21 | Với tới sự thật sẽ giúp con tiến lên cao hơn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels ngày 5/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Sự thật là gì? À, đây là một câu hỏi mà tâm đường thẳng ưa thích, vì nó nghĩ nó có thể định nghĩa một cách rất rõ ràng: Sự thật ngược lại với Không thực. Sự thật là một cái gì ta có thể hiểu, có thể nắm bắt, có thể đặt trên một thang điểm đường thẳng, với sự thật ở một đầu và không thực ở đầu kia.

Quả thật, tâm đường thẳng có thể làm chuyện này với tất cả mọi đức tính của Thượng đế, nhưng nó cảm thấy là nó thật sự kiểm soát được sự thật. Sa nhân đã từ rất lâu, từ lúc họ sa ngã, cảm thấy là họ kiểm soát được sự thật. Họ tin rằng họ có thể quy định sự thật. Lẽ đương nhiên, họ đã không loan báo cho mọi người, tỷ dụ như trên địa cầu, là họ đã quy định sự thật. Thay vào đó, họ loan báo là sự thật được trao truyền bởi một thẩm quyền tối hậu. Do đó, đó là sự thật, chân lý cao nhất có thể có.

21.1. Định nghĩa giản dị nhất của sự thật

Sự thật quả thực là gì? Sự thật là cái gì dẫn con tới gần cái một hơn. Không thực là gì? Không thực là cái gì mang con ra xa cái một. Đây là định nghĩa giản dị nhất của sự thật mà ta có thể đưa ra, ít nhất là trên trái đất.

Lẽ đương nhiên, tâm đường thẳng sẽ rất bất mãn với định nghĩa này, vì làm sao từ đó có thể định nghĩa sự thật là gì? Nhất định phải có một sự thật tối hậu. Nói nó dẫn con tới gần hơn không đủ. Nhất định phải có một chân lý tối hậu, và lúc đó con ở trong cái một. Sự thực là chỉ có đấng Sáng tạo là chân lý tối hậu, như vậy có nghĩa là ở bất cứ tầng nào của tạo vật của Ngài, ở bất cứ tầng nào của thế giới hình tướng, có một chân lý có thể nắm bắt và hiểu ở tầng đó.

Lẽ đương nhiên, địa cầu ở thấp hơn tầng của đấng Sáng tạo rất nhiều, và đó là lý do vì sao các thày đã rất nhiều lần nói là không thể trao truyền một chân lý tuyệt đối trên trái đất, nhưng ta quả thật có thể nói là chân lý tuyệt đối không có ở đâu ngoại trừ nơi đấng Sáng tạo. Bất kỳ con đang ở tầng nào trên bước đường tiến tới hợp nhất với đấng Sáng tạo, nếu con chưa là một với đấng Sáng tạo, đó là vì con vẫn còn thấy một khoảng cách. Do đó có một chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Cho nên, mục đích của đường tu không bao giờ là hiểu chân lý tối hậu, nhưng là thấy chân lý sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

21.2. Các tầng thể hiện tiềm năng của cái ta

Một lần nữa, tâm đường thẳng sẽ bất mãn vì nó sẽ nói: “Ồ, như vậy phải có nghĩa là có điều gì sai ở bất cứ tầng nào cho đến khi tới tầng đấng Sáng tạo. Ngay cả các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất đã thăng thiên từ rất lâu, đã có rất nhiều thời gian để tăng triển và vượt thăng chính họ, họ vẫn sống trong ảo tưởng.” Một lần nữa, đây lại là tâm đường thẳng, nó phải nghĩ theo kiểu tâm đường thẳng. Nó hoạt động với thang điểm nhị nguyên, và trên một thang điểm nhị nguyên có cực đoan này và cực đoan ngược lại, cả hai đều tối hậu, ta hoặc có sự thật tối hậu hoặc giả dối tối hậu. Con có thể nói là khi con chưa tới sự thật tối hậu thì con vẫn bị ảnh hưởng bởi một sự giả dối, nhưng không phải vậy. Một khi con hợp một với tâm thức Ki-tô, trở thành Ki-tô Hằng sống, thì con biết và trải nghiệm tâm Ki-tô đó, và đó là tâm của cái Một. Con biết là mọi sự là một, nhưng con cũng thấy và trải nghiệm các tầng tâm thức có cấp bậc và con tiến lên theo một tiến trình đường thẳng dẫn con từ nơi con đang ở tới đấng Sáng tạo. Đây không phải là một ảo tưởng.  

Một khi con đã thăng thiên từ trái đất thì con không còn ở trong ảo tưởng nữa vì con biết thực tại bên dưới mọi sự là cái một. Con chỉ giản dị ở một tầng nào đó trong tiến trình thể hiện cái ta, và con biết con đang trên con đường dẫn tới những tầng thể hiện cái ta cao hơn cho tới khi con đạt tới trạng thái tối hậu của thể hiện cái ta mà các thày đã gọi là tâm thức đấng Sáng tạo. Đúng ra phải nói đây là trạng thái tối hậu trong thế giới hình tướng này. Con không ở trong ảo tưởng vì con trải nghiệm cái một, và con thậm chí không đặt vấn đề cao hơn hay thấp hơn vì con thuộc vào một tiến trình, một tiến trình luôn luôn tự thăng vượt, là vũ khúc hoàn vũ của sự tự thăng vượt.

Thày Serapis Bey có nói tới sự gia tốc không ngừng, và đây là một khái niệm quan trọng mà con cần xem xét. Lẽ tất nhiên, tâm đường thẳng sẽ gặp khó khăn khi nó xem xét sự tự thăng vượt bất tận, liên tục, gia tốc này. Nó lúc nào cũng đi tìm cái tối hậu, nhưng nó cũng sẽ hỏi tại sao nó cần tự thăng vượt nếu nó đã đạt được một tầng cao? Tại sao con cần tự thăng vượt khi con đã tới tầng 96 và đã trải nghiệm tâm Ki-tô, tại sao con cần tiếp tục tự thăng vượt?

21.3. Dòng sông sự Sống luôn luôn tự thăng vượt

Sự thực là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo, toàn thể thế giới hình tướng, là cái mà các thày đã gọi là Dòng sông sự Sống. Một dòng sông là gì? Nó là nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu dòng sông ngừng chảy thì nó không còn là một dòng sông nữa. Nó là một hồ nước. Không sớm thì muộn phẩm chất, độ trong sạch của nước trong hồ nước sẽ suy giảm. Nước có thể bốc hơi, nhiều chất cặn và bợn nhơ sẽ có thể xâm nhập nước hồ, và dần dần nước sẽ bắt đầu nhiễm độc. Vì sao nước không nhiễm độc khi ở trong dòng sông? Bởi vì nước di động. Các phân tử nước di dộng và phủi đi những bợn nhơ. Chúng hòa lẫn với khí oxy, cũng giúp trong lọc nước.

Con thấy là toàn thể tạo vật của đấng Sáng tạo là một sự chuyển động lên cao, không ngừng tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con, như một cá nhân, không thể nói: “Tôi đã đạt một tầng nào đó. Tôi muốn vui hưởng tầng này trong một thời gian.” Con có quyền làm như vậy, nhưng nếu con ở một tầng nào đó quá lâu, thì tâm con sẽ bắt đầu trở nên cũ kỹ. Do đó con sẽ không theo kịp hướng đi lên của Dòng sông sự Sống. Con sẽ ở dưới tầng mà con có thể tới nếu con chịu thăng vượt.

Những người sáng suốt vẫn đang tiếp cận Dòng sông sự Sống thì biết rằng họ có thể đứng yên và vui hưởng cuộc sống trong một thời gian ở một tầng nào đó, nhưng họ sẽ có trực giác khi nào đến lúc tiếp tục tiến bước. Nhiều người trong các con là những người tâm linh đã có cảm nhận đến lúc bước vào một chu kỳ mới. Đã đến lúc cất bước và làm chuyện gì khác. Chân lý chuyển động không ngừng. Có một chân lý ở tầng 48 giúp con khắc phục ngã tách biệt, ảo tưởng ở tầng 48 và vươn lên tầng 49. Có một chân lý khác ở tầng 49, và một chân lý khác ở tầng 50, vân vân. Không phải chỉ có một chân lý. Lẽ tất nhiên, đó là điều tâm đường thẳng muốn: “Hãy cho tôi chân lý, chân lý cao nhất, chân lý tuyệt đối.” Nếu vậy thì đây nhé: Chân lý tuyệt đối là không có chân lý tuyệt đối. Hay ta cũng có thể nói là có nhiều chân lý tuyệt đối. Chân lý mà con có thể nắm bắt ở tầng tâm thức của con là chân lý tuyệt đối ở tầng đó. Lẽ tất nhiên, chân lý là cái giúp con tới gần cái một hơn. Ta không thể đặt cái dẫn con tới cái một lên một thang điểm nhị nguyên, có chân lý ở đầu này và không thực ở đầu kia.

21.4. Khái niệm nhị nguyên về sự thật tối hậu

Sự thật Hằng sống không phải là đối ngược của một sự giả dối. Chỉ những gì do tâm thức nhị nguyên quy định mới có một đối ngược. Tâm thức nhị nguyên quy định cái này là giả dối và đối ngược của nó là sự thật, nhưng cả hai đều xuất phát từ nhị nguyên, và vì vậy cả hai đều tương đối. Chúng chỉ hiện hữu khi có cái kia, có thang điểm nhị nguyên, có tâm thức nhị nguyên. Con có thể nói: “Nhưng phải chăng sự thật dẫn con lên tầng kế tiếp cũng tương đối với tầng đó?” Phải, nhưng không trên một thang điểm nhị nguyên. Khi con ở trên một thang điểm nhị nguyên, con có thể nói: “Đây là một sự không thực” và con có thể bắt đầu tiến về phía đối cực kia trên thang điểm. Con có thể nghĩ con đã đi một hành trình dài từ sự không thực tương đối đến sự thật tương đối, nhưng con đã không tới gần cái một hơn. Con vẫn ở trong nhị nguyên, và đó là lý do vì sao khi con nghĩ con là một người tốt đang nắm giữ chân lý thì con không đến gần cái một hơn. Ý nghĩ này chỉ tiếp tục giam con trong nhị nguyên.

Thày có thể bảo đảm với con là những người tin rằng họ có chân lý tối hậu là những người mà thày khó tiếp cận nhất. Vì sao họ lại cần đến Thượng sư của Tia thứ Năm khi họ đã có chân lý tuyệt đối rồi? Thày có thể cống hiến gì cho những người đã có chân lý tuyệt đối được quy định ở đây trên trái đất? Con có thể nói: Nhưng, thày, Hilarion, là một chân sư thăng thiên! Thày ở một tầng tâm thức cao hơn, do đó lẽ dĩ nhiên thày có thể cống hiến cái gì đó cho những người chưa thăng thiên. Nhưng những người kia không thấy vậy đâu. Con hãy nhìn sự kiện trang mạng Hỏi Giê-su Thật (https://askrealjesus.com/) đã xuất hiện trên mạng được hơn 20 năm. Con có thực sự nghĩ là các vị Hồng y của Giáo hội Công giáo chưa nghe tới hay chưa xem trang mạng này? Họ có thay đổi gì chăng dựa trên các điều được công bố trên đó? Họ có mở lòng xem xét là Chân sư Thăng thiên Giê-su có thể hiện đang hướng dẫn con người tu tập? Lẽ dĩ nhiên là không. Tại sao họ lại cần Chân sư Thăng thiên Giê-su khi họ đã có chân lý tuyệt đối trong giáo điều của họ?

Con thấy là nhiều người khác, tỷ dụ như người cộng sản, duy vật, tranh đấu môi sinh, triết gia thuộc trường phái này hay trường phái nọ, lãnh đạo tôn giáo này tôn giáo kia, họ đều không cần đến các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các chân sư thăng thiên. Họ không muốn các đức tính thiêng liêng, vì họ muốn trải nghiệm ý niệm cao trội hơn người mà họ có khi họ tin là họ có chân lý tuyệt đối. Nếu con tin rằng con có chân lý tuyệt đối, thì có thể nào có chân lý nào cao hơn? Bất cứ ai, ngay cả các chân sư thăng thiên, có gì để cống hiến cho con? Lẽ tất nhiên, các con là đệ tử chân sư thăng thiên đã thăng vượt tầng tâm thức này, nhưng con cần nhận ra là các ngã tách biệt của con, các ngã tách biệt còn sót lại, chưa thăng vượt tầng tâm thức đó. Cái Ta Biết của con đã thoát khỏi sự đồng hóa hoàn toàn với các ngã đó, nhưng con vẫn còn các ngã đang pha màu tầm nhìn của con, và khiến con tin rằng con đã đạt được một tầng hiểu biết tối hậu hay một tầng tâm thức tối hậu nào đó.

21.5. Mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn

Đây là điều đã xảy ra cho nhiều đệ tử tâm linh qua các thời đại, nhưng điều đó cũng đã xảy ra cho các đệ tử chân sư thăng thiên, đặc biệt là trong các đợt truyền giáo trước, khi họ nghĩ là họ đã có giáo lý cao nhất hay sự tiết lộ sau cùng mà các chân sư thăng thiên ban ra, và do đó tại sao họ lại cần gì khác? Tại sao họ lại cần tiết lộ tuần tự?

Con luôn luôn cần xem chừng khuynh hướng này nơi một ngã tách biệt hay thậm chí sự hình thành một ngã tách biệt khiến con nghĩ: “Tôi đã đi trên con đường tu nhiều năm rồi. Tôi đã dụng công nhiều rồi. Tôi đã đọc nhiều bài chú rồi. Chắc chắn là tôi đã đạt một trình độ nào đó rồi.” Con quả thật có. Con đã tiến bộ, con đã đạt một tầng nào đó, nhưng chưa phải là tầng tối hậu. Nếu con đã đạt tầng cao nhất có thể đạt được trên địa cầu thì con đã thăng thiên. Khi con đã đạt được tầng tối hậu có thể đạt được trên trái đất thì con sẽ không còn trên trái đất nữa. Nếu con còn ở trên trái đất thì, ấy, con vẫn còn một tầng cao hơn để con vươn tới, và làm sao con vươn lên tầng đó? Bằng cách với tới chân lý cao nhất mà con có thể nắm bắt ở tầng hiện nay của con, và chân lý đó sẽ dẫn con lên tầng kế tiếp.

Trong đợt truyền giáo này, con không dễ bị kẹt vào trạng thái tâm thức đó nếu con nghiên cứu và cố gắng thể nhập giáo lý. Các thày đã nói rõ về nhu cầu tiến bộ liên tục hơn là trong các đợt truyền giáo trước. Tuy nhiên, tự ngã lúc nào cũng là tự ngã, và nó lúc nào cũng làm những gì tự ngã vẫn làm: nó tìm cách chặn sự tiến bộ của con ở bất cứ tầng nào. Con cần mở lòng đón nhận một chân lý tuần tự cao hơn. Đó là một phần vì sao các thày đã trao truyền các giáo lý tuần tự cao hơn, nhưng cá nhân con cần mở tâm đón nhận khai ngộ kế tiếp giúp con nhìn thấu suốt ảo tưởng hiện thời của con, và như vậy con vươn lên tầng kế tiếp.

21.6. Tặng phẩm và bài hình dung của thày Hilarion

Con nhận được khai ngộ này từ đâu? Con sẽ nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ nhận nó từ các chân sư thăng thiên của con, nhưng con cần phải yêu cầu, con cần phải mở tâm ra đón nhận. Như các thày đã nói rất nhiều lần, các thày sẽ không vi phạm quyền tự quyết của con. Con chắc chắn có thể yêu cầu thày, Hilarion, chỉ cho con thấy chân lý kế tiếp. Con có thể đọc bài chú Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con có thể dùng quyển sách Những Khai ngộ Thần bí về Viễn kiến để hòa điệu với thày. Con có thể tìm trong bài chú của thày hai câu thực sự hấp dẫn con, học thuộc lòng hai câu này, thiền quán về chúng, và con sẽ thấy con nhận được hướng dẫn của thày nếu con gần Tia thứ Năm. Con có thể dùng nhiều dụng cụ, nhưng thày sẽ cho con ở đây một dụng cụ đơn giản như các Thượng sư khác đã làm.

Đây là dụng cụ giản dị đó: con đi vào một căn phòng yên tĩnh, con ngồi tư thế thoải mái, nhắm mắt lại và con hình dung con có hai con mắt. Nếu con nghĩ về chuyện này thì con biết là con có hai mắt để thấy được chiều sâu. Con có thể lượng định khoảng cách giữa con và một vật một cách chính xác hơn vì con có cái nhìn song đôi đó. Có hai mắt không phải là nhị nguyên. Các thày không bao giờ nói rằng khi con thoát khỏi nhị nguyên thì hai mắt của con sẽ bắt đầu di chuyển gần nhau hơn cho tới khi chúng hợp thành một con mắt ở giữa trán của con.

Lẽ tất nhiên, con có một mắt thứ ba, đó là luân xa mắt thứ ba, nhưng bài hình dung này dựa trên con có hai mắt, và con hình dung hai mắt di chuyển xa nhau ra cho đến khi chúng cách thân thể con một quãng. Sau đó, con dùng mắt nhìn về phía trước và con thấy trước mỗi mắt là một đường thẳng. Con theo đường thẳng đó nhìn về quãng xa. Nếu con có chút hiểu biết về hình học, thì con biết là phối cảnh sẽ khiến con thấy giống như hai đường thẳng sẽ càng ngày càng gần nhau hơn khi con càng đi ra quãng xa.

Con cũng có thể biết thuyết không gian-thời gian cho rằng tất cả các đường song song sẽ rốt cuộc nhập một, gặp nhau. Con chỉ cần phóng chiếu về khoảng xa, thật xa để hai đường thẳng từ hai mắt con càng ngày càng gần nhau hơn cho tới khi tới một điểm, bất kể điểm này xa tới đâu, hai đường thẳng nhập một và trở nên một đường. Sau đó, con tiếp tục hình dung con theo đường thẳng đó xa nhất mà con có thể hình dung. Khi con đã hình dung đường thẳng duy nhất đó thì con rút sự chú ý của con trở về trán, trở về mắt thứ ba của con. Sau đó, con cho phép mình trải nghiệm viễn quan một mắt đó. 

Một lần nữa, đây là một bài thực tập giản dị mà nhiều người sẽ cho là quá thô sơ, nhưng nếu con cảm thấy gần Tia thứ Năm thì con hãy thực tập bài này và sẽ thấy là kinh nghiệm không thô sơ chút nào và có thể sâu sắc hơn những gì con tưởng tượng lúc này. Sự thật rất giản dị. Chỉ có trong nhị nguyên thì sự thật mới có vẻ phức tạp bởi vì sa nhân muốn sự thật phức tạp. Họ muốn biến mọi chuyện thành phức tạp để họ có vẻ cao trội hơn người khác vì họ có thể nắm bắt, hiểu hay quy định hệ thống tư duy tinh vi, trí thức và đường thẳng đó. Họ là những người quá ư thiện xảo trong khi con người không hiểu được do đó họ phải tuân theo các lãnh đạo.

Con hãy nhìn xem cách Giáo hội Công giáo đã phóng chiếu trong suốt 17 thế kỷ là con người không thể hiểu thực tại tâm linh và phải được giảng dạy với từ ngữ thật đơn giản. Con hãy thấy là họ đã suốt bao năm đốt sách, từ chối không chịu dịch Thánh kinh để con người không thể tự mình đọc Thánh kinh mà phải trông cậy vào sự diễn giải của các linh mục Công giáo. Sa nhân lúc nào cũng nghĩ rằng con người không thể biết sự thật. Chỉ có họ mới biết được sự thật. Lẽ dĩ nhiên, một sa nhân sẽ không bao giờ biết được sự thật cho tới khi y bắt đầu với tới sự thật Ki-tô duy nhất mà y có thể hiểu ở tầng tâm thức hiện tại của mình và sau đó tiếp tục với lên sự thật kế tiếp cho tới khi y không còn là sa nhân nữa.

21.7. Sự thật như là kết quả của vun bồi hiểu biết

Như Giê-su có nói, tâm thức Ki-tô ở khắp mọi nơi. Ở mỗi tầng tâm thức, có một biểu lộ của tâm thức Ki-tô có khả năng đập tan ảo tưởng ở tầng tâm thức đó và giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Có một chân lý ở mỗi tầng tâm thức, nhưng đó không phải là chân lý tối hậu. Đó là chân lý giúp con vươn lên tầng kế tiếp. Tiến trình này sẽ tiếp diễn từ tâm thức hiện tại của con cho tới tiềm năng cao nhất của con là tâm thức của đấng Sáng tạo.

Do đó, chân lý không thể bị gò bó vào bất cứ tầng nào, và vì vậy không ai trên cõi thăng thiên tuyên bố hay tin rằng vị ấy đã đạt được chân lý tối hậu. Các thày đều trải nghiệm chân lý là Dòng sông sự Sống đang hằng sống, tuôn chảy, mà con có thể lần theo về cội nguồn. Và cũng có chân lý cao nhất mà con có thể đạt được trong thế giới hình tướng. Lẽ đương nhiên, vượt quá nơi đó là cái mà các thày đã gọi là cái Tất cả, nhưng các thày không muốn mô tả bằng lời vì nó quá xa vời các hình tướng và khái niệm mà con có trong thế giới hình tướng này.

Một số các con sẽ được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã lớn lên với một quan niệm rất sai lệch về chân lý, đặc biệt là nếu con đã theo học bất cứ học viện cao đẳng nào, tỷ dụ như một viện đại học. Nhiều người coi những viện giáo dục cao đẳng này như các nơi vun bồi hiểu biết và minh triết, và họ nghĩ là nếu họ tích lũy hiểu biết lâu đủ thì họ sẽ đạt được chân lý. Một số còn nghĩ là họ đã đạt được chân lý rồi, ít nhất là trong một số lãnh vực của đời sống. Nhiều người trong các viện giáo dục cao đẳng tin rằng viễn quan duy vật và thuyết tiến hóa của Darwin biểu hiện chân lý tối hậu mà không có hiểu biết nào có thể vượt qua. Lẽ tất nhiên, đây là một ảo tưởng, như lịch sử đã chứng minh. Đã có nhiều giai đoạn trong lịch sử khoa học khi các khoa học gia, ít nhất là các khoa học gia duy vật, đã nghĩ rằng họ đã đạt được hiểu biết tối hậu, tỷ dụ như của các định luật vật lý học. Lúc nào cũng đã có một hiểu biết cao hơn xuất hiện và thay thế hiểu biết cũ. 

Như các thày có nói, các định luật của Newton đã không trở nên vô hiệu lực, nhưng niềm tin các định luật của Newton mô tả sự vận hành cơ bản của bộ máy hoàn vũ đã được thay thế bởi một hiểu biết cao hơn dưới dạng thuyết tương đối (relativity) và vật lý lượng tử (quantum physics). Nhiều khoa học gia đương thời biết rằng thuyết tương đối và vật lý lượng tử là hai thuyết không tương hợp. Lẽ tự nhiên, hiện trạng này không thể là hiểu biết cao nhất. Rốt cuộc sẽ có một lý thuyết về mọi thứ (theory of everything), tuy rằng nó cũng sẽ không bao giờ đầy đủ. Ít nhất sẽ tới một điểm có một lý thuyết bao trùm những yếu tố cơ bản về sự vận hành của thế giới.

Tuy nhiên, thuyết này nhất định phải bao gồm tâm thức. Lẽ tất nhiên các thày cảm thấy khích lệ là một số khoa học gia đã bắt đầu nhìn nhận chuyện này và thăm dò ý nghĩa là gì và một lý thuyết khoa học bao gồm tâm thức sẽ như thế nào, khi lý thuyết này không coi tâm thức như một hiện tượng nằm trên sự vận hành của não bộ mà là một sắc thái căn bản của vũ trụ. Các khoa học gia này đã bắt đầu công nhận là vũ trụ không thể xuất hiện nếu không có một hình thức nhận thức nào đó, mà một số đã gọi là “tác nhân có nhận biết”.

Nếu con đã tiếp thu bất cứ giáo dục cao đẳng nào thì một việc xây dựng mà con có thể làm là xem xét các ngã tách biệt mà con đã có thể tạo ra khi con đáp ứng với môi trường tư duy đó. Nó phóng chiếu đến con là mục đích của nếp sống hàn lâm là tích lũy hiểu biết và dữ liệu cho tới khi đạt được một hiểu biết tối hậu nào đó.

21.8. Tổng thể hơn các thành phần cộng lại

Con cũng có thể được lợi ích nếu con suy ngẫm là con đã bị lập trình, nói theo nghĩa bóng, bởi nền giáo dục cao đẳng để theo phương pháp giản hóa (reductionist), đã có từ thời Aristotle. Ông này đưa ra quan điểm nếu ta nên nghiên cứu các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo thế giới vật chất thì rốt cuộc ta sẽ tới được các thành phần cơ bản của vật chất. Khi ta hiểu được cách các thành phần này vận hành thì ta hiểu được cách toàn thể vũ trụ vận hành. Đây là phương pháp đã hướng dẫn khoa học từ rất lâu nay, nhưng phương pháp này hoàn toàn sai lạc. Phương pháp giản hóa sẽ không bao giờ tìm ra cách thế giới vận hành, một phần vì nó không bao gồm tâm thức, và phần kia vì nghiên cứu các thành phần không thể cho biết cách tổng thể vận hành.

Con không thể xem xét một tổng thể, tỷ dụ như thân thể con người, và hiểu được cách nó vận hành bằng cách xem xét các thành phần càng ngày càng nhỏ cấu tạo nên nó, như các tế bào, phân tử, nguyên tử, hạt cơ bản. Chắc chắn là cơ thể được cấu tạo bởi hạt cơ bản, nhưng con có thực sự tin rằng – và đúng là các nhà duy vật tin điều này, nhưng có phải vậy mà tin tưởng này có giá trị? – nếu con hiểu tất cả mọi chuyện có thể hiểu về các tỷ tỷ hạt cơ bản cấu tạo thân thể vật lý, thì một ngày kia con sẽ giải thích được vì sao con thích sôcôla hơn các loại kẹo khác? Làm sao mà thông tin này có thể được ghi mã vào các hạt cơ bản? Nhưng đó là một phần của đời sống của một con người, vì theo câu ngạn ngữ nhân gian, tổng thể hơn các thành phần cộng lại. Do đó, nếu con muốn hiểu tổng thể thì con cần nhìn vào, nghiên cứu tổng thể, thay vì chỉ nghiên cứu các thành phần. Lẽ dĩ nhiên, nếu con muốn hiểu con người vận hành ra sao thì con phải nghiên cứu tâm con người. Con phải nghiên cứu tâm thức.

Khoa học gia đã quy định cái mà họ gọi là bài toán khó khi nghiên cứu tâm thức, đó là: Làm sao các thành phần không có nhận thức cấu tạo não bộ vật lý lại có thể tạo ra trải nghiệm có nhận thức? Đây chỉ là một bài toán khó khi họ tiếp cận vấn đề với tầm nhìn duy vật. Tâm thức không do các thành phần của não bộ tạo ra. Tâm thức là một cái gì độc lập với não bộ có thể tương tác với não bộ, và phần nào nhập chung vào não bộ, nhưng não bộ không tạo ra tâm thức. Chính tâm thức đem lại sinh hoạt và sự sống cho não bộ và thân thể vật lý. Con sẽ không bao giờ hiểu được con người bằng cách xem xét não bộ.

21.9. Tâm thức là gì?

Con cần xem xét tâm thức, là lẽ tất nhiên câu hỏi đặt ra là: Tâm thức là gì? Tâm thức có thể được xem là thực tại nền bên dưới mọi sự, nhưng con không thể hiểu tâm thức nếu con chỉ nhìn nó như thực tại nền. Tâm thức có nhiều biểu lộ, nhiều tầng. Ở một tầng, ta có thể nói tâm thức là cái có tiềm năng mang hình tướng và duy trì hình tướng trong một khoảng thời gian, và đây là loại tâm thức đưa đến sự hiện diện của các vật vô tri giác.

Sau đó có một tầng tâm thức cao hơn biểu lộ như các hình tướng sống, các sinh thể, có sự sống, có khả năng thay đổi, thích nghi với môi trường, sinh sản. Tầng tâm thức này kích động tiến trình mà khoa học gia gọi là tiến trình tiến hóa, một tiến trình mà họ cho là vô thức. Tiến trình này không thực sự vô thức, vì làm sao một sinh vật có thể thích nghi với môi trường khi nó không có một dạng tâm thức cho nó khả năng nhận tín hiệu từ môi trường và điều chỉnh cách cư xử của nó theo tín hiệu? Thậm chí tiến trình tiến hóa cũng không là một tiến trình duy vật vô thức, ngay cả khi nó ứng dụng vào sự tiến hóa của thú vật.

Lẽ tất nhiên, sau đó là tầng tâm thức cao hơn mà ta có thể thấy nơi con người. Đây là tiềm năng cho phép con người tự nhận biết, là khả năng chọn lựa một cách có ý thức và cố ý cách con đáp ứng với môi trường. Ở tầng tâm thức của thú vật, các sinh thể không đáp ứng một cách có ý thức và cố ý. Thú vật đáp ứng dựa theo những gì đã được ghi mã trong tâm thức của chủng loại, tâm thức tập thể của chủng loại. Các cá nhân hầu như bị tâm thức tập thể đó hoàn toàn sai khiến, và do đó đáp ứng theo những trải nghiệm mà chủng loại đã tích lũy trong một thời gian dài dựa trên kinh nghiệm sinh tồn. Ở mỗi cá nhân, đây là một tiến trình vô thức. Với con người, con có tiềm năng ý thức về tiến trình này, biết chính mình và quyết định là con không chỉ đáp ứng trên căn bản trải nghiệm tập thể. Con sẽ đáp ứng như một cá nhân, và con sẽ thăng vượt tập thể.

Lẽ đương nhiên, đây chính là nền tảng của con đường tâm linh, mà chủ yếu là con không chỉ giản dị làm theo tâm thức tập thể. Con không chỉ đơn giản làm theo cách hành xử mà con đã được dạy dỗ trong nền văn hóa nơi con khôn lớn. Con nhìn nhận là có cách sống khác hơn cách sống bình thường này. Con có thể hơn một con người phàm bình thường. Con có thể chọn nâng tâm thức mình ngày càng cao hơn một cách có hệ thống. Lẽ tất nhiên, nếu các khoa học gia chịu nghiên cứu tâm thức thì họ sẽ nhận ra, như một số đã bắt đầu nhận ra, là phải có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, vì nếu không có những tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, thì làm sao địa cầu, mặt trời, các thiên hà được tạo ra?

21.10. Tầng tâm thức thị hiện vũ trụ

Có những người khóa mình vào suy luận trí năng và nói rằng mặt trăng không có đó khi không có ai nhìn nó. Vũ trụ chỉ hiện hữu khi được quan sát. Vì họ không nhìn nhận là có thể có các tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức con người, nên họ nghĩ chính sự quan sát của con người khiến vũ trụ thị hiện. Lẽ dĩ nhiên, đây là một ngõ cụt và quả thực là một lối suy nghĩ nực cười, khi ta thấy trình độ tâm thức của con người trên trái đất.

Giải đáp hợp lý duy nhất là có một tâm thức cao hơn đã hình dung các thiên hà, toàn vũ trụ. Đây chính là tầng tâm thức đã thể hiện vũ trụ, và đây cũng là tầng tâm thức đã duy trì vũ trụ từ đó tới nay. Vậy thì vũ trụ có đó chăng khi không có ai nhìn? Theo đúng lý thuyết thì không, nhưng lúc nào cũng có ai đang nhìn. Lẽ tất nhiên, ai đó không phải là một sinh thể mà là toàn thể đại đoàn các chân sư thăng thiên, lên đến tận đấng Sáng tạo.

Đấng Sáng tạo đã quy định các hàm số của sự sáng tạo và lúc nào cũng đang nhìn. Nhiều sinh thể khác đã quy định hàm số ở các tầng cấp khác, đi xuống tận nơi con đang ở trên trái đất. Như các thày là chân sư thăng thiên đã giảng, các Elohim đã tạo ra trái đất và mang nó vào biểu hiện vật lý. Các vị đó duy trì nó bằng cách nhìn nó, nhưng các vị ấy làm việc theo khung sườn của các chân sư thăng thiên ở trên họ, ở tầng thái dương hệ, tầng thiên hà, tầng vũ trụ và ở các bầu cõi cao hơn bầu cõi này.

Con là con người đang đầu thai không thể vươn tới nhận biết của bầu cõi cao nhất, của những tầng tâm thức cao nhất, nhưng con có thể cảm nhận xuyên qua tâm thức Ki-tô là con thuộc vào toàn bộ đại đoàn chưởng giáo, lên đến tận đấng Sáng tạo. Con là một nối dài của đại đoàn chưởng giáo, con là một người đồng-sáng tạo với đại đoàn. Đây là điều cho con ý niệm tối hậu về mục đích và ý nghĩa của cuộc sống và hướng đi của mình, mình đang đi đâu, mình muốn tới đâu, điều mình muốn đồng-sáng tạo, những gì mình muốn trải nghiệm, cách mình vươn lên các tầng tâm thức cao hơn để có thể đồng-sáng tạo hơn những gì mình có thể làm ở tầng hiện tại.

21.11. Xem mình là một thành phần của đại đoàn chưởng giáo toàn vũ

Cốt lõi của việc kết nối với các chân sư thăng thiên là tới điểm nhận ra con là một phần của đại đoàn đó, lên đến tận đấng Sáng tạo. Có thể là con không thể hình dung tầng tâm thức của đấng Sáng tạo, nhưng ít ra con có thể hình dung tầng tâm thức ngay trên con, tức là các thày, các Thượng sư? Con có thể kết nối với các thày chăng? Lúc đó con sẽ kết nối với toàn thể đại đoàn chưởng giáo, và con sẽ có được một ý niệm bản sắc mới, một ý niệm mới về mục đích đời mình, ý niệm mình thuộc vào một kế hoạch vĩ đại đang trải bày, và con sẽ có một tầm nhìn mới về cuộc đời trên trái đất.

Như các thày có nói: các thày hiểu là đầu thai trên trái đất vào lúc này khó khăn như thế nào. Khi con có được ý niệm con thuộc vào đại đoàn chưởng giáo thì con có thể tránh bị các điều kiện trên trái đất đè nặng, tránh đồng hóa mình với chúng, tránh bị ý muốn thay đổi chúng ám ảnh và cưỡng chế. Con có thể hoàn toàn xoay chuyển tầm nhìn của mình. Con khắc phục mọi thái độ dựa trên thiếu hụt và đi vào tâm thái tích cực, nhận ra là con đã tới một điểm tốt lành rồi và thực sự không có gì trên trái đất có thể ngăn cản con tiếp tục thăng vượt chính mình và vươn lên các tầng tâm thức cao hơn. Các thày là Thượng sư chỉ muốn thấy vậy nơi mỗi người và tất cả chúng con. Ở thời điểm này, đây chính là điều mà các thày đã hiến dâng cuộc đời mình để giúp con đạt được, để con có thể vươn lên tầng tâm thức mà các thày đã đạt tới khi thăng thiên và sau đó, lẽ tất nhiên, lên cao hơn nữa như các thày đã làm.

Con yêu dấu, đây là điều mà thày muốn trao cho các con. Nếu con cảm thấy đồng điệu với Tia thứ Năm, thì thày tin rằng bài giảng này sẽ có lợi ích cho con và giúp con kết nối với thày và các vị chân sư khác thuộc Tia thứ Năm, và qua đó tạo điều kiện để con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Tới đây thì thày niêm con trong Ngọn lửa Sự thật mà thày LÀ cho địa cầu.

Cách giao tiếp không ép buộc

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 5/9/2021, nhân Webinar 2021 cho Hoa kỳ – Tiến tới các Quan hệ của Thời Hoàng kim. Đăng ngày 9/10/2021.

TA LÀ chân sư thăng thiên Hilarion, Thượng sư của Tia sáng thứ Năm. Tia thứ Năm thường được xem là Tia của Sự thật, hay Tia của Chữa lành. Đâu là mối liên hệ giữa sự thật và chữa lành? Nghĩ cho cùng, con cần chữa lành cái gì chứ? Con cần chữa lành khỏi tâm lý mà con chưa giải quyết. Nhưng tâm lý chưa giải quyết đến từ đâu? Nó dựa trên gì? Nó dựa trên một ảo tưởng. Ảo tưởng là sự vắng mặt của sự thật. Khi con đem lại sự thật thì con thực hiện việc chữa lành.

Chính xác điều này có nghĩa là gì trong lãnh vực các mối quan hệ? À, chúng tôi các chân sư thăng thiên đã nói gì? Con hãy lấy một mối quan hệ điển hình trên địa cầu. Cả hai người đều mang tâm lý chưa giải quyết. Con có thể định ra một cách đo lường hay một cái thang khi nhìn con người. Con có thể nói là ở đầu bên này là những người mà toàn bộ hành động, toàn bộ cảm xúc, toàn bộ ý nghĩ và toàn bộ ý niệm bản sắc của họ đều là sản phẩm của một tâm lý chưa giải quyết. Đây là điều mà con nhận thấy nơi các sa nhân ở gần tầng tâm thức thấp nhất có thể có trên địa cầu. Và ở đầu bên kia của cái thang, của quang phổ tâm thức, là những người chỉ còn rất ít tâm lý chưa giải quyết, đến độ họ tự do hơn rất nhiều để không những chọn lựa hành động của mình, mà chọn lựa cả phản ứng của mình. Nói cách khác, họ chọn lựa cảm xúc của họ, chọn lựa ý nghĩ của họ, chọn lựa ý niệm bản sắc của họ.

Khi con nhìn vào tuyệt đại số con người trên địa cầu, con sẽ thấy là hầu hết mọi người ở một mức không hoàn toàn bị tâm lý chưa giải quyết chế ngự, nhưng họ vẫn bị tâm lý đó tác động rất, rất mạnh mẽ. Con nhìn vào mối quan hệ điển hình thì con sẽ thấy gần như mọi chuyện trong quan hệ đó hoặc là hệ quả, hoặc bị ảnh hưởng và bị tô màu một cách vô cùng sâu đậm bởi tâm lý chưa giải quyết của cả hai người. Như thày Serapis có nói, nó tương tự như ngã tách biệt này đang tương tác với ngã tách biệt khác. Những ngã tách biệt của một người tương tác với ngã tách biệt của người kia, quy định cách họ hành xử với nhau và phản ứng lẫn nhau.

Lẽ tự nhiên, trong cương vị một người tâm linh, con đã bắt đầu khắc phục được phần nào vấn đề nói trên. Và lẽ tự nhiên, con cũng nhận ra, hay con có khả năng nhận ra nhanh chóng, là toàn bộ mục tiêu của con đường tâm linh là đạt tới điểm khi các mối quan hệ của con không còn bị chế ngự và không còn bị hoàn toàn chi phối bởi tâm lý chưa giải quyết của con. Như chúng tôi có nói, trong bất kỳ quan hệ nào, con đừng nên tập trung vào người kia, vào đối tác, vào người bạn đường của con. Con hãy tập trung vào những gì con có quyền năng thay đổi, mà cái đó chính là bản thân con, là tâm lý của con. Khi nói đến các mối quan hệ, đấy có thể được xem là sự thật cao nhất. Con không có khả năng thay đổi người bạn đường của con nhưng con có khả năng thay đổi chính con. Cho nên nếu con muốn được nội lực, nếu con muốn tăng triển, con phải tập trung vào những gì con có quyền năng thay đổi.

Tuy nhiên, ta cũng muốn nói với con là việc thay đổi tâm lý của mình không hoàn toàn là một tiến trình nội tâm. Nếu con lấy các giáo lý mà chúng tôi đã ban ra thì con đã có thể nói: “Bây giờ tôi nhận ra những gì các thày đã dạy về tâm lý của tôi. Nếu tôi lấy tất cả những lời giảng dạy đó thì tôi phải có thể rút về một hang đá trên núi Himalaya, sử dụng các giáo lý đó để xem xét tâm lý mình, rồi với thời gian, lần lần tôi sẽ giải quyết hết mọi tâm lý chưa giải quyết cho tới khi tôi sẵn sàng thăng thiên. Cá nhân tôi phải làm được chuyện đó mà không cần tương tác chút nào với người khác, vì như các thày có nói, tôi có trọn vẹn quyền năng trên tâm lý của tôi. Tôi hoàn toàn có khả năng thay đổi ngã tách biệt của tôi, tháo gỡ chúng ra, buông bỏ mọi ảo tưởng và chuyển hóa mọi năng lượng.”

Điều đó đúng, con có thể làm như vậy. Có những người đã làm được như vậy, đã rút về ở ẩn nơi hang đá trên núi Himalaya, rồi nhiều năm sau họ bước ra khỏi hang sau khi đã thực hiện một số tiến bộ tâm linh. Tuy nhiên đó không phải là cách nhanh nhất để phát triển tâm linh. Và nếu con đang sống kiếp đầu thai chót của con và con muốn hội đủ tư cách để thăng thiên, đó không phải là cách hiệu quả nhất để đạt tới thăng thiên. Bởi vì chúng tôi đã nói gì chứ? Trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, con đã tự đặt mình vào mối quan hệ với một số người nhất định chính vì con đã thấy được đây là cách nhanh nhất để mà tinh tấn.

Trên lý thuyết thì con có thể ngồi đó, và trong tâm con có thể hoàn toàn giải quyết tâm lý của con, nhưng điều này sẽ tốn rất nhiều thời gian, vì với một tiến trình hoàn toàn nội tâm như vậy, con không có cùng khung tham chiếu, con không nhận được sự phản hồi, con không có tương tác nào với người khác để mà có được một tầm nhìn về bản thân mình, hay để nó bắt buộc con phải phản ứng một cách nào đó, rồi chính cách phản ứng này làm lộ ra cái ngã tách biệt mà con cần thấy.

Có những người, thật ra có khá nhiều người, đã rút vào một khung cảnh tu viện, cho dù họ theo đạo Cơ đốc, đạo Phật hay bất kỳ tôn giáo nào khác. Họ rút hẳn khỏi thế giới để ẩn mình trong tu viện nơi mọi chuyện đều có luật lệ nghiêm ngặt rõ ràng. Họ dành ra một phần thời gian để làm việc, một phần thời gian để tu tập, và có thể một phần thời gian để nghiên cứu. Tất cả mọi thứ đều tuân theo luật lệ. Và khi họ chấp nhận bước vào sống trong một môi trường như thế, thường khi tự ngã của họ sẽ thở phào nhẹ nhõm, bởi vì giờ đây họ sẽ sống trong một khung cảnh kềm chế nơi họ không phải phản ứng lại bất cứ điều gì, và như thế tự ngã mới có chỗ để lẩn trốn. Có nhiều người tưởng mình đã tinh tấn, nhưng đó là vì tự ngã đã luôn luôn tìm được cách lẩn tránh. Họ không thấy được tự ngã vì không có gì đẩy nó ra ngoài cho nó lộ diện.

Chính con đã chọn tự đặt mình vào một số mối quan hệ vì con nhận ra đây là cách nhanh nhất. Điều này không có nghĩa là con phải ở lại trong quan hệ đó mãi mãi, mà chỉ cho tới khi con giải quyết được những gì con cần giải quyết trong quan hệ đó. Nhưng bằng cách tham gia năng động vào xã hội, có nhiều quan hệ khác nhau, nhận sự phản hồi của người khác và giám sát cách phản ứng của mình đối với người khác, đó thật là cách nhanh nhất để con tăng triển tâm linh. Đối với tuyệt đa số mọi người, cách này hiệu quả hơn hẳn một lối sống ẩn dật.

Điều này có thể hơi khác cho những ai đã làm công việc này trong tiền kiếp, nhưng đối với tuyệt đại đa số người tầm đạo, cuộc sống năng động và việc tương tác với người khác là cách hữu hiệu hơn rất nhiều. Điều này có nghĩa gì? Như ta vừa nói ở trên, điều này có nghĩa là cách hữu hiệu nhất không phải là một tiến trình hoàn toàn nội tâm, và việc tương tác với người khác là cách hữu hiệu hơn.   

Và tất nhiên, nó có nghĩa trước hết là con nói chuyện với người kia. Thày Lanto có bảo là con hãy bước ra lãnh vực thế tục và tìm hiểu các nghiên cứu về quan hệ, và nếu con làm việc đó, con sẽ thấy đa số các chuyên gia về quan hệ đều chỉ ra rằng vấn đề hàng đầu trong mọi quan hệ, đặc biệt các mối quan hệ trục trặc, là sự thiếu giao tiếp – không có dòng giao tiếp chảy tự do. Có thể trong một số trường hợp dòng giao tiếp có mặt, nhưng là một dòng trục trặc.

Nói cách khác, trong các mối quan hệ không diễn ra tốt đẹp, con thường thấy hai thái cực. Một thái cực là hai người không còn nói chuyện với nhau nữa. Hoàn toàn không có giao tiếp xảy ra, hoặc là họ không giao tiếp, hoặc họ chỉ giao tiếp về một số đề tài vô hại như thời tiết, hàng xóm, con cháu hay bất kỳ chuyện gì khác. Đây là thái cực đầu, người ta không nói chuyện với nhau.   

Có một thái cực thứ nhì là họ có nói chuyện với nhau, nhưng thay vì nói chuyện về mối quan hệ, họ lại nói về những chuyện khác, hay họ chỉ trích lẫn nhau, cằn nhằn với nhau, tìm cách ép buộc nhau phải nhìn theo cách của mình. Nói cách khác, họ dùng một dạng giao tiếp ép buộc nơi họ tìm cách kiểm soát, hay có lẽ thay đổi người kia.

Dù sao thì trong cả hai cách đều có sự ép buộc, có vũ lực, vì cách duy nhất để hai người không thể nói chuyện với nhau là ép buộc mình, là đè nén xuống. Hoặc khi hai nguời cãi nhau và tìm cách lấn át nhau, thì hiển nhiên cả hai cũng đang dùng lực.

Món quà dựa trên Tia thứ Năm mà ta muốn tặng cho con là con có khả năng thiết lập một dạng giao tiếp khác hơn. Chúng ta có thể gọi đó là dạng giao tiếp không ép buộc, giao tiếp không dựa trên lực. Bình thường con sẽ có thể hỏi: “Nhưng giao tiếp chẳng phải là một con đường hai chiều hay sao? Tôi có thể học một cách giao tiếp tiến bộ mới mẻ và tôi có thể nói điều gì đó cho người bạn đường của tôi, nhưng nếu người ấy chỉ lạnh lùng nhìn tôi, hay nhún vai bước ra khỏi phòng, hay nổi giận và bắt đầu la hét thì sao?”

Nhưng chúng tôi đã nói gì? Con cần giành lại uy quyền trên những gì con có quyền năng thay đổi, và cái đó là chính con, là tâm lý của con, phản ứng của con. Con sẽ thấy nhiều người trên thế giới mang thói quen lạm dụng giọng nói của mình. Họ lạm dụng quyền năng của lời nói bằng cách miệt thị, tranh cãi, xúc phạm, mỉa mai, chế nhạo người khác, hay bằng những cách khác như la hét, chửi mắng người khác. Nhiều người có rất nhiều khí lực và họ không ngần ngại dùng khí lực đó trong giao tiếp.

Nhưng đa số các con là người tâm linh, các con không thuộc loại người đó. Con thuộc loại người không muốn lạm dụng giọng nói của mình, và do đó trong đa số trường hợp, con có xu hướng giữ im lặng. Con có xu hướng không nói lên những gì mình cảm thấy, những gì mình suy nghĩ, những gì mình trải nghiệm. Điều ta muốn gợi ý cho con, trong tư cách là người tâm linh thuộc loại này, thì con cần làm việc trên bản thân để con đạt tới mức con không bị hạn chế trong những điều con có thể bày tỏ với người khác, hay với người bạn của con trong quan hệ. Ngay trong bản thân, con có tự do nói ra bất cứ gì con cảm thấy mình cần nói ra.

Và điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều người trong số các con bỏ ra một số nỗ lực. Con cần nỗ lực nắm bắt toàn bộ khái niệm này. Con cần nhìn xem tại sao con cảm thấy miễn cưỡng làm chuyện đó, tại sao một số các con lại sợ làm chuyện đó. Có khi là vì con sợ phản ứng của người kia. Nhưng rất nhiều các con mang một nỗi sợ phát biểu mà con không thật sự nhận diện được. Và đối với nhiều người trong các con, vấn đề này đi trở ngược về thuở chấn thương nhập đời của con khi con từng lên tiếng chống lại sa nhân, xong con bị chúng đánh gục tàn bạo đến độ con quyết định là mình sẽ không bao giờ làm như thế nữa. Nhưng con chẳng thấy hay sao là con đang dùng vũ lực chống lại chính mình? Và con không thể vừa làm vậy mà vừa thăng thiên. Khi con ở tầng 144 hay gần tới đó, con tự do nói lên bất cứ gì. Không có hàng rào nào trong tâm con ngăn cản con bày tỏ bằng lời nói những gì con có trong tâm. Tất nhiên là có rất nhiều thứ không nằm trong tâm con, nhưng dù sao đi nữa…

Điều con cần nhìn nhận ở đây là sa nhân mơ ước chúng là thẩm quyền tối thượng mà không ai có thể phản bác. Không ai có thể nói gì về chúng để thách thức uy quyền của chúng, hay để chất vấn chúng, hay để nói lên những điều chúng không muốn nghe. Chắc chắn con không thể nói ra bất cứ gì khiến chúng có vẻ sai trái, hay khiến chúng cảm thấy bối rối xấu hổ, cho dù một sa nhân thường không thể cảm thấy như vậy. Chúng muốn bịt miệng mọi người, bịt miệng mọi sự chống đối, và do đó chúng đã thiết lập một loạt cơ chế rất đa diện để bưng bít mọi người và khiến mọi người phải ngừng nói.

À, con sẽ có thể hỏi: “Làm thế nào chuyện đó có thể thành công?” Nó có thể thành công vì con đã từng có trải nghiệm lên tiếng rồi đã gặt hái hậu quả đau đớn. Con đã quyết định – con đã tạo ra một cái ngã tách biệt quyết định – là con sẽ không bao giờ lên tiếng kiểu đó nữa, hay bất cứ kiểu nào khác nữa. Con đang mang những ngã tách biệt đó, và trong khuôn khổ sự phát triển của con, con cần giải quyết chúng đi, con cần để cho chúng chết đi và được tự do.

Con có thể tự theo dõi, tự giám sát mình. Con có thể tự xem xét mình trong những hoàn cảnh quá khứ, hay ngay cả những hoàn cảnh hiện tại, và con có thể tự hỏi một số câu hỏi giản dị: “Liệu tôi có thể nhận diện những tình huống mà tôi không muốn lên tiếng hay không? Tôi có thể nhận diện những tình huống khi tôi muốn nói điều gì đó nhưng lại nhịn không nói? Tôi có thể nhận điện những tình huống khi tôi có lên tiếng, nhưng giọng nói của tôi đượm một nỗi cảm xúc tạo ra phản ứng tức thì nơi người kia trong quan hệ?”

Con cũng có thể cân nhắc xem con có bị rơi vào khuôn nếp sau đây hay không. Rất nhiều người tâm linh kinh qua một số tình huống với một đối tác nhất định trong quan hệ khi không chịu lên tiếng. Họ có một số cảm xúc, một số ý nghĩ, một số điều mà họ muốn nói nhưng họ lại không nói. Kết quả là một sự căng thẳng bắt đầu chồng chất trong cảm xúc. Năng lượng xúc cảm bắt đầu tích tụ lại nơi cảm thể, một số ý nghĩ bắt đầu tích tụ nơi trí thể, và lần hồi sau một thời gian, cường độ của nó cứ thế dâng tràn.  

Bấy giờ nó trở nên dữ dội đến độ con không thể chịu đựng được nữa, con không thể cầm giữ nó lại, thế là con lên tiếng với người bạn đường của con. Nhưng con lên tiếng một cách rất cường độ, mất cân bằng. Con nổi giận, con bực tức, con đổ lỗi cho người kia, con chỉ ra lầm lỗi của họ, những gì họ đã làm sai trái và những gì đáng lý họ phải làm. Và con phóng chiếu theo một cách mà chính con cũng nhận thấy là quá cường độ. Nếu người kia đã cư xử với con như con đang cư xử với họ thì chính con cũng sẽ không phản ứng tich cực được. Và vì thế, người bạn đường của con sẽ phản ứng tiêu cực, và cuối cùng hai con sẽ cãi nhau. Và cho dù con có cố giải quyết hay bước ra khỏi tình huống đó và phần nào giải tỏa căng thẳng, nhưng vấn đề vẫn không thực sự được giải quyết. Thế tương tác giữa hai con vẫn y nguyên, thế là hai con lại bắt đầu một chu kỳ mới, lại thêm một vòng xoáy mới dồn nén năng lượng và gia tăng cường độ cho tới khi con không thể kiểm soát được nữa. Và một lần nữa, con lại lên tiếng hùng hổ quá trớn, và vân vân.      

Nếu con có thể nhận diện bất kỳ xu hướng nào giống như vậy, con cần nhận ra nguyên nhân ở đây chính là những cái ngã tách biệt tác động lên cách con phát biểu. Con không đang tự do phát biểu – có thể nói con không tự do phát biểu từ trái tim, và vì vậy con phát biểu từ ngã vỏ ngoài, từ những cái ngã tách biệt. Và hiển nhiên – tất cả các con đều thấy được điều này – đó không phai là hình thức giao tiếp cao nhất giữa con người.

Điều ta muốn nói là một trong những mục tiêu con cần đạt đến trong quan hệ là khả năng phát biểu từ một trạng thái tâm trung hòa. Con không mang một nỗi niềm động cảm nào cả. Con không cảm thấy mình bị bó buộc phải nói ra điều đó, và người kia phải bắt buộc hiểu ra, phải chấp nhận điều đó, và phải thay đổi. Con chỉ nói lên từ một trạng thái trung hòa và con chia sẻ: “Đây là cách tôi nhìn sự thể. Đây là những gì tôi cảm nhận về sự việc. Đây là những cảm xúc mà cách hành xử và lời nói của bạn – hay của anh, của em – khơi lên trong tôi.” Nhưng con không nói vậy khi trong lòng con chất chứa một động cảm muốn đổ lỗi, con không làm vậy với nỗi sợ hãi phản ứng của người kia. Con chỉ đơn giản có khả năng phát biểu một cách trung hòa.

Đây là một mục tiêu mà con có thể quyết định trong ý thức là con sẽ sẵn lòng hướng tới. Một lần nữa, trong xã hội thế tục có những lời dạy nói về sự giao tiếp giữa con người mà con sẽ được ích lợi học hỏi, nhưng điểm học hỏi chính yếu không phải là kiến thức trí thức mà là những phản ứng nó khởi lên trong con. Nó sẽ làm rõ, làm lộ ra những cái ngã tách biệt trong con đang ngăn chặn sự giao tiếp của con. Và nếu con áp dụng điều này vào mối quan hệ nồng nàn nhất của mình thì nó sẽ tác động tích cực lên tất cả mọi mối quan hệ của con. Thực tế là nó sẽ chuyển đổi đáng kể các mối quan hệ của con.

Trong nhiều năm qua, sứ giả này đã tu tập về vấn đề này, và mặc dù ông chưa hoàn toàn điều ngự được, ông đã tinh tấn đáng kể so với lúc đầu. Ông đã đạt tới một điểm khi ông nhận ra là ông có xu hướng lo sợ cách phản ứng của người khác vì ông không muốn làm họ phiền lòng – không hẳn là ông sợ phản ứng của họ nhưng ông không muốn làm họ phiền lòng, vì ông sẽ tự trách mình đã làm cho người khác phiền lòng. Ông không muốn làm tổn thương cảm xúc của họ vì ông sẽ cảm thấy mình đáng trách, cho nên – nếu có thể nói như vậy – ông cứ cố đoán trước phản ứng của họ.

