23 | Vượt quá hình tư tưởng để trực tiếp trải nghiệm Hiện diện

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 6/6/2023, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn Quốc.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Con có thể thấy điều trớ trêu là các thày nói về tâm đường thẳng, vậy mà các thày, các Thượng sư, lại nối tiếp nhau xuất hiện một cách đường thẳng.

Tuy nhiên, như các thày có nói, lẽ tất nhiên có một tiến trình đường thẳng đi từ đấng Sáng tạo xuyên qua các tầng của sự sáng tạo, các bầu cõi trước, cho tới bầu cõi này. Con không thể nói là mọi chuyện theo một tiến trình đều nhất thiết giống như những gì thày nói về tâm đường thẳng. Đó là vì tâm đường thẳng là một hiện tượng đặc thù có mặt nơi một bầu cõi chưa thăng thiên. Như các thày có nói, tâm đường thẳng không thực sự là một vấn đề khi ta thấy nó như nó là, tức là một dụng cụ để lo liệu các khía cạnh thực tiễn của đời sống.

23.1. Một tiến trình đường thẳng trong đời sống thực tiễn

Con biết rõ là trong cuộc đời của mình con có một thời biểu nào đó, một số bổn phận nào đó. Có thể là con phải đi học, có thể là con phải dẫn con đến trường, có thể là con phải đi làm, vì vậy con cần ở một số nơi vào một số lúc. Do đó, con cần một tiến trình đường thẳng, một thời biểu đường thẳng trong cuộc sống thường nhật để mọi chuyện vận hành suôn sẻ.

Đây là một chuyện rất thực tiễn. Tỷ dụ, con biết là nếu con muốn xây một căn nhà thì con cần thiết lập một tiến trình đường thẳng. Con mua mảnh đất, con nhờ người vẽ sơ đồ, con tổ chức các người thợ cần thiết để hoàn thành công việc, và mọi chuyện cần diễn ra theo một tiến trình đường thẳng, một thời khóa biểu đường thẳng. Trong xã hội cũng vậy, khi có việc cần làm, khi cần hoàn thành một công trình xây dựng lớn, hay chỉ để đời sống thường nhật vận hành trong xã hội, xe buýt phải chạy đúng giờ, xe lửa chạy phải đúng giờ và những việc tương tự, thì tâm đường thẳng là một dụng cụ rất hữu dụng.

23.2. Dùng tâm đường thẳng để lý luận về cõi tâm linh

Vấn đề khởi lên khi con người bắt đầu dùng tâm đường thẳng để giải quyết những đề tài ngoài đời sống thực tiễn trong bát cung vật lý. Đây là một vấn đề đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử. Như các thày có giảng, vào thời đức Phật, các vị Bà la môn Ấn giáo dùng tâm đường thẳng để lý luận về các đề tài không dính dáng gì đến đời sống thường nhật thực tiễn, tỷ dụ liên quan đến sự vận hành của vũ trụ, kể cả cõi tâm linh như thế nào.

Đức Phật thấy các cố gắng này đã tạo ra đủ loại ngộ nhận, vì điều mà tâm đường thẳng làm là nó nhìn vào những điều kiện trong thế giới vật chất. Nó tìm cách thiết lập một tiến trình đường thẳng, một chuỗi nguyên nhân-kết quả đường thẳng mà nó phát hiện trong thế giới vật lý, sau đó nó muốn kéo dài chuỗi nhân-quả đó lên cõi tâm linh. Do đó, nó dùng những điều kiện trong thế giới vật chất và lý luận ngược trở lại về sự vận hành của thế giới tâm linh.

Con có nắm bắt vì sao phương pháp này nguy hiểm? Các điều kiện trong thế giới vật chất không phản ánh trung thực thế giới tâm linh. Các thày có giảng là có một loại tiến trình đường thẳng từ đấng Sáng tạo tới tầng cao nhất của thế giới tạo vật, là bầu cõi thứ nhất. Đấng Sáng tạo đề ra một khuôn đúc. Các sinh thể trong bầu cõi thứ nhất sinh hoạt trong khuôn khổ khuôn đúc đó. Họ tạo ra bầu cõi thứ hai, và sau đó cũng như vậy với bầu cõi thứ ba, vân vân. Tất cả những gì được tạo ra ban đầu trong bầu cõi của con là một biểu hiện của các tầng lớp bên trên.

Do đó, con có thể nói là có một tiến trình, nhưng trước nhất, tiến trình này đi từ tầng cao nhất tới những tầng càng ngày càng có hình tướng biểu hiện hơn. Đó không phải là một chuỗi nhân-quả đường thẳng. Đó không phải là kết quả của các định luật máy móc. Đó là kết quả của một quá trình sáng tạo không hoàn toàn đường thẳng. Điều thày muốn nói là con không thể nào, từ một hành tinh như địa cầu trong một bầu cõi chưa thăng thiên, hiểu được những gì xảy ra ở các bầu cõi cao hơn. Con không thể hiểu được khi con còn đầu thai trên trái đất. Do đó, tìm cách lý luận dựa trên những gì con thấy trên trái đất để suy diễn ra cõi tâm linh là một tìm cầu vô bổ.

23.3. Phóng chiếu những điều kiện không trong sạch của trái đất lên cõi tâm linh

Sau đó lại có một tầng khó khăn khác. Các thày có giảng là lúc ban đầu bảy vị Elohim tạo ra trái đất. Các vị này tất nhiên là các sinh thể thăng thiên. Lẽ tất nhiên họ là một với toàn thể đại đoàn chưởng giáo dẫn đến tận đấng Sáng tạo. Họ tạo ra trái đất trong khuôn khổ khung sườn của những bầu cõi trước. Tuy nhiên, những gì các Elohim tạo ra không phải là những điều kiện con thấy trên trái đất ngày nay. Con có thể nói là nếu con thấy được những điều kiện nguyên thủy do các Elohim tạo ra, thì con có thể thấy một số nguyên tắc, điều mà các khoa học gia gọi là luật thiên nhiên, tuy các luật này có tính chất tâm linh hơn là thiên nhiên. Con có thể nói: “Nếu ta hiểu những luật này, ta có thể suy luận lý do vì sao các sinh thể đó đã định là các luật đó như vậy. Do đó, chúng ta có thể suy luận để tìm ra ý tưởng của các sinh thể đó, tâm thức của họ. Ta có thể nhìn các điều kiện nguyên thủy của trái đất và dùng tâm đường thẳng để suy luận các đặc tính của tầng các Elohim.”  

Con có thể đạt kết quả với tâm đường thẳng, nhưng con không thể đi quá tầng các Elohim với tâm đường thẳng, vì tiến trình từ bầu cõi thứ sáu lên bầu cõi thứ năm không theo đường thẳng. Tâm đường thẳng không thể đi quá xa trở ngược lên cõi tâm linh. Thêm nữa, các thày cũng đã giảng là những điều kiện con thấy trên trái đất hiện nay không phải là những gì các Elohim tạo ra lúc ban đầu. Lý do là, như các thày đã giảng nhiều lần, nhân loại đã đi vào tâm thức tách biệt và đã bắt đầu sử dụng tâm thức nhị nguyên, và điều này đã đưa đến nhiều biến đổi sâu đậm trên trái đất. Độ dày đặc của vật chất, sự thiếu thốn tài nguyên thiên nhiên, và toàn thể tâm thức tập thể đã bị hạ xuống một tầng thấp hơn rất nhiều so với khi địa cầu được tạo ra lúc ban đầu.

Điều kiện hiện nay của trái đất không tự nhiên, không là một nối dài trong sáng của những gì các Elohim tạo ra. Các thày Bà la môn Ấn giáo đã làm gì? Họ nhìn các điều kiện hiện hành trên trái đất, họ cố tìm ra những mô thức, những gì xảy ra đều đặn, và sau đó họ dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu: các điều xảy ra đều đặn, các mô thức mà ta thấy trong cõi vật lý, có thể được phóng rộng lên trên tới cõi bên trên cõi vật lý. Chúng có thể cho ta biết về các thần linh, vì sao các thần linh lại là như họ là, và vì sao họ lại tạo thế giới như họ đã tạo ra.

Con có thấy chăng là phương pháp này sẽ không bao giờ cho con một hình ảnh chính xác về cõi tâm linh? Con lấy những điều kiện không thuần túy tâm linh và phóng chiếu chúng lên cái có tính chất tâm linh. Lẽ tất nhiên, không phải chỉ có các vị Bà la môn Ấn giáo đã làm việc này. Như các thày đã giảng, trong truyền thống Thiên chúa-Do thái giáo, vị Thượng đế giận dữ ở trên trời là một hình ảnh phóng chiếu bởi con người dựa trên tâm lý sa ngã và tâm thức nhị nguyên. Con thấy suốt dòng lịch sử, ở khắp nơi trên thế giới, con người đã lấy những điều kiện mà họ quan sát ngay lúc này trên hành tinh phi tự nhiên này và dùng tâm đường thẳng để phóng chiếu chúng lên cõi tâm linh, cõi thiên đường, hay bất cứ tên gì mà họ gọi. 

23.4. Cố gắng phù phiếm thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả

Trên căn bản, tại sao họ lại làm vậy? Đó là vì họ bị xáo trộn bởi những điều kiện hiện tại trên trái đất. Họ đang đau khổ, như Phật có giảng, vì khi con đi vào tâm thức nhị nguyên thì cuộc đời là đau khổ. Con bị xô đẩy từ bên này sang bên kia trong Biển Luân hồi. Con người muốn thoát khổ đau, và họ trực giác cảm nhận là phải có một lý do cho sự đau khổ của họ. Đây là một trực giác chân chính. Sự đau khổ của con có lý do.  

Sau đó họ quan sát là dường như trong bát cung vật lý một số chuyện, một số hậu quả có nguyên do. Đôi khi đó là một nguyên do sâu kín. Nếu con cầm một hòn đá trong tay và buông tay ra, thì hòn đá sẽ rơi xuống đất. Phải có một nguyên do sâu kín khiến hòn đá rơi xuống đất. Đây là một quan sát căn bản mà con người đã làm từ rất lâu. Họ cảm nhận bằng trực giác là phải có những nguyên do không thể thấy, phi vật lý của khổ đau của họ, của các điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó họ tìm cách sử dụng tâm đường thẳng để suy luận ngược lại từ những điều kiện hiện hành trên trái đất để tìm ra nguyên do của các điều kiện này, nguyên do khổ đau của họ. Họ trực nhận là nếu họ khám phá ra nguyên do, và thay đổi nguyên do, thì họ cũng có thể thay đổi hậu quả.

Một lần nữa, đây là một trực giác chân chính. Nếu con có thể thay đổi nguyên do thì con có thể thay đổi hậu quả. Sự thật là thay đổi nguyên do là cách hữu hiệu duy nhất để thay đổi hậu quả. Lẽ tất nhiên, con người cũng đã tìm cách thay đổi nguyên do ở tầng hậu quả. Họ đã tìm cách thay đổi hậu quả ở tầng hậu quả. Con thấy đây là điều mà khoa học đã làm từ mấy thế kỷ bằng cách nhìn vào bát cung vật lý và tìm cách hiểu điều kiện vật lý dựa trên nguyên do vật lý.

Có hai phương pháp mà con người áp dụng khi dùng tâm đường thẳng. Hay ta cũng có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền. Con nhìn vào điều kiện hiện hành, con coi chúng là hậu quả, và con tìm cách dùng tâm đường thẳng để suy luận trở ngược cho tới khi con tìm ra nguyên do của hậu quả, và sau đó con tìm cách thay đổi nguyên do. Điều mà khoa học cố làm là tìm ra nguyên do trong thế giới vật lý, vật chất, và dùng hiểu biết này để thay đổi các điều kiện vật lý. Điều mà các tôn giáo đã làm từ nhiều ngàn năm là đi xa hơn các nguyên do vật lý và tìm các nguyên do phi vật lý. Do đó, họ tìm một thần linh có trách nhiệm về địa hạt mà họ đang bị đau khổ, và sau đó tìm cách cầu xin thần linh này để thần linh thay đổi điều kiện đang gây đau khổ cho họ.

23.5. Suy luận trí năng là ngõ cụt

Ta có thể nói đây là hai mặt của cùng một đồng tiền, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh thì vấn đề thực sự được tìm thấy nơi truyền thống tôn giáo. Họ không những muốn tìm một nguyên do của khổ đau hiện tại của mình, nhưng họ còn muốn tạo những hình ảnh tinh vi mô tả cõi tâm linh. Đây là điều khiến các vị Bà la môn Ấn giáo đi vào nhiều ngõ cụt khi họ dùng lý luận trí năng, đường thẳng, phân tích để phóng chiếu rằng: Thượng đế như thế này, các điều kiện như thế kia, đây là nguyên do tâm linh thật đằng sau hậu quả này, vân vân. Điều xảy ra vào thời đó là họ phân chia thành rất nhiều chi nhánh và giáo phái, họ có quá nhiều ý kiến khác nhau, mỗi người đều tất nhiên khẳng định họ có hiểu biết tối hậu. 

Điều con thấy là hiện tượng rất ư phức tạp với rất nhiều người khẳng định họ có chân lý tối hậu, nhưng không có ai trong đó có chân lý tối hậu vì họ đều lý luận bằng tâm đường thẳng dựa trên những quan sát điều kiện hiện tại. Con có thể tiếp nối hiện tượng này tới thời nay và nói rằng một số những người đã đầu thai là người Bà la môn Ấn giáo mấy ngàn năm trước nay lại đầu thai là khoa học gia duy vật, họ trên căn bản lý luận giống như xưa, chỉ khác là nay họ quyết định rằng: “Chúng tôi không đi ra ngoài thế giới vật lý, chúng tôi tìm những nguyên do càng ngày càng sâu thẳm trong thế giới vật chất của các hiện tượng vật chất.” Họ vẫn phân chia thành nhiều trường phái, nhiều nhóm, họ có rất nhiều lý thuyết về sự phức tạp này hay phức tạp khác, như các thuyết đa vũ trụ, lỗ đen, năng lượng tối, vật chất tối, hay các đề tài phức tạp khác.

Những chuyện này ngăn con người làm việc gì? Chúng ngăn con người đạt tâm bình an. Con thấy gì ngày hôm nay, con thấy gì thời đức Phật? Con có thấy chăng các xung đột giữa con người, và các xung đột này dựa trên gì? Chúng dựa trên lý luận trí năng trên các điểm vi tế. Một nhóm Bà la môn diễn giải kinh Vệ đà theo lối này, một nhóm Bà la môn khác diễn giải cùng kinh đó theo cách khác. Mỗi nhóm đều tin chắc họ đúng, mỗi nhóm cảm thấy nhất định phải thuyết phục nhóm khác hay con người là các nhóm khác sai, và như vậy luôn luôn có đấu đá không ngừng.

23.6. Một triết lý mới chú trọng vào nâng cao tâm thức

Phật khi xưa đã thấy chuyện đó. Phật thấy các người đó làm chuyện phù phiếm vì họ sử dụng tâm đường thẳng. Các con nhớ là khoảng cùng thời với Phật có một triết gia Hy Lạp tên Plato có đưa ra câu truyện ẩn dụ về hang động. Câu truyện kể là có một nhóm người bị xiềng trong một hang động và không nhìn thấy những gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng bên ngoài có ánh sáng chiếu vào hang và có người đi lại giữa ánh sáng và hang động nên bóng họ chiếu lên thành hang. Nhóm người bên trong hang động chỉ thấy những bóng đó, họ quan sát các bóng và tìm cách lý luận ngược để tìm ra chuyện gì xảy ra bên ngoài hang, nhưng họ chỉ thấy các bóng. Đức Phật nhận ra đây là điều các Bà la môn Ấn giáo thấy, chỉ là các bóng, và làm sao bóng của một vật lại có thể cho con biết mọi chuyện về vật đó?

Tỷ dụ, làm sao bóng của một vật có thể cho con biết vật đó màu gì? Bóng là một phóng chiếu lên một mặt hai chiều kích, làm sao nó có thể cho con biết hình dáng ba chiều kích của vật? Con thấy đấy những giới hạn. Đức Phật thấy các giới hạn đó, và đó là lý do vì sao thày nói: “Chúng ta hãy sáng tạo một triết lý mới, một phong trào mới, không tìm cách lý luận ngược để tìm ra điều kiện trên cõi tâm linh như thế nào. Chúng ta hãy chú tâm vào công việc thiết thực là nâng cao tâm thức, giúp con người khắc phục khổ đau, và khi họ đã nâng tâm thức đủ thì họ có thể nắm bắt một số chân lý vượt lên trên thế giới vật lý.”

Vì sao thày lại trao các con bài giảng dài dòng này? Bởi vì thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu là Tia của Bình an, và điều tước đi bình an chính là lý luận với tâm đường thẳng, dùng tâm đường thẳng (là một dụng cụ thực tiễn dùng trong đời sống thường nhật trong thế giới vật chất) và tìm cách mở rộng nó ra ngoài thế giới vật chất để suy diễn điều gì vượt lên trên thế giới vật chất. Khi con còn làm điều này thì con không thể có bình an, và con cũng không thể kết nối với Tia thứ Sáu của Bình an.

Nếu con muốn thực sự hiểu giáo lý của Phật thì con cần nhận ra một điều giản dị, nhưng đối với tâm đường thẳng thì điều này không giản dị. Giáo lý của Phật không – KHÔNG – nhằm đem lại một chân lý cao trội. Mục đích của giáo lý đức Phật là cho con người một số giáo lý và dụng cụ thực tiễn để giúp họ nâng cao tâm thức, vượt thăng khổ đau, Biển Luân hồi. Đây là một điều mà đại đa số những người hiện nay tự coi là Phật tử sẽ phản đối hung hãn, hay ít ra là phản đối kịch liệt. Họ sẽ nói vì Phật là bậc giác ngộ nên điều Phật dạy là chân lý cao trội, thậm chí là chân lý tuyệt đối – nhưng điều này đơn giản không phải là sự thực.

Phật không muốn đưa ra một chân lý tối hậu vì thày thấy đây là điều các vị Bà la môn muốn làm. Vì sao các vị Bà la môn lại muốn làm vậy? Như các thày đã giảng, tâm đường thẳng muốn làm gì? Nó muốn xếp mọi chuyện vào một đường thẳng, một tiến trình, rồi nói: phải có một điểm kết tối hậu của đường đó, phải có một tầng cao nhất. Nếu ta có thể đặt chân lý lên một đường thẳng, thì sẽ có nhiều tầng của chân lý, nhiều tầng hiểu biết, và ta có thể càng ngày càng hiểu hơn về thế giới, như khoa học đã làm từ lâu nay. Nếu ta tiếp tục sự tăng trưởng hiểu biết đó thì sẽ phải đến một chân lý tối hậu. Như thày Hilarion có nói, chân lý tối hậu sẽ chỉ đến khi con tới tầng đấng Sáng tạo, và có một khoảng cách rất xa giữa tầng của trái đất và tầng của đấng Sáng tạo.

23.7. Đường lối thực tiễn của các chân sư thăng thiên

Đức Phật nhận ra điều trên nên thày chỉ chú tâm vào những gì có khả năng nâng con lên, nâng con người lên tầng tâm thức kế tiếp. Con hãy nhìn những gì đã xảy ra trong khoảng thời gian từ thời Phật tới ngày nay. Khoa học đã chiếm ưu thế trong thế giới hiện đại, và khoa học cũng đặt căn bản trên tâm đường thẳng. Khoa học cho rằng ta phải bắt đầu bằng những quan sát nơi thế giới vĩ mô, sau đó khám phá các tầng vi tế, sâu thẳm hơn cho tới khi ta tới tầng tối hậu là hạt Thượng đế, hay bất cứ gì họ gọi nó.

Tại sao điều này lại quan trọng cho người tâm linh? Đó là vì con đã lớn lên trong xã hội hiện đại, con không thể tránh bị ảnh hưởng bởi tư duy đó. Con nay ở đây, con đã lớn lên với tư duy đó và sau đó con tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên. Lúc đó con nói: “À, rốt cuộc tôi đã tìm thấy một cái gì không đến từ thế gian này, không phải là kết quả của tâm đường thẳng lý luận ngược lại từ những điều kiện thế gian. Đây là một giáo lý đến từ cõi thăng thiên, đến từ các chân sư thăng thiên là những người bên trên thế gian này. Giáo lý này phải là chân lý tuyệt đối, vì chắc hẳn các chân sư thăng thiên thấy chân lý tuyệt đối, và đâu có lý nào các thày lại trao truyền cái gì khác?”  

Các thày đã nhiều lần giải thích từ nhiều góc độ khác nhau là các thày không thể trao cho con chân lý tuyệt đối mà các thày thấy vì con không thể nắm bắt nó trên một hành tinh phi tự nhiên. Các thày đang làm gì ngày hôm nay? Các thày đang làm y như Phật cách đây 2500 năm, tức là nhìn một cách thiết thực xem tâm thức con người đang ở đâu và nói: “Chúng ta có thể trao cho con người cái gì mà họ có thể nắm bắt với tầng tâm thức hiện tại của họ và giúp họ vươn lên tầng cao hơn?” Các thày không tìm cách trao cho các con chân lý tuyệt đối. Một lần nữa, nhiều đệ tử từ các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước sẽ kịch liệt phản đối câu nói trên, nhưng vì sao họ phản đối? Đó là vì họ bị kẹt trong tâm đường thẳng: Phải có một chân lý tối hậu, và nếu ta không thể tìm thấy nó nơi các tôn giáo trên thế giới hay nơi khoa học duy vật, thì chắc hẳn ta phải tìm được nó nơi giáo lý của các chân sư thăng thiên. Thày không nói là giáo lý của các thày sai, là ảo tưởng hay sự lừa gạt, nhưng chúng thích nghi với tầng tâm thức, không những của các đệ tử chân sư thăng thiên, mà thậm chí của tâm thức tập thể. Không thể có cách nào khác trên một hành tinh như trái đất.

Chuyện đã xảy ra trong các đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước là các đệ tử đã sử dụng tâm đường thẳng để tiếp thu giáo lý, lý luận dựa trên giáo lý, tạo hình tư tưởng dựa trên giáo lý và phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên. Đây là điều tâm đường thẳng vẫn làm. Nó nhìn vào điều kiện trên trái đất, tạo ra hình tư tưởng dựa trên các điều kiện này, tỷ dụ như những nguyên do của điều kiện hiện hành trên trái đất. Sau đó, nó mở rộng hình ảnh đó ra và phóng chiếu hình ảnh đó lên cõi tâm linh.

23.8. Phóng chiếu hình tư tưởng lên các chân sư thăng thiên

Khi các đệ tử tìm thấy giáo lý chân sư thăng thiên, thì việc đầu tiên họ làm là sử dụng những hình tư tưởng mà họ thu thập khi họ lớn lên hay từ các giáo lý tâm linh khác mà họ đã học. Sau đó, họ lấy giáo lý chân sư thăng thiên và dùng nó để chỉnh tu những hình tư tưởng đó và sau đó phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Tại sao điều này lại dính dáng đến chủ đề của khóa nhập thất này, là kết nối với các vị thày tâm linh? Ấy, con yêu dấu, thày là một chân sư thăng thiên. Làm sao con kết nối với thày? Con có nghĩ là con có thể kết nối với thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên thày, một hình tư tưởng đã được tạo ra trong thế giới vật chất, trong tâm con? Bất kể hình này có hoàn chỉnh đến đâu, bất kể con nghĩ nó xác đáng đến đâu dựa trên giáo lý chân sư thăng thiên, thì nó vẫn là một hình tư tưởng. Thày nhìn nhận là trong các đợt truyền giáo trước, các đệ tử không dễ nắm bắt điều này vì một số giáo lý chưa được trao truyền. Họ không có được các giáo lý mà các thày đã trao truyền trong đợt truyền giáo này về các ngã tách biệt, các ngã này tạo ra phin lọc nhận thức như thế nào, tại sao cái Ta Biết không phải là các phin lọc nhận thức, đã không trở thành các ngã tách biệt và do đó cái Ta Biết có thể bước ra ngoài các ngã. Làm sao cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức của một ngã? Chỉ bằng cách duy nhất là nhìn nhận là điều ngã thấy chỉ là một phin lọc nhận thức. Có nghĩa là con phải nhìn nhận là bất cứ hình ảnh nào về chân sư thăng thiên mà con đã tạo trong tâm chỉ là thế đó: một hình tư tưởng.

Lẽ tất nhiên con có thể nói là trong khuôn khổ Luật Tự quyết, không có gì sai trái khi con người tạo hình tư tưởng của các chân sư thăng thiên vì điều này cho họ một trải nghiệm. Con có thể nhìn các đệ tử của các đợt truyền giáo trước và con có thể thấy là nhiều người có những hình tư tưởng rất cầu kỳ về các chân sư thăng thiên và họ phải tương tác thế nào với các chân sư thăng thiên. Thậm chí nhiều người trong số các đệ tử đó còn cảm thấy là họ đã kết nối với các chân sư thăng thiên, họ đã có trải nghiệm các chân sư thăng thiên. Giờ đây thì thày không nói là các đệ tử từ các đợt truyền giáo trước đó đã có trải nghiệm thực sự với các chân sư thăng thiên. Có những đệ tử nghĩ họ có một trải nghiệm thực sự nhưng họ đã kết nối với những sinh thể trong cõi tư tưởng vì họ quá dính mắc vào các hình tư tưởng của họ. 

Những đệ tử có trải nghiệm thực sự là những đệ tử không quá dính mắc với hình tư tưởng của họ. Bởi vì con làm gì khi con phóng chiếu một hình tư tưởng? Con chính yếu nói: “Nada, con không muốn kết nối với thày như thày là. Con chỉ muốn kết nối với thày theo hình tư tưởng của con. Do đó, Nada, nếu thày muốn kết nối với con vì thày phải tuân theo hình tư tưởng của con.” Như các thày khác đã nói, nếu thày làm vậy thì kết quả là gì? Kết quả là thày xác chứng hình tư tưởng của con, và con sẽ nghĩ: “Hình tư tưởng của tôi không phải là một hình tư tưởng, đó chính là Nada như thày thực là.” Làm sao kết quả này có thể giúp con tăng trưởng tâm linh? Làm sao thày có thể giúp con tăng triển bằng cách xác chứng hình tư tưởng đang ngăn cản con tăng triển?

Câu hỏi luôn luôn là: nếu con muốn kết nối với một chân sư thăng thiên, thì con muốn kết nối với vị chân sư hay với một hình tư tưởng của vị chân sư? Con có sẵn sàng buông bỏ hình tư tưởng để trải nghiệm Hiện diện của vị chân sư thăng thiên? Đó chính là câu hỏi. Các thày không muốn trốn tránh con, nhưng nhiều đệ tử đang tìm cách trốn tránh các thày. Nếu con muốn trốn tránh các thày bằng cách phóng chiếu một hình tư tưởng lên các thày, thì các thày phải để con làm chuyện này. Các thày phải cho phép con có trải nghiệm đó, thậm chí các thày còn phải cho phép con kết nối với các sinh thể giả danh các thày trên cõi tư tưởng, các sinh thể này sẽ hoan hỷ tuân theo hình ảnh của con. Họ sẽ tuân theo bất cứ hình ảnh nào mà con phóng chiếu lên họ nếu con cho họ năng lượng của con. Thày không cần năng lượng của con, thày không chịu tuân theo các hình tư tưởng của con vì thày không cần gì từ con, và thày không muốn con nghĩ là hình tư tưởng của con đã được thày xác chứng.  

Nếu nói một cách rất thẳng thắn, thì trên căn bản nếu con không trải nghiệm, nếu con chưa bao giờ trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên, thì đó là vì con có một hình tư tưởng đang xua đẩy vị chân sư thật ra khỏi con. Một lần nữa, các thày không chê trách con vì con có quyền tự quyết, các thày hiểu là con sống trên một hành tinh rất khó khăn, các thày hiểu là con có nhiều tiền kiếp đã tạo ra biết bao ngã trong bốn tầng của tâm con. Các thày không chê trách con. Các thày chỉ nói là nếu con thực sự muốn kết nối với các thày, thì con phải sẵn sàng nhìn quá các hình tư tưởng vì chúng đang ngăn cản con kết nối.

23.9. Hình tư tưởng về El Morya như một người áp dụng kỷ luật nghiêm khắc

Chuyện gì xảy ra khi con tạo một hình tư tưởng về một chân sư thăng thiên, hình tư tưởng này có tác dụng gì? Nó cho phép con có một quan điểm nào đó, một trải nghiệm nào đó, và trải nghiệm này không thể bị thách thức bởi vị chân sư thực, do đó con có thể trốn tránh vị chân sư. Để cho con một thí dụ, trong một đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, các đệ tử đã tạo ra một hình ảnh rất đặc biệt về El Morya, bây giờ là Chân sư MORE. Đó là một lý do khiến thày quyết định đổi tên, vì các đệ tử đó vẫn còn hình ảnh này về thày, hình ảnh một vị thày nóng nảy chiếu ánh sáng xanh, một vị thày áp dụng kỷ luật rất nghiêm khắc sẵn sàng thách thức đệ tử và phơi bày tự ngã của họ không chút thương hại. Họ đã tạo khái niệm là những đệ tử chân chính của El Morya có những đặc tính đó và có quyền đi khắp nơi và chiếu áng sáng xanh vào người khác bằng cách thách thức họ, nói cho họ biết những điểm sai trái của họ. Có nhiều người trong tổ chức đó hãnh diện là đã chiếu ánh sáng xanh vào những người họ cho là kém họ.

Những đệ tử đó đã làm gì? Con có thể nói là tự ngã của họ muốn có trải nghiệm cao trội hơn người khác, có quyền kỷ luật người khác và nói họ phải làm gì. Họ dùng hình tư tưởng mà họ đã tạo ra về El Morya như một cái cớ để biện minh cho cách cư xử của họ, cách cư xử dựa trên tự ngã, dù họ sẽ kịch liệt phản đối là cư xử của họ không dựa trên tự ngã – nhưng nó quả thật như vậy.

Một lần nữa, những đệ tử đó có quyền tự quyết và họ có quyền lấy một giáo lý chân sư thăng thiên, tạo hình tư tưởng về El Morya, và xác chứng trải nghiệm mà họ muốn có cho tới một ngày hy vọng họ chán chê trải nghiệm đó. Một số đệ tử đã chán chê và không còn cư xử như vậy nữa, nhưng một số chưa chán. Điều thày muốn nói là tuy một số các đệ tử đó tưởng họ có trải nghiệm thực sự về El Morya, nhưng không phải vậy. Tại sao El Morya lại xác chứng hình ảnh đó về thày khi thày thấy rõ là làm vậy sẽ chỉ giam cầm các đệ tử đó và ngăn họ thực sự kết nối với thày?

Thày chỉ giản dị muốn nói là trong đợt truyền giáo này con đã nhận được giáo lý thâm sâu hơn về các ngã, các ngã tiềm thức và tách biệt, hình tư tưởng, phin lọc nhận thức. Do đó, con có thể theo tiến trình giải thoát mình khỏi các hình tư tưởng, ngưng phóng chiếu, và qua đó con có thể tới điểm con thực sự kết nối với các thày là chân sư thăng thiên. Kết nối với các thày không qua giáo lý, không qua trí năng, không qua hiểu biết và nắm bắt, mà chỉ kết nối với các thày như trải nghiệm quý báu nhất mà con có thể có trên con đường tâm linh vì nó cho con một khung tham chiếu trực tiếp từ bên trên thế giới vật chất. Điều này có nghĩa là thực sự không có gì trong thế giới vật chất có thể đánh lừa con nữa, hay kéo con vào phản ứng. Nếu đây là điều con muốn, thì con có các dụng cụ để hoàn thành.

23.10. Một dụng cụ thực tiễn từ Nada

Thày trao cho con một dụng cụ thực tiễn sẽ giúp con trên Tia thứ Sáu. Thày bắt đầu bài giảng này bằng cách nói về tâm đường thẳng muốn phóng chiếu hình ảnh một chân lý tuyệt đối và vì sao như vậy lại lấy đi an bình nội tâm của con. Điều con có thể làm là dùng giáo lý của các thày để nhận ra mục đích thực của con đường tâm linh không phải là biết chân lý tuyệt đối mà là nâng tâm thức từ tầng hiện tại lên tầng kế tiếp. Như các thày có giảng, con sẽ tới một điểm bắt đầu đi vào những tầng của quả vị Ki-tô cá nhân. Ta có thể nói quả vị Ki-tô cá nhân chính là chìa khóa của an bình, đó là lý do vì sao Giê-su đã được gọi là Hoàng tử An bình vì Giê-su đại diện Tâm thức Ki-tô cho nhân loại. Quả vị Ki-tô, tâm Ki-tô liên hệ ra sao với an bình?

Chính qua tâm Ki-tô mà con kết nối và trải nghiệm có thực tại vượt quá thế giới vật chất. Chỉ khi nào con trực tiếp trải nghiệm điều này thì con mới làm được điều mà đức Phật dạy con người: khắc phục những dính mắc vào thế gian. Khi con trải nghiệm Tâm thức Ki-tô thì con khắc phục dính mắc. Dính mắc của con trụ ở đâu? Chúng trụ nơi các ngã tách biệt, đúng vậy, nhưng cũng trụ nơi tâm đường thẳng và các hình tư tưởng do tâm đường thẳng phóng chiếu. Con muốn thế giới phải như thế nào đó. Con muốn cuộc đời mình phải như thế nào đó.

Nếu con xem xét hiểu biết cơ bản về đau khổ, thì cái gì tạo đau khổ? Đó là do con thiết lập trong tâm, trong tâm đường thẳng, hình ảnh cuộc sống trên trái đất phải như thế nào đó. Con phóng chiếu hình ảnh đó ra ngoài, nhưng sau đó con trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của con. Trải nghiệm là cuộc sống không phù hợp với hình ảnh của mình chính là căn bản của khổ đau, nguyên do của khổ đau. Khi con bắt đầu trải nghiệm tâm Ki-tô thì con nhận ra có cái gì vượt quá hình tư tưởng của mình, con trải nghiệm có cái gì vượt lên trên. Nhưng sau đó con giáp mặt thách thức thứ nhì của Ki-tô. Con có sẽ dùng trải nghiệm Ki-tô để buông bỏ hình tư tưởng của mình, buông bỏ các ngã tách biệt, khắc phục dính mắc? Hay con sẽ làm giống như Peter khi xưa và tìm cách kéo trải nghiệm Ki-tô vào hình tư tưởng của mình để con có thể tưởng rằng Ki-tô đã chứng thực những hình tư tưởng này? Đây là điều nhiều đệ tử đã làm trong những đợt truyền giáo chân sư thăng thiên trước, như thí dụ về El Morya mà thày có đề cập. Lẽ dĩ nhiên, con cũng có thể làm như vậy ngay cả trong đợt truyền giáo này – nếu con không áp dụng giáo lý. Nhưng con cũng có dụng cụ giúp con tránh làm như vậy.

Làm sao con đạt được an bình nội tâm hơn? Bằng cách lúc nào cũng với lên tâm Ki-tô, dùng tâm Ki-tô như khung tham chiếu để nhìn vào cuộc đời mình, nhìn vào những điều kiện mà con gặp phải trong đời. Các thày hiểu là một số các con gặp những điều kiện rất khó khăn. Các thày không muốn các con nghĩ là các thày không hiểu điều này. Tuy nhiên, lời hứa muôn thuở của tâm Ki-tô là con có thể dùng nó để có một tầm nhìn khác về các điều kiện vật lý và khắc phục dính mắc, khắc phục hình tư tưởng. Khi con nhìn điều kiện mà không phóng chiếu là chúng không được như vậy, thì con có thể giáp mặt điều kiện mà không khổ đau.

Thày biết đây là một khái niệm mà những người đang sống với các điều kiện khó khăn khó nắm bắt. Các người đang không sống với điều kiện khó khăn thì dễ nắm bắt hơn. Thày hiểu điều này, nhưng đây vẫn là chân lý muôn thuở. Điều kiện, điều kiện vật lý, không tạo khổ đau, khổ đau do cách con nhìn điều kiện vật lý. Trong nhiều trường hợp, điều kiện vật lý không thể thay đổi cho tới khi con thay đổi cách con nhìn chúng. Đây là lời hứa của Ki-tô, là Ki-tô có thể cho con tầm nhìn khác, và điều này sẽ cho con an bình nội tâm.

23.11. Hãy để Dòng sông sự Sống đưa con đi tới

Nếu con muốn có một hình ảnh thì con hãy hình dung mình đang ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, như một chiếc xuồng, và con đang chèo theo dòng nước. Khi con đang ngồi trong chiếc thuyền nhỏ và ra sức chèo, thì có thể con chú tâm vào việc mình đang làm. Con muốn đi tới một điểm đến. Có thể có những tảng đá trong dòng sông, dòng sông có thể uốn khúc, con cần điều khiển, lèo lái con thuyền, có chỗ con cần chèo nhanh hơn để vượt qua khúc quanh hay tránh thác ghềnh. Con luôn luôn tập trung vào động tác chèo thuyền để thuyền đi về phía trước. Nếu con đang trên một dòng sông an toàn, không có tảng đá hay thác ghềnh, thì con có thể hành xử khác. Con có thể buông chèo, ngồi thoải mái trong xuồng, và chỉ để xuồng trôi theo dòng nước, chỉ để dòng nước đưa xuồng đi. Hành trình có thể lâu hơn, hay không lâu hơn, nhưng con sẽ tới điểm đến.    

Con có thể tới điểm trong tâm con, con như đang ngồi trong chiếc xuồng, thư giãn, nhìn hai bên bờ lướt nhẹ vì dòng nước đang đẩy xuồng đi về hạ nguồn. Đây là trạng thái không dính mắc. Con đang ngồi trong xuồng, con đang di chuyển về hạ nguồn, và dòng nước, Dòng sông sự Sống, đang kéo con đi. Tại sao con cần chèo và vật lộn mãi? Tại sao con cần dính mắc vào những gì xảy ra trên bờ sông? Có thể có một con gấu đang đứng trên bờ gầm gừ với con, có thể có người đang la hét con. Con biết là nếu con ngồi đó không dính mắc, thì dòng nước sẽ mang con đến hạ lưu bất kể những gì xảy ra hai bên bờ sông. Con hãy chỉ hòa điệu với Dòng sông sự Sống, và để dòng nước kéo con đi tới. Tại sao con lại phải vật lộn với tâm vỏ ngoài, tâm đường thẳng, tâm trí năng? Tại sao con cần phóng chiếu hình tư tưởng lên mọi chuyện? Tại sao con cần diễn giải mọi chuyện? Tại sao mọi chuyện cần phải có một ý nghĩa tối hậu, một ý nghĩa hoàn vũ, một ý nghĩa tâm linh nào đó? Nhiều chuyện đang xảy ra trên trái đất không có ý nghĩa tâm linh.

Con hãy xem xét vì sao con người tin chiêm tinh. Có chuyện gì đó xảy ra cho họ, họ đi gặp một chiêm tinh gia, họ muốn biết cấu hình chiêm tinh nào trên bầu trời đã gây ra điều kiện mà họ đang gặp phải. Các điều kiện trên trời không biểu hiện tất cả mọi chuyện trên trái đất. Điều tạo ra mọi chuyện trên trái đất là sự điên rồ của con người và sự tương tác giữa con người, là điều mà Phật đã gọi là các nhân duyên liên khởi. Không có một nguyên do hoàn vũ cho rất nhiều hoàn cảnh mà con đối mặt trong đời. Con hãy giản dị vô hiệu hóa tâm phân tích lúc nào cũng muốn khám phá nguyên do, và con hãy chỉ để Dòng sông sự Sống đưa con vượt quá điều kiện, dẫn con vượt quá điều kiện, và con không dính mắc. 

Khi con dính mắc thì con làm gì? Con nắm một cành cây trên bờ sông và con vật vã cố sức ghìm xuồng ở một vị trí. Dòng nước đang kéo xuồng về phía hạ lưu. Con cần càng lúc càng thêm nỗ lực kềm giữ cho tới khi con không chịu nổi hay cành cây bị gãy. Con hãy chỉ buông tay … buông tay … buông tay. Thày biết nói dễ hơn làm, nhưng cái gì đang kềm giữ vậy? Đó là con hay là một ngã tách biệt? Con hãy nhìn vào ngã, con có dụng cụ – con hãy buông bỏ đi. Con sẽ không bao giờ đạt được an bình trên trái đất bằng tâm đường thẳng, bằng những hình tư tưởng mà tâm đó phóng chiếu phải xảy ra hay không được xảy ra.

Vì sao con nghĩ Giê-su lại để cho mình bị đóng đinh trên thập tự? Giê-su là một người đã đạt được một tầng tâm thức Ki-tô rất cao. Tại sao Giê-su lại cho phép mình bị đóng đinh? Con có nghĩ Giê-su muốn bị đóng đinh chăng? Không đâu, nhưng Giê-su thấy là các nhân duyên liên khởi của hoàn cảnh đó đang tuôn chảy và Giê-su cho phép chúng xảy ra. Giê-su buông bỏ ý niệm chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Khai ngộ cuối cùng của Giê-su là gì? Giê-su bị treo trên thập tự và nghĩ rằng Thượng đế sẽ gửi thiên thần tới cứu, nhưng sau đó thày nhận ra là chuyện đó sẽ không xảy ra và thày buông bỏ ý muốn đó, buông bỏ hồn ma cuối cùng đó, hình tư tưởng cuối cùng về điều phải xảy ra và không được xảy ra trên trái đất.   

Nhiều người trong các con là avatar. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về chấn thương nhập đời hoàn vũ và ngã gốc. Nhiều người trong các con tới địa cầu với một hình tư tưởng về lý do con xuống đây, con tới đây để làm gì, con tới đây để hoàn thành việc gì, thay đổi tích cực mà con nghĩ con có thể đem tới hành tinh này. Con tới đây, con chạm mặt với chấn thương nhập đời, nhưng con phản ứng ra sao? Con đã phản ứng bằng cách tạo hình tư tưởng dựa trên tâm đường thẳng. Con lấy hoàn cảnh đã xảy ra cho con, chấn thương nhập đời đó, bất kể nó là gì, và con phân tích, con tìm nguyên do. Tại sao chuyện này lại xảy ra, tại sao những người đó đã làm vậy với tôi, tôi đã làm gì để xứng đáng bị hoàn cảnh đó? Con tạo ra hình tư tưởng và con tạo ra hình tư tưởng về những gì phải và không được xảy ra trên trái đất, và về những gì phải và không được xảy ra cho con trong phần thời gian còn lại của con trên trái đất.   

23.12. “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”

Đằng sau tất cả các hình tư tưởng đó thì con làm gì? Hầu hết các avatar đã làm gì sau khi đến trái đất? Họ đã lấy một quyết định. Con đã lấy quyết định và quyết định này đã tạo ra một ngã tách biệt, và quyết định này là: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Con hãy nghĩ về câu này: “Tôi không bao giờ có thể an bình trên trái đất”. Khi con còn ngã đó, thì con không bao giờ có thể an bình trên trái đất, phải không con? Bởi vì con không thực sự muốn được an bình. Con đã quyết định là hành tinh này rất xấu xa và không ai có thể an bình ở đây. Con nhìn vào đức Phật và những câu chuyện kể là đức Phật an bình, thày đã đạt được an bình và con không thực sự muốn công nhận điều này, bởi vì nếu con công nhận là đức Phật có thể đạt được trạng thái an bình, thì tại sao con lại không đạt được trạng thái an bình? Con thấy chăng, con không thể đạt được trạng thái an bình nếu con không làm điều mà Phật đã làm: nhìn vào ngã mà thày đã tạo ra khi bị chấn thương nhập đời khiến thày quyết định “Tôi không thể an bình trên trái đất”. Tất cả các avatar đều đã làm như vậy.

Con yêu dấu, nếu con thực sự muốn an bình, nếu con thực sự muốn kết nối với Tia thứ Sáu của An Bình, thì con hãy nhìn vào ngã đó. Có quả thực là con không thể an bình trên một hành tinh như trái đất chăng? Thày đồng ý với con là khó có thể an bình trên một hành tinh như trái đất vì những điều kiện ở đây quá khác những gì con đã quen thuộc trên một hành tinh tự nhiên. Có thực sự khó an bình hơn trên trái đất chăng? Hay chỉ vì tâm cảm thấy khó hơn?

23.13. Không dính mắc vào mọi điều kiện bên ngoài

Vì sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì trên hành tinh tự nhiên con không có những hình tư tưởng về những gì phải hay không được xảy ra cho con – con tuôn chảy theo Dòng sông sự Sống. Đúng thật là trên một hành tinh tự nhiên con không tìm thấy những điều kiện như trên trái đất, tỷ dụ như sa nhân sẵn sàng giết hay tra tấn con. Tuy nhiên, tại sao con an bình trên hành tinh tự nhiên? Bởi vì con không dính mắc. Điều mà đức Phật đã chứng minh là con cũng có thể không dính mắc trên trái đất, vì sự không dính mắc đến từ một trạng thái tâm, không phải từ điều kiện bên ngoài. Không dính mắc có nghĩa là không dính mắc vào điều kiện bên ngoài, bất kể các điều kiện này là gì.  Con có thể an bình trên trái đất nếu con không dính mắc các điều kiện bên ngoài trên trái đất. Các thày đã trao cho các con dụng cụ để đạt được trạng thái này bằng cách xem xét các ngã đang dính mắc, luôn luôn phóng chiếu: điều này phải xảy ra, điều kia không được xảy ra.

Con có thể giữ chặt trong tâm hình ảnh này chăng? Con đang ngồi trong chiếc xuồng, hay phải chăng đó chính là con thuyền Bát nhã? Con nhìn hai bên bờ sông, nhưng nếu con chỉ thư giãn thì con biết là dòng sông sẽ dẫn con đi qua bất cứ gì xảy ra hai bên bờ. Vậy tại sao dính mắc, tại sao kềm giữ? Con hãy chỉ nhìn mọi chuyện mà không có hình tư tưởng chuyện gì phải xảy ra hay không được xảy ra. Con hãy chỉ nhìn một cách trung hòa. Con hãy nhìn sự việc như chuyện gì đang xảy ra, đang trải bày trên trái đất, vì một số người cần một trải nghiệm nào đó. Con không cần trải nghiệm mà các người kia đang cần. Do đó, con không cần dính mắc vào những gì họ đang làm. Con hãy để họ làm chuyện của họ, nhưng không dính mắc vào chuyện đó. Con đừng tham dự vào bi kịch của họ và trở nên một phần của bi kịch, dù họ đang tìm cách kéo con nhập cuộc bằng cách ảnh hưởng con.

Con hãy chỉ giản dị buông bỏ. Con hãy buông bỏ ý tưởng họ phải làm gì hay không được làm gì. Con hãy chỉ chú tâm vào việc không kháng cự dòng chảy đang mang con về hạ nguồn Dòng sông sự Sống. Con có thể nhìn bất cứ điểm nào hai bên bờ và cảm thấy chiếc thuyền đang di chuyển và con nói: “Chuyện này rồi cũng sẽ qua đi.” Thày biết là làm vậy có khi không giúp con khuây khỏa, vì có vẻ như con sẽ phải trải nghiệm một điều kiện cho tới cuối đời, nhưng không phải là chỉ khi con qua đời thì điều kiện kia mới sẽ qua đi. Nó có thể qua đi bất cứ lúc nào, nếu con có thể buông bỏ dính mắc trong tâm đang khiến con đau khổ vì điều kiện đó. Một lần nữa, một số người cảm thấy những lời này nghe khó khăn quá, nhưng đó vẫn là sự thực. Đau khổ là một điều kiện của tâm. Liều thuốc tối hậu chữa đau khổ là an bình nội tâm. Đau khổ do dính mắc tạo ra. An bình chỉ có thể đạt được bằng không dính mắc. 

23.14. Dụng cụ đặc biệt mà Nada trao truyền

Một dụng cụ cuối mà thày muốn trao cho con như sau. Con đã có khái niệm: “Từng mỗi tế bào là một âm thoa, với chuông của Mẹ nó đang giao hòa.” Thày, Nada, có một âm điệu đặc biệt, một âm điệu an bình, một âm thanh an bình, một rung động an bình. Nó không là âm thanh vật lý. Mỗi người trong các con sẽ tiếp thu nó một cách hơi khác. Thày trao cho con đặc miễn là nếu con hòa điệu với âm điệu đó, âm thanh đó, âm thanh an bình đó, thì thày sẽ củng cố sự hình dung của con. Âm thanh an bình là một rung động và các con đều đã thấy hình ảnh một số âm thanh có thể làm cho nước rung động hay tạo mô thức trên mặt cát. Mọi chuyện đều là năng lượng, mọi chuyện đều là mô thức. Biển Luân hồi chỉ là năng lượng hỗn loạn. Con có thể sử dụng âm thanh an bình trong tâm con hay ngay cả trong một số hoàn cảnh bên ngoài, nhưng mục đích chính yếu của nó là dùng trong tâm.

Một lần nữa, con đi vào một căn phòng yên tĩnh, ngồi tư thế thoải mái, khép mắt và hòa điệu với Hiện diện của thày, với âm thanh an bình, và con hình dung là âm thanh này bắt đầu rung động trong tâm con, bắt đầu nơi thể tình cảm của con. Âm thanh rung động và tạo nên một mô thức đều đặn trong những xúc cảm hỗn loạn. Những xúc cảm rối loạn dần dần rung động theo mô thức đều đặn đó cho tới khi chỉ còn mô thức đều đặn. Sau đó mô thức lắng đọng xuống và nay thể cảm xúc của con như mặt đại dương yên lắng, mặt nước hoàn toàn yên lặng, bằng phẳng.

Sau đó, con lên thể tư tưởng và một lần nữa, âm thanh an bình bắt đầu ảnh hưởng tư tưởng của con. Những ý tưởng hỗn loạn luôn luôn bị tâm vượn kéo đi khắp hướng mang vào mô thức đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, khi mọi chuyện đã vào mô thức đều đặn, thì các làn sóng dịu xuống và giờ đây thể tư tưởng của con như mặt đại dương yên tĩnh. Sau đó con đi lên thể bản sắc và cùng chuyện lại xảy ra. Năng lượng hỗn loạn nơi đó trở nên một làn sóng rung động đều đặn và sau đó sự đều đặn lắng xuống và thể bản sắc giống như mặt đại dương yên tĩnh.

