Con đang chú tâm vào điều gì?

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 31/12/2020.

TA LÀ chân sư thăng thiên Phật Gautama. Địa cầu là gì? Địa cầu là gì? Địa cầu, tất nhiên, có thể mô tả bằng nhiều cách, nhưng một cách là coi địa cầu là một cuộc trình diễn như khi con đi xem phim hay xem kịch vậy. Nhiều người thời nay có internet, có truyền hình và phim ảnh, hiếm khi nào đi xem một vở kịch biểu diễn sống, và một số bạn trẻ thì chưa bao giở. Trong số các con nếu đã đi xem kịch nghệ đều biết rằng có những lúc diễn tiến vở kịch thay đổi đột ngột, có biến chuyển bất thần xảy ra trên sân khấu và bỗng nhiên con nghe thấy khắp cử tọa ồ lên một tiếng vì mọi người đều phản ứng đồng loạt với nhau.

Điều này cho con thấy tất cả khán giả đều bị lôi cuốn vào vở kịch đến độ họ quên bẵng mất là chỉ trước đó không lâu, họ đã sửa sọan ở nhà, tắm gội sạch sẽ, cạo râu chải đầu, mặc quần áo, lái xe đến rạp hát, đậu xe bước vào, đưa áo choàng cho người ta giữ, ngồi vào ghế, nhìn quanh xem có ai cũng đang đi xem kịch như mình, và vẫn tiếp tục lo nghĩ đến những công chuyện khác trong ngày. Nhưng khi vở kịch bắt đầu, mặc dù họ biết mọi diễn biến trên sân khấu đều là giả bộ, rằng đó chỉ là một câu chuyện gì đó do một kịch gia nào đó viết ra có thể là hàng trăm năm trước – họ vẫn từ từ bị lôi cuốn vào, rồi họ dồn hết tập trung tâm trí vào buổi trình diễn đến nỗi họ quên mất tất cả mọi chuyện khác. Họ quên hẳn lý do nào đã khiến họ vào đây ngồi, quên hẳn cuộc đời của họ ở ngoài rạp, và bây giờ họ bị cuốn hút vào những gì xảy ra trên sân khấu, và đó là lý do tại sao khi có biến chuyển ly kỳ trong vở kịch, họ đều phản ứng đồng loạt như thể một người.   

Con yêu dấu, đó là địa cầu đấy con. Ở khởi thủy, tất cả các con đều biết mình bước vào nơi đâu, tại sao các con bước vào đây để làm gì, các con biết rõ đây chỉ là cái máy giả thực tại, như ta đã từng gọi là như thế. Nếu con nhìn hành tinh hôm nay, con sẽ thấy là hầu hết mọi người, tuyệt đại đa số mọi người, đều giống như những khán giả kia ngồi trong rạp hát, quên hẳn họ đến từ đâu, quên hẳn là có một thế giới khác ở ngoài rạp hát. Họ quên mất là đang có những sự kiện khác đang xảy ra, rằng điều mà họ theo dõi chỉ là một câu chuyện đang biểu hiện ra trên sân khấu. Họ đã bị cuốn hút vào vở kịch, vào buổi trình diễn. Thay vì xem buổi trình diễn là một cái gì có thể giúp họ thăng tiến trong hiểu biết và chuyển vọt tâm thức mình, thì họ xem đó là sự thực, là thế giới thực, và mọi diễn biến trên sân khấu là những sự cố có thực.

Phải, ta biết là khi ta nói như vậy, và dĩ nhiên là ta cố tình nói vậy, nhiều người trong số các con sẽ có phản ứng. Họ sẽ nói, “Thày bảo con là thế gian không có thật, nhưng hàng triệu người đã bị nhiễm vi-rút corona trong năm vừa qua, nhiều người đã chết, không lẽ tất cả đều không thực hay sao?” Dĩ nhiên là không phải vậy! Khi con trong rạp hát, đó là một sân khấu, và trên sân khấu có người ta. Những người này đều thực. Họ có thể đang mặc trang phục trình diễn và hóa trang, nhưng họ là những người thực đang đóng một vở kịch.

Khi ta bảo những người kia đã quên là nó không thực, ta muốn nói họ đã quên là họ không phải là những con người, mà là sinh thể tâm linh. Các con hiện diện ở đây để trải nghiệm một cuộc trình diễn đang được biểu hiện trên địa cầu. Những gì xảy ra trên hành tinh có thể thực từ một góc cạnh nào đó, nhưng con không là một con người, con là một sinh thể tâm linh, con đang ở đây để có một trải nghiệm hầu chuyển đổi tâm thức mình. Tất cả mọi thứ xảy ra trên địa cầu chỉ là chuyện xoay chuyển tâm thức của con.

Khi Shakespeare ngồi vào bàn viết kịch, ông không có ý muốn giải trí người ta đâu. Ý của ông là xoay chuyển tâm thức người xem. Ông không đang tìm cách khiến cho người ta tin là có một Hoàng tử xứ Đan Mạch tên là Hamlet vì ông thừa biết là không bao giờ có người này. Ông chỉ muốn dẫn cử tọa qua một cốt truyện có khả năng chuyển đổi tâm thức của họ, và trái đất này cũng thế, trái đất chỉ là vậy thôi. Ta biết, điều này nghe có vẻ vô cảm khi nhiều người coi năm 2020 vừa qua là một năm đầy khó khăn.

Đương nhiên là năm qua đã vô cùng khó khăn cho nhiều người – các thày đâu có đui mù. Nhưng có điều, cái gì đây sẽ làm giảm bớt nỗi khó khăn của mọi người? Cái gì sẽ giúp cho mọi người đương đầu dễ dàng hơn? Có phải chỉ là chuyện an ủi và nói với họ là năm rồi quả là một năm tồi tệ? Hay là phải cho họ một góc nhìn khác? Vì các thày là chân sư thăng thiên, vai trò của các thày là gì? Vai trò các thày là cho mọi người một góc nhìn khác, đó là lý do duy nhất mà các thày có mặt trên hành tinh này. Các thày có mặt ở đây là để nhắc nhở mọi người rằng mặc dù các con sinh sống trên hành tinh trái đất, mặc dù các con đều có một xác thân vật lý bị tổn thương do những gì đang xảy ra, nhưng các con không thể bị định nghĩa bởi cõi vật chất, bởi xác thân vật lý, bởi ngoại tâm của con. Con là nhiều hơn tất cả những thứ đó.     

Điều này thực sự có nghĩa là gì? Thực sự có nghĩa là trong bản chất, con là cái mà ta gọi là tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cho con vượt lên trên những trải nghiệm vỏ ngoài. Đâu là cốt lõi của tiềm năng này? Là cái phần của tâm con mà ta gọi là cái Ta Biết, hoặc con có thể gọi bằng bất kỳ tên nào con muốn, nhưng trong tâm con có một thành phần cho con cái khả năng, cho con quyền năng dừng lại và nói: “Tất cả những ý tưởng quấy phá đó, hãy ngừng lại.”  

  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình trạng ngoại cảnh trên địa cầu.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi tình cảnh của riêng tôi.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi xác thân tôi và mọi điều làm nó tổn thương.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi cảm thể của tôi và mọi rối loạn ở đó.
  • Tôi sẽ lùi ra khỏi trí thể của tôi và mọi ý tưởng về những điều tôi phải nghĩ, phải hiểu, phải biết.

Tôi sẽ lùi ra khỏi bản sắc thể của tôi và mọi xu hướng tự xem mình là một con người do ngoại cảnh định đoạt.

Tôi sẽ lùi ra cho tới khi tôi chiêm nghiệm – tôi kết nối được với cái phần của chính tôi, Hiện diện TA LÀ của tôi, cái ta tâm linh của tôi, là phần biết rõ và chưa bao giờ quên là nó không do trái đất này định đoạt.

Đây là bản chất nhân bản cốt yếu của con, cái thực chất nhân bản mà qua đó con có thể lùi lại một bước, có thể kết nối, có thể chiêm nghiệm rằng:

  • Tôi là nhiều hơn thế này.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trên địa cầu.
  • Tôi là nhiều hơn những gì đang xảy ra trong xác thân tôi.
  • Tôi là nhiều hơn sự rối loạn trong cảm thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn những ý tưởng trong trí thể của tôi.
  • Tôi là nhiều hơn ý niệm bản sắc vỏ ngoài hay bản sắc làm người của tôi.
  • Ta là.

Và con không cần thêm bất cứ gì sau hai chữ “ta là”. Con có thể chứng nghiệm TA LÀ. Tôi có cái là. Tôi có nhận biết. Tôi có tự nhận biết.

Tự nhận biết có nghĩa là gì? Đối với rất nhiều người, nó có nghĩa là tôi nhận biết rằng tôi hiện hữu trong bản sắc này, rằng tôi có những ý tưởng này đang chạy trong tâm tôi, những cảm xúc mà tôi cảm thấy, thân xác mà tôi đang có, tình huống ngoại cảnh mà tôi đang trải. Đó là sự tự nhận biết của tôi. Tôi là một con người đang đau khổ trên địa cầu, đó là sự tự nhận biết của tôi. Nhưng sự tự nhận biết thực sự, cốt lõi của tự nhận biết, chỉ đơn giản là “ta là”. Tôi ý thức. Tôi nhận biết.    

Triết gia René Descartes nổi tiếng với lời nhận định: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nhiều người đã hiểu lầm câu này của ông. Ông chỉ muốn nói là ông đã nhìn vào tất cả mọi thứ mà ông có thể đặt vấn đề hay xem là giả trá, thì chỉ có một điều mà ông không thể chối cãi được, đó là ông có sự suy nghĩ. Nhưng thực sự đây không phải là sự suy nghĩ trong ý nghĩa một sinh hoạt của trí thể. Điều ông ngộ ra là điều duy nhất mà ông không thể chối cãi là sự kiện ông đang ý thức, ông đang nhận biết. Đó là điều duy nhất ông không thể chối cãi. Đó cũng là điều duy nhất mà con có thể nối kết để nhận ra rằng con không chỉ là ngoại vật. Khi con lùi về khỏi ngoại cảnh và chiêm nghiệm con là sự nhận thức, sự hiện diện, sự chiêm nghiệm, sự nhận biết, thì con không còn bị lôi cuốn vào vở kịch đang diễn ra trên sân khấu, sân khấu của thế gian. Con không còn tự đồng hóa với nó nữa. Con không còn bị nó định nghĩa là gì.

Thế nào là một con người? Trong cốt lõi, là cái này đây, là ta là, tôi đang nhận biết, tôi đang nhận biết rằng tôi là cái gì đang là. Trong cốt lõi của nhận biết, không cần thêm bất cứ gì khác, ít ra là không cần thêm bất cứ gì khác của điạ cầu bởi vì con không là tất cả những ngoại vật đó trên địa cầu. Tất nhiên hầu hết mọi người đều không nhận thấy như vậy, họ nghĩ họ là ngoại vật. Nhưng tính nhân bản cốt yếu có nghĩa là con có thể đứng riêng ra và chiêm nghiệm mình là nhiều hơn những ngoại vật, rằng chúng không thể định nghĩa được mình là ai. Khi con chiêm nghiệm điều này, đó là chiêm nghiệm thực. Và con biết là vở tuồng đang diễn ra trên sân khấu không thực được như thế.

Nhưng ngay giây phút con bước ra khỏi kinh nghiệm “ta là” đó và bước vào bản sắc vỏ ngoài của con, vào trí thể, cảm thể cùng xác thể của con, thì lập tức những gì con kinh nghiệm qua bốn thể phàm này sẽ có vẻ là thực đối với con. Chính điều này cho con cảm giác thực tế. Mọi lời dạy của các thày muốn hướng con về đâu? Hướng con về sự chứng nghiệm này đây, rằng có một thực tại vượt khỏi cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể phàm. Có một sự cảm nhận thực tại lớn hơn cảm giác thực tế mà con có được qua bốn thể. Do đó con không bị định hình bởi trải nghiệm của con trong bốn thể. Con tự định mình khi con là cái mà con là, khi con kết nối với cảm nhận “ta là”.  

Đây là điều đã giúp ta vượt qua thử thách khi đương đầu với quỷ Mara. Hẳn con cũng biết câu chuyện được kể lại trong đạo Phật rằng khi ta sẵn sàng nhập Niết bàn, ta đang ngồi thiền dưới cây bồ đề. Tất cả những con quỷ của Mara diễn hành trước mặt ta để lôi kéo ta nhập vào với chúng. Chúng đang diễn một vở tuồng và muốn ta bị cuốn hút vào đó, muốn ta tin rằng vở tuồng có một thực thể nào đó, có quyền lực nào đó trên ta, có quyền lực nào đó trên thế gian, có quyền lực nào đó trên người khác.       

Làm thế nào ta vượt qua được thử thách? Bằng cách nối kết với chứng nghiệm TA LÀ. Khi không có chữ nào đi theo sau hai chữ TA LÀ thì không có gì mà quỷ Mara có thể giao tiếp được. Như Giê-su đã diễn tả: “Không có gì trong ta mà ông hoàng của thế gian có thể nắm lấy.” Cho nên đây là cốt lõi giáo lý của ta. Tất cả mọi điều mà ta đã dạy con chỉ có một mục đích dẫn con đến điểm này mà thôi. Những lời này không chỉ là lý thuyết. Đây không phải là một giáo lý công truyền mà con có thể hiểu được bằng lý trí mà là một điều con phải chiêm nghiệm. Hầu hết các con đã chiêm nghiệm được rồi, một số đã chiêm nghiệm mà không ý thức, nhưng nhiều người trong số các con đã có chiêm nghiệm.  

Một khi con đã chiêm nghiệm được thực tại đó, con có thể sử dụng nó, bồi đắp nó, con có thể dùng các dụng cụ tu tập của các thày nhằm giải quyết những chấn thương sâu xa, đi ngược trở về chấn thương đầu tiên, và ngay cả trước đó nữa khi con là avatar giáng thế từ hành tinh khác. Và con có thể đạt tới một điểm khi bất kể chuyện gì xảy ra trên địa cầu, bất kể việc gì con đang làm, con cũng nhận biết liên tục rằng con là nhiều hơn thế, rằng con đang (phần nào) chứng kiến những gì đang diễn ra thay vì phải đứng ngay giữa cơn bão lốc. Hoặc ít nhất, con cũng nhận biết rõ rằng con có thể, bất cứ lúc nào, dời chuyển vào trong sự nhận biết TA LÀ nơi con không còn hoàn toàn tập trung vào cơn bão nữa.

Con người là gì? Ta đã từng nói: “Theo một nghĩa nào đó, con người là sự chú tâm, là sự nhận biết rằng mình chọn cách mình tập trung. Có thể nói, vượt ngoài tất cả mọi thứ đang xảy ra chung quanh, con là sự tỉnh giác, là sự nhận biết. Một số người nhận biết rất hạn hẹp, một số người khác nhận biết rộng rãi hơn. Một số thì rất chú tâm vào chính mình, trong khi một số khác có sự nhận biết toàn cầu hơn. Nhưng bất kể nhận biết hẹp hay rộng, con là sự nhận biết. Chọn lựa căn bản của con, có thể nói là chọn lựa duy nhất mà con có thể có, là chọn đối tượng cho sự chú tâm của con. Nhiều năm trước, Saint Germain có nói: “Anh đó là nô lệ sự chú tâm của anh ta”, và tất nhiên câu này cũng áp dụng cả cho phái nữ.  

Cho nên vấn đề là như sau: con đang chú tâm vào điều gì? Một lần nữa trong thời buổi này, ta không có ý bảo con phải chú tâm vào điều gì đó. Đã có những thời trước đây, và ngay cả bây giờ trong số học trò của các chân sư, khi người ta hay nghĩ rằng thế giới này không có gì là tâm linh, và do đó con không được chú tâm vào những chuyện trần thế. Con phải rút sự tập trung ra khỏi những chuyện trần tục và đặt trọng tâm vào những chuyện tinh thần. Rất nhiều người ở mọi thời đã làm điều này, họ đã rút lui khỏi thế giới để sống ẩn dật nơi một tu viện, một cái am Phật giáo, một nhà tu Cơ đốc giáo, hay bất cứ một khung cảnh, môi trường nào được tạo ra để họ triệt thoái khỏi thế gian, và khi họ chú tâm học hỏi kinh sách, cầu nguyện và làm lễ và hát và tụng, thì họ nghĩ, “À, tôi thật là tâm linh vì tôi đang tập trung vào những chuyện này.”        

Nhưng con yêu dấu thấy đó, rất nhiều người trong số đó thật ra không khác gì người đời. Người đời có sẵn một ý tưởng nào đó trong đầu về cuộc sống, về họ phải làm gì hay không làm gì, và họ sống theo cái tâm ảnh đó. Những người tâm linh rút khỏi xã hội cũng có một tâm ảnh về cuộc sống mà họ muốn sống, chỉ khác là tâm ảnh của họ không giống người đời. Thành thử một bên, chúng ta có đa số mọi người sống theo một tâm ảnh trần tục, và bên kia một thiểu số sống theo một tâm ảnh mà họ nghĩ là tâm linh. Nhưng con yêu dấu, đó vẫn chỉ là một tâm ảnh và tâm ảnh này sẽ giam giữ họ y như nó giam giữ người trần tục.

Thật không có bao nhiêu người, thời xưa cũng như thời nay, đã đạt được sự tinh tấn khi họ chỉ thay đổi tâm ảnh mà thôi, bởi vì tâm ảnh vẫn còn đó. Nếu con tập trung chú tâm của con đến độ con nghĩ: “Tôi là người thế này, tôi thật là tâm linh vì tôi đang làm tất cả những điều vỏ ngoài này” thì con đang làm gì? Con đang ban thêm sức mạnh cho tâm ảnh. Trong khi đó thì những người sống trong thế gian và tự đồng hóa với thế gian, khi họ trải qua một năm 2020 thật tồi tệ do dịch corona, thì họ làm gì? Họ cũng tăng thêm sức mạnh cho tâm ảnh của họ.     

Khi con chú tâm vào điều gì thì con tạo ra một luồng năng lượng xuyên qua bốn thể phàm của con hướng về tâm ảnh đó. Con củng cố tâm ảnh cho nó mạnh hơn, cả trong tâm con lẫn trong tâm tập thể. Con củng cố cấu trúc mà tâm ảnh này đã tạo ra. Con càng củng cố nó thì năng lượng sẽ hình thành một lực từ trường càng mạnh hơn để thu hút sự chú tâm của con. Con càng đặt chú tâm vào một đề tài nào thì càng có nhiều năng lượng xối vào đó. Càng nhiều năng lượng xối vào thì nó càng thu hút chú tâm của con, và tất cả trở thành một vòng xoáy triền miên, tự nó nuôi nó cho ngày càng lớn mạnh.    

Đó là lý do tại sao người ta đi xem kịch bị cuốn hút vào vở kịch và tưởng đó là thực. Tâm trí họ bị cuốn hút vào vòng xoáy mà chính họ đã tạo dựng, và song song cũng có sự tạo dựng tập thể đến độ nhiều người không thể gỡ mình ra do họ đã cho phép vòng xoáy cuốn tâm trí họ vào. Cũng vậy với nhiều người tự xem mình là tâm linh, họ đã tạo ra một vòng xoáy tuy có khác hầu hết người trần tục, nhưng vẫn kéo tâm trí họ vào một cách mãnh liệt. Giáo lý của ta chủ ý là gì và luôn luôn vẫn là gì? Giáo lý trong đợt truyền pháp này đã nói rõ ràng và rành mạch những gì? Rằng mục tiêu là để giúp con dời chuyển sự chú tâm của con khỏi tâm ảnh và chiêm nghiệm được “ta là”. “Tôi là nhiều hơn những tâm ảnh vỏ ngoài, nhiều hơn tâm ảnh mà tôi có về chính tôi và bốn thể phàm của tôi. Tôi nhiều hơn thế. Cho nên tôi không có nhu cầu bị lôi cuốn vào những gì đang xảy ra trên thế giới.”   

Ta đã có dịp giảng về khái niệm “giữ quân bình tâm linh”. Đã có những lời dạy đề cập đến khái niệm này, về một nhóm người tiến hóa cao độ trên dãy núi Himalaya mà chưa ai được gặp, chưa ai được nghe biết. Một số người đã có nghe về vị thày Babaji chưa thăng thiên, và một số khác nữa. Người ta bảo rằng các vị này cầm giữ quân bình tâm linh cho địa cầu. Giữ quân bình tâm linh nghĩa là gì? Là các vị ấy tập trung chú ý vào “là hơn nữa”. Mình biết mình là “hơn nữa”, và bằng cách duy trì một trạng thái tĩnh lặng toàn hảo, một nội tâm hoàn toàn an bình, mình có thể giữ được sự quân bình vì vẫn hiện thân trong xác thân vật lý. Tuy nhiên, mặc dù ta không muốn giảm bớt công sức phụng sự của những vị đó, điều mà ta mong muốn, và Saint Germain cũng mong muốn cho Thời Hoàng kim, là có thật nhiều người có khả năng giữ được quân bình tâm linh trong khi vẫn tích cực tham gia vào cuộc sống.   

Theo một nghĩa nào đó, việc giữ quăn bình sẽ dễ dàng hơn nếu con ngồi trong hang động và không bao giờ bị quấy rầy, bị thử thách. Và lẽ tự nhiên, sẽ khó giữ quân bình hơn nếu con sống một cuộc đời năng động. Nhưng con yêu dấu, điều sẽ thực sự hiệu quả, sẽ thực sự đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain nhanh chóng hơn, là có thật nhiều người sống bình thường trong cuộc sống hàng ngày, làm lụng những công việc mà họ thường làm, mà vẫn nhận biết rằng đây không phải là con người thực của mình. Nói cách khác, con ngồi trong rạp hát, con quan sát vở tuồng trên sân khấu, và thay vì hoàn toàn chú tâm vào sân khấu, con vẫn nhận biết rằng “tôi là nhiều hơn buổi trình diễn này”. Con tỉnh giác rằng mọi người khác trong rạp đều hoàn toàn bị cuốn hút vào vở kịch, nhưng con vẫn giữ được cái phần tỉnh giác nằm ngoài vở kịch. Con trải nghiệm vở kịch như là một vở kịch, chứ không như một cái gì thực, như hầu hết mọi người khác. Đó là cách con giữ sự quân bình tâm linh, là thái cực Omega cho những ai đang giữ thái cực Alpha khi họ rút lui khỏi xã hội.

Đây chính là điều đã thiếu sót từ hàng ngàn năm nay. Đã có những vị sống ẩn dật và giữ được quân bình tâm linh, nhưng chưa có những vị để cầm giữ thái cực Omega của những người có thể sống trong thế gian, ở trong thế gian nhưng lại không thuộc về thế gian. Điều này sẽ đem lại sự khác biệt lớn lao trong thời đại này, là thời đại mà chúng ta đang bước vào khi ngày càng có nhiều người đạt tới mức có thể nhìn thế giới và nói: “Tôi nhiều hơn thế này. Tôi sẽ không cho phép mình bị cuốn hút vào cái đang cuốn hút người khác. Tôi không cần tham dự vào đó, nó sẽ nuốt hết sự chú ý của tôi, và cuối cùng tôi sẽ chỉ vứt thêm năng lượng mình vào để nuôi cho vòng xoáy kéo mình vào thêm.”   

Trên thực tế, con có thể đạt tới một điểm khi con biến nó thành một quyết định ý thức. “Tôi sẽ không để cho bất kỳ vòng xoáy tập thể nào lôi kéo bốn thể phàm của tôi”. Nhân tiện, đây cũng là một cách để nâng cao sức khỏe thể chất của con, khi con không để cho các vòng xoáy tập thể ảnh hưởng đến xác thể, hay cảm thể, trí thể, bản sắc thể. Con không bị kéo vào. Cho nên con có khả năng đứng ngoài các khuôn nếp phản ứng mà đa số người ta bị cuốn vào. Con có thể ở trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian. Con có thể ngồi dưới gốc cây bồ đề, nhìn bọn ma quỷ của Mara diễn hành trước mắt nhưng con không hề tham dự với chúng. Sau khi con để cho chúng làm trò chán chê, con sẽ đặt tay xuống mặt đất và nói: “Vajra, Vajra, Vajra, nay ta xác nhận quyền làm Ki-tô của ta, quyền làm Phật của ta trên địa cầu.”  

Đó là những gì ta mong muốn cho tất cả các con là học trò trực tiếp của các chân sư, để con khỏi bị lôi kéo. Các chân sư hoàn toàn không trách móc gì các con. Các thày hiểu rõ năm qua đã là một năm khó khăn. Các thày biết nhiều vòng xoáy tập thể to khủng khiếp đã được tạo ra ở khắp mọi nơi trên thế giới. Một phần là vì đại dịch corona, phần khác vì nền kinh tế, phần khác nữa vì một số điều kiện chính trị như cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Các thày hoàn toàn không muốn con buồn rầu về cách phản ứng của mình nếu chẳng may con đã bị lôi cuốn vào những vòng xoáy đó – đành chịu thôi. Nhưng con có cơ hội bước lùi lại, nối kết với cái TA LÀ, để con nhận ra rằng con là nhiều hơn thế, và có lẽ để con nhìn vào “điều gì trong bốn thể phàm của tôi đã khiến tôi bị cuốn hút”.    

Sau đó nếu con dùng cac dụng cụ tu tập để giải quyết chấn thương, con sẽ thấy là cuối cùng, tất cả đều liên quan đến cái chấn thương nhập đời vũ trụ, và cả những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra sau trải nghiệm nhập đời này. Con sẽ luôn luôn nhận thấy mỗi lần con bị lôi cuốn vào một phản ứng, thì y rằng sẽ có một cái ngã hiện diện, có khi nhiều hơn là một, nhưng tất cả những ngã này đều không thực. Chúng không thực trong ý nghĩa mà ta vừa mô tả. Chúng nằm trong bốn thể phàm của con – không nghi ngờ gì cả. Chúng có một sự hiện hữu nào đó vì chúng được tạo ra từ năng lượng, chúng dựa trên một tin tưởng nào đó của con và do đó đã trở thành như một sinh thể sống trong lòng bốn thể phàm của con, tương tự như một con thú sống trong nhà con vậy. Nhưng chúng không thực trong ý nghĩa là chúng không phải là con, và con không phải là chúng.

Khi con kết nối với nhận biết TA LÀ, Hiện diện TA LÀ, con có thể nhận ra: “À, đây chỉ là một cái ngã, đây không thực là tôi, tôi không là ngã đó. Hoàn toàn không phải là tôi. Chưa bao giờ nó là tôi. Trước kia tôi tưởng nó là tôi. Nhưng bây giờ tôi thấy nó chỉ là một cái ngã. Tôi thấy nó hạn chế tôi. Tôi thấy nó bắt nguồn từ một tin tưởng nào đó mà bây giờ tôi không chấp nhận nữa.” Và điều này đưa con đến một điểm khi con có, không phải một quyết định vỏ ngoài của ngoại tâm, mà một sự giải tỏa tự phát: “À, tôi sẽ để cho mi chết. Mi không phải là tôi. Tôi để cho mi chết đây.” Đây là điều mà ta mong muốn thấy tất cả các con làm được nếu con chưa làm trong năm 2021 này.  

Con yêu dấu, điều đó sẽ khiến ta vui mừng làm sao. Và nó cũng sẽ khiến con vui mừng. Nó sẽ đem vui mừng cho mọi người chung quanh con, ít ra là đa số, cho dù là một số người sẽ không bằng lòng khi thấy con không gần gũi như trước, và do đó họ không thể ảnh hưởng con được như trước nữa. Nhưng đành thôi, đành thôi. Con không thể tiến bước trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật mà không làm phật lòng một số người.  

Bây giờ, con yêu dấu, năm 2021 sẽ như thế nào? Nhiều người cho rằng đây sẽ là một năm khó khăn, một phần vì đại dịch sẽ không được giải quyết nhanh chóng như mong muốn. Thành thật mà nói, ta đã mong có thể giải quyết sớm hơn nhưng điều này đòi hỏi nhiều người phải xử sự một cách khác, mà nhiều người thì không chịu thay đổi và đại dịch cứ thế tiếp diễn. Nhưng tất nhiên, thử thách lớn nhất cho năm 2021 là nền kinh tế vì kinh tế đã bị đại dịch làm tổn thương, cho nên đối với rất nhiều người, năm 2021 sẽ là một năm rất khó khăn, không khó khăn bằng 2020 nhưng trên một vài phương diện sẽ khó khăn hơn.

Nhưng tại sao sẽ khó khăn cho mọi người? Bởi vì mọi người tự đồng hóa với vở kịch. Ta vẫn biết là hầu hết không có khả năng tách mình ra khỏi vở kịch, nhưng có một điều ta muốn con ghi nhớ và cầu gọi, là có những người tuy không có nhu cầu biết đến các chân sư và họ cũng chưa từng nghe đến các chân sư, nhưng họ lại cởi mở với ý tưởng đặc biệt này. Ý tưởng đó, ta đã từng giảng dạy cách đây 2500 năm, rằng toàn bộ thế gian là một tổng thể tương kết. Ý tưởng này trong đạo Phật thường có tên là Lý Duyên khởi. Không có sự kiện riêng rẽ nào tự dưng xảy ra mà trái lại mọi sự kiện đều xảy ra do vô số những nguyên nhân, một chuỗi nguyên nhân dài dằng dặc và phức tạp vô cùng – phần nào cũng giống như thuyết hỗn mang mà khoa học đưa ra.  

Và như vậy, nhiều người trong đó có những thành phần cấp tiến, sáng tạo nhất, đã trở nên thực sự cởi mở và nhận ra điều này, với tiềm năng dẫn đến nhiều hệ quả tích cực khi người ta bắt đầu xét lại cách nhìn cố hữu của mình về xã hội. Một điều có thể xảy ra là người ta bắt đầu đặt nghi vấn: “Ơ kìa, cái gì đã gây ra đại dịch corona? Phải chăng chỉ vì đúng một con dơi ở Trung quốc đã tiếp xúc với con người? Hay là vì bất kỳ nguyên nhân đơn lẻ nào khác mà người ta có thể nghĩ tới? Liệu chỉ có một nguyên do duy nhất hay là có nhiều nguyên do sâu xa hơn? Phải chăng một số điều kiện trong xã hội, trong cách chúng ta nhìn xã hội, cũng đã góp phần vào toàn cảnh? Phản ứng của chúng ta đối với đại dịch nói lên điều gì về những điều kiện đó, và như vậy chúng ta có thể xem xét, phân tích, học hỏi và thay đổi điều gì? Chúng ta có thể rút tỉa điều gì tích cực từ đại dịch để giúp đưa xã hội về một hướng tốt đẹp hơn?”

Con yêu dấu, hiển nhiên là rất, rất nhiều điều người ta có thể nêu lên, có thể học hỏi từ khủng hoảng này, và ta không có ý liệt kê ra hết bởi vì có quá nhiều và cũng quá rộng lớn. Nhưng có một điều nổi bật ở đây mà ta muốn đặt trọng tâm là kinh tế. Thật là dễ mà nói rằng: “Ồ, kinh tế có xuống dốc thật nhưng chỉ là do đại dịch. Chỉ vì người ta không thể đi du lịch, ra tiệm mua sắm, đi ăn nhà hàng mà dân chúng bị mất việc, và đó là lý do kinh tế phải đi xuống”.    

Con yêu dấu, kinh tế không chỉ là kinh tế, kinh tế không là một hiện tượng biệt lập. Kinh tế là một thành phần của lý duyên khởi của toàn thể xã hội, của tâm thức tập thể. Tâm thức tập thể chúng ta đang ở đâu? Nếu con nhìn kinh tế từ một góc độ rộng lớn hơn, con thấy gì? Con sẽ thấy như một số kinh tế gia và ký giả đã thấy được, là kẻ giàu, giới thượng lưu, đã không bớt giàu đi trong cơn đại dịch, trong cơn khủng hoảng.

Mặc dù kinh tế có suy thoái nhưng người giàu đã trở nên giàu có hơn. Đầu tư của họ trị giá nhiều hơn, thị trường chứng khoán tăng vọt. Nhưng những ai đã nghèo hơn? Phải, những người tầm thường. Những người bình thường, những người dân hàng ngày phải gánh chịu hậu quả lớn nhất của đại dịch, do bị nhiễm bệnh, do phải trông nom người bị nhiễm bệnh, do phải ở nhà mà thiếu hụt ngân sách, do mất nguồn lợi thu nhập. Đúng vậy, những người bình thường, dân chúng nói chung.  

Con hãy nhìn quanh thế giới. Những nước nào đã bị tác động nặng nhất? Chắc chắn rất nhiều nước nghèo đã bị ảnh hưởng nhiều hơn, nhưng không phải tất cả. Con cũng thấy một nước như Hoa Kỳ có tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong do đại dịch cao hơn. Vậy con hãy tự hỏi: “Tại sao như thế, tại sao lại thấy những những chuyện như thế?” Con sẽ thấy nguyên do nằm bên dưới tất cả là sự chú tâm vào chính mình, chỉ chăm sóc cho chính mình, chỉ quan tâm đến cái tâm ảnh của mình, làm sao cố giữ tâm ảnh đó cho bằng được.   

Con hãy nhìn ở ngay khởi đầu của đại dịch, Trung quốc biết rõ có một loại vi-rút mới đang lan rộng. Nhưng họ giấu giếm thông tin cho ngay cả công dân của họ và đối với thế giới. Có nghĩa là khi người ta biết đến, vi-rút đã lan vượt ra ngoài biên giới của Trung quốc đến độ không thể kiềm chế được nữa. Có thể nào ngăn chặn ngay từ đầu không? “Có, có thể lắm chứ”, nếu giới chức trách Trung quốc kể cả đỉnh cao của lãnh đạo sẵn sàng có những biện pháp cần thiết. Nhưng tại sao họ lại không sẵn sàng có biện pháp cần thiết? Bởi vì họ đang cố, với tất cả sức bình sinh, bám giữ cái tâm ảnh mà họ có về Trung quốc là một quốc gia toàn hảo, một xã hội toàn hảo, một xã hội cộng sản toàn hảo, là xã hội thực sự cộng sản duy nhất còn sót lại? Tại sao vi-rút đã lây lan? Tại vì tâm ảnh của giới lãnh đạo Trung quốc. Hiển nhiên con có thể hỏi thêm: “Tại sao vi-rút lại xuất hiện tại Trung quốc?” Một lần nữa, phần nào là vì lãnh đạo, và phần khác cũng vì người dân Trung quốc, vì cái tâm ảnh mà người dân ôm giữ về một nước Trung quốc vượt trội hơn bất kỳ quốc gia nào khác.