Và tất nhiên, ông đã thu hút về phía ông một số người rất dễ giận hờn bởi lời nói của người khác về mình. Người đầu tiên trong trường hợp này là chính cha ông – cha ông có một số “nút bấm” nhất định mà nếu có ai nhấn vào thì ông sẽ nổi giận tức khắc. Sứ giả này đã học được điều này ngay từ tuổi thơ ấu. Nhưng rồi đến một thời điểm khi ông vừa thành niên, ông nhận ra là khi ông nói chuyện với cha một cách nào đó, chủ yếu với một giọng nói trung hòa, thì ông có thể nói ra một số điều mà ông không thể nói được trong động cảm, bởi vì cha ông sẽ phản ứng lại sự động cảm thay vì lắng nghe lời ông nói. Nhưng nếu ông phát biểu không động cảm thì, ít ra thỉnh thoảng, cha ông sẽ sẵn sàng lắng nghe ông nói. Nói cách khác, cảm xúc đã che lấp mất thông điệp. Và sau này trong đời sống, khi ông ngày càng biết cách phát biểu trung hòa, chính ông đã ngạc nhiên thấy mình có thể nói rất nhiều thứ với người khác mà không gây ra phản ứng tiêu cực.

Một số các con sẽ nhận xét thấy là khi các con nói chuyện với sứ giả này, thỉnh thoảng ông phát biểu một cách rất trung hòa không làm con khó chịu, mặc dù ông đang nói ra một số điểm rất thẳng thắn về chính con hay tâm lý của con. Một số khác trong các con cũng có thể nhận xét thấy những khi con bị phiền lòng bởi lời đó của ông, nhưng con không dám nói ra vì con cho ông là người thẩm quyền và con không muốn nói ngược lại thẩm quyền, thì điều này có nghĩa là con mang một số ngã tách biệt con chưa giải tỏa được.

Điểm ở đây là nếu con nỗ lực đạt khả năng giao tiếp trung hòa, khi con có thể lên tiếng một cách trung hòa, thì con sẽ kinh ngac nhìn thấy các mối quan hệ của mình cải thiện đến chừng nào. Nhưng con cũng sẽ kinh ngạc là trong tiến trình tu tập dẫn tới điểm đó, con nhìn thấy nhiều điều hiện rõ ra trong tâm lý mình. Tất nhiên, ta không đang bảo là giờ đây con cần đem tất cả những lời dạy này, rút vào hang đá kia rồi nói: “Tôi sẽ làm việc trên tâm lý của tôi cho tới khi tôi có khả năng phát biểu một cách hoàn toàn trung hòa. Và cho tới khi đó, tôi sẽ không nói gì hết.” Đó không phải là điều ta muốn nói. Trong tiến trình tu tập hướng đến mục tiêu trên, con sẽ phải có can đảm nói lên những gì trước đó con không dám nói. Và bằng cách phát biểu trong khả năng phát biểu của con vào thời điểm đó, con sẽ nhận được phản ứng từ người kia trong quan hệ. Và bằng cách giám sát phản ứng của mình, con sẽ có thể tự nhủ: “Tôi đang có ngã tách biệt nào đang đứng đằng sau cách phản ứng này của tôi?” Và một lần nữa, con sẽ tiến nhanh hơn là nếu con chỉ ngồi một mình trong hang đá. Đây là cách mà con có thể, trong một thời gian tương đối ngắn, đạt tới điểm con có thể giao tiếp trung hòa hơn hẳn.          

Ta đã bắt đầu bài giảng này với câu nói rằng sự thật dẫn đến chữa lành. Có một số vết thương mà con đã nhận lãnh trong tiền kiếp khi con bị hà hiếp nhưng lại không lên tiếng phản đối, và chúng tôi có nói là con cần nhận diện ngã tách biệt đó, tách rời ra khỏi nó, nhìn thấy nó không phải là mình và để cho nó ra đi. Nhưng có một số ngã tách biệt đó liên quan đến phát biểu mà con không thể buông bỏ được nếu con không lên tiếng. Con không thể buông ngã đó ra mà không nói lên những gì con chưa nói. Nếu con chưa đứng lên quả quyết thì con cần đứng lên quả quyết trước khi con có thể cho ngã đó ra đi. Nếu con chưa vạch ra lằn ranh và nói: “Điều này, tôi sẽ không chấp nhận”, thì con cần vạch ra lằn ranh đó để hoàn toàn buông bỏ nó đi.

Sự thật – là sự thật mà con nói lên như con đang thấy – có thể đem lại chữa lành, vì khi con đạt tới điểm con có thể phát biểu mà không sợ phản ứng, thì đó là lúc con nhận ra: “À, sự lên tiếng không đến nỗi nguy hiểm như mình vẫn tưởng, vậy tại sao mình lại lo lắng về chuyện đó? Tại sao mình lại cảm thấy miễn cưỡng, lo sợ, tại sao trong tiềm thức mình lại gánh nguyên cái khối khổng lồ của sự lên tiếng?” Gần giống như một số các con sợ bóng tối khi còn nhỏ. Đến một lúc nào đó, con đã phải bước vào một căn phòng tối đen hay bước ra ngoài trời tối để đối đầu với bóng tối. Và khi con thấy không có ma quỷ nào ở đó để vồ lấy con, thì cuối cùng con đã có thể trút bỏ nỗi sợ hãi. Như sứ giả này đã từng mô tả, ông đã tự nhốt mình trong một phòng tối với một bộ xương người, và bằng cách sống sót qua trải nghiệm đó, ông đã có thể trút bỏ nỗi sợ hãi những bộ xương.

Con hãy sẵn lòng tập tành như vậy. Hãy sẵn lòng nói ra sự thật như con đang thấy. Hãy để ý phản ứng, làm việc trên phản ứng cho tới khi con có thể tự do lên tiếng, nhưng con lên tiếng một cách trung hòa. Thật ra con không phát biểu để thay đổi người kia hay khiến họ buồn phiền. Như chúng tôi có nói nhiều lần, con chỉ đơn giản chia sẻ ý nghĩ và cảm xúc của con với họ. Và khi con có thể tự do nói ra điều đó thì con cũng giải thoát cho họ tự do phản ứng theo cách họ muốn. Và nếu họ không tiếp nhận những điều con nói một cách tích cực, nếu họ nổi giận, nếu họ phản bác hay phớt lờ, thì chuyện đó cũng chẳng quan trọng với con. Nó không quan trọng với con vì con đã tăng triển, con đã trở nên tự do. Và điều tất phải đến là tới lúc người kia sẽ không còn nắm được gì nơi con làm cho con phiền hà nữa. Không có gì về người kia làm cho con phiền hà vì họ không có quyền năng gì trên phản ứng của con, trên cảm xúc, ý nghĩ và trạng thái tâm con. Thật sự, khi con không có phản ứng tiêu cực nào đối với họ thì con đâu có vấn đề gì mà có quan hệ với họ? Nếu đó là một người thân thiết trong gia đình mà con cảm thấy không thể cắt đứt mọi liên lạc, con vẫn có thể tiếp tục quan hệ với người đó mà không đặt vấn đề gì cho con. Nhưng trong nhiều trường hợp, điều xảy ra là con có thể sẽ rời khỏi quan hệ đó. Con tìm được những người mà con có thể có quan hệ cởi mở tự do hơn, mà con có thể giao tiếp dễ dàng tốt đẹp hơn.

Điều hoàn toàn có khả năng xảy ra là con kinh qua tiến trình tăng triển này và con thay đổi, nhưng người kia thì không thay đổi. Bây giờ thử lấy ví dụ này, là có hai người trong một mối quan hệ cho dù là bạn bè, tình yêu, kinh doanh hay bất cứ gì khác. Và mặc dù cả hai có thể không phải là học trò chân sư thăng thiên, nhưng cả hai đều sẵn lòng cải thiện chính mình lẫn tâm lý của mình, sẵn lòng nỗ lực cải thiện quan hệ.    

Điều các con có thể làm là dành ra một thời gian để ngồi xuống nói chuyện với nhau: “Bây giờ chúng ta sẽ giao tiếp một cách không rủi ro. Chúng ta sẽ hứa với nhau là mình sẽ cho phép người kia tự do phát biểu và mình sẽ không phản ứng lại tiêu cực.” Một người sẽ bắt đầu nói, dành ra một thời gian để bày tỏ những gì mình muốn bày tỏ, và người kia không phản ứng lại. Sau khi một người đã nói xong phần mình, có thể dành ra một chút thời gian để suy ngẫm hay có thể để người kia đặt câu hỏi. Có thể ngay sau đó hay trong một buổi khác, đến lượt người thứ hai bày tỏ một cách tự do, nhưng sự giao tiếp vẫn cần xảy ra một cách không rủi ro. Làm như vậy, các con sẽ có thể giúp nhau cùng tiến tới điểm mình dám phát biểu tự do – tự do phát biểu một cách trung hòa.   

Vừa rồi là một số ý nghĩ mà ta muốn trao cho con từ nhãn quan Tia thứ Năm. Ta không đang bảo là con nên cố gắng biểu đạt những sự thật tối thượng, mà con nên biểu đạt những gì con thấy ngay lúc này, và tất nhiên con cũng nhận thức là con đang ở một tầng tâm thức nơi con chỉ thấy được những gì con thấy, và khi con tiếp tục nâng cao tâm thức thì con sẽ thấy nhiều thứ con chưa thấy được hôm nay. Điều này có thể cho con một góc nhìn hoàn toàn khác lạ, và do đó con không cần bám giữ ý tưởng sai lầm là con hiện đã nắm được sự thật cao nhất, hay quan điểm cao nhất, hay sự hiểu biết cao nhất có thể có về một vấn đề. Kỳ thực, con không thể thật sự giao tiếp trung hòa nếu con nghĩ là có một hiểu biết tối thượng và con đang nắm giữ sự thật hay hiểu biết tối thượng này.

Và như vậy, ta niêm con trong Tia sáng Sự thật màu xanh lục bảo mà TA LÀ.  

Nhìn quá bức màn của vật chất, 15 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 19/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Thầy rất vui mừng khi thấy học viên đến tầng này của khóa nhập thất vì họ đã sẵn sàng đón nhận khai ngộ cuối cùng mà thày cống hiến trong khóa tự điều ngự này. Đây dĩ nhiên là sáng ngộ do năng lượng của Tia thứ Năm phối hợp với năng lượng của tự do.

Vậy khai ngộ mà con sẽ gặp ở tầng này là gì? Đó là con cần giải thoát tâm, giải thoát viễn kiến của mình khỏi ảo tưởng cơ bản rất tinh tế của sa nhân. Ảo tưởng này có nhiều tầng lớp. Thày có nói về điều này trong các bài giảng trước, đặc biệt là trong bài trước khi thày nói về việc giải thoát tâm mình khỏi ảo tưởng cho rằng vật là vật, chúng khó thay đổi vì vật chất rắn đặc và không thay đổi được bằng tâm.

16.1. Nhìn quá tấm màn vật chất

Con cần phải khởi sự làm điều gì? Khi con tới dự khóa nhập thất của thày trong các thể thanh thoát hơn của con, dĩ nhiên là thày dạy con cách nhìn quá tấm màn của vật chất. Có thể nói là tà ma là một tấm màn năng lượng vì các lực bóng tối, các sa nhân đã tạo ra ảo tưởng rằng vật chất rắn đặc và không thay đổi được. Con yêu dấu, điều này là một ảo tưởng hay chúng ta cần tìm hiểu thêm? Nó một ảo tưởng do sa nhân tạo ra, nhưng ta cũng nên tìm hiểu thêm vì có một sự tương ứng giữa sự dày đặc của vật chất và khả năng của các giác quan vật lý của con.

Điều rõ ràng là khi con còn sống trên một hành tinh có độ dày đặc như trái đất, con cần biết cách cảm nhận vật chất. Con cần phải đi lại trong vật chất và do đó giác quan vật lý của con phải có khả năng cảm nhận vật chất ở mức rung động hiện nay của nó. Nếu con xem đôi mắt chẳng hạn, con sẽ thấy là đã có lúc trái đất có một mức rung động cao hơn ngày nay. Mắt của những người sống trên trái đất lúc đó giản dị là không có khả năng thấy được những rung động dày đặc có mặt trên trái đất ngày hôm nay. Nếu con lấy những người thời đó và đem họ tới trái đất thời nay, họ sẽ không có khả năng nhìn thấy những gì con dễ dàng thấy là vật chất vì con mắt của họ không được điều chỉnh để tiếp nhận những rung động thấp đó.

Chuyện đã xảy ra là vì vật chất đã trở nên dày đặc hơn, vì cơ thể con đã trở nên dày đặc hơn, cặp mắt của con đã nới rộng phạm vi hoạt động và thấy được các rung động thấp hơn trước. Thực ra thì điều này tự nó không tạo ra tấm màn năng lượng, rào cản nhãn quan. Mắt vật lý của con vẫn có khả năng nhận ra các rung động cao hơn bên ngoài quang phổ vật lý. Một số trong các con thấy được hào quang chung quanh người khác. Mọi người đều biết là hào quang có thật và có một số người đã, theo như câu ngạn ngữ, “mở con mắt thứ ba” và có thể thấy hào quang và các luân xa. Hoặc họ có thể thấy được cõi trung giới (astral plane) hay các cõi cao hơn, và ngay cả chân sư thăng thiên.

16.2. Vì sao con không thấy được hào quang người khác

Con biết rằng điều này có thể làm được. Câu hỏi là: tại sao con không thấy được các rung động bên ngoài cõi vật chất? Có rất, rất nhiều người tin rằng lý do là vì con mắt vật lý không thấy được các rung động này; trên phương diện vật lý con không có khả năng để thấy được. Thày nói là điều này không đúng, và đây là sáng ngộ mà con sắp trải qua.

Thày có thể chỉ cho con thấy ở tầng ê-the là điều này không đúng. Thày có thể đơn giản chỉ cho con thấy phạm vi khả năng của con mắt vật lý. Thày có thể chỉ cho con thấy màn võng mạc (retina) trong con ngươi hoàn toàn có khả năng tiếp nhận tia ánh sáng của các rung động do hào quang người khác phát ra. Trên phương diện vật lý, con có khả năng thấy được hào quang.

Vậy tại sao con không thấy được hào quang một cách ý thức? Đó là vì con có một số phin lọc trong não bộ của con, trong vùng vỏ não thị giác, và ngay cả trong các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc. Có phin lọc nhận thức tự nó không có gì sai trái, vì nếu con nhận hết tin tức mà mắt con có khả năng phát hiện thì tâm ý thức của con có thể bị choáng ngợp. Các phin lọc nhận thức có một chức năng chính đáng vì chúng giúp con chú tâm vào những điều quan trọng nhất cho con. Con sống trong thời đại Internet và tin học và nếu con lên trên mạng Internet và đọc hết những thông tin sẵn có thì con mau chóng bị choáng ngợp và tâm bị phân tán đến độ con không thể chú tâm vào điều gì. Con biết là con cần lọc lựa tin thông tin, nếu không con sẽ mau chóng bị choáng ngợp.

Đương nhiên là sa nhân biết điều này rất rõ. Nếu con nhìn lại lịch sử, con thấy là châu Âu trong khoảng thời gian dài non một ngàn năm đã ở trong giai đoạn được gọi là Thời kỳ Tăm tối. Lý do là vì Giáo hội Công giáo đã ngăn chặn mọi thông tin mà họ không ưng thuận. Họ đốt sách, họ cấm sách, họ ngăn không cho sách lưu hành và do đó chỉ có một số thông tin giới hạn tới tay quần chúng. Đó là một cách mà sa nhân dùng để hạn chế tự do của con. Nếu con có quá ít thông tin, con không thể làm được một số lựa chọn.

Khi thời kỳ hiện đại tới gần và càng ngày càng có nhiều công nghệ để phân phối thông tin, thì sa nhân nhận ra là họ không thể giữ chặt thông tin nữa. Ít nhất là có nhiều thông tin mà họ không thể kềm giữ. Do đó, họ thay đổi chiến thuật và tìm cách khiến con bị choáng ngợp bởi quá nhiều thông tin, đồng thời tung ra vô số thông tin lố lăng khiến mọi người bắt đầu nghi ngờ hết mọi thứ khác thường.

16.3. Phin lọc nhận thức chính đáng

Đó là cái Alpha và Omega của sa nhân, chiến lược đẩy và kéo của họ, hoặc ít quá hoặc nhiều quá. Bất cứ ai sống trên một hành tinh như trái đất cần một số phin lọc để loại đi những gì không xây dựng. Thày muốn nói gì khi thày nói “xây dựng”? Đương nhiên là thày muốn nói là con cần lọc bỏ đi bất cứ điều gì khiến con sao lãng việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể thấy là khi con biết con có một Sứ vụ Thiêng liêng, khi con cảm nhận Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì, thì con nhận ra là con cần một phin lọc nhận thức để loại bỏ những thông tin chỉ khiến con sao lãng và không chú tâm vào các khía cạnh cốt yếu của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Điều thày muốn nói là: Con có một số phin lọc loại bỏ một số thông tin đến giác quan của con. Có một phin lọc loại bỏ ấn tượng thị giác đến từ hào quang hay trường năng lượng của người khác. Lý do là vì một số người có thể bị choáng ngợp khi thấy thông tin này. Có những người đã mở con mắt thứ ba, và bỗng nhiên họ thấy được các phàm linh và ác quỷ trong trung giới và bị chấn động mạnh mẽ. Con cần phải được huấn luyện trong một thời gian để dần dần làm quen với những cảnh này.

Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là vì con có thể tới điểm con thấy được hào quang người khác, không có nghĩa là điều này có trong Sứ vụ Thiêng liêng của tất cả mọi người tâm linh. Thày có thể nói với con là đại đa số những người tâm linh không có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ khả năng thấy được hào quang, vì khả năng này không cần thiết cho việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

Điều thày muốn nói qua lời giảng dông dài này là con cần nhận ra là có một số phin lọc nhận thức chính đáng. Nhưng cũng có một số không chính đáng vì con đã được dạy dỗ để chấp nhận một số phin lọc nhận thức không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Một trong những phin lọc chủ yếu ngăn trở Sứ vụ Thiêng liêng của con là phin lọc nhận thức khiến con nghĩ vật chất là vật chất, vật chất rắn đặc, vật chất không thay đổi được.

16.4. Phin lọc nhận thức không chính đáng

Lý do vì sao phin lọc này rất tai hại vì nó khiến con nhìn hoàn cảnh trên trái đất và nghĩ rằng khi một chuyện có một hậu quả vật lý, vật chất, thì hậu quả này không thể thay đổi được ngoại trừ qua một hành động ở tầng cấp vật lý. Điều mà thày đã giảng trong các bài trước là thực tế về đời sống trên trái đất, về hoàn cảnh trên trái đất, là mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng rung động không ngừng. Năng lượng luôn luôn uyển chuyển và dù nó có hình tướng nào đối với giác quan và tâm vỏ ngoài của con, năng lượng lúc nào cũng thay đổi được.

Chuyện xảy ra là sa nhân đã tạo ra (và đã lừa đa số nhân loại cùng tạo ra) phin lọc nhận thức khiến con người nghĩ vật chất không phải là năng lượng, mà là một chất tách biệt. Nó rắn đặc, khó thay đổi và chắc chắn tâm không có quyền năng thay đổi được nó.

Con được dạy dỗ để có một phin lọc nhận thức tạo ra một lằn ranh giả tạo. Con biết và con cảm thấy có năng lượng chung quanh mình vì con thấy ánh sáng mặt trời và cảm thấy nhiệt độ. Con biết những cái này là làn sóng năng lượng, là rung động. Nhưng phin lọc nhận thức của con nói rằng năng lượng khác với các vật được tạo nên từ vật chất. Đó là lý do vì sao con đã bị lập trình để nghĩ rằng một khi một hoàn cảnh có một hậu quả vật lý, con không thể thay đổi hậu quả này ở tầng cấp năng lượng, mà chỉ thay đổi được ở tầng cấp vật chất.

Một thí dụ là bệnh tật. Các nhà y giới thực sự đã nhận ra là 90% các chứng bệnh là bệnh tâm thể, tức là chúng có một nguyên do tâm lý. Thực ra thì 100% các chứng bệnh là bệnh tâm thể vì chúng đều có một thành phần tâm lý. Con hãy thử nghĩ là giới y học đã nhận ra điều này nhưng chưa có một cuộc cách mạng khiến khoa học gia nghiên cứu tâm thức và ảnh hưởng của nó trên vật chất. Như thày có nói, các nhà vật lý lượng tử đã từ non thế kỷ nay nhận ra là có một mối tương quan mật thiết giữa tâm và các hạt cơ bản.

16.5. Thấy vật chất là năng lượng

Tuy vậy, các khoa học gia Tây phương vẫn chưa dồn năng lực và chú tâm vào việc nghiên cứu tâm thức và mối tương quan với vật chất. Họ vẫn giữa chặt ảo tưởng, do sa nhân tạo ra, cho rằng có một sự phân chia cơ bản giữa tâm và vật chất. Đây là ảo tưởng mà con cần phá vỡ ở đây. Thày có thể làm điều này rất dễ dàng ở tầng ê-the bằng cách đơn giản cho con thấy năng lượng được hạ độ rung dần dần từ tầng rung động tâm linh xuống tầng bản sắc, tầng tư tưởng, tầng tình cảm và tới tầng vật lý.

Thày có thể, bằng một số dụng cụ mà thày có ở khóa nhập thất, chỉ cho con thấy trực tiếp trên một màn ảnh làm sao độ rung của một khối năng lượng được hạ xuống. Thày có thể chỉ cho con thấy cách một khuôn đúc tư tưởng được đặt lên trên khối năng lượng này và dần dần nó mang một hình tướng khi năng lượng hạ độ rung.

Thày lấy một tảng đá làm thí dụ, và thày có thể chỉ cho con thấy làm sao tảng đá được tạo ra từ năng lượng. Do đó, ngay cả khi tảng đá xuống tới tầng vật lý, nó vẫn là năng lượng. Thày có thể cho con thấy làm sao ta có thể hướng một tia, một dòng năng lượng có tần số cao vào tảng đá và thay đổi nó. Hay đúng hơn, tia năng lượng giải thoát năng lượng bị giam trong khuôn đúc tảng đá làm cho nó bắt đầu rung ở tần số cao hơn và do đó dần dần làm tan cái khuôn đúc tảng đá đã giam giữ năng lượng trong đó. Năng lượng được giải thoát, trở nên lỏng, và có thể tuôn chảy để trở nên một chất khác hoặc trở về cõi tình cảm, tư tưởng, bản sắc và rốt cuộc cõi tâm linh.

Con có thể trực tiếp thấy các điều này ở khóa nhập thất của thày, và điều thày muốn con suy ngẫm ở tầng vật lý, với tâm ý thức, là con cũng có thể cảm nhận điều này với tâm ý thức. Có thể con không thấy được điều đó với con mắt vật lý, nhưng con có thể bắt đầu huấn luyện tâm con nhìn vật chất một cách khác. Con không cần cố gắng thấy bằng mắt vật lý rung động năng lượng đằng sau vật chất. Nhưng con cần nỗ lực, cần tập trung nỗ lực trong một thời gian, để huấn luyện tâm con thấy tất cả là năng lượng. Con cần biết trong tâm là đằng sau hình tướng rắn chắc mà con thấy là tảng đá, thật ra là năng lượng đang rung động. Bên trong nó, là năng lượng đang rung động; nó đang rung động, nó có thể thay đổi, nó là chất lỏng, nó có thể trở nên lỏng và tuôn chảy thành một hình tướng khác.

16.6. Một cách nhìn mới về thân thể

Con yêu dấu, con thấy chăng là trò lừa dối của sa nhân có nhiều hệ quả, nhưng để minh họa chúng ta hãy nhìn vào thân thể vật lý. Chắc con biết là nhiều chứng bệnh một phần là bệnh tâm thể vì chúng có nguyên nhân trong tâm. Như một người tâm linh, con hiểu được điều này. Tuy nhiên, một khi con đi khám bác sĩ và bác sĩ chẩn một triệu chứng vật lý, con dễ dàng chấp nhận lời phán xét của vị bác sĩ rằng một căn bệnh vật lý với một triệu chứng vật lý chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Một lần nữa, thày không nói là con không nên đi khám bác sĩ, là con không nên nghe lời khuyên của bác sĩ. Điều thày muốn nói là con vẫn có thể đi khám và nghe lời bác sĩ nhưng vẫn giữ trong tâm hình ảnh là thân thể con không phải là một chất vật lý, không phải là một vật. Nó là năng lượng rung động và do đó nó có thể thay đổi được. Cùng lượt với việc chữa trị bằng cách vật lý, con vẫn có thể thỉnh cầu năng lượng vào tình huống.

Con hiểu là ở tầng này của con đường tới tầng tâm thức 144, thày không muốn con (và thày không chờ đợi là con) có thể thay đổi sự vật chỉ băng quyền năng của tâm. Đó là lý do thày không muốn tới điểm mà con nói: “Được rồi, thày Hilarion có nói tôi là vật chất chỉ là năng lượng và do đó tâm có thể thay đổi nó. Bây giờ tôi đang phải đối phó với hoàn cảnh vật lý này nhưng tôi sẽ không làm gì ở tầng cấp vật lý, tôi sẽ chỉ ngồi xuống và tập trung tư tưởng để thay đổi nó bằng quyền năng của tâm.” Thày không muốn con làm vậy.

Lý do chính thày không muốn con làm vậy, vì các thày đã từng thấy nhiều học viên có trạng thái tâm tương tự và không thể hiện được những thay đổi vật lý mà họ muốn thể hiện. Sau đó, họ nản chí và chìm sâu xuống tầng thấp hơn khi họ bắt đầu.

Có những quyển sách và khóa học trên thế gian cho rằng họ có thể dạy học viên cách thể hiện sự vật, vật đó có thể là vàng hay tiền hay bất cứ gì họ muốn thể hiện. Họ nói là con có thể thể hiện một cái gì đó từ hư vô, từ không khí. Đây không phải là điều các thày dạy con trong khóa học này vì các thày không muốn con nản chí. Thày không nói là việc đó không thể làm được. Điều thày muốn nói là thày không chờ đợi con làm được điều này ở tầng tâm thức hiện nay của con. Do đó thày không muốn con đặt mục tiêu làm được điều này. Thày không muốn con đi vào con đường dẫn tới thất vọng. Điều thày muốn nói ở đây là, ở giai đoạn này của con đường tu, con nên thực tiễn theo một cách hành xử song song, vừa dùng biện pháp vật lý và vừa dùng dụng cụ tâm linh để thay đổi hoàn cảnh.

16.7. Làm cách nào thay đổi hoàn cảnh vật lý

Bất kỳ hoàn cảnh nào con phải đối phó trong cuộc đời, con đều dùng biện pháp vật lý để thay đổi hoàn cảnh đó. Cùng lúc, con theo một tiến trình trong tâm, trước hết nhận ra là ông hoàng của thế gian sẽ đến dụ dỗ con trong mọi hoàn cảnh. Hắn sẽ đến và dụ con chấp nhận là hoàn cảnh này bây giờ là một hoàn cảnh vật lý; nó có một hậu quả vật lý chỉ có thể giải quyết ở tầng cấp vật chất. Con theo những biện pháp vật lý thực tiễn mà con có thể theo được, nhưng con không chấp nhận là hoàn cảnh bất di bất dịch, không thể thay đổi được ngoại trừ ở tầng cấp vật lý. Con giữ tâm con trụ vững chắc vào hình ảnh là hoàn cảnh này là sự tương tác giữa các trường năng lượng, giữa các sóng năng lượng.

Dù hình tướng vật lý thế nào chăng nữa, dù nó có vẻ rắn đặc thế nào chăng nữa, đây vẫn là tương tác giữa các trường năng lượng. Điều thày muốn con làm là con nỗ lực (và nỗ lực kéo dài suốt khóa học này và ngay cả quá tầng tâm thức 96) huấn luyện và giáo dục lại tâm của con để lúc nào con cũng nhìn quá hình tướng vật lý, nhìn quá tấm màn che của vật chất, như có ghi trong bài chú mới của thày, và đi tìm thành phần năng lượng bên trong.

Sau đó, thày muốn con làm một việc thứ nhì với tâm ý thức. Thày muốn con quyết định là ở thời điểm này con sẽ không tìm cách tạo ra một thay đổi vật lý mà chỉ dùng quyền năng của tâm hay trực tiếp qua quyền năng của tâm. Như thày có nói, con dùng bất cứ biện pháp vật lý thực tiễn nào cần dùng trong hoàn cảnh, dù là trong việc chữa lành hay trong cách đối xử với người khác. Con cũng trụ tâm của con vững chắc vào sự thực rằng đây là một tương tác năng lượng và mục đích chính của con là nâng cao năng lượng của hoàn cảnh càng cao càng tốt. Mục đích chính của con không phải là tạo ra một kết quả vật lý đặc thù. Mục đích của tâm con là trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và thay đổi hoàn cảnh theo bất cứ cách nào mà năng lượng sẽ làm.

Nói cách khác, thày muốn con chơi một trò ảo thuật với chính mình bằng cách cố ý tách tâm mình khỏi ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý. Con vô hiệu hóa ham muốn tạo ra một thay đổi vật lý đặc thù. Con chú tâm vào thành phần năng lượng, khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh, và con trụ tâm con vào mục đích nâng cao năng lượng. Sau đó, con để ánh sáng mà con cầu thỉnh được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn làm trong hoàn cảnh, mà con không trụ tâm mình vào một kết quả đặc thù.

16.8. Những gì con có thể và không thể thay đổi

Thày có nói trong bài giảng trước là con cần làm cho tâm con lỏng ra và quyết định rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào, mục đích của con là tăng trưởng, thăng vượt và xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Làm sao con làm điều này? Tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống có nghĩa gì? Vật chất không phải là điều quan trọng. Con không tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách đối phó liên tục với các điều kiện vật chất. Con tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống bằng cách làm việc liên tục với các điều kiện năng lượng.

Khi con hiện thân ở một hành tinh dày đặc như trái đất, thì sẽ luôn luôn có những điều kiện vật lý mà con không thể thay đổi bằng quyền năng của mình. Thày có nói trước đây: bởi vì người khác có quyền tự quyết. Ngay cả Giê-su cũng không thay đổi được một số chuyện mà tâm thức đại chúng đã quyết định; Giê-su không có quyền làm chuyện này. Sẽ luôn luôn có điều kiện vật chất mà con không thể thay đổi. Điều con có thể thay đổi là thành phần năng lượng của hoàn cảnh và khi con làm thế, hai chuyện có thể xảy ra. Thứ nhất là ngoại cảnh có thể trở nên lỏng đủ để thay đổi vật lý có thể xảy ra. Có thể tất cả những gì con mong muốn sẽ không xảy ra, nhưng một số thay đổi có thể xảy ra. Chuyện nữa có thể xảy ra là người khác có thể được giải thoát khỏi tấm màn năng lượng của họ, khỏi gánh nặng năng lượng của họ, và bắt đầu lấy những quyết định khác làm thay đổi hoàn cảnh.

Đây là những chuyện xảy ra bên ngoài con khi con tập trung vào việc nâng cao năng lượng. Khi con chú tâm là cánh cửa mở để nâng cao năng lượng và đọc bài thỉnh, tạo hình ảnh trong tâm, và để cho năng lượng chảy vào hoàn cảnh, con có thể khiến hoàn cảnh bên ngoài lỏng ra phần nào. Điều này có thể đem tới một số thay đổi nơi ngoại cảnh, nhưng khi con làm vậy con cũng khiến tâm con lỏng ra. Con sẽ làm lỏng hoàn cảnh năng lượng bên trong con. Khi con làm vậy, con sẽ thấy được những điều mà hôm nay con không thể thấy. Con sẽ thấy là có một hướng phản ứng khác với hoàn cảnh. Con bỗng nhiên có một tầm nhìn khác, bỗng nhiên hoàn cảnh trước kia trông quá nghiêm trọng, quá tàn khốc, quá khó thay đổi nay trở nên không còn nghiêm trọng, không còn tàn khốc, không còn khóa cứng trong một khuôn đúc.

Bỗng nhiên con bắt đầu thấy là dù con không thay đổi được hoàn cảnh, chắc chắn là con có thể tiếp tục cuộc đời mình, và bỗng nhiên tảng đá trong dòng sông dã ở đằng sau con và con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Có thể vẫn còn lại một hoàn cảnh vật lý chưa thay đổi, nhưng con đã tiếp tục tiến lên. Con đang xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Thày muốn con biết một cách ý thức đây là mục đích mới của con.

Thày cần con lấy quyết định một cách ý thức đây là mục đích mới của con. Thày biết là trong các con có những người đang đối mặt một số điều kiện đặc trưng, như một bệnh trong cơ thể, một hoàn cảnh với người khác, hay điều kiện tài chính, hay việc làm, hay các vấn đề khác. Thày biết là các hoàn cảnh này có vẻ rất khó thay đổi. Điều hoàn toàn tự nhiên là khi con tham dự khóa học này, con có hy vọng là một ngày kia sẽ có một chuyển đổi và con có thể thay đổi các điều kiện đó.

16.9. Không có kết quả vật lý đặc trưng

Mặt khác, cũng có thể là con sẽ tới điểm con có thể thay đổi các hoàn cảnh đó. Một số học viên đã thay đổi hoàn cảnh trong khi tham dự khóa học này. Điều thày muốn nói là ở điểm này, thày muốn con chuyển đổi tâm thức một cách ý thức và nói: “Đồng ý, con sẽ bỏ qua bên mong muốn đạt được một số thay đổi vật lý đặc trưng và tham gia thí nghiệm này, như thày Hilarion đã giảng, qua đó con chú tâm nâng cao năng lượng của hoàn cảnh. Con sẽ chỉ chú tâm vào điểm này. Con chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng trên cao tuôn chảy vào hoàn cảnh và con trả tự do cho hoàn cảnh, con trả tự do cho năng lượng.

Con yêu dấu, sau đây là điểm quan trọng: “Con giải thoát con khỏi ám ảnh muốn đạt một kết quả vật lý đặc trưng. Con cho phép Thượng đế bước vào hoàn cảnh và làm bất cứ điều gì Tánh linh muốn làm phù hợp với viễn kiến của Ki-tô, viễn kiến có thể cao hơn những gì con có thể thấu hiểu ngay lúc này. Do đó, con sẽ bình an với bất cứ kết quả nào. Con biết là dù không có thay đổi vật lý, con đã nâng cao năng lượng và con sẵn sàng nhìn vào tâm mình và thấy nâng cao năng lượng đã giúp con nhìn hoàn cảnh khác như thế nào, con đối phó với hoàn cảnh khác như thế nào so với trước kia.”

Con yêu dấu, nếu con chịu làm như thày nói và mở tâm ra, thì con sẽ nhận được một viễn quan mới về hoàn cảnh. Con yêu dấu, con có thấy chăng: có những người nghiên cứu thuật kết đọng (precipitation), thuật thể hiện, thuật chuyển hóa vật chất. Nhiều người trong số này có ước muốn mà ta có thể gọi là thiếu chín chắn, muốn thể hiện sự vật từ hư không để có thể làm người khác chóa mắt và để họ cảm thấy họ có khả năng điều ngự vật chất. Đây không phải là mục đích của khóa học này. Mục đích của các thày là giúp con tới điểm con có thể điều ngự ngoại cảnh trong cuộc sống, điều ngự hoàn cảnh sống của con và các mối tương tác giữa con và người khác.

Nói cách khác, mục đích của các thày không phải là dẫn con tới điểm con thể hiện được một sự vật đơn giản, tỷ dụ như một thỏi vàng. Điều đó lợi ích gì cho con nếu con chưa thực sự thay đổi tâm thức? Mục đích của các thày là dẫn con tới điểm con thấy được điều gì cần thay đổi và điều gì không cần thay đổi trong một hoàn cảnh vì người khác có quyền tự quyết hay vì có điều kiện chính đáng khác. Con thấy điều gì có thể thay đổi được và điều gì không thể thay đổi được, và con chấp nhận điều không thay đổi được và con làm điều tốt nhất trong tình huống.

Dĩ nhiên con có thể thay đổi những gì có thể thay đổi được, nhưng điều các thày mong muốn là dẫn con tới điểm con thay đổi được ngoại cảnh của con thay vì thể hiện một sự vật đơn giản. Thày bảo đảm với con ngày cả khi con thể hiện được một vật đơn giản, không có nghĩa là con đã thay đổi được ngoại cảnh của mình.

16.10. Mơ ước thiếu chín chắn

Các thày muốn các con biết thuật biến hóa huyền bí (alchemy) liên quan đến cách sống trên trái đất, chứ không phải để biểu diễn những biến hóa giống như trò ảo thuật. Con yêu dấu, học viên có nhiều mơ ước khi bắt đầu khóa học này. Nhiều người, nhiều đệ tử tâm linh, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã bị quyến rũ bởi thuật biến hóa huyền bí, và các huyền thoại về thày Saint Germain như khả năng điều chỉnh các tỳ vết của kim cương, hay khả năng đột nhiên xuất hiện từ hư không, hay các chuyện khác. Con yêu dấu, thày Saint Germain là một chân sư thăng thiên đã được đặc miễn để xuất hiện đưới hình tướng thân thể vật lý (thày không nói là thày Saint Germain có một thân thể vật lý) và do đó thày đã biểu diễn những kỳ công này trong một số hoàn cảnh đặc biệt nhằm chuyển đổi tâm của một số người có tâm rất khép kín.

Điều này không có nghĩa là trong thời đại này các thày muốn đệ tử có khả năng làm những kỳ công như vậy để làm chóa mắt người khác. Có những đệ tử nghĩ rằng nếu họ biểu diễn được những kỳ công như vậy, thì chắc chắn sẽ thu hút hàng triệu đệ tử tới giáo lý chân sư thăng thiên, sẽ thuyết phục mọi người là giáo lý này chân chính và sẽ là tôn giáo mới của thời đại sắp tới. Điều này hoàn toàn không phải là mục tiêu của các thày. Mục tiêu của các thày là dạy con thành người luyện đá hóa kim thực tiễn, có khả năng chứng minh cho mọi người thấy một cách sống thành công, bình an, hữu ích, tích cực trong hoàn cảnh rất phức tạp, rất rắc rối của trái đất này.

16.11. Chuyển hóa xung đột

Thày có nói là tâm con có định kiến là vật chất rắn đặc và khó thay đổi. Bây giờ con hãy đi xa thêm một bước nữa. Con hãy đứng lui lại và không nhìn vào vật chất, tỷ dụ như tảng đá mà thay đã dùng làm thí dụ. Con hãy nhìn vào sự kiện toàn hành tinh được cấu tạo bằng vật chất. Con có bảy tỷ người mang xác thân vật chất đã xây dựng nên xã hội và văn minh tân tiến.

Sau đó, con hãy nhìn vào cách họ đã tương tác với nhau, tỷ dụ có nhóm người đã giữ chặt hình ảnh là một nhóm người khác đã bạo hành họ trong quá khứ. Mặc dù thời gian đã trôi qua và hậu quả vật lý của những việc xảy ra nhiều năm trước đây đã biến mất, nhưng những người này vẫn giữ trong tâm họ khuôn đúc đó. Họ mang nó theo trong tâm họ và cho phép lòng oán giận về việc quá khứ đó ảnh hưởng cách họ cư xử trong hiện tại đối với nhóm người kia.

Con hãy nhìn sự kiện có những nhóm người mang theo lòng oán giận từ nhiều thế kỷ nay. Con yêu dấu, điều này ảnh hưởng ra sao cách cư xử vật lý của họ? Con có nhận ra là đằng sau đại đa số những xung đột trên trái đất này là con người giữ chặt một hình tư tưởng họ đã tạo ra trong quá khứ xa xôi nhưng lại cho phép nó ảnh hưởng hành động vật lý của họ trong hiện tại?

Con hãy tưởng tượng con có khả năng thay đổi khía cạnh năng lượng của hoàn cảnh để năng lượng được nâng lên tới điểm con người vượt qua sự dính mắc tình cảm-tư tưởng vào những hình ảnh cũ xưa này? Con hãy tưởng tượng, thay vì nghĩ người Ả Rập luôn luôn có thái độ tiêu cực về người Do Thái và ngược lại, bỗng nhiên năng lượng thay đổi và con người có thể bắt đầu tự hỏi: “Tại sao chúng ta cứ lặp đi lặp lại những khuôn nếp cũ này? Chúng ta có thật sự thích kết quả này không? Chúng ta có thích tiếp tục xung đột như thế này không? Chúng ta đã được dạy dỗ để nghĩ rằng chúng ta không làm gì để thay đổi tình hình được vì những người kia có lỗi và do đó họ là những người cần thay đổi. Và họ cần phải bị trừng phạt trước khi họ được phép thay đổi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta nhận ra là chúng ta có thể làm gì đó để thay đổi tình hình, chúng ta không cần thay đổi những người kia, chúng ta chỉ giản dị thay đổi chính mình và sống tiếp cuộc đời mình?”

“Chúng ta thật sự không quan tâm về những người kia và việc họ có thay đổi hay không, chúng ta chỉ quan tâm về chính mình và chúng ta muốn tiến lên với cuộc đời mình. Chúng ta muốn đi ra khỏi xung đột này vì chúng ta nhận ra chúng ta bị nó ảnh hưởng, và những người kia cũng vậy. Chúng ta bị nó đè nặng lên vai, và tại sao chúng ta lại truyền lại cho con cái chúng ta những gì mà cha mẹ chúng ta đã để lại cho chúng ta? Tại sao chúng ta không chất vấn cả tiến trình này và bắt đầu thay đổi cách cư xử của mình dù những người kia chưa thay đổi cư xử của họ?”

16.12. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh

Con có thấy chăng đây là cách duy nhất để thay đổi một hoàn cảnh? Con yêu dấu, con hãy nhìn tình hình ở Trung đông. Con hãy nhìn vào những gì xảy ra tại Syria trong những năm vừa qua. Con có thực sự nghĩ là có ai có thể làm điều gì để tạo một thay đổi vật lý có thể dẫn tới hòa bình? Con có nghĩ là nếu cộng đồng thế giới (dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc hay nhóm nào) họp nhau lại và nói: “Bây giờ chúng ta sẽ tập họp một đạo quân lớn đủ để vào Syria và tái lập hòa bình ở đó.” Con có nghĩ là điều này sẽ có kết quả gì chăng? Con có nghĩ là sẽ có hòa bình chăng?

Chắc con cũng thấy là hành động này có lẽ sẽ chỉ tạo thêm xung đột. Con có thấy chăng là tại Syria, nhiều năm trước đây đã có những nhóm chống đối đã bắt đầu giai đoạn nổi loạn chống chính quyền? Một số nước Tây phương muốn hạ bệ chính phủ vì họ nghĩ Tổng thống Assad là một nhà độc tài. Họ quyết định ủng hộ một số những nhóm ở Syria mà họ cho là “ôn hòa”. Họ huấn luyện các nhóm này và cho họ tiền bạc và vũ khí, và sau đó các nhóm ôn hòa này bắt đầu một cuộc chiến bạo động chống lại Tổng thống Assad. Con yêu dấu, con hãy tự hỏi: “Làm sao một người ôn hòa lại có thể sẵn sàng giết người khác?”. Thày biết là con có thể nói là những nhóm như ISIS hay IS cuồng tín hơn những nhóm “ôn hòa”, nhưng làm sao một người sẵn sàng dùng bạo lực lại có thể gọi là ôn hòa?

Con có thấy chăng là có tư duy con người (không những chỉ ở Trung đông, mà cũng ở các nước Tây phương) bị khóa kín và do đó chỉ tạo thêm càng ngày càng nhiều xung đột? Con có thấy chăng là các nước Tây phương có thể đi vào Syria, không với viễn kiến hạ bệ Tổng thống Assad, nhưng với viễn kiến sau đây: “Chúng tôi muốn nâng tâm thức người dân Syria lên để họ có thể tự họ cải thiện tình hình”. Con hãy tưởng tượng xem hậu quả sẽ là gì. Thày đồng ý là ban đầu kết quả có thể rất giới hạn, nhưng trên đường dài thày bảo đảm với con là thái độ này sẽ có một kết quả tích cực hơn là tình trạng rối beng hiện nay.

Làm sao con có thể coi là dân chủ và tự do đã chiến thắng khi con có một quốc gia trong đó đa số nhà cửa bị tàn phá bị bom đạn? Làm sao đây có thể là một chiến thắng của bất cứ điều gì? Làm sao đây có thể là tiến bộ?

Con có thấy chăng là nếu chúng ta nhìn vượt lên trên các chính quyền và tưởng tượng là có đủ số người tâm linh trên thế giới quyết định chú tâm nâng cao khía cạnh năng lượng của tình hình tại Syria, thì kết quả sẽ ra sao chăng? Thày bảo đảm với con là việc này có một kết quả tích cực hơn rất nhiều so với tình hình hiện nay. Con có thấy chăng là đằng sau tình hình Syria là tư duy mà thày đã nói tới, là tư duy ma vương, tư duy sa ngã? “Đây là tình hình ở Syria; nó có một số thành phần vật lý mà chúng ta coi là không đúng. Do đó, chúng ta là các nước dân chủ tự do cảm thấy cần phải làm cái gì. Chúng ta có thể làm gì? Chúng ta chỉ có thể dùng biện pháp vật lý để thay đổi hậu quả vật lý, do đó chúng ta phải viện trợ vũ khí cho những nhóm nổi loạn để họ có thể dùng bạo lực vật lý để loại trừ nhà độc tài.” Con yêu dấu, như các thày có nói nhiều lần, người lãnh đạo một nước là biểu hiện của tâm thức tập thể của nước đó. Tình hình tại Syria hiện nay cho con thấy điều gì? Tâm thức tập thể ở Syria giản dị không cao đủ để loại trừ ông Assad. Tình hình vật lý sẽ không thay đổi nếu tâm thức tập thể chưa thay đổi. Con hãy tưởng tượng nếu mọi người chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể của người dân Syria và cho nó thì giờ cần thiết tới khi họ sẵn sàng có một chính quyền khác hơn những gì họ đã có. Thày bảo đảm với con là nếu tiến trình này được phép diễn ra thì bây giờ đã có sự thay đổi mà nước Syria không bị đội bom trở về thời kỳ đồ đá.

16.13. Giải thoát khỏi điều kiện vật chất

Thày biết là điều này, thoạt trông không dính dáng đến một khóa học tự điều ngự, nhưng thày dùng nó như một thí dụ để cho con thấy là nếu con thay đổi tâm thức và chú tâm vào việc chuyển đổi năng lượng của một hoàn cảnh, thay vì thay đổi các khía cạnh vật lý, thì cuộc đời và con đường tâm linh của con sẽ có ý nghĩa hoàn toàn mới. Đây là tầng thứ bảy của khóa nhập thất của thày. Con đang đối mặt với năng lượng của Tia thứ Bảy của Tự do. Thày cống hiến gì cho con? Thày đang cống hiến con cơ hội giải thoát tâm khỏi sự ám ảnh vào điều kiện vật chất, vật lý.

Con có nhận ra trò lừa đảo của sa nhân là làm con quên bẵng con là sinh thể tâm linh? Làm sao chúng đã khiến con quên điều này? Bằng cách khiến con chủ yếu chú tâm vào các hoàn cảnh vật lý, vật chất. Con yêu dấu, con có thấy chăng là nếu con đi trên con đường tâm linh, con học khóa tự điều ngự, nhưng vẫn còn mục tiêu thay đổi điều kiện vật lý (tức là con điều ngự điều kiện vật chất) thì con thật sự đang đi trên con đường tâm linh với tư duy do sa nhân áp đặt lên con. Con đường tâm linh mà các chân sư thăng thiên cống hiến, được cống hiến từ tâm thức chân sư thăng thiên – không phải từ tâm thức sa ngã.

Nếu con đang lê theo mình những yếu tố của tâm thức sa ngã, con nghĩ con sẽ thành công chăng trên con đường dẫn tới tâm thức thăng thiên và được dựa trên tâm thức thăng thiên? Con sẽ thành công đến mức nào? Con có sẽ thành công chăng nếu con giải quyết một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã gây ra vấn đề đó? Như thày đã nói trong các bài giảng trước, sa nhân muốn con nghĩ rằng vật chất là cái quan trọng nhất, thậm chí chỉ có vật chất hiện hữu.

Các chân sư thăng thiên muốn con nhận ra là không phải chỉ có vật chất hiện hữu và vật chất không quan trọng lắm. Điều quan trọng hơn nhiều là những gì xảy ra trong toàn thể bốn tầng cấp của vũ trụ vật chất, không chỉ riêng ở tầng cấp vật lý. Con yêu dấu, có rất, rất nhiều người trong lịch sử hành tinh này, ngay cả khi nó trở thành dày đặc như ngày hôm nay, đã thành công trên con đường tâm linh và hội đủ điều kiện thăng thiên nhưng họ vẫn mang một số căn bệnh thân thể, khiếm tật hay ở trong một hoàn cảnh vật lý rất giới hạn.

Một lần nữa con nhìn thí dụ cuộc đời Giê-su, như thày đã giảng. Con có thể nhìn dưới góc độ duy vật và nói rằng Giê-su đã thất bại vì thày bị giết. Thày còn không tránh được bị giết. Giê-su hội đủ điều kiện thăng thiên bằng cách kinh qua hoàn cảnh vật lý đó, và lý do là dù chuyện gì xảy ra ở tầng cấp vật lý, Giê-su đã dùng mỗi hoàn cảnh để thay đổi tâm thức của thày. Giê-su thay đổi thể tình cảm, thể tư tưởng, thể bản sắc của thày. Một khi con chuyển đổi những thành phần của ba thể cao, con có thể sẵn sàng thăng thiên bất kể những hoàn cảnh con đối đầu ở tầng cấp thân thể vật lý của con. Điều đó không quan trọng.

Những gì xảy ra với vật chất không quan trọng vì thăng thiên là một tiến trình tâm linh. Con hội đủ điều kiện thăng thiên ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc, không phải ở tầng vật lý. Dĩ nhiên, con không thể giết người và hội đủ điều kiện thăng thiên. Con cần thay đổi một số chuyện ở tầng vật lý, nhưng không có điều kiện toàn hảo nào ở tầng vật lý mà con phải hội đủ để thăng thiên.

Điều này được chứng minh rất rõ bởi Giê-su, cho những ai có tai để nghe và mắt để thấy, và thày biết đây là trường hợp của con khi con tới tầng này của khóa học. Thày biết là con nghe và thấy rõ trong các thể thanh thoát hơn của con khi con dự khóa nhập thất của thày. Do đó, thày biết con cũng sẽ làm được ở tầng ý thức khi con chuyển hóa tâm, như thày muốn con làm.

16.14. Vượt qua ham muốn thấp

Con hãy bỏ qua bên mọi ham muốn thực hiện những thay đổi vĩ đại trong cuộc sống cá nhân hay chứng minh điều gì vĩ đại cho người khác. Con hãy bỏ qua bên mọi ham muốn đạt được kết quả vật lý nào đó. Con hãy chú tâm nâng cao năng lượng trong mọi hoàn cảnh con gặp. Con hãy chú tâm nâng cao năng lượng của thân thể vật lý, và điều này, dĩ nhiên, đòi hỏi con cũng phải nâng cao năng lượng nơi ba thể cao hơn của con. Con hãy giản dị chú tâm làm việc này.

Thày không nói là con sẽ không bao giờ tới được điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Điều thày muốn nói là chú tâm vào năng lượng sẽ rút ngắn thời gian tới điểm có thể tạo thay đổi vật lý. Điều thày muốn nói là chính Giê-su cũng không có ý định tạo thay đổi vật lý. Có nhiều đệ tử không hiểu điều này, nên thày sẽ giải thích thêm.

Con hãy nhìn trường hợp Giê-su gặp một người có cánh tay bị teo lại. Như thày đã nói trong bài giảng trước, Giê-su không có tư duy tức khắc đánh giá tình trạng này sai, tình trạng này đáng lẽ không được xảy ra. Khi nhìn cánh tay bị teo, Giê-su cũng không có tư duy cho rằng: “Ồ, đây là một hậu quả vật lý chỉ có thể thay đổi ở tầng vật lý, và vì không ai biết cách thay đổi ở tầng vật lý, nên điều này không thể làm được.”

Giê-su không chấp nhận tình trạng cánh tay teo này là thường trực, nhưng thày cũng không đánh giá tình trạng này sai và phải chữa lành cánh tay bằng mọi giá. Thày không bước vào hoàn cảnh với ý định chữa lành cánh tay bị teo. Giê-su bước vào hoàn cảnh với ý định nâng cao năng lượng của hoàn cảnh, nâng cao tâm thức của người kia để y chuyển hóa tâm thức. Mục đích của Giê-su không phải là chữa lành cánh tay nhưng thày muốn giải thoát người kia khỏi trạng thái tâm thức mà y có khi gặp Giê-su. Giê-su không có viễn kiến định sẵn là tâm thức người kia sẽ thay đổi ra sao, vì thày biết điều này tùy thuộc quyền tự quyết. Thày bước vào hoàn cảnh để truyền năng lượng cao vào đó và cho người kia có một cơ hội thay đổi tâm thức mà y không có trước đó.

Trong trường hợp này, người có cánh tay bị teo sẵn sàng chuyển đổi tâm thức và y cảm được luồng năng lượng cao đến từ Giê-su. Y sẵn sàng chuyển đổi tâm đến mức cánh tay của y có thể được chữa lành ở tầng vật lý. Điều này chính yếu là do y sẵn sàng mở tâm ra. Nó ngoài tầm kiểm soát của Giê-su, và chỉ tùy thuộc quyền tự quyết của người kia. Do đó, Giê-su chỉ có thể là cánh cửa mở để năng lượng cao tuôn chảy vào hòan cảnh, thày không có chủ đích đặc trưng nào. Thày không muốn chứng tỏ điều gì cả, thày không muốn làm một phép lạ khiến thày nổi danh. Thày chỉ giản dị là cánh cửa mở, không hơn không kém. Khi cánh tay của người kia được chữa lành, thực sự là Giê-su đã ngạc nhiên, không phải vì thày nghĩ chuyện này không thể xảy ra, nhưng thày ngạc nhiên là y đã chấp nhận và làm được sự chuyển đổi tâm thức đã khiến sự chữa lành xảy ra.

Giê-su đã hành xử tương tự với nhiều người khác nhưng họ không kinh nghiệm được chữa lành thân thể vì họ không chấp nhận hay không làm được sự chuyển đổi tâm thức dù họ đều cảm được luồng năng lượng cao đến từ Giê-su. Thời nay có người đến gặp những người có khả năng chữa lành bằng đức tin và đã trải nghiệm chữa lành vật lý, nhưng sau một thời gian, căn bệnh tái xuất hiện. Lý do là vì khi họ cảm thấy trường năng lượng cao thì họ chuyển đổi tâm thức và chấp nhận là chữa lành có thể làm được. Nhưng khi họ trở về đời sống bình thường, họ dần dần lún sâu trở lại vào trình độ tâm thức bình thường của họ. Họ không thường trực chuyển đổi tâm thức và do đó căn bệnh tái xuất hiện, hay đúng hơn tâm họ tái tạo căn bệnh vì họ chưa thay đổi những hình ảnh trên ba thể cao hơn mà họ phóng chiếu vào năng lượng vật lý.

16.15. Là cánh của mở cho năng lượng cao hơn

Con là một đệ tử tâm linh. Con có khả năng cảm nhận năng lượng tâm linh cao hơn. Con đã cảm thấy năng lượng trong các bài truyền đọc của các thày. Con đã cảm thấy năng lượng khi con đọc bài chú bài thỉnh và cảm thấy năng lượng tuôn chảy qua con. Con biết khi nào con là cánh cửa mở cho năng lượng hơn nữa. Đây là điều thày muốn con làm: con hãy chuyển đổi tâm một cách tương tự trong mọi hoàn cảnh trong cuộc sống. Con sẽ chú tâm vào bên trong; con hãy chú tâm là cánh cửa mở cho năng lượng tâm linh tuôn chảy vào hoàn cảnh.

Con yêu dấu, là cánh cửa mở nghĩa là gì? Cửa mở. Làm sao mở cánh cửa? Là cánh cửa mở có nghĩa là không có màn chắn trước cửa, là màn chắn trong tâm mong chờ cái phải xảy ra hay không được xảy ra, và phán xét hoàn cảnh dựa trên cái phải là hay không được là.