Sau đó, con từ thể bản sắc đi xuống thể vật lý, và con hình dung là thân thể vật lý của con bắt đầu rung động đồng điệu. Tất cả mọi tế bào, các phần thân thể có vấn đề, bắt đầu rung động đồng điệu với mô thức đều đặn. Chúng trở nên hoàn toàn đồng điệu với rung động đều đặn của âm thanh an bình. Sau đó, làn sóng bắt đầu lắng xuống và nay ngay thân thể của con cũng như mặt đại dương yên tĩnh. Con có thể ngồi bao lâu cũng được trong sự yên tĩnh của đại dương này.

Con có thể lặp lại bài tập này nếu con thấy có gì xao động, và con có thể thiền quán về điều này. Ban đầu thì con không nên thiền lâu quá, nhưng dần dần thì con có thể duy trì trạng thái thiền này lâu hơn. Dần dần con cũng có thể cảm nhận Hiện diện của thày bao bọc con khi con thiền quán. Đây là món quà mà thày trao cho con để giúp các con nào cảm thấy gần gũi Tia thứ Sáu hòa điệu với Hiện diện của thày.

Tới đây thì thày niêm con trong niềm vui của sự An bình của thày, vì thày đã có niềm vui lớn chia xẻ với các con Hiện diện của thày trong khoảng thời gian này.

Từ bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ cá nhân

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels ngày 5/9/2021, nhân dịp Webinar 2021 cho Mỹ quốc – Tiến tới Quan hệ Thời đại Hoàng kim.

TA LÀ chân sư thăng thiên Nada, Thượng sư của Tia sáng thứ Sáu. Đặc tính của Tia thứ Sáu mà ta muốn đặt trọng tâm ở đây là sự an bình.

Nhiều người trong số các con nhìn vào các quan hệ của mình và có thể thấy được trong rất nhiều quan hệ, con không an bình. Trong quan hệ không có an bình. Nhiều người nhìn vào một số quan hệ cụ thể với những người khó tính và tự hỏi: “Liệu có bao giờ tôi sẽ được an bình trong quan hệ với người này hay không?” Chắc chắn điều này sẽ tùy thuộc vào câu hỏi, liệu con đang tìm an bình vỏ ngoài hay an bình nội tâm?

Thật vậy, có nhiều người mà con không thể đạt được an bình vỏ ngoài với họ, vì họ vẫn còn những phần tâm lý chưa giải quyết. Họ không sẵn lòng thay đổi tâm lý của họ. Họ không sẵn lòng khắc phục cái khuôn nếp cứ phóng ra ý tưởng con luôn luôn là người có lỗi, và họ không nhận trách nhiệm về bất cứ điều gì. Con không thể có an bình vỏ ngoài với những người như thế, có thể là cho tới hết kiếp này, hay ít ra hết kiếp này cho một trong hai người. Nhưng như các Thượng sư khác đã trình bày, cho dù người đó có làm gì đi nữa thì con vẫn có thể có được an bình nội tâm. Con có thể có an bình trong quan hệ của con. Nhưng con cần làm gì để đạt được kết quả đó?

Tất nhiên như các Thượng sư khác có nói, con cần nhận diện ra những cái ngã tách biệt đặc thù đã tước mất sự an bình của con bằng cách khiến con phản ứng lại người kia một cách không an bình. Cả hai đều có những cái ngã tách biệt đặc thù từ những kiếp trước, nơi con cảm thấy khi ai đó làm gì con thì con chỉ có thể phản ứng bằng một cách mà thôi, tức là một cách không an bình. Con yêu dấu, cách duy nhất để con gỉai quyết chuyện này là con tự hỏi: “Ai là kẻ cảm thấy không thể phản ứng an bình trong tình huống này? Phải chăng đó là cái Ta Biết hay một ngã tách biệt?”

Các chân sư đã nói gì về cái Ta Biết? Đó là sự nhận biết thuần khiết. Có nghĩa là gì? Chắc chắn đây là một khái niệm trừu tượng, nhưng trong cách diễn giải trần trụi và thẳng thừng nhất, nó có nghĩa là cái Ta Biết không có cảm xúc. Con thử suy nghĩ câu này. Cái Ta Biết không có cảm xúc, ít ra là những cảm xúc trong quan niệm thường tình của con người. Chúng ta có thể nói cho câu trên nhẹ bớt và bảo rằng cái Ta Biết không có cảm xúc xuất phát từ sợ hãi. Nhưng điều này cũng không hẳn chính xác. Tuy vậy, chúng ta cứ dùng tạm xem sao.

Những cảm xúc phổ biến nhất mà con thấy nơi con người là cái mà chúng tôi gọi là cảm xúc phát xuất từ sợ hãi. Nhiều người trong các con sẽ nói: “Nhưng khi người ta giận dữ, họ đâu có vẻ gì là sợ hãi? Vì nếu thật sự họ sợ hãi thì tại sao họ lại hung hãn đến thế?” Thực tế là họ hung hãn chính là vì họ sợ hãi. Hầu kìm nén nỗi sợ của mình, họ khoác lấy cái tư thế nóng giận hung hăng kia để hung hăng khiến con phải khuất phục họ, để cố kềm giữ nỗi sợ của họ. Những kẻ hung hãn nhất thực sự cũng là những kẻ sợ hãi nhất.

Cái mà con thường gọi là cảm xúc con người – tất cả – đều dựa trên sợ hãi. Kỳ thực, cái mà nhiều người gọi là tình yêu, như các thày đã giảng, là một trò chơi kiểm soát lẫn nhau, và nó cũng dựa trên sợ hãi. Tự ngã người đó sợ đánh mất cảm giác nó làm chủ tình hình. Do đó, nó sử dụng tình yêu như một phương thức để khuynh loát, để khiến người kia phải phục tùng mình, hầu tự ngã cảm thấy nó vẫn nắm quyền kiểm soát và không bị đe dọa.

Rất nhiều cảm xúc mà người ta có như vậy phát xuất từ lòng sợ hãi. Nhưng vì cái Ta Biết là nhận biết thuần khiết, nó không thể cảm thấy sợ hãi. Cái Ta Biết không bao giờ có thể sợ hãi bất cứ điều gì. Chỉ một cái ngã tách biệt mới có thể sợ hãi. Tại sao vậy? Bởi vì cái Ta Biết, khi nó hòa điệu với con người mà nó là, với cái mà nó là, biết rằng nó không thể chết. Nó là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ, mà Hiện diện TA LÀ thì là một sinh thể bất tử. Cái Ta Biết không thể chết. Con không thể chết. Nhưng ngã tách biệt biết rõ nó có thể chết, và nó sợ chết.

Khi con bắt đầu vật lộn với những khái niệm trên, mặc dù chúng có thể trừu tượng lúc ban đầu, nhưng con có thể đạt tới điểm khi con khởi sự trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết đó, ý niệm vượt khỏi sợ hãi đó, sự gia tốc đó, cảm giác im lặng hay an bình nội tâm đó. Và nó cho con một tầm nhìn khác hẳn, có thể là về mọi thứ trong cuộc sống, nhưng chắc chắn là về mọi thứ trong tâm lý của con cũng như trong các quan hệ của con.

Bây giờ giả dụ con đang có một mối quan hệ khó khăn với một người nào đó. Con phần nào e ngại nói năng một cách thoải mái với họ vì đã quá nhiều lần con gặp phải phản ứng tiêu cực của họ. Điều này có nghĩa là đối với con, họ đã đạt được một vị thế nào đó trong tâm con. Theo một nghĩa nào đó, con sợ họ. Và qua lòng sợ hãi đối với họ, con đã gán cho họ một tầm quan trọng nào đó. Người kia chiếm giữ một địa vị, và một phần lượng chú ý của con bị kéo hút về phía họ. Giống như là trong tâm con, người kia đã nhận được một ngôi vị lớn hơn thực tế. Điều này có nghĩa là gì? Rốt cuộc ra, nó có nghĩa là con có một số ngã tách biệt đang nhìn người đó một cách đặc biệt nào đó.

Hẳn một số trong các con đã nhìn thấy điều này nhiều năm trước đây, khi sứ giả này có đưa cho con xem một hình vẽ minh họa các trung tâm thần kinh trên cơ thể vật lý con người. Và hình vẽ cho thấy một số bộ phận trong cơ thể có nhiều dây thần kinh hơn và do đó nhạy cảm hơn. Và các bộ phận này được vẽ lớn hơn bình thường, lớn hơn kích thước vật lý của chúng. Nói cách khác, chẳng hạn cái lưỡi có rất nhiều thụ quan cảm giác, nên nó được vẽ lớn hơn cánh tay, vì trên cánh tay không có nhiều thụ quan thần kinh bằng.

Nếu con nhìn vào tâm lý, nhìn vào tâm tiềm thức của mình, con sẽ thấy người khó tính kia hiện hữu ở đó, là người mà con có quan hệ khó khăn. Và trong tâm con, họ to lớn hơn hẳn kích thước vật lý thật của họ. Có thể là trong vòng quen biết của con, có một người nào đó hiện ra to lớn hơn mọi người khác. Điều này cho thấy là người này vô cùng quan trọng đối với con. Con phải lắng nghe họ nói gì. Có lẽ họ có ảnh hưởng lớn trên con, hay có lẽ đơn giản là con chỉ sợ nói chuyện thoải mái với họ. Làm thế nào con đối phó với sự thể này đây?

Đúng vậy, bằng cùng phương thức mà con dùng để khắc phục nỗi sợ bóng tối. Con phải lên tiếng và nhận ra là việc lên tiếng sẽ không giết con chết. Nhưng để có thể làm vậy, con hãy tự giúp mình và khiến cho công việc mình nhẹ nhàng hơn bằng cách giảm thiểu kích thước của người đó trong tâm con. Để mượn một thành ngữ quen thuộc, con có thể đặt họ lại đúng vị thế, để họ không quá to lớn trong tâm con và vượt khỏi kích thước bình thường của họ. Làm thế nào con làm được chuyện này? Con phải nhìn tình huống từ một góc độ khác. Con phải điều chỉnh lại tỷ lệ, vì con đang nhìn họ và tầm quan trọng của họ với một con mắt bóp méo tầm vóc thật của họ.

Gần đây, sứ giả này vừa làm một chuyện mà cả đời ông chưa từng làm. Ông ngủ ngoài trời dưới những vì sao. Ông đã từng ngủ trong lều, nhưng ông chưa bao giờ ngủ mà không có gì che chắn bầu trời. Và ông nằm ngửa ở đó trong một tư thế thoải mái, nhìn thẳng lên trời ngắm dải ngân hà. Tất nhiên là ông vẫn biết, và cũng đã từng trải nghiệm nhiều lần, rằng mọi thứ trên địa cầu không có tầm quan trọng tối hậu nào. Nhưng khi ông ngẩng mặt nhìn lên khoảng mênh mông của dải ngân hà, và ngắm xem có bao nhiêu tinh tú trên trời, ngắm xem chúng xa xôi đến chừng nào, vũ trụ vĩ đại đến chừng nào, và trái đất nhỏ nhoi đến chừng nào, thì ông nghiệm ra là thật sự, trên địa cầu chẳng có gì là quan trọng lắm đâu so với vũ trụ bát ngát đó. Điều gì trong tình cảnh cá nhân của mình có thể thực sự quan trọng trong khoảng vũ trụ rộng lớn đó?

Và ông ngộ ra là so với vũ trụ rộng ngút ngàn, tất cả mấy chuyện cá nhân mà mình phải kinh qua trong cuộc sống trên trái đất thật sự không thể quan trọng lắm. Chúng không thể quan trọng như tầm vóc mà chúng hiện ra trong tâm mình. Nhưng ai đã khiến cho chúng trở nên quan trọng đến thế? Có phải là cái Ta Biết? Không, bởi vì chính cái Ta Biết vừa trải nghiệm sự kinh ngạc kỳ diệu trước vũ trụ vô biên. Vậy thì cái gì đã khiến cho mấy chuyện kia quan trọng? Chỉ có thể là một cái ngã tách biệt.

Hiển nhiên, sứ giả này đã nhiều lần, đặc biệt là khi ông nhận bài truyền đọc, trải nghiệm được tâm của các chân sư thăng thiên. Ông trải nghiệm được sự khác biệt to lớn so với cái nhìn của mình trong kiếp đầu thai. Và so với tầm nhìn của chân sư, ông trải nghiệm được tầm nhìn của mình trong tư cách một con người hiện thân thật sư không quan trọng lắm đâu. Và tất nhiên, điều này đã giúp ông có đủ uy lực để có một tầm nhìn khác hẳn về chính đời mình cũng như những gì mình trải nghiệm trong cuộc sống. Điều này không có nghĩa là ông không còn quan tâm, mà có nghĩa là ông không rơi vào ám ảnh cho rằng bất cứ điều gì xảy ra cho mình cũng cực kỳ quan trọng.

Nói cách khác, ta đang nói về cái gì đó? Ta đang nói về một tiến trình mà tất cả các con đều có thể đi qua. Ta không đang tìm cách tâng bốc sứ giả này, mà chỉ dùng ông ta như là một ví dụ về những gì tất cả các con đều có thể thực hiện. Và đó là tiến trình buông bỏ ý thức cá nhân trong các mối quan hệ cá nhân của mình, hay thậm chí bỏ cả ý thức cá nhân trong đời sống cá nhân của mình.

Làm thế nào con có thể đạt được an bình trong mối quan hệ với một người bất an nếu con không bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ đó, hầu con không còn xem những gì họ nói hay làm nhắm vào cá nhân con? Tất nhiên, người kia sẽ coi đó là chuyện cá nhân. Nhưng con yêu dấu, có định luật tự nhiên nào phán rằng nếu có ai xem điều con nói và làm là những chuyện nhắm vào cá nhân họ, thì con cũng phải hành xử tương tự như họ? Có định luật tự nhiên nào phán rằng nếu họ nóng giận với con, thì con phải cảm thấy bực bội? Rằng con phải phản ứng lại? Rằng con phải xem đó là chuyện hệ trọng, rồi con cho là con cần phải làm gì đó để họ khuây khỏa? Có định luật tự nhiên nào phán như vậy? Không. Thế có định luật tâm linh, vũ trụ nào phán như vậy? Cũng không.

Vậy thì nó đến từ đâu? Nó đến từ các sa nhân, chúng muốn con cảm thấy con phải phản ứng lại chúng. Con phải xem chúng là hệ trọng. Con phải xem những gì chúng làm hay nói về con là nhắm vào cá nhân con, vì khi con coi đó là chuyện cá nhân thì chúng sẽ kiểm soát được con. Vì khi con coi đó là chuyện cá nhân, con trao cho nó một tầm quan trọng trong tâm con.

Điều tồi tệ nhất mà con có thể làm đối với một sa nhân là con hoàn toàn an bình cho dù chúng có nói hay làm gì, hoàn toàn không dính mắc, hoàn toàn vô phản ứng. Chúng không thể chịu nổi khi chúng bị phớt lờ. Chúng không thể chịu đựng được những ai không nghĩ là chúng quan trọng. Chúng không thể chịu đựng được khi chúng không nhận được sự chú ý mà chúng thèm khát hơn hầu hết mọi thứ khác. Hiện đang có một con quái vật tập thể vô cùng dũng mãnh phóng chiếu vào mọi người ý tưởng là con phải xem người khác là chuyện cá nhân. Khi con bắt đầu khắc phục được nó, rất có thể là sẽ có những người trách cứ con là con không quan tâm đến họ. Rằng con không thương họ. Rằng con không xem họ là hệ trọng. Vì họ cảm được là họ không còn quyền kiểm soát mà họ vẫn có trên con. Chuyện này, con cũng không được dính mắc. Và con làm vậy bằng cách, một lần nữa, chú tâm vào câu: “Điều gì mới thực sự quan trọng cho tôi? Tôi là ai? Tôi là một sinh thể tâm linh. Tôi là một học trò tâm linh. Tôi là một đệ tử của chân sư thăng thiên. Tôi nỗ lực hội đủ mọi điều kiện để thăng thiên. So với việc thăng thiên của tôi, liệu còn gì trên địa cầu quan trọng nữa không?”

Phải, ngay bây giờ con chưa ở tầng tâm thức 144, cho nên có thể có một số điều còn quan trọng đối với con vì con chưa sẵn sàng thăng thiên. Và do đó, ngay bây giờ có thể có những điều quan trọng hơn là việc thăng thiên. Nhưng nói cho cùng, không thể có gì trên trái đất quan trọng hơn việc thăng thiên của con đối với con. Bởi vì nếu có, thì con không thể thăng thiên. Một lần nữa, con cần ngoái lại nhìn địa cầu một lần chót đi. Và nếu có điều gì trên địa cầu quan trọng hơn là được bước qua cánh cổng dẫn vào cõi thăng thiên, thì hiển nhiên con không thể bước qua cổng đó. Con phải trở lại địa cầu và trải nghiệm những gì quan trọng đối với con cho tới khi nó hết còn quan trọng nữa.

Con có thể nói, như các chân sư cũng đã từng nói, rằng làm thế nào con vươn từ tầng tâm thức này lên tầng kế tiếp? Đúng, bằng cách vượt qua ảo tưởng mà con đang có. Nhưng con cũng có thể nói là con đã nhìn ra những gì trước kia quan trọng ở tầng đó, nhưng bây giờ chúng không còn quan trọng nữa. Và vì vậy, con vươn lên tầng kế tiếp là nơi có điều gì khác quan trọng hơn. Và sau một thời gian, con lại thấy chính cái này cũng hết quan trọng, và con bước lên tầng cao hơn nữa. Và cứ như vậy khi con đạt đến tầng 144, thì không còn gì trên địa cầu quan trọng đối với con nữa. Bấy giờ, điều quan trọng là con bước qua cánh cổng đó để nhập vào cõi thăng thiên.

Nhưng ngay cả trước khi con tới được tầng 144, con có thể sử dụng một cách ý thức những ý tưởng mà ta vừa trao cho con. Con có khả năng bỏ đi ý thức cá nhân trong đời con. Và con có khả năng đạt tới điểm khi con có sự an bình nội tâm về các mối quan hệ của mình. Cho dù người kia có bất an đi nữa, con vẫn có thể an bình. Theo một nghĩa nào đó, có thể nói là đối với một avatar, đây là thử thách tối hậu. Bởi vì như chúng tôi đã giảng, đã có một thời điểm khi sa nhân được phép đầu thai trên địa cầu và một số avatar đã tình nguyện hiện thân trên trái đất để cầm giữ thế cân bằng, hầu sa nhân không thể chiếm hữu và tàn phá địa cầu.

Điều này có nghĩa là với tư cách một avatar, con đã gặp gỡ sa nhân trong những kiếp trước, rất có thể là ngay kiếp đầu thai đầu tiên của con. Và do đó theo một nghĩa nào đó, các sa nhân biểu tượng cho thử thách chủ yếu của con trên mặt quan hệ, vì chúng chính là những kẻ đã hung hăng tìm cách tiêu diệt con. Thử thách tối hậu của con là con quan hệ thế nào với sa nhân.

Và thử thách thực sự là giờ đây con đã tới một điểm khi con có thể đối mặt với sa nhân, và cho dù chúng có làm gì hay nói gì, dù chúng có ném gì vào con rồi đổ lỗi cho con, thì con vẫn hoàn toàn bình an. Con không có mong muốn thay đổi chúng. Con không có mong muốn tự biện hộ, chứng minh là chúng sai trái hay chứng minh là con đúng và rốt cuộc con là người có lý.

Và con có thể trau dồi sự an bình nội tâm đó, không từ giây phút này tới giây phút khác, mà con thực sự trau dồi nó. Và con sẽ thấy khi con đạt được an bình nội tâm phi cá nhân đó, tất cả mọi quan hệ của con sẽ đều hưởng lợi. Khi con đến được điểm này của an bình nội tâm, con sẽ có những quan hệ xây dựng hơn hẳn, hài hòa hơn hẳn, vì giờ đây, không còn gì mà con muốn từ người khác sẽ khiến con muốn ép buộc họ nữa. Và cũng không có gì mà con cảm thấy phải làm sẽ khiến cho người khác có thể ép buộc được con. Điều con đã thực hiện được qua an bình nội tâm là con đã lấy vũ lực ra khỏi các mối quan hệ của con.

Ta nghĩ hầu hết các con đều mường tượng được thế nào là một quan hệ không dựa trên vũ lực. Có lẽ con đã kinh nghiệm được điều này với một số người, những bạn thân của con, khi không có bất kỳ ý muốn nào để ép buộc lẫn nhau. Các con chỉ vui hưởng tình bạn bè với nhau và hỗ trợ lẫn nhau. Và quan hệ này, con cũng có thể có với nhiều người khác – không phải với tất cả, nhưng khi đó thì hoặc con có thể tiếp tục mối quan hệ với những người khó tính đó vì họ không còn quấy rầy an bình nội tâm của con nữa, cho nên quan hệ với họ có vấn đề gì đâu? Hoặc đơn giản là con sẽ trôi xa khỏi họ, con quyết định là con sẽ không dành thời gian cùng sự chú ý cho họ, và như vậy con bước lên một mức phụng sự cao hơn. Tất nhiên, Tia sáng thứ Sáu cũng là tia sáng của phụng sự. Nhưng con phải cần gì để cống hiến phụng sự tối hậu? Con cần một tâm lý đã phần nào được giải tỏa, bởi vì phụng sự tối hậu không dựa trên vũ lực. Và nếu không dựa trên vũ lực thì nó dựa trên gì? Nó dựa trên an bình.

Nhiều người trong số các con khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, đã quyết định tự đặt mình vào những mối quan hệ khó khăn vào tuổi thơ ấu và tuổi mới trưởng thành, với mục đích cụ thể là giải quyết tâm lý mình càng nhanh càng tốt hầu còn được tự do phụng sự sau này trong đời. “Sau này trong đời” là một cách nói uyển chuyển. Ta không muốn con cảm thấy mình đáng trách nếu mình đã đứng tuổi mà vẫn chưa đạt được sự an bình mà mình mong muốn. Ta không trao cho con những lời dạy này để con tự trách móc.

Ta ban cho con lời dạy này để giúp con nhận ra là con có khả năng vươn lên một mức độ an bình cho phép con khởi đầu phụng sự dựa trên an bình. Và điều này sẽ đem lại thỏa nguyện cho con nhiều hơn hẳn so với những việc con đã làm cho tới nay, vì trước đây có thể con đã tự ép mình phải phuc vụ vì con coi đó là bổn phận phải làm. Và có thể con cũng nhận ra là con đã tự ép mình vào những quan hệ với một số người vì con cảm thấy đó là điều cần làm vì lý do nào đó.

Nhưng sẽ tới một điểm khi con đã từ bỏ ý thức cá nhân trong quan hệ của mình, khi con nhận ra là con không bị ép buộc phải quan hệ với bất cứ ai. Con không có bổn phận phải ở lại trong quan hệ với bất cứ ai. Có thể con đã chọn tự đặt mình vào một gia đình, một số người thân. Con đã chọn lựa như thế và tất nhiên, con nên nỗ lực học hỏi bài học mà con mong muốn học hỏi từ những người đó. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cảm thấy đã học xong bài học, con đã đạt được một an bình nội tâm nào đó, và con có thể tự do chọn lựa: “Liệu tôi có muốn tiếp tục quan hệ này hay không khi tôi không còn cảm thấy tôi phải ở lại trong quan hệ đó?”

Có thể nói, an bình đích thực có nghĩa là con không còn những chữ “phải” trong tâm thức của con nữa. Bây giờ chỉ là chuyện con muốn gì, con thực sự muốn gì. Và chủ đề này, ta sẽ nhường lại cho bài giảng của thày Saint Germain vì nó gần hơn với ngọn lửa tự do của thày.

Với câu này, ta niêm con trong ngọn lửa an bình sống động nồng nhiệt. Bởi vì đây không phải là an bình thụ động. Đây là an bình sống động mà ta là. TA LÀ Nada.

Thoát khỏi tinh thần trốn tránh

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 24/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày rất vui mừng chào đón con ở tầng cuối cùng của khóa nhập thất của thày. Thày muốn bắt đầu bằng cách duyệt lại những gì thày nói về quan hệ giữa con người trong bài giảng trước. Con nhận ra, khi con đứng lui lại và nhìn các quan hệ giữa con người, thì đại đa số (và thày muốn nói hơn 90 phần trăm) dựa trên, bị thúc đẩy bởi, bị kiểm soát bởi phàm linh nội tại trong những con người liên hệ. Con có thể nhìn tình trạng nhiều gia đình và con thấy sự tương tác giữa những thành viên hoàn toàn bị điều khiển bởi các phàm linh nội tại mà họ đã tu bồi, có khi trong nhiều kiếp. Rất hiếm khi, hay không bao giờ, trong suốt một đời người có những giây phút sáng suốt khi con người liên hệ với nhau một cách trực tiếp, cởi mở, không có phin lọc.

Con thấy là trong nhiều quan hệ tình yêu khi hai người mới gặp nhau và yêu nhau, họ có thể có một giai đoạn cởi mở với nhau. Sau đó, khi mối quan hệ trở nên ổn định, thì phàm linh giành quyền điều khiển. Lẽ tự nhiên, như một đệ tử chân sư thăng thiên, con có thể nhìn các sự kiện này và nói: “Tôi không muốn cả đời còn lại của tôi bị điều khiển bởi phàm linh, trong đó tôi lúc nào cũng phản ứng lại phàm linh của người khác qua phàm linh nội tại của chính tôi.” Lẽ tự nhiên, con muốn cố gắng và dùng những dụng cụ mà các thày đã cung cấp để vượt lên trên những phàm linh mà con có trong các mối quan hệ với người khác.

16.1. Giải thoát khỏi áp lực bên trong

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhìn vào: “Quan hệ của tôi với các chân sư thăng thiên, với con đường tâm linh là gì? Cách tôi quan niệm con đường tâm linh có bị phàm linh ảnh hưởng chăng?” Lẽ dĩ nhiên là phần nào. Trong bài giảng trước, thày có nói là thày muốn giải thoát con khỏi mọi áp lực con cảm thấy khi là đệ tử chân sư thăng thiên đang trên con đường đi tới thăng thiên. Nếu con đứng lui lại và nhìn vào chính mình một cách thành thực, con sẽ thấy là con có một số căng thẳng về điều con phải làm và không được làm khi là đệ tử chân sư thăng thiên.

Ta đã thấy trong quá khứ có tổ chức do chân sư thăng thiên bảo trợ đã dựng lên một văn hóa tập thể dựa trên một số quy luật vỏ ngoài quy định thành viên phải làm gì và không được làm gì. Kết quả là cả tổ chức bị bao trùm bởi một phàm linh tập thể khiến họ phán xét lẫn nhau dựa trên các tiêu chuẩn vỏ ngoài đó. Con cũng thấy điều này nơi nhiều tổ chức tôn giáo, nhưng con cũng thấy nơi nhiều tổ chức chính trị, và trong nhiều khung cảnh khác, trong đó, dĩ nhiên, có gia đình. Con thấy là trong thế giới có khuynh hướng đặt ra một tiêu chuẩn cư xử cho thành viên của một nhóm người, và sau đó phán xử những người không tuân theo chuẩn mực hay sự chờ đợi của tập thể.

Con yêu dấu, con có quyền tự quyết và thày tôn trọng quyền tự quyết của con. Lẽ dĩ nhiên, con được phép liên hệ với các chân sư thăng thiên với khuôn nếp hiện nay qua một phàm linh nội tại được tạo ra theo một phàm linh tập thể. Tuy nhiên, nếu con muốn tiếp tục quan hệ với các vị thày tâm linh trên căn bản những phàm linh nội tại và phàm linh tập thể đó, thì thày có một yêu cầu. Con hãy để các thày, các chân sư thăng thiên, ra ngoài các trò chơi tâm lý khuynh đảo nhỏ bé của con. Con hãy tìm các thày khác để chơi các trò chơi này với con vì các thày không muốn chơi các trò chơi này.

Chúng ta đã tới điểm trong khóa tu này là nơi tất cả các thày muốn con phải đối diện nhu cầu ngưng các trò chơi này. Con hãy ngưng liên hệ với các thày qua các trò chơi thế gian này, thường do sa nhân xúi giục. Con hãy tạo dựng một quan hệ cá nhân trực tiếp hơn qua đó con tới với các thày với tâm cởi mở và ngây thơ và không nhìn các thày qua các phin lọc. Lẽ dĩ nhiên, có nhiều phàm linh tập thể mà con người đã tạo ra với các vị thày, các khuôn mặt uy quyền, và với người khác. Trong khóa tu học này, các thày đã cho con dụng cụ để nhìn thấy chúng, nhận diện chúng và vượt lên trên chúng. 

Thày muốn con, khi con hoàn tất tầng này của khóa học, dành một chút thì giờ trước khi con bắt đầu tầng thứ bảy với thày Saint Germain để xem xét quan hệ của con với chân sư thăng thiên, nhìn vào các phàm linh mà con có liên quan đến các thày, và sẵn sàng đuổi chúng đi. Thày làm điều này vì sáu vị Thượng sư đầu có mục tiêu chuẩn bị con cho những khai ngộ mà con sẽ nhận được từ Saint Germain. Những khai ngộ này rất liên quan đến cách con thực thi khả năng đồng sáng tạo. Để con thực thi trọn vẹn khả năng đồng sáng tạo, lẽ tự nhiên con cần phắc phục những ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp ngăn cản con không trở nên hoàn toàn sáng tạo vì con nghĩ cách duy nhất để sáng tạo là biểu lộ mình qua một phàm linh nội tại.

Lẽ dĩ nhiên, con không thể thực sự sáng tạo nếu con tìm cách sáng tạo qua một phàm linh nội tại. Con chỉ thực sự sáng tạo khi con đã sạch phàm linh nội tại tới mức có một kẽ hở để ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của con chiếu qua và thúc đẩy nỗ lực sáng tạo của con. Như Giê-su nói: “Tự riêng ta (cái ta thấp, bốn thể phàm) không làm gì được. Chính là Cha ta (Hiện diện TA LÀ) trong ta làm công việc.”

16.2. Một phiên bản đặc biệt của phản ứng tháo chạy

Ở tầng cuối mà thày đi với con trên con đường tu, thày muốn nói tới một cơ chế khác đã được các tâm lý gia nhận diện. Thày đã nói tới một cơ chế muốn trốn tránh một số chuyện là tư duy thần diệu qua đó con coi mình là trung tâm vũ trụ và coi mọi việc như xảy đến cá nhân mình. Bây giờ thày muốn nói tới một cơ chế khác mà các tâm lý gia đã gọi là phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. 

Ngày hôm nay, nếu con nhìn vào nhiều người trên thế gian thì con thấy là họ tương tác với người khác dựa trên phản ứng chiến đấu. Con người rất, rất nhạy cảm và họ coi mọi việc hướng đến cá nhân họ, do đó họ rất dễ cảm thấy chính cá nhân họ bị tấn công. Khi hó cảm thấy bị tấn công, họ cảm thấy phản ứng tự vệ và đánh trả lại là chính đáng. Họ tự vệ bằng cách đánh lại người kia. Con thấy trong rất nhiều cuộc cãi vã khi một người nói điều gì khiến người kia cảm thấy bị tấn công. Người đó tấn công lại và cuộc cãi vã tiếp tục cho tới khi cả hai cạn tiệt năng lượng (trong nhất thời) và mỗi người đi một nẻo. Nhiều khi, họ trở lại sau đó và tiếp tục cãi vã khi họ đã phục hồi năng lượng.  

Con yêu dấu, lẽ dĩ nhiên hiện tượng này do phàm linh nội tại và một số phàm linh tập thể rất dũng mạnh thúc đẩy. Thày muốn con nhận ra là con là một người tâm linh và con đã là một người tâm linh trong nhiều kiếp. Nhiều người trong số các con đang theo học khóa học này đã đi trên con đường tâm linh từ 2000 năm nay, từ khi Giê-su trao truyền giáo lý về chìa má bên kia, thương yêu kẻ thù, làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình. Con đã cố hết sức theo giáo lý vỏ ngoài của Cơ đốc giáo và con đã tìm cách chế phục phản ứng chiến đấu trong con mà nó cũng ngự trị trong tâm nhiều người trên trái đất. Phản ứng chiến đấu này, lẽ dĩ nhiên, lúc đầu do một phàm linh bên ngoài tạo ra, và phàm linh đã có từ rất, rất lâu trên hành tinh này và do đó đã trở nên rất dũng mãnh. Nó đã được liên tục củng cố và ngày nay vẫn được củng cố bởi những người hành xử như vậy. 

Nhiều người trong số các con, trong suốt 2000 năm qua, đã cố gắng tự giải thoát mình khỏi khuynh hướng đó. Tuy nhiên, vì giáo lý của Giê-su bị bóp méo và tha hóa và vì quá nhiều phần bị loại bỏ, con không nhất thiết đã làm đúng theo những gì Giê-su chỉ dạy. Lẽ dĩ nhiên, Giê-su muốn con đi trên con đường của quả vị Ki-tô trực tiếp với thày trong 2000 năm qua. Nhiều người trong các con đã không tìm được con đường này vì giáo lý vỏ ngoài của Giê-su bị bóp méo và vì các phong trào thần bí bí truyền bị Cơ đốc giáo đàn áp.

Con cần nhận ra là con có phản ứng bản năng theo mô thức chiến đấu hay tháo chạy khi con đối diện sự hung hãn của người khác. Lẽ dĩ nhiên, có một lối phản ứng khác dựa trên quả vị Ki-tô, nhưng khi con chưa thấy con đường của quả vị Ki-tô, con thường không thể thấy làm sao con có thể đáp ứng một cách trực tiếp khi bị tấn công. Do đó, đa số các con đã đi vào khuynh hướng cảm thấy không bao giờ được tỏ ra hung hãn, lúc nào cũng phải chìa má bên kia, làm cho người khác những gì mình muốn họ làm cho mình, tránh hung hãn khi con chạm mặt sự hung hãn.

Dựa trên hiểu biết vỏ ngoài đã lưu hành sau khi các giáo hội Cơ đốc giáo méo mó được thành hình, thì đây là một phản ứng chừng mực và thực tiễn. Con không thể làm gì khác. Việc con tự kỷ luật mình để không phản ứng một cách hung hãn, không ăn miếng trả miếng, là một thái độ xây dựng. Tuy nhiên, con cần nhận ra là khi con không thể đáp ứng trực tiếp với sự hung hãn, con khó tránh chuyển qua phản ứng tháo chạy. Phản ứng tháo chạy, lẽ dĩ nhiên, là khi con tìm cách tránh xa điều kiện mà con cảm thấy khó khăn hay không chịu được. Con tìm cách tránh xa người tấn công con. Điều này đã phần nào dẫn tới khuôn nếp né tránh mà thày có nói tới trong bài giảng trước, nhưng đề tài này có nhiều khía cạnh hơn nữa.

16.3. Một lối thoát do sa nhân cống hiến

Con yêu dấu, nếu con xem xét 144 tầng tâm thức, thì con thấy là giáo lý mà Giê-su trao truyền 2000 trước đây, là giáo lý vỏ ngoài được ghi lại trong kinh điển, đã thực sự nhắm vào những người có tâm thức dưới tầng 48 nhưng không quá xa tầng 48. Giáo lý được trao truyền với mục đích giúp con người mau chóng vươn lên tầng 48, và sau đó bắt đầu đi theo con đường dẫn tới tầng 96. Điều con cần nhận ra là ở mỗi tầng tâm thức từ 48 đến 96, có một ảo tưởng mà con cần vượt qua. Con cần chế phục một phàm linh tập thể và một phàm linh nội tại trong tâm con.

Ở mỗi tầng con đối diện một thử thách. Thí dụ, khi con ở tầng tâm thức 48, con nhìn đời xuyên qua một phin lọc nào đó. Có nghĩa là khi con chạm mặt một hành động nào đó từ người khác, con có khuynh hướng coi đó là một hành động hung hãn. Ở tầng 48, có một dạng phản ứng chiến đấu hay tháo chạy bình thường ở tầng đó. Ở tầng 48, nếu con có phản ứng chiến đấu thì con sẽ có hành động hung hãn dựa trên cảm xúc tức giận của mình. Rất có thể con sẽ tự bảo vệ khi bị tấn công vật lý.

Lúc đó, nếu con theo lời dạy của Giê-su khuyên nên tránh hung hãn vật lý (con nên chìa má bên kia, con không nên hung hãn) thì con sẽ làm gì? Con sẽ theo phản ứng tháo chạy, cũng bình thường ở tầng 48. Con không thể làm gì khác. Thày không nói điều này để chê trách con; ai ai trong chúng ta đều đã phản ứng như vậy. Điều con cần nhận ra là sa nhân rất xảo quyệt. Thày có nói là họ thích tạo chia rẽ ngay trong tâm con. Họ muốn đẩy con người tới chỗ không kiểm soát được đời sống của mình, tâm hoàn toàn hỗn loạn. Lúc đó, sa nhân có thể bất cứ lúc nào khuấy động họ để họ trở nên tức giận hay phản ứng một cách bất quân bằng. Có người tới điểm giản dị từ chối không chịu chơi trò chơi này nữa. Sa nhân làm gì với những người này? Nếu sa nhân không thể đẩy con người vào phản ứng chiến đấu, thì họ rất xảo quyệt đẩy con người vào phản ứng tháo chạy.

Một mặt sa nhân đưa con gặp một hoàn cảnh hung hãn khó chịu mà hầu như con không thể thoát được trong cõi vật lý. Vì họ không thể khiến con đánh lại, họ cho con một lối thoát khỏi điều kiện mà chính họ đã tạo ra. Như thày có giảng, một số có khuynh hướng theo phản ứng chiến đấu. Họ bị sa nhân làm kẹt trong khuôn nếp phản ứng hung hãn chống lại một hành động hung hãn. Những người không theo khuôn nếp này, thì họ theo (thường khi một cách vô ý thức) một lối thoát mà sa nhân cống hiến ở tầng tâm thức của họ. Điều thày muốn nói là nếu con nhìn vào các tầng tâm thức từ 48 đến 96 (và các tầng tâm thức dưới tầng 48 cũng vậy) thì con thấy ở mỗi tầng có một cơ chế trốn tránh qua đó con trốn tránh hoàn cảnh mà ở tầng đó con cảm thấy không chịu nổi, không thể đối phó nổi.

Con không thể đánh lại hoàn cảnh; con không thể sống mà phải gặp nó hoài do đó con tìm một lối thoát, một cách tránh xa nó. Các cơ chế trốn tránh này ở đâu? Có nhiều ở cõi vật lý. Con có thể thấy, tỷ dụ (thày nghĩ con có thể nhận ra dễ dàng) là chất ma túy và rượu là một trong những cơ chế trốn tránh cơ bản. Có những cơ chế trốn tránh vật lý khác, tỷ dụ như trong thời Trung cổ, con người xây lâu đài và thành quách để họ có thể sống sau những bước tường dày và cảm thấy được bảo vệ khỏi sự hung hãn. Con người cũng tìm cách tránh xa hiểm nguy tiềm tàng bằng cách dời tới những nơi hẻo lánh. Có nhiều người, tỷ dụ, đã bị dính dấp vào chiến tranh và xung đột trong kiếp này hay kiếp trước, nên đã tìm về sống như nông dân ở vùng hẻo lánh để không phải gặp chiến tranh trong kiếp sống này.

Lẽ dĩ nhiên, không có gì sa nhân làm ở cõi vật lý chỉ đơn thuần ở cõi vật lý, do đó họ cũng tạo cơ chế trốn tránh, hay cõi trốn tránh, ở cõi trung giới, cõi cảm xúc, cõi lý trí và ngay cả phần thấp của cõi bản sắc. Con có thể thấy là nhiều người đã tìm ra cách tự bảo vệ khỏi những hình thức hung hãn tệ hại nhất trong kiếp sống này. Con có thể thấy nhiều người trong các nước tiên tiến là nơi hiểm họa chiến tranh rất thấp, đã sống cuộc đời thoải mái, an toàn. Con cũng thấy những người đại phú sống trong những nơi gọi là cộng đồng đóng rào là nơi người khác không thể giản dị bước vào mà cần phải được phép. Có nhiều thí dụ con người đã tìm cách sống cách ly vật lý. Tuy nhiên, không có hành động nào đơn thuần vật lý, do đó có chuyện xảy ra trong tâm song song với hành động vật lý. Hay đúng hơn, ta có thể nói là một phản ứng trong tâm thức đã tạo ra hành động vật lý.

16.4. Trốn tránh trong tâm

Phản ứng trong tâm này được tạo thành như thế nào? Nó được tạo ra khi con có một ước muốn. Con lấy quyết định: “Tôi không bao giờ muốn trải nghiệm điều này nữa.” Vì con không thể hành động hung hãn chống điều đó, nên con đi vào cơ chế trốn tránh, cơ chế tháo chạy, qua đó con tìm cách trốn tránh khỏi nó trong tâm. Con chấp nhận một phàm linh tập thể, con tạo ra một phàm linh nội tại cho con (trong tâm con) một lối thoát hay một cảm giác khuây khỏa khỏi điều kiện vật lý mà con không muốn đối mặt nữa.

Con cần nhận ra là ở mỗi tầng từ 48 đến 96, có một cơ chế trốn tránh sẽ, nếu con dùng nó, buộc con vào cõi trung giới, cõi tư tưởng hay cõi bản sắc. Con bị buộc vào cõi trốn tránh của sa nhân, nơi đó con cảm thấy khuây khỏa và an toàn khỏi một số điều kiện. Con sẽ thấy, tỷ dụ, là ở cõi xúc cảm con được cho cảm giác là nếu con có đủ tiền, con sẽ được bảo vệ. Con thấy có nhiều người giàu có bị trói buộc rất chặt vào cõi này trong thể cảm xúc của họ, và họ cảm thấy an toàn khi họ có đủ tiền. Lẽ dĩ nhiên, thật ra thì không phải là tiền giúp họ cảm thấy an toàn. Đó là một cảm giác, và cảm giác này có trong thể cảm xúc của họ, nhưng nó được tăng cường bởi cái cõi trốn tránh trong thể cảm xúc của hành tinh. Có những sa nhân, tà linh và quỷ dữ ở nơi đó khiến con người cảm thấy an toàn vì như vậy họ bị ru ngủ và không đi trên con đường tới quả vị Ki-tô là nơi họ có thể tìm thấy con Đường Ki-tô, con Đường Tâm linh dựa trên Ki-tô giúp họ đáp ứng những điều kiện mà họ muốn tránh.

Thày không muốn nói là con cần đi trở ngược và xem xét mỗi tầng từ 48 đến 96 và tìm ra cơ chế trốn tránh của con. Thông thường thì con không còn một cơ chế trốn tránh ở mỗi tầng, nhưng con cũng còn một số hình thức của cơ chế trốn tránh.  Điều này, lẽ dĩ nhiên, dính liền với điều thày nói ở đầu bài, là cách con chơi một số trò chơi với ý tưởng thày giáo. Con yêu dấu, thực tế đơn giản là nhiều người đã dùng giáo lý tôn giáo hay tâm linh làm căn bản của cơ chế trốn tránh cá nhân của họ.

Con có thể thấy những hình thức cực đoan của hiện tượng này, tỷ dụ như các nhóm Cơ đốc giáo cực chính thống tin chắc là chỉ mình họ có cách diễn giải Thánh kinh chính xác. Họ nghĩ rằng vì niềm tin này, họ được bảo đảm sẽ được cứu rỗi. Nhiều người trong các nhóm đó tin rằng sự cứu rỗi đã gần kề vì bất cứ lúc nào Giê-su sẽ hiện ra trên trời, mang họ lên thiên đàng, gửi hết các người còn lại xuống địa ngục và sau đó cuộn thế giới lại như một cuộn giấy. Đây là cơ chế trốn tránh của họ. Có một số điều kiện trên thế giới mà họ không đối phó nổi, và để tránh giải quyết những vấn đề này, họ tạo ra niềm tin là bởi vì họ thuộc vào nhóm tôn giáo vỏ ngoài đó, họ sẽ được cứu rỗi. Niềm tin này khiến họ cảm thấy an toàn.

Con hiểu chăng là mục đích của bất cứ cơ chế trốn tránh nào là khiến con cảm thấy an toàn. Nó cũng ngăn cản con thăng vượt chính mình vì nếu con cảm thấy an toàn, thì tại sao con lại cần thăng vượt chính mình và đi trên con đường quả vị Ki-tô? Con chỉ cần ở lại tầng tâm thức đó và chờ vị cứu tinh bên ngoài tới và cứu con.

Con có thể thấy tín đồ nhiều tôn giáo khác cũng đã làm tương tự. Nếu con nhìn giáo lý của các nhóm Thời đại mới, con sẽ thấy là nhiều người đã chế ra những giáo lý chỉ giản dị là cơ chế trốn tránh. Con hãy lấy thí dụ sự cuồng loạn xảy ra trước năm 2012 vì có nguời cho rằng lịch cổ của người Maya chấm dứt vào năm đó. Con có thấy là biết bao nhiêu người tin rằng một biến cố trọng đại sẽ xảy ra, và vì họ là những người đã tiên đoán trước nên họ sẽ có một địa vị nổi bật sau đó. Đây là một cơ chế trốn tránh khiến con người cảm thấy an toàn, giúp họ cảm thấy họ có thể đương đầu được với đời sống trên trái đất lúc này vì họ đã tạo ra trong tâm trí họ hoàn cảnh sẽ xảy ra trong tương lai gần hay xa.

16.5. Con không cần cơ chế trốn tránh nữa

Thực tế là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất khó khăn. Có nhiều điều kiện trên trái đất khó đối phó ở mặt tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Để có thể sống ở đây, gần như không tránh được việc con cần tạo ra một cơ chế trốn tránh để con có thể cảm thấy yên ổn, an toàn. Con có thể cảm thấy phần nào quân bằng trong thế giới rất khó khăn này.

Con yêu dấu, một lần nữa thày không chê trách con. Không có gì đáng chê trách khi con tạo ra một cơ chế trốn tránh. Thày chỉ giản dị nói là ở tầng này của con đường tu, khi con chuẩn bị có liên hệ trực tiếp với Saint Germain và học cách sử dụng khả năng đồng sáng tạo của mình, đã đến lúc con nhìn vào các cơ chế trốn tránh hiển nhiên nhất của con và nhận ra con không cần chúng nữa ở tầng tâm thức này. Khi con đã đạt được một tầng quả vị Ki-tô nào đó, thì con không cần cơ chế trốn tránh nữa vì các điều kiện thế gian mà con cảm thấy không thể đương nổi khi con ở tầng tâm thức 48 hay thấp hơn, nay con không còn cảm thấy như vậy nữa.

Khi con đã có phần nào phân biện Ki-tô, con có thể đối phó với hoàn cảnh một cách xây dựng mà không cảm thấy quá tải. Con yêu dấu, nếu ta nói một cách thẳng thắn không vị nể, thì nếu con nhìn vào phong trào Thời đại mới, thì 98 phần trăm sinh hoạt của các nhóm đó chỉ là cơ chế trốn tránh. Điều này có vẻ sửng sốt, và nhìn dưới góc độ nào đó nó quả thật sửng sốt. Lẽ dĩ nhiên, khi con nhìn vào các tôn giáo chính thức thì tình hình cũng tương tự. Khi con nhìn vào các tổ chức chính trị, thì cũng tương tự. Nhiều người trong hai trăm năm qua tin vào chủ nghĩa Mác-xít qua nhiều hình thức cũng đã tự tạo cho họ một cơ chế trốn tránh. Có người khác cũng làm như vậy bằng cách suy tưởng một xã hội lý tưởng tương lai và họ là người tiên phong vì chỉ có họ mới thấy ra tương lai đó.

Như phần nối dài của bảy khai ngộ mà con đã nhận từ thày và các khai ngộ mà con đã nhận từ các Thượng sư khác, thày cần con sẵn sàng đứng lui lại và xem xét cơ chế trốn tránh cá nhân của con. Như một chuẩn bị để bắt đầu các khai ngộ với Saint Germain, thày cần con xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để củng cố một cơ chế trốn tránh sẵn có mà con đã mang trong nhiều kiếp.

Một trong những cơ chế trốn tránh chính yếu của những tín đồ tôn giáo là niềm tin rằng tôn giáo của họ có chân lý duy nhất, tuyệt đối hay cao nhất. Niềm tin này khiến họ cảm thấy khác những người không thuộc tôn giáo họ. Nó khiến họ tin rằng họ là những người được bảo đảm cứu rỗi trong khi những người khác thì có thể sẽ không được cứu rỗi hay chắc chắn sẽ không được cứu rỗi.

16.6. Trốn tránh không nhìn vào chính mình

Con có thể thấy là cơ chế trốn tránh cho con người một cái cớ để nói: “Nhưng tôi thuộc vào phong trào vỏ ngoài này, tôi tin vào giáo lý vỏ ngoài này, tôi không làm những chuyện họ nói tôi không được làm, và tôi làm hầu hết các chuyện mà họ nói tôi phải làm. Do đó, tôi là một thành viên ngoan đạo của giáo lý vỏ ngoài này, và do đó tôi không cần xem xét một số điều trong tâm lý của tôi. Tôi không cần nhìn vào cái đà trong chính mắt tôi.”

Đây là tác động chính yếu của các cơ chế trốn tránh đặc biệt áp dụng cho tôn giáo. Phàm linh tập thể này rất, rất mạnh trên hành tinh này. Con không thể nào đã đầu thai trên hành tinh này, bất kể dài lâu, mà không bị nó ảnh hưởng. Thày đặc biệt nói với con, như thày đã nói trước đây, là nhiều người trong các con đã chấp nhận lý tưởng không hung hãn của Cơ đốc giáo mà không nhận được trọn vẹn giáo lý về quả vị Ki-tô. Do đó con cảm thấy bị mắc kẹt, con cảm thấy bất lực. Con bị đặt vào hoàn cảnh hung hãn nhưng con không thể phản công một cách hung hãn, do đó con cảm thấy lý tưởng tôn giáo của mình đã khiến mình bất lực.