Thế những nước khác thì sao? Họ cũng có một tâm ảnh nào đó về Trung quốc, và họ đã chưa quyết định là họ muốn quan hệ thế nào với Trung quốc, họ muốn làm gì với Trung quốc. Như ta đã có nói, các nước có thể nào thực sự tiếp tục buôn bán với Trung quốc, một nước đàn áp chính dân mình và không tôn trọng lý tưởng dân chủ mà các con mong muốn? Liệu con có thể chấp nhận để cho các tập đoàn ở Tây phương kiếm những số tiền khổng lồ do sản xuất rẻ tiền tại Trung quốc rồi bán lại với lợi nhuận lớn hơn là nếu họ sản xuất tại xứ họ? Liệu con có thể cho phép sự thể này tiếp tục rồi bảo: “Các thày sẽ bỏ qua những vi phạm nhân quyền của Trung quốc, bỏ qua những diễn biến tại Hồng Kông nơi họ đang bóp nghẹt dân chủ. Các thày sẽ không đứng ra hỗ trợ dân chủ vì Trung quốc quá lớn. Các thày thật sự không muốn nhúng tay vào, không muốn có quyết định về Trung quốc”. Không phải đây là lý do vi-rút đã lây lan khắp các nước hay sao? Là vì các nước đã không chịu lấy quyết định họ muốn làm gì với Trung quốc và mối quan hệ với Trung quốc.

Bây giờ con hãy nhìn sang Hoa Kỳ, một trong những nước bị thiệt hại lớn nhất về tỷ lệ nhiễm bệnh COVID-19 cũng như tỷ lệ tử vong. Điều này cho con thấy gì? Nhìn một cách thực tế, con có thể thấy rõ Hoa Kỳ đã đáp ứng kém hơn hẳn những quốc gia có hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng. So với Âu châu, cho dù ở đó cũng có một số nước bị ảnh hưởng nặng nề, nhưng vẫn đỡ hơn Hoa Kỳ. Điều này cho con thấy gì? Đúng vậy, Hoa Kỳ có thể nào tiếp tục là quốc gia giàu mạnh duy nhất trên thế giới không có một hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng? Sự thể này có bền vững không? Và Hoa Kỳ xem mình là quốc gia vĩ đại nhất, là xã hội tốt đẹp nhất thế giới, điều này có bền vững không?     

Con hãy nhìn vào kinh tế và thấy bao người bị mất việc làm. Có bền vững hay chăng một nên kinh tế nơi người giàu đã giàu hơn rất nhiều và sẽ còn giàu hơn nữa? Người giàu tại Hoa Kỳ đã kiếm tiền giữa cơn khủng hoảng này nhiều hơn là họ có thể kiếm được khi không có khủng hoảng. Con có thể chấp nhận một nền kinh tế mất cân bằng đến độ ngày càng đổ thêm nhiều tiền vào túi người giàu mặc dù các nghiên cứu cho thấy sự thể này đã tiếp diễn suốt bốn thập niên qua? Có bền vững không? Liệu điều này có phần nào giải thích tại sao Hoa Kỳ lại bị đại dich đập nặng đến như vậy? Không phải là nguyên hệ thống đã trở thành quá thiên vị cho người giàu hay sao? Có bền vững không?

Nay con hãy nhìn sang nước Nga, là một nước khác nữa cũng rất quyết tâm duy trì một tâm ảnh nào đó. Hóa ra số người bị chết bởi đại dịch lớn hơn rất nhiều các con số tử vong chính thức. Tại sao như vậy? Bởi vì giới lãnh đạo cho tới Putin ở tột đỉnh đều thèm muốn, thèm muốn giữ lấy tâm ảnh về sự vĩ đại của nước Nga, về khả năng kiểm soát và giải quyết mọi vấn đề. Nhưng họ có làm được không? Có thể nào một lãnh tụ nắm hết quyền hành đảm đương được mọi chuyện? Có phải chăng là một hệ thống tập trung quyền lực không thể thực sự là một xã hội bền vững, đặc biệt trong thời đại này?     

Xong hãy trở lại với nước Mỹ và nhìn xem đại dịch đã ảnh hưởng tiến tình bầu cử như thế nào. Tại sao Tổng thống Trump ở giai đoạn đầu của đại dịch lại chọn chiến lược coi nhẹ đại dịch? Đúng vậy, chỉ vì ông muốn duy trì một tâm ảnh về chính ông cùng khả năng cầm quyền của ông. Một khi đã phóng tâm ảnh này ra công chúng, ông không chịu thay đổi nó, nhưng đáng lý ông phải chấp nhận thay đổi khi đại dịch không diễn biến như ông chờ đợi. Điều này có khiến ông thất cử? Đúng vậy, con yêu dấu. Nếu không có đại dịch thì Trump đã tái đắc cử. Nhưng vì cách ông phản ứng trước đại dịch, và vì có nhiều người thấy được điều đó, cho nên ông không thắng cử một lần thứ hai.

Ông đã làm gì sau bầu cử? Ông vẫn cố giữ nguyên cái tâm ảnh rằng ông không thua, rằng ông không là một người thua cuộc, rằng người ta đã đánh cắp chiến thắng của ông. Bầu cử đã gian lận, một sự gian lận to lớn, với những lời tố cáo được lặp đi lặp lại, nhưng không thấy bằng chứng nào được đưa ra trước tòa án. Ông phải cố giữ cái tâm ảnh.

Vậy chúng ta có thể mong mỏi những gì trong năm nay? Chúng ta mong thấy trên thế giới có những người, những chính phủ, những người sáng tạo, những người với tỉnh giác cao độ, sẽ sẵn sàng suy ngẫm xem cơn đại dịch, nền kinh tế, phản ứng của chúng ta trước đại dịch, phản ứng của chúng ta đối với kinh tế, tất cả những thứ đó nói gì về chúng ta? Chúng ta cần thay đổi thế nào, chúng ta đã mất quân bình như thế nào, chúng ta đã trở nên thiếu bền vững như thế nào. Để giúp các con trong tiến trình suy ngẫm này, ta sẽ cho các con một hình tư tưởng cho năm tới đây. 

Đây là một hình tư tưởng rất giản dị. Trong năm nay 2021, mặt trời sẽ là một tấm gương phản chiếu. Ta có hỏi ý Helios và Vesta là những chân sư thăng thiên, những sinh thể vũ trụ đứng đầu mặt trời của các con. Các thày đã nghĩ ra một cơ chế vô cùng giản dị có mặt trời làm tấm gương. Khi con tập trung nhìn vào mặt trời, các hình ảnh trong tâm trí con sẽ được phản chiếu lại để con dễ thấy hơn, và con cũng khó lòng bỏ qua hơn. Không chỉ có cá nhân mới dùng được cách này mà cả toàn thể xã hội.

Khi con sử dụng hình tư tưởng này một cách đều đặn, con sẽ khiến cho hiệu quả tăng lên gấp bội. Ta khuyến khích con làm một việc vô cùng đơn giản, không có gì cầu kỳ. Mỗi ngày, con hãy tập trung vào mặt trời – dù là nó có ở trên trời hay không thì hoàn toàn không quan trọng. Nhưng con hãy tập trung vào mặt trời trong tâm con, và nói lên lời xác định này. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Giản dị, dễ nhớ, và chỉ mất một vài giây. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu”.    

Nếu con muốn, con có thể hình dung ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trên mặt trời, nhưng điều này không mấy cần thiết. Chỉ cần con nói lời xác định ngắn ngủi trên. Tập trung vào mặt trời, con không cần nói lớn, nhưng con có thể nếu con muốn. “Phật Gautama, thày là tấm gương toàn hảo cho địa cầu.” Điều này có thể tác động mạnh mẽ, đồng thời với các bài cầu của con vì ta sẽ hướng dẫn con đọc các bài cầu, và tất nhiên, cả xã hội cũng cần suy ngẫm về toàn bộ tình thế hôm nay và những bài học có thể rút tỉa. Ta đã nói gì ở đầu bài giảng, địa cầu là gì? Là một cuộc trình diễn. Mục đích để làm gì? Để chuyển đổi tâm thức con người. Vậy thì kết quả cao nhất của đại dịch corona và cuộc khủng hoảng kinh tế hôm nay là gì? Là nó chuyển đổi tâm thức con người, nó chuyển đổi sự nhận biết của con người, con người bắt đầu nhìn lại chính mình, nhìn vào xã hội mình và nói: “Đây là những điều mà chúng ta có thể thay đổi. Đây là những điều chúng ta cần thay đổi bởi vì nếu không, mọi thứ sẽ tan rã – khi chúng ta đặt trọng tâm vào của cải, cho phép một tầng lớp thượng lưu nhỏ xíu tiếp tục điều khiển xã hội mà chỉ mang lại lợi ích cho họ trong khi người dân phải trả giá.

Sự thể này không còn bền vững được nữa, không thể kéo dài được nữa. Đây là sự nhận thức có thể bắt đầu đột phá trong năm 2021 nhiều hơn là cho đến nay, rằng có nhu cầu, một nhu cầu tuyệt đối và cấp bách, tạo ra những xã hội quân bình hầu lớp thượng lưu không thể bóc lột người dân được nữa. Nhu cầu này cấp bách hơn rất, rất nhiều cuộc khủng hoảng khí hậu, hay đại dịch, hay kinh tế, hay bất cứ khủng hoảng nào khác. Đây là khủng hoảng thực sự, khủng hoảng duy nhất trên địa cầu như đã kéo dài từ hàng bao thế kỷ. Nhưng bây giờ chúng ta mới đến một mức mà ngày càng có nhiều người sẵn sàng nhìn thấy, ngày càng có nhiều xã hội sẵn sàng làm cái gì đó để giải quyết, nhiều hơn là cho tới nay, và mặc dù cũng có nhiều quốc gia dân chủ đã tiến bộ đáng kể để cải biến xã hội cho bớt độc quyền, nhưng Hoa Kỳ không có trong số đó, và Anh quốc cũng không có trong số đó. Cần nhiều tiến bộ hơn, đặc biệt là trên bình diện toàn cầu.

Và điều này kết thúc những nhận xét mà ta mong muốn đưa ra cho các con ở đây. Ta sẽ rút về, niêm phong các con trong sự bình an tuyệt đối của Phật, và nhường lời cho Mẹ Mary trao cho các con thái cực Omega của bài giảng này. TA LÀ Gautama.       

Trải nghiệm sự nhận biết quả cầu ở các tầng cao của quả vị Ki-tô

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels ngày 6/12/2020, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Phật biết gì vể quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? À, làm thế nào con trở thành Phật chứ? Bằng cách vượt qua giai đoạn phân biện Ki-tô và quả vị Ki-tô. Như chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giải thích cho con, có một số tầng tâm thức và măc đù trên địa cầu có 144 tầng như thế, trên cõi tâm linh còn có nhiều tầng hơn nữa. Trước tiên con vươn lên tầng quả vị Ki-tô, xong từ đó con có thể vươn lên tầng quả vị Phật. Con không cần phải đạt đến quả vị Phật để thăng thiên nhưng con có thể.

Chúng tôi đã cố trao truyền cho con ở đây một số lời dạy về một số yếu tố ngăn cản con có được sự phân biện Ki-tô. Yếu tố mà ta muốn lưu ý con trong bài này là khi con đạt đến tầng tâm thức 96, con đối mặt với một cuộc khai ngộ nhất định. Chúng tôi có nói là ở tầng 96, con đối diện với một ngã ba đường khi con có thể, hoặc thăng vượt trọng tâm của con vào bản thân con, hoăc rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ khi con ngày càng tập trung vào chính mình. Một trong những yếu tố sẽ quyết định con đi lên hay đi xuống ở tầng đó là vấn đề mà ta muốn chỉ ra cho con thấy ở đây. Đây là một vấn đề đã được các giới tâm lý học hiện đại bàn cãi và thường được gọi là “những vấn đề kiểm soát”.

Kiểm soát và quyền tự quyết

Một lần nữa nếu trở lại với các sa nhân và nhìn vào tình trạng của chúng, chúng tôi đã có trình bày về bầu cõi thứ tư khi có những sinh thể đã tự xưng làm kẻ cai trị tuyệt đối ở một số hành tinh. Con cần điều gì để chiếm địa vị nắm mọi quyền lực mà không ai có thể phản kháng? Hiển nhiên con cần giành lấy quyền kiểm soát trên hành tinh đó và kiểm soát tất cả mọi cư dân đầu thai ở đó. Con tìm cách tạo dựng cho mình một vị thế hay một cảm nhận cao trội qua sự kiểm soát. Một đằng, con tìm cách tự kiểm soát mình, kiểm soát tâm mình, cho nên con rất tự chủ, kỷ luật và không bao giờ mất cảnh giác, nhưng con cũng tìm cách kiểm soát người khác.

Sau khi các sa nhân bị sa ngã, tất nhiên chúng đã tiếp tục trên cái trớn kiểm soát đó. Một số đã tìm cách kiểm soát toàn bộ vũ trụ, thậm chí kiểm soát cả Thượng đế. Nhưng đương nhiên, chúng không bao giờ có thể đạt được mục tiêu đó vì không có cách chi chúng hiểu được Đấng Sáng tạo đích thực là như thế nào. Tuy vậy con cũng có thể thấy chuyện trớ trêu là có những kẻ lại muốn kiểm soát một vũ trụ nơi định luật tuyệt đối duy nhất là Định luật Tự quyết.

Làm thế nào con có thể kiểm soát thật sự khi quyền tự quyết là định luật tuyệt đối? Làm thế nào con có thể kiểm soát được chọn lựa của mọi người? Tất nhiên như con thấy sau khi sa nhân đến địa cầu, chúng đã mưu toan kiểm soát toàn thể dân chúng bằng rất nhiều cách. Chúng đã làm vậy trên bình diện vật lý bằng cách giết hại hay cầm tù những ai không chấp nhận kiểm soát. Chúng đã làm vậy trên bình diện tình cảm bằng cách cuốn hút con người vào những cơn lốc động cảm nơi họ rơi vào vòng kiểm soát của tác giả cơn lốc, tức là chính các sa nhân. Chúng đã làm vậy ở mức lý trí bằng cách lôi kéo con người tin vào một loạt những hệ thống tín ngưỡng, từ tôn giáo cho đến chủ nghĩa duy vật cùng những ý thức hệ chính trị đủ loại.

Và tất nhiên chúng cũng đã làm vậy ở mức bản sắc bằng cách xui khiến mọi người trên hành tinh chấp nhận rằng mình chỉ là những con người bị muôn vàn giới hạn gò bó – duy có một số ít người thật đặc biệt có khả năng vượt ra ngoài giới hạn đó, vì thế cho nên con phải nhắm mắt đi theo những người có tầm nhận thức cao trội đó. Hiển nhiên, các sa nhân đều mang động lượng kiểm soát người khác, cho nên chúng phóng ý muốn kiểm soát này ra ngoài và chúng sẵn sàng kiểm soát người khác. Không phải tất cả mọi sa nhân đều sẵn sàng giết hại để mà kiểm soát – vì một số sẽ cố làm một cách ít bạo lực hơn – nhưng chúng vẫn phóng chiếu nó ra ngoài.

Con không được lầm lẫn, nhiều sa nhân cũng có một đặc tính mà người ta thường gọi là sự tự chủ. Chúng có thể vô cùng kỷ luật, vô cùng kiên quyết, nhắm thẳng đến mục tiêu, và đó là tại sao chúng thường rất thành công trong chính trường hay thương trường. Chúng khao khát kiểm soát người khác và chúng rất hung hãn khi ra tay vì chúng cảm thấy được quyền làm như vậy. Lẽ tự nhiên, con có thể nói là chúng ở trong một tâm trạng vô cùng bị động, đe dọa, vì chúng luôn luôn nhận ra là việc kiểm soát quần chúng thật là khó khăn, đặc biệt khi phải kiểm soát tất cả mọi người, vì ngay cả trên một hành tinh như địa cầu cũng có xu hướng là thỉnh thoảng sẽ hiện ra một số cá nhân từ chối để cho chúng kiểm soát, từ chối đi theo tâm thức đại chúng, đi theo đường lối của đảng hay mệnh lệnh của giáo hoàng hoặc bất cứ ai khác.

Cho nên mới có những người nổi loạn, và đôi khi kẻ nổi loạn lại chính là những sa nhân khác hình thành một lớp tự tôn quyền lực thay thế, nhằm lật đổ lớp tự tôn quyền lực đang nắm quyền. Nhưng trong rất nhiều trường hợp, những con người từ chối bị kiểm soát đó thực sự là những sinh thể đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô cao, và do đó họ đứng nổi bật ra hầu chứng tỏ cho mọi người, chứng tỏ cho quần chúng thấy là có cách giải tỏa được vòng kiểm soát.

Một số trong những người đó đã đạt tới mức quả vị Ki-tô tương tự như Giê-su, tức là họ có khả năng đem lại sự phán xử Ki-tô trên một số sa nhân.

Đối với sa nhân, thật là khó lòng duy trì được cảm giác rằng mình luôn luôn nắm kiểm soát. Cho nên nhiều sa nhân đã dựng lên trong tâm một số cấu trúc phức tạp hầu duy trì cảm giác là mình vẫn nắm kiểm soát bất kể sự việc xảy ra bên ngoài có là gì. Chúng có một thế giới quan luôn luôn đặt mình ở trung tâm vũ trụ, và chúng có nhiều cách khác nhau để giải thích tại sao sự việc xảy ra lại không thể kiểm soát, không thể tránh được.

Nhu cầu giải thích mọi sự

Vậy hành tinh địa cầu là gì chứ? Như chúng tôi đã trình bày mấy lần, địa cầu có thể được ví như một bộ máy giả thực tại (reality simulator). Khi con đầu thai trên địa cầu, con bước vào bộ máy giả thực tại đó với khả năng mô phỏng nhiều loại môi trường khác nhau. Một phần trong cách mô phỏng là khi con người, đặc biệt là tâm thức tập thể, đè chồng một số hình ảnh, một số niềm tin, một số thế giới quan lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật, rồi qua đó bộ máy giả thực tại sẽ trải bày những thứ đó ra.

Chúng tôi đã có nói là ở ban đầu, hành tinh này đã được sinh tạo trong một trạng thái cao hơn khi không một ai phải đổ mồ hôi lao động để nuôi tấm thân vật lý. Sau cuộc sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, giờ đây các con phải làm lụng vật lý để nuôi thân. Cho nên điều con thấy ở đây là hành tinh địa cầu là một bộ máy giả thực tại, nhưng đồng thời cũng có một cơ chế an toàn khiến cho mọi người khó lòng nghĩ rằng môi trường mô phỏng này là thực tại tuyệt đối bất di bất dịch. Tất nhiên có một vài cách để tạo ra cơ chế an toàn này, trong số đó có định luật thứ hai của nhiệt động học sẽ làm tan vỡ bất cứ gì do nhị nguyên tạo ra. Và một cách khác nữa là sự đa dạng của loài người, khiến cho việc bắt mọi người phải hành xử giống hệt nhau thật khó xảy ra.

Cho nên thỉnh thoảng sẽ có một sinh thể Ki-tô đứng lên thách thức những quy định bảo con người là gì và phải cư xử ra sao. Đấy, con thấy được động cơ là thế đấy: Sa nhân sẽ muốn nắm quyền kiểm soát môi trường của chúng, nhưng trên địa cầu sẽ có một số yếu tố khiến cho một sa nhân gần như không thể nào đạt được kiểm soát tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ngay từ lúc sa nhân bị sa ngã, ngay từ lúc chúng đến địa cầu, chúng đã phải đối mặt với thực tế đó, là sự kiện chúng muốn nắm kiểm soát vật lý tuyệt đối trên hành tinh nhưng thực sự chúng không bao giờ có khả năng làm được chuyện đó.

Vậy thì sa nhân sẽ đối phó như thế nào? Cách đối phó của chúng là tạo ra một cách giải thích nào đó trong tâm của chúng. Đó có thể là một sự giải thích ở mức cá nhân mà chúng sẽ không bao giờ chia sẻ với ai. Đó cũng có thể là một ý thức hệ, một chủ nghĩa, một tôn giáo, một lý thuyết khoa học, một lý thuyết chính trị, bất kể. Nói cách khác, sa nhân có một nhu cầu ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) phải giải thích những gì chúng không thể kiểm soát một cách tuyệt đối trong cõi vật lý. Chúng cố tạo ra một hệ thống nhằm giải thích tại sao có những chuyện xảy ra mà chúng không thể tiên liệu hay mong muốn. Đây quả thực là một động lượng rất lâu đời trên địa cầu, và đã có những con quái vật tập thể khổng lồ được dựng lên để thực hiện chuyện này. Bởi vì lẽ tự nhiên, không chỉ có sa nhân bị tác động mà hầu hết loài người trên địa cầu cũng bị tác động.

Vì như con thấy, người bình thường chứ không cứ sa nhân cũng có vấn đề cần giải thích như vậy. Họ trải nghiệm quá nhiều chuyện trên địa cầu mà họ không muốn xảy ra cho mình, và họ phải giải thích tại sao lại như vậy. Một số người phải tìm cách giải thích vì họ đi theo một lãnh tụ sa ngã hứa hẹn sẽ dẫn họ đến một Xã hội Không tưởng nếu họ cứ đi theo – cho nên họ cần giải thích tại sao có những chuyện xảy ra không đúng như lời hứa, hầu họ có thể tiếp tục cắm đầu đi theo do không chịu tự quyết định cho bản thân mình. Một số người lại tin lời hứa của một tôn giáo và họ cũng có nhu cầu giải thích tại sao tôn giáo đó không thể thực hiện toàn bộ lời hứa. Cho nên con có thể nói chung chung, mọi người trên địa cầu đều có vấn đề giải thích nói trên. Họ cần phải giải thích tại sao có những chuyện xảy ra mà mình không muốn hay không chờ đợi.

Đây chính là nguồn gốc của cơ chế tâm lý mà các nhà tâm lý học đã bắt đầu nhìn ra, và cho tới nay họ gọi đó là “những vấn đề kiểm soát”. Tâm lý học nhận ra là mặc dù một số người có vấn đề kiểm soát lớn hơn người khác, nhưng trên cơ bản, mọi người ở một mức tâm thức nào đó đều có những vấn đề kiểm soát.

Cho nên con thấy gì khi một người tìm ra các giáo lý tâm linh, kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên? Đấy, như ta vừa nói, con đã lớn lên trên một hành tinh mang tâm thức muốn kiểm soát, muốn giải thích. Con không phải xấu hổ nếu con mang khuynh hướng này. Tất cả các con đã đều có khuynh hướng này khi con tìm thấy đường tu lần đầu tiên. Điều này có thể đã xảy ra trong một tiền kiếp, nhưng khi lần đầu tiên con khám phá ra đường tu tâm linh thì con đã mang sẵn vấn đề kiểm soát này rồi.  

Dùng giáo lý để kiểm soát

Vậy con sẽ làm gì đây? Phải, con làm điều duy nhất mà con có thể làm. Con tìm cách sử dụng giáo lý tâm linh của con để giải quyết nhu cầu cần giải thích, để giải thích những gì đang diễn ra trên trái đất, tại sao một số chuyện lại xảy ra mà con không chờ đợi, không mong muốn, và tại sao mặc dù những lời hứa hẹn mà giáo lý hay tôn giáo hay lãnh đạo tâm linh của con có thể đã đưa ra, con vẫn không thể tránh khỏi những chuyện mình không muốn. Nói cách khác, con cũng có nhu cầu giải thích tại sao con không thể kiểm soát môi trường và hoàn cảnh của con, và bây giờ con tìm cách sử dụng giáo lý tâm linh của mình để làm chuyện đó.

Điều mà sa nhân thường làm là chúng chỉ định một con dê tế thần, và do dê tế thần không chịu tuân theo chân lý duy nhất và tuyệt đối mà mọi chuyện mới tồi tệ như vậy. Một lần nữa, ví dụ điển hình là Hitler với con dê tế thần là người đạo Do Thái – và vì họ là kẻ mang trách nhiệm gây ra tất cả mọi vấn nạn của nước Đức cho nên họ cần bị diệt chủng để vấn nạn được giải quyết. Đó không phải là lần đầu tiên người ta tạo ra ý tưởng đó để giết người hàng loạt. Lẽ tự nhiên, khi con là một người tâm linh và đã đạt được một trình độ trưởng thành nào đó cho phép con nhận diện một giáo lý của chân sư thăng thiên, thì con cũng đã khắc phục được mong muốn kiểm soát của sa nhân – miễn là con không phải là một sa nhân đã tìm ra giáo lý của chân sư, nhưng ngay cả một sa nhân tìm được giáo lý của chân sư cũng đã khắc phục được xu hướng dùng bạo lực. Con không còn muốn giết hại người khác, con không còn muốn hung hãn vật lý để kiểm soát người khác. Thật ra có thể nói là nhiều người tâm linh, ít ra những người tìm thấy giáo lý của chân sư, đã vượt qua nhu cầu muốn kiểm soát người khác. Nhưng không phải mọi người đều đã vượt qua nhu cầu đó, như con có thể thấy trong các đợt truyền pháp trước của chân sư và ngay cả trong những năm đầu của đợt truyền pháp này. Có một số người có mong muốn kiểm soát người khác – họ không dùng những phương tiện vật lý mà những phương tiện tâm lý.

Điều ta thực sự muốn đề cập ở đây là vấn đề con có ý muốn giải thích tại sao con không thể kiểm soát mọi khía cạnh của đời con. Con tìm cách sử dụng một giáo lý của chân sư thăng thiên để giải thích. Tất nhiên, chúng tôi cho phép chuyện đó vì chúng tôi biết con không thể làm khác được ở những tầng tâm thức giữa 48 với 96. Chúng tôi cũng đã thiết kế khóa giảng về bảy tia sáng để con có thể lần hồi khắc phục mong muốn kiểm soát này và thoát dần ra khỏi vòng kềm toả của ý muốn kiểm soát. Bởi vì như chúng tôi đã có nói nhiều lần, con không thể tìm cách kiểm soát người khác trừ khi chính con bị kiểm soát bởi cái tâm lý ở đằng sau, bởi các tà thể tập thể hay thậm chí bởi cả sa nhân.

Cho nên giờ đây tới điểm con đạt đến tầng 96. Điều đầu tiên con cần khắc phục là mong muốn kiểm soát người khác bằng những phương tiện tâm lý. Nếu con không trực diện với nó, nếu con không chịu nhìn vào những cái ngã đã thúc đẩy con muốn kiểm soát người khác một cách ám ảnh cưỡng chế, thì con sẽ không thể vươn lên cao hơn tầng 96. Và do đó con sẽ phải bước vào vòng xoắn ốc hướng hạ, và con sẽ kiểm soát người khác ngày càng chặt chẽ hơn trong một thời gian.  

Vì vậy, nếu con có thể khắc phục ý muốn kiểm soát này đối với người khác, cho dù bằng những phương tiện tâm lý hay bằng cách sử dụng giáo lý của chân sư, thì con sẽ có thể vươn lên cao hơn tầng 96. Điều này không có nghĩa là con đã khắc phục mọi vấn đề kiểm soát. Trong một thời gian ngay cả trên tầng 96, con sẽ vẫn phải đối phó với nó trong phiên bản vi tế hơn của nó. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là con sẽ phải đối phó với nó tuốt mãi cho tới tầng 144 và điểm thăng thiên. Một lần nữa, con có ý muốn sử dụng giáo lý của chân sư để giải thích mọi sự việc xảy ra trên địa cầu, mọi sự việc xảy ra cho con. Vậy con có thể làm gì để vượt qua nó? Hay là chúng ta cần hỏi: Tại sao con lại cần vượt qua nó? Có gì sai trái khi con dùng giáo lý chân sư để cố giải thích mọi chuyện?

À, cái sai trái là con có một số ngã tách biệt giờ đây đang sử dụng giáo lý của chân sư, và do đó các ngã tách biệt này đang tự xưng là chúng nhận được thẩm quyền từ giáo lý chân sư, có nghĩa là con không được chất vấn chúng. Nhưng chúng tôi có dạy: Nếu con không chất vấn một cái ngã thì làm thế nào con có thể khắc phục được nó, làm thế nào con thăng vượt được nó? Cho nên điều này có nghĩa là nếu con cho phép những ngã đó sử dụng giáo lý kiểu đó, con sẽ bị kẹt lại ở một tầng nào đó.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải trực diện với lòng mong muốn kiểm soát qua việc sử dụng giáo lý chân sư để giải thích tất cả mọi khía cạnh trong hoàn cảnh cá nhân của con lẫn trong đời sống. Làm thế nào con có thể bắt đầu đương đầu với nó một khi các chân sư đã chỉ nó ra cho con một cách công khai? Nhiều người trong số các con đã tinh tấn đáng kể mà không thực sự ý thức mình đang làm gì, nhưng các con đã có tinh tấn. Một số các con đã bỏ được một số vấn đề từng khiến con quan tâm cách đây 10, 20, 30 năm về trước. Cho nên chúng ta hãy thử nhìn rộng xem những phương pháp nào thường được sử dụng để giải thích mọi chuyện.

Ý muốn giải thích có nhiều tầng cấp

Ý muốn giải thích một chuyện nào đó có mấy mức độ khác nhau. Nó có một thành phần cảm xúc, là nơi con muốn giải thích ở mức cảm xúc. Đây là nơi con có thể, chẳng hạn, bị ảnh hưởng bởi một lãnh tụ cứng cỏi dựng lên một thế giới quan tự nhận là sẽ giải thích được mọi chuyện. Quần chúng bị lôi cuốn vào đó vì khi họ đi theo lãnh tụ đó, họ nhận được một cảm giác như thể mình có quyền năng, mình nắm quyền kiểm soát. Trong thế giới hiện đại, đặc biệt là ở phương Tây, điều xảy ra khá phổ biến là người ta dùng tâm phân tích, lý luận đường thẳng để giải thích mọi chuyện. Tâm đường thẳng làm gì? Nó nhìn thấy một quan hệ đường thẳng giữa nhân và quả. Tâm đường thẳng tin rằng mọi sự xảy ra trên địa cầu đều có một nguyên nhân, rằng mọi sự con nhìn thấy đều là một hậu quả và có một nguyên nhân đã sản xuất ra hậu quả đó.

Theo một nghĩa nào đó và ở mức chung chung như vậy thì điều đó không sai. Có nguyên nhân và có hậu quả. Không có gì trong vũ trụ vật chất mà không có một nguyên nhân nào đó. Nhưng cái giới hạn của tâm đường thẳng là nó dựa trên phân tích, mà phân tich thì làm gì? Nó lấy một tổng thể, chia tổng thể ra làm nhiều thành phần riêng rẽ, xong nó bảo: “Đây là một hậu quả tách biệt mà bây giờ chúng ta có thể tìm hiểu hiểu riêng rẽ, và hậu quả tách biệt này phải có một nguyên nhân tách biệt đã gây ra hậu quả một cách đường thẳng.” Nói cách khác, một hậu quả nào đó luôn luôn phải đến từ cùng một nguyên nhân và chỉ nguyên nhân đó thôi. Khi một quả táo từ trên cây rơi xuống thì quả táo đó có thể được tìm hiểu như một đơn vị riêng rẽ. Nhất định phải có một nguyên nhân đã khiến nó rơi xuống: đó là trọng lực tác dụng lên quả táo. Cho nên có một hậu quả là quả táo rơi, và có một nguyên nhân là trọng lực. Không một yếu tố nào khác cần được xét tới bởi vì bây giờ chúng ta đã có một cách giải thích gọn ghẽ và đường thẳng về nhân quả. Xong tâm đường thẳng suy luận rằng mặc dù có rất nhiều chuyện hỗn độn xảy ra trên địa cầu, vẫn phải có cách chia chúng ra thành từng thành phần đơn giản và tìm ra một nguyên nhân riêng biệt cho mỗi hậu quả, và như vậy chúng ta sẽ hiểu rõ tại sao mọi sự vận hành.

Con sẽ thấy là xuyên qua mọi thời đại, con người đã tìm cách dựng lên đủ loại hệ thống giải thích. Thuở trước, một số nền văn minh tin rằng mọi hiện tượng trong thiên nhiên đều có một nguyên nhân và nguyên nhân này là một vị thần cai quản hiện tượng đó. Có một thần nông nghiệp, một thần săn bắn, một thần mưa, một thần gió, vân vân. Từ rất xưa, người ta cũng đã dùng khoa chiêm tinh để giải thích rằng chuyển động của tinh tú trên trời hình thành một nguyên nhân gây ra một hậu quả nhất định trên trái đất, cho dù tinh tú ở rất xa.

Nói cho thực tế thì vào thời đó, người ta không hiểu là các vì sao xa đến chừng nào vì họ tưởng bầu trời gần hơn rất nhiều. Ngày nay, người ta biết rõ các vì sao xa đến chừng nào nhưng họ vẫn tin là có một nguyên nhân có thể ảnh hưởng đến cá nhân họ, rồi dựa theo đó họ đặt ra những giới hạn trên những gì họ có thể làm hay không được làm trong đời mình. Con yêu dấu, con không thể biểu hiện tâm Ki-tô nếu con tin là con bị giới hạn bởi lá số tử vi của con và con không có khả năng vươn lên cao hơn lá số. Cho nên con thấy điều ta muốn nói, có đủ loại ví dụ cho thấy là con người cứ đi tìm mối quan hệ quá giản dị như thế giữa nhân và quả.

Tất nhiên, nhiều người đi tìm cái đó vì họ muốn dùng hiểu biết của mình về nhân quả để tiên đoán tương lai. Như chúng tôi đã có nói, nếu con không thể tiên đoán chuyện gì có thể xảy ra thì làm thế nào con có thể kiểm soát nó được? Cho nên để thực sự kiểm soát hiện tại, con cũng cần quan tâm đến những gì có thể xảy ra trong tương lai, và con nghĩ là nếu con biết được tương lai thì con sẽ có thể tiên đoán, và con có thể điều chỉnh để sự thể diễn ra không đến nỗi tồi tệ, hoặc ít ra không vượt ngoài dự đoán của con. Cho nên con mới thấy trong một số thành phần của cộng đồng tâm linh trên thế giới, cộng đồng Thời Mới và ngay cả cộng đồng tôn giáo, người ta đã dùng đủ loại phương thức bói toán để tìm cách biết trước một sự cố. Và thường thường phương thức đó dựa trên hên xui may rủi – lá bài tarot, cầu cơ, lời sấm đủ loại, mổ bụng một con thú để xem nội tạng như thế nào – và người ta tin những cách đó là chỉ dấu cho sự việc sẽ xảy ra trong tương lai.  

