cho con. Như thày đã giảng trong các bài trước, hiểu như vậy không đúng. Ta không thể nói nghiệp quả ở tầng vật lý vì xung lực nghiệp mà con tạo ra (ngay cả khi được tạo ra bằng một hành động vật lý) không phải là một xung lực trong quang phổ rung động vật lý. Nó là một xung lực đi vào ba thể cao và luân lưu trong ba tầng cao cho tới khi nó có thể trở về trong trường năng lượng của con. Sau đó, như thày đã giảng, nó có thể, và cũng có thể không, trở thành một sự việc vật lý tùy theo con đã thay đổi tâm thức hay chưa.

Lý do vì sao con cần suy ngẫm điểm này vì con nhận ra là không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Con cũng nhận ra là không có gì trong thế giới vật lý có thể định đoạt con sẽ thăng thiên hay không. Nhiều người trong các con đã chấp nhận quan niệm cho rằng, để hội đủ điều kiện thăng thiên, con cần cân bằng nghiệp quả. Điều này không sai, nhưng nghiệp quả không phải là nghiệp quả vật lý. Cân bằng nghiệp quả, trước hết, là thanh lọc các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc khỏi các phàm linh hiện diện trong ba thể đó. Quả thực cân bằng nghiệp quả không phải là bù đắp một điều gì đó bằng một hành động vật lý. Nó trước tiên là giải quyết các phàm linh nội tại để khi ông hoàng thế gian tới, y không tìm thấy gì trong ba thể cao của con để y có thể khiến con đi vào một khuôn nếp phản ứng. Đây chính thực là ý nghĩa cân bằng nghiệp quả.

Lẽ dĩ nhiên, trong tiến trình nghiệp quả có một xung lực năng lượng, nhưng một lần nữa, xung lực này không có tính chất vật lý. Thày không phủ nhận là con cần đọc một số bài chú bài thỉnh để làm rã tan xung lực năng lượng đó, nhưng khía cạnh quan trọng nhất của cân bằng nghiệp quả là làm rã tan các phàm linh.

14.1. Tương tác với người khác mà không tạo nghiệp

Tuy nhiên, có một khía cạnh khác, có thể gọi là khía cạnh Omega, của cân bằng nghiệp quả là tránh tạo ra nghiệp mới. Lẽ tự nhiên, nếu con tiếp tục tạo nghiệp mới, thì con càng phải thỉnh cầu nhiều hơn ngọn lửa tím để cân bằng tất cả nghiệp quả. Con cần áp dụng nguyên tắc đầu tiên của khoa Cấp cứu, là ngưng tai nạn. Nói cách khác, con cần ngưng tạo nghiệp mới, ngưng những vòng xoắn phản ứng khiến con tạo nghiệp. Trong bài trước, thày có giảng làm sao ngưng phản ứng với sa nhân, không phản ứng khi họ khiến con cảm thấy tội lỗi, không xứng đáng, bất toàn hay bất cứ gì khác.

Bây giờ thày đặt trọng tâm vào cách thông thường nhất mà con người tạo nghiệp, đó là khi họ tương tác với người khác. Lẽ tự nhiên, con là đệ tử chân sư thăng thiên và con đã theo học giáo lý của các thày một thời gian rồi nên đã tới tầng khai ngộ này. Con đã chế ngự được những lối tương tác vật lý, hung bạo, hung hãn. Tuy nhiên, con đang ở một tầng tâm thức nơi con chưa hoàn toàn tự giải thoát khỏi những vòng xoắn phản ứng với người khác. Với một người ở tầng tâm thức của con, con không có hành động hung hãn với người khác, nhưng con vẫn có khuynh hướng nghĩ rằng người khác đang có hành động hung hãn với con – và dĩ nhiên là họ làm vậy.

Con có thể nhìn cuộc đời Giê-su và thấy là khi thày ở tầng tâm thức 143, sa nhân hành động chống thày và đem thày đóng đinh trên thập tự giá. Tuy nhiên, điều thày muốn nói đặc biệt ở tầng này, là con có cảm giác người khác có thể có hành vi hung hãn với con và con thường cảm thấy bất lực khi đối phó với hoàn cảnh này. Thày có nói tới nhu cầu tôn trọng quyền tự quyết, vậy nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của họ thì con không thể ngăn họ có hành động hung hãn với con. Vậy làm sao con tránh cảm thấy bất lực?

Con yêu dấu, con cần hiểu sâu sắc cách luật tự quyết tự trải bày, đặc biệt liên quan đến nghiệp quả. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét trái đất là loại hành tinh nào. Thày có nói là có rất nhiều hành tinh có tầng tâm thức cao hơn trái đất nhiều, và tại các nơi đó không có sự hung hãn mà con thấy trên trái đất. Trái đất là một trong những hành tinh thấp nhất khi so sánh mức độ hung hãn giữa con người với nhau. Khi con nhìn nhận sự kiện này, con có thể bắt đầu xem xét con chờ đợi được gì nơi cuộc sống trên trái đất.

Có một số người trong các con là a-va-ta đến từ hành tinh tự nhiên là nơi con không bao giờ chạm mặt sự hung hãn. Do đó, con có một ký ức vi tế là đáng lẽ không được có sự hung hãn. Chuyện con người có hành động hung hãn với nhau là điều không tự nhiên. Một số khác trong các con là cư dân nguyên thủy của trái đất, và con có một ký ức vi tế về đời sống trên trái đất trước khi sa nhân được phép đầu thai xuống đây. Con cũng có cảm giác là con người có hành động hung hãn với nhau là không “tự nhiên”, không “đúng”.

14.2. Một mong chờ không thiết thực khác

Con có thấy chăng là con chờ đợi cuộc sống phải như thế nào trên trái đất. Tuy nhiên, chờ đợi này không phù hợp với thực tại cuộc sống gì trên trái đất. Có một khoảng cách giữa chờ đợi của con và thực tại. Do đó, con cần phải làm một lượng định đơn giản. Con có thể thay đổi hiện trạng trên trái đất chăng? Lẽ dĩ nhiên là không. Con không thể chỉ búng tay là loại bỏ chiến tranh và sự hung hãn khỏi hành tinh.

Con có thể chọn hướng hành động thiết thực nào? Đó là con buông bỏ những chờ đợi mà con đã tạo ra trên một hành tinh khác hay khi trái đất không như ngày nay. Nói cách khác, con nhận ra con có một chờ đợi không thiết thực và đã tới lúc con sẵn sàng nhận ra là nó kềm hãm sự tiến bộ của con. Nó tạo căng thẳng, mâu thuẫn trong con, khiến con bị kéo đi nhiều hướng. Nó khiến con như căn nhà bị chia rẽ bên trong, giống như điều các phàm linh nội tại vẫn làm. Như thày đã giảng, sa nhân rất vui sướng tạo ra một sự chờ đợi nơi con, tỷ dụ như Thượng đế sẽ tới và cứu con, và sau đó con thấy thực tại phá tan kỳ vọng đó, khiến con hồ nghi không biết đâu là thật, đâu là giả.

Con cần tới điểm nhìn nhận là con đang ở trên một hành tinh rất dày đặc, rất khó khăn, và do đó con cần nhìn vào sự chờ đợi của mình và nói: “Chúng không áp dụng vào hành tinh này. Chờ đợi của tôi không thiết thực, không hợp lý, không phù hợp với thực tại trên hành tinh này.” Sau đó, con giản dị buông bỏ nó. Con cần buông bỏ nó – giống như con buông bỏ mọi phàm linh khác, vì sự chờ đợi không thiết thực của con đã trở thành một phàm linh nội tại. Con yêu dấu, con buông bỏ nó.

Con nhận ra trái đất là loại hành tinh nào và con nói: “Dựa trên những gì con biết về hành tinh này, dựa trên những gì con biết về quyền tự quyết, con có thiết thực chăng nếu con có bất cứ chờ đợi nào về điều phải xảy ra hay không được xảy ra trên trái đất?” Câu trả lời sỗ sàng là: “Không”. Câu trả lời này thoạt nghe có thể sỗ sàng, nhưng khi con chấp nhận nó, nó đem lại giải thoát. Con thấy là không có lý do gì để có bất cứ mong chờ nào và do đó không có gì trong con chống cự đời sống trên trái đất. Khi con không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con có thể đến với cuộc đời mà không bị ý tưởng nào bao phủ. Con có thể đến với cuộc sống, như Giê-su nói, với tâm ngây thơ của trẻ thơ.

Khi con ngây thơ như thế, không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con đang ở trong vương quốc của Thượng đế trong chính tâm con. Lúc đó con nhận ra là không có lý do nào để chờ đợi điều này phải xảy ra hay không được xảy ra. Con biết không có điều gì xảy ra hay không xảy ra có thể quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý ngăn cản được sự thăng thiên của con.

Con có thể tới điểm nhìn người khác và nói: “Tại sao tôi lại có bất cứ chờ mong người khác phải làm điều này hay không được làm điều nọ?” Nếu con nhìn lại cuộc đời mình, con thấy là suốt cuộc đời (và thày có thể bảo đảm với con là trong nhiều kiếp trước cũng vậy) con có những chờ đợi, có khi vi tế có khi hiển nhiên, về người khác. Con muốn họ làm một số chuyện, con không muốn họ làm một số chuyện, và tình trạng này khiến con lúc nào cũng trong trạng thái căng thẳng với người khác. Các chờ mong cũng khiến con cảm thấy bất lực vì một đằng con mong muốn ngăn ngừa người khác làm điều gì hại con hay tự hại, nhưng mặt khác con cảm thấy con không được phép dùng bất cứ phương tiện hung hãn nào để ép buộc họ. Một lần nữa, con lại cảm thấy bất lực.

14.3. Thế giới không xoay quanh con

Một khi con buông bỏ chờ đợi người khác làm điều này điều kia, thì con không cần cảm thấy bất lực nữa. Lúc đó, con nhận ra là con có thể tiến thêm bước nữa về hướng an bình nội tâm bằng cách nhớ lại những gì thày nói về tư duy thần diệu. Trong thế giới có một phàm linh tập thể dựa trên trải nghiệm của trẻ thơ khi chúng còn trong bụng mẹ. Tất cả những người đã sinh ra trong suốt lịch sử trái đất đã góp phần vào phàm linh này.

Khi một bà mẹ mang thai nhi trong dạ, bà biết là nó là một sinh thể khác, một xác thân khác đang lớn lên trong bụng bà. Bà nhận ra điều này vì bà nhớ rất rõ lúc bà không mang thai, là lúc bà làm chủ thân thể của bà. Khi bà mang thai thì có một sinh thể khác lớn lên bên trong thân thể của bà, và bà nhận ra điều này rất rõ. Đây là con của bà, bà có sự nối kết với nó, nhưng bà biết nó là một sinh thể khác ngày nào đó sẽ sinh ra và có cuộc sống riêng biệt. Nhưng về phía hài nhi thì nó cảm thấy thế nào?

Đa số con người không có ký ức về thơi kỳ mình chưa sinh ra, nhưng nếu con có ký ức đó thì con sẽ thấy là hài nhi trong bụng mẹ không trải nghiệm nó là một thân thể tách biệt vì hài nhi trải nghiệm thân thể bà mẹ là thân thể của nó. Hài nhi không biết là có một sinh thể khác ở trong thân thể bà mẹ. Nó thực sự cảm thấy thân thể bà mẹ là thân thể của , và khi hài nhi lớn lên trong bụng mẹ, nó bắt đầu cảm thấy hơi bối rối về sự hiện diện của thân thể này bên trong thân thể lớn hơn. Kết quả là đa số trẻ thơ sinh ra với ý niệm thế giới là một sự nối dài của thân thể của chúng. Hài nhi đã quen coi thân thể bà mẹ như sự nối dài của nó. Khi chúng sinh ra, lúc ban đầu chúng cảm thấy thế giới là một sự nối dài của thân thể của chúng. Chúng chưa có ý niệm là một sinh thể tách biệt trong một thân thể tách biệt. Không phải tất cả trẻ thơ, nhưng đa số trẻ thơ cảm thấy như vậy.

Kết quả là nhiều trẻ thơ trải qua một giai đoạn, mà các tâm lý gia đã nhận diện, khi chúng cảm thấy: “Thế giới là một sự nối dài của con, con là trung tâm thế giới. Do đó, con chịu trách nhiệm tất cả những gì xảy ra. Mọi chuyện xảy ra đều xoay quanh con và liên quan tới con.”

Thày cần con nhận ra là trong ba thể cao của con, đặc biệt là trong thể tình cảm, có một phàm linh nội tại vẫn còn cảm thấy nó là trung tâm của thế giới của con. Nó có thể không cảm thấy có trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra trên thế giới, và nó nhận ra người khác là sinh thể tách biệt. Tuy nhiên, phàm linh này cảm thấy mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của nó xoay quanh nó. Mọi chuyện mà người khác làm liên quan tới nó.

Khi con chưa nhìn thấu phàm linh này, thì con có khuynh hướng cảm thấy, có thể là ở trong tiềm thức, là điều người chung quanh con làm liên quan tới con. Nói cách khác, con có thể cảm thấy có trách nhiệm về điều họ làm, bị tổn thương bởi hành động của họ, cảm thấy họ làm điều đó chống lại con. Bây giờ thày cần con suy ngẫm điều này vì điều quan trọng là con nhận ra đây là cảm nhận của một phàm linh nội tại. Cái Ta Biết không cảm thấy như vậy. Cái Ta Biết biết nó là một sinh thể tách biệt, người khác là sinh thể tách biệt và họ có quyền tự quyết giống như con có quyền tự quyết của mình. Một khi con tách ra khỏi phàm linh thì con nhận ra một điều rất, rất quan trọng.

14.4. Cảm thấy con là nguyên nhân của hành vi người khác

Con có thể có một người trong gia đình hay một người thân cận nổi giận với con. Có thể là người đó lên án con đã làm một điều mà đáng lẽ con không được làm, hay đã không làm điều mà con phải làm, theo sự đánh giá của người đó. Người đó đến với con với năng lượng hung hãn và lên án, và phản ứng bình thường của con là cảm thấy vì có chuyện gì con đã làm hay không làm nên người đó mới nổi giận như vậy. Nói cách khác, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy con là nguyên nhân của hành vi người đó.

Chúng ta đã nói về đề tài này nhưng con cần nhìn lại một lần nữa và nhận ra là người kia không nói và làm như vậy bởi vì con. Con không chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của người khác. Con chịu trách nhiệm về những lựa chọn của chính con nhưng không chịu trách nhiệm về lựa chọn của người khác. Đúng là con chịu trách nhiệm về những hành động của con, những gì con làm, những gì con nói, nhưng con không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia đối với hành động của con.

Đa số đệ tử chân sư thăng thiên tới tầng này không gặp khó khăn đạt khai ngộ mà thày nói tới trong bài giảng trước khi thày nói là con cần nhận ra là con chịu trách nhiệm về phản ứng của mình. Nhưng họ thường khó nhận ra mặt kia của đồng tiền và nói: “Nếu tôi chịu một trăm phần trăm trách nhiệm về các phản ứng của tôi, thì tôi một trăm phần trăm không chịu trách nhiệm về phản ứng của người khác.” Con cần bước lùi lại và nói: “Tại sao người kia lại làm điều này với tôi? Có thể tôi đã làm điều gì kích động một phản ứng nơi người kia, và phản ứng này khiến họ lên án tôi. Tuy tôi chịu trách nhiệm về hành động của tôi, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia.”

Do đó, con không cá nhân hóa hoàn cảnh bằng cách nhận ra rằng người kia không làm điều đó chống lại con. Người kia làm điều đó để phản ứng lại con nhưng người kia không làm điều đó chống lại con. Con bây giờ có thể bắt đầu tạo sự khác biệt trong tâm mình.

Điều quan trọng là ở đây con nhận ra sự khác biệt vi tế, không dễ hiểu, giữa tâm thức nhị nguyên và tâm thức Ki-tô. Các thày đã gọi tâm thức nhị nguyên là tâm thức tách biệt vì nó tách mọi thứ ra thể loại khác nhau. Nó tách con ra khỏi Thượng đế, người khác và hành tinh nơi con sống. Tâm thức Ki-tô không tách ra nhưng nó phân biện – nó nhận ra sự khác biệt.

Con cần nhận ra sự khác biệt khi con nhận ra con có khuynh hướng cảm thấy là khi người khác làm điều gì ảnh hưởng đến con, họ làm chống lại con, họ chống lại cá nhân con. Nếu họ tức giận, con nghĩ họ giận con và con cảm thấy có trách nhiệm. Vì con là người tâm linh sẵn sàng sửa đổi chính mình, con lúc nào cũng nhìn vào: “Làm sao tôi có thể thay đổi chính tôi để người kia không tức giận tôi?” Một khía cạnh của việc tăng triển tâm thức Ki-tô là con có thể tới điểm phân biện và nói: “Điều người kia làm không phải là để trực tiếp chống lại tôi. Nó không phải là một sự tấn công cá nhân tôi. Nó do phản ứng nội tâm của người đó gây ra.”

14.5. Vòng xoắn nghiệp quả không bao giờ dứt

Con yêu dấu, con cũng hiểu là thách đố lớn nhất cho đa số người trên trái đất là đối xử với những người thân cận nhất, tỷ dụ như trong gia đình. Con cảm thấy không thể rời bỏ các người đó. Do đó, con cảm thấy phải phản ứng lại họ và phải coi trọng những gì họ làm hay nói – con phải coi là những điều đó liên hệ tới cá nhân con. Kết quả là đa số con người đã tạo ra những khuôn nếp phản ứng khi liên hệ với nhau. Nếu một người trong gia đình nổi giận với con, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy phải coi chuyện này như liên hệ tới cá nhân con, con phải xét xem con có thể thay đổi như thế nào để tránh người đó nổi giận.

Sự việc này khiến đa số con người trên trái đất bị dính líu vào cái mà các thày đã gọi là vòng xoắn nghiệp quả hay nghiệp quả nhóm, tức là họ có khuôn nếp phản ứng rất mạnh giữa nhau tiếp nối từ kiếp này sang kiếp khác. Con thấy hiện tượng này ở khắp nơi. Thày cần con nhận ra là những người đó không làm điều đó chống lại cá nhân con. Họ có thể là người trong gia đình con và con có thể có liên hệ cá nhân với họ, nhưng họ không tức giận cá nhân con. Điều này có thể hơi khó hình dung, vậy chúng ta hãy làm một thí nghiệm tư tưởng. Ta hãy giả thử con có một người trong gia đình tức giận con về một điều gì con đã làm. Bây giờ, con hãy tưởng tượng người đó có một người khác cũng làm với họ điều mà con đã làm. Liệu người đó có tức giận với người sau hay không? Câu trả lời là: “Rất có thể”

Câu chuyện không phải lúc nào cũng xảy ra như vậy, vì có lúc một người tự cho phép nổi giận với một người trong gia đình nhưng không nổi giận với người ngoài. Con có thể thấy là con người có khuynh hướng đối xử với người trong gia đình, được gọi là người “thân thương”, tệ hơn người hoàn toàn xa lạ.

Trong đa số trường hợp, con thấy là nếu một người khác làm (hay ít ra là đã từng làm) cùng việc con làm với người thân nhân của con, thì người thân nhân cũng sẽ tức giận với người này y như với con. Điều này giúp con nhận ra là sự tức giận của người thân nhân không gắn liền với cá nhân con. Nó có thể hướng tới người khác như tới con. Nếu sự tức giận của người đó không hướng tới cá nhân con, thì đâu là tính cách cá nhân trong đó? Nó có tính cách cá nhân bên trong tâm thức người thân nhân. Sự tức giận nằm bên trong các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của người đó. Con có thể đã kích động sự tức giận nhưng con không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân là một cơ chế nội tại trong tâm lý người đó, giống như sự tức giận của con là một cơ chế nội tại trong tâm lý của con.

14.6. Cảm thấy mình có trách nhiệm về tâm lý người khác

Con yếu dấu, con đã sẵn sàng nhìn vào tâm lý của chính mình nếu không thì con đã không theo khóa học này cho tới đây. Người thân nhân con có thể không sẵn sàng làm vậy. Con cần nhận ra là con cần thận trọng trong việc sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình. Con không nên quá sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình đến độ con nhận trách nhiệm về cơ chế tâm lý trong tâm người khác. Sự tức giận của người kia là một cơ chế tâm lý trong bốn thể phàm của người ấy, không phải trong tâm của con, không phải trong thể phàm của con. Do đó, con không thể nhận trách nhiệm về sự tức giận này và tìm cách thay đổi mình để né tránh sự tức giận của người kia. Con không thể né tránh được, sự tức giận vẫn có mặt trong tâm người đó và chỉ chờ một yếu tố kích động khác.

Điều con và đa số mọi người làm trong trường hợp này là tạo dựng trong tâm mình ý tưởng phải tránh hành vi nào hay phải làm hay nói điều gì để né tránh sự tức giận của người kia. Điều này có nghĩa là lúc đó con tạo ra một hành động thiếu cân bằng trong con, do sự bất cân bằng của người kia gây nên. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là để bước ra khỏi khuôn nếp phản ứng với người khác, để đạt được an bình trong quan hệ của con với người khác, con cần nhìn vào chính mình và phân biện rằng: “Tôi sẽ không cảm thấy có trách nhiệm đối với vấn đề tâm lý của người khác và tôi sẽ không cho phép mình tiếp tục mang những phàm linh nội tại mà tôi đã tạo ra để bù đắp hay né tránh những vấn đề xúc cảm của họ.”

Con cần nhìn vào chính mình trong quan hệ của con với người khác và nhận ra những khuôn nếp phản ứng mà con đã tạo dựng. Rồi con thấy được có một phàm linh đằng sau khuôn nếp đó và con buông bỏ nó. Con có quyền buông bỏ phàm linh này. Con yêu dấu, khi con có thể nhìn vào quan hệ của con với một người khác và dùng nó để thấy khuôn nếp phản ứng của mình, phàm linh nội tại của mình, thì con giải thoát mình khỏi bất cứ khuôn nếp nào với người đó.

14.7. Thay đổi cách quan hệ vận hành

Lúc đó, có hai chuyện sẽ xảy ra. Trước nhất, con được giải thoát khỏi mọi khuôn nếp phản ứng, con có thể gặp người kia với tâm ngây thơ của trẻ thơ, và con có thể tránh không phản ứng lại người đó nữa. Con có thể tránh phản ứng như con đã phản ứng trong quá khứ. Con sẽ thấy là khi con ngưng phản ứng theo kiểu họ chờ đợi, có khi họ bị ngạc nhiên. Có nhiều trường hợp chỉ việc này thôi cũng đủ để thay đổi cách mối quan hệ vận hành. Cũng có thể là người kia sẽ thay đổi.

Lẽ dĩ nhiên, cũng có trường hợp người kia không chịu thay đổi, dù con đã thay đổi. Người đó bị quá bao trùm trong vòng xoắn của họ, trong tâm lý của họ, và không chịu thay đổi. Trong trường hợp này, một số chuyện có thể xảy ra. Khi con đáp lại sự hung hãn của người khác với tâm trẻ thơ, tâm hoàn toàn vô tư, tâm dựa trên tình thương, thì người đó lãnh chịu sự xét xử của Ki-tô. Sự xét xử của Ki-tô là một cơ hội cho người đó nhìn vào tâm mình. Nếu họ không nắm lấy cơ hội, thì điều sẽ xảy ra trong thực tế (ta có thể nói là trên phương diện nghiệp quả) là con sẽ được giải thoát khỏi người đó. Lúc đó, con có tự do chọn lựa con có muốn ở gần người đó hay không.

Con yêu dấu, con sẽ nhiều lần thấy là khi con tự giải thoát khỏi một khuôn nếp phản ứng với người khác, thì bỗng nhiên người đó không còn có mặt trong đời con nữa. Lẽ dĩ nhiên, có trường hợp người trong gia đình mà con không thể cách ly một cách vật lý, nhưng con tới điểm không còn khuôn nếp phản ứng với họ, và do đó, bất kỳ họ làm gì, con không phản ứng lại. Hành động của họ không làm con xáo trộn, không làm con khó chịu. Con chỉ cho nó vào tai này qua tai kia, như người ta thường nói.

Con thấy đây là một cách liên hệ rất khác, và nó thực sự là cách duy nhất giúp con đạt được bình an trong quan hệ với người khác. Con không có ý định hành động hung hãn. Như thày có giảng trong bài trước, con không có ý định khuynh loát hay ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, con chỉ làm được một điều là giải thoát mình khỏi các khuôn nếp phản ứng, và trở lại là chính mình. Con hãy biểu hiện mình ở tầng tâm thức hiện nay của mình và qua đó cho người kia cơ hội vươn lên cao hơn khuôn nếp của họ. Nếu họ không nắm lấy cơ hội này, thì họ chống lại con không sao cả vì con không bị xáo trộn.

Nói cách khác, con cần tới điểm có thể nói về một mối quan hệ thân thiết: “Nếu người kia không thay đổi, tôi có thể chấp nhận được.” Sau đó, con có thể nói: “Tôi có thể tách ra khỏi người này chăng?” Nếu con quyết định: “Không được, mối quan hệ này quá thân thiết, tôi không muốn tách ra khỏi người này.” thì lúc đó con có thể ở với người đó mà không bị xáo trộn bởi tâm lý của người đó. Có trường hợp con tới điểm cảm thấy: “Có, tôi có thể chấp nhận người kia không thay đổi, nhưng tôi không muốn làm như vậy.” Lúc đó con có quyền tách ra khỏi người đó và nói: “Tôi không muốn những người như thế này trong đời tôi nữa.” Đây không phải là con tìm cách tránh né khuôn nếp phản ứng trong con, đó chỉ giản dị là con cảm thấy và nhận ra là con đã vươn lên cao hơn tâm thức của những người đó. Do đó con có quyền quyết định là con thích giao tiếp với những người cùng tầng tâm thức hay cao hơn tầng tâm thức của con.

14.8. Tạo nghiệp với sa nhân

Bây giờ chúng ta cần đi xa hơn nữa và tự đặt một số câu hỏi. Thày có nói là con sống trên một hành tinh dày đặc nơi có nhiều sự hung hãn. Ở đây có sa nhân. Sa nhân đang đầu thai có thể có hành động hung hãn với con. Cũng có những người không phải là sa nhân nhưng tâm họ tạm thời bị sa nhân xâm chiếm. Họ bị sa nhân ở các tầng cao bắt họ có hành động hung hãn với con. Con nhận ra câu hỏi là: “Nếu một người có hành động hung hãn chống lại con, thì hệ quả là gì trên mặt nghiệp quả?”

Ở đây, chúng ta cần nhận ra là có một phàm linh tập thể được thiết kế để khiến con cảm thấy có trách nhiệm về những chuyện không thuộc trách nhiệm của con. Thí dụ, sa nhân thích xâm phạm con, khiến con phản ứng lại họ, rồi họ làm cho con cảm thấy vì phản ứng của con không phải là phản ứng cao nhất, con thể nào cũng đã tạo nghiệp với sa nhân. Con yêu dấu, có đúng vậy chăng?

Chúng ta hãy lấy một lập trường cực đoan hơn. Giê-su dạy con hãy chìa má bên kia. Thày chứng minh là đối với những người có hành động hung hãn với thày, thày chìa má kia và để cho họ đóng đinh thày lên cây thập tự. Giê-su lúc đó đã ở một tầng tâm thức rất cao do đó thày đã khắc phục được hầu hết các ảo tưởng mà thày nói con lấy vào để đi xuống tầng 48. Giê-su không phản ứng lại sa nhân dựa trên sợ hãi nhưng dựa trên tình thương. Trong trường hợp này, khi con hoàn toàn không dính mắc, con có thể thấy một cách dễ dàng là Giê-su không tạo nghiệp vì sa nhân đóng đinh thày lên cây thập thự. Thày tin rằng con thấy điều này một cách dễ dàng.

Sa nhân có hành động hung hãn chống lại một sinh thể có quyền tự quyết. Lẽ dĩ nhiên, họ tạo nghiệp khi làm vậy nhưng Giê-su (vì thày không phản ứng dựa trên sợ hãi) không tạo nghiệp. Còn con thì sao? Giả thử con xuống trái đất lần đầu ở tầng tâm thức 48. Con bị sa nhân tấn công, và lẽ tự nhiên con (vì con không thể làm gì khác) phản ứng lại họ dựa trên tầng tâm thức 48.

Ở đây chúng ta cần thấy một khác biệt. Nếu con có hành động vật lý, chẳng hạn con chống trả và giết sa nhân, thì con tạo nghiệp vì hành động đó. Nếu con tránh không có hành động vật lý (như nhiều người trong con các con đã làm được khi phải giáp mặt với hành động hung hãn cao độ), thì con không tạo nghiệp. Con có thể nói với chính mình: “Nhưng con có tạo nghiệp vì đã phản ứng một cách giận dữ chăng?” Điều này tùy thuộc mức độ giận dữ của con.

Khi con xuống tầng 48, con lấy vào hết ảo tưởng này tới ảo tưởng khác cho tới khi con tới tầng 48. Ở tầng 48, con thấy sự việc qua một tấm màn, một tấm kiếng mờ, một phin lọc. Dựa trên cách con nhìn đời xuyên qua phin lọc đó, con phản ứng lại những gì con giáp mặt. Ở tầng 48, con không thể tránh phản ứng với đôi chút giận dữ khi con bị người khác xâm phạm. Nếu con chỉ phản ứng với mức độ giận dữ đó thôi, thì con không tạo nghiệp vì phản ứng đó. Con ở tầng 48; không thể chờ đợi con ở một tầng cao hơn. Con không tạo nghiệp khi con đáp ứng ở tầng tâm thức của con.

Bây giờ, nếu sự giận dữ của con cao hơn mức độ bình thường ở tầng 48, con sẽ tạo nghiệp vì phần giận dữ phụ trội đó. Ta cũng có thể nói là tuy con ở tầng 48 và nhìn đời qua phin lọc ở tầng đó, lúc nào cũng có một phản ứng cao và một phản ứng thấp. Nói cách khác, phản ứng thấp củng cố tầng tâm thức 48, hay ngay cả khiến con tuột xuống tầng 47, còn phản ứng cao thăng vượt tầng 48 và giúp con vươn lên tầng 49.

Nếu con đi con đường thấp thì con tạo nghiệp. Nếu con đi con đường cao, con không tạo nghiệp dù hành động của con chưa phải là sự không dính mắc của tâm Phật. Con yêu dấu, nghiệp quả không giản dị, không đi theo đường thẳng như sa nhân trình bày. Thày bảo đảm với con là sa nhân đã tìm cách ảnh hưởng tất cả các giáo lý hiện hành về nghiệp quả, như của Ấn giáo và Phật giáo, Đạo Lão hay nhiều phái thuộc khuynh hướng Thời đại mới.

14.9. Không cá nhân hóa quan hệ

Điều con có thể bắt đầu nhận ra ở đây là con đã tới điểm có thể đi một bước rất quan trọng, sẽ giải thoát con như bước mà thày dạy con trong bài giảng trước. Đây là bước con không cá nhân hóa quan hệ của con với người khác. Con nói: “Bất cứ họ làm gì đối với tôi, họ không chống lại cá nhân tôi vì họ hành động dựa trên tầng tâm thức của họ, dựa trên ảo tưởng của họ, có thể là vì họ bị tà lực xâm nhập. Nhưng ở bất cứ trình độ nào, họ không chỉ chống lại riêng cá nhân tôi. Đúng thực là nếu tôi không ở đó, họ sẽ tìm một người khác để chống lại, họ sẽ chỉ tìm người khác để làm cái cớ để biểu lộ sự hung hãn bên trong họ, và họ cần thể hiện sự hung hãn lên ai đó vì họ không chịu đựng được nó bên trong họ.”