Kết quả là con cảm thấy cần trốn tránh điều mà con không thể thay đổi, điều mà con không thể đối phó. Điều mà các thày, cả sáu Thượng sư, đã dạy con trong khóa này là con không bao giờ bất lực. Không có hoàn cảnh nào trên trái đất mà con không thể đối phó được bằng cách khắc phục phàm linh nội tại đã khiến con phản ứng lại điều kiện đó với phản ứng chiến đấu hay tháo chạy. Con thấy là con cần nhìn: “Đâu là những điều kiện trên trái đất mà con cảm thấy con không thể đối phó được, con không thể sống với?” Khi con nhận ra điều kiện đó thì con có thể bắt đầu nhận diện cơ chế trốn tránh mà con đã tạo ra để tới điểm biết là mình đang hiện thân ở cõi vật lý, biết là điều kiện này có mặt trên trái đất, nhưng con có được cơ chế này để cảm thấy an toàn. Con cảm thấy con có thể ổn định cuộc sống dù rằng điều kiện kia vẫn còn trên trái đất.

Con yêu dấu, thày cần con xem xét như vậy vì nếu con liên hệ với các chân sư thăng thiên và với Hiện diện TA LÀ của con qua phin lọc của các cơ chế trốn tránh, con sẽ không thể bắt đầu thực thi vai trò đồng sáng tạo thật của mình. Đúng thực là một số các con có trong Sứ vụ Thiêng liêng việc đối phó với cơ chế khiến con cảm thấy có chuyện không thể chịu đựng nổi. Làm sao con có thể đối phó với điều kiện đó nếu cách con nhìn nó bị pha màu bởi cơ chế trốn tránh khiến con muốn tránh xa điều kiện đó? Không phải là con cần trải nghiệm chiến tranh, chẳng hạn, ở cõi vật lý nhưng có thể là con có nhiệm vụ thách thức một khía cạnh nào đó của tâm thức tạo ra chiến tranh. Con sẽ không làm được chuyện này nếu con còn cơ chế trốn tránh khiến con không muốn xem xét chiến tranh vì con không muốn trải nghiệm lại chấn thương mà con trải qua trong quá khứ khi chạm trán chiến tranh. Con yêu dấu, con thấy chăng khuôn nếp đó?

16.7. Tinh thần trốn tránh ngăn chặn Sứ vụ Thiêng liêng

Để thực thi Sứ vụ Thiêng liêng của con và giúp nâng hành tinh này lên trên một tầng tâm thức nào đó, con phải sẵn sàng nhìn vào tâm thức đó ở các tầng bản sắc, tư tưởng, và tình cảm. Con cần xem xét các ảo tưởng của chính con và các ảo tưởng tập thể liên quan đến tâm thức đó. Sau đó, con vượt qua nó trong chính con và con thách thức tâm thức tập thể bằng cách đọc bài chú bài thỉnh hay đứng lên phơi bày một điều gì đó. Điều kiện đầu tiên mà con cần thực hiện là con không còn tìm cách trốn tránh điều kiện mà con muốn thay đổi. Con không thể thay đổi điều gì bằng cách tránh xa nó, vì cách duy nhất để thay đổi một điều là xem xét nó và đi vào trong nó. Con không thể đi vào trong điều gì khi con muốn tránh xa nó trong các thể tình cảm, tư tưởng hay bản sắc. Đó là lý do vì sao từ thời cổ xưa người ta đã nói là cách duy nhất để vượt qua sợ hãi là đối mặt nó.

Các thày đã cho con dụng cụ để giúp giải quyết vấn đề. Các thày đã dẫn con đến tầng tâm thức nơi con không còn bị sợ hãi thúc đẩy. Con nhận ra khi con xem xét các nỗi sợ của mình, chúng không làm con choáng ngợp như trước khi con bắt đầu khóa học. Con toàn toàn có khả năng nhìn thẳng vào chúng và xem xét cách con đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên như một loại cơ chế trốn tránh để con cảm thấy an toàn vì con đang học giáo lý này.

Thày cần con nhận ra là một số người trong các con đã đi vào trạng thái tâm qua đó con cảm thấy tất cả những gì con cần làm là xem xét tâm lý cá nhân của chính mình. Nếu con khắc phục mọi thứ trong tâm lý cá nhân, thì con không cần xem xét các khía cạnh của tâm lý tập thể.

Nhiều người trong các con trong quá khứ đã bị dính líu vào chiến tranh, và đã cảm thấy chiến tranh là một quái vật vĩ đại trên hành tinh, và cá nhân con không thể làm gì để giải quyết vấn đề. Con đã tạo ra cơ chế trốn tránh qua đó con không thực sự muốn nhìn vào chiến tranh và tâm thức đã tạo ra chiến tranh. Con đã dùng giáo lý của các thày để khiến con tin rằng con không cần xem xét nó, con chỉ cần xem xét tâm thức của mình mà thôi. Con yêu dấu, khi con tiến lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô, con cần trực diện các quái vật tập thể đó. Đây là điều Giê-su đã làm trong sứ vụ công chúng của thày. Thày không nói là con cần bắt đầu làm việc này ngay lúc này, vì thành thật mà nói, đây là việc con cần làm khi con đã đi quá tầng 96 – bằng hành động vỏ ngoài của con. Ngay lúc này, con cần nhận ra cơ chế trốn tránh và cơ chế này ảnh hưởng cách con nhìn con đường tu như thế nào. Con cũng cần nhận ra là con không thể nào hoàn toàn sáng tạo khi con còn một cơ chế trốn tránh.

16.8. Là người đồng sáng tạo

Là người đồng sáng tạo với Hiện diện TA LÀ có nghĩa gì? Nó có nghĩa con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con. Thế nào là cánh cửa mở? Nó có nghĩa con không ngăn chặn những nơi mà Ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ có thể chảy qua. Nếu con có một cơ chế trốn tránh nói rằng con không muốn xem xét một điều kiện nào đó, thì làm sao Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ có thể chảy vào điều kiện đó? Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ chảy qua bốn thể phàm của con. Nó chảy qua cây cầu của sự chú ý có ý thức của con. Nếu con không chịu đặt sự chú ý ý thức của con vào một số điều kiện, thì Ánh sáng của Hiện diện TA LÀ không thể chảy qua nó vì không có sự kết nối giữa điều kiện và tâm của con. Do đó, không có sự kết nối giữa điều kiện và Hiện diện TA LÀ vì tâm của con là cái đứng giữa làm trung gian.

Điều đơn giản là đã đến lúc trong khóa học này con cần nhận ra là con đã tới trình độ không còn cần các cơ chế trốn tránh nữa. Con yêu dấu, một số trong các con có thể cảm thấy là, một lần nữa, thày đã chỉ con một điều con chưa làm đủ, một điều con cần khắc phục, một điều con thiếu sót, một điều con không làm tốt đủ. Đây không phải là điều thày đang làm. Thày đang chỉ cho con thấy là, qua quá trình học khóa học này và sẵn sàng vươn lên từ tầng 48 tới tầng này, con đã tiến triển rất nhiều. Con đã vươn lên cao hơn rất nhiều tâm thức của đa số con người trên hành tinh này.

Thày biết rằng, đã nhiều lần trong tâm vỏ ngoài con chưa nhìn nhận điều này. Các thày thường thấy hai khuynh hướng nơi các đệ tử tâm linh. Các thày thấy có một số đệ tử rất sốt sắng muốn cảm thấy họ đã đạt được điều gì, họ đã tiến bộ trên con đường tu, và điều này khiến họ hơn người khác. Đây là những người chưa khắc phục mặc cảm tự tôn. Họ có thể dùng giáo lý chân sư thăng thiên để xây dựng một sự kiêu hãnh tâm linh, cũng là một cơ chế trốn tránh. Họ cảm thấy mình hơn người khác. Đa số đệ tử của các thày không rơi vào thành phần này, nhưng lại rơi vào thành phần những người chưa hoàn toàn khắc phục mặc cảm tự ti. Những người này có khuynh hướng không thấy một cách ý thức những thành đạt và thành quả của mình.

Con yêu dấu, dù con có trong thành phần nào chăng nữa, thày cần con tới điểm không còn vấn đề tự tôn hay tự ti, thổi phồng thành đạt của mình thay hạ thấp thành đạt của mình. Điều quan trọng là phải thiết thực và nhận ra là bây giờ con đã tới một tầng cao trên con đường tâm linh. Điều này có nghĩa là có một số điều con không còn cần nữa. Con có thể nhìn chúng và con nói: “Tôi không cần điều này nữa.”

Khi con biết con không bất lực, khi con biết không có điều gì trên trái đất quy định được con, khi con biết bất cứ phản ứng nào cũng là một phàm linh nội tại và khi con biết cách khắc phục phàm linh nội tại, thì tại sao con lại cần trốn tránh bất cứ điều kiện nào trên trái đất? Con biết điều kiện chỉ có thể ảnh hưởng con qua phản ứng của con, mà phản ứng này dựa trên một phàm linh nội tại. Nếu con đuổi được phàm linh, điều kiện không thể ảnh hưởng ba thể cao của con và do đó tại sao con lại phải sợ khi xem xét nó? Tại sao con cần trốn tránh xem xét nó?

Con có thể đi vào một điều kiện ở tầng bản sắc, thấy nó ảnh hưởng bản sắc con ra sao, và nó ảnh hưởng bản sắc người khác ra sao. Con có thể đi vào điều kiện ở tầng tư tưởng, và xét xem điều kiện ảnh hưởng thể tư tưởng của con ra sao, và người khác đã chế ra những biện minh cầu kỳ như thế nào ở tầng tư tưởng. Con có thể đi vào thể tình cảm của mình, xét xem điều kiện ảnh hưởng con ra sao và thấy người khác đã dựng lên nỗi sợ hãi và thù ghét mạnh đến độ họ không thể đối phó với nó và do đó đã tìm cách trốn tránh điều kiện này. Con có thể thấy có người khác đã bị mắc kẹt trong phản ứng chiến đấu hung hãn chống lại các điều kiện này. Sau đó, khi con đã giải thoát mình khỏi các phản ứng trong chính tâm của con, thì con tự do thách thức chúng mỗi khi con có cơ hội.

16.9. Một cơ hội chưa từng có để giúp người khác

Con yêu dấu, con có nhận ra là con đang sống trong một thời đại trong đó mọi con người có cơ hội chưa từng thấy để biểu lộ chính họ dùng dụng cụ phi thường, mà con thể nào cũng đã biết tới, gọi là mạng Internet? Con có cơ hội, chưa từng có trong các thời đại trước, nói lên sự thực của mình như mình thấy ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày sẽ không nói con vào chi tiết con cần làm gì, nhưng con hãy nhìn những phương tiện hiện có trên mạng Internet và xem con có thể dùng mạng Internet để nói lên những khai ngộ mà con đạt được trong khóa học này hay trong giáo lý chân sư thăng thiên. Nếu con nhìn vào ứng dụng Facebook, thì con thấy có nhiều người (trong đó có một số trong các con) hay lặp lại những câu nói rất, rất dễ thương hay phim ngắn về chuyện này chuyện nọ, các chuyện này chỉ giản dị là chuyện vô bổ, một hình thức cơ chế trốn tránh nhằm giúp con người nhất thời cảm thấy dễ chịu.

Các đệ tử chân sư thăng thiên có thể nào dùng mạng Internet để chia sẻ một số các sáng ngộ thật, các sáng ngộ thách thức, mà con đã đạt được khi là đệ tử chân sư thăng thiên và khi theo học khóa học này? Con hãy suy ngẫm chuyện này. Một lần nữa, thày không muốn con phải cảm thấy hổ thẹn nếu con chưa làm, nhưng mặt khác thày muốn đủn con một chút về hướng thấy là con nay đã sẵn sàng nói lên sự thực của mình như con thấy nó. Con không cần phải đợi các điều kiện vỏ ngoài thuận tiện. Con chỉ cần lấy quyết định và chấp nhận là con có một điều gì mà hầu hết mọi người trên hành tinh này không có. Con có sáng ngộ, con có nhận biết, con có nhiều tự do hơn. Do đó, con có thể giúp người khác và có thể một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là làm điều này.

Một lần nữa, một khi con đã loại cơ chế trốn tránh thì con nhận ra là con đã có cơ chế trốn tránh khiến con cảm thấy con không cần, con không nên, hay con sẽ gặp nguy hiểm nếu con thách thức các ảo tưởng và dối trá của sa nhân. Do đó, bất kể lý cớ nào mà con đã tạo ra cho mình, cơ chế trốn tránh căn bản nhất, khó loại trừ nhất, của con là con cảm thấy: “Ồ, thật ra tôi không cần biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi, ít nhất là chưa làm ngay bây giờ, hay không qua cách này hay cách nọ, hay bằng cách thách thức điều kiện này hay điều kiện nọ.” Cơ chế trốn tránh căn bản là cơ chế khiến con cảm thấy con làm đúng, con được an toàn khi con không biểu hiện quả vị Ki-tô của con, hay con chưa làm ngay bây giờ, hay con không biểu hiện nó cách này hay cách khác.

Con yếu dấu, nếu con chịu nhìn vào cơ chế này và vượt lên trên nó, thì con sẽ sẵn sàng để nhận những chỉ dẫn của thày Saint Germain. Con nhận ra là khi con đưa ra một lời hướng dẫn, con nhắm vào một trình độ nào và do đó chỉ có những người đã lên tới trình độ đó mới nhận được lợi ích của lời chỉ dẫn. Thày Saint Germain sẽ không đưa ra lời chỉ dẫn cho tầng 48. Mục đích của thày là dẫn con tới tầng 96 và đặt con vững vàng trên con đường tới quả vị Ki-tô sẽ dẫn con tới tầng 144. Thày sẽ giả sử là con tới khóa nhập thất sẵn sàng đón nhận các chỉ dẫn mà thày đã sửa soạn cho con.

Nếu con chưa sẵn sàng thì con vẫn có thể đọc quyển sách của thày Saint Germain với trí vỏ ngoài, con có thể đọc các bài thỉnh và làm các thực tập, nhưng con sẽ không nâng tâm thức mình lên. Do đó, con sẽ không thể biểu lộ khả năng đồng sáng tạo của mình. Con không thể là người có thuật biến hóa huyền bí. Con sẽ không đạt được khả năng kết đọng những thay đổi mà thày Saint Germain sẽ dạy con. Có thể nói là sáu Thượng sư đầu chỉ giản dị chuẩn bị con tới khóa học của thày Saint Germain. Lẽ dĩ nhiên, các thày cũng đã chuẩn bị con cho chính các thày, vì nếu con chưa hoàn tất các khai ngộ do Chân sư MORE trình bày, thì con chưa sẵn sàng tới thày Lanto, vân vân và vân vân.

16.10. Vượt qua sự nản chí

Một đề tài mà thày muốn trình bày trong phần cuối này là sa nhân, như thày đã nói, thích tạo cho con một hoàn cảnh và sau đó khiến con cảm thấy con không có lối trốn thoát. Họ cũng thích tạo cho con một hoàn cảnh mà con cảm thấy con có lối thoát ra, con có cảm tưởng có thể tạo một cuộc sống tốt đẹp hơn cho mình hay cho hành tinh – và sau đó các chuyện này không xảy ra và con cảm thấy nản chí. Người ta có câu: thối chí là dụng cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ác quỷ. Nếu con nhìn lịch sử các tôn giáo trên trái đất một cách thành thực, thì con thấy rất, rất nhiều người đã cải đạo theo một tôn giáo, đã cảm thấy đầy lạc quan và hy vọng, và sau đó, có thể là sau nhiều kiếp theo tôn giáo đó, họ bị thất vọng và cảm thấy thối chí.

Các thày có nói là có nhiều người hiện sống trong thế giới Tây phương theo thuyết vô thần hay chống Cơ đốc giáo vì trong nhiều kiếp sống họ đã tin và áp dụng những nghi thức của đạo Cơ đốc giáo. Sau nhiều kiếp sống họ nhận ra rằng họ không được cứu rỗi sau kiếp đó mà phải đầu thai trở lại, thì họ bỏ cuộc không theo Cơ đốc giáo nữa, trở nên thối chí và theo khuynh hướng vô thần, duy vật hay hình thức chối bỏ tôn giáo khác. Thày muốn làm một cố gắng nhỏ giúp con đến được điểm không rơi vào bẫy của hình thức thối chí mà sa nhân muốn con rơi vào.

Con yêu dấu, nếu con đã theo học khóa học này (con đã nghiên cứu các bài truyền đọc và đọc các bài thỉnh ít nhất trong chín ngày) thì con đã tiến bộ đáng kể trên con đường tâm linh. Có thể con không cảm thấy như vậy, dù rằng đa số học viên theo học khóa này đã cảm thấy tiến cao hơn, và khóa này đã đáng công sức học. Con nhận ra tâm thức của con đã chuyển vọt. Những người trong các con chưa cảm thấy vậy, thì con có thể nhận ra bằng cách chuyển đổi thái độ của con về đời sống trên trái đất như thày có trình bày trong các bài giảng trước, nhưng thày sẽ bình luận thêm về chủ đề này ở đây.

Con yêu dấu, con có nhớ câu nói cổ: “Ly nước nửa đầy hay nửa vơi?” Câu này có nghĩa là trên một hành tinh như trái đất, rất rất dễ thấy một số điều kiện tiêu cực khiến con nhận định đời sống không thể chịu đựng được, có quá nhiều vấn đề và tiến triển quá chậm. Con thấy nhiều người tin vào các lời tiên tri tiêu cực và nghĩ rằng có tai họa nào đó sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, và do đó không có lý do để trở thành Ki-tô đang hành động. Một lần nữa đây là một cơ chế trốn tránh. Con yêu dấu, có một tâm thức nghèo đói rất mạnh trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, con biết có hàng tỷ người sống trong nạn nghèo đói. Vì sao vậy? Vì họ bị mắc kẹt trong phàm linh tập thể về nghèo đói và thiếu thốn, mà ta có thể gọi là “thái độ thiếu hụt”. Phàm linh này do sa nhân tạo ra. Ngay từ ban đầu, họ đã tạo ra thái độ thiếu hụt đó vì cuộc sống của họ dựa trên một sự thiếu hụt. Tại sao vậy? Họ không nhận được Ánh sáng từ cõi thăng thiên, từ Hiện diện TA LÀ của họ. Họ bị bắt buộc phải làm những chuyện họ làm để ăn cắp ánh sáng từ bốn cõi thấp của vũ trụ vật chất, và do đó họ lúc nào cũng có trải nghiệm thiếu hụt. Lúc nào cũng thiếu hụt năng lượng, thiếu hụt tiền bạc, thiếu hụt mọi thứ. Con cần nhận ra đây là một phàm linh tập thể rất mạnh, và rất có thể con đã bị nó ảnh hưởng và đã tạo ra một phàm linh nội tại cho rằng có cái gì đó thiếu sót, có cái gì đó thiếu hụt, có cái gì vắng mặt, có cái gì đó không tốt đủ hoặc trên hành tinh, trong cuộc đời mình hay trong tâm thức mình. 

Con yêu dấu, thày không quan tâm việc con thay đổi hành tinh. Thày còn không quan tâm hoàn cảnh bên ngoài của con. Điều thày quan tâm là giúp con nhận ra là nếu con còn nhìn qua phin lọc của phàm linh nội tại này, con sẽ chỉ thấy cái thiếu sót, con sẽ chỉ thấy cái tiêu cực. Con có thể thấy tất cả những biện minh tại sao con không tốt đủ, tại sao con chưa tiến bộ đủ trên con đường tu, tại sao con chưa thăng vượt điều này điều nọ, tại sao con không đạt được trong khóa học này điều con chờ đợi khi bắt đầu khóa học. Con yêu dấu, thày đã nói gì trước đây? Khi con nghe tới Sứ vụ Thiêng liêng lần đầu, con nhìn vào Sứ vụ Thiêng liêng dựa trên tầng tâm thức con có lúc đó, và con có những chờ đợi làm sao con sẽ hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng. Giống như vậy, khi con bắt đầu học khóa này, con ở một tầng tâm thức thấp hơn ngày hôm nay. Con mong chờ khóa học này sẽ đem lại cho con điều gì đó dựa trên tâm thức đó.

Ngày hôm nay con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và điều giản dị là con sẵn sàng nhìn vào sự mong chờ trước kia của con và nói: “Tôi không cần bạn nữa vì tôi đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn và bây giờ tôi sẵn sàng nhìn khóa học, nhìn con đường tâm linh, nhìn chính mình dựa trên tầng tâm thức hiện nay của tôi.” Con yêu dấu, nếu con sẵn sàng làm bước chuyển vọt này, thì con có thể quyết định một cách ý thức – và con sẽ cần một quyết định có ý thức; điều đó sẽ không giản dị xảy ra vì con đã theo học khóa này hay làm chuyện gì khác – là con sẽ có một thái độ tích cực, một cách tiếp cận tích cực, một cái nhìn tích cực về mình, về con đường tâm linh và về sự thành đạt tâm linh của mình.

Các thày đã nói gì trong suốt khóa học này? Bất cứ phản ứng nào của con không dựa trên tình thương, không tích cực, đều đến từ phàm linh nội tại. Nếu con có phản ứng với khóa học này, với chính con, với tiến triển tâm linh qua các thiếu sót của mình, thì phản ứng này không phải là con. Không phải là cái Ta Biết đã phản ứng như vậy vì cái Ta Biết biết là không có gì trên trái đất có thể quy định nó. Đây là một phàm linh nội tại đang phản ứng, vậy con hãy sẵn sàng nhìn phàm linh nội tại này và sử dụng các dụng cụ và thủ tục mà các thày đã cung cấp để buông bỏ nó. Lẽ dĩ nhiên, con có quyền tự quyết. Nếu con muốn sống phần còn lại cuộc đời trên hành tinh này với một thái độ tiêu cực, với một cảm nhận thiếu hụt, thì thày sẽ tôn trọng quyền tự quyết của con. Nếu như vậy thì con không sẵn sàng đón nhận những khai ngộ mà Saint Germain cống hiến, và con sẽ không hưởng được lợi lạc gì dù con vẫn đọc quyển sách và các bài thỉnh.

Con không thể là một người đồng sáng tạo khi con ở trong trạng thái thiếu hụt. Con chỉ có thể là người đồng sáng tạo khi trong tâm con biết: “Tự con không làm được điều gì, chính đấng Cha trong con đang làm và với Thượng đế điều gì cũng có thể làm được.” Giê-su nói điều này 2000 năm trước đây. Nếu con đường tới quả vị Ki-tô được duy trì, thì con người đã có thể tới điểm không những chỉ tin và hiểu mà thực sự trải nghiệm sự thực hằng sống là con có thể đồng sáng tạo hoàn cảnh sống tốt hơn cho chính mình và đóng góp đồng sáng tạo hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới. Con đã đóng góp xây dựng hoàn cảnh tốt hơn cho thế giới bằng cách vươn lên tầng tâm thức mà con đạt được ngày hôm nay. Con hãy cho phép mình công nhận điều này, cho phép mình cảm thấy, biết, và trải nghiệm là mình đã tiến triển.

Do đó, con yêu dấu, thày chỉ còn một công việc cuối. Công việc này không dựa trên các khai ngộ mà con đã nhận từ thày, mà dựa trên những gì con đã nhận được từ tất cả các Thượng sư. Đây không phải là điều chỉ mình thày, Nada, nói mà là điều cả sáu vị: Chân sư More, Lanto, Paul người Venice, Serapis Bey, Hilarion, và thày đồng nói: “Con, người giúp việc tốt và trung thành, đã làm việc giỏi. Con đã trung thành làm nhiều chuyện, bây giờ con hãy sẵn sàng để Saint Germain biến con thành người ngự trị trên nhiều chuyện.”

Tìm được bình an trong quan hệ

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 23/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng thứ sáu của khóa nhập thất của thày, lẽ tự nhiên con giáp mặt với hai liều lượng của Tia thứ Sáu. Thày muốn bắt đầu bằng khai triển thêm những điều thày đã giảng trong các bài trước, đặc biệt liên quan đến nghiệp quả. Hiển nhiên có nhiều hiểu biết, ý tưởng và lý thuyết phiến diện về nghiệp quả lưu truyền trên thế giới. Thầy cần con vượt quá những thuyết này và hiểu một cách sâu sắc hơn con tạo nghiệp như thế nào.

Có rất, rất nhiều người tin vào một triết lý Đông phương hay Thời đại mới cho rằng nghiệp quả là hậu quả của một hành động, có nghĩa là họ tin rằng nghiệp quả cơ bản là một hiện tượng vật lý. Con làm một hành động vật lý tạo ra nghiệp, và khi nghiệp quả trở lại, nó tạo ra một sự việc vật lý xảy ra cho con. Như thày đã giảng trong các bài trước, hiểu như vậy không đúng. Ta không thể nói nghiệp quả ở tầng vật lý vì xung lực nghiệp mà con tạo ra (ngay cả khi được tạo ra bằng một hành động vật lý) không phải là một xung lực trong quang phổ rung động vật lý. Nó là một xung lực đi vào ba thể cao và luân lưu trong ba tầng cao cho tới khi nó có thể trở về trong trường năng lượng của con. Sau đó, như thày đã giảng, nó có thể, và cũng có thể không, trở thành một sự việc vật lý tùy theo con đã thay đổi tâm thức hay chưa.

Lý do vì sao con cần suy ngẫm điểm này vì con nhận ra là không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Con cũng nhận ra là không có gì trong thế giới vật lý có thể định đoạt con sẽ thăng thiên hay không. Nhiều người trong các con đã chấp nhận quan niệm cho rằng, để hội đủ điều kiện thăng thiên, con cần cân bằng nghiệp quả. Điều này không sai, nhưng nghiệp quả không phải là nghiệp quả vật lý. Cân bằng nghiệp quả, trước hết, là thanh lọc các thể cảm xúc, tư tưởng và bản sắc khỏi các phàm linh hiện diện trong ba thể đó. Quả thực cân bằng nghiệp quả không phải là bù đắp một điều gì đó bằng một hành động vật lý. Nó trước tiên là giải quyết các phàm linh nội tại để khi ông hoàng thế gian tới, y không tìm thấy gì trong ba thể cao của con để y có thể khiến con đi vào một khuôn nếp phản ứng. Đây chính thực là ý nghĩa cân bằng nghiệp quả.

Lẽ dĩ nhiên, trong tiến trình nghiệp quả có một xung lực năng lượng, nhưng một lần nữa, xung lực này không có tính chất vật lý. Thày không phủ nhận là con cần đọc một số bài chú bài thỉnh để làm rã tan xung lực năng lượng đó, nhưng khía cạnh quan trọng nhất của cân bằng nghiệp quả là làm rã tan các phàm linh.

14.1. Tương tác với người khác mà không tạo nghiệp

Tuy nhiên, có một khía cạnh khác, có thể gọi là khía cạnh Omega, của cân bằng nghiệp quả là tránh tạo ra nghiệp mới. Lẽ tự nhiên, nếu con tiếp tục tạo nghiệp mới, thì con càng phải thỉnh cầu nhiều hơn ngọn lửa tím để cân bằng tất cả nghiệp quả. Con cần áp dụng nguyên tắc đầu tiên của khoa Cấp cứu, là ngưng tai nạn. Nói cách khác, con cần ngưng tạo nghiệp mới, ngưng những vòng xoắn phản ứng khiến con tạo nghiệp. Trong bài trước, thày có giảng làm sao ngưng phản ứng với sa nhân, không phản ứng khi họ khiến con cảm thấy tội lỗi, không xứng đáng, bất toàn hay bất cứ gì khác.

Bây giờ thày đặt trọng tâm vào cách thông thường nhất mà con người tạo nghiệp, đó là khi họ tương tác với người khác. Lẽ tự nhiên, con là đệ tử chân sư thăng thiên và con đã theo học giáo lý của các thày một thời gian rồi nên đã tới tầng khai ngộ này. Con đã chế ngự được những lối tương tác vật lý, hung bạo, hung hãn. Tuy nhiên, con đang ở một tầng tâm thức nơi con chưa hoàn toàn tự giải thoát khỏi những vòng xoắn phản ứng với người khác. Với một người ở tầng tâm thức của con, con không có hành động hung hãn với người khác, nhưng con vẫn có khuynh hướng nghĩ rằng người khác đang có hành động hung hãn với con – và dĩ nhiên là họ làm vậy.

Con có thể nhìn cuộc đời Giê-su và thấy là khi thày ở tầng tâm thức 143, sa nhân hành động chống thày và đem thày đóng đinh trên thập tự giá. Tuy nhiên, điều thày muốn nói đặc biệt ở tầng này, là con có cảm giác người khác có thể có hành vi hung hãn với con và con thường cảm thấy bất lực khi đối phó với hoàn cảnh này. Thày có nói tới nhu cầu tôn trọng quyền tự quyết, vậy nếu con hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của họ thì con không thể ngăn họ có hành động hung hãn với con. Vậy làm sao con tránh cảm thấy bất lực?

Con yêu dấu, con cần hiểu sâu sắc cách luật tự quyết tự trải bày, đặc biệt liên quan đến nghiệp quả. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách xem xét trái đất là loại hành tinh nào. Thày có nói là có rất nhiều hành tinh có tầng tâm thức cao hơn trái đất nhiều, và tại các nơi đó không có sự hung hãn mà con thấy trên trái đất. Trái đất là một trong những hành tinh thấp nhất khi so sánh mức độ hung hãn giữa con người với nhau. Khi con nhìn nhận sự kiện này, con có thể bắt đầu xem xét con chờ đợi được gì nơi cuộc sống trên trái đất.

Có một số người trong các con là a-va-ta đến từ hành tinh tự nhiên là nơi con không bao giờ chạm mặt sự hung hãn. Do đó, con có một ký ức vi tế là đáng lẽ không được có sự hung hãn. Chuyện con người có hành động hung hãn với nhau là điều không tự nhiên. Một số khác trong các con là cư dân nguyên thủy của trái đất, và con có một ký ức vi tế về đời sống trên trái đất trước khi sa nhân được phép đầu thai xuống đây. Con cũng có cảm giác là con người có hành động hung hãn với nhau là không “tự nhiên”, không “đúng”.

14.2. Một mong chờ không thiết thực khác

Con có thấy chăng là con chờ đợi cuộc sống phải như thế nào trên trái đất. Tuy nhiên, chờ đợi này không phù hợp với thực tại cuộc sống gì trên trái đất. Có một khoảng cách giữa chờ đợi của con và thực tại. Do đó, con cần phải làm một lượng định đơn giản. Con có thể thay đổi hiện trạng trên trái đất chăng? Lẽ dĩ nhiên là không. Con không thể chỉ búng tay là loại bỏ chiến tranh và sự hung hãn khỏi hành tinh.

Con có thể chọn hướng hành động thiết thực nào? Đó là con buông bỏ những chờ đợi mà con đã tạo ra trên một hành tinh khác hay khi trái đất không như ngày nay. Nói cách khác, con nhận ra con có một chờ đợi không thiết thực và đã tới lúc con sẵn sàng nhận ra là nó kềm hãm sự tiến bộ của con. Nó tạo căng thẳng, mâu thuẫn trong con, khiến con bị kéo đi nhiều hướng. Nó khiến con như căn nhà bị chia rẽ bên trong, giống như điều các phàm linh nội tại vẫn làm. Như thày đã giảng, sa nhân rất vui sướng tạo ra một sự chờ đợi nơi con, tỷ dụ như Thượng đế sẽ tới và cứu con, và sau đó con thấy thực tại phá tan kỳ vọng đó, khiến con hồ nghi không biết đâu là thật, đâu là giả.

Con cần tới điểm nhìn nhận là con đang ở trên một hành tinh rất dày đặc, rất khó khăn, và do đó con cần nhìn vào sự chờ đợi của mình và nói: “Chúng không áp dụng vào hành tinh này. Chờ đợi của tôi không thiết thực, không hợp lý, không phù hợp với thực tại trên hành tinh này.” Sau đó, con giản dị buông bỏ nó. Con cần buông bỏ nó – giống như con buông bỏ mọi phàm linh khác, vì sự chờ đợi không thiết thực của con đã trở thành một phàm linh nội tại. Con yêu dấu, con buông bỏ nó.

Con nhận ra trái đất là loại hành tinh nào và con nói: “Dựa trên những gì con biết về hành tinh này, dựa trên những gì con biết về quyền tự quyết, con có thiết thực chăng nếu con có bất cứ chờ đợi nào về điều phải xảy ra hay không được xảy ra trên trái đất?” Câu trả lời sỗ sàng là: “Không”. Câu trả lời này thoạt nghe có thể sỗ sàng, nhưng khi con chấp nhận nó, nó đem lại giải thoát. Con thấy là không có lý do gì để có bất cứ mong chờ nào và do đó không có gì trong con chống cự đời sống trên trái đất. Khi con không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con có thể đến với cuộc đời mà không bị ý tưởng nào bao phủ. Con có thể đến với cuộc sống, như Giê-su nói, với tâm ngây thơ của trẻ thơ.

Khi con ngây thơ như thế, không mong chờ điều phải xảy ra hay điều không được xảy ra, thì con đang ở trong vương quốc của Thượng đế trong chính tâm con. Lúc đó con nhận ra là không có lý do nào để chờ đợi điều này phải xảy ra hay không được xảy ra. Con biết không có điều gì xảy ra hay không xảy ra có thể quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý quy định được con. Không có gì trong cõi vật lý ngăn cản được sự thăng thiên của con.

Con có thể tới điểm nhìn người khác và nói: “Tại sao tôi lại có bất cứ chờ mong người khác phải làm điều này hay không được làm điều nọ?” Nếu con nhìn lại cuộc đời mình, con thấy là suốt cuộc đời (và thày có thể bảo đảm với con là trong nhiều kiếp trước cũng vậy) con có những chờ đợi, có khi vi tế có khi hiển nhiên, về người khác. Con muốn họ làm một số chuyện, con không muốn họ làm một số chuyện, và tình trạng này khiến con lúc nào cũng trong trạng thái căng thẳng với người khác. Các chờ mong cũng khiến con cảm thấy bất lực vì một đằng con mong muốn ngăn ngừa người khác làm điều gì hại con hay tự hại, nhưng mặt khác con cảm thấy con không được phép dùng bất cứ phương tiện hung hãn nào để ép buộc họ. Một lần nữa, con lại cảm thấy bất lực.

14.3. Thế giới không xoay quanh con

Một khi con buông bỏ chờ đợi người khác làm điều này điều kia, thì con không cần cảm thấy bất lực nữa. Lúc đó, con nhận ra là con có thể tiến thêm bước nữa về hướng an bình nội tâm bằng cách nhớ lại những gì thày nói về tư duy thần diệu. Trong thế giới có một phàm linh tập thể dựa trên trải nghiệm của trẻ thơ khi chúng còn trong bụng mẹ. Tất cả những người đã sinh ra trong suốt lịch sử trái đất đã góp phần vào phàm linh này.

Khi một bà mẹ mang thai nhi trong dạ, bà biết là nó là một sinh thể khác, một xác thân khác đang lớn lên trong bụng bà. Bà nhận ra điều này vì bà nhớ rất rõ lúc bà không mang thai, là lúc bà làm chủ thân thể của bà. Khi bà mang thai thì có một sinh thể khác lớn lên bên trong thân thể của bà, và bà nhận ra điều này rất rõ. Đây là con của bà, bà có sự nối kết với nó, nhưng bà biết nó là một sinh thể khác ngày nào đó sẽ sinh ra và có cuộc sống riêng biệt. Nhưng về phía hài nhi thì nó cảm thấy thế nào?

Đa số con người không có ký ức về thơi kỳ mình chưa sinh ra, nhưng nếu con có ký ức đó thì con sẽ thấy là hài nhi trong bụng mẹ không trải nghiệm nó là một thân thể tách biệt vì hài nhi trải nghiệm thân thể bà mẹ là thân thể của nó. Hài nhi không biết là có một sinh thể khác ở trong thân thể bà mẹ. Nó thực sự cảm thấy thân thể bà mẹ là thân thể của , và khi hài nhi lớn lên trong bụng mẹ, nó bắt đầu cảm thấy hơi bối rối về sự hiện diện của thân thể này bên trong thân thể lớn hơn. Kết quả là đa số trẻ thơ sinh ra với ý niệm thế giới là một sự nối dài của thân thể của chúng. Hài nhi đã quen coi thân thể bà mẹ như sự nối dài của nó. Khi chúng sinh ra, lúc ban đầu chúng cảm thấy thế giới là một sự nối dài của thân thể của chúng. Chúng chưa có ý niệm là một sinh thể tách biệt trong một thân thể tách biệt. Không phải tất cả trẻ thơ, nhưng đa số trẻ thơ cảm thấy như vậy.

Kết quả là nhiều trẻ thơ trải qua một giai đoạn, mà các tâm lý gia đã nhận diện, khi chúng cảm thấy: “Thế giới là một sự nối dài của con, con là trung tâm thế giới. Do đó, con chịu trách nhiệm tất cả những gì xảy ra. Mọi chuyện xảy ra đều xoay quanh con và liên quan tới con.”

Thày cần con nhận ra là trong ba thể cao của con, đặc biệt là trong thể tình cảm, có một phàm linh nội tại vẫn còn cảm thấy nó là trung tâm của thế giới của con. Nó có thể không cảm thấy có trách nhiệm về tất cả những gì xảy ra trên thế giới, và nó nhận ra người khác là sinh thể tách biệt. Tuy nhiên, phàm linh này cảm thấy mọi chuyện xảy ra trong cuộc sống của nó xoay quanh nó. Mọi chuyện mà người khác làm liên quan tới nó.

Khi con chưa nhìn thấu phàm linh này, thì con có khuynh hướng cảm thấy, có thể là ở trong tiềm thức, là điều người chung quanh con làm liên quan tới con. Nói cách khác, con có thể cảm thấy có trách nhiệm về điều họ làm, bị tổn thương bởi hành động của họ, cảm thấy họ làm điều đó chống lại con. Bây giờ thày cần con suy ngẫm điều này vì điều quan trọng là con nhận ra đây là cảm nhận của một phàm linh nội tại. Cái Ta Biết không cảm thấy như vậy. Cái Ta Biết biết nó là một sinh thể tách biệt, người khác là sinh thể tách biệt và họ có quyền tự quyết giống như con có quyền tự quyết của mình. Một khi con tách ra khỏi phàm linh thì con nhận ra một điều rất, rất quan trọng.

14.4. Cảm thấy con là nguyên nhân của hành vi người khác

Con có thể có một người trong gia đình hay một người thân cận nổi giận với con. Có thể là người đó lên án con đã làm một điều mà đáng lẽ con không được làm, hay đã không làm điều mà con phải làm, theo sự đánh giá của người đó. Người đó đến với con với năng lượng hung hãn và lên án, và phản ứng bình thường của con là cảm thấy vì có chuyện gì con đã làm hay không làm nên người đó mới nổi giận như vậy. Nói cách khác, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy con là nguyên nhân của hành vi người đó.

Chúng ta đã nói về đề tài này nhưng con cần nhìn lại một lần nữa và nhận ra là người kia không nói và làm như vậy bởi vì con. Con không chịu trách nhiệm về sự lựa chọn của người khác. Con chịu trách nhiệm về những lựa chọn của chính con nhưng không chịu trách nhiệm về lựa chọn của người khác. Đúng là con chịu trách nhiệm về những hành động của con, những gì con làm, những gì con nói, nhưng con không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia đối với hành động của con.

Đa số đệ tử chân sư thăng thiên tới tầng này không gặp khó khăn đạt khai ngộ mà thày nói tới trong bài giảng trước khi thày nói là con cần nhận ra là con chịu trách nhiệm về phản ứng của mình. Nhưng họ thường khó nhận ra mặt kia của đồng tiền và nói: “Nếu tôi chịu một trăm phần trăm trách nhiệm về các phản ứng của tôi, thì tôi một trăm phần trăm không chịu trách nhiệm về phản ứng của người khác.” Con cần bước lùi lại và nói: “Tại sao người kia lại làm điều này với tôi? Có thể tôi đã làm điều gì kích động một phản ứng nơi người kia, và phản ứng này khiến họ lên án tôi. Tuy tôi chịu trách nhiệm về hành động của tôi, nhưng tôi không chịu trách nhiệm về phản ứng của người kia.”

Do đó, con không cá nhân hóa hoàn cảnh bằng cách nhận ra rằng người kia không làm điều đó chống lại con. Người kia làm điều đó để phản ứng lại con nhưng người kia không làm điều đó chống lại con. Con bây giờ có thể bắt đầu tạo sự khác biệt trong tâm mình.

Điều quan trọng là ở đây con nhận ra sự khác biệt vi tế, không dễ hiểu, giữa tâm thức nhị nguyên và tâm thức Ki-tô. Các thày đã gọi tâm thức nhị nguyên là tâm thức tách biệt vì nó tách mọi thứ ra thể loại khác nhau. Nó tách con ra khỏi Thượng đế, người khác và hành tinh nơi con sống. Tâm thức Ki-tô không tách ra nhưng nó phân biện – nó nhận ra sự khác biệt.

Con cần nhận ra sự khác biệt khi con nhận ra con có khuynh hướng cảm thấy là khi người khác làm điều gì ảnh hưởng đến con, họ làm chống lại con, họ chống lại cá nhân con. Nếu họ tức giận, con nghĩ họ giận con và con cảm thấy có trách nhiệm. Vì con là người tâm linh sẵn sàng sửa đổi chính mình, con lúc nào cũng nhìn vào: “Làm sao tôi có thể thay đổi chính tôi để người kia không tức giận tôi?” Một khía cạnh của việc tăng triển tâm thức Ki-tô là con có thể tới điểm phân biện và nói: “Điều người kia làm không phải là để trực tiếp chống lại tôi. Nó không phải là một sự tấn công cá nhân tôi. Nó do phản ứng nội tâm của người đó gây ra.”

14.5. Vòng xoắn nghiệp quả không bao giờ dứt

Con yêu dấu, con cũng hiểu là thách đố lớn nhất cho đa số người trên trái đất là đối xử với những người thân cận nhất, tỷ dụ như trong gia đình. Con cảm thấy không thể rời bỏ các người đó. Do đó, con cảm thấy phải phản ứng lại họ và phải coi trọng những gì họ làm hay nói – con phải coi là những điều đó liên hệ tới cá nhân con. Kết quả là đa số con người đã tạo ra những khuôn nếp phản ứng khi liên hệ với nhau. Nếu một người trong gia đình nổi giận với con, con cảm thấy có trách nhiệm, con cảm thấy phải coi chuyện này như liên hệ tới cá nhân con, con phải xét xem con có thể thay đổi như thế nào để tránh người đó nổi giận.

Sự việc này khiến đa số con người trên trái đất bị dính líu vào cái mà các thày đã gọi là vòng xoắn nghiệp quả hay nghiệp quả nhóm, tức là họ có khuôn nếp phản ứng rất mạnh giữa nhau tiếp nối từ kiếp này sang kiếp khác. Con thấy hiện tượng này ở khắp nơi. Thày cần con nhận ra là những người đó không làm điều đó chống lại cá nhân con. Họ có thể là người trong gia đình con và con có thể có liên hệ cá nhân với họ, nhưng họ không tức giận cá nhân con. Điều này có thể hơi khó hình dung, vậy chúng ta hãy làm một thí nghiệm tư tưởng. Ta hãy giả thử con có một người trong gia đình tức giận con về một điều gì con đã làm. Bây giờ, con hãy tưởng tượng người đó có một người khác cũng làm với họ điều mà con đã làm. Liệu người đó có tức giận với người sau hay không? Câu trả lời là: “Rất có thể”

Câu chuyện không phải lúc nào cũng xảy ra như vậy, vì có lúc một người tự cho phép nổi giận với một người trong gia đình nhưng không nổi giận với người ngoài. Con có thể thấy là con người có khuynh hướng đối xử với người trong gia đình, được gọi là người “thân thương”, tệ hơn người hoàn toàn xa lạ.

Trong đa số trường hợp, con thấy là nếu một người khác làm (hay ít ra là đã từng làm) cùng việc con làm với người thân nhân của con, thì người thân nhân cũng sẽ tức giận với người này y như với con. Điều này giúp con nhận ra là sự tức giận của người thân nhân không gắn liền với cá nhân con. Nó có thể hướng tới người khác như tới con. Nếu sự tức giận của người đó không hướng tới cá nhân con, thì đâu là tính cách cá nhân trong đó? Nó có tính cách cá nhân bên trong tâm thức người thân nhân. Sự tức giận nằm bên trong các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của người đó. Con có thể đã kích động sự tức giận nhưng con không phải là nguyên nhân. Nguyên nhân là một cơ chế nội tại trong tâm lý người đó, giống như sự tức giận của con là một cơ chế nội tại trong tâm lý của con.

14.6. Cảm thấy mình có trách nhiệm về tâm lý người khác

Con yếu dấu, con đã sẵn sàng nhìn vào tâm lý của chính mình nếu không thì con đã không theo khóa học này cho tới đây. Người thân nhân con có thể không sẵn sàng làm vậy. Con cần nhận ra là con cần thận trọng trong việc sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình. Con không nên quá sẵn sàng nhìn vào tâm lý mình đến độ con nhận trách nhiệm về cơ chế tâm lý trong tâm người khác. Sự tức giận của người kia là một cơ chế tâm lý trong bốn thể phàm của người ấy, không phải trong tâm của con, không phải trong thể phàm của con. Do đó, con không thể nhận trách nhiệm về sự tức giận này và tìm cách thay đổi mình để né tránh sự tức giận của người kia. Con không thể né tránh được, sự tức giận vẫn có mặt trong tâm người đó và chỉ chờ một yếu tố kích động khác.

Điều con và đa số mọi người làm trong trường hợp này là tạo dựng trong tâm mình ý tưởng phải tránh hành vi nào hay phải làm hay nói điều gì để né tránh sự tức giận của người kia. Điều này có nghĩa là lúc đó con tạo ra một hành động thiếu cân bằng trong con, do sự bất cân bằng của người kia gây nên. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là để bước ra khỏi khuôn nếp phản ứng với người khác, để đạt được an bình trong quan hệ của con với người khác, con cần nhìn vào chính mình và phân biện rằng: “Tôi sẽ không cảm thấy có trách nhiệm đối với vấn đề tâm lý của người khác và tôi sẽ không cho phép mình tiếp tục mang những phàm linh nội tại mà tôi đã tạo ra để bù đắp hay né tránh những vấn đề xúc cảm của họ.”

Con cần nhìn vào chính mình trong quan hệ của con với người khác và nhận ra những khuôn nếp phản ứng mà con đã tạo dựng. Rồi con thấy được có một phàm linh đằng sau khuôn nếp đó và con buông bỏ nó. Con có quyền buông bỏ phàm linh này. Con yêu dấu, khi con có thể nhìn vào quan hệ của con với một người khác và dùng nó để thấy khuôn nếp phản ứng của mình, phàm linh nội tại của mình, thì con giải thoát mình khỏi bất cứ khuôn nếp nào với người đó.

14.7. Thay đổi cách quan hệ vận hành

Lúc đó, có hai chuyện sẽ xảy ra. Trước nhất, con được giải thoát khỏi mọi khuôn nếp phản ứng, con có thể gặp người kia với tâm ngây thơ của trẻ thơ, và con có thể tránh không phản ứng lại người đó nữa. Con có thể tránh phản ứng như con đã phản ứng trong quá khứ. Con sẽ thấy là khi con ngưng phản ứng theo kiểu họ chờ đợi, có khi họ bị ngạc nhiên. Có nhiều trường hợp chỉ việc này thôi cũng đủ để thay đổi cách mối quan hệ vận hành. Cũng có thể là người kia sẽ thay đổi.

Lẽ dĩ nhiên, cũng có trường hợp người kia không chịu thay đổi, dù con đã thay đổi. Người đó bị quá bao trùm trong vòng xoắn của họ, trong tâm lý của họ, và không chịu thay đổi. Trong trường hợp này, một số chuyện có thể xảy ra. Khi con đáp lại sự hung hãn của người khác với tâm trẻ thơ, tâm hoàn toàn vô tư, tâm dựa trên tình thương, thì người đó lãnh chịu sự xét xử của Ki-tô. Sự xét xử của Ki-tô là một cơ hội cho người đó nhìn vào tâm mình. Nếu họ không nắm lấy cơ hội, thì điều sẽ xảy ra trong thực tế (ta có thể nói là trên phương diện nghiệp quả) là con sẽ được giải thoát khỏi người đó. Lúc đó, con có tự do chọn lựa con có muốn ở gần người đó hay không.

Con yêu dấu, con sẽ nhiều lần thấy là khi con tự giải thoát khỏi một khuôn nếp phản ứng với người khác, thì bỗng nhiên người đó không còn có mặt trong đời con nữa. Lẽ dĩ nhiên, có trường hợp người trong gia đình mà con không thể cách ly một cách vật lý, nhưng con tới điểm không còn khuôn nếp phản ứng với họ, và do đó, bất kỳ họ làm gì, con không phản ứng lại. Hành động của họ không làm con xáo trộn, không làm con khó chịu. Con chỉ cho nó vào tai này qua tai kia, như người ta thường nói.

Con thấy đây là một cách liên hệ rất khác, và nó thực sự là cách duy nhất giúp con đạt được bình an trong quan hệ với người khác. Con không có ý định hành động hung hãn. Như thày có giảng trong bài trước, con không có ý định khuynh loát hay ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Con yêu dấu, con chỉ làm được một điều là giải thoát mình khỏi các khuôn nếp phản ứng, và trở lại là chính mình. Con hãy biểu hiện mình ở tầng tâm thức hiện nay của mình và qua đó cho người kia cơ hội vươn lên cao hơn khuôn nếp của họ. Nếu họ không nắm lấy cơ hội này, thì họ chống lại con không sao cả vì con không bị xáo trộn.

Nói cách khác, con cần tới điểm có thể nói về một mối quan hệ thân thiết: “Nếu người kia không thay đổi, tôi có thể chấp nhận được.” Sau đó, con có thể nói: “Tôi có thể tách ra khỏi người này chăng?” Nếu con quyết định: “Không được, mối quan hệ này quá thân thiết, tôi không muốn tách ra khỏi người này.” thì lúc đó con có thể ở với người đó mà không bị xáo trộn bởi tâm lý của người đó. Có trường hợp con tới điểm cảm thấy: “Có, tôi có thể chấp nhận người kia không thay đổi, nhưng tôi không muốn làm như vậy.” Lúc đó con có quyền tách ra khỏi người đó và nói: “Tôi không muốn những người như thế này trong đời tôi nữa.” Đây không phải là con tìm cách tránh né khuôn nếp phản ứng trong con, đó chỉ giản dị là con cảm thấy và nhận ra là con đã vươn lên cao hơn tâm thức của những người đó. Do đó con có quyền quyết định là con thích giao tiếp với những người cùng tầng tâm thức hay cao hơn tầng tâm thức của con.

