3 | Chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong thân thể

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 3/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thày đại diện cho Mẹ Thiêng liêng đối với mọi người trên trái đất. Thày giữ trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho trái đất và cho dù danh hiệu Mẹ Mary gắn liền với truyền thống Cơ đốc giáo, thày là Mẹ Thiêng liêng cho mọi người trên trái đất. Hiện diện của thày, Bản thể của thày, là phổ quát – nó vượt khỏi đạo Cơ đốc, vượt khỏi mọi nhãn hiệu nào khác, vượt khỏi mọi hình tướng nào khác.

3.1. Khía cạnh nuôi dưỡng của Thượng đế

Vậy trách vụ Mẹ Thiêng liêng vốn làm gì trên trái đất, làm gì cho con người trên trái đất? À, nó có mục đích làm nhiều thứ, nhưng trước hết là đại diện cho khía cạnh Mẹ của Thượng đế, tức là khía cạnh nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng. Nuôi dưỡng. Một khái niệm xa lạ với nhiều người không cảm thấy mình được nuôi dưỡng, đang sống trong nghèo khó, thiếu cái này, thiếu cái kia, thiếu cái nọ, và do đó không cảm thấy là cõi của mẹ, cõi vật chất, đang nuôi dưỡng. Như các thày đã giải thích, sự thiếu thốn này một phần do những kẻ hình thành tầng lớp thượng tôn quyền lực chế tạo ra – họ muốn dân chúng sống trong thiếu thốn để họ có nhiều hơn – nhưng một phần lớn cũng do chính con người chế tạo ra khi mình dần dà chấp nhận một hình ảnh về bản thân rằng mình không xứng đáng được nuôi dưỡng, không dám chờ đợi được nuôi dưỡng.

Điều thày thực sự muốn đem lại cho mọi người là gì? Là sự chấp nhận rằng họ xứng đáng nhận được sự nuôi dưỡng từ đấng Mẹ. Điều này đặc biệt có nghĩa là nuôi dưỡng cơ thể vật lý. Vì cơ thể vật lý được tạo ra bằng gì? Có phải bằng máu thịt chăng? Không đâu, cơ thể vật lý được tạo ra bằng Thân thể của Mẹ Thiêng liêng, và đó là Ánh sáng của Mẹ Thiêng liêng, là cái mà các thày đã gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Tại sao thày lại nói về cơ thể vật lý trong một khóa tu nhằm giúp con kết nối với cái Ta Cao của con cùng các vị thày tâm linh của con? À, chẳng phải là vì một trong những điều cơ bản có thể kéo con ra khỏi cảm giác kết nối bên trong chính là cơ thể vật lý – những đau đớn, những nhức nhối, những nhu cầu, những đòi hỏi của cơ thể không ngừng lôi kéo sự chú ý của con: “Cho tôi cái này, cho tôi cái kia. Tôi không có đủ cái này, tôi không có đủ cái kia.” Nó cho con một cơn đau ở chỗ này, một cảm giác là lạ ở chỗ kia, luôn luôn thu hút sự chú ý của con.

3.2. Lòng căm hận đối với Mẹ

Đối với nhiều người tâm linh suốt các thời đại, cơ thể, cơ thể vật lý đã là một thách thức to lớn, nó kéo họ ra khỏi thiền tập của họ. Từ rất lâu nhiều người tâm linh đã xem cơ thể là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của họ, là một cái gì phải được chinh phục, phải bị làm ngơ, phải bị kiểm soát, phải bị trấn áp. Nhiều người xem toàn bộ bát cung vật lý, cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của mình. Và một lần nữa như hiền tỷ yêu dấu của thày, Quan Âm, đã giải thích, đây là những mâu thuẫn khó xử mà chúng ta phải đối mặt trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, các thày hoàn toàn cảm được nỗi đau khổ to lớn mà con người phải nếm trải trong cõi Mẹ.

Thày giữ trách vụ Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là thày nghe thấy mọi điều mà con người trải nghiệm, mọi tiếng than, mọi oán trách, mọi cảm giác bất công, mọi căm hận đối với Mẹ. Tất cả đều đi qua trách vụ của thày. Thày biết rất rõ tất cả mọi sự xảy ra trên trái đất, mọi khổ đau, và thày hiểu được trọn vẹn tại sao các con khó lòng nào tin tưởng được cõi Mẹ. Vì làm sao con biết được chuyện gì sẽ xảy ra và bỗng chốc toàn bộ cuộc sống của con bị đảo lộn hay tàn phá, hay con mất mạng, hay con mắc phải một căn bệnh làm con đau đớn? Thày hiểu hoàn toàn. Thày trải nghiệm điều này trong tim 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, 365 ngày một năm, suốt biết bao năm trời thày đã chăm lo trách vụ này.

Thế nhưng cách tiếp cận cơ thể vật lý của người tâm linh suốt hàng ngàn năm qua không phải là cách xây dựng nhất. Cơ thể của con có phải là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh của con không? Chỉ khi nào con nghĩ như vậy thôi. Chỉ khi nào con tìm cách trốn thoát khỏi cơ thể trong khi mình vẫn ở trong cơ thể, con khuất phục cơ thể, kiềm chế cơ thể, xem thường cơ thể, trấn áp cơ thể, thì chỉ khi đó nó mới là kẻ thù.

3.3. Đầu thai là một cơ hội

Nhiều năm trước đây, sứ giả này đã có một trải nghiệm rời xác thân (out-of-body experience) khi ông được đưa ra khỏi thân thể trong một vùng ánh sáng, rồi ông được gửi trở về một cách vũ bão, và ông hiểu ra thông điệp: “Tôi không đang hiện thân để có những trải nghiệm tâm linh. Tôi đang hiện thân để làm gì đó trong cõi vật lý, để trải nghiệm cõi vật lý, để thay đổi cõi vật lý.” Liệu cơ thể của con, cơ thể vật lý, có là kẻ thù cho việc kết nối với cái ta cao hơn của con và các chân sư thăng thiên? Chỉ khi nào con nghĩ như vậy thôi, bởi vì cơ thể vật lý là gì chứ? Đó là một cơ hội tuyệt vời. Một cơ hội tuyệt vời để trải nghiệm cõi vật lý từ bên trong và trở thành một phần của tiến trình đồng sáng tạo này.

Phải, thày nghe thấy tất cả những tiếng than vãn, tất cả những lời phản đối từ tâm thức tập thể đối với câu nói trên. Thày đã nghe những lời này từ hàng trăm năm rồi. Thày biết rõ chúng cả đầu ngược lẫn đầu xuôi, nhưng thày là ai chứ? Thày có phải là kẻ chỉ ngồi nghe những lời than này một cách thụ động, hay thày là đại diện của Mẹ Thiêng liêng đang ở đây để đôi khi là một người mẹ nghiêm nghị bảo rằng: “Than vãn như vậy đủ rồi. Hãy nhìn vào cơ hội kìa, hãy xem cơ thể là một cơ hội, hãy xem việc đầu thai là một cơ hội.”

Một lần nữa, thày nghe thấy nỗi đau, thày cảm thông nỗi đau. Nhưng đau khổ trên địa cầu đã trở thành một vòng xoáy trong tâm thức tập thể cứ ngày càng tự tăng cường, và phải có ai đó đập vỡ vòng xoáy này đi. Nhiều các con đây đã thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình là con sẽ giúp đập vỡ vòng xoáy này đã khiến con hoặc than phiền về thân xác, hoặc tìm cách kiểm soát nó như những người tâm linh vẫn thường làm. Thày hiểu rõ tất cả các con là người tâm linh đều có phần nào một mối quan hệ đối chọi với cơ thể vật lý của mình. Chính thày cũng đã như vậy khi thày còn ở trong một cơ thể vật lý. Giê-su cũng đã như vậy. Chắc chắn thày đã có mối quan hệ ngược ngạo này khi thày đứng đó nhìn Giê-su bị đóng đinh trên thập tự giá.

Dẫu vậy, rất nhiều các con đã nguyện là trong kiếp đầu thai này, các con sẽ kéo tập thể này vươn lên một cách tiếp cận cao hơn đối với cơ thể vật lý. Một cách tiếp cận cao hơn xem cơ thể là một cơ hội. Một cơ hội. Khi con ở trong cơ thể, tại sao con lại chối bỏ cơ thể? Tại sao lại tìm cách lánh xa cơ thể? Cách cao hơn là nhìn thực tiễn và nói: “Vì lý do gì tôi đang hiện thân vật lý?” Và con thừa nhận là chính con đã chọn hiện thân vật lý. Có thể con không cảm thấy là mình đã chọn. Có thể con nhìn lại đời mình và bảo: “Đúng ra tôi đã không nên chọn cuộc đời này. Không ai lại đi chọn cuộc đời của tôi, một cuộc đời đầy gian khổ như tôi đã sống qua.” Nhưng chính con đã chọn, vì nếu không thì con đã không ở đây. Con đã chọn. Có thể con đã bị giới hạn trong các tùy chọn do những khuôn nếp con đã tạo ra trong tiền kiếp, nhưng các khuôn nếp này là do con tạo ra khi chọn lựa.

Và những ai trong số các con là người tâm linh, là đệ tử của chân sư thăng thiên, chắc chắn các con đã chọn đầu thai trong kiếp hiện thân này vào thời điểm này để giúp Saint Germain đem lại Thời Hoàng kim và tạo điều kiện thuận lợi cho địa cầu xoay chuyển. Con có nghĩ là trong Thời Hoàng kim của Saint Germain, con người sẽ giữ nguyên mối quan hệ mà hầu hết mọi người đang có với thân thể của họ hôm nay hay đã từng có trong thời đại Song ngư và những thời đại trước nữa? Con chẳng nghĩ là sẽ có một cuộc xoay chuyển để tiếp cận cơ thể khác hơn hay sao? Vậy chẳng lô-gíc là con đang ở đây để giúp đem lại xoay chuyển này hay sao? Nhưng làm thế nào con có thể giúp tập thể xoay chuyển trừ khi con xoay chuyển tâm mình trước tiên? Thày không đang cố tỏ ra vô cảm đối với những ai đã phải chịu đựng rất nhiều về thể xác cùng đủ loại bệnh tật ngặt nghèo. Nhưng thày đang tìm cách đánh thức con dậy để con nhìn ra các chọn lựa mà con đã lấy trước khi bước vào hiện thân, đặc biệt khi các chọn lựa này liên quan đến cơ thể vật lý.

3.4. Chấp nhận “tôi là thân thể này”

Là người tâm linh, con cũng biết con là nhiều hơn cơ thể. Một số người sẽ nói: “Tôi không phải là cơ thể.” Có một truyền thống rất lâu đời trở ngược về hàng ngàn năm trời tại Ấn Độ nói rằng: “Tôi không phải là cái này. Tôi là cái kia,” và khi nói vậy, họ chỉ về một cái gì trong thế giới thần linh. Nhiều người chối bỏ cơ thể của mình. Nhiều người cố làm ngơ hay lánh xa khỏi nó. Nhưng cách tiếp cận cao hơn mà thày mong con lưu ý là đón nhận cơ thể. Đón nhận việc mình đang hiện thân, thậm chí đến độ con nói được: “Tôi là thân thể này.”

Con hãy xem xét phản ứng của con trước câu nói đó. Liệu con có thể trụ trong tim và cảm thấy an bình khi con nói “Tôi là cơ thể này” không? Hay con có một phản ứng? À, nếu thế thì phản ứng này đến từ một tập đoàn ngã tiềm thức mà rất có thể con đã tạo ra trong những kiếp trước – đối với nhiều người là avatar thì nó có thể trở ngược về chấn thương nhập đời khi lần đầu tiên con hiện thân vật lý trên trái đất và bị sa nhân tấn công, và chúng tìm cách dùng cơ thể vật lý của con để tiêu diệt con về mặt tâm lý lẫn tâm linh. Nhưng các thày đã cho con các dụng cụ để làm việc với vấn đề này, để con nhìn ra các ngã đó và để chúng chết đi. Đối với một số các con, điều sẽ rất lợi lạc là con nên dành ra một chút thời giờ để tập trung vào những cái ngã con đã tạo ra trong tiền kiếp có liên quan đến cơ thể vật lý, đến việc con ở trong cơ thể vật lý, và con chấp nhận là không những con ở trong cơ thể mà con còn chấp nhận cơ thể. Thay vì chấp nhận hay thấy mình ở trong cơ thể, con chấp nhận mình là cơ thể.

Tại sao sự phân biệt này quan trọng? Là vì chỉ khi nào con chấp nhận trọn vẹn mình là cơ thể thì bản mẫu của cơ thể con – được cầm giữ bởi Hiện diện TA LÀ của con, được cầm giữ trong tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc của con – mới hoàn toàn trở nên vật lý. Có rất, rất nhiều người tâm linh vì họ không chấp nhận “Tôi là cơ thể” cho nên họ không thể đưa bản mẫu này vào cõi vật lý. Nó bị chặn đứng trước khi nó đến cõi vật lý và do đó họ không thể nhận được sự chữa lành mà họ cần để tập trung vào sự tăng triển tâm linh của họ. Và hiển nhiên trong tư cách Mẹ Thiêng liêng, thày mong nhìn thấy tất cả các con được chữa lành càng nhiều càng tốt trong phạm vi Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng chắc chắn thày mong muốn tất cả các con bị đau đớn tối thiểu do cơ thể của mình. Và như Quan Âm có nói, nếu con luôn bị kẹt trong cái tâm cứ phóng ra ngoài thì con sẽ không nối kết được.

Cho nên đã đến lúc con thử một cách khác hơn. Quá nhiều người tâm linh suốt các thời đại đã chối bỏ cơ thể, đã cố tránh né nó, đẩy nó ra xa. Bây giờ chẳng phải là lúc con thử một cách khác hơn? Và cách này là đón nhận cơ thể, chấp nhận cơ thể, đồng hóa mình là cơ thể, biểu hiện khuôn đúc cao nhất cho cơ thể.

3.5. Một dụng cụ thực tiễn để giúp con chấp nhận cơ thể

Trong khuôn khổ nỗ lực của các thày giúp con nối kết, thày cống hiến cho con một số dụng cụ thiết thực để bước vào một tâm thái nơi cơ thể của con, cơ thể vật lý, không ngăn cản con kết nối với các chân sư thăng thiên cùng cái ta cao của con, do cơ thể không đang lôi kéo sự chú ý của con ra ngoài. Như vậy con có thể có những giây phút an bình trong cơ thể để bước vào nội tâm. Đây là mong muốn của thày, cho nên thày sẽ yêu cầu con tham gia cùng với thày một số bài tập thực tiễn nhằm giúp con hoặc thay đổi cách tiếp cận của con đối với cơ thể, hoặc thật ra chữa lành cơ thể.

Các thày đã có giảng là cơ thể vật lý của con được tạo bằng Ánh sáng Mẫu-Vật. Các thày cũng nói Ánh sáng Mẫu-Vật là nền tảng cho hình tướng, nhưng tự nó không khoác vào hình tướng. Phải có một khuôn đúc, một khuôn đúc tư tưởng, được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật thì nó mới khoác vào hình tướng này. Khuôn đúc đó được phóng chiếu xuyên qua tâm bản sắc, tâm lý trí và tâm cảm xúc lên Ánh sáng Mẫu-Vật, hình thành cơ thể vật lý. Điều này có nghĩa là cơ thể vật lý của con cho dù nó có vẻ dày đặc đến vậy, nhưng nó không dày đặc chút nào. Nó mềm lỏng. Nó tựa như loại nhựa dẻo có thể được uốn nắn, như đất sét có thể được nhào nặn, nhưng nó được nhào nặn bởi tư tưởng, bởi bản sắc, bởi cảm xúc. Và vì vậy nó có tiềm năng chuyển đổi chớp nhoáng. Chớp nhoáng. 

Bây giờ con cũng biết là cơ thể vật lý được cấu tạo bằng tế bào. Nếu con từng nghiên cứu điều này, con sẽ biết là tế bào phức tạp một cách khó tưởng tượng. Đã có một thời khi các nhà khoa học khám phá ra tế bào, họ tưởng tế bào cũng giống như nguyên tử thuở trước khi người ta tin rằng hạt nguyên tử không thể phân chia nhỏ hơn. Họ nghĩ tế bào chỉ là những viên gạch cơ bản xây dựng cơ thể và ngay trong tế bào thì không có gì nhiều. Nhưng một khi họ có được những dụng cụ để nghiên cứu tế bào, họ mới biết là họ lầm lẫn đến chừng nào và tế bào phức tạp như thế nào. Như một số bác sĩ đã phát hiện, tế bào hòa điệu chặt chẽ với trạng thái tâm con. Theo một nghĩa nào đó, tế bào là những chiếc máy radio nhận tín hiệu, và những tín hiệu này đến từ môi trường của con, từ tâm thức tập thể, nhưng chúng cũng nhận được tín hiệu từ chính tâm cảm xúc, tâm lý trí và tâm bản sắc của con.   

Tất nhiên con có thể dùng các dụng cụ của các thày như bài chú, bài thỉnh để cũng thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho cơ thể vật lý của con, niêm phong nó khỏi tâm thức tập thể cùng môi trường chung quanh. Nhưng điều thày muốn trao cho con ở đây là một dụng cụ thật đơn giản dựa trên hai dòng thơ trong bài chú của thày. Và hai dòng này là: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa. Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.”

Ý tưởng ở đây là tế bào của con giống như một chiếc âm thoa và nó có thể được điều chỉnh theo tần số của thế gian, một khuôn đúc thấp, hay nó có thể hòa điệu với một khuôn đúc cao hơn. Khuôn đúc cao nhất là viễn quan của Mẹ Thiêng liêng cho cơ thể vật lý của con. Và viễn quan này có thể được nhận thức như một âm thanh, một rung động, một tiếng chuông. Đây là dụng cụ mà thày muốn cho con. Nó không nhằm mục đích thay thế những dụng cụ khác mà các thày đã trao truyền, các bài thỉnh chữa lành. Nhưng dù sao đây là một dụng cụ mà con có thể tự mình thực tập, hay con có thể nghe lại bài truyền đọc này hết lần này sau lần khác và thể nhập nó. Thày xin con cùng thày đọc hai dòng này: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, Với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.” Con hãy đọc cùng với thày:

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.

(9 lần, với tiếng chuông điểm sau mỗi lần)

Đây là một dụng cụ con có thể dùng một mình. Nếu con không có chuông, con có thể hoà điệu nội tâm con với một tiếng chuông, nhưng con hãy đọc hai dòng này trong ngôn ngữ của con, hòa nhập vào Hiện diện của thày, hòa điệu với cơ thể cùng bất kỳ điều kiện nào trong cơ thể, và để cho mình thâm nhập vào đó. Thày xin con không lặp lại theo thày bây giờ mà lắng nghe giọng đọc của vị sứ giả. Lắng nghe cái vượt khỏi giọng đọc, giọng đọc con người. Lắng nghe giọng của thày bên trong con.

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa
.
(30 lần)

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Âm thanh phá tan bùa mê đáy vực
đến từ cõi chết và cõi địa ngục.

Con yêu dấu, con có thể dùng phiên bản trên hay phiên bản trong bài chú của thày:

Từng mỗi tế bào là một âm thoa,
với chuông của Mẹ, nó đang giao hòa.
Lời nguyền bệnh tử, con đã thoát trọn,
con xác nhận đây bất tử của con.

Nếu con dùng dụng cụ này, đặc biệt nếu con nghe lại bài truyền đọc này, con có thể thấy với thời gian cách nhìn của con về cơ thể vật lý sẽ chuyển đổi. Thày hy vọng là con có thể đạt tới điểm đọc câu chú này: “Tôi là cơ thể này” và cảm thấy an bình với câu đó, không khởi lên phản ứng nào và chấp nhận mình là cơ thể, và cơ thể là một cơ hội trong thời gian con ở trong cơ thể. Thậm chí con còn có thể đi xa hơn và chấp nhận: “Tôi là thân thể của Mẹ Thiêng liêng. Tôi là thân thể của Mẹ Trái đất.”   

3.6. Là một người tâm linh trong cơ thể

Đối với những đệ tử nào đã có trù hoạch sự chấp nhận này trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình, các con có thể qua đó cống hiến một việc phụng sự to lớn cho sự hàn gắn của thân thể hành tinh cùng các cơ thể vật lý của nhân loại. Thật sự, một trong những lợi ích to lớn có thể mang lại khi chúng ta tiến đến Thời Hoàng kim của Saint Germain là mọi người dần dần chấp nhận rằng bệnh tật trong cơ thể vật lý không phải là chuyện tự nhiên. Thật không tự nhiên khi cơ thể bị bệnh. Thật không cần thiết cho cơ thể phải mắc bệnh, mặc dù điều này tất nhiên rất khó tránh trong điều kiện hiện thời. Nhưng dù sao, bằng cách chấp nhận con là cơ thể và sau khi đã làm việc với ba thể cao, con cũng có thể dần dần chấp nhận là việc tạo thay đổi trong cơ thể là chuyện khả dĩ ngay cả khi bác sĩ hay tâm thức tập thể bảo chuyện này không thể xảy ra. Bởi vì con đang ở trong cõi vật chất. Đây là cõi của Mẹ Thiêng liêng. TA LÀ cõi vật chất. Không có gì trong vật chất là bất khả đối với Mẹ Thiêng liêng.

Chỉ sự chấp nhận hay không chấp nhận của con mới có thể ngăn cản một điều mà nhiều người sẽ gọi là phép lạ. Nhưng chẳng có phép lạ gì đâu con. Chỉ có sự biểu hiện tự nhiên của sự kiện Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ trình chiếu ra bất kỳ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó và do đó hình ảnh trình chiếu được thay đổi. Và con thay đổi điều kiện vật chất giống như con thay đổi truyện phim trên màn hình bằng cách thay thế dải phim trên máy chiếu. Đây chính là nội dung trong quyển sách của thày, Khóa học về sự Dồi dào. Và một số các con có thể thấy lý do xem lại khóa học này, và tất nhiên quyển sách về Khuôn đúc Chữa lành cũng có thể giúp con xoay chuyển thái độ của minh đối với cơ thể cho đến khi con chấp nhận cơ thể.

Dù điều này có vẻ kỳ lạ, có vẻ mâu thuẫn, có vẻ bí ẩn, nhưng trong nhiều trường hợp con cần phải hoàn toàn chấp nhận một điều kiện trong cơ thể trước khi con có thể thăng vượt điều kiện đó. Chừng nào con còn đẩy nó ra xa – không những đẩy điều kiện mà cũng đẩy cả cơ thể đã buộc con phải đối mặt với điều kiện đó – thì làm thế nào con có thể chấp nhận được thay đổi? Con có thể đã có nghe câu nói quen thuộc này: “Hãy là sự thay đổi mà bạn muốn thấy trong thế giới.” Nhưng liệu chúng ta cũng có thể nói: “Hãy là sự thay đổi mà bạn muốn thấy trong cơ thể”? Nhưng làm thế nào con thay đổi được cơ thể trừ khi con là cơ thể? Và làm thế nào con là cơ thể được nếu con chối bỏ nó, đẩy nó ra xa, cho rằng nó phản tâm linh hay là kẻ thù cho sự tăng triển tâm linh của con?

Đâu là mục đích của việc làm người tâm linh trong thời đại này và hiện thân vật lý? Có phải là để đẩy cơ thể ra xa? Hay để chứng tỏ con có thể là người tâm linh trong cơ thể? Con hãy là một người tâm linh trong cơ thể. Có cách nào khác để làm người tâm linh trong hiện thân hay không? Làm người hiện thân, đó chính là mục đích của con.

Với lời này, thày đã trao cho con phần trình bày mà thày mong muốn đem lại ở thời điểm này. Có thể thày có nhiều điều sẽ nói sau, nhưng chắc chắn các chân sư khác cũng có nhiều điều muốn nói. Cho nên con hãy nhận lòng biết ơn của thày vì con đã có mặt ở đây với cơ thể của con. Và thày mong con có thể có mặt ở đây và đồng thời cũng là cơ thể của con.

Đã đến lúc bước lên một nhận biết cao hơn về chức năng làm mẹ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/8/2020 trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng trong hành động qua sự hòa nhập bảy tia sáng.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary và ta đến để gửi cho con một số ý nghĩ về chức năng làm mẹ.

Các chân sư từng nói nhiều lần là mỗi thay đổi trên địa cầu khởi sự ở cõi ether nơi tầng bản sắc. Thay đổi xảy ra ở đó trước tiên, rồi từ đó chuyển xuống cõi lý trí, rồi cõi cảm xúc, và sau khi đi qua cõi cảm xúc, cuối cùng nó đi xuống cõi vật lý. Ta muốn chia sẻ với con một vài cảm nghĩ về những gì các chân sư đã làm trong một thời gian rất dài để đem lại một số ý tưởng và hiểu biết xuyên qua ba cõi cao hầu những ý tưởng này có thể sẵn sàng đi xuống cõi vật lý. Qua đó ta muốn nói là đa số phụ nữ sẽ nhận ra những ý tưởng này. Hiển nhiên nhiều phụ nữ đã nhận ra rồi, và nhiều phụ nữ với thiên hướng tâm linh hay mức nhận biết cao hơn cũng đã nhận ra. Nhưng chúng ta đang ở một điểm khi trong thập niên tới, những ý tưởng này sẽ được quần chúng rộng lớn nhìn nhận, có lẽ chưa là đa số, nhưng chắc chắn một túc số đủ để kích hoạt những thay đổi.  

Chúng ta hãy nhìn vào hoàn cảnh của một phụ nữ trên địa cầu đang có mang. Dù đây là lần đầu hay một lần sau, con đang mang thai một đứa bé. Con sắp trở thành mẹ, và tất nhiên con mang niềm hy vọng và mường tượng con mình sẽ lớn lên, trưởng thành và sống một cuộc đời dài lâu. Là mẹ, con muốn thấy gì nơi con mình? Nhìn chung quanh hành tinh, con thấy người mẹ trong nhiều hoàn cảnh đời sống khác nhau. Họ sống trong nhiều nền văn hóa, có những góc nhìn và tin tưởng khác nhau về cuộc sống. Họ mong muốn những điều khác nhau cho con mình tùy theo hoàn cảnh họ đã lớn lên và họ chờ đợi con mình cũng sẽ lớn lên ở đó. Nhưng hãy chưa đi vào chi tiết vội, hảy nhìn chung chung trước cái đã.       

Một người mẹ muốn gì cho con mình? Điều căn bản là muốn con mình có một cuộc sống tốt đẹp. Mỗi người ở trong hoàn cảnh khác nhau có thể định nghĩa “tốt đẹp” không giống nhau, nhưng dù sao thì mọi người mẹ đều muốn con mình có cuộc sống tốt đẹp. Có nghĩa là họ không muốn một số điều xảy ra cho chúng. Họ không muốn chúng chết sớm. Họ không muốn chúng nghiện ma túy, không muốn chúng trở thành tội phạm, không muốn chúng bị gọi đi nghĩa vụ quân sự và bỏ mạng hay bị tàn phế nơi chiến trường. Họ không muốn chúng mắc phải những chứng bệnh nan y chết người, không muốn chúng bị tàn tật hay tổn thương tâm lý đến độ không thể sống hữu ích, không thể học hành, đi làm hay lập gia đình. Chắc chắn có nhiều điều mà một người mẹ không muốn cho con mình.  

Bây giờ hãy nhìn vào tâm trạng của một người sắp làm mẹ. Khi cô ấy nhìn về tương lai và dự kiến điều gì có thể xảy ra – hay không xảy ra – cho con mình, làm thế nào cô ấy xử lý được đây? Như thày Portia có nói, con có thể nhìn lại lịch sử khắp thế giới, có những hoàn cảnh nơi phụ nữ phải sống vô cùng bấp bênh, có thể một đời nghèo khó, hay sống trong vùng xung đột. Cho nên nói chung có nguy cơ con mình phải đối diện với bạo lực và rủi ro. Thời nay ở những nước tương đối trù phú thanh bình, có những phụ nữ có thể mong đợi con mình có cuộc sống khá tốt. Nhưng ngay cả trong trường hợp này, người mẹ không thể biết được liệu con mình sẽ bị bệnh tật, bị những vấn đề tâm lý ngăn cản chúng được hưởng một cuộc sống bình thường, hữu ích, hoặc bất kỳ những vấn đề nào khác có thể xảy ra. Khi con nhìn dưới mắt người mẹ, con có thể tự hỏi: “Điều gì sẽ định đoạt cuộc sống của con tôi, điều gì sẽ định đoạt đời nó sẽ có đóng góp xây dựng hay là sẽ trắc trở, đau buồn, sầu thảm, hung bạo? Điều gì sẽ quyết định cuộc đời con tôi? Tôi muốn đời nó tốt đẹp nhưng điều gì sẽ định đoạt những nét chính trong đời nó?”                 

Ở điểm này, nhiều người mẹ sẽ nhìn ra một cách ý thức một điều mà họ vốn đã biết nhưng thường chưa nhìn nhận. Khi họ ngẫm nghĩ về tương lai con mình, họ cảm thấy phần nào bất lực không làm gì được. Họ cảm thấy mình rất ít quyền hạn để định đoạt cuộc đời con mình sẽ hữu ích hay không. Hiển nhiên nhiều người mẹ không dám nghĩ đến tương lai con mình chính vì cảm hấy mình không có khả năng làm được gì, và họ tránh không nghĩ tới. Nhưng nếu con suy nghĩ, phụ nữ trong những hoàn cảnh khác nhau trên thế giới có những tin tưởng gì về các yếu tố sẽ ảnh hưởng tương lai con mình? Phải chăng là định mệnh? Là số mạng? Là sự may mắn? Là những chuyện ngẫu nhiên hên xui may rủi? Là ý muốn của Thượng đế như một số phụ nữ tin như vậy, dù đó là Thượng đế này hay Thượng đế kia? Đó có phải là nghiệp chướng như một số phụ nữ, rất nhiều phụ nữ đặc biệt là tại phương Đông, tin như vậy? Điều gì sẽ định đoạt vận mạng, cuộc sống của nó? Nếu thật là tất cả những điều ở trên, cho dù đó là ý muốn của Thượng đế hay nghiệp quả hay sự may rủi, thì với tư cách người mẹ con quả là không thể làm được gì. Nếu con tin rằng ý muốn Thượng đế sẽ ảnh hưởng đến con mình, con có thể cầu nguyện và tin tưởng lời cầu của con sẽ thay đổi ý định của ngài đối với nó, nhưng ngoài chuyện đó ra thì phụ nữ cảm thấy bất lực ở nhiều mức độ khác nhau.

Tuy nhiên trên bình diện rộng lớn của tâm ý thức loài người trong cõi vật lý, hiện đang có một sự khai ngộ sắp sửa đột phá, rằng cảm giác bất lực này nơi người mẹ là một ảo tưởng. Nó phát xuất từ một số tin tưởng sai lạc được truyền bá trong tâm thức tập thể. Thậm chí nó phát xuất từ một số tin tưởng đã được cố tình cài đặt vào phụ nữ trong một số bối cảnh văn hóa khác nhau. Cho nên trong thập niên sắp tới, nhiều phụ nữ sẽ có khả năng nhận ra là trong vai trò người mẹ, quả thực là có những điều mà họ có thể làm được để định đoạt cuộc sống mà họ mong muốn cho con mình. Chắc chắn nhiều người sẽ hỏi ngay: “Tôi có thể làm gì được trong cõi vật lý?” Và tại một số nước nghèo hay đang lâm vào cảnh chinh chiến, nhiều phụ nhữ sẽ cảm thấy mình chẳng làm được gì nhiều trên phương diện vật lý bởi vì tương lai thật quá bất định. Tại các nước trù phú hơn, một số phụ nữ sẽ cảm thấy là họ đã làm đủ tất cả những gì họ có thể làm rồi. Họ có cuộc sống vật chất tốt đẹp, bảo đảm, họ sẽ cho con đi học những trường tốt nhất, họ sẽ giúp cho con học hành đến nơi đến chốn rồi có công ăn việc làm trên mức trung bình. Và họ cảm thấy như thế là đủ. Con họ sẽ có một tương lai tương đối bảo đảm, sung túc.  

Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, nếu con nghĩ xa hơn, làm sao chắc chắn đứa con ra đường không bị xe đụng? Không thể biết được, phải không? Cho nên điều con cần nhận ra là cho dù con cảm thấy bất an hay vững tin về tương lai, vẫn có những điều mà con có thể làm để bảo đảm nhiều hơn cho cuộc sống con mình. Có những việc mà con có thể làm để cải thiện cuộc sống của nó bất kể những điều kiện nơi xứ con, bất kể số mạng hay may mắn hay rủi ro hay bất cứ con gọi là gì. Yếu tố này bảo đảm sẽ cải thiện cuộc sống đứa con của con. Vậy yếu tố sẽ cho con quyền năng cải thiện cuộc sống đó là gì?   

Đúng vậy, như chúng tôi đã có nói, đó là sự thừa nhận rằng con người là những sinh thể tâm lý. Hẳn nhiên, đứa con của con sẽ lớn lên trong một số hoản cảnh vỏ ngoài. Sẽ có một số điều kiện vỏ ngoài ảnh hưởng đời sống của nó, và những điều kiện này có thể con sẽ không thay đổi được. Nhưng khi con nhìn cuộc đời một cách thực tế – có thể chính đời con hay đời người khác – con sẽ thấy hai đứa trẻ có thể lớn lên trong những hoàn cảnh rất tương tự, thế nhưng một đứa sống hữu ích còn đứa kia thì không. Con thấy nhiều đứa trẻ lớn lên tại các nước giàu có với đầy đủ mọi thứ, với cả cái thìa bằng bạc ngậm trong miệng như câu thành ngữ quen thuộc vẫn nói. Thế nhưng một số đứa không có khả năng có một cuộc đời xây dựng, hữu dụng. Tại sao như vậy? Tại vì tâm lý của chúng mà thôi. Đâu là sự khác biệt giữa một đứa trẻ lớn lên và trở thành hữu ích với một đứa không làm được vậy? Tất cả là trong tâm lý, trong cách nó tiếp cận cuộc sống, thái độ của nó với cuộc sống, cách nó nhìn cuộc sống, cách nó nhìn chính nó. Đó hoàn toàn là vấn đề nó đã đi vào hiện thân trong những điều kiện tâm lý như thế nào.          

Và đây là điểm mà nhiều phụ nữ nay đã sẵn sàng nhìn nhận. Tại nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ đã được dạy dỗ, đã được lập trình để tin rằng mình không có khả năng làm gì nhiều để ảnh hưởng tâm lý của mình lẫn tâm lý con mình – đứa trẻ sinh ra đã mang sẵn một tâm lý nào đó rồi và con không làm gì được nhiều. Nhưng đó là lời dối gạt, đó là ảo tưởng mà nhiều phụ nữ nay đã sẵn sàng nhìn thấu. Sự nhìn nhận này có thể khởi sự trên bình diện rộng lớn tại các nước giàu có, nhưng ngay cả tại những nước nghèo hơn, nhiều phụ nữ hiện đang đầu thai đã sẵn sàng chuyển dời tâm thức và nhận ra rằng tâm lý có tầm ảnh hưởng trên mọi lãnh vực cuộc sống. Sự chuyển vọt tâm thức mà phụ nữ có thể làm được là nhìn nhận rằng: “Tâm lý con tôi không hề được tạc vào đá. Con tôi sinh ra với một tâm lý nào đó, nhưng có những điều tôi có thể làm để giúp nó phát triển tâm lý hầu nó có cái nhìn xây dựng hơn về cuộc sống.”

Khi suy ngẫm điều này, thật là không khó khăn gì cho các bà mẹ thấy được rằng những ai có thái độ và cách nhìn xây dựng tich cực về cuộc sống thường có một cuộc đời tốt đẹp hơn thật, ngay cả trên phương diện vật lý. Nhưng đặc biệt họ có một cuộc đời tốt đẹp hơn trên phương diện tâm lý, trong hạnh phúc tâm lý. Có bà mẹ nào mà không muốn con mình hạnh phúc tâm lý? Có bà mẹ nào không muốn con mình hạnh phúc, bình an, bằng lòng với cuộc sống? Sự thật là một số bà mẹ không dám muốn điều này vì chính họ đã lớn lên với những vết thương tâm lý sâu đậm đến độ họ không thể mang ước vọng đó cho con mình. Nhưng đại đa số bà mẹ đều mong muốn con mình sống hữu ích, hạnh phúc. Cho nên không phải là điều quá xa vời – mà ngược lại rất gần kề – khi rất nhiều bà mẹ, một túc số đủ các bà mẹ nơi các nước giàu có, thực hiện một cuộc đột phá, chuyển vọt tâm thức và nhận ra rằng: “Có một điều mà tôi có thể làm cho con tôi sẽ tác động lên từng khía cạnh cuộc sống của nó, đó là giúp cho nó chữa lành và phát triển tâm lý của nó.”  

Và điều này có nghĩa là phụ nữ có thể cởi mở hơn để tìm kiếm những phương cách giúp đỡ tâm lý con mình. Ta cũng biết có một số phụ nữ, đặc biệt tại các nước giàu có hơn, đặc biệt những người bận rộn nghề nghiệp, bận rộn công việc và quen trả tiền cho đủ loại dịch vụ để mình khỏi phải bận tâm, sẽ nói: “Ô, có nghĩa chăng là tôi sẽ đưa con tôi đi chữa bác sĩ tâm lý và bác sĩ đó sẽ lo cho nó?” Nhưng sẽ có rất nhiều phụ nữ khác sẽ nắm lấy trách nhiệm và nói: “Nếu tôi muốn con tôi cải sửa tâm lý, ai sẽ là người làm chuyện đó? Có phải là cha nó? Chắc là không rồi. Liệu tôi sẽ có đủ tiền đưa nó đi chữa trị tâm lý và liệu một nhà tâm lý học sẽ thực sự giúp được nó không? Cũng chắc là không luôn.” Ngón tay con sẽ chỉ tiếp vào ai đây? Ngón tay sẽ chỉ vào ai và bảo: “Đây là người sẽ giúp được con tôi”? Đúng vậy, tất nhiên, ngón tay sẽ chỉ vào chính con. Và một câu hỏi hợp lý sẽ nảy ra ở điểm này: “Nếu tôi muốn giúp tâm lý con tôi, tôi sẽ làm thế nào đây? À ra vậy, tôi phải giúp chính tâm lý của tôi trước tiên cái đã, bởi vì nếu tôi đang mang những thương tích tâm lý thì thứ nhất tôi sẽ không có khả năng giúp con tôi, và thứ nhì, rất có thể tôi sẽ truyền những vấn đề tâm lý của tôi cho nó.”        

Nếu con nhìn vào lịch sử hay ngay cả gia đình của con, mẹ của con, cha của con, con thấy được bao nhiêu trường hợp cha mẹ truyền lại tâm lý tổn thương cho con cái, hay ít nhất cũng tác động sâu xa tâm lý con mình. Vậy thì điều hợp lý để giúp con cái, hay thậm chí để tránh làm hại nó, cách hay nhất có phải chăng là con cần tìm cách giải quyết tâm lý của chính con? Nhưng khoan đã. Đứa con của con có phải là người duy nhất sẽ được hưởng lợi từ việc con giải quyết tâm lý của con? Không, tất nhiên con cũng sẽ hưởng lợi, vì khi con giải quyết tâm lý, con sẽ thỏa nguyện hơn với cuộc sống, và ta trong vai trò Mẹ Thiêng liêng cho địa cầu, ta rất mong muốn điều này cho mọi người mẹ. Hơn thế nữa kìa, ta mong muốn cho tất cả mọi người. Cần có sự tỉnh ngộ là mặc dù các yếu tố ngoại cảnh có thể ảnh hưởng cuộc sống, yếu tố chủ yếu vẫn là tâm lý của mình. Và sự tỉnh ngộ tiếp ngay sau là tâm lý con người không hề được tạc vào đá. Và sự tỉnh ngộ kế tiếp, mỗi con người ngoại trừ một số rất ít bị tổn thương vô cùng trầm trọng, đều có chọn lựa nắm lấy quyền cai quản tâm lý của mình, có những biện pháp chữa lành vết thương và giải quyết những bế tắc đủ loại đang ngăn cản mình có một cuộc sống tâm lý lành mạnh.        

Và điều này có thể dẫn tới một sự tỉnh ngộ nữa, nằm trong cái mà chúng tôi gọi là tính nhân bản căn bản và cốt yếu. Tính nhân bản cốt yếu giúp con nhận ra rằng nhiều người có cuộc sống rất khó khăn do tâm lý của họ, rằng con có khả năng thay đổi tâm lý và con có thể hành động ý thức để thay đổi tâm lý. Đây là tiềm năng mà nhiều người sẵn sàng nhìn nhận như là một nhu cầu tự hiện thực (self-actualisation). Đây cũng là một điều mà đa số các nền dân chủ hiện đại cần nhìn nhận là bước tiến bộ cần thiết sắp tới, là vượt xa hơn phúc lợi vật chất để đem lại phúc lợi tâm lý.

Nhưng còn thêm một điều tỉnh ngộ nữa, dựa trên sự lượng định về nhân loại. Quốc gia nào, xã hội nào hiện có sức khỏe thể chất cao nhất? Các con đều biết rõ. Người ta đã đặt ra một chỉ số để đo đạc chuyện này. Người dân nước nào khỏe mạnh nhất? Nước nào có hệ thống chăm sóc sức khỏe, hay cả một cách tiếp cận sức khỏe phát triển cao nhất và do đó chăm sóc người dân tốt nhất? Rồi con có thể hỏi khác đi một chút: “Chỉ nhìn vào sức khỏe thể xác liệu có đủ hay chăng?” Hiển nhiên là không rồi. Phải cần xét cả sức khỏe tâm lý nữa chứ. Các nước đang làm gì trong lãnh vực này? Liệu các nước đã nhìn ra đây là một vấn đề vĩ đại? Liệu họ đã tìm hiểu và thực sự nhìn nhận tầm quan trọng của sức khỏe tâm lý? Mọi nước cho tới giờ đều đã nhìn nhận sức khỏe thể xác là quan trọng để có cuộc sống tốt đẹp, hữu ích. Nhưng gần như chưa có quốc gia nào công nhận trọn vẹn rằng sức khỏe tâm lý con quan trọng hơn gấp bội. Và đây là một sự thay đổi có thể xảy ra nếu giới phụ nữ lên tiếng đòi hỏi do quan tâm cho con em của mình. Phụ nữ sẽ nói: “Chúng ta phải thay đổi. Chỉ lo điều kiện vật lý cho con cái thật là không đủ nữa. Quan trọng hơn hẳn là phải lo những điều kiện tâm lý.” Ở một mức nào đó, tiến trình này đã bắt đầu xảy ra tại một vài nước, nhưng vẫn chưa có sự chuyển vọt cần thiết hầu trở thành một ưu tiên hàng đầu của xã hội.

Vậy cái gì có thể thúc đẩy thay đổi này? Phải, lực thúc đẩy chính là cá nhân mỗi người phụ nữ chuyển vọt tâm thức mình và nói: “Đâu là những dụng cụ tâm lý hiện có để tôi áp dụng trước tiên trên bản thân tôi và sau đó áp dụng trên con tôi?” Nhìn vào tình hình ngay cả tại các nước dân chủ tiên tiến nhất, hầu hết phụ nữ sẽ nhanh chóng đi đến kết luận là hiện không có nhiều phương tiện để họ sử dụng. Chắc chắn đã có một số it được tìm thấy trong sách và khoá huấn luyện và này kia nọ, nhưng thật là không nhiều, và chắc chắn là ít hơn nhu cầu. Và điều này có thể dẫn đến một sự tỉnh thức, ngay cả một đòi hỏi: “Chúng tôi muốn những phương tiện tâm lý tốt hơn. Chúng tôi muốn hiểu biết cao hơn về tâm lý so với những gì chúng tôi đã nhận được từ ngành tâm lý truyền thống và ngành tâm lý trị liệu truyền thống.”

Nhìn vào vấn đề này một cách thực tế ngay cả tại những nước giàu có nhất, liệu phụ nữ sẽ có đủ phương tiện tài chánh để bỏ ra nhiều năm đi khám bác sĩ tâm lý mỗi tuần, trả khoản phí rất cao cho một tiếng đồng hồ trị liệu với kết quả giới hạn? Người mẹ nào có khả năng chi trả cho con mình đi trị liệu như vậy? Vậy có thực tế lắm không nếu phụ nữ phải đi theo con đường trị liệu truyền thống hầu giúp con mình có cuộc sống tâm lý tốt đẹp? Thưa không. Vậy thì giải pháp thực tế duy nhất là gì? Đó là tìm ra một số cách tiếp cận tâm lý mới mà mỗi cá nhân có thể tự áp dụng lấy. Con không cần sự giúp đỡ của một nhà trị liệu đã học năm năm đại học, đã tìm hiểu tâm lý học mà nhiều khi vẫn chưa giải quyết được tâm lý chính mình.

Điều con cần là một người có kinh nghiệm thực tiễn, một sự chín chắn sành sỏi, có khả năng nói với con: “Tôi đã tự cải sửa bản thân tôi. Tôi đã nỗ lực hiện thực bản thân, đã chữa lành tâm lý, đã phát triển khả năng lẫn tiềm năng cá nhân suốt nhiều năm. Tôi đã tìm ra những dụng cụ này, những giáo lý này. Những phương tiện này đã giúp được tôi, tôi nghĩ nó cũng sẽ giúp được bạn.” Và cả một phong trào mới có thể khơi dậy khi ngày càng nhiều phụ nữ tìm học một phương thức thực tiễn để trị liệu và phát triển tâm lý mà họ có thể áp dụng trước hết trên bản thân xong trên con cái mình, một phương thức thiết thực, rẻ tiền và thích hợp với cuộc sống hàng ngày. Khi mức cầu đã có thì mức cung sẽ phải theo, và con sẽ thấy nguyên một công nghiệp hoàn toàn mới trồi dậy. Một phong trào hoàn toàn mới có thể lan rộng. Hiện nay ở một mức độ nào đó, đã có phong trào tự cải thiện bản thân, thiền tỉnh thức và một số phương pháp tự nhận biết, nhưng phong trào này có thể mở rộng ra các lãnh vực tâm lý, liệu pháp tâm lý, phát triển cá nhân. Tất nhiên một số phụ nhữ sẽ ưa thích một cách tiếp cận tâm linh, nhưng nhiều người khác sẽ muốn một phương thức phổ thông hơn, không liên quan đến tâm linh trực tiếp hay lộ liễu.     

Đây là một hướng phát triển rất quan trọng. Con có thể đọc cầu thỉnh, có viễn kiến về hướng phát triển đó, và con cũng có thể bắt đầu thực hiện, tạo ra nhu cầu và đáp ứng nhu cầu. Một số trong các con đã có kinh nghiệm trong các loại dịch vụ huấn luyện, tự cải tiến, hay trong ngành tâm lý truyền thống, cho nên nhiều người có khả năng tham gia bằng nhiều cách. Không những phụ nữ mà phái nam cũng có thể nhập cuộc trong các vai trò trị liệu, huấn luyện, viết lách và nhiều nữa. Đầu tiên, trọng tâm có thể là sự phát triển bản thân với tư cách là một người mẹ muốn giúp con mình phát triển thành những cá nhân hữu dụng. Dài hạn hơn, rõ ràng là nhu cầu này cần tăng trưởng tới mức trở thành một ưu tiên của xã hội và một dịch vụ bình thường của hệ thống sức khỏe thể chất, và nhiều hơn nữa. Thẳng thắn mà nói, có rất nhiều phụ nữ nay đã mở tâm ra để nhìn nhận: “Tôi không thể chờ cho xã hội làm điều này vì khi đó con tôi đã quá tuổi trưởng thành rồi. Tôi cần bắt đầu ngay bây giờ, cần làm gì đó ngay bây giờ. Cho nên tôi sẽ xông ra làm.”        

Giới phụ nữ có thể tụ họp lại, lập thành đoàn nhóm, những nhóm hỗ trợ cho nhau để giúp nhau phát triển tâm lý mình và cũng phát triển con mình. Có rất nhiều phương cách. Ở nhiều quốc gia và nền văn hóa khác nhau, con sẽ cần thử nghiệm để tìm ra phương cách thích hợp nhất cho mỗi nơi. Ta không nói là chỉ có một cách thực hiện, hay cách thực hiện của chân sư là cách hay nhất. Sáng kiến cần nẩy ra từ khắp toàn cầu. Một số ý tưởng hiện đã có mặt rồi nhưng cần được góp lại thành những phương pháp, những pháp trị liệu, những cách tiếp cận thiết thực. Đây là một sự phát triển vô cùng quan trọng. Chắc chắn nó sẽ khởi đầu tại các nước giàu có vì ở đó người ta có nhiều thời gian rảnh rỗi và được tự do quan tâm. Người ta có tiền bạc và tài nguyên, cho nên nó có thể lan rộng như những vòng nước trên mặt hồ.

Trên dài hạn sẽ phát triển tới đâu? Như chúng tôi đã có đề cập, nó sẽ phát triển tới mức khi con bắt đầu nhận ra các nhu cầu tự hiện thực của mình, và con mở tâm ra với nhiều hình thức tư tưởng tâm linh. Đến một lúc, để tự hiện thực một cách trọn vẹn, con sẽ cần nhận ra là con không phải là một sinh thể vật lý, một sinh thể vật chất. Vì nếu không, con sẽ không thể có tiềm năng tự hiện thực. Một con bò hay một con khỉ không thể nào tự hiện thực mà chỉ một con người mới có thể tự hiện thực. Và điều này sẽ mở rộng cửa cho rất nhiều phụ nữ bước vào cái nhìn tâm linh. Một số phụ nữ đã sẵn cởi mở như vậy rồi, nhưng trong thập niên tới đây, rất, rất nhiều phụ nữ hơn nữa sẽ mở ra với nhiều cách tiếp cận tâm linh mới. Một lần nữa, sẽ không chỉ có một phương cách chiếm ưu thế mà sẽ có nhiều nguồn tư tưởng phổ quát mà giới phụ nữ sẵn lòng xem đến.

Đầu tiên là ý tưởng về luân hồi. Chúng tôi đã có đề cập điểm này rồi. Ý tưởng này vô cùng quan trọng hầu giải đáp một số câu hỏi mà các bà mẹ đặt ra. Chẳng hạn như ta đã nói, khi con suy tính tương lai của con cái, con biết chúng luôn luôn có rủi ro gặp tai nạn hay gặp khó khăn khả dĩ đưa đời chúng vào một đường rày tiêu cực, thậm chí đẩy chúng kết liễu cuộc đời. Nếu con hiểu rằng chúng đã từng sống và tạo ra nghiệp quả trong nhiều kiếp sống, thì đó chính là nguyên nhân kết lại thành những sự kiện tiêu cực hôm nay. Con có thể tự hỏi: ”Vậy thì tôi có thể làm gì với nghiệp chướng của con tôi từ tiền kiếp?” Theo nhiều truyền thống tâm linh, dĩ nhiên con có thể làm nhiều điều để hoán chuyển nghiệp này trước khi nó thị hiện trong cõi vật lý. Học trò của các chân sư thăng thiên trong nhiều đợt truyền pháp đã làm như vậy từ nhiều năm qua, như đọc bài chú, thỉnh ngọn lửa tím để biến hóa nghiệp quả của con cái. Nhưng nhiều phụ nữ hơn nữa có thể mở tâm ra: “Tôi có thể sử dụng một số dụng cụ tâm linh để biến hóa nghiệp quả của con tôi trước khi nghiệp đi vào cõi vật lý và thị hiện thành sự cố bất hạnh”.

Có một câu hỏi khác mà nhiều phụ nữ đặt ra mặc dù không hoàn toàn ý thức hay không nói ra, đó là câu hỏi giản dị: “Tại sao con tôi lại như vậy?” Ở đây chúng ta không chỉ nói đến các đặc điểm ngoại hình. Đa số bà mẹ đều nhận thấy quan hệ của mình vời con cái tùy thuộc rất nhiều vào cá tính của đứa con, hay nói cách khác, tâm lý của nó. Nhiều bà mẹ nhận thấy quan hệ với một đứa con, hay ngay cả với mọi đứa con, có sự giới hạn trên phương diện gần gũi, cởi mở. Tại sao vậy? Một lý do quan trọng là tâm lý mà nó đã tạo ra trong tiền kiếp và mang theo trong kiếp này, nhưng không chỉ có vậy, vì quan hệ với đứa con cũng tùy thuộc vào tâm lý của người mẹ. Cho nên khi con chấp nhận ý tưởng luân hồi, con thấy được là trong tiền kiếp của con, con cũng đã có một số trải nghiệm mà con hiện đem theo trong kiếp này – một số điều kiện tâm lý, bế tắc, vết thương hay xu hướng. Con có một khuôn nếp phản ứng khiến con luôn luôn phản ứng một cách nhất định, và đứa con biết rõ là nó có thể nhấn nút nào để kích động phản ứng đó nơi con.

Cho nên con có thể khởi sự nắm lại chủ quyền của mình với ý nghĩ: “Được rồi, tôi nhìn thấy quan hệ của tôi với nó đang theo một khuôn nếp, và nguyên nhân những khuôn nếp trong tâm lý nó cũng như những vết thương, bế tắc và khuôn nếp trong tâm lý tôi. Vậy liệu tôi có bắt buộc phải sống mãi với những khuôn nếp này? Liệu khuôn nếp sẽ hạn chế quan hệ của tôi với nó cho đến khi một trong hai người qua đời? Hay là tôi có thể làm gì khác?” Và tất nhiên, con nhận ra là con có khả năng làm cái gì khác. Con có khả năng thay đổi nền tảng quan hệ, nhưng chỉ khi nào cả hai người đều thay đổi tâm lý mình. Đôi khi tâm lý đứa con có thể khó lòng thay đổi, nhưng với xã hội ngày càng tiến bộ, sự nâng cao ý thức sẽ khiến cho tiến trình này ngày càng dễ dàng hơn. Trẻ con sẽ được học ngay ở lớp mẫu giáo rằng chúng có khả năng đương đầu với tâm lý của chúng. Con sẽ thấy là bắt đầu từ thập niên tới và sau đó, xã hội sẽ ngày càng chấp nhận ý tưởng rằng mọi quan hệ giữa con người đều tùy thuộc vào tâm lý của các đương sự. Đó là một yếu tố trong tầm khả năng của con. Ngay cả khi con không thay đổi được tâm lý con mình, nhưng nếu con thay đổi tâm lý của con thì con vẫn thay đổi được quan hệ của con với nó.  

Ta công nhận là sẽ có một số đứa trẻ khó lòng được giúp đỡ khi chúng còn nhỏ vì chúng cần phải trưởng thành. Chúng cần phải ra đời và trải nghiệm cuộc đời trước khi sẵn sàng và sẵn lòng nhìn vào tâm lý của chúng. Một số sẽ cảm thấy mẹ mình đang cố áp đặt tiến trình thay đổi lên chúng, cho nên dĩ nhiên là con cần không được cưỡng ép chúng. Tuy nhiên, hầu hết mọi đứa trẻ đều có thể được giúp đỡ một khi người mẹ đã giải quyết được bế tắc của mẹ trước khi cố giúp con mình. Khi con đã giải quyết các khuôn nếp tâm lý của con, con sẽ bớt mong muốn cưỡng ép đứa con bởi vì bây giờ con không còn cố giải quyết vấn đề của nó hầu tránh né đương đầu với vấn đề của con – ngược lại với nhiều bà mẹ thời nay chưa hiểu được chuyện này. Con có thể nhìn vào khuôn nếp, có lẽ ngay cả khuôn nếp của chính mẹ của con khi con còn bé và đã khiến cho bà tức giận, và vì bà không thích tức giận cho nên bà đã cố ép buộc con phải thay đổi cách cư xử để bà không phải tức giận.

Tất nhiên đây không phải là mô thức mà con muốn lặp lại với con của con. Con muốn tiếp cận một cách khác và nói: “Trước tiên, hãy để tôi cải sửa tâm lý của tôi trước khi tôi tìm cách thay đổi tâm lý nó, để tôi chắc chắn là tôi không đang cố ép uổng bất cứ gì lên nó hầu tôi né tránh đương đầu với chính tôi. Nói cách khác, tôi sẽ gỡ bỏ cái xà trong mắt tôi trước khi lo đến cái giằm trong mắt con tôi.” Trong một số trường hợp, có khi con chỉ cần gỡ bỏ cái giằm trong mắt con trước khi xem đến cái xà trong mắt nó, bởi vì không phải lúc nào đứa con cũng có ít bế tắc tâm lý hơn cha mẹ. Ngược lại là đằng khác, thời nay rất nhiều trẻ con bị vấn đề tâm lý nhiều hơn là cha mẹ. Lý do phần nào là vì như chúng tôi có mô tả, lịch sử địa cầu trong mấy trăm năm gần đây đã đầy rẫy chiến tranh và xung đột, khiến cho rất nhiều linh hồn bị tổn thương trầm trọng trong tiền kiếp. Và họ bước vào kiếp sống hôm nay với mong muốn hàn gắn vết thương tâm lý của họ, và họ tự hỏi: “Tôi sẽ muốn đầu thai ở đâu đây?”

Phải, rất nhiều người sẽ muốn đầu thai tại một nước giàu có nơi họ có nhiều xác suất hơn để cải sửa tâm lý, nhưng họ cũng sẽ cố tìm bậc cha mẹ thích hợp và họ nghĩ: “Tôi muốn làm con của người cha người mẹ không mang quá nhiều vết thương tâm lý như tôi, để cha mẹ còn dư ra một ít tự do mà giúp tôi.” Đương nhiên đây không phải là trường hợp của mọi người bởi vì cũng có nhiều đứa trẻ tâm linh như các con đây có ít vấn đề hơn cha mẹ mình, và như vậy chính các con lại có tiềm năng giúp đỡ cha mẹ các con, hoặc it ra các con có thể thoát ly khỏi cha mẹ để không cho các vấn đề tâm lý của cha mẹ định đoạt đời mình. Nhưng nói chung, có một xu hướng rõ ràng tại các nước giàu có là nhiều trẻ em sinh ra với những bế tắc tâm lý trầm trọng từ tiền kiếp với hy vọng tìm được bậc cha mẹ có khả năng tạo cơ hội cho chúng hàn gắn và chữa lành.  

Và như vậy, đó cũng là một cách thể hiện tính nhân bản cốt yếu khi phụ nữ bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu xa của câu hỏi: “Tại sao con tôi lại như vậy?” Hỏi như thế thì sẽ dễ chấp nhận ý tưởng luân hồi nhiều hơn, bởi vì luân hồi có khả năng to lớn để giải thích tại sao một đứa trẻ lại như vậy, tại sao nó mang một số vết thương tâm lý không có cách giải thích nào khác. Chúng ta đã có bàn tới xu hướng hiện thời trên thế giới dựa trên hiểu biết của khoa tâm lý, là khi xã hội và thậm chí cả thân nhân trong gia đình thường hay đổ lỗi cho cha mẹ về các vấn đề tâm lý của trẻ con. Tức là nếu đứa con không biết tự lo lấy hay học hành thành đạt, thì đó phải là lỗi của cha mẹ – hoặc gen của cha mẹ không được tốt lắm, hoặc là cách dạy dỗ tồi tệ. Nhưng như đã nói, điều đó không phải lúc nào cũng đúng mà ngược lại là đằng khác. Con nhìn vào một đứa trẻ và con thấy rõ nó mang vết thương tâm lý rất sâu. Một vết thương thật sự sâu sắc chỉ có thể phát xuất từ một chấn thương vật lý trầm trọng tạo ra chấn thương tâm lý. Con dõi nhìn cuộc sống của nó thì thấy nó lớn lên trong một quốc gia trù phú, một gia đình khá giả với đời sống ổn định, và con không thấy có lúc nào trong suốt buổi thơ ấu nó đã từng gặp phải chấn thương to tát đến như vậy. Thế nhưng vết thương thì nằm chình ình ở đó, ngăn cản nó có được một cuộc đời hữu dụng. Giải thích làm sao đây? Đúng vậy, chỉ có luân hồi mà thôi.   

Vì vậy, chức năng làm mẹ và một nhận thức sắc bén nơi người mẹ sẽ là hai yếu tố giúp cho phụ nữ mở tâm ra với nhiều ý tưởng tâm linh phổ quát. Bây giờ con có thể hỏi: “Nhưng thưa Mẹ Mary, tại sao thày lại giảng bài học này cho con?” Bởi vì, ít ra là trong phần thế giới theo đạo Cơ đốc, người ta biết ta là mẹ của Giê-su. Và tất nhiên khi con mở tâm ra với luân hồi, có lẽ con cũng mở ra với ý tưởng là ta đã hiện thân làm người mẹ vật lý của Giê-su cách đây 2000 năm, và từ đó ta đã thượng thăng và trở thành một chân sư thăng thiên. Bây giờ khi con ngẫm nghĩ về tính nhân bản cốt yếu của con người, các chân sư có nói rằng tinh thần nhân bản không những là sự công nhận các quyền căn bản – những gì được quyền hay không được quyền xảy ra cho một đứa trẻ trong cõi vật lý – mà cả những cơ hội, cơ hội của con người, cơ hội của trẻ nhỏ. Vậy khi con nâng cao nhận thức về vai trò người mẹ, con cũng nhìn vào: “Đâu là những cơ hội cho con tôi? Làm thế nào tôi có thể cải thiện cơ hội cho con tôi?” Chắc chắn con sẽ cải thiện cơ hội cho nó bằng cách giúp nó chữa lành tâm lý, nhưng liệu còn điều gì khác nữa mà con có thể làm đề cải thiện cơ hội cho con mình, để ảnh hưởng “phẩm chất” của những đứa con mà mình sắp có? Hẳn sẽ có những phụ nữ trên thế giới có thể học được từ tấm gương của ta.

Nếu con vượt lên trên mọi chi tiết cùng các tín điều quen thuộc và nếu con bỏ sang một bên những gì con nghĩ về Giê-su và về đạo Cơ đốc, có một điều con có thể chắc chắn, đó là Giê-su đã là một đứa trẻ với tiềm năng phi thường. Nó có một cơ hội phi thường để làm điều gì đó trong đời sẽ tác động thế giới một tích cực, một cách lớn lao. Vậy nếu con là một người mẹ có sự nhận thức nhạy bén hơn trung bình, liệu con có muốn là mẹ của một đứa trẻ, hay của mấy đứa trẻ, với cơ hội tác động tích cực lên thế giới? Và con sẽ nghĩ: “Làm thế nào để được như vậy? Làm thế nào tôi trở thành mẹ của một đứa trẻ có năng khiếu đặc biệt và một tiềm năng to lớn?” Phải rồi, con sẽ phải làm như ta đã làm cách đây 2000 năm, và điều này tất nhiên đã không được ghi lại trong kinh sách. Con sẽ phải sẵn lòng tự cải sửa chính mình, không những tâm lý của con, bởi vì đó không chỉ là vấn đề chữa lành vết thương tâm lý và những khuôn nếp phản ứng. Đó là vấn đề phát triển tâm lý của mình để nâng nó lên những tiềm năng cao hơn của tâm lý con người. Trong thuật ngữ mà chúng tôi sử dụng, điều đó có nghĩa là con sẽ phải bước đi trên đường tu tâm linh, và con sẽ phải nỗ lực một cách cố tình và ý thức để tự nâng mình lên một trạng thái tâm thức cao hơn mức bình thường của mọi người. Cách đây 2000 năm, một phụ nữ trung bình sẽ không sinh được đứa bé Giê-su đâu con. Nếu điều đó xảy ra thì quả là một tai họa cho cả người mẹ đó lẫn cho Giê-su. Người mẹ đó cần phải có một tâm lý đã được giải quyết ở một mức độ nào đó rồi. Vậy mức giải quyết đó là gì?  

Thật vậy, ta đã phải giải quyết tâm lý của mình rốt ráo đến độ không còn một điểm nào có thể tác động tiêu cực đến Giê-su. Ta phải giải quyết rốt ráo đến độ ta có thể hoàn toàn chú tâm vào sự hòa điệu với tiềm năng của Giê-su và làm tất cả những gì cần thiết để hỗ trợ cho tiềm năng đó. Điều này ta phải quyết định trước khi có thể sinh ra Giê-su, và có những quyết định đã xảy ra trong cả những tiền kiếp trước đó nữa. Hiện có rất nhiều phụ nữ đã từng cải sửa tâm lý của mình trong kiếp này và đạt được một trình độ giải quyết nào đó, cho nên sứ vụ thiêng liêng của họ trong kiếp này là sinh ra một đứa trẻ với một tiềm năng nhất định, một tiềm năng cao hơn. Nhiều phụ nữ đó đang sinh sống tại các nước giàu có, nhưng không phải tất cả. Vì thế hiện có một số lớn phụ nữ chưa ý thức được điều này, nhưng họ có khả năng tỉnh ngộ và tự hỏi: “Vậy tôi có thể làm gì để chuẩn bị sinh ra một đứa trẻ như thế?”       

Câu trả lời hiển nhiên vượt khỏi cả vấn đề giải quyết tâm lý. Con hãy nâng cao tâm thức, hãy cất bước trên con đường tâm linh, hãy đạt tới mức hiểu được một con người cần phải làm gì để nâng cao tâm thức và phát huy tiềm năng tâm linh của mình. Có những phụ nữ có khả năng làm được chuyện này trong vòng thập niên tới và có những phụ nữ khác sẽ làm được trong một tương lai xa hơn. Thực sự là có hẳn một lớp phụ nữ có khả năng lần hồi vươn tới mức này. Con đã tiến lên một bước để nhận ra tiềm năng tâm linh này, tiềm năng phát triển tâm linh. Con có thể cầu thỉnh điều này. Một số các con có thể giúp đỡ những phụ nữ khác qua việc tư vấn, huấn luyện, trị liệu, hội thảo, bất cứ điều gì mà con có thể làm để hoàn thành tiềm năng đó. Cho nên có rất nhiều việc mà con có thể làm. Rất, rất nhiều việc có thể được thực hiện trong 10 năm tới đây để khởi lên một sự đột phá, mà qua đó các bà mẹ sẽ mở tâm ra, nhìn xa hơn các quan điểm truyền thống, các niềm tin truyền thống, các hệ tư tưởng truyền thống và nhìn vào điều này: “Tôi có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của con tôi, và tất nhiên cùng lúc cũng cải thiện cuộc sống của tôi? Tôi có thể làm gì để cải thiện quan hệ của tôi với con tôi, hay quan hệ của những đứa con tôi với nhau?” 

Đã có bao nhiêu bà mẹ sinh con đầu lòng được tận hưởng những giây phút thần tiên chỉ có hai mẹ con và dành trọn sự chăm soc cho đứa con đó. Và họ mong có đứa con thứ hai để hai đứa chơi với nhau, giúp đỡ lẫn nhau, thương yêu nhau. Ngờ đâu rất nhanh chóng, hai đứa bắt đầu cãi lộn, đánh nhau, cạnh tranh với nhau. Và kết quả là những xung đột rất sâu sắc giữa anh chị em.

Làm sao con có thể hiểu được chuyện đó nếu con không biết về luân hồi? Con không nhận ra rằng hai linh hồn này rất có thể đã có những xung đột gay gắt trong một kiếp trước mà chúng đã đem theo mặc dù là anh chị em trong cùng một gia đình, là con của cùng một người mẹ và đáng lý phải thương yêu nhau. Nhưng trong tiền kiếp, chúng ta đã thù ghét nhau, và bây giờ con lại rơi vào hoàn cảnh là liệu con sẽ chịu đựng tình trạng này cho tới khi chúng rời mái ấm gia đình, hay con sẽ tìm cách giải quyết? Con sẽ làm gì được đây? Được chứ, con có thể dùng các phương tiện tâm lý để chữa lành tâm lý hai đứa con, con có thể dùng dụng cụ tâm linh để tiêu hủy nghiệp quả giữa hai đứa và đưa chúng vào một con đường tích cực, qua đó chúng có thể vượt khỏi các khuôn nếp mà chúng đã mang theo từ tiền kiếp, nghĩa là trên căn bản, hoặc chúng sẽ tự gỡ nhau ra khỏi mối quan hệ và đi con đường riêng, hoặc chúng sẽ giải quyết các mối bất đồng và tạo dựng một quan hệ xây dựng với nhau. Nhưng trong cả hai trường hợp, chúng sẽ thoát khỏi cảnh xung đột triền miên có nguy cơ tàn phá cuộc đời của chúng trong mấy kiếp tới.    

Một lần nữa con có thể hỏi: “Là một phụ nữ, tôi có thể làm gì để bảo đảm tôi không có những đứa con như vậy?” Như ta đã nói, con hãy nâng cao tâm thức, hay ít ra nâng cao tâm thức đến một mức mà nếu con có đứa con như vậy, con sẽ giúp được nó và tránh không phản ứng tiêu cực. Cho nên con thấy đó, con yêu dấu, thông điệp căn bản mà ta phóng chiếu vào tâm thức tập thể ở đây là trong chức năng làm mẹ có rất nhiều điều mà người ta không nhìn thấy. Đã đến lúc con người bước lên một nhận thức cao hơn về chức năng làm mẹ. Và khi ta nói rằng trong chức năng làm mẹ có nhiều điều mà con mắt vật lý không thấy được, thì ta cũng nói thêm rằng có nhiều điều mà ý thức bản ngã của người mẹ không nhìn thấy được.

Chức năng làm mẹ không chỉ có cái “tôi”. Làm mẹ nhiều hơn cái tôi. Thông thường, nhiều phụ nữ bước vào vai trò làm mẹ từ quan điềm coi mình là trung tâm. Có hai trường hợp có thể xảy ra. Một là họ đã không tính có thai, cho nên khi họ rơi vào tình cảnh có con, họ cảm thấy như bị cưỡng bách rồi trở nên vị kỷ do phải đối phó với một tình huống ép buộc. Hai là họ có kế hoạch có con nhưng lại mang ý muốn vị kỷ rằng con mình phải như thế này hay như thế kia. Nhiều người trong số các con đã sống trong một khung cảnh gia đình như vậy khi người mẹ có định kiến cứng nhắc về cuộc đời của con mình, về những chuyện nó phải làm hay không được làm. Đó chỉ là vì đối với người đó, chức năng làm mẹ không là gì hơn bản ngã, cái ngã tách biệt, cái cá tính vỏ ngoài.  

Khi con nhìn vào lịch sử và đi trở ngược về quá khứ, ngay cả tại các quốc gia dân chủ hiện đại, con sẽ thấy người mẹ từng có những kỳ vọng lớn hơn về con mình, đặc biệt là về con gái. Các bà mẹ thường có nhiều kỳ vọng cho con gái hơn là cho con trai và vì vậy họ thường cho con gái ít tự do hơn. Cho nên trong quá khứ, cuộc đời đứa con gái thường phải theo đúng kỷ cương, phải đạt được kỳ vọng của mẹ mình, thậm chí kỳ vọng của gia đình họ hàng và cả nền văn hóa. Ngược lại tại các nước giàu có và tiến bộ hơn, phụ nữ đã đạt được không những sự tự do thể chất hay kinh tế, mà cả tự do tâm lý, tức là họ có quyền sống đời mình không theo khuôn mẫu hay sự chờ đợi của mẹ mình. Nhiều phụ nữ đã tự giải phóng khỏi các kỳ vọng này, và nhiều bà mẹ cũng đã giảm bớt những kỳ vọng truyền thống để con mình được tự do hơn.

Con thử nhìn sang các nước khác như các xứ Hồi giáo vùng Trung đông, cả Ấn độ, Trung quốc và nhiều nước khác. Thậm chí Nam hàn là một quốc gia dân chủ hiện đại, nhưng trong sự lượng định của chúng tôi, vẫn có những kỳ vọng mạnh mẽ từ phía cha mẹ, đặc biệt là người mẹ, đối với con mình và đặc biệt là con gái. Ở những nước này, con cái phải sống theo sự trông chờ đó mà phụ nữ rất khó lòng thoát ra khỏi. Một lần nữa, đây là một vấn đề mà con có thể đọc bài thỉnh để giải hóa.    

Về điểm này, phụ nữ tại các nước Tây phương có thể kết nối với phụ nữ tại các nước khác hầu giúp họ vượt qua vấn đề này. Hãy giúp họ tăng trưởng tới mức họ nhận ra tính nhân bản cốt yếu của mình và nói: “Tôi có quyền đi xa hơn sự chờ đợi của mẹ tôi, của cha tôi, của gia đình và xã hội của tôi, và sống cuộc đời của mình. Tôi có quyền đưa đời mình tới một nơi mà cha mẹ tôi và thế hệ của cha mẹ không thể tưởng tượng hay hình dung được. Tôi có quyền đưa xã hội của tôi vượt ngoài những gì xã hội có thể tưởng tượng hay hình dung. Đây là tính nhân bản cao hơn, tính nhân bản cốt yếu, là tiềm năng cao hơn của tôi.”

Con thấy có quá nhiều điều mà con có thể làm được chứ? Con có thể viết sách. Rất, rất nhiều phụ nữ khắp thế giới có thể viết sách về tình trạng của mình, về tiến trình tăng triển, về kinh nghiệm bản thân, về các thử thách mình phải vượt qua. Người vợ của vị sứ giả này vừa đọc được một quyển sách do một phụ nữ tại Ả-rập Xê-út viết về câu chuyện cô ấy đã làm vỡ tung một số điều cấm kỵ. Cô ấy lái xe rồi bị bắt bỏ tù, cuối cùng cô phải rời xứ ra đi nhưng cô vẫn ghi lại những bước mình đã trải qua hầu nhiều phụ nữ khác có thể học hỏi. Nhưng tại các nước giàu có, phụ nữ cũng có thể viết lại câu chuyện từng trải của mình, và làm cách nào họ đã khắc phục giới hạn để mà vượt qua. Mà cũng không cứ là phải viết sách. Họ có thể viết blog hay đăng bài trên internet. Họ có thể làm phim điện ảnh, thực hiện chương trình truyền hình. Rất nhiều điều có thể khởi lên từ đó vì con có thấy chăng là trong mấy thập niên qua, ngày càng có nhiều phụ nữ lên tiếng, không cứ là về những đề tài chính trị hay triết lý to lớn – cho dù là họ cũng có thể làm vậy – mà về hoàn cảnh riêng của họ và những phương thức để vượt qua đủ mọi loại hạn chế? Con có thấy chăng đây sẽ là nguồn cảm hứng lớn lao cho giới phụ nữ? Đây là một việc vô cùng cần thiết!    

Cũng cần có những loại báo chí khác hơn là loại tạp chí phụ nữ truyền thống không hơn gì những công cụ quảng cáo cho cái nhìn truyền thống về phụ nữ, về vai trò của phụ nữ, về cách trang phục bề ngoài, cách trang điểm sắc đẹp để quyến rũ tình dục phái nam và những thứ như thế. Cần có những phương tiện phát biểu cho người phụ nữ đích thực để họ kể những câu chuyện thật về sự phấn đấu cũng như sự khắc phục các hạn chế mà họ phải chịu đựng. Đây sẽ là nguồn cảm hứng to lớn cho mọi phụ nữ khác, không những tại các vùng giàu có trên thế giới mà ở cả những vùng khác nơi phụ nữ có thể tìm đọc. Ngày nay, truyền hình đã đến với hầu hết mọi nơi trên thế giới và trở nên rất sáng giá ngay cả tại các nước nghèo hơn nơi phụ nữ có khả năng xem truyền hình. Và nếu con xem các bộ phim truyền hình về phụ nữ do các hãng lớn tại Hollywood sản xuất, con sẽ phải nói rằng những bộ phim này hoàn toàn xa rời đời sống thực sự của phụ nữ cũng như hoàn cảnh của họ nơi các xứ nghèo. Và tất nhiên con nói rất đúng.          

Tuy nhiên đối với phụ nữ tại xứ nghèo, việc theo dõi các bộ phim truyền hình như thế cũng không hoàn toàn vô ích bởi vì họ có thể thấy được cuộc sống của phụ nữ ở các nước kia khác xa đời sống của họ như thế nào. Phụ nữ trong phim sao mà quá đầy đủ sung túc đến độ họ không cần bỏ thì giờ ra để lo lắng tới đời sộng vật chất. Hình như họ chỉ lo lắng về bạn trai của họ và liệu họ sẽ có đủ quan hệ với phái nam mà thôi. Và phụ nữ ở xứ nghèo xem thấy vậy thì hiểu ra là người ta có thể có cuộc sống vật chất đầy đủ mặc dù nhân vật trong phim thật sự chẳng có gì là thông minh hay tinh tế, mà ngược lại còn vô cùng ích kỷ. Và họ nghĩ, tại sao chúng tôi không thể có được cuộc sống như vậy ở xứ chúng tôi?

Và đây là ích lợi của truyền thông, vì mặc dù chương trình chì là văn hóa đại chúng không có chất lượng cao gì đặc biệt, nhưng nó vẫn đưa ra một góc nhìn khác biệt. Cho nên phụ nữ cần phải chia sẻ những câu chuyện thật của mình, không phải là loại chuyện đã được Hollywood đánh bóng, mà những chuyện thật của con, những phấn đấu thật của con. Con có thể nói: “Nhưng tôi đã lớn lên trong một xã hội với nhiều thuận lợi và chắc chắn tôi chưa phải nếm mùi nghèo khổ thiếu thốn. So với các điều kiện mà phụ nữ phải sống tại Ả-rập Xê-út hay Ấn độ và Bangladesh, câu chuyện của tôi có giá trị gì cho họ?” Nhưng họ vẫn có thể rút tỉa cảm hứng từ sự kiện con đã phải đối đầu với một số giới hạn của riêng con mà con đã khắc phục được, và điều này sẽ thúc đẩy họ suy nghĩ: “Ừ nhỉ, tôi cũng có khả năng khắc phục các giới hạn của tôi cho dù không giống hẳn.”

Bởi vì con đã khắc phục giới hạn của con như thế nào? Bằng cách con tự cải sửa, con cải sửa tâm lý của con, và con yêu dấu, con có thể hỏi làm thế nào một phụ nữ sống trong cảnh nghèo khó có thể cải sửa tâm lý? Nhưng thực tế là nếu con hiểu chút đỉnh về tâm lý, liệu việc tự cải sửa có tốn một đồng xu nào hay không? Con chỉ cần dành ra một chút thời gian đây đó trong ngày và con sẽ tinh tấn. Cho nên con không nên có quan điểm tiêu cực rất phổ biến là cho rằng con không thể làm gì được, hay dù con có làm gì thì cũng không có tác dụng nào cả. Con cần ghi nhớ lời của đức Phật khi thày ra khỏi niết bàn và bị bọn quỷ Mara thử thách. Chúng bảo rằng không ai sẽ hiểu được giáo lý của Phật, nhưng thày trả lời như con cũng biết: “Vẫn có một số người sẽ hiểu được, vẫn có một số người sẽ được lợi.” Cho nên có một số phụ nữ sẽ nhận được cảm hứng từ con, vậy liệu có đáng để con lên tiếng và góp mặt với đời?     

Hơn nữa, con sẽ học hỏi khi con góp mặt, khi con đóng góp những câu chuyện của con và con quan sát cách con phản ứng trước sự phản hồi của người khác. Đây là một cơ hội để con tăng triển. Khi con nhìn lại lịch sử thời phong trào phụ nữ đòi quyền đi bầu, hay thời phong trào giải phóng phụ nữ, con sẽ thấy phụ nữ đã không thể đạt được những thành quả đó nếu họ đứng riêng từng cá nhân. Họ chỉ đạt được khi họ hội tụ lại, hỗ trợ lẫn nhau, cộng tác với nhau, không phải như phái nam khi phái nam cộng tác, mà như phái nữ trong cách cộng tác đặc biệt của phái nữ. Sự tác động trên thế giới đã vô cùng to lớn nhưng tiềm năng tác động thì lại to lớn hơn, là tiềm năng gần như vô hạn khi phụ nữ hội tụ lại và làm việc chung với nhau.  

Phái nam thường tập trung nhiều hơn vào vẻ ngoài, vào các điều kiện vỏ ngoài như tôn giáo, đảng phái chính trị, xuất xứ chủng tộc, màu da, những thứ như vậy. Còn phái nữ có tiềm năng nhìn xa hơn tất cả những thứ vỏ ngoài đó để nối kết ở mức con tim, ở mức trực giác, và như vậy họ có thể hình thành một tình chị em vượt khỏi mọi lằn ranh vỏ ngoài. Phái nam không thể làm được điều đó, ít nhất là không trong một tương lai gần kề. Nhưng phải nữ thì có thể làm được. Một số các con đã làm được rồi, nhiều phụ nữ cũng làm được rồi, nhưng trong 10 năm tới đây, điều này sẽ có tiềm năng đột phá rộng lớn, vượt qua rất nhiều lằn ranh khác chưa từng được vượt qua. Đây là một trong những tiềm năng lớn nhất để thị hiện Thời Hoàng kim của Saint Germain.

Chắc chắn nam giới cũng sẽ có vai trò trong việc thị hiện Thời Hoàng kim nhưng trong thực tế của những vấn đề thực tiễn hàng ngày, phụ nữ mới là lực chuyển đổi, vì nếu không thì sẽ không có sự chuyển đổi. Vậy thì liệu các con sẽ chỉ lái xe tại xứ Ả-rập Xê-út, hay các con sẽ lái sự chuyển đổi tại Ả-Rập Xê-út? Và tại Iran, tại Ấn độ, Bangladesh, Trung quốc, Đan mạch, Hoa kỳ, Nam Mỹ, châu Phi và tại bất cứ đâu nữa? Các con là phụ nữ sẽ lái chiếc xe chuyển đổi hay không? Đó là câu hỏi, thậm chí là thách thức mà ta đưa ra cho các con. Ta không muốn các con cảm thấy tiêu cực về vấn đề này, mà ta muốn các con nhìn vào cơ hội rồi nói: “Tôi có thể làm được gì? Tôi có thể làm được gì để cải thiện cuộc sống của con tôi?” Nếu con không có con cái hay nếu con cái đã lớn khôn, con có thể tự hỏi: “Tôi có thể làm được gì để cải thiện cuộc sống của những đứa trẻ khác cũng như mẹ của chúng? Tôi có thể làm gì để cải thiện cuộc sống của phụ nữ khắp thế giới?”

Con có thể làm được một cái gì. Có một lời gian dối nữa mà sa nhân luôn luôn phóng chiếu vào con và con sẽ nhận thấy nếu con nhìn vào chính mình một cách trung thực. Khi con nghe hay đọc những bài truyền đọc này, con có thể cảm thấy vô cùng hứng khởi, phấn chấn, nhưng chỉ một thời gian sau có một phản ứng sẽ đến với con: “Ồ, tôi chẳng làm gì được đâu. Tôi là cái gì? Tôi nghĩ tôi là cái gì? Tôi làm được gì đây?” Nhưng con có thể nói lên cùng với Phật Gautama: “Có những việc mà tôi làm được.” Và dù con có làm gì thì vẫn tốt hơn là không có gì, bởi vì thế giới có thay đổi là do có người làm gì, và nhiều cái làm nhỏ quả thật đã và sẽ thay đổi thế giới. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên vốn tìm kiếm một sự thay đổi nhảy vọt lớn lao và bây giờ thì chúng ta đang nói tới Thời Hoàng kim. Nhưng Thời Hoàng kim sẽ đến được nhờ rất nhiều những bước nhỏ, rất nhiều thay đổi nhỏ ở đây và ở đó. Và 500 năm nữa sẽ vẫn còn có người ngồi chờ Thời Hoàng kim bởi vì họ chưa nhận ra là thời đó đã đến và có mặt. Ngày hôm nay cũng có những người không công nhận những tiến bộ to lớn đã được hoàn thành trong 500 năm qua, ít ra là tại một số nước, vì họ không nhìn ra. Họ đã không thay đổi trong tâm họ. Nhưng ta có thể bảo đảm với con là 500 năm nữa đây, con sẽ khó lòng nhận ra hành tinh này của chúng ta, bởi vì khi đó, Thời Hoàng kim sẽ thực sự trên đà thị hiện tiềm năng cao nhất của nó.    

Và với lời này, ta cảm ơn sự chú ý của các con, sự cởi mở để làm đài phát thanh cho ta, và ta niêm ấn con trong tình thương của trái tim mẹ ta. Trong ý nghĩa tâm linh, con là con của ta và ta muốn làm điều tốt nhất cho con. Ta đã tự hỏi ta có thể làm gì được thì bài truyền đọc này cùng nhiều bài truyền đọc khác là cách biểu hiện của ta. Ta mong muốn giúp con tự giải thoát và sống một cuộc đời thoả nguyện khi con biết con đang hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình cũng như tiềm năng cao nhất của mình, bằng cách chữa lành mọi chấn thương tâm linh và làm hoà với việc hiện diện trên trái đất.

7 | Sáng tạo trong một thế giới lượng tử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 1/12/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và như các con cũng bắt đầu nhận thấy, ý định của thày là bắt được chú ý của con và khiến các chân sư khác phải chờ phát biểu trong hội nghị này. Dù sao thì các thày ở cõi thăng thiên không có chuyện cạnh tranh với nhau, ngược hẳn với những gì con thấy quá thường trên địa cầu với quá nhiều ganh đua. Cạnh tranh sinh ra từ đâu? Nó sinh ra từ một số ý tưởng rất vi tế do sa nhân cài đặt cho rằng có cái đúng và cái sai, có cái gì tuyệt đối, có cái gì tối thượng. Cho nên một người có thể đúng hay có thể sai, có thể thắng hay có thể thua. Chính tư duy này đã xâm nhập, đã thấm sâu vào hầu như mọi khía cạnh của xã hội.

Con có thể nói là có sự cạnh tranh rõ rệt trong một cuộc thi đấu thể thao khi ai nấy tranh đua để xem ai là người chạy nhanh nhất, ai là người nhảy cao nhất, v. v… Trong trường hợp này, sẽ có một người chiến thắng còn những người kia thì phải tìm chỗ đứng thấp hơn trong tôn ti đẳng cấp vừa xuất hiện. Dựa trên những gì con có thể thấy trong các cuộc tranh tài thể thao, con có thể nói là không có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo, ít ra không phải là cùng kiểu cạnh tranh. Nhưng kỳ thực có sự cạnh tranh giữa các tôn giáo để xem tôn giáo nào nắm được chân lý cao nhất, tôn giáo nào là tôn giáo chân chính duy nhất. Nếu con nhìn Giáo hội Công giáo tuyên bố chỉ có tôn giáo họ có thể đảm bảo sự cứu rỗi của con, thì đây là một tư duy cạnh tranh: ”Chúng tôi là số một, thật ra chỉ có độc nhất chúng tôi, chúng tôi là kẻ chiến thắng, còn mọi người khác là kẻ thua cuộc. Những người kia không theo đạo chúng tôi là kẻ thua cuộc và họ sẽ bị xuống địa ngục.”

Ý tưởng này thâm nhập rất sâu xa vào tư duy của hành tinh. Như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để trái đất bị nát bét là phóng ra ý tưởng có cái đúng và cái sai. Có một chuẩn mực, và con cần phải so sánh mọi việc mình làm hay mọi sự xảy ra với chuẩn mực này, con đánh giá xem nó đúng hay sai.

7.1. Hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh

Trong hội nghị này các thày trình bày về việc giúp con người làm hòa với việc mình ở trên địa cầu. Điều thày sẽ nói ở đây cũng áp dụng cho các cư dân nguyên thủy. Thày sẽ dùng ví dụ của các avatar vì đây là ví dụ rõ nét nhất. Con thấy đó, con yêu dấu, một trong những khác biệt tinh tế giữa hành tinh tự nhiên và phi tự nhiên là trên một hành tinh tự nhiên không có sự cạnh tranh. Các thày đã có nói là một trong những bí ẩn cốt lõi khởi lên từ quyền tự quyết là việc con ở đây trên hành tinh này trong khi có người khác sống trong môi trường gần kề bên con và cả trên hành tinh. Làm thế nào con quân bình được việc thực thi quyền tự quyết của con với quyền tự quyết của mọi người khác?

Sa nhân chỉ có một giải pháp độc nhất cho chuyện này, đó là chúng tìm cách nâng ý muốn của chúng lên thành ý muốn thống trị mà ai ai cũng phải tuân theo. Đây không phải là cách vận hành ở hành tinh tự nhiên. Ở hành tinh tự nhiên không có cạnh tranh. Làm thế nào các sinh thể trên hành tinh tự nhiên, những người đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, tránh được xung đột, tránh bị cảm thấy đối chọi với nhau? Thật ra họ không tránh làm vậy, mà họ chỉ không tạo ra cạnh tranh do họ không ở trong tâm thái tách biệt. Họ không tự xem mình là sinh thể tách biệt.

Trên một hành tinh tự nhiên, con không xem mình có một ý chí tách biệt với ý chí của mọi người khác. Con thấy mình là thành phần của một tổng thể và có nhiều sinh thể khác cũng là thành phần của tổng thể này. Tổng thể này lớn đến đâu tùy thuộc vào mức độ tăng triển của con, mức độ nhận biết mà con đã đạt được. Đối với một số người trên hành tinh tự nhiên, tổng thể mà họ là thành phần có thể là một nhóm nhỏ, từa tựa giống như cái con gọi là gia đình trên trái đất. Trên hành tinh tự nhiên có những người chỉ mới khởi đầu là người đồng sáng tạo và họ sống trong những nhóm nhỏ như vậy, trên nhiều phương diện cô lập với phần còn lại của dân cư trên hành tinh của họ. Họ bắt đầu tăng triển trong một nhóm nhỏ nơi họ có thể dễ dàng quân bình ý chí cá nhân của họ với ý chí của những người đồng sáng tạo khác. Họ tránh khỏi xung đột vì họ đều quen biết nhau, họ biết rõ người khác muốn gì và họ có thể hợp tác.

Khi các sinh thể tăng triển nhận biết trên hành tinh tự nhiên, họ mở mang nhận thức về các sinh thể khác trên hành tinh, và giờ đây họ nhận thức được một nhóm lớn hơn. Điều xảy ra là bấy giờ họ tụ họp lại ở những nơi có người với cùng sở thích. Ngay cả trong sách Những kiếp của tôi, con cũng đọc thấy lời tường thuật về vai chính trong truyện tham gia vào kịch nghệ, rồi sau đó vào chính quyền, rồi sau nữa vào việc tu tập tâm linh. Con có thể nói là trên hành tinh tự nhiên, con có thể có chẳng hạn một số thành phố dành riêng cho nghệ thuật biểu diễn, một số thành phố dành riêng cho âm nhạc, một số cho nghệ thuật thẩm mỹ, một số cho khoa học, vân vân.

Người nào có cùng sở thích như vậy sẽ tập hợp lại và hình thành một đơn vị. Có thể trong một thành phố sẽ có nhiều đơn vị khác nhau và họ đều quen biết nhau, họ không xung đột và ý chí của họ không đụng độ. Họ đến với nhau quanh một mục tiêu chung mà họ cùng đeo đuổi. Mỗi người biết rõ là mình có một khu vực, một quả cầu nơi mình biểu đạt sự sáng tạo cá nhân của mình, và ở đó, họ tự do biểu đạt sáng tạo của họ mà vẫn ăn khớp, phù hợp với tổng thể rộng lớn. Giữa người này với người kia không có đụng độ, không có tranh đua, mà họ cùng làm việc với nhau hướng đến một mục tiêu chung.

Đây cũng chính là điều đã xảy ra trên trái đất trước khi con người rơi xuống nhị nguyên. Ngay cả các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng cảm nhận được điều này trong bản thân mình – cảm giác vô cùng vi tế, trực nhận, là họ phải có thể hợp tác với nhau chung quanh một mục tiêu chung mà không bị xung đột. Yếu tố đã phần lớn che lấp trực nhận này là sa nhân, là chuẩn mực đúng-sai. Một người có thể sai hay có thể đúng, và chỉ có một cách đúng thôi. Trên một hành tinh tự nhiên không có đúng-sai mà có nhiều cách đúng. Mọi cách đều đúng và mọi cách đều là những biểu đạt sáng tạo cá nhân. Không có gì sai hay đúng, và ngay cả chuyện cân nhắc đúng-sai cũng không khởi lên trong tâm con người trên hành tinh tự nhiên.

7.2. Đồng sáng tạo xảy ra thế nào trên hành tinh tự nhiên

Vậy khi con đến một hành tinh phi tự nhiên như trái đất thì chuyện gì xảy ra, con trải nghiệm thế nào như một avatar? Ở hành tinh tự nhiên con làm việc trong một đơn vị với người khác, với các sinh thể khác. Đây là một đơn vị hài hòa vì các con có một mục tiêu chung. Hãy thử lấy một ví dụ thực tế. Các con có mục tiêu chung là xây cất một toà nhà thật đẹp. Con có một viễn kiến toàn bộ về tòa nhà nhưng toà nhà đòi hỏi nhiều kỹ năng khác nhau: có thợ nề, có thợ mộc, có thợ sơn, có thợ làm đồ sắt, có người trang trí, có người lo về nghệ thuật, người này người nọ. Đủ loại kỹ năng cá nhân sẽ cần thiết để hoàn tất tòa nhà. Không có cạnh tranh vì mỗi nhóm người như vậy đều có một lãnh vực riêng nơi họ có thể biểu lộ sáng tạo, một phạm vi ảnh hưởng riêng của mình. Họ không đụng độ với nhau mà họ cộng tác để thực hiện mục tiêu chung là xây tòa nhà. Con hiểu là trên một hành tinh tự nhiên có một khoảng không gian chung, một viễn quan chung, một mục đích chung, và ở trong đó có những khu vực cá nhân cho sáng tạo. Là một cá nhân đồng sáng tạo, con là một phần của tổng thể, con biết con làm việc với người khác nhưng con cũng cảm thấy là mình có dư không gian để biểu đạt sự sáng tạo của mình.

Hệ quả là gì? Con yêu dấu, hệ quả là một người đồng sáng tạo làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật trên hành tinh tự nhiên cũng y hệt như trên trái đất. Có Ánh sáng Mẫu-Vật, và con dùng tâm con để tạo thành một hình ảnh, con áp chồng hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật, thế rồi Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào hình tướng đó. Và sự khác biệt giữa hành tinh tự nhiên với trái đất là như sau. Ở một hành tinh tự nhiên, con không dùng cơ thể vật lý của mình nhiều lắm; hầu hết tạo vật của con trên hành tinh tự nhiên đều được kết đọng (precipitate). Cơ thể vật lý có một số công dụng vì nó không được con xem là tách biệt với ba thể kia. Con ý thức, con nhận biết mình đang đồng sáng tạo với tâm mình – với tâm bản sắc, lý trí lẫn cảm xúc – để đưa vật thể vào cõi vật lý. Không giống như trên trái đất nơi con nghĩ là hầu hết mọi chuyện con cần làm để đem vật vào cõi vật lý phải được thực hiện bởi cơ thể – hay bởi một phần nối dài của cơ thể là một loại máy móc hay công nghệ – thì trên hành tinh tự nhiên, con nhận biết rõ hơn hẳn là con dùng tâm con. Con nhận biết là con đang đồng sáng tạo bằng cách hình thành những hình ảnh, những khuôn đúc trong tâm con và phóng chiếu chúng ra, áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi một nhóm người hội tụ xung quanh một mục tiêu chung, điều xảy ra là tâm họ phối hợp lại với nhau ở mức bản sắc, và sau đó họ sáng tạo trong khuôn khổ Ánh sáng Mẫu-Vật. Cũng gần giống như khi các thày nói về cách sáng tạo của Đấng Sáng tạo, thì trước tiên Đấng Sáng tạo tạo ra một khoảng trống, xong phóng chiếu một bầu cõi vào khoảng trống, và trong bầu cõi này các hình tướng có thể được sinh tạo. Tương tự như vậy trên hành tinh tự nhiên, những người đã quyết định đồng sáng tạo, chẳng hạn xây một toà nhà, thì họ sẽ đến với nhau. Trước tiên họ cùng thiền định với nhau và họ hình dung, họ tạo ra khoảng trống. Họ tạo ra khoảng trống xong họ dùng tâm phóng chiếu ra một quả cầu. Họ đổ đầy khoảng trống với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động tới một mức nào đó, tức là Ánh sáng Mẫu-Vật đã sẵn sàng khoác lấy hình tướng nhưng hình tướng chưa được phân biệt. Giờ đây, tất cả những người có chân trong tổng thể đó biết rõ là họ đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật này. Họ có sự kết nối trong tâm họ nhưng đồng thời mỗi sinh thể cũng biết là mình có một quả cầu riêng nơi mình đang làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật, và vì vậy mình đang dùng tâm mình để tạo thành hình ảnh được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

7.3. Việc đến địa cầu tạo cảm giác như thế nào

Điều xảy ra trên hành tinh tự nhiên là Ánh sáng Mẫu-Vật rất dễ khoác vào hình tướng được một cá nhân đồng sáng tạo phóng chiếu lên nó. Ở đó không có sự chống đối. Cho nên khi con đến như một avatar từ một hành tinh tự nhiên, con mang sẵn thói quen là làm việc với Ánh sáng Mẫu-Vật thật dễ dàng. Con có thể dễ dàng phóng chiếu một tâm ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật và nó sẽ lấy ngay hình tướng này. Một trong những cú sốc lớn mà con gặp phải khi con đến địa cầu như một avatar là trên địa cầu tiến trình đồng sáng tạo nhàn nhã này không thể xảy ra. Nó không thể xảy ra vì mấy lý do. Một lý do là vì Ánh sáng Mẫu-Vật ở một hành tinh tự nhiên có độ rung cao hơn Ánh sáng Mẫu-Vật cấu tạo trái đất. Độ rung càng cao thì ánh sáng càng linh hoạt, càng dễ khoác vào hình tướng mà con phóng chiếu lên nó với ba thể cao của con. Ánh sáng có rung động cao sẽ uốn theo tâm ảnh dễ hơn vì nó không dày đặc, không đông cứng bằng.

Con đến trái đất và cú sốc đầu tiên con gặp phải là vật chất ở đây sao dày đặc đến thế, Ánh sáng Mẫu-Vật sao dày đặc đến thế. Con cũng cần nhận ra ở đây là trên điạ cầu thật hiếm hoi – không phải là không có nhưng khá hiếm hoi – một nhóm người có thể tụ lại xung quanh một mục tiêu chung, một viễn quan chung. Cũng có một số ví dụ khi hàng triệu người cộng tác với nhau để xây kim tự tháp hay xây dựng một thành phố, v. v… Nhưng trong hầu hết trường hợp, điều này đã xảy ra theo một cách mà chúng ta có thể gọi là quản lý từ trên xuống, tức là có một người giống như một nhà độc tài phán quyết: “Chúng ta sẽ xây cung điện này.” Thế là ông ta cưỡng bách mọi người phải tuân theo viễn quan này và xây cung điện. Không có nghĩa là ai ai cũng đã đồng tình với viễn quan này hay đã chấp nhận đó là điều họ muốn làm. Họ bị buộc phải làm cho nên họ làm theo. Con có thể nói là mặc dù họ làm việc với nhau nhưng họ không hợp tác trong cùng tinh thần hợp nhất mà con thấy trên hành tinh tự nhiên.

Con yêu dấu, kết quả của sự thể này là khi người ta không có viễn quan chung, khi người ta không chấp nhận viễn quan và nó bị áp đặt lên họ, thì họ không thể phối hợp tâm họ để trước hết tạo ra khoảng trống rồi sau đó đổ đầy khoảng trống này với Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Con không thể tiếp cận cái chúng ta có thể gọi là “nguyên liệu thô” có thể rất dễ dàng khoác vào hình tướng. Nguyên liệu này có khả năng được tạo ra trên trái đất, như nếu con có một nhóm người đến được với nhau trong một trạng thái hợp nhất hài hòa thì họ có khả năng tạo ra nguyên liệu này. Sẽ khó hơn là trên một hành tinh tự nhiên nhưng có thể làm được. Trên trái đất rất hiếm khi người ta làm được vì thường thường sa nhân đã có thể chen chân vào tiến trình và buộc mọi người phải tạo ra một cái gì sẽ tôn vinh sa nhân. Lẽ tự nhiên, trên một hành tinh tự nhiên con sẽ không thấy ai tạo ra một cung điện để vua chúa hay hoàng đế ngồi trên ngôi báu ra vẻ oai phong lẫm liệt.

Trên trái đất, con không có một nguyên liệu thô có thể dễ dàng khoác vào hình tướng. Song song với việc con không có một nguồn năng lượng chung, con cũng không có một tình trạng nơi mỗi người đồng sáng tạo, mỗi một cá nhân đều có quả cầu riêng, lãnh vực riêng của mình để có thể sáng tạo. Con không có một không gian chung và con không có một không gian cá nhân để đồng sáng tạo. Điều con thấy trên trái đất là khi người ta muốn sáng tạo một cái gì, họ không thể tạo ra quả cầu riêng biệt chứa Ánh sáng Mẫu-Vật đã được khởi động. Họ phải làm việc với quả cầu chung, với năng lượng chung, với cái các thày đã gọi là sự rung động cơ bản hay rung động nền của hành tinh. Đây là nguyên liệu thô của họ. Hay nói cách khác, tất cả mọi người trên trái đất phải dùng cùng một nguyên liệu thô.

Đồng thời con cũng thấy là trên trái đất, con rất khó có quả cầu sáng tạo riêng của con. À, con có thể nhìn lịch sử và thấy được một số người đã xoay sở để tạo ra một quả cầu sáng tạo nào đó. Có thể đây là những nhà văn có khả năng viết một tác phẩm vượt khỏi tâm thức tập thể. Có thể là những họa sĩ đã vẽ những bức tranh hoàn toàn mới lạ, không theo cách truyền thống chút nào. Đó là vì những người này đã có thể tạo ra một khoảng trống trong tâm họ được phần nào che chắn khỏi tâm thức tập thể. Con cũng thấy được là những hình thức sáng tạo này là nỗ lực sáng tạo cá nhân. Một họa sĩ ngồi trong xưởng vẽ của ông tạo ra bức tranh mà không có ai khác ở đó.

Nhưng khi con có một hoàn cảnh với hai hay nhiều người hơn cộng tác thì lập tức con có một cơ chế vận hành hoàn toàn khác, qua đó họ không còn không gian cá nhân của họ nữa. Họ cùng nhau làm việc trong một không gian chung, và trong bản chất, điều này có nghĩa là những gì cá nhân con làm sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức tập thể của mọi người trên hành tinh. Một lần nữa, con có thể tìm thấy những tình huống có một nhóm người đã xoay sở để tách ra riêng rẽ, chẳng hạn nơi một tu viện hay một cộng đồng hẻo lánh, cho nên họ đã có thể phần nào cách ly khỏi tập thể, nhưng họ vẫn phải làm việc với cái năng lượng cơ bản dày đặc hơn. Họ vẫn phải làm việc trong một môi trường nơi mặc dù họ đã tự cách ly đôi chút, họ vẫn không được tự do khỏi tâm thức tập thể, cho nên có sự nhiễu sóng không ngừng từ tâm thức tập thể.

7.4. Đồng sáng tạo vận hành như thế nào trên địa cầu

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang xem xét làm thế nào con có thể thực sự đồng sáng tạo một điều gì trên một hành tinh như trái đất. Về cơ bản, đây là cùng một tiến trình như ở hành tinh tự nhiên nhưng với một vài khác biệt. Trên hành tinh tự nhiên, con hình thành một hình ảnh trong tâm ý thức của con. Con sử dụng tâm bản sắc, tâm lý trí, tâm cảm xúc, nhưng còn hình thành hình ảnh này trong tâm ý thức. Xong con gửi một xung lực vào hệ thống năng lượng. Con gửi vào đó một sóng năng lượng, hay đúng hơn một sóng năng lượng phức tạp, một khuôn đúc sóng năng lượng mang một hình ảnh trên đó. Con gửi nó từ cõi vật lý, từ tâm ý thức, vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc, nơi nó đi nguyên chu trình quay trở về qua cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc, rồi vào cõi vật lý. Điều đáng nói là trên một hành tinh tự nhiên không có gì can thiệp vào tiến trình này. Những gì con gửi ra từ tầng vật lý, từ tầng ý thức, sẽ trở lại tầng vật lý trong dạng thuần khiết của nó.

Nhưng trên trái đất thì khác hẳn. Con lập ra hình ảnh với tâm ý thức, phóng chiếu nó vào cõi cảm xúc, lý trí và bản sắc trên trái đất rồi cho nó đi hết quy trình trở lại cõi vật lý. Vì trái đất là một môi trường vẩn đục và dày đặc đến như vậy cho nên sóng năng lượng mà con gửi ra gặp phải nhiều sự nhiễu sóng, cả trên đường đi lên lẫn đường đi xuống trở lại vật lý. Điều này có nghĩa là gần như con không thể nào hình thành một hình ảnh trong tâm rồi gửi nó ra mà biểu hiện được nó y như con đã hình dung. Đứng về mặt thực tiễn thì chuyện này không thể xảy ra.

Tại sao thật quan trọng con nên biết điều này trong tư cách một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đã tinh tiến trên đường tâm linh? Bởi vì đây là cách duy nhất con có thể làm hòa với việc con ở đây. Đây là cách duy nhất con có thể tránh khỏi cảm nhận là mình ngu ngốc, mình bất cập, mình không tốt đủ. Đây là cách duy nhất con có thể tránh phán xét nỗ lực sáng tạo của mình dựa theo tiêu chuẩn của sa nhân, tức là nỗ lực này phải toàn hảo, nếu không thì nó không tốt đủ. Trên cơ bản, đây là điều sa nhân đã tạo ra. Chúng đã tạo ra trên trái đất một tư duy bảo rằng: Nếu sáng tạo của con không toàn hảo – dựa trên một chuẩn mực không bao giờ được định rõ – thì nó không tốt đủ. Do sự dày đặc của môi trường trên trái đất, gần như không ai có thể lập ra một hình ảnh trong tâm mà biểu hiện ra được hoàn cảnh vật lý. Cho nên nếu con chấp nhận lối suy nghĩ của sa nhân thì con không thể thoát khỏi tình trạng mãi mãi cảm thấy là bất cứ gì mình sáng tạo cũng không tốt đủ. Nếu con mang tư duy này của sa nhân rằng nó phải toàn hảo theo một chuẩn mực nào đó thì con không bao giờ có thể thoả mãn với tạo vật mình đã đồng sáng tạo.

7.5. Sẽ bao giờ có gì tốt đủ hay không?

Đó chính là tại sao thày cho con lời dạy này để con khởi sự tái lượng định cách tiếp cận của con đối với mọi chuyện con làm – bất cứ chuyện gì con làm trên trái đất. Con thử nhìn xem cách mình làm cha mẹ, nhìn xem xã hội mang tư duy con phải là bậc cha mẹ toàn hảo, nếu không thì con không tốt đủ. Thế nào là bậc cha mẹ toàn hảo? Có người sẽ bảo đó là cha mẹ có con cái toàn hảo, nhưng con dư biết là con cái của con đã đến đây với một tâm lý từ rất nhiều tiền kiếp, và nhiệm vụ của con làm cha mẹ không phải là thay đổi hay kìm nén tâm lý đó. Có bao giờ con có được một đứa con toàn hảo – nếu có chuyện toàn hảo nơi một đứa trẻ? Với thái độ thường thấy như vậy trong xã hội ngày nay, làm cha mẹ có nghĩa là con tự buộc mình phải cảm thấy bất mãn cho đến hết kiếp, vì con mình sẽ không bao giờ thỏa mãn được tiêu chuẩn toàn hảo đó.

Nếu con muốn là một nhà văn thì cũng tương tự như vậy. Nhiều người mong muốn viết lách gì đó nhưng họ bị ám ảnh bởi nhu cầu đánh giá xem tác phẩm của mình có đủ tốt hay không, đến độ họ cảm thấy: “Ồ, nó sẽ không bao giờ tốt đủ,” và họ không dám phổ biến. Rốt cuộc nhiều người trong số đó trở thành những nhà bình phẩm hay biên tập viên chuyên nghề lượng định tác phẩm của người khác để không bao giờ mình có rủi rỏ bị người ta bình phẩm – nhưng đây là một vấn đề khác.

Thật sự đây là một khuôn nếp con gặp trong mọi khía cạnh của đời sống khi con thấy rất rất nhiều người mang tư duy là hoặc mình toàn hảo, hoặc mình không đủ tốt. Do đó họ không dám biểu đạt một cái gì từ nội tâm của họ. Thay vào đó, họ đi tìm một vị thế đánh giá công việc của người khác. Họ là người luôn luôn chỉ trích nhưng chính họ thì không bao giờ là đối tượng của sự chỉ trích. Có ai bình phẩm người bình phẩm bao giờ đâu? Thế là họ khóa chặt dòng sáng tạo của họ và củng cố cho tư duy phán xét của sa nhân.

Nhưng một lần nữa, con ở đây như một avatar đã đến địa cầu. Từ hành tinh tự nhiên, con đã quen có thể thị hiện bất cứ gì mình hình dung. Xong con đến địa cầu, con hình dung cái gì đó, con gửi xung lực vào bốn tầng của vũ trụ vật chất nhưng cái quay trở lại, cái được thị hiện, thì không đúng y như cái con đã hình dung. Thật là dễ cho nhiều người trong chúng ta – thật ra hầu hết chúng ta – bị ảnh hưởng bởi tư duy sa ngã và nói: “Ồ, nếu cái thị hiện khác xa cái tôi hình dung đến vậy thì chắc chắn tôi không tốt đủ. Bỗng nhiên tôi là một người đồng sáng tạo không tốt đủ vì tôi không thể thị hiện những gì tôi hình dung.”

Thày vừa nói con điều gì, con yêu dấu? Trên trái đất con không có một con đường thông thoáng để viễn quan con được gửi ra và quay trở về mà không bị nhiễu sóng. Con có một môi trường năng lượng vô cùng hỗn tạp với quá nhiều cảm xúc xuất phát từ lòng sợ hãi, quá nhiều ý tưởng méo mó trong cõi lý trí, quá nhiều hình ảnh sai lạc trong cõi bản sắc. Khi con gửi một sóng năng lượng vào các cõi này, một sự nhiễu sóng khổng lồ sẽ xảy ra. Con biết rất rõ là khi hai sóng năng lượng gặp nhau, chúng tạo ra một mô thức giao thoa làm thay đổi cả hai sóng.

Chúng ta có thể nói là khi con gửi ra một xung lực sáng tạo, xung lực này là một làn sóng năng lượng. Khi nó di chuyển qua bốn tầng của cõi vật chất, nó chạm mặt một số sóng năng lượng khác từ tâm thức tập thể. Khi hai sóng tương tác thì cả hai đều biến đổi. Có nghĩa là khi con gửi ra một viễn quan sáng tạo, nó gặp phải một năng lượng tiêu cực và sự tương tác này biến đổi cả hai làn sóng. Kỳ thực con đã đóng góp vào việc nâng cao tâm thức tập thể qua nỗ lực sáng tạo của con, nhưng con không thấy được chuyện này. Điều con thấy là cái quay trở về con thấp hơn rất nhiều những gì con đã hình dung, cho nên con cảm thấy: “Liệu mình đã làm được gì hữu ích hay không?” Nhưng con đã. Con đã nâng cao năng lượng đến giao thoa với viễn quan của con. Tất nhiên là năng lượng này cũng đã làm nhiễu viễn quan của con khiến nó không được biểu hiện trong dạng thuần khiết của nó.

Tại sao thày lại nói điều này cho con? Một lần nữa, là vì đơn giản con không thể phán xét nỗ lực sáng tạo của mình ở đây trên trái đất theo một trong hai cách, hoặc theo cách con vẫn quen làm trên hành tinh tự nhiên, hoặc theo cách sa nhân muốn con phán xét nỗ lực của con. Con phải nhận thức con đã quen phán xét nó như thế nào trên hành tinh tự nhiên, cũng như sa nhân muốn con phán xét nó như thế nào ở đây, và con vứt bỏ cả hai cách. Con khẳng định là cả hai không hiệu lực trên một hành tinh như trái đất.

7.6. Phán xét nỗ lực sáng tạo của mình trên trái đất

Sứ giả này đã lớn lên trong một môi trường quen sử dụng súng ống, cho nên thày đã cho ông hình ảnh này mà thày sẽ dùng ở đây. Có hai loại súng thông thường được người ta dùng để săn bắn trên trái đất. Một loại gọi là súng trường, loại kia gọi là shotgun. Súng trường bắn ra một viên đạn, còn súng shotgun bắn ra cả chùm đạn nhỏ hơn. Hẳn các con đã thấy những mục tiêu ở trường bắn – mục tiêu làm bằng giấy có những vòng tròn đồng tâm và ở giữa là vòng tròn số 10. Khi con nhắm mục tiêu bằng súng trường, con có thể đặt viên đạn ngay vòng số 10 vì đó là viên đạn độc nhất và đường đạn tương đối chính xác. Bây giờ con tưởng tượng con đứng trước mục tiêu với khẩu shotgun và người ta bảo con đặt một hạt nhỏ tí ngay điểm số 10 y như con vừa làm với súng trường, chuyện này có thể làm được không?

Có thể chứ, nhưng con sẽ không có cách chi đoán trước được kết quả của phát bắn, vì con bắn ra một chùm đạn nhỏ với đường đạn không rập khuôn và không chính xác lắm, ít ra là một đường đạn con không thể tính trước được. Trong số mấy trăm hạt nhỏ đó có thể có một hạt sẽ trúng số 10, nhưng cũng có thể không có hạt nào. Con có thể bắn một trăm lần mà vẫn không có hạt nào trúng số 10. Con không thể làm gì khác được. Vấn đề không ở chỗ con sẽ nhắm nòng súng cho chính xác hơn, mà vấn đề là thực tế vật lý của súng shotgun.

Ý thày muốn nói ở đây là sa nhân bảo con: “Bạn phải bắn trúng số 10 mỗi lần như một,” nhưng súng của con là một khẩu shotgun. Thật chẳng nghĩa lý gì mà con phải phán xét nỗ lực của mình như thể con có một cây súng trường, bởi vì con không thể chắc chắn là con sẽ bắn trúng số 10. Nếu chuyện này xảy ra thì nó hoàn toàn ngẫu nhiên, chúng ta có thể nói như vậy, vì chắc chắn đây không phải là chuyện khoa học chính xác. Con yêu dấu, sa nhân đòi hỏi con phải làm chuyện bất khả thi, thế nhưng chúng phán xét con như thể cái bất khả thi đó là khả thi. Điều này không thực tế, giản dị là nó không thực tế. Con không thể xét mình là bất toàn do con đã không làm nổi một chuyện không thể làm – đó là điều vô lý. Ấy thế nhưng con đã bị lập trình hết kiếp này đến kiếp khác để con tự đánh giá mình theo kiểu đó.

Đây là một lập trình rất sâu đậm, nó vô cùng mạnh mẽ trong tâm thức tập thể trên địa cầu. Con yêu dấu, con đã có các dụng cụ rồi đó và con sẵn sàng nâng mình lên khỏi tâm thức đó. Đối với một số các con, đây chỉ là vấn đề xoay chuyển tâm con. Đối với một số khác, nó sẽ đòi hỏi một chút nỗ lực vì con mang những cái ngã tách biệt mà con cần nhìn thấy, con cần thấy chúng như chúng là, và để cho chúng chết đi. Một lần nữa, con đã có các dụng cụ rồi, và điều con nhận ra là khi con buông các ngã đó ra, khi con thoát ra khỏi ý tưởng là mình phải có thể làm chuyện bất khả thi – ý tưởng là nếu mình không làm được chuyện bất khả thi thì mình bất toàn – thì con có thể tìm ra một cách hoàn toàn mới để an bình trên trái đất, một cách hoàn toàn mới để là người sáng tạo và nỗ lực sáng tạo. Con có thể gửi ra một xung lực mà không bị nản lòng bởi những gì quay trở lại, vì con biết xung lực của con đã có tác dụng tích cực trong việc nâng cao tâm thức tập thể, cho dù những gì quay trở lại không hoàn toàn đúng như con đã gửi ra.

7.7. Trở nên ngày càng sáng tạo hơn

Con yêu dấu, khi con nâng cao tâm thức của con, lý tưởng là con nên ngày càng sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là con phải trở thành một nghệ sĩ, một nhạc sĩ hay bất cứ gì khác. Con có thể trở nên ngày càng sáng tạo hơn khi con khởi lên những ý tưởng mới, những cách làm tốt hơn. Thậm chí con trở nên sáng tạo hơn theo nghĩa là con thiện nghệ hơn trong việc biểu hiện cuộc sống thường nhật mà con thực muốn. Đây không luôn luôn là chuyện biểu hiện một cái gì giống như một tác phẩm nghệ thuật chẳng hạn, mà con xem đời sống thường nhật là một hình thức nghệ thuật khi con biểu hiện cách sống mà con muốn có. Đây cũng là một hình thức sáng tạo.

Con yêu dấu, con nhìn xem bao nhiêu nghệ sĩ, bao nhiêu nhà văn, vân vân… và con thấy một số đã rất lập dị, thậm chí còn hơi ngông cuồng nữa. Nhiều người vô cùng bất mãn với chính tác phẩm của họ, họ chưa bao giờ cảm thấy những gì họ tạo ra là đủ tốt, họ chưa bao giờ vẽ được nàng Mona Lisa với nụ cười đúng y như họ muốn nàng phải có. Thực tế ở đây là hầu hết các nghệ sĩ vĩ đại nhất, danh tiếng nhất, mặc dù họ có thể được quần chúng ái mộ nhưng chính họ lại không toại nguyện với nỗ lực của họ, và lý do thật giản dị. Con nhìn vào Mona Lisa và con nhìn vào bức tranh. Con không thể thấy được viễn quan mà Leonardo da Vinci đã có trong tâm khi ông vẽ bức tranh. Con không thể thấy được là những gì ông vẽ xuống tấm vải không đúng như những gì ông mường tượng trong tâm và do đó ông không hài lòng với nó. Điều tương tự cũng xảy ra với hầu hết mọi nghệ sĩ khác.

Tác phẩm không đúng hoàn toàn như những gì họ muốn. Một lần nữa, trên một hành tinh phi tự nhiên, thật không thực tế và không xây dựng mà chờ đợi là con có thể thị hiện trong vật lý đúng như những gì con hình dung trong tâm. Đơn giản là nó không thực tế. Khi con chấp nhận sự thể này, con có thể bắt đầu làm hòa với sự kiện là mặc dù con không biểu hiện đúng như con hình dung, nhưng con vẫn đang giúp cho thế giới tốt đẹp hơn vì con đang gửi ra những xung lực năng lượng nâng cao tâm thức tập thể.

Con có thể đi xa hơn và đơn giản nhận ra là con không ở đây để đưa ra một tác phẩm toàn hảo nào đó. Con ở đây để đưa ra một cái gì cao hơn những gì hầu hết mọi người có thể hình dung. Không quá cao đến độ họ không thể nối kết, nhưng con chứng tỏ là có một cách tốt hơn, có một hình thức sáng tạo cao hơn. Không có toàn hảo nào mà con cần với tới, con yêu dấu. Như các thày đã nói rất nhiều lần, nếu con đạt được tầng tâm thức thứ 96 thì con đã tự nâng mình lên cao hơn hẳn tâm thức tập thể rồi. Thật chẳng ích gì mà con phải tự mắng nhiếc vì mình chưa đến được tầng 144.

Dù con có đang ở tầng nào thì cũng hoàn toàn chấp nhận được. Các thày chấp nhận con như con người con là, ở tầng tâm thức đó. Các thày không đòi hỏi con phải ở tầng 144. Các thày chỉ nhìn xem làm cách nào đưa con lên tầng kế tiếp. Một khi con hiểu điều này, một khi con chấp nhận điều này, con sẽ có thể an bình với việc mình ở nơi mình đang đứng. Do đó con cũng có thể an bình với việc mình ở trên địa cầu nơi các nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ tạo được đúng kết quả con hình dung. Thay vì tự trách móc, con chỉ chấp nhận mọi chuyện là như vậy.

7.8. Cách tiếp cận lượng tử đối với sự sáng tạo

Chúng ta thử trở về với ngụ ngôn về súng trường và súng shotgun. Có thể con không bắn trúng số 10 với súng shotgun nhưng chắc chắn con có thể bắn trúng mục tiêu nói chung, và điều này cũng giống vậy trên trái đất. Con cần cảm thấy thỏa mãn nếu con bắn trúng mục tiêu chứ không nhất thiết phải trúng hồng tâm ở chính giữa. Con có thể đi xa hơn một chút và nhìn vào những gì các nhà khoa học đã khám phá về thế giới lượng tử, thế giới của các hạt hạ nguyên tử. Họ phát hiện ra electron là một hiện tượng kỳ lạ. Họ phát hiện ra sự hiện hữu của một điều họ gọi là “vấn đề đo đạc lượng tử.” Con có thể đo vị trí của một electron nhưng khi đó, nếu con biết vị trí này thật chính xác, con sẽ hoàn toàn không biết gì về vận tốc của nó, động lượng của nó. Và ngược lại, con có thể dùng một phương pháp khác để đo động lượng, nhưng nếu vậy thì con không biết gì về vị trí của nó. Con không thể biết mọi chuyện cùng một lúc. Có nghĩa là con không thể tiên đoán chính xác electron sẽ ở đâu trong tương lai.

Điều này, một lần nữa, ngược lại với hình ảnh cố hữu về một vũ trụ tựa như cỗ máy đồng hồ, theo đó nếu con biết các điều kiện sơ khởi thì con có thể tiên đoán mọi chuyện xảy ra trong tương lai. Trong gần một thế kỷ qua, các nhà vật lý lượng tử đã chứng minh là việc tiên đoán như vậy không thể xảy ra trong thế giới lượng tử. Và ngay cả trong thế giới vĩ mô, điều này cũng không thể làm được. Các nhà khoa học đã tưởng điều này có thể làm được chỉ vì họ nghĩ là họ chỉ cần xem đến một số rất ít điều kiện. Kỳ thực, có rất nhiều điều kiện hơn là khoa học thời Newton biết đến, và do đó có những ẩn số mà họ đã không thể xem xét. Ngay cả ở mức vĩ mô họ cũng không thể tiên đoán được, nhưng với vật lý lượng tử thì các nhà khoa học đã chứng minh là việc tiên đoán chính xác không thể xảy ra. Điều con có thể làm là con có thể đo đạc một số lớn electron, rồi sau đó suy ra một giá trị trung bình để nhờ vậy con tiên đoán xác suất một electron đơn lẻ có thể ở vị trí nào ở một thời điểm nào đó. Con có thể tiên đoán một xác suất chứ không phải một kết quả chính xác. Điều này cũng có thể áp dụng cho các nỗ lực sáng tạo của con. Con có thể lập ra một hình ảnh về cái con muốn biểu hiện, con có thể gửi nó ra ngoài, nhưng con không thể tuyệt đối chắc chắn là nó sẽ thị hiện đúng y như vậy. Chỉ có một xác suất mà thôi.

Như vậy có nghĩa là con không thể bảo hình ảnh phải thị hiện chính xác. Con cần thực tế và nói: “Chắc chắn cái tôi gửi ra sẽ bị nhiễu sóng, cho nên cái quay trở về sẽ phần nào bị sự giao thoa làm cho méo mó đi, và nó sẽ không hoàn toàn đúng như cái tôi đã hình dung.” Rồi con cần đạt tới điểm nhận ra là con đã gửi ra viễn quan cao nhất mà con có thể vào thời điểm đó. Con đã phóng nó ra với mãnh lực tối đa mà con có thể trong trạng thái tâm thức của con lúc đó. Cái quay trở về đơn giản là cái cao nhất mà con có thể sản xuất trong những điều kiện vốn có là chính trạng thái tâm thức của con lẫn trạng thái tâm thức tập thể. Trong những điều kiện con phải làm việc, đó là thành quả tốt nhất có thể. Con không cần phải đánh giá là nó không toàn hảo hay tồi tệ vì nó không đúng hẳn như con hình dung. Vậy điều con có thể làm là nói: “Thôi được, có sự khác biệt giữa những gì tôi gửi ra và nhận trở lại, làm thế nào tôi có thể giảm thiểu sự khác biệt đây? Làm thế nào tôi cho nó bớt đi?”

Con có thể làm vậy bằng cách nâng cao tâm thức của con, loại bỏ một số ngã đó đã có thể khiến con có một viễn quan bất toàn hay thấp hơn khả năng của con, hay chúng đã có thể khiến con không dùng đủ uy lực khi con phóng chiếu nó ra. Con có thể thanh lọc bốn thể phàm để sự nhiễu sóng càng ít càng tốt trong các thể của chính con. Lẽ tự nhiên, những gì có mặt trong các thể cao của con sẽ giao thoa với viễn quan con gửi ra, ngay cả với khả năng hình thành viễn quan của con. Đấy là điều con có thể làm, và sẽ thật chính đáng nếu con nói: “Đã có sự khác biệt giữa cái tôi hình dung và cái tôi thị hiện. Tôi cần làm việc trên bản thân tôi và tâm thức của tôi.” Điều này không có nghĩa là con bất mãn với chính con. Con yêu dấu, cho dù con có đạt đến tầng tâm thức 144 thì trên địa cầu con vẫn không thể thị hiện đúng y như con hình dung. Tại sao vậy? Là vì như thày đã nói, trên trái đất con không có một quả cầu cá nhân nơi tâm con là tâm duy nhất tác động lên một phần cụ thể của Ánh sáng Mẫu-Vật và nhờ vậy nội dung trong tâm là hình tướng chính xác mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào. Ở đây con làm việc trong một không gian chung. Con phải chấp nhận là con đang ở trên một hành tinh với vật chất dày đặc và một tâm thức tập thể cũng dày đặc.   

7.9. Hãy bằng lòng với việc nâng cao tâm thức

Con phải cho phép những thứ đó can thiệp vào viễn quan của con vì một phần mục đích con sống và sáng tạo ở đây là để nâng cao tập thể. Con làm vậy bằng cách gửi ra một viễn quan cao nhất có thể và cho phép nó giao thoa, tương tác với tập thể. Có lẽ con chỉ thấy được là tập thể đang kéo thấp viễn quan con xuống, nhưng sự thật là viễn quan con cũng kéo tập thể đi lên. Đây chính là một phần ý nghĩa của việc đồng sáng tạo trên một hành tinh phi tự nhiên. Khi đồng sáng tạo trên hành tinh tự nhiên, con có quả cầu riêng của con, con có thể thị hiện đúng y như trong tâm con. Nhưng đây không phải là sự thể trên một hành tinh phi tự nhiên. Con không có quả cầu riêng của mình, cho nên con không thị hiện đúng được như con hình dung. Dẫu sao thì khi con kinh qua tiến trình này, tiến trình sáng tạo này, con cũng giúp nâng cao tâm thức tập thể.

Sứ giả này trong những năm đầu làm sứ giả đã cảm thấy phần nào bất mãn vì sách của ông đã không trở thành sách bán chạy nhất – hay đúng hơn không phải là sách của ông vì ông không xem là sách của mình mà là sách của các chân sư. Ông nghĩ: “Tại sao mọi người không chịu đọc lời dạy của các chân sư thăng thiên?” Và ông đã học cách nhận ra đây chỉ đơn giản là một viễn quan không thực tế. Thật không thực tế mà chờ đợi mọi người trên trái đất sẵn sàng nhận giáo lý của chân sư thăng thiên, vậy tại sao con lại chờ đợi là một quyển sách của chân sư thăng thiên sẽ đứng đầu trên danh sách bán chạy?

Sách bán chạy là sách phù hợp với mức tâm thức của mọi người, bởi vì nếu không, họ sẽ không thể thấy được trong sách có gì, thậm chí không thể nhìn nhận điều này. Ông đã học được là ông không thể đánh giá nỗ lực sứ giả của mình dựa trên sự kiện sách bán chạy hay không. Ông chỉ đơn giản bằng lòng với sự kiện sách đã có mặt trong bát cung vật lý, nơi người ta có thể tìm đọc ngay bây giờ hay mai hậu trong những thập niên tới. Đây không phải là vấn đề có bao nhiêu người, vì sự thành công của con như một người đồng sáng tạo trong bát cung vật lý không tùy thuộc vào sự công nhận của 80% quần chúng. Thày tin rằng con cũng thấy là nó không tùy thuộc vào sự công nhận của lớp 10% thấp nhất, đặc biệt là của sa nhân. Như một người đồng sáng tạo với một nhận thức tâm linh nào đó, con sẽ không bao giờ, không bao giờ có được sự công nhận từ sa nhân. Chuyện này giản dị sẽ không xảy ra, con yêu dấu. Con sẽ không bao giờ có sự công nhận đó được, cho nên việc chờ đợi chỉ là một kỳ vọng không thực tế. Con phải buông nó ra.

7.10. Nhìn nhận là con không thể làm hài lòng một số người

Con phải đạt tới điểm nhìn nhận là trên hành tinh này có những người con không thể làm hài lòng. Một số các con có thể có người thân thiết trong gia đình thuộc loại này. Vấn đề không nhất thiết là bảo họ là sa nhân, mà vấn đề là nhìn nhận: “Tôi sẽ không bao giờ làm hài lòng được người đó. Vậy tại sao tôi lại bận tâm? Tại sao tôi không chuyển quan tâm sang những người tôi có thể quan hệ tích cực? Tại sao tôi phải ở gần những người hay chỉ trích, tiêu cực hoặc luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn? Tôi có quyền chuyển sang những ai tôi cảm thấy đồng điệu thay vì những kẻ bị phiền hà bởi rung động của tôi và muốn bài bác tôi.” Khi con ngừng phán xét bản thân theo tiêu chuẩn của sa nhân hay quan điểm của người khác – là những người có thể bị ảnh hưởng bởi tiêu chuẩn của sa nhân – thì con có thể bắt đầu cảm thấy là mình thực sự có thể sáng tạo trên địa cầu.

Con có thể an bình sáng tạo cho dù nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ biểu hiện được những gì con có thể hình dung. Con cần nhìn nhận ở đây là khi con là một avatar hay một đệ tử tâm linh tiên tiến – kể cả khi con là một cư dân nguyên thủy của địa cầu – con có khả năng hình dung một điều gì đó vượt xa những gì một người trung bình có thể hình dung, vượt xa những gì có mặt trong tâm thức tập thể. Lẽ tự nhiên khi con gửi ra xung lực này vào bốn tầng của vũ trụ vật chất, nó sẽ gặp nhiễu sóng từ tâm thức tập thể vì nó gặp phải rất nhiều năng lượng thấp. Nhưng đây không phải là một thảm họa. Không phải là lỗi con nếu nó không thể hiện đúng như con đã hình dung. Con cần nhận ra là nó vẫn đem lại tác dụng tích cực, cho nên nỗ lực sáng tạo của con vẫn đáng công sức.

7.11. Một động lực cao hơn khi sáng tạo

Tất nhiên khi con nhận ra điều này, khi con xoay chuyển như vậy, con đạt tới điểm con không còn sáng tạo bởi vì con muốn: (1) biểu hiện một kết quả đặc thù nào đó, và (2) được người khác công nhận và chứng thực.

Những thứ đó không còn thôi thúc con nữa. Tiền bạc không còn thôi thúc con. Cái thôi thúc con là điều thày đã đề cập trong một bài giảng trước và cũng là mục đích thực sự của con khi con đến địa cầu, đó là con trải nghiệm chính mình ở đây. Con có thể tới điểm làm người sáng tạo mà phần thưởng cho sự sáng tạo của con không phải là những gì được thị hiện trong vật lý, không phải là sự công nhận, không phải là tiền bạc, mà là kinh nghiệm biết rằng con đã cố gắng trong môi trường đặc thù này. Con đã cố gắng – con đã thị hiện một cái gì cao hơn những gì có trước đó.

Phần thưởng của con chỉ đơn giản là thu hoạch kinh nghiệm này. Con có thể đạt tới điểm, cho dù con đang hiện thân trong vật lý, là con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Khi con trải nghiệm Hiện diện TA LÀ đang trải nghiệm các nỗ lực sáng tạo của con như thế nào, đây là hình thức khen thưởng cao nhất cho nỗ lực của con. Tự thân nỗ lực này trở thành phần thưởng cho chính nó. Nó trở thành một tiến trình tự củng cố mà qua đó con sẽ không ngừng với lên cao hơn, không phải từ một cảm nhận thiếu thốn mà từ cảm nhận là con biết mình có khả năng hoàn thành một điều gì đó. Biết được những gì mình đã hoàn thành đem lại cho con cái biết là con có thể hoàn thành nhiều hơn. Con không bất mãn, con không luôn cảm thấy nó không đủ tốt, mà con cảm thấy những gì con đã tạo ra thực sự tốt đủ.

Vì con đã tạo ra cái đó, giờ đây con thấy là con có thể tạo ra cái gì cao hơn nữa, và con có thể cứ tiếp tục làm vậy. Không từ một cảm nhận thiếu hụt mà từ một cảm nhận dồi dào, một cảm nhận là con đầy ắp. Con đầy ắp. Con không có “lỗ hổng” nào trong bản thân mà con tìm cách lấp đầy. Niềm vui bây giờ là cảm thấy ly nước đang tràn ra ngoài. Đây là cảm nhận liên tục là cái chén của dòng chảy sáng tạo của con đang tràn ra ngoài và được gửi vào môi trường của con. Chính cái đó cho con niềm vui, niềm toại nguyện và sự tràn trề đến độ nó tràn cả ra ngoài. Cái đó, thày mong muốn con có được, con yêu dấu, và thày hy vọng một số các con sẽ dùng những lời dạy này để đạt được. Vì đó cũng chính là điều con đã quyết định trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, là tiềm năng cao nhất của con trong kiếp sống này mà con đã muốn chứng được.

1 | Sống với những gì con không thể chung sống

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Thật là niềm vui và đặc ân rất lớn cho thày được khai mạc hội nghị này và được chào đón các con – những người có mặt ở đây trong vật lý cũng như những người nối kết qua internet. Chủ đề nguyên thủy được đề nghị cho hội nghị này là: “Làm thế nào giúp cho con người ở Đông Âu được hòa bình,” nhưng các thày cảm thấy không chỉ người ở Đông Âu mới có thể được lợi lạc từ những bài giảng các thày muốn ban truyền. Chắc chắn con người ở khắp mọi nơi đều gặp khó khăn để cảm thấy an bình với việc mình sống trên trái đất. Con yêu dấu, điều các thày mong muốn đạt được trong hội nghị này là trao cho con một số lời dạy không chỉ dành riêng cho các avatar hay các đệ tử của chân sư thăng thiên, mà về lâu dài có thể dành cho tất cả mọi người trên địa cầu, ngay cả các cư dân nguyên thủy của địa cầu hoặc những ai tới đây từ những hành tinh khác đã rơi xuống dưới mức tự nhiên của hành tinh đó.

1.1. Xét lại cái gì là bình thường

Hiển nhiên, con yêu dấu, con đã lớn lên trên địa cầu và hầu hết các con đã lớn lên với một hình ảnh cho rằng có lẽ trái đất là hành tinh duy nhất trong vũ trụ có bất kỳ dạng sống nào. Có lẽ đây là một hành tinh rất quan trọng đối với Thượng đế – nếu con đã lớn lên trong một môi trường Cơ đốc giáo. Có lẽ con đã lớn lên với ý tưởng mình là một loài vượn đã tiến hóa, và xác suất để sự sống hiện diện nhỏ đến độ nó chỉ xảy ra trên rất ít hành tinh. Do con đã lớn lên với quan điểm cho rằng rất có thể địa cầu là hành tinh duy nhất, dần dà con đã chấp nhận rất nhiều điều kiện được thấy trên trái đất mà không hay biết. Điều này không có nghĩa là con đã chấp nhận chúng là tốt, nhưng có thể con đã chấp nhận chúng là bình thường, là tự nhiên hay không thể tránh khỏi. “Chuyện nó tất phải như vậy thôi.”

Tất nhiên, điều này dính liền với giáo lý các thày đã trao cho con những năm qua rằng một khi con bị kẹt vào một trạng thái tâm thức nhị nguyên thì con không thể thoát ra khỏi trừ khi con có một khung tham chiếu chỉ cho con thấy là ở ngoài trạng thái tâm thức này có một cái gì, có một cách nhìn khác hơn về cuộc sống. Con yêu dấu, lẽ tự nhiên khi con đã lớn lên trong môi trường hiện thời trên trái đất, con đã không nhận được một khung tham chiếu như vậy. Ví dụ, không ai nói cho con biết là có những hành tinh tự nhiên nơi rất nhiều hiện tượng con thấy trên trái đất không hề biểu hiện, không hề xảy ra. Con đã lớn lên với cảm giác là thật chẳng ích gì mà chất vấn những chuyện đang xảy ra, vì hiển nhiên đó là chuyện bình thường. Điều cần làm là con tìm cách sống chung với nó mà thôi.

1.2. Khả năng thích ứng có may lẫn rủi

Con thấy đó, con yêu dấu, ở đây chúng ta đang chạm đến một đề tài – theo một nghĩa nào đó – vừa là một điều may lẫn một điều rủi. Tất nhiên, nó liên hệ phần nào đến một hiện tượng đã được các nhà tiến hóa học nói đến, là làm thế nào một giống loài có thể thích ứng với môi trường của nó. Mặc dù nhiều nhà tiến hóa học luôn luôn bênh vực chủ thuyết về sự tồn tại của kẻ mạnh nhất, nhưng nếu con thực sự nhìn vào lịch sử tiến hóa, con sẽ thấy kẻ sống còn không phải là kẻ mạnh nhất, không phải là kẻ hung hãn nhất như một số nhà khoa học đó muốn con nghĩ. Không đâu con yêu dấu, người sống còn là những người dễ thích nghi nhất. Lý do loài người đã lan tràn đến mọi nơi trên trái đất và là giống loài thành công nhất trên trái đất – ít ra từ một góc nhìn tiến hóa – là vì con người có khả năng thích nghi cao hơn bất kỳ loài nào khác mà con gặp trên địa cầu. Tại sao loài người thích nghi giỏi hơn mọi loài động vật? Vì con người không phải là một con thú. Con không phải là một loài cao hơn loài vượn một bước như các nhà tiến hóa học muốn con tin. Con là một sự nhảy vọt lượng tử so với loài vượn vì con có sự tự nhận biết, và chính khả năng tự nhận biết này đã giúp con người thích nghi với rất nhiều điều kiện khác nhau.

Một loài thú phần lớn được lập trình để cư xử một cách nhất định. Có nghĩa là con thú, nếu nó gặp phải một môi trường thù địch, sẽ không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi cách cư xử của mình như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?” Và nó cũng không thể bước lui lại và nói: “Tôi cần thay đổi môi trường như thế nào để có thể sống sót trong môi trường này?”  Một loài thú không có khả năng đó, nhưng con người thì có, và điều này chứng tỏ cho bất cứ ai sẵn sàng nhìn vào dữ kiện, là con người không phải là con thú. Con không là một con thú đã tiến hóa xa hơn, vì người ta không thể tìm thấy một loài thú nào có khả năng này ở một cấp độ thấp hơn. Thày biết sẽ có người nghĩ ra một vài ví dụ, nhưng sự thật là con không thể tìm thấy loài thú nào có một cấp độ tự nhận biết thấp hơn loài người để từ cấp độ đó nó có thể từ từ tiến hoá đến cấp độ tự nhận biết của loài người. Để những loài thú cao cấp nhất đến được mức loài người, chúng sẽ phải thực hiện một bước nhảy vọt lượng tử ví chúng phải được trao cho khả năng tự nhận biết đó từ một nguồn cao hơn – khả năng này không thể do tiến hóa.

Khả năng thích nghi của loài người là một điều may theo nghĩa con có thể thích ứng với nhiều môi trường khác nhau. Nhưng đó cũng là một điều rủi theo nghĩa chính khả năng này có thể khiến con nhìn vào điều kiện hiện tại của địa cầu và quyết định: “Ồ, tôi chỉ cần sống chung với nó. Tôi không thể nào thay đổi nó được. Thật chẳng có ích gì mà đặt nó thành vấn đề. Tôi chỉ có thể sử dụng nó tốt nhất mà thôi.” Và do đó suốt chiều dài lịch sử, loài người đã thích ứng với rất nhiều điều kiện mà họ đã có thể thay đổi nếu họ ý thức là họ có khả năng thay đổi, nếu họ có viễn quan là mọi chuyện có thể thay đổi như thế nào cùng sự sẵn lòng thực hiện cuộc thay đổi. Đây chính là khả năng mà các sa nhân đã dùng để kiểm soát quần chúng hết thời này đến thời khác, hết văn minh này đến văn minh khác, thậm chí từ thuở xưa hơn cả lịch sử được ghi chép. Những gì con gọi hiện nay là lịch sử, tất nhiên, là một sự xuyên tạc do sa nhân vì chúng không muốn con biết đến quá trình lịch sử của các nền văn minh đã biến mất nhưng đã tiến xa hơn hẳn nền văn minh hiện đại.

Lý do là vì, một lần nữa, chúng không muốn con có một khung tham chiếu cho thấy là đã từng có những nền văn minh quá khứ tiến hóa cao gấp bội nền văn minh hiện tại nhưng các văn minh đó đã sụp đổ do ảnh hưởng của sa nhân. Và như vậy, nền văn minh của con không những có khả năng tiến hoá xa hơn nữa mà cũng có khả năng suy tàn – nếu con cho phép sa nhân tiếp tục sai khiến mọi chuyện. Chúng không muốn con có khung tham chiếu này mà con đã có thể nhận được nếu con biết lịch sử các nền văn minh đã qua. Chúng muốn con tin rằng các con là một giống loài với một quá trình rất ngắn, cho dù là một vài triệu năm theo như khoa học công nhận, hay là 6000 năm theo người Cơ đốc cực chính thống cũng như hầu hết các tín đồ tin vào kinh Cựu ước cho rằng Thượng đế đã tạo ra địa cầu trong dạng hiện hữu chỉ mới gần đây thôi. Lẽ tất nhiên, Thượng đế (trong tư cách là sinh thể cao nhất trong vũ trụ mà chúng ta gọi là Đấng Sáng tạo) không hề tạo ra địa cầu trong dạng hiện thời, vì chắc chắn ngài đã có thể hình dung ra một hành tinh không có bóng dáng chiến tranh, loạn lạc, bạo lực cùng tất cả mọi thứ khác.

Con yêu dấu, điều thày đang nói với con ở đây – những người tâm linh, cho dù con là một avatar hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu đang bắt đầu nâng cao tâm thức mình – là một điều vô cùng giản dị. Con đã kế thừa từ giống loài của con, từ tâm thức tập thể, từ cha mẹ, từ các thế hệ trước, khả năng thích nghi với các điều kiện vật chất, khả năng chấp nhận các điều kiện này là bình thường và tìm được cách sống chung với chúng. Đây là một khả năng đã phục vụ nhân loại một cách nào đó, nhưng đối với con là người tâm linh, đã đến lúc trên bước đường tăng triển con phải xem xét nó và quyết định: “Tôi sẽ vươn lên cao hơn động lượng tập thể muốn thích nghi với các điều kiện vật lý.” Các thày đã nói với con những gì suốt những năm qua qua các lời giảng? Rằng con không ở đây để chấp nhận các điều kiện hiện thời và thích nghi với chúng. Con ở đây để nâng cao điều kiện hiện thời, nâng cao tập thể, thậm chí nâng cao cả các điều kiện vật lý. Con không thể làm điều này nếu con là một con thú có kỹ năng thích nghi. Con chỉ có thể làm được khi con công nhận mình là một sinh thể tâm linh và con quyết định: “Tôi sẽ vươn lên khỏi cái kỹ năng chấp nhận, thích nghi với các điều kiện hiện hành.”