Nói cách khác, con có thể thấy được sự thiếu ăn khớp, sự bất nhất về nhận thức. Đây con có một người tìm cách kiểm soát tương lai của mình qua một lời tiên đoán, nhưng phương thức người đó dùng để tiên đoán tương lai lại dựa trên một yếu tố hên xui may rủi, không thể tiên đoán trước trong bản chất. Có lý gì mà lại nghĩ rằng việc bói toán dựa trên may rủi có thể nói trước tương lại một cách chính xác? À, điều con cũng có thể nói được là phương pháp may rủi này cũng chính xác không kém một số phương pháp bói toán khác mà người ta đã tìm ra, trong đó có một số phương pháp tiên đoán khoa học.

Cho nên khi con vượt trên tầng 96 và bắt đầu tu đến những tầng cao hơn đó, sẽ rất hữu ích nếu con xem xét toàn bộ động cơ vừa kể. Con có thể nỗ lực nhìn xem con có mang bất kỳ cái ngã nào không, là những cái ngã dựa trên ý muốn kiểm soát. Con có thể khá dễ dàng học cách nhận diện chúng khi có chuyện bất ngờ xảy đến cho mình và con nhận xét cách phản ứng của con. Liệu con có cảm thấy phiền hà, bực tức khi có chuyện bất ngờ xảy đến? Liệu con có cảm giác đó là chuyện bất công, không phải lẽ? Liệu con có xu hướng tự hỏi tại sao Thượng đế lại cho phép nó xảy ra cho mình, vì con đã làm mọi thứ mà con nghĩ Thượng đế mong muốn, vậy thì tại sao nó vẫn xảy ra cho con? Hay tại sao các chân sư thăng thiên đã không ngăn cản chuyện đó xảy ra cho con?  

Cho nên trong số những người tâm linh, có một giấc mơ cho rằng nếu con tuân thủ và chuyên cần áp dụng một giáo lý tâm linh chân chính, thì con phải có khả năng nắm được quyền kiểm soát trên đời mình để không thể xảy ra bất cứ gì mà con không chờ đợi hay không mong muốn.

Nhưng con hãy nhìn vào cuộc đời của Giê-su. Liệu thày có phải là một kẻ bị ám ảnh bởi khả năng kiểm soát mọi khía cạnh trong đời mình? À, nếu thày là một người như thế thì tại sao thày lại cho phép mình bị đóng đinh trên thập tự giá? Thày có muốn bị đóng đinh hay không? Liệu thày có nghĩ: “Ồ, đây có thể là một kinh nghiệm thú vị được nếm mùi việc đóng đinh trên cây thập tự?” Dĩ nhiên là không. Nhưng thày vẫn cho phép nó xảy ra vì thày tự cho phép mình bước vào một tình huống hoàn toàn hỗn độn và không thể tiên đoán trước, nơi thật sự không một ai có thể biết trước được điều gì sẽ xảy ra. Thực tế của hành tinh địa cầu là hành tinh này hỗn độn, dày đặc đến độ không một ai, và ngay cả một chân sư thăng thiên, cũng không thể nào tiên liệu mọi chuyện trong mọi tình huống.        

Lý duyên khởi

Tại sao như thế chứ? À, điều ta muốn trao cho con ở đây là một sự hiểu biết sâu sắc hơn về một khái niệm mà ta từng giảng dạy 2500 năm về trước. Đó là khái niệm mà trong đạo Phật vẫn được biết tới như là lý duyên khởi – như chúng tôi cũng có đề cập rồi. Điều quan trọng khi con đạt đến những tầng cao hơn tầng 96 là con bắt đầu suy ngẫm về điểm này. Ta không nói là con cần đạt được một hiểu biết sắc sảo về động cơ vận hành của nó, nhưng con cần hiểu khái niệm và ý nghĩa của nó, đặc biệt liên quan đến vấn đề kiểm soát.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có nói là quyền tự quyết là định luật tối thượng, và không một sinh thể nào ở cõi thăng thiên sẽ can thiệp vào quyền tự quyết của con người. Do đó, bất cứ nguyên nhân nào mà con đã kích hoạt, chúng tôi sẽ để yên cho con trải nghiệm hậu quả của nó, trừ khi con thay đổi tâm thức của mình trước khi hậu quả ập vào cõi vật lý. Chúng tôi cũng có nói rằng tất cả mọi thứ đều kết nối với nhau. Mọi sự sống đều là một, toàn bộ vũ trụ là một khối liên kết. Điều này thực sự có nghĩa là gì? Trong bối cảnh những gì ta đang trình bày ở đây, điều này có nghĩa là ảo tưởng của tâm đường thẳng cho rằng nó có thể chia tổng thể ra thành nhiều thành phần tách biệt… đúng là một ảo tưởng.    

Tất nhiên con có thể nhìn vào một tổng thể, chia nó ra thành từng thành phần tách biệt và tìm cách nghiên cứu từng phần nhỏ, nhưng làm như thế con sẽ không giải thích được chuyện gì đang xảy ra, vì tất cả là một tổng thể nối kết. Cho nên ngay lúc con quyết định chú tâm vào một khía cạnh đặc thù của tổng thể và coi đó là một vật tách biệt, thì ngay lúc đó con đã bỏ rơi mọi khả năng hiểu được điều gì xảy ra. Bởi vì khi tất cả là một tổng thể nối kết, thì làm sao có thể có khái niệm một vật tách biệt, làm sao có thể có một vật tách biệt với một nguyên nhân tách biệt? Chuyện đó không thể xảy ra. Và cũng không thực tiễn. Đồng ý, ở một tầng cấp nào đó có thể có một mối quan hệ nhân quả. Chắc chắn nếu trong ly nước con uống có một loại vi khuẩn nhất định thì con sẽ mắc bệnh tả. Nhưng điều này vẫn không thực sự giải thích tại sao vi khuẩn đó lại hiện hữu trên điạ cầu, tại sao có chứng bệnh gọi là bệnh tả hay nhiều chứng bệnh khác, và tại sao hai người uống cùng ly nước mà chỉ có một người mắc bệnh còn người kia thì không. Cho nên con thấy ở đây là con có thể sử dụng tâm phân tích đường thẳng để dựng lên những chuỗi nhân quả sẽ vận hành ở một mức rất cục bộ, nhưng chúng chỉ có thể giải thích một số hiện tượng trong một khoảng rất hạn chế, và vẫn còn một bầu cõi khổng lồ mà chúng không thể giải thích được.  

Vì vậy cũng có thể nói là khi con dùng tâm đường thẳng để tìm kiếm hiện tượng tách biệt, hậu quả tách biệt và nguyên nhân tách biệt, thì con sẽ không bao giờ thành tựu được giấc mơ kiểm soát mọi chuyện. Chẳng phải điều đó đã được khoa học chứng minh hay sao khi khoa học duy vật cố thu nhỏ con người thành một sinh thể cơ học nơi mọi chuyện xảy ra trong tâm chỉ là hậu quả của điều kiện vật lý trong bộ não? Và mặc dù đã cố kiểm soát bộ não, khoa học vẫn không thể kiểm soát được hành vi và tâm lý con người. Mặc dù đã vận dụng công nghệ để kiểm soát thiên nhiên hay khí hậu hay nguyên cả hành tinh nói chung, thì khoa học vẫn không thể kiểm soát được mọi chuyện. Khi con là một học trò tâm linh đạt đến những tầng tâm thức cao hơn đó, điều con có thể làm là con hãy bắt đầu suy ngẫm về lý duyên khởi, suy ngẫm về sự liên kết của mọi thứ trên địa cầu.

Một lần nữa, chúng tôi hiểu là điều này sẽ khiến con thắc mắc. Vì chúng tôi đã có dạy: Có một giai đoạn giữa tầng 48 và 96 khi con nỗ lực nâng mình lên khỏi tâm thức tập thể, và con làm vậy bằng cách xây dựng một bản sắc cá biệt. Cho nên lẽ tự nhiên điều này có nghĩa là con sẽ suy nghĩ theo chiều hướng “tôi có thể làm gì để nâng tâm thức mình lên? Tôi có thể làm gì để đảm đương và cải thiện hoàn cảnh vỏ ngoài của mình?” Ở mức tâm thức đó thì điều này chính đáng. Nhưng khi con bắt đầu tiến xa hơn tầng 96, con đang làm gì chứ? Như chúng tôi đã nói, con đang tháo gỡ cái ngã cá biệt mà con đã tạo dựng. Ngã đó chỉ là một cỗ xe đưa con tới một mức nào đó, và giờ đây nó không thể đưa con lên cao hơn. Nó cần được gỡ bỏ.    

Làm thế nào con gỡ bỏ nó chứ? Con cần gỡ bỏ bằng cách xem xét toàn bộ khái niệm tách biệt, và con khắc phục điều chúng tôi đã có đề cập, là ảo tưởng tách biệt do tâm thức nhị nguyên tạo dựng. Khi con tiến đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, càng ngày con càng ngộ ra tính duy nhất nằm bên dưới mọi sự sống. Con nhìn thấy mọi sự sống được nối kết như thế nào, con thấy chính con nối kết với Hiện diện TA LÀ, nối kết với các chân sư thăng thiên cùng mọi người khác, thậm chí nối kết cả với hành tinh, với vật chất. Một khi con bắt đầu trải nghiệm sự nối kết rộng lớn này với tất cả, con cũng bắt đầu trải nghiệm và nhận ra tất cả đều liên kết với nhau – đó là lý duyên khởi. Nói cách khác, không có gì khởi lên mà đứng riêng biệt, không có nguyên nhân nào riêng biệt. Bởi vì không một hiện tượng nào trên địa cầu là một hiện tượng riêng lẻ mà là một phần của tổng thể, và do đó nó cũng bước đồng bộ với tổng thể.

Bây giờ để ta cho con một ví dụ hiển nhiên. Con có thể – ít ra là trước khi có cuộc đại dịch – đến một nơi gọi là phi trường. Con mua vé, bước vào một thiết bị công nghệ gọi là máy bay. Chiếc máy bay cất cánh lên không trung và nó bay rất, rất nhanh so với mặt đất. Con khởi đầu hành trình ở một nơi và chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ, con đã tới một nơi khác ở rất xa. Cho nên con có thể nói là máy bay chuyển động một cách độc lập đối với địa cầu vì nó không bị buộc chặt vào mặt đất. Nó bay trên không trung với tốc độ cao và thậm chí nó có khả năng bay nghịch cả hướng quay của trái đất.  

Do đó nếu con nhìn máy bay từ mặt hành tinh này, con sẽ thấy một chiếc máy bay cao trên trời như một vật tách biệt đang chuyển động độc lập đối với những gì xảy ra trên mặt đất. Nếu con ở trong máy bay, con cũng nghĩ mình đang ngồi trong một vật tách biệt chuyển động độc lập với mặt đất. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con đi vào không gian vũ trụ và nhìn ngược lại trái đất? Con có đem theo một chiếc ống nhòm để theo dõi chiếc máy bay kia. Con có thể nói, đúng vậy, ở một mức rất cục bộ nhỏ bé, nó đang di chuyển độc lập đối với mặt đất, nhưng khi con điều chỉnh ống nhòm để nhìn nguyên hành tinh thì con thấy nó di động trong trọng trường của hành tinh. Và nếu con có thể nhìn cả hành tinh quay trên một quỹ đạo xung quanh mặt trời, con sẽ nhận ra là nó đang đồng hành với hành tinh trên quỹ đạo đó, và nó không hề di chuyển độc lập đối với quỹ đạo đó hay độc lập đối với mặt trời.

Thuyết hỗn mang và sự buông bỏ ý muốn kiểm soát

Trên đây là một ví dụ rất thô thiển về lý duyên khởi. Tất cả là một tổng thể nối kết. Con biết thuyết hỗn mang (chaos theory) cũng nói về sự nối kết của tất cả mọi vật, và từ đó mới có câu nói quen thuộc bảo rằng “cái vỗ của một cánh bướm ở một nơi trên trái đất khởi động nguyên một chuỗi những nguyên nhân liên kết với nhau có khả năng kích hoạt sau đó một trận bão lớn ở một nơi khác trên trái đất.” Mặc dù có lẽ đó không là ví dụ thực tế nhất nhưng đó vẫn là một ví dụ có giá trị, theo nghĩa là địa cầu không phải là một hệ thống cơ học đường thẳng như khoa học đã muốn con tin trước đây do sự thiếu hiểu biết. Với thuyết hỗn mang, một cách hiểu biết sâu sắc hơn đã mở ra, cho thấy là không có nguyên nhân nào là đường thẳng giản đơn, vì mọi thứ đều nối kết với nhau đến độ một hiệu ứng rất nhỏ nơi một điểm trong hệ thống, hay một nguyên nhân nhỏ bé nơi nột phần của hệ thống, có thể đem lại một hậu quả to lớn nơi một phần khác của hệ thống.       

Điều này có ý nghĩa gì cho con trên đường tu đến quả vị Ki-tô? Phải, khi con tiến bước ngày càng cao hơn trong tâm Ki-tô, con sẽ có khả năng nhiều hơn để buông bỏ mong muốn kiểm soát hoàn cảnh cá nhân của mình. Một cách nào đó, con gia tăng khả năng đồng sáng tạo, khả năng điều khiển vật chất và do đó điều khiển một số khía cạnh của hoàn cảnh vỏ ngoài, nhưng điều này cũng có thể trở thành một cái bẫy, một ngõ cụt. Có những người đã thực sự tinh tấn trên đường tu tâm linh, đã khắc phục các dạng vị kỷ thấp kém và vươn lên cao hơn tầng 96. Họ đã bắt đầu chứng được cái mà chúng tôi gọi là khả năng của tâm điều ngự vật chất, như con cũng thấy Giê-su từng thể hiện.

Nhưng có một số người sau đó đã mê mải chuyện này đến độ họ muốn dùng khả năng của tâm điều ngự vật chất đó để kiểm soát mọi khía cạnh trong hoàn cảnh vỏ ngoài của mình hầu không một sự kiện trái ý nào sẽ xảy đến cho mình. Họ phải được đúng những điều kiện mà họ muốn, cho dù đó là một căn nhà đẹp đẽ nơi một vùng xinh đẹp của thế giới với thời tiết luôn luôn tuyệt hảo, hay tiền bạc dồi dào, hay bất kỳ giấc mơ nào khác mà họ từng có ở những mức thấp hơn của đường tu nhưng chưa buông bỏ được. Thế là giờ đây họ có được chút ít khả năng điều ngự thì họ đem ra sử dụng để tạo hoàn cảnh mình từng mơ ước.      

Làm như vậy có thể chính đáng trong một thời gian, nhưng sẽ tới một điểm khi con cần bỏ nó lại đằng sau để có thể biểu hiện các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô mà Giê-su đã chứng tỏ. Giê-su đã không dùng khả năng điều ngự của thày để tạo cho mình một đời sống thoải mái. Đó là vì sao thày đã không bao giờ sở hữu đất đai, không bao giờ xây nhà, không bao giờ thiết lập một cộng đồng biệt lập bao quanh mình nơi thày cùng các môn đồ của thày sẽ được bảo vệ. Trái lại, thày đi lang thang khắp mọi nơi mà không thuộc về bất cứ nơi nào, không sở hữu bất cứ gì, tương tự như chính ta vào thuở ta hiện thân là Phật – mặc dù trong những năm chót ta đã có thiết lập một đạo tràng.   

Cho nên con thấy được là tới một điểm con sẽ nhận biết rõ hơn về lý duyên khởi. Con đang khắc phục những cái ngã muốn con kiểm soát môi trường của mình, kiểm soát cuộc đời của mình, và điều này nghĩa là gì? Nghĩa là càng ngày con càng buông bỏ nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Càng ngày con càng buông bỏ mong muốn kiểm soát, con từ bỏ các kỳ vọng, con từ bỏ ngay cả những ý tưởng, những giấc mơ, những hình ảnh về đời con phải như thế nào trên địa cầu. Tại sao con lại cần làm vậy? À, quả vị Ki-tô là gì chứ? Đó là tiến trình sẽ dẫn con đến thăng thiên. Thăng thiên là gì? Là điểm con buông hết mọi thứ của địa cầu. Con ngoảnh nhìn lại địa cầu. Khi con đứng đó ở tầng 144, con ngoảnh nhìn lại: “Còn gì nữa có thể níu tôi lại ở đó?” Nếu còn thì con sẽ phải quay trở lại và giải quyết nó. Nhưng nếu không còn gì nữa thì con sẽ có thể bước qua cánh cổng vào cõi thăng thiên.

An bình phụng sự

Điều con làm khi con đến gần tới tầng 144, là con buông bỏ những cái mà ta gọi là dính mắc, nhưng con cũng buông bỏ những giấc mơ, những ý tưởng về đời con phải trải ra như thế nào. Nếu đây là kiếp chót của con trên địa cầu, con cần buông hết mọi chờ đợi là đời con phải ra sao hay không được ra sao. Con cần đạt tới điểm nhận ra là những giai đoạn chót trên đường tu của con có thể đòi hỏi con trải nghiệm một số sự việc, phải kinh qua một số tình huống mà con thà muốn tránh ở những tầng thấp hơn. Nhưng con đã tới điểm con có khả năng buông bỏ chúng, kinh qua các trải nghiệm đó trong sự an bình nội tâm. Con không bị bận tâm. Con không đổ lỗi cho Thượng đế. Con không đổ lỗi cho các chân sư thăng thiên. Con không đổ lỗi cho chính con. Con chấp nhận đời con trải ra theo cách như vậy. Con cho phép nó trải ra vì con biết là khi con đạt đến những mức này của quả vị Ki-tô, đời con không còn là câu chuyện về con nữa, nó cũng không là chuyện con muốn gì trong cương vị một sinh thể độc lập. Đời con là chuyện con sẽ phụng sự như thế nào.

Con có thể phụng sự tha nhân như thế nào? Con có thể phụng sự các chân sư thăng thiên như thế nào? Con có thể phụng sự con đường phát triển của hành tinh như thế nào? Đây không phải là điều có thể định nghĩa dễ dàng. Có rất, rất nhiều cách để làm điều đó. Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều người đã phải trải qua trong kiếp đầu thai chót những tình huống dường như vô cùng tủi nhục. Nhưng đó là một phần trong công việc phụng sự rộng lớn hơn mà họ có thể cống hiến. Bởi vì khi sống qua tình huống đó, họ đã kích hoạt một số nguyên nhân, một chuỗi nhân và quả vô cùng phức tạp, phức tạp hơn tất cả những gì tâm vỏ ngoài có thể hiểu được, và chuỗi nhân quả này đã tác động lên tâm thức tập thể.

Điều thật sự xảy ra là ở những mức thấp hơn của đường tu, con sử dụng tâm vỏ ngoài phân tích, đường thẳng, để hiểu mọi chuyện. Cho nên ở những mức đó khi có sự cố bất ngờ xảy đến cho con, lập tức con muốn có một cách giải thích. Như con có thể thấy qua một số câu hỏi được đặt ra trên trang mạng này, người ta muốn giải thích mọi chuyện dù nhỏ nhặt nhất trong đời mình. “Tại sao chuyện đó lại như vậy? Tại sao nó lại xảy ra? Tôi đã có thể làm gì để tránh khỏi nó?” Điều này có thể thông cảm được ở một mức nào đó, nhưng khi con đạt đến các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con cần bắt đầu suy ngẫm về những giới hạn của tâm đường thẳng. Con cần nhận ra là do lý duyên khởi, do sự nối kết của tất cả mọi thứ, cho nên tâm đường thẳng không thể nào hiểu và giải thích được mọi chuyện. Sẽ có những chuyện xảy ra cho con mà không có cách chi giải thích đường thẳng, ít ra là không có cách giải thích nào mà tâm đường thẳng có thể hiểu được.

Cái nhìn quả cầu

Nếu con nhìn thuyết khoa học gọi là thuyết hỗn mang, con sẽ nhận ra là nền khoa học duy vật đã đeo đuổi cùng một mục tiêu như thế hầu giải thích mọi chuyện. Mọi chuyện phải có một nguyên nhân đơn giản, người ta phải có khả năng lập ra một phương trình toán học để giải thích, hay ít ra một cách thử nghiệm khoa học nào đó để mô phỏng nguyên nhân. Trong tinh túy của nó, thuyết hỗn mang đề ra là khoa học – nền khoa học duy vật đường thẳng – sẽ không bao giờ có thể giải thích được mọi chuyện, vì sẽ có những hậu quả không mang nguyên nhân đường thẳng, vì không có nguyên nhân duy nhất nào, mà trái lại trong hệ thống nối kết đó có thể có biết bao nguyên nhân khác nhau, biết bao chuỗi sự cố phức tạp.    

Đó là tại sao thuyết đó mới có tên là thuyết hỗn mang. Bởi vì cho đến khi thuyết hỗn mang ra đời thì hầu hết các nhà khoa học vẫn tin rằng chỉ là vấn đề thời gian trước khi họ khám phá ra tất cả mọi nguyên nhân cùng mọi phương trình toán học phức tạp, và như vậy mọi chuyện sẽ có thể được tiên đoán. Nhưng thuyết hỗn mang đặt lên câu hỏi là liệu việc tiên đoán như vậy sẽ khả dĩ hay chăng, liệu sẽ có một số sự kiện mà khoa học không thể nào giải thích hay tiên đoán được. Thế là các nhà khoa học chọn một cái tên thật hấp dẫn – “hỗn  mang” – bởi vì suốt nhiều thế kỷ, khoa học đã dựa trên mẫu đồ cơ học xem thế gian như một bô máy khổng lồ, và nếu con biết các điều kiện tiên khởi cùng những định luật vận hành bộ máy, thì con sẽ có thể tiên đoán tất cả mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Đó là trật tự, sự trật tự tuyệt đối, và như vậy cái tên “hỗn mang” được chọn ra để chỉ điều ngược lại, rằng thế gian kỳ thực không phải là một hệ thống trật tự mà một hệ thống hỗn loạn.

Nhưng tất nhiên, ý tưởng một hệ thống hỗn loạn phần nào là một cái tên nghịch lý, vì làm thế nào một hệ thống lại có thể hỗn loạn và làm thế nào sự hỗn loạn có thể được hệ thống hóa? Tuy vậy, dĩ nhiên con vẫn có thể tìm kiếm một số xu hướng trong sự hỗn loạn. Khi con đạt đến những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, đây chính là điều con bắt đầu tìm kiếm. Con tìm kiếm một cách hiểu quả cầu hơn (spherical understanding) về sự sống thay vì một cách hiểu đường thẳng. Con nhận ra là có một số giới hạn trong những gì có thể được giải thích. Hay đúng hơn, con nhận ra là một hậu quả đặc trưng nào đó không có một nguyên nhân duy nhất mà một loạt những nguyên nhân vô cùng phức tạp đã dẫn đến hậu quả đó.

Trong một số trường hợp, điều này vượt khỏi khả năng lãnh hội của tâm vỏ ngoài. Con tới mức làm hòa với nó. Con nhận ra là con không phải hiểu mọi chuyện xảy ra trong đời con. Con không phải hiểu tại sao nó lại xảy ra. Thật ra con đạt tới điểm con làm hòa với một số sự kiện mà con không tiên đoán được, hay con không chờ đợi, hay con không nhất thiết mong muốn ở một mức nào đó của đường tu.

Cho nên một lần nữa, điều này có thể hiện ra như một nghịch lý hay một bí ẩn, bởi vì chúng tôi đã khuyến khích con làm gì chứ? Chúng tôi đã khuyến khích con nhìn vào đời mình. Chúng tôi đã dạy rằng bất cứ gì xảy ra trong cõi vật lý đều có một nguyên nhân nơi ba cõi cao hơn. Nghĩa là nếu con phát hiện nguyên nhân trong chính tâm lý của con và giải quyết cái ngã đó, thì con có thể thay đổi các điều kiện vỏ ngoài. Lời dạy này vẫn đúng – không phải là ta đang đặt lại vấn đề. Nhưng nó chỉ đúng cho cái ngã của con, đúng cho tâm con – con có khả năng nắm lấy quyền điều khiển, hay đúng hơn quyền điều ngự trên bốn thể phàm của con, và do đó con có thể kiểm soát màu sắc hay hình dạng của ánh sáng khi ánh sáng đi xuống từ Hiện diện TA LÀ xuyên qua các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc để đi vào cõi vật lý. Chuyện này, con có khả năng điều khiển. Và con có thể được ích lợi khi con áp dụng phương pháp tìm xem cái gì trong tâm lý mình đang thị hiện ra một điều kiện nào đó.

Nhưng con phải nhìn nhận (và con sẽ bắt đầu trải nghiệm điều này khi con đạt đến quả vị Ki-tô) là con nhìn thấy được sự nối kết. Đúng là con vẫn có thể điều ngự, con vẫn có thể hiểu rõ những gì trong ba thể cao đã gây ra một số hiện tượng vật lý trong đời con, và con có thể cải sửa tất cả những thứ ấy. Nhưng con không đang sống như một đơn vị lẻ loi trên hành tinh này nữa, mà con sống như một phần của hệ thống rộng lớn hơn có sự tham gia của nhiều người khác. Do đó khi con vươn lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con không tìm cách xây dựng cho mình một cuộc sống thoải mái, mà con tìm cách phục vụ tổng thể. Và đây chính là lúc con cần từ bỏ mong muốn, hay niềm tin, rằng con có thể kiểm soát mọi khía cạnh trong đời con.

Con vẫn biết là con có thể kiểm soát tâm mình cùng bốn thể phàm của mình. Con vẫn có thể tìm cách phát hiện cái ảo tưởng ở tầng tâm thức kế tiếp hầu vươn lên tầng đó. Cho nên con có thể leo đến tầng 144 bất kể những gì xảy ra trong hoàn cảnh vỏ ngoài. Sự tiến bộ trên đường tu của con không tùy thuộc vào các điều kiện vỏ ngoài khi con đạt đến những tầng này. Kỳ thực, nó cũng không tùy thuộc vào các điều kiện vỏ ngoài ở những tầng thấp hơn, nhưng con cứ tưởng là nó tùy thuộc. Vì vậy sẽ tới một điểm khi con nhận ra là con đã nhìn vào tâm lý mình và đã giải quyết một số vấn đề trong tâm lý. Và con có thể thấy là có những điều xảy ra trong đời con không phải là hệ quả của một tâm lý chưa giải quyết, mà là hệ quả của sự kiện con là một phần của hệ thống rộng lớn đó, và chính để con có thể phụng sự tha nhân, để con giúp đỡ một số người, để con phục vụ một nghĩa vụ cao hơn, mà con mới cần kinh qua trải nghiệm đó. Con làm hòa với điều này. Con kinh qua trải nghiệm đó và nó không phiền hà gì con, nó không ngăn cản con tiến bước trên đường tu và tiến tới những tầng cao hơn trực chỉ tầng thứ 144.

Không phải ý con mà ý Cha

Vì vậy có thể nói là ở những tầng thấp hơn của đường tu, có vẻ như con bước trên đường tu để đạt một khả năng điều ngự lớn hơn mà con xem là một khả năng kiểm soát chặt chẽ hơn. Ở giai đoạn đó, đúng là con cần làm vậy, theo nghĩa là con cần nâng mình ra khỏi tâm thức tập thể. Nhưng rồi ở trên tầng 96, con nhận ra cái đó thực sự là gì – đó là một ảo tưởng khi con nghĩ rằng đường tu tâm linh sẽ trao cho con quyền kiểm soát. Đó là một ảo tưởng khi nghĩ rằng việc hiện thân Ki-tô sẽ cho con sự kiểm soát toàn diện trên tình huống vỏ ngoài. Bởi vì để biểu hiện những tầng cao của quả vị Ki-tô, con cần buông mọi mong muốn kiểm soát, cả mong muốn kiểm soát hoàn cảnh vỏ ngoài của mình. Con nói: “Làm thế nào tôi có thể phục vụ sự sống?” Con nói – như Giê-su đã nói khi thày ngồi trong Vườn Gethsemane, dư biết rằng mình sẽ bị bắt giữ vào ngày hôm sau và rất có thể mình còn bị tra tấn và đóng đinh – và Giê-su đã nói: “Lạy Cha, nếu đây là ý Cha, xin hãy lấy chén này khỏi con. Dầu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con.” Thậm chí, con còn đạt tới điểm không cần phải làm vậy. Thày Giê-su đã làm vậy một phần là để chứng tỏ tiến trình, nhưng khi con tới điểm đã làm hòa với điều này thì con luôn luôn ở trong trạng thái: “Không phải ý con mà ý Cha được thành. Cho dù con có phải kinh qua điều gì để phục vụ một sứ mạng nào đó thì con vẫn sẵn lòng kinh qua. Con không cần biết sứ mạng đó là gì. Con không cần một chân sư thăng thiên hiện ra trước mặt giải thích cặn kẽ cho con với giọng nói oang oang tại sao nó cần xảy ra. Con không cần biết vì con tin tưởng. Con tin tưởng là con đã quy hàng bản thân mình cho một mức phụng sự cao hơn, cho nên bất cứ gì xảy ra cũng nằm trọn trong công việc phụng sự đó. Con không cần biết mọi chuyện. Con không cần dùng tâm vỏ ngoài đường thẳng để hiểu mọi chuyện.”    

Nhưng chính ở điểm này con cũng sẽ bắt đầu nhận được một cái gì vượt khỏi một lời giải thích đường thẳng. Con bắt đầu có trải nghiệm nội tâm. Có thể gọi đó là một trải nghiệm trực giác hay thần bí, nhưng kỳ thực đó là một trải nghiệm quả cầu. Đó là lúc con bắt đầu có cái mà thày Maitreya đã để cập ở cuối bài truyền đọc vừa rồi, là giờ đây con không cần đến một vị sứ giả vỏ ngoài làm trung gian giữa con và các chân sư thăng thiên, vì con đang xây dựng một mối quan hệ nội tâm cá nhân với các chân sư.

Điều chúng tôi trao cho con không phải là một lời giải thích đường thẳng dựa trên dữ kiện. Chúng tôi cho con một cái gì phức tạp hơn rất nhiều. Nhiều hơn cả một khải tượng. Nhiều hơn cả một cảm nhận. Đó là một cái gì con không thể giải thích bằng lời nói. Chúng tôi cho con một trải nghiệm nội tâm giúp con nhìn ra đâu là bước kế tiếp trên đường tu của mình. Con thu hoạch ý thức rằng đây là một phần của tấm thảm sự sống đang trải bày ra một cách vô cùng phức tạp, là lý duyên khởi, là một phần của sứ mạng phụng sự của con. Nó cho con cảm nhận an bình rằng đây chính là điều cần xảy ra cho mình. Cho nên con kinh qua nó mà không bị động tâm như trước đây khi con vẫn còn những vấn đề kiểm soát. Bởi vì vào thời đó, nếu có chuyện gì xảy ra mà con không muốn, con sẽ vô cùng bận tâm, phiền hà, do con phải đối diện với nỗi sợ bị mất kiểm soát. Nhưng ở những mức cao hơn này của quả vị Ki-tô, con đã buông bỏ nỗi sợ đó, con đã để cho cái ngã đó chết đi, là cái ngã mang lòng sợ hãi đó.    

Con không sợ là mình không nắm quyền kiểm soát, vì con đã làm hòa với sự kiện là Thượng đế đang cai quản, các chân sư thăng thiên đang cai quản, Hiện diện TA LÀ của con đang cai quản. Con không cần phải luôn luôn biết điều đó với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ cần có ý thức nội tâm là mình đang nối kết. Con nối kết với cái tâm rộng lớn đó là Hiện diện TA LÀ của con, là các chân sư thăng thiên, là tâm Ki-tô. Cho nên con an bình. Con có thể nhìn lại cuộc đời của Phật và thấy ta đã đạt một mức tâm thức cao. Ta đã nhập Niết bàn, và ta đã quyết định trở lại. Xong ta bỏ ra nhiều năm trời giảng dạy, giảng dạy những lời dạy cao cấp và thiết lập đạo tràng. Thế rồi chuyện xảy ra vào cuối tuổi 81 là ta đến thăm một vị cho ta ăn thức gì đó ô nhiễm, khiến xác thân ta từ trần.      

Và con có thể tự hỏi: “Nhưng đức Phật chẳng có khả năng tiên đoán được chuyện đó hay sao, để thày không ăn thức ăn đó và thày không đến thăm nơi đó? Tại sao thày lại cho phép nó xảy ra khi thày đã đạt tới mức chứng đạt như vậy?” Đó, bây giờ con có lời giải thích rồi đó. Điều đó đã cần xảy ra như một phần của việc phụng sự của ta. Tại sao nó cần xảy ra? Con yêu dấu, không có lời giải thích đường thẳng nào mà ta có thể ban cho con qua ngôn từ. Có thể con sẽ trải nghiệm được điều này khi con đạt đến mức đó, khi con có khả năng tiếp nhận cái ma trận (matrix) phức tạp hơn đó. Nhưng tâm đường thẳng thì sẽ không thể hiểu nổi. Cho nên ở những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, phân biện Ki-tô có nghĩa là gì? Nó không có nghĩa là con luôn luôn biết được cái gì đúng, cái gì sai, con luôn luôn có thể giải thích được mọi chuyện, con có kiến thức về mọi chuyện, và tại sao chuyện này đã xảy ra và tại sao nó là như vậy.

Không, nó có nghĩa là con có một tầm nhìn rộng lớn hơn, một sự nhận biết quả cầu không cách chi chuyển thành ngôn từ, hay chuyển thành bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta tìm thấy trong tâm đường thẳng. Nhưng con có một sự thấu hiểu vượt khỏi mọi hiểu biết. Con có một viễn quan vượt khỏi mọi viễn kiến. Đó là cái cho con cảm nhận an bình tối hậu mà con có thể có được trên địa cầu – vì con an bình với bất cứ gì xảy ra, bất cứ gì trải bày ra.