Con càng tháo gỡ được màn chắn thì con càng mở rộng cửa và năng lượng tâm linh càng hữu hiệu hơn trong việc thay đổi hoàn cảnh. Đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này. Thày không nói đây là tiềm năng cao nhất của con trong suốt phần còn lại của kiếp sống này. Nhưng đây là tiềm năng cao nhất của con ngay lúc này. Con hãy chú tâm vào việc này và đừng bận tâm muốn thay đổi vật lý, con hãy đừng dính mắc vào thay đổi vật lý. Con hãy tìm cách thay đổi năng lượng. Con hãy cho người khác cơ hội cảm nhận năng lượng cao hơn và nhờ vậy lấy được một chọn lựa khác. Con hãy cho mình cơ hội cảm nhận một năng lượng cao hơn và chọn lựa mình sẽ độc lập với điều kiện vật lý, sẽ giữ tâm bình an, sẽ chú tâm xuôi theo Dòng Sống sự Sống bất kể điều kiện vật lý như thế nào.

Con yêu dấu, từ nhiều thế kỷ và thiên kỷ, có rất nhiều người tâm linh đã nhận ra họ có khả năng hướng năng lượng tâm linh vào một hoàn cảnh. Rất nhiều lần họ đã nghĩ rằng nếu một thay đổi vật lý xảy ra thì họ có thể là cánh cửa mở. Con thấy chăng là Giê-su đã chứng minh là bất kể điều kiện vật lý như thế nào, con vẫn có thể là cánh cửa mở nếu con không để tâm bị dính mắc vào hoàn cảnh vật lý. Chỉ có sự không dính mắc mới có thể giúp con là cánh cửa mở, đưa con tới điểm con là cánh cửa mở. Do đó, con cần sẵn sàng nhìn vào những dính mắc của mình trong mọi hoàn cảnh, những dính mắc vào một kết quả đặc thù nào. Có thể là viễn quan của con về kết quả không phải là viễn quan của Tánh linh trong hoàn cảnh đó? Con đang tự nói với mình: “Nhưng người này đang bị bệnh, không lẽ Tánh linh không muốn người này được chữa lành?” Như thày có nói trong bài giảng trước, có khi bệnh là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của người đó. Ngoài ra, bệnh cũng có thể do nghiệp tạo ra và do đó Tánh linh không có viễn quan là bệnh đó phải được chữa lành ngay bây giờ. Hoặc cũng có thể là Tánh linh không thấy bệnh này nên được chữa nếu người đó chưa chuyển đổi tâm thức.

Con có thấy chăng là trong rất, rất nhiều hoàn cảnh sống, đúng ra là trong mọi hoàn cảnh sống, những điều kiện khiến hoàn cảnh biểu lộ rất phức tạp vì nó liên quan đến tâm của nhiều người. Mỗi người là một sinh thể rất phức tạp đã có nhiều tiền kiếp trong quá khứ. Người đó đã tạo ra một số khuôn nếp trong bốn thể phàm từ rất lâu trong quá khứ, và người đó chỉ tiến triển khi thay đổi được những khuôn nếp đó.

Như thày đã nói, mọi chuyện đúng y như nó phải là vì điều kiện trong cuộc sống của một người biểu hiện trạng thái tâm thức của người đó. Chính vì người đó không chịu lắng nghe hướng dẫn của nội tâm, nên cần thấy một chứng minh bên ngoài của trạng thái tâm thức của mình để có cơ hội chất vấn và thay đổi trạng thái tâm thức đó. Nếu con bước vào hoàn cảnh như một học viên tâm linh và khởi lòng từ bi muốn chữa lành người đó và gỡ đi điều kiện vật lý, thì hành động của con có sẽ giúp người đó tăng trưởng hay không? Người đó sẽ chỉ đơn giản nói: “Ồ, bây giờ tôi đã được giải thoát khỏi giới hạn, từ nay tôi sẽ sống hạnh phúc và không cần xem xét trạng thái tâm thức của mình.”

Nhiều người đã cư xử như vậy sau khi được chữa lành. Chính Giê-su đã chữa lành một số người và họ đã phản ứng như vậy. Điều con cần nhận ra là mọi hoàn cảnh con gặp trong cuộc sống có nhiều lớp phức tạp gần như vô hạn, nhiều lớp hơn những gì con có thể hiểu với tâm ý thức. Đó là lý do vì sao thày nói là có phin lọc nhận thức hữu ích vì nó giúp con không bị choáng ngợp bởi số lượng thông tin. Chúng ta hãy lấy thí dụ con nhìn vào một hoàn cảnh và lượng định: Người này có nên được chữa lành hay không? Nếu con muốn biết bằng tâm ý thức mọi chuyện liên quan đến một hoàn cảnh, con sẽ bị choáng ngợp và sẽ cần bỏ ra rất nhiều thì giờ và năng lượng nếu con muốn hiểu thấu. Tại sao con lại cần biết mọi chuyện một cách ý thức? Con không cần biết mọi chuyện một cách ý thức.

Con cũng có thể thấy là nếu con không thể biết được bằng tâm ý thức những dữ kiện liên quan tới một hoàn cảnh, tại sao con lại phải phán xét bằng tâm ý thức điều phải xảy ra hay không được xảy ra trong hoàn cảnh đó? Có đúng chăng là sẽ xây dựng hơn nhiều nếu con cho phép mình là cánh cửa mở, cho phép năng lượng của Tánh linh tuôn chảy vào hoàn cảnh và làm những gì nó muốn làm, mà con không cần có ý kiến từ tâm ý thức về điều nó phải làm và không được làm. Con hãy để Tánh linh tự do hành động theo viễn quan của nó, và con giải thoát mình khỏi mọi dính mắc vào hoàn cảnh hay kết quả.

Không dính mắc vào kết quả vật lý là dấu ấn của một để tử tâm linh đã tới tầng cuối của Tia thứ Năm. Đó cũng là chìa khóa đưa tới quả vị Phật, thày đoán đây là một mục đích mà con cố đạt được và thấy mình thực sự có tiềm năng đạt được. Có lẽ không phải ngày mai, nhưng chắc chắn một ngày trong tương lai.

Con yêu dấu, thày cảm thấy hân hoan và được đặc ân hướng dẫn con ở khóa nhập thất của thày và thấy con vượt qua bảy tầng của khóa nhập thất. Thày rất hân hoan nói với con: “Con đã làm rất tốt!” Thày rất hân hoan đưa con tới thày Nada yêu dấu để thày hướng dẫn con qua bảy tầng của Tia của An bình. Chắc chắn là điều thế giới cần nhất hiện nay là bình an. Vậy con hãy bình an và biết rằng con là Thựơng đế, Thượng đế sẽ thành.

Hilarion TA LÀ, và trong niền hân hoan to lớn, thày tiễn con đi tiếp con đường của mình.

Là một người chữa lành chân chính

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 18/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Khi con tới tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với một sự sáng ngộ sẽ diễn ra liên tục trong tâm ý thức của con. Điều này không ngăn cản con tiếp tục tiến lên trong khóa học, nhưng có nghĩa là con phải làm việc với sáng ngộ con đối mặt ở đây trong một thời gian. Sáng ngộ này đưa con vượt quá cái lập trình vi tế và rất bền bỉ mà con tiếp xúc, rất có thể trong nhiều kiếp, trong nhiều trường hợp trong suốt thời gian con đã hiện thân trên trái đất.

Bây giờ con thấy chăng, con yêu dấu: Thày đã làm gì trong các bài giảng này? Thày đã nói với con rằng con cần thấy là con dùng uy lực của viễn kiến để phóng chiếu một hình ảnh ra bên ngoài. Con có một hình ảnh thế giới phải như thế nào, hay thế giới như thế nào, và con phóng chiếu hình ảnh này ra ngoài tâm con. Trong bài giảng trước, thày dẫn con tới điểm con nhận ra con cũng có một hình ảnh về con phải như thế nào như một người tâm linh, hay như một con người, và con phóng chiếu viễn kiến này lên chính con.

14.1. Thấy thế giới như nó là

Khi con bắt đầu loại bỏ những viễn kiến mà con phóng chiếu, khi con ngừng phóng chiếu với tâm của mình, con có thể tiến tới giai đoạn mà, thay vì thấy thế giới như con nghĩ nó là hay như con muốn nó là, con có thể thấy thế giới như nó là. Trong nhiều thế kỷ, các triết gia đã biết ảnh hưởng của tri giác trên cái thấy của con người. Đáng tiếc thay, các triết gia Tây phương đã không chịu nhìn vào chính tâm con người và vì vậy họ không khám phá ra chân lý tương đối giản dị mà các thày đã trao truyền cho các con về bốn tầng của tâm. Nếu một người triết gia muốn hiểu những gì con người có thể và không thể thấy, đáng lý y nên nghĩ rằng y nên xem xét chính tiềm thức của mình trước khi bắt đầu đưa ra kết luận vĩ đại về cách vận hành của vũ trụ.

Tuy nhiên thày không có ý định giảng một bài triết học ở đây, nhưng thày chỉ muốn giúp con nhận ra là có một cách để thấy thế giới khác với cách mà con được dạy dỗ để thấy và khác với cách mà đại đa số con người thấy thế giới. Các thày đã nói tới các định luật thiên nhiên phụ thuộc và cách sa nhân chế ra một cái gì vận hành máy móc để họ có thể kiểm soát nó mà không phải thay đổi tư duy tách biệt căn bản. Do đó, tách biệt là bản chất của tư duy sa ngã.

Điều con cần nhận ra ở đây là vũ trụ cho phép con làm nhiều chuyện nhưng luôn luôn có một cái giá phải trả. Sa nhân đã thay đổi được cách vũ trụ vận hành trong cõi năng lượng của hành tinh trái đất vì họ đã khiến cho vật chất dày đặc hơn. Vật chất càng dày đặc, thì nó càng vận hành theo những định luật không phải là vĩnh cửu và bất biến, nhưng kéo dài một thời gian dài. Các định luật thiên nhiên mà các nhà khoa học quan sát hiện nay đã vận hành trên hành tinh này trong một thời gian rất dài so với một kiếp con người. Tuy nhiên chúng không phải lúc nào cũng vận hành như thế trên trái đất này.

14.2. Tránh định luật thiên nhiên

Con cần nhận ra là khi sa nhân đã thành công trong việc kéo đa số nhân loại vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức tập thể bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc này, là hậu quả của vật chất trở nên dày đặc hơn. Con cũng cần nhận ra là chính sa nhân cũng đã phải chịu ảnh hưởng của những định luật này.

Bây giờ, họ nghĩ rằng họ đã tìm ra cách tránh các định luật này và làm được những chuyện như quy tụ về một cá nhân quyền lực lớn lao và của cải đồ sộ. Như thày đã nói, điều này có thể duy trì trong một thời gian ngắn. Nhưng sa nhân không nhận ra là chính họ cũng chịu ảnh hưởng của tư duy cơ bản đã tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, vì họ không thể nhìn quá tư duy này. Dù rằng họ đã có thể tác động lên vật chất một cách nào đó, họ không thể đi quá một giới hạn. Họ không thể làm những điều mà con thấy Giê su đã làm như đi bộ trên nước, chữa lành bàn tay bị teo hay những chuyện tương tự khác. Những điều này vượt quá khả năng của họ với tầng cấp viễn kiến mà họ có.

Con có thể tạo ra một tình trạng giống như trên trái đất là nơi vật chất dày đặc hơn tình trạng tự nhiên, nhưng làm sao con tạo ra tình trạng này? Con tạo ra bằng cách phóng chiếu một viễn kiến hạn chế lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Con phóng chiếu viễn kiến đó như thế nào? Con chỉ làm được khi con có viễn kiến đó trong tâm. Con giữ được viễn kiến đó bao lâu trong tâm khi con đầu thai nhiều kiếp, nếu con không tự đồng hóa với nó và nghĩ rằng nó là viễn kiến thật duy nhất? Con không thể thấy quá viễn kiến đó vì không có gì bên ngoài nó. Đây là điều đã xảy ra cho sa nhân trên trái đất; đây là điều đã xảy ra cho đại đa số nhân loại.

Qua nhiều kiếp sống con đã phóng chiếu viễn quan là vật chất dày đặc (và do đó nó hạn chế những gì con làm được), và con tin viễn quan này. Đại đa số con người tin rằng vật chất dày đặc, vật chất thật sự hạn chế khả năng sáng tạo của họ và cách duy nhất để vượt qua những giới hạn này là dùng công nghệ dựa trên vũ lực để tác động lên vật chất và ép buộc nó phải tuân theo mình.

14.3. Sa nhân kiểm soát vật chất như thế nào?

Con yêu dấu, chúng ta hãy nhìn vào ví dụ của một người đã thu thập được tài sản đồ sộ. Y đã thành lập một công ty mướn cả ngàn người và bán một sản phẩm nào đó. Làm cách nào y quy tụ được tiền của về cho y? Một phần là y dùng quyền năng của tâm của y, quyền năng kiểm soát người khác. Con thấy chăng, sa nhân nói chung đã không phát triển quyền năng kiểm soát vật chất trực tiếp. Họ đã phát triển quyền năng kiểm soát người khác và khiến người khác làm việc cho họ. Trong những bài giảng trước, thày gọi đó là tự điều ngự giả, và đây là điều sa nhân đã đạt được.

Người nhà giàu đó đã có thể khiến người khác chịu làm việc cho y với một đồng lương thấp hơn rất nhiều giá trị sản phẩm của sức lao động của họ. Y có thể gặt hái phần lớn thành quả lao động của mọi người và do đó, tập trung của cải vào tay mình thay vì chia sẻ cho nhân viên của mình. Con thấy chăng, của cải đó được tạo ra từ sức làm việc, sức làm việc vật lý của người nhân viên. Rất, rất nhiều người đã làm công việc vật lý đó để tạo ra và tập trung của cải về tay một người.

Giải pháp khác để trải nghiệm có của cải đồ sộ là y chú tâm học cách mở rộng khả năng của tâm để tạo ra của cải một cách trực tiếp bằng cách đem năng lượng của cõi tâm linh xuống quang phổ vật chất. Con hiểu là có hai cách để tạo ra của cải? Cách đầu, như thày đã mô tả, là con chấp nhận những điều kiện của vũ trụ vật chất và con khiến người khác làm việc cho con và con lấy của cải mà họ sản xuất ra. Cách khác để tạo ra của cải, mà không làm việc với vật chất và không tạo thêm từ vật chất, là con làm việc với khả năng của tâm có thể là cánh cửa mở cho ánh sáng tâm linh được tải xuống xuyên qua bốn tầng cho tới khi nó được biểu hiện ở tầng vật chất.

Con thật sự có thể thị hiện của cải thông qua quyền năng thuần túy của tâm, nhưng đây không phải là cách sa nhân đã làm. Họ bị kẹt vào lòng ham muốn có quyền lực trên người khác, ngay cả trên vũ trụ, hay thậm chí là có quyền lực trên Thượng đế. Họ đã chấp nhận là vật chất có một độ dày đặc nào đó. Đó là lý do vì sao họ sẽ làm mọi chuyện để bảo đảm là không ai thách thức điều này. Đó là lý do vì sao họ làm việc chống lại bất cứ ai bắt đầu biểu hiện một mức nào đó của quả vị Ki-tô. Họ cố gắng bằng mọi cách đánh lừa con để con không dám chấp nhận quả vị Ki-tô nghĩa là gì và quả vị Ki-tô có thể cho con khả năng tâm làm chủ vật chất.

14.4. Làm sao để là người chữa lành chân chính?

Bây giờ, con yêu dấu, một khía cạnh của Tia thứ Năm là chữa lành. Thày biết là một số các con đang đợi thày đề cập tới chữa lành, nhưng có lẽ là con không nhận ra là thày đã nói về chữa lành trong suốt các bài giảng vừa qua, dù thày không dùng hai chữ đó. Con yêu dấu, con chữa lành bằng cách nào? Ấy, con chữa lành qua uy lực của viễn kiến.

Nếu con không giải thoát viễn kiến của con khỏi ảo tưởng của sa nhân, con không thể chữa lành. Chuyện rất giản dị như vậy. Thày đã nói gì? Vũ trụ cho phép con làm một số điều, tỷ dụ như khiến vật chất dày đặc hơn, nhưng mọi thứ đều có giá phải trả. Khi con làm cho vật chất dày đặc, con cũng làm dày đặc các thể mà con đang mang và các thể dày đặc này sẽ phải tuân theo một số định luật. Điều con không nhận ra là khi con bắt đầu tạo ra những định luật thiên nhiên phụ thuộc, thì Luật Tự quyết cho phép con làm như thế. Cái giá con phải trả là tạo vật của con phải chịu ảnh hưởng của cái mà các thày thường gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học. Định luật này quy định là khi con tạo ra cái gì đứng bên ngoài định luật thiên nhiên cơ bản, thì bất cứ cái gì con tạo ra sẽ bắt đầu phân hủy. Ngay khi con vừa tạo ra cái gì, thì có một lực sẵn có trong tạo vật của con sẽ phân hủy nó theo thời gian. Đây là một cơ chế an toàn để con không thể tạo ra một hoàn cảnh sẽ giam con mãi mãi trong tạo vật của mình.

Hy vọng là khi con có một kinh nghiệm nào đó, sau một thời gian con sẽ chán ngán và từ bên trong con dâng lên lòng mong muốn cái gì hơn nữa và vì vậy con sẵn sàng mở rộng tâm mình. Nếu con người không tới điểm đó, thì cái mà các thày gọi là định luật thứ hai của nhiệt động học (hay cơn thịnh nộ của Shiva) sẽ bắt đầu phân hủy điều con sáng tạo. Đây là lý do chính vì sao có bệnh tật trong thân thể con người. Vật chất dày đặc đến độ bất cứ cái gì được sáng tạo ở mức dày đặc này đều có những lực phân hủy sẵn có trong nó. Đây là lý do tại sao thân thể già nua, tại sao bệnh tật biểu hiện.

Bây giờ, con yêu dấu, sa nhân muốn con tin rằng con hoàn toàn bất lực trước chuyện này. Họ muốn con tin rằng vật chất là vật chất và vật chất có một độ dày đặc nào đó. Vật chất vận hành theo các định luật thiên nhiên phụ thuộc và con không thể vượt quá các định luật này. Đó là lý do tại sao họ muốn con tin rằng thân thể vật lý của con là một tạo vật hoàn toàn vật chất. Nó vận hành theo một số định luật máy móc, vật chất. Thân thể con là một cơ chế sinh học, nó là một nhà máy hóa học hay điều gì khác mà họ muốn con tin.

Họ muốn con tin rằng một khi một căn bệnh hiện ra, căn bệnh này phải có một nguyên nhân vật lý và do đó, một trị liệu vật lý phải được nghĩ ra và áp dụng, tuy trị liệu này có thể chưa được tìm ra. Nếu một trị liệu vật lý chưa được tìm ra, thì con không thể trị căn bệnh này được, và chỉ có thể hy vọng là trong tương lai, các khoa học gia duy vật sẽ tìm ra nguyên nhân và cách chữa.

Bây giờ, như thày đã giải thích nhiều lần, con có bốn thể phàm. Điều thể hiện nơi thân thể vật lý là sự phóng chiếu những điều kiện trong ba thể cao của con. Một căn bệnh vật lý bắt đầu ở các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc và sau đó được phóng chiếu lên thân vật lý. Lẽ tất nhiên, pháp trị liệu cũng phải bắt đầu nơi ba thể cao này.

Điều thày muốn con nhận ra ở đây là sa nhân cũng có lý khi họ nói con không thể thay đổi một số điều kiện trong vật chất. Thày sẽ phải giải thích điều này một cách gián tiếp vì nó là một điểm vi tế.

14.5. Tại sao một số người không thể chữa lành bằng tâm

Con yêu dấu, các thày có thể nói rằng, nếu cái Ta Biết hoàn toàn tập chú vào tầng vật chất (lúc ấy con hoàn toàn tin con là một con người, con bị hạn chế bởi khả năng của thân thể và của công nghệ đã được sáng chế ra), thì con không thể thay đổi vật chất, con không thể vượt quá các định luật thiên nhiên phụ thuộc. Như vậy, các thày nói rằng nếu con sinh hoạt ở tầng vật lý, thì sa nhân nói đúng: Con bị mắc kẹt trong vũ trụ vật chất và con phải tuân theo những định luật của nó.

Do đó, con không thể chữa lành một căn bệnh vật lý bằng uy lực của tâm. Con chỉ có thể tìm những phương tiện vật lý để tiêu diệt căn bệnh hay thay đổi tiến trình của nó. Con có nhận ra chăng, đây là một cách nhìn rất thô thiển về chữa lành? Cách nhìn cơ bản có vẻ ăn sâu trong tư duy của giới thẩm quyền y học trong thế giới hiện đại là có một tình trạng sức khỏe bình thường. Thỉnh thoảng, một căn bệnh nào đó biểu hiện và nó bất thường. Đây là một tình trạng bất thường. Nó được gây ra bởi một cái gì đó bất thường, chẳng hạn như một vi khuẩn. Sau đó, chúng ta cần tìm ra vi khuẩn này và tìm cách tiêu diệt nó. Nếu làm được như vậy, chúng ta có thể chữa khỏi bệnh.

Cái gì đó đang phá hủy thân thể con, và để chữa bệnh, con cần phá hủy nó. Con có thấy chăng là con đang tìm cách chữa sự phá hủy với một hình thức phá hủy khác và trên đường dài làm như vậy chỉ có thể đem lại thêm vấn đề? Tàn phá không chữa được tàn phá. Con không thể chữa một vấn đề với cùng tư duy đã tạo ra vấn đề đó.

Điều này kết nối với điều thày đã giảng, là con cần ngưng phóng chiếu với tâm mình. Con cần ngưng phóng chiếu điều gì? Lớp phóng chiếu đầu tiên là một loại phê phán, là có điều phải xảy ra và điều không được xảy ra, có điều đúng và sai. Khi con nhìn vào một căn bệnh, con tức khắc đi vào tư duy phê phán căn bệnh là sự trục trặc trong thân thể, nó đáng lẽ không được xảy ra.

Bây giờ, tư duy của giới thẩm quyền y học trên thế giới hiện đại là gì? Con yêu dấu, tư duy đó là khi có điều gì trục trặc với thân thể, thì chúng ta phải tìm ra nguyên nhân và tiêu diệt nguyên nhân đó ở tầng vật lý, tầng máy móc. Sâu bên dưới tư duy đó là gì? Đó là họ không muốn nhìn vào tâm, nhìn vào tâm thức, nhìn quá tầng vật lý.

Con đi tìm nguyên nhân nơi tầng vật lý mà thôi, nhưng như thày đã nói, tầng vật lý chỉ là cái ngọn nhỏ của tảng băng. Tầng vật lý chỉ là sự phóng chiếu từ ba tầng cao hơn. Sa nhân không chịu nhìn vào các thể cao của chính họ và họ không muốn bất cứ ai dưới họ làm điều này. Họ biết rằng nếu con người bắt đầu nhìn vào ba thể cao hơn của họ, thì họ có thể giải thoát khỏi những những giới hạn của tầng vật lý và do đó cũng thoát khỏi quyền lực của sa nhân. Con sẽ không là nô lệ của người khác trên trái đất khi con biết con là một sinh thể tâm linh và con có thể làm chủ phản ứng của mình. Con không cần sợ ai hết trên trái đất.

Tư duy thật đằng sau phương cách trị liệu hiện đại là gì? Con yêu dấu, đó là con nhìn bệnh tật như điều gì trục trặc trong thân thể. Rồi con muốn gỡ đi các triệu chứng mà không chịu nhìn vào và thay đổi tâm con người. Con muốn tiếp tục làm những gì con đang làm mà không thay đổi chính mình. Con muốn thay đổi thế giới mà không chịu thay đổi chính mình. Đây là dấu ấn của sa nhân.

Thày có nói là một số sa nhân đã chịu nhìn vào một số khía cạnh của tâm họ và đạt được một loại “điều ngự” nào đó (thày tạm dùng chữ điều ngự này) trên tâm của họ. Họ không sẵn sàng đi thật sâu và nhìn vào ý định của họ, ý niệm tách biệt của họ, ham muốn giành quyền lực về cho mình và hại cho người khác. Họ không sẵn sàng vượt quá khuynh hướng vị kỷ xem mình là trung tâm, vượt quá ý niệm cơ bản xem mình là sinh thể tách biệt và có quyền lực như một sinh thể tách biệt. Những điều này, họ không sẵn sàng đối mặt.

Đây là tư duy đã thâm nhập xuống phương pháp chữa lành trong thế giới hiện đại. Con không kêu gọi người bệnh xem xét trạng thái tâm của họ khi họ đi gặp bác sĩ. Người bác sĩ đi tìm một nguyên nhân vật lý và tìm cách giải quyết nguyên nhân vật lý này. Có bao giờ người bác sĩ ngồi lại với bệnh nhân và nói: “Có thể là quý vị nên xem xét lối sống của mình, có thể là quý vị nên xem xét trạng thái tâm của mình, có thể là quý vị nên gặp một tâm lý gia, có thể là quý vị nên làm điều này, nên làm điều kia?”

Con thấy chăng, nếu con bị mắc kẹt trong tư duy này, nếu đây là quan niệm của con về thân vật lý và cách chữa lành, thì con không đạt được quyền năng chữa lành bằng tâm. Chuyện này không thể làm được.

14.6. Chúng ta nhìn sự vật như thế nào

Bây giờ thày muốn giảng điều này một cách khác một chút vì chúng ta cần đi sâu hơn nữa về cách con nhìn vật chất. Thày có nói là lớp phê phán đầu tiên là con phê phán có điều đúng và có điều sai. Có sức khỏe tốt là đúng, có bệnh tật là sai. Có một tầng sâu hơn nữa là khi tâm con chấp nhận sự vật chỉ là vật, không thay đổi được, không thể thay đổi được bằng tâm.

Thày muốn con hình dung là trước mặt con có một cái bàn và trên đó có một hòn đá. Con có thể cầm hòn đá, con có thể cảm thấy nó cứng. Hòn đá tròn nhưng cứng. Con không thể bóp nát hòn đá, con không thể nặn nó bằng tay. Con không thể thay đổi nó bằng những phương tiện bình thường. Lẽ dĩ nhiên, con có thể chế ra một cái máy nghiền hòn đá hay đánh nhẵn nó. Tuy nhiên, với sức mạnh của bàn tay, con chẳng làm được mấy với hòn đá. Với quyền năng của tâm, con còn làm được ít hơn nữa, đó là điều con đã được dạy dỗ.

Điều thày muốn con nhận ra là khi con nhìn một vật giản dị như hòn đá, có một lập trình trong tâm con (và thực ra lập trình này bắt đầu ở vỏ não thị giác), lập trình này ngay lập tức phân loại và dán nhãn đây là một hòn đá. Bây giờ con đã phóng chiếu lên cái vật đó là nó là hòn đá và tâm của con cho hòn đá đó một số đặc tính. Những đặc tính đó không phải chỉ là những đặc tính riêng của hòn đá, mà cũng có thêm ý niệm con làm được gìkhông làm được gì với hòn đá.

Con có nhận ra chăng là có một tầng trong tâm của con dán nhãn mọi chuyện theo thứ loại? Con dán nhãn mọi thứ là vật. Con yêu dấu, khi con nhìn vào hòn đá, con có nhận ra chăng là chữ “hòn đá” chỉ là một chữ đã được chọn (hay có thể đã được chọn một cách vô thức) và chữ này được liên kết với vật mà con gọi là hòn đá? Con cũng đã có thể gọi nó là trái táo. Nếu từ thời xa xưa, con người đã dùng chữ “táo” để chỉ hòn đá, thì ngày hôm nay con sẽ gọi hòn đá là “táo”. Điều này không có nghĩa là con sẽ nghĩ rằng hòn đá là cái gì mềm có thể ăn được. Điều thày cố giúp con thấy là “hòn đá” chỉ là một chữ mà thôi. Khi con nhận ra “hòn đá” chỉ là một chữ, thì con có thể nói: “Nhưng có gì khác về hòn đá không, ngoài những đặc tính mà tâm chúng con đã chọn và liên kết với hòn đá?”

Con thấy là tâm con người nghĩ ra chữ hòn đá và liên kết chữ này với một vật. Con người cũng có thể chọn một chữ khác. Họ cũng nghĩ ra những đặc tính của hòn đá. Nó cứng, nó khó thay đổi, con không thể nặn nó với hai bàn tay – tất cả những thứ đó. Đây chỉ là những đặc tính do tâm quy định – do tâm quy định. Đây chỉ là một cách nhìn hòn đá.

14.7. Nhìn vượt quá vật

Có thể một cách khác nhìn hòn đá chăng? Con có thể dùng quyền năng của viễn quan để nhìn phía sau, nhìn vượt lên trên viễn quan của hầu hết mọi người khi họ nhìn hòn đá chăng? Con hãy để cho thày dẫn con đi một hành trình dựa trên những bài khoa học ở nhà trường. Hòn đá phải chăng chỉ là hòn đá? Con biết vì con được học ở nhà trường là hòn đá được cấu tạo bởi những phân tử là những đơn vị nhỏ không thấy được bằng mắt vật lý. Có môt cách nhìn khác về hòn đá, không phải ở tầng cấp một vật. Con có thể nhìn hòn đá như là một tập hợp của nhiều phân tử, giản dị như thế.

Con biết là con có thể lấy nhiều hòn đá nhỏ và dùng keo dán chúng lại vào nhau để làm thành một quả banh. Bây giờ con có một quả banh, to như một hòn đá to, nhưng nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn nhiều. Con cũng có thể lấy cát, hạt cát, và nặn chúng lại thành một quả banh, nhưng con có thể thấy được đây không phải là một hòn đá lớn và rắn chắc. Nó được cấu tạo bởi những mảnh nhỏ mà con có thể tách ra được. Con có thể cho nó một hình dạng khác nếu con có thể thay đổi vị trí của những mảnh nhỏ đó.

Điều thày muốn giúp con nhận ra ở đây là con có thể vượt quá cái thấy hòn đá là một vật rắn đặc. Con có thể đi vào một tầng cấp sâu hơn để thấy được hòn đá được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn được gom lại thành một hình dạng mà con gọi là hòn đá – và con nhìn hòn đá này như một vật thuần nhất không dễ thay đổi.

Bây giờ, lẽ dĩ nhiên con biết được theo khoa học là phân tử được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn, gọi là nguyên tử. Có thể con được học ở nhà trường hay không được học ở nhà trường (nhưng biết được sau này nhờ đọc sách), là nguyên tử được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn nữa, gọi là hạt cơ bản. Nếu con có học chút xíu khoa vật lý lượng tử, con sẽ thấy là bản chất các hạt cơ bản này có hai mặt, ít nhất theo cái nhìn hiện nay của các nhà khoa học. Một hạt căn bản đôi khi sẽ cư xử như một hạt truyền thống (là một vật rắn đặc), và đôi khi nó cư xử như một sóng, một sóng năng lượng rung động. Con nhận ra rằng ngay cả khi con chỉ lấy những gì khoa học hiện nay công nhận, con có một cách nhìn hòn đá khác đi? Con có thể bắt đầu ở tầng cấp sự vật, là hòn đá. Ở tầng cấp này, con thấy nó là một đơn vị thuần nhất. Nếu con đi vào các tầng cấp càng lúc càng sâu hơn, con thấy nó không còn thuần nhất nữa vì nó được tạo ra từ những đơn vị nhỏ hơn. Tại sao ở tầng cấp sự vật con lại thấy nó là một đơn vị thuần nhất? Sự thuần nhất từ đâu tới? Nó hoàn toàn tới từ tâm con. Nó là một hình tư tưởng do tâm con phóng chiếu ra.

Hòn đá không thuần nhất chút nào. Nó được cấu tạo bởi phân tử, phân tử được cấu tạo bởi nguyên tử, nguyên tử được cấu tạo bởi hạt cơ bản, chính thực là sóng năng lượng. Không những hòn đá không thuần nhất, nhưng khi con đi vào các tầng nhìn sâu hơn, con cũng thấy là hòn đá càng lúc càng bớt vẻ rắn đặc. “Hòn đá” là một đơn vị rắn đặc vì tâm của con thấy nó là rắn đặc. Khi con tới tầng cấp phân tử, con nhận ra nó được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn có thể di chuyển vị trí so với nhau, hay một số có thể bị tháo gỡ đi.

Con thấy chăng, ở tầng cấp hòn đá, chuyện tác động lên hòn đá hay thay đổi nó có vẻ như vô phương hay ít nhất là cực kỳ khó khăn? Nếu tâm của con có thể đi vào tầng phân tử và bắt đầu tác động lên chúng, thì tâm của con có thể tác động lên những đơn vị nhỏ này dễ hơn là lên hòn đá. Nếu con có thể đi vào tầng nguyên tử còn nhỏ hơn nữa thì chuyện gì sẽ xảy ra? Con tác động lên chúng còn dễ hơn nữa nếu con biết cách. Bây giờ nếu con có thể đi vào tầng hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng thì sẽ ra sao?

14.8. Tâm có thể tác động lên sóng năng lượng

Con yêu dấu, thày đồng ý là tâm con không thể tác động lên hòn đá, nhưng tại sao tâm không thể tác động lên hòn đá? Bởi vì hòn đá là một khái niệm do tâm tạo ra, và tâm con không vượt quá được khái niệm mà chính nó đã áp đặt lên hòn đá. Khi con còn tin vào khái niệm này, khi con chưa chất vấn nó, khi con còn tin khái niệm này không tránh được, không thay đổi được, thì tâm con không thể tác động lên hòn đá.

Con yêu dấu, tâm con là gì? Phải chăng nó là một trường năng lượng? Hòn đá là gì? Nó được cấu tạo bởi phân tử, được cấu tạo bởi nguyên tử, được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng. Nếu tâm của con là một trường năng lượng, thì tại sao nó lại không thể tác động được các trường năng lượng cấu tạo ra các hạt cơ bản, cấu tạo ra các nguyên tử, cấu tạo ra các phân tử cấu tạo ra hòn đá?

Nếu con có thể dùng tâm để đi vào một tầng sâu đủ, thì đâu có lý do gì con không tác động được lên hòn đá? Hay đâu có lý do gì con không chữa lành được thân thể với tâm khi con nhận ra thân thể cũng được cấu tạo bởi những đơn vị nhỏ hơn? Trong thân thể có những bộ phận nhưng mọi thứ trong thân thể được cấu tạo bởi phân tử. Mọi thứ được cấu tạo bởi nguyên tử. Mọi thứ được cấu tạo bởi hạt cơ bản mà thực chất là sóng năng lượng.

Tâm của con là một sóng năng lượng. Thân thể của con là một sóng năng lượng. Tại sao tâm của con lại không thể đạt được khả năng tác động lên các sóng năng lượng cơ bản cấu tạo nên thân thể con và từ đó thay đổi thân thể con ở tầng cấp vật lý? Con thấy chăng, con không thể làm điều này nếu tâm con còn dính chặt vào khái niệm “vật”, vào hình ảnh mà con đã áp đặt lên thân thể vật lý. Con nhìn thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất. Con có thể nhận ra là nó có những thành phần như bộ phận, tế bào và các thứ khác, nhưng hầu hết mọi người vẫn coi thân thể là một đơn vị thuần nhất.

Lúc đó, khi có chuyện trục trặc với thân thể, con yêu dấu, họ tức khắc chấp nhận là có điều gì trục trặc với thân thể. Nếu có điều gì trục trặc với thân thể ở tầng cấp vật lý, thì tâm họ cũng chấp nhận là chỉ có thể chữa được ở tầng cấp vật lý. Nếu nguyên nhân không ở tầng vật lý vì thân thể là sự phóng chiếu từ ba thể cao hơn, thì tại sao con lại không thể thay đổi những gì ở trong ba thể cao để thay đổi sự biểu hiện vật lý?

Con yếu dấu đây chỉ là lý luận giản dị. Nó không giản dị chút nào khi tâm con bị dính chặt muốn thấy mọi thứ là “vật”. Ngày nào con còn thấy thân thể là một vật, một đơn vị thuần nhất, con không thể chữa lành thân thể với quyền năng của tâm. Tâm không thể thay đổi khái niệm “vật” mà chính tâm đã áp đặt lên thân thể. Con hiểu ra điều này chăng? Con hiểu ra nó quan trọng như thế nào chăng?

Chính tâm đã áp đặt hình ảnh “vật” lên thân thể. Ngày nào tâm chưa chất vấn hình ảnh này, chưa thấy nó như nó là, chưa thấy nó chỉ là một hình ảnh và chưa nhìn quá hình ảnh đó, thì tâm không thể chữa lành thân thể. Nếu con giải thoát tâm con khỏi khuynh hướng nhìn mọi vật là vật, con có thể bắt đầu chữa lành thân thể con bằng quyền năng của tâm. Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên đây là điều thày mong muốn cho con.

14.9. Niệm tinh khôi

Rõ ràng là con có một Sứ vụ Thiêng liêng. Có những điều con cần làm. Rõ ràng là trong một số trường hợp, mang bệnh và ứng phó với bệnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Trong trường hợp khác, có một thân thể khỏe mạnh là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lẽ tất nhiên, thày muốn con tới được điểm mà con biết được bệnh tật là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con, hay con biết cách thăng vượt căn bệnh để tiếp tục với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Để tới điểm này, con cần nhận ra một số điều.

Bây giờ có một khái niệm mà các thày đã dùng từ ít lâu nay, và khái niệm này khởi thủy do Mẹ Mary đưa ra. Đó là khái niệm giữ niệm tinh khôi. Lẽ dĩ nhiên, đây là một cách chơi chữ với quan điểm “thụ thai tinh khôi” cho rằng Giê-su được thụ thai tinh khôi không cần có yếu tố con người xen vào. Nói cách khác, không có người nam nào cho tinh dịch để trái trứng thụ thai – thụ thai là do Thánh Linh thực hiện. Lẽ đương nhiên, như các thày đã giải thích, chuyện không xảy ra như vậy.

Ý thày muốn nói là Mẹ Mary đã khai triển ý tưởng là Mẹ có thể giữ một niệm tinh khôi. Mẹ giải thích là chính mẹ đã giữ niệm tinh khôi về Giê-su từ lúc thày sinh ra và cho tới khi thày lớn lên. Con yêu dấu, bây giờ con hãy nhìn kỹ hơn vào hoàn cảnh này.

Đây là một người phụ nữ sanh một con trai. Bây giờ, bất kể đứa con được thụ thai như thế nào, bất kể viễn kiến của bà về người con ra sao, phải chăng là bà sẽ có tình cảm bình thường của người mẹ đối với con trai dựa trên văn hóa của bà? Con hãy nhìn chuyện gì xảy ra cho người con trai này là Giê-su. Cậu bé lớn lên thành một thanh niên khỏe mạnh và có khả năng nhưng ở tuổi thanh xuân, Giê-su bị giới chức trách bắt giam, tra tấn, đóng đinh trên thập tự và chết. Có thể nào một người mẹ bình thường có viễn kiến như vậy về con trai mình chăng?

Khi con xem xét sự việc này, con nhận ra là nếu Mẹ Mary giữ niệm tinh khôi về Giê-su, điều này không có nghĩa là từ lúc Giê-su sinh ra, bà có viễn kiến một ngày kia Giê-su sẽ bị bắt, bị tra tấn và hành quyết. Vậy thì bà giữ niệm tinh khôi cho Giê-su nghĩa là gì? Bà nhận ra rằng Giê-su không phải là một đứa con trai bình thường, Giê-su sẽ không có một cuộc sống bình thường, nhưng niệm tinh khôi của bà là gì? Trước tiên, bà giữ khái niệm Giê-su sẽ tiếp tục tăng triển tâm thức và thăng vượt tâm thức cho tới khi Giê-su đạt được tầng mức quả vị Ki-tô cho phép thày hoàn thành sứ vụ của thày. Niệm tinh khôi có hai khía cạnh. Nó là viễn kiến tăng triển liên tục và nó là viễn kiến mỗi người có một sứ vụ, một Sứ vụ Thiêng liêng, và giữ viễn kiến là người đó sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng.

Lẽ dĩ nhiên con có thể làm điều này cho chính mình. Nếu con giữ niệm tinh khôi cho chính mình, con giữ cả hai khía cạnh Alpha và Omega này. Trước tiên, con nhận ra ý nghĩa sự sống là tăng triển, là thăng vượt. Con giữ niệm tinh khôi là con sẽ tiếp tục tăng triển, đạt các khai ngộ và đạt tầng tâm thức cao nhất có thể đạt được trong kiếp này. Sau đó con giữ viễn kiến là con ở đây để làm điều gì đó trong kiếp này. Con giữ viễn kiến là con sẽ hoàn thành các điều trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Bây giờ, đây là lúc con cần đứng lùi lại và nhận ra khi con giữ niệm tinh khôi cho mình, như thày đã giải thích, rất có thể nó sẽ rất khác với những gì hầu hết mọi người mường tượng về cuộc sống bình thường của một người. Thậm chí nó có thể rất khác những gì con thấy về cuộc đời mình cho tới lúc này.

14.10. Không có điều gì không được xảy ra

Con yêu dấu con nhận ra chăng là khi con lớn lên trong xã hội hiện đại, có sự phóng chiếu lên con từ mọi hướng là cuộc sống của con phải thế này hay không được thế kia? Sự phóng chiếu có thể đến từ cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thày cô, mỗi người mà con gặp, chính xã hội, sa nhân và tà lực và các thứ khác. Suốt cuộc đời con, có rất nhiều sự phóng chiếu hướng về con nói rằng cuộc sống phải thế này và không được thế kia. Ở điểm này, thày muốn nói: “Nếu con thật sự muốn sống cuộc đời mình, con phải xem xét chuyện phóng chiếu này và nói: “Con có bao nhiêu ý tưởng về điều phải xảy ra và không được xảy ra cho con?”

Rồi con cần tự hỏi mình: “Phải chăng trước giờ tôi đã nghĩ rằng giữ niệm tinh khôi cho mình có nghĩa là cuộc sống của tôi theo con đường bị ảnh hưởng từ bên ngoài cho rằng điều này phải xảy ra hay không được xảy ra cho tôi? Phải chăng tôi đã nghĩ rằng giữ niệm tinh khôi là tôi lượng định mỗi hoàn cảnh dựa theo ý tưởng điều phải xảy ra và điều không được xảy ra và ngay lập tức phán xét rằng điều mà tôi nghĩ không được xảy ra là điều sai? Phải chăng đây là cái nhìn của tôi về giữ niệm tinh khôi? Phải chăng đây là cách tôi đang nhìn cuộc đời mình?

Con thấy chăng đây là những gì con được dạy dỗ. Những phóng chiếu này dựa trên tầng cấp vật hay sự việc, tức là có một số sự việc phải xảy ra và một số sự việc không được xảy ra trong một cuộc sống bình thường,. Con phải làm một số việc và con không được làm một số việc. Đây là tầng cấp vật, hay sự việc. Sứ vụ Thiêng liêng của con đòi hỏi con tăng triển về tâm thức. Để có thể thăng vượt một tầng tâm thức thì con phải nhìn thấy tâm thức này.

Điều con nhận ra ở đây là đối với một người đang hiện thân, nhận ra điều hạn chế mình rất khó, rất tinh tế. Có những lúc con đọc một cuốn sách tâm linh và con thấy được: “Ồ, cái này hạn chế tâm của tôi và tôi cần buông bỏ nó.” Tất cả chúng ta, những người đã từng đầu thai, đều nhận ra rằng chúng ta không thể học hết mọi thứ bằng cách đó. Có những trường hợp cách học duy nhất là trải nghiệm một hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ta giản dị là như thế vì chúng ta đang sống trong một môi trường dày đặc như trái đất. Đôi lúc chúng ta tỉnh giác qua giáo lý dùng ngôn từ nhưng có lúc khác, chúng ta tỉnh giác qua kinh nghiệm trực tiếp của giác quan, thân thể và tâm. Con yêu dấu, con thấy chăng, con cần một số kinh nghiệm trong cuộc sống.

Bây giờ con làm được gì đây? Con có thể nhìn vào cuộc sống mình và nói: “Có lợi ích gì chăng khi tôi lượng định cuộc sống mình theo một tiêu chuẩn được áp đặt lên tôi, tiêu chuẩn quy định cái phải xảy ra, hay cái không được xảy ra? Tôi có thể nào lùi lại một bước, nhìn cuộc sống mình và nói: ‘Không có cái phải là, không có cái không được là. Mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của tôi đã xảy ra vì vũ trụ đang tìm cách đánh thức tôi khỏi một ảo tưởng.’”

14.11. Thông điệp là gì?

Bây giờ, thay vì cưỡng lại điều đang xảy ra, thay vì tìm cách thay đổi những triệu chứng ở tầng vật lý, con có thể bắt đầu nghĩ: “Thông điệp ở đây là gì? Có điều gì trong này mà trước giờ con không thấy?” Chúng ta hãy nói về bệnh tật trở lại. Khi lớn lên, con được dạy dỗ để nghĩ rằng sức khỏe bình thường là tự nhiên và khi có bệnh là trục trặc. Do đó, con phải coi đây là một sự trục trặc và phải đi gặp bác sĩ, xem bác sĩ có tìm ra nguyên nhân vật lý không và tiêu hủy nguyên nhân vật lý này.

Con yêu dấu, thày không nói là con không nên đi bác sĩ để cứu mạng mình. Điều thày nói là: Điều gì ngăn trở con lùi lại một bước và đáp ứng một cách khác, và nói: “Có thể nào căn bệnh là một thông điệp cho con? Vũ trụ có đang tìm cách dạy con một điều gì? Căn bệnh có đang tìm cách chỉ cho con một ảo tưởng nào đó, một tâm thức nào đó mà con phải thăng vượt? Phải chăng khi con thăng vượt nó, con sẽ tiến gần hơn việc hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình?” Như thày đã nói ở trước, trong một số trường hợp, con đã chọn mang một căn bệnh vì con muốn chứng minh cho người khác thấy con có thể là một người hạnh phúc, toại nguyện và an bình dù là con bị bệnh hạn chế. Một số các con đã chọn mang một căn bệnh để chứng minh con có thể vượt qua căn bệnh, con có thể chữa lành nó, con có thể vượt thăng nó?

Con thấy chăng, nếu con đã chọn mang một căn bệnh vì con muốn chứng minh điều gì cho người khác, hay vì con muốn vượt qua nó hay vì nó là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con tìm cách giúp mình thấy một tâm thức nào đó, thì chống lại căn bệnh đâu có nghĩa lý gì? Tại sao con cho phép tâm mình dính chặt vào tầng cấp của vật khiến con nghĩ thân thể này là một vật và bây giờ cái vật này xảy ra cho thân thể con và con cần tiêu diệt cái vật này? Tại sao con không vượt quá điều này và nhìn nó một cách khác? Có điều gì ngăn cản con làm như thế? Lẽ dĩ nhiên đâu có gì ngăn cản con ngoại trừ tâm thức sa ngã nói với con là con không bao giờ nên nhìn vào chính bản thân mình.

14.12. Thăng vượt tâm thức

Con hiểu ra giữ niệm tinh khôi cho mình thật sự nghĩa là gì chăng? Sa nhân không muốn thay đổi chính họ. Con là người tâm linh đã định ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình chung với các chân sư thăng thiên, điều con muốn làm lẽ dĩ nhiên là thay đổi chính mình. Sứ vụ Thiêng liêng của con xoay quanh việc con thay đổi chính mình, thăng vượt các tầng tâm thức và bước lên càng nhiều bước càng tốt trên 144 tầng cấp trong kiếp sống này. Đây là điều trọng yếu trong Sứ vụ Thiêng liêng của con: tăng triển tâm thức.

Cốt lõi của sự sống, cốt lõi của con đường tâm linh đối với con là thăng vượt tâm thức. Cốt lõi của sự chống đối của sa nhân là chống lại thăng vượt tâm thức. Khi con nhận ra điều này, con có thể nói: “Tại sao con phải sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của sa nhân? Con muốn sống cuộc đời mình dựa trên tư duy của các chân sư thăng thiên là thăng vượt không ngừng.” Con có thể chuyển đổi tâm thức, nhiều người đã đến tầng cấp này mà chưa chuyển đổi tâm thức một cách có ý thức. Do đó, họ vẫn còn bị kẹt chỉ thấy mọi sự ở tầng cấp của vật, chỉ thấy ở tầng cấp khái niệm, và phán xét mọi chuyện dựa trên cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

14.13. Làm hòa với cuộc đời của con

Con yêu dấu, trong bài giảng này và ở tầng này của khóa nhập thất của thày, thày thật sự mong muốn thấy con thoát khỏi những phán xét ở tầng cấp của vật (chúng chỉ là những khái niệm mà tâm con và tâm tập thể đã gán lên mọi chuyện xảy ra trong vũ trụ). Thày thật sự muốn con có khả năng nhìn vào cuộc sống mình và thoát khỏi mọi phán xét về cái phải xảy ra hay không được xảy ra.

Thày biết rằng nhiều người trong chúng con đã lớn lên trong những điều kiện rất khó khăn. Con đã lớn lên trong những hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Đây là trường hợp của rất rất nhiều người trên con đường tâm linh. Con đã chọn những hoàn cảnh này vì một lý do. Nó là một phần trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Có chuyện gì đã xảy ra mà đáng lẽ không được xảy ra chăng? Có phải chăng đây là cơ hội để con nhìn thấy điều gì bên trong con và để chứng minh cho người khác thấy con đã lớn lên trong một hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn vượt lên trên được? Con có thể tới một điểm con nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Có cách nào khác nhìn vào cuộc đời mình ngoài cách nhìn ở tầng cấp sự thể và phán xét mọi sự dựa theo tâm thức cái phải là và không được là?” Thày đã nói với con là con có thể nhìn hòn đá và thấy nó có nhiều thành phần khác nhau. Phải chăng con cũng có thể nhìn một hoàn cảnh trong đời và thấy nó có nhiều thành phần khác nhau? Thay vì nhìn cuộc đời ở tầng cấp sự thể mà thôi, dựa trên phán xét cái phải là và cái không nên là, con có thể lùi lại một bước và nhìn hoàn cảnh với nhiều sắc thái vi tế hơn, phức tạp hơn. Biết đâu tuổi thơ khó khăn của con là cách nhanh nhất để con cân bằng nghiệp từ kiếp trước mà con có với cha mẹ và các anh chị em? Biết đâu nếu con học xong bài học và làm chủ phản ứng của mình trước hoàn cảnh, con đã cân bằng được nghiệp đó và bây giờ con được tự do đi tiếp cuộc đời, không những thoát khỏi những người này mà con cũng thoát khỏi tâm thức mà họ biểu trưng? Biết đâu con chọn lựa ở trong một hoàn cảnh rất khó khăn vì con cần học bài học là con không thể thay đổi người khác, con chỉ thay đổi được mình thôi? Do đó, khi con tập trung vào việc thay đổi mình, và con tha thứ những người khác và cho phép họ là chính họ và cho phép họ biểu hiện tâm thức của họ, thì con được tự do tiến tới những khía cạnh khác của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

14.14. Làm hòa với người khác

Con yêu dấu, con thấy chăng, khi con đang hiện thân, con lớn lên bên cạnh nhiều người và họ có ảnh hưởng lớn trên đời con. Một điều thiết yếu trong khóa tự điều ngự là con tới được điểm hiểu ra rằng nếu con ngừng đánh giá những tương tác giữa con và người khác dựa trên tâm thức cái phải là và cái không được là, tâm con sẽ bình an với diễn tiến của sự tương tác. Con sẽ tới điểm nhận ra nếu hành động của con là sản phẩm của trạng thái tâm thức của con, thì hành động của họ là sản phẩm của trạng thái tâm thức của họ. Con cũng hiểu ra là họ có toàn quyền tự quyết. Công việc của con không phải là thay đổi người khác. Có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là cho họ cơ hội thấy có một cách hành động khác, một cách đáp ứng khác, một cách nhìn đời khác.

Con thấy chăng, con yêu dấu, công việc của con là cho người đó một cơ hội bằng cách chứng minh có một cách đáp ứng khác. Công việc của con không phải là ép buộc người đó phải chọn lựa chấp nhận bài học. Đây là lý do con không nhìn hoàn cảnh với ý tưởng cho rằng họ phải học bài học đó và họ phải học điều mà con nghĩ họ phải học. Không có cái phải là và cái không được là. Công việc của con là cho họ cơ hội chọn lựa, không phải là chọn giùm cho họ.

Khi con đã cống hiến cơ hội đó, con đã làm xong việc của mình. Có nghĩa là bây giờ con đã thoát khỏi hoàn cảnh đó, nhưng con không thể thoát khỏi hoàn cảnh nếu con còn phán xét dựa trên cái họ phải làm hay cái họ không được làm. Khi ấy con lại buộc con vào họ và tạo một nghiệp mới cho mình. Có nghĩa là con có thể phải trở lại đầu thai với họ trong một kiếp sống khác cho tới ngày con rốt cuộc được tự do và cho họ được tự do là chính họ. Con được tự do là gì con là mà không cần biết họ chọn lựa ra sao.

Con nhận ra là, nếu con nhìn vào tất cả các mối tương tác và dính dáng giữa con và người khác, con có thể áp dụng phương pháp trên chăng? Con nhìn vào điểm: Con cần làm gì để tới được điểm mà trong tâm con, con hoàn toàn tự do khỏi người này? Trọng tâm không phải là thay đổi người kia vì tự do của con không tùy thuộc vào hành động và trạng thái tâm người kia. Nó tùy thuộc vào trạng thái tâm của con.

Con sẽ tự do khi con tự do trong tâm của con. Thày đã nói với con điều này trong suốt các bài giảng trước và đặc biệt trong bài giảng này. Con nhìn vào quan hệ của con với người khác như một sự thể vì con nhìn vào nó với viễn kiến nhìn mọi thứ là vật thể hay sự thể. Con thường nhìn người khác và nghĩ: Ồ y là như thế và như thế và không ai có thể làm gì để thay đổi được. Sau đó con nghĩ quan hệ của con với người đó không thay đổi được cho tới khi người đó thay đổi, nhưng vì y sẽ không thay đổi, con không thấy cách chi quan hệ có thể thay đổi được. Làm như thế là con tước đi uy lực của mình.

Khi con lấy lại uy lực của mình, con nhận ra rằng không cần biết người kia như thế nào hay người kia có sẽ thay đổi hay không, điều quan trọng là con thay đổi cách con nhìn người kia để người kia không ảnh hưởng được con. Giê-su nói: “Ông hoàng thế gian tới và chẳng tìm thấy gì trong ta để ảnh hưởng được.” Con có thể xem là bất cứ con gặp ai, người đó có thể là một công cụ của ông hoàng thế gian. Ông đang giản dị tìm mọi cách để khiến con phải phản ứng một cách tiêu cực, dựa trên sợ hãi để ma quỷ ảnh hưởng được con.

14.15. Bị kẹt vào xung đột giữa người và người

Con yêu dấu, cách giản dị nhất để ngăn cản con làm những phần tích cực trong Sứ vụ Thiêng liêng của con là gì? Đó là khiến con bị kẹt vào những xung đột với người khác làm con mất hết thì giờ, sự chú ý và năng lượng. Con không thể nào đi quá một tầng nào đó của con đường tâm linh nếu con còn bị kẹt trong những quan hệ cá nhân làm tiêu hao rất nhiều sức của con.

Con cần tới một điểm vượt lên trên tầng cấp của vật và con nói: “Con có một Sứ vụ Thiêng liêng và một phần của Sứ vụ Thiêng liêng là con thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, một tầng ảo tưởng nào đó. Có thể chăng là người khiến con bực mình quá sức đang làm chuyện đó vì y đang lợi dụng cái ảo tưởng mà con không thấy được trong con?” Có thể chăng là người đang làm con bực mình quá sức thật ra là một Sứ giả Thiêng liêng? Y được gửi đến để chỉ cho con thấy điều mà cho tới nay con chưa thấy được và điều mà con cần vượt qua trong chính mình để có thể vươn lên tầng tâm thức cao hơn và bắt đầu thể hiện những khía cạnh tích cực của Sứ vụ Thiêng liêng của con – là cống hiến món quà của con?

Một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là vượt qua những giới hạn của mình nhưng thường đây không phải là phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng. Phần hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng là con có một món quà tích cực cho trái đất và con bắt đầu tặng món quà đó. Tại sao con lại cho phép những tranh chấp nhỏ mọn với người khác ngăn cản con thực thi khía cạnh hào hứng của Sứ vụ Thiêng liêng của con, khi con chỉ cần chuyển đổi viễn quan của mình và nói: “ Bài học ở đây là gì? Con cần học điều gì trong mối quan hệ của con với người này? Nó chỉ cho con thấy những dính mắc nào vào những chuyện phải là và không được là?”