1.3. Các điều kiện con không thể sống chung

Để hiểu điều này đầy đủ và thực hiện những gì thày đang trình bày với con, con cần nắm vững bối cảnh các thày đã rất cẩn thận trao cho con – bắt đầu từ trước hội nghị năm ngoái ở đây tại Estonia nhưng chắc chắn cũng ngay trong hội nghị đó – là các giáo lý về chấn thương nhập đời và ngã gốc [Xem sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. Dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy của địa cầu, đã tới một lúc con phải chạm mặt với những điều kiện khốc liệt đến độ con phải gánh chịu chấn thương nhâp đời đó – hay chấn thương điạ cầu đó, là từ mà các thày dùng đối với các cư dân nguyên thủy. Sau đó con đã tạo ra ngã gốc là một cái ngã phản ứng. Điều con cần bắt đầu suy nghiệm ở đây là cho dù con là avatar hay cư dân nguyên thủy, một khi con đạt đến một nhận biết nào đó thì trong nội tâm, con biết là mọi sự không nhất thiết phải xảy ra như chúng đang xảy ra trên trái đất. Có một giải pháp thay thế, có một cách khác hơn, và mọi sự có thể tốt hơn. Có thể con không diễn đạt được điều này bằng lời nói, ngay cả con không ý thức được rõ ràng, nhưng con có một khung tham chiếu rằng những chuyện đang diễn ra ở đây trên địa cầu không phải là cao nhất.

Điều lạ lùng ở đây – và điều này rõ rệt nhất nơi các avatar cho nên thày sẽ dùng ví dụ này – là như một avatar con đến hiện thân lần đầu trên địa cầu, và cho dù con không giữ được ký ức ý thức về cuộc sống trên hành tinh tự nhiên, con vẫn mang một cảm nhận mạnh mẽ rằng nhiều điều mình gặp trên trái đất không phải là cao nhất và có một cách sống khác hơn. Mọi sự không cứ phải y như vậy. Thế là giờ đây con bị mắc kẹt – nếu có thể nói như vậy vì đây là điều hầu hết chúng ta đều cảm nhận – mắc kẹt trong xác thân vật lý dày đặc này giữa thế giới vật lý dày đặc này. Chung quanh con là những người khác cũng mang một xác thân vật lý, và cho dù con có cảm gì hay nghĩ gì thì họ cũng có khả năng làm con tổn thương, khả năng sử dụng xác thân vật lý của họ để làm hại xác thân vật lý của con.

Con không thể làm gì để tránh chuyện này một khi con ở trong cơ thể vật lý. Cho dù người ta có làm gì con, con cũng không thể tránh khỏi sự kiện con đang ở trong một cơ thể vật lý và con nhìn, con trải nghiệm những gì xảy ra trên trái đất. Các thày đã từng nói là con có thể là một avatar nhìn xuống địa cầu và con quyết định mình muốn đến đây đầu thai, và hiển nhiên con có thể thấy được nhiều điều kiện không phải lẽ, nhưng con không thể kinh nghiệm các điều kiện này từ xa. Con sẽ không trải nghiệm địa cầu bằng xương bằng thịt cho đến khi con bị mắc kẹt, bị dính chặt trong một xác thân vật lý. Một khi con ở đây, một khi con ở trong xác thân này thì bỗng chốc con trải nghiệm địa cầu là như thế nào. Thậm chí con trải nghiệm năng lượng ở đây quá dày đặc, tâm thức tập thể quá dày đặc với biết bao lòng căm hận, thù địch lẫn sợ hãi. Con trải nghiệm nó một cách con không bao giờ tưởng tượng nổi như một avatar. Thực tế là một phần nỗi chấn động mà con cảm thấy liên hệ đến một điều kiện đặc thù – một điều kiện với nhiều xác suất nhất hay có lẽ là điều kiện chủ chốt – mà con đã xem xét trước khi đến địa cầu rồi quyết định là mình muốn góp phần loại trừ nó khỏi địa cầu. Giờ đây con ở trong cơ thể, con đang trải nghiệm điều kiện này, con thấy nó dữ dội đến chừng nào, nó nặng nề đến chừng nào, nó khó khăn đến chừng nào, thì con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với nó. Tôi không thể sống với điều kiện này có mặt trên trái đất.”

Có thể cá nhân con không bị tra tấn như được mô tả trong sách Những kiếp của tôi. Không phải tất cả các con đều phải hứng chịu kiểu tấn công cá nhân hung ác đến vậy. Một số các con bị cú sốc chỉ do đã chứng kiến người ta phải sống và khổ đau như thế nào. Là avatar, con chưa bao giờ chạm trán với sự thể như vậy trên một hành tinh tự nhiên và con cảm thấy không một ai phải sống trong điều kiện như thế. Cho nên con phản ứng: “Tôi không thể sống nổi với tình trạng này trên hành tinh này. Tôi không thể sống trong một môi trường có tình trạng này hiện hữu.”

Đó là phản ứng của con. Con chiu rút vào chính mình, theo nghĩa đen. Con bị chấn động đến độ gần giống như con cố kéo nguyên hào quang của mình trở vào bên trong một điểm an toàn nơi con có thể quên đi sự có mặt của điều kiện đó. Thế nhưng con không thể làm vậy vì như thày vừa nói, con bị kẹt cứng trong cơ thể vật lý của mình. Không có cách nào thoát ra khỏi cơ thể vật lý. Thế rồi khi cú sốc ban đầu tan đi đôi chút, con phải đối mặt với một thực tế vô cùng phũ phàng. Tất cả mọi thứ trong cảm thể, trí thể lẫn bản sắc thể của con nói với con: “Tôi không thể sống trên hành tinh này khi điều kiện này có mặt. Tôi không thể sống với nó.”  Nhưng cơ thể vật lý của con khi nó đói meo, nó sẽ bảo con phải sống trên hành tinh này và con phải làm mọi điều cần thiết để giữ cho cơ thể sống còn.

1.4. Xem cơ thể là kẻ thù

Đây là lúc nhiều người trong các con trải nghiệm một sự phân rẽ giữa cơ thể vật lý và ba thể phàm cao hơn. Gần như thể con phải dựng lên một loại hàng rào nào đó giữa thể vật lý và ba thể cao để bảo vệ các thể cao khỏi những gì xảy ra trong cõi vật lý, có lẽ cả những gì cơ thể vật lý trải nghiệm. Nếu con đã bị tra tấn chẳng hạn, con sẽ phải tạo ra rào cản này để nỗi đau của cơ thể không tác động quá dữ dội lên ba thể cao. Hầu hết các con đã dựng lên sự phân rẽ này mà con vẫn mang theo cho đến giờ. Con có thể thấy làm thế nào suốt các thời đại, người tâm linh đã xem cơ thể mình là một kẻ thù cho sự phát triển tâm linh. Họ thường nói đến những ham muốn của thể xác, ham ăn, ham tình dục, đủ loại dục vọng khác nhau, và họ xem đó là kẻ thù cho sự phát triển tâm linh.

Nền tảng của điều này là cú sốc tiên khởi khi con toan dựng lên hàng rào đó như một cơ chế phòng thủ. Tất nhiên ở một mức độ nào đó, con nhận ra là xác thân vật lý của con nằm trong cõi vật lý và người khác cũng có xác thân của họ. Họ có thể xông tới làm hại xác thân con nhưng họ không thể làm tổn thương ba thể cao của con dễ như vậy. Nếu con có thể phóng chiếu hay tạo ra một rào cản thì phần nào con có thể tự bảo vệ mình. Điều thày nói với con là tất cả các con đều đã chạm mặt cơ chế đó và con đã cảm thấy: “Tôi không thể sống với điều kiện này trên trái đất.” Thực tế phũ phàng là con phải sống ở đây trên trái đất. Vậy con làm gì đây? Làm thế nào đối phó đây? Như thày vừa nói, con thường hay đối phó bằng cách buộc mình vào cái cơ chế thích nghi tập thể đã được tạo ra bởi mọi người khác trong gia đình con, trong dân tộc con, trong văn hóa của con, trong nền văn minh của con – thậm chí trong toàn bộ giống loài và có thể nói trong tâm thức tập thể nói chung. Con tự buộc mình vào đó và con nhận ra là trên một hành tinh như thế này, con phải thích nghi thôi. Con phải chấp nhận các điều kiện như chúng đang trải bày, và con tận dụng theo cách tốt nhất. Phần nào đó sâu thẳm trong tiềm thức của con, con đã lấy quyết định: “Tôi không thể sống với chúng nhưng tôi sẽ phải sống với chúng, và để sống với chúng, tôi phải chấp nhận niềm tin này hay niềm tin kia.”

Có thể con đã chấp nhận chuyện này không thể tránh, không thể né khỏi, và nếu con làm một số việc thì con sẽ tránh được cái điều kiện mà con không thể chung sống. Con có thể tránh không đích thân trải nghiệm nó, con có thể cách ly khỏi nó. Con thấy nhiều người ở các nước tiền tiến đã tự cách ly khỏi rất nhiều điều kiện đang diễn ra trong thế giới thứ ba, chẳng hạn nhiều người ở nước tiền tiến không thể sống nổi nếu chính con mình bị chết đói hay thiếu ăn, nhưng họ lại có thể sống nổi nếu hàng triệu trẻ em trong thế giới thứ ba bị chết đói hay thiếu ăn. Một lần nữa, thày không đang chê trách mà thày chỉ đưa ra một ví dụ về cơ chế mà qua đó con có thể tự cách ly khỏi một điều kiện để vẫn sống được trên hành tinh này, vẫn sinh hoạt được trên hành tinh này.

1.5. Cơ chế sống còn

Điều chúng ta đi đến ở đây chỉ đơn giản là một cơ chế sống còn. Thậm chí nó có thể là một cơ chế sống còn vật lý, qua đó con cố gắng tự cách ly bằng cách tránh đầu thai nơi những khu vực trên địa cầu gặp nhiều chiến tranh, nhiều bệnh tật hay nạn đói hay bất cứ gì khác. Đối với đa số các con, nó chủ yếu là một cơ chế sống còn ở tầng cấp cảm xúc, lý trí hay bản sắc hầu con có thể tồn tại trên một hành tinh mang sẵn điều kiện mà con không thể chung sống. Bởi vì nếu phần nào con cách ly khỏi nó và cá nhân con không chạm mặt trực tiếp với nó, thì con có thể sống với sự có mặt của nó trên hành tinh – nhưng ở một nơi nào khác chứ không ở ngay nơi con sống.

Một lần nữa, con yêu dấu, thày không nói điều này để trách móc con. Các thày đều đã đầu thai trên địa cầu và đã từng làm y hệt như con để có thể sống ở đây. Điều thày muốn nói là đối với các con đã theo học giáo lý cho đến điểm này, các con đã sẵn sàng nhìn vào vấn đề này. Con đã sẵn sàng nhìn vào các cơ chế sống còn và con cũng sẵn sàng khởi sự vươn lên cao hơn để con có thể sống trọn trên địa cầu chứ không chỉ sống còn mà thôi. Con thực sự an bình với việc mình ở đây và do con đã an bình, con có thể vui hưởng cuộc sống trên địa cầu. Thậm chí con vui hưởng việc biểu hiện chính mình, biểu hiện cái ta thực của mình ngay đây trên địa cầu.

Lẽ tự nhiên con yêu dấu, khi con tới đây và nếu con là một avatar (hay ngay cả một cư dân nguyên thủy), các con đều có mong muốn biểu hiện bản thể thực của con, khả năng sáng tạo thực của con trên địa cầu và con biết đó là cách duy nhất địa cầu sẽ cải tiến. Cách duy nhất con có thể giúp địa cầu tiến bộ là khi con biểu lộ con người mà con thực là, biểu lộ sự sáng tạo của Hiện diện TA LÀ của con.

Nhưng khi con tạo ra cái cơ chế sống còn đó, kỳ thực con đã nói: “Chừng nào cái điều kiện mà tôi không thể chung sống còn hiện hữu trên trái đất, tôi sẽ không thể tự do biểu hiện chính mình, tôi không thể sáng tạo.” Nhiều các con thậm chí đã cảm thấy – nếu có thể gọi như vậy – một tình đoàn kết nào đó với những người đang đau khổ trên trái đất. Nhiều các con đã tạo ra một cơ chế vô cùng sâu đậm trong tiềm thức nơi con có lòng trắc ẩn đối với một nhóm người đặc thù đang đau khổ vì một điều kiện đặc thù. Nói chung, ở một thời điểm con đã quyết định: “Tôi không thể an bình, tôi không thể hạnh phúc, tôi không thể sáng tạo, tôi không thể tự biểu đạt chừng nào những người kia còn bị đau khổ bởi điều kiện đó.”

1.6. Đóng chặt sáng tạo không phải là giải pháp

Con yêu dấu, đó là một cách phản ứng rất dễ thông cảm. Như thày vừa nói, tất cả chúng ta đều đã bước vào đó. Các thày đã thăng thiên cũng đã đạt tới một điểm khi các thày nhận ra là mặc dù phản ứng đó dễ thông cảm, nó không xây dựng, vì tại sao con đã đến địa cầu như một avatar chứ? À, vì con muốn loại trừ chiến tranh chẳng hạn. Làm thế nào con có thể đóng góp loại trừ chiến tranh? Chỉ bằng cách biểu lộ sự sáng tạo của bản thể cao hơn của con. Nếu con đóng chặt sáng tạo lại (vì con cảm thấy gắn kết với người đau khổ) thì con cũng đóng chặt khả năng thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện. Con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách đau khổ y như những người đang đau khổ, và con sẽ không giúp loại trừ chiến tranh bằng cách cắt đứt sáng tạo của mình, bước vào một trạng thái sống vắng bóng mọi niềm vui vì con cho rằng con không thể vui được khi người khác còn đau khổ. Đây không phải là cách thức loại trừ một tình trạng mà con đã đến đây để góp phần loại trừ.

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa nếu con muốn tác động tích cực đến địa cầu, con sẽ không thể làm được điều này bằng cách suy nghĩ hay nhìn vấn đề y như mọi người khác vốn nhìn. Con không thể giúp khắc phục một vấn đề, một điều kiện, bằng cách thích nghi với điều kiện đó như mọi người vốn thích nghi. Các thày cần con bắt đầu suy ngẫm điều này và như thày đã nói, bắt đầu xét xem: “Đâu là những điều kiện trên địa cầu khiến tôi xốn xang nhiều nhất? Đâu là những điều kiện khiến tôi xốn xang nhiều nhất?” Thày Nada đã có giảng điều này trong sách của thày [Những Khai ngộ Thần bí về An bình] khi Nada yêu cầu con làm bài tập trong sách, nhưng các thày cũng đã yêu cầu con xem xét vấn đề này trong một bối cảnh rộng lớn hơn. Bây giờ thày đây lại yêu con lần nữa. Thày yêu cầu các con trong tư cách nhóm hãy duyệt lại và thảo luận về vấn đề này. Đâu là những điều kiện trên trái đất khiến con không thể chung sống trong phần sâu thẳm của bản thể con? Rồi có lẽ các con thảo luận xem con đã làm thế nào để vẫn sống được trên trái đất trong khi điều kiện đó vẫn hiện hữu và con đã phải làm gì để đạt đến điểm đó. Xong con có thể bắt đầu xét xem làm thế nào con có thể tự giải thoát khỏi điều kiện đó.

Con thấy đó con yêu dấu, một lần nữa, điều vô cùng quan trọng là con cần nhìn nhận những gì các thày đã nói ở đây. Khi con đến địa cầu – dù con là avatar hay một cư dân nguyên thủy phải chạm mặt với sa nhân lần đầu – con ở một tầng tâm thức nào đó. Chuyện này xảy ra đã lâu lắm rồi, và do sự kiện con ở đây (mặc dù như thày vừa nói, có thể con đã thích nghi với một số điều kiện hay con đã rơi vào một vòng xoắn ốc hướng hạ) thì con vẫn đã thu hoạch một nhãn quan khác hơn, một độ trưởng thành cao hơn sau khi sinh sống trên một hành tinh như thế này. Có nghĩa là giờ đây con có thể nhìn vào quyết định ban đầu của mình khi con quyết định sẽ thích nghi thế nào với hoàn cảnh. Con có thể nhìn nó từ một góc độ rộng lớn hơn. Con có thể thấy nó giới hạn con ra sao và do đó con đạt tới điểm nhận diện nó là một cái ngã. Con đã tạo ra một cái ngã cho phép con sống trên địa cầu trong khi điều kiện đó vẫn có mặt, nhưng ngã này cũng có chức năng cắt đứt khả năng sáng tạo của con. Con có thể nhận diện ngã đó, xem xét nó từ ngoài, nhận ra nó không phải là con và do đó con có thể quyết định để cho nó chết đi.

1.7. Thoát khỏi vấn đề mà không giải quyết vấn đề

Con hãy ghi nhận tất cả mọi điều các thày vừa trình bày. Ngã này có thể nghĩ là con không thể an bình trên địa cầu chừng nào một điều kiện nào đó hiện hữu. Do đó nó có thể phóng chiếu vào con là con cần phải giải quyết điều kiện đó trước khi con có thể an bình, nhưng như các thày đã nói, thật sự không phải vậy. Chính con – cái Ta Biết – có khả năng nhìn ra đó chỉ là một cái ngã đang phóng chiếu quyết định phi lý này vào con, và con có khả năng quyết định: “Đây không phải là quyết định mà tôi muốn sẽ quy định tôi, quy định cuộc sống của tôi trên địa cầu này nữa.” Con có thể quyết định để cho ngã chết mà không cần phải giải quyết vấn đề, cái vấn đề mà ngã đã phóng chiếu cho con giải quyết.

Vì vậy con yêu dấu, công việc đầu tiên, nhiệm vụ đầu tiên mà thày giao cho con trong hội nghị này là mở ra cuộc thảo luận về các đề tài này. Trước hết con hãy nhận diện các điều kiện con không thể sống với. Con yêu dấu, con cần nhận thức là có một phần của cơ chế thích nghi qua đó nhiều người trong các con, những người tâm linh, đã cảm thấy mình cần phải tỏ ra tích cực, mình cần có một cái nhìn tích cực về cuộc sống trên trái đất. Cho nên đôi khi con có xu hướng phủ nhận các cảm xúc tiêu cực của mình. Con đi vào phủ nhận, con che giấu chúng, và con không nhìn nhận là mình đã có cảm xúc tiêu cực. Như ngay cả Phật Gautama cũng có nói, điều hoàn toàn chấp nhận được là con công nhận mình có một số cảm xúc rất mãnh liệt về một số điều kiện trên trái đất. Hoàn toàn chấp nhận được là con đưa chúng lên mức nhận biết ý thức để con có thể thỉnh gọi và làm tan biến năng lượng. Và nhờ vậy, con nhìn ra cái ngã đã tạo ra những cảm xúc này và để cho ngã đó rốt cuộc chết đi.

Con không thể làm được điều này nếu con luôn luôn muốn duy trì cái cảm nhận cực đoan của một số người theo phong trào Thời Mới: “Ô mọi chuyện đều tốt hết.” Như các thày đã nói, con là một người biết suy nghĩ thì con không thể nhìn vào các điều kiện trên trái đất rồi bảo là mọi chuyện đều tốt hết, vì rõ ràng là không. Là đệ tử của chân sư thăng thiên, con biết rõ điều này nhưng thỉnh thoảng con vẫn có những cảm xúc mà con không nhận diện – mà con không thật sự sẵn lòng nhận diện vì chúng làm con sợ hãi đôi chút. Con không biết làm gì với chúng nhưng thày nói với con điều này: Con hãy nhận diện các cảm xúc này, đây là một phần bài tập của con cho hội nghị này. Và một khi con đi vào sâu hơn, các thày sẽ giúp con đối phó với chúng, khắc phục chúng và giải thoát khỏi chúng để con có thể an bình với việc mình ở đây trên hành tinh này. Và nhờ con an bình cho nên con có thể thực sự góp phần vào việc loại trừ một điều kiện nhất định.

Và như vậy, thày cảm ơn con với bài truyền đọc khai giảng này, thày cảm ơn con đã hiện diện, đã tham dự hội nghị này, đã sẵn lòng làm thành viên của mạn đà la này. Con có khả năng thực hiện một điều gì đó cho tâm thức tập thể mà chưa một nhóm người nào đã từng làm theo cách này – một nhóm người sẵn lòng thực hiện việc này một cách ý thức trong bát cung vật lý. Và thày cảm ơn con đã làm vậy.

3 | Trải nghiệm chính mình trên địa cầu

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 30/11/2018, nhân một hội nghị tại Tallinn, Estonia.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary và thày muốn tiếp nối bài truyền đọc trước của thày cùng cuộc thảo luận của các con. Thày biết ơn các con đã sẵn lòng chia sẻ cảm nghĩ của mình về việc hiện diện trên trái đất. Cho dù các cảm nghĩ này có tích cực hay không mấy tích cực, điều quan trọng là con chia sẻ và sẵn sàng thừa nhận cảm xúc của mình. Lẽ tự nhiên, không cảm xúc nào là sai trái. Cảm xúc mà con có là những cảm xúc con có. Chắc chắn đây là một hành tinh thật khó khăn, đặc biệt nếu con đến từ bối cảnh một hành tinh tự nhiên. Nếu con là một cư dân nguyên thủy của trái đất và đã sống ở đây lâu hơn nhiều, con sẽ không có cùng cảm xúc đó, mà lẽ tự nhiên con sẽ cảm thấy đây là một hành tinh tích cực hơn hẳn so với sự tương phản giữa một hành tinh tự nhiên và địa cầu. Điều quan trọng là con cần thừa nhận cảm xúc của mình, vì như các thày đã nói nhiều lần, con không thể thực sự khắc phục được cảm xúc, khắc phục được ngã cho đến khi con ý thức có ngã hiện hữu, ngã có mặt ở đó, và ngã có một số cảm xúc.

3.1. Ai đang có cảm xúc?

Một khi con đưa cảm xúc ra ánh sáng, con có thể bắt đầu xem xét: Cảm xúc đến từ đâu? Thậm chí con có thể đặt câu hỏi: “Ai đang cảm xúc như vậy, là chính tôi hay một cái ngã?” Lẽ tự nhiên, đó là một cái ngã đang cảm xúc như vậy vì cảm xúc có liên hệ đến trái đất. Có nghĩa đó là một cảm xúc phản ứng, và chỉ một cái ngã phản ứng mới có thể có cảm xúc như vậy. Nhưng con – trong tư cách mà các thày gọi là cái Ta Biết – thật ra con không cảm xúc. Cảm xúc có thể có mặt trong cảm thể của con và con có thể trải nghiệm thế giới qua sự pha màu, qua cái phin lọc của cảm xúc đó, nhưng con không thực sự cảm xúc. Thày cũng hiểu là con cảm thấy như thể mình đang có cảm xúc, và hậu quả là cảm xúc đang con. Lý do là vì con bị đồng hóa với một cái ngã và con chưa nhìn ra đó là một ngã tách biệt, đó không phải là con. Đấy là tại sao con có công thức – mà các thày đã trao cho con trước đây – về cách làm thế nào con nhận diện được các ngã này, làm thế nào con xoay chuyển ra khỏi chúng và cuối cùng để cho chúng chết đi.

Khi con làm vậy, và một khi con đã thỉnh cầu sự tiêu hủy hay biến hóa của năng lượng chất chứa trong ngã, thì con có thể giải thoát khỏi cảm xúc đó. Nhờ vậy con có thể tự do đón nhận cuộc sống của mình trên trái đất với một cảm nhận tích cực. Lý do các thày yêu cầu con biểu lộ bất kỳ cảm xúc nào con có là để con không phải sống thời gian còn lại của mình trên hành tinh này với gánh nặng của các cảm xúc tiêu cực rất mãnh liệt này. Thày có thể cam đoan với con là chính thày đây khi còn hiện thân đã có những cảm xúc rất tiêu cực về việc mình ở trên trái đất. Hoàn toàn không có chuyện thày muốn cho con hình ảnh là thày có gì khác con, rằng thày cao hơn con đến độ thày không có những cảm xúc đó. Thày đã từng có nhiều cảm xúc giống như các con vừa bày tỏ hôm nay.

3.2. Cảm nhận của con về người khác

Nếu con xem những gì được nói ở đây, con có thể thấy là nói chung, có một sự khác biệt giữa cảm nhận của con về trái đất và cảm nhận của con về con người. Sẽ hữu ích nếu con có thể – chỉ trong suy nghiệm riêng tư – nhìn xem con cảm thấy gì về người khác. Xong con có thể tìm cách phân biệt. Liệu cảm tưởng mà con có, chẳng hạn rằng “người ta thật ngu ngốc”, liên quan đến mọi người hay chỉ một số người? Và nếu vậy thì loại người nào? Nhiều khi con sẽ thấy là những cảm xúc mãnh liệt nhất về người khác đều liên quan đến sa nhân. Cảm xúc đó do sa nhân gây ra. Điều sa nhân đã làm gì con hay con đã chứng kiến sa nhân làm gì tới người khác khiến con có cảm xúc rất mãnh liệt về con người. Xong con có thể bắt đầu phân biệt xem, có lẽ, con không có cảm xúc này về mọi người. Có nghĩa là con có thể bắt đầu có một quan hệ khác hơn với hầu hết mọi người mà con gặp, vì chắc chắn hầu hết mọi người con gặp đều không là sa nhân, mặc dù nhiều người trong các con – không phải tất cảmột số các con – đã có quan hệ với sa nhân trong kiếp này hay nhiều kiếp trước.

Thày có nói trước đây là thày mong muốn con đừng nhìn thày như thể thày là sa nhân, đừng liên hệ với thày xuyên qua những hình ảnh và kỳ vọng do sa nhân tạo ra. Thày cũng mong muốn con quan hệ với người khác như thể họ không phải là sa nhân, để con phân biệt và nhận ra là các cảm xúc mãnh liệt nhất của con về người khác liên quan đến sa nhân. Do đó con không thể đánh giá hay liên hệ với người khác, với mọi người khác, dựa trên các cảm xúc này. Có nghĩa là con có thể bắt đầu làm dịu bớt cái nhìn của mình về người khác để con thấy không phải ai ai cũng như vậy. Con không dựa trên sa nhân để suy diễn về mọi người, và con không để cho sa nhân tô màu cái nhìn cùng quan hệ của con với mọi người.

Nhiều người trong các con cảm thấy là mình đã đến đây phần nào để giúp người khác bằng nhiều cách, có lẽ cũng để giáo huấn người khác. Tất cả các con đều cảm thấy là, đúng vậy, con đã bị sa nhân đối xử thật tàn tệ, nhưng nhiều các con cũng cảm thấy mình bị đa số con người trên địa cầu đối xử thờ ơ. Hoặc họ đã không đếm xỉa gì đến con, hoặc họ đã phần nào thiếu thân thiện, không muốn bị phiền hà. Đây là một cảm giác rất phổ biến trong số các avatar, nói chung trong số những người tâm linh, rằng người ta không muốn lắng nghe con. Họ không muốn nghe con trình bày về cáí hiểu tâm linh, cái biết tâm linh của con. Họ không muốn bị xáo trộn mà chỉ muốn sống theo cùng lối sống như cũ, họ không muốn thay đổi. Nhiều các con đã cảm thấy lẻ loi. Con đã cảm thấy bị ruồng bỏ. Chính do cơ chế này mà con đã cảm thấy mình không thuộc về nơi đây. Điều này không dính dáng trực tiếp đến sa nhân mặc dù sa nhân cũng đã cố trấn áp con vì con dạy cho con người những điều sa nhân không muốn họ biết. Dù sao thì phản ứng mạnh mẽ hơn mà con gặp phải là từ những người chỉ không muốn nghe con nói bất cứ gì con muốn nói, họ không muốn nghe thông điệp của con đem lại.

3.3. Quyền tự quyết và cảm nhận của con về con người

Đây là một đề tài sẽ cần con làm việc thêm từ phía con trước khi con có thể đạt tới điểm làm hòa với sự kiện – một sự kiện mà con có thể quan sát thấy – là hầu hết mọi người trên địa cầu không muốn nghe một lời dạy tâm linh. Như các thày có nói, thật ra họ không muốn thoát khỏi khổ đau của họ cho dù con có thể chỉ cho họ cách làm thế nào. Để làm việc này, rất có thể con sẽ phải xem xét những gì thày vừa nói về nhu cầu phát triển một lòng tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết. Điểm này có hai phần. Con tôn trọng quyền tự quyết của người khác và đồng thời con cũng tôn trọng quyền tự quyết của chính con. Quả thật có hai khía cạnh mà con cần suy ngẫm. Trước nhất, như một avatar từ hành tinh tự nhiên, con đến từ một môi trường nơi không ai cưỡng ép quyền tự quyết của ai. Đây là một trong những đặc tính chủ yếu của một hành tinh tự nhiên. Cư dân trên hành tinh tự nhiên không có nhu cầu cưỡng ép quyền tự quyết của ai khác.

Khi con đến đây, con mang sẵn lòng tôn trọng quyền tự quyết, nhưng rất có thể sau khi chạm mặt với sa nhân và chứng kiến cách họ khuynh loát mọi người trên trái đất như thế nào, thì con quên mất lòng tôn trọng này. Thậm chí con còn có thể khoác lấy thái độ là bởi vì con người đã bị sa nhân cưỡng bức và khuynh đảo, cho nên việc con tìm cách đánh thức họ dậy một cách hơi mạnh bạo cũng chấp nhận được. Con không khuynh đảo giống như sa nhân, nhưng con ép họ phải nghe những gì con nói.

Một số các con có thể nhìn lại một số lời dạy cũ mà các thày đã trao truyền về ý nghĩa việc là Ki-tô trên địa cầu, rằng con ở đây để lay chuyển hiện trạng chứ không ở đây để bỏ mặc mọi người trong cùng trạng thái như trước. Con thấy Giê-su thách đố mọi người, lật bàn của kẻ đổi tiền, thách thức các thày thông giáo và người Pha-ri-si, thách đố những ai thày gặp, ví dụ như qua câu “Ai trong số các người sạch tội thì cứ việc ném đá trước đi!” cùng nhiều tình huống khác. Con có thể nhìn vào đó và nói: “Nhưng nếu chúng ta ở đây để tạo sự thay đổi tích cực và nếu con người bị mắc bẫy sa nhân đến vậy, thì có thể chúng ta cần phải mạnh tay đâm thủng sự kháng cự đó để chạm họ với một thông điệp nào đó.” Không cứ các luận điểm này là vô giá trị nhưng câu hỏi là như sau: Con đang hành xử từ tâm thái nào đây? Điều các thày kêu gọi các con làm – các con là avatar – là bước lên mức cao nhất con có thể trên trái đất. Con có thể làm bất cứ gì con chọn làm trên trái đất, nhưng hành động của con không dựa trên các ngã phản ứng đó, nó không đến từ ngã gốc cùng tất cả mọi ngã khác con đã tạo ra.

Con thấy đó, con yêu dấu, người ta có thể nhìn Giê-su với tâm vỏ ngoài, chụp lấy các lời dạy về quả vị Ki-tô xong quyết định với tâm vỏ ngoài: “Đây là những gì tôi sẽ làm để đánh thức mọi người.” Suốt những thập niên các thày trao truyền giáo lý qua nhiều tổ chức khác nhau, các thày đã chứng kiến một số người phản ứng theo kiểu đó. Con thấy ở Kazakhstan, Chân sư MORE đã ban bài truyền đọc vô cùng sâu sắc về một đợt truyền pháp trước, khi người ta háo hức dùng “tia sáng xanh” để xông ra ngoài đánh thức người khác [Xem sách Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh Cao nhất]. Điều con nhận thấy là mặc dù mục đích cũng chính đáng nhưng cách thực hiện thì lại dựa trên những cái ngã vỏ ngoài mà họ đang mang. Gần giống như thể một số người đã sống qua bao nhiêu kiếp bực dọc với việc mình có mặt trên trái đất, đến độ giờ đây họ cảm thấy các chân sư thăng thiên vừa cho họ toàn quyền xông ra ngoài để hung hăng chiếu “tia sáng xanh” vào người khác. Giờ đây họ làm vậy để đền bù cho tất cả những kiếp dài bực dọc kia, giờ đây họ có thể hoàn thành mục tiêu họ đã đặt ra.

Con thấy không, con yêu dấu, những người đó không an bình với việc họ ở trên địa cầu. Giê-su cũng không luôn luôn an bình khi thày thách thức người khác. Nhưng điều này không có nghĩa là con không thể vươn đến mức con có thể sống trên địa cầu và có lẽ thách thức người khác – nếu việc này nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con và cũng là điều con cảm nhận – nhưng con làm vậy từ một tâm thái an bình. Như vị sứ giả này có nói hồi nãy, con không đang cố thay đổi người khác để tránh một cảm xúc tiêu cực trong chính mình hay về chính mình, vì con đã giải quyết xong cảm xúc đó nơi chính con. Con đã loại bỏ các ngã tách biệt đó và nhờ vậy con an bình khi con tương tác với người khác.

3.4. Ép buộc người khác vì lợi ích của họ

Vậy thì làm thế nào con đạt tới điểm cảm thấy an bình khi tương tác với người khác cho dù họ có phản ứng thế nào đối với con? Con cần kinh qua tiến trình mà sứ giả này đã mô tả và nhận ra là trước khi ông đến đây, ông tưởng ông đến đây để thay đổi địa cầu, nhưng dần dà ông đã sẵn lòng nhận ra đó không phải là cách hiểu cao nhất về lý do ông đến địa cầu. Kỳ thực ông đến địa cầu để thay đổi chính mình, để ông có một số trải nghiệm và nhờ vậy phát triển lòng chấp nhận trọn vẹn đối với quyền tự quyết mà trước đó ông không có – một sự chấp nhận mà nhiều các con đây cũng đã không có trên một hành tinh tự nhiên.

Đây là một bí ẩn! Trên một hành tinh như trái đất nơi con chứng kiến sa nhân không ngừng khuynh loát và cưỡng bức quyền tự quyết của loài người, làm thế nào con chống chọi được đây? Làm thế nào đối phó? Con sẽ xô đẩy quyền tự quyết của người khác đến chừng nào vì con nghĩ đó là lợi ích của họ? Sứ giả này đã sẵn lòng nhận diện một sự thật đơn giản: Mặc dù có những sa nhân ác ý thao túng quyền tự quyết của nhân loại, nhưng cũng có nhiều sa nhân tin rằng chúng thao túng quyền tự quyết của người khác vì lợi ích của những người đó. Chúng tin là chúng đang tranh đấu cho một chính nghĩa cao cả, và cứu cánh này quan trọng đến độ nó có thể biện minh cho phương tiện, là cưỡng ép quyền tự quyết của những người không biết gì hơn.

Thậm chí con còn có thể nhận ra là sa nhân, khi chúng khuynh đảo con người trên trái đất, phần lớn cũng mang cùng một nỗi bực dọc giống như con, là người ta không chịu đáp ứng, người ta không ưa thay đổi, và người ta chỉ muốn sống theo cùng một lối sống hết kiếp này đến kiếp khác. Con có thể dần dần nhận ra là con không thể, trong tư cách một avatar, cho phép mình có thái độ bảo rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện, rằng việc thúc ép người khác vì lợi ích của họ là chuyện chấp nhận được. Điều này con chỉ có thể nhận ra khi con suy ngẫm sự thật này: Quyền tự quyết là tuyệt đối. Đấng Sáng tạo đã tạo ra một tạo vật rồi đã gửi những sinh thể tự nhận biết vào đó, trao cho họ quyền tự quyết tuyệt đối. Họ hoàn toàn tự do thăm dò bất cứ việc gì có thể làm được với quyền tự quyết.

Một khía cạnh của sự việc này là khi con hoàn toàn có quyền tự quyết, con không khởi sự với mức tâm thức cao nhất. Con khởi sự với một ý niệm bản ngã rất hạn hẹp, nhỏ như cái chấm, và con dùng quyền tự quyết của mình dựa trên bản ngã này. Thật ra, dù con ở tầng tâm thức nào đi nữa, và dù con có là một chân sư thăng thiên hay không, thì con vẫn luôn luôn sử dụng quyền tự quyết của mình dựa trên ý niệm bản ngã của con lúc đó. Con không thể làm gì khác hơn.

Câu hỏi đặt ra là: Ngã đó thấy nó tách biệt như thế nào so với các sinh thể khác? Tất cả các con đều đã lớn lên trong một môi trường nơi con không đơn độc – ở đó có nhiều sinh thể khác. Bí ẩn ở trung tâm quyền tự quyết là: “Làm thế nào tôi quân bình được quyền tự quyết của tôi với quyền tự quyết của những người quanh tôi?” Đây là bí ẩn cốt lõi, và kỳ thực con sẽ không giải quyết nó được cho đến khi con thăng thiên. Cho nên thày không chờ đợi là con sẽ nhất thiết – ở tầng tâm thức hiện thời của con cho dù đó là tầng nào – giải quyết được nó trọn vẹn. Thày chờ đợi là con sẽ suy ngẫm về bí ẩn này và bước về hướng thực sự chấp nhận quyền tự quyết cùng ý nghĩa của tự quyết.

3.5. Con sẽ phải dấn sâu vào tách biệt đến chừng nào?

Điều con nhận ra ở đây là khi Đấng Sáng tạo ban quyền tự quyết cho những người đồng sáng tạo, ngài ban cho họ quyền tự do thám hiểm bất cứ điều gì có thể làm được với ý chí tự do. Một trong những điều này là con có thể đóng vai một cái ngã tách biệt. Và câu hỏi thực sự là như sau: Con sẽ cần dấn thân vào tách biệt sâu đến bao nhiêu trước khi con ngộ ra đó không còn là điều con muốn làm nữa?

Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói sa nhân cũng giống như những nhà thám hiểm. Chúng thám hiểm: “Tôi có thể dấn thân bao xa vào tách biệt trước khi tôi không chịu nổi nữa?” Con có thể nói là phải có người đi vào tách biệt để tâm thức tập thể có ý niệm về: Đâu là hậu quả của việc chọn lựa trong tách biệt? Con có thể đi vào một cuộc thảo luận triết lý hơn và nói: “Liệu những người đó có sử dụng ý chí tự do hay không? Liệu sa nhân có một ý chí tự do hay không khi tầm nhìn của chúng dựa trên một ý niệm bản ngã vô cùng tách biệt?”

Đó không phải là điều thày muốn đào sâu ở đây. Điều thày muốn nói là con có quyền tự quyết theo nghĩa là bất kể bản ngã của con là gì, bất kể con đã phát triển bản ngã nào, con vẫn được phép chọn những chọn lựa mà con có thể thấy từ ngã đó. Những chọn lựa này đều mang hậu quả và con sẽ trải nghiệm hậu quả đó. Có thể nói đây chính là cơ chế an toàn. Con càng đi sâu vào tách biệt, càng khiến cho môi trường của mình dày đặc hơn, thì con sẽ càng phải đấu tranh nhiều hơn để dùng quyền tự quyết xuyên qua ngã đó. Cho nên đó chính là điều sẽ rốt cuộc đưa con tới điểm con phải thốt lên: “Nhất định phải có một cách thực thi ý chí của tôi cao hơn cách này. Nhất định phải có một ý chí tự do hơn cái tôi đang có ngay bây giờ.”

Là một avatar, điều con có thể làm là nói: “Để quyền tự quyết trải bày ra trong bầu cõi chưa thăng thiên nơi tôi đang sống, phải có một số sinh thể dấn thân vào tách biệt sâu như sa nhân đã dấn thân. Phải có những hành tinh nơi các sinh thể này có thể tự bày tỏ, và địa cầu là một trong những hành tinh đó.” Nếu thế thì câu hỏi còn lại sẽ là: Tại sao trong tư cách là avatar con đã chọn đến hành tinh này? Con đã chọn đến đây là vì con cũng muốn có được trải nghiệm sinh sống trên một hành tinh nơi một số người đã đưa ý chí “tự do” của họ đến những mức vị kỷ và tách biệt cùng cực. Con muốn có trải nghiệm đó. Điều này, rất có thể con đã quên mất, và con cũng quên mất lý do tại sao. Sứ giả này cho đến nay đã ngộ ra là ông đã muốn trải nghiệm đó vì ông muốn đạt được một sự chấp nhận trọn vẹn về quyền tự quyết mà ông không có được trên một hành tinh tự nhiên. Nhưng đây vẫn chưa là cái hiểu tối hậu.

3.6. Tự trải nghiệm trên một hành tinh dày đặc

Thật ra con đã không đến đây vì con muốn thay đổi người khác hay thay đổi hành tinh. Con đã không đến đây vì con muốn giải cứu hay cứu độ bất cứ ai, hay vì con muốn phán xử sa nhân hay thay đổi sa nhân. Con đã không đến đây chỉ vì con muốn có một tầm hiểu sâu sắc hơn về quyền tự quyết. Con đã đến đây là vì con muốn trải nghiệm bản ngã của con trong loại môi trường này. Con muốn trải nghiệm chính mình là con người như thế nào trong một môi trường dày đặc như trái đất.

Con có thể nói: “Làm sao tôi có thể ngu ngốc đến độ muốn điều đó?” Nhưng đây không phải là vấn đề ngu ngốc. Con thấy đó, con yêu dấu, trên các hành tinh tự nhiên có nhiều sinh thể khác nhau. Có nhiều loại hành tinh tự nhiên khác nhau. Hành tinh được mô tả trong sách Những Kiếp của Tôi chỉ là một ví dụ hành tinh tự nhiên. Có những hành tinh tự nhiên nơi con gặp một số sinh thể vô cùng nhiệt tình muốn tiến triển. Ngay cả trên hành tinh tự nhiên cũng có một số sinh thể nhiệt tâm muốn tiến triển hơn người khác. Có thể đến một điểm con cảm thấy con đã thám hiểm một hành tinh tự nhiên đầy đủ hết mức rồi, con đã trải nghiệm mọi chuyện có thể được trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên.

Đúng vậy, con đã có thể đi tới một hành tinh tự nhiên khác biệt với hành tinh con từng sinh sống và con đã có thể có được một trải nghiệm khác hơn. Một số các con biết được là có những hành tinh phi tự nhiên, và đơn giản con đã quyết định: “Tôi đã nếm trải đủ mọi chuyện tôi có thể tưởng tượng nổi về cuộc sống trong một môi trường như hành tinh tự nhiên, nhưng bây giờ tôi muốn nếm trải xem cuộc sống sẽ ra sao trên một hành tinh phi tự nhiên.” Đây là một mong muốn rất chính đáng, rất có giá trị, vì thật ra nó giúp nâng cao tâm thức tập thể trong toàn bầu cõi. Cho nên mới có những sinh thể – là những sinh thể đã đi xa nhất có thể ở hành tinh tự nhiên – bảo rằng: “Để đạt một trình độ tự điều ngự cao hơn, tôi muốn trải nghiệm một môi trường hoàn toàn khác lạ vì tôi muốn trải nghiệm chính mình là như thế nào, mình phản ứng như thế nào, mình tự nhìn mình như thế nào trong loại môi trường đó.”

Các thày đã cho con lời dạy trước đây là để bước vào hiện thân trên một hành tinh như địa cầu, con phải bước xuống tầng tâm thức thứ 48. Con phải đi xuyên qua mọi tầng ở trên tầng 48, khoác vào từng ảo tưởng một cho tới khi con khoác vào tất cả mọi ảo tưởng ở tầng 48. Sau đó con đi vào hiện thân lần đầu tiên như một avatar ở tầng này, và con nhìn hành tinh xuyên qua tầng tâm thức này, con phản ứng lại hành tinh xuyên qua tầng tâm thức này.

Con yêu dấu, không có gì trục trặc sai trái ở đây. Con có hiểu chăng? Không có gì trục trặc trong quá trình này. Con chỉ đơn giản làm những gì phải làm để con có thể đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên. Chuyện này không ngu ngốc. Chuyện này không sai trái. Đây là một chọn lựa con đã lấy. Những gì con muốn trải nghiệm đúng như những gì con đã trải nghiệm trên địa cầu, cụ thể là con đã đến đây với một trình độ tâm thức nào đó tương ứng với hành tinh. Có thể nói, tầng tâm thức thứ 48 đại khái là tầng cơ bản, tầng tự động ở địa cầu. Đây là tầng con bước xuống để trải nghiệm cảm giác mình là mình trên hành tinh địa cầu. Điều con thực sự muốn là trải nghiệm: “Tôi cảm thấy thế nào khi tôi là tôi trên địa cầu?” Và điều này, con đã trải nghiệm đó. Con yêu dấu, con có thể nói: “Nhưng có thật là tôi đã trải nghiệm điều này? Nếu tôi trải nghiệm nó qua tầng tâm thức thứ 48, nếu tôi đã hứng chịu chấn thương nhập đời (mà con bảo là không thể tránh được, nhưng dù sao nó cũng rất đau đớn) và nếu tôi đã tạo ra ngã gốc cùng tất cả những ngã kia và tôi đã trải nghiệm địa cầu xuyên qua đó, thì liệu tôi có thực sự trải nghiệm chính mình là như thế nào không?”

Con yêu dấu, thày hiểu là con không thể hiểu ngay tức thì khi thày nói với con điều đó, nhưng chắc chắn con có thể suy ngẫm. Con có thể dần dần đạt tới điểm nhận ra là mặc dù rất nhiều trải nghiệm con đã có trên trái đất đã bị pha màu bởi một trạng thái tâm thức nào đó, một ngã vỏ ngoài nào đó, nhưng đằng sau tất cả, con vẫn trải nghiệm được cảm giác mình là như thế nào trong một môi trường như vậy. Cái này vượt khỏi các ngã vỏ ngoài cùng phản ứng của ngã vỏ ngoài. Nó sẽ đòi hỏi con làm việc một chút để kết nối với nó.

3.7. Kết nối với bản chất tâm linh của con

Các thày đã từng giảng cho con về việc kết nối với nhân tính cơ bản của con, nhưng có thể nói là vượt lên trên, đây còn là vấn đề kết nối với bản chất tâm linh của con, với cá thể cơ bản của con. Các thày đã gọi đó là Hiện diện TA LÀ của con, và các thày có nói là cá thể chân thực của con được chứa đựng trong Hiện diện TA LÀ. Tuy nhiên con yêu dấu, đó là gì chứ? Đâu là nơi con đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu? Không phải trong ngã vỏ ngoài. Không phải trong ngã gốc. Thậm chí không phải luôn trong cái Ta Biết. Cái đã trải nghiệm chính con trong một môi trường như địa cầu là Hiện diện TA LÀ của con. Ở tầng mức đó, con đã có trải nghiệm mình là như thế nào trên địa cầu. Con đã có trải nghiệm này ngay từ khi con đến đây lần đầu tiên.

Hiển nhiên, thày cũng biết con không kết nối được với nó một cách ý thức. Con đã có một trải nghiệm khác ở tầng mức cái Ta Biết khi con đồng hóa với các ngã vỏ ngoài, với bốn thể phàm, và con đã trải nghiệm xuyên qua phin lọc đó. Điều các thày muốn nói với con ở đây là với giáo lý các thày đã trao truyền về việc khắc phục ngã gốc cùng các ngã kia, con thực sự có khả năng đạt tới điểm trải nghiệm – con, cái Ta Biết, có thể trải nghiệm khi con đang đầu thai – những gì Hiện diện TA LÀ của con đang trải nghiệm. Con có khả năng trải nghiệm là chính mình, là Hiện diện TA LÀ hiện thân trên địa cầu, trong khi con đầu thai trên địa cầu. Trải nghiệm này là cách tối hậu để con làm hoà với việc mình ở đây trên trái đất.

Nhưng này con, thày muốn trình bày với con là hầu hết các con – thật ra thày có thể nói tất cả các con – đều đã từng có những thoáng trải nghiệm thế nào là chính mình trên địa cầu. Đôi khi con đã có một cảm nhận vô cùng vi tế nhìn cuộc sống một cách khác hơn. Có lẽ đó là một cảm nhận yêu thương, một cảm giác nối kết, một cảm giác nhìn địa cầu mà không đeo vào cái phin lọc bình thường của sự phán xét; con chỉ ngắm nhìn cái đẹp, có thể là cái đẹp của thiên nhiên, có thể là cái đẹp của con người, hay có lẽ vẻ đẹp của đứa bé ngủ say. Cho dù đó là gì đi nữa, đây là những khoảnh khắc con bắt được một vẻ đẹp nào đó.

Đằng sau cái đó còn có thể có cảm nhận là con hoàn toàn trung hòa đối với mọi sự xảy ra trên địa cầu. Con không phân tích hay phán xét mà con chỉ trải nghiệm. Con đang trải nghiệm nó không qua tất cả những cái ngã tách biệt kia, mà kỳ thực con trải nghiệm như sinh thể mà con thực là. Không có phán xét, không có phân tích, không có mục đích. Không có gì mà con phải làm. Con chỉ trải nghiệm địa cầu. Đây là một trải nghiệm mà dần dần con có thể có được ngày càng thường xuyên hơn. Chúng ta có thể gọi đó là con ở trong tâm thái trung hòa, nhưng chúng ta cũng có thể mô tả nó nhiều cách khác. Con có thể nói là con ở trong một trạng thái hợp nhất, một trạng thái nối kết, con không cảm thấy mình lẻ loi ở đây trên trái đất. Con không cảm thấy mình không thuộc về nơi đây vì con đang nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, và vì vậy con cũng thuộc về mọi nơi khi con nối kết như vậy.

Điều hoàn toàn thông cảm được là sự kiện hầu hết các con đã không cảm thấy mình ở nhà mình trên hành tinh này. Chính thày đây cũng đã không cảm thấy mình ở nhà khi thày còn hiện thân. Ngay cả trong kiếp đầu thai chót, thày cũng không cảm thấy ở nhà. Khi thày đứng đó trước cây thập giá và chứng kiến con trai mình lìa đời, thày đã không cảm thấy ở nhà chút nào trên hành tinh này. Thày chỉ muốn đi khỏi nơi đây. Dẫu vậy, thày cũng có những lúc cảm nhận được sự nối kết đó, sự hợp nhất đó, và thày an bình khi ở đây. Đối với con khi con tiếp tục làm việc trên ngã tách biệt và loại bỏ ngã gốc, con có thể đạt tới điểm con nói: “Tại sao tôi lại chọn đến trái đất nhỉ? Bởi vì tôi, sinh thể rộng lớn hơn mà tôi LÀ, đã muốn trải nghiệm chính tôi trong loại môi trường này.”

Khi con không bị tất cả ngã tách biệt kia lôi kéo vào các khuôn nếp phản ứng, con có thể có được trải nghiệm này. Bất kể hành tinh này như thế nào, bất kể nó gian nan thế nào, con người khó khăn thế nào, con vẫn cảm thấy con đang là chính mình trên hành tinh này. Thày hiểu hoàn toàn là đối với đa số các con, cảm giác này sẽ bắt đầu khi con một mình, khi con ở trong một tâm thái thiền định, tĩnh lặng và không có gì bên ngoài quấy rầy con. Sau đó con có thể có những hé thoáng nhận biết cao hơn. Thày cũng gợi ý là mặc dù thày đã không thực hiện được trong kiếp đầu thai chót, và Giê-su cũng không thực hiện được trong kiếp đầu thai chót, nhưng thày vẫn muốn gợi ý cho con là hầu hết các con đều có khả năng trong kiếp này đạt tới điểm cảm thấy như vậy trong mọi lúc. Nó chỉ trở thành một hậu cảnh cho trải nghiệm của con trên trái đất.

Có thể con sẽ vẫn gặp một số tình huống rất căng thẳng khi con không nhận biết ý thức là cảm giác đó có mặt. Con tập trung vào tình huống mà con phải đương đầu. Một khi tình huống được giải tỏa, con có thể học cách quay trở lại trạng thái nhận biết nối kết rộng lớn hơn, hầu con không bao giờ cảm thấy đơn độc ở đây. Con không bao giờ cảm thấy là mình không thuộc về nơi đây vì con nhận ra địa cầu không phải là nhà mình. Không có gì trong bát cung vật chất là nhà mình. Hiện diện TA LÀ của con mới là nhà của con. Khi con kết nối với Hiện diện TA LÀ đó, thì bất cứ nơi đâu con cũng ở nhà, vì môi trường vỏ ngoài không thật quan trọng nữa.

3.8. Những gì phải hay không được xảy ra trên địa cầu

Con sẽ cần gì để tiến lên trạng thái đó? Thày biết thày đang đặt ra một mục tiêu hơi cao. Thày không chờ đợi con sẽ làm được trong vòng năm phút. Con cần gì để khởi sự? Con cần phải suy ngẫm trước hết về quyền tự quyết. Khi con hiểu những gì thày vừa nói, rằng trái đất chỉ đơn giản là một hành tinh cho các sinh thể đã chọn thám hiểm xem họ có thể dấn thân vào tách biệt sâu đến chừng nào trước khi họ không chịu nổi nữa, thì con có thể thấy thật là vô nghĩa mà đặt ra cái gì phải xảy ra hay cái gì không được xảy ra trên một hành tinh như trái đất.

Có thể con mang một ký ức nào đó về hành tinh tự nhiên. Con có thể nhìn trái đất và thấy con người đau khổ đến chừng nào do chiến tranh, xung đột hay điều này điều nọ. Con có thể bảo là con người không được đau khổ, cho nên các biểu hiện kia không được có mặt. Đây là một mối quan tâm chính đáng trên một hành tinh tự nhiên, nhưng nó không có giá trị trên một hành tinh phi tự nhiên. Nó không xây dựng. Nó chỉ đặt con vào một tâm trạng phản xây dựng sẽ ngăn cản con an bình với sự có mặt của con trên trái đất. Khi con xét đoán là một điều gì không được xảy ra trên trái đất thì ngay giây phút đó, con đã tự đặt mình vào một chiếc hộp nơi con không thể an bình.

Con cần tìm được cách chuyển tâm để nhận ra là bất cứ điều gì xảy ra trên địa cầu đều là do có ai đó chọn biểu hiện điều đó vì họ cần đến trải nghiệm đó. Nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết – và con sẽ cần lòng tôn trọng này để có thể an bình trên một hành tinh như thế này – thì con có thể nói: “Tôi cần cho phép những người đó đau khổ như họ đã chọn đau khổ. Tất nhiên tôi cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của tôi để tôi không phải đau khổ giống như họ. Tôi không phải đồng cảm với họ. Thậm chí tôi không phải thương hại họ. Tôi không phải chú ý đến đau khổ của họ nếu cái đó lấy mất sự an bình của tôi.”

Điều thày muốn nói ở đây là con cần phải kinh qua một giai đoạn, như các thày đã có trình bày, là con lựa bỏ ra khỏi đời con một số chuyện không mang tính xây dựng cho sự tăng triển của con. Con nói: “Ngay bây giờ, thật không xây dựng cho tôi nếu tôi cảm thấy thương hại hay trắc ẩn đối với những người đang đau khổ. Vì vậy, tôi có thể chấp nhận là tôi không dành sự chú ý của mình cho nỗi đau khổ của họ.”

Có thể điều này không phải là mãi mãi, nhưng con cần phải đi muốt cơ chế này mà thày đang mô tả, khi con cảm thấy có điều gì không được xảy ra và nó tước đi an bình của con. Để con tìm thấy an bình, thật cần thiết và cũng chấp nhận được là con kinh qua một giai đoạn khi, trên cơ bản, con bỏ qua sự đau khổ của người khác và tập trung vào việc khắc phục tất cả những ngã tách biệt kia, những ngã phản ứng kia. Có thể sẽ tới một ngày khi con đạt được một mức độ bình an nội tâm thì bấy giờ, con có thể quay ra ngoài và tìm cách giúp đỡ người khác, thách đố người khác hay bất cứ gì con cảm thấy cần làm, nhưng con làm vậy từ một trạng thái an bình nội tâm thay vì từ một trạng thái bất an, một trạng thái bực dọc, một trạng thái nơi con không ngừng xét đoán là có điều gì không được có mặt ở đây.

3.9. Con không ngu ngốc

Con thấy không, con yêu dấu, những gì sứ giả này vừa nói quả là đúng. Khi con cảm thấy mình ngu ngốc đã đến đây, thì tự động con cũng bắt đầu xét đoán là người khác ngu ngốc khi họ không đáp ứng với con và không để cho con giúp họ. Điều này cũng có nghĩa là con đang tự giam mình trong một chiếc hộp nơi con tự phán xét là mình có thể ngu ngốc hay sai lầm khi đến địa cầu.

Con yêu dấu, điều trước tiên, chính sa nhân đã đặt ra chuẩn mực này trên địa cầu và con đã dần dà chấp nhận chuẩn mực của sa nhân. Giờ đây con đang tự phán xét mình y như sa nhân phán xét con, chứ không như các chân sư thăng thiên nhìn con. Hơn thế nữa, con yêu dấu, con cũng không đang tôn trọng quyền tự quyết của con. Như thày đã nói: Tại sao con chọn đến địa cầu chứ? Là vì con muốn tự trải nghiệm chính mình trong môi trường này. Con yêu dấu, làm thế nào chọn lựa này sai lầm được chứ? Làm sao có chuyện sai lầm khi con mong muốn trải nghiệm chính mình trong một môi trường đặc thù? Đây chính là mục đích và ý nghĩa của một người đồng sáng tạo. Chắc chắn là khi con vươn lên những tầng nhận biết cao hơn thì mục đích của con là tự trải nghiệm trong một môi trường đặc thù, và bằng cách nhìn xem mình đáp ứng thế nào với môi trường này thì con tăng trưởng. Không bao giờ có thể có gì sai quấy trong chọn lựa này. Đơn giản, đó là một chọn lựa rất chính đáng và sáng giá. Con đã chọn đóng góp để nâng cao bầu cõi của con bằng cách đến một hành tinh như địa cầu và trải nghiệm chính mình ở nơi đây.

Con có thể nói: “Thế còn chuyện con muốn giúp nâng cao địa cầu thì sao? Chẳng phải tất cả chúng con đều là người đồng sáng tạo và mục đích chúng con là nâng cao toàn bầu cõi, và hiển nhiên một hành tinh phi tự nhiên chẳng cần được nâng lên hay sao?” Điều này đúng, nhưng câu hỏi là: Làm thế nào con giúp nâng cao địa cầu, một hành tinh như địa cầu? Không phải bằng cách làm cái gì đó! Nếu con đã quên, con hãy đọc lại quyển sách của thày Nada một lần nữa, ở đó thày giảng về việc ở đây mà không làm gì và làm thế nào con người đã tạo ra tất cả mọi vấn đề khi cố làm một cách cưỡng ép. Làm thế nào con thực sự nâng cao được địa cầu? Bằng cách ở đây, bằng cách ở ngay đây.

Không cứ là những gì con có thể làm hay có thể nói bên ngoài sẽ thay đổi được địa cầu, mà là chính sự kiện con đã đến đầu thai, và vì vậy ở một mức độ nào đó, con là một điểm trụ neo, một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ. Nếu con thực sự muốn đóng góp thay đổi địa cầu, con hãy trở thành một cánh cửa càng ngày càng mở rộng hơn cho Hiện diện TA LÀ. Con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa. Con không xét đoán trong tâm vỏ ngoài là con phải làm hay không được làm gì, rằng ánh sáng phải chiếu toả như thế nào, rằng thay đổi nào là cần thiết và người khác phải phản ứng ra sao. Con yêu dấu, con chỉ để cho ánh sáng chiếu tỏa. Đây là cách thực sự thay đổi địa cầu. Không bao giờ có chuyện con phải xuống đây ở tầng tâm thức 48 và ngay lập tức là một cánh cửa hoàn toàn rộng mở cho Hiện diện TA LÀ của con, mà đây là một tiến trình vì con khoác vào tâm thức tầng 48 rồi chứng tỏ làm cách nào con có thể vươn lên từ đó.

Con yêu dấu, hãy nhìn lại các kiếp sống của con, rồi nhìn xem con đang đứng ở điểm nào. Tại sao con đang ngồi đây nghe bài truyền đọc này? Vì con đã chứng tỏ được tiến trình nâng cao tâm thức của con, con đã chứng tỏ được điều đó qua cuộc đời của con cho tới điểm này. Thày không bảo là con sai lầm, hay thiếu sót, hay con làm chưa đủ. Thày chỉ nói là con có khả năng đưa tiến trình này xa hơn nữa, cho đến một điểm con chứng tỏ làm cách nào người ta có thể khởi sự ở một tầng tâm thức nào đó, đạt được an bình nội tâm và hoàn toàn an bình với việc mình ở đây trên một hành tinh như thế này. Đó chính là tiềm năng cao nhất của con, là những gì hầu hết các con đều đã ấn định trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình là tiềm năng cao nhất. Con đã muốn đến đây để chứng tỏ sự an bình.

Cho nên không có chuyện gì đáng trách, không có chuyện con đã làm gì sai trái. Con đã làm đúng y như những gì con cần làm. Con chỉ cần bước thêm một số bước để đạt đến an bình nội tâm khi con thật sự vui hưởng trải nghiệm bản thân mình trên hành tinh này mà con gọi là trái đất. Cho dù có khó khăn đến đâu, con vẫn có thể tránh bị lôi kéo vào tất cả những khó khăn đó, con vẫn có thể trải nghiệm Bản ngã của mình, trải nghiệm Hiện diện TA LÀ của con đang nhìn và đang trải nghiệm trái đất như thế nào. Đó, con yêu dấu, là an bình.

Bất kể hành tinh này có như thế nào, con hãy yên tâm là ngay từ giây phút con hiện thân ở đây lần đầu – cho dù cái Ta Biết hay ngã vỏ ngoài đã nếm trải những gì – thì Hiện diện TA LÀ của con vẫn hoàn toàn an bình với mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Hiện diện TA LÀ của con biết rõ là cái ta thực của con không thể bị bất cứ gì xảy ra trên trái đất tác động. Con đã biết điều này trước khi con đến đây, và con yêu dấu, đó là tại sao việc con đến đây không phải là một lựa chọn ngu ngốc. Con chỉ quên mất nhận biết này mà thôi.

Các thày đã cho con các dụng cụ để con hồi lại nhận biết đó, và nhờ vậy con cũng hồi lại niềm an bình mà con đã có trước khi đến đây.

17 | Tầm nhìn omega về sự phán xử

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 21/5/2018, nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary. Con yêu dấu, khi con trải nghiệm một bài giảng như bài chúng ta vừa trải nghiệm của Giê-su, thày nhớ lại khi hiện thân cùng với Giê-su, thỉnh thoảng thày ngồi đó mà cảm thấy gần như kinh ngạc khi nghe Giê-su phát biểu. Trong Kinh thánh có kể lại, “không có một người nào nói chuyện giống như người này,” và chắc chắn Giê-su có một cách sử dụng ngôn ngữ thật độc đáo, đẹp tuyệt vời. Ngay cả khi là một chân sư thăng thiên, tất nhiên thày cũng có thể trải nghiệm một bài truyền đọc. Thày trải nghiệm nó một cách khác hơn vì không những thày trải nghiệm sinh thể thăng thiên đang phát biểu như vị đó đang ở cõi thăng thiên, mà thày cũng trải nghiệm những gì tuôn ra qua trung gian sứ giả này.

Khi con xét đến sự khó khăn, khoảng cách rung động, khoảng cách trong mức tâm thức, khi con xét đến địa cầu này dày đặc chừng nào, thì con thấy được nỗi khó khăn trong việc đem Bản thể của một chân sư thăng thiên vào cõi này qua trung gian những lời nói của thế gian. Con phải ngưỡng phục khả năng của Giê-su đã có thể bày tỏ Bản thể của thày nhiều đến như vậy trong cõi dày đặc này. Nhưng con cũng phải gần như kinh ngạc khi thấy làm thế nào nguyên tiến trình giao tiếp từ cõi thăng thiên thông qua một sứ giả chưa thăng thiên lại có thể thực hiện được.

Đôi khi các thày biết là các đệ tử của mình có thể xem việc này là đương nhiên, họ cảm thấy: “Vậy à, chuyện này xem có vẻ dễ quá – sứ giả chỉ việc đi lên đó, nhắm mắt lại rồi mọi chuyện bắt đầu tuôn chảy.” Khi con nhận thức độ dày đặc của cõi này, đó thật là một tiến trình độc đáo mà con không nên cảm thấy nó quá dễ đến độ xem đó là chuyện thường tình.

17.1. Mặt omega của sự phán xử

Điều thày mong làm hôm nay là đem lại cho con phần nào góc nhìn omega của bài giảng của Giê-su. Mỗi lần các thày đề cập đến việc đem lại phán xử Ki-tô và thách thức sa nhân, luôn luôn có một tỷ lệ trong số các con sẽ có một phản ứng cưỡng lại. Không phải là thày đang chỉ trích con có phản ứng như vậy. Thày sẽ chỉ ra cho con thấy là có hai khía cạnh trong lý do vì sao con lại có phản ứng, vì sao con có thể cảm thấy do dự ngần ngại, vì sao con có thể không thích công việc này: “Có thật đây là việc của tôi? Tôi nên làm gì đây? Tôi không xem mình là một người hướng ngoại, tự tin lắm,” cùng nhiều ý nghĩ khác mà con có thể có.  

Con yêu dấu, như Giê-su đã nói, vũ khí chủ yếu của sa nhân là lòng ngờ vực, và tất nhiên nhiều người trong các con mang lòng ngờ vực này. Thật ra, tất cả các con nếu chưa giải quyết chấn thương nhập đời đều sẽ ngờ vực, lòng ngờ vực của sa nhân. Một phần trong phản ứng mà con có thể có chỉ đơn giản phát xuất từ đó. Con chưa giải quyết xong ngã gốc của con cho nên con mới cảm thấy do dự như thế. Thày có thể cam đoan với con là một khi con giải quyết ngã gốc, con sẽ không còn do dự như vậy nữa, ít ra khi con làm cuộc xoay chuyển mà Giê-su nói đến.

Dù sao thì điều thày muốn trình bày là như Giê-su có nói, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con sẽ thăng thiên sau kiếp này. Cũng vậy, không phải tất cả các con đều có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc xông ra thách thức sa nhân một cách công khai. Điều Giê-su nói đến là khía cạnh alpha của việc thách thức sa nhân, là khi con lên tiếng về các ý tưởng của chúng, thậm chí con có thể sẵn sàng chạm trán với chúng ở mức cá nhân và cho phép chúng tấn công con hầu chúng phải nhận phán xử Ki-tô. Đối với những con còn lại, việc này không nằm trong Sứ vụ của con, không phải là những gì con đã ghi vào Sứ vụ về cách biểu hiện quả vị Ki-tô của mình ra sao. Và tất nhiên như mọi thứ khác, quả vị Ki-tô cũng có một mặt alpha và một mặt omega.

Vậy đâu là cách omega để thách thức sa nhân và đem lại phán xử Ki-tô trên sa nhân? Con yêu dấu, đó là yêu thương sa nhân. Ở tầm mức cá nhân, đây có thể là khi con chọn có quan hệ với sa nhân, dù trong phạm vi gia đình hay một mối quan hệ nào khác. Con đã chọn có liên hệ mật thiết với một số sinh thể sa ngã nhất định. Nếu con hòa điệu với Sứ vụ và nhìn xem những gì được thảo vào đó, có thể con sẽ nhận ra là kỳ thực con sẽ hiểu lầm Sứ vụ của con nếu con quyết định bằng tâm vỏ ngoài, dựa trên các lời dạy đã được ban ra, rằng: “Bây giờ tôi cần phải thách thức những người đó.” Nếu con là người uy thế trong giới quen biết của con, con quyết định: “Tôi cần thách thức người này.” Hay nếu con cảm thấy ai đó có thể là sa nhân, con nghĩ con cần thách thức người đó.  

Thày yêu cầu con hãy hòa nhập và không vội bắt đầu thách thức bất cứ ai cho đến khi con biết trong Sứ vụ mình có gì, cho đến khi con cảm thấy điều này đến từ bên trong. Không phải là con cần có một ấn tượng tận mắt về Sứ vụ rồi con xông ra thách thức sa nhân. Không, con đi theo trực giác của con. Nếu con nhận được thúc giục của trực giác để thách thức ai đó thì con cứ việc làm, nhưng con không quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con phải thách thức họ.

Đặc biệt đối với các con cảm thấy do dự, thày yêu cầu con hãy trước tiên làm việc với chấn thương nhập đời của mình. Ngay cả khi con đã khắc phục được chấn thương nhập đời, thày yêu cầu con hãy hoà nhập và nhìn xem: “Việc tôi xông ra thách thức người khác có thật là chọn lựa của tôi không? Hay thay vào đó, chọn lựa của tôi là thương yêu họ?” Sau đó con cần nhận ra là trong việc hoàn thành ý muốn và tiềm năng cao nhất cho Sứ vụ của con, chúng ta không đang nói đến chuyện yêu thương sa nhân theo cách thế phàm. Chúng ta đang nói đến việc yêu thương sa nhân theo một cách mà các thày gọi là vô điều kiện, và bây giờ thày muốn trình bày sự khác biệt cho con thấy.

17.2. Tình yêu nhân thế và tình yêu vô điều kiện

Con thấy đó, con yêu dấu, cách vô điều kiện, tình yêu vô điều kiện chỉ có thể được trao khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời của mình – nếu con là một avatar. Nếu con không là avatar mà là một cư dân nguyên thủy của trái đất, con cần vươn lên một mức cao của quả vị Ki-tô trước khi con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện, vì tất nhiên, tình yêu có điều kiện xuất phát từ một tâm lý chưa giải quyết. Nhiều khi các thày đã gọi đó là tình yêu sở hữu khi con nghĩ mình yêu ai đó, nhưng con làm vậy là vì con cho rằng người kia có thể cho con điều gì đó sẽ giúp con trở nên trọn vẹn, hoặc sẽ che lấp vết thương của con để con không cảm được vết thương. Đó là tại sao khi người ta yêu, người ta thường ở trong một trạng thái hưng phấn không cảm thấy vết thương của mình, hay bay bổng lên chín tầng mây và mọi chuyện đều tuyệt vời.

Lý do đơn giản là vì ngay lúc này họ không nhìn thấy vết thương, họ không đang cố giải quyết nó. Nhưng rồi một khi tuần trăng mật kết thúc, họ bắt đầu lại cảm được vết thương. Và họ phóng chiếu: “Ồ, người này không phải là tình yêu đích thực mà tôi hằng khao khát, cho nên tôi cần tìm người khác.” Tất nhiên, chuyện này có thể lặp đi lặp lại nhiều lần.

Chừng nào con còn mang những vết thương đó, đặc biệt là chấn thương nhập đời, con sẽ không thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện. Lấy ví dụ tình huống được mô tả trong quyển Các kiếp của tôi là sự phán xử của Lucifer, khi nhân vật chính trong sách bày tỏ tình yêu vô điều kiện đối với Lucifer – và đó là cơ hội chót của Lucifer. Liệu y sẽ đáp lại tình yêu vô điều kiện được biểu lộ bởi một người y đã quen biết trong cõi đầu thai vật lý? Nếu sa nhân không đáp lại tình yêu vô điều kiện thì đó chính là sự phán xử đối với sa nhân, là sự phán xử của Ki-tô.

Có thể một số các con cảm thấy đây là điều con chủ tâm muốn làm. Có một ai đó trong phạm vi ảnh hưởng của con mà con cảm thấy không nên thách thức. Vai trò của con không phải là thay đổi họ mà chỉ đơn giản là giúp họ nhìn ra một cách khác, một trạng thái tâm thức khác, cho nên cuối cùng sẽ tới một điểm con có thể bày tỏ tình yêu vô điều kiện. Có lẽ không nhất thiết họ là sa nhân, có lẽ họ là một người hay một cư dân nguyên thủy của trái đất, thậm chí còn có thể là một avatar. Họ có khả năng biến đổi khi trải nghiệm một dạng tình yêu khác hơn là loại tình yêu họ đã từng trải nghiệm trên địa cầu.

Chắc chắn đó là một cách để con chứng tỏ là có một trạng thái tâm thức khác. Nói cách khác, điều hoàn toàn chính đáng trong khía cạnh alpha của quả vị Ki-tô là con bày tỏ một số quan điểm cùng ý tưởng, hay ngay cả con thách thức ý tưởng của người kia và giải thích tại sao đó là những ý tưởng nhị nguyên và tại sao chúng không phải là cao nhất. Nhưng khía cạnh omega là khi con chứng tỏ một trạng thái tâm thức khác hơn qua tình yêu vô điều kiện, qua việc yêu thương người khác. Hiển nhiên, điều này cũng áp dụng cho các thành viên trong gia đình con dù họ có là sa nhân hay không. Tất nhiên, thày không bảo con hãy đi vòng quanh, điểm mặt từng người con gặp và cố xét đoán họ với tâm vỏ ngoài: “Người này có phải là sa nhân hay chăng?” Vì như vậy, con có thể đặt ra trong tâm mình đủ loại tiêu chuẩn bảo rằng khi có ai xử sự thế này thế kia thì bắt buộc họ phải là sa nhân.

Con yêu dấu, các thày đã chứng kiến trong các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên nguyên cả tổ chức với hàng ngàn thành viên dựng lên một nếp văn hóa vô cùng xét đoán. Trong một số trường hợp, mọi người tin chắc những người kia đều là sa nhân, và các thày đã thấy hiện tượng này biến thành gần như một bộ môn thi đấu nơi người ta tranh nhau phơi bày người nào là sa nhân, người nào không. Họ chạy loanh quanh buộc tội lẫn nhau, và nói chung, họ nghĩ bất cứ ai bất đồng với mình đều phải là sa nhân. Hiển nhiên, đây không phải là một tâm thái cân bằng và cũng không phải là điều các thày khuyến khích.

Tương tự, các thày cũng không khuyến khích con rơi vào xu hướng được tìm thấy trên thế giới gọi là thiện cảm dành cho ác quỷ, khi con nghĩ rằng con phải yêu tất cả mọi người. Thày Giê-su đã có nói về những người trong cộng đồng Thời Mới không chịu thừa nhận bất kỳ sự xấu ác nào. Có một số người khác tuy thừa nhận có xấu ác trong thế gian nhưng lại cho rằng cách khắc phục xấu ác là qua tình thương. Đúng vậy, cách khắc phục xấu ác là qua tình yêu nhưng đó phải là tình yêu vô điều kiện. Nếu không, nếu đó là tình yêu sở hữu, thì sa nhân sẽ chỉ đơn giản sử dụng tình yêu đó để lôi kéo con vào một khuôn nếp phản ứng.

17.3. Có quan hệ với sa nhân

Hẳn là có một số trong các con sẽ cần nhìn ra là để vươn lên tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của mình, con cần nhìn nhận là con từng ở trong mối quan hệ với một sa nhân nào đó trong nhiều kiếp sống. Con sẽ cần tới điểm nhận diện điều này, và khi đó, con cần nhìn xem các vết thương, các cơ chế đã buộc con vào sa nhân đó là gì. Con cần nhìn xem các tin tưởng đứng đằng sau là gì, và cuối cùng con sẽ lần lần nhận ra là ở một tầng cấp nào đó của bản thể con, con đã nghĩ là mình có khả năng thay đổi sa nhân đó qua việc quan hệ với họ. Bằng cách yêu thương họ, con có thể thay đổi họ.

Đây là khi con cần bước lên một bước và thể nhập những gì Giê-su đã nói về sự tuyệt đối của quyền tự quyết. Con không ở đây để thay đổi bất cứ ai dù là sa nhân hay không. Có thể nói, con đặc biệt không ở đây để thay đổi sa nhân. Nếu con cố thay đổi một cư dân nguyên thủy của trái đất thì trong nhiều trường hợp, người đó sẽ làm ngơ con. Nhưng sa nhân sẽ không làm ngơ con nếu con cố thay đổi chúng, chúng sẽ sử dụng con, chúng sẽ dùng ý muốn thay đổi của con đối với chúng để buộc chặt con lại với chúng, và ít nhất, để bòn rút năng lượng, đánh cắp năng lượng của con. Trong những trường hợp khác, chúng sẽ khuynh đảo, hay ngay cả tìm cách tiêu diệt con qua mong muốn cải tạo sa nhân của con.

Là một avatar, con thực sự phải đạt tới điểm nhận diện xem con đã rơi vào khuôn nếp đó hay không, con có ý muốn thay đổi sa nhân hay không. Sau đó, con phải hoàn toàn buông bỏ cái đó, phải để cho ngã đó chết đi. Con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô nếu con ở trong tâm thái đó, mà trong cốt lõi là một khuôn nếp phản ứng lại sa nhân. Mong muốn cải tạo sa nhân sẽ luôn luôn nảy sinh từ chấn thương nhập đời khi con phải gặp chúng lần đầu tiên. Con đã bị chấn động, rồi một cách nào đó con đã tạo ra – trong nhiều trường hợp – cái quá trình lập luận rất dài dẫn con từng bước đến kết luận là những gì sa nhân đã gây cho con cũng trưng bày những gì chúng gây cho hành tinh. Và cách tốt nhất để giúp thay đổi hành tinh là con lựa ra một sa nhân nào đó, con có quan hệ thân thiết và nỗ lực cải tạo sa nhân đó.

Thế là cái đó trở thành một phần ngã gốc của con. Có thể có nhiều thứ khác trong ngã gốc mà qua đó con nghĩ con phải đem lại một số thay đổi cho địa cầu. Trong số đó là ý muốn thay đổi một sa nhân. Con không thể thực sự giải quyết ngã gốc cho đến khi con nhìn vào ý muốn thay đổi sa nhân này trước tiên và con buông nó ra. Con từ bỏ ý muốn đó vì con nhìn nhận sự tuyệt đối của quyền tự quyết, con nhìn nhận đó không phải là lý do con ở đây.

Ý muốn thay đổi một sa nhân không phải là cốt lõi ngã gốc của con. Cốt lõi ngã gốc là phản ứng của con trước chấn thương hay sự tàn bạo, sự lừa dối con đã phải đối mặt bất kể đó là gì. Để đối phó với chấn thương, con đã tạo ra cái ngã muốn cải tạo một sa nhân. Có thể nói đó là một khía cạnh của ngã gốc, nhưng ngã gốc của con đã không khởi đầu theo cách như vậy. Đây là tại sao để đi sâu vào cốt lõi của ngã gốc, con phải trước hết buông bỏ mong muốn cải tạo một sa nhân.

17.4. Sa nhân có thể được cải tạo hay không?

Điều này tất nhiên dẫn đến đề tài: “Sa nhân có thể được cải tạo hay không?” Thày sẽ xin con xem xét một câu hỏi chính xác hơn: “Liệu tôi sẽ bao giờ cải tạo được một sa nhân không?” Câu trả lời là: “Không, hoàn toàn không.” Không có gì chính con có thể làm hay nói sẽ cải tạo được một sa nhân. Hơn vậy nữa, không có gì con có thể làm hay nói sẽ thay đổi được bất cứ người nào khác. Tại sao vậy? Vì quyền tự quyết. Tuy nhiên, có nghĩa chăng là con bất lực, có nghĩa chăng là sự có mặt của con ở đây là bằng thừa? Không!

Để một người thay đổi, sẽ cần gì? Để một sa nhân thay đổi rồi bước theo một con đường hướng thượng, sẽ cần gì? Cả hai sẽ cần làm một chọn lựa. Con không thể buộc người khác chọn lựa. Con có thể buộc họ hành xử theo một cách nào đó và đây chính là điều sa nhân đã cố làm. Sa nhân cũng đã cố khuynh đảo và lừa dối để con phải lấy một số chọn lựa.

Nhưng nói cho cùng, con không có quyền lực để buộc người khác chọn lựa. Con có thể, như sa nhân thường làm, lợi dụng tâm lý của người kia và nhờ vậy thúc ép chọn lựa của họ. Con hiểu thày nói chứ: Ngay cả nếu con thúc ép chọn lựa của người khác thì việc này sẽ không cải tạo được họ, nó sẽ không cải tạo được sa nhân, nó sẽ không thay đổi được người kia theo một chiều hướng tăng triển tích cực.

Con có thể thay đổi họ theo một chiều hướng tiêu cực bằng cách cưỡng ép chọn lựa của họ, nhưng con không thể ép buộc một chọn lựa tích cực. Chọn lựa tích cực phải đến từ bên trong dòng sống đó, và trong nhiều trường hợp, chọn lựa sẽ chỉ đến sau khi họ đã nếm đủ một số trải nghiệm. Tất nhiên, điều con có thể làm là con có thể tạo cảm hứng cho họ chọn lựa cao hơn bằng cách chỉ ra cho họ thấy một giải pháp thay thế trạng thái tâm thức của họ, một con đường cao hơn. Bằng cách tạo cảm hứng và chứng tỏ cho họ thấy, con có thể khiến họ làm một chọn lựa khác. Không phải con đã bước vào tâm họ và tạo ra thay đổi trong đó, mà chính họ đã tự nguyện chọn lấy một chọn lựa khác.

Hiển nhiên, nếu họ không thấy con chứng tỏ trạng thái tâm thức cao hơn đó – hay như Giê-su nói: nếu thày đã không chứng tỏ là con có khả năng bước trên trái đất trong Tâm thức Ki-tô – thì họ đã không có sự tùy chọn. Đó chính là điều con có thể làm. Con có thể cho họ sự tùy chọn nhưng con không thể cưỡng ép chọn lựa của họ. Tất nhiên là con có thể làm giống như sa nhân và cố buộc mọi người phải chọn theo chiều hướng hạ, nhưng con yêu dấu, đó chắc chắn không phải là lý do con ở đây như một avatar. Con hãy nhìn vào bãi chiến trường trên trái đất, và đâu là nguyên do chứ? Là vì sa nhân đã buộc con người phải lấy những chọn lựa đẩy họ vào một vòng xoắn ốc hướng hạ. Như thày vừa nói, con không thể ép buộc một ai làm những chọn lựa sẽ đưa họ vào xoắn ốc hướng thượng. Là một avatar, con cần hoàn toàn rũ bỏ ý muốn cải tạo hay thay đổi bất cứ ai. Chỉ khi đó, con mới có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện.

17.5. Con không thể có tình yêu vô điều kiện

Tại sao thày lại nói là con không thể tình yêu nhân thế nhưng con có thể là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện? À, là vì tình yêu nhân thế là tình yêu sở hữu, có nghĩa là con có thể sở hữu nó, con có thể lấy nó làm của riêng. Trên thế giới có những người, thậm chí nhiều người, nghĩ họ là người tâm linh, là người Thời Mới, là người tràn đầy yêu thương. Họ yêu thương theo cách phàm phu, qua đó trong tiềm thức họ sử dụng tình yêu để được một cái gì đó từ người kia.

Trong một số trường hợp, họ không có ý định xấu ác, họ không thực sự trực tiếp lợi dụng người khác, nhưng bên trong, họ thầm mong người ta xem mình là tràn đầy tình thương. Khi họ bày tỏ tình yêu với ai đó, họ muốn khiến người kia chứng thực mong muốn của họ được xem là một người đầy tình thương. “Ồ, sao bạn là người hết lòng đến thế,” và như vậy họ cảm thấy mình được tán thành, tự ngã cảm thấy nó được tán thành.

Con không thể sở hữu tình yêu vô điều kiện, con không thể sở hữu tình yêu không sở hữu, nhưng con có thể mở tâm ra với nó như con mở tâm ra với quả vị Ki-tô. Tình yêu vô điều kiện là gì? À, đó chính là khía cạnh omega của tâm thức Ki-tô. Con không thể sở hữu tâm thức Ki-tô, con không thể cưỡng ép tâm thức Ki-tô. Con không thể dùng tâm vỏ ngoài – tâm nhị nguyên, tâm phân tích – để cưỡng ép. Con có thể mơ tưởng mình là Ki-tô nhưng làm vậy sẽ không biến con thành Ki-tô. Con có thể cố tạo ra những hiện tượng có vẻ cho thấy là tâm con có quyền năng to lớn trên vật chất, như ngay cả Lucifer cũng đã làm được trong sách. Đó không phải là quả vị Ki-tô. Con có thể có tình yêu nhân thế và khiến người ta nghĩ con có nhiều tình thương đến thế, nhưng đó không phải là tình yêu Ki-tô. Như các thày đã nói, Thánh linh thổi nơi đâu nó muốn, thì tình yêu Ki-tô cũng chảy như vậy, nhưng nó chảy vào bất cứ nơi nào có một lối mở. Phải có một lối mở, và nếu con mong muốn thay đổi người khác thì trong bản thể con sẽ không có khe hở để tình yêu vô điều kiện có thể chảy vào.

Rất, rất có thể là nếu con biểu lộ tình yêu vô điều kiện với một sa nhân thì y sẽ chối bỏ nó. Y sẽ bị bối rối bởi tình yêu đó, thậm chí y còn có thể buộc tội con, hay lánh xa và không muốn liên hệ với con nữa. Điều này con cần chấp nhận. Các thày đã có giảng về những cuộc xoay chuyển cách mạng. Các thày có nói là có thể đến một điểm khi con đã giải quyết tâm lý của mình, đã giải quyết ngã gốc và chấn thương nhập đời của mình, đã tiêu hủy hết năng lượng, đã để cho ngã chết đí, nhưng lại có một ngã tách biệt khác vẫn còn một sự gắn buộc nào đó.

Chẳng hạn con cảm thấy là nếu con là cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện thì con không thể bị chối bỏ, người khác không được chối bỏ con. Đã có những người đạt tới mức quả vị Ki-tô để có thể trở thành cánh cửa mở cho việc biểu lộ tình yêu vô điều kiện đối với một người khác, thế rồi tình yêu đó bị bác bỏ, và bởi vì họ mang cái ngã tách biệt đó cho nên đôi khi họ có thể rơi xuống một vòng xoáy hướng hạ. Họ bị dao động quá đỗi khi tình yêu đó bị từ chối đến độ nó kéo họ xuống một mức tâm thức thấp hơn. Thậm chí họ còn có thể quyết định sẽ không bao giờ tỏ lộ tình yêu vô điều kiện nữa.

Con cần nhìn nhận là ngay cả khi con có khả năng làm cánh cửa mở cho tình yêu vô điều kiện, con vẫn có thể còn cái ngã tách biệt đó cầm giữ một loại hình ảnh nào đó về những gì phải xảy ra khi con biểu lộ tình yêu vô điều kiện. Ví dụ, con có thể mang một cái ngã cầm giữ một hình ảnh về những gì phải xảy ra khi con nói lên sự thật của con và thách thức sa nhân hay khi con thể hiện bản thể cao của con.

17.6. Tránh cảm thấy bị chối bỏ

Con thấy đó, con yêu dấu, một lần nữa quả vị Ki-tô – khi con là Ki-tô Hằng Sống, khi con thể hiện quả vị Ki-tô – không có nghĩa là con tuyệt đối hoàn hảo, là con đã giải quyết xong mọi khía cạnh của tâm lý mình và con đã lên tới tầng 144. Con có thể, ngay khi con bước cao hơn tầng 48, có được những thoáng hiện khi con biểu hiện quả vị Ki-tô hay thậm chí một dạng cao hơn của tình thương. Khi con lên cao hơn tầng 96, con có thể có những thoáng hiện – ngày càng thường xuyên hơn, trong khoảng thời gian dài hơn – ngụ trong tâm thức Ki-tô. Con đang biểu lộ tình yêu vô điều kiện nhưng tất nhiên, con vẫn phải bước tiếp lên cho tới tầng 144. Có nghĩa là vẫn còn những ảo tưởng mà con chưa khắc phục, và một số ảo tưởng này có thể liên hệ tới việc con nghĩ rằng người khác phải hồi đáp con một cách trong sáng khi con tiếp cận họ trong sự trong sáng.

Con thấy đó con yêu dấu, các avatar đều đến từ những hành tinh tự nhiên. Trên một hành tinh tự nhiên, con quen với tình trạng khi con làm gì đó cho một ai với ý định trong sáng, thì người đó sẽ không trở mặt mà kết tội là con xấu. Khi con làm điều gì cho một sa nhân, hay ngay cả cho những con người trên địa cầu, có thể họ sẽ chối bỏ con một cách vô cùng hung hãn, hiểm độc, tàn nhẫn, cáo buộc. Ngay cả khi con đạt tới điểm có thể biểu hiện quả vị Ki-tô, cho dù là khía cạnh alpha hay omega, con vẫn cần lưu ý có thể còn một cái ngã, một ảo tưởng mà con chưa buông bỏ, và ngã này khiến con cảm thấy bị gạt bỏ, hay khiến con rơi vào những loại phản ứng tiêu cực khác khi người ta không phản hồi theo cách con chờ đợi.    

Vậy trong những trường hợp đó, con cần sẵn lòng nhìn vào chính mình và nắm lấy đó như một cơ hội khắc phục thêm một ảo tưởng, buông bỏ thêm một ngã tách biệt, hầu vươn lên tầng kế tiếp nơi con có thể biểu hiện tình yêu vô điều kiện nhiều hơn, ít dính mắc hơn với cách người ta tiếp nhận tình yêu đó. Nói cho cùng, để biểu hiện trọn vẹn tình yêu vô điều kiện, con cần phải hoàn toàn không dính mắc với cách phản hồi của người khác vì con không có bất kỳ ý định nào khi hành xử như vậy. Đóa hoa hồng nở ra trong vườn không hề có ý định lôi kéo người đi dạo phải dí mũi vào bông hoa. Nó không hề cảm thấy bị bỏ bê khi ai nấy đều rảo bước đi qua, bận rộn với chiếc điện thoại cầm tay vì họ nhất định phải trả lời cái SMS mới nhất cho bằng được.    

17.7. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô có thể đau đớn

Đây là những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô. Thày cũng hiểu đây không phải là những tầng thấp của quả vị Ki-tô. Con không cần tự trách mình khi con phản ứng như vậy. Một lần nữa, con không phải hoàn hảo để biểu hiện quả vị Ki-tô. Ở các tầng thấp hơn, con sẽ gặp một số tình huống, một số thời điểm, khi con là cánh cửa mở và có cái gì tuôn chảy qua con, có thể là một ý tưởng cao hơn, có thể là tình yêu vô điều kiện. Thế rồi bỗng chốc, giây phút huyền diệu đó bị phá vỡ, nếu có thể nói như vậy. Bây giờ con bước ra ngoài, trở về với mức tâm thức bình thường của mình, có nghĩa là con lại sử dụng mức tâm thức bình thường của con để phản ứng lại các hậu quả của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Nói cách khác, con phản ứng lại phản ứng của người khác, không ở mức quả vị Ki-tô con vừa biểu hiện trước đó mà với tâm thức bình thường của con.

Con yêu dấu, điều này không thể tránh khỏi, đó là một phần của con đường quả vị Ki-tô. Con có thể nghĩ chuyện này đã không xảy ra cho Giê-su nhưng hiển nhiên là nó đã xảy ra cho thày. Giê-su đã trải qua một giai đọan vô cùng do dự  biểu lộ quả vị Ki-tô của mình và thày thật nhạy cảm trước phản ứng của mọi người. Con thấy đó con yêu dấu, tất cả các thày đều đã kinh qua giai đọan này và các thày hoàn toàn không muốn khiến con nản lòng. Điều các thày muốn con nhận ra là sự kiện này không thể tránh khỏi. Con phải kinh qua giai đọan tạm thời này khi con xoay vào rồi lại xoay ra khỏi tâm thức Ki-tô, khiến con không thể tránh phản ứng lại trong tâm thức bình thường của mình những hậu quả của việc bày tỏ quả vị Ki-tô.

Điều này có nghĩa là nó có thể đau đớn, và nó có thể khó khăn. Thậm chí con còn có thể cảm thấy mình đã làm gì sai. Con đã quá mạnh mẽ, con đã quá cương nghị, hay con đã quá trìu mến, quá tốt bụng hay bất cứ gì khác. Con cần học cách nhìn xuyên thấu qua điều đó và nhận ra là phản ứng này trong con là một cơ hội để bước lên tầng tâm thức kế tiếp, để vượt qua ảo tưởng gắn liền với tầng tâm thức hiện thời và bước lên một tầng cao hơn nơi con có khả năng thể hiện nhiều quả vị Ki-tô hơn. Và khi con trở nên ý thức về quá trình này, con có thể mau chóng thực hiện cuộc xoay chuyển qua đó con không còn tự trách mình nữa, con không còn tự mắng mỏ, con không còn cảm thấy mình bất toàn. Con chỉ đơn giản nhận rõ sự thật tuyệt đối mà thật ra các thày đã cố truyền đạt cho con qua bộ sách về con đường tự điều ngự.

17.8. Phản ứng ở mức tâm thức của con

Trong quyển sách thứ sáu [Những Khai ngộ Thần bí về An bình], thày Nada đã nỗ lực hết sức giúp con nhìn ra là trên đường tu sẽ tới một điểm khi con nhìn nhận là con chưa đạt đến tầng tâm thức cao nhất. Con sẽ nhìn nhận là con đang ở tầng 87 chứ không phải tầng 144. Không ai đòi hỏi con phải có khả năng đối phó với cuộc sống trên địa cầu như con có thể làm ở tầng 144. Việc con phản ứng lại cuộc sống với tâm thức của tầng 87 – hay bất kỳ tầng nào khác ở chỗ con đang đứng – cũng hoàn toàn tốt thôi, hoàn toàn chấp nhận được từ các thày là chân sư thăng thiên.

Các thày không bao giờ đòi hỏi hay chờ đợi con phải phản ứng với một tầng cao hơn. Các thày không bao giờ lên án con vì con không phản ứng ở tầng cao hơn. Thày thừa biết đã từng có một số lời dạy và tổ chức của chân sư thăng thiên tạo ra một nếp văn hóa trách móc mọi người là không toàn hảo. Một lần nữa, các thày phải khởi đầu ở một điểm nào chứ.

Nhưng con có tiềm năng bước lên một mức nơi con có thể, theo một nghĩa nào đó, làm hòa với chính con người mà con đang là ngay bây giờ. Điều này không có nghĩa là con ngừng tăng triển và đi vào tâm thái nghĩ rằng: “À thế là tôi vô ngã rồi, tôi toàn hảo rồi, tôi không cần tăng triển nữa, tôi không cần xem xét bản thân nữa.” Con có thể làm hòa với sự kiện con đang đứng ở tầng tâm thức này, thay vì tự trách móc hay cảm thấy mình bị chậm trễ và đúng lý mình phải ở tầng cao hơn.

Các thày không muốn con sống hết kiếp đầu thai này mà cứ không ngừng cảm thấy mình còn tụt hậu, mình chưa đủ tốt. Con đang tốt đủ ở tầng tâm thức mà con đang đứng, và con không có lý do gì để lên án chính mình đã phản ứng ở tầng tâm thức này, thậm chí phản ứng lại việc mình đã biểu lộ quả vị Ki-tô cùng cách phản ứng của người khác.

Phản ứng của con, khi con sẵn lòng xem xét nó, là cơ hội để con nhìn ra ảo tưởng ở tầng hiện thời của con rồi vươn lên tầng kế tiếp. Đường tu luôn luôn đã từng là như vậy và sẽ luôn luôn là như vậy. Cũng y như vậy 2000 năm về trước khi Giê-su tiến gần đến tầng 144. Và cũng sẽ là như vậy cho tất cả chúng ta là những người đã từng hiện thân. Điều này sẽ không thay đổi chừng nào địa cầu chưa là một hành tinh tự nhiên. Tất nhiên là có thể có một sự chuyển đổi khi tầng tâm thức thấp nhất hiện thời không còn được phép có mặt trên địa cầu nữa.

17.9. Không có gì không ổn với vật chất

Cơ chế căn bản của đường tu là con đang ở một tầng nào đó. Con phản ứng theo cách như vậy. Bằng việc xem xét phản ứng, con có thể nhìn thấy cái ảo tưởng ở tầng đó hầu con vươn lên tầng kế tiếp. Đó là cơ học căn bản của đường tu tâm linh. Có thể nó có vẻ không hào nhoáng như một số người tưởng tượng, nhưng thày tin tưởng nhiều người trong các con đã tới được điểm nói rằng: “Tôi đã chán chê ảo tưởng rồi, tôi đã chán chê những mơ tưởng hoành tráng, tôi chỉ muốn biết đường tu vận hành như thế nào để tôi có thể tiến bước nhanh nhất, và tôi có thể vượt lên trên những cách phản ứng mất quân bình, tiêu cực, tự trách đó, và cảm thấy an bình khi ở đây.”

Nói cho cùng, con yêu dấu, làm thế nào con có thể an bình khi ở đây? À, con cần giải quyết chấn thương nhập đời vì chính đó là điều đã bứng con ra khỏi sự an bình con có trước đó khi con vừa đến đây như một avatar. Một phần trong tiến trình này, ngay cả khi con đã giải quyết chấn thương nhập đời, là sẽ vẫn còn một ngã tách biệt mà con cần xem xét. Ngã này tùy theo mỗi cá nhân, nhưng đó là ngã tách biệt con đã tạo ra khi con phản ứng lại cõi vật chất, cõi của vật chất, cõi của Mẹ, trong tình trạng nó hiện hữu trên trái đất. Con nhận thấy là trong tư cách một avatar, con đến từ một hành tinh tự nhiên nơi vật chất không dày đặc như thế này. Vật chất ít dày đặc thể hiện qua nhiều cách, nhưng một cách thể hiện là con không gặp phải những loại hậu quả con thấy trên trái đất. Trên một hành tinh tự nhiên, tâm con có quyền năng lớn hơn rất nhiều để thay đổi vật chất, và vật chất cũng sẵn sàng đáp ứng nhiều hơn với tâm con.

Con đã quen với việc mình có thể phạm vào cái con gọi là lỗi lầm. Nó có tạo ra một hậu quả vật lý nhưng khi con sẵn lòng đứng lui lại và thay đổi tâm thức, thì con có khả năng tháo gỡ và hoàn nguyên hậu quả vật lý đó. Nhưng khi con bước xuống trái đất và nhận ra là mình có thể làm một chọn lựa tạo ra một hậu quả vật lý và con không thể khắc phục hậu quả đó cho đến mãn kiếp đầu thai này – và thậm chí nó có thể đeo đuổi con trong cả những kiếp sau – thì con bị cú sốc. Con bị chấn động thấy vật chất dày đặc đến như vậy.    

Con hãy lưu ý là điều này không liên quan gì đến sa nhân cùng chấn thương nhập đời mà chúng đã áp đặt lên con. Đó chỉ đơn giản là phản ứng của con trước độ dày đặc quá đỗi của vật chất trên địa cầu, đến độ con có thể gây ra hậu quả mà con không thể dễ dàng tháo gỡ và nó sẽ dây dưa rất lâu. Điều này tạo ra một cái ngã tách biệt phản ứng, qua đó con thường xuyên rơi vào một phản ứng tiêu cực đối với cõi Mẹ. Con thường cảm thấy là con không thể thoải mái, con không thể an bình trong cõi Mẹ, rằng có một cái gì không ổn với cõi Mẹ, rằng cõi Mẹ không được như vậy.

Con cần bước tới cuộc xoay chuyển cách mạng là con sẵn lòng nhìn vào vấn đề đó và thực sự chấp nhận hành tinh địa cầu như một công cụ giáo huấn cho một bực thang tâm thức nhất định. Cho nên để cung cấp cho con người những bài học mà họ cần học, vật chất cần phải dày đặc như nó vốn dày đặc. Vật chất cần phải ù lì đối với tâm con người như nó vốn ù lì. Bởi vì nếu không, tuyệt đại đa số loài người trên trái đất sẽ không học được bài học của mình.  

Tuy nhiên, là một avatar, con không phải học cùng những bài học mà hầu hết mọi người khác trên địa cầu phải học. Do đó con có khả năng khắc phục, nhưng con sẽ chỉ có thể khắc phục nếu con sẵn lòng nhìn vào vấn đề, nếu con sẵn lòng bước tới điểm con chấp nhận chẳng có gì là không ổn với vật chất.

17.10. Phản ứng của con đối với vật chất

Chính phản ứng của con đối với vật chất đã khiến con nghĩ vật chất có gì đó không ổn. Cho nên việc giải quyết ngã tách biệt này là trách nhiệm của con. Chỉ khi nào con làm vậy thì con mới có thể tự do đón nhận sự hiện thân của mình trong cõi vật lý.

Để vươn lên cao hơn một mức quả vị Ki-tô nào đó, con phải an bình với sự kiện mình ở trong hiện thân vật lý. Vào thời của Giê-su, việc này khó thực hiện hơn rất nhiều, và đó là vì sao ngay cả Giê-su cũng không làm được hoàn toàn. Trong thời đại hôm nay, các con có tiềm năng đó. Đối với những ai trong số các con muốn ở lại trong hiện thân để đem lại Thời Hoàng kim của Saint Germain, điều vô cùng quan trọng là con đạt tới điểm khắc phục được mong muốn thoát ra khỏi nơi đây. Con khắc phục cảm giác là có gì không ổn khi vật chất đang là cái nó là. Con chấp nhận có mặt ở đây, con chấp nhận vật chất như nó vốn là.

Tất nhiên, làm sao con có thể chấp nhận vật chất như nó là nếu con không chấp nhận chính con một cách trọn vẹn, và làm sao con có thể chấp nhận mình trọn vẹn nếu con không vượt qua chấn thương nhập đời? Con thấy tất cả đều ăn khớp với nhau như thế nào. Con thấy tại sao các thày đã không ban ra giáo lý về Sứ vụ Thiêng liêng trước khi đưa ra giáo lý về chấn thương nhập đời. Khi con là một avatar, tất cả mọi thứ, con yêu dấu, đều xoay quanh chấn thương nhập đời. Như trong thành ngữ thông dụng, đó là con voi to tổ bố nằm chình ình ở đó mà không ai muốn nhắc tới. Có điều, tất nhiên, ngã gốc của con không phải là một con voi và nó cũng không to tổ bố. Nó chỉ là một cái ngã gần như không thực, không đến nỗi khó giải quyết như con tưởng. Đây chỉ là vấn đề sử dụng các dụng cụ, sử dụng các bài tập mà thày đã cho con, để con bước xuống thật sâu qua các khu vườn, rồi bước vào rạp hát và đơn giản nhìn thấy nó [Bài tập này có trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh]. 

Một khi con xoay chuyển khỏi ngã gốc, con sẽ ngạc nhiên sao chuyện này có vẻ dễ đến thế. Dĩ nhiên, các thày hiểu rõ là con không thể cưỡng ép bằng tâm vỏ ngoài. Con không thể dùng ngã gốc để xoay chuyển ra khỏi ngã gốc.

17.11. Tiếp tục dùng các dụng cụ

Cách con nhìn mọi thứ trên địa cầu, cách con nhìn giáo lý, là xuyên qua phin lọc của ngã gốc. Đó là tại sao các thày đã ban cho con những lời dạy có dụng ý đánh gạt tâm vỏ ngoài của con. Đó là tại sao các thày đã cho con những bài tập có khả năng lần hồi dẫn con tới điểm con có thể thực hiện xoay chuyển đó và nó xảy ra một cách tự nhiên. Con phải sẵn lòng áp dụng các dụng cụ, đi qua nguyên tiến trình. Con phải sẵn lòng mở tâm ra để nhìn thấy một điều gì mà con chưa thấy trước đây, thậm chí thấy cả ngã gốc. Con cần nhận thức là trong cương vị cái Ta Biết, con có khả năng tách mình ra khỏi ngã gốc, và đó là cách duy nhất con có thể thấy nó từ bên ngoài. Đó là cách duy nhất để con thấy nó. Con có các dụng cụ rồi nhé.  

Một lần nữa, con yêu dấu, đừng rơi vào phản ứng bảo rằng: “Ồ, Mẹ Mary nói chúng ta có tất cả dụng cụ nhưng tôi vẫn không thể nhìn thấy ngã gốc. Tôi đang làm gì sai đây?” Đó chính là ngã gốc đang nói chuyện đấy. Một lần nữa, hãy tiếp tục dùng các dụng cụ. Con yêu dấu, nếu con đã mang ngã gốc trong hai triệu năm qua, con không phải tự trách oán nếu con không thể giải tỏa nó trong vòng một tuần sau khi nhận được lời dạy. Có thể con sẽ tốn thời gian, nhưng lâu hay chậm sẽ chẳng quan trọng gì miễn là nó xảy ra. Miễn là nó xảy ra trong kiếp này thì con đã đột phá và hoàn thành tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng của con như một avatar. 

Với lời này, con yêu dấu, thày muốn tỏ lòng biết ơn đến tất cả các con đã đến tham dự hội nghị này. Không có nghĩa là thày sẽ niêm hội nghị vì đức Phật sẽ làm việc đó, nhưng thày muốn bày tỏ lòng biết ơn của Mẹ đối với sự sẵn lòng của các con, không những đã đến tham dự mà còn sẵn lòng áp dụng giáo lý mà các thày đã ban truyền qua bộ sách về ngã gốc, vân vân.

Chắc chắn nếu không có một túc số tới hạn những đệ tử – cả những người có mặt ở đây lẫn những người không có mặt – đã tu tập những lời dạy này, thì các thày đã không thể đưa ra những gì vừa được đưa ra. Thày tin tưởng các con sẽ nhận diện đây là một bước cao hơn. Chắc chắn đây là một bước cao hơn tất cả những lời dạy khác mà con có thể tìm thấy về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng. Nó sẽ tạo uy lực cho nhiều người đột phá lên tầng cao hơn rồi nhờ vậy hoàn thành tiềm năng cao nhất của mình. Các thày rất biết ơn đã có thể ban truyền các dụng cụ này. Tất nhiên là các thày đã luôn luôn có thể làm vậy, nhưng các con cũng bắt đầu nhận ra – phải vậy không? – là các thày không thể đưa ra hết những gì mình có. Phải có một tiến trình tương tác qua lại, qua đó chỉ khi nào con người chấp nhận và áp dụng một lời dạy thì các chân sư mới có thể đưa ra lời dạy cao hơn.

Đối với những ai đã có, thì nhiều hơn sẽ được trao cho họ. Đó chính là nguyên tắc của việc nhân ta-lăng lên gấp bội. Các thày biết ơn các con đã nhân ta-lăng để các thày cũng có thể nhân nỗ lực đem lại nhiều hơn. Chẳng phải đây là một điệu vũ tuyệt vời hay chăng?  

3 | Khắc phục nỗi sợ sai trái

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 19/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Thày là chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và thày muốn xây đắp thêm trên nền tảng những lời dạy của bài giảng vừa rồi. Thày đã xin con thử hình dung là con được nâng lên tới tầng mức của thày và nhìn xuống địa cầu, nhìn vào tất cả mọi nhóm người và thấy họ đều mang một trạng thái tâm thức nào đó. Họ đều có một số điểm tắc nghẽn trong bốn thể phàm khiến các thày khó lòng đưa ra một thông điệp chạm được tâm ý thức của họ. Thày cũng đã xin con nhìn vào bản thân con cũng như cách con đã lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình từ một trạng thái tâm thức cao hơn tâm thức con mang lúc con bước vào kiếp đầu thai này. Điều thày muốn trình bày tiếp ở đây là trong công việc mà các thày đang làm có một nỗi khó khăn cơ bản, theo nghĩa là khi giảng dạy về cách phát hiện và thực hiện Sứ vụ Thiêng liêng, hiển nhiên các thày phải trình bày một cách tổng quát để lời dạy có thể áp dụng cho nhiều người khác nhau.

Con phải công nhận là khi con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình, đó là một tiến trình hoàn toàn cá nhân. Con gặp gỡ các chân sư cùng các vị hướng dẫn thăng thiên của con và chúng ta cùng nhìn vào dòng sống của con. Chúng ta nhìn vào những dòng sống khác mà con có mối liên hệ, qua nghiệp quả hay những loại liên hệ nào khác, và chúng ta thiết lập một kế hoạch cá nhân cho con. Lẽ tự nhiên trong một bài giảng như thế này, các thày không thể trình bày cho mỗi con Sứ vụ riêng của từng người. Điều con cần làm là sử dụng lời dạy tổng quát để khám phá ra Sứ vụ cá nhân của mình – và con sẽ làm thế nào đây?

Con yêu dấu, con chỉ có thể làm được từ bên trong. Thày cũng biết trên thế giới có rất, rất nhiều người tâm linh chân thành muốn biết mục đích đời mình là gì, cho dù con gọi đó là Sứ vụ Thiêng liêng hay một cái tên nào khác. Có lẽ chính con cũng đã làm chuyện này, hay con biết có ai đã tìm đến các nhà thần thông đủ loại, từ đồng bóng, nhà chiêm tinh cho đến người đọc sấm và thày bói tarot… bất kể, để xin họ ban cho con những lời chỉ dẫn mà con xem – nếu có thể nói như vậy – là lời chỉ dẫn không thể nhầm lẫn đối với tâm vỏ ngoài của con, theo nghĩa là con có thể nghe được bằng tai. Con yêu dấu, dựa theo đó thì con có thể nói: “À bây giờ chúng ta đã có một sứ giả do các thày bảo trợ, tại sao chúng ta không chỉ yêu cầu vị sứ giả truyền đọc dùm từ các chân sư thăng thiên và nói cho mỗi người biết về Sứ vụ Thiêng liêng của chúng ta, mỗi người 10 hay 15 phút gì đó?”

Ngoài vấn đề thời gian giới hạn, trên lý thuyết thì chuyện này có thể làm được. Các thày sẽ cho phép con đặt câu hỏi và các thày sẽ trả lời, và tiện thể các thày có thể đọc những lời tiên tri loại đó cho cá nhân từng người. Con yêu dấu, con hiểu là nếu các thày làm chuyện này thì thật sự nó sẽ phần nào đánh bại mục đích của Sứ vụ Thiêng liêng của con chứ? Vì lý do đó, các thày không khuyến khích là một khi con đã đến tầng mức này của đường tu tâm linh, con lại tìm đến bất cứ ai để xin họ nói cho con biết con cần phải làm gì, con là ai, con phải hành xử ra sao, đâu là Sứ vụ Thiêng liêng và mục đích của con, các tiền kiếp của con là gì hay điều này điều nọ. Những thứ đó thuộc về một mức tâm linh khác.

Thày không chỉ trích bất cứ ai làm chuyện đó, nhưng thày muốn chỉ ra cho con thấy rằng giáo lý mà thày trao truyền ở đây không nhắm vào mức tâm linh đó. Chúng ta có thể gọi đó là tầng mức của những người tìm cầu một sự kích động, một loại hào hứng vượt ra ngoài cuộc sống thường nhật, gần như là một loại giải trí vậy. Chúng ta có thể gọi đó là “tâm linh tiêu khiển”, nhưng các thày không muốn tỏ vẻ tiêu cực hay phê phán vì mỗi người phải đi theo con đường mà mình cần đi. Mong rằng, lần hồi, họ sẽ nâng cao tâm thức của họ. Điều thày muốn chỉ ra cho con là đối với các con đã mở tâm ra với lời dạy này, thì các con đã nâng tâm thức mình vượt khỏi tầng mức cần đến những thứ đó. Cho nên con cần nhìn nhận một điều thật đơn giản. Như thày đã nói tối qua, con đã bước vào kiếp sống hiện tại ở một tầng tâm thức nào đó. Đúng, thày đã cảnh báo là con không được quá dính mắc với tâm đường thẳng, nhưng tất nhiên các thày cũng đã cho con một lời dạy đường thẳng là trên địa cầu có thể có 144 tầng tâm thức.

3.1. Xoay chuyển tâm thức có nghĩa là gì

Để làm ví du, chúng ta thử lấy một người bước vào hiện thân ở tầng 67, và người đó có tiềm năng chứng được tầng 120 trong kiếp này. Điều này có vẻ như một bước nhảy rất lớn trong tâm thức, nhưng đối với rất nhiều các con đang ở mức này của đường tu tâm linh, đó thật không là một bước nhảy lớn lắm. Một số các con có thể đã đi vào hiện thân ở gần tầng 96 và thật sự có tiềm năng đạt đến tầng 144 trong kiếp này – không phải tất cả các con nhưng một số. Con không cần lo lắng mình đang đứng ở đâu theo nghĩa đó, vì thày chỉ đang cho con một ví dụ là con bước vào ở một mức nào đó và con có tiềm năng vươn lên một mức cao hơn. Toàn bộ mục tiêu của Sứ vụ Thiêng liêng là dẫn con kinh qua một loạt những sáng ngộ nội tâm, giải quyết tâm lý và trải nghiệm vỏ ngoài sẽ tạo điều kiện cho sự tăng triển tâm thức đó từ mức thấp nhất lên tiềm năng cao nhất.

Việc xoay chuyển tâm thức đòi hỏi những gì nơi con? Con yêu dấu, nếu có một khuôn mặt thẩm quyền nào đó ở bên ngoài tiết lộ cho con biết đây là Sứ vụ của con, đây là những gì đúng lý con phải làm, thì liệu điều này sẽ xoay chuyển tâm thức của con hay không? Không đâu con! Sự kiện một khuôn mặt thẩm quyền bảo con phải làm gì rồi con cố làm theo như vậy, sẽ không đem lại xoay chuyển tâm thức. Hơn thế nữa, cho dù con nhận được chỉ bảo là chẳng hạn trong Sứ vụ, con phải trở thành một nhà khoa học hạt nhân cống hiến một khám phá mới sẽ thay đổi cách sản xuất năng lượng trên địa cầu, thì rất có thể con sẽ quyết định với tâm vỏ ngoài là mình sẽ học môn vật lý hạt nhân với mục tiêu đó trong đầu, nhưng thày có thể đảm bảo với con là con sẽ không thể tìm ra khám phá đó.

Để khám phá một điều gì, hay ngay cả để nhận ra những tầng cao hơn trong Sứ vụ Thiêng liêng cá nhân của mình, con cần đưa tâm thức của con đi lên. Đó là tại sao việc khám phá Sứ vụ Thiêng liêng không phải là một việc con có thể làm trong một bước mà thôi. Đó là một tiến trình lần hồi, tuần tự, sẽ tiếp tục suốt đời con. Con thấy đó, con yêu dấu, con ở tầng 67 khi con mới bước vào kiếp này và con có tiềm năng đạt tới tầng 120, nhưng con không cần quan tâm đến chuyện này khi con đang ở những giai đoạn sơ khởi của đường tu.

Hãy giả sử con khám phá đường tu tâm linh ở tuổi 18 và trong thời gian đó con đã tinh tấn cao hơn tầng 67 một chút và con đang ở tầng 70. Quan tâm chủ yếu của con không phải là đạt tới tầng 120 mà là đạt tới tầng 71. Xong khi con đạt được thì con cố bước lên tầng 72 và cứ như vậy. Điều thày nói tới ở đây là một điểm rất nhiều các con có thể không nghĩ đến nhưng kỳ thực tất cả các con đều đã biết một khi con suy nghĩ thật sự. Cái biết và cái hiểu về một giáo lý tâm linh không đồng nghĩa với sự xoay chuyển tâm thức.

Con có thể dùng tâm phân tích đường thẳng để biết và hiểu một lời dạy tâm linh một cách trí thức, nhưng con vẫn chưa thật sự chuyển dời từ tầng 70 lên tầng 71. Chỉ khi nào con xoay chuyển tâm con thì con mới có khả năng nhìn thấy và thực hành tầng kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng. Con có thấy điều thày đang nói? Điều quan trọng là con nhận ra rằng việc phát hiện và thực hiện Sứ vụ của con là một tiến trình tác động qua lại sẽ tiếp diễn suốt đời con.

3.2. Không cần hốt hoảng

Đó là vì sao một số các con có thể sẽ nhìn lại đời mình và thắc mắc: “Liệu tôi đã đi theo Sứ vụ của tôi, liệu tôi đã làm gì sai sót hay không? À, thế cái lần tôi yêu người đó nhưng rốt cuộc mối quan hệ không đi tới đâu thì sao? Liệu có nghĩa chăng là một khía cạnh quan trọng trong Sứ vụ của tôi giờ đây bị chết yểu do quan hệ không thành? Hay có thể là do tôi đã lầm lỗi khi mình còn trẻ, hay tôi đã không học hành đến nơi đến chốn, hay tôi đã không tìm được việc làm kia?” Con có thể gần như rơi vào một tâm trạng hốt hoảng. Con hiểu là các thày không có ý trao cho con khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng để con rơi vào một trạng thái căng thẳng, hoảng sợ chứ con?   

Con cần nhìn nhận ở đây là con có thể nhìn ngược dòng đời và nói: “Liệu tôi có đã theo đúng Sứ vụ của mình hay không?” Nhưng thày sẽ hỏi: “Liệu con đã xoay chuyển tâm thức của con từ khi con bước vào kiếp đầu thai cho đến mức tâm thức hiện tại của con hay không?” Tất cả các con đều đã làm chuyện này, cho nên thày sẽ nói: “À như vậy thì chắc chắn con đã đi theo Sứ vụ Thiêng liêng của con rồi.” Có thể con chưa dời chuyển tâm thức nhiều đủ như con có khả năng dời chuyển. Toàn bộ mục tiêu của các thày khi trao cho con giáo lý này tất nhiên là để khiến con dời chuyển tâm thức đến điểm con bắt kịp mức tâm thức mà con đã có thể đạt được trong lý tưởng nếu con tinh tấn tối đa. Một số các con có thể hơi bị chậm trễ so với mức con đã có thể đạt đến, nhưng con có khả năng bắt kịp mau chóng bằng cách áp dụng những lời dạy mà các thày ban cho con. Nhưng đồng thời, con cũng đừng nên nuôi kỳ vọng là nếu con sử dụng giáo lý mà các thày đã ban ra (trong quyển sách này) thì chỉ trong vòng sáu tháng hay một năm, con sẽ thấy viễn quan toàn diện của Sứ vụ Thiêng liêng hiện ra trước mắt với nguyên một đoàn thiên thần thổi kèn bên sau.

Như thày vừa nói, con sẽ không thấy được trọn vẹn Sứ vụ của mình ở bất kỳ điểm nào trong đời con cho tới khi con sẵn sàng rời kiếp hiện thân. Khi đó, con sẽ nhìn thấy giai đoạn chót của nó. Con luôn luôn nhìn thấy từng chặng một. Tại sao vậy? Vì như thày nói, mục đích của Sứ vụ Thiêng liêng là để dời chuyển tâm thức con lên cao hơn. Làm thế nào con dời chuyển tâm thức chứ, con yêu dấu?

3.3. Không có chuyện cứu rỗi tức thì

Đây là một điểm mà rất, rất nhiều người tâm linh đã hiểu lầm. Nhiều người cho rằng việc bước lên một mức cao hơn trên đường tu tâm linh – cho dù họ giải thích cách nào hay diễn đạt cách nào đi nữa – chỉ là chuyện thu hoạch cái hiểu đó. Rồi khi họ có cái hiểu toàn diện, chân lý tuyệt đối, giáo lý tâm linh đẹp lộng lẫy đó, thì đùng một cái, họ sẽ giác ngộ.

Con yêu dấu, nếu con nhìn vào toàn bộ phong trào tâm linh Thời Mới, đa số người ta vẫn còn ngồi chờ “cái đùng” đó, nhưng nó sẽ không bao giờ đến. Việc dời chuyển tâm thức từ tầng 70 lên tầng 71 không phải là chuyện nhận được một sáng ngộ tối hậu nào đó. Ngay cả nếu con biết và hiểu mọi chuyện một cách trí thức, làm thế nào con sẽ chuyển dời tâm thức chứ? Kỳ thực con chuyển dời tâm thức bằng cách sử dụng mức tâm thức mà con đang có, nhưng một cách cao hơn hầu con thăng vượt mức đó.

Con có hiểu điều thày đang nói? Con không thể dời chuyển tâm thức từ tầng 70 lên 71 bằng cách tìm cầu một sáng ngộ tối hậu nào đó. Con cần một sáng ngộ con có thể nắm bắt với tầng 70 nhưng nó sẽ đưa con lên tầng kế tiếp. Đó không phải là một sáng ngộ hay một hiểu biết tối hậu. Quá nhiều người chạy theo sáng ngộ tối hậu đó. Họ cứ đuổi theo và đuổi theo mãi, họ đi từ vị thày này tới vị đạo sư khác, rồi từ đạo sư này tới vị thày khác, mong rằng vị này nắm được sáng ngộ tối hậu đó, cái sáng ngộ thứ 10 hay thứ 11 hay thứ 99, hay bất kỳ điều gì mà họ tìm kiếm. Con yêu dấu, đó không phải là cách thức con tăng triển trên đường tu.

Nếu con biết được mọi khía cạnh của Sứ vụ Thiêng liêng, nếu có ai đó bảo cho con biết, thì có xác suất cao là điều này sẽ ngăn cản con thực hiện Sứ vụ của con, vì như thày đã nói, mục đích chủ yếu của Sứ vụ là dời chuyển tâm thức. Con dời chuyển bằng cách sử dụng hiểu biết và sáng ngộ mà con đang có ở một tầng mức, nhưng con sẵn lòng nhìn xa hơn rồi có được một sáng ngộ trực giác sẽ đưa con lên tầng mức cao hơn. Đây không phải là chuyện hiểu, vì như các thày đã giảng, khi con hiểu một cái gì đó thì con đang nhìn nó từ xa. Con chỉ dời chuyển tâm thức khi con có một trải nghiệm trực giác, thần bí, trọn vẹn và bao hàm tất cả. Con yêu dấu, điều thật sự xảy ra là ở tầng 70 đó, con đang tự trải nghiệm mình một cách nào đó. Xong có một điều gì xảy đến thách thức cách nhìn của tầng 70. Nó thách thức những gì con cảm thấy thoải mái ở tầng 70. Xong trong khi con vẫn sẵn lòng xem xét nó mặc dù có một phần của tự ngã đang cảm thấy bực dọc với lời dạy, thì đó là lúc con có trải nghiệm nội tâm, trực nhận, qua đó con trải nghiệm sự thật của nó. Và trong khi con làm điều này, con cũng dời chuyển cách con trải nghiệm chính mình một chút. Thế là giờ đây con ở tầng 71. Đây không phải là một tiến trình trí thức mà một tiến trình trực giác. Đây là tiến trình dời chuyển chính bản sắc của con chứ không phải gia tăng cái hiểu trí năng.

3.4. Trải nghiệm sự xoay chuyển nội tâm

Con thấy đó, con yêu dấu, mặc dù các thày có nói là có những người tập trung trong cảm thể của mình, những người tập trung trong trí thể và những người trong bản sắc thể, đây không phải là chuyện dời điểm tập trung của tâm ý thức. Thật ra đây là chuyện dời chuyển ý niệm bản sắc của con. Đây là chuyện xảy ra ngay cả khi con tập trung vào tầng vật lý và con không nhận biết mình có một thể bản sắc. Con vẫn có khả năng đi từ một trạng thái tâm thức thấp hơn lên một trạng thái cao hơn bằng cách dời chuyển sự nhận biết mà không ý thức. Tất nhiên, khi con tập trung chú ý nhiều hơn vào thể bản sắc, con sẽ ngày càng ý thức nhiều hơn thời điểm con dời chuyển bản sắc của mình. Và như vậy con sẽ tiến bộ nhanh hơn vì con có thể sẵn lòng dời chuyển bản sắc một cách ý thức, con có thể tìm đến những sáng ngộ sẽ giúp con dời chuyển bản sắc.

Con yêu dấu, đây là những điểm quan trọng mà con cần ghi nhớ. Khi con nhận được quyển sách này, khi con khởi sự thực hành với nó, con đừng nên quá háo hức, quá vội vàng. Hãy dành thời gian để quán chiếu những sáng ngộ mà các thày đang cho con. Xem xét ý nghĩa của chúng chứ không chỉ hiểu băng trí năng, và tìm đến cái trải nghiệm xoay chuyển đó nơi con trải nghiệm ở bên trong sự thật của những lời thày nói.

Con yêu dấu, trên hành tinh này có một truyền thống rất, rất lâu đời là những vị đạo sư, những trường bí giáo. Người ta tin rằng có một vị đạo sư hay một cơ sở nào đó, và nếu con là một học trò thì con có thể đến đó tu học. Con cố là một học trò chuyên cần, và trường học hay đạo sư sẽ dẫn con qua một tiến trình khai ngộ qua đó con lần lần nâng cao tâm thức. Con yêu dấu, điều hoàn toàn có thể xảy ra là ngay cả khi con theo học một vị đạo sư hay một trường bí giáo chân chính và con nghĩ mình đang tinh tấn do đã gia tăng hiểu biết vỏ ngoài, nhưng con vẫn không đang chuyển dời tâm thức của con. Sự xoay chuyển tâm thức chỉ có thể xảy ra từ bên trong, nó không xảy ra vì có ai đó nói cho con một điều gì – cho dù con có một đạo sư chân chính nói cho con biết điều gì đó về trạng thái tâm thức của con hay phơi bày một khía cạnh tự ngã của con. Nếu con không nhận được sự xác nhận từ bên trong, nếu con không trải nghiệm sự thật của điều đó ngay bên trong, thì nó sẽ không xoay chuyển tâm thức của con.

Điều tương tự cũng áp dụng cho tất cả mọi giáo lý mà các thày đã trao truyền qua sứ giả này hay các sứ giả khác. Con có thể học hỏi, nghiên cứu, con có thể hiểu chúng với tâm vỏ ngoài, con có thể có khả năng trích dẫn chúng, nhưng liệu nó có sẽ xoay chuyển tâm thức con hay không? Không con ạ, trừ khi con trải nghiệm được ở bên trong. Trừ khi con sẵn sàng, như các thày có dạy, để cho cái Ta Biết bước ra ngoài bốn thể phàm của con, với lên Hiện diện TA LÀ của con, với lên các chân sư thăng thiên và trải nghiệm trực tiếp sự hiện hữu của một thực tại cao hơn tâm vỏ ngoài. Chỉ có khi đó thì con mới xoay chuyển.

3.5. Nỗi sợ sai trái

Điểm thày nói với con tối qua là xét xem có điều gì mà con đã trở nên thoải mái và đang ngăn cản con thấy được giai đoạn kế tiếp trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Lẽ tự nhiên, điều này có thể hoàn toàn cá nhân. Một số các con đã nhận được các sáng ngộ đó, và một số khác thì chưa nhận được và tự hỏi tại sao như vậy, nhưng thày sẽ cho con một lời dạy chung áp dụng cho tất cả các con. Lời này không nhằm áp chế sáng ngộ cá nhân của con, nhưng thày muốn chỉ ra cho con là có một điều, một tâm lý áp dụng cho mọi người trên địa cầu và do đó cũng áp dụng cho mọi người tâm linh.

Con yêu dấu, đâu là điều mà tất cả các con đều thoải mái? À, tất cả các con đều đã tìm được một mức độ thoải mái nào đó với ý tưởng là nếu con làm một số việc và không làm một số việc khác thì con không thể sai trái, con sẽ được yên ổn, con sẽ được chấp thuận. Có một nỗi sợ đã được lập trình trong mọi con người trên địa cầu – vì đây là một hành tinh dày đặc – rằng con có thể sai trái. Nó đến từ đâu? Nỗi sợ hãi đó đến từ đâu? Lẽ tự nhiên, nó đến từ sa nhân, và ngay từ khi chúng bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, chúng đã tạo ra toàn bộ tư duy có cái đúng và cái sai – đó chính là tinh túy của nhị nguyên. Chỉ có một sự thật duy nhất và do đó mọi sự thật khác đều phải sai, như thày vừa trình bày hôm qua. Điều này áp dụng cho quá nhiều lãnh vực của cuộc sống, và như các thày đã từng nói, điều duy nhất mà sa nhân thật sự cần làm để tha hóa mọi chuyện trên địa cầu là phóng chiếu ra khái niệm phân biệt giữa đúng và sai. Một số chuyện thì đúng, một số chuyện thì sai.

Một khi tâm con người mang vào sự phán xét nhị nguyên tương đối đó thì tự động tiếp theo sau, con người cũng bắt đầu tạo dựng nỗi lo sợ là mình sai. Giờ đây các thày đã cho con giáo lý rằng nhiều người trong các con – ở đây thày đang nói chung chung chứ không chỉ các con – nhiều người tâm linh đã đến địa cầu như là avatar. Con đã đến đây để tạo một sự khác biệt tích cực cho hành tinh, rồi con đã trải nghiệm cách đối xử hung hãn của sa nhân khi chúng đánh gục con. Đâu là thông điệp mà chúng gửi cho con? Rằng con đã sai lầm khi con đến đây trên trái đất, con đã sai lầm khi con là chính con như một avatar trên trái đất, con đã sai lầm khi con biểu lộ con người thực của con, sự sáng tạo thực của con trên trái đất. Sự kiện đó đã cho con cái mà các thày gọi là chấn thương nhập đời. Và để đương đầu với cái đó, để sống còn về mặt tâm lý, con đã tạo ra điều mà các thày đã đề cập: những cái ngã nội tại, ngã gốc. Một phần của ngã gốc trong tất cả các con là con đã quyết định không muốn phải liên tục trải nghiệm cảm nhận là mình sai.

Mỗi người trong các con đã tìm ra cách riêng của mình để tạo dựng ý niệm: “Nếu tôi đứng yên trong vòng ranh giới nhất định này thì tôi sẽ không sai trái.” Tất nhiên, điều này đi ngược trở về thời điểm con bị chấn thương nhập đời nhưng con cũng có thể nhìn vào kiếp sống này. Con có thể thấy là con đã lớn lên và được xã hội dạy dỗ để có một số ranh giới. Nếu con ở trong vòng ranh giới đó thì con sẽ được xã hội nơi con sinh trưởng chấp nhận, con sẽ theo đúng chuẩn mực và xã hội sẽ không lên án con. Mọi người chung quanh, gia đình con cũng như môi trường của con sẽ không chê trách nếu con ngồi yên trong những ranh giới đó.

Điều thày chỉ ra cho con là tất cả các con đều mang những niềm tin vi tế đó, những cấu trúc cùng khuôn đúc trong bốn thể phàm, bảo rằng: “Nếu tôi ngồi yên trong những ranh giới này thì tôi không thể sai trái.” Thế rồi con cũng cảm nhận là chừng nào mình đứng trong ranh giới đó thì mình sẽ thoải mái. Con thoải mái là con không sai lầm theo những chuẩn mực của xã hội, tức rốt cuộc cũng là chuẩn mực của sa nhân. Con yêu dấu, bất kỳ xã hội nào mà áp đặt – lập trình công dân của mình – cái ý tưởng là có một số chuyện đúng và một số chuyện sai, thì xã hội đó đang bị sa nhân ảnh hưởng.

3.6. Chất vấn cái không thoải mái

Bây giờ lẽ tự nhiên, một số người nghe câu trên với tâm đường thẳng sẽ nói: “Liệu có nghĩa chăng là thày đang bảo không có gì đúng lẫn không có gì sai, và người ta có thể làm bất cứ gì họ muốn?” Tất nhiên là không! Như các thày đã từng nói, bất kỳ xã hội nào cũng phải quy định ra một số ranh giới. Hiển nhiên, ra đường giết người là không đúng. Điều thày nói tới ở đây không hẳn là về cách hành xử vỏ ngoài, mà nhiều hơn về cách cư xử nội tâm qua những niềm tin, những thái độ, nội dung của lời nói. Nói cách khác, vấn đề thực sự ở đây mà thày muốn con lưu ý là những gì đã được lập trình, cài đặt, trong các chuẩn mực mà mọi xã hội đều có, bảo rằng một số ý tưởng thì chấp nhận được còn một số ý tưởng khác thì sai trái. Nếu con tin vào những ý tưởng này thì con sai trái, và nếu con lên tiếng về những ý tưởng này thì con còn sai trái hơn nữa. Và nếu con dùng những ý tưởng này để hành động và thay đổi đời con thì con sai trái thực thụ.    

Lẽ tự nhiên, ở đây các thày không bảo người tâm linh đi ra ngoài kia làm đủ chuyện bất hợp pháp hay sai trái theo tiêu chuẩn bình thường của sự biết điều. Điểm các thày nói đến ở đây là con cần xét xem có những ý tưởng nào mà con sẽ không thoải mái chất vấn.

Nếu con sẵn lòng xem xét ở mức cá nhân, con sẽ có thể dần dần nhìn ra là có một số ý tưởng – cho dù chúng đến trong kiếp này hay trở về nhiều kiếp trước – mà con sẽ cảm thấy ray rứt nếu con phải chất vấn. Một cách để phơi bày sự thể này là đọc quyển sách Những kiếp sống của tôi, và con sẽ thấy nhiều người cảm thấy trong sách có những ý tưởng đã khiến họ day dứt do họ phải chất vấn những niềm tin hiện có. Tất nhiên là còn nhiều ví dụ khác như vậy, và thường khi giáo lý của các thày cũng có cùng tác động như thế.

Nếu con có thể nhận diện một ý tưởng mà con không muốn chất vấn – mà con cho là đương nhiên, mà con tin là một sự thật cao hơn – thì thày có thể cam đoan với con là cái đó nằm trong khuôn khổ thoải mái của con. Nó xuất phát từ sự kiện là nếu con không chất vấn ý tưởng đó thì con sẽ cảm thấy mình không thể sai trái, và chính điều này khiến con thoải mái.

Nếu con chất vấn ý tưởng đó, con sẽ hết thoải mái do con lo sợ mình có thể sai lầm và bị chê trách. Cho dù nỗi sợ này là gì đi nữa đối với cá nhân con – dựa trên trải nghiệm mà con đã có trong tiền kiếp khi con bị người ta bức hại thật khắc nghiệt – thì con lo sợ mình phải khui cái “hộp đầy sâu bọ” này ra và mình không thể biết trước điều gì sẽ xảy đến.

3.7. Quả vị Ki-tô và Sứ vụ Thiêng liêng của con

Điều thày mong chỉ ra cho con ở đây là nhiều người trong các con – là những người đã bước chân trên đường tâm linh một thời gian dài và đạt đến một mức tâm thức nào đó – các con đã tới điểm khi thử thách của con là biểu lộ một cách ý thức hơn quả vị Ki-tô mà con đã đặt vào Sứ vụ Thiêng liêng. Quả vị Ki-tô là gì? À, có nhiều cách định nghĩa, nhưng như thày Giê-su đã nêu ra mấy lần, quả vị Ki-tô là sự thách thức hiện trạng. Khi Ki-tô đi vào hiện thân, mục đích chủ yếu của Ki-tô Hằng sống trong hiện thân là thách thức hiện trạng và khiến cho con người nhận ra mình có một chọn lựa khác hơn là một trạng thái tâm thức đã trở thành một hệ thống khép kín. Thày có thể bảo đảm với con là đối với tất cả các con đã mở tâm ra những lời dạy này và đã đạt được một mức trưởng thành nào đó trên đường tu, thì các con đều đã đặt vào Sứ vụ của mình một yếu tố quả vị Ki-tô nào đó.

Các con ở đây là để thách thức hiện trạng một cách nào đó. Không cứ một cách tối hậu khi con đem lại một ý thức hệ mới, cách mạng, sẽ thách thức các ý thức hệ hiện hữu. Đối với nhiều người trong các con, con làm vậy ở mức cá nhân khi con thách thức cách nhìn của người chung quanh về một số vấn đề hay khía cạnh đời sống. Cách thức con đã trù liệu việc làm này có thể rất cá nhân, nhưng tất cả các con đều có yếu tố này trong Sứ vụ của mình. Điểm thày muốn dẫn con tới là con nhận ra rằng để có thể thực sự thấy và thực hiện điều này, con cần phải sẵn lòng nhìn vào nỗi sợ sai trái của con. Con cần nhận diện đây là một thành phần không thể thiếu của chấn thương nhập đời, một thành phần dính liền với ngã gốc. Như thày đã có nói, đây là lãnh vực mà các thày đã trao cho con rất nhiều dụng cụ trước khi đưa ra lời dạy về Sứ vụ Thiêng liêng, vì bây giờ con có thể cầm lấy quyển sách Chữa lành chấn thương tâm linh và dùng sách để nỗ lực chữa lành nỗi sợ sai trái đó.

Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, con phải đạt tới điểm nhìn nhận sự hiện hữu của các chân sư thăng thiên lẫn các sinh thể sa ngã. Con nhận ra là các thày, các chân sư thăng thiên, muốn kéo con đi lên thoát khỏi mọi giới hạn. Còn sa nhân thì muốn kéo con đi xuống và giữ con kẹt lại trong các giới hạn đó. Con có thể bắt đầu tự hỏi câu này: “Tôi sẽ muốn sống phần đời còn lại của tôi dựa theo cách nào?” Liệu con sẽ muốn sống dựa trên nỗi sợ sai lầm theo tiêu chuẩn sa nhân, hay dựa trên sự nhận biết khi con thấu hiểu giáo lý của chân sư rằng con không bao giờ sai trái khi con thách thức ý tưởng của sa nhân? Thế gian có thể bảo là con sai, nhưng các thày thì chắc chắn sẽ không bảo vậy.

Điều thật quan trọng là con hãy xem xét điều này. Không cứ là con phải ngay lập tức làm vậy một cách tối hậu, vì như thày đã nói, con hiện ở một tầng tâm thức nào đó và quan tâm chủ yếu của con là leo lên tầng kế tiếp, và điều này thường không là một bước lớn kinh khủng. Câu hỏi đặt ra là, nỗi sợ hãi sai trái mà con đang đương đầu ngay lúc này là gì chứ? Đâu là cái ý tưởng mà con có thể biểu lộ ở mức tâm thức hiện thời sẽ dẫn con lên mức cao hơn, và nỗi sợ sai trái đang ngăn cản con biểu lộ ý tưởng này như thế nào?

3.8. Thách thức ý tưởng ở mức cá nhân

Con yêu dấu, ở trên thày vừa nói rằng Sứ vụ Thiêng liêng là một tiến trình tác động qua lại. Sau đây là một ví dụ nữa: Giả thử gia đình con mang sẵn một cách nhìn, một thái độ nào đó về cuộc sống. Có một thành viên trong gia đình mang tiềm năng vươn lên cao hơn trong kiếp này nhưng bị mắc kẹt trong quan điểm đó. Một phần Sứ vụ của con là giúp cho người ấy chất vấn và vượt ra khỏi niềm tin đó, nhưng con lại sợ làm như vậy vì con cảm thấy các thành viên khác trong gia đình sẽ kết án con. Câu hỏi đặt ra là: “Làm thế nào con sẽ vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ Thiêng liêng?” Liệu con sẽ có thể vươn lên mức kế tiếp của Sứ vụ mà không bày tỏ tầm hiểu cao hơn mà con đã ngộ và không trao cái hiểu đó cho người kia?

Con yêu dấu, con không thể. Con không thể vươn lên mức cao hơn mà không thách thức chính mình. Tại sao vậy? Con yêu dấu, bởi vì con có thể nói: “Nếu tôi bày tỏ những sáng ngộ này của tôi thì một số người trong gia đình sẽ giận tôi và họ sẽ phản ứng tiêu cực.” Thày sẽ nói vô cùng thẳng thắn với con là chỉ khi nào con bày tỏ tầm hiểu đó của con và trải nghiệm phản ứng đó của họ thì con mới bị bắt buộc phải xoay chuyển nhận thức và thái độ của mình. Chỉ bằng cách đương đầu thách thức đó, trải nghiệm thách thức đó, thì con mới có thể dời chuyển lên mức kế tiếp.

Con thấy đó, con yêu dấu, vấn đề không phải là con nhận được một hiểu biết trí thức. Không phải là chuyện con có một sáng ngộ cao hơn mọi người trong gia đình rồi con nghĩ: “Vì tôi có sáng ngộ này nên tôi đã dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn họ.” Có thể con đã dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn họ nhưng con chưa dời chuyển lên mức kế tiếp của con, và con sẽ không lên được mức kế tiếp cho tới khi con bày tỏ sáng ngộ của con, con trải nghiệm phản ứng của họ, rồi sau đó con giải quyết phản ứng nội tại nơi chính con đối với họ.

Chỉ khi nào con đương đầu với vấn đề này và tìm được cách khắc phục các khuôn nếp, các nỗi sợ, các dính mắc, cách phản ứng trong cảm xúc lẫn lý trí của con, chỉ khi đó con mới dời chuyển tâm thức lên mức kế tiếp. Con yêu dấu, đó là tại sao thày nói với con ở đây là để bước lên cao hơn và thực sự nhìn ra nhiều khía cạnh hơn của Sứ vụ một cách ý thức, con cần bước vào tâm thái không sợ nhận trải nghiệm, ngay cả khi trải nghiệm khiến con mất thoải mái, ngay cả khi nó khiến con sợ hãi. Con vẫn sẵn lòng nhận lấy trải nghiệm vì con nhận ra chỉ trong trải nghiệm thì con mới có thể xử lý các bế tắc trong tâm lý mình, nhìn ra chúng, rồi thăng vượt chúng.

3.9. Sự tăng triển đòi hỏi con tương tác với người khác

Các thày đã trao cho con biết bao dụng cụ, con yêu dấu, để thăng vượt các điểm bế tắc trong tâm lý. Con đã có đủ dụng cụ để thăng vượt chúng, nhưng điều mà nhiều các con không nhận ra là con không thể ngồi đó trong phòng riêng của mình, đọc sách và đọc thỉnh miên man rồi chứng được sự tăng triển tối đa. Con có thể trải nghiệm tăng triển bằng cách đó nhưng con cần có sự xen kẽ, sự tương tác giữa việc tu tập tâm linh và việc trải nghiệm thực tế nơi con bị thách đố, con bị thử thách, và con nhìn thấy một phản ứng trong con.

Tất nhiên đây cũng là điều mà thày vừa đề cập về nhiều người đi xem thày bói hay đồng bóng. Họ đọc sách về mục đích của cuộc sống và Sứ vụ Thiêng liêng nhưng họ lại không sẵn sàng làm công việc. Họ muốn ngồi yên nơi họ cảm thấy thoải mái. Đấy, như các thày đã từng nói, sự thoải mái và con đường tâm linh không thực sự tương hợp với nhau. Và chắc chắn hành tinh này cũng không thực sự tương hợp với sự thoải mái. Con cần thực hiện sự xoay chuyển đó khi con nói: “Tôi là ai? Tôi có là một học trò của chân sư thăng thiên hay không? Tôi có là một người quyết tâm tinh tấn tối đa trong kiếp này hay không? Nếu tôi là một người như vậy thì tôi không cần thoải mái.”

Đây không phải là chuyện thoải mái – thày không đang bảo con phải hành hạ bản thân – mà đây là chuyện nhận ra trong tâm lý con có một yếu tố mong muốn ngồi yên nơi mình thoải mái, mong muốn trốn chạy những thứ khiến mình bị day dứt. Chỉ bằng cách nhận diện cái đó và đâm thẳng vào nó – tức là sẵn lòng bước vào tình huống và trải nghiệm phản ứng của mình – chỉ khi đó thì con mới có thể nhìn thấy điểm bế tắc trong tâm lý con. Con không thể thấy nó từ xa một cách trí thức, mà con cần bước vào trong đó và trải nghiệm nó, xong con có thể dùng các dụng cụ mà các thày đã ban cho để khắc phục nó, để nhận diện ra ngã, để tách mình ra khỏi ngã và để cho ngã chết đi. Đây chính là cách vận hành của tiến trình tăng triển.

3.10. Đường tu tâm linh không dễ

Đó là một lời dạy sẽ khiến cho một số người nản lòng vì có lẽ trong nhiều năm trên đường tu tâm linh, họ đã bám vào cái lý tưởng được phóng chiếu lên tâm thức tập thể cho rằng sự tinh tấn tâm linh chỉ là một tiến trình hoàn toàn dễ dàng, tích cực và phấn chấn. Con yêu dấu, ý tưởng đó – cho rằng đường tu tâm linh không đòi hỏi khó nhọc, không đòi hỏi con hạ mình xuống chạm trán với tâm lý của mình – tất nhiên đã được sa nhân phóng chiếu ra hầu giữ chặt con người ở mức họ cứ luôn nhìn ra ngoài chính họ mà không bao giờ thực sự soi gương để nhìn vào bên trong tâm lý họ.

Hiển nhiên là con đã vượt quá mức đó rồi, vì nếu không thì con đã không đáp ứng được lời dạy này. Thày chỉ đơn giản giúp con nhận thức là con có khả năng dời chuyển một cách ý thức, vì con nhận ra là cho dù sa nhân có phóng chiều gì lên con, cho dù người khác có phóng chiếu gì lên con, thì con không bao giờ sai lầm khi con xoay chuyển tâm thức. Con không bao giờ sai lầm khi con dời chuyển tâm thức lên cao hơn.

Một khi con chấp nhận điều này trọn vẹn, một khi con trải nghiệm trọn vẹn sự thật của điều này, thì con sẽ có thể thực sự bước vào một giai đoạn mới trong cách tương tác của con với các chân sư thăng thiên, nơi các thày sẽ trở thành khung tham chiếu của con thay vì sa nhân hay người đời – hay thậm chí cả những cái ngã, những ngã tách biệt, những phàm linh nội tại – làm khung tham chiếu cho con. Con có thể bắt đầu nhận ra là các thày không bực dọc, không tức giận, không nóng lòng, không tìm cách lên án hay chỉ trích con.