Chắc con đã nhận ra là khi một người hung hãn với người khác, không phải là họ muốn chống lại người đó. Họ chỉ đơn giản có căng thẳng bên trong đến độ nó trào ra, họ mất tự chủ và lúc đó họ phải hướng nó ra ngoài vì nếu không họ không thể ở trong chính hào quang của họ. Đây là cơ chế đằng sau hầu hết mọi sự hung hãn trên hành tinh này.

Một người có sự chia rẽ nào đó trong tâm lý. Sa nhân khai thác sự chia rẽ đó để dần dần tăng độ căng thẳng cho đến khi nó tới điểm bùng nổ và người đó không chịu nổi sự hỗn loạn và căng thẳng nội tại. Sau đó, sa nhân lại khiến người đó tạo ra niềm tin, tạo ra phàm linh nội tại, là hướng cơn giận về người khác là điều chấp nhận được vì người khác đó là nguyên nhân cơn giận. Người đó bị phàm linh làm mù quáng nên không thấy cơn giận là một cơ chế trong nội tâm. Y thực sự tin rằng y nổi giận vì điều người khác làm, và cơn giận chính đáng vì người kia đáng lẽ không được làm như vậy. Con thấy là khi người khác có hành động hung hãn, họ tạm thời bị một tà linh xâm nhập, họ không kềm chế hành động của họ được, họ không hành động theo lý trí. Vì vậy con nói: “Tôi nhìn nhận tôi đang sống trong loại hành tinh như thế nào. Tôi nhìn nhận ở đây có sa nhân và tà linh, họ luôn tìm cách tạo ra hỗn loạn và bất hòa, và họ hướng điều này tới bất cứ ai có hài hòa và bình an.” Con nhìn nhận đây chỉ là một lực.

Con yêu dấu, bây giờ giả thử con đang trong trận mưa bão có sấm chớp ngay trên đầu con, tiếng sấm rất, rất lớn và có sét đánh xuống mặt đất không xa chỗ con đứng. Con có cảm thấy là đám mây bão đang giận con và đang tìm cách đánh trúng cá nhân con chăng? Thày đoán là con không cảm thấy như vậy ở tầng tâm thức của con, nhưng con nhìn nhận là có người trên thế gian (và chắc chắn là có trong quá khứ) cảm thấy có những thần linh hung hãn trong thiên nhiên tìm cách hại cá nhân họ. Do đó, họ cảm thấy có một thần linh ác độc đang điều khiển sét đánh họ, trong khi ngày nay con có khuynh hướng nhìn sấm sét như một lực thiên nhiên không có cá nhân tính.

Điều thày muốn nói với con là quả thực có sa nhân đang muốn tấn công con vì họ muốn ngăn chặn quả vị Ki-tô nơi con, nhưng họ muốn tấn công bất cứ ai có tầng quả vị Ki-tô đó. Một cách nhìn lành mạnh là con đứng lui lại và xem chuyện này như một lực vô tư và không liên quan đến riêng ai. Do đó con tránh không phản ứng lại một cách cá nhân. Thày chỉ muốn giúp con chuyển đổi tâm, nhìn sự việc và nói: “Con không cần xem việc này như một tấn công cá nhân con. Con không cần cảm thấy mình là nguyên nhân, mình chịu trách nhiệm về nó, mình cần phản ứng lại, mình cần thay đổi hành vi hay cách nhìn đời của mình để né tránh nó. Con chỉ cần nhìn vào nó và sau đó con hành động theo khía cạnh kia của nguyên tắc chìa má bên kia. Con có thể nhìn nó và để cho nó đi xuyên thẳng qua con mà không cho nó gây ra bất cứ phản ứng nào trong con.”

14.10. Khi người khác không thể lấy đi sự bình an của con

Một khai ngộ quan trọng trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô là khi con phải đương đầu với một người đang nổi giận, đang la hét kết án con đủ điều, nhưng con đứng yên và không có phản ứng nào trong con. Khi con làm được điều này với sa nhân, tà lực và tất cả mọi người khác, thì con tới điểm cảm thấy con không bất lực. Con có quyền lực làm chủ phản ứng của mình, bứng đi các phàm linh nội tại khiến con có khuôn nếp phản ứng. Khi con dùng quyền lực này, con có thể tới điểm mà con hoàn toàn bình an bên trong vì con không chờ đợi người khác phải làm gì hay không được làm gì.

Con biết rằng bất cứ điều gì người khác làm sẽ không tạo phản ứng trong con. Do đó, con không cần chờ mong vì con không sợ họ sẽ làm điều gì đó tạo phản ứng trong con. Nếu con đứng lui lại và trung thực nhìn vào cuộc đời của con cho tới điểm này, con thấy là đã có rất, rất nhiều lần con quan ngại những gì người khác có thể làm. Con biết nếu họ làm một số điều, chúng sẽ tạo phản ứng trong con. Phản ứng đó không thoải mái và nó có thể khiến con chê trách mình vì con nghĩ một người “tâm linh” không được phản ứng như vậy.

Con hãy nhìn mình một cách trung thực và thấy là con vẫn còn những cơ chế lẩn tránh. Con không tìm cách bù đắp mà tìm cách lẩn tránh. Con cũng có thể có khuôn nếp bù đắp khiến con cố gắng dễ thương với người khác để họ không nổi đóa với con. Thông thường hơn là ước muốn né tránh người khác hay né tránh hành vi của người khác vì con muốn né tránh phản ứng trong con.

Lẽ tự nhiên, con nay đã tới điểm con có thể nhìn những việc này và nói: “Nhưng phản ứng nằm trong con. Như vậy có nghĩa là con có quyền lực để thay đổi nó. Con không cần thay đổi người khác nữa. Con chỉ cần thay đổi chính mình. Con cần tách mình ra để thấy được phản ứng này chỉ là một phàm linh nội tại. Nó chỉ là thêm một phàm linh nội tại khác giống như nhiều phàm linh nội tại mà con đã loại bỏ trong khóa học này. Do đó lẽ tự nhiên con cũng có thể loại bỏ phàm linh này.” Con làm theo những bước cần thiết mà các thày đã dạy con. Con buông bỏ phàm linh, con tiêu trừ năng lượng, con thấy ảo tưởng, và con giải thoát.

Con yêu dấu, thành thực mà nói thì tới điểm này trên con đường tu con muốn bình an trong quan hệ với người khác. Con có bao giờ đạt được bình an bằng cách thay đổi người khác chăng? Dĩ nhiên là không, do đó cách duy nhất là thay đổi chính mình bằng cách buông bỏ các phàm linh và có thái độ là con không cần thay đổi người khác, vì quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc vào hành vi của người khác. Nó hoàn toàn dựa vào chuyện gì xảy ra trong chính bốn thể phàm của con, bên trong hào quang và tâm của con.

14.11. Một lời về cách phụng sự đích thực

Các con yêu dấu, con có thể nghĩ là cho tới giờ thày chưa nói gì nhiều về phụng sự. Thày sẽ đưa ra vài nhận xét về đề tài này trong phần sau đây. Nếu con nhìn vào cuộc đời mình, con thấy con có một số mong chờ về hình thức phụng sự mà con phải hiến tặng đời sống như một phần của điều kiện thăng thiên của con, một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để tạo ra một mong chờ khiến con cảm thấy căng thẳng bên trong tâm.

Con có thể cảm thấy rằng: “Chắc hẳn con phải phụng sự, nhưng con đang không làm hay đang không làm đủ. Con quá bận rộn với đời sống hàng ngày nên không có thì giờ phụng sự.” Con cảm thấy xấu hổ, con cảm thấy tội lỗi, con cảm thấy mình chậm trễ, con cảm thấy căng thẳng.

Con yêu dấu, thày không phủ nhận là con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có việc phụng sự, nhưng việc làm phụng sự đó không được quy định bởi tâm vỏ ngoài của con. Nó được quy định trước khi con đầu thai và nó được quy định dựa trên một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức khi con đầu thai.

Lúc nào đó, con tìm ra một giáo lý tâm linh, con học về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng và phụng sự đời sống. Chuyện này xảy ra vào một lúc trong quá khứ khi con ở tầng tâm thức thấp hơn bây giờ. Điều này có nghĩa là trong tâm vỏ ngoài, con tạo ra một mong chờ dựa trên tầng tâm thức lúc đó và tiếp tục mang nó trong tâm cho đến nay. Do đó, con nghĩ là cách con nhìn Sứ vụ Thiêng liêng lúc đó là cách nhìn đúng, và con cần thực thi những chờ mong đó với lý luận đường thẳng.

Điều thày muốn nói với con là nay con đã lên một tầng tâm thức cao hơn nhiều. Do đó, đã đến lúc con nhìn vào mong chờ này và nói: “Điều giản dị là nó không thiết thực vì nó dựa trên một tầng tâm thức thấp hơn của con ngay bây giờ. Do đó, con cần buông bỏ mong chờ này. Con cần bước lui lại và cho phép một cái nhìn mới về Sứ vụ Thiêng liêng của con được hiện ra từ bên trong.” Để làm được điều này, một lần nữa con cần tâm cởi mở và thơ ngây của trẻ thơ. Con có thể có trạng thái tâm này nếu con nghe theo điều thày sắp nói sau đây.

Ta là Nada, là vị thày chính lo việc khai ngộ con ở tầng này của con đường tu của con, tại đây cho phép con buông bỏ mọi mong chờ liên quan tới Sứ vụ Thiêng liêng của con và việc phụng sự của con trên trái đất. Thày cho phép con buông bỏ hết; để nó qua bên và không lo lắng con phải làm gì trong Sứ vụ Thiêng liêng hay việc phụng sự của con. Thày cho phép con bỏ qua bên toàn bộ ý niệm con phải làm điều gì đó trong cương vị một người tâm linh.

Nếu con chấp nhận nghe lời thày, thì nó sẽ tạo ra sự yên lặng, sự vắng bóng căng thẳng trong tâm con để con có thể bắt đầu lắng nghe nội tâm. Con có thể nghe thấy Hiện diện TA LÀ cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con thay vì một phàm linh nội tại (mà con đã tạo ra ở tầng tâm thức thấp hơn) cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là nguồn căng thẳng. Sứ vụ Thiêng liêng của con là niềm vui lớn nhất của con.

Nó không phải là một phận sự hay một bổn phận. Nó không phải là điều con cảm thấy con phải làm. Khi con cảm thấy có bổn phận, phận sự hay con phải làm điều gì, thì đó là vì có một phàm linh đang xen vào tiến trình phụng sự sự sống của con. Con cần nhận ra điều này, vô hiệu hóa phàm linh, vượt qua nó, và lắng nghe. Con lắng nghe với tâm ngây thơ, cởi mở của trẻ thơ, với tâm vô tư, và con có thể nhận được những khía cạnh trong Sứ vụ Thiêng liêng thích hợp với tầng tâm thức hiện nay của con. Con sẽ cảm thấy niềm vui, không phải một gánh năng, khi con nhận được tín hiệu đó.

Con yêu dấu, thày đã cho con nhiều chuyện để suy ngẫm. Thày không muốn bài giảng này là một gánh nặng cho con. Do đó, thày sẽ giản dị chấp nhận là thày đã cho con đủ để dẫn con tới tầng khai ngộ cuối ở khóa nhập thất của thày. Tại đó, thày sẽ giúp con đạt được nhiều tự do hơn khỏi các căng thẳng mà con cảm thấy khi con là đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con dường dẫn tới thăng thiên.

Vượt qua tinh thần trách nhiệm giả, 14 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 23/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng sáng ngộ thứ năm của khóa nhập thất của thày, chúng ta gặp gỡ an bình phối hợp với viễn kiến. Thày muốn bắt đầu bài giảng này với một khái niệm mà các tâm lý gia gọi là “tư duy thần diệu”. Nó có thể đưa đến những hình thức đã được gọi là mê tín dị đoan.

Tư duy này thường được mô tả như sự lẫn lộn nguyên nhân và hậu quả, tức là những người mắc tư duy đó chế ra một lối giải thích xoay quanh chính họ, thường khiến họ nghĩ tư tưởng của họ đã là nguyên do khiến một số sự việc bên ngoài xảy ra hay không xảy ra. Nơi các trẻ em, tư duy này được mô tả như cảm thấy tư tưởng của mình đã khiến một số sự việc xảy ra trên đời, và là một cố gắng giải thích mọi chuyện dựa trên điều mình biết ngay bây giờ, cùng lúc liên kết mọi chuyện xảy ra với chính mình.

12.1. Ước muốn bất khả xâm phạm

Con yêu dấu, tư duy thần diệu có nhiều khía cạnh, trong đó có nhiều khía cạnh mà các tâm lý gia chưa biết đến. Thầy muốn bắt đầu bằng cách nhắc lại những gì thày giảng trong bài đầu. Có một số đệ tử tâm linh mong tới được điểm mà họ không thể làm gì sai và không có gì có thể gây thương tổn cho họ. Chắc con cũng biết có một số trò chơi vi tính trong đó con sống trong một thế giới có kẻ thù bắn đạn tới con, nhưng con có thể dương lên một lá chắn khiến con bất khả xâm phạm, ít nhất là trong một thời gian.

Khi con nhớ lại những điều thày đã giảng, rằng trong quá khứ con đã biểu lộ quả vị Ki-tô và bị sa nhân đánh lừa khiến con nghĩ làm vậy là sai quấy, thì con có thể nhận ra một sắc thái của tư duy thần diệu là con không thể làm gì sai và không có gì có thể gây thương tổn cho con. Đây có thể coi như là sự nối dài của ước mong nơi trẻ em tưởng tượng là chúng bất khả xâm phạm, nhưng nó cũng là một ý tưởng in sâu vào tâm thức tập thể.

Như thày có nói, khi con lớn lên trong bất cứ nền văn hóa nào trên trái đất, con chịu ảnh hưởng của một số niềm tin rất vi tế. Lẽ dĩ nhiên, khi con nhìn suốt chiều dài lịch sử của trái đất, con thấy là có rất, rất nhiều người đã trải qua những cảnh huống chấn thương đã để lại nơi họ những vết thương tâm lý sâu đậm. Họ đã tìm cách tạo ra một phàm linh, và phàm linh này đã phát triển thành một phàm linh tập thể, để giải thích chuyện đã xảy ra, hay cho họ hy vọng là sẽ có ngày họ trở nên bất khả xâm phạm và không phải chịu các cảnh huống đó nữa. Con thấy chăng là một phần tư duy thần diệu là ý tưởng con thực sự có thể kiểm soát vũ trụ, con có thể kiểm soát một số khía cạnh của thế giới này, và do đó con có thể tránh điều xấu và thu hút điều lành. Có những người dị đoan khi chơi bài bạc, chẳng hạn, và nghĩ rằng nếu họ đeo một lá bùa thì họ sẽ hên hơn. Có nhiều khía cạnh khác của lối hành xử dị đoan qua đó người ta tìm cách làm điều gì đó để kiểm soát chuyện gì sẽ xảy ra hay không xảy ra cho họ. Nhiều người cho rằng đeo một mề đay có khắc hình một vị thánh sẽ che chở họ khỏi sự việc xấu.

Con yêu dấu, con cần nhận ra là có một truyền thống hay phong trào rất, rất cổ xưa trên thế gian giải thích tại sao một số chuyện xảy ra và tìm cách bảo vệ con người khỏi một số chuyện khác. Con muốn tránh điều dữ và thu hút điều lành. Con nghĩ rằng nếu con làm một số chuyện thì con sẽ đạt được ước muốn này. Nói cách khác, có một phàm linh (đã được tạo ra từ rất lâu trên trái đất) khiến con người tin rằng họ có thể kiểm soát thế giới bằng cách nào đó.

Như một đệ tử chân sư thăng thiên con đã lớn lên trong một môi trường trong đó phàm linh này đã ảnh hưởng đa số con người bằng cách này hay cách khác, và lẽ tự nhiên con đã bị nó ảnh hưởng. Một lần nữa, thày hoàn toàn không chê trách con. Thày chỉ nêu lên sự kiện là ở tầng khai ngộ này của khóa học, con đã sẵn sàng để đối phó với vấn đề này. Con đã sẵn sàng để nhìn vào những thành phần của tư duy thần diệu mà con có trong tâm, và con đã sẵn sàng để vượt lên trên chúng và thoát khỏi chúng. Con yêu dấu, khi con buông bỏ chúng, con sẽ cảm thấy tự do hơn là bất cứ gì con mơ ước khi con ở trong vòng ảnh hưởng của phàm linh tập thể và ngay cả một số phàm linh nội tại mà con có trong các thể cao.

12.2. Ảo tưởng có một Thượng đế toàn năng

Con yêu dấu, bây giờ chúng ta hãy xem xét ước muốn được bất khả xâm phạm, bất khả chiến bại. Trong quá khứ có thể con đã bị sa nhân tấn công một cách rất độc ác, không khoan nhượng. Lẽ tự nhiên, con muốn tránh bị chấn thương, bị đau đớn như vậy, và do đó con đã tạo ra một phàm linh nội tại khiến con nghĩ rằng sẽ có ngày con trở nên người bất khả chiến bại. Con sẽ có khả năng đánh bại sa nhân, diệt trừ sa nhân, diệt trừ bất cứ ai tấn công con hay những người con cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ, tỷ dụ như người vô tội.

Thày cần con suy ngẫm phàm linh này từ đâu tới. Nó, như tất cả phàm linh (ít nhất là các phàm linh chính), do sa nhân tạo ra. Ta có thể nói là tất cả phàm linh đều do sa nhân tạo ra, theo nghĩa là chúng nảy sinh từ các tấn công và ảo tưởng của sa nhân. Lẽ dĩ nhiên, một phàm linh riêng lẻ đã do một người tạo ra khi họ phản ứng lại sa nhân.

Điều sa nhân muốn con nghĩ là có một thực thể nhân từ, thường được gọi là Thượng đế, có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Một khi con tin điều này, con nghĩ một số điều đáng lý không được xảy ra. Suốt mấy ngàn năm, nhiều người cảm thấy sự hiện diện hiển nhiên của sự ác độc trên hành tinh này thách thức sự hiện hữu của Thượng đế. Nếu thực sự có một Thượng đế, và Thượng đế đó nhân từ và toàn năng, thì tại sao ngài lại để cho sự ác độc có mặt trên trái đất?

Con thấy là sa nhân đã từ khởi thủy tạo ra ảo tưởng là có một Thượng đế toàn năng kiểm soát vũ trụ. Rồi chính họ đã làm nhiều chuyện độc ác đối với con người, thách thức sự hiện hữu của Thượng đế nhân từ và toàn năng này. Do đó, sa nhân đã tạo một mâu thuẫn trong tâm của hầu hết mọi người. Con nghĩ đúng lý con phải có cách kiểm soát chuyện gì xảy ra cho con trong cuộc đời. Con nghĩ đúng lý phải có một thực thể nhân từ kiểm soát mọi chuyện. Do đó, con nghĩ nếu con cầu xin thực thể đó bằng một tư duy thần diệu nào đó, con sẽ có thể cầu xin sự phù hộ của thực thể đó để chỉ có chuyện tốt xảy ra cho con và chuyện xấu không xảy ra cho con.

Một số người sống nhiều kiếp với niềm tin đó và nghĩ rằng niềm tin này không bị thách thức vì không có chuyện gì xấu xảy ra cho họ. Một số người khác ban đầu có niềm tin này nhưng sau đó có chuyện xấu xảy ra cho họ, và bỗng nhiên họ bị khủng hoảng niềm tin, có thể đi đến chối bỏ khái niệm tôn giáo và Thượng đế. Trong cả hai trường hợp, đây là điều sa nhân mong muốn vì họ giữ con người trong một khuôn nếp phản ứng. Ngay cả những người cho rằng họ có thể kiểm soát Thượng đế và vũ trụ bằng một số hành động, họ cũng bị sa nhân giữ trong một ảo tưởng.

Mục tiêu của các thày trong khóa học này là gì? Các thày đã tìm cách giúp con nhận lãnh càng ngày càng nhiều trách nhiệm về hoàn cảnh của mình. Nhận lãnh trách nhiệm có lợi ích gì? Lợi ích là con thấy con có thể ảnh hưởng hoàn cảnh của mình. Con có thể hỏi: “Vậy đây không phải là tư duy thần diệu à? Ban đầu thày nói là sa nhân tạo ra ảo tưởng có một Thượng đế toàn năng kiểm soát cả vũ trụ. Mặt khác thày nói là các con phải vượt qua tư duy thần diệu, nhưng bây giờ thày lại nói là chúng con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình và thấy là chúng con đang đồng sáng tạo hoàn cảnh của mình. Làm sao chúng con phối hợp được các thành phần này?” Ấy, chúng ta sẽ không phối hợp các thành phần đó. Chúng ta sẽ xem xét từng thành phần một và xem chúng là gì.

12.3. Từ bỏ niềm tin có một Thượng đế của riêng mình

Trước tiên, lẽ dĩ nhiên là có một đấng Sáng tạo, theo một nghĩa nào đó, có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Đấng Sáng tạo tạo ra thế giới hình tướng, trong đó có bầu cõi nơi con đang sống. Như các thày đã thuyết giảng qua trung gian của vị sứ giả này, một bầu cõi được tạo ra như một bầu cõi chưa thăng thiên, có nghĩa là nó chưa đạt được tính chất thường hằng. Mục đích tạo ra một bầu cõi trong trạng thái đó là để luật tự quyết trải bày. Các sinh thể có tự nhận biết được gửi xuống hiện thân trong bầu cõi có thể biểu lộ quyền tự quyết của họ nhưng những gì họ tạo ra không thường hằng. Bất cứ những gì họ tạo ra, họ đều có thể xóa đi hay khắc phục. Nói cách khác, họ không thể bị mắc kẹt trong những gì họ tạo ra.

Vì bầu cõi trong đó con sống không thường hằng, nên con có thể để cho luật tự quyết trải bày bất cứ cách nào con muốn. Khi thày nói “con”, thày không chỉ nói riêng con. Tất cả các sinh thể đồng sáng tạo trong bầu cõi chưa thăng thiên đều có quyền tự quyết, một quyền tự quyết không giới hạn. Con có thể có hành động giới hạn chính mình, con có thể có hành động hại người khác, và các điều này đều được phép vì bầu cõi không thường hằng. Tuy nhiên, để cho quyền tự quyết được trải bày, đấng Sáng tạo cũng đã để qua một bên quyền kiểm soát của ngài trên bầu cõi chưa thăng thiên. Điều này không có nghĩa là Thượng đế không can thiệp vào được, nếu đó là điều đấng Sáng tạo mong muốn. Đấng Sáng tạo có thể xóa bỏ toàn thể bầu cõi trong một khoảnh khắc nếu ngài muốn. Tuy nhiên, luật tự quyết có nghĩa là đấng Sáng tạo đã nói: “Ta sẽ cho những sinh thể có tự nhận biết này thời gian để học hỏi với quyền tự quyết của họ và đi tới kết luận, dựa trên thử nghiệm với quyền tự quyết, rằng điều tốt nhất cho toàn thể cũng là điều tốt nhất cho cá nhân.”

Lẽ dĩ nhiên, thực tế là trái đất là một trong số ít hành tinh trong toàn thể vũ trụ có một tầng tâm thức rất, rất thấp. Con có thể nhìn những chuyện xảy ra trên trái đất và nói là Thượng đế không được để cho những điều ác độc đó xảy ra và do đó Thượng đế phải tiêu hủy toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên. Tuy nhiên, có hàng tỷ hành tinh có tầng tâm thức cao hơn trái đất rất nhiều. Tại sao Thượng đế lại phải xóa bỏ toàn thể bầu cõi dựa trên những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé này?

Như một đệ tử chân sư thăng thiên đã tới tầng này, con cần buông bỏ ảo tưởng do sa nhân tạo ra là có một Thượng đế cá nhân quan tâm mật thiết đến đời sống và hoàn cảnh cá nhân của con trên trái đất. Con cần buông bỏ ý tưởng rằng đâu đó ở trên thiên đàng có một ông già râu bạc đặc biệt quan tâm tới con và lúc nào cũng theo dõi mọi chuyện con làm, nghĩ hay cảm nhận. Vị Thượng đế xa xăm trên trời đó là một sáng chế hư cấu của sa nhân. Đã đến lúc con buông bỏ nó. Đã đến lúc con nhìn nhận là không có Thượng đế đó.

12.4. Người trợ giúp thần diệu

Một khía cạnh của tư duy thần diệu hay tìm thấy nơi trẻ em là niềm tin có một người trợ giúp thần diệu. Nếu một em bé cảm thấy khổ sở, bị đe dọa hay sợ hãi, thì em nghĩ có một người trợ giúp thần diệu sẽ một ngày nào đó hiện ra và thay đổi hoàn cảnh bên ngoài cho em. Một lần nữa, niềm tin này có thể hiểu được ở một tầng tâm thức nào đó. Niềm tin này thu hút chính yếu những người ở dưới tầng tâm thức 48. Vì nó rất mạnh dưới hình thức một phàm linh tập thể, nên con đã lớn lên với nó, con đã bị nó ảnh hưởng. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, con chỉ cần giản dị nhìn vào nó và cho nó biến đi.

Tư duy thần diệu cho rằng, tỷ dụ, nếu con không có một số tư tưởng, nếu con không có một số hành động, nếu con có tư tưởng tích cực hay đeo một mề đai có khắc hình thánh Christopher, thì chuyện xấu sẽ không xảy ra cho con. Vấn đề với lối suy nghĩ này là nó khiến con nghĩ có một người trung gian. Con nghĩ con ở trong hoàn cảnh mà cá nhân con không làm được gì, nhưng có một thực thể bên ngoài con có thể làm gì đó để giải quyết vấn đề – và ước gì con tìm ra cách kích hoạt thực thể đó hành động và sử dụng quyền năng của nó.

Con có thấy chăng hậu quả tâm lý của lối suy nghĩ này? Con cảm thấy bất lực, con phản ứng dựa trên cảm giác bất lực bằng cách cầu thỉnh một thực thể tưởng tượng mà con nghĩ có quyền năng mà con không có. Một lần nữa, điều này hiểu được nơi trẻ thơ hay nơi những người ở một tầng tâm thức nào đó. Con nay ở tầng tâm thức cao hơn rất nhiều. Do đó, đã đến lúc con nhìn vào điều này và nhận ra nó hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng.

12.5. Con không bao giờ bất lực

Trước tiên, thày muốn giải quyết cảm giác bất lực. Con yêu dấu, con không bao giờ bất lực. Thày không thể nói điều này ở một tầng tâm thức thấp hơn, vì những người ở dưới tầng 48 sẽ không tin. Ngay cả những người tham dự khóa học này nhưng ở tầng tâm thức thấp cũng thấy rất khó mà hoàn toàn tin điều này. Đó là lý do các thày phải giảng nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Sự thực là con không bao giờ bất lực. Lẽ đương nhiên, câu này cần được hiểu một cách sâu sắc. Như thày có nói, sa nhân thích đưa con vào hoàn cảnh trong đó con cảm thấy không có điều gì xấu có thể xảy ra cho con, sau đó họ làm một chuyện vật lý tàn tệ và khiến tâm con bắt đầu hồ nghi. Lẽ tự nhiên, như một đệ tử chân sư thăng thiên, con cần xem xét vấn đề này. Con cần nhận ra là luật tự quyết ngự trị tối cao trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con cũng cần nhận ra là trái đất là một trong những hành tinh có tâm thức thấp nhất trong bầu cõi của con. Điều này có nghĩa là khi con đầu thai trên trái đất, một số chuyện có thể xảy ra cho con vì người khác có thể dùng quyền tự quyết của họ để hại con. Có một số người khác đã dùng quyền tự quyết để mở cửa đón nhận sự kiểm soát của sa nhân trên các cõi xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Do đó, họ có thể hại con trên mặt vật lý. Họ có thể có hành động vật lý để hại con.

Thày cần con nhận ra rằng con không làm được gì về chuyện này và lý do là vì luật tự quyết, như thày có nói, phải được phép trải bày ra. Con có thể cần suy ngẫm điều này, và nếu con cảm thấy khó chấp nhận rằng quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, thì thày khuyên con nên đọc quyển sách, Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su. Quyển sách này giải thích rất cặn kẽ mục đích của luật tự quyết và cách luật tự quyết trải bày ra.

Thầy cần con suy ngẫm và tới điểm chấp nhận là trái đất là một hành tinh có tâm thức rất thấp và do đó có thể là một số chuyện sẽ xảy ra cho con. Con bất lực vì con không thể ngăn chặn người khác lạm dụng quyền tự quyết của họ. Con không làm được gì để ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Thày biết rằng có rất, rất nhiều người (trong đó có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên) cảm thấy rằng đáng lý phải có cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác để không hại được mình. Thày cần con buông bỏ niềm tin này vì lý do giản dị là con không muốn ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Đây là một điều khó chấp nhận, ngay cả với đệ tử chân sư thăng thiên đã biết mọi chuyện cần biết về nhị nguyên, luật tự quyết và mục đích của vũ trụ. Thầy cần con bỏ ra một chút thì giờ để suy ngẫm điều này.

12.6. Hình thức nghiệp nặng nhất

Con cần nhận ra là khi con có hành động hại người khác, con tạo ra nghiệp. Tuy nhiên, nghiệp tạo ra bởi bất kể hành động vật lý nào không phải là hình thức nghiệp nặng nhất. Hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào quyền tự quyết của người khác. Con có thể nói ở đây: “Nhưng nếu việc con làm là ngăn họ tự giết họ? Nếu con làm vậy thì con can thiệp vào quyền tự quyết của họ, nhưng có phải chăng không tự sát là điều tốt cho họ? Vậy có phải chăng việc con can thiệp vào quyền tự quyết của người đó là việc làm đúng?” Không, con yêu dấu, việc đó không đúng và con sẽ tạo nghiệp nếu con làm như vậy.

Con có thể nói: “Nếu sa nhân sắp sửa giết một trẻ thơ, thì phải chăng việc làm đúng là con can thiệp vào quyền tự quyết của họ và khiến họ không làm hành động đó?” Một lần nữa, con yêu dấu, việc đó không đúng, con sẽ tạo nghiệp nếu con làm như vậy. Đây là loại nghiệp mà sa nhân đã tạo ra từ khi họ sa ngã và thày bảo đảm với con là, như một đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con đường dẫn tới thăng thiên, con không muốn tạo ra loại nghiệp đó. Con yêu dấu, đây là lúc con cần nhận ra điều ta có thể gọi là hai tầng của tâm thức nhị nguyên. Ở tầng đầu, con hướng mọi chuyện về chính mình, con chú tâm vào chính mình, và con lúc nào cũng cố gắng làm điều tốt nhất cho mình. Nhưng có một tầng thấp hơn, là tầng của sa nhân, là nơi con cố ý tìm cách kiểm soát người khác. Ở tầng đầu, con tìm cách được những gì mình muốn và khiến người khác cho mình cái mình muốn. Con không làm với ý định hiểm độc kiểm soát hay diệt trừ người khác. Sa nhân ở tầng tâm thức mà họ tìm cách kiểm soát người khác một cách cố ý và hiểm độc. Họ làm vậy không chỉ để có được cái họ muốn, nhưng họ tìm cách tàn phá người khác bằng cách tạo ra đủ loại chia rẽ và mâu thuẫn trong bốn thể phàm của người khác, khiến người khác bị chia rẽ chính trong nội tâm.