Ta cũng biết lời giảng dạy này ở một mức cao hơn tâm thức của hầu hết các con, cho nên con sẽ khó lòng bắc được nhịp cầu với nó. Nhưng lời giảng vẫn được ban ra vì có một số người đã được hưởng lợi rồi đó. Tất cả các con tiếp tục bước tới trên đường tu, sẽ đạt tới điểm được hưởng lợi từ lời dạy này – nó có thể không xảy ra ngày mai hay tuần tới, nhưng đối với rất nhiều người trong số các con, nó có thể xảy ra trong kiếp này. Cho nên giờ đây lời dạy đã được ban ra, nó đã đi vào bát cung vật lý nơi con có thể tìm thấy nó, có thể suy ngẫm về nó, và do đó con có thể vươn lên tới điểm đó, là điểm con không còn cần đến giáo lý vỏ ngoài nữa vì con đã nhận được trực tiếp từ bên trong cái ma trận phức tạp hơn gấp bội, cái ma trận không thể nào ban ra bằng ngôn từ qua một lời dạy vỏ ngoài.

Con nhận thấy là rất, rất nhiều giáo lý tâm linh hay tôn giáo, tư tưởng chính trị, khoa học hay triết lý trên địa cầu được diễn tả qua lời nói. Rất nhiều lời dạy như vậy – kỳ thực, tuyệt đại đa số các lời dạy đó – đều tự xưng là chứa đựng Lời của Thượng đế, rằng Thượng đế đã ban ra lời đó và vì vậy lời đó mô tả thực tại một cách trọn vẹn, chính xác. À, đấy là một ảo tưởng do các sinh thể sa ngã dựng lên trong mong muốn kiểm soát con người. Bởi vì nếu chúng có thể khiến mọi người tin rằng kinh thánh là lời đúng từng chữ của Thượng đế, rằng họ không bao giờ được chất vấn lời đó, hay đúng hơn không bao giờ được chất vấn cách diễn giải mà sa nhân đã đưa ra, thì họ sẽ bị mắc bẫy. Con nhận thấy là đợt truyền pháp hiện nay là một trong những giáo lý hiếm hoi trên địa cầu công khai nói rằng có sự giới hạn trong những gì có thể diễn tả bằng ngôn từ, rằng sẽ tới một điểm khi con phải vượt khỏi ngôn từ để chứng được điều gì đó trực tiếp từ cõi thăng thiên. Đây là thực tế. Đây là một lời dạy trung thực và thẳng thắn nhằm giải thoát con thay vì khiến con kẹt lại ở một mức nào đó, rồi bị lệ thuộc vào một vị đạo sư, một nhà lãnh đạo hay một khuôn mặt thẩm quyền vỏ ngoài nào đó.

Chúng tôi không hề có mong muốn hạn chế con, hay đánh bẫy con, hay ràng buộc con vào một giáo lý vỏ ngoài hay vị sứ giả này. Chính sứ giả này cũng không có mong muốn làm rào chắn giữa con và các chân sư thăng thiên hay ngăn cản bước tiến của con. Đó là tại sao chúng tôi mới có thể trao cho con một lời dạy như thế này. một lời dạy không thể trao cho một người vẫn còn những vấn đề kiểm soát. Nó không thể trao cho một nhóm học trò vẫn bị mắc kẹt, không sẵn sàng nhìn xa hơn những vấn đề kiểm soát đó. Ta không nói ra điều này để khơi lên bất kỳ lòng kiêu hãnh nào, vì khi con đạt tới mức con cởi mở với lời dạy này thì cái đó cũng đã hết là vấn đề. Đây chỉ đơn giản là một lượng định thực tiễn rằng sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng bất kỳ giáo lý nào được trao qua ngôn từ chỉ có thể dẫn con đến một tầng nào đó – nếu con nhất định cứ mãi trung thành với một giáo lý thì con sẽ cản trở sự tinh tấn của mình – và con cần đạt tới điểm con thăng vượt ngôn từ, thu hoạch tầm nhìn quả cầu và nắm bắt ma trận của hoàn cảnh của mình như nó được thiết kế để trải bày ra.

Ta không muốn nói là chúng tôi đã trao truyền cho con trong hội nghị này mọi điều có thể được trao truyền về quả vị Ki-tô hay phân biện Ki-tô. Tất nhiên chúng tôi đã đưa ra rất nhiều giáo lý khác về đề tài này, và rất có thể chúng tôi sẽ đưa ra thêm nữa trong tương lai. Nhưng những gì chúng tôi đã đưa ra, chúng tôi cảm thấy đó có thể là hữu ích nhất cho cộng đồng đệ tử. Không chỉ có các con đang theo dõi đợt truyền pháp này mà còn có cả một tập thể học trò rộng lớn hơn, là những người có thể sẽ bước vào tìm giáo lý này trong một tương lai không xa lắm.

Cho nên đây hoàn toàn không phải là giáo lý tối thượng, vì quả vị Ki-tô vốn là một tiến trình tuần tự, và không một giáo lý tối thượng nào có thể được đưa ra. Nhưng đó là lời dạy mà chúng tôi cảm thấy hữu ích nhất dựa trên hiện trạng của lý duyên khởi trên hành tinh này. Cho nên chúng tôi tin tưởng lời dạy, tin tưởng con sẽ dùng lời dạy này để khởi lên cái vỗ cánh của bướm sẽ kích hoạt một chuỗi tác động liên kết mà với thời gian sẽ ảnh hưởng to lớn trên tâm thức tập thể cũng như trên lý duyên khởi đang dẫn dắt sự sống trải bày ra trên hành tinh.

Và với lời này, ta muốn gửi lời cảm tạ của tất cả các chân sư đến các con, vì có biết bao người đã sẵn lòng tham gia hội nghị này, đã đặt hết chú tâm vào đề tài phần nào khó khăn này, và cho phép luân xa của mình được sử dụng để phát sóng thông điệp này vào tâm thức tập thể. Ta đã có thể dùng hình ảnh một chiếc cánh bướm. Nhưng tác dụng của một hội nghị như thế này với bao nhiêu người hòa điệu vào, hiển nhiên lớn hơn gấp bội cái vỗ của một cánh bướm. Ta không mong muốn gán bất kỳ hình ảnh nào lên đó. Hội nghị này tất nhiên đã có một tác dụng to lớn, mà với thời gian sẽ đưa hành tinh này vào một hướng đi cao hơn, một hướng đi quyết định. Cho nên vì lý do đó chúng tôi vô cùng biết ơn. Ta niêm các con và ta niêm hội nghị này trong niềm an bình hoan hỉ và luôn luôn tự thăng vượt của Phật.

Quả vị Ki-tô là sự buông bỏ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/12/2020. Bài này được truyền đọc trong Webinar 2020 – Tăng triển khả năng phân biện Ki-tô của bạn.

TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô. Chúng ta đã bàn về bốn tầng của tâm, là bốn thể phàm của con, và các sa nhân đã nỗ lực như thế nào để ngăn chặn khả năng phân biện Ki-tô của con ở các thể này bằng cách lôi kéo con vào những cơn lốc xoáy, những khuôn nếp phản ứng khác nhau. Nhưng tại sao chúng lại làm được điều đó? Tất nhiên, chúng làm được là vì con có cái xà trong chính mắt con, con có một số tâm lý chưa giải quyết – là điều hoàn toàn bình thường trên đường tâm linh. Chúng ta đã bàn về các cấp độ khác nhau trên đường tu, về 144 tầng tâm thức, và rõ ràng khi con lần đầu tiên tìm thấy đường tâm linh – bất kể lúc đó con đang ở tầng tâm thức nào trong kiếp đầu thai này – con cũng không thể nắm hết được những khai ngộ và ảo tưởng ở những tầng cao hơn, con không thể nhìn xa hơn tầng tâm thức bấy giờ của con.     

Cho nên, một khi con đã học cách nhận diện phần nào những gì sa nhân đang cố làm từ bên ngoài để phá hoại khả năng phân biện Ki-tô của con, thì con cần bắt đầu xem tới, đâu là những điều kiện bên trong đã khiến con dễ bị chúng thao túng đến thế. Và điều này, tất nhiên, có nghĩa là con cần bắt đầu xem xét tâm lý mình. Và ở đây con cần phân biệt một số chuyện. Ta biết nhiều người trong số các con đã theo học đợt truyền pháp này từ khá lâu và đã vượt qua chướng ngại này, nhưng ta vẫn muốn đưa ra cho những ai lần đầu đọc lời dạy này mà chưa theo dõi những bài dạy trước đây.

Ta đã từng so sánh chúng tôi, các chân sư, với những nhân viên bán xe cũ, chuyên môn nhử mồi xong đánh tráo. Chúng tôi quảng cáo một chiếc xe rẻ mạt, xong một khi con đã vào trong tiệm rồi, chúng tôi mới cố bán cho con một chiếc xe mắc tiền hơn. Nói cách khác, để khiến con đoái nhìn vào giáo lý của chúng tôi, chúng tôi phải đưa ra một cái gì hấp dẫn đối với mức tâm thức hiện tại của con cho dù mức đó là gì. Xong một khi con đã bắt đầu học hỏi giáo lý, chúng tôi cần đưa con lên tầng cao hơn của đường tu nơi con thực sự bắt đầu tinh tấn, là sự tinh tấn đặc trưng của một người đang mặc lên chiếc áo của quả vị Ki-tô cá nhân. Cho nên khi con nhìn vào cộng đồng tâm linh Thời mới nói chung, con sẽ thấy mỗi người đang ở một trình độ tâm thức khác nhau, mỗi người có một trọng điểm khác nhau, ý tưởng và kỳ vọng khác nhau về những điều mình có thể gặt hái trên đường tu tâm linh.

Rồi sẽ đến một điểm khi để tiến xa hơn trong phân biện Ki-tô, con sẽ cần xem xét: “Đâu là động lực đã khiến tôi đi theo con đường tâm linh? Tại sao tôi đã cất bước? Tại sao tôi đã đi cho tới điểm này? Tôi đã chờ đợi những gì từ đường tu?” Có lẽ con chưa từng tự hỏi như thế một cách ý thức – đa số hành giả tâm linh thì không. Thường họ tìm thấy một phong trào tâm linh, rồi phong trào đó, giáo lý đó vang dội với cái gì bên trong họ, và họ không nhận thức rõ ràng rằng sở dĩ họ đi theo như vậy là vì phong trào đã hứa hẹn là họ sẽ thỏa mãn được bất cứ kỳ vọng nào của họ về đường tu. Nói cách khác, đường tu sẽ đem lại gì cho họ? Phong trào hay giáo lý đã vang dội trong họ có hứa ở đâu đó là các kỳ vọng của họ sẽ được thỏa mãn. Cho nên điều rất quan trọng là con phải lui lại và xét xem kỳ vọng của con về đường tu là gì.

Đại đa số hành giả, và các con đã theo đợt truyên pháp này từ khá lâu, sẽ có thể nhìn ngược lại thời con lần đầu tiên ý thức đường tu và sẽ nhận diện được điều này trong tâm mình. Hầu hết các con đều có một kỳ vọng rõ rệt là đường tu sẽ làm gì đó cho mình, sẽ đem lại điều gì đó mà mình muốn hay cần trên địa cầu. Có những lợi lạc liên quan tới đời sống ở đây trên điạ cầu mà con sẽ có được, và con mong mỏi đời con sẽ trải ra như thế nào trong tương lai. Điều này không có gì sai trái – con không thể tránh khỏi đã suy nghĩ như thế, nhất là đối với những ai đã lớn lên trong một xã hội phi tâm linh, dù đó là xã hội tôn giáo hay phi tôn giáo. Các con đều đã được dạy dỗ, được lập trình để coi trọng trên hết đời sống trong vũ trụ vật chất.

Các sa nhân đã từ hàng ngàn năm cố gắng lập trình nhân loại để con người đặt trọng tâm trên hết vào cuộc sống thế gian. Tất nhiên, các tôn giáo cũng đưa cho con một lối thoát khỏi thế giới này, đoán chừng là con sẽ được cứu rỗi sau kiếp này. Nhưng vì chuyện đó xảy ra sau kiếp này, đó không phải là điều mà hầu hết người theo đạo sẽ bỏ thời gian ra mà nghĩ đến – đâu là những yêu cầu để vào được Nước Trời, dù người ta định nghĩa Nước Trời là gì? Và một lần nữa, họ sẽ chỉ tập trung vào những gì tôn giáo họ có thể làm cho họ trong cuộc sống ngay đây trên trái đất. Khi con nhìn vào người tâm linh nói chung, con sẽ thấy họ có rất nhiều kỳ vọng khác nhau về những gì đường đạo sẽ đem lại cho họ. Chẳng hạn, một số người kỳ vọng họ sẽ chữa lành bệnh tật thể chất, một số kỳ vọng sẽ thị hiện rất nhiều tiền để mua sắm bất cứ gì mình muốn, một số kỳ vọng sẽ đạt được tâm hồn thanh thản và đời sống an lạc, có thể nơi một tu viện hẻo lánh. Một số sẽ kỳ vọng cả điều ngược lại là họ sẽ có quyền năng bước ra thế giới và tác động mạnh mẽ trên xã hội và người chung quanh.

Có rất nhiều kỳ vọng dưới nhiều hình thức khác nhau như vậy đối với mỗi người, và như ta vừa nói, chuyện đó không có gì sai trái. Con phải khởi sự ở một mức nào đó, mức tâm thức hiện tại của con. Thật là lô-gíc khi con sẵn sàng bước trên đường tu ở tầng tâm thức thứ 48, con cởi mở hơn với con đường tâm linh để thực sự phát triển tâm thức. Con sẽ có những kỳ vọng này và chúng sẽ theo con cho tới tầng 96. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần cứu xét kỳ vọng đó và bắt đầu tự hỏi: “Đi theo Ki-tô sẽ đòi hỏi tôi phải làm gì?”

Nếu con nhìn ngược lại cuộc đời của ta cách đây 2000 năm, nếu con đọc được giữa những hàng chữ, con sẽ thấy điều mà ta thực sự giảng dạy cho các đệ tử của ta và dân chúng nói chung là con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Đi theo Ki-tô có nghĩa là đi theo một vị thày ở một mức tâm Ki-tô cao hơn mình, và như vậy con mới lần hồi khoác lên tâm Ki-tô. Con có thể đọc lại một số lời ta giảng thời đó và con thấy ta nói đến sự cần thiết phải sẵn sàng mất sự sống để theo Ki-tô. Con phải không bám mắc vào Mammon, con cần để cho những người chết đi chôn người chết. Nói cách khác sẽ tới một lúc, để bước theo Ki-tô con phải buông bỏ một cái gì đó. Điều này thực sự có nghĩa là tạm thời trên đường tâm linh, từ tầng 48 đến tầng 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng đường tâm linh chỉ là chuyện hoàn thành một cái gì đó trong đời sống trên trái đất.

Ta không nói rằng đường tu sẽ không thực hiện được điều gì cho con. Điều ta muốn nói là giữa hai tầng 48 và 96, con có thể duy trì ảo tưởng rằng động lực chủ yếu khi theo đường tu là con kỳ vọng sẽ đạt được lợi lạc gì đó trong đời sống của con nơi vũ trụ vật chất. Bây giờ khi con tiến đến gần mức 96, con cần giải quyết kỳ vọng này bởi vì nó sẽ không đưa con xa hơn mức 96 đâu. Tới một điểm con phải bắt đầu nhìn nhận rằng mục đích thực sự của đường tu không phải là đạt được một lợi thế tạm thời trong thế gian này. Mục đích thực sự là đạt được sự sống vĩnh hằng vượt khỏi thế gian, và đây là một vấn đề rất khác với cái nhìn khi con mới khởi sự. Nó rất khác với cái nhìn mà hầu hết những ai theo tôn giáo đều có về sự cứu rỗi, hay thế nào là vào Thiên đàng cho dù mỗi tôn giáo có định nghĩa Thiên đàng là gì. Và sẽ tới một điểm con cần nhìn nhận rằng những tầng cấp cao hơn của tâm Ki-tô, những tầng tâm Ki-tô có ý thức hơn, sẽ đòi hỏi con bỏ lại mọi thứ.

Thật ra để bước lên những tầng mức cao đó của tâm Ki-tô, con sẽ phải đi qua một giai đoạn nơi con bỏ lại hết thứ này rồi tới thứ khác. Con lần lượt buông bỏ một ý niệm nào đó về sự sống, một kỳ vọng nào đó, một quan điểm nào đó, và một trong những điều con phải buông bỏ là sự mong đợi rằng đường tu sẽ đem lợi lạc gì cho con. Đó là tại sao con cần xem xét các kỳ vọng của con rằng đường tu sẽ làm gì cho mình, và mình sẽ có được gì nhờ nó. Nếu con chờ mong, chẳng hạn, là con sẽ thị hiện được vô số của cải, sẽ tới lúc con phải nhìn lại và tự hỏi tại sao con cần của cải bất tận như thế, con mong thực hiện được điều gì với nó, con sẽ có cảm giác thế nào khi con có của cải? Và con cần bắt đầu tự hỏi: “Ừ nhỉ, ngay cả nếu tôi có số tiền bất tận đó, nó có sẽ nhất thiết cho tôi cảm giác mà tôi đang tìm?”

Con hãy nhìn rất nhiều người giàu có đến độ họ không thể tiêu hết tiền, họ đang cảm thấy thế nào? Tâm trạng tâm lý của họ ra sao? Hầu hết đều không cảm thấy thoải mái, an bình, vì họ lo lắng kiếm tiền nhiều hơn cho dù họ không cần, hay họ lo lắng làm sao không bị mất tiền. Họ vẫn căng thẳng. Họ không an lạc. Họ không dùng tiền của họ để làm gì cho tha nhân, một điều mà bao nhiêu người tâm linh đều mơ ước làm được. Con nhìn thấy vậy và con nghĩ: “Chà, chắc chắn mình sẽ làm tốt hơn vì mình là người tâm linh.” Con sẽ làm tốt hơn nếu con bước lên cao hơn và nhận xét đơn giản: điều mà con đang tìm kiếm – cho dù đó là sự thay đổi vật lý, thành quả vật lý nào đó mà con mong có được do bước chân trên đường đạo – động lực khiến con đi tìm cái đó chỉ là để sản xuất ra một cảm giác nào đó trong tâm con.

Con cần bước lên và nhận ra rằng khi con đạt được những điều kiện vỏ ngoài như thế, con sẽ không tự động sản xuất được cám giác con tìm, bởi vì cảm giác xảy ra trong tâm lý con, mà tâm lý con, ít ra là ở các tầng cao của tâm Ki-tô, thì không lệ thuộc vào điều kiện bên ngoài. Cảm giác bên trong, sự trải nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm sống của con, tất cả được định đoạt bởi những gì xảy ra trong bốn thể phàm của con. Vì vậy, dù con có nghĩ rằng sự giàu có sẽ sản xuất ra cảm giác bên trong mà con muốn, nhưng nó không thể làm được. Chỉ khi nào con làm việc trực tiếp với tâm lý của mình, giải quyết những gì đang chặn nghẽn cảm giác bên trong thì con mới có được cảm giác đó. Con có thể kỳ vọng là một ngày kia con sẽ đạt khả năng đi thuyết phục, truyền đạo cho người khác, sẽ cải thiện hành tinh và phục vụ mục tiêu của các chân sư. Đó có thể chỉ là những gì ngoại tâm con nhìn thấy, là cách ngoại tâm con nhìn thấy. Nhưng khi con nhìn vào sâu hơn, có một cảm giác ở đằng sau mà con đang mong có được, và cảm giác này sẽ không do khả năng vỏ ngoài đem lại. Nó chỉ có thể đạt được sau khi con giải quyết những yếu tố tâm lý đang ngăn chặn cảm giác, nếu đó là cảm giác thanh cao chứ không là cảm giác nào đó dựa trên sợ hãi.

Đấy, có một khúc rẽ trên đường đạo mà con sẽ không thể vượt qua cho tới khi con hoàn toàn nhìn nhận rằng bước kế tiếp của con là phải đặt trọng tâm vào việc giải quyết tâm lý của con. Một số người sẽ nhận ra điều này trước tầng 96, nhưng con cần phải nhận ra thì mới bước xa hơn tầng 96. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là con đã tới chỗ nhìn nhận rằng con phải buông bỏ mọi kỳ vọng, những kỳ vọng mà con đã ôm giữ từ khi con mới cất bước, những kỳ vọng đã là động cơ khiến con bỏ công sức ra cho đến mức này. Tất cả phải được bỏ lại.

Nhiều hành giả tâm linh, tuy tiếng là người chân thành tu tập theo một giáo lý hay một pháp môn, không sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng của mình. Họ bám chặt vào những kỳ vọng này và không thể buông ra. Tại sao như thế? Tại vì cái mà ta gọi là ngã gốc (primal self). Như các chân sư đã giải thích cặn kẽ trong sách “Healing your spiritual traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) và những quyển khác trong cùng bộ, đã có một thời điểm khi lần đầu tiên con gặp gỡ sa nhân và phải đối mặt với ý muốn vô hạn của chúng nhằm tiêu diệt con như một sinh thể tâm linh. Sự kiện đó đã khiến con bị cú sốc, bị tổn thương sâu sắc, và để đối phó với chấn thương này hầu tiếp tục sống và sinh hoạt trên hành tinh, con đã tạo ra một cái ngã gốc. Ngã gốc đó có chức năng chủ yếu là để kìm nén, che giấu nỗi đau của cái gọi là chấn thương nhập đời, chấn thương vũ trụ nguyên thủy. Ngã gốc được con tạo ra để phản ứng lại những gì xảy ra cho con trên điạ cầu khi con đối diện với sa nhân.

Đối với một vài người, sự kiện này đã xảy ra trên một hành tinh khác, nhưng dù sao thì lần đầu tiên con gặp sa nhân, con đã bị cơn sốc khi nhận ra là có ai đó đang hoàn toàn sẵn sàng tiêu diệt mình nếu họ có thể. Con cảm thấy đau đớn vô cùng vì con không thể tưởng tượng nổi có ai muốn tiêu diệt mình, bởi vì con là một người tích cực luôn muốn giúp mọi người và đưa hành tinh lên một tầm cao hơn. Con không thể tưởng tượng có ai cảm thấy bị đe dọa đến độ phải hủy hoại con. Và con đứng đó, con gặp sự kiện đó, con bị choáng váng, ngập tràn đau khổ khi sa nhân không ngừng tấn công con, buộc con đủ mọi thứ tội vạ trong đủ mọi hoàn cảnh vỏ ngoài khác nhau.

Ngã gốc được tạo ra để bù đắp cho cơn sốc, cho cảm giác mất mát – mất mát sự trong trắng của con – và trên hết để che giấu mất mát đó hầu con không phải sống lại nỗi đau đã trải qua, và hơn nữa để tạo lên niềm kỳ vọng là một ngày kia con sẽ tìm lại được tâm trạng trinh nguyên mà con đã mất. Con có khả năng trở lại cái tâm trinh nguyên ấy, nhưng con thấy không, ngã gốc đã sinh ra từ tình huống này. Nó không sinh ra từ tâm trinh nguyên của con. Ngã gốc thực sự không thể hiểu nổi tâm con trước khi chấn thương xảy ra, nó chỉ có thể đối tác với tâm trạng của con sau đó mà thôi. Ngã gốc không thể cảm thông được tâm Ki-tô, không thể cảm thấu được sự trong trắng chân thực là tâm của con trước sự cố. Ngã gốc định ra những mục đích mà dường như con phải đạt, nhưng đó không phải là mục đích thật, không là mục đích thực tế, không là muc đích có giá trị. Ngã gốc cũng không thể nhìn xa hơn cái tầng tâm thức nơi nó được sinh tạo, tất nhiên là gắn liền với địa cầu, cho nên nó không thể hiểu được tâm Ki-tô  Nó không thể hiểu rằng chỉ bằng cách vượt lên tâm thức cao hơn thì nó mới tìm được sự an bình nội tâm thực sự và lấy lại sự trong trắng.

Ngã gốc chỉ có thể đối tác với trái đất, và bởi vì nó nghĩ rằng một số điều kiện trên trái đất đã khiến con đánh mất trạng thái trinh nguyên, thì bắt buộc phải có những điều kiện khác trên trái đất sẽ giúp con lấy lại được trạng thái đó. Thế là nó bị kẹt cứng trong một vòng luẩn quẩn khiến nó đi tìm một trạng thái của tâm, một điều kiện nào đó trên địa cầu, dựa trên sự kỳ vọng rằng điều kiện này sẽ sản xuất ra một cảm giác không hề có trên địa cầu.

Tâm trong trắng nguyên thủy là cái mà con đã đem theo con trước khi con gặp sa nhân, tâm này không xuất phát từ những điều kiện trên địa cầu. Con đánh mất nó không phải vì con đã thực sự đánh mất nó, mà con chỉ đánh mất sự nhận biết về nó. Bởi vì cái Ta Biết bị cơn sốc nặng nề đến nỗi nó sinh tạo ra những cái ngã tách biệt này, khiến con bây giờ đứng trong ngã tách biệt, con nhìn ra ngoài qua phin lọc của ngã tách biệt, và đây là lý do con không thể thấy được là con chưa bao giờ đánh mất sự trinh nguyên, con chưa bao giờ đánh mất cái gì hết. Là sự nhận biết thuần khiết của cái Ta Biết, con không thể mất gì được cả. Tâm trong trắng là sự kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, và sự kết nối này không thể nào đánh mất. Nó chỉ có thể bị bao phủ bởi những cái ngã vỏ ngoài, những cái ngã tách biệt. Con không làm sao thấy được nối kết của con với Hiện diện TA LÀ chỉ vì con đứng trong ngã mà nhìn ra. Cách duy nhất để con lấy lại sự nối kết với Hiện diện TA LÀ là đứng ra ngoài ngã.

Nhưng để đứng ra ngoài ngã, con phải nhìn ngã. Ngã gốc không thể hiểu nổi tiến trình này. Nó nghĩ là trên địa cầu có một số điều kiện đã khiến con mất một cái gì đó. Nó không biết rõ cái đó là gì, nhưng nó biết đại khái con đã mất gì đó. Nó đang cố giúp con lấy lại cái con đã mất. Nhưng nó nghĩ cách duy nhất là con phải có được một số điều kiện nào đó trên trái đất. Và đó là lý do tại sao khi lần đầu tiên con gặp đường tu tâm linh cho dù dưới hình thức nào – một lời dạy của chân sư hay bất cứ gì khác – thì ngã gốc có kỳ vọng rằng bằng cách theo đường tâm linh này, bất kể con định nghĩa đó là gì, con sẽ đạt được khả năng, quyền năng thay đổi hoàn cảnh bên ngoài để nó sản xuất ra cái điều kiện bên trong mà ngã gốc cho là mục đích cần đạt. Nhưng tiếc thay, trong cốt lõi, cái điều kiên mà ngã gốc thấy được đó không phải là một điều kiện thực tế. Điều mà con thực sự cần lấy lại là sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và cái này thì không nằm trên trái đất và do đó không thể được sản xuất bởi bất cứ điều kiện nào trên trái đất.

Con có thể nhìn thấy rất, rất nhiều người đã đi theo một phong trào tâm linh nào đó rồi rút lui khỏi xã hội, ẩn cư nơi vùng hẻo lánh xa xôi nơi họ được che chắn khỏi sự nhộn nhịp hối hả của cuộc sống hàng ngày, và con có thể thấy nhiều người trong số họ tu tập những pháp môn thật khắc khổ suốt hàng chục năm trời trong khung cảnh đó. Nhưng rất, rất ít người đạt được sự tinh tấn mà họ mơ ước. Tại sao vậy? Bởi vì đa số giáo lý và phương pháp tâm linh trên địa cầu thường hứa hẹn những kết quả tự động, hứa rằng nếu con theo học giáo lý, thực hành những tu tập vỏ ngoài, thì con sẽ đạt được mục tiêu mà không cần xem xét tâm lý của mình.

Con hãy để ý câu vừa rồi. Đa số giáo lý tâm linh hứa hẹn con sẽ đạt được bất kỳ mục đích nào con mong muốn mà không cần xem xét đến tâm lý của mình. Các chân sư đã đưa ra những lời dạy vô cùng thâm sâu và chi tiết về ngã gốc cũng như về những cái ngã tách biệt khác tuôn ra từ đó, và lời dạy này trong tinh túy thật đơn giản. Ngã tách biệt, ngã gốc và mọi cái ngã riêng biệt khác luôn luôn phóng chiếu ra ý tưởng là con có một số vấn đề mà con phải giải quyết, một số điều kiện mà con phải đạt được. Nhưng kỳ thực, đây là một ảo tưởng. Khi nào con còn tin rằng có những điều mà con phải làm, những điều mà con phải đạt, hay những điều mà con phải giải quyết, thì con sẽ vẫn còn kẹt trong ngã đó. Và đây, cái chìa khoá để đi xa hơn một mức nào đó của tâm Ki-tô thực sự là phải giải hóa ngã gốc. Nhưng con không thể làm điều này chừng nào con còn cố giải quyết những vấn đề do ngã gốc định ra, hay có thể nói, giải quyết cái vấn đề đã định ra ngã gốc. Con cần bước tới điểm khi con có thể, trong tư cách cái Ta Biết, bước ra khỏi ngã gốc, nhìn thẳng vào nó và hỏi: “Đây có thực sự là một vấn đề không? Vấn đề này có bao giờ giải quyết được không? Và ngay cả khi giải quyết được thì tôi sẽ đạt được gì?”

Và con ngộ ra, con chiêm nghiệm ra sự thật rằng đó không phải là một vấn đề có thật, và con không hề được gì khi giải quyết nó. Ở điểm này, con sẽ tách ra khỏi ngã đó. Như các chân sư đã chỉ cho con cách thực hành và tu tập, con có thể để cho nó chết đi. Thay vì cố giải quyết vấn đề, con chỉ đơn giản để cho nó chết đi. Nói cách khác, điều mà ngã cũng như sa nhân phóng chiếu vào con chỉ là ý tưởng rằng con có thể đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi bằng cách giải quyết vấn đề vỏ ngoài. Nhưng các chân sư nói với con, con sẽ không bao giờ đạt được trạng thái nội tâm mà con mong mỏi cho tới khi nào con buông bỏ sự tìm cầu cách giải quyết vấn đề, tìm cầu cách sản xuất điều kiện vỏ ngoài. Con buông nó ra. Con để cho ngã chết. Con không tìm cách giải quyết bất cứ gì, bù đắp cho bất cứ gì hay đạt được bất cứ trạng thái nào. Con chỉ đơn giản để cho ngã chết.

Con hãy đọc lại câu ta nói trước kia: “Can hệ gì tới ngươi? Còn con, hãy theo ta”. Ý nghĩa thật của câu này là sẽ có rất, rất nhiều điểm trên đường tâm linh khi con phải đối mặt với một ảo tưởng, một khai ngộ nào đó. Ảo tưởng là khi có những điều mình phải làm, những chuyện mình phải giải quyết. Nhưng thực sự điều con cần làm là nhận ra cái đó xuất phát từ một ngã tách biệt, và thay vì cố giải quyết, con từ bỏ mọi nỗ lực giải quyết. Con để yên cho ngã chết vì con đã ngộ được rằng việc bước theo chân Ki-tô quan trọng hơn gấp bội chuyện sản xuất một thành quả vỏ ngoài trên địa cầu.

Bây giờ, ta trở lại những gì ta đã nói về cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Nếu con quan sát một cách vô tư những người tuyên bố theo Trump, con sẽ thấy họ bị xúc động mạnh mẽ. Họ dính mắc với Trump và hình ảnh mà ông phóng ra. Cái mà họ thật sự dính mắc là cái cảm giác mà ông đã cho họ, và họ tin rằng cách duy nhất để có được cảm giác này là qua Trump, qua việc ông là tổng thống, ông là người lãnh đạo. Những người này đang cố làm gì? Họ đang cố sản xuất ra một cảm giác, nhưng họ làm vậy qua trung gian một điều kiện trên địa cầu, và bây giờ họ phải đối diện với sự kiện điều kiện này có thể sẽ thay đổi và Trump sẽ không còn là tổng thống nữa. Làm sao thoát khỏi sự thể này? Chỉ bằng một cách là nhận ra có một cái gì hơn thế nữa, quan trọng hơn điều kiện vỏ ngoài đó đối với con. Nếu con là học trò của chân sư và con tin vào Trump, làm thế nào con sống tiếp được khi ông rời Nhà Trắng? Phải, chỉ bằng một cách là sẵn sàng tự nhủ: “Chuyện đó can hệ gì tới tôi? Vì tôi đi theo Ki-tô”.

Con nhận ra việc nâng cao khả năng phân biện Ki-tô của mình quan trọng hơn bất kỳ điều kiện nào bên ngoài, cho dù tổng thống có là ai. Quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc ai làm Tổng thống Hoa Kỳ. Nếu con nghĩ là nó tùy thuộc thì con chưa thực sự hiểu tâm Ki-tô là gì, và con cần học hỏi rất nhiều lời dạy của ta về tâm Ki-tô. Vậy làm thế nào con sống tiếp được từ điểm này trở đi? Chỉ bằng một cách là buông bỏ một cái gì đó, chỉ bằng cách nhận ra rằng cảm giác mà con mong muốn không thể phát xuất từ điều kiện bên ngoài mà từ sự kiện con làm việc trực tiếp với tâm lý của con. Đây là cốt lõi của giáo lý các chân sư trong đợt truyền pháp này. Nếu con đã đến mức không thể áp dụng những giáo lý này, đó là chọn lựa của con, và con hãy ra đi bình an, hoặc con cũng có thể ra đi không bình an nếu con muốn như vậy. Nhưng các chân sư không thể giúp những ai không sẵn lòng buông bỏ một cái gì.