3.11. Tại sao các chân sư không lên án con

Con yêu dấu, thày biết rất rõ là có những học trò của chân sư thăng thiên tin rằng, và cũng có những tổ chức của chân sư thăng thiên có nền văn hóa tập thể nơi giáo lý của chân sư được dùng để củng cố cho ý niệm sai và đúng. Đã có những tổ chức chân sư thăng thiên nơi thành viên quá quan tâm đến những chuyện ăn mặc, nói năng, đi đứng, biểu thị, suy nghĩ, cảm xúc như thế nào cho đúng đắn, rồi họ lên án lẫn nhau cũng như họ tự lên án chính họ mỗi khi họ không làm đúng theo một số tiêu chuẩn vỏ ngoài.

Vào thời buổi đó, đó là những vật liệu mà các thày phải sử dụng. Trong một số trường hợp như đã kể lại, các thày đã phải khuếch đại niềm tin đó nơi mọi người để nó trở thành cùng cực đến độ cuối cùng người ta mới chịu chất vấn nó. Con yêu dấu, với những lời dạy mà con đã có, con có thể rất nhanh chóng bước vượt qua tất cả những thứ đó và nhận ra là các thày – các chân sư thăng thiên đích thực – đã vượt khỏi nhị nguyên. Các thày không phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng hay sai. Các thày không chỉ trích, các thày không kết án con. Các thấy chấp nhận con hoàn toàn – chính con – mỗi người trong các con. Các thày chấp nhận con như con là, một cách vô điều kiện. Các thày chỉ có một mong muốn duy nhất là giúp con trở nên nhiều hơn cái con là, bằng cách con dời chuyển bản sắc của con đi lên.

Con yêu dấu, thày thực sự mong ước là con sẽ có thể nhìn chính mình với cùng sự chấp nhận vô điều kiện mà thày nhìn con. Thày biết là nếu con áp dụng các dụng cụ mà các thày đã trao, con sẽ có khả năng bước lên điểm đó. Thày biết là con không thể bước lên điểm đó bằng cách thày bảo con, và thày không đang bảo con điều này để khiến con nghĩ là con không thể tự chấp nhận mình, con yêu dấu. Con thấy tự ngã có thể chụp lấy bất kỳ lời dạy nào rồi khiến con nghĩ: “Mẹ Mary nói là tôi cần chấp nhận chính mình vô điều kiện, nhưng tôi không làm được, cho nên tôi phải sai trái.”

Đây là loại suy tưởng chạy lòng vòng mà con có khả năng nhận diện, và con nhận ra đó chỉ đơn giản là một cái ngã tách biệt. Như vị sứ giả này có bày tỏ tối qua, trong tâm con người có một phần được lập trình để tạo dựng các vấn đề rồi phóng chiếu là con phải giải quyết vấn đề. Đấy, cũng có một phần của tâm là ngã tách biệt, được lập trình để phóng chiếu ra là con sai trái, và nó chụp lấy bất kỳ ý tưởng nào đến với con để quay ngược ý tưởng và chứng minh: “Phải, đây là thêm một cách nữa mà tôi sai trái – tôi không đáp ứng nổi tiềm năng cao nhất của mình, tôi thật kém cỏi.”

Con yêu dấu, tất cả các con đều không kém cỏi. Con đang đứng ở đúng nơi con cần đứng, vì con đang đứng ở điểm trên đường tu nơi con sẵn sàng bước lên bước kế tiếp, và đó là điều các thày chú trọng. Các thày không so sánh con với một chuẩn mực nào. Con đừng có mảy may ý nghĩ là các thày bảo là cho tới khi con đạt đến tầng tâm thức 144 thì con vẫn sai trái. Con yêu dấu, con đang bước chân trên đường tu; điều quan trọng là con tiếp tục bước từng bước một và dời chuyển đi lên. Các thày chấp nhận con như con đang là, chấp nhận con ở mức con đang đứng. Các thày mong ước là con cũng có thể chấp nhận mình như thế, con yêu dấu. Thật ra có một điểm trên đường tu nơi con không thể lên cao hơn được trừ khi con khắc phục tâm đường thẳng. Cũng có một điểm trên đường tu nơi con không thể lên cao hơn được cho tới khi con khắc phục tâm phê phán cứ không ngừng tự chỉ trích.

3.12. Không có chỉ trích nào xây dựng

Trên thế giới có một khái niệm gọi là “chỉ trích xây dựng”, nhưng con yêu dấu, chừng nào con còn ở trong trạng thái tâm thức nhị nguyên thì không có chuyện chỉ trích xây dựng. Chỉ trich là một rung động – cho dù người chỉ ra cái đó có thể “đúng” đến đâu đi nữa. Nếu người đó làm vậy ở mức tâm thức đó thì việc đó vẫn không xây dựng. Đối với bản thân con cũng vậy. Con có thể nghĩ là mình phải phê phán chính mình vì đó là cách con tăng triển. Con yêu dấu, có một cái ngã mang độ rung nhị nguyên của chỉ trích và ngã đó không thể đưa con lên cao hơn trên đường tu.

Sẽ tới một điểm con cần lui lại một bước và nhìn ra đó chỉ là một cái ngã. Không phải là vấn đề ngã đó đúng hay sai khi nó chỉ ra sự kiện, mà là việc nhận diện độ rung của ngã đó không xuất phát từ tình thương – nó xuất phát từ sợ hãi. Cho nên con cần tách mình ra khỏi nó, nhìn vào nó và nói: “Ta không cần đến mi nữa!” Con không cần bước vào một sự phán xét nào hết, thậm chí con cũng không cần chứng minh (như một số các con có khuynh hướng làm) và nói: “À nhưng nó đã có công dụng, nó đã giúp tôi tăng triển trên đường tu.” Có thể nó đã giúp con, nhưng con yêu dấu, điều con cần làm là nhận diện nó và bảo: “Tôi không cần đến ngã này nữa và tôi để cho nó chết đi.”

Con yêu dấu, trên đây là những gì thày muốn truyền cho con bây giờ. Một lần nữa, thày cảm ơn con đã có mặt và đã nhận biết. Tất nhiên, các thày mong mỏi sẽ trao thêm lời dạy khi nào con có dịp thực hành những lời dạy vừa được ban ra và chuyển dời tâm thức lên mức kế tiếp, là nơi con có thể nhận được lời dạy kế tiếp.

1 | Con lập ra Sứ vụ Thiêng liêng như thế nào

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels ngày 18/5/2018 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ chân sư thăng thiên Mẹ Mary, và thật là một niềm vui rất lớn cho thày được khai mạc buổi họp mặt này để giảng dạy về cái mà các thày gọi là Sứ vụ Thiêng liêng.

“Trong một cái tên chứa đựng những gì?” như Nhà Thơ [Shakespeare] có nói. Đấy, mỗi khi các thày đưa ra một khái niệm, tất nhiên là các thày đối diện với thực tế phải dùng ngôn từ để truyền đạt những ý tưởng kỳ thực vượt khỏi ngôn từ. Các thày cũng phải đối diện với một thực tế mà không nhiều người nghĩ tới, đó là sự kiện ngôn từ được người khác nhau diễn giải một cách khác nhau, tùy theo gốc tích, văn hóa và tâm lý cá nhân của họ.

Khi các thày đưa ra một cái tên, như “Sứ vụ Thiêng liêng” chẳng hạn, nó sẽ không nhất thiết chạm được mọi người bởi vì một số đã có thành kiến với nó rồi. Họ sẽ không mở tâm ra dù chỉ để được nghe nhiều hơn về khái niệm đó, vì họ đã có một phản ứng đối với từ “thiêng liêng” hay với từ “sứ vụ”. Từ ngữ khiến cho tâm họ rơi vào một trạng thái quá phổ biến trên địa cầu, là bác bỏ mà không thực sự xem xét bằng cả tâm lẫn con tim cởi mở những gì đang ẩn giấu đằng sau từ ngữ, những gì đang được biểu đạt mà lại vượt khỏi từ ngữ.

1.1. Tập trung vào một trong bốn thể phàm

Thày mong muốn cho con một chút tầm nhìn để con thấy sự thể xảy ra như thế nào đối với các thày là chân sư thăng thiên. Thày muốn con tưởng tượng là con, ở mức tâm thức hiện thời của con, được đưa đến nơi mà con nghĩ các thày đang cư ngụ – cho dù đó là một cõi năng lượng thật cao hay bất kỳ cách hình dung nào khác. Con được đưa đến tầng mức nơi các thày cư ngụ và giờ đây con đang đứng cùng với thày nhìn xuống địa cầu. Con nhìn thấy những điều mà con không bao giờ xem xét, hay ít ra những điều mà hầu hết mọi người không bao giở xem xét. Con thấy biết bao nhiêu loại người và nhóm người khác nhau trên trái đất. Nay con cũng thấy những thứ mà con không thể thấy với mắt thịt nhưng con lại thấy từ mức của thày: Tất cả những nhóm người đó đều đang mang một trạng thái tâm thức nào đó. Con thấy điều mà con vẫn biết: Mỗi người đều có một tâm lý cá nhân, một trạng thái tâm thức cá nhân được cấu tạo bởi bốn thể phàm của họ. Con thấy mỗi người đều có một mức tâm vật lý, một mức tâm cảm xúc, một mức lý trí và một mức bản sắc.

Nay con thấy mỗi người tất nhiên cũng có cái mà các thày gọi là tâm ý thức. Con thấy mỗi người có tâm ý thức của mình tập trung vào một trong bốn thể phàm. Một số sẽ tập trung phần lớn vào thân xác vật lý của mình. Một số khác đặt nhiều chú ý hơn vào cảm xúc và họ sống cả đời họ trong cảm xúc của họ. Một số khác nữa chú tâm vào cõi lý trí và họ không ngừng suy nghĩ, phân tích. Và có một số ít thì tập trung nhiều hơn vào thể bản sắc hay tâm bản sắc của họ.

Con thấy là khi các thày ban ra một lời dạy, một trong những mục tiêu của lời dạy là làm thế nào chạm được tâm ý thức của người đó, để khiến cho người đó có được một sáng ngộ ý thức, một sự khai mở ý thức, hay một trải nghiệm “À ra thế!” nếu con muốn. Nó khiến họ xoay chuyển tâm thức để họ nhìn thấy một cái gì mà trước đó họ không thấy, và họ có được một tầm nhìn rộng mở hơn, chín chắn hơn về cuộc sống hay về hoàn cảnh cá nhân của mình. Nhờ vậy mà họ có thể chuyển sang làm những công việc mà trước đây họ không thể làm – khắc phục một số khuôn nếp cảm xúc, khắc phục một số khuôn nếp tư duy, hay ngay cả dời chuyển bản sắc mình lên một mức cao hơn.

Để thực hiện điều này, các thày cần đưa ra một lời dạy chạm được tâm ý thức của họ, như thể thày cần đâm thủng từ tầng cấp của thày để đến được tâm ý thức của họ. Bây giờ con cũng thấy là để chạm được tâm ý thức của một người nhất định, các ý tưởng cùng khái niệm mà các thày ban ra phải đâm xuyên qua các thể phàm nằm bên trên nơi mà tâm ý thức người đó đang tập trung vào. Nếu họ đang tập trung vào tầng cảm xúc thì ý tưởng của thày phải đâm xuyên qua tâm bản sắc và tâm lý trí của họ trước khi nó có thể tíếp cận với tâm ý thức, thậm chí còn phải đâm xuyên qua một khía cạnh nào đó của tâm cảm xúc nữa.

Cho nên con thấy là mỗi người đều mang một số phin lọc, một số rào cản, một số tin tưởng, một số thái độ, một số cảm xúc có khả năng ngăn chặn không cho các tư tưởng mà các thày rải truyền chạm được tâm ý thức của họ. Con hãy lưu ý, đây không chỉ đơn giản là chuyện người đó có nghe được, tìm được hay đọc được các ý tưởng đó. Họ hoàn toàn có thể đọc được một cuốn sách chứa các ý tưởng đó, nhưng trong khi họ đọc các dòng chữ thì những tầng cao hơn trong tâm họ lại ngăn chặn và lọc lựa, khiến các khái niệm không thực sự đi vào tâm ý thức của họ để mà nối kết và đem lại tác dụng. Nói cách khác, tuy họ đọc chữ nhưng họ không thực sự hấp thụ, không nắm bắt và không nối kết được với chữ.

1.2. Các giới hạn cho sự hiểu biết

Thày đã cố tình không sử dụng từ “hiểu” vì đây không chỉ là chuyện hiểu – vấn đề ở đây là thực sự nối kết với ý tưởng để nó xoay chuyển tâm thức của con. Quá nhiều người tập trung vào chuyện hiểu, và đó là vì nhiều người đã tìm ra đường tu tâm linh thường tập trung vào tâm lý trí. Họ chú tâm vào chuyện hiểu một ý tưởng, nhưng có rất, rất nhiều ví dụ về những người có một hiểu biết trí thức to lớn về các khái niệm tâm linh nhưng sự hiểu biết đó lại không xoay chuyển được tâm thức của họ. Đó là vì họ đã không thực sự nối kết, đã không thực sự trải nghiệm được ý tưởng qua trực giác. Trải nghiệm này bị chặn lại bởi cái tâm lý trí cứ muốn tìm hiểu, cứ muốn phân loại và gắn nhãn cho ý tưởng đó, hầu lý trí có thể bỏ nó vào một thư mục gọn ghẽ trong kho dữ liệu nơi nó có vẻ nằm dưới sự kiểm soát của lý trí.   

Con yêu dấu, vấn đề không phải là con giữ một ý tưởng dưới sự kiểm soát của con, bởi vì nếu tự ngã và tâm lý trí cảm thấy nó kiểm soát được một ý tưởng tâm linh thì làm thế nào ý tưởng đó sẽ xoay chuyển tâm thức con đây? Nó sẽ chỉ được xếp đống vào một hồ sơ như một cái gì con đã biết và đã hiểu ở mức độ trí thức, nhưng nó không xoay chuyển tâm thức của con.

Nếu con có thể thấy điều thày vừa nói với con, con sẽ nhận ra là có rất, rất nhiều người trên địa cầu hoàn toàn nằm ngoài tầm tiếp cận của những ý tưởng mà các thày có thể truyền rải từ tầng cấp các thày. Con cũng sẽ nhận ra là có rất, rất nhiều người mặc dù họ cởi mở với các giáo lý tâm linh – có thể họ cởi mở cả với các giáo lý huyền bí, siêu hình, Thời Mới hay thậm chí giáo lý của chân sư thăng thiên – nhưng họ vẫn còn mang quá nhiều thiên kiến, phin lọc lẫn định kiến mà họ không sẵn lòng tra vấn, đến độ các thày thật khó lòng tìm ra một ý tưởng rồi biểu đạt ý tưởng đó bằng những ngôn từ có khả năng chạm được tâm ý thức của họ.

Nếu con có thể thấy sự thể này với mức tâm thức hiện thời của con, rất có thể con sẽ bị chấn động đến mức con cảm thấy gần như chán nản tuyệt vọng, bởi vì con sẽ biết nói gì đây để chạm được họ? Một số các con đã từng có kinh nghiệm quen biết những người mà con đã cố chia sẻ một số điều mình tin. Và con đã bị vấp phải sự giới hạn của ngôn từ, khiến cho bất kỳ những gì con nói ra cũng không nối kết được với tâm ý thức của họ, không thực sự lay chuyển được họ.

1.3. Tại sao các chân sư không chán nản

Nếu con có thể thấy được tình huống các thày phải đối diện, xác suất là con sẽ, ở mức tâm thức hiện thời của con, cảm thấy nản lòng. Nhưng tất nhiên, thày không giảng bài này để khiến con nản lòng, bởi vì các thày không đang ở mức tâm thức của con – các thày đã thăng thiên. Có hai khía cạnh trong vấn đề này mà thày muốn lưu ý con.

Khía cạnh đầu tiên là các thày đã, tất nhiên, thực sự thể nhập và trải nghiệm thực tế của quyền tự quyết, cho nên các thày hoàn toàn không có mong muốn thay đổi con người nghịch lại với ý chí tự do của họ. Kỳ thực như đã có trình bày trong những cuốn sách mới nhất, các thày đã chấp nhận là một khi mình xem địa cầu là một cơ sở giáo dục nhằm cung cấp cho một số người những trải nghiệm mà họ mong muốn, thì mình không có chút phiền hà làm việc với địa cầu.

Nếu con có biết tới các đợt truyền pháp trước của chân sư thăng thiên thì con có thể quay trở ngược và tìm ra một số bài truyền đọc mà ngay cả trong ngôn từ được sử dụng hay trong độ rung của ngôn từ, con đã có thể nhận ra một chút cảm nhận phiền hà hay nóng lòng từ các chân sư thăng thiên. Thậm chí con có thể quay trở ngược và tìm thấy cảm nhận này trong một số bài truyền đọc sơ khởi của đợt truyền pháp này. Thày mong con nhận ra là nếu con đã phát hiện một độ rung như vậy trong một bài truyền đọc của chân sư, thì cảm giác phiền hà đó, sự rung động đó, đến từ ba thể cao của vị sứ giả. Không có cách giải thích nào khác khi nói về một sứ giả được chân sư bảo trợ, bởi vì tất nhiên các thày không hề có phiền hà. Nếu các thày có bất kỳ phiền hà nào khi làm việc với địa cầu thì từ lâu các thày đã phải trải nghiệm cái mà trên địa cầu gọi là “kiệt sức”. Thày có thể cam đoan với con là hiện tượng này không hiện hữu trong cõi thăng thiên. Không có chuyện một chân sư thăng thiên bị té gục do căng thẳng hay suy sụp thần kinh.

Các thày đã thăng thiên là do đã vượt qua mọi mong muốn thay đổi con người nghịch lại với sự tự quyết của họ. Hiển nhiên, đúng là trên địa cầu có rất nhiều hiện tượng mà các thày muốn thấy thay đổi, vì rõ ràng các hiện tượng này làm con người đau khổ.  Nhưng con không nên dựa theo đó mà suy luận rằng các thày cảm thấy nóng lòng hay bực bội nếu các điều kiện đó chưa thay đổi. Con nhận ra là từ nhãn quan của các thày, các thày không cảm thấy bất kỳ sự bất mãn nào, và do đó tất nhiên các thày không cảm thấy chán nản. Các thày làm việc với mọi người và các thày chấp nhận là mỗi con người đều có quyền tự quyết, và vì thế họ cũng có quyền ở trong trạng thái tâm thức mà họ đang có.

1.4. Không có một chân lý tuyệt đối duy nhất

Chúng ta có thể nói là bốn thể phàm của con hình thành cái mà các thày gọi là một cái ngã, nhưng các thày cũng đã nói là có nhiều cái ngã khác nhau, nhiều phàm linh nội tại khác nhau. Có tự ngã, có tâm ý thức. Vậy để dùng một từ quen thuộc đối với con, hãy đơn giản gọi đó là nhân cách (personality). Toàn bộ bốn thể phàm của con hình thành nhân cách này, và bên trong nhân cách có cái Ta Biết ở một mức tâm thức nào đó. Cái Ta Biết có thể đồng hóa nhiều hay ít với bốn thể phàm, với nội dung của bốn thể phàm, với những cái ngã nằm trong bốn thể phàm. Các thày chấp nhận đó là cách quyền tự quyết tự trình chiếu ra. Các thày chấp nhận địa cầu là một hành tinh với tâm thức thấp và độ dày đặc cao. Các thày chấp nhận trọn vẹn vai trò của mình là làm việc với mọi người ở bất kỳ mức độ tâm thức nào mà họ đang có và tìm cách giúp họ bước lên cao hơn.

Dựa theo đó, ý tưởng thày muốn truyền đạt cho con là mục tiêu của các chân sư thăng thiên không phải là để ban ra chân lý cao nhất, tuyệt đối, phổ quát và khiến cho mọi người phải chấp nhận chân lý này. Đó không là mục tiêu của các thày. Thày cũng biết điều này đi ngược lại những gì một số các con tin tưởng. Thày cũng biết điều này đi ngược lại niềm tin của rất nhiều người đã tu tập trong các đợt truyền pháp trước của chân sư. Thày chắc chắn một số người sẽ tìm kiếm các bài truyền đọc cũ của chân sư và phát hiện những câu mâu thuẫn với những gì Mẹ Mary đang nói qua Kim Michaels – và điều này hoàn toàn phải lẽ. Thực tại mà các thày đang trao cho các con, những người đã sẵn sàng bước lên một mức cao hơn, là các thày không ngồi ở trên đây với một chân lý duy nhất có sẵn và được định trước, một chân lý phổ quát tuyệt đối mà các thày đang tìm cách đem vào cõi vật lý để mọi người phải chấp nhận. Lý do là vì từ tầng cấp của thày, các thày nhận thức thật rõ ràng là không thể nào đưa ra một giáo lý duy nhất mà bảo mọi người chấp nhận được. Đơn giản là có quá nhiều mức tâm thức khác nhau giữa tầng tâm thức thấp nhất và tầng 144. Có quá nhiều nhóm người khác nhau với gốc tích khác nhau, đến từ những hành tinh khác nhau cho dù là từ địa cầu, từ các sinh thể sa ngã, hay từ đủ loại các hành tinh khác, đến độ không thể nào đưa ra một giáo lý duy nhất mà mọi người có thể chấp nhận.

Điều này phần nào là do mọi người đến từ quá nhiều gốc gác khác nhau với trình độ tâm thức khác nhau. Nhưng phần lớn, đó cũng là sản phẩm của sự kiện địa cầu là một hành tinh với tâm thức thấp và độ dày đặc cao. Cho nên ngôn ngữ, những ngôn từ được dùng làm phương tiện chủ yếu để giao tiếp trên địa cầu quá giới hạn (trường hợp sẽ khác đi nếu địa cầu ít dày đặc hơn) đến độ việc biểu đạt một chân lý thực sự phổ quát, tuyệt đối và tối thượng không thể nào thực hiện được với những ngôn từ hiện có ngày nay.

Vai trò, mục tiêu của các thày, thật rõ ràng. Các thày tìm cách làm việc với bất cứ ai hay bất cứ nhóm người nào cởi mở với bất cứ gì mà các thày có thể ban truyền. Hầu chạm được xuyên qua tất cả những rào cản, tất cả những phin lọc của một nhóm người nhất định nào đó, các thày phải nhìn vào xuất xứ của họ, không chỉ nền văn hóa và lịch sử của họ trên hành tinh này, mà ngay cả gốc tích vũ trụ của họ. Họ đến từ đâu? Họ có mang thành kiến gì trong tâm? Họ mang trong tâm những ý tưởng nào mà họ không sẵn lòng chất vấn?

1.5. Những ý tưởng người ta không chịu chất vấn

Con yêu dấu, con nhận thấy là hầu hết mọi người đều có trong tâm mình một khía cạnh nào đó cởi mở đối với ý tưởng mới mẻ. Có một số người không có sự cởi mở này, họ không cởi mở với ý mới, nhưng đa số thì có sẵn một sự cởi mở nào đó với ý mới. Nhưng trong tâm họ cũng có một khía cạnh qua đó họ tin rằng có những ý tưởng cơ bản nhất, đáng tin cậy nhất, cưng yêu nhất, mà họ không sẵn lòng hay không có khả năng chất vấn (thật ra hai cái này là một, vì nếu con sẵn lòng thì con luôn luôn có khả năng).

Các thày biết là trong một số trường hợp, các thày phải làm việc trong những ranh giới rất hạn hẹp vì người ta sẽ bác bỏ bất cứ gì các thày trao cho họ mà lại chất vấn những ý tưởng mà họ cưng yêu, những cách tư duy mà họ không cho ai động đến – những con bò thiêng – hay nói cách khác, những điều cấm kỵ của họ. Có nhiều người, nhiều nhóm người trên địa cầu mà các thày có rất ít khả năng giúp đỡ. Tuy vậy, các thày vẫn phóng ra một số ý tưởng để tạo cảm hứng cho ai đó viết sách, và sách có thể sẽ lay chuyển họ đôi chút. Và tất nhiên, khi con bước lên cao và cao hơn nữa, con sẽ gặp một loạt những loại người ngày càng cởi mở hơn, ngày càng ít những điều tư duy cấm kỵ mà không ai được đụng đến. Với những người như vậy, các thày ngày càng có nhiều chọn lựa hơn trong cách làm việc với họ.

Dựa trên đó, con có thể nhìn vào bản thân mình và nói: “À, vậy thì tôi đang đứng ở đâu?” Nếu con có tâm cởi mở đối với những giáo lý được các thày trao truyền qua vị sứ giả này, và nếu con không bị khiếp sợ khi đọc quyển Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su thì con đang đứng ở một trình độ cởi mở rất cao. Điều này có nghĩa là con đã sẵn sàng để thực sự bước lên một trải nghiệm cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Con có thể hỏi: “Nhưng tại sao các thày đã không đưa ra lời dạy về Sứ vụ Thiêng liêng sớm hơn?” Lý do rất giản dị. Các thày đã tuần tự trao cho con một số lời dạy cùng dụng cụ, để đến khi các thày cho con giáo lý về những điểm chặn nghẽn Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con đã có sẵn các dụng cụ đó hầu có thể bắt đầu tu tập theo cách nhìn cá nhân của mình.

Trước hết, quyển Các kiếp sống của tôi là một dụng cụ chữa lành rất quan trọng. Thày dám nói là ngay cả vị sứ giả này trong tâm vỏ ngoài của ông cũng chưa nắm bắt được quyển sách này có bao nhiêu tầng lớp khác nhau. Tất nhiên không một ai trong các con cần nắm bắt tất cả mọi tầng lớp đó, mà con chỉ cần nhận diện là quyển sách có nhiều tầng lớp. Điều này có nghĩa là con có thể được hưởng lợi khi đọc sách nhiều lần, vì sách đó là một dụng cụ rất quan trọng trong việc chuyển đổi tâm thức của con.

1.6. Khắc phục tâm đường thẳng

Con yêu dấu, một trong những phương thức con cần để chuyển đổi tâm thức và vươn lên một mức nắm bắt cao hơn về Sứ vụ Thiêng liêng của mình là con phải khắc phục sự tập trung vào tâm đường thẳng. Như thày đã nói, rất, rất nhiều học trò tâm linh tập trung tâm ý thức của mình vào tâm lý trí. Con cố học hỏi và tìm hiểu, con muốn hiểu một cách phân tích. Con thường muốn có một dòng thời gian rất đường thẳng, nắm bắt các khái niệm một cách đường thẳng. Cho tới giờ thì cách này đã không gây vấn đề cho con, nhưng sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi con không thể bước lên cao hơn nếu con tập trung vào tâm đường thẳng và – nếu có thể nói như vậy – tâm thức con bị dính mắc hay bị mắc kẹt trong tâm đường thẳng. Tại sao vậy, con yêu dấu? À, chuyện này chẳng hiển nhiên sao?

Các thày có giảng cho con rằng khía cạnh thấp nhất cùa tâm con là tâm vật lý, tiếp theo sau là tâm cảm xúc, sau nữa là tâm lý trí, và cao nhất là tâm bản sắc. Con yêu dấu, thày có thể cam đoan với con là tâm bản sắc của con không đường thẳng và phân tích, đó là tầng trực giác cao nhất mà con có thể với tới khi con còn hiện thân. Nếu con muốn chuyển sự tập trung từ tầng lý trí lên tầng bản sắc, con sẽ không thể làm được qua tâm đưởng thẳng phân tich. Con không thể dùng phân tích để bước vào tâm bản sắc. Con chỉ có thể làm được bằng cách khai mở các khả năng trực giác của mình. Đây không phải là vấn đề kiến thức, hiểu biết và nắm bắt. Đây là vấn đề trải nghiệm một cách trực nhận, vì những gì nằm trong tâm bản sắc thật vi tế – đó là những lời dạy các thày đã trao cho con về chấn thương nhập đời vũ trụ và ngã gốc [Xem sách Chữa lành chấn thương tâm linh]. Nó vi tế và có nhiều mặt, rất nhiều mặt khác nhau.

1.7. Giáo lý cho nhiều trình độ khác nhau

Ngã gốc của con không thể được định nghĩa một cách thật đơn giản, đường thẳng, phân tích. Đây không phải là chuyện gán cho nó một cái nhãn thuộc về lý trí và bảo rằng: “À, bây giờ tôi hiểu ngã gốc của tôi rồi. Nó là cái này và bây giờ tôi có thể để cho nó chết đi.” Ấy, nếu con làm vậy thì nó sẽ vẫn còn những khía cạnh ẩn giấu mà con chưa bắt đầu nhìn thấy, vì con chỉ có thể nhìn thấy chúng qua trực giác. Làm thế nào con sẽ tiến bước trên đường tu tâm linh xa hơn tầng lý trí? Không phải bằng cái tâm đường thẳng, phân tích, trí thức đâu con. Mà chỉ bằng cách dời chuyển vào cái tâm quả cầu (spherical) trực nhận, cái tâm nhìn vào tổng thể, nhìn vào bức tranh rộng lớn và sẵn lòng nắm bắt, trải nghiệm sự thật của những gì thày vừa nói với con, cụ thể là các thày không tìm cách trao truyền cho con một chân lý tuyệt đối, đường thẳng duy nhất.

Các thày tìm cách trao truyền nhiều khái niệm và ý tưởng khác nhau, vì mục tiêu của các thày khi tương tác với địa cầu là gì chứ? Con yêu dấu, mục tiêu không phải, không phải, là trao truyền chân lý tuyệt đối. Mục tiêu là nâng cao tâm thức của con người, nâng cao trạng thái tâm thức của mỗi người, và điều này phải được thực hiện với từng cá nhân. Đó là vì sao các thày phải nhắm vào một số nhóm người và nói: “Các thày có thể ban giáo lý cho một phạm vi tâm thức nào đó, xong các thày phải chắc chắn là giáo lý chạm được một số lượng người nào đó, xong các thày sẽ trao giáo lý khác cho những tầng tâm thức khác.”  

Không ai chờ đợi một vị sứ giả duy nhất có thể tiếp cận được tất cả 144 tầng tâm thức; giản dị chuyện này không thể làm được. Các thày đưa ra giáo lý cho một tầng nào đó, và con yêu dấu, thày dám nói là với giáo lý đã ban ra qua trung gian sứ giả này, con có thể khởi sự ở tầng 48 với bộ Khóa tu tự điều ngự, Con đường tự điều ngự, xong con có thể bước lên tiếp cho đến tầng 96. Sau đó tất cả các giáo lý trong sách của thày Maitreya [Chìa khóa cho tự do tâm linh], sách của chính thày về sự sống sung túc [Khóa tu về sung túc], cuốn Những kiếp sống của tôi và các giáo lý về cách khắc phục chấn thương sẽ dẫn con lên cao hơn nữa. Con yêu đấu, thày có thể đảm bảo với con là người đọc cuốn Những kiếp sống của tôi có thể là người ở tầng 48 cho đến những tầng gần như sẵn sàng thăng thiên, và mọi người sẽ có thể tìm thấy trong đó một điều gì mới mẻ, một điều gì sẽ xoay chuyển nhãn quan của mình.

Đó là một quyển sách được trao cho một phạm vi tâm thức rất rộng, và đó là tại sao có một số điều đã được cố tình đặt vào trong sách để khích động người đọc – bởi vì mục tiêu là gì chứ? Như thày vừa nói, sẽ tới một điểm khi để đưa con lên cao hơn, các thày phải dẫn con vượt ra khỏi tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng vốn là đường thẳng – nó giống như một chiếc máy tính. Nó sẽ làm công việc mà nó vẫn thường làm – nó sẽ phân tích, nó sẽ phân loại, nó sẽ dán nhãn.

1.8. Tâm đường thẳng không thể thấy được tâm đường thẳng

Con yêu dấu, các thày có thể trình bày tất cả những điều vừa rồi và con có thể nghĩ: “Vâng, con hiểu điều thày nói về tâm đường thẳng một cách trí thức.” Con yêu dấu, tâm đường thẳng có thể có khả năng hiểu được tâm đường thẳng, nhưng nó sẽ không bao giờ thấy được chính nó từ ngoài. Tâm đường thẳng không có khả năng bước ra ngoài chính nó. Chỉ có cái Ta Biết mới có khả năng bước ra ngoài tâm đường thẳng, bước ra ngoài sự đồng hóa hiện thời của nó. Làm thế nào các thày có thể giúp con dời chuyển ra ngoài tâm đường thẳng bằng cách cho con một giáo lý thuận theo cách tư duy của tâm đường thẳng? Chuyện này không thể làm được, con yêu dấu.

Đó là tại sao một số môn phái đạo Phật mới có khái niệm công án được cố tình đưa ra để gây bối rối cho tâm đường thẳng. Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay? Đấy, toàn bộ quyển sách Những kiếp sông của tôi là một công án. Sách chứa đựng nhiều công án nhằm giúp con xoay chuyển và bước ra ngoài những tầng tâm thức khác nhau, không chỉ tâm đường thẳng mà cả cảm xúc nữa, thậm chí con xoay chuyển cả bản sắc của con. Nó cho con một trải nghiệm bất ngờ, không đường thẳng và khiêu khích sự kinh ngạc đến độ người đọc hoặc phải bác bỏ trải nghiệm đó hoàn toàn và như vậy cũng bác bỏ quyển sách, hoặc phải dời chuyển lên một mức tâm thức cao hơn. Có rất ít người đọc sách này mà không bị lay chuyển hay khích động – rất ít. Hiển nhiên là có một số người, hầu hết ở dưới tầng tâm thức 48 hay có lẽ cao hơn một chút, vô cùng khép kín và nhiều thành kiến. Những người như vậy có thể mang một số ý tưởng mà họ tuyệt đối không chịu chất vấn, và khi họ tìm ra là quyển sách chất vấn các ý tưởng này thì họ sẽ bác bỏ nó thôi. Rất ít người có thể đọc mà không có phản ứng nào đó, cho nên đây là một dụng cụ thật quan trọng khi con hiểu chính xác.

1.9. Nếu con tìm sự thoải mái thì con đã chọn lộn hành tinh

Có nhiều người trong số các con đã là học trò của chân sư thăng thiên từ rất lâu, có người từ hàng chục năm trời. Con cần nhận thức là có thể sẽ tới một điểm khi con biết quá nhiều giáo lý, con đã đọc quá nhiều lời dạy, đến độ con gần như đâm ra thoải mái. Con nghĩ các chân sư không thể làm con ngạc nhiên được nữa. Có một khía cạnh trong tâm con không muốn các thày tạo ngạc nhiên cho con vì con đã trở nên thoải mái với trình độ hiện tại của mình.

Con yêu dấu, thày nói với con điều này. Nếu con mong được thoải mái thì chắc chắn con đã chọn lộn hành tinh rồi đó, vì đây không phải là một hành tinh nơi con có thể tính chuyện thoải mái được. Suốt các thời đại đã có rất, rất nhiều người cố tạo lập cho mình một hoàn cảnh vật lý vỏ ngoài nơi họ có thể cảm thấy an toàn và thoải mái. Điều này có thể thông cảm được, nhưng con hãy nhìn lịch sử đi. Bánh xe lịch sử đã nghiền nát họ thành cát bụi. Tất cả mọi đế chề hùng mạnh đến đâu cũng đã bị nghiền nát thành cát bụi. Con không thể thực sự thoải mái trên một hành tinh như thế này.

Thách đố mà thày muốn đặt trước mặt con là như sau: Liệu con có muốn biết Sứ vụ Thiêng liêng của con hay con muốn thoải mái? Vì con không thể làm được cả hai. Đa số các con đã có một ý thức nào đó về Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Thày cũng biết là con chưa nhìn thấy được đầy đủ chi tiết, nhưng lý do tại sao thì các thày sẽ giải thích sau. Con có một ý niệm nào đó về Sứ vụ của con. Hầu hết các con đã phần lớn đi theo Sứ vụ của mình trong suốt đời mình cho dù con không ý thức chuyện này.

Điều thày muốn đặt trước mặt con là giờ đây con đã đạt tới mức có một số khía cạnh của Sứ vụ Thiêng liêng mà con chưa nhìn thấy. Một lần nữa, con đã thấy được một số khía cạnh của Sứ vụ của mình, con đã phần lớn bước theo Sứ vụ, nhưng vẫn còn điều gì đó mà con chưa thấy. Con cần tự hỏi: “Liệu tôi có sẵn lòng muốn thấy những gì tôi chưa thấy?” Nếu con sẵn lòng thì con sẽ cần nhìn nhận là con cần từ bỏ sự thoải mái của con để mà nhìn thấy. Lý do con chưa nhìn thấy là vì con đã thích nghi với một cách nhìn, một thái độ, một cách hiểu nhất định, và con không nghĩ là con cần vượt xa hơn những thứ đó. Nếu con không vượt xa hơn, con sẽ không thể nhìn thấy các khía cạnh của Sứ vụ vẫn ẩn giấu khỏi mắt con. Đây là quyết định mà con cần lấy, và chính con là người cần lấy. Trên cơ bản, thày yêu cầu là khi con đi ngủ tối nay, con hãy thỉnh cầu được dẫn đến nơi nhập thất của bất kỳ vị chân sư thăng thiên nào mà con muốn đến, bất kỳ vị nào thân thiết nhất trong tim con. Xong thày xin con hãy, một cách nghiêm túc, yêu cầu được chỉ dẫn – hầu con có thể nhớ lại sáng hôm sau – điều gì đã khiến con quá thoải mái đến độ nó ngăn chặn tầm nhìn của con về Sứ vụ Thiêng liêng. Con sẽ không rút tỉa được ích lợi tối đa từ lời dạy này nếu con vẫn còn bám giữ mong muốn thoải mái đó. Thày không bảo đây nhất thiết là một chuyện gì khủng khiếp to lớn mà con làm. Nó có thể là một điểm rất vi tế. Con hiểu là hầu hết các con đã đạt đến một mức trên đường tu nơi con không có rủi ro phạm lầm lỗi trầm trọng rồi bị tuột trở xuống, rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn hay bị hụt mất thăng thiên. Con đã đạt được mức khá, con đã khá tinh tấn, nhưng nếu con muốn lên cao hơn thì con không thể cho phép mình thoải mái.

Đây có thể là một điều rất vi tế qua đó con cảm thấy mình có đôi chút thoải mái, có những điều mình không cần thay đổi. Một lần nữa, thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Thày chỉ giản dị nói rằng nếu con thực sự muốn biết các khía cạnh ẩn giấu của Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con cần nhận thức là chúng ẩn giấu không phải vì có tà lực nào đó đang che khuất chúng, cũng không phải vì các chân sư đang chặn giữ chúng khỏi con, mà vì trong chính tâm con có một mức độ thoải mái đang ngăn cản con nhìn thấy chúng. Đây là sự xác định mà con cần làm trong ngày đầu tiên của hội nghị này để con có thể mở tâm ra nhiều hơn cho những điều các thày sẽ trao cho con trong những ngày sắp tới.

1.10. Sứ vụ Thiêng liêng được lập ra như thế nào

Bây giờ con yêu dấu, thày mong muốn trình bày chút đỉnh về cách Sứ vụ Thiêng liêng được lập ra như thế nào. Trong quyển sách của thày Nada [Những khai ngộ thần bí về an bình], thày Nada có giảng là Sứ vụ Thiêng liêng không được lập ra từ một trạng thái tâm thức thăng thiên, mặc dù tất nhiên con được sự trợ giúp của các chân sư thăng thiên. Khi con đi vào kiếp đầu thai hiện tại, con có một tiềm năng cao và một tiềm năng thấp. Nói cách khác, con có tiềm năng đạt đến một mức tâm thức nào đó nếu con cứ tiếp tục tự thăng vượt và thật sự chuyên cần.

Nếu con sống một cuộc đời “bình thường” – nếu có thể gọi như vậy – con sẽ đạt đến cái trạng thái tâm thức thấp hơn. Sứ vụ Thiêng liêng của con được thảo ra từ tầng mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng đạt được trong kiếp này. Nói cách khác, khi các thày gặp con và lập ra Sứ vụ với con, con không đang ở cùng mức tâm thức vào cuối kiếp đầu thai trước hay mức tâm thức khi con bước vào kiếp đầu thai này. Con ở mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng với tới, cho nên khi con thảo Sứ vụ, con nhìn thấy những gì con có khả năng nhìn thấy từ mức tâm thức đó. Thày có thể cam đoan với con là khi con thảo Sứ vụ, nó không được thảo ra với tâm đường thẳng, phân tích. Các thày không ngồi đó với tâm đường thẳng mà phân tích từng khía cạnh của quá khứ lẫn tâm lý của con hay điều này điều nọ. Các thày không giống như người ta trên địa cầu khi con thấy các nhà kinh doanh hay tướng lãnh quân đội lập ra những kế sách chi tiết, đầy đủ với mọi việc cần thi hành hầu thực hiện kế sách. Đó không phải là cách thức một Sứ vụ Thiêng liêng thành hình. Nó không đường thẳng hay phân tích theo kiểu đó.

Đây là thêm một lý do cho thấy là để nắm được các khía cạnh ẩn giấu của Sứ vụ của mình, con phải khắc phục tâm đường thẳng. Nhiều người trong số các con đã trở nên thoải mái với tâm đường thẳng. Thậm chí con đã dùng cả giáo lý chân sư thăng thiên để tạo dựng một cái nhìn đường thẳng về thế giới, qua đó con cảm thấy mình đã hiểu hết cách vận hành của thế giới. Con có một ý niệm về lịch sử đã qua, về lịch sử của vũ trụ và điều này điều nọ, và con cảm thấy thoải mái trong đó. Thày nói với con là con cần bước lên cao hơn để nắm lấy tiềm năng cao nhất trong Sứ vụ của con. Đó là tại sao con cần sẵn lòng bước vượt ra ngoài. Con cần nhận diện mục tiêu mà cả con lẫn các thày đều có khi lập ra Sứ vụ của con là, tất nhiên, khiến con chứng được mức tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng chứng được.

1.11. Nếu đây là kiếp chót của con trên địa cầu

Một tỷ lệ đáng kể trong số các con có tiềm năng sống kiếp đầu thai này là kiếp chót của mình, để con có thể thăng thiên hoặc ngay sau kiếp này, hoặc ít ra sau một thời gian khi con đã giải quyết vấn đề tâm lý cuối cùng và sẵn sàng thăng thiên. Điều này có nghĩa là vấn đề các thày đặt ra cho mình khi lập Sứ vụ Thiêng liêng với con, là các thày nhìn vào mức tâm thức thấp nhất, mức tâm thức mà con đã đạt được ở cuối kiếp hiện thân trước và sẽ đem theo vào kiếp hiện thân này. Xong các thày nhìn vào tiềm năng cao nhất và nói: “Làm thế nào các thày sẽ xoay chuyển tâm ý thức của con từ mức thấp nhất đó lên mức cao nhất? Đâu là những thành kiến, những phin lọc và những điều cấm kỵ trong bốn thể phàm của con mà con cần thách đố và nhìn vượt qua để có thể dời chuyển tâm thức lên mức cao nhất? Con cần kinh qua những trải nghiệm nào để có thể xoay chuyển tâm thức lên mức cao nhất?”

Con hiểu ở đây là mục tiêu của các thày không phải để khiến con nắm bắt chân lý tối thượng tuyệt đối và thông hiểu cả vũ trụ. Mục tiêu của các thày không phải là biến các con thành những nhà siêu trí thức tâm linh hiểu biết dòng diễn biến đường thẳng tuyệt đối của vũ trụ là như thế nào. Mục tiêu các thày là xoay chuyển tâm thức con một cách toàn diện, trực nhận và bao hàm tất cả – một cách trực nghiệm. Đây là mục tiêu của các thày, là những gì các thày xem xét đến.

Điều này mang rất nhiều hệ quả mà các thày sẽ nói tới. Nhưng cho ngày hôm nay, thày muốn con ghi nhớ rằng điều quan trọng là con thực hiện cuộc xoay chuyển đó khi con sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài sự thoải mái và tâm đường thẳng của con. Con phải sẵn lòng xem xét, không cứ là “tôi cần hiểu những gì”, mà “tôi cần có trải nghiệm nội tâm nào, tôi cần loại kinh nghiệm sâu xa nào, một trải nghiệm chuyển vọt, có lẽ cả một trải nghiệm chấn động, để vươn tới tiềm năng trọn vẹn nhất của tôi trong kiếp đầu thai này. Tôi sẽ cần từ bỏ những gì để đạt đến đó?”

Đó là những câu hỏi mà con có thể xem xét từ giờ cho đến ngày mai. Các con có thể bàn thảo với nhau về đề tài này nếu con thích, và giúp đỡ nhau đạt được một nhãn quan đổi khác. Con có thể nhìn vào một nhóm như thế này hay con có thể nhìn vào chính bản thân con, và con có thể nói là tất cả các con đều đang tu học cùng một giáo lý, đã áp dụng cùng một lời dạy, cho nên giữa các con đã có một mối liên kết chung. Mặt khác, các con đến từ nhiều quốc gia, nhiều nền văn hóa, nhiều hoàn cảnh gốc tích khác nhau, và có một điều mà các con có thể giúp nhau nắm bắt và trải nghiệm được, đó là mọi người không nhìn mọi thứ theo cùng một cách.

1.12. Không cảm thấy bị đe dọa bởi những khác biệt

Điều mà các con có thể giúp nhau trong một nhóm thế này là dần dần nhận ra rằng thật không có gì quan trọng nếu mỗi người có cách nhìn khác nhau. Con có thể đạt tới điểm không còn cảm thấy bị đe dọa bởi sự khác biệt của mọi người, vì con nhận ra toàn bộ cách con nhìn đời sống trên địa cầu chỉ là sản phẩm của nội dung trong bốn thể phàm của con. Những gì trong bốn thể phàm đó không thực là con, cho nên tại sao con lại bị dính mắc vào đó đến độ nó ngăn cản con thực là con, ngăn cản con biểu lộ con người thực của con? Liệu nội dung bốn thể phàm quan trọng đến độ con sẵn sàng gác bỏ con người thực của mình để bênh vực cho những ý tưởng đó, cho những cái ngã đó vì chúng không thực một cách tối hậu?    

Lẽ tự nhiên, tiềm năng cao nhất của Sứ vụ Thiêng liêng là con từ bỏ các giới hạn đó, các đồng hoá đó, cái tâm vỏ ngoài đó, các khuôn nếp cảm xúc đó, các thói quen vật lý đó. Con buông bỏ chúng vì con muốn một cái gì cao hơn. Con muốn biểu lộ con thực sự là ai. Đương nhiên đây là một điểm mà các thày sẽ đề cập nhiều hơn, vì thật là một khái niệm đáng sợ đối với một số người khi họ đặt câu hỏi: “Ủa, tôi thực sự là ai nhỉ? Nếu tôi không là cái nhân cách vỏ ngoài đó được uốn nắn khi tôi lớn lên hay ngay cả trong những kiếp trước, thì tôi là ai đây? Tôi muốn là ai đây?”

1.13. Sứ vụ Thiêng liêng có nhiều tầng lớp

Như vậy là đủ cho hôm nay. Để kết thúc, thày muốn trả lời một câu hỏi mà một số người đã đặt ra như sau: “Liệu mọi người trên địa cầu đều có một Sứ vụ Thiêng liêng hay chăng?” Câu trả lời, theo một cách nào đó, là có – mọi người đều có. Nhưng các sứ vụ tất nhiên rất, rất khác nhau tùy theo mức độ tâm thức. Con có thể lấy ví dụ một sa nhân ở tầng tâm thức thấp tột cùng được phép hiện thân trên địa cầu, như Hitler chẳng hạn. Liệu ông ta có một Sứ vụ Thiêng liêng hay không? Có chứ, ông có một Sứ vụ Thiêng liêng vì có những chân sư thăng thiên đã gặp ông, đã bàn cãi về tiềm năng, cả tiềm năng cao lẫn tiềm năng thấp, và đã lập ra một Sứ vụ Thiêng liêng từ tầm nhìn của các thày hầu các thày giữ được niệm tinh khôi cho ông. Nhưng hiển nhiên, các thày cũng biết kế hoạch đó không nhất thiết là thực tiễn vì Hitler ở một tầng tâm thức thấp đến độ ngay cả khi ông ở ngoài hiện thân, ông cũng không có khả năng làm việc với các thày để thảo ra Sứ vụ. Ông ở trong một trạng thái oán giận, nổi loạn, chối bỏ và phủ nhận đến mức ông không thể cộng tác với các thày cho dù trong thời gian giữa hai kiếp đầu thai.

Con càng đi xuống những tầng tâm thức thấp nhất thì con sẽ càng tìm thấy những người không có khả năng làm việc với các thày, ngay cả khi họ đang ở ngoài xác thân và do đó được hưởng chút nhẹ nhõm khi họ không bị bốn thể phàm chi phối. Nhưng họ vẫn không thể làm việc với các thày. Đó là lý do tại sao các thày lập ra một kế hoạch cho họ, dựa trên những gì các thày nhìn thấy nơi dòng sống của họ. Lý do các thày lập ra kế hoạch này tất nhiên không phải là vì các thày cần đến nó – mặc dù nó cũng giúp cho các thày vì trên cõi thăng thiên có những sinh thể cầm giữ niệm tinh khôi cho mọi người đang đầu thai. Lý do chính là vì nếu trong khi đầu thai, người đó quyết định là họ muốn vươn lên để đạt được hơn nữa thì họ sẽ dễ dàng hơn hòa điệu với Sứ vụ của họ và nhận được một xung lực nào đó sẽ giúp họ tiến lên cao hơn.

Khi con đi từ tầng tâm thức thấp nhất lên các tầng cao hơn, con sẽ thấy mọi người có khả năng tham gia nhiều hơn vào việc thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Điều này có nghĩa là họ sẽ có nhận thức rõ ràng hơn khi đầu thai. Họ cảm nhận là mình có một mục đích. Trên cơ bản, có thể nói là cho tới khi con lên cao hơn tầng 48 thì con mới thực sự tham dự một cách ý thức hơn vào việc thiết lập Sứ vụ Thiêng liêng. Đó là tại sao rất nhiều người ở tầng tâm thức này hay cao hơn có cảm nhận là ít ra cuộc sống có mục đích, có ý nghĩa, rằng họ ở đây là có lý do, họ ở đây là để tìm ra một cái gì, khám phá một cái gì, ngay cả học hỏi, tăng triển, tiến hóa. Tất nhiên đối với họ, cảm nhận này sẽ vô cùng hữu ích vì nó giúp họ hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng của họ.

1.14. Tại sao con quên Sứ vụ của con

Hiển nhiên vấn đề trung tâm với Sứ vụ Thiêng liêng là Sứ vụ được thảo ra với mức tâm thức cao nhất mà con có thể vươn tới trong kiếp sống này, nhưng khi con bước vào kiếp này thì con lại bước vào với mức tâm thức thấp nhất của con, là mức con đã đạt được trong kiếp trước. Do đó con không thể nắm được một số khía cạnh của Sứ vụ. Và do độ dày đặc của hành tinh cũng như của bốn thể phàm của con, con quên đi nhiều khía cạnh của Sứ vụ. Ít nhất con sẽ quên đi trong một vài năm đầu của kiếp đầu thai.

Có thể nói là có một giai đoạn trên đường tu tâm linh khi mục tiêu chủ yếu của đường tu, theo một nghĩa nào đó, là nhớ lại phần nào sự nhận biết về Sứ vụ của mình. Nhiều người trong các con đã phần lớn làm được việc này vì con đã sử dụng các lời dạy do các thày ban ra cùng những dụng cụ để chữa lành tâm lý, quân bình nghiệp quả, khắc phục những điểm nghẽn đó, mở tâm ra với tư tưởng mới và gia tăng khả năng trực giác của mình. Như thày vừa nói, tất cả các con vẫn còn một số khía cạnh mà các con đã trở nên quá thoải mái, và chúng đang chặn nghẽn viễn kiến kế tiếp mà con có khả năng hoàn thành, đặc biệt khi con đã nhận được những lời dạy về avatar – và tất nhiên tất cả các con đều là avatar, vì nếu không thì các con đã không ở đây để tu học cách chữa lành chấn thương nhập đời.

Con yêu dấu, điều này kết thúc những nhận xét mở đầu cho tiến trình độc đáo này sẽ dẫn con đi qua những ngày tu học sắp tới. Và như vậy, thày bày tỏ lòng biết ơn của thày đến các con đã có mặt hôm nay, vì tất nhiên, sự kiện các con có mặt rất đông đảo có nghĩa là các thày có thể đưa ra một lời dạy sâu sắc hơn bình thường. Nó trở thành một sự tương tác qua lại giữa các con với các thày. Một lần nữa, các con càng sẵn lòng từ bỏ sự thoải mái của mình thì lời dạy ban ra sẽ càng có thể cao hơn trong những ngày sắp tới. Chương trình cho lần hội nghị này không cứ là được định trước hoàn toàn. Như với mỗi hội nghị, sẽ có một tiềm năng thấp và một tiềm năng cao, và tùy vào sự đáp ứng của các con mà cuối cùng các thày sẽ trình bày những gì. Thày gửi lời cảm tạ sâu xa nhất đến các con đã hiện diện ở đây, đã sẵn lòng có mặt ở đây, và cũng sẵn lòng – thày tin như vậy – vươn lên cao hơn nữa.

Khắc phục nỗi sợ lấy quyết định

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary. Thật là một niềm vui lớn được nói chuyện với các con, nhưng hơn thế nữa là niềm vui được với các con trong buổi họp tuyệt vời của những trái tim tuyệt vời của các con ở nơi chốn tuyệt vời này. Các con yêu dấu, Đại thiên thần Michael đã ra lệnh cho chúng ta bắt đầu, nói theo nghĩa bóng. Do đó, thày muốn nói lên một số ý từ trái tim của thày và cho con một dụng cụ thực tiễn có thể giúp con khắc phục nỗi đau khi lấy quyết định.

13.1. Những quyết định né tránh

Trước kia ở đây trên nước Nga chúng ta có nói đến vấn đề lấy quyết định, đưa ra một số hướng dẫn đặc biệt cho người dân Nga, nhưng thày muốn cho các con một dụng cụ phổ quát cho tất cả. Thực tế là khi con nhận ra giáo lý rất cơ bản mà các thày đã trao truyền, là mọi sự trong toàn thể vũ trụ xoay quanh quyền tự quyết, thì con cũng nhận ra rằng mục đích căn bản của sa nhân (từ lúc họ xuống hành tinh này và thật vậy, từ lúc họ sa ngã), là khiến cho những dòng sống có tự nhận biết và chưa sa ngã lấy những quyết định mà sa nhân sau đó có thể dùng để chi phối họ bằng nhiều cách.

Đầu tiên hết, mục đích của họ, lẽ dĩ nhiên, là chứng minh là Thượng đế đã sai khi cho các con quyền tự quyết. Họ cũng muốn giam hãm con vào đủ loại vòng xoáy đi xuống khi con lấy một quyết định tạo cho con một nỗi đau thống thiết. Lẽ dĩ nhiên, nỗi đau không do quyết định của con nhưng do sự thao túng và phản ứng của sa nhân. Dù gì chăng nữa, họ khiến con lấy quyết định, họ làm cho con đau đớn và sau đó tìm cách dụ dỗ con rơi vào một vòng xoáy vô tận trong đó hoặc con tìm cách che giấu nỗi đau của quyết định đầu, tìm cách biện minh cho nó, tìm cách giải thích tại sao, hoặc con tìm cách tránh không lấy quyết định nữa. Lẽ dĩ nhiên, sa nhân rất giỏi trong chuyện dàn xếp để con rơi vào những hoàn cảnh thực tiễn trên trái đất khiến con phải lấy quyết định. Vì con muốn tránh không làm lại những quyết định đã khiến con đau đớn lúc đầu, nên họ tìm cách khiến con lấy những quyết định khác mà chúng ta có thể gọi là “quyết định né tránh”. Đây là những quyết định có mục đích, trong tâm con, né tránh lấy những quyết định đã tạo cho con nỗi đau quá lớn.

Con nghĩ rằng nếu con lấy những quyết định loại khác, thì con có thể né tránh nỗi đau. Lẽ dĩ nhiên, điều này dẫn tới những đau đớn loại khác và chẳng bao lâu con bị vướng trong một màng nhện trong đó con càng cựa quậy, con càng dính thêm và càng bị bao bọc bởi một chất nhựa, và càng mất khả năng cử động. Chẳng bao lâu, con ngồi yên như một con muỗi bị mắc bẫy trong màng nhện và tất cả những gì con làm được là kêu vo ve tại chỗ vì con thực sự không thể di động khỏi chỗ đó. Con có thể tiếp tục làm như thế trong khi sa nhân vắt lấy năng lượng của con hoặc là cho tới khi con quyết định như vậy là đủ rồi và đã tới lúc con tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh.

13.2. Tránh không lấy những quyết định né tránh

Các con yêu dấu, các thày biết rõ hoàn cảnh của các con trên trái đất và các thày biết sống hiện thân trên trái đất khó khăn như thế nào. Các thày cũng biết cơ cấu dẫn tới những quyết định né tránh. Các thày biết khó tránh những quyết định né tránh, nhưng các thày cũng biết các con không thể nào đi vào con đường quả vị Ki-tô bằng cách lấy những quyết định né tránh.

Bây giờ con hãy nghe chăm chú. Con có thể bắt đầu con đường tâm linh khi vẫn còn bị mắc kẹt trong những quyết định né tránh này. Con có thể tiến bộ trên con đường tâm linh bằng cách học giáo lý tâm linh và thực hành những kỹ thuật tâm linh. Để có thể bước ra khỏi con đường mà ta có thể gọi là con đường vỏ ngoài (hay con đường tâm linh) để bước vào con đường nội tâm (hay con đường quả vị Ki-tô), thì con phải sẵn sàng lấy những quyết định không nhắm mục tiêu né tránh một quyết định lớn hơn, những quyết định không tìm cách né tránh nỗi đau. Chúng không phải là sự phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài trong đó con lấy quyết định đi theo một vị thày bên ngoài hay tuân thủ một nghi thức vỏ ngoài. Con thực sự làm như thế để tránh không phải lấy những quyết định sâu xa hơn, tỷ dụ như con là loại sinh thể nào, con muốn sống trong một thế giới như thế nào, con sẵn sàng muốn nhìn vào những gì trong chính mình để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài và để thay đổi hoàn cảnh nội tâm và để giải thoát mình khỏi những khuôn nếp trong tâm do sa nhân lập trình.

Giờ đây, như cả người sứ giả và Đại thiên thần Michael đều đã nói, các thày chỉ có mong muốn duy nhất là thấy con thoát khỏi bất cứ điều gì hạn chế con. Những giới hạn này, trong ngắn hạn ngăn trở con cảm thấy thoải mái với chính mình, và trong dài hạn ngăn trở con con hội đủ điều kiện để thăng thiên và biểu hiện quả vị Ki-tô. Tại Hòa Lan, các thày nói nhiều về chuyện cảm thấy thoải mái với chính mình và tầm quan trọng của nó. Ấy, con yêu dấu, thày có thể hỏi con một câu hỏi giản dị: “Con có nghĩ là một sinh thể Ki-tô không cảm thấy thoải mái với chính mình?”

Lẽ tự nhiên, nếu con nghĩ về điều này, thì con nhận ra rằng khi con càng ngày càng đi cao hơn trên con đường tu, con biểu hiện một tầng mức càng ngày càng cao hơn của quả vị Ki-tô. Con nhận ra rằng lẽ tự nhiên con phải cảm thấy càng ngày càng thoải mái hơn với chính mình. Dù gì chăng nữa, Giê-su đã nói gì? Thày nói: “Ta và Cha ta là một.” Đấy, nếu con là một với Cha, là Hiện diện TA LÀ của con, thì lẽ tự nhiên con sẽ cảm thấy thoải mái với chính mình vì Hiện diện TA LÀ của con không ở trong thế gian này hay không thuộc về thế gian này, và nó cảm thấy thoải mái với chính nó.

13.3. Một bài tập để phơi bày các quyết định gây giới hạn

Thày đã trao truyền một số câu chú và thỉnh nguyện để thanh tẩy các luân xa của con, và con nên đọc những câu chú và thỉnh này mỗi lần con làm bài tập sắp tới đây. Thày muốn con trụ vào trái tim của mình, đặt tư tưởng vào luân xa tim, và thày muốn con lấy quyết định là con có muốn thày hướng dẫn con để con khám phá ra quyết định nào đã làm nghẽn luân xa tim của con, đã ngăn chận ánh sáng không biểu lộ được trọn vẹn trong luân xa tim của con chăng?

Nếu con trả lời là “Có” thì Mẹ yêu cầu con hình dung Mẹ đang ngồi trên một chiếc ghế và con giống một trẻ thơ. Con đi lại gần Mẹ và con giơ hai cánh tay lên. Mẹ cúi xuống và bế con lên và đặt con vào lòng Mẹ và Mẹ ôm con trong vòng tay Mẹ. Bây giờ, con được hoàn toàn bảo bọc bởi vòng tay đầy tình thương của Mẹ, bởi hào quang đầy tình thương của Mẹ, bởi rung động đầy tình thương của Mẹ. Con được bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy của thế gian này. Chắc chắn là Mẹ Thiêng liêng có thể bảo vệ con khỏi bất cứ điều gì trên thế gian này, vì thế gian đã được tạo ra từ Bản thể và bản chất của Mẹ Thiêng liêng. Trong khi con đang ở trong lòng Mẹ, Mẹ yêu cầu con đặt một câu hỏi giản dị: “Mẹ Mary, hãy chỉ cho con thấy quyết định nào đang làm nghẽn luân xa tim của con.” Sau đó, trong khi con làm tiếp bài tập này một mình, con có thể chậm rãi, con có thể mở nhạc làm nền, và con có thể thiền định về Hiện diện của Mẹ, mà không suy nghĩ trước, không suy nghĩ phân tích hay đường thẳng, không có câu chú hay nghi thức hay bất cứ điều gì khác trong tâm con. Con để tâm lắng yên xuống và chỉ giản dị lắng nghe. Trong hầu hết các trường hợp, Mẹ sẽ không gửi cho con ngôn từ, nhưng Mẹ có thể gửi cho con hình ảnh hay cảm nhận liên quan tới loại quyết định nào con đã lấy. Lẽ tự nhiên, con biết luân xa tim là biểu hiện của tình thương và như thế quyết định của cá nhân con, rất có thể sẽ liên quan đến chuyện con cảm thấy tình thương của mình đã bị bác bỏ và con quyết định là con sẽ không biểu lộ tình thương nữa trên hành tinh đen tối này.

Bây giờ, có thể là trong khi con làm bài tập này, thì con có thể nhận một xung lực mà con muốn quán chiếu hay khai triển. Con cũng có thể muốn Mẹ giúp con giải tỏa vấn đề này. Quả thực là con sẽ phải tới điểm thấy được vấn đề rõ ràng và con quyết định sẽ tháo gỡ quyết định ban đầu đó vì bây giờ con biết con đã tiến lên cao hơn trên con đường tâm linh, con đã tiến lên cao hơn trên con đường quả vị Ki-tô. Do đó, con sẽ không còn cảm thấy nỗi đau mà trước kia con cảm thấy khi tình thương của con bị bác bỏ. Nếu tình thương của con lại bị bác bỏ nữa, thì con cũng không cảm thấy đau đớn như xưa vì bây giờ con là một sinh thể khác và do đó con không cần cảm thấy sợ hãi khi nhìn lại quyết định của mình và thay đổi nó. Con không cần sợ biểu tỏ tình thương của con nữa.

Nếu con không có một cảm giác đặc thù, thì có thể con cần làm việc với một luân xa khác và do đó Mẹ đề nghị con tiếp tục tiến hành bài tập này. Khi Mẹ đi qua một luân xa, nếu con có phản ứng mạnh, thì con có thể tạm ngưng hay ngừng hẳn bài tập và chú tâm vào luân xa này. Con có thể đọc bài chú, bài thỉnh về nó, con có thể kêu gọi trái tim của Mẹ, con có thể nghe nhạc, hoặc làm bất cứ điều gì khác mà con cảm thấy muốn làm, con yêu dấu.

Bây giờ, Mẹ yêu cầu con hình dung con đi từ luân xa tim lên luân xa cổ họng. Con hòa điệu với luân xa cổ họng, con đi vào trong đó và con lại hỏi mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa cổ họng của con.” Lẽ dĩ nhiên, con biết luân xa cổ họng liên quan tới sự biểu lộ uy lực và ý chí. Đã có một thời con dám biểu lộ uy lực của con. Vì lý do nào đó, quyết định này khiến con đau đớn và con quyết định con sẽ không bao giờ biểu lộ uy lực nữa. Con sẽ không bao giờ biểu lộ ý chí mạnh mẽ như vậy, con sẽ bớt cả quyết hơn, bớt sẵn sàng đứng lên bảo vệ lập trường mình, nhưng con chịu uốn mình theo hoàn cảnh, theo bất cứ chuyện gì xảy ra cho con để con tránh né nỗi đau này. Một lần nữa, con có thể xin Mẹ hướng dẫn giúp con thấy quyết định này. Con có thể biết là con đã tiến lên cao hơn và do đó, một lần nữa, con có thể tới điểm thấy được quyết định và con quyết định: “Con sẵn sàng muốn biểu lộ uy lực Thượng đế của con, dùng ý chí của con để bảo vệ lập trường và nói: “Tới đây là đủ rồi, không được xa hơn nữa, từ đây con sẽ tiến lên phía trước.”

Kế tiếp, Mẹ yêu cầu con đi từ luân xa tim xuống đám rối dương (solar plexus). Một lần nữa, con đi vào luân xa rối dương và con hỏi Mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa rối dương của con.” Lẽ tự nhiên, luân xa rối dương liên quan tới an bình, liên quan tới phụng sự. Có thể đã có một thời điểm con quyết định đứng lên đòi hòa bình và sa nhân đã tìm cách nào đó để khiến con bị đau đớn. Có thể đã có một thời điểm con quyết định phụng sự đời sống và một lần nữa sự phụng sự của con bị bác bỏ và tạo ra trong con nỗi đau. Một lần nữa, con hãy thiền về tim của Mẹ, và xem có điều gì khởi lên trong con chăng. Con hãy áp dụng các dụng cụ và giáo lý cho tới khi con thấy rõ ràng quyết định cũ đó và con lấy quyết định sẵn sàng muốn phụng sự, sẵn sàng thực sự muốn bình an vì con biết rằng ngày nay sự bình an của con không dễ bị phá rối như trong quá khứ.

Sau đó, chúng ta lại tiến lên từ luân xa tim lên con mắt thứ ba, và con trụ vào trong đó và hỏi Mẹ: “Mẹ Mary, xin giúp con thấy quyết định nào đã làm nghẽn luân xa con mắt thứ ba của con.” Đây là luân xa của viễn kiến. Đây là luân xa của sự nhìn thấy sự thật và chân lý. Có thể con đã bảo vệ sự thật và sa nhân đã tìm cách làm tổn thương con. Có thể con đã biểu lộ một viễn kiến cao hơn và nó bị bác bỏ. Một lần nữa, khi con thấy được quyết định này, thấy nó như nó là, con có thể quyết định là con sẽ dám biểu lộ viễn kiến của mình, con dám đứng lên bảo vệ chân lý cao nhất mà con thấy được ngay bây giờ, tuy con vẫn biết là luôn luôn có một chân lý cao hơn nữa mà con sẽ thấy. Khi con buông bỏ được quyết định cũ, thì con cảm thấy một gánh nặng được trút khỏi người con. Con cảm thấy điều này mỗi lần con quyết định con sẽ dám biểu lộ trở lại ánh sáng của con xuyên qua một luân xa nào đó.

Bây giờ chúng ta đi từ luân xa tim xuống trung tâm của luân xa hồn, là luân xa liên quan tới sáng tạo, vui chơi và niềm vui của trẻ thơ. Con hãy nhìn hành tinh này và thấy những người có tâm hồn trẻ thơ đã thường bị sa nhân hà hiếp thô bạo và đập dí xuống đến độ họ không dám là trẻ em thơ ngây nữa. Thay vào đó, họ trở nên sợ sệt, lúc nào cũng chờ đợi sẽ có điều gì xấu xảy ra hay sợ sẽ bị trừng phạt vì lý do nào đó.

Phải chăng Giê-su có nói: “Trừ khi con trở lại như một trẻ thơ, con không thể nào đi vào vương quốc thiên đàng?” Trừ khi con dám để ánh sáng tuôn chảy qua trung tâm luân xa hồn của con thì làm sao con có thể thực sự tiến bộ trên con đường quả vị Ki-tô và dám biểu lộ chính mình? Một lần nữa con có thể hòa điệu vào Bản thể của Mẹ, xin mẹ giúp con thấy quyết định của mình. Nếu con nhận được một xung lực mạnh, con hãy thiền quán về nó, nghiền ngẫm nó. Con hãy dùng các dụng cụ cho tới khi con thấy được tại sao con quyết định đóng lại dòng chảy sáng tạo của con. Khi con quyết định thay đổi quyết định một cách có ý thức, thì một lần nữa, một gánh nặng khác được trút bỏ xuống.

Bây giờ chúng ta lên trở lại luân xa Đỉnh đầu, liên quan tới Tia thứ Hai của Minh triết Thượng đế. Nó cũng là luân xa giúp con kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, với cõi tâm linh, với sự hiểu biết tâm linh. Một lần nữa, Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa đó và xin Mẹ giúp con thấy được quyết định nào đã làm nghẽn dòng chảy xuyên qua luân xa Đỉnh đầu của con. Phải chăng Giê-su có nói: “Đừng để ai lấy vương miện trên đỉnh đầu của con.” Lẽ dĩ nhiên, hầu như không thể nào hiện thân trên một hành tinh như trái đất mà không bị các sa nhân làm điều gì đó để tiêu trừ con hay tổn thương con khi con dám biểu lộ minh triết của con. Hay khi con dám nói lên trực giác là con biết điều gì đó là thật, dù là không có bằng chứng vật chất. Một khi con đã hòa điệu, một khi con muốn mở tâm và tim mình ra để đón nhận một xung lực từ Mẹ, thì con có thể thay đổi quyết định này một cách ý thức và do đó con lại cảm thấy một gánh nặng được nhấc khỏi con.

Bây giờ chúng ta đi tới luân xa cuối cùng là luân xa gốc, cũng được gọi là luân xa Mẹ, không phải vì nó liên quan tới phụ nữ hay người Mẹ, hay ngay cả tình dục. Nó thực sự là luân xa qua đó con biểu lộ nỗ lực sáng tạo của mình để sáng tạo hay biểu hiện điều gì đó trong bát cung vật lý (physical octave). Nó là luân xa cuối của một dây chuỗi khi con gán một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật và tìm cách biểu hiện nó trên cõi vật lý. Lẽ dĩ nhiên, đó là lý do tại sao sa nhân đã tìm cách, một cách rất hung hãn, làm tắt nghẽn luân xa này trong càng nhiều người càng tốt.

Con hãy xin Mẹ lần nữa giúp con thấy quyết định của con muốn biểu lộ hay biểu hiện điều gì đó và điều ấy bị bác bỏ, bị chê bai, bị chỉ trích, bị phán xét và cũng có thể là nó bị tiêu hủy một cách thô bạo ngay trước mắt con. Bằng cách hòa điệu với tim của Mẹ, bằng cách mở tâm và tim của con ra, con có thể nhận được một xung lực giúp con biết rõ ràng hơn và con có thể bắt đầu thay đổi quyết định đó.

13.4. Dùng bài tập

Giờ đây con yêu dấu, đối với hầu hết các con bài tập này không phải chỉ làm một lần và mọi luân xa đều được thanh tẩy. Đa số các con sẽ được lợi lạc khi làm đi lại nhiều lần. Lẽ dĩ nhiên, con có thể làm bài tập này chung với việc đọc các bài chú của thày để thanh tẩy luân xa, hay đọc một số bài nguyện và bài thỉnh khác nhau để thanh tẩy luân xa. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể kết hợp bài tập này với Khóa học Tự Điều ngự trong đó con tiến lên qua bảy tia sáng và qua đó, con thanh tẩy luân xa tương ứng.

Do đó đây là một bài tập mà con có thể thu âm để dùng hay con có thể in ra để đọc và con đi qua các bước. Con cũng có thể đọc câu chú (mantra), bài chú hay bài thỉnh cho mỗi bước. Con có thể nghe nhạc, hay bất cứ điều gì con hứng thú muốn làm. Yếu tố chính yếu là con hòa điệu vào luân xa của con, con xin Mẹ giúp con thấy được quyết định của con và con mở tâm và tim càng nhiều càng tốt để nhận vào một xung lực từ Mẹ sẽ giúp con thấy rõ ràng hơn quyết định đã làm nghẽn một luân xa nào đó.

Đây là một bài tập có thể dùng chung với những bài tập khác mà Mẹ đã trao truyền cho các con, để chữa lành chấn thương nhập đời nguyên thủy và để chữa lành những khía cạnh khác của tâm lý của con.

13.5. Bắt đầu lấy quyết định trở lại 

Con thấy chăng, con yêu dấu, con sẽ tới điểm trên con đường tâm linh khi con cần lấy quyết định, con cần dám lấy một quyết định không phải là quyết định né tránh. Giờ đây, tất cả các con đã lấy những quyết định như thế (chúng ta có thể gọi chúng là quyết định Ki-tô), nếu không thì con đã không ở trên con đường tâm linh và con đã không đang ở đây. Tuy nhiên hầu hết các con vẫn còn những khuôn nếp đó, những tắt nghẽn trong luân xa của mình. Để tránh né nỗi đau mà con nghĩ dính liền với một quyết định, con lấy những quyết định khác – những quyết định né tránh – để né không phải lấy một quyết định thật. Con tìm cách né tránh những biểu hiện của mình sẽ bị người khác hay tà lực phán xét và chỉ trích.

Con yêu dấu, như người sứ giả và Đại thiên thần Michael đã nói trước đây, nếu con sẵn sàng muốn học hỏi từ một quyết định, thì nó không thể là một lỗi lầm. Tại sao vậy, con yêu dấu? Bởi vì mục đích cuộc sống trên trái đất là gì? Nó không phải là tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó do sa nhân quy định. Qua rất nhiều tôn giáo và triết lý tâm linh, sa nhân đã tìm cách bán cho con ý tưởng rằng cách duy nhất để lên thiên đàng là sống theo một tiêu chuẩn mà họ đã quy định trên trái đất. Đây là một sự gian dối hoàn toàn. Như đã nói, con không thể đi vào thiên đàng bằng cách sống theo bất cứ tiêu chuẩn nào của thế gian. Con phải vượt lên trên tất cả mọi tiêu chuẩn bằng cách lấy một quyết định Ki-tô từ bỏ ảo tưởng quy định mỗi tầng trong 144 tầng tâm thức, như thày Hilarion đã mô tả trong sách của thày. Con có thể quyết định là giờ đây con đã tìm thấy một giáo lý tâm linh, một con đường tu tâm linh, một nhóm tâm linh hay một vị thày tâm linh và con sẽ theo vị thày này, theo nhóm này. Con sẽ làm một số nghi thức, con sẽ học một số giáo lý, con sẽ học hỏi, con sẽ nỗ lực tu tập. Như thày có nói trước đây, con có thể được lợi lạc khi làm như thế, nhưng con vẫn có thể làm như thế trong khuôn khổ một quyết định né tránh. Ý tưởng cốt lõi của con đường tu vỏ ngoài đã len lỏi vào rất nhiều nơi trên trái đất, ngay cả trong các giáo lý tâm linh. Ngay cả một số những vị đạo sư hay những vị thày nhiều kinh nghiệm cũng chưa thấy rõ cơ chế này. Con người và ngay cả các đạo sư thường có khuynh hướng quy định một con đường tu vỏ ngoài và nói rằng nếu con đi theo con đường vỏ ngoài này, thì sẽ có một ngày con thăng thiên, đạt giác ngộ, đạt được một trạng thái tâm thức cao hay gì gì đó. Con yêu dấu, con sẽ tiến bộ khi đi theo nhiều đường tu như thế nhưng con sẽ không tiến bộ trên con đường quả vị Ki-tô cho tới khi nào con bắt đầu lấy những quyết định Ki-tô trong đó con không tìm cách né tránh nỗi đau hay né tránh lấy những quyết định mà con cho là nguy hiểm.

13.6. Gia nhập con đường quả vị Ki-tô

Quả thực là điều con cần làm để tìm ra con đường quả vị Ki-tô và đi trên con đường quả vị Ki-tô là con tìm ra cách, trong tâm con, tách rời tiến trình lấy quyết định ra khỏi nỗi sợ đau đớn. Bài thiền tập mà thày vừa mới trao truyền cho con là một dụng cụ để làm việc đó, nhưng con cũng có thể làm một sự chuyển hóa tổng quát trong tâm mình để nhìn nhận rằng mục đích thật của cuộc sống trên trái đất không phải là sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài. Mục đích thực sự là con hiện thân và đi qua tiến trình mà các thày mô tả là tiến trình trầm mình và thức tỉnh. Trước tiên con trầm mình vào bát cung vật lý, đồng hóa mình với thân thể và với bát cung vật lý và sau đó con tự thức tỉnh.

Để con có thể thức tỉnh mình, con phải nhìn thấy được là không có nỗi đau nào, không có sự hổ thẹn nào, không có sự lên án nào đến từ phía các thày đối với bất cứ điều gì con đang làm, con đã làm, bất cứ điều gì con có thể làm trong thế giới vật chất. Bất cứ điều gì con làm trong cõi vật chất đều được làm với năng lượng của Mẹ. Bất cứ điều gì con làm trong cõi vật chất có thể được tẩy xóa đi, chắc chắn là như thế. Con không bao giờ có thể làm một điều gì trong cõi vật chất mà con không thể gỡ bỏ bằng cách lấy một quyết định sáng suốt hơn, tỉnh thức hơn. Con nhận ra rằng, con yêu dấu, dù con đã lấy một quyết định đưa con xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn và khiến con đồng hóa mình với cõi vật chất (hay với thân thể của con, với bốn thể phàm của con, với cỗ xe linh hồn của con, với tự ngã của con, với nỗi đau của con), thì đây cũng chỉ là một phần của tiến trình đắm chìm và thức tỉnh.

Do đó, mỗi quyết định mà con làm khiến con trầm mình sâu hơn vào thế giới vật chất đều có thể được chuyển hóa thành một quyết định thực sự xây dựng quả vị Ki-tô của con và như thế giúp con thức tỉnh mình. Nó còn có thể giúp con tới được điểm mà con có thể bắt đầu biểu hiện Sứ vụ Thiêng liêng của con, bắt đầu là cánh cửa mở cho Hiện Hiện diện TA LÀ của con, vì bây giờ con biết con không muốn biểu hiện điều gì. Bây giờ, con biết có cái gì đó cao hơn, con biết con có thể là hơn điều này. Một khi con đã đồng hóa mình với điều gì đó trong thế giới vật chất và sau đó con thức tỉnh mình thoát khỏi sự đồng hóa đó, thì con biết con sẽ không bao giờ bị mắc bẫy trong giới hạn đó nữa. Con đã trải qua nó một lần và con không cần trải qua nó một lần nữa. Con có cái biết này trong căn thể (causal body) của con, con có thể tìm lại cái biết đó và do đó con có thể tránh không làm như thế nữa.

13.7. Đi vào nỗi đau

Con cũng biết rằng, con yêu dấu, đã có một lúc con bị cuộc đời làm tổn thương trên trái đất này và nó khiến con đau đớn. Như các thày đã nói trước đây, lần đầu tiên chuyện này xảy ra, cú sốc lúc ấy là lớn nhất. Do đó, khi con nhìn lại quyết định cũ, nỗi đau không thể nào to lớn bằng lúc con cảm thấy nó lần đầu và lấy quyết định nguyên thủy. Nỗi đau sẽ không bao giờ đau nhiều bằng lần đầu ấy. Con có thể bị đau đớn khi con nhìn lại quyết định con đã lấy, mà trong tâm vỏ ngoài của con, con xem quyết định này là một sai lầm, nhưng nó chỉ là một nỗi đau tạm thời. Một khi con đi vào nỗi đau đó và gỡ bỏ quyết định, con sẽ thoát khỏi nỗi đau. Nếu con không đi vào nỗi đau và gỡ bỏ quyết định, con sẽ kéo lê nỗi đau này với con như con đã làm qua nhiều kiếp sống.

Con thấy chăng, một lần nữa, sa nhân muốn con rơi vào khuôn nếp đó và sau đó họ muốn giữ con bị mắc kẹt ở đó đời đời. Các chân sư thăng thiên muốn con bước ra khỏi sự đồng hóa mình với bất cứ điều gì trong cõi vật chất để con được tự do, không còn gánh nặng, không còn sợ hãi và một lần nữa con dám là dưới này những gì con là Trên kia. Làm sao con có thể là dưới này tất cả những gì con là Trên kia nếu con không dám lấy quyết định?

13.8. Có nhiều chọn lựa đúng

Con yêu dấu, đôi khi có một tâm thức trong các đệ tử chân sư thăng thiên muốn các thày hay một vị đạo sư bên ngoài nói cho con biết con phải làm gì. Con nghĩ rằng nếu có một thẩm quyền cao, một sinh thể tiến hóa cao, bảo con phải làm gì thì điều ấy không thể nào sai. Con quá sợ mình làm một lỗi lầm nên con muốn biết trước là con đang lấy một chọn lựa đúng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Con thấy chăng, con yêu dấu, nghĩ rằng trong một tình huống đặc thù chỉ có một chọn lựa đúng duy nhất là một ảo tưởng. Có rất rất nhiều tình huống trong cuộc sống có nhiều chọn lựa đúng. Đây chỉ là vấn đề con muốn lấy chọn lựa nào mà thôi. Con có thể có mười người và đặt họ vào một tình huống rất giống nhau. Họ có thể lấy mười chọn lựa khác nhau nhưng mỗi chọn lựa đều đúng cho mỗi người cho nên cả mười chọn lựa đều đúng vì chúng đều đưa tới sự tăng triển.

Nếu con nhìn một cách trung thực hoàn cảnh mà thày phải đối mặt như một đại diện của Mẹ Thiêng liêng, thì con có thể nói là thày thường nhắc đi nhắc lại một chuyện, nói về cùng một đề tài, nói cùng một chuyện bằng nhiều cách khác nhau. Tại sao thày làm như vậy chứ? Một phần vì thày biết thày không thể giúp tất cả mọi người với một cách diễn tả nào đó, và thày quả thực mong muốn tất cả các con được tự do. Thày tìm cách trao truyền cho các con nhiều điều qua nhiều cách diễn tả khác nhau để nó thu hút nhiều người khác nhau. Con cũng cần trung thực và nhận ra rằng đối với nhiều người trong các con, lý do thày phải nhắc đi nhắc lại là vì con không thực sự chú ý lần đầu tiên thày nói, hay lần thứ nhì thày nói, hay lần thứ ba hay lần thứ tư hay lần thứ năm. Trong một số trường hợp, con chưa sẵn sàng, nhưng trong một số trường hợp con đã sẵn sàng, nhưng con chỉ chưa muốn mà thôi.

Con yêu dấu, con sẽ tới một điểm trên con đường tu khi con cần nhìn nhận là lúc con thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì không phải tự ngã đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng của con. Đó là chính con, ở trong một trạng thái tâm thức rất tỉnh thức, đã thảo ra Sứ vụ Thiêng liêng cùng với các vị thày tâm linh của con và Hiện diện TA LÀ của con. Lúc ấy con quyết định con muốn tăng triển như thế nào trong kiếp đầu thai sắp tới. Con quên mất điều này khi con đầu thai, nhưng ý nghĩa của Sứ vụ Thiêng liêng vẫn vận hành trong ba thể phàm cao của con. Có đôi lúc tâm vỏ ngoài của con không hòa điệu được với Sứ vụ. Do đó, sự thực là con có thể đã sẵn sàng lấy một quyết định nào đó (vì con đã làm xong việc thanh tẩy ba thể phàm cao của con), nhưng tâm vỏ ngoài của con chưa bắt kịp. Tâm vỏ ngoài của con chưa sẵn sàng, tâm vỏ ngoài của con chưa muốn thấy là có nhu cầu lấy quyết định đó.

13.9. Tuôn chảy với Dòng sông sự Sống

Nếu con cảm thấy đã nghe thấy điều này trước đây rồi, thì con hãy xem xét vì sao con đã nghe nó rồi nhưng con chưa thực sự nghe thấy nó? Tại sao con chưa hành động, tại sao con chưa có thể hay chưa muốn lấy quyết định với tâm ý thức của con để bước ra khỏi sự hạn chế liên quan tới việc lấy quyết định. Khi con làm thế, thì con tạo cho mình tự do để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, con cho phép mình lấy quyết định và giản dị xem kết quả là một kết quả sẽ giúp con điều chỉnh hướng đi khi con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. 

Trôi theo Dòng sông sự Sống không đồng nghĩa với lấy quyết định nhảy vào dòng sông và sau đó dòng sông kéo con xuống hạ lưu. Lúc nào con cũng đang thay đổi hướng đi. Con lấy một quyết định, con thấy kết quả, con thay đổi hướng đi cho thích ứng để con tuôn chảy theo đúng hướng mà con muốn tới, và con tiếp tục làm như thế. Đó là lý do tại sao, con yêu dấu, một khi con đã chuyển hóa như thế, con thấy là không có quyết định nào sai. Không có quyết định nào có thể cản con tuôn chảy với Dòng sông sự Sống với điều kiện là con không cố gắng bơi ngược trở lại tới điểm trên dòng sông nơi con đã lấy quyết định trong quá khứ và nghĩ rằng con phải tháo gỡ điều gì ở nơi đó. Điều con phải tháo gỡ là những khuôn nếp năng lượng trong bốn thể phàm của con. Sau đó, con phải thay đổi quyết định và con không thể thay đổi quyết định trong quá khứ, con chỉ thay đổi được nó trong hiện tại. Để có thể thay đổi nó trong hiện tại, con phải nối kết lại với quyết định trong quá khứ. Điều này không có nghĩa là con trở về quá khứ, nhưng có nghĩa là con nhìn quyết định này với nhận biết cao mà con có bây giờ và con thay đổi nó, con lấy một quyết định mà con không thể làm được với sự nhận biết mà con có trong quá khứ.

Khi con làm điều này, con chỉ giản dị thay đổi hướng đi của con trong dòng sông mà không ngừng lại. Con tuôn chảy liên tục và sau khi con đã làm điều này một số lần, con nhận ra rằng không có điều gì có thể ngăn con trôi theo Dòng sông sự Sống, bất kể quyết định nào con đã lấy và bất kể lỗi lầm có vẻ to lớn dưới nhãn quan người khác hay của sa nhân. Con cho phép mình càng ngày càng giống một trẻ thơ dám biểu hiện chính mình, dám nhìn cuộc đời không như một gánh nặng đè lên mình, không giống như đi bộ trên một bãi mìn là nơi bước trật một bước có thể gây ra hậu quả khủng khiếp. Cuộc đời là một trò chơi và con có thể tiếp cận cuộc đời như một trẻ thơ đang vui chơi. Bây giờ Mẹ yêu cầu con một lần nữa hình dung con đang ngồi trong lòng Mẹ. Mẹ đang ôm con trong vòng tay. Mẹ đang nhìn con, nhìn sâu vào mắt con và Mẹ tỏa rạng tình thương vô điều kiện của Mẹ Thiêng liêng cho cá nhân con. Mẹ yêu cầu con ngẫm nghĩ xem con có sẵn lòng muốn nhận tình thương này, chấp nhận là con xứng đáng nhận nó? Sau đó, con có sẵn sàng cho phép niềm vui của trẻ thơ dâng lên tràn ngập trong trái tim con chăng, con có sẵn sàng biểu lộ niềm vui đó chăng để Mẹ có thể đặt con xuống. Thay vì con đứng đó, lo sợ không biết bước kế tiếp đi đâu, con hân hoan chạy bay ra ngoài cánh đồng tươi đẹp, nghe chim hót, nhìn hoa nở, chơi banh, vui chơi trong bất kỳ hoàn cảnh nào con đối mặt trong đời, nhìn mỗi quyết định như một thử nghiệm sẽ chỉ có thể giúp con lấy quyết định tốt hơn trong tương lai.

Thày đã nói những điều thày muốn nói ở điểm này. Có thể thày sẽ trở lại đề tài này trong tương lai vì thày thực sự biết đây là một trong những điểm khó lãnh hội nhất trên con đường tâm linh. Nếu các con, các con yêu dấu, muốn tạo tác dụng tối đa qua hội nghị này và chuyển hóa tâm thức tập thể của nước Nga, thì thày yêu cầu con ngẫm nghĩ đề tài này trong đời sống cá nhân của con và dám cho phép mình lấy quyết định và vui chơi với cuộc đời giống như một em bé ngây thơ biết rằng em không thể bao giờ mất đi tình thương của Mẹ.

Con có tình thương của thày khắp nơi con đi. Thày sẽ không bao giờ quay lưng lại con, dù con quay lưng lại thày. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quay lại và ôm thày. Thày sẽ hỗ trợ con vì đây là quyết định Ki-tô của thày.

Con có thể yêu mình không?

Bài truyền đọc này được Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary trao truyền ngày 22 tháng 5 năm 2015 nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

Kim: chúng ta hãy nói nhiều lần câu này: “Mẹ Mary, con yêu Mẹ.”

Tất cả: Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ. Mẹ Mary, con yêu Mẹ.

[Mẹ Mary]: Các trái tim yêu dấu của thày, thày chính thực là Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary. Thày… yêu… con. Thày yêu con, mỗi người và tất cả chúng con. Các con có tin rằng thày yêu con không?

Nhiều người: Có.

Tất cả các con có tin rằng thày yêu con không?

Tất cả: Có.

Các con có thật sự tin rằng thày yêu con không?

Tất cả: Có.

Các con có tin bằng trái tim và không bằng miệng là thày yêu con không?

Tất cả: Có.

Vậy, các con hãy trả lời thày bằng trái tim mà không bằng miệng, vì thật quá dễ để nói những lời mà người ta chờ đợi con nói, làm những việc mà người ta chờ đợi con làm, cảm nhận những chuyện mà người ta chờ đợi con cảm nhận, nghĩ những điều mà người ta chờ đợi con nghĩ, và thấy con như là người mà người ta chờ đợi con là.

Bây giờ, các con có thể tin rằng thày yêu con. Các con có thể cảm nhận là thày yêu con. Một số các con có thể cảm nhận tình yêu của thày với các con, nhưng câu hỏi lớn mà thày muốn hỏi các con tối nay là: “Các con có thể yêu mình không? Các con có thể thực sự yêu mình không? Các con có thể yêu cái “ta”, chứ không phải chính mình, không?

1.1. Hai cái ta

Các con có thấy nhu cầu phân biệt hai cái này không? Các con đều nghĩ mình là “chính mình” nhưng con cần nhận ra là có nhân cách vỏ ngoài, cái ta vỏ ngoài, và có bản thể bên trong, cái ta nội tại. Sau đó, con có thể chấp nhận con là cái “ta”, không phải nhân cách vỏ ngoài, mà là cái ta mà con là.

Vì sao thày lại muốn con phân biệt giữa hai cái ta này? Bởi vì có rất ít người trên thế gian này, và chắc chắn là rất ít người sống tại châu Âu, phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta thuần khiết, Bản ngã thuần khiết. Vì sao họ không phân biệt được? Bởi vì, họ đã bị lập trình bởi sa nhân – qua nhiều, nhiều kiếp – để không làm được sự phân biệt này.

Đặc tính của sa nhân là gì? Họ không phân biệt được cái ta vỏ ngoài và cái ta thực. Họ đã đồng hóa với cái ta vỏ ngoài, với cái ta tách biệt. Nếu họ phân biệt được hai cái ta, thì họ đã biết họ không phải là cái ta vỏ ngoài, họ đã biết là họ là một phần của cái Ta Một của Thượng đế. Do vậy, họ đã không hoàn toàn bị mắc kẹt vào tâm thức sa ngã.

Họ muốn tất cả các con nhìn mình như họ nhìn chính họ. Đây là định nghĩa của giáo đoàn tâm linh giả, mà các thày cũng đã gọi là thiểu số tự tôn quyền lực. Họ là những sinh thể đã từ lâu bác bỏ ý niệm Thượng đế yêu họ. Thày có thể hiện ra trước mắt họ và nói với họ là thày yêu họ, nhưng họ sẽ không thể chấp nhận được tình yêu này, vì nếu họ chấp nhận nó, thì họ sẽ bị chuyển hóa bởi tình yêu của thày. Họ không muốn bị chuyển hóa, do đó chọn lựa duy nhất của họ là bác bỏ tình yêu của thày.

1.2. Tình yêu có điều kiện là một sự gian dối

Họ đã làm gì con? Họ đã khiến con tin rằng tình yêu của thày là một tình yêu có điều kiện, nó tùy thuộc vào việc con có đáp ứng được một số điều kiện mà họ đã đặt ra hay không.  Qua đó, họ đã dựng họ thành Thượng đế vì họ đã nói: “Chúng tôi có thể quy định những điều kiện mà ngay cả Thượng đế cũng phải tuân theo trước khi Thượng đế có thể ban phát tình thương cho những người đang hiện thân trên trái đất.” Lẽ dĩ nhiên, đây là một sự gian dối, một ảo tưởng, nhưng làm sao con nhận ra điều này? Làm sao người dân châu Âu có thể nhận ra điều này khi các nhà lãnh đạo của họ, qua rất nhiều thế kỷ, đã nói với họ một điều khác?

Lẽ đương nhiên, con đã bắt đầu thấy ra điều này. Thày nhận biết điều này rất rõ, nhưng thày muốn chỉ cho con thấy là con vẫn còn một phần trong bản ngã của mình. Điều này áp dụng cho tất cả các con không chừa một ai, ngay cả vị sứ giả đang nói lên những lời này. Các con có những chỗ con không thể hoàn toàn yêu mình được trong bản thể của con. Đây là điều mà thày muốn giảng ngày hôm nay.

Thày đã khiến các con phân biệt giữa cái ta nội tại và cái ta vỏ ngoài, cái ta tách biệt. Các thày có lý do khi làm điều này. Các thày nhận ra rằng, vì sự lập trình nặng nề mà các con đã trải qua, các thày không thể khiến các con khởi sự bằng cách thương yêu cái ta vỏ ngoài. Các con đã bị lập trình, đã bị điều kiện hóa, để nghĩ rằng tình yêu của Thượng đế là một tình yêu có điều kiện. Con nghĩ rằng con không thể nào yêu cái ta vỏ ngoài, rằng Thượng đế không thể nào yêu cái ta vỏ ngoài.

Các con nhìn thày như Mẹ Mary, như một sinh thể đã thăng thiên, như một đại diện của Mẹ Thiêng liêng, và trong tâm con nâng thày lên cao hơn con, trên phương diện địa vị hay ít ra là trình độ tâm thức. Có thể nói là thày, lẽ dĩ nhiên, cao hơn các con vì thày đảm trách một vai trò trong đại đoàn hoàn vũ cao hơn vai trò mà bất cứ sinh thể chưa thăng thiên nào có thể nắm giữ. Thày dĩ nhiên cũng đã thăng thiên, do đó tâm thức thày cao hơn tâm thức các con. Nhưng thày không cao hơn các con theo nghĩa của sa nhân, và các phán xét giá trị của họ. Thày là một với cái Tâm Một, cái Tất cả, và các con cũng là một với Tâm Một đó. Các con đã bị lập trình bởi những kẻ đã chối bỏ sự thực này để con chối bỏ mình là một với Tâm Một, do đó trong tâm con đã nâng thày lên cao hơn con.

1.3. Một cái nhìn mới về cái ta vỏ ngoài

Con có thể nhìn vào ý niệm thày giữ niệm tinh khôi (immaculate concept) về con, và con có thể cảm nhận hay nghĩ rằng thày nhìn vào viễn quan cao nhất, tiềm năng cao nhất mà con có thể đạt được, vào trạng thái khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn. Con có thể nghĩ đó là điều thày thấy và yêu. Nhiều người trong các con có một ý muốn, thường tiềm ẩn, muốn che giấu cái ta nhân gian của con khỏi mắt thày, vì con nghĩ nếu thày thấy sắc thái đó của cái ta nhân gian, thì thày không thể nào yêu cái ta nhân gian đó. Con cũng có thể nghĩ là thày sẽ kết án con, ruồng bỏ con, mắng mỏ hay phát vào mông con (hay bất cứ điều gì khác mà con hình dung một bà mẹ hay làm). Con yêu dấu, con thấy chăng là qua bài giảng này thày muốn thách đố quan niệm đó của con về con và về thày.

Quả đúng là con cần khởi sự con đường tu bằng cách nhận ra con hơn cái ta vỏ ngoài, nhân cách vỏ ngoài. Con cần bắt đầu tách mình ra khỏi nhân cách vỏ ngoài vì đó là cách con kết nối với cái ta cao hơn của mình. Hầu hết các con đã bắt đầu tiến trình này. Một số các con đã có những tiến triển khả quan. Điều mà thày muốn cho các con ở đây là bước kế tiếp. Đây là điểm con bắt đầu nhìn cái ta vỏ ngoài một cách khác. Con không xem nó như kẻ địch của sự tăng triển tâm linh của mình. Con không xem nó như một cái gì xấu, tà ác hay ô uế đến độ thày sẽ lên án con vì con đã có nó.

Các thày đã làm một việc chính đáng khi cho con cảm tưởng là tự ngã của con đang chống trả sự tăng trưởng tâm linh của con, và con cần vượt lên trên nó, thăng vượt nó. Trong một số lần giảng trước, các thày đã trao cho các con khái niệm “kẻ đứng trên ngưỡng cửa” là kẻ cần phải bị trói buộc và tiêu trừ. Đây đều là những khái niệm có giá trị. Ở đây thày không chối bỏ những gì đã được giảng trước đây, nhưng thày muốn nói cho con biết là có nhiều giai đoạn trong tiến trình tiết lộ tuần tự, tiến trình đi trên con đường tâm linh một cách tuần tự.

Sẽ có một lúc con cần phải chất vấn giáo lý mà con đã dùng ở một tầng thấp hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ không thấy giáo lý đó sai hay không có giá trị. Con nhận ra là bất cứ giáo lý nào được giảng ra bằng ngôn từ đều có giới hạn. Nó có thể hiểu được dễ dàng theo cách là nó chỉ có thể dẫn con tới một tầng mức nào thôi. Có thể nói là giáo lý có thể dẫn con tới một tầng nào đó, nhưng nó không thể dẫn con đi xa hơn. Nó cũng có thể trở nên một vòng khép kín giữ con ở lại một tầng nào đó. Thày muốn cho các con một cái nhìn mới về chính mình – về cái ta vỏ ngoài và cái ta nội tại của con. Con có thể gặp những hoàn cảnh trong đời sống hàng ngày khiến con bị xáo trộn. Con có thể bị khó chịu, con có thể nổi giận, con có thể sợ hãi, hay con có thể có khuôn nếp cảm xúc nào khác. Con cảm thấy đây không phải là tiềm năng cao nhất của mình, không phải là cách cư xử lý tưởng của mình. Con cảm thấy là con không muốn thày thấy con trong hoàn cảnh đó. Nhiều người trong các con đã chia cuộc đời thành từng ngăn. Một hình thức cực đoan của hiện tượng này là hiện tượng có nhiều tín đồ Cơ đốc giáo – như người ta thường hay nói – đi lễ nhà thờ và xưng tội mỗi Chủ nhật, và sau đó ra ngoài đời và gây tội sáu ngày còn lại trong tuần với lương tâm an ổn. Hầu hết các người đang đầu thai đều đã ít nhiều làm chuyện này. Một cách nói là họ phân biệt đạo và đời. Con tách việc tìm đạo ra khỏi đời sống hàng ngày.

1.4. Thăng vượt sự tự phán xét

Các con đều có một thủ tục, hay ít nhất là đa số các con có một thủ tục, đọc bài chú bài thỉnh. Nhiều người trong các con đã thu xếp thời gian, vào một không gian riêng biệt để đọc bài chú và bài thỉnh. Khi con cảm thấy con ở trong một khung cảnh được kiểm soát trong đó con đang làm một sinh hoạt tâm linh, thì con muốn có thày bên cạnh và nhìn con. Khi con đang la mắng con cái hay đang mất hài hòa trong sở làm, thì con mong muốn thày không có đó, thày không thấy các chuyện đó. Vì sao con lại có sự phân biệt này? Con có nghĩ là thày có sự phận biệt này chăng? Con có nghĩ là thày có thể đứng đây và nói là thày yêu con và tình yêu của thày vô điều kiện, vậy mà khi con làm một số chuyện không phù hợp với những gì con nghĩ một người tâm linh phải làm, thì thày sẽ không còn thương yêu con nữa? Đúng đó, đó là điều nhiều người trong các con nghĩ vì đó là cách tự ngã nghĩ. Đó là cách cái ta vỏ ngoài đã được lập trình để nghĩ. Nó chỉ có thể thấy tình yêu có điều kiện.

Thày không phân biệt như vậy. Thày không có phán xét giá trị, ít ra là theo nghĩa con gọi phán xét giá trị. Thày muốn cho con khái niệm là con cần nhìn vào chính mình, nhìn vào cái ta vỏ ngoài của mình, nhìn cách con hành xử hàng ngày, một cách khác. Con hãy thử phá bỏ sự phân biệt để con cho phép mình thoát khỏi khuynh hướng phán xét mình. Con hãy thử hỏi tại sao con phán xét, tại sao con có ý tưởng là trong cương vị một người tâm linh, một đệ tử chân sư thăng thiên, thì con phải cư xử cách này hay cách khác, và con không bao giờ được làm điều này hay điều nọ.

Con yêu dấu, con hiểu rằng thày đã từng đầu thai trên trái đất. Con có thể có một hình ảnh tuyệt vời về thày dựa trên những hình vẽ thày ngồi ôm trong lòng hài nhi tinh khôi là Chúa Hài đồng. Con có thể nghĩ rằng, dựa trên các hình ảnh tôn vinh này, khi thày hiện thân trên trái đất – khi Giê-su còn thơ ấu, khi có trẻ em khác trong nhà – thì nhà của thày lúc nào cũng sạch sẽ tuyệt hảo, trật tự tuyệt hảo, và thày không bao giờ lớn tiếng với các con. Con có thể nghĩ vậy, nhưng đây không phải là sự thật. Lúc đó, thày ở trong kiếp đầu thai cuối của thày, giống như nhiều người trong các con hiện nay. Lúc đó thày đã đạt được thành quả tâm linh đáng kể, nhưng thày bảo đảm với con là đã có những lúc thày mất bình tĩnh. Có những lúc thày bực bội các con, bực bội Joseph, và đã có những lúc thày to tiếng la mắng.

Điều này có thể khiến con ngỡ ngàng, nhưng thày muốn cho con thấy là thày lúc đó là một con người đang đầu thai trong một hành tinh rất dày đặc trong một tình huống rất căng thẳng. Các con cũng đang ở trong một hoàn cảnh rất căng thẳng vì đây là những thập niên rất căng thẳng khi Thời đại Song ngư chuyển tiếp sang Thời đại Bảo bình. Thày có thể bảo đảm với các con là bất cứ ai đang là một người tâm linh, đang cố gắng đạt được một tầng tâm thức cao hơn, đều bị một áp lực to lớn, một mức độ phóng chiếu to lớn, trong thời này.

Có những lực không muốn con thành công. Họ không muốn con nâng tâm thức mình lên. Họ không muốn con thể hiện quả vị Ki-tô. Họ khẩn thiết muốn con bám chặt vào ý tưởng cho rằng – vì con có khuyết điểm nào đó, vì con đã phạm một lỗi lầm nào đó hôm qua hay 30 năm về trước – nên con không xứng đáng đại diện các chân sư thăng thiên, con không xứng đáng thể hiện quả vị Ki-tô hay đứng lên đòi hỏi bất cứ điều gì có thể cải thiện đời sống trên trái đất. Họ khẩn thiết muốn con bám chặt ảo tưởng đó.

Thày muốn con nhìn vào cái ta vỏ ngoài của mình một cách khác. Như thày có giảng, có một giai đoạn trên con đường tu khi con cần nhìn tự ngã, cái ta vỏ ngoài, như một cái gì đang chống trả sự tăng triển của con, đang kềm giữ sự tăng triển đó, và con cần phải đối phó với nó. Con cần thỉnh cầu để năng lượng được chuyển hóa. Con cần thấy ra những ảo tưởng. Con có thể cần kêu gọi Đại thiên thần Michael trói buộc kẻ đứng trên ngưỡng cửa, trói buộc tự ngã của con, trói buộc đủ loại tà lực đang tấn công con qua tự ngã và kẻ đứng trên ngưỡng cửa.

Đây đều là những bước tu tập chính đáng, nhưng khi con đã làm xong những bước này và đã vươn lên tầng cao hơn, thì hành động này không còn là hành động xây dựng nữa. Không phải là cái ta vỏ ngoài và tự ngã của con không còn chống trả việc con đi trên con đường tu. Chúng vẫn tiếp tục làm chuyện này – nếu con chó phép chúng. Đây chính là điều thày muốn nói với các con: “Hãy ngưng cho phép chúng”.

1.5. Khiến tự ngã trở nên vô hiệu

Cách làm điều này là con nhìn cái ta vỏ ngoài, tự ngã của mình, không như kẻ địch cũng không như một đồng minh của việc tăng triển tâm linh của mình, nhưng coi nó không có ảnh hưởng gì trên việc tăng triển tâm linh của mình. Con cần nhìn vào nó và nói: “Tôi nhìn nhận là tôi có khuynh hướng này. Tôi thấy đây là một phần của cái ta vỏ ngoài của tôi, nhưng nó không phải là tôi. Nó sẽ không quy định được tôi, nó sẽ không kềm giữ được tôi trên con đường tâm linh. Nó sẽ không khiến tôi lẩn trốn Mẹ Mary.”

Con yêu dấu, con thấy chăng là thày chấp nhận hoàn toàn Luật Tự quyết và quyền tự quyết của riêng con. Nếu con nói: “Mẹ Mary, con không muốn thày nhìn vào con trong hoàn cảnh đó”, thì thày sẽ không nhìn vào con. Nhưng, con yêu dấu, nếu thày không nhìn vào con thì thày sẽ không thể giúp con. Thày không thể quay mắt không nhìn con đồng thời giữ niệm tinh khôi về con. Con quả thực đã muốn thày, không giữ niệm tinh khôi về con trong chính những hoàn cảnh mà con cần thầy làm việc đó.

Con có thấy chăng? Khi con đang ở trong trạng thái hài hòa toàn hảo và an bình toàn hảo, thì con không thực sự cần thày giữ niệm tinh khôi về con, đúng không con? Chính khi con đang bất hài hòa là lúc con cần thày giữ sự quân bình cho con. Trong những tình huống đó, rất nhiều khi con đã mặc nhiên nói: “Ôi Mẹ Mary, đừng nhìn vào con lúc này. Thày hãy để con một mình.” Con nghĩ rằng, nếu thày thấy con trong trạng thái đó, thì thày sẽ không thương yêu con.

Khi thày nói: “Thày yêu con” thì thày không phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta nội tại của con. Lẽ dĩ nhiên, thày biết con là ai. Thày biết cái ta nội tại là thực. Thày biết là cái ta vỏ ngoài không thực, nhưng ngay lúc này nó là một phần của toàn bản thể của con, và thày yêu con như tổng thể đó, như toàn bộ sinh thể mà con là.

Thày nhận ra một sự kiện rất giản dị, mà thày rút ra từ kinh nghiệm bản thân: khi ta đang hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, thì ta không thể tránh có một cái ta vỏ ngoài. Con không thể đầu thai trên một hành tinh như trái đất mà được hoàn toàn tự do khỏi cái ta vỏ ngoài, vì nếu vậy con đã không thể chịu nổi cuộc sống ở nơi đây. Có quá nhiều chuyện đang xảy ra lúc này trên trái đất, và nếu con hoàn toàn nhìn nhận chúng, thì con giản dị không thể đương nổi việc mình đang đầu thai ở đây. Lòng từ bi của con sẽ thực sự phân tán hào quang của con vì con muốn giúp tất cả những người đang chịu đau khổ.

Cái ta vỏ ngoài gần như là một cái khiên bảo vệ giúp con có mặt trên hành tinh này. Nó giúp con sinh hoạt trong đời sống hàng ngày, nhưng nó cũng giúp con chú tâm vào việc nâng cao tâm thức của mình. Để có thể làm việc này trên một hành tinh như trái đất, con cần một cái mộc chắn chung quanh mình. Con hầu như cần miếng che mắt, như ngựa kéo xe cần che mắt, để con không thấy tất cả những chuyện đang xảy ra. Đây chỉ giản dị là một cơ chế tự vệ cần thiết.

1.6. Vì sao con cần yêu cái ta nhân gian

Lẽ đương nhiên, thày cũng biết là khi con có cái ta vỏ ngoài, thì nó là cái nó là. Nó được sanh ra từ tâm thức nhị nguyên. Nó có mâu thuẫn nội tại, phân chia nội tại, nên con sẽ bị kéo đi nhiều hướng. Sẽ có những hoàn cảnh bên ngoài quá sức chịu đựng của con. Khi con cái của con đang la hét và không chịu nghe lời, thì con có thể cảm thấy bị choáng ngợp và cảm thấy bực tức, như thày đã từng như vậy, con yêu dấu.

Thày không biết con có hình ảnh gì về các sinh thể đã thăng thiên từ trái đất. Con có thể nghĩ rằng Giê-su là một người toàn hảo khi thày đầu thai, nhưng thày đã nói với con là Giê-su không như vậy. Giê-su có lúc bất hài hòa. Giê-su cũng có thể nổi giận. Khi người khác tới gặp Giê-su, thì Giê-su có thể rất cộc lốc, nói rất thẳng, một cách hầu như gay gắt. Thày có thể hiểu vì sao. Giê-su rất chú tâm vào nội tâm của mình, nên khi người khác xáo trộn sự chú ý của thày, thì thày gặp khó khăn bắt nhịp cầu giữa hai thế giới.

Con có thể nghĩ El Morya, hay Chân sư MORE, trong kiếp đầu thai cuối lúc nào cũng thoải mái, bình tĩnh và làm chủ tâm mình. Nếu con nhìn vào một số tiền kiếp của thày, thì con sẽ thấy là Chân sư MORE đã có những lúc bị choáng ngợp bởi năng lượng và đã phản ứng bằng nhiều cách. Các con đều nghĩ Saint Germain là Người Thần kỳ của Châu Âu. Đúng vậy, khi thày được đặc miễn để hiện thân trong một xác thân vật lý, thì thày lúc đó đã ở trong trạng thái thăng thiên, và thày lúc nào cũng thoải mái, bình tĩnh, và làm chủ tâm mình. Nhưng đó là sau khi thày đã hội đủ điều kiện để thăng thiên. Trước đó, không phải lúc nào thày Saint Germain cũng trong trạng thái hoàn toàn hài hòa.

Không có ai đã thăng thiên vì đã là người toàn hảo dựa trên một chuẩn mực nào đó do sa nhân quy định. Các thày đã thăng thiên vì đã nhận ra được là chuẩn mực sa ngã này không quy định được mình nữa, và điều này có một ý nghĩa duy nhất: bất cứ cái ta nhân gian nào còn sót lại, con cần yêu nó. Con sẽ tới điểm con cần yêu cái ta nhân gian của mình, cái ta vỏ ngoài, cái tự ngã, kẻ đứng trên ngưỡng cửa, hay bất cứ tên gì khác con dùng để gọi nó. Như thày đã nói, có một giai đoạn trên con đường tu khi con cần nhìn nó như một đối thủ chống trả sự tăng triển tâm linh của con. Con cần phải tách mình ra khỏi nó. Khi con đã phần nào tách mình ra khỏi nó, nếu lúc đó con còn nhìn nó như một đối thủ, như một kẻ địch, thì con vẫn còn để nó quy định mình. Khi con bị cái ta vỏ ngoài làm cho hoàn toàn mù lòa thì nó quy định con, nhưng khi con chống lại nó, xem nó như kẻ địch cho việc tăng triển tâm linh của mình, thì nó cũng quy định con, bằng một cách khác.

Con tới điểm nhận ra bước tới là con không còn xem cái ta vỏ ngoài như một kẻ địch nữa. Con nhận ra nó không thể quy định con, nó không thể ngưng hành trình tu tập của con. Lúc đó, nếu con không còn xem nó như một kẻ địch, thì bước hợp lý kế tiếp là con thương yêu nó. Quả thật, rất khó thương yêu cái gì mà ta coi là kẻ địch. Để con hoàn toàn giải thoát mình khỏi kẻ địch đó, thì con phải tới điểm mà Giê-su hai ngàn năm trước đây đã dạy con người làm: hãy thương yêu kẻ địch của mình. Khi đó, họ không còn quy định mình nữa.

Con yêu dấu, điều gì quy định con? Con là một sinh thể tâm linh; vậy một sinh thể tâm linh là gì? Đối với một sinh thể tâm linh đang hiện thân, lý tưởng nhất là nó là một cánh của mở cho tình thương vô điều kiện. Chuyện gì xảy ra khi con nghĩ mình có một kẻ địch và con nói: “Tôi không thể thương yêu kẻ địch này, tôi không thể biểu lộ tình yêu với kẻ địch này”? Con đang để cho kẻ địch đó cắt đứt dòng chảy của tình thương vô điều kiện chảy xuyên qua con. Con đang để cho kẻ địch đó quy định con vì lúc đó con không còn là một sinh thể tâm linh nhìn mình như là cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện. Con nhìn mình như một cái gì khác, một cái gì kém hơn.

Hãy thương yêu kẻ địch của mình – và con sẽ được giải thoát khỏi họ và tâm thức mà họ đại diện. Con sẽ được tự do để là người mà con là: một cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện. Con được tự do để chấp nhận hoàn toàn, với tất cả bản thể của mình, là Thượng đế yêu con, là thày yêu con. Và lúc đó con có thể yêu cái ta của mình. Con có thể yêu cả phần “cái ta” và phần “của mình” của bản thể của con.

1.7. Làm hòa với việc có cái ta vỏ ngoài

Con sẽ tới điểm phân biệt giữa cái ta vỏ ngoài và cái ta thật, giữa cái thật và cái không thật. Con không còn cần che giấu cái ta không thật khỏi mắt thày hay mắt con. Con thấy nó không thật, con thấy nó không quy định được mình, nhưng con không cảm thấy bị nó đe dọa. Con thực sự còn không quan tâm đến nó. Nó không quan trọng gì hết. Con có thể nói với trí đường thẳng là thày đang mâu thuẫn với những gì thày nói trước đây, nhưng nếu con vượt quá trí đường thẳng, thì con sẽ nhận ra là thày đang nói tới một tiến trình. Có một giai đoạn con cần tách mình ra khỏi cái ta vỏ ngoài, và con làm chuyện này bằng cách thấy mình khác cái ta vỏ ngoài. Nhưng cũng có giai đoạn con cần thăng vượt cái ta vỏ ngoài, và con yêu dấu, khác với những gì đa số các con nghĩ, điều này không có nghĩa là con không còn cái ta vỏ ngoài.

Điều đó có nghiã là con tới điểm cái ta vỏ ngoài còn sót lại chỉ đủ để giữ con hiện thân trong cõi này. Do đó, nó không đe dọa sự tăng trưởng tâm linh của con hay công việc phụng sự người khác của con. Khi con tới điểm đó thì con không cần quan tâm đến nó nữa. Con không cần phân tích nó nữa, tìm cách lột mặt nạ nó và khám phá: “Tự ngã của tôi là gì? Chuyện gì đang xảy ra? Tôi đang tin điều gì đây?” Tất cả những dụng cụ tâm linh đó đều có giá trị, nhưng con sẽ tới điểm con không cần quan tâm quá đáng đến các dụng cụ đó hay đặt trọng tâm vào chúng.

Lẽ dĩ nhiên, con cần tìm ra một điểm quân bằng. Các thày không muốn trở về trạng thái tự đồng hóa với cái ta vỏ ngoài và không nhìn ra những gì con cần khắc phục. Con có thể tới điểm con đã làm hòa với sự kiện là, khi con còn đầu thai trên trái đất, con sẽ còn một số sắc thái của cái ta vỏ ngoài. Nếu đôi khi con rơi vào khuôn nếp đó thì con không cần lên án mình.

Con đừng nên theo tư duy cuồng đại (epic mindset) và nghĩ rằng con đã phạm một lỗi lầm mà con không bao giờ có thể xóa bỏ. Và bây giờ Mẹ Mary sẽ không yêu con nữa, Mẹ Mary sẽ không tiếp xúc với con trong ba tháng, hay bất cứ điều gì khác mà con nghĩ. Con không cần tự trừng phạt mình. Con không cần ép buộc mình làm công tác chuộc tội, tỷ dụ như: “Bây giờ thì tôi phải đọc 350 câu Chào mừng Mẹ Mary vì tôi đã quát mắng các con”, hay bất cứ gì khác mà người ta thường làm. Họ nghĩ rằng bằng cách nào đó họ có thể bù đắp, và thày sẽ đột nhiên thương yêu họ trở lại sau khi họ đã làm công tác máy móc này hay thắp đủ số ngọn nến trong nhà thờ.

Con cần tới điểm nhận ra đây không phải là lối thày suy nghĩ, không phải là lối thày cảm nhận, không phải là lối thày nhìn vào con. Thày là một chân sư thăng thiên. Thày không phải là một sa nhân. Thày không nhìn con như sa nhân nhìn con. Nếu con yêu thày, thì xin con ngưng phóng chiếu lên thày là thày nhìn con giống như sa nhân nhìn con, vì thày không làm như vậy!

Thày có vẻ nghiêm khắc quá không? Đó là vì thày muốn cắt xuyên qua sự chống kháng của cái ta vỏ ngoài, vì nó sẽ không chịu nhìn nhận là thày không giống hình ảnh của thày mà sa nhân đã tạo ra. Thày là một chân sư thăng thiên. Thày từ chối tuân theo hình ảnh của sa nhân. Thày tuyệt đối từ chối. Do đó, khi thày có một vị sứ giả chịu làm cánh cửa mở, thì thày sẽ phát biểu vào cõi vật chất. Hàng tỷ người cần nghe lời này: thày là một sinh thể có tự do của Thượng đế ban cho. Thày không bị trói buộc bởi tâm thức của những người đang đầu thai hay của sa nhân, dù họ có đang đầu thai trong cõi vật lý hay không. Thày đã thoát khỏi mọi thứ đó. Thày muốn con cũng thoát khỏi các thứ đó. Con không thể hoàn toàn thoát khỏi nó – thày không thể giúp con tới mức tối đa – nếu con không nhận ra là thày không bị các thứ đó ảnh hưởng.

1.8. Chối bỏ tình yêu vô điều kiện

Tình yêu của thày không có điều kiện. Có những người tuyệt đối từ chối không chịu nhìn nhận có tình thương vô điều kiện. Ta có thể tìm thấy họ trong mọi giáo hội và phong trào tâm linh và các nơi khác. Hoặc họ là sa nhân đang đầu thai hoặc họ bị tâm thức sa ngã làm cho hoàn toàn mù lòa. Không thể có cách giải thích nào khác. Thượng đế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ tuân theo tâm thức của sa nhân hay của những sinh thể chưa thăng thiên.

Một trong những biểu hiện dữ dội nhất của phản-tình thương là nghĩ rằng một người đang đầu thai trên một hành tinh dày đặc như trái đất có thể quy định là Thượng đế sẽ hành xử, suy nghĩ và nhìn cuộc đời như thế nào. Đây là sự kiêu mạn tâm linh hoàn toàn và tuyệt đối. Có những sa nhân đang đầu thai trên trái đất hay ở trung giới (astral phane), hay đang có mặt trong các cõi lý trí và bản sắc của trái đất, nghĩ rằng họ là những sinh thể cao cả và tinh xảo. Như Giê-su đã nói: “Ta biết người qua quả trái của họ”.

Con chỉ cần nhìn chuyện gì đang xảy ra trên trái đất để thấy rằng đây không phải là một hành tinh cao cả lắm. Nếu trái đất không phải là một hành tinh cao cả, thì những sa nhân liên hệ với trái đất không thể quá tinh xảo – ngoại trừ trong chính tâm họ. Không phải là điều khó hiểu để nhận ra rằng trên một hành tinh có quá nhiều biểu hiện của phản-tình thương, quá nhiều chiến tranh, xung đột, thì những người đã tạo ra hoàn cảnh này không thể là những sinh thể tinh xảo. Vậy các con hãy ngưng đi theo họ.

Con hãy ngưng nghĩ rằng họ có khả năng hay thẩm quyền quy định các chân sư thăng thiên phải nghĩ hay cảm nhận như thế nào, hay các chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói điều gì, hay các chân sư thăng thiên phải nói hay không được nói qua vị sứ giả nào.

Thày không thể giúp những ai đang phóng chiếu một hình ảnh sa ngã lên thày, dù người đó nhìn nhận thày là một chân sư thăng thiên. Thày không thể giúp người đó, vì thày không thể và không muốn vi phạm quyền tự quyết của họ, cho dù đó không phải là một quyết định có ý thức của họ. Do đó, thày không thể giữ niệm tinh khôi về họ trong những hoàn cảnh khi họ cần đến nhất. Có những người tin rằng họ là người tâm linh, và ngay cả là đệ tử chân sư thăng thiên, nhưng họ lúc nào cũng ở trong trạng thái tâm thức không phù hợp với tiềm năng cao nhất của họ. Họ cần thày giữ niệm tinh khôi cho họ, nhưng họ lại không chịu để thày làm chuyện này. Hậu quả là tâm thức họ trở nên một vòng xoắn ốc khép kín và tự củng cố. Họ tin rằng họ đang tiến bộ trên con đường tâm linh. Họ tin rằng họ sẽ thăng thiên trong kiếp sống này. Họ giống y như những tín đồ Cơ  đốc giáo tin rằng Giê-su sẽ cứu rỗi họ ở cuối kiếp sống này, và họ sẽ lên Thiên đàng vì họ đã là những tín đồ Cơ đốc giáo tốt.

1.9. Chuyển đổi tâm thức và sự thăng thiên

Nếu con không chuyển đổi tâm thức, thì làm sao con vào được cõi thăng thiên? Con yêu dấu, để thăng thiên không có điều kiện nào khác hơn là trạng thái tâm thức của con. Không có cái gì bên ngoài mà con có thể làm để hội đủ điều kiện thăng thiên. Con có hiểu điều này chăng?

Đây là hệ quả của sự kiện tình thương của Thượng đế không có điều kiện. Điều này cũng có nghĩa là không có gì con có thể làm trên trái đất, không có điều kiện nào mà con có thể quy định và làm tròn trên trái đất, có thể ép buộc Thượng đế phải cho con vào Vương quốc của ngài. Con sẽ vào Vương quốc khi con ngưng ép buộc Thượng đế phải cho con vào, và chấp nhận là Thượng đế sẽ cho con vào khi con không còn bất cứ điều kiện nào trong tâm quy định cách con hay Thượng đế phải hành xử.

Thày không muốn nói là con có thể làm bất cứ gì con muốn. Khi con là một với Hiện diện TA LÀ và cái ta cao của con, con sẽ không muốn làm hầu hết những điều mà người phàm muốn làm. Đấy không phải là vì con ép buộc mình không được làm những điều đó dựa trên một lý tưởng tâm linh nào đó. Nhưng sẽ là vì con tự nhiên chọn lựa không muốn làm những điều đó. Con không có một lượng định giả tạo nào về điều phải làm hay không được làm. Con chỉ đơn giản trôi theo dòng chảy với chính mình, với cái ta cao của mình.

1.10. Tiến lên làm việc khác thay vì phân tích

Hành tinh này là một hành tinh dày đặc. Cuộc sống ở đây sẽ có lúc hỗn độn, và tuy con đã đạt được một tầng cao trên con đường tâm linh, sẽ có những hoàn cảnh khiến con rơi xuống thấp hơn. Sẽ có lúc con vẫn cảm thấy bực bội. Sẽ có lúc con vẫn cảm thấy chán chường. Điều thày muốn nói là có một giai đoạn trên con đường tâm linh khi con cần nhìn vào những hoàn cảnh đó, nhận ra mô thức đằng sau chúng, và tiêu trừ chúng. Nhưng có một giai đoạn cao hơn khi con cần, thỉnh thoảng, cho phép mình không toàn hảo. Lúc đó, thay vì lên án mình, thay vì phân tích quá mức: “Vì sao tôi lại làm chuyện này?” thì con chỉ giản dị bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác. Con chỉ bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác.

Nếu con đang đi bộ ngoài đường và trời đổ mưa và con vào nhà với nước mưa trên áo choàng, thì con có lên án mình vì có nước mưa trên áo choàng chăng?  Con có bao giờ phân tích quá đáng vì sao nước mưa lại dính trên áo choàng, hay con chỉ giản dị rũ áo, treo nó lên mắc áo, và tiếp tục công việc thường ngày của mình?

Con yêu dấu, con hãy ngưng nghĩ rằng thày đang nhìn con và phán xét con như con phán xét chính mình. Thày không phán xét bất cứ ai, nam hay nữ. Thày không phán xét bất cứ sinh thể nào, dù họ là sa nhân đen tối nhất mà con có thể tưởng tượng. Thày không phán xét. Thày yêu con mà không có điều kiện nào. Thày yêu toàn thể cái con là. Thày biết rằng một phần của tiến trình tăng triển trong một bầu cõi chưa thăng thiên, đặc biệt là trên một hành tinh dày đặc như trái đất, là con đi vào tâm thức nhân gian và sống trong đó cho tới khi con chán ngán kinh nghiệm này. Lúc ấy, con tách mình ra khỏi tâm thức đó và con nói: “Tôi không còn muốn tâm thức này nữa. Nó không phải là tôi nữa. Nó không quy định được tôi.”

Con yêu dấu, đây chỉ là một phần của con đường tâm linh. Con hãy giải thoát mình khỏi tâm thái luôn luôn phán xét, lượng định và phân tích. Con hãy hướng về điểm con thấy mình làm một điều gì không toàn hảo, nhưng thay vì lên án và phân tích việc làm của mình, thì con chỉ nhìn nó và nói: “Rồi sao?” Và sau đó con bỏ nó lại sau và tiến lên làm chuyện khác.

Bây giờ, con yêu dấu, nếu con chăm chú lắng nghe thì con sẽ nghe được tất cả các quỷ dữ trong trung giới đang chu réo lên và nói con không được chấp nhận điều mà thày đang nói: “Con không được tin lời nói này. Đây chắc chắn là một giáo lý giả. Chuyện này không thể nào đúng được.” Chúng khẩn thiết muốn con bác bỏ những điều thày nói, vì chỉ khi con từ chối tình thương vô điều kiện thì chúng mới nắm được con. Nếu con buông bỏ ảo tưởng này, thì đa số các con sẽ cảm thấy được tự do như chưa bao giờ mình được tự do. Con sẽ được tự do là chính mình.

Tại sao con lại nghĩ thày muốn con là ai khác? Tại sao con lại nghĩ là thày muốn con phải sống theo một tiêu chuẩn, một hình ảnh nào đó về người đệ tử chân sư thăng thiên, người tâm linh gương mẫu? Thày thấy là Thượng đế đã phú cho con, mỗi người trong các con, một cá tính độc đáo. Thày muốn con biểu lộ cá tính đó đến mức tối đa trong cuộc sống thường ngày của con. Thày muốn con đem lại món quà của con cho hành tinh này, món quà mà con đã quyết định mang tới trước khi con đầu thai.

Thày không muốn con tuân theo một chuẩn mực vỏ ngoài về người tâm linh gương mẫu. Thày muốn con là cái con là. Con không thể là cái con là nếu con cứ luôn luôn phê phán và phân tích và nghĩ mình phải sống theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài hay mẫu mực nào đó. Thày không thể giữ niệm tinh khôi về con nếu con nghĩ thày là người đã áp đặt tiêu chuẩn đó lên con.

Con yêu dấu, thày xin con hãy ngưng nghĩ rằng con cần giấu giếm điều gì với thày. Thày là một bà mẹ đầy kinh nghiệm. Thày đã thấy tất cả mọi chuyện mà những con hư có thể làm, tuyệt đối tất cả mọi chuyện, khởi đầu bằng Giê-su có lúc rất hư. Con đừng nghĩ con có thể khiến thày kinh ngạc. Con đừng nghĩ con có thể khiến thày quay mặt đi không nhìn con.

Thày mong rằng có những ngôn từ mà thày có thể dùng để thày có thể với tay vào trong tâm của con và xoay mũi kim của tâm thức của con để nó vào khớp và con được tự do. Thày biết rằng những ngôn từ này không có. Do đó, thày phải cho con những ngôn từ mà con có thể nghe, và thày hy vọng là với thời gian con sẽ cho phép chúng trổ mầm và mọc lên tới điểm bông hồng của trái tim sẽ nở ra và con có thể chấp nhận tình yêu của thày đằng sau những ngôn từ đó. Đây là tình thương không chuyển tải được bằng ngôn từ và không thể bị ngôn từ hạn chế, tình yêu mà TA LÀ.

Thày yêu con. Con có sẽ yêu mình như thày yêu con chăng?

Một dụng cụ để chữa lành chấn thương tâm lý

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 22 tháng 5 năm 2015. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, đại diện cho Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Thày trao truyền giáo lý này để cho các con một dụng cụ có thể dùng lại nhiều lần để chữa lành bất cứ loại vấn đề hay chấn thương tâm lý nào. Nó đặc biệt được thiết kế để giúp con chữa lành điều mà các thày gọi là “chấn thương nhập đời vũ trụ.” Đây là một dụng cụ dành cho những người đã đạt được một trình độ nào đó trên con đường tâm linh. Dụng cụ này không được dùng với lòng tham vọng phàm phu, muốn mọi người xem mình là một học viên cao cấp hay muốn nghĩ rằng mình sẵn sàng với bất cứ chuyện gì.

Các con cần quen thuộc với giáo lý của các thày về chấn thương nhập đời vũ trụ, các con cần quen thuộc với giáo lý của các thày về tà lực và các con cần cầu thỉnh sự bảo vệ (từ Đại Thiên thần Michael) mỗi lần dùng dụng cụ này. Sau khi con làm bài tập hình dung mà thày sẽ trao truyền, con cũng cần đọc một bài thỉnh thích ứng với bất cứ vấn đề tâm lý nào mà con đang đối phó. Các thày có trao truyền rất nhiều bài thỉnh nhằm giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau của tâm lý (xin xem trang mạng chansuthangthien.org), nhưng thày đề nghị con bắt đầu với bài thỉnh để giúp con người yêu chính mình (tỷ dụ như bài INV05 Bài thỉnh để thương yêu chính mình). Con cũng có thể tạo ra một canh thức từ bài tập này. Con làm bài tập mỗi ngày một lần và sau mỗi lần hình dung, con đọc một trong các bài thỉnh từ bộ sách Khóa học về Sung túc (Course in Abundance) vì khi kết hợp chúng với bài tập hình dung, cả hai sẽ tác động hỗ tương nhau để đạt mục đích chữa lành các vấn đề tâm lý của con.

Đây là một dụng cụ mà con không được dùng nếu con có vấn đề tâm lý nghiêm trọng đòi hỏi sự can thiệp của người chuyên nghiệp. Con không được dùng nó nếu con đang trong một trạng thái mất quân bình nặng. Không phải dụng cụ này tự thân nó nguy hiểm, nhưng vì sự hình dung sẽ đưa con đi sâu vào tâm lý mình. Nó có thể sẽ khơi ra những sự mất quân bình mà con không nhất thiết đối phó được nếu con không đang ở trong một trạng thái tương đối quân bình nào đó. Sau khi đã cảnh báo các con, lẽ dĩ nhiên là thày rất vui mừng được trình bày cho các con một dụng cụ giúp các con chữa lành tâm lý mình và đạt được trạng thái mà vị thày yêu dấu Saint Germain của chúng ta gọi là “tự do tâm trí”. Bây giờ chúng ta bắt đầu bài hình dung.

(Ghi chú: Bạn có thể hình dung bằng cách dùng cuốn sách và đọc từng đoạn một, sau đó bạn nhắm mắt lại và hình dung. Tuy nhiên, bạn có thể nhận ra rằng sẽ dễ hơn nếu bạn dùng một bản thu âm để bạn có thể giữ mắt nhắm. Bạn có thể nghe bản thu âm của bài này bằng tiếng Việt bằng cách bấm vào nối kết ở đầu trang mạng này. Bài thu âm các bài tập trong sách này bằng tiếng Anh có thể mua được từ www.morepublish.com).

5.1. Bắt đầu hình dung

Con hãy hình dung con đang đứng trước một bức tường. Bức tường này rất cao. Con còn không thể thấy được đầu bức tường. Bức tường kéo dài cả hai phía và con không thể thấy nó ngừng ở đâu. Con thấy được là bức tường rất dày, làm bằng đá, nhưng không phải là đá mà con biết ở trên trái đất. Nó là một chất rung động ở mức độ cao hơn.

Do đó, con nhận ra là bức tường này tạo nên một rào cản bất khả xâm phạm đối với bất cứ năng lượng thấp nào mà con gặp trên trái đất. Không có điều gì trên trái đất có thể đi qua bức tường này. Một khi con vượt qua bức tường, con sẽ được bảo vệ, hoàn toàn bảo vệ và niêm phong khỏi mọi năng lượng tiêu cực có thể đè nặng con, có thể đã đè nặng con trong kiếp này hay các kiếp trước.

Bây giờ con hình dung có một cánh cổng. Cánh cổng mở ra trước mặt con dù có vẻ không có ai mở nó. Bây giờ con cần quyết định con có muốn đi vào cổng hay không, hay con muốn đứng tại chỗ con đang đứng và không tham gia bài hình dung này.

Bây giờ Mẹ sẽ coi rằng nếu con tham gia, thì con đã chọn lựa đi qua cổng. Con nghe tiếng cổng đóng lại sau lưng và con biết con được bảo vệ và niêm khỏi bất kỳ năng lượng tiêu cực nào trên trái đất, trong các cõi tình cảm, lý trí hay bản sắc.

5.2. Luân xa gốc

Bây giờ con nhìn quanh và con thấy một khu vườn rất đẹp. Nó có những bãi cỏ rộng, xanh mướt, xa xa có những lùm cây làm nền và có những thảm hoa hình cong uốn lượn đầy những hoa nở rộ. Có tiếng chim hót trong nền cảnh và ngoài ra mọi thứ đều yên tĩnh. Khi con đi bộ trên cỏ, nó mềm đến độ chân con gần như lún xuống. Mẹ yêu cầu con, khi con tập bài hình dung này một mình, con hãy thăm thú khu vườn này bao lâu cũng được, (nếu cần, con ngưng bài thu âm đi) và con thong thả thăm thú khu vườn.

Khi con đi loanh quanh khám phá, sẽ có lúc con gặp một hàng rào cây cao và ở đấy có một lối để đi qua. Lối đi qua này có một cánh cổng. Cánh cổng đang mở, giống như con từng thấy trong một số khu vườn, nó được làm bằng lưới kim khí cho phép không khí thông qua.

Con nhận ra con có thể đi qua cổng. Lỗ hổng to đủ để con qua được, nhưng con không qua được nếu con mang bất cứ ba lô nào trên lưng.

Bây giờ thì con nhận ra mình có một cái ba lô buộc vào lưng. Nó là nỗi niềm lo lắng nào đó của con về thế gian, hay một chấn thương nào đó con đã trải nghiệm trong kiếp này.

Bây giờ Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa gốc của mình để xét xem con có niềm lo lắng nào về thế gian, về chính mình, về cuộc đời của mình hay bất kỳ chấn thương nào con đã trải nghiệm trong cuộc đời. Chúng hiện lên trong tâm khi con hòa điệu với luân xa gốc của mình.

Mẹ không yêu cầu con đi sâu vào nó nhưng con chỉ cần có một ấn tượng về nó. Con nhận ra rằng niềm lo lắng hay chấn thương này là cái mà con mang trên lưng. Để có thể đi qua cánh cổng, con cần đặt cái ba lô xuống và để nó bên ngoài cổng.

Con không cần phân tích hay đi vào bên trong nó hay bị nó làm choáng ngợp. Con chỉ giản dị nhìn thấy nó và con quyết định:  “Tôi sẵn sàng muốn để nó qua một bên ngay lúc này để tôi có thể đi qua cổng và xem bên kia có gì.”

Bây giờ con hình dung là con bỏ cái ba lô xuống, để nó bên ngoài cổng và con bước qua cổng.

5.3. Trung tâm luân xa hồn

Giờ đây con thấy mình ở trong một khu vườn khác, còn ấm cúng mật thiết hơn khu vườn đầu. Khu vườn này đầy hoa, chúng có vẻ như tỏa chiếu ánh sáng. Khu vườn này tuyệt diệu, được thiết kế để trẻ thơ vui chơi. Con nghe thấy văng vẳng từ xa tiếng cười của trẻ thơ. Con cũng có thể cảm thấy như muốn bỏ thì giờ để khám phá khu vườn, khám phá xem mình cảm thấy thế nào khi ở trong sự rung động vui chơi của trẻ thơ.

Khi sẵn sàng, con sẽ thấy là trong khi con đi loanh quanh khu vườn, con tới một cánh cổng khác ở hàng rào cây khác. Giống như cánh cổng đầu tiên, có một khe hở con có thể bước qua. Bây giờ con thấy mình có một ba lô khác trên lưng.

Bây giờ Mẹ yêu cầu con hòa điệu với trụ sở của luân xa hồn và một lần nữa, con xét xem mình có lo lắng hay chấn thương nào liên quan tới trung tâm của hồn, sự sáng tạo của hồn, sự vui chơi của trẻ thơ. Rồi con giản dị nhìn nó và con quyết định: “Phải, tôi muốn đi qua cổng, do đó tôi sẽ bỏ ba lô này bên ngoài.”

Con hình dung mình gỡ ba lô xuống và con lại đi qua khe hở nhỏ hơn khe hở đầu. Không biết làm sao mà con nhỏ hơn một chút so với lúc con bắt đầu.

5.4. Luân xa rối dương (solar plexus)

Một khu vườn khác mở ra. Khu vườn này hoàn toàn yên lặng, ngay cả tiếng chim hót cũng không còn. Nó chính là sự tĩnh lặng.

Con đi bộ trong khu vườn này, và con nhận thấy là ngay cả bước chân của con cũng không tạo ra tiếng động. Con nhận thấy mình đang lắng nghe hơi thở mình, nhưng ngay cả hơi thở của con cũng không tạo ra âm thanh. Dường như là khu vườn hút âm thanh và con cảm thấy ôi sao tự do khi không còn mang theo tiếng động của thế gian trong mình nữa.

Sau một lúc, con đi tới một cánh cổng khác. Bây giờ Mẹ yêu cầu con hòa điệu với luân xa rối dương của con. Một lần nữa, con hãy hòa điệu vào bất kỳ niềm lo lắng nào, bất kỳ chấn thương nào mà con nhận ra. Con chỉ giản dị nhận biết nó và con biết nó đang ở trong một ba lô khác không biết làm sao đã hiện ra trên lưng con.

Một lần nữa, con quyết định: “Tôi sẽ không đi sâu vào nó, tôi sẽ để ba lô này xuống vì tôi muốn đi qua cánh cổng tới.”

Con hình dung để ba lô bên cạnh cổng, đi qua khe hở nhỏ hơn một chút và con bây giờ cũng nhỏ bé hơn một chút.

5.5. Luân xa tim

Bây giờ con bước vào một khu vườn có ánh sáng màu hồng xinh đẹp. Nó đầy hoa hồng, hoa màu hồng đủ dạng, đủ cỡ. Khu vườn thật đẹp, thật yên tịnh.

Con cảm nhận được một sự rung động gần giống – gần giống như tình yêu, nhưng không giống bất cứ tình yêu nào con đã biết trên trái đất. Nó là tình yêu vô điều kiện

Một lần nữa, con có thể đi thăm thú khu vườn như ý muốn, nhưng tới một lúc thì con quay trở lại và bây giờ con khám phá một cánh cổng khác. Lần này thày yêu cầu con hòa điệu vào luân xa tim của con và một lần nữa con đi tìm bất kỳ niềm lo lắng hay gánh nặng nào, bất kỳ chấn thương nào liên quan tới tim, tới tình yêu, bị thất vọng trong tình yêu, cảm thấy tình yêu của mình bị từ chối.

Con chỉ thấy nó ở đó; con không đi sâu vào nó. Con nhận ra rằng nó lại ở trong cái ba lô mà con mang theo và ba lô này không thể lọt qua cánh cổng. Một lần nữa con quyết định: “Tôi muốn đi qua cánh cổng.” Con để ba lô xuống và bây giờ một phiên bản nhỏ hơn nữa của con đang đi qua cánh cổng.

5.6. Luân xa cổ họng

Đằng sau cánh cổng này là một khu vườn khác, nhưng không phải là khu vườn cây. Đây là một khu vườn ngọc quý, với những khối pha lê xanh dương đẹp khắp nơi, đủ dạng đủ cỡ. Có ánh sáng chiếu vào khu vườn và được phản chiếu lại bởi tất cả các khối pha lê, tạo nên những mô hình đủ loại.

Có những lối đi giữa các khối pha lê, trông gần giống như những thảm hoa bằng pha lê. Khi con đi vào trong khu vườn, một lần nữa con có thể thong thả thăm thú.

Một lúc sau thì con tìm thấy một cánh cổng khác. Lần này con cần hòa điệu với luân xa cổ họng và một lần nữa nhận ra bất kỳ chấn thương nào, bất kỳ nỗi lo lắng nào liên quan tới đời sống, liên quan tới nói lên quan điểm mình hay không nói lên, liên quan tới tổ chức, chính quyền hay bất kỳ quan tâm tương tự.

Một lần nữa, lẽ dĩ nhiên, con thấy là những nỗi lo lắng này không lấp đầy tâm con, nó lấp đầy chiếc ba lô của con. Ba lô này lại xuất hiện lần nữa. Một lần nữa, ba lô này không lọt qua cánh cổng được nhưng con có thể lọt qua. Con cũng quyết định bỏ xuống ba lô này, và con đi qua cánh cổng. Con thấy mình nhỏ hơn vì con nhẹ hơn, con ngây thơ hơn, con giống trẻ thơ hơn.

5.7. Luân xa con mắt thứ ba

Bây giờ con thấy một khu vườn khác và con kinh ngạc vì nó vĩ đại. Nó có quang cảnh trải rộng với phong cảnh mênh mông và những cánh đồng đầy hoa, những áng mây đủ hình tượng và đủ loại cảnh tượng mỹ miều rộng lớn bao la.

Một lần nữa con thăm thú khu vườn và lần này con có thể đi nhanh hơn. Con có thể đi với tốc độ của ánh sáng và thấy đủ mọi thứ. Con có thể thăm thú như ý mình muốn.

Một lúc sau thì con lại tìm thấy một cổng khác. Lần này con hòa điệu với luân xa con mắt thứ ba của con và con nhận ra bất kỳ tình huống nào, bất kỳ nỗi lo lắng nào, bất kỳ chấn thương nào khởi lên liên quan tới viễn quan, liên quan tới khả năng nhìn của con, liên quan tới khả năng biết và hiểu của con.

Một lần nữa con nhận ra nỗi lo lắng hay chấn thương này chỉ nằm trong chiếc ba lô nên nó không chiếm cứ tâm con. Một lần nữa con quyết định bỏ ba lô xuống và con đi qua cánh cổng.

5.8. Luân xa đỉnh đầu

Lần này con thấy một khu vườn ấm cúng mật thiết. Giữa vườn là hình tượng đức Phật ngồi trong sự yên tịnh toàn hảo. Thày ngồi trên một bông sen ngàn cánh nổi trên mặt hồ nước tĩnh lặng. Con ngạc nhiên trước vẻ đẹp và yên tịnh của cảnh này.      

Một lần nữa có những lối đi để con thăm thú nếu con muốn và con có thể thăm thú một thời gian.

Một lần nữa sẽ tới lúc con tìm thấy một cánh cổng khác và con nhận ra là con cần hòa điệu với luân xa đỉnh đầu và nhận ra bất kỳ nỗi lo lắng nào, bất kỳ chấn thương nào liên quan tới nhận biết, tới minh triết, tới sự bình an khi biết rằng mọi sự đều là Phật tánh.