Có một điểm khác biệt vi tế giữa hai loại nghiệp. Điều thày nói ở đây là để con thấy sự tương phản. Thày muốn nói là hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào ba thể cao của một người và ảnh hưởng chọn lựa của họ. Dù con nghĩ con can thiệp để đem lại điều tốt cho họ, con vẫn tạo nghiệp rất nặng khi làm thế. Đã đến lúc con nhận ra là nếu con có ý định chân thật muốn thăng thiên, muốn hội đủ điều kiện thăng thiên, trong kiếp sống này, thì con không thể cho phép mình tạo ra loại nghiệp này. Do đó, con cần tới chỗ chấp nhận hoàn toàn và tuyệt đối là người khác phải được phép trải bày quyền tự quyết của họ dù rằng khi làm vậy họ sẽ tự hại họ hay hại con.

Lẽ tự nhiên, điều này không cấm con giúp họ nhận ra điều họ đang làm hay cố gắng cho họ thấy điều mà họ không thấy. Điều con không được làm là khuynh loát hay kiểm soát người khác. Đây là lý do thầy cần con nhận ra là con không nên có niềm tin cho rằng Thượng đế, một vị thánh hay thiên thần nào đó có thể khiến người khác làm hay không làm điều gì. Cầu nguyện Thượng đế để ngăn cản người khác làm điều gì có thể sẽ hại con hay chính họ không phải là việc làm chính đáng.

Con yêu dấu, con thấy chăng là không có thẩm quyền nào trên thiên đàng có quyền can thiệp vào quyền tự quyết của những người đang hiện thân. Do đó, con chỉ phí hơi vô ích nếu con cầu nguyện xin Thượng đế thay đổi tâm người khác, điều này đi ngược lại Luật Tự Quyết. Con thực sự sẽ tạo nghiệp khi con làm vậy. Nghiệp này không nặng bằng nghiệp con tạo ra khi con tìm cách ảnh hưởng hay khuynh loát người khác, nhưng con vẫn sẽ tạo nghiệp.

12.7. Hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết

Thày muốn con nhận ra là có một trạng thái tâm trong đó con nhìn trái đất như nó đang là ngay lúc này và có thể chấp nhận quyền tự quyết một cách hoàn toàn, vô điều kiện và không khoan nhượng. Con nhìn nhận trái đất là một hành tinh có tâm thức thấp và điều đơn giản là một số chuyện sẽ xảy ra trên một hành tinh như trái đất. Thày muốn con tới điểm con nói: “Tôi đã đầu thai trên trái đất và lý do tối hậu là vì tôi đã chọn tới đây. Tôi biết trái đất là loại hành tinh như thế nào trước khi tôi đầu thai lần đầu ở đây. Bây giờ tôi nhận ra tôi có lý do của tôi, tôi có thể không nhớ rõ một cách ý thức những lý do này, nhưng một phần lý do chắc hẳn là tôi muốn tăng triển qua việc trải nghiệm cuộc sống trên một hành tinh như thế này. Vậy làm sao tôi tăng triển? Tôi tăng triển bằng cách nhận ra là vì quyền tự quyết, tôi không thể ngăn cản người khác làm điều mà họ chọn làm. Vả lại đây cũng không phải là vai trò của tôi.”

Do đó, con có thể buông bỏ ước muốn tìm một phương pháp thần diệu để ngăn cản người khác hại chính họ hay hại người. Con buông bỏ ước muốn ảnh hưởng Thượng đế hay ngay cả tìm cách ảnh hưởng người khác. Con chấp nhận là khi con đầu thai trên trái đất này, con không ngăn cản được một số sự việc vật lý xảy ra.

12.8. Bất lực có nghĩa gì?

Con có thể tới điểm chấp nhận điều trên, và con sẽ dễ chấp nhận điều trên hơn, khi con nhận ra là tuy con đối mặt một sự việc và không thể ngăn chặn nó, nhưng con vẫn không bất lực. Con cần suy ngẫm điều này một chút. Bất lực có nghĩa gì? Lẽ tự nhiên, con cảm thấy (đây cũng là một phàm linh tập thể rất mạnh trên trái đất) là các chuyện xấu đáng lý không được xảy ra và đáng lý phải có quyền lực nào ngăn chặn chúng. Nếu con bị một sự việc nào đó đe dọa, con cảm thấy trong tâm là hoặc đáng lý con phải chặn được nó, hoặc Thượng đế phải chặn nó, và nếu cả hai chuyện này đều không xảy ra thì con cảm thấy bất lực. Khi con đứng lùi lại, thì con nhận ra đây là một hiểu biết sai lạc về ý nghĩa của quyền năng; quan niệm trên không thừa nhận loại hành tinh nơi con đang sống.

Con đang ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên nơi luật tự quyết ngự trị tuyệt đối vì mục đích của một bầu cõi chưa thăng thiên là cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra. Thêm vào đó, con đang ở trên một trong những hành tinh có tâm thức thấp nhất, có nghĩa là con đang ở trên một hành tinh nơi rất, rất nhiều chuyện xấu có thể xảy ra vì con người chọn thực thi quyền tự quyết một cách cực đoan, một cách tối ích kỷ. Khi con nhận ra là con đang ở trên loại hành tinh nào, thì con nhận ra con không thực tế nếu con nghĩ con có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài. Con không thực tế nếu con nghĩ con có quyền năng ngăn chặn một cuộc chiến bùng nổ khi hàng triệu triệu người đã lấy quyết định tập thể để giao chiến.

Con không thực tế nếu con nghĩ con, như là một người đang hiện thân, có quyền năng đó. Con cũng không thực tế khi con nghĩ Thượng đế hay một sinh thể nào khác trên trời có quyền năng đó. Điều đơn giản là quyền năng đó không hiện hữu trên trái đất. Hy vọng vào quyền năng đó cũng ngây thơ như nghĩ rằng ta có thể ngưng trọng lực và bay bổng trong không khí. Con yêu dấu, khi con thực sự nhìn nhận điều này, con thấy là tuy con không có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài, điều này không có nghĩa là con bất lực và không có nghĩa là con phải cảm thấy bất lực. Sa nhân đã thiết lập một cơ chế khiến con nghĩ là phải có một quyền lực ngăn chặn được những sự việc này và khi con kinh nghiệm là không có quyền lực nào, thì con cảm thấy hoàn toàn bất lực, con cảm thấy mình trong vòng kềm tỏa của những sự việc ngoài tầm kiểm soát của mình. Cái gì đang cảm thấy như vậy? Đó là một phàm linh cảm thấy như vậy, không phải là con. Điều thày cần con làm là bước lui lại, nhìn việc đang xảy ra, thấy là có phàm linh đang cảm thấy bất lực và con tự hỏi: “Vậy thì con cảm thấy thế nào?” Con, là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, không cảm thấy bất lực. Cái Ta Biết, khi nó biết nó là ai, nó là gì, không bao giờ cảm thấy bất lực.

Khi cái Ta Biết nhận biết nó là ai và là cái gì, thì nó nhận ra là không có điều gì trên trái đất quy định được nó. Chuyện gì xảy ra khi con bị dính líu vào một biến cố vật lý rất tang thương? Lẽ dĩ nhiên là có hậu quả vật lý. Con có thể bị giết, gia đình và bạn bè của con có thể bị giết, xã hội của con có thể bị tiêu diệt. Chuyện này đã xảy đến cho đa số các con trong những kiếp trước, và cho một số nhỏ trong kiếp này, nhưng con yêu dấu, có phải chăng là hoàn cảnh bên ngoài đã ảnh hưởng con?

Thày có nói là cái Ta Biết không thể nào bị quy định hay ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì trên thế gian. Con là nhận biết thuần khiết, con luôn luôn có thể trở về nhận biết thuần khiết và do đó tách mình ra khỏi những vết thương trong ba thể cao của con. Cái gì tác động con trong một sự việc bên ngoài? Ấy, đấy là cách con phản ứng lại hoàn cảnh. Phản ứng của con tạo ra một phàm linh nội tại và phàm linh này ở lại trong ba thể cao của con ngay cả trong các kiếp sau đó. Như các thày đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong khóa học này và trong các bài giảng khác, con không phải là phàm linh đó. Rất có thể là, cho tới điểm này, con đã nhìn thế giới qua phàm linh này và phản ứng lại phàm linh này nhưng tuy vậy, con không phải là phàm linh. Trong khóa học này, con đã chế phục nhiều phàm linh nội tại, và do đó, lẽ dĩ nhiên là con có thể chế phục thêm nhiều phàm linh nữa. Thày chỉ giản dị muốn con chế phục thêm một phàm linh nữa bằng cách nhận ra rằng, bất kể những chấn thương mà con đã gánh chịu trong kiếp này hay các kiếp trước, hậu quả kéo dài của các sự việc vật lý này là các phàm linh nội tại mà con mang theo trong ba thể cao của con. Chính những phàm linh này đang tác động con.

12.9. Nhận ra hồng ân của thời gian

Con yêu dấu, bây giờ thày cần con đứng lui lại và nhận ra là thời gian là một hồng ân. Nhiều người trong số các con không nhìn thời gian dưới góc độ này vì thời gian được xem như cái gì đòi hỏi hay giới hạn con. Trong đời sống hàng ngày, con lúc nào cũng phải ở nơi nào đó vào lúc nào đó, con cần phải đi làm trong một khoảng thời gian nào đó, con không được tự do với thời gian của mình. Nhiều người trong các con cảm thấy đời sống ngắn ngủi và thời gian trôi qua nhanh, và do đó con người có một quan hệ khá khó chịu với thời gian. Thày sẽ cố gắng cho con một tầm nhìn khác.

Chúng ta hãy coi là một lúc nào đó trong quá khứ, trong kiếp này hay một kiếp trước, con bị dính líu vào một biến cố rất tang thương, tỷ dụ như một chiến tranh tiêu diệt gia đình và xã hội của con. Đây là một sự việc vật lý, nhưng sự việc vật lý xảy ra ở một thời điểm nào đó và bây giờ thời gian đã trôi đi. Con không còn sống ở mốc thời gian cũ nữa. Điều này có nghĩa là con nay có thể nhìn sự việc và nói: “Không thể chối cãi là sự việc vật lý này đã xảy ra trong cõi vật lý. Nhưng ngày hôm nay, sự việc này ở đâu trong cõi vật lý?” Nó không còn trong cõi vật lý vì thời gian đã trôi đi.

Có thể là vẫn còn một số hậu quả, một số tác dụng của sự việc vẫn còn hiện diện trong thế giới vật lý. Để giúp chúng ta hiểu dễ hơn, chúng ta hãy giả thử là mấy ngàn năm trước đây trong một kiếp trước, con bị dính líu vào một biến cố tang thương khi Đế quốc La mã chinh phục và tàn phá thành phố nơi con sống. Biến cố này xảy ra 2000 năm trước đây. Ngày nay, không còn dấu vết nào của biến cố đó trong cõi vật lý, cũng không có hậu quả gì, ít nhất là hậu quả trực tiếp. Biến cố này có còn tác động con chăng? Con phải nhìn nhận là, ở tầng vật lý, biến cố này không còn tác động con. Điều này chính thực cũng áp dụng cho một sự việc xảy ra năm phút trước đây.

Hồng ân của thời gian là nó cứ liên tục trôi đi, có nghĩa là khi thời gian trôi đi, nó tẩy xóa các sự việc cũ. Đó là những sự việc vật lý đã xảy ra trong tầng vật lý nhưng thời gian đã tẩy xóa chúng. Điều này có nghĩa là, dù ở thời điểm sự việc xảy ra, con bất lực không ngăn cản được sự việc ảnh hưởng con, thời gian đã cho con cơ hội mới để khắc phục ảnh hưởng của sự việc. Ta có thể nói: “Ngày hôm nay, sự việc vật lý xảy ra 2000 năm trước đây có tầm quan trọng nào chăng?” Ở tầng vật lý, rõ ràng là không.

Tuy nhiên, khi sự việc xảy ra, con phản ứng dựa trên tầng tâm thức của con lúc ấy và con tạo ra một số phàm linh nội tại. Nếu các phàm linh này vẫn còn ở trong ba thể cao của con, nếu con vẫn mang chúng theo mình trong suốt bao nhiêu kiếp từ khi biến cố xảy ra, thì sự việc vẫn ảnh hưởng con. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng con một cách vật lý, và như vậy có nghĩa là con không bất lực và con có thể khắc phục nó. Vấn đề không phải là con ngăn chặn sự việc vật lý, mà con không thể ngăn chặn được vì nó không có mặt ở đây nữa. Vấn đề là con chế phục hậu quả của sự việc đó, tức là các phàm linh nội tại. Con thật sự quyền lực làm rã tan các phàm linh này và giải thoát con khỏi chúng.

12.10. Nghiệp quả luân lưu ra sao qua bốn cõi

Trong quá khứ (dù là hai phút hay 2000 năm trước đây) con bị dính líu vào một sự việc nào đó. Con phản ứng dựa trên tầng tâm thức mà con có lúc đó. Con tạo ra một phàm linh dựa trên phản ứng của con trước sự việc. Con không có lỗi gì cả. Con có thể làm gì khác việc phản ứng dựa trên tầng tâm thức mà con có khi con trải nghiệm sự việc?

Bây giờ con đã lên một tầng tâm thức cao hơn và do đó con có quyền lực tìm các phàm linh đã được tạo ra ở một tầng tâm thức thấp hơn, thấy chúng như chúng là, tách mình ra khỏi chúng và nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan.” Con có thể cầu thỉnh Đại thiên thần Michael, Astrea hay các chân sư khác trói buộc, tiêu hủy và làm rã tan các phàm linh đó. Khi con thấy ảo tưởng đã tạo ra phàm linh, con có thể buông bỏ ảo tưởng và con được giải thoát!

Thày cần con nhận ra nơi đây một khía cạnh vi tế của nghiệp quả mà nhiều đệ tử tâm linh chưa hiểu thấu. Con yêu dấu, con có thể nghĩ nghiệp quả là một sự vật vật lý. Rất nhiều người (ở phương Đông và ngay cả trong các cộng đồng Thời đại mới) tin rằng khi con có một hành động vật lý, con tạo một nghiệp vật lý, và một ngày nào đó nghiệp quay trở lại và đập con, có nghĩa là một chuyện gì xấu sẽ xảy ra cho con. Tuy nhiên, nghiệp quả không vận hành như vậy. Các thày đã nói trước đây: “Nghiệp quả không phải là trừng phạt.”

Các thày cũng có nói là một khía cạnh khác của thời gian là khi con gửi đi một xung lực nghiệp qua một hành động nào đó, nó không trở lại con ngay tức khắc. Đây lại là, một lần nữa, một khoảng cách hồng ân khi xung lực luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Khi xung lực trở về cõi vật lý, nếu con đã học bài học, nếu con đã vượt qua tâm thức đã khiến con tạo nghiệp, thì sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra cho con trong cõi vật lý. Con có hiểu thày chăng? Mục đích của nghiệp quả không phải là để trừng phạt con vì những gì con đã làm.

Điều này cũng giải thích một cách sâu sắc vì sao những cơ chế bù đắp hoàn toàn không có lợi ích gì. Vấn đề không phải là, nếu con giết một người trong quá khứ, nhưng con đã làm đủ việc thiện nhưng không thay đổi tâm thức, thì con sẽ không bị giết trong tương lai khi nghiệp quả trở lại. Khi nghiệp quả trở lại, nó đi xuống thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc của con. Nếu con vẫn còn có cùng tâm thức, cùng phàm linh nội tại, đã khiến con giết một người mười kiếp trước đây, thì khi nghiệp quả vào thể bản sắc của con nó được khơi động – nó được phóng đại – bởi phàm linh nội tại trong thể bản sắc của con. Phàm linh nội tại đó có thể nghĩ việc giết người đó trong hoàn cảnh nào đó là điều chính đáng.

Sau đó nghiệp quả xuống thể tư tưởng. Nếu con vẫn còn một phàm linh giải thích là việc con giết người đó chấp nhận được, nó lại được phóng đại và sau đó nó xuống tầng cảm xúc. Nếu con vẫn còn cảm xúc giận dữ mà con chưa giải quyết, nó lại được phóng đại nữa. Sau đó, nó xuống cõi vật lý nơi nó có thể kết đọng xuống thành một biến cố tang thương khiến con có thể bị giết hoặc chuyện gì khác xảy ra cho con. Nếu con đã tháo bỏ những phàm linh trên ba thể cao, không có gì phóng đại xung lực nghiệp quả và do đó nó sẽ không xuống cõi vật lý. Nó giản dị tan rã đi trước khi nó tới cõi vật lý.

Nghiệp quả không phải là trừng phạt. Nó là một cơ hội để học bài học mà con không học lúc ban đầu. Nếu trong khoảng thời gian sau đó con đã học xong bài học, thì con không cần nghiệp quả xuống cõi vật lý là nơi con không thể lờ nó đi. Con không còn cần nghiệp quả và đó là lý do nó có thể tan rã hoàn toàn trong ba thể cao của con hoặc một chân sư thăng thiên có thể quyết định lãnh chịu nó để giúp con tránh một sự việc vật lý có thể trì hoãn tiến bộ của con.

12.11. Kéo theo sau những phàm linh cũ

Thày cần con nhận ra là dù con đang phải đối đầu với một hoàn cảnh rất khó khăn, một hoàn cảnh vật lý khó khăn mà con không thể tránh, con vẫn không bất lực. Có thể là con không ngưng được hoàn cảnh vật lý. Nếu quyền tự quyết của người khác dính líu vào hoàn cảnh, thì con không muốn ngưng nó trải bày. Thay vào đó, điều con cần làm là chú tâm vào việc kiểm soát phản ứng của con đối với hoàn cảnh. Đây là cơ hội cho con thấy nếu còn một số phàm linh nội tại đã được tạo ra trong các hoàn cảnh tương tự trong quá khứ, khiến con phản ứng với hoàn cảnh hôm nay với tầng tâm thức của con khi các phàm linh này được tạo ra. Con có thấy cơ chế này chăng?

Nếu con bị dính líu vào một biến cố tang thương 2000 năm trước, khi con ở, thí dụ, tầng tâm thức 48, con đã tạo ra phàm linh nội tại khi con phản ứng ở tầng 48. Bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn nhiều. Đâu có lý do nào khiến con muốn phản ứng dựa trên tầng tâm thức 48, khi con có đầy đủ khả năng phản ứng ở tầng tâm thức hiện nay của con? Tuy nhiên, để tránh phản ứng ở tầng tâm thức cũ, con cần làm rã tan phàm linh đã được tạo ra trong quá khứ.

Mọi hoàn cảnh đều là một cơ hội để con nhìn vào phản ứng của mình, thấy phàm linh đã khiến con phản ứng trong quá khứ (khi con ở một tầng tâm thức thấp hơn), làm nó rã tan đi, vươn lên trên nó, và sau đó giải thoát con khỏi phàm linh này. Một lần nữa, thày không đòi hỏi con phải toàn hảo. Thày không đòi hỏi con phản ứng với mọi hoàn cảnh mà con gặp trên đời với tầng tâm thức 144 là tầng tâm Phật không dính mắc. Thày muốn con nhận ra con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con phản ứng ở tầng tâm thức 84 hay 87 là điều hoàn toàn thích nghi. Con không làm gì sai trái khi con phản ứng ở tầng tâm thức hiện nay của con; con không cần chê trách mình nếu con làm vậy. Con không cần cho phép sa nhân đánh lừa con và khiến con nghĩ, vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, đáng lý con phải phản ứng với tầng tâm thức cao nhất. Đây không phải là yêu cầu, đây không phải là cách tu tập.

Một lần nữa, con đường tu là con đường tuần tự. Con bước đi từng bước một. Ở mỗi lúc, con ở một tầng tâm thức nào đó, và lẽ tự nhiên con phản ứng lại hoàn cảnh ở tầng đó. Thày có thể bảo đảm với con là, ở tầng tâng thức hiện nay của con, phản ứng trước bất kỳ hoàn cảnh nào sẽ không khắt khe bằng phản ứng với tầng tâm thức 48 hay một tầng tâm thức thấp khác. Do đó, con cần nhận ra là con có thể đang gặp một hoàn cảnh không vui và con e ngại không biết hoàn cảnh sẽ tiến triển ra sao, nhưng nỗi sợ này dựa trên một phàm linh thấp mà con chưa làm rã tan đi. Nếu con làm phàm linh đó rã tan đi, con có thể phản ứng với tầng tâm thức hiện nay của con, và nỗi sợ và sự hung hãn của con sẽ ít cường độ hơn nhiều.

12.12. Vì sao con không bất lực

Con yêu dấu, con có thấy chăng là con không bao giờ bất lực. Bất lực là chuyện không có. Một lần nữa con có thể nói: “Nhưng con không ngăn được sự việc vật lý xảy ra.” Con yêu dấu, đúng là con không ngăn được sự việc vật lý nhưng nó không ảnh hưởng con. Chính phản ứng của con trước hoàn cảnh đã ảnh hưởng con. Nếu con kiểm soát được phản ứng của mình, nếu con làm rã tan đi các phàm linh thấp đã khiến con phản ứng trong những hoàn cảnh tương tự với một tầng tâm thức thấp hơn, thì con có quyền lực trên phản ứng của con trước hoàn cảnh.

Con yêu dấu, một phần của tư duy thần diệu là con cảm thấy có trách nhiệm với chuyện xảy ra. Các tâm lý gia cho rằng trẻ thơ cảm thấy thế giới là một phần nối dài của chúng và của thân thể chúng, và do đó chúng cảm thấy có trách nhiệm với bất cứ chuyện gì xảy ra.

Một thí dụ là nhiều trẻ thơ bị chấn thương tâm thần vì chúng cảm thấy có trách nhiệm khi cha mẹ chúng cãi nhau. Tinh thần trách nhiệm này không thích hợp. Các thày đã nói gì trong khóa học này? Các thày muốn các con chấp nhận càng ngày càng nhiều trách nhiệm về chính mình và về phản ứng của mình, nhưng đồng thời con phải ngưng nhận trách nhiệm về những gì con không có trách nhiệm.

Đâu là yếu tố giải thoát khi con nhìn nhận quyền tự quyết? Con yêu dấu, đó là con nhận ra là con chịu trách nhiệm cách con thực thi quyền tự quyết của mình nhưng con tuyệt đối không chịu trách nhiệm khi những sinh thể khác thực thi quyền tự quyết của họ. Con cần đặc biệt nhận biết là con không chịu trách nhiệm khi sa nhân thực thi quyền tự quyết của họ. Con cần duyệt lại một lần nữa vấn đề của sự ác độc đã khiến nhiều nhà tôn giáo và triết gia bối rối.

Sự ác độc như ta thấy trên trái đất không phải là quy luật, nó là một ngoại lệ hiếm hoi. Có hàng tỷ hành tinh trong vũ trụ của con đang theo một vòng xoắn hướng thượng nơi đó không có chiến tranh hay các hình thức bạo lực, tra tấn và độc ác mà con thấy trên trái đất. Trái đất là một trong số rất, rất ít hành tinh mà tình trạng này được cho phép xảy ra. Con cần giản dị nhìn nhận đây là loại hành tinh nơi con đang hiện thân. Do đó, con cần nhìn nhận là sự kiện sa nhân đã và đang làm đủ loại điều tàn ác không phải là lỗi của Thượng đế, đây là lỗi của họ. Con cũng cần nhìn nhận là sự kiện sa nhân làm điều mà họ làm không phải là lỗi của con.

12.13. Con không đáng bị mọi chuyện đã xảy ra

Các đệ tử tâm linh thường có cảm nhận là – và đây cũng là một khía cạnh vi tế của tư duy thần diệu – nếu điều gì không tốt xảy ra cho họ, thì chắc là họ đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Ý niệm này dựa trên ước mơ là tối hậu có một Thượng đế nhân từ kiểm soát vũ trụ. Con cũng có một câu mà các thày đôi khi đã dùng: “Trong vũ trụ không có bất công.” Con có thể dùng suy luận cao và nói, vì có luật tự quyết và vì luật tự quyết phải được phép trải bày ra, không có bất công trong vũ trụ, vì bất kỳ sa nhân đã làm gì với quyền tự quyết của họ, họ rốt cuộc sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của họ.

Tuy nhiên, nếu con nhìn vào một hành tinh như trái đất, con có thể nói là nếu ta thẩm định những sự việc đã xảy ra trên trái đất, thì chắc chắn là bất công trên trái đất. Nhưng có nhiều đệ tử tâm linh nghĩ như sau: “Ồ, thực tế tối hậu là Thượng đế là đấng nhân từ và Thượng đế kiểm soát mọi chuyện, do đó Thượng đế có một kế hoạch cho vũ trụ, và Thượng đế đã cho phép những chuyện xảy ra trên trái đất. Điều này có nghĩa là Thượng đế đã định ra một luật là điều xấu chỉ có thể xảy ra cho tôi nếu tôi đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Do đó, chắc chắn phải có vấn đề gì đó với tư tưởng của tôi, với tâm của tôi đã khiến tôi thu hút các hoàn cảnh trong đó tôi bị sa nhân hành hạ.”

Đây là một khía cạnh của tư duy thần diệu khiến con nghĩ là chắc con đã làm điều gì nên con đáng để bị sa nhân hành hạ. Con có thể nói là con đã làm điều gì để đáng bị sa nhân hành hạ, đó là con đã chọn đầu thai trên trái đất và sự hiện diện của con đã bị sa nhân coi là một thách đố. Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là vấn đề công lý hay bất công. Đây là chuyện quyền tự quyết trải bày.

Con có thấy chăng, không phải là vì trong con có điểm gì thiếu sót mà sa nhân cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng tâm linh của con và tìm cách tiêu diệt con. Con không thể cho phép mình cảm thấy có trách nhiệm về chuyện này. Tuy nhiên, khi con ở một tầng tâm thức thấp, con không thể tránh phản ứng lại sa nhân bằng cách tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên ảo tưởng mà con có ở tầng đó. Một lần nữa, con không cần trách mình. Con chỉ cần giản dị nhìn nhận là ở một thời điểm nào đó, con ở trong một tầng tâm thức thấp, con bị sa nhân tấn công và tìm cách tiêu diệt con, và con đã phản ứng dựa trên viễn kiến mà con có lúc đó, dựa trên những ảo tưởng mà con đã lấy vào để xuống tầng tâm thức đó. Do đó, con tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên niềm tin là vũ trụ này không bất công và do đó chắc là con đã làm điều gì đó nên Thượng đế đã cho phép sa nhân hành hạ con.

Đây là phản ứng của một phàm linh nội tại – không phải của con. Ở tầng này của con đường tu, con đã sẵn sàng để thấy điều này. Con đã sẵn sàng trải nghiệm cảm giác giải thoát nhất mà con có thể có, đó là con trải nghiệm: “Tôi không chịu trách nhiệm về những điều sa nhân làm đối với tôi, tôi không làm gì sai trái hết, tôi không làm gì để đáng bị sa nhân tấn công. Tôi không cần tìm điểm thiếu sót trong con người tôi để giải thích tại sao chuyện sa nhân hành hạ tôi được phép xảy ra. Không có thiếu sót gì trong con người tôi. Tuy nhiên tôi đã tạo ra một phàm linh nội tại ở tầng tâm thức mà tôi có khi bị sa nhân tấn công. Tôi cần nhìn vào phàm linh này; tôi cần làm nó rã tan đi và sau đó tôi sẽ được tự do.”

12.14. Một bước ngoặt lớn

Con yêu dấu, quả thật đây là một bước ngoặt lớn trên con đường tâm linh khi con nhận ra là con không chịu trách nhiệm về những điều người khác đã làm đối với con. Lẽ dĩ nhiên, ta cần xem xét điều này kỹ càng hơn. Như thày đã nói, trong các kiếp trước con có trình độ tâm thức thấp hơn hiện nay. Ở tầng tâm thức thấp đó, con có thể đã làm điều gì xúc phạm người khác. Do đó, con đã tạo nghiệp và nếu con chưa làm rã tan đi những phàm linh ở ba thể cao, thì nghiệp quả sẽ trở lại con như một sự việc trong đó người khác sẽ xúc phạm con. Trong trường hợp này, con có thể nói: “Đúng rồi! Tôi đã làm điều gì đó nên đáng bị như vậy.” Không phải là con đáng bị như vậy, nhưng là vì con đã không làm rã tan đi phàm linh đã khiến con tạo ra điều gì tương tự cho người khác trong quá khứ.

Một lần nữa, có thể có một khuôn nếp mà con cần xem xét: “Tại sao chuyện này lại xảy ra cho tôi? Phải chăng trong tâm lý tôi cũng có một cơ chế tương tự với cơ chế mà tôi thấy nơi những người xúc phạm tôi? Phải chăng tôi có những phàm linh nội tại cùng một loại với phàm linh nội tại mà những người này có, cho nên những điều mà những người này làm đối với tôi bây giờ cũng là những điều mà tôi đã làm đối với người khác trong quá khứ?” Trong trường hợp này, lẽ dĩ nhiên con cần làm việc với chính mình để làm rã tan phàm linh đi.

Chúng ta đang nói hai chuyện khác nhau. Điều mà thày đang nói bây giờ có thể gọi là chuyện tạo nghiệp hàng ngày trên một trái đất dày đặc như trái đất. Điều thày nói ở phần trên là khi con bị sa nhân cố ý xúc phạm lần đầu, hành động xúc phạm khởi thủy này của sa nhân không phải là nghiệp báo do con tạo ra. Con không làm gì trước đó để đáng bị như vậy. Đó là lý do vì sao bây giờ con có thể nhận ra điều đó. Con nhận ra là sa nhân đã khuynh loát con để con tạo ra một phàm linh nội tại cảm thấy mình có tội khi tương tác với sa nhân. Con cảm thấy có tội ngay cả chỉ vì con có mặt trên trái đất, và mang theo ánh sáng thách đố sa nhân.

Thày có nói là con tạo ra phàm linh phản ứng lại sa nhân, phàm linh khiến con cảm thấy mình bất toàn – mình có điều gì sai trái. Đây là một sắc thái khác của điều trên, khiến con cảm thấy tội lỗi. Con cảm thấy tội lỗi đã là chính mình, con cảm thấy đáng lý con không được ở đây, con không được thách thức sa nhân. Con cũng có thể cảm thấy tội lỗi vì đã biểu lộ quả vị Ki-tô trong một kiếp trước vì đó không phải là tầng tối hậu của quả vị Ki-tô.

Khi con thấy ra những điều này, khi con tới điểm tách mình ra khỏi chúng, thì đây có thể là một bước ngoặt trọng đại trên con đường tu của con. Lúc đó, bỗng nhiên tất cả cảm giác tội lỗi vì mình ở trên trái đất tan biến đi. Làm sao con có thể an bình với chính mình khi con cảm thấy tội lỗi là chính mình, ít ra là chính mình trong môi trường trái đất? Làm sao con có thể an bình với việc ở trên trái đất nếu con cảm thấy tội lỗi chỉ vì đã hiện diện ở đây? Con có thể cảm thấy tội lỗi khi con đã làm một số chuyện, nhưng đằng sau cảm giác tội lỗi này là cảm giác tội lỗi chỉ vì con hiện diện ở đây.

Con yêu dấu, khi con thấy những điều này, khi con thấy đây là một phàm linh nội tại, khi con nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan”, khi con có cảm giác giải thoát khi con thấy ảo tưởng và thấy con thoát ra khỏi nó, thì con thực sự cảm nhận một mức độ tự do mới. Thày rất vui mừng khi thấy đệ tử tới điểm này trên cõi bản sắc, nhưng thày lại càng vui mừng hơn nữa khi thấy đệ tử tới điểm này ở tầng vật lý. Thày thật sự hy vọng con sẽ có trải nghiệm đó khi con làm việc với bài giảng này.