14.8. Tạo nghiệp với sa nhân

Bây giờ chúng ta cần đi xa hơn nữa và tự đặt một số câu hỏi. Thày có nói là con sống trên một hành tinh dày đặc nơi có nhiều sự hung hãn. Ở đây có sa nhân. Sa nhân đang đầu thai có thể có hành động hung hãn với con. Cũng có những người không phải là sa nhân nhưng tâm họ tạm thời bị sa nhân xâm chiếm. Họ bị sa nhân ở các tầng cao bắt họ có hành động hung hãn với con. Con nhận ra câu hỏi là: “Nếu một người có hành động hung hãn chống lại con, thì hệ quả là gì trên mặt nghiệp quả?”

Ở đây, chúng ta cần nhận ra là có một phàm linh tập thể được thiết kế để khiến con cảm thấy có trách nhiệm về những chuyện không thuộc trách nhiệm của con. Thí dụ, sa nhân thích xâm phạm con, khiến con phản ứng lại họ, rồi họ làm cho con cảm thấy vì phản ứng của con không phải là phản ứng cao nhất, con thể nào cũng đã tạo nghiệp với sa nhân. Con yêu dấu, có đúng vậy chăng?

Chúng ta hãy lấy một lập trường cực đoan hơn. Giê-su dạy con hãy chìa má bên kia. Thày chứng minh là đối với những người có hành động hung hãn với thày, thày chìa má kia và để cho họ đóng đinh thày lên cây thập tự. Giê-su lúc đó đã ở một tầng tâm thức rất cao do đó thày đã khắc phục được hầu hết các ảo tưởng mà thày nói con lấy vào để đi xuống tầng 48. Giê-su không phản ứng lại sa nhân dựa trên sợ hãi nhưng dựa trên tình thương. Trong trường hợp này, khi con hoàn toàn không dính mắc, con có thể thấy một cách dễ dàng là Giê-su không tạo nghiệp vì sa nhân đóng đinh thày lên cây thập thự. Thày tin rằng con thấy điều này một cách dễ dàng.

Sa nhân có hành động hung hãn chống lại một sinh thể có quyền tự quyết. Lẽ dĩ nhiên, họ tạo nghiệp khi làm vậy nhưng Giê-su (vì thày không phản ứng dựa trên sợ hãi) không tạo nghiệp. Còn con thì sao? Giả thử con xuống trái đất lần đầu ở tầng tâm thức 48. Con bị sa nhân tấn công, và lẽ tự nhiên con (vì con không thể làm gì khác) phản ứng lại họ dựa trên tầng tâm thức 48.

Ở đây chúng ta cần thấy một khác biệt. Nếu con có hành động vật lý, chẳng hạn con chống trả và giết sa nhân, thì con tạo nghiệp vì hành động đó. Nếu con tránh không có hành động vật lý (như nhiều người trong con các con đã làm được khi phải giáp mặt với hành động hung hãn cao độ), thì con không tạo nghiệp. Con có thể nói với chính mình: “Nhưng con có tạo nghiệp vì đã phản ứng một cách giận dữ chăng?” Điều này tùy thuộc mức độ giận dữ của con.

Khi con xuống tầng 48, con lấy vào hết ảo tưởng này tới ảo tưởng khác cho tới khi con tới tầng 48. Ở tầng 48, con thấy sự việc qua một tấm màn, một tấm kiếng mờ, một phin lọc. Dựa trên cách con nhìn đời xuyên qua phin lọc đó, con phản ứng lại những gì con giáp mặt. Ở tầng 48, con không thể tránh phản ứng với đôi chút giận dữ khi con bị người khác xâm phạm. Nếu con chỉ phản ứng với mức độ giận dữ đó thôi, thì con không tạo nghiệp vì phản ứng đó. Con ở tầng 48; không thể chờ đợi con ở một tầng cao hơn. Con không tạo nghiệp khi con đáp ứng ở tầng tâm thức của con.

Bây giờ, nếu sự giận dữ của con cao hơn mức độ bình thường ở tầng 48, con sẽ tạo nghiệp vì phần giận dữ phụ trội đó. Ta cũng có thể nói là tuy con ở tầng 48 và nhìn đời qua phin lọc ở tầng đó, lúc nào cũng có một phản ứng cao và một phản ứng thấp. Nói cách khác, phản ứng thấp củng cố tầng tâm thức 48, hay ngay cả khiến con tuột xuống tầng 47, còn phản ứng cao thăng vượt tầng 48 và giúp con vươn lên tầng 49.

Nếu con đi con đường thấp thì con tạo nghiệp. Nếu con đi con đường cao, con không tạo nghiệp dù hành động của con chưa phải là sự không dính mắc của tâm Phật. Con yêu dấu, nghiệp quả không giản dị, không đi theo đường thẳng như sa nhân trình bày. Thày bảo đảm với con là sa nhân đã tìm cách ảnh hưởng tất cả các giáo lý hiện hành về nghiệp quả, như của Ấn giáo và Phật giáo, Đạo Lão hay nhiều phái thuộc khuynh hướng Thời đại mới.

14.9. Không cá nhân hóa quan hệ

Điều con có thể bắt đầu nhận ra ở đây là con đã tới điểm có thể đi một bước rất quan trọng, sẽ giải thoát con như bước mà thày dạy con trong bài giảng trước. Đây là bước con không cá nhân hóa quan hệ của con với người khác. Con nói: “Bất cứ họ làm gì đối với tôi, họ không chống lại cá nhân tôi vì họ hành động dựa trên tầng tâm thức của họ, dựa trên ảo tưởng của họ, có thể là vì họ bị tà lực xâm nhập. Nhưng ở bất cứ trình độ nào, họ không chỉ chống lại riêng cá nhân tôi. Đúng thực là nếu tôi không ở đó, họ sẽ tìm một người khác để chống lại, họ sẽ chỉ tìm người khác để làm cái cớ để biểu lộ sự hung hãn bên trong họ, và họ cần thể hiện sự hung hãn lên ai đó vì họ không chịu đựng được nó bên trong họ.”

Chắc con đã nhận ra là khi một người hung hãn với người khác, không phải là họ muốn chống lại người đó. Họ chỉ đơn giản có căng thẳng bên trong đến độ nó trào ra, họ mất tự chủ và lúc đó họ phải hướng nó ra ngoài vì nếu không họ không thể ở trong chính hào quang của họ. Đây là cơ chế đằng sau hầu hết mọi sự hung hãn trên hành tinh này.

Một người có sự chia rẽ nào đó trong tâm lý. Sa nhân khai thác sự chia rẽ đó để dần dần tăng độ căng thẳng cho đến khi nó tới điểm bùng nổ và người đó không chịu nổi sự hỗn loạn và căng thẳng nội tại. Sau đó, sa nhân lại khiến người đó tạo ra niềm tin, tạo ra phàm linh nội tại, là hướng cơn giận về người khác là điều chấp nhận được vì người khác đó là nguyên nhân cơn giận. Người đó bị phàm linh làm mù quáng nên không thấy cơn giận là một cơ chế trong nội tâm. Y thực sự tin rằng y nổi giận vì điều người khác làm, và cơn giận chính đáng vì người kia đáng lẽ không được làm như vậy. Con thấy là khi người khác có hành động hung hãn, họ tạm thời bị một tà linh xâm nhập, họ không kềm chế hành động của họ được, họ không hành động theo lý trí. Vì vậy con nói: “Tôi nhìn nhận tôi đang sống trong loại hành tinh như thế nào. Tôi nhìn nhận ở đây có sa nhân và tà linh, họ luôn tìm cách tạo ra hỗn loạn và bất hòa, và họ hướng điều này tới bất cứ ai có hài hòa và bình an.” Con nhìn nhận đây chỉ là một lực.

Con yêu dấu, bây giờ giả thử con đang trong trận mưa bão có sấm chớp ngay trên đầu con, tiếng sấm rất, rất lớn và có sét đánh xuống mặt đất không xa chỗ con đứng. Con có cảm thấy là đám mây bão đang giận con và đang tìm cách đánh trúng cá nhân con chăng? Thày đoán là con không cảm thấy như vậy ở tầng tâm thức của con, nhưng con nhìn nhận là có người trên thế gian (và chắc chắn là có trong quá khứ) cảm thấy có những thần linh hung hãn trong thiên nhiên tìm cách hại cá nhân họ. Do đó, họ cảm thấy có một thần linh ác độc đang điều khiển sét đánh họ, trong khi ngày nay con có khuynh hướng nhìn sấm sét như một lực thiên nhiên không có cá nhân tính.

Điều thày muốn nói với con là quả thực có sa nhân đang muốn tấn công con vì họ muốn ngăn chặn quả vị Ki-tô nơi con, nhưng họ muốn tấn công bất cứ ai có tầng quả vị Ki-tô đó. Một cách nhìn lành mạnh là con đứng lui lại và xem chuyện này như một lực vô tư và không liên quan đến riêng ai. Do đó con tránh không phản ứng lại một cách cá nhân. Thày chỉ muốn giúp con chuyển đổi tâm, nhìn sự việc và nói: “Con không cần xem việc này như một tấn công cá nhân con. Con không cần cảm thấy mình là nguyên nhân, mình chịu trách nhiệm về nó, mình cần phản ứng lại, mình cần thay đổi hành vi hay cách nhìn đời của mình để né tránh nó. Con chỉ cần nhìn vào nó và sau đó con hành động theo khía cạnh kia của nguyên tắc chìa má bên kia. Con có thể nhìn nó và để cho nó đi xuyên thẳng qua con mà không cho nó gây ra bất cứ phản ứng nào trong con.”

14.10. Khi người khác không thể lấy đi sự bình an của con

Một khai ngộ quan trọng trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô là khi con phải đương đầu với một người đang nổi giận, đang la hét kết án con đủ điều, nhưng con đứng yên và không có phản ứng nào trong con. Khi con làm được điều này với sa nhân, tà lực và tất cả mọi người khác, thì con tới điểm cảm thấy con không bất lực. Con có quyền lực làm chủ phản ứng của mình, bứng đi các phàm linh nội tại khiến con có khuôn nếp phản ứng. Khi con dùng quyền lực này, con có thể tới điểm mà con hoàn toàn bình an bên trong vì con không chờ đợi người khác phải làm gì hay không được làm gì.

Con biết rằng bất cứ điều gì người khác làm sẽ không tạo phản ứng trong con. Do đó, con không cần chờ mong vì con không sợ họ sẽ làm điều gì đó tạo phản ứng trong con. Nếu con đứng lui lại và trung thực nhìn vào cuộc đời của con cho tới điểm này, con thấy là đã có rất, rất nhiều lần con quan ngại những gì người khác có thể làm. Con biết nếu họ làm một số điều, chúng sẽ tạo phản ứng trong con. Phản ứng đó không thoải mái và nó có thể khiến con chê trách mình vì con nghĩ một người “tâm linh” không được phản ứng như vậy.

Con hãy nhìn mình một cách trung thực và thấy là con vẫn còn những cơ chế lẩn tránh. Con không tìm cách bù đắp mà tìm cách lẩn tránh. Con cũng có thể có khuôn nếp bù đắp khiến con cố gắng dễ thương với người khác để họ không nổi đóa với con. Thông thường hơn là ước muốn né tránh người khác hay né tránh hành vi của người khác vì con muốn né tránh phản ứng trong con.

Lẽ tự nhiên, con nay đã tới điểm con có thể nhìn những việc này và nói: “Nhưng phản ứng nằm trong con. Như vậy có nghĩa là con có quyền lực để thay đổi nó. Con không cần thay đổi người khác nữa. Con chỉ cần thay đổi chính mình. Con cần tách mình ra để thấy được phản ứng này chỉ là một phàm linh nội tại. Nó chỉ là thêm một phàm linh nội tại khác giống như nhiều phàm linh nội tại mà con đã loại bỏ trong khóa học này. Do đó lẽ tự nhiên con cũng có thể loại bỏ phàm linh này.” Con làm theo những bước cần thiết mà các thày đã dạy con. Con buông bỏ phàm linh, con tiêu trừ năng lượng, con thấy ảo tưởng, và con giải thoát.

Con yêu dấu, thành thực mà nói thì tới điểm này trên con đường tu con muốn bình an trong quan hệ với người khác. Con có bao giờ đạt được bình an bằng cách thay đổi người khác chăng? Dĩ nhiên là không, do đó cách duy nhất là thay đổi chính mình bằng cách buông bỏ các phàm linh và có thái độ là con không cần thay đổi người khác, vì quả vị Ki-tô của con không tùy thuộc vào hành vi của người khác. Nó hoàn toàn dựa vào chuyện gì xảy ra trong chính bốn thể phàm của con, bên trong hào quang và tâm của con.

14.11. Một lời về cách phụng sự đích thực

Các con yêu dấu, con có thể nghĩ là cho tới giờ thày chưa nói gì nhiều về phụng sự. Thày sẽ đưa ra vài nhận xét về đề tài này trong phần sau đây. Nếu con nhìn vào cuộc đời mình, con thấy con có một số mong chờ về hình thức phụng sự mà con phải hiến tặng đời sống như một phần của điều kiện thăng thiên của con, một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con có thể đã dùng giáo lý chân sư thăng thiên để tạo ra một mong chờ khiến con cảm thấy căng thẳng bên trong tâm.

Con có thể cảm thấy rằng: “Chắc hẳn con phải phụng sự, nhưng con đang không làm hay đang không làm đủ. Con quá bận rộn với đời sống hàng ngày nên không có thì giờ phụng sự.” Con cảm thấy xấu hổ, con cảm thấy tội lỗi, con cảm thấy mình chậm trễ, con cảm thấy căng thẳng.

Con yêu dấu, thày không phủ nhận là con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có việc phụng sự, nhưng việc làm phụng sự đó không được quy định bởi tâm vỏ ngoài của con. Nó được quy định trước khi con đầu thai và nó được quy định dựa trên một tầng tâm thức cao hơn tầng tâm thức khi con đầu thai.

Lúc nào đó, con tìm ra một giáo lý tâm linh, con học về khái niệm Sứ vụ Thiêng liêng và phụng sự đời sống. Chuyện này xảy ra vào một lúc trong quá khứ khi con ở tầng tâm thức thấp hơn bây giờ. Điều này có nghĩa là trong tâm vỏ ngoài, con tạo ra một mong chờ dựa trên tầng tâm thức lúc đó và tiếp tục mang nó trong tâm cho đến nay. Do đó, con nghĩ là cách con nhìn Sứ vụ Thiêng liêng lúc đó là cách nhìn đúng, và con cần thực thi những chờ mong đó với lý luận đường thẳng.

Điều thày muốn nói với con là nay con đã lên một tầng tâm thức cao hơn nhiều. Do đó, đã đến lúc con nhìn vào mong chờ này và nói: “Điều giản dị là nó không thiết thực vì nó dựa trên một tầng tâm thức thấp hơn của con ngay bây giờ. Do đó, con cần buông bỏ mong chờ này. Con cần bước lui lại và cho phép một cái nhìn mới về Sứ vụ Thiêng liêng của con được hiện ra từ bên trong.” Để làm được điều này, một lần nữa con cần tâm cởi mở và thơ ngây của trẻ thơ. Con có thể có trạng thái tâm này nếu con nghe theo điều thày sắp nói sau đây.

Ta là Nada, là vị thày chính lo việc khai ngộ con ở tầng này của con đường tu của con, tại đây cho phép con buông bỏ mọi mong chờ liên quan tới Sứ vụ Thiêng liêng của con và việc phụng sự của con trên trái đất. Thày cho phép con buông bỏ hết; để nó qua bên và không lo lắng con phải làm gì trong Sứ vụ Thiêng liêng hay việc phụng sự của con. Thày cho phép con bỏ qua bên toàn bộ ý niệm con phải làm điều gì đó trong cương vị một người tâm linh.

Nếu con chấp nhận nghe lời thày, thì nó sẽ tạo ra sự yên lặng, sự vắng bóng căng thẳng trong tâm con để con có thể bắt đầu lắng nghe nội tâm. Con có thể nghe thấy Hiện diện TA LÀ cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con thay vì một phàm linh nội tại (mà con đã tạo ra ở tầng tâm thức thấp hơn) cho con biết về Sứ vụ Thiêng liêng của con. Sứ vụ Thiêng liêng của con không phải là nguồn căng thẳng. Sứ vụ Thiêng liêng của con là niềm vui lớn nhất của con.

Nó không phải là một phận sự hay một bổn phận. Nó không phải là điều con cảm thấy con phải làm. Khi con cảm thấy có bổn phận, phận sự hay con phải làm điều gì, thì đó là vì có một phàm linh đang xen vào tiến trình phụng sự sự sống của con. Con cần nhận ra điều này, vô hiệu hóa phàm linh, vượt qua nó, và lắng nghe. Con lắng nghe với tâm ngây thơ, cởi mở của trẻ thơ, với tâm vô tư, và con có thể nhận được những khía cạnh trong Sứ vụ Thiêng liêng thích hợp với tầng tâm thức hiện nay của con. Con sẽ cảm thấy niềm vui, không phải một gánh năng, khi con nhận được tín hiệu đó.

Con yêu dấu, thày đã cho con nhiều chuyện để suy ngẫm. Thày không muốn bài giảng này là một gánh nặng cho con. Do đó, thày sẽ giản dị chấp nhận là thày đã cho con đủ để dẫn con tới tầng khai ngộ cuối ở khóa nhập thất của thày. Tại đó, thày sẽ giúp con đạt được nhiều tự do hơn khỏi các căng thẳng mà con cảm thấy khi con là đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con dường dẫn tới thăng thiên.

Vượt qua tinh thần trách nhiệm giả, 14 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 23/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng sáng ngộ thứ năm của khóa nhập thất của thày, chúng ta gặp gỡ an bình phối hợp với viễn kiến. Thày muốn bắt đầu bài giảng này với một khái niệm mà các tâm lý gia gọi là “tư duy thần diệu”. Nó có thể đưa đến những hình thức đã được gọi là mê tín dị đoan.

Tư duy này thường được mô tả như sự lẫn lộn nguyên nhân và hậu quả, tức là những người mắc tư duy đó chế ra một lối giải thích xoay quanh chính họ, thường khiến họ nghĩ tư tưởng của họ đã là nguyên do khiến một số sự việc bên ngoài xảy ra hay không xảy ra. Nơi các trẻ em, tư duy này được mô tả như cảm thấy tư tưởng của mình đã khiến một số sự việc xảy ra trên đời, và là một cố gắng giải thích mọi chuyện dựa trên điều mình biết ngay bây giờ, cùng lúc liên kết mọi chuyện xảy ra với chính mình.

12.1. Ước muốn bất khả xâm phạm

Con yêu dấu, tư duy thần diệu có nhiều khía cạnh, trong đó có nhiều khía cạnh mà các tâm lý gia chưa biết đến. Thầy muốn bắt đầu bằng cách nhắc lại những gì thày giảng trong bài đầu. Có một số đệ tử tâm linh mong tới được điểm mà họ không thể làm gì sai và không có gì có thể gây thương tổn cho họ. Chắc con cũng biết có một số trò chơi vi tính trong đó con sống trong một thế giới có kẻ thù bắn đạn tới con, nhưng con có thể dương lên một lá chắn khiến con bất khả xâm phạm, ít nhất là trong một thời gian.

Khi con nhớ lại những điều thày đã giảng, rằng trong quá khứ con đã biểu lộ quả vị Ki-tô và bị sa nhân đánh lừa khiến con nghĩ làm vậy là sai quấy, thì con có thể nhận ra một sắc thái của tư duy thần diệu là con không thể làm gì sai và không có gì có thể gây thương tổn cho con. Đây có thể coi như là sự nối dài của ước mong nơi trẻ em tưởng tượng là chúng bất khả xâm phạm, nhưng nó cũng là một ý tưởng in sâu vào tâm thức tập thể.

Như thày có nói, khi con lớn lên trong bất cứ nền văn hóa nào trên trái đất, con chịu ảnh hưởng của một số niềm tin rất vi tế. Lẽ dĩ nhiên, khi con nhìn suốt chiều dài lịch sử của trái đất, con thấy là có rất, rất nhiều người đã trải qua những cảnh huống chấn thương đã để lại nơi họ những vết thương tâm lý sâu đậm. Họ đã tìm cách tạo ra một phàm linh, và phàm linh này đã phát triển thành một phàm linh tập thể, để giải thích chuyện đã xảy ra, hay cho họ hy vọng là sẽ có ngày họ trở nên bất khả xâm phạm và không phải chịu các cảnh huống đó nữa. Con thấy chăng là một phần tư duy thần diệu là ý tưởng con thực sự có thể kiểm soát vũ trụ, con có thể kiểm soát một số khía cạnh của thế giới này, và do đó con có thể tránh điều xấu và thu hút điều lành. Có những người dị đoan khi chơi bài bạc, chẳng hạn, và nghĩ rằng nếu họ đeo một lá bùa thì họ sẽ hên hơn. Có nhiều khía cạnh khác của lối hành xử dị đoan qua đó người ta tìm cách làm điều gì đó để kiểm soát chuyện gì sẽ xảy ra hay không xảy ra cho họ. Nhiều người cho rằng đeo một mề đay có khắc hình một vị thánh sẽ che chở họ khỏi sự việc xấu.

Con yêu dấu, con cần nhận ra là có một truyền thống hay phong trào rất, rất cổ xưa trên thế gian giải thích tại sao một số chuyện xảy ra và tìm cách bảo vệ con người khỏi một số chuyện khác. Con muốn tránh điều dữ và thu hút điều lành. Con nghĩ rằng nếu con làm một số chuyện thì con sẽ đạt được ước muốn này. Nói cách khác, có một phàm linh (đã được tạo ra từ rất lâu trên trái đất) khiến con người tin rằng họ có thể kiểm soát thế giới bằng cách nào đó.

Như một đệ tử chân sư thăng thiên con đã lớn lên trong một môi trường trong đó phàm linh này đã ảnh hưởng đa số con người bằng cách này hay cách khác, và lẽ tự nhiên con đã bị nó ảnh hưởng. Một lần nữa, thày hoàn toàn không chê trách con. Thày chỉ nêu lên sự kiện là ở tầng khai ngộ này của khóa học, con đã sẵn sàng để đối phó với vấn đề này. Con đã sẵn sàng để nhìn vào những thành phần của tư duy thần diệu mà con có trong tâm, và con đã sẵn sàng để vượt lên trên chúng và thoát khỏi chúng. Con yêu dấu, khi con buông bỏ chúng, con sẽ cảm thấy tự do hơn là bất cứ gì con mơ ước khi con ở trong vòng ảnh hưởng của phàm linh tập thể và ngay cả một số phàm linh nội tại mà con có trong các thể cao.

12.2. Ảo tưởng có một Thượng đế toàn năng

Con yêu dấu, bây giờ chúng ta hãy xem xét ước muốn được bất khả xâm phạm, bất khả chiến bại. Trong quá khứ có thể con đã bị sa nhân tấn công một cách rất độc ác, không khoan nhượng. Lẽ tự nhiên, con muốn tránh bị chấn thương, bị đau đớn như vậy, và do đó con đã tạo ra một phàm linh nội tại khiến con nghĩ rằng sẽ có ngày con trở nên người bất khả chiến bại. Con sẽ có khả năng đánh bại sa nhân, diệt trừ sa nhân, diệt trừ bất cứ ai tấn công con hay những người con cảm thấy có trách nhiệm bảo vệ, tỷ dụ như người vô tội.

Thày cần con suy ngẫm phàm linh này từ đâu tới. Nó, như tất cả phàm linh (ít nhất là các phàm linh chính), do sa nhân tạo ra. Ta có thể nói là tất cả phàm linh đều do sa nhân tạo ra, theo nghĩa là chúng nảy sinh từ các tấn công và ảo tưởng của sa nhân. Lẽ dĩ nhiên, một phàm linh riêng lẻ đã do một người tạo ra khi họ phản ứng lại sa nhân.

Điều sa nhân muốn con nghĩ là có một thực thể nhân từ, thường được gọi là Thượng đế, có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Một khi con tin điều này, con nghĩ một số điều đáng lý không được xảy ra. Suốt mấy ngàn năm, nhiều người cảm thấy sự hiện diện hiển nhiên của sự ác độc trên hành tinh này thách thức sự hiện hữu của Thượng đế. Nếu thực sự có một Thượng đế, và Thượng đế đó nhân từ và toàn năng, thì tại sao ngài lại để cho sự ác độc có mặt trên trái đất?

Con thấy là sa nhân đã từ khởi thủy tạo ra ảo tưởng là có một Thượng đế toàn năng kiểm soát vũ trụ. Rồi chính họ đã làm nhiều chuyện độc ác đối với con người, thách thức sự hiện hữu của Thượng đế nhân từ và toàn năng này. Do đó, sa nhân đã tạo một mâu thuẫn trong tâm của hầu hết mọi người. Con nghĩ đúng lý con phải có cách kiểm soát chuyện gì xảy ra cho con trong cuộc đời. Con nghĩ đúng lý phải có một thực thể nhân từ kiểm soát mọi chuyện. Do đó, con nghĩ nếu con cầu xin thực thể đó bằng một tư duy thần diệu nào đó, con sẽ có thể cầu xin sự phù hộ của thực thể đó để chỉ có chuyện tốt xảy ra cho con và chuyện xấu không xảy ra cho con.

Một số người sống nhiều kiếp với niềm tin đó và nghĩ rằng niềm tin này không bị thách thức vì không có chuyện gì xấu xảy ra cho họ. Một số người khác ban đầu có niềm tin này nhưng sau đó có chuyện xấu xảy ra cho họ, và bỗng nhiên họ bị khủng hoảng niềm tin, có thể đi đến chối bỏ khái niệm tôn giáo và Thượng đế. Trong cả hai trường hợp, đây là điều sa nhân mong muốn vì họ giữ con người trong một khuôn nếp phản ứng. Ngay cả những người cho rằng họ có thể kiểm soát Thượng đế và vũ trụ bằng một số hành động, họ cũng bị sa nhân giữ trong một ảo tưởng.

Mục tiêu của các thày trong khóa học này là gì? Các thày đã tìm cách giúp con nhận lãnh càng ngày càng nhiều trách nhiệm về hoàn cảnh của mình. Nhận lãnh trách nhiệm có lợi ích gì? Lợi ích là con thấy con có thể ảnh hưởng hoàn cảnh của mình. Con có thể hỏi: “Vậy đây không phải là tư duy thần diệu à? Ban đầu thày nói là sa nhân tạo ra ảo tưởng có một Thượng đế toàn năng kiểm soát cả vũ trụ. Mặt khác thày nói là các con phải vượt qua tư duy thần diệu, nhưng bây giờ thày lại nói là chúng con cần nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình và thấy là chúng con đang đồng sáng tạo hoàn cảnh của mình. Làm sao chúng con phối hợp được các thành phần này?” Ấy, chúng ta sẽ không phối hợp các thành phần đó. Chúng ta sẽ xem xét từng thành phần một và xem chúng là gì.

12.3. Từ bỏ niềm tin có một Thượng đế của riêng mình

Trước tiên, lẽ dĩ nhiên là có một đấng Sáng tạo, theo một nghĩa nào đó, có quyền kiểm soát tối hậu trên vũ trụ. Đấng Sáng tạo tạo ra thế giới hình tướng, trong đó có bầu cõi nơi con đang sống. Như các thày đã thuyết giảng qua trung gian của vị sứ giả này, một bầu cõi được tạo ra như một bầu cõi chưa thăng thiên, có nghĩa là nó chưa đạt được tính chất thường hằng. Mục đích tạo ra một bầu cõi trong trạng thái đó là để luật tự quyết trải bày. Các sinh thể có tự nhận biết được gửi xuống hiện thân trong bầu cõi có thể biểu lộ quyền tự quyết của họ nhưng những gì họ tạo ra không thường hằng. Bất cứ những gì họ tạo ra, họ đều có thể xóa đi hay khắc phục. Nói cách khác, họ không thể bị mắc kẹt trong những gì họ tạo ra.

Vì bầu cõi trong đó con sống không thường hằng, nên con có thể để cho luật tự quyết trải bày bất cứ cách nào con muốn. Khi thày nói “con”, thày không chỉ nói riêng con. Tất cả các sinh thể đồng sáng tạo trong bầu cõi chưa thăng thiên đều có quyền tự quyết, một quyền tự quyết không giới hạn. Con có thể có hành động giới hạn chính mình, con có thể có hành động hại người khác, và các điều này đều được phép vì bầu cõi không thường hằng. Tuy nhiên, để cho quyền tự quyết được trải bày, đấng Sáng tạo cũng đã để qua một bên quyền kiểm soát của ngài trên bầu cõi chưa thăng thiên. Điều này không có nghĩa là Thượng đế không can thiệp vào được, nếu đó là điều đấng Sáng tạo mong muốn. Đấng Sáng tạo có thể xóa bỏ toàn thể bầu cõi trong một khoảnh khắc nếu ngài muốn. Tuy nhiên, luật tự quyết có nghĩa là đấng Sáng tạo đã nói: “Ta sẽ cho những sinh thể có tự nhận biết này thời gian để học hỏi với quyền tự quyết của họ và đi tới kết luận, dựa trên thử nghiệm với quyền tự quyết, rằng điều tốt nhất cho toàn thể cũng là điều tốt nhất cho cá nhân.”

Lẽ dĩ nhiên, thực tế là trái đất là một trong số ít hành tinh trong toàn thể vũ trụ có một tầng tâm thức rất, rất thấp. Con có thể nhìn những chuyện xảy ra trên trái đất và nói là Thượng đế không được để cho những điều ác độc đó xảy ra và do đó Thượng đế phải tiêu hủy toàn bộ bầu cõi chưa thăng thiên. Tuy nhiên, có hàng tỷ hành tinh có tầng tâm thức cao hơn trái đất rất nhiều. Tại sao Thượng đế lại phải xóa bỏ toàn thể bầu cõi dựa trên những gì xảy ra trên hành tinh nhỏ bé này?

Như một đệ tử chân sư thăng thiên đã tới tầng này, con cần buông bỏ ảo tưởng do sa nhân tạo ra là có một Thượng đế cá nhân quan tâm mật thiết đến đời sống và hoàn cảnh cá nhân của con trên trái đất. Con cần buông bỏ ý tưởng rằng đâu đó ở trên thiên đàng có một ông già râu bạc đặc biệt quan tâm tới con và lúc nào cũng theo dõi mọi chuyện con làm, nghĩ hay cảm nhận. Vị Thượng đế xa xăm trên trời đó là một sáng chế hư cấu của sa nhân. Đã đến lúc con buông bỏ nó. Đã đến lúc con nhìn nhận là không có Thượng đế đó.

12.4. Người trợ giúp thần diệu

Một khía cạnh của tư duy thần diệu hay tìm thấy nơi trẻ em là niềm tin có một người trợ giúp thần diệu. Nếu một em bé cảm thấy khổ sở, bị đe dọa hay sợ hãi, thì em nghĩ có một người trợ giúp thần diệu sẽ một ngày nào đó hiện ra và thay đổi hoàn cảnh bên ngoài cho em. Một lần nữa, niềm tin này có thể hiểu được ở một tầng tâm thức nào đó. Niềm tin này thu hút chính yếu những người ở dưới tầng tâm thức 48. Vì nó rất mạnh dưới hình thức một phàm linh tập thể, nên con đã lớn lên với nó, con đã bị nó ảnh hưởng. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, con chỉ cần giản dị nhìn vào nó và cho nó biến đi.

Tư duy thần diệu cho rằng, tỷ dụ, nếu con không có một số tư tưởng, nếu con không có một số hành động, nếu con có tư tưởng tích cực hay đeo một mề đai có khắc hình thánh Christopher, thì chuyện xấu sẽ không xảy ra cho con. Vấn đề với lối suy nghĩ này là nó khiến con nghĩ có một người trung gian. Con nghĩ con ở trong hoàn cảnh mà cá nhân con không làm được gì, nhưng có một thực thể bên ngoài con có thể làm gì đó để giải quyết vấn đề – và ước gì con tìm ra cách kích hoạt thực thể đó hành động và sử dụng quyền năng của nó.

Con có thấy chăng hậu quả tâm lý của lối suy nghĩ này? Con cảm thấy bất lực, con phản ứng dựa trên cảm giác bất lực bằng cách cầu thỉnh một thực thể tưởng tượng mà con nghĩ có quyền năng mà con không có. Một lần nữa, điều này hiểu được nơi trẻ thơ hay nơi những người ở một tầng tâm thức nào đó. Con nay ở tầng tâm thức cao hơn rất nhiều. Do đó, đã đến lúc con nhìn vào điều này và nhận ra nó hoàn toàn dựa trên một ảo tưởng.

12.5. Con không bao giờ bất lực

Trước tiên, thày muốn giải quyết cảm giác bất lực. Con yêu dấu, con không bao giờ bất lực. Thày không thể nói điều này ở một tầng tâm thức thấp hơn, vì những người ở dưới tầng 48 sẽ không tin. Ngay cả những người tham dự khóa học này nhưng ở tầng tâm thức thấp cũng thấy rất khó mà hoàn toàn tin điều này. Đó là lý do các thày phải giảng nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau.

Sự thực là con không bao giờ bất lực. Lẽ đương nhiên, câu này cần được hiểu một cách sâu sắc. Như thày có nói, sa nhân thích đưa con vào hoàn cảnh trong đó con cảm thấy không có điều gì xấu có thể xảy ra cho con, sau đó họ làm một chuyện vật lý tàn tệ và khiến tâm con bắt đầu hồ nghi. Lẽ tự nhiên, như một đệ tử chân sư thăng thiên, con cần xem xét vấn đề này. Con cần nhận ra là luật tự quyết ngự trị tối cao trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con cũng cần nhận ra là trái đất là một trong những hành tinh có tâm thức thấp nhất trong bầu cõi của con. Điều này có nghĩa là khi con đầu thai trên trái đất, một số chuyện có thể xảy ra cho con vì người khác có thể dùng quyền tự quyết của họ để hại con. Có một số người khác đã dùng quyền tự quyết để mở cửa đón nhận sự kiểm soát của sa nhân trên các cõi xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Do đó, họ có thể hại con trên mặt vật lý. Họ có thể có hành động vật lý để hại con.

Thày cần con nhận ra rằng con không làm được gì về chuyện này và lý do là vì luật tự quyết, như thày có nói, phải được phép trải bày ra. Con có thể cần suy ngẫm điều này, và nếu con cảm thấy khó chấp nhận rằng quyền tự quyết phải được phép trải bày ra, thì thày khuyên con nên đọc quyển sách, Các kiếp sống của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Giê-su. Quyển sách này giải thích rất cặn kẽ mục đích của luật tự quyết và cách luật tự quyết trải bày ra.

Thầy cần con suy ngẫm và tới điểm chấp nhận là trái đất là một hành tinh có tâm thức rất thấp và do đó có thể là một số chuyện sẽ xảy ra cho con. Con bất lực vì con không thể ngăn chặn người khác lạm dụng quyền tự quyết của họ. Con không làm được gì để ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Thày biết rằng có rất, rất nhiều người (trong đó có nhiều đệ tử chân sư thăng thiên) cảm thấy rằng đáng lý phải có cách ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác để không hại được mình. Thày cần con buông bỏ niềm tin này vì lý do giản dị là con không muốn ảnh hưởng quyền tự quyết của người khác. Đây là một điều khó chấp nhận, ngay cả với đệ tử chân sư thăng thiên đã biết mọi chuyện cần biết về nhị nguyên, luật tự quyết và mục đích của vũ trụ. Thầy cần con bỏ ra một chút thì giờ để suy ngẫm điều này.

12.6. Hình thức nghiệp nặng nhất

Con cần nhận ra là khi con có hành động hại người khác, con tạo ra nghiệp. Tuy nhiên, nghiệp tạo ra bởi bất kể hành động vật lý nào không phải là hình thức nghiệp nặng nhất. Hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào quyền tự quyết của người khác. Con có thể nói ở đây: “Nhưng nếu việc con làm là ngăn họ tự giết họ? Nếu con làm vậy thì con can thiệp vào quyền tự quyết của họ, nhưng có phải chăng không tự sát là điều tốt cho họ? Vậy có phải chăng việc con can thiệp vào quyền tự quyết của người đó là việc làm đúng?” Không, con yêu dấu, việc đó không đúng và con sẽ tạo nghiệp nếu con làm như vậy.

Con có thể nói: “Nếu sa nhân sắp sửa giết một trẻ thơ, thì phải chăng việc làm đúng là con can thiệp vào quyền tự quyết của họ và khiến họ không làm hành động đó?” Một lần nữa, con yêu dấu, việc đó không đúng, con sẽ tạo nghiệp nếu con làm như vậy. Đây là loại nghiệp mà sa nhân đã tạo ra từ khi họ sa ngã và thày bảo đảm với con là, như một đệ tử chân sư thăng thiên đang đi trên con đường dẫn tới thăng thiên, con không muốn tạo ra loại nghiệp đó. Con yêu dấu, đây là lúc con cần nhận ra điều ta có thể gọi là hai tầng của tâm thức nhị nguyên. Ở tầng đầu, con hướng mọi chuyện về chính mình, con chú tâm vào chính mình, và con lúc nào cũng cố gắng làm điều tốt nhất cho mình. Nhưng có một tầng thấp hơn, là tầng của sa nhân, là nơi con cố ý tìm cách kiểm soát người khác. Ở tầng đầu, con tìm cách được những gì mình muốn và khiến người khác cho mình cái mình muốn. Con không làm với ý định hiểm độc kiểm soát hay diệt trừ người khác. Sa nhân ở tầng tâm thức mà họ tìm cách kiểm soát người khác một cách cố ý và hiểm độc. Họ làm vậy không chỉ để có được cái họ muốn, nhưng họ tìm cách tàn phá người khác bằng cách tạo ra đủ loại chia rẽ và mâu thuẫn trong bốn thể phàm của người khác, khiến người khác bị chia rẽ chính trong nội tâm.

Có một điểm khác biệt vi tế giữa hai loại nghiệp. Điều thày nói ở đây là để con thấy sự tương phản. Thày muốn nói là hình thức nghiệp nặng nhất mà con có thể tạo ra là khi con can thiệp vào ba thể cao của một người và ảnh hưởng chọn lựa của họ. Dù con nghĩ con can thiệp để đem lại điều tốt cho họ, con vẫn tạo nghiệp rất nặng khi làm thế. Đã đến lúc con nhận ra là nếu con có ý định chân thật muốn thăng thiên, muốn hội đủ điều kiện thăng thiên, trong kiếp sống này, thì con không thể cho phép mình tạo ra loại nghiệp này. Do đó, con cần tới chỗ chấp nhận hoàn toàn và tuyệt đối là người khác phải được phép trải bày quyền tự quyết của họ dù rằng khi làm vậy họ sẽ tự hại họ hay hại con.

Lẽ tự nhiên, điều này không cấm con giúp họ nhận ra điều họ đang làm hay cố gắng cho họ thấy điều mà họ không thấy. Điều con không được làm là khuynh loát hay kiểm soát người khác. Đây là lý do thầy cần con nhận ra là con không nên có niềm tin cho rằng Thượng đế, một vị thánh hay thiên thần nào đó có thể khiến người khác làm hay không làm điều gì. Cầu nguyện Thượng đế để ngăn cản người khác làm điều gì có thể sẽ hại con hay chính họ không phải là việc làm chính đáng.

Con yêu dấu, con thấy chăng là không có thẩm quyền nào trên thiên đàng có quyền can thiệp vào quyền tự quyết của những người đang hiện thân. Do đó, con chỉ phí hơi vô ích nếu con cầu nguyện xin Thượng đế thay đổi tâm người khác, điều này đi ngược lại Luật Tự Quyết. Con thực sự sẽ tạo nghiệp khi con làm vậy. Nghiệp này không nặng bằng nghiệp con tạo ra khi con tìm cách ảnh hưởng hay khuynh loát người khác, nhưng con vẫn sẽ tạo nghiệp.

12.7. Hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết

Thày muốn con nhận ra là có một trạng thái tâm trong đó con nhìn trái đất như nó đang là ngay lúc này và có thể chấp nhận quyền tự quyết một cách hoàn toàn, vô điều kiện và không khoan nhượng. Con nhìn nhận trái đất là một hành tinh có tâm thức thấp và điều đơn giản là một số chuyện sẽ xảy ra trên một hành tinh như trái đất. Thày muốn con tới điểm con nói: “Tôi đã đầu thai trên trái đất và lý do tối hậu là vì tôi đã chọn tới đây. Tôi biết trái đất là loại hành tinh như thế nào trước khi tôi đầu thai lần đầu ở đây. Bây giờ tôi nhận ra tôi có lý do của tôi, tôi có thể không nhớ rõ một cách ý thức những lý do này, nhưng một phần lý do chắc hẳn là tôi muốn tăng triển qua việc trải nghiệm cuộc sống trên một hành tinh như thế này. Vậy làm sao tôi tăng triển? Tôi tăng triển bằng cách nhận ra là vì quyền tự quyết, tôi không thể ngăn cản người khác làm điều mà họ chọn làm. Vả lại đây cũng không phải là vai trò của tôi.”

Do đó, con có thể buông bỏ ước muốn tìm một phương pháp thần diệu để ngăn cản người khác hại chính họ hay hại người. Con buông bỏ ước muốn ảnh hưởng Thượng đế hay ngay cả tìm cách ảnh hưởng người khác. Con chấp nhận là khi con đầu thai trên trái đất này, con không ngăn cản được một số sự việc vật lý xảy ra.

12.8. Bất lực có nghĩa gì?

Con có thể tới điểm chấp nhận điều trên, và con sẽ dễ chấp nhận điều trên hơn, khi con nhận ra là tuy con đối mặt một sự việc và không thể ngăn chặn nó, nhưng con vẫn không bất lực. Con cần suy ngẫm điều này một chút. Bất lực có nghĩa gì? Lẽ tự nhiên, con cảm thấy (đây cũng là một phàm linh tập thể rất mạnh trên trái đất) là các chuyện xấu đáng lý không được xảy ra và đáng lý phải có quyền lực nào ngăn chặn chúng. Nếu con bị một sự việc nào đó đe dọa, con cảm thấy trong tâm là hoặc đáng lý con phải chặn được nó, hoặc Thượng đế phải chặn nó, và nếu cả hai chuyện này đều không xảy ra thì con cảm thấy bất lực. Khi con đứng lùi lại, thì con nhận ra đây là một hiểu biết sai lạc về ý nghĩa của quyền năng; quan niệm trên không thừa nhận loại hành tinh nơi con đang sống.

Con đang ở trong một bầu cõi chưa thăng thiên nơi luật tự quyết ngự trị tuyệt đối vì mục đích của một bầu cõi chưa thăng thiên là cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra. Thêm vào đó, con đang ở trên một trong những hành tinh có tâm thức thấp nhất, có nghĩa là con đang ở trên một hành tinh nơi rất, rất nhiều chuyện xấu có thể xảy ra vì con người chọn thực thi quyền tự quyết một cách cực đoan, một cách tối ích kỷ. Khi con nhận ra là con đang ở trên loại hành tinh nào, thì con nhận ra con không thực tế nếu con nghĩ con có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài. Con không thực tế nếu con nghĩ con có quyền năng ngăn chặn một cuộc chiến bùng nổ khi hàng triệu triệu người đã lấy quyết định tập thể để giao chiến.

Con không thực tế nếu con nghĩ con, như là một người đang hiện thân, có quyền năng đó. Con cũng không thực tế khi con nghĩ Thượng đế hay một sinh thể nào khác trên trời có quyền năng đó. Điều đơn giản là quyền năng đó không hiện hữu trên trái đất. Hy vọng vào quyền năng đó cũng ngây thơ như nghĩ rằng ta có thể ngưng trọng lực và bay bổng trong không khí. Con yêu dấu, khi con thực sự nhìn nhận điều này, con thấy là tuy con không có quyền năng ngăn chặn một sự việc bên ngoài, điều này không có nghĩa là con bất lực và không có nghĩa là con phải cảm thấy bất lực. Sa nhân đã thiết lập một cơ chế khiến con nghĩ là phải có một quyền lực ngăn chặn được những sự việc này và khi con kinh nghiệm là không có quyền lực nào, thì con cảm thấy hoàn toàn bất lực, con cảm thấy mình trong vòng kềm tỏa của những sự việc ngoài tầm kiểm soát của mình. Cái gì đang cảm thấy như vậy? Đó là một phàm linh cảm thấy như vậy, không phải là con. Điều thày cần con làm là bước lui lại, nhìn việc đang xảy ra, thấy là có phàm linh đang cảm thấy bất lực và con tự hỏi: “Vậy thì con cảm thấy thế nào?” Con, là cái mà các thày gọi là cái Ta Biết, không cảm thấy bất lực. Cái Ta Biết, khi nó biết nó là ai, nó là gì, không bao giờ cảm thấy bất lực.

Khi cái Ta Biết nhận biết nó là ai và là cái gì, thì nó nhận ra là không có điều gì trên trái đất quy định được nó. Chuyện gì xảy ra khi con bị dính líu vào một biến cố vật lý rất tang thương? Lẽ dĩ nhiên là có hậu quả vật lý. Con có thể bị giết, gia đình và bạn bè của con có thể bị giết, xã hội của con có thể bị tiêu diệt. Chuyện này đã xảy đến cho đa số các con trong những kiếp trước, và cho một số nhỏ trong kiếp này, nhưng con yêu dấu, có phải chăng là hoàn cảnh bên ngoài đã ảnh hưởng con?

Thày có nói là cái Ta Biết không thể nào bị quy định hay ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì trên thế gian. Con là nhận biết thuần khiết, con luôn luôn có thể trở về nhận biết thuần khiết và do đó tách mình ra khỏi những vết thương trong ba thể cao của con. Cái gì tác động con trong một sự việc bên ngoài? Ấy, đấy là cách con phản ứng lại hoàn cảnh. Phản ứng của con tạo ra một phàm linh nội tại và phàm linh này ở lại trong ba thể cao của con ngay cả trong các kiếp sau đó. Như các thày đã lặp đi lặp lại nhiều lần trong khóa học này và trong các bài giảng khác, con không phải là phàm linh đó. Rất có thể là, cho tới điểm này, con đã nhìn thế giới qua phàm linh này và phản ứng lại phàm linh này nhưng tuy vậy, con không phải là phàm linh. Trong khóa học này, con đã chế phục nhiều phàm linh nội tại, và do đó, lẽ dĩ nhiên là con có thể chế phục thêm nhiều phàm linh nữa. Thày chỉ giản dị muốn con chế phục thêm một phàm linh nữa bằng cách nhận ra rằng, bất kể những chấn thương mà con đã gánh chịu trong kiếp này hay các kiếp trước, hậu quả kéo dài của các sự việc vật lý này là các phàm linh nội tại mà con mang theo trong ba thể cao của con. Chính những phàm linh này đang tác động con.

12.9. Nhận ra hồng ân của thời gian

Con yêu dấu, bây giờ thày cần con đứng lui lại và nhận ra là thời gian là một hồng ân. Nhiều người trong số các con không nhìn thời gian dưới góc độ này vì thời gian được xem như cái gì đòi hỏi hay giới hạn con. Trong đời sống hàng ngày, con lúc nào cũng phải ở nơi nào đó vào lúc nào đó, con cần phải đi làm trong một khoảng thời gian nào đó, con không được tự do với thời gian của mình. Nhiều người trong các con cảm thấy đời sống ngắn ngủi và thời gian trôi qua nhanh, và do đó con người có một quan hệ khá khó chịu với thời gian. Thày sẽ cố gắng cho con một tầm nhìn khác.

Chúng ta hãy coi là một lúc nào đó trong quá khứ, trong kiếp này hay một kiếp trước, con bị dính líu vào một biến cố rất tang thương, tỷ dụ như một chiến tranh tiêu diệt gia đình và xã hội của con. Đây là một sự việc vật lý, nhưng sự việc vật lý xảy ra ở một thời điểm nào đó và bây giờ thời gian đã trôi đi. Con không còn sống ở mốc thời gian cũ nữa. Điều này có nghĩa là con nay có thể nhìn sự việc và nói: “Không thể chối cãi là sự việc vật lý này đã xảy ra trong cõi vật lý. Nhưng ngày hôm nay, sự việc này ở đâu trong cõi vật lý?” Nó không còn trong cõi vật lý vì thời gian đã trôi đi.

Có thể là vẫn còn một số hậu quả, một số tác dụng của sự việc vẫn còn hiện diện trong thế giới vật lý. Để giúp chúng ta hiểu dễ hơn, chúng ta hãy giả thử là mấy ngàn năm trước đây trong một kiếp trước, con bị dính líu vào một biến cố tang thương khi Đế quốc La mã chinh phục và tàn phá thành phố nơi con sống. Biến cố này xảy ra 2000 năm trước đây. Ngày nay, không còn dấu vết nào của biến cố đó trong cõi vật lý, cũng không có hậu quả gì, ít nhất là hậu quả trực tiếp. Biến cố này có còn tác động con chăng? Con phải nhìn nhận là, ở tầng vật lý, biến cố này không còn tác động con. Điều này chính thực cũng áp dụng cho một sự việc xảy ra năm phút trước đây.

Hồng ân của thời gian là nó cứ liên tục trôi đi, có nghĩa là khi thời gian trôi đi, nó tẩy xóa các sự việc cũ. Đó là những sự việc vật lý đã xảy ra trong tầng vật lý nhưng thời gian đã tẩy xóa chúng. Điều này có nghĩa là, dù ở thời điểm sự việc xảy ra, con bất lực không ngăn cản được sự việc ảnh hưởng con, thời gian đã cho con cơ hội mới để khắc phục ảnh hưởng của sự việc. Ta có thể nói: “Ngày hôm nay, sự việc vật lý xảy ra 2000 năm trước đây có tầm quan trọng nào chăng?” Ở tầng vật lý, rõ ràng là không.