Ta chỉ dùng sự kiện trên như một ví dụ, bởi vì dĩ nhiên có rất nhiều ví dụ khác. Con nhìn vào những người tâm linh nói chung, con nhìn học trò của chân sư trong các đợt truyền pháp trước hay ngay cả trong đợt này, con sẽ thấy rất nhiều người tới một điểm sẽ đụng phải một điều gì đó mà họ không sẵn lòng buông bỏ. Rồi hoặc là họ ngừng tiến bước trên đường tâm linh, hoặc họ bước vào con đường tay trái, con đường công truyền, nơi họ từ chối thay đổi một điểm gì đó trong tâm lý họ, họ từ chối từ bỏ một cái gì đó để theo Ki-tô. Họ đã không nói được: “Chuyện này can hệ gì tới tôi? Tôi đi theo Ki-tô, tôi sẽ đi theo Ki-tô,” mà ngược lại họ đã như người thanh niên kia nói với ta rằng: “Con muốn theo Giê-su lắm chứ, nhưng trước tiên con có thể đi chôn cha con được không?” Nói cách khác, họ có một việc gì đó trong thế gian mà họ phải làm trước khi đi theo Ki-tô, và như thế họ không thể nào theo Ki-tô vì lúc nào cũng sẽ có những công việc trong đời phải làm trước. Ta đã nói gì với thanh niên đó? “Hãy để cho kẻ chết đi chôn người chết”. Hãy để cho những ai bị kẹt trong tâm thức chết đối phó với mọi vấn đề mà họ tưởng họ phải cần đối phó. Con có thể từ chối đối tác với tất cả những vấn đề này, buông chúng đi, rồi cất bước cùng Ki-tô đi tới những tầng cao hơn của đường tu. Nhưng tất nhiên, tại sao họ không làm được? Bởi vì họ chưa chịu nhìn vào cái ngã gốc luôn nghĩ rằng nó phải sản xuất ra một cảm giác nào đó bằng cách sản xuất những điều kiện cụ thể ở đây trên địa cầu.

Có thể nói, đây là ảo tưởng ngàn đời. Đây chính là bí mật của con đường tâm linh nếu chẳng qua có một bí mật. Đây là bí mật vì có rất ít giáo lý nào thật sự tiết lộ với những lời thẳng thắn, rõ ràng như thế. Lý do một phần là vì, thực tế mà nói, việc nâng cao tâm thức tập thể trên địa cầu là một tiến trình chậm chạp, lần hồi. Không có ích gì đưa ra một giáo lý khi chưa có một số người sẵn sàng nắm lấy và đem ra thực hành. Nhưng dù sao đi nữa, cốt lõi của vấn đề là như sau: “Khi bảo rằng con người chưa sẵn sàng áp dụng giáo lý thì điều này có nghĩa gì?” Có nghĩa là con người chưa sẵn sàng nhìn vào bản thân mình, nhìn vào cái xà trong mắt mình. Bao nhiêu tín đồ đạo Cơ đốc tự nhận là họ sùng tín ta, nhưng liệu họ có sẵn lòng đoái nhìn đến những lời ta đã dạy, chẳng hạn như phải nhìn vào cái xà trong mắt mình thay vì phán xét người khác theo cái giằm trong mắt người? Đây thực sự là một điều mà con phải buông bỏ, một trong những điều khó bỏ nhất khi con lên cao hơn tầng thứ 96. Con thấy không, các sa nhân là một ví dụ rõ ràng nhất của tình trạng tư duy này. Chúng từ chối nhìn vào bản thân, vào cái xà nơi mắt chúng, để chỉ tập trung vào cái giằm trong mắt người khác, luôn luôn vạch ra cái giằm đó, luôn luôn hướng ra bên ngoài và nghĩ rằng vấn đề nằm ở bên ngoài, rằng người khác có lỗi và cần phải thay đổi.

Các sa nhân bị mắc bẫy trong tâm thức này và không thể vượt ra ngoài cho đến khi chúng quyết định quay đầu lại. Nhưng dù quay đầu thì chúng cũng sẽ mất rất nhiều thời gian để vượt qua được. Chúng đã tạo ra trên hành tinh này một con quái vật tập thể vô cùng hùng mạnh luôn cuốn hút mọi người vào tâm thức đó. Vì thế mà con luôn phán xét người khác. Có bao nhiêu trường hợp như thế, như khi con dựng lên ai đó thành con dê tế thần, đổ tội cho họ là nguyên nhân những vấn đề của con, và con tin rằng nếu con có thể loại trừ hay thay đổi con dê thì vấn đề của con sẽ giải tỏa. Vấn đề sẽ tự nhiên biến mất như trong phép lạ. Đây là một con quái vật tập thể vô cùng kiên cố, và một lần nữa, khi con lần đầu tiên gặp giáo lý của chân sư, con vẫn bị nó ảnh hưởng vì con đã lớn lên trong một môi trường lấy chuyện phê phán người khác làm chuẩn. Nó hoàn toàn tự nhiên và ta hoàn toàn thông cảm. Ta nói như vậy bất kể con đã lớn lên ở đâu với rất, rất ít ngoại lệ.

Trong xã hội có một chuẩn mực, một cách cư xử gọi là bình thường. Đó là cách cư xử tại Đan Mạch, người Đan Mạch là như thế, người Mỹ là như thế, người Pháp, người Đức, người Anh cũng là như thế, vân vân. Mọi quốc gia đều có chuẩn mực này, chuẩn mực mà một người tiếng là tốt lành trong xã hội phải tuân thủ, và con được nuôi nấng lớn lên để phê phán chính mình lẫn người khác dựa theo chuẩn này. Con có tuân thủ hay không tuân thủ? Có những áp lực và biện pháp được áp đặt lên những ai không tuân thủ. Cho nên thật là không thể tránh được khi con tìm thấy giáo lý các chân sư, con đã mang sẵn nguyên cái tâm thức này trong bốn thể phàm của con. Con mang những cái ngã đã được tạo ra để đáp ứng tình trạng đó, và có lẽ suốt nhiều kiếp đầu thai, rất có thể con đã củng cố cho nó lớn mạnh hơn. Những cái ngã này không ngừng lượng giá chính con, lượng giá người khác và mọi sự xảy ra chung quanh, nó phán xét tất cả. Cho nên chuyện gì xảy ra khi lần đầu con gặp giáo lý chân sư dạy về quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô? Đúng vậy, những cái ngã này đồng loạt kêu lên: “Hoan hô! Đây hẳn là miền đất hứa, vì nếu chúng ta có thể đạt được quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô, chúng ta sẽ có một chuẩn mực tuyệt đối để phán xét mọi người”.

Trong hầu hết người tâm linh, có một cơ chế tâm lý vận hành. Con đã lớn lên trong một xã hội chắc là bị chi phối bởi một tôn giáo nào đó, hoặc cũng có thể bởi tôn giáo của chủ nghĩa duy vật khoa học. Con đã luôn cảm thấy con không thực sự muốn là một người duy vật, nhưng con cũng không làm sao theo được tôn giáo đang chiếm ưu thế. Cho nên con có cảm tưởng mình là một người đứng bên lề, bị ruồng bỏ. Con đã luôn cảm thấy mình bị phán xét bởi người ngoan đạo lẫn người duy vật, thậm chí cả người cộng sản tùy theo con lớn lên ở đâu. Con cảm thấy mình là người ngoài cuộc. Con bị người ta đánh giá vì con không theo một chuẩn mực nào. Cho nên để đối phó với sự thể, rất có thể vào thời thơ ấu hay trong những kiếp trước, con đã tạo ra những cái ngã, và những cái ngã này mong muốn bù đắp cho sự kiện con bị đánh giá.

Ngã thực hiện sự bù đắp bằng cách cố đạt một ấn tượng, một tin tưởng rằng cho dù con bị người ta đánh giá thì chính họ mới sai lầm vì chỉ có con là đúng vì con là một người tâm linh. Con hoàn toàn có lý khi là người tâm linh, và đây, có cả giáo lý của chân sư thăng thiên xác minh con có lý khi con là người tâm linh. Thật không tránh nổi những cái ngã này sẽ bắt đầu sử dụng giáo lý chân sư để phán xét người khác. Nếu họ không tin ý kiến này thì họ sai rồi. Họ không tin vào luân hồi thì họ phải sai thôi. Họ không tin điều này, không tin điều kia mà các chân sư giảng dạy, do đó họ ở một mức tâm thức thấp hơn mình. Một lần nữa, ta không trách móc ai cả. Chính ta cũng như vậy khi ta còn ở những mức thấp kém của đường tu, không phải trong kiếp đầu thai chót mà những kiếp trước đó. Tất cả chúng ta đều đã trải qua vấn đề này, đó là một phần không thể thiếu của đường tu tâm linh. Nhưng vấn đề là khi một số người tâm linh, thậm chí một số học trò của chân sư, không thể đứng riêng ra khỏi vấn đề. Họ không thể nhận diện cái ngã tách biệt này trong họ, những ngã tách biệt muốn phê phán mọi thứ, lại dùng cả giáo lý của chân sư để thiết lập, dưới mắt họ, một cái chuẩn tối hậu để phán xét mọi người.

Đây là một sự thể con thấy khắp mọi nơi, một phần của cái mà chúng ta có thể gọi là thân phận làm người. Con phớt lờ cái xà trong mắt mình và tim giằm trong mắt người, và con phê phán người khác một cách vô cùng khắc nghiệt dựa trên một chuẩn mực mà con coi là tuyệt đối. Có điều, hầu hết người tâm linh và nhiều học trò của chân sư chắc chắn mang kỳ vọng có thể tạo dựng một cộng đồng tâm linh dựa trên tình thương và tốt thiện. Cho nên con có trực giác là có thể có một cộng đồng tâm linh nơi sự phê phán sẽ vắng bóng. Bao nhiêu người kỳ vọng là khi họ tìm thấy giáo lý của chân sư, những ai theo giáo lý này sẽ không hề xoi mói mà sẽ hiền hòa, tương thân tương ái. Ta hiểu được con có kỳ vọng như thế, nhưng điều này không thực tế.

Vị sứ giả này, nhiều năm trước đây, có nghe tin về tổ chức Summit Lighthouse khi ông sống ở Đan Mạch. Dĩ nhiên ông đã dựng lên một kỳ vọng về cuộc sống tại Summit Lighthouse cũng như về những thành viên ở đó, dựa trên một cái nhìn từ xa, thấy được lý tưởng của giáo lý và nghĩ rằng mọi người theo giáo lý chắc hẳn là yêu thương và hiền hòa. Khi ông đến trụ sở của Summit Lighthouse tại Montana năm 1987, ông bàng hoàng. Chỉ sau ba ngày, giống như ba ngày mà – theo kinh sách – ta đã từng trải nơi địa ngục, ông ngồi xuống và phải lấy một quyết định. Hoặc ông phải ra đi, hoặc ông sẽ ở lại và tìm một giải pháp ổn thỏa. Một ý nghĩ đến với ông, mà ông nhận được trong ngoại tâm, là “Nhưng khoan đã, khi tôi bước qua cánh cổng này, làm gì có tấm bảng nào nói là phải bỏ tự ngã trước khi vào? Cho nên tôi đã không bỏ tự ngã của tôi ngoài cửa, và rất có thể mọi người khác cũng không ai bỏ tự ngã của họ ngoài cửa. Có nghĩa là mọi người trong đây vẫn đều mang tự ngã, tôi cũng vẫn mang tự ngã, vậy thì có lẽ kỳ vọng của tôi hơi thiếu thực tế đó. Có lẽ tôi thiếu thực tế khi tôi chờ đợi mọi người bước qua cánh cửa này bỗng nhiên trở thành toàn hảo, và chính tôi cũng trở thành toàn hảo khi tôi bước vào.” Đây chính là ý tưởng đã cho phép ông ở lại với cộng đồng và tinh tấn vượt bực trong thời gian 10 năm ông sống ở đó.

Một số ý tưởng tương tự cũng đã hữu ích cho nhiều người khác, nhưng cũng có những người không nhận ra được điều này, họ phản ứng một cách khác và bắt đầu phán đoán, hay họ tiếp tục phán đoán người khác và ngay cả chính họ mà không hề hay biết. Vì vậy con có thể thấy tại Summit Lighthouse, hồi đó cũng như bây giờ, có một không khí phán xét mà qua đó họ sử dụng các giáo lý của chân sư để tạo ra hình ảnh về một đệ tử lý tưởng của chân sư. Họ phán xét lẫn nhau dựa trên tiêu chuẩn đệ tử có tuân thủ các đòi hỏi vỏ ngoài này hay không: bạn là nhân viên à? Bạn là nhân viên của bộ phận nào? Bạn có đọc đủ số bài chú hay không? Có là người giao tiếp? Có đóng góp tài chánh cho nhà thờ? Có cư ngụ ở Glastonbury? Lái xe hiệu gì? Màu gì? Mặc áo màu gì? Ăn thức gì? Có kiêng ăn gì không, và vô số những chuyện khác. Cái gì đứng đằng sau khuynh hướng phán xét đó? Chính là ý tưởng cho rằng việc tuân thủ các nghi lễ và luật lệ vỏ ngoài sẽ tự động đưa con tới trạng thái tâm Ki-tô.  

Cho tới giờ, các chân sư đã ban cho con nhiều lời dạy để chất vấn ảo tưởng đó cho nên con phải đủ khả năng thấy được rằng sẽ tới lúc con sẽ không thể tiến bước cao hơn trong quả vị Ki-tô và phân biện Ki-tô cho tới khi con nhìn nhận một cách toàn diện và ý thức rằng quả vị Ki-tô không phải là sản phẩm của các điều kiện ngoại cảnh trên địa cầu. Quả vị Ki-tô không phải là chuyện đã đạt được gì, đã làm được gì, sở hữu cái gì, tu tập pháp môn nào, đọc được bao nhiêu bài chú. Những thứ đó không sản xuất ra quả vị Ki-tô. Quả vị Ki-tô chỉ là một điều duy nhất mà thôi – nó không phải là những gì con đã thu được mà là những gì con đã bỏ lại. Con đã bỏ lại bao nhiêu cái ngã tách biệt? Bao nhiêu ảo tưởng con đã bỏ lại? Bao nhiêu kỳ vọng con đã bỏ lại? Bao nhiêu lần con đã đương đầu với một kỳ vọng, một vướng mắc, và đã tự nhủ một cách hoàn toàn chân thành: “Cái này can hệ gì đến tôi? Tôi sẽ đi theo thày!” Đó là chìa khóa duy nhất cho quả vị Ki-tô.

Con có thể là thành viên của một tổ chức tâm linh. Con có thể nhiệt thành tuân thủ một pháp môn tu tập suốt nhiều năm hay nhiều thập niên. Các chân sư đã thấy điều này rất nhiều lần rồi, nhưng con vẫn không tiến một bước nào về phía tâm Ki-tô chính vì con không chuyển dời tâm thức để nhận ra tâm Ki-tô là gì. Đây không phải là chuyện bám giữ vào cái này hay cái kia trên địa cầu, không là chuyện hoàn thiện cái này hay cái nọ, mà là chuyện buông bỏ. Rất, rất nhiều hành giả khi họ tìm thấy một con đường tâm linh, tập trung rất nhiều vào ý niệm chứng đạt tâm linh cũng như một số khả năng. Nhiều người mơ ước có được quyền năng thần thông, và thật tiếc thay, cuộc đời của ta đã phần nào kích động mơ ước này bởi vì ta đã thực hiện một số phép siêu phàm. Cho nên một số người cũng muốn làm giống thế, hoặc họ muốn chứng đạt được gì đó tùy theo định nghĩa của tổ chức hay giáo lý của họ, và tất cả là để biến cái mà họ đang có thành một cái gì hoàn hảo và tốt đẹp đến nỗi các chân sư phải trầm trồ: “Ồ, có đệ tử kia đã thật sự chứng đạt được cả bảy tia sáng, người ấy đã sẵn sàng thăng thiên rồi đấy.”

Con có thấy không, đường tu thật sự không phải là đạt được một khả năng nào đó, hay ngay cả kiến thức và sự hiểu biết, bởi vì con đường giả trá do các sa nhân phóng chiếu ra – và được nhiều hành giả ở một cấp bậc nào đó chấp nhận vì họ không biết làm gì khác hơn – chính là con đường nâng cao một khía cạnh nào đó của tự ngã, nâng cao một ngã tách biệt nào đó. Vì chúng ta đang bàn về phân biên Ki-tô, con có biết con có một cái ngã tách biệt rất mạnh mẽ khi con tìm thấy một con đường đã được thiết lập suốt nhiều kiếp sống do văn hóa phán xét gây ra? Như vậy, con có một cái ngã tách biệt với khả năng phán xét người khác, và bây giờ ngã này cảm thấy nó có thể áp dụng lời khuyên răn của ta là phải “phán xét theo lẽ công bình” bởi vì nó đinh ninh là nó không phán xét theo chuẩn mực của con người mà theo một chuẩn mực cao hơn. Thế là khi con tìm được giáo lý của chân sư, ngã này liền nói: “À, đây là cơ hội quá tốt cho tôi, tôi sẽ lấy lời dạy này, học tập thật kỹ, đem ra áp dụng, tôi sẽ hoàn thiện khả năng phán xét của tôi. Tôi sẽ chứng đạt chuẩn mực cao nhất của phán xét là phân biện Ki-tô, và tôi sẽ có khả năng phán xét như một chân sư phán xét.”

Nhiều học trò của chân sư tin rằng chỉ có chuyện hoản chỉnh cái ngã này, và khi họ có được sự phán xét tối thượng đó thì họ sẽ chứng đạt quả vị Ki-tô. Đây là quả vị Ki-tô, họ nghĩ như thế. Nhưng con yêu dấu, đây chỉ là một cái ngã. Nó sẽ không bao giờ lên được Thiên đàng. Dù cho khả năng phán xét của con có cao siêu biết mấy, nó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng. Con sẽ không bao giờ vào được Thiên dàng khi nào con còn lôi cái ngã này theo con. Nó không thể chui qua cánh cửa. Làm thế nào con vào được Thiên đàng? Chỉ bằng cách bỏ cái ngã này lại. Có nghĩa là gì? Nhiều học trò tâm linh mà chân sư đã thấy, trong đợt truyền pháp này cũng như những đợt trước, vẫn còn rơi vào cạm bẫy mà nghĩ rằng tâm Ki-tô là chuyện nhìn thế giới, nhìn hành động, nhìn ý nghĩ, nhìn mọi thứ hiện ra và xét đoán chúng dựa trên tiêu chuẩn là chúng đúng hay sai.

Các chân sư đã từng nói gì? Các sa nhân đã phải làm gì để phá nát cuộc sống trên hành tinh này? Chúng phải phóng chiếu ra một chuẩn mực về những gì phải xảy ra hoặc không được xảy ra, khiến loài người phải lượng định mọi thứ dựa trên giá trị đúng hay sai, thật hay giả. Những người này nghĩ rằng bằng cách lấy một lời dạy của chân sư rồi áp dụng và học tập, họ sẽ có thể hoàn thiện cái ngã phán xét ấy để nó nhìn vào mọi chuyện xảy ra trên địa cầu mà xét đoán. Cái này đúng hay sai? Là Ki-tô hay phản-Ki-tô? Nhưng đây là một ảo tưởng và ở tầng tâm thức thứ 96, con sẽ cần phải đương đầu với nó nếu con muốn bước lên những tầng cao hơn. Nếu không, con sẽ rơi vào vòng xoáy đi xuống của sự xét đoán và sẽ ngày càng xét đoán nhiều hơn, trong khi cứ đinh ninh mình là đấng Ki-tô Hằng sống đang xét đoán.  

Ta sẽ minh họa cho con thấy. Giả sử con đang ở một phi trường sầm uất. Đó là trước nạn dịch corona và phi trường đầy nghẹt người. Ai ai cũng nói năng, có loa phóng thanh, có nhạc, có đủ mọi loại tiếng động. Con bước vào đó và nghĩ: “Công việc của tôi là xét đoán xem những tiếng động này là của Ki-tô hay phản-Ki-tô”. Con sẽ làm gì? Con sẽ chú tâm lắng nghe từng tiếng động và con nghĩ rằng bằng cách phát triển khả năng phán xét tiếng động, con sẽ biểu hiện tâm Ki-tô. Nhưng tâm Ki-tô thực sự là gì? Tâm Ki-tô không phải là nghe và phán xét tiếng động đâu. Người có tâm Ki-tô là người nghe được sự im lặng vượt ngoài mọi tiếng động. Con có thể đứng giữa nơi ồn ào nhất cả hành tinh nhưng đằng sau tiếng động vẫn có im lặng. Tiếng động cần có không gian để hiện hữu, là không gian mà đức Phật cầm giữ cho địa cầu. Không gian này – tánh nhận biết im lặng đằng sau tiếng động – đó chính là tâm Ki-tô là phân biện Ki-tô tối hậu.

Đã có một thời, như ta có giải thích, khi con nhìn vào các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc, con sử dụng khả năng của mình để phân biện giữa những gì là ảo tưởng, là sự thao túng, là cơn lốc xoáy và tất cả những thứ đó. Ở cấp độ đó, có thể nói là con vẫn còn phán xét. Ít ra là còn lượng giá và phân tích. Đấy là một phần của tâm Ki-tô ở những bước đầu. Nhưng ta nói với con, sẽ tới một lúc khi con có thể bước lên những tầng cao hơn của tâm Ki-tô, hay con có thể đi xuống những tầng thấp hơn vì con tưởng rằng tâm Ki-tô chỉ là chuyện phán xét. Hãy trở lại ví dụ con đang đứng ở phi trường, với tiếng động khắp nơi và người ta qua lại thật náo nhiệt. Con sực nhớ ra là con đang đeo một cặp tai nghe chống ồn, úp chặt vào hai tai. Trên tai nghe có cái nút bật nhỏ xíu, và nếu con vặn nút đó lên, tai nghe sẽ khiến cho mọi tiếng ồn biến mất và con sẽ chỉ nghe thấy im lặng. Đấy, đó là những tầng cao của tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô. Đó là con đang đặt tâm con trong sự im lặng đằng sau tiếng động.

Điều này có nghĩa là gì? Có nghĩa là con nhận ra điều quan trọng nhất cho con là lắng nghe im lặng. Làm sao con nghe được im lặng? Bằng cách lấy chú tâm ra khỏi tiếng động. Khi nào con còn tập trung vào tiếng động thì con không thể nghe thấy im lặng. Đâu là yếu tố hàng đầu lôi kéo con tập trung vào tiếng động? Đó là sự tin tưởng rằng con cần phải xét đoán xem tiếng động nào là tốt hay xấu, tiếng động nào là phải hay trái. Nhưng đến mức này, con sẽ nhận ra là sự phán xét một ý tưởng nào, một hiện tượng nào là đúng hay sai, không còn quan trọng nữa. Quan trọng hơn là chiêm nghiệm được sự im lặng, tâm Ki-tô. Một khi con bắt đầu chiêm nghiệm im lặng đó – mà đối với hầu hết mọi người sẽ không xảy ra thường xuyên trước khi con hóa giải được ngã gốc, và tuy nhiều người thoáng nghe được im lặng trước khi họ hóa giải ngã gốc, họ không có khả năng giữ vững được lâu – và sau khi con hóa giải ngã gốc, con sẽ chứng nghiệm im lặng đó, và bỗng nhiên nó trở thành điều quan trọng nhất, quan trọng hơn mọi sự xét đoán là ai sẽ là tổng thống hay đủ mọi chuyện khác mà người đời thường đem ra xét đoán.   

Và đây là lúc con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn tất cả những loại quan điểm vỏ ngoài. Như ta đã trình bày, có thể có hai học trò của chân sư đều tin rằng mình có một khả năng phân biện Ki-tô nào đó, và một người thì muốn Trump làm tổng thống và người kia ủng hộ một người khác làm tổng thống. Nhưng nếu cả hai bước lên một tầng cao hơn của tâm Ki-tô, họ sẽ bắt đầu thấy ai làm tổng thống không còn quan trọng gì nữa. Có nhiều thứ khác quan trọng hơn. Chẳng hạn, một điều quan trọng hơn là nếu họ đạt tới một sự hợp nhất nào đó nơi họ không còn bị ngăn cách bởi vấn đề ai sẽ làm tổng thống. Đây là một ví dụ hành giả có thể khắc phục cái ngã chỉ muốn phê phán tất cả. Đây là cách duy nhất cho con hay bất cứ ai kiến tạo được một cộng đồng mà nhiều người tâm linh vẫn mơ ước, một cộng đồng dựa trên tình thương, nhân ái và tương trợ.

Làm sao một cộng đồng có thể tương trợ nếu ai ai cũng luôn phê phán nhau? Làm thế nào có thể ngừng phê phán nhau nếu không ai chịu nhìn vào chính mình và nhìn vào cái ngã đang khiến mình phê phán mọi thứ, kể cả chính mình? Con phải đương đầu với ngã này, con phải nhận ra rằng không phải là chuyện đạt được khả năng phê phán tuyệt hảo, mà là chuyện để cho ngã chết đi hầu sánh bước với Ki-tô bước vào trong im lặng. Con muốn gì? Con muốn quả vị Ki-tô hay muốn sự phán xét của con người? Ta đã đặt trước mặt con sự sống và sự chết. Con hãy chọn sự sống nếu con muốn bước tiếp với ta. Còn không thì ta sẽ phải bỏ con lại đằng sau, và con có thể đi theo bất cứ đường nào mà con định ra dựa trên cái ngã phán xét đúng hay sai, Ki-tô hay phản-Ki-tô. Cái ngã này sẽ phê phán bất cứ gì đứng ra chất vấn thẩm quyền của ngã.

Con hãy chân thật với chính mình. Ta đã có nói, con tự nhận là học trò của chân sư, con đã bỏ thời gian học hỏi giáo lý của chân sư. Con thực sự muốn gì? Con muốn tinh tấn hay muốn bào chữa cho cái ngã không bao giờ vào được Nước Trời? Cái ngã xét đoán sẽ xét đoán bất kỳ giáo lý nào đứng ra tra vấn nó, kể cả giáo lý của chân sư, và nó sẽ xét định rằng giáo lý này không phải là của Ki-tô.

Các chân sư đã từng thấy những nhóm người đã tự thuyết phục mình và thuyết phục cả người khác rằng sứ giả này hay sứ giả kia không còn là sứ giả nữa bởi vì các chân sư sẽ không bao giờ nói ra điều đó. Họ đã rời bỏ tổ chức này hay tổ chức kia để đi theo đường riêng, tin chắc là họ biết rõ hơn cả vị sứ giả là sứ giả có nhận được thông điệp chính xác từ chân sư hay không. Nhưng đằng sau tất cả, họ nghĩ rằng – cái ngã xét đoán của họ nghĩ rằng – họ biết rõ hơn cả chân sư những gì chân sư muốn nói. Nhưng nếu lời ta nói phải phù hợp với sự xét đoán của ngã xét đoán, thì làm sao ta giúp được con thoát khỏi ngã tách biệt đây?    

Ngã nghĩ rằng nó có thể vào được Thiên đàng một khi nó biết phán xét tuyệt hảo, nhưng con yêu dấu, ta là một chân sư thăng thiên và ta biết ngã đó sẽ không bao giờ vào được Thiên đàng, và con cũng không vào được nếu con cứ bám víu vào nó. Cơ hội duy nhất cho ta giúp con thăng hoa là khiến con nhận ra ngã đó hầu con buông nó ra. Nhưng nếu con cho phép nó thuyết phục con rằng khi ta tra vấn nó thì không phải một chân sư đang nói chuyện với con, thì con tiêu rồi. Đối với ta, con đã tiêu mất. Ta không thể giúp con. Ta chỉ có thể tôn trọng quyền tự quyết của con và nói rằng, một lần nữa hành giả này đã chọn con đường tay trái tôn vinh ngã thay vì để cho ngã chết đi mà đi theo Ki-tô. Đối với những ai trong số các con làm điều này trong kiếp này, ta có thể cam đoan rằng con đã làm chuyện đó trong nhiều kiếp đã qua. Con sẽ tiếp tục chọn lựa làm như thế đến bao giờ nữa đây, cứ theo ngã tách biệt mà không theo Ki-tô? Con sẽ cần tới bao nhiêu lần nữa để chiêm nghiệm chuyện này không thể thành được? Vì thế mà cuối cùng con sẽ phải trở lại cuộc đời này trong một kiếp đầu thai nữa và một kiếp nữa và một kiếp nữa, trong khi những ai chịu buông bỏ ngã xét đoán sẽ thăng hoa. 

Ta phải làm gì thêm nữa đây để xuyên thủng những lớp phòng thủ kiên cố mà ngã tách biệt đã xây đắp chung quanh cái Ta Biết của con? Và con cần gì thêm nữa đây? Con hãy suy ngẫm câu hỏi này. Đâu là những rào cản mà ngã tách biệt đã dựng lên hầu cái Ta Biết không thể nghe thấy ta, hầu con không có tai để mà nghe, không có mắt để mà nhìn, khiến con không thể chiêm nghiệm được cái vượt khỏi tầm của ngã là sự im lặng vượt khỏi mọi tiếng động? Có sự sống vượt khỏi tầm của sự chết. Đó là tâm Ki-tô vượt khỏi cái mà con nghĩ là tâm Ki-tô, cái tâm thức phản-Ki-tô, tâm thức của cái chết, tâm thức của Sa-tăng.

Hôm nay con hãy chọn, chọn đi theo Ki-tô hay phản-Ki-tô. Ta cho con tự do hoàn toàn bởi vì nay ta đã làm tất cả những gì ta có thể nghĩ được để giúp con chọn sự sống, và vì vậy ta sẽ buông bỏ, bởi vì là một chân sư thăng thiên thì ta không vướng mắc liệu ta có cứu vớt được con hay không. Nhưng tất nhiên, ta sẽ cương nghị và tung ra ngọn lửa để giúp đâm thủng những phòng thủ bao trùm quanh cái Ta Biết của con.

Các chân sư có dạy rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết. Thật vậy, nó đi song song với sự im lặng. Chứng nghiệm im lặng là chứng nghiệm tỉnh giác thuần khiết, là sự chứng nghiệm rằng con là cái gì nhiều hơn tất cả những cái ngã bên ngoài. Cho nên con có thể bỏ chúng lại mà sẽ không chết, con sẽ không biến mất bởi vì con là, cái Ta Biết là, sinh thể nguyên thủy đã giáng thế từ Thiên đàng – và ta nói gì nhỉ? – không một người nào có thể thăng lên trở lại Thiên đàng ngoại trừ đó là người đã giáng thế từ Thiên đàng.  

Cái Ta Biết đã đi xuống trong sự tỉnh giác thuần khiết mà không có bất kỳ ngã tách biệt nào, vậy thì chỉ có cái Ta Biết mới thăng lên trở lại, và làm thế nào nó thăng trở lại? Bằng cách để cho tất cả ngã tách biệt chết đi. Bằng cách buông bỏ chúng hết. Tất cả bọn chúng phải chết đi để con có được sự sống vĩnh hằng.   

TA LÀ con đường, sự thật và sự sống vì TA LÀ chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô.

Con có quyền không thập toàn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 2/8/2020 trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng trong hành động qua sự hòa nhập bảy tia sáng.

Ta là chân sư thăng thiên Phật Gautama. Con có thể tự hỏi: Phật dính dáng gì đến chuyện của phụ nữ? Phật dính dáng gì đến chuyện của phụ nữ Tây phương hay phụ nữ đang sống trong các nước dân chủ tân tiến? À, các con yêu dấu, ta không có dính dáng trực tiếp. Nhưng chắc chắn là ta có dính dáng gián tiếp, vì ta có thể cung cấp một tầm nhìn có thể giúp phụ nữ thoát khỏi một yếu tố đang giới hạn họ, đang giam họ trong những khuôn nếp cũ. Các thày đã nói là các sa nhân đã lấy quyết định là: “Chúng ta sẽ khiến phái nam trở thành phái tính cao cấp trên Trái đất, chúng ta sẽ dìm phái nữ xuống để họ phải lệ thuộc phái nam. Qua đó chúng ta sẽ tạo ra một xung đột mà nhân loại sẽ không bao giờ giải quyết được”. Tại sao họ lại làm vậy? Các thày cũng đã giải thích là họ nghĩ phái nam dễ nghe theo tư duy cuồng đại cho rằng có một đại nghĩa cần phải được thực hiện.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là một người đàn ông sẽ dễ nói: “Tôi phải bỏ qua một bên quyền lợi cá nhân của mình, ước muốn của mình, đời sống thường nhật thực tiễn của mình. Tôi phải bước ra biểu tình nơi hàng rào chắn lối hay phải gia nhập quân đội để tranh đấu cho đại nghĩa này. Bất kể chuyện gì xảy ra cho gia đình tôi, tôi phải làm việc này”. Người Mỹ có câu nói: “Một người đàn ông phài làm những gì người đàn ông phải làm”. Phụ nữ không dễ bị tu duy cuồng đại quyến rũ bằng. Phụ nữ không dễ dàng chịu bỏ qua một bên đời sống thường nhật thực tiễn của mình để phục vụ một đại nghĩa. Dĩ nhiên đó là vì phụ nữ là các bà mẹ, và làm sao một bà mẹ đang có con nhỏ lại có thể nói: “Tôi cần phải bỏ con cho nó tự lo liệu lấy và ra đi tham gia cuộc chiến này, vì cuộc chiến này quan trọng hơn con của tôi”.

Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là các sa nhân đã rất khôn ngoan khi họ chọn phái nam làm phái cao cấp, vì điều này đã tạo ta bao hình thức ngược đãi phụ nữ và xung đột giữa hai phái suốt mấy ngàn năm qua. Nhưng như các thày cũng đã nói: “Trong tâm thức nhị nguyên, việc gì cũng có giá phải trả”. Giá mà sa nhân phải trả khi họ chọn phái nam làm phái cao cấp và dìm phái nữ xuống, là họ không ngờ là họ đã tạo ra tiềm năng giúp nhân loại thoát ra khỏi tâm thức nhị nguyên, ngay cả mối xung đột giữa hai phái. Bởi phụ nữ có tiềm năng nâng chính họ lên, nâng phái nam lên và do đó nâng cả hành tinh vượt lên trên tư duy nhị nguyên. Chắc chắn là đàn ông cũng có thể nhận ra các thiếu xót và mâu thuẫn của tư duy nhị nguyên. Nhưng trên một bình diện rộng lớn, chính phụ nữ là những người có thể nhìn vào các ý tưởng đựơc đề ra trên thế giới và nói: “Ý tưởng này không đúng nếu nó có thể làm hại con của tôi. Dẹp đời sống hàng ngày và việc nuôi con qua một bên để theo đuổi các ý tưởng trừu tương này là điều không phải. Con tôi là sinh thể có thực, có sự sống, trong khi ý tưởng này là một cái gì trừu tượng, không có sự sống. Sự sống phải ở trên các ý tưởng trừu tượng, chết.” Đó là điều có thể giúp phụ nữ khắp thế giới đứng lên giải thoát mình khỏi cuộc đấu tranh cuồng đại đã và đang diễn ra trên hành tinh này và nói: “Hãy để lưỡi cày thắng đao kiếm, hãy quên đi những đại nghĩa cuồng đại và chú tâm vào việc cải thiện đời sống hàng ngày của mọi người trong xã hội.”