Nếu con phân tích bất kỳ quan hệ thiếu hài hòa nào, con sẽ nhận ra là người kia khiến con bực mình vì con có một hình ảnh cho rằng người khác không được làm thế, không được cư xử như thế, không được nói những câu như thế với nhau. Nếu con nhìn vào bề sau, con sẽ thấy rằng tất cả những cái phải là và không được là trong tâm con sẽ ngăn cản con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Nó cũng ngăn cản con đạt được viễn kiến mà thầy muốn dẫn con tới.

14.16. Đạt được viễn kiến bất nhị

Thày đang hướng dẫn con tới một viễn kiến không nhị nguyên, không dựa trên sự phán xét với hai đối cực. Nó là viễn kiến trong sạch, viễn kiến rõ ràng nhìn mọi vật như là nó là. Con có thể tới điểm mà con nhìn mọi cảnh huống mà không phán xét. Con yêu dấu, đó là lúc con có thể neo mình vào cái mà các thày gọi là Dòng Sông sự Sống và thấy cuộc sống của con là một dòng chảy liên tục.

Con xét xem đa số nhìn hoàn cảnh sống như thế nào. Họ nghĩ; “Tôi có quan hệ với người này đang làm tôi bực mình quá và chuyện này ngăn cản tôi tăng triển. Chuyện này ngăn cản tôi làm những gì tôi muốn làm trong đời mình.” Con thấy là đa số nhìn cuộc đời như một tiến trình ngừng-lại-và-đi-tiếp. Họ muốn đi tới chỗ nào đó trong cuộc sống nhưng luôn luôn có một điều gì ngừng họ lại, không cho phép họ đến nơi đó.

Khi con chuyển đổi viễn kiến của mình, con có thể thoát khỏi viễn kiến ngừng-lại-và-đi-tiếp và con bắt đầu thấy là mỗi hoàn cảnh con gặp chỉ là cách giúp con tiến lên với cuộc sống. Khi con nhìn một dòng sông chảy, có thể có vách đá hai bên dòng sông và tảng đá trong lòng dòng sông. Khi nước đụng vào đá, nó có ngừng chảy không? Nước có ngừng lại và nói: “Tảng đá này không được ở đây, ai đó phải dời nó đi để tôi chảy tiếp?” Không đâu, nước chỉ việc chảy chung quanh tảng đá. Đúng là dòng nước bị tảng đá làm đổi hướng nhưng nó không bị ngưng lại. Dòng nước chỉ việc chảy quá tảng đá và chẳng bao lâu sau nước lại tuôn chảy như chưa từng có tảng đá nào. Đây là cách con phải nhìn các hoàn cảnh trong cuộc sống của con. Thày xin lỗi thày dùng chữ “phải”, nhưng đây là cách con nhìn cuộc sống mình khi con đạt được viễn kiến cao mà thày đề cập.

Con có thể tới điểm mà con nhận ra bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời không phải là chướng ngại cho sự tiến bộ của con. Nó chỉ là thông điệp chỉ cho con thấy cách đi vòng quanh chướng ngại và tiếp tục tiến lên. Khi con làm như vậy, con đã tiến bộ.

14.17. Cho phép tâm giống như nước

Lúc đó con nhận ra một điều mà sa nhân không muốn con biết, là tâm giống như nước. Nước là một chất kỳ diệu, con yêu dấu. Con có thể lấy cái búa to nhất mà con có thể nâng lên được, và con đập nó vào dòng sông. Con làm nước bắn tung tóe nhưng chuyện gì xảy ra sau vài giây? Dòng nước lại chảy tiếp giống như chưa hề có điều gì ảnh hưởng nó. Tâm con cũng có khả năng đó. Con nhận ra bất cứ chuyện gì xảy ra trong cuộc đời của mình, dù nó làm nước bắn tung tóe, tâm con vẫn có thể tiếp tục chảy. Khi con tha thứ, khi con buông bỏ, tâm con sẽ chảy tiếp, nước sẽ nhập lại với nhau, tâm con sẽ toàn vẹn và con sẽ tiếp tục tuôn chảy như không có gì đã xảy ra.

Khi tới điểm này của khóa nhập thất của thày, thày muốn con nhận ra một cách ý thức là con có thể làm cho tâm con lỏng như nước. Thày không nói rằng con có thể làm cho tâm con hoàn toàn lỏng như nước ở điểm này. Thày muốn con nhận ra là điều này làm được và con cần đặt mục đích này cho mình. Con làm cho tâm mình lỏng như nước, và muốn đạt được điều này, con cần sẵn lòng nhìn vào cuộc sống mình và nhận ra: Có sự việc nào đã làm cho tâm con cứng đặc chung quanh một chấn thương, một nỗi đau, hay một cái nhìn cho rằng chuyện này không được xảy ra? Tâm con có bị cứng đặc chung quanh quan điểm người khác phải thay đổi hay vũ trụ phải thay đổi, hay người khác không được thế này hay vũ trụ không được thế kia? Tâm con đã cứng đặc chung quanh điểm nào?

Và con nhận ra rằng mỗi hoàn cảnh khiến tâm con cứng đặc ở một thời điểm trong quá khứ, trong hành trình trên hành tinh này, đã buộc chân con lại không sống theo Sứ vụ Thiêng liêng. Nó ngăn cản con xuôi theo Dòng Sông sự Sống. Đây là lúc con có sự thúc đẩy mới muốn nhìn vào các ảo tưởng mà con đã chấp nhận. Đây là điểm mà con nhận ra thực là chẳng có gì phải xảy ra hay không được xảy ra.

Bây giờ con nhận ra rằng thực chẳng có cái gì phải xảy ra hay không được xảy ra bất cứ đâu trong vũ trụ, nhưng thái độ này đặc biệt quan trọng trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Con đang sống trên một hành tinh rất khó khăn nơi có sa nhân đầu thai, và có sa nhân trong cả ba cõi cao hơn. Họ đã khiến con người tranh chấp với nhau, vì vậy con có những nhóm người liên tục xung đột với nhau. Lớn lên trong một môi trường như vậy rất là khó. Đầu thai nhiều kiếp trên hành tinh này cực kỳ khó. Điều thày muốn chỉ cho con thấy ở đây là cách duy nhất để sống trên một hành tinh như trái đất, để không để bị kẹt trong những cãi vã nhỏ mọn buộc sự chú ý của mình, cách duy nhất là con làm cho tâm mình lỏng như nước để con không bao giờ cho phép nó cứng đặc lại chung quanh bất cứ điểm nào trong quá khứ. Con giữ tâm con như một khối nước xuôi theo Dòng Sông sự Sống.

14.8. Duy trì dòng chảy

Mục đích này không dễ đạt, con yêu dấu. Thày không nói là con phải đạt nó ngay bây giờ hay trong năm phút. Con yêu dấu, con có thể đạt mục đích này, và con không cần mất cả quãng đời còn lại để đạt nó. Thật ra, con có thể đạt mục đích này trong một sự chuyển đổi tâm thức lớn và sau đó con dần dà quét dọn sạch sẽ bằng cách đọc các bài thỉnh để tiêu trừ những năng lượng bị trói trong các sự việc quá khứ. Cũng có thể, con cần xem xét một số hoàn cảnh cá biệt, một số người và nhận ra: “Con cần học bài học gì ở đây để con có thể tha thứ người này, để con buông bỏ ý niệm về cái phải là hay không nên là.”

Có thể con cần quét dọn rất nhiều, nhưng con có thể chuyển hóa tâm rất nhanh và nhận ra rằng tâm con lỏng. Tâm con như nước. Có một trở ngại đằng trước. Có cách nào để con đi vòng quanh nó và trở về xuôi theo Dòng Sông sự Sống mà không hề bị cản trở, bị chắn lối, bị ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì?

Con tới một điểm, con yêu dấu, mà con không còn thấp thỏm chờ cuộc khủng hoảng kế tiếp, sự cản trở kế tiếp, hay chướng ngại kế tiếp. Con không dính mắc vào bất cứ hoàn cảnh cá biệt nào, tranh đấu chống người khác hay chống lại cả vũ trụ. Con luôn luôn tuôn chảy và con chỉ quan tâm tìm cách duy trì dòng chảy. Có đây một chướng ngại nhưng con cũng chẳng nhìn vào chướng ngại này và con không hề gợn lên ý tưởng nó phải hay không được ở chỗ đó. Con nhìn vào điều sau: “Làm sao con chảy chung quanh chướng ngại được? Bên kia chướng ngại là gì?” Và sau đó con đã qua được bên kia và con lại tuôn chảy, và giống như là chướng ngại chưa bao giờ có đó. Có thể con học được bài học từ chướng ngại đó nhưng bây giờ con thể nhập bài học và con không cần nghĩ tới nó nữa. Con tiến tới bài học kế tiếp.

Con hiểu chăng, con yêu dấu? Con có thể nhìn vào một hoàn cảnh và nhiều người tâm linh làm điều này và nói: “Bài học cho con là gì? Con cần học điều gì?” Con hiểu rằng khi con đã học trọn vẹn bài học, khi con đã hoàn toàn thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó, một tầng tâm thức nào đó thì con không cần băn khoăn về nó nữa. Con không cần nghĩ về nó nữa. Con tiếp tục chảy và bây giờ con tìm bài học kế tiếp hay việc phụng sự kế tiếp.

Cuộc sống có thể thành một tiến trình trong đó con thoát khỏi mọi phê phán cái này phải xảy ra hay không được xảy ra. Chẳng có cái phải, chẳng có cái không được. Chỉ có niềm vui biết mình đang tuôn chảy theo Dòng Sông sự Sống. Con liên tục tiến tới điểm đi vào hợp nhất với nguồn cội tâm linh của con – với Hiện diện TA LÀ của con – trong nghi lễ thăng thiên huy hoàng.

TA LÀ Hilarion, thày hài lòng con có mặt với thày ở tầng này của khóa nhập thất của thày. Thày mong giảng cho con bài học cuối cùng mà thày phải truyền cho con.

Làm sao ngưng phóng chiếu vào tâm mình

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con sẽ gặp gỡ gì ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày? Như thày đã nói, con gặp gỡ nhu cầu nhìn vào những gì con phóng chiếu vào chính mình.

Chúng ta hãy bắy đầu với sự kiện là đa số những học viên trong khóa học này đã đi trên con đường tâm linh một thời gian rồi. Có lẽ con đã học nhiều giáo lý tâm linh, có thể đã gia nhập nhiều tổ chức và tu tập với nhiều đạo sư. Có lẽ con đã đọc nhiều quyển sách được các người tâm linh ưa thích. Kết quả của tiến trình này là gì? Kết quả là con đã nhận một số ý tưởng, một số niềm tin vi tế và con đã dùng chúng để tạo ra một hình ảnh trong tâm quy định thế nào là một đệ tử tâm linh, thế nào là đi theo con đường tâm linh. Nhiều người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ mấy chục năm và họ đã tạo ra một hình ảnh thế nào là một đệ tử chân sư thăng thiên tốt.

12.1. Hình ảnh của con về một đệ tử tâm linh tốt

Một lần nữa, thày đã nói gì nhiều lần? Điều này không có gì sai trái vì con không thể làm gì khác ở một tầng nào đó của con đường tu. Vấn đề không phải là điều con đã làm là sai. Thày không ở đây để nói với con là điều đó sai. Điều thày muốn nói ở đây là bây giờ là lúc nhìn vào sự việc này và nhận ra là cần buông bỏ một số những ý tưởng đó. Khi con hoàn tất khóa tự điều ngự này, thày có thể bảo đảm với con là con sẽ phải buông bỏ tất cả mọi ý tưởng của con.

Vì sao thày lại có thể nói như vậy? Con có thể đã theo một giáo lý chân sư thăng thiên nói về những gì cần làm để đi con đường tâm linh. Vậy phải chăng điều tự nhiên là con dùng giáo lý này để xây dựng một hình ảnh thế nào là một đệ tử tâm linh? Đúng vậy, con yêu dấu, đó điều tự nhiên, nhưng con có bắt đầu thấy chăng là con đường tự điều ngự là vượt qua cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt? Con có nhận ra chăng là để đạt được tự điều ngự, trọng tâm không phải là cưỡng ép cái ta vỏ ngoài hay cho nó những khả năng đặc biệt nào đó.

Mục đích của con đường tự điều ngự không phải là khiến cái ta vỏ ngoài được Thượng đế chấp nhận và cho phép nó vào nước trời. Đây là điều mà các sa nhân mong muốn và họ đã phóng chiếu ra ngoài qua các thày giả đang đầu thai ỡ cõi trần hay ở các cõi cao. Con sẽ không đạt được tự điều ngự bằng cách kiện toàn cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt – vì không thể kiện toàn nó được.

Con sẽ đạt được tự điều ngự bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không chịu ảnh hưởng của cái ta vỏ ngoài. Con thoát khỏi cái ta vỏ ngoài để con không phải là “người đang làm” nhưng Hiện diện TA LÀ của con là người đang làm thông qua cái Ta Biết và bốn thể phàm của con. Đây là một điểm vi tế vì đi lên tầng 96 không có nghĩa là con không có ước muốn gì hết. Nó nghĩa là ước muốn cá nhân của con thuận với những ước muốn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, những ước muốn mà chính con đã chọn lựa trước khi con đầu thai. Chúng cũng thuận với cá tính của Hiện diện TA LÀ của con, cá tính mà con đã góp phần xây dựng qua những kiếp trước của con.

12.2. Sư sáng tạo và cái ta tách biệt

Điều con cần nhận ra là vì con đã đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này, con đã nhận vào một số ý tưởng và con đã dùng chúng để hình thành trong tâm hình ảnh một đệ tử tâm linh phải như thế nào. Trong đó có ý tưởng là con phải biểu hiện sự sáng tạo như thế nào khi con là một đệ tử tâm linh. Lý do con phải xem xét điều này rất giản dị. Ở mỗi giai đoạn của con đường tu, ở mỗi tầng trên con đường tu, con có (như thày đã nói) một số ảo tưởng. Không tránh được là khi con hình thành hình ảnh một người tâm linh phải như thế nào, hình ảnh đó sẽ kết nạp những ảo tưởng mà con còn có trong tâm, những ảo tưởng mà con chưa buông bỏ.

Một lần nữa, điều này không có gì sai trái, đó giản dị chỉ là cách con đường tu vận hành trên một hành tinh dày đặc như trái đất. Thày có nói với con là khi con nâng tâm thức về hướng tầng 144, ở mỗi tầng tâm thức con có một ảo tưởng mà con cần vượt qua. Có nghĩa là khi con tới tầng 96 và hoàn tất khóa học tự điều ngự, con vẫn chưa vượt qua tất cả mọi ảo tưởng. Nhưng ta có thể hy vọng là trong điều kiện lý tưởng, con đã tới điểm vượt qua được những ảo tưởng khiến con biểu hiện sự sáng tạo qua cái ta tách biệt.

Con có thể đang nghĩ điều này không quan trọng lắm ở tầng hiện nay của con, nhưng con sẽ càng ngày càng thấy rõ tầm quan trọng của nó khi con tiến xa hơn trong lớp học này. Những Thượng sư ở trên thày sẽ giải thích điều này và giúp con càng ngày càng giải thoát khỏi các hình ảnh vi tế mà con có. Thày không chờ đợi là, ở tầng thứ năm của khóa nhập thất của thày, con buông bỏ được hết các hình ảnh mà con có về thế nào là một đệ tử tâm linh. Có một khía cạnh của hình ảnh này mà thày muốn con nhận ra một cách ý thức ở tầng này. Sự thực là con cần phải nhận ra nó để đạt được khái ngộ ở tầng này và đi lên được tầng tới.

12.3. Con phải như thế nào?

Bây giờ thày muốn con làm điều này với tâm ý thức khi con đang đọc hay nghe bài giảng này. Dĩ nhiên là thày đã giúp con trải qua điều này ở khóa nhập thất, nhưng thày đang tìm cách giúp con mang xuống tâm ý thức. Thày muốn con giữ tâm yên tĩnh, thư giãn tâm và hướng về bên trong, chú tâm vào luân xa tim. Sau đó, thày muốn con, trong lúc con đọc hay nghe bài giảng này, con không có một định kiến nào hết, nhưng thày muốn con nhận ra phản ứng đầu tiên khi thày nói câu tới. Phản ứng đầu tiên của con khi thày nói: “Như một đệ tử tâm linh tốt, con phải là….” Điều gì hiện ra trong tâm con? Có hai khía cạnh ở đây. Con có thể có một ý tưởng thực tiễn con phải như thế nào, nhưng điều thày thực sự muốn con nhận ra là khi thày nói: “Như một đệ tử tâm linh tốt, con phải là….” có một cái gì đó kéo con. Nói cách khác, có một khía cạnh của viễn quan của con về đệ tử tâm linh được dựa trên ý niệm con phải như thế nào đó.

Điều này không ngạc nhiên nếu con nhìn vào lịch sử của trái đất. Con hãy nhìn vào các tôn giáo trên trái đất và thấy bao nhiêu tôn giáo đã quy định những quy tắc vỏ ngòai về cách cư xử khi là thành viên của tôn giáo đó. Con có thể thấy là một số tôn giáo đã đem quan niệm này tới cực điểm và quy định hầu như mọi khía cạnh đời sống người theo đạo. Ý tưởng này xuất phát từ sa nhân và nó rất giản dị. Nó cho rằng nếu con sống theo một số quy luật trong cõi vật chất, con có thể hội đủ điều kiện để vào cõi tâm linh.

Con yêu dấu, một lần nữa lại có một điểm vi tế. Thày không nói là có một số quy luật sống là điều hoàn toàn sai. Con có thể thấy là Giê-su, chẳng hạn, trong bài Thuyết giảng trên Đỉnh núi và một số bài giảng khác, đã đưa ra một số quy luật về cách con người phải cư xử, phải đối xử với nhau. Chắc con cũng biết là các quy luật này chủ yếu nhắm vào những người ở dưới tầng tâm thức 48?

Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, con rất tập trung vào cái ta tách biệt và con sẵn sàng dùng vũ lực để bảo vệ cái ta tách biệt và thỏa mãn những ham muốn của nó. Con sẵn sàng dùng vũ lực, tuy cường độ vũ lực mà mỗi người dùng có thể khác nhau. Dĩ nhiên, khi con dùng vũ lực thì con tạo nghiệp. Do đó, đối với những ở người ở trạng thái tâm thức này, điều cần thiết là quy định một số luật lệ để, nếu họ tuân theo các luật lệ này thì họ sẽ ít tạo nghiệp cho họ. Con cũng biết là sa nhân sẽ tìm cách hủ hóa bất cứ điều gì được công bố trên hành tinh này? Điều mà sa nhân đã làm là họ nói các quy luật vỏ ngoài không chỉ áp dụng cho người ở dưới tầng tâm thức 48, nhưng áp dụng cho mọi người và mọi người phải tuân theo chúng. Sau đó, sa nhân đã đưa ra ý tưởng là khi làm theo các quy luật vỏ ngoài đó (thường có nghĩa là tuân theo giới thượng lưu quyền lực gồm các sa nhân đang đầu thai, tỷ dụ như các thày tu giả hay một lãnh tụ thế quyền) thì con được bảo đảm sẽ đủ điều kiện vào thiên đàng. Lời gian dối chính là ở đó.

12.4. Con sẽ không lên thiên đàng

Lời gian đối này có nhiều tầng. Con yêu dấu, con sẽ không lên thiên đàng. Con hãy suy nghĩ câu nói này. Con sẽ không lên thiên đàng. Có hai lý do vì sao. Lý do thứ nhất là cái “ta” mà con hiện đang là không hội đủ điều kiện để thăng thiên. Khi con đi lên về hướng tầng 144 của tâm thức, thì cái “ta” mà con có hiện nay sẽ chết đi. Cái “ta” kế tiếp mà con mang vào cũng sẽ chết đi. Con sẽ tiếp tục cho phép từng cái “ta” một chết đi cho tới khi con đến tầng 144, và lúc đó con để cho tàn dư của cái ta tách biệt chết đi và con thăng thiên trong hợp nhất. Lý do thứ hai là con sẽ không bao giờ vào thiên đàng nếu con nghĩ con cần đi đến chỗ nào khác chỗ con đang ở.

Khi con đi về hướng tầng 144, không phải là con càng ngày càng đi gần tới thiên đàng. Đúng hơn là con dần dần vượt qua ảo tưởng cho rằng có khoảng cách giữa con và thiên đàng. Con tới điểm, ở tầng 144, con không đi lên thiên đàng mà đúng hơn là con chấp nhận con đang ở thiên đàng. Con có thấy chăng là sẽ có một điểm – mà điểm này là ngay bây giờ – con cần nhận ra điều này để có thể đạt được tự điều ngự?

Con cần nhận ra là ngay cả trên con đường tâm linh, con có thể dùng một giáo lý tâm linh để củng cố cái ta tách biệt. Khi con làm thế, sẽ tới một lúc điều này sẽ ngưng sự tiến bộ của con. Thày có nói trong bài giảng trước là thày có nhiều thí dụ những người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm nhưng họ đã ngưng tiến triển, và đó là lý do. Họ không nhận ra nhu cầu nhìn vào hình ảnh mà họ đã áp đặt lên chính họ là một đệ tử chân sư thăng thiên phải như thế nào – một đệ tử chân sư thăng thiên tốt phải như thế nào.

Không nhất thiết là tất cả khía cạnh của hình ảnh này đều sai. Con cần nhận ra là con cần buông bỏ dần dần hình ảnh này cho tới khi con tới điểm không còn hình ảnh nào nữa quy định con phải như thế nào. Con đã vượt qua ý niệm một đệ tử tâm linh phải như thế nào đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là dù con đang học một giáo lý tâm linh, giáo lý đó vẫn trình bày ý tưởng đến với con từ bên ngoài? Mục đích của giáo lý (nếu đó là một giáo lý tâm linh chân thật phát xuất từ chân sư thăng thiên) là đưa con tới điểm con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Có thể là để khiến con tới được chỗ đó, con cần có trong một thời gian hình ảnh một đệ tử tâm linh phải như thế nào, và con cố sống theo hình ảnh đó. Con có thấy chăng là khi con làm vậy, con vẫn đang củng cố một khía cạnh nào đó của cái ta vỏ ngoài, và cái ta đó ngăn chặn con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ?

12.5. Tuân theo một ý tưởng trong tâm

Thày muốn con bước lui lại và xem xét con đang làm gì trên mặt tâm lý khi con có ý tưởng một đệ tử tâm linh phải như thế nào. Cách vận hành này chính là bản chất của cái ta vỏ ngoài. Nó là (như thày đã giảng trong bài trước) nỗ lực khiến vũ trụ tuân theo một ý tưởng trong tâm, tâm vỏ ngoài, cái ta tách biệt. Thay vì tìm cách khiến vũ trụ tuân theo, con đang tìm cách khiến chính con tuân theo.

Con đang muốn bắt cái ta nào phải tuân phục? Một phần đó là cái ta vỏ ngoài. Dĩ nhiên là cái ta vỏ ngoài chấp nhận hình ảnh thế nào là một đệ tử tâm linh toàn hảo. Cái ta vỏ ngoài thường rất sốt sắng sống theo hình ảnh đó vì nó tin rằng khi đó, nó sẽ được các chân sư thăng thiên chấp nhận và cho phép nó vào cõi thăng thiên.

Nhưng cái ta khác mà con cũng muốn ép phải tuân theo hình ảnh đó là cái Ta Biết, mà các thày đã nhiều lần nói gì? Cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết. Cái Ta Biết không phải là cái ta vỏ ngoài, nó chưa bao giờ là và nó sẽ không bao giờ là cái ta vỏ ngoài. Cái Ta Biết không xuống thế gian với cái ta vỏ ngoài. Nó cần cái ta vỏ ngoài để biểu hiện trong thế giới này, nhưng con không cần cái ta vỏ ngoài để thăng thiên, để trở về cõi tâm linh. Thực ra con cần buông bỏ cái ta vỏ ngoài để trở về cõi tâm linh.

Con có thấy chăng là cái ta vỏ ngoài chỉ có thể là một chướng ngại cho sự tiến bộ tâm linh của con? Trong điều kiện lý tưởng, cái Ta Biết là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, không hơn không kém. Do đó, khi con cưỡng ép cái Ta Biết phải tuân theo một hình ảnh do cái ta vỏ ngoài dựng lên thì con không phải là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Con yêu dấu, thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Con không được phép là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ, là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ là sai, biểu hiện ánh sáng tâm linh là sai, biểu lộ khả năng sáng tạo là sai bởi vì con phải luôn luôn tuân theo quy luật. Thủ đoạn đánh lừa của sa nhân là khiến con tin rằng thay vì con sáng tạo và biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ, con phải bắt dòng sáng tạo chảy qua phin lọc của cái ta vỏ ngoài. Cái phin lọc này, dĩ nhiên, được tạo ra trên căn bản các điều kiện trong cõi vật chất. Nếu con cho phép dòng sáng tạo chảy qua phin lọc này, sẽ có một số điều kiện trong cõi vật chất mà con không bao giờ vượt qua được. Con sẽ không bao giờ dám biểu lộ bất cứ điều gì thách thức hay thăng vượt những hạn chế này của cõi vật chất.

12.6. Vượt quá những gì con người cho là khả thi

Con nghĩ vì sao Giê-su, hai ngàn năm trước đây, phải biểu diễn một số phép lạ? Những việc này được chính thức gọi là phép lạ, nhưng chúng không phải là phép lạ. Giê-su chỉ giản dị cho phép Hiện diện TA LÀ của thày hành động qua thày; thày là cánh cửa mở. Hiện điện TA LÀ có thể làm bất cứ điều gì nó muốn trong thế giới vật chất, nói cách khác nó có thể đi quá điều mà thày Serapis Bey đã gọi là định luật thiên nhiên phụ thuộc. Định luật thiên nhiên phụ thuộc không giới hạn được Hiện diện TA LÀ, và đây là điều Giê-su muốn chứng minh khi thày biểu diễn những việc được gọi là phép lạ.

Thày làm những việc phá tan những gì con người cho là khả thi. Bây giờ thì chúng ta sống vào một thời đại khác và do đó không cần làm những loại phép lạ đó nữa. Bây giờ là lúc giúp con người thấy được quyền năng nội tại của họ, và điều này có ý nghĩa khác hẳn trong thời đại này. Điều thày muốn nói là sa nhân đã quy định các định luật thiên nhiên phụ thuộc và họ đã làm vậy vì hai lý do. Một phần là để cho họ một số quyền lực khi họ đạt được điều mà thày gọi là “điều ngự bên ngoài” khi họ chế ngự được định luật thiên nhiên phụ thuộc. Họ cũng đặt ra những định luật này vì chúng giới hạn tất cả các người khác và do đó cho phép sa nhân khống chế được người khác.

Khi con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy là chưa bao giờ có môt sa nhân đã chứng minh quyền năng lớn trong thế giới vật chất mà không bóc lột người khác. Thày có nói về các nhà tỷ phú đã có khả năng biểu hiện đúng những điều kiện bên ngoài mà họ muốn. Họ cũng làm vậy vì họ khiến người khác làm đa số công việc hộ họ, hoặc bằng cách ép buộc hoặc bằng cách mua dịch vụ. Họ không biểu hiện những điều kiện này do quyền năng của họ nhưng bằng cách điều khiển người khác. Các định luật thiên nhiên phụ thuộc được đặt ra một phần để khiến con người tin rằng họ không có quyền năng quá một mức nào đó. Con có thấy chăng là nếu con thấy con phải sống theo một hình ảnh đệ tử tâm linh nào đó, thì con không thể là cánh cửa hoàn toàn mở cho quyền năng sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con?

Con yêu dấu, vị sứ giả này đã theo một giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều năm. Đó là một giáo lý chân chính. Lúc đó nhóm đó là một tổ chức sinh động và ông đã được hưởng nhiều lợi lạc. Nếu ông hoàn toàn chấp nhận hình ảnh đệ tử chân sư thăng thiên do tổ chức đó đề ra, thì ông đã không bao giờ dám trở thành một sứ giả của chân sư thăng thiên. Ông sẽ tiếp tục là một đệ tử, và nếu vậy ông đã không làm đúng theo những gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của ông. Con có Sứ vụ Thiêng liêng của con, và điều duy nhất mà thày muốn là con sẽ không cho phép hình ảnh của một đệ tử tâm linh tốt ngăn cản sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con.

12.7. Sứ vụ Thiêng liêng của con quan trọng như thế nào?

Khi con tới điểm này, dĩ nhiên là con cần quyết định một cách ý thức điều gì quan trọng nhất cho con. Thày biết là hiện nay có lẽ con không thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể thấy rõ điều con nghĩ là một đệ tử tâm linh tốt. Dĩ nhiên, chọn một viễn kiến rõ dễ hơn là chọn một viễn kiến không rõ. Tuy nhiên, bản chất của con đường tâm linh là con sẵn sàng bước đi bước kế tiếp ngay cả khi con không thấy rõ nó dẫn con đi đâu. Thày muốn hỏi con xem xét điều gì quan trọng nhất cho con: Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con (mà con và các chân sư thăng thiên đã thiết lập trước khi con đầu thai), hay là tiếp tục sống theo hình ảnh hiện nay của con về người đệ tử tâm linh tốt? Con yêu dấu, con thấy chăng, con không thể làm cả hai việc.

Con có thể nghĩ là nếu con có một viễn kiến chính đáng về người đệ tử tâm linh tốt, thì nếu con sống theo hình ảnh đó, thì một ngày nào đó con sẽ, như một phép lạ, hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình, nhưng điều này không đúng. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con nếu con giữ chặt hình ảnh hiện nay về cách cư xử của con. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con bằng cách ép buộc mình phải sống theo một hình ảnh được quy định trong thế giới này. Con cần tới điểm con hoàn toàn cởi mở để Hiện diện TA LÀ biểu hiện điều nó muốn qua con.

Con yêu dấu, con hãy để thày trở ngược lại điều thày đã nói ở trên, là đằng sau phản ứng nghĩ rằng, như một đệ tử tâm linh, con phải cư xử cách nào đó, là một cơ chế khiến con cảm thấy con cần phải sống theo một hình ảnh nào đó. Điều thày muốn con thấy ở đây là mỗi khi con có cảm giác con phải như thế này, con phải làm điều này, con phải hành xử như thế này, thì điều đó tới từ cái ta tách biệt, cái ta vỏ ngoài, tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa. Nó là lực hút, mở con ra với sa nhân.

Thày biết rõ là có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên cho rằng các thày, chân sư thăng thiên, muốn áp đặt điều gì lên con, đòi hỏi con làm điều gì, hầu như đe dọa con phải tuân theo giáo lý của các thày. Thày đã nói gì trong suốt các bài giảng trước về phin lọc nhận thức? Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên, các thày là như các thày là. Các thày biết là khi một đệ tử tìm ra giáo lý của các thày, người đệ tử đó có một phin lọc nhận thức và do đó không thể thấy các thày như các thày là. Do đó, các thày cho phép đệ tử dần dần rũ bỏ phin lọc nhận thức để bắt dầu thấy các thày như các thày là.

Ở điểm này của khóa nhập thất của thày, con cần nhận ra là các thày không ép buộc con làm bất cứ điều gì. Ý tưởng các thày muốn ép buộc con là một ý tưởng đến từ sa nhân. Nó được đưa ra bởi nhiều tôn giáo và triết lý và ý tưởng thuộc nhiều phong trào tâm linh và Thời đại Mới.

12.8. Vượt qua một nền văn hóa dựa trên sợ hãi

Các thày đã thấy trong nhiều tổ chức chân sư thăng thiên trước đây là nhiều người đã đến với hình ảnh dựa trên sợ hãi về thày tâm linh. Trong một số tổ chức, họ đã tạo ra một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, đưa ra quan niệm là các thày rất trọng kỷ luật, rất đòi hỏi, ảnh hưởng con bằng sợ hãi, nghi ngờ, hổ thẹn hay mặc cảm tội lỗi. Có những tổ chức được các thày bảo trợ và đã đem lại nhiều bài truyền đọc chân chính, nhưng tuy nhiên đệ tử trong các tổ chức này đã xây dựng một nền văn hóa dựa trên sợ hãi và mặc cảm tội lỗi. Con có biết hậu quả tai hại nhất của văn hóa này là gì chăng? Nó khiến những người chịu ảnh hưởng văn hóa đó nghi ngờ những nhắc nhở trực giác đến từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ tìm cách tuân theo văn hóa vỏ ngoài thay vì theo trực giác của họ.

Khi con khiến một người khác nghi ngờ trực giác của họ, thì đó cũng là cách nhanh nhất để con tạo nghiệp. Một lần nữa, thày không muốn gây sợ hãi khi thày nói vậy. Điều thày muốn trình bày là con có thể có một sứ giả chân chính đem lại những bài truyền đọc chân chính và đã tạo ra một tổ chức được các thày bảo trợ, nhưng những người trong tổ chức đó vẫn xây dựng được một nền văn hóa dựa trên sợ hãi. Một lần nữa, điều này không sai trái một cách vĩ đại vì việc mỗi người tới với phin lọc nhận thức của họ là một điều dễ hiểu. Lý do là sa nhân đã phóng chiếu ý tưởng này lên tâm thức đại chúng suốt một quá trình lịch sử dài. Dĩ nhiên là có một lý do vì sao các thày chỉ có thể bảo trợ trong một thời gian một tổ chức có văn hóa dựa trên sợ hãi và không chịu buông bỏ nó. Đó là lý do vì sao ở điểm này thày tìm cách giúp con nhận ra là đã đến lúc con buông bỏ hình ảnh dựa trên sợ hãi về cách con phải cư xử như một đệ tử tâm linh.

12.9. Tiếp nối so với sáng tạo

Con yêu dấu, điều thày nói ở trên dẫn ta tới một điểm, một đề tài rất vi tế. Ý tưởng đằng sau quan niệm định luật thiên nhiên phụ thuộc là chúng đem lại sự tiếp nối, vì chúng không thay đổi theo thời gian. Mơ ước của sa nhân là tạo ra một vũ trụ máy móc. Con có hiểu chăng điều họ thực sự muốn làm, dù ngay cả đa số họ cũng không ý thức điều này? Điều họ muốn làm là chế ra một con đường máy móc đưa tới cứu rỗi để họ có thể vào cõi thăng thiên mà không phải buông bỏ mọi tàn dư của cái ta tách biệt, mọi tàn dư của tâm thức sa nhân. Họ muốn ăn gian hay xông vào thiên đàng.

Dĩ nhiên là điều này không thể làm được. Tuy nhiên, để Luật Tự quyết có thể tự trải bày, các thày đã cho phép một số nhỏ hành tinh có độ dày đặc vật chất khiến gây ra cảm tưởng là có một số định luật thiên nhiên phụ thuộc không thay đổi theo thời gian. Các thày đã cho phép điều này vì như vậy không những sa nhân mà các sinh thể khác cũng được cơ hội sống hết ước muốn kiểm soát cho tới khi họ tới điểm nhận ra đây là một sự phù phiếm, hoặc họ giản dị chán ngán.

Có nhiều đệ tử tâm linh đã dùng một giáo lý tâm linh chân chính để củng cố niềm tin vi tế cho rằng con cần theo một số bước máy móc để hội đủ điều kiện thăng thiên (hoặc đạt được giác ngộ hoặc bất cứ mục tiêu nào khác). Con có thể nói là tất cả giáo lý mà các thày đã trao truyền có thể bị dùng cho mục tiêu này. Các thày đã cho con khái niệm 144 tầng tâm thức. Các thày đã cho con một khóa học có cấu trúc về tự điều ngự dẫn con đi từng bước một. Con có thể dùng các điểm này để củng cố tư duy máy móc khiến con nghĩ rằng con chỉ cần thực hành một số bước. Nhưng có phải chăng là các thày đã nói nhiều lần (nếu con thực sự chú ý nghe) là khóa học này không phải là một khóa học máy móc?

Dĩ nhiên là con có thể theo khóa học này một cách máy móc. Con có thể bắt đầu bằng quyển sách thứ nhất, đọc bài truyền đọc của bước thứ nhất, đi từ tầng tâm thức 48 lên tầng 49. Con có thể đọc bài thỉnh của bước đó mỗi ngày trong 9 hay 33 ngày hay bao nhiêu ngày mà con chọn. Nhưng điều này không có nghĩa là con sẽ tự động đi từ một tầng lên tầng kế tiếp.

Các thày lúc nào cũng nói là khóa học là một khóa học sáng tạo. Nó đòi hỏi con phải nhận ra một hiểu biết mới và nó đòi hỏi con phải lấy quyết định. Điều tối thiểu là con phải chấp nhận hiểu biết mới và qua đó buông bỏ ảo tưởng đã bị hiểu biết đó thay thế. Đây không phải là một tiến trình máy móc.

12.10. Mơ ước của sa nhân

Con đường vươn lên qua 144 tầng tâm thức đòi hỏi con dần dần buông bỏ những khía cạnh của cái ta tách biệt. Điều sa nhân mong muốn là được vào thiên đàng mà không cần buông bỏ cái ta tách biệt. Con yêu dấu, điều họ mơ ước là nếu họ gian lận vào được thiên đàng, thì họ đột nhiên có được tất cả quyền năng và do đó có thể biểu hiện quyền năng đó qua cái ta tách biệt và hoàn toàn làm chủ thế giới.

Dĩ nhiên là điều này không thể nào xảy ra vì khi con còn bất cứ ý định ép buộc người khác hay ép buộc thế giới, thì con không thể thăng thiên, con yêu dấu. Con cần phải hoàn toàn bất hung hãn, bất bạo động để có thể bước vào cõi tâm linh. Sa nhân tìm cầu điều không thể có, và ở tầng này con cần nhận ra là điều này không thể xảy ra.

Con cần tới điểm (con cần làm bất cứ điều gì con làm được với tâm ý thức để tới điểm này) con thực sự thấy điều này một cách ý thức và cảm thấy trong con có sự buông bỏ. Hiểu bằng trí năng và quyết định buông bỏ ảo tưởng bằng tâm đường thẳng và lý trí, không đủ. Con cần làm việc, nghiên cứu bài giảng này, nghiên cứu các bài giảng trước của thày, đọc bài thỉnh, nhìn mọi khía cạnh, xin thày trợ giúp, để con cảm thấy đây không phải là một quyết định vỏ ngoài. Đây không phải là một quyết định của tâm vỏ ngoài; nó tự phát từ bên trong tâm con. Có một quyết định, nhưng không phải một quyết định của ý chí, nó là một quyết định tự phát. Nó không phải là một quyết định dựa trên sợ hãi; nó là một quyết định dựa trên tình thương. Con thấy là con không còn muốn đi theo con đường giả này, con không còn muốn sống hết cuộc đời mình dựa trên ý tưởng vỏ ngoài là con phải như thế nào. Con muốn con là người con là ở mỗi lúc.

12.11. Sự sống còn của cái ta vỏ ngoài

Con yêu dấu, con thấy chăng là cái ta vỏ ngoài khẩn thiết muốn sống còn. Nó biết nó sẽ chết, nhưng nó muốn tạo ra cảm tưởng là nó có thể bất tử. Nó nghĩ để trở nên bất tử thì nó phải giữ nó bất biến với thời gian. Con có thấy chăng đây là mơ ước của sa nhân và mơ ước đằng sau các định luật thiên nhiên phụ thuộc? Họ muốn chế ra cái gì trường tồn, cái gì bất biến với thời gian. Con yêu dấu, là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ có nghĩa gì? Có nghĩa chăng là con luôn luôn như cũ? Không phải vậy đâu, điều này có nghĩa là con không bao giờ như cũ, vì bất kỳ Hiện diện TA LÀ muốn biểu hiện điều gì xuyên qua con trên trái đất, thì con cho phép điều đó xảy ra. Khi Giê-su đi trên trái đất 2,000 năm trước đây, thày không đi và suy nghĩ với tâm vỏ ngoài: “Ta là Ki-tô Hằng sống, ta phải xử sự đúng theo tiêu chuẩn này khi làm bất cứ điều gì.” Khi thày gặp một hoàn cảnh nào, thày không suy nghĩ với tâm vỏ ngoài: “Ta phải hành xử như thế nào trong hoàn cảnh này?” và sau đó ép buộc mình phải hành xử như vậy.

Không đâu, thày ở trong hoàn cảnh. Tâm vỏ ngoài của thày bị vô hiệu hóa, bất cứ tàn dư nào của tâm vỏ ngoài mà thày có bị vô hiệu hóa. Điều thày làm trước hoàn cảnh bên ngoài đó là thày đi vào nội tâm và một cách giản dị, trở nên hoàn toàn trung dung, hoàn toàn cởi mở. Lúc đó, Hiện diện sẽ hành động xuyên qua thày một cách tự do. Con có thể thấy là Giê-su (nếu con có thể đi cùng với thày) có thể gặp một người bị tật nguyền, chẳng hạn như có một cánh tay bị teo lại, và Giê-su chữa lành cho người đó. Hai tuần sau, thày lại gặp một người khác có tay bị teo lại, mà nếu con áp dụng tâm thức sa ngã thì con sẽ nói: “Giê-su sẽ chữa lành người này như thày vừa làm với người kia.”

12.12. Mỗi hoàn cảnh đều phức tạp

Điều con không thể thấy với tâm vỏ ngoài là tất cả sự phức tạp của một hoàn cảnh nào đó. Hiện diện TA LÀ của Giê-su biết hoàn cảnh nghiệp quả phức tạp của người đầu với cánh tay bị teo. Do đó, nó có thể thấy việc chữa lành cánh tay đó sẽ giúp hành tinh và người đó tiến triển. Cũng như vậy, Hiện diện TA LÀ có thể thấy là trong trường hợp người thứ nhì, chữa lành cánh tay không phải là điều hữu dụng.

Nếu con nhìn vào những hoàn cảnh này và phân tích mọi khía cạnh, con có thể lượng định, phân tích, giống như những gì khoa học gia có thể làm, để giải thích vì sao người đầu được chữa lành và người sau thì không. Con yêu dấu, vấn đề là lời giải thích này rất phức tạp và sẽ mất rất nhiều thì giờ để tìm ra nó. Con có thấy điều thày muốn nói ở đây là gì chăng?

Con sống trong đời và con gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau. Giả thử con gặp một hoàn cảnh và con muốn dùng tâm vỏ ngoài để biết rõ con phải hành xử ra sao và vì sao lại làm vậy. Giả thử con được một lời giải thích viết thành một quyển sách dày 1500 trang, do đó con cần nhiều ngày để đọc xong quyển sách đó. Dĩ nhiên là khi con đọc xong quyển sách và hiểu bằng tâm vỏ ngoài là con phải hành xử ra sao, thì hoàn cảnh đã thay đổi và lúc đó đã quá trễ để hành động.

Nếu con muốn nhìn một cách cùng cực hơn, giả thử con đang đi trong rừng rậm và con nghe thấy tiếng động xào xạc dưới bụi cây. Con muốn hiểu tình hình với tâm vỏ ngoài và con cần năm phút để hiểu tình hình. Lúc đó, con sư tử đã vồ lấy con và ăn thịt con.

Con có thể thấy cách hành xử trên không đúng theo tinh thần của một sinh thể Ki-tô. Là một sinh thể Ki-tô không có nghĩa là con có một lời giải thích bằng tâm vỏ ngoài phải hành xử như thế nào trong mọi hoàn cảnh. Không có nghĩa là con biết hết mọi chuyện, mọi khía cạnh của một hoàn cảnh. Là một sinh thể Ki-tô có nghĩa là con luôn luôn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ và con tuân phục xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ trong mỗi cảnh huống.

Con không tìm cách ép buộc con phải hành động y như những gì con đã làm trong quá khứ trong cùng cảnh huống. Con không áp đặt bất cứ cái phải là nào lên trên một hoàn cảnh. Con không tìm cách hành động một cách bất biến. Con tìm cách hành động tự phát trong mọi tình huống. Đó là ý nghĩa của quả vị Ki-tô.

12.13. Tự phát mà không phân tích

Có một số học viên đã xây dựng ý tưởng rằng con đường tâm linh có nghĩa là càng ngày càng biết và hiểu nhiều hơn với tâm vỏ ngoài, trí đường thẳng, trí năng. Họ nghĩ rằng rốt cuộc họ sẽ tới điểm mà họ biết mọi thứ và có thể giải thích mọi thứ. Do đó, trong mọi cảnh huống, họ có thể biết điều gì đúng để làm.

Sau đó, con cũng có cùng những học viên đó, sau khi họ hành động trong hoàn cảnh nào đó, họ phân tích hành động của mình một cách chi tiết tỉ mỉ và hay “dằn vặt mình” vì kết quả không bao giờ tốt đủ. Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con hành xử dựa trên ý tưởng con phải làm như thế nào đó, điều gì sẽ tất nhiên xảy ra? Sau khi con đã hành động và đối mặt với kết quả của việc mình làm, con sẽ phải phán xét mình và kết quả của việc mình làm.

Hành động của con có đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo mà con phải noi theo? Có bao nhiều lần hành động của con đạt được yêu cầu của hình ảnh toàn hảo? Con bước vào tiến trình phải đối phó với nỗi đau đã không làm đúng theo hình ảnh toàn hảo, phải giải thích điều này một cách nào đó, phải phân tích nó, phải coi nó như một cơ hội học hỏi và ép buộc mình phải học từ đó.

Chắc con cũng hiểu là khi con tiến tới quả vị Ki-tô, cách vận hành này sẽ tan biến đi? Con không phân tích vì con biết con đã hòa điệu với Hiện diện. Đây là điều Hiện diện muốn làm trong hoàn cảnh đó và dù hậu quả là gì chăng nữa, đây là điều tốt nhất có thể xảy ra trong hoàn cảnh đó. Điều này không có nghĩa là con, như một sinh thể Ki-tô, lúc nào cũng làm được điều mang lại kết quả lý tưởng hay toàn hảo. Nếu con nhìn vào đời của Giê-su, con sẽ thấy là có lúc thày đã không đạt được kết quả tối hảo trong một cảnh huống. lý do là vì những người khác liên hệ đến cảnh huống đó đã không phản ứng một cách cao nhất. Giê-su đã làm điều thày có thể làm bằng cách hòa điều với Hiện diện TA LÀ của thày. Thày cho những người khác cơ hội thăng vượt trình độ tâm thức của họ và vươn lên cao hơn, nhưng họ chọn không lấy cơ hội đó và do đó kết quả kém hơn lý tưởng. Tuy nhiên, Giê-su không quay vào bên trong, phân tích và dằn vặt mình về chuyện đó vì thày biết một cảnh huống không đứng yên với thời gian. Cuộc sống là một tiến trình luôn chuyển động. Một sinh thể Ki-tô không có mục tiêu tạo ra một kết quả vỏ ngoài nào đó và duy trì nó với thời gian.

12.14. Quả vị Ki-tô và sự trường tồn

Một sinh thể Ki-tô không đi tìm sự trường tồn, bất biến, liên tục. Một sinh thể Ki-tô luôn luôn tìm cách đẩy cho tiến trình sự sống tuôn chảy. Vị ấy biết sự sống là một dòng sông luôn tuôn chảy. Khi con có một tình cảnh, bất kể kết quả là gì, dòng sông sẽ vẫn tuôn chảy. Điều quan trọng không phải là phân tích xem kết quả có phải như vậy hay không nên như vậy. Điều quan trọng là nói: “Bây giờ kết quả là thế này, bước kế tiếp là gì đây? Làm sao chúng ta có thể đẩy tình cảnh tiến tới để chúng ta tiếp tục tiến lên với tiến trình sự sống?”

Sa nhân lúc nào cũng làm việc để đạt kết quả mà họ hình dung. Một sinh thể Ki-tô không đi tìm một kết quả cuối cùng, có thể ngoại trừ sự thăng thiên của một hành tinh hay sự thăng thiên của mọi người trên hành tinh. Đúng thực là một sinh thể Ki-tô nhìn cuộc sống như tuôn chảy theo dòng sông, giúp mọi người thăng vượt hoàn cảnh hiện nay của họ, trạng thái tâm thức hiện nay của họ và tiếp tục tiến triển.

Con có thấy chăng là điều sa nhân đã làm với định luật thiên nhiên phụ thuộc là tìm cách ngưng không để Dòng Sông sự Sống tuôn chảy? Họ đã tìm cách tạo ra một tình trạng trong đó họ có thể duy trì một trạng thái nào đó lâu dài. Thí dụ, con thấy là họ đã mơ ước tạo ra một nền văn minh, như Đế quốc La mã, hay Liên bang Sô viết, hay thể chế tư bản, và có thể duy trì một trạng thái mãi mãi. Con yêu dấu, đó lúc nào cũng là một trạng thái trong đó sa nhân đóng vai trò lãnh đạo và tất cả mọi người làm nô lệ. Họ nắm quyền kiểm soát, họ có địa vị quyền lực và đặc quyền. Bất biến là điều sa nhân mong muốn.

Thăng vượt là điều các chân sư thăng thiên mong muốn. Thăng vượt liên tục là điều các thày mong muốn. Con yêu dấu, con thấy chăng là ở điểm này của con đường tu của con, thày muốn con xem xét: Hình ảnh con có về chính mình nói gì về mục tiêu mà con muốn đạt được? Con có viễn kiến con đường tâm linh sẽ dẫn con tới đâu? Con đang làm việc để đạt được mục tiêu tối hậu nào?

Con có chăng một hình ảnh cố định trong tâm về mục tiêu mà con muốn đạt được khi con hoàn tất khóa học tự điều ngự này và đạt được tầng tâm thức 96? Con có chăng một hình ảnh cố định thế nào là một sinh thể Ki-tô? Con có chăng một hình ảnh cố định thế nào là một chân sư thăng thiên? Nếu thế thì thày muốn con xem xét một cách ý thức là những hình ảnh đó không phù hợp với thực tại vì đường tu là sự thăng vượt liên tục. Con yêu dấu, nó không bao giờ chấm dứt.

12.15. Bất toại nguyện với chính mình

Nếu con đang cố gắng đạt một mục tiêu cố định, thày có thể bảo đảm với con là con sẽ không bao giờ tới đó và điều này có nghĩa là con sẽ mãi mãi bất toại nguyện với chính mình. Thày không muốn con bất toại nguyện với chính mình và sự tiến triển của mình. Thày muốn con cảm thấy và chấp nhận là con đang ở đúng chỗ con cần ở vào lúc này. Thày muốn con cảm thấy hoàn toàn bình an biết rằng con đang ở đúng chỗ con cần ở. Con cũng sẽ tiến lên tầng kế tiếp và con sẽ hài lòng ở nơi đó. Vì sao con phải suốt đời bất toại nguyện với chính mình?

Con yêu dấu, con có thấy chăng là nhiều đệ tử tâm linh hài lòng hơn, an bình hơn với cuộc đời mình trước khi tìm ra con đường tâm linh? Từ khi con tìm ra con đường tu, con có một mục tiêu mà con cảm thấy phải cố gắng đạt được. Con biết là con chưa tới đó và do đó con cảm thấy có khoảng cách, có sự trống vắng. Thày biết là lúc này con chưa sẵn sàng vượt qua sự trống vắng đó. Thày biết là con đã sẵn sàng để có một ý tưởng gieo vào trong tâm là sẽ có một lúc con sẽ sẵn sàng đối mặt nó và vượt qua nó. Điều này không cần thiết, nhưng nó là sản phẩm không thể tránh của ý tưởng rằng con phải là cái gì đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng hình ảnh mà con đang áp đặt lên chính mình ngay lúc này, quy định thế nào là một đệ tử tâm linh? Con có thấy nó chăng? Nếu con không thấy, con hãy xin thày giúp, và thày sẽ giúp con trong lúc con tiếp tục học bài này. Khi con thấy nó, con có thể nào buông bỏ nó và cho phép mình hơn là hình ảnh đó?

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Bây giờ thày hơn là khi thày bắt đầu bài truyền đọc này. Con có hơn là khi con bắt đầu đọc hay nghe nó chăng?

Làm sao ngưng phóng chiếu ra ngoài

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 15/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Con gặp gì khi con tới tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày? Con gặp nhu cầu đối phó với một ảo tưởng vi tế khác, một ảo tưởng rất khó vượt qua, một khai ngộ khó khăn khác. Thày có nói là con có thể đã theo con đường tâm linh trong nhiều năm, ngay cả học giáo lý chân sư thăng thiên trong nhiều năm, nhưng vẫn còn một số ảo tưởng về điểm cốt yếu của con đường tâm linh.

Con yêu dấu, con có thể có hai cách nhìn. Dĩ nhiên con biết câu chuyện cũ về ly nước nửa đầy hay nửa vơi. Cũng giống vậy, một số đệ tử tâm linh, khi nhận ra là họ đã có một ảo tưởng hay đã làm việc gì không được cao cả nhất, có khuynh hướng nhìn khía cạnh tiêu cực và thấy là họ đã làm gì sai. Có nhiều cảm xúc liên hệ, như sợ hãi, hổ thẹn, hay tội lỗi.

Một số đệ tử khác nhìn sự việc một cách tích cực hơn và nhận ra mình đã nắm chặt một ảo tưởng là một điều tốt. Vì như vậy họ được giải thoát để lên tầng cao hơn của đường tu. Thái độ này, dĩ nhiên, là điều thày muốn con đạt được khi con tới tầng này của khóa nhập thất của thày.

10.1. Một ảo tưởng ở mỗi bước trong số 144 bước

Nếu con lùi lại và nhìn vào con đường tâm linh, thì con thấy là các thày có nói là con cần đi qua 144 tầng trước khi con sẵn sàng thăng thiên. Các thày cũng có nói là ở mỗi tầng có một trạng thái tâm thức tương ứng với tầng đó. Gắn liền với trạng thái tâm thức ở mỗi tầng là một ảo tưởng nào đó. Ảo tưởng này không nhất thiết là một ảo tưởng tiêu cực.

Khi con ở dưới tầng tâm thức 48, con nắm chặt ảo tưởng cho rằng con là một sinh thể tách biệt và con sẽ không bị hậu quả nếu con cư xử xấu với người khác hoặc con có quyền cư xử xấu với người khác. Khi con lên trên tầng 48, con có một loại ảo tưởng khác nhằm giữ con ở một trình độ nào đó. Những ảo tưởng này không nhất thiết hung hãn hay phá hoại, do đó không có lý do cảm thấy tiêu cực vì có chúng.

Con có thể nói là ở tầng tâm thức hiện nay của con, việc con không nhìn ra ảo tưởng tương ứng với tầng tâm thức đó là điều không thể tránh được. Nếu con đã nhìn ra ảo tưởng đó, con đã thăng lên tầng kế tiếp rồi. Con có thể nhìn con đường tâm linh như một tiến trình qua đó, từng bước một, con nhận ra ảo tưởng nào đó, và do đó buông bỏ và vượt qua nó.

Có thể nói con đường tu là như thế, và do đó con có thể tới điểm mà con không xem chuyện này là tiêu cực. Con không ngần ngại nhận ra ảo tưởng. Con cởi mở; con sẵn sàng nhận ra ảo tưởng. Trên thực tế, con tìm xem ảo tưởng kế tiếp là gì: “Ở bước này, ảo tưởng mà con cần vượt qua là gì?” Rồi khi con bắt đầu thấy nó, con vui mừng là bây giờ con thấy được nó và chuyện tu gần giống như một trò chơi thể thao.

Con có những trò chơi vi tính trong đó con đi trong đường hầm và có một số quái vật nhảy ra và con phải bắn giết chúng. Con có thể nhìn con đường tu một cách tương tự: con đi trên đường tu và ở mỗi tầng có một ảo tưởng nhảy ra trước mặt con, đó là cơ hội để con thấy nó, nhìn kỹ nó, thấy bản chất thật của nó, và sau đó buông bỏ nó và vượt qua nó.

10.2. Khiến con đường tu dễ dãi hơn cho con

Nếu con có thái độ này, thì phần còn lại của khóa học này và của con đường tu cho tới khi con sẵn sàng thăng thiên sẽ dễ dàng hơn cho con rất nhiều. Con không phải gánh chịu phản ứng không tránh được của tự ngã (hay là kẻ đứng trên ngưỡng cửa) muốn con dính mắc vào ảo tưởng ở mỗi tầng.