Một lần nữa con nhận ra chúng chỉ nằm trong chiếc ba lô. Chúng không chiếm cứ tâm con và con quyết định bỏ ba lô xuống và một lần nữa con đi qua cánh cổng.

5.9. Với Mẹ Mary

Bên kia cánh cổng không phải là một khu vườn. Con bỗng nhiên cảm thấy mình trong thân thể một hài nhi ngồi trong lòng của Mẹ. Bây giờ con hình dung con là một hài nhi và Mẹ đang ôm con trong lòng. Lòng Mẹ ấm áp, con hoàn toàn được bảo vệ, được bảo bọc bởi Hiện diện nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng.

Con đã bỏ lại đằng sau những nỗi lo và bây giờ con là một hài nhi ngây thơ, nằm trong lòng Mẹ Thiêng liêng. Nếu con muốn, Mẹ sẽ đong đưa con, Mẹ sẽ hát bài ru con. Nếu con muốn bú sữa mẹ, con cứ tự nhiên vì Mẹ không cảm thấy ngần ngại về chuyện thân thể và nhu cầu dinh dưỡng của nó. Con có thể uống dòng nuôi dưỡng tinh khiết của Mẹ Thiêng liêng cho tới khi con no đủ.

Bây giờ Mẹ muốn con hình dung, bằng cách nào cũng được, là con đi ngược lại tiến trình sanh đẻ đã đưa con đầu thai tại đây. Một lần nữa con đi vào không gian eo hẹp chật chội của ống sinh và con cảm thấy bị gò ép khắp chung quanh mình. Thay vì con sốc vì bị đẩy mạnh ra, bây giờ con đang nhẹ nhàng lướt ngược dòng ống sinh để tới một chỗ an toàn, ấm áp, nuôi dưỡng là bụng của Mẹ Thiêng liêng. 

Bây giờ con ở trong bụng của Mẹ Thiêng liêng – trong bụng của Mẹ. Đây là biểu tượng chúng ta đã vượt qua kiếp đầu thai hiện thời của con, chúng ta đã vượt qua mọi dính mắc và mọi nỗi lo lắng thường khiến con chú tâm vào thân thể vật lý hiện thời của mình, cuộc sống hiện thời của mình và thế giới trong đó con sống. Chúng ta đã bỏ chúng lại đằng sau, ở bên ngoài cổng.

Bây giờ chúng ta được nuôi dưỡng, chúng ta cảm thấy an toàn và do đó chúng ta sẵn sàng đi xuống một đường hầm đang mở ra trước mặt chúng ta. Đây là một đường hầm dẫn về các kiếp trước của con trên hành tinh này.

5.9. Tìm hiểu các kiếp trước

Chúng ta đi trong đường hầm này tay trong tay, Mẹ dẫn con đi, giúp con cảm thấy an toàn, và chúng ta nhận biết là có những cánh cửa ở dọc theo đường hầm. Đây là những cánh cửa dẫn tới những kiếp trước của con.

Có thể sẽ có lúc trong tương lai, khi con dùng bài tập này, con sẽ cảm thấy bị thôi thúc muốn đi vào một trong những cánh cửa đó và nhìn xem chuyện gì xảy ra trong kiếp đó. Nếu con làm điều này trong tương lai, con có thể dùng kỹ thuật mà Mẹ sẽ trao cho con sắp tới đây, để giải quyết bất kỳ chấn thương nào ở một kiếp sống trước. Mục đích bài tập này là đưa con trở về quá khứ xa và đó là lý do vì sao chúng ta không đi vào bất kỳ những cửa này. Mẹ biết là có khi chúng ta đi qua một cánh cửa và hầu như có một từ lực thu hút sự chú ý của con khiến con muốn đi vào. Lúc đó Mẹ sẽ quàng tay qua vai con và nói: “Chưa phải lúc, chúng ta có chuyện khác cần nhìn vào ở phía xa hơn của đường hầm.”

Chúng ta đi bộ qua hết cánh cửa này tới cánh cửa nọ. Không cánh cửa nào có sức thu hút con mạnh đến độ Mẹ không thể dìu con đi qua nó. Giản dị là chúng ta cho phép chúng mờ nhạt đi. Chúng không quan trọng, nhưng chúng ta đi càng ngày càng xa ngược dòng mà con gọi là thời gian. Thực ra, chúng ta cứ tiếp tục di chuyển, gần giống như khi con di chuyển trên trái đất một cách tự do về bất cứ hướng nào. Chúng ta chỉ quyết định di chuyển về hướng dẫn tới lần đầu thai đầu tiên của con trên hành tinh trái đất.

5.10. Rạp hát

Sau một lúc, bất thình lình chúng ta thấy mình đã tới cuối đường hầm. Không còn cánh cửa nào khác bên hông, nhưng có một khung cửa ở cuối đường hầm.

Khi chúng ta đi qua khung cửa này, chúng ta thấy mình đứng trong một rạp hát. Có những dãy ghế ngồi, có một con đường ngay giữa dẫn lên sân khấu. Ngay trước mặt là sân khấu. Có những cảnh dựng và trang hoàng công phu trên sân khấu.

Bây giờ Mẹ nắm tay con và chúng ta ngồi xuống trong những ghế đó. Khi chúng ta ngồi xuống, thì dường như buổi trình diễn bỗng nhiên bắt đầu. Những nhân vật xuất hiện từ hai bên, họ đóng những vai trò khác nhau, vở kịch được diễn ra.

Con hoàn toàn không nhập vào cảnh trên sân khấu; con chỉ quan sát thôi. Vở kịch đang diễn ra. Có thể con cũng không thấy màn kịch nào cả, có thể con chỉ có một số cảm giác, một số cảm nhận. 

Có thể lần đầu tiên con làm bài tập này thì con chưa sẵn sàng nhìn thấy chi tiết. Bất cứ điều gì con thấy, bất cứ điều gì con nhận thấy, bất cứ điều gì con trải nghiệm, bất cứ điều gì con cảm nhận, nó hòa điệu tâm con vào hoàn cảnh chấn thương đầu tiên mà con gặp phải khi đầu thai trên hành tinh này.

Con có thể cảm thấy một số cảm xúc, con có thể có một số ý tưởng, con có thể hoàn toàn bình tĩnh. Những chuyện này đều được cả vì Mẹ đang ở bên cạnh con. Mẹ đang hướng dẫn con, Mẹ đang bảo vệ con và không điều gì có thể làm con choáng ngợp, không điều gì xấu sẽ xảy ra cho con. Bất cứ điều gì xảy ra cho con lúc đó không thể xảy ra nữa, con yêu dấu. Nó không thể xảy ra cho con bây giờ, vì con không còn là con người đã gặp chuyện đó vào lúc đó.

Con có thể thấy có một người trên sân khấu đang bị một hoàn cảnh chấn thương, nhưng con không thực sự đồng hóa mình với người đó. Con thấy vở kịch đang diễn ra, nhưng con không bị lôi cuốn vào đó. Con đang không ở trên sân khấu quan sát truyện đang xảy ra, con đang ngồi với Mẹ bên cạnh con và con đang quan sát nó từ bên ngoài.

Sau một lúc thì vở kịch đã trải bày xong. Dường như tất cả các nhân vật đã xuất hiện trên sân khấu đã đóng băng lại. Con có thể tưởng tượng một sân khấu trên đó tất cả các diễn viên bỗng nhiên đóng băng, gần giống như con ngưng một cuộn phim thành một bức tranh tĩnh. 

Lúc đó, Mẹ nắm tay con. Chúng ta đi theo con đường chính giữa rạp về phía sân khấu. Chúng ta đi dọc một bên sân khấu và có một tấm màn mà chúng ta vén lên và bây giờ chúng ta bước vào hậu trường.

Bây giờ thì con ở hậu trường với Mẹ và điều mà con cảm thấy rất thật khi nhìn từ phía trước bây giờ chỉ vỏn vẹn là cảnh trí và dụng cụ sân khấu, chỉ trông giống thật khi nhìn từ một góc độ nào đó. Khi nhìn từ phía trước thì ta có cảm tưởng là ta đang nhìn vào một thế giới thật. Bây giờ ở hậu trường, con thấy là mọi thứ đều là dàn dựng và không có gì trong đó là thật cả. Tất cả như màn ảo thuật, tất cả là một vở kịch đang được diễn ra.

5.11. Trên sân khấu

Bây giờ lẽ dĩ nhiên là chúng ta bước lên sân khấu. Một lần nữa, Mẹ nắm tay con. Nếu con muốn, Mẹ sẽ bế con. Chúng ta đi về phía nhân vật chính đã trải qua một biến cố chấn thương.

Chúng ta thấy là chấn thương lớn đến độ chính vì nó mà người đó bị đóng băng. Người đó, sinh thể đó vẫn còn bị đóng băng ở đó và đã bị đóng băng như vậy từ khi biến cố xảy ra.

Tất cả những nhân vật còn lại cũng bị đóng băng nhưng chúng ta nhận ra họ không phải là những nhân vật thật bị đóng băng từ lúc đó, họ chỉ là cảm nhận của nhân vật chính. Tuy rằng có những sinh thể đã hành động như thế ở thời điểm quá khứ đó, nhưng họ đã đổi khác với thời gian. Những gì còn lại trong rạp hát là hình ảnh mà nhân vật chính có về các nhân vật đó và những gì họ đã làm đối với nhân vật chính này.

Bây giờ chúng ta bước tới gần người này và Mẹ cho con thời gian để con tự điều chỉnh. Con cảm thấy gần giống như con đang nhìn một người lạ nhưng có dáng vẻ gì quen thuộc về người này. Con quay nhìn Mẹ có ý hỏi. Mẹ quỳ xuống bên cạnh con, vòng tay ôm vai con và nói: “Con có thấy chăng là có một thời con đã đồng hóa mình với người này và con thấy chăng là bây giờ con đã hơn người này rất nhiều?” Bỗng nhiên con hơi rúng động và thân thể con giựt nảy lên vì con nhận ra đây chính là con ở thời điểm đó. Tuy cảnh tượng có vẻ đáng sợ, nhưng Mẹ đang ở bên cạnh con và con cũng nhận ra rằng: “Nhưng tôi không còn là người này nữa. Tôi đã tiến hơn trên biết bao nhiêu mặt.”

Bây giờ Mẹ nói với con là rạp hát này hiện hữu trong tâm thức con, trong trường năng lượng của tâm thức con. Tâm thức con, toàn bộ tâm thức con, ngày nay hơn thế rất nhiều. Con nói: “Làm sao con biết được điều này?” Mẹ nói: “Có đúng chăng là con đã đi qua bảy khu vườn? Các khu vườn này là tâm thức của con, tâm thức mà con đã gày dựng từ ngày con đầu thai lần đầu trên trái đất. Con hãy chiêm nghiệm vẻ đẹp của các khu vườn này và con có thể thấy là ngày hôm nay con hơn rất nhiều con người đã đầu thai lần đầu trên trái đất này.” 

Bây giờ con thấy được là diễn biến chấn thương đầu tiên này là một cú sốc vô cùng nặng cho con vì sự tương phản giữa những gì con biết trước khi con xuống trái đất và trải nghiệm khốc liệt khi con tới hành tinh này. Dù rằng ở thời điểm đó nó là một cú sốc đối với con, con nhận ra rằng bây giờ con biết nhiều hơn nhiều, con đã trải nghiệm nhiều hơn nhiều trên hành tinh này, con đã có nhiều trải nghiệm tích cực trên hành tinh này, con đã có những thành tựu trên hành tinh này. Qua sự điều ngự bảy tia sáng con đã tạo ra những khu vườn xinh đẹp mà con đã thấy.

Thực sự là diễn biến đầu tiên này, dù nó là một cú sốc vào thời điểm đó, ngày nay không còn quy định con nữa. Con không còn là sinh thể bị đóng băng vào lúc đó. Nó chỉ là một phần của con. Nó vẫn là một phần của con vì nó bị đóng băng vào lúc đó và con chưa trở về để nhìn lại nó.

Bây giờ con đang ở đây với Mẹ, con nhìn nó và con thấy là con hơn thế rất nhiều. Do đó, con có thể nhìn chấn thương đầu tiên này. Con thực sự có thể đi vào trong nó và trải nghiệm nó trở lại. Con sẽ không có cùng trải nghiệm mà con có lần đầu.

Sau đó con nhận ra rằng nếu con muốn giải thoát mình khỏi chấn thương, con thực sự cần cho phép mình đi vào bên trong con người trên sân khấu đã bị đóng băng vào quá khứ.  Thoạt tiên con do dự: “Nhưng Mẹ Mary, con có thể ra khỏi nó được không?” Mẹ nói: “Nhưng con có thể nắm tay Mẹ trong suốt thời gian này, và nếu con không tự mình ra khỏi được, Mẹ sẽ kéo con ra. Điều này, Mẹ hứa với con.”

Con nhìn vào mắt Mẹ và Mẹ thấy được con nhất quyết chuyển hóa: “Tôi đã mang chấn thương này trong tôi đủ lâu rồi và do đó tôi sẽ đi vào trong đó và trải nghiệm nó lại.”

Bỗng nhiên, con chui vào nhân vật đầu tiên ấy, con người đầu tiên ấy, và bây giờ con đang trải nghiệm lại diễn biến gây chấn thương này. Ở điểm này, có thể là nó không đến với con trong chi tiết, nhưng con có thể có một cảm xúc mạnh. Con có thể có nỗi đau, có thể có cái gì kéo hút con và con cho phép mình trải nghiệm nó một thời gian. Có thể là một giây, có thể là vài giây, có thể lâu hơn. Khi con sẵn sàng, con cảm thấy Mẹ đang kéo tay con. Khi con bất thình lình chuyển sự chú ý ra khỏi cái đau, khỏi chấn thương và hướng về Mẹ, con thấy là con nhẹ nhàng chui tuột ra khỏi nhân vật. Mẹ còn không phải kéo con ra vì con đã nhẹ nhàng chui tuột ra khỏi nhân vật.

Một lần nữa, con giống một trẻ thơ đang ngồi trong lòng Mẹ. Mẹ đang vỗ về con, Mẹ đang ôm con trong lòng và bỗng nhiên con có thể nhìn hoàn cảnh với tâm hoàn toàn bình an. Con nhìn hoàn cảnh và con nhận ra nó cũng chỉ là một diễn biến, giống như nhiều diễn biến khác. “Có rất nhiều diễn biến khác trên trái đất không ảnh hưởng đến tôi, không quy định được tôi. Nhưng trong tâm của tôi, tôi đã coi diễn biến này đặc biệt, tệ hơn thực tại rất nhiều, nhưng nó chỉ là một diễn biến, nó chỉ là một điều gì đã xảy ra.”

“Do đó, tôi nhận ra là có rất nhiều diễn biến khác mà tôi đã buông bỏ và chắc chắn tôi cũng có thể buông bỏ diễn biến này. Tôi có thể buông nó xuống, tôi không phải nắm giữ nó. Tôi không phải nắm chặt nó nữa. Nó không có chỗ đứng trong bản thể của tôi. Tôi không muốn nó, tôi không cần nó. Tôi muốn thoát khỏi nó. Tôi muốn vui chơi trong các khu vườn mà không bị nó đè nặng và không bị nó lôi kéo trở về diễn biến đó.”

“Dường như là hoàn cảnh thật không còn đó nữa. Nó đã thay đổi với thời gian, nó đã hoàn toàn chuyển biến và không còn ở đó nữa. Nó chỉ có mặt trong tâm của tôi mà thôi, nó chỉ hiện hữu ở trong tâm của tôi mà thôi. Tôi không còn muốn nó trong tâm mình nữa và tôi có quyền lực thay đổi tâm mình. Tôi có thể thay đổi bất cứ điều gì xảy ra trong tâm mình.”

Bỗng nhiên con cảm thấy hứng khởi và con nói: “Mẹ Mary, hãy giúp con thoát khỏi cái này, hãy giúp con thoát khỏi toàn bộ kịch bản này.” Mẹ nói: “Chắc chắn là Mẹ sẽ giúp con.”

Trước hết, Mẹ muốn con trở về với nhân vật bị tổn thương đó và Mẹ cần con thương yêu nhân vật đó, yêu mình như mình là ở thời điểm đó, yêu mình như con cảm thấy Mẹ yêu con. Con yêu phản ứng của mình.

Bỗng nhiên, con nhận ra là sau khi hoàn cảnh xảy ra, nỗi đau mãnh liệt đến độ con quả thực đã trách mình đã phản ứng như thế. Con trách mình là mình đã phản ứng lại hoàn cảnh và cách phản ứng này đã tạo ra nỗi đau của mình. Con trách mình và con nghĩ lẽ ra con phải có khả năng kinh nghiệm hoàn cảnh đó mà không đau đớn, không phản ứng lại.

Con yêu dấu, không ai trong chúng ta có thể tránh phản ứng lại chấn thương khốc liệt mà chúng ta gặp khi đầu thai lần đầu trên hành tinh này. Chưa một ai trong chúng ta đã tránh khỏi chuyện phản ứng và con không cần đòi hỏi mình không phản ứng. Dù con đã phản ứng thế nào chăng nữa, con có thể thoát khỏi nó. Con có thể thoát khỏi nó bằng cách yêu cái ta đã phản ứng.

Khi con đi vào cái ta đó và yêu nó, con cảm thấy là nhân vật đã đóng băng vào quá khứ bỗng nhiên bắt đầu tan băng, chảy ra, trở nên lỏng. Nó không còn cứng ngắc nữa, nó không còn là cái vỏ cứng nữa. Nó lỏng ra, nó tuôn chảy và con thấy nó lỏng đến độ bỗng nhiên nó trở thành một vũng nước trên sàn.

Sau đó, con nhận ra là Mẹ đưa cho con một miếng vải và nói: “Con chùi vũng nước này đi và đưa lại cho Mẹ.” Con chùi vũng nước đó khỏi sàn và con đưa lại cho Mẹ miếng vải ướt. Mẹ đưa nó vào luân xa tim của Mẹ và chuyển hóa nó.

Con bây giờ cảm thấy một gánh nặng vừa trút khỏi con và con cảm thấy có sự thôi thúc kéo con trở về một trong các khu vườn đó để thăm thú cảnh đẹp. Con cũng nhận ra rằng tuy con cảm thấy tự do hơn, con vẫn còn ở trên sân khấu đó vì các nhân vật khác vẫn còn đóng băng trong quá khứ.

Con nhìn Mẹ và hỏi: “Nhưng tại sao con vẫn còn ở đây? Tại sao các nhân vật kia vẫn còn ở đó khi họ chỉ là những cảm nhận trong tâm của con?” Mẹ nói với con là khi chấn thương đầu tiên đó xảy ra, con để cho tâm bị ám ảnh bám mắc vào một hình ảnh đặc thù về mình và đấy cũng chính là hình ảnh con vừa làm cho tan. Con cũng để cho tâm bị ám ảnh bám mắc vào một cách nhìn đặc thù về những sinh thể đã làm chuyện đó đối với con và cái nhìn này bị đóng băng trong quá khứ.

Do đó, con cần lau dọn thêm một chút nữa. Điều con cần làm và Mẹ sẽ hướng dẫn con làm là con ngồi trên sân khấu. Con nhìn một nhân vật hiện lên trong tâm con, một hình ảnh. Có thể là hình ảnh không nhiều chi tiết nhưng con có cảm tưởng là có cái gì ở đó, và nó nguy hiểm, nó là một mối đe dọa đối với con và nó muốn hại con.

Bây giờ con nhận ra rằng con không phải là sinh thể có mặt ở đó lúc khởi thủy. Con không sợ hãi; con đang ở đây với Mẹ. Con tự do bên trong con và do đó con có thể nhìn hình ảnh mà con có trong tâm, hình ảnh mà con đã tạo dựng trong tâm vào lúc đó và con có thể yêu hình ảnh đó. Con có thể gửi tình yêu tới nó. Khi con làm vậy, con thấy cái vỏ cứng bắt đầu mềm đi, chảy ra, trở thành nước. Một lần nữa nó biến thành một vũng nước trên sân khấu. Mẹ đưa cho con một miếng vải khác và một lần nữa con lau vũng nước đó, đưa lại cho Mẹ và Mẹ tiêu trừ nó trong luân xa tim của Mẹ.

Cũng có thể có những nhân vật khác trên sân khấu và khi con làm bài tập này trở lại, mỗi lần lại có một nhân vật khác khởi lên trong tâm con. Bây giờ con biết công thức rồi. Con yêu nó cho tới khi nó chảy ra, trở thành nước và con lau chùi nó và con đưa lại cho Mẹ và Mẹ tiêu trừ nó.

5.12. Dùng bài tập cho các chấn thương khác

Có thể sẽ tới một lúc khi con làm bài tập này và không còn nhân vật nào hiện lên trong tâm con và sân khấu trống rỗng. Khi tới điểm này thì con đã sẵn sàng bỏ sân khấu lại đằng sau. Con vẫn có thể làm bài tập này và khám phá thấy rằng có một trong những cánh cửa trong đường hầm có sức thu hút con. Con có thể đi vào và con thấy một sân khấu khác với một kịch bản khác. Con có thể làm theo cùng công thức đó, đi vào trong nhân vật và nhận ra rằng nhân vật không phải là mình. Con gửi tình yêu tràn ắp nhân vật, làm nó tan lỏng đi và sau đó con coi xem có nhân vật nào khác không. Con nhận ra rằng họ chỉ bị đóng băng trong quá khứ và con làm cho họ tan lỏng ra và con lau chùi họ, nói theo nghĩa bóng.

Có thể sẽ tới điểm mà con có thể đi bộ qua đường hầm này và không có gì thu hút con nữa. Lúc đó, con không có nhu cầu lặp lại bài tập này. Trong phần đầu, Mẹ muốn đưa con trở về chấn thương đầu tiên hết của con và thật sự làm cho tất cả những nhân vật đã xúc phạm con trong kịch bản đó tan lỏng đi. Khi con thoát khỏi chấn thương nhập đời đầu tiên, chuyện giải quyết bất kỳ chấn thương nào mà con gánh chịu trong bất kỳ kiếp đầu thai nào sau đó sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.

Đó là lý do tại sao Mẹ đã đưa con thẳng tới điểm khởi đầu, thay vì giải tỏa các chấn thương khác xảy ra sau này, gần kiếp đầu thai hiện nay của con hơn và do đó, có thể nói là chúng thu hút con mạnh hơn. Có thể là chúng dễ hóa giải hơn, nhưng con không dễ hóa giải chúng nếu con chưa hóa giải chấn thương đầu tiên. Mọi chấn thương khác đều liên hệ tới nó, đều được xây dựng trên nó. Do đó, khi trở về nguồn gốc, con yêu dấu, và giải tỏa chấn thương đầu tiên này, chúng ta tạo điều kiện để giải tỏa tất cả các chấn thương khác.

5.13. Rời rạp hát

Bây giờ Mẹ muốn con hình dung chúng ta ở trên sân khấu và ít nhất lúc này không còn nhân vật nào hiện lên trong tâm con. Đã tới lúc rời rạp hát và một lần nữa chúng ta đi ra khỏi cửa và đi vào đường hầm. Bỗng nhiên, chúng ta đã trở về và con lại trải nghiệm tiến trình sinh ra đời một lần nữa. Nhưng lần này, không có gì đau đớn, con còn không cảm thấy bị chật chội trong ống sinh.

Bỗng nhiên con trở về hiện thân là một trẻ thơ ngồi trong lòng Mẹ. Con có thể ngồi trong lòng Mẹ, như ngồi thiền, bao lâu con muốn trước khi con hoàn thành bài tập này và đọc bài thỉnh cuối. Mẹ sẽ ôm con bao lâu con muốn, cho tới khi con cảm thấy sẵn sàng, con cảm thấy trọn vẹn, con cảm thấy đã lành lặn đủ để trở về thân vật lý của con và sự nhận biết của kiếp sống hiện nay. Lẽ dĩ nhiên con trở về bằng cách đi qua các cánh cổng tượng trưng cho các luân xa của con.

Ở các cánh cổng con có thể nhặt lên chiếc ba lô mà con đã bỏ lại đằng sau. Có thể là con không ý thức con đã làm vậy nhưng không sao cả, nhưng cũng có thể là có điểm con bỗng nhiên do dự và nhận ra mình có chọn lựa: “Tôi sẽ nhặt lên chiếc ba lô này hay tôi để nó lại ở đây?” Lúc đó, có thể là con quyết định để nó lại và con trở về với cảm giác nhận biết bình thường của mình nhưng với cảm giác nhẹ nhàng hơn vì không còn mang theo chiếc ba lộ nặng chĩu như thế nữa.

Có thể con tới điểm khám phá mình đã làm tan luôn chiếc ba lô và con không còn ba lô nào nữa. Con có thể làm lại bài tập và đi qua các cửa mà không cần để lại gì đằng sau vì con đã chuyển hóa chúng.

5.14. Chấp nhận Tình thương Thiêng liêng

Điều Mẹ muốn con ghi nhớ từ bài giảng này là phần khó khăn nhất khi đầu thai trên trái đất là chúng ta không thể thực sự chấp nhận tình thương Thiêng liêng. Rất nhiều khi đó là vì chấn thương nhập đời đầu tiên quá kinh khủng và khiến chúng ta cảm thấy rằng nếu Thượng đế thật sự yêu chúng ta, thì ngài không thể nào cho phép để chúng ta phải chịu chấn thương này. Đáng lẽ ra ngài không được cho phép chúng ta phải chịu một chấn thương như vậy, đáng lẽ ra ngài phải bảo vệ chúng ta bằng cách nào đó.

Đây là một bí ẩn. Đây là một bí ẩn cần thiết mà con cần suy ngẫm, cần gia tốc, cần con phải thách thức cách nhìn đời của mình, thách thức những ý tưởng mà sa nhân đã phổ biến về một Thượng đế đầy giận dữ, một Thượng đế xa cách, hay không có Thượng đế, cho tới khi con nhận ra là con đã chọn lựa đầu thai.

Con biết tình trạng trên hành tinh này. Con có cảm nhận là con sẽ gặp khó khăn nhưng con không thể biết chính xác sẽ khó khăn đến đâu bởi vì chúng ta không thể biết được mình sẽ trải nghiệm một tình huống như thế nào bằng cách phóng chiếu tới tương lai. Con không thể biết được mình sẽ phản ứng chính xác như thế nào trong tương lai cho tới khi con trải nghiệm nó.

Lý do con chọn đi vào hoàn cảnh này, lẽ dĩ nhiên, trước tiên hết là vì con xuống trái đất với một mục đích tích cực. Một lý do khác là vì con biết là bất kỳ chấn thương nào mà con phải gánh chịu khi đầu thai trên trái đất, con sẽ có thể thoát khỏi nó. Nó không thể thật sự tiêu hủy con, thay đổi con hay chạm tới con. Có thể là con cảm thấy nó có thể chạm tới con, nhưng nó không thể nào chạm tới sinh thể vô hình tướng mà con thật sự là. Do đó, con biết là bất kỳ chuyện gì xảy ra, con sẽ có thể tháo gỡ được khi con có hiểu biết và được giúp đỡ. Con cũng biết là sẽ có các chân sư thăng thiên và các đại diện của Mẹ Thiêng liêng sẵn sàng giúp đỡ con, như Mẹ đây đang được hân hạnh giúp đỡ con.

Do đó con biết, như Shakespeare đã nói: “Cả thế giới là một sân khấu.” Con biết là những gì xảy ra trong cõi vật chất của trái đất giống như những gì xảy ra trong một rạp hát. Nó không thật. Con biết là khi con ở trong rạp hát, vở kịch có thể tác động mạnh tới con. Con có thể có phản ứng xúc động, nó có thể khuấy động nhiều ý nghĩ trong con. Nhưng con không đồng hóa mình với vở kịch, con không nghĩ mình là một trong những nhân vật trên sân khấu.

Ngay cả khi con ở trong một vở kịch và con là một trong những diễn viên, con có thể sống trong vai tuồng đó nhưng con biết một khi con rời sân khấu, con sẽ rời vai tuồng đó. Lý do vì sao con đồng hóa mình với trái đất là vì chấn thương nhập đời khốc liệt đến độ nó khiến con nghĩ chấn thương này đã thay đổi con và giờ đây con đã trở thành một sinh thể bị thương tích. Nó đã khiến con tự đồng hóa mình với nhân vật mà con thủ vai trong tất cả các kiếp đầu thai của mình.

Điều con có thể đạt được khi làm bài tập này một số lần, là con tới được điểm con không còn tự đồng hóa mình với nhân vật đầu tiên bị tổn thương trong chấn thương nhập đời đầu tiên. Con cũng không tự đồng hóa mình với bất kỳ vai trò nào khác mà con đã thủ vai trong các kiếp đầu thai khác. Con cũng không hoàn toàn tự đồng hóa mình với vai trò con đang thủ vai trong kiếp đầu thai này.

Khi con tới được điểm này, thì tâm trí của con đạt được một sự tự do mới khi con nhận ra rằng, đúng vậy, con sinh trưởng trong một gia đình nào đó, một quốc gia nào đó, một nền văn hóa nào đó. Các thứ đó có một lịch sử đi ngược dòng thời gian. Con đã bị ảnh hưởng bởi môi trường của mình, con đã bị ảnh hưởng bởi gen của mình. Ngoài những yếu tố đó, con cũng đã có nhiều kiếp sống trước đã ảnh hưởng mình, nhưng tất cả đã được giải tỏa tới điểm chúng không quy định được hướng đi của phần còn lại của kiếp đầu thai này của con. Con có tự do chọn lựa mình sẽ là ai trong phần còn lại của kiếp sống này.

Thật là một niềm vui lớn lao nhất cho Mẹ khi Mẹ giúp dẫn con tới điểm tự do lý trí, tình cảm, bản sắc và vật lý này. TA LÀ Mẹ Mary và TA LÀ mãi mãi Mẹ thiêng liêng của con.

Chương 4 – Chữa lành ở tầng vật lý

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/3/2013.

Con yêu dấu, TA LÀ Mẹ Mary. Thày giữ chức vụ của Mẹ Thiêng liêng cho hành tinh trái đất. Thày cũng giữ mỗi người các con trong trái tim thày. Vì không ai đầu thai trên hành tinh này mà không đi qua Trụ sở của Mẹ Thiêng liêng, không ai đầu thai mà không cần thày, người đứng đầu trụ sở, giữ cân bằng tâm linh cho con ở một mức độ nào đó; vì vậy, thày có thể thành thật nói rằng thày dành tình thương cho riêng từng người trong số gần 7 tỉ người đang đầu thai trên trái đất, và thậm chí thày dành tình thương cho cả những người còn ràng buộc với trái đất cho dù họ giờ đây không đang hiện thân trong cơ thể vật lý.

4.1. Con là một dòng sống

Như các thày đã cố gắng giải thích không chỉ trong bài giảng về Bài ca sự Sống mà còn trong nhiều bài giảng khác mà các thày đã ban ra, đó là cuộc sống quả thật có một mục đích. Con không phải là sản phẩm của một trò chơi may rủi. Con cũng không phải là sản phẩm của một vị Thượng đế giận dữ và phán xét sẽ đày con xuống địa ngục nếu con không vận hành như một người máy và mù quáng tuân theo một giáo điều nào đó hay giới lãnh đạo một giáo hội nào đó trên trái đất này. Con là một người đồng sáng tạo tự do như một cá thể của Thượng đế (God-free), con được tạo ra để biểu lộ khả năng đồng sáng tạo theo cách có thể thậm chí làm ngạc nhiên cả đấng Sáng tạo vì con có khả năng đem lại vẻ đẹp và sự sáng tạo qua dòng sống độc đáo của mình.

Thày biết rằng theo truyền thống, những ai cởi mở với khía cạnh tâm linh của cuộc sống đều tin rằng mình là một linh hồn đầu thai trên trái đất. Nhưng nhiều người cũng tin rằng linh hồn này bất biến và nó được Thượng đế tạo ra, vì vậy nó vốn đã toàn hảo. Giờ đây linh hồn này đang hiện thân trên trái đất và vai trò của nó là quay trở lại trạng thái toàn hảo ban đầu. Nhưng đây không phải là một hình ảnh chính xác.

Sự thật là con đã được tạo ra như một dòng sống, có nghĩa là con được tạo ra với một ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm, giống như điểm kỳ dị mà các khoa học gia cho đó là điểm khởi đầu của vũ trụ vật lý. Rồi từ ý niệm bản ngã nhỏ như cái chấm đó, con sẽ tăng trưởng sự tự nhận biết để đạt tới ý niệm bản ngã vô biên của đấng Sáng tạo.

Vì vậy, con là một dòng-sống (life-stream), tuôn chảy (streaming) từ điểm kỳ dị nhỏ như cái chấm đến sự nhận biết Tất cả và đây là tiềm năng cao nhất của con. Con không được tạo ra trong một trạng thái toàn hảo bất biến mặc dù cốt lõi của con là sự nhận biết thuần khiết, nhưng con vẫn được tạo ra để mở rộng ý niệm bản ngã của mình cho đến khi con đạt được sự nhận biết của một đấng Sáng tạo có khả năng tạo ra vũ trụ của riêng mình, thế giới hình tướng của riêng mình.

Tại sao thày lại nói con là một dòng sống? Tại sao các thày lại nói con sinh ra để tuôn chảy với Dòng sông sự Sống? Vì bệnh tật là gì chứ? Đó là khi có một cái gì làm nghẽn dòng chảy. Ở mức độ bề mặt, cái gì đó đã làm nghẽn dòng chảy năng lượng tâm linh qua bốn thể phàm mà con đang dùng ở đây trên trái đất này. Nhưng ở mức độ sâu xa hơn, cái gì đó đã làm nghẽn con khiến con không thấy chính mình là một dòng sống.

Có lẽ con nghĩ rằng con đã đến từ một trạng thái tĩnh tại. Có lẽ con nghĩ rằng việc con phải nỗ lực để đạt được một trạng thái tĩnh tại sẽ cứu rỗi con và giờ đây con mãi mãi ngồi chơi đàn hạc trên một đám mây hồng. Đây có thật sự là hình ảnh mà con muốn đạt đến không – trạng thái đứng yên vĩnh viễn? Thày nghĩ là không, vì thày biết con được tạo ra như một dòng sống, liên tục tuôn chảy, liên tục tăng trưởng, liên tục mở rộng, liên tục trở nên hơn nữa, liên tục đồng sáng tạo cái hơn nữa.

4.2. Không có trạng thái sức khỏe toàn hảo

Vậy thì, mấu chốt của khuôn mẫu chữa lành của Bài ca sự Sống là gì? Đó là giúp con trở lại điểm nơi con nhìn nhận chính mình là một dòng chảy, nơi con thấy dòng chảy năng lượng của Thượng đế, dòng chảy của Thánh linh, dòng chảy của Dòng sông sự Sống đang tuôn chảy qua bốn thể phàm mà con sử dụng ở đây, ở trong vũ trụ vật lý trên hành tinh trái đất này. Con hãy là dòng chảy đó, hãy tuôn chảy và hãy để Thượng đế tuôn chảy qua con.

Vậy bệnh tật trong cơ thể vật lý là gì? Đó là một thông điệp cho biết con đã không tuôn chảy ở một tầng cấp nào đó, con đã không tuôn chảy với Dòng sông sự Sống. Vì vậy, quả thật, cách duy nhất thật sự chữa lành, cách chữa lành bền vững, đó là quay lại tuôn chảy.

Hãy nhìn vào việc con đã được nuôi dạy để nhìn nhận cơ thể vật lý như thế nào, đó là con cho rằng con vốn dĩ có một tình trạng sức khỏe bình thường, và các con ít nhiều đã kéo dài khá lâu tình trạng sức khoẻ này trong đời. Con nghĩ nếu giờ đây cơ thể con bắt đầu biểu lộ các triệu chứng bệnh tật thì có cái gì đó đã sai và tất nhiên con cần quay lại tình trạng ban đầu, tình trạng khỏe mạnh cố định đó.

Nhưng thày cần nói với con là không bao giờ có tình trạng khỏe mạnh cố định, mặc dù đã có lúc con không cần lo lắng về cơ thể vật lý của mình vì cơ thể này chỉ thực hiện các chức năng của nó để con có thể tiếp tục sống theo cách con nghĩ cuộc sống vốn dĩ như vậy, vì như các thày đã nói, điều này tùy thuộc vào việc con lớn lên trong một xã hội mong muốn kiểm soát con theo nhiều cách.

Điều thày đang nói ở đây là: Các thày đã cố gắng giải thích điều này từ nhiều góc độ và Chân sư MORE đã trình bày tuyệt vời về điều này ở cuối quyển sách của thày [The Creative Power Within]. Điều thày đang nói ở đây là: Con không thể tái tạo một sức khỏe toàn hảo vì con không thể tái tạo cái con chưa từng có. Con chưa từng có một sức khỏe toàn hảo trong cơ thể vật lý của con. Có thể con đã có một tình trạng sức khoẻ mà con nghĩ con không cần phải lo lắng, nhưng đó không phải là sức khoẻ toàn hảo.

Không có gì đứng yên trong vũ trụ vật lý. Mọi thứ đều đang liên tục tuôn chảy và thay đổi. Chỉ có tự ngã, tâm vỏ ngoài, mới tạo nên hình ảnh mọi thứ đứng yên, tạo nên hình ảnh con có thể sở hữu thứ gì đó, con có thể duy trì và giữ nó qua thời gian. Vì thày đã nói với con, không có gì đứng yên trong vũ trụ vật chất. Các thày đã nói, mọi thứ đều là sự phóng chiếu, mọi thứ được phóng chiếu nhiều lần mỗi giây, và màn hình nơi mọi thứ được phóng chiếu lên cũng liên tục chuyển động. Như con biết trong ngành vật lý và thiên văn học thì toàn bộ vũ trụ đang dãn nở.

4.3. Không có gì trong thế giới này đứng yên

Con nghĩ vũ trụ đang dãn nở như thế nào? Con có thể đã được dạy rằng tất cả thiên hà, hàng triệu và hàng tỉ thiên hà đang liên tục di chuyển tách rời khỏi nhau. Nhưng thày nói với con điều này, một số nhà vật lý đã đến gần với sự thật hơn – mặc dù không hoàn toàn là sự thật – khi họ nói rằng tất cả các thiên hà như thể được vẽ lên bề mặt của một quả bóng và quả bóng này đang được thổi lớn lên, và khi quả bóng to ra, dường như các thiên hà đang di chuyển càng lúc càng xa nhau.

Sự thật ở đây là toàn bộ thế giới hình tướng là một dòng tâm thức đang tuôn chảy. Các thày đã nói con chỉ đang sống trong dòng chảy đó, và trái đất chỉ là một hạt bụi trong vũ trụ vật lý nhưng vũ trụ vật lý này không phải là một vũ trụ đứng riêng rẽ. Thánh linh, Dòng sông sự Sống, là một dòng chảy liên tục. Chính không gian đang liên tục bị kéo dãn và mở rộng, và con cũng đang mở rộng cùng với không gian này. Điều này khiến trái đất xoay xung quanh mặt trời, hay khiến mặt trời xoay xung quanh trung tâm thiên hà của nó, hay khiến toàn thiên hà xoay xung quanh tâm của nó và tất cả các thiên hà chuyển động trong một bản giao hưởng hài hoà của cuộc sống.

Tự ngã của con, các thày giả của những kẻ sa ngã, và ngay cả các giác quan vật lý của con ở mức độ nào đó muốn con nghĩ rằng con có thể nắm giữ một điều gì trong dòng chảy vĩ đại này. Nhưng không có gì đứng yên cả. Tuy nhiên, cái con có thể nắm giữ như cốt lõi bền vững của cuộc sống là nhận biết thuần khiết, nhận biết thuần khiết giúp con thấy mặc dù con đang ở trong bát cung vật lý nơi mọi thứ đang liên tục thay đổi, nhưng con không cần phải liên tục thay đổi theo các hoàn cảnh con thấy xung quanh mình. Thay vào đó, con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con.

Hiện diện TA LÀ của con không đứng yên. Hiện diện TA LÀ của con đang tuôn chảy cùng với dòng chảy sự sống, và vì vậy nó liên tục thăng vượt chính nó. Do đó, con chỉ cần thay đổi cùng với Hiện diện khi nó thăng vượt chính nó. Con thật sự không cần thay đổi theo các hoàn cảnh đang biến đổi trên trái đất ngoại trừ những thay đổi thẳng hàng với dòng chảy của Dòng sông sự Sống.

4.4. Hai loại thay đổi

Thày có vẻ khó hiểu không? Quả thật thày có ý cho con một câu đố để con nhận ra có hai loại thay đổi. Thày biết con lớn lên mà không biết điều này. Có một sự thay đổi là sự tự thăng vượt, đó là liên tục thăng vượt chính mình và đây là Dòng sông sự Sống. Trong bản thiết kế nguyên thuỷ của các Elohim, trái đất khởi đầu ở một tầng cấp nào đó và sau đó nó sẽ liên tục thăng vượt tầng cấp đó khi những con người hiện thân nơi đây cùng nhau tạo thêm sự dồi dào trong tự nhiên, trong cuộc sống của chính họ và trong xã hội. Đây là sự tuôn chảy với Dòng sông sự Sống, và tất nhiên, con muốn tuôn chảy với nó.

Nhưng như các thày đã nói nhiều lần, con không có hoàn cảnh lý tưởng trên trái đất. Loài người đã tách chính mình ra khỏi Dòng sông sự Sống, và vì vậy đã tạo ra một vòng xoáy riêng của mình. Đây không phải là vòng xoáy hướng thượng dẫn đến sự thăng vượt. Đây là một vòng xoáy hướng hạ đưa con đến việc thu hẹp các cơ hội khiến mọi thứ bắt đầu tan vỡ thay vì tự thăng vượt. Con có thể thấy những thay đổi này trong xã hội, ngay cả trong tự nhiên ở một mức độ nào đó.

Con yêu dấu, con không cần phải thích ứng với những thay đổi này. Tìm cách thích ứng với những thay đổi như vậy làm tắc nghẽn sự sáng tạo của con vì lúc này con rơi vào lời nói dối cơ bản của cái mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian, đó là Tánh linh phải quy thuận những điều kiện hiện hành trong vật chất.

Đây là điều mà Peter đã nói với Giê-su khi Giê-su kể cho môn đệ những gì sắp xảy ra cho mình. Peter từ chối chấp nhận vì ông nghĩ điều này không tốt nhất cho Giê-su. Và Giê-su đã quay lại quở trách Peter nặng nề – thày có thể đảm bảo với con, Giê-su có thể rất nghiêm khắc: “Satan, hãy lui ra đằng sau ta”. Chính con cũng có thể có dịp dùng câu nói này khi con nhận ra con đang phải chịu một sự phóng chiếu từ tâm thức đại chúng, từ ông hoàng thế gian bảo con rằng: “Ngươi phải thích ứng với hoàn cảnh bất toàn hiện nay trên trái đất”.

4.5. Không chấp nhận bất cứ gì là chung cuộc

Con không bắt buộc phải thích ứng với những hoàn cảnh bất toàn trên trái đất, vì làm vậy sẽ chỉ gây nên bệnh tật trong cơ thể con. Tương tự như vậy, nếu bác sĩ nói: “Anh đang mắc một căn bệnh hiểm nghèo” hay “ Căn bệnh của chị không thể chữa được”, thì con không bắt buộc phải chấp nhận điều này. Thày không có ý nói con nên từ chối chữa trị y khoa vì đây không phải là những gì thày dạy. Thày dạy con phải tận dụng những cái sẵn có trong xã hội của con, cả hệ thống chữa trị chính thống lẫn những phương pháp chữa trị tự nhiên toàn diện. Thày không nói con nên từ chối các hình thức chữa trị đang sẵn có mà ngược lại con hãy sử dụng mọi cách theo hướng dẫn của trực giác. Nhưng dẫu sao, đừng chấp nhận hình ảnh cơ thể vật lý của con hiện đã vượt ngưỡng nào đó và không bao giờ có thể khoẻ mạnh như trước.

Nhưng hãy trở lại những gì thày đã nói. Con không thể tái tạo sức khỏe toàn hảo vì sức khỏe bất toàn là dấu hiệu cho thấy con đã tách mình ra khỏi Dòng sông sự Sống. Vì vậy, cách chữa lành là quay lại dòng chảy để thay vì cố tái tạo tình trạng sức khỏe như trước, thì con không cố quay ngược kim đồng hồ, ngay cả không quay ngược đồng hồ của cơ thể. Con đang tuôn chảy vào một trạng thái mới, cao hơn con có thể hình dung.

4.6. Định nghĩa về bệnh tật

Vậy thì, bệnh tật là gì? Các thày đã nói con có một sứ vụ thiêng liêng cá nhân mà con đã thảo ra cùng với các cố vấn tâm linh trước khi con đầu thai. Như thày Quan Âm đã nói, có vài trường hợp trong đó một căn bệnh và việc đối mặt với một căn bệnh, hay chữa lành một căn bệnh là một phần của sứ vụ thiêng liêng của con. Trong hầu hết trường hợp, căn bệnh có những lúc không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, vì vậy con có thể nhìn căn bệnh như dấu hiệu con không đi theo sứ vụ thiêng liêng của mình. Nhưng ngay cả nếu căn bệnh nằm trong sứ vụ thiêng liêng thì nó vẫn là một dấu hiệu và vì vậy giáo lý toàn vũ mà thày muốn trao cho con đó là bất kỳ một căn bệnh vật lý nào cũng là một chỉ báo cho thấy con cần thay đổi một điều gì đó.

Nếu căn bệnh không nằm trong sứ vụ thiêng liêng thì con nên nhìn căn bệnh như một dấu hiệu cho thấy con không tuôn chảy với sứ vụ thiêng liêng, con không hòa điệu với sứ vụ thiêng liêng. Tại sao lại không? Bởi vì con được nuôi dạy để chấp nhận những hình ảnh sai lầm đang quanh quẩn trong tâm thức đại chúng trên trái đất. Con nghĩ cuộc sống nên là thế này, con nên sống theo cách này, cuộc sống nên biểu lộ theo cách này.

Một khía cạnh trong số các tin tưởng này là con cần có sức khỏe để làm việc kiếm sống. Con phải trải qua một tiến trình rất dài để cuối cùng con có được một việc làm, và rồi con tiếp tục làm công việc này trong 30, 40, hay 45 năm cho đến khi con về hưu. Cơ thể con đơn giản cần thích nghi để thực hiện chức năng này cho dù công việc có căng thẳng đến mức nào.

Nhưng con thấy đấy, trong thời đại ngày nay, có hàng triệu người tâm linh đã hiện thân chính là để giúp đem lại một thời kỳ mới tốt đẹp, tiếp cận cuộc sống một cách tâm linh hơn. Sứ vụ thiêng liêng không quy định con làm việc như một người máy suốt 40 hay 45 năm để làm giàu cho một nhóm thượng lưu đặc quyền không bao giờ biết chia sẻ với người khác.

Vì vậy, khi con đi quá xa những điều nằm trong sứ vụ thiêng liêng thì cơ thể con bắt đầu cảnh báo có điều cần phải thay đổi. Điều này có gì phải ngạc nhiên không? Tất nhiên, nếu con thật sự muốn chữa lành, con cần dùng những công cụ mà các thày đã trao cho con – các bài giảng và các khuôn đúc chữa lành này – để giúp con trở lại với viễn quan rõ ràng về sứ vụ thiêng liêng của con. Và đối với nhiều người điều này có nghĩa là họ cần phải sẵn lòng suy ngẫm lại cuộc đời mình, xem xét lại cuộc đời và cách sống của mình. Có thật sự đúng không khi con làm một công việc căng thẳng trong hơn 40 năm? Có thật sự đây là điều con muốn làm trong đời? Vậy thì tại sao con cho phép mình nghĩ rằng đây là điều con phải làm, nghĩ rằng con bị mắc kẹt trong công việc này và không còn chọn lựa nào khác?

4.7. Luôn luôn có một chọn lựa

Con yêu dấu, một trong những thông điệp cơ bản của bất kỳ giáo lý tâm linh chân chính nào đều là: luôn luôn có một chọn lựa. Luôn luôn có một cách nhìn khác về cuộc đời. Luôn luôn có một cách khác tương tác với cuộc đời. Khi con đi theo phương cách này, tầm nhìn của con sẽ mở rộng hơn bất cứ gì con có thể mơ ước trước đây, vì có lẽ con đã lập tức bác bỏ nó là không thực tế trước khi con cho phép mình xét xem nó có thể trở thành hiện thực hay không.

Nhưng thông điệp của ngành y khoa và các cơ sở y tế trên địa cầu hiện nay là như sau: Con được sinh ra để lao động thật hiệu năng. Nếu có trục trặc với sức khỏe của cơ thể, thì các cơ sở y tế sẽ can thiệp và cố gắng giải tỏa các triệu chứng để con có thể trở về với hình thức sinh sống gọi là hiệu năng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chữa trị không có hiệu quả. Vì những lý do mà chưa ai hiểu được, căn bệnh vẫn không hết và con phải chấp nhận sống chung với nó, phải uống thuốc suốt đời, hoặc con sẽ chết vì căn bệnh đó.

Khi con ngã bệnh, và nếu có thể trước cả khi con ngã bệnh, con yêu dấu, chẳng phải đây là cơ hội để con suy nghĩ lại cách sống đó, cách sống máy móc đó hay sao? Chẳng phải là sẽ tới lúc trong cuộc đời mình, dù mắc bệnh hay không mắc bệnh, con lùi lại và tái xét điều này hay sao? Vì tất nhiên, nếu cơ thể con mắc bệnh và con phải dừng lối sống đầy căng thẳng để tập trung vào việc chữa trị, thì chẳng phải là con có thời gian và không gian – không gian trong tâm con – để con bước lùi lại và suy ngẫm: “Sứ vụ thiêng liêng của tôi là gì? Tiềm năng cao nhất trong kiếp sống này của tôi là gì? Tôi có thể học được gì? Tôi có thể biểu lộ được điều gì? Món quà nào tôi có thể trao tặng cho mọi người quanh tôi hay cho hành tinh này nói chung? Thượng đế có thể đem lại được điều gì qua tôi trong phần đời còn lại của kiếp sống này?”

Thay vì nghĩ: “Ồ, nhưng tôi không có sức khỏe toàn hảo thì làm sao tôi có thể phụng sự cuộc đời”, thì con hãy tập trung vào việc phụng sự. Rồi con sẽ chấp nhận con có đủ sức khoẻ cần thiết để phụng sự. Con chấp nhận điều này như một thực tế vì nay con đã hoà điệu với dòng chảy của sứ vụ thiêng liêng. Con biết con sống không phải để có một cuộc đời thoải mái, không phải để tiêu thụ thật nhiều, mà con sống để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình.

Con chấp nhận, đòi hỏi và thỉnh gọi cho sức khỏe thị hiện, cho tiền của và các hoàn cảnh bên ngoài mà con cần có để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng. Đừng có cái nhìn vướng mắc về các hoàn cảnh bên ngoài mà con phải có. Hãy uyển chuyển để đạt đến một viễn quan cao hơn và sẵn lòng bắt đầu biểu lộ tiềm năng cao hơn của con, sứ vụ thiêng liêng của con bằng những gì con có ngay bây giờ, ngay cả nếu con đang có một căn bệnh vật lý.

Hãy làm điều con chưa từng làm trước đây. Hãy dang tay ra giúp mọi người bằng một cách nào đó. Con có thể tham gia vào quá trình giúp những người cùng mắc loại bệnh như con. Hãy giúp họ hiểu về căn bệnh. Hãy giúp họ hiểu nguyên nhân của căn bệnh, ngay cả nguyên nhân vượt khỏi tầng vật lý, nguyên nhân còn nằm ở các tầng tình cảm, lý trí và bản sắc.

Con hãy tìm cách nâng cao nhận thức về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Hãy tìm cách chỉ cho người khác làm cách nào đời sống tâm linh đã xoa dịu căn bệnh của con và có thể cũng xoa dịu được họ. Con yêu dấu, thày không mong muốn cho con một khuôn mẫu chỉ dành riêng cho cá nhân con, mà thày đưa ra nhiều chọn lựa để con có thể dùng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Luôn có một điều gì đó con có thể làm để vượt lên chính mình. Con có thấy nhiều người khi già đi và mắc bệnh, thì họ càng lúc càng tập trung hơn vào chính mình cho đến khi toàn bộ sự tập trung vào cuộc đời trở nên hạn hẹp đến độ hầu như không ai có thể liên hệ với họ được nữa? Vậy thì mục đích của việc đầu thai là gì nếu con không đặt tập trung ra ngoài bản thân? Làm sao con có thể tuôn chảy với sứ vụ thiêng liêng nếu con chỉ chú tâm vào cái ngã hẹp hòi? Sứ vụ thiêng liêng của con là tìm cách nâng cao tất cả sự sống, bao gồm cả chính con nhưng không phải chỉ một mình con.

4.8. Bí quyết là tuôn chảy

Vậy thì đây là bí quyết, con yêu dấu: Hãy tuôn chảy với cuộc sống. Từ nơi con đang đứng, hãy lập tức tuôn chảy vào thể chất lành mạnh hơn. Rồi tuôn chảy vào sức khoẻ tốt hơn, rồi lại tuôn chảy vào sức khoẻ tốt hơn nữa. Hãy tuôn chảy vào một phản ứng tốt hơn, rồi lại tuôn chảy vào một phản ứng tốt hơn nữa. Hãy tuôn chảy vào một phản ứng dựa trên tình thương hơn là dựa trên sợ hãi. Hãy tuôn chảy vào sự biết ơn. Hãy tuôn chảy vào sự biết ơn cơ hội được sống, được tự nhận biết, được có một cơ thể vật lý qua đó con có thể biểu đạt một điều gì. Hãy tuôn chảy, con yêu dấu. Hãy thay đổi cách con nhìn cuộc đời. Hãy thay đổi cách con nhìn thực tại.

Hãy dùng bài thỉnh của Bài ca sự Sống. Hãy dùng khía cạnh vật lý của bài thỉnh mà thày đã giới thiệu để kêu gọi sức khỏe toàn hảo của cơ thể biểu lộ trong cõi vật lý. Các bộ phận, các hệ thống trong cơ thể, các tế bào và các nguyên tử, tất cả hãy biểu lộ sự toàn hảo. Hãy biểu lộ ngay. Hãy nhìn chúng đang biểu lộ sự toàn hảo. Hãy chấp nhận chúng đang biểu lộ sự toàn hảo. Hãy chấp nhận chúng có khả năng biểu lộ sự toàn hảo. Hãy chấp nhận chúng đang toàn hảo.

Như thày Giê-su đã nói: “Con có tin ta có quyền năng làm được điều này không?” Con có tin Ki-tô trong con, Thượng đế trong con, Hiện diện TA LÀ có quyền năng thị hiện sức khỏe con cần để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con không? Nếu con không tin, con hãy thay đổi quan điểm của mình đi. Con hãy để tâm đến việc thay đổi cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con, vì khi con làm sạch trí thể khỏi sợ hãi và nghi ngờ, khi con làm sạch cảm thể khỏi bối rối và ngờ vực, khi con làm sạch bản sắc thể khỏi tin tưởng con là một con người bị giới hạn bởi những hoàn cảnh vật lý, thì con sẽ biết sự thật mà các thày đã dạy: đó là thế giới vật lý, bao gồm cả cơ thể vật lý, chỉ là một ảo ảnh. Sự cứng đặc đó đều là ngụy trang. Không có gì là trường tồn và cơ thể vật lý của con đang được tái tạo nhiều lần mỗi giây. Vậy tại sao lại không thể tái tạo một cơ thể cho có sức khỏe toàn hảo hay một cơ thể với diện mạo và chức năng tươi trẻ hơn?

Điều này có thể làm được. Điều này có thể làm được, nhưng nó chỉ có thể xảy ra qua bốn tầng của tâm con. Vì vậy, nếu con tin điều này không thể xảy ra thì con sẽ chặn không cho nó biểu lộ.

Con có quyền tự quyết khi cho phép những tồn đọng ở lại trong bốn thể thấp của con, và con cũng cho phép những tồn đọng đó ngăn chặn sự biểu lộ những điều trong sứ vụ thiêng liêng của con liên quan đến sức khỏe, tiền của, hoàn cảnh bên ngoài của con. Chỉ có con mới có thể ngăn chặn sự biểu lộ bằng những tin tưởng mà con không dám chất vấn, bằng những nghi ngờ, bằng sự sợ hãi, bằng sự giận dữ và các cảm xúc tiêu cực, bằng sự vô ơn, bằng sự bi quan và không sẵn lòng tuôn chảy với cuộc sống, để thay đổi như cuộc sống cần thay đổi khi Hiện diện TA LÀ của con muốn biểu đạt một thị hiện cao hơn. Chỉ có con mới có thể ngăn chặn sự thị hiện đó.

4.9. Quyết định con sẵn sàng thay đổi

Thày không nói điều này để khiến con cảm thấy tồi tệ và cho con thêm gánh nặng tội lỗi. Thày nói điều này để khuyến khích con lấy quyết định con sẵn lòng thay đổi, thay đổi thái độ và viễn quan của con vì thày tin con nhận thấy được những điều này có khả năng thay đổi cho dù chuyện gì xảy ra ở tầng vật lý. Con có khả năng thay đổi. Con có khả năng luôn luôn thay đổi.

Vì vậy con hãy quyết định: “Tôi sẵn lòng thay đổi”, và con hãy xin thày hay bất cứ đại diện nào khác của Mẹ Thiêng liêng: “Xin hãy giúp con thay đổi. Xin hãy giúp con thấy con có thể thay đổi như thế nào”. Khi Giê-su còn nhỏ và đang trưởng thành, thày đã giữ niệm tinh khôi cho Giê-su và giữ niệm tinh khôi cho tiềm năng Ki-tô và tiềm năng sứ vụ của Giê-su. Lúc đó, thày không biết tường tận về tiềm năng này nhưng thày biết vài điều trong đó và thày đã giữ viễn quan cho Giê-su. Thày cũng giữ viễn quan cho từng người trong các con. Thày sẽ dạy con cách giữ niệm tinh khôi cho chính mình nếu con xin thày, và nếu con sẵn lòng buông bỏ, ngừng lại, không nắm giữ những viễn quan sai lầm mà con đã chấp nhận khi con sống ở kiếp này hay ở nhiều kiếp trước.

Thày là đại diện của Tia Thứ Năm – tia của viễn kiến. Thày sẽ cho con một viễn kiến cao hơn nếu con sẵn lòng nhìn vượt quá tầm nhìn giới hạn hiện nay của con. Nếu không có viễn kiến, loài người sẽ diệt vong. Nếu không có viễn kiến, cơ thể vật lý sẽ chết. Nếu không có viễn kiến, cảm xúc sẽ chết. Nếu không có viễn kiến, tư tưởng sẽ chết. Nếu không có viễn kiến, bản sắc, các ngã sẽ chết. Vì nếu không có viễn kiến, con không thể thăng vượt tự ngã và khi không thể thăng vượt con sẽ bị huỷ diệt bởi cái mà các thày gọi là quy luật thứ nhì của nhiệt động học hay cơn thịnh nộ của nữ thần Kali, hay sức mạnh của thần Shiva, hay ngọn lửa tâm linh đốt cháy mọi thứ đứng yên, mọi thứ không thăng vượt.

Con hãy nhìn vào ngọn lửa đang cháy trong lò sưởi. Hãy nhìn gỗ đang chuyển hoá thế nào, nhìn hình tướng vật lý dường như khá cứng đặc đó được chuyển hoá lên một trạng thái năng lượng cao hơn nơi các nguyên tử rung động với tốc độ cao hơn. Vì vậy, các liên kết phân tử bị phá vỡ và giải phóng các nguyên tử. Một căn bệnh trong cơ thể con là một trạng thái bị cứng đặc trong đó các nguyên tử của cơ thể bị giam trong một khuôn đúc. Bằng việc thỉnh cầu ngọn lửa tâm linh từ các bài thỉnh và bằng việc chuyển dời tâm thức đã giam các nguyên tử trong khuôn đúc đó, con có thể giải phóng các nguyên tử, con có thể giải phóng các tế bào. Nhờ vậy, cơ thể con có thể được tái tạo gần như ngay tức khắc trong một khuôn đúc cao hơn theo viễn quan tinh khôi, niệm tinh khôi mà thày giữ trong tâm, mà Hiện diện TA LÀ giữ cho con. Điều quan trọng là việc con có thể chấp nhận điều gì, con có thể giữ điều gì trong bốn tầng của tâm con. Chỉ có điều đó mới quyết định cái gì sẽ thị hiện trong tầng vật lý.

4.10. Xin sự trợ giúp của Mẹ Mary

Vậy đây là thông điệp của thày: Con hãy học giáo lý của các thày. Con hãy đọc các bài thỉnh. Hãy kêu gọi các thày giúp con chuyển đổi tâm thức. Nhưng trước hết, con hãy làm điều giản dị này: đó là sẵn lòng thay đổi.

Có những người khi mắc bệnh đã nói: “Tôi mất cái gì? Chuyện này có thể tệ hơn đến mức nào?”. Nếu con không còn hy vọng gì nữa, tại sao lại không thử làm một điều hoàn toàn khác mà con chưa từng làm trước đây, và ngay cả nếu con chưa gần cõi chết và may thay trước khi căn bệnh bộc lộ, thì thày hy vọng con có thể thấy nhu cầu cần thử một điều mà con chưa từng làm trước đây: đó là chuyển đổi tâm thức, chuyển đổi cách sống.

Vì vậy, thày quả thật có thể đảm bảo với con khi Giê-su còn nhỏ, nhiều lần thày phải hướng Giê-su ra khỏi con đường tự hoại để quay trở lại con đường tích cực. Thày đôi lúc đã phải khá cứng rắn với Giê-su cho đến khi Giê-su tự mình thấy được sứ vụ trong đời và có thể bắt đầu tự hướng dẫn mình. Thày sẵn lòng làm vậy với con, con yêu dấu, nếu con chịu xin thày, nếu con chịu lắng nghe câu trả lời từ nội tâm khi con tiếp tục đọc các bài thỉnh và học giáo lý của các thày. Thày chắc chắn sẽ tìm ra cách thì thầm vào tai con những gì con cần nghe nếu con sẵn lòng nghe mà không sợ hãi.

Con yêu dấu, không có gì trong bát cung vật lý mà không thể thay đổi. Không có gì không thể thay đổi. Con có nghe thày nói không? Không có gì không thể thay đổi vì không có gì bản thân nó tồn tại mãi mãi. Mọi thứ đều là sự phóng chiếu của một khuôn đúc, một khuôn đúc tư tưởng. Hãy thay đổi khuôn đúc đó và con sẽ thay đổi được cái đó. Đây là luật của Thượng đế.

Con đã không được dạy để hiểu quy luật này nhưng tại sao điều này lại ngăn con không chấp nhận sự thật khi nó được trao cho con? Hãy sẵn lòng chuyển đổi. Hãy đọc các bài thỉnh. Hãy học các giáo lý. Và con sẽ ngạc nhiên khi chẳng bao lâu con nhìn lại đời mình, con kinh ngạc khi thấy con đã thay đổi nhiều thế nào chỉ trong một thời gian ngắn. Con có thể ngạc nhiên khi thấy tình trạng bên ngoài của con thay đổi nhiều thế nào, bao gồm cả sức khoẻ vật lý và tình trạng sung túc, đã thay đổi chỉ trong một thời gian ngắn.

Hãy chứng tỏ với thày và thày sẽ đổ phước lành cho con – các thày, những đại diện của Mẹ Thiêng Liêng, sẽ đổ phước lành cho con – đến độ tâm con không còn chỗ nhận thêm. Nhưng khi con mở rộng tâm ra thì sẽ có chỗ để nhận phước lành và nó sẽ được thị hiện trong cõi vật lý.

Vì TA LÀ: Chân Sư có quyền năng kết đọng. Thày có mặt ở đây để giúp con làm chủ sự kết đọng mà không sợ hãi. Và thày chào tạm biệt con, hy vọng thày có thể liên tục làm việc với con để giúp con chuyển đổi ý niệm bản ngã lên tiềm năng cao nhất được ghi sẵn trong sứ vụ thiêng liêng của con.

TA LÀ Mẹ Mary. Ta là mẹ của đứa trẻ Ki-tô trong con. Đừng quên ta.

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là: Bài ca sự Sống 4 – Một thân thể mới

15 | Tha thứ vô điều kiện và niềm vui 

Bài truyền đọc của Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 26 tháng 11 năm 2006 

15.1. Động lực thăng tiến cơ bản của cuộc sống 

Con yêu dấu, nếu chuông điện thoại của con reo, con có nhấc máy lên nghe không? Khi con nhấc máy lên, con có nghe đủ lâu để ít nhất nhận biết rằng liệu người ở đầu dây bên kia có cho con biết một thông tin quan trọng hay họ đơn giản chỉ đang cố bán cho con một món hàng. Nếu con thật sự nhận ra người gọi cho con một thông điệp thì con có hết sức lắng nghe thông điệp đó và hiểu nó nói gì không? Chắc chắn rằng, con sẽ dành cho cái điện thoại và người gọi đến một sự tôn trọng nào đó. Vì vậy, thày muốn hỏi con: “Tại sao con lại không dành cho chính cuộc sống sự tôn trọng như vậy?”

À con yêu dấu, con sẽ trả lời rằng con chắc chắn tôn trọng cuộc sống, nhưng thày cũng xin hỏi con điều này có thật không. Con thấy không, bản thân cuộc sống cũng như một cái điện thoại. Mọi hoàn cảnh con gặp phải cũng giống như các cuộc gọi từ chính cuộc sống. Nhưng, có quá nhiều hoàn cảnh trong đời mà con không nhấc điện thoại lên để nghe xem hoàn cảnh đó có phải là một thông điệp quan trọng cho con không, một thông điệp có thể giúp con thăng vượt chính mình – hay thăng vượt giới hạn nào đó – để con có thể tự do và trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống. 

15.2. Tại sao con cứ gặp đi gặp lại cùng một vấn đề 

Hầu hết mọi người bị bịt mắt khi sống trong đời. Họ ngái ngủ, nửa tỉnh nửa mê với những gì đang diễn ra. Họ không nhận ra cuộc sống là một chuỗi những hoàn cảnh liên tục và mỗi hoàn cảnh đều mang một thông điệp giúp họ lên cao hơn và vượt qua những tin tưởng sai lầm, những nhận thức sai lầm đang giới hạn họ và giới hạn khả năng biểu hiện sự sống qua họ. Rất nhiều người trong các con gặp phải các hoàn cảnh xảy ra nhiều lần trong đời. Con thường gào lên: “Tại sao việc này cứ xảy đến với tôi? Tại sao Thượng đế cứ làm điều này với tôi? Tại sao người khác cứ làm điều này với tôi? Tại sao số phận hay may rủi cứ xảy đến với tôi?” Nhưng con lại không dành thời gian quay lại và nói: “Tại sao tôi làm điều này với chính mình?”. 

Mỗi một hoàn cảnh trong đời giống như một cuộc gọi điện thoại, và cuộc gọi đó gói ghém một thông điệp. Nhưng con thường không màng nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp đó. Thậm chí những người nhấc điện thoại lên – những người quả thật cho rằng có lẽ họ cần học một điều gì đó từ những hoàn cảnh này – cũng thường không thật sự lắng nghe thông điệp đằng sau cuộc gọi. Họ không thật sự lắng nghe bằng tai nội tâm để cố gắng hiểu thông điệp, cố gắng hiểu cái mà họ không thể thấy bằng tâm vỏ ngoài. 

Họ lắng nghe thông điệp, họ đánh giá với tâm vỏ ngoài. Vì vậy, họ không thấy thông điệp, họ không nghe thông điệp, vì tâm vỏ ngoài không thấu hiểu được thông điệp đó. Nếu tâm vỏ ngoài của con đã hiểu được thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con, thì tại sao cuộc sống cứ phải mất công gọi điện cho con bằng cách khiến con cứ phải trải nghiệm nhiều lần cùng một hoàn cảnh? 

15.3. Cuộc đời không trừng phạt con 

Cuộc đời đang cố trừng phạt con là một nhận thức hoàn toàn sai lầm của tâm thức con người và tự ngã. Thày có thể bảo đảm với con là chính cuộc sống – và cuộc sống do Thượng đế tạo ra, vì vậy chính Thượng đế – cũng không mong muốn trừng phạt con. Đây là quy luật tuyệt đối: một khi con đã học xong bài học mà con cần học từ một hoàn cảnh cụ thể thì con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó nữa. 

Khi con cứ gặp phải cùng một hoàn cảnh nhiều lần, đó là bởi vì con chưa học xong bài học. Đó là lý do vì sao cuộc sống cứ gọi và cho con nhiều lần cùng một hoàn cảnh để con có thêm các cơ hội – và thêm thêm nữa – học xong bài học. 

Con yêu dấu, thay vì cằn nhằn, thay vì than vãn tại sao chuyện này cứ xảy ra với con hết lần này đến lần khác, thày đề nghị con làm một việc đơn giản: Hãy nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con. Sau đó hãy học bài học. Hãy giải quyết những tin tưởng mà con cần giải quyết để con bước lên cao hơn. Thày có thể đảm bảo với con – như thể bằng phép thuật – con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó lần nữa. 

Cuộc sống không quá phức tạp. Cuộc sống thật sự rất rất đơn giản. Thông điệp bên dưới mỗi hoàn cảnh con gặp phải trong cuộc đời giản dị là: “Vũ trụ vật chất là một tấm gương”. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lấy những hình tướng tương ứng với những gì có trong tâm thức con. Chính trạng thái tâm thức của con đã phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật không làm được gì khác ngoài việc phản chiếu lại hình ảnh đó cho con – cả hình ảnh trong tâm ý thức và hình ảnh ở những lớp tiềm thức của tâm con, của các thể tình cảm, lý trí và bản sắc.

Cuộc sống rất đơn giản. Chính cuộc sống là nguyên lý của sự tăng triển – của sự trở nên hơn nữa, của sự tự thăng vượt. Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con là con có thể trở nên hơn nữa. Bằng cách thấy các giới hạn, thấy các tin tưởng giới hạn của mình – về chính mình, về thế giới và về Thượng đế – con có thể vượt thăng giới hạn đó và lên cao hơn, trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống của Thượng đế. 

Rất nhiều người đã tự hỏi ý nghĩa của cuộc sống, mục đích của cuộc sống, bí mật của cuộc sống là gì. Rất nhiều người đã đi tìm hòn đá hóa kim thần diệu (philosopher’s stone), cây đũa thần, con đường tắt sẽ khiến họ đột ngột có được trạng thái hỷ lạc, hay một trạng thái họ nghĩ họ cần để được hạnh phúc. Nhưng con yêu dấu, bí mật của cuộc sống lại rất giản dị – đó là sự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con cần đạt được một trạng thái toàn hảo xa vời vượt quá tầm với của con. Chỉ đơn giản là mỗi lúc con thăng vượt chính mình, con đang trôi theo Dòng sông sự Sống. Con có tiềm năng trải nghiệm niềm vui, sự hỷ lạc, và đây thật sự Dòng sông sự Sống. 

Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con trong mỗi hoàn cảnh là khi con gặp một giới hạn, nếu con sẵn lòng nhìn vào chính mình và nhìn nhận những tin tưởng khiến con trải nghiệm hoàn cảnh đó như một giới hạn và sau đó buông bỏ tin tưởng đó đi, thì con sẽ vượt lên trên giới hạn đó và hoà vào niềm vui của Dòng sông sự Sống. 

15.4. Hãy thay đổi cách con nhìn quá khứ 

Thày hy vọng bằng việc trao cho con bài giảng này, thày có thể thay đổi cách con nhìn quá khứ của mình. Quá khứ không phải để trừng phạt con. Quá khứ không thật sự muốn nắm giữ con, mặc dù thày biết có nhiều khi quá khứ có vẻ như kiềm giữ con lại hay kéo con vào các khuôn nếp cũ lặp đi lặp lại nhiều lần trong một chu trình dường như vô tận. Sự thật là quá khứ của con, và các hồi ức của con đơn giản chỉ biểu lộ mong muốn của cuộc sống muốn con bước lên cao hơn. 

Bất cứ khi nào con bị kéo về quá khứ, thì con hãy xem đây – một lần nữa – như cuộc sống đang gọi điện cho con. Vì cuộc sống luôn gọi cho con chỉ với một mục đích duy nhất, đó là cho con thấy là một lần nữa con có thể vượt qua một giới hạn khác, con có thể thăng vượt nó, con có thể đơn giản buông bỏ và hoà vào Dòng sông sự Sống – và sau đó trở nên hơn nữa bằng cách thăng vượt ý niệm tự ngã cũ. 

Hoàn cảnh quá khứ cứ săn đuổi con là những hoàn cảnh trong đó con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài theo cách con chấp nhận một tin tưởng giới hạn về chính mình. Tin tưởng này vẫn nằm trong tiềm thức của con, và đó là tại sao – khi con bị kéo về các hoàn cảnh quá khứ – con trải nghiệm sự khó chịu, sự hổ thẹn, hay tội lỗi hay những tình cảm tiêu cực khác gây cho con nỗi đau cảm xúc. Nỗi đau này thậm chí có thể xem như là một lời nhắc nhở. Nó nhắc con chưa học xong bài học của mình, nó nhắc con chưa vượt qua tin tưởng giới hạn của mình. 

Thậm chí nỗi đau còn là một ơn huệ. Nếu có ai đó đang cố gọi điện cho con và cho con thông điệp có thể cứu cuộc đời con thì con có muốn họ tăng âm lượng của máy điện thoại lên nếu họ làm vậy được? Giả sử con không thể nghe thấy điện thoại, nhưng ai đó có thể bấm nút trên điện thoại của họ và bật to âm lượng để con có thể nghe được, con hãy bắt điện thoại và cứu cuộc đời mình. 

Đây là điều chính yếu mà quá khứ làm cho con khi nó nhắc nhở con – hết lần này đến lần khác – về các hoàn cảnh trong đó con đã chấp nhận vài giới hạn. Nếu thoạt tiên con không nghe máy thì cuộc sống sẽ tiếp tục gọi con với âm lượng ngày càng tăng – và do đó nỗi đau cảm xúc cũng tăng dần vì nó cố gắng cuối cùng kéo cho bằng được sự chú ý của con. Thay vì chối bỏ và phủ nhận nỗi đau, con nói: “Được rồi, tôi thấy đủ đau rồi. Tôi sẽ xem xét vấn đề này và vượt qua giới hạn để tôi có thể một lần và mãi mãi vượt qua nỗi đau đó thay vì bị nó đè nặng hết lần này đến lần khác suốt phần đời còn lại hay thậm chí trong nhiều kiếp sống.” 

Thay vì phớt lờ quá khứ hay chối bỏ quá khứ hay tìm cách khiến mình bận rộn với hiện tại hoặc tương lai đến độ không còn thì giờ chú tâm vào quá khứ, quả thực sẽ khôn ngoan hơn nhiều nếu con đơn giản nhấc máy và lắng nghe thông điệp từ quá khứ. Nếu con lắng nghe thông điệp đó, con có thể nhanh chóng nhận ra rằng hoàn cảnh trong quá khứ cứ quay đi quay lại là hoàn cảnh trong đó con chưa nhìn thấu suốt một tin tưởng giới hạn và vì vậy con chưa buông bỏ tin tưởng đó. 

15.5. Quá khứ trở thành khởi đầu 

Vì con chưa buông bỏ tin tưởng đó nên con tiếp tục giữ chặt một tin tưởng bất toàn về chính mình, hay về cuộc đời, hay về Thượng đế, hay về người khác. Thông qua uy lực của tâm, con phóng chiếu tin tưởng giới hạn đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tấm gương của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể làm gì ngoại trừ phản chiếu lại những hoàn cảnh bên ngoài của con và hoàn cảnh này phản chiếu tình trạng tâm thức của con? 

Quá khứ của con trở thành khởi đầu cho hiện tại và tương lai của con. Những tin tưởng bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ đang liên tục được tiềm thức của con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải khoác lấy hình tướng của những tin tưởng này và gửi đến cho con những hoàn cảnh và tình huống vật lý phản ánh những tin tưởng đó. 

Ánh sáng Mẫu-Vật không muốn buộc con gặp phải những hoàn cảnh khiến con đau khổ. Ánh sáng Mẫu- Vật là tấm gương vì vậy nó có thể làm gì ngoài việc phản chiếu lại những gì con đã gửi vào nó? Chính năng lực của sự sống không muốn con tiếp tục phóng chiếu cùng những hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao năng lực của sự sống đang cố giúp con thức tỉnh để con có thể thay đổi hình ảnh con giữ trong tâm – và từ đó thay đổi những gì con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Đúng vậy, con yêu dấu, cuộc sống thật sự chỉ giản dị như vậy – nếu con chịu chú ý, nếu con chịu nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp. Thật không may, thày biết vài người thật sự có nhấc điện thoại, nhưng con lại trả lời cùng một cách như khi con nghe đoạn thâu âm đang cố bán cho con một sản phẩm, quảng cáo một dịch vụ hay vận động cho một ứng cử viên chính trị. Ngay lập tức tâm con đóng cứng không nghe hoặc con cúp máy và không nghe nữa. 

Không phải quá khứ đang cố quấy rầy con bằng cách lặp lại cùng một thông điệp. Đơn giản đó chỉ là tấm gương, tấm gương vũ trụ, chỉ tiếp tục phản chiếu lại con cùng một hình ảnh mà con đang gửi ra ngoài. Không phải cuộc đời đang khiến con bực bội. Chính sự cứng ngắc của tâm con và sự không sẵn lòng nhìn vào các tin tưởng của mình để đánh giá liệu những tin tưởng này có hợp lý không và sau đó thay thế những tin tưởng không hợp lý bằng một sự hiểu biết cao hơn xuất phát từ tâm Ki-tô. 

Thày đang cố gắng thức tỉnh con khiến con thấy điều cực kỳ thiết yếu là con phải sẵn lòng nhìn vượt quá những hoàn cảnh bên ngoài trong quá khứ và đi tìm thông điệp nội tâm, bài học nội tâm con cần học từ những hoàn cảnh đó. Nếu con làm vậy một cách chân thật và cởi mở, con sẽ thấy bất cứ khi nào con gặp một hoàn cảnh khiến con đau khổ, đó là vì con đang nắm giữ một tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc sống. Nếu con thấy được những bất toàn của tin tưởng đó và đạt được sự hiểu biết cao hơn của tâm Ki-tô thì con có thể thay thế tin tưởng giới hạn này bằng nhận biết thật sự con là ai. Điều này sẽ thay đổi hình ảnh con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và chắc chắn, điều này sẽ thay đổi những gì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại con dưới dạng các hoàn cảnh bên ngoài. Những gì thày đang nói với con ở đây không phải là một giấc mơ ban ngày, một lời hứa thiếu thực tế. Những gì thày đang giải thích với con ở đây là quy luật cơ bản nhất của vũ trụ vật chất. Quy luật này Thánh Kinh có nói tới trong câu: gieo gió thì gặt bão. 

15.6. Có một cái gì khác hơn khổ đau 

Luật của Thượng đế rất giản dị. Con có quyền tự quyết làm bất kỳ điều gì con muốn. Con là người đồng sáng tạo với Thượng đế. Con ở đây để học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con để tạo ra các hoàn cảnh mà con có thể sống trong đó được, các hoàn cảnh giúp con tăng triển. Con học bằng hai cách. Một là lắng nghe hướng dẫn nội tâm, từ cái ta cao, từ Hiện diện Ta Là, từ các vị thày tâm linh. Nếu con không lắng nghe sự hướng dẫn hay nếu con không dùng tâm lý luận để tìm hướng đi cho chính mình, thì con phải học bằng cách còn lại, đó là Trường đời Cay đắng trong đó con thấy Ánh sáng Mẫu-Vật phản chiếu lại con những hoàn cảnh vật lý biểu lộ những hoàn cảnh trong tâm con. 

Luật của Thượng đế là thế này: Con có quyền tạo ra bất cứ hình tư tưởng nào mà con muốn. Con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng đó ra ngoài tâm con. Khi con làm vậy, con chắc chắn sẽ trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý biểu lộ hình tư tưởng đó. Con sẽ trải nghiệm những gì con phóng chiếu lên cuộc sống. Con sẽ trải nghiệm những gì con đồng sáng tạo qua uy lực của tâm bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Thượng đế và chính thày và tất cả các thày tâm linh chắc chắn đều ủng hộ quyền đồng sáng tạo bất cứ hoàn cảnh nào mà con muốn. Nhưng các thày muốn con hiểu nếu con đồng sáng tạo những hoàn cảnh khiến con đau khổ, thì con có chọn lựa khác thay vì tiếp tục tạo ra những hoàn cảnh tương tự. Cách duy nhất để ngừng chu trình lặp đi lặp lại dẫn đến khổ đau là thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh bên ngoài. Thày biết rõ trong lịch sử con người đã ngụy biện đủ cách để làm ra vẻ như họ không thể kiểm soát được hoàn cảnh bên ngoài. Họ cho rằng họ đã không tạo ra hoàn cảnh đó mà Thượng đế, số phận, may rủi hay người khác đã tạo ra những hoàn cảnh này. Sự thật thẳng thắn là chính con đã đồng sáng tạo những hoàn cảnh của mình vì con đã hình thành những hình tư tưởng và đã phóng chiếu những hình tư tưởng này lên Ánh Sáng Mẫu-Vật. 

Cách duy nhất – cách duy nhất tuyệt đối – có thể thay đổi những hoàn cảnh bên ngoài đó là con hãy thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh. Con có đồng ý là nếu con muốn thay đổi kết quả thì con phải thay đổi nguyên nhân tạo ra kết quả đó? Những gì thày đang nói với con chính là hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả. Nguyên nhân của kết quả này là những hình tư tưởng con giữ trong tâm. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài là thay đổi các hình tư tưởng đó!

Bằng cách nào con thay đổi những hình tư tưởng trong tâm? À, không có cách nào khác ngoại trừ nhìn những hình tư tưởng này một cách ý thức – thấy chúng dựa trên tâm thức nhị nguyên, dựa trên ảo tưởng của tâm phản Ki-tô – rồi sau đó buông bỏ chúng một cách ý thức, thay thế những ảo tưởng này bằng sự thật Ki-tô. Con hãy chú ý những gì thày đang nói. Vấn đề ở đây không phải là tìm cách nào đó để biện minh cho những tin tưởng con đã chấp nhận trong quá khứ. 

Ồ con yêu dấu, nếu con thành thật nhìn vào điều này, con sẽ thấy có nhiều người khi đối mặt với khả năng họ có một tin tưởng bất toàn, họ sẽ rơi vào phản ứng tự vệ. Phản ứng tự vệ này là một phản ứng mặc định của tự ngã vì giản dị là nó không chịu nhìn nhận là nó có thể sai. Nó rơi vào phản ứng cố gắng bảo vệ hay biện minh cho những tin tưởng của nó. 

Thày hy vọng con có thể thấy nếu con tiếp tục biện minh cho một tin tưởng trong quá khứ, con sẽ đơn giản chỉ bồi đắp cho tin tưởng đó. Con sẽ tiếp tục gửi những hình tư tưởng dựa trên tin tưởng ban đầu vào tấm gương vũ trụ. Tất nhiên, tấm gương vũ trụ có thể làm gì ngoài việc gửi trả lại con cùng một hoàn cảnh mà con đã tạo ra ngay từ đầu? Con yêu dấu, con có nhận ra nếu con tiếp tục làm cùng một việc và mong chờ những kết quả khác nhau thì con sẽ bị kẹt trong sự điên rồ cơ bản của tự ngã con người. Con phải bước ra ngoài những khuôn nếp cũ và sẵn lòng nhìn nhận rằng một số tin tưởng trong quá khứ đang giới hạn chính con. Đây không phải là lợi ích cao nhất của con khi giữ lấy các tin tưởng đó. Ngược lại, lợi ích cao nhất của con là buông bỏ chúng. 

15.7. Con hơn quá khứ của con 

Nhận biết then chốt ở đây là giáo lý nói rằng cốt lõi bản sắc của con là cái Ta Biết. Cái Ta Biết là một đốm sáng của chính Bản thể Thượng đế. Nó chắc chắn nhiều hơn quá khứ của con, hơn bất kỳ hoàn cảnh nào hay bất kỳ tin tưởng nào trong quá khứ. Cái Ta biết có quyền và khả năng mà Thượng đế đã cho con để bước ra ngoài sự đồng hoá của nó với quá khứ. Con có thể làm điều này bất cứ lúc nào, ngay cả bây giờ. 

Thày muốn con hiểu rằng có một thế lực trong thế giới này quyết tâm giữ con mắc kẹt vào sự đồng hoá với quá khứ để con nghĩ con không thể buông bỏ quá khứ. Thậm chí con sợ rằng nếu con buông bỏ quá khứ, con sẽ mất đi chính bản sắc của mình. Thế lực này bao gồm tự ngã cá nhân của con, tự ngã của người khác và toàn bộ thế lực đen tối, thế lực phản Ki-tô mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian. Ông hoàng thế gian sẽ liên tục tới gần con. Ông ta sẽ tới để thấy liệu ông ta có thể khiến con dính mắc với quá khứ để con không giản dị sẵn lòng buông bỏ quá khứ, buông bỏ những tin tưởng bất toàn bằng cách nhìn nhận rằng con hơn bất kỳ một tin tưởng bất toàn nào. 

Con có thật sự đang nghe thày nói không? Con có quyền và khả năng mà Thượng đế đã ban tặng cho con để buông bỏ bất cứ tin tưởng bất toàn nào trong quá khứ. Con làm điều này bằng cách nào? Bằng cách sẵn sàng nhìn vào các tin tưởng, nhìn nhận rằng chúng không có thật, chúng xuất phát từ tâm thức phản Ki-tô. Sau đó, con nhìn nhận rằng con hơn những tin tưởng đó. Tin tưởng đó giản dị chỉ giống như cái áo cũ sờn rách mà con đã mặc vào một lúc nào đó trong quá khứ. Con có thể cởi nó ra bất kỳ lúc nào và ném nó vào lửa, để cho nó cháy, để nó bị thiêu rụi không còn gì nữa. 

Con có thể cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ dựa trên tin tưởng đó, và ném nó vào lửa tâm linh của ngọn lửa tím và Ngọn lửa Tha thứ, và con giản dị buông bỏ nó. Ngọn lửa Tha thứ mà các thày còn gọi là ngọn lửa tím hay Ngọn lửa Từ bi, giản dị là bút tẩy vũ trụ cho phép con cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ kỹ, sờn rách mà con đã bồi đắp rồi ném nó vào lửa. Thượng đế trong con thật sự là ngọn lửa thiêu huỷ có thể thiêu trụi tất cả ý niệm tự ngã bất toàn mà con đã bồi đắp trong bất cứ kiếp sống trước nào. Con có chọn lựa khác hơn là lặp đi lặp lại mãi các khuôn nếp cũ rích này. Chọn lựa khác là con cởi chiếc áo choàng của ý niệm bản sắc bất toàn và ném nó vào ngọn lửa vui mừng của Thượng đế để nó bị thiêu rụi và con sẽ được tự do như thể bản sắc đó chưa từng tồn tại. 

15.8. Chìa khóa chính yếu để buông bỏ 

Chìa khoá chính yếu để làm điều này là gì? Chìa khoá chính yếu để buông bỏ một ý niệm tự ngã bất toàn là gì? Đó là sẵn lòng tha thứ. Để tự do khỏi quá khứ, con phải tha thứ và con phải tha thứ vô điều kiện. Tự ngã đánh lừa để con nghĩ rằng để con tha thứ được thì cần phải đáp ứng một số điều kiện. Ví dụ, nhiều người tin để tha thứ cho người đã làm tổn thương mình thì người đó trước tiên phải bị trừng phạt như thế nào đó. Chỉ khi nào người đó bị trừng phạt đủ thì con mới có thể tha thứ cho họ. Và một số người khác nghĩ rằng nếu người đó thật sự thay đổi, thì mới tha thứ cho họ. Dĩ nhiên đây là một tin tưởng giống như con dao hai lưỡi, trong đó một lưỡi dao hướng vào con và vì vậy có khả năng làm con bị thương nặng. Những gì con làm cho người khác là những gì con làm cho chính mình. Đây là lý do thày Giê-su đã nói với con hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con. Ý nghĩa sâu sắc đó là con chỉ làm cho người khác những gì con đã làm cho chính con, cả điều tốt lẫn điều xấu. 

Nếu con nghĩ người khác phải đáp ứng những điều kiện nào đó trước khi họ được tha thứ thì con cũng nghĩ con phải đáp ứng những điều kiện trước khi con có thể được tha thứ. Tự ngã của con rất giỏi đưa ra những điều kiện như vậy và đưa ra theo cách mà không ai có thể làm được, gồm cả chính con. Đó là cách tự ngã giữ con bị mắc kẹt trong chu trình không bao giờ muốn tha thứ cho người khác và không bao giờ muốn tha thứ cho chính mình. Tự ngã chủ yếu muốn con tin rằng vì con đã phạm lỗi lầm trong quá khứ, con không thể được tha thứ, con không thể chuộc lỗi, con không bao giờ vượt lên quá khứ và tự do khỏi quá khứ. 

Điều cuối cùng tự ngã muốn con nhận ra là con được Thượng đế trao cho quyền và sức mạnh bỏ đi các bất toàn trong quá khứ. Tự ngã không muốn con nhận ra con có khả năng làm điều này. Nó không muốn con biết con có thể làm điều này bằng cách mở lòng nhìn nhận các tin tưởng bất toàn đã khiến con gặp phải những hoàn cảnh vật lý gây cho con nhiều đau khổ. Con có thấy được chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ – nhưng không phải tha thứ theo cách thế phàm dựa trên những điều kiện bên ngoài. Không, chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ vô điều kiện. 

Khi con không tha thứ cho người kia, thật sự con đang nắm giữ hoàn cảnh cũ. Nghĩa là con đang nắm giữ – dù con có ý thức hay không – nỗi đau được tạo ra trong hoàn cảnh đó khi người kia làm tổn thương con. Nỗi đau kéo sự chú ý ý thức của con và kéo con vào việc nhớ lại hoàn cảnh đó. Bất cứ khi nào con nhớ về hoàn cảnh đó, con lại tăng cường tổn thương nguyên thuỷ, nỗi đau nguyên thuỷ và sự giận dữ nguyên thuỷ đối với người kia. Vì vậy, con cột chính mình với quá khứ và con thật sự củng cố quá khứ. 

Khi con không tha thứ cho người kia, con đang hại chính mình vì con đang nắm giữ những hình ảnh và cảm xúc bất toàn, và con đang phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật.  Ánh sáng Mẫu-Vật lý giải là con muốn trải nghiệm tình huống trong đó người ta làm tổn thương con. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ làm gì cho con? À, nó không có chọn lựa nào ngoài việc gửi cho con những hoàn cảnh tương lai trong đó người khác làm tổn thương con. Nó thật sự tin rằng đây là những gì con muốn trải nghiệm, dựa vào việc con đang phóng chiếu một hình tư tưởng và cảm xúc về việc người khác làm tổn thương con vào tấm gương vũ trụ. 

15.9. Không tha thứ làm tổn thương con

Cuối cùng con có hiểu là khi con không tha thứ cho người khác, con đang thật sự làm tổn thương chính mình không? Con biện minh như thế nào để không tha thứ cho người khác? Đó có phải là họ không đáp ứng các điều kiện bên ngoài mà tự ngã con đã xác định. Như thể khi người khác không đáp ứng những điều kiện đó, con không thể buông bỏ hoàn cảnh, con không thể tha thứ và vượt lên. 

Con có thấy đây cùng một tâm lý khiến con tổn thương trong hoàn cảnh ban đầu? Chuyện gì đã xảy ra trong hoàn cảnh ban đầu đó là người kia đã làm chuyện gì đó với con. Nhưng không phải những gì họ làm khiến con tổn thương. Đó là những tin tưởng bất toàn con nắm giữ về chính mình và cuộc đời đã khiến con phản ứng với hoàn cảnh theo cách làm tổn thương chính con. 

Những gì thật sự tạo ra nỗi đau trong hoàn cảnh ban đầu đó là con có một tin tưởng biến con thành nạn nhân thụ động. Con nghĩ khi người ta làm điều gì với con, con chỉ có thể đáp trả bằng cảm xúc tiêu cực khiến con đau đớn. Chính tin tưởng này biến con thành nạn nhân trong tình huống ban đầu. 

Thậm chí bây giờ con vẫn nắm giữ tin tưởng con là nạn nhân với suy nghĩ chỉ khi người khác đáp ứng các điều kiện, con mới tha thứ cho họ và buông bỏ hoàn cảnh đó. Bằng việc không tha thứ, con thật sự duy trì hoàn cảnh ban đầu. Con đang phóng chiếu những tin tưởng và cảm xúc từ hoàn cảnh đó lên tấm gương vũ trụ, rõ ràng từ đó gieo gió gặt bão. Con đã phóng chiếu một hình tư tưởng bất toàn lên tấm gương và vì vậy không thể tránh được tạo ra một chuỗi phản ứng chuyển động cuối cùng gửi trả về con các hoàn cảnh vật lý phản chiếu hình tư tưởng đó. 

Cái gì có thể phá vỡ hoàn cảnh này? Chỉ có một cách duy nhất phá vỡ nó, và đó là con nhấc điện thoại lên lắng nghe đủ lâu để nhận ra cuộc sống đang cố dạy con rằng chính những tin tưởng của con khiến con đau khổ. Chỉ bằng cách thay đổi những tin tưởng của mình, con mới phá vỡ chu trình trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý đặt con vào một tình huống – trong chính tâm con – trong đó con nghĩ tiềm năng phản ứng duy nhất của con là phản ứng như một nạn nhân và cảm thấy đau đớn. 

15.10. Con hãy lấy lại uy lực của mình để con chọn một phản ứng

Điều duy nhất có thể thay đổi phương trình đó là con thay đổi cách con nhìn phương trình, cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn chính mình. Con phải lấy lại quyền lực của con để con đáp ứng các hoàn cảnh dựa trên một chọn lựa của ngày hôm nay – bây giờ – thay vì một chọn lựa trong quá khứ. Trong quá khứ, con đã chấp nhận một tin tưởng bất toàn về chính mình. Khi con cho phép tin tưởng đó vẫn còn trong tiềm thức, con không thể lấy một chọn lựa con sẽ đáp ứng tình huống mà con sẽ trải nghiệm trong hiện tại như thế nào. Con đã chọn lựa trong quá khứ, và con chỉ có thể lập lại cùng một khuôn nếp hết lần này đến lần khác. 

Những gì có thể phá vỡ hoàn cảnh đó là con biết chuyện gì đang xảy ra, và vì vậy con quyết định quay lại nhìn tin tưởng ban đầu và loại bỏ nó vì nó không có thật. Khi con loại bỏ tin tưởng đó, và lần sau khi con trải nghiệm một tình huống tương tự, con sẽ không còn cái bị đè nặng vai con. Tâm sẽ có thể nói: “Nhưng bạn biết đấy, tôi không phải đáp ứng tình huống này bằng cảm xúc tổn thương, cảm xúc sợ hãi, cảm giác xấu hổ, chỉ trích trừng phạt chính mình và nghĩ tôi là người xấu vì người ta đối xử với tôi như thể tôi là người xấu”. 

Thay vào đó, con có thể nhận ra những gì người khác làm với con là sự phản chiếu trạng thái tâm thức của họ. Đó không phải người kia có hình ảnh bất toàn về con, mặc dù điều này có vẻ là như thế dựa trên tâm vỏ ngoài và hành động của họ. Thật sự, người đó có một hình ảnh bất toàn về chính họ, và người đó đang phóng chiếu hình ảnh đó lên con. Nhưng con không cần chấp nhận hình ảnh của người đó về con. Thượng đế ban cho con quyền sống cuộc đời của mình dựa trên những hình ảnh trong chính tâm con. Con có thể tự do chọn lựa đáp ứng với họ – khi con không chấp nhận những hình ảnh của người khác hay những tin tưởng giới hạn khác đến từ quá khứ của chính con. 

Chìa khoá để buông bỏ những hình ảnh bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ hoặc những hình ảnh bất toàn mà người khác đã chấp nhận là gì? Chìa khoá để không bị ảnh hưởng bởi những tin tưởng bất toàn của người khác hay những tin tưởng bất toàn của chính tự ngã trong quá khứ của con là gì? Đó là tha thứ – tha thứ bằng việc hoàn toàn không dính mắc với những gì họ phóng chiếu vào con hay phóng chiếu từ chính tâm thức con. Đó là chấp nhận có sức mạnh tuyệt đối để tha thứ vô điều kiện cho chính mình và người khác và giản dị để buông bỏ tất cả cảm nhận tổn thương, tất cả cảm nhận đau đớn. 

15.11. Không ngừng tha thứ

Thày biết một khi con đã bị kẹt vào vòng xoáy tổn thương và đau đớn, dường như không có lối ra. Thày thật sự đã vượt lên nhân tình thế phàm này và nhiều sinh thể thăng thiên khác cũng vậy. Thày cần nói với con hầu hết mọi người trên trái đất bị mắc kẹt trong một ảo tưởng. Sự thật được nhiều sinh thể thăng thiên chứng minh đó là con quả thật có thể vượt lên vòng xoáy đi xuống từ quá khứ. Con có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi quá khứ, không phải bằng cách kiểm soát quá khứ hay kiểm soát người khác. Con chỉ có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi cách con nhìn quá khứ để con sẵn lòng buông bỏ tin tưởng mà con đang nắm giữ đến nay. 

Không phải là việc tìm ra cây đũa thần mới có thể giải thoát con khỏi quá khứ. Cây đũa thần là nhận biết ý thức của con và việc con sẵn sàng buông bỏ, buông bỏ nỗi đau, buông bỏ tổn thương, buông bỏ tin tưởng là con cần phản ứng với hoàn cảnh một cách tiêu cực, buông bỏ hoàn toàn xu hướng nghĩ rằng con chỉ có thể phản ứng bằng những cảm xúc tiêu cực trong những hoàn cảnh nào đó. Một khi con đã thật sự bước vào tinh thần tha thứ – và cho phép tinh thần tha thứ đi vào thể thấp của con – con sẽ ở trong trạng thái tha thứ không ngừng. Con đã tha thứ cho chính mình và người khác rồi trước khi họ làm bất cứ điều gì với con. 

Khi người ta làm một điều gì với con – vì thật sự con không thể kiểm soát hành động của người khác – con đã tha thứ cho họ trước đó rồi. Khi con biết họ đã được tha thứ trước đó rồi, con cũng biết con có thể tự do khỏi các phản ứng tiêu cực cho dù người ta có làm gì với con. Con có thể theo lời khuyên uyên thâm của thày Giê-su, đó là con không chống cự cái ác, nhưng khi một người tát con má bên này, con chìa má bên kia. 

Con chỉ có thể chìa má bên kia khi con ở trong trạng thái tha thứ liên tục và vô điều kiện. Khi họ làm một điều gì với con, con không đi vào một phản ứng tiêu cực. Con an trụ trong an bình, con an trụ trong yêu thương, con an trụ trong tha thứ. Con giản dị chìa má bên kia để con có thể cho họ cơ hội nhìn thấy những điều xấu, những bất toàn trong họ. 

15.12. Giúp người khác nhận ra ảo tưởng của họ  

Chuyện gì xảy ra khi một người làm tổn thương con và con phản ứng một cách tiêu cực và tìm cách làm tổn thương lại? Con có công nhận tin tưởng của người kia về con là một người xấu không? Đó có phải chính là tin tưởng trong hầu hết trường hợp khiến họ làm tổn thương con lúc đầu, có nghĩa là họ tin con đã làm điều gì sai và con đáng bị trừng phạt hoặc bị tổn thương? 

Khi con cho phép mình bị tổn thương và phản ứng lại bằng cách cố gây tổn thương cho họ hoặc bảo vệ mình, thì con chỉ củng cố tin tưởng của họ. Con không chỉ củng cố tin tưởng trong tâm của người kia, mà còn củng cố nó trong tâm con. Sau cùng, chỉ vì con có những tin tưởng bất toàn về chính mình nên con cho phép những hành động của họ gây tổn thương con. 

Khi con chìa má bên kia, con phá vỡ vòng xoáy. Khi một người gây tổn thương con, con đáp trả bằng tình thương, con thách thức tin tưởng của họ về con là một người xấu hay con đáng bị trừng phạt. Con cho người kia thấy con là người có thể đáp trả bằng tình thương. Vì vậy, họ buộc phải xem lại hành động của mình và hình ảnh của họ về con. Điều này thường giúp họ bước ra ngoài ảo tưởng của họ để họ thấy họ bị kẹt trong những tin tưởng bất toàn về chính họ và về cuộc đời. Họ nhận được một cơ hội vượt qua những tin tưởng đó. 

Đúng vậy, con yêu dấu, thày biết rõ có người khi con chìa má bên kia, họ sẽ lại làm tổn thương con. Nhưng con thấy đấy khi con chìa má bên kia cùng với tình thương và tha thứ hoàn toàn – tha thứ vô điều kiện – và người kia vẫn làm tổn thương con, thì hành động làm tổn thương con lần thứ nhì sẽ trở thành sự phán xét người đó. Sự phán xét này sẽ tạo ra một phản ứng từ chính cuộc sống khiến người đó trải nghiệm nghiệp quả quay trở lại nhanh hơn từ những gì người đó gửi vào tấm gương vũ trụ. Nghiệp quả quay trở lại này hoặc khiến người đó thức tỉnh hoặc sẽ khiến người đó sau cùng bị phán xét tới điểm họ sẽ không được phép đầu thai trên trái đất cho đến khi họ thay đổi tâm thức. 

Những gì Giê-su thật sự nói đó là nếu người ta làm theo lời khuyên của thày chìa má bên kia và không cưỡng lại cái ác, thì họ cho phép luật của Thượng đế thực thi đầy đủ. Bằng cách làm điều này, luật của Thượng đế sẽ có thể tăng tốc rút cái ác ra khỏi trái đất. Khi con cho phép người khác làm tổn thương con lúc con chìa má bên kia, thì Thượng đế có thể nhập cuộc và rút người đó ra khỏi trái đất. Nhờ đó, con nhanh chóng tới được tình trạng hầu hết những người xấu ác – những người ích kỷ nhất, vị kỷ nhất, duy ngã nhất – sẽ bị rút ra khỏi trái đất. Vì vậy, nhân loại như một tổng thể sẽ đơn giản vượt lên một tầng cao hơn và vượt qua trạng thái tâm thức mà ngày nay con thấy biểu lộ nhiều lần trong một vòng xoáy dường như vô tận làm tổn thương nhau và tìm cách trả thù những tổn thương đó – do đó điều này lại tạo ra một tổn thương mới khiến người kia có lý do tìm cách trả thù. 

15.13. Phá vỡ vòng xoáy trả thù 

Điều này đã tiếp diễn hết lần này đến lần khác trên hành tinh này, đặt biệt ở Trung đông nơi vòng xoáy trả thù và trả thù để trả thù cứ tiếp diễn. Vòng xoáy đi xuống này chỉ được phá vỡ khi người ta quyết định họ đã thấy đủ. Họ sẽ không tiếp diễn chu trình này, và vì vậy họ sẽ làm một điều hoàn toàn khác thay vì đáp trả nỗi đau bằng nỗi đau, sự trả thù và khao khát trừng phạt. Họ sẽ đáp trả bằng tình thương và sự tha thứ vô điều kiện. 

À con yêu dấu, con có thấy bằng cách làm vậy, con sẽ giải phóng mình khỏi các ràng buộc với người đã làm tổn thương con? Khi con nghĩ đến điều này, có ý nghĩa gì không khi một người làm tổn thương con và con lại muốn ràng buộc mình với họ? Nếu con không phải là người thích thú đau thương – thày tin phần lớn các con không phải là kiểu người này – thì tại sao con muốn quay lại và mời họ làm tổn thương con lần nữa? Nếu họ làm tổn thương con, thì đáp trả hợp lý là con đơn giản muốn giải thoát mình khỏi người đó và không bao giờ muốn gặp lại họ. Nếu con đi vào chu trình bị tổn thương và muốn người kia bị trừng phạt, thì con đã trói mình với họ. 

Mong muốn trừng phạt người khác có nghĩa là con chỉ sẵn sàng buông bỏ khi con thấy họ bị trừng phạt. Con tự động trói mình với họ cho đến khi con cảm thấy họ nhận đủ trừng phạt, và việc này có thể không xảy ra trong kiếp này hay thậm chí nhiều kiếp nữa. Điều này cũng giống như cách những người Trung đông đã tạo nên dây trói lẫn nhau để rồi các linh hồn này cứ tiếp tục đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác. Thày đã nói với con trước đây là tôn giáo hay chủng tộc vỏ ngoài không quan trọng, vì người ta sẽ chuyển đổi vị trí để nhiều người kiếp trước là người Đức đã từng gây ra cuộc diệt chủng người Do thái hoặc kiếp trước là người Ả rập đã ngược đãi người Do thái thì kiếp này đầu thai làm người Do thái. Nhiều người Ả rập bây giờ có tiền kiếp là người Do thái. 

Những người này đã không sẵn lòng tha thứ vô điều kiện vì vậy họ đã khiến chính mình cứ lặp đi lặp lại chu trình này. Quả thật có một tâm thức rộng khắp trong thế giới Ả rập tin rằng họ không thể tha thứ cho người Do thái. Có một tâm thức trong cộng đồng người Do thái tin rằng họ không thể tha thứ cho người Ả rập hay người Đức hay các tín đồ Cơ đốc giáo. Khi một người sinh trưởng trong một nền văn hoá nào đó, người này gặp phải một thách thức phải vượt lên trên tin tưởng văn hoá của họ và phải tha thứ vô điều kiện, tha thứ bất kể tin tưởng văn hoá nào. Họ phải nhận ra mình hơn cái tin tưởng văn hoá đó, hơn chủng tộc đó, hơn tôn giáo đó, hơn các liên kết chính trị, hơn các liên kết quốc gia hay hơn bất cứ nhãn hiệu vỏ ngoài nào. Khi con tha thứ bất chấp các nhãn hiệu vỏ ngoài, con cũng giải phóng mình khỏi các nhãn hiệu này. Đó là cách con nâng cao và thăng vượt chính mình để lại hoà vào Dòng sông sự Sống, nhờ đó con trải nghiệm niềm vui vô bờ bến của sự tự thăng vượt liên tục. 

15.14. Dụng cụ Mẹ Mary trao để con vượt qua quá khứ 

Con yêu dấu, thày có thể tiếp tục bài giảng này bất tận bằng cách cho thêm nhiều ví dụ cho thấy con người đã làm tổn thương chính họ như thế nào bằng việc không tha thứ. Nhưng nếu những gì thày nói vẫn chưa đủ để khiến con suy nghĩ đến việc nhìn lại quá khứ theo một cách nhìn khác thì thày nói thêm nữa để làm gì? 

Thày sẽ quay lại phần mở đầu và nói: “Bài giảng này là một cuộc gọi từ Mẹ Vũ trụ. Con hãy nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp của Mẹ”. Nếu con cảm thấy con chưa hiểu đầy đủ thông điệp của thày bằng cách đọc và nghe một lần thì thày muốn con nghe lại lần nữa. Thày sẵn lòng lập lại thông điệp nhiều lần cho đến khi con hiểu ý thày. 

Con hãy thử tìm đến thày. Hãy yêu cầu thày hướng dẫn nội tâm cho con. Hãy yêu cầu thày cho con thấy thông điệp đằng sau những tình huống bên ngoài mà con gặp phải. Hãy yêu cầu thày và thày sẽ chỉ cho con – nếu con chịu nhấc điện thoại lên và lắng nghe. Thày chúc con được an lành và thày chúc con một mùa Giáng sinh hạnh phúc. 

Con yêu dấu, Tinh thần Giáng sinh phải chăng chính là Tinh thần Tha Thứ, là Tánh linh đã thức tỉnh con người để họ có thể tái sinh, để lần nữa khởi đầu cuộc sống mới, khởi đầu một ngày mới? Cuộc đời của Ki-tô, sự giáng sinh của Ki-tô phải chăng là một cuộc gọi điện thoại khác của cuộc sống tìm cách thức tỉnh loài người là họ có thể vượt lên quá khứ và vươn lên một ngày mới trong vương quốc của Thượng đế? Thầy niêm con trong Ngọn lửa Tha thứ Vô điều kiện. Khi con tha thứ vô điều kiện, niềm vui sẽ đong đầy. 

15 | Tha thứ vô điều kiện và niềm vui

Bài truyền đọc của Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 26 tháng 11 năm 2006.

15.1. Động lực thăng tiến cơ bản của cuộc sống 

Con yêu dấu, nếu chuông điện thoại của con reo, con có nhấc máy lên nghe không? Khi con nhấc máy lên, con có nghe đủ lâu để ít nhất nhận biết rằng liệu người ở đầu dây bên kia có cho con biết một thông tin quan trọng hay họ đơn giản chỉ đang cố bán cho con một món hàng. Nếu con thật sự nhận ra người gọi cho con một thông điệp thì con có hết sức lắng nghe thông điệp đó và hiểu nó nói gì không? Chắc chắn rằng, con sẽ dành cho cuộc điện thoại và người gọi đến một sự tôn trọng nào đó. Vì vậy, thày muốn hỏi con: “Tại sao con không dành cho chính cuộc sống sự tôn trọng như vậy?”

À con yêu dấu, con sẽ trả lời con chắc chắn tôn trọng cuộc sống, nhưng thày cũng xin hỏi con điều này có thật không. Con thấy đấy, bản thân cuộc sống cũng như một cái điện thoại. Mọi hoàn cảnh con gặp cũng giống như các cuộc gọi từ chính cuộc sống. Nhưng, có quá nhiều hoàn cảnh trong đời mà con không nhấc điện thoại lên để nghe xem hoàn cảnh đó có phải là một thông điệp quan trọng cho con không, một thông điệp có thể giúp con thăng vượt chính mình – hay thăng vượt giới hạn nào đó – để con có thể tự do và trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống. 

15.2. Tại sao con cứ gặp đi gặp lại cùng một vấn đề 

Hầu hết mọi người bị bịt mắt khi sống trong đời. Họ ngái ngủ, nửa tỉnh nửa mê với những gì đang diễn ra. Họ không nhận ra cuộc sống là một chuỗi những hoàn cảnh liên tục và mỗi hoàn cảnh đều mang một thông điệp giúp họ lên cao hơn và vượt qua những tin tưởng sai lầm, những nhận thức sai lầm đang giới hạn họ và giới hạn khả năng biểu hiện sự sống qua họ. Rất nhiều người trong các con gặp phải các hoàn cảnh xảy ra nhiều lần trong đời. Con thường gào lên: “Tại sao việc này cứ xảy đến với tôi? Tại sao Thượng đế cứ làm điều này với tôi? Tại sao người khác cứ làm điều này với tôi? Tại sao số phận hay may rủi cứ xảy đến với tôi?” Nhưng con lại không dành thời gian quay lại và nói: “Tại sao tôi làm điều này với chính mình?”

Mỗi một hoàn cảnh trong đời giống như một cuộc gọi điện thoại, và cuộc gọi đó gói ghém một thông điệp. Nhưng con thường không màng nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp đó. Thậm chí những người nhấc điện thoại lên – những người quả thật cho rằng có lẽ họ cần học một điều gì đó từ những hoàn cảnh này – cũng thường không thật sự lắng nghe thông điệp đằng sau cuộc gọi. Họ không thật sự lắng nghe bằng tai nội tâm để cố gắng hiểu thông điệp, cố gắng hiểu cái mà họ không thể thấy bằng tâm vỏ ngoài. 

Họ lắng nghe thông điệp, họ đánh giá với tâm vỏ ngoài. Vì vậy, họ không thấy thông điệp, họ không nghe thông điệp, vì tâm vỏ ngoài không thấu hiểu được thông điệp đó. Nếu tâm vỏ ngoài của con đã hiểu được thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con, thì tại sao cuộc sống cứ phải mất công gọi điện cho con bằng cách khiến con cứ phải trải nghiệm nhiều lần cùng một hoàn cảnh? 

15.3. Cuộc đời không trừng phạt con 

Một nhận thức hoàn toàn sai lầm của tâm thức con người và tự ngã là cuộc đời đang cố trừng phạt con. Thày có thể bảo đảm với con là chính cuộc sống – và cuộc sống do Thượng đế tạo ra, vì vậy chính Thượng đế – cũng không mong muốn trừng phạt con. Đây là quy luật tuyệt đối: một khi con đã học xong bài học mà con cần học từ một hoàn cảnh cụ thể thì con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó nữa. 

Khi con cứ gặp phải cùng một hoàn cảnh nhiều lần, đó là bởi vì con chưa học xong bài học. Đó là lý do vì sao cuộc sống cứ gọi và cho con nhiều lần cùng một hoàn cảnh để con có thêm các cơ hội – và thêm thêm nữa – học xong bài học. 

Con yêu dấu, thay vì cằn nhằn, thay vì than vãn tại sao chuyện này cứ xảy ra với con hết lần này đến lần khác, thày đề nghị con làm một việc đơn giản: Hãy nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con. Sau đó hãy học bài học. Hãy giải quyết những tin tưởng mà con cần giải quyết để con bước lên cao hơn. Thày có thể đảm bảo với con – như thể bằng phép thuật – con sẽ không gặp phải hoàn cảnh đó lần nữa. 

Cuộc sống không quá phức tạp. Cuộc sống thật sự rất rất đơn giản. Thông điệp bên dưới mỗi hoàn cảnh con gặp phải trong cuộc đời giản dị là: “Vũ trụ vật chất là một tấm gương”. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lấy những hình tướng tương ứng với những gì có trong tâm thức con. Chính trạng thái tâm thức của con đã phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật không làm được gì khác ngoài việc phản chiếu lại hình ảnh đó cho con – cả hình ảnh trong tâm ý thức và hình ảnh ở những lớp tiềm thức của tâm con, của các thể tình cảm, lý trí và bản sắc.

Cuộc sống rất đơn giản. Chính cuộc sống là nguyên lý của sự tăng triển – của sự trở nên hơn nữa, của sự tự thăng vượt. Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con là con có thể trở nên hơn nữa. Bằng cách thấy các giới hạn, thấy các tin tưởng giới hạn của mình – về chính mình, về thế giới và về Thượng đế – con có thể vượt thăng giới hạn đó và lên cao hơn, trở nên hơn nữa trong Dòng sông sự Sống luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế. 

Rất nhiều người đã tự hỏi ý nghĩa của cuộc sống, mục đích của cuộc sống, bí mật của cuộc sống là gì. Rất nhiều người đã đi tìm hòn đá hóa kim thần diệu (philosopher’s stone), cây đũa thần, con đường tắt sẽ khiến họ đột ngột có được trạng thái hỷ lạc, hay một trạng thái họ nghĩ họ cần để được hạnh phúc. Nhưng con yêu dấu, bí mật của cuộc sống lại rất giản dị – đó là sự tự thăng vượt. Điều này không có nghĩa là con cần đạt được một trạng thái toàn hảo xa vời vượt quá tầm với của con. Chỉ đơn giản là mỗi lúc con thăng vượt chính mình, con đang trôi theo Dòng sông sự Sống. Con có tiềm năng trải nghiệm niềm vui, sự hỷ lạc, và đây thật sự Dòng sông sự Sống. 

Thông điệp mà cuộc sống đang cố trao cho con trong mỗi hoàn cảnh là khi con gặp một giới hạn, nếu con sẵn lòng nhìn vào chính mình và nhìn nhận những tin tưởng khiến con trải nghiệm hoàn cảnh đó như một giới hạn và sau đó buông bỏ tin tưởng đó đi, thì con sẽ vượt lên trên ý niệm bị giới hạn và thay vào đó hoà vào niềm hỷ lạc của Dòng sông sự Sống. 

15.4. Hãy thay đổi cách con nhìn quá khứ 

Thày hy vọng bằng việc trao cho con bài giảng này, thày có thể thay đổi cách con nhìn quá khứ của mình. Quá khứ không phải để trừng phạt con. Quá khứ không thật sự muốn nắm giữ con, mặc dù thày biết có nhiều khi quá khứ có vẻ như kiềm giữ con lại hay kéo con vào các khuôn nếp cũ lặp đi lặp lại nhiều lần trong một chu trình dường như vô tận. Sự thật là quá khứ của con, và các hồi ức của con về quá khứ đơn giản chỉ biểu lộ mong muốn của cuộc sống muốn con bước lên cao hơn. 

Bất cứ khi nào con bị kéo về quá khứ, thì con hãy xem đây – một lần nữa – như cuộc sống đang gọi điện cho con. Vì cuộc sống luôn gọi cho con chỉ với một mục đích duy nhất, đó là cho con thấy là một lần nữa con có thể vượt qua một giới hạn khác, con có thể vượt lên trên nó, con có thể đơn giản buông bỏ nó và hoà vào Dòng sông sự Sống – và sau đó trở nên hơn nữa bằng cách thăng vượt ý niệm bản ngã cũ. 

Hoàn cảnh quá khứ cứ săn đuổi con là những hoàn cảnh trong đó con phản ứng lại hoàn cảnh bên ngoài theo cách con chấp nhận một tin tưởng giới hạn về chính mình. Tin tưởng này vẫn nằm trong tiềm thức của con, và đó là tại sao – khi con bị kéo về các hoàn cảnh quá khứ – con trải nghiệm sự khó chịu, sự hổ thẹn, hay tội lỗi hay những tình cảm tiêu cực khác gây cho con nỗi đau cảm xúc.

Thậm chí nỗi đau còn là một lời nhắc nhở. Đó là lời nhắc nhở con chưa học xong bài học, con chưa khắc phục tin tưởng đang giới hạn con. Thậm chí nỗi đau còn là một ơn huệ. Nếu có ai đó đang cố gọi điện cho con và trao cho con một thông điệp có thể cứu cuộc đời con thì con có muốn họ tăng âm lượng của máy điện thoại lên nếu họ làm vậy được? Hãy hình dung con không thể nghe thấy điện thoại, nhưng ai đó có thể bấm nút trên điện thoại của họ và bật to âm lượng để con có thể nghe được, thì con hãy bắt điện thoại và cứu cuộc đời mình. 

Đây là điều chính yếu mà quá khứ làm cho con khi nó nhắc nhở con – hết lần này đến lần khác – về các hoàn cảnh trong đó con đã chấp nhận vài giới hạn. Nếu thoạt tiên con không nghe máy thì cuộc sống sẽ tiếp tục gọi con với âm lượng ngày càng tăng – và do đó nỗi đau cảm xúc cũng tăng dần vì nó cố gắng rốt cuộc kéo cho bằng được sự chú ý của con. Thay vì chối bỏ và phủ nhận nỗi đau, con nói: “Được rồi, tôi thấy đau đủ rồi. Tôi sẽ xem xét vấn đề này và vượt qua giới hạn để tôi có thể chỉ một lần và mãi mãi vượt qua nỗi đau đó thay vì bị nó đè nặng hết lần này đến lần khác suốt phần đời còn lại hay thậm chí trong nhiều kiếp sống.” 

Thay vì phớt lờ quá khứ hay chối bỏ quá khứ hay tìm cách khiến mình bận rộn với hiện tại hoặc tương lai đến độ không còn thì giờ chú tâm vào quá khứ, quả thực sẽ khôn ngoan hơn nhiều nếu con đơn giản nhấc máy và lắng nghe thông điệp từ quá khứ. Nếu con lắng nghe thông điệp đó, con có thể nhanh chóng nhận ra rằng hoàn cảnh trong quá khứ cứ quay đi quay lại là hoàn cảnh trong đó con chưa nhìn thấu suốt một tin tưởng giới hạn và vì vậy con chưa buông bỏ tin tưởng đó. 

15.5. Quá khứ trở thành khởi đầu 

Vì con chưa buông bỏ tin tưởng đó nên con tiếp tục giữ chặt một tin tưởng bất toàn về chính mình, hay về cuộc đời, hay về Thượng đế, hay về người khác. Thông qua uy lực của tâm, con phóng chiếu tin tưởng giới hạn đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tấm gương của Ánh sáng Mẫu-Vật có thể làm gì ngoại trừ phản chiếu lại những hoàn cảnh bên ngoài của con và hoàn cảnh này phản chiếu tình trạng tâm thức của con? 

Quá khứ của con trở thành khởi đầu cho hiện tại và tương lai của con. Những tin tưởng bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ đang liên tục được tâm tiềm thức của con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải khoác lấy hình tướng của những tin tưởng này và gửi đến cho con những hoàn cảnh và tình huống vật lý phản ánh những tin tưởng đó. 

Ánh sáng Mẫu-Vật không muốn buộc con phải gặp những hoàn cảnh khiến con đau khổ. Ánh sáng Mẫu-Vật là tấm gương vì vậy nó có thể làm gì ngoài việc phản chiếu lại những gì con đã gửi vào nó? Chính năng lực của sự sống không muốn con tiếp tục phóng chiếu cùng những hình ảnh bất toàn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Đó là lý do tại sao năng lực của sự sống đang cố giúp con thức tỉnh chính mình để con có thể thay đổi các hình ảnh con giữ trong tâm – và từ đó thay đổi những gì con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Đúng vậy, con yêu dấu, cuộc sống thật sự chỉ giản dị như vậy – nếu con chịu chú ý, nếu con chịu nhấc điện thoại và lắng nghe thông điệp. Thật không may, thày biết vài người thật sự có nhấc điện thoại, nhưng con lại trả lời cùng một cách như khi con nghe đoạn thâu âm đang cố bán cho con một món hàng, quảng cáo một dịch vụ hay vận động cho một ứng cử viên chính trị. Ngay lập tức tâm con đóng cứng không nghe hoặc con cúp máy và không nghe nữa. 

Không phải quá khứ đang cố quấy rầy con bằng cách lặp lại cùng một thông điệp. Đơn giản đó chỉ là tấm gương, tấm gương vũ trụ, chỉ tiếp tục phản chiếu lại con cùng một hình ảnh mà con đang gửi ra ngoài. Không phải cuộc đời đang khiến con bực bội. Chính sự cứng ngắc của tâm con và sự không sẵn lòng nhìn vào các tin tưởng của mình để đánh giá liệu những tin tưởng này có hợp lý không và sau đó thay thế những tin tưởng không hợp lý bằng một sự hiểu biết cao hơn xuất phát từ tâm Ki-tô. 

Thày đang cố gắng thức tỉnh con khiến con thấy điều cực kỳ thiết yếu là con phải sẵn lòng nhìn vượt quá những hoàn cảnh bên ngoài trong quá khứ và đi tìm thông điệp nội tâm, bài học nội tâm con cần học từ những hoàn cảnh đó. Nếu con làm vậy một cách chân thật và cởi mở, con sẽ thấy bất cứ khi nào con gặp một hoàn cảnh khiến con đau khổ, đó là vì con đang nắm giữ một tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc sống. Nếu con thấy được những bất toàn của tin tưởng đó và đạt được sự hiểu biết cao hơn của tâm Ki-tô thì con có thể thay thế tin tưởng giới hạn này bằng nhận biết thật sự con là ai. Điều này sẽ thay đổi hình ảnh con đang phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và chắc chắn, điều này sẽ thay đổi những gì tấm gương vũ trụ phản chiếu lại cho con dưới dạng các hoàn cảnh bên ngoài. Điều thày đang nói với con ở đây không phải là một giấc mơ ban ngày, một lời hứa thiếu thực tế. Điều thày đang giải thích với con ở đây là quy luật cơ bản nhất của vũ trụ vật chất. Quy luật này Thánh Kinh có nói tới trong câu: gieo gió thì gặt bão. 

15.6. Có một cái gì khác hơn khổ đau 

Luật của Thượng đế rất giản dị. Con có quyền tự quyết làm bất kỳ điều gì con muốn. Con là người đồng sáng tạo với Thượng đế. Con ở đây để học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con để tạo ra các hoàn cảnh mà con có thể sống trong đó được, các hoàn cảnh giúp con tăng triển. Con học bằng hai cách. Một là lắng nghe hướng dẫn nội tâm, từ cái ta cao, từ Hiện diện Ta Là, từ các vị thày tâm linh. Nếu con không lắng nghe sự hướng dẫn hay nếu con không dùng tâm lý luận để tìm hướng đi cho chính mình, thì con phải học bằng cách còn lại, đó là Trường đời Cay đắng trong đó con thấy Ánh sáng Mẫu-Vật phản chiếu lại con những hoàn cảnh vật lý biểu lộ những hoàn cảnh trong tâm con. 

Luật của Thượng đế là thế này: Con có quyền tạo ra bất cứ hình tư tưởng nào mà con muốn. Con có quyền phóng chiếu hình tư tưởng đó ra ngoài tâm con. Khi con làm vậy, con chắc chắn sẽ trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý biểu lộ hình tư tưởng đó. Con sẽ trải nghiệm những gì con phóng chiếu lên cuộc sống. Con sẽ trải nghiệm những gì con đồng sáng tạo qua uy lực của tâm bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. 

Thượng đế và chính thày và tất cả các thày tâm linh chắc chắn đều ủng hộ quyền đồng sáng tạo bất cứ hoàn cảnh nào mà con muốn. Nhưng các thày muốn con hiểu nếu con đồng sáng tạo những hoàn cảnh khiến con đau khổ, thì con có chọn lựa khác thay vì tiếp tục tạo ra những hoàn cảnh tương tự. Cách duy nhất để ngừng chu trình lặp đi lặp lại dẫn đến khổ đau là thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh bên ngoài. Thày biết rõ trong lịch sử con người đã ngụy biện đủ cách để làm ra vẻ như họ không thể kiểm soát được hoàn cảnh bên ngoài. Họ cho rằng họ đã không tạo ra hoàn cảnh đó mà Thượng đế, số phận, may rủi hay người khác đã tạo ra những hoàn cảnh này. Sự thật thẳng thắn là chính con đã đồng sáng tạo những hoàn cảnh của mình vì con đã hình thành những hình tư tưởng và đã phóng chiếu những hình tư tưởng này lên Ánh Sáng Mẫu-Vật. 

Cách duy nhất – cách duy nhất tuyệt đối – có thể thay đổi những hoàn cảnh bên ngoài đó là con hãy thay đổi nguyên nhân của hoàn cảnh. Con có đồng ý là nếu con muốn thay đổi kết quả thì con phải thay đổi nguyên nhân tạo ra kết quả đó? Những gì thày đang nói với con chính là hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả. Nguyên nhân của kết quả này là những hình tư tưởng con giữ trong tâm. Cách duy nhất để thay đổi hoàn cảnh bên ngoài là thay đổi các hình tư tưởng đó.

Bằng cách nào con thay đổi những hình tư tưởng trong tâm? À, không có cách nào khác ngoại trừ nhìn những hình tư tưởng này một cách ý thức – thấy chúng dựa trên tâm thức nhị nguyên, dựa trên ảo tưởng của tâm phản Ki-tô – rồi sau đó buông bỏ chúng một cách ý thức, thay thế những ảo tưởng này bằng sự thật Ki-tô. Con hãy chú ý những gì thày đang nói. Vấn đề ở đây không phải là tìm cách nào đó để biện minh cho những tin tưởng con đã chấp nhận trong quá khứ.

Ồ con yêu dấu, nếu con thành thật nhìn vào điều này, con sẽ thấy có nhiều người khi đối mặt với khả năng họ có một tin tưởng bất toàn, họ sẽ rơi vào phản ứng tự vệ. Phản ứng tự vệ này là một phản ứng mặc định của tự ngã vì giản dị là nó không chịu nhìn nhận là nó có thể sai. Nó rơi vào phản ứng cố gắng bảo vệ hay biện minh cho những tin tưởng của nó. 

Thày hy vọng con có thể thấy nếu con tiếp tục biện minh cho một tin tưởng trong quá khứ, con sẽ đơn giản chỉ bồi đắp cho tin tưởng đó. Con sẽ tiếp tục gửi những hình tư tưởng dựa trên tin tưởng ban đầu vào tấm gương vũ trụ. Tất nhiên, tấm gương vũ trụ có thể làm gì ngoài việc gửi trả lại con cùng một hoàn cảnh mà con đã tạo ra ngay từ đầu? Con yêu dấu, con có nhận ra nếu con tiếp tục làm cùng một việc và mong chờ những kết quả khác nhau thì con sẽ bị kẹt trong sự điên rồ cơ bản của tự ngã con người. Con phải bước ra ngoài những khuôn nếp cũ và sẵn lòng nhìn nhận rằng một số tin tưởng trong quá khứ đang giới hạn chính con. Đây không phải là lợi ích cao nhất của con khi giữ lấy các tin tưởng đó. Ngược lại, lợi ích cao nhất của con giản dị là buông bỏ chúng. 

15.7. Con hơn quá khứ của con 

Nhận biết then chốt ở đây là giáo lý nói rằng cốt lõi bản sắc của con là cái Ta Biết. Cái Ta Biết là một đốm sáng của chính Bản thể Thượng đế. Nó  nhiều hơn vô tận quá khứ của con, hơn bất kỳ hoàn cảnh nào hay bất kỳ tin tưởng nào trong quá khứ. Cái Ta Biết có quyền và khả năng mà Thượng đế đã cho con để bước ra ngoài sự đồng hoá của nó với quá khứ. Con có thể làm điều này bất cứ lúc nào, ngay cả bây giờ. 

Thày muốn con nhìn nhận rằng có một thế lực trong thế giới này quyết tâm giữ con mắc kẹt vào sự đồng hoá với quá khứ để con nghĩ con không thể buông bỏ quá khứ. Thậm chí con sợ rằng nếu con buông bỏ quá khứ, con sẽ mất đi chính bản sắc của mình. Thế lực này bao gồm tự ngã cá nhân của con, tự ngã của người khác và toàn bộ thế lực đen tối, thế lực phản Ki-tô mà Giê-su gọi là ông hoàng thế gian. Ông hoàng thế gian sẽ liên tục tới gần con. Ông ta sẽ tới để thấy liệu ông ta có thể khiến con dính mắc với quá khứ để con không giản dị sẵn lòng buông bỏ quá khứ, buông bỏ những tin tưởng bất toàn bằng cách nhìn nhận rằng con hơn bất kỳ một tin tưởng bất toàn nào. 

Con có thật sự đang nghe thày nói không? Con có quyền và khả năng mà Thượng đế đã ban tặng cho con để buông bỏ bất cứ tin tưởng bất toàn nào trong quá khứ. Con làm điều này bằng cách nào? Bằng cách sẵn sàng nhìn vào các tin tưởng, nhìn nhận rằng chúng không có thật, chúng xuất phát từ tâm thức phản Ki-tô. Sau đó, con nhìn nhận rằng con hơn những tin tưởng đó. Tin tưởng đó giản dị chỉ giống như cái áo choàng cũ sờn rách mà con đã mặc vào một lúc nào đó trong quá khứ. Con có thể cởi nó ra bất kỳ lúc nào và ném nó vào lửa, để cho nó cháy, để nó bị thiêu rụi không còn gì nữa. 

Con có thể cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ dựa trên tin tưởng đó, và ném nó vào lửa tâm linh của ngọn lửa tím và Ngọn lửa Tha thứ, và con giản dị buông bỏ nó. Ngọn lửa Tha thứ mà các thày còn gọi là ngọn lửa tím hay Ngọn lửa Từ bi, giản dị là bút tẩy vũ trụ cho phép con cởi bỏ ý niệm bản sắc cũ kỹ, sờn rách mà con đã bồi đắp rồi ném nó vào lửa. Thượng đế trong con thật sự là ngọn lửa thiêu huỷ có thể thiêu trụi tất cả ý niệm tự ngã bất toàn mà con đã bồi đắp trong bất cứ kiếp sống trước nào. Con có chọn lựa khác hơn là lặp đi lặp lại mãi các khuôn nếp cũ rích này. Chọn lựa khác là con cởi chiếc áo choàng của ý niệm bản sắc bất toàn và ném nó vào ngọn lửa vui mừng của Thượng đế để nó bị thiêu rụi và con sẽ được tự do như thể bản sắc đó chưa từng hiện hữu. 

15.8. Chìa khóa chính yếu để buông bỏ 

Chìa khoá chính yếu để làm điều này là gì? Chìa khoá chính yếu để buông bỏ một ý niệm bản sắc bất toàn là gì? Đó là sẵn lòng tha thứ. Để tự do khỏi quá khứ, con phải tha thứ và con phải tha thứ vô điều kiện. Tự ngã đánh lừa để con nghĩ rằng để con tha thứ được thì cần phải đáp ứng một số điều kiện. Ví dụ, nhiều người tin rằng để tha thứ cho người đã làm tổn thương mình thì người đó trước tiên phải bị trừng phạt như thế nào đó. Chỉ khi nào người đó bị trừng phạt đủ thì con mới có thể tha thứ cho họ. Và một số người khác nghĩ rằng nếu người đó thật sự thay đổi, thì mới tha thứ được họ. Dĩ nhiên đây là một tin tưởng giống như con dao hai lưỡi, trong đó một lưỡi dao hướng vào con và vì vậy có khả năng làm con bị thương nặng. Những gì con làm cho người khác là những gì con làm cho chính mình. Đây là lý do thày Giê-su đã nói với con hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con. Ý nghĩa sâu sắc hơn đó là con chỉ có thể làm cho người khác những gì con đã làm cho chính mình rồi, kể cả điều tốt lẫn điều xấu.

Nếu con nghĩ người khác phải đáp ứng những điều kiện nào đó trước khi họ có thể được tha thứ thì con cũng nghĩ con phải đáp ứng những điều kiện nào đó trước khi con có thể được tha thứ. Tự ngã của con rất giỏi đưa ra những điều kiện như vậy và đưa ra theo cách mà không ai có thể làm được, gồm cả chính con. Đó là cách tự ngã giữ con bị mắc kẹt trong chu trình không bao giờ muốn tha thứ cho người khác và không bao giờ muốn tha thứ cho chính mình. Tự ngã chủ yếu muốn con tin rằng vì con đã phạm lỗi lầm trong quá khứ, con không thể được tha thứ, con không thể chuộc lỗi, con không bao giờ vượt lên quá khứ và tự do khỏi quá khứ. 

Điều cuối cùng tự ngã muốn con nhận ra là con được Thượng đế trao cho quyền và sức mạnh bỏ đi các bất toàn trong quá khứ. Tự ngã không muốn con nhận ra con có khả năng làm điều này. Nó không muốn con biết con có thể làm điều này bằng cách mở lòng nhìn nhận các tin tưởng bất toàn đã khiến con gặp phải những hoàn cảnh vật lý gây cho con nhiều đau khổ. Con có thấy được chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ – nhưng không phải tha thứ theo cách thế phàm dựa trên những điều kiện bên ngoài. Không, chìa khoá chính yếu để vượt lên quá khứ là tha thứ vô điều kiện. 

Khi con không tha thứ cho người kia, thì thật sự con đang nắm giữ hoàn cảnh cũ. Nghĩa là con đang nắm giữ – dù con có ý thức hay không – nỗi đau được tạo ra trong hoàn cảnh đó khi người kia làm tổn thương con. Nỗi đau kéo sự chú ý ý thức của con và kéo con vào việc nhớ lại hoàn cảnh đó. Bất cứ khi nào con nhớ về hoàn cảnh đó, con lại tăng cường tổn thương nguyên thuỷ, nỗi đau nguyên thuỷ và sự giận dữ nguyên thuỷ đối với người kia. Vì vậy, con cột chính mình với quá khứ và con thật sự củng cố quá khứ. 

Khi con không tha thứ cho người kia, con đang làm hại chính mình vì con đang nắm giữ những hình ảnh và cảm xúc bất toàn, và con đang phóng chiếu chúng lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật phải lý giải là con muốn trải nghiệm tình huống trong đó người ta làm tổn thương con. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ làm gì cho con? À, nó không có chọn lựa nào ngoài việc gửi cho con những hoàn cảnh tương lai trong đó người khác làm tổn thương con. Nó thật sự tin rằng đây là những gì con muốn trải nghiệm, dựa vào việc con đang phóng chiếu một hình tư tưởng và cảm xúc về việc người khác làm tổn thương con vào tấm gương vũ trụ. 

15.9. Không tha thứ làm tổn thương con

Cuối cùng con có hiểu là khi con không tha thứ cho người khác, con đang thật sự làm tổn thương chính mình không? Con biện minh như thế nào để không tha thứ cho người khác? Đó có phải là họ không đáp ứng các điều kiện bên ngoài mà tự ngã con đã xác định. Như thể khi người khác không đáp ứng những điều kiện đó, con không thể buông bỏ hoàn cảnh, con không thể tha thứ và vượt lên. 

Con có thấy đây chính là cùng một tâm lý khiến con tổn thương trong hoàn cảnh ban đầu? Chuyện gì đã xảy ra trong hoàn cảnh ban đầu, đó là người kia đã làm chuyện gì đó với con. Nhưng không phải những gì họ làm khiến con tổn thương. Đó là những tin tưởng bất toàn con nắm giữ về chính mình và cuộc đời đã khiến con phản ứng với hoàn cảnh theo cách làm tổn thương chính con. 

Điều thật sự tạo ra nỗi đau trong hoàn cảnh ban đầu đó là con có một tin tưởng biến con thành nạn nhân thụ động. Con nghĩ khi người ta làm điều gì với con, con chỉ có thể đáp trả bằng cảm xúc tiêu cực khiến con đau đớn. Chính tin tưởng này biến con thành nạn nhân trong tình huống ban đầu. 

Thậm chí bây giờ con vẫn nắm giữ tin tưởng con là nạn nhân với suy nghĩ chỉ khi người khác đáp ứng các điều kiện, con mới tha thứ cho họ và buông bỏ hoàn cảnh đó. Bằng việc không tha thứ, con thật sự duy trì hoàn cảnh ban đầu. Con đang phóng chiếu những tin tưởng và cảm xúc từ hoàn cảnh đó lên tấm gương vũ trụ, chắc chắn từ đó gieo gió gặt bão. Con đã phóng chiếu một hình tư tưởng bất toàn lên tấm gương và vì vậy không thể tránh được tạo ra một chuỗi phản ứng chuyển động cuối cùng gửi trả về con các hoàn cảnh vật lý phản chiếu hình tư tưởng đó. 

Cái gì có thể phá vỡ hoàn cảnh này? Chỉ có một cách duy nhất phá vỡ nó, đó là con nhấc điện thoại lên lắng nghe đủ lâu để nhận ra cuộc sống đang cố dạy con rằng chính những tin tưởng của con khiến con đau khổ. Chỉ bằng cách thay đổi những tin tưởng của mình, con mới phá vỡ chu trình trải nghiệm những hoàn cảnh vật lý đặt con vào một tình huống – trong chính tâm con – trong đó con nghĩ khả năng phản ứng duy nhất của con là phản ứng như một nạn nhân và cảm thấy đau đớn. 

15.10. Con hãy lấy lại uy lực của mình để con chọn một phản ứng

Điều duy nhất có thể thay đổi phương trình đó là con thay đổi cách con nhìn phương trình, cách con nhìn cuộc sống, cách con nhìn chính mình. Con phải lấy lại uy lực của mình để đáp ứng các hoàn cảnh dựa trên một chọn lựa của ngày hôm nay – bây giờ – thay vì một chọn lựa trong quá khứ. Trong quá khứ, con đã chấp nhận một tin tưởng bất toàn về chính mình. Khi con cho phép tin tưởng đó vẫn nằm trong tiềm thức của con, thì con không thể lấy một chọn lựa là con sẽ đáp ứng tình huống con trải nghiệm trong hiện tại như thế nào. Con đã chọn lựa trong quá khứ, và con chỉ có thể lặp lại cùng một khuôn nếp hết lần này đến lần khác. 

Điều có thể phá vỡ hoàn cảnh đó là con biết chuyện gì đang xảy ra, và vì vậy con quyết định quay lại nhìn tin tưởng ban đầu và loại bỏ nó vì nó không có thật. Khi con loại bỏ tin tưởng đó, và lần sau khi con trải nghiệm một tình huống tương tự thì con sẽ không còn gánh nặng trì kéo con. Tâm con sẽ có thể nói: “Nhưng bạn biết đấy, tôi không cần phải phản ứng với tình huống này bằng cảm xúc tổn thương, cảm xúc sợ hãi, cảm giác xấu hổ, chỉ trích trừng phạt chính mình và nghĩ tôi là người xấu vì người ta đối xử với tôi như thể tôi là người xấu”. 

Thay vào đó, con có thể nhận ra những gì người khác làm với con là sự phản chiếu trạng thái tâm thức của họ. Đó không phải là người kia có hình ảnh bất toàn về con, mặc dù điều này có vẻ là như thế dựa trên tâm vỏ ngoài và hành động của họ. Thật sự, người đó có một hình ảnh bất toàn về chính họ, và người đó đang phóng chiếu hình ảnh đó lên con. Nhưng con không phải chấp nhận hình ảnh mà họ áp đặt lên con. Thượng đế ban cho con quyền sống cuộc đời của mình dựa trên những hình ảnh trong chính tâm con. Con có thể tự do chọn lựa đáp ứng với họ – khi con không chấp nhận những hình ảnh của người khác hay những tin tưởng giới hạn khác đến từ quá khứ của chính con. 

Chìa khoá để buông bỏ những hình ảnh bất toàn mà con đã chấp nhận trong quá khứ hoặc những hình ảnh bất toàn mà người khác đã chấp nhận là gì? Chìa khoá để không bị ảnh hưởng bởi những tin tưởng bất toàn của người khác hay những tin tưởng bất toàn của chính tự ngã trong quá khứ của con là gì? Đó là tha thứ – tha thứ bằng việc hoàn toàn không dính mắc với những gì họ phóng chiếu vào con hay phóng chiếu từ chính tâm thức con. Đó là chấp nhận có sức mạnh tuyệt đối để tha thứ vô điều kiện cho chính mình và người khác và giản dị để buông bỏ tất cả cảm nhận tổn thương, tất cả cảm nhận đau đớn. 

15.11. Không ngừng tha thứ

Thày biết một khi con đã bị kẹt vào vòng xoáy tổn thương và đau đớn, thì dường như không có lối ra. Thày thật sự đã vượt lên nhân tình thế phàm này và nhiều sinh thể thăng thiên khác cũng vậy. Thày cần nói với con hầu hết mọi người trên trái đất bị mắc kẹt trong một ảo tưởng. Sự thật được nhiều sinh thể thăng thiên chứng minh đó là con quả thật có thể vượt lên vòng xoáy hướng hạ từ quá khứ. Con có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi quá khứ, không phải bằng cách kiểm soát quá khứ hay kiểm soát người khác. Con chỉ có thể làm vậy bằng cách chuyển đổi cách con nhìn quá khứ để con sẵn lòng buông bỏ tin tưởng mà con đang nắm giữ đến nay. 

Không phải là việc tìm ra cây đũa thần mới có thể giải thoát con khỏi quá khứ. Cây đũa thần là nhận biết ý thức của con và việc con sẵn sàng buông bỏ, buông bỏ nỗi đau, buông bỏ tổn thương, buông bỏ tin tưởng là con cần phản ứng với hoàn cảnh một cách tiêu cực, buông bỏ hoàn toàn xu hướng nghĩ rằng con chỉ có thể phản ứng bằng những cảm xúc tiêu cực trong những hoàn cảnh nào đó. Một khi con đã thật sự bước vào tinh thần tha thứ – và cho phép tinh thần tha thứ đi vào thể thấp của con – con sẽ ở trong trạng thái tha thứ không ngừng. Con đã tha thứ cho chính mình và người khác rồi trước khi họ làm bất cứ điều gì với con. 

Khi người ta làm một điều gì với con – vì thật sự con không thể kiểm soát hành động của người khác – thì con đã tha thứ cho họ trước đó rồi. Khi con biết họ đã được tha thứ trước đó rồi, con cũng biết con có thể tự do khỏi các phản ứng tiêu cực cho dù người ta có làm gì với con. Con có thể theo lời khuyên uyên thâm của thày Giê-su, đó là con không chống cự cái ác, nhưng khi một người tát con má bên này, con chìa má bên kia. 