Nhiều người trong các nền dân chủ tân tiến đã nhiều phần nâng họ ra khỏi tư duy cuồng đại và các đại nghĩa cuồng đại, Họ không còn thấy là họ phải đi chinh phục thế giới hay làm cảnh sát cho toàn thế giới, và họ không còn thấy các chuyện này quan trọng hơn đời sống thường nhật của công dân nước họ. Nước Hoa Kỳ hiển nhiên là một thí dụ một nước dân chủ đã không làm được bước chuyển tiếp này. Vì vậy Hoa Kỳ vẫn thấy cần duy trì khả năng quân sự lớn nhất toàn cầu để lúc nào cũng sẵn sàng cấp tốc phóng quyền lực đến bất cứ nơi nào trên hành tinh. Do đó, phụ nữ có tiềm năng thúc đẩy cuộc chuyển đổi này. Nhưng điều mà thày muốn cống hiến ở đây là để thúc đẩy cuộc chuyển đổi này, phụ nữ cần vượt qua một khía cạnh của tư duy cuồng đại mà các sa nhân, đàn ông và nhiều nền văn hóa và xã hội đã áp đặt trên phái nữ.

Có nhiều khía cạnh tinh tế của vấn đề này. Có nhiều cách để giải thích vấn đề, nhưng các con hãy cho thày bắt đầu bằng cách đưa ra một lối giải thích. Phụ nữ đã từ rất lâu bị dìm trong nhiều dân tộc. Nhưng chúng ta hãy chú tâm vào tình trạng ở các nước dân chủ tiên tiến nhất. Nếu các con nhớ lại thời kỳ trước khi các nước này trở nên dân chủ, thì lúc đó phụ nữ bị dìm, phải chịu một địa vị xã hội thấp kém so với đàn ông. Các nước này trải qua một cuộc chuyển dời và họ chuyển qua thể chế dân chủ, nhưng trong nhiều thập niên, phụ nữ vẫn không được quyền bầu phiếu, họ bị coi là không có khả năng hiểu chuyện thế giới, tức là, mở ngoặc, đóng ngoặc, hiểu tư duy cuồng đại, và do đó họ không nên có quyền bầu phiếu vì như vậy sẽ gây hỗn loạn. Một điều tương tự xảy ra trong thương trường. Phụ nữ bị ngăn không cho giữ các chức vụ có quyền quyết định. Trong một thời gian rất dài, phụ nữ còn không được đi làm, ngoại trừ ở một số công việc được coi là hợp với phụ nữ. Vậy chuyện gì đã xảy ra khi các nước dân chủ tân tiến này trở nên tân tiến hơn và bắt đầu cho phụ nữ bình quyền và bình cơ hội? Chuyện xảy ra là đã có một khía cạnh rất tinh tế của tư duy cuồng đại khởi ra mà các nền dân chủ tân tiến không nhận ra. Chúng ta hãy lấy thí dụ một người phụ nữ gia nhập thương trường và đạt tới một địa vị thường do đàn ông nắm giữ. Điều gì người ta, trong tiềm thức hay ít ra là không nói ra, chờ đợi nơi người phụ nữ này? Người ta chờ đợi là họ sẽ thất bại, cũng có khi đồng nghiệp nam của họ mong họ thất bại. Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là người ta chờ đợi người phụ nữ phải chứng tỏ khả năng của mình bằng cách làm việc giởi hơn là những gì một người đàn ông đã làm và có thể làm.

Như vậy việc này đã tạo ra hậu quả gì trong các nước dân chủ tân tiến được coi là tiến bộ và đã cho nam nữ bình quyền? Nó đã tạo ra một tư duy rất tinh tế, và tư duy này đã tạo ra một tà thể quần chúng rất mạnh mẽ, một quái thể quần chúng tìm cách đút những vòi của nó vào từ trường các phụ nữ. Nó là một quái thể, mà chúng ta có thể gọi là quái thể cầu toàn, hay là tà thể cầu toàn. Nó cũng ảnh hưởng nam nhân, nhưng từ sau phong trào giải phóng phụ nữ, nó đã có một ảnh hưởng rất lớn trên ba thể cao – là cảm thể, trí thể và bản sắc thể – của nhiều phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến. Nó đã phóng chiếu tới các phụ nữ khiến họ bị lập trình để tin, nhưng chính họ cũng đã chấp nhận, là họ cần phải thập toàn.  Họ cảm thấy họ cần phải giống như Mary Poppins, tức là phải toàn hảo trên mọi phương diện để có thể được chấp nhận, dù họ đang sống trong những nước dân chủ tân tiến tiến bộ đáng lý phải cho phụ nữ đồng quyền và đồng cơ hội.

Các con có thể thấy là trong các xã hội tân tiến này, phụ nữ đã được bình quyền bề ngoài trên các mặt chính trị, kinh tế, luật pháp, nhưng họ chưa được bình quyền tâm lý. Vì các xã hội này vẫn chấp nhận, có thể là mặc nhiên nhưng vẫn là chấp nhận, là một người đàn ông không giỏi lắm vẫn được quyền giữ chức vụ của mình. Nhưng một phụ nữ thì cần phải gần như toàn hảo trong công việc của mình. Người phụ nữ không thể phạm lỗi như một người đàn ông vì sẽ bị ngược đãi, hay ít ra thì cũng sẽ bị coi là đã không làm tròn bổn phận vì họ là phụ nữ. Nhiều phụ nữ đã chấp nhận điều này, và họ đã tự tạo sự chờ đợi là họ sẽ làm được như vậy, tức là họ sẽ trở thành một siêu nhân. 

Khi con là một phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến và tiến bộ thì người ta chờ đợi con sống ra sao? Con phải là người vợ toàn hảo cho chồng, là người mẹ toàn hảo cho các con, là người nhân viên toàn hảo trong công việc. Con cũng có thể phải là người lo cho cha mẹ toàn hảo, người con gái toàn hảo, và làm sao có ai sống được như vậy? Nếu con lấy bất cứ người đàn ông nào trong các nước dân chủ tân tiến này và đặt họ vào địa vị của đa số phụ nữ, ít nhất là các phụ nữ được coi là thành công, thì các vị đàn ông này sẽ bị xụm về mặt tâm lý vì không chịu nổi áp lực mà các phụ nữ kia phải đương đầu. Đàn ông giản dị là sẽ không đương nổi. Họ sẽ bị khủng hoảng tâm thần, hay họ sẽ cởi bỏ yếm làm bếp và vừa chạy ra khỏi nhà bếp vừa la làng.

Điều mà phụ nữa phải gánh chịu trong các nước dân chủ tân tiến quả thực là vô nhân đạo. Đây là một vi phạm quyền làm người. Theo chuẩn mực mà các sa nhân đã phóng chiếu lên nhân loại, một chuẩn mực nhị nguyên, thì không ai toàn hảo. Chưa một ai đã từng toàn hảo theo chuẩn mực này, kể cả chính các sa nhân, và không một ai sẽ có thể toàn hảo theo chuẩn mực đó. Các thày đã nói điều gì? Mẹ Mary trong bài truyền đọc mở đầu hội nghị đã nói đến hậu quả của lý luận đường thẳng và suy nghĩ nhị nguyên. Điều mà tâm nhị nguyên tạo ra là một chuẩn mực. Nó phóng chiếu ra rằng con người phải sống đúng theo chuẩn mực đó. Nếu các con nhìn vào nhân loại nói chung, không chỉ riêng phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến, thì con thấy là đa số người trên hành tinh đã bị ảnh hưởng. Bất kể con sống trong xã hội nào, lúc nào cũng có một chuẩn mực, một sự phóng chiếu rất mạnh là con phải sống đúng theo chuẩn mực đó.

Vậy đa số con người phản ứng ra sao trước tình trạng này?  Đã có hai phản ứng chính. Nhiều người, đúng hơn là ở đa số các nơi trên thế giới số đông nhìn nhận là họ không thể sống đúng theo chuẩn mực đã được đề ra. Vậy họ phản ứng ra sao? Họ phản ứng theo chuẩn mực, theo nền văn hóa nơi họ sống: họ cảm thấy tội lỗi, họ cảm thấy nhục nhã, họ cảm thấy không xứng đáng, họ cảm thấy bất lực. Nhưng họ khuất phục sự kiện là họ sẽ không bao giờ theo đúng được chuẩn mực. Ngoài ra có một số người, con số tùy quốc gia, sẽ làm một số điều khiến họ cảm thấy là: “Tôi đang làm đúng theo chuẩn mực”.  Làm sao họ nói vậy được? Bằng cách dùng tâm nhị nguyên. Tâm nhị nguyên làm được gì? Nó có khả năng tạo ra một phiên bản riêng của chuẩn mực đã được lọc lựa theo những gì nó muốn. Nói cách khác, khi con đi vào tư duy này, con cho rằng vì con thực thi một số yêu cầu của chuẩn mực giỏi hơn người khác, con đã thực thi tất cả mọi yêu cầu. Nói cách khác, con chối là mình không thực thi tất cả mọi yêu cầu. Không ai có thể thực thi mọi yêu cầu, sẽ không có một ai làm được điều này, nhưng có một số người đã trong tâm chối bỏ là họ không làm theo đúng chuẩn mực. Họ tin rằng vì họ đã thực thi một số yêu cầu, vì họ đã làm được một số điều, vì họ là trường hợp đặc biệt vì lý do này hay lý do khác, nên họ đã làm đúng theo chuẩn mực. Do đó, họ cho rằng họ thật sự toàn hảo trên mọi phương diện, trong khi người khác thì không. Đó là lý do họ nghĩ họ phải lãnh đạo và các người kia phải phục tùng và tuân lời họ.

Nhưng đó chỉ là một chuẩn mực đã được lựa lọc và cá nhân hóa dựa trên sự chối bỏ một số điều, từ chối không thấy một số điều. Chuẩn mực lựa lọc do sa nhân tạo ra, chính sa nhân bị giam trong đó, nhưng họ đã khai thác nó khiến rất nhiều người không phải là sa nhân cũng bị giam trong đó.  Hậu quả của chuẩn mực sa ngã này là gì? Nó tạo ra một thái độ rất phán xét, thích chỉ trích nghiêm khắc. Đây là điều các con có thể quan sát, là có rất nhiều người, đặc biệt là phụ nữ trong các nước dân chủ tân tiến, phải gánh chịu thái độ phán xét nặng nề này. Nếu họ làm một lỗi lầm nhỏ, họ cảm thấy là họ phải hổ thẹn. Nhiều người trong các con là phụ nữ trong các nước dân chủ, nhiều người trong các con không sống trong các nước dân chủ, đều có thể thấy là mình đã lớn lên với chuẩn mực này. Các con được dạy dỗ là phải tự phán xét mình dựa theo chuẩn mực này. Các con được dạy dỗ là phải phản ứng khi người khác phán xét con dựa theo chuẩn mực này.

Các con hãy cho thày lặp lại, vì thày biết là có nhiều người khó chấp nhận và hiểu được điều này. Không một ai có thể làm đúng theo chuẩn mực. Không một ai đã từng làm được, không một ai sẽ làm được. Nếu con chấp nhận được điều thày nói, thì con sẽ nhận ra là chuẩn mực này không thể làm được. Sự toàn hảo không có. Như một con người, một trong những quyền làm người căn bản là quyền không toàn hảo dựa trên bất cứ chuẩn mực nào. Ta có quyền không toàn hảo. Ta không cần phải toàn hảo trên Trái đất. Các con nghĩ coi, có hợp lý chăng là ta sống trên hành tinh lôi thôi và hỗn loạn này mà ta lại phải toàn hảo? Điều này có hợp lý chăng? Khi con suy nghĩ một chút thì sẽ thấy là hoàn toàn không hợp lý. Dĩ nhiên là đa số con người không suy nghĩ về điều này. Họ còn không có khả năng đặt câu hỏi, họ còn không nhận ra là có một chuẩn mực. Khi con bắt đầu nhận ra nó, thì con có thể tự nói với mình: “Không, không, không, sa nhân không thể lừa tôi nữa. Họ sẽ không thể kiến tôi sống phần còn lại cuộc đời tự phán xét mình đựa theo chuẩn mực này. Tôi chán việc này lắm rồi. Tôi sẽ nhìn vào những cái ta đang bị việc này ảnh hưởng, những cái ta và tôi đã tạo ra để phản ứng lại việc này. Tôi sẽ tuần tự loại trừ chúng ta khỏi bốn thể phàm của tôi và để cho chúng chết đi, vì tôi muốn được giải thoát khỏi tính cầu toàn này, khỏi ý niệm phải tự phán xét mình dựa trên chuẩn mực này. Tôi có thể không thoát khỏi bị phán xét bởi người khác, vì họ có quyền tự quyết của họ. Nhưng ít nhất tôi có thể tự giải thoát mình, để khi người khác phán xét tôi, thì ông hoàng thế gian tới nhưng không nắm được gì nơi tôi cả. Chuyện này không ảnh hưởng được tôi. Tôi cho họ quyền tự do tha hồ phán xét tôi, nhưng tôi cũng có quyền tự quyết không để sự phán xét của họ ảnh hưởng tôi và cách tôi sống cuộc đời mình.”

Nhiều phụ nữ đã là người đi tiên phong thách đố chuẩn mực thập toàn này, dù có khi họ không nhận ra hay không làm một cách ý thức. Họ từ chối không sống theo chuẩn mực của cha mẹ họ, những gì cha mẹ họ chờ đợi, xã hội chờ đợi, những tiêu chuẩn của xã hội đã được gán lên họ. Họ từ chối các điều này. Có khi họ làm vậy chỉ giản dị vì họ không thể sống theo chuẩn mực được. Nhưng cũng có phụ nữ hành động một cách có ý thức bằng cách thách đố những chuẩn mực quy định thế nào là phụ nữ trong xã hội họ sống. Vậy, thày là Phật thì thày có thể cống hiến gì cho những phụ nữ sống trong thế giới tân tiến khi họ nhận ra là có chuẩn mực thập toàn đã được gán lên họ? Thày có thể cống hiến khái niệm mà thày đã cống hiến 2,500 trước, tức là khái niệm không dính mắc. Các con cũng có thể nói là Bát Chánh Đạo mà thày đã giảng mấy ngàn năm trước có thể coi là một cách để vượt qua chuẩn mực thập toàn.

Thày biết là có nhiều Phật tử đã bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã, tư duy nhị nguyên. Họ đã lấy Bát Chánh Đạo và nói rằng: “Bát Chánh Đạo quy định một chuẩn mực thập toàn. Nếu ta theo Bát Chánh Đạo, nếu ta thực hành chánh mạng, chánh ngữ và các chi phần khác, thì ta sẽ là người toàn hảo.” Nhưng Bát Chánh Đạo hoàn toàn không dạy điều này. Bát Chánh Đạo nói lên điều phải. Thày biết là thời nay, nhất là trong nền văn hóa Thiên chúa giáo, phải và trái có nghĩa hoàn toàn khác, có hàm ý hoàn toàn khác 2,500 trước đây.

Chữ chánh được dùng trong chánh nghiệp, chánh mạng không có nghĩa đúng đối ngược với sai. Chuẩn mực thập toàn do sa nhân đề ra nói rằng: “Nếu bạn sống đúng theo chuẩn mực, thì bạn đúng, nếu không thì bạn sai.” Mục đích của thày khi giảng pháp là để giúp con người thoát ra đối đãi, đối cực nhị nguyên.  Do đó thày không dạy cái đúng đối ngược với cái sai. Điều thày dạy là đạt không dính mắc, tức là theo trung đạo, tức là không cố gắng làm đúng đối ngược với sai. Cái con muốn đạt là vượt lên trên cả tâm thức này, đạt không dính mắc đến đúng và sai, đến các đối cực nhị nguyên. Do đó, con làm điều đúng dựa trên một viễn quan cao hơn, viễn quan bất nhị, viễn quan của Phật. Chữ “chánh” có một ý nghĩa khác, một hàm ý khác vào thời đó, bằng không thày đã dùng một chữ khác. Ngay cả chữ “trung đạo” cũng có một hàm ý khác ý nghĩa trong thế giới Tây phương ngày nay. Đó là lý do vì sao có nhiều người Tây phương tưởng họ là Phật tử, nhưng họ không hiểu ra ý nghĩa thực của trung đạo. Trung đạo không phải là ở giữa, là một thỏa hiệp giữa hai cực. Trung đạo là vượt lên trên các cực đối đãi.

Đó là gì các thày đã truyền dạy, không phải chỉ riêng mình thày, mà tất cả các chân sư nữ, và một số các chân sư nam. Các thày đã truyền cho các con các bài giảng về tư duy cuồng đại, về chấn thương nhập đời, về cái ngã gốc, về các ngã tách biệt và làm sao khắc phục được chúng. Nếu các con dùng các bài giảng này và ghi nhớ những gì thày nói ở đây về chuẩn mực thập toàn, thì con sẽ đạt được tiến bộ rất lớn. Các con là đệ tử trực tiếp của các thày có thể đạt tiến bộ rất lớn trong việc giải thoát mình khỏi chuẩn mực đó. Các con có thể thoát khỏi ý niệm phải là một phụ nữ thập toàn, mà là một “chánh” phụ nữ, một phụ nữ không dính mắc. Các con có thể là một phụ nữ tự do, một phụ nữ đã vượt lên trên chuẩn mực xét đoán và tâm thức xét đoán. Các con đã có những dụng cụ tâm linh để làm chuyện này. Khi con áp dụng cho chính mình, sau đó dùng tự do của mình để kêu gọi cho các phụ nữ khác, thì sẽ có một nhóm phụ nữ khác, một tầng lớp phụ nữ khác hiện đang đầu thai có khả năng làm việc này. Sau đó, sẽ có thêm người khác theo sau, và việc này sẽ lan ra như những vòng sóng trên mặt nước. Thực sự là nếu các nước dân chủ tân tiến tự coi là tiên tiến nhìn nhận quyền này – quyền không cần phải toàn hảo – như một nhân quyền thì đó là điều rất lợi ích, nhưng quyền này cần phải được công nhận đặc biệt cho phụ nữ. Phụ nữ đã được bình quyền trên mặt pháp lý và vật lý nhưng họ không được bình quyền trên mặt tâm lý vì họ không được làm những lỗi mà đàn ông vẫn thường được làm. Đã bao lần con nghe câu nói bình dân này: “Ồ, đây chỉ là điều đàn ông vẫn làm, hắn chỉ là một người đàn ông, trai trẻ lúc nào cũng là trai trẻ.”? Nhưng có bao giờ con nghe người ta nói: “Ồ, không sao đâu, vị này là phụ nữ, vị này không sống theo đúng chuẩn mực, nhưng không sao cả, con gái lúc nào cũng là con gái.”? Con không bao giờ nghe người ta nói vậy, vì ý niệm này không có mặt trong xã hội. Hiện nay vẫn còn khuynh hướng phán xét tâm lý phụ nữ. Đã đến lúc điều này phải được mang ra giải quyết, được nói lên, được mang ra anh sáng, để người thẩm quyền giải quyết.

Đương nhiên là đã có phụ nữ nhận ra điều này, sẽ có hơn nhiều phụ nữ nhận ra điều này, và như vậy sẽ tạo ra một lực đẩy. Các con có thể đứng lên và nói: “Phụ nữ phải được quyền tự do không toàn hảo giống như đàn ông, và đàn ông cũng phải được quyền tự do không toàn hảo. Tất cả mọi người phải được quyền tự do bắt đầu ở một mức nào đó và dần dần cải thiện chính mình.” Chuẩn mực thập toàn đã có hậu quả gì? Nó đã tạo ra một con đường giả, giống như những gì trước kia được gọi là tà đạo. Tức là như sau: “Đây là một con đường, có một số yêu cầu, có một số điều mà bạn phải làm. Nếu bạn chịu phục tùng con đường này, theo từng bước và từng giới luật, và khi bạn đỗ kỳ thi khảo hạch cuối cùng, thì bạn trở nên toàn hảo.” Đó là con đường tà đạo mà các sa nhân đã hứa hẹn. Nếu bạn theo đúng từng bước, thì bạn sẽ trở thành một thày cấp 33 trong hội các thày tạc đá, bạn là người thập toàn, bạn đứng trên mọi chỉ trích.

Cũng đã có đệ tử chân sư thăng thiên trong các đợt truyền pháp trước đã tin rằng: “Nếu ta tuân thủ tất cả các yêu cầu của tổ chức này, nếu ta đọc tất cả các bài chú, nếu ta làm Người Giữ Lửa, nếu ta làm Người Hiệp Thông, nếu ta vào ban nhân viên, nếu ta thành một người trưởng ban nhân viên, nếu ta thành thư ký riêng của sứ giả, và vân vân và vân vân, thì ta sẽ trở nên toàn hảo. Lúc đó, ta sẽ hơn tất cả các đệ tử bất toàn mới gia nhập, ta sẽ ở đia vị quyền lực. Ta có quyền, ta còn có bổn phận phải phán xét các người đó và cho họ biết là cọn còn bất toàn, để họ bắt đầu tiến theo con đường mà ta đã đi theo.” Những người đó đã và vẫn tin chắc rằng họ theo con đường của các chân sư thăng thiên, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô.

Nhưng những vị đó theo con đường nào? Những vị đó ở trong một tổ chức được các chân sư thăng thiên bảo trợ, họ dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để biện hộ cho hành động của họ, nhưng họ đang theo tả đạo hay con đường của sa nhân. Con sẽ không thể vào thiên đường nếu chỉ theo một chuẩn mực thập toàn được quy định trên Trái đất. Nếu các sa nhân có thể quy định một chuẩn mực giúp họ vào thiên đường, thì tại sao họ lại không có ở đó? Thể nào họ cũng muốn vào Thiên đường và làm những chuyện họ muốn làm ở đó? Vậy, nếu các sa nhân không vào được thiên đường bằng cách theo chuẩn mực của họ, thì làm sao con lại nghĩ một đệ tử chân sư thăng thiên lại làm được điều này? Đây là một nhận thức hoàn toàn phi lý, hoàn toàn sai lạc.

Nhưng ở đây thày không muốn chỉ xoáy riêng vào các đệ tử chân sư thăng thiên tuy rằng ai cũng hy vọng họ sẽ dùng giáo lý này để tự giải thoát khỏi tư duy sa ngã và tả đạo. Các con có thể nhìn các tín đồ tôn giáo và các người tâm linh trên thế giới, trong hầu như tất cả mọi tổ chức, kể cả Phật giáo, ít ra là trong nhiều giáo phái của Phật giáo, để thấy rằng họ đi theo cùng một chiều hướng. Họ đã tạo ra một chuẩn mực, nhiều khi bất thành văn, có khi chỉ mặc nhiên, hoặc chỉ được nói ra từng phần đơn lẻ: “Bạn phải làm điều này, bạn phải làm điều kia”. Một áp lực tâm lý được tạo ra là khi bạn là một tín đồ Công giáo, Phật tử, Hồi giáo vân vân tốt, thì bạn phải sống theo chuẩn mực này. Có người tuân theo, và cũng có người không tuân theo. Những người tuân theo cảm thấy là họ đã tự nâng mình lên một địa vị cao và có quyền phán xét người khác: “Đúng là Giê-su đã nói rằng – đừng phán xét nếu con không muốn bị phán xét, nhưng điều này không áp dụng tới chúng ta. Chúng ta là linh mục, là linh mục Công giáo.”

Nhiều tín đồ Công giáo nghĩ gì về các linh mục của họ? Khi họ nói: “À, vị ấy là một người của Thiên chúa” thì họ có ý gì? Ý họ là: “Vị ấy sống đúng theo chuẩn mực do đạo Công giáo quy định, và do đó vị ấy không thể bị chỉ trích. Chúng ta là người thường không có quyền phán xét vị ấy. Chúng ta không nên phán xét vị ấy. Vị ấy là một người của Thiên chúa. Đúng là con tôi có về nhà và nói rằng vị linh mục dẫn nó đi cắm trại và sờ mó nó một cách không thích nghi. Nhưng tôi không nên phán xét vị ấy. Vị ấy là một người của Thiên chúa. Có thể là con tôi chỉ tưởng tượng vậy thôi. Có thể là nếu tôi lờ chuyện này thì nó sẽ biến đi.”

Các con có thể thấy là cái cơ chế, cái chuẩn mực đã dẫn tới thái độ phán xét của những người tự coi là họ đang sống đúng theo chuẩn mực, cũng đã dẫn tới tình trạng bạo hành rộng lớn không những chỉ trong đạo Công giáo, mà trong nhiều tôn giáo khác nữa. Cái chuẩn mực đó là gì nếu không phải là biểu hiện của tư duy cuồng đại, là bản chất của tư duy cuồng đại: “Có người tốt, có người xấu, ta đúng, họ sai, Do đó ta có quyền phán xét họ.”? Đó chính là tư duy cuồng đại, mà ai là những người bị nó ảnh hưởng nhiều nhất? Chính là đàn ông. Có đúng chăng là tất cả linh mục Công giáo đều là đàn ông? Nhiều nhà lãnh đạo các phong trào tâm linh hay tôn giáo, phong trào chính trị, quân đội, vân vân, là đàn ông.

Các con hãy nhìn vào quân đội và thấy là họ có chuẩn mực riêng của họ. Con hãy nhìn binh chủng Thủy quân lục chiến của Hoa Kỳ, họ có một chuẩn mực rất khe khắt quy định thế nào là một người lính Thủy quân lục chiến, và những ai không tuân theo sẽ bị ngược đãi, bị áp lực tâm lý vĩ đại. Vậy, ai có thể giải thoát hành tinh này ra kỏi tư duy phán xét? Có lẽ không phải là đàn ông. Các con yêu dấu, vậy còn lại ai? Đương nhiên là phụ nữ là những người có cơ hội, một cơ hội xuất chúng tại thời điểm lịch sử này, để nhận ra cơ chế này, và bắt đầu giải thoát chính mình và các con mình, và sau đó là chồng mình và xã hội chung quanh của mình.

Thày biết rất rõ là nhiều phụ nữ đã được giáo dục là họ phải tự phán xét mình dựa theo chuẩn mực. Mẹ họ, cha họ đã phán xét họ như vậy. Bây giờ thì họ đã trưởng thành và lập gia đình thì người chồng của họ cũng phần nào phán xét họ. Ta có thể hiểu vì sao một số phụ nữ không chịu được sự căng thẳng này và đối chọi lại chồng họ. Họ muốn tự giải thoát khỏi tình trạng này, và người muốn tự giải thoát có khi phải qua một giai đoạn xa lánh người đang hành hạ mình. Họ cần nhìn nhận là người kia đang hành hạ mình, và như vậy khiến họ khó có liên hệ với người đó. Nhưng nếu phụ nữ có thể dùng bất cứ phương tiện tâm lý nào mà họ tìm ra để tự giải thoát khỏi chuẩn mực, thái độ, tư duy phán xét, thì bước tới của họ là giúp những người đàn ông trong đời họ cùng làm như vậy.

Các con có thể quan sát nhiều xã hội trong đó đàn ông có thái độ rất phán xét đối với phụ nữ, trong đó có tất cả các xã hội dân chủ tân tiến, tuy họ không phán xét nhiều bằng một số thành phần khác, tỷ dụ như đàn ông Hồi giáo. Con có thể nghĩ rằng đàn ông là những người đang có thái độ phán xét. Nhưng nếu con nhìn kỹ thì con sẽ thấy là cả đàn ông lẫn đàn bà đều bị dính vào đó. Như các thày đã nói nhiều lần, con không thể làm gì cho người khác mà không làm cho chính mình trước. Nếu con phán xét phụ nữ, thì có thể con đang hướng tâm phán xét về phụ nữ, nhưng con đã tự phán xét mình trước rồi. Con đã tự nhốt mình vào một cái hộp trong đó con không có chỗ xoay xở. Do đó, nếu một phụ nữ đã tự giải thoát được khỏi con quái thể cầu toàn, thì bước tới họ sẽ giúp giải thoát chồng mình. Họ cũng có thể nhìn vào các con và nói: “Tôi chắc chắn không muốn con tôi lớn lên với cái chuẩn mực bất khả thi và thái độ phán xét này.”

Nếu người phụ nữ giải thoát được chồng mình, thì có thể người chồng đó sẽ giúp giải thoát được các đàn ông khác. Một lần nữa, con thấy là đầu mối xảy ra trong gia đình, đầu mối là một nguời đứng lên tỏ thái độ, và sau đó mọi chuyện lan dần ra. Khi có đủ cá nhân trong xã hội đứng lên tỏ thái độ ở cương vị cá nhân, là một điều thoạt trông không có gì đáng kể, nhưng tiếp theo đó sẽ có một chuyển dời, túc số đã hội đủ và đã có đủ số người để nâng tâm thức đại chúng lên. Đó là khi một chuyển dời sẽ xảy ra, là khi xã hội bắt buộc phải giải quyết vấn đề. Họ phải trực diện sự việc là tuy họ nghĩ họ sống trong một xã hội dân chủ tiến bộ đã trao bình quyền cho phụ nữ, nhưng thực sự họ chưa bắt đầu trao bình quyền cho phụ nữ.

Bởi vì, khi chúng ta còn cái chuẩn mực phán xét này thì làm sao chúng ta trao được tự do cho phụ nữ? Làm sao chúng ta giải phóng được phụ nữ? Làm sao chúng ta giải phóng được đàn ông? Làm sao chúng ta có thể là một xã hội tự do khi vẫn bị giam trong cái chuẩn mực phán xét này? Tự do và phán xét có thể sống chung được chăng? Do đó, họ có thể thấy là họ đã có những bước tiến tới một xã hội tự do, nhưng họ chưa phải là một xã hội tự do thực sự. Bởi vì, tuy họ đã cho quyền tự do pháp lý, chính trị, kinh tế cho người dân, nhưng họ chưa cho người dân quyền tự do tâm lý. Ta chỉ cần vào các bệnh viện tâm thần và các khóa phục hồi để thấy rằng con người không thể hưởng được quyền tự do chính trị và kinh tế nếu không có tự do tâm lý. Mục đích của thày là gì khi thày truyền pháp cách đây 2,500 năm? Thày muốn cho con người tự do tâm lý. Thày Giê-su muốn gì khi thày bước đi trên những con đường bụi bặm ở Palestine 2,000 trước đây? Thày muốn đem lại tự do tâm lý cho con người. Tất cả các vị thày tâm linh chân chính muốn làm gì? Các chân sư thăng thiên muốn làm gì hiện nay? Đương nhiên là đem lại tự do tâm lý. Các thày muốn trao quyền này cho tất cả mọi người, nhưng các thày nhận ra là chưa thể làm được điều này, ít nhất là ở thời điểm này. Các thày có thể cố gắng ban cho những ai đã mở tâm đón nhận, chịu tu tập để đạt được nó, chịu theo một con đường tuần tự dẫn đến giải thoát, giải thoát bốn thể phàm, giải thoát ba thể cao khỏi các mưu mô của sa nhân chỉ có một mục đích là tước đoạt quyền tự do tinh thần của con người. Con có thể nghĩ việc tước đọat quyền tự do chính trị trong một thể chế độc tài nhằm một mục đích vất chất. Không phải vậy đâu. Đằng sau các việc này là sa nhân, và sa nhân chỉ có một mục đích, đó là tước đoạt quyền tư do tâm lý của nhân loại trên Trái đất.

Tất cả mọi việc khác, tất cả mọi chuyện con thấy bên vỏ ngoài chỉ là phương tiện đưa tới cứu cánh này. Chỉ là phương tiện để đạt cứu cánh tước đoạt tự do tâm lý của nhân loại. Rất nhiều người trong các xã hội dân chủ tân tiến đã sẵn sàng nhận ra điều này. Họ đã sẵn sàng nhận ra là có một con đường dẫn tới tự do tâm lý. Và họ đầu thai để khám phá và theo con đường này, và qua đó nâng tâm thức đại chúng lên để kéo xã hội ra khỏi mưu mô tước đọat tự do tâm lý của con người. Các con đã khám phá ra con đường, đã theo con đường và cất tiếng kêu gọi. Các con có thể tạo một xung lực sẽ lan tỏa ra, giải thoát vòng đầu tiên, và vòng sau đó, và vòng sau đó, và vòng sau đó. Con chưa kịp nhận ra thì đã đủ túc số, một chuyển dời xảy ra, và sau đó túc số khác lại hội đủ, một chuyển dời khác lại xảy ra, và cứ như vậy sẽ tiếp tục tăng trưởng giúp xã hội thể hiện các sắc thái càng ngày càng cao của thời Hoàng kim của Saint Germain.

Đúng như các thày đã nói, các con hãy nhìn lại lịch sử, nhận ra các khuynh hướng, tiến trình nâng cao nhận thức. Các con đã thấy gì nơi các nền dân chủ tân tiến? Một khuynh hướng tiến tới tự do, nhưng cũng bắt đầu có bước tiến tới tự do tâm thần, tự do tâm lý. Bây giờ con hãy quay mặt nhìn về tương lai, khuynh hướng này sẽ đi về đâu? Phải chăng là các nền dân chủ tân tiến này sẽ dần dần cho nhiều quyền tự do tâm lý hơn cho người dân xứ họ? Người dân sẽ giành quyền tự do tâm lý, sẽ đòi hỏi quyền này, họ sẽ nâng các người khác lên, và xã hội sẽ phải tới điểm nhìn nhận mục đích cao nhất của một nước dân chủ tự do là tạo ra điều kiện tốt nhất để mỗi người dân giành tự do tâm lý ở mức cá nhân. Điều này tất nhiên sẽ xảy ra. Đây không phải là một lời tiên đoán. Điều này đã được viết trong lịch sử nhân loại, vạch rõ khuynh hướng tương lai.