Con yêu dấu, con hãy tưởng tượng con duyệt qua những ảo tưởng từ tầng hiện nay của con đến tầng thứ 144 và ở mỗi bước con phải đánh nhau với tự ngã và kẻ đứng trên ngưỡng cửa. Tại sao con lại phải làm vậy khi con có thể khiến mọi chuyện dễ dãi cho con hơn bằng cách đứng lui lại và lấy thái độ coi đường tu cốt yếu là để thấy và vượt qua từng ảo tưởng một? Giống như chơi một trò chơi vi tính tương đối vô hại trong đó con tuần tự tiến lên qua một số tầng, thì trên con đường tu con có thể có cảm giác tương tự giống như khi con trong môi trường ảo của trò chơi vi tính. Thày không nói là những gì con người làm trên trái đất không có hậu quả hệ trọng hơn một trò chơi vi tính. Nhưng con có thể tránh đi vào phản ứng tiêu cực. Thày hy vọng là con tới điểm con không còn xem các bước sáng ngộ trên con đường tu hệ trọng đến độ mỗi bước trở thành một gánh nặng lớn và một bi kịch vĩ đại đối với con.

10.3. Chân lý là gì?

Ở tầng này của khóa nhập thất của thày, con phải đối phó với ảo tưởng nào? Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên (trong đó có người đã học giáo lý của các thày từ nhiều chục năm) đã có niềm tin – và đây là điều dễ hiểu – là giáo lý các thày dạy cho con chân lý; chân lý cao nhất. Dĩ nhiên là con cũng biết là một khía cạnh của Tia thứ Năm là Chân lý. Như Pontius Pilate có hỏi Giê-su: “Chân lý là gì?”. Đây chính là một câu hỏi mà nhiều học viên đã không xem xét, và con cần xem xét câu hỏi này ở tầng này của khóa nhập thất của thày.

Chân lý là gì? Chúng ta hãy tạm thời đứng lui lại và hỏi một câu khác: “Có cái gì thật sự là chân lý chăng?” Với hầu hết mọi người, trong khái niệm chân lý cũng có khái niệm phản chân lý, khái niệm dối trá. Chân lý tương phản với dối trá, và đây là cái gì? Hai đối cực dính liền với nhau, con yêu dấu, đây chính là nhị nguyên, phải không con?

Dĩ nhiên là thày biết là tâm nhị nguyên có thể lấy bất cứ trạng thái nào và tạo ra một hoàn cảnh mới trong đó có hai đối cực. Các thày có thể nói là một chân lý không nhị nguyên. Nó có mặt ở đây. Trong cõi thăng thiên, các thày biết chân lý. Thày ở trên Tia thứ Năm và thày biết chân lý rất rõ vì thày mỗi lúc trải nghiệm chân lý như một thực tại hằng sống, một ngọn lửa tâm linh. Chân lý mà thày trải nghiệm trên cõi thăng thiên không có cái đối nghịch. Nó không tương phản với một cái đối nghịch. Nó không tương phản với phản chân lý hay dối trá.

Điều con cần nhận ra ở tầng này của khóa nhập thất của thày là có sự khác biệt giữa chân lý không nhị nguyên và chân lý nhị nguyên. Chân lý nhị nguyên có cái đối nghịch, do đó con nhận ra cái mà đại đa số con người trên trái đất xem là chân lý quả thực là một khái niệm nhị nguyên vì nó có cái đối nghịch. Tỷ dụ, con sẽ thấy là những người theo đa số các tôn giáo hay đạo sư Thời đại Mới, cho rằng tổ chức của họ có chân lý, giáo lý tâm linh cao nhất, và tất cả những giáo lý khác thấp hơn hay thậm chí còn là phản chân lý.

10.4. Khác biệt giữa sự thật và “Chân lý”

Con yêu dấu, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, không có gì có thể gọi là chân lý. Con có thể nghĩ là nếu con nhìn vào tất cả các tôn giáo và triết lý tâm linh, con có thể xếp chúng trên một thang điểm và nói là có cái có một mức độ chân lý thấp và có cái có mức độ chân lý cao. Thày sẽ không phủ nhận là điều này không thể làm được vì dĩ nhiên là có một số triết lý do sa nhân trực tiếp tạo ra và do đó bao gồm nhiều hơn những ảo tưởng vi tế của họ.

Con cần nhận ra là ngay cả một giáo lý hoàn toàn do sa nhân tạo ra cũng có một số khái niệm mà đa số người tâm linh xem là thật. Nếu không như thế thì con người đã không bị giáo lý đó lừa gạt. Sa nhân không tạo ra một giáo lý trong đó mọi thứ đều sai hay đều là dối trá. Họ tạo ra một giáo lý trong đó có nhiều điều mà chúng ta có thể gọi là thật, nhưng có một số khái niệm sai lầm trộn vào. Con người chấp nhận giáo lý đó vì những điều mà họ nhận ra là thật, nhưng sau đó họ cũng chấp nhận những khái niệm sai lầm, và điều này dẫn họ theo con đường giả.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là trong đoạn vừa rồi (nếu con chú ý) chính thày là chân sư thăng thiên, cũng gặp khó khăn dùng từ “sự thật” hay “chân lý” mà không đi vào một lượng định nhị nguyên tương phản nó với phản sự thật. Chúng ta hãy tạm để vấn đề này qua một bên. Điều mà thày muốn chúng ta chú tâm vào là nếu chúng ta lấy tất cả các tôn giáo và triết lý tâm linh và tạo ra một thang điểm xếp hạng chúng theo mức độ sự thật, thì các đệ tử chân sư thăng thiên sẽ có khuynh hướng nói rằng giáo lý chân sư thăng thiên được công bố như bài truyền đọc qua một sứ giả được bảo trợ, có mức độ sự thật cao nhất. Điều này vừa đúng vừa không đúng.

Dĩ nhiên, đúng là giáo lý các thày được trao truyền với mục đích duy nhất là giải thoát các con. Giáo lý không có những điểm sai cố ý nhằm đánh lừa con, như giáo lý của sa nhân. Nhưng con cần nhận ra rằng tuy các thày cho con một giáo lý thật, các thày không cho (và không tìm cách cho con) “Chân lý”. Chúng ta hãy phân biệt ở đây sự khác biệt tinh tế giữa chân lý“Chân lý”.

Chân lý, hay sự thật, là một khái niệm nói chung. Một điều nào đó có thể chất chứa nhiều hay ít sự thật. Nhưng trong tâm thức đại chúng có một khái niệm về cái gì gọi là “Chân lý”. Đây là ý niệm có một giáo lý cao nhất, một sự thật tuyệt đối. Tỷ dụ, con thấy là nhiều người tín đồ Cơ đốc coi Thánh kinh là Lời của Thượng đế, tuyệt đối và không thể sai. Đối với họ, Thánh kinh là “Chân lý”, là thiên khải tuyệt đối cao nhất có thể trao truyền trên hành tinh này.

10.5. Các chân sư không trao truyền “Chân lý”

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên không bao giờ mong muốn đệ tử coi giáo lý của các thày, dù được trao truyền qua một sứ giả được bảo trợ, giống cách người Cơ đốc cực chính thống coi Thánh kinh của họ. Nếu con làm vậy, con đã hụt mục đích chính trong giáo lý các thày. Các thày không tìm cách cho con “Chân lý”, một giáo lý tuyệt đối cao nhất và do đó toàn hảo, sẽ không thay đổi theo thời gian, và không bao giờ cần khai triển hay nới rộng. Đây không phải là mục đích của các thày. Mục đích của các thày là gì?

Mục đích của các thày là gặp gỡ con ở tầng tâm thức nơi con có thể thấu hiểu giáo lý của các thày (tất cả mọi khía cạnh của giáo lý) và sau đó trao cho con điều giúp con bước lên cao hơn. Các thày không tìm cách trao truyền một giáo lý tuyệt đối, không thể sai và không bao giờ thay đổi. Các thày lúc nào cũng tìm cách giúp con tiến lên như một cá nhân để con có thể tới tầng 144 và hội đủ điều kiện thăng thiên. Các thày cũng muốn nâng tâm thức đại chúng, và con cần nhận ra một sự kiện giản dị. Với tầng tâm thức đại chúng hiện nay, những gì các chân sư thăng thiên có thể trao truyền bị hạn chế dù là các thày truyền qua một người sứ giả được các thày đỡ đầu.

Các thày không có tự do nói bất cứ điều gì vì nếu điều các thày nói quá cao so với tâm thức đại chúng thì rất ít người hiểu được. Trong thời đại này các thày không muốn chỉ đi đến một số ít người. Các thày cũng không muốn đi đến tất cả mọi người, nhưng các thày đang tìm cách đi đến nhiều người hơn trước kia. Nếu con nhìn vào các tổ chức mà các thày đã bảo trợ trong thế kỷ vừa qua, con sẽ thấy là lúc ban đầu các thày trao truyền một giáo lý rất khó tiếp nhận, dùng ngôn từ cổ điển, và do đó chỉ thu hút một số nhỏ. Sau đó, các thày dã dần dần trao truyền giáo lý dễ hiểu hơn và do đó thu hút được nhiều người hơn. Điều này dĩ nhiên các thày sẽ tiếp tục làm vì tâm thức đại chúng đang được nâng lên.

Vì tâm thức đại chúng được nâng lên, các thày có thể làm hai chuyện. Điều thứ nhất là các thày có thể trao truyền một giáo lý cao hơn những gì các thày đã làm trước kia, nhưng điều thứ hai là các thày cũng có thể tác động khía cạnh Omega bằng cách đem tới một giáo lý có thể thu hút một cử tọa rộng lớn hơn. Dĩ nhiên là các thày sẽ làm cả hai chuyện đó khi tâm thức đại chúng được nâng lên trong vòng mấy thập niên và thế kỷ tới khi chúng ta càng ngày càng đi sâu vào Thời Hoàng kim.

10.6. Hãy cân nhắc chuyện tham gia vào các tổ chức

Điều con cần nhận ra ở tầng này của khóa nhập thất của thày là mục tiêu của các thày không phải là trao truyền “Chân lý”. Tất cả những gì các thày làm chỉ có một mục đích, đó là giúp những người đang ở một tầng tâm thức nào đó thăng vượt tầng này và tiến lên cao hơn. Con cần xem xét điều này với tâm ý thức của con.

Khi con tới khóa nhập thất của thày trong ba thể cao của con, con không thể tiến lên tầng kế tiếp nếu con không hiểu ra điều này. Điều rất quan trọng là sự nhận biết này (mà con có thể có rất dễ dàng ở tầng ê-the) thấm xuống tâm ý thức của con. Điều quan trọng khác là con sẵn sàng, trong tâm ý thức, dùng lý trí phê bình để xem xét thái độ của con đối với các giáo lý tâm linh cho tới thời điểm này.

Thày biết đây là một việc khó khăn, có thể đau lòng, đối với một số người. Con cần nhìn vào chính mình và thái độ đối với con đường tu, dù có thể đau lòng, và làm những điều chỉnh cần thiết. Khi con làm xong những điều chỉnh này, thày bảo đảm với con là con sẽ cảm thấy giải thoát ˗ giải thoát khỏi gánh nặng đã đè lên con từ ngày con bước chân trên con đường tu. Con sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, và con sẽ sẵn sàng đón nhận một quan niệm hoàn toàn mới về con đường tâm linh.

10.7. Vì sao không có chân lý tuyệt đối

Con yêu dấu, chúng ta hãy xem xét trở lại khái niệm “Chân lý”. Thày có nói là các thày không thể đem xuống một giáo lý tuyệt đối vì con người không thể tiếp nhận nó ở tầng tâm thức hiện nay của họ và ở tầng tâm thức đại chúng hiện nay. Đó chỉ là một phần lý do vì sao các thày không đem xuống một giáo lý tuyệt đối. Phần kia của lý do là các thày nhận ra là không thể đem một giáo lý tuyệt đối xuống một bầu cõi chưa thăng thiên.

Trái đất dĩ nhiên không phải là hành tinh có tâm thức cao nhất trong vũ trụ vật chất. Có hành tinh có tâm thức cao hơn trái đất rất nhiều. Ở các hành tinh đó, các thày có thể đem xuống một giáo lý cao hơn rất nhiều những gì các thày có thể đem xuống trái đất. Tuy nhiên, nếu bầu cõi chưa thăng thiên, đó vẫn không phải là một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi. Con có thể nói là không có một chân lý tuyệt đối không bao giờ thay đổi vì trên cõi thăng thiên cũng có sự tiến bộ liên tục, tăng trưởng liên tục, thăng vượt liên tục. Khi toàn thể vũ trụ tự nâng lên, tự thăng vượt thì chân lý tiếp tục lên cao hơn. Chân lý cũng có tính thăng vượt, và nó chuyển đổi khi tâm thức được nâng lên. Chuyện này cứ tiếp tục như thế cho tới khi con đạt Tâm thức đấng Sáng tạo. Điều con cần làm ở tầng tâm ý thức là nhìn vào điều này và nhận ra là nếu con đi vào con đường tâm linh với ham muốn tìm ra chân lý tuyệt đối, thì con phải buông bỏ ham muốn đó vì nó là một cái gông quanh cổ sẽ trì kéo con lại. Ở trình độ hiện nay của con, con không nên đặt mục tiêu thấy được các đám mây sẽ tẽ ra và con sẽ khải ngộ chân lý tuyệt đối. Các đám mây rất có thể sẽ tẽ ra và con có kinh nghiệm nội tại về cõi tâm linh. Như các thày đã nói nhiều lần, cái Ta Biết thực sự có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và kinh nghiệm Hiện diện TA LÀ, các tầng tâm thức cao hơn, ngay cả cõi tâm linh. Con cũng có thể kinh nghiệm chính đấng Sáng tạo như một trạng thái Sinh thể thuần khiết. Điều con nhận ra, khi con có những trải nghiệm thần bí như vậy, là chúng không thể diễn tả bằng lời. Nếu con tìm cách mô tả chúng bằng lời, con giảm thiểu sự trải nghiệm.

10.8. Chân lý không thể diễn tả bằng lời

Các thày trước đây có đưa thí dụ khi con gặp một người chưa bao giờ nếm trái táo, rất khó để mô tả cho người đó hương vị trái táo vì đó là một trải nghiệm toàn bộ. Điều thày muốn nói là không thể trình bày “Chân lý” bằng ngôn từ.

Con không thể diễn tả một sự thật tuyệt đối bằng lời nói. Thày đã nói về các hành tinh có trình độ tâm thức đại chúng cao hơn, nhưng điều đó có nghĩa cư dân các hành tinh không giao tiếp với nhau bằng ngôn từ, hay ít nhất là chỉ bằng ngôn từ. Điều này có nghĩa là các thày có thể đem xuống đó một giáo lý tòan diện hơn bao gồm một số khía cạnh không diễn tả bằng ngôn từ, và điều này giúp các thày cho cư dân nơi đó một trải nghiệm đày đủ hơn về sự thật.

Con hiểu rằng điều các thày muốn đạt được là dẫn con tới chỗ con có kinh nghiệm thần bí. Con nhận ra có một trải nghiệm cao hơn những gì được diễn tả bằng ngôn từ. Các thày muốn con có trải nghiệm này và đó là mục tiêu của các thày khi con tới khóa nhập thất. Các thày cũng hy vọng là các quyển sách này cùng với giáo lý và các bài thỉnh sẽ giúp con mở tâm (bốn tầng của tâm) ra để con có những trải nghiệm này. Ngôn từ chỉ là phương tiện để đạt một cứu cánh, phương tiện để đưa tới trải nghiệm.

10.9. Phải hành xử ra sao với kinh nghiệm thần bí

Bây giờ, dĩ nhiên, chúng ta gặp một ảo tưởng vi tế khác mà con cần nhìn thấy. Thày có nói về những người Cơ đốc giáo cực chính thống coi Thánh kinh là Lời Thượng đế. Khi con đi vào tâm của những người này, con thấy là có một số người thực sự tin chắc như vậy vì họ đã có một trải nghiệm mà con có thể gọi là trải nghiệm thần bí. Họ đã trải nghiệm tâm thức họ lên một tầng cao hơn bình thường và họ thốt nhiên “thấy”là Thánh kinh là Lời Thượng đế và Giê-su là con đường duy nhất dẫn tới cứu rỗi. Họ trải nghiệm điều này như một kinh nghiệm nội tâm toàn bộ tạo nơi họ một cảm giác choáng ngợp mà họ cảm thấy hoàn toàn thật.

Con yêu dấu, làm sao lại có thể có (khi con biết là Thánh kinh không phải là Lời nguyên văn của Thương đế) một trải nghiệm Thánh kinh là Lời Thượng đế và cảm thấy trải nghiệm này hoàn toàn thực? Ấy, điều này có thể xảy ra vì lý do giản dị là con ở một tầng tâm thức nào đó trong số 144 tầng tâm thức. Như thày đã nói, ở mỗi tầng tâm thức có một ảo tưởng liên quan tới tầng đó. Con có thể bước ra ngoài ảo tưởng đó và thấy cái gì cao hơn, và khi con làm thế, con cảm thấy điều mình thấy rất thật. Trong quá trình lịch sử, hàng triệu người đã có trải nghiệm thần bí. Con yêu dấu, các trải nghiệm này đa phần là chân thật. Những người có trải nghiệm này cảm thấy chúng rất thật. Nhưng sự thực là họ cảm thấy chúng rất thật vì chúng vượt quá tầng tâm thức hiện tại của người trải nghiệm. Chúng không chỉ cho họ thực tại tuyệt đối, cao nhất có thể đạt được.

10.10. Ảo tưởng của sự thực tuyệt đối trong lịch sử

Vấn đề là con người không thể thấy điều này ở các tầng tâm thức thấp. Thày Serapis Bey không giảng đề tài này như thày giảng cho con, vì con chưa sẵn sàng khi con tham dự khóa nhập thất của thày Serapis Bey. Khi con tới tầng thứ tư của khóa nhập thất của thày thì con sẵn sàng thấy với tâm ý thức của con. Đó là lý do vì sao thày giảng điều này. Con yêu dấu, con thấy chăng là ngay lúc này, con đang có một ảo tưởng, và ảo tưởng này có thể là con nghĩ phải có một chân lý cao nhất. Con bây giờ đã sẵn sàng để nhìn quá ảo tưởng này.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn lịch sử thế giới để xem xét ảo tưởng này đã tạo ra những gì. Ngay lúc này, trong lúc thày đang truyền đọc bài giảng này, ở Trung đông có một phong trào gọi là ISIS hay IS. Họ là những người Hồi giáo cực đoan cảm thấy giết người không theo đạo Hồi là điều hoàn toàn chính đáng, và giết luôn cả những người Hồi giáo mà họ nghĩ đang không đi theo con đường chân thật duy nhất. Đa số con người, dĩ nhiên, có thể thấy đây là hình thức cuồng tín. Nhiều người ở Tây phương tự nghĩ: Tại sao lại có người tin như vậy, tại sao họ lại có thể cư xử như vậy? Con nên hiểu là đa số những người cư xử như vậy đã có một trải nghiệm nội tâm mà họ cảm thấy rất thật. Với họ, kinh nghiệm nội tâm này chứng thực niềm tin là truyền bá đạo Hồi là điều cần thiết, ngay cả dùng bạo lực cũng được, và Thượng đế sẽ thưởng họ khi họ làm vậy. Con hãy nhìn suốt chiều dài lịch sử thế giới và thấy đã có bao nhiêu lần con người đã gây chiến tranh với tư duy cuồng tín, tin rằng có một đại nghĩa quan trọng đến độ giết người khác trở nên chính đáng. Con yêu dấu, điều này đã lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong lịch sử. Thày biết là con đã vượt lên trên tầng tâm thức cho rằng giết người để xiển dương một đại nghĩa nào đó là điều chính đáng. Điều thày muốn con làm là con đi bước cuối cùng trong việc buông bỏ hạt giống cuối cùng của tâm thức cuồng tín đó. Đó là khi con, với tâm ý thức, nhận ra và nhìn nhận là không có một đại nghĩa nào trên trái đất biện minh cho việc giết người khác.

Con yêu dấu, chân lý không đáng để chúng ta bỏ mạng và giết người. Lý do rất giản dị. Chân lý là một khái niệm tùy thuộc vào trạng thái tâm thức hiện thời của con. Khi con còn ở trên trái đất, và đúng thực là ngay cả ở cõi thăng thiên, lúc nào con cũng có thể nâng tâm thức mình lên và thấu hiểu một biểu hiện chân lý cao hơn điều mà con có thể hiểu hiện nay.

Giết một mạng người (cũng như là hại mạng mình khi mình tham dự chiến tranh với tư duy cuồng tín và bị giết) là một hành động tuyệt đối vì nó vĩnh viễn chấm dứt cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó. Đúng là linh hồn không chết và sẽ đầu thai trở lại, nhưng nó không thể nào đầu thai trở lại trong cùng hoàn cảnh bên ngoài. Do đó, cơ hội đặc trưng của kiếp sống đó bị chấm dứt vĩnh viễn khi người đó bị giết. Trong khi đó, chân lý không tuyệt đối, không vĩnh viễn. Vậy con có thể thấy: làm sao việc bảo vệ một chân lý không vĩnh viễn có thể biện minh cho một hành động tuyệt đối, vĩnh viễn là việc giết người?

10.11. Vượt qua tư duy cuồng tín

Có đệ tử chân sư thăng thiên vẫn giữ trong mấy chục năm niềm tin là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Đúng là họ thấy trong thời Đức Quốc Xã hay thời Cộng sản là những chủ nghĩa đó không biện minh cho việc giết chóc. Nhưng họ vẫn nghĩ là có thể có một chính nghĩa quan trọng đến độ việc giết người có thể chính đáng. Con yêu dấu, điều này giản dị không đúng. Con cần thấy điều này bằng tâm ý thức, buông bỏ ảo tưởng một cách ý thức vì nó là cái gông trên cổ con. Nó là một lỗ hổng cho sa nhân xâm nhập và khuynh loát con một cách vi tế. Con không thể tiến xa hơn tầng này của con đường tu nếu con không buông bỏ một cách có ý thức niềm tin này.

Tư duy cuồng tín đã biểu lộ một cách hiển nhiên trên hành tinh này. Dĩ nhiên là những phong trào cuồng tín hiển nhiên, như Đức quốc xã hay Cộng sản, đã do sa nhân khởi xướng. Như các thày đã tìm cách giảng cho con, có nhiều trình độ sa nhân. Một số sa nhân thô thiển hơn và một số khác tinh vi hơn. Chắc con cũng nhớ, dĩ nhiên, là Thánh kinh nói rắn là ác thú xảo quyệt nhất. Con thấy là các hình thức cuồng tín hiển nhiên, như ISIS, Đức quốc xã hay Cộng sản, luôn luôn do sa nhân thô thiển khởi xướng. Con có thể nhìn vào Hitler và con thấy là tuy rằng y có khả năng thu hút quần chúng nhưng y không thực sự là một nhà tư tưởng lớn. Đây cũng là trường hợp của, tỷ dụ, Lê Nin và Marx và một số người khác đã khởi xướng các phong trào cuồng tín. Họ không phải là nhà tư tưởng lớn vì họ đã rơi vào tư duy cuồng tín khiến họ bị mù lòa.

Con yêu dấu, nếu con đứng lui lại và nhìn những biểu lộ hiển nhiên của tư duy cuồng tín, thì con thấy có một cơ chế tâm lý đằng sau chúng. Sa nhân đã khôn khéo sử dụng cơ chế tâm lý này. Khi con có một biểu lộ hiển nhiên của tư duy cuồng tín, tỷ dụ như chủ nghĩa Quốc xã, thì sa nhân nói đó là định nghĩa của tư duy cuồng tín. Những hình thức cư xử hay hệ thống tư tưởng khác không cực đoan bằng chủ nghĩa quốc xã thì không coi là cuồng tín. Điều thày muốn làm được ở đây là mở rộng sự nhận biết có ý thức của con là tư duy cuồng tín vi tế và bao quát hơn con nghĩ.

10.12. Say mê ý tưởng

Thế nào là tư duy cuồng tín? Hình thức thông thường nhất, phổ quát nhất của cuồng tín là tình yêu say đắm. Khi con yêu say đắm một người khác thì chuyện gì xảy ra? Con có một cái nhìn lệch lạc về sự việc. Con có một cái nhìn lệch lạc về người kia. Con chỉ nhìn thấy những gì chứng thực niềm tin rằng người đó là người bạn đời lý tưởng, và con từ chối thấy những chuyện gì khác. Đây chính là điểm cốt yếu của cơ chế tâm lý khi con yêu say đắm. Con nhấn mạnh những điều chứng thực cái nhìn cơ bản của con về hoàn cảnh và con phớt lờ hay chối bỏ những điều không chứng thực cái nhìn của con về hoàn cảnh. Đây cũng là cơ chế tâm lý đằng sau tư duy cuồng tín.

Bây giờ, chúng ta phải đi thêm bước nữa và nhận ra rằng con người có khuynh hướng say mê ý tưởng. Con cần cẩn thận suy ngẫm điều này với tâm ý thức của con. Khi con tuần tự trải nghiệm các sáng ngộ ở khóa nhập thất của thày, đa số học viên dễ dàng hiểu điều này ở thể bản sắc của họ. Nhưng có nhiều người gặp khó khăn để hiểu biết này thấm xuống tâm ý thức, vì chính họ đang say mê một ý tưởng. Thông thường, những người đọc quyển sách này đã theo con đường tâm linh vì họ say mê một số ý tưởng.

Thày đã nói gì khi bắt đầu những bài giảng này? Ở mỗi tầng của con đường tu, có những ảo tưởng cần thiết. Đó chính là điều quy định tầng đó. Một lần nữa, thái độ của con cho tới điểm này không có gì sai trái. Thày không muốn khiến con cảm thấy là những gì con làm cho tới nay hoàn toàn sai và do đó con cần cảm thấy mình dở. Ngược lại, thày chỉ giản dị muốn giúp con thấy là để tiến lên cao hơn nữa, con cần buông bỏ thêm một ảo tưởng nữa. Con cần buông bỏ nó một cách có ý thức để có thể tiến lên tầng kế tiếp. Đây là điều cần xảy ra ở mỗi tầng của con đường tu.

Ở đây, vấn đề thực là sa nhân đã nhét được ý tưởng này vào tâm thức đại chúng. Họ đã làm điều này rất, rất lâu trước đây khi họ tới hành tinh này. Họ đã làm vậy trên những hành tinh khác trước khi họ tới hành tinh này, ngay cả trong các bầu cõi trước. Do đó, họ tin rất chắc là quan niệm của họ đúng. Nhưng con, dĩ nhiên, là một đệ tử tâm linh. Con đang đi trên con đường tự điều ngự, và nếu con muốn điều ngự cái ta thì con phải vượt qua ảo tưởng này.

10.13. Ảo tưởng nguy hại nhất về ý tưởng

Ảo tưởng này là gì? Con yêu dấu, ảo tưởng này là vũ trụ vận hành theo những ý tưởng mà tâm nhị nguyên có thể hiểu được. Sa nhân đã đi vào nhị nguyên. Họ không biết là họ đã đi vào nhị nguyên. Con hãy cẩn thận lắng nghe điều thày sắp nói.

Thày có nói là có những sa nhân rất tinh vi, rất tinh tế. Nếu con, như một đệ tử chân sư thăng thiên, gặp một trong những sa nhân đó và bắt đầu tranh luận với họ, con sẽ thấy, như chính Giê-su đã nhìn nhận, là con khó tranh luận hơn họ. Khi con theo lối suy luận dùng tâm đường thẳng, phân tích, nhị nguyên của họ, con không thể tranh luận hơn họ. Họ có động lực làm việc này từ rất lâu nên con không thể tranh luận hơn họ. Con không thể làm cho họ thấy là sự suy luận của họ bị giới hạn. Họ sẽ luôn luôn tìm được một cách để phản bác bất cứ lập luận nào của con. Nếu con tìm cách tranh luận hơn họ, con chỉ càng ngày càng chìm sâu vào tư duy đó.

Thày nói điều này để giúp con nhận ra là tranh luận không đạt được mục đích gì. Tranh luận về điều này không lợi ích gì, và lý do là mỗi sinh thể tự nhận biết có quan niệm riêng của mình về thế giới. Một sa nhân nhìn thế giới từ một góc độ nào đó. Họ nhìn thế giới qua một phin lọc nhận thức nào đó, như chính thày và các thày khác đã giảng nhiều lần.

Con con thể đưa ra một lập luận cho sa nhân đó, và đối với con lập luận của con hoàn toàn tin được. Con có thể thấy lập luận của sa nhân hiển nhiên là sai, mâu thuẫn và không có giá trị bằng lập luận của con. Lý do vì sao điều này hiển nhiên với con là vì con nhìn vào lập luận với phin lọc của tâm thức của con, nhưng sa nhân không nhìn vào lập luận với phin lọc của tâm thức của con, họ nhìn với phin lọc của tâm thức của họ. Do đó, họ không thấy những gì con thấy.

Tìm cách áp lực người khác thấy điều con thấy quả thực vô ích. Con không bao giờ có thể ép người khác thấy điều con thấy vì người đó không bao giờ có thể nhìn một hoàn cảnh từ bên trong tâm của con. Người đó sẽ nhìn hoàn cảnh từ bên trong tâm của y. Vì sao con cần hiểu điều này một cách ý thức? Vì con cần nhìn vào đời mình, và nhận ra là có những lúc con có thể đã tìm cách áp đặt ý tưởng của mình lên người khác.

10.14. Áp đặt ý tưởng lên người khác

Con chắc cũng biết là thời xưa có khái niệm gọi là “mắt tà ma”. Người ta tin rằng có người có khả năng nhìn người khác và phóng ra một bùa ngải khiến người khác bị tai họa. Có thời mà những người bị coi là đã đặt mắt tà ma lên người khác bị ném đá chết hay bị đốt chết. Ở nhiều nơi trên thế giới người ta vẫn tin chuyện này, và ngày nay vẫn còn những nơi có người bị giết chết hay bị tảy chay vì dân chúng cho rằng họ đặt con mắt tà ma lên người khác.

Có một phần sự thật đằng sau những câu chuyên này. Thày không nói là những người cổ sơ hoàn toàn có lý, hay hành hạ người khác vì lý do này là điều chính đáng. Điều thày muốn nói là tất cả mọi người đều có khả năng, như thày đã giảng, dùng viễn quan của mình như một lực chủ động bằng cách phóng chiếu viễn quan của mình lên người khác. Họ có thể làm việc này với một năng lượng linh hồn cao đến độ có thể ảnh hưởng thể bản sắc, tư tưởng và cảm xúc của người khác, và như vậy ảnh hưởng người đó ở tầng vật lý.

Dĩ nhiên đây là điều con cần ngưng không làm nữa ở điểm này của con đường tu. Con cần nhìn một cách trung thực vào cuộc đời mình và xét xem liệu con đã có làm điều này chưa. Sau đó, con cần nhìn nhận con đã làm như thế mà không chê trách mình. Một lần nữa, con có thể làm gì khác chăng? Con có thể làm gì khác chăng ở những tầng tâm thức thấp trên trái đất này? Những gì con đã làm không quan trọng. Vấn đề chính là: Con sẽ làm gì kể từ nay trở đi? Đây là điều thày muốn biết. Ở khóa nhập thất của thày, thày không mang con vào một căn phòng và bắt con phải đối mặt với tất cả những gì con đã làm sai trong quá khứ. Thày có thể cho con vài nhận xét về những gì con đã làm để con thấy nhu cầu thăng vượt chúng và để con thấy cơ chế vận hành đằng sau các hành động này.

Cơ chế vận hành đằng sau việc phóng chiếu một viễn quan lên người khác là gì? Đó chính là tâm thức, do sa nhân đề xướng, say mê ý tưởng và bắt đầu nghĩ vũ trụ vận hành theo ý tưởng của mình. Hay đúng hơn, vấn đề là con bắt đầu nghĩ vũ trụ phải vận hành theo ý tưởng của mình. Đây chính là nguyên nhân của tư duy cuồng tín. Con người say mê một ý tưởng, nghĩ rằng nếu vũ trụ vận hành theo ý tưởng này thì mọi chuyện sẽ hài hòa, sẽ có thiên đàng trên trái đất. Sau đó, họ nhìn chuyện đang xảy ra trên thế giới và thấy là thế giới đang không vận hành theo ý tưởng của họ.

Con yêu dấu, ở điểm này điều lý tưởng nên xảy ra là người đó phải nói: “Chờ chút, nếu tôi có thể quan sát là thế giới không vận hành theo ý tưởng của tôi, thì phải chăng tôi cần xét lại ý tưởng của mình để chúng giải thích được cách thế giới thực sự vận hành, thay vì cứ nắm chặt một lý tưởng cho rằng thế giới phải vận hành sao đó?

Nhưng thay vào đó, con người đã làm gì? Họ đi vào tư duy cuồng tín và nói: “Lý do vì sao thế giới không vận hành đúng theo ý tương của tôi là vì con người không hành xử đúng theo ý tưởng của tôi. Do đó, công việc của tôi là khiến họ hành xử đúng theo ý tưởng của tôi và sau đó chúng ta sẽ có thiên đàng trên trái đất.”

Đó chính là bản chất của tư duy cuồng tín. Nó không khác nhiều lắm trạng thái mà con người trải nghiệm khi họ yêu say đắm. Nó không khác nhiều lắm. Con cần tới điểm nhận ra con đã có khuynh hướng quan niệm đường tâm linh dựa trên khuôn nếp đó. Con đã có ý tưởng cho rằng con đường tâm linh phải vận hành như thế nào rồi con tìm cách áp lực chính con phải tuân theo ý tưởng đó. Con có thể cũng đã tìm cách áp lực người khác phải tuân theo ý tưởng đó.

10.15. Nó ngừng ở đây

Thày muốn con làm hai chuyện một cách ý thức. Thày muốn con, sau khi con đọc bài thỉnh liên quan đến bài giảng này, bỏ ra chút thì giờ nhìn lại đời mình và nói: “Tôi đã tìm cách áp đặt ý tưởng của tôi về con đường tâm linh lên người khác như thế nào?” Dĩ nhiên con có thể xin thày giúp con nhìn thấy điều này với tâm ý thức. Thày bảo đảm với con là ở khóa nhập thất của thày con thấy rõ điều này với các thể cao của con. Ở khóa nhập thất của thày, con thấy được điều này mà không cảm thấy đau đớn, không kháng cự, không miễn cưỡng.

Thày đang ngồi với con và thày đang dẫn con tới điểm con ở trong trạng thái tâm sẵn sàng thấy điều đó. Sau đó, chúng ta nhìn vào nó và con thấy nó. Khi con thấy nó, con không cảm thấy mình tội lỗi, con không lên án mình. Con giản dị nói: “Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ở đây. Nó ngừng ngay bây giờ. Tôi thấy những gì tôi đang làm và tôi sẽ không làm nữa.”

Đây là một sự chuyển đổi, và khi con chuyển đổi ở tầng tâm ý thức, thì con đạt được khai ngộ ở tầng này của khóa nhập thất của thày. Khai ngộ ở tầng này thực sự là ngưng phóng chiếu viễn kiến của con về chân lý lên người khác hay thế giới bên ngoài con. Đó là khai ngộ mà con cần vượt qua. Thầy cần con xem xét điều này một cách có ý thức vì con không thể tiếp tục khóa học tự điều ngự này nếu con chưa ngưng phóng chiếu viễn kiến của con ra ngoài tâm con.

10.16. Mục đích của con đường tu

Con yêu dấu, con có thấy chăng mục đích của con đường tu? Chúng ta đã nói về giai đoạn trầm mình và giai đoạn tỉnh giác. Con làm gì khi trầm mình vào vật chất? Thày có nói là con bắt đầu ở tầng tâm thức 48 để có thể hiện thân trên trái đất. Con làm gì khi con bắt đầu hiện thân trên trái đất?

Con ở trên cõi ê-the, cõi bản sắc. Hiện diện TA LÀ của con đã tạo ra cái Ta Biết từ bản thân nó. Nó gửi con xuống tới một điểm con có thể hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên, trên một hành tinh có độ dày đặc của trái đất lúc đó.

Con phải làm gì để có thể nhập vào một thân thể vật lý? Cái Ta Biết không thể trực tiếp nhập vào thân thể vật lý. Nó cần phải tạo ra một cỗ xe, là bốn thể phàm, là linh hồn. Con tạo ra cỗ xe này như thế nào? Để bắt đầu, con vào tầng 144. Sau đó, con nhận lãnh ảo tưởng của tầng đó. Sau đó, con xuống tầng 143, nhận lãnh ảo tưởng của tầng đó, sau đó xuống tầng 142, vân vân. Con tiếp tục nhận lãnh từng ảo tưởng một cho tới khi con xuống tới tầng 48.

Các ảo tưởng mà con nhận lãnh là gì? Các ảo tưởng này khiến con có thể tin được là con đang thật sự là một con người trong một thân thể vật lý trên trái đất. Con thấy chăng, các ảo tưởng này cần thiết để cho con cảm nhận con thật sự là một con người.

Thày có nói ở trên về sự kiện con có thể có một trải nghiệm thần bí khi con thấy một điều gì vượt lên trên tầng tâm thức hiện nay của con, và trải nghiệm đó cảm thấy rất thật. Khi con đi xuống hiện thân, con giản dị đảo ngược tiến trình này. Con có một trải nghiện phản-thần bí khiến con cảm thấy rất thật là mình là một con người hiện thân trên trái đất. Đây là giai đoạn trầm mình; đây là kinh nghiệm trầm mình. Mục đích là con trầm mình vào cuộc đời mà trái đất cống hiến. Con có những loại trải nghiệm có thể có trên hành tinh này cho tới khi con chán ngán chúng và bắt đầu mong ước một cái gì hơn nữa.

Con bắt đầu ở tầng tâm thức 48 và con có chọn lựa đi lên trên tầng 48 hay đi xuống dưới tầng 48. Khi con đi xuống dưới tầng 48, con làm gì? Con nhận vào thêm ảo tưởng. Như thày có giảng, ảo tưởng mà con nhận vào là dùng vũ lực là điều chấp nhận được và chính đáng. Tìm cách áp lực người khác, tìm cách áp lực vũ trụ vật lý phải tuân theo ý tưởng của mình, là điều chấp nhận được.

Con cần gì để tỉnh giác? Con cần đảo ngược tiến trình, và bây giờ, từng ảo tưởng một, con bắt đầu đi lên trở lại. Con buông bỏ một ảo tưởng, con đạt tầng tâm thức cao hơn, rồi con buông bỏ ảo tưởng kế tiếp và tiếp tục như thế.

Con đang theo khóa học tự điều ngự này. Con đang không ở tầng tâm thức cao nhất. Con chưa sẵn sàng thăng thiên. Do đó, con còn nhiều ảo tưởng con cần buông bỏ trước khi con thăng thiên. Không có gì bất tự nhiên về chuyện này. Đây giản dị là cách cuộc sống vận hành trong một bầu cõi chưa thăng thiên.

Con cần nhận ra điều này với tâm ý thức và thấy rằng đã tới lúc con ngừng phóng chiếu ra ngoài viễn kiến của con về chân lý; ngừng phóng chiếu nó lên người khác và ngừng phóng chiếu nó lên chính vật chất. Con cần có thái độ ý thức là con sẵn sàng nhìn vượt quá viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con sẵn sàng nhìn quá ý tưởng của con là thế giới phải vận hành ra sao. Con sẵn sàng xem xét thế giới thực sự vận hành ra sao. Khi con thấy thế giới thực sự vận hành khác với ý tưởng của con về thế giới, con sẵn sàng nói: “Vậy thì tôi phải điều chỉnh ý tưởng của tôi. Chính ý tưởng của tôi bị thiếu sót.”

10.17. Tìm cách ép thế giới tuân theo ý tưởng

Dĩ nhiên là lúc này là lại gặp một điểm tế nhị khác. Nhiều người khó vượt qua được điểm tế nhị này. Họ càng đi trên đường tu lâu năm thì họ càng khó vượt qua ảo tưởng này. Dĩ nhiên là con nghĩ vì con đã đi trên con đường tâm linh, vì con đã thực tập nhiều pháp tu, vì con đã nghiên cứu giáo lý tâm linh (ngay cả giáo lý chân sư thăng thiên), nên con đã dần dần nâng cao viễn kiến của mình, gia tăng hiểu biết của mình về chân lý. Do đó, con nghĩ là điều con thấy bây giờ là một chân lý cao hơn điều con thấy 10 hay 20 năm về trước. Điều này đúng – dĩ nhiên là đúng. Nhưng con yêu dấu, nó không phải là chân lý tối hậu.

Vẫn có một chân lý cao hơn điều con đang thấy ngay bây giờ. Con cần chấp nhận một cách ý thức là con sẵn sàng thấy chân lý cao hơn đó. Con sẽ không bám víu vào chân lý hiện nay của con. Con sẽ không tìm cách chứng thực nó, con sẽ không tìm cách khiến nó được công nhận.

Con cần quyết định một cách ý thức là con sẽ ngừng dùng giáo lý của chân sư thăng thiên (hay giáo lý tâm linh khác) để biện minh cho viễn kiến hiện nay của con về chân lý. Con cần sẵn sàng nhìn chân lý cao hơn. Để thấy được nó, con cần sẵn sàng nhìn xem thế giới không chứng thực viễn kiến hiện nay của con ở điểm nào. Sau đó, con cần nhận ra rằng chính viễn kiến của con cần thay đổi, chứ không phải thế giới và người khác cần thay đổi. Tìm cách thay đổi thế giới và người khác chỉ là cái cớ để không thay đổi mình, không thay đổi viễn kiến của mình. Chuyện giản dị vậy đó, con yêu dấu!

Sẽ tới một lúc – là lúc đó là ngay bây giờ – con cần phải chạm trán thực tại này một cách ý thức. Con cần nhìn ra nó. Con cần nhận ra có một khía cạnh trong tâm lý của con (có thể gọi là tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa, hay phàm linh nột tại) không cho phép con thăng vượt lòng khao khát thế giới chứng thực chân lý của con.

Sa nhân không muốn con làm điều này. Họ không muốn con chiến thắng được điểm đó. Họ đang hò hét về hướng con ngay lúc này, dùng tất cả ảnh hưởng mà họ có để khiến con chối bỏ điều thày nói, và bám víu vào một ý tưởng như: “Dĩ nhiên là có một viễn kiến cao nhất là thế giới phải như thế nào, vì hiển nhiên là thế giới hiện nay không đang là như nó phải là”. Con yêu dấu, con có thấy chăng là thế giới ngay lúc này đang đúng y như điều nó phải là.

10.18. Vì sao thế giới đang là như nó phải là

Thày không muốn nói là một số điều kiện đang có mặt trên trái đất đều chính đáng, đúng và thật dựa trên một tầm nhìn cao hơn, không nhị nguyên. Dĩ nhiên là có nhiều điều kiện nhị nguyên, nhưng con có hiểu chăng điều các thày đã giảng trong giáo lý và các khóa học này?

Trái đất là một trường học. Có hai cách học. Hoặc con lắng nghe lời chỉ dẫn cao của các chân sư thăng thiên hay con đi vào Trường đời Cay đắng. Khi con ở trong Trường đời Cay đắng, con không thể học bằng cách nghe lời dạy của các chân sư thăng thiên hay bất cứ vị thày tâm linh nào khác. Con phải học bằng cách thấy các điều kiện vật lý thể hiện trạng thái tâm thức của mình cho tới khi con bị quá nhiều cay đắng đến độ con chịu nói: “Ồ, có phải chăng là tâm thức của tôi cần thay đổi nếu tôi muốn ngưng trải nghiệm các sự cay đắng này?”

Con có hiểu chăng điều thày đang muốn giảng? Thế giới, và tất cả mọi chuyện đang xảy ra trong thế giới, là sự thể hiện của tâm thức đại chúng. Thế giới đúng y như nó phải là. Thế giới phải thể hiện những bất quân bình trong tâm thức đại chúng, và dĩ nhiên, đó là vì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại điều mà tập thể con người đang phóng chiếu vào nó.

Như một đệ tử tâm linh, con cần nhận ra là thế giới ngay lúc này đang đúng y như nó phải là vì nó thể hiện tâm thức của quần chúng. Do đó, con nhìn những việc đang xảy ra trong thế giới và con nói: “Công việc của con không phải là dùng áp lực để khiến thế giới và người khác tuân theo viễn kiến của con. Công việc của con là nâng cao tâm thức mình và đạt được tự điều ngự. Con không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực người khác hay thế giới. Con cũng không đạt được tự điều ngự bằng cách áp lực chính mình. Con đạt được tự điều ngự bằng cách buông bỏ ảo tưởng kế tiếp của con. Khi con liên tục buông bỏ ảo tưởng này tới ảo tưởng kia, con sẽ đạt được trạng thái tâm thức tự điều ngự. Đúng thực là mỗi lần con tiến lên một bước, mỗi lần con vượt qua một ảo tưởng, con đạt được một mức tự điều ngự cao hơn vì chính ảo tưởng lấy đi sự tự điều ngự của con, chớ không phải con thiếu tự điều ngự.

10.19. Vì sao con đường tu không máy móc

Một lần nữa, như thày đã từng nói, có người nghĩ rằng con đường tâm linh là một tiến trình máy móc đạt được một số khả năng. Họ nghĩ tự điều ngự cũng là một khả năng mà ta đạt được. Giống như một nhà lực sĩ cứ luyện tập một số động tác và qua đó tập cho cơ bắp càng ngày càng rắn chắc và có thể hoàn thành động tác giỏi hơn người khác. Đây không phải là con đường tâm linh.

Điều quan trọng không phải là dùng áp lực và áp lực chính mình để có khả năng điều ngự. Đây là điều thày gọi là con đường giả mà sa nhân đeo đuổi. Con đường của con là con đường tự điều ngự bằng cách buông bỏ, vứt bỏ ảo tưởng.

Vì sao, ở điểm này, con cần buông bỏ ảo tưởng khiến con phóng chiếu viễn kiến của mình ra ngoài? Con yêu dấu, đó là vì trước khi con phóng chiếu điều gì ra ngoài tâm mình, con phải phóng chiếu điều đó vào trong tâm mình, lên chính mình. Con chỉ có thể phóng chiếu lên người khác những gì con đã phóng chiếu lên chính mình trước.

Khai ngộ kế tiếp ở khóa nhập thất của thày là con bắt đầu thấy những điều con phóng chiếu lên chính mình, và những cố gắng mà con đã làm để ép mình tuân theo viễn kiến thế nào là một đệ tử tâm linh tốt của mình. Thày biết là con đã có quá đủ những gì con có thể hấp thụ với tâm ý thức trong một bài giảng này.

Thày cho con thời giờ để tiêu hóa bài giảng này trước khi chúng ta học bài tới, đối với nhiều người sẽ khó hơn bài này về nhu cầu ngưng phóng chiếu ra ngoài. Phóng chiếu vào trong vi tế hơn nhiều và khó thấy hơn nhiều. Do đó, khai ngộ này rất cần thiết. Thày tin rằng khi con có ý muốn và khi con đã theo khóa học này cho tới điểm này, thì con cũng có thểsẽ đạt khai ngộ này.

Hilarion TA LÀ

Đi từ một viễn kiến thấp đến một viễn kiến cao hơn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 12/1/2017.

TA LÀ chân sư thăng thiên Hilarion. Ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với khai ngộ của Tia thứ Năm phối hợp với Tia thứ Ba của Tình thương. Khi con tới khóa nhập thất của thày và tham dự các lớp học ở tầng này, thày tìm cách giúp con kết nối lại với tình thương nguyên thủy đã khiến con đầu thai ở kiếp này. Các vị thượng sư khác, dĩ nhiên, đã giúp con làm cùng việc. Thày đặc biệt tìm cách giúp con thấy là có một viễn kiến thuộc Sứ vụ Thiêng liêng của con, và con yêu viễn kiến này hơn là mọi viễn kiến mà con đã có trên con đường tâm linh.

8.1. Cách gian nan hay cách dùng tình thương

Con yêu dấu, con thấy chăng là có hai cách để buông bỏ điều gì đó trên trái đất: cách gian nan và cách dùng tình thương. Cách gian nan là khi con tới điểm nhận ra là con bị đau khổ vì có một ảo tưởng, con có ảo tưởng đó trong tâm, và nó giản dị không phù hợp với điều mà nhiều người cho là thực tại. Dĩ nhiên, thực tại là một khái niệm mơ hồ vì điều mà nhiều người gọi là thực tại chỉ là một biểu hiện tạm thời có mặt vì trái đất đã chìm quá sâu so với tầng nguyên thủy của nó.

Tuy nhiên, nhiều người đã có kinh nghiệm tỉnh ngộ hay va đầu vào tường hay đột nhiên nhận ra là điều họ tin là thật không thật chút nào. Đây là cách gian nan để buông bỏ điều gì đó. Các thày chân sư thăng thiên không chống chuyện học viên buông bỏ một cách gian nan vì buông bỏ điều gì và tiến bước tốt hơn là nắm giữ một ảo tưởng. Nhưng các thày không muốn con buông bỏ một cách gian nan; các thày muốn con buông bỏ bằng cách kết nối trở lại với tình thương trong con người con để con có thể buông bỏ trong vị thế thương yêu vì con biết có cái gì hơn nữa. Khi con buông bỏ một cách gian nan thì con có cảm tưởng là con đã mất đi một cái gì đó. Con cảm thấy trống vắng, con cảm thấy thế gian sụp đổ. Con cảm thấy trong con có khoảng trống không và con không biết điều gì sẽ lấp đầy nó.

Điều thày hy vọng giúp con đạt được ở tầng này của khóa nhập thất của thày là kết nối với lòng thương yêu viễn kiến cao hơn và con thấy rằng viễn kiến cao hơn này hơn rất nhiều những gì con đã thấy cho tới nay. Do đó, con muốn thấy viễn kiến này và buông bỏ viễn kiến cũ không khó khăn vì con biết con sẽ được nhiều hơn rất nhiều thay vào đó. Điều này rất dễ thực hiện ở tầng ê-the trong thể bản sắc ở khóa nhập thất của thày. Dĩ nhiên là mang nó xuống tâm ý thức của con là điều khó khăn hơn, và đây là mục đích của thày khi thày có bài giảng này để con có thể đọc và nghiên cứu. Các thày, dĩ nhiên, không mong muốn giúp con đạt được một tâm thức cao hơn trong thể bản sắc ở các khóa nhập thất, nhưng điều này không truyền sang các tầng tư tưởng, xúc cảm và vật lý, nơi tâm ý thức của con. Con có thể làm gì để kết nối ở tầng tâm ý thức với những gì con trải nghiệm ở khóa nhập thất của thày? Con có thể dùng bài giảng trước của thày trong đó thày nói là con có một viễn kiến cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và đi xa thêm nữa. Con cũng có thể nhận ra một điều khác mà thày cũng đã nói, đó là để hiểu được một viễn kiến cao hơn, con cần sẵn sàng buông bỏ viễn kiến hiện thời của con. Ở đây chúng ta gặp một vấn đề đặc biệt.

8.2. Ước muốn cảm thấy mình quan trọng

Có người đã bắt đầu con đường tâm linh, hay ngay cả khóa học tự điều ngự này, với một viễn kiến, một mục tiêu, một ham muốn đặc thù nào đó. Tỷ dụ, họ ham muốn là một người quan trọng đang làm điều gì quan trọng để giải cứu trái đất hay nâng cao tâm thức nhân loại hay đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. Đây là một viễn kiến tích cực. Tự nó không có gì sai trái, nhưng pha trộn vào đó là ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đặc biệt hơn so với người khác vì mình đang học giáo lý của các chân sư thăng thiên, hay học với một vị đạo sư nào đó hay học một giáo lý vỏ ngoài nào đó.

Con đang làm nhiều chuyện, như đọc bài chú bài thỉnh, giải quyết các vấn đề trong tâm lý, làm chuyện này chuyện kia. Trong đó có một phần là ham muốn của tự ngã muốn cảm thấy mình đã làm điều gì đặc biệt, làm điều gì có kết quả quyết định. Vì vậy con tâm linh hơn, con thuộc một hạng người đặc biệt. Và đây là điểm vi tế: con nghĩ là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên phải đặc biệt chú ý tới con hay phải thưởng con một cách nào đó.

Con rất có thể tạo ham muốn là con đường tâm linh sẽ đưa con tới một mục tiêu khiến con có thể biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó. Thày có nói là có người có mục tiêu biểu hiện một nhà đẹp, một người phối ngẫu toàn hảo và rất nhiều tiền. Nhiều người tâm linh có mục tiêu được thế giới công nhận, được các chân sư thăng thiên công nhận, hoặc cảm giác là họ đã làm điều gì quyết định để đem lại một thời đại mới trên trái đất.

Con có thể nói: “Ham muốn như vậy có gì sai trái chăng?” Con yêu dấu, đây là điểm vi tế. Con hiểu rằng các chân sư thăng thiên có mục đích tiếp cận con người ở bất kỳ tầng tâm thức nào họ đang có. Nếu một người ở tầng tâm thức thấp nhất được phép có trên trái đất có thể hòa điệu với các thày, thì các thày sẵn sàng làm việc với người đó. Các thày sẽ tiếp cận người đó ở tầng tâm thức của họ và tìm cách giúp người đó lên tầng cao kế tiếp. Đây là phương pháp mà các thày dùng để giúp con người trên trái đất. Dĩ nhiên là trong thực tế có một rào cản khiến nhiều người ở dưới tầng tâm thức 48 không thể kết nối với các thày và do đó các thày không thể làm việc trực tiếp với họ. Một khi một người có thể hòa điệu với các thày bằng cách nào đó, dù chỉ chợt thoáng, thì các thày sẵn sàng làm việc với người đó, và do đó các thày dĩ nhiên phải tiếp cận người đó ở tầng tâm thức của họ.

8.3. Buông bỏ viễn kiến thấp

Khi học viên bắt đầu khóa học tự điều ngự này, đa phần bắt đầu ở tầng thứ 48. Một số bắt đầu ở dưới tầng 48, và do đó các thày biết là chuyện tự nhiên, không tránh được và hoàn toàn thỏa đáng là con cần một động lực để bắt đầu con đường tâm linh, bắt đầu khóa học này. Dĩ nhiên là động lực của con dựa trên các ước muốn của con, dựa trên viễn kiến mà con có ở tầng tâm thức đó. Một lần nữa, không có gì sai trái với điều này. Con không thể tiếp nhận một viễn kiến cao hơn tầng tâm thức của con. Điều tự nhiên là cách con nhìn cuộc đời và những ước muốn, tham vọng và mục tiêu của con dựa trên và bị ảnh hưởng bởi viễn kiến con có ở tầng đó.

Các thày cũng muốn giúp con thấy là con cần liên tục bước lên cao hơn. Nhiều học viên tới tầng này của khóa nhập thất của thày và họ đã theo khóa tự điều ngự cho tới điểm này, nhưng họ chưa buông bỏ ham muốn mà họ có khi bắt đầu. Họ vẫn giữ trong tâm ý tưởng là khi họ tiến bước trong khóa học này, họ phải xây dựng được khả năng tự điều ngự khiến tâm họ làm chủ được vật chất và giúp họ biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài mà họ mong muốn khi họ bắt đầu học khóa này.

Con yêu dấu, thày không nghĩ là con có thể hoàn tất khóa học này mà vẫn giữ cùng viễn kiến và ước muốn khi con bắt đầu khóa học. Thày bảo đảm với con là nếu điều này xảy ra, thì con đã không tốt nghiệp khóa học. Chuyện xảy ra là khi con tới tầng 96 của khóa học (thày nhấn mạnh là thày nói tầng 96 của khóa học chứ không phải tầng tâm thức thứ 96), con sẽ dùng tất cả động lực mà con thu thập trên con đường tu để thể hiện hoàn cảnh bên ngoài mà con ao ước. Lúc đó, thay vì đưa con về hướng tầng 144 và quả vị Ki-tô, nó sẽ bắt đầu kéo con xuống thấp hơn. Con sẽ bắt đầu dùng vũ lực để thể hiện viễn kiến đó và do đó con sẽ bắt đầu đi về các tầng tâm thức thấp hơn.