Tuy nhiên, khi sự việc xảy ra, con phản ứng dựa trên tầng tâm thức của con lúc ấy và con tạo ra một số phàm linh nội tại. Nếu các phàm linh này vẫn còn ở trong ba thể cao của con, nếu con vẫn mang chúng theo mình trong suốt bao nhiêu kiếp từ khi biến cố xảy ra, thì sự việc vẫn ảnh hưởng con. Tuy nhiên, nó không ảnh hưởng con một cách vật lý, và như vậy có nghĩa là con không bất lực và con có thể khắc phục nó. Vấn đề không phải là con ngăn chặn sự việc vật lý, mà con không thể ngăn chặn được vì nó không có mặt ở đây nữa. Vấn đề là con chế phục hậu quả của sự việc đó, tức là các phàm linh nội tại. Con thật sự quyền lực làm rã tan các phàm linh này và giải thoát con khỏi chúng.

12.10. Nghiệp quả luân lưu ra sao qua bốn cõi

Trong quá khứ (dù là hai phút hay 2000 năm trước đây) con bị dính líu vào một sự việc nào đó. Con phản ứng dựa trên tầng tâm thức mà con có lúc đó. Con tạo ra một phàm linh dựa trên phản ứng của con trước sự việc. Con không có lỗi gì cả. Con có thể làm gì khác việc phản ứng dựa trên tầng tâm thức mà con có khi con trải nghiệm sự việc?

Bây giờ con đã lên một tầng tâm thức cao hơn và do đó con có quyền lực tìm các phàm linh đã được tạo ra ở một tầng tâm thức thấp hơn, thấy chúng như chúng là, tách mình ra khỏi chúng và nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan.” Con có thể cầu thỉnh Đại thiên thần Michael, Astrea hay các chân sư khác trói buộc, tiêu hủy và làm rã tan các phàm linh đó. Khi con thấy ảo tưởng đã tạo ra phàm linh, con có thể buông bỏ ảo tưởng và con được giải thoát!

Thày cần con nhận ra nơi đây một khía cạnh vi tế của nghiệp quả mà nhiều đệ tử tâm linh chưa hiểu thấu. Con yêu dấu, con có thể nghĩ nghiệp quả là một sự vật vật lý. Rất nhiều người (ở phương Đông và ngay cả trong các cộng đồng Thời đại mới) tin rằng khi con có một hành động vật lý, con tạo một nghiệp vật lý, và một ngày nào đó nghiệp quay trở lại và đập con, có nghĩa là một chuyện gì xấu sẽ xảy ra cho con. Tuy nhiên, nghiệp quả không vận hành như vậy. Các thày đã nói trước đây: “Nghiệp quả không phải là trừng phạt.”

Các thày cũng có nói là một khía cạnh khác của thời gian là khi con gửi đi một xung lực nghiệp qua một hành động nào đó, nó không trở lại con ngay tức khắc. Đây lại là, một lần nữa, một khoảng cách hồng ân khi xung lực luân lưu qua bốn tầng của vũ trụ vật chất. Khi xung lực trở về cõi vật lý, nếu con đã học bài học, nếu con đã vượt qua tâm thức đã khiến con tạo nghiệp, thì sẽ không có chuyện gì xấu xảy ra cho con trong cõi vật lý. Con có hiểu thày chăng? Mục đích của nghiệp quả không phải là để trừng phạt con vì những gì con đã làm.

Điều này cũng giải thích một cách sâu sắc vì sao những cơ chế bù đắp hoàn toàn không có lợi ích gì. Vấn đề không phải là, nếu con giết một người trong quá khứ, nhưng con đã làm đủ việc thiện nhưng không thay đổi tâm thức, thì con sẽ không bị giết trong tương lai khi nghiệp quả trở lại. Khi nghiệp quả trở lại, nó đi xuống thể bản sắc, thể tư tưởng và thể cảm xúc của con. Nếu con vẫn còn có cùng tâm thức, cùng phàm linh nội tại, đã khiến con giết một người mười kiếp trước đây, thì khi nghiệp quả vào thể bản sắc của con nó được khơi động – nó được phóng đại – bởi phàm linh nội tại trong thể bản sắc của con. Phàm linh nội tại đó có thể nghĩ việc giết người đó trong hoàn cảnh nào đó là điều chính đáng.

Sau đó nghiệp quả xuống thể tư tưởng. Nếu con vẫn còn một phàm linh giải thích là việc con giết người đó chấp nhận được, nó lại được phóng đại và sau đó nó xuống tầng cảm xúc. Nếu con vẫn còn cảm xúc giận dữ mà con chưa giải quyết, nó lại được phóng đại nữa. Sau đó, nó xuống cõi vật lý nơi nó có thể kết đọng xuống thành một biến cố tang thương khiến con có thể bị giết hoặc chuyện gì khác xảy ra cho con. Nếu con đã tháo bỏ những phàm linh trên ba thể cao, không có gì phóng đại xung lực nghiệp quả và do đó nó sẽ không xuống cõi vật lý. Nó giản dị tan rã đi trước khi nó tới cõi vật lý.

Nghiệp quả không phải là trừng phạt. Nó là một cơ hội để học bài học mà con không học lúc ban đầu. Nếu trong khoảng thời gian sau đó con đã học xong bài học, thì con không cần nghiệp quả xuống cõi vật lý là nơi con không thể lờ nó đi. Con không còn cần nghiệp quả và đó là lý do nó có thể tan rã hoàn toàn trong ba thể cao của con hoặc một chân sư thăng thiên có thể quyết định lãnh chịu nó để giúp con tránh một sự việc vật lý có thể trì hoãn tiến bộ của con.

12.11. Kéo theo sau những phàm linh cũ

Thày cần con nhận ra là dù con đang phải đối đầu với một hoàn cảnh rất khó khăn, một hoàn cảnh vật lý khó khăn mà con không thể tránh, con vẫn không bất lực. Có thể là con không ngưng được hoàn cảnh vật lý. Nếu quyền tự quyết của người khác dính líu vào hoàn cảnh, thì con không muốn ngưng nó trải bày. Thay vào đó, điều con cần làm là chú tâm vào việc kiểm soát phản ứng của con đối với hoàn cảnh. Đây là cơ hội cho con thấy nếu còn một số phàm linh nội tại đã được tạo ra trong các hoàn cảnh tương tự trong quá khứ, khiến con phản ứng với hoàn cảnh hôm nay với tầng tâm thức của con khi các phàm linh này được tạo ra. Con có thấy cơ chế này chăng?

Nếu con bị dính líu vào một biến cố tang thương 2000 năm trước, khi con ở, thí dụ, tầng tâm thức 48, con đã tạo ra phàm linh nội tại khi con phản ứng ở tầng 48. Bây giờ con ở một tầng tâm thức cao hơn nhiều. Đâu có lý do nào khiến con muốn phản ứng dựa trên tầng tâm thức 48, khi con có đầy đủ khả năng phản ứng ở tầng tâm thức hiện nay của con? Tuy nhiên, để tránh phản ứng ở tầng tâm thức cũ, con cần làm rã tan phàm linh đã được tạo ra trong quá khứ.

Mọi hoàn cảnh đều là một cơ hội để con nhìn vào phản ứng của mình, thấy phàm linh đã khiến con phản ứng trong quá khứ (khi con ở một tầng tâm thức thấp hơn), làm nó rã tan đi, vươn lên trên nó, và sau đó giải thoát con khỏi phàm linh này. Một lần nữa, thày không đòi hỏi con phải toàn hảo. Thày không đòi hỏi con phản ứng với mọi hoàn cảnh mà con gặp trên đời với tầng tâm thức 144 là tầng tâm Phật không dính mắc. Thày muốn con nhận ra con đang ở một tầng tâm thức nào đó. Con phản ứng ở tầng tâm thức 84 hay 87 là điều hoàn toàn thích nghi. Con không làm gì sai trái khi con phản ứng ở tầng tâm thức hiện nay của con; con không cần chê trách mình nếu con làm vậy. Con không cần cho phép sa nhân đánh lừa con và khiến con nghĩ, vì con là đệ tử chân sư thăng thiên, đáng lý con phải phản ứng với tầng tâm thức cao nhất. Đây không phải là yêu cầu, đây không phải là cách tu tập.

Một lần nữa, con đường tu là con đường tuần tự. Con bước đi từng bước một. Ở mỗi lúc, con ở một tầng tâm thức nào đó, và lẽ tự nhiên con phản ứng lại hoàn cảnh ở tầng đó. Thày có thể bảo đảm với con là, ở tầng tâng thức hiện nay của con, phản ứng trước bất kỳ hoàn cảnh nào sẽ không khắt khe bằng phản ứng với tầng tâm thức 48 hay một tầng tâm thức thấp khác. Do đó, con cần nhận ra là con có thể đang gặp một hoàn cảnh không vui và con e ngại không biết hoàn cảnh sẽ tiến triển ra sao, nhưng nỗi sợ này dựa trên một phàm linh thấp mà con chưa làm rã tan đi. Nếu con làm phàm linh đó rã tan đi, con có thể phản ứng với tầng tâm thức hiện nay của con, và nỗi sợ và sự hung hãn của con sẽ ít cường độ hơn nhiều.

12.12. Vì sao con không bất lực

Con yêu dấu, con có thấy chăng là con không bao giờ bất lực. Bất lực là chuyện không có. Một lần nữa con có thể nói: “Nhưng con không ngăn được sự việc vật lý xảy ra.” Con yêu dấu, đúng là con không ngăn được sự việc vật lý nhưng nó không ảnh hưởng con. Chính phản ứng của con trước hoàn cảnh đã ảnh hưởng con. Nếu con kiểm soát được phản ứng của mình, nếu con làm rã tan đi các phàm linh thấp đã khiến con phản ứng trong những hoàn cảnh tương tự với một tầng tâm thức thấp hơn, thì con có quyền lực trên phản ứng của con trước hoàn cảnh.

Con yêu dấu, một phần của tư duy thần diệu là con cảm thấy có trách nhiệm với chuyện xảy ra. Các tâm lý gia cho rằng trẻ thơ cảm thấy thế giới là một phần nối dài của chúng và của thân thể chúng, và do đó chúng cảm thấy có trách nhiệm với bất cứ chuyện gì xảy ra.

Một thí dụ là nhiều trẻ thơ bị chấn thương tâm thần vì chúng cảm thấy có trách nhiệm khi cha mẹ chúng cãi nhau. Tinh thần trách nhiệm này không thích hợp. Các thày đã nói gì trong khóa học này? Các thày muốn các con chấp nhận càng ngày càng nhiều trách nhiệm về chính mình và về phản ứng của mình, nhưng đồng thời con phải ngưng nhận trách nhiệm về những gì con không có trách nhiệm.

Đâu là yếu tố giải thoát khi con nhìn nhận quyền tự quyết? Con yêu dấu, đó là con nhận ra là con chịu trách nhiệm cách con thực thi quyền tự quyết của mình nhưng con tuyệt đối không chịu trách nhiệm khi những sinh thể khác thực thi quyền tự quyết của họ. Con cần đặc biệt nhận biết là con không chịu trách nhiệm khi sa nhân thực thi quyền tự quyết của họ. Con cần duyệt lại một lần nữa vấn đề của sự ác độc đã khiến nhiều nhà tôn giáo và triết gia bối rối.

Sự ác độc như ta thấy trên trái đất không phải là quy luật, nó là một ngoại lệ hiếm hoi. Có hàng tỷ hành tinh trong vũ trụ của con đang theo một vòng xoắn hướng thượng nơi đó không có chiến tranh hay các hình thức bạo lực, tra tấn và độc ác mà con thấy trên trái đất. Trái đất là một trong số rất, rất ít hành tinh mà tình trạng này được cho phép xảy ra. Con cần giản dị nhìn nhận đây là loại hành tinh nơi con đang hiện thân. Do đó, con cần nhìn nhận là sự kiện sa nhân đã và đang làm đủ loại điều tàn ác không phải là lỗi của Thượng đế, đây là lỗi của họ. Con cũng cần nhìn nhận là sự kiện sa nhân làm điều mà họ làm không phải là lỗi của con.

12.13. Con không đáng bị mọi chuyện đã xảy ra

Các đệ tử tâm linh thường có cảm nhận là – và đây cũng là một khía cạnh vi tế của tư duy thần diệu – nếu điều gì không tốt xảy ra cho họ, thì chắc là họ đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Ý niệm này dựa trên ước mơ là tối hậu có một Thượng đế nhân từ kiểm soát vũ trụ. Con cũng có một câu mà các thày đôi khi đã dùng: “Trong vũ trụ không có bất công.” Con có thể dùng suy luận cao và nói, vì có luật tự quyết và vì luật tự quyết phải được phép trải bày ra, không có bất công trong vũ trụ, vì bất kỳ sa nhân đã làm gì với quyền tự quyết của họ, họ rốt cuộc sẽ phải chịu trách nhiệm về hành động của họ.

Tuy nhiên, nếu con nhìn vào một hành tinh như trái đất, con có thể nói là nếu ta thẩm định những sự việc đã xảy ra trên trái đất, thì chắc chắn là bất công trên trái đất. Nhưng có nhiều đệ tử tâm linh nghĩ như sau: “Ồ, thực tế tối hậu là Thượng đế là đấng nhân từ và Thượng đế kiểm soát mọi chuyện, do đó Thượng đế có một kế hoạch cho vũ trụ, và Thượng đế đã cho phép những chuyện xảy ra trên trái đất. Điều này có nghĩa là Thượng đế đã định ra một luật là điều xấu chỉ có thể xảy ra cho tôi nếu tôi đã làm điều gì đó để đáng bị như vậy. Do đó, chắc chắn phải có vấn đề gì đó với tư tưởng của tôi, với tâm của tôi đã khiến tôi thu hút các hoàn cảnh trong đó tôi bị sa nhân hành hạ.”

Đây là một khía cạnh của tư duy thần diệu khiến con nghĩ là chắc con đã làm điều gì nên con đáng để bị sa nhân hành hạ. Con có thể nói là con đã làm điều gì để đáng bị sa nhân hành hạ, đó là con đã chọn đầu thai trên trái đất và sự hiện diện của con đã bị sa nhân coi là một thách đố. Lẽ dĩ nhiên, đây không phải là vấn đề công lý hay bất công. Đây là chuyện quyền tự quyết trải bày.

Con có thấy chăng, không phải là vì trong con có điểm gì thiếu sót mà sa nhân cảm thấy bị đe dọa bởi ánh sáng tâm linh của con và tìm cách tiêu diệt con. Con không thể cho phép mình cảm thấy có trách nhiệm về chuyện này. Tuy nhiên, khi con ở một tầng tâm thức thấp, con không thể tránh phản ứng lại sa nhân bằng cách tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên ảo tưởng mà con có ở tầng đó. Một lần nữa, con không cần trách mình. Con chỉ cần giản dị nhìn nhận là ở một thời điểm nào đó, con ở trong một tầng tâm thức thấp, con bị sa nhân tấn công và tìm cách tiêu diệt con, và con đã phản ứng dựa trên viễn kiến mà con có lúc đó, dựa trên những ảo tưởng mà con đã lấy vào để xuống tầng tâm thức đó. Do đó, con tạo ra một phàm linh nội tại dựa trên niềm tin là vũ trụ này không bất công và do đó chắc là con đã làm điều gì đó nên Thượng đế đã cho phép sa nhân hành hạ con.

Đây là phản ứng của một phàm linh nội tại – không phải của con. Ở tầng này của con đường tu, con đã sẵn sàng để thấy điều này. Con đã sẵn sàng trải nghiệm cảm giác giải thoát nhất mà con có thể có, đó là con trải nghiệm: “Tôi không chịu trách nhiệm về những điều sa nhân làm đối với tôi, tôi không làm gì sai trái hết, tôi không làm gì để đáng bị sa nhân tấn công. Tôi không cần tìm điểm thiếu sót trong con người tôi để giải thích tại sao chuyện sa nhân hành hạ tôi được phép xảy ra. Không có thiếu sót gì trong con người tôi. Tuy nhiên tôi đã tạo ra một phàm linh nội tại ở tầng tâm thức mà tôi có khi bị sa nhân tấn công. Tôi cần nhìn vào phàm linh này; tôi cần làm nó rã tan đi và sau đó tôi sẽ được tự do.”

12.14. Một bước ngoặt lớn

Con yêu dấu, quả thật đây là một bước ngoặt lớn trên con đường tâm linh khi con nhận ra là con không chịu trách nhiệm về những điều người khác đã làm đối với con. Lẽ dĩ nhiên, ta cần xem xét điều này kỹ càng hơn. Như thày đã nói, trong các kiếp trước con có trình độ tâm thức thấp hơn hiện nay. Ở tầng tâm thức thấp đó, con có thể đã làm điều gì xúc phạm người khác. Do đó, con đã tạo nghiệp và nếu con chưa làm rã tan đi những phàm linh ở ba thể cao, thì nghiệp quả sẽ trở lại con như một sự việc trong đó người khác sẽ xúc phạm con. Trong trường hợp này, con có thể nói: “Đúng rồi! Tôi đã làm điều gì đó nên đáng bị như vậy.” Không phải là con đáng bị như vậy, nhưng là vì con đã không làm rã tan đi phàm linh đã khiến con tạo ra điều gì tương tự cho người khác trong quá khứ.

Một lần nữa, có thể có một khuôn nếp mà con cần xem xét: “Tại sao chuyện này lại xảy ra cho tôi? Phải chăng trong tâm lý tôi cũng có một cơ chế tương tự với cơ chế mà tôi thấy nơi những người xúc phạm tôi? Phải chăng tôi có những phàm linh nội tại cùng một loại với phàm linh nội tại mà những người này có, cho nên những điều mà những người này làm đối với tôi bây giờ cũng là những điều mà tôi đã làm đối với người khác trong quá khứ?” Trong trường hợp này, lẽ dĩ nhiên con cần làm việc với chính mình để làm rã tan phàm linh đi.

Chúng ta đang nói hai chuyện khác nhau. Điều mà thày đang nói bây giờ có thể gọi là chuyện tạo nghiệp hàng ngày trên một trái đất dày đặc như trái đất. Điều thày nói ở phần trên là khi con bị sa nhân cố ý xúc phạm lần đầu, hành động xúc phạm khởi thủy này của sa nhân không phải là nghiệp báo do con tạo ra. Con không làm gì trước đó để đáng bị như vậy. Đó là lý do vì sao bây giờ con có thể nhận ra điều đó. Con nhận ra là sa nhân đã khuynh loát con để con tạo ra một phàm linh nội tại cảm thấy mình có tội khi tương tác với sa nhân. Con cảm thấy có tội ngay cả chỉ vì con có mặt trên trái đất, và mang theo ánh sáng thách đố sa nhân.

Thày có nói là con tạo ra phàm linh phản ứng lại sa nhân, phàm linh khiến con cảm thấy mình bất toàn – mình có điều gì sai trái. Đây là một sắc thái khác của điều trên, khiến con cảm thấy tội lỗi. Con cảm thấy tội lỗi đã là chính mình, con cảm thấy đáng lý con không được ở đây, con không được thách thức sa nhân. Con cũng có thể cảm thấy tội lỗi vì đã biểu lộ quả vị Ki-tô trong một kiếp trước vì đó không phải là tầng tối hậu của quả vị Ki-tô.

Khi con thấy ra những điều này, khi con tới điểm tách mình ra khỏi chúng, thì đây có thể là một bước ngoặt trọng đại trên con đường tu của con. Lúc đó, bỗng nhiên tất cả cảm giác tội lỗi vì mình ở trên trái đất tan biến đi. Làm sao con có thể an bình với chính mình khi con cảm thấy tội lỗi là chính mình, ít ra là chính mình trong môi trường trái đất? Làm sao con có thể an bình với việc ở trên trái đất nếu con cảm thấy tội lỗi chỉ vì đã hiện diện ở đây? Con có thể cảm thấy tội lỗi khi con đã làm một số chuyện, nhưng đằng sau cảm giác tội lỗi này là cảm giác tội lỗi chỉ vì con hiện diện ở đây.

Con yêu dấu, khi con thấy những điều này, khi con thấy đây là một phàm linh nội tại, khi con nói: “Hãy đứng phía sau ta, Satan”, khi con có cảm giác giải thoát khi con thấy ảo tưởng và thấy con thoát ra khỏi nó, thì con thực sự cảm nhận một mức độ tự do mới. Thày rất vui mừng khi thấy đệ tử tới điểm này trên cõi bản sắc, nhưng thày lại càng vui mừng hơn nữa khi thấy đệ tử tới điểm này ở tầng vật lý. Thày thật sự hy vọng con sẽ có trải nghiệm đó khi con làm việc với bài giảng này.

Ảo tưởng cầu toàn, 8 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 22/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày muốn bắt đầu bài giảng thứ tư này bằng điều mà trong bài trước thày có gọi là cơ chế bù đắp. Trong bài trước, thày có nói là con có cảm tưởng là trong quá khứ con đã làm điều gì sai trái và bây giờ con tìm cách bù đắp lại. Lẽ dĩ nhiên thày có nói là con cần biết một cách ý thức cơ chế này có mặt, nhìn vào nó, tách mình ra khỏi nó và buông bỏ nó. Con ngừng không đặt con đường tu trên căn bản mong muốn bù đắp có tính chất ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive) này. Thày muốn tiến thêm một bước nữa và xem xét quan niệm là mình đã làm điều gì sai trái. Làm điều sai trái thật sự nghĩa là gì?

Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý qua sứ giả này trong nhiều năm qua về trạng thái tâm nhị nguyên, về tư duy cuồng đại. Thày đã trao truyền nhiều giáo lý về sa nhân và những cách họ đã dùng để khuynh loát mọi khía cạnh đời sống trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, một trong những cách tinh tế mà sa nhân dùng để khuynh loát sự sống và con người là quy định tiêu chuẩn đúng và sai. Khía cạnh tinh tế nhất là trong nhiều nền văn hóa, sa nhân đã làm cho đa số con người tin rằng không phải là sa nhân, mà là Thượng đế đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Có một đấng cao cả bên ngoài cõi vật chất đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Có một Thượng đế giận dữ trên trời đang quan sát tất cả mọi hành động của con và phán xét con dựa trên tiêu chuẩn đúng sai đó. Nếu con làm điều gì sai trái, con sẽ bị Thượng đế đó trừng phạt, có thể là bằng cách bị đốt cháy vĩnh viễn trong địa ngục.

Như một đệ tử chân sư thăng thiên, con có thể thấy là trong đa số các nền văn hóa (bất cứ nơi nào mà con có thể khôn lớn lên trên hành tinh này) trong tâm thức tập thể có cơ chế đó do sa nhân tạo ra. Con người thực sự tin rằng Thượng đế đã quy định tiêu chuẩn đúng sai. Con hầu như không thể lớn lên trên trái đất này mà không bị niềm tin đó ảnh hưởng. Một lần nữa, đây không phải là một lý do để cảm thấy hổ thẹn nhưng đã đến lúc con nhận ra một cách ý thức là nó đã ảnh hưởng con. Con có thể rất mau chóng nhận ra là nếu trong quá khứ con có cảm tưởng mình đã làm điều gì sai trái nhưng cảm giác này dựa trên tiêu chuẩn do sa nhân quy định, thì có thể là con đã không làm gì sai trái hết. Do đó, sẽ chẳng lợi ích gì nếu con tiếp tục khuôn đúc tìm cách bù đắp cho việc làm sai trái – nếu sự thực là con chẳng làm gì sai trái cả.

Con có thể thấy là tất cả các con đã có tinh thần trách nhiệm. Con có ý tưởng rằng: “Tôi đã tạo nghiệp trong quá khứ và nay tôi cần cân bằng nghiệp quả đó.” Con có thể nhìn việc cân bằng nghiệp quả như một nỗ lực bù đắp. Con bù đắp lại một điều gì con đã làm trong quá khứ. Như thày có nói trong bài giảng trước, con cần cân bằng nghiệp quả nhưng có sự khác biệt giữa cân bằng nghiệp qua trong trạng thái tâm trung hòa và cân bằng nghiệp với ham muốn bù đắp có tính chất ám ảnh-cưỡng bức (obsessive-compulsive). Thày tin rằng là con đã bắt đầu thấy sự khác biệt này sau khi con lĩnh hội bài giảng trước của thày.

10.1. Xem xét cách tu của con

Lẽ tự nhiên, ở đây chúng ta cần vô tư và tinh ý. Ta cần giản dị quan sát là con đã tạo nghiệp trong quá khứ, con cần cân bằng nghiệp quả đó và con cần làm những gì cần thiết để cân bằng nghiệp quả – tỷ dụ bằng một số hành động hay bằng cách đọc bài chú bài thỉnh. Trước tiên, điều quan trọng trong việc cân bằng nghiệp là nâng cao tâm thức, buông bỏ các phàm linh nội tại đã khiến con có hành động đã tạo ra nghiệp. Bây giờ con cần tiến thêm một bước nữa và nhận ra là nếu con hành động trong khuôn nếp bù đắp, con sẽ có cảm giác là ngưng hành động đó là một điều sai trái. Thày cần con thành thực nhìn vào chính mình và tự hỏi: “Tôi đã làm gì trong những năm vừa qua? Tôi có đã đọc bài chú bài thỉnh không?” Sau đó con cần suy ngẫm: “Tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu ngày hôm nay tôi ngưng không đọc chú đọc thỉnh nữa?” Nếu con cảm thấy có phản ứng trong tâm, có thể là cảm giác sợ sệt là sẽ có điều không lành xảy ra hay con làm vậy là sai quấy, thì đây là một khuôn nếp bù đắp, đây là chỉ dấu ám ảnh-cưỡng bức.

Thày không nói con nên ngưng đọc chú đọc thỉnh. Thày muốn con giám sát phản ứng của con trước việc đó. Con có thể nhận ra là nếu con bị ý muốn ám ảnh-cưỡng bức thúc đẩy con phải bù đắp những sai lầm con đã phạm trong quá khứ , thì con không hoàn toàn làm chủ phản ứng của mình. Như thày có nói trong bài giảng trước, con đã phản ứng với sa nhân thay vì với các chân sư thăng thiên. Các thày muốn con cân bằng nghiệp và khi con làm xong, con tiến lên làm gì khác thay vì tiếp tục làm cùng chuyện cũ.

Con đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, con hiểu hơn về con đường tâm linh và nghiệp quả, con học cách cân bằng nghiệp quả bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tím, tỷ dụ, và con quyết định với tâm vỏ ngoài là con sẽ đọc bài thỉnh ánh sáng tím một tiếng mỗi ngày. Con nghĩ đây là điều con cần làm cho tới cuối đời để bảo đảm là nghiệp quả được cân bằng. Như thày có nói trong bài giảng trước, con sẽ tới điểm con bắt kịp tầng tâm thức hiện nay của con, con đã cân bằng nghiệp quả cho tới tầng đó, và nay con không cần làm tiếp đúng y như những gì con quyết định nhiều năm trước đây.

Bây giờ con cần hòa điệu với thử thách con phải đối mặt ở tầng tâm thức hiện nay của con và làm sao con tiến lên tiếp từ chỗ này? Thày muốn con đi sâu hơn vào sự hòa điệu với vị trí hiện nay của con trên con đường tu. Sau đó con cần xem xét: “Có phải chăng là tôi đã lấy quyết định hai, năm, mười, ba mươi năm trước đây là tôi sẽ thực tập như thế nào đó mỗi ngày cho đến cuối đời?” Nếu con đã làm vậy, thì tiếp tục hành động theo quyết định này có lợi ích chăng? Có lợi ích hơn chăng nếu con hòa điệu với tầng tâm thức hiện nay của con và với điều con cần làm để vươn lên tầng kế tiếp?

Con có thấy chăng sự trớ trêu là nếu sa nhân trong quá khứ đã khiến con tin rằng con đã làm điều gì sai quấy và điều này tạo nên khuôn nếp bù đắp, nhưng nếu thực sự con đã không làm điều gì sai trái cả, thì việc cố gắng bù đắp một điều không sai trái là chuyện hoàn toàn vô nghĩa. Con có thấy chăng là con đang tìm cách cân bằng một nghiệp quả nhưng nghiệp quả đó không có.

10.2. Có nhiều tầng của quả vị Ki-tô

Bây giờ thày cần con đứng lui lại và nhìn vào quan niệm đúng và sai của con. Thầy cần con sẵn sàng mở tâm đón nhận một cái nhìn mới về vấn đề này. Điều này hoàn toàn không có nghĩa là điều con làm trước đây là sai trái. Chỉ giản dị có nghĩa là con nay đã đến gần tầng thứ 90 trên con đường tâm linh. Con đang tới gần các khai ngộ của Tia thứ Bảy dưới thày Saint Germain và do đó con đã sẵn sàng để xem xét chuyện này.

Con yêu dấu, chúng ta hãy bắt đầu bằng xem xét khái niệm quả vị Ki-tô. Các thày đã trao truyền nhiều giáo lý về quả vị Ki-tô và các thày đã trao truyền tùy theo trình độ tâm thức. Như các thày có nói, điều tự nhiên là khi con nghe về khái niệm quả vị Ki-tô lần đầu, con nhìn nó với tầng tâm thức lúc đó của con. Thực ra, có nhiều tầng của quả vị Ki-tô và do đó con phải nhận ra là con không thể lấy khái niệm đầu tiên của con về quả vị Ki-tô và đem nó theo với con khi con nâng cao tâm thức.

Tại sao lạ như vậy? Nếu con lấy khái niệm phổ thông nhất về quả vị Ki-tô trên trái đất, thì đó là khái niệm do các giáo hội Công giáo chính thức cổ xúy. Theo cái nhìn này, Giê-su là người duy nhất đạt được quả vị Ki-tô, và quả vị Ki-tô được trình bày như một trạng thái toàn hảo. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên có phần nào quan niệm quả vị Ki-tô có nghĩa là – bỗng nhiên – con đạt một tầng tâm thức, và từ lúc đó con có viễn quan sáng rõ về mọi chuyện, và mọi chuyện con làm đều đúng. Tỷ dụ, họ nghĩ rằng Giê-su đã một ngày nào đó đạt được quả vị Ki-tô, hay cũng có thể thày đã có sẵn từ khi sinh ra, và do đó thày không bao giờ làm điều gì sai trái.

Thực tế tinh tế hơn và có thể hiểu bằng cách kết nối với điều thày nói trong bài giảng trước. Thày nói: “Quả vị Ki-tô là thách thức hiện trạng.” Hiện trạng dựa trên cái gì? Nó dựa trên một ảo tưởng. Con nay có thể thấy là ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức trên trái đất, có một ảo tưởng dính liền với tầng tâm thức đó. Chính ảo tưởng quy định tầng tâm thức đó. Do đó ảo tưởng cũng quy định điều mà những người vẫn còn mù quáng bởi tầng tâm thức đó coi là hiện trạng.

Ở mỗi tầng của 144 tầng, có một ý niệm hiện trạng dựa trên một ảo tưởng nào đó. Quả vị Ki-tô là gì? Quả vị Ki-tô là thách thức ảo tưởng ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Con nay thấy là có 144 tầng của quả vị Ki-tô. Con yêu dấu, nếu con thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức thấp nhất trên trái đất, là nơi con người chỉ nghĩ đến mình, vị kỷ, chỉ muốn vơ về cái ngã, thì dĩ nhiên quả vị Ki-tô rất khác so với việc thách thức ở một tầng tâm thức cao hơn.

Do đó con bây giờ thấy có nhiều biểu hiện khác nhau của quả vị Ki-tô. Nếu con áp dụng tiêu chuẩn sa ngã, thì nhiều hành xử của quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp sẽ bị xem là sai trái. Điều thày muốn con nhận ra là việc con chấp nhận trách nhiệm về hành động quá khứ của mình là điều tốt. Nhưng chứng loạn thần ám ảnh-cưỡng bức khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều con không làm. Nó khiến con chấp nhận trách nhiệm về điều không phải là trách nhiệm của con. Thày có nói quả vị Ki-tô không phải là một cuộc thi xem ai được ưa chuộng nhất vì sa nhân sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ biểu hiện nào của quả vị Ki-tô. Bây giờ con hãy cùng thày nhìn quá khứ của con một cách khác.

10.3. Quả vị Ki-tô không có nghĩa là con phải toàn hảo

Trong quá khứ, con ở một tầng tâm thức thấp hơn. Việc con ở trên hay dưới tầng 48 không quan trọng. Làm sao con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn? Con đã vươn lên vì con thấy được ảo tưởng ở tầng tâm thức đó. Khi con nhìn thấu suốt ảo tưởng đó, thì điều đó trở nên một thách thức, không chỉ đối với sa nhân mà còn đối với những người chung quanh con vẫn còn bị kẹt trong ảo tưởng đó. Con có nhận ra chăng là trong quá khứ, con đã có một số kiếp sống trong đó con nhìn thấu một ảo tưởng. Ảo tưởng đó có thể là một ảo tưởng ở các tầng tâm thức thấp, và con công khai và thẳng thắn thách thức những người vẫn nắm giữ ảo tưởng đó.

Có thể là lúc đó con đã thách thức một số sa nhân đang lãnh đạo xã hội và kềm giữ xã hội trong tầng ảo tưởng đó, thí dụ như gây chiến với một nước khác hay một nhóm người khác. Do đó, con có thể đã thách thức ảo tưởng đó, hiện trạng đó, và sa nhân đã làm đủ mọi cách để con cảm thấy là con đã làm một điều sai quấy.

Con yêu dấu, không phải là sa nhân chỉ tìm cách khiến con cảm thấy con đã làm gì sai trái một cách chung chung. Điều sa nhân thường làm là họ nhìn vào hành động, lời nói của con và họ tìm một khía cạnh không vẹn toàn. Con hãy suy ngẫm kỹ lưỡng điều thày đang nói. Con thách đố một hiện trạng, con thách đố một ảo tưởng. Ảo tưởng này có thể ở một tầng tâm thức rất thấp, thấp hơn tầng 48 nhiều. Không có nghĩa là con ở tầng tâm thức đó, nhưng con thấy được ảo tưởng trong xã hội và con thách thức nó.

Ảo tưởng đó là một ảo tưởng thấp. Thách thức một ảo tưởng, thí dụ ở tầng tâm thức thứ 25, có nghĩa gì? Không có nghĩa là khi con thách thức ảo tưởng ở tầng thấp đó, con biểu lộ chân lý cao nhất. Nếu ta giả dụ có một chân lý cao nhất, thì không ai ở tầng tâm thức 25 có thể hiểu chân lý cao nhất đó. Khi con thách thức ảo tưởng ở tầng tầm thức 25, thì hành động thách thức của con không “toàn hảo”, giả dụ là có một hành động toàn hảo. Chính sa nhân đã tạo ra khái niệm là đúng lý phải có cái gì đó toàn hảo.

Con có thấy điều thày muốn nói không? Con thách đố ảo tưởng ở tầng tâm thức 25, con làm điều này bằng cách đưa ra một chân lý cao hơn tầng 25 một chút, nhưng chắc chắn không phải là chân lý cao nhất trên trái đất. Lúc đó, sa nhân nhìn hành động và lời nói của con, và họ tìm cách moi ra một khía cạnh nhỏ mà họ cho là không toàn hảo dựa theo tiêu chuẩn của họ. Con yêu dấu, con phản ứng lại như thế nào? Con không phản ứng với tầng tâm thức hiện nay của con, con phản ứng với tầng tâm thức của con ở thời điểm đó. Giả sử lúc đó con ở tầng tâm thức 48, và con thách thức ảo tưởng của tầng tâm thức 25. Con bị sa nhân tố cáo là con không toàn hảo, và lẽ tự nhiên là con phản ứng lại lời tố cáo đó dựa trên tầng tâm thức 48.

Ở tầng tâm thức đó, con quả thực nghĩ là con phải toàn hảo, con vẫn còn bị dính mắc trong khái niệm cầu toàn do sa nhân áp đặt lên con người. Con nghe lời tố cáo của sa nhân và quyết định; “Tôi đã sai trái. Tôi không toàn hảo.” Đây là một trong những lý do quỷ quyệt nhất, vi tế nhất, nhưng cũng thông thường nhất khiến đệ tử chân sư thăng thiên không dám biểu hiện quả vị Ki-tô của họ. Con nghĩ rằng con phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Con nghĩ rằng có một chuẩn mực toàn hảo có phần nào giá trị. Con không nghĩ là sa nhân đã đặt tiêu chuẩn đó lên con vì con chưa nhận ra điều này. Con nghĩ rằng chính Thượng đế hay các chân sư thăng thiên đã quy định tiêu chuẩn. Con nghĩ con đã sai trái dựa theo tiêu chuẩn trong quá khứ này khi con cố gắng biểu hiện quả vị Ki-tô của mình. Do đó, con quyết định con sẽ không biểu hiện quả vị Ki-tô nữa cho tới khi con chắc chắn là con toàn hảo.

10.4. Dám bất toàn

Con thấy chăng, điều này khiến sa nhân cười khoái trá vì đã thắng lợi. Con bây giờ ở tầng tâm thức khiến con có thể nhìn lại và nói: “Tôi sẽ là người cười sau cùng. Sa nhân sẽ không là người cười sau cùng. Họ có thể đã thắng lợi trong nhiều kiếp sống nhưng họ sẽ không thắng nữa vì tôi sẽ vươn lên khỏi quan niệm này. Tôi sẽ nhận ra là quả vị Ki-tô cần và phải được biểu hiện ở mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Và ở các tầng thấp, không thể nào nói hành động biểu hiện quả vị Ki-tô là “toàn hảo”, là hình thức chân lý cao nhất.”

“Lẽ tự nhiên, biểu hiện quả vị Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng 25 sẽ là một biểu hiện thấp hơn là điều tôi có thể biểu hiện ở một tầng cao hơn. Đây là chuyện tự nhiên, do đó tôi sẽ không chê trách mình vì trong quá khứ đã có một biểu hiện quả vị Ki-tô không phải là biểu hiện cao nhất có thể có trên trái đất. Tôi chấp nhận là tôi đã biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của tôi lúc đó. Tôi đã biểu hiện quả vị Ki-tô để thách thức một tầng tâm thức đặc thù và do đó sự biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi là tốt đủ, là hoàn toàn chấp nhận được và sự biểu hiện này làm đúng chức năng của nó là thách đố một ảo tưởng đặc thù thuộc tầng tâm thức đặc thù đó. Tôi không cần phải toàn hảo mới có thể biểu hiện quả vị Ki-tô bây giờ, tôi chỉ cần nhận ra tầng tâm thức hiện nay của tôi, và tôi sẽ dám biểu lộ quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức này dựa trên viễn kiến mà tôi có ở tầng tâm thức này.”

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều thày Hilarion nói. Ở mỗi tầng tâm thức khi con xuống từ tầng 144 đến tầng 48, con lấy vào một ảo tưởng. Nếu hiện nay con đang ở tầng tâm thức 56, 85 hay 93, con vẫn còn nhiều ảo tưởng trong bốn thể phàm của con. Không có gì sai trái với việc này cả, đâu cách nào khác để đi trên con đường tâm linh. Làm sao con có thể hiện thân trong cõi vật chất mà không lấy vào những ảo tưởng đó? Khi con tính chuyện biểu lộ quả vị Ki-tô của mình ở tầng tâm thức hiện nay, con không thể và con không phải chờ đợi mình toàn hảo. Lẽ dĩ nhiên, sự biểu hiện quả vị Ki-tô của con sẽ bị pha màu bởi những ảo tưởng mà con chưa bỏ được, những ảo tưởng cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Con yêu dấu, tình trạng này không thể nào tránh được.

Khi Giê-su bắt đầu lần đầu thai của thày, khi thày bắt đầu sứ vụ công chúng, thày không ở tầng tâm thức 144. Do đó, thày đã phản ứng như đã được ghi lại khi thày đuổi những người đổi tiền ra khỏi giáo đường. Hành động này không phải là cách biểu hiện quả vị Ki-tô cao nhất, nhưng nó thích hợp với quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức của Giê-su lúc đó. Con yêu dấu, con có hiểu chăng điều thày giảng ở đây?

Rất nhiều người trong các con cảm thấy rằng, nếu con là Ki-tô đang hành động, con không bao giờ được nổi giận. Con yêu dấu, ở một số tầng tâm thức, khi con đang đối phó với một ảo tưởng rất thấp, con khó tránh đối phó với hoàn cảnh này mà không cảm thấy tức giận hay ít nhất có cảm xúc cường độ. Thày biết là các thày đã trình bày cho con một số lý tưởng, tỷ dụ như quả vị Phật khi con hoàn toàn không dính mắc. Như thày đã nói trong bài giảng trước, con chỉ đạt toàn vẹn quả vị Phật ở tầng 144.

10.5. Khắc phục sự cầu toàn

Con có thấy chăng là sa nhân tìm cách tạo ra một hố sâu, một khoảng cách mà con không bao giờ bước qua được, giữa trạng thái tâm thức hiện nay của con và quả vị Ki-tô? Con có cảm tưởng như là giữa con và quả vị Ki-tô có một khoảng cách, một hố sâu lớn đến độ con không thể bước qua. Hoặc có thể con chỉ có thể thực hiện điều này ngay trước khi con thăng thiên. Trên thực tế, khoảng cách nhỏ hơn nhiều. Nó không phải là khoảng cách giữa tầng tâm thức 48 và tầng 144, lẽ dĩ nhiên khoảng cách này con không thể vượt qua bằng một cú nhảy vọt. Nó là khoảng cách giữa tầng tâm thức hiện nay của con và tầng kế tiếp. Khoảng cách này, con có thể bước qua bất cứ lúc nào bằng cách chuyển vọt tâm thức của mình.

Ở tầng tâm thức hiện nay của con, thày không muốn con là Ki-tô giống như Giê-su là Ki-tô trước khi bị đóng đinh. Thày muốn con dám là Ki-tô thách thức ảo tưởng ở tầng tâm thức hiện nay của con dù rằng con không toàn hảo khi làm vậy. Thật sự là thày muốn con chuyển vọt tâm mình và vứt đi phàm linh nội tại, cái ngã tách biệt cầu toàn, để con nói: “Nhưng tôi đang thật sự toàn hảo khi biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng tâm thức hiện nay của tôi.” Đây chính thực là toàn hảo, nếu con muốn dùng từ này. Toàn hảo là đạt một bước cao hơn tầng tâm thức hiện nay của con. Toàn hảo không phải là một tầng tối hậu nào đó không hiện hữu, ngoại trừ trong tâm của sa nhân.

Một trong những thử thách mà con đối mặt ở tầng này là vượt qua ý niệm cầu toàn, ý niệm con phải toàn hảo trong mọi chuyện con làm. Nhiều đệ tử thăng thiên đã dùng giáo lý của các thày để xây dựng một ý niệm cầu kỳ về quần áo họ mặc, cách họ hành xử, cách họ nói chuyện, thực phẩm họ ăn và tránh ăn, cách họ thực hành tâm linh, cách họ phải nghĩ và cảm nhận – và không bao giờ được giận dữ và không được biểu lộ tình cảm, vân vân và vân vân. Làm như vậy là dùng tâm vỏ ngoài để tạo ra cái áo khóa tay, rồi con ép mình mặc nó vào, và nay con chỉ làm được một số chuyện. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm điều này trong mấy thập niên vừa qua và đã dùng giáo lý của các thày để biện minh cho điều này.

Thày muốn con nhận ra rằng các chân sư thăng thiên không phải là người muốn con làm điều này. Các thày không thúc đẩy con làm điều này. Chính một phàm linh nội tại khiến con làm điều này. Thày muốn con tách mình ra khỏi phàm linh này một cách ý thức để nhận ra nó, nhận ra là nó dựa trên một mục tiêu hoàn toàn không khả thi do sa nhân định ra. Không có trạng thái toàn hảo có thể đạt được trên trái đất hay do các chân sư thăng thiên đòi hỏi.

10.6. Các chân sư chấp nhận con như con là

Con yếu dấu, như các Thượng sư khác đã nói trước thày, thày chấp nhận con hoàn toàn và tuyệt đối như con là ngay bây giờ. Thày không có tiêu chuẩn ở trong tâm thày hay ở khóa nhập thất của thày đòi hỏi con phải ở tầng 144 trước khi thày dạy con. Vai trò của thày là làm việc với con ở tầng tâm thức hiện nay của con và giúp con bước một bước để lên tầng tâm thức kế tiếp – và tiếp tục bước đủ bảy bước trước khi thày hoàn thành nhiệm vụ của thày và chuyển con qua để thày Saint Germain dẫn con cao hơn nữa. Thày không phê phán con là không toàn hảo ở tầng tâm thức hiện nay của con. Thày chấp nhận con hoàn toàn như con là ở tầng hiện nay và thày chỉ chú tâm giúp con thấy ảo tưởng đó và đi lên bước kế tiếp.

Con yêu dấu, thày đã nói là con cần cảm thấy an bình với chính mình và với việc con đang ở trên trái đất. Làm sao con có thể an bình với chính mình nếu con đánh giá mình dựa trên một tiêu chuẩn toàn hảo mà con không bao giờ đạt được? Nếu con luôn luôn đánh giá mình là bất toàn, thì làm sao con có thể bình an với chính mình được? Nếu con đã luôn luôn phê phán là con đã làm điều gì sai trái trên trái đất và con chỉ có thể làm điều sai trái trên trái đất, thì làm sao con có thể cảm thấy bình an ở trên trái đất này? Làm sao con bình an được trên con đường tâm linh nếu con nghĩ rằng biểu hiện quả vị Ki-tô đòi hỏi con phải toàn hảo?

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là sâu trong tâm con, con có động lực thúc đẩy con đi trên con đường tâm linh. Nó chính là nguyên do khiến con tìm ra khóa học này và theo học cho tới tầng này. Con có một động lực thúc đẩy con đi về một hướng nào đó. Sau đó, con có một số cơ chế trong các thể bản sắc, tư tưởng và tình cảm chống kháng động lực này và điều này làm con cảm thấy bất an với chính mình.

Trong khóa học này, chúng ta đã làm gì? Thày đang làm gì trong phần này của khóa học? Thày đang tìm cách dẫn con qua các sáng ngộ giúp con giải quyết tất cả các cơ chế đi ngược lại động lực tự nhiên của con để con tự do nhận ra động lực này. Con biểu hiện động lực nội tại này, là động lực từ Hiện diện TA LÀ của con, là động lực muốn hơn nữa, muốn thăng vượt chính mình, muốn là cánh cửa mở để Hiện diện TA LÀ biểu lộ trong thế giới này.

Con có thể nói đây là việc tảy rửa bốn thể phàm của con. Các thày lần lượt cho con thấy các cơ chế này và chỉ cho con những điều đang ngăn cản không cho con thăng vượt lên tầng kế tiếp. Thày biết là với tâm đường thẳng con sẽ rất mau chóng đứng lui lại nhìn toàn bộ khóa học này và nói: “Nhưng con bắt đầu ở tầng 48, và Chân sư MORE nói là con có vấn đề này, khuynh hướng kia, vướng mắc nọ, và con cần khắc phục điều này và vượt qua điều kia. Bây giờ con tới tầng thứ 6 của khóa học, và thày Nada vẫn còn nói con những điều con cần khắc phục – tới bao giờ thì mới thôi?” Con yêu dấu, tiến trình này sẽ xong ở tầng 144 khi con vượt qua ảo tưởng cuối cùng mà con đã mang vào khi con hiện thân trên trái đất – và điều này có gì sai trái đâu? Điều này đâu có gì không tốt đâu?

10.7. Hãy chấp nhận mình ở tầng này của đường tu

Con thấy chăng là một phần của tinh thần cầu toàn là ý niệm con đã làm gì sai quấy khi hiện thân trên trái đất này. Chuyện gì đó đáng lý không được xảy ra và do đó con không bao giờ bình an được cho tới khi con vượt qua cảm giác đó. Điều thày tìm cách nói con ở đây là con không làm gì sai trái khi hiện thân ở đây. Con chỉ làm điều con phải làm khi hiện thân trong một hành tinh như trái đất: mang vào những ảo tưởng khi đi xuống tới tầng 48. Bây giờ, con đang ở trong tiến trình vươn lên khỏi các ảo tưởng này, từng cái một – và con chỉ có thể vượt qua chúng từng ảo tưởng một. Không phải vì con vẫn còn nhiều ảo tưởng cần vượt qua mà con bất toàn.

Không, con yêu dấu, con không bất toàn! Con chỉ giản dị đang ở một tầng nào đó trên đường tu. Không có gì sai trái với điều này. Con hãy ngừng đuổi theo cái cầu vồng của toàn hảo – không có hũ vàng nào ở dưới chân cầu vồng cả. Sa nhân không có gì mà con ước muốn, họ không thể cống hiến gì cho con. Con hãy chấp nhận chính mình, ở tầng hiện nay của con trên con đường tâm linh. Con hãy chấp nhận là con có thể biểu hiện quả vị Ki-tô ở một tầng nào đó và con hãy dám biểu hiện nó. Con đang ở tầng tâm thức cao hơn nhiều so với hầu hết mọi nguời trên trái đất. Con có thể biểu hiện một tầng tâm thức cao hơn nhiều, nhưng hiện nay con cũng đã có khả năng biểu hiện một điều gì giúp nhiều người vươn lên cao hơn. Con hãy chấp nhận như vậy là đủ tốt rồi.

Chính Giê-su có nói là con có thể nhìn vào mỗi ngày và xem cái ác của ngày đó là đủ. Con có thể lấy câu nói và tiến thêm một bước nữa và nói: Hãy xem cái tốt của ngày đó là đủ. Nói cách khác, con nhìn vào tầng tâm thức con đang ở hiện nay và chú tâm vào đó. Con đừng băn khoăn tới các tầng cao hơn, con không trăn trở phải tuân theo một tiêu chuẩn toàn hảo nào đó. Con hãy chú tâm vào tầng tâm thức của con, con bình an ở chỗ con đang ở và biểu hiện quả vị Ki-tô ở tầng này.

Con yêu dấu, thày biết tâm đường thẳng của con muốn nói: “Nhưng có 144 tầng tâm thức. Ta cần vượt qua mọi ảo tưởng, ta cần khắc phục mọi dính mắc, sau đó ta đạt quả vị Ki-tô, ta đạt quả vị Phật, và khi ta chưa tới đó thì ta chưa tới nơi ta phải tới.” Con yêu dấu, con đang ở đúng ngay chỗ con phải ở ngay bây giờ, nếu con sẵn sàng xem xét ảo tưởng mà con đang phải đối phó ngay bây giờ, thăng vượt ảo tưởng đó và sau đó biểu hiện quả vị Ki-tô bằng cách thách thức ảo tưởng đó. Nếu con làm vậy thì con ở đúng ngay chỗ con phải ở.