Mọi phát triển tích cực mà các con thấy trong lịch sử đều đẩy xã hội tới điểm nhìn nhận quyền tự do tâm lý là mục đích tối hậu. Tất cả mọi việc đều chỉ tới hướng đó. Khi các con thấy nó, khi nó hiện ra rõ ràng, thì các con là đệ tử trực tiếp của các thày, các con có thể chuyển dời tâm thức và thấy nó chăng? Các con có thấy tính tất nhiên của nó chăng? Do đó, các con hãy vững tin, hãy can đảm, hãy được khích lệ và nhận ra là mình đang ở hàng đầu của làn sóng. Nếu dùng một lối nói cũ, thì có thể nói đó là làn sóng lịch sử tất yếu. Thật ra thì đây không phải là một tất yếu lịch sử, vì nó xảy ra khi có rất nhiều người đứng lên đáp ứng lực kéo lên của cả vũ trụ. Do đó, đây không phải là một tất yếu lịch sử, mà là một tất yếu do chọn lựa, nhưng quả thật nó là một điều tất yếu. Câu hỏi không phải là “sẽ có xảy ra không” mà là “khi nào sẽ xảy ra”.

Vậy thì các con có thể nào vượt thăng các nghi ngờ, sợ hãi, băn khoăn: “Xã hội đi về đâu? Ta làm việc này có kết quả gì? Sẽ có thời Hoàng kim không?” Các câu hỏi này sẽ mờ nhạt đi khi các con nhìn lại lịch sử, nhận ra các khuynh hướng, phóng các khuynh hướng này tới tương lai, thì các con sẽ thấy là 100 năm, 200 năm nữa sẽ có những phát triển vĩ đại, một chuyển dời vĩ đại của tâm thức đại chúng. Những gì các con đã nhận ra bây giờ, đa số con người, ít nhất là trong các nước phát triển, sẽ nhận ra lúc đó. Điều đó sẽ trở nên đương nhiên với họ, như nó đã là đương nhiên cho con. Không có gì thần bí về các con cả. Các con chỉ trưởng thành hơn, phát triển hơn người trung bình trong xã hội các con một chút.

Đó là lý do vì sao con thấy được một số điều mà họ chưa thấy. Nhưng khi con nâng họ lên, khi họ tự phát triển, họ sẽ thấy những điều mà con đã thấy bây giờ. Vì sao con lại thấy được các điều này? Con có khả năng đặc biệt gì chăng? Không đâu. Con đã đả thông được một số bế tắc trong tâm thức của mình khiến cho điều đó trở nên hiển nhiên. Khi người khác cũng làm như vậy, thì điều này cũng sẽ trở nên hiển nhiên với họ. Không có gì thần bí cả. Khi con ở trong một phòng tối, thì tại sao nó lại tối? Phòng tối vì các cửa sổ bị lấp kín bởi một lớp bụi dày đặc. Khi con đục một lỗ thủng trong lớp bụi này đi thì chuyện gì xảy ra? Ánh sáng sẽ vào căn phòng, và khi có một tia ánh sáng lọt vào căn phòng, thì con nhận ra rằng bên ngoài căn phòng có ánh sáng. Vì nếu không thì làm sao lại có tia sáng lọt vào căn phòng?  Do đó, nếu ta đục thủng một lỗ lớn hơn, thì phải chăng ta sẽ có thêm ánh sáng rọi vào? Và nếu ta rửa sạch cả cửa sổ, phải chăng là ta sẽ có toàn thể ánh sáng tràn vào? Không có gì thần bí cả. Không ai có khả năng gì đặc biệt cà, một người làm được thì mọi người đều làm được. Do đó, con nên nhớ rằng khi con đi con đường của mình, người khác sẽ được nâng lên để làm giống như vậy, và việc đó sẽ lan dần ra, lan dần ra, lan dần ra và thời Hoàng kim sẽ là thực tại thể hiện, có thể không trong kiếp sống này của con, nhưng nó sẽ thành sự thực.

Vậy con có thể nào không được khích lệ chăng? Con hãy buông bỏ mọi sợ hãi, nghi ngờ, băn khoăn, và nhận ra rằng con thuộc một trào lưu đi lên của hành tinh này. Con thuộc về đại đòan chân sư thăng thiên và trào lưu mà các thày đã tạo ra trên Trái đất. Con là phần nối dài của các thày. Các thày biết là sống kiếp đầu thai ở một hành tinh dày đặc như thế này rất khó khăn. Nhưng con có thể nào giữ chặt theo viễn quan của các thày khi các thày nhìn về lịch sử một cách rất thực tế, phóng chiếu tới tương lai, và qua đó, thấy một cách rất rất rất rõ ràng là thời Hoàng kim sẽ tất nhiên xảy ra trên hành tinh này? Sa nhân sẽ không cản được điều này, nhân loại sẽ không cản được điều này. Những ai cản trở nó, những ai chưa thấy nó, họ sẽ không cản được nó vì túc số những người đã chuyển dời đã được hội đủ. Không phải chỉ có các con là những đệ tử trực tiếp của chân sư thăng thiên mà còn nhiều người khác đã chuyển dời tâm thức, và do đó sẽ không có gì ngăn trở thời Hoàng kim được.

Trong hội nghị vừa qua và hội nghị này, các thày đã trao truyền nhiều giáo pháp rất dũng mãnh, rất thâm sâu, cùng dụng cụ để giúp phụ nữ tự giải thoát và làm động lực thay đổi, một thay đổi cần xảy ra bây giờ trên toàn thế giới, nhưng đặc biệt nơi các nền dân chủ tân tiến. Đúng thật là các dụng cụ đã có mặt, giáo pháp đã có mặt. Bất cứ ai dùng các dụng cụ này một cách chân thành sẽ đạt được kết quả, không những cho chính mình, mà họ còn ảnh hưởng xã hội bằng cách giải phóng người khác. Đó là mục đích của các thày. Các thày mong được thấy những gì sẽ xảy ra trên lãnh vực giải phóng phụ nữ trong 10 năm sắp tới. Các thày cảm ơn các con đã tham dự các hội nghị này, đã làm đầu mũi giáo chọc thủng màn ngăn trở của tâm thức đại chúng không muốn thấy giải phóng tâm linh thực sự nơi phụ nữ.

Bây giờ thày niêm các con. Thày niêm hội nghị này trong ánh sáng đức Phật mà TA LÀ. Ánh sáng không thể nói tới, không thể mô tả nhưng toàn thắng, không thể ngăn chặn. Có lẽ chính vì nó không thể mô tả mà không có gì ngăn chặn được nó, vì nó không phân biệt. Nó không phải là một vật và không thể hiểu bằng lý trí đường thẳng, cũng như thày không thể hiểu được bằng lý trí đường thẳng, và pháp của thày cũng không thể hiểu trọn vẹn được bằng lý trí đường thẳng. Lý trí đường thẳng có thể tạo ra một hình tư tưởng của giáo lý Phật. Nhưng hình tư tưởng sẽ không bao giờ giúp con tiếp cận được Phật, và chỉ khi con tiếp cận được Phật thì con mới hiểu được giáo pháp của Phật.

Ta là Phật, ta là Chủ tể Thế gian của Trái dất. Bất cứ ai trên Trái đất đều có thể tiếp cận ta nếu họ chấp nhận vượt thăng không những giáo lý Phật giáo vỏ ngoài, và tất cả giáo lý vỏ ngoài, tất cả chuẩn mực vỏ ngoài. Vì ta không bị giới hạn bởi bất cứ gì trên Trái đất. Do đó, nếu con muốn tiếp cận ta, con cũng không được giới hạn chính mình. Tất cả các con đều có tiềm năng đó, các con có giáo lý, các con có dụng cụ. Các con có gương của sứ giả này, đã tiếp cận ta nhiều lần, và hiện đang tiếp cận ta ngay lúc này vì ông đang cảm thấy Hiện diện không thể mô tả của Phật, Hiện diện quả cầu của Phật. Một số trong các con đang cảm được nó. Tất cả các con đều sẽ cảm được nó. Ta không ngăn các con tiếp cận ta. Tại sao các con lại tự ngăn không cho mình tiếp cận ta?

Đã đến lúc bước lên một nhận biết cao hơn về chức năng làm mẹ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/8/2020 trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng trong hành động qua sự hòa nhập bảy tia sáng.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary và ta đến để gửi cho con một số ý nghĩ về chức năng làm mẹ.

Các chân sư từng nói nhiều lần là mỗi thay đổi trên địa cầu khởi sự ở cõi ether nơi tầng bản sắc. Thay đổi xảy ra ở đó trước tiên, rồi từ đó chuyển xuống cõi lý trí, rồi cõi cảm xúc, và sau khi đi qua cõi cảm xúc, cuối cùng nó đi xuống cõi vật lý. Ta muốn chia sẻ với con một vài cảm nghĩ về những gì các chân sư đã làm trong một thời gian rất dài để đem lại một số ý tưởng và hiểu biết xuyên qua ba cõi cao hầu những ý tưởng này có thể sẵn sàng đi xuống cõi vật lý. Qua đó ta muốn nói là đa số phụ nữ sẽ nhận ra những ý tưởng này. Hiển nhiên nhiều phụ nữ đã nhận ra rồi, và nhiều phụ nữ với thiên hướng tâm linh hay mức nhận biết cao hơn cũng đã nhận ra. Nhưng chúng ta đang ở một điểm khi trong thập niên tới, những ý tưởng này sẽ được quần chúng rộng lớn nhìn nhận, có lẽ chưa là đa số, nhưng chắc chắn một túc số đủ để kích hoạt những thay đổi.  

Chúng ta hãy nhìn vào hoàn cảnh của một phụ nữ trên địa cầu đang có mang. Dù đây là lần đầu hay một lần sau, con đang mang thai một đứa bé. Con sắp trở thành mẹ, và tất nhiên con mang niềm hy vọng và mường tượng con mình sẽ lớn lên, trưởng thành và sống một cuộc đời dài lâu. Là mẹ, con muốn thấy gì nơi con mình? Nhìn chung quanh hành tinh, con thấy người mẹ trong nhiều hoàn cảnh đời sống khác nhau. Họ sống trong nhiều nền văn hóa, có những góc nhìn và tin tưởng khác nhau về cuộc sống. Họ mong muốn những điều khác nhau cho con mình tùy theo hoàn cảnh họ đã lớn lên và họ chờ đợi con mình cũng sẽ lớn lên ở đó. Nhưng hãy chưa đi vào chi tiết vội, hảy nhìn chung chung trước cái đã.       

Một người mẹ muốn gì cho con mình? Điều căn bản là muốn con mình có một cuộc sống tốt đẹp. Mỗi người ở trong hoàn cảnh khác nhau có thể định nghĩa “tốt đẹp” không giống nhau, nhưng dù sao thì mọi người mẹ đều muốn con mình có cuộc sống tốt đẹp. Có nghĩa là họ không muốn một số điều xảy ra cho chúng. Họ không muốn chúng chết sớm. Họ không muốn chúng nghiện ma túy, không muốn chúng trở thành tội phạm, không muốn chúng bị gọi đi nghĩa vụ quân sự và bỏ mạng hay bị tàn phế nơi chiến trường. Họ không muốn chúng mắc phải những chứng bệnh nan y chết người, không muốn chúng bị tàn tật hay tổn thương tâm lý đến độ không thể sống hữu ích, không thể học hành, đi làm hay lập gia đình. Chắc chắn có nhiều điều mà một người mẹ không muốn cho con mình.  

Bây giờ hãy nhìn vào tâm trạng của một người sắp làm mẹ. Khi cô ấy nhìn về tương lai và dự kiến điều gì có thể xảy ra – hay không xảy ra – cho con mình, làm thế nào cô ấy xử lý được đây? Như thày Portia có nói, con có thể nhìn lại lịch sử khắp thế giới, có những hoàn cảnh nơi phụ nữ phải sống vô cùng bấp bênh, có thể một đời nghèo khó, hay sống trong vùng xung đột. Cho nên nói chung có nguy cơ con mình phải đối diện với bạo lực và rủi ro. Thời nay ở những nước tương đối trù phú thanh bình, có những phụ nữ có thể mong đợi con mình có cuộc sống khá tốt. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, người mẹ không thể biết được liệu con mình sẽ bị bệnh tật, bị những vấn đề tâm lý ngăn cản chúng được hưởng một cuộc sống bình thường, hữu ích, hoặc bất kỳ những vấn đề nào khác có thể xảy ra. Khi con nhìn dưới mắt người mẹ, con có thể tự hỏi: “Điều gì sẽ định đoạt cuộc sống của con tôi, điều gì sẽ định đoạt đời nó sẽ có đóng góp xây dựng hay là sẽ trắc trở, đau buồn, sầu thảm, hung bạo? Điều gì sẽ quyết định cuộc đời con tôi? Tôi muốn đời nó tốt đẹp nhưng điều gì sẽ định đoạt những nét chính trong đời nó?”                 

Ở điểm này, nhiều người mẹ sẽ nhìn ra một cách ý thức một điều mà họ vốn đã biết nhưng thường chưa nhìn nhận. Khi họ ngẫm nghĩ về tương lai con mình, họ cảm thấy phần nào bất lực không làm gì được. Họ cảm thấy mình rất ít quyền hạn để định đoạt cuộc đời con mình sẽ hữu ích hay không. Hiển nhiên nhiều người mẹ không dám nghĩ đến tương lai con mình chính vì cảm hấy mình không có khả năng làm được gì, và họ tránh không nghĩ tới. Nhưng nếu con suy nghĩ, phụ nữ trong những hoàn cảnh khác nhau trên thế giới có những tin tưởng gì về các yếu tố sẽ ảnh hưởng tương lai con mình? Phải chăng là định mệnh? Là số mạng? Là sự may mắn? Là những chuyện ngẫu nhiên hên xui may rủi? Là ý muốn của Thượng đế như một số phụ nữ tin như vậy, dù đó là Thượng đế này hay Thượng đế kia? Đó có phải là nghiệp chướng như một số phụ nữ, rất nhiều phụ nữ đặc biệt là tại phương Đông, tin như vậy? Điều gì sẽ định đoạt vận mạng, cuộc sống của nó? Nếu thật là tất cả những điều ở trên, cho dù đó là ý muốn của Thượng đế hay nghiệp quả hay sự may rủi, thì với tư cách người mẹ con quả là không thể làm được gì. Nếu con tin rằng ý muốn Thượng đế sẽ ảnh hưởng đến con mình, con có thể cầu nguyện và tin tưởng lời cầu của con sẽ thay đổi ý định của ngài đối với nó, nhưng ngoài chuyện đó ra thì phụ nữ cảm thấy bất lực ở nhiều mức độ khác nhau.

Tuy nhiên trên bình diện rộng lớn của tâm ý thức loài người trong cõi vật lý, hiện đang có một sự khai ngộ sắp sửa đột phá, rằng cảm giác bất lực này nơi người mẹ là một ảo tưởng. Nó phát xuất từ một số tin tưởng sai lạc được truyền bá trong tâm thức tập thể. Thậm chí nó phát xuất từ một số tin tưởng đã được cố tình cài đặt vào phụ nữ trong một số bối cảnh văn hóa khác nhau. Cho nên trong thập niên sắp tới, nhiều phụ nữ sẽ có khả năng nhận ra là trong vai trò người mẹ, quả thực là có những điều mà họ có thể làm được để định đoạt cuộc sống mà họ mong muốn cho con mình. Chắc chắn nhiều người sẽ hỏi ngay: “Tôi có thể làm gì được trong cõi vật lý?” Và tại một số nước nghèo hay đang lâm vào cảnh chinh chiến, nhiều phụ nhữ sẽ cảm thấy mình chẳng làm được gì nhiều trên phương diện vật lý bởi vì tương lai thật quá bất định. Tại các nước trù phú hơn, một số phụ nữ sẽ cảm thấy là họ đã làm đủ tất cả những gì họ có thể làm rồi. Họ có cuộc sống vật chất tốt đẹp, bảo đảm, họ sẽ cho con đi học những trường tốt nhất, họ sẽ giúp cho con học hành đến nơi đến chốn rồi có công ăn việc làm trên mức trung bình. Và họ cảm thấy như thế là đủ. Con họ sẽ có một tương lai tương đối bảo đảm, sung túc.  

Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, nếu con nghĩ xa hơn, làm sao chắc chắn đứa con ra đường không bị xe đụng? Không thể biết được, phải không? Cho nên điều con cần nhận ra là cho dù con cảm thấy bất an hay vững tin về tương lai, vẫn có những điều mà con có thể làm để bảo đảm nhiều hơn cho cuộc sống con mình. Có những việc mà con có thể làm để cải thiện cuộc sống của nó bất kể những điều kiện nơi xứ con, bất kể số mạng hay may mắn hay rủi ro hay bất cứ con gọi là gì. Yếu tố này bảo đảm sẽ cải thiện cuộc sống đứa con của con. Vậy yếu tố sẽ cho con quyền năng cải thiện cuộc sống đó là gì?   

Đúng vậy, như chúng tôi đã có nói, đó là sự thừa nhận rằng con người là những sinh thể tâm lý. Hẳn nhiên, đứa con của con sẽ lớn lên trong một số hoản cảnh vỏ ngoài. Sẽ có một số điều kiện vỏ ngoài ảnh hưởng đời sống của nó, và những điều kiện này có thể con sẽ không thay đổi được. Nhưng khi con nhìn cuộc đời một cách thực tế – có thể chính đời con hay đời người khác – con sẽ thấy hai đứa trẻ có thể lớn lên trong những hoàn cảnh rất tương tự, thế nhưng một đứa sống hữu ích còn đứa kia thì không. Con thấy nhiều đứa trẻ lớn lên tại các nước giàu có với đầy đủ mọi thứ, với cả cái thìa bằng bạc ngậm trong miệng như câu thành ngữ quen thuộc vẫn nói. Thế nhưng một số đứa không có khả năng có một cuộc đời xây dựng, hữu dụng. Tại sao như vậy? Tại vì tâm lý của chúng mà thôi. Đâu là sự khác biệt giữa một đứa trẻ lớn lên và trở thành hữu ích với một đứa không làm được vậy? Tất cả là trong tâm lý, trong cách nó tiếp cận cuộc sống, thái độ của nó với cuộc sống, cách nó nhìn cuộc sống, cách nó nhìn chính nó. Đó hoàn toàn là vấn đề nó đã đi vào hiện thân trong những điều kiện tâm lý như thế nào.          

Và đây là điểm mà nhiều phụ nữ nay đã sẵn sàng nhìn nhận. Tại nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ đã được dạy dỗ, đã được lập trình để tin rằng mình không có khả năng làm gì nhiều để ảnh hưởng tâm lý của mình lẫn tâm lý con mình – đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn một tâm lý nào đó rồi và con không làm gì được nhiều. Nhưng đó là lời dối gạt, đó là ảo tưởng mà nhiều phụ nữ nay đã sẵn sàng nhìn thấu. Sự nhìn nhận này có thể khởi sự trên bình diện rộng lớn tại các nước giàu có, nhưng ngay cả tại những nước nghèo hơn, nhiều phụ nữ hiện đang đầu thai đã sẵn sàng chuyển dời tâm thức và nhận ra rằng tâm lý có tầm ảnh hưởng trên mọi lãnh vực cuộc sống. Sự chuyển vọt tâm thức mà phụ nữ có thể làm được là nhìn nhận rằng: “Tâm lý con tôi không hề được tạc vào đá. Con tôi sinh ra với một tâm lý nào đó, nhưng có những điều tôi có thể làm để giúp nó phát triển tâm lý hầu nó có cái nhìn xây dựng hơn về cuộc sống.”

Khi suy ngẫm điều này, thật là không khó khăn gì cho các bà mẹ thấy được rằng những ai có thái độ và cách nhìn xây dựng tich cực về cuộc sống thường có một cuộc đời tốt đẹp hơn thật, ngay cả trên phương diện vật lý. Nhưng đặc biệt họ có một cuộc đời tốt đẹp hơn trên phương diện tâm lý, trong hạnh phúc tâm lý. Có bà mẹ nào mà không muốn con mình hạnh phúc tâm lý? Có bà mẹ nào không muốn con mình hạnh phúc, bình an, bằng lòng với cuộc sống? Sự thật là một số bà mẹ không dám muốn điều này vì chính họ đã lớn lên với những vết thương tâm lý sâu đậm đến độ họ không thể mang ước vọng đó cho con mình. Nhưng đại đa số bà mẹ đều mong muốn con mình sống hữu ích, hạnh phúc. Cho nên không phải là điều quá xa vời – mà ngược lại rất gần kề – khi rất nhiều bà mẹ, một túc số đủ các bà mẹ nơi các nước giàu có, thực hiện một cuộc đột phá, chuyển vọt tâm thức và nhận ra rằng: “Có một điều mà tôi có thể làm cho con tôi sẽ tác động lên từng khía cạnh cuộc sống của nó, đó là giúp cho nó chữa lành và phát triển tâm lý của nó.”  

Và điều này có nghĩa là phụ nữ có thể cởi mở hơn để tìm kiếm những phương cách giúp đỡ tâm lý con mình. Ta cũng biết có một số phụ nữ, đặc biệt tại các nước giàu có hơn, đặc biệt những người bận rộn nghề nghiệp, bận rộn công việc và quen trả tiền cho đủ loại dịch vụ để mình khỏi phải bận tâm, sẽ nói: “Ô, có nghĩa chăng là tôi sẽ đưa con tôi đi chữa bác sĩ tâm lý và bác sĩ đó sẽ lo cho nó?” Nhưng sẽ có rất nhiều phụ nữ khác sẽ nắm lấy trách nhiệm và nói: “Nếu tôi muốn con tôi cải sửa tâm lý, ai sẽ là người làm chuyện đó? Có phải là cha nó? Chắc là không rồi. Liệu tôi sẽ có đủ tiền đưa nó đi chữa trị tâm lý và liệu một nhà tâm lý học sẽ thực sự giúp được nó không? Cũng chắc là không luôn.” Ngón tay con sẽ chỉ tiếp vào ai đây? Ngón tay sẽ chỉ vào ai và bảo: “Đây là người sẽ giúp được con tôi”? Đúng vậy, tất nhiên, ngón tay sẽ chỉ vào chính con. Và một câu hỏi hợp lý sẽ nảy ra ở điểm này: “Nếu tôi muốn giúp tâm lý con tôi, tôi sẽ làm thế nào đây? À ra vậy, tôi phải giúp chính tâm lý của tôi trước tiên cái đã, bởi vì nếu tôi đang mang những thương tích tâm lý thì thứ nhất tôi sẽ không có khả năng giúp con tôi, và thứ nhì, rất có thể tôi sẽ truyền những vấn đề tâm lý của tôi cho nó.”        

Nếu con nhìn vào lịch sử hay ngay cả gia đình của con, mẹ của con, cha của con, con thấy được bao nhiêu trường hợp cha mẹ truyền lại tâm lý tổn thương cho con cái, hay ít nhất cũng tác động sâu xa tâm lý con mình. Vậy thì điều hợp lý để giúp con cái, hay thậm chí để tránh làm hại nó, cách hay nhất có phải chăng là con cần tìm cách giải quyết tâm lý của chính con? Nhưng khoan đã. Đứa con của con có phải là người duy nhất sẽ được hưởng lợi từ việc con giải quyết tâm lý của con? Không, tất nhiên con cũng sẽ hưởng lợi, vì khi con giải quyết tâm lý, con sẽ thỏa nguyện hơn với cuộc sống, và ta trong vai trò Mẹ Thiêng liêng cho địa cầu, ta rất mong muốn điều này cho mọi người mẹ. Hơn thế nữa kìa, ta mong muốn cho tất cả mọi người. Cần có sự tỉnh ngộ là mặc dù các yếu tố ngoại cảnh có thể ảnh hưởng cuộc sống, yếu tố chủ yếu vẫn là tâm lý của mình. Và sự tỉnh ngộ tiếp ngay sau là tâm lý con người không hề được tạc vào đá. Và sự tỉnh ngộ kế tiếp, mỗi con người ngoại trừ một số rất ít bị tổn thương vô cùng trầm trọng, đều có chọn lựa nắm lấy quyền cai quản tâm lý của mình, có những biện pháp chữa lành vết thương và giải quyết những bế tắc đủ loại đang ngăn cản mình có một cuộc sống tâm lý lành mạnh.        

Và điều này có thể dẫn tới một sự tỉnh ngộ nữa, nằm trong cái mà chúng tôi gọi là tính nhân bản căn bản và cốt yếu. Tính nhân bản cốt yếu giúp con nhận ra rằng nhiều người có cuộc sống rất khó khăn do tâm lý của họ, rằng con có khả năng thay đổi tâm lý và con có thể hành động ý thức để thay đổi tâm lý. Đây là tiềm năng mà nhiều người sẵn sàng nhìn nhận như là một nhu cầu tự hiện thực (self-actualisation). Đây cũng là một điều mà đa số các nền dân chủ hiện đại cần nhìn nhận là bước tiến bộ cần thiết sắp tới, là vượt xa hơn phúc lợi vật chất để đem lại phúc lợi tâm lý.

Nhưng còn thêm một điều tỉnh ngộ nữa, dựa trên sự lượng định về nhân loại. Quốc gia nào, xã hội nào hiện có sức khỏe thể chất cao nhất? Các con đều biết rõ. Người ta đã đặt ra một chỉ số để đo đạc chuyện này. Người dân nước nào khỏe mạnh nhất? Nước nào có hệ thống chăm sóc sức khỏe, hay cả một cách tiếp cận sức khỏe phát triển cao nhất và do đó chăm sóc người dân tốt nhất? Rồi con có thể hỏi khác đi một chút: “Chỉ nhìn vào sức khỏe thể xác liệu có đủ hay chăng?” Hiển nhiên là không rồi. Phải cần xét cả sức khỏe tâm lý nữa chứ. Các nước đang làm gì trong lãnh vực này? Liệu các nước đã nhìn ra đây là một vấn đề vĩ đại? Liệu họ đã tìm hiểu và thực sự nhìn nhận tầm quan trọng của sức khỏe tâm lý? Mọi nước cho tới giờ đều đã nhìn nhận sức khỏe thể xác là quan trọng để có cuộc sống tốt đẹp, hữu ích. Nhưng gần như chưa có quốc gia nào công nhận trọn vẹn rằng sức khỏe tâm lý con quan trọng hơn gấp bội. Và đây là một sự thay đổi có thể xảy ra nếu giới phụ nữ lên tiếng đòi hỏi do quan tâm cho con em của mình. Phụ nữ sẽ nói: “Chúng ta phải thay đổi. Chỉ lo điều kiện vật lý cho con cái thật là không đủ nữa. Quan trọng hơn hẳn là phải lo những điều kiện tâm lý.” Ở một mức nào đó, tiến trình này đã bắt đầu xảy ra tại một vài nước, nhưng vẫn chưa có sự chuyển vọt cần thiết hầu trở thành một ưu tiên hàng đầu của xã hội.

Vậy cái gì có thể thúc đẩy thay đổi này? Phải, lực thúc đẩy chính là cá nhân mỗi người phụ nữ chuyển vọt tâm thức mình và nói: “Đâu là những dụng cụ tâm lý hiện có để tôi áp dụng trước tiên trên bản thân tôi và sau đó áp dụng trên con tôi?” Nhìn vào tình hình ngay cả tại các nước dân chủ tiên tiến nhất, hầu hết phụ nữ sẽ nhanh chóng đi đến kết luận là hiện không có nhiều phương tiện để họ sử dụng. Chắc chắn đã có một số it được tìm thấy trong sách và khoá huấn luyện và này kia nọ, nhưng thật là không nhiều, và chắc chắn là ít hơn nhu cầu. Và điều này có thể dẫn đến một sự tỉnh thức, ngay cả một đòi hỏi: “Chúng tôi muốn những phương tiện tâm lý tốt hơn. Chúng tôi muốn hiểu biết cao hơn về tâm lý so với những gì chúng tôi đã nhận được từ ngành tâm lý truyền thống và ngành tâm lý trị liệu truyền thống.”

Nhìn vào vấn đề này một cách thực tế ngay cả tại những nước giàu có nhất, liệu phụ nữ sẽ có đủ phương tiện tài chánh để bỏ ra nhiều năm đi khám bác sĩ tâm lý mỗi tuần, trả khoản phí rất cao cho một tiếng đồng hồ trị liệu với kết quả giới hạn? Người mẹ nào có khả năng chi trả cho con mình đi trị liệu như vậy? Vậy có thực tế lắm không nếu phụ nữ phải đi theo con đường trị liệu truyền thống hầu giúp con mình có cuộc sống tâm lý tốt đẹp? Thưa không. Vậy thì giải pháp thực tế duy nhất là gì? Đó là tìm ra một số cách tiếp cận tâm lý mới mà mỗi cá nhân có thể tự áp dụng lấy. Con không cần sự giúp đỡ của một nhà trị liệu đã học năm năm đại học, đã tìm hiểu tâm lý học mà nhiều khi vẫn chưa giải quyết được tâm lý chính mình.

Điều con cần là một người có kinh nghiệm thực tiễn, một sự chín chắn sành sỏi, có khả năng nói với con: “Tôi đã tự cải sửa bản thân tôi. Tôi đã nỗ lực hiện thực bản thân, đã chữa lành tâm lý, đã phát triển khả năng lẫn tiềm năng cá nhân suốt nhiều năm. Tôi đã tìm ra những dụng cụ này, những giáo lý này. Những phương tiện này đã giúp được tôi, tôi nghĩ nó cũng sẽ giúp được bạn.” Và cả một phong trào mới có thể khơi dậy khi ngày càng nhiều phụ nữ tìm học một phương thức thực tiễn để trị liệu và phát triển tâm lý mà họ có thể áp dụng trước hết trên bản thân xong trên con cái mình, một phương thức thiết thực, rẻ tiền và thích hợp với cuộc sống hàng ngày. Khi mức cầu đã có thì mức cung sẽ phải theo, và con sẽ thấy nguyên một công nghiệp hoàn toàn mới trồi dậy. Một phong trào hoàn toàn mới có thể lan rộng. Hiện nay ở một mức độ nào đó, đã có phong trào tự cải thiện bản thân, thiền tỉnh thức và một số phương pháp tự nhận biết, nhưng phong trào này có thể mở rộng ra các lãnh vực tâm lý, liệu pháp tâm lý, phát triển cá nhân. Tất nhiên một số phụ nhữ sẽ ưa thích một cách tiếp cận tâm linh, nhưng nhiều người khác sẽ muốn một phương thức phổ thông hơn, không liên quan đến tâm linh trực tiếp hay lộ liễu.     

Đây là một hướng phát triển rất quan trọng. Con có thể đọc cầu thỉnh, có viễn kiến về hướng phát triển đó, và con cũng có thể bắt đầu thực hiện, tạo ra nhu cầu và đáp ứng nhu cầu. Một số trong các con đã có kinh nghiệm trong các loại dịch vụ huấn luyện, tự cải tiến, hay trong ngành tâm lý truyền thống, cho nên nhiều người có khả năng tham gia bằng nhiều cách. Không những phụ nữ mà phái nam cũng có thể nhập cuộc trong các vai trò trị liệu, huấn luyện, viết lách và nhiều nữa. Đầu tiên, trọng tâm có thể là sự phát triển bản thân với tư cách là một người mẹ muốn giúp con mình phát triển thành những cá nhân hữu dụng. Dài hạn hơn, rõ ràng là nhu cầu này cần tăng trưởng tới mức trở thành một ưu tiên của xã hội và một dịch vụ bình thường của hệ thống sức khỏe thể chất, và nhiều hơn nữa. Thẳng thắn mà nói, có rất nhiều phụ nữ nay đã mở tâm ra để nhìn nhận: “Tôi không thể chờ cho xã hội làm điều này vì khi đó con tôi đã quá tuổi trưởng thành rồi. Tôi cần bắt đầu ngay bây giờ, cần làm gì đó ngay bây giờ. Cho nên tôi sẽ xông ra làm.”        

Giới phụ nữ có thể tụ họp lại, lập thành đoàn nhóm, những nhóm hỗ trợ cho nhau để giúp nhau phát triển tâm lý mình và cũng phát triển con mình. Có rất nhiều phương cách. Ở nhiều quốc gia và nền văn hóa khác nhau, con sẽ cần thử nghiệm để tìm ra phương cách thích hợp nhất cho mỗi nơi. Ta không nói là chỉ có một cách thực hiện, hay cách thực hiện của chân sư là cách hay nhất. Sáng kiến cần nẩy ra từ khắp toàn cầu. Một số ý tưởng hiện đã có mặt rồi nhưng cần được góp lại thành những phương pháp, những pháp trị liệu, những cách tiếp cận thiết thực. Đây là một sự phát triển vô cùng quan trọng. Chắc chắn nó sẽ khởi đầu tại các nước giàu có vì ở đó người ta có nhiều thời gian rảnh rỗi và được tự do quan tâm. Người ta có tiền bạc và tài nguyên, cho nên nó có thể lan rộng như những vòng nước trên mặt hồ.

Trên dài hạn sẽ phát triển tới đâu? Như chúng tôi đã có đề cập, nó sẽ phát triển tới mức khi con bắt đầu nhận ra các nhu cầu tự hiện thực của mình, và con mở tâm ra với nhiều hình thức tư tưởng tâm linh. Đến một lúc, để tự hiện thực một cách trọn vẹn, con sẽ cần nhận ra là con không phải là một sinh thể vật lý, một sinh thể vật chất. Vì nếu không, con sẽ không thể có tiềm năng tự hiện thực. Một con bò hay một con khỉ không thể nào tự hiện thực mà chỉ một con người mới có thể tự hiện thực. Và điều này sẽ mở rộng cửa cho rất nhiều phụ nữ bước vào cái nhìn tâm linh. Một số phụ nữ đã sẵn cởi mở như vậy rồi, nhưng trong thập niên tới đây, rất, rất nhiều phụ nữ hơn nữa sẽ mở ra với nhiều cách tiếp cận tâm linh mới. Một lần nữa, sẽ không chỉ có một phương cách chiếm ưu thế mà sẽ có nhiều nguồn tư tưởng phổ quát mà giới phụ nữ sẵn lòng xem đến.