Con yêu dấu, con thấy chăng là yêu cầu tuyệt đối để đạt những khai ngộ của khóa học này là con sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ và tiếp nhận viễn kiến cao hơn, ước muốn cao hơn, mục tiêu cao hơn. Đây là chỗ, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, con cần nhìn vào cách con sử dụng viễn kiến.

8.4. Làm sao con sử dụng hay lạm dụng viễn kiến một cách tích cực

Thày có nói là viễn kiến không phải là một khả năng thụ động; nó cũng có khía cạnh tích cực. Đúng là với đa số con người trên trái đất, viễn kiến chủ yếu thụ động vì họ chỉ nhận vào. Họ không phóng chiếu ra bao nhiêu vì họ không chịu nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời họ. Họ còn không chịu nhìn nhận là họ có quyền năng trong tâm họ để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài. Họ chấp nhận rằng họ không làm gì được để cải đổi hoàn cảnh sống của họ, và do đó họ không dùng khía cạnh tích cực nhất của viễn kiến của họ là phóng chiếu ra ngoài.

Dĩ nhiên là họ sử dụng viễn kiến một cách tích cực khi viễn kiến của họ ảnh hưởng những cảm giác khi nhận tín hiệu bên ngoài. Thày có giảng vì sao phin lọc trong ba thể cao (và ngay cả ở tầng não bộ vật lý) bóp méo tri giác của con, bóp méo những gì con thấy. Chuyện xảy ra là các phin lọc này sẽ loại đi tất cả những gì thách đố viễn kiến của con về đời sống. Nếu viễn kiến này cho rằng con không thể làm gì để cải đổi hoàn cảnh sống, thì phin lọc sẽ loại đi những gì đi quá niềm tin này. Do đó, con sẽ thấy là thế giới hạn chế khả năng thay đổi của con.

Khi con là một người tâm linh và chấp nhận là con có thể thay đổi hoàn cảnh sống của con bằng cách thay đổi tâm thức của mình, thì con bắt đầu sử dụng uy lực của viễn kiến một cách tích cực hơn. Ở khóa nhập thất của thày, thày có một dụng cụ có thể gọi là dụng cụ công nghệ có thể cho con thấy những gì con không thấy được bằng tâm ý thức. Thày có thể chỉ cho con thấy những phóng chiếu, những xung lực mà con gửi đi từ bốn thể phàm. Thày làm điều này một cách tuần tự, vì đa số học viên bị chấn động khi họ thấy số lượng những thứ mà họ liên tục phóng chiếu ra, do đó thày phải đi rất từ từ. Thày muốn giúp con thấy là những gì con phóng chiếu luôn luôn có hậu quả vì, như thày có nói, nó sẽ đi vào tấm gương vũ trụ. Trong tấm gương vũ trụ, nó có thể trở nên vô hiệu hay giảm thiểu do lực chống kháng của tâm thức tập thể nhưng nó vẫn có tác động trên con.

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con phóng chiếu ra điều gì, con biết trong tiềm thức là thế giới dựa trên nguyên tắc hành động và phản ứng. Nếu con nắm chặt một viễn kiến nào đó (tỷ dụ ước muốn được nhìn nhận bởi thế gian), thì con phóng chiếu từ tiềm thức một xung lực và chờ đợi một kết quả nào đó. Dù con có cảm thấy có sự trả về hay không, nó vẫn ảnh hưởng tiềm thức của con. Nếu con không cảm thấy sự trả về, trong tiềm thức con nghĩ con không để đủ sức lực vào sự phóng chiếu, và do đó con gia tăng sức lực. Điều này khiến con càng lúc càng dùng nhiều năng lượng để phóng chiếu. Trong tâm ý thức, điều này cũng có thể khiến con có một thúc đẩy gần như không cưỡng nổi phải làm nhiều hơn bất cứ điều gì con đang làm.

Con thấy nhiều người tâm linh tìm ra một giáo lý dạy một số thủ tục và giờ đây họ gần như bị ám ảnh phải làm các thủ tục đó. Thủ tục này có thể là thiền, yoga, đọc bài chú, đọc bài thỉnh. Họ làm càng ngày càng nhiều vì trong tiềm thức họ chờ đợi sẽ nhận trả về một kết quả bên ngoài mà họ mong muốn. Khi họ không thấy kết quả này, họ nghĩ: “Ồ, tôi phải làm nhiều hơn nữa”.

Mặt khác, khi học viên cảm thấy có sự trả về, thì nhiều người nghĩ: “Nhưng tôi phải làm nhiều hơn, vì tôi nhận về chưa đủ.” Học viên có thể trải qua giai đoạn thực hành thủ tục càng ngày càng nhiều. Có lẽ đa số các con, khi nhìn lại đời mình, sẽ nhìn nhận là đã trải qua hay đang trong giai đoạn gần như bị ám ảnh phải làm một thủ tục vỏ ngoài. Thày không nói điều này để chỉ trích hay lên án con. Khi thày chưa thăng thiên, chính thày đã trải qua giai đoạn đó trong nhiều kiếp sống, khi thày rất, rất cố gắng thực hành một thủ tục nào đó.

Một lần nữa, điều này không có gì sai trái, nhưng đó là một giai đoạn trên con đường tu của con, và nay đã đến lúc con bước lùi lại và xem xét vấn đề. Đã đến lúc con nhận ra là nếu con có nhu cầu không cưỡng nổi phải làm một thủ tục tâm linh nào đó, điều đó sẽ ngăn chặn viễn kiến của con. Nó sẽ ngăn chặn khả năng trụ vững chắc vào viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con vì con nghĩ (trong bốn thể phàm) làm thủ tục đó quan trọng hơn mở tâm ra với viễn kiến.

8.5. Hai chức năng cơ bản của tâm

Con có thấy chăng nguyên lý mà thày đang muốn con nhận ra? Tâm con người là một dụng cụ rất tinh vi, rất tế nhị nhưng nếu con quy nó lại những chức năng cơ bản nhất, thì nó có hai chức năng cơ bản. Điều này minh họa điều mà Mẹ Mary đã gọi là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Đây là một điểm vi tế không dễ hiểu, và thày đã thấy nhiều học viên gặp khó khăn hiểu thấu. Thày vừa nói là một khía cạnh của tâm là phóng chiếu, và vì nguyên lý Cha là lan ra, con có thể nghĩ là khi con phóng chiếu ra, con sử dụng khía cạnh Cha của tâm. Điều này không đúng. Con yêu dấu, con thấy chăng là nguyên lý Cha là lực lan ra, và trong trường hợp này có nghĩa là Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ giống như mặt trời luôn luôn tỏa ánh sáng. Nó cũng là cánh cửa mở để các chân sư thăng thiên tỏa năng lượng, ánh sáng và viễn kiến xuống con. Nguyên lý Mẹ của tâm là bốn thể phàm, và dĩ nhiên, cũng là cái Ta Biết. Bây giờ, các thày đã giảng gì về cái Ta Biết? Nó là nhận biết thuần khiết. Các thày cũng có nói là cái Ta Biết có khả năng tập trung sự chú ý vào, hay xuyên qua bốn thể phàm, và cũng có khả năng bước ra ngoài bốn thể phàm và như vậy mở ra với Hiện diện TA LÀ. Con không thể làm cả hai điều này cùng một lúc.

Đây là điều mà nhiều học viên không thấu hiểu. Họ không có kinh nghiệm “ngộ” ở tâm ý thức khi họ thấy điều này. Con biết là con không thể cho ra và nhận vào cùng một lúc, con không thể hướng sự chú ý vào hai chỗ cùng một lúc. Chuyện xảy ra là, khi cái Ta Biết đồng hóa với bốn thể phàm và chú tâm vào việc tự biểu hiện trong thế giới vật chất, con đang dùng lực co lại của Mẹ để tập trung năng lượng và sự chú ý vào bốn thể phàm.

Quả thực là khi con có viễn kiến về một mục tiêu nào đó, con hướng ánh sáng ra ngoài. Có thể nói là con dùng nguyên lý Cha để hướng ánh sáng ra ngoài. Điều thày muốn giảng là để có thể hướng ánh sáng ra ngoài, con cần hướng ánh sáng xuyên qua cái gì đó, con cần một khuôn đúc tư tưởng, một khuôn đúc viễn kiến để con hướng ánh sáng xuyên qua. Để tạo ra khuôn đúc này, để tập trung năng lượng của con xuyên qua khuôn đúc này (chớ không phải hướng ra mọi phía), con phải tạo ra một sự co lại, một sự tập trung nơi bốn thể phàm của con.

8.6. Con phóng chiếu ra bao nhiêu năng lượng

Phần lớn tiến trình này xảy ra nơi tiềm thức. Điều thày muốn nói là khi con tập trung như vậy vào bốn thể phàm, nó sẽ thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Do đó, con không thể bước ra ngoài bốn thể phàm và nhận viễn kiến cao hơn, viễn kiến từ Sứ vụ Thiêng liêng, từ Hiện diện TA LÀ của con. Con yêu dấu, con không thể làm cả hai việc cùng một lúc; chuyện này không thể làm được. Hoặc con chú tâm vào một mục tiêu, hoặc con mở tâm ra đón nhận một viễn kiến mới từ bên trên. Điều mà thày giúp học viên thấy qua dụng cụ mà thày có ở khóa nhập thất là các khuôn đúc trong tiềm thức đang thu hút sự chú ý của họ.

Học viên thường ngạc nhiên vì họ không biết một cách ý thức là họ có các khuôn đúc này. Họ không ngờ là có bao nhiêu năng lượng chảy qua các khuôn đúc tiềm thức này. Họ ngạc nhiên vì thày có thể minh diễn cho họ, thày có thể chỉ trên một màn ảnh có bao nhiêu năng lượng đến từ Hiện diện TA LÀ, bao nhiêu năng lượng đi vào thể bản sắc, và ở tầng thấp nhất có bao nhiêu năng lượng đi ra từ hào quang của họ ở tầng ý thức. Thày có thể chỉ cho họ thấy là có một khối năng lượng đi vào và có một khối năng lượng đi ra (mà họ có thể điều khiển một cách ý thức). Đa số học sinh rất chấn động khi thấy khác biệt giữa năng lượng đi vào và năng lượng mà họ có thể sử dụng một cách ý thức.

Tỷ dụ, nếu con thấy có một số lượng năng lượng chảy vào từ Hiện diện TA LÀ thì lý tưởng đây là năng lượng sáng tạo mà con có thể sử dụng ở tầng ý thức để biểu hiện một mục tiêu nào đó. Nếu con thấy là con chỉ có 10 phần trăm có thể dùng ở tầng ý thức, thì tự nhiên là con tự hỏi 90 phần trăm kia, hay bất cứ tỷ lệ nào thích ứng với tình trạng riêng của con, đi đâu. Thày có thể chỉ cho con thấy ở đâu con có sự tập trung, có khuôn đúc trong một trong ba thể cao đang hút năng lượng của con. Năng lượng này chảy vào khuôn đúc, nhưng vì con không biết đến nó một cách ý thức và do đó con không điều khiển nó được trong ý thức. Lý do thày nêu lên điểm này là để con nhận ra cách nhanh nhất con có thể tiến bộ ở tầng này của khóa nhập thất của thày, là con sẵn sàng nhìn một cách ý thức vào các mục tiêu, cách con tiếp cận, cách tiếp cận cơ bản của con về con đường tâm linh.

8.7. Xem xét động cơ thúc đẩy con

Động cơ nào thúc đẩy con đi con đường tâm linh từ trước tới nay? Nếu thày hỏi con câu đó, con nghĩ đến điều gì trước tiên? Động lực cơ bản nào thúc đẩy con đi con đường tâm linh? Con hy vọng đạt được gì cho chính mình? Con hy vọng đạt được gì cho thế gian và điều này cho thấy con hy vọng đạt được gì cho chính con?

Có nhiều học viên sẽ trả lời tức khắc: “Con muốn nâng cao tâm thức, con muốn giải thoát con người, con muốn giúp đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, con muốn giúp các chân sư thăng thiên.” Khi con trung thực hơn và nhìn kỹ hơn, thì con nhận ra là quả thực đây là những mục tiêu vỏ ngoài, và nếu các mục tiêu này được thể hiện, thì con sẽ có cảm nhận biết mình đã đóng góp vào việc thể hiện mục tiêu đó. Đây là động cơ cá nhân của con, nghĩa là điều con hy vọng đạt được cho chính mình.

Con tìm trải nghiệm gì khi con đi trên con đường tâm linh? Đối với nhiều học viên, tìm ra câu trả lời rất khó khăn. Thày biết là ở tầng tâm ý thức, con rất khó tìm ra câu trả lời vì con đã nhiều năm đi trên con đường tâm linh, học giáo lý, thực hành một số thủ tục. Như thày có nói, đa số học viên tới điểm này, là một điểm khá cao trên con đường tâm linh, đã bỏ ra nhiều thì giờ và nhiều nỗ lực thực hành một số thủ tục. Điều đáng tiếc là hậu quả của sự nỗ lực này là khuôn đúc tiềm thức (là khuôn đúc của điều con muốn đạt được khi con đi trên con đường tâm linh) càng ngày càng được củng cố. Con đã đổ năng lượng vào đó; có lúc con đã củng cố viễn kiến của nó.

8.8. Cửa sổ kính màu của tiềm thức

Con hãy để thày minh họa một cách thô thiển điều xảy ra trong tiềm thức. Nó thô thiển vì không có minh họa nào liên quan đến điều vật lý lại có thể bao hàm đầy đủ điều xảy ra nơi trường năng lượng, nhưng nó vẫn giúp nhiều học viên. Con hãy tưởng tượng trường năng lượng của con là một không gian khép kín và để thể hiện bất cứ điều gì, bất cứ hoàn cảnh nào trong thế giới vật chất, con cần phải gửi ra ánh sáng và năng lượng, con phải hướng và phóng chiếu ánh sáng và năng lượng ra khỏi trường năng lượng của con. Dĩ nhiên là con không muốn hướng ánh sáng một cách ngẫu nhiên, con muốn ánh sáng có một hình dạng nào đó, và do đó con không chỉ phóng chiếu ánh sáng mà con phóng chiếu một khuôn đúc.

Chúng ta hãy tưởng tượng trường năng lượng của con giống như một thánh đường cổ có cửa sổ kính màu. Các cửa sổ này gồm nhiều mảnh kiếng màu được sắp xếp theo một mô thức tinh xảo. Con đã tạo trong trường năng lượng của con những cửa sổ tròn như thế, chúng có một khuôn đúc và màu sắc, một hình dạng và màu sắc, và chúng uốn nắn ánh sáng mà con phóng chiếu ra. Bây giờ thì con dùng những khuôn đúc đó để phóng chiếu ra thế giới. Khi thày chỉ cho con thấy là có khuôn đúc trong tiềm thức hút nhiều năng lượng của con, thì khi con xem xét kỹ hơn thì con thấy nó giống như các cửa sổ trong thánh đường, một cửa sổ tròn với nhiều mảnh kính màu sắp xếp tinh xảo. Khi con nhìn kỹ thì con nhận ra là khi con đi trên con đường tâm linh cho tới lúc này, đã nhiều lần giáo lý và các thủ tục tâm linh đã củng cố khuôn đúc đó. Con đã làm cho cửa sổ chắc chắn hơn, con đã khiến cho lớp kính dày hơn, các sợi dây chì giữ các mảnh kính đã trở nên rắn chắc hơn, màu sắc nồng hơn, dày đặc hơn. Kết quả là con càng khó buông bỏ khuôn đúc này hơn.

Con yêu dấu, một khuynh hướng tự nhiên (mà chúng ta ai ai đều có) là khi ta bỏ nhiều nỗ lực làm điều gì, thì ta cảm thấy phải có một kết quả trở lại từ vũ trụ. Chúng ta càng phóng chiếu ra nhiều, thì chúng ta càng mong muốn nhận trở lại cái gì tương xứng với cái mà chúng ta phóng chiếu ra. Điều lạ lùng là những người làm điều được cho là “xấu” thực sự muốn bị trừng phạt vì những gì họ đã làm.

Dù con người làm điều mà họ nghĩ là tốt hay làm điều mà họ nghĩ là xấu, trong tiềm thức họ muốn nhận dòng trả về từ vũ trụ. Tại sao vậy? Vì mục đích của thế giới vật chất là con thử nghiệm dùng các quyền năng sáng tạo của mình. Con gửi ra ngoài một điều gì, và nếu không có gì gửi trả về, làm sao con biết được mình đã gửi ra điều gì và hậu quả là gì?

8.9. Khám phá những động lực vị kỷ

Điều mà thày muốn chỉ rõ ở đây là khi con tới điểm này của khóa nhập thất của thày, con cần dùng óc suy xét để nhìn vào sự tu tập tâm linh của con, con quan niệm con đường tâm linh như thế nào, và động lực nào thúc đẩy con đi trên đường tâm linh. Nhiều học viên ở tầng này của khóa nhập thất của thày đã bị chấn động khi họ nhìn vào những điểm này. Họ chấn động khi thấy rằng điều họ tin chắc (với tâm ý thức) là động lực hoàn toàn vị tha thật ra là một động lực rất vị kỷ. Họ chỉ giản dị dùng con đường tâm linh để được thế giới công nhận. Ít ra là họ hy vọng được thế giới công nhận.

Thày biết là con sẽ chấn động nếu con nhận ra điều này với tâm ý thức của con. Thày cũng biết rằng nếu con không nhận ra điều này, con không thể tiến bước trong việc nâng cao tâm thức. Con không thể vượt qua chướng ngại lớn nhất trên đường tâm linh. Một lần nữa, điều này rất vi tế và thoạt trông có vẻ là mâu thuẫn.

Thày vừa nói là mục đích cuộc đời, mục đích của việc đầu thai, là để thí nghiệm với khả năng sáng tạo. Con tạo ra một khuôn đúc trong tâm, con hướng năng lượng sáng tạo và ánh sáng xuyên qua đó và con đợi xem tấm gương vũ trụ gửi trả về điều gì. Dựa trên những gì được trả lại, con điều chỉnh khuôn đúc trong tâm và lại hướng năng lượng xuyên qua nó. Con tiếp tục làm như vậy và tiếp tục sửa sang khuôn đúc cho tới khi con nhận được đúng những gì con muốn từ vũ trụ – ít ra là con nghĩ như vậy.

Con yêu dấu, con thấy chăng là mọi chuyện đều có giai đoạn. Có một điểm con làm những điều thày vừa mô tả là điều hoàn toàn chuẩn, hoàn toàn đúng, hoàn toàn xây dựng. Trong giai đoạn đó, điều tự nhiên và không thể tránh là con có ý tưởng rất vi tế là con phải trở nên càng ngày càng giỏi trong việc tạo ra khuôn đúc. Con nghĩ con phải gày dựng càng ngày càng nhiều động lượng trong việc hướng ánh sáng xuyên qua các khuôn đúc, hầu đạt được điều ngự và có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn. Con có ý tưởng này là điều tự nhiên, nhưng như thày có nói ở trên, chỉ có sa nhân mới gày dựng được đủ động lượng để ép buộc vũ trụ vật chất tuân theo viễn kiến của chúng (tuy họ cũng chỉ thành công tạm thời).

Con là một người tâm linh; con không đi con đường tả đạo của sa nhân và đoàn chưởng giáo giả. Con đang đi con đường của quả vị Ki-tô, con đường của chân sư thăng thiên. Mục đích của con đường này là đưa con tới điểm con nhận ra là ước muốn kiểm soát vũ trụ vật chất không phải là mục tiêu thực của con.

Như các thày có giảng, mục đích của việc đầu thai vào cõi vật chất là con có hai giai đoạn. Giai đoạn đầu là giai đoạn trầm mình, trong đó con hoàn toàn trầm mình vào đời sống của hành tinh nơi con đầu thai. Con trầm mình trong cuộc sống; con tìm cách hiểu cuộc sống, hiểu cuộc sống vận hành ra sao. Con tìm cách mở rộng sự nhận biết của mình, và con cũng tìm cách mở rộng khả năng biểu hiện hoàn cảnh bên ngoài. Sau đó, con bắt đầu giai đoạn tỉnh giác, và những ai theo học khóa học này đã từ lâu bắt đầu giai đoạn tỉnh giác.

Mục đích của giai đoạn tỉnh giác không phải là đạt được khả năng làm chủ hoàn toàn việc biểu hiện vật chất để con có thể biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào mà con mong muốn. Mục đích của giai đoạn tỉnh giác là con nhận ra con là một sinh thể tâm linh chứ không phải một sinh thể vật chất. Do đó, như thày có nói trong bài giảng trước, mục tiêu của con không liên hệ đến vật chất. Mục đích thật sự trong Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất trong kiếp sống này. Mục đích thật sự của con là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô, nơi đó con trở nên độc lập với hoàn cảnh vật chất.

8.10. Một thách đố lớn trên con đường tâm linh

Con có thấy chăng là con có thể đi con đường tâm linh trong nhiều năm nhưng vẫn còn trong tiềm thức khuôn đúc cho rằng nếu con đạt được trạng thái tâm thức tâm linh cao nhất (bất kể con định nghĩa trạng thái này là gì), con sẽ có thể hoàn toàn kiểm soát vật chất và biểu hiện bất cứ hoàn cảnh vật chất nào con mong muốn. Con yêu dấu, có nhiều học viên đã bị quyến rũ hay ta có thể nói là bị ám ảnh bởi quan niệm biến hóa thần bí (alchemy) hay biểu hiện. Họ đã bỏ ra nhiều công sức để tới điểm có thể biểu hiện, tỷ dụ, vàng hay ngọc thạch anh, hay bất cứ vật gì họ muốn. Có người đã tìm cách bẻ cong thìa sắt hay biểu diễn những kỳ công tương tự. Tất cả những việc này chỉ củng cố khuôn đúc tiềm thức. Khuôn đúc này càng mạnh thì nó lại càng thu hút sự chú ý của cái Ta Biết. Sự thu hút này càng mạnh thì cái Ta Biết lại càng bị ngăn chặn không bước ra ngoài bốn thể phàm và mở cửa hoàn toàn đón nhận viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng.

Con yêu dấu, con có bắt đầu thấy thày muốn dẫn con tới đâu chăng? Thày muốn dẫn con tới điểm nhận ra là chìa khóa của viễn kiến không phải là tập trung mà là cởi mở. Dĩ nhiên là câu nói này cần được giảng rõ. Con sống trong một thế giới có một trạng thái tâm thức đại chúng rất hỗn độn, có nghĩa là bốn thể phàm của hành tinh trái đất (trong đó bốn thể phàm của con hiện hữu) rất hỗn độn. Quả đúng là nếu con mở tâm đón nhận tất cả những ý tưởng và viễn kiến đang hiện hành thì sự chú tâm của con sẽ bị kéo về mọi hướng và con sẽ không hoàn thành được điều gì. Do đó, con có thể nói một cách đúng đắn là muốn hoàn thành một việc nào đó, con cần chú tâm, con cần tập trung. Con cần ngăn chặn tất cả những điều tới từ cõi vật chất. Có học viên đã nói với thày: “Nhưng thày Hilarion, làm sao con đã tiến triển tới mức này của con đường tâm linh nếu con không chú tâm vào nó?” Điều này hoàn toàn đúng. Con cần phải chú tâm vào nó, nhưng bất cứ điều gì trên trái đất cũng cần quân bằng.

Khi con làm điều gì thái quá, con tạo một bất quân bằng và sẽ có lúc sự bất quân bằng đó sẽ gây trở ngại trên con đường tu của con. Đây là điều thày muốn nói con. Con đã tới điểm thày không nói con mở tâm đón nhận những viễn kiến khác đang hiện hành trong bốn thể phàm của vũ trụ vật chất chung quanh trái đất. Thày muốn con mở tâm ra đón nhận Hiện diện TA LÀ của con và viễn kiến trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Để làm việc này, con cần nhìn vào khuôn đúc tiềm thức mà con đã tạo ra, khuôn đúc đã thúc đẩy con, đã kéo con đi trên con đường tâm linh cho tới điểm này. Con cần nhận ra những giới hạn của nó. Con cần bắt đầu nhìn nhận một cách ý thức những giới hạn đó, và sau đó con phải tới điểm quy hàng, như Mẹ Mary mô tả. Con nhận ra là những gì con đã làm đã dẫn con tới điểm này, nhưng chúng không thể dẫn con đi xa hơn nữa. Do đó, con đã tới điểm cởi mở và con nói: “Bước kế tiếp của con là gì? Điều gì trước kia con chưa làm mà bây giờ con cần làm? Điều gì trước kia con chưa thấy mà bây giờ con cần thấy?” Con càng cởi mở thì viễn kiến con nhận được sẽ càng sáng tỏ hơn.

8.11. Thẩm định phương pháp tu của con

Con yêu dấu, có học viên gặp rất nhiều khó khăn mới để hiểu điều này. Có khi thày phải nói họ ngưng phương pháp tu mà họ đã theo đuổi cho tới nay. Thày không nói là điều này nhất định áp dụng cho con. Thày biết là có học viên đã thực tập cầu thỉnh ánh sáng tâm linh từ mấy chục năm nay. Điều thày muốn con làm là xem xét phương pháp tâm linh con đang thực tập và tự hỏi: “Nếu con ngừng nó ngay bây giờ, con sẽ phản ứng ra sao?”

Ý tưởng nào, cảm xúc nào dâng lên trong con khi con suy ngẫm việc ngưng phương pháp tu tập, tạm nghỉ một thời gian? Con có cảm thấy sợ hãi, con có cảm thấy hốt hoảng? Phải chăng có đủ loại tư tưởng nổi lên, biện minh là con không nên làm thế, vì sao con cần tiếp tục điều con đang làm? Ý tưởng càng mãnh liệt, phản ứng càng mãnh liệt, thì dính mắc của con vào phương pháp tu đó càng nặng. Dính mắc càng nặng, con càng bị ngăn chặn không thấy được viễn kiến mới. Con yêu dấu, không thể có cách nào khác hơn.

Con thấy chăng, sẽ có một điểm trên con đường tu khi con phải nhận ra một sự kiện giản dị. Thày gọi nó là giản dị, nhưng dĩ nhiên, rất khó để hiểu nó thấu đáo, và con cần hiểu thấu nó qua nhiều giai đoạn. Điều này được biểu trưng qua câu nói của Giê-su: “Tự ta, ta không làm được điều gì cả.” Thày cũng nhận xét thêm: “Cha ta ở trong ta là người làm việc”. Sẽ có một điểm trên con đường tâm linh nơi con không thể đi xa hơn với tâm vỏ ngoài.

Khi con bắt đầu con đường tâm linh, trong giai đoạn đầu con cần nâng mình lên khỏi từ lực hút (magnetic force)của tâm thức đại chúng, tâm thức tập thể. Điều này cần chú tâm, quyết tâm. Nó đòi hỏi điều mà con đã làm cho tới nay, tức là tập trung vào việc thực hành một phương pháp mà không nhìn trái nhìn phải. Con không suy ngẫm xem con có cần thực hành phương pháp đó hay không vì con đã quyết định làm vậy. Con cần tiếp tục làm để gây dựng động lượng. Nhưng sẽ tới một điểm con đã nâng mình ra khỏi từ lực hút của tâm thức tập thể, và lúc đó con không cần làm như trước nữa. Con cần làm một cái gì khác hơn ở tầng cao hơn. Nếu tâm vỏ ngoài của con không sẵn sàng chấp nhận điều này, sự tiến triển của con sẽ bị ngăn trở. Có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã đọc chú từ quá lâu đến độ tiến bộ tâm linh của họ bị ngăn trở. Không có nghĩa là họ cần ngưng hoàn toàn, nhưng họ cần thay đổi cách họ thực tập. Họ không thể nhận viễn kiến đó nếu họ không chịu xem xét có nên từ bỏ phương pháp cũ hay không. Con yêu dấu, con có thấy chăng là trong giai đoạn con nâng mình ra khỏi sức hút của tâm thức tập thể, có đủ loại tà lực (và lực của những người khác và của chính tâm thức tập thể) lôi kéo con để con bỏ phương pháp tu, để con bỏ ý tưởng có thể nâng mình lên trên tâm thức tập thể. Họ nói con phải giống như mọi người khác.

Sau đó, sẽ tới một điểm, là nơi con đã tới bây giờ, con cần buông bỏ phương pháp tu của con, nghĩa là buông bỏ để tiến lên cao hơn về phía Hiện diện TA LÀ của con. Con cần sẵn sàng nói với Hiện diện TA LÀ của con: “Con buông bỏ sự chú tâm bằng tâm vỏ ngoài vào điều con nghĩ con phải làm, con sẵn sàng hoàn toàn cởi mở và lắng nghe TA LÀ. Xin TA LÀ chỉ cho con thấy con cần làm gì để lên cao hơn trên con đường tu.” Đây là buông bỏ để lên cao hơn, và con yêu dấu, con đường tới quả vị Ki-tô sẽ đòi hỏi con làm điều này nhiều lần. Buông bỏ viễn kiến con có ngay bây giờ để nhận được một viễn kiến cao hơn.

8.12. Nguyên lý buông bỏ để hướng về trên

Mỗi bước con tiến tới, con đã buông bỏ một cái gì. Điều thày muốn con làm lúc này là ghi khắc trong tâm ý thức nguyên lý buông bỏ để hướng lên cao, buông bỏ điều con thấy với tâm vỏ ngoài, với tâm ý thức, điều con đang chú tâm vào. Con cần buông bỏ những khuôn đúc trong tiềm thức. Ta có thể nói là xin được viễn kiến cao có hai khía cạnh. Con cần xin Hiện diện TA LÀ hay một chân sư thăng thiên (mà con cảm thấy con đang làm việc với) chỉ cho con thấy khuôn đúc trong tiềm thức mà con đang cần giải quyết ngay bây giờ vì nó đang ngăn chặn không cho con tiến bước kế tiếp trên con đường tu. Con đang tập trung năng lượng vào phàm linh nào, tự ngã nào, khuôn đúc nào?

Con cần sẵn sàng nhìn nó và thấy những giới hạn của nó. Sau đó, con cần hỏi khuôn đúc cao hơn là gì, viễn kiến cao hơn là gì? Lúc đó con có thể có hành động Alpha và Omega. Con cần gì để làm được việc này? Con cần tình thương. Thày có nói là có cách gian nan và cách của tình thương. Thày không muốn con tiếp tục đi trên con đường tâm linh bằng cách gian nan qua nhiều lần tỉnh giác chấn động.

Con có thể đi từ tầng tâm thức 48 đến tầng tâm thức 96, và ở mỗi tầng con trải nghiệm một kinh nghiệm chấn động như vậy. Cách đi này khả thi, và có người đã làm như vậy, nhưng đi cách nhẹ nhàng có phải hay hơn chăng? Muốn vậy, con cần trau dồi ý muốn luôn luôn (không cần phải ở mọi lúc nhưng đều đặn mỗi khi con cảm thấy cần thiết) đứng lùi lại và xin có viễn kiến: “Giới hạn là gì, viễn kiến cao hơn là gì?”

Để làm điều này, con cần biết một cách ý thức động lực thật sự thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Thày có nói là con có một động lực đã thúc đẩy con cho tới lúc này. Khi con thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng của con cho kiếp sống này, con có một động lực cao hơn và con cần phải trụ trong đó nếu con sẵn sàng làm điều mà thày đã giảng: mở tâm ra đón nhận nó. Thày dĩ nhiên sẽ giúp con, Hiện diện TA LÀ của con sẽ giúp con, các chân sư khác sẽ giúp con – con chỉ cần hỏi.

Khi con đọc bài thỉnh đi đôi với bài giảng này, khi con đọc xong, con hãy ngừng giây lát, trụ vào tim càng vững càng tốt, và hỏi. Đầu tiên, con hãy xin cho con thấy động lực thật khiến con đi trên con đường tu, con thật sự ước mong hoàn tất điều gì trong kiếp sống này. Sau đó, xin cho con thấy giới hạn mà con cần giải quyết ngay lúc này, khuôn đúc trong tiềm thức mà con cần giải quyết ngay lúc này. Sau đó, xin cho con thấy viễn kiến cao hơn sẽ nâng con lên quá giới hạn đó để con có thể giản dị buông bỏ nó mà không cảm thấy phải ép buộc mình, hay phải tiêu trừ nó, hay phải lên án mình.

8.13. Con sẽ có một viễn kiến giới hạn

Con yếu dấu, con có thấy chăng là thày Serapis Bey đã có nỗ lực tuyệt vời giúp con thấy được những gì con cần thấy và chỉ việc tiếp tục tiến bước đi. Thày biết tiến trình này có nhiều giai đoạn, và đó là lý do thày cũng giúp con tới điểm nhận ra là việc có một viễn kiến giới hạn không đáng hổ thẹn.

Thày là chân sư của viễn kiến. Mục tiêu của thày là cho con một viễn kiến cao hơn viễn kiến con hiện có. Nếu con đã có viễn kiến cao nhất, thì thày đâu còn việc gì để làm? Thày biết con có viễn kiến giới hạn khi con tới khóa nhập thất của thày, vì nếu không con đã không tới. Tình thương thúc đẩy thày giúp con đạt được một viễn kiến cao hơn. Thày không chú tâm vào sự kiện con có một viễn kiến giới hạn. Thày không tìm cách chỉ viễn kiến đó ra, phân tích nó và mổ xẻ với dao giải phẫu. Thày tìm cách giúp con thấu hiểu viễn kiến cao hơn và sau đó buông bỏ, một cách không cố gắng và với đầy tình thương, viễn kiến giới hạn và đón nhận viễn kiến cao hơn.

Thày chú tâm vào viễn kiến cao hơn chứ không chú tâm vào viễn kiến thấp. Tuy nhiên có trường hợp con cần thấy một số khía cạnh của viễn kiến thấp, thấy vì sao nó giới hạn mình trước khi con có thể buông bỏ nó. Không có gì phải hổ thẹn. Thày không chỉ trích con đâu. Thày chỉ luôn luôn chú tâm vào viễn kiến cao hơn. Khi con chú tâm vào viễn kiến cao hơn, tại sao con lại quan tâm về viễn kiến thấp, về việc mình có viễn kiến thấp? Chính việc con thấy mình có viễn kiến thấp đã là nền móng để chấp nhận viễn kiến cao hơn. Thấy mình có một viễn kiến giới hạn là dụng cụ để vượt qua nó và tiến lên tiếp. Vì sao cần kháng cự điều này? Vì sao cần chỉ trích mình? Vì sao cảm thấy không vui?

Con yêu dấu, tình thương không phải là cái màu hồng mà người ta gán lên nó. Con có thể nói là một khía cạnh của tình thương là thấy một giới hạn và thương mình thoát ra khỏi nó. Điều lý tưởng là con nhận ra điều này một cách có ý thức ở tầng thứ ba của khóa nhập thất của thày. Sau đó, con trụ vững chắc vào viễn kiến dựa trên tình thương của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Có thể là con chưa thấy điều này một cách rõ ràng lúc này, nhưng con sẽ thấy là để đi trên con đường riêng tới quả vị Ki-tô (mà con có tiềm năng hoàn thành trong kiếp sống này), con cần đi rất xa quá viễn kiến của con đường tâm linh mà con đang hiện có.

Con cần phải vươn lên rất cao hơn những gì con đã làm cho tới nay, và con sẵn sàng làm điều này. Con đang háo hức chờ mong bước lên những bậc thang cao hơn đó. Thày đang háo hức chờ mong dẫn con bước lên những bậc thang cao hơn đó, và do đó thày bây giờ niêm con trong tình thương, trong viễn kiến đầy tình thương, mà thày LÀ. Hilarion TA LÀ.

Đạt kết quả qua nỗ lực tâm linh

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 11/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion. Ở tầng thứ nhì của khóa nhập thất của thày, con đối mặt với Tia thứ Năm phối hợp với Tia thừ Hai của Minh triết. Thánh kinh có câu: “Minh triết là điều chính, và với tất cả những gì con có, hãy đi tìm hiểu biết”. Vậy chúng ta hãy tìm cách đạt được hiểu biết về viễn kiến.

Để bắt đầu thày muốn hỏi con xem xét phản ứng của mình khi con đọc hay nghe bài giảng đầu của thày. Đặc biệt là thày muốn con nhớ lại phản ứng của con khi thày nói vũ trụ là một tấm gương và nó sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra. Con có chăng một phản ứng tựa như: “Nhưng tôi đã thử phóng chiếu ra một viễn kiến và tôi đã không nhận được đúng những gì tôi phóng chiếu ra”.

6.1. Vì sao con không đạt được kết quả

Ở tầng thứ nhì của khóa nhập thất của thày, điều rất quan trọng là con hiểu thật đúng vũ trụ vận hành ra sao và viễn kiến vận hành ra sao. Điều này đặc biệt quan trọng cho những ai đã đi trên con đường tâm linh một thời gian dài. Thày có nhiều học viên đến tầng này của khóa nhập thất và nói với thày khi có dịp thảo luận thân mật: “Thày Hilarion, con đã đi trên con đường tâm linh từ 30 hay 40 năm nay. Con đã đọc không biết bao nhiều bài chú. Con đã cầu thỉnh ngọn Lửa Tím. Con đã học giáo lý của các chân sư thăng thiên. Con đã làm việc với tâm lý gia. Con đã làm việc để giải quyết tâm lý của con. Con đã làm bản đồ tìm kho tàng. Con đã làm viễn kiến. Con đã đọc các lời khẳng định tích cực. Nhưng con vẫn không có được những hoản cảnh bên ngoài mà con mong muốn.”

Có nhiều người chưa đi trên con đường tâm linh lâu như vậy nhưng họ đã đến với thày và đã theo học một số phương pháp phiến diện thịnh hành trong xã hội (tỷ dụ như Thái độ Tâm lý Tích cực, khẳng định tích cực, bản đồ tìm kho tàng, vân vân), nhưng họ nghĩ họ có thể mau chóng phóng chiếu một viễn kiến và thể hiện viễn kiến đó. Nhưng họ đã thất vọng, tới tìm thày và nói với thày: “Phương pháp này có thực sự hiệu quả hay không? Và nếu nó có hiệu quả, thì tại sao con không đạt được những kết quả mà con mong muốn?”

Đây là điểm chúng ta cần xem xét một cách sâu sắc cuộc sống vận hành ra sao. Trong bài giảng đầu thày đã nêu lên một vài điều kiện khi thày nói là nếu con phóng chiếu một viễn kiến với tâm ý thức nhưng không chú ý tới tiềm thức, thì con có thể phóng chiếu một viễn kiến không rõ ràng, không thuần nhất, và ngay cả những viễn kiến đối nghịch từ tâm ý thức và tiềm thức.

Đây dĩ nhiên là một lý do vì sao con không nhận được từ vũ trụ những gì con mong muốn. Con không có cách nào giải quyết vấn đề này ngoài cách duyệt qua một cách có hệ thống các tầng lớp trong tiềm thức của con và bứng gốc tất cả những viễn kiến không đưa đến những gì con muốn biểu hiện. Đây dĩ nhiên là điều con làm khi con theo học bảy tầng của khóa tự điều ngự này và sử dụng các bài giảng khác của các thày và các dụng cụ tâm linh, đặc biệt là dụng cụ để chữa lành chấn thương nhập đời vũ trụ của con và một số chấn thương sâu đậm mà con đã gánh chịu trong những kiếp trước.

Tuy nhiên, dù con đã tới điểm trong lọc bốn thể phàm đủ để ngưng phóng chiếu những viễn kiến đối nghịch, con sẽ thấy là con vẫn không nhất thiết nhận lại đúng những gì con phóng chiếu ra. Lúc đó, con có thể nói với thày, như một số học viên đã nói: “Nhưng thày Hilarion, thày nói là vũ trụ hoạt động hầu như máy móc vì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại đúng những gì con phóng chiếu ra.” Ấy, như mọi chuyện khác, lúc nào cũng có một hiểu biết sâu sắc hơn.

Vũ trụ sẽ phản chiếu lại con đúng những gì con phóng chiếu ra, nhưng không nhất thiết là đúng theo những gì con nghĩ con đang phóng chiếu ra từ tâm ý thức. Để bắt đầu, chúng ta hãy xem xét đại đa số những nguời đang đầu thai trên trái đất. Hầu hết những người này không ý thức lắm về sức mạnh của viễn kiến và họ cũng không ý thức lắm về viễn kiến của họ về cuộc đời vận hành ra sao. Họ thường không chịu nhận lãnh trách nhiệm về đời họ. Họ không chịu nhìn nhận là hoàn cảnh bên ngoài có liên hệ với trạng thái tâm thức của họ.

Họ phóng chiếu ra điều gì? Họ vẫn có một viễn kiến (dù họ không có ý thức điều này) và họ phóng chiếu viễn kiến này lên tấm gương vũ trụ. Viễn kiến này mơ hồ, không rõ ràng, và điều mà họ thực sự phóng chiếu là họ không muốn nhận lãnh trách nhiệm về đời họ, và họ không muốn có ý thức rõ ràng về mọi chuyện họ đang làm. Họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ điều gì? Họ nhận lại đúng những gì họ phóng chiếu ra: một hoàn cảnh trong đó họ cảm thấy bị hạn chế bởi nhiều hoàn cảnh bên ngoài đến độ họ có rất ít khả năng làm chủ cuộc đời của họ. Điều này giúp họ trốn tránh tinh thần trách nhiệm, trốn tránh ý niệm họ lúc nào cũng phải lượng định một cách ý thức trạng thái tâm thức của họ. Như vậy là họ nhận lại từ tấm gương vũ trụ đúng những gì họ phóng chiếu ra.

Trong số những người đó, dĩ nhiên là nhiều người mong muốn trong tâm ý thức một hoàn cảnh khác, tỷ dụ như một cuộc sống thoải mái, và họ không nhận được viễn kiến đó, viễn kiến ý thức đó. Nhưng con thấy không, họ quả thật (theo tầm nhìn này) nhận đúng những gì họ phóng chiếu ra. Dĩ nhiên là điều này cũng có thể áp dụng cho con, là một người tâm linh.

6.2. Viễn kiến và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Với một người tâm linh, ta cần xem xét một số yếu tố khác. Yếu tố quan trọng nhất là một người tâm linh (sẵn sàng đón nhận giáo lý của chân sư thăng thiên trong kiếp sống này) chắc chắn đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi xuống đầu thai. Phải chăng là thày đang nói là không phải ai cũng có một Sứ vụ Thiêng liêng. Đúng, đó chính là điều thày nói. Đa số những người sống một cuộc sống không ý thức và đã làm vậy trong nhiều kiếp giản dị là không ở tầng tâm thức khiến họ có thể và muốn làm việc trực tiếp với các chân sư thăng thiên giữa hai kiếp đầu thai để tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp sống tới. Những người tâm linh (và dĩ nhiên trong số này thày bao gồm nhiều người đang không theo giáo lý của chân sư thăng thiên) chắc chắn đã tạo ra một Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đầu thai. Sứ vụ Thiêng liêng này chủ yếu tập trung vào các mục đích tâm linh của con. Nếu con đã theo học bốn tầng đầu của khóa tự điều ngự này, thì Sứ vụ Thiêng liêng của con chắc chắn bao gồm khả năng biểu hiện quả vị Ki-tô. Mục đích của khóa tự điều ngự, dĩ nhiên, là để dẫn con tới tầng tâm thức 96 là nơi con có thể chọn lựa đi tiếp và thực sự tu tập để thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô, và điều này có trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Đây là lúc con cần nhận ra là rất có thể con có với tâm ý thức ước muốn đạt được một hoàn cảnh bên ngoài nào đó (thường do nền văn hóa nơi con khôn lớn tạo ra), nhưng những ước muốn này đi ngược lại Sứ vụ Thiêng liêng của con. Ít nhất là chúng không giúp con hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng trong thể bản sắc của con, con có một sự nhận biết nào đó về Sứ vụ Thiêng liêng của con (dù con chưa biết với tâm ý thức), và sự nhận biết này sẽ phá hoại những mục đích ý thức của con. Chính con thực sự sẽ ngăn chặn con, không cho thể bản sắc gửi đủ sức mạnh cần thiết vào các mục đích trong tâm ý thức, để chúng không được phóng chiếu với đầy đủ sức mạnh để có thể quay trở về và thể hiện thành hoàn cảnh.

Thày sẽ tạm để sang bên chưa trả lời vì sao như vậy, vì thày muốn chú tâm vào chuyện tâm ý thức của con có một viễn kiến, một mục đích, một ước muốn. Con tạo viễn kiến này trong tâm con, bằng kỹ thuật bản đồ tìm kho tàng hay bằng cách khác. Con giữ trong tâm hình ảnh một hoàn cảnh vật chất mà con muốn thể hiện và con đặt sự chú ý có ý thức của con vào hình ảnh này và con dùng năng lượng linh hồn (cảm xúc, tư tưởng và bản sắc) để phóng chiếu viễn kiến này vào vũ trụ, vào tấm gương vũ trụ.

6.3. Vì sao một viễn kiến không thể biểu hiện

Thày đã xem xét vấn đề viễn kiến có trọn vẹn hay không. Nó có thuần nhất không? Có điều gì đối nghịch nó trong thể cảm xúc hay thể tư tưởng của con không? Đó là một vấn đề có thể ngăn chặn sự biểu hiện của nó. Viễn kiến có rời rạc chăng?

Giả thử con có một viễn kiến khá tập trung và con phóng chiếu nó ra. Điều mà ta cần xem xét tiếp theo là: con đặt vào sự phóng chiếu này bao nhiêu sức mạnh? Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố. Thày có nói trong bài giảng trước là có nhiều sa nhân đã tạo dựng được một động lực lớn trong việc biểu hiện một số hoàn cảnh vật chất. Họ đã tạo dựng được một động lực lớn trong việc dùng vũ lực để biểu hiện những gì họ mong muốn. Họ có quyền năng tâm hồn (psychic power) rất lớn mà họ đã tạo dựng qua rất nhiều kiếp và do đó họ có thể hướng quyền lực lớn lao này vào viễn kiến của họ trong kiếp này.

Nếu con là một người tâm linh có thể chấp nhận khóa học này, thì xác suất con là sa nhân rất thấp. Thày không nói là không thể có sa nhân nào theo học được khóa này tới điểm này, nhưng xác suất rất thấp. Điều này có nghĩa là con không có động lực mạnh trong việc hướng năng lượng tâm hồn. Ngay bây giờ, sức mạnh con dùng để phóng chiếu viễn kiến vào tấm gương vũ trụ bị giới hạn.

Thêm vào đó, có thể là chính con đang trực tiếp hạn chế sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu. Con làm như thế ở tầng thể tư tưởng hay thể bản sắc vì, như thày có nói, con có cái biết là viễn kiến trong tâm ý thức của con không giúp sự hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con. Do đó, thí dụ ở tầng bản sắc, con từ chối không gửi đủ sức mạnh mà con có ở tầng này, và do đó con chỉ có sức mạnh mà con có ở tầng ý thức, vật lý. Sức mạnh mà con dùng để phóng chiếu viễn kiến sẽ giới hạn. Bây giờ, chúng ta đã thiết lập là khi con tìm cách biểu hiện điều gì, câu hỏi là: viễn kiến của con thuần nhất đến đâu và con dùng bao nhiêu sức mạnh để phóng chiếu nó vào tấm gương vũ trụ?

Điều kế tiếp mà ta cần xem xét là chuyện gì xảy ra khi viễn kiến được phóng chiếu ra khỏi tâm con. Nó đã rời tâm con và đang đi tới cái mà các thày gọi là tấm gương vũ trụ. Khi các thày đưa ra một giáo lý, dĩ nhiên là có một khó khăn là các thày một mặt cần giản dị hóa để mọi người có thể hiểu dễ dàng, nhưng mặt khác, khi giản dị hóa thì các thày có thể khiến mọi người lầm tưởng là thực tại giản dị như vậy.

Con có thể có ý tưởng là tấm gương vũ trụ giống một tấm gương bình thường, và khi con đứng trước nó thì tia ánh sáng toát ra từ cơ thể con đập vào tấm gương và phản chiếu lại vào mắt con. Trong trường hợp tấm gương vũ trụ, dĩ nhiên là tình trạng phức tạp hơn, vì tấm gương vũ trụ là gì? Tấm gương vũ trụ là bốn tầng của vũ trụ vật chất trong hệ thống năng lượng của trái đất. Trái đất nằm ở trung tâm hệ thống này, nhưng nó không phải là hành tinh duy nhất hay đơn vị duy nhất trong hệ thống đó.

Dĩ nhiên là con cũng có bốn tầng: bản sắc, tư tưởng, cảm xúc và vật chất. Điều mà con cần nhận ra, như thày đã giảng trong bài trước, là mọi thứ là làn sóng điện từ. Khi con phóng chiếu ra một viễn kiến thì con phóng chiếu cái gì? Một làn sóng điện từ hay ít ra là một số làn sóng phức tạp! Để viễn kiến hay sự phóng chiếu này trở lại con như một hoàn cảnh vật lý, nó phải đi xuyên qua bốn tầng bản sắc, tư tưởng, xúc cảm, vật chất của hệ thống năng lượng của trái đất. Đương nhiên là câu hỏi trở nên: Cái gì ở trong bốn tầng đó? Bốn tầng đó là trường năng lượng, và trong các trường năng lượng đó có nhiều làn sóng. Khi sự phóng chiếu của con đi qua các trường năng lượng đó, không thể tránh là các làn sóng năng lượng của sự phóng chiếu sẽ tạo ra mô thức giao thoa (interference patterns) với các làn sóng năng lượng có mặt trong toàn thể đơn vị năng lượng nơi con sống. Đây chỉ giản dị là cơ học sóng.

Con cũng biết là có rất nhiều hỗn loạn, rất nhiều năng lượng ô uế trong bốn thể phàm của trái đất – và vật chất rất dày đặc – nên con có thể thấy đây là một lý do vì sao con phóng chiếu ra một viễn kiến và không (hay ít ra là chưa) nhận lại kết quả mong muốn. Điều này có thể khiến con nghi ngờ là con đường mà các thày mô tả không thực sự khả thi. Con có thể gặt hái kết quả của những nỗ lực của con chăng?

6.4. Một hiểu biết tinh vi hơn về viễn kiến

Điều con cần nhận ra ở điểm này là con cần hiểu biết một cách tinh vi hơn. Khi thày nói “hiểu biết”, thày không muốn nói đến cách vận hành máy móc nhưng là mục đích của hệ thống năng lượng của trái đất. Ở đây chúng ta gặp một vấn đề gây khó khăn cho nhiều người tâm linh. Tại sao con là một người tâm linh theo giáo lý của các chân sư thăng thiên? Đó là vì, tuy con không có trí nhớ ý thức về Sứ vụ Thiêng liêng của con, con có cái biết trực giác nội tại là có cái hơn cuộc sống vật chất mà con thấy những người chung quanh con đeo đuổi.

Con không chỉ chú tâm vào điều kiện vật chất mà thôi. Con có thể mong muốn một số điều kiện vật chất nhưng chúng không hoàn toàn quy định cuộc sống của con, vì nếu không thì con đã không theo con đường tâm linh. Cái biết trực giác nội tại của rất, rất nhiều người là cái biết cuộc sống như thế nào khi con ở trên một hành tinh có một tâm thức đại chúng cao hơn trái đất. Rất ít nguời theo giáo lý chân sư thăng thiên đã bắt đầu cuộc hành trình trong cõi vật chất trên trái đất. Đa số các con tới từ hành tinh khác nơi con đã đầu thai và đạt được một tầng tâm thức nào đó trước khi con tình nguyện đầu thai trên trái đất. Điều này có nghĩa con có, không phải một ký ức ý thức, nhưng một ký ức tiềm thức về đời sống trên các hành tinh đó, và đời sống đó thực sự thoải mái hơn đời sống trên trái đất. Con thấy chăng, trên một hành tinh ít vật chất dày đặc hơn và tâm thức đại chúng ít dày đặc hơn trái đất, biểu hiện viễn kiến của con dễ dàng hơn nhiều. Con không gặp sự đối kháng của tâm thức đại chúng. Sự phóng chiếu của con gặp ít giao thoa hơn trước khi trở lại con như hoàn cảnh vật lý.

Đây là điều khiến một số người nản chí vì con có cảm giác là đã bỏ ra đủ cố gắng và đáng lẽ phải gặt hái thành quả vật lý của những cố gắng này. Nhưng con không thấy những kết quả này biểu hiện, và do đó con nản chí và bắt đầu nghi ngờ là con đường tâm linh có thực sự hiệu quả chăng. Dĩ nhiên, đó là lúc con dễ bị ảnh hưởng bởi các phóng chiếu của sa nhân lúc nào cũng tìm cách đẩy con ra khỏi con đường tâm linh. Họ cũng tìm cách cản con bước vào con đường tâm linh ngay từ đầu, nhưng một khi con đã bắt đầu, thì họ tìm cách làm con vấp ngã khiến con rời con đường tâm linh.

Đây là điểm con cần nhận ra là trái đất rất khác một số hành tinh khác nơi con đã đầu thai. Trái đất là một hành tinh rất tăm tối; trái đất là một hành tinh rất dày đặc. Một trong những mục đích của trái đất là phục vụ như chặng nửa đường cho những dòng sống chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm trọn vẹn về đời họ.

Con có thể nhìn vào trái đất và thấy có rất ít người chịu nghe giáo lý của chân sư thăng thiên. Điều này giúp con nhận ra là nhiều người chưa sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời của họ. Cốt lõi của giáo lý của chân sư thăng thiên là gì? Đó là con lấy trách nhiệm về cuộc đời mình, về trạng thái tâm thức của mình. Nhiều người chưa sẵn sàng làm điều này và đó là lý do vì sao rất khó biểu hiện một viễn quan đúng như những gì con phóng chiếu ra.

Vậy con có thể tự hỏi: “Nhưng tại sao tôi đã tình nguyện xuống hành tinh này?” Câu trả lời rất đơn giản. Con xuống đây để chứng minh cho mọi người thấy là có thể sống một cách khác cách họ đang sống. Con tới đây để chứng minh là có một cách cao hơn, có một cách sống cao hơn, một cách sống tâm linh hơn. Đây là lý do vì sao con ở đây.

Một khi học viên đã thực sự nhận ra điều này trong các tầng nội tâm của họ, thì thày thấy một sự chuyển đổi nơi những người trước đó nghi ngờ con đường tâm linh. Tựa như là có một bóng đèn bật sáng trong tâm họ. Thày hy vọng là sẽ giúp con trải nghiệm với tâm ý thức điều mà con đã trải nghiệm ở thể bản sắc. Giống như một người thốt nhiên nhận ra: “Ồ, tôi không ở đây để biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, một nếp sống thoải mái, một căn nhà đẹp, người phối ngẫu toàn hảo, rất nhiều tiền, và cái này cái kia. Đấy không phải là lý do vì sao tôi ở đây. Tôi ở đây để tiến bước trên con đường của quả vị Ki-tô và chứng minh nó.

6.5. Làm hòa với cuộc sống của mình

Một lần nữa, con có thể nhìn vào cuộc đời của Giê-su. Thày không biểu hiện người bạn đời toàn hảo, gia đình toàn hảo, căn nhà toàn hảo, rất nhiều tiền, địa vị trong xã hội, tất cả những điều mà mọi người ao ước. Nếu con nhìn vào Giê-su và cuộc đời của thày với thước đo của những gì đa số con người sở hữu ngày hôm nay, thì con có thể nói là thày đã thất bại hòan toàn khi so sánh với mục đích và viễn kiến của những người đó. Tất cả những gì thày làm là đi khắp nơi và nói những lời mà đa số không hiểu, và rốt cuộc bị giết mà không đạt được thành tựu nào trong khoảng thời gian đó. Có thể là một số người sau đó đã lấy một số điều thày giảng và tạo nên một cái gì đó, nhưng nếu nhìn cuộc đời của Giê-su khi thày tại thế thì ta có thể cho rằng thày đã thất bại hòan toàn. Thày không biểu hiện bất cứ mục tiêu nào mà các người thời đó ước muốn và người bình thường thời nay ước muốn.