10.8. Trút lớp da rắn của tinh thần cầu toàn

Con không thể và không đang ở tầng tâm thức 144 vì con không chọn con đường đó. Con đã chọn lựa chứng minh cách vươn lên những tầng tâm thức càng ngày càng cao hơn. Con không ở đây để chứng minh cách nhảy từ tầng 48 lên tầng 144. Không ai có thể xem đó là một gương mẫu. Đó là điều sa nhân đã cố làm với cuộc đời Giê-su: họ đã khiến con người tin rằng Giê-su đã không phát triển khả năng bằng cách đi trên con đường tu nhưng đã đựơc sinh ra ở tầng tâm thức cao, và do đó không ai có thể nhìn thày như một tấm gương mà họ có thể noi theo. Con hãy nhìn tất cả những tín đồ Cơ đốc giáo không chịu coi Giê-su là một tấm gương. Đó là lý do vì sao con cần là tấm gương để mọi người có thể thấy là có những người giống như họ, đã bắt đầu giống như họ nhưng đã vươn cao hơn. Do đó, mọi người có thể tin rằng nếu một người đã làm được thì tất cả có thể làm được.

Con yêu dấu, tinh thần cầu toàn thực sự là một trong những âm mưu quỷ quyệt nhất của sa nhân. Không dễ vượt qua nó, nhưng ở tầng tâm thức hiện nay của con, vượt qua nó không khó. Lẽ dĩ nhiên, có người mang bệnh cầu toàn ở tầng tâm thức 48 vì ở tầng đó rất khó chế ngự tinh thần cầu toàn. Ở tầng tâm thức hiện nay của con, con chỉ cần bước thêm một bước nữa, một bước nhỏ, có thể làm được, để vượt qua nó, để thấy phàm linh, thấy nó như nó là, thấy nó là một yếu tố ngoại lai trong bốn thể phàm của con, nhìn nó và nói: “Bước ra đằng sau ta, Satan, ngươi không phải là một phần của ta nữa.”

Con yêu dấu, thày rất vui mừng khi thày thấy học viên thấu hiểu điều này trong thể bản sắc của họ. Thày lại càng vui mừng hơn khi thày có học viên đã cho phép nhận thức này thấm xuống tầng ý thức của họ. Con thấy phàm linh, con thấy tinh thần cầu toàn và con không phản ứng đổ lỗi cho mình vì đã bị nó ảnh hưởng. Con bước ra khỏi cỗ máy chạy và giản dị nói: “Ồ, đây nhé, đây chỉ là thêm một phàm linh khác phải ra đi. Bao nhiêu phàm linh khác đã ra đi rồi, thêm một con nữa có là gì đâu?”

Thày biết phàm linh này tự coi mình là phàm linh tối hậu vì con cần phải toàn hảo mới được Thượng đế chấp nhận, nhưng điều này không đúng, con yêu dấu. Thượng đế chấp nhận con như con là ngay lúc này. Thực ra, con có thể nói là đối với Thượng đế, chấp nhận được hay không chấp nhận được là những khái niệm vô nghĩa. Con là môt biểu hiện của Thượng đế. Làm sao Thượng đế lại có thể không chấp nhận con?

Con yêu dấu, con hãy suy ngẫm điều này với tâm ý thức của con. Con hãy xem lại bài giảng này nhiều lần. Nếu con cảm thấy con cần nhiều hơn chín ngày để khắc phục tinh thần cầu toàn, thì con hãy lấy thêm thì giờ. Con yêu dấu, khóa học này không phải là một cuộc chạy đua. Không có cuộc thi đua xem ai hoàn thành khóa học này trong thời gian ngắn nhất.

Như thày có nói, con có thể hoàn tất khóa học một cách nhanh chóng với tâm vỏ ngoài, nhưng điều này không có nghĩa là con đã đạt các khai ngộ vì con đã không thể nhập chúng và do đó chưa vươn lên tầng tâm thức cao hơn. Con hãy dành thời gian cần thiết. Tinh thần cầu toàn đã đánh bẫy biết bao nhiêu đệ tử tâm linh trong mấy ngàn năm qua và trì hoãn sự tiến bộ của họ, có khi trong nhiều kiếp sống. Thày không muốn thấy con là một trong những người đó. Thày muốn thấy con đạt được khai ngộ này, trút bỏ lớp da rắn của tinh thần cầu toàn, bỏ nó lại đằng sau và tiến tới một ngày mới trong đó con vui thú với gì mình là, biết rằng ngày mai con sẽ hơn nữa.

Làm sao ngưng đổ lỗi cho mình, 13 đoạn

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 16/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Ở tầng thứ ba này của khóa nhập thất, thày muốn bắt đầu bằng cách nhắc lại một điểm mà thày đã nêu ra trong bài giảng trước. Trong bài đó, thày chỉ cho con thấy là trong tâm thức con có một cơ chế khiến con cảm thấy con không thể là gì con muốn vì có một số điều kiện trong thế giới, và đặc biệt là ở đây trên trái đất, không đúng như chúng phải là. Con không thể an bình, con không thể là chính mình, con không thể hoàn toàn biểu lộ chính mình trên trái đất.

Con yêu dấu, cái gì đằng sau điều kiện tâm lý này? Vì sao con lại chấp nhận là vì có một số điều kiện trên trái đất, con không thể biểu lộ khả năng sáng tạo, quả vị Ki-tô của mình, con không thể dâng tặng món quà mà con đến hành tinh này để dâng tặng? Con yêu dấu, ta cần nhìn nhận là sa nhân rất, rất là tinh tế, rất rất khôn ngoan, và rất rất quyết tâm ngăn chặn bất cứ ai biểu lộ quả vị Ki-tô.

Lẽ tự nhiên là các thày đã trao truyền giáo lý về khái niệm có nhiều người tâm linh là a-va-ta (avatars) đến từ hành tinh khác để đặc biệt phụ giúp vào tiến trình nâng cao tâm thức tập thể. Thày bảo đảm với con là sa nhân cũng rất rất quyết tâm ngăn chặn các cư dân nguyên thủy của trái đất không cho họ vươn lên tầng quả vị Ki-tô và bắt đầu biểu lộ quả vị Ki-tô vì, thực sự đây là mối đe dọa lớn hơn cho họ.

Như các thày đã giảng trước đây, tiến bộ thực sự của hành tinh tùy thuộc vào các cư dân nguyên thủy của trái đất. Các a-va-ta có thể giúp nâng cao tâm thức tập thể nhưng họ không thực sự có thể khiến trái đất thực hiện bước nhảy vọt quyết định. Cần có đủ số cư dân nguyên thủy đã nâng tâm thức của họ lên trên một tầng nào đó để có thể có một cuộc chuyển vọt quyết định. Lẽ dĩ nhiên, bước chuyển vọt này chỉ xảy ra trong tập thể cư dân nguyên thủy khi có một số người trong họ đã đạt được tầng quả vị Ki-tô và biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó sa nhân rất nôn nóng muốn ngăn chặn chuyện này.

8.1. Bị đập dí vì biểu lộ chính mình

Chuyện đã xảy ra cho con trong quá khứ là con đã dám biểu lộ điều gì đó vượt quá bình thường. Con đã dám không theo đám đông, và sa nhân đã có mặt để đập dí con xuống, tạo ra một chấn thương tâm lý khiến con liên kết cảm giác sợ hãi và tổn thương (hay cảm giác bất lực và tuyệt vọng, cảm giác không có gì thật sự quan trọng) với việc biểu lộ chính mình, biểu lộ khả năng sáng tạo, đứng lên cổ vũ một chân lý cao hơn, hay những hành động vượt ra ngoài khuôn mẫu bình thường khác. Nhiều người trong các con có trong tâm một cơ chế khiến con cảm thấy sợ là khi con bắt đầu biểu lộ chính mình thì con sẽ bị chế giễu, chỉ trích và ngay cả bị hậu quả vật lý, như bị giết, tra tấn hay bỏ tù vân vân. Con đã tạo ra trong tâm con một cơ chế cho rằng: “Tôi không muốn biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi, nhưng tôi biết tôi ở đây để biểu hiện quả vị Ki-tô do đó tôi cần một lý do tại sao tôi không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của tôi.” Lẽ dĩ nhiên ý tưởng này khiến con nghĩ con không thể biểu hiện quả vị Ki-tô của con khi một điều kiện bên ngoài nào đó chưa thay đổi.

Nghĩ như thế làm cho tự ngã và các phàm linh nội tại của con cảm thấy an toàn, vì lẽ tự nhiên sẽ cần thời gian rất dài (hay ít ra đó là cảm tưởng trong quá khứ) để trái đất sẵn sàng khắc phục được nạn chiến tranh. Con biết là trong nhiều kiếp đầu thai tương lai, con không cần lo lắng về việc biểu lộ quả vị Ki-tô vì con có cái cớ toàn hảo. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô bị nối liền với một điều kiện bên ngoài thay đổi, và thay đổi này quá khó khăn và sẽ cần rất nhiều thời gian, nên tự ngã của con có thể cảm thấy an toàn trong một thời gian.

8.2. Xem xét phản ứng nội tâm

Khi thày phơi bày một chuyện như vậy cho con, thày muốn con xem xét phản ứng nội tâm của con với điều thày nói. Con có thể nói là thày đã rất thẳng thắn, thiếu nhân từ, khi thày phơi bày cơ chế này. Một số trong các con có thể nghĩ thày không nên thẳng thắn như vậy. Một số có thể nghĩ thày không nên phơi bày cơ chế này ra. Có thể có một phản ứng dâng lên trong con, và phản ứng này có thể có một trong hai hình thức. Một là con cảm thấy thày không nên thẳng thắn như vậy khi trình bày vấn đề với con. Hai là con chấp nhận điều thày nói và con lập tức cảm thấy xấu hổ vì đã có cơ chế đó.

Điều thày muốn nói rõ ở đây là trong bài giảng trước thày có nói là con không thể thực sự an bình nếu con không chấp nhận các điều kiện trên trái đất và chấp nhận mình hiện thân ở đây. Nếu con cứ tiếp tục vật lộn với việc mình hiện thân ở đây, chống đối việc mình ở đây, thì đương nhiên con không cảm thấy an bình. Điều thày muốn con nhìn nhận trong bài giảng này là nếu con không chấp nhận chính mình, thì con cũng không thể an bình. Tại sao thày lại nêu lên điểm này khi thày chỉ cho con thấy cơ chế khiến con trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô? À, đó là vì khi thày chỉ cho con thấy có cơ chế đó trong tâm con, thì thường trong con có một phản ứng. Phản ứng đó có thể giúp con nhận ra điều gì trong con đang ngăn cản con không chấp nhận chính mình, không cảm thấy bình an với mình là mình.

Có một số trong các con (không phải là đa số, nhưng có một số) sẽ phản ứng với cảm giác bị xúc phạm là thày đã phơi bày ra điều này. Đó là vì con vẫn ở chỗ muốn tránh né không nhìn chính mình bằng cách luôn luôn phóng chiếu ra ngoài là điều này hay điều kia không được xảy ra. Thày muốn con nhận biết phản ứng này và thày cần con nhận ra đây chỉ là một phàm linh – một phần tự ngã của con – đang phản ứng như vậy. Đây là một cơ chế phòng vệ của tự ngã vì nó không muốn con nhận ra cơ chế đã cho nó quyền lực khuynh đảo con. Cơ chế này khiến con luôn luôn phóng chú ý ra ngoài và nói điều này hay điều kia không được xảy ra.

Thày cần con tách mình ra khỏi cơ chế đó, và thày biết rất rõ là khi con làm điều này, con sẽ nhận ra con cần nhìn vào chính mình, con cần nhìn vào cơ chế. Thay vì nói thày không được nêu điều này ra, con nên nhìn vào sự kiện con có cơ chế đó, khuynh hướng trì hoãn việc biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Khi đó, con sẽ làm được điều mà một số đệ tử đã làm được từ ít lâu nay, đó là nhìn vào chính mình, nhìn vào bất cứ điều gì bên trong con mà con cần giải quyết.

Thày biết là đối với nhiều người trong các con, đúng hơn là hầu hết các con, nhìn vào điều kiện này là một sự đau lòng. Nhiều người trong các con đã nhiều lúc, trong khóa học này hay trên con đường tâm linh trước khi tham dự khóa học này, cảm thấy đau đớn khi một điều nào đó bị phơi bày trong nội tâm mình. Nó tạo một phản ứng trong tâm con.

8.3. Chân sư thăng thiên không vui thú khi thấy người khác đau khổ

Con yêu dấu, các chân sư thăng thiên không thuộc những người vui thú khi thấy người khác đau khổ; các thày không cố ý làm con khổ sở. Các thày không vui thú khi chỉ cho con thấy một cơ chế trong tâm lý khiến con cảm thấy đau lòng, xấu hổ. Ngược lại, ở tầng này của khóa nhập thất của thày, thày không mong gì hơn là giúp con tới điểm con có thể nhìn mình mà không đau lòng, xấu hổ về mình.

Toàn bộ mục đích của bài giảng thứ ba ở khóa nhập thất này là dẫn con tới điểm con khắc phục được khuynh hướng rất, rất vi tế cảm thấy hổ thẹn khi con thấy điều gì trong con cần được vượt qua. Nhiều người trong các con có cảm giác là điều gì không được ở đó, ngay từ sơ thủy đáng lý đã không được ở đó. Con yêu dấu, con cần nhận ra là phản ứng đó đã do sa nhân tạo ra. Thày phải nói lại cho đúng là phản ứng này, dĩ nhiên, không do sa nhân tạo ra, nhưng họ đã tạo ra hoàn cảnh bên ngoài khiến con phản ứng như vậy.

Có một lúc nào đó trong một kiếp quá khứ, con đã dám biểu lộ một khía cạnh của quả vị Ki-tô và sa nhân đã làm đủ mọi cách để đập dí con xuống để con không thể trong kiếp sống đó tiếp tục biểu lộ sắc thái quả vị Ki-tô đó. Con cần nhận ra là sa nhân không thỏa mãn chỉ ngăn cản con trong kiếp đó mà thôi. Sa nhân trông chừng xem có bất cứ ai dám biểu lộ một thành phần của quả vị Ki-tô. Có những sa nhân trên các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc sử dụng những sa nhân đang đầu thai trong cõi vật lý để bảo đảm là con sẽ không bao giờ dám biểu hiện quả vị Ki-tô nữa. Họ thực hiện điều này bằng cách đút vào trong bản thể con một phản ứng khiến con cảm thấy con đã sai quấy khi biểu hiện quả vị Ki-tô. Con sai quấy khi con thách đố họ, con sai quấy khi con đứng lên nói sự thật. Con sai quấy vì con quá ư khác chuẩn mực, khác người khác hay bất cứ cơ chế nào khác.

8.4. Quả vị Ki-tô có nghĩa thách đố hiện trạng

Thày cần con nhận ra là một trong những chiến thắng lớn của sa nhân là khi họ bắt được một dòng sống đã sẵn sàng biểu lộ quả vị Ki-tô và đút một cơ chế vào bốn thể phàm của sinh thể đó. Cơ chế đó khiến con cảm thấy biểu lộ quả vị Ki-tô là một điều sai quấy, con cảm thấy là con đã sai quấy khi biểu lộ quả vị Ki-tô, do đó con không bao giờ dám làm điều này nữa.

Đây là lý do vì sao con có cơ chế khác khiến con liên kết việc biểu hiện quả vị Ki-tô của con với một số điều kiện nào đó trên trái đất. Nói cách khác, con biết là con ở đây để biểu lộ quả vị Ki-tô. Sâu thẳm trong tâm con có ký ức đây là lý do vì sao con ở đây. Điều mà con trải nghiệm rất xa trong quá khứ là con đã gặp một phản ứng tiêu cực khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình. Vì một lý do nào đó, con liên kết sự phản ứng tiêu cực đó với các điều kiện bên ngoài lúc đó trên trái đất, và con nghĩ các điều kiện này không thuận lợi. Con đợi cho những điều kiện bên ngoài này thay đổi để con cảm thấy an toàn khi biểu lộ quả vị Ki-tô.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là quả vị Ki-tô chỉ có một mục tiêu là thách đố hiện trạng để mọi người có thể thấy là có một cách khác hơn là hiện trạng. Sẽ không bao giờ có điều kiện trên trái đất giúp con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình một cách an toàn. Ngay cả khi Thời đại Hoàng kim của Saint Germain được biểu hiện hoàn toàn, tình trạng xã hội vẫn chưa cho phép con biểu lộ quả vị Ki-tô một cách an toàn.

Nếu con nhìn vào xã hội ngày nay và nói: “Tôi sẽ bị chỉ trích điều gì nếu tôi biểu lộ quả vị Ki-tô?” thì con có thể phóng tầm nhìn tới thời hoàng kim và thấy rằng trong thời hoàng kim, điều ngày hôm nay bị lên án sẽ trở nên hoàn toàn bình thường và dễ chấp nhận. Trong thời hoàng kim vẫn sẽ có một số người muốn giữ hiện trạng lúc đó. Hiện trạng lúc đó cao hơn hiện trạng ngày nay nhiều, nhưng sẽ vẫn có người, vì nhu cầu an toàn của họ, cho rằng mọi chuyện đang xảy ra như chúng phải xảy ra và không cần thay đổi. Dù con đang sống trong xã hội nào, dù con đang ở thời đại nào, vai trò của con như một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố chuẩn mực. Việc biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ an toàn, không bao giờ vừa lòng mọi người, không bao giờ được chấp nhận. Thày cần con hiểu điều này một cách ý thức vì con đã hiểu ở tầng thể bản sắc của con.

Thày cần con mang hiểu biết này xuống tầng ý thức và nhận ra là vai trò của một sinh thể Ki-tô luôn luôn là thách đố hiện trạng. Do đó, con yêu dấu, biểu lộ quả vị Ki-tô sẽ không bao giờ được sa nhân chấp thuận. Nó cũng sẽ không làm vừa lòng nhiều người, ngay cả hầu hết mọi người, trong đại chúng. Con hãy nhận ra điều này: biểu lộ quả vị Ki-tô không phải là tranh giải ai được đại chúng ưa thích nhất. Nó chưa bao giờ như thế, sẽ không bao giờ như thế, nó không thể như thế vì đây không phải là tính chất của việc biểu lộ quả vị Ki-tô. Ở đây, con cần nhận ra là có một lúc nào đó trong quá khứ con đã lý luận và chấp nhận niềm tin là con sai quấy khi thách thức hiện trạng, đáng lẽ con không được thách thức sa nhân, đáng lẽ con không được thách thức những người chung quanh con. Con đáng lý phải tuân theo chuẩn mực quy định hành vi và lời nói được xã hội chấp nhận.

Thầy cần con nhận ra là người khác phản ứng tiêu cực với con và con nhận phản ứng tiêu cực này vào trong bản thể của con và con chấp nhận tin tưởng con đã sai quấy khi đứng lên khỏi đám đông. Sau đó, thày cần con nhìn vào niềm tin này và nhận ra nó được tạo ra bởi một phàm linh nội tại, một ngã tách biệt và nó vẫn còn ở trong con. Con yêu dấu, con cần bắt đầu nhận ra một cách ý thức nó chỉ là vậy: nó chỉ là một phàm linh nội tại, nó chỉ là một ngã tách biệt – nó không phảicon. Con không phải là vậy. Con thật ra không cảm thấy sai quấy khi con biểu lộ quả vị Ki-tô của mình, khi con đứng lên khỏi đám đông, khi con thách thức hiện trạng.

Phàm linh nội tại cảm thấy sai quấy và do đó nó luôn luôn tìm cách ngăn cản con biểu lộ quả vị Ki-tô. Một cách nó làm là khiến con nghĩ là biểu lộ quả vị Ki-tô dính liền với một điều kiện bên ngoài trên trái đất. Một cách khác là nó khiến con phải cảm thấy hổ thẹn, con phải cảm thấy tội lỗi khi con làm điều gì không được xã hội chấp thuận. Để tránh không đau lòng vì cảm xúc hổ thẹn, con điều chỉnh hành vi bên ngoài của con, điều chỉnh ngay cả cách con nhìn cuộc sống trên trái đất – những gì con có thể làm, những gì con không làm được, đến ngay cả cách con nhìn chính mình. Có nhiều khía cạnh của quan hệ của con với cuộc sống trên trái đất bị cơ chế này ảnh hưởng.

8.5. Tìm cách bù đắp những gì sai quấy

Các thày có nói về khuôn nếp phản ứng xảy ra khi con có một phản ứng trong tâm trước một hoàn cảnh bên ngoài. Vì phản ứng nội tâm đó, con đi vào một khuôn nếp cư xử, xúc cảm hay tư tưởng. Thày muốn nêu ra một khía cạnh khác nữa là những khuôn nếp phản ứng đó đặt con vào một trạng thái tâm nào đó và tạo nên một khuôn nếp bù đắp trong con. Nói cách khác, con có trạng thái tâm là có chuyện gì đó không ổn và bây giờ con tìm cách bù đắp lại. Điều này đã được biểu hiện một cách hiển nhiên và thô sơ, tỷ dụ trong Cơ đốc giáo, qua khái niệm tội lỗi.

Khái niệm con đã có tội khi được tạo ra, con đã làm điều gì sai quấy trong kiếp sống này, và con cần bù đắp lại. Con cần hoặc làm một điều gì để đền bù hoặc con phải đau khổ một thời gian và sau đó con trả xong tội. Bên phương Đông con có quan niệm nghiệp quả qua đó con người cảm thấy họ đã tạo nghiệp và nay cần cân bằng nghiệp quả. Có cả đệ tử chân sư thăng thiên nghĩ rằng họ đã tạo nghiệp trong những kiếp trước và nay cần bù đắp lại bằng cách đọc chú thỉnh ánh sáng tím để cân bằng nghiệp quả. Con có thấy chăng đây là khuôn nếp bù đắp?

Điều đã xảy ra là nhiều người trong các con tin là con có cái gì sai trái, hay ít ra có gì sai trái với việc con ở trên trái đất, và con cần bù đắp lại. Thày muốn lưu ý con là một cách chính mà khuôn nếp bù đắp đã ảnh hưởng con là trong cách con quan niệm con đường tâm linh, trong đó có giáo lý các thày, và khoá học này.

Con có cảm giác có gì không ổn với chính mình hoặc con đã làm gì sai quấy trong quá khứ. Khi con tìm ra con đường tâm linh, khi con tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, con được học về nghiệp quả, về luân hồi và khả năng cân bằng nghiệp quả, và con lao mình vào công việc đó với một lòng hăng hái đáng khen nhưng cũng phát xuất từ khuôn nếp bù đắp. Con tìm cách bù đắp lại những lầm lẫn mà con đã phạm trong quá khứ. Con thấy nhiều đệ tử tìm ra giáo lý các thày và tới điểm nhận ra cơ hội cân bằng nghiệp quả. Họ trở nên rất sốt sắng trong việc đọc chú và thỉnh, tỷ dụ để cầu thỉnh ánh sáng tím. Họ bỏ ra nhiều giờ mỗi ngày đọc chú và thỉnh. Nhiều đệ tử đã làm vậy trong nhiều năm hay nhiều chục năm.

8.6. Vượt qua khuynh hướng ám ảnh và cưỡng bức

Nếu chúng ta nói một cách hoàn toàn thành thực và không nể nang, thì ta thấy cách nhiều đệ tử tu tập, đặc biệt cách họ đọc chú và thỉnh, thực sự là chứng bệnh mà các tâm lý gia gọi là chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức (obsessive compulsive disorder). Con yêu dấu, tâm lý như vậy không lành mạnh. Trên đường dài, quan niệm này không lành mạnh cho con và các thày không muốn thấy con làm vậy.

Con có thấy chăng là lối hành xử đó do khuôn nếp bù đắp tạo ra vì con cảm thấy có điều gì con cần bù đắp? Bây giờ, nhiều người trong các con sẽ nói: “nhưng có phải chăng là con đã gây tội trong quá khứ, có phải chăng là con đã tạo nghiêp và bây giờ cần cân bằng nghiệp quả? Có phải là thày bây giờ nói là con không cần cân bằng nghiệp quả?” Con yêu dấu, đây là tâm đường thẳng đang nói đó, và thày muốn con bỏ phản ứng này qua một bên và thực sự nghe và hiểu điều thày sắp giảng.

Thày không bao giờ nói là việc con đọc chú và thỉnh là điều sai quấy. Nó thực sự đã cần thiết cho con. Con quả thực có nghiệp và con cần cân bằng nghiệp quả. Điều thày muốn nói là con nay đã tới điểm con có thể đứng lui lại, xem xét tình hình và nói: “Lẽ đương nhiên là ở tầng tâm thức này, tôi chưa hội đủ điều kiện để thăng thiên. Tôi chưa cân bằng hết nghiệp quả. Không phải là tôi phải ngưng đọc chú và thỉnh, nhưng có lẽ tôi nên đứng lui lại, và quan niệm con đường tu, kể cả việc đọc chú và thỉnh, với một thái độ khác. Tôi không đọc vì bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp đã được tạo ra khi tôi phản ứng lại với sa nhân.

Thày muốn con tới điểm không tu tập dựa trên phản ứng đối với sa nhân nhưng dựa trên đáp ứng với các chân sư thăng thiên. Có thể nhiều người trong các con nghĩ là các con đang đáp ứng với các chân sư thăng thiên vì các con đang theo giáo lý các thày. Con đang phần nào làm vậy nhưng con không hoàn toàn tu tập dựa trên đáp ứng với các thày. Trong bốn thể phàm con có cơ chế bù đắp do sa nhân đã làm con tin rằng con sai quấy và con chỉ có thể sai quấy khi con ở trên trái đất. Do đó, con tìm cách bù đắp lại và con dùng các kỹ thuật của chân sư thăng thiên để bù đắp. Điều này chấp nhận được cho tới điểm này, nhưng bây giờ con không cần lôi nó theo con nữa. Sự thật là con không thể an bình với chính mình nếu con còn lôi cơ chế này theo con.

8.7. Sự trớ trêu của việc đổ lỗi cho mình vì đã đổ lỗi cho mình

Thày cần con đứng lui lại và thấy sự trớ trêu của tình trạng này. Có một sự rất trớ trêu, vì con có thể nhận ra, nếu con thành thật, là con có một phản ứng khi thày nói lên những điều trên. Rất có thể là con đã cảm thấy mình sai quấy vì có cơ chế bù đắp, và đây lại thêm một điều nữa sai quấy với con, và nó cần phải thay đổi, nó cần phải cải sửa. Có thể là con đã phản ứng với một số cảm xúc, nhưng con có thấy điều trớ trêu ở đây chăng? Thày đang chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng nghĩ mình sai quấy vì ở đây. Khi thày chỉ cho con điều đó, con đã phản ứng ra sao với lời nói của thày? Con phản ứng với cùng cơ chế khiến con cảm thấy con sai quấy vì đã có khuynh hướng cảm thấy mình sai quấy. Con có thấy chăng đây là điều mà các khoa học gia gọi là suy luận nghịch hành vô tận? Nó là một vòng khép kín, một cái máy chạy bộ. Con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi nó.

Thày chỉ cho con thấy là con có khuynh hướng đổ lỗi cho mình, và con lại đổ lỗi cho mình là con có tật đổ lỗi cho mình. Khi nào thì cơ chế này mới ngưng? Khi nào thì phản ứng này mới ngưng? Con yêu dấu, nó sẽ ngưng khi con nhận ra đây là một trong những cái máy chạy bộ mà con không thể thoát ra được nếu con cứ tiếp tục chạy trên đó.

Nếu con không có hình ảnh này trong đầu, thì con hãy lên mạng Internet và tìm xem phim về con chuột nhỏ nuôi trong lồng chạy trên một bánh xe. Sau đó con hãy tự hỏi mình một câu giản dị: “Con chuột có bao giờ ra khỏi bánh xe bằng cách chạy nhanh hơn không?” Câu trả lời đương nhiên là “Không”. Con chuột có chạy nhanh bao nhiêu nó vẫn không thể ra khỏi bánh xe. Chuyện có thể xảy ra là nó mệt lả, hay bị đau tim và chết, nhưng đó là cách duy nhất thoát ra khỏi bánh xe chạy.

Con nhận ra là máy chạy bộ mà thày nói đến nằm trong tâm lý của con. Cái máy chạy bù đắp đó có thể khiến con chạy càng lúc càng nhanh hơn trong cuộc sống bên ngoài, đọc càng ngày càng nhiều bài chú, làm càng ngày càng nhiều chuyện – bù đắp, bù đắp, bù đắp. Cả cuộc đời con trở thành cơ chế bù đắp khiến con chạy càng ngày càng nhanh cho tới khi con bị đau tim và chết. Cơ chế nằm trong ba thể cao của con và do đó con mang nó theo kiếp sống tới. Và sau đó, trong kiếp sống đó, con lại làm việc cho đến khi xác thân vật lý mệt lả và con chết, và con cứ tiếp tục như vậy từ kiếp này sang kiếp khác.

Sư thực là có những người đã sống như vậy. Có đệ tử chân sư thăng thiên đã làm như vậy và đang làm trong kiếp sống này điều mà con đã làm trong ba hoặc bốn kiếp trước. Câu hỏi duy nhất của thày là: “Có bao giờ con bước ra khỏi cỗ máy chạy bộ ở tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc bằng cách chạy nhanh hơn trong thể vật lý, và luôn cả trong ba thể cao?” Lẽ dĩ nhiên là con không thể thoát được bằng cách đó. Không có mục tiêu đường thẳng nào mà con có thể hoàn thành trên cỗ máy chạy bộ vì nó chỉ có thể đi theo một vòng tròn luẩn quẩn. Con phải làm gì? Con cần ngừng vật lộn. Lúc đó, cỗ máy chạy bộ sẽ ngưng lại và con có thể nhảy ra khỏi nó.

8.8. Dùng một giáo lý để đổ lỗi cho mình

Thày muốn con nhận ra khuôn nếp đổ lỗi cho mình và ngay cả dùng giáo lý của các thày để đổ lỗi cho mình, để cảm thấy mình lại làm thêm một điều sai quấy nữa. Đây lại thêm một điều mà con cần bù đắp, và bây giờ con cần cảm thấy hổ thẹn và chạy nhanh hơn nữa. Thày cần con giản dị đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi lại phải cảm thấy hổ thẹn với chính mình khi tôi đang tu trên con đường của các chân sư thăng thiên?”

Con yêu dấu, chắc con nhận ra là trong các kiếp trước, và có thể ngay trong kiếp này, con đã gặp các thày giả. Giáo hội Công giáo là một tổ chức muốn thành viên cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Giáo hội muốn thành viên cảm thấy họ là người tội lỗi vì đó là cách duy nhất khiến họ quy phục điều giáo hội ra lệnh cho họ và không chất vấn sự phi lý của học thuyết của giáo hội.

Con nhận ra là có nhiều thày giả trên thế giới muốn con cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Họ thực sự lợi dụng cơ chế bù đắp của con để giữ con tham gia điều họ đang muốn con tham gia để lấy năng lượng của con. Con yêu dấu, các thày là chân sư thăng thiên. Các thày không cần năng lượng của con và các thày nhất định không muốn con cảm thấy hổ thẹn với chính mình. Các thày không muốn con tu tập trên con đường mà các thày cống hiến với cơ chế bù đắp khiến con cảm thấy cần phải làm càng ngày càng nhiều hơn để tránh không cảm thấy hổ thẹn với chính mình trong nội tâm. Con yêu dấu, thày không cần con chạy trên bất cứ cỗ máy chạy nào để có thể theo những khai ngộ ở khóa nhập thất của thày. Thày không muốn con ở trên bất cứ cỗ máy chạy nào. Mong muốn chính của thày ở tầng này là giúp con bước ra khỏi cỗ máy chạy trong thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc của con để con cảm thấy (khi con ngừng chạy, khi con ngừng tìm cách bù đắp) nó tự nhiên chậm lại và ngừng hẳn. Con nhảy ra ngoài nó, con nhìn lại cái ngã đó, con nhìn phàm linh nội tại đó và con nói: “Satan hãy bước ra sau lưng ta, ta không cần ngươi trong đời ta nữa.”

Con yêu dấu, một lần nữa thày đã từng hiện thân trên trái đất. Đa số các chân sư thăng thiên cũng vậy, và chắc chắn là tất cả các Thượng sư đều đã như vậy. Các thày đã từng tạo ra cho mình các cơ chế bù đắp, các thày đã từng ở trên cỗ máy chạy bộ. Các thày biết rõ thực trạng đó. Các thày biết là bước ra khỏi cỗ máy là điều khó làm, nhưng các thày biết là có thể làm được. Các thày biết là con sẽ cảm thấy tự do hơn nhiều, an bình hơn nhiều khi con bước ra khỏi cỗ máy chạy khiến con dùng giáo lý tâm linh và dụng cụ tâm linh để bù đắp điều con nghĩ con đã sai quấy trong quá khứ.

8.9. Tha thứ mình đã phản ứng

Con yếu dấu, thày Hilarion đã giảng một bài rất, rất quan trọng mà một số trong các con chưa neo chặt mình vào. Thày Hilarion nói là khi con xuống đầu thai, con không chỉ giản dị đi xuống tầng thứ 48, và hiện thân lần đầu ở tầng 48. Để đi xuống tới tầng 48, con cần đi qua tất cả các tầng ở trên, bắt đầu bằng tầng 144. Thày Hilarion cũng nói là khi con đi xuống một tầng tâm thức, con lấy vào ảo tưởng liên hệ với tầng đó.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng điều thày đang muốn giảng? Cách con xuống trái đất, dù con là một a-va-ta từ hành tinh khác đến hay là một cư dân nguyên thủy, không quan trọng. Nếu con là một a-va-ta, bất kỳ con ở tầng tâm thức nào trước khi tới trái đất, con vẫn xuống tầng 48 khi đầu thai lần đầu, và điều này có nghĩa là con nhận vào tất cả các ảo tưởng ở trên tầng 48. Bây giờ, con yêu dấu, điều này có nghĩa gì? Có nghĩa là con có thể là một a-va-ta tới đây từ một hành tinh tự nhiên, và với tầng tâm thức của con ở đó con có thể tránh phản ứng lại sa nhân.

Ngày hôm nay, con có thể cảm thấy là đáng lẽ con phải tránh phản ứng lại sa nhân, nhưng con cần nhận ra là mục đích con xuống đầu thai ở đây là chứng minh cho mọi người trên trái đất thấy là con có thể bắt đầu ở tầng 48 và vươn lên những tầng tâm thức cao hơn. Do đó, con phải xuống tầng 48. Khi con xuống tầng 48 trên trái đất, con sẽ phản ứng với những điều sa nhân bắt con chạm trán với tầng tâm thức 48. Con không có cách phản ứng nào khác vì lúc đó con nhìn đời sống trên trái đất với phin lọc nhận thức của tất cả các ảo tưởng mà con phải mang vào khi con xuống tầng 48.

Con yêu dấu, con không thể phản ứng cách nào khác trên trái đất. Điều này có nghĩa là không ai trên cõi thăng thiên chê trách con vì con đã phản ứng như vậy với sa nhân. Các thày đều đã làm giống con, và đó là lý do vì sao không ai trên cõi thăng thiên muốn con chê trách mình vì đã phản ứng như thế với sa nhân. Con yêu dấu, con phải hiểu là ở tầng tâm thức 48, có một phản ứng cao và một phản ứng thấp, nhưng phản ứng cao ở tầng 48 không phải là trình độ tâm Phật qua đó con hoàn toàn không dính mắc. Điều này chỉ tới với tầng tâm thức 144.

Việc con đã phản ứng với một phản ứng thấp hơn là điều không thể tránh được. Con phải làm như vậy để chứng minh là con có thể vượt lên trên phản ứng đó. Con yêu dấu, con phải hiểu là sa nhân đã phóng chiếu một tâm thức cho rằng nếu con là một người tâm linh (dù con là một cư dân nguyên thủy đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn hay con là một a-va-ta), con đáng lẽ không bao giờ được phản ứng một cách tiêu cực, bất toàn. Do đó, sa nhân (khi con dám biểu lộ quả vị Ki-tô trong quá khứ) đập dí con xuống. Họ khiến con phản ứng tiêu cực và bây giờ họ khiến con chê trách mình vì đã có phản ứng tiêu cực đó. Con có cảm giác đó vì con cảm thấy giống như chuyện Humpty Dumpty trong bài đồng dao, con ngồi trên đầu tường té xuống và tất cả người và ngựa của nhà vua không thể ráp con nguyên vẹn trở lại được. Con cảm thấy con không thể xóa bỏ chuyện đã xảy ra trong quá khứ. Do đó, con bị kẹt vào cỗ máy chạy bộ không ngừng để tìm cách bù đắp lại.

8.10. Cách duy nhất để khắc phục quá khứ

Con yêu dấu, thực ra con có thể xóa bỏ những gì con đã làm trong quá khứ. Nhiều người trong các con chưa hiểu ra điều này với tâm ý thức. Con có thể làm gì để xóa bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ? À, thày đã nói rồi nhưng thày sẽ nhắc lại ở đây. Con không thể thay đổi hành động vật lý đã xảy ra trong quá khứ nhưng hành động vật lý không quan trọng nữa vì thời gian đã trôi qua. Điều quan trọng là phàm linh mà con mang theo trong bốn thể phàm. Con yêu dấu, con có thể tách mình ra khỏi phàm linh, đuổi nó đi và cho nó chết. Khi con xóa bỏ phàm linh, con cũng xoá bỏ chuyện con đã làm trong quá khứ.

Đây là sự bù đắp tối hậu và nó là sự bù đắp duy nhất hữu hiệu. Con phải hiểu là có một phàm linh khiến con ở trên cỗ máy chạy, cảm thấy là con cần luôn luôn chạy nhanh hơn, con cần phải làm gì đó để đền bù những điều sai quấy con đã làm trong quá khứ. Con có biết câu nói bình dân: “Hai điều sai trái không đưa đến một điều đúng.” Con yêu dấu, con có thấy chăng là: “Hai điều đúng không đền bù được một điều sai trái?” Bất kể bao nhiêu điều đúng con làm, con sẽ không bao giờ đền bù chuyện sai trái mà con đã làm trong quá khứ khi phàm linh mà con đã tạo ra vẫn còn tồn tại trong các thể cao của con.

Có những người, có mặt trong hầu hết các tôn giáo và tổ chức tâm linh, đã trong nhiều kiếp tìm cách đền bù một điều sai trái nào đó mà họ đã làm trong quá khứ, bằng cách làm điều đúng theo giáo lý của tôn giáo hay tổ chức tâm linh của họ. Thí dụ, có những người bên Tây Tạng bỏ ra cả đời mình xoay bánh xe cầu nguyện, nghĩ rằng hành động này sẽ đền bù cho một điều sai trái mà họ đã làm trong quá khứ. Có những người khắp nơi đọc kinh, dự lễ, đốt nến, tập yoga, đọc chú, và vân vân.

Con yêu dấu, có một khía cạnh máy móc là khi con làm điều gì, con tạo nghiệp. Con có thể cân bằng nghiệp quả đó bằng cách, thí dụ, đọc một số lượng bài chú nào đó. Nhưng khi con đã tới tầng này của con đường tự điều ngự, con cần nhận ra là vấn đề chính yếu của con bây giờ không phải là cân bằng nghiệp quả. Khi con đã vươn lên tầng này, khi con đã đọc số lượng bài chú bài thỉnh, hầu hết các con đã trên con đường cân bằng nghiệp quả, ít nhất là phần lớn nghiệp quả. Không phải là con cân bằng hết nghiệp quả khi con hòan tất khóa học này. Con trên con đường cân bằng hết nghiệp quả ở cuối đời này vì con cần nhận ra rằng ở mỗi tầng cho tới tầng 144, có một số lượng nghiệp quả cần được cân bằng ở tầng đó.

Điều quan trọng không phải là cân bằng tất cả nghiệp quả ở tầng này của con đường tu, nhưng điều quan trọng là cân bằng nghiệp quả cho tới tầng tâm thức hiện nay của con. Con có thấy điểm này chăng? Con có thể bị chậm trễ trong việc cân bằng nghiệp quả , nhưng con cũng có thể tới điểm con bắt kịp ở tầng tâm thức hiện nay trên con đường tu, có nghĩa là con không còn nghiệp quả tàn dư nào từ các tầng thấp hơn. Con đã cân bằng tất cả nghiệp quả cho tới tầng mà con đang ở dù đó là tầng 48, hay 56, hay 63, hay 85. Con đã cân bằng hết nghiệp quả đó, và như vậy có nghĩa là con đã bắt kịp, và con không cần bận tâm chuyện cân bằng nghiệp quả nữa. Khi con tiếp tục đọc chú và thỉnh ở các tầng cao hơn, con sẽ tiếp tục cân bằng nghiệp quả ở các tầng đó.

8.11. Không có gì sai trái với con cả

Điều mà thày quan tâm ở điểm này là dẫn con tới điểm con nhận ra là vấn đề là làm tan đi các phàm linh nội tại đó. Con yêu dấu, đây là phàm linh mà con cần khắc phục ngay lúc này: cảm giác con có gì sai trái.

Con yêu dấu, con có hiểu chăng là sa nhân muốn con cảm thấy là vươn lên tầng tâm thức này của con là điều sai trái? Đầu thai vào trái đất và vươn lên tới tầng này là điều sai trái. Họ muốn con cảm thấy như vậy vì con là một mối đe dọa cho họ, và chắc hẳn con thấy được là đây không phải một điều con muốn chấp nhận. Con không muốn chấp nhận lập luận của họ, và lẽ dĩ nhiên con không sai trái khi con vươn lên tầng tâm thức hiện nay của con. Con cần buông bỏ cơ chế đó đi. Con cần tới điểm con chấp nhận một cách ý thức sự kiện đơn giản sau: “Không có gì sai trái với tôi cả”. Có thể con cần (như người sứ giả này đã làm nhiều năm trước đây) trải qua một giai đoạn con dùng câu này như một lời khấn nguyện. Con giám sát mình và con nhận ra (đôi khi vì một hoàn cảnh bên ngoài, đôi khi chỉ đột nhiên xuất hiện) là có một xung lực khởi lên trong con nói rằng con đã sai quấy, con đã làm điều gì sai quấy, rằng con không được làm điều này, con không được làm điều kia. Có thể con cần một giai đoạn giám sát mình, và khi xung lực khởi lên, con hóa giải nó bằng cách nói trong ý thức, hoặc ra lời hoặc nói thầm: “Không có điều gì sai trái với tôi cả. Tôi hoàn toàn chấp nhận là không có điều gì sai trái với tôi cả.”

Con yêu dấu, khi con làm điều này và tiếp tục làm điều này, thì con sẽ tới điểm con tách mình ra khỏi phàm linh đó, ngã tách biệt đó. Con có thể nhìn nó và cảm thấy nó không ảnh hưởng con được nữa. Lúc đó, nó tan đi vì cái giữ cho nó sống là năng lượng mà con cho nó khi con tin vào ảo tưởng có điều gì sai trái với con.

8.12. Con không sai trái vì ở trên trái đất

Con yêu dấu, con thấy chăng là điều các thày mong muốn trong khóa học này là giúp con vượt qua ảo tưởng ở mỗi tầng tâm thức giữa tầng 48 và 96. Một trong những ảo tưởng này là ý tưởng có điều gì sai trái với việc con ở trên trái đất.

Nếu con là một a-va-ta thì trên một hành tinh tự nhiên con chưa bao giờ trải nghiệm lời cáo buộc có cái gì sai trái với con. Trong quá khứ xa, trước khi trái đất rơi vào nhị nguyên, nếu con là cư dân nguyên thủy con cũng không trải nghiệm điều này. Do đó, con có trong con cảm giác là thực sự con không có gì sai trái. Bởi vì con đã quá nhiều lần trải nghiệm bên ngoài (qua sa nhân và qua người khác và xã hội nói chung) lời cáo buộc con có gì sai trái, nên con đã đi tới điểm nghĩ rằng có lẽ điều gì sai trái với việc con ở trên trái đất. Có thể là trái đất đã khiến con sai trái, đã khiến con cảm thấy mình sai quấy? Lẽ dĩ nhiên, đó là một lý do khiến con khó chấp nhận là mình đang ở đây.

Nếu con nhìn lại chính mình, thì có lẽ con nhận ra là nhiều người tâm linh đã cảm thấy bị xã hội ruồng bỏ. Khi con là trẻ thơ, con đã cảm thấy mình không hòa nhập với trẻ em khác, không có ai con có thể nói chuyện về những niềm tin tâm linh của mình. Nhiều người trong các con đã bị chế giễu vì những niềm tin tâm linh của mình. Nhiều người trong các con có thể đã tìm ra một phong trào tâm linh, theo nó một thời gian và sau đó (khi con bắt đầu đặt một số câu hỏi thách đố hiện trạng của phong trào đó) con bị phong trào đó trù dập.

Con có thể đã có cảm giác: “Tôi thuộc về đâu, tôi hòa nhập được với ai?” Lẽ dĩ nhiên, điều này đã nuôi dưỡng cơ chế bù đắp mà thày đã phơi bày. Một khi con buông bỏ được cơ chế đó, con có thể tới một tầng của con đường tâm linh hoàn toàn dựa trên tình thương. Con không đi trên con đường tâm linh để bù đắp bất cứ điều gì. Con theo con đường tâm linh vì có điều gì đó mà con thương yêu, bất kể tình thương này thể hiện ra sao cho mỗi người. Đối với con, đó là một động lực dựa trên tình thương, không phải một động lực dựa trên bù đắp.

8.13. Vượt qua nỗi sợ sáng tạo

Đây là diểm con khắc phục chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức và bắt đầu tu theo cách không ám ảnh, không cưỡng bức. Đây không phải là tâm thần loạn động, mà chỉ giản dị là động lực tự nhiên, dựa trên tình thương, thúc đẩy con vươn lên cao hơn, trải nghiệm cái gì hơn nữa và muốn biểu hiện cái hơn nữa.

Con yêu dấu, sự thực là khi con còn bù đắp, con không thể cảm thấy tự do biểu hiện mình, con không thể cảm thấy tự do sáng tạo. Con sẽ sợ không dám sáng tạo, vì sáng tạo là gì? Sáng tạo là vượt lên trên hiện trạng. Con chỉ sáng tạo khi con vượt lên trên hiện trạng. Khi con bù đắp, mong muốn bù đắp này thật sự dựa trên hiện trạng vì con nói: “Hiện trạng là tôi làm điều gì đó sai trái trong quá khứ và tôi cần bù đắp lại.”

Bù đắp và sáng tạo xung khắc nhau và con sẽ không bao giờ là một sinh thể hoàn toàn sáng tạo khi con còn tìm cách bù đắp lại điều gì đó. Lẽ dĩ nhiên, có người được coi là nghệ sĩ nhưng lại bị thúc đẩy bởi khuôn nếp bù đắp trong tâm lý và tìm cách bù đắp qua tác phẩm của họ. Con cũng có thể thấy có người bị ám ảnh với việc vẽ càng nhiều tranh càng tốt, hay khắc càng nhiều tượng càng tốt, hay điều gì khác. Con có thể thấy nhiều nghệ sĩ, thí dụ, thực sự bị thúc đẩy bởi chứng loạn thần ám ảnh và cưỡng bức để biểu hiện nghệ thuật thách đố hiện trạng. Dù họ đang thách đố hiện trạng, họ không thực sự thách đố một cách sáng tạo. Đó là lý do vì sao rất nhiều tác phẩm nghệ thuật tân thời không cân bằng và không thẩm mỹ. Chúng tơi tả, bất hài hòa. Chúng được tạo ra với ý định khiêu khích, nhưng chúng không nâng tinh thần người thưởng ngoạn mà chỉ làm gai mắt họ qua sự thiếu thẩm mỹ.

Nhiều người có quan niệm cái gì là thẩm mỹ nhưng nhiều nghệ nhân tân thời đã tìm cách bù đắp vì họ cho rằng đó là hiện trạng cần thách đố. Con yêu dấu, con thấy chăng là thẩm mỹ không phải là một vấn đề hiện trạng, tuy rằng, lẽ dĩ nhiên, trong quá khứ đã có nhiều thí dụ một lối vẽ nào đó được coi là cách vẽ duy nhất và do đó nó trở thành hiện trạng. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt vì có một số nét đẹp, một quan niệm về cái đẹp, mà con có trong con và đa số tác phẩm nghệ thuật tân thời giản dị nằm ngoài quan niệm đẹp của đa số con người. Các nghệ nhân này cảm thấy họ thách đố hiện trạng, nhưng họ lại có cơ chế loạn thần ám ảnh và cưỡng bức, và bù đắp, khiến họ cảm thấy cần thách đố hiện trạng của xã hội thay vì thách đố cơ chế bù đắp nơi chính họ. Họ chú tâm vào thay đổi xã hội thay vì thay đổi chính mình, thăng vượt tâm thức của chính họ.

Lẽ dĩ nhiên các thày muốn các đệ tử sáng tạo, nhưng các thày muốn con sáng tạo trên nền tảng của tình thương, chứ không phải dựa trên cơ chế bù đắp thúc đẩy con làm điều gì đó bất thường để gây chú ý. Con yêu dấu, thày đã chiếm nhiều chú ý của con với bài giảng này, và thày cảm ơn con đã chịu bước đi trên con đường mà thày vạch ra trước mắt con.

Mọi điều kiện trên trái đất đều là cơ hội, 12 đọan

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 14/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada, và thày chào đón con vào tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày. Con có thể nghĩ là bài giảng đầu của thày quá nghiêm khắc, nhất là vì thày là một chân sư phái nữ. Một số người vẫn chờ đợi là các chân sư nữ dịu dàng hơn các chân sư nam. Con yêu dấu, thật ra thày đã dịu dàng hơn một chân sư nam, vì nếu Đại thiên thần Michael đã trao truyền cùng thông điệp, thì nó đã nghiêm khắc hơn nhiều.

Con yêu dấu, con biết rằng, như các chân sư khác đã nói với con, con đã đến mức các thày không còn chơi trò chơi với con nữa. Các thày không còn cho con phiên bản dịu dàng của giáo lý. Các thày nói một cách tự do và thẳng thắn với con vì con đã tới mức sẵn sàng để nghe. Do đó không có lý do gì để chơi những trò chơi như con người thường chơi trên trái đất. Điều quan trọng không là ve vuốt tự ngã, tránh làm tự ngã tổn thương vì con đã tới điểm cần nhìn quá tự ngã, nhìn xuyên qua tự ngã. Con cần nhận ra khi nào phản ứng của con dâng lên, con biết chúng đến từ tự ngã. Do đó con có thể tách ra khỏi phản ứng và tránh không bị chìm đắm trong nó. Con có thể tránh không phản ứng theo phản ứng của tự ngã.