Đầu tiên là ý tưởng về luân hồi. Chúng tôi đã có đề cập điểm này rồi. Ý tưởng này vô cùng quan trọng hầu giải đáp một số câu hỏi mà các bà mẹ đặt ra. Chẳng hạn như ta đã nói, khi con suy tính tương lai của con cái, con biết chúng luôn luôn có rủi ro gặp tai nạn hay gặp khó khăn khả dĩ đưa đời chúng vào một đường rày tiêu cực, thậm chí đẩy chúng kết liễu cuộc đời. Nếu con hiểu rằng chúng đã từng sống và tạo ra nghiệp quả trong nhiều kiếp sống, thì đó chính là nguyên nhân kết lại thành những sự kiện tiêu cực hôm nay. Con có thể tự hỏi: ”Vậy thì tôi có thể làm gì với nghiệp chướng của con tôi từ tiền kiếp?” Theo nhiều truyền thống tâm linh, dĩ nhiên con có thể làm nhiều điều để hoán chuyển nghiệp này trước khi nó thị hiện trong cõi vật lý. Học trò của các chân sư thăng thiên trong nhiều đợt truyền pháp đã làm như vậy từ nhiều năm qua, như đọc bài chú, thỉnh ngọn lửa tím để biến hóa nghiệp quả của con cái. Nhưng nhiều phụ nữ hơn nữa có thể mở tâm ra: “Tôi có thể sử dụng một số dụng cụ tâm linh để biến hóa nghiệp quả của con tôi trước khi nghiệp đi vào cõi vật lý và thị hiện thành sự cố bất hạnh”.

Có một câu hỏi khác mà nhiều phụ nữ đặt ra mặc dù không hoàn toàn ý thức hay không nói ra, đó là câu hỏi giản dị: “Tại sao con tôi lại như vậy?” Ở đây chúng ta không chỉ nói đến các đặc điểm ngoại hình. Đa số bà mẹ đều nhận thấy quan hệ của mình vời con cái tùy thuộc rất nhiều vào cá tính của đứa con, hay nói cách khác, tâm lý của nó. Nhiều bà mẹ nhận thấy quan hệ với một đứa con, hay ngay cả với mọi đứa con, có sự giới hạn trên phương diện gần gũi, cởi mở. Tại sao vậy? Một lý do quan trọng là tâm lý mà nó đã tạo ra trong tiền kiếp và mang theo trong kiếp này, nhưng không chỉ có vậy, vì quan hệ với đứa con cũng tùy thuộc vào tâm lý của người mẹ. Cho nên khi con chấp nhận ý tưởng luân hồi, con thấy được là trong tiền kiếp của con, con cũng đã có một số trải nghiệm mà con hiện đem theo trong kiếp này – một số điều kiện tâm lý, bế tắc, vết thương hay xu hướng. Con có một khuôn nếp phản ứng khiến con luôn luôn phản ứng một cách nhất định, và đứa con biết rõ là nó có thể nhấn nút nào để kích động phản ứng đó nơi con.

Cho nên con có thể khởi sự nắm lại chủ quyền của mình với ý nghĩ: “Được rồi, tôi nhìn thấy quan hệ của tôi với nó đang theo một khuôn nếp, và nguyên nhân những khuôn nếp trong tâm lý nó cũng như những vết thương, bế tắc và khuôn nếp trong tâm lý tôi. Vậy liệu tôi có bắt buộc phải sống mãi với những khuôn nếp này? Liệu khuôn nếp sẽ hạn chế quan hệ của tôi với nó cho đến khi một trong hai người qua đời? Hay là tôi có thể làm gì khác?” Và tất nhiên, con nhận ra là con có khả năng làm cái gì khác. Con có khả năng thay đổi nền tảng quan hệ, nhưng chỉ khi nào cả hai người đều thay đổi tâm lý mình. Đôi khi tâm lý đứa con có thể khó lòng thay đổi, nhưng với xã hội ngày càng tiến bộ, sự nâng cao ý thức sẽ khiến cho tiến trình này ngày càng dễ dàng hơn. Trẻ con sẽ được học ngay ở lớp mẫu giáo rằng chúng có khả năng đương đầu với tâm lý của chúng. Con sẽ thấy là bắt đầu từ thập niên tới và sau đó, xã hội sẽ ngày càng chấp nhận ý tưởng rằng mọi quan hệ giữa con người đều tùy thuộc vào tâm lý của các đương sự. Đó là một yếu tố trong tầm khả năng của con. Ngay cả khi con không thay đổi được tâm lý con mình, nhưng nếu con thay đổi tâm lý của con thì con vẫn thay đổi được quan hệ của con với nó.  

Ta công nhận là sẽ có một số đứa trẻ khó lòng được giúp đỡ khi chúng còn nhỏ vì chúng cần phải trưởng thành. Chúng cần phải ra đời và trải nghiệm cuộc đời trước khi sẵn sàng và sẵn lòng nhìn vào tâm lý của chúng. Một số sẽ cảm thấy mẹ mình đang cố áp đặt tiến trình thay đổi lên chúng, cho nên dĩ nhiên là con cần không được cưỡng ép chúng. Tuy nhiên, hầu hết mọi đứa trẻ đều có thể được giúp đỡ một khi người mẹ đã giải quyết được bế tắc của mẹ trước khi cố giúp con mình. Khi con đã giải quyết các khuôn nếp tâm lý của con, con sẽ bớt mong muốn cưỡng ép đứa con bởi vì bây giờ con không còn cố giải quyết vấn đề của nó hầu tránh né đương đầu với vấn đề của con – ngược lại với nhiều bà mẹ thời nay chưa hiểu được chuyện này. Con có thể nhìn vào khuôn nếp, có lẽ ngay cả khuôn nếp của chính mẹ của con khi con còn bé và đã khiến cho bà tức giận, và vì bà không thích tức giận cho nên bà đã cố ép buộc con phải thay đổi cách cư xử để bà không phải tức giận.

Tất nhiên đây không phải là mô thức mà con muốn lặp lại với con của con. Con muốn tiếp cận một cách khác và nói: “Trước tiên, hãy để tôi cải sửa tâm lý của tôi trước khi tôi tìm cách thay đổi tâm lý nó, để tôi chắc chắn là tôi không đang cố ép uổng bất cứ gì lên nó hầu tôi né tránh đương đầu với chính tôi. Nói cách khác, tôi sẽ gỡ bỏ cái xà trong mắt tôi trước khi lo đến cái giằm trong mắt con tôi.” Trong một số trường hợp, có khi con chỉ cần gỡ bỏ cái giằm trong mắt con trước khi xem đến cái xà trong mắt nó, bởi vì không phải lúc nào đứa con cũng có ít bế tắc tâm lý hơn cha mẹ. Ngược lại là đằng khác, thời nay rất nhiều trẻ con bị vấn đề tâm lý nhiều hơn là cha mẹ. Lý do phần nào là vì như chúng tôi có mô tả, lịch sử địa cầu trong mấy trăm năm gần đây đã đầy rẫy chiến tranh và xung đột, khiến cho rất nhiều linh hồn bị tổn thương trầm trọng trong tiền kiếp. Và họ bước vào kiếp sống hôm nay với mong muốn hàn gắn vết thương tâm lý của họ, và họ tự hỏi: “Tôi sẽ muốn đầu thai ở đâu đây?”

Phải, rất nhiều người sẽ muốn đầu thai tại một nước giàu có nơi họ có nhiều xác suất hơn để cải sửa tâm lý, nhưng họ cũng sẽ cố tìm bậc cha mẹ thích hợp và họ nghĩ: “Tôi muốn làm con của người cha người mẹ không mang quá nhiều vết thương tâm lý như tôi, để cha mẹ còn dư ra một ít tự do mà giúp tôi.” Đương nhiên đây không phải là trường hợp của mọi người bởi vì cũng có nhiều đứa trẻ tâm linh như các con đây có ít vấn đề hơn cha mẹ mình, và như vậy chính các con lại có tiềm năng giúp đỡ cha mẹ các con, hoặc it ra các con có thể thoát ly khỏi cha mẹ để không cho các vấn đề tâm lý của cha mẹ định đoạt đời mình. Nhưng nói chung, có một xu hướng rõ ràng tại các nước giàu có là nhiều trẻ em sinh ra với những bế tắc tâm lý trầm trọng từ tiền kiếp với hy vọng tìm được bậc cha mẹ có khả năng tạo cơ hội cho chúng hàn gắn và chữa lành.  

Và như vậy, đó cũng là một cách thể hiện tính nhân bản cốt yếu khi phụ nữ bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của câu hỏi: “Tại sao con tôi lại như vậy?” Hỏi như thế thì sẽ dễ chấp nhận ý tưởng luân hồi nhiều hơn, bởi vì luân hồi có khả năng to lớn để giải thích tại sao một đứa trẻ lại như vậy, tại sao nó mang một số vết thương tâm lý không có cách giải thích nào khác. Chúng ta đã có bàn tới xu hướng hiện thời trên thế giới dựa trên hiểu biết của khoa tâm lý, là khi xã hội và thậm chí cả thân nhân trong gia đình thường hay đổ lỗi cho cha mẹ về các vấn đề tâm lý của trẻ con. Tức là nếu đứa con không biết tự lo lấy hay học hành thành đạt, thì đó phải là lỗi của cha mẹ – hoặc gen của cha mẹ không được tốt lắm, hoặc là cách dạy dỗ tồi tệ. Nhưng như đã nói, điều đó không phải lúc nào cũng đúng mà ngược lại là đằng khác. Con nhìn vào một đứa trẻ và con thấy rõ nó mang vết thương tâm lý rất sâu. Một vết thương thật sự sâu sắc chỉ có thể phát xuất từ một chấn thương vật lý trầm trọng tạo ra chấn thương tâm lý. Con dõi nhìn cuộc sống của nó thì thấy nó lớn lên trong một quốc gia trù phú, một gia đình khá giả với đời sống ổn định, và con không thấy có lúc nào trong suốt buổi thơ ấu nó đã từng gặp phải chấn thương to tát đến như vậy. Thế nhưng vết thương thì nằm chình ình ở đó, ngăn cản nó có được một cuộc đời hữu dụng. Giải thích làm sao đây? Đúng vậy, chỉ có luân hồi mà thôi.   

Vì vậy, chức năng làm mẹ và một nhận thức sắc bén nơi người mẹ sẽ là hai yếu tố giúp cho phụ nữ mở tâm ra với nhiều ý tưởng tâm linh phổ quát. Bây giờ con có thể hỏi: “Nhưng thưa Mẹ Mary, tại sao thày lại giảng bài học này cho con?” Bởi vì, ít ra là trong phần thế giới theo đạo Cơ đốc, người ta biết ta là mẹ của Giê-su. Và tất nhiên khi con mở tâm ra với luân hồi, có lẽ con cũng mở ra với ý tưởng là ta đã hiện thân làm người mẹ vật lý của Giê-su cách đây 2000 năm, và từ đó ta đã thượng thăng và trở thành một chân sư thăng thiên. Bây giờ khi con ngẫm nghĩ về tính nhân bản cốt yếu của con người, các chân sư có nói rằng tinh thần nhân bản không những là sự công nhận các quyền căn bản – những gì được quyền hay không được quyền xảy ra cho một đứa trẻ trong cõi vật lý – mà cả những cơ hội, cơ hội của con người, cơ hội của trẻ nhỏ. Vậy khi con nâng cao nhận thức về vai trò người mẹ, con cũng nhìn vào: “Đâu là những cơ hội cho con tôi? Làm thế nào tôi có thể cải thiện cơ hội cho con tôi?” Chắc chắn con sẽ cải thiện cơ hội cho nó bằng cách giúp nó chữa lành tâm lý, nhưng liệu còn điều gì khác nữa mà con có thể làm đề cải thiện cơ hội cho con mình, để ảnh hưởng “phẩm chất” của những đứa con mà mình sắp có? Hẳn sẽ có những phụ nữ trên thế giới có thể học được từ tấm gương của ta.

Nếu con vượt lên trên mọi chi tiết cùng các tín điều quen thuộc và nếu con bỏ sang một bên những gì con nghĩ về Giê-su và về đạo Cơ đốc, có một điều con có thể chắc chắn, đó là Giê-su đã là một đứa trẻ với tiềm năng phi thường. Nó có một cơ hội phi thường để làm điều gì đó trong đời sẽ tác động thế giới một tích cực, một cách lớn lao. Vậy nếu con là một người mẹ có sự nhận thức nhạy bén hơn trung bình, liệu con có muốn là mẹ của một đứa trẻ, hay của mấy đứa trẻ, với cơ hội tác động tích cực lên thế giới? Và con sẽ nghĩ: “Làm thế nào để được như vậy? Làm thế nào tôi trở thành mẹ của một đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt và một tiềm năng to lớn?” Phải rồi, con sẽ phải làm như ta đã làm cách đây 2000 năm, và điều này tất nhiên đã không được ghi lại trong kinh sách. Con sẽ phải sẵn lòng tự cải sửa chính mình, không những tâm lý của con, bởi vì đó không chỉ là vấn đề chữa lành vết thương tâm lý và những khuôn nếp phản ứng. Đó là vấn đề phát triển tâm lý của mình để nâng nó lên những tiềm năng cao hơn của tâm lý con người. Trong thuật ngữ mà chúng tôi sử dụng, điều đó có nghĩa là con sẽ phải bước đi trên đường tu tâm linh, và con sẽ phải nỗ lực một cách cố tình và ý thức để tự nâng mình lên một trạng thái tâm thức cao hơn mức bình thường của mọi người. Cách đây 2000 năm, một phụ nữ trung bình sẽ không sinh được đứa bé Giê-su đâu con. Nếu điều đó xảy ra thì quả là một tai họa cho cả người mẹ đó lẫn cho Giê-su. Người mẹ đó cần phải có một tâm lý đã được giải quyết ở một mức độ nào đó rồi. Vậy mức giải quyết đó là gì?  

Thật vậy, ta đã phải giải quyết tâm lý của mình rốt ráo đến độ không còn một điểm nào có thể tác động tiêu cực đến Giê-su. Ta phải giải quyết rốt ráo đến độ ta có thể hoàn toàn chú tâm vào sự hòa điệu với tiềm năng của Giê-su và làm tất cả những gì cần thiết để hỗ trợ cho tiềm năng đó. Điều này ta phải quyết định trước khi có thể sinh ra Giê-su, và có những quyết định đã xảy ra trong cả những tiền kiếp trước đó nữa. Hiện có rất nhiều phụ nữ đã từng cải sửa tâm lý của mình trong kiếp này và đạt được một trình độ giải quyết nào đó, cho nên sứ vụ thiêng liêng của họ trong kiếp này là sinh ra một đứa trẻ với một tiềm năng nhất định, một tiềm năng cao hơn. Nhiều phụ nữ đó đang sinh sống tại các nước giàu có, nhưng không phải tất cả. Vì thế hiện có một số lớn phụ nữ chưa ý thức được điều này, nhưng họ có khả năng tỉnh ngộ và tự hỏi: “Vậy tôi có thể làm gì để chuẩn bị sinh ra một đứa trẻ như thế?”       

Câu trả lời hiển nhiên vượt khỏi cả vấn đề giải quyết tâm lý. Con hãy nâng cao tâm thức, hãy cất bước trên con đường tâm linh, hãy đạt tới mức hiểu được một con người cần phải làm gì để nâng cao tâm thức và phát huy tiềm năng tâm linh của mình. Có những phụ nữ có khả năng làm được chuyện này trong vòng thập niên tới và có những phụ nữ khác sẽ làm được trong một tương lai xa hơn. Thực sự là có hẳn một lớp phụ nữ có khả năng lần hồi vươn tới mức này. Con đã tiến lên một bước để nhận ra tiềm năng tâm linh này, tiềm năng phát triển tâm linh. Con có thể cầu thỉnh điều này. Một số các con có thể giúp đỡ những phụ nữ khác qua việc tư vấn, huấn luyện, trị liệu, hội thảo, bất cứ điều gì mà con có thể làm để hoàn thành tiềm năng đó. Cho nên có rất nhiều việc mà con có thể làm. Rất, rất nhiều việc có thể được thực hiện trong 10 năm tới đây để khởi lên một sự đột phá, mà qua đó các bà mẹ sẽ mở tâm ra, nhìn xa hơn các quan điểm truyền thống, các niềm tin truyền thống, các hệ tư tưởng truyền thống và nhìn vào điều này: “Tôi có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của con tôi, và tất nhiên cùng lúc cũng cải thiện cuộc sống của tôi? Tôi có thể làm gì để cải thiện quan hệ của tôi với con tôi, hay quan hệ của những đứa con tôi với nhau?” 

Đã có bao nhiêu bà mẹ sinh con đầu lòng được tận hưởng những giây phút thần tiên chỉ có hai mẹ con và dành trọn sự chăm soc cho đứa con đó. Và họ mong có đứa con thứ hai để hai đứa chơi với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, thương yêu nhau. Ngờ đâu rất nhanh chóng, hai đứa bắt đầu cãi lộn, đánh nhau, cạnh tranh với nhau. Và kết quả là những xung đột rất sâu sắc giữa anh chị em.

Làm sao con có thể hiểu được chuyện đó nếu con không biết về luân hồi? Con không nhận ra rằng hai linh hồn này rất có thể đã có những xung đột gay gắt trong một kiếp trước mà chúng đã đem theo mặc dù là anh chị em trong cùng một gia đình, là con của cùng một người mẹ và đáng lý phải thương yêu nhau. Nhưng trong tiền kiếp, chúng ta đã thù ghét nhau, và bây giờ con lại rơi vào hoàn cảnh là liệu con sẽ chịu đựng tình trạng này cho tới khi chúng rời mái ấm gia đình, hay con sẽ tìm cách giải quyết? Con sẽ làm gì được đây? Được chứ, con có thể dùng các phương tiện tâm lý để chữa lành tâm lý hai đứa con, con có thể dùng dụng cụ tâm linh để tiêu hủy nghiệp quả giữa hai đứa và đưa chúng vào một con đường tích cực, qua đó chúng có thể vượt khỏi các khuôn nếp mà chúng đã mang theo từ tiền kiếp, nghĩa là trên căn bản, hoặc chúng sẽ tự gỡ nhau ra khỏi mối quan hệ và đi con đường riêng, hoặc chúng sẽ giải quyết các mối bất đồng và tạo dựng một quan hệ xây dựng với nhau. Nhưng trong cả hai trường hợp, chúng sẽ thoát khỏi cảnh xung đột triền miên có nguy cơ tàn phá cuộc đời của chúng trong mấy kiếp tới.    

Một lần nữa con có thể hỏi: “Là một phụ nữ, tôi có thể làm gì để bảo đảm tôi không có những đứa con như vậy?” Như ta đã nói, con hãy nâng cao tâm thức, hay ít ra nâng cao tâm thức đến một mức mà nếu con có đứa con như vậy, con sẽ giúp được nó và tránh không phản ứng tiêu cực. Cho nên con thấy đó, con yêu dấu, thông điệp căn bản mà ta phóng chiếu vào tâm thức tập thể ở đây là trong chức năng làm mẹ có rất nhiều điều mà người ta không nhìn thấy. Đã đến lúc con người bước lên một nhận thức cao hơn về chức năng làm mẹ. Và khi ta nói rằng trong chức năng làm mẹ có nhiều điều mà con mắt vật lý không thấy được, thì ta cũng nói thêm rằng có nhiều điều mà ý thức bản ngã của người mẹ không nhìn thấy được.

Chức năng làm mẹ không chỉ có cái “tôi”. Làm mẹ nhiều hơn cái tôi. Thông thường, nhiều phụ nữ bước vào vai trò làm mẹ từ quan điềm coi mình là trung tâm. Có hai trường hợp có thể xảy ra. Một là họ đã không tính có thai, cho nên khi họ rơi vào tình cảnh có con, họ cảm thấy như bị cưỡng bách rồi trở nên vị kỷ do phải đối phó với một tình huống ép buộc. Hai là họ có kế hoạch có con nhưng lại mang ý muốn vị kỷ rằng con mình phải như thế này hay như thế kia. Nhiều người trong số các con đã sống trong một khung cảnh gia đình như vậy khi người mẹ có định kiến cứng nhắc về cuộc đời của con mình, về những chuyện nó phải làm hay không được làm. Đó chỉ là vì đối với người đó, chức năng làm mẹ không là gì hơn bản ngã, cái ngã tách biệt, cái cá tính vỏ ngoài.  

Khi con nhìn vào lịch sử và đi trở ngược về quá khứ, ngay cả tại các quốc gia dân chủ hiện đại, con sẽ thấy người mẹ từng có những kỳ vọng lớn hơn về con mình, đặc biệt là về con gái. Các bà mẹ thường có nhiều kỳ vọng cho con gái hơn là cho con trai và vì vậy họ thường cho con gái ít tự do hơn. Cho nên trong quá khứ, cuộc đời đứa con gái thường phải theo đúng kỷ cương, phải đạt được kỳ vọng của mẹ mình, thậm chí kỳ vọng của gia đình họ hàng và cả nền văn hóa. Ngược lại tại các nước giàu có và tiến bộ hơn, phụ nữ đã đạt được không những sự tự do thể chất hay kinh tế, mà cả tự do tâm lý, tức là họ có quyền sống đời mình không theo khuôn mẫu hay sự chờ đợi của mẹ mình. Nhiều phụ nữ đã tự giải phóng khỏi các kỳ vọng này, và nhiều bà mẹ cũng đã giảm bớt những kỳ vọng truyền thống để con mình được tự do hơn.

Con thử nhìn sang các nước khác như các xứ Hồi giáo vùng Trung đông, cả Ấn độ, Trung quốc và nhiều nước khác. Thậm chí Nam hàn là một quốc gia dân chủ hiện đại, nhưng trong sự lượng định của chúng tôi, vẫn có những kỳ vọng mạnh mẽ từ phía cha mẹ, đặc biệt là người mẹ, đối với con mình và đặc biệt là con gái. Ở những nước này, con cái phải sống theo sự trông chờ đó mà phụ nữ rất khó lòng thoát ra khỏi. Một lần nữa, đây là một vấn đề mà con có thể đọc bài thỉnh để giải hóa.    

Về điểm này, phụ nữ tại các nước Tây phương có thể kết nối với phụ nữ tại các nước khác hầu giúp họ vượt qua vấn đề này. Hãy giúp họ tăng trưởng tới mức họ nhận ra tính nhân bản cốt yếu của mình và nói: “Tôi có quyền đi xa hơn sự chờ đợi của mẹ tôi, của cha tôi, của gia đình và xã hội của tôi, và sống cuộc đời của mình. Tôi có quyền đưa đời mình tới một nơi mà cha mẹ tôi và thế hệ của cha mẹ không thể tưởng tượng hay hình dung được. Tôi có quyền đưa xã hội của tôi vượt ngoài những gì xã hội có thể tưởng tượng hay hình dung. Đây là tính nhân bản cao hơn, tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cao hơn của tôi.”

Con thấy có quá nhiều điều mà con có thể làm được chứ? Con có thể viết sách. Rất, rất nhiều phụ nữ khắp thế giới có thể viết sách về tình trạng của mình, về tiến trình tăng triển, về kinh nghiệm bản thân, về các thử thách mình phải vượt qua. Người vợ của vị sứ giả này vừa đọc được một quyển sách do một phụ nữ tại Ả-rập Xê-út viết về câu chuyện cô ấy đã làm vỡ tung một số điều cấm kỵ. Cô ấy lái xe rồi bị bắt bỏ tù, cuối cùng cô phải rời xứ ra đi nhưng cô vẫn ghi lại những bước mình đã trải qua hầu nhiều phụ nữ khác có thể học hỏi. Nhưng tại các nước giàu có, phụ nữ cũng có thể viết lại câu chuyện từng trải của mình, và làm cách nào họ đã khắc phục giới hạn để mà vượt qua. Mà cũng không cứ là phải viết sách. Họ có thể viết blog hay đăng bài trên internet. Họ có thể làm phim điện ảnh, thực hiện chương trình truyền hình. Rất nhiều điều có thể khởi lên từ đó vì con có thấy chăng là trong mấy thập niên qua, ngày càng có nhiều phụ nữ lên tiếng, không cứ là về những đề tài chính trị hay triết lý to lớn – cho dù là họ cũng có thể làm vậy – mà về hoàn cảnh riêng của họ và những phương thức để vượt qua đủ mọi loại hạn chế? Con có thấy chăng đây sẽ là nguồn cảm hứng lớn lao cho giới phụ nữ? Đây là một việc vô cùng cần thiết!    

Cũng cần có những loại báo chí khác hơn là loại tạp chí phụ nữ truyền thống không hơn gì những công cụ quảng cáo cho cái nhìn truyền thống về phụ nữ, về vai trò của phụ nữ, về cách trang phục bề ngoài, cách trang điểm sắc đẹp để quyến rũ tình dục phái nam và những thứ như thế. Cần có những phương tiện phát biểu cho người phụ nữ đích thực để họ kể những câu chuyện thật về sự phấn đấu cũng như sự khắc phục các hạn chế mà họ phải chịu đựng. Đây sẽ là nguồn cảm hứng to lớn cho mọi phụ nữ khác, không những tại các vùng giàu có trên thế giới mà ở cả những vùng khác nơi phụ nữ có thể tìm đọc. Ngày nay, truyền hình đã đến với hầu hết mọi nơi trên thế giới và trở nên rất sáng giá ngay cả tại các nước nghèo hơn nơi phụ nữ có khả năng xem truyền hình. Và nếu con xem các bộ phim truyền hình về phụ nữ do các hãng lớn tại Hollywood sản xuất, con sẽ phải nói rằng những bộ phim này hoàn toàn xa rời đời sống thực sự của phụ nữ cũng như hoàn cảnh của họ nơi các xứ nghèo. Và tất nhiên con nói rất đúng.          

Tuy nhiên đối với phụ nữ tại xứ nghèo, việc theo dõi các bộ phim truyền hình như thế cũng không hoàn toàn vô ích bởi vì họ có thể thấy được cuộc sống của phụ nữ ở các nước kia khác xa đời sống của họ như thế nào. Phụ nữ trong phim sao mà quá đầy đủ sung túc đến độ họ không cần bỏ thì giờ ra để lo lắng tới đời sộng vật chất. Hình như họ chỉ lo lắng về bạn trai của họ và liệu họ sẽ có đủ quan hệ với phái nam mà thôi. Và phụ nữ ở xứ nghèo xem thấy vậy thì hiểu ra là người ta có thể có cuộc sống vật chất đầy đủ mặc dù nhân vật trong phim thật sự chẳng có gì là thông minh hay tinh tế, mà ngược lại còn vô cùng ích kỷ. Và họ nghĩ, tại sao chúng tôi không thể có được cuộc sống như vậy ở xứ chúng tôi?

Và đây là ích lợi của truyền thông, vì mặc dù chương trình chì là văn hóa đại chúng không có chất lượng cao gì đặc biệt, nhưng nó vẫn đưa ra một góc nhìn khác biệt. Cho nên phụ nữ cần phải chia sẻ những câu chuyện thật của mình, không phải là loại chuyện đã được Hollywood đánh bóng, mà những chuyện thật của con, những phấn đấu thật của con. Con có thể nói: “Nhưng tôi đã lớn lên trong một xã hội với nhiều thuận lợi và chắc chắn tôi chưa phải nếm mùi nghèo khổ thiếu thốn. So với các điều kiện mà phụ nữ phải sống tại Ả-rập Xê-út hay Ấn độ và Bangladesh, câu chuyện của tôi có giá trị gì cho họ?” Nhưng họ vẫn có thể rút tỉa cảm hứng từ sự kiện con đã phải đối đầu với một số giới hạn của riêng con mà con đã khắc phục được, và điều này sẽ thúc đẩy họ suy nghĩ: “Ừ nhỉ, tôi cũng có khả năng khắc phục các giới hạn của tôi cho dù không giống hẳn.”

Bởi vì con đã khắc phục giới hạn của con như thế nào? Bằng cách con tự cải sửa, con cải sửa tâm lý của con, và con yêu dấu, con có thể hỏi làm thế nào một phụ nữ sống trong cảnh nghèo khó có thể cải sửa tâm lý? Nhưng thực tế là nếu con hiểu chút đỉnh về tâm lý, liệu việc tự cải sửa có tốn một đồng xu nào hay không? Con chỉ cần dành ra một chút thời gian đây đó trong ngày và con sẽ tinh tấn. Cho nên con không nên có quan điểm tiêu cực rất phổ biến là cho rằng con không thể làm gì được, hay dù con có làm gì thì cũng không có tác dụng nào cả. Con cần ghi nhớ lời của đức Phật khi thày ra khỏi niết bàn và bị bọn quỷ Mara thử thách. Chúng bảo rằng không ai sẽ hiểu được giáo lý của Phật, nhưng thày trả lời như con cũng biết: “Vẫn có một số người sẽ hiểu được, vẫn có một số người sẽ được lợi.” Cho nên có một số phụ nữ sẽ nhận được cảm hứng từ con, vậy liệu có đáng để con lên tiếng và góp mặt với đời?     

Hơn nữa, con sẽ học hỏi khi con góp mặt, khi con đóng góp những câu chuyện của con và con quan sát cách con phản ứng trước sự phản hồi của người khác. Đây là một cơ hội để con tăng triển. Khi con nhìn lại lịch sử thời phong trào phụ nữ đòi quyền đi bầu, hay thời phong trào giải phóng phụ nữ, con sẽ thấy phụ nữ đã không thể đạt được những thành quả đó nếu họ đứng riêng từng cá nhân. Họ chỉ đạt được khi họ hội tụ lại, hỗ trợ lẫn nhau, cộng tác với nhau, không phải như phái nam khi phái nam cộng tác, mà như phái nữ trong cách cộng tác đặc biệt của phái nữ. Sự tác động trên thế giới đã vô cùng to lớn nhưng tiềm năng tác động thì lại to lớn hơn, là tiềm năng gần như vô hạn khi phụ nữ hội tụ lại và làm việc chung với nhau.  

Phái nam thường tập trung nhiều hơn vào vẻ ngoài, vào các điều kiện vỏ ngoài như tôn giáo, đảng phái chính trị, xuất xứ chủng tộc, màu da, những thứ như vậy. Còn phái nữ có tiềm năng nhìn xa hơn tất cả những thứ vỏ ngoài đó để nối kết ở mức con tim, ở mức trực giác, và như vậy họ có thể hình thành một tình chị em vượt khỏi mọi lằn ranh vỏ ngoài. Phái nam không thể làm được điều đó, ít nhất là không trong một tương lai gần kề. Nhưng phải nữ thì có thể làm được. Một số các con đã làm được rồi, nhiều phụ nữ cũng làm được rồi, nhưng trong 10 năm tới đây, điều này sẽ có tiềm năng đột phá rộng lớn, vượt qua rất nhiều lằn ranh khác chưa từng được vượt qua. Đây là một trong những tiềm năng lớn nhất để thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.

Chắc chắn nam giới cũng sẽ có vai trò trong việc thị hiện Thời Hoàng kim nhưng trong thực tế của những vấn đề thực tiễn hàng ngày, phụ nữ mới là lực chuyển đổi, vì nếu không thì sẽ không có sự chuyển đổi. Vậy thì liệu các con sẽ chỉ lái xe tại xứ Ả-rập Xê-út, hay các con sẽ lái sự chuyển đổi tại Ả-Rập Xê-út? Và tại Iran, tại Ấn độ, Bangladesh, Trung quốc, Đan mạch, Hoa kỳ, Nam Mỹ, châu Phi và tại bất cứ đâu nữa? Các con là phụ nữ sẽ lái chiếc xe chuyển đổi hay không? Đó là câu hỏi, thậm chí là thách thức mà ta đưa ra cho các con. Ta không muốn các con cảm thấy tiêu cực về vấn đề này, mà ta muốn các con nhìn vào cơ hội rồi nói: “Tôi có thể làm được gì? Tôi có thể làm được gì để cải thiện cuộc sống của con tôi?” Nếu con không có con cái hay nếu con cái đã lớn khôn, con có thể tự hỏi: “Tôi có thể làm được gì để cải thiện cuộc sống của những đứa trẻ khác cũng như mẹ của chúng? Tôi có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của phụ nữ khắp thế giới?”

Con có thể làm được một cái gì. Có một lời gian dối nữa mà sa nhân luôn luôn phóng chiếu vào con và con sẽ nhận thấy nếu con nhìn vào chính mình một cách trung thực. Khi con nghe hay đọc những bài truyền đọc này, con có thể cảm thấy vô cùng hứng khởi, phấn chấn, nhưng chỉ một thời gian sau có một phản ứng sẽ đến với con: “Ồ, tôi chẳng làm gì được đâu. Tôi là cái gì? Tôi nghĩ tôi là cái gì? Tôi làm được gì đây?” Nhưng con có thể nói lên cùng với Phật Gautama: “Có những việc mà tôi làm được.” Và dù con có làm gì thì vẫn tốt hơn là không có gì, bởi vì thế giới có thay đổi là do có người làm gì, và nhiều cái làm nhỏ quả thật đã và sẽ thay đổi thế giới. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên vốn tìm kiếm một sự thay đổi nhảy vọt lớn lao và bây giờ thì chúng ta đang nói tới Thời Hoàng kim. Nhưng Thời Hoàng kim sẽ đến được nhờ rất nhiều những bước nhỏ, rất nhiều thay đổi nhỏ ở đây và ở đó. Và 500 năm nữa sẽ vẫn còn có người ngồi chờ Thời Hoàng kim bởi vì họ chưa nhận ra là thời đó đã đến và có mặt. Ngày hôm nay cũng có những người không công nhận những tiến bộ to lớn đã được hoàn thành trong 500 năm qua, ít ra là tại một số nước, vì họ không nhìn ra. Họ đã không thay đổi trong tâm họ. Nhưng ta có thể bảo đảm với con là 500 năm nữa đây, con sẽ khó lòng nhận ra hành tinh này của chúng ta, bởi vì khi đó, Thời Hoàng kim sẽ thực sự trên đà thị hiện tiềm năng cao nhất của nó.    

Và với lời này, ta cảm ơn sự chú ý của các con, sự cởi mở để làm đài phát thanh cho ta, và ta niêm ấn con trong tình thương của trái tim mẹ ta. Trong ý nghĩa tâm linh, con là con của ta và ta muốn làm điều tốt nhất cho con. Ta đã tự hỏi ta có thể làm gì được thì bài truyền đọc này cùng nhiều bài truyền đọc khác là cách biểu hiện của ta. Ta mong muốn giúp con tự giải thoát và sống một cuộc đời thoả nguyện khi con biết con đang hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình cũng như tiềm năng cao nhất của mình, bằng cách chữa lành mọi chấn thương tâm linh và làm hoà với việc hiện diện trên trái đất.