Ảo tưởng cầu toàn, 8 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 22/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày muốn bắt đầu bài giảng thứ tư này bằng điều mà trong bài trước thày có gọi là cơ chế bù đắp. Trong bài trước, thày có nói là con có cảm tưởng là trong quá khứ con đã làm điều gì sai trái và bây giờ con tìm cách bù đắp lại. Lẽ dĩ nhiên thày có nói là con cần biết một cách ý thức cơ chế này có mặt, nhìn vào nó, tách mình ra khỏi nó và buông bỏ nó. Con ngừng không đặt con đường tu trên căn bản mong muốn bù đắp có tính chất ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive) này. Thày muốn tiến thêm một bước nữa và xem xét quan niệm là mình đã làm điều gì sai trái. Làm điều sai trái thật sự nghĩa là gì?

Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý qua sứ giả này trong nhiều năm qua về trạng thái tâm nhị nguyên, về tư duy cuồng đại. Thày đã trao truyền nhiều giáo lý về sa nhân và những cách họ đã dùng để khuynh loát mọi khía cạnh đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, một trong những cách tinh tế mà sa nhân dùng để khuynh loát sự sống và con người là quy định tiêu chuẩn đúng và sai. Khía cạnh tinh tế nhất là trong nhiều nền văn hóa, sa nhân đã làm cho đa số con người tin rằng không phải là sa nhân, mà là Thượng đế đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Có một đấng cao cả bên ngoài cõi vật chất đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Có một Thượng đế giận dữ trên trời đang quan sát tất cả mọi hành động của con và phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng sai đó. Nếu con làm điều gì sai trái, con sẽ bị Thượng đế đó trừng phạt, có thể là bằng cách bị đốt cháy vĩnh viễn trong địa ngục.

Như một đệ tử chân sư thăng thiên, con có thể thấy là trong đa số các nền văn hóa (bất cứ nơi nào mà con có thể khôn lớn lên trên hành tinh này) trong tâm thức tập thể có cơ chế đó do sa nhân tạo ra. Con người thực sự tin rằng Thượng đế đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Con hầu như không thể lớn lên trên trái đất này mà không bị niềm tin đó ảnh hưởng. Một lần nữa, đây không phải là một lý do để cảm thấy hổ thẹn nhưng đã đến lúc con nhận ra một cách ý thức là nó đã ảnh hưởng con. Con có thể rất mau chóng nhận ra là nếu trong quá khứ con có cảm tưởng mình đã làm điều gì sai trái nhưng cảm giác này dựa trên tiêu chuẩn do sa nhân quy định, thì có thể là con đã không làm gì sai trái hết. Do đó, sẽ chẳng lợi ích gì nếu con tiếp tục khuôn đúc tìm cách bù đắp cho việc làm sai trái – nếu sự thực là con chẳng làm gì sai trái cả.

Con có thể thấy là tất cả các con đã có tinh thần trách nhiệm. Con có ý tưởng rằng: “Tôi đã tạo nghiệp trong quá khứ và nay tôi cần cân bằng nghiệp quả đó.” Con có thể nhìn việc cân bằng nghiệp quả như một nỗ lực bù đắp. Con bù đắp lại một điều gì con đã làm trong quá khứ. Như thày có nói trong bài giảng trước, con cần cân bằng nghiệp quả nhưng có sự khác biệt giữa cân bằng nghiệp qua trong trạng thái tâm trung hòa và cân bằng nghiệp với ham muốn bù đắp có tính chất ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive). Thày tin rằng là con đã bắt đầu thấy sự khác biệt này sau khi con lĩnh hội bài giảng trước của thày.

10.1. Xem xét cách tu của con

Lẽ tự nhiên, ở đây chúng ta cần vô tư và tinh ý. Ta cần giản dị quan sát là con đã tạo nghiệp trong quá khứ, con cần cân bằng nghiệp quả đó và con cần làm những gì cần thiết để cân bằng nghiệp quả – tỷ dụ bằng một số hành động hay bằng cách đọc bài chú bài thỉnh. Trước tiên, điều quan trọng trong việc cân bằng nghiệp là nâng cao tâm thức, buông bỏ các phàm linh nội tại đã khiến con có hành động đã tạo ra nghiệp. Bây giờ con cần tiến thêm một bước nữa và nhận ra là nếu con hành động trong khuôn nếp bù đắp, con sẽ có cảm giác là ngưng hành động đó là một điều sai trái. Thày cần con thành thực nhìn vào chính mình và tự hỏi: “Tôi đã làm gì trong những năm vừa qua? Tôi có đã đọc bài chú bài thỉnh không?” Sau đó con cần suy ngẫm: “Tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu ngày hôm nay tôi ngưng không đọc chú đọc thỉnh nữa?” Nếu con cảm thấy có phản ứng trong tâm, có thể là cảm giác sợ sệt là sẽ có điều không lành xảy ra hay con làm vậy là sai quấy, thì đây là một khuôn nếp bù đắp, đây là chỉ dấu ám ảnh-cưỡng bức.

Thày không nói con nên ngưng đọc chú đọc thỉnh. Thày muốn con giám sát phản ứng của con trước việc đó. Con có thể nhận ra là nếu con bị ý muốn ám ảnh-cưỡng bức thúc đẩy con phải bù đắp những sai lầm con đã phạm trong quá khứ , thì con không hoàn toàn làm chủ phản ứng của mình. Như thày có nói trong bài giảng trước, con đã phản ứng với sa nhân thay vì với các chân sư thăng thiên. Các thày muốn con cân bằng nghiệp và khi con làm xong, con tiến lên làm gì khác thay vì tiếp tục làm cùng chuyện cũ.

Con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, con hiểu hơn về con đường tâm linh và nghiệp quả, con học cách cân bằng nghiệp quả bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tím, tỷ dụ, và con quyết định với tâm vỏ ngoài là con sẽ đọc bài thỉnh ánh sáng tím một tiếng mỗi ngày. Con nghĩ đây là điều con cần làm cho tới cuối đời để bảo đảm là nghiệp quả được cân bằng. Như thày có nói trong bài giảng trước, con sẽ tới điểm con bắt kịp tầng tâm thức hiện nay của con, con đã cân bằng nghiệp quả cho tới tầng đó, và nay con không cần làm tiếp đúng y như những gì con quyết định nhiều năm trước đây.

Bây giờ con cần hòa điệu với thử thách con phải đối mặt ở tầng tâm thức hiện nay của con và làm sao con tiến lên tiếp từ chỗ này? Thày muốn con đi sâu hơn vào sự hòa điệu với vị trí hiện nay của con trên con đường tu. Sau đó con cần xem xét: “Có phải chăng là tôi đã lấy quyết định hai, năm, mười, ba mươi năm trước đây là tôi sẽ thực tập như thế nào đó mỗi ngày cho đến cuối đời?” Nếu con đã làm vậy, thì tiếp tục hành động theo quyết định này có lợi ích chăng? Có lợi ích hơn chăng nếu con hòa điệu với tầng tâm thức hiện nay của con và với điều con cần làm để vươn lên tầng kế tiếp?

Con có thấy chăng sự trớ trêu là nếu sa nhân trong quá khứ đã khiến con tin rằng con đã làm điều gì sai quấy và điều này tạo nên khuôn nếp bù đắp, nhưng nếu thực sự con đã không làm điều gì sai trái cả, thì việc cố gắng bù đắp một điều không sai trái là chuyện hoàn toàn vô nghĩa. Con có thấy chăng là con đang tìm cách cân bằng một nghiệp quả nhưng nghiệp quả đó không có.

10.2. Có nhiều tầng của quả vị Ki-tô

Bây giờ thày cần con đứng lui lại và nhìn vào quan niệm đúng và sai của con. Thầy cần con sẵn sàng mở tâm đón nhận một cái nhìn mới về vấn đề này. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là điều con làm trước đây là sai trái. Chỉ giản dị có nghĩa là con nay đã đến gần tầng thứ 90 trên con đường tâm linh. Con đang tới gần các khai ngộ của Tia thứ Bảy dưới thày Saint Germain và do đó con đã sẵn sàng để xem xét chuyện này.

Con yêu dấu, chúng ta hãy bắt đầu bằng xem xét khái niệm quả vị Ki-tô. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về quả vị Ki-tô và các thày đã trao truyền tùy theo trình độ tâm thức. Như các thày có nói, điều tự nhiên là khi con nghe về khái niệm quả vị Ki-tô lần đầu, con nhìn nó với tầng tâm thức lúc đó của con. Thực ra, có nhiều tầng của quả vị Ki-tô và do đó con phải nhận ra là con không thể lấy khái niệm đầu tiên của con về quả vị Ki-tô và đem nó theo với con khi con nâng cao tâm thức.

Tại sao lạ như vậy? Nếu con lấy khái niệm phổ thông nhất về quả vị Ki-tô trên trái đất, thì đó là khái niệm do các giáo hội Công giáo chính thức cổ xúy. Theo cái nhìn này, Giê-su là người duy nhất đạt được quả vị Ki-tô, và quả vị Ki-tô được trình bày như một trạng thái toàn hảo. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên có phần nào quan niệm quả vị Ki-tô có nghĩa là – bỗng nhiên – con đạt một tầng tâm thức, và từ lúc đó con có viễn quan sáng rõ về mọi chuyện, và mọi chuyện con làm đều đúng. Tỷ dụ, họ nghĩ rằng Giê-su đã một ngày nào đó đạt được quả vị Ki-tô, hay cũng có thể thày đã có sẵn từ khi sinh ra, và do đó thày không bao giờ làm điều gì sai trái.

Thực tế tinh tế hơn và có thể hiểu bằng cách kết nối với điều thày nói trong bài giảng trước. Thày nói: “Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng.” Hiện trạng dựa trên cái gì? Nó dựa trên một ảo tưởng. Con nay có thể thấy là ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức trên trái đất, có một ảo tưởng dính liền với tầng tâm thức đó. Chính ảo tưởng quy định tầng tâm thức đó. Do đó ảo tưởng cũng quy định điều mà những người vẫn còn mù quáng bởi tầng tâm thức đó coi là hiện trạng.

Ở mỗi tầng của 144 tầng, có một ý niệm hiện trạng dựa trên một ảo tưởng nào đó. Quả vị Ki-tô là gì? Quả vị Ki-tô là thách thức ảo tưởng ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Con nay thấy là có 144 tầng của quả vị Ki-tô. Con yêu dấu, nếu con thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức thấp nhất trên trái đất, là nơi con người chỉ nghĩ đến mình, vị kỷ, chỉ muốn vơ về cái ngã, thì dĩ nhiên quả vị Ki-tô rất khác so với việc thách thức ở một tầng tâm thức cao hơn.

Do đó con bây giờ thấy có nhiều biểu hiện khác nhau của quả vị Ki-tô. Nếu con áp dụng tiêu chuẩn sa ngã, thì nhiều hành xử của quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp sẽ bị xem là sai trái. Điều thày muốn con nhận ra là việc con chấp nhận trách nhiệm về hành động quá khứ của mình là điều tốt. Nhưng chứng loạn thần ám ảnh-cưỡng bức khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều con không làm. Nó khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều không phải là trách nhiệm của con. Thày có nói quả vị Ki-tô không phải là một cuộc thi xem ai được ưa chuộng nhất vì sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ biểu hiện nào của quả vị Ki-tô. Bây giờ con hãy cùng thày nhìn quá khứ của con một cách khác.

10.3. Quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải toàn hảo

Trong quá khứ, con ở một tầng tâm thức thấp hơn. Việc con ở trên hay dưới tầng 48 không quan trọng. Làm sao con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn? Con đã vươn lên vì con thấy được ảo tưởng ở tầng tâm thức đó. Khi con nhìn thấu suốt ảo tưởng đó, thì điều đó trở nên một thách thức, không chỉ đối với sa nhân mà còn đối với những người chung quanh con vẫn còn bị kẹt trong ảo tưởng đó. Con có nhận ra chăng là trong quá khứ, con đã có một số kiếp sống trong đó con nhìn thấu một ảo tưởng. Ảo tưởng đó có thể là một ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp, và con công khai và thẳng thắn thách thức những người vẫn nắm giữ ảo tưởng đó.

Có thể là lúc đó con đã thách thức một số sa nhân đang lãnh đạo xã hội và kềm giữ xã hội trong tầng ảo tưởng đó, thí dụ như gây chiến với một nước khác hay một nhóm người khác. Do đó, con có thể đã thách thức ảo tưởng đó, hiện trạng đó, và sa nhân đã làm đủ mọi cách để con cảm thấy là con đã làm một điều sai quấy.

Con yêu dấu, không phải là sa nhân chỉ tìm cách khiến con cảm thấy con đã làm gì sai trái một cách chung chung. Điều sa nhân thường làm là họ nhìn vào hành động, lời nói của con và họ tìm một khía cạnh không vẹn toàn. Con hãy suy ngẫm kỹ lưỡng điều thày đang nói. Con thách đố một hiện trạng, con thách đố một ảo tưởng. Ảo tưởng này có thể ở một tầng tâm thức rất thấp, thấp hơn tầng 48 nhiều. Không có nghĩa là con ở tầng tâm thức đó, nhưng con thấy được ảo tưởng trong xã hội và con thách thức nó.

Ảo tưởng đó là một ảo tưởng thấp. Thách thức một ảo tưởng, thí dụ ở tầng tâm thức thứ 25, có nghĩa gì? Không có nghĩa là khi con thách thức ảo tưởng ở tầng thấp đó, con biểu lộ chân lý cao nhất. Nếu ta giả dụ có một chân lý cao nhất, thì không ai ở tầng tâm thức 25 có thể hiểu chân lý cao nhất đó. Khi con thách thức ảo tưởng ở tầng tầm thức 25, thì hành động thách thức của con không “toàn hảo”, giả dụ là có một hành động toàn hảo. Chính sa nhân đã tạo ra khái niệm là đúng lý phải có cái gì đó toàn hảo.

Con có thấy điều thày muốn nói không? Con thách đố ảo tưởng ở tầng tâm thức 25, con làm điều này bằng cách đưa ra một chân lý cao hơn tầng 25 một chút, nhưng chắc chắn không phải là chân lý cao nhất trên trái đất. Lúc đó, sa nhân nhìn hành động và lời nói của con, và họ tìm cách moi ra một khía cạnh nhỏ mà họ cho là không toàn hảo dựa theo tiêu chuẩn của họ. Con yêu dấu, con phản ứng lại như thế nào? Con không phản ứng với tầng tâm thức hiện nay của con, con phản ứng với tầng tâm thức của con ở thời điểm đó. Giả sử lúc đó con ở tầng tâm thức 48, và con thách thức ảo tưởng của tầng tâm thức 25. Con bị sa nhân tố cáo là con không toàn hảo, và lẽ tự nhiên là con phản ứng lại lời tố cáo đó dựa trên tầng tâm thức 48.

Ở tầng tâm thức đó, con quả thực nghĩ là con phải toàn hảo, con vẫn còn bị dính mắc trong khái niệm cầu toàn do sa nhân áp đặt lên con người. Con nghe lời tố cáo của sa nhân và quyết định; “Tôi đã sai trái. Tôi không toàn hảo.” Đây là một trong những lý do quỷ quyệt nhất, vi tế nhất, nhưng cũng thông thường nhất khiến đệ tử chân sư thăng thiên không dám biểu hiện quả vị Ki-tô của họ. Con nghĩ rằng con phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Con nghĩ rằng có một chuẩn mực toàn hảo có phần nào giá trị. Con không nghĩ là sa nhân đã đặt tiêu chuẩn đó lên con vì con chưa nhận ra điều này. Con nghĩ rằng chính Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đã quy định tiêu chuẩn. Con nghĩ con đã sai trái dựa theo tiêu chuẩn trong quá khứ này khi con cố gắng biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Do đó, con quyết định con sẽ không biểu hiện quả vị Ki-tô nữa cho tới khi con chắc chắn là con toàn hảo.

10.4. Dám bất toàn

Con thấy chăng, điều này khiến sa nhân cười khoái trá vì đã thắng lợi. Con bây giờ ở tầng tâm thức khiến con có thể nhìn lại và nói: “Tôi sẽ là người cười sau cùng. Sa nhân sẽ không là người cười sau cùng. Họ có thể đã thắng lợi trong nhiều kiếp sống nhưng họ sẽ không thắng nữa vì tôi sẽ vươn lên khỏi quan niệm này. Tôi sẽ nhận ra là quả vị Ki-tô cần và phải được biểu hiện ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Và ở các tầng thấp, không thể nào nói hành động biểu hiện quả vị Ki-tô là “toàn hảo”, là hình thức chân lý cao nhất.”

“Lẽ tự nhiên, biểu hiện quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng 25 sẽ là một biểu hiện thấp hơn là điều tôi có thể biểu hiện ở một tầng cao hơn. Đây là chuyện tự nhiên, do đó tôi sẽ không chê trách mình vì trong quá khứ đã có một biểu hiện quả vị Ki-tô không phải là biểu hiện cao nhất có thể có trên trái đất. Tôi chấp nhận là tôi đã biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của tôi lúc đó. Tôi đã biểu hiện quả vị Ki-tô để thách thức một tầng tâm thức đặc thù và do đó sự biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi là tốt đủ, là hoàn toàn chấp nhận được và sự biểu hiện này làm đúng chức năng của nó là thách đố một ảo tưởng đặc thù thuộc tầng tâm thức đặc thù đó. Tôi không cần phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô bây giờ, tôi chỉ cần nhận ra tầng tâm thức hiện nay của tôi, và tôi sẽ dám biểu lộ quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức này dựa trên viễn kiến mà tôi có ở tầng tâm thức này.”

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều thày Hilarion nói. Ở mỗi tầng tâm thức khi con xuống từ tầng 144 đến tầng 48, con lấy vào một ảo tưởng. Nếu hiện nay con đang ở tầng tâm thức 56, 85 hay 93, con vẫn còn nhiều ảo tưởng trong bốn thể phàm của con. Không có gì sai trái với việc này cả, đâu cách nào khác để đi trên con đường tâm linh. Làm sao con có thể hiện thân trong cõi vật chất mà không lấy vào những ảo tưởng đó? Khi con tính chuyện biểu lộ quả vị Ki-tô của mình ở tầng tâm thức hiện nay, con không thể và con không phải chờ đợi mình toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, sự biểu hiện quả vị Ki-tô của con sẽ bị pha màu bởi những ảo tưởng mà con chưa bỏ được, những ảo tưởng cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Con yêu dấu, tình trạng này không thể nào tránh được.

Khi Giê-su bắt đầu lần đầu thai của thày, khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày không ở tầng tâm thức 144. Do đó, thày đã phản ứng như đã được ghi lại khi thày đuổi những người đổi tiền ra khỏi giáo đường. Hành động này không phải là cách biểu hiện quả vị Ki-tô cao nhất, nhưng nó thích hợp với quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của Giê-su lúc đó. Con yêu dấu, con có hiểu chăng điều thày giảng ở đây?

Rất nhiều người trong các con cảm thấy rằng, nếu con là Ki-tô đang hành động, con không bao giờ được nổi giận. Con yêu dấu, ở một số tầng tâm thức, khi con đang đối phó với một ảo tưởng rất thấp, con khó tránh đối phó với hoàn cảnh này mà không cảm thấy tức giận hay ít nhất có cảm xúc cường độ. Thày biết là các thày đã trình bày cho con một số lý tưởng, tỷ dụ như quả vị Phật khi con hoàn toàn không dính mắc. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con chỉ đạt toàn vẹn quả vị Phật ở tầng 144.

10.5. Khắc phục sự cầu toàn

Con có thấy chăng là sa nhân tìm cách tạo ra một hố sâu, một khoảng cách mà con không bao giờ bước qua được, giữa trạng thái tâm thức hiện nay của con và quả vị Ki-tô? Con có cảm tưởng như là giữa con và quả vị Ki-tô có một khoảng cách, một hố sâu lớn đến độ con không thể bước qua. Hoặc có thể con chỉ có thể thực hiện điều này ngay trước khi con thăng thiên. Trên thực tế, khoảng cách nhỏ hơn nhiều. Nó không phải là khoảng cách giữa tầng tâm thức 48 và tầng 144, lẽ dĩ nhiên khoảng cách này con không thể vượt qua bằng một cú nhảy vọt. Nó là khoảng cách giữa tầng tâm thức hiện nay của con và tầng kế tiếp. Khoảng cách này, con có thể bước qua bất cứ lúc nào bằng cách chuyển vọt tâm thức của mình.

Ở tầng tâm thức hiện nay của con, thày không muốn con là Ki-tô giống như Giê-su là Ki-tô trước khi bị đóng đinh. Thày muốn con dám là Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức hiện nay của con dù rằng con không toàn hảo khi làm vậy. Thật sự là thày muốn con chuyển vọt tâm mình và vứt đi phàm linh nội tại, cái ngã tách biệt cầu toàn, để con nói: “Nhưng tôi đang thật sự toàn hảo khi biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức hiện nay của tôi.” Đây chính thực là toàn hảo, nếu con muốn dùng từ này. Toàn hảo là đạt một bước cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Toàn hảo không phải là một tầng tối hậu nào đó không hiện hữu, ngoại trừ trong tâm của sa nhân.

Một trong những thử thách mà con đối mặt ở tầng này là vượt qua ý niệm cầu toàn, ý niệm con phải toàn hảo trong mọi chuyện con làm. Nhiều đệ tử thăng thiên đã dùng giáo lý của các thày để xây dựng một ý niệm cầu kỳ về quần áo họ mặc, cách họ hành xử, cách họ nói chuyện, thực phẩm họ ăn và tránh ăn, cách họ thực hành tâm linh, cách họ phải nghĩ và cảm nhận – và không bao giờ được giận dữ và không được biểu lộ tình cảm, vân vân và vân vân. Làm như vậy là dùng tâm vỏ ngoài để tạo ra cái áo khóa tay, rồi con ép mình mặc nó vào, và nay con chỉ làm được một số chuyện. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm điều này trong mấy thập niên vừa qua và đã dùng giáo lý của các thày để biện minh cho điều này.

Thày muốn con nhận ra rằng các chân sư thăng thiên không phải là người muốn con làm điều này. Các thày không thúc đẩy con làm điều này. Chính một phàm linh nội tại khiến con làm điều này. Thày muốn con tách mình ra khỏi phàm linh này một cách ý thức để nhận ra nó, nhận ra là nó dựa trên một mục tiêu hoàn toàn không khả thi do sa nhân định ra. Không có trạng thái toàn hảo có thể đạt được trên trái đất hay do các chân sư thăng thiên đòi hỏi.

10.6. Các chân sư chấp nhận con như con là

Con yếu dấu, như các Thượng sư khác đã nói trước thày, thày chấp nhận con hoàn toàn và tuyệt đối như con là ngay bây giờ. Thày không có tiêu chuẩn ở trong tâm thày hay ở khóa nhập thất của thày đòi hỏi con phải ở tầng 144 trước khi thày dạy con. Vai trò của thày là làm việc với con ở tầng tâm thức hiện nay của con và giúp con bước một bước để lên tầng tâm thức kế tiếp – và tiếp tục bước đủ bảy bước trước khi thày hoàn thành nhiệm vụ của thày và chuyển con qua để thày Saint Germain dẫn con cao hơn nữa. Thày không phê phán con là không toàn hảo ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày chấp nhận con hoàn toàn như con là ở tầng hiện nay và thày chỉ chú tâm giúp con thấy ảo tưởng đó và đi lên bước kế tiếp.

Con yêu dấu, thày đã nói là con cần cảm thấy an bình với chính mình và với việc con đang ở trên trái đất. Làm sao con có thể an bình với chính mình nếu con đánh giá mình dựa trên một tiêu chuẩn toàn hảo mà con không bao giờ đạt được? Nếu con luôn luôn đánh giá mình là bất toàn, thì làm sao con có thể bình an với chính mình được? Nếu con đã luôn luôn phê phán là con đã làm điều gì sai trái trên trái đất và con chỉ có thể làm điều sai trái trên trái đất, thì làm sao con có thể cảm thấy bình an ở trên trái đất này? Làm sao con bình an được trên con đường tâm linh nếu con nghĩ rằng biểu hiện quả vị Ki-tô đòi hỏi con phải toàn hảo?

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là sâu trong tâm con, con có động lực thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Nó chính là nguyên do khiến con tìm ra khóa học này và theo học cho tới tầng này. Con có một động lực thúc đẩy con đi về một hướng nào đó. Sau đó, con có một số cơ chế trong các thể bản sắc, tư tưởng và tình cảm chống kháng động lực này và điều này làm con cảm thấy bất an với chính mình.

Trong khóa học này, chúng ta đã làm gì? Thày đang làm gì trong phần này của khóa học? Thày đang tìm cách dẫn con qua các sáng ngộ giúp con giải quyết tất cả các cơ chế đi ngược lại động lực tự nhiên của con để con tự do nhận ra động lực này. Con biểu hiện động lực nội tại này, là động lực từ Hiện diện TA LÀ của con, là động lực muốn hơn nữa, muốn thăng vượt chính mình, muốn là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ biểu lộ trong thế giới này.

Con có thể nói đây là việc tảy rửa bốn thể phàm của con. Các thày lần lượt cho con thấy các cơ chế này và chỉ cho con những điều đang ngăn cản không cho con thăng vượt lên tầng kế tiếp. Thày biết là với tâm đường thẳng con sẽ rất mau chóng đứng lui lại nhìn toàn bộ khóa học này và nói: “Nhưng con bắt đầu ở tầng 48, và Chân sư MORE nói là con có vấn đề này, khuynh hướng kia, vướng mắc nọ, và con cần khắc phục điều này và vượt qua điều kia. Bây giờ con tới tầng thứ 6 của khóa học, và thày Nada vẫn còn nói con những điều con cần khắc phục – tới bao giờ thì mới thôi?” Con yêu dấu, tiến trình này sẽ xong ở tầng 144 khi con vượt qua ảo tưởng cuối cùng mà con đã mang vào khi con hiện thân trên trái đất – và điều này có gì sai trái đâu? Điều này đâu có gì không tốt đâu?

10.7. Hãy chấp nhận mình ở tầng này của đường tu

Con thấy chăng là một phần của tinh thần cầu toàn là ý niệm con đã làm gì sai quấy khi hiện thân trên trái đất này. Chuyện gì đó đáng lý không được xảy ra và do đó con không bao giờ bình an được cho tới khi con vượt qua cảm giác đó. Điều thày tìm cách nói con ở đây là con không làm gì sai trái khi hiện thân ở đây. Con chỉ làm điều con phải làm khi hiện thân trong một hành tinh như trái đất: mang vào những ảo tưởng khi đi xuống tới tầng 48. Bây giờ, con đang ở trong tiến trình vươn lên khỏi các ảo tưởng này, từng cái một – và con chỉ có thể vượt qua chúng từng ảo tưởng một. Không phải vì con vẫn còn nhiều ảo tưởng cần vượt qua mà con bất toàn.

Không, con yêu dấu, con không bất toàn! Con chỉ giản dị đang ở một tầng nào đó trên đường tu. Không có gì sai trái với điều này. Con hãy ngừng đuổi theo cái cầu vồng của toàn hảo – không có hũ vàng nào ở dưới chân cầu vồng cả. Sa nhân không có gì mà con ước muốn, họ không thể cống hiến gì cho con. Con hãy chấp nhận chính mình, ở tầng hiện nay của con trên con đường tâm linh. Con hãy chấp nhận là con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô ở một tầng nào đó và con hãy dám biểu hiện nó. Con đang ở tầng tâm thức cao hơn nhiều so với hầu hết mọi nguời trên trái đất. Con có thể biểu hiện một tầng tâm thức cao hơn nhiều, nhưng hiện nay con cũng đã có khả năng biểu hiện một điều gì giúp nhiều người vươn lên cao hơn. Con hãy chấp nhận như vậy là đủ tốt rồi.

Chính Giê-su có nói là con có thể nhìn vào mỗi ngày và xem cái ác của ngày đó là đủ. Con có thể lấy câu nói và tiến thêm một bước nữa và nói: Hãy xem cái tốt của ngày đó là đủ. Nói cách khác, con nhìn vào tầng tâm thức con đang ở hiện nay và chú tâm vào đó. Con đừng băn khoăn tới các tầng cao hơn, con không trăn trở phải tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó. Con hãy chú tâm vào tầng tâm thức của con, con bình an ở chỗ con đang ở và biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng này.

Con yêu dấu, thày biết tâm đường thẳng của con muốn nói: “Nhưng có 144 tầng tâm thức. Ta cần vượt qua mọi ảo tưởng, ta cần khắc phục mọi dính mắc, sau đó ta đạt quả vị Ki-tô, ta đạt quả vị Phật, và khi ta chưa tới đó thì ta chưa tới nơi ta phải tới.” Con yêu dấu, con đang ở đúng ngay chỗ con phải ở ngay bây giờ, nếu con sẵn sàng xem xét ảo tưởng mà con đang phải đối phó ngay bây giờ, thăng vượt ảo tưởng đó và sau đó biểu hiện quả vị Ki-tô bằng cách thách thức ảo tưởng đó. Nếu con làm vậy thì con ở đúng ngay chỗ con phải ở.

10.8. Trút lớp da rắn của tinh thần cầu toàn

Con không thể và không đang ở tầng tâm thức 144 vì con không chọn con đường đó. Con đã chọn lựa chứng minh cách vươn lên những tầng tâm thức càng ngày càng cao hơn. Con không ở đây để chứng minh cách nhảy từ tầng 48 lên tầng 144. Không ai có thể xem đó là một gương mẫu. Đó là điều sa nhân đã cố làm với cuộc đời Giê-su: họ đã khiến con người tin rằng Giê-su đã không phát triển khả năng bằng cách đi trên con đường tu nhưng đã đựơc sinh ra ở tầng tâm thức cao, và do đó không ai có thể nhìn thày như một tấm gương mà họ có thể noi theo. Con hãy nhìn tất cả những tín đồ Cơ đốc giáo không chịu coi Giê-su là một tấm gương. Đó là lý do vì sao con cần là tấm gương để mọi người có thể thấy là có những người giống như họ, đã bắt đầu giống như họ nhưng đã vươn cao hơn. Do đó, mọi người có thể tin rằng nếu một người đã làm được thì tất cả có thể làm được.

Con yêu dấu, tinh thần cầu toàn thực sự là một trong những âm mưu quỷ quyệt nhất của sa nhân. Không dễ vượt qua nó, nhưng ở tầng tâm thức hiện nay của con, vượt qua nó không khó. Lẽ dĩ nhiên, có người mang bệnh cầu toàn ở tầng tâm thức 48 vì ở tầng đó rất khó chế ngự tinh thần cầu toàn. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, con chỉ cần bước thêm một bước nữa, một bước nhỏ, có thể làm được, để vượt qua nó, để thấy phàm linh, thấy nó như nó là, thấy nó là một yếu tố ngoại lai trong bốn thể phàm của con, nhìn nó và nói: “Bước ra đằng sau ta, Satan, ngươi không phải là một phần của ta nữa.”

Con yêu dấu, thày rất vui mừng khi thày thấy học viên thấu hiểu điều này trong thể bản sắc của họ. Thày lại càng vui mừng hơn khi thày có học viên đã cho phép nhận thức này thấm xuống tầng ý thức của họ. Con thấy phàm linh, con thấy tinh thần cầu toàn và con không phản ứng đổ lỗi cho mình vì đã bị nó ảnh hưởng. Con bước ra khỏi cỗ máy chạy và giản dị nói: “Ồ, đây nhé, đây chỉ là thêm một phàm linh khác phải ra đi. Bao nhiêu phàm linh khác đã ra đi rồi, thêm một con nữa có là gì đâu?”