6.1. Điều không nên chờ đợi nơi chính mình

Điều này không có nghĩa là con không có phản ứng. Con yêu dấu, dĩ nhiên có câu chuyện Đức Phật, khi thày chứng ngộ lần cuối trước khi thành đạo, lúc đó thày tọa thiền dưới cội Bồ đề và ma vương Mara hiện ra. Ma vương tìm cách khiến thày phản ứng một cách nào đó. Vì thày không phản ứng nên thày đạt được chứng ngộ và thành đạo. Chúng ta không ở trình độ này. Con chưa tới điểm sẵn sàng thành đạo. Con đang ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày và con đang ở dưới tầng tâm thức 96. Các thày hoàn toàn không có ý định đòi hỏi con ngưng mọi phản ứng. Con yêu dấu, các thày không muốn con cảm thấy mình đã thất bại nếu con phản ứng trước những điều kiện của thế gian. Điều tự nhiên là con có phản ứng với thế gian ở tầng tâm thức hiện nay của con.

Điều mà các thày muốn con làm ở điểm này là bắt đầu nhận ra trong ý thức là phản ứng không tới từ con, tức là bản thể thật bên trong của con. Phản ứng đến từ cái mà các thày gọi là tự ngã của con, là một phàm linh nội tại hay một cái ngã tách biệt. Nói cách khác, đó là phản ứng của bốn thể phàm của con, nhưng nó không phải là phản ứng của con. Thày có đặt cho con mục đích là con tới được điểm con có thể đi lại trong bốn tầng của vũ trụ vật chất – con có thể sống trong đời – nhưng con không làm với tâm thức tách biệt. Con hành động, con sống một cuộc sống năng động. Con làm, nhưng con cũng không làm. Con làm với tâm đang là, tâm trong trạng thái bình an nội tại.

Khai ngộ mà con cần đạt được ở tầng thứ nhất là nhận ra là con không thể tạo ra bình an bằng cách làm, làm thêm một điều gì đó, làm thêm điều gì khác. Điều quan trọng không phải là khám phá ra bí quyết bí mật mà chưa ai đã tìm ra, và sau đó con sẽ tạo ra bình an. Không có bí quyết gì để khám phá cả – ngoài giáo lý mà các thày đã trao cho các con về tâm thức nhị nguyên và vươn lên trên nó. Lẽ dĩ nhiên, điều này sẽ xảy đến từ từ. Nó sẽ xảy đến từng phần. Khi con ở điểm này, các thày không đòi hỏi con hoàn toàn vượt lên trên tâm thức nhị nguyên và không có phản ứng gì trước những điều kiện trên trái đất.

Các thày muốn con bắt đầu tách mình ra khỏi phản ứng để nhận ra rằng, tuy phản ứng có mặt trong bốn thể phàm của con, chúng không thực sự là phản ứng của con. Lẽ dĩ nhiên, không có nghĩa là con lờ đi không để ý tới phản ứng vì con nhận ra là khi con có phản ứng, đây là chỉ dấu có một phàm linh nội tại, một cái ngã tách biệt, một phần của tự ngã đang phản ứng. Do đó, đây là cơ hội để con nhìn nó, tách mình xa khỏi nó và nhờ vậy thăng vượt khỏi nó, vượt lên trên nó.

Con hiểu chăng là khi thày nói là con đang ở trong một bãi cát lún và cả bốn tầng của thế giới vật chất là một hình thức cát lún, thì điều thày thực sự muốn nói là nếu con ở trong thế gian và phản ứng liên tục và cho phép mình bị lôi kéo vào những khuôn nếp phản ứng lại một điều kiện nào đó trong thế gian, thì con đang tạo nghiệp, con đang làm, và con đang chìm xuống cát lún. Chỉ khi nào con tới điểm thoát được một phản ứng nào đó thì thế gian cát lún mới không còn ảnh hưởng được con và con tránh bị lún xuống. Điều thày nói trong bài giảng trước là thày muốn con bắt đầu suy ngẫm điều gì tước đi sự bình an của con và khiến con làm, khiến con đi vào các khuôn nếp phản ứng thúc đẩy con làm.

6.2. Con tạo ra Sứ vụ Thiêng liêng của mình như thế nào

Trong bài giảng này, thày muốn trình bày một khía cạnh của điều này, một cơ chế liên hệ. Thày có nói trước đây là đa số đệ tử tâm linh có một phản ứng đối với thế gian. Thực sự ta có thể nói là tất cả con người hiện thân đều có một phản ứng đối với thế gian. Ngay cả những người không đặc biệt gì tâm linh cũng có một phản ứng nào đó, một cách nhìn cuộc đời nào đó. Lẽ tự nhiên là sa nhân có phản ứng không muốn ở trên thế gian này, cảm thấy không công bằng là họ phải ở đây, vân vân. Các con là người tâm linh (đa số các con có lẽ là người từ hành tinh khác xuống đầu thai trên trái đất (avatar) nếu các con đã theo học khóa này, nhưng chắc chắn là khóa này cũng ứng dụng cho những cư dân nguyên thủy của trái đất) thì các con có một phản ứng, một cảm giác, là mọi chuyện trên trái đất không được ổn. Đây là một bí ẩn mà con cần giải đáp để tránh không bị kéo vào khuôn nếp phản ứng.

Lẽ tự nhiên là con có một Sứ vụ Thiêng liêng. Khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng này, con nhìn xuống trái đất và con thấy là có những điều kiện có thể nói là không tự nhiên trên hành tinh này. Con thấy là các chân sư thăng thiên có mục đích nâng hành tinh lên trên các điều kiện này, và con quyết định góp phần vào việc thực hiện mục đích này. Điều con cần nhận ra là khi thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn. Nhưng không có nghĩa là con thảo Sứ vụ Thiêng liêng trong trạng thái tâm thức tối hậu, tức là trạng thái hoàn toàn không có tự ngã. Nhưng có nghĩa là con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình trong trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn lên tới trong kiếp sống này. Sứ vụ Thiêng liêng của con có hai tầng. Một là những điều con muốn làm trong thế gian, những gì con muốn thực hiện. Tầng kia là con muốn tăng triển như thế nào, con muốn nâng tâm thức tới mức nào. Con cần nhận ra là Sứ vụ Thiêng liêng của con bắt đầu ở tầng tâm thức mà con có khi con rời kiếp sống trước, và định ra mục đích mà con và các vị thày của con lượng định là con có thể đạt được ở cuối kiếp sống này. Sứ vụ Thiêng liêng của con được tạo ra từ trạng thái tâm thức cao nhất mà con có tiềm năng vươn tới trong kiếp sống này.

Lẽ dĩ nhiên là khi con xuống đầu thai, con bắt đầu ở cùng tầng tâm thức với lúc con hiện thân kiếp trước – nghĩa là tầng tâm thức thấp nhất trong khoảng tiềm năng của kiếp này. Điều này có nghĩa là con quên mất trạng thái tâm thức khi con thảo Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Các con thường có khuynh hướng nhìn Sứ vụ Thiêng liêng của mình với tư duy đường thẳng và nghĩ nếu các chân sư thăng thiên có một mục đích, tỷ dụ như chấm dứt mọi chiến tranh, và nếu con có mặt ở đây để giúp các thày, thì con cần lấy những biện pháp tích cực, con cần làm chuyện gì tích cực, để hoàn tất mục đích này.

Con yêu dấu, nếu con muốn thật sự hoàn tất mục đích con cần đạt trong Sứ vụ Thiêng liêng của kiếp sống này, trước hết con cần vươn lên trạng thái tâm thức cao nhất – không nhất thiết là trạng thái tuyệt đối cao nhất nhưng ít ra cũng gần tới đó – mà con có thể đạt được trong kiếp sống này. Nói cách khác, để hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng, con cần vươn lên một tầng tâm thức cao hơn khi con bắt đầu kiếp sống này. Lẽ dĩ nhiên con đã làm chuyện này. Tuy nhiên, điều thày muốn chỉ rõ là con dễ có cảm giác con cần làm điều gì đó tích cực. Nhiều đệ tử chân sư thăng thiên, khi họ khám phá ra giáo lý của các thày, họ quyết định với tâm vỏ ngoài, dựa trên tầng tâm thức của họ khi họ tìm ra giáo lý, là họ sẽ làm gì đó. Họ sẽ đọc bài chú, bài thỉnh và vân vân.

6.3. Con cảm thấy gì về trái đất?

Điều thày muốn con làm ở tầng này là để các việc đó qua một bên và nhận ra mục đích lúc này là vươn lên một tầng tâm thức cao hơn giúp con có một cái nhìn khác về Sứ vụ Thiêng liêng của mình, một cái nhìn khác về việc con cần làm trong kiếp này. Để làm điều này, ở tầng này thày muốn con một lần nữa nhìn trái đất với tâm ý thức hiện nay của con. Điều mà thày muốn các học viên tới khóa nhập thất của thày làm là chia ra thành nhóm nhỏ và nói lên họ nghĩ thế nào, họ cảm thấy thế nào về trái đất và hiện trạng của nó. Con cũng có thể tự làm điều này. Con có thể đi vào một căn phòng yên tĩnh, và nói lên cảm nghĩ của mình về trái đất, đời sống trên trái đất, con người, sa nhân và các vấn đề khác. Đa số học viên ở tầng này cảm thấy có cái gì không ổn trên trái đất, có cái gì đã đi sai đường.

Lẽ tự nhiên, nếu con là một người từ hành tinh khác đến đây, con còn nhớ đời sống trên một hành tinh tự nhiên như thế nào. Con biết trái đất ở trình độ thấp hơn một hành tinh tự nhiên rất nhiều. Nếu con là một trong những cư dân nguyên thủy của trái đất, con có (trong ký ức nội tâm) cảm nhận là có một thời trong quá khứ trái đất đã ở một trình độ cao hơn, nhưng nay thì đã rơi xuống thấp hơn. Thí dụ, trong quá khứ không có chiến tranh trên trái đất, nhưng nay thì có. Tất cả đệ tử tâm linh có cảm giác có chuyện gì không ổn, không đúng, cần được sửa, cần thay đổi. Đây là điểm ta cần xem xét bí ẩn.

6.4. Bí ẩn về việc thay đổi tình trạng trái đất

Con yêu dấu, dưới một tầm nhìn nào đó, tất cả các điều này đều chính xác. Các chân sư thăng thiên có muốn dẫn trái đất theo một tiến trình qua đó chúng ta nâng trái đất lên để một số biểu hiện, trong đó có chiến tranh, không còn có mặt nữa. Ta có thể quan niệm đây là một tiến trình đường thẳng. Ta bắt đầu ở một tầng nào đó, ta dần dần vươn lên tầng kế tiếp, và sau đó lên tầng kế tiếp, và vân vân. Chúng ta nâng tâm thức tập thể lên từng bước một cho tới lúc ta tới một bước ngoặt khi một biểu hiện bị chế phục. Điều này chưa xảy ra với chiến tranh. Nó đã phần lớn xảy ra với nạn nô lệ và một số điều kiện khác mà ngày nay con không còn thấy nữa, ít nhất là không còn thấy nhiều trong thế giới tiên tiến.

Có thể nói là một mục đích. Có thể nói là một tiến trình đường thẳng dẫn tới mục đích đó. Điều thày muốn con nhận ra là có một yếu tố trong tự ngã của con, có một phàm linh nội tại, có một cái ngã tách biệt đã chấp nhận (hay nói đúng hơn, đã được tạo ra bởi) tin tưởng là con không thể là một người tâm linh trọn vẹn, con không thể là một sinh thể Ki-tô, con không thể nào hoàn toàn bình an với mình nếu một điều kiện nào đó trên trái đất chưa thay đổi.

Con yêu dấu, con có thấy chăng là đa số người tâm linh cảm thấy có chuyện cần thay đổi, nhưng họ thường không nhận ra là bên dưới cảm giác đó là một phản ứng cá nhân khiến họ cảm thấy vì điều kiện đó như vậy nên họ không thể trọn vẹn là mình được. Tỷ dụ, con không thể hoàn toàn bình an, con không thể hoàn toàn chấp nhận mình ở đây trên trái đất, con không thể hoàn toàn vui hưởng cuộc sống, con không thể hoàn toàn tham gia vào đời sống hay con đường tâm linh. Có điều gì đó con không thể làm, có điều gì đó con không thể , vì có điều kiện bên ngoài không đúng như chúng phải là.

Con yêu dấu, đây hoàn toàn là một ảo tưởng mà con nhất thiết phải khắc phục. Thày không đòi hỏi con hoàn toàn khắc phục nó ở tầng này, nhưng thày muốn con bắt đầu có ý thức về nó. Có nhiều lý do vì sao cần như vậy. Trước hết, con sẽ không cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn bị kẹt trong khuôn nếp này. Nó thực ra là một khuôn nếp phản ứng. Con nhìn vào các điều kiện trên trái đất và con phản ứng lại bằng cách cảm thấy mình bị hạn chế. Con cảm thấy con không thể nào trọn vẹn là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con bởi vì có điều kiện bên ngoài này, và đây là khuôn nếp phản ứng đang hạn chế con. Con không thể hoàn toàn cảm thấy thoải mái với chính mình nếu con còn khuôn nếp này. Con không thể nào hoàn toàn bình an trong nội tâm vì con không bình an với việc mình hiện thân trên trái đất này.

Nhiều học viên đã nghe thày nói là mục đích của khóa nhập thất của thày là con bình an trong chính mình. Họ không nhận ra rằng nếu muốn bình an trong chính mình, con cần bình an với chuyện sống trên trái đất, bình an với chuyện hiện thân trên trái đất. Do đó, họ không nhận ra là họ có một khuôn nếp phản ứng trong tiềm thức của họ nói: “Ồ, tôi không thể bình an khi điều kiện này vẫn còn như vậy.” Con có thấy chăng là có một cơ chế, một khuôn nếp phản ứng bên trong con đang ngăn trở con không bình an vì một số điều kiện bên ngoài như vậy?

Bây giờ, đối với trí suy luận đường thẳng, tâm vỏ ngoài, tự ngã, phàm linh nội tại, tự ngã tách biệt, chỉ có một giải pháp là điều kiện bên ngoài phải thay đổi. Có đệ tử chân sư thăng thiên đã theo học giáo lý các thày từ mấy chục năm, nhưng vẫn bị kẹt trong khuôn nếp chú tâm vào ngoại cảnh phải thay đổi, vì họ cảm thấy họ không thể an bình trong chính họ nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi. Họ chú tâm đến phía ngoài họ, hướng sự chú ý đến việc làm sao đóng góp thay đổi điều kiện bên ngoài.

6.5. Nỗi bực dọc tinh tế trong nội tâm

Vì họ đương nhiên cảm thấy bất lực không thay đổi được nhiều điều kiện bên ngoài, như chiến tranh, nên họ cảm thấy bực dọc. Điều này khiến họ khởi ý niệm tinh tế đổ lỗi cho người khác, cho sa nhân, cho Ánh sáng Mẹ – hay bất kỳ điều gì khác. Trong nhiều trường hợp, họ đổ lỗi cho cả ba. Có nhiều học viên ở đây cảm thấy: “Tôi không thể an bình vì điều kiện bên ngoài chưa thay đổi, và điều kiện bên ngoài chưa thay đổi vì con người không chịu thay đổi, sa nhân vẫn hiện diện và Ánh sáng Mẹ vẫn tiếp tục biểu hiện những điều kiện này như trước và sẽ không thay đổi.” Họ cảm thấy bực dọc. Do vậy, con yêu dấu, làm sao thày có thể giúp con an bình với chính mình nếu con vẫn còn nỗi bực dọc này?

Thày cần con nhận ra nỗi bực dọc này, nói rõ ra nếu con thấy cần. Con hãy đi vào một căn phòng yên tĩnh, và nói lên nỗi bực dọc mà con cảm thấy. Sau đó, thày cần con nhận ra một điều giản dị, đó là: “Nếu tôi không thể thay đổi điều kiện bên ngoài, vậy có phải chăng là tôi không thể an bình?” Một số học viên tin như vậy. Thày làm tất cả những gì thày có thể làm ở cõi ê-the trong khóa nhập thất của thày để giúp họ hiểu là điều này không đúng. Thày muốn con làm tất cả những gì con có thể làm ở tầng tâm ý thức. Lẽ dĩ nhiên là các thày đã giảng điều này rồi, nhưng thày vẫn có học viên tới tầng khai ngộ này của khóa nhập thất của thày mà vẫn chưa hiểu ra điều này với tâm ý thức của họ.

Lập luận không thể thay đổi chính mình khi ngoại cảnh chưa thay đổi không đứng vững, vì toàn bộ ý nghĩa của giáo lý chân sư thăng thiên là con đi trên con đường tu để trở nên độc lập về mặt tâm lý, mặt tâm linh, mặt tâm lý-tâm linh, với các điều kiện trên trái đất . Đó là lý do vì sao Đức Phật đạt được khai ngộ khi ngài ngồi dưới chân cội bồ đề. Thày độc lập trên mặt tâm lý-tâm linh với mọi điều kiện trên trái đất. Không có điều kiện nào trên trái đất có thể ảnh hưởng thày vì thày không nghĩ có điều kiện nào trên trái đất có thể lấy đi sự bình an nội tâm của thày. Đáp số hiển nhiên cho câu đố bí ẩn là nếu con không thay đổi được điều kiện bên ngoài, con vẫn có được bình an nội tâm bằng cách tác động trên chính mình, thay đổi chính mình.

Đúng là rất có thể một phần Sứ vụ Thiêng liêng của con là đem lại một số thay đổi bên ngoài cho trái đất, nhưng Sứ vụ Thiêng liêng của con cũng bao gồm việc đạt được an bình nội tâm. Con cần nhận ra là con có mục đích bên ngoài và mục đích bên trong. Mục đích bên trong là sự tăng triển tâm thức của chính con, và không có điều kiện nào trên trái đất có thể ngăn chặn hay hạn chế sự tăng triển tâm thức của con. Con yêu dấu, ngược lại, điều kiện trên trái đất chính thật là những yếu tố giúp con tăng triển tâm thức. Chúng không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm thức của con; chúng là cơ hội cho con tăng triển. Làm sao con tăng triển tâm thức? Bằng cách vượt qua một phàm linh nội tại cá biệt khiến con phản ứng với một điều kiện nào đó trên trái đất. Khi con không còn phản ứng với điều kiện, con đã tăng triển tâm thức và lúc đó, con bước gần hơn tới sự bình an nội tâm của con.

Con yêu dấu, con có thấy chăng đây chính là mục đích của con đường tâm linh? Từ xưa đến nay vẫn luôn luôn như vậy. Các Thượng sư khác cũng đã nói điều này, nhưng có nhiều mức độ thể nhập chân lý này. Con có thể nghĩ con đã hiểu chân lý này khi con ở Tia thứ Nhất, Tia thứ Hai hay tia nào khác, nhưng có những mức độ hiểu sâu hơn. Ở tầng này, thầy cần con nhận ra là an bình nội tâm của con không dính dáng gì đến điều kiện trên trái đất. Nó là một điều kiện nội tâm. Không có điều kiện bên ngoài nào có thể ngăn cản an bình nội tâm của con. Nếu con đang nghĩ, hay trước đây có nghĩ, là có một điều kiện có thể ngăn cản bình an nội tâm của con, thì điều kiện đó là cơ hội để con vươn lên tầng cao hơn.

6.6. Điều gì khiến con trăn trở nhất trên trái đất

Con yêu dấu, con có thấy chăng là thày muốn con, ở tầng này, bước lui lại, nhìn vào cuộc đời, con đường tâm linh, và tâm lý của mình. Sau đó con hãy nhìn trái đất và nói: “Điều kiện nào khuấy động nhiều nhất sự bình an của con trên trái đất? Điều kiện nào thường khiến con cảm thấy phẫn nộ, cảm thấy không muốn ở đây, cảm thấy có điều gì đó không đúng, có điều gì đó đáng lẽ không được như vậy?” Con hãy nhận diện điều kiện đó, và nhận ra điều kiện đó chính là điều kiện con cần vượt qua ở tầng khai ngộ này của khóa nhập thất của thày. Điều kiện này không phải là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con; nó là cơ hội cho con tăng triển. Do đó, điều kiện này giúp con tăng triển.

Làm sao con làm hòa với việc mình đang hiện thân trên trái đất? Tại sao con không an bình? Đó là vì con có một mục đích tâm linh, nhưng đâu đó trong bốn thể phàm của con cũng có một cơ chế ngăn cản con đạt được mục đích đó. Nó ngăn cản không cho con đạt mục đích vì con nghĩ con không thể đạt được mục đích nội tâm nếu điều kiện bên ngoài chưa thay đổi. Cơ hội tăng triển tâm linh chỉ là nhận ra rằng tất cả điều kiện trên trái đất là cơ hội để vượt qua dính mắc và khuôn nếp phản ứng.

Con yêu dấu, nếu con chuyển vọt tâm thức được như vậy, thì con sẽ bình an với việc hiện thân trên một hành tinh dày đặc và thấp như trái đất hiện nay. Điều thày mong muốn là giúp con vươn lên trên sự vật vã nội tâm liên tục khi con biết là mình đang hiện thân, con biết mình không thể búng tay và rời kiếp sống này, nhưng con cảm thấy bực dọc và bị hạn chế vì đang ở đây. Thày mong muốn giúp con chuyển vọt tâm thức, nhìn cuộc đời và nói: “Nhưng đây không phải là một hạn chế – đây là môt cơ hội.”

Thày biết là tâm của con sẽ khởi lên tư tưởng này: “Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với các điều kiện bên ngoài? Có đúng chăng là tôi phải làm điều gì?” Con yêu dấu, tất cả điều thày muốn con làm, khi con đang trải qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, là con tạm thời để qua một bên ước muốn làm điều gì đó trong thế gian. Đúng thực là sau này con sẽ có thể làm gì đó, nhưng chuyện này sẽ xảy ra khi con có viễn kiến cao hơn. Con sẽ không có viễn kiến đó khi con còn chú tâm quá nhiều tới bên ngoài, thay vì chú tâm vào bên trong. Thày cần con, khi con đang trải qua các khai ngộ ở khóa nhập thất của thày, rút sự chú tâm có ý thức khỏi những gì con có thể thay đổi trong thế gian, và nhìn vào những gì con có thể thay đổi nơi chính mình. Thày cần con nhìn vào những gì lấy đi sự bình an của con, và nhìn điều kiện đó như một cơ hội.

Con yêu dấu, con đường tâm linh, con đường dẫn tới thăng thiên là con đường nội tâm, và nó thuộc nội tâm chính vì con không cần vượt qua bất cứ điều kiện bên ngoài nào. Con chỉ cần vượt qua điều kiện nội tâm mà thôi. Hầu hết các điều kiện nội tâm đó là những khuôn nếp phản ứng với những điều kiện bên ngoài trong đó con – hay đúng hơn là tự ngã, tự ngã tách biệt, phàm linh nội tại của con – tin rằng điều kiện bên ngoài có thể hạn chế tăng triển tâm linh của con.

6.7. Niềm tin đằng sau phàm linh nội tại

Con yêu dấu, các thày có nói về phàm linh nội tại, cái ngã tách biệt và các khía cạnh của tự ngã. Điều mà thày muốn con nhận ra là khi lần đầu tiên con nghe tới các khái niệm đó, con ở một tầng tâm thức nào đó. Do đó, trong tâm vỏ ngoài của con, con đã nhìn các khái niệm này dựa trên tầng tâm thức đó. Bây giờ thì con đã theo học khóa này cho tới điểm này với Tia thứ Sáu, con đã vươn lên một tầng tâm thức cao hơn. Điều này có nghĩa là đã đến lúc con tiến lên một bước và có cái nhìn cao hơn về các khái niệm này.

Một phàm linh nội tại, một cái ngã tách biệt được hình thành như thế nào? Nó được tạo ra từ một tin tưởng nào đó. Thường thì các niềm tin này không được tạo ra từ bên trong tâm con vì chúng đã có mặt trong tâm thức đại chúng từ lâu rồi. Sa nhân đã tạo ra nhiều niềm tin đó, do đó có một số phàm linh tập thể. Sa nhân rất giỏi trong việc cho con gặp phải một điều kiện trên trái đất rất khó khăn trên diện vỏ ngoài dẫn tới một hoàn cảnh tạo chấn thương tâm lý. Để đối phó với điều kiện này, con tạo ra một cái ngã tách biệt, một phàm linh nội tại. Phàm linh nội tại này được tạo ra dựa trên một tin tưởng nào đó.

Niềm tin này có thể là, thí dụ, nếu chiến tranh còn có mặt trên trái đất (và do đó con có nguy cơ lại rơi vào chiến tranh) thì con không thể hoàn toàn an bình. Con lúc nào cũng phải đề phòng. Con lúc nào cũng cần biết là điều gì đó có thể xảy ra, một cuộc chiến có thể bùng nổ và con bị lôi kéo vào đó. Đó là lý do vì sao con thấy có rất nhiều người tâm linh, rất nhiều người thuộc khuynh hướng Thời đại Mới, tin vào các lời sấm kí tiêu cực. Họ lúc nào cũng đợi năm 2012 hay bất kỳ năm nào khác được sấm kí cho rằng sẽ có một thay đổi lớn lao, chấn động, hoặc sẽ có một khủng hoảng lớn hay một chiến tranh lớn. Họ lúc nào cũng tìm xem những sấm kí ghê gớm nhất và bị chìm đắm trong đó. Họ không thể buông bỏ chúng, và lý do đơn giản là vì họ có một phàm linh.

Con yếu dấu, một lần nữa, các thày không chê trách các con. Tất cả chúng ta, đã từng hiện thân trên trái đất, đều đã phải chịu chấn thương nặng dưới tay sa nhân. Có thể con không bị tấn công trực tiếp, nhưng con có thể đã bị dính líu vào một cuộc chiến. Thí dụ, con thấy gia đình mình bị giết, con bị giết, con chịu nhiều đau khổ, con bị thương tích, hay bất cứ thảm trạng gì khác. Tất cả chúng ta đã từng hiện thân đều đã gánh chịu những chấn thương đó. Không ai chê trách con vì con đã tạo ra phàm linh đó. Thày không muốn con cảm thấy hổ thẹn vì đã có những phàm linh nội tại đó. Các thày đều đã từng có chúng khi các thày hiện thân trên trái đất. Các thày cũng đã thăng thiên và không còn đầu thai nữa vì các thày đã khắc phục được chúng, từng phàm linh một. Đây là lý do: “Điều một người làm được, tất cả mọi người đều làm được”. Các thày đã làm được. Các thày biết là con làm được, và các thày chỉ hướng dẫn con qua hành trình đó – từng phàm linh một.

6.8. Làm sao khắc phục phàm linh phản hòa bình

Phàm linh mà thày muốn con giải quyết lúc này là phàm linh cho rằng con không thể bình an vì điều kiện này hay điều kiện kia có mặt trên trái đất và đáng lẽ nó không được có mặt. Thày muốn con bắt đầu tách mình ra khỏi phàm linh và nhận ra đây là một khuôn nếp phản ứng và nó không phải là phản ứng của con. Nó không phải là một điều con tin. Niềm tin này đã được lập trình vào phàm linh nội tại. Sau đó, con cần nhận ra là phàm linh nội tại sẽ không bao giờ vượt được ra ngoài niềm tin đã tạo ra nó.

Có đệ tử tâm linh (và dĩ nhiên, họ đang ở tầng thứ hai của khóa nhập thất của thày là nơi Tia thứ Sáu phối hợp với Tia thứ Hai của minh triết) nghĩ rằng họ có thể lý luận với tự ngã của họ, với các phàm linh nội tại của họ, với các ngã tách biệt của họ. Họ nghĩ rằng họ có thể nhìn vào một phàm linh, thấy là nó dựa trên một niềm tin nào đó, và đưa ra một luận cứ. Phàm linh sẽ đột nhiên thấy ra là nó sai và do đó, nó tan biến đi.

Điều này sẽ không xảy ra. Phàm linh sẽ không bao giờ thấy lập trình của nó có gì sai. Đối với phàm linh ảo tưởng tạo ra nó là sự thật tuyệt đối, không thể sai – và nó sẽ luôn luôn như thế. Điều con có thể làm là con tới điểm con hoàn toàn nhận ra ảo tưởng là ảo tưởng. Do đó, con cho phép phàm linh chết đi, con cho phép cái ngã tách biệt chết đi. Con cho nó tan biến đi vì con nhận ra: “Phàm linh này không phải là con. Nó đã từng là một phần của con, nhưng con không muốn kéo nó theo con thêm nữa. Con muốn buông bỏ nó.”

Đây là toàn bộ tiến trình tu tập trên con đường tâm linh. Thày biết là một số học viên sẽ cảm thấy thất vọng. Một số học viên đã nhận được thông điệp này trước đây vì các Thượng sư khác có đề cập đến một cách ít hay nhiều thẳng thắn. Một số học viên tới tầng này của khóa nhập thất của thày và chưa hoàn toàn thể nhập điều này. Khi họ phải đối mặt với sự thực này ở tầng ê-the thì họ cảm thấy thất vọng. Con cần nhận ra điều mà các thày đã luôn luôn nói, là khi con tham gia vào khóa học này con đi tới các trung tâm nhập thất của các Thượng sư vào ban đêm trong thể bản sắc của con. Điều con cần nhận ra là khi con tới khóa nhập thất trong thể bản sắc, con lãnh hội bài học, các sáng ngộ dễ dàng hơn nhiều khi so sánh với khi con ở trong tâm ý thức.

Điều thường xảy ra là học viên thấu hiểu ở tầng bản sắc, nhưng có sự chống kháng, thí dụ, ở thể cảm xúc hay thể tư tưởng, ngăn chặn họ hiểu ở tầng tâm ý thức. Ta có thể nói là các quyển sách, các bài truyền đọc và các bài thỉnh chỉ có một mục đích, đó là giúp con thấu hiểu ở tầng vật lý, ở tầng tâm ý thức những gì con đã hiểu ở tầng bản sắc để nó thấm xuống tâm ý thức của con. Do đó, con thể nhập nó, con hoàn toàn chấp nhận nó. Lúc đó, con có thể một cách ý thức nhìn thấu ảo tưởng, buông bỏ phàm linh, buông bỏ cái ngã tách biệt, và do đó, con có một thái độ cao hơn về cuộc sống.

Điều thày mong đạt được trong bài giảng thứ hai này là giúp con nhận ra con có một cơ chế chống kháng việc con hiện thân trên trái đất vì con cho rằng trái đất hay một số điều kiện nào đó trên trái đất đang hạn chế sự tăng triển tâm linh của con. Thày mong giúp con chuyển vọt tâm thức để thấy mọi điều kiện trên trái đất như cơ hội cho con vượt qua phàm linh nội tại đó, cơ chế nội tại đó, khuôn nếp phản ứng đó.

6.9 An bình với việc hiện diện trên trái đất

Khi con làm được điều này ở tầng tâm ý thức, thì con thật sự bình an với việc con đang ở đây trên trái đất. Lẽ dĩ nhiên, thày biết rất rõ đời sống trên trái đất rất khó khăn. Con yêu dấu, một lần nữa, các thày không chỉ trích. Thày biết là có rất nhiều điều kiện trên trái đất lôi kéo con để khiến con phản ứng lại chúng. Thày biết là ngưng phản ứng rất khó. Thày cũng biết là thày không muốn con sống phần còn lại của kiếp sống này mà cảm thấy bực bội, cảm thấy mình không muốn ở đây, cảm thấy mình không muốn gia nhập cuộc sống hay con đường tu tâm linh. Thày muốn giúp con vươn lên trên phàm linh nội tại đang chống lại việc con đang sống trên trái đất để con cảm thấy bình an sống ở đây.

Con yêu dấu, nếu con đứng lui lại trong tâm ý thức, như con đã làm dễ dàng trong thể bản sắc, và nhìn trái đất với tầm nhìn rộng lớn hơn, với tầm nhìn toàn vũ, thì con có thể nhận ra là dù trái đất là một hành tinh tối đen, dày đặc và khó khăn, nhưng nó cũng là một cơ hội tăng triển lớn lao. Những người trong các con đang ở đây và đã tìm ra giáo lý chân sư thăng thiên, các con có tiềm năng tăng triển lớn lao trong quãng đời còn lại. Để thực hiện tiềm năng này, con cần vượt lên trên phàm linh nội tại đang khiến con chống kháng việc con sống ở đây. Con đã chọn tới đây, và nếu con là một cư dân nguyên thủy, con đã chọn ở đây, con đã chọn ở lại đây. Trong nhiều trường hợp, các con đã chọn lựa như vậy vì con muốn nâng trái đất lên. Con có thấy chăng, vì đây là chọn lựa của con, sự việc con ở đây không phải là một sự trừng phạt. Việc con ở đây không phải là một sự bất công. Nó thực sự là một cơ hội mà con đã chọn vì con thấy đây là cơ hội tăng triển cho riêng cá nhân con – đây là cơ hội tốt nhất con có thể có được dựa trên tầng mức tăng triển tâm linh và toàn vũ hiện nay của con.

Nếu con có thể nhìn một cách ý thức vào dòng sống của con như con có thể nhìn ở cõi bản sắc (và dĩ nhiên là con có thể, nếu con sẵn sàng bước ra ngoài ý niệm bản sắc bình thường của con) thì con có thể hoàn toàn bình an khi con nhận ra con đã chọn hiện thân trong những điều kiện đặc thù của con vì chúng là cơ hội tối đa cho sự tăng triển của riêng cá nhân con.

6.10. Tăng triển cá nhân và phụng sự

Thày biết là có học viên ở tầng này sẽ nói: “Nhưng có phải chăng là mục đích của con đường tâm linh là khắc phục lòng vị kỷ? Có phải chăng là khi con đi xuống những tầng tâm thức thấp nhất trên trái đất, con càng đi xuống sâu thì con người càng ích kỷ và chỉ để ý đến tự ngã mình? Do đó, có phải chăng là có lúc trên con đường tâm linh chúng con cần chú tâm vào phụng sự một đại nghĩa cao hơn thay vì chỉ lo cho riêng mình?” Có học viên cảm thấy là thày dạy phải chú tâm vào chính họ nhiều đến độ (cũng có cả học viên nghĩ như vậy về toàn thể khóa học này và về giáo lý chân sư thăng thiên nói chung) họ bị ngăn cản không phụng sự được. Con được dạy phải chú tâm vào sự phát triển tâm linh của con, sự phát triển của riêng cá nhân con thay vì phụng sự.

Thày đã nói gì trong bài giảng trước của thày? Con không thể thực sự phụng sự trái đất bằng cách làm. Đây là điều những người sống ở Trung đông đã làm suốt mấy ngàn năm qua. Họ nghĩ rằng: “Nguyên do của chiến tranh là những người kia, và nếu mình có thể tiêu diệt họ, thì sẽ có hòa bình trên trái đất.” Họ cố gắng làm, làm và tất cả những gì họ làm là tạo thêm nghiệp, thêm xung đột. Cách duy nhất để nâng hành tinh lên trên một biểu hiện nào đó, tỷ dụ như chiến tranh, là nâng cao tâm thức tập thể cho đến lúc đủ số người thấy sự dối trá đằng sau chiến tranh và thăng vượt nó.

Con yêu dấu, làm sao con nâng tâm thức tập thể? Con có thể đóng góp vào tiến trình này bằng cách thức tỉnh con người, cho họ biết về con đường tâm linh, hay về các dối trá, khai ngộ và sự thực. Con yêu dấu, cách chủ yếu mà riêng con có thể dùng để nâng cao tâm thức tập thể là nâng cao tâm thức của chính mình. Khi con đang hiện thân trên trái đất, con thuộc về tâm thức tập thể của trái đất. Con càng nâng cao tâm thức của mình thì con càng nâng cao tâm thức tập thể. Đây là điều tất nhiên, con yêu dấu. Nếu con nhìn một cách triệt để, con có thể nói là nếu con sống cả một kiếp người chỉ chú tâm một trăm phần trăm vào việc nâng cao tâm thức của mình, và không bao giờ, dù chỉ một lần tìm cách sửa đổi tâm thức của một người khác, thì con đã có đóng góp tối đa vào việc nâng cao tâm thức tập thể.

Tuy nhiên, đa số các con không có nhiệm vụ ngồi thiền trong một hang động trong Hy mã lạp sơn. Nhiệm vụ của con là sống một đời sống tích cực trong xã hội. Có nghĩa là, đối với con, cơ hội tối ưu là một tương tác qua đó con nâng tâm thức của mình đồng thời tương tác với người khác. Dù con có trực tiếp nói với họ về giáo lý chân sư thăng thiên hay chân lý cao hơn hay không, con vẫn cho họ một tấm gương thế nào là sống cuộc đời tâm linh. Đối với con, đây là một tương tác, nhưng con nên hiểu tương tác này là một dòng chảy hình số tám. Làm sao con có thể giúp những người kia nhìn ra sự thật nếu con chưa thấy sự thật? Có một sự trao đổi qua đó con nâng cao tâm thức của mình, sau đó con giúp người khác, sau đó con nâng tâm thức mình thêm nữa và con giúp người khác vượt qua một ảo tưởng khác.

6.11. Nâng cao tâm thức và lan truyền chân lý

Nếu con nhìn vào các phòng trào tâm linh, tôn giáo, chính trị hay từ thiện, con thấy cách họ hoạt động dựa vào ý tưởng sau đây: “Chúng tôi có chân lý, và nếu tất cả mọi người khác có thể thấy chân lý như chúng tôi thấy, thì hành tinh sẽ thay đổi.” Quan niệm này dựa vào một ý niệm đường thẳng, vỏ ngoài của chân lý qua đó con nghĩ rằng nếu con đi và cải đạo người khác để họ tin vào hệ thống niềm tin của con, nếu con thuyết phục được họ theo chân lý của con, thì lúc đó con đã thay đổi được tâm thức tập thể. Con yêu dấu, thay đổi tâm thức tập thể không phải là chuyện cho con người một hiểu biết trí năng. Một hiểu biết trí năng là một phần trong việc thay đổi tâm thức tập thể, nhưng nó không phải là phần chính vì con cũng cần thay đổi thể cảm xúc và thể bản sắc của con người.

Làm sao con làm được việc này? Có rất nhiều thí dụ trên thế giới của những người đi làm việc truyền đạo, đã gia nhập thánh chiến để cải đạo người khác (dù đây là một tôn giáo, hay quan niệm khoa học duy vật, hay bất cứ điều gì khác), và họ cố gắng làm điều này bằng tâm đường thẳng, trí thức, phân tích. Họ nghĩ rằng nếu họ thuyết phục được người khác tin vào một chân lý, thì thế giới đã có tiến bộ.

Trừ phi con đã thể nhập chân lý đó trong cả bốn thể phàm, con không thực sự có thể giúp nâng người khác lên cao hơn, con không thực sự giúp nâng tâm thức tập thể lên. Thày cần con nhận ra là trong phạm vi công việc phụng sự của con, con cần nâng tâm thức mình lên trong cả bốn cõi. Con cần khắc phục các phàm linh, và do đó, con cần vượt qua ảo tưởng là công việc phụng sự của con tùy thuộc vào việc thay đổi người khác. Công việc phụng sự của con không tùy thuộc vào thay đổi người khác; công việc phụng sự của con tùy thuộc việc nâng cao tâm thức của con – thay đổi chính con.

6.12. Thay đổi thế giới mà không thay đổi chính mình

Có một ảo tưởng vi tế trong giới các người tâm linh là con có thể thay đổi thế giới mà không thay đổi chính mình bằng cách đơn giản thay đổi người khác hay qua cách đọc chú, đọc thỉnh hay bất kỳ phương tiện tâm linh nào khác. Nhưng thực sự vấn đề là, trên hết, con phải thay đổi tâm thức của mình, nâng cao tâm thức của mình.

Cũng có một ảo tưởng khác cho rằng con không thể phụng sự thực sự nếu con chú tâm quá nhiều vào chính mình. Thày muốn con tiến lên một bước và nhận ra là có khác biệt cơ bản giữa việc chú tâm vào tăng triển cá nhân bằng cách khắc phục những dính mắc và phàm linh nội tại, và chú tâm tôn vinh tự ngã mà con thấy nơi các người ở dưới tầng tâm thức 48. Con đã tiến xa hơn tầng 48. Do đó, con không ích kỷ như những người kia. Con không chú tâm vào chính mình theo kiểu tôn vinh tự ngã. Có thể là (nếu con chưa đạt khai ngộ ở tầng 96 và tiến về các tầng cao hơn của quả vị Ki-tô) con sẽ thoái hóa trở lại tôn vinh tự ngã qua ham muốn nâng cao mình lên. Đây chính là lý do vì sao thày cho con các hiểu biết này vì một trong những cách người tâm linh bị lôi kéo vào cạm bẫy đó là qua ảo tưởng họ cần phải thay đổi điều gì đó bên ngoài chính họ. Họ nghĩ rằng thay đổi người khác quan trọng đến độ họ có thể bỏ qua bên tiến bộ tâm linh của họ, họ không cần xem xét chính mình, và họ có thể chú tâm vào việc thay đổi người khác. Có những người đã bị lôi kéo vào cạm bẫy đó cho tới tầng 96, và sau đó, họ lại đi trở xuống chân đồi.

Con cần suy ngẫm những ý kiến này. Thày biết là thày đã cho con nhiều chất liệu trong bài giảng này, nhưng thày hy vọng là con nhận ra rằng các khai ngộ sẽ không dễ dàng hơn khi con đi lên cao hơn trên con đường tâm linh. Con sẽ cần suy ngẫm nhiều điều hơn nữa, hay như theo lối nói bình dân, con cần lấy tâm bao chung quanh nhiều vấn đề nữa. Nhưng thực ra thì con không lấy tâm bao quanh vấn đề, mà thực sự con phải tháo gỡ tâm ra, vì chính các phàm linh nội tại đã khiến tâm con bị bao chặt chung quanh một niềm tin khiến con không thể đứng lui lại và nhận ra nó là ảo tưởng. Con nghĩ rằng nó là một chân lý tuyệt đối hay là một điều kiện không thể thay đổi được.

Con yêu dấu, không có điều kiện nào trên trái đất mà tối hậu không thay đổi được. Lẽ dĩ nhiên, có một số điều kiện mà con không thay đổi được ngay lúc này. Nhưng không có điều kiện nào trên trái đất ngăn cản được con thay đổi chính mình, và đó là chân lý và hiểu biết mà con cần phải thấu hiểu với tâm ý thức ở tầng này.

Sau đó, con cần quyết định là con sẵn sàng thay đổi chính mình, con sẵn sàng nhìn vào bất cứ điều kiện nào khiến con bực bội việc con đang hiện thân trên trái đất. Con sẽ đi tìm ảo tưởng và con sẽ tách ra khỏi ảo tưởng và cho phép con cảm thấy: “Vâng, tôi đang ở đây ngay bây giờ vì tôi muốn ở đây. Tôi muốn nâng tâm thức lên cao hơn và tôi vươn lên cao hơn bằng cách thăng vượt điều kiện đặc thù mà tôi đang đối mặt ngay bây giờ.”

Một khi con thấy điều kiện từ bên ngoài, một khi con tách mình ra khỏi nó và nhận ra nó không phải là điều kiện của con (nó chỉ là điều kiện của một phàm linh nội tại), thì con yêu dấu, con được tự do. Con cảm thấy bình an là chính mình và con bình an hiện thân ở đây. Thày thực sự mong muốn cho con an bình đó, vì thày là Thượng sự của Tia thứ Sáu của An bình.

Làm sao sống mà không tạo nghiệp

Bài giảng của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/1/2018.

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Nada. Thày là Thượng sư của Tia thứ Sáu. Con nay đang ở tầng khai ngộ đầu ở khóa nhập thất của thày bên trên nước Ả Rập Xê-út. Khi các học viên đến khóa nhập thất của thày, việc đầu tiên mà thày làm là tập họp họ vào một căn phòng và yêu cầu họ nói lên những gì họ chờ đợi từ khóa nhập thất. Con chờ đợi gì khi con tới Tia thứ Sáu? Con chờ đợi được khai ngộ điều gì?

Một số học viên, khi nói về các chờ mong của mình, nói đến phụng sự. Lẽ đương nhiên là tất cả học viên biết là Tia thứ Sáu theo truyền thống là tia của an bình và phụng sự. Nhiều học viên khi đến đây cảm thấy là họ đã đi một thời gian dài trên con đương tu dưới năm vị Thượng sư trước và họ đã đạt được nhiều tiến bộ, nên bây giờ đã tới lúc họ chú tâm vào nghĩa vụ mà họ đến đây để đóng góp, món quà mà họ muốn dâng hiến trái đất này. Họ cần làm điều gì trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ để giúp nâng cao tâm thức nhân loại?

Con yêu dấu, chờ mong này hoàn toàn hiểu được. Như mọi khi, các thày không trách cứ, các thày không lên án. Nhưng thày phải nói với con là nhiều học viên tới đây với chờ mong không thiết thực về các khai ngộ của Tia thứ Sáu. Không phải là Tia thứ Sáu không quan tâm đến việc phụng sự. Lẽ tự nhiên là phụng sự là một phần các khai ngộ của Tia thứ Sáu, tuy nhiên, con làm sao phụng sự một cách chân chính? Phụng sự chân chính gì? Phụng sự chân chính nâng hành tinh vượt lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên. Làm sao con có thể góp phần vào việc nâng hành tinh lên trên trạng thái tâm thức nhị nguyên, nếu con không bình an bên trong con?

Do đó có nhiều học viên cảm thấy rằng, dựa trên những gì họ đã học với năm vị Thượng sư trước, họ đã sẵn sàng để làm gì đó. Họ sẵn sàng để năng động hơn, hướng ngoại hơn. Họ sẵn sàng để đóng góp phần của mình, cũng có thể là làm điều gì quan trọng. Do đó, họ khá thất vọng khi nghe thấy trọng tâm của khóa nhập thất của thày là đạt được an bình nội tâm.

Thày thấy rất rõ trong hào quang của họ là họ có một sự mâu thuẫn, có cảm giác bị kéo bởi hai xung lực khác biệt. Một đằng họ tự nhiên muốn nghe điều thày giảng vì họ biết thày là người sẽ khai ngộ họ. Nhưng mặt khác, họ vẫn muốn làm cái gì đó. Họ cảm thấy rằng, với những kinh nghiệm, những khai ngộ mà họ đã đạt được trên năm tia, họ quả thực đã sẵn sàng bước vào phụng sự trong lãnh vực nào đó. Lẽ dĩ nhiên là con đã sẵn sàng phụng sự, nhưng câu hỏi là: Con có một cái nhìn thiết thực về phụng sự và hình thức phụng sự cao nhất là gì chăng?

4.1. Lý do không đường thẳng của xung đột con người

Để các học viên bắt đầu chất vấn quan niệm phụng sự của họ, điều thuận lợi là khóa nhập thất của thày tọa lạc trên Ả Rập Xê-út. Lẽ tự nhiên, vì đây là một địa điểm nhập thất trên cõi ê-the nên vị trí địa dư không quan trọng, nhưng đây là một dịp để khiến học viên nhìn vào những gì đang xảy ra tại Trung đông, và đã xảy ra trong vùng này từ mấy ngàn năm nay. Các học viên có thể thấy dễ dàng là trong vùng này có xung đột, và đây là một xung đột đã kéo dài liên tục.

Thày mời học viên nhìn vào vấn đề này, và thày khiến họ làm việc trong nhóm nhỏ để tìm ra nguyên do của sự xung đột. Họ bắt đầu với tình hình hiện tại, xem xét những xung đột đang có, và tìm cách xem xét bối cảnh lịch sử, nguyên do lịch sử của tình hình hiện tại. Khi họ đi ngược dòng lịch sử, họ khám phá nhiều xung đột khác, nhiều xung đột mới. Họ bắt đầu thấy là xung đột dẫn tới xung đột lại dẫn tới xung đột. Khi dọ lần dây chuỗi “xung đột tạo ra xung đột” trở về thời lịch sử sơ khai, họ bắt đầu nhận ra là nếu ta muốn hiểu tại sao có xung đột ở Trung đông, ta không thể chỉ xem xét những nguyên do bề ngoài của sự xung đột. Con không thể xem xét tình hình Trung đông – và đúng hơn là ở mọi nơi trên trái đất – và chỉ nhìn vào các điều kiện bề ngoài. Con không thể nhìn việc nhóm người này đã tấn công nhóm người kia nhiều năm trước, và đó là lý do nhóm thứ hai tìm cách trả thù hay bảo vệ chính họ. Con không thể nhìn những diễn biến bề ngoài và qua đó tìm ra nguyên nhân xung đột.

Các học viên mau chóng nhận ra là ta có thể đi trở ngược dòng lịch sử và thấy một hoàn cảnh bên ngoài đã tạo ra một xung đột đã khiến bạo lực bùng nổ. Bạo lực này, bất kỳ nó biểu hiện ra sao, tạo ra một xung đột mới, một mức độ hận thù mới, tạo ra khung cảnh cho một xung đột mới. Con có thể đi ngược trở về cả mấy ngàn năm như vậy. Ngay cả nếu con có tìm được nguyên nhân nguyên thủy, hành động nguyên thủy đã tạo ra sự xung đột đầu tiên, thì thực sự không thể nói là hành động nguyên thủy này (đã xảy ra nhiều ngàn năm trước đây) là nguyên nhân của xung đột hiện nay. Mặt khác, cũng không thể nói là lần bạo động hay xung đột trước là nguyên do của tình hình hiện nay. Điều mà học viên bắt đầu nhận ra là quan niệm truyền thống, đường thẳng, về nguyên nhân và hậu quả đơn giản là không thể áp dụng vào tình hình Trung đông, và cũng không thể áp dụng vào xung đột con người nói chung.