Con chỉ có thể chìa má bên kia khi con ở trong trạng thái tha thứ liên tục và vô điều kiện. Khi họ làm một điều gì với con, con không đi vào một phản ứng tiêu cực. Con an trụ trong an bình, con an trụ trong yêu thương, con an trụ trong tha thứ. Con giản dị chìa má bên kia để con có thể cho họ cơ hội khác nhìn thấy những điều xấu, những bất toàn trong họ. 

15.12. Giúp người khác nhận ra ảo tưởng của họ  

Chuyện gì xảy ra khi một người làm tổn thương con và con phản ứng một cách tiêu cực và tìm cách làm tổn thương lại? Con có công nhận tin tưởng của người kia về con là một người xấu không? Đó có phải chính là tin tưởng trong hầu hết trường hợp khiến họ làm tổn thương con lúc đầu, có nghĩa là họ tin con đã làm điều gì sai và con đáng bị trừng phạt hoặc bị tổn thương? 

Khi con cho phép mình bị tổn thương và phản ứng lại bằng cách cố gây tổn thương cho họ hoặc bảo vệ mình, thì con chỉ củng cố tin tưởng của họ. Con không chỉ củng cố tin tưởng trong tâm của người kia, mà còn củng cố nó trong tâm con. Sau cùng, chỉ vì con có những tin tưởng bất toàn về chính mình nên con cho phép những hành động của họ gây tổn thương con. 

Khi con chìa má bên kia, con phá vỡ vòng xoáy. Khi một người gây tổn thương con, con đáp trả bằng tình thương, con thách thức tin tưởng của họ về con là một người xấu hay con đáng bị trừng phạt. Con cho người kia thấy con là người có thể đáp trả bằng tình thương. Vì vậy, họ buộc phải xem lại hành động của mình và hình ảnh của họ về con. Điều này thường giúp họ bước ra ngoài ảo tưởng để họ thấy mình bị kẹt trong những tin tưởng bất toàn về chính mình và về cuộc đời. Họ nhận được một cơ hội vượt qua những tin tưởng đó. 

Đúng vậy, con yêu dấu, thày biết rõ có người khi con chìa má bên kia, họ sẽ lại làm tổn thương con. Nhưng con thấy đấy khi con chìa má bên kia cùng với tình thương và tha thứ hoàn toàn – tha thứ vô điều kiện – và người kia vẫn làm tổn thương con, thì hành động làm tổn thương con lần thứ nhì sẽ trở thành sự phán xét người đó. Sự phán xét này sẽ tạo ra một phản ứng từ chính cuộc sống khiến họ trải nghiệm nghiệp quả quay trở lại nhanh hơn từ những gì họ gửi vào tấm gương vũ trụ. Nghiệp quả quay trở lại này hoặc khiến người đó thức tỉnh hoặc sẽ khiến người đó sau cùng bị phán xét tới điểm họ sẽ không được phép đầu thai trên trái đất cho đến khi họ thay đổi tâm thức. 

Những gì Giê-su thật sự nói đó là nếu người ta làm theo lời khuyên của thày chìa má bên kia và không cưỡng lại cái ác, thì họ cho phép luật của Thượng đế thực thi đầy đủ. Bằng cách làm điều này, luật của Thượng đế sẽ có thể tăng tốc rút cái ác ra khỏi trái đất. Khi con cho phép người khác làm tổn thương con lúc con chìa má bên kia, thì Thượng đế có thể nhập cuộc và rút người đó ra khỏi trái đất. Nhờ đó, con nhanh chóng tới được tình trạng hầu hết những người xấu ác – những người ích kỷ nhất, vị kỷ nhất, duy ngã nhất – sẽ bị rút ra khỏi trái đất. Vì vậy, nhân loại như một tổng thể sẽ đơn giản vượt lên một tầng cao hơn và vượt qua trạng thái tâm thức mà ngày nay con thấy biểu lộ nhiều lần trong một vòng xoáy dường như vô tận làm tổn thương nhau và tìm cách trả thù những tổn thương đó – do đó điều này lại tạo ra một tổn thương mới khiến người kia có lý do tìm cách trả thù. 

15.13. Phá vỡ chu trình trả thù 

Điều này đã tiếp diễn hết lần này đến lần khác trên hành tinh này, đặt biệt ở Trung đông nơi chu trình trả thù và trả thù để trả thù cứ tiếp diễn. Vòng xoáy hướng hạ này chỉ được phá vỡ khi người ta quyết định họ đã thấy đủ. Họ sẽ không tiếp diễn chu trình này, và vì vậy họ sẽ làm một điều hoàn toàn khác thay vì đáp trả nỗi đau bằng nỗi đau, sự trả thù và khao khát trừng phạt. Họ sẽ đáp trả bằng tình thương và sự tha thứ vô điều kiện. 

Ấy con yêu dấu, con có thấy bằng cách làm vậy, con sẽ giải phóng mình khỏi các ràng buộc với người đã làm tổn thương con không? Khi con nghĩ đến điều này, có ý nghĩa gì không khi một người làm tổn thương con và con lại muốn ràng buộc mình với họ? Nếu con không phải là người thích thú đau thương – thày tin phần lớn các con không phải là kiểu người này – thì tại sao con muốn quay lại và mời họ làm tổn thương con lần nữa? Nếu họ làm tổn thương con, thì đáp trả hợp lý là con đơn giản muốn giải thoát mình khỏi người đó và không bao giờ muốn gặp lại họ. Nếu con đi vào chu trình bị tổn thương và muốn người kia bị trừng phạt, thì con đã trói mình với họ. 

Mong muốn trừng phạt người khác có nghĩa là con chỉ sẵn sàng buông bỏ khi con thấy họ bị trừng phạt. Con tự động trói mình với họ cho đến khi con cảm thấy họ nhận đủ sự trừng phạt, và việc này có thể không xảy ra trong kiếp này hay thậm chí nhiều kiếp nữa. Điều này cũng giống như cách những người Trung đông đã tạo nên dây trói lẫn nhau để rồi các linh hồn này cứ tiếp tục đầu thai hết kiếp này sang kiếp khác. Thày đã nói với con trước đây là tôn giáo hay chủng tộc vỏ ngoài không quan trọng, vì người ta sẽ chuyển đổi vị trí để nhiều người kiếp trước là người Đức đã từng gây ra cuộc diệt chủng người Do thái hoặc kiếp trước là người Ả rập đã ngược đãi người Do thái thì kiếp này đầu thai làm người Do thái. Nhiều người Ả rập bây giờ có tiền kiếp là người Do thái. 

Những người này đã không sẵn lòng tha thứ vô điều kiện vì vậy họ đã khiến chính mình cứ lặp đi lặp lại chu trình này. Quả thật có một tâm thức rộng khắp trong thế giới Ả rập tin rằng họ không thể tha thứ người Do thái. Có một tâm thức trong cộng đồng người Do thái tin rằng họ không thể tha thứ người Ả rập hay người Đức hay các tín đồ Cơ đốc giáo. Khi một người sinh trưởng trong một nền văn hoá nào đó, người này gặp phải một thách thức phải vượt lên trên tin tưởng văn hoá của họ và phải tha thứ vô điều kiện, tha thứ bất kể tin tưởng văn hoá nào. Họ phải nhận ra mình hơn cái tin tưởng văn hoá đó, hơn chủng tộc đó, hơn tôn giáo đó, hơn các liên kết chính trị, hơn các liên kết quốc gia hay hơn bất cứ nhãn hiệu vỏ ngoài nào. Khi con tha thứ bất chấp các nhãn hiệu vỏ ngoài, con cũng giải phóng mình khỏi các nhãn hiệu này. Đó là cách con nâng cao và thăng vượt chính mình để lại hoà vào Dòng sông sự Sống, nhờ đó con trải nghiệm niềm vui vô bờ bến của sự tự thăng vượt liên tục. 

15.14. Dụng cụ Mẹ Mary trao để con vượt qua quá khứ 

Con yêu dấu, thày có thể tiếp tục bài giảng này bất tận bằng cách cho thêm nhiều ví dụ cho thấy con người đã làm tổn thương chính họ như thế nào bằng việc không tha thứ. Nhưng nếu những gì thày nói vẫn chưa đủ để khiến con suy nghĩ đến việc nhìn lại quá khứ theo một cách nhìn khác thì thày nói thêm nữa để làm gì? 

Thày sẽ quay lại phần mở đầu và nói: “Bài giảng này là một cú điện thoại từ Mẹ Vũ trụ. Con hãy nhấc điện thoại lên để nghe thông điệp của Mẹ!”. Nếu con cảm thấy con chưa hiểu đầy đủ thông điệp của thày bằng cách đọc và nghe một lần thì thày muốn con nghe lại lần nữa. Thày sẵn lòng lặp lại thông điệp nhiều lần cho đến khi con hiểu ý thày. 

Con hãy thử làm chuyện gì khác thường. Hãy yêu cầu thày hướng dẫn nội tâm cho con. Hãy yêu cầu thày cho con thấy thông điệp đằng sau những tình huống bên ngoài mà con gặp phải. Hãy yêu cầu thày và thày sẽ chỉ cho con – nếu con chịu nhấc điện thoại lên và lắng nghe. Thày chúc con được an lành và thày chúc con một mùa Giáng sinh hạnh phúc. 

Con yêu dấu, Tinh thần Giáng sinh phải chăng chính là Tinh thần Tha Thứ, là Tánh linh đã thức tỉnh con người để họ có thể tái sinh, để lần nữa khởi đầu cuộc sống mới, khởi đầu một ngày mới? Cuộc đời của Ki-tô, sự giáng sinh của Ki-tô phải chăng là một cú điện thoại khác của cuộc sống tìm cách thức tỉnh loài người là họ có thể vượt lên quá khứ và vươn lên một ngày mới trong vương quốc của Thượng đế? Thầy niêm con trong Ngọn lửa Tha thứ Vô điều kiện. Khi con tha thứ vô điều kiện, niềm vui sẽ đong đầy. 

3 | Hãy giải thoát con khỏi hình ảnh thiếu thốn

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 5/4/2005.

Bây giờ thì chúng ta đã thấy là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế một hành tinh có thể cho con người một cuộc sống dồi dào. Chúng ta cũng đã thấy tình trạng dồi dào này hiện nay không được thể hiện trên trái đất. Chúng ta đã tới được kết luận là cách giải thích hợp lý duy nhất sự kiện mà ta quan sát là có điều gì đó đã xảy ra trong xã hội con người ngăn cản sự thị hiện của ý muốn Thượng đế là cho tất cả các con của ngài được cuộc sống sung túc. Hầu hiểu được điều này, con cần có hiểu biết rộng hơn mình là ai và mục đích con được sinh ra là gì trước khi được gửi tới một hành tinh nhỏ như hạt bụi nằm trong một vũ trụ vô tận. Con là ai và tại sao con có mặt trên trái đất?

3.1. Hai khía cạnh của Thượng đế

Hầu trả lời các câu hỏi này, thày phải vượt lên trên những điều được giảng dạy bởi hai nền tôn giáo ngự trị xã hội Tây phương, là Cơ đốc giáo chính thống và khoa học duy vật. Cả hai hệ thống niềm tin này đều khẳng định họ nắm chân lý tối hậu về sự hiện hữu của Thượng đế và nguồn gốc vũ trụ. Nếu con chọn tin một trong hai lời khẳng định này thì thày không thể dạy con chìa khóa của đời sống dồi dào. Các chìa khóa cốt yếu không thể tìm được trong khuôn khổ của cả hai hệ thống niềm tin này. Con có thể thắc mắc tại sao thế và câu trả lời là nếu Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật có thể cho con người chìa khóa của đời sống dồi dào thì chắc hẳn đời sống dồi dào này đã được thị hiện trên trái đất từ lâu rồi. Chỉ những ai sẵn sàng nhìn quá các hộp tư duy tạo ra bởi hai hệ thống niềm tin này mới tìm thấy những chìa khóa thực giúp con người kế thừa sự dồi dào của vương quốc Đấng Cha.

Để cho con chìa khóa kế tiếp, chúng ta cần bước lùi khỏi hiện trạng trên trái đất. Thật ra, chúng ta cần bước ra ngoài toàn bộ vũ trụ vật chất này. Giê-su nói nhà của Cha ta có nhiều căn, và như thày đã nói trước kia, vũ trụ của Thượng đế  có nhiều chiều kích, nhiều tầng cấp. Đây là điều mà tín đồ các tôn giáo thường gọi là thiên đàng hay cõi tâm linh. Thiên đàng có khá nhiều tầng và vì hiện nay khoa học biết rằng tất cả đều là năng lượng nên chúng ta hiểu được dễ dàng các tầng này khác nhau ra sao. Các khoa học gia biết rằng vũ trụ vật chất không được cấu tạo bằng hai yếu tố vật chất và năng lượng như giác quan của chúng ta bảo chúng ta. Quả thực, vũ trụ vật chất không được tạo ra từ vật chất; nó được tạo ra từ năng lượng vì vật chất giản dị là một dạng năng lượng. Tầm quan trọng của sự kiện này là toàn bộ vũ trụ vật chất được tạo ra từ cùng một chất đã tạo ra cõi tâm linh hay thiên đàng. Các nhà khoa học gọi chất này là năng lượng nhưng Thánh kinh gọi nó là ánh sáng. Kinh Sáng thế Ký (Genesis) nói cho con sự sáng tạo vũ trụ bắt đầu như thế nào. Nó bắt đầu với mệnh lệnh của Thượng đế khi ngài nói: “Ánh sáng hãy có mặt!” (Genesis 1:3). Bởi vì Thượng đế toàn năng nên ánh sáng mặt.

Tại sao Thượng đế bắt đầu tiến trình sáng tạo với sự sáng tạo ánh sáng? Ánh sáng hay năng lượng là một chất không có hình tướng nhưng có tiềm năng khoác vào bất kỳ hình tướng nào. Ngay cả khoa học cũng đồng ý điểm này. Lý thuyết khoa học hiện hành, đặc biệt là phương trình nổi tiếng của Einstein E=mc2 nói rằng vật chất đơn giản là năng lượng đã khoác lên một hình tướng trông thấy được. Năng lượng được xem là một dạng rung động và khoa học đã phát hiện nhiều loại năng lượng có thể đặt trên một thang đo từ tần số thấp lên cao. Ta có thể lý luận dễ dàng rằng các dạng năng lượng thô hơn mang vào hình tướng của vật chất, chúng rung động ở các tần số thấp hơn các năng lượng tinh tế hơn như quang tuyến X (có thể thâm nhập vật chất “rắn đặc”) hay ngay cả năng lượng tinh tế hơn nữa như tư tưởng. Những quan sát khoa học này đưa tới kết luận là vũ trụ được tạo ra từ năng lượng vô hình, tinh tế hơn và cơ bản hơn khi năng lượng này được hạ độ rung cho tới khi nó mang vào hình tướng của năng lượng vật lý và chất vật lý. Hiện nay các khoa học gia chưa giải thích được điều này xảy ra như thế nào nhưng sẽ không bao lâu nữa họ sẽ khám phá một cách giải thích khoa học.

Sự khác biệt giữa thiên đàng và cõi phàm là một sự khác biệt về rung động. Hành tinh trái đất và toàn bộ vũ trụ vật chất được tạo ra từ một chất cơ bản có khả năng mang vào vô hạn hình dạng, hình tướng và đặc tính khác nhau. Năng lượng hay ánh sáng này có thể có nhiều tầng rung động khác nhau nên con có thể thiết lập một thang đo rung động đi từ chậm lên nhanh, từ dày đặc lên tinh khiết hơn. Khi con đi từ rung động thấp lên cao, cuối cùng thì con sẽ tới điểm có một lằn ranh vô hình. Khi con vượt lằn ranh này, con rời vũ trụ vật chất đi vào cõi tâm linh. Khi con tiếp tục đi từ cõi tâm linh thấp lên các tầng rung động cao hơn và cao hơn nữa, con tới những tầng cao hơn của cõi tâm linh. Nếu con đi tiếp tới rung động cao nhất có thể có được trong toàn thế giới hình tướng, con đạt tới ánh sáng tinh khiết của Thượng đế và vượt quá nó là chính đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo này là một Sinh thể có ý thức đã khởi sự tiến trình sáng tạo mà con là một phần trong đó. Đấng Sáng tạo không phải là khía cạnh duy nhất hay tối hậu của đấng mà con người gọi là Thượng đế. Nếu con thật sự bước lui khỏi thế giới hình tướng – thế giới đã được sáng tạo qua sự nhào nắn ánh sáng thành hình tướng, nhào nắn ánh sáng vô hình tướng thành hình tướng – thì con có thể bắt đầu quán Bản thể thật của Thượng đế. Có những tôn giáo trong thế giới này nói rằng Thượng đế, trong nghĩa tối hậu, không thể biết tới được. Có những tôn giáo mô tả Thượng đế tối hậu như “cái trống không” vì nó không mang hình tướng hay tính chất nào mà ta có thể mô tả bằng bất kỳ hình ảnh hay ngôn từ nào tìm thấy trong vũ trụ này. Con ghi nhận lời răn đầu tiên trong mười điều răn là: “Con không được có thần nào khác trước ta” (Exodus 20:3). Nghĩa thật là con không bao giờ có thể lấy một hình tướng nào đó, một hình tượng khô chết nào đó và xác nhận rằng hình tượng đó tượng trưng trọn vẹn Thượng đế. Theo nghĩa tối hậu, Thượng đế vượt quá thế giới hình tướng do Thượng đế tạo ra – đấng Sáng tạo vượt quá tạo vật của ngài. Như Giê-su đã nói: “Người đầy tớ không lớn hơn Chủ mình” (John 13:16). Con không thể dùng từ ngữ và hình ảnh của thế gian này và phóng chiếu chúng lên Thượng đế tối hậu và tuyên bố rằng giờ đây con đã mô tả Thượng đế một cách chính xác và đầy đủ. Đây là sự thờ phượng thần tượng, và như chúng ta sẽ thấy sau này, đây là một trong những vấn đề lớn ngăn cản không cho đời sống dồi dào được thị hiện trên trái đất. Nhưng mở rộng tâm và chiêm nghiệm Bản thể của Thượng đế vẫn là điều quan trọng.

Điều chúng ta có thể nói dựa trên những bàn luận trước, là Thượng đế phải có hai khía cạnh. Trong nghĩa tối hậu Thượng đế là tất cả những gì là: “Không có Ngài, chẳng vật chi được tạo ra mà đã được tạo ra” (John 1:3), nghĩa là trước khi bất cứ gì được tạo ra, chỉ có Thượng đế hiện hữu. Thượng đế này phải là một Sinh thể viên mãn và tự đủ. Thượng đế không có nhu cầu sáng tạo một vũ trụ. Nếu Thượng đế là cái Tất cả, tại sao Thượng đế cần sáng tạo một vũ trụ trong đó có những sinh thể có ý thức có thể biết được sự hiện hữu của Thượng đế? Thượng đế theo nghĩa tối hậu không có nhu cầu được con người biết tới hay thờ phượng, vì Thượng đế là cái Tất cả cho nên ngài viên mãn và hoàn toàn tự đủ. Vì sự kiện giản dị là con hiện hữu và sống trong thế giới có hình tướng – và do đó khác với cái Tất cả trong đó không có hình tướng – chúng ta có thể thấy Thượng đế tối hậu, tự đầy đủ và vô hình tướng không thể là khía cạnh duy nhất của Thượng đế. Phải có một khía cạnh khác mà thày gọi là đấng Sáng tạo. Đây là khía cạnh của Thượng đế muốn sáng tạo, muốn là nhiều hơn cái trống không vô hình tướng. Đây là khía cạnh của Thượng đế đã sáng tạo vũ trụ mà con đang sống trong đó.

3.2. Con có khả năng sáng tạo đời sống dồi dào

Thượng đế này đã sáng tạo vũ trụ như thế nào? Đấng Sáng tạo sáng tạo mọi thứ từ chính Bản thể của ngài, bởi vì đâu có gì khác ngoài Thượng đế để sáng tạo từ đó. Đấng Sáng tạo khác với Thượng đế vô hình tướng ở điểm Thượng đế vô hình tướng không thay đổi trong khi đấng Sáng tạo tăng triển không ngừng, mở rộng không ngừng, tự thăng vượt không ngừng. Khi Moses hỏi tên Thượng đế, thì câu trả lời là: “YOD HE VAW HE,” thường được dịch ra là: “TA LÀ CÁI TA LÀ (Exodus 3:14). Thật ra, như nhiều nhà học giả về Kinh thánh biết, lời dịch chính xác hơn là: “TA SẼ LÀ CÁI TA SẼ LÀ.” Cách dịch này nắm bắt được sự kiện Thượng đế giữ đúng chính lời răn của ngài. Ngài không thật sự cho Moses một cái tên bởi vì ngài không muốn con người dùng ngay cả một danh xưng để tạo ra một hình ảnh khô chết, một hình ảnh đứng yên về Thượng đế. Thay vào đó, vị Thượng đế trên núi truyền tải sự kiện Thượng đế luôn luôn thay đổi, cho nên Thượng đế sẽ là cái mà ngài sẽ là mỗi lúc. Nếu con muốn biết Thượng đế, thì con không thể bám chặt vào bất kỳ hình ảnh nào, con phải tuôn chảy với sự tự thăng vượt của Thượng đế, con phải nhập vào Dòng sông sự Sống là cái Tất cả của Bản thể của Thượng đế, bao gồm cả thế giới trong đó con sống, nhưng không chỉ giới hạn trong đó.

Trong Bản thể Thuần khiết của Thượng đế, trong Thượng đế vô hình tướng, không có thay đổi. Làm sao có thay đổi trong cái vô hình tướng? Làm sao có sự tiến triển trong cái tự nó đầy đủ trong chính nó? Trong khía cạnh Sáng tạo của Thượng đế, có sự chuyển động không ngừng vì khía cạnh này của Thượng đế hiện hữu với mục đích sáng tạo và trở nên hơn nữa. Đấng Sáng tạo là gì? Là một Sinh thể tự nhận biết có ba khả năng. Khả năng đầu là tự nhận biết, là khả năng biết mình hiện hữu. Khả năng thứ nhì là tưởng tượng, là khả năng tưởng tượng một hình tướng chưa được thị hiện trong bất kỳ vũ trụ nào. Nếu không có khả năng tưởng tượng trong đấng Sáng tạo, làm sao Thượng đế sáng tạo được điều gì mới? Khả năng thứ ba mà đấng Sáng tạo vui hưởng là khả năng chọn lựa. Khi đấng Sáng tạo sáng tạo vũ trụ mà con sống trong đó, ngài phải chọn lựa. Con nhìn thế giới trong đó con đang sống và con coi biết bao nhiêu thứ là đương nhiên. Tại sao bầu trời màu xanh mà không phải một màu nào khác? Tại sao trái đất tròn mà không phải một hình dạng nào khác? Các nhà khoa học của con liên tục khám phá những ví dụ cho thấy vũ trụ được thiết kế thật tinh xảo và tinh tế. Nếu những lực giữ hạt nhân của hạt nguyên tử có cường độ khác đi chút xíu, thì hạt nguyên tử không giữ chặt được và vật chất sẽ không hiện hữu. Nếu trọng lực khác đi chút xíu, các hành tinh và mặt trời sẽ không thể ở trong quỹ đạo của chúng được. Tại sao tất cả mọi thứ như chúng là? Bởi vì khi Thượng đế thiết kế vũ trụ này, đấng Sáng tạo của con đã lấy một số chọn lựa.

Một trong những chọn lựa của đấng Sáng tạo của con là ngài không muốn sáng tạo toàn bộ vũ trụ này một mình. Đấng Sáng tạo của con quyết định sáng tạo những sinh thể tự nhận biết là nối dài của chính ngài và phú cho các sinh thể này quyền năng sáng tạo, là tự nhận biết, tưởng tượng và tự quyết. Đó là lý do tại sao Thánh kinh nói rằng Thượng đế sáng tạo con người theo hình ảnh của ngài và giống ngài. Thượng đế sáng tạo một số sinh thể tự nhận biết và các sinh thể này được thiết kế như là những nối dài của đấng Sáng tạo. Họ được thiết kế để du hành vào thế giới do chính đấng Sáng tạo khởi sự tạo ra và phục vụ như những người đồng-sáng tạo có khả năng xây dựng trên nền tảng do đấng Sáng tạo đặt ra. Ta có thể nói đấng Sáng tạo sáng tạo từ bên ngoài và các sinh thể đồng-sáng tạo sáng tạo từ bên trong. Con có thể lý luận tại sao đấng Sáng tạo làm như vậy và có nhiều lý do chính đáng. Sự thật cơ bản là sự hiện hữu của con chứng minh là đấng Sáng tạo đã lấy chọn lựa đó. Thượng đế đã chọn sáng tạo con như là một sinh thể tự nhận biết. Con có thể biết con hiện hữu, con có trí tưởng tượng cho phép con hỏi những câu hỏi như mình là ai, mình từ đâu tới và tại sao mình ở đây.

Những câu hỏi này chứng minh con không đơn giản là sản phẩm của một trò chơi may rủi hay một tiến trình tiến hóa vô tri. Chính sự kiện con có thể hỏi những câu hỏi này chứng minh con là hậu duệ của một sinh thể có tự nhận biết. Đó là lý do tại sao con có khả năng tưởng tượng điều mà giác quan không cảm nhận được. Con cũng có khả năng hình thành một khái niệm hay một thiết kế trong tâm và sau đó dùng thân vật lý để xây dựng một căn nhà thể hiện toàn hảo tâm ý của con. Con có khả năng chọn lựa thiết kế nhà mình ra sao. Các khả năng này đều không tìm thấy nơi loài thú mặc dù các khoa học gia cho rằng con tiến hóa từ loài thú. Đó là lý do tại sao con có giá trị hơn loài chim và tại sao Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ hoàn toàn có khả năng cho con cuộc sống dồi dào chính là ước muốn thật của Thượng đế. Vì Thượng đế đã cho con trí tưởng tượng và ý chí tự do, vì Thượng đế đã thiết kế con là người đồng-sáng tạo với ngài, nên cuộc sống dồi dào giản dị không thể do một nguồn ngoại lai trao cho con được. Con phải dùng trí tưởng tượng và ý chí tự do của con để thị hiện cuộc sống dồi dào trong phạm vi ảnh hưởng của con. Con phải lấy quyết định ngự trị “trái đất”, có nghĩa là chính tâm của con và cõi vật chất.

Thượng đế đã sáng tạo một vũ trụ có thể cho con cuộc sống dồi dào, nhưng ngài đã không sáng tạo một vũ trụ sẽ tự động cho con cuộc sống dồi dào đó. Thượng đế đã không sáng tạo con như một rô bốt vô tri mà là một sinh thể có tự nhận biết với khả năng biết mình là ai, mình từ đâu tới và mình có tiềm năng đi tới đâu. Trong các bài sau thày sẽ giải thích chính xác con có tiềm năng đi tới đâu, nhưng bây giờ chỉ cần nói con có tiềm năng quyết định thị hiện cuộc sống dồi dào hay thị hiện cuộc sống giới hạn, thiếu thốn và đau khổ. Con có khả năng chọn lựa và con có khả năng tưởng tượng, và với hai khả năng này, con sáng tạo trải nghiệm của mình. Con sáng tạo điều mà nhiều người trên trái đất gọi lầm là “thực tại” nhưng nó quả thực chỉ là một ảo ảnh, phóng chiếu lên màn ảnh của cuộc sống bởi tâm con người đã quên tiềm năng sáng tạo thực của họ.

Trước khi con có thể thừa kế vương quốc của Đấng Cha của con, con phải hiểu con thật sự được sáng tạo theo hình ảnh và giống như đấng Sáng tạo của con. Điều này không có nghĩa đấng Sáng tạo có một thân vật lý và trông giống một con người. Điều này không có nghĩa đấng Sáng tạo nói năng giống Charlton Heston. Nó có nghĩa là con được sáng tạo với khả năng tưởng tượng điều chưa được thị hiện và khả năng quyết định tâm ảnh nào sẽ được thị hiện trong cõi vật lý và đấy cũng là những khả năng mà đấng Sáng tạo đã dùng để sáng tạo con và vũ trụ nơi con đang sống.

3.3. Con có thể chọn lựa vượt thăng trạng thái tâm thức đã tạo ra thiếu thốn và khổ đau

Giờ đây chúng ta có thể có một câu trả lời cho câu hỏi chuyện gì đã trục trặc từ phía các con, chuyện gì đã trục trặc trên hành tinh trái đất, đã ngăn cản không thị hiện được ý muốn của Thượng đế muốn cho tất cả một cuộc sống dồi dào. Câu trả lời quá ư giản dị, và mong muốn cao nhất của thày là mọi con người tới được điểm hiểu sự thật này. Câu trả lời là đời sống dồi dào không thị hiện trên trái đất vì hầu hết con người không dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của họ, chưa dùng khả năng sáng tạo theo tiềm năng cao nhất. Thay vì dùng uy lực sáng tạo để thị hiện một cuộc sống dồi dào và liên tục gia tăng sự dồi dào này, con người đã dùng trí tưởng tượng để tưởng tượng một thế giới với sự dồi dào giới hạn, một thế giới thiếu thốn. Họ đã chọn chấp nhận đây là thực tại duy nhất khả dĩ trên hành tinh trái đất và khi họ chấp nhận nó, họ đã biến nó thành một thực tại tạm bợ, nhưng huyễn ảo. Giờ đây con thấy là vì Thượng đế đã cho con tưởng tượng và quyền tự quyết và vì Thượng đế không giới hạn món quà của ngài, ngài cho phép các con của ngài sáng tạo một thực tại tạm bợ kém xa cuộc sống dồi dào mà ngài đã hình dung trước khi ngài gửi những đứa con này xuống thế giới vật chất. Ta có thể hiểu đây cũng khế hợp với ý chí cao của Thượng đế vì ý chí cao đó là con du hành vào thế giới hình tướng và con gặt hái kinh nghiệm liên quan tới cách dùng các khả năng sáng tạo của con một cách tốt nhất cho con và tốt nhất cho tất cả mọi người trong đó con là một thành phần.

Nếu trong tiến trình học hỏi này con cần phải đau khổ trong một thời gian với trạng thái thiếu thốn và giới hạn thì Thượng đế cho phép điều này xảy ra. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái giới hạn. Thượng đế không muốn con ở trong trạng thái đau khổ trong một thời gian vô hạn định. Thượng đế luôn luôn hy vọng con rốt cuộc sẽ tới điểm quyết định con không còn chấp nhận đau khổ và thiếu thốn như hậu quả không tránh được của cuộc sống trên trái đất. Thượng đế luôn luôn hy vọng là một số người trong nhân loại và rốt cuộc là toàn thể nhân loại sẽ thức tỉnh thấy sự thật là đời sống không nhất định phải khổ đau và có một chọn lựa khác hơn nhà tù. Chọn lựa khác đó là thăng vượt trạng thái tâm thức đã tạo ra những điều kiện hiện hành trên trái đất.

Vượt thăng trạng thái tâm thức giới hạn này chính là điều mà mọi tôn giáo chân chính và mọi giáo lý tâm linh chân chính đều hướng tới. Con nghĩ tại sao Giê-su được gửi xuống trái đất? Chính là để chỉ cho con thấy con không phải bị giới hạn bởi các điều kiện nhân phàm này. Con có thể vượt thăng chúng, con có thể biến nước của tâm thức nhân phàm thành rượu của một trạng thái tâm thức cao hơn qua uy lực của tâm con. Con có thể nhân các ổ bánh và cá lên và do đó gia tăng sự dồi dào vật chất của con qua uy lực của tâm con. Con còn có thể vượt thoát cái chết vật lý và tái sinh trong một trạng thái tâm thức cao hơn, một hình thức sống cao hơn trên một cõi cao hơn.

Câu trả lời giản dị cho câu hỏi chuyện gì đã sai trật, điều gì đã ngăn cản sự dồi dào của Thượng đế thị hiện trên trái đất, đó là con người đã sử dụng sai uy lực sáng tạo của họ. Họ đã đánh mất viễn quan rõ rệt của Thượng đế về cuộc sống dồi dào. Thay vào đó, hầu hết đã tập trung trí tưởng tượng của họ vào một hình ảnh giả dựa trên khái niệm dồi dào của Thượng đế có giới hạn và không có đủ cho tất cả mọi người. Chỉ một số nhỏ có thể sung túc và đa số phải sống nghèo khó. Nhân loại đã bị khuynh loát để dùng quyền tự quyết của họ để chấp nhận hình ảnh giả này và chấp nhận nó không thể tránh được. Đó là lý do tại sao hình ảnh giả đã trở thành một hiện thực tạm bợ mà nhiều người lầm tưởng là một hiện thực trường tồn.

3.4. Vương quốc Thượng đế ở bên trong con

Chìa khóa mà con cần để trải nghiệm cuộc sống dồi dào là nhận chân chính con không cần chấp nhận hình ảnh giả này, thực tại giả này. Con có thể chọn tách mình ra khỏi hình ảnh giả này, con có thể tách mình ra khỏi nó trong tâm thức. Bằng cách thăng vượt trạng thái tâm thức hiện hành của con, con có thể vươn lên và giải thoát trí tưởng tượng và ý chí của con để cuối cùng chấp nhận cuộc sống dồi dào thay vì cuộc sống giới hạn. Chìa khóa cốt yếu để thừa kế vương quốc của Cha con là nhận chân con phải dùng quyền tự quyết của mình để thanh lọc trí tưởng tượng để con có thể sáng tạo cuộc sống dồi dào thay vì tiếp tục sáng tạo một cuộc sống giới hạn và khổ đau. Cha con hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng thiết kế của ngài là cho con uy lực sáng tạo để con có thể hoàn thành vương quốc này từ trong tâm con. Nếu con muốn dồi dào đích thực, con phải chiêm nghiệm và thấm nhập câu nói của Giê-su: “Vương quốc Thượng đế ở trong con” (Luke 17:21). Con không thể đi tìm một Thượng đế bên ngoài sẽ cho con vương quốc.

Khi con nhận ra con có khả năng bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con trên trái đất, con có khả năng tái tạo mọi khía cạnh của kinh nghiệm sống của con trên trái đất, con đã đi một bước cốt lõi trên con đường trở về vương quốc của Cha con. Thày biết rõ con đã bị lập trình để tin rằng những gì con thấy chung quanh mình là một thực tại không thể tránh và con không có khả năng bên trong con để giải thoát mình khỏi thực tại giả định đó. Giê-su đến với một mục đích duy nhất là để chỉ cho con thấy ảo tưởng đó là lời dối trá và con quả thật có vương quốc Thượng đế bên trong con. Lý do là vì Thượng đế đã thiết kế con theo hình ảnh của ngài và giống ngài. Thượng đế cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Lý do duy nhất khiến con hiện nay trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn và khổ đau là vì con và một số đông người trên hành tinh này đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để đồng-sáng tạo giới hạn và khổ đau đó. Khi con bắt đầu giải phóng trí tưởng tượng của con và dùng quyền tự quyết thuận theo các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con có thể tái tạo lại kinh nghiệm sống của con. Khi đủ người làm chuyện đó, các con có thể tái tạo kinh nghiệm sống tập thể trên hành tinh này. Thật vậy con có thể đồng-sáng tạo một thực tại phản ánh ý muốn thật của Thượng đế cho hành tinh này, một hành tinh có khả năng nuôi dưỡng nhiều tỷ người đều có được cuộc sống dồi dào.

Qua kinh nghiệm sống của con và sự giáo dục con nhận được trên hành tinh này, con đã bị lập trình để nghĩ những giới hạn hiện có trên trái đất là thật và không tránh được. Có thể là một phép lạ nào đó của Thượng đế có thể thay đổi nó, nhưng phép lạ như vậy hiển nhiên sẽ không xảy ra. Con đã bị lập trình để nghĩ con không có uy lực sáng tạo bên trong con để tái tạo kinh nghiệm sống của con và do đó con là nộ lệ của hoàn cảnh bên ngoài vượt quá quyền kiểm soát của con. Đấy là ảo tưởng, đấy là lời dối trá không liên quan gì tới sự thật của Thượng đế. Sự thật là đấng Sáng tạo đã cho con khả năng sáng tạo của chính ngài. Thượng đế đã sáng tạo con theo hình ảnh của ngài và giống ngài để con có uy lực bên trong để tái tạo cuộc sống dồi dào chung quanh con. Như một tập thể, chỉ một số nhỏ người cũng có thể tái tạo cuộc sống dồi dào trên trái đất. Đây là chân lý mà Giê-su muốn đem lại khi tới đây, đây là chân lý mà Phật muốn đem lại khi tới đây, đây là chân lý mà tất cả những vị lãnh đạo tâm linh, tiên tri và đại diện của Thượng đế chân chính muốn đem lại khi tới đây. Khi con nhận ra chân lý này, con có thể bắt đầu bước đi trên con đường có hệ thống, lô gíc dẫn con từng bước một tới điểm con tái tạo cuộc đời mình để nó thẳng hàng với viễn quan dồi dào, với niệm tinh khôi được gìn giữ trong tâm Thượng đế.

Phần còn lại của khóa học này sẽ chú trọng vào việc trao cho con hiểu biết và những bước thực tập thực tiễn mà con cần để giải thoát mình khỏi mọi hình ảnh giả về Thượng đế, mọi hình ảnh giả về chính con và mọi hình giả về vũ trụ nơi con đang sống. Thày sẽ giúp con là sinh thể mà con đã được thiết kế để là. Thày sẽ giúp con vận dụng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để có thể đem lại cho con cuộc sống dồi dào mà con muốn và đồng thời cũng đem lại đời sống dồi dào cho mọi sự sống khác trên hành tinh này.

3.5. Thượng đế muốn con thị hiện vương quốc qua chính uy lực sáng tạo của con

Quả thật Đấng Cha vui vẻ muốn cho con vương quốc. Đấng Sáng tạo muốn con cảm thấy con đem lại vương quốc đó qua chính uy lực sáng tạo của con, con thị hiện vương quốc qua khả năng mà Thượng đế trao cho con, khả năng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Đây là ý muốn của Thượng đế, đây là lý do tại sao Thượng đế gửi con người xuống trái đất với mệnh lệnh hãy “nhân lên” và “ngự trị” (Genesis 1:28). Ngài muốn con nhân khả năng sáng tạo của con và con dùng tâm mình để ngự trị vũ trụ vật chất, để con có thể đem sự dồi dào của Thượng đế vào vũ trụ vật chất này. Qua việc con ngự trị, tâm làm chủ vật chất, vũ trụ vật chất này có thể trải bày sự toàn hảo của Thượng đế và do đó thật sự trở nên vương quốc của Thượng đế.

Thượng đế có khả năng sáng tạo một hành tinh có cuộc sống dồi dào mãi mãi. Thượng đế không muốn làm vậy bởi vì làm sao con học được điều gì khi sống trong một hành tinh như thế? Con sẽ bị giới hạn thành một sinh thể chỉ biết thích ứng, một con thú, thay vì là một sinh thể đồng-sáng tạo có tự nhận biết. Thượng đế sáng tạo một hành tinh có tiềm năng thị hiện đời sống dồi dào nhưng đời sống dồi dào chưa được hoàn toàn thị hiện vật lý. Sau đó, ngài gửi các con trai và con gái của ngài đi vào thế giới này và họ có tất cả những gì họ cần như khả năng sáng tạo, trí tưởng tượng và quyền tự quyết để ngự trị hành tinh này và mang sự dồi dào của Thượng đế vào thị hiện vật chất. Họ có thể xây dựng thêm trên nền tảng được Thượng đế tạo ra để cho các con trai và con gái của Thượng đế có thể xây dựng vương quốc Thượng đế trên hành tinh trái đất bằng chính những khả năng do Thượng đế trao cho họ.

Đây là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế, đây là mong muốn nguyên thủy của Thượng đế, đây là thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Không có gì thay đổi kế hoạch của Thượng đế, không có gì thay đổi tiềm năng của hành tinh trái đất có thể trải bày sự toàn hảo của Thượng đế. Tạm thời các con trai và con gái của Thượng đế đã chọn dùng khả năng sáng tạo của họ để tạo ra khổ đau và thiếu thốn thay vì dồi dào. Chuyện này xảy ra chỉ vì họ đã rơi vào trạng thái vô minh nên không nhận ra toàn bộ khả năng sáng tạo của họ. Họ không hiểu tầm quan trọng và uy lực của quyền tự quyết của họ. Họ không hiểu cái bao la và tiềm năng của trí tưởng tượng của họ, họ không hiểu là họ không cần phải bị giới hạn bởi các hình ảnh bất toàn mà họ có thể tái tạo lại ngay cả thực tại vật lý qua uy ực của tâm họ.

Thực tại vật lý, tình trạng thiếu thốn mà con trải nghiệm trên hành tinh này không do Thượng đế tạo ra, nó do tâm tức tập thể của nhân loại tạo ra. Nó được tạo ra qua uy lực của tâm, khi con người hình dung một trạng thái thiếu thốn và sau đó dùng uy lực ý chí của mình để chấp nhận tình trạng này là miên viễn và không tránh được. Con yêu dấu, thày xin con so sánh những khái niệm này với một câu nói quan trọng nhất của Giê-su: “Không có đầy tớ nào làm tôi hai chủ được: bởi vì anh sẽ ghét người này và yêu người kia; hoặc anh sẽ gắn bó với một người và khinh chê người kia. Ngươi không thể vừa làm tôi Thượng đế vừa làm tôi Ma môn.” (Luke 16:13). Cách giải thích ý nghĩa tâm linh của câu nói này là “ma môn” tượng trưng cho trạng thái tâm thức nhân phàm, trạng thái chấp nhận thiếu thốn và giới hạn là không tránh được. Điều này khiến cho con người bỏ toàn cuộc đời tích lũy các vật của thế gian – là ma môn – thay vì trực tiếp đem lại sự dồi dào từ kho vô tận của Thượng đế. Giê-su nói là con phải chọn làm tôi người chủ nào, hình ảnh giả của thiếu thốn do tâm thức tập thể tạo ra hay thực tại về cuộc sống dồi dào của Thượng đế. Giê-su nói là con không thể làm tôi cả hai ông chủ này cùng một lúc, thật sự có nghĩa là con không thể cùng một lúc ở trong hai trạng thái tâm thức tương phản. Con không thể trung thực với thực tại dồi dào của Thượng đế và cùng lúc chấp nhận hình ảnh thiếu thốn và khổ đau do con người tạo ra. Con phải tập trung tâm vào “thực tại” này hay thực tại kia, và hình ảnh mà con tập trung vào sẽ cho con trải nghiệm vật lý đó. Vật chất sẽ khoác vào những hình tướng mà con giữ trong tâm mình. Uy lực sáng tạo của con sẽ đem lại cho con trải nghiệm vật lý của điều mà con cầm giữ trong tâm mình. Nếu con muốn sự dồi dào của Thượng đế, con phải làm tôi vị thày của thực tại của Thượng đế và con phải ngưng làm tôi vị thày giả của ảo tưởng nhân phàm. Con phải làm công việc giải thoát trí tưởng tượng của con khỏi mọi hình ảnh và tin tưởng giả. Con phải dùng quyền tự quyết để chọn đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để quy định vũ trụ này.

Chỉ khi con đi qua sự biến đổi tâm thức này con mới giải phóng mình khỏi người đốc công đang giam hãm con trong cái hộp của giới hạn và đau khổ, cái hộp thực sự chỉ hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể. Trạng thái tâm thức mà hầu hết con người hiện nay chấp nhận như thực tại của họ là trạng thái mà Giê-su gọi là “chết”, có nghĩa là cái chết tâm linh. Nếu con muốn thoát khỏi nhà tù nhân phàm, con phải chọn trạng thái tâm thức cao hơn, tâm thức của sự sống.

Con hãy suy ngẫm câu nói trong Cựu ước Kinh: “Ngày nay, ta bắt trời và đất làm chứng cho các ngươi rằng ta đã đặt trước mặt ngươi sự sống và sự chết, phước lành và rủa sả. Vậy, hãy chọn sự sống, hầu cho ngươi và dòng dõi ngươi được sống”. (Deuteronomy 30:19). Thượng đế đã cho con trí tưởng tượng cho phép con chấp nhận một hình ảnh thật hay một hình ảnh giả. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết để chọn hình ảnh nào con sẽ thị hiện trong vũ trụ này. Ngay lúc này, con có tiềm năng giải thoát mình khỏi gông cùm của tâm thức chết và bước vào tâm thức của sự sống là cánh cửa duy nhất dẫn con tới vương quốc của Cha con. Trạng thái tâm thức này là Tâm Ki-tô Hoàn vũ mà Giê-su đã mô tả khi thày nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai đến Đấng Cha mà không qua ta” (John 14:6).

Con có sẵn sàng theo thày trong hành trình sẽ giúp con khám phá lại khả năng sáng tạo thật của con và giúp con giải thoát mình khỏi gông cùm của sự chết và giới hạn đã được đặt lên con? Con có sẵn sàng vươn lên và trở thành người con trai hay người con gái thật mà con được thiết kế để là khi đấng Sáng tạo thiết kế con theo hình ảnh của ngài và giống ngài? Nếu con sẵn sàng thì con hãy nắm tay thày trong khi thày trao cho con thêm nhiều chìa khóa dẫn tới đời sống dồi dào.

5 | Một cái nhìn kỹ hơn về cái ta

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/4/2005.

5.1 Con là một quả cầu nhỏ trong quả cầu lớn

Trái tim yêu dấu của thày, đã đến lúc chúng ta cần nhìn kỹ hơn xem con thực sự là ai, nhìn cái Ta của con kỹ hơn. Trước đây, thày có nói là con được sinh tạo từ Bản thể Thượng đế. Thày nói rằng nguồn gốc bản sắc của con, nguồn gốc cái Ta của con, là sự nhận biết thuần khiết. Từ nhận biết thuần khiết này, cá thể của con được hình thành, và đây là điều có thể gọi là cái Ta Biết hay cái ta ý thức. Cái Ta Biết này là điều cho con cảm nhận là con hiện hữu, và con hiện hữu như một sinh thể riêng biệt. Cảm nhận hiện hữu là một trạng thái nhận biết rất thuần khiết và phổ quát, và thật sự nó không mang một đặc tính cá nhân nào. Ở cốt lõi của nhận biết này là cảm nhận con hiện hữu như một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, nhưng nhận biết của con lại tập trung vào một điểm đặc thù trong tổng thể đó. Thay vì con có tầm nhận biết bao trùm tất cả của Đấng Sáng tạo ra con – mà chúng ta có thể nói đang đứng ngoài tạo vật nhìn vào trong – thì con có một nhận biết cục bộ, địa phương. Con ở trong tạo vật, nhìn tạo vật từ bên trong, từ một vị trí quan sát nhất định bên trong tổng thể.

Chúng ta có thể so sánh điều này với điều thày đã đề cập trước đây về quá trình tạo dựng thế giới hình tướng. Đấng Sáng tạo rút mình khỏi một không gian nhất định và tạo ra một khoảng trống không. Ngài co mình lại thành một điểm dị biệt (singularity). Công việc của Đấng Sáng tạo là lấp đầy khoảng trống không, trước tiên qua việc định ra một quả cầu đứng riêng biệt với khoảng trống không, do chứa đựng một chút ánh sáng. Quả cầu này trở thành vũ trụ vĩ mô (macrocosm). Trong quả cầu này Đấng Sáng tạo hiện diện hằng thường, tuy nhiên giờ đây ngài rút mình từ một quả cầu nhỏ hơn và co lại thành một điểm độc nhất. Điểm này trở thành cái Ta Biết và quả cầu thì trở thành bình chứa cái ta của con, quả cầu cái ta của con. Con là một quả cầu bên trong quả cầu lớn hơn của tâm thức Đấng Sáng tạo, con là vũ trụ vi mô (microcosm) trong vũ trụ vĩ mô của Đấng Sáng tạo của con. Nhiệm vụ của con là nhân lên những gì con đã được Thượng đế phú cho con, nhân lên khả năng và vốn liếng của mình, để con có thể cai quản – trước hết cai quản quả cầu cái ta tức là vũ trụ vi mô, sau đó cai quản quả cầu lớn hơn tức là vũ trụ vĩ mô, có nghĩa là vũ trụ vật chất. Khi con đã cai quản quả cầu cái ta của con, đổ đầy nó với ánh sáng thuận theo các định luật của Thượng đế, con sẽ trở thành một sinh thể Ki-tô (Christed being), một sinh thể tâm linh bất tử. Điều này sẽ cho con uy lực để cai quản trái đất, thị hiện trong cõi vật lý vương quốc của sự sống dồi dào của Thượng đế. Con sẽ là ở dưới này tất cả những gì con là ở Trên – con sẽ là “Trên sao dưới vậy”. Điều này, và chỉ có điều này, mới đem lại vương quốc Thượng đế xuống trái đất.

Cái Ta Biết thật sự là cốt tủy của bản sắc cá nhân của con, tuy vậy nó là một trạng thái nhận biết thuần khiết. Nó có một nhận biết cá nhân nhưng nó không có những đặc tính cá nhân. Nó không thể tự biểu đạt trực tiếp trong thế giới hình tướng. Để tự biểu đạt, nó phải có một cá thể, một ý niệm bản sắc mà qua đó nó có thể biểu hiện. Một lần nữa, con hãy so sánh với chiếc máy chiếu phim. Nếu trên máy chiếu không có cuộn phim nào thì nó chỉ chiếu được lên màn hình một hình vuông ánh sáng màu trắng. Nó cần một cuộn phim để có thể chiếu ra những hình ảnh cụ thể sẽ làm dấy động và khiến cho Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lấy hình tướng. Giống như một máy chiếu phim có thể chiếu ra hình ành xuyên qua bất cứ cuộn phim nào, thì cái Ta Biết cũng có khả năng tự biểu đạt xuyên qua bất kỳ ý niệm bản sắc nào. Cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với – và nó có thể tự đồng hóa như – bất cứ gì nó muốn. Nhiệm vụ của cái Ta Biết là xây dựng ý niệm bản sắc của nó, và Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn lựa tùy theo trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Thượng đế đã cho con quyền tự do “đặt tên” bản sắc của con, thậm chí đặt tên cả cho mọi thứ trên địa cầu tùy theo ý niệm bản sắc của con (Genesis 2:19).

Cái Ta Biết không khởi sự như một tờ giấy trắng. Nó có một nền tảng để từ đó xây dựng ý niệm bản sắc của nó, cụ thể là cá thể thiêng liêng neo trụ trong Hiện diện TA LÀ của con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ thường hằng nơi những rung động cao hơn ở cõi tâm linh, và cá thể của nó không thể nào biểu hiện trực tiếp trong vũ trụ vật chất. Cá thể của nó chỉ có thể được biểu đạt khi cái Ta Biết dùng cá thể này để xây dựng một ý niệm bản sắc giống như cuộn phim trong máy chiếu phim.

Quả cầu cái ta của con có một phần cao và một phần thấp. Phần cao ngụ nơi cõi tâm linh và chứa đựng Hiện diện TA LÀ của con. Phần thấp rung động trong quang phổ tần số của vũ trụ vật chất, và chính qua phần thấp này mà con tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Con hãy so sánh với con số “8”, hình số tám. Phần trên hình số tám ở cõi tâm linh, phần dưới ở trong cõi vật chất, và cái Ta Biết thì ở giữa, ngay điểm gặp gỡ, điểm eo. Chốc nữa thày sẽ cho con lời dạy chi tiết hơn về phần thấp của quả cầu cái ta của con, nhưng ngay bây giờ khái niệm quan trọng là cái Ta Biết điều khiển ánh sáng của Hiện diện TA LÀ để ánh sáng chảy xuyên qua một ý niệm bản sắc mà nó xây dựng. Ý niệm bản sắc này có thể dựa trên bất cứ gì cái Ta Biết đã cho phép đi vào phần thấp của quả cầu cái ta. Con có thể xây dựng ý niệm bản sắc này trên tảng đá của Ki-tô, tức cá thể neo trụ nơi Hiện diện TA LÀ, hay trên cát lún của tâm thức nhị nguyên.

Đây là tại sao cái Ta Biết có khả năng trở thành nhiều hơn hay ít hơn những gì con đã được sinh tạo. Con có thể hoặc khuếch trương cá thể mà Thượng đế đã ban cho con, hoặc xây dựng một bản sắc kém hơn những gì ngài hình dung cho con. Con có quyền tự do chọn bất cứ gì, nhưng con sẽ không tránh khỏi trải nghiệm những gì con đã chọn. Con sẽ nhìn thấy thế giới qua phin lọc của ý niệm bản sắc mà con xây dựng, và con sẽ tự biểu đạt theo bản sắc này. Bản sắc của con sẽ định đoạt những gì con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ, và tất nhiên điều này sẽ định đoạt những gì được phản chiếu cho con.

5.2. Con có quyền chọn cái ta của con bất cứ lúc nào

Vậy chúng ta có ba khía cạnh của bản thể con. Chúng ta có phần cao của quả cầu cái ta, và phần này được lấp đầy bởi Hiện diện TA LÀ của con. Cái ta tâm linh này chứa đựng bàn mẫu thiêng liêng của con, là cá thể do Đấng Sáng tạo của con quy định và được ghi lại mãi mãi trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Sau đó chúng ta có cái Ta Biết, nằm ngay điểm eo giữa hai phần cao và thấp của quả cầu cái ta. Và chúng ta có phần thấp của quả cầu cái ta, là phần cái Ta Biết sử dụng để tự biểu đạt trong thế giới vật chất. Trong phần thấp này có ý niệm bản sắc của con cư ngụ, là cuộn phim qua đó con phóng chiếu hình ảnh lên màn hình của cuộc sống, lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tương tự như khoảng trống không, phần thấp bình chứa cái ta của con vẫn chưa đầy khi dòng sống của con bước vào hiện hữu. Vẫn còn chỗ trống, và nhiệm vụ của con chính là khiến nó đầy. Vấn đề đặt ra là con – nghĩa là cái Ta Biết – sẽ cho phép những gì đi vào bình chứa cái ta? Thượng đế đã cho con tự do hoàn toàn để chọn cách mình sẽ xây dựng ý niệm bản sắc của mình như thế nào.

Quyền tự do này là cơ hội tuyệt hảo để con trở thành nhiều hơn những gì con được sinh tạo, để xây dựng trên nền tảng mà Thượng đế đã thiết lập, để là nhiều hơn một con rô-bốt. Con làm được vậy bằng cách thể hiện ý niệm cái ta của mình trong thế giới hình tướng. Bằng cách diễn đạt khả năng sáng tạo của mình và chứng kiến kết quả, con bồi thêm nội dung cho bình chứa cái ta. Khi con làm vậy trong sự hòa hợp với định luật Thượng đế, con sẽ chỉ bồi đắp những yếu tố bền vững, bất diệt vào bình chứa cái ta. Những yếu tố này con có thể chuyển lên phần trên của quả cầu cái ta, và chúng được lưu trữ trong tâm Ki-tô – mà Giê-su từng gọi là kho báu của con tích lũy trên thiên đàng (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con cũng có thể dùng khả năng sáng tạo của mình theo một cách lạc điệu với định luật cùng ý định sáng tạo của Thượng đế. Khi con làm vậy, con cũng sẽ bỏ thêm gì đó vào bình chứa cái ta nhưng cái này sẽ ở lại trong phần thấp của quả cầu. Con bỏ vào những yếu tố hữu diệt không có tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy mà con có thể tạo ra một cái ta hữu diệt, một ý niệm cá thể kém hơn những gì Thượng đế đã cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu.

Cốt lõi của bản sắc con, cái Ta Biết, độc lập với những nội dung có mặt hay không có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt lẫn cái ta hữu diệt, có nghĩa đó là một trạng thái nhận biết thuần khiết hoàn toàn tự đủ. Về việc biểu đạt khả năng sáng tạo của con trong thế giới hình tướng, cái Ta Biết không thể làm chuyện này một mình. Để tự biểu đạt, cái Ta Biết phải để cho ánh sáng của nó rọi chiếu qua nội dung bình chứa cái ta, vì chính nội dung này sẽ định đoạt những hình ảnh được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cái Ta Biết là một trạng thái nhận biết thuần khiết tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta đang có mặt trong quả cầu cái ta của nó. Cái Ta Biết có thể biểu đạt qua cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, tùy theo con đồng hóa với cái ta nào vào lúc đó.

Vì cái Ta Biết có thể tồn tại độc lập với cái ta bất diệt hay cái ta hữu diệt, có thể nói là nó không có ý niệm cá thể cố định nào, ý niệm bản sắc cố định nào. Cái Ta Biết là Bản thể thuần khiết của Thượng đế tập trung vào con như một sinh thể cá biệt, nhưng nó có tiềm năng đồng hóa với bất cứ gì. Nó được tạo ra như một thái cực đối với cái ta bất diệt của con, nhưng nó có thể đồng hóa với bất cứ gì nó chọn, kể cả cái Tất cả của Bản thể Thượng đế, cái ta bất diệt của con, cái ta hữu diệt của con hay bất cứ gì khác trong thế giới hình tướng. Cụ thể, nó có thể tự đồng hóa là một hòn đá nếu nó chọn như vậy. Cái Ta Biết là trụ sở của quyền tự quyết của con, trụ sở của khả năng chọn lựa của con. Con là những gì con xem mình là, con là những gì con chọn mình là – và con có thể thay đổi chọn lựa này bất cứ lúc nào.

Cái Ta Biết phải tự biểu đạt xuyên qua một ý niệm cái ta nào đó, một ý niệm bản sắc cá nhân nào đó. Như thày vừa trình bày qua phúng dụ máy chiếu phim, phải có một cuộn phim để ánh sáng có thể rọi qua hầu có những hình ảnh khác biệt được chiếu lên màn hình. Hình ảnh trên cuộn phim là các đặc tính cá nhân, các tin tưởng và hình ảnh về bản thân có mặt trong bình chứa cái ta. Cái Ta Biết giống như người điều khiển máy chiếu quyết định cuộn phim nào được đặt vào máy. Con đã được sinh tạo như một cái ta bất tử, và con có thể bồi đắp cho cái ta bất tử này bằng cách biểu đạt chính mình qua những hình ảnh đồng điệu với quy luật Thượng đế. Nhưng ở một thời điểm trong quá khứ, cái Ta Biết đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, và nó đã cắn vào quả trái của hiểu biết về thiện ác. Khi nó làm vậy thỉ nó đã bỏ vào bình chứa cái ta một số nội dung, và nội dung này thì dựa trên “sự thật” tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô.

Lúc đầu, các yếu tố nhị nguyên không đến nỗi ảnh hưởng biểu đạt sáng tạo của con hay cảm nhận mình là ai. Chúng chưa thể che khuất hay làm lu mờ cái ta bất diệt của con. Nhưng khi con cứ tiếp tục thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con càng ngày càng bỏ thêm nhiều nội dung hữu diệt vào bình chứa cái ta, và lần hồi chúng bắt đầu che phủ cái ta bất diệt. Điều này khiến con trở thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, xong khi con ngày càng phân rẽ hơm, cái Ta Biết bắt đầu đặt trọng tâm nhiều hơn vào ý niệm cái ta nhị nguyên. Điều này củng cố cho cái ta hữu diệt và bồi thêm nhiều nội dung nhị nguyên hơn nữa. Tất cả trở thành một vòng xoắn ốc hướng hạ, rốt cuộc dẫn đến một điểm tới hạn khi cái Ta Biết quyết định là, quả thực, mình là một sinh thể thế phàm hữu diệt thay vì một Sinh thể tâm linh bất diệt đang tự biểu đạt qua một hình tướng hữu diệt.

5.3. Con ở trong Nước Trời ngay lúc này

Cái Ta Biết sẽ luôn luôn là cái gì nó nghĩ nó là. Bất cứ lúc nào, cái Ta Biết cũng có thể lấy quyết định thay đổi ý niệm bản sắc của nó. Cái Ta Biết là sự cá thể hóa (individualization) của Bản thể Thượng đế, và Thượng đế đã tiết lộ cho Mô-sê tên gọi: “Ta sẽ là cái Ta sẽ là,” có nghĩa là Thượng đế giữ quyền thăng vượt chính mình mọi lúc và bất cứ lúc nào. Tương tự như thế, con cũng có quyền thay đổi bản sắc của con bất cứ lúc nào, và con có quyền tự thăng vượt hay tự thoái hóa.

Con có thể đã xây dựng một cá thể rất công phu phức tạp dựa trên các hình ảnh và tin tưởng nhị nguyên. Con có thể đã đồng hóa với cái ta hữu diệt đó suốt nhiều kiếp trước. Con có thể đã quên mất mình là một sinh thể tâm linh, mình có một cái ta bất diệt. Thậm chí con có thể tin rằng con không có cách chi thay đổi được ý niệm cái ta của mình hay vượt xa hơn cái ta hữu diệt. Bí ẩn thực sự của cuộc sống là, bất cứ lúc nào, con – nghĩa là cái Ta Biết – là cái con nghĩ con là. Bất cứ lúc nào con cũng có quyền năng xoay chuyển cảm nhận mình là ai. Ngay lúc này đây, con có sức mạnh của quyền tự quyết để quyết định một cách ý thức là con không còn tự đồng hóa với một sinh thể thế phàm hữu diệt nữa, mà con chấp nhận sự thật con là một sinh thể tâm linh bất diệt chỉ đang tạm thời biểu đạt chính mình qua một hình dạng hữu diệt.

Có một sự phân biệt vi tế ở đây. Thày đã nói với con về khái niệm đường tu và thày đã so sánh với một cầu thang hình xoắn ốc. Cầu thang xoắn ốc có nhiều bực riêng biệt, mỗi bực tượng trưng cho một quyết định dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con đi xuống một bước, con đã lấy quyết định chấp nhận một lời dối nhị nguyên nào đó và bỏ nó vào nội dung bình chứa cái ta của con, con biến nó thành một thành phần của cái ta hữu diệt của con. Điều này chuyển đổi cái ta đi chút xíu, và con rời xa hơn cái ta bất diệt, con dấn sâu hơn vào cái ta hữu diệt. Để đi lên cao hơn bực thang đó, con phải nhìn thấu ảo tưởng nhị nguyên đó và quyết định bỏ nó lại đằng sau, bằng cách chấp nhận sự thật của Ki-tô sẽ thay thế lời dối của phản Ki-tô, và như vậy con thoát khỏi ảo tưởng.

Hầu hết mọi người trên trái đất đã bước xuống nhiều bực trên chiếc cầu thang dẫn vào tâm thức nhị nguyên. Từ vị trí con đang đứng, thật không có đường tắt nào sẽ đưa con trở lên ý niệm cái ta bất diệt bằng một bước nhảy duy nhất. Không có cách nào mà tránh né tiến trình thay thế các chọn lựa nhị nguyên bằng chọn lựa dựa trên tảng đá của tâm thức Ki-tô. Làm như vậy sẽ tước đi quyền tự quyết của con và cắt ngang toàn bộ mục đích của sáng tạo, cụ thể là con tăng triển qua các chọn lựa mà con lấy. Nếu con đã bước xuống một số bực thang trên cầu thang xoắn ốc, con chỉ có thể đi lên bằng cách bước lên từng bực và thay thế ảo tưởng mà bực này tượng trưng bằng sự thật Ki-tô. Con phải làm điều này qua những chọn lựa ý thức mà chỉ có con mới có thể lấy.

Mỗi bước con đã đi xuống cầu thang xoắn ốc tượng trưng cho một lời dối nhị nguyên mà con đã bỏ vào bình chứa cái ta. Các lời dối này đang nằm trong bình chứa đó và chúng sẽ nằm yên ở đó cho tới khi con giải quyết chúng qua những chọn lựa tốt hơn. Cái Ta Biết có một nhận biết độc lập so với nội dung bình chứa cái ta. Ngay lúc này, con có thể chọn tái nối kết nhận biết ý thức của mình với cảm nhận thuần khiết của Bản thể con, với ý niệm nhận biết thuần khiết, với ý niệm cái ta thuần khiết mà con vốn thực là. Ý niệm cái ta thuần khiết của con đã không hề biến đổi khi con chọn tạo ra một cái ta hữu diệt và tạm thời đồng hóa với nó. Ý niệm cái ta thuần khiết của con vẫn hiện hữu trong dạng nguyên thủy của nó, và con có khả năng xoay chuyển ý niệm bản sắc để rời xa cái ta hữu diệt về hướng cái ta bất diệt. Đây là ý nghĩa thực trong lời dạy của Giê-su rằng một người phải tái sinh về mặt tâm linh, phải tái sinh trong Tánh linh (John 3:5) để có thể bước vào Nước Trời.

Mọi thứ đều được tạo thành từ chất liệu của Thượng đế, từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi thứ đã được tạo thành, mọi thứ trong thế giới hình tướng. Thượng đế ở ngay đây với con ngay lúc này, ngài có mặt ở mọi nơi, và do đó vương quốc Thượng đế thực sự đang ở đây với con. Nếu con sẵn lòng, con có thể xoay chuyển ý niệm cái ta của con, ý niệm bản sắc của con, để chấp nhận con đang ở trong Nước Trời rồi, ngay lúc này. Điều này sẽ không lập tức thay đổi nội dung bình chứa cái ta. Cũng không có nghĩa là con có thể lập tức thể hiện trong thế gian này cái ta bất diệt của con, cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn mang cái ta hữu diệt, cá thể người phàm đang che mờ cá thể thiêng liêng của con. Con vẫn phải đi qua tiến trình vứt bỏ, một cách quy củ, các lời dối nhị nguyên đang cấu thành cái ta hữu diệt hầu con có thể tỏ lộ cái ta thiêng liêng của mình.

Nhưng khi đi qua tiến trình này, con không phải tiếp tục đồng hóa với cái ta hữu diệt. Con không phải tiếp tục nghĩ rằng, một cách nào đó, con không xứng đáng hay không có khả năng bước vào vương quốc Thượng đế vì con có cái ta hữu diệt này. Con không cần phải cảm thấy mình bị đày khỏi Nước Trời, đày khỏi Vườn Eden, và mình sẽ không thể bước vào Vườn cho tới khi mình sạch hết cái ta hữu diệt. Khi Giê-su nói rằng Nước Trời ở trong con, thày thực sự muốn nói Nước Trời là một trạng thái nội tâm, một trạng thái tâm thức. Thày muốn nói Nước Trời sẽ biểu hiện trong đời con khi cái Ta Biết tự đồng hóa ở trong Nước Trời. Ý niệm bản sắc này độc lập với nội dung bình chứa cái ta. Con có khả năng dời chuyển ý niệm cái ta xa khỏi một con người thế phàm bị tước mất sự sống dồi dào, bị chia cách khỏi Nước Trời. Con có khả năng xoay chuyển ý niệm cái ta và chấp nhận mình là một sinh thể tâm linh, và không gì trong thế gian này có thể lấy đi bản sắc thực của mình. Con có thể chấp nhận là con đang ở trong Nước Trời ngay lúc này.

5.4. Mất cái ta hữu diệt, con được cái ta bất diệt

Con là một người tìm cầu tâm linh, và con vẫn biết con là nhiều hơn xác thân vật lý của con. Có một sinh thể lớn hơn, mà hầu hết mọi người đều gọi là linh hổn nhưng thật ra là cái Ta Biết. Cái Ta Biết tạm thời mặc vào cơ thể vật lý giống như thân con mặc vào một chiếc áo choàng. Cái ta hữu diệt mà con đã tạo ra có thể so với thân thể vật lý của con. Nó không phải là cái ta thực của con y như thân thể không thực là con. Nó chỉ đơn giản là một chiếc áo choàng mà cái ta thực của con đang mặc ngay lúc này. Con không thể lập tức vứt bỏ cái ta hữu diệt đó đi vì nó phải được giải thể từng bước một, từng quyết định một. Nhưng con có thể lập tức vứt bỏ ý niệm rằng con bị giam cầm, bị kẹt cứng trong cái ta hữu diệt. Bất cứ lúc nào con cũng có thể quyết định bước đến cánh cửa nhà tù, kéo tay nắm và nhận ra là mặc dù cánh cửa có rất nhiều ổ khóa khác nhau, kỳ thực nó không khóa gì hết. Bất cứ lúc nào con cũng có thể mở cửa ra và được tái sinh vào một ý niệm bản sắc mới, rằng con đang đứng ngoài nhà tù.

Có một sự khác biệt to lớn và cơ bản giữa việc nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù cái ta hữu diệt và nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên trong nhà tù, con tưởng rằng con, nghĩa là cái Ta Biết, bị giới hạn trong nhà tù. Khi con nhìn cuộc đời từ bên ngoài nhà tù, con thấy rõ cái Ta Biết nhiều hơn nhà tù gấp bội. Con có thể so sánh nhà tù này với một cái hộp to bằng căn nhà, xây cất bằng gạch với một cánh cửa bằng thép. Khi con ở trong hộp, con tưởng thế giới là một cái hộp bằng gạch. Khi con ở bên ngoài, con thấy rõ bình chứa cái ta lớn hơn hộp rất nhiều. Hộp vẫn hiện hữu trong bình chứa cái ta của con nhưng con không bị hạn chế trong đó.

Thày nói điều này cho con vì mấy lý do. Một lý do là vì nếu con có thể chấp nhận ý niệm bản sắc rộng lớn hơn của con và được tái sinh trong cái ta lớn này, con sẽ lập tức bắt đầu cảm thấy một sự nối kết chặt chẽ hơn với cái Tất cả của Thượng đế. Điều này sẽ khiến đường tu của con vui thú hơn rất nhiều, an bình hơn rất nhiều. Cũng từa tựa như thay vỉ con có món nợ và cảm thấy mình không có đồng nào tiêu pha, thì con dư giả tiền bạc cất trong ngân hàng.

Thày cũng nói điều này với con vì một lý do rất thực tiễn. Khi con ở trong hộp bằng gạch, con nghĩ đó là cái ta thực của con, cá thể thực của con. Trong tiềm thức, con biết con là một sinh thể tự nhận biết đúng lý phải đồng-sáng tạo qua việc biểu đạt cá thể của mình. Con không thể chịu nổi ý nghĩ mình không có cá thể nào để biểu đạt. Nếu con cho rằng cái ta hữu diệt là cá thể duy nhất của mình, thì con sẽ dính mắc tình cảm với mỗi khía cạnh của cái ta hữu diệt đó, với mỗi viên gạch của cái hộp đó. Nếu một vị thày tâm linh đến bảo con là con phải vứt bỏ một viên gạch đi, con sẽ không chịu hay không thể làm được vậy, vì con có cảm tưởng là nếu con buông một phần của cái ta hữu diệt thì con cũng đánh mất một phần cá thể của mình. Sự phân biệt vi tế là cái ta hữu diệt hoàn toàn dựa trên, được xây bằng lời dối nhị nguyên từ tâm phản Ki-tô. Mỗi lời dối như vậy là một viên gạch cấu tạo cái hộp đang giam giữ con. Để loại bỏ cái hộp khỏi bình chứa cái ta, con phải đục bỏ từng viên gạch một cách hệ thống và quăng nó đi. Với mỗi viên gạch con vứt bỏ, con thăng lên một bực trên cầu thang xoắn ốc.  

Nếu con nhìn cuộc sống từ bên trong hộp, con sẽ nghĩ mỗi viên gạch là một phần không thể thiếu, không thể thay thế của cá thể thực của con. Nếu con mất tất cả gạch, con sẽ là con số không, con sẽ là một vỏ rỗng, con sẽ là một lỗ đen không chút cá tính. Nỗi sợ lớn nhất của bất kỳ sinh thể tự nhận biết nào là đánh mất ý niệm bản sắc của mình, cho nên con sợ buông ra các lời dối nhị nguyên mà con tưởng là một phần của cá thể con. Đây chính là điều sẽ biến đường tu thành một cuộc vật lộn, một con Đường Thương khó, khi tâm vỏ ngoài tìm cách cưỡng ép tâm tiềm thức phải buông bỏ một viên gạch của cái hộp. Tâm tiềm thức bám chặt lấy viên gạch đó như là chuyện sống chết, và đây là điều tâm tiềm thức, cái ta hữu diệt của con tin chắc như vậy. Đây là vì sao quá nhiều người, cả trong đạo Cơ đốc lẫn các đạo khác và phong trào Thời mới, luôn luôn vật lộn trong một trận chiến gian nan liên tục. Với tâm vỏ ngoài, họ nhận ra là họ cần thay đổi đời họ, và họ đã dùng một giáo lý tâm linh vỏ ngoài nào đó để tạo dựng một tâm ảnh về con người mà họ cần là hầu được cứu rỗi, hay trở thành con người tâm linh mà họ muốn trở thành. Tâm vỏ ngoài tìm cách ép uổng tâm ảnh này lên tâm tiềm thức, hầu tâm ảnh có thể thay thế ý niệm cái ta hiện thời của họ. Phần tiềm thức trong tâm họ cưỡng lại chuyện này, vì vậy trong bản thể họ luôn luôn có sự vật lộn, một cuộc chiến biến họ thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó, một ngôi nhà xây trên cát. Đây là tại sao nhiều người tìm kiếm tâm linh cảm thấy mình tiến bộ rất ít, tại sao mình cảm thấy như thể mỗi lần mình tiến lên một bước thì có gì đó kéo mình trở ngược lại một hai bước.

Con có quyền tự quyết, cho nên con hoàn toàn có quyền tiếp tục vật lộn cho đến hết kiếp, thậm chí trong nhiều kiếp sống, nếu đó là điều con muốn. Thày không có mong muốn bảo con phải bước theo đường đời của con như thế nào. Nhưng thày mong muốn nói với con là đường tu tâm linh, con đường đến sự sống dồi dào, con đường đến cứu rỗi và sự sống vĩnh cửu, không cần phải là một cuộc vật lộn. Con có khả năng bước ra ngoài cái hộp của cái ta hữu diệt. Khi con bước ra ngoài, con thấy và con biết con là nhiều hơn cái ta hữu diệt. Con vẫn còn cái hộp bằng gạch đó trong bình chứa cái ta, nhưng vì con biết con là nhiều hơn hộp, vì con nhìn thế giới từ ngoài hộp, con không còn dính mắc tình cảm nào nữa với từng viên gạch cấu thành cái hộp. Con thừa biết là nếu con vứt bỏ một viên đi, con không hề mất ý niệm bản sắc của con. Vứt bỏ một viên gạch không còn là vấn đề sinh tử nữa. Con không cần đánh nhau để cố giữ gạch vì con biết chúng không là một phần của con người thực của con. Khi con ngộ ra sự thật này, việc buông bỏ các viên gạch dễ hơn quá đỗi. Giờ đây con có thể buông chúng nhanh hơn gấp bội, với ít khổ não và đau đớn hơn gấp bội. Thay vì cảm thấy như thể mình sắp chết mỗi khi mình bỏ một viên gạch, con cảm thấy con sắp được sống dồi dào hơn với mỗi viên gạch mà con vứt bỏ, với mỗi viên gạch không còn nặng gánh trên hành trình leo núi của con.

A con yêu dấu, con có cảm được sự khác biệt to lớn điều này sẽ đem lại trong đời con? Con có cảm được là chỉ bằng một bước tái sinh tâm linh, con có thể xoay chuyển mọi chuyện trong đời mình? Khi con đi qua ngưỡng cửa nhà tù và bước ra ngoài cái ta hữu diệt của mình, mọi chuyện trong đời con sẽ thay đổi – trong nghĩa đen. Cách con nhìn mọi thứ sẽ thay đổi. Toàn bộ quan điểm của con về cuộc sống sẽ thay đổi trong bản chất, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ khuếch đại muôn phần. Mặc dù sự mở rộng này có thể là một thay đổi to lớn lúc đầu, con sẽ nhanh chóng bắt đầu cảm thấy là mình đã về nhà và mọi chuyện đúng ra phải như thế này. Ý niệm cái ta tự nhiên của con chính là sinh thể tâm linh thuần khiết mà con là. Thật không tự nhiên chút nào khi ý niệm cái ta bị giam trong một cái hộp nhỏ xíu bằng gạch, cho nên khi con bước ra ngoài hộp, cụ thể con sẽ cảm thấy như mình về nhà. Và quả thực con đã về nhà, con đã về nhà là vương quốc của Cha con, tức là ý niệm cái ta mà Cha con đã dành sẵn cho con ngay từ ban đầu.

5.5. Cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn

Con yêu dấu, thày không biết có thể nói gì hơn để thuyết phục con những lời này là sự thật. Khi thày nhìn loài người như thày đã quan sát suốt 2000 năm qua và hơn nữa, thày thấy được là hầu hết mọi người trên hành tinh đều kẹt cứng trong những chiếc hộp nhỏ xíu bằng gạch. Mỗi người đã giới hạn ý niệm cái ta của mình trong chiếc hộp nhỏ cấu tạo cái ta hữu diệt của họ. Một số còn không biết là có một cánh cửa. Một số khác biết là có cửa nhưng họ tin chắc là cửa bị khóa, và họ không buồn bỏ công ra để thử xem chuyện này có thật hay không. Họ tin là họ không có cách chi thoát ra khỏi hộp. Một số còn tin là họ không có nhu cầu trốn thoát – họ đã tôn cái ta hữu diệt, và trong một số trường hợp ông hoàng của thế gian, lên làm kẻ cai trị đền thờ của họ. Một số đã thức tỉnh là họ có thể mở các ổ khóa để cuối cùng mở cửa, nhưng họ vẫn tin là họ sẽ bị kẹt bên trong cho đến khi ổ khoá cuối cùng được mở.   

Thày đã hợp nhất với tâm thức cùng Bàn thể của khía cạnh Mẹ của Thượng đế. Như Giê-su đã nói: “Và vua phán, mỗi lần các con làm như vậy cho người anh em bé nhò nhất của ta, thì các con đã làm cho chính ta vậy” (Matthew 25:40). Là Mẹ Thượng đế, thày cảm thấy cùng một tình thương cho mỗi người và mọi người trên trái đất này. Thày không mong gì hơn được nhìn thấy mỗi người và mọi người trong các con thoát ra khỏi nhà tù đang giam con trong bóng tối. Thày không mong gì hơn nhìn thấy con mờ cửa nhà tù và chạy ra ánh nắng rực rỡ, lòng tràn ngập niềm tự do quá mới đến độ con bật cười, hét lên sung sướng, chẳng khác gì trẻ nhỏ chạy vui trên đồng cỏ nở hoa trong ánh nắng rực rỡ của ngày xuân đầu tiên.

Mong muốn lớn nhất của thày là được thấy mọi người thoát khỏi nhà tù của tâm mình, thoát khỏi những cái hộp nhỏ bằng gạch, và ngộ ra mình thực sự là ai. Thày không muốn thấy con người cố leo lên cầu thang xoắn ốc mà mỗi bực phải giao chiến với con rồng của cái ta hữu diệt, giống như thánh George đánh nhau với rồng vậy. Thày muốn thấy con tách mình ra khỏi, tách cái Ta Biết ra khỏi cái ta hữu diệt để con có thể bước lên mỗi bực trên cầu thang xoắn ốc với niềm vui, với cảm giác an bình đến từ sự nhận biết rằng những gì con bỏ lại đều là không thực. Đây là niềm vui biết rằng mỗi lần con buông bỏ một lời dối nhị nguyên thì con cũng tiến một bước gần hơn trạng thái tự do biểu hiện cá thể thiêng liêng của mình.

Khi con biết điều này thì việc buông bỏ các hạn chế cũ, buông bỏ ý niệm cái ta hữu diệt, sẽ không gắn liền với nỗi sợ mất mát mà gắn liền với niềm vui thu hoạch. Thay vì cảm thấy mình bị mất gì đó, con nhận ra là kỳ thực con đang được gì đó – ý niệm cái ta cũ được thay thế bằng một ý niệm cái ta lớn hơn, đẹp hơn. A con yêu dấu, chính cảm nhận vật lộn đã tạo ra cuộc vật lộn, và cảm nhận vật lộn thì khởi lên từ sự dính mắc tình cảm của con với cái ta hữu diệt. Dính mắc này khởi lên từ nỗi sợ rằng nếu con mất đi một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ không có gì để thay vào chỗ đó. Đây là một niềm tin chỉ có mặt khi con nhìn cuộc đời từ bên trong chiếc hộp cái ta hữu diệt. Ngay khi con mở cửa tù ra và bước vào ánh nắng rực rỡ của Hiện diện TA LÀ của con, con sẽ thấy là khi con thay thế một phần của cái ta hữu diệt, khi con buông bỏ một phần của cái ta hữu diệt, con sẽ làm lộ ra phần tương ứng của cái ta bất diệt từng bị ảo tưởng hữu diệt che mờ. Con không mất gì hết trong quá trình này, mà con chỉ được một cái gì đẹp hơn, sáng giá hơn vô lượng – và đây chính là ý nghĩa thật sự của sự sống dồi dào. Con có thể có tất cả của cải trên thế gian, nhưng chừng nào con còn kẹt trong chiếc hộp của cái ta hữu diệt, con sẽ không bao giờ có được sự sống dồi dào, con sẽ không bao giờ thoát khỏi nỗi sợ thiếu thốn. Đây là ý nghĩa thật sự của lời dạy của Giê-su: “Người nào được cả thiên hạ mà mất linh hồn mình thì có ích gì?” (Mark 8:36). Chỉ có một cách để đạt sự sống dồi dào, đó là bước ra ngoài chiếc hộp của cái ta hữu diệt, và nhờ vậy con tìm được sự dồi dào mà Thượng đế cho con miễn phí, vì ngài rất vui lòng ban cho con vương quốc của ngài.

Việc bỏ lại một đồng của cái ta hữu diệt thật là đáng tiền vì thay vào đó con nhận được bạc triệu của cái ta bất diệt. Con trở nên sẵn lòng, thậm chí con còn háo hức muốn phơi bày những lời dối của cái ta hữu diệt. Con trở nên sẵn lòng với tới sự thật của tâm Ki-tô sẽ thay thế lời dối của tâm phản Ki-tô. Con đã khắc phục nỗi sợ không dám xem xét các ảo tưởng của phản Ki-tô. Con không còn sợ việc phơi trần các lời dối nhị nguyên của cái ta hữu diệt vì con không còn đồng hóa với chúng nữa.

5.6. Con có khả năng là Ki-tô Hằng sống

Điều ngăn cách con với sự sống dồi dào chỉ là một sự xoay nhẹ chiếc la bàn của nhận thức, la bàn của cái ta. Con cần dời ý niệm cái ta xa khỏi cái ta hữu diệt và chấp nhận cái Ta lớn hơn mà con là. Một khi con đã xoay chuyển như vậy, con đường đi lên trở nên dễ dàng vì giờ đây con nhận ra với Giê-su: “Ách của ta dễ chíu, gánh của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30). Đó là khi con khắc phục nỗi sợ ngăn cản hầu hết mọi người thực hành một trong những câu quan trọng nhất của Giê-su. Có lẽ con nhớ Giê-su có nói: “Nếu ai muốn đi theo ta thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập tự giá của mình mà đi theo ta” (Matthew 16:24). Nhiều tín đồ Cơ đốc đã đọc câu này mà không hiểu được ý nghĩa, cho nên họ đã nhắm mắt làm ngơ hay đã bác bỏ nó với một đường lý luận nhị nguyên.

Khi Giê-su bảo từ bỏ chính mình, thày muốn nói đến những người đã tự đồng hóa với cái ta hữu diệt. Cái ta mà con từ bỏ để đi theo Giê-su không phải là cái ta thực; đó là cái ta hữu diệt. Con từ bỏ nó bằng cách chối bỏ nó là cái ta thực, bằng cách chối bỏ niềm tin là nó có bất kỳ uy quyền gì trên con, bằng cách chối bỏ ảo tưởng là cái ta hữu diệt có thể ngăn con đi theo Ki-tô. Con nhận ra và chập nhận sự thật là cái ta hữu diệt, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên trong, lẫn các thế lực của thế gian này, mà chúng ta có thể gọi là kẻ thù bên ngoài, không thể nào ngăn con đi theo Ki-tô. Không gì có thể ngăn chặn con, ngoại trừ những gì con cho phép cản đường con do con đồng hóa với nó hay sợ không dám nhìn nó.

Bây giờ con cũng có thể nhìn ra ý nghĩa câu “hãy vác thập tự giá của mình và đi theo Ki-tô”. Thập tự giá là một biểu tượng cho cái ta hữu diệt được cấu tạo bởi nhiều lời dối nhị nguyên mà con đã dần dà chấp nhận. Chúng hình thành một cấu trúc trong thế giới vật chất, và cái Ta Biết bị đóng đinh – bị giữ mải mê – vào cây thập tự. Thập tự giá có bốn nhánh, và như thày sẽ giải thích chốc nữa, điều này tượng trưng cho bốn tầng cấp của dải tần số vật chất mà chúng ta có thể gọi là bốn thể phàm của con. Mỗi thể phàm đã bị các lời dối nhị nguyên làm cho ô nhiễm. Vác thập tự giá của mình có nghĩa là con sẵn lòng tham gia vào tiến trình thanh lọc một cách hệ thống mỗi thể phàm của con cho không còn lời dối nhị nguyên nào khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Khi con khắc phục các lời dối này, khi con khắc phục cho đến kẻ thù cuối cùng của cái chết – bởi vì con cho phép cái ta hữu diệt của con được chết trên cây thập tự – con sẽ được phục sinh vào sự sống bất diệt của tâm thức Ki-tô. Con sẽ không còn là một người đi theo Ki-tô nữa, mà con là Ki-tô Hằng sống ngay nơi con đang đứng. Như Giê-su đã chứng tỏ, con có khả năng là Ki-tô Hằng sống ngay đây trên trái đất.

Khi con đạt được trạng thái tâm thức này, con không còn đi theo đường tu tâm linh với mục đích tăng triển cá nhân mình nữa. Giờ đây con đã đạt được sự nhận biết lớn hơn rằng con là một với tổng thể, với Thân thể Thượng đế trên trái đất. Bằng cách là Ki-tô Hằng sống hiện thân trên trái đất, con có thể phụng sự như một cánh cửa mở để đem ánh sáng Ki-tô vào tâm thức tập thể của nhân loại. Con có thể giúp thanh lọc bốn thể phàm của tâm thức đại chúng, giúp người khác khám phá và đi theo đường tu tâm linh dễ dàng hơn. Khi đó con có thể nói cùng với Giê-su: “Còn ta, khi ta thăng lên khỏi trái đất, ta sẽ kéo mọi người lên cùng ta” (John 12:32).

Đó là lý do Giê-su đã đến địa cầu. Thày đã gánh lấy tội lỗi của thế gian, nhưng đâu là tội lỗi của thế gian? Tội lỗi của thế gian là những lời dối nhị nguyên mà con người đã chấp nhận và bây giờ đã trở thành một thành phần của tâm thức tập thể. Giê-su đã gánh lấy một khía cạnh đặc thù của những lời dối nhị nguyên này, là xu hướng của con người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng, các thày giả, những kẻ đã nổi loạn chống lại Thượng đế và đã đến trái đất để đánh lừa loài người hầu chứng minh là họ biết hơn cả Đấng Sáng tạo. Đó là những con rắn, đó là những thế lực của phản Ki-tô đã âm mưu điều khiển loài người trong một thời gian rất dài. Giê-su đã khoác lấy chính xu hướng này, là xu hướng mù quáng đi theo kẻ cầm đầu mà không chịu lãnh trách nhiệm về đời mình và con đường của mình. Suốt 2000 năm qua thày đã gánh lấy tội lỗi đó, trạng thái tâm thức nhị nguyên đó, mong rằng loài người sẽ dùng giáo lý của thày để biểu hiện quả vị Ki-tô của mình, để mài sắc khả năng phân biện cá nhân của mình, hầu nhìn thấu các lời gian dối do các lãnh đạo mù đó chủ xướng.

Vì lãnh đạo mù đã xâm nhập đạo Cơ đốc, hầu hết mọi người vẫn chưa có cái hiểu ý thức về sự hiện hữu của lớp lãnh đạo mù và làm thế nào tâm thức nhị nguyên của họ đã ảnh hưởng mọi khía cạnh cuộc sống trên trái đất. Nếu con không nhận ra là con bị kẹt trong một ảo ảnh thì làm sao con có thể thoát khỏi ảo ảnh đó? Do sứ vụ của Giê-su, hàng triệu người trên trái đất đã được chuẩn bị để có thể rất mau chóng giải thoát mình khỏi ảo ảnh nhị nguyên này và ngộ ra mình đã là người mù quáng đi theo những kẻ cầm đầu mù quáng. Trên hành tinh này có một tiềm năng thực sự cho một sự thức tỉnh hàng loạt, qua đó hàng triệu người sẽ đạt được nhận biết mới về khía cạnh tâm linh của cuộc sống cùng con đường chân chính đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Điều này có thể xảy ra một sớm một chiều, và chắc chắn có thể xảy ra trong vòng một chục năm.

Nếu quả thật điều này xảy ra, con sẽ thấy hành tinh này thay đổi sâu đậm. Con sẽ thấy hành tinh địa cầu bước vào một thời đại hoàng kim của tự do lớn hơn, cả tự do vật chất lẫn tinh thần, và của dồi dào lớn hơn, cà dồi dào vật chất lẫn tinh thần. Đây là tiềm năng thật sự của thời đại hôm nay. Đây là một tiềm năng rất gần trở thành hiện thực vật lý, nhưng sẽ không thể là một hiện thực cho đến khi một khối người tới hạn (critical mass) chấp nhận đó là một hiện thực vật lý. Để chấp nhận vương quốc Thượng đế là một thực tại biểu hiện trên trái đất, con phải trước tiên chấp nhận vương quốc Thượng đế như một thực tại trong chính tâm thức và bản thể của con. Mục đích khóa học này không chỉ là để giúp con có được sự sống dồi dào cho con, mà giúp con nhìn ra là con đang ở đây để làm người tiên phong cho một thời đại hoàng kim sẽ đem lại sự sống dồi dào cho mọi người, bằng cách vĩnh viễn trục xuất những kẻ cầm đầu mù quáng – cùng với tâm thức tách biệt và thiếu thốn của họ – ra khỏi hành tinh.

5.7. Hoàn thành sứ vụ của Giê-su

Giê-su có nói: “Ta đã đến thế gian để phán xử, để những ai không thấy thì có thể thấy, còn ai đang thấy thì hóa mù” (John 9:39). Phán xử là một cơ hội để một người đứng trước một chọn lựa có thể chọn là ngày hôm nay mình sẽ phục vụ cho ai. Chọn lựa thực sự là liệu người đó sẽ phục vụ tâm Ki-tô hay tâm phản Ki-tô. Mọi khía cạnh cuộc sống trên hành tinh này đã bị tâm phản Ki-tô ảnh hưởng, với hậu quả là hầu hết mọi người không có chọn lựa nào giữa tâm Ki-tô và tâm phản Ki-tô. Tất cả những gì họ đã được dạy dỗ để tin tưởng đều bị tâm phản Ki-tô chi phối. Làm sao họ có được cơ hội chọn lựa sẽ phục vụ ai đây? Họ sẽ chỉ có được cơ hội này khi họ gặp một người thể hiện được một trình độ quả vị Ki-tô cao hơn họ. Khi gặp người này, họ chợt nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, họ nhận ra có một trạng thái tâm thức cao hơn. Đây chính là điều xảy ra khi người đời gặp Giê-su.

Thày đã bước chân với Giê-su rất nhiều lần, và thày đã thấy người ta phản ứng thế nào khi gặp Giê-su. Hiển nhiên là có nhiều loại phản ứng, nhưng thày có thể nói là rất ít người có thể gặp Giê-su bằng xương bằng thịt mà vẫn thờ ơ. Gần như ai ai cũng cảm được có gì đặc biệt nơi Giê-su, không phải là con người vỏ ngoài có gì đặc biệt mà họ cảm thấy Giê-su đã đạt được tâm thức Ki-tô, Giê-su là cánh cửa mở cho Ánh sáng Ki-tô hoàn vũ chiếu rọi vào bóng tối của thế gian. Khi gặp Giê-su, ký ức nội tâm của họ được đánh thức, và giờ đây họ có cơ hội nhìn nhận ký ức nội tâm này và cất bước trên con đường dẫn vể nhà. Một số đã chọn phủ nhận ký ức đó hay dùng một đường lý luận nhị nguyên để bác bỏ nó, nhưng ít ra họ đã có một cơ hội.

Khi họ gặp ánh sáng từ cao rọi xuyên qua Giê-su, họ có cơ hội chọn lựa, hoặc quay đầu lại và phụng sự ánh sáng đó, hoặc cứ tiếp tục phục vụ bóng tối của tâm phản Ki-tô. Liệu họ có sẵn lòng nhìn nhận rằng nếu Giê-su đã có thể đạt được quả vị Ki-tô thì có lẽ chính họ cũng có thể? Hay họ sẽ chối bỏ là họ có tiềm năng khoác vào tâm Ki-tô và cho phép tâm này ngụ trong họ vì tâm này cũng ngụ trong Ki-tô Giê-su (Philippians 2:5)? Đây là chọn lựa chân thực mà con người trong thời đại này phải đối mặt. Liệu họ sẽ tiếp tục đi theo các lãnh đạo giả của phản Ki-tô, hay rốt cuộc họ sẽ tách mình ra khỏi nhị nguyên và bước theo sự thật Ki-tô?

Con yêu dấu, con phải đối mặt với chọn lựa này ở mức cá nhân, và thày đã làm tất cả những gì thày có thể nghĩ tới để giúp con dễ chọn lựa hơn, là con chọn chấp nhận tiềm năng Ki-tô của mình, cất bước trên con đường Ki-tô, chối từ cái ta hữu diệt của mình, vác cây thập tự của mình và noi theo gương Giê-su. Khi con đi theo con đường này và khoác vào một phần lớn hơn của quả vị Ki-tô của mình, đến lượt con thật sự trở thành công cụ cống hiến cho người khác cùng chọn lựa đó. Mỗi người đã được Thượng đế phú cho quyền tự quyết, cho nên con và mọi người đều có quyền chối bỏ con đường quả vị Ki-tô hay tiềm năng đi theo con đường này. Dù người khác có chấp nhận hay chối bỏ tiềm năng cùa họ, đây không phải là quan tâm của con. Vai trò của con là cống hiến cho họ cơ hội chọn lựa, xong con để yên cho họ quyết định họ muốn làm gì với chọn lựa. Để có thể cống hiến chọn lựa cho họ, chính con phải tự thân bước trên con đường này và thể hiện một cấp độ quả vị Ki-tô nào đó cho phép người khác cảm được nơi con có gì khác lạ, rằng con có gì đó mà họ không có. Cái con có chính là ánh sáng lớn hơn của đứa Con Thượng đế (the Son of God), của Mặt trời Thượng đế (the Sun of God).

Khi họ cảm được ánh sáng này, nó sẽ đánh thức lại trong họ ký ức nội tâm là cuộc sống có gì nhiều hơn, và nhiều người trong số họ sẽ nhận chân được ký ức này. Họ sẽ nhìn con và nói: “Bạn không khác tôi bao nhiêu. Nếu bạn có thể trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng Thượng đế thì có lẽ chính tôi cũng có thể?” Giê-su đã đến hành tinh này để chứng tỏ qua tấm gương của mình con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân. Vì các thày giả đã thâm nhập đạo Cơ đốc và biến Giê-su thành một thần tượng, rất ít người trên hành tinh đã làm theo gương của thày. Đó là vì sao thời đại hôm nay rất cần đến những người sẵn lòng nhìn thấu giáo điều tôn thờ thần tượng mà thày giả đã xây dựng và thay vào đó bước theo con đường dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân.

Chỉ khi nào hàng triệu người làm như vậy thì trong tâm thức tập thể mới có thể có một sự thức tỉnh. Người ta có thể chấp nhận con đường quả vị Ki-tô vì con đường này được chứng minh cho họ qua tấm gương của những người cũng giống như họ. Quá nhiều người đã lớn lên và được dạy dỗ để thấy Giê-su rất khác mình, và họ không thể nhận ra chính họ trong con người Giê-su. Làm sao họ có thể chấp nhận câu nói của thày rằng những ai tin thày sẽ làm được những công việc thày đã làm (John 14:12)? Làm sao họ có thể xem thày là một tấm gương để noi theo nếu thày quá khác họ – nào thày sinh ra từ một nữ đồng trinh, nào thày chính là Thượng đế ngay từ đầu, nào thày có thể làm tất cả những phép lạ kia mà họ không thể làm?

Âm mưu của các thày giả là phá hoại sứ vụ của Giê-su. Thày đang ở đây, đang trao cho con khóa học này, vì thày yêu con và thày yêu Giê-su. Thày muốn thấy sứ vụ của Giê-su trở thành một chiến thắng trên hành tinh này. Thày muốn thấy điều đó vì tình yêu vô biên của thày cho Giê-su, nhưng xin con chấp nhận là thày không yêu Giê-su nhiều hơn con. Vì tình yêu của thày cho con nên thày cũng muốn thấy con khám phá sự thật về sứ vụ của Giê-su để con có thể bước chân theo và giải thoát mình khỏi tâm phản Ki-tô. Thày muốn con được tự do khỏi kẻ thù bên ngoài tức ông hoàng của thế gian, lẫn kẻ thù bên trong tức cái ta hữu diệt của con.

Tình yêu của thày vô điều kiện, và thày sẽ không chấp nhận bất cứ điều kiện nào giam con lại trong cái ta hữu diệt này. Thày đã đến để trao con một khóa học chứa đựng sự thật có khả năng giài thoát con, nếu con đón nhận nó và cho phép nó tác động giống như chất men sẽ nâng cao toàn bộ tâm thức của con (Matthew 13:33). Nếu con chấp nhận sự thật mà thày cho con, sự thật này quả thực sẽ giải thoát con khỏi mọi lời dối của phản Ki-tô. Đây không chỉ là một lời hứa suông. Đây là thực tế!

Vấn đề hầu hết mọi người phải đối mặt là họ đã lớn lên trong một thế giới đầy rẫy tin tưởng nhị nguyên. Họ sống trong nhà tù con người phàm và họ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ gì bên ngoài nhà tù. Họ sống trong một cái hộp bằng gạch hoàn toàn tăm tối và họ nghĩ không có gì khác hơn bóng tối. Khi con mở cửa tù ra và ánh sáng rực rỡ của mặt trời chiếu rọi qua cánh cửa, ảo tưởng cho rằng chỉ có bóng tối sẽ lập tức tan biến.

Bóng tổi không có thực thể trong Thượng đế. Cái gì không có thực chất bất diệt không thể có quyền lực nào trên con vì con là một sinh thể tâm linh bất diệt. Nó chỉ có thể ảnh hưởng con chừng nào con nghĩ nó có thực chất. Ngay khi ánh sáng Ki-tô đi vào bản thể con và xua tan ảo tưởng cho rằng không có gì khác hơn nhị nguyên, con sẽ giải thoát khỏi ảo tưởng đó. Đây không phài là chuyện mơ mộng ao ước, mà là một thực tế con có thể chứng minh bằng cách đi vào một căn phòng tối và bật đèn lên.

5.8. Đem ánh sáng vào bóng tối

Con hãy lưu ý sự khác biệt vi tế ở đây. Mục đích của cuộc sống là đem ánh sáng vào bóng tối của khoảng trống không. Khoảng trống không nguyên thủy không có gì trong đó và vì thế nó tối. Bóng tối này không thiện mà cũng không ác, nó chỉ đơn giản là sự thiếu vắng ánh sáng. Nó không là cùng một thứ với điều con người gọi là ác. Vì con người đã thử nghiệm với quả trái của hiểu biết về thiện ác, cho nên họ đã tạo ra một tình trạng có hai đối cực tương đối che khuất cả ánh sáng của Thượng đế lẫn bóng tối nguyên thủy của khoảng trống không. Loài người, bị cầm đầu bởi lãnh đạo mù là các thày giả, đã bị lừa gạt để mà tạo ra những hình ảnh tương đối, nhị nguyên, của riêng mình về thiện và ác. Ác có vẻ tối tăm và thiện có vẻ sáng sủa, và đó là tại sao Paul mới nói: “Chính Satan cũng hóa thành một thiên thần ánh sáng” (2Corinthians 11:14). Cả hai đối cực tương đối này đều không thể hiện thực chất của ánh sáng Thượng đế lẫn bóng tối của khoảng trống không. Cả hai đều không có thực tế tối hậu nào vì chúng chỉ hiện hữu như những hình ảnh tạm thời được chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật bởi các sinh thể tự nhận biết đang mắc kẹt trong tâm phản Ki-tô.

Vì con người bị lừa dối nên họ đã dần dần tin rằng cái ác là một thực tế hiển hiện, rằng nó tồn tại thực sự như là đối nghịch của Thượng đế. Họ đã dần dần tin rằng những gì được các thẩm quyền tôn giáo hay chính trị định nghĩa là thiện cũng thật sự là thiện trong thực tại của Thượng đế. Đây chẳng qua là một màn ngụy trang. Cả thiện lẫn ác khởi lên từ tâm thức nhị nguyên đều không có thực tế tối hậu nào. Điều con người gọi là ác chỉ đơn giản là một ảo tưởng khi ánh sáng Ki-tô vắng mặt. Ngay cả điều con người gọi là thiện cũng chỉ là cái thiện tương đối, đó cũng là một ảo tưởng khi cái thiện lớn hơn vắng mặt, cái thiện tuyệt đối của tâm Ki-tô. Con người đã bị mắc kẹt vào một trò chơi bất tận dựa trên ảo tưởng là có một cuộc chiến giữa thiện và ác trên hành tinh này. Nhưng trận chiến chỉ diễn ra giữa cái thiện tương đối và cái ác tương đối, và cả hai lực này đều do tâm thức nhị nguyên quy định. Chúng không có thực tế nào, chúng không có lẽ thật nào trong chúng, chúng không có sự sống nào trong chúng. Đằng sau các ảo tưởng này, đằng sau các ảo ảnh hiện ra trong sa mạc, là thực tại của Thượng đế neo trụ hằng thường trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tâm thức phản Ki-tô không thật sự đối chọi với tâm Ki-tô vì sự thật Ki-tô không hề có đối nghịch.

Các thế lực phản Ki-tô tin là họ đối nghịch với tâm Ki-tô, nhưng sự đối nghịch này chỉ hiện hữu trong tâm họ. Nó chỉ có thể hiện hữu vì họ bám vào cái ta hữu diệt sinh ra từ sự tách biệt với cái Tất cả. Đối với Thượng đế thì không có thực tế nào trong họ, không có sự sống nào trong họ. Tất cả mọi thứ họ đã gầy dựng trên trái đất giống như Tháp Babel. Họ tìm cách cưỡng chiếm thiên đàng bằng cách xây dựng một tòa tháp cao tới tận trời, nhưng đó chỉ là một ngôi nhà xây trên cát. Chắc chắn nó sẽ sụp đổ vì lực co lại của Đấng Mẹ sẽ hủy diệt nó, y như mọi thứ khác không thẳng hàng với thực tại của Thượng đế cũng bị hủy diệt.

5.9. Bước ra khỏi tâm thức vật lộn

Con có thể tiếp tục trò chơi quanh co, trò chơi nhị nguyên này, qua đó con có thể nghĩ mình là một người tâm linh hay mộ đạo đang rõ ràng chiến đấu về phe Ki-tô bằng cách đánh nhau với các thế lực mà con tin là xấu ác. Kỳ thực con chỉ là một con tốt trong ván cờ nhị nguyên của phản Ki-tô nơi không bên nào đại diện cho sự thật tuyệt đối của Ki-tô. Nhiều người sẽ khó lòng chấp nhận lời dạy này. Họ sẽ khó lòng thừa nhận là những gì họ đã luôn luôn tin tưởng là đại nghĩa cao cả thật ra có thể là một ảo tưởng dựa trên tâm phản Ki-tô. Nhiều người cũng sẽ khó lòng tin rằng một người tâm linh không nên chiến đấu chống lại cái ác của con người. Tại sao con nghĩ Giê-su lại nói: “Nhưng ta nói với con, đừng chống cự cái ác. Trái lại, nếu có ai tát con bên má phải, con hãy quay má trái luôn cho họ” (Matthew 5:39)? Giê-su đang bảo những ai theo thày hãy vươn lên cao hơn trò chơi nhị nguyên của thiện ác tương đối. Khi con chiến đấu với cái ác của con người, con chỉ tự nhốt mình chặt hơn vào trạng thái tâm thức nhị nguyên.

Con có thể tiếp tục trò chơi này cho đến mãn kiếp và thêm nhiều kiếp nữa. Khi con mệt mỏi cuộc đấu tranh bất tận này, thày sẽ ở đó để chỉ cho con thấy là có một cách khác. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi cuộc vật lộn nhị nguyên không bao giờ chấm dứt giữa hai thế lực, vì cả hai đều không thuộc về Thượng đế. Có một con đường sẽ dẫn con vượt khỏi mọi cuộc vật lộn bằng cách đưa con vượt khỏi các lực đối chọi và nhập vào cái một của tâm Ki-tô nơi không có phân rẽ, không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17). Mọi thiện ác tương đối được thay thế bởi ánh sáng thuần đơn của Mặt trời Thượng đế.

Giê-su đã đến để cống hiến loài người con đường này 2000 năm về trước. Giê-su đang ở đây ngày hôm nay để cống hiến con đường này cho con. Như thày vẫn nói: “Ta sẽ ở với con luôn luôn, ngay cả đến ngày tận thế” (Matthew 28:20). Ngày tận thế không có nghĩa là trái đất sẽ không còn tồn tại, như nhiều người Cơ đốc tin tưởng. Ngày tận thế có nghĩa là sự chấm dứt nhị nguyên, sự tận cùng của nền thống trị của nhị nguyên trên hành tinh này. Ngày tận thế có nghĩa là thời điểm có một số người tới hạn thăng lên tâm thức Ki-tô. Họ đòi lại trái đất cho Ki-tô để Thượng đế có thể trục xuất ông hoàng của thế gian khỏi thế gian. Ki-tô sẽ hiện ra như vị vua sẽ mãi mãi ngự trị trên trái đất vì trái đất giờ đây đã trở thành vương quốc của Thượng đế.

Con có thể là một người đi tiên phong cho sự kiện này, nhưng con chỉ có thể làm vậy nếu con sẵn lòng vác cây thập tự của mình và thanh lọc bản thể mình một cách hệ thống cho không còn lời dối nào của phản Ki-tô. Nếu con sẵn lòng đi theo con đường chân truyền này thì thày sẽ sẵn lòng nắm tay con và đồng hành với con trên mỗi bước cuộc hành trình. Con đường này không phải là con Đường Thương khó, không phải là một cuộc chiến đấu bất tận. Con đường chân truyền của Ki-tô là con đường tình thương, con đường an lạc, con đường tự do, con đường của sự sống dồi dào. Con có khả năng thoát khỏi cảm nhận vật lộn bằng cách xoay chuyển ý niệm bản sắc của mình xa khỏi cuộc chiến đấu nhị nguyên.

Một số người đã sẵn sàng làm cuộc xoay chuyển này, và họ có thể làm vậy tức khắc. Thật sự con chỉ cần một quyết định, và con không thể lấy quyết định nào trong quá khứ cũng như trong tương lai. Con chỉ có thể lấy quyết định trong hiện tại, nghĩa là con có thể lấy quyết định từ bỏ cuộc chiến đấu bất cứ lúc nào. Con sẽ không thoát khỏi cuộc chiến cho đến khi con quyết định là con còn không chấp nhận hình ảnh cuộc sống là một cuộc chiến. Con không thể lấy quyết định này cho đến khi con quyết định là con lấy quyết định ngay bây giờ.

Thày biết rõ là đối với một số người, thời điểm họ có thể lấy quyết định này vẫn chưa đến. Lý do là vì họ vẫn quá đồng hóa với cái ta hữu diệt. Nếu đây là trường hợp của con, đừng sợ hãi. Trong phần còn lại của khóa học này, thày sẽ cho con những dụng cụ cần thiết để con tự giải thoát khỏi ách thống trị của cái ta hữu diệt này, hầu con có thể chấp nhận tự do của mình, là sự tự do con chưa hề mất bao giờ, mà trái lại vẫn luôn thuộc về con để con đòi lại trong hiện tại vĩnh cửu – tức là giây phút độc nhất hằng có.

3 | Cái ta hữu diệt ngăn chặn sự dồi dào như thế nào?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 13/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, thày biết khi thày nói với con rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết đi thì chuyện này nghe có vẻ to tát quá. Nó không đến nỗi to lớn như nó có vẻ. Tất cả mọi sinh thể tự nhận biết mang nỗi sợ rất lớn bị mất bản sắc của mình, ý niệm cái ta của mình. Sự tồn tại của con dựa trên sự kiện con có những đặc tính cá nhân khiến con là một sinh thể cá biệt. Con được sinh tạo để nhân rộng cá thể của mình và nắm quyền cai quản, trước tiên cái ta của mình, và sau đó thế giới nơi con sống. Điều cuối cùng con muốn là đánh mất cá thể của con, đánh mất cái ta của con. Thoạt nhìn, thật có vẻ đáng sợ khi nghĩ đến việc mình phải bỏ ý niệm bản sắc hiện thời của mình. Tuy nhiên, ý niệm bản sắc hiện thời của con không phải là cá thể thật của con. Ngược lại, đó là một hình ảnh hạn hẹp về chính mình đang che phủ vẻ đẹp bội phần cùng sự toàn hảo của cá thể mà Thượng đế đã phú cho con.

Con đã có mất gì không khi cơ thể của con đi qua tiến trình lớn lên từ một hài nhi thành một người trưởng thành? Chắc chắn con đã mất cơ thể một đứa bé và bây giờ con có cơ thể một người trưởng thành, nhưng liệu đây là mất mát hay thật ra là một món lợi? Nếu thày bảo thày sẽ cho con một triệu đô nếu con cho thày một đô, liệu con có mất gì chăng trong trao đổi này? Ừ con sẽ mất một đô, nhưng thay vào đó con được một triệu và như vậy con vẫn được lời quá đỗi so với trước đó. Con thật không mất gì cả khi cái con mất được thay thế bởi cái gì tốt hơn. Cá thể đích thực của con – mà Thượng đế đã cho con lúc ban đầu – đẹp và tuyệt hảo hơn một triệu lần so với cá thể con đã được dạy dỗ để chấp nhận trong thế giới duy vật hôm nay. Không có mất mát gì mà chỉ có lợi lạc cho con cũng như cho cái Ta lớn, tức là Thân thể Thượng đế mà con là một thành phần.

Khi con bước xuống trạng thái tâm thức thấp hơn, tâm thức nhị nguyên, tâm phản Ki-tô, con đã làm vậy một cách lần hồi. Khi con đi ngược trở lên tâm thức Ki-tô, trở lên bản sắc thực của con, điều này cũng sẽ xảy ra lần hồi. Con sẽ không gặp phải tình trạng ý niệm cái ta hiện thời chết đi mà không có gì thế vào đó. Con sẽ lần hồi vươn lên một ý niệm cái ta cao hơn và một giá trị bản thân cao hơn, cho nên con không bao giờ phải cảm thấy mất mát mà chỉ cảm thấy lợi lộc. Thật không có gì phải sợ. Khi con bước qua các chương kế tiếp và thực hành các dụng cụ thày cho con trong khóa này, một ngày kia con sẽ khắc phục nỗi sợ đó vì con mở cửa ra với Sinh thể lớn hơn mà con thực là. Rồi khi con bước trên con đường tuần tự nhằm tái lập sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, một ngày kia con sẽ trải nghiệm một tia sáng từ mặt trời Hiện diện TA LÀ rọi trực tiếp vào bản thể thấp của con. Khi tia sáng này tràn ngập bản thể con, con sẽ trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Hiện diện của con cùng Đấng Sáng tạo của con đã dành cho con. Tình thương tuyệt hảo này sẽ xua tan mọi nỗi sợ của con.

3.1. Con sẽ vật lộn nếu con không để cái ta hữu diệt chết đi

Con yêu dấu, tại sao thày lại nói với con rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết? Tại sao thày lại gửi cho con một thông điệp có vẻ đáng sợ và không mấy hấp dẫn đối với cái ta hiện thời của con? Tại sao thày thẳng thắn như vậy thay vì bán cho con một thông điệp nhẹ nhàng hơn, hấp dẫn hơn, sẽ khiến đường tu có vẻ dễ dàng hơn, êm xuôi hơn? Tại sao tạo rủi ro làm hoảng sợ những ai không sẵn sàng đối mặt với nỗi sợ của mình? Thày làm việc này vì nhiều lý do, nhưng một trong các lý do chính là vì thày muốn trao cho con con đường chân chính dẫn đến sự sống dồi dào, thậm chí sự sống vĩnh hằng.

Các đạo sư giả sẽ hứa hẹn là con có thể biểu hiện dồi dào của Thượng đế, hay ngay cả được cứu rỗi, mà không phải buông bỏ ý niệm cái ta hiện thời của mình, không phải để cho ý niệm cái ta hữu diệt (mortal) chết đi. Đây là một thông điệp vô cùng hấp dẫn cho cái ta hữu diệt của con, và cũng là tại sao những ai bị kẹt trong cái ta hữu diệt đó sẽ vui lòng mua hàng của đạo sư giả. Đây cũng là con đường có vẻ đúng đắn cho con người phàm nhưng sẽ không bao giờ có thể dẫn đến sự sống dồi dào đích thực kéo dài đến vĩnh hằng. Động lực trước hết và trên hết khi thày trao cho con sự thật khó ưa và ngược với thị hiếu con người chính là vì đó sự thật. Chỉ có sự thật mới giải thoát con.

Một lý do quan trọng khác là khi con biết và chấp nhận sự thật rằng ý niệm cái ta hiện thời của con phải chết – để con có thể được tái sinh vào một cái ta cao hơn, tâm linh hơn – thì đường tu của con sẽ dễ dàng hơn gấp bội. Suốt 2000 năm kể từ khi thăng thiên, thày đã chứng kiến hàng bao triệu người thành tâm cố gắng thực hành các lời dạy mà Giê-su yêu dấu của thày đã ban ra. Thày đã nhìn thấy biết bao con tim chân thành xả thân bước trên con đường mà các giáo hội Cơ đốc chính thức truyền lại cho họ. Vì các giáo hội này đã loại bỏ một số khái niệm cốt yếu nhất mà Giê-su đã dạy – họ đã tước mất chìa khóa của hiểu biết – cho nên hầu hết tín đồ Cơ đốc thành tâm không có được tầm hiểu chân chính về việc để cho cái ta hữu diệt chết đi rồi từ đó tái sinh vào một ý niệm cái ta tâm linh, bất diệt. Nhiều người trong số đó bị kẹt vào con đường giả, tìm cách toàn thiện cái ta hữu diệt, tìm cách thích ứng nó theo những gì họ được dạy bảo là các lý tưởng do Ki-tô giảng dạy. Điều này đã khiến nhiều người dùng tâm vỏ ngoài tạo dựng một lý tưởng, một hình tư tưởng, một thần tượng về một tín đồ chân chính của Ki-tô phải như thế nào, phải cư xử ra sao. Họ đã bỏ ra cả đời người, thường thường với lòng thành tâm và sùng bái cao độ, tìm cách dùng ý chí vỏ ngoài để uốn nắn bản thân mình cho rập khuôn hình tư tưởng đó.

Đây thường là một cuộc vật lộn gian nan, và lý do đơn giản là vì cho đến khi con để cho cái ta hữu diệt chết đi, không thể nào tránh được con là một ngôi nhà bị phân rẽ với chính nó (Mark 3:25). Mỗi lần cái Ta Biết bước một bước gần hơn với quả vị Ki-tô, cái ta hữu diệt sẽ kéo con ngược lại, và như thế con bị kẹt trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan được Paul mô tả: “Tôi không làm điều lành mình muốn, nhưng làm điều dữ mình không muốn” (Romans 7:19). Điều này đã khiến biết bao người thành tâm cảm thấy xấu hổ hay tội lỗi vì họ không thể sống theo hình ảnh mà giáo hội của họ đã cho họ, một tâm ảnh ngay từ đầu đã dựa trên nhị nguyên của phản Ki-tô. Đó là một hình ảnh giả trá, có nghĩa là không một ai có thể sống đúng theo thần tượng đó về con người toàn hảo, một thần tượng không ăn nhập gì với sự toàn hảo của con tim. Con có nhớ lời Giê-su bảo rằng chỉ những ai có lòng trong sạch mới thấy được Thượng đế (Matthew 5:8)? Ý nghĩa thật là Thượng đế không đòi hỏi con biểu hiện một sự toàn hảo vỏ ngoài, thế phàm, dựa trên một lý tưởng xuất phát từ tâm phản Ki-tô, mà ngài tìm một phẩm chất nội tâm, cụ thể là sự tinh khiết của tim con. Làm thế nào con đạt được con tim tinh khiết? Bằng cách để cho cái ta ô nhiễm, cái ta hữu diệt chết đi, hầu nó có thể được thay thế bởi cái ta thực của con, cái ta mà Thượng đế đã tạo ra trong sự toàn hảo thiêng liêng chưa bao giờ xa rời toàn hảo.

3.2. Lực phản Ki-tô của lớp thượng tôn quyền lực

Ôi con yêu dấu, khi thày nghĩ đến nỗi khổ biết bao người sùng đạo chân thành phải chịu đựng, tim thày tràn ngập lòng trắc ẩn pha chút buồn bã. Thày thấy biết bao người bước chân trên con Đường Thương khó trọn một kiếp người, và có khi cả mấy kiếp, cho đến khi cuối cùng họ kiệt sức vì căng thẳng và nhận ra có gì đó không ổn, có gì đó thiếu sót. Thường thường họ không hiểu nổi cái không ổn là gì, và cuối cùng thì nhiều người cảm thấy chắc hẳn mình đã bị hứa hão, mình đã bị Giê-su hứa hão. Mặc dù họ đã theo con đường mà Giê-su dường như đã vạch, họ đã không đạt đến trạng thái tâm thức, trạng thái ân sủng mà họ gọi là quả thánh hay bất kỳ tên gọi nào khác. Nhiều người như thế rốt cuộc thất vọng về đạo Cơ đốc chính thống và họ tức giận với chính Giê-su. Nhiều người hiện đang đầu thai trong xã hội duy vật hôm nay và đang chối bỏ đạo Cơ đốc, đã trong nhiều kiếp cần mẫn bước theo con đường do các giáo hội Cơ đốc chính thống vạch ra. Họ đã quá thất vọng với con đường đó đến độ trong kiếp này họ sẽ không chấp nhận sự đạo đức giả của đạo Cơ đốc chính thống được nữa. Thế là họ vứt đứa bé Ki-tô cùng với nước tắm dơ của giáo hội, và họ bỏ luôn cả Giê-su cùng với thông điệp của thày. Một số trở thành những kẻ vô thần, những tín đồ của tôn giáo khoa học duy vật. Một số khác không theo bất kỳ tôn giáo nào, chìm đắm trong lòng thờ ơ đối với khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Nhiều người gia nhập cái gọi là phong trào Thời Mới cho nên họ quyết định đi theo những giáo lý hay đạo sư tâm linh khác, nhưng họ tránh né Giê-su như hủi lở.

Đây là một gánh nặng trĩu trong tim thày vì thày biết rõ niệm tinh khôi mà phong trào Cơ đốc đã có thể trở thành. Thày thấy được tác động to lớn mà phong trào này đã có thể đem lại trên hành tinh trái đất nếu ít nhất một túc số tín đồ Cơ đốc đã kiên trinh với các lời dạy tâm truyền của Giê-su. Hãy tưởng tượng điều gì đã có thể xảy ra nếu, trong 2000 năm qua, thông điệp chính của phong trào Cơ đốc khẳng định Giê-su là một tấm gương để noi theo, rằng mọi người đều có tiềm năng bước theo vết chân thày và đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Hãy nhìn vào tác động của sứ mạng ngắn ngủi của Giê-su trên hành tinh này, rồi nhìn xem tác động đã có thể như thế nào nếu hàng ngàn người đạt được cùng một trạng thái tâm thức như thày và đã đem lại những ý tưởng cùng lời dạy mới hầu đưa nhân loại tiến tới.

Với mức tâm thức và hiểu biết hiện tại của con, có thể con khó hình dung được chuyện gì đã có thể xảy ra, nhưng thày có thể cam đoan với con là địa cầu sẽ khác hẳn ngày nay đến mức con khó lòng nhận diện được. Trước đây thày có yêu cầu con xem xét cuộc vật lộn của con người, cuộc đấu tranh quyền lực của con người. Thày có nói là ngày nay con chứng kiến tình trạng một thiểu số thượng tôn quyền lực đã thành công chiếm đoạt quyền lực, của cải cùng tài nguyên thiên nhiên. Nếu lời hứa đích thực của đạo Cơ đốc đã được hiện thực, thì tầng lớp thượng tôn quyền lực kia đã từ lâu biến mất khỏi trái đất, và con đã chứng kiến một xã hội có sự dồi dào và bình đẳng lớn hơn rất nhiều cho mọi người.

Khi con nhìn địa cầu hôm nay, liệu con có thể thực sự tin rằng Giê-su mong muốn một xã hội bất công với một vài phần trăm dân số ở các nước giàu có kiểm soát phần lớn của cải? Liệu con có thể thực sự tin rằng Giê-su mong muốn một xã hội toàn cầu với một vài nước giàu có tiêu thụ phần lớn tài nguyên, trong khi hàng triệu trẻ em tại các nước nghèo có nguy cơ chết đói – và thật vậy mỗi năm có hàng triệu đứa bé chết đói? Con thử hình dung vị thày tâm linh đã mở rộng vòng tay đến người cùi và nhiều thành phần bị ruồng bỏ khác, sẽ chấp nhận và khoan thứ một tình trạng như thế? Ôi con yêu dấu, vậy con có cảm được lòng sôi sục của thày khi thày nói với con rằng sự kiện đạo Cơ đốc chính thống đã được dùng để biện minh cho bất công này là một điều ghê tởm, một sự nhạo báng hoàn toàn các lời dạy nội tâm của Giê-su? Giê-su đã chẳng dạy hay sao: “Hễ các con làm việc đó cho người hèn mọn nhất trong số anh em ta, thì con cũng đã làm cho ta” (Matthew 25:40)? Thày đã chẳng dạy mọi người hãy làm cho người khác những gì mình muốn người khác làm cho mình hay sao (Matthew 7:12)?

Sự kiện giáo lý nguyên thủy của Giê-su bị đánh mất quả thực là thảm kịch lớn nhất đã xảy ra trên hành tinh địa cầu trong lịch sử được ghi lại. Đó là một thảm kịch chính vì tiềm năng để xây dựng một xã hội dồi dào với cơ hội bình đẳng cho mọi người đã lớn đến như vậy. Lời hứa đó cho đến giờ vẫn chưa thành hiện thực. Thay vào đó, đạo Cơ đốc chính thống đã biến thành công cụ cho các thày giả sử dụng những phiên bản hủ hóa của giáo lý Giê-su để biện hộ cho chủ nghĩa thượng tôn và siết cổ quần chúng. Con hãy nhìn vào thực tế lịch sử – suốt nhiều thế kỷ – chính giáo hội tự nhận mình là giáo hội chân chính duy nhất của Giê-su Ki-tô đã bóp nghẹt đời sống tư tưởng và tôn giáo ở châu Âu như thế nào. Con nhìn xem làm thế nào trong thời đại đen tối, Giáo hội đã ngăn chặn mọi tư tưởng mới và mọi sáng chế mới khởi phát, và do đó đã giữ toàn bộ xã hội trong tình trạng lạc hậu nơi người dân phải làm nô lệ cho một thiểu số thượng tôn. Con nhìn xem làm thế nào cùng giáo hội đó đã cố ngăn chặn sự phát triển của khoa học, giáo dục và công nghệ nhằm giảm bớt gánh nặng của người dân thường. Con nhìn xem làm thế nào cùng giáo hội đó đã xây cất những nhà thờ và cung điện nguy nga cho lãnh đạo của mình trong khi phần lớn dân chúng chết đói hay phải sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực. Liệu con có thể bảo rằng một giáo hội như thế đại diện cho Giê-su Ki-tô và giáo lý đích thực của thày?

Không, con không thể. Nếu con thành thật với chính mình, con sẽ nhận ra sự dối trá của một số giáo điều chính thống cùng khoảng cách vĩ đại giữa quả trái của đạo Cơ đốc chính thống với các lời dạy chân truyền của Ki-tô. Giê-su đã chẳng cảnh báo con về tiên tri giả hay sao: “Qua quả trái của chúng mà con biết chúng” (Matthew 7:20)? Và thật vậy, thày giả ở khắp mọi nơi, trong nhà thờ, trong chính quyền, trong truyền thông, trong khoa học. Họ là kẻ dùng quyền lực của mình để giữ vững cho hiện trạng không thay đổi, để bảo con rằng cái ngã hữu diệt là thẩm quyền tối thượng trên hành tinh trái đất, và không có thẩm quyền nào cao hơn sự thật tương đối mà – vào lúc này – họ tuyên bố là sự thật tuyệt đối, và họ dùng cái đó để bào chữa cho đặc quyền đặc lợi của họ. Trên hành tinh này có một thiểu số thượng tôn đã dùng cái ta khởi lên từ trạng thái nhị nguyên, từ sự thật tương đối của ngã hữu diệt, để dựng lên một ông thần, một thượng đế giả, một thần tượng. Sự thật tương đối này của phản Ki-tô đã được cả giáo hội lẫn chính quyền nâng lên thành một sự thật tuyệt đối, không thể nghi ngờ và không thể thách thức. Đây đúng là sự gớm ghiếc của hoang tàn (Daniel 11:31) đang đứng ngay nơi thánh là nơi lẽ ra không nên đứng (Mark 13:14), và đây là lý do thực sự tại sao Giê-su đã lật bàn của bọn đổi tiền trong nhà thờ. Nếu Giê-su còn bước chân trên mặt đất ngày hôm nay, thày sẽ lại lật bàn của những kẻ đang bày hàng quảng cáo cho một sự thật tương đối dựa trên tâm phản Ki-tô trong cả giáo hội lẫn chính quyền, trong truyền thông, trong hệ thống giáo dục, trong các hệ thống chăm sóc sức khỏe và mọi lãnh vực khác của xã hội.

Tại sao thày lại đề cập vấn đề này một cách nhiệt thành như thế? Vì thày hy vọng sẽ lay con dậy với sự thật rằng nếu con muốn thực sự giành lại ý niệm cái ta bất tử của con, bản sắc tâm linh thực sự của con, con không thể chờ đợi điều này xảy ra mà không gặp sự kháng cự, chống đối từ các thế lực của thế gian. Các thế lực này đã hoành hành từ rất lâu trên hành tinh này, và chúng chính là thế lực đã giết chết Giê-su khi thày còn bước chân trên mặt đất và thách thức quyền lực của chúng trên loài người. Các thế lực này biết rõ là nếu người dân bắt đầu tin rằng Nước Trời ở bên trong mình (Luke 17:21) thì chúng sẽ không còn quyền lực nào nữa. Chúng đã phải giết chết vị thày đang trao sự thật đó cho dân chúng, là sự thật sẽ giải thoát họ khỏi lớp thượng tôn quyền lực.

Sau khi chúng giết Giê-su, chúng cũng toan giết tất cả những ai theo thày, và cuối cùng chúng thành công trong việc giết chết tấm gương của thày. Suốt gần 2000 năm, hiếm có ai dám bước theo chân Ki-tô, và không có ai dám tuyên bố mình là Ki-tô Hằng sống trước mặt các thế lực tại chức. Nhiều người tâm linh chân thành đã bước theo con đường vỏ ngoài, một con đường có vẻ đúng đắn đối với những ai bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Con đường này không bao giờ có thể dẫn họ đến mục tiêu đích thực là thay thế cái ta hữu diệt bằng cái ta thực. Con đường này không bao giờ có thể giúp họ giành lại quả vị Ki-tô của họ ở đây trên trái đất.

3.3. Con ý thức lực chống lại bước tăng triển của con

Con yêu dấu, nếu con muốn đòi lại ý niệm bản sắc bất tử của mình, con phải đi theo bước chân của Giê-su và xác nhận quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Khi làm vậy, con sẽ phải đâm thủng lực chống đối quả vị Ki-tô của con được biểu hiện qua lực phản Ki-tô đã chi phối mọi lãnh vực đời sống trên hành tinh. Trên hết và trước hết, con sẽ phải chọc thủng sự lập trình mà con đã hứng chịu từ thuở thơ ấu, thậm chí từ nhiều kiếp trước – một lập trình mà mục đích duy nhất là khiến con phủ nhận quả vị Ki-tô của mình.

Thày không nói điều này để gây sợ hãi trong con, mà thày nói điều này để cho con một ý niệm thực tế về những gì con cần làm hầu biểu hiện quả vị Ki-tô của con. Thày cũng nói điều này vì khi con nhận ra có lực chống lại quả vị Ki-tô của mình, con đạt được một tầm hiểu hoàn toàn mới và do đó con nhận được uy lực để khắc phục sự chống đối. Những gì con không biết quả thực có khả năng làm hại con, và nhiều người chân thành tìm cầu tâm linh đã bị cầm chân hay đã bỏ ngang bước tiến của mình vì họ không biết đến thế lực đang chống phá sự phát triển của họ. Làm sao con có thể tự vệ trước những gì con không hiểu hay không biết đang có mặt?

Suốt 2000 năm qua, thày đã chứng kiến hàng triệu người thành tâm nỗ lực để biểu hiện một trạng thái tâm thức tâm linh hơn, một cái nhìn tâm linh hơn về cuộc sống. Thày đã thấy họ trong đạo Cơ đốc, trong nhiều đạo khác và trong phong trào Thời Mới, thậm chí cả các phong trào không tâm linh công khai. Thày thấy họ, thày thấy được lòng thành tâm của họ, tình thương yêu trong tim họ. Thày cũng thấy mặc dù họ thành tâm và cố gắng vượt bực, họ vẫn không đạt được tiến bộ họ mong muốn. Họ không đạt được tiến bộ cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô. Nhiều người trong số họ cứ theo mô thức tiến lên một bước xong lùi lại một hay hai bước.

Ôi con yêu dấu, nếu con đã tham gia lãnh vực tự cải thiện (self-help) trong một thời gian, hay bất kỳ lãnh vực tu tập tâm linh nào, có lẽ con đã nhận thấy điều đó trong chính đời mình hay con đã quan sát thấy trong đời người khác. Quá nhiều người đột nhiên thức tỉnh và nhận ra cuộc sống là nhiều hơn, rằng cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Họ tìm thấy một giáo lý nào đó, một quyển sách hay một vị thày, bảo rằng cuộc sống là nhiều hơn, rằng họ có khả năng vươn cao hơn các hạn chế hiện tại của mình và biểu hiện một cuộc sống dồi dào hơn, cả về tinh thần lẫn vật chất. Họ trở nên rất nhiệt tình, và lý do là vì sâu thẳm trong chính họ, họ biết đó là sự thật, rằng họ có khả năng vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Ký ức nội tâm này đã được Thượng đế ghi sâu vào trong họ, không bao giờ có thể bị mất đi hoàn toàn. Khi con tìm được một vị thày hay một lời dạy vỏ ngoài gợi lại ký ức này, con biết là nó thực, và ngay lập tức con tỏ ra nhiệt tình. Tiếc thay, khi tới việc biểu hiện tâm thức cao hơn đó, biểu hiện lời hứa của giáo lý vỏ ngoài đó, hầu hết mọi người đều thấy rất khó thực hiện. Nhiều người đã nỗ lực chân thành, có khi hàng chục năm trời, mà vẫn không thực sự cảm thấy mình có tiến bộ, không thực sự cảm thấy lời hứa của giáo lý vỏ ngoài thành hình trong đời mình. Một số bỏ cuộc trong tuyệt vọng, họ bỏ luôn ý tưởng một con đường tâm linh, cho rằng đó chỉ là lời hứa hão huyền của một thày giả nào đó. À con yêu dấu, đây chính là âm mưu đằng sau hoạt động của các thày giả.

Có lẽ con từng nghe câu nói dân gian này: “Sự nản lòng là công cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ.” Câu này có chút sự thật trong đó, mặc dù ác quỷ còn nhiều dụng cụ khác có nhiều khả năng kéo con ra khỏi đường tu chân chính. Lòng chán nản là một vấn đề rất thực cho mọi người tìm kiếm tâm linh. Nếu con đã trải nghiệm nó trong đời mình, hay quan sát thấy nó trong đời người khác, con sẽ biết việc tiến bước trên con đường tâm linh không nhất thiết là dễ. Tại sao không dễ? Nó khó chính là vì có gì đó con chưa biết, có gì đó con không hiểu. Điều con không biết là có sự chống phá đường tiến bộ của con. Quá nhiều người chưa được dặn dò là có một lực đối chọi với tiến bộ tâm linh. Đạo Cơ đốc truyền thống có thể bàn đến ác quỷ hay phản Ki-tô, nhưng nếu đạo Cơ đốc chính thống không vạch ra được một con đường khả thi dẫn đến quả vị Ki-tô cá nhân, làm sao họ có thể cho con một tầm hiểu đích thực về lực chống lại bước tu của con? Nhiều giáo lý Thời Mới cũng bàn về một đường tu tâm linh nhưng lại ngần ngại nói tới một thế lực chống lại bước tiến của con. Còn toàn bộ giới thẩm quyền trong lãnh vực khoa học thì bác bỏ bất cứ gì không thể được khoa học chứng minh, và họ chế giễu quan điểm cổ xưa bảo rằng có những “tà linh” có thể ảnh hưởng đời con.

Làm sao con sẽ có thể tiến bước nếu con không biết là có sự chống đối, con không hiểu bản chất của sự chống đối cũng như cách nó lấn át tư duy của con và ý niệm cái ta của con? Con sẽ khiến cho bước tiến khó khăn hơn gấp bội nếu con cứ mãi không biết đến vấn đề này. Cũng giống như thể con leo núi mà không biết mình đang kéo theo một chiếc neo thuyền to tướng cứ mắc vào mỗi kẽ đá.

3.4. Đối mặt với nỗi sợ và lòng sợ hãi

Nhiều người sẽ phản ứng với lòng sợ hãi khi thày nói về tà lực hay lực phản Ki-tô. Một cựu tổng thống Mỹ từng nói: “Chúng ta không có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ,” và thày muốn giải thích cho con tại sao câu nói này chí lý. Trạng thái tâm thức hiện tại của con, ý niệm cái ta hiện thời của con, dựa trên – hay ít ra bị ảnh hưởng bởi – sự thật tương đối khởi lên từ tâm phản Ki-tô. Tác động của tâm phản Ki-tô là nó tạo ra một tâm ảnh, một thần tượng che khuất thực tại, che mờ sự thật. Có thể nói tâm thức Ki-tô giống như một ngọn đèn sáng rực chiếu lên vạn vật từ mọi hướng để không tạo bóng tối và không có gì bị che giấu. Mọi thứ đều có thể được nhìn thấy dưới ánh sáng rực rỡ của Mặt trời Thượng đế, của tâm Ki-tô. Không có khác biệt, không có bóng tối hay biến đổi (James 1:17), không có chỗ nào cho sự dối trá hay lừa lọc.

Một khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, bỗng nhiên có một tình trạng mang khả năng dối trá và lừa lọc. Bản chất của nhị nguyên là khả năng tạo ra một tâm ảnh che khuất thực tại, che mờ sự thật. Thế là con có một hoàn cảnh nơi con có thể tạo ra một bề mặt che giấu cái gì đó đằng sau. Tâm ảnh này có thể che khuất sự thật nhưng nó cũng có thể che giấu một dối trá, che giấu những ý định không trong sáng. Thế là chúng ta có khả năng là một sinh thể tự nhận biết có thể đánh lừa một sinh thể khác một cách cố tình và ác ý. Khi con còn ở trong sự thật của tâm thức Ki-tô thì không có gì bị che giấu và mọi chuyện hiện ra như thật là. Trong tâm thức Ki-tô không có dối trá, không có lừa lọc, không có khuynh loát, không có giả vờ để khiến cho mọi chuyện bề ngoài có vẻ an toàn nhưng bên dưới lại ẩn giấu hiểm nguy. Khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, dối trá và lừa lọc có thể xảy ra và đó là tại sao Giê-su mới nói, ác quỷ là cha đẻ của lừa dối (John 8:44). Cách giải thích rộng rãi nhất về khái niệm ác quỷ là bảo rằng ác quỷ là tâm thức phản Ki-tô, qua đó một sự thật tương đối đã thay thế sự thật tuyệt đối.

Trạng thái nhị nguyên này mở ra khả năng là một tình huống trông bề mặt có vẻ yên ổn nhưng bên dưới lại tiềm ẩn những mối nguy có thể chặn nghẽn bước tiến của con đến quả vị Ki-tô. Sự lừa dối ở khắp mọi nơi chung quanh con. Con biết rất rõ người ta có thể nói dối, người ta có thể giả vờ làm bạn với con nhưng kỳ thực họ là kẻ thù. Đó là tại sao Giê-su nói về những kẻ đội lốt chiên nhưng bên trong là loài sói đói mồi (Matthew 7:15). Suốt lịch sử được ghi chép, lọc lừa đã là một phần không thể tránh của cuộc sống trên hành tinh địa cầu. Lọc lừa không thể tránh được chừng nào con người bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên ngăn cản mình nhìn ra sự thật tuyệt đối cùa Ki-tô. Một khi có một túc số tới hạn những người vươn lên được tâm thức Ki-tô, lọc lừa sẽ không thể có mặt trên trái đất được nữa. Những kẻ dùng lừa dối để đoạt đặc quyền đặc lợi đều không muốn thấy ngày đó xảy đến. Họ sẽ làm tất cả trong khả năng của họ để ngăn chặn chuyện này xảy ra. Thật không khó gì nhìn thấy là suốt chiều dài lịch sử đã có một thiểu số quyền lực đối chọi với bước tiến của loài người về phía tự do lớn hơn, bình đẳng và công bằng lớn hơn trong xã hội. Con hãy nhìn sự chống phá việc thiết lập thể chế dân chù. Và hãy nhìn vua nước Anh chống đối như thế nào sự trỗi dậy của các thuộc địa ở Mỹ cùng nỗ lực của họ nhằm thiết lập một hình thức chính quyền mới đem lại tự do công bằng cho mọi người.

Quả thật trên hành tinh địa cầu có một thế lực chống đối sự tiến bộ để cố duy trì đặc quyền đặc lợi. Thường thường người ta không nhận chân thế lực này. Nó được che giấu khỏi con mắt của hầu hết mọi người trên hành tinh, và thực sự nếu con nhìn vào lịch sử, con sẽ thấy lực này chỉ có thể sống sót bằng cách ở trong bóng tối hay giả vờ là cái gì khác hơn. Một khi nó bị phơi bày và được nhìn thấy đúng như nó là, hầu hết mọi người trên hành tinh sẽ quyết định tách mình ra khỏi nó và như vậy từ chối trao quyền lực cho nó.

Thế lực phản Ki-tô sẽ luôn luôn tìm cách ẩn náu hay khoác vào hình dạng một lực thiện lành. Cho nên lực đối lập bước tiến của con về hướng quả vị Ki-tô sẽ không hiển nhiên chút nào, nó sẽ lẩn trốn trong bóng tối nơi con khó lòng nhìn thấy. Tại sao điều này quan trọng đến vậy? Con hãy xét những gì thày vừa nói với con ở đây trong bối cảnh câu nói rằng chúng ta không có gì để sợ ngoài chính nỗi sợ.

Đâu là cốt tủy của sợ hãi? Đó là khi con bị dội bởi cái gì đó, con muốn tránh xa khỏi cái gì đó. Tác động tâm lý của sợ hãi là một khi con sợ điều gì, con sẽ không muốn nhìn nó nữa, con muốn làm ngơ hay chạy trốn khỏi nó. Không chịu nhìn sẽ tạo nên sức mạnh cho phản Ki-tô – vì phản Ki-tô hoàn toàn dựa trên lừa dối. Đây là một lợi thế kinh hồn, không những nó có thể chặn nghẽn sự tăng trưởng cá nhân của con mà nó cũng có thể cầm chân đà tiến bộ của xã hội. Lòng sợ hãi của con người và sự không sẵn lòng nhìn vào điều mình sợ, trở thành một tình trạng lưỡng nan, một thế kẹt dường như không lối thoát.

Nếu con muốn thị hiện cuộc sống dồi dào, thật chỉ có một cách duy nhất để con làm được. Đó là vươn lên cao hơn ý niệm cái ta hạn chế dựa trên nhị nguyên, có nghĩa là dựa trên những dối trá và lừa lọc của tâm phản Ki-tô. Con phải làm vậy, con phải trèo ngược lên cầu thang theo cùng một cách như con từng đi xuống cầu thang, nghĩa là bằng cách lấy những quyết định có ý thức. Nếu con sợ không dám xem xét sự hiện hữu của một thế lực phản Ki-tô, nếu con sợ không dám nhìn vào những dối trá do thế lực này chủ xướng, con sẽ không có hy vọng thoát khỏi dối trá. Biết bao người chân thành tìm kiếm tâm linh đã kìm hãm bước tiến cá nhân của mình chính vì họ không chịu đối mặt với nỗi sợ của mình. Họ không chịu quay mặt lại mà nhìn vào thế lực đang cưỡng chống bước tiến của họ bằng cách giữ họ kẹt lại trong một loạt những dối trá cầm tù tâm họ.

Những dối trá của phản Ki-tô có thể vi tế, nhưng một khi con nắm được phần nào sự thật Ki-tô, chúng sẽ không khó lột mặt lắm đâu. Nhưng trước khi con có thể lột mặt dối trá của phản Ki-tô, con phải sẵn lòng nhìn chúng. Nếu con quá mắc kẹt trong sợ hãi đến độ con sợ cả chuyện liếc nhìn những gì con đang lê theo sau, làm sao con có thể thoát khỏi nó đây? Nếu con đi lên sườn núi và cảm thấy mình đang kéo theo cái gì đó sau mình, nhưng con lại sợ quay đầu lại mà nhìn, làm sao con có thể trút bỏ gánh nặng đó xuống? Điều đang ngăn cản bước tiến của con trên đường tu tâm linh là gánh nặng những lừa dối của phản Ki-tô mà con kéo theo sau vì con vẫn cho phép chúng ở lại trong tâm thức mình, trong bình chứa cái ta của mình. Con cho phép chúng ở lại vì con chưa nhìn chúng để thấy chúng như chúng là – những ảo tưởng không chút thực thể nào. Như Giê-su có nói về ác quỷ, “chúng không có chút lẽ thật nào nơi chúng” (John 8:44), cho nên chúng cũng không có quyền lực thực sự nào trên con. Nếu một ý tưởng không là gì khác một ảo tưởng, làm sao nó có thể có quyền lực thực sự trên con? Ngay khoảnh khắc con thấy nó là ảo tưởng, nó mất hết sức mạnh ảnh hưởng con. Nó chỉ có thể duy trì quyền lực bằng cách khiến con sợ nhìn vào ảo tưởng.

3.5. Lòng sợ hãi không có gì để sợ

Con yêu dấu, thật chỉ có một cách để khắc phục nỗi sợ, và đó là nhận ra điều đáng sợ duy nhất là lòng sợ hãi. Tác động tâm lý của sợ hãi là sự tê liệt, nghĩa là con không sẵn lòng nhìn vào điều con sợ. Nếu con không sẵn lòng nhìn vào điểu kiện mà con sợ, làm sao con có thể nhận diện là nó khởi lên từ nhị nguyên của phản Ki-tô và do đó không có chút thực thể nào? Làm sao con có thể khắc phục ảo tưởng rằng điều kiện không thực này có thể có bất kỳ quyền lực nào trên con?

Tất cả mọi em nhỏ đều từng sợ bóng tối, nhưng cuối cùng chúng đã khắc phục nỗi sợ đó bằng cách sẵn lòng đối mặt với nó, sẵn lòng ra ngoài đường buổi tối hay bước vào phòng tối để chứng nghiệm là không có gì xấu xảy ra cho mình. Con nhìn xem, vào thời Trung cổ, người ta sợ nhiều loại bệnh tật đến chừng nào vì người ta không hiểu bệnh tật do vi khuẩn gây ra. Một khi hiểu ra trong nước uống có vi khuẩn nguy hiểm thì họ học cách lọc nước và nhờ vậy khắc phục được nỗi sợ bệnh tả và nhiều bệnh khác, và điều này cho họ sức mạnh loại trừ nhiều loại bệnh tật.