Con có thể nhìn vào cuộc đời của mình và nói: “Vậy tôi có biểu hiện được điều gì đáng quý so với mục tiêu của con người bình thường?” Nếu câu trả lời là: “Không”, thì con có thể nói tiếp: “Điều này có tệ chăng? Những điều được coi là đáng quý kia có thể không phù hợp với Sứ vụ Thiêng liêng của tôi. Nếu một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của tôi là biểu hiện quả vị Ki-tô, thì Sứ vụ Thiêng liêng của tôi có lẽ không có những mục tiêu duy vật mà người bình thường trong nền văn hóa của tôi có. Vậy có thể nào tôi tới điểm nhìn lại cuộc đời của tôi như nó đã hình thành từ trước tới nay, và tôi làm hòa với sự kiện nó đã là như thế ấy.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là khi con đạt được hiểu biết thực sự, thì con nhận ra là điều con có không phải là điều tâm ý thức con mong muốn. Khi con đạt được hiểu biết này, con nhận ra là điều mà tâm ý thức con mong muốn không phải là điều con thực sự mong muốn trong kiếp sống này. Điều con thực sự muốn là hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con, không phải là những mục tiêu phiến diện do nền văn hóa của con quy định. Khi nhận ra điều này, con có thể nhìn vào cuộc đời mình và nói: “Tôi đã theo con đường mà tôi có thể theo được, dựa trên con người của tôi, trình độ tâm thức của tôi khi tôi đầu thai và nền văn hóa của tôi.”

Con không cần nhìn lại chính mình và nghĩ là mình đã có sơ suất, đã có làm gì sai. Khi con nhận ra là con có một Sứ vụ Thiêng liêng và nó đòi hỏi con chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô (và con đường tới quả vị Ki-tô rất khác cuộc sống của người bình thường), thì con bắt đầu làm hòa với cuộc đời của mình. Con thấy chăng, các thày là chân sư thăng thiên không giống các thày giáo muốn con nhìn vào mọi khía cạnh của đời mình, phân tích mọi chuyện con đã làm, tìm ra những gì con làm sai, và những gì con đáng lý phải làm tốt hơn.

Ở tầng này của khóa nhập thất của thày, mục đích của thày là giúp con hoàn toàn làm hòa với cuộc đời con cho tới điểm này. Thày muốn giúp con tới điểm con có thể nhìn vào đời mình và nói: “Cuộc đời của tôi là như thế đó. Tôi đã làm những điều tôi đã làm vì tôi có lý do. Có thể lý do là tôi phải trải qua kinh nghiệm đó để nhận ra rằng tôi thực sự không muốn điều mà trước kia tôi ước muốn. Tôi thực sự không muốn những mục tiêu vật chất đó, những điều kiện vật chất đó. Tôi muốn cái gì hơn nữa. Tôi muốn cái gì cao hơn.”

6.6. Biến con đường tâm linh thành một cuộc đua

Con yêu dấu, con thấy chăng là có một thời trong cuộc đời con khi con cảm thấy lúc nào mình cũng đang đi chậm ở phía sau. Con lúc nào cũng đang đeo đuổi một hũ vàng ở cuối cầu vồng. Con lúc nào cũng đang đeo đuổi một mục đích nào đó và cảm thấy mình sẽ không bao giờ biểu hiện được nó. Rất, rất nhiều học viên đã dùng con đường tâm linh (và ngay cả giáo lý của chân sư thăng thiên) để khuếch đại tiến trình này.

Khi con tìm ra con đường tâm linh, con nhận ra là con có một số mục tiêu tâm linh. Con muốn có một trạng thái tâm thức cao hơn, và con nỗ lực để đạt được điều đó. Con cảm thấy con chưa tới đích, và bất cứ con làm điều gì cũng chưa đủ, cũng chưa tốt đủ vì con chưa biểu hiện được trạng thái tâm thức cao hơn mà con mường tượng.

Điều thày mong muốn là giúp con tới điểm con nhận ra cuộc đời con (cho tới lúc này) đúng như nó phải là, dựa trên trạng thái tâm thức và hoàn cảnh bên ngoài của con. Con đã làm đúng y điều con phải làm. Điều còn lại là con ý thức học bài học mà con cần học khi con làm những gì con đã làm.

Điều quan trọng không phải là đổ lỗi cho mình. Điều quan trọng không phải là tìm ra con đã làm gì sai. Điều quan trọng là con tới điểm nhận ra: “Con thực sự cần phải lớn lên trong một hoàn cảnh nào đó, cùng với những người thuộc một nền văn hóa nào đó, trong một gia đình nào đó, một dân tộc nào đó. Con phải lớn lên ở đó và phải trải qua một giai đoạn thích nghi với hoàn cảnh đó. Con phải trầm mình trong đó, con phải đeo đuổi một số mục tiêu, nhưng con không cần phải đeo đuổi chúng suốt đời. Con đã làm vậy để chứng minh con giống mọi người khác trong nền văn hóa đó, từ một góc nhìn vỏ ngoài. Nhưng nay con có cơ hội vượt lên trên hoàn cảnh đó và chứng minh con có thể hơn một người như thế, con có thể sống một cách khác.

Con yêu dấu, con thấy chăng là thày đang hướng dẫn con nhận ra là con đã sống cuộc đời cho tới điểm này dựa trên một viễn quan nào đó. Bây giờ con tới điểm tham dự khóa nhập thất của thày ở cõi ê-the và con đang đọc và nghiên cứu bài giảng này với tâm ý thức. Con có cơ hội thay đổi cuộc sống mình và có một viễn quan cao hơn, đó chính là viễn quan mà con đã thiết lập trong Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Thày hy vọng con thấy thày muốn nói gì. Cho tới nay, con đã sống dựa trên một viễn quan nào đó. Viễn quan đó không có gì sai, nhưng nó hạn hẹp, một phần vì trạng thái tâm thức của con, tâm lý của con, và phần kia vì nền văn hóa nơi con sống. Điều này hoàn toàn phải lý. Một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con đã ấn định là con hội nhập một nền văn hóa nào đó, một hoàn cảnh nào đó. Như các thày đã nói, cuộc sống, sự tăng triển, là tiến trình hội nhập trước và sau đó tỉnh ngộ. Ngay lúc này con đang ở điểm tỉnh ngộ, khi con nhận ra có một viễn quan cao hơn là viễn quan con đã sống theo cho tới ngày hôm nay. Nó là viễn quan trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, và viễn quan này rất khác viễn quan mà con có cho tới điểm này.

Lý do vì sao con rất cần hiểu điều này rất giản dị, nhưng cũng rất thâm sâu, rất quyết định, rất căn bản. Con yêu dấu, con thấy chăng là con không thể phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ bất cứ điều gì cao hơn viễn kiến hiện nay của con. Để có thể đón nhận một viễn kiến cao hơn cái con đang có hiện nay, con phải sẵn sàng từ bỏ viễn kiến con có từ trước tới nay. Con phải sẵn sàng nhận ra: “Tôi nhận ra là tôi đã có một viễn kiến hạn hẹp. Tôi muốn đón nhận một viễn kiến cao hơn, và điều này có nghĩa là tôi sẵn sàng buông bỏ viễn kiến cũ.”

Khi học viên nhận ra điều này ở tầng bản sắc, ở khóa nhập thất của thày, thái độ của họ chuyển đổi. Thày hy vọng rằng khi con theo học khóa học này, con cũng có một chuyển đổi tương tự ở tầng tâm ý thức và nhận ra là cuộc đời mình có thể đi theo một hướng hoàn toàn mới.

Thày biết là nhiều người trong các con đã đi theo con đường tâm linh từ rất lâu rồi. Thày biết là nhiều người đã học giáo lý chân sư thăng thiên từ lâu rồi, và con có thể nhìn lại quãng thời gian này và nói: “Nhưng tôi đã trải qua nhiều chuyển đổi trong khoảng thời gian 20 hay 30 năm trên con đường tâm linh. Tôi đã thay đổi rất nhiều so với trước kia.” Điều này đúng, và con đã thay đổi nhiều, và như vậy con sẽ dễ chấp nhận là có một viễn kiến cao hơn cả viễn kiến con hiện có. Con có thật sự chờ đợi tham dự khóa học của Tia thứ Năm của Viễn kiến, do Thượng sư Tia thứ Năm hướng dẫn, mà không mở rộng viễn kiến của mình? Dĩ nhiên là dù con đã trải qua nhiều chuyển đổi lớn lao và đã nâng cao viễn kiến rất nhiều, con vẫn còn thành tựu được hơn nữa. Có một viễn kiến cao hơn mà con chưa nhận ra.

6.7. Khía cạnh Alpha và Omega của viễn kiến cao hơn

Dĩ nhiên, thày cảm thấy vui mừng được đặc biệt giúp con nhận ra viễn kiến đó, và viễn kiến có hai khía cạnh Alpha và Omega. Con cần thấy gì nơi con để có thể biểu hiện quả vị Ki-tô? Con sẽ hành động ra sao ở thế giới bên ngoài khi con hiện thị và biểu lộ quả vị Ki-tô?

Bây giờ chúng ta có thể trở về xem xét Sứ vụ Thiêng liêng và viễn kiến của con. Thày có nói là trong nhiều trường hợp, con đã ngăn chặn trong tiềm thức việc biểu hiện một viễn kiến mà con phóng chiếu ra với tâm ý thức. Bây giờ con có thể bắt đầu xem xét các viễn kiến, mục tiêu và ước muốn mà con đã có và những gì con đã phóng chiếu ra với tâm ý thức của con. Con có thể bắt đầu tự hỏi: “Trong suốt cuộc đời, con đã có một số mục tiêu, nhưng bây giờ con sẵn sàng so sánh các mục tiêu này với Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con sẵn sàng suy xét xem con có cần vứt bỏ một số mục tiêu này không.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là chúng ta đang tới một điểm tế nhị. Thày đã đối chiếu cuộc đời của một số sa nhân đã điều khiển được hoàn cảnh vật chất của họ, và cuộc đời của Giê-su. Khi con nhìn vào đời của Giê-su, con có thể nói là thày không kiểm soát được bao nhiêu hoàn cảnh vật chất của thày. Rốt cuộc thì thày đã bị giới quan chức bắt giữ, kết án tử hình và bị hành quyết một cách rất khó chịu. Những việc này có chứng tỏ là thày kiểm soát được hoàn cảnh vật chất chăng? Các sa nhân có chấp nhận để chuyện này xảy ra với họ chăng?

Khi con bắt đầu mở tâm đón nhận viễn kiến cao hơn về hậu quả cho chính con khi con bước trên con đường của quả vị Ki-tô và biểu hiện quả vị Ki-tô, con thấy là trong một số trường hợp con sẽ không hoàn toàn kiểm soát được hoàn cảnh vật lý của con. Thày không nói là con cần bị bắt giữ, hành hạ, tra tấn và giết như Giê-su. Chúng ta không cần xem xét những chuyện này ngày nay, vì hoàn cảnh đã thay đổi, ít ra là trong đa số quốc gia.

Thày không phủ nhận là hiện nay có những người trong một số quốc gia, đã có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, là họ sẽ cho phép mình bị hành hạ, tra tấn và giết để khiến một số sa nhân bị đem ra xét xử. Trong những quốc gia mà quyển sách này được phổ biến, con hy vọng là trường hợp này không xảy ra. Tuy nhiên, ngay cả trong những vùng an bình hơn trên thế giới, rất có thể là chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô sẽ cần con trải nghiệm một số hoàn cảnh vật lý và vật chất mà con không hoàn toàn kiểm soát được.

6.8. Sự tiến hóa toàn vũ của trái đất

Con yêu dấu, vì sao lại như vậy? Để hiểu được điều này, con cần phải hiểu trái đất đang ở đâu trong tiến trình tiến hóa tòan vũ. Trái đất đang đi theo một tiến trình tự nhiên hướng về thời Hoàng Kim của Saint Germain, nhưng trái đất chưa đi vào tâm thức của thời hoàng kim. Sẽ có một điểm khi trái đất đi sâu vào thời Hoàng kim và lúc đó một khía cạnh tự nhiên của việc biểu lộ quả vị Ki-tô là thể hiện một số hoàn cảnh vật chất cao hơn.

Nhưng ở giai đoạn hiện nay, vẫn còn rất nhiều người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp, và mục đích chủ yếu của con đường tới quả vị Ki-tô không phải là chứng minh khả năng điều ngự ngoại cảnh qua đó con có thể biểu hiện đúng hoàn cảnh vật lý mà con mong muốn. Mà là chứng minh khả năng điều ngự nội tâm qua đó con chứng minh rằng, bất kỳ hoàn cảnh bên ngoài ra sao chăng nữa, con vẫn là chính mình. Con không cho phép hoàn cảnh bất thuận lợi bên ngoài lấy đi sự bình an của con. Con đeo đuổi viễn kiến của Sứ vụ Thiêng liêng của con, dù con không được hoàn cảnh bên ngoài lý tưởng.

Qua đó con chứng minh cho mọi người là thay vì đợi phải có điều kiện vật chất lý tưởng trước khi biểu hiện tâm bình an, một cuộc đời vui tươi hay sự đeo đuổi mục tiêu cao, thì con biểu hiện những điều đó ngay bây giờ, con bắt đầu ngay bây giờ. Con cần phải chứng minh cho mọi người điều ngược lại lời gian dối của sa nhân mà nhiều người đã tin theo. Như thày có nói trong bài giảng đầu, một trong những điều gian đối này là con cần chờ điều kiện lý tưởng trước khi đi con đường tâm linh, trước khi con biểu hiện quả vị Ki-tô. Điều tự nhiên là trong giai đoạn hiện nay, một phần của việc chứng minh con đường tới quả vị Ki-tô là chứng minh rằng con có thể biểu hiện quả vị Ki tô dù con chưa có điều kiện lý tưởng.

Khi con nhận ra điều này, con thốt nhiên thấy rằng: “Ồ, đổ năng lượng và chú tâm vào việc biểu hiện điều kiện vật chất quả là vô lý. Tôi cần bắt đầu ngay bây giờ việc chú tâm đạt quả vị Ki-tô và sau đó chứng minh nó.” Thày không muốn nói là con phải nhảy vào làm ngay. Con đang tự nhiên ở tầng này của khóa tự điều ngự, và các thày có mục đích dẫn con đạt một trình độ cao hơn trình độ hiện nay của con rất nhiều. Thày muốn nói rằng khi con có viễn kiến về nơi con muốn đến, con có thể làm hòa với hoàn cảnh bên ngoài của con như nó hiện đang là.

6.9. Chướng ngại lớn nhất trên đường tới quả vị Ki-tô

Con hiểu là có một nguyên lý đằng sau việc này, một nguyên lý rất quan trọng. Các thày có nói là con sẽ không thực sự biểu hiện một hoàn cảnh khác khi con chưa bình an với hoàn cảnh hiện nay của con. Nguyên lý này đặc biệt áp dụng cho những người tâm linh khi họ tới điểm một phần Sứ vụ Thiêng liêng của họ là quả vị Ki-tô. Lý do thông thường nhất khiến một người trì hoãn quả vị Ki-tô là trong tâm ý thức, họ bị dính mắc vào chuyện biểu hiện một hoàn cảnh bên ngoài nào đó, họ quá chú tâm vào hoàn cảnh đó và trong tiềm thức, họ nói rằng: “Tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô cho tới khi tôi có được những hoàn cảnh bên ngoài này.”

Cách duy nhất để thoát ra khỏi thế tiến thoái lưỡng nan này là con nhận ra là không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể đem lại quả vị Ki-tô và không hoàn cảnh bên ngoài nào có thể ngăn chặn nó. Quả vị Ki-tô là một trạng thái nội tâm, và nó sẽ bắt đầu biểu hiện khi con quyết định bây giờ là lúc biểu hiện. Con cần tới điểm con nhìn hoàn cảnh của mình và nói: “Bất kỳ hoàn cảnh của tôi khó khăn tới đâu, bất kỳ tôi có một số điều kiện hay không có, tôi sẽ chú tâm biểu hiện quả vị Ki-tô ngay bây giờ.Đó là lúc con đã làm hòa với hoàn cảnh hiện nay của con.

Nhiều người trong số các con đã kinh nghiệm rằng khi con tới điểm này, đột nhiên hoàn cảnh bên ngoài thay đổi. Nhiều người trong số các con có khả năng trải qua kinh nghiệm này: con tới điểm con nhìn vào một hoàn cảnh bên ngoài đã thu hút sự chú ý của con, và đột nhiên con làm hòa với nó và nói: “Nhưng chuyện này không thể ngăn chặn quả vị Ki-tô của tôi, vậy tại sao tôi lại phải lo lắng?” Đó là lúc con kinh nghiệm là hoàn cảnh bên ngoài đột nhiên thay đổi. Điều mà lúc trước tưởng như khóa chặt và ngoài khả năng thay đổi của con, đột nhiên trở nên uyển chuyển và hoàn cảnh bắt đầu chuyển đổi.

Nguyên lý đằng sau việc này là: Hoàn cảnh bên ngoài không quan trọng khi con bước trên con đường tới quả vị Ki-tô. Hoàn cảnh bên ngoài không phải là một chướng ngại, nó là một cơ hội để con chứng minh là con không thể và sẽ không bị quy định bởi hoàn cảnh vật chất. Quả vị Ki-tô là gì? Phản Ki-tô là gì?

Con hãy nhớ lại câu chuyện Giê-su nói với Phê-rô (Peter): “Hãy đứng sau ta, Satan. Con đang không ưu tiên việc của Thượng đế mà ưu tiên việc của con người.” Tâm thức Satan là tâm thức đòi hỏi Tánh linh phải thuận theo điều kiện hiện thời của vật chất. Đó là điều Phê-rô phóng chiếu lên Giê-su, lúc đó Phê-rô muốn Giê-su (là người đại diện tâm thức Ki-tô) phải thuận theo những gì Phê-rô chờ đợi phải xảy ra cho Giê-su.

Thời bấy giờ, lúc Giê-su bắt đầu được biết tới ở Israel, có nhiều người muốn Giê-su trở nên một vị vua-chiến sĩ giải thoát nước Israel khỏi tay người La mã. Khi Giê-su không muốn đóng vai trò này, họ giận dữ và chối bỏ thày. Họ cũng phóng chiếu lên Ki-tô là Ki-tô phải thuận theo điều kiện trong vật chất, nhưng mục tiêu của Ki-tô là gì? Đó là giải thoát con người khỏi các điều kiện hiện hành trong vật chất. Làm sao con giải thoát con người khỏi các điều kiện hiện hành bằng cách thuận theo chúng? Con chỉ giải thoát họ được bằng cách chứng minh rằng bất kỳ điều kiện hiện hành như thế nào, chúng không quy định được con như một sinh thể tâm linh; con hơn những điều kiện đó. Đó là cách con chứng minh quả vị Ki-tô.

6.10. Tầm quan trọng của việc buông bỏ viễn kiến cũ

Nếu con còn cảm thấy là điều kiện vật chất hiện thời đang giới hạn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của con, thì con không thể biểu lộ quả vị Ki-tô, con không thể thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con. Do đó, con cần tới điểm nhận ra là điều kiện hiện thời của vật chất là sản phẫm của một viễn kiến hạn hẹp. Viễn kiến hạn hẹp của hầu hết mọi người trên trái đất này đã được phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ từ rất lâu rồi và đã tạo ra điều kiện hiện thời của vật chất, kể cả độ dày đặc của vật chất, sự hỗn loạn, chiến tranh, đấu tranh và xung đột mà con thấy trên hành tinh. Làm sao con, là một đại diện của Ki-tô Hằng Sống, có thể giúp giải thoát con người nếu con không sống theo một viễn kiến cao hơn? Làm sao con có thể mở tâm một cách ý thức với viễn kiến này nếu con không nhận ra là con cần buông bỏ viễn kiến cũ, và con cần thấy nó hạn hẹp. Con cần cho cái ta dựa trên viễn kiến này chết đi và nói: “Nó có là gì với ta đâu? Con sẽ đi theo ngài,” và sau đó con đi theo Ki-tô Hằng Sống cho tới khi thấy được viễn kiến cao hơn đó.

Đó là cách duy nhất con chứng minh quả vị Ki-tô, và đó là lý do vì sao con cần tới điểm con không bám víu viễn kiến cũ. Con có thể đã có viễn kiến đó từ rất lâu rồi, nhưng con cần nhìn nó lại một lần nữa. Con cần nhận ra con là cái Ta Biết. Con là cái biết thuần khiết và do đó con có thể bước ra ngoài phin lọc nhận thức của viễn kiến hiện thời của con. Con có thể tháo ra cặp kính màu, con nhìn cuộc đời của con mà không có viễn kiến cũ, không có phin lọc nhận thức, không bị pha màu và bây giờ con thấy được điều mà cho tới nay con không thấy.

Đây là điểm thày đôi khi gặp khó khăn nhất để giúp các học viên đã theo chân sư thăng thiên từ rất lâu. Con yêu dấu, con có thể nghĩ là những người tới khóa nhập thất của thày đều đã đọc quyển sách này, nhưng điều này không đúng. Con là người đang đọc quyển sách này, con đang cưỡi một ngọn sóng gồm nhiều người (trong đó có người chưa bao giờ nghe nói tới giáo lý chân sư thăng thiên) đang hòa điệu và gia nhập một phong trào cấp tiến gồm hàng triệu người sẵn sàng đi bước kế tiếp.

Có những người không đọc quyển sách này (trong đó có người không nhìn nhận vị sứ giả này là sứ giả chân chính) nhưng họ đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm. Họ đã sử dụng giáo lý để tạo ra một viễn kiến đặc trưng của con đường tâm linh, của cuộc đời họ, của hành tinh và của điều chân sư thăng thiên mong muốn. Trong nhiều trường hợp, viễn kiến này giới hạn Sứ vụ Thiêng liêng và việc biểu lộ quả vị Ki-tô của họ, và thày có khi gặp rất, rất nhiều khó khăn khi thày giúp những người đó buông bỏ viễn kiến hạn hẹp của họ. Họ nghĩ rằng viễn kiến đó là viễn kiến chân chính duy nhất vì nó dựa trên giáo lý của chân sư thăng thiên. Họ không chịu nhìn nhận là họ đã dùng giáo lý của chân sư thăng thiên để chứng thực một viễn kiến hạn hẹp. Các thày không chứng thực nó, nhưng chính họ đã làm điều này.

Nhận ra điều này có thể là một điều rất đau đớn; nó đặc biệt đau đớn khi nhận ra với tâm ý thức. Thày phải nói với con rằng có nhiều người đã theo giáo lý chân sư thăng thiên từ nhiều chục năm nhưng họ đã bỏ rơi quả vị Ki-tô vì họ đã lạm dụng, đã diễn giải sai giáo lý. Điều này đã khiến họ tập trung tâm họ vào một viễn kiến không có trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ và không giúp họ đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của họ.

Thày có thể làm gì cho những học viên này? Trong một số trường hợp, thày không làm gì được ngoài việc chờ đợi và hy vọng họ sẽ chán ngán viễn kiến này và mở tâm đón nhận cái gì cao hơn với tâm ý thức của họ. Vì sao buông bỏ viễn kiến cũ lại quan trọng như vậy? Con yêu dấu, làm sao con có thể bước lên một tầng tâm thức cao hơn nếu con không buông bỏ viễn kiến con đã tạo ra ở tầng hiện thời của con? Đây chính là nguyên lý của quả vị Ki-tô.

6.11. Buông bỏ cái ta cũ

Các thày đã nói về phàm linh, các thày đã nói về cái ta. Ngay lúc này, con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con đã tạo ra một cái ta cho con cảm giác tiếp nối ở tầng đó. Điều này không có gì sai trái cả. Con không thể làm điều gì khác, nhưng nếu con muốn vươn lên tầng tâm thức kế tiếp, con không thể đem theo cái ta đó. Con không thể thuyên chuyển theo, con không thể kiện toàn nó, con không thể phát triển nó. Con cần cho nó chết đi, và sau đó, dĩ nhiên, con hình thành một cái ta khác ở tầng tâm thức kế tiếp.

Đa số con người không biết là khi họ chuyển dời từ một tầng tâm thức lên tầng kế tiếp, cái ta cũ chết đi và một cái ta mới sinh ra. Điều này xảy ra ngoài cái biết có ý thức, nó xảy ra dần dần, trơn tru nên đa số không nhận ra là có một cái ta đã chết đi. Con có thể tới điểm con có ý thức về chuyện này, hoặc ít nhất con có ý thức là để tiến cao hơn trên con đường tâm linh, con cần buông bỏ một cái gì đó, một viễn kiến cũ, một cái ta cũ. Con càng làm điều này một cách ý thức thì con càng tiến nhanh, vì con tránh không bị kẹt ở một tầng nào đó.

Khi con lên mỗi tầng của con đường tâm linh thì đó là một chiến thắng quyết định, một bước nhảy vọt. Nó không phải là một tiến triển tuần tự; nó là bước nhảy rõ rệt, quyết định của tâm thức. Nó là một chiến thắng, nhưng sa nhân luôn luôn tìm cách khiến chiến thắng cuối của con là chiến thắng cuối cùng vì con trở nên dính mắc vào một điều gì ở tầng đó và không vươn lên trên được nữa. Những đệ tử chân sư thăng thiên mà thày đề cập tới đã có tiến bộ và đã đạt được một tầng tâm thức cao hơn khi họ chưa biết giáo lý chân sư thăng thiên. Nhưng nếu họ ngừng ở chỗ đó thì họ đã không tận dụng được giáo lý chân sư thăng thiên vì mục tiêu của các thày là hướng dẫn con đạt được thăng thiên. Do đó con cần tiếp tục vươn lên qua suốt 144 tầng tâm thức cho tới khi con tới tầng cao nhất, và lúc đó con có thể nhảy bước nhảy vọt cuối cùng lên trạng thái thăng thiên.

Con luôn luôn, luôn luôn cần buông bỏ cái cũ để được tái sinh trong cái ta mới, viễn kiến mới sẽ nâng con lên cao hơn. Con yêu dấu, tiến trình này không đẹp đẽ sao? Tại sao lại nhìn nó như một đe dọa? Tại sao lại nhìn nó như mình phải mất mát cái gì? Nếu con thấy là mình dính mắc vào điều gì, ngần ngại không chịu buông bỏ điều gì, thì đó chính là tự ngã, là tàn dư của tự ngã, vì chỉ có tự ngã mới muốn nắm chặt. Con yêu dấu, thày bảo đảm với con, là khi con tới tầng này của khóa tự điều ngự, con đã tới điểm con chào đón tăng triển, con muốn tăng triển, con ao ước tăng triển.

Tại sao không chào đón tăng trưởng một cách ý thức và nhận ra rằng tăng trưởng có nghĩa là buông bỏ cái cũ? Sẽ luôn luôn có cảm giác muốn giữ lại điều gì đó, nhưng khi con biết có ý thức là đây chỉ là tự ngã (nó không có tầm quan trọng lớn, nó chỉ có mặt), con chỉ nhìn nó mà không cần đi sâu vào nó và nói: “Ôi, tôi biết nó là gì, nhưng tôi vẫn buông bỏ nó. Tôi vẫn buông bỏ cái ta cũ này, cái viễn kiến cũ này, hãy đi đi.”

Đó là lúc con khiến con đường tu trở nên dễ dàng vì mỗi bước trở nên một niềm vui lớn hơn, thay vì là một cuộc chiến đấu liên miên với tự ngã (với “kẻ đứng trên ngưỡng cửa”, như các thày đã gọi nó) lúc nào cũng muốn giữ con ở tầng cũ và không muốn buông con ra. Thật đúng là tự ngã hay kẻ đứng trên ngưỡng cửa không muốn buông con ra, nhưng điều này không có nghĩa là con không thể buông ra. Khi con buông nó ra, thì nó biến mất, và con tiếp tục tiến bước.

Viễn kiến vừa chủ động vừa thụ động

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2017.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Hilarion, Thượng sư của Tia thứ Năm. Mục đích của quyển sách này là cho con kích thích bên ngoài, lời nhắc nhủ bên ngoài, giúp con nắm vững và hội nhập các bài học mà con đã học ở cõi ê-the khi con tham dự khóa nhập thất của thày ở tầng thứ năm của khóa tự điều ngự. Trong bài giảng đầu này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách xem xét một khía cạnh của Tia thứ Năm thường được gọi là viễn kiến.

Trong các kinh sách cổ có câu nói: “Nếu không có viễn kiến thì con người sẽ tử vong”. Đây là một câu có giá trị đáng ngờ vì có ai mà không có viễn kiến? Ai ai cũng có một viễn kiến, dù họ có nhận biết điều này hay không, dù họ có được coi là người nhìn xa thấy rộng hay không. Con người ai ai cũng có một viễn kiến. Vấn đề là con người không biết mình có một viễn kiến và không biết là họ làm gì với nó. Thực ra thì con người không tử vong nếu không có viễn kiến, nhưng ta cần xem xét là con người có loại viễn kiến nào.

4.1 Viễn kiến không thụ động

Con là người quen thuộc với giáo lý của các thày biết ít nhiều về nhị nguyên và bất nhị. Do đó, chắc con thấy rõ là câu trên phải là: “Nếu có viễn kiến nhị nguyên thì con người sẽ tử vong”. Nếu con người không có viễn kiến Ki-tô, là viễn kiến dựa trên duy nhất, thì lúc đó họ sẽ tử vong. Vì sao lại như vậy? Đó là vì chính khả năng nhìn giúp con phóng chiếu lên tấm gương vũ trụ. Như các thày đã nói nhiều lần: “Tấm gương vũ trụ có thể làm được gì ngoại trừ phản chiếu lại cho con điều mà con phóng chiếu lên nó?” Điều này dẫn tới khai ngộ cốt yếu mà con sẽ gặp ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày.

Đại đa số con người trên hành tinh này đã lớn lên với một cái nhìn sai lạc về viễn kiến. Họ cho rằng viễn kiến thụ động. Nếu con nhớ lại điều con học ở nhà trường thì con được dạy là hai mắt là dụng cụ nhận tín hiệu. Chúng nhận ánh sáng đến từ môi trường chung quanh, và từ đó con nhìn ra những gì trước mặt mình. Con yêu dấu, điều này hoàn toàn sai sự thực. Con không thấy những gì trước mặt con.

Các thày đã cố giảng điều này nhiều lần, nhưng ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, con đơn giản không thể tiến lên bước kế tiếp nếu con không thực sự hiểu điều này. Hiểu nó trên mặt lý thuyếttrí năng không đủ. Con cần thấu hiểu nó như một trải nghiệm toàn diện chuyển đổi tâm thức của con và khiến con nhận ra trong cả bốn thể phàm của mình là tầm nhìn không phải là một khả năng thụ động. Nó chính thực là một khả năng chủ động, qua nó con liên tục phóng chiếu ra ngoài, và điều gì con phóng chiếu ảnh hưởng rất nhiều điều con thấy.

Quả thực là điều con phóng chiếu ra ngoài ảnh hưởng những gì con tưởng đến với con từ bên ngoài. Điều con thấy không phải là điều đến với con từ bên ngoài; điều con thấy (và các khoa học gia vật lý lượng tử đã bắt đầu nhận ra điều này) là cái gì đã được sản xuất trong tâm của con. Con không có cách chi tiến lên tới tầng tâm thức 96 nếu con không thấu hiểu và hội nhập thực trạng này. Ta có thể nói là công việc chính của con trong phần còn lại của khóa học tự điều ngự này là làm sạch, làm sáng tỏ viễn kiến của con để con nhận ra những điều mà con phóng chiếu ra ngoài. Con làm chủ những gì con phóng chiếu ra, do đó con làm chủ những gì được gửi trả về con từ tấm gương vũ trụ. Tấm gương chỉ phản chiếu lại điều con phóng chiếu ra.

4.2. Một ảo tưởng vi tế trên đường tu

Đây chính thực là một trở ngại lớn cho nhiều học viên đến khóa nhập thất của thày. Rất có thể là con đã tiến triển trên con đường tu tới điểm này, con đã trải qua các khai ngộ dưới sự hướng dẫn của bốn vị Thượng sư đầu, nhưng con vẫn chưa buông bỏ được một trong những ảo tưởng vi tế nhất trên đường tâm linh. Ảo tưởng này đến thẳng từ tâm thức sa ngã. Giê-su đề cập đến ảo tưởng này khi thày nói: “Vương quốc thiên đàng chịu sự bạo lực, và người hung hãn muốn chiếm nó bằng vũ lực.”

Các sa nhân đã từ rất lâu tìm cách chiếm thiên đàng bằng vũ lực. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực, và do đó lời của Giê-su đã không đuợc ghi chép đúng đắn, vì dĩ nhiên là thày biết đâu là sự thực. Con không thể chiếm thiên đàng bằng vũ lực vì con không thể vượt quá bốn tầng của bầu cõi chưa thăng thiên khi con còn đang hiện thân ở một trong bốn tầng này. Con không thể nào ảnh hưởng tới cõi tâm linh.

Điều con có thể làm được là dùng lực để ép dòng chảy của năng lượng đi về một hướng giúp con có một số quyền năng, một số khả năng cao hơn những gì được coi là bình thường trên hành tinh này. Như các thày đã nói trước đây, dùng lực để đạt được một số khả năng là điều hoàn toàn có thể làm được. Như thày Serapis Bey đã giảng, có một số thày giả đã tự tạo cho mình một số khả năng làm chóa mắt đệ tử. Con yêu dấu, nếu thày là người đi tìm một vị thày tâm linh, thì thày sẽ không chọn người có một số khả năng nào đó, nhưng thày sẽ chọn vị nào có viễn kiến tinh khiết nhất. Thày muốn nói gì khi thày nói “viễn kiến tinh khiết”? Điều này sẽ trở nên sáng tỏ khi con đọc qua từng phần của quyển sách này.

Ở đây thì thày muốn nêu ra ý niệm là có học viên đến tầng đầu của khóa nhập thất của thày mà vẫn chưa buông bỏ được ý tưởng là mục đích của khóa học tự điều ngự này, hay của con đường tâm linh nói chung, là đạt được một số khả năng, một số khả năng phi thường. Điều tàn hại hơn nữa là nhiều người vẫn chưa hiểu, chưa thực sự nhận ra là mục đích con đường tâm linh không phải để đạt một khả năng máy móc. Thày biết rõ điều này vi tế, nhưng thày muốn con suy ngẫm sự khác biệt vi tế này.

Thày có nói là vũ trụ là một tấm gương toàn vũ. Nó chỉ có thể phản chiếu lại con những gì con phóng chiếu ra. Nghe giống như vũ trụ vận hành một cách máy móc. Quả thực là ta có thể nói là vũ trụ cũng vận hành máy móc như một tấm gương, vì những gì con phóng chiếu tới Ánh sáng Mẫu-Vật, thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng của hình ảnh mà con phóng chiếu một cách khá máy móc. Ánh sáng Mẫu-Vật không sáng tạo khi gửi lại con những gì con phóng chiếu ra. Ánh sáng Mẫu-Vật gửi lại con y như những gì con phóng chiếu ra. Điều vi tế là không có cách gì để gian lận tiến trình này – con có hiểu điều này chăng?

4.3 Không thể gian lận cách vận hành của vũ trụ

Có rất nhiều đạo sư và thày giáo trong các lãnh vực Thời đại Mới, Thái độ Tư tưởng Tích cực, giúp mình thêm ý chí (hay bất kỳ tên gọi nào khác) tìm cách khiến con tin rằng nếu con theo vài bước giản dị, học một số công thức, đọc một số lời khẳng định, thì con có thể xoay đổi đời mình một cách nhanh chóng. Chỉ cần áp dùng vài phương cách giản dị là con có thể thu hút một người bạn đời tuyệt vời nhất, có được tất cả tiền bạc mà con mong muốn và bất kỳ điều gì khác mà con ao ước. Điều này không thể xảy ra – có đúng vậy chăng, con yêu dấu? Không có cách chi gian lận cách vận hành của vũ trụ.

Con có thể dùng tâm ý thức và gia nhập một khóa học được cống hiến và tập trung tâm ý thức của mình vào một viễn kiến tích cực của đời sống. Con có thể vẽ ra một họa đồ tìm kho tàng, viết ra thật rõ những gì con muốn, làm theo các bước thực hành và tập trung viễn kiến của mình vào một mục đích nào đó. Con có thể đem hết năng lượng mà con có và phóng chiếu viễn kiến đó lên tấm gương vũ trụ, nhưng nếu con chỉ làm điều này với tâm ý thức của con thì kết quả sẽ chỉ giới hạn. Vì con vẫn phóng chiếu một viễn kiến khác – và có thể là một viễn kiến đối ngược – với tiềm thức của con, tức là ba tầng tâm xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Như các thày đã giảng, thay vì con giải quyết các lập trình hay phàm linh nội tại ở ba tầng cao của tâm, thì con tạo ra một lập trình mới, một phàm linh mới, và lúc đó vấn đề là phàm linh nào mạnh hơn. Cho dù có một phàm linh mạnh hơn, nhưng các phàm linh kia vẫn còn đó và vẫn tiếp tục phóng chiếu ra ngoài.

Ta có thể trở lại câu nói trong kinh sách cổ: “Nếu không có viễn kiến thì con người sẽ tử vong”. Ta nay có thể nói: “Nếu không có viễn kiến thuần nhất thì con người sẽ tử vong”. Con phóng chiếu ra điều gì nếu con không có một viễn kiến đồng nhất? Con gửi đi “tín hiệu lộn xộn”, theo lối nói bình dân, và khi đó thì tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con điều gì? Dĩ nhiên là tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại một hoàn cảnh bên ngoài phản ánh điều này. Đó là vì sao thày nói không có cách nào gian lận cách vận hành của vũ trụ, không có cách máy móc nào. Con không thể tạo ra một công thức máy móc cho con hoàn cảnh mà con mong muốn. Như thày có nói, con có thể tạo ra một số công thức cho con một số khả năng tạm thời. Tỷ dụ, con có thể, như một số người đã làm, thu hút về mình tài sản đồ sộ trong kiếp sống này.

Nhưng điều đó không có nghĩa là họ đã tránh được Luật Nhân Quả. Do đó, trong một kiếp sống tới, họ sẽ phải trải nghiệm đối cực kia của viễn kiến bất quân bình mà họ đã phóng chiếu ra. Điều thày muốn nói ở đây là: ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, học viên cần nhận ra rằng tất cả những hứa hẹn giả đang hiện hành là giả. Và con cũng cần hiểu rõ tại sao chúng là giả. Các hứa hẹn đó giả vì chúng khiến con tạo ra một lập trình mới với tâm ý thức của con nhưng chúng không giải quyết những lập trình khác nơi các tầng khác của tâm. Chúng giả vì con phải chọn lựa con muốn gì trong cuộc đời. Con muốn tự điều ngự hay con muốn hoàn cảnh vật lý, vật chất hay kinh nghiệm nào đó trên trái đất?

4.4. Điều ngự thế giới hay điều ngự cái ta

Con yêu dấu, thày vừa nói gì đó? Thày vừa nói là vũ trụ là tấm gương, nó phản chiếu lại con y hệt những gì con phóng chiếu vào nó. Con có thể nhìn một số người và thấy là họ có động lực cao (hay ta cũng có thể nói là khả năng điều ngự cao) giúp họ có được đúng hoàn cảnh vật lý mà họ mong muốn. Con có thể nhìn vào những người đã tạo ra hay thu hút được tài sản to lớn. Họ sống trong một dinh thự đẹp dẽ, họ có người phối ngẫu xinh đẹp, họ có những hoàn cảnh bên ngoài tuyệt hảo và mọi chuyện nằm dưới tầm kiểm soát của họ y như ý họ muốn. Con có thể thấy điều này và nói: “Tôi cũng muốn sống một cuộc đời mà không phải lo thiếu tiền bạc, có được một căn nhà xinh đẹp và có mọi chuyện dưới tầm kiểm soát của mình.” Con có thể nhìn các người đó và nói: “Tôi cũng muốn được như vậy. Đây chắc hẳn là tự điều ngự nếu tôi thể hiện được những hoàn cảnh đó.”

Con yêu dấu, nếu đó là thái độ của con, nếu đó là điều con ao ước, thì không có gì sai trái với việc đó cả. Như các thày đã nói, trái đất là một bộ máy tạo kinh nghiệm nơi con có thể có một số trải nghiệm cho tới khi con chán ngán chúng và sẵn sàng tiến lên bước khác. Như con chắc đã bắt đầu nhận ra, mục đích của khóa tu tự điều ngự này không phải là cho con quyền năng biểu hiện đúng những hoàn cảnh vật lý mà con muốn. Chuyện quan trọng không phải là biểu hiện hoàn cảnh vật lý nào đó; chuyện quan trọng là tự điều ngự. Điều khác biệt là gì? Điều khác biệt rất giản dị.

Sa nhân đưa ra lập luận dối trá rằng khi con có một số hoàn cảnh vật chất nào đó, thì lúc đó con sẽ hạnh phúc, lúc đó con sẽ được bình an trong tâm. Họ đựa ra lập luận dối trá này vì họ tin điều đó là thật. Họ không thể tránh tin điều đó vì họ ở trong tâm thức nhị nguyên. Trong nhị nguyên, con thấy mình là sinh thể tách biệt có nghĩa là con thấy có sự phân chia giữa điều ở bên trong tâm mình và ở bên ngoài. Con (luôn luôn) kinh nghiệm rằng hoàn cảnh bên ngoài tâm ảnh hưởng trạng thái tâm của con.

Do đó, con rơi vào bẫy của ảo tưởng cho rằng cách duy nhất để làm chủ trạng thái tâm của mình là làm chủ ngoại cảnh. Một khi con có được ngoại cảnh như ý muốn, thì trạng thái tâm sẽ tự động theo sau, sẽ theo sau một cách máy móc. Đây là điều Giê-su ám chỉ khi thày nói về ý muốn dùng bạo lực để cưỡng chiếm thiên đàng. Khi thày nói thiên đàng, dĩ nhiên là thày muốn nói tới tâm Ki-tô, trong đó con hoàn toàn bình an. Đây là ý muốn dùng bạo lực để đạt được bình an nội tâm bằng cách ép buộc ngoại cảnh phải tuân theo tầm nhìn của họ. Tầm nhìn đó đưa ra các hoàn cảnh lý tưởng mà họ cho rằng sẽ đem lại sự bình an nội tâm một cách máy móc.

Dĩ nhiên các thày đã nói nhiều lần là con không phải là một sinh thể máy móc. Do đó, bất kỳ ngoại cảnh như thế nào chăng nữa, con không nhất thiết được bình an. Ngoại cảnh không thể nào tạo ra bình an nội tâm vì bình an nội tâm và hạnh phúc là một điều kiện nội tâm. Đó là lý do con đang theo học một khóa tu mà các thày gọi là khóa tự điều ngự. Tự điều ngự không có nghĩa là điều khiển ngoại cảnh, những điều kiện bên ngoài cái ta, mà là điều khiển hoàn cảnh nội tâm, những hoàn cảnh bên trong cái ta. Con có thể nghĩ là con đã nghe các thày nói điều này rồi – và quả thực các thày có giảng điều này rồi. Nhưng con có thực sự thể nhập nó chưa? Con có khóa chặt tâm mình vào điều đó chưa? Con có nhận ra trong cả bốn tầng tâm của con chưa? Cái Ta Biết của con đã bước ra khỏi động lượng cũ xưa muốn tìm cách kiểm soát thế giới bên ngoài chưa? Con đã bước ra khỏi ham muốn cũ xưa muốn có một số hoàn cảnh nơi thế giới bên ngoài chưa?

4.5. Không có công thức máy móc

Đó là lý do vì sao thày nói đường tu không máy móc. Con không thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó và sau đó sẽ tự động đạt được bình an nội tâm. Như thày có nói, con có thể chế ra một công thức tạo ra một số ngoại cảnh nào đó. Đó là điều có thể làm được. Đây không phải là diều dễ làm cho đa số con người trên hành tinh này, nhưng con đã thấy một số người dùng tâm của họ phóng chiếu ra một viễn kiến, và qua đó thu thập được nhiều tài sản, quyền lực hay những thứ khác.

Nhưng điều mà con có thể thấy, nếu con dùng viễn quan Ki-tô, là hầu hết những người đó là sa nhân đã qua một thời gian rất, rất dài xây dựng được động lực kiểm soát thế giới vật chất. Điều họ làm được giống như sự chuyển động của một quả lắc. Khi quả lắc di chuyển qua một phía thì họ dần dần có càng ngày càng nhiều kiểm soát trên ngoại cảnh. Khi quả lắc tới điểm xa nhất mà động lực có thể đảy nó tới, thì họ có vẻ đạt được quyền lực và tài sản to lớn trên trái đất. Nhưng họ tất nhiên sẽ tới điểm bất quân bình cao nhất mà họ có thể tạo ra trong vũ trụ , và quả lắc sẽ bắt đầu di chuyển về hướng kia. Họ sẽ càng ngày càng có ít kiểm soát trên ngoại cảnh, và họ có thể sẽ có nhiều kiếp sống trong đó họ hầu như không kiểm soát được điều gì trong cuộc sống của họ. Con sẽ thấy là những người uy quyền ngày hôm nay sẽ không phải là người uy quyền trong tương lai, và họ cũng không là người uy quyền trong quá khứ (ít nhất là trong quá khứ xa).

Nếu con muốn có một kinh nghiệm nào đó, nếu con ao ước có được cái có vẻ là sự điều ngự vật chất, thì thày không lên án con, thày không chỉ trích con. Thày nhìn nhận là cách duy nhất để con vượt qua mong ước đó là con tìm cách thể hiện nó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm đó. Thày sẽ chỉ giản dị nói với con: “Thày không phải là vị thày mà con cần ở điểm này trên con đường tu của con. Các vị Thượng sư khác cũng vậy. Khóa học tự điều ngự này không phải là điều con cần ở điểm này. Con cần đi tìm một vị thày khác có thể cho con điều con mong ước.” Quả thực là có học viên đã tới điểm này, sau khi đã học xong bốn tia sáng trước, và nay phải đối mặt với thực tại này và thốt nhiên nhận ra là con đường tu này không phải điều họ muốn ở điểm này trên tiến trình tiến hóa toàn vũ của họ – và họ quyết định bỏ đi.

Sau đó, dĩ nhiên là họ sẽ được tiếp đón niềm nở trở lại khi họ sẵn sàng trở lại. Họ sẽ phải đi xuống và bắt đầu trở lại với Chân sư MORE, nhưng tuy thế các thày không lên án ai, không bao giờ đuổi ai đi. Con thấy chăng, thày cần phải khiến học viên đối diện chính mình ở điểm này, ở tầng đầu của khóa nhập thất của thày, để giúp họ soi rõ viễn kiến của họ về con đường tâm linh là gì, viễn kiến của họ về khóa học này là gì.

Lúc đó họ có một chọn lựa: họ có sẽ thăng vượt viễn kiến của họ và thuận theo mục đích của khóa học, hay họ đi nơi khác và theo đuổi viễn kiến mà họ nghĩ cần thể hiện trong đời sống của mình? Khi học viên vượt qua được thử thách này và quyết định: “Có”, họ có muốn tự điều ngự, họ có muốn theo học khóa tu này, họ có muốn theo học với thày, thì chúng ta có thể tiếp tục. Lúc đó chúng ta tiến tới thử thách cam go khác mà con phải đối mặt ở tầng thứ nhất này của khóa nhập thất của thày. Đây là điều mà thày đã bắt đầu mô tả, khi thày nói là con cần nhận ra viễn kiến không thụ động, mà là một khả năng rất chủ động.

4.6. Làm sao tâm khiến viễn kiến bị lệch lạc

Bây giờ thày muốn con nhớ lại một số điều con học ở nhà trường. Con học rằng trong thế giới có một số đồ vật, như bàn, ghế, đường xá, xe cộ, cây cối, núi, sông, đại dương, trái đất vân vân. Khi con nhìn vào các đồ vật đó, ánh sáng chiếu vào chúng và dội về mắt con. Ánh sáng phản chiếu đó dội vào màng võng mạc trong mắt con, và qua đó con thấy đồ vật đó. Bây giờ, ta phải xem xét mô hình này để đi quá những gì con học ở nhà trường.

Trước tiên, ta cần chất vấn rằng có thực sự những đồ vật trong thế giới hay không, ít ra là những đồ vật theo nghĩa con đã được dạy dỗ. Thày không nói là cả thế giới vật chất không hiện hữu hay được tạo nên bởi viễn kiến của con. Quả thực là đồ vật trong thế giới bên ngoài.

Ta có thể chất vấn là các đồ vật đó rắn chắc hay là cái gì khác. Khi con học giáo lý của các thày, hay ngay cả khi con học đôi chút về vật lý lượng tử, thì con thấy là ngay cả các khoa học gia cũng đã bắt đầu đặt nghi vấn là có những đồ vật thực sự rắn đặc hay không. Họ biết rằng, khi ta nghĩ sâu về vấn đề, là mọi thứ trong vũ trụ được cấu tạo bởi sóng năng lượng rung động. Con không nhất thiết thấy một đồ vật, con thấy một trường năng lượng. Đây là một điều quan trọng cần ghi nhớ, và thày sẽ trở lại điểm này trong các bài giảng tới.

Câu hỏi mà thày muốn con suy ngẫm ở đây là: “Những tia sáng dội vào mắt con thực sự từ đâu tới?” Chúng bay bay chơi vơi trong không gian, hay chúng phát xuất từ mặt trời hay từ một nguồn ánh sáng nhân tạo? Con dĩ nhiên biết là trong bóng tối con không thấy được gì hết. Phải chăng là đồ vật không có đó khi tối đen? Không phải đâu, dĩ nhiên là chúng có đó. Trường năng lượng có đó, vậy thì các tia ánh sáng đập vào mắt con sau khi đã dội vào đồ vật từ đâu tới? Ở đây, ta cần nhận ra là có khía cạnh vật lý và phi vật lý của nhãn quan, ít nhất là theo định nghĩa mà con hiện có về từ “vật lý”.

Nếu con là người tâm linh, thì con thể nào cũng có nghe đến quan niệm “nhãn quan thứ hai” hay “khai mở con mắt thứ ba” giúp con người thấy được trường năng lượng bao quanh con người hay đồ vật. Điều con cần nhận ra là lúc nào cũng có sóng ánh sáng tiết ra từ bất cứ đồ vật nào. Một đồ vật là một trường năng lượng và nó liên tục tỏa ra tia điện từ, ngay cả ban đêm. Chuyện dĩ nhiên xảy ra là khi mặt trời ló dạng hay khi con bật lên ngọn đèn điện là lúc đó có những tia điện từ và con mắt có thể nhận được, và do đó con thấy được đồ vật.

Con yêu dấu, ta hoàn toàn có khả năng thấy ban đêm mà không cần đeo những cặp kính dị hợm khiến mọi vật hiện ra với màu xanh. Việc thấy được trong bóng tối rõ như con thấy được ban ngày với con mắt vật lý là điều hoàn toàn có thể làm được. Tại sao con không thấy được hào quang, tại sao không thấy được ban đêm? Đó là vì con không thấy được những gì con mắt thấy. Điều mà thày đang nói là có nhiều tia ánh sáng đi vào đôi mắt vật lý của con hơn là con thấy. Vì sao đa số con người không thấy được hào quang bao quanh mỗi người? Không phải là vì con mắt của họ không nhận được những tia ánh sáng từ hào quang của người khác; mà là vì tâm của họ lọc đi những tia sáng được coi là không liên quan hay thừa thãi.

4.7. Bốn tầng của nhãn quan

Chúng ta hãy xem xét chuyện gì xảy ra khi một tia ánh sáng đập vào con mắt vật lý. Như các con đã được dạy trong nhà trường, tia sáng đập vào màng võng mạc (retina) và màng võng mạc gửi một tín hiệu đến vùng vỏ não thị giác (visual cortex) trong não bộ. Bài học nhà trường của con có lẽ chấm dứt nơi đây, nhưng con cần nhận ra đây là một tiến trình rất phức tạp và tinh vi. Con biết là trong một máy ảnh kỹ thuật số có một bộ cảm biến (sensor), và khi ánh sáng đập vào bộ phận này, nó biến tia ánh sáng thành một tín hiệu mà một máy điện toán có thể đọc được. Con cũng biết là máy điện toán được thiết kế dựa trên một hệ thống nhị phân gồm tín hiệu bật hay tắt. Nói cách khác, máy điện toán không biết các sắc thái vi tế, các chuyển màu tế nhị; nó chỉ biết bật hay tắt, số không hay số một, chỉ có hai trạng thái mà thôi. Màng võ mạc trong con mắt cũng hoạt động tương tự nhưng nó có hơn hai trạng thái; nó không nhị phân.

Đúng thực là màng võng mạc có thể xử lý bảy mức độ hay bảy chuyển màu vi tế. Điều này có nghĩa là khi màng võng mạc gửi tín hiệu về vùng vỏ não thị giác, nó không gửi tín hiệu bật tắt, mà gửi bảy sắc thái màu, bảy ghi mã tín hiệu. Khi màng võng mạc chuyển tia ánh sáng (hay ấn tượng của tia ánh sáng) thành tín hiệu mà não bộ có thể xử lý, thì nó gửi những tín hiệu này theo mạng lưới dây thần kinh về vùng vỏ não thị giác. Chuyện xảy ra trong vùng vỏ não thị giác lại là một quá trình phức tạp và tinh vi hơn nữa. Không có một đối chiếu một với một giữa những gì vùng vỏ não thị giác nhận được từ màng võng mạc và những gì con thấy. Thật sự là cũng không có một đối chiếu một với một giữa tia ánh sáng đập vào màng võng mạc và tín hiệu mà màng võng mạc chuyển về não bộ.

Điều con cần nhận ra là sự thực đơn giản là con không thấy bằng hai mắt mà con thấy bằng bộ óc. Bây giờ con cần phải tiến xa hơn và nhận ra rằng khía cạnh vật lý của nhãn quan (xảy ra trong não bộ) chỉ là khía cạnh thô thiển nhất của nhãn quan. Nó là nền tảng của nhãn quan, nhưng chỉ là một phần rất nhỏ của những gì nhãn quan thực sự bao gồm. Có một khía cạnh của nhãn quan liên hệ đến thể cảm xúc, có một khía cạnh khác liên quan đến thể tư tưởng và một khía cạnh khác liên quan đến thể bản sắc. Con không thấy bằng mắt, con không thấy bằng não bộ, con thấy bằng cả bốn thể phàm.

Thể cảm xúc của con là gì? Như con có thể tưởng tượng, nó là một trường năng lượng. Bây giờ thì con có thể nhớ lại một điều khác mà con có thể đã học hay không học ở nhà trường, nhưng các thày cũng đã giảng điều này, và nó rất giản dị. Ánh sáng điện từ hay sóng điện từ là làn sóng. Khi các làn sóng tương tác, tùy theo đặc tính rung động của chúng, chúng có thể giao thoa (interference) với nhau hay đi xuyên qua nhau. Khi hai làn sóng giao thoa, thì đặc tính của hai làn sóng quyết định mô thức giao thoa và do đó kết quả của sự tương tác.

4.8. Nhãn quan xảy ra như thế nào ở tầng vật lý

Điều thày muốn nói là như sau: con có một tia điện từ đập vào mắt. Nó đập vào màng võng mạc, mà bản chất thực cũng là một trường năng lượng. Một mô thức giao thoa được tạo ra với bảy sắc thái màu. Kết quả của mô thức giao thoa đó là một tín hiệu được gửi tới não bộ, tới vùng vỏ não thị giác. Khi tín hiệu này tới vùng vỏ não thị giác, cũng là một trường năng lượng, thì một mô thức giao thoa mới được tạo ra, và những gì vùng vỏ não thị giác xử lý là kết quả của mô thức giao thoa đó. Rất có thể (và điều này thực sự xảy ra với đại đa số con người) là vùng vỏ não thị giác cũng ảnh hưởng điều mà con thấy. Có một sự diễn giải được đặt lên những gì con thấy ở tầng vật lý. Thày cho con một thí dụ giản dị. Chắc hẳn là con cũng đã thấy những ảo thị đơn giản. Ảo thị đơn giản nhất gồm hai đường thẳng, một đường có hai mũi tên chĩa ra ngoài, và đường kia có hai mũi tên chĩa vào trong. Khi con nhìn hai đường thẳng đó, con có cảm tưởng là một đường dài hơn đường kia, nhưng khi con lấy thước đo thì hai đường có chiều dài hoàn toàn như nhau. Chuyện xảy ra là hướng của hai mũi tên đã đánh lừa con mắt của con và gây cho con cảm tưởng là một đường dài hơn đường kia.