Thày biết phàm linh này tự coi mình là phàm linh tối hậu vì con cần phải toàn hảo mới được Thượng đế chấp nhận, nhưng điều này không đúng, con yêu dấu. Thượng đế chấp nhận con như con là ngay lúc này. Thực ra, con có thể nói là đối với Thượng đế, chấp nhận được hay không chấp nhận được là những khái niệm vô nghĩa. Con là môt biểu hiện của Thượng đế. Làm sao Thượng đế lại có thể không chấp nhận con?

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều này với tâm ý thức của con. Con hãy xem lại bài giảng này nhiều lần. Nếu con cảm thấy con cần nhiều hơn chín ngày để khắc phục tinh thần cầu toàn, thì con hãy lấy thêm thì giờ. Con yêu dấu, khóa học này không phải là một cuộc chạy đua. Không có cuộc thi đua xem ai hoàn thành khóa học này trong thời gian ngắn nhất.

Như thày có nói, con có thể hoàn tất khóa học một cách nhanh chóng với tâm vỏ ngoài, nhưng điều này không có nghĩa là con đã đạt các khai ngộ vì con đã không thể nhập chúng và do đó chưa vươn lên tầng tâm thức cao hơn. Con hãy dành thời gian cần thiết. Tinh thần cầu toàn đã đánh bẫy biết bao nhiêu đệ tử tâm linh trong mấy ngàn năm qua và trì hoãn sự tiến bộ của họ, có khi trong nhiều kiếp sống. Thày không muốn thấy con là một trong những người đó. Thày muốn thấy con đạt được khai ngộ này, trút bỏ lớp da rắn của tinh thần cầu toàn, bỏ nó lại đằng sau và tiến tới một ngày mới trong đó con vui thú với gì mình là, biết rằng ngày mai con sẽ hơn nữa.

Làm sao ngưng đổ lỗi cho mình, 13 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng thứ ba này của khóa nhập thất, thày muốn bắt đầu bằng cách nhắc lại một điểm mà thày đã nêu ra trong bài giảng trước. Trong bài đó, thày chỉ cho con thấy là trong tâm thức con có một cơ chế khiến con cảm thấy con không thể là gì con muốn vì có một số điều kiện trong thế giới, và đặc biệt là ở đây trên trái đất, không đúng như chúng phải là. Con không thể an bình, con không thể là chính mình, con không thể hoàn toàn biểu lộ chính mình trên trái đất.

Con yêu dấu, cái gì đằng sau điều kiện tâm lý này? Vì sao con lại chấp nhận là vì có một số điều kiện trên trái đất, con không thể biểu lộ khả năng sáng tạo, quả vị Ki-tô của mình, con không thể dâng tặng món quà mà con đến hành tinh này để dâng tặng? Con yêu dấu, ta cần nhìn nhận là sa nhân rất, rất là tinh tế, rất rất khôn ngoan, và rất rất quyết tâm ngăn chặn bất cứ ai biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tự nhiên là các thày đã trao truyền giáo lý về khái niệm có nhiều người tâm linh là a-va-ta (avatars) đến từ hành tinh khác để đặc biệt phụ giúp vào tiến trình nâng cao tâm thức tập thể. Thày bảo đảm với con là sa nhân cũng rất rất quyết tâm ngăn chặn các cư dân nguyên thủy của trái đất không cho họ vươn lên tầng quả vị Ki-tô và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô vì, thực sự đây là mối đe dọa lớn hơn cho họ.

Như các thày đã giảng trước đây, tiến bộ thực sự của hành tinh tùy thuộc vào các cư dân nguyên thủy của trái đất. Các a-va-ta có thể giúp nâng cao tâm thức tập thể nhưng họ không thực sự có thể khiến trái đất thực hiện bước nhảy vọt quyết định. Cần có đủ số cư dân nguyên thủy đã nâng tâm thức của họ lên trên một tầng nào đó để có thể có một cuộc chuyển vọt quyết định. Lẽ dĩ nhiên, bước chuyển vọt này chỉ xảy ra trong tập thể cư dân nguyên thủy khi có một số người trong họ đã đạt được tầng quả vị Ki-tô và biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó sa nhân rất nôn nóng muốn ngăn chặn chuyện này.

8.1. Bị đập dí vì biểu lộ chính mình

Chuyện đã xảy ra cho con trong quá khứ là con đã dám biểu lộ điều gì đó vượt quá bình thường. Con đã dám không theo đám đông, và sa nhân đã có mặt để đập dí con xuống, tạo ra một chấn thương tâm lý khiến con liên kết cảm giác sợ hãi và tổn thương (hay cảm giác bất lực và tuyệt vọng, cảm giác không có gì thật sự quan trọng) với việc biểu lộ chính mình, biểu lộ khả năng sáng tạo, đứng lên cổ vũ một chân lý cao hơn, hay những hành động vượt ra ngoài khuôn mẫu bình thường khác. Nhiều người trong các con có trong tâm một cơ chế khiến con cảm thấy sợ là khi con bắt đầu biểu lộ chính mình thì con sẽ bị chế giễu, chỉ trích và ngay cả bị hậu quả vật lý, như bị giết, tra tấn hay bỏ tù vân vân. Con đã tạo ra trong tâm con một cơ chế cho rằng: “Tôi không muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi, nhưng tôi biết tôi ở đây để biểu hiện quả vị Ki-tô do đó tôi cần một lý do tại sao tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi.” Lẽ dĩ nhiên ý tưởng này khiến con nghĩ con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của con khi một điều kiện bên ngoài nào đó chưa thay đổi.

Nghĩ như thế làm cho tự ngã và các phàm linh nội tại của con cảm thấy an toàn, vì lẽ tự nhiên sẽ cần thời gian rất dài (hay ít ra đó là cảm tưởng trong quá khứ) để trái đất sẵn sàng khắc phục được nạn chiến tranh. Con biết là trong nhiều kiếp đầu thai tương lai, con không cần lo lắng về việc biểu lộ quả vị Ki-tô vì con có cái cớ toàn hảo. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô bị nối liền với một điều kiện bên ngoài thay đổi, và thay đổi này quá khó khăn và sẽ cần rất nhiều thời gian, nên tự ngã của con có thể cảm thấy an toàn trong một thời gian.

8.2. Xem xét phản ứng nội tâm

Khi thày phơi bày một chuyện như vậy cho con, thày muốn con xem xét phản ứng nội tâm của con với điều thày nói. Con có thể nói là thày đã rất thẳng thắn, thiếu nhân từ, khi thày phơi bày cơ chế này. Một số trong các con có thể nghĩ thày không nên thẳng thắn như vậy. Một số có thể nghĩ thày không nên phơi bày cơ chế này ra. Có thể có một phản ứng dâng lên trong con, và phản ứng này có thể có một trong hai hình thức. Một là con cảm thấy thày không nên thẳng thắn như vậy khi trình bày vấn đề với con. Hai là con chấp nhận điều thày nói và con lập tức cảm thấy xấu hổ vì đã có cơ chế đó.

Điều thày muốn nói rõ ở đây là trong bài giảng trước thày có nói là con không thể thực sự an bình nếu con không chấp nhận các điều kiện trên trái đất và chấp nhận mình hiện thân ở đây. Nếu con cứ tiếp tục vật lộn với việc mình hiện thân ở đây, chống đối việc mình ở đây, thì đương nhiên con không cảm thấy an bình. Điều thày muốn con nhìn nhận trong bài giảng này là nếu con không chấp nhận chính mình, thì con cũng không thể an bình. Tại sao thày lại nêu lên điểm này khi thày chỉ cho con thấy cơ chế khiến con trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô? À, đó là vì khi thày chỉ cho con thấy có cơ chế đó trong tâm con, thì thường trong con có một phản ứng. Phản ứng đó có thể giúp con nhận ra điều gì trong con đang ngăn cản con không chấp nhận chính mình, không cảm thấy bình an với mình là mình.

Có một số trong các con (không phải là đa số, nhưng có một số) sẽ phản ứng với cảm giác bị xúc phạm là thày đã phơi bày ra điều này. Đó là vì con vẫn ở chỗ muốn tránh né không nhìn chính mình bằng cách luôn luôn phóng chiếu ra ngoài là điều này hay điều kia không được xảy ra. Thày muốn con nhận biết phản ứng này và thày cần con nhận ra đây chỉ là một phàm linh – một phần tự ngã của con – đang phản ứng như vậy. Đây là một cơ chế phòng vệ của tự ngã vì nó không muốn con nhận ra cơ chế đã cho nó quyền lực khuynh đảo con. Cơ chế này khiến con luôn luôn phóng chú ý ra ngoài và nói điều này hay điều kia không được xảy ra.

Thày cần con tách mình ra khỏi cơ chế đó, và thày biết rất rõ là khi con làm điều này, con sẽ nhận ra con cần nhìn vào chính mình, con cần nhìn vào cơ chế. Thay vì nói thày không được nêu điều này ra, con nên nhìn vào sự kiện con có cơ chế đó, khuynh hướng trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Khi đó, con sẽ làm được điều mà một số đệ tử đã làm được từ ít lâu nay, đó là nhìn vào chính mình, nhìn vào bất cứ điều gì bên trong con mà con cần giải quyết.

Thày biết là đối với nhiều người trong các con, đúng hơn là hầu hết các con, nhìn vào điều kiện này là một sự đau lòng. Nhiều người trong các con đã nhiều lúc, trong khóa học này hay trên con đường tâm linh trước khi tham dự khóa học này, cảm thấy đau đớn khi một điều nào đó bị phơi bày trong nội tâm mình. Nó tạo một phản ứng trong tâm con.

8.3. Chân sư thăng thiên không vui thú khi thấy người khác đau khổ

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên không thuộc những người vui thú khi thấy người khác đau khổ; các thày không cố ý làm con khổ sở. Các thày không vui thú khi chỉ cho con thấy một cơ chế trong tâm lý khiến con cảm thấy đau lòng, xấu hổ. Ngược lại, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, thày không mong gì hơn là giúp con tới điểm con có thể nhìn mình mà không đau lòng, xấu hổ về mình.

Toàn bộ mục đích của bài giảng thứ ba ở khóa nhập thất này là dẫn con tới điểm con khắc phục được khuynh hướng rất, rất vi tế cảm thấy hổ thẹn khi con thấy điều gì trong con cần được vượt qua. Nhiều người trong các con có cảm giác là điều gì không được ở đó, ngay từ sơ thủy đáng lý đã không được ở đó. Con yêu dấu, con cần nhận ra là phản ứng đó đã do sa nhân tạo ra. Thày phải nói lại cho đúng là phản ứng này, dĩ nhiên, không do sa nhân tạo ra, nhưng họ đã tạo ra hoàn cảnh bên ngoài khiến con phản ứng như vậy.

Có một lúc nào đó trong một kiếp quá khứ, con đã dám biểu lộ một khía cạnh của quả vị Ki-tô và sa nhân đã làm đủ mọi cách để đập dí con xuống để con không thể trong kiếp sống đó tiếp tục biểu lộ sắc thái quả vị Ki-tô đó. Con cần nhận ra là sa nhân không thỏa mãn chỉ ngăn cản con trong kiếp đó mà thôi. Sa nhân trông chừng xem có bất cứ ai dám biểu lộ một thành phần của quả vị Ki-tô. Có những sa nhân trên các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc sử dụng những sa nhân đang đầu thai trong cõi vật lý để bảo đảm là con sẽ không bao giờ dám biểu hiện quả vị Ki-tô nữa. Họ thực hiện điều này bằng cách đút vào trong bản thể con một phản ứng khiến con cảm thấy con đã sai quấy khi biểu hiện quả vị Ki-tô. Con sai quấy khi con thách đố họ, con sai quấy khi con đứng lên nói sự thật. Con sai quấy vì con quá ư khác chuẩn mực, khác người khác hay bất cứ cơ chế nào khác.

8.4. Quả vị Ki-tô có nghĩa thách đố hiện trạng

Thày cần con nhận ra là một trong những chiến thắng lớn của sa nhân là khi họ bắt được một dòng sống đã sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô và đút một cơ chế vào bốn thể phàm của sinh thể đó. Cơ chế đó khiến con cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô là một điều sai quấy, con cảm thấy là con đã sai quấy khi biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó con không bao giờ dám làm điều này nữa.

Đây là lý do vì sao con có cơ chế khác khiến con liên kết việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con với một số điều kiện nào đó trên trái đất. Nói cách khác, con biết là con ở đây để biểu lộ quả vị Ki-tô. Sâu thẳm trong tâm con có ký ức đây là lý do vì sao con ở đây. Điều mà con trải nghiệm rất xa trong quá khứ là con đã gặp một phản ứng tiêu cực khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Vì một lý do nào đó, con liên kết sự phản ứng tiêu cực đó với các điều kiện bên ngoài lúc đó trên trái đất, và con nghĩ các điều kiện này không thuận lợi. Con đợi cho những điều kiện bên ngoài này thay đổi để con cảm thấy an toàn khi biểu lộ quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là quả vị Ki-tô chỉ có một mục tiêu là thách đố hiện trạng để mọi người có thể thấy là có một cách khác hơn là hiện trạng. Sẽ không bao giờ có điều kiện trên trái đất giúp con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình một cách an toàn. Ngay cả khi Thời đại Hoàng kim của Saint Germain được biểu hiện hoàn toàn, tình trạng xã hội vẫn chưa cho phép con biểu lộ quả vị Ki-tô một cách an toàn.

Nếu con nhìn vào xã hội ngày nay và nói: “Tôi sẽ bị chỉ trích điều gì nếu tôi biểu lộ quả vị Ki-tô?” thì con có thể phóng tầm nhìn tới thời hoàng kim và thấy rằng trong thời hoàng kim, điều ngày hôm nay bị lên án sẽ trở nên hoàn toàn bình thường và dễ chấp nhận. Trong thời hoàng kim vẫn sẽ có một số người muốn giữ hiện trạng lúc đó. Hiện trạng lúc đó cao hơn hiện trạng ngày nay nhiều, nhưng sẽ vẫn có người, vì nhu cầu an toàn của họ, cho rằng mọi chuyện đang xảy ra như chúng phải xảy ra và không cần thay đổi. Dù con đang sống trong xã hội nào, dù con đang ở thời đại nào, vai trò của con như một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố chuẩn mực. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ an toàn, không bao giờ vừa lòng mọi người, không bao giờ được chấp nhận. Thày cần con hiểu điều này một cách ý thức vì con đã hiểu ở tầng thể bản sắc của con.

Thày cần con mang hiểu biết này xuống tầng ý thức và nhận ra là vai trò của một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố hiện trạng. Do đó, con yêu dấu, biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ được sa nhân chấp thuận. Nó cũng sẽ không làm vừa lòng nhiều người, ngay cả hầu hết mọi người, trong đại chúng. Con hãy nhận ra điều này: biểu lộ quả vị Ki-tô không phải là tranh giải ai được đại chúng ưa thích nhất. Nó chưa bao giờ như thế, sẽ không bao giờ như thế, nó không thể như thế vì đây không phải là tính chất của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Ở đây, con cần nhận ra là có một lúc nào đó trong quá khứ con đã lý luận và chấp nhận niềm tin là con sai quấy khi thách thức hiện trạng, đáng lẽ con không được thách thức sa nhân, đáng lẽ con không được thách thức những người chung quanh con. Con đáng lý phải tuân theo chuẩn mực quy định hành vi và lời nói được xã hội chấp nhận.

Thầy cần con nhận ra là người khác phản ứng tiêu cực với con và con nhận phản ứng tiêu cực này vào trong bản thể của con và con chấp nhận tin tưởng con đã sai quấy khi đứng lên khỏi đám đông. Sau đó, thày cần con nhìn vào niềm tin này và nhận ra nó được tạo ra bởi một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt và nó vẫn còn ở trong con. Con yêu dấu, con cần bắt đầu nhận ra một cách ý thức nó chỉ là vậy: nó chỉ là một phàm linh nội tại, nó chỉ là một ngã tách biệt – nó không phảicon. Con không phải là vậy. Con thật ra không cảm thấy sai quấy khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình, khi con đứng lên khỏi đám đông, khi con thách thức hiện trạng.

Phàm linh nội tại cảm thấy sai quấy và do đó nó luôn luôn tìm cách ngăn cản con biểu lộ quả vị Ki-tô. Một cách nó làm là khiến con nghĩ là biểu lộ quả vị Ki-tô dính liền với một điều kiện bên ngoài trên trái đất. Một cách khác là nó khiến con phải cảm thấy hổ thẹn, con phải cảm thấy tội lỗi khi con làm điều gì không được xã hội chấp thuận. Để tránh không đau lòng vì cảm xúc hổ thẹn, con điều chỉnh hành vi bên ngoài của con, điều chỉnh ngay cả cách con nhìn cuộc sống trên trái đất – những gì con có thể làm, những gì con không làm được, đến ngay cả cách con nhìn chính mình. Có nhiều khía cạnh của quan hệ của con với cuộc sống trên trái đất bị cơ chế này ảnh hưởng.

8.5. Tìm cách bù đắp những gì sai quấy

Các thày có nói về khuôn nếp phản ứng xảy ra khi con có một phản ứng trong tâm trước một hoàn cảnh bên ngoài. Vì phản ứng nội tâm đó, con đi vào một khuôn nếp cư xử, xúc cảm hay tư tưởng. Thày muốn nêu ra một khía cạnh khác nữa là những khuôn nếp phản ứng đó đặt con vào một trạng thái tâm nào đó và tạo nên một khuôn nếp bù đắp trong con. Nói cách khác, con có trạng thái tâm là có chuyện gì đó không ổn và bây giờ con tìm cách bù đắp lại. Điều này đã được biểu hiện một cách hiển nhiên và thô sơ, tỷ dụ trong Cơ đốc giáo, qua khái niệm tội lỗi.

Khái niệm con đã có tội khi được tạo ra, con đã làm điều gì sai quấy trong kiếp sống này, và con cần bù đắp lại. Con cần hoặc làm một điều gì để đền bù hoặc con phải đau khổ một thời gian và sau đó con trả xong tội. Bên phương Đông con có quan niệm nghiệp quả qua đó con người cảm thấy họ đã tạo nghiệp và nay cần cân bằng nghiệp quả. Có cả đệ tử chân sư thăng thiên nghĩ rằng họ đã tạo nghiệp trong những kiếp trước và nay cần bù đắp lại bằng cách đọc chú thỉnh ánh sáng tím để cân bằng nghiệp quả. Con có thấy chăng đây là khuôn nếp bù đắp?

Điều đã xảy ra là nhiều người trong các con tin là con có cái gì sai trái, hay ít ra có gì sai trái với việc con ở trên trái đất, và con cần bù đắp lại. Thày muốn lưu ý con là một cách chính mà khuôn nếp bù đắp đã ảnh hưởng con là trong cách con quan niệm con đường tâm linh, trong đó có giáo lý các thày, và khoá học này.

Con có cảm giác có gì không ổn với chính mình hoặc con đã làm gì sai quấy trong quá khứ. Khi con tìm ra con đường tâm linh, khi con tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, con được học về nghiệp quả, về luân hồi và khả năng cân bằng nghiệp quả, và con lao mình vào công việc đó với một lòng hăng hái đáng khen nhưng cũng phát xuất từ khuôn nếp bù đắp. Con tìm cách bù đắp lại những lầm lẫn mà con đã phạm trong quá khứ. Con thấy nhiều đệ tử tìm ra giáo lý các thày và tới điểm nhận ra cơ hội cân bằng nghiệp quả. Họ trở nên rất sốt sắng trong việc đọc chú và thỉnh, tỷ dụ để cầu thỉnh ánh sáng tím. Họ bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày đọc chú và thỉnh. Nhiều đệ tử đã làm vậy trong nhiều năm hay nhiều chục năm.

8.6. Vượt qua khuynh hướng ám ảnh và cưỡng bức

Nếu chúng ta nói một cách hoàn toàn thành thực và không nể nang, thì ta thấy cách nhiều đệ tử tu tập, đặc biệt cách họ đọc chú và thỉnh, thực sự là chứng bệnh mà các tâm lý gia gọi là chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive compulsive disorder). Con yêu dấu, tâm lý như vậy không lành mạnh. Trên đường dài, quan niệm này không lành mạnh cho con và các thày không muốn thấy con làm vậy.

Con có thấy chăng là lối hành xử đó do khuôn nếp bù đắp tạo ra vì con cảm thấy có điều gì con cần bù đắp? Bây giờ, nhiều người trong các con sẽ nói: “nhưng có phải chăng là con đã gây tội trong quá khứ, có phải chăng là con đã tạo nghiêp và bây giờ cần cân bằng nghiệp quả? Có phải là thày bây giờ nói là con không cần cân bằng nghiệp quả?” Con yêu dấu, đây là tâm đường thẳng đang nói đó, và thày muốn con bỏ phản ứng này qua một bên và thực sự nghe và hiểu điều thày sắp giảng.

Thày không bao giờ nói là việc con đọc chú và thỉnh là điều sai quấy. Nó thực sự đã cần thiết cho con. Con quả thực có nghiệp và con cần cân bằng nghiệp quả. Điều thày muốn nói là con nay đã tới điểm con có thể đứng lui lại, xem xét tình hình và nói: “Lẽ đương nhiên là ở tầng tâm thức này, tôi chưa hội đủ điều kiện để thăng thiên. Tôi chưa cân bằng hết nghiệp quả. Không phải là tôi phải ngưng đọc chú và thỉnh, nhưng có lẽ tôi nên đứng lui lại, và quan niệm con đường tu, kể cả việc đọc chú và thỉnh, với một thái độ khác. Tôi không đọc vì bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp đã được tạo ra khi tôi phản ứng lại với sa nhân.

Thày muốn con tới điểm không tu tập dựa trên phản ứng đối với sa nhân nhưng dựa trên đáp ứng với các chân sư thăng thiên. Có thể nhiều người trong các con nghĩ là các con đang đáp ứng với các chân sư thăng thiên vì các con đang theo giáo lý các thày. Con đang phần nào làm vậy nhưng con không hoàn toàn tu tập dựa trên đáp ứng với các thày. Trong bốn thể phàm con có cơ chế bù đắp do sa nhân đã làm con tin rằng con sai quấy và con chỉ có thể sai quấy khi con ở trên trái đất. Do đó, con tìm cách bù đắp lại và con dùng các kỹ thuật của chân sư thăng thiên để bù đắp. Điều này chấp nhận được cho tới điểm này, nhưng bây giờ con không cần lôi nó theo con nữa. Sự thật là con không thể an bình với chính mình nếu con còn lôi cơ chế này theo con.

8.7. Sự trớ trêu của việc đổ lỗi cho mình vì đã đổ lỗi cho mình

Thày cần con đứng lui lại và thấy sự trớ trêu của tình trạng này. Có một sự rất trớ trêu, vì con có thể nhận ra, nếu con thành thật, là con có một phản ứng khi thày nói lên những điều trên. Rất có thể là con đã cảm thấy mình sai quấy vì có cơ chế bù đắp, và đây lại thêm một điều nữa sai quấy với con, và nó cần phải thay đổi, nó cần phải cải sửa. Có thể là con đã phản ứng với một số cảm xúc, nhưng con có thấy điều trớ trêu ở đây chăng? Thày đang chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng nghĩ mình sai quấy vì ở đây. Khi thày chỉ cho con điều đó, con đã phản ứng ra sao với lời nói của thày? Con phản ứng với cùng cơ chế khiến con cảm thấy con sai quấy vì đã có khuynh hướng cảm thấy mình sai quấy. Con có thấy chăng đây là điều mà các khoa học gia gọi là suy luận nghịch hành vô tận? Nó là một vòng khép kín, một cái máy chạy bộ. Con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi nó.

Thày chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng đổ lỗi cho mình, và con lại đổ lỗi cho mình là con có tật đổ lỗi cho mình. Khi nào thì cơ chế này mới ngưng? Khi nào thì phản ứng này mới ngưng? Con yêu dấu, nó sẽ ngưng khi con nhận ra đây là một trong những cái máy chạy bộ mà con không thể thoát ra được nếu con cứ tiếp tục chạy trên đó.

Nếu con không có hình ảnh này trong đầu, thì con hãy lên mạng Internet và tìm xem phim về con chuột nhỏ nuôi trong lồng chạy trên một bánh xe. Sau đó con hãy tự hỏi mình một câu giản dị: “Con chuột có bao giờ ra khỏi bánh xe bằng cách chạy nhanh hơn không?” Câu trả lời đương nhiên là “Không”. Con chuột có chạy nhanh bao nhiêu nó vẫn không thể ra khỏi bánh xe. Chuyện có thể xảy ra là nó mệt lả, hay bị đau tim và chết, nhưng đó là cách duy nhất thoát ra khỏi bánh xe chạy.

Con nhận ra là máy chạy bộ mà thày nói đến nằm trong tâm lý của con. Cái máy chạy bù đắp đó có thể khiến con chạy càng lúc càng nhanh hơn trong cuộc sống bên ngoài, đọc càng ngày càng nhiều bài chú, làm càng ngày càng nhiều chuyện – bù đắp, bù đắp, bù đắp. Cả cuộc đời con trở thành cơ chế bù đắp khiến con chạy càng ngày càng nhanh cho tới khi con bị đau tim và chết. Cơ chế nằm trong ba thể cao của con và do đó con mang nó theo kiếp sống tới. Và sau đó, trong kiếp sống đó, con lại làm việc cho đến khi xác thân vật lý mệt lả và con chết, và con cứ tiếp tục như vậy từ kiếp này sang kiếp khác.

Sư thực là có những người đã sống như vậy. Có đệ tử chân sư thăng thiên đã làm như vậy và đang làm trong kiếp sống này điều mà con đã làm trong ba hoặc bốn kiếp trước. Câu hỏi duy nhất của thày là: “Có bao giờ con bước ra khỏi cỗ máy chạy bộ ở tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc bằng cách chạy nhanh hơn trong thể vật lý, và luôn cả trong ba thể cao?” Lẽ dĩ nhiên là con không thể thoát được bằng cách đó. Không có mục tiêu đường thẳng nào mà con có thể hoàn thành trên cỗ máy chạy bộ vì nó chỉ có thể đi theo một vòng tròn luẩn quẩn. Con phải làm gì? Con cần ngừng vật lộn. Lúc đó, cỗ máy chạy bộ sẽ ngưng lại và con có thể nhảy ra khỏi nó.

8.8. Dùng một giáo lý để đổ lỗi cho mình

Thày muốn con nhận ra khuôn nếp đổ lỗi cho mình và ngay cả dùng giáo lý của các thày để đổ lỗi cho mình, để cảm thấy mình lại làm thêm một điều sai quấy nữa. Đây lại thêm một điều mà con cần bù đắp, và bây giờ con cần cảm thấy hổ thẹn và chạy nhanh hơn nữa. Thày cần con giản dị đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn với chính mình khi tôi đang tu trên con đường của các chân sư thăng thiên?”

Con yêu dấu, chắc con nhận ra là trong các kiếp trước, và có thể ngay trong kiếp này, con đã gặp các thày giả. Giáo hội Công giáo là một tổ chức muốn thành viên cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Giáo hội muốn thành viên cảm thấy họ là người tội lỗi vì đó là cách duy nhất khiến họ quy phục điều giáo hội ra lệnh cho họ và không chất vấn sự phi lý của học thuyết của giáo hội.

Con nhận ra là có nhiều thày giả trên thế giới muốn con cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Họ thực sự lợi dụng cơ chế bù đắp của con để giữ con tham gia điều họ đang muốn con tham gia để lấy năng lượng của con. Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên. Các thày không cần năng lượng của con và các thày nhất định không muốn con cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Các thày không muốn con tu tập trên con đường mà các thày cống hiến với cơ chế bù đắp khiến con cảm thấy cần phải làm càng ngày càng nhiều hơn để tránh không cảm thấy hổ thẹn với chính mình trong nội tâm. Con yêu dấu, thày không cần con chạy trên bất cứ cỗ máy chạy nào để có thể theo những khai ngộ ở khóa nhập thất của thày. Thày không muốn con ở trên bất cứ cỗ máy chạy nào. Mong muốn chính của thày ở tầng này là giúp con bước ra khỏi cỗ máy chạy trong thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của con để con cảm thấy (khi con ngừng chạy, khi con ngừng tìm cách bù đắp) nó tự nhiên chậm lại và ngừng hẳn. Con nhảy ra ngoài nó, con nhìn lại cái ngã đó, con nhìn phàm linh nội tại đó và con nói: “Satan hãy bước ra sau lưng ta, ta không cần ngươi trong đời ta nữa.”

Con yêu dấu, một lần nữa thày đã từng hiện thân trên trái đất. Đa số các chân sư thăng thiên cũng vậy, và chắc chắn là tất cả các Thượng sư đều đã như vậy. Các thày đã từng tạo ra cho mình các cơ chế bù đắp, các thày đã từng ở trên cỗ máy chạy bộ. Các thày biết rõ thực trạng đó. Các thày biết là bước ra khỏi cỗ máy là điều khó làm, nhưng các thày biết là có thể làm được. Các thày biết là con sẽ cảm thấy tự do hơn nhiều, an bình hơn nhiều khi con bước ra khỏi cỗ máy chạy khiến con dùng giáo lý tâm linh và dụng cụ tâm linh để bù đắp điều con nghĩ con đã sai quấy trong quá khứ.

8.9. Tha thứ mình đã phản ứng

Con yếu dấu, thày Hilarion đã giảng một bài rất, rất quan trọng mà một số trong các con chưa neo chặt mình vào. Thày Hilarion nói là khi con xuống đầu thai, con không chỉ giản dị đi xuống tầng thứ 48, và hiện thân lần đầu ở tầng 48. Để đi xuống tới tầng 48, con cần đi qua tất cả các tầng ở trên, bắt đầu bằng tầng 144. Thày Hilarion cũng nói là khi con đi xuống một tầng tâm thức, con lấy vào ảo tưởng liên hệ với tầng đó.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng điều thày đang muốn giảng? Cách con xuống trái đất, dù con là một a-va-ta từ hành tinh khác đến hay là một cư dân nguyên thủy, không quan trọng. Nếu con là một a-va-ta, bất kỳ con ở tầng tâm thức nào trước khi tới trái đất, con vẫn xuống tầng 48 khi đầu thai lần đầu, và điều này có nghĩa là con nhận vào tất cả các ảo tưởng ở trên tầng 48. Bây giờ, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là con có thể là một a-va-ta tới đây từ một hành tinh tự nhiên, và với tầng tâm thức của con ở đó con có thể tránh phản ứng lại sa nhân.

Ngày hôm nay, con có thể cảm thấy là đáng lẽ con phải tránh phản ứng lại sa nhân, nhưng con cần nhận ra là mục đích con xuống đầu thai ở đây là chứng minh cho mọi người trên trái đất thấy là con có thể bắt đầu ở tầng 48 và vươn lên những tầng tâm thức cao hơn. Do đó, con phải xuống tầng 48. Khi con xuống tầng 48 trên trái đất, con sẽ phản ứng với những điều sa nhân bắt con chạm trán với tầng tâm thức 48. Con không có cách phản ứng nào khác vì lúc đó con nhìn đời sống trên trái đất với phin lọc nhận thức của tất cả các ảo tưởng mà con phải mang vào khi con xuống tầng 48.