Sợ hãi là một sức mạnh trói buộc con, nó giữ con trong cái bẫy, trong nhà tù. Yếu tố chủ yếu giam hãm con trong nhà tù thế phàm chính là lòng sợ hãi. Cái gì sẽ giải thoát con khỏi nhà tù? Như Giê-su đã nói, chính sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). Để tìm ra sự thật này, con phải sẵn lòng đối mặt với nỗi sợ, con phải sẵn lòng nhìn vào điều kiện mà con sợ. Khi con hiểu ra những điều kiện này là gì, con sẽ thấy là con không có lý do gì để sợ chúng.

Một khi con hiểu các điều kiện có vẻ quá đáng sợ khi con còn vô minh, con sẽ thấy là con có một cách để khắc phục các điều kiện này và bỏ chúng lại đằng sau. Đây là tinh túy của đường tu tâm linh, cụ thể là con đối mặt các nỗi sợ của mình và ngộ ra là mình không có lý do gì để sợ. Khi con ngộ ra con không có lý do gì để sợ một điều kiện đậc thù thì con đã khắc phục hạn chế đó và tiến một bước gần hơn sự sống dồi dào.

Đây là cốt tủy của con đường khắc phục. Trên hết, đó là khắc phục các điều kiện trong tâm lý của mình, cụ thể là nỗi sợ khiến mình sợ tiến thêm một bước hay sợ bỏ lại đằng sau một hạn chế nào đó. Sợ hãi luôn luôn là nỗi sợ một điều gì chưa biết, nó luôn luôn nẩy lên từ sự thiếu hiểu biết, từ vô minh. Con nghĩ có một điều kiện mà con không có cách phòng vệ hay thoát khỏi, và do đó con sợ ngay cả việc xem xét điều kiện đó kỹ càng hơn. Ý nghĩ rằng con không thể phòng vệ chỉ hiện hữu trong tâm con, nó dựa trên sự thiếu hiểu biết hay thông tin sai trật. Một khi con khắc phục vô minh này, con sẽ nhìn ra cách khắc phục điều kiện đó và bỏ nó lại đằng sau. Đường tu là con đường khắc phục vô minh, cái vô minh khởi lên từ nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, và thay thế nó bằng sự thật không phân rẽ của Ki-tô.

3.6. Nhìn xuyên thấu tâm phản Ki-tô với mắt trẻ thơ

Hãy để thày trở lại khái niệm có một thế lực phản Ki-tô đang chống đối đường tu đến quả vị Ki-tô của con. Đây chính là thế lực đã giết Giê-su 2000 năm về trước. Thày Giê-su được Thượng đế gửi xuống để làm người tiên phong cho một thời đại mới nơi con người đáng lẽ phải khắc phục được lòng sợ hãi của mình để không còn là kẻ theo chân mù quáng các lãnh đạo mù quáng rồi té xuống hố sâu của nhị nguyên và tương đối (Matthew 15:14). Thế lực phản Ki-tô đã giết chết Giê-su, và con biết qua lịch sử chúng cũng toan giết chết mọi tín đồ Cơ đốc trong những thế kỷ sau đó. Khi thế lực này nhận ra là chúng không thể giết chết phong trào Cơ đốc thì chúng ra tay cách khác. Chúng đổi chiến lược dựa trên phương châm: “Nếu bạn không thể đánh bại người ta thì bạn hãy nhập bọn với người ta.” Thế là những người đại diện cho lực phản Ki-tô, những kẻ giảng đạo giả mà Giê-su đã nói sẽ đến mạo danh thày (Matthew 24:5), gia nhập đạo Cơ đốc. Chúng dùng loại vũ khí là vũ khí phổ thông nhất của chúng: chiến lược chia và trị. Bằng cách xâm nhập đạo Cơ đốc, chúng biến nó thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó. Sau một thời gian, chính phân rẽ này cũng được tẩy xóa khi đạo Cơ đốc thay thế giáo lý chân truyền của Ki-tô bằng một tượng khắc, một hình giả, biến Giê-su thành một thần tượng chứ không là một tấm gương.

Quả thực như vậy, trên hành tinh trái đất có một thế lực bên ngoài sẽ chống đối bước tiến của con về cuộc sống dồi dào. Trên hết và trước hết, lực này sẽ tìm cách giữ con trong vô minh, không biết gì về khả năng đạt được cuộc sống dồi dào và tâm thức Ki-tô. Nếu chuyện này không thành, chúng sẽ tìm cách đánh lạc hướng con để con đi theo đường tu giả, tìm cầu vinh quang cho cái ta hữu diệt thay vì khắc phục cái ta hữu diệt và được tái sinh về mặt tâm linh. Nếu lực phản Ki-tô không thể ngăn con khám phá đường tu chân chính, chúng sẽ tìm đủ mọi cách để biến con thành một ngôi nhà phân rẽ với chính mình, để con nghi ngờ chính mình có khả năng hay xứng đáng bước theo đường tu. Chúng sẽ tìm cách khiến con ngờ vực mỗi khía cạnh của con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, để hoặc con từ bỏ đường tu, hoặc con cứ đi mãi mà không bao giờ tới.

Điều gì khiến cho lực phản Ki-tô này có thể chi phối đời con, ảnh hưởng tâm thức con? Chúng nắm được gì trong con để dùng làm vũ khí chống lại con, để gieo hạt giống ngờ vực trong tâm con – y như Rắn đã gieo ngờ vực trong tâm Eva? Chúng có thể dùng gì để biến con thành một ngôi nhà phân rẽ với chính mình? Cái đó là sự kiện con mang trong quả cầu cái ta, trong bình chứa cái ta của con, một số tin tưởng khởi lên từ dối trá của phản Ki-tô, những dối trá nham hiểm của rắn. Đây là điều Giê-su đã giải thích qua câu: “Ông hoàng của thế gian có thể đến mà không nắm được gì nơi ta” (John 14:30). Ông hoàng của thế gian chính là tâm phản Ki-tô. Sự kiện y không nắm được gì nơi Giê-su cho thấy Giê-su đã vươn lên tới mức thanh lọc được tâm mình, cả tâm ý thức lẫn tâm tiềm thức, cho không còn một yếu tố nào của phản Ki-tô, một dối trá nào của rắn. Vì Giê-su không còn dối trá nào trong bản thể cho nên ông hoàng của thế gian không nắm được gì để có thể biến Giê-su thành một ngôi nhà phân rẽ với chính nó. Không có cách chi khiến cho thày ngờ vực chính mình, ngờ vực Thượng đế hay nghi ngờ đường tu, vì thày đã tái lập sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của thày, mà qua đó thày tiếp cận được sự thật Ki-tô sẽ tức khắc xua tan các lừa lọc dối trá của tâm phản Ki-tô.

Thày hiểu hoàn toàn là trong trạng thái tâm thức hiện tại, con vẫn mang một số yếu tố phản Ki-tô trong bản thể con. Thày hoàn toàn không chê trách gì con vì đây là hậu quả không thể tránh của việc con lớn lên trong thế giới ngày nay. Thày hiểu hoàn toàn là con có một số nghi ngờ vì con mang các yếu tố phản Ki-tô này trong con, và các nghi ngờ đó khiến con sợ hãi. Con không có lý do gì để sợ dối trá của phản Ki-tô vì con có khả năng khắc phục dối trá bằng cách với lên sự thật Ki-tô. Chừng nào con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, chừng nào con còn tin một số lời dối nhị nguyên, tâm thức con sẽ là một ngôi nhà xây trên cát (Matthew 7:26), nghĩa là xây trên sự thật tương đối của phản Ki-tô. Nếu “sự thật” của con tương đối thì các thế lực phản Ki-tô sẽ luôn luôn nắm được gì đó trong con để chúng có thể khuynh loát con, khiến con bước vào tâm thức ngờ vực dẫn đến sợ hãi. Chừng nào con còn cho phép những yếu tố nhị nguyên ở lại trong tâm thức, trong bình chứa cái ta, con sẽ không bao giờ hoàn toàn thoát được sợ hãi. Tâm phản Ki-tô sẽ luôn luôn có cách thao túng con để con nghi ngờ chính mình hay nghi ngờ Thượng đế. Chính lòng ngờ vực này làm sợ hãi nẩy sinh.

Nếu con nghi ngờ Thượng đế sẽ bảo vệ con khỏi mọi tà ác thì con không thể tránh sợ tà ác. Khi con có sự thật của tâm Ki-tô, con sẽ biết là không có lý do gì để sợ tà ác vì nó chỉ có thể ảnh hưởng con nếu con mang một số yếu tố nhị nguyên trong tâm thức con. Khi con cho phép sự thật Ki-tô ngụ trong con và xua tan mọi bóng tối, ông hoàng của thế gian sẽ không nắm được gì nơi con nữa để mà có thể kiểm soát con qua sợ hãi, nghi ngờ hay bất cứ cảm xúc tiêu cực nào khác.

Những ý tưởng trên gắn liền với điều thày vừa nói ở đầu chương rằng ý niệm cái ta hữu diệt của con phải chết đi. Ý niệm cái ta hữu diệt của con dựa trên và sinh ra từ tâm thức nhị nguyên, nghĩa là nó hoàn toàn dựa trên những dối trá của tâm rắn. Chừng nào con – tức cái Ta Biết – còn bám giữ các yếu tố này của cái ta dựa trên nhị nguyên, con sẽ không thể tiến bộ tối đa trên đường tu tâm linh. Các thày giả, thế lực phản Ki-tô, biết điều này rất rõ, và chính vì vậy chúng đã mưu toan đặt con vào một thế lưỡng nan không lối thoát. Trong trạng thái tê liệt này, con mang một số dối trá phản Ki-tô trong bình chứa cái ta của mình, nhưng đồng thời con lại sợ nhìn chúng. Nếu con sợ nhìn vào các lừa dối của phản Ki-tô, con sẽ không có cách nào nhìn ra chúng là lừa dối, chúng là ảo tưởng, chúng không có quyền lực gì trên con. Và các lừa dối đó sẽ có quyền lực trên con mặc dù chúng không có thực thể gì hết. Chúng đích thực là ảo tưởng, nhưng chừng nào con còn sợ nhìn chúng và nhận ra chúng là ảo tưởng thì chúng sẽ nắm quyền lực trên con, chúng sẽ vẫn giam con chặt trong nhà tù tinh thần của những hạn chế, thiếu thốn, khổ ải và đau đớn.

Chừng nào con còn bám giữ ý niệm cái ta hữu diệt, hay một nét nào đó của cái ta này, con sẽ không bao giờ hoàn toàn khắc phục được các lời dối mà từ đó cái ta hữu diệt nẩy sinh. Con sẽ không bao giờ giải thoát khỏi một số ảo ảnh. Ở đầu khóa học này, thày đã cho con hình ảnh con bị giam trong một nhà tù và nhà tù này có cánh cửa với một số ổ khóa. Mỗi ổ khóa trên cửa tù tượng trưng cho một lời dối đặc thù của phản Ki-tô, một lời dối nham hiểm của rắn. Để tìm ra chìa khóa sẽ mở một ổ khoá đặc thù, con phải nhìn vào lời dối đó, con phải nhận thức được đầy đủ và có ý thức tại sao đó là một lời dối, tại sao đó là một ảo tưởng và tại sao không gì không thực có thể có quyền lực thực sự trên con.

Chắc hẳn con đã từng nghe truyện cổ tích về bộ quần áo mới của nhà vua. Con nhớ có một nhóm thợ may đến chầu vua, hứa sẽ may cho vua một bộ áo lộng lẫy nhất chưa ai từng thấy trên đời. Nhóm người này không những đã lừa được nhà vua mà toàn bộ triều đình, thậm chí cả quần dân trong nước, để ai nấy tin rằng nhà vua mặc quần áo. Sự lừa dối của họ toàn diện đến độ không một ai có thể, hay sẵn lòng, thực sự xem xét để mà nhận ra đó là một trò lừa – cho đến khi vua đi trước cặp mắt ngây thơ của một đứa bé. Rốt cuộc đứa bé ấy thốt lên: “Uả sao vua không mặc gì cả?” Trong một khoảnh khắc, tất cả mọi người bừng tỉnh, họ ngộ ra sự thật mà họ đã không thể nhìn thấy chỉ vì họ đã không sẵn lòng nhìn kỹ hơn vào trò lừa.

Con hãy suy ngẫm tình trạng tương tự trên địa cầu. Có một nhóm người thượng tôn quyền lực đang đầu thai trong cõi vật lý và đằng sau họ là một thế lực phản Ki-tô. Suốt hàng ngàn năm trời, lực lượng tổng hợp này đã xoay sở để kiểm soát hầu hết mọi người trên hành tinh. Quyền lực và hệ thống kiểm soát của họ dựa trên một loạt những lời gian dối, cho nên quyền lực của họ tồn tại và chỉ tiếp tục tồn tại chừng nào nào ai nấy trên hành tinh còn tin vào những lời dối đó. Thế lực phản Ki-tô này chỉ có một cách duy trì quyền lực, là giữ cho mọi người mê muội, không thể nhìn xuyên qua những lời dối làm cơ sở cho quyền lực đó. Một vũ khí họ dùng để duy trì ảo ảnh là khiến mọi người sợ nhìn vào ảo ảnh.

3.7. Nhà tù của con không có khóa

Con yêu dấu, lực phản Ki-tô này thừa biết là ngay khi con quyết định nhìn vào một trong những lời dối đó, con có tiềm năng nhìn xuyên qua nó. Họ biết là nếu con vượt quá sự thật tương đối của tâm thực nhị nguyên và tìm cầu sự thật của Ki-tô, con không thể tránh nhìn xuyên qua lời dối. Con sẽ thấy đó là một ảo tưởng, đó là một ngôi nhà xây trên cát, những bãi cát lún của tâm thức nhị nguyên. Thế lực phản Ki-tô cũng biết Giê-su đã đưa ra một lời hứa chân thực khi thày nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ cửa thì cửa sẽ mở ra cho con” (Matthew 7:7). Họ biết là trong tim con có chìa khóa của hiều biết. Khi con quyết định dùng chìa khóa này của hiểu biết và thỉnh một hiểu biết cao hơn về một khía cạnh đặc thù của cuộc sống, con sẽ được trao hiểu biết cao hơn đó. Lực phản Ki-tô cũng biết là trước khi con có thể thỉnh sự thật sẽ giải thoát con, con phải khắc phục nỗi sợ nhìn vào lời dối. Con cũng phải khắc phục nỗi sợ khiến con có thành kiến và bị dính mắc với một tâm ảnh nhất định bảo rằng cuộc sống phải như thế này hay thế khác. Con phải sẵn lòng nhìn xa hơn sự thật tương đối mà hiện giờ con nghĩ là sự thật tuyệt đối. Con phải sẵn lòng mở tâm ra sự thật cao hơn của Ki-tô. Nếu con sẵn lòng bước theo lời gọi của Giê-su để trở thành giống như trẻ nhỏ (Matthew 18:3) – nghĩa là con sẵn lòng nhìn một khía cạnh nào đó của cuộc sống, nhìn một sự thật tương đối nào đó, với tâm ngây thơ và cởi mở của trẻ nhỏ – thì con sẽ được trao sự thật cao hơn của tâm Ki-tô. Và khi con có sự thật này, con sẽ có thể nhìn xuyên thấu lời dối gian và thấy đó là một ảo ảnh toàn diện, và do đó nó không có quyền lực gì trên con.

Các tà lực trên hành tinh này không có quyền lực gì trên con ngoại trừ quyền lực mà con cho chúng qua quyền tự quyết của con. Có một sự thật trong câu nói rằng nếu người ta biết tốt hơn thì người ta sẽ làm tốt hơn. Con có đồng ý chăng là nếu con biết rõ một hạn chế mình phải đối mặt dựa trên gian dối, rằng nó chẳng hơn gì một ảo ảnh, thì con sẽ có thể tự giải thoát ra khỏi hạn chế? Có lẽ con còn nhớ thuở là một đứa bé đi bộ trên vỉa hè và được bảo rằng giẫm phải vết nứt trên vỉa hè là điềm xui xẻo, hay có lẽ con từng tin một điều dị đoan tương tự của tuổi thơ ấu? Một niềm tin như thế có thể tác động rất lớn trên cách con đi đứng, thế rồi đến một thời điểm con chỉ đơn giản quyết định là chuyện đó không thể nào có thật. Từ giây phút đó trở đi, ảo ảnh không còn quyền lực trên con nữa và giờ đây con có thể tự do bước chân trên đường đời. Hãy thử tưởng tượng là suốt nhiều năm trời, con từng sống với niềm tin mình nợ ngân hàng một số tiền rất lớn, con đã lo âu không biết làm thế nào trả nợ và đời con đã khổ sở vì thế. Rồi một buổi sáng, con nhận được thư ngân hàng cho hay họ đã tính lộn và con không nợ gì hết. Liệu con sẽ tiếp tục bám giữ nỗi lo âu? Liệu con sẽ khăng khăng đòi trả hết món nợ dù đó chỉ là ảo ảnh? Hay con sẽ đơn giản bỏ nó qua bên và tiếp tục cuộc sống của mình?

Con hiện đang bị giam trong nhà tù của các giới hạn phàm phu và đau khổ. Nhà tù này chỉ thật sự hiện hữu trong tâm con và trong tâm thức tập thể của nhân loại. Nhà tù có một cánh cửa và cánh cửa thì có nhiều ổ khóa, nhưng mỗi ổ khóa tượng trưng cho một ảo tưởng, một lời dối của rắn nham hiểm. Bí mật thực sự của cuộc sống là mặc dù các ổ khoá dường như đang khóa chặt cánh cửa, không một ổ nào là khóa cả. Cái dường như đang khóa chặt cánh cửa của nhà tù con người là một loạt những ảo tưởng nẩy lên từ sự thật “tương đối”, từ các dối trá của rắn, của tâm phản Ki-tô. Kỳ thực, cánh cửa của nhà tù con người không hề được khóa!

Con đinh ninh là mình bị kẹt trong tù, nhưng trong suốt thời gian đó cửa tù vẫn mở. Con chỉ không lấy can đảm để nhìn các ổ khoá kỹ hơn và khám phá là chúng không có khả năng ngăn ai mở cửa. Người ta bị giam trong tù chỉ vì họ cứ tin vào ảo tưởng cánh cửa bị khóa. Kỳ thực, cửa tù không khóa. Khi con ngộ ra sự thật này, con có thể ngay lập tức bước đến cửa, mở cửa ra và bước ra ngoài. Và như thế con bỏ lại đằng sau các hạn chế thế phàm.

Thày biết rõ hoàn toàn là trong trạng thái tâm thức hiện tại của con, con rất khó lòng nào tin được điều thày vừa nói với con. Thế nhưng đó là sự thật tuyệt đối. Tại sao việc chấp nhận sự thật này lại khó đến vậy? Nó khó là vì con vẫn còn một số “sự thật” tương đối trong bình chứa cái ta, một số ảo tưởng mà con tin là thật. Ý niệm cái ta của con vẫn dựa trên các lời dối nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, và chừng nào con còn bám lấy chúng, con sẽ không thể chấp nhận là cánh cửa của nhà tù con người thật ra không khóa. Mỗi lời dối hiện ra như một ổ khóa sẽ giữ con lại trong một trạng thái giới hạn, ngăn con thoát ra khỏi nhà tù con người. Chừng nào con còn tin những lời dối đó và chưa nhận ra chúng là ảo ảnh, tất nhiên con không thể chấp nhận sự thật rằng cánh cửa không khóa. Thày không chờ đợi con có thể lập tức chấp nhận là cánh cửa không khóa và cứ thế bước qua ngưỡng cửa. Đây là tại sao thày đã đến để cống hiến cho con một con đường tuần tự hầu con có thể, một cách có hệ thống, nhìn xuyên qua mỗi lời dối trong bình chứa cái ta. Khi con nhìn xuyên thấu một lời dối, con có thể gạt bỏ nó như chuyện không thực, như một ảo ảnh, rồi nhờ vậy con tự giải thoát khỏi nó. Bởi vì với mỗi lời dối con bỏ lại đằng sau, con tiến thêm một bước gần hơn việc thị hiện quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Vào một điểm nào đó trong tương lai, có lẽ một tương lai không xa lắm, con sẽ đột nhiên đạt đến một điểm mấu chốt, một điểm không quay lại.

Trước kia khi con bước xuống dưới mức tâm thức Ki-tô, con đã khởi sự rất lần hồi nhưng cuối cùng con đã đến một điểm không quay trở lại khi con quên mất sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Bây giờ đi ngược trở lên chiếc cầu thang, con sẽ đến cùng điểm đó từ hướng ngược lại. Khi con vượt quá điểm này, con sẽ tái lập sự kết nối ý thức với Hiện diện TA LÀ. Con sẽ biết thật sự rằng đường tu có thực, rằng lời hứa của tâm thức Ki-tô là một thực tế mà con có khả năng thị hiện trong đời mình.

3.8. Tấm gương của Giê-su là sự phục sinh, không phải là nỗi thương khó

Chắc chắn con đã thấy những lâu đài cổ với một tháp tròn bằng đá, và trong tháp đá có một chiếc cầu thang vòng xoắn ốc. Phía trên cùng của cầu thang xoắn ốc là một cửa mở dẫn lên mái lâu đài tắm mình trong ánh nắng rực rỡ. Khi con bắt đầu đi xuống cầu thang xoắn ốc, ánh nắng vẫn chói rọi xuyên qua cửa, phản chiếu trên tường cầu thang. Khi con tiếp tục bước xuống, nó uốn mình cho tới một điểm con không thể nhìn xuyên qua cửa nữa để thấy trời xanh. Con không biết ánh nắng đến từ đâu nhưng con vẫn có thể nhìn thấy ánh sáng phản chiếu trên tường.

Khi con đi xuống thêm nữa, con lại đụng một điểm mấu chốt khác. Khi con đi quá điểm này, con không còn nhìn thấy ánh phản chiếu trên tường, và từ đó trở đi, con không còn bằng chứng trực tiếp nào cho thấy có ánh nắng chiếu qua cánh cửa ở đầu cầu thang. Khi con tiếp tục đi xuống, càng ngày con càng chìm vào bóng tối cho tới khi con xuống đến hầm mộ bên dưới lâu đài, và ở nơi đây thì con bị bao trùm trong bóng tối toàn diện.

Đây là một cách minh họa cho những gì xảy ra trong tâm thức con. Con khởi sự ở trên đầu cầu thang nơi con có thể trực tiếp nhìn thấy trời xanh và ánh nắng. Điều này, tất nhiên, tượng trưng cho Hiện diện TA LÀ của con và ánh sáng Thượng đế chiếu rọi qua Mặt trời của bản thể con. Khi con đi xuống cầu thang, bước xuống tâm thức nhị nguyên, con đánh mất sự kết nối trực tiếp có ý thức với Hiện diện TA LÀ của con. Con vẫn còn chút ký ức về phần cao hơn của bản thể con. Nhưng khi con đi xuống sâu hơn, ngay cả ký ức này con cũng mất, và câu hỏi duy nhất còn lại là con đã thực sự bước xuống cầu thang bao xa. Vì con đang đọc khóa học này, cho nên con đã không bước xuống đáy chót cùng của cầu thang. Hay cũng có thể con đã làm vậy trong một tiền kiếp nhưng từ lâu con đã bắt đầu leo lên trở lại. Nếu con không đi trên hành trình hướng thượng thì con đã không mở tâm ra cho khóa học này hay bất kỳ ý tưởng nào thày đang trình bày cho con.

Con nên cho phép mình nhận biết bằng nội giác rằng con đã bước chân trên con đường tâm linh rồi, con đường sẽ dẫn tới sự sống dồi dào của tâm thức Ki-tô. Con nên cho phép mình cảm thấy là con đã neo trụ trên con đường này và cảm nhận đây quả thực là một chiến thắng. Nếu con chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này trước đây, thày yêu cầu con hãy bỏ ra chút thì giờ để quán chiếu sự kiện con đang đi trên con đường về nhà và con đã thực hiện được những tiến bộ đáng kể.

Khi con mang cảm giác mình đã neo vững trên đường tu, thày sẽ yêu cầu con suy ngẫm điều thày vừa bảo con trong chìa khóa này, cụ thể là tại sao việc cho phép ý niệm cái ta hữu diệt chết đi lại quan trọng đến thế. Cái ta hữu diệt này là một gánh nặng mà con lê theo sau lưng, một quả tạ khiến việc đi lên cầu thang xoắn ốc khó khăn một cách không cần thiết. Nếu con chịu quay đầu lại để nhìn quả tạ đằng sau, con sẽ có thể cắt sợi dây đang buộc nó với con. Khi quả tạ rơi xuống, con sẽ dễ dàng leo thang hơn rất nhiều.

Nếu con không chấp nhận sự kiện ý niệm cái ta hiện tại của con phải chết đi trước khi con có thể leo bước kế tiếp trên cầu thang xoắn ốc, con sẽ khiến cuộc sống của con gian nan hơn rất nhiều. Đường tu tâm linh có thể trở nên vất vả đau đớn đến độ nó thực sự biến thành Con đường Thương khó mà biết bao tín đồ Cơ đốc tin rằng họ phải đi theo để được cứu rỗi. Vào thời Trung cổ, hầu hết tín đồ Cơ đốc tin rằng đó là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi, rằng đó chính là con đường Giê-su đã chứng tỏ. Họ bị ám ảnh bởi biến cố đóng đinh và nỗi khổ của Giê-su trên thập tự giá, và họ đinh ninh rằng để theo đạo Cơ đốc, ho cũng phải đau đớn như Giê-su đã đau đớn.

Vũ trụ là một tấm gương. Nếu con phóng chiếu vào tấm gương vũ trụ hình tư tưởng rằng cuộc sống là đau khổ, Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ thị hiện những điều kiện vật lý xác nhận hình ảnh của con. Đây chính là điều đã xảy ra cho nhân loại vào thời đại đen tối. Người ta quá chú tâm đến đau khổ đến độ họ đã tạo ra sự đau khổ vỏ ngoài được thể hiện trong thời đại đen tối đó. Đối với một số người trong thế giới ngày nay, điều này sẽ khó chấp nhận, nhưng dù sao thì đó lả sự thật.

Người ta quá chú tâm vào khổ đau do đã chấp nhận một hình ảnh giả, một thần tượng khắc, về giáo lý của Giê-su. Mặc dù Giê-su đã có đau đớn trên cây thập tự, nhưng thày chỉ ở trên thập tự vài giờ. Toàn bộ cuộc đời của thày kéo dài đến 33 năm và mục vụ công cộng của thày thì kéo dài 3 năm. Có công bằng hay không, có phải lẽ hay không, nếu chúng ta để cho mấy giờ chót trên thập tự giá trở thành hình ảnh chủ yếu, hình ảnh quyết định mà chúng ta lưu giữ về cả cuộc đời, về sứ mạng cùng lời dạy của Giê-su? Có đến hàng ngàn và hàng ngàn người từng bị đóng đinh vào thời buổi đó. Chẳng có gì trong việc đóng đinh Giê-su khiến thày là một người đặc biệt. Điều khiến Giê-su đặc biệt là thày đã phục sinh, thày đã lại hiện ra trong thân xác tâm linh phục sinh của thày sau khi bị hành quyết. Điều khiến Giê-su đặc biệt là trước khi bị đóng đinh, thày đã chứng tỏ khả năng điều ngự của tâm trên vật chất, và điều này là bí quyết thật sự của sự sống dồi dào. Giê-su đã không đến để chứng tỏ Con đường Thương khó, một con đường khổ ải. Thày đã đến để làm chứng cho sự sống dồi dào cũng như con đường dẫn đến dồi dào. Đó là vì sao thày nói: “Ta đã đến để họ có sự sống, và có sự sống này dồi dào hơn” (John 10:10).

Giê-su đã làm chứng cho sự sống dồi dào bằng cách chữa lành người bệnh tật, vực người chết sống dậy, biến nước thành rượu, hóa bánh và cá thành nhiều, đi bộ trên nước và ban ra những lời dạy mở rộng trái tim nhiều người. Giê-su thực sự đã đến để chứng minh rằng mọi người đều có khả năng khắc phục cảm giác vật lộn, chiến đấu, và thay vào đó thị hiện sự sống dồi dào. Đâu là bí quyết để khắc phục cảm giác vật lộn? Đó là khắc phục ý niệm cái ta dựa trên hình tư tưởng rằng đời sống là một cuộc đấu tranh, cái ta khởi lên từ sự tách biệt khỏi Thượng đế và dồi dào của Thượng đế. Chỉ khi nào con khắc phục được ý niệm cái ta này thì con mới ngừng phóng chiếu hình ảnh đấu tranh vào tấm gương vũ trụ. Chỉ khi nào con ngừng phóng chiếu hình ảnh như vậy thì tấm gương mới ngừng phản chiếu lại cho con những điều kiện vật chất biến cuộc sống thành một cuộc chiến đấu. Chỉa khóa là nhận ra con là nhiều hơn hình ảnh giới hạn đó về chính mình. Thực tại đích thực của con là cái Ta Biết, nhưng con chỉ nhìn xuyên qua ý niệm cái ta hữu diệt, gần như thể con đang mang một cặp kính màu. Khi con cho phép cái ta hữu diệt chết đi, điều này không có nghĩa là cá thể của con sẽ chết, vì cái Ta Biết không thể nào chết. Cho phép cái ta hữu diệt chết đi có nghĩa là cái Ta Biết sẽ được tự do để nhận lấy một ý niệm cái ta cao hơn, cái Ta Biết được tái sinh vào ý niệm cái ta tâm linh của con.

3.9. Hãy nhận tình yêu của thày

A con yêu dấu, con có cảm được Hiện diện của thày với con chăng khi thày trao cho con những lời này? Con có cảm được tình thương mãnh liệt từ trái tim một người Mẹ, là tình thương của Mẹ không ao ước gì hơn thấy những đứa con yêu của mình thoát khỏi nỗi sợ bóng tối? Con có cảm được lòng thày muốn ôm con chặt trong vòng tay ấm áp, muốn nói với con rằng con không có gì phải sợ và mọi chuyện sẽ yên lành? Con có cảm được lòng thày muốn vuốt tóc con, muốn lau nước mắt trên má con, muốn nhìn thẳng vào mắt con và nói: “Con ơi, mọi chuyện sẽ tốt lành. Hãy quên đi quá khứ, hãy bước ra khỏi hầm tối nơi con từng run sợ, hãy bước vào nắng ấm sẽ làm tan chảy mọi sợ hãi của con.”

Thày là người Mẹ tâm linh của con và thày ở đây để giải thoát con. Hầu giải thoát con khỏi mọi hạn chế, trước hết thày phải giải thoát con khỏi nỗi sợ khiến con sợ nhìn vào lời dối nằm ngay tâm điểm của mỗi hạn chế con phải đối mặt. Con hãy nắm lấy tay thày và chúng ta cùng chạy vào ánh nắng, chúng ta cùng bật cười để tan đi nước mắt, tan đi những nỗi sợ của cái ta hữu diệt. Thay vào đó, hãy đón chào mặt trời của ngày mới, ý niệm cái ta mới, nhờ vậy con quên đi cái ta cũ. Trong sự quên lãng này, con cho phép cái ta cũ chết đi mà không để ý thấy là nó không còn. Con giống như đứa bé mải vui đùa với đồ chơi mới đến độ nó quên bẵng mất đồ chơi cũ, cái đồ chơi đã mòn nát trên bãi chơi cuộc đời. Con chú tâm vào cái ta mới đến độ con quên tất cả về cái ta cũ, vì vậy con được tái sinh vào một ý niệm bản ngã mới, vào một bản thể mới. Con được tái sinh vào niệm tinh khôi được cất giữ vĩnh hằng trong tâm Ki-tô nhưng cũng được giữ chặt trong trái tim của Mẹ tâm linh của con. Thảy đang giữ chặt niệm tinh khôi cho con, như thày đã từng giữ cho Giê-su cho đến ngày sứ mạng của Giê-su thành tựu.

Thày yêu con và tình yêu của thày vô điều kiện. Thày biết rõ tiềm năng thật của con và thày sẵn lòng giúp con vươn lên trên mọi điều kiện đang ngăn con biểu hiện tiềm năng này trọn vẹn trên trái đất. Con hãy nắm lấy tay thày và thày sẽ bước đi với con, y như thày đã bước với Giê-su trên mỗi bước đường dẫn Giê-su đến quả vị Ki-tô cùng sự thăng thiên vào ánh sáng.

1 | Con là một người đồng-sáng tạo

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/4/2005.

Trái tim yêu dấu của thày, con có thể tự hỏi làm thế nào một sinh thể được thiết kế như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế – một sinh thể đi ra từ cái Tất cả của tâm thức Thượng đế, một sinh thể thật sự là Thượng đế đang biểu hiện như một dòng sống cá biệt – lại có thể đánh mất sự nhận biết về cái Tất cả nơi nó xuất phát. Đây là một câu hỏi mà con có thể lợi lạc khi quán chiếu.

1.1. Bí ẩn về sự cá biệt trong cái Tất cả

Câu hỏi này không có câu trả lời độc nhất vì mỗi người đồng-sáng tạo được thiết kế như một cá thể độc đáo. Lý do chính xác đã khiến con mất nối kết với nguồn cội của con sẽ không giống như một người khác. Chìa khóa để hiểu được bí ẩn này là suy ngẫm nan đề làm thế nào con cân bằng được việc biết mình là một sinh thể cá biệt, nhưng đồng thời mình cũng là một biểu hiện của cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Đây là thử thách chủ chốt đi kèm với món quà được ban cho con là cá thể và quyền tự quyết của con. Chưa có người đồng-sáng tạo nào đã có thể tránh né thử thách này. Nhiều người đã khá dễ dàng đáp ứng được thử thách, nhưng nhiều người khác phải mất nhiều thời gian mới giải được bí ẩn. Một phần đáng kể những người đồng-sáng tạo, kể cả hầu hết mấy tỷ dòng sống hiện đang cư ngụ trên hành tinh trái đất, vẫn chưa giải quyết được bí ẩn, chưa giải đáp được câu đố về cá thể con người.

Bí quyết để giải đáp bí ẩn là nhận ra ý nghĩa việc con là một sinh thể cá biệt. Con là ai, con là gì, đâu là cốt lõi của bản sắc con? Mọi tạo vật đều khởi đầu với điểm dị biệt (singularity) của Đấng Sáng tạo. Ở khởi đầu duy chỉ có Thượng đế, Đấng Sáng tạo, và Thượng đế đã là – và đang là – một Sinh thể trọn đủ. Đấng Sáng tạo có khả năng tự nhận biết và ngài có một ý niệm rõ ràng về bản sắc của mình. Đấng Sáng tạo khởi sự bằng cách tạo ra hai lực cơ bản, là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực này không chỉ đơn giản là lực vô tri như các lực tự nhiên mà con vốn thấy trên hành tinh trái đất, chẳng hạn như trọng lực và từ lực.

Hai lực tâm linh cơ bản này được chỉ đạo bởi hai sinh thể có tự nhận biết, là hai vị đồng-sáng tạo đầu tiên xuất thân từ Đấng Sáng tạo. Hai sinh thể này được Kinh thánh gọi là Alpha và Omega, sự khởi đầu và sự kết thúc. Họ không tách rời khỏi Đấng Sáng tạo mà thực sự là những phần nối dài, những cách hiển thị của Đấng Sáng tạo. Đó là tại sao Thánh kinh có ghi câu: “Ta là Alpha và Omega, sự khởi đầu và sự kết thúc – Thượng đế phán như vậy, tức là Đấng hiện có, đã có và còn đến, Đấng toàn năng” (Revelation 1:8). Vậy thì chúng ta có Đấng Sáng tạo đã tự biểu hiện là hai sinh thể tự nhận biết, hai đấng đồng-sáng tạo. Mỗi sinh thể này đều có khả năng tự nhận biết cho nên cũng có một ý niệm về cái ta, biết mình là một sinh thể riêng biệt, một cá thể riêng biệt. Bởi vì Alpha và Omega được Đấng Sáng tạo sinh tạo trực tiếp, cho nên sự nối kết của họ với Đấng Sáng tạo vững chắc và trực tiếp đến độ một sinh thể ở cấp này khó lòng nào đánh mất ý thức về mối nối kết đó, về sự hợp nhất đó.

1.2. Cây sự Sống

Alpha và Omega tạo ra hậu duệ, và có một số sinh thể tự nhận biết đã xuất thân trực tiếp từ Alpha và Omega. Sau đó những đứa con trực tiếp của Alpha và Omega tạo ra hậu duệ riêng của mình, rồi cứ thế xuyên qua nhiều bầu cõi sáng tạo. Không một hình ảnh đường thẳng nào có thể mô tả hoàn toàn chính xác thực tại tâm linh. Vì tâm con vẫn còn bị lập trình theo lối suy nghĩ đường thẳng quá đỗi, cho nên thày đang cố làm chuyện bất khả thi là mô tả sự thể này một cách đường thẳng. Tất cả mọi sinh thể tự nhận biết trong toàn bộ thế giới hình tướng đều là phần tử của cùng một dòng dõi dẫn ngược trở lên một Đấng Sáng tạo duy nhất. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo thành.” Nếu lấy hình minh họa một cây gia phả, chúng ta có thể thấy cây gia phả có nhiều nhánh tượng trưng cho nhiều thế hệ khác nhau. Con càng xa Đấng Sáng tạo bao nhiêu trên Cây sự Sống thì sự nối kết của con với Đấng Sáng tạo sẽ càng xa cách bấy nhiêu. Con càng xa Đấng Sáng tạo bao nhiêu thì con sẽ càng dễ đánh mất ý thức về sự nối kết này. Con có thể quá chú tâm vào cá thể riêng của mình đến độ cuối cùng con quên bẵng mất nguồn cội của mình, và con xem mình là một sinh thể tách biệt đang trôi nổi giống như con thuyền trôi dạt trên đại dương bất tận.

Nhưng hình ảnh cây gia phả cũng có những hạn chế nghiêm trọng khi con xem đến Thân thể Thượng đế, Cây sự Sống. Trong một cây gia phả bình thường, con sinh ra ở một vị thế nào đó và con không thể thay đổi vị thế này. Nhưng trong Thân thể Thượng đế, mỗi sinh thể tự nhận biết cho dù xuất thân từ đâu, đều có cơ hội vươn lên xuyên qua các tầng cấp khác nhau cho đến khi rốt cuộc nó đạt đến tâm thức trọn vẹn của Thượng đế. Và cũng giống như vậy, một sinh thể tự nhận biết có thể tuột xuống dưới mức nó đã sinh ra, và do đó nó có thể xa cách tâm thức Thượng đế nhiều hơn nữa.

Điều gì sẽ định đoạt con lên cao hơn hay xuống thấp hơn trên Cây sự Sống? Yếu tố quyết định là ý niệm cái ta của con, sự tự nhận biết của con, ý niệm bản sắc của con. Con sinh ra trong một gia đình nào đó và gia đình con có một dòng dõi có thể truy ngược lên nhiều thế hệ. Gen của con và cách nuôi dạy đã ảnh hưởng đến con người mà con là hôm nay, con người mà con xem mình là. Điều nhiều người không nhận ra là ý niệm bản sắc của con không hề cố định. Mặc dù nó có thể bị tác động bởi những lực bên ngoài, con có tiềm năng nắm chủ động cái ta của mình, thay đổi ý niệm cái ta theo viễn quan cao nhất của con.

Cơ thể vật lý của con là sản phẩm các gen di truyền trong gia đình con, và sự dạy dỗ con nhận được là sản phẩm của thế giới quan cùng nền văn hóa gia đình và xã hội. Nhưng con vẫn là một cá nhân riêng biệt, và con có khả năng vươn lên cao hơn nguồn gốc gia đình con theo nhiều cách, như nhiều người đã chứng tỏ. Vì con thực sự là một sinh thể tâm linh cho nên con có quyền tự do hoàn toàn để vươn lên cao hơn ý niệm bản sắc hiện tại của con, thậm chí vươn lên cao hơn cả ý niệm bản sắc mà cá thể con được sinh tạo. Cốt lõi con người con là ý niệm cái ta, ý niệm bản sắc của con.

1.3. Bản sắc của con không cố định bất biến

Khi Đấng Sáng tạo ban cho con khả năng tự nhận biết, khả năng tưởng tượng và quyền tự quyết, ngài đã tạo ra một sinh thể không có bản sắc cố định bất biến. Theo nghĩa đen con chính là con người mà con nghĩ mình là, con là con người mà con thấy mình là. Nếu con thấy mình là một đứa con của Thượng đế thì con chính là con của Thượng đế. Nếu con thấy mình là môt người phàm trần hữu diệt (mortal) thì con chính là một người phàm trần hữu diệt, ít ra trong thế giới của thời gian và không gian. Con có khả năng thay đổi ý niệm bản sắc của con, thay đổi nhận biết về mình bằng cách dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình. Con có thể quên hay phủ nhận mình là con trai hay con gái của Thượng đế và thay vào đó hình dung, chấp nhận bản sắc mình là một kẻ tội đồ hữu diệt. Cũng vậy, con có khả năng bỏ lại đằng sau ý niệm bản sắc giới hạn của một người phàm trần và đòi lại bản sắc thực mà con đã có khi bước vào hiện hữu. Xong con có thể xây dựng dựa trên niệm tinh khôi đó và trở nên nhiều hơn nữa so với khi con được sinh tạo, và đây chính là kỳ vọng mà Đấng Sáng tạo dành cho con.

Để hiểu được những khái niệm này, có thể con sẽ cần một chút suy tư bằng trái tim, vì tâm phân tích sẽ không thể giải quyết những gì có vẻ mâu thuẫn đối với nó. Tâm Ki-tô Hoàn vũ lưu trữ bản mẫu thiêng liêng, niệm tinh khôi của cá thể con, là cá thể được ban phú cho con khi dòng sống của con lần đầu tiên bước vào hiện hữu. Bản mẫu này không bao giờ có thể bị mất, và sinh thể tâm linh lớn hơn mà từ đó con xuất phát sẽ tồn tại ở cõi tâm linh cho dù con có làm gì ở đây trên trái đất. Trên hết và trước hết, sinh thể tâm linh này là Hiện diện TA LÀ của con, nhưng Hiện diện TA LÀ của con là một thành phần của cây gia phả đi ngược trở lên Đấng Sáng tạo, có thể xuyên qua nhiều thế hệ hay cấp bậc. Như một sinh thể cá biệt, con là nhiều hơn Hiện diện TA LÀ của con, nhiều hơn cây gia phả của con và nhiều hơn cả Đấng Sáng tạo của con. Khi thày nói “nhiều hơn,” thày không có ý so sánh như thể con hơn Thượng đế. Điều thày muốn nói là con có một ý niệm tự nhận biết đặc thù vượt ngoài sự tự nhận biết của Đấng Sáng tạo cùng các thành viên trong gia đình tâm linh của con.

1.4. Hai khía cạnh của tự nhận biết

Con có một ý niệm tự nhận biết đặc thù, và ý niệm này gồm có hai khía cạnh: một là “nhận biết,” hai là “tự” – hay cái ta. Con nhận biết là con hiện hữu, con có bản thể, con mang sự sống. Nhận biết này tập trung vào cái con xem là “cái ta” của con, bản sắc của con. Nhận biết của con là bình chứa bản thể con, và ý niệm cái ta là nội dung trong bình chứa bản thể của cá nhân con. Nhận biết đem lại cho con hiện hữu, và cái ta thì đem lại cho sự hiện hữu của con một trọng tâm cụ thể và từ đó một cách để con tự biểu đạt trong thế giới hình tướng.

Sự nhận biết độc lập với cái ta, theo nghĩa là nó không tùy thuộc bất kỳ hình tướng nào. Nó có thể tồn tại như là nhận biết thuần khiết mà không tập trung vào – hay xuyên qua – một cá thể đặc thù, và chính nhận biết này là cốt lõi của bản thể Thượng đế. Thượng đế tối thượng là một trạng thái nhận biết thuần khiết, và nhận biết này thì vượt khỏi hình tướng, có nghĩa là nó không bao giờ có thể bị mất hay chia cắt. Nó có thể biểu đạt qua một hình tướng cụ thể, qua một cái ta cá nhân, bởi vì “không có ngài thì không tạo vật nào được tạo thành”. Nội dung của cái ta cá nhân này có thể che mờ nhận biết thuần khiết, thế nhưng nhận biết thuần khiết thì bất biến và trường cửu. Như một câu tục ngữ Ấn cổ đã nói: “Con người đến và con người đi, nhưng Ta thì tiếp tục mãi mãi.”

Ý niệm cái ta có thể thay đổi, tùy thuộc vào cách con nhìn mình như thế nào, con tưởng tượng mình ra sao, và con quyết định cái gì là thực và là một phần của chính con. Nó tùy thuộc hoàn toàn vào nội dung mà con bỏ vào bình chứa cái ta, và tất nhiên, ý niệm cái ta của con có thể bị ảnh hưởng bởi thế giới hình tướng. Đây là tại sao cái Ta Biết có thể bị lạc trong hình tướng và quên mất nhận biết thuần khiết là nguồn cội của nó. Con có thể thay đổi nhận biết về mình bằng cách thay đổi ý niệm cái ta, thay đổi nội dung bình chứa bản thể của con.

Nhận biết của con giống như một tờ giấy trắng, và trên tờ giấy này Đấng Sáng tạo đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp về bản mẫu thiêng liêng của con. Khi con bắt đầu chấp nhận một ý niệm thấp hơn về cái ta thì con dùng mực đen vẽ nguệch ngoạc lên giấy. Nếu con cứ tiếp tục làm vậy, rốt cuộc sẽ tới điểm những nét vẽ nguệch ngoạc này không chỉ che phủ bản mẫu thiêng liêng của con mà cả tờ giấy trắng bên dưới. Nhận biết thuần khiết và khuôn đúc cái ta tâm linh của con bị che lấp bởi một mạng lưới chằng chịt những gạch đen không có cấu trúc rõ ràng nào. May mắn thay, gạch đen không dùng mực không thể tẩy xóa mà được vẽ lên một tấm nhựa trong, có nghĩa là cả tờ giấy trắng lẫn bản mẫu ban đầu vẫn nguyên vẹn, không hề gì.

Trước khi một hình tướng cụ thể có thể được tạo ra, nó phải hiện hữu như một tâm ảnh trong tâm có tự nhận biết. Cái tâm tự nhận biết mà thày vừa gọi là Tâm Ki-tô Hoàn vũ là kho lưu trữ vĩnh viễn cho tâm ảnh, cho bản mẫu mô tả cá thể của con, cá thể mà con đã có khi được sinh tạo. Khi con phát triển khả năng tự nhận biết, đúng ra con sẽ xây dựng thêm trên nền tảng đó và khuếch trương ý niệm cái ta để con trở thành nhiều hơn những gì con đã là lúc ban đầu. Khi con đồng-sáng tạo thuận theo các định luật của Thượng đế, ý niệm cái ta mà con khuếch trương cũng sẽ được ghi lại trong tâm thức Ki-tô. Một khi đã thu hoạch thì thành tựu của con không bao giờ có thể bị mất.

1.5. Cái Ta Biết là cái nó thấy nó là

Trước khi một hình tướng có thể hiển thị, tâm ảnh phải được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Tâm ảnh, bản mẫu cho bản sắc cá nhân của con, không phải là một sinh thể tự nhận biết có khả năng bước vào thế giới hình tướng và hành xử ngay như một người đồng-sáng tạo. Bản mẫu, niệm tinh khôi, chỉ là một ý tưởng được giữ trong tâm của Sinh thể tâm linh lớn hơn nơi con đã xuất thân. Đó là một sinh thể mang tiềm năng chứ không là một sinh thể đã hiển thị. Cái đi vào thế giới hình tướng là cái Ta Biết, là cái ta tự nhận biết của con, nó nhận biết chính nó là một sinh thể riêng biệt có cá thể. Thượng đế trước hết tạo ra bản mẫu cho bản thể con, nhưng bản mẫu này chỉ trở nên sinh động khi ngài thổi sự sống vào nó bằng cách cho phép một phần Bản thể ngài làm linh hoạt cái ta với nhận biết thuần khiết.

Khi ý niệm cái ta lần đầu tiên được tạo ra, tất nhiên nó hoàn toàn thẳng hàng với bản mẫu thiêng liêng của con. Đến khi nó du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng trí tưởng tượng cùng quyền tự quyết của nó, nó có thể trở nên nhiều hơn hay ít hơn bản mẫu nguyên thủy. Bản mẫu thiêng liêng cho bản sắc của con được lưu trữ vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ, nhưng cái Ta Biết, tức ý niệm cái ta hiện thời của con, bất cứ lúc nào cũng là cái nó nghĩ nó là, cái nó thấy nó là. Có nghĩa là khi con thay đổi nhận biết về mình thì con người cũ của con, ý niệm cũ về cái ta, sẽ chết đi và không còn nữa. Khi một hạt lúa nảy mầm trên mặt đất, hạt lúa đó không còn nữa. Nó đã biến thành mầm và hạt thì không còn hiện hữu. Khi mầm mọc thành cây thì đến lượt mầm không còn nữa. Nó vẫn hiện hữu như một khái niệm, nhưng nó không hiện hữu như một thực tế hiển thị vì nó đã được thay thế bởi cây lúa.   

Điều này nghe có vẻ trừu tượng nhưng con hãy nhìn trải nghiệm của mình trong kiếp sống này mà xem. Khi con lên 5, con không nhìn thế giới hay nhìn chính con giống như bây giờ. Con có một tầm nhìn khác, rất có thể một tầm nhìn hạn hẹp hơn. Ngày hôm nay đứa bé đó ở đâu? Thực tế là nó không còn tồn tại. Thân xác đứa bé không đang tồn tại trong hình dạng thuở trước nữa, mà sự tồn tại này chỉ kéo dài ở chỗ nó đã lớn lên thành thân xác hiện thời của con. Ý niệm cái ta của đứa bé 5 tuổi cũng không tồn tại trong dạng cũ vì nó đã phát triển thành ý niệm cái ta mà con đang có hôm nay. Thày phải cảnh báo là cách ẩn dụ này có một số giới hạn vì những gì đã xảy ra cho con vào tuổi thơ ấu có thể đã tạo ra những vết thương tâm lý vẫn ảnh hưởng con đến ngày nay. Tuy vậy, ẩn dụ này vẫn minh họa được sự kiện là sự tự nhận biết có mặt trước đây đã được thay thế bởi một ý niệm rộng lớn hơn về cái ta.

1.6. Cái chết của cái ta tâm linh

Thày khuyến khích con hãy quán chiếu điều này trong tim và tìm kiếm cái hiểu trực giác từ bên trong vượt ra khỏi những lời thày đang trao cho con. Khi lần đầu tiên con dấn thân vào thế giới hình tướng trong tư cách một sinh thể riêng biệt, ý niệm cái ta mà con mang là sự biểu đạt của bản mẫu thiêng liêng của con, là cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. Trong một thời gian, con đã xây dựng thêm ý niệm cái ta này. Rồi ở một điểm nào đó trong quá khứ xa xôi, con bắt đầu đi theo hướng ngược lại. Con bắt đầu thu hẹp ý niệm cái ta của con thay vì khuếch trương. Thay vì mở rộng nối kết với Hiện diện TA LÀ, con đã bắt đầu hạn chế dần mối nối kết này. Con giới hạn ý niệm cái ta của con và chú tâm nhiều hơn vào nội dung của bình chứa bản thể, dần dần quên mất chính bình chứa. Con tập trung hơn vào ý niệm cái ta mà con đã tạo dựng dựa trên trải nghiệm của mình trong thế gian thay vì ý niệm cái ta bất tử được lưu giữ trong tâm Ki-tô.

Lúc đầu đây là một diễn biến xảy ra từ từ, nhưng đến một thời điểm then chốt, con vượt quá điểm có thể quay ngược – mặc dù luôn luôn có khả năng con quay trở lại bản mẫu thiêng liêng của con. Một khi con đã vượt quá điểm này, con bị kẹt lại trong ý niệm cái ta hạn chế mà con đã tạo dựng. Con đánh mất sự kết nối ý thức với Hiện diện TA LÀ và do đó con quên mất nguồn cội thực của mình. Ý niệm cái ta của con không còn dựa trên sự kiện con là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, vĩnh viễn nối kết với Hiện diện. Giờ đây con dựng lên một ý niệm cái ta mới dựa trên sự tách biệt với Hiện diện TA LÀ, hay đúng hơn tách biệt với hình ảnh về Thượng đế mà con đã xây đắp từ các tư tưởng được tìm thấy trong thế gian.

Chắc hẳn con từng đặt một nồi nước lên bếp và bật lửa. Trong một thời gian, nước dần dần hâm nóng và con không thấy có gì thay đổi. Nhưng khi nước nóng đến một nhiệt độ nhất định, sẽ có bong bóng nổi lên và chỉ ít lâu sau, nước lặng biến thành nước sôi sùng sục. Nếu con tiếp tục đun nồi nước, cuối cùng toàn bộ khối nước sẽ bốc lên thành hơi. Các phân tử nước vẫn còn ở đó, nhưng chúng đã khoác lấy một hình dạng khác hẳn, không còn là nước lỏng nữa. Bây giờ chúng hiện ra dưới dạng hơi nước, một dạng vô hình với những đặc tính khác nước lỏng. Mặc dù phân tử nước vẫn tồn tại nhưng nồi nước con đã đặt lên bếp lửa không còn nữa.

Trong một tiến trình rất lần hồi, con bắt đầu chìm xuống một ý niệm bản sắc thấp hơn. Lúc đầu hầu như con không nhận thấy là mình đang tách ly khỏi Hiện diện TA LÀ thay vì tiến lại gần hơn. Rồi đến một điểm sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ bị thu hẹp đến một giai đoạn quyết định, và thật đột ngột con đánh mất sự nhận biết ý thức về mối nối kết đó. Đây đúng là chuyện xảy ra chớp nhoáng. Con có thể hình dung con kéo căng một sợi dây cao su nhiều lần mà không làm nó đứt, luôn luôn có thể đưa nó về hình dạng nguyên thủy. Thế rồi tới điểm nó đứt thì ngay lúc đó con không thể đem nó về hình dạng nguyên thủy được nữa. Sự thể này được minh họa trong câu đồng dao quen thuộc về anh chàng Humpty-dumpty bị ngã nặng. Tất cả voi ngựa lẫn quân lính của nhà vua – tượng trưng cho bất kỳ thế lực nào của thế giới vật chất – cũng không thể gắn lại cho Humpty liền lặn như cũ.

Trước khi con đánh mất nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn coi mình là một sinh thể tâm linh nối kết với một cái gì lớn hơn mình, nối kết với một cái gì vượt ngoài thế giới vật chất. Sau khi con đi quá điểm tách biệt thì con thấy mình là một cá nhân riêng biệt, tách rời khỏi cái mà giờ đây con nhận thức là một Thượng đế bên ngoài, và tách rời khỏi các sinh thể tự nhận biết khác. Con không còn xem mình là một sinh thể tâm linh mà một sinh thể bị giam cầm trong giới hạn của thế giới vật chất, giới hạn của thời gian và không gian. Sự thay đổi này gây ấn tượng rất mạnh, mạnh đến nỗi cái biết về mình như một sinh thể tâm linh, cái ta mà con là trước khi tách biệt, lăn ra chết. Ý niệm cái ta mà con đã có trước khi đi quá điểm then chốt đó, không còn nữa. Nó đã được thay thế bằng một ý niệm cái ta mới không còn dựa trên sự nối kết với nguồn cội mà dựa trên sự tách biệt khỏi nguồn cội của con. Cái Ta Biết vẫn duy trì một sự tồn tại liên tục, nhưng nội dung của bình chứa cái ta đã khác hẳn – có thể còn đi ngược lại – bản mẫu thiêng liêng của con.

1.7. Ẩn dụ trong câu chuyện Adam và Eva

Hành trình đi xuống một ý niệm cái ta thấp hơn được Thánh kinh mô tả trong câu chuyện Sa ngã của Adam và Eva. Ngược với niềm tin phổ biến nơi các cộng đồng chính thống, đúng lý câu chuyện này không bao giờ được hiểu theo nghĩa đen. Câu chuyện không mô tả hai vị tổ tiên của toàn bộ nhân loại, mà thay vào đó minh họa cho quá trình sa ngã – sa ngã xuống một ý niệm cái ta thấp hơn, một trạng thái tâm thức thấp hơn – mà mỗi con người đang sống trên địa cầu đều đã trải qua trong quá khứ xa xôi, nghĩa là nhiều kiếp trước đây. Nếu con có thể chấp nhận sự thật này, con sẽ học được những bài học quý báu từ câu chuyện Adam và Eva. Còn nếu con không chấp nhận, con sẽ tiếp tục kẹt lại trong cách diễn giải chính thống. Nhưng nếu con dính mắc với cách diễn giải chính thống thì con đã không đang đọc loạt bài này – con đã từ lâu gán cho nó một cái nhãn dị giáo hay báng bổ.

Con yêu dấu, con hãy xem xét câu chuyện Adam và Eva. Con sẽ nhận thấy có một người nam và một người nữ. Con sẽ nhận thấy câu chuyện kể rằng Adam được tạo trước, rồi Eva mới được tạo ra từ chiếc xương sườn của Adam. Kỳ thực điều này nhằm minh họa cho sự kiện Hiện diện TA LÀ của con là khía cạnh nam, hay tâm linh, của toàn bộ bản thể con. Cái Ta Biết, ý niệm cái ta đã bước xuống thế giới vật chất, là thái cực nữ của toàn bộ bản thể con. Hiện diện TA LÀ của con ngụ vĩnh hằng nơi cõi tâm linh và không bị bất cứ gì xảy ra trong thế gian này ảnh hưởng. Không phải Hiện diện TA LÀ bị Rắn dụ dỗ rồi rơi vào tâm thức tách biệt, tâm thức nhị nguyên, mà là khía cạnh nữ của bản thể con, cái Ta Biết, đã bị dụ cắn vào tâm thức nhị nguyên, tâm thức của thiện ác tương đối. Đây chính là tâm thức khiến con nghĩ rằng con có thể chế ra định nghĩa riêng của mình về thiện và ác thay vì chấp nhận định nghĩa tuyệt đối của tâm thức Ki-tô – rằng thiện có nghĩa là thuận theo các định luật của Thượng đế, và ác có nghĩa là đối nghịch lại tổng thể.

Trong câu chuyện Adam và Eva, con thấy Eva bị dụ dỗ bởi một cái gì bên ngoài nàng. Có mấy cách diễn giải có giá trị về Rắn sẽ minh họa những khía cạnh khác nhau của quá trình Sa ngã. Trong khuôn khổ cuộc thảo luận của chúng ta hôm nay, thày muốn dùng cách diễn giải rộng nhất, phổ quát nhất, và nói rằng Rắn biểu tượng cho một trạng thái tâm thức là bạn đồng hành tất yếu cho quyền tự quyết của con. Khi Thượng đế ban cho con quyền tự quyết, điều không thể tránh khỏi là con đạt được khả năng đi ngược lại các định luật của ngài thay vì tuân theo. Đây là sự cám dỗ đi kèm với sự kiện con là một sinh thể tự nhận biết với trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Con tưởng tượng ra chuyện khả thi là mình có thể đi ngược lại định luật của Thượng đế và con có thể quyết định làm như vậy. Cám dỗ này luôn luôn có mặt như một tiềm năng, nhưng con không bắt buộc phải tham gia, đắm mình vào đó. Một người đồng-sáng tạo có tự nhận biết hoàn toàn có khả năng gạt bỏ cám dỗ này và tiếp tục đồng-sáng tạo trong khuôn khổ định luật Thượng đế. Nhưng một số người đồng-sáng tạo lại chọn nhìn vào cám dỗ, rồi bắt đầu phân vân không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình quyết định đi ngược lại định luật Thượng đế và phớt lờ sự hướng dẫn từ Trên.

1.8. Thử nghiệm trong vô minh

Những tính toán này khởi lên trong tâm, tâm lý luận, tâm phân tích. Chúng khởi lên vì khi con là một người đồng-sáng tạo tân lập thiếu kinh nghiệm, con chưa có cái hiểu ý thức trọn vẹn về các định luật của Thượng đế. Con không hiểu trọn vẹn là các định luật này không hề hạn chế tự do sáng tạo của con, mà chỉ bảo vệ quyền tự do đó hầu con có thể biểu hiện cá thể con trong sự hài hòa với Thân thể Thượng đế. Vì mức tự nhận biết của con khuếch trương chưa đủ, con chưa hiểu rằng con là một với Thân thể Thượng đế, cho nên những gì con làm tới người khác thì con cũng làm tới chính con. Con chưa hiểu trọn vẹn rằng việc tuân thủ định luật của ngài là một việc làm có lợi cho con – vừa có lợi, vừa minh triết.

Do hiểu hạn chế như vậy mà có thể con đã phân vân không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu mình quyết định đi ngược lại định luật và chỉ đạo của Thượng đế. Có thể con đã bắt đầu cảm thấy định luật của ngài hạn chế tự do sáng tạo của con, và con phải được phép thử nghiệm khả năng sáng tạo mà không bị bất cứ gì cầm chân. Kỳ thực con luôn luôn được phép thử nghiệm với sáng tạo của mình, nhưng vì vũ trụ vận hành như một tấm gương cho nên không thể tránh được chuyện con phải gặt mỗi khi con gieo. Luật của Thượng đế được thiết lập để đảm bảo con chỉ gặt những kết quả tích cực sẽ khuếch trương cuộc sống của con lẫn cuộc sống của toàn bộ Thân thể Thượng đế. Luật của Thượng đế không thực sự giới hạn con, và cảm nhận giới hạn xuất phát từ một cái hiểu hạn chế về sự sống.

Con khởi đầu với một hiểu biết giới hạn về cách vận hành của thế giới nhưng Thượng đế không bỏ con một mình trong hiểu biết giới hạn đó. Câu chuyện vườn Eden kể rằng Adam và Eva đã bước đi và nói chuyện với Thượng đế. “Thượng đế” này không phải là Thượng đế trong nghĩa tối thượng mà là một đại diện của Đấng Sáng tạo trong vai trò thày tâm linh cho dòng sống của con. Vì ý niệm cái ta của con còn mới và thiếu kinh nghiệm, con vẫn là một đứa con của Thượng đế chưa trở thành một người đồng-sáng tạo hoàn toàn ý thức. Khi con bắt đầu sử dụng khả năng sáng tạo của mình và ý thức hơn về quyền năng của trí tưởng tượng và quyền tự quyết, con cũng bắt đầu ý thức hơn về quả trái của cây hiểu biết thiện ác. “Cây” này biểu tượng cho sự kiện con có chọn lựa đi ngược lại các định luật của Thượng đế một cách cố tình và tự cắt mình ra khỏi nguồn cội của mình hay không. Khi con biết trái cây này nhiều hơn, con bị dụ dỗ cắn vào hầu tìm xem chuyện gì sẽ xảy ra. Vị thày tâm linh trong vườn biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con ăn trái. Vì con chưa hiểu trọn vẹn tại sao việc tuân thủ định luật Thượng đế mang lại lợi ích cao nhất cho con, vị thày phải cho con một hiểu biết giới hạn hơn. Điều này có thể so sánh với khi con dạy một đứa trẻ không nên chạm vào bếp nóng kẻo phỏng tay. Trẻ con chưa đủ kinh nghiệm để hiểu được phỏng tay có hậu quả thế nào, và trong cương vị cha mẹ có trách nhiệm, con không muốn nó bị phỏng. Con cố dạy đứa bé không nên chạm bếp nóng mặc dù nó không hiểu tại sao.

Vị thày trong vườn Eden đã dặn các sinh thể tự nhận biết dưới sự hướng dẫn của mình rằng nếu họ dự phần vào trái cây hiểu biết về thiện ác, chắc chắn họ sẽ chết. Nhiều người tâm linh nhìn vào câu chuyện này đã suy đoán rằng chắc hẳn vị Thượng đế trong vườn đã nói dối Adam và Eva. Vì thật vậy, họ đã ăn trái và đã không chết, mà họ bị đuổi ra khỏi vườn. Đây là cách suy luận với cùng tầm hiểu hạn hẹp đã khiến cho vị thày trong vườn không thể giải thích tại sao họ không nên ăn trái. Khi ý niệm cái ta của con đi quá điểm then chốt và đánh mất sự nối kết ý thức với Hiện diện TA LÀ, đúng là ý niệm cái ta đó đã chết và không còn nữa. Đây là điều vị thày biết rõ nhưng những người đồng-sáng tạo thiếu kinh nghiệm kia thì không thể nắm bắt. Họ chưa đủ tự nhận biết để biết rằng con chính là con người mà con nghĩ con là.

Nếu con bỏ một con ếch vào nồi nước sôi, nó sẽ cảm được sức nóng và nhảy ngay ra ngoài. Nhưng nếu con bỏ ếch vào nồi nước lạnh rồi mới hâm nước lên, sự thay đổi sẽ từ từ đến độ con ếch không nhận ra và vì vậy nó sẽ bị luộc chín đến chết. Đây chính là điều có thể xảy ra cho một sinh thể tự nhận biết chưa hiểu được trọn vẹn các hậu quả của việc dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình để thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, với hiểu biết về thiện ác. Lúc đầu, con có thể lạm dụng trí tưởng tượng và quyền tự quyết mà không cảm ngay được hậu quả của việc làm này. Từ từ, con càng ngày càng bị bao trùm trong tâm thức nhị nguyên, nhưng sự chuyển biến xảy ra quá lần hồi đến độ con không để ý.

Cuối cùng thì sẽ đến một điểm không có trở lại khi đột ngột con chuyển sang một giai đoạn tự nhận biết khác. Giống như nước sôi biến thành hơi nước, ý niệm cái ta của con xoay chuyển và giờ đây con bị kẹt vào tâm thức nhị nguyên qua đó con xem mình tách biệt với Thượng đế. Ý niệm cái ta đã từng duy trì ít nhất một chút nối kết với Hiện diện TA LÀ của nó, bây giờ đã chết. Từ nhận biết này có một cái ta mới ra đời, thế nhưng cái ta này là một cái ngã hữu diệt dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Cái ta này giờ đây là điều cái Ta Biết tự định nghĩa mình là gì. Con là con người mà con thấy mình là, cho nên nếu con thấy mình là một con người hữu diệt tách biệt với Thượng đế thì chính con là vậy đó – ít ra ở đây và bây giờ, trong không gian và thời gian.

1.9. Cắn một miếng tâm thức Ki-tô

Trái tim yêu dấu của thày, cái chết của cái ta tâm linh của con, của ý niệm cái ta tâm linh, là vấn đề trung tâm trên hành tinh trái đất. Người ta có thể nói đây là vấn đề duy nhất trên hành tinh trái đất. Tất cả mọi vấn đề riêng biệt mà con thấy trên hành tinh này thật sự đều xuất phát từ tâm thức của thiện ác tương đối, là tâm thức nhị nguyên khiến cho các sinh thể tự nhận biết chế tạo định nghĩa riêng của mình về đúng-sai, tốt-xấu. Tất cả định nghĩa này đều chệch hướng so với thực tại của Thượng đế, với sự thật của Thượng đế, vì chúng hoàn toàn dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô là tâm thức tách biệt khỏi nguồn cội, trong khi tâm thức Ki-tô là tâm thức hợp nhất với nguồn cội của con.

Nếu mỗi con người trên hành tinh này có định nghĩa riêng của mình về thiện và ác thì không thể tránh khỏi xung đột với nhau. Nếu mỗi con người định nghĩa “tốt” là những gì tốt cho “tôi”, làm sao sẽ có được an bình và hài hòa trên hành tinh này đây? Nếu mỗi con người đều cho rằng định nghĩa của mình về sự thật là định nghĩa tuyệt đối duy nhất, có gì đáng ngạc nhiên khi chiến tranh hoành hành trên trái đất? Cách duy nhất để tạo một hành tinh hòa bình là ít ra có đủ túc số những người vươn lên cao hơn tâm thức nhị nguyên. Chỉ khi nào con người có cùng định nghĩa về thiện ác – cụ thể là định nghĩa tuyệt đối của tâm Ki-tô – thì chúng ta mới có thể hy vọng vượt qua được xung đột và chiến tranh trên hành tinh.

Khi con thấy mình là một nối dài của Hiện diện TA LÀ của mình thì con nhận chân được phần nào tâm thức Ki-tô. Khi con thấy mình tách biệt khỏi Hiện diện TA LÀ của mình, hay tách biệt khỏi Thượng đế, con bị kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Có một giai đoạn nửa chừng nơi con có một số yếu tố của tâm thức Ki-tô lẫn một số yếu tố của tâm thức phản Ki-tô. Một khi con đi quá điểm đánh mất mọi yếu tố tâm thức Ki-tô thì con thực sự đã chết theo nghĩa tâm linh. Đó là tại sao Giê-su đã nói: “Quả thật, quả thật, ta nói với con, nếu con không ăn thịt và uống huyết đứa Con của người thì con chẳng có sự sống trong con” (John 6:53). Giê-su muốn nói là trừ khi con dự phần vào tâm thức Ki-tô, con sẽ không có sự sống trong con. Con thực sự không có sự sống tâm linh trong con nếu con không có một miếng tâm thức Ki-tô trong quả cầu cái ta của con, trong bình chứa cái ta của con.

Điều này dẫn chúng ta đến một tầm hiểu mới về ý tưởng rằng con không thể được cứu rỗi nếu không có Ki-tô, rằng Ki-tô là vị cứu tinh duy nhất, con đường duy nhất đến với Thượng đế. Như Giê-su nói: “Không người nào đến được với Cha mà không qua ta” (John 14:6). Giê-su không muốn nói con người vỏ ngoài của riêng mình là sợi dây nối con với thực tại, với sự sống của Thượng đế, mà tâm thức Ki-tô là sợi dây đó. Giê-su so sánh Nước Trời – một cách khác để mô tả tâm thức Ki-tô – với men bột (Matthew 13:33). Khi con nhào bột và bỏ men vào, toàn bộ ổ bánh sẽ nở ra và đây là lý do con có thể làm bánh mì. Chỉ khi nào con bỏ thêm một miếng tâm thức Ki-tô đã được bẻ ra cho con (1Corinthians 11:24) thì tâm thức con mới có thể nở ra cao hơn mức nhị nguyên, cao hơn tâm phản Ki-tô. Chỉ bằng cách ăn vào một miếng tâm thức Ki-tô và cho phép nó nâng cao ý niệm cái ta của mình, cho phép nó xua tan bóng tối phản Ki-tô bằng ánh sáng Ki-tô, thì con mới có thể trở về căn nhà xưa và lại chấp nhận mình là con trai hay con gái của Thượng đế.

1.10. Tái sinh trong một ý niệm cái ta mới

Điều này cũng được Giê-su giải thích khi thày bảo Nicodemus rằng muốn bước vào Nước Trời thì con phải sinh ra lần nữa (John 3:1-8). Nicodemus cãi Giê-su và hỏi làm thế nào một người có thể sinh ra lần nữa, liệu ông có thể đi vào bụng mẹ một lần thứ hai? Nicodemus bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên đến độ ông hiểu lời Giê-su theo nghĩa đen và không nắm được ý nghĩa sâu xa. Khi con bước xuống tâm thức nhị nguyên, ý niệm cái ta tâm linh của con bị chết theo nghĩa đen. Con chết trong nghĩa tâm linh vì ý niệm bản sắc của con như một sinh thể tâm linh không còn hiện hữu. Con chuyển sang một ý niệm bản sắc mới như một sinh thể hữu diệt tách rời khỏi Thượng đế. Làm thế nào trở về Nước Trời nơi con thấy mình là một đứa con của Thượng đế? Chỉ có một cách mà thôi, đó là khi ý niệm cái ta tâm linh của con được tái sinh và con lấy lại bản sắc tâm linh đúng đắn. Con có thể khởi đầu tiến trình đòi lại bản sắc thực của mình vẫn được lưu giữ như là niệm tinh khôi trong tâm Ki-tô. Khi con lấy lại hoàn toàn bản sắc này, con trở về nhà xưa, con giành lại gia sản thiêng liêng của mình. Con trở thành đứa con hoang đàng đã quay trở về căn nhà của cha sau một thời gian dài xa cách (Luke 15:11).

Khi con chuyển từ một cái ta tâm linh sang một cái ta nhị nguyên, từ một cái ta dựa trên tảng đá của Ki-tô sang một cái ta dựa trên cát lún của phản Ki-tô, thì ý niệm cái ta trước đây của con phải chết. Khi con đảo ngược chiều hướng đó và quay trở lại ý niệm cái ta tâm linh, thì cái ta mà con có ngay bây giờ, cái ta dựa trên tách biệt, cũng sẽ phải chết. Con không thể đem ý niệm cái ta này với con vào Nước Trời, và lý do thật đơn giản. Ý niệm cái ta hữu diệt đã sinh ra trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế, còn ý niệm cái ta tâm linh thì sinh ra trong hợp nhất với Thượng đế. Cái gì sinh ra từ tách biệt không bao giờ có thể bước vào hợp nhất. Cái ta hữu diệt không bao giờ có thể nắm bắt hay chấp nhận thực tại của Thượng đế. Ý niệm cái ta dựa trên nhị nguyên và tách biệt không bao giờ có thể khắc phục cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Cái có khả năng khắc phục cảm nhận tách biệt với Thượng đế là cái Ta Biết, khi con thay thế nội dung trong bình chứa cái ta với một ý niệm cái ta mới. Đó là tại sao con phải cho phép ý niệm cái ta cũ chết đi, giống như con chim Phượng bị thiêu cháy trong lửa rồi lại trỗi dậy từ đống tro tàn, bay vút lên trời cao. Con phải cho phép ý niệm cái ta hiện thời bị thiêu hủy trong ngọn lửa thiêu đốt của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi tất cả những gì không giống như chính nó – và như vậy cũng thiêu rụi tất cả những gì sinh ra từ nhị nguyên và tâm phản Ki-tô. Con phải vững tin điều này không có nghĩa là con sẽ đánh mất ý thức liên tục mình là một sinh thể riêng biệt. Thay vào đó, một ý niệm cái ta mới sẽ ra đời. Ý niệm cái ta tâm linh của con sẽ được tái sinh, được phục sinh, và nó sẽ trỗi dậy từ đống tro tàn của cái ta cũ. Ý niệm cái ta mới này sẽ có nền tảng là bản mẫu thiêng liêng mà Thượng đế đã thiết kế.

Điểm này chính là sự khác biệt cơ yếu giữa mọi thày giả và mọi vị thày chân chính. Thày giả sẽ hứa con có thể đạt được sự dồi dào của Thượng đế – một số còn hứa rằng con có thể được cứu rỗi và sống vĩnh hằng – mà không cần để cho ý niệm cái ta nhị nguyên chết đi. Họ hứa với con là họ đã khám phá một đường tắt, một sơ hở mà qua đó con có thể duy trì cái ta hữu diệt và một cách nào đó biến nó thành cái gì chấp nhận được trong mắt Thượng đế. Ôi con yêu dấu, đây là một lời hứa hoàn toàn giả dối. Đây là điều mà Kinh Cựu ước gọi là con đường có vẻ đúng cho con người phàm (Proverbs 14:12) – tức sinh thể tự nhận biết bị kẹt trong nhị nguyên – tuy nhiên kết quả là những con đường dẫn đến cái chết, vì nó giữ con kẹt lại trong tâm thức của cái chết tâm linh. Giê-su từng so sánh Nước Trời với một bữa tiệc cưới (Matthew 22:1-14). Có người kia bước vào tiệc cưới mà không mặc áo cưới – nghĩa là đã không thay thế cái ta hữu diệt bằng cái ta Ki-tô – và ông ta bị trói cả tay chân, ném ra bóng tối bên ngoài. Mặc dù việc này nghe có vẻ thô bạo, nhưng nó minh hoạ chính xác sự thật là khi con vẫn ở trong tâm thức nhị nguyên thì con còn bị buộc trói bởi các tin tưởng nhị nguyên của mình, và con phải ở lại trong bóng tối của tâm phản Ki-tô.

Ý tưởng này quan trọng đến độ thày sẽ đề cập lại tường tận hơn trong các chương tới. Khi thày trải bày ra cho con thấy sự sai lầm của hình ảnh giả này về cứu rỗi, con sẽ thật sự ngộ được chìa khóa chủ chốt trong việc trải nghiệm đời sống dồi dào ngay nơi con đang ở. Thày vô cùng phấn khích mong được có dịp trải bày cho con tầm hiểu sâu xa này về sự cứu rỗi đích thực qua cái ta được tái sinh, là con đường có vẻ sai trái đối với tâm nhị nguyên, nhưng kết quả lại là những con đường dẫn đến sự sống vĩnh hằng.

15| Đạt được một trạng thái tâm thức quân bình

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 11/4/2005.

15.1. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con

Con hãy để thày trình bày về cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi đấng Sáng tạo của con quyết định sinh tạo những cá thể hóa của chính ngài, một vấn đề khó xử hiện ra. Điều khó xử là làm sao quân bình được quan hệ giữa một cá thể của tổng thể và chính tổng thể, để cá nhân không cảm thấy tách biệt khỏi tổng thể và hành động hạ giảm tổng thể thay vì khuếch trương tổng thể.

Đấng Sáng tạo của con có một trạng thái tâm thức bao trùm tất cả. Mọi vật trong thế giới hình tướng đều nằm trong tâm thức của ngài, vì ngài đã sinh tạo tất cả từ chính chất liệu của ngài, từ Bản thể và tâm thức của ngài. Giống như thế, tất cả những thứ do các người đồng-sáng tạo có tự nhận biết, là những cá thể hóa của đấng Sáng tạo, tạo ra đều được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế. Đấng Sáng tạo của con ở trong mọi thứ đã từng được tạo thành, do đó đấng Sáng tạo của con có nhận biết ngài là Tất cả và ngài ở trong tất cả. Nói rằng đấng Sáng tạo tạo ra hình tướng không đúng. Nói rằng đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một hình tướng thì đúng hơn. Đấng Sáng tạo khoác vào một hình tướng và khoác vào sự giới hạn mà không mất đi cái Tất cả của ngài. Khi một hình tướng được đem vào hiện thực, hình tướng này hiện hữu chính vì nó có một số đặc tính khiến nó khác biệt với:

  • Cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có hình tướng
  • Cái trống không trong đó chỉ có bóng tối và vì vậy không có hình tướng
  • Những hình tướng khác trong thế giới hình tướng

Cốt lõi của một hình tướng nào đó là nó được xác định bởi các đặc tính cá biệt khiến nó trở nên khác biệt. Nếu hình tướng này không có đặc tính nào, nó sẽ vẫn còn ở trong cái Tất cả và vì vậy nó sẽ không hiện hữu như một hình tướng khác biệt. Khi đấng Sáng tạo biểu hiện mình như một sinh thể có tự nhận biết, sinh thể này nhất thiết phải có đặc tính cá biệt. Nếu sinh thể không có cá thể gì cả, nó sẽ không hiện hữu như một sinh thể khác biệt, nó sẽ vẫn không thể phân biệt ra khỏi cái Tất cả của Bản thể Thượng đế. Trong trường hợp những hình tướng vô tri giác hay những sinh thể không có tự nhận biết (như thú vật) thì sự hiện hữu của các đặc tính cá biệt không gây vấn đề vì sự phân biệt khỏi cái Tất cả không bao giờ dẫn tới tách biệt khỏi Tất cả.

Nhưng với những sinh thể có tự nhận biết, thì một vấn đề có tiềm năng xảy ra, một loại bí ẩn xảy ra. Một sinh thể có tự nhận biết chỉ hiện hữu vì nó có nhận biết; nó biết nó đang hiện hữu. Cốt lõi của bản sắc của con là con hiện hữu như một sinh thể khác biệt với những đặc tính cá biệt và tiềm năng biểu hiện những đặc tính này qua quyền năng sáng tạo của con. Đây chính là điều con được thiết kế để làm, cụ thể là biểu hiện cá thể của con và qua đó đồng-sáng tạo vương quốc Thượng đế bất cứ nơi nào con ở, kể cả nơi hành tinh trái đất.

Con cũng được thiết kế để biểu hiện cá thể của con như một thành phần của Tất cả và một thành phần của Thân thể Thượng đế, là gia đình những người đồng-sáng tạo hiện hữu trong thế giới hình tướng. Con không được thiết kế để biểu hiện khả năng sáng tạo của mình như một người sống trong hư không. Con được thiết kế để biểu hiện cá thể của con hầu nâng cao tổng thể trong đó con là một thành phần và con không bao giờ có thể tách biệt khỏi tổng thể đó. 

Con có thể sinh hoạt như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế chỉ vì con có trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Cách con biểu đạt trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con là một biểu hiện của tự nhận biết của con. Hình ảnh của con về mình quy định cách con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng chưa được biểu hiện. Nó cũng quy định con dùng quyền tự quyết như thế nào để quyết định biểu hiện hình tướng nào hay quyết định hình tướng nào con có thể và không thể biểu hiện. Khi ý niệm tự nhận biết của con thẳng hàng với thực tại của Thượng đế, tức là con là một phần của Tất cả và một phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất, thì biểu hiện cá biệt của con sẽ thẳng hàng với tổng thể.

Sự kiện con có trí tưởng tượng không có giới hạn có nghĩa con có thể hình dung một ý niệm tự nhận biết tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế và tách biệt hay thậm chí đua tranh với những sinh thể tự nhận biết khác. Sự kiện con có quyền tự quyết không có giới hạn có nghĩa là con có thể chọn chấp nhận là một hình ảnh giới hạn như thế về mình. Từ đó con có thể tạo ra một hình ảnh mới về mình dựa trên tách biệt thay vì dựa trên cảm nhận hợp nhất nguyên thủy khi con được sinh tạo.

Việc chuyện này có thể xảy ra là một khía cạnh không tránh được của quyền tự quyết và trí tưởng tượng của con. Chuyện con dùng khả năng sáng tạo của mình để tạo ra một hình ảnh hạn chế về mình như vậy, không phải là điều không thể tránh. Thượng đế làm tất cả những gì làm được để con có thể duy trì dễ dàng một hình ảnh về mình đúng đắn và xây dựng trên hình ảnh này để con trở nên hơn những gì con được thiết kế để trở thành, thay vì con tạo ra một hình ảnh về mình kém hơn những gì con đã được thiết kế để trở thành.

15.2. Người đồng-sáng tạo có thể tách mình ra khỏi tổng thể

Câu hỏi cốt lõi là làm sao một sinh thể có tự nhận biết tránh không hành xử như một người tách biệt khỏi Thượng đế, xa rời Thượng đế hay hành xử giống như mình là sinh thể tự nhận biết duy nhất trong vũ trụ hay chỉ có mình là quan trọng. Thày biết chắc con có thể thấy được tình trạng khó xử này. Thượng đế sinh tạo nhiều sinh thể có tự nhận biết để họ hành động như người đồng-sáng tạo. Không sinh thể nào trong đó được sinh tạo như một ốc đảo. Không sinh thể nào được sinh tạo là con trai cưng có thể hành xử như một ông vua và tất cả những sinh thể có tự nhận biết còn lại chỉ là tôi mọi cho người duy nhất đó. Quả như Kinh thánh nói: “Thượng đế không tuân theo con người” (Acts 10:34). Đấng Sáng tạo yêu tất cả những đồng-sáng tạo của ngài với tình yêu vô hạn. Khi tình yêu vô hạn và vô điều kiện thì không thể có so sánh và do đó không có con trai hay con gái cưng. Mọi con đều được thương yêu với cùng một tình thương bởi vì dưới mắt Thượng đế mọi con đều giá trị như nhau, đều quan trọng như nhau. Làm sao khác được nếu mỗi sinh thể có tự nhận biết được tạo ra từ cùng chất liệu của đấng Sáng tạo và mỗi sinh thể là đấng Sáng tạo biểu hiện chính ngài như sinh thể cá biệt đó?

Một khi đấng Sáng tạo đã ban cho một sinh thể có tự nhận biết trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì người đồng-sáng tạo đó có thể tách mình ra khỏi tổng thể và bắt đầu hành xử như mình tách rời khỏi người khác, thậm chí coi mình quan trọng hơn người khác. Khi hành động tách biệt ra khỏi tổng thể, sinh thể tự nhận biết đã ăn vào “trái của sự biết thiện và ác” (Genesis 2:17), mà nghĩa thật là thiện và ác tương đối. Trong tâm thức nhị nguyên này, người ta có thể so sánh và do đó người đồng-sáng tạo có thể xây dựng hình ảnh về mình như người giỏi hơn hay có giá trị hơn người khác. Sinh thể đó xây dựng ý muốn cai quản người khác và kiểm soát tổng thể thay vì làm việc để khuếch trương tổng thể.

Khi một người đồng-sáng tạo chấp nhận hình ảnh nhị nguyên này về mình là thật, thì người ấy sẽ bắt đầu hành xử như thể hình ảnh này thật. Người đồng-sáng tạo có thể dần dần tập trung vào “thực tại” do tự mình tạo ra đến độ người ấy quên bản sắc thật của mình. Người đồng-sáng tạo, đã được thiết kế để luôn luôn giữ được ý thức mình là một cá thể hóa của Thượng đế, có thể đánh mất sự hợp nhất này, có thể đánh mất trạng thái Hồng ân này và do đó rơi vào một ý niệm bản sắc giới hạn như một sinh thể tách biệt, tách rời Thượng đế và tách rời Thân thể Thượng đế.

Chuyện này có thể xảy ra ngay khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Thượng đế không mong muốn bất kỳ con trai hay con gái nào của ngài lạc trong một ý niệm bản sắc kém hơn. Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, nhưng con chỉ nhận được vương quốc khi con thấy mình là con trai hay con gái của Thượng đế có khả năng và xứng đáng nhận vương quốc này. Nếu con mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc thấp kém trong đó con xem mình tách rời khỏi tổng thể và do đó con nghĩ hoặc là con không xứng đáng nhận sự dồi dào của Thượng đế hoặc con không được quyền nhận tất cả sự dồi dào đó, con không thể nhận trọn vẹn vương quốc. Thượng đế không muốn thấy điều này xảy ra, vậy thì làm sao có thể né tránh chuyện này đây? Trên thực tế không bao giờ có thể đoan chắc chuyện này không xảy ra. Cách duy nhất để đoan chắc con không thể bị mắc kẹt trong một bản sắc thấp là tước đi trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Nếu con không có khả năng tưởng tượng một trạng thái bản sắc giới hạn và nếu con không có ý chí để chấp nhận bản sắc này là thật thì con không thể bị lạc. Nhưng nếu con không có những khả năng sáng tạo này, con không thể phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế và do đó con không thể trở nên hơn nữa. Con không thể làm công việc gia tăng cường độ của ánh sáng Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không với ánh sáng. Trở nên hơn nữa và lấp đầy khoảng trống không chính là mục đích của sự hiện hữu của con.

15.3. Sự sống luôn luôn tự thăng vượt

Câu hỏi mà đấng Sáng tạo phải đối diện là làm sao con dùng khả năng sáng tạo của con một cách an toàn nhất, có nghĩa là con sáng tạo mà không quên nguồn gốc của mình, cội nguồn của mình. Dù vấn đề này không có đáp án tuyệt đối vì con luôn luôn có quyền tự quyết, nó có một đáp án tuyệt đối theo nghĩa con không bao giờ mất tiềm năng giành lại bản sắc thật của con. Thượng đế đã thiết kế một cách tài tình để lúc nào con cũng có thể tìm về vương quốc của ngài cho dù con đã đi bao xa chăng nữa khỏi vương quốc trong tâm thức.

Đấng Sáng tạo Một bắt đầu tiến trình sáng tạo bằng cách tạo ra hai lực bổ túc. Lão giáo gọi hai lực này là Âm và Dương, nhưng thày muốn gọi chúng là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ. Hai lực có thể có vẻ như đối chọi nhau nhưng đây không phải là sự thật vô điều kiện. Dù chúng có vẻ như có hướng ngược nhau, chúng thật sự là những lực bổ sung nhau. Chúng không loại trừ lẫn nhau, chúng chỉ quân bình lẫn nhau. Chỉ khi hai lực này hoàn toàn quân bình thì một hình tướng bền vững mới được tạo ra.

Một cái gì bền vững có nghĩa gì? Chìa khóa là thấu hiểu chính mục đích của sự sáng tạo, cụ thể là gia tăng ánh sáng Thượng đế, mở rộng vương quốc Thượng đế để lấp đầy khoảng trống không. Tăng triển không ngừng, thăng vượt không ngừng là mục tiêu. Vai trò của lực lan ra là thúc đẩy sự sáng tạo theo hướng đi ra ngoài, lan ra ngoài để nó không bao giờ đứng yên. Nó không bao giờ bị giới hạn trong một hình tướng nhất định nhưng luôn luôn tăng trưởng để hơn nữa.

Để có thể tạo ra bất cứ gì từ điểm dị đồng của đấng Sáng tạo, phải có một lực lan ra. Nếu lực lan ra là lực duy nhất, sự sáng tạo sẽ đơn giản là một sự bùng nổ liên tục trong đó không thể có được một hình tướng khác biệt nào. Lực co lại của Mẹ quân bình lực lan ra của Cha và khi có quân bình thì có thể tạo một hình tướng có thể vững bền. Hai lực sáng tạo cơ bản này đem lại nền tảng cho sự sáng tạo hình tướng. Chìa khóa cốt yếu cho sáng tạo thành công là sự quân bình đúng đắn giữa hai lực cơ bản này. Nếu lực lan ra quá mạnh, mọi hình tướng sẽ nổ tung. Nếu lực co lại quá mạnh, sự tăng trưởng sẽ dừng lại và rốt cuộc mọi hình tướng sẽ xập xuống và Ánh sáng Mẫu-vật sẽ trở về trạng thái nền của nó. Phải có cái gì đó duy trì thế quân bình đúng đắn giữa hai lực này và bảo đảm là sáng tạo được bền vững mà không bao giờ đứng yên. Bền vững không đồng nghĩa với đứng yên, nó có nghĩa là vượt thăng liên tục. Tại sao thế? Bởi vì chính định nghĩa của sự sống là tăng trưởng, sự sống là cái gì luôn luôn trong tiến trình tự vượt thăng, mang nhiều thêm bản chất Thượng đế vào sự biểu hiện và do đó thay thế bóng tối trong khoảng trống không.

Lực lan ra và lực co lại không thể tự chúng tạo ra hình tướng. Lực lan ra sẽ luôn luôn lan ra và lực co lại sẽ luôn luôn co lại và nếu chỉ có một lực thì mọi hình tướng, mọi cấu trúc sẽ bị tan vỡ. Hầu tạo được một hình tướng, trước tiên hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng, như một hình tư tưởng. Hình tư tưởng này phải quân bình hai lực lan ra và co lại để hình tướng có thể vững bền trong một trạng thái sinh động trong đó hình tướng không đứng yên nhưng là một môi trường để tăng triển hơn nữa. Lực co lại của Mẹ có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-Vật. Chúng ta có thể so sánh nó như đại dương yên lặng không có sóng. Lực lan ra của Cha giống như ngọn gió thổi vào đại dương và khuấy động sóng. Những ngọn sóng trong đại dương ánh sáng vô tận là những gì hiện ra như hình tướng khác biệt. Ánh sáng Mẫu-Vật có khả năng khoác vào bất cứ hình tướng nào và một số những hình tướng này có thể hủy bỏ lẫn nhau giống như sóng đại dương có thể hủy bỏ lẫn nhau.

Cái gì quy định một hình tướng đặc thù được đem vào hiện thực? Những đặc tính của hình tướng đó phải hiện hữu như một tiềm năng trước khi hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Cần có một khuôn đúc để lực lan ra của Cha tuôn chảy vào và khuấy động Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào một hình tướng đặc thù thay vì là một sự bùng nổ bừa bãi. Lực lan ra lẫn lực co lại đều không thể tạo ra một hình tư tưởng và dùng hình này để điều khiển lực lan ra đi vào Ánh sáng Mẫu-Vật. Một hình ảnh như thế chỉ có thể được giữ trong một tâm có tự nhận biết, một tâm có trí tưởng tượng để hình dung một hình ảnh và có ý chí để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Tâm đó cũng phải có tự nhận biết, khiến nó biết nó hiện hữu và biết nó có khả năng dùng những lực sáng tạo cơ bản. Đấng Sáng tạo có tâm như thế nhưng đấng Sáng tạo không muốn tự mình tạo ra mọi sự. Đấng Sáng tạo quyết định biểu hiện chính mình như những sinh thể cá biệt có thể hành động như những đồng-sáng tạo. Những sinh thể này có khả năng của tâm để hình dung hình ảnh của một hình tướng chưa được biểu hiện và họ có thể phóng chiếu hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật.

Khi lực lan ra của Cha chảy vào khuôn đúc, Ánh sáng Mẹ khoác lên hình tướng tương ứng. Tại sao những đồng-sáng tạo có khả năng này? Đó là vì họ được sinh tạo ra từ, họ là cá thể của, một khía cạnh khác của Thượng đế, một nối dài khác của Thượng đế, đó là cái mà Kinh thánh gọi là Ngôi Lời hay đấng Con trai duy nhất được sinh tạo từ đấng Cha, đầy ân huệ và lẽ thật (John 1:14).

15.4. Con sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế qua tâm Ki-tô

Nhiều người Cơ đốc đã tin rằng Giê-su Ki-tô là người Con trai duy nhất được sinh tạo từ Thượng đế hoặc Giê-su chính là Thượng đế ngay từ đầu. Ý tưởng này không đúng vô điều kiện. Vì mỗi sinh thể có tự nhận biết từng được sinh tạo đều là con trai hay con gái của Thượng đế, vì mọi vật từng được tạo ra đều đi ra từ Bản thể và tâm thức của Thượng đế, nên ta có thể xem tất cả đều là Thượng đế ngay từ đầu. Nhưng ngay lúc một hình tướng cá thể hay một sinh thể cá thể đi vào hiện hữu, thì nó mang vào những đặc tính riêng biệt và do đó nó không còn là cái Tất cả của Thượng đế nữa. Điều này áp dụng cho Giê-su Ki-tô và cũng như là con. Giê-su đi ra từ cái Tất cả của Thượng đế và thày đã là và đang là con trai của Thượng đế. Con cũng thế, con đi ra từ cái Tất cả và con cũng là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su còn xác nhận thày bình đẳng với mọi sự sống qua câu nói: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Nếu con đã lớn lên trong sự sùng bái thần tượng mà Cơ đốc giáo truyền thống cổ xúy, thì con có thể xem những lời của thày là miệt thị thần linh. Giê-su không bao giờ đặt mình tách rời người khác, thày cũng không bao giờ đặt mình cùng hàng với Thượng đế. Tại sao con nghĩ Giê-su nói: “Sao ngươi gọi ta là tốt lành, chỉ có một Đấng tốt lành mà thôi, đó là Thượng đế” (Matthew 19:17). Giáo lý truyền thống xem Giê-su là Con trai duy nhất của Thượng đế được sinh tạo từ Thượng đế. Giê-su xem cái nhìn này là hình thức miệt thị thần linh tệ nhất và là sự nhạo báng toàn bộ sứ mạng của thày. Khi giáo hội truyền thống tạo ra giáo lý này, họ đã tách Giê-su khỏi mọi người khác và do đó thày trở thành một thần tượng thay vì là tấm gương. Giê-su không thích thấy tín đồ Cơ đốc nhảy múa chung quanh con bò con vàng này, thay vì thừa nhận sự thật là Giê-su đến để chỉ cho họ thấy họ có tiềm năng thật giành lại di sản thiêng liêng của họ. Khác biệt thực sự giữa con và Giê-su là Giê-su đã nhận ra và chấp nhận nguồn gốc của thày là một con trai của Thượng đế trong khi con vẫn chưa làm thế. Con quả thực có tiềm năng giành lại bản sắc thật của con bằng cách noi gương Giê-su và cho phép tâm này ở trong con, tâm đó cũng ở trong Giê-su Ki-tô (Philippians 2:5).

Tâm ở trong Giê-su là tâm gì? Nó là tâm Ki-tô, là Con trai thật được Cha sinh tạo, Cha ở đây có nghĩa là đấng Sáng tạo. Trạng thái tâm thức này là một tâm hoàn vũ, một ý niệm nhận biết hoàn vũ do Thượng đế đấng Sáng tạo tạo ra để phục vụ một chức năng đặc biệt là chức năng làm trung gian giữa Thượng đế và tất cả những nối dài cá thể của ngài, chính là những đồng-sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của tâm Ki-tô là bảo đảm rằng không người đồng-sáng tạo nào có thể mất đi vĩnh viễn bản sắc thật của mình hay mất đi nhận biết về các quy luật Thượng đế. Tâm Ki-tô bảo đảm mọi hình tướng được tạo ra phù hợp với các quy luật Thượng đế và hình tướng nào không thẳng hàng với các quy luật này không thể tồn tại vô hạn định.

Khi Thượng đế sinh tạo ra con, ngài cho con một cá thể độc nhất. Đây là tiềm năng sáng tạo của con và khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, một cách tự nhiên con sẽ biểu hiện cá thể của con trong mọi vật mà con sáng tạo. Cá thể của con là món quà Thượng đế cho con và khi con cho phép ánh sáng của con tỏa chiếu, cá thể của con biểu hiện như món quà của con cho thế giới. Cá thể mà Thượng đế ban cho con quả thực đẹp đẽ và tuyệt vời vượt quá những gì hầu hết con người có thể chấp nhận với ý niệm bản sắc hiện nay của họ. Như Giê-su đã nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34), nghĩa là con đã được thiết kế với một vẻ đẹp và sự toàn hảo vượt xa mức bản sắc và nhận biết phàm phu. Con được sinh tạo để trở thành vô vàn hơn những gì con có thể chấp nhận hiện nay, và cá thể mà Thượng đế ban cho con không bao giờ mất được vì nó được ghi lại vĩnh viễn trong Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Con trai duy nhất do Cha sinh tạo là người gìn giữ cá thể thật của con, và do đó tâm Ki-tô cũng là chìa khóa giúp con tìm lại bản sắc đó. Tâm Ki-tô là chìa khóa duy nhất cho sự cứu rỗi của con vì cứu rỗi có nghĩa là con khắc phục được ý niệm bản sắc giới hạn sinh ra từ tâm phản Ki-tô, tâm tách biệt khỏi nguồn cội của con. Để có được đời sống vĩnh cửu, con phải giành lại bản sắc sinh ra từ tâm Ki-tô, là tâm hợp nhất với nguồn cội của con.

Tâm Ki-tô cũng có vai trò hướng dẫn nỗ lực sáng tạo của con và bảo đảm là chúng luôn luôn thẳng hàng với các quy luật Thượng đế và có sự hài hòa giữa con và Thân thể Thượng đế. Không sinh thể tự nhận biết nào có thể tiếp cận ánh sáng thanh khiết của Thượng đế mà không đi qua tâm thức Ki-tô. Như Giê-su đã nói: “Ta là con đường, sự thật và sự sống: không ai tới được Cha ta mà không qua ta” (John 14:6). Tâm Ki-tô biết quy luật của Thượng đế và do đó nó có tiêu chuẩn tuyệt đối để lượng định xem hình tướng mà người đồng-sáng tạo hình dung hòa hợp với quy luật Thượng đế (thiện lành vô điều kiện) hay không hòa hợp với quy luật Thượng đế (xấu ác). Hầu sáng tạo một hình tướng, người đồng-sáng tạo phải hình dung hình tướng và sau đó cho phép uy lực của Thượng đế tuôn chảy qua hình tướng đó, qua đó hình tướng được áp đặt lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Quyền năng sáng tạo hình tướng của con tùy thuộc vào cường độ và sức mạnh của ánh sáng thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Lực sáng tạo tối hậu là ánh sáng lan ra của Cha và khi con sáng tạo với ánh sáng này, con có quyền năng sáng tạo tối đa. Như Giê-su đã nói: “Con người không thể làm được nhưng đối với Thượng đế thì chẳng thế; bởi vì Thượng đế làm được mọi sự” (Mark 10:27). Hầu tiếp cận được quyền năng của Thượng đế, con phải có tâm Ki-tô và hình tư tưởng mà con hình dung phải hài hòa với các quy luật Thượng đế. Khi con hiện thân như một con người, tâm thấp của con phải trở thành cánh cửa mở cho dòng năng lượng chảy từ Hiện diện TA LÀ của con. Chính năng lượng tâm linh này trở thành lực đẩy mạnh đằng sau nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su đã nói: “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì” (John 5:30) và: “Nhưng chính Cha ở trong ta làm những việc này” (John 14:10).

Khi con hình dung một hình tư tưởng dựa trên tâm Ki-tô, nó sẽ luôn luôn hài hòa toàn hảo với quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế. Như một cá nhân, con không phải là Tâm thức Ki-tô Hoàn vũ trọn vẹn, nhưng tâm thức này đã được cá thể hóa cho con. Như Giê-su đã nói: “Hãy lấy và ăn: đây là thân ta, vì các người mà bẻ ra: hãy làm điều này để nhớ ta” (1Corinthians, 11:24). Qua tâm Ki-tô được cá thể hóa này, con có thể sáng tạo trong sự hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và do đó những gì con sáng tạo có uy lực tối đa. Đó là lý do tại sao Giê-su, qua tâm Ki-tô đã có uy lực vượt lên trên định luật thiên nhiên và làm những điều mà con người xem là phép lạ. Sự thực là Giê-su đã dùng quy luật cao hơn thay thế định luật thiên nhiên mà khoa học hiện đang hiểu.

Khi con đi theo tiến trình dùng tâm của đấng Con để tiếp cận quyền năng sáng tạo của đấng Cha và quy định hình tướng được phóng lên Ánh sáng Mẹ, sáng tạo của con sẽ khuếch trương tổng thể. Tâm Ki-tô Hoàn vũ sẽ ghi lại mãi mãi hành động thiện lành của con để chúng không bao giờ có thể bị mất. Đây là điều Giê-su gọi là kho tàng chứa ở trên trời: “Nhưng hãy chứa kho tàng ở trên trời là nơi chẳng có sâu mối hay rỉ sét làm hư cũng chẳng có kẻ trộm phá vách vào mà lấy” (Matthew 6:20).

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chọn hình dung một hình tướng không hòa hợp với quy luật Thượng đế và con có thể dùng ý chí để biểu hiện hình tướng này. Để có thể biểu hiện một hình tướng không toàn hảo, con không thể dùng ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Con chỉ có chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng kém hơn, cụ thể là năng lượng tâm lý đã được đem vào sẵn trong quang phổ tần số vật lý. Con vẫn có thể sáng tạo bằng cách dùng ánh sáng này do đó các thày giả nói đúng khi họ nói con có thể tích lũy giàu có đồ sộ bằng cách dùng uy lực của tâm. Sự sáng tạo này sẽ không bao giờ mạnh mẽ bằng những gì được sáng tạo qua tâm Ki-tô. Vì chúng được sáng tạo qua tâm phản Ki-tô, con không thể tránh là con sẽ gặt những gì con gieo: “Vì chúng đã gieo gió và sẽ gặt bão lốc” (Hosea 8:7).

15.5. Con thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở

Thượng đế muốn bảo đảm là cuộc thử nghiệm quyền năng sáng tạo của con sẽ trở thành một vòng xoáy đi lên, qua đó con sẽ tăng triển tự nhận biết và tăng triển nhận biết là cái ta của con là một với Tất cả. Mọi điều con làm hòa hợp với quy luật Thượng đế được ghi lại vĩnh viễn trong tâm Ki-tô. Nó trở thành thành đạt của con, động lượng của con mà con có thể dùng làm nền tảng vững chắc, giống như tảng đá Ki-tô, để gia tăng quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Dù kho tàng đó không bao giờ có thể bị mất, con có thể dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết để tách mình khỏi chúng, thậm chí đến độ con hoàn toàn quên chúng và quên bản sắc thật của mình. Khi điều này xảy ra, hiển nhiên con không thể xây dựng trên nền móng của các hành động quá khứ của con và có thể nói rằng con bị bắt buộc phải bắt đầu lại từ đầu. Vì các hành động thiện lành quá khứ của con không thể nào mất, nên kho tàng của con lúc nào cũng còn đó và đợi con. Bất cứ lúc nào, con có thể quyết định ngưng vòng xoáy đi xuống đã tách con ra khỏi cái Ta thật của con. Con có thể bắt đầu đi theo con đường tâm linh sẽ giúp con có uy lực để giành lại bản sắc thật của con. Khi con làm vậy thì con sẽ lấy lại kho tàng mà con đã cất trên thiên đàng và dùng nó như nền tảng để khuếch trương quyền năng sáng tạo và tự nhận biết của con. Bản sắc thật của con, bản sắc được xây dựng trên tâm Ki-tô, không bao giờ bị mất. Bản sắc giả, bản sắc tách biệt được xây dựng trên tâm phản-Ki-tô, quả thật sinh diệt và do đó có thể bị mất. Con phải đánh mất nó thì mới giành lại được bản sắc thực của mình.

Khi Thượng đế tạo ra thế giới hình tướng này, ngài quy định một số nguyên lý chỉ đạo để bảo đảm hệ thống các thế giới này có thể phát triển vững bền, có thể phát triển mà không nổ tung hay không co lại thành trống không. Thượng đế thiết kế những nguyên lý này để bảo đảm lực lan ra của Cha không quá mạnh đến độ nó làm nổ tung vũ trụ trong một vụ nổ vĩ đại. Cùng một lúc, Thượng đế tạo ra những quy luật để bảo đảm lực co lại của Mẹ không ngừng lại sự lan tỏa của ánh sáng để lấp đầy khoảng trống không. Nếu chuyện này xảy ra thì lực co lại sẽ bắt đầu một chu trình co lại sẽ đem mọi hình tướng trở về cái hư không mà từ đó chúng khởi đầu.

Trong khuôn khổ những nguyên lý sáng tạo do Thượng đế quy định, con có tự do không giới hạn để sáng tạo hình tướng. Là một đồng-sáng tạo với Thượng đế, sáng tạo của con không bị giới hạn bởi quy luật Thượng đế. Quy luật Thượng đế không giới hạn tự do sáng tạo của con. Chúng là một khung sườn, là những nguyên lý chỉ đạo để con có thể sử dụng quyền năng sáng tạo của con mà không phá hủy chính mình hay các đồng-sáng tạo khác. Quy luật Thượng đế được thiết lập để bảo đảm con có thể dùng sự sáng tạo của con để khuếch trương tổng thể bằng cách mở rộng và gia tăng cường độ ánh sáng của Thượng đế. Con nghĩ lại thày đã mô tả tiến trình sáng tạo như thế nào. Khi Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới trong khoảng trống không, thì bầu cõi này không được Ánh sáng Thượng đế hoàn toàn lấp đầy. Sau đó những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết được gửi xuống bầu cõi này để nhân lên khả năng của họ và cai quản bầu cõi, qua đó họ lấp đầy bầu cõi với ánh sáng. Sau đó bầu cõi này có thể dùng làm nền móng để mở rộng sáng tạo bầu cõi kế tiếp. Con cần nhận ra là lấp đầy một bầu cõi với ánh sáng không có nghĩa là lấp đầy nó với ánh sáng chưa được phân biệt. Một bầu cõi được lấp đầy với những hình tướng đứng thẳng hàng với quy luật Thượng đế nhưng chúng biểu hiện sự sáng tạo của những người đồng-sáng tạo cư ngụ trong bầu cõi đó.

Con được sinh ra để biểu hiện cá thể mà Thượng đế đã ban cho con bằng cách sáng tạo những hình tướng sẽ thị hiện vương quốc Thượng đế nơi con ở. Quả thực con có khả năng sáng tạo không giới hạn và không nỗ lực nào của con bị lãng phí. Chúng sẽ trở thành một phần của vương quốc trường tồn của Thượng đế sẽ hiện ra khi bầu cõi đạt tới một cường độ ánh sáng nào đó. Khi chuyện này xảy ra, bóng tối còn lại sẽ ít oi đến độ nó không thể che mờ thực tại bên dưới là mọi sự đã được tạo ra từ Bản thể của Thượng đế, từ ánh sáng thanh khiết của Thượng đế. Hiểm nguy các sinh thể có tự nhận biết bị mắc kẹt trong cảm nhận tách biệt với Thượng đế sẽ không còn nữa. Làm sao họ cảm nhận tách biệt được khi chung quanh họ là những hình tướng tỏa rạng ánh sáng của Thượng đế và biểu lộ sự hài hòa của quy luật Thượng đế?

Bởi vì trong vũ trụ vật chất không đủ ánh sáng, ít nhất là trên trái đất, ta không thể thấy, ít nhất là qua giác quan vật lý, là mọi thứ đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Con không thể trực tiếp thấy là Thượng đế là nguyên nhân, nguyên nhân tiên khởi, đằng sau mọi hình dáng. Đó là lý do tại sao một sinh thể có tự nhận biết có thể bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt, nghĩ rằng nó tách biệt khỏi dồi dào của Thượng đế. Khi cường độ của áng sáng được nâng lên trong hành tinh này, con sẽ thấy được ánh sáng tâm linh tỏa rạng từ mọi hình tướng và những hình tướng này hài hòa với quy luật Thượng đế. Vương quốc Thượng đế sẽ được thiết lập trên trái đất và hành tinh này sẽ trở thành ngôi sao tỏa rạng Ánh sáng Tự do, tự do khỏi tâm thức chết.

Thiết kế của bản thể con là con trở nên cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế hầu ánh sáng được khuếch trương trong thế giới này. Khi ánh sáng Thượng đế được khuếch trương, con sẽ phóng đại mọi sự sống qua các nỗ lực sáng tạo của con. Không có xung độ giữa con, một cá nhân, với các cá nhân khác. Các nỗ lực sáng tạo của con khuếch trương ánh sáng và do đó con gia tăng lượng dồi dào có mặt trên thế giới. Con phục vụ để phóng đại mọi thành phần trong thế giới này, kể cả tất cả những đồng-sáng tạo khác. Khi làm vậy, con cũng phóng đại cái ta thật của con, chính là toàn thể Thân thể Thượng đế, được hợp nhất qua thân và huyết (là tâm thức) của Ki-tô.

Thày biết những ý tưởng này có vẻ trừu tượng và khó nắm bắt cho tâm vỏ ngoài của con. Thày nhắc con là việc mở rộng tâm có nhiều giá trị lớn. Thày cũng nhắc nhở con là điều con không thể nắm bắt với trí, con luôn có thể nắm bắt với con tim. Mục đích của thày trong khóa học này không phải chỉ cho con hiểu biết trí năng. Mục đích của thày là giúp con tiến lại gần hơn tâm thức Ki-tô, có nghĩa là thày có mục đích mở rộng cả sự hiểu biết của con lẫn khả năng yêu thương của trái tim của con. Thày cho con nhiều khái niệm có vẻ khó nắm bắt với trí, là cách nhìn đời theo đường ngang và đường thẳng là đặc tính của trí, nhưng những khái niệm này có thể nắm bắt bằng cái nhìn quả cầu, đường dọc và không đường thẳng của con tim.

15.6. Tâm Ki-tô nối kết cá nhân với Tất cả

Bây giờ con hãy để thày mô tả thêm tâm Ki-tô. Tâm Ki-tô quả thực là một nối dài của tâm Thượng đế. Chức năng của nó là phục vụ như mối dây kết nối giữa đấng Sáng tạo và các đồng-sáng tạo có tự nhận biết của ngài. Tâm Ki-tô có một mục đích đặc thù, một điểm tập trung đặc thù, đó là cho cá nhân sức mạnh để duy trì và mở rộng ý niệm bản sắc của mình như là một thành phần của Tất cả, nối kết với Tất cả cho tới khi sinh thể cá biệt có tự nhận biết đó phát triển thêm tự nhận biết và nhận ra cái Ta cao của mình là cái Tất cả. Điều này không có nghĩa là cá nhân mất đi tính cá biệt của nó mà có nghĩa là cá nhân nhận ra nó là cái Tất cả của đấng Sáng tạo được biểu hiện và tập trung qua cá thể của nó. Sinh thể cá nhân có tự nhận biết không còn nhìn thế giới và cuộc sống dưới tầm nhìn giới hạn của nhận biết cá nhân của nó. Nó nhìn cuộc sống dưới tầm nhìn mở rộng của đấng Sáng tạo, tỏa rạng xuyên qua cá thể của nó.

Để minh họa điều này, con hãy tưởng tượng con lớn lên trong một căn phòng không có cửa sổ. Căn phòng có một cánh cửa với một lỗ nhìn nhỏ qua đó ánh sáng mặt trời có thể chiếu vào. Con không bao giờ thấy được toàn bộ mặt trời; con chỉ thấy một tia sáng nhỏ, riêng lẻ của mặt trời. Nếu con đã lớn lên trong một căn phòng như vậy, tầm nhìn của con về mặt trời sẽ bị quy định bởi điểm quan sát của con. Con có thể tin rằng không có mặt trời hoặc tia sáng đơn lẻ đó tự nó hiện hữu. Một khi con mở cửa và bước ra ngoài ánh sáng mặt trời, con sẽ có được một nhận biết mở rộng hơn về mặt trời và sức mạnh thật của nó. Giờ đây con sẽ nhận ra mặt trời mạnh hơn tia sáng nhỏ trong phòng rất nhiều. Con sẽ nhận ra tia sáng quả thực đến từ mặt trời và không thể nào hiện hữu nếu không có mặt trời. Nhưng con vẫn thấy mặt trời ở rất xa.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con du hành đến chính trung tâm của mặt trời và nhìn thái dương hệ từ chỗ đó. Con sẽ không còn bị giới hạn bởi ấn tượng ban đầu về mặt trời, như tia sáng nhỏ chiếu qua cánh cửa. Giờ đây con trải nghiệm toàn bộ mặt trời, tuy thế con không mất đi nhận biết của con về tia sáng đơn lẻ. Con sẽ nhận biết là tia sáng đơn lẻ quả thực là một nối dài của chính mặt trời. Quả thực là mặt trời đã tỏa sáng qua lỗ nhỏ của cánh cửa, mặt trời biểu hiện chính nó là một tia sáng đơn lẻ. Không có sự tách biệt thật sự giữa nguồn gốc của ánh sáng và tia sáng đơn lẻ. Giới hạn duy nhất là kích thước của lỗ qua đó ánh sáng tỏa chiếu. Nếu con mở rộng kết nối của con với Hiện diện TA LÀ của con, lượng ánh sáng có thể tỏa chiếu qua bản thể của con không bị giới hạn nào hết.

Khi Thượng đế sinh tạo con như một sinh thể cá biệt, con không được ban cho sự nhận biết trọn vẹn về mặt trời, có nghĩa là tâm thức của cái Tất cả của Thượng đế. Con được sinh tạo như một sinh thể cá biệt với một tia sáng tỏa chiếu qua tâm thức con. Trong trạng thái tâm thức giới hạn của con, lẽ tự nhiên là con nhìn mình là một sinh thể cá biệt, khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế. Con không đủ tự nhận biết để đồng hóa mình là một với cái Tất cả của Thượng đế, là một nối dài của cái Tất cả của Thượng đế.

Nếu mô tả điều này với từ ngữ đường thẳng mà thày đã có nói là không cho con một hình ảnh chính xác về thực tại Thượng đế, ta có thể nói là con được sinh tạo như một cá thể nhưng con có nhận biết con được sinh tạo bởi Thượng đế. Con thấy mình là một sinh thể cá biệt nối kết với một Thượng đế xa xăm. Sự nối kết của con với Thượng đế không ở ngoài con; nó ở bên trong con dưới hình dạng Hiện diện TA LÀ của con. Con coi mình như một hành tinh quay chung quanh quỹ đạo mặt trời của Hiện diện TA LÀ và được lực hấp dẫn của Hiện diện TA LÀ giữ trong một quỹ đạo ổn định. Dù con có nhận biết rõ ràng về Hiện diện TA LÀ của con, con vẫn chưa có thể thấy Hiện diện TA LÀ là một nối dài, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con có khái niệm Thượng đế là một Sinh thể xa xăm vượt lên trên trải nghiệm trực tiếp của con.

Con được sinh ra với một nhận biết giới hạn tập trung vào hình tướng cá biệt của mình. Con nghĩ mình được Thượng đế sinh tạo và gửi xuống thế gian này. Con được sinh ra để mở rộng nhận biết của con cho tới khi con nhận ra đấng Sáng tạo không tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Thượng đế là Tất cả ở trong Tất cả và do đó con không được sinh tạo bởi một Thượng đế xa xăm và gửi vào một thế giới trong đó không có Thượng đế. Thượng đế ở ngay đây với con và do đó khái niệm con được sinh tạo bởi Thượng đế quá giới hạn, quá đường thẳng. Sự thực là Thượng đế đang biểu hiện chính ngài như là sinh thể cá biệt của con. Con là Thượng đế biểu lộ chính ngài như sinh thể cá biệt của con. Đó là lý do tại sao Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con (Luke 17:21). Tiến trình thức tỉnh thấy bản sắc thật của con có nhiều giai đoạn:

  • Con bắt đầu thấy mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con là nguồn cội sự sống của con.
  • Con nhận ra ánh sáng tỏa xuyên qua Hiện diện TA LÀ là ánh sáng, uy lực của đấng Sáng tạo.
  • Con nhận ra là đấng Sáng tạo ở khắp nơi trong tạo vật và do đó ánh sáng của Thượng đế có tiềm năng tỏa sáng từ bất cứ điểm nào của tạo vật.
  • Cuối cùng con tới sự nhận biết là ánh sáng không đến từ một nguồn xa xăm mà nó đến từ bên trong cái Ta của con. Lúc đó con trở thành một Sinh thể tự đầy đủ tỏa chiếu ánh sáng Thượng đế từ bên trong con, giống như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng từ bên trong chính nó.

Sau khi con được sinh tạo như một dòng sống cá biệt, con đi xuống năng lượng dày đặc hơn của vũ trụ vật chất. Cái cho phép con có được và duy trì nhận biết ý thức về Hiện diện TA LÀ của con sau khi con xuống là tâm thức Ki-tô, Con trai duy nhất được Cha sinh tạo ra. Tâm thức này được Kinh thánh gọi là Ngôi Lời và như Kinh thánh nói, mọi thứ được sinh tạo từ Con trai của Cha, từ tâm thức Ki-tô và được quy định qua Ngôi Lời. Mọi thứ từng được tạo ra bởi một đồng-sáng tạo có tự nhận biết đã đi ra từ tâm thức Ki-tô, nghĩa là tâm thức Ki-tô ở trong mọi hình tướng từng được tạo ra. Không có ngài, không có cả Thượng đế Cha lẫn Thượng đế Con, chẳng điều chi đã được làm ra được làm ra (John 1:3).

Con không bao giờ mất đi tiềm năng lấy lại tâm thức Ki-tô. Dù con xuống thấp tới đâu trong tâm thức, con luôn có tiềm năng giành lại sự kết nối với Thượng đế và bản sắc thật của con. Con không bao giờ có thể bị tách biệt khỏi tâm thức Ki-tô vì nó ở trong mọi thứ, ngay cả ở trong những hình tướng không toàn hảo và không hài hòa với quy luật Thượng đế. Đó là lý do tại sao Giê-su nói đá cũng kêu lên để bênh vực Ki-tô (Luke 19:40). Một chức năng của tâm thức Ki-tô là bảo đảm những người đồng-sáng tạo không bao giờ có thể bị lạc trong tạo vật, không bao giờ có thể bị xa rời khỏi Thượng đế đến độ không có khả năng về nhà. Con không bao giờ có thể rời xa tâm thức Ki-tô do đó cảm nhận tách biệt sẽ luôn là một ảo tưởng chỉ có mặt trong tâm con. Bất cứ lúc nào, con cũng có thể bắt đầu đi trên con đường dẫn con thay thế ảo tưởng này với sự thật sẽ giải thoát con (John 8:32). 

15.7. Kế hoạch thiêng liêng cho sự tăng trưởng của trái đất

Thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho dòng sống của con là con bắt đầu như một sinh thể cá biệt với tự nhận biết giới hạn. Con bắt đầu như một cá thể có kết nối với Thượng đế nhưng khác biệt với cái Tất cả của Thượng đế mà không tách biệt khỏi cái Tất cả của Thượng đế. Có sự khác biệt giữa có sự kết nối với cái Tất cả của Thượng đế ngược lại với tách biệt khỏi cái Tất cả bởi một rào cản không đâm thủng được. Trong trường hợp đầu, con có thể mở rộng sự kết nối và cuối cùng đạt được sự tự nhận biết mình là một với Tất cả. Trong trường hợp thứ nhì, con không có chọn lựa nào cả để trở về hợp nhất với Tất cả. 

Khi con sử dụng các quyền năng sáng tạo của con, khi con dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con, con sẽ dần dần tăng trưởng tự nhận biết. Con cũng tăng trưởng nhận biết về cách vũ trụ và các quy luật của Thượng đế vận hành. Thượng đế đã ghi khắc quy luật của ngài trong các phần sâu trong con, nghĩa là cái ta ý thức của con có thể biết các quy luật này qua tâm Ki-tô. Khi dòng sống của con bắt đầu hành trình của nó trong vũ trụ vật chất này, con không có một sự nhận biết ý thức về các quy luật của Thượng đế. Tâm vỏ ngoài của con, tâm lý luận của con không có hiểu biết về các quy luật của Thượng đế. Làm sao con tuân theo quy luật của Thượng đế được? Con làm được bằng cách dùng khả năng trực giác của con tim qua đó con hòa điệu được với Tâm Ki-tô Hoàn vũ và con tuân thủ các quy luật này mà không có sự nhận biết có ý thức về cách chúng vận hành. Khi con dùng quyền năng sáng tạo của mình, con sẽ dần dần mở rộng sự nhận biết của con về các quy luật Thượng đế. Con sẽ xây dựng sự hiểu biết có ý thức tại sao các quy luật vận hành thế đó, tại sao tuân thủ quy luật có lợi nhất cho con và làm sao các quy luật này quân bình các nỗ lực sáng tạo cá nhân của con với sự tốt lành cho tổng thể.

Khi con tăng trưởng tự nhận biết, dần dần con có thể nhìn vượt lên trên ý niệm cái ta cá nhân của mình. Không những con hòa điệu với sự nhận biết rộng lớn hơn về quy luật Thượng đế, con cũng bắt đầu mở rộng nhận biết về Thân thể Thượng đế, nghĩa là các đồng-sáng tạo khác. Con bắt đầu nhìn quá những ý muốn cá nhân của mình và nhận ra các đồng-sáng tạo khác không tới hành tinh này chỉ để thỏa mãn các ước muốn cá nhân của họ. Có một kế hoạch thiêng liêng để đem đến sự tăng trưởng của trái đất và kế hoạch này có sự hài hòa toàn hảo giữa cá nhân và sự tốt lành cho tập thể. Bằng cách đứng thẳng hàng với kế hoạch thiêng liêng cho Thân thể Thượng đế, con sẽ được toại nguyện hơn khi thấy những nỗ lực cá nhân của mình tăng cường và khế hợp với kế hoạch lớn hơn cho trái đất và nhân loại. Điều này sẽ cho con sự toại nguyện lớn hơn bất cứ nỗ lực cá nhân nào.

Khi con hiểu và tôn trọng người khác hơn, con tăng triển khả năng yêu thương người hàng xóm như chính mình. Quan hệ của con lúc đó sẽ dựa trên tình thương và dồi dào thay vì sợ hãi và thiếu thốn. Khi con quý trọng quy luật và tạo vật của Thượng đế nhiều hơn, dần dần con bắt đầu yêu Thượng đế với tất cả trái tim, tâm hồn và tâm trí của con (Luke 10:27). Khi con tiếp tục đồng-sáng tạo với Thượng đế và mở rộng tự nhận biết của con, con dần dần nhận ra cái ta thật của con là Hiện diện TA LÀ của con, là một cá thể của đấng Sáng tạo. Con bắt đầu nhận ra là, như Giê-su thốt lên, “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Con bắt đầu nhận ra là Cha con đã làm việc cho tới nay (John 5:17) bằng cách sinh tạo thế giới hình tướng như một môi trường cho sự biểu lộ sáng tạo của con. Con phải làm việc để nhân lên khả năng của con và cai quản chính ý niệm bản ngã của con. Khi con đã cai quản cái ta của con, thì con có thể cai quản hành tinh nơi con sống và giúp biến hành tinh này thành vương quốc Thượng đế, một bầu cõi được lấp đầy bởi ánh sáng và sự toàn hảo của Thượng đế, thay thế bóng tối bao trùm mặt đất.

15.8. Mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng

Cốt lõi của tâm thức Ki-tô có thể gói ghém trong một chữ và chữ này là “quân bình”. Tâm thức Ki-tô quân bình lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ qua đó các hình tướng bền vững được tạo ra, là những hình tướng quân bình toàn hảo với quy luật Thượng đế. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa một cá nhân đồng-sáng tạo và Thân thể Thượng đế, để có hài hoà toàn hảo giữa cá nhân và tổng thể. Tâm thức Ki-tô cho cá nhân đồng-sáng tạo sức mạnh để tuân thủ quy luật của Thượng đế và qua đó cá nhân dùng khả năng sáng tạo của mình để giúp khuếch trương toàn thể tạo vật và không tác động tiêu cực gì cả trên bất cứ phần nào của sự sống. Tâm thức Ki-tô quân bình quan hệ giữa người cá nhân đồng-sáng tạo và đấng Sáng tạo để người đồng-sáng tạo không bao giờ bị lạc trong thế giới của các hình tướng được tạo ra.

Bất cứ hình tướng nào được quy định bởi và qua tâm thức Ki-tô đều là một hình tướng toàn hảo. Nó là một hình tướng hài hòa toàn hảo với các quy luật Thượng đế và với ý định sáng tạo của Thượng đế, đó là tất cả người đồng-sáng tạo tăng trưởng một cách hài hòa với nhau để mọi sự sống đều trở nên hơn nữa. Chính qua tâm thức Ki-tô mà con có thể đi theo tiếng gọi của Giê-su: “Cho nên các người nên toàn hảo, giống như Cha các người trên trời, là Hiện diện TA LÀ của con, toàn hảo” (Matthew 5:48).

Sự toàn hảo mà thày nói tới không phải là loại toàn hảo mà hầu hết hình dung. Nhiều người tin vào ý tưởng nhị nguyên, ý tưởng tôn sùng rằng nếu điều gì đó toàn hảo, nó không bao giờ có thể thay đổi. Toàn bộ mục đích của sự sáng tạo vũ trụ này là sáng tạo một bầu cõi trong khoảng trống không và dần dần lấp đầy khoảng trống không đó với ánh sáng Thượng đế cho tới khi ánh sáng có thể lan rộng và lấp đầy một phần của khoảng trống không. Mục đích thực sự của sự sáng tạo, mục đích của đời sống là tăng trưởng không ngừng, mở rộng không ngừng, thăng vượt không ngừng.

Thế giới hình tướng hiện hữu vì Thượng đế muốn hơn nữa. Ý muốn hơn nữa là động lực đằng sau mọi sáng tạo và có sẵn trong mọi tạo vật. Ý tưởng truyền thống về thiên đàng như một nơi đứng yên trong đó các thiên thần ngồi trên cụm mây hồng dạo đàn hạc miên viễn hoàn toàn xa với thực tại sôi động và năng động của Thượng đế. Thiên đàng là một nơi năng động hơn trái đất rất nhiều vì tất cả những Sinh thể trên thiên đàng đều đang liên tục làm việc để phát triển ánh sáng của Thượng đế với mục tiêu trở nên nhiều hơn trong Thượng đế, nhiều hơn trong Tất cả.

Động lực muốn hơn nữa cũng được thiết kế sẵn trong tâm thức Ki-tô và do đó tâm Ki-tô liên tục thúc đẩy những cá nhân đồng-sáng tạo để họ thực thi khả năng sáng tạo và mở rộng sự tự nhận biết của họ. Tâm thức Ki-tô thúc đẩy con trở nên hơn nữa, mở rộng tự nhận biết của con cho tới khi con đạt được trọn vẹn tâm thức Thượng đế và biết con là một cá thể của Tất cả, biết con không tách biệt khỏi Thượng đế. Thay vào đó, con là Thượng đế đang tự biểu hiện chính mình qua ý niệm cái ta cá nhân của con.

Sự toàn hảo mà thày nói tới không đứng yên, không là một hình tượng khô chết. Nó năng động, nó tăng trưởng liên tục, luôn luôn trở nên hơn nữa trong sự toàn vẹn của Thượng đế. Thày có nói trước đây với con là lực co lại của Mẹ được thiết kế có sẵn trong chính Ánh sáng Mẫu-Vật. Lực co lại này sẽ luôn tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-Vật về trạng thái cơ bản của nó nơi đó không hình tướng nào hiện hữu. Ta có thể nói lực co lại liên tục tìm cách phân hủy bất cứ hình tướng nào. Thượng đế không có ý định là mọi hình tướng đều phải phân hủy và trở thành không gì cả để vô hiệu hóa nỗ lực của các đồng-sáng tạo. Ý định của Thượng đế là không hình tướng nào đứng yên, không hình tướng nào trở nên trường tồn. Thượng đế muốn hình tướng năng động, có nghĩa là hình tướng nào cũng là nền tảng cho sự tăng trưởng thêm nữa. Thậm chí một hình tướng toàn hảo cũng phải được thăng vượt và dùng làm nền tảng để biểu thị một hình tướng cao hơn.

Tâm thức Ki-tô cho người đồng-sáng tạo sức mạnh để thiết kế một hình tướng hoàn toàn hài hòa với ý định sáng tạo của Thượng đế. Không hình tướng nào sẽ trường tồn bởi vì lực co lại của Mẹ sẽ phân hủy bất cứ gì đứng yên, bất cứ gì trở thành một hệ thống đóng như định luật thứ nhì của nhiệt động học nói. Chìa khóa để bảo đảm cho nỗ lực sáng tạo của con không bị phân hủy là gì? Chìa khóa là con ở trong tâm thức Ki-tô và con không bao giờ muốn đứng yên hay duy trì một hình tướng đặc thù. Con liên tục sáng tạo hình tướng mới tốt đẹp hơn, như thế con ở trong Dòng sông sự Sống là lực sáng tạo luôn luôn tuôn chảy, chính khía cạnh Đấng Sáng tạo của Thượng đế.

Khi con ở trong dòng chảy của sự sống, con không dính mắc vào bất kỳ hình tướng đặc thù nào. Con không mong muốn hình tướng này trường tồn, con chỉ có mong muốn duy nhất dùng hình tướng đó làm bàn đạp để mở rộng khả năng sáng tạo của con. Con không bao giờ chờ đợi con có thể sáng tạo một điều gì trở nên trường tồn. Con không bao giờ nghĩ khi một hình tướng được thay thế bởi một hình tướng khác cao hơn, nỗ lực sáng tạo của con bị lãng phí. Con nhận ra nỗ lực sáng tạo của con không bao giờ bị lãng phí khi con còn ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống. Con tập trung vào tiến trình sáng tạo thay vì kết quả của sự sáng tạo là một hình tướng đặc trưng. Con tập trung vào hành trình thay vì nơi đến vì con nhận ra cuộc sống là một hành trình không bao giờ dứt.

15.9. Con ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt

Để minh họa điều này, con hãy xem xét một hạt lúa mì được để vào lòng đất. Có vẻ như hạt lúa bị lạc mất dưới đất nhưng sau một thời gian nó trổ mầm. Mầm lúa đẹp tươi nhưng có nhà nông nào lại muốn hạt mầm cứ ở yên như thế? Khi hạt mầm lớn lên thành cây, hình dạng của hạt mầm bị mất đi nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi; nó đơn giản chuyển hóa sang một giai đoạn mới, một hình dạng mới. Cây đẹp tươi với lá xanh nhưng cuối cùng nó biến thành một thân cây có hạt và nó đổi màu vàng. Cây xanh không còn nữa nhưng nỗ lực sáng tạo của cây không mất đi. Khi người ta gặt hái lúa mì, thân cây mất đi nhưng một số hạt trở thành hạt giống cho mùa gặt năm sau và một phần của nó được dùng làm thức ăn nuôi dưỡng cho con người, những người này phục vụ như những đồng-sáng tạo trên trái đất với tiềm năng khuếch trương sự sáng tạo của Thượng đế. Mục đích của nỗ lực sáng tạo thúc đẩy một hạt lúa mì nảy mầm và phát triển không phải là để sản xuất hạt mầm, cây xanh hay cây trưởng thành và duy trì hình dạng này mãi mãi. Mục đích của nỗ lực sáng tạo là thúc đẩy chính tiến trình sự sống, một tiến trình luôn mở rộng và khuếch trương tổng thể của sáng tạo của Thượng đế.

Như một người đồng-sáng tạo con không được thiết kế để dính mắc vào bất kỳ hình tướng nào cho dù nó đẹp biết bao chăng nữa hay cho dù tốn bao nhiêu công sức để tạo ra nó. Con được sinh ra để là một thành phần của Dòng sông sự Sống qua đó con liên tục dùng một hình tướng để làm bàn đạp cho một sự thành đạt sáng tạo cao hơn. Con được thiết kế để làm như thế và chỉ khi con ở trong dòng chảy của sự sống thì con mới thật sự cảm thấy mãn nguyện và sống động. Tâm thức thăng vượt liên tục là tâm thức của sự sống. Sự dính mắc vào một hình tướng và nỗ lực giữ nguyên một hình tướng là tâm thức chết, tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô khiến các sinh thể có tự nhận biết mắc kẹt trong một ý niệm bản ngã giới hạn và từ chối không thăng vượt nó. Họ kéo họ ra khỏi dòng chảy của sự sống và lực co lại của Mẹ sẽ ngay tức khắc bắt đầu phân hủy cái mà họ tìm cách nắm giữ, tìm cách sở hữu.

Đây là ý nghĩa sâu xa đằng sau lời nói của Giê-su: “Vì ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất nó, còn ai vì ta mà mất sự sống của mình thì sẽ tìm lại sự sống” (Matthew 16:25). Nếu con tìm cách bám giữ một ý niệm bản sắc giới hạn và từ chối không thăng vượt nó, lực co lại của Mẹ sẽ chắc chắn lấy đi ý niệm về sự sống này. Nếu con sẵn lòng bỏ ý niệm sự sống đứng yên này, cái hình tượng khô chết đó, để có thể vượt thăng giai đoạn đó và đạt được một ý niệm bản ngã lớn hơn, thì con ở trong tâm thức Ki-tô. Qua tâm thức Ki-tô này, qua sự thăng vượt liên tục này, con sẽ ở trong dòng chảy của sự sống không bao giờ chấm dứt và do đó con có đời sống vĩnh cửu.

Hình thức thật duy nhất của đời sống vĩnh cửu không phải là một trạng thái đứng yên nhưng là một trạng thái năng động của thăng vượt liên tục. Vì con có tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết, nên con là người mà con nghĩ con là. Thượng đế đã cho con quyền tạo ra bất cứ ý niệm bản sắc nào mà con muốn, ngay cả ý niệm con là người tội đồ sinh diệt. Nhưng Thượng đế không cho con quyền ở lại mãi mãi trong ý niệm bản sắc đó vì điều đó có nghĩa là con sẽ bị bỏ lại đằng sau dòng chảy sáng tạo của Thượng đế. Tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con bị mắc kẹt trong một ý niệm bản sắc giới hạn, ngăn cản không cho con đời sống dồi dào? Nếu con tìm cách giữ lại một ý niệm bản sắc giới hạn, con sẽ không thể tránh mất nó. Nếu con sẵn sàng muốn tăng trưởng, con sẽ không bao giờ mất đi ý niệm bản ngã của con.

Con sẽ không bao giờ có thể duy trì một ý niệm bản sắc đặc thù, nhưng con có thể duy trì một ý niệm bản sắc liên tục thay đổi, độc lập với mọi hình tướng đã được tạo ra. Đây là ý niệm bản sắc thật của con, vượt lên trên mọi thứ trên thế gian này. Đấng sáng tạo vượt lên trên tạo vật của ngài. Giống vậy, một người đồng-sáng tạo vượt lên trên tạo vật của nó, vượt lên trên ngay cả thế giới hình tướng. Con được tạo ra như một nối dài của đấng Sáng tạo và do đó con hơn bất kỳ hình tướng nào mà con đã tạo ra trong thế giới này. Con hơn bất kỳ ý niệm bản sắc nào mà con đã tạo ra sau khi con mất đi kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và xem mình như một sinh thể tách biệt. Thượng đế cho phép con tách biệt khỏi ngài nhưng vì Thượng đế thương con vô điều kiện, nên Thượng đế không chấp nhận để bất cứ điều kiện nào giữ con vĩnh viễn tách biệt khỏi ngài. Thượng đế sẽ không cho phép bất cứ điều kiện nào khiến con vĩnh viễn mắc kẹt vào trạng thái tách biệt, lúc nào cũng kém hơn sự trọn vẹn của đời sống dồi dào.

15.10. Con phải thay đổi hoàn cảnh bên trong của con

Con yêu dấu, con hãy để thày một lần nữa cho con một khái niệm có thể khó nắm bắt với tâm đường thẳng nhưng có thể nắm bắt với con tim. Vũ trụ vật chất có thể so sánh với một rạp chiếu phim. Như con biết có ba yếu tố căn bản cho phép con xem một cuộn phim. Một là màn hình và phim được chiếu lên nó, hai là cuộn phim trong máy chiếu phim và ba là ánh sáng đến từ bóng đèn trong máy chiếu phim. Bóng đèn trong máy chiếu phim có thể so sánh như lực lan ra của Cha, là động lực đằng sau sự sáng tạo mọi hình tướng. Đấy là ánh sáng tâm linh tuôn chảy xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Màn ảnh so sánh như Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ phản ánh lại bất cứ hình tướng nào được phóng chiếu lên nó bởi máy chiếu phim. Cuộn phim so sánh như tâm thức người đồng-sáng tạo.

Bây giờ con hãy tưởng tượng con đi vào một rạp chiếu phim để xem phim và hình đầu tiên của phim cứ lặp đi lặp lại hoài. Dù có một cuộn phim trong máy chiếu phim và cuộn phim đang di động nhưng mỗi hình trên cuộn phim đều giống nhau. Lẽ đương nhiên điều này không tạo nên một phim, nó tạo nên một hình đứng yên không bao lâu làm mọi người chán ngán. Điều làm nên một phim là mỗi hình trên cuộn phim khác hình trước một chút và sự kiện này cho con ảo tưởng con đang xem phim cho dù sự thật là con đang xem một bộ hình đứng yên. Bộ hình đứng yên đơn lẻ này giản dị được phóng chiếu lên màn ảnh với một tốc độ nối đuôi nhau nhanh đến độ mắt của con bị lừa và nghĩ là nó đang xem một phim liên tục.

Cuộc sống trong vũ trụ vật chất rất giống một phim. Hoàn cảnh bên ngoài con đang đối diện ngay bây giờ là kết quả của những chọn lựa mà con đã lấy trong quá khứ và đang lấy trong hiện tại. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả một hình tư tưởng mà con giữ trong tâm và phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống. Trong máy chiếu phim, một hình ảnh mới được phóng ra nhiều lần mỗi giây. Hoàn cảnh bên ngoài của con là kết quả của sự kiện tâm con phóng chiếu một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật nhiều lần mỗi giây. Mỗi lúc con đều có cơ hội thay đổi hình ảnh con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nếu con không thay đổi hình ảnh, nếu con lấy vào mình một hình ảnh khô chết, con sẽ tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh và đó là lý do tại sao cuộc đời con có vẻ không bao giờ thay đổi.

Đó là lý do tại sao con gặp đi gặp lại cùng một vấn đề và tại sao có vẻ như cuộc đời con giống như một cuộc vật lộn không bao giờ dứt. Nếu hiện nay con ở trong một hoàn cảnh đem lại khổ đau cho con, lý do là con đang phóng chiếu một hình ảnh giới hạn, không hoàn hảo lên màn hình cuộc sống. Con đang phóng chiếu một hình ảnh không được tạo ra từ tâm thức Ki-tô và do đó nó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, là những quy luật được thiết kế để ban cho con đời sống dồi dào. Nếu hoàn cảnh của con không thay đổi, nếu dường như con đang bị kẹt trong những giới hạn mà con không vượt qua nổi, lý do là vì con đang phóng chiếu lặp đi lặp lại cùng một hình ảnh lên màn hình cuộc sống. Giải pháp duy nhất, cách duy nhất để con cải thiện hoàn cảnh là con phải thay đổi hình ảnh trong tâm con. Con phải bước ra ngoài trạng thái tê liệt tâm linh đang khiến tâm con, gồm trí tưởng tượng, quyền tự quyết và ý niệm bản sắc của con, bị mắc kẹt trong cùng một hình ảnh khô chết và như vậy con vi phạm điều răn thứ nhì (Exodus 20:40). Con phải biến những hình ảnh trong tâm con thành một cuộn phim để cuộc sống của con trở thành một bộ phim dần dần tiến tới một chung cuộc vui vẻ.

Albert Einstein định nghĩa điên khùng là tiến trình trong đó con cứ làm cùng một chuyện cũ nhưng chờ đợi kết quả khác đi. Trong bối cảnh chúng ta đang bàn, điều này có nghĩa là con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình tư tưởng nhưng làm sao đó, con chờ đợi bỗng nhiên một ngày màn hình sẽ trình chiếu một hình khác. Einstein là một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất của mọi thời vì ông đã hiểu cốt lõi của của các định luật thiên nhiên. Ông đã hiểu điều mà thày nói trước đây, ấy là vũ trụ là một tấm gương. Nếu con tiếp tục phóng chiếu cùng một hình ảnh vào tấm gương vũ trụ, không thể tránh được chuyện vũ trụ sẽ tiếp tục phản ánh lại con cùng một hoàn cảnh bên ngoài. Nếu con muốn thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con, con phải bắt đầu bằng cách thay đổi hoàn cảnh bên trong của con. Nếu con muốn thay đổi điều đang được phóng chiếu lên màn hình cuộc đời con, con phải bảo đảm hình ảnh trong tâm con được quy định bởi tâm thức Ki-tô và không bởi tâm thức phản Ki-tô.

15.11. Hậu quả khi xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô

Chúng ta có thể hiểu thêm một điều từ hình ảnh của rạp chiếu phim giống như cuộc đời của con. Động lực trong máy chiếu phim là lực lan ra của Cha. Trước đây thày có so sánh lực lan ra này với một dòng chảy ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua Hiện diện TA LÀ của con và sau đó qua tâm con. Tâm con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đó, và chính hình ảnh này được phóng chiếu lên màn hình như ngoại cảnh mà con trải nghiệm trên trái đất. Lực đẩy đằng sau sự hiện hữu của con là ánh sáng Thượng đế. Nếu con tắt bóng đèn trong máy chiếu phim thì chuyện gì xảy ra? Phòng chiếu phim sẽ tối đen. Nếu con đánh mất nối kết với Hiện diện TA LÀ của con thì tâm con bị cắt khỏi nguồn ánh sáng nguyên thủy của nó. Nếu con giảm kích thước của sự kết nối với Hiện diện của con, thì giống như con hạ cường độ ánh sáng  trong máy chiếu phim.

Điều này không có nghĩa là con tự hủy hoại ngay tức khắc hay con không thể sáng tạo hình tướng nữa. Nó có nghĩa là con không thể phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống nữa bằng cách dùng ánh sáng tinh khiết của Thượng đế đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Giờ đây con bị ép buộc phải phóng chiếu hình ảnh lên trên màn hình cuộc sống bằng cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem sẵn vào quang phổ tần số vật chất. Ánh sáng này có độ rung thấp hơn, do đó nó không có cùng mãnh lực với ánh sáng tinh khiết đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ phải cần nhiều năng lượng và nhiều nỗ lực hơn để phóng chiếu hình ảnh lên màn hình cuộc sống bằng cách dùng ánh sáng có độ rung thấp hơn. Điều này giới hạn khả năng sáng tạo của con và sẽ biến cuộc đời con thành một cuộc vật lộn.

Động lực đằng sau những nỗ lực sáng tạo của con là dòng năng lượng chảy xuyên qua tâm con, giống như ánh sáng chiếu xuyên qua máy chiếu phim. Khi con có một phần tâm thức Ki-tô, con có thể nhận ánh sáng có tần số cao trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ của con. Giới hạn duy nhất cho quyền năng sáng tạo của con là kích thước ống dẫn kết nối ý niệm bản sắc vỏ ngoài của con với Hiện diện TA LÀ của con. Khi con có ánh sáng thuần khiết này tuôn chảy qua con, thì sự sáng tạo của con không cần nỗ lực vì chính ánh sáng làm công việc. Con nhận ra sự thực của câu nói của Giê-su: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30).

Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con phải lấy năng lượng tâm lý từ cõi này trước khi con có thể sáng tạo bất cứ gì. Nếu con không hiểu tiến trình lấy năng lượng tâm lý và dùng nó để sáng tạo hình tướng, quyền năng sáng tạo của con lại bị giảm thấp hơn nữa và giờ đây con phải tích lũy dồi dào chỉ bằng cách làm việc với chất liệu vật lý. Trong cả hai trường hợp, con phải lấy năng lượng từ một nguồn cung cấp hữu hạn, thường có nghĩa là con phải cạnh tranh với người khác để lấy năng lượng đó. Con phải lấy những gì con cần bằng sức mạnh và điều này chắc chắn giam hãm con trong cỗ máy chạy kéo con vào chuỗi hành động và phản ứng, dùng sức mạnh và bị lực phản công chống lại.

Sự vât lộn này sẽ tiếp tục cho tới khi con thiết lập lại sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con và kết nối này là cốt lõi của tâm thức Ki-tô. Khi con khắc phục ý niệm tách biệt và thiết lập lại ý niệm hợp nhất với nguồn cội của con, cuộc đời con không còn là một cuộc vật lộn nữa. Uy lực của ánh sáng Thượng đế giờ đây có thể tuôn chảy xuyên qua tâm con mà không bị cản trở và như thế Cha con có thể làm việc cho đến bây giờ và con cũng làm việc (John 5:17). Như Giê-su đã nói: “Với Thượng đế mọi chuyện đều làm được” (Matthew 9:16), và do đó mọi cảm giác vật lộn đều bỏ lại đằng sau con. Lúc ấy con có thể nói cùng với Giê-su: “Vì ách của ta dễ chịu và gánh nặng của ta nhẹ nhàng” (Matthew 11:30).

Con hãy nhớ là ngay cả khi con đã nối kết với Hiện diện TA LÀ của con, thì con vẫn không thể đứng yên, con không thể sáng tạo một hình tướng và chờ đợi nó hiện hữu vô hạn định. Mục đích cửa đời sống, định nghĩa đích thực của đời sống là thăng vượt liên tục. Con phải liên tục cập nhật và cải thiện các hình tư tưởng trong tâm con. Khi con làm thế, khi con chứng tỏ sự trung tín trong một số việc nhỏ, Thượng đế sẽ cho con cai quản nhiều ánh sáng hơn, sẽ cho phép con sáng tạo nhiều dồi dào hơn nữa và những hình tướng đẹp hơn và toàn hảo hơn nữa.

Khi con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, hay đúng hơn bởi vì con sinh hoạt ở tầng tâm thức Ki-tô, con không ở trong trạng thái đứng yên. Con liên tục tăng trưởng, liên tục thăng vượt. Con toàn hảo giống như Cha con trên trời toàn hảo (Matthew 5:48) vì con liên tục trở nên hơn nữa giống như Thượng đế liên tục trở nên hơn nữa qua con.

15.12. Con sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo

Vì Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng vô hạn, chuyện có thể xảy ra là con dùng trí tưởng tượng của mình để hình dung những hình tướng không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế. Chuyện có thể xảy ra là con xây dựng một ý niệm bản ngã không phản ánh thiết kế nguyên thủy cho dòng sống của con. Thay vì xem mình là con trai hay con gái của Thượng đế, con có thể bắt đầu xem mình là một sinh thể tách biệt khỏi Thượng đế, thậm chí là một sinh thể bị Thượng đế bỏ rơi hay bị đuổi ra khỏi thiên đàng. Thậm chí con có thể xây dựng hình ảnh con chống đối Thượng đế và con ghét mọi thứ mà Thượng đế tượng trưng, bao gồm luôn cả những quy luật của Thượng đế mà con xem là một giới hạn cho tự do sáng tạo của mình.

Khi con dùng uy lực ý chí để chấp nhận một tự nhận biết giới hạn như thế là thực, thậm chí coi nó là thực tại khả dĩ duy nhất, con có thể dần dần đưa mình vào một trạng thái tâm thức trong đó con không còn có thể quy định những hình tư tưởng dựa trên tâm thức Ki-tô. Tất cả những hình tư tưởng được giữ trong tâm con được quy định bởi tâm thức phản Ki-tô, tâm thức tách biệt khỏi Thượng đế và tách biệt khỏi tổng thể. Điều này khiến cho hình tư tưởng của con càng ngày càng tập trung vào mình, càng ngày càng ích kỷ. Lúc ấy con mất đi nhận biết về tổng thể và con mất đi sự quan tâm hành động của mình ảnh hưởng người khác ra sao. Điều này có thể trở thành một vòng xoáy đi xuống dần dần kéo con xuống thấp hơn tiềm năng sáng tạo thật của con, tiềm năng thiêng liêng thật của con.

Quả thực không có giới hạn nhất định nào cho việc một sinh thể tự nhận biết có thể đi xuống thấp tới đâu dưới tầng mức tâm thức Ki-tô. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết và trí tưởng tượng không giới hạn. Chỉ có một giới hạn duy nhất là Thượng đế không cho con được thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô mãi mãi. Ngay khi con ăn vào trái của hiểu biết về tốt và xấu, con mất đi sự sống vĩnh cửu của tâm thức Ki-tô. Lúc đó con phải chịu những định luật thấp hơn của sinh diệt mà định luật thứ nhì của nhiệt động học chỉ là một phần. Khi con xuống thấp hơn tầng tâm thức Ki-tô, con không còn ở trong dòng chảy miên viễn của Dòng sông sự Sống. Con chịu sự khống chế của định luật thời gian và không gian và những luật này sẽ giới hạn con ở một nơi nhất định trong không gian và một nơi nhất định trong thời gian.

Không gian và thời gian, theo định nghĩa là những khái niệm giới hạn, con không thể ở mọi nơi trong không gian và con không thể hiện hữu mãi mãi trong thời gian. Ý niệm bản ngã giới hạn, là hậu quả của việc con tham gia vào tâm phản Ki-tô, không thể hiện hữu đời đời. Sẽ tới một ngày con phải chọn tùng phục ai, con phải chọn muốn trở về tâm thức Ki-tô và đời sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô hay con muốn tiếp tục giới hạn ý niệm bản sắc của mình theo tâm thức phản Ki-tô. Ý niệm bản sắc này chắc chắn phải chết. Đây chính là ngày phán xét được nói tới trong Kinh thánh (Matthew 10:15). Nếu con từ chối tăng trưởng về hướng tâm thức Ki-tô, nếu con từ chối thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn của con thì cơ hội để con thử nghiệm với tâm thức phản Ki-tô sẽ chấm dứt trong cái mà Kinh thánh gọi là cái chết thứ nhì (Revelation 2:11).

Thiết kế nguyên thủy của dòng sống của con không bao giờ có thể mất được. Thiết kế này được bảo tồn muôn thuở trong tâm Ki-tô, Tâm Ki-tô Hoàn vũ. Tiềm năng con được cứu rỗi, được chuộc lại, được trở về trạng thái trước kia của con, được trở về với Hồng ân, được trở về thiên đàng, không bao giờ có thể bị mất. Dù con đã làm gì chăng nữa trong thế gian này, dù con đã đi xuống dưới tầng mức tâm thức Ki-tô bao xa chăng nữa, con vẫn có tiềm năng quay đầu lại và bắt đầu hành trình đi lên sẽ đưa con về với tâm thức Ki-tô. Một chức năng của tâm thức Ki-tô là giữ cái mà ta có thể gọi là niệm tinh khôi. Đây là hình ảnh được giữ trong tâm của đấng Sáng tạo thuở ban đầu khi ngài sinh tạo dòng sống của con. Đây là khái niệm quy định cá thể của con, những món quà cá biệt mà đấng Sáng tạo của con ban cho con khi lần đầu tiên ngài hình thành con. Những đặc tính này ở đây, niêm trong tâm thức Ki-tô. Nếu con sẵn lòng thăng vượt ý niệm bản ngã giới hạn mà con đang có, thì con có thể khám phá niệm tinh khôi này. Con có thể khôi phục lại ý niệm bản ngã, ý niệm bản sắc của con bằng cách một lần nữa hợp nhất với niệm tinh khôi. Con là cái con nghĩ con là, cho nên nếu con có thể hình dung và chấp nhận niệm tinh khôi, con sẽ là sinh thể tinh khôi mà Thượng đế đã sinh tạo.

Hành tinh trái đất lúc ban đầu được tạo ra trong một trạng thái toàn hảo cao hơn những gì được biểu hiện hiện nay. Con người đã đem hành tinh này xuống thấp hơn nhiều trạng thái toàn hảo nguyên thủy, tuy thế thiết kế nguyên thủy vẫn hiện hữu trong niệm tinh khôi trong tâm thức Ki-tô. Chuyện rất có thể xảy ra là một lượng người tới hạn có thể nâng cao tâm thức họ tới tầng mức Ki-tô và do đó họ phục vụ như những cánh cửa mở để đem niệm tinh khôi đó vào hiển thị vật lý trở lại. Hoàn cảnh hiện nay trên trái đất không gì khác hơn cuộn phim chiếu lên màn ảnh cuộc sống qua tâm thức tập thể của nhân loại. Hầu hết con người trên hành tinh này hiện nay tin vào ảo tưởng là không có hình ảnh nào khác khả thi hay thiết thực. Nếu có một số nhỏ con người từ chối không tin vào ảo tưởng đó và đặt viễn quan của họ về trái đất thẳng hàng với niệm tinh khôi, thì Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ hân hoan trình chiếu niệm tinh khôi này thay vì khái niệm hiện thời chịu ảnh hưởng quá lớn của tâm phản Ki-tô.

Nếu con cảm thấy những giáo lý thày trao truyền trong khóa học này khuấy động điều gì đó sâu trong trái tim của con, thì rất có thể là con đã xuống đầu thai trong lúc này vì con muốn trở thành một trong những sinh thể Ki-tô có thể giúp nâng trái đất khỏi những hạn chế hiện nay của nó và đem nó vào thời đại hoàng kim trong đó tất cả mọi người cùng chia sẻ cuộc sống dồi dào. Thày sẽ nói thêm về ý tưởng này trong các chương kế tiếp [xem Quyển Hai và Quyển Ba], nhưng bước kế tiếp là chúng ta cần hiểu nhiều hơn làm thế nào những sinh thể tự nhận biết đã đi xuống một ý niệm bản ngã hạn chế dựa trên tâm thức phản Ki-tô. Khi con hiểu con đã đánh mất Hồng ân của tâm Ki-tô như thế nào, thì con cũng sẽ khám phá chìa khóa để lấy lại trạng thái Hồng ân này.

13 | Thức tỉnh khỏi ảo tưởng tập thể

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 10/4/2005.

13.1. Con có thể đồng-sáng tạo sự dồi dào với tâm thức Ki-tô

Thày muốn gom lại một số ý tưởng thày đã cho con trong các chìa khóa trước hầu thày có thể đưa ra một bức tranh mạch lạc hơn về những gì còn cần làm để biểu hiện cuộc sống dồi dào. Thày đã giải thích ý nghĩa thật của câu nói Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, là con đã được thiết kế để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được thiết kế để nhận liên tục đời sống dồi dào từ bên Trên. Con sẽ nhận cuộc sống dồi dào này dưới dạng một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục, chảy từ Hiện diện TA LÀ của con vào tâm ý thức của con. Sau đó con có thể điều khiển dòng chảy này để biểu hiện cuộc sống dồi dào trên thế gian này. Khi làm vậy, con làm tròn vai trò người đồng-sáng tạo với Thượng đế và con nhân lên năng lượng và khả năng sáng tạo mà Thượng đế ban cho con. Lúc ấy con có thể cai quản, trước tiên là chính mình và sau đó cai quản vũ trụ vật chất qua đó con giúp biểu hiện vương quốc Thượng đế trên trái đất.

Lý do vì sao hiện nay con không biểu hiện đời sống dồi dào là vì con đã quên vai trò nguyên thủy của con. Con đã mất ý niệm bản sắc thật của con là một đồng-sáng tạo với Thượng đế. Thay vào đó, con đã chấp nhận một bản sắc giả, một bản sắc giả hiệu như một người phàm sinh diệt và tách biệt khỏi Thượng đế. Thậm chí con có thể tin là không có Thượng đế, không có cõi tâm linh, không có Hiện diện TA LÀ và con hoàn toàn đơn độc trong một thế giới thù nghịch và quanh mình đầy những người tìm cách lấy của con những gì mà con tin là chính đáng thuộc về mình.

Hầu hết những người đang xung đột đều bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức tập trung vào mình hay ích kỷ. Con người quá tập trung vào mình đến độ họ không còn nhận thức để nhìn bức tranh rộng lớn hơn. Họ không còn nhận thức để quan tâm đến hậu quả hành động của họ trên người khác hay thậm chí họ không còn nhận biết cao hơn là họ là một thành phần của Thân thể Thượng đế trên trái đất và mọi việc họ làm đều ảnh hưởng tổng thể. Họ cũng quá ư tập trung vào cuộc sống trong vũ trụ vật chất nên chẳng còn sức chú ý để xét tới cõi tâm linh và biết được họ có thể nhận được dồi dào trực tiếp từ bên Trên thay vì phải lấy bằng sức mạnh từ thế giới này.

Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào và khắc phục cảm giác đấu tranh đang làm nhiều người mắc kẹt trong xung đột triền miên để giành giật một số tài nguyên giới hạn, con phải vượt thăng trạng thái tâm thức ích kỷ và duy vật này. Con phải vươn lên trên trạng thái đó và giành lại bản sắc thật của con là con trai hay con gái của Thượng đế, xứng đáng là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con hoàn toàn đủ khả năng đồng-sáng tạo cuộc sống dồi dào ngay đây trên trái đất này. Trạng thái tâm thức cao này là tâm thức dựa trên sự hợp nhất với nguồn cội của con thay vì tách biệt khỏi Thượng đế. Đây là sự hợp nhất mà Giê-su mô tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Ý của Giê-su là: “Ta và Hiện diện TA LÀ của ta là một.” Tâm thức mà Giê-su chứng minh là ý niệm bản sắc dựa trên thực tại của con người thật của con thay vì dựa trên hình ảnh con người giả của con. Dù chúng ta có thể gọi trạng thái tâm thức này bằng nhiều tên, thày muốn gọi nó là quả vị Ki-tô cá nhân hay tâm thức Ki-tô. Vai trò của Giê-su khi xuống trái đất là để chứng minh trạng thái tâm thức này.

13.2. Tâm thức Ki-tô là tiếp cận sự sống dựa trên dồi dào và tình thương

Trước khi chúng ta tiếp tục xem xét thật chính xác cách biểu hiện tâm thức Ki-tô, thày muốn mô tả chi tiết hơn ý nghĩa của tâm thức Ki-tô. Vũ trụ vật chất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn của cõi tâm linh mà tần số đã được hạ độ rung và đã khoác vào một hình tướng. Thước đo chính xác về sự dồi dào mà con người sẵn có trên trái đất là lượng năng lượng tâm linh đã được hạ độ rung và hiện nay rung động trong quang phổ của tần số vật chất. Một số năng lượng đã được hạ xuống quang phổ tần số của chất vật lý và một số năng lượng vẫn hiện hữu như năng lượng tâm lý. Một số năng lượng được biểu hiện thành dồi dào vật chất trong khi một số vẫn còn là tiềm năng dồi dào có thể được biểu hiện thành dồi dào vật chất qua uy lực của tâm con người.

Chìa khóa tối hậu để gia tăng dồi dào trên trái đất để tất cả đều có thể chia sẻ cuộc sống dồi dào, là đem thêm nhiều năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Chỉ có người đạt được tâm thức Ki-tô mới có khả năng đem năng lượng từ cõi tâm linh vào cõi vật chất. Chỉ có người có tâm thức Ki-tô mới có thể là cánh cửa mở để ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này và đó là lý do tại sao Giê-su có thể nói về mình: “Ta là con đường, sự thật và sự sống” (John 14:6), “Ta là cánh cửa” (John 10:9) và: “Chừng nào ta còn có mặt trên thế gian này, ta là ánh sáng của thế gian” (John 9:5). Bất cứ ai đạt được tâm thức Ki-tô có thể nói y như vậy. Mọi người đều có tiềm năng đạt được tâm thức Ki-tô.

Bây giờ chúng ta hãy xem xét những cách biểu hiện dồi dào mở ra cho những người không đạt được tâm thức Ki-tô. Nếu con người tin vào triết lý duy vật không có Thượng đế hay họ tin cái nhìn chính thống thờ phượng Giê-su như một trường hợp ngoại lệ thay vì là tấm gương, họ không có chọn lựa gia tăng tổng số năng lượng hiện có trong cõi vật chất. Họ chỉ có thể gia tăng dồi dào bằng cách lấy đi từ số lượng chất liệu vật lý và năng lượng tâm lý hiện có trong hệ thống năng lượng của trái đất.

Chúng ta có thể lập ra một thang đo minh họa những ai gần tâm thức Ki-tô hay đã đi xuống thấp hơn tâm thức Ki-tô bao xa. Chúng ta hãy bắt đầu với người tiền sử sống trong hang động và trạng thái tâm thức mà y đại diện. Với người sống trong hang động, chúng ta thấy một sinh thể hoàn toàn đồng hóa với thân vật lý và đồng hóa với bản năng thấp của thân này. Người tiền sử sống trong hang động hầu như không xứng đáng với nhãn hiệu “con người” bởi vì y cư xử giống một con thú thông minh hơn là con người. Người tiền sử sống trong hang động không có mức nhận biết cao đủ để mường tượng là y có thể thay đổi môi trường. Do đó y sống như một con thú và thích nghi với hoàn cảnh, kiếm sống rất khó khăn bằng cách lấy những gì y cần từ Mẹ Thiên nhiên. Y dùng sức mạnh để lấy mọi thứ để kiếm sống, như giết thú vật hay thu thập thức ăn sẵn có.

Khi y xung đột với những người tiền sử sống trong hang động khác, thì y chỉ có phản ứng duy nhất là bảo vệ bằng bạo lực của cải mà y cho là thuộc về mình. Không có thương thuyết, không có luật pháp hay thỏa thuận giữa những bộ lạc khác nhau hay những dân tộc khác nhau để phân chia đất đai và né tránh đụng độ. Ngay khi bị khiêu khích, bản năng thú tính của y bùng lên và y phản ứng với hội chứng đánh hay chạy điển hình của loài thú. Nếu không chạy được, y sẽ quay lại và đánh. Mức mà ngày nay các nhà khoa học coi là mức khởi đầu của chuỗi tiến hóa của nhân loại tiêu biểu cho mức thấp tuyệt đối của tâm thức Ki-tô. Người tiền sử sống trong hang động không phải là mức khởi đầu của nhân loại. Nó là điểm thấp mà con người rơi xuống khi họ lạm dụng khả năng sáng tạo của họ. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho trạng thái tâm thức thấp nhất theo nghĩa khả năng sáng tạo của con người, mà thế giới hiện đại biết được.

Từ giai đoạn người tiền sử sống trong hang động, con người đi trên một tiến trình tiến lên dần dần, họ gia tăng nhận biết cách dùng khả năng sáng tạo của họ để thay đổi hoàn cảnh và thậm chí tác động lên năng lượng. Một bước nhảy vọt lớn xảy ra khi con người học cách dùng lửa, gìn giữ lửa và kiểm soát lửa để làm dụng cụ. Một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học cách xây nhà của chính mình thay vì dựa vào các hang động tự nhiên. Thêm một bước nhảy vọt khác xảy ra khi con người học được canh nông và do đó họ có thể dùng đất đai để sản xuất nhiều thức ăn hơn so với thức ăn đến từ săn bắn. Sự tăng trưởng về văn minh được chứng kiến trong 2,000 năm qua cũng tượng trưng cho sự tăng trưởng về nhận biết cách vũ trụ vận hành. Con người càng ngày càng có khả năng thay đổi môi trường thay vì thụ động thích nghi với môi trường. Phần lớn khả năng này tập trung vào việc học hỏi cách dùng chất liệu vật lý và học quy luật thiên nhiên và do đó họ tập trung vào sự thu hoạch dồi dào từ nguồn cung cấp có sẵn trong quang phổ tần số của vật chất vật lý.

Trong thế kỷ qua, con thấy con người gia tăng nhận biết về các dạng năng lượng tinh tế hơn, kể cả hiểu biết khoa học rằng vật chất là một dạng năng lượng. Con cũng thấy con người gia tăng hiểu biết về khía cạnh tâm linh của đời sống, đưa tới nhận biết mở rộng hơn về sự kiện tâm có một ảnh hưởng lớn trên mọi khía cạnh cuộc sống, như khoa tâm lý tự giúp mình đã chứng minh. Con người ngày nay đã bước vào giai đoạn không còn giới hạn sự biểu hiện dồi dào chỉ từ chất liệu vật lý mà thôi. Con người bắt đầu biểu hiện dồi dào bằng cách dùng uy lực của tâm dù hiểu biết chính thức vẫn còn sơ khai. Nhiều người vẫn còn tập trung vào việc dùng tâm để khám phá những luật lệ sâu hơn của vũ trụ cho phép họ sử dụng vật chất tốt hơn. Càng ngày càng có thêm người tìm cách dò tìm tiềm năng tâm làm chủ vật chất qua đó họ có thể hoán chuyển năng lượng tâm lý thành chất liệu vật lý bằng cách hạ độ rung của nó và khoác vào hình tướng vật lý.

Khi nói tới sự gia tăng tâm thức con người, một khía cạnh là sự gia tăng nhận biết, gia tăng hiểu biết thế giới vận hành ra sao. Khi con gia tăng nhận biết, con biết cách dùng quy luật thiên nhiên giỏi hơn để có lợi cho con. Lúc đó con có thể bắt đầu tích cực thay đổi môi trường để nó thỏa mãn nhu cầu của con mà con không cần bỏ ra nhiều công sức. Như con thấy ngày nay trong xã hội loài người, sự gia tăng nhận biết này không phải là không có cạm bẫy. Nó không nhất thiết đem tới đời sống dồi dào hay trạng thái hạnh phúc và tâm an bình thường trực. Cách sử dụng thiếu phân biện nhận biết mở rộng hơn của nhân loại có thể gây vấn đề có tiềm năng đe dọa sự sống còn dài hạn của loài người. Gia tăng nhận biết không đồng nghĩa với tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết là một phần của việc đạt tới tâm thức Ki-tô nhưng nó không phải là tâm thức Ki-tô trọn vẹn.

Gia tăng nhận biết về cách dùng quy luật thiên nhiên mà không kèm theo gia tăng hợp nhất với Thượng đế và mọi sự sống có thể kéo con ra xa khỏi tâm thức Ki-tô. Gia tăng nhận biết về thế giới vật chất không tự động tạo ra tâm thức Ki-tô. Nó có thể cung cấp nền tảng để một người tiến lên tâm thức Ki-tô nhưng không bảo đảm điều này sẽ xảy ra. Sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con người có thể là cái bẫy nếu nó không được cân bằng bởi tình thương trong trái tim. Sự gia tăng nhận biết xảy ra trong trí, nhưng trí không cho con người khả năng yêu thương lẫn nhau và sống hòa bình với nhau. Con người đơn giản giỏi hơn trong việc lấy mọi thứ bằng sức mạnh trong khi chìa khóa thật để có dồi dào là vượt lên trên sức mạnh và biết rằng đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc. Con có thể đạt mọi chuyện con cần qua tình thương thay vì sức mạnh.

Điều này dẫn chúng ta tới khía cạnh kia của tâm thức Ki-tô, chìa khóa thật của tâm thức Ki-tô, là xoay chuyển từ cách tiếp cận sự sống dựa trên thiếu thốn và sợ hãi sang cách tiếp cận dựa trên dồi dào và tình thương. Người tiền sử sống trong hang động tiêu biểu cho một điểm thấp trong dòng tiến hóa trên cả hai phương diện, nhận biết của trí về thế giới và khả năng yêu thương của con tim vượt lên trên tự ngã. Kể từ thời đó, con người đã gia tăng cả hai khả năng hiểu thế giới của trí và khả năng yêu thương của con tim. Đáng tiếc là con tim đã không mở rộng nhanh như trí. Ngày nay chúng ta thấy những người có khả năng sáng tạo công nghệ mới nhưng không có khả năng dùng nó một cách minh triết, kể cả khả năng chọn lựa không phải lúc nào cũng làm cái mà kỹ thuật có thể làm được.

13.3. Tình thương toàn hảo của Thượng đế sẽ xua tan mọi sợ hãi

Mọi xung đột của con người phát sinh từ tâm thức thiếu thốn. Trong trạng thái tâm này, cảm xúc chủ yếu là sợ hãi. Nó có thể là nỗi sợ không có đủ cho mọi người cho nên nếu tôi không lấy vật nào đó thì người khác sẽ lấy. Hoặc nếu tôi không bảo vệ những gì tôi có thì người khác sẽ lấy đi của tôi.

Trong tâm thức này, con sống trong một thế giới mà chung quanh đầy đe dọa. Khi con lúc nào cũng sợ mất mát thì bắt buộc con sẽ trở nên ích kỷ và nó ngăn chặn khả năng nghĩ tới hậu quả dài hạn của hành động của mình, nghĩ tới người khác hay nghĩ tới tổng thể. Giờ đây, chúng ta thấy tâm thức Ki-tô có hai đặc tính:

  • Một sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Điều này bao gồm sự nhận biết lớn hơn về quy luật thiên nhiên hướng dẫn sự trải bày của vũ trụ vật chất và những quy luật lớn hơn của Thượng đế cung cấp khung sườn trong đó các quy luật thiên nhiên vận hành.
  • Một sự gia tăng nhận biết con không phải là một cá nhân tách biệt khỏi tổng thể của tạo vật của Thượng đế hay tách biệt khỏi nguồn cội của con. Không người nào là một ốc đảo và để có thể thật sự hạnh phúc, con cần hiểu ra con chỉ cảm thấy hoàn toàn thỏa nguyện khi con thấy mình là một với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế trên trái đất.

Khi con xem mình là một cá nhân cô lập, tự động con rơi xuống tâm thức sợ hãi, tách biệt và thiếu thốn. Nếu con gia tăng nhận biết của trí về quy luật thiên nhiên mà không khắc phục nỗi sợ của con, con sẽ không thể chuyển nhận biết của con thành cuộc sống dồi dào hơn. Con sẽ vẫn tiếp tục bị sợ hãi kìm siết và nhận biết của con đơn giản cho con thêm phương tiện mạnh mẽ hơn để lấy dồi dào từ người khác. Gia tăng nhận biết của con không gia tăng dồi dào trên thế giới, nó chỉ gia tăng căng thẳng và bạo lực trên thế giới.

Con chỉ có thể thăng vượt nỗi sợ làm con suy hoại này bằng cách nhận ra con là một thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn, con là một cá thể hóa của Thượng đế. Chỉ khi nào con hoàn toàn nhận ra và chấp nhận con là một phần của tạo vật của Thượng đế thì con mới tin Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc và con không cần phải sống trong thiếu thốn hay lấy mọi thứ bằng sức mạnh. Khi con có được ý niệm bản sắc này, cảm nhận con là một với mọi sự sống và con là một với đấng Sáng tạo của con, con tự động trải nghiệm tình thương toàn hảo, tình thương vô điều kiện mà Thượng đế có đối với con là một nối dài của ngài. Đây là tình thương toàn hảo sẽ xua tan mọi sợ hãi ra khỏi bản thể của con. Khi con khắc phục sợ hãi, con sẽ tiếp cận cuộc sống dựa trên tình thương. Con có thể tuân theo mệnh lệnh của Giê-su thương yêu Thượng đế với tất cả con tim, tâm hồn và tâm của con và thương yêu người hàng xóm như chính mình (Mathhew 22:37).

Chìa khóa để trải nghiệm tình thương này là gì? À, phải chăng lời của Giê-su có hai nghĩa? Có thể nào chúng ta hiểu lời đó như sau: “Hãy thương yêu người hàng xóm của con như chính mình” không có nghĩa là con đơn giản thương yêu người hàng xóm giống như con thương yêu chính mình. Chúng ta có thể thấy chăng là nó có thể mang ý nghĩa thâm sâu hơn, nghĩa là con yêu thương người hàng xóm như chính con bởi vì con nhận ra người hàng xóm là con. Con nhận ra con và người hàng xóm đều là thành phần của cùng Thân thể Thượng đế và cả hai chúng con đều đến từ cùng một nguồn gốc. Con nhận ra cùng với Giê-su: “Hễ các người làm điều gì cho người thấp hèn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta.” (Matthew 25:40).

Để có thể thương yêu Thượng đế trọn vẹn với tất cả trái tim, tâm và hồn của con, con cần nhận ra Thượng đế không tách biệt khỏi con, Thượng đế là một phần của con vì con là một phần của Thượng đế. Con là một cá thể hóa của Thượng đế, do đó con yêu Thượng đế như chính con vì con nhận ra Thượng đế là cái ta thật của con, bản sắc thật của con. Điều này dẫn đến trạng thái hợp nhất với Thượng đế trong đó con không còn nghĩ cái ta vỏ ngoài, cái ý niệm bản sắc dựa trên tách biệt khỏi Thượng đế, là người hành động. Thay vào đó, con nhận ra cái ta cao, Hiện diện TA LÀ bên trong con là người hành động, là nguyên nhân đầu tiên, là nguồn cội của mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo.

Những ý tưởng này quả thực là mắt xích thiếu sót và chúng có thể giúp con bước ra khỏi tâm thức ích kỷ và tiến lên tâm thức Ki-tô. Đây là mắt xích thiếu sót có thể giúp con vươn lên từ tầng con thú thông minh lên tầng sinh thể tâm linh thật sự, một người đồng-sáng tạo thật với Thượng đế. Bước nhảy vọt này cũng lớn lao như bước nhảy vọt từ khỉ lên người mà khoa học không tìm ra mắt xích thiếu sót vì mắt xích đó là một sự nhảy vọt tâm thức.

13.4. Cần gia tăng nhận biết cùng với gia tăng tình thương

Bây giờ chúng ta hãy trở lại ý tưởng con người có thể đi xuống mức thấp hơn rất nhiều tâm thức Ki-tô. Khi con xuống tới mức thấp nhất, con quả thực sống như một con thú, thích nghi với một môi trường nào đó và lấy bằng sức mạnh bất cứ sự dồi dào nào sẵn có trong môi trường. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào mình, vào sự sống còn và mong muốn của mình. Tâm thức con hoàn toàn tập trung vào vũ trụ vật chất, có nghĩa là con chỉ thấy vật chất mà mắt nhìn thấy và các điều kiện khác trong thiên nhiên có thể thỏa mãn các ước muốn của con. Con không có khả năng mường tượng là có điều gì đó mắt không thấy, có điều gì đó ở một cõi cao hơn, có thể thỏa mãn mong muốn của con. Con không thể mường tượng con có thể có điều con muốn từ một uy lực cao hơn sức mạnh vật lý.

Khi con gia tăng nhận biết, con học được là đằng sau các hiện tượng mà giác quan con quan sát có một bộ nguyên tắc chỉ đạo hay quy luật thiên nhiên. Khi con bắt đầu biết các quy luật này, con có thể dùng chúng để thỏa mãn các mong muốn của con mà chỉ bỏ ít sức hơn. Thậm chí con có thể tới điểm thỏa mãn các nhu cầu của con mà không dùng sức mạnh, không lấy từ người khác hay dùng sức mạnh để lấy từ Mẹ Thiên nhiên. Một số nền văn hóa đã chứng minh họ có thể sống hòa hợp toàn hảo với môi trường của họ, luôn luôn dùng tài nguyên tái tạo được và vì vậy họ có thể duy trì một nền văn hóa cả ngàn năm mà không cưỡng hiếp môi trường và không tiêu hủy khả năng hỗ trợ họ của môi trường.

Sống hòa hợp như vậy với thiên nhiên đòi hỏi con người có nhận biết về tổng thể nhưng nhận biết này không thể đến từ trí mà chỉ có thể đến từ con tim. Những gì con thấy hiện nay trong xã hội Tây phương là sự gia tăng nhận biết về các quy luật thiên nhiên đi kèm theo nhiều khía cạnh đen tối. Rất có thể con người có thể dùng quy luật thiên nhiên để đạt được lợi thế tạm thời nhưng lại có những hậu quả lâu dài có tính cách hủy hoại chính họ hay các thế hệ mai sau. Công nghệ hiện đại đã tạo ra ô nhiễm có hậu quả lâu dài cho môi sinh và ngay cả cho gen của con người. Chỉ mới vài thập niên trước con người mới ý thức là một số hóa chất dùng để trừ những sâu trùng phiền nhiễu nhà nông cần thời gian dài để phân hủy và do đó những hóa chất này đi vào chuỗi thực phẩm, kết cuộc chúng đi vào thân thể con người đem lại nhiều hậu quả tiêu cực. Ngay cả ngày nay, con thấy con người ý thức nhiều hơn là ô nhiễm do công nghệ hiện đại gây ra có thể có những hậu quả trên khí hậu toàn cầu, khả dĩ gây ra những điều kiện khí hậu tàn khốc.

Công nghệ dựa trên sự hiểu biết thiên nhiên mà không kèm theo sự phát triển của con tim quả thực có thể cho con người một lợi thế tạm thời nhưng trong dài hạn, nó giảm thiểu lượng giàu có vật chất của hành tinh này. Loại công nghệ này là công nghệ dựa trên sức mạnh. Con người đã học được cách dùng quy luật thiên nhiên nhưng họ hành động với một trạng thái tâm thiếu thốn và sợ hãi, khiến họ muốn dùng sức mạnh để chiếm lấy thiên đường (Matthew 11:12). Vì họ dùng sáng tạo của họ một cách thiếu quân bình, Ánh sáng Mẫu-vật tạo ra môt lực đối nghịch sẽ rốt cuộc lấy đi sự an toàn mà họ cố xây dựng bằng sức mạnh.

Đây là bằng chứng rõ ràng là khi con người gia tăng nhận biết mà không cân bằng với gia tăng khả năng thương yêu cái gì lớn hơn tự ngã, thì họ sẽ không thăng vượt được trạng thái tâm thức dựa trên sợ hãi dẫn tới việc dùng sức mạnh. Con sẽ gia tăng quyền năng dùng sức mạnh và Mẹ Thiên nhiên sẽ phản ánh lại hành động của con qua dạng phản ứng ngược lại. Hành động mất quân bình của con càng mạnh bao nhiêu, phản ứng của Mẹ Thiên nhiên càng mạnh bấy nhiêu dưới dạng tai ương thiên nhiên. Đây đúng là những gì con đang thấy: tai ương là hậu quả của việc con người lạm dụng công nghệ. Bây giờ con thấy là nếu gia tăng nhận biết không kèm theo gia tăng tình thương và cảm nhận mình là một với mọi sự sống, thì nhân loại không tiến gần hơn việc biểu lộ tâm thức Ki-tô. Con người gia tăng quyền năng phá hoại và do đó con người gia tăng phản ứng của Mẹ Thiên nhiên, của chính Ánh sáng Mẫu-Vật.

13.5. Con sáng tạo phù hợp với quy luật Thượng đế

Tuy việc sử dụng công nghệ thiếu quân bình có thể tàn phá cõi vật lý, nhưng sự tăng trưởng nhận biết thiếu quân bình còn có hậu quả tàn khốc hơn nhiều. Ở giai đoạn tiến hóa thấp nhất của tâm thức nhân loại, còn có những người chỉ ý thức sự hiện hữu của cõi vật lý, nghĩa là họ thấy chỉ có chất liệu vật lý là tài nguyên thỏa mãn mong muốn của họ. Nếu họ không phát hiện được một vật qua giác quan thì vật đó chẳng có giá trị gì và thậm chí còn không hiện hữu. Những người này chỉ có thể có được sự dồi dào từ năng lượng đã được biểu hiện sẵn như chất liệu vật lý, như vậy lẽ tất nhiên tiềm năng tích tụ dồi dào của họ bị giới hạn. Họ phải lấy cái gì đã biểu hiện sẵn là chất liệu vật lý và như vậy họ tự đặt họ trong vị thế ganh đua với tất cả mọi người khác cùng trình độ nhận biết với họ.

Khi con vươn lên cao hơn tầng tâm thức thấp này, con ý thức rằng có nhiều sự dồi dào hơn so với những gì con mắt thấy được. Nhiều người biết đến tầm quan trọng của năng lượng vô hình. Nhiều người nhìn ra giá trị của hiểu biết cao hơn về việc tạo dồi dào từ những chất bị xem là vô giá trị. Hầu hết không có hiểu biết rõ ràng, có ý thức về năng lượng tâm lý, họ còn không có hiểu biết cơ bản mà thày đã cho con trong các chương trước. Một số đã học cách tác động lên năng lượng tâm lý một cách vô thức qua uy lực của tâm họ. Nhiều người trong số họ chỉ có hiểu biết hoàn toàn trí năng về sự kiện vật chất được làm từ năng lượng và tâm của họ có uy lực tác động lên năng lượng. Những người này quả thực không phát triển con tim, họ giản dị có nhận biết trí năng rộng lớn hơn về vũ trụ vật chất và những năng lượng thuộc vũ trụ này. Họ biết vũ trụ vật chất là nhiều hơn chất liệu vật lý và chìa khóa để tích tụ lượng dồi dào to lớn hơn là học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm.

Đáng tiếc thay, con người có thể gia tăng nhận biết về khả năng của trí mà không gia tăng nhận biết về tổng thể bằng con tim. Con người có thể học cách tác động lên năng lượng tâm lý mà không gia tăng tình thương Thượng đế hay tình thương người anh em của mình. Họ có thể học cách tác động lên năng lượng trong khi họ vẫn còn hoàn toàn vị kỷ và ích kỷ. Một lần nữa, chúng ta hãy xét hai yếu tố cần thiết để biểu hiện tâm thức Ki-tô:

  • Một là sự gia tăng nhận biết về khả năng sáng tạo của con. Nó bắt đầu với sự gia tăng hiểu biết về các quy luật thiên nhiên qua đó con có thể tích tụ dồi dào bằng cách sử dụng giỏi hơn chất liệu vật lý. Bước kế tiếp là học cách dùng tâm để sử dụng năng lượng tâm lý như là nền tảng để phát sinh dồi dào vật chất.
  • Hai là sự gia tăng nhận biết mình là một phần của tổng thể rộng lớn hơn và mình thương yêu tổng thể đó như chính mình. Như thế con có thể dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với quy luật của Thượng đế để con vừa gia tăng dồi dào cá nhân vừa gia tăng tổng lượng dồi dào. Con không lấy từ người khác nhưng con thêm vào tổng lượng dồi dào có mặt trên trái đất. Cuối cùng là con có khả năng đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật lý và đấy là nguồn gốc tối hậu của sự dồi dào.

Chỉ khi tiến hóa của tâm thức mang cả hai yếu tố, thì con mới có thể tiến hóa vượt lên trên ích kỷ và không rơi vào cạm bẫy dùng khả năng sáng tạo lớn lao hơn của con một cách ích kỷ. Có một số người trên trái đất đã đạt được một trình độ cao trong khả năng tác động lên năng lượng tâm lý. Họ đã đạt được khả năng khuynh loát người khác. Tư tưởng và tình cảm của con là những dạng năng lượng. Nếu một người đã thiện nghệ trong việc khuynh loát năng lượng lý trí và tình cảm, một người như thế có thể ảnh hưởng suy nghĩ và cảm xúc của con. Người đó có thể kiểm soát con qua trí thể và cảm thể của con. Nếu con muốn một ví dụ hiển nhiên của một người có khả năng đó, con hãy xem xét vì sao Adolph Hitler đã có thể khuynh loát một phần lớn dân chúng Đức để họ trở thành những rô-bốt vô tâm phục vụ cho mưu đồ quyền lực và kiểm soát của ông.

Trong thế giới ngày hôm nay có nhiều người có khả năng này và một số đã học cách dùng khả năng này đằng sau hậu trường để đại chúng không nhận diện ra họ. Một số trong những người này thậm chí còn dùng khả năng này để nổi danh. Đây là những người đã học được cách dùng năng lượng tâm lý đã được đem vào quang phổ tần số vật chất nhưng độ rung chưa hạ xuống quang phổ tần số chất liệu vật lý. Năng lượng này vẫn hiện hữu như một tiềm năng có thể khoác vào hình tướng vật lý nhưng hình tướng thực thụ chưa được xác định. Khi một người đã học cách tác động lên năng lượng, người đó trở nên thiện nghệ trong việc điều khiển năng lượng biểu hiện thành hình tướng. Điều này cho phép một người như vậy tích tụ của cải vật chất lớn lao. Một phần, họ làm được bằng cách khuynh loát người khác làm công việc thật sự đem lại giàu có nhưng giàu có được tập trung trong tay của người giật giây đằng sau hậu trường.

Đấy là những người đã đạt một khả năng dùng tư tưởng làm chủ vật chất, dùng tâm làm chủ vật chất, cao nhưng họ vẫn chưa đạt được mức làm chủ con tim tương xứng. Họ không thấy họ là một với Thượng đế hay là một với các người khác. Họ thấy họ tách biệt khỏi Thượng đế, thường khi là chống lại Thượng đế. Họ nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả và một số trong nhóm người này thậm chí tin rằng họ nhiều uy quyền đến độ họ có thể khuynh loát quy luật của Thượng đế để không gặt những gì họ gieo. Một số thậm chí có mưu đồ công khai nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và tạo ra một thế giới trong đó Thượng đế không có mặt. Họ tìm cách dùng uy lực tâm của họ để kiểm soát tất cả những người khác trên hành tinh này hầu chứng minh thế giới này là một bầu cõi nơi Thượng đế không hiện hữu và nơi không cần tới một đấng Sáng tạo thông minh. Đây là một minh chứng rõ rệt về điều mà thày đã nói với con trước đây là khi con người không có kim chỉ nam dẫn đường tuyệt đối qua sự hiểu biết các quy luật của Thượng đế, các quy luật lệ đã được ghi sâu vào tâm họ, thì họ nghĩ họ có thể trở thành luật lệ cho chính họ. Họ dùng tâm tương đối và nhị nguyên để thiết lập luật lệ của chính họ về cái gì là tốt và xấu và trong sự mù quáng và ngạo mạn, họ nghĩ luật lệ tương đối của chính họ đã thay thế quy luật tuyệt đối của Thượng đế.

Con người có thể học cách dùng uy lực của tâm để tác động lên năng lượng tâm lý mà không mở rộng con tim để cho phép mình sử dụng năng lượng đem lợi lạc cho tổng thể. Con có thể tác động trên năng lượng để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn ích kỷ của con mà không xét đến hậu quả trên Thân thể Thượng đế trên trái đất và hậu quả trên Mẹ Thiên nhiên. Đây là loại người mà Giê-su nói tới: “Nếu vì vậy mà ánh sáng của ngươi tối, sự tối tăm này sẽ lớn biết là dường bao,” (Matthew 6:23) và: “Vương quốc của Thượng đế bị cưỡng ép và kẻ hung bạo muốn dùng bạo lực để chiếm lấy thiên đường” (Matthew 11:12). Nếu con đã học cách dùng năng lượng tâm lý với mục đích ích kỷ thì con biến năng lượng này thành bóng tối. Lượng bóng tối sẽ nhiều bằng lượng ánh sáng mà con tha hóa qua việc con dùng sức mạnh để lấy từ Thượng đế cái mà Thượng đế cho con vô điều kiện nếu con sẵn lòng vượt thăng ý niệm tách biệt với Thượng đế của con.

13.6. Điều tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể

Sự gia tăng nhận biết các khả năng sáng tạo của con là một phần trong việc đạt tới tâm thức Ki-tô. Nếu nhận biết này giới hạn trong trí mà không được quân bình bởi sự phát triển của con tim thì có khả năng con người tha hóa khả năng sáng tạo của họ và dùng chúng cho những mục đích ích kỷ. Khi con đạt được tâm thức Ki-tô quân bình, khi sự gia tăng nhận biết sáng tạo của con được quân bình bởi tình yêu trong tim con, con sẽ chỉ dùng khả năng sáng tạo của con phù hợp với các quy luật của Thượng đế. Con sẽ không tìm cách thỏa mãn những ước muốn vị kỷ, ích kỷ vì con nhận ra con không phải là một cá nhân tách biệt. Con là một thành phần của Thượng đế và như vậy con là một thành phần của Thân thể Thượng đế. Điều gì tốt nhất cho con cũng tốt nhất cho tổng thể. Khi con khắc phục tâm thức sợ hãi tập trung vào tự ngã, con sẽ nhận ra không có mâu thuẫn giữa mong muốn cá nhân chân thực của con và điều gì tốt cho tổng thể Thân thể của Thượng đế trên trái đất. Con là một thành phần của tổng thể, do đó chỉ khi con khuếch trương tổng thể con mới thực sự được thỏa mãn.

Quả thực con có thể thỏa mãn các mong muốn cá nhân của con bằng một cách sẽ gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới và như vậy con cũng khuếch trương tổng thể. Khi con không gia tăng tình yêu trong tim con, tình yêu này cho con cảm nhận mình là một với tổng thể, con có thể bị mắc kẹt trong tâm mình. Lúc ấy con tin vào ý tưởng dối trá cho rằng con có quyền dùng uy lực tâm của con mà không đếm xỉa tới tổng thể. Khi con có tâm thức Ki-tô trọn vẹn, con cũng có nhận biết trọn vẹn mình là một nối dài của Thượng đế. Con có sự quân bình toàn hảo giữa mong muốn cá nhân và điều gì tốt cho tất cả mọi người khác. Con cũng biết cách thỏa mãn mong muốn cá nhân của con trong sự hài hòa với các quy luật Thượng đế, những quy luật được thiết kế để bảo đảm điều tốt nhất cho tổng thể. Sự quân bình này đạt được nhờ tâm Ki-tô vậy thì tâm nào đã cho phép con tác động lên năng lượng Thượng đế để sinh tạo hình tướng không thẳng hàng với quy luật Thượng đế? Chẳng phải nó là tâm phản Ki-tô? Chẳng phải chính tâm phản Ki-tô là tư duy cho phép một người tác động lên năng lượng nhưng không cho người đó tình yêu của con tim để dùng năng lượng phù hợp với quy luật Thượng đế?

Một số những thày giả trong lãnh vực phồn thịnh đã tìm ra cách tác động lên năng lượng tâm lý, qua đó dùng nó để khuynh loát người khác hay ngay cả tác động lên chất liệu vật lý hầu thu hút dồi dào về họ. Nếu những người này không gia tăng nhận biết của con tim, họ quả thực đang thu hút dồi dào qua tâm phản Ki-tô. Họ đang dùng uy lực của tâm họ để tác động lên năng lượng và cách này hoàn toàn không hài hòa với các quy luật Thượng đế, trong đó quy luật quan trọng nhất là Luật Tình thương đem lại sự hài hòa giữa cá nhân và tổng thể.

Con cần xem xét chủ đề này dù rằng thày ý thức là một số người cảm thấy khó chịu với chủ đề này vì nó có thể tạo sợ hãi. Không cần phải sợ các lực phản Ki-tô khi con biết cách chúng vận hành. Con chỉ sợ cái mà con không biết bởi vì nếu con không hiểu cách các lực đó đang tìm cách khuynh loát con thì làm sao con bảo vệ mình khỏi ảnh hưởng của chúng?  Khi con nhìn thấu suốt tư duy phản Ki-tô, con có thể tránh không cho những người kẹt trong tư duy này khuynh loát con hay cám dỗ con. Con có thể quở trách ác ma giống như Giê-su khi thày bị cám dỗ sau khi thày rời sa mạc (Matthew 4:1). Chỉ bằng cách quở trách tư duy phản Ki-tô đã thấm đẫm gần như mọi khía cạnh của đời sống trên hành tinh này, con mới có thể giải thoát mình khỏi tư duy này.

Làm sao con có thể hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô nếu con không giải thoát mình khỏi tư duy phản Ki-tô? Điều này giản dị không làm được. Như Giê-su đã nói, con không thể phục vụ hai chủ (Matthew 6:24). Con không thể phục vụ Thượng đế và Ma môn, con không thể phục vụ Thượng đế qua tâm thức Ki-tô lúc nào cũng tìm cách đem lại sự tốt lành nhất cho tất cả, và đồng thời phục vụ Ma môn, nghĩa là tâm thức ích kỷ, xuyên qua tâm phản Ki-tô.

Ngày hôm nay con phải chọn con sẽ phục vụ ai (Joshua 24:15), hoặc con phục vụ tâm thức của sự sống chính là tâm thức Ki-tô, hay con muốn phục vụ tâm thức chết là tâm thức phản Ki-tô. Thày nói, như Moses đã nói: “Con hãy chọn sự sống. Hãy chọn tâm thức Ki-tô là cánh cửa dẫn tới đời sống bất tử, đời sống vĩnh cửu của sự hợp nhất với cội nguồn của con và với mọi sự sống.” (Deuteronomy 30:19).

Trong suốt đời còn lại, con có thể tiếp tục gia tăng nhận biết của con về năng lượng tâm lý và cách tác động lên năng lượng này để tạo dồi dào vật chất cho cá nhân mình. Chừng nào con còn mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô, con bị mắc kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Mọi hành xử của con sẽ không phù hợp với quy luật Thượng đế. Cái gì không phù hợp với quy luật Thượng đế tạo ra một xung lực mất quân bình, có nghĩa là chính Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tạo ra một xung lực đối chọi hầu duy trì quân bình trong vũ trụ.

Quả thực con có thể dùng tâm thức phản Ki-tô để tạm thời tích tụ dồi dào vật chất hay uy quyền trên trái đất này. Vũ trụ vật chất được thiết kế với sự trì hoãn, có nghĩa là một sinh thể tự nhận biết có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình và tạo ra những hình tướng không phù hợp với quy luật Thượng đế. Vì yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ vật chất, những hình tướng thiếu quân bình như vậy sẽ không tự hủy hoại ngay tức khắc. Chúng có thể hiện hữu trong một thời gian và do đó con có thể dùng tâm phản Ki-tô để tạo ra dồi dào vật chất có thể kéo dài suốt quãng đời còn lại của con. Kinh thánh nói đúng khi nói rằng con gieo gì thì gặt nấy (Galatians 6:7). Kinh thánh cũng nói đúng khi nói rằng vẫn còn sự sống sau khi thân vật lý chết (Matthew 16:28). Điều này có nghĩa là nếu con không gặt hái điều con gieo khi xác thân vật lý còn sống thì chắc chắn dòng sống của con sẽ gặt hái điều con gieo trong tương lai.

13.7. Con phải tích cực đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Nếu con đã lớn lên trong một nền văn hóa Cơ đốc truyền thống, thì con đã bị lập trình để tin rằng con chỉ có một kiếp sống duy nhất ở đây trên trái đất. Ý tưởng hư giả này đã đi vào đạo Cơ đốc qua ảnh hưởng của những người mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Tâm thức phản Ki-tô nhìn cá nhân tách biệt khỏi tổng thể cho nên tâm phản Ki-tô là nguồn gốc của mọi ích kỷ. Một người càng bị mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô thì người đó càng ích kỷ và ví dụ tối hậu là tâm thức của người tiền sử sống trong hang động. Khi con chỉ chú trọng tới mình, con không thể nhìn quá những mong muốn ngắn hạn của con, do đó con không thể chấp nhận ý tưởng là hành động của con có những hậu quả mà con không tránh được. Một người cực kỳ vị kỷ không thể nào chấp nhận sự thật là họ sẽ chắc chắn gặt hái trong một kiếp tương lai những gì họ gieo trong kiếp này. Đó là lý do tại sao chân lý về tái sinh bị loại bỏ khỏi Cơ đốc giáo chính thống như Giê-su đã giảng chi tiết trong sách của thày [The Mystical Teachings of Jesus, Những Giáo lý Thần bí của Giê-su].

Ngay cả Cơ đốc giáo chính thống cũng dạy là linh hồn vẫn còn sống sau khi xác thân vật lý chết đi. Cơ đốc giáo chính mạch không thể giải thích sự kiện có những em bé sinh ra với tật nguyền trong khi có những em khác hoàn toàn lành mạnh. Nếu theo giáo lý chính thống thì không có lời giải thích hợp lý nào cho sự kiện mà ta có thể quan sát này. Điều này đã khiến nhiều tín đồ Cơ đốc suy luận phải có một Thượng đế bất công trừng phạt trẻ thơ vô tội mà có vẻ chẳng có lý do gì cả. Sự thật là Thượng đế không hề trừng phạt bất cứ ai. Thượng đế giản dị đã thiết lập một vũ trụ vận hành như một tấm gương phản ánh lại cho con những gì con gửi ra ngoài. Khi con dùng khả năng sáng tạo của con không phù hợp với quy luật Thượng đế, con tạo một hành động mất quân bình. Hầu duy trì quân bình trong vũ trụ, tấm gương vũ trụ sẽ tạo ra một phản ứng ngược lại. Phản ứng này sẽ không hủy bỏ ngay lập tức hành động của con. Có một yếu tố trì hoãn có sẵn trong vũ trụ và lý do là giúp con có thêm cơ hội để học hỏi.

Nếu không có sự trì hoãn, nhiều hành động của con sẽ tạo một phản ứng trả về sẽ giết con chết tức khắc. Vì có trì hoãn, con có thể làm lỗi mà không hủy hoại mình ngay tức khắc và nếu bị hủy hoại thì con mất đi cơ hội học hỏi. Con được cho thời gian giữa lúc con làm lỗi và dòng xung lực quay ngược về con từ vũ trụ. Con có thể tăng trưởng nhận biết để khi phản ứng trở về với con, con đã vượt thăng tâm thức đã tạo ra hành động nguyên thủy. Nếu con đã vượt lên trên tâm thức này, Thượng đế có chọn lựa để qua bên hay giảm thiểu phản ứng của vũ trụ để con tiếp tục có cơ hội tăng triển trong kiếp sống hiện thời của con mà không bị gián đoạn bởi hành vi từ một kiếp trước. Điều này hoàn toàn có lý khi con nhận ra là ước muốn duy nhất của Thượng đế là con tăng trưởng qua sự thăng vượt không ngừng trạng thái tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con. Thượng đế không phải là Thượng đế giận dữ và trừng phạt mà biết bao nhiêu tôn giáo đã mô tả.

Những hoàn cảnh mà con kinh nghiệm trong kiếp sống này không phải là sự trừng phạt của Thượng đế và cũng không phải là kết quả của trò chơi may rủi. Chúng là hậu quả của những nguyên nhân mà con đã khởi động trong một kiếp trước qua những chọn lựa của con trong những kiếp đó. Hoàn cảnh hiện nay của con không do Thượng đế tạo ra; nó do chính tự ngã của con tạo ra và như thế con đang gặt những gì con đã gieo trong quá khứ. Nếu con không nhận ra điều con trải nghiệm trong kiếp sống này là hậu quả của những nguyên nhân con đã khởi động trong quá khứ, làm sao con khắc phục được cảm giác con là nạn nhân của những lực ngoài tầm kiểm soát của con? Con được sinh ra để là người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con được sinh ra để trải nghiệm dồi dào trong cuộc sống, con không thể thụ động ngồi chờ Thượng đế đặt dồi dào vào lòng con. Con phải đảm nhận một vai trò tích cực và đứng thẳng hàng với các quy luật Thượng đế, với Hiện diện TA LÀ của con, để con có thể thành cánh cửa mở cho ánh sáng Hiện diện TA LÀ của con tuôn chảy xuống thế giới này và biểu hiện sự dồi dào.

Hầu hết người trên thế giới ngày nay, dù được nuôi dạy trong một tôn giáo chính thống hay khoa học duy vật, đã bị lập trình để tin rằng họ là nạn nhân của những lực vượt quá tầm kiểm soát của họ. Hoặc họ là nạn nhân của một Thượng đế giận dữ và phán xét hay nạn nhân của luật thiên nhiên ngoài tầm kiểm soát của họ. Ngày nào con còn trong trạng thái tâm thức này và tin rằng con là nạn nhân bất lực của những lực ngoài tầm kiểm soát của con, thì làm sao con có thể thành một người đồng-sáng tạo và biểu hiện dồi dào trong đời sống qua những nỗ lực của con? Tất cả những gì con làm được là theo phương cách thụ động và hy vọng một phép lạ sẽ biểu hiện sự dồi dào trong cuộc đời của con.

Chính tư duy này đã khiến nhiều người rơi vào tròng của những thày giả hứa hẹn một kế hoạch làm giàu nhanh chóng. Khi con nghĩ chọn lựa duy nhất của con để đem lại dồi dào là tìm con đường tắt đem lại dồi dào qua một phép lạ kỳ diệu, thì con dễ bị lung lay bởi những lời hứa hẹn trống rỗng của những người tự nhận là họ đã tìm ra ngõ tắt như thế. Con sẽ là con mồi dễ bắt cho những kẻ tự nhận là họ có thể dạy con cách dùng tâm để thu hút dồi dào. Họ sẽ không cho con biết những hậu quả dài hạn hay nói cho con là hệ thống của họ sử dụng tâm phản Ki-tô.

13.8. Chỉ có hợp nhất với Thượng đế mới đem lại dồi dào vô tận của Thượng đế.

Mục đích của khóa học này là cống hiến cho con một con đường chân chính và khoa học dẫn tới dồi dào bền vững. Mục tiêu của thày không phải là chỉ con đường tắt dẫn tới dồi dào tạm bợ. Mục đích của thày là chỉ con đường chân chính dẫn tới đời sống dồi dào có thể duy trì mãi mãi nếu con tiếp tục ở trong tâm thức Ki-tô. Đó là lý do tại sao thày cần phơi bày sự dối trá không những của các thày giả mà còn của toàn bộ tư duy phản Ki-tô đang ngăn cản con làm tròn vai trò đúng đắn của con. Vai trò đúng đắn của con là người đồng-sáng tạo có ý thức có thể với lên cõi tâm linh và đem xuống nhiều năng lượng tâm linh hơn vào quang phổ tần số vật chất. Đây là cách duy nhất để gia tăng lượng dồi dào sẵn có trên trái đất và đơn giản là chuyện này không làm được qua tâm phản Ki-tô. Những người với tư duy phản Ki-tô không thể với lên cõi tâm linh. Khi con bị mắc kẹt trong tâm thức tách biệt khiến con chối bỏ sự hợp nhất của con với Thượng đế, thì làm sao con thiết lập được sự nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế? Điều này không thể làm được cho nên tâm phản Ki-tô không bao giờ có thể với lên cao hơn quang phổ tần số vật chất. Đời đời kiếp kiếp nó bị kết án phải lấy dồi dào từ thế gian này cho nên nó phải lấy bằng sức mạnh.

Ta có thể nói Thượng đế đã thiết lập một cơ chế an toàn khác trong thiết kế vũ trụ của ngài. Uy lực sáng tạo tối hậu là đem năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Điều này đơn giản không thể làm được bởi cái tâm bị mắc kẹt trong ích kỷ và có khuynh hướng dùng năng lượng tâm linh cho những mục đích vị kỷ. Tâm đó có thể tác động trên năng lượng tâm lý nhưng không thể tiếp cận năng lượng tâm linh. Chỉ có tâm đã khắc phục được ích kỷ qua cảm nhận hợp nhất với Thượng đế và với Thân thể Thượng đế mới tiếp cận được dồi dào vô tận của Thượng đế.

Ngay cả những người đã đạt được một trình độ cao trong việc làm chủ năng lượng tâm lý vẫn chưa đạt được khả năng với lên cõi tâm linh và tải xuống nhiều năng lượng Thượng đế hơn. Họ thiện xảo trong việc tích tụ dồi dào bằng cách thu hút nguồn năng lượng tâm lý, là năng lượng cao hơn và dồi dào hơn chất liệu vật lý nhưng thấp hơn năng lượng tâm linh. Những người như vậy có thể biểu hiện nhiều dồi dào hơn là nếu họ chỉ làm việc ở tầng chất liệu vật lý. Con đừng lầm tưởng nghĩ rằng họ có sự điều ngự tâm linh chân chính hay họ có tâm thức Ki-tô. Dù những thành đạt của họ có vẻ đáng nể phục nhìn từ góc độ vỏ ngoài, nhưng chúng chẳng là gì cả dưới ánh sáng của sự thật Thượng đế. Đó là lý do vì sao Giê-su cảnh giác chúng ta đừng theo những tiên tri giả (Matthew 7:15) sẽ tới dưới danh hiệu Giê-su, một số trong họ có thể phô trương những dấu hiệu và điều kỳ lạ nhưng dưới bề ngoài đó họ là loài sói hung dữ vì trong tim họ không có tình thương.

Những người như vậy chẳng làm chút gì để gia tăng tổng lượng dồi dào trên thế giới này. Họ đơn giản học được cách tác động lên năng lượng tâm lý đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Họ chỉ làm được chuyện này qua sức mạnh, có nghĩa là hoặc họ lấy năng lượng tâm lý từ người khác hoặc họ dùng năng lượng tâm lý để khuynh loát người khác làm công việc vật lý và sau đó cướp hoa trái lao động của những người này cho giới thượng lưu quyền lực. Đó là lý do tại sao sự tranh giành quyền lực thật sự trên trái đất là tranh giành năng lượng, kể cả năng lượng tâm lý.

Một lần nữa, con có hai cách để biểu hiện sự dồi dào. Con thực sự có thể theo những thày giả và dùng tư duy phản Ki-tô tạo ra dồi dào vật lý tạm bợ cho chính mình. Con có thể tích lũy của cải đồ sộ trong kiếp sống này qua cách đó. Con yêu dấu, thày giản dị nói sự thật cho con ở đây, thày hoàn toàn trung thực với con. Một số những thày giả ngoài kia đã quả thực nói sự thật khi họ nói họ đã khám phá một hệ thống để con có thể biểu hiện dồi dào bằng uy lực của tâm. Ta có thể nói họ không phải là thày giả theo nghĩa thấp là họ đưa ra một hứa hẹn giả. Họ nói với con rằng họ có một hệ thống có thể giúp con biểu hiện giàu có và lời tuyên bố đó là thật. Họ không cho con biết hậu quả lâu dài của cách làm này. Họ không nói với con là nếu con làm theo hệ thống của họ, con sẽ buộc mình vào tâm thức phản Ki-tô và con không thể tránh gặt những gì con đã gieo trong kiếp này hoặc trong một kiếp tương lai.

Thày ở đây để nói với con là có một chọn lựa khác là con có thể biểu hiện dồi dào mà không mắc kẹt trong tâm thức phản Ki-tô. Đây là chìa khóa chân chính, không phải là chìa khóa cho sự dồi dào vật lý tạm bợ mà là chìa khóa cho đời sống dồi dào trường tồn, cho đời sống vĩnh cửu. Đây là chìa khóa dẫn con bước ra ngoài cái chết, vượt lên trên tâm thức chết để đi vào đời sống trường cửu của tâm thức Ki-tô. Khi con đạt được tâm thức hợp nhất này, chính là vương quốc Thượng đế, mọi thứ khác quả thực sẽ được cộng thêm cho con (Matthew 6:33).

Con yêu dấu, thày giả định là nếu con đang học khóa học này, con đã biết trong tim mình rằng con không hề muốn học cách tác động lên năng lượng tâm lý qua tâm thức phản Ki-tô. Con biết rất rõ con muốn về nhà nơi vương quốc đấng Cha và do đó con không tìm đường tắt. Thày tới con với tình thương lớn lao và thày chìa tay ra để thày có thể dẫn con và cho con một sự hiểu biết rộng lớn hơn về cách khắc phục tâm thức phản Ki-tô và biểu hiện tâm thức Ki-tô. Trong các chương tới, thày sẽ giải thích làm cách nào con đi theo tiếng gọi của Paul: “Hãy để cho tâm đó ngự trong con mà tâm đó cũng chính đã là tâm Giê-su Ki-tô” (Philippians 2:5).

11| Bài học bí mật đằng sau sự đấu tranh của con người

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 9/4/2005.

11.1. Hoàn cảnh bên ngoài phản ánh hoàn cảnh bên trong của con

Con tim yêu dấu của Mẹ, thày xin con bước lui lại và nhìn lịch sử những tương tác giữa con người trên trái đất. Thày xin con xem xét con người đã cư xử với nhau như thế nào xuyên suốt lịch sử được biết đến. Thày xin con tìm một chữ để mô tả tương tác giữa con người với nhau. Thày chắc chắn con có thể nghĩ ra nhiều từ có tính mô tả cao nhưng thày nghĩ con sẽ đồng ý với thày rằng một chữ mô tả đúng hơn hết cách con người tương tác với nhau là từ “đấu tranh”.

Một đặc tính của tương tác giữa con người là sự đấu tranh giữa các cá nhân và đấu tranh giữa các nhóm người, thậm chí đấu tranh giữa loài người và Mẹ Thiên nhiên. Con người có khuynh hướng xem mình, ngay cả đồng hóa mình như những người chống lại người khác hay thậm chí chống lại hành tinh nơi họ đang sống, hành tinh mà sự sống còn của họ tùy thuộc vào. Con có sự đấu tranh để kiểm soát đất đai, kiểm soát của cải vật chất và kiểm soát những người khác. Bây giờ thày xin con xét đến nguyên nhân chính của các đấu tranh này, của đấu tranh giành quyền lực liên tục đã tạo ra đau khổ khôn tả qua dòng lịch sử được biết đến, và thậm chí nhiều đau khổ hơn nữa trong phần lịch sử mà hiện nay khoa học gia chưa biết tới.

Lý do duy nhất đằng sau sự đấu tranh giữa con người là niềm tin không có đủ cho mọi người. Không có đủ đất đai, không có đủ tài nguyên, không có đủ thức ăn, không có đủ năng lượng. Từ đó đưa tới cảm nhận nếu con muốn có nhiều hơn thì con phải lấy từ người khác, con phải dùng sức mạnh để cưỡng đoạt. Trước đây thày có cho con hình ảnh là nếu mỗi người đều có cây đèn thần và có thể hoàn thành mọi ước muốn của mình từ ông thần trong đèn thì sẽ không có xung đột trên trái đất. Nếu tất cả mọi người có thể thành tựu ước muốn của họ mà không cần phải lấy từ người khác, sự tranh giành quyền lực sẽ chấm dứt. Ngay cả cảm nhận phải vật sẽ tan biến và biến mất như hạt sương ban mai tan theo ánh bình minh.

Ôi con yêu dấu, con thấy chăng tầm quan trọng vô cùng của khái niệm này? Con xét xem bao nhiều khổ đau gây ra bởi tranh giành quyền lực? Con xét xem hệ quả sẽ lớn lao chừng nào nếu có ít nhất một số lượng tới hạn con người được trợ giúp để khắc phục cảm nhận phải đấu tranh, khắc phục cảm nhận thiếu thốn đưa tới đấu tranh và do đó chấp nhận họ có thể có đời sống dồi dào mà không cần lấy từ người khác hay không cần cưỡng đoạt bằng sức mạnh từ Mẹ Thiên nhiên.

Thượng đế đã xây dựng một cơ chế an toàn trong chính Ánh sáng Mẫu-Vật. Cơ chế an toàn này là lực co lại tìm cách trả mọi hình tướng trở về trạng thái vô hình tướng, tìm cách trả Ánh sáng Mẫu-Vật trở về trạng thái cơ bản của nó. Bây giờ thày sẽ giải thích thật rõ ràng cho con chuyện gì xảy ra khi con người tìm cách lấy bằng sức mạnh. Nguyên lý này được mô tả bởi hầu hết mọi tôn giáo. Trong Kinh thánh con tìm thấy khái niệm gieo gì gặt nấy (Galatians 6:7). Con tìm thấy lời dạy của Giê-su: hãy làm cho người khác điều gì con muốn họ làm cho con (Matthew 7:12). Con sẽ tìm thấy khái niệm tương tự trong mọi tôn giáo và các ý này mô tả nguyên lý quan trọng nhất về cách vận hành của vũ trụ vật chất. Để mô tả điều này ngắn gọn nhất, ta có thể nói Thượng đế đã sinh tạo một vũ trụ vận hành giống như một tấm gương. Bất cứ điều gì con gửi ra dòng không gian-thời gian liên tục sẽ được tấm gương hoàn vũ gởi trả về con.

Vũ trụ được tạo ra từ Ánh sáng Mẫu-Vật và như thày đã nói, Ánh sáng Mẫu-Vật có tiềm năng khoác lấy bất kỳ hình tướng nào nhưng nó không thể tự nó tạo ra hình tướng. Ánh sáng Mẫu-Vật ngoan ngoãn khoác lên hình tướng khi một tâm có tự nhận biết tác động lên nó. Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ khoác lên bất cứ hình tướng nào được giữ như một hình tư tưởng trong tâm có tự nhận biết này. Bất cứ gì con giữ trong tâm con quy định hình ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và như thế hình tư tưởng này sẽ quy định hình tướng mà Ánh sáng Mẫu-Vật khoác vào trong quang phổ tần số vật chất. Nếu con giữ hình tư tưởng cuộc sống là một cuộc đấu tranh, chắc chắn vũ trụ sẽ phản chiếu lại cho con những hoàn cảnh phản ánh niềm tin cuộc sống là đấu tranh. Chính cảm nhận đấu tranh tạo nên đấu tranh.

Luật Tự quyết không hiện hữu một mình. Thượng đế không sinh tạo một vũ trụ trong đó con có thể làm bất cứ gì mình muốn. Luật Tự Quyết hiện hữu cặp đôi với điều mà khoa học gọi là luật tác động và phản ứng. Luật này quy định là dù con có quyền phóng chiếu bất kỳ hình ảnh nào lên Ánh sáng Mẫu-Vật, con sẽ phải trải nghiệm hình tướng trong đó con đã giam cầm Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con sáng tạo điều gì thì con sẽ bắt buộc phải trải nghiệm chính tạo vật của con dưới dạng hoàn cảnh vật lý. Điều này không những công bằng mà còn là cách duy nhất con học cách sử dụng khả năng sáng tạo của con một cách tốt đẹp hơn.

Con thử tưởng tượng một vũ trụ trong đó con có thể làm bất kỳ gì mình muốn mà không bao giờ gặt hái hậu quả hành động của con. Làm sao con có thể học được gì từ việc này? Con xét xem các trẻ lớn lên với cha mẹ bảo vệ các em khỏi hậu quả của những chọn lựa của em. Các em này nhanh chóng trở nên hư hỏng vì được nuông chiều và nghĩ em có thể làm mọi chuyện mà vẫn trốn tránh được hậu quả. Các em đó càng ngày càng phá phách hơn vì em muốn cha mẹ đặt giới hạn cho những cư xử của em. Ý muốn này phát xuất từ động lực muốn học bài học trong đời sống vì con người biết nếu không có hậu quả thì không học được.

Con cũng có ý muốn mạnh mẽ muốn học bài học của đời mình. Dù tâm vỏ ngoài của con có thể chống lại quy luật gieo gì gặt nấy của Thượng đế, con người bên trong con biết ơn sự kiện Luật Nhân và Quả quy định con sẽ trải nghiệm điều con sáng tạo. Con người bên trong của con biết đây là cách học hỏi nhanh chóng cách dùng uy lực sáng tạo của mình để tạo ra trải nghiệm sống tốt nhất cho mình.

Thày hy vọng giúp con thấy dù ngay bây giờ hoàn cảnh sống của con khó khăn đến đâu chăng nữa, có một bài học ẩn giấu đằng sau. Bài học là con đã tạo ra những hoàn cảnh này trong quá khứ bằng cách tạo ra một hình tư tưởng và phóng chiếu nó lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Điều này có nghĩa là con không mãi mãi bị mắc kẹt vào hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con. Bất cứ lúc nào con cũng có thể chọn thay đổi hình tư tưởng trong tâm con và phóng chiếu một hình ảnh tốt hơn lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Khi con học về các chu kỳ của năng lượng Thượng đế chảy xuyên qua các tầng của vũ trụ vật chất mà thày sẽ dạy con sắp tới, con sẽ thấy rằng chỉ là vấn đề thời gian để hoàn cảnh bên ngoài bắt đầu phản ánh những hình ảnh mới mà con giữ trong tâm con.

Cốt lõi của giáo lý của thày là nếu hiện nay con cảm thấy bị mắc kẹt trong hoàn cảnh không mong muốn, con không thật sự bị kẹt. Cảm nhận bị mắc kẹt, cảm nhận phải vật lộn chỉ hiện hữu trong tâm con người mà thôi. Khi con hiểu rộng hơn vũ trụ vận hành ra sao và hiểu rộng hơn về chính uy lực sáng tạo của con, con sẽ thấy là Thượng đế đã trao cho con quyền năng thay đổi tuyệt đối mọi hoàn cảnh, mọi giới hạn. Con có thể vượt lên trên giới hạn và biểu hiện cuộc sống dồi dào ngay đây trong thế giới này. Dù con có thể nghĩ con bị mắc kẹt trong những hoàn cảnh vượt quá tầm kiểm soát của con, con không bao giờ thực sự bị kẹt. Con luôn luôn có thể làm một cái gì để cải thiện hoàn cảnh của con. Dù hoàn cảnh bên ngoài là gì chăng nữa, con luôn có chọn lựa làm chủ hoàn cảnh bên trong của con, làm chủ cách con đáp ứng lại hoàn cảnh bên ngoài. Khi con nhận ra hoàn cảnh bên ngoài của con không gì khác sự phản ánh hoàn cảnh bên trong của con trong quá khứ, con biết là bằng cách thay đổi hình tư tưởng trong tâm con, chắc chắn con sẽ thay đổi điều mà tấm gương vũ trụ sẽ phản chiếu lại con.

11.2. Đằng sau nhu cầu an toàn là nhu cầu được trọn vẹn

Cuộc đấu tranh của kiếp người đã kéo dài không biết bao thiên niên kỷ. Đấu tranh giành của cải vật chất, giành quyền lực hay kiểm soát, sinh ra từ cảm nhận không có đủ dồi dào trong thế giới vật lý này. Dồi dào vật chất mà ta thấy trong thế giới này không phải là một lượng cố định. Dồi dào vật chất giống như mỏm của tảng băng đá và thày chắc chắn con biết là tảng băng đá chỉ có mười phần trăm của khối lượng của nó lồi trên mặt nước. Đa phần tảng băng đá không trông thấy được và giống như vậy vật chất mà giác quan vật lý của con thấy được chỉ là một phần nhỏ của một tổng thể rộng lớn hơn. Mọi vật chất thực sự được tạo ra từ năng lượng rung động do đó dồi dào vật chất chỉ là một phần trông thấy được trong tổng lượng dồi dào trong thế giới này. Tổng lượng dồi dào trong quang phổ tần số vật chất không giới hạn trong vật chất mà con có thể thấy bằng giác quan của con. Tổng lượng dồi dào có mặt cho con người dùng tùy thuộc vào lượng năng lượng đã được đem vào hệ thống năng lượng của hành tinh trái đất.

Vật chất được tạo ra từ năng lượng và năng lượng vật lý thật ra được tạo ra từ năng lượng tâm linh vô hình đã được giam trong một hình tướng đặc thù. Vật chất là năng lượng đã bị hạ độ rung cho tới khi nó rung động trong phạm vi một quang phổ tần số nào đó. Thân vật lý của con có thể tác động trên vật chất. Vật chất đơn giản là một biểu hiện, một nối dài của những năng lượng tinh tế hơn mà giác quan vật lý của con không phát hiện được nhưng tâm của con có thể gán cho hình tướng.

Con hãy có một tầm nhìn mới về đấu tranh giành giật quyền lực của con người. Con người không chỉ ganh đua để giành giật giàu có vật chất hay của cải vật chất. Đa số những đấu tranh giữa con người không liên quan tới vật chất, nó liên quan tới cái gì đó không phải là vật chất, cái gì không phát hiện được bằng giác quan vật lý hay tiêu hóa được bởi thân thể nhưng vẫn có giá trị với con người. Cái đó là gì, chất phi vật chất đó mà con người giành giật nhau? Có phải chăng nó là những năng lượng tinh tế hơn mà giác quan không phát hiện được nhưng vẫn là một thành phần của hệ thống năng lượng của trái đất? Các năng lượng này rất cần thiết để con người cảm thấy được nuôi dưỡng, dồi dào, đầy đủ và an toàn. Con chắc có nghe câu ngạn ngữ nói rằng con người không chỉ sống bằng bánh mì, và phải chăng đây là bằng chứng con người có nhiều nhu cầu phi vật chất không thể được thỏa mãn bởi sở hữu vật chất? 

Trong nhiều trường hợp, đấu tranh giành quyền lực của con người nhằm đem lại cho họ một cảm giác nào đó. Rất nhiều người tìm cách tích lũy tiền bạc, nhưng khi con nhìn vào thế giới và những người giàu nhất, con sẽ thấy nhiều người trong số đó đã tích lũy những lượng tiền bạc khổng lồ đến độ họ không thể tiêu dùng hết cho tới cuối đời của họ. Bất cứ ai cũng có nhu cầu hữu hạn về mặt sở hữu vật chất. Con chỉ có thể mua một lượng tối đa đồ vật mà thôi, con chỉ có thể làm một số sinh hoạt tối đa nào thôi, con chỉ có thể ăn một lượng tối đa nào thôi. Sẽ tới điểm mà một người đã tích lũy đủ tiền để chu toàn tất cả những nhu cầu vật chất của y trong hết quãng đời còn lại. Con thấy rất nhiều người không thể ngừng chạy theo đồng tiền để vui hưởng số tiền họ đã có trong quãng đời còn lại. Họ bị thúc đẩy tiếp tục tích lũy thêm tiền và thêm tiền, cho dù nỗ lực tích lũy thêm tiền và bảo vệ tiền ngăn cản họ vui hưởng cuộc sống của họ. Những người này tìm gì, họ vật lộn để đạt gì? Họ vật lộn để đạt một cảm giác và cảm giác này quan trọng hơn nhiều tiền bạc hay bất cứ vui thú nào tiền có thể mua được. Họ đang vật lộn để đạt một cảm giác an toàn hay một cảm giác uy quyền, kiểm soát hay cao trội.

Trong một thời gian dài, thày rất sốt sắng tìm hiểu tâm lý con người. Là một chân sư thăng thiên, thày có khả năng nhìn vượt lên trên mọi dáng vẻ bên ngoài thường làm rối trí con người và khiến họ không thể hiểu được những gì xảy ra nơi các tầng vô thức của tâm. Cặp mắt của một sinh thể thăng thiên có thể đi xuyên thấu tất cả những màn khói che khuất lừa gạt con người. Thày thấy là đằng sau nhu cầu an toàn vỏ ngoài là một nhu cầu sâu hơn. Nhu cầu này chúng ta có thể gọi là nhu cầu được trọn vẹn.

Đây là một nhu cầu có sẵn trong chính thiết kiết của bản thể con và nó là một cơ chế an toàn khác do Thượng đế thiết kế. Mục đích của nó là ngăn ngừa không cho quyền tự quyết khiến những người đồng-sáng tạo bị lạc trong tâm thức tách biệt. Thượng đế không muốn con bị mắc kẹt trong vòng xoáy vô tận phải gặt hái hậu quả của những chọn lựa quá khứ của mình, bị các hậu quả này quy định những chọn lựa hiện tại của con, tạo thêm những hậu quả mới mà con không tránh được. Khi Thượng đế thiết kế dòng sống của con, nó được thiết kế để luôn tìm cầu sự trọn vẹn, y như Ánh sáng Mẫu-Vật được thiết kế để luôn đi tìm sự cân bằng của trạng trái nền của nó. Thượng đế không sinh tạo sự thiếu thốn hay khổ đau trên trái đất: các thứ này do tâm thức tập thể của nhân loại tạo ra sau khi con người đánh mất sự nối kết trực tiếp với cái ta tâm linh của họ, Hiện diện TA LÀ của họ. Khi nối kết này bị mất, dòng sống trải nghiệm một cảm nhận không trọn vẹn, một cảm nhận cô đơn, thậm chí một cảm nhận bị bỏ rơi. Điều này khiến dòng sống dấy lên ý muốn tái thiết lập lại sự trọn vẹn trước kia, sự đầy đủ trước kia của nó.

Con người quả thật không có ham muốn tích lũy nhiều hơn một lượng của cải vật chất nào đó. Con người không ham muốn trải nghiệm nhiều hơn một lượng thú vui thân xác nào đó. Một dòng sống có ý muốn trải nghiệm cuộc sống trong vũ trụ vật chất. Nó có thể thực hiện những mong muốn đó qua một số trải nghiệm hữu hạn hay một số sở hữu hữu hạn. Điều tạo ra khao khát không bao giờ thỏa mãn được, khao khát có thêm sở hữu, có thêm thú vui, có thêm quyền lực hay bất cứ gì khác mà con người mong muốn, thực sự là ước muốn sâu thẳm được trọn vẹn. Vì những người đồng-sáng tạo không thấy được bản chất thật của ý muốn đó và mục đích của ý muốn đó, họ tìm cách thỏa mãn ý muốn đó bằng những vật mà họ thấy được, những sinh hoạt họ trải nghiệm được. Vì các dòng sống đã quên cội nguồn tâm linh của họ và quên mục đích xuống trái đất của họ, họ không hiểu mong muốn thật của họ là gì. Vì những người đồng-sáng tạo không thấy được họ đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn trong đó họ đã đánh mất sự trọn vẹn trước kia của họ, sự thánh thiện trước kia của họ như là những sinh thể tâm linh, như là con trai và con gái của Thượng đế, họ không hiểu ra là mong muốn thật của bản thể họ là tìm lại sự trọn vẹn. Vì họ không thấy cái ta tâm linh của họ, họ không hiểu là khao khát mà họ cảm thấy là khao khát được trọn vẹn, khao khát này chỉ thỏa mãn được khi họ tái thiết lập sự nối kết với cái ta tâm linh của họ. Thay vì đi tìm vương quốc Thượng đế và sự công chính của Ngài qua đó tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho họ (Matthew 6:33), họ tìm cách thỏa mãn những mong muốn của họ bằng những vật họ có thể thấy trong thế gian này. Họ tìm cách xây dựng an toàn bên ngoài thay vì trọn vẹn bên trong

Nhiều người tìm cách thiết lập lại sự trọn vẹn bên trong bằng cách tích lũy của cải vật chất, qua đó họ xây dựng một cảm giác an toàn vật chất. Một số người đi tìm an toàn bằng cách có quyền lực trên người khác vì họ nghĩ rằng điều đó giúp họ cảm thấy trọn vẹn. Đằng sau mọi động lực muốn có của cải hay trải nghiệm bên ngoài là động lực tích lũy năng lượng. Khi dòng sống có sự kết nối đúng đắn với Hiện diện TA LÀ, nó cảm thấy một dòng chảy năng lượng tâm linh liên tục tuôn chảy vào mọi tầng của bản thể nó trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ. Đây là một dòng chảy tâm linh khiến dòng sống cảm thấy trọn vẹn và cảm thấy mình là một với Dòng sông sự Sống là tạo vật của Thượng đế. Dòng sống cảm thấy nó là một thành phần của cái Tất cả của Thượng đế thay vì đơn độc và không trọn vẹn. Dù người đồng-sáng tạo không ý thức chuyện gì đang xảy ra, nó có một động lực bên trong muốn có được năng lượng. Nó biết chìa khóa để thiết lập lại cảm giác trọn vẹn là năng lượng. Vì nó không hiểu cội nguồn thật và bản sắc thật của nó, một lần nữa nó nghĩ là nó phải lấy năng lượng từ thế gian và dùng năng lượng thế gian để tái thiết lập trạng thái trọn vẹn.

Năng lượng trong thế gian có tần số thấp hơn năng lượng trong cõi tâm linh. Dù con tích lũy bao nhiêu năng lượng vật chất chăng nữa, dòng sống của con sẽ không cảm thấy trọn vẹn. Cố gắng thiết lập lại trạng thái trọn vẹn bên trong bằng cách tích lũy của cải vật chất hay năng lượng vật chất là chuyện không khả thi, giống như tìm cách lắp đầy một lỗ đen không đáy. Đơn giản là điều này không thể làm được và như vậy dòng sống cố tìm cầu một điều không khả thi cho đến khi nó nâng cao hiểu biết và ngừng làm điều không khả thi. Điều duy nhất có thể tái lập cảm giác trọn vẹn là tái thiết lập nối kết trực tiếp, có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Lúc đó, con sẽ cảm thấy năng lượng tâm linh có tần số cao tuôn chảy từ Hiện diện TA LÀ xuyên qua mọi tầng của bản thể con. Con biết là con ở trong dòng chảy của Dòng sông sự Sống, và chỉ khi con ở trong dòng chảy này thì con mới cảm thấy trọn vẹn và đầy đủ trong chính mình. Con biết là con không cần gì từ bên ngoài con vì con có Dòng sông sự Sống tuôn chảy bên trong bản thể của con.

11.3. Con phải trở thành cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế

Hãy để thày trở lại hình ảnh cây đèn thần. Nếu con có một cây đèn thần và nếu tất cả điều con cần làm là chà cây đèn và ông thần sẽ nhảy ra và hoàn thành mọi ước muốn của con, con có cảm nhận là cuộc sống trên trái đất là một sự vật lộn nữa chăng? Con có còn mất sức cạnh tranh với người khác để có được một lượng của cải vật chất hữu hạn chăng?  Con có còn mất sức tìm cách lấy của người khác nếu con có thể lấy được từ một nguồn cung cấp vô tận ở bên trong con? Phải chăng là con sẽ muốn chà cái đèn và ra lệnh cho ông thần hoàn thành các mong muốn của con bằng cách cho con năng lượng cần thiết, ngay cả năng lượng đã khoác vào hình dạng của vật chất vật lý?

Mọi điều thày đã giảng cho con cho tới điểm này có mục đích chỉ cho con thấy là quả thực con có một cây đèn thần. Thay vì tìm cách giải quyết đời sống của con bằng cách đổ mồ hôi trên trán (Genesis 3:19), bằng cách dùng sức mạnh để lấy từ người khác hay lấy từ Mẹ thiên nhiên, con có chọn lựa khác là đi vào bên trong và thiết lập lại nối kết với Hiện diện TA LÀ. Bằng cách trước hết đi tìm vương quốc Thượng đế, vương quốc mà Giê-su nói là nó ở bên trong con, con sẽ có thể nhận được từ nguồn dồi dào vô tận của Thượng đế thay vì nguồn dồi dào hạn chế từ thế gian này. Hiện diện TA LÀ của con là một nối dài của đấng Sáng tạo của con và Hiện diện TA LÀ nhận được năng lượng vô tận của đấng Sáng tạo sẵn có vô điều kiện trong cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con sẽ cho con tất cả năng lượng tâm linh cần có để hoàn thành tất cả mong muốn thực của con trong thế giới vật chất này. Hiện diện TA LÀ còn cho con ngay cả năng lượng tâm linh mà tâm con có thể nhận được trong một dạng có thể trở thành vật chất.

Để nhận được năng lượng này, con phải thiết lập lại ống dẫn và mở rộng nó để cái ta vỏ ngoài của con, tâm ý thức của con trở thành cánh cửa mở qua đó ánh sáng của Thượng đế, Mặt trời của Hiện diện TA LÀ của con, có thể tỏa sáng xuống thế gian này và xua tan bóng tối đang khiến con cảm thấy thiếu thốn, trống rỗng, không trọn vẹn, thậm chí không có giá trị. Con yêu dấu, nếu con có thể hoàn toàn thấm nhập và chấp nhận lời dạy này, con có tiềm năng hoàn toàn xoay chuyển cuộc đời mình và đặt mình vào hướng đi có thểsẽ dẫn con tới thành tựu tối hậu mà con tìm cầu, là cảm giác trọn vẹn ở bên trong. Con có cảm giác này khi con biết điều Giê-su diễn tả khi thày nói: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30).

11.4. Cho và nhận vô điều kiện

Chắc là con đã nhận ra điều mà con người tìm cầu không phải là của cải vật chất mà là một cảm giác nội tại. Có thể con thấy cảm giác này là hạnh phúc, được toại nguyện hay ngay cả tâm an bình. Điều mà con thật sự tìm cầu là sự trọn vẹn và cái trọn vẹn này con có được bất cứ lúc nào. Hầu tìm thấy và thiết lập cảm giác trọn vẹn, con phải quay hướng chú ý của con về bên trong. Thày biết rất rõ con lớn lên trong một xã hội đã lập trình để con tin rằng nếu con có một nhu cầu hay một ước muốn thì con phải đi tìm cái gì đó ở bên ngoài con để thỏa mãn nó. Con đã lớn lên trong một nền văn hóa tiêu thụ lập trình con đi tìm một sản phẩm hay một dịch vụ để thỏa mãn ước muốn của mình. Bản chất của nền văn hóa tiêu thụ này là có người muốn bán con điều gì đó. Đằng sau đó là ý muốn sâu hơn muốn kiểm soát con qua những nhu cầu của con. Bản chất của văn hóa này thực sự là muốn cổ xúy niềm tin thế giới này là một thế giới thiếu thốn và con không có đủ ở bên trong mình để cảm thấy trọn vẹn và mãn nguyện. Con cần trao đổi điều gì đó với người khác và qua nhu cầu đó, người khác hay định chế khác có thể ảnh hưởng con, ngay cả kiểm soát con. Khi Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở bên trong con thì ông hoàng thế gian và tay sai của y quyết định giết Giê-su. Họ không muốn Giê-su tiếp tục giảng dạy bí mật duy nhất mà các lực thế gian không muốn con biết. Bí mật này là sự thật muôn đời là chìa khóa thật để thỏa mãn mọi ước muốn của con, chìa khóa thật để trải nghiệm cuộc sống dồi dào của Thượng đế, là ngừng đi tìm dồi dào bên ngoài con. Để tìm thấy dồi dào, tìm thấy trọn vẹn, con phải đi vào bên trong con, con phải đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con và qua đó con khám phá chìa khóa thật cho con cuộc sống dồi dào, đó là Hiện diện TA LÀ của con và ánh sáng tâm linh chiếu rọi qua Mặt trời bản thể của con.

Khi con nhận chân chân lý này, con trở nên tự đầy đủ trong tâm linh và do đó con không cần bất cứ gì khác từ bất cứ nguồn nào bên ngoài con. Con không còn cần bất cứ gì từ bất cứ người nào hay bất cứ định chế, tổ chức hay cơ sở thương mại nào của con người. Con thật sự độc lập theo nghĩa tâm linh. Ở đây thày không nói là con sẽ không cần hay không muốn tương tác với người khác. Thày nói là tương tác của con với người khác sẽ có một mục tiêu và mục đích hoàn toàn mới. Thay vì tương tác với người khác dựa trên cảm giác thiếu thốn, giờ đây con sẽ tương tác với người khác dựa trên cảm nhận dồi dào nội tại. Thay vì tìm cách lấy từ người khác bằng sức mạnh, con sẽ tìm cách cho người khác. Điều này không có nghĩa là con sẽ không bao giờ nhận bất cứ gì từ người khác vì con sẽ thường xuyên cho phép Thượng đế thỏa mãn những nhu cầu của con xuyên qua người khác. Khi làm vậy, con không đến từ trạng thái thiếu thốn khiến con cảm thấy thiếu hụt hay cảm thấy người khác nợ mình cái gì đó. Con sẽ không lo sợ người khác không hợp tác và con không muốn dùng sức mạnh để bắt người khác cho con cái mà con cần để cảm thấy trọn vẹn.

Con đã hiểu nguyên lý là đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc và Ngài cho con vô điều kiện nếu con sẵn sàng nhận nó vô điều kiện, nghĩa là con nhận mà không sợ hãi hay không mong chờ hay dính mắc dựa trên sợ hãi, và sau đó con chia sẻ vô điều kiện những gì con nhận vô điều kiện (Matthew 10:8). Khi một nhóm người ở trong trạng thái tâm thức này, họ sẽ cho lẫn nhau và khi làm vậy họ nhân lên khả năng của họ vượt lên trên bất cứ gì mà từng cá nhân riêng rẽ có thể đạt được. Điều này sẽ càng mang thêm dồi dào của Thượng đế vào xã hội của họ qua đó cuộc sống trở thành vòng xoáy đi lên cứ tiếp tục tăng thêm dồi dào cho tất cả.

Ôi con yêu dấu, đây là tiềm năng thật sự của xã hội con người, nghĩa là con người tập hợp với nhau để nhân lên khả năng của mỗi cá nhân và góp chung khả năng của mọi người để tổng thể trở nên nhiều hơn tổng số của các thành phần. Khi con người cho và nhận trong tinh thần vị tha, thì họ thiết lập lại sự nối kết đúng đắn với Thượng đế. Thượng đế quả thực sẽ nhân lên khả năng của họ, sẽ thật sự làm cho họ trở thành người cai quản nhiều thứ và luôn cả mang thêm dồi dào vào thế gian này. Một xã hội có thể bước vào vòng xoáy đi lên đem lại một thời đại hoàng kim của hòa bình, thịnh vượng và dồi dào cho tất cả mọi thành phần của xã hội đó. Điều này đã từng được biểu hiện trong một số nền văn minh quá khứ và một số nền văn minh đã có thể duy trì một thời đại hoàng kim như thế trong một thời gian rất dài cho tới khi con người rốt cuộc bắt đầu đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn.

11.5. Con chọn đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con

Hãy để thày giải thích cho con chọn lựa con cần lấy, chọn lựa con sẽ chọn mục tiêu gì cho phần còn lại của cuộc đời con. Tất cả vật chất có sẵn cho con người dùng trên trái đất được tạo ra từ năng lượng tinh tế hơn. Vật chất đơn giản chỉ là mỏm của tảng đá băng của tổng số năng lượng có thể có được trong quang phổ tần số vật chất. Hầu hết năng lượng này chưa được dùng như năng lượng vật lý giống như sức nóng hay điện lực. Nó có mặt như năng lượng tâm lý có nghĩa là năng lượng lý trí và năng lượng tình cảm. Tổng lượng của dồi dào vật chất mà con người có thể sử dụng trong thế giới này không chỉ tùy thuộc vào chất vật lý mà tùy tuộc vào tổng số năng lượng có mặt trong quang phổ của tần số vật chất mà một số nhà khoa học gọi là dòng không gian-thời gian liên tục.

Ngay cả vật chất vật lý cũng là năng lượng bị giam vào một khuôn đúc. Nó là biểu hiện của Ánh sáng Mẫu-Vật, bị giam vào một hình tướng vì một tâm có tự nhận biết đã áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Trước khi Ánh sáng Mẫu-Vật bị hạ độ rung xuống và trở thành vật chất vật lý, trước tiên nó được hạ độ rung xuống quang phổ tần số của cái mà thày gọi là năng lượng tâm lý. Trước đó, Ánh sáng Mẫu-Vật rung động với tần số cao hơn của cõi tâm linh.

Sự dồi dào mà con người dùng được trong thế giới vật chất có tỉ lệ thuận với tổng số năng lượng có mặt trong toàn bộ hệ thống năng lượng của trái đất. Tổng số này bao gồm những tần số cao hơn tần số của vật chất vật lý nhưng vẫn chưa cao bằng tần số trong cõi tâm linh. Năng lượng này có thể biểu hiện dưới dạng vật chất vật lý hay năng lượng vật lý như điện lực hay ánh sáng mặt trời, hay nó có thể được biểu hiện như năng lượng tâm lý mà giác quan không phát hiện được nhưng có thể cảm nhận được dưới dạng năng lượng tình cảm và lý trí, cảm xúc và tư tưởng. Các nhà khoa học đã nói với con rằng mọi thứ đều là năng lượng có nghĩa là không gì hiện hữu mà không phải là năng lượng. Con biết rõ là con có cảm xúc và tư tưởng. Cả cảm xúc lẫn tư tưởng của con phải là những dạng năng lượng đúng theo định nghĩa của khoa học. Dù con không thể phát hiện một cách vật lý năng lượng tâm lý, con biết nó hiện hữu vì con trải nghiệm nó như một thực tại trong cảm xúc và tư tưởng của con. Con có thể đi vào tim mình và có cái biết nội tại rằng để có được dồi dào, chỉ dùng thân vật lý của con mà thôi không đủ. Con cũng cần dùng tâm của con để thu lượm năng lượng tâm lý, học cách chuyển năng lượng này thành vật chất mà con mong muốn. Điều này dẫn chúng ta tới điểm mấu chốt là điểm thày giảng cho con chọn lựa mà con đối mặt. Con có hai chọn lựa. Hầu biểu hiện nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống của con, con có thể dùng phương cách mà hầu hết người trên hành tinh này chọn. Con có thể tìm cách tích lũy một lượng chất liệu vật chất và năng lượng tâm lý lớn hơn từ kho năng lượng đã có sẵn trong quang phổ tần số vật chất. Con có thể tìm cách tích lũy bằng cách lấy dồi dào từ một kho năng lượng và vật chất hữu hạn.

Hậu quả của cách tiếp cận này là con phải dùng sức mạnh để tích lũy năng lượng và của cải vật chất. Trong nhiều trường hợp con phải tích lũy bằng cách lấy từ người khác hay từ Mẹ Thiên nhiên và cả hai có thể không chịu cho con mà không chống trả. Điều này sẽ tạo ra đấu tranh giữa con và người khác hay giữa con và thiên nhiên. Con sẽ phải giải quyết mưu sinh của con bằng mồ hôi nước mắt của mình. Con sẽ phải dùng sức mạnh để tích lũy của cải và con sẽ phải dùng sức mạnh liên tục để bảo vệ của cải khỏi các lực khác tìm cách lấy của con.

Nếu ai ai cũng tìm cách tích lũy dồi dào từ cùng một kho hữu hạn, nếu ai ai cũng tìm cách lấy được phần to hơn từ cùng một ổ bánh, thì con sẽ phải đấu tranh liên tục để đạt được và duy trì sự dồi dào của mình. Cơ chế an toàn có sẵn trong Ánh sáng Mẫu-vật sẽ tìm cách đem mọi năng lượng trở về trạng thái nền của nó, và điều này cũng sẽ tạo ra một lực tìm cách lấy đi những gì con đã lấy bằng sức mạnh. Khi con tìm cách lấy bằng sức mạnh, con đặt mình trong vị thế xung đột với tất cả mọi người khác đang dùng cùng phương cách và xung đột với chính Mẹ Thiên nhiên.

Thày chắc chắn con thấy được giới hạn của phương cách này. Thày chắc chắn con có thể thấy được trong tim con là cho dù con thành công trong việc tích lũy của cải vật chất đồ sộ, trạng thái dồi dào này sẽ không vĩnh viễn và do đó nó không là dồi dào thật sự. Con không thật sự có dồi dào với phương cách này.

Phương cách thứ nhì là con hoàn toàn trong lọc tâm con khỏi cảm giác thiếu thốn khiến con tin rằng cách duy nhất để tích lũy dồi dào là bằng sức mạnh và đấu tranh. Con có thể chọn đi theo gương của Giê-su và các thày tâm linh khác là đi vào vương quốc Thượng đế bên trong con, đạt được trạng thái hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con, với đấng Cha tâm linh của con và sau đó cho phép ánh sáng Thượng đế tuôn chảy vào bản thể của con và vào thế gian, biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trong đời mình.

11.6. Con ở đây để gia tăng tổng lượng ánh sáng trong thế giới vật chất

Nếu con theo phương cách thứ nhì, thì con không tranh đua để tích lũy giàu có đến từ một lượng hữu hạn. Con không tranh đua để lấy một phần to hơn của cùng chiếc bánh. Con mở đường kết nối với sự dồi dào vô tận của Thượng đế và con cho Thượng đế niềm vui ban cho con vương quốc của ngài bằng cách gia tăng cái bánh. Cõi tâm linh không có giới hạn và do đó lượng năng lượng tâm linh mà Hiện diện TA LÀ của con có thể cho tuôn chảy qua bản thể của con cũng không có giới hạn. Giới hạn duy nhất là con có thể nhận được bao nhiêu năng lượng tâm linh qua tâm vỏ ngoài của con.

Khái niệm này là nguồn gốc của huyền thoại chiếc Chén Thánh. Chiếc Chén Thánh là một chiếc chén nhưng thật ra chiếc Chén Thánh là biểu tượng cho chiếc chén có thể chứa dồi dào của Thượng đế dưới dạng ánh sáng tâm linh. Ý nghĩa thật của huyền thoại này là tâm con, bản thể con được sinh ra để trở thành chiếc chén có khả năng chứa ánh sáng tâm linh đến từ Hiện diện TA LÀ của con. Thượng đế sẽ không cho phép ngọc trai của ngài được quăng trước bầy heo (Matthew 7:6). Thượng đế sẽ không cho phép sự dồi dào của ngài bị chôn dưới đất (Matthew 25:18) hay bị rơi xuống đất khô cằn (Matthew 13:5). Thượng đế sẽ không cho con dồi dào cho tới khi con chứng minh con đã trung tín trong một số chuyện (Matthew 25:21), cho tới khi con chứng minh bản thể thấp của con đã trở thành một chén thánh sẽ dùng đúng đắn dồi dào này để con có thể là người quản lý minh triết những gì Thượng đế đã ban cho con.

Con có hai chọn lựa. Con có thể tìm cách biểu hiện cuộc sống dồi dào bằng cách lấy từ lượng năng lượng hữu hạn đang có trong quang phổ tần số vật chất. Hay con có thể tìm cách nhận dồi dào trực tiếp từ lượng vô hạn có trong cõi tâm linh. Nếu con lấy chọn lựa đầu, thì con sẽ không làm gì cả để gia tăng lượng dồi dào đang có trên trái đất. Con chỉ có thể tích lũy dồi dào cho riêng mình bằng cách lấy vật chất hay năng lượng tâm lý từ người khác. Nếu con lấy chọn lựa thứ nhì, thì không những con nhận dồi dào cho bản thân, con cũng đem thêm dồi dào vào thế gian và qua đó con gia tăng tổng số năng lượng mà mọi người có thể dùng. Khi con theo đuổi dồi dào cho riêng mình, thì con cũng gia tăng dồi dào cho toàn thể, và đây đúng thực là ý nghĩa của nhân lên tiền ta lăng của con, là nhân lên tổng lượng dồi dào trong thế giới.

Điều con đang làm thật sự là gia tăng tổng lượng ánh sáng trong thế giới vật chất và qua đó con đóng góp công sức cá nhân vào việc biến thế giới này thành vương quốc Thượng đế. Đây là lý do thực sự của sự hiện hữu của con. Con được thiết kế để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế bằng cách đem ánh sáng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất, dùng ánh sáng để xô đuổi bóng tối bằng cách tạo ra những hình tướng đẹp và quân bình toàn hảo, là biểu hiện các quy luật và sự toàn hảo của Thượng đế. Khi con làm tròn vai trò được quy định này thì Thượng đế sẽ biến con thành người cai quản nhiều việc vì con đã trung tín trong một số việc nhỏ, với một lượng ánh sáng tâm linh hữu hạn. Khi con làm tròn vai trò này, con sẽ nghe những lời nói về Giê-su: “Đây là người con trai hay người con gái yêu dấu của Ta, đẹp lòng ta mọi đằng” (Matthew 3:17).

11.7.  Niềm vui trở thành người đồng-sáng tạo với Thượng đế

Con hãy để thày cho con một chân lý sẽ giúp con dừng lại và chọn dễ dàng hơn giữa hai chọn lựa – nếu con chưa chọn. Thày có nhắc đến một số trong số đông đảo các đạo sư trong thế gian tuyên bố là họ có thể dạy con cách tích lũy nhanh chóng và dễ dàng tất cả tiền bạc mà con mong muốn. Thày có đề cập tới một số những vị này như đạo sư giả và thày sẽ giải thích tại sao họ là thày giả.

Tâm của con, có nghĩa là tâm có ý thức và tâm tiềm thức của con, có khả năng bẩm sinh áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và qua đó khiến ánh sáng đó khoác vào hình tướng do hình ảnh quy định. Qua uy lực của tư tưởng, con áp đặt một hình tư tưởng lên ánh sáng đã được hạ xuống quang phổ tần số vật chất. Qua uy lực của cảm xúc, con khiến năng lượng đó chuyển động và con định hướng nó, và điều này khiến năng lượng đó hạ xuống quang phổ tần số vật chất vật lý để nó thể hiện như một thực tại trong đời sống của con.

Giê-su đã đạt được một trình độ làm chủ vật chất rất cao. Giê-su có khả năng chữa lành cho người bệnh, thậm chí thay đổi cấu trúc phân tử và nguyên tử của thân thể một người và làm cho tế bào bệnh được chữa lành tức khắc và được trọn vẹn trở lại. Giê-su có khả năng biến nước thành rượu và nhân lên các ổ bánh và số lượng cá. Đây là một khả năng có sẵn trong tâm con. Hầu hết con người trên trái đất rất xa trình độ làm chủ vật chất mà Giê-su đã chứng minh. Mọi người trên trái đất đều có khả năng làm chủ vật chất này, và đó là lý do tại sao Giê-su nói những ai tin thày sẽ làm được những việc thày đã làm (John 14:12).

Có hai cách để đạt tới sự làm chủ vật chất này. Có con đường thấp và con đường cao. Sự làm chủ vật chất mà Giê-su chứng minh rõ ràng là con đường cao vì Giê-su nhận ra là chính thày, tự bản thân mình không làm được gì cả nhưng chính đấng Cha, Hiện diện TA LÀ ở trong thày đã làm việc. Khi con nhận ra Hiện diện TA LÀ của con là nguồn gốc thật, là người làm việc thật trong cuộc sống của con, con đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và thẳng hàng với ý định sáng tạo của Thượng đế. Thiết kế của Thượng đế cho vũ trụ này là tạo ra một môi trường trong đó tất cả các người đồng-sáng tạo với Thượng đế, tất cả những sinh thể tự nhận biết, có thể sống hòa hợp với nhau và hòa hợp với tổng thể. Khi con dùng uy lực sáng tạo của con đến mức tối đa, con đem nhiều dồi dào hơn vào thế giới này và do đó con khuếch trương cái tất cả mà không lấy từ ai khác.

Con có thể dùng uy lực có sẵn trong tâm con để khuynh loát năng lượng của Thượng đế và tích lũy dồi dào cho mình mà không gia tăng tổng số dồi dào trong thế giới này. Lúc ấy con dùng uy lực của tâm con để thu hút về mình nhiều năng lượng và dồi dào vật lý hơn từ kho năng lượng đã có mặt trong hệ thống năng lượng của trái đất. Khi làm vậy, con phải lấy từ những thành phần khác của cuộc sống và con tước đi năng lượng từ những người này và từ tổng thể của cuộc sống.

Một số người khá đông trên hành tinh này đã đạt được khả năng rất cao trong việc thu hút năng lượng và giàu có vật chất về cho họ bằng cách tước đoạt bằng sức mạnh, bằng cách lấy từ số lượng dồi dào hữu hạn có mặt trong thế giới vật chất. Họ làm thế mà không hề quan tâm tới ảnh hưởng của hành động của họ trên những người khác hay trên trái đất Mẹ. Những dòng sống này đã hoàn toàn từ bỏ mọi quan tâm tới tổng thể hay ý định sáng tạo của Thượng đế. Họ xem mình tách biệt khỏi Thượng đế và đứng ra ngoài Thân thể Thượng đế. Họ tin rằng họ thuộc thành phần thượng lưu quyền lực có quyền làm bất cứ gì họ muốn, không cần biết hành động của họ ảnh hưởng các thành phần khác của cuộc sống ra sao. Họ tin rằng họ có quyền biến người khác thành nô lệ hay nông nô oằn lưng làm việc trên trái đất để sản xuất sự giàu có cho giới thượng lưu quyền lực. Nếu con nhìn vào lịch sử, con sẽ thấy trong mọi nền văn hóa và nền văn minh mà con người biết tới, sự hiện hữu của giới thượng lưu này và sự thành công của họ trong việc kiểm soát đại chúng và bắt đại chúng làm việc để đem lại cho giới thượng lưu này số lượng giàu có vật chất, quyền lực, hưởng thụ, đặc quyền và năng lượng quá đáng.

Thày có hai mục đích khi nói điều này với con. Nếu con muốn biểu hiện cuộc sống dồi dào của Thượng đế, con phải giải thoát mình khỏi tư duy của giới thượng lưu quyền lực này. Con phải tách ra khỏi họ và trở thành một nhóm người đứng tách ra và được chọn lựa, và thày sẽ giải thích cặn kỹ hơn điểm nay trong các bài sau. Bây giờ, mục đích quan trọng nhất của lời dạy của thày là khiến con nhận biết là giới thượng lưu này, giới thượng lưu quyền lực này, đã đạt được khả năng thu hút năng lượng tâm lý và sự giàu có vật chất cho chính họ. Họ làm chuyện này bằng cách dùng uy lực có sẵn trong tâm con người để lấy năng lượng từ những thành phần khác của cuộc sống. Không cần phải nói, đây là một sự vi phạm các quy luật của Thượng đế và do đó nó là một sự lạm dụng những uy lực sáng tạo của con người. Điều quan trọng là con hiểu rằng con thực sự có thể lạm dụng uy lực sáng tạo của mình. Con cần hiểu điều này vì chỉ khi hiểu rồi con mới tránh bị gạt bởi các lời hứa hẹn của những người tự phong cho mình là đạo sư dạy phát đạt và hứa hẹn rằng nếu con theo họ, con có thể tích lũy giàu có bằng đường tắt.

Đoạn trước thày có nói là những chương trình làm giàu nhanh chóng giản dị không thành công và đó là sự thật. Có những người đã khám phá những cách khuynh loát năng lượng tâm lý và vật chất qua uy lực của tâm, qua đó họ có thể tích lũy một lượng giàu có đồ sộ, thông thường bằng cách ảnh hưởng người khác. Hầu hết những người này dùng khả năng này để tiếp tục tích lũy giàu có, nhưng một số trong số họ đã đặt mình vào vị trí làm thày, tuyên bố rằng họ có thể dạy con cách tích lũy giàu có giống như cách họ đã làm. Con yêu dấu, con thấy chăng cái vi tế ở đây? Những người này đem chính họ và những người giàu nhất và thành công nhất trên thế giới làm bằng chứng là hệ thống của họ sẽ đưa tới thành công. Một số trong các hệ thống đó hiệu quả, nhưng hầu hết sẽ cần một thời gian dài để học cách khuynh loát năng lượng và do đó không phải là một cách làm giàu nhanh chóng. Quả thực con có thể tích lũy giàu có bằng cách dùng uy lực có sẵn trong tâm con. Nếu con chỉ đo lường thành công dựa trên số lượng giàu có một người đã tích lũy được, con sẽ dễ bị kẹt trong ý nghĩ là con phải theo gương những người giàu có nhất trên trái đất. Con có thể dễ dàng tin những lời hứa hẹn của những ông thày dạy thành công này và họ sẽ dạy con cách lấy được dồi dào bằng sức mạnh.

Con có thể học cách dùng uy lực của tâm để tích lũy giàu có qua sức mạnh, tích lũy dồi dào bằng cách lấy từ người khác, bằng cách khuynh loát hệ thống. Thày sẽ luôn luôn tôn trọng Luật Tự quyết. Nếu con thật sự có nhu cầu trải nghiệm mình cảm thấy thế nào khi lấy dồi dào bằng sức mạnh và qua đó bị kẹt trong vòng xoáy vô tận tìm cầu tích lũy thêm và bảo vệ của cải thì thày là ai mà cản không cho con có trải nghiệm đó. Thày muốn bảo đảm chắc chắn là thày đã giải thích cho con hậu quả của việc tích lũy giàu có theo cách này. Thày đã nói với con là Luật Tự quyết có đầu bên kia là Luật Nhân và Quả. Khi con tìm cách tích lũy giàu có bằng sức mạnh, quả thực con sẽ kích hoạt những nguyên nhân sẽ quay trở về con như những hậu quả và chúng sẽ tìm cách lấy đi những gì con đã tìm cách sở hữu bằng sức mạnh.

Ánh sáng Mẫu-Vật có một cơ chế sẵn có để phân hủy mọi hình tướng bằng cách trở về trạng thái nền của nó. Con có thể dùng uy lực của tâm con để ép Ánh sáng Mẫu-Vật khoác lên một hình tướng. Khi làm thế, con tạo ra sự mất quân bằng trong Ánh sáng Mẫu-Vật vì con tạo ra một hình tướng không dựa trên nguyên lý mà Thượng đế đã dùng. Khi tạo ra mất quân bằng, Luật Nhân và Quả, luật hành động và phản ứng sẽ tự động tạo ra một lực đối chọi mạnh bằng lực đã tạo ra nó. Với mỗi hành động của con để lấy giàu có bằng sức mạnh, vũ trụ sẽ phát sinh một phản ứng tìm cách lấy đi giàu có của con. Mục đích là trái đất trở về sự quân bình và Ánh sáng Mẫu-Vật có thể trở về trạng thái nền của nó. Khi dùng sức mạnh, con có thể duy trì hình tướng mất quân bình của con trong một thời gian, nhưng điều này đòi hỏi con phải đấu tranh liên tục về phía con, một sự đấu tranh sẽ lấy đi sự chú ý và năng lượng của con cho những sinh hoạt khác. Với một số người, sự đấu tranh này ngăn họ thụ hưởng sự giàu có của họ, hay nó có thể nuốt trọn cuộc đời họ. Lẽ tất nhiên đấu tranh này ngăn cản không cho họ tăng triển tâm linh.

Nếu con muốn trải nghiệm cảm giác đấu tranh này, thì Thượng đế đã cho con quyền sáng tạo trải nghiệm này trong cuộc sống của con. Con có thể tiếp tục trải nghiệm đấu tranh trong một thời gian rất dài. Thày hy vọng là khóa học này sẽ cho con cảm hứng để nhận ra con quả thực không muốn bị kẹt trên cỗ máy chạy bộ của hành động và phản ứng này, rằng con quả thực không muốn bị nuốt trọn bởi đấu tranh quyền lực nhân phàm liên tục này. Thày hy vọng con sẽ thấy con được niềm vui lớn hơn rất nhiều khi con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, thiết lập lại nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con và cho phép ánh sáng mặt trời của Hiện diện của con sáng tỏa qua bản thể của con. Niềm vui sẽ lớn hơn rất nhiều khi con tham gia vào kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế về vũ trụ này, khi con trở thành người đồng-sáng tạo với Thượng đế và qua đó cho phép uy lực của Thượng đế bên trong con biểu hiện cuộc sống dồi dào trường tồn. Niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi nhận đời sống dồi dào trực tiếp từ Trên cao thay vì lấy dồi dào từ những thành phần khác của cuộc sống bằng sức mạnh. Niềm vui sẽ lớn hơn nhiều khi tìm cầu dồi dào theo đường dọc thay vì theo đường ngang.

Thày hy vọng thày đã tạo cảm hứng cho con đi sâu vào trong tim và xem xét hai chọn lựa mà thày đã đưa ra cho con. Con muốn chăng bỏ hết phần còn lại của cuộc đời mình vào một cuộc đấu tranh để có một lượng dồi dào hữu hạn? Hay con muốn chuyển hướng cuộc đời mình để con có thể là một thành phần của Dòng sông sự Sống đem lại nhiều dồi dào hơn vào thế giới này? Nếu con chọn chọn lựa đầu, thày không làm được gì thêm cho con và khóa học không dạy con được điều gì có giá trị. Nếu con chọn chọn lựa thứ nhì, thày sẽ dạy con cách thiết lập lại và mở rộng nối kết của con với Hiện diện TA LÀ của con. Thày sẽ chỉ con cách để mở cửa xả nước lũ cho phép Dòng sông sự Sống tuôn chảy qua bản thể con và biểu hiện dồi dào thật sự, dồi dào mà các lực của thế gian không thể lấy đi. Khi con đã chọn lựa chấp nhận dồi dào từ trên Cao thì con hãy theo thày bước tới chương kế tiếp.

 

9 | Mang ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 8/4/2005.

9.1. Vũ khúc hoàn vũ

Con tim yêu dấu của Mẹ, giờ đây chúng ta tới một bước ngoặt trong loạt bài giảng này. Thày đã cho con một số ý có vẻ bí truyền và hơi rời rạc. Mỗi ý và ngay cả từ ngữ chính xác trong mỗi ý có mục đích kích hoạt ký ức nội tâm trong con hầu từng bước một giúp con nhớ lại và chấp nhận con thực sự là ai và tại sao con ở đây trên trái đất này. Trong chương này, thày sẽ giải thích cho con chính mục tiêu của sáng tạo và chính mục đích của sự hiện hữu của con, ngay cả mục đích đặc trưng đã khiến con đến hành tinh này. Nó sẽ cho con lựa chọn giữa con đường cao thị hiện sự dồi dào của Thượng đế hay con đường thấp thu thập dồi dào của trái đất. Đây là sự khác biệt giữa tìm cách dùng sức mạnh giành sự dồi dào hay cho phép Thượng đế cho con sự dồi dào vô điều kiện.

Thày đã giải thích là Thượng đế có hai khía cạnh. Một khía cạnh là đấng Sáng tạo và khía cạnh kia là Bản thể Thuần khiết của Thượng đế trong đó không có phân biệt. Nếu con chịu đi vào tim mình và nghiệm lời của thày, con sẽ nhận ra Bản thể Thuần khiết của Thượng đế là cái Tất cả. Bản thể Thuần khiết của Thượng đế viên mãn và tự đủ. Ở trong Bản thể Thuần Khiết của Thượng đế không có chỗ cho một hình tướng tách biệt khỏi cái Tất cả. Trong Bản thể Thuần khiết của Thượng đế không thể tạo ra bất cứ hình tướng riêng biệt nào, bất cứ vật gì tách biệt khỏi cái Tất cả. Trước khi có thể sáng tạo bất kỳ hình tướng nào, cần phải có một không gian nhỏ hơn cái Tất cả của Thượng đế để trong không gian “trống không” này, các hình tướng riêng biệt có thể được tạo ra, những hình tướng tách biệt khỏi cái Tất cả. Hãy so sánh với ánh sáng của mặt trời cực kỳ mạnh đến độ chỉ có ánh sáng tinh khiết và trắng có thể hiện hữu. Chỉ ở khoảng cách nào đó từ mặt trời mới có chỗ cho ánh sáng có màu và sắc độ khác nhau.

Bây giờ thày cho con một hình ảnh về tiến trình sáng tạo, nhưng thày muốn con hiểu là hình ảnh thày cho con thích nghi với trạng thái tâm thức hiện thời của con, với tâm có khuynh hướng nghĩ theo đường thẳng. Thày cho con một hình ảnh đường thẳng nhưng thày muốn con giữ trong tâm là thực tại của Thượng đế không đường thẳng. Con cẩn thận đừng lấy hình ảnh thày cho con và biến nó thành hình tượng khô chết để tưởng rằng đây là hình ảnh hoàn chỉnh về Thượng đế và về công trình sáng tạo của Thượng đế.

Thày không cho con hình ảnh này để giam tâm con trong một tầm nhìn đặc thù về Thượng đế. Thày cho con hình ảnh này để giải phóng tâm con khỏi tầm nhìn hạn chế về Thượng đế mà hầu hết con người có trên thế gian này. Thày cho con hình ảnh này với hy vọng là rốt cuộc con có thể vượt lên trên mọi nhu cầu có một hình ảnh đường thẳng về Thượng đế và từ đó trải nghiệm trực tiếp tâm thức và Bản thể quả cầu và trùm khắp của Thượng đế.

Trong cái Tất cả của Thượng đế không có hình tướng khác biệt. Khái niệm thời gian và không gian cũng không có ý nghĩa trong cái Tất cả. Để bắt đầu tiến trình sáng tạo một thế giới hình tướng, đấng Sáng tạo rút mình lại và tạo ra cái mà một số giáo lý tâm linh gọi là “trống không”.  Khi đấng Sáng tạo rút mình lại, ngài rút mình thành một điểm duy nhất. Các khoa học gia gọi nó là điểm dị biệt (singularity) và hiện nay họ cho rằng sự sáng tạo vũ trụ bắt đầu khi mọi vật chất tụ vào một điểm dị biệt. Con hãy tưởng tượng cái Tất cả của Thượng đế trong đó không có không gian, không có hình tướng riêng biệt. Bây giờ đấng Sáng tạo rút mình vào một điểm duy nhất và chung quanh điểm duy nhất này ngài tạo ra một khoảng trống không ít hơn cái Tất cả.

Khoảng trống không này giống như một không gian trống rỗng vĩ đại có dạng một trái trứng. Một số người đã thấy bằng trực giác hình ảnh thần bí về sáng tạo của Thượng đế giống như trái trứng hoàn vũ. Thày không muốn con nhìn sự sáng tạo giống như trái trứng mà chung quanh không có gì hết. Thày muốn con thấy là sự sáng tạo bắt đầu như một khoảng trống không có dạng trái trứng và bao bọc chung quanh khoảng trống không này là cái Tất cả. Khoảng trống không chính là không gian trống rỗng, nghĩa là nó không có bất kỳ hình tướng nào và không có cái Tất cả của Thượng đế. Có thể nói nó không có gì trong đó – không có cái Tất cả của Thượng đế hay bất kỳ hình tướng khác biệt nào. Có thể nói nó là bóng tối vì trong nó không có chất liệu gì cả.

Nơi trung tâm của cái trống không nguyên thủy này có sự tập trung cao độ của một phần của cái Tất cả của Thượng đế đã được lấy ra để tạo cái trống không. Đây là trụ điểm của khía cạnh thứ nhì của Thượng đế, là cá nhân đấng Sáng tạo. Đấng Sáng tạo có động lực muốn trở nên hơn nữa cho nên ngài lấp đầy cái trống không cho tới khi cái trống không một lần nữa trở thành cái Tất cả của Thượng đế. Đây là vũ khúc hoàn vũ mà một số người gọi là hơi thở vào và hơi thở ra của Thượng đế.

Thượng đế hít vào, tập trung mình vào điểm dị biệt và sáng tạo cái trống không. Sau đó Thượng đế thở ra cho tới khi hơi thở ra hoàn vũ một lần nữa lấp đầy cái trống không. Trong tiến trình tham gia vào vũ khúc hoàn vũ, lấp đầy cái trống không, đấng Sáng tạo tăng triển tự nhận biết. Tăng triển tự nhận biết là toàn bộ mục tiêu của sự sáng tạo. Tăng triển tự nhận biết không chỉ áp dụng cho Sinh thể Nguyên thủy là đấng Sáng tạo, và thày sẽ giải thích tại sao trong phần sau.

9.2. Mệnh lệnh nhân lên và cai quản

Đấng Sáng tạo hiện hữu như một điểm duy nhất, như điểm dị biệt ngay giữa cái trống không – cái trống không nhỏ hơn cái Tất cả và do đó có thể lấp đầy với hình tướng do đấng Sáng tạo tạo tác. Hành động sáng tạo tiên khởi là đấng Sáng tạo cần tạo ra một chất liệu có thể nhào nặn thành bất cứ hình tướng nào. Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy có mặt,” và Ánh sáng đã có mặt. Như Sáng thế ký (Genesis) ghi lại (Genesis 1:4), Thượng đế tách ánh sáng khỏi bóng tối nghĩa là Thượng đế tách ánh sáng có thể mang vào hình tướng khỏi bóng tối lấp đầy phần của cái trống không nơi chưa có hình tướng, chưa có ánh sáng. Mục đích chung của nỗ lực Thượng đế là khuếch trương ánh sáng cho tới khi nó lấp đầy toàn thể cái trống không và tiêu hủy bóng tối, bóng tối không phải là xấu ác nhưng đơn giản là sự vắng mặt của ánh sáng.

Hành động sáng tạo này không xảy ra trong khoảnh khắc vì dù rằng đấng Sáng tạo có uy lực Toàn năng, đấng Sáng tạo không dùng uy lực của ngài để lấp đầy khoảng trống không trong khoảnh khắc. Đấng Sáng tạo không lấp đầy khoảng trống không chỉ vì mục đích lấp đầy. Ngài lấp nó đầy dần dần để tạo cơ hội cho những sinh thể tự nhận biết do đấng Sáng tạo sinh tạo ra như những nối dài của chính ngài, có thể phục vụ như người đồng-sáng tạo và giúp lấp đầy khoảng trống không. Khi làm vậy, họ cũng tăng triển tự nhận biết và nhận biết rõ hơn họ là ai, họ từ đâu tới và họ có tiềm năng đi tới đâu. Đây là mục tiêu thật của sáng tạo, sự tăng triển tự nhận biết khiến cho ngay cả Bản thể Tinh khiết của Thượng đế cũng trở nên hơn nữa bởi vì Thượng đế trở nên hơn nữa qua tự nhận biết của mỗi đấng Sáng tạo và những người đồng-sáng tạo của ngài.

Khi đấng Sáng tạo của con bắt đầu công việc sáng tạo đưa tới sự hiện hữu của con và sự hiện hữu của vũ trụ vật chất nơi con sống, Thượng đế bắt đầu tạo ra một bầu cõi được đặt tách ra khỏi khoảng trống không. Trong bầu cõi này có một lượng Ánh sáng của Thượng đế. Ánh sáng này được đặt tách riêng khỏi khoảng trống không và nó là căn bản từ đó tạo ra hình tướng. Đấng Sáng tạo của con quả thực sinh tạo một số hình tướng trong bầu cõi ánh sáng này, nhưng đấng Sáng tạo không lấp đầy bầu cõi này hoàn toàn với ánh sáng. Đấng Sáng tạo của con sinh tạo những nối dài của chính ngài như là những sinh thể tự nhận biết và gửi họ xuống bầu cõi thứ nhất với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Nhân lên khả năng sáng tạo của con, nhân lên ánh sáng của con, nhân lên tự nhận biết của con và sau đó cai quản bầu cõi nơi con sống. Lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng cho tới khi nó thật sự trở thành vương quốc ánh sáng, vương quốc của Thượng đế. Khi ta nói một bầu cõi là vương quốc Thượng đế thì nghĩa là gì? Có nghĩa là mọi thứ đều tỏa chiếu ánh sáng và con có thể thấy Ánh sáng Mẹ thuần khiết đằng sau mọi biểu hiện. Con thấy Thượng đế Sáng tạo là nguyên nhân đầu tiên đằng sau mọi hình dạng và do đó con không bao giờ đánh mất nhận biết về Thượng đế.

Khi bầu cõi đầu tiên được lấp đầy với ánh sáng tới một cường độ tới hạn, thì động lực muốn trở nên hơn nữa của Thượng đế đòi hỏi một bầu cõi khác được tạo ra. Bầu cõi thứ nhì này bao gồm một phần lớn hơn của khoảng trống không, nhưng giống như bầu cõi đầu tiên nó không được hoàn toàn lấp đầy bởi ánh sáng. Một số sinh thể có tự nhận biết được gửi từ bầu cõi thứ nhất xuống bầu cõi thứ nhì với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Một số sinh thể được gửi xuống bầu cõi thứ nhì quả thật được sinh tạo trực tiếp như những nối dài của đấng Sáng tạo, nhưng hầu hết được sinh tạo như những nối dài của những sinh thể tự nhận biết đã từng phục vụ như những sinh thể đồng-sáng tạo ở bầu cõi thứ nhất và đã lấp đầy bầu cõi này với ánh sáng. Như vậy những sinh thể mới là nối dài của những sinh thể ở bầu cõi thứ nhất và những sinh thể ở bầu cõi thứ nhất là nối dài của đấng Sáng tạo.

Tiến trình cơ bản sáng tạo này đã tiếp diễn qua nhiều bầu cõi, nhiều chu kỳ. Thế giới nơi con đang sống, vũ trụ vật chất, là nối dài mới nhất của tiến trình sáng tạo. Quả thật nó là nối dài của toàn bộ tiến trình trong đó Thượng đế sáng tạo một bầu cõi mới, chiếm một phần lớn hơn của khoảng trống không và do đó tách phần đó ra khỏi bóng tối bằng cách lấp nó đầy với một lượng ánh sáng. Vũ trụ vật chất nơi con sống không tách biệt khỏi Thượng đế và phần còn lại của tạo vật của Thượng đế như giác quan của con, khoa học và thậm chí nhiều tôn giáo nói với con. Vũ trụ vật chất không tách biệt khỏi Thượng đế hay cõi tâm linh bởi một rào cản không xuyên thủng được. Vũ trụ là một nối dài của cõi tâm linh, nó là một nối dài của Thượng đế. Dù thày đã cho con một hình ảnh đường thẳng, thực tại của Thượng đế không hoàn toàn đường thẳng như vậy. Trong căn phòng nơi con đang ngồi có nhiều sóng radio khác nhau thâm nhập không khí. Các sóng này có tần số khác nhau và đó là lý do tại sao chúng có thể cùng hiện hữu trong cùng một không gian mà không hủy bỏ lẫn nhau. Các bầu cõi do Thượng đế sáng tạo cũng vậy. chúng cùng hiện hữu trong cùng không gian hoàn vũ, trong cùng khoảng trống không, chúng đơn giản có tần số khác nhau.

Ngay lúc này, thày không đang ngồi trên thiên đàng xa xôi từ trên cao nói xuống dưới tới con. Quả thật thày ngay ở đây với con. Khi thày truyền đọc những lời nói này qua một người sứ giả, thày hòa nhập Bản thể của thày với tâm thức người sứ giả, thậm chí với luôn cả thân thể của ông. Vì thày đã thăng vượt vũ trụ vật chất, thăng vượt thời gian và không gian, thày không bị giới hạn trong không gian hay thời gian. Nếu con sẵn lòng, thày có thể bảo đảm với con là khi con đọc những giòng chữ này, sự chú ý của con tạo ra chiếc cầu đi vào tim thày. Nếu con sẵn sàng để thày đi vào bản thể con, thày có thể bước qua cầu và hòa nhập Bản thể thày với chính bản thể con. Thày có thể nắm bàn tay con và chỉ cho con thực tại sâu xa đằng sau các câu nói của thày, thực tại không thể diễn tả bằng từ ngữ bởi vì từ ngữ quá đường thẳng.

Con không tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Ngay khi con đang ngồi đây đọc khóa học này, đấng Sáng tạo ở ngay đây với con. Đấng Sáng tạo có mặt khắp nơi trong tạo vật của ngài và do đó con không bao giờ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con. Con chỉ có thể tách biệt khỏi đấng Sáng tạo trong chính tâm con vì tâm tạo ra cảm nhận tách biệt. Cảm nhận tách biệt này chỉ là một ảo tưởng, một ảo giác được phóng chiếu lên màn ảnh cuộc sống bởi một thành phần của tâm thức con, một thành phần mà thày sẽ phơi bày trong phần sau của bài này.

9.3. Con ở đây để đồng-sáng tạo với Thượng đế

Bây giờ con để thày trở về hình ảnh mà thày đang vẽ ra về tiến trình sáng tạo. Mục đích của thày khi nói với con là con không tách biệt khỏi đấng Sáng tạo của con, không tách biệt khỏi các anh chị đã đi trước con và đã thăng thiên lên thiên đàng, là để con nhận ra khi Thượng đế sinh tạo những sinh thể tự nhận biết đầu tiên, những sinh thể này được sinh tạo từ tâm thức và Bản thể của Thượng đế. Các sinh thể đầu tiên mà chúng ta có thể gọi là Alpha và Omega (Revelation 1:8), cái bắt đầu và cái chấm dứt, sau đó sinh tạo những sinh thể khác, những sinh thể khác lại sinh tạo những sinh thể khác, và tiếp tục như thế trong nhiều lớp sáng tạo, nhiều bầu cõi sáng tạo tương hài hoà với nhau.

Mỗi sinh thể được tạo ra, đã được sinh tạo từ Sinh thể lớn hơn của cha mẹ họ, và các cha mẹ này được sinh tạo từ Sinh thể lớn hơn của cha mẹ họ. Nếu con cứ đi ngược về thuở ban đầu, con thấy tất cả mọi sinh thể có tự nhận biết đều được sinh tạo từ Bản thể của chính đấng Sáng tạo. Con không phải là một sinh thể tách rời xuất hiện bất thình lình từ hư không. Sự thực con là nối dài, một cá thể hóa của một Sinh thể lớn hơn đang hiện hữu ngay bây giờ trên cõi tâm linh. Sinh thể lớn hơn này là một phần trong một đẳng cấp các sinh thể tâm linh tạo thành cái mà chúng ta có thể gọi là “Chuỗi Sinh thể” đi ngược về tới chính đấng Sáng tạo.

Con quả thực là một phần của Chuỗi Sinh thể này, con là một nối dài của đấng Sáng tạo, một cá thể hóa của đấng Sáng tạo qua đó Thượng đế có thể đi vào bầu cõi này của tạo vật của ngài. Thượng đế có thể hoàn tất việc làm sáng tạo của ngài từ bên trong chính tạo vật và cùng lúc ngài trải nghiệm bầu cõi này từ bên trong. Thày biết con có thể cần một thời gian để hoàn toàn chấp nhận và hiểu điều này, nhưng nếu con mời thày vào trong tim con, thày sẽ giúp con chấp nhận nguồn gốc thật và bản sắc thật của con dễ dàng hơn. Khi con chấp nhận bản sắc này, tầm nhìn của con về cuộc đời sẽ xoay chuyển lớn lao. Con sẽ nhận ra cuộc sống không vô nghĩa, cuộc sống không trống rỗng. Quả thực cuộc sống có một mục đích lớn hơn và con là thành phần của một kế hoạch vĩ đại nhằm xây dựng vương quốc Thượng đế ngay đây trên trái đất, qua đó sẽ biến hành tinh này thành một thế giới đẹp đến độ nó sẽ hoàn thành những giấc mơ sâu thẳm nhất, những khát khao sâu thẳm nhất của con. Có thể con đã quên những khát khao này, nhưng thày không nghĩ con quên sự kiện là khi con thấy những giới hạn, đau đớn và thống khổ trên trái đất, cái gì đó bên trong con kêu lên và nói: “Điều này không đúng, mọi chuyện đáng lẽ không được như thế này.” Điều này cho con thấy sâu trong con có ký ức là cuộc sống này hơn nữa và có một lý do cho sự hiện hữu của con, có một lý do cho sự có mặt của con trên trái đất.

Điều này quan trọng vì giờ đây con thấy cuộc đời đáng sống, cuộc đời có một mục đích lớn hơn và con cũng thấy có một mục đích lớn hơn của việc tạo sự dồi dào. Con không ở đây chỉ để đơn giản hoàn thành những mong muốn tạm thời, nhân phàm và xác thịt tập trung vào thân vật lý của con và ý niệm bản sắc dựa trên thân thể. Con hơn thân vật lý, con hơn ý niệm bản sắc thấp này. Con có một ý niệm bản sắc lớn hơn, một thành phần lớn hơn của bản thể con, và con ở đây để biểu hiện trọn vẹn bản sắc lớn hơn này, cá thể thiêng liêng này. Con ở đây để phục vụ như một người đồng-sáng tạo với Thượng đế, để đem vào thế giới này ánh sáng của Thượng đế, sự toàn hảo của Thượng đế, sự hài hòa của Thượng đế và các đức tính của Thượng đế. Con ở đây để là ánh sáng của thế gian (Matthew 5:14) và biến thế gian này thành vương quốc ánh sáng, ánh sáng tiêu hủy bóng tối đang che phủ mặt đất và tạo ra đủ loại thống khổ, đau đớn và thiếu thốn mà con đơn giản biết không thể là thiết kế của Thượng đế hay là ý muốn của Thượng đế.

9.4. Con mở rộng nối kết với Hiện diện TA LÀ

Bây giờ chúng ta hãy xem xét cụ thể hơn tại sao con đang ở trên trái đất. Khi Thượng đế sinh tạo một bầu cõi mới, Thượng đế rải vào đó một lượng ánh sáng. Thượng đế hay đúng hơn các đại diện của Thượng đế quả thực có sinh tạo một số hình tướng. Hành tinh trái đất được sinh tạo bởi bảy đại diện của Thượng đế đã tạo ra hành tinh này như một môi trường có khả năng nuôi dưỡng sự sống trong trạng thái dồi dào và quân bình. Thiết kế của Thượng đế không bao giờ nhằm giữ trái đất trong trạng thái này. Động lực đằng sau mọi sự sáng tạo là động lực trở nên hơn nữa, và Thượng đế gửi xuống thế giới này một số sinh thể tự nhận biết với mệnh lệnh nhân lên và cai quản. Nhân lên và cai quản nghĩa là gì? Nghĩa rốt ráo là nhân lên sự tự nhận biết của con để con nhận biết là mình có khả năng phục vụ như người đồng-sáng tạo với Thượng đế.

Con ý thức là tâm thức của con, tâm của con, có khả năng là cánh cửa mở để đem xuống trái đất thêm ánh sáng của Thượng đế, thêm ánh sáng tâm linh có tần số cao, đi vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất. Khi ánh sáng được đem vào thế giới, nó tiêu hủy bóng tối và do đó thế giới này sáng hơn và rực rỡ hơn và bắt đầu biểu hiện tất cả sự toàn hảo mà ta tìm thấy trong cõi tâm linh. Khi các người đồng-sáng tạo nhân lên khả năng sáng tạo của họ, họ giỏi hơn trong việc điều khiển ánh sáng Thượng đế đi xuyên qua tâm họ, qua đó họ dùng tâm của họ để áp đặt một hình ảnh toàn hảo, quân bình và hài hòa lên ánh sáng. Chính tiến trình áp đặt một hình tư tưởng lên Ánh sáng Mẫu-vật đã tạo nên hình tướng.

Như một người đồng-sáng tạo, con có hai mục đích. Mục đích đầu của con là mở rộng sự nối kết với Hiện diện TA LÀ của con đang cư ngụ vĩnh viễn trên cõi cao hơn. Khi con mở rộng nối kết này, nhiều ánh sáng hơn có thể chảy vào tâm thức của con. Con đem lại nhiều ánh sáng hơn cho thế giới, gia tăng tổng lượng ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng. Điều này gia tăng tiềm năng biểu hiện sự dồi dào của Thượng đế trên trái đất.

Chìa khóa thực để gia tăng lượng dồi dào trên trái đất là gia tăng lượng ánh sáng có trong cõi này. Khi con đã kéo ánh sáng của Thượng đế xuống từ Hiện diện TA LÀ của con, qua sự tự nhận biết tập trung trong cõi này, con có thể điều khiển ánh sáng đó và dùng nó để sáng tạo những hình tướng biểu hiện nhiều hơn sự dồi dào của Thượng đế. Sự dồi dào được thể hiện như một thực tại vật lý mà ngay cả giác quan vật lý thô thiển của thân thể cũng có thể thấy được. Điều thày vừa nói với con là chìa khóa cốt yếu của dồi dào. Nó thực là viên đá đặt nền chính mà người xây cất đã bác bỏ (Matthew 21:42), mà hầu hết không chú ý tới. Hầu hết các vị thày tuyên bố họ có thể giúp con người gia tăng sự dồi dào thế gian cũng đã không chú ý tới nó. Tại sao điều mà thày vừa nói với con quan trọng đến thế? Hãy cho phép thày bỏ ra một chút thời giờ để giải thích vì chỉ riêng điểm này có thể đem lại thành công hay thất bại cho nỗ lực muốn đạt cuộc sống dồi dào của con. Nếu con không hiểu điểm mà thày đang truyền tải, con sẽ không bao giờ đạt được dồi dào tâm linh thật sự. Con có thể hay không thể đạt được dồi dào vật chất nhưng dồi dào vật chất này sẽ không bao giờ thỏa mãn khao khát nội tâm của bản thể con.

Điểm quan trọng nhất về sự dồi dào là mọi vật trong thế giới vật chất này, mọi vật trên hành tinh trái đất này đều được tạo ra từ ánh sáng Thượng đế. Chúng được tạo ra từ ánh sáng tâm linh mà tần số được hạ xuống cho tới khi ánh sáng rung động trong quang phổ tần số tạo nên vũ trụ vật chất. Sau khi tần số được hạ thấp thì ánh sáng có thể dùng vào việc sáng tạo hình tướng trong vũ trụ này. Con là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế và tự nhận biết của con tập trung trong quang phổ tần số này. Khi con đồng-sáng tạo, con dùng tâm mình để áp đặt một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-vật. Trước khi con có thể làm chuyện này, cần có một lượng ánh sáng đã được hạ xuống cõi này để nó rung động trong quang phổ tần số vật chất.

Tâm con có hai khả năng khi làm việc với ánh sáng Thượng đế. Tâm con có khả năng hạ thấp độ rung của ánh sáng tâm linh xuống quang phổ tần số vật chất. Một khi ánh sáng đã được hạ thấp độ rung, tâm con có thể áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng để tạo ra một hình tướng. Dù rằng hai khả năng này được thiết kế để làm việc chung với nhau, con có thể tách chúng trong tâm con. Ví dụ là nhiều người đã quên khả năng đem ánh sáng tâm linh xuống thế giới này nhưng vẫn dùng tâm họ để áp đặt hình tư tưởng lên ánh sáng dùng được trong quang phổ tần số vật chất. Trước khi một hình tướng có thể được sáng tạo, một sinh thể tự nhận biết phải với lên cõi tâm linh, nối kết với cái ta tâm linh của y và trở thành cánh cửa mở đem ánh sáng tâm linh đi vào quang phổ tần số của vũ trụ vật chất. Khi hành tinh trái đất được tạo ra, một lượng ánh sáng được đem vào quang phổ tần số vật chất bởi các Elohim. Sau khi các người đồng-sáng tạo bắt đầu hiện thân trên hành tinh này, các Sinh thể tâm linh không đem thêm ánh sáng vào nữa. Bây giờ việc đem thêm ánh sáng vào quang phổ vật chất tùy thuộc vào những cư dân trái đất. Tổng lượng dồi dào có thể tạo ra được trên trái đất tùy thuộc trực tiếp vào tổng lượng ánh sáng dùng được trong năng trường của hành tinh này. Hầu hết con người đã quên mất khả năng đem ánh sáng vào thế giới này và họ đã tạo ra những hình tướng mất quân bình với ánh sáng dùng được. Lực co lại của Mẹ quả thực đã giảm thiểu lượng ánh sáng thấp hơn mức ánh sáng dùng được khi hành tinh được tạo ra. Hiện nay trên trái đất, lượng ánh sáng ít hơn so với lúc các Elohim sáng tạo hành tinh này.

9.5. Con người có khả năng tạo sự dồi dào

Thày xin con cố gắng đi vào trong tim mình và cho phép thày cho con sự hiểu biết không thể diễn đạt bằng lời nhưng có thể được kích hoạt bởi những lời mà thày gửi tới con. Con được nuôi dạy với lập trình tin rằng chỉ có một số lượng dồi dào nào đó trên thế gian. Con bị lập trình tin rằng con sống trong một thế giới quy định bởi thiếu thốn và giới hạn. Ví dụ, con được bảo là hành tinh trái đất chỉ có một lượng tài nguyên thiên nhiên hữu hạn và như vậy chuyện có thể xảy ra là nhân loại tiêu dùng hết các tài nguyên này và sẽ không còn gì nữa. Nhiều nguồn thông tin  thực sự đã tìm cách khiến con tin là kịch bản này không thể tránh được và do đó con phải chấp nhận một số giới hạn trong cuộc sống của con và thậm chí cho tổng thể nhân loại. Khái niệm này không đúng một cách vô điều kiện mà cũng không hoàn toàn sai. Thày biết chắc con được bảo là hành tinh này chỉ có một lượng dầu hỏa nhất định. Khi nhân loại dùng hết dầu hỏa thì sẽ không còn gì nữa và con sẽ không thể chạy xe hơi hay đi máy bay. Một số đã cố gắng tạo ra hình ảnh một ngày tận thế gần kề khi nhân loại đã tiêu dùng hết tài nguyên trên hành tinh và toàn thể hành tinh trở nên một bãi sa mạc khô cằn không có khả năng nuôi dưỡng sự sống. Con yêu dấu, kịch bản tận thế này quả thực có thể xảy ra nhưng nó không phải là điều sẽ chắc chắn xảy ra như một số người quan niệm.