Đây là điều mà vùng vỏ não thị giác áp đặt lên nhãn quan của con. Có một số lập trình trong vùng vỏ não thị giác liên quan đến cõi vật lý, thế giới vật chất, cách con nhìn đồ vật – thấy nó là gì. Những điều này đương nhiên là phức tạp hơn đường thẳng; chúng liên quan đến hình dạng, khả năng giúp con nhận diện một hình dạng. Thí dụ, nếu con trở về thời người cổ xưa sống trong rừng và có thể bị ác thú tấn công, thì vùng vỏ não thị giác của họ rất, rất nhanh nhận ra hình dạng nào là một mối đe dọa. Lúc đó, não bộ có thể gửi tín hiệu tới cơ bắp để tháo chạy trước khi tâm ý thức có thì giờ phản ứng lại hoàn cảnh đang xảy ra.

Con thấy là ở đây có khía cạnh thực tại thực tiễn. Có những hoàn cảnh trong đời khi con cần phản ứng nhanh đến độ con không thể lấy một quyết định ý thức, con cần phải phản ứng bằng tiềm thức. Các con đều làm chuyện này khi con lái xe, hay đi xe đạp. Phản ứng xảy ra ở tầng vật lý thuần túy.

Không có gì sai trái với sự kiện này. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là vì trái đất có một quá trình rất dài chìm đắm trong tâm thức nhị nguyên, nên tất cả mọi người đều có một số điều, mà con có thể gọi là bản năng, lập trình trong não bộ của họ. Trên con đường tâm linh, con sẽ tới một điểm, khi con đã đi quá tầng 96, khi con cần phải tháo gỡ các lập trình này.

Thày giảng phần này để cho con nhận ra sự kiện là ngay ở tầng vật lý, tầng của não bộ, đã có những yếu tố khiến nhãn quan của con bị bóp méo. Có một sự diễn giải được áp đặt lên những gì con thấy. Diễn giải đơn giản nhất là: “Hoàn cảnh trước mặt có là một mối nguy hiểm hay không?” Nhưng có rất nhiều diễn giải vi tế khác.

4.9. Nhãn quan ở các tầng cao hơn

Khi tín hiệu đã đi qua vùng vỏ não thị giác, thì mô thức giao thoa tạo ra ở đó được gửi tới thể cảm xúc. Thể cảm xúc của con cũng là một trường năng lượng, do đó ở đó lại có thêm một tương tác, một mô thức giao thoa. Điều mà con thấy ở tầng cảm xúc sẽ bị ảnh hưởng bởi những gì sẵn có trong thể cảm xúc của con. Tức là những lập trình ở trong đó, những dạng năng lượng ở trong đó. Nếu con có nhiều sợ hãi trong thể cảm xúc của con, con sẽ có khuynh hướng diễn giải nhiều hoàn cảnh như đe dọa tuy chúng không nhất thiết là đe dọa. Đó là lý do vì sao con thấy hai người đối diện cùng hoàn cảnh nhưng phản ứng khác nhau, vì một người có nhiều sợ hãi trong thể cảm xúc hơn người kia.

Cũng như vậy, sau khi đã tương tác ở thể cảm xúc, xung lực tới thể tư tưởng. Ở đó, nó lại tạo nên một mô thức giao thoa, và sau đó nó tới thể bản sắc. Bây giờ, con – là cái Ta Biết – con thấy gì? Con thấy xung lực ở điểm nào? Điều này tùy thuộc con, cái Ta Biết, đang chú tâm vào phần nào của bốn thể phàm. Có những người chú tâm vào cõi vật lý, vào xác thân vật lý. Đó thường là những người đã trải qua những hoàn cảnh nguy hiểm cho xác thân họ. Họ có thể là quân sĩ trong chiến tranh, họ có thể là người bất lương lúc nào cũng cảm thấy bị đe dọa, hay họ là người thổ dân sống trong rừng rậm. Những người này hoàn toàn chú tâm vào cõi vật lý đến độ họ không thấy (ít nhất là một cách ý thức) những gì xảy ra ở các tầng cao hơn. Ta có thể nói là chuỗi nhãn quan của họ ngưng ở tầng vật lý.

Sau đó, lại có những người chú tâm vào cõi xúc cảm, và đương nhiên là họ thấy mô thức giao thoa được tạo ra khi xung lực tới thể cảm xúc. Họ không thấy điều xảy ra khi nó đi lên các tầng cao hơn, ít ra là một cách ý thức, vì họ không suy nghĩ một cách có ý thức. Sau đó, đương nhiên là lại có những người chú tâm vào cõi tư tưởng, và có người chú tâm vào cõi bản sắc. Tất cả các học viên tới khóa nhập thất của thày đều chú tâm vào tầng tư tưởng cao hay tầng bản sắc. Con không thể đi trên con đường tâm linh tới điểm này và không vượt qua tầng vật lý và cảm xúc. Con không thể hoàn toàn chú tâm vào cảm xúc, chẳng hạn, và đạt được các khai ngộ của thày Serapis Bey.

Điều mà con cần nhận ra, và đây là điều thày muốn con suy ngẫm trong bài giảng này, là thể tư tưởng và thể bản sắc của con sẽ bóp méo tầm nhìn của con. Thày biết là điều này có thể khiến con lo sợ hay khó hiểu. Nếu con đang đeo một cặp kính màu vàng và không biết mình đang đeo một cặp kính màu vàng, thì làm sao con có thể nhìn mà không qua cắp kính nào? Dĩ nhiên, đây là công việc của thày, là vị thày hướng dẫn con qua bảy tầng của khóa nhập thất này, để giúp con dần dần nhận rõ hơn là con có một phin lọc, và con có khả năng bỏ phin lọc ra và đạt được tầm nhìn thanh khiết hơn, rõ ràng hơn.

Thày không muốn con hoảng sợ, cảm thấy chán nản hay cảm thấy đây là một công việc không thể làm được. Dĩ nhiên là nó làm được, và thày sẽ khiến nó càng ngày càng dễ làm khi chúng ta tiến thêm trong khóa học này. Điều mà thày muốn con quyết định một cách ý thức là con có muốn theo khóa học này hay con muốn có trải nghiệm khác ở điểm này của đời con. Nếu con muốn trải nghiệm khác thì con cần tìm ra một vị thày có thể cho con kinh nghiêm bên ngoài mà con mong muốn hay một mức độ điều khiển thế giới vật chất nào đó.

4.10. Tự chủ đúng và sai

Con biết rằng khóa học này là khóa học tự-điều ngự. Điều mà sa nhân muốn đạt được là làm chủ thế giới bên ngoài mà không làm chủ thế giới bên trong. Câu nói này thoạt trông có vẻ mâu thuẫn, vì có các thày giả tuyên bố là họ đã đạt được tự chủ, họ làm chủ hoàn toàn hành động và trạng thái tâm của họ. Điều đó có đôi chút thực chất, vì con có thể đạt được một mức làm chủ nào đó trên bốn thể phàm của mình. Đó chính là điều mà các thày giả mà thày đề cập tới đã đạt được. Họ đã đạt được khả năng làm chủ phần nào bốn thể thấp của họ và làm chủ hoàn cảnh bên ngoài của họ.

Con không thể gian lận vũ trụ; nó phản chiếu lại con những gì con phóng chiếu ra. Nếu con muốn có điều kiện nào đó biểu hiện thì con phải kiểm soát được những gì con phóng chiếu ra. Dĩ nhiên có thể có (như con đã từng thấy trong quá khứ) một người biến toàn thể dân chúng thành nô lệ của mình, và do đó họ làm việc để người đó được cung điện nguy nga, một đạo quân hùng mạnh và quyền uy rộng lớn. Điều này cũng cần khả năng điều ngự tâm vì con cần khả năng uốn cong ý chí người khác theo ý chí của mình.

Nhưng đây không phải là tự điều ngự. Đây là điều ngự bốn thể phàm, nhưng không phải là điều ngự cái ta vì cái ta nhiều hơn là bốn thể phàm. Vậy tự điều ngự là gì? Đó là ý định thanh khiết. Thày Serapis nói về ý định thanh khiết khi con tới điểm không còn hung hãn nữa. Khi con không còn tìm cách uốn cong người khác theo ý chí của con bằng cách ép họ phải từ bỏ ý chí của họ, thì lúc đó con có tự điều ngự.

Đó là lúc con không còn muốn ép buộc vũ trụ cho con một số điều kiện dù con không có những điều kiện tương ứng bên trong mình. Con yêu dấu, con có thấy điều thày muốn nói chăng? Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con muốn một số điều kiện (mà con cần trong thế giới bên ngoài), con cần phải tạo ra viễn kiến về các điều kiện đó bên trong tâm con, và sau đó con phóng chiếu viễn kiến đó ra Ánh sáng Mẫu-Vật, tấm gương toàn vũ.

Vấn đề là con tạo dựng viễn kiến này qua tâm nhị nguyên, tâm tách biệt hay qua tâm Ki-tô. Thày phải nói con là khi con tới tầng này của khóa nhập thất của thày, con sẽ vẫn con tàn dư của động lực phóng chiếu qua tâm tách biệt. Điều này có nghĩa là con còn một ít ham muốn, một ít nhu cầu của tâm tách biệt mà con nghĩ (có thể một cách không ý thức) là con cần thỏa mãn. Con cho rằng một phần của con đường tự điều ngự là con thực hiện những ham muốn này và có khả năng biểu hiện các ngoại cảnh đó.

Điều này có thể là tâm điều ngự vật chất, nhưng không phải là tâm điều ngự tâm. Nhưng thực ra thì không có tâm điều ngự tâm, vì điều thày dạy trong khóa tự điều ngự này là dẫn con tới điểm con không có hai tâm. Con chỉ có một tâm mà thôi.

Con có thấy chăng là nhị nguyên dựa trên sự phân chia cơ bản giữa ta và thế giới, giữa ta và người? Khóa học tự điều ngự là khóa học chiến thắng nhị nguyên, chiến thắng tách biệt, đi tới cái mà các thày gọi là Tâm Ki-tô, nơi con thấy cái Duy Nhất của mọi sự sống. Con có thấy điểm khác biệt chăng?

Sa nhân nói rằng: “Ta muốn một số điều kiện biểu hiện nơi thế giới bên ngoài. Ta biết là vũ trụ vận hành như một tấm gương, do đó ta phải tạo trong bốn thể phàm một khuôn đúc của những điều kiện mà ta muốn biểu hiện trong thế giới vật lý, và sau đó ta phải phóng chiếu, với toàn thể sức lực mà ta có, khuôn đúc này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Một thời gian sau đó thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên hình tướng đó.” Con có thấy điều họ muốn làm chăng? Như thày có nói trước đây, họ muốn tạo một lập trình mới, một phàm linh mới, và phàm linh này làm gì? Nó tạo ra chia rẽ trong tâm họ.

Điều mà sa nhân gọi là điều ngự là khi họ tạo ra một phàm linh nội tại mạnh mẽ đến độ nó có thể nhất thời khống chế được những phàm linh nội tại khác. Do đó như thày có nói, khi quả lắc đi qua một phía thì họ có thể biểu hiện những điều kiện đó. Nhưng rồi sẽ tới lúc họ giản dị không còn đủ sức mạnh để tiếp tục, và lúc đó phàm linh dũng mãnh mà họ tạo ra sẽ hết hơi. Các phàm linh khác bắt đầu nổi lên lại và tạo ra sự phân rẽ trong tâm, và quả lắc bắt đầu xoay lại phía kia. Lúc đó họ sẽ trải nghiệm nhiều kiếp sống đầy hỗn mang, xáo trộn và địa vị thấp trong thế giới bên ngoài.

Tự điều ngự là khi con dần dần làm tan đi các phàm linh nội tại, làm tan đi sự phân rẽ nội tại. Con thăng vượt các phân rẽ nội tại và càng ngày càng đến gần điểm mà viễn kiến của con dựa trên Duy nhất.

4.11. So sánh Giê-su và các tỷ phú

Ở đây, con nên nhìn một cách ý thức về cuộc đời và sứ mạng của Giê-su, hay của đức Phật. Con hãy so sánh Giê-su hay đức Phật với những người đương thời giàu có và đầy quyền lực nhất, như các nhà tỷ phú, có được tất cả những gì họ mong muốn, có thể kiểm soát mọi khía cạnh cuộc đời bên ngoài của họ. Con có nghĩ chăng là một người giàu có và nhiều quyền lực, người giàu nhất trên thế giới, có khả năng tự điều ngự cao hơn Giê-su hay đức Phật chăng? Người đó – có thể – có nhiều hơn khả năng thể hiện điều kiện vật lý. Nhưng có thực chăng là họ có khả năng đó hơn Giê-su hay đức Phật, vì chắc hẳn Giê-su và đức Phật có khả năng thể hiện bất kỳ điều kiện bên ngoài mà các thày muốn cho chính mình.

Con cần tự đặt câu hỏi: “Vì sao hai vị thày tâm linh đó, có khả năng tự điều ngự, lại sống cuộc đời rất bình dị, và trên mặt vật chất rất nghèo? Họ không có của cải gì, không sở hữu gì. Giê-su không có tu viện, không có cơ sở cố định, mà đi giảng đạo khắp nơi. Tại sao thày không thể hiện những điều kiện mà thày mong muốn? Thày đã không làm vậy, vì trong những kiếp trước thày đã thể hiện nhiều điều kiện bên ngoài và thày đã tới điểm chán ngán kinh nghiệm này và mong muốn một kinh nghiệm cao hơn.

Kinh nghiệm cao hơn này là gì? Đó là con bắt đầu nhìn quá cái ta của mình! Viễn kiến của con không trụ ở cái ta tách biệt, con không chú tâm vào những gì con muốn cho cái ta tách biệt. Con càng ngày càng chú tâm nhiều hơn đến tổng thể, con chiến thắng sự phân rẽ giữa ta và người. Con hoặc thấy cái ta là tất cả hoặc cái ta là một phần của tổng thể. Thành tựu sáng tạo tối hậu cho cái ta là làm điều gì nâng cao tổng thể thay vì tập trung tất cả năng lượng, chú tâm và viễn kiến vào việc nâng cao cái ta tách biệt.

Con có thấy chăng là con sẽ tới điểm bắt đầu nhận ra rằng điều sa nhân muốn là nâng cái ta tách biệt của họ lên trên những người khác? Khi con nhận ra là trong vũ trụ có sự quân bình, có tương tác hành động và phản ứng, có luật Nhân Quả, thì con nhận ra rằng nếu một người nâng mình rất cao so với người khác, thì điều này chỉ có thể thực hiện bằng cách tạo một bất quân bình trong đó người khác bị đè xuống. Sự bất quân bình này không thể tiếp diễn mãi mãi. Đó là lý do vì sao thày nói rằng người nâng mình lên trong một kiếp, sẽ phải bị hạ xuống trong những kiếp tới. Không thể có cách nào khác hơn.

Con nhận rằng trong tâm thức nhị nguyên, con luôn luôn tìm cách đi tới một cực điểm. Khi con làm vậy, con tạo một sự bất quân bình, và sẽ đến một lúc quả lắc đi ngược trở lại để tạo ra một trạng thái quân bằng nào đó. Khi con đạt được viễn kiến Ki-tô, con sẽ thấy là con có thể hành động để nâng một cái ta tách biệt của mình lên mà không đè các ta tách biệt khác xuống không đè những phần khác của vũ trụ xuống. Con thực sự có thể nâng cái ta của mình lên theo một cách mà toàn thể cũng được nâng cao luôn. Đó là viễn kiến Ki-tô. Khi con tới điểm mà năng lượng, sự chú ý và thời giờ của con tập trung vào việc nâng cao Tất cả, thì lúc đó con bắt đầu đạt được tự điều ngự.

4.12. Chuyển đổi tâm mình trước khi thay đổi thế giới

Điếu này không có nghĩa con ngưng không là một con người; nó không có nghĩa là con không có một cuộc sống tích cực trong xã hội. Nó không có nghĩa là con không thể có một căn nhà của mình, không thể có một gia đình, không thể có vật sở hữu. Các thày không nói là mọi người trong thế giới hiện đại phải sống như Giê-su. Như các thày đã nói, trong thời đại hiện nay điều quan trọng hơn là con có cuộc sống tích cực trong xã hội.

Con có thể tới điểm mà những gì con sở hữu không sở hữu con, vì đối với con chúng chỉ là phương tiện để đạt được một cứu cánh, chúng không phải là cứu cánh. Con không tập trung vào việc tạo ra một số điều kiện vật chất để tạo ra trạng thái bình an nội tâm. Tâm con tập trung vào việc đạt được bình an nội tâm qua uy lực của chính cái tâm. Khi con điều ngự được cách tạo bình an nội tâm bất kỳ ngoại cảnh như thế nào, thì con đâu cần các ngoại cảnh này nữa? Điều này không có nghĩa là con không thể có chúng, nhưng con có hiểu ý thày giảng chăng? Con không cố gắng có của cải vật chất hầu đạt được một kinh nghiệm nội tâm. Con tập trung vào kinh nghiệm nội tâm và hoàn cảnh bên ngoài sẽ chỉ là hoàn cảnh bên ngoài. Chúng ăn khớp với nhau và con tận dụng chúng, bất kỳ chúng là gì.

Có rất nhiều học viên đến tầng này của khóa nhập thất của thày và họ đã nghe nói đến tầng tâm thức cao hơn, giác ngộ, quả vị Ki-tô, hay bất kỳ tên nào khác. Họ vẫn nghĩ là nếu một số điều kiện bên ngoài không được hội đủ, thì họ không thể thực sự trải nghiệm các trạng thái tâm thức cao đó.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là nếu con có thái độ đó, thì con sẽ không bao giờ, không bao giờ đạt tới điểm điều kiện bên ngoài lý tưởng đến độ con có thể nói: “Bây giờ thì tôi có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn”. Lý do rất giản dị; các thày đã nói nhiều lần: “Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý”. Nếu con nghĩ là biểu hiện vật lý phải đi trước – và sau đó tâm thức sẽ theo sau – thì con sẽ không bao giờ đạt trạng thái tâm thức cao hơn. Nếu con đợi điều kiện lý tưởng để con thể hiện trạng thái tâm thức cao hơn, thì điều đó sẽ không bao giờ xảy ra.

Trước khi thày chấm dứt bài giảng, điều mà thày muốn con suy ngẫm (thày biết là thày đã khiến con suy ngẫm nhiều điều rồi, nhưng thày muốn cho con một điều nữa) là: con hãy xét xem con có trong tâm ý tưởng rất tinh tế cho rằng để có thể thực sự đi trên con đường tâm linh, để có thể biểu hiện một trạng thái tâm thức cao hơn, để có thể thật sự chú tâm vào việc tu tâm linh, một số điều kiện bên ngoài, một số điều kiện vật chất phải được hoàn thành. Nếu con có ý tưởng đó, con hãy suy ngẫm chúng là gì và suy ngẫm câu thày nói: Con có thể chờ đợi điều kiện lý tưởng bên ngoài mãi mãi. Con sẽ không biểu hiện được quả vị Ki-tô nếu con không quyết định tập trung sự chú ý vào bên trong. Con sẽ tìm cái đà trong chính mắt con, con sẽ nhìn chính mình, con sẽ chú tâm vào việc đạt tự điều ngự thay vì điều ngự hoàn cảnh bên ngoài hay đợi cho các hoàn cảnh bên ngoài đó hiện ra như phép lạ.

Có người cho rằng con đường tự điều ngự là dùng vũ lực biểu hiện một số điều kiện bên ngoài. Có người cho rằng nó là thụ động chờ đợi một hồng ân Thiêng liêng nào đó biểu hiện các điều kiện đó. Cả hai điều đó sẻ không xảy ra. Thực ra, giữa hai điều đó, điều tốt hơn là tìm cách ép buộc ngoại cảnh và nhận ra rằng ngoại cảnh không cho con bình an nội tâm. Lúc đó con có thể tiến bước nhanh hơn là những người cứ mãi mãi chờ đợi hồng ân Thiêng liêng cho họ điều kiện để họ có thể biểu hiện bình an.

Tâm thức đi trước biểu hiện vật lý. Vì sao? Vì biểu hiện vật lý là phản ánh của tấm gương vũ trụ gửi lại con điều gì con phóng chiếu vào nó. Con hãy đừng chú tâm vào tấm gương, và hãy chú tâm vào những hình ảnh trong tâm mà con phóng chiếu ra ngoài. Con hãy chú tâm vào cuộn phim trong máy chiếu phim, chứ đừng chú tâm vào màn ảnh.

TA LÀ Hilarion, và thày sẽ hoan hỷ giảng cho con bài kế tiếp ở khóa nhập thất của thày.

Để biết sự thật, hãy bỏ tìm kiếm sự thật!

Bài giảng của chân sư thăng thiên Hilarion, ngày 26/11/2011 tại Sneek, Hòa Lan, qua trung gian Kim Michaels.

Ta là Hilarion, Thượng sư của tia sáng thứ năm. Ta đến đây để xây dựng tiếp trên nền tảng mà sư huynh Serapis đã đặt móng. Thật sự, điều mà thày Serapis đã giải thích về kinh nghiệm khóa nhập thất của tia sáng thứ tư là các con cần đạt đến một mức khi các con có điều gì trân quý hơn là cứ vật lộn để mà thuyết phục người khác rằng con đường của mình đúng đắn.   

Vậy thì đâu là yếu tố kết hợp? Trước hết đó là khi học viên ở tia sáng thứ tư nhận ra rằng sự hài hòa, hợp tác, quan trọng hơn là có lý, hơn là chứng minh rằng mình có lý. Nhưng đó cũng là khi học viên bắt đầu nhận ra là một khi đã qua được điểm đạo của tia thứ tư thì mình cũng sẵn sàng đối diện với điểm đạo của tia thứ năm. Và dĩ nhiên, tia thứ năm thường được xem là tia của sự thật.

Và một khi bắt đầu thấy mình cần bỏ lại cái bánh quay miệt mài nơi mình cứ phải gắng sức chứng minh là mình có lý và người khác sai, thì một số các con cũng thấy được là, quan trọng hơn, mình phải tìm được một sự thật cao hơn. Và khi con sẵn sàng tiến hành cuộc điểm đạo của tia thứ năm, con phải đối mặt với câu hỏi mà ta đã đặt ra cho các con thảo luận, là “Sự thật là gì?”  

Khóa nhập thất của tia thứ năm

Và bây giở ở khoá tu của tia thứ năm mà ta trông coi, chúng ta cũng sẽ sắp đặt y như thày Serapis Bey đã mô tả – và hẳn các con đã nhận ra đây là cùng cách sắp đặt cho mỗi khóa ở cả bảy tia sáng. Chúng ta sẽ chia các học viên thành từng nhóm nơi các con sẽ phải đương đầu với câu hỏi này: “Sự thật là gì, ai nắm sự thật, ai nắm sự thật cao hơn, ai có lý, ai sai, cái gì đúng, cái gì sai?”

Và một lần nữa đối với các nhóm, chúng tôi luôn tìm cách sắp xếp trong cùng một nhóm những người có quan điểm trái ngược nhau, hay những người có quan điểm nhiệt thành về sự thật, tha thiết với sự thật. Điều này sẽ tạo ra tiềm năng xung đột, nhưng tất nhiên chúng tôi không có ý gây ra xung đột. Bởi vì chúng tôi không tạo ra xung đột bằng cách xếp mọi người ngồi chung với nhau. Chúng tôi đang cố làm gì đây? Chúng tôi khiến cho mâu thuẫn hiển lộ ra rõ ràng, là những mâu thuẫn cho tới giờ vẫn ngấm ngầm bên trong mỗi người, bởi vì các con chưa thấy được mâu thuẫn đó trong chính tâm mình, trong tâm tiềm thức của mình.  

Và như vậy, khi ngồi chung với người khác cũng có những mâu thuẫn chưa hiển lộ trong tâm thì các con sẽ có xu hướng va chạm, và khi đó thì những xung đột trong tiềm thức được dịp trưng bày ra trong ý thức. Điều này không nhất thiết có nghĩa là con sẽ ý thức được xung đột hay nguyên nhân xung đột, nhưng ít ra con không thể phủ nhận tác động của xung đột, tức là con không thể đạt được thỏa thuận với người khác.

Dĩ nhiên con có thể thấy trên địa cầu cũng xảy ra điều tương tự như ở cõi tâm linh, khi bao người tâm linh và bao người theo đạo – thậm chí cả các nhà khoa học và nhà duy vật – cũng tranh luận về vấn đề muôn thuở này: “Sự thật là gì, sự thật cao nhất là gì, ai nắm sự thật, ai có lý?”

Chỉ có một sự thật thôi?

Bước cần thiết đầu tiên, tất nhiên, là đối phó với quan niệm: “Có phải chỉ có một sự thật mà thôi?” Và qua thực có rất nhiều học viên đến dự khóa của ta đã từng lớn lên suốt nhiều kiếp đầu thai trong những môi trường nơi họ tin chắc là chỉ có thể có một sự thật duy nhất. Hoặc trái đất phẳng hoặc trái đất tròn, hoặc mặt trăng được tạo bằng pho mát xanh hoặc là không.    

Nhưng đó là sản phẩm của thế giới vật chất và thế giới hình tướng. Con có thấy không, con yêu dấu, trong thế giới hình tướng có một nguyên tắc căn bản? Con hãy thử đối chiếu thế giới hình tướng với thế giới vô hình tướng. Trong thế giới vô hình tướng, không có gì để mà phân biệt, vì phân biệt là sản phẩm của hình tướng. Và ngược lại, chúng ta cũng có thể nói hình tướng là sản phẩm của phân biệt, nghĩa là con tạo ra sự phân biệt trong tâm, rồi phân biệt này trong tâm được “vật chất hóa” thành một hình tướng riêng biệt, đứng riêng rẽ khỏi các hình tướng khác.

Cho nên một hình tướng phải có một hình dạng riêng biệt đứng riêng rẽ khỏi các hình tướng khác. Một vòng tròn sẽ có hình tròn, một ô vuông sẽ có hình vuông, một đường thẳng sẽ có hình thẳng. Không thể nào khác được, con không thể có một hình dạng hình học vừa tròn vừa vuông cùng một lúc – vô lý phải không?

Chính sự phân biệt tạo ra nhu cầu phân biệt, nhu cầu chọn lựa, nhu cầu bảo rằng cái này thế này chứ không là thế kia. Nhưng ngay cả ở cõi tâm linh nơi không có tự ngã, không có nhị nguyên, vẫn có sự khác biệt. Vậy thì tại sao chúng tôi là những thượng sư của bảy tia sáng lại không vật lộn với nhau để xem tia sáng nào là sự thật, tia sáng nào tốt hơn, tia sáng nào có lý?

Bởi vì chúng tôi không rơi vào cái lỗi lầm then chốt mà hầu hết mọi người trên địa cầu đều rơi vào. Con thấy không, chúng tôi nhận ra rằng người ta có thể có khác biệt mà không bắt buộc phải đánh giá cái nào đúng hay sai. Một vòng tròn và một hình vuông, cái nào đúng hơn? Không, chỉ khác nhau thôi.

Con thấy không, quả là có nhiều khía cạnh trong cuộc sống mà con không xét đoán là đúng hay sai, hoặc-thế-này-hoặc-thế-kia. Con có thấy sự khác biệt không? Cái đó hoặc là vuông hoặc là tròn, hoặt là sai hoặc là đúng. Nhiều người cho rằng đó là cùng một thứ, họ cho rằng nếu có hai tôn giáo khác nhau thì chỉ có một trong hai mới có thể đúng thôi.  

Khác biệt không nhất thiết dẫn đến xung đột

Và đó là thử thách đầu tiên mà các con phải đối mặt tại khóa tu của ta. Con phải khắc phục cái xu hướng từ ngàn đời cho rằng phải đúng hay sai, cho rằng chỉ có một sự thật duy nhất, một sự thật cao siêu hơn. Nhưng kỳ thực, con chỉ có thể khắc phục ảo tưởng này bằng cách nhận ra là sự xét đoán bắt nguồn từ tầng mức của nhị nguyên, tâm thức tách biệt, cái tâm thức gọi là tự ngã.

Trong hiện tại, con dùng phân biệt để đứng riêng ra khỏi toàn thể thay vì dùng phân biệt như là những cách khác nhau để biểu hiện toàn thể – những cách khác nhau, những biểu hiện khác nhau khiến cho cái Tất Cả được khuếch trương. Con có thấy là khi con không mù quáng trong nhị nguyên, con thấy được chỉ có một Thượng đế vô hình tướng đang tự biểu hiện qua những hình tướng khác nhau không? Và con cũng thấy là tất cả những biểu hiện khác nhau đó, những hình tướng và sinh thể khác nhau đó, tạo thành một toàn thể rộng lớn hơn?   

Điều này không là cùng một thứ với vô hình tướng, bởi vì sự khác biệt vẫn có mặt, nhưng song song vẫn có một toàn thể, một nhất thể. Cái toàn thể là nhiều hơn tất cả mọi phần nhỏ cộng lại, bởi vì toàn thê không chỉ được tạo bằng các phần nhỏ. Nó còn được tạo bằng Thượng đế duy nhất vô hình tướng được thẩm thấu trong mỗi thành phần. Cho nên khi con có cái nhìn này, khi con không còn nhìn qua cặp kính của nhị nguyên, thì con nhận ra rằng sự phân biệt không nhất thiết phải dẫn đến xung đột.

Và con nhận ra là mỗi dòng sống khác biệt rất có thể giữ sắc thái riêng của mình, và chúng có thể phát triển và phát huy sắc thái riêng của mình mà không mâu thuẫn lẫn nhau, không hạn chế lẫn nhau, không cạnh tranh với nhau. Trong khi đó thì con có thể thấy trên địa cầu, có một số người tự đặt mình vào vị trí thống trị để họ có thể biểu diễn sắc thái của họ một cách vô tội vạ, bởi vì họ đã triệt hạ sắc thái của tất cả những ai thuộc các tầng lớp thấp hơn họ.    

Sự việc này tất nhiên không xảy ra nơi cõi tâm linh. Chúng tôi tuy có một hệ thống thứ bậc, nhưng chúng tôi không xem những ai ở một thứ bậc nào đó bị hạn chế bởi thứ bậc bên trên. Ngược lại là đằng khác, bởi vì trong cõi tâm linh, dòng năng lượng không chảy từ thấp lên cao, trong khi ở địa cầu thì con thấy người dân ở những tầng dưới của kim tự tháp phải cong lưng cày cụm để người ở tầng trên được hưởng lợi sức lao động của người dưới. Và con thấy dòng chảy từ dưới lên trên để cho những kẻ ở trên tha hồ lợi dụng.

Nhưng nơi cõi tâm linh thì hoàn toàn ngược lại, những đấng ở trên đỉnh của kim tự tháp có thể ví như những mặt trời, luôn luôn ban ra và rải xuống cho bên dưới. Và điều này đem lại khả năng, nghị lực, cho các tầng dưới thể hiện sắc thái của mình ngày càng phong phú hơn.  

Không có Thượng đế nóng giận nào trên trời

Cho nên chúng tôi không cảm nhận mình bị hạn chế, giới hạn, bởi những đấng ở trên mình, chúng tôi không cảm nhận có một vị thần nóng giận ở trên trời luôn luôn muốn chúng tôi phải tuân theo mọi ý muốn của vị ấy, bằng không chúng tôi sẽ bị đày xuống địa ngục. Ngược lại, chúng tôi chứng nghiệm được Thượng đế yêu thương vô bờ bến, không ngừng lan toả Bản thể và Ánh sáng của ngài cho chúng tôi. Chúng tôi hứng lấy tất cả và biểu hiện tình thương đó qua những mặt cạnh của viên kim cương là sắc tính của chúng tôi. Viên kim cương này, chúng tôi đã mài cho bóng suốt một thời gian rất dài – nếu người ta có thể nói đến thời gian trong cõi tâm linh – biến nó thành sắc thái độc nhất có một không hai.

Cho nên chúng tôi thấy Thượng đế là người đày tớ tối thượng, bởi vì cao cả nhất là người nào thực sự phụng sự Tất Cả. Trong Thượng đế chỉ có một ý muốn là nâng cao tất cả những thành phần nối dài của ngài. Đồng thời, dĩ nhiên, Thượng đế cũng muốn điều này xảy trong quyền tự quyết. Khi con nhận ra điều này, con cũng nhận ra là sự phân biệt thực ra chỉ có một mục đích, đó là trao cho mỗi dòng sống một môi trường để nó có thể phát huy khả năng tự nhận biết của nó, cho đến khi nó đạt đến cùng một mức như Thượng đế và không còn tự định nghĩa dựa trên khác biệt nữa.  

Khi con bắt đầu hiểu ra điều này, con sẽ ngộ được là vũ trụ vật chất chỉ có một mục đích mà thôi, là tạo điều kiện cho con phát triển khả năng tự nhận biết của mình. Từ đó con sẽ bắt đầu hiểu được – ít nhất một số học viên trên tia sáng thứ năm rốt cuộc sẽ nắm bắt được – rằng câu hỏi “Sự thật là gì?” kỳ thực là một câu hỏi thật vô nghĩa.

Sự thật tối hậu là tính duy nhất

Bởi vì vấn đề không phải là tìm ra sự thật tối hậu hầu bảo đảm mình sẽ lên được thiên đàng khi mình tìm ra. Làm thế nào con lên được thiên đàng? Phải, như Serapis đã chỉ ra, bằng cách con bước vào xoắn ốc thăng thiên, là xoắn ốc nơi con không ngừng tự gia tốc bằng cách thăng vượt trạng thái hiện thời của con. Cho nên nếu con cho là con đã tìm được một chân lý tối thượng – dù là trong đạo Cơ đốc, đạo Phật, đạo Hồi hay một giáo lý của chân sư thăng thiên – thì con không đang gia tốc đâu.

Hiện tại con đang sử dụng một giáo lý công truyền để tạo ra một khung sườn, một cái hộp tư duy, hay một vũ khí để dùng chống lại người khác trong mong muốn ích kỷ tự nâng mình lên cao hơn người khác. Trên địa cầu, quá nhiều lần “sự thật” đã bị dùng làm một thứ vũ khí để bào chữa cho việc mình tấn công người khác. Nhưng con sẽ không tốt nghiệp được lớp mẫu giáo của tia sáng thứ năm cho đến khi con hoàn toàn bỏ được khuynh hướng sử dụng “sự thật” để hạ thấp người khác.   

Bởi vì thế nào là sự thật tối hậu? Đó là: mọi sự sống là một, và Thượng đế, Đấng Sáng tạo, muốn mọi sự sống tăng trưởng, vượt thăng lên và trở về trong duy nhất. Cho nên nếu con bị kẹt trong ý tưởng rằng trên địa cầu có một sự thật có thể được định nghĩa và đứng riêng rẽ khỏi mọi “sự thật” khác, thì con cũng bị kẹt trong tin tưởng rằng sự thật là tương đối. Con đã lấy một sự thật tương đối và đã nâng nó lên vào vị trí sự thật tuyệt đối. Nhưng sự thật tuyệt đối, tất nhiên, là Tánh linh của Thượng đế. Sự thật tuyệt đối là sự duy nhất của toàn bộ thế giới khác biệt. Cho nên nếu con lấy một thành phần và trao cho nó giá trị tuyệt đối thì trên căn bản, con đã hiểu lầm chính bản chất của thế giới khác biệt.   

Điều này chỉ có thể bắt nguồn từ tự ngã, nó chỉ có thể bắt nguồn từ tách biệt. Thật là không có cách giải thích nào khác cho dù người ta có thể nghĩ ra đủ mọi cách giải nghĩa hay minh chứng giả tạo nào đó.

Sự thật vượt ngoài ngôn ngữ

Có một điều nữa con cần nhận ra trên tia sáng thứ năm – hầu con có thể bước ra khỏi lớp học mẫu giáo của các nhóm thảo luận sơ khởi – là sự thật tối hậu không thể nói lên được bằng lời. Bởi vì ngôn từ có nhiều ý nghĩa khác nhau, con luôn luôn có thể bẻ cong, vặn vẹo ngôn từ để chứng minh bất cứ điều gì con muốn chứng minh. Và đây chính là cuộc điểm đạo được minh hoạ qua câu chuyện của Eva và con rắn. Trong truyện, rắn cho Eva quả trái từ cây của hiểu biết thiện ác. Tất nhiên như ta đã có nói, đây là sự hiểu biết tương đối của hai đối cực nhị nguyên chỉ có thể hiện hữu trong mối quan hệ với nhau.   

Nói một cách tương đối, sự thật chỉ là sự thật khi nó đối lập với sai lầm hay giả trá. Đó là tại sao khi con bị kẹt ở mức tìm kiếm sự thật tối hậu và tưởng rằng mình đã tìm thấy sự thật tối hậu trên địa cầu, thì con sẽ rất dễ bị cám dỗ sử dụng nó để phán xét người khác, hoặc là để cố kiểm soát người khác, hoặc nếu họ không chịu để cho con kiểm soát thì con sẽ cố trừng phạt hay tiêu diệt họ.  

Đây là một khuôn nếp mà con thấy đã lặp đi lặp lại bao nhiêu lần khắp nơi trên thế giới. Con hãy nhìn các tổ chức tôn gíáo như đạo Cơ đốc và đạo Hồi gây ra bao cuộc chiến, hay hai thành phần của cùng một tôn giáo, Công giáo và Tin Lành, giao chiến với nhau vì cũng tranh chấp như vậy. Con hãy nhìn chủ nghĩa cộng sản tự xưng mình là chân lý tối hậu rồi tuyên chiến với mọi người, và họ không ngần ngại giết hại hàng triệu người để xác lập chân lý của mình là chân lý thống trị.  

Con thấy, con yêu dấu, sự thật tuyệt đối và sự thật thống trị không hẳn giống nhau. Nếu con cho rằng khi con còn hiện thân trên địa cầu, con đã tìm được một sự thật tuyệt đối có thể được định nghĩa như là một hệ thống trong thế gian này, thì con chỉ chứng tỏ là con chưa nắm được sự thật tuyệt đối là gì. Kỳ thực con không tìm kiếm một sự thật tuyệt đối mà chỉ tìm kiếm một sự thật thống trị hầu con sử dụng để áp chế người khác. Và đúng vậy, đây là sự tranh giành quyền lực mà con chứng kiến nơi quá nhiều phong trào tôn giáo và chính trị, thậm chí cả phong trào chủ nghĩa duy vật.

Con sẽ không lên cao hơn được lớp mẫu giáo của tia sáng thứ năm cho tới khi con thấy được sự phù phiếm của nỗ lực sử dụng một sự thật tương đối để làm vũ khí chống lại người khác. Và con thấy được điều này khi con hòa điệu vào chân lý tuyệt đối vượt khỏi mọi ngôn từ, chân lý tuyệt đối nơi sự sống là một và Thượng đế nâng cao tất cả.

Và con không thể tin vào lời gian trá bảo rằng con có thể làm công việc của Thượng đế mà lại hạ thấp một phần khác của sự sống. Con biết con chỉ làm được công việc của Thượng đế khi con cố nâng cao toàn thể, bởi thế cho nên rất có thể con sẽ thách thức nhưng con sẽ không bao giờ tìm cách hạ thấp người ta, bởi vì con nhận ra rằng như vậy con cũng đang hạ thấp toàn thể. mà toàn thể thì chẳng qua cũng là chính con, phần rộng lớn của con.  

Khúc rẽ

Và sẽ tới một điểm trong tiến trình của khóa tu của tia thứ năm khi các con nhận ra rằng sư tranh giành quyền lực để đạt được cái gọi là sự thật tối hậu, hoàn toàn vô ích. Lúc đó các con sẽ nói với ta: “Hilarion, chúng con đã thấy rồi, chúng con thấy được trong suốt bao nhiêu thời đại người ta đã đấu tranh như thế, chúng con cũng thấy được là chân lý tối hậu vượt khỏi tầm mức của trần thế và không thể diễn tả bằng ngôn từ, nhưng bây giờ chúng con làm gì đây?”

Và phương pháp ta chỉ cho các con luôn luôn giống như vậy. Tạm thời các con phải từ bỏ chính khái niệm sự thật. Con hãy lưu ý, ta không nói con phải bỏ sự thật, nhưng con phải bỏ cái khái niệm là có một sự thật là đối cực của sai lầm.

Ban đầu, điều này khiến cho các học viên vô cùng bối rối, bởi vì từ quá lâu các con đã phải không ngừng vươn lên tìm kiếm một sự thật khi con nỗ lực nâng mình lên qua bốn tia sáng đầu. Và các con nghĩ rằng tiến trình sẽ tiếp tục như thế, các con sẽ tìm kiếm sự hiểu biết ngày càng cao hơn sẽ có ngày đưa con đến chân lý tối hậu. Thế nhưng bây giờ ta lại nói với con: Con hãy từ bỏ cái ý tưởng là có một chân lý tối hậu.   

Và sau sự bối rối ban đầu, và đôi khi thậm chí cả sự phản đối, các con sẽ đạt tới một điểm khi con nói:”Được rồi, tôi không đồng ý với chân sư. Tôi không hiểu thày nói gì. Nhưng tôi cảm được thày nắm cái gì đó mà tôi không nắm được. Dù sao thì thày cũng là chân sư và tôi thì chẳng là gì. Cho nên chắc hẳn phải có gì đó trong những điều thày dạy. Hay là tôi cứ thử tạm thời để cho tâm mình hoàn toàn giải phóng khỏi quan niệm là mình phải lượng định mọi ý tưởng xem có đúng hay sai? Hay là tôi cứ để cho tâm mình thư giãn, bấp bênh một lát rồi xem chuyện gì xảy ra?”    

Ở ngay điểm này, học viên có khả năng bước ra khỏi cái tâm thức muốn thu hẹp sự thật trong một hệ thống nhị nguyên nơi sai và đúng đối chọi với nhau. Rồi con có khả năng chứng nghiệm Tánh linh của Sự thật. Và khi con chứng nghiệm điều này, bỗng nhiên con thấy: “À, có một sự thật, có một sự thật tối hậu, nhưng nó hoàn toàn vượt ngoài mọi hình tướng, mọi sự khác biệt.”

Và con có thể thấy được điều ta vừa nói ở trên, rằng con không cần nhìn vào khác biệt và dùng sự xét đoán để nhận biết cái này đúng và mọi cái khác biệt đều sai. Bởi vì con thấy được mục đích của thế giới hình tướng là để năng cao toàn thể, và do đó, mọi cái gọi là sự thật được diễn tả trên địa cầu đều có tiềm năng nâng con người lên cao hơn.

Ngay cả một giáo lý cốt ý được thảo ra bởi những sinh thể đang tìm cách lừa dối nhân loại, ngay cả một giáo lý như thế cũng có thể được con sử dụng để con tự nâng mình lên cao hơn – khi con nhìn thấu được sự giả trá của tư tưởng và quan niệm, khi con nhìn thấy những tư tưởng này không bắt nguồn từ duy nhất mà từ tách biệt.

Mục đích thật sự của một giáo lý

Và như vậy các học viên bắt đầu có một cái nhìn về sự thật thực tế hơn – có thể nói là thực dụng hơn – khi các con nhận ra mục đích của bất cứ giáo lý nào, của bất cứ hệ thống tư tưởng nào, thật sự là để giúp mọi người thăng vượt trình độ tâm thức của mình. Và làm thế nào con thăng vượt được tâm thức của con?

Con làm vậy qua cách mà Serapis đã mô tả, qua đó con đang di chuyển vòng tròn theo một định hướng nào đó, thì bây giờ con biến di chuyển tròn thành một xoắn ốc đi lên. Và như vậy, mục đích của một hệ thống tư tưởng, như một tôn giáo hay một gíáo lý tâm linh, là gì? Mục đích là để giúp con tạo ra một cái đà chuyển động mà qua đó con bắt đầu chuyển vọt, chứ con không chỉ thờ ơ ngồi yên một chỗ và cứ tưởng rằng mình không có khả năng hiểu biết bất cứ gì.      

Con đang chuyển động, nhưng chừng nào con còn chuyển động trong cùng một hệ thống thì con chỉ có thể đi vòng tròn. Một khi con hé hiểu được điều này và nhận ra rằng giá trị thật sự của một giáo lý biểu hiện qua ngôn từ là để con thăng vượt ngôn từ, thì bỗng nhiên sẽ có một lực đẩy đi lên. Và như vậy, động lượng được hướng lên thành xoắn ốc, và nó đẩy con tiến lên cao hơn với tốc độ rất lớn.

Giê-su có nói, “Ta ước gì là con hoặc nóng hoặc lạnh,” bởi vì những ai nóng hay lạnh đều có một động lực, một động cơ. Động lực có thể nhắm sai hướng, nhưng con vẫn đang di chuyển. Nếu bỗng nhiên con có thể đột phá và thấy được nhu cầu phải lên cao hơn, phải thăng vượt giáo lý vỏ ngoài, thì lòng nhiệt thành của con có thể được chuyển thành một bước tiến về phía trước.

Nhưng tất nhiên, một cách khác cũng hiệu quả là con tìm con đường trung đạo, qua đó con có thể không mấy nhiệt huyết hay sôi nổi, nhưng con vẫn tiến bước đều đặn vì con không ngừng nỗ lực thăng vượt mức tâm thức hiện hữu của mình, và con nhận biết tất cả với tâm thuần khiết, với cái tâm “trẻ thơ”, với tâm tỉnh giác trần truồng.  

Các vị thày tâm linh chân chính

Và đây là lúc các học viên trên tia sáng thứ năm bắt đầu vượt qua cuộc điểm đạo. Các con bắt đầu thấy được rằng việc tìm cách thiết lập một chân lý hay một tôn giáo thống trị trên địa cầu thật là vô nghĩa. Các vị thày tâm linh chân chính là những vị cố giúp con thấy được là con sẽ không thăng tiến bằng cách tuân theo một hệ thống, mà con thăng tiến bằng cách thăng vượt hệ thống, bằng cách sử dụng hệ thống như một phương tiện để kích thích tâm trí hầu con vượt lên trên ngôn từ vỏ ngoài.

Rồi bỗng nhiên, con hé thấy cái viền trên vạt áo của Thượng đế. Con chiêm nghiệm Tánh linh Sự thật, nằm vượt khỏi mọi sự khác biệt và đồng thời lại hiện hữu cùng khắp qua các hình tướng khác biệt. Và lúc đó con nhận ra một nguyên tắc vĩnh cửu: Mục đích tối hậu là sự duy nhất.

Con không thể nhập vào duy nhất bằng cách chạy trốn khỏi một “vật” nào đó. Con có thể tin là có một ác quỷ sẽ kéo con xuống địa ngục.Nhưng nếu cuộc tìm kiếm tôn giáo hay tâm linh của con được thúc đẩy bởi mong muốn chạy trốn khỏi ác quỷ thì con sẽ không chạy về phía Thượng đế đâu – theo ý nghĩa vô hình tướng. Con sẽ chạy về phía một thượng đế giả hiệu, là hình ảnh của một thượng đế đối chọi với ác quỷ.

Và như vậy khi con nhận ra là con không còn chạy trốn nữa – bởi vì con không có nhu cầu chạy trốn bất cứ gì và thay vào đó con chạy về hướng sự duy nhất – thì con đã chuyển vọt được lực chuyển động của con. Bây giờ con đang đi đúng hướng.

Tất nhiên, điều này không có nghĩa là con có thể tiếp tục chạy về hướng duy nhất mãi mãi, bởi vì sẽ tới một điểm cao hơn khi con cần nhận ra là con sẽ không bao giờ bắt kịp được duy nhất. Làm sao con có thể chạy về hướng một cái gì hiện diện khắp mọi nơi? Nhưng đây là một cuộc điểm đạo mà con không thể thực hiện trên tia sáng thứ năm, mà phải dành lại cho các tia sáng cao hơn tại các khóa nhập thất của các tia này.

Cuộc khủng hoảng tâm lý-tâm linh

Và như vậy mục đích của ta ở đây là để chỉ cho con thấy cách hoàn thành cuộc điểm đạo của tia sáng thứ năm. Nhưng ta nói những điều này không chỉ cho riêng con. Ta muốn biểu đạt, và ta trụ neo ngọn lửa cùng ánh sáng ở đây, bởi vì đây cũng là điều mà cả xã hội Tây phương cần hiểu – nếu xã hội Tây phương muốn thực hiện những gì mà Serapis đã nói tới và bước lên mức cao hơn. Đơn giản, con cần phải vượt qua cái nhìn sai lạc cho rằng phải có một sự thật cao hơn, qua đó con luôn luôn đưa ra cảm tưởng là con cố giải quyết một vấn đề bằng cách khiến mọi người phải chấp nhận sự thật cao hơn đó.  

Nhưng con cũng cần đi xa hơn cách nhìn cho rằng xứ Hòa Lan này đã quá tiến bộ trong cách chính quyền điều hành quốc gia, đến độ các con phải ngừng tìm cầu một sự thật tôn giáo hay một sự thật ý thức hệ nào đó, và trở thành hoàn toàn thực dụng. Các con phải tìm được con đường trung đạo, là nhận ra mình cần nỗ lực gia tốc.

Và vì thế, đây không phải là chuyện tìm cầu một sự thật tôn giáo, mà tìm ra những nguyên tắc tự nhiên, phổ quát sẽ giúp mọi người thăng vượt tình trạng tâm thức hiện thời của họ, giúp họ xoay đổi đời họ để tiến về phía trước trong một xoắn ốc hướng thượng có hẳn mục tiêu lẫn phương hướng. Cần giúp họ hiểu cách làm sao tiến từng bước một, từng nấc một trên cái thang hình xoắn ốc dẫn họ đến mục tiêu, hầu họ không phải sống trọn đời một cách vô nghĩa và không làm sao khắc phục nổi các vấn đề tâm lý như trầm cảm hay một tâm bệnh nào khác tuôn ra từ cảm giác vô dụng.   

Bởi vì làm sao con không cảm thấy vô dụng khi đời con không có ý nghĩa và chẳng có gì thực sự quan trọng? Tất nhiên là con sẽ cảm thấy mình vô dụng nếu con tin tưởng như thế và con đã được dạy dỗ như thế. Cho nên một xã hội tân tiến, một xã hội khai sáng, không thể nuôi nấng trẻ em mình với tư duy này. Đối với con em mình, phải có một giải pháp nào khác vượt lên trên tôn giáo truyền thống, vượt lên trên mọi chủ nghĩa chính trị, vượt lên trên chủ nghĩa duy vật, và đưa ra được trong tinh thần đại đồng đường hướng tiến hóa của sự sống cùng những phương pháp thực hiện thực tiễn.

Đây là thử thách mà phương Tây đang phải đối diện, hay đúng hơn đang không đối diện ngay bây giờ mà sẽ phải đối diện để thăng vượt không chỉ cuộc khủng hoảng tài chánh hiện tại mà thôi. Bởi vì ta nói với các con, cuộc khủng hoảng lớn nhất tại các nước Tây phương không phải là khủng hoảng tài chánh. Khủng hoảng lớn nhất tại Tây phương là khủng hoảng tâm lý-tâm linh. Và một ngày nào khi mọi người đã quên bẵng cuộc khủng hoảng tài chánh thì cuộc khủng hoảng tâm lý-tâm linh sẽ vẫn còn nguyên đây. Nó sẽ còn đó và sẽ tồi tệ hơn nữa, cho đến khi một sự chuyển vọt xảy ra trong cách người ta đặt vấn đề – không phải là câu hỏi “Sự thật là gì?” mà là “Cái tôi là gì?” – con người là gì, tôi là gì?

Tôi có chỉ là một sinh thể vật chất, chỉ là một người mang tội, hay tôi là nhiều hơn thế? Liệu tôi có tiềm năng là nhiều hơn thế không? Liệu xã hội chúng ta có tiềm năng là nhiều hơn một chính quyền phúc lợi tân tiến cứ tưởng là mình có thể ném tiền vào mọi vấn đề xã hội, tâm linh hay tâm lý – và chờ đợi vấn đề sẽ tự động giải quyết? Bởi vì người ta nghĩ một vấn đề tâm lý không khác gì một vấn đề trục trặc máy móc. Khi con có một vấn đề máy móc, con chỉ cần tìm ra bộ phận hư hỏng rồi thay thế bộ phận đó đi. Nhưng đó không phải là cách tâm lý vận hành.      

Bởi vì tâm lý của một con người không thể chia ra thành từng bộ phận nhỏ. Tâm lý là một toàn thể – đó chính là định nghĩa của một con người. Đó là một toàn thể, và nếu con nghĩ con có thể phân chia người đó ra thành từng mảnh nhỏ thì con sẽ không thễ chữa lành cái toàn thể. Con không thể chữa lành toàn thể bằng cách chữa lành một bộ phận hay cắt bỏ bộ phận đó đi. Con chỉ có thể chữa lành toàn thể bằng cách gia tốc toàn thể lên một tầng mức cao hơn.

Đó là nguyên lý phổ quát của tia sáng thứ năm, và đó cũng là tại sao chúng tôi cũng đã gọi tia này là tia của sự toàn vẹn. Bởi vì một khi con giải thoát tâm con khỏi nỗ lực tìm cầu một sự thật dựa trên phân biệt, thì tâm con sẽ tự do nắm lấy sự toàn vẹn đằng sau mọi xung đột, đằng sau những cặp đối nghịch nhị nguyên mà trước đó con nhìn thấy mà cứ tưởng là chỉ có thế. Trong tâm đó, thay vì con đi tìm sự thật, con lại tìm cách nâng cao một sự thật tương đối cho nó cao hơn mọi sự thật khác. Con cố biến một sự thật tương đối thành tuyệt đối, thay vì con thăng vượt cái tư duy đang nhìn vào sự thật tương đối rồi ngộ ra là sự thật, như một toàn thể, không có đối cực. Bởi vì con nhìn thấy toàn thể và chỉ muốn nâng cao toàn thể.  

Vậy đó là bài giảng của ta. Đó là ánh sáng mà ta đã trụ neo, là ngọn lửa fohat đã tắt, để cho ngôn từ được ánh sáng dẫn dắt vào tâm thức tập thể nơi nó sẽ đâm thủng các hàng rào mà mỗi người cũng như xã hội đã dựng lên chung quanh tâm mình hầu bác bỏ sự thật.

Phải, ta là Hilarion, ta sử dụng quyền của mình với tư cách là Thượng sư của Tia sáng Thứ năm, đại diện cho tất cả các thứ bậc trong tia thứ năm, tỏa chiếu ánh sáng của ta xuyên qua các thể vật lý của tất cả các con.

Và như vậy, ta nói: “Sự thật là gì?”

“Ta là sự thật!”

Và con cũng là sự thật – nếu con khám phá cái TA LÀ trong con là ai. Vậy con hãy khám phá cái TA LÀ này, và khám phá rằng cái TA LÀ trong con là thành phần của toàn thể cái TA LÀ, cái TA LÀ rộng lớn. Và vì vậy khi con biết được điều này, con sẽ cố nâng cao mỗi thành phần của toàn thể, vì đó là cách duy nhất nâng cao toàn thể. Và nâng cao toàn thể là cách duy nhất để nâng cao mỗi thành phần. Con không tự nâng mình lên như một thành phần riêng lẻ, một thành phần tách biệt. Con chỉ có thể tự nâng mình lên bằng cách nâng toàn thể, bằng cách là đầy tớ của tất cả.

ĐÂY LÀ SỰ THẬT – nếu sự thật có thể diễn tả bằng lời nói. Con có thể phủ nhận nếu con muốn, con có thể biện bác nếu con muốn, bởi vì con có quyền tự quyết, con có tự do trói con vào cái bánh quay triền miên đang cố nâng cao một sự thật tương đối thành tuyệt đối.

Nhưng chuyện đó sẽ không bao giờ thành, cho tới khi con nhận ra là sự nhiệt thành của mình có thể chuyển hóa thành cái xoắn ốc hướng thượng khi con từ bỏ mong muốn dựng lên một sự thật duy nhất, một sự thật được biểu lộ, làm sự cao hơn.

TA LÀ sự thật. Bởi vì ta, Hilarion, đã đến trong sự hợp nhất với Ki-tô, và do đó ta cũng là con đường, sự thật và sự sống. Thế là xong.