Con yêu dấu, con không thể phản ứng cách nào khác trên trái đất. Điều này có nghĩa là không ai trên cõi thăng thiên chê trách con vì con đã phản ứng như vậy với sa nhân. Các thày đều đã làm giống con, và đó là lý do vì sao không ai trên cõi thăng thiên muốn con chê trách mình vì đã phản ứng như thế với sa nhân. Con yêu dấu, con phải hiểu là ở tầng tâm thức 48, có một phản ứng cao và một phản ứng thấp, nhưng phản ứng cao ở tầng 48 không phải là trình độ tâm Phật qua đó con hoàn toàn không dính mắc. Điều này chỉ tới với tầng tâm thức 144.

Việc con đã phản ứng với một phản ứng thấp hơn là điều không thể tránh được. Con phải làm như vậy để chứng minh là con có thể vượt lên trên phản ứng đó. Con yêu dấu, con phải hiểu là sa nhân đã phóng chiếu một tâm thức cho rằng nếu con là một người tâm linh (dù con là một cư dân nguyên thủy đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn hay con là một a-va-ta), con đáng lẽ không bao giờ được phản ứng một cách tiêu cực, bất toàn. Do đó, sa nhân (khi con dám biểu lộ quả vị Ki-tô trong quá khứ) đập dí con xuống. Họ khiến con phản ứng tiêu cực và bây giờ họ khiến con chê trách mình vì đã có phản ứng tiêu cực đó. Con có cảm giác đó vì con cảm thấy giống như chuyện Humpty Dumpty trong bài đồng dao, con ngồi trên đầu tường té xuống và tất cả người và ngựa của nhà vua không thể ráp con nguyên vẹn trở lại được. Con cảm thấy con không thể xóa bỏ chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Do đó, con bị kẹt vào cỗ máy chạy bộ không ngừng để tìm cách bù đắp lại.

8.10. Cách duy nhất để khắc phục quá khứ

Con yêu dấu, thực ra con có thể xóa bỏ những gì con đã làm trong quá khứ. Nhiều người trong các con chưa hiểu ra điều này với tâm ý thức. Con có thể làm gì để xóa bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ? À, thày đã nói rồi nhưng thày sẽ nhắc lại ở đây. Con không thể thay đổi hành động vật lý đã xảy ra trong quá khứ nhưng hành động vật lý không quan trọng nữa vì thời gian đã trôi qua. Điều quan trọng là phàm linh mà con mang theo trong bốn thể phàm. Con yêu dấu, con có thể tách mình ra khỏi phàm linh, đuổi nó đi và cho nó chết. Khi con xóa bỏ phàm linh, con cũng xoá bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ.

Đây là sự bù đắp tối hậu và nó là sự bù đắp duy nhất hữu hiệu. Con phải hiểu là có một phàm linh khiến con ở trên cỗ máy chạy, cảm thấy là con cần luôn luôn chạy nhanh hơn, con cần phải làm gì đó để đền bù những điều sai quấy con đã làm trong quá khứ. Con có biết câu nói bình dân: “Hai điều sai trái không đưa đến một điều đúng.” Con yêu dấu, con có thấy chăng là: “Hai điều đúng không đền bù được một điều sai trái?” Bất kể bao nhiêu điều đúng con làm, con sẽ không bao giờ đền bù chuyện sai trái mà con đã làm trong quá khứ khi phàm linh mà con đã tạo ra vẫn còn tồn tại trong các thể cao của con.

Có những người, có mặt trong hầu hết các tôn giáo và tổ chức tâm linh, đã trong nhiều kiếp tìm cách đền bù một điều sai trái nào đó mà họ đã làm trong quá khứ, bằng cách làm điều đúng theo giáo lý của tôn giáo hay tổ chức tâm linh của họ. Thí dụ, có những người bên Tây Tạng bỏ ra cả đời mình xoay bánh xe cầu nguyện, nghĩ rằng hành động này sẽ đền bù cho một điều sai trái mà họ đã làm trong quá khứ. Có những người khắp nơi đọc kinh, dự lễ, đốt nến, tập yoga, đọc chú, và vân vân.

Con yêu dấu, có một khía cạnh máy móc là khi con làm điều gì, con tạo nghiệp. Con có thể cân bằng nghiệp quả đó bằng cách, thí dụ, đọc một số lượng bài chú nào đó. Nhưng khi con đã tới tầng này của con đường tự điều ngự, con cần nhận ra là vấn đề chính yếu của con bây giờ không phải là cân bằng nghiệp quả. Khi con đã vươn lên tầng này, khi con đã đọc số lượng bài chú bài thỉnh, hầu hết các con đã trên con đường cân bằng nghiệp quả, ít nhất là phần lớn nghiệp quả. Không phải là con cân bằng hết nghiệp quả khi con hòan tất khóa học này. Con trên con đường cân bằng hết nghiệp quả ở cuối đời này vì con cần nhận ra rằng ở mỗi tầng cho tới tầng 144, có một số lượng nghiệp quả cần được cân bằng ở tầng đó.

Điều quan trọng không phải là cân bằng tất cả nghiệp quả ở tầng này của con đường tu, nhưng điều quan trọng là cân bằng nghiệp quả cho tới tầng tâm thức hiện nay của con. Con có thấy điểm này chăng? Con có thể bị chậm trễ trong việc cân bằng nghiệp quả , nhưng con cũng có thể tới điểm con bắt kịp ở tầng tâm thức hiện nay trên con đường tu, có nghĩa là con không còn nghiệp quả tàn dư nào từ các tầng thấp hơn. Con đã cân bằng tất cả nghiệp quả cho tới tầng mà con đang ở dù đó là tầng 48, hay 56, hay 63, hay 85. Con đã cân bằng hết nghiệp quả đó, và như vậy có nghĩa là con đã bắt kịp, và con không cần bận tâm chuyện cân bằng nghiệp quả nữa. Khi con tiếp tục đọc chú và thỉnh ở các tầng cao hơn, con sẽ tiếp tục cân bằng nghiệp quả ở các tầng đó.

8.11. Không có gì sai trái với con cả

Điều mà thày quan tâm ở điểm này là dẫn con tới điểm con nhận ra là vấn đề là làm tan đi các phàm linh nội tại đó. Con yêu dấu, đây là phàm linh mà con cần khắc phục ngay lúc này: cảm giác con có gì sai trái.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là sa nhân muốn con cảm thấy là vươn lên tầng tâm thức này của con là điều sai trái? Đầu thai vào trái đất và vươn lên tới tầng này là điều sai trái. Họ muốn con cảm thấy như vậy vì con là một mối đe dọa cho họ, và chắc hẳn con thấy được là đây không phải một điều con muốn chấp nhận. Con không muốn chấp nhận lập luận của họ, và lẽ dĩ nhiên con không sai trái khi con vươn lên tầng tâm thức hiện nay của con. Con cần buông bỏ cơ chế đó đi. Con cần tới điểm con chấp nhận một cách ý thức sự kiện đơn giản sau: “Không có gì sai trái với tôi cả”. Có thể con cần (như người sứ giả này đã làm nhiều năm trước đây) trải qua một giai đoạn con dùng câu này như một lời khấn nguyện. Con giám sát mình và con nhận ra (đôi khi vì một hoàn cảnh bên ngoài, đôi khi chỉ đột nhiên xuất hiện) là có một xung lực khởi lên trong con nói rằng con đã sai quấy, con đã làm điều gì sai quấy, rằng con không được làm điều này, con không được làm điều kia. Có thể con cần một giai đoạn giám sát mình, và khi xung lực khởi lên, con hóa giải nó bằng cách nói trong ý thức, hoặc ra lời hoặc nói thầm: “Không có điều gì sai trái với tôi cả. Tôi hoàn toàn chấp nhận là không có điều gì sai trái với tôi cả.”

Con yêu dấu, khi con làm điều này và tiếp tục làm điều này, thì con sẽ tới điểm con tách mình ra khỏi phàm linh đó, ngã tách biệt đó. Con có thể nhìn nó và cảm thấy nó không ảnh hưởng con được nữa. Lúc đó, nó tan đi vì cái giữ cho nó sống là năng lượng mà con cho nó khi con tin vào ảo tưởng có điều gì sai trái với con.

8.12. Con không sai trái vì ở trên trái đất

Con yêu dấu, con thấy chăng là điều các thày mong muốn trong khóa học này là giúp con vượt qua ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức giữa tầng 48 và 96. Một trong những ảo tưởng này là ý tưởng có điều gì sai trái với việc con ở trên trái đất.

Nếu con là một a-va-ta thì trên một hành tinh tự nhiên con chưa bao giờ trải nghiệm lời cáo buộc có cái gì sai trái với con. Trong quá khứ xa, trước khi trái đất rơi vào nhị nguyên, nếu con là cư dân nguyên thủy con cũng không trải nghiệm điều này. Do đó, con có trong con cảm giác là thực sự con không có gì sai trái. Bởi vì con đã quá nhiều lần trải nghiệm bên ngoài (qua sa nhân và qua người khác và xã hội nói chung) lời cáo buộc con có gì sai trái, nên con đã đi tới điểm nghĩ rằng có lẽ điều gì sai trái với việc con ở trên trái đất. Có thể là trái đất đã khiến con sai trái, đã khiến con cảm thấy mình sai quấy? Lẽ dĩ nhiên, đó là một lý do khiến con khó chấp nhận là mình đang ở đây.

Nếu con nhìn lại chính mình, thì có lẽ con nhận ra là nhiều người tâm linh đã cảm thấy bị xã hội ruồng bỏ. Khi con là trẻ thơ, con đã cảm thấy mình không hòa nhập với trẻ em khác, không có ai con có thể nói chuyện về những niềm tin tâm linh của mình. Nhiều người trong các con đã bị chế giễu vì những niềm tin tâm linh của mình. Nhiều người trong các con có thể đã tìm ra một phong trào tâm linh, theo nó một thời gian và sau đó (khi con bắt đầu đặt một số câu hỏi thách đố hiện trạng của phong trào đó) con bị phong trào đó trù dập.

Con có thể đã có cảm giác: “Tôi thuộc về đâu, tôi hòa nhập được với ai?” Lẽ dĩ nhiên, điều này đã nuôi dưỡng cơ chế bù đắp mà thày đã phơi bày. Một khi con buông bỏ được cơ chế đó, con có thể tới một tầng của con đường tâm linh hoàn toàn dựa trên tình thương. Con không đi trên con đường tâm linh để bù đắp bất cứ điều gì. Con theo con đường tâm linh vì có điều gì đó mà con thương yêu, bất kể tình thương này thể hiện ra sao cho mỗi người. Đối với con, đó là một động lực dựa trên tình thương, không phải một động lực dựa trên bù đắp.

8.13. Vượt qua nỗi sợ sáng tạo

Đây là diểm con khắc phục chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức và bắt đầu tu theo cách không ám ảnh, không cưỡng bức. Đây không phải là tâm thần loạn động, mà chỉ giản dị là động lực tự nhiên, dựa trên tình thương, thúc đẩy con vươn lên cao hơn, trải nghiệm cái gì hơn nữa và muốn biểu hiện cái hơn nữa.

Con yêu dấu, sự thực là khi con còn bù đắp, con không thể cảm thấy tự do biểu hiện mình, con không thể cảm thấy tự do sáng tạo. Con sẽ sợ không dám sáng tạo, vì sáng tạo là gì? Sáng tạo là vượt lên trên hiện trạng. Con chỉ sáng tạo khi con vượt lên trên hiện trạng. Khi con bù đắp, mong muốn bù đắp này thật sự dựa trên hiện trạng vì con nói: “Hiện trạng là tôi làm điều gì đó sai trái trong quá khứ và tôi cần bù đắp lại.”

Bù đắp và sáng tạo xung khắc nhau và con sẽ không bao giờ là một sinh thể hoàn toàn sáng tạo khi con còn tìm cách bù đắp lại điều gì đó. Lẽ dĩ nhiên, có người được coi là nghệ sĩ nhưng lại bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp trong tâm lý và tìm cách bù đắp qua tác phẩm của họ. Con cũng có thể thấy có người bị ám ảnh với việc vẽ càng nhiều tranh càng tốt, hay khắc càng nhiều tượng càng tốt, hay điều gì khác. Con có thể thấy nhiều nghệ sĩ, thí dụ, thực sự bị thúc đẩy bởi chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức để biểu hiện nghệ thuật thách đố hiện trạng. Dù họ đang thách đố hiện trạng, họ không thực sự thách đố một cách sáng tạo. Đó là lý do vì sao rất nhiều tác phẩm nghệ thuật tân thời không cân bằng và không thẩm mỹ. Chúng tơi tả, bất hài hòa. Chúng được tạo ra với ý định khiêu khích, nhưng chúng không nâng tinh thần người thưởng ngoạn mà chỉ làm gai mắt họ qua sự thiếu thẩm mỹ.

Nhiều người có quan niệm cái gì là thẩm mỹ nhưng nhiều nghệ nhân tân thời đã tìm cách bù đắp vì họ cho rằng đó là hiện trạng cần thách đố. Con yêu dấu, con thấy chăng là thẩm mỹ không phải là một vấn đề hiện trạng, tuy rằng, lẽ dĩ nhiên, trong quá khứ đã có nhiều thí dụ một lối vẽ nào đó được coi là cách vẽ duy nhất và do đó nó trở thành hiện trạng. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt vì có một số nét đẹp, một quan niệm về cái đẹp, mà con có trong con và đa số tác phẩm nghệ thuật tân thời giản dị nằm ngoài quan niệm đẹp của đa số con người. Các nghệ nhân này cảm thấy họ thách đố hiện trạng, nhưng họ lại có cơ chế loạn thần ám ảnh và cưỡng bức, và bù đắp, khiến họ cảm thấy cần thách đố hiện trạng của xã hội thay vì thách đố cơ chế bù đắp nơi chính họ. Họ chú tâm vào thay đổi xã hội thay vì thay đổi chính mình, thăng vượt tâm thức của chính họ.

Lẽ dĩ nhiên các thày muốn các đệ tử sáng tạo, nhưng các thày muốn con sáng tạo trên nền tảng của tình thương, chứ không phải dựa trên cơ chế bù đắp thúc đẩy con làm điều gì đó bất thường để gây chú ý. Con yêu dấu, thày đã chiếm nhiều chú ý của con với bài giảng này, và thày cảm ơn con đã chịu bước đi trên con đường mà thày vạch ra trước mắt con.

Mọi điều kiện trên trái đất đều là cơ hội, 12 đọan

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày chào đón con vào tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con có thể nghĩ là bài giảng đầu của thày quá nghiêm khắc, nhất là vì thày là một chân sư phái nữ. Một số người vẫn chờ đợi là các chân sư nữ dịu dàng hơn các chân sư nam. Con yêu dấu, thật ra thày đã dịu dàng hơn một chân sư nam, vì nếu Đại thiên thần Michael đã trao truyền cùng thông điệp, thì nó đã nghiêm khắc hơn nhiều.

Con yêu dấu, con biết rằng, như các chân sư khác đã nói với con, con đã đến mức các thày không còn chơi trò chơi với con nữa. Các thày không còn cho con phiên bản dịu dàng của giáo lý. Các thày nói một cách tự do và thẳng thắn với con vì con đã tới mức sẵn sàng để nghe. Do đó không có lý do gì để chơi những trò chơi như con người thường chơi trên trái đất. Điều quan trọng không là ve vuốt tự ngã, tránh làm tự ngã tổn thương vì con đã tới điểm cần nhìn quá tự ngã, nhìn xuyên qua tự ngã. Con cần nhận ra khi nào phản ứng của con dâng lên, con biết chúng đến từ tự ngã. Do đó con có thể tách ra khỏi phản ứng và tránh không bị chìm đắm trong nó. Con có thể tránh không phản ứng theo phản ứng của tự ngã.

6.1. Điều không nên chờ đợi nơi chính mình

Điều này không có nghĩa là con không có phản ứng. Con yêu dấu, dĩ nhiên có câu chuyện Đức Phật, khi thày chứng ngộ lần cuối trước khi thành đạo, lúc đó thày tọa thiền dưới cội Bồ đề và ma vương Mara hiện ra. Ma vương tìm cách khiến thày phản ứng một cách nào đó. Vì thày không phản ứng nên thày đạt được chứng ngộ và thành đạo. Chúng ta không ở trình độ này. Con chưa tới điểm sẵn sàng thành đạo. Con đang ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày và con đang ở dưới tầng tâm thức 96. Các thày hoàn toàn không có ý định đòi hỏi con ngưng mọi phản ứng. Con yêu dấu, các thày không muốn con cảm thấy mình đã thất bại nếu con phản ứng trước những điều kiện của thế gian. Điều tự nhiên là con có phản ứng với thế gian ở tầng tâm thức hiện nay của con.

Điều mà các thày muốn con làm ở điểm này là bắt đầu nhận ra trong ý thức là phản ứng không tới từ con, tức là bản thể thật bên trong của con. Phản ứng đến từ cái mà các thày gọi là tự ngã của con, là một phàm linh nội tại hay một cái ngã tách biệt. Nói cách khác, đó là phản ứng của bốn thể phàm của con, nhưng nó không phải là phản ứng của con. Thày có đặt cho con mục đích là con tới được điểm con có thể đi lại trong bốn tầng của vũ trụ vật chất – con có thể sống trong đời – nhưng con không làm với tâm thức tách biệt. Con hành động, con sống một cuộc sống năng động. Con làm, nhưng con cũng không làm. Con làm với tâm đang là, tâm trong trạng thái bình an nội tại.

Khai ngộ mà con cần đạt được ở tầng thứ nhất là nhận ra là con không thể tạo ra bình an bằng cách làm, làm thêm một điều gì đó, làm thêm điều gì khác. Điều quan trọng không phải là khám phá ra bí quyết bí mật mà chưa ai đã tìm ra, và sau đó con sẽ tạo ra bình an. Không có bí quyết gì để khám phá cả – ngoài giáo lý mà các thày đã trao cho các con về tâm thức nhị nguyên và vươn lên trên nó. Lẽ dĩ nhiên, điều này sẽ xảy đến từ từ. Nó sẽ xảy đến từng phần. Khi con ở điểm này, các thày không đòi hỏi con hoàn toàn vượt lên trên tâm thức nhị nguyên và không có phản ứng gì trước những điều kiện trên trái đất.

Các thày muốn con bắt đầu tách mình ra khỏi phản ứng để nhận ra rằng, tuy phản ứng có mặt trong bốn thể phàm của con, chúng không thực sự là phản ứng của con. Lẽ dĩ nhiên, không có nghĩa là con lờ đi không để ý tới phản ứng vì con nhận ra là khi con có phản ứng, đây là chỉ dấu có một phàm linh nội tại, một cái ngã tách biệt, một phần của tự ngã đang phản ứng. Do đó, đây là cơ hội để con nhìn nó, tách mình xa khỏi nó và nhờ vậy thăng vượt khỏi nó, vượt lên trên nó.

Con hiểu chăng là khi thày nói là con đang ở trong một bãi cát lún và cả bốn tầng của thế giới vật chất là một hình thức cát lún, thì điều thày thực sự muốn nói là nếu con ở trong thế gian và phản ứng liên tục và cho phép mình bị lôi kéo vào những khuôn nếp phản ứng lại một điều kiện nào đó trong thế gian, thì con đang tạo nghiệp, con đang làm, và con đang chìm xuống cát lún. Chỉ khi nào con tới điểm thoát được một phản ứng nào đó thì thế gian cát lún mới không còn ảnh hưởng được con và con tránh bị lún xuống. Điều thày nói trong bài giảng trước là thày muốn con bắt đầu suy ngẫm điều gì tước đi sự bình an của con và khiến con làm, khiến con đi vào các khuôn nếp phản ứng thúc đẩy con làm.

6.2. Con tạo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình như thế nào

Trong bài giảng này, thày muốn trình bày một khía cạnh của điều này, một cơ chế liên hệ. Thày có nói trước đây là đa số đệ tử tâm linh có một phản ứng đối với thế gian. Thực sự ta có thể nói là tất cả con người hiện thân đều có một phản ứng đối với thế gian. Ngay cả những người không đặc biệt gì tâm linh cũng có một phản ứng nào đó, một cách nhìn cuộc đời nào đó. Lẽ tự nhiên là sa nhân có phản ứng không muốn ở trên thế gian này, cảm thấy không công bằng là họ phải ở đây, vân vân. Các con là người tâm linh (đa số các con có lẽ là người từ hành tinh khác xuống đầu thai trên trái đất (avatar) nếu các con đã theo học khóa này, nhưng chắc chắn là khóa này cũng ứng dụng cho những cư dân nguyên thủy của trái đất) thì các con có một phản ứng, một cảm giác, là mọi chuyện trên trái đất không được ổn. Đây là một bí ẩn mà con cần giải đáp để tránh không bị kéo vào khuôn nếp phản ứng.

Lẽ tự nhiên là con có một Sứ vụ Thiêng liêng. Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng này, con nhìn xuống trái đất và con thấy là có những điều kiện có thể nói là không tự nhiên trên hành tinh này. Con thấy là các chân sư thăng thiên có mục đích nâng hành tinh lên trên các điều kiện này, và con quyết định góp phần vào việc thực hiện mục đích này. Điều con cần nhận ra là khi thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn. Nhưng không có nghĩa là con thảo Sứ vụ Thiêng liêng trong trạng thái tâm thức tối hậu, tức là trạng thái hoàn toàn không có tự ngã. Nhưng có nghĩa là con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn lên tới trong kiếp sống này. Sứ vụ Thiêng liêng của con có hai tầng. Một là những điều con muốn làm trong thế gian, những gì con muốn thực hiện. Tầng kia là con muốn tăng triển như thế nào, con muốn nâng tâm thức tới mức nào. Con cần nhận ra là Sứ vụ Thiêng liêng của con bắt đầu ở tầng tâm thức mà con có khi con rời kiếp sống trước, và định ra mục đích mà con và các vị thày của con lượng định là con có thể đạt được ở cuối kiếp sống này. Sứ vụ Thiêng liêng của con được tạo ra từ trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn tới trong kiếp sống này.

Lẽ dĩ nhiên là khi con xuống đầu thai, con bắt đầu ở cùng tầng tâm thức với lúc con hiện thân kiếp trước – nghĩa là tầng tâm thức thấp nhất trong khoảng tiềm năng của kiếp này. Điều này có nghĩa là con quên mất trạng thái tâm thức khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Các con thường có khuynh hướng nhìn Sứ vụ Thiêng liêng của mình với tư duy đường thẳng và nghĩ nếu các chân sư thăng thiên có một mục đích, tỷ dụ như chấm dứt mọi chiến tranh, và nếu con có mặt ở đây để giúp các thày, thì con cần lấy những biện pháp tích cực, con cần làm chuyện gì tích cực, để hoàn tất mục đích này.

Con yêu dấu, nếu con muốn thật sự hoàn tất mục đích con cần đạt trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này, trước hết con cần vươn lên trạng thái tâm thức cao nhất – không nhất thiết là trạng thái tuyệt đối cao nhất nhưng ít ra cũng gần tới đó – mà con có thể đạt được trong kiếp sống này. Nói cách khác, để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng, con cần vươn lên một tầng tâm thức cao hơn khi con bắt đầu kiếp sống này. Lẽ dĩ nhiên con đã làm chuyện này. Tuy nhiên, điều thày muốn chỉ rõ là con dễ có cảm giác con cần làm điều gì đó tích cực. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, khi họ khám phá ra giáo lý của các thày, họ quyết định với tâm vỏ ngoài, dựa trên tầng tâm thức của họ khi họ tìm ra giáo lý, là họ sẽ làm gì đó. Họ sẽ đọc bài chú, bài thỉnh và vân vân.

6.3. Con cảm thấy gì về trái đất?

Điều thày muốn con làm ở tầng này là để các việc đó qua một bên và nhận ra mục đích lúc này là vươn lên một tầng tâm thức cao hơn giúp con có một cái nhìn khác về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, một cái nhìn khác về việc con cần làm trong kiếp này. Để làm điều này, ở tầng này thày muốn con một lần nữa nhìn trái đất với tâm ý thức hiện nay của con. Điều mà thày muốn các học viên tới khóa nhập thất của thày làm là chia ra thành nhóm nhỏ và nói lên họ nghĩ thế nào, họ cảm thấy thế nào về trái đất và hiện trạng của nó. Con cũng có thể tự làm điều này. Con có thể đi vào một căn phòng yên tĩnh, và nói lên cảm nghĩ của mình về trái đất, đời sống trên trái đất, con người, sa nhân và các vấn đề khác. Đa số học viên ở tầng này cảm thấy có cái gì không ổn trên trái đất, có cái gì đã đi sai đường.

Lẽ tự nhiên, nếu con là một người từ hành tinh khác đến đây, con còn nhớ đời sống trên một hành tinh tự nhiên như thế nào. Con biết trái đất ở trình độ thấp hơn một hành tinh tự nhiên rất nhiều. Nếu con là một trong những cư dân nguyên thủy của trái đất, con có (trong ký ức nội tâm) cảm nhận là có một thời trong quá khứ trái đất đã ở một trình độ cao hơn, nhưng nay thì đã rơi xuống thấp hơn. Thí dụ, trong quá khứ không có chiến tranh trên trái đất, nhưng nay thì có. Tất cả đệ tử tâm linh có cảm giác có chuyện gì không ổn, không đúng, cần được sửa, cần thay đổi. Đây là điểm ta cần xem xét bí ẩn.

6.4. Bí ẩn về việc thay đổi tình trạng trái đất

Con yêu dấu, dưới một tầm nhìn nào đó, tất cả các điều này đều chính xác. Các chân sư thăng thiên có muốn dẫn trái đất theo một tiến trình qua đó chúng ta nâng trái đất lên để một số biểu hiện, trong đó có chiến tranh, không còn có mặt nữa. Ta có thể quan niệm đây là một tiến trình đường thẳng. Ta bắt đầu ở một tầng nào đó, ta dần dần vươn lên tầng kế tiếp, và sau đó lên tầng kế tiếp, và vân vân. Chúng ta nâng tâm thức tập thể lên từng bước một cho tới lúc ta tới một bước ngoặt khi một biểu hiện bị chế phục. Điều này chưa xảy ra với chiến tranh. Nó đã phần lớn xảy ra với nạn nô lệ và một số điều kiện khác mà ngày nay con không còn thấy nữa, ít nhất là không còn thấy nhiều trong thế giới tiên tiến.

Có thể nói là một mục đích. Có thể nói là một tiến trình đường thẳng dẫn tới mục đích đó. Điều thày muốn con nhận ra là có một yếu tố trong tự ngã của con, có một phàm linh nội tại, có một cái ngã tách biệt đã chấp nhận (hay nói đúng hơn, đã được tạo ra bởi) tin tưởng là con không thể là một người tâm linh trọn vẹn, con không thể là một sinh thể Ki-tô, con không thể nào hoàn toàn bình an với mình nếu một điều kiện nào đó trên trái đất chưa thay đổi.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là đa số người tâm linh cảm thấy có chuyện cần thay đổi, nhưng họ thường không nhận ra là bên dưới cảm giác đó là một phản ứng cá nhân khiến họ cảm thấy vì điều kiện đó như vậy nên họ không thể trọn vẹn là mình được. Tỷ dụ, con không thể hoàn toàn bình an, con không thể hoàn toàn chấp nhận mình ở đây trên trái đất, con không thể hoàn toàn vui hưởng cuộc sống, con không thể hoàn toàn tham gia vào đời sống hay con đường tâm linh. Có điều gì đó con không thể làm, có điều gì đó con không thể , vì có điều kiện bên ngoài không đúng như chúng phải là.

Con yêu dấu, đây hoàn toàn là một ảo tưởng mà con nhất thiết phải khắc phục. Thày không đòi hỏi con hoàn toàn khắc phục nó ở tầng này, nhưng thày muốn con bắt đầu có ý thức về nó. Có nhiều lý do vì sao cần như vậy. Trước hết, con sẽ không cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn bị kẹt trong khuôn nếp này. Nó thực ra là một khuôn nếp phản ứng. Con nhìn vào các điều kiện trên trái đất và con phản ứng lại bằng cách cảm thấy mình bị hạn chế. Con cảm thấy con không thể nào trọn vẹn là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con bởi vì có điều kiện bên ngoài này, và đây là khuôn nếp phản ứng đang hạn chế con. Con không thể hoàn toàn cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn khuôn nếp này. Con không thể nào hoàn toàn bình an trong nội tâm vì con không bình an với việc mình hiện thân trên trái đất này.

Nhiều học viên đã nghe thày nói là mục đích của khóa nhập thất của thày là con bình an trong chính mình. Họ không nhận ra rằng nếu muốn bình an trong chính mình, con cần bình an với chuyện sống trên trái đất, bình an với chuyện hiện thân trên trái đất. Do đó, họ không nhận ra là họ có một khuôn nếp phản ứng trong tiềm thức của họ nói: “Ồ, tôi không thể bình an khi điều kiện này vẫn còn như vậy.” Con có thấy chăng là có một cơ chế, một khuôn nếp phản ứng bên trong con đang ngăn trở con không bình an vì một số điều kiện bên ngoài như vậy?

Bây giờ, đối với trí suy luận đường thẳng, tâm vỏ ngoài, tự ngã, phàm linh nội tại, tự ngã tách biệt, chỉ có một giải pháp là điều kiện bên ngoài phải thay đổi. Có đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý các thày từ mấy chục năm, nhưng vẫn bị kẹt trong khuôn nếp chú tâm vào ngoại cảnh phải thay đổi, vì họ cảm thấy họ không thể an bình trong chính họ nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi. Họ chú tâm đến phía ngoài họ, hướng sự chú ý đến việc làm sao đóng góp thay đổi điều kiện bên ngoài.

6.5. Nỗi bực dọc tinh tế trong nội tâm

Vì họ đương nhiên cảm thấy bất lực không thay đổi được nhiều điều kiện bên ngoài, như chiến tranh, nên họ cảm thấy bực dọc. Điều này khiến họ khởi ý niệm tinh tế đổ lỗi cho người khác, cho sa nhân, cho Ánh sáng Mẹ – hay bất kỳ điều gì khác. Trong nhiều trường hợp, họ đổ lỗi cho cả ba. Có nhiều học viên ở đây cảm thấy: “Tôi không thể an bình vì điều kiện bên ngoài chưa thay đổi, và điều kiện bên ngoài chưa thay đổi vì con người không chịu thay đổi, sa nhân vẫn hiện diện và Ánh sáng Mẹ vẫn tiếp tục biểu hiện những điều kiện này như trước và sẽ không thay đổi.” Họ cảm thấy bực dọc. Do vậy, con yêu dấu, làm sao thày có thể giúp con an bình với chính mình nếu con vẫn còn nỗi bực dọc này?

Thày cần con nhận ra nỗi bực dọc này, nói rõ ra nếu con thấy cần. Con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, và nói lên nỗi bực dọc mà con cảm thấy. Sau đó, thày cần con nhận ra một điều giản dị, đó là: “Nếu tôi không thể thay đổi điều kiện bên ngoài, vậy có phải chăng là tôi không thể an bình?” Một số học viên tin như vậy. Thày làm tất cả những gì thày có thể làm ở cõi ê-the trong khóa nhập thất của thày để giúp họ hiểu là điều này không đúng. Thày muốn con làm tất cả những gì con có thể làm ở tầng tâm ý thức. Lẽ dĩ nhiên là các thày đã giảng điều này rồi, nhưng thày vẫn có học viên tới tầng khai ngộ này của khóa nhập thất của thày mà vẫn chưa hiểu ra điều này với tâm ý thức của họ.