Con biết rõ con người vẫn khám phá những mỏ dầu mới. Con cũng biết là có một thời không có dầu hỏa trên hành tinh này. Dầu hỏa được tạo ra vì chất hữu cơ chết đi và qua chuyển động của trái đất nó bị lấp vùi và bị sức ép biến thành dầu. Kim cương được tạo ra khi chất than bình thường bị sức ép khổng lồ của vỏ trái đất. Vì hành tinh này có một lượng than rất lớn thì quả thực có khả năng là một lượng kim cương khổng lồ có thể được tạo ra. Thày biết một số người sẽ nói cần hàng triệu năm để tạo ra dầu và do đó nhân loại sẽ hết dầu trước khi các tiến trình tự nhiên có thể thay thế nguồn cung cấp dầu hiện nay. Điều này chắc hẳn đúng nhưng thày nhắc nhở con là dầu đã có mặt cả ngàn năm qua và thậm chí đã có người biết tới nó. Nhưng 500 năm trước đây người ta xem dầu hỏa là một tài nguyên thiên nhiên không quan trọng bởi vì lúc đó nhân loại chưa có hiểu biết dùng dầu như thế nào. Con người chưa sáng chế động cơ đốt hay bất cứ các thiết bị cơ khí khác dùng nhiên liệu hóa thạch để sản xuất hàng hóa hay cho phép con người du lịch. Quan điểm hành tinh chỉ có một lượng tài nguyên giới hạn hay một lượng dồi dào giới hạn giản dị không đúng. Chỉ vài thế kỷ trước đây, dầu hỏa là một chất được coi như vô giá trị và nó chỉ trở nên có giá trị khi con người gia tăng kiến thức, nhận biết, hiểu biết và do đó thiết lập được công nghệ dùng dầu hỏa và biến nó từ một chất vô giá trị thành một tài nguyên có giá trị.

Kiến thức và hiểu biết này từ đâu tới? Con có thật sự tin là nó tới từ hư không? Hay con có thể mở tâm ra với ý tưởng là đã có một số người với lên cao hơn vũ trụ vật chất, thiết lập nối kết với cái ta tâm linh của họ và qua nối kết này họ đã có thể đem xuống những ý tưởng và hiểu biết đưa tới những phát minh mới và công nghệ mới? Chắc chắn là có một số tài nguyên trên hành tinh chỉ có số lượng giới hạn. Chắc chắn là con người có thể hết dầu hỏa và do đó mất khả năng dùng công nghệ dựa trên việc đốt dầu. Trước khi dầu hỏa trở thành một tài nguyên, nhân loại có những công nghệ thô thiển hơn dùng tài nguyên khác như gỗ và than được biến thành hơi nước. Con biết rõ là đã có công nghệ phân tách nguyên tử và chuyển đổi uranium thành nguồn tài nguyên mạnh hơn dầu. Dù thày không coi năng lượng hạt nhân là một công nghệ không có vấn đề, rất có thể có những chất liệu trên trái đất mà ngày nay xem là vô giá trị nhưng với kiến thức và hiểu biết đúng, chúng có thể trở thành nền tảng cho những công nghệ mới mạnh hơn rất nhiều công nghệ dựa trên nhiên liệu hóa thạch.

Điều rất có thể xảy ra là nhân loại có thể gia tăng lượng dồi dào hiện có trên trái đất. Qua sự nhân lên khả năng sáng tạo, qua việc nhân lên hiểu biết về các quy luật của Thượng đế, các quy luật mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ này, con người có thể thăng vượt mức nhận biết hiện nay của họ và thật sự trở nên những người đồng-sáng tạo với Thượng đế có thể tạo ra sự dồi dào từ cái mà ngày nay có vẻ là vô giá trị. Con xét xem trước kia cát là chất vô giá trị nay biến thành silicon và trở thành nền tảng của toàn bộ kỹ nghệ máy tính đã đem lại dồi dào khổng lồ trong nhiều khía cạnh cuộc sống. Con xét xem con người đang nghiên cứu cách dùng hydrogen, một chất có nhiều nhất trong vũ trụ, để dùng làm nhiên liệu cho công nghệ. Thày khuyến khích con xem xét những ý tưởng này và nhận ra kịch bản được các nhà tiên tri tận thế cổ xúy là hành tinh này sẽ trở thành một bãi sa mạc khô cằn chỉ có thể xảy ra nếu nhân loại ngưng mọi cố gắng tăng triển khả năng sáng tạo của mình. Nếu con người ngừng nhân lên khả năng của họ, uy lực sáng tạo của họ, thì quả thực xã hội con người sẽ rốt cuộc tiêu thụ hết tài nguyên hiện dùng được theo hiểu biết hiện nay của con người về các quy luật thiên nhiên. Lúc đó hành tinh này sẽ một ngày kia trở thành một bãi sa mạc không có khả năng nuôi dưỡng sự sống. Chuyện này chỉ xảy ra nếu con người chọn khóa lại khả năng sáng tạo của mình, nếu họ từ chối không nhân lên khả năng của họ và thay vào đó chôn chúng xuống dưới đất – như là một biểu tượng cho mức tâm thức hiện tại của họ.

9.6. Đem ánh sáng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất

Mọi thứ con thấy chung quanh con, thậm chí vật chất vật lý có vẻ chẳng dính dáng gì tới thế giới tâm linh, đều làm ra từ ánh sáng tâm linh. Ngay cả các nhà khoa học của con cũng nhìn nhận vật chất rắn đặc được làm bằng năng lượng rung động. Năng lượng rung động này giản dị là ánh sáng Thượng đế, ánh sáng tâm linh đã bị hạ độ rung. Lượng tài nguyên và dồi dào thấy được trong hành tinh trái đất hiện nay không được quy định một cách độc đoán mà nó cũng không phải là một lượng cố định được quy định khi trái đất được tạo ra. Lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất có tỷ lệ thuận với lượng ánh sáng tâm linh đã được các sinh thể tự nhận biết đem vào quang phổ tần số vật chất trên hành tinh trái đất. Vật chất không đến từ hư không. Nó là sản phẩm của Ánh sáng Mẹ được hạ độ rung cho tới khi nó đạt tới quang phổ tần số của vật chất. Ngược lại với những gì con được dạy và tin, lượng vật chất không cố định. Các đồng-sáng tạo của Thượng đế có thể thật sự đem thêm ánh sáng vào quang phổ tần số vật chất và tăng trưởng lượng tài nguyên thiên nhiên trên hành tinh này.

Dồi dào không phải là một lượng cố định. Con người hoàn toàn có khả năng đem lại nhiều dồi dào hơn bằng cách sử dụng hữu hiệu hơn các tài nguyên thiên nhiên hiện đang có trên hành tinh này. Con người còn có thể đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào cõi vật chất và do đó tăng trưởng lượng tài nguyên và dồi dào trên trái đất. Điều này mở ra những tầm nhìn hoàn toàn mới cho khả năng đạt tới đời sống dồi dào. Con có, ngay trong con, ngay trong tâm thức con, khả năng với lên cõi tâm linh, để kết nối với Hiện diện TA LÀ của con, và đem ánh sáng tâm linh vào thế giới vật chất. Khi con làm thế, con sẽ gia tăng lượng dồi dào biểu hiện trong cuộc sống của con và con làm vậy mà không lấy dồi dào từ một thành phần nào khác của cuộc sống.

Con hãy bỏ thì giờ bước lùi lại và thực sự xem xét những gì thày đang nói. Điều thày đang nói ở đây là con có thể theo ba phương cách khác nhau để đạt được nhiều dồi dào hơn trong cuộc sống:

  • Phương cách thấp nhất và thô sơ nhất là suy luận rằng chỉ có một lượng cố định dồi dào có thể dùng được trong thế gian này. Bởi vì tất cả mọi người không giàu có, hiển nhiên là lượng dồi dào trên trái đất không đủ cho mọi người. Nếu con muốn giàu, con phải lấy dồi dào từ người khác cho nên họ phải nghèo đi. Suốt dòng lịch sử mà con người biết được, một thành phần thượng lưu quyền lực nhỏ đã tin cái nhìn về lượng dồi dào cố định này. Họ đã dùng phương tiện hung hãn để đưa họ lên vị thế thượng lưu quyền lực nắm độc quyền của cải và kiểm soát tài nguyên. Họ làm điều này bằng cách biến đa số dân chúng thành tôi mọi cho họ, phục vụ họ như những con ong thợ vắt sữa các tài nguyên khan hiếm của hành tinh và tập trung các tài nguyên này cho giới thượng lưu quyền lực sử dụng. Đây là một phương cách đạt dồi dào cực kỳ thô thiển. Đây là một phương cách hoàn toàn dựa vào sức mạnh, dựa vào nhu cầu đấu tranh với người khác để giành một nguồn cung cấp dồi dào cố định và không đủ. Đây là một phương cách dựa trên triết lý thiếu thốn, triết lý đưa tới nhu cầu chiếm đoạt dồi dào bằng sức mạnh và qua đó không thể tránh việc tước đoạt dồi dào của người khác để tập trung của cải trong tay một thiểu số được chọn lựa. Phương cách này cần sử dụng sức mạnh liên tục vì giới thượng lưu không thể nào gìn giữ của cải của họ mà không liên tục bảo vệ của cải này, không những chống lại người khác mà thậm chí cũng chống lại những lực thiên nhiên tìm cách lấy đi những gì họ sở hữu. Phương cách đạt dồi dào này là một trận chiến leo dốc núi, một sự vật lộn không ngừng.
  • Một phương cách đạt dồi dào cao hơn nhiều là suy luận chúng ta có thể tạo ra nhiều dồi dào hơn bằng cách gia tăng hiểu biết của chúng ta về quy luật thiên nhiên. Qua sáng kiến và công nghệ mới, con có thể tạo ra giàu có bằng cách biến những chất vô giá trị thành tài nguyên có giá trị, hay bằng cách chuyển kiến thức thành công nghệ hữu dụng. Đây là một phương cách đạt dồi dào cao hơn rất nhiều, tuy thế nó vẫn chưa giải quyết vấn đề là hiện nay chỉ có một số năng lượng nào đó mà con người có thể dùng được trên trái đất. Điều này mang một yếu tố hạn chế và hiện nay con có thể thấy được điều này trong xã hội. Nhiều người biết ngày dùng nhiên liệu hóa thạch để chạy công nghệ của nhân loại sắp tận. Họ biết đã có những trận chiến xảy ra vì dầu hỏa và có thể có nhiều thêm những trận chiến khốc liệt khác để tranh giành dầu hỏa hay tài nguyên khác. Dù nhiều người nhìn ra nhu cầu  đem lại công nghệ mới, công nghệ đó chưa xuất hiện. Điều này cho con thấy là phương cách tạo dồi dào bằng cách dùng những tài nguyên sẵn có mang một số giới hạn. Giới hạn là vì chìa khóa thật để đem lại nhiều dồi dào hơn là đem thêm năng lượng tâm linh vào quang phổ tần số vật chất. Như các nhà khoa học nói: “Mọi thứ đều là năng lượng.” Tổng lượng dồi dào dùng được trên hành tinh trái đất có tỷ lệ thuận với tổng lượng năng lượng có mặt trong hệ thống năng lượng của hành tinh này. Cách duy nhất để thực sự gia tăng dồi dào là gia tăng lượng năng lượng dùng được trên trái đất.
  • Phương cách đạt dồi dào thứ ba là kết hợp phương cách thứ nhì là tìm thêm hiểu biết với phương cách tâm linh chủ trương với lên cõi cao hơn để đem thêm năng lượng vào quang phổ tần số vật chất. Mục đích khóa học này là dạy con cách dùng phương cách đạt dồi dào này.

9.7. Chọn giữa tâm thức chết hay tâm thức của sự sống

Con đang đứng ở lằn ranh phân chia, lằn ranh phân chia phương cách đạt dồi dào nhân phàm, sinh diệt, dựa trên sức mạnh và phương cách đạt dồi dào tâm linh, bất tử, dựa trên tình thương. Con phải lấy một chọn lựa và chọn lựa này là chọn giữa tâm thức thiếu thốn hay tâm thức thực sự dồi dào. Nó là chọn lựa giữa tâm thức chết hay tâm thức của sự sống. Vũ trụ vật chất được sáng tạo từ ánh sáng Thượng đế. Nó được tạo ra bằng cách biến một phần của khoảng trống không thành một bầu cõi riêng biệt và lấp đầy bầu cõi đó với một lượng ánh sáng rung động trong một quang phổ tần số nào đó. Ánh sáng nguyên thủy không đủ để đuổi bóng tối đi, cho nên bóng tối còn lại trong thế giới vật chất là nguyên nhân của thiếu thốn và đau khổ mà con thấy trên trái đất. Con không thể loại bỏ bóng tối trong căn phòng vì bóng tối tự thân không có chất liệu gì trong nó. Con không thể bỏ bóng tối vô hộp hay vứt nó ra ngoài cửa sổ. Con có thể loại bỏ bóng tối bằng cách thay thế nó với cái gì có chất liệu, như ánh sáng. Cách loại bỏ bóng tối là bật đèn sáng và cách loại bỏ thiếu thốn và đau khổ trên trái đất là đem nhiều ánh sáng tâm linh hơn vào thế giới này. Đây là một phần của tiến trình tuôn chảy miên viễn của sáng tạo của Thượng đế, Dòng sông sự Sống đời đời tuôn chảy. Thượng đế khuếch trương sáng tạo của ngài và gửi xuống những người đồng-sáng tạo có tự nhận biết để họ đem lại nhiều ánh sáng hơn vào thế giới và để cho thế giới và cư dân trong đó có thể hơn nữa qua tự thăng vượt.

Thiết kế thật của Thượng đế là dồi dào là kết quả của việc đem ánh sáng từ cõi cao vào thế giới nơi con đang sống. Con có khả năng làm việc này vì con đã được thiết kế theo hình ảnh Thượng đế và giống như Thượng đế của con; con được thiết kế với trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Tâm con có thể là cánh cửa mở cho ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy vào thế giới này. Bằng cách gia tăng lượng ánh sáng tâm linh tuôn chảy qua tâm thức của con, con chắc chắn sẽ gia tăng lượng dồi dào có mặt trong thế giới vật chất. Cơ chế an toàn của Thượng đế là con chỉ có thể mang ánh sáng từ cõi cao xuống khi con đạt được một mức nào đó của tâm thức Ki-tô.

Đây là chọn lựa con phải lấy. Con có thể theo phương cách thứ nhất và tìm cách tích lũy dồi dào bằng cách lấy từ nguồn cung cấp cố định hiện có trên trái đất. Điều này khiến con lấy dồi dào từ những thành phần khác của đời sống, qua đó con tước đoạt dồi dào của họ. Điều này cũng khiến con phải liên tục bảo vệ dồi dào mà con tích lũy và tiến trình lấy và bảo vệ sẽ tiếp tục suốt cuộc đời còn lại của con. Nếu con còn nghi ngờ những gì thày nói, con hãy nhìn cuộc sống của những người giàu nhất trên hành tinh này. Họ đã tích lũy của cải bằng cách lấy bằng sức mạnh và nhiều người trong số họ dành phần còn lại của cuộc đời để bảo vệ của cải của họ. Họ không bao giờ thấy đủ, họ không bao giờ cảm thấy hạnh phúc. Họ không bao giờ thật sự có cuộc sống dồi dào, họ chỉ có vật chất dồi dào. Họ không có khả năng biến dồi dào vật chất thành dồi dào tâm linh thật sự, hạnh phúc thật sự và tâm an bình thật sự.

Nếu đây là điều con muốn thì con có khả năng làm chuyện này. Tâm con có khả năng áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng của Thượng đế. Cách đích thật để tích lũy dồi dào là không chỉ giản dị lấy bằng vũ lực vật lý. Thực tế là tâm con lúc nào cũng đang đồng-sáng tạo, lúc nào tâm con cũng đang áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Vấn đề là Ánh sáng Mẫu-Vật từ đâu tới – ánh sáng mà con dùng để hình thành các hình tư tưởng của con. Trong thiết kế nguyên thủy của Thượng đế, con đúng lý phải duy trì sự kết nối với Hiện diện TA LÀ để con có thể đem vào thế giới này năng lượng tâm linh, ánh sáng tâm linh. Lúc đó con áp đặt một hình ảnh lên ánh sáng đó và tạo tác một hình tướng vật lý sẽ trở nên sự dồi dào của con. Đây đúng là con có ông thần trong chiếc bình cho riêng mình, một ông thần có thể đáp ứng tất cả các ước mong của con mà không cần lấy từ người khác. 

Khi con đánh mất sự kết nối có ý thức với cái ta tâm linh của con, thì con không còn là cánh cửa mở để mang ánh sáng tâm linh vào thế giới này, con đã đánh mất hồng ân. Con không thể kéo xuống ánh sáng mới để tạo tác hình tướng. Điều này không có nghĩa là con không thể dùng khả năng của tâm để áp đặt hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Nó nghĩa là con phải làm chuyện này bằng cách lấy ánh sáng đã được đem vào trong quang phổ tần số vật chất.

Khi con giữ được sự nối kết nguyên thủy với Hiện diện TA LÀ của con, số lượng dồi dào mà con có thể biểu hiện trong cuộc sống của con vô tận. Thượng đế không có giới hạn. Thượng đế không có một lượng ánh sáng hữu hạn mà các sinh thể đồng-sáng tạo có thể dùng. Thượng đế có một nguồn cung cấp ánh sáng vô tận, giới hạn duy nhất là cách người đồng-sáng tạo nhân lên khả năng sáng tạo của họ.

Tâm con là một ống dẫn giữa tâm ý thức của con và Hiện diện TA LÀ của con. Kích thước của ống dẫn quy định lượng ánh sáng có thể chảy qua nó. Lúc ban đầu, con được gửi xuống thế giới này với một kích thước nào đó của ống dẫn tâm linh của con. Con được sinh ra để nhân lên khả năng của con và qua đó con mở rộng kích thước của ống dẫn, qua đó Thượng đế sẽ cho con nhiều năng lượng tâm linh hơn và điều này sẽ gia tăng uy lực sáng tạo của con. Hầu hết con người đã quên mất nguồn gốc tâm linh thực của họ, đã đánh mất kết nối ý thức của họ với cái ta tâm linh của họ. Điều này đã thu nhỏ kích thước ống dẫn tới điểm chỉ còn đủ ánh sáng tuôn chảy để giữ cho họ và thân thể họ sống còn. Họ không có đủ ánh sáng để thật sự biểu hiện sự dồi dào từ bên trong họ. Họ chỉ còn chọn lựa duy nhất là dùng ánh sáng đã được đem xuống quang phổ tần số vật chất và sau đó áp đặt hình ảnh lên ánh sáng qua uy lực của tâm của họ. Chỉ có một số lượng cố định năng lượng có mặt trong hành tinh trái đất, có nghĩa là để con có nhiều dồi dào hơn, con phải lấy năng lượng từ người khác.

Điều này mở ra một tầm nhìn hoàn toàn mới về kiếp sống con người. Thày sẽ cho con một hiểu biết mới về ý nghĩa cuộc sống trên trái đất và động lực đằng sau cuộc tranh giành quyền lực của con người. Con hãy cho phép thày chỉ cho con thấy trong chương kế tiếp là con người thực sự tranh giành điều gì khi bề ngoài trông như họ đang tranh giành của cải vật chất.

7 | Con đang sáng tạo sự hài hòa hay thiếu thốn?

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 7/4/2005.

Thượng đế đã thiết kế một vũ trụ có khả năng cung cấp sự dồi dào vô biên, ngay cả trên hành tinh nhỏ bé mà con gọi là trái đất này. Khi Thượng đế tạo ra trái dất, ngài chỉ giản dị tạo tác một nền móng. Sau đó ngài gửi con, và nhiều người đồng-sáng tạo khác, xuống thế giới này với mệnh lệnh nhân lên khả năng sáng tạo. Con ở đây để cai quản trái đất và xây dựng thêm trên nền móng của Thượng đế và đem lại cho thế giới này tất cả sự dồi dào mà con có thể tưởng tượng và chấp nhận. Khi con người sử dụng khả năng sáng tạo của mình thuận theo những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì họ sáng tạo một sự dồi dào bền vững. Họ làm việc này mà không tước đi sự dồi dào từ các phần khác của sự sống mà trái lại khuếch đại toàn thể dồi dào trên trái đất. Toàn Thân thể của Thượng đế sẽ được phóng đại trong tiến trình này. Khi con người sử dụng đúng khả năng sáng tạo của mình thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì vũ trụ của Thượng đế được thiết kế để cung cấp đủ dồi dào cho tất cả.

7.1. Nhiều điều kiện trên trái đất do con người tạo ra

Câu hỏi chủ yếu mà ta cần giải đáp là làm sao con, như một người sống trên hành tinh địa cầu, có thể học cách sử dụng khả năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với những nguyên lý mà Thượng đế đã dùng để thiết kế toàn thể vũ trụ. Khó khăn mà chúng ta đối diện là hành tinh địa cầu hiện nay không biểu lộ thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Thay vì xây dựng một lâu đài trên nền móng mà Thượng đế đã tạo lập, nhân loại qua bao ngàn năm đã chôn vùi của cải của mình vào lòng đất. Lực co thắt của Mẹ đã bắt đầu phá vỡ ngay cả nền móng mà Thượng đế xây dựng. Thày biết đây là một ý niệm mà những người đã lớn lên trong xã hội hiện đại khó chấp nhận. Nhiều người đã được dạy dỗ để tin vào phiên bản câu chuyện thành lập hành tinh do Thánh kinh đề ra cho rằng trái đất chỉ có mặt từ vài ngàn năm nay, rằng mọi thứ đều do Thượng đế tạo ra, rằng Thượng đế chỉ có thể tạo ra sự toàn hảo, và do đó tất cả mọi chuyện phải toàn hảo. Một số người khác đã lớn lên với thuyết tiến hóa của khoa học cho rằng sự tiến hóa chỉ đi theo một hướng, và sự sống đi từ những hình tướng thô sơ đến những hình tướng phức tạp hơn.

Vì có Luật Tự quyết nên rất có thể một nền văn minh con người tiến lên một cao điểm và sau đó dần dần tiêu mòn xuống một trạng thái thấp hơn. Nhiều sắc thái của sự sống trên trái đất đã bị tâm thức nhân loại ảnh hưởng. Điều này không những chỉ áp dụng cho xã hội loài người mà còn áp dụng cho cả đến chính Mẹ Thiên nhiên. Con có thực sự tin rằng một Thượng đế đầy lòng thương yêu, có trí tưởng tượng và ý chí tự do vô biên, lại chọn lựa tạo tác các con vi rút, vi khuẩn, vật ký sinh, côn trùng độc hay hóa chất độc hại có thể tàn phá cơ thể của con? Con có thực sự tin rằng Thượng đế đã tạo ra các căn bệnh vô số trên trái đất? Nếu Thượng đế không tạo ra chúng, thì ai đã tạo ra? Câu trả lời là: chính là nhân loại. Nhân loại cộng chung đã tạo ra tất cả các điều kiện bất toàn mà con thấy trên trái đất, ngay cả các bất quân bình trong thiên nhiên.

Mọi chuyện đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế là Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật chỉ mang vào một hình tướng khi nó được khuấy động bởi một tâm, một sinh thể có tự nhận biết có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là có trí tưởng tượng và ý chí tự do. Khi con chấp nhận sự kiện này thì con nhận ra là tất cả mọi chuyện trên trái đất đều là sản phẩm của một tâm có ý thức. Thiết kế nguyên thủy của trái đất do một nhóm đại diện Thượng đế, gọi là các Elohim, tạo ra. Các sinh thể này tạo ra một hành tinh tuyệt đẹp, và vẻ đẹp mà con thấy hiện nay trong thiên nhiên chỉ là một phản ánh phai mờ của vẻ đẹp nguyên thủy mà các Elohim đã tạo ra. Hành tinh mà họ tạo ra trong bản chất có cân bằng toàn hảo, do đó con không tìm thấy bệnh tật, động đất hay bão táp. Từ thuở sáng tạo nguyên thủy đó, các thế hệ con người, các nền văn minh nối tiếp nhau đã ảnh hưởng hành tinh này và kéo nó xuống một trạng thái thấp hơn thiết kế nguyên thủy. Chuyện này đã được thực hiện do quyền năng của tâm con người, qua đó họ đã áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật những hình ảnh bất toàn không thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng.

Con người đã đi xuống, hay sa ngã vào một trạng thái tâm thức trong đó họ không còn nhận biết trực giác hay có ý thức về các quy luật của Thượng đế, những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào trong những phần thâm sâu của họ. Điều này được minh họa bởi câu chuyện trong Thánh kinh mô tả sự Sa ngã , kể rằng Adam và Eve bị đuổi ra khỏi Vườn Địa đàng. Trái cây hiểu biết thiện ác là trái cây hiểu biết thiện ác tương đối. Khi con mất liên lạc với thực tại của Thượng đế, các quy luật của Thượng đế, thì chính con trở nên luật pháp theo nghĩa con không còn thanh gậy dẫn đường chỉ cho con thật giả tuyệt đối.

7.2. Con không được dồi dào vì mất liên lạc với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế

Tất cả những gì hài hòa với quy luật của Thượng đế đều lợi lạc cho tổng thể và bền vững, và ta có thể gọi chúng là thiện hay tốt lành. Những gì đứng bên ngoài những quy luật này đều có mầm tự hủy diệt và làm hại cho tổng thể, và do đó ta có thể gọi chúng là giả hay ác. Khi con người đánh mất thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối đó, thì họ quy định khái niệm thiện ác của riêng họ. Những khái niệm này không dựa trên thanh gậy hướng dẫn của quy luật Thượng đế. Chúng dựa trên những gì con người muốn tin và những gì một số người muốn là sự thật vì chúng giúp họ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của họ mà không đếm xỉa đến tổng thể. Vì con người đã quy định thiện ác để đáp ứng mục đích của họ nên họ cảm thấy việc thỏa mãn các ham muốn vị kỷ là điều hoàn toàn chính đáng.

Khi con người không còn thanh gậy hướng dẫn tuyệt đối, thì họ sẽ quy định thiện ác sao để đáp ứng mục đích của họ, mục đích vị kỷ của họ. Các nền văn minh khác nhau đã có những định nghĩa khác nhau về thiện ác. Trong đa số trường hợp, những gì không khế hợp với luật lệ do một thiểu số nắm quyền định ra bị gán nhãn hiệu ác. Chỉ những gì thẳng hàng với đòi hỏi của thiểu số cầm quyền mới được gán nhãn hiệu thiện hay chấp nhận được. Trong nhiều trường hợp, thiểu số cầm quyền hoàn toàn không đứng thẳng hàng với thực tại của Thượng đế và những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những gì họ gọi là thiện không tốt lành theo nghĩa tuyệt đối. Chúng chỉ tốt lành tương đối vì chúng chỉ tốt lành dựa trên định nghĩa vị kỷ của thiểu số cầm quyền, một định nghĩa không những chối bỏ các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà còn chối bỏ thực tại chỉ có những gì tốt lành cho tổng thể mới thực sự tốt lành cho cá nhân.

Con cần suy ngẫm – trong tim mình – khái niệm này xuất phát từ đâu. Câu chuyện Vườn Địa đàng minh họa là có một điểm Adam và Eve nhận ra là họ đã làm một điều gì đi ngược lại quy luật của Thượng đế. Nhưng thay vì trở về với Thượng đế và nhận tội và xin tha thứ, thì họ quyết định lẩn trốn Thượng đế (Genesis 2:8). Thượng đế đã cho con quyền tự quyết, do đó con có quyền lẩn trốn Thượng đế nếu con muốn. Bởi vì Thượng đế tôn trọng các luật của ngài, và do đó tôn trọng chọn lựa tự quyết của con, nên Thượng đế không thể giúp con khắc phục ý niệm tách biệt đó. Nếu con muốn quay lưng lại Thượng đế, thì ngài sẽ cho phép con làm chuyện này và ngài sẽ không ép uổng con bằng bất cứ cách nào. Một khi con đã quay lưng lại Thượng đế, thì con có thể tiếp tục càng ngày càng xa rời Thượng đế trong tâm thức của con. Thượng đế sẽ không ép uổng con, Thượng đế sẽ không bắt con phải đối mặt với quyết định của mình. Thượng đế sẽ để con bước ra xa bao nhiêu cũng được nếu con muốn. Đó là lý do vì sao nhân loại đã có thể đi xuống một trạng thái tâm thức cực kỳ thấp mà con thấy trải bày hồi thời người tiền sử sống trong hang động, là một trạng thái không cao hơn loài thú bao nhiêu.

Thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại. Trước đó đã có nhiều nền văn minh đã đạt tới trình độ tinh xảo cao. Một số các nền văn minh đó vượt xa nền văn minh Tây phương hiện tại trên mặt công nghệ và văn hóa. Nhưng vì họ lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ nên họ dần dần đi xuống những trạng thái tâm thức và điều kiện sinh sống càng ngày càng thấp. Nếu con đã từng nghiên cứu các chuyện thần thoại, hay những gì các khoa học gia gọi là chuyện thần thoại, về các nền văn minh quá khứ, thì con sẽ biết thày đề cập đến các nền văn minh nào. Mặc dù một số chi tiết trong những câu chuyện còn sót lại từ các thời đó đã trở nên mờ tối với dòng thời gian, sự thật là đã có những nền văn minh quá khứ trên trái đất và thời người tiền sử sống trong hang động không phải là khởi thủy của nhân loại mà chỉ là một trong những điểm thấp mà nhân loại đã xuống tới.

Nếu con muốn thay đổi cuộc đời mình – để được cuộc sống dồi dào mà Thượng đế cống hiến vô điều kiện – thì con không thể thụ động và chờ đợi là Thượng đế sẽ làm hộ cho con. Con còn không thể dùng phương pháp cầu xin Thượng đế cho con cuộc sống dồi dào. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó con có quyền năng sáng tạo để thị hiện cuộc sống dồi dào bằng cách sử dụng các quyền năng đó.

Thượng đế sẽ không tạo ra đời sống dồi dào cho con; Thượng đế muốn con đồng-sáng tạo đời sống dồi dào cho chính mình. Thượng đế muốn con biết rằng con đã làm chuyện đó với quyền năng nội tại của mình – quyền năng của Thượng đế trong con – và con đã làm chuyện đó bằng cách đứng thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Kết luận là lý do vì sao con chưa có đời sống dồi dào là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức, mà ta có thể gọi là trạng thái vô minh, nơi đó con mất liên lạc với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã sử dụng. Cách duy nhất để thoát khỏi cảm nhận thiếu thốn hiện tại và đạt được đời sống dồi dào là con thay đổi trạng thái tâm thức của mình.

7.3. Con đã dùng quyền tự quyết để tạo đời sống thiếu thốn

Con yêu dấu, thày muốn con bỏ ra vài phút để suy ngẫm về những phương pháp “làm giàu mau chóng” đang lan tràn trong xã hội Tây phương ngày nay. Con hãy xem xét là có biết bao nhiêu đạo sư đã hứa hẹn là nếu con theo phương pháp giản dị của họ hay đọc sách của họ, thì con sẽ tạo ra sự dồi dào và của cải tối hậu, và con sẽ có thể làm ra tiền nhiều vượt xa lý thường tình. Thày chắc chắn là nếu con nhận ra nhu cầu đem sự dồi dào vào cuộc đời của mình, thì con đã thử dùng một trong những phương pháp đó hoặc đã nghĩ chuyện theo chúng. Nếu con đã thử theo chúng, thì có lẽ con đã trải nghiệm là chúng không hiệu nghiệm.

Bây giờ thì thày giảng cho con là các phương pháp “làm giàu mau chóng” đó sẽ không bao giờ hiệu nghiệm trên đường dài. Thực tại giản dị là trạng thái thiếu thốn và đau khổ hiện nay của con là sự trải bày – trong vật thể vật lý – của những gì xảy ra trong tâm thức của con. Nếu con muốn thay đổi thực tại bên ngoài của con – thực tại được hình thành bởi Ánh sáng Mẫu-Vật – thì con cần trước tiên thay đổi thực tại nội tại của con, là thực tại của tâm thức của con, là những tâm ảnh mà con phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Chỉ khi con theo trọn tiến trình thay đổi trạng thái tâm thức của mình một cách cơ bản và sâu thẳm, thì con mới thấy những cải thiện thật, chân chính và lâu bền trong hoàn cảnh bên ngoài của con.

Đây là một nguyên lý sâu sắc mà con cần hiểu nếu con muốn thể hiện đời sống dồi dào thật mà Thượng đế cống hiến con. Lý do vì sao con không có đời sống dồi dào thể hiện trong vật lý là vì con đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp, nơi đó con không sử dụng, con không có khả năng sử dụng, những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Điều các phương pháp “làm giàu mau chóng” hứa hẹn con là họ đã khám phá ra một ngõ tắt nào đó cho con của cải vật lý mà con muốn mà không cần thực sự thay đổi tâm thức của mình. Một số các phương pháp đó đề cập đến việc thay đổi tâm thức, nhưng chỉ một cách phiến diện. Họ tuyên bố là con chỉ cần theo một vài bước đơn giản, đọc một vài câu khẳng định đơn giản, thì của cải sẽ tức khắc tuôn chảy về hướng con.

Nếu con chưa chán ngán những hứa hẹn rỗng tuếch này thì thày sẽ không ngăn cản con tìm trải nghiệm đó nếu con nghĩ con cần trải nghiệm đó. Thày là một bà Mẹ đầy thương yêu, thày là một đại diện của Mẹ Thượng đế. Thày mong muốn con được sự dồi dào thực sự không thể mua được bằng tiền bạc và cũng không thể mua bằng ngõ tắt. Thày cũng thương yêu Thượng đế Cha và Luật tự quyết của ngài. Trong căn bản, Luật Tự quyết quy định rằng nếu con tách mình khỏi Thượng đế thì Thượng đế không thể cho con hướng dẫn và do đó hậu quả của hành động của con trở nên vị thày của con. Con học hỏi qua những trải nghiệm của mình.

Luật Tự quyết quy định rằng nếu con cảm thấy cần một loại trải nghiệm nào đó, thì Thượng đế sẽ cho phép con tạo trải nghiệm đó cho mình. Nếu con vẫn cần trải nghiệm nghèo đói, giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau, thì thày là ai mà có thể chối bỏ luật Thượng đế và tìm cách ép con phải chấp nhận sự dồi dào của Thượng đế? Nếu con mong muốn sự dồi dào, nhưng không sẵn sàng làm những chuyện cần làm để thể hiện sự dồi dào của Thượng đế, thì thày là ai mà có thể ngăn cản con chạy theo các đạo sư giả chỉ cho con ngõ tắt? Nếu con cần trải nghiệm đi theo một đạo sư giả như thế – cho đến khi con quá thất vọng và rốt cuộc từ bỏ giấc mộng tìm được ngõ tắt và nói: “Phải có một cách hay hơn” – thì thày là ai mà có thể đứng cản lối không cho con có trải nghiệm đó? Nếu con đã tới điểm quyết định không còn muốn những giấc mơ và ngõ tắt rỗng tuếch đó nữa, không còn muốn trải nghiệm đau đớn, thiếu thốn và khổ đau, thì thày có thể cống hiến con một cái gì. Thày có thể cống hiến con một con đường chân thật qua đó con thay đổi hoàn toàn tâm thức của mình. Con có thể đem tâm thức mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế sử dụng. Khi con làm vậy thì con đem dòng sống của mình vào sự hài hòa với toàn Thân thể của Thượng đế trên cả thiên đàng lẫn trần thế. Toàn thể vũ trụ vật chất và chính Ánh sáng Mẫu-Vật sẽ vui mừng đáp ứng những mong muốn thật của con. Con sẽ thấy là sự dồi dào sẽ xảy đến không phải như một phép lạ, không phải từ một lực bên ngoài con, mà qua cách sử dụng đúng đắn – cách sử dụng hài hòa và cân bằng – quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã phú cho con khi dòng sống của con bắt đầu hiện sinh.

7.4. Nhập một với Dòng sông sự Sống

Con đường mà thày cống hiến là con đường thật dẫn tới dồi dào thật, không phải là một ngõ tắt, không phải là một con đường mà con người thấy có vẻ đúng, nhưng đến cuối đường là cái chết (Proverbs 14:12). Chìa khóa để đi theo con đường thật là nhận ra con đường này không có mục đích đem lại của cải tạm thời trên trái đất. Mục đích của con đường thật là thay đổi thường trực, một thay đổi tâm thức thường trực khi con sửa đổi tâm thức để nó thẳng hàng với thiết kế nguyên thủy được lưu trữ trong tâm Thượng đế khi dòng sống của con được tạo sinh. Thượng đế muốn sáng tạo những người con trai hay con gái thật của Thượng đế, được tạo sinh theo hình ảnh của ngài và giống như ngài và các người con đó dùng những quyền năng sáng tạo hoàn toàn hài hòa với tổng thể. Con không những chỉ khuếch đại dòng sống của chính mình mà còn khuếch đại kinh nghiệm sống của mọi sự sống trên trái đất, và quả thực mọi sự sống trong toàn thể vũ trụ.

Đây là trạng thái tâm thức mà Giê-su đề cập đến khi nói rằng trừ phi con hấp thu thịt và máu của người Con trai duy nhất đã được tạo sinh bởi Cha, thì con không có sự sống trong mình (John 6:53). Ý nghĩa sâu của câu này là khi con sử dụng quyền năng sáng tạo của mình một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì con đứng thẳng hàng một cách toàn hảo với mục đích của sự sống và những nguyên lý hướng dẫn của sự sống. Con trầm mình trong Dòng sông sự Sống, con là một phần của Dòng sông sự Sống, là dòng nước luôn tuôn chảy, luôn tăng trưởng bao gồm tất cả những gì đấng Sáng tạo đã tạo tác. Con luôn luôn di chuyển cùng với Dòng sông sự Sống, con luôn luôn thăng vượt chính mình, nhân các khả năng của con và trở nên hơn nữa, qua đó con đem thêm dồi dào vào cuộc đời mình. Đây là định nghĩa thật của sự sống.

Định nghĩa tâm linh của sự sống không phải là thân thể của con có còn hô hấp hay không. Đây là định nghĩa nhân phàm, sinh diệt của sự sống. Định nghĩa tâm linh thật của sự sống là con thăng vượt chính mình và trở nên hơn nữa. Khi con trở nên hơn nữa thì con trải nghiệm cuộc sống dồi dào, con là một phần của dòng chảy dồi dào luôn luôn di động của Thượng đế, là Dòng sông sự Sống. Chỉ khi con ở trong dòng sông đó thì con mới có đời sống tâm linh thật sự. Khi con bước ra ngoài dòng sông đó – vì con tách mình ra khỏi cái ta cao của mình, khỏi cội nguồn của mình, khi quên đi những quy luật của đấng Sáng tạo ra mình – thì con đi xuống một trạng thái tâm thức gọi là tâm thức chết khi nhìn từ góc độ tâm linh. Con đã chết theo nghĩa tâm linh, và đây là ý nghĩa sâu của câu nói của Giê-su.

Một khi con đã rơi xuống một tầng trạng thái tâm thức thấp thì làm sao con có thể vươn trở lên lại và đặt mình thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế? Cái gì cho phép con lấy lại gia tài thật của mình, bản sắc thật của mình như một người con trai hay con gái của Thượng đế, và nối kết trở lại với cái ta cao của con, Hiện diện TA LÀ của con, với phần bên trong của dòng sống của con, nơi mà Thượng đế đã đặt những quy luật của ngài? Trung gian sẽ cho phép con leo từ cái chết trở lên cuộc sống vĩnh hằng là người Con duy nhất được tạo sinh của Cha. Thật là điều đáng buồn khi ta phải công nhận là hầu hết các giáo phái Cơ đốc giáo chính mạch đều đã hiểu lầm ý nghĩa tâm linh thật của nhiều lời dạy sâu sắc nhất của Giê-su. Vì họ bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên và ý niệm tách biệt, và vì họ không chịu khắc phục trạng thái tâm thức đó, nên họ đã suy luận là Giê-su đề cập đến chính mình, con người vỏ ngoài của Giê-su khi nói câu đó. Họ suy luận là con người Giê-su là con đường, sự thật, và sự sống và do đó là chìa khóa duy nhất dẫn tới cứu rỗi (John 14:6). Kỳ thực Giê-su không ám chỉ một sinh thể đặc biệt nào, thày nói đến người Con được tạo sinh thật sự của Cha, không phải là một con người mà là một trạng thái tâm thức hoàn vũ, là tâm thức Ki-tô hoàn vũ. Đây là trạng thái tâm thức mà Phúc âm của John gọi là Ngôi Lời. Ban đầu có Ngôi Lời, và Ngôi Lời là Thượng đế và chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.

7.5. Ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô

Con yêu dấu, chúng ta bây giờ đã tới điểm thày có thể giải thích cho con ý nghĩa thật của tâm thức Ki-tô, người Con trai duy nhất được sinh tạo, Ngôi Lời. Việc đầu tiên trong công trình sáng tạo của đấng Sáng tạo là ngài tạo ra Ánh sáng. Ánh sáng là một chất không có hình tướng, nhưng nó có tiềm năng khoác vào bất kể mọi hình tướng. Nó khoác vào hình tướng không do quyền năng nội tại của nó, nhưng chỉ khi nó được tác động bởi một lực bên ngoài, một sinh thể có tự nhận biết và quyền năng sáng tạo.

Lúc ban đầu, Thượng đế đấng Sáng tạo là lực duy nhất tác động lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Lẽ tự nhiên, tất cả những gì đấng Sáng tạo tạo ra đều hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý cơ bản mà đấng Sáng tạo đã thiết kế để tạo vật của ngài được lâu bền. Ta không cần quan tâm là đấng Sáng tạo có thể tạo ra những gì vi phạm các nguyên lý, các quy luật của chính ngài. Sau khi đấng Sáng tạo đã tạo ra thiết kế cơ bản của vũ trụ thì ngài quyết định tạo ra một số sinh thể có tự nhận biết là các phần nối dài của ngài nhưng chưa có toàn thể quyền năng sáng tạo của một Thượng đế. Mục đích là đấng Sáng tạo sẽ trở nên hơn nữa qua việc tạo ra những phần nối dài của chính mình. Khi con thăng vượt chính mình và nới rộng nhận biết và quyền năng sáng tạo của mình thì con khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Thiết kế nguyên thủy là các sinh thể có tự nhận biết đó khởi sự với quyền năng sáng tạo giới hạn. Khi họ nhân khả năng của họ lên bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với quy luật của Thượng đế, thì Thượng đế sẽ tưởng thưởng họ. Như Giê-su có nói: “Tốt lắm, con là người giúp việc tốt và trung thành: con đã trung tín trong một số ít việc, ta sẽ cho con cai quản nhiều chuyện.” (Matthew 25:21). Ý nghĩa nội tại của câu nói này là khi con chứng tỏ ý muốn nhân lên khả năng của con bằng cách đồng-sáng tạo một cách hài hòa với các quy luật của Thượng đế, thì ngài sẽ ban cho con quyền năng sáng tạo lớn hơn. Con có thể nâng tâm thức và khả năng sáng tạo của mình cho tới khi con tới điểm thành tựu hoàn toàn mà Giê-su đề cập tới khi nói: “Con là Thượng đế” (John 10:34).

Con đã được tạo ra với quyền năng sáng tạo giới hạn và một nhận biết giới hạn về toàn thể công trình sáng tạo của Thượng đế vì mục đích của Thượng đế là con du hành vào thế giới hình tướng và sử dụng quyền năng sáng tạo của mình trên một hành tinh nhỏ bé, như trái đất. Con sẽ dần dần nâng khả năng sáng tạo và nhận biết cho tới khi con vĩnh viễn thăng lên khỏi vũ trụ vật chất và trở thành một sinh thể bất tử trên thế giới tâm linh. Từ đó con có thể tăng trưởng thêm nữa và quả thật, sự tăng trưởng này sẽ tiếp diễn mãi mãi.

Khi Thượng đế tạo ra các sinh thể có tự nhận biết, trí tưởng tượng và ý chí tự do thì chuyện có thể xảy ra là các sinh thể này đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hoặc vì họ lãng quên hoặc vì họ cố ý không tuân thủ. Nếu họ không thể đi ngược lại quy luật của Thượng đế, thì họ không thực sự có ý chí tự do. Như vậy chuyện có thể xảy ra là một dòng sống có thể tạo ra một điều gì không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế và do đó sẽ không chỉ đưa tới sự tiêu hủy của dòng sống đặc trưng đó mà còn có thể đưa tới sự tiêu hủy của nhiều dòng sống khác, tùy theo quyền năng sáng tạo của dòng sống đó. Để tránh chuyện này xảy ra, Thượng đế đã thiết lập vào thiết kế của vũ trụ một cơ chế an toàn khác. Thánh kinh gọi cơ chế an toàn này là Ngôi Lời hay là người con duy nhất được tạo sinh của Cha, nhưng thày lại muốn gọi là tâm thức Ki-tô hoàn vũ.

Cơ chế an toàn này vận hành như sau. Dòng sống của con được thiết kế để là một người đồng-sáng tạo với Thượng đế. Con không có những quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo, con có quyền năng sáng tạo giới hạn hơn. Chúng chính yếu có cùng phẩm chất, nhưng không cùng số lượng với quyền năng sáng tạo của đấng Sáng tạo. Điều khác biệt là đấng Sáng tạo là cái Tất cả và do đó ngài sáng tạo từ trong chính mình. Trong khi đó, con là một cá nhân do đó con không là, ít ra thì con chưa là, cái Tất cả. Con sáng tạo từ bên trong tạo vật mà đấng Sáng tạo đã tạo ra. Cơ chế an toàn của Thượng đế quy định là một người đồng-sáng tạo chỉ có thể tạo ra một cái gì bền vững khi người đó sáng tạo xuyên qua trung gian của tâm thức Ki-tô.

Tâm thức Ki-tô là một nhận biết về các quy luật của Thượng đế không bao giờ bị tha hóa. Tâm thức Ki-tô lúc nào cũng là một với Cha và các quy luật của Cha. Khi Giê-su đạt được tâm thức Ki-tô thì thày kêu lên: “Ta và Cha ta là một” (John 10:30). Khi con, như một dòng sống cá biệt, có nhận biết về cái Tất cả và những quy luật của Thượng đế, thì con nhận ra cá nhân mình không phải là người hành động thật, người tạo tác thật. Như Giê-su có nói: “Tự ta không làm được gì” (John 5:30) và “nhưng Cha ở trong ta, ngài làm công việc” (John 14:10). Giê-su biết người làm việc thật, người sáng tạo thật không phải là con người vỏ ngoài, con người vật lý, thậm chí không phải là tâm vỏ ngoài, cái nhân cách được gọi là Giê-su Ki-tô. Người đang thực sự sáng tạo là phần cao hơn của bản thể của Giê-su, một cá thể hóa của Thượng đế được tập trung thành Hiện diện TA LÀ. Hiện diện đó sáng tạo bằng cách sử dụng năng lượng và các quy luật của Thượng đế để tạo ra hình tướng.

Tâm thức Ki-tô luôn luôn biết là tự nó không là quy luật, mà nó là một đồng-sáng tạo cùng với Thượng đế, nó là một thành phần của một cái gì lớn hơn. Thượng đế đã thiết kế một số nguyên lý hướng dẫn sự tăng trưởng của mọi sự trong vũ trụ, và tâm thức Ki-tô biết rằng khi con sáng tạo một cách hài hòa với các nguyên lý đó, thì tạo tác của con sẽ bền vững và sẽ khuếch đại tổng thể. Khi con đánh mất nhận biết về các nguyên lý đó, thì lực co thắt của Đấng Mẹ sẽ khiến tạo vật của con tự tiêu hủy và điều này cũng có tiềm năng tiêu hủy một số phần khác của tổng thể.

Khi con ở trong tâm thức Ki-tô thì con không thể rơi vào trạng thái tâm thức thấp trong đó con tách mình ra khỏi Thượng đế và các quy luật của ngài, con quên mất những quy luật mà Thượng đế đã đặt vào các phần nội tại của con và do đó con coi mình là quy luật. Với tâm thức Ki-tô, con không bao giờ tin vào hiểu biết của thiện ác tương đối qua đó con tự quy định các nguyên lý của riêng mình và nghĩ rằng con sẽ không chịu hậu quả khi con thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà không đếm xỉa đến ảnh hưởng trên tổng thể. Cơ chế an toàn này khiến con không thể mãi mãi quên mình là ai, mình từ đâu tới, và những quy luật mà đấng Sáng tạo đã quy định.  

Trạng thái tâm thức Ki-tô là trạng thái tự nhiên của mọi dòng sống do đấng Sáng tạo tạo ra. Vì Thượng đế đã ban cho con trí tưởng tượng và quyền tự quyết, chuyện có thể xảy ra là con quên mất trạng thái nhận biết tự nhiên này và qua đó con rơi vào tâm thức nhị nguyên, trạng thái tách biệt nơi con không còn biết cội nguồn thật của mình. Con cũng có thể tới điểm tin rằng con là một phàm nhân sinh diệt bị một Thượng đế đầy giận dữ kết tội phải sống một cuộc đời đầy đau đớn khổ đau và con không đủ uy lực nội tại để tự mình cải sửa tình trạng này.

7.6. Thế giới hình tướng cho phép con người đi ngược lại quy luật của Thượng đế

Sau đây là sự khác biệt chính yếu mà Thượng đế đã tạo ra khi ngài quyết định tạo ra các sinh thể có tự nhận biết. Ánh sáng Mẫu-Vật, Ánh sáng Mẹ, là cái mà các khoa học gia gọi là năng lượng. Năng lượng là một rung động và con có thể bắt đầu ở tầng rung động thấp của cõi vật chất và đi dần lên các tầng rung động cao hơn của cõi tâm linh cho tới khi con đạt tới rung động cao nhất của ánh sánh tinh khiết của chính Thượng đế. Ánh sáng đó có độ rung cao đến độ không thể có hình tướng nào hiện hữu. Không có hình tướng nào mà ta có thể phân biệt trong ánh sáng tâm linh thuần khiết. Làm sao hình tướng thành hình? Nó thành hình khi một tâm có tự nhận biết áp chồng một hình ảnh, một khuôn đúc lên ánh sáng thuần khiết và qua đó khiến nó mang vào một độ rung thấp hơn trạng thái nền của nó. Để làm chuyện này, sinh thể có tự nhận biết phải hình dung một hình tướng và sau đó dùng uy lực của tâm để áp chồng hình tướng đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Sau đây là cơ cấu an toàn cơ yếu. Chỉ khi dùng tâm thức Ki-tô, chỉ qua trung gian của tâm thức Ki-tô, thì người đồng-sáng tạo mới có thể áp chồng một hình ảnh lên Ánh sáng Mẫu-Vật thuần khiết. Chỉ một hình ảnh hài hòa với các quy luật của đấng Sáng tạo mới ảnh hưởng được Ánh sáng Mẫu-Vật.

Điều này bảo đảm là chỉ những người có tâm thức Ki-tô mới có thể tạo tác một cái gì cân bằng và bền vững. Ánh sáng Mẫu-Vật có tự trong nó một cơ chế an toàn khác, đó là nó luôn luôn muốn trở về trạng thái nền của nó. Khi một hình tướng được tạo ra trong sự hài hòa với các quy luật do đấng Sáng tạo quy định thì hình tướng đó thuộc Dòng sông sự Sống, có nghĩa là nó thuộc vào tiến trình tự thăng vượt không ngừng. Một hình tướng chỉ bền vững khi nó tự thăng vượt vì tăng trưởng là quy luật cơ bản của sự sáng tạo. Một hình tướng không hài hòa với các quy luật của Thượng đế, không tự thăng vượt và không có cân bằng giữa lực lan ra và lực co thắt, sẽ dần dần bị phá hủy bởi lực co thắt sẵn có trong Ánh sáng Mẫu-Vật, là lực đem tất cả các tạo vật không quân bằng trở về trạng thái nền. Tất cả các hình tướng được tạo ra dựa trên một hình ảnh khô chết, một hình ảnh không tự thăng vượt, sẽ không thể tránh bị lực co thắt hủy diệt. Chính lực co thắt khiến hình tướng có thể được tạo ra, nhưng nếu con dính mắc vào hình tướng – nếu con bắt đầu tôn thờ hình ảnh khô chết và từ chối tự thăng vượt – thì con bước ra ngoài Dòng sông sự Sống và rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt. Con chỉ có thể duy trì tình trạng bất quân bình đó trong một thời gian vì khi một hình tướng rơi vào ảnh hưởng của lực co thắt – khi không được lực lan ra cân bằng – thì nó sẽ không thể tránh bị hủy diệt. Sự tha hóa của lực của Mẹ sẽ dẫn tới tự hủy diệt.

Trong những tầng cao nhất của vũ trụ tâm linh chỉ có những sinh thể có tâm thức Ki-tô hoàn toàn. Họ đã tạo ra những bầu cõi đẹp đẽ đến độ không ai trên trái đất có thể tưởng tượng nổi. Một số người có phước lành được ban thị giác tâm linh hay thần bí, hay đã trải qua kinh nghiệm cận tử, đã được thấy vẻ đẹp và sự toàn hảo của các cõi tâm linh hay ít ra là một số các cõi đó. Những ai chứng kiến được cảnh đó thấy rằng điều hiển nhiên là chỉ một sinh thể với một trạng thái tâm thức cao hơn rất nhiều trạng thái bình thường trên trái đất mới có khả năng tưởng tượng, hình dung những vẻ đẹp và sự toàn hảo như vậy. Con chỉ có thể tồn tại trên thiên đàng, trong cõi tâm linh khi con ở trong tâm thức Ki-tô. Trong thế giới thiên đàng con chỉ thấy những sinh thể ở trong tâm thức Ki-tô. Điều này không có nghĩa là các sinh thể trên thiên đàng không có tự do sáng tạo, vì sự thật là trong khuôn khổ quy luật của Thượng đế con không có giới hạn nào trong việc sử dụng quyền năng sáng tạo của mình.

Một sinh thể trên thiên đàng vẫn có thể chọn lựa đi ngược lại những nguyên lý sáng tạo mà đấng Sáng tạo của thế giới này đã quy định. Nếu sinh thể trên thiên đàng làm như vậy thì sinh thể đó không thể tiếp tục ở trên thiên đàng mà phải xuống một cõi thấp hơn. Đây chính là lý do vì sao cõi vật chất được thành hình. Sau khi Thượng đế và các đại diện của Thượng đế tạo ra một số tầng trên cõi thiên đàng thì đấng Sáng tạo thể hiện một tầng mới của tạo vật của ngài. Tầng này được cấu tạo bởi những năng lượng thấp hơn tất cả các năng lượng trong cõi tâm linh. Các sinh thể đã chọn đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế có thể cư ngụ nơi tầng đó. Những sinh thể này lúc đó có một nơi để thực thi những quyền năng sáng tạo của họ và nhận lãnh hậu quả của hành động của họ cho tới khi họ chán chê trải nghiệm bị giới hạn và rốt cuộc trở về với Thượng đế và nói: “Ôi đấng Sáng tạo của con, con muốn trở về nhà.”

Vũ trụ vật chất quả thật đã được các đại diện của Thượng đế tạo ra, và họ đã sử dụng tâm thức Ki-tô để hình dung một tạo vật cân bằng và hài hòa. Sau đó họ áp chồng viễn quan đó lên Ánh sáng Mẫu-Vật qua đó nó mang vào một rung động thấp hơn tất cả các rung động có thể tìm thấy trong cõi tâm linh. Mặc dù vũ trụ vật chất được tạo ra bởi những sinh thể có tâm thức Ki-tô toàn hảo, nhưng vũ trụ vật chất được thiết kế để những sinh thể không hoàn toàn có tâm thức Ki-tô có thể sinh sống nơi đó. Đó là lý do vì sao Ánh sáng Mẫu-Vật được dùng để tạo ra vũ trụ này có thể được uốn nắn dễ dàng thành hình tướng không đứng thẳng hàng với những nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Những hình tướng này sẽ không tự hủy diệt ngay tức khắc như khi trên cõi tâm linh. Chúng có thể tồn tại tạm thời và sẽ chỉ bị tiêu hủy sau một khoảng thời gian.

Đây là một khái niệm rất vi tế mà thày biết nhiều người sẽ coi là trừu tượng. Các con sẽ được lợi lạc khi kéo giãn tâm mình để hiểu nó. Trên cõi tâm linh, trí thông minh nội tại trong Ánh sáng Mẫu-Vật khiến các hình tướng bất toàn và bất quân bình không thể nào tồn tại trong bất cứ khoảng thời gian nào. Bất cứ gì không hài hòa với quy luật Thượng đế sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc do lực co thắt của Mẹ. Trong vũ trụ vật chất, lực co thắt của Mẹ đã được điều chỉnh để các hình tướng bất toàn không tự hủy diệt ngay tức khắc, chúng quả thật có thể tồn tại một thời gian. Các khoa học gia đã khám phá ra quy luật này và gọi nó là định luật thứ nhì của nhiệt động học, cho rằng tất cả các hình tướng bất toàn rốt cuộc sẽ tan rã. Vũ trụ cho phép các sinh thể tự nhận biết đã vì vô minh hay cố ý đi xuống những tầng tâm thức thấp có cơ hội học hỏi bằng cách trải nghiệm hậu quả của hành động của họ. Những sinh thể này sẽ không thể tránh tạo ra những thứ không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Khi họ làm vậy thì họ sẽ không tạo ra cuộc sống dồi dào mà con tìm thấy trên cõi tâm linh. Họ sẽ tạo ra tình trạng thiếu thốn và giới hạn. Thượng đế hy vọng là khi các sinh thể này trải nghiệm những giới hạn, đau đớn và khổ đau mà họ đã tạo ra, thì họ sẽ rốt cuộc chán ngán trải nghiệm đó và do đó tự nguyện trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế.

Giờ đây thì chúng ta thấy sự khác biệt. Nếu một sinh thể trên cõi tâm linh quyết định nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế thì tất cả những gì sinh thể đó tạo ra sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Nếu sinh thể đó không có nơi nào khác để đi tới thì sinh thể đó sẽ tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó sẽ học được gì từ trải nghiệm đó? Nếu sinh thể đó bị hủy diệt, thì không thể có sự học hỏi. Thượng đế đã thiết lập một vũ trụ trong đó một sinh thể có thể đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế mà không tự hủy diệt ngay tức khắc. Sinh thể đó có thể tồn tại, tiếp tục có nhận biết. Sinh thể đó có thể hiện hữu trong cõi vật chất, và trong vũ trụ đó sinh thể đó sẽ trải nghiệm quả trái của hành động của mình, sẽ gặt những gì y đã gieo. Khi làm vậy thì sinh thể đó có tiềm năng học hỏi rằng khi y tuân theo các quy luật của Thượng đế thì y sẽ khuếch đại cuộc sống của mình và cuộc sống của tất cả các sinh thể khác. Khi y đi ngược lại những quy luật này, y giới hạn chính cuộc sống của mình và cuộc sống của người khác. Luật Tự quyết được tôn trọng vì sinh thể có tiềm năng đi ngược lại các quy luật của Thượng đế, và qua đó trải nghiệm sự đau đớn, giới hạn và thiếu thốn, cho tới khi y chán ngán trải nghiệm đó và quyết định trở về đứng thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế và tái tạo cuộc sống dồi dào là kế hoạch nguyên thủy của Thượng đế.

Sự khác biệt quan trọng là nếu con muốn tạo cái gì bền vững và nâng cao cuộc sống của mình và cuộc sống của mọi người trên trái đất, thì con phải sáng tạo từ tâm thức Ki-tô. Khi con không sáng tạo từ tâm thức Ki-tô, thì những gì con sáng tạo sẽ giới hạn quyền năng sáng tạo của con và khiến con trải nghiệm giới hạn, thiếu thốn, đau đớn và khổ đau. Đau đớn và khổ đau xảy ra vì những gì con sáng tạo với trạng thái tâm thức thấp sẽ không tự thăng vượt. Chúng sẽ dựa trên một hình ảnh khô chết, là một hình ảnh không tăng trưởng. Nó không thể bền vững – nó sẽ không có sự sống vĩnh viễn – và do đó lực co thắt của Mẹ sẽ bắt đầu phá vỡ các hình tướng mà con đã tạo ra. Mặc dù tiến trình này sẽ mất một chút thời gian, nhưng nó là một tiến trình không thể tránh được và không thể đảo ngược được khi con ở trong trạng thái tâm thức thấp. Con chỉ có thể đảo ngược nó khi con vươn lên tâm thức Ki-tô.

Trên cõi tâm linh, các khái niệm không gian và thời gian không giống như trên trái đất. Khi con ở trên thiên đàng thì con ở trong tâm thức Ki-tô, và trong tâm thức Ki-tô con thấy mình là một với cái Tất cả. Khi con là một với cái Tất cả, thì có thể nói là con ở mọi nơi trong tâm thức của Thượng đế. Nếu con, như một dòng sống cá biệt, có tiềm năng mở rộng nhận biết của mình và ở khắp nơi trong tâm thức của Thượng đế, thì lẽ tất nhiên khái niệm không gian mang một ý nghĩa khác. Trên trái đất con trải nghiệm không gian như một giới hạn. Ý niệm tự nhận biết của con tập trung vào thân thể vật lý của con, hiện đang sống trên hành tinh gọi là trái đất, một hành tinh giống như một giọt nước trong đại dương vô tận. Khi con còn đồng hóa mình với thân thể thì ý niệm bản sắc của con bị giới hạn bởi không gian. Nó chỉ hiện hữu “ở đây”, nó tập trung vào thân thể đang ở trên hành tinh, và do đó con không thể ở mọi nơi cùng một lúc. Đây quả thật là một giới hạn trong tâm con thay vì là một giới hạn thật và không thể tránh. Thân thể vật lý của con không thể ở khắp nơi trong vũ trụ vật lý, nhưng tâm con không bị giới hạn bởi thân vật lý.

Khi con ở trong cõi tâm linh, con là một phần của Dòng sông sự Sống đang di động không ngừng và là toàn thể tạo vật của Thượng đế, là Bản thể của Thượng đế. Khi con di động cùng với Dòng sông sự Sống thì thời gian không có cùng nghĩa với thời gian trên trái đất. Trên trái đất, thời gian là một giới hạn khiến con trụ vào giây phút hiện tại. Thời gian đặt giới hạn cho cuộc sống của con vì thân thể vật lý dày đặc của con bị giới hạn trong khoảng thời gian mà nó có thể tiếp tục hiện hữu. Như Giê-su đã cố gắng cho nhân loại thấy, cái chết thậm chí là một ảo tưởng mà ta có thể khắc phục qua tâm thức Ki-tô.   

Ta có thể nói là những tọa độ của thời gian và không gian tối hậu không có thật. Chúng là sản phẩm của sự kiện vũ trụ vật chất cho phép các sinh thể tự nhận biết sáng tạo những gì không thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế. Con càng tách mình ra khỏi sự thẳng hàng là Một với Thượng đế và thẳng hàng với các quy luật của Thượng đế, thì con càng giới hạn mình, con càng giới hạn nhận biết của mình vào một địa điểm trong không gian. Con càng tách mình khỏi sự nhận biết mà các dòng sống đã có trước khi có sự Sa ngã và con càng xa rời Dòng sông sự Sống thì con càng giới hạn mình vào một lúc trong thời gian và ý niệm bản sắc của con càng tập trung vào thân thể vật lý và cuộc đời quá ư ngắn ngủi. Cuộc sống của thân thể vật lý ngắn đến độ chỉ cần dùng lý thường tình cũng thấy là không thể nào Thượng đế lại có thể thiết kế để con chỉ sống 70 năm và sau đó ngưng hiện hữu như một sinh thể có tự nhận biết.

7.7. Con lúc nào cũng có thể trở về với Thượng đế

Thày cố ý khởi đầu với một số khái niệm rất khó và trừu tượng vì chỉ khi con thiết lập một nền móng thì con mới thực sự có thể giải thoát mình khỏi tâm thức nhị nguyên đang ngăn cản con có được cuộc sống dồi dào. Để thoát được tâm thức nhị nguyên đó, con cần có tầm nhìn rộng hơn mà trên trái đất này giáo hội Cơ đốc giáo chính thống hay khoa học duy vật không cung cấp. Để thiết lập một nền móng thích đáng cho phép con theo con đường mà thày cống hiến thì thày phải cho con tầm nhìn rộng hơn. Thày phải mang con ra khỏi khu rừng để con có thể thấy quá các thân cây và thấy toàn khu rừng – và do đó hiểu được là thế giới của con đã được tạo ra với mục đích gì. Con hiểu được là dòng sống của con, tâm thức của con, ý niệm bản sắc của con, không chỉ giới hạn vào thế giới vật chất với những giới hạn, đau đớn và khổ đau. Con có một chọn lựa khác. Con có cơ hội vượt lên trên những giới hạn của tâm thức hiện tại, ý niệm bản sắc hiện tại của con. Con có thể vươn lên cao hơn và xây dựng một ý niệm bản sắc mới thẳng hàng với thiết kế thật của bản thể con.

Con yêu dấu, con cảm được sự thiết tha của thày chăng? Điều thày muốn truyền giảng cho con là nhân loại có một hiểu biết rất giới hạn về nguồn gốc của mình, một hiểu biết không bao gồm thực tại của con người mà con là. Khoa học và đa số các tôn giáo hiện nay đều không cho con một hiểu biết thực con là ai, con từ đâu tới và tại sao con ở đây. Nếu con không biết con là ai thì làm sao con có thể hiểu được mục đích con tới trái đất là gì? Nếu con không biết mục đích này, thì làm sao con có thể hy vọng đứng thẳng hàng trở lại với những ước muốn nguyên thủy đã khiến con tới vũ trụ này?

Thày đã cho con biết về Luật Tự quyết. Trái với hình ảnh một Thượng đế giận dữ và muốn trừng phạt mà một số tôn giáo đã mô tả, Thượng đế không giận dữ và không bao giờ trừng phạt ai. Đấng Sáng tạo có tình thương vô điều kiện đối với từng người con trai con gái của ngài, và tình thương vô điều kiện này có thể thấy rất rõ trong Luật Tự quyết cho phép con đi ngược lại các nguyên lý sáng tạo nguyên thủy, thiết kế nguyên thủy mà đấng Sáng tạo có trong tâm ngài khi ngài tạo tác thế giới hình tướng, khi ngài tạo tác con. Chỉ một Thượng đế thương yêu vô điều kiện mới cho phép con đi ngược lại những quy luật của ngài qua đó con chối bỏ cuộc sống dồi dào và tạo ra trạng thái đau đớn và khổ đau thấp hơn rất nhiều những gì đấng Sáng tạo đã hình dung cho con.

Nếu Thượng đế quả thật là một bạo chúa giận dữ thì ngài đã ngăn cản không cho con làm như vậy. Nếu Thượng đế quả thật là một Thượng đế trừng phạt thì ngài đã trừng phạt con bằng cách tiêu hủy con ngay giây phút con bước ra ngoài các quy luật của ngài. Thượng đế của con là một Thượng đế thương yêu. Tình thương nguyên thủy của Thượng đế cho con, được giữ trong tim Thượng đế, không bị giảm thiểu chút nào bởi sự kiện con tạm thời chọn lựa quay lưng lại Thượng đế, chối bỏ cuộc sống dồi dào và thay vào đó tạo cho mình trạng thái giới hạn và khổ đau. Thượng đế thương yêu con y như lúc dòng sống của con được sinh tạo lúc ban đầu. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và bất kể những gì con đã làm trên trái đất, con sẽ không bao giờ mất đi tình thương đó.

Vì con có quyền tự quyết, con có thể chối bỏ tình thương của Thượng đế. Vì con có trí tưởng tượng vô biên, con có thể tạo ra một hình ảnh giả về Thượng đế mô tả ngài như một Thượng đế giận dữ và trừng phạt, và con có thể chấp nhận hình ảnh này là sự thực tuyệt đối về Thượng đế. Con có thể chấp nhận là con không xứng đáng được nhận tình thương của Thượng đế và con bị kết án phải sống mãi mãi trong trạng thái giới hạn và khổ đau hiện tại, trạng thái tách biệt khỏi tình thương và sự dồi dào của Thượng đế. Đây là quyền của con, nhưng ngay khi con quyết định là con không muốn nắm giữ ý niệm bản sắc giới hạn đó nữa, không muốn chối bỏ sự dồi dào của Thượng đế nữa, thì Thượng đế sẵn sàng đưa con trở lại vương quốc của ngài và cho con cuộc sống dồi dào mà lúc nào con cũng được quyền có. Con chỉ cần theo những nguyên lý sáng tạo của ngài để thể hiện sự dồi dào đó vào trải nghiệm sống của con.

Thượng đế đã cho con quyền tự quyết. Thượng đế đã cho con quyền đi ngược lại các quy luật của ngài nếu con muốn. Thượng đế thậm chí thiết kế cả một vũ trụ để con có thể đi ngược lại các quy luật của ngài mà vẫn giữ được nhận thức và ý niệm cá thể, qua đó con có thể trải nghiệm hậu quả của hành động của mình, trải nghiệm thực tại giới hạn mà con đã tạo ra cho mình. Mặc dù Thượng đế cho phép chuyện này, nhưng Thượng đế lúc nào cũng giữ niềm hy vọng là – một ngày kia – con sẽ quyết định ngưng trốn chạy sự dồi dào của ngài. Con sẽ ngưng giới hạn chính mình. Con sẽ ngưng chối bỏ tiềm năng sáng tạo của mình, tiềm năng thiêng liêng trở thành một Thượng đế thực sự, một người đồng-sáng tạo thực của Thượng đế. Thượng đế hy vọng là con sẽ trở về nhà và trở thành một người đồng-sáng tạo có ý thức của Thượng đế để con biết mình là ai, con từ đâu tới. Con thực thi những quyền năng sáng tạo của mình một cách có ý thức với mục đích không chỉ thỏa mãn những ham muốn vị kỷ của mình mà còn khuếch đại toàn thể tạo vật của Thượng đế qua đó con là một phần của Dòng sông sự Sống, là cái gì thực sự quá diệu vợi đến độ nó vượt quá tầm hiểu biết của đa số con người trên trái đất.

Con yêu dấu, thày ở đây như là một đại diện của Thượng đế Cha. Trong quá khứ thày đã chọn xuống trái đất và khoác vào một thân thể vật lý dày đặc. Thày đã chọn thăng thiên trở lại vào cõi tâm linh để chứng minh là con người có thể nâng mình lên trên các giới hạn nhân phàm, kể cả kẻ thù cuối cùng gọi là cái chết. Vì thày đã chọn hòa nhập với tâm thức của Mẹ Thượng đế, nên thày tới đây như là bà Mẹ thương yêu không có ước mong gì hơn là thấy các con của mình được hưởng những điều tốt lành nhất. Đó là lý do vì sao thày đã tới đây để cống hiến con một con đường chân chính, thật và lâu bền vĩnh viễn có thể dẫn con trở về vương quốc của Cha, là vương quốc, như Giê-su đã nói, ở bên trong con và chính là tâm thức của con. Quả thực tâm thức chính là nơi con quyết định là con sẽ trải nghiệm cuộc sống dồi dào của vương quốc Thượng đế hay con sẽ trải nghiệm cuộc sống không mấy dồi dào tạo ra bởi những người đã đánh mất nhận biết về vương quốc Thượng đế, đánh mất nhận biết về bản sắc thật và quyền năng sáng tạo của họ. Thay vì là những người đồng-sáng tạo có ý thức của vương quốc dồi dào của Thượng đế, thì họ đã trở nên những người đồng-sáng tạo vô ý thức của vương quốc thiếu thốn.

Thượng đế đã cho con quyền năng sáng tạo vô biên, theo nghĩa là con không thể khóa nó lại. Ngay cả khi con đánh mất nhận biết về các quy luật của Thượng đế, thì con vẫn tiếp tục đồng-sáng tạo và đó là lý do vì sao luật pháp tại đa số các quốc gia có câu: “Không thể viện cớ không biết luật”. Ngay cả khi con không biết các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, con vẫn sáng tạo qua quyền năng của tâm. Khi con dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình ảnh bất toàn và bất quân bình, thì con áp chồng những hình ảnh này lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Ánh sáng Mẫu-Vật trải bày những hình ảnh này, và đó là lý do vì sao con trải nghiệm giới hạn, đau đớn và khổ đau trong thế giới vật lý trên trái đất.

Thày đã cho con hình ảnh tổng quát về thực tại đời sống trên trái đất. Thể nào cũng có nhiều chi tiết cần được bổ sung. Nếu con chịu chiêm nghiệm điều thày giảng ở đây và ở trong những chìa khóa kế tiếp, thì con sẽ thấy vươn lên trên tất cả các giới hạn nhân phàm là điều khả thi. Điều khả thi là con bước ra ngoài sa mạc của giới hạn nhân phàm cho tới khi con đứng bên bờ Dòng sông sự Sống, là dòng dồi dào luôn luôn tuôn chảy của Thượng đế. Điều khả thi là con buông bỏ, từ bỏ hoàn toàn trạng thái tâm thức giới hạn dựa trên tách biệt và nhị nguyên. Con một lần nữa lại có thể trầm mình vào Dòng sông sự Sống và trở thành một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Khi đó không có nghĩa là con mất đi cá tính của mình. Ngược lại, con lấy lại cá tính thật của mình – thay vì cá tính giả có giới hạn mà con đã tạo dựng trong hành trình trên trái đất. Một khi con giành lại cá tính thật của mình thì con biết con không phải là một người phàm, giới hạn, sinh diệt, là một người mà bản chất là tội đồ. Trái lại con thực sự là một con trai hay con gái của Thượng đế và con có tiềm năng đồng-sáng tạo vương quốc của Thượng đế ngay đây trên trái đất. Con không những sẽ khuếch đại cuộc sống của riêng mình mà còn khuếch đại cuộc sống của tất cả mọi người cho tới khi hành tinh này được nâng lên và trải bày cùng một sự toàn hảo, cân bằng và hài hòa mà ta tìm thấy trên cõi tâm linh. Đây là ý nghĩa thật của câu đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất.

Nếu con mở tâm đón nhận những lời giảng của thày, thì có sác xuất rất cao con đã xuống trái đất với mục đích đặc trưng đem lại vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này. Con tới đây không phải vì con đã nổi loạn chống lại ý chí của Thượng đế trong một cõi khác, nhưng con tới đây vì con mong muốn đem lại vương quốc của Thượng đế trên trái đất. Con tới đây với một sứ mệnh cứu vãn, để là một tấm gương cho những anh chị em của con đã nổi loạn chống lại quy luật của Thượng đế và do đó đi lạc đường. Con tới đây với lòng thương yêu muốn thấy Ánh sáng Mẫu-Vật được giải thoát khỏi những hình ảnh bất toàn mà sa nhân đã áp chồng lên nó, để Ánh sáng Mẫu-vật được tự do trải bày sự toàn hảo và vẻ đẹp mà con biết là tiềm năng thật của nó.

Con yêu dấu, nếu con vì lòng thương yêu mà tới đây thì con sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Nếu con tới đây vì những lý do khác, nhưng đã chán ngán đi ngược lại quy luật của Thượng đế và đã kết nối lại với tình thương Thượng đế trong lòng mình, thì con cũng sẽ biết sự thực mà thày nói tới. Con sẽ biết điều này nếu con chú tâm vào tim mình và cảm thấy một sự khuấy động, một rung động, thậm chí những làn sóng ánh sáng tràn vào con và chứng minh cho con là những lời thày nói trong khóa học này, những lời nói bên ngoài con, đang rung động hoàn toàn cộng hưởng với điều gì đó trong tim con.

Trong các bài kế tiếp, thày sẽ giảng cái đó là cái gì nhưng bây giờ thì thày yêu cầu con chú tâm vào điểm giữa ngực, cùng độ cao với trái tim vật lý của con, và cảm nhận là những lời thày giảng đã khuấy động điều gì đó nơi con. Nếu con cảm thấy sự khuấy động này, thì con biết là con đã trên đường trở về sự toàn vẹn của người đồng-sáng tạo có ý thức mà con đã được thiết kế để là ngay từ thuở ban đầu. Con sẽ biết con đường mà thày cống hiến là thật. Khi chúng ta đi tiếp vào những chương kế tiếp thì con sẽ thấy con đường đó trải bày ra. Điều này sẽ cho con một niềm hy vọng mới, một hướng đi mới, một mục đích mới, và cảm nhận lòng thương yêu đấng Sáng tạo, tất cả sự sống và cái Ta của con như một thành phần của Dòng sông sự Sống.

5 | Tích cực nhận sự dồi dào

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 6/4/2005.

5.1. Vương quốc Thượng đế ở bên trong con

Thày ý thức là những gì thày nói con trong những chìa khóa đầu này vượt xa những gì trường Giáo lý ngày chủ nhật dạy con. Nó vượt xa những gì bất kỳ tôn giáo chính thống nào trên hành tinh này dạy con. Thày cũng ý thức là những ai mở tâm ra với khóa học này đã bắt đầu nhận ra, sâu trong tim họ, là có gì nhiều hơn trong cuộc sống so với những điều họ được dạy trong trường hay trường Giáo lý ngày chủ nhật. Họ đã sẵn sàng nhìn quá các hộp tư duy truyền thống để tìm ra giải đáp cho những câu hỏi của họ về cuộc sống. Tuy thế, chúng ta cần giải quyết một sự kiện đơn giản là nhiều tôn giáo trên thế giới đề xướng hình ảnh một Thượng đế ở bên ngoài con, như một sinh thể xa xôi tít trên trời cao. Đáng tiếc nữa là một số tôn giáo, đặc biệt ở phương Tây, miêu tả Thượng đế như một sinh thể giận dữ và phán xét.

Một số thẩm quyền tôn giáo tự đặt mình trong vị thế cho mình quyền phê phán bất cứ ai không tuân theo những gì họ tin tưởng là giáo lý thật duy nhất về Thượng đế. Nhiều người trong số những người này nhanh chóng phán xét người khác và nói rằng những ai nói lên ý kiến không đúng theo cách diễn giải Thánh kinh của họ thì những người đó phỉ báng Thượng đế hay là đại diện của phản Ki-tô. Thậm chí họ cũng nói thế về những vị thày tâm linh chân chính của nhân loại, chính là những Sinh thể đã cống hiến cuộc đời của họ để giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của mọi hình tượng khô chết. Cốt lõi của bất cứ hình thức phỉ báng Thượng đế là chối bỏ Thượng đế. Hình ảnh Thượng đế được nhiều tôn giáo đề xướng dựa trên một sự chối bỏ Thượng đế rất tinh vi. Bất kỳ tôn giáo nào đề xướng một hình ảnh Thượng đế ở bên ngoài và tuyên bố rằng đây là tất cả những gì con người cần biết về Thượng đế, hoặc đây là hình ảnh thật duy nhất về Thượng đế thì họ thực sự đang đề xướng một triết lý bắt nguồn từ sự chối bỏ Thượng đế. Thật là đáng tiếc vô cùng khi nhiều giáo hội Cơ đốc quả thực đề cao hình ảnh một Thượng đế bên ngoài này, một Thượng đế giận dữ ngự trên trời.

Nếu người Cơ đốc chịu đọc Thánh kinh kỹ hơn với tâm cởi mở và con tim, thì họ sẽ thấy chính Giê-su đã nói về một Thượng đế không ở bên ngoài. Giê-su nói về một Thượng đế mà cá nhân con có thể biết đến và thày gọi Thượng đế đó là “Cha”. Giê-su cũng trích câu trong Cựu ước Kinh: “Các ngươi là Thượng đế” (John 10:34) và thày tuyên bố là mọi người không nên đi tìm vương quốc Thượng đế bên ngoài họ bởi vì vương quốc Thượng đế ở bên trong họ (Luke 17:21). Nếu con thêm vào đó sự kiện Phúc âm John tuyên bố rõ ràng là muôn vật được Thượng đế làm nên, chẳng vật chi được làm nên mà không bởi ngài (John 1:3), thì con thấy là có một cách hiểu rộng hơn về Thượng đế đang chờ con đằng sau hình ảnh một Thượng đế bên ngoài ở trên trời.

Chỉ những ai sẵn sàng buông bỏ hình ảnh thần tượng một vị Thượng đế bên ngoài mới có thể biết được Thượng đế thực. Thượng đế này không thể biết được qua giác quan bên ngoài hay qua trí năng nhân phàm. Thượng đế này chỉ biết được qua nội giác của trực giác cũng là tâm ngây thơ, chính là chìa khóa của mọi trải nghiệm tâm linh hay thần bí. Qua trải nghiệm này, con có thể biết thực tại của Thượng đế, con có thể biết Hiện diện của Thượng đế ngay bên trong con, như Giê-su đã hứa rõ ràng. Chân lý mà Giê-su giảng là: con là con cái của Thượng đế, con là con trai hay con gái của Thượng đế, con là một phần của Thượng đế đã được cá thể hóa. Chân lý này đã bị che mờ bởi học thuyết chính thống. Con được sinh tạo theo hình ảnh của Thượng đế và giống ngài và chìa khóa để tìm ra bản sắc thật của con là đi vào nội tâm và nối kết với cái ta cao của con, cái ta tâm linh của con hay cái mà chúng tôi gọi là “Hiện diện TA LÀ.” Thày thích tên này vì chính Hiện diện này cho con tự nhận biết cho phép con biết “con là”.

Trước khi con có thể tới điểm chấp nhận hoàn toàn con là ai và tại sao con ở đây trên trái đất, con cần buông bỏ hình ảnh một Thượng đế bên ngoài. một Thượng đế là đấng Sáng tạo Toàn năng đã sinh tạo trời và đất và Thượng đế đó là một Sinh thể có tự nhận biết. Hình ảnh mô tả Thượng đế như một Sinh thể có một hình tướng đặc thù, ngự trên một thế giới cao nào đó là một hình tượng khô chết giới hạn thực tại của đấng Sáng tạo của con. Đấng Sáng tạo của con không thể bị giam hãm trong một sinh thể đặc thù ngự trên cõi cao đó và lý do thật giản dị. Như Phúc âm John viết: “Muôn vật bởi Ngài làm nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.” (John 1:3), có nghĩa là đấng Sáng tạo sinh tạo mọi vật từ chính chất liệu và Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong mọi vật mà ngài đã sinh tạo. Để con có thể hoàn tất vai trò đúng đắn của con như người đồng-sáng tạo, con cần khắc phục tâm thức tách biệt chối bỏ Thượng đế nơi con đang là – và sự chối bỏ này thực là tâm thức phản Ki-tô, là nguồn gốc của mọi sự phỉ báng Thượng đế.

5.2. Tâm thức tách biệt đã khiến con người bất nhân với nhau

Trong nhiều ngàn năm con người đã bị lập trình để tôn thờ một Thượng đế hiện hữu đâu đó trên trời nhưng không tìm thấy được trên trái đất. Họ được nuôi dạy với cái nhìn nhị nguyên về Thượng đế nói rằng họ ở đây và Thượng đế ở đâu đó chỗ nào khác. Con bị tách khỏi Thượng đế bởi một rào cản không thể xuyên thủng và cách duy nhất con được cứu rỗi và trở về vương quốc Thượng đế là tuân theo những mệnh lệnh của một tôn giáo vỏ ngoài sẽ cứu rỗi con và đưa con về nhà.

Mục tiêu chính của Giê-su là phá tan hình ảnh Thượng đế bên ngoài này. Thày đến để giúp con người ngưng thờ phượng một thần tượng và khắc phục ảo tưởng tách biệt khỏi Thượng đế khiến họ nghĩ họ cần điều gì đó hay ai đó bên ngoài giúp họ kết nối lại với Thượng đế của họ và được cứu rỗi. Con nghĩ xem khi Giê-su nói vương quốc Thượng đế ở trong con thì ý nghĩa thật của câu này là gì? Câu này có nghĩa là con không cần một giáo hội bên ngoài để đạt tới vương quốc Thượng đế. Con không cần một giới giáo sĩ thượng tôn quyền lực tuyên bố con chỉ có thể được cứu rỗi bằng cách tuân thủ tất cả mọi mệnh lệnh của họ. Họ chính là những thày tế lễ đã chống đối mọi điều Giê-su làm và họ chính là những thày tế lễ, những nhà truyền giáo giả đã giết con trai thày và người anh tâm linh của con.

Trong mọi thời đại đều có một nhóm nhỏ thượng tôn quyền lực hoàn toàn tin chắc họ biết chân lý tuyệt đối về Thượng đế. Điều mà họ coi là chân lý tuyệt đối thật ra là một ảo tưởng về Thượng đế bên ngoài, một Thượng đế tách biệt khỏi tạo vật của ngài. Đây quả thực là vấn đề chính yếu mà con thấy trên hành tinh trái đất. Đây là khởi nguồn của khổ ải, đau đớn và hạn chế. Mọi hạn chế mà con người biết được bắt đầu với tư duy cho rằng con có thể phân chia tạo vật của Thượng đế ra thành nhiều bầu cõi tách biệt nhau và trong bầu cõi này, vũ trụ vật chất, không tìm thấy Thượng đế.

Chính tin tưởng này thực sự là cội rễ của mọi xấu ác vì nó cho phép những sinh thể tự nhận biết đã được thiết kế như người đồng-sáng tạo với Thượng đế bỏ qua bên bản sắc thật của họ và bắt đầu nghĩ họ có thể làm bất cứ gì họ muốn trong vũ trụ này mà không phải chịu hậu quả. Chính tâm thức tách biệt, tách biệt khỏi cái Tất cả của tạo vật Thượng đế và do đó tách biệt khỏi người khác đã đưa tới tình trạng con người bất nhân với con người. Chính tâm thức này đã cho phép con người dùng khả năng sáng tạo của họ, khả năng mà Thượng đế đã phú cho họ, để tạo ra một thế giới quan hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng. Nhân loại như một tập thể đã dùng trí tưởng tượng và quyền tự quyết mà Thượng đế ban cho họ để sáng tạo ảo tưởng cho rằng thế giới vật chất dày đặc đến độ không thể tìm thấy Thượng đế nơi này. Nó cho phép một số người tin rằng quy luật của Thượng đế không áp dụng trong thế giới này và họ có thể tách mình ra khỏi luật lệ của Thượng đế và sáng tạo luật của chính họ – chính họ đã trở thành luật lệ của họ. Họ nghĩ họ đã sáng tạo chính thực tại của họ trong đó họ có thể quy định luật lệ sao cho có lợi cho họ, để họ có thể làm bất cứ gì họ muốn mà không phải chịu hậu quả, không gặt hái cái họ đã gieo.

Toàn bộ tư duy này che mờ thực tại của Thượng đế trong tầm nhìn của con người. Sự thực là Thượng đế không thể bị khinh dễ (Galatians 6:7) và quy luật của ngài không bị ảnh hưởng bởi niềm tin của người phàm. Trước đây không lâu Giáo hội Công giáo đề xướng niềm tin là trái đất là trung tâm vũ trụ và mọi vì sao trên trời xoay quanh trái đất. Như ngày nay con biết, đây không phải là sự thật và khi xưa nó cũng chẳng phải là sự thật khi mọi người đều tin như thế. Trái đất không bằng phẳng khi mọi người đều tin nó bằng phẳng. Lý do là niềm tin của con người không biến điều mình tin thành sự thật khi niềm tin đó mâu thuẫn với thực tại của Thượng đế. Một niềm tin có thể che mờ tạm thời thực tại của Thượng đế trong tâm những ai tôn thờ niềm tin đó như một sự thật, những người tôn thờ một hình tượng khô chết.

Sự thực là khi Thượng đế sáng tạo vũ trụ vật chất và sinh tạo những phần nối dài có tự nhận biết của chính ngài, là những sinh thể có tự nhận biết có trí tưởng tượng và quyền tự quyết, thì Thượng đế rõ biết là với trí tưởng tượng và quyền tự quyết vô hạn, con có thể dùng những khả năng này để gây tổn hại cho con và những thành phần khác của tạo vật của Thượng đế. Nhiều người hiện nay bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức quá tập trung vào bản thân mình, vào cái mà họ coi là bản sắc của mình, đến độ họ thực sự không thể quan tâm đến bất kỳ phần nào khác của sự sống. Họ không chịu xét xem hành động của họ ảnh hưởng ra sao trên người khác. Khi con xem những tin tức xảy ra hôm nay thì con dễ tìm ra những ví dụ hành động ích kỷ tột độ, những người hành động như thể người khác không ra gì hay họ có thể làm bất cứ điều gì mà không phải chịu hậu quả vì họ có tiền bạc hay quyền lực. Khi Thượng đế tạo ra con, ngài không tạo ra chỉ mình con, ngài không tạo ra cả vũ trụ này để phục vụ lạc thú của riêng con. Thượng đế đã tạo ra rất nhiều sinh thể có tự nhận biết và tất cả đều được tạo ra từ chính Bản thể và chất liệu của Thượng đế. Tất cả đều thuộc vào điều mà trên thiên đàng các thày gọi là Thân thể Thượng đế.

“Thân thể Thượng đế” là một khái niệm con nên ghi nhớ vì con rõ biết là dù ngón chân út của con chỉ là một phần tương đối không đáng kể trong thân thể con, nếu ngón chân út đó bị thương, thì nó sẽ ảnh hưởng cảm giác thoải mái chung của con. Một cái đau nhói trong ngón chân út có thể khiến toàn thân con cảm thấy rất khó chịu và do đó khi con làm tổn thương người khác, điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng trải nghiệm sống của con. Khi Thượng đế sáng tạo vũ trụ này, ngài không sáng tạo nó cho riêng con. Ngài sáng tạo nó để tất cả con trai và con gái của ngài đều có cơ hội đồng đều học cách dùng khả năng sáng tạo của mình. Khi làm vậy, Thượng đế biết ngài phải xây dựng một cơ chế an toàn ngay trong thiết kế của vũ trụ. Nếu có vài con trai và con gái của ngài quên họ là một phần của Thân thể Thượng đế và bắt đầu hành xử như thể chỉ có họ là quan trọng thì số ít người này sẽ không thể tiêu diệt tất cả các anh chị em của họ hay tiêu hủy toàn bộ vũ trụ.

Nếu một xã hội không có luật lệ buộc mọi người phải chịu trách nhiệm về hành động của họ, thì xã hội đó sẽ suy đồi vì rơi vào tình trạng vô luật pháp và hỗn loạn. Những người hung hãn nhất, tàn nhẫn nhất và những người không coi trọng người khác sẽ được lợi thế quá đáng so với người lương thiện và yêu thương. Con cần tự hỏi thật nghiêm túc rằng con có tin Thượng đế đã thiết kế toàn bộ vũ trụ để người không yêu thương, bất lương và ích kỷ được lợi thế hay ngài đã thiết kế vũ trụ với một cơ chế an toàn trong đó để bảo đảm những người đã trở nên ích kỷ không thể phá hủy toàn thể vũ trụ và không thể tiêu diệt hay kiểm soát anh chị em của họ.

5.3. Ánh sáng Mẹ có khuynh hướng trở về trạng thái nền

Bây giờ con hãy cho thày giải thích một trong những cơ chế an toàn mà Thượng đế đã xây dựng bên trong thiết kế cơ bản của vũ trụ nơi con sống. Đấng Sáng tạo đã tạo ra vũ trụ của con là một lực lan ra, một Sinh thể lan tỏa. Chúng ta có thể gọi đây là khía cạnh Cha của Thượng đế. Nó là động lực trở nên hơn nữa, động lực tự vượt thăng vì nếu không có nó không vật gì được tạo ra từ cái Tất cả của Thượng đế – không hình tướng nào sẽ khởi lên từ Thượng đế vô hình tướng và tự đầy đủ. Đấng Sáng tạo của con, Thượng đế của con, là một ngọn lửa thiêu đốt tất cả những gì khác ngài trong một chu kỳ tự thăng vượt mãi mãi mở rộng. Lực lan ra không thể sáng tạo một hình tướng bền vững ngay cả trong một giây. Nếu vũ trụ chỉ có lực lan ra thì không gì bền vững được, mọi sự sẽ bùng nổ mà chẳng có hình tướng nào cả. Các nhà khoa học hiện nay ủng hộ thuyết Vụ nổ Lớn cho rằng vũ trụ bắt đầu với một vụ nổ vĩ đại. Nếu quả thực chỉ có lực lan ra của Cha thì vũ trụ sẽ là một vụ nổ liên tục mà không có hình tướng nào bền vững vì nó sẽ bị nổ tung ngay tức khắc bởi lực lan ra. Để sáng tạo ra hình tướng bền vững, Thượng đế phải sáng tạo một lực quân bằng lực lan ra của Cha. Lực này là lực co lại của Mẹ và chính lực này được hiện thực khi Thượng đế nói: “Ánh sáng hãy có mặt.” Ánh sáng là chất có thể nhào nắn thành hình tướng và một khi nó được nặn thành một hình tướng đặc thù, nó sẽ giữ hình tướng này trong một thời gian.

Ánh sáng là biểu hiện của lực co lại của Mẹ, và toàn bộ vũ trụ nơi con sống được sáng tạo qua tương tác hòa hợp và quân bằng giữa hai lực cơ bản này. Lực lan ra của Cha bổ túc lực co lại của Mẹ, lực lan ra của Cha tác động lên chất ánh sáng của Mẹ và khuấy động nó khỏi trạng thái nền để thành một hình tướng đặc thù. Khi chỉ có lực lan ra của Cha tác động lên Ánh sáng Mẹ, thì hình tướng do Cha trực tiếp sáng tạo được bền vững vô thời hạn. Khi Thượng đế sáng tạo những nối dài có tự nhận biết của ngài, ngài rõ biết những sinh thể này thiếu kinh nghiệm khi họ dùng uy lực sáng tạo của họ. Chuyện có thể xảy ra là họ dùng trí tưởng tượng để hình dung những hình tướng không ích lợi cho chính họ hay cho tổng thể. Ngài cũng biết là tuy có những người sáng tạo những hình tướng không toàn hảo mà không ý thức họ đang làm gì, nhưng cũng sẽ có những kẻ khác lạm dụng quyền tự quyết của họ để cố ý chống lại thiết kế của Thượng đế cho vũ trụ này. Thượng đế biết các con trai và con gái của ngài cần trải qua một giai đoạn học hỏi để mở rộng hiểu biết họ là ai và thế giới này vận hành thế nào. Sau khi học xong, họ có thể dùng khả năng sáng tạo để nhân tổng thể lên thay vì tiêu diệt tổng thể và chính họ.

Một lần nữa, Thượng đế muốn toàn bộ vũ trụ không phục vụ chỉ một cá nhân mà phục vụ toàn bộ Thân thể Thượng đế. Thượng đế phải bảo đảm một cá nhân không thể lạm dụng uy lực sáng tạo của y đến độ tiêu hủy vũ trụ hay một phần của nó, và do đó phá hủy môi trường tăng triển của các con trai và con gái khác của Thượng đế. Để đạt điều này, Thượng đế phú cho Ánh sáng Mẹ sự thông minh. Khuynh hướng tự nhiên của Ánh sáng Mẹ là luôn luôn ở trong trạng thái nền, là trạng thái không biểu hiện hình tướng nào. Ánh sáng Mẹ không thể tự thân sáng tạo. Nó cần lực của một sinh thể tự nhận biết tác động lên nó bằng cách điều khiển lực lan ra của Cha. Lúc đó Ánh sáng Mẹ khoác vào hình tướng nằm trong tâm sinh thể tự nhận biết, người đồng-sáng tạo. Đây là cơ chế an toàn bảo đảm không một cá nhân đồng- sáng tạo nào có thể lạm dụng khả năng sáng tạo của y đến độ tiêu hủy toàn bộ tạo vật của Thượng đế.

5.4. Quy luật cơ bản của cuộc sống là liên tục tự thăng vượt

Kế tiếp thày sẽ giảng cho con một nguyên lý vi tế mà trí năng con người sẽ cảm thấy khó lãnh hội. Nếu con nghĩ bằng trái tim và dùng trực giác, thì con sẽ hiểu được điều thày sẽ giảng bây giờ. Thày đã nói với con là Ánh sáng Mẹ có một lực sẵn có khiến nó duy trì được trạng thái nền trong đó ánh sáng hiện hữu nhưng không mang một hình tướng phân biệt; nó trong trạng thái không phân biệt. Cần gì để khiến Ánh sáng Mẹ mang một hình tướng? Cần một tâm có ý thức và có khả năng sáng tạo của Thượng đế, tức là trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Tâm ý thức này phải có khả năng tưởng tượng một hình tướng cho dù hình tướng đó chưa từng được biểu hiện. Tâm này phải có uy lực của ý chí để áp đặt hình tướng này lên Ánh Sáng Mẹ và qua đó khuấy động ánh sáng ra khỏi trạng thái nền của nó. Lúc đó Ánh Sáng Mẹ sẽ sinh ra một hình tướng biểu hiện, khác với trạng thái nền của nó.

Lúc ban đầu, chỉ Thượng đế Sáng tạo mới có uy lực sáng tạo này. Thượng đế dùng uy lực sáng tạo của ngài để hình dung một vũ trụ, một thế giới hình tướng sẽ trở thành môi trường tăng triển cho các con trai và con gái của ngài. Để sáng tạo bất cứ gì có hình tướng, Thượng đế phải chọn lựa. Thượng đế có thể tưởng tượng nhiều loại vũ trụ nhưng khi muốn biểu hiện một vũ trụ đặc thù, Thượng đế phải chọn thiết kế vũ trụ này như thế nào. Các nhà khoa học tiếp tục khám phá những khía cạnh mới của bản chất tinh tế của những lực giữ vũ trụ lại với nhau, và điều này cho con thấy Thượng đế đã lấy một số chọn lựa khi ngài thiết kế vũ trụ này. Nếu các lực này chỉ bị xáo trộn một chút thôi, toàn bộ vũ trụ có thể sụp đổ ngay tức khắc. Đấng Sáng tạo của con đã tạo ra vũ trụ này với tình thương vô điều kiện cho con và với mong muốn trong sáng tạo tác thế giới này như môi trường tốt nhất giúp con tăng triển. Thày biết là cuộc sống trên trái đất có thể rất khó khăn và đau đớn và nhiều người đã lớn lên với một nỗi giận Thượng đế, hoặc che giấu hoặc công nhận. Họ được dạy dỗ là Thượng đế ở bên ngoài họ, là vị Thượng đế giận dữ ở trên trời đã áp đặt một cách không công bằng ý chí của ngài trên họ và khiến họ đau khổ. Một số người đau khổ nhiều đến độ họ tới điểm giận Thượng đế đã khiến họ hiện hữu.

Thượng đế đã không tạo ra bất cứ bất toàn nào mà con thấy trên trái đất và chúng không thuộc vào thiết kế nguyên thủy của Thượng đế cho vũ trụ này. Lúc ban đầu, Thượng đế đã hình dung một vũ trụ trong đó tất cả con trai và con gái của ngài luôn luôn được dồi dào, sự dồi dào mà họ có thể gia tăng bằng uy lực sáng tạo của họ. Thượng đế không hề hình dung, cho dù chỉ một thoáng, điều kiện hiện hành trên trái đất. Nỗi khổ và nỗi đau mà con thấy toàn khắp hành tinh này giản dị vượt quá tưởng tượng của Thượng đế. Ngài không bao giờ mường tượng những điều kiện như thế sẽ hiện hữu trong thế giới của ngài bởi vì, như Kinh thánh nói, mắt ngài không thể nhìn vào điều tội lỗi bất công (Habakkuk 1:13). Tuy vậy ngài cũng biết khi cho các người đồng sáng tạo trí tưởng tượng và quyền tự quyết, họ quả thực có thể sáng tạo những điều kiện không thuận theo viễn quan của ngài.

Thày muốn con quán tưởng trong tim con chính thực tế là Thượng đế chỉ có những ý định tốt nhất và yêu thương nhất trong thiết kế của vũ trụ này. Ngài không thiết kế vũ trụ để nó đem lại khổ đau cho con, Ngài không thiết kế vũ trụ để khiến con cảm thấy mình là một tội đồ khốn khổ, ngài không thiết kế vũ trụ để con nghĩ con là một phàm nhân sinh diệt, sẽ đi xuống địa ngục trừ khi con tuân theo mệnh lệnh của một giáo hội vỏ ngoài hay một vị thần bên ngoài. Thượng đế đã thiết kế vũ trụ để phục vụ như môi trường tốt nhất cho sự mở rộng các khả năng sáng tạo của con, để con có thể tự thăng vượt và trở thành một sinh thể tự do như Thượng đế, có nhận biết đầy đủ con là ai và hành động của con ảnh hưởng thế nào tới tổng thể trong đó con là một thành phần. Con không tách biệt khỏi tổng thể đó, con là tổng thể nhưng là một biểu hiện đặc biệt của nó.

Khi Thượng đế thiết kế vũ trụ này, ngài lấy một số chọn lựa. Các chọn lựa này quy định những lực căn bản giữ vũ trụ này lại với nhau. Đằng sau những chọn lựa này là một số nguyên lý sáng tạo, và nguyên lý cơ bản nhất còn không do đấng Sáng tạo quy định. Nó là nguyên lý có sẵn trong chính sự sáng tạo bởi vì mọi tạo vật, mọi hình tướng biểu hiện phát xuất từ động lực muốn hơn nữa. Nguyên lý hoàn vũ của mọi sáng tạo là sáng tạo không bao giờ ngừng, nó là một tiến trình cứ tiếp diễn mãi mãi. Quy luật cơ bản của sáng tạo, quy luật cơ bản của cuộc sống là con không thể đứng yên, hình tướng không bao giờ có thể trường tồn và mọi sinh thể tự nhận biết phải liên tục tự thăng vượt và trở nên hơn nữa bằng cách mở rộng nhận biết về quyền năng sáng tạo của mình, về bản sắc thật của mình và mình là một với toàn thể tạo vật của Thượng đế.

Đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo, không có nó thì không gì được sáng tạo. Cho dù con đã được phú cho trí tưởng tượng và quyền tự quyết vô hạn, con không thể dùng các khả năng sáng tạo này để tạo ra một ý niệm bản sắc đặc thù và mãi mãi ở trong ý niệm bản sắc đó. Thượng đế đã cho con quyền tự quyết nên Thượng đế cho con quyền sáng tạo ý niệm bản sắc là người tội đồ khốn khổ, sống trên một hành tinh đầy khổ đau và con sẽ xuống địa ngục trừ khi con tin vào những mệnh lệnh của một giáo hội vỏ ngoài do những tội đồ khốn khổ khác dựng lên. Năng lực của sự sống đòi hỏi con không thể ở lại trong ý niệm bản sắc giới hạn này mãi mãi. Nếu con cố gắng ôm chặt ý niệm bản sắc giới hạn này, thì lúc đó lực co lại của Mẹ sẽ vận hành như một cơ chế an toàn để phá vỡ tạo vật hạn chế mất quân bằng của con, như nó đã phá hủy Tháp Babel (Genesis 11:4). Điều này sẽ xảy ra vì khi con sáng tạo một ý niệm bản sắc giới hạn, lực co lại sẽ ngay lập tức bắt đầu phân hủy bản sắc này và ngay cả những hình tướng vật lý phát xuất từ ý niệm bản sắc này. Sau một thời gian, lực co lại của Mẹ sẽ nhất định thắng và ý niệm bản sắc của con sẽ bị thách thức. Lúc ấy con sẽ bị ép phải đối diện chọn lựa được mô tả trong Thánh kinh: “Ngày hôm nay, con hãy chọn con muốn phục vụ ai” (Joshua 24:15). Câu hỏi là: “Con sẽ chọn phục vụ sự sống, có nghĩa là tăng triển, hay con chọn phục vụ sự chết, nghĩa là đứng yên rốt cuộc sẽ dẫn con tới tự hủy diệt?” Chọn lựa cơ bản của con là tự thăng vượt hay tự hủy diệt. Đó là lý do tại sao Moses nói: “Hãy chọn sự sống” (Deuteronomy 30:19). Con hãy chọn tăng triển và mở rộng ý niệm bản sắc giới hạn của con.

5.5. Sáng tạo thuận theo quy luật Thượng đế sẽ đem lại sự dồi dào bền vững

Thày biết các giáo lý này có vẻ trừu tượng nên thày muốn tìm cách trình bày thiết thực hơn bằng cách so sánh với một kinh nghiệm trong đời sống hàng ngày của con. Con biết rõ là khi các kỹ sư thiết kế chiếc xe của con thì họ sử dụng một số quy luật thiên nhiên, một số nguyên tắc thiết kế. Để thiết kế một chiếc xe có khả năng làm những gì con muốn nó làm, thì họ phải tuân theo một số quy luật. Hậu quả là nếu con muốn chiếc xe tiếp tục hoạt động bình thường, thì con phải tuân theo một số thủ tục bảo trì. Xe con chạy được vì bộ máy được làm bằng một số bộ phận kim loại có thể chịu áp suất cao do khí xăng nổ trong xi lanh tạo ra. Các bộ phận kim loại này sẽ hao mòn và đóng bẩn nếu chúng không được bảo vệ bởi một màng dầu. Với thời gian dầu sẽ hao mòn và đóng bẩn cho nên con phải thay dầu đều đặn. Nếu con mua một chiếc xe mới và không bao giờ thay dầu thì một ngày kia máy xe sẽ giản dị ngừng chạy. Con không thể đổ lỗi cho các kỹ sư thiết kế xe vì họ giản dị thiết kế xe theo quy luật thiên nhiên. Hậu quả không tránh được là con phải thay dầu để bảo đảm máy xe chạy tốt. Con thay dầu xe đều đặn mà không cảm thấy việc này hạn chế quyền tự do cơ bản dùng xe của con.

Các nguyên tắc cơ bản mà đấng Sáng tạo của con dùng không hạn chế tự do sáng tạo và quyền năng sáng tạo của con. Chiếc xe của con được thiết kế để cho con tự do di chuyển tối đa và con có thể đi bất cứ nơi đâu con muốn. Khi con tuân theo một số nguyên tắc bảo trì giản dị, thì chiếc xe của con sẽ tiếp tục lâu dài cho con tự do này. Nếu con cố ý hay vô tình quên đi các nguyên tắc này, xe con sẽ không chạy và con sẽ mất tự do di chuyển mà xe cống hiến. Giống vậy, vũ trụ nơi con sống vận hành theo một số nguyên lý. Khi con tuân thủ những nguyên lý này, khi con sử dụng quyền năng đồng-sáng tạo của con trong phạm vi các thông số mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì con có thể tiếp tục đồng-sáng tạo thêm sự dồi dào cho con. Nếu con đi ngược lại những nguyên tắc mà đấng Sáng tạo đã dùng để thiết kế vũ trụ, thì con sẽ dần dần tạo vấn đề cho mình, con sẽ tạo hậu quả hạn chế quyền năng sáng tạo của mình.

Đây đích thực là lời giải thích cho các loại khổ đau và hạn chế mà con thấy đầy rẫy trên trái đất. Khổ đau này không phải là sự trả thù của một Thượng đế giận dữ trên trời. Nó là hậu quả tự nhiên của việc hầu hết con người trên trái đất đã lạm dụng quyền năng sáng tạo của họ. Họ đã dùng trí tưởng tượng của họ để xây dựng một hình ảnh giả nói rằng trái đất này là một thế giới hạn chế không thể cung cấp đủ dồi dào cho tất cả mọi người. Họ đã dùng ý chí của họ để chấp nhận hình ảnh này như một chân lý khả dĩ duy nhất. Họ chấp nhận là giới hạn, đau đớn và khổ đau thực sự không thể tránh và họ không thể làm gì để khắc phục chúng.

Nếu con thực sự muốn có cuộc sống dồi dào, con cần áp dụng phương cách đúng để được dồi dào. Con không thể thụ động và nói con là nạn nhân, một nạn nhân bất lực trước những lực vượt quá tầm kiểm soát của mình. Con không thể áp dụng phương pháp chờ Thượng đế ở trên trời ban cho con dồi dào hay tin rằng dồi dào tùy thuộc những người khác trong thế giới này. Con cần nhận ra rằng nếu con muốn dồi dào, con cần biểu hiện nó bằng cách sử dụng quyền năng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con. Cốt lõi của quyền năng này là trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con. Con cần khiến con người mình, hiểu biết và chọn lựa của mình thẳng hàng với những nguyên lý cơ bản mà Thượng đế đã dùng để sáng tạo ra vũ trụ này. Khi con biết những nguyên tắc này, con có thể dùng trí tưởng tượng của con trong phạm vi các thông số quy luật của Thượng đế. Khi làm thế, con đem lại dồi dào cho cuộc sống của con một cách bền vững, và thậm chí có thể gia tốc mãi mãi.

Đấng Cha rất hoan hỷ ban vương quốc cho các con và ngài đã thiết kế vũ trụ này để tất cả con trai và con gái của ngài được đời sống dồi dào. Nghĩa là họ không bị hạn chế bởi một lượng dồi dào nào đó mà dồi dào tăng trưởng liên tục. Khi mỗi người tăng trưởng dồi dào cá nhân của mình, dồi dào của tổng thể cũng tăng trưởng. Khi mỗi người liên tục tăng trưởng dồi dào của mình, không có mâu thuẫn hay xung đột giữa cá nhân và tổng thể.

5.6. Con có dồi dào khi đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ

Thiết kế cốt yếu của vũ trụ của Thượng đế đã tạo ra một tình trạng sống rất đặc biệt. Mọi sinh thể mà Thượng đế tạo tác được tạo ra từ Hiện diện của đấng Sáng tạo. Họ đều là các nối dài của Thượng đế, các cá thể hóa của Thượng đế, con trai và con gái của Thượng đế. Những người con thấy trên trái đất đều là nối dài của cùng một Thượng đế và do đó tất cả đều là một phần của tổng thể của Thượng đế, tức là Thân thể Thượng đế. Trong thiết kế ban đầu của Thượng đế và viễn quan của ngài về vũ trụ này, tất cả con trai và con gái của ngài đều biết trong nội tâm họ những nguyên lý sáng tạo mà Thượng đế đã dùng để thiết kế vũ trụ này. Thánh kinh giảng điều này khi nói là Thượng đế đã đặt luật lệ của ngài trong nội tạng của con (Jeremiah 31:33). Thượng đế đã ghi mã các nguyên lý sáng tạo vào chính bản chất của bản thể con, bản chất của cái ta tâm linh của con. Khi con tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ của con, thì con biết qua bản năng và trực giác cách biểu hiện trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con một cách thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế. Khi đó, hành động của con không những lợi lạc cho con mà cũng lợi lạc cho những thành phần khác của cuộc sống. Khi con khuếch đại sự dồi dào của cá nhân con, con khuếch đại sự dồi dào của tổng thể.

Con sống trong vũ trụ này nhưng con không sống một mình, con không phải là người duy nhất trên trái đất này. Điều con thấy trên trái đất ngày nay là những xung đột mãnh liệt giữa cá nhân và giữa các nhóm người. Đây không phải là viễn quan và thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Trong viễn quan của Thượng đế không có xung đột giữa cá nhân hay giữa các nhóm người vì không có tách biệt giữa cá nhân và tổng thể. Trạng thái thơ ngây này, trạng thái hồng ân này, trạng thái thiên đường này chỉ có thể duy trì khi những cá nhân sử dụng quyền năng sáng tạo của họ trong khuôn khổ những nguyên lý mà đấng Sáng tạo đã quy định. Khi đủ số lượng tới hạn con người trên trái đất dùng khả năng sáng tạo của mình thuận theo quy luật của Thượng đế, thì nhiều dồi dào hơn sẽ được đem tới thế giới này và do đó nhân loại sẽ càng ngày càng tăng trưởng sự dồi dào của họ. Khi làm vậy thì không có xung đột giữa cá nhân và tổng thể vì mọi người luôn luôn nhận nhiều dồi dào hơn và không có cảm nhận thiếu thốn. Khi không còn cảm nhận chỉ có một số lượng của cải hữu hạn, thì không còn nhu cầu lấy từ người khác. Tại sao phải lấy từ người khác khi con nhận trực tiếp từ Thượng đế mà không cần điều kiện nào?

Như một thử nghiệm suy nghĩ con hãy xem mình là chủ nhân cây đèn thần được nói đến trong rất nhiều truyện thần thoại. Con hãy xem mình không cần bất cứ gì từ bên ngoài để biểu hiện bất cứ gì mình muốn. Con chỉ giản dị chà vào cây đèn và khi ông thần nhảy ra từ cái bình, con cho ông biết ý muốn của mình và ông biểu hiện nó ngay tức khắc cho con. Nếu con đã có cây đèn thần, thì có bao giờ con nghĩ tới chuyện dùng sức mạnh, lừa dối hay phương tiện khác để lấy từ người khác chăng? Nếu con biết ông thần sẽ cho con bất cứ gì con muốn mà chỉ cần hỏi, thì tại sao con phải chịu nguy hiểm hay khổ nhọc lấy từ người khác chứ? Tại sao con phải tìm cách bám giữ và tích trữ những gì con có? Lẽ tất nhiên con sẽ không bao giờ làm thế; con chỉ đơn giản sử dụng cây đèn thần của con để được điều con mong muốn. Bây giờ con tưởng tượng tất cả hàng xóm của con ai cũng có cây đèn thần của riêng họ. Sẽ có xung đột nào trong cộng đồng chăng? Có ai cần bóc lột người khác chăng? Có ai cần ăn trộm của người khác chăng? Lẽ tất nhiên là không! Mọi người sẽ chỉ đơn giản chà cây đèn của mình và biểu hiện điều họ mong muốn.

Con quả thực có một cây đèn thần, nhưng ông thần trong chiếc bình không phải là một thực thể bên ngoài. Ông thần trong chiếc bình chính là cái ta tâm linh của con, Hiện diện TA LÀ của con. Qua cái ta cao này, đấng Cha, đấng Sáng tạo của con sẽ biểu hiện ý muốn cho con vương quốc của ngài. Hiện diện TA LÀ của con là kho chứa các quy luật của Thượng đế, nó là nơi Thượng đế ký thác luật lệ của ngài trong nội tạng của con. Khi con, nghĩa là cái ta ý thức của con khiến những mong muốn, trí tưởng tượng và quyền tự quyết của con thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của con (Hiện diện không phải là một thực thể bên ngoài nhưng là con người thật của con), sự dồi dào của Thượng đế sẽ được biểu hiện trong cuộc sống của con xuyên qua Hiện diện TA LÀ của con. Con sẽ không cần lấy từ người khác hay từ Mẹ Thiên nhiên, con sẽ không cần dùng sức mạnh để có thể có dồi dào của Thượng đế. Nó sẽ xảy ra nhẹ nhàng và từ bên trong.

Qua những điều trên thày không muốn nói là con không có nhu cầu tương tác với người khác. Thực tình ý muốn của Thượng đế là con người hợp tác với nhau để sáng tạo sự dồi dào. Khi mọi người làm việc với nhau, quyền năng sáng tạo của họ nhân lên lẫn nhau và khi làm việc hợp nhất họ hoàn thành nhiều hơn là khi mỗi người làm việc đơn độc. Thày không vẽ ra hình ảnh một xã hội trong đó mỗi người là một cá nhân cô lập sáng tạo chính sự dồi dào của mình mà không tương tác với người khác. Thày vẽ hình ảnh một xã hội trong đó mọi người đều thẳng hàng với các nguyên tắc sáng tạo mà Thượng đế dùng. Họ có thể góp chung uy lực sáng tạo của họ để đem lại dồi dào nhiều chưa từng thấy trên trái đất, dồi dào nhiều hơn những gì mà hầu hết mọi người trong trạng thái tâm thức hiện nay có thể tưởng tượng được.

Sự dồi dào này là tiềm năng thật của trái đất. Thượng đế không có đặt giới hạn nào vào thiết kế cơ bản của hành tinh này. Giới hạn duy nhất là những giới hạn nằm trong tâm những người đồng-sáng tạo với Thượng đế, là những sinh thể tự nhận biết mà Thượng đế cho phép ngự trị trái đất. Thượng đế đã cho con quyền đồng-sáng tạo hành tinh này theo ý con. Thượng đế đã cho con quyền sáng tạo trạng thái giới hạn và đau khổ, bóc lột, xung đột và chiến tranh hiện nay. Nếu quả thực đây là kinh nghiệm con người muốn có thì Thượng đế cho phép họ sáng tạo trải nghiệm này, ít nhất trong một thời gian. Thiết kế cơ bản của vũ trụ quy định con không thể duy trì vô thời hạn một trạng thái giới hạn. Khi con sáng tạo trạng thái giới hạn này, con kích hoạt lực co lại của Mẹ và lực này sẽ dần dần phân hủy các giới hạn mà con đã tạo ra. Trên thực tế, đây là một cơ chế an toàn để con, một sinh thể tâm linh vô hạn với tiềm năng vô hạn, không thể mãi mãi bị mắc kẹt trong một trạng thái hạn chế.

5.7. Tác dụng của lực lan ra và lực co lại

Khi con sáng tạo điều gì thẳng hàng với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, thì tạo vật của con được bền vững. Cái gì thẳng hàng với quy luật của Thượng đế không có sẵn trong nó những lực mâu thuẫn phân hủy nó. Khi con sáng tạo điều gì ngoài quy luật của Thượng đế, con sẽ có những mâu thuẫn có sẵn bên trong, con sẽ có những lực đối chọi đưa tới xung đột. Khi một số người lạm dụng uy lực sáng tạo của họ để đi ngược lại quy luật của Thượng đế, con sẽ thấy xung đột bộc phát trong xã hội. Bỗng nhiên con thấy những nhóm người họp nhau thành phe phái và họ quy định những bản sắc đối chọi nhau. Đó là lý do tại sao con thấy tình trạng đáng buồn của hai nhóm người có thể giết nhau nhân danh cùng một Thượng đế.

Các nhà khoa học của con đã khám phá nguyên lý này và gọi nó là quy luật thứ nhì của nhiệt động học, nói rằng trong một hệ thống đóng kín sự hỗn loạn (entrôpi) sẽ gia tăng. Entrôpi nghĩa là vô trật tự và các nhà khoa học khám phá rằng trong thiên nhiên có một lực sẽ đưa mọi cấu trúc, mọi hình tướng có tổ chức trở về trạng thái năng lượng thấp nhất mà nó có thể có. Có nghĩa là mọi cấu trúc bị phân hủy thành trống không, thành hạt hạ nguyên tử. Đây là khám phá khoa học về nguyên lý cơ bản có sẵn trong Ánh sáng Mẹ, như thày đã nói trong phần trước, chính là Ánh sáng Mẹ có một lực nội tại tìm cách đem mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó. Các nhà khoa học của con không hiểu trọn vẹn quy luật này vì họ vẫn còn tập trung quá mức vào khía cạnh vật chất của đời sống. Rất đúng là Ánh sáng Mẹ sẽ tìm cách đưa mọi hình tướng trở về trạng thái nền của nó, nhưng lực co lại của Mẹ không làm việc một mình. Khi lực lan ra của Cha đứng vào đúng cương vị của nó như người gia trưởng theo nghĩa tâm linh thì tạo vật sẽ không bị phân hủy bởi lực co lại của Mẹ. Một hình tướng đặc thù có thể hiện hữu vô hạn định, điều này không có nghĩa là vĩnh viễn.

Nếu con sáng tạo điều gì đó không thẳng hàng với quy luật của Thượng đế, thì hình tướng mà con sáng tạo sẽ dần dần bị phân hủy bởi lực co lại của Mẹ. Nếu vật con sáng tạo hoàn toàn hài hòa với các nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, hình tướng của con sẽ không bị phân hủy; nó sẽ bền vững và sẽ hiện hữu vô tận trong thời gian. Thày không nói nó sẽ hiện hữu vĩnh viễn vì lực lan ra của Cha quy định là mọi hình tướng phải tự vượt thăng và trở nên hơn nữa.

Có sự khác biệt lớn lao giữa sáng tạo một hình tướng bất quân bình sẽ bị phân hủy thành trống không và sáng tạo một hình tướng quân bình sẽ khuếch trương và trở nên hơn nữa. Khi con sáng tạo hình tướng không toàn hảo, thì con đang tham gia một trận chiến khó như leo dốc núi và đây là điều dẫn tới cảm nhận thiếu thốn, vật vã và khổ đau. Con lúc nào cũng như cảm thấy mình bị chậm trễ, cảm thấy mình không bao giờ có đủ và tất cả các lực trong thế gian này hè nhau lấy đi những sở hữu của con. Ngược lại, khi con hòa hợp với Thượng đế, con sẽ không bao giờ mất cái con có, con sẽ dùng nó làm nền tảng để xây đắp thêm dồi dào.

Đây là nguyên lý mà Giê-su minh họa trong ngụ ngôn về tiền ta lăng (Matthew 25:14). Khi Thượng đế thiết kế hành tinh trái đất, ngài xây dựng nền móng. Xây dựng tòa lâu đài tùy thuộc vào con người, như trong chuyện ngụ ngôn vai trò người đầy tớ là nhân lên các tiền ta lăng mà ông chủ phó thác. Tiền ta lăng mà Thượng đế ban cho con người là uy lực sáng tạo, trí tưởng tượng và quyền tự quyết. Nếu con chôn những tiền ta lăng này xuống dưới đất bằng cách đi ngược lại nguyên lý sáng tạo của Thượng đế, lực co lại sẽ rốt cuộc phân hủy ngay cả nền móng mà Thượng đế đã xây dựng. Một hành tinh có thể trở nên khô cằn đến độ không thể nuôi dưỡng sự sống. Loài người, qua ô nhiễm hay chiến tranh nguyên tử có thể tiêu diệt toàn sự sống trên hành tinh này và biến nó thành một hành tinh xác xơ. Khi con người nhân tiền ta lăng của mình lên, thì họ sẽ duy trì nền móng do Thượng đế xây dựng. Họ có thể xây dựng thêm trên đó và đem lại dồi dào nhiều hơn những gì Thượng đế đã xây dựng. Đây là ý muốn thực của Thượng đế.

Thượng đế không muốn con chôn vùi tiền ta lăng của con xuống dưới đất; ngài muốn con dùng các tiền ta lăng này để khuếch trương cuộc sống của con và do đó khuếch trương cuộc sống của tất cả mọi người trên hành tinh này, sau cùng dẫn tới khuếch trương đấng Sáng tạo của con. Suy cho cùng, đấng Sáng tạo của con đã gài một phần của chính ngài trong con cho nên khi con khuếch trương phần này, con khuếch trương tất cả, con khuếch trương đấng Sáng tạo. Khi con trở nên hơn nữa, Thượng đế trở nên hơn nữa xuyên qua con và đây là động lực đằng sau mọi sáng tạo.

Có sự khác biệt giữa cái thẳng hàng với nguyên lý sáng tạo của Thượng đế và cái không thẳng hàng với các nguyên lý này. Luật của Thượng đế nói rằng không gì có thể y như cũ. Mọi sự đều phải đi theo một trong hai hướng sau:

  • Nó phải gia tốc nghĩa là nó tự thăng vượt xuyên qua lực lan ra, hoặc
  • Nó phải chậm lại nghĩa là nó tự tiêu hủy xuyên qua lực co lại

Thày hy vọng là giờ đây con đã thấy ra nhu cầu đặt mình thẳng hàng với nguyên lý tăng triển không ngừng để con có thể sử dụng uy lực sáng tạo của con trong khuôn khổ an toàn của các quy luật Thượng đế. Thày hy vọng con có thể thấy lợi điểm của sáng tạo cái gì bền vững có thể tiếp tục tăng triển và cho con thêm dồi dào và cũng đem thêm dồi dào đến tất cả mọi người khác trên hành tinh này. Nếu con thấy tầm quan trọng của điều này và con sẵn sàng hòa hợp với Thượng đế thì chương kế tiếp sẽ chỉ cho con làm sao bắt đầu tiến trình này, hành trình trở về trái tim của đấng Sáng tạo của con, hành trình trở về hợp nhất với nguồn cội của con.

1 | Vì sao con chưa được dồi dào rồi

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary, qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 4/4/2005.

Chúng ta hãy bắt đầu bằng kiểm điểm lại thực tại. Chúng ta hãy xem xét câu nói: “Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc”. Dù con có thể đã nghe câu nói này nhiều lần, nhưng con đã bỏ ra thì giờ để suy ngẫm xem câu này thực sự nghĩa gì chăng? Thật sự chỉ có một ý nghĩa duy nhất. Đó là Đấng Cha hoan hỷ cho con vương quốc, và như vậy chỉ có thể có nghĩa là Thượng đế thực sự muốn con được vương quốc của Ngài. Thượng đế thực sự muốn con được cuộc sống dồi dào. Ngài hoan hỷ cho con sự dồi dào đó.

Nếu con nhìn cuộc đời mình và thấy là con chưa được sự dồi dào, thì con phải lý luận là có cái gì đó đã không xảy ra suôn sẻ. Có cái gì đó đang ngăn trở con có cuộc sống dồi dào mà Thượng đế muốn con có. Vậy bây giờ chúng ta hãy cùng nhau lý luận xem cái gì đã có thể ngăn trở con có cuộc sống dồi dào – nếu quả thật ước muốn và ý chí của Thượng đế là con có được sự dồi dào đó. Chuyện trục trặc gì đã xảy ra? Cái gì đã ngăn trở con có được điều mà Thượng đế muốn con có? Cái gì đã ngăn trở ý chí của Thượng đế thể hiện trên trái đất này?

1.1. Vì sao con người không có cuộc sống dồi dào vô ưu

Chúng ta hãy xem xét tình trạng trái đất. Thiên nhiên trên hành tinh này có rất nhiều vẻ đẹp tuyệt vời. Các khoa học gia mỗi ngày lại khám phá thêm là thế giới này được thiết kế thật công phu, phức tạp và kỳ diệu. Có rất nhiều hệ thống phức tạp chằng chéo lẫn nhau trên trái đất đến độ ngay cả các khoa học gia duy vật nhất không thể tránh thỉnh thoảng cảm thấy kinh ngạc và nể sợ trước vẻ đẹp, sự tinh xảo và cân xứng mà họ khám phá trong thiên nhiên. Nếu con là một người có ý hướng tâm linh, thì con sẽ đồng ý với thày khi thày nói là sự tinh xảo này tất nhiên phải do một tâm thức thiết kế, mà tâm thức này có khả năng, trí tưởng tượng và suy luận rất cao. Điều con thấy trong thiên nhiên là Thượng đế quả thực đã thiết kế một tạo vật rất đẹp và kỳ diệu, trong đó có nhiều sự dồi dào.

Nhưng khi con nhìn vào lãnh vực con người thì con thấy một hình ảnh khác. Tuy thân thể con người là tạo vật phức tạp nhất trong tất cả các tạo vật của Thượng đế, con người dường như không tìm được cách sử dụng thân thể mà không tiêu hủy chính mình, tiêu hủy người khác và tiêu hủy thiên nhiên. Trong khi trong thiên nhiên con thường thấy sự dồi dào và cân bằng, thì trong xã hội loài người con không thể thấy sự dồi dào và cân bằng đó. Con hãy nghĩ tới lời của Giê-su khi thày nói là con có giá trị cao hơn chim sẻ (Matthew 10:31). Nếu Thượng đế có khả năng chu toàn và nuôi sống loài chim, thì Thượng đế chắc hẳn phải có khả năng cho con mọi sự con cần. Nhiều người trên trái đất nhìn loài chim một cách thèm thuồng, vì chim được tự do bay đến những nơi chúng thích và chúng lúc nào cũng có vẻ tìm được lương thực như đợi chúng tới lấy. Nhiều người thì trái lại bị kẹt trong một số cảnh ngộ và không thể cục cựa. Họ phải vật lộn suốt cuộc đời để kiếm sống và nuôi chính họ và con cái. Nhiều người mơ ước có được cuộc sống vô ưu của loài chim và nghĩ rằng cuộc đời của họ trái lại là một chuỗi dài vật lộn.

Khi con nhìn vẻ đẹp và sự dồi dào mà Thượng đế đã xây dựng trong thiên nhiên, có hợp lý chăng là Thượng đế không có khả năng thiết kế một hành tinh có thể nuôi dưỡng con người với cùng sự dồi dào và vô ưu mà con thấy nơi loài chim? Có lý do nào khiến Thượng đế không thể thiết kế một hành tinh có thể cung cấp cho con đời sống tự do và vô ưu mà con có thể thấy nơi nhiều sinh vật có trí thông minh thấp hơn con người rất nhiều, và như Giê-su đã nói, có giá trị thấp hơn con người rất nhiều?

Khi con dùng lý luận để suy nghĩ một cách lô gic về vấn đề này thì con chỉ có thể có một số ít chọn lựa. Con không thể chối cãi thực tại là con người không có đời sống dồi dào. Khi con suy ngẫm quan niệm Thượng đế hoan hỷ cho con vương quốc, thì con phải kết luận là nếu Thượng đế muốn con người được cuộc sống dồi dào, thì nhất định có cái gì đó không suôn sẻ về phía Thượng đế hoặc về phía con.

Một lối suy luận là cho rằng dường như Thượng đế có khả năng tạo tác một hành tinh kỳ diệu và tinh xảo có thể cung cấp nếp sống dồi dào và vô ưu cho loài chim và các sinh thể không thông minh bằng con người, nhưng vì lý do nào đó Thượng đế lại không kiến tạo được một hành tinh có thể cho loài người cùng sự dồi dào và tự do khỏi ưu phiền, thiếu thốn và đau khổ đó. Con có thể suy luận là khả năng thiết kế của Thượng đế không biết vì sao bị sơ sót, và trong lãnh vực con người, Ngài đã lầm lẫn. Quả thật là đã có nhiều người suy luận như vậy. Một số là tín đồ các tôn giáo, và vì họ được dạy dỗ là họ sẽ xuống đia ngục nếu họ phỉ báng Thượng đế, nên họ mau chóng xua các ý nghĩ này qua một bên. Một số khác chịu nhìn nhận là họ có những ý nghĩ này, và thậm chí một số đã dùng đó như một lý do để chối bỏ tất cả mọi tôn giáo hay khái niệm có Thượng đế.

Nếu con có khuynh hướng nghĩ như vậy thì thày chỉ xin con làm một chuyện. Hôm nào có một đêm trời không mây nơi chỗ con ở, con hãy bước ra ngoài và nhìn lên bầu trời đêm. Con hãy nhìn lên giải Ngân hà và suy ngẫm xem trong đó có bao nhiêu vì sao. Con không cần tham khảo một sách khoa học cho con biết là các nhà khoa học đã ước tính có bao nhiêu tỷ vì sao có mặt trong đó. Con chỉ cần nhìn với mắt mình và thấy là có nhiều vì sao hơn những gì con có thể đếm. Sau đó, con hãy tự hỏi: “Nếu Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ bao la và phức tạp đến như vậy thì có lý chăng là trên hành tinh nhỏ bé mà chúng ta gọi là địa cầu này, Thượng đế đã không cung cấp được cuộc sống dồi dào và vô ưu cho sinh vật cao nhất trên hành tinh này?”

Con tim yêu dấu của thày, nếu con chiêm nghiệm điều này thì thày nghĩ con sẽ nhận ra chân lý tuyệt đối là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế hành tinh địa cầu để tất cả mọi người trên hành tinh được vui hưởng một cuộc sống dồi dào và vô ưu như loài chim. Sự kiện đa số con người không có được nếp sống đó không vì một vấn đề đến từ phía Thượng đế. Như vậy chỉ còn lại một kết luận hợp lý duy nhất. Tình trạng thiếu thốn và nghèo đói trên trái đất bắt buộc phải do một vấn đề đến từ phía con. Một chuyện gì đó xảy ra trên trái đất đã ngăn chặn ý muốn của Thượng đế được thể hiện nơi đây. Một chuyện gì đó đã xảy ra khiến thiết kế nguyên thủy của Thượng đế bị thay đổi, dẫn tới sự kiện sinh vật cao nhất và phức tạp nhất thường khi có nếp sống không dồi dào bằng nhiều sinh vật khác có trình độ thông mình thấp hơn rất nhiều.

1.2. Con người có khả năng thay đổi môi trường

Con có thể thấy có lý do khiến con muốn chất vấn hình ảnh về Thượng đế mà xã hội đã cho con từ thuở thơ ấu. Con có thể tự hỏi những câu hỏi sau đây:

  • Nếu Thượng đế quả thật toàn năng và không thể lầm lẫn như nhiều tôn giáo mô tả, và nếu quả thật Thượng đế muốn con người được cuộc sống dồi dào, vậy có thể nào ước muốn của Thượng đế lại không được thể hiện trên trái đất?
  • Điều gì có thể ngăn cản ước muốn của một Thượng đế toàn năng không được thể hiện?
  • Nếu Thượng đế hoan hỷ cho con người vương quốc, vậy tại sao con người lại không có được vương quốc đó?

Giờ đây thì con tới một kết luận thuận lý khác. Hoặc có gì trục trặc từ phía Thượng đế hoặc có gì trục trặc từ phía con. Hoặc Thượng đế sai lầm hoặc hình ảnh mà nhiều người trên trái đất có về Thượng đế sai lầm. Một lần nữa, nếu Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ bao la và tinh xảo như vậy, thì có thể nào chăng là Ngài không thông minh? Kết luận hợp lý là phải có gì trục trặc với hình ảnh mà một số tôn giáo trên trái đất đã vẽ lên về Thượng đế. Kết luận này dẫn chúng ta tới một lãnh vực thảo luận hữu ích vì chúng ta có thể bắt đầu xem xét cái gì thiếu thốn nơi hình ảnh về Thượng đế mà con đã chấp nhận.

Chúng ta đã thấy là Thượng đế hoàn toàn có khả năng thiết kế một vũ trụ rất bao la và phức tạp. Chúng ta đã suy luận là một Thượng đế có khả năng tạo tác một vũ trụ kỳ diệu như vậy phải hoàn toàn có khả năng tạo tác một hành tinh nhỏ bé có thể cung cấp đời sống dồi dào và vô ưu cho mọi con người sống trên hành tinh đó. Tuy Thượng đế có khả năng và ý muốn, nhưng thực tại hiện nay trên trái đất không phản ánh khả năng và ý muốn của Thượng đế. Chuyện gì đó dã xen vào giữa bản thiết kế về trái đất mà Thượng đế giữ trong tâm Ngài và thực tại hiện đang trải bày trên hành tinh này. Điều gì có thể ngăn cản ý muốn của một Thượng đế toàn năng được thể hiện? Điều thuận lý là không có gì có thể ngăn cản ý muốn của Thượng đế được thành tựu. Kết luận duy nhất là hoặc Thượng đế không toàn năng, hoặc Ngài đã chọn xếp qua bên, ít nhất là tạm thời, những quyền năng vô hạn của Ngài trên trái đất.

Kết luận này dẫn ta tới ý tưởng là có thể Thượng đế đã cho con người quyền cai quản trái đất, như Thánh Kinh đã xác quyết rõ ràng (Genesis 1:26). Khi Thượng đế nói con người hãy cai quản trái đất, thì câu này có nghĩa gì? Phải chăng điều hợp lý là chúng ta giả sử Thượng đế đã cho con người khả năng không chỉ giản dị sống trên hành tinh này và thích nghi với hoàn cảnh thiên nhiên như con thấy với các loài thú? Thượng đế đã cho con người khả năng không chỉ giản dị thích nghi với môi trường mà cai quản môi trường đó, và thay đổi môi trường một cách tích cực và có ý thức để đáp ứng nhu cầu của mình. Con người có khả năng chọn lựa cách họ sống. Con người không chỉ giản dị là nô lệ của môi trường, hoặc thích nghi hoặc diệt vong.

Tất cả các loài thú đều thích nghi với một loại môi trường nào đó. Mặc dù ta thấy trong thiên nhiên có khả năng thích ứng rất lớn, nhưng loài thú có giới hạn trong khả năng thích nghi với môi trường. Một con thú không có sự nhận biết và khả năng sáng tạo để thay đổi môi trường một cách ý thức, hay tách ly mình khỏi môi trường. Con người có khả năng thay đổi môi trường, và không có loài thú nào có khả năng sống trong nhiều môi trường khác nhau, như con người có thể làm. Thượng đế đã phú cho con người những khả năng vượt xa những gì ta tìm thấy nơi loài thú. Con người không chỉ là một con thú tinh xảo. Con người không chỉ là một con thú đã tiến hóa cao vì con người là một bước nhảy vọt lượng tử, nếu ta dùng một danh từ hiện đại, cao hơn loài thú.

Kết luận hợp lý là Thượng đế đã tạo tác con người theo hình ảnh của Ngài và giống như Ngài (Genesis 1:26). Con người có tâm thức và sự tự nhận biết tinh vi đến độ thay vì chỉ giản dị thích nghi với môi trường, con người có khả năng tưởng tượng là môi trường có thể thay đổi để giúp con người có được nhiều dồi dào hơn là những gì môi trường đang hiện nay cung cấp. Con người cũng có khả năng tự do chọn lựa tích cực thay đổi môi trường thay vì chỉ thích nghi với môi trường. Những gì phân biệt con người với loài thú là sự tự nhận biết, trí tưởng tượng và quyền tự quyết.

1.3. Con người đã tạo ra hiện trạng trái đất

Một góc nhìn tích cực là khả năng sáng tạo cho con người tiềm năng hành động như những nối dài của Thượng đế trên trái đất. Từ đó ta có một cái nhìn mới về câu chuyện sáng tạo vũ trụ như ghi lại trong kinh Genesis. Kinh này ghi rằng Thượng đế bỏ ra sáu ngày để tạo ra trái đất, các loài thú và con người. Sang ngày thứ bảy thì Thượng đế ngơi nghỉ. Có thể chăng là việc Thượng đế “ngơi nghỉ” có nghĩa là Thuợng đế tạm ngưng công việc sáng tạo trái đất của Ngài? Thượng đế làm vậy vì Ngài đã tạo ra những sinh thể được tạo ra để làm bàn tay bàn chân của Ngài trên trái đất, như các phần nối dài của Ngài trên trái đất, để họ hoàn tất công trình sáng tạo trái đất. Có thể chăng là Thượng đế đã tạo ra con người như hình ảnh của Ngài và giống như Ngài vì Thượng đế muốn con người hoàn tất công trình sáng tạo trái đất? Thay vì chỉ thụ động sống nơi này, con người có thể góp phần một cách tích cực vào công trình sáng tạo của Thượng đế, con người có thể cảm thấy họ đang đóng một vai trò tích cực và họ đang góp phần thể hiện vương quốc của Thượng đế trên hành tinh này.

Thày biết những ý tưởng này vượt xa rất nhiều những gì con được dạy trong lớp dạy Thánh kinh trong trường hay những gì các khoa học gia chịu xem xét. Những ý tưởng này giải thích thực tại mà con thấy nơi cuộc đời của con và nơi đời hàng tỷ người trên hành tinh này, là con không có cuộc sống dồi dào. Sâu tận đáy thâm tâm của con, con biết là con đáng lẽ phải có sự dồi dào, con biết là cuộc đời phải khác, phải khá hơn tình trạng hiện tại. Con có thể hiểu được hiện trạng này bằng cách nhận ra mặt trái của đồng tiền, đó là sự kiện Thượng đế cho con người trí tưởng tượng và quyền tự quyết có một khía cạnh đen tối, một tiềm năng tiêu cực. Con người có thể sử dụng trí tưởng tượng để hình dung một cái gì kém hơn điều Thượng đế muốn cho họ. Con người có thể sử dụng quyền tự quyết để chọn thể hiện một tình trạng không dồi dào bằng thiết kế nguyên thủy của Thượng đế. Trong thiết kế nguyên thủy của Thượng đế, con người được hưởng cuộc sống vô ưu như loài thú. Thượng đế muốn con người xây dựng thêm trên nền tảng này và tạo cho chính họ nhiều dồi dào hơn những gì thiên nhiên được thiết kế để cung cấp. Nhưng con người cũng có thể đi ngược lại và phá sập nền tảng mà Thượng đế đã xây dựng, đưa xã hội loài người vào trạng thái phi tự nhiên trong đó có nghèo đói và bất công. Nếu con đi sâu vào tim mình và suy ngẫm những ý tưởng này, thì con sẽ thấy là chúng quả thật giải thích vì sao có quá nhiều bất công, đau khổ, thiếu thốn và nghèo đói trên hành tinh này. Những ý tưởng này cũng có thể giải thích vì sao, sâu trong tim con, con có cái biết nội tâm đây không phải là chuyện tự nhiên, đây là điều không phải, đây không phải là ý muốn của Thượng đế, cuộc sống đáng lẽ không như thế này.

Chúng ta đã thấy là quả thật Đấng Cha hoan hỷ cho con cuộc sống dồi dào. Đây là trạng thái tự nhiên trên hành tinh địa cầu, là tất cả mọi người được dồi dào mọi tặng vật tốt lành và toàn hảo. Như Giê-su có nói: “Để con là các đứa con của Đấng Cha trên thiên đàng: vì Ngài cho ánh mặt trời soi rọi người ác cũng như người lành, và gửi nước mưa xuống người tốt và người xấu” (Matthew 5:45).

1.4. Cách tiêu cực và cách tích cực

Kết luận mà con đạt được là con người đã làm điều gì đó để ngăn trở tình trạng tự nhiên trên trái đất, ngăn trở dòng chảy của sự dồi dào của Thượng đế và ngăn không cho nó tới mọi con người. Một khi con đi đến kết luận này và chấp nhận nó – trong những vùng sâu thẳm trong con người con cũng như trong tâm ý thức – thì con có được một tầm nhìn hoàn toàn khác về cuộc sống và khả năng đạt được sự dồi dào. Thay vì nghĩ con đang sống trên một hành tinh nơi đó khổ đau và thiếu thốn không thể tránh, thì con nhận ra thực tại là sự dồi dào là trạng thái tự nhiên. Đây là điều Thượng đế muốn, và Ngài đã thiết kế hành tinh này với đầy đủ khả năng cung cấp sự dồi dào đó. Thày biết là con đã được dạy dỗ là lý do vì sao không có đời sống dồi dào trên trái đất là vì thiếu tài nguyên thiên nhiên, nhưng điều này không đúng. Thượng đế đã thiết kế hành tinh này để nó có mọi tài nguyên cần thiết để cung cấp một cuộc sống dồi dào cho tất cả mọi người. Đất Mẹ có khả năng cung cấp một cuộc sống dồi dào cho một số người lớn hơn số con người hiện đang sống trong lòng mẹ. Vấn đề trên trái đất là con người đã dùng tâm của mình, quyền năng của trí tưởng tượng và quyền tự quyết của mình, để giới hạn, làm trệch hướng, ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế.

Khi con đi tới kết luận này thì con có thể hướng những suy tư của con về cuộc sống dồi dào sang một hướng mới. Con có thể bắt đầu xem xét làm sao chính con có thể ngưng ngăn cản dòng chảy tự nhiên của sự dồi dào của Thượng đế để con có thể thực sự thừa hưởng vương quốc của Đấng Cha và trải nghiệm cuộc sống dồi dào khi con còn đang hiện thân trên trái đất.

Con có hai cách tiếp cận cuộc sống dồi dào. Cách tiêu cực và cách tích cực. Khi con theo cách tiêu cực thì con có thể chấp nhận là Thượng đế muốn con có được sự dồi dào, nhưng vì con hiện đang không có dồi dào, nên con chỉ có thể lý luận rằng vì một lý do bí ẩn, thần bí, không thể biết được nào đó, Thượng đế không muốn cho con cuộc sống dồi dào ngay lúc này. Vì con không hiểu được tại sao – và con không thể giải thích tại sao vì không có lý lẽ hợp lý nào – nên chọn lựa duy nhất của con là chờ đợi và hy vọng rằng, một ngày kia, Thượng đế sẽ đổi ý và cho con cuộc sống dồi dào. Cách tiếp cận tiêu cực này đặt con vào một vị thế chờ đợi, và nó biến con thành một nạn nhân bất lực của hoàn cảnh và của các lực ngoài tầm kiểm soát của con.

Khi con chọn cách tiếp cận tích cực thì con lý luận là điều tự nhiên là con có được sự dồi dào. Nếu con hiện nay không đang được dồi dào thì có cái gì ngăn cản nó. Nếu con tìm ra cái gì ngăn cản nó thì con có thể tháo gỡ những rào cản đó, và lúc đó sự dồi dào của Thượng đế sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy vào cuộc đời của con. Con yêu dấu, nếu con chấp nhận chuyện này có thể xảy ra thì con thực sự đã sẵn sàng nhận chìa khóa kế tiếp vào vương quốc mà thày sẽ trao cho con trong những chương kế tiếp.