Lập luận không thể thay đổi chính mình khi ngoại cảnh chưa thay đổi không đứng vững, vì toàn bộ ý nghĩa của giáo lý chân sư thăng thiên là con đi trên con đường tu để trở nên độc lập về mặt tâm lý, mặt tâm linh, mặt tâm lý-tâm linh, với các điều kiện trên trái đất . Đó là lý do vì sao Đức Phật đạt được khai ngộ khi ngài ngồi dưới chân cội bồ đề. Thày độc lập trên mặt tâm lý-tâm linh với mọi điều kiện trên trái đất. Không có điều kiện nào trên trái đất có thể ảnh hưởng thày vì thày không nghĩ có điều kiện nào trên trái đất có thể lấy đi sự bình an nội tâm của thày. Đáp số hiển nhiên cho câu đố bí ẩn là nếu con không thay đổi được điều kiện bên ngoài, con vẫn có được bình an nội tâm bằng cách tác động trên chính mình, thay đổi chính mình.

Đúng là rất có thể một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại một số thay đổi bên ngoài cho trái đất, nhưng Sứ vụ Thiêng liêng của con cũng bao gồm việc đạt được an bình nội tâm. Con cần nhận ra là con có mục đích bên ngoài và mục đích bên trong. Mục đích bên trong là sự tăng triển tâm thức của chính con, và không có điều kiện nào trên trái đất có thể ngăn chặn hay hạn chế sự tăng triển tâm thức của con. Con yêu dấu, ngược lại, điều kiện trên trái đất chính thật là những yếu tố giúp con tăng triển tâm thức. Chúng không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm thức của con; chúng là cơ hội cho con tăng triển. Làm sao con tăng triển tâm thức? Bằng cách vượt qua một phàm linh nội tại cá biệt khiến con phản ứng với một điều kiện nào đó trên trái đất. Khi con không còn phản ứng với điều kiện, con đã tăng triển tâm thức và lúc đó, con bước gần hơn tới sự bình an nội tâm của con.

Con yêu dấu, con có thấy chăng đây chính là mục đích của con đường tâm linh? Từ xưa đến nay vẫn luôn luôn như vậy. Các Thượng sư khác cũng đã nói điều này, nhưng có nhiều mức độ thể nhập chân lý này. Con có thể nghĩ con đã hiểu chân lý này khi con ở Tia thứ Nhất, Tia thứ Hai hay tia nào khác, nhưng có những mức độ hiểu sâu hơn. Ở tầng này, thầy cần con nhận ra là an bình nội tâm của con không dính dáng gì đến điều kiện trên trái đất. Nó là một điều kiện nội tâm. Không có điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản an bình nội tâm của con. Nếu con đang nghĩ, hay trước đây có nghĩ, là có một điều kiện có thể ngăn cản bình an nội tâm của con, thì điều kiện đó là cơ hội để con vươn lên tầng cao hơn.

6.6. Điều gì khiến con trăn trở nhất trên trái đất

Con yêu dấu, con có thấy chăng là thày muốn con, ở tầng này, bước lui lại, nhìn vào cuộc đời, con đường tâm linh, và tâm lý của mình. Sau đó con hãy nhìn trái đất và nói: “Điều kiện nào khuấy động nhiều nhất sự bình an của con trên trái đất? Điều kiện nào thường khiến con cảm thấy phẫn nộ, cảm thấy không muốn ở đây, cảm thấy có điều gì đó không đúng, có điều gì đó đáng lẽ không được như vậy?” Con hãy nhận diện điều kiện đó, và nhận ra điều kiện đó chính là điều kiện con cần vượt qua ở tầng khai ngộ này của khóa nhập thất của thày. Điều kiện này không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con; nó là cơ hội cho con tăng triển. Do đó, điều kiện này giúp con tăng triển.

Làm sao con làm hòa với việc mình đang hiện thân trên trái đất? Tại sao con không an bình? Đó là vì con có một mục đích tâm linh, nhưng đâu đó trong bốn thể phàm của con cũng có một cơ chế ngăn cản con đạt được mục đích đó. Nó ngăn cản không cho con đạt mục đích vì con nghĩ con không thể đạt được mục đích nội tâm nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi. Cơ hội tăng triển tâm linh chỉ là nhận ra rằng tất cả điều kiện trên trái đất là cơ hội để vượt qua dính mắc và khuôn nếp phản ứng.

Con yêu dấu, nếu con chuyển vọt tâm thức được như vậy, thì con sẽ bình an với việc hiện thân trên một hành tinh dày đặc và thấp như trái đất hiện nay. Điều thày mong muốn là giúp con vươn lên trên sự vật vã nội tâm liên tục khi con biết là mình đang hiện thân, con biết mình không thể búng tay và rời kiếp sống này, nhưng con cảm thấy bực dọc và bị hạn chế vì đang ở đây. Thày mong muốn giúp con chuyển vọt tâm thức, nhìn cuộc đời và nói: “Nhưng đây không phải là một hạn chế – đây là môt cơ hội.”

Thày biết là tâm của con sẽ khởi lên tư tưởng này: “Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với các điều kiện bên ngoài? Có đúng chăng là tôi phải làm điều gì?” Con yêu dấu, tất cả điều thày muốn con làm, khi con đang trải qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, là con tạm thời để qua một bên ước muốn làm điều gì đó trong thế gian. Đúng thực là sau này con sẽ có thể làm gì đó, nhưng chuyện này sẽ xảy ra khi con có viễn kiến cao hơn. Con sẽ không có viễn kiến đó khi con còn chú tâm quá nhiều tới bên ngoài, thay vì chú tâm vào bên trong. Thày cần con, khi con đang trải qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, rút sự chú tâm có ý thức khỏi những gì con có thể thay đổi trong thế gian, và nhìn vào những gì con có thể thay đổi nơi chính mình. Thày cần con nhìn vào những gì lấy đi sự bình an của con, và nhìn điều kiện đó như một cơ hội.

Con yêu dấu, con đường tâm linh, con đường dẫn tới thăng thiên là con đường nội tâm, và nó thuộc nội tâm chính vì con không cần vượt qua bất cứ điều kiện bên ngoài nào. Con chỉ cần vượt qua điều kiện nội tâm mà thôi. Hầu hết các điều kiện nội tâm đó là những khuôn nếp phản ứng với những điều kiện bên ngoài trong đó con – hay đúng hơn là tự ngã, tự ngã tách biệt, phàm linh nội tại của con – tin rằng điều kiện bên ngoài có thể hạn chế tăng triển tâm linh của con.

6.7. Niềm tin đằng sau phàm linh nội tại

Con yêu dấu, các thày có nói về phàm linh nội tại, cái ngã tách biệt và các khía cạnh của tự ngã. Điều mà thày muốn con nhận ra là khi lần đầu tiên con nghe tới các khái niệm đó, con ở một tầng tâm thức nào đó. Do đó, trong tâm vỏ ngoài của con, con đã nhìn các khái niệm này dựa trên tầng tâm thức đó. Bây giờ thì con đã theo học khóa này cho tới điểm này với Tia thứ Sáu, con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Điều này có nghĩa là đã đến lúc con tiến lên một bước và có cái nhìn cao hơn về các khái niệm này.

Một phàm linh nội tại, một cái ngã tách biệt được hình thành như thế nào? Nó được tạo ra từ một tin tưởng nào đó. Thường thì các niềm tin này không được tạo ra từ bên trong tâm con vì chúng đã có mặt trong tâm thức đại chúng từ lâu rồi. Sa nhân đã tạo ra nhiều niềm tin đó, do đó có một số phàm linh tập thể. Sa nhân rất giỏi trong việc cho con gặp phải một điều kiện trên trái đất rất khó khăn trên diện vỏ ngoài dẫn tới một hoàn cảnh tạo chấn thương tâm lý. Để đối phó với điều kiện này, con tạo ra một cái ngã tách biệt, một phàm linh nội tại. Phàm linh nội tại này được tạo ra dựa trên một tin tưởng nào đó.

Niềm tin này có thể là, thí dụ, nếu chiến tranh còn có mặt trên trái đất (và do đó con có nguy cơ lại rơi vào chiến tranh) thì con không thể hoàn toàn an bình. Con lúc nào cũng phải đề phòng. Con lúc nào cũng cần biết là điều gì đó có thể xảy ra, một cuộc chiến có thể bùng nổ và con bị lôi kéo vào đó. Đó là lý do vì sao con thấy có rất nhiều người tâm linh, rất nhiều người thuộc khuynh hướng Thời đại Mới, tin vào các lời sấm kí tiêu cực. Họ lúc nào cũng đợi năm 2012 hay bất kỳ năm nào khác được sấm kí cho rằng sẽ có một thay đổi lớn lao, chấn động, hoặc sẽ có một khủng hoảng lớn hay một chiến tranh lớn. Họ lúc nào cũng tìm xem những sấm kí ghê gớm nhất và bị chìm đắm trong đó. Họ không thể buông bỏ chúng, và lý do đơn giản là vì họ có một phàm linh.

Con yếu dấu, một lần nữa, các thày không chê trách các con. Tất cả chúng ta, đã từng hiện thân trên trái đất, đều đã phải chịu chấn thương nặng dưới tay sa nhân. Có thể con không bị tấn công trực tiếp, nhưng con có thể đã bị dính líu vào một cuộc chiến. Thí dụ, con thấy gia đình mình bị giết, con bị giết, con chịu nhiều đau khổ, con bị thương tích, hay bất cứ thảm trạng gì khác. Tất cả chúng ta đã từng hiện thân đều đã gánh chịu những chấn thương đó. Không ai chê trách con vì con đã tạo ra phàm linh đó. Thày không muốn con cảm thấy hổ thẹn vì đã có những phàm linh nội tại đó. Các thày đều đã từng có chúng khi các thày hiện thân trên trái đất. Các thày cũng đã thăng thiên và không còn đầu thai nữa vì các thày đã khắc phục được chúng, từng phàm linh một. Đây là lý do: “Điều một người làm được, tất cả mọi người đều làm được”. Các thày đã làm được. Các thày biết là con làm được, và các thày chỉ hướng dẫn con qua hành trình đó – từng phàm linh một.

6.8. Làm sao khắc phục phàm linh phản hòa bình

Phàm linh mà thày muốn con giải quyết lúc này là phàm linh cho rằng con không thể bình an vì điều kiện này hay điều kiện kia có mặt trên trái đất và đáng lẽ nó không được có mặt. Thày muốn con bắt đầu tách mình ra khỏi phàm linh và nhận ra đây là một khuôn nếp phản ứng và nó không phải là phản ứng của con. Nó không phải là một điều con tin. Niềm tin này đã được lập trình vào phàm linh nội tại. Sau đó, con cần nhận ra là phàm linh nội tại sẽ không bao giờ vượt được ra ngoài niềm tin đã tạo ra nó.

Có đệ tử tâm linh (và dĩ nhiên, họ đang ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày là nơi Tia thứ Sáu phối hợp với Tia thứ Hai của minh triết) nghĩ rằng họ có thể lý luận với tự ngã của họ, với các phàm linh nội tại của họ, với các ngã tách biệt của họ. Họ nghĩ rằng họ có thể nhìn vào một phàm linh, thấy là nó dựa trên một niềm tin nào đó, và đưa ra một luận cứ. Phàm linh sẽ đột nhiên thấy ra là nó sai và do đó, nó tan biến đi.

Điều này sẽ không xảy ra. Phàm linh sẽ không bao giờ thấy lập trình của nó có gì sai. Đối với phàm linh ảo tưởng tạo ra nó là sự thật tuyệt đối, không thể sai – và nó sẽ luôn luôn như thế. Điều con có thể làm là con tới điểm con hoàn toàn nhận ra ảo tưởng là ảo tưởng. Do đó, con cho phép phàm linh chết đi, con cho phép cái ngã tách biệt chết đi. Con cho nó tan biến đi vì con nhận ra: “Phàm linh này không phải là con. Nó đã từng là một phần của con, nhưng con không muốn kéo nó theo con thêm nữa. Con muốn buông bỏ nó.”

Đây là toàn bộ tiến trình tu tập trên con đường tâm linh. Thày biết là một số học viên sẽ cảm thấy thất vọng. Một số học viên đã nhận được thông điệp này trước đây vì các Thượng sư khác có đề cập đến một cách ít hay nhiều thẳng thắn. Một số học viên tới tầng này của khóa nhập thất của thày và chưa hoàn toàn thể nhập điều này. Khi họ phải đối mặt với sự thực này ở tầng ê-the thì họ cảm thấy thất vọng. Con cần nhận ra điều mà các thày đã luôn luôn nói, là khi con tham gia vào khóa học này con đi tới các trung tâm nhập thất của các Thượng sư vào ban đêm trong thể bản sắc của con. Điều con cần nhận ra là khi con tới khóa nhập thất trong thể bản sắc, con lãnh hội bài học, các sáng ngộ dễ dàng hơn nhiều khi so sánh với khi con ở trong tâm ý thức.

Điều thường xảy ra là học viên thấu hiểu ở tầng bản sắc, nhưng có sự chống kháng, thí dụ, ở thể cảm xúc hay thể tư tưởng, ngăn chặn họ hiểu ở tầng tâm ý thức. Ta có thể nói là các quyển sách, các bài truyền đọc và các bài thỉnh chỉ có một mục đích, đó là giúp con thấu hiểu ở tầng vật lý, ở tầng tâm ý thức những gì con đã hiểu ở tầng bản sắc để nó thấm xuống tâm ý thức của con. Do đó, con thể nhập nó, con hoàn toàn chấp nhận nó. Lúc đó, con có thể một cách ý thức nhìn thấu ảo tưởng, buông bỏ phàm linh, buông bỏ cái ngã tách biệt, và do đó, con có một thái độ cao hơn về cuộc sống.

Điều thày mong đạt được trong bài giảng thứ hai này là giúp con nhận ra con có một cơ chế chống kháng việc con hiện thân trên trái đất vì con cho rằng trái đất hay một số điều kiện nào đó trên trái đất đang hạn chế sự tăng triển tâm linh của con. Thày mong giúp con chuyển vọt tâm thức để thấy mọi điều kiện trên trái đất như cơ hội cho con vượt qua phàm linh nội tại đó, cơ chế nội tại đó, khuôn nếp phản ứng đó.

6.9 An bình với việc hiện diện trên trái đất

Khi con làm được điều này ở tầng tâm ý thức, thì con thật sự bình an với việc con đang ở đây trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, thày biết rất rõ đời sống trên trái đất rất khó khăn. Con yêu dấu, một lần nữa, các thày không chỉ trích. Thày biết là có rất nhiều điều kiện trên trái đất lôi kéo con để khiến con phản ứng lại chúng. Thày biết là ngưng phản ứng rất khó. Thày cũng biết là thày không muốn con sống phần còn lại của kiếp sống này mà cảm thấy bực bội, cảm thấy mình không muốn ở đây, cảm thấy mình không muốn gia nhập cuộc sống hay con đường tu tâm linh. Thày muốn giúp con vươn lên trên phàm linh nội tại đang chống lại việc con đang sống trên trái đất để con cảm thấy bình an sống ở đây.

Con yêu dấu, nếu con đứng lui lại trong tâm ý thức, như con đã làm dễ dàng trong thể bản sắc, và nhìn trái đất với tầm nhìn rộng lớn hơn, với tầm nhìn toàn vũ, thì con có thể nhận ra là dù trái đất là một hành tinh tối đen, dày đặc và khó khăn, nhưng nó cũng là một cơ hội tăng triển lớn lao. Những người trong các con đang ở đây và đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, các con có tiềm năng tăng triển lớn lao trong quãng đời còn lại. Để thực hiện tiềm năng này, con cần vượt lên trên phàm linh nội tại đang khiến con chống kháng việc con sống ở đây. Con đã chọn tới đây, và nếu con là một cư dân nguyên thủy, con đã chọn ở đây, con đã chọn ở lại đây. Trong nhiều trường hợp, các con đã chọn lựa như vậy vì con muốn nâng trái đất lên. Con có thấy chăng, vì đây là chọn lựa của con, sự việc con ở đây không phải là một sự trừng phạt. Việc con ở đây không phải là một sự bất công. Nó thực sự là một cơ hội mà con đã chọn vì con thấy đây là cơ hội tăng triển cho riêng cá nhân con – đây là cơ hội tốt nhất con có thể có được dựa trên tầng mức tăng triển tâm linh và toàn vũ hiện nay của con.

Nếu con có thể nhìn một cách ý thức vào dòng sống của con như con có thể nhìn ở cõi bản sắc (và dĩ nhiên là con có thể, nếu con sẵn sàng bước ra ngoài ý niệm bản sắc bình thường của con) thì con có thể hoàn toàn bình an khi con nhận ra con đã chọn hiện thân trong những điều kiện đặc thù của con vì chúng là cơ hội tối đa cho sự tăng triển của riêng cá nhân con.

6.10. Tăng triển cá nhân và phụng sự

Thày biết là có học viên ở tầng này sẽ nói: “Nhưng có phải chăng là mục đích của con đường tâm linh là khắc phục lòng vị kỷ? Có phải chăng là khi con đi xuống những tầng tâm thức thấp nhất trên trái đất, con càng đi xuống sâu thì con người càng ích kỷ và chỉ để ý đến tự ngã mình? Do đó, có phải chăng là có lúc trên con đường tâm linh chúng con cần chú tâm vào phụng sự một đại nghĩa cao hơn thay vì chỉ lo cho riêng mình?” Có học viên cảm thấy là thày dạy phải chú tâm vào chính họ nhiều đến độ (cũng có cả học viên nghĩ như vậy về toàn thể khóa học này và về giáo lý chân sư thăng thiên nói chung) họ bị ngăn cản không phụng sự được. Con được dạy phải chú tâm vào sự phát triển tâm linh của con, sự phát triển của riêng cá nhân con thay vì phụng sự.

Thày đã nói gì trong bài giảng trước của thày? Con không thể thực sự phụng sự trái đất bằng cách làm. Đây là điều những người sống ở Trung đông đã làm suốt mấy ngàn năm qua. Họ nghĩ rằng: “Nguyên do của chiến tranh là những người kia, và nếu mình có thể tiêu diệt họ, thì sẽ có hòa bình trên trái đất.” Họ cố gắng làm, làm và tất cả những gì họ làm là tạo thêm nghiệp, thêm xung đột. Cách duy nhất để nâng hành tinh lên trên một biểu hiện nào đó, tỷ dụ như chiến tranh, là nâng cao tâm thức tập thể cho đến lúc đủ số người thấy sự dối trá đằng sau chiến tranh và thăng vượt nó.

Con yêu dấu, làm sao con nâng tâm thức tập thể? Con có thể đóng góp vào tiến trình này bằng cách thức tỉnh con người, cho họ biết về con đường tâm linh, hay về các dối trá, khai ngộ và sự thực. Con yêu dấu, cách chủ yếu mà riêng con có thể dùng để nâng cao tâm thức tập thể là nâng cao tâm thức của chính mình. Khi con đang hiện thân trên trái đất, con thuộc về tâm thức tập thể của trái đất. Con càng nâng cao tâm thức của mình thì con càng nâng cao tâm thức tập thể. Đây là điều tất nhiên, con yêu dấu. Nếu con nhìn một cách triệt để, con có thể nói là nếu con sống cả một kiếp người chỉ chú tâm một trăm phần trăm vào việc nâng cao tâm thức của mình, và không bao giờ, dù chỉ một lần tìm cách sửa đổi tâm thức của một người khác, thì con đã có đóng góp tối đa vào việc nâng cao tâm thức tập thể.

Tuy nhiên, đa số các con không có nhiệm vụ ngồi thiền trong một hang động trong Hy mã lạp sơn. Nhiệm vụ của con là sống một đời sống tích cực trong xã hội. Có nghĩa là, đối với con, cơ hội tối ưu là một tương tác qua đó con nâng tâm thức của mình đồng thời tương tác với người khác. Dù con có trực tiếp nói với họ về giáo lý chân sư thăng thiên hay chân lý cao hơn hay không, con vẫn cho họ một tấm gương thế nào là sống cuộc đời tâm linh. Đối với con, đây là một tương tác, nhưng con nên hiểu tương tác này là một dòng chảy hình số tám. Làm sao con có thể giúp những người kia nhìn ra sự thật nếu con chưa thấy sự thật? Có một sự trao đổi qua đó con nâng cao tâm thức của mình, sau đó con giúp người khác, sau đó con nâng tâm thức mình thêm nữa và con giúp người khác vượt qua một ảo tưởng khác.

6.11. Nâng cao tâm thức và lan truyền chân lý

Nếu con nhìn vào các phòng trào tâm linh, tôn giáo, chính trị hay từ thiện, con thấy cách họ hoạt động dựa vào ý tưởng sau đây: “Chúng tôi có chân lý, và nếu tất cả mọi người khác có thể thấy chân lý như chúng tôi thấy, thì hành tinh sẽ thay đổi.” Quan niệm này dựa vào một ý niệm đường thẳng, vỏ ngoài của chân lý qua đó con nghĩ rằng nếu con đi và cải đạo người khác để họ tin vào hệ thống niềm tin của con, nếu con thuyết phục được họ theo chân lý của con, thì lúc đó con đã thay đổi được tâm thức tập thể. Con yêu dấu, thay đổi tâm thức tập thể không phải là chuyện cho con người một hiểu biết trí năng. Một hiểu biết trí năng là một phần trong việc thay đổi tâm thức tập thể, nhưng nó không phải là phần chính vì con cũng cần thay đổi thể cảm xúc và thể bản sắc của con người.

Làm sao con làm được việc này? Có rất nhiều thí dụ trên thế giới của những người đi làm việc truyền đạo, đã gia nhập thánh chiến để cải đạo người khác (dù đây là một tôn giáo, hay quan niệm khoa học duy vật, hay bất cứ điều gì khác), và họ cố gắng làm điều này bằng tâm đường thẳng, trí thức, phân tích. Họ nghĩ rằng nếu họ thuyết phục được người khác tin vào một chân lý, thì thế giới đã có tiến bộ.

Trừ phi con đã thể nhập chân lý đó trong cả bốn thể phàm, con không thực sự có thể giúp nâng người khác lên cao hơn, con không thực sự giúp nâng tâm thức tập thể lên. Thày cần con nhận ra là trong phạm vi công việc phụng sự của con, con cần nâng tâm thức mình lên trong cả bốn cõi. Con cần khắc phục các phàm linh, và do đó, con cần vượt qua ảo tưởng là công việc phụng sự của con tùy thuộc vào việc thay đổi người khác. Công việc phụng sự của con không tùy thuộc vào thay đổi người khác; công việc phụng sự của con tùy thuộc việc nâng cao tâm thức của con – thay đổi chính con.

6.12. Thay đổi thế giới mà không thay đổi chính mình

Có một ảo tưởng vi tế trong giới các người tâm linh là con có thể thay đổi thế giới mà không thay đổi chính mình bằng cách đơn giản thay đổi người khác hay qua cách đọc chú, đọc thỉnh hay bất kỳ phương tiện tâm linh nào khác. Nhưng thực sự vấn đề là, trên hết, con phải thay đổi tâm thức của mình, nâng cao tâm thức của mình.

Cũng có một ảo tưởng khác cho rằng con không thể phụng sự thực sự nếu con chú tâm quá nhiều vào chính mình. Thày muốn con tiến lên một bước và nhận ra là có khác biệt cơ bản giữa việc chú tâm vào tăng triển cá nhân bằng cách khắc phục những dính mắc và phàm linh nội tại, và chú tâm tôn vinh tự ngã mà con thấy nơi các người ở dưới tầng tâm thức 48. Con đã tiến xa hơn tầng 48. Do đó, con không ích kỷ như những người kia. Con không chú tâm vào chính mình theo kiểu tôn vinh tự ngã. Có thể là (nếu con chưa đạt khai ngộ ở tầng 96 và tiến về các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô) con sẽ thoái hóa trở lại tôn vinh tự ngã qua ham muốn nâng cao mình lên. Đây chính là lý do vì sao thày cho con các hiểu biết này vì một trong những cách người tâm linh bị lôi kéo vào cạm bẫy đó là qua ảo tưởng họ cần phải thay đổi điều gì đó bên ngoài chính họ. Họ nghĩ rằng thay đổi người khác quan trọng đến độ họ có thể bỏ qua bên tiến bộ tâm linh của họ, họ không cần xem xét chính mình, và họ có thể chú tâm vào việc thay đổi người khác. Có những người đã bị lôi kéo vào cạm bẫy đó cho tới tầng 96, và sau đó, họ lại đi trở xuống chân đồi.

Con cần suy ngẫm những ý kiến này. Thày biết là thày đã cho con nhiều chất liệu trong bài giảng này, nhưng thày hy vọng là con nhận ra rằng các khai ngộ sẽ không dễ dàng hơn khi con đi lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ cần suy ngẫm nhiều điều hơn nữa, hay như theo lối nói bình dân, con cần lấy tâm bao chung quanh nhiều vấn đề nữa. Nhưng thực ra thì con không lấy tâm bao quanh vấn đề, mà thực sự con phải tháo gỡ tâm ra, vì chính các phàm linh nội tại đã khiến tâm con bị bao chặt chung quanh một niềm tin khiến con không thể đứng lui lại và nhận ra nó là ảo tưởng. Con nghĩ rằng nó là một chân lý tuyệt đối hay là một điều kiện không thể thay đổi được.

Con yêu dấu, không có điều kiện nào trên trái đất mà tối hậu không thay đổi được. Lẽ dĩ nhiên, có một số điều kiện mà con không thay đổi được ngay lúc này. Nhưng không có điều kiện nào trên trái đất ngăn cản được con thay đổi chính mình, và đó là chân lý và hiểu biết mà con cần phải thấu hiểu với tâm ý thức ở tầng này.

Sau đó, con cần quyết định là con sẵn sàng thay đổi chính mình, con sẵn sàng nhìn vào bất cứ điều kiện nào khiến con bực bội việc con đang hiện thân trên trái đất. Con sẽ đi tìm ảo tưởng và con sẽ tách ra khỏi ảo tưởng và cho phép con cảm thấy: “Vâng, tôi đang ở đây ngay bây giờ vì tôi muốn ở đây. Tôi muốn nâng tâm thức lên cao hơn và tôi vươn lên cao hơn bằng cách thăng vượt điều kiện đặc thù mà tôi đang đối mặt ngay bây giờ.”

Một khi con thấy điều kiện từ bên ngoài, một khi con tách mình ra khỏi nó và nhận ra nó không phải là điều kiện của con (nó chỉ là điều kiện của một phàm linh nội tại), thì con yêu dấu, con được tự do. Con cảm thấy bình an là chính mình và con bình an hiện thân ở đây. Thày thực sự mong muốn cho con an bình đó, vì thày là Thượng sự của Tia thứ Sáu của An bình.

Làm sao sống mà không tạo nghiệp

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu. Con nay đang ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày bên trên nước Ả Rập Xê-út. Khi các học viên đến khóa nhập thất của thày, việc đầu tiên mà thày làm là tập họp họ vào một căn phòng và yêu cầu họ nói lên những gì họ chờ đợi từ khóa nhập thất. Con chờ đợi gì khi con tới Tia thứ Sáu? Con chờ đợi được khai ngộ điều gì?

Một số học viên, khi nói về các chờ mong của mình, nói đến phụng sự. Lẽ đương nhiên là tất cả học viên biết là Tia thứ Sáu theo truyền thống là tia của an bình và phụng sự. Nhiều học viên khi đến đây cảm thấy là họ đã đi một thời gian dài trên con đương tu dưới năm vị Thượng sư trước và họ đã đạt được nhiều tiến bộ, nên bây giờ đã tới lúc họ chú tâm vào nghĩa vụ mà họ đến đây để đóng góp, món quà mà họ muốn dâng hiến trái đất này. Họ cần làm điều gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ để giúp nâng cao tâm thức nhân loại?

Con yêu dấu, chờ mong này hoàn toàn hiểu được. Như mọi khi, các thày không trách cứ, các thày không lên án. Nhưng thày phải nói với con là nhiều học viên tới đây với chờ mong không thiết thực về các khai ngộ của Tia thứ Sáu. Không phải là Tia thứ Sáu không quan tâm đến việc phụng sự. Lẽ tự nhiên là phụng sự là một phần các khai ngộ của Tia thứ Sáu, tuy nhiên, con làm sao phụng sự một cách chân chính? Phụng sự chân chính gì? Phụng sự chân chính nâng hành tinh vượt lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên. Làm sao con có thể góp phần vào việc nâng hành tinh lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên, nếu con không bình an bên trong con?

Do đó có nhiều học viên cảm thấy rằng, dựa trên những gì họ đã học với năm vị Thượng sư trước, họ đã sẵn sàng để làm gì đó. Họ sẵn sàng để năng động hơn, hướng ngoại hơn. Họ sẵn sàng để đóng góp phần của mình, cũng có thể là làm điều gì quan trọng. Do đó, họ khá thất vọng khi nghe thấy trọng tâm của khóa nhập thất của thày là đạt được an bình nội tâm.

Thày thấy rất rõ trong hào quang của họ là họ có một sự mâu thuẫn, có cảm giác bị kéo bởi hai xung lực khác biệt. Một đằng họ tự nhiên muốn nghe điều thày giảng vì họ biết thày là người sẽ khai ngộ họ. Nhưng mặt khác, họ vẫn muốn làm cái gì đó. Họ cảm thấy rằng, với những kinh nghiệm, những khai ngộ mà họ đã đạt được trên năm tia, họ quả thực đã sẵn sàng bước vào phụng sự trong lãnh vực nào đó. Lẽ dĩ nhiên là con đã sẵn sàng phụng sự, nhưng câu hỏi là: Con có một cái nhìn thiết thực về phụng sự và hình thức phụng sự cao nhất là gì chăng?

4.1. Lý do không đường thẳng của xung đột con người

Để các học viên bắt đầu chất vấn quan niệm phụng sự của họ, điều thuận lợi là khóa nhập thất của thày tọa lạc trên Ả Rập Xê-út. Lẽ tự nhiên, vì đây là một địa điểm nhập thất trên cõi ê-the nên vị trí địa dư không quan trọng, nhưng đây là một dịp để khiến học viên nhìn vào những gì đang xảy ra tại Trung đông, và đã xảy ra trong vùng này từ mấy ngàn năm nay. Các học viên có thể thấy dễ dàng là trong vùng này có xung đột, và đây là một xung đột đã kéo dài liên tục.

Thày mời học viên nhìn vào vấn đề này, và thày khiến họ làm việc trong nhóm nhỏ để tìm ra nguyên do của sự xung đột. Họ bắt đầu với tình hình hiện tại, xem xét những xung đột đang có, và tìm cách xem xét bối cảnh lịch sử, nguyên do lịch sử của tình hình hiện tại. Khi họ đi ngược dòng lịch sử, họ khám phá nhiều xung đột khác, nhiều xung đột mới. Họ bắt đầu thấy là xung đột dẫn tới xung đột lại dẫn tới xung đột. Khi dọ lần dây chuỗi “xung đột tạo ra xung đột” trở về thời lịch sử sơ khai, họ bắt đầu nhận ra là nếu ta muốn hiểu tại sao có xung đột ở Trung đông, ta không thể chỉ xem xét những nguyên do bề ngoài của sự xung đột. Con không thể xem xét tình hình Trung đông – và đúng hơn là ở mọi nơi trên trái đất – và chỉ nhìn vào các điều kiện bề ngoài. Con không thể nhìn việc nhóm người này đã tấn công nhóm người kia nhiều năm trước, và đó là lý do nhóm thứ hai tìm cách trả thù hay bảo vệ chính họ. Con không thể nhìn những diễn biến bề ngoài và qua đó tìm ra nguyên nhân xung đột.

Các học viên mau chóng nhận ra là ta có thể đi trở ngược dòng lịch sử và thấy một hoàn cảnh bên ngoài đã tạo ra một xung đột đã khiến bạo lực bùng nổ. Bạo lực này, bất kỳ nó biểu hiện ra sao, tạo ra một xung đột mới, một mức độ hận thù mới, tạo ra khung cảnh cho một xung đột mới. Con có thể đi ngược trở về cả mấy ngàn năm như vậy. Ngay cả nếu con có tìm được nguyên nhân nguyên thủy, hành động nguyên thủy đã tạo ra sự xung đột đầu tiên, thì thực sự không thể nói là hành động nguyên thủy này (đã xảy ra nhiều ngàn năm trước đây) là nguyên nhân của xung đột hiện nay. Mặt khác, cũng không thể nói là lần bạo động hay xung đột trước là nguyên do của tình hình hiện nay. Điều mà học viên bắt đầu nhận ra là quan niệm truyền thống, đường thẳng, về nguyên nhân và hậu quả đơn giản là không thể áp dụng vào tình hình Trung đông, và cũng không thể áp dụng vào xung đột con người nói chung.

Chắc hẳn là các học viên biết về sa nhân và đã học và nghiên cứu giáo lý của các thày về sa nhân. Con biết là sa nhân đã sa ngã trong các bầu cõi trước, và họ đem ý đồ của họ vào bầu cõi này. Con biết là chính sa nhân đã đem chiến tranh vào hành tinh này và đã tạo ra đa số các xung đột trên trái đất. Điều mà học viên bắt đầu nhận ra, khi họ tìm về nguồn gốc của xung đột tại Trung đông, là ta không thể nói là sa nhân là nguyên nhân duy nhất của sự xung đột. Họ đúng là nguyên nhân bề ngoài, nhưng họ không phải là nguyên nhân bên trong. Điều mà học viên mau chóng nhận ra là nếu ta muốn hiểu nguyên nhân xung đột ở Trung đông (và ngay cả trên toàn thế giới) thì ta không thể chỉ xem xét các biến cố bề ngoài và cái gọi là nguyên nhân bề ngoài. Con phải nhìn vào bên trong. Con cần nhìn vào tâm lý những người trong cuộc và tại sao họ phản ứng như họ đã làm.

Lẽ dĩ nhiên, với đa số học viên điều này không mới lạ. Điều mới lạ là họ bắt đầu thấy viễn cảnh lịch sử rộng lớn mà họ bỗng nhiên thấy được ở khóa nhập thất của thày vì họ được đọc kho dữ liệu Akasha và có thể thấy những diễn tiến không được lịch sử ghi chép. Thày cho học viên thời gian để làm việc trong nhóm nhỏ và nhận ra các điều này, sau đó tất cả học viên mang ra thảo luận chung. Sau đó, thày đợi. Thày để cho cuộc thảo luận tiếp diễn. Nếu các học viên chưa thấy ra những bài học mà thày tìm cách giúp họ nhận ra, thì họ trở lại nghiên cứu tài liệu lịch sử. Sau một thời gian, ánh sáng bắt đầu lóe lên trong tâm học viên – bình thường là bắt đầu với một người, sau một người nữa, và càng lúc càng nhiều, cho tới khi toàn thể học viên thấy ra – là nguyên nhân thực sự của xung đột là một trạng thái tâm. Trạng thái tâm này không thể đem lại hòa bình. Điều rất quan trọng là con cần hiểu thấu điều này bằng tâm ý thức của con – và đó là lý do tại sao thày nêu lên ở đây để con hội nhập vào tâm ý thức những hiểu biết mà con gặt hái được ở khóa nhập thất của thày.

4.2. Vì sao ta không thể ngưng chiến tranh bằng lý trí

Con yêu dấu, chắc con cũng thấy là có một tâm thức trong thế giới biết rằng chiến tranh là không đúng, chiến tranh đúng lý không được có mặt, chiến tranh phải được chấm dứt. Con thấy rất, rất nhiều người thiện tâm trên trái đất mong muốn chấm dứt chiến tranh. Trong số đó, có những nhà triết học, có nghệ sĩ, có nhà trí thức, có chính trị gia. Họ có mặt trong nhiều lãnh vực xã hội, trong đó có những tổ chức quốc tế, từ các tôn giáo đến Liên hiệp quốc, tổ chức chính trị, và nhiều loại hội từ thiện. Có hàng triệu người biết là chiến tranh phải chấm dứt. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng ta có thể dùng lý trí suy luận với những người đang tham gia vào chiến tranh và xung đột.

Con có thể thấy là, ngay cả trong vài thập niên gần đây, thỉnh thoảng có một quốc gia hay một tổ chức quyết định khởi sự một nỗ lực để, tỷ dụ, đem người Do thái và người Pa-le-xtin (Palestine) ngồi vào bàn hội nghị để họ thương thảo ngừng xung đột. Nhưng, như các thày đã nói trước đây, chuyện này sẽ không xảy ra. Người Do thái sẽ không bao giờ làm hòa với người Pa-le-xtin hay các người Ả-rập khác trong vùng. Lý do là vì người Do thái đã định nghĩa bản sắc dân tộc của họ và người Ả-rập đã định nghĩa bản sắc dân tộc của họ theo một cách nhìn chỉ có thể dẫn tới xung đột. Điều cần thiết là người Do thái gia tốc tới một quan niệm bản sắc dân tộc mới, và người Ả-rập cũng gia tốc tới một quan niệm bản sắc dân tộc mới hay quan niệm bản sắc nhóm mới. Lúc đó, có thể là các bản sắc mới này sẽ tìm ra cách sống chung hòa bình. Khi quan niệm bản sắc của các nhóm người còn được quy định dựa trên xung đột, thì hòa bình không thể xảy ra. Rất, rất nhiều người thiện tâm trên trái đất nghĩ rằng nếu họ tìm ra được lập luận đúng, nếu họ tìm ra được sự khích lệ thích hợp, thì sẽ có thương thảo xây dựng và một thỏa hiệp hòa bình có thể xảy ra.

Đệ tử chân sư thăng thiên dễ dàng thấy điều này vì các con đã biết về sa nhân, tự ngã, phin lọc nhận thức và nhiều đề tài khác. Điều thày muốn làm là giúp các học viên tới khóa nhập thất của thày có một hiểu biết thâm sâu hơn về vấn đề. Các con hãy để thày giảng sơ về luật nhân quả để minh họa.

4.3. Luật nhân quả thực sự vận hành như thế nào

Lẽ đương nhiên con quen thuộc với khái niệm nghiệp quả, nhưng con có thực sự quen thuộc với cách nó vận hành chăng? Bên phương Đông, chữ nghiệp nguyên thủy có nghĩa là hành động. Con có một hành động, và nó có một hậu quả. Hậu quả đó là nghiệp. Nó tạo bối cảnh cho hoàn cảnh sau đó. Khi con có hành động trong hoàn cảnh mới đó, con tạo ra nghiệp mới, và nghiệp này tạo bối cảnh cho hoàn cảnh kế tiếp, và cứ tiếp nối như vậy trong bánh xe luân hồi, Biển Luân hồi Sinh tử, cỗ máy chạy kéo con người đi trong kiếp sống con người.

Điều học viên có thể mau chóng nhận ra là ở Trung đông, con người đã tạo nghiệp. Các nhóm người đã tạo nghiệp với nhau từ mấy ngàn năm. Thày có thể cho thấy trên một màn ảnh một thí dụ tình trạng xung đột giữa hai nhóm người. Thày cho thấy ở tầng năng lượng là mối xung đột, nhất là khi nó trở thành bạo lực vật lý, đã tạo nên những tỳ vết năng lượng, những khuôn đúc năng lượng, trong các thể và tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Những khuôn đúc năng lượng này một phần ở trong hào quang (trường năng lượng) của những người liên hệ. Nó cũng ở trong hào quang của nhóm, trong tâm thức của nhóm. Nó cũng có phần dính liền với ngay vị trí địa dư.

Điều mà học viên thấy là con người phản ứng lại tình hình nguyên thủy và tạo ra một khuôn đúc năng lượng. Họ có thể thấy là khuôn đúc này kéo dài, và khi họ tái sanh lần tới, họ vẫn giữ khuôn đúc này trong các thể phàm của họ. Điều này khiến họ hòa điệu với – hay bị ma nhập bởi – khuôn đúc tập thể. Cách họ phản ứng lại tình hình nguyên thủy tạo ra một khuôn đúc đã giới hạn khả năng chọn lựa phản ứng lại tình hình sau, dù tình hình này xảy ra trong cùng kiếp sống hay trong một kiếp tới.

Vì các người liên hệ đã phản ứng bằng bạo lực trước đó, nhận thức của họ trở nên méo mó, bị pha màu, bị giới hạn bởi phản ứng đó. Khi một tình hình xung đột mới xảy ra, họ không thể thấy được một cách đáp ứng hòa bình. Họ chỉ có thể thấy những cách đáp ứng sẽ gia tốc những gì họ đã làm trước kia. Họ có khuynh hướng phản ứng bằng bạo lực, họ dễ dàng phản ứng bằng bạo lực.

Các học viên có thể thấy những người đó đã tạo ta các vết nghiệp quả mà họ mang theo họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Học viên có thể thấy họ xây dựng các khuôn đúc tập thể càng ngày càng mạnh, và do đó có thể dễ dàng trấn áp tâm của những cá nhân sinh ra trong tập thể đó. Học viên cũng có thể thấy là một nhóm người tham gia vào một cuộc xung đột với một nhóm người khác, và khi họ chết, một số đầu thai vào nhóm kia trong kiếp sống tới. Trong kiếp này con là người Do thái, trong kiếp tới con là người Ả-rập, hay ngược lại. Học viên có thể thấy là tuy các người liên hệ đầu thai vào nhóm khác, nhưng họ vẫn mang theo khuôn đúc phản ứng bằng bạo lực và thù hận. Do đó, ở trong nhóm nào không phải là điều quan trọng. Họ vẫn phản ứng theo cùng một kiểu.

Học viên cũng thấy rõ là có một khác biệt căn bản giữa việc thù hận một nhóm người khác và chuyển sang hành vi bạo lực. Học viên thấy rõ là khi con có hành động vật lý, con làm một hành động ở tầng vật lý, và rõ ràng là con đang làm một cái gì đó. Nó cũng có hậu quả trầm trọng hơn. Tuy nhiên, học viên cũng mau chóng thấy là khi con phóng chiếu tới một nhóm người khác một cảm giác thù hận mạnh mẽ, thì con làm một cái gì đó ở tầng xúc cảm. Nếu con có tư tưởng mạnh mẽ là tại sao một nhóm người khác xấu và họ đã làm gì cho nhóm của con trong quá khứ, thì con làm một cái gì đó ở tầng tư tưởng. Nếu con có một ý niệm bản sắc rất rõ ràng là con hơn nhóm người kia dựa trên bất cứ tiêu chuẩn nào mà con đặt ra, thì con làm một cái gì đó ở tầng bản sắc. Học viên có thể thấy là con người phóng chiếu năng lượng ra với cả bốn thể phàm của họ, và tất cả các điều đó là điều họ làm, đều là hành động. Tất cả đều tạo ra những khuôn đúc nghiệp quả sẽ giới hạn nhận thức của con người, giới hạn quyền tự do chọn lựa hành động của họ.

4.4. Làm sao tránh tạo nghiệp

Học viên mau chóng nhận ra là nếu muốn có hòa bình ở Trung đông, người dân phải ngưng làm. Họ cần ngưng những hành động tạo ra nghiệp. Bây giờ, điều này đối với một số học viên là một điều bí ẩn. Đa số học viên ở mức độ này có thể mau chóng tìm ra giải đáp, vì lẽ tự nhiên, điều này không có nghĩa là con không làm gì cả. Các thày không nói là để tránh tạo nghiệp, con không thể có một cuộc sống năng hoạt. Các thày không nói là con phải về ở ẩn trong hang động của núi Hy Mã Lạp Sơn và thiền về Thượng đế 24 tiếng mỗi ngày.

Điều con cần nhận ra, và học viên có thể dễ dàng nhận ra điều này, là con không thể hành động thông qua trạng thái tâm thức nhị nguyên, thông qua tâm dựa trên sợ hãi. Do đó, học viên thấy rõ ràng là Giê-su tìm cách chỉ con đường phá vỡ những khuôn nếp nghiệp quả, những khuôn đúc nghiệp quả, bằng cách nâng mình cao hơn phản ứng dựa trên sợ hãi. “Hãy thương kẻ thù của con. Hãy chìa má bên kia. Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình.” Đây là những lời hướng dẫn chỉ cách ngưng hành động tạo nghiệp ở tầng vật lý. Những lời hướng dẫn này giúp con người ngưng hành động ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc.

Giê-su dạy con người – một cách gián tiếp – là họ, tỷ dụ, không phải là người Do thái hay người Ả-rập. Họ là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su dạy họ cách vượt qua giận dữ và thù hận. Giê-su dạy họ cách vượt qua những hành động tạo nghiệp. Ngay cả những giáo lý được trao truyền qua Mohammed (ít ra là giáo lý trong sáng, nguyên thủy) cũng có những thành phần này. Nếu những người nhận những giáo lý này đã làm theo, thì họ cũng đã giúp ngưng các vòng xoắn nghiệp quả. Con là đệ tử chân sư thăng thiên có thể mau chóng nhận ra là con người cần ngưng hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi nếu muốn có hòa bình.

Khi học viên đã trải qua giai đoạn (bất kể cần bao nhiêu thời gian) thấy nguyên nhân tình hình Trung đông, thì thày, dĩ nhiên, làm việc mà các chân sư thăng thiên đều làm. Thày thảo luận với học viên những hiểu biết sâu sắc mà họ đã nhận ra qua tình hình Trung đông, chúng cũng áp dụng ra sao cho mọi người khác, và thày nói: “Thày không cho các con nghiên cứu vấn đề này để các con đi tái lập hòa bình ở Trung đông. Thày muốn con nghiên cứu vấn đề này vì thày muốn con nhận ra là cơ chế mà con thấy áp dụng cho Trung đông cũng áp dụng cho chính con.”

4.5. Vượt qua bạo lực nơi các thể cao

Lẽ dĩ nhiên là đa số học viên đã ngừng không có hành động hung hãn nữa, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn ngưng không làm thông qua tâm thức nhị nguyên, thông qua các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Điều thày muốn học viên phải đối mặt là trước khi họ có thể tiến xa hơn tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, họ nhất định cần phải ngừng những hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi ở các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc. Con không thể đi quá tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày nếu con còn làm những hành động này. Một số học viên bị chấn động khi nghe thày nói vậy vì họ nghĩ là họ đã vượt qua những hành động này rồi. Ho nghĩ là họ đã vượt qua phần lớn các sự giận dữ, hung hãn và sợ hãi của họ, và họ không có hành động dựa trên sợ hãi, không phóng chiếu ra ngoài năng lượng dựa trên sợ hãi xuyên qua ba thể cao của họ.

Như thày có giảng trong một bài truyền đọc khác, thày có thể đưa học viên vào một căn phòng trong đó họ được niêm phong khỏi ảnh hưởng của thế giới và có thể tạo trong tâm hình ảnh của những cảnh huống bình an nhất. Sau đó, họ dần dần cảm thấy những thành phần phản bình an dâng lên trong tâm họ. Đây là một trải nghiệm rất hữu ích cho học viên vì họ thấy vẫn còn những điều mà họ chưa giải quyết. Dĩ nhiên, các thày có nguyên một bộ giáo lý, giáo lý thực của Giê-su, về tha thứ, chìa má bên kia, tha thứ vô điều kiện, và vì sao con cần tha thứ vô điều kiện để thực sự tha thứ. Điều quan trọng không phải là trừng phạt người khác, khiến họ thay đổi hay sống theo một số điều kiện. Con cần tha thứ vì đây là cách duy nhất để con có thể giải thoát mình khỏi hoàn cảnh. Con không quan tâm đến người khác, điều con quan tâm là con được giải thoát khỏi quá khứ và khuôn nếp phóng chiếu ra ngoài.

4.6. Cát lún của phản bình an

Khi học viên đã có đủ thì giờ để thấu hiểu các điều trên thì thày dẫn họ đi bước kế tiếp. Bước khai ngộ này thoạt trông có vẻ khắc nghiệt, nhìn từ góc độ tâm thức bình thường, lúc tỉnh dạy. Con biết là trên trái đất có một chất gọi là cát lún, và con cũng biết là có người bước vào một vũng cát lún và bị thiệt mạng vì họ cứ bị lún sâu mãi. Thày có ở khóa nhập thất của thày một chất tương tự. Khác biệt, dĩ nhiên, là con ở trong thể bản sắc. Con không cần thở dưỡng khí để sinh tồn do đó không thể bị chết khi làm thí nghiệm này.

Điều thày làm là thày để học viên vào một vũng cát lún ê-the và đơn giản để họ hoặc bơi hoặc chìm. Lẽ dĩ nhiên kết quả là đa số học viên bị chìm vào trong chất đó. Họ vẫn còn sống nhưng họ cảm thấy là họ đang lún xuống càng ngày càng sâu. Lý do vì sao họ bị lún là vì họ vùng vẫy chống lại cát lún. Họ vùng vẫy để không bị chìm.

Khi học viên còn vùng vẫy thì thày phải để họ vùng vẫy. Thày không thể giúp họ. Thày không thể giúp họ. Thày không thể giúp họ gì hết. Họ được phép tiếp tục vùng vẫy. Có nghĩa là có học viên chìm rất sâu vào cát lún. Họ bị cát lún hoàn toàn bao quanh. Họ cũng cảm thấy là họ càng chìm sâu thì động tác của họ càng bị giới hạn, họ càng không cục cựa được. Họ tiếp tục vùng vẫy cho tới khi họ tới điểm chịu thua. Họ bỏ cuộc. Họ nhận ra là vùng vẫy không đưa họ đến đâu hết.

Một số học viên tự họ nhận ra điều này, nhưng số khác thì đột nhiên nhớ là họ đang ở khóa nhập thất của Thượng sư Tia thứ Sáu. Họ đột nhiên có ý nghĩ: “Hay là thày Nada có thể giúp tôi?” Do đó, họ la lên: “Thày Nada, hãy giúp con!” Thày đương nhiên gửi họ một xung lực: “Ngưng vùng vẫy. Ngưng làm. Nằm thật yên.” Lúc đó, hầu hết học viên chợt tỉnh ngộ. Đây là một tỉnh ngộ khai phá, chấn động, quyết định.

Học viên nhận ra rằng chính vì họ vùng vẫy nên bị lún sâu. Khi họ nhận ra điều này, họ tức khắc nằm thật yên. Họ nhận ra rằng khi họ nằm thật yên thì họ không còn chìm nữa. Lúc đó, đa số học viên chưa trồi lên, nhưng họ đã ngừng chìm xuống. Họ nhận ra rằng nếu họ không vùng vẫy thì họ không lún xuống. Họ cũng nhận ra rằng nếu khi bắt đầu họ không vùng vẫy thì họ sẽ vẫn còn nổi trên mặt cát lún. Bây giờ họ nhận ra là họ đã chìm sâu vào cát lún, và làm sao họ có thể trở lên mặt cát?

Sau khi suy ngẫm điều này, một số tự mình tìm ra giải đáp, một số xin thày giúp. Một lần nữa thày nói (tuy họ ở trong thể bản sắc của họ): “Con đã ngừng vùng vẫy ở cấp tương đương với tầng vật lý. Con đã ngừng làm việc vật lý, nhưng con cũng cần ngừng làm ở tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Con cần phải giữ hành động, xúc cảm, tư tưởng và ý niệm bản sắc của con yên lặng. Con cần phải vào trạng thái trung hòa, tức là con chỉ quan sát. Con là nhận biết thuần khiết, chỉ quan sát mà không làm gì cả.” Khi họ đi vào trạng thái tâm này thì họ trải nghiêm là họ từ từ, nhưng chắc chắn, trồi lên mặt cát. Khi họ trồi ra khỏi mặt cát thì thày có mặt ở đó để đón họ. Lúc đó, thày gợi thêm cho họ một ý nữa. Thày nói: “Bãi cát lún này tượng trưng cho bốn tầng của vũ trụ vật chất là nơi con sống với bốn thể phàm của con. Thày muốn con đi qua bãi cát lún đó với tâm trung hòa. Thày muốn con đi qua mà không làm việc đi qua.”

Học viên thường cần một chút thời gian để thể nhập điều này. Nhưng không lâu sau, họ thấu hiểu. Họ nhận ra là trong thể bản sắc của họ, họ có thể di chuyển, lên xuống, tới lui, trong cát lún mà không làm, không vùng vẫy và do đó không bị lún sâu. Họ nhận ra là cát lún không phải là kẻ thù của họ, nó không phải là sự hạn chế, nó không có ý định tấn công họ. Do đó, họ có thể di chuyển xuyên qua cát lún một cách khác, là cách không tạo nghiệp khi di chuyển. Lẽ tự nhiên là khi học viên đã trải nghiệm bãi cát lún, thì họ đi ra khỏi chỗ đó. Thày họp với cả nhóm, và lúc đó học viên nhận ra là điều họ đã làm được trong bãi cát lún, họ cũng có thể bắt đầu làm được ở bốn tầng của vũ trụ vật chất, trong đó có tầng vật lý.

4.7. Làm mà không tạo nghiệp

Khai ngộ ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày là con bắt đầu suy ngẫm và nhận ra là con có thể sống trên hành tinh trái đất – dù trái đất dày đặc và đầy xung đột như hiện nay – một đời sống bình thường, năng động nhưng con không tạo nghiệp quả khi sống. Con không tạo ra những dấu vết năng lượng sẽ giới hạn những hành động và chọn lựa tương lai của con. Có nhiều học viên, tuy đã đi trên con đường tâm linh từ lâu và nghiên cứu nhiều giáo lý tâm linh, không bao giờ suy ngẫm điều này. Tỷ dụ, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên quá chú tâm vào việc quân bằng nghiệp quả bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tím nên nghĩ rằng yêu cầu chính để thăng thiên là thỉnh cầu đủ ánh sáng tím để quân bằng tất cả nghiệp quả. Họ đã không chú tâm đủ đến việc không tạo nghiệp ngoài việc nghĩ rằng, nếu họ không có hành động bạo hành vật lý thì sẽ không tạo nhiều nghiệp hơn là có thể quân bằng.

Ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, thày không quá quan tâm việc con quân bằng tất cả nghiệp quả và rời trái đất càng sớm càng tốt. Mục đích cao mà thày muốn đặt cho con là con ở lại trong thế gian nhưng con trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Con đi lại và hành động trong thế gian mà không tạo nghiệp cho mình. Do đó, có thể nói là khi con làm được điều này, ở lại thế gian hay thăng thiên không còn khác biệt gì nhiều đối với con.

Con hãy suy ngẫm việc này: con yêu dấu, thày biết rất rõ là tất cả đệ tử tâm linh không có cảm tình với những giới hạn và dày đặc của cõi vật lý và ngay cả bốn cõi của trái đất. Đối với tất cả các con, sống nơi đây không thoải mái. Các con có những phản ứng khác nhau, từ cảm thấy bị quấy nhiễu quá nặng tới cảm thấy khó chịu và bị giới hạn khi ở đây. Con yêu dấu, viễn kiến mà thày muốn cho con ở đây là con có thể vượt lên trên những cảm xúc này. Con có thể tới điểm con sống trong thế gian với tâm bình an vì con có thể đi lại trong thế gian này mà không tạo nghiệp. Điều này không có nghĩa là con không thể hành động. Có một số hành động con sẽ tự nhiên không làm, nhưng có một số hành động con có thể làm vì chúng không tạo nghiệp cho con vì con hành động từ một trạng thái tâm thức cao hơn.

Đối với đa số học viên tới tầng này, đây là một chuyển vọt tâm thức lớn. Thực sự, đây là một chuyển vọt lớn đến độ họ bình thường cần thời gian để suy ngẫm và hội nhập ý tưởng này. Thày không muốn con, ở tầng thứ nhất này của khóa nhập thất của thày, có được khả năng đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp. Đây là một trong những mục đích của toàn khóa nhập thất của thày. Ngay lúc này, thày muốn con suy ngẫm chuyện đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp là việc có thể làm được.

Vì thày biết đây là một ý tưởng rất lạ thường cần thời gian để hội nhập, thày muốn con bỏ ra nhiều thời giờ hơn cho bài giảng đầu này. Các thày có nói là con có thể dành chín ngày cho mỗi bài giảng. Con nghiên cứu bài giảng và con đọc bài thỉnh tương ứng mỗi ngày một lần trong vòng chín ngày. Cho bài giảng đầu này, thày muốn con dành cho nó 33 ngày vì nó là một chuyển vọt lạ thường cho đa số các con. Do đó con nên dành thì giờ để hội nhập điểm này. Thày biết là một số học viên sẽ cảm thấy thời gian này rất dài. Có học viên nghĩ là đã hiểu bài học rồi, vậy tại sao cần lặp đi lặp lại? Thày bảo đảm với con là thày có lý do, và lý do là khi con đọc bài thỉnh trong vòng 33 ngày, con sẽ hội nhập bài giảng và trong lọc ba thể cao của con khỏi mọi dấu vết của ý tưởng cần làm chuyện gì.

4.8. Cạm bẫy của làm

Con yêu dấu, con cần nhận ra là sa nhân không bỏ cuộc chỉ vì con tìm thấy con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên. Sa nhân không bỏ cuộc khi con khám phá ra khóa học này và quyết định tận tụy theo học hết khóa. Sa nhân sẽ tìm cách kéo con trật đường rày ở mỗi tầng cấp của con đường. Một trong những cách tinh tế họ dùng để làm con trật đường rày là họ nêu lên sự kiện con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có mặt ở đây để đem lại những thay đổi tích cực cho trái đất. Sau đó, họ tìm cách đổi màu câu chuyện, pha màu tâm của con với tâm thức rất cũ xưa cho rằng con phải làm một điều gì đó trên trái đất. Nói cách khác, suốt dòng lịch sử đã có nhiều học viên tâm linh đã hiểu thực tại tâm linh tới một mức nào đó. Họ đã thấy có nhiều chuyện không đúng trên trái đất cần phải thay đổi. Họ bị các sa nhân cám dỗ khiến họ tin rằng vai trò của họ là làm cái gì đó để thay đổi những biểu hiện mà họ cho là không đúng. Do đó, nhiều học viên đã lao mình vào một cuộc thánh chiến – ta có thể gọi là một chiến dịch – để triệt tiêu một vấn nạn nào đó.

Lẽ dĩ nhiên là có trường hợp một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là hành động và tham gia vào một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Nhưng không có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con hành động trong trạng thái tâm muốn làm, rồi hành động theo nhãn quan nhị nguyên dựa trên sợ hãi. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con với tầng tâm thức đó. Con cần nhận ra là sa nhân đã rất quỷ quyệt khi thiết lập ý tưởng là con cần làm.

Nếu con quan sát thế giới hiện nay, con thấy là có nhiều người đang tham gia, thí dụ, vào nỗ lực đem lại hòa bình, đã ở tầng tâm thức khiến họ có thể tiến xa hơn trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô. Họ bị ngăn chặn không tiến thêm được trên con đường tới quả vị Ki-tô (ít nhất là trong tâm ý thức của họ) vì họ quá chú tâm làm điều gì đó trong thế giới bên ngoài. Họ đang chú tâm làm điều gì đó với tầng mức viễn kiến, với mức nhận thức mà họ có hiện nay. Họ không mở tâm đón nhận khả năng nhận một viễn kiến cao hơn qua đó họ vẫn sẽ làm điều gì đó, nhưng sẽ làm dựa trên một khuôn khổ và nền tảng hoàn toàn khác. Điều họ làm sẽ khác đến độ họ không thể thấy nó lúc này.

Các thày có nói về sự kiện nhiều học viên tâm linh có ý niệm đúng đắn điều gì cần làm, nhưng lại không có viễn kiến rõ ràng làm như thế nào. Dĩ nhiên, lý do là vì nhiều học viên có cảm nhận là họ ở trên đời để làm chuyện gì đó trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, nhưng họ nghĩ là họ có thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng với tầng tâm thức và nhận thức hiện nay của họ.

4.9. Tìm một nhận thức cao hơn trước khi hành động

Điều thày muốn nói với con là con cần bước lui ra khỏi cách nhìn hiện nay của con về cuộc sống, về hành tinh, và chính mình. Thày biết là con đã làm điều này với thày Hilarion để thanh lọc viễn kiến của mình. Thày muốn dẫn con đi lên một tầng cao hơn bằng cách khiến con bước lui lại và nhận ra là con có thể làm điều gì đó trên trái đất, con có thể đi lại trong bốn tầng của vật chất mà không tạo nghiệp. Con yêu dấu, con sẽ không hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng nếu con tạo thêm nghiệp cho chính mình.

Thày biết là với một số trong chúng con, đây là một lời tuyên bố rất lạ thường vì con bị một kế gian khác của sa nhân cám dỗ, đó là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nói cách khác, có một đại nghĩa quan trọng đến độ ngay cả nếu con phải tạo đôi chút nghiệp, thì điều đó cần thiết (và đáng làm) để đạt được mục tiêu cuồng đại đó. Con yêu dấu, con thấy là toàn thể tâm thức cuồng đại do sa nhân tạo dựng ra và không liên quan gì tới mục tiêu của các chân sư thăng thiên.

Các chân sư thăng thiên đã không tạo ra đấu tranh cuồng đại. Mặc dù con có thể trở về các tổ chức chân sư thăng thiên trước và thấy rằng họ không thách thức quan niệm tranh đấu cuồng đại, nhưng thày nói với con đây là lúc – trên cả hai phương diện phát triển cá nhân và của hành tinh – vượt lên trên quan niệm này. Đã tới lúc vượt lên trên tranh đấu nhị nguyên và bỏ nó lại đằng sau. Đã tới lúc con nhận ra con có thể hiện thân trong thân vật lý, con có thể hành động và có một cuộc sống năng động, mà không cần làm thông qua tư duy cuồng đại, không cần làm với một xung lực nhị nguyên tạo nghiệp cho con.

Các thày có nói là các thày không chú tâm đạt được một kết quả vỏ ngoài đặc trưng nào đó trên hành tinh. Các thày chỉ chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể, nhưng đối với cá nhân con, chú tâm thật của các thày là nâng cao tâm thức của con. Ở tầng này của con đường tu của con, thày không quan tâm con có đạt được một mục tiêu vỏ ngoài trong thế giới này. Quan tâm ngay lúc này của thày là con đạt được khai ngộ ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày để con có thể tiến lên tầng thứ hai. Thày đã cho con mọi chìa khóa để đạt được khai ngộ này, và thày bảo đảm với con là, ở tầng ê-the, con sẽ không tiến lên khai ngộ thứ nhì nếu con không đạt được khai ngộ thứ nhất này.

Thày biết là thày đã cho con một quyển sách ở tầng vật lý. Do đó, con có thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi đã đạt được khai ngộ thứ nhất, tôi sẽ đi tiếp tới chương thứ hai.” Con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con tiến lên ở cõi ê-the. Con có thể đọc hết quyển sách của thày, nhưng nếu con chưa thấu hiểu và đạt được khai ngộ ở tầng thứ nhất, con sẽ không tiến lên thêm trên tầng ê-the.

Thày đã nói rõ chưa?