Chắc hẳn là các học viên biết về sa nhân và đã học và nghiên cứu giáo lý của các thày về sa nhân. Con biết là sa nhân đã sa ngã trong các bầu cõi trước, và họ đem ý đồ của họ vào bầu cõi này. Con biết là chính sa nhân đã đem chiến tranh vào hành tinh này và đã tạo ra đa số các xung đột trên trái đất. Điều mà học viên bắt đầu nhận ra, khi họ tìm về nguồn gốc của xung đột tại Trung đông, là ta không thể nói là sa nhân là nguyên nhân duy nhất của sự xung đột. Họ đúng là nguyên nhân bề ngoài, nhưng họ không phải là nguyên nhân bên trong. Điều mà học viên mau chóng nhận ra là nếu ta muốn hiểu nguyên nhân xung đột ở Trung đông (và ngay cả trên toàn thế giới) thì ta không thể chỉ xem xét các biến cố bề ngoài và cái gọi là nguyên nhân bề ngoài. Con phải nhìn vào bên trong. Con cần nhìn vào tâm lý những người trong cuộc và tại sao họ phản ứng như họ đã làm.

Lẽ dĩ nhiên, với đa số học viên điều này không mới lạ. Điều mới lạ là họ bắt đầu thấy viễn cảnh lịch sử rộng lớn mà họ bỗng nhiên thấy được ở khóa nhập thất của thày vì họ được đọc kho dữ liệu Akasha và có thể thấy những diễn tiến không được lịch sử ghi chép. Thày cho học viên thời gian để làm việc trong nhóm nhỏ và nhận ra các điều này, sau đó tất cả học viên mang ra thảo luận chung. Sau đó, thày đợi. Thày để cho cuộc thảo luận tiếp diễn. Nếu các học viên chưa thấy ra những bài học mà thày tìm cách giúp họ nhận ra, thì họ trở lại nghiên cứu tài liệu lịch sử. Sau một thời gian, ánh sáng bắt đầu lóe lên trong tâm học viên – bình thường là bắt đầu với một người, sau một người nữa, và càng lúc càng nhiều, cho tới khi toàn thể học viên thấy ra – là nguyên nhân thực sự của xung đột là một trạng thái tâm. Trạng thái tâm này không thể đem lại hòa bình. Điều rất quan trọng là con cần hiểu thấu điều này bằng tâm ý thức của con – và đó là lý do tại sao thày nêu lên ở đây để con hội nhập vào tâm ý thức những hiểu biết mà con gặt hái được ở khóa nhập thất của thày.

4.2. Vì sao ta không thể ngưng chiến tranh bằng lý trí

Con yêu dấu, chắc con cũng thấy là có một tâm thức trong thế giới biết rằng chiến tranh là không đúng, chiến tranh đúng lý không được có mặt, chiến tranh phải được chấm dứt. Con thấy rất, rất nhiều người thiện tâm trên trái đất mong muốn chấm dứt chiến tranh. Trong số đó, có những nhà triết học, có nghệ sĩ, có nhà trí thức, có chính trị gia. Họ có mặt trong nhiều lãnh vực xã hội, trong đó có những tổ chức quốc tế, từ các tôn giáo đến Liên hiệp quốc, tổ chức chính trị, và nhiều loại hội từ thiện. Có hàng triệu người biết là chiến tranh phải chấm dứt. Tuy nhiên, họ nghĩ rằng ta có thể dùng lý trí suy luận với những người đang tham gia vào chiến tranh và xung đột.

Con có thể thấy là, ngay cả trong vài thập niên gần đây, thỉnh thoảng có một quốc gia hay một tổ chức quyết định khởi sự một nỗ lực để, tỷ dụ, đem người Do thái và người Pa-le-xtin (Palestine) ngồi vào bàn hội nghị để họ thương thảo ngừng xung đột. Nhưng, như các thày đã nói trước đây, chuyện này sẽ không xảy ra. Người Do thái sẽ không bao giờ làm hòa với người Pa-le-xtin hay các người Ả-rập khác trong vùng. Lý do là vì người Do thái đã định nghĩa bản sắc dân tộc của họ và người Ả-rập đã định nghĩa bản sắc dân tộc của họ theo một cách nhìn chỉ có thể dẫn tới xung đột. Điều cần thiết là người Do thái gia tốc tới một quan niệm bản sắc dân tộc mới, và người Ả-rập cũng gia tốc tới một quan niệm bản sắc dân tộc mới hay quan niệm bản sắc nhóm mới. Lúc đó, có thể là các bản sắc mới này sẽ tìm ra cách sống chung hòa bình. Khi quan niệm bản sắc của các nhóm người còn được quy định dựa trên xung đột, thì hòa bình không thể xảy ra. Rất, rất nhiều người thiện tâm trên trái đất nghĩ rằng nếu họ tìm ra được lập luận đúng, nếu họ tìm ra được sự khích lệ thích hợp, thì sẽ có thương thảo xây dựng và một thỏa hiệp hòa bình có thể xảy ra.

Đệ tử chân sư thăng thiên dễ dàng thấy điều này vì các con đã biết về sa nhân, tự ngã, phin lọc nhận thức và nhiều đề tài khác. Điều thày muốn làm là giúp các học viên tới khóa nhập thất của thày có một hiểu biết thâm sâu hơn về vấn đề. Các con hãy để thày giảng sơ về luật nhân quả để minh họa.

4.3. Luật nhân quả thực sự vận hành như thế nào

Lẽ đương nhiên con quen thuộc với khái niệm nghiệp quả, nhưng con có thực sự quen thuộc với cách nó vận hành chăng? Bên phương Đông, chữ nghiệp nguyên thủy có nghĩa là hành động. Con có một hành động, và nó có một hậu quả. Hậu quả đó là nghiệp. Nó tạo bối cảnh cho hoàn cảnh sau đó. Khi con có hành động trong hoàn cảnh mới đó, con tạo ra nghiệp mới, và nghiệp này tạo bối cảnh cho hoàn cảnh kế tiếp, và cứ tiếp nối như vậy trong bánh xe luân hồi, Biển Luân hồi Sinh tử, cỗ máy chạy kéo con người đi trong kiếp sống con người.

Điều học viên có thể mau chóng nhận ra là ở Trung đông, con người đã tạo nghiệp. Các nhóm người đã tạo nghiệp với nhau từ mấy ngàn năm. Thày có thể cho thấy trên một màn ảnh một thí dụ tình trạng xung đột giữa hai nhóm người. Thày cho thấy ở tầng năng lượng là mối xung đột, nhất là khi nó trở thành bạo lực vật lý, đã tạo nên những tỳ vết năng lượng, những khuôn đúc năng lượng, trong các thể và tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Những khuôn đúc năng lượng này một phần ở trong hào quang (trường năng lượng) của những người liên hệ. Nó cũng ở trong hào quang của nhóm, trong tâm thức của nhóm. Nó cũng có phần dính liền với ngay vị trí địa dư.

Điều mà học viên thấy là con người phản ứng lại tình hình nguyên thủy và tạo ra một khuôn đúc năng lượng. Họ có thể thấy là khuôn đúc này kéo dài, và khi họ tái sanh lần tới, họ vẫn giữ khuôn đúc này trong các thể phàm của họ. Điều này khiến họ hòa điệu với – hay bị ma nhập bởi – khuôn đúc tập thể. Cách họ phản ứng lại tình hình nguyên thủy tạo ra một khuôn đúc đã giới hạn khả năng chọn lựa phản ứng lại tình hình sau, dù tình hình này xảy ra trong cùng kiếp sống hay trong một kiếp tới.

Vì các người liên hệ đã phản ứng bằng bạo lực trước đó, nhận thức của họ trở nên méo mó, bị pha màu, bị giới hạn bởi phản ứng đó. Khi một tình hình xung đột mới xảy ra, họ không thể thấy được một cách đáp ứng hòa bình. Họ chỉ có thể thấy những cách đáp ứng sẽ gia tốc những gì họ đã làm trước kia. Họ có khuynh hướng phản ứng bằng bạo lực, họ dễ dàng phản ứng bằng bạo lực.

Các học viên có thể thấy những người đó đã tạo ta các vết nghiệp quả mà họ mang theo họ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Học viên có thể thấy họ xây dựng các khuôn đúc tập thể càng ngày càng mạnh, và do đó có thể dễ dàng trấn áp tâm của những cá nhân sinh ra trong tập thể đó. Học viên cũng có thể thấy là một nhóm người tham gia vào một cuộc xung đột với một nhóm người khác, và khi họ chết, một số đầu thai vào nhóm kia trong kiếp sống tới. Trong kiếp này con là người Do thái, trong kiếp tới con là người Ả-rập, hay ngược lại. Học viên có thể thấy là tuy các người liên hệ đầu thai vào nhóm khác, nhưng họ vẫn mang theo khuôn đúc phản ứng bằng bạo lực và thù hận. Do đó, ở trong nhóm nào không phải là điều quan trọng. Họ vẫn phản ứng theo cùng một kiểu.

Học viên cũng thấy rõ là có một khác biệt căn bản giữa việc thù hận một nhóm người khác và chuyển sang hành vi bạo lực. Học viên thấy rõ là khi con có hành động vật lý, con làm một hành động ở tầng vật lý, và rõ ràng là con đang làm một cái gì đó. Nó cũng có hậu quả trầm trọng hơn. Tuy nhiên, học viên cũng mau chóng thấy là khi con phóng chiếu tới một nhóm người khác một cảm giác thù hận mạnh mẽ, thì con làm một cái gì đó ở tầng xúc cảm. Nếu con có tư tưởng mạnh mẽ là tại sao một nhóm người khác xấu và họ đã làm gì cho nhóm của con trong quá khứ, thì con làm một cái gì đó ở tầng tư tưởng. Nếu con có một ý niệm bản sắc rất rõ ràng là con hơn nhóm người kia dựa trên bất cứ tiêu chuẩn nào mà con đặt ra, thì con làm một cái gì đó ở tầng bản sắc. Học viên có thể thấy là con người phóng chiếu năng lượng ra với cả bốn thể phàm của họ, và tất cả các điều đó là điều họ làm, đều là hành động. Tất cả đều tạo ra những khuôn đúc nghiệp quả sẽ giới hạn nhận thức của con người, giới hạn quyền tự do chọn lựa hành động của họ.

4.4. Làm sao tránh tạo nghiệp

Học viên mau chóng nhận ra là nếu muốn có hòa bình ở Trung đông, người dân phải ngưng làm. Họ cần ngưng những hành động tạo ra nghiệp. Bây giờ, điều này đối với một số học viên là một điều bí ẩn. Đa số học viên ở mức độ này có thể mau chóng tìm ra giải đáp, vì lẽ tự nhiên, điều này không có nghĩa là con không làm gì cả. Các thày không nói là để tránh tạo nghiệp, con không thể có một cuộc sống năng hoạt. Các thày không nói là con phải về ở ẩn trong hang động của núi Hy Mã Lạp Sơn và thiền về Thượng đế 24 tiếng mỗi ngày.

Điều con cần nhận ra, và học viên có thể dễ dàng nhận ra điều này, là con không thể hành động thông qua trạng thái tâm thức nhị nguyên, thông qua tâm dựa trên sợ hãi. Do đó, học viên thấy rõ ràng là Giê-su tìm cách chỉ con đường phá vỡ những khuôn nếp nghiệp quả, những khuôn đúc nghiệp quả, bằng cách nâng mình cao hơn phản ứng dựa trên sợ hãi. “Hãy thương kẻ thù của con. Hãy chìa má bên kia. Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho mình.” Đây là những lời hướng dẫn chỉ cách ngưng hành động tạo nghiệp ở tầng vật lý. Những lời hướng dẫn này giúp con người ngưng hành động ở các tầng tình cảm, tư tưởng và bản sắc.

Giê-su dạy con người – một cách gián tiếp – là họ, tỷ dụ, không phải là người Do thái hay người Ả-rập. Họ là con trai hay con gái của Thượng đế. Giê-su dạy họ cách vượt qua giận dữ và thù hận. Giê-su dạy họ cách vượt qua những hành động tạo nghiệp. Ngay cả những giáo lý được trao truyền qua Mohammed (ít ra là giáo lý trong sáng, nguyên thủy) cũng có những thành phần này. Nếu những người nhận những giáo lý này đã làm theo, thì họ cũng đã giúp ngưng các vòng xoắn nghiệp quả. Con là đệ tử chân sư thăng thiên có thể mau chóng nhận ra là con người cần ngưng hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi nếu muốn có hòa bình.

Khi học viên đã trải qua giai đoạn (bất kể cần bao nhiêu thời gian) thấy nguyên nhân tình hình Trung đông, thì thày, dĩ nhiên, làm việc mà các chân sư thăng thiên đều làm. Thày thảo luận với học viên những hiểu biết sâu sắc mà họ đã nhận ra qua tình hình Trung đông, chúng cũng áp dụng ra sao cho mọi người khác, và thày nói: “Thày không cho các con nghiên cứu vấn đề này để các con đi tái lập hòa bình ở Trung đông. Thày muốn con nghiên cứu vấn đề này vì thày muốn con nhận ra là cơ chế mà con thấy áp dụng cho Trung đông cũng áp dụng cho chính con.”

4.5. Vượt qua bạo lực nơi các thể cao

Lẽ dĩ nhiên là đa số học viên đã ngừng không có hành động hung hãn nữa, nhưng họ vẫn chưa hoàn toàn ngưng không làm thông qua tâm thức nhị nguyên, thông qua các thể tình cảm, tư tưởng và bản sắc. Điều thày muốn học viên phải đối mặt là trước khi họ có thể tiến xa hơn tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, họ nhất định cần phải ngừng những hành động nhị nguyên, dựa trên sợ hãi ở các tầng bản sắc, tư tưởng và cảm xúc. Con không thể đi quá tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày nếu con còn làm những hành động này. Một số học viên bị chấn động khi nghe thày nói vậy vì họ nghĩ là họ đã vượt qua những hành động này rồi. Ho nghĩ là họ đã vượt qua phần lớn các sự giận dữ, hung hãn và sợ hãi của họ, và họ không có hành động dựa trên sợ hãi, không phóng chiếu ra ngoài năng lượng dựa trên sợ hãi xuyên qua ba thể cao của họ.

Như thày có giảng trong một bài truyền đọc khác, thày có thể đưa học viên vào một căn phòng trong đó họ được niêm phong khỏi ảnh hưởng của thế giới và có thể tạo trong tâm hình ảnh của những cảnh huống bình an nhất. Sau đó, họ dần dần cảm thấy những thành phần phản bình an dâng lên trong tâm họ. Đây là một trải nghiệm rất hữu ích cho học viên vì họ thấy vẫn còn những điều mà họ chưa giải quyết. Dĩ nhiên, các thày có nguyên một bộ giáo lý, giáo lý thực của Giê-su, về tha thứ, chìa má bên kia, tha thứ vô điều kiện, và vì sao con cần tha thứ vô điều kiện để thực sự tha thứ. Điều quan trọng không phải là trừng phạt người khác, khiến họ thay đổi hay sống theo một số điều kiện. Con cần tha thứ vì đây là cách duy nhất để con có thể giải thoát mình khỏi hoàn cảnh. Con không quan tâm đến người khác, điều con quan tâm là con được giải thoát khỏi quá khứ và khuôn nếp phóng chiếu ra ngoài.

4.6. Cát lún của phản bình an

Khi học viên đã có đủ thì giờ để thấu hiểu các điều trên thì thày dẫn họ đi bước kế tiếp. Bước khai ngộ này thoạt trông có vẻ khắc nghiệt, nhìn từ góc độ tâm thức bình thường, lúc tỉnh dạy. Con biết là trên trái đất có một chất gọi là cát lún, và con cũng biết là có người bước vào một vũng cát lún và bị thiệt mạng vì họ cứ bị lún sâu mãi. Thày có ở khóa nhập thất của thày một chất tương tự. Khác biệt, dĩ nhiên, là con ở trong thể bản sắc. Con không cần thở dưỡng khí để sinh tồn do đó không thể bị chết khi làm thí nghiệm này.

Điều thày làm là thày để học viên vào một vũng cát lún ê-the và đơn giản để họ hoặc bơi hoặc chìm. Lẽ dĩ nhiên kết quả là đa số học viên bị chìm vào trong chất đó. Họ vẫn còn sống nhưng họ cảm thấy là họ đang lún xuống càng ngày càng sâu. Lý do vì sao họ bị lún là vì họ vùng vẫy chống lại cát lún. Họ vùng vẫy để không bị chìm.

Khi học viên còn vùng vẫy thì thày phải để họ vùng vẫy. Thày không thể giúp họ. Thày không thể giúp họ. Thày không thể giúp họ gì hết. Họ được phép tiếp tục vùng vẫy. Có nghĩa là có học viên chìm rất sâu vào cát lún. Họ bị cát lún hoàn toàn bao quanh. Họ cũng cảm thấy là họ càng chìm sâu thì động tác của họ càng bị giới hạn, họ càng không cục cựa được. Họ tiếp tục vùng vẫy cho tới khi họ tới điểm chịu thua. Họ bỏ cuộc. Họ nhận ra là vùng vẫy không đưa họ đến đâu hết.

Một số học viên tự họ nhận ra điều này, nhưng số khác thì đột nhiên nhớ là họ đang ở khóa nhập thất của Thượng sư Tia thứ Sáu. Họ đột nhiên có ý nghĩ: “Hay là thày Nada có thể giúp tôi?” Do đó, họ la lên: “Thày Nada, hãy giúp con!” Thày đương nhiên gửi họ một xung lực: “Ngưng vùng vẫy. Ngưng làm. Nằm thật yên.” Lúc đó, hầu hết học viên chợt tỉnh ngộ. Đây là một tỉnh ngộ khai phá, chấn động, quyết định.

Học viên nhận ra rằng chính vì họ vùng vẫy nên bị lún sâu. Khi họ nhận ra điều này, họ tức khắc nằm thật yên. Họ nhận ra rằng khi họ nằm thật yên thì họ không còn chìm nữa. Lúc đó, đa số học viên chưa trồi lên, nhưng họ đã ngừng chìm xuống. Họ nhận ra rằng nếu họ không vùng vẫy thì họ không lún xuống. Họ cũng nhận ra rằng nếu khi bắt đầu họ không vùng vẫy thì họ sẽ vẫn còn nổi trên mặt cát lún. Bây giờ họ nhận ra là họ đã chìm sâu vào cát lún, và làm sao họ có thể trở lên mặt cát?

Sau khi suy ngẫm điều này, một số tự mình tìm ra giải đáp, một số xin thày giúp. Một lần nữa thày nói (tuy họ ở trong thể bản sắc của họ): “Con đã ngừng vùng vẫy ở cấp tương đương với tầng vật lý. Con đã ngừng làm việc vật lý, nhưng con cũng cần ngừng làm ở tầng xúc cảm, tư tưởng và bản sắc. Con cần phải giữ hành động, xúc cảm, tư tưởng và ý niệm bản sắc của con yên lặng. Con cần phải vào trạng thái trung hòa, tức là con chỉ quan sát. Con là nhận biết thuần khiết, chỉ quan sát mà không làm gì cả.” Khi họ đi vào trạng thái tâm này thì họ trải nghiêm là họ từ từ, nhưng chắc chắn, trồi lên mặt cát. Khi họ trồi ra khỏi mặt cát thì thày có mặt ở đó để đón họ. Lúc đó, thày gợi thêm cho họ một ý nữa. Thày nói: “Bãi cát lún này tượng trưng cho bốn tầng của vũ trụ vật chất là nơi con sống với bốn thể phàm của con. Thày muốn con đi qua bãi cát lún đó với tâm trung hòa. Thày muốn con đi qua mà không làm việc đi qua.”

Học viên thường cần một chút thời gian để thể nhập điều này. Nhưng không lâu sau, họ thấu hiểu. Họ nhận ra là trong thể bản sắc của họ, họ có thể di chuyển, lên xuống, tới lui, trong cát lún mà không làm, không vùng vẫy và do đó không bị lún sâu. Họ nhận ra là cát lún không phải là kẻ thù của họ, nó không phải là sự hạn chế, nó không có ý định tấn công họ. Do đó, họ có thể di chuyển xuyên qua cát lún một cách khác, là cách không tạo nghiệp khi di chuyển. Lẽ tự nhiên là khi học viên đã trải nghiệm bãi cát lún, thì họ đi ra khỏi chỗ đó. Thày họp với cả nhóm, và lúc đó học viên nhận ra là điều họ đã làm được trong bãi cát lún, họ cũng có thể bắt đầu làm được ở bốn tầng của vũ trụ vật chất, trong đó có tầng vật lý.

4.7. Làm mà không tạo nghiệp

Khai ngộ ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày là con bắt đầu suy ngẫm và nhận ra là con có thể sống trên hành tinh trái đất – dù trái đất dày đặc và đầy xung đột như hiện nay – một đời sống bình thường, năng động nhưng con không tạo nghiệp quả khi sống. Con không tạo ra những dấu vết năng lượng sẽ giới hạn những hành động và chọn lựa tương lai của con. Có nhiều học viên, tuy đã đi trên con đường tâm linh từ lâu và nghiên cứu nhiều giáo lý tâm linh, không bao giờ suy ngẫm điều này. Tỷ dụ, nhiều đệ tử chân sư thăng thiên quá chú tâm vào việc quân bằng nghiệp quả bằng cách cầu thỉnh ánh sáng tím nên nghĩ rằng yêu cầu chính để thăng thiên là thỉnh cầu đủ ánh sáng tím để quân bằng tất cả nghiệp quả. Họ đã không chú tâm đủ đến việc không tạo nghiệp ngoài việc nghĩ rằng, nếu họ không có hành động bạo hành vật lý thì sẽ không tạo nhiều nghiệp hơn là có thể quân bằng.

Ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày, thày không quá quan tâm việc con quân bằng tất cả nghiệp quả và rời trái đất càng sớm càng tốt. Mục đích cao mà thày muốn đặt cho con là con ở lại trong thế gian nhưng con trong thế gian mà không thuộc về thế gian. Con đi lại và hành động trong thế gian mà không tạo nghiệp cho mình. Do đó, có thể nói là khi con làm được điều này, ở lại thế gian hay thăng thiên không còn khác biệt gì nhiều đối với con.

Con hãy suy ngẫm việc này: con yêu dấu, thày biết rất rõ là tất cả đệ tử tâm linh không có cảm tình với những giới hạn và dày đặc của cõi vật lý và ngay cả bốn cõi của trái đất. Đối với tất cả các con, sống nơi đây không thoải mái. Các con có những phản ứng khác nhau, từ cảm thấy bị quấy nhiễu quá nặng tới cảm thấy khó chịu và bị giới hạn khi ở đây. Con yêu dấu, viễn kiến mà thày muốn cho con ở đây là con có thể vượt lên trên những cảm xúc này. Con có thể tới điểm con sống trong thế gian với tâm bình an vì con có thể đi lại trong thế gian này mà không tạo nghiệp. Điều này không có nghĩa là con không thể hành động. Có một số hành động con sẽ tự nhiên không làm, nhưng có một số hành động con có thể làm vì chúng không tạo nghiệp cho con vì con hành động từ một trạng thái tâm thức cao hơn.

Đối với đa số học viên tới tầng này, đây là một chuyển vọt tâm thức lớn. Thực sự, đây là một chuyển vọt lớn đến độ họ bình thường cần thời gian để suy ngẫm và hội nhập ý tưởng này. Thày không muốn con, ở tầng thứ nhất này của khóa nhập thất của thày, có được khả năng đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp. Đây là một trong những mục đích của toàn khóa nhập thất của thày. Ngay lúc này, thày muốn con suy ngẫm chuyện đi lại trong thế gian mà không tạo nghiệp là việc có thể làm được.

Vì thày biết đây là một ý tưởng rất lạ thường cần thời gian để hội nhập, thày muốn con bỏ ra nhiều thời giờ hơn cho bài giảng đầu này. Các thày có nói là con có thể dành chín ngày cho mỗi bài giảng. Con nghiên cứu bài giảng và con đọc bài thỉnh tương ứng mỗi ngày một lần trong vòng chín ngày. Cho bài giảng đầu này, thày muốn con dành cho nó 33 ngày vì nó là một chuyển vọt lạ thường cho đa số các con. Do đó con nên dành thì giờ để hội nhập điểm này. Thày biết là một số học viên sẽ cảm thấy thời gian này rất dài. Có học viên nghĩ là đã hiểu bài học rồi, vậy tại sao cần lặp đi lặp lại? Thày bảo đảm với con là thày có lý do, và lý do là khi con đọc bài thỉnh trong vòng 33 ngày, con sẽ hội nhập bài giảng và trong lọc ba thể cao của con khỏi mọi dấu vết của ý tưởng cần làm chuyện gì.

4.8. Cạm bẫy của làm

Con yêu dấu, con cần nhận ra là sa nhân không bỏ cuộc chỉ vì con tìm thấy con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên. Sa nhân không bỏ cuộc khi con khám phá ra khóa học này và quyết định tận tụy theo học hết khóa. Sa nhân sẽ tìm cách kéo con trật đường rày ở mỗi tầng cấp của con đường. Một trong những cách tinh tế họ dùng để làm con trật đường rày là họ nêu lên sự kiện con có một Sứ vụ Thiêng liêng và con có mặt ở đây để đem lại những thay đổi tích cực cho trái đất. Sau đó, họ tìm cách đổi màu câu chuyện, pha màu tâm của con với tâm thức rất cũ xưa cho rằng con phải làm một điều gì đó trên trái đất. Nói cách khác, suốt dòng lịch sử đã có nhiều học viên tâm linh đã hiểu thực tại tâm linh tới một mức nào đó. Họ đã thấy có nhiều chuyện không đúng trên trái đất cần phải thay đổi. Họ bị các sa nhân cám dỗ khiến họ tin rằng vai trò của họ là làm cái gì đó để thay đổi những biểu hiện mà họ cho là không đúng. Do đó, nhiều học viên đã lao mình vào một cuộc thánh chiến – ta có thể gọi là một chiến dịch – để triệt tiêu một vấn nạn nào đó.

Lẽ dĩ nhiên là có trường hợp một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con là hành động và tham gia vào một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Nhưng không có trong Sứ vụ Thiêng liêng là con hành động trong trạng thái tâm muốn làm, rồi hành động theo nhãn quan nhị nguyên dựa trên sợ hãi. Con không thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con với tầng tâm thức đó. Con cần nhận ra là sa nhân đã rất quỷ quyệt khi thiết lập ý tưởng là con cần làm.

Nếu con quan sát thế giới hiện nay, con thấy là có nhiều người đang tham gia, thí dụ, vào nỗ lực đem lại hòa bình, đã ở tầng tâm thức khiến họ có thể tiến xa hơn trên con đường đưa tới quả vị Ki-tô. Họ bị ngăn chặn không tiến thêm được trên con đường tới quả vị Ki-tô (ít nhất là trong tâm ý thức của họ) vì họ quá chú tâm làm điều gì đó trong thế giới bên ngoài. Họ đang chú tâm làm điều gì đó với tầng mức viễn kiến, với mức nhận thức mà họ có hiện nay. Họ không mở tâm đón nhận khả năng nhận một viễn kiến cao hơn qua đó họ vẫn sẽ làm điều gì đó, nhưng sẽ làm dựa trên một khuôn khổ và nền tảng hoàn toàn khác. Điều họ làm sẽ khác đến độ họ không thể thấy nó lúc này.

Các thày có nói về sự kiện nhiều học viên tâm linh có ý niệm đúng đắn điều gì cần làm, nhưng lại không có viễn kiến rõ ràng làm như thế nào. Dĩ nhiên, lý do là vì nhiều học viên có cảm nhận là họ ở trên đời để làm chuyện gì đó trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, nhưng họ nghĩ là họ có thể hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng với tầng tâm thức và nhận thức hiện nay của họ.

4.9. Tìm một nhận thức cao hơn trước khi hành động

Điều thày muốn nói với con là con cần bước lui ra khỏi cách nhìn hiện nay của con về cuộc sống, về hành tinh, và chính mình. Thày biết là con đã làm điều này với thày Hilarion để thanh lọc viễn kiến của mình. Thày muốn dẫn con đi lên một tầng cao hơn bằng cách khiến con bước lui lại và nhận ra là con có thể làm điều gì đó trên trái đất, con có thể đi lại trong bốn tầng của vật chất mà không tạo nghiệp. Con yêu dấu, con sẽ không hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng nếu con tạo thêm nghiệp cho chính mình.

Thày biết là với một số trong chúng con, đây là một lời tuyên bố rất lạ thường vì con bị một kế gian khác của sa nhân cám dỗ, đó là cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nói cách khác, có một đại nghĩa quan trọng đến độ ngay cả nếu con phải tạo đôi chút nghiệp, thì điều đó cần thiết (và đáng làm) để đạt được mục tiêu cuồng đại đó. Con yêu dấu, con thấy là toàn thể tâm thức cuồng đại do sa nhân tạo dựng ra và không liên quan gì tới mục tiêu của các chân sư thăng thiên.

Các chân sư thăng thiên đã không tạo ra đấu tranh cuồng đại. Mặc dù con có thể trở về các tổ chức chân sư thăng thiên trước và thấy rằng họ không thách thức quan niệm tranh đấu cuồng đại, nhưng thày nói với con đây là lúc – trên cả hai phương diện phát triển cá nhân và của hành tinh – vượt lên trên quan niệm này. Đã tới lúc vượt lên trên tranh đấu nhị nguyên và bỏ nó lại đằng sau. Đã tới lúc con nhận ra con có thể hiện thân trong thân vật lý, con có thể hành động và có một cuộc sống năng động, mà không cần làm thông qua tư duy cuồng đại, không cần làm với một xung lực nhị nguyên tạo nghiệp cho con.

Các thày có nói là các thày không chú tâm đạt được một kết quả vỏ ngoài đặc trưng nào đó trên hành tinh. Các thày chỉ chú tâm vào việc nâng cao tâm thức tập thể, nhưng đối với cá nhân con, chú tâm thật của các thày là nâng cao tâm thức của con. Ở tầng này của con đường tu của con, thày không quan tâm con có đạt được một mục tiêu vỏ ngoài trong thế giới này. Quan tâm ngay lúc này của thày là con đạt được khai ngộ ở tầng thứ nhất của khóa nhập thất của thày để con có thể tiến lên tầng thứ hai. Thày đã cho con mọi chìa khóa để đạt được khai ngộ này, và thày bảo đảm với con là, ở tầng ê-the, con sẽ không tiến lên khai ngộ thứ nhì nếu con không đạt được khai ngộ thứ nhất này.

Thày biết là thày đã cho con một quyển sách ở tầng vật lý. Do đó, con có thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Ồ, tôi đã đạt được khai ngộ thứ nhất, tôi sẽ đi tiếp tới chương thứ hai.” Con yêu dấu, điều này không có nghĩa là con tiến lên ở cõi ê-the. Con có thể đọc hết quyển sách của thày, nhưng nếu con chưa thấu hiểu và đạt được khai ngộ ở tầng thứ nhất, con sẽ không tiến lên thêm trên tầng ê-the.

Thày đã nói rõ chưa?

Chương 2 – Con sử dụng tâm hay con cho phép tâm sử dụng con

Bài truyền đọc của chân sư thăng thiên Nada qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 12/3/2013.

Nada TA LÀ. Thày vừa là Thượng sư của Tia thứ Sáu, vừa là một trong những đại diện của Mẹ Thiêng liêng cho trái đất. Thày hoàn toàn có thể đảm nhận cả hai chức vụ này bởi vì tất nhiên không có xung đột giữa hai chức vụ, cũng như không có xung đột trong chính tâm thày. Và đây chính là đề tài mà thày mong muốn giảng dạy hôm nay. Vì con thấy đấy, nguyên nhân của tất cả bệnh tật – từ thể lý trí, thể cảm xúc đến cơ thể vật lý – trong bản thể con đều do sự phân chia. Vì sự phân chia làm nảy sinh xung đột giữa hai hay nhiều thành phần với nhau, mà giờ đây con có thể thấy được, hoặc chính các thành phần cũng thấy được là chúng đối chọi với nhau.  

2.1. Trái đất chuyển động cùng với thiên hà

Dựa trên những gì thày Maraytaii đã giảng cho con về tầm nhìn ở tầng cấp thiên hà, là viễn cảnh từ trung tâm thiên hà, con nhìn ra ngoài khoảng không gian bao la này và thấy các vì sao và nhiều hành tinh đang chuyển động nhịp nhàng với nhau thật tuyệt vời, rồi con nhìn xuống, xuống nữa và thấy một hạt bụi nhỏ xíu có tên là trái đất. Từ tầm nhìn thiên hà rõ ràng con thấy trái đất đang di chuyển cùng với trường hấp dẫn của toàn bộ thiên hà và không thể cưỡng lại chính thiên hà. 

Do đó lực hấp dẫn này, như cách con ưa gọi trên trái đất, quả thật đang liên tục kéo trái đất theo cho dù con người trên trái đất có làm gì đi nữa. Chẳng hạn, con có thể quyết định con sẽ đặt một giàn hỏa tiễn khổng lồ ở một phía của trái đất rồi con khai hỏa để trái đất chuyển động ngược chiều với lực hấp dẫn của thiên hà đang kéo trái đất theo. Nhưng cho dù con có đặt bao nhiêu hỏa tiễn đi nữa, con cũng không thể cưỡng lại lực hấp dẫn của toàn bộ thiên hà. Có thể con tạo ra ảo tưởng là con có khả năng cưỡng lại lực hấp dẫn này, nhưng thật sự là con không thể. 

Rồi khi con nhìn thiên hà và toàn thể vũ trụ vật chất, con nhận ra định luật tối thượng là Luật Tự quyết. Tuyệt đại đa số thiên hà và tuyệt đại đa số các hành tinh có sự sống trí năng, tất cả đều đã chọn chuyển động hướng thượng trong đường xoắn ốc đi lên mà các thày gọi là Dòng sông sự Sống và Thánh linh. Không thể đếm hết hàng tỷ sinh thể tự nhận biết đã chọn hợp nhất tâm mình – tức tâm cá thể của mình – với dòng chảy vĩ đại của tâm tổng thể đang liên tục tuôn chảy hướng lên cao. 

Nhưng cũng vì Luật Tự quyết mà có một số hành tinh trong vũ trụ nơi phần lớn các cư dân đã chọn không hòa nhập với Dòng sông sự Sống, với dòng chảy đi lên. Trái đất tất nhiên là một trong các hành tinh này. Và đó là tại sao con thấy rất nhiều tình trạng trên trái đất bị mất cân bằng, gồm những tình trạng trong tự nhiên như thiếu thốn và các thảm họa thiên nhiên. Và cả những tình trạng trong cơ thể vật lý của con người như mệt nhọc và đủ loại bệnh tật khác nhau trong cả thể chất lẫn tinh thần. 

2.2. Sự phân rẽ của các phàm linh đối nghịch  

Con thấy đấy nguyên nhân của tất cả bệnh tật là có một sự phân rẽ trong bản thể con, có nghĩa là có hai thành phần phân chia chống đối nhau. Điều này có thể xảy ra ở nhiều tầng khác nhau. Tất nhiên, như các thày đã nói có bốn tầng: bản sắc, lý trí, tình cảm và vật lý, nhưng thậm chí có những tầng khác nữa. Vì con có thể tạo ra các phàm linh để thực hiện một việc cụ thể gì đó cho con, nhưng rồi con lại tạo ra một phàm linh khác đối chọi với phàm linh đầu. 

Lấy một ví dụ về điều này, con biết việc nhiều người trong các kiếp trước đã tạo nên một số phàm linh ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân, và có lẽ họ có khuynh hướng nổi giận trong một số tình huống nào đó. Nhưng trong các kiếp sống sau, những người này đi theo một tôn giáo hay ngay cả có cái nhìn tâm linh hơn về cuộc đời. Và bây giờ họ quyết định việc người tâm linh, người Cơ Đốc, hay người đạo Phật mà nổi giận thì thật không đúng hay không tâm linh. Nhưng thay vì nhìn vào chính tâm mình, phát hiện phàm linh đã khiến mình tạo nên khuôn đúc phản ứng tức giận ban đầu thì họ lại tạo ra một phàm linh khác để đè nén phàm linh tức giận. Bây giờ con có hai phàm linh được thiết kế với hai mục đích trái ngược, và ngay từ đầu, chúng đã gây chiến với nhau. 

Người ta thường không hay biết về cuộc chiến này vì trong một số trường hợp, người tâm linh rất giỏi việc cho phép một phàm linh đè nén cơn giận của mình đến mức cơn giận hiếm khi xuống đến tâm ý thức. Nhưng thày có thể đảm bảo với con không một phàm linh nào được tạo ra ở cõi vật chất có thể hoàn toàn đánh bại một phàm linh khác. Con có thể có một phàm linh giận dữ. Con có thể đã tạo ra một phàm linh khác để đè nén phàm linh giận dữ. Nhưng phàm linh đè nén này không thể tiêu diệt phàm linh giận dữ. Nó không đủ mạnh để làm vậy. Tại sao nó lại không đủ mạnh? Vì nó không có tự nhận biết. 

Con đã tạo ra phàm linh giận dữ này. Con là nhận biết thuần khiết, con là cái Ta Biết, chính con đã tạo ra phàm linh giận dữ. Con đã tạo ra phàm linh đè nén. Và chỉ có con, người đã tạo ra các phàm linh này, mới có thể giải thể chúng, có thể làm chúng tan rã, có thể để chúng chết đi.  

Điều thày muốn nói ở đây là: Phàm linh đè nén có thể rất mạnh trong việc đè nén phàm linh giận dữ đến mức con không thể nhận ra là con đang nổi giận. Con không nhận ra con có phàm linh giận dữ. Tuy nhiên những phàm linh giận dữ này vẫn nằm trong thể cảm xúc của con. Một phần của nó có thể nằm ở thể lý trí và thậm chí ở cả cõi bản sắc. Con cho rằng điều hợp lý là cuộc sống phải thỏa mãn một số kỳ vọng của con, và nếu nó không thoả mãn được thì việc con nổi giận không có gì quá đáng, vì cuộc sống lẽ ra không được như vậy. 

2.3. Các phóng chiếu ở tiềm thức

Bây giờ con thấy các phàm linh ở các tầng cao hơn vượt khỏi nhận biết ý thức của con bởi vì phàm linh đè nén không vô hiệu hoá được chúng, mà nó chỉ vô hiệu hoá sự nhận biết ý thức của con về chúng. Nó chỉ đè được chúng ở tầng ý thức, nhưng chúng vẫn hoạt động ở các tầng cao. Điều này có nghĩa là con vẫn đang phóng chiếu các hình ảnh và năng lượng vào tấm gương vũ trụ xuyên qua các phàm linh này. Và đó là lý do tại sao tấm gương vũ trụ chỉ có thể phản chiếu lại cho con chính xác những gì con gửi ra. 

Ảo tưởng của nhiều lời dạy phổ biến về khoa tự cứu tâm lý là họ hứa hẹn con có thể đạt được kết quả rất lớn bằng cách thay đổi thái độ ý thức của mình và khoác vào một “thái độ tư duy tích cực”. Nhưng đơn giản điều này không đúng, con yêu dấu. Vì nếu con không đạt đến điểm thấy được các phàm linh ở những tầng cao và con không giải thể chúng một cách ý thức, thì con sẽ đơn giản tạo ra một phàm linh khác, đó là “phàm linh thái độ tư duy tích cực”, và cuối cùng khi con cho phàm linh này đủ năng lượng, có lẽ nó sẽ làm được một chuyện là trấn áp các phàm linh kia ở tầng ý thức mà thôi. 

Vì vậy ở tầng ý thức con nghĩ: “Tôi đang tích cực quá đỗi, tôi đang gửi ra ngoài toàn là năng lượng tích cực, vì vậy tấm gương vũ trụ phải gửi lại cho tôi những hoàn cảnh tích cực”. Và khi con không nhận được hoàn cảnh tích cực thì con chán nản, con nghĩ chắc phải có gì không ổn. Nhưng con đã không nhận ra là tấm gương vũ trụ không chỉ gửi lại những gì ở tầng ý thức của con mà nó còn gửi lại toàn bộ những gì con phóng chiếu ra từ bốn thể phàm của con. 

Bây giờ con thấy thày đang dẫn đến một điều giản dị ở đây: Con không thể cưỡng lại sức kéo của tâm tập thể, tâm đại chúng, đã được tạo ra trên trái đất. Cá nhân con không thể cưỡng lại tâm này. Con có thể cố tạo ra các phàm linh nhằm trấn áp tâm tập thể và các xu hướng giận dữ hoặc hung hãn hoặc bất kỳ xu hướng nào khác của tâm đó, nhưng con sẽ không thành công. Có lẽ ngoại trừ ở tầng ý thức, con mới dối được mình khi nghĩ mình là người tâm linh, người tốt bụng, hay người đáng mến. Nhưng con vẫn sẽ bị ảnh hưởng bởi những phàm linh ở các tầng cao hơn của tâm con, những phàm linh này nằm bên dưới tầng nhận biết ý thức, là nơi thường được gọi là tiềm thức. 

2.4. Tìm cách kiểm soát tư tưởng

Con thấy gì ở nhiều người tâm linh, cả những người rất thuần thành và những người đã thiền tập trong nhiều năm? Điều con thấy ở đây là: Họ đã nhận ra một phần những gì họ cần làm để tiến bộ tâm linh là kiểm soát tâm mình, tránh những tư tưởng xáo trộn hoặc có lẽ thậm chí tránh tất cả mọi tư tưởng. Vậy họ đã làm gì? Họ đã tạo ra một phàm linh tìm cách kiểm soát tư tưởng của họ, tìm cách đè nén một số tư tưởng nhất định hay đè nén mọi tư tưởng. 

Nhưng phương pháp này có mấy điểm không xây dựng. Trước hết, con chỉ có thể dùng phương pháp này ở tầng ý thức. Thật ra con có thể thành công trong việc đè nén các tư tưởng ở tầng ý thức khiến con nghĩ con có thể đi vào các tầng thiền sâu và không còn bất cứ một niệm nào. Nhưng điều này không nhất thiết là con đã làm sạch các thể cao của mình. Qua thiền và các phương pháp luyện tập tâm linh khác, một số người đã thành công trong việc làm sạch các thể cao của họ. Nhưng họ đã thành công chỉ vì một lý do duy nhất: Họ đã sẵn lòng nhìn vào mọi thứ diễn ra ở những thể cao này và loại bỏ chúng. Đây là những người sẽ thành công trong việc áp dụng một giáo lý tâm linh cho dù đó là giáo lý gì. 

Tuy nhiên có nhiều người, đặc biệt ở các nước phương Tây hiện đại, đã sử dụng một phương pháp vỏ ngoài và nghĩ rằng điều quan trọng trên hết là phải chế tạo được một kết quả nào đó – và họ không sẵn lòng đi vào các vùng thâm sâu của tâm. Họ quá chú tâm vào việc đạt được một kết quả, và bởi vì họ quá chú tâm vào kết quả – cho dù đó là làm tâm bất động hay cái gì khác – nên họ đã tạo ra một phàm linh có ý định đạt được kết quả đó. Như thày đã nói, phàm linh có thể làm được điều này ở tầng ý thức nhưng nó không thể giải quyết những phàm linh ở các tầng sâu hơn. 

Con thấy nhiều người có ảo tưởng là họ rất tâm linh nhưng không phải vậy, vì họ không giải quyết những gì đang diễn ra ở các tầng sâu hơn. Ý thày giản dị là: Khía cạnh của Bài ca sự Sống, khía cạnh mà thày đang giảng đây, là tầng lý trí. Thày Maraytaii đã nói về tầng bản sắc và thày đang nói về tầng lý trí. Nhiều người tin rằng để kiểm soát được thể lý trí, bằng cách nào đó họ phải kiểm soát tư tưởng của mình – hoặc bằng cách điều khiển chúng phải theo một số khuôn nếp nhất định, hoặc khiến chúng yên lặng hoàn toàn bằng cách ép bỏ mọi tư tưởng. 

2.5. Nguyên nhân tư duy của bệnh tật

Tuy nhiên như thày đã cố gắng giải thích, điều này sẽ chắc chắn tạo ra một sự phân chia trong bản thể của con qua đó con sẽ tạo ra mấy phàm linh giao chiến với nhau. Việc này sẽ hao tổn năng lượng của con. Sự xung đột giữa các phàm linh cũng sẽ tạo ra sự phân chia này và qua thời gian nó sẽ biểu lộ thành một căn bệnh trong thể vật lý. 

Vậy thể vật lý là gì? Đó là một phóng chiếu của tâm. Tất cả đều là tâm. Cơ thể vật lý của con không tồn tại trong một không gian vật lý, như con đã được nuôi dạy để tin vào những hiểu biết khoa học đương đại về vũ trụ – là loại hiểu biết vẫn lệ thuộc quá đỗi vào giác quan vật lý của con người. 

Sự thật sâu xa là, như thày Maraytaii đã nói, mọi thứ đều được tái tạo nhiều lần mỗi giây. Cơ thể con không tồn tại qua thời gian. Nó liên tục được tái tạo bởi một hình ảnh được phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật. Hình ảnh đó được phóng chiếu qua ba tầng cao hơn của ba thể cao hơn của con và qua cả tâm ở tầng vật lý. 

Chẳng hạn, khi con có một sự phân chia ở tầng lý trí thì sự phân chia này cuối cùng sẽ thấm xuống tầng vật lý. Bây giờ con sẽ có một hình ảnh bất toàn, một hình ảnh với nhiều mâu thuẫn, được phóng chiếu lên Ánh sáng Mẫu-Vật. Và điều này sẽ biểu lộ ra thành một loại xung đột nào đó trong cơ thể vật lý khiến các tế bào không thể vận hành đúng chức năng, thậm chí chúng còn có thể tự huỷ hoại hay huỷ hoại các tế bào khác, để rồi cuối cùng con mắc phải một căn bệnh có thể phá huỷ một bộ phận hay một phần cơ thể hoặc ngay cả làm suy sụp toàn bộ cơ thể. Không thể có cách nào khác, vì cơ thể vật lý chỉ có thể trải bày những gì đang được phóng chiếu từ các thể cao. 

Những gì thày đang nói ở đây rất giản dị: Nếu con nghĩ rằng việc chủ động tâm mình có nghĩa là làm yên tất cả mọi tư tưởng thì đó không phải là một cách tiếp cận xây dựng. Điều các thày đề nghị trong phương pháp chữa lành của Bài ca sự Sống là cho con một chọn lựa khác qua đó con không tìm cách áp chế tư tưởng. Con không tìm cách kiểm soát tư tưởng, mà thật ra con cho phép tư tưởng xuôi chảy. 

Vì lý do giản dị là: Con không thể thay đổi bất kỳ điều gì trong quá khứ. Con không thể quay ngược thời gian cũng như thay đổi quá khứ. Con chỉ có thể thực hiện thay đổi ngay bây giờ, ngay trong giây phút hiện tại. Những gì tâm lý trí làm là nó phóng chiếu một hình tư tưởng, rồi nó phóng chiếu ra là hình tư tưởng này không còn là một hình ảnh mà là chính thực tại. 

Theo một nghĩa nào đó thì câu trên cũng phần nào xác thực vì như thày đã nói, hình tư tưởng được phóng lên Ánh sáng Mẫu-Vật và vì vậy chúng trở thành thực tại tạm thời của con. Nhưng chúng không phải là thực tại theo nghĩa tối hậu. Chúng là những khái niệm. Chúng là những tâm ảnh. 

2.6. Thay đổi hình tư tưởng

Những gì con cần làm để thay đổi ở tầng vật lý đó là thay đổi hình tư tưởng. Nhưng đây là bí quyết. Con không thể thay đổi hình tư tưởng trong quá khứ. Con chỉ có thể thay đổi chúng trong giây phút hiện tại. Và con chỉ có thể làm điều này bằng cách sử dụng khả năng sáng tạo của con. 

Kỳ thực con không thể xóa bỏ một hình tư tưởng. Ngay cả chuyện toan tính xóa bỏ cũng không có tính xây dựng. Nhưng đó là điều tâm con bảo con phải làm, bởi vì tâm tách biệt bị mắc kẹt vào hình thái suy nghĩ nhị nguyên, và trong hình thái suy nghĩ nhị nguyên thì hai cực cơ bản gồm lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ giờ đây bị xem là hai cực đối lập. Tâm tách biệt, tâm rắn, gắn vào đó một phán xét giá trị cho rằng có tốt và có xấu. Và vì vậy, cái xấu phải bị xóa bỏ để cái tốt chiến thắng. 

Nhưng con thấy đấy, cả hai cực nhị nguyên đó được tạo ra cùng một lúc và chúng phụ thuộc lẫn nhau. Cái này không thể tồn tại mà không có cái kia. Nếu con loại bỏ cái con cho là xấu thì cái tốt cũng không tiếp tục tồn tại. Và vì vậy, con không bao giờ có thể xoá bỏ được cái xấu bằng cách sử dụng tâm nhị nguyên. 

Nhưng những gì tâm làm – những gì tâm lý trí làm rất giỏi – là dùng khả năng của lý trí để phân tích, so sánh, và tạo ra một hệ thống nói rằng: “Những tư tưởng này là tốt, những tư tưởng kia là xấu. Tôi phải tìm cách huỷ diệt các tư tưởng xấu”. Điều tâm nói, mà cũng là sở trường thực sự của nó: “Có một vấn đề tôi phải giải quyết trước khi tôi có thể khoẻ mạnh hay trước khi tôi có thể là người tâm linh. Và vấn đề đó liên quan đến một việc gì sai trật và tôi phải tiến hành chỉnh đốn điều sai trật này bằng cách huỷ diệt cái sai.”

Thế là con bị kẹt trong trò chơi qua đó con tìm cách nhận diện và phơi bày một khuôn đúc tư tưởng mà con cho là sai. Rồi sau đó con tìm cách phá huỷ khuôn đúc tư tưởng này. Nhưng con đang làm gì chứ? Chính những gì thày vừa mô tả ở trên. Có thể có một khuôn đúc tư tưởng không có tính xây dựng và khuôn đúc này giờ đây biến thành một phàm linh và phàm linh này đang liên tục phóng chiếu khuôn đúc đó. Nhưng nếu con dùng tâm để tìm cách giải quyết vấn đề này, con sẽ đơn giản tạo ra một phàm linh khác và phàm linh này được thiết kế để cố phá huỷ phàm linh ban đầu. Như thày đã nói, điều này không dẫn tới một giải pháp. Chữa lành không có nghĩa như những gì con đã tin trên hành tinh này, là nếu một tế bào bị ung thư thì con cần huỷ diệt tế bào đó. 

2.7. Sự chữa lành sáng tạo

Con yêu dấu, con không thể chữa lành qua sự huỷ diệt. Con có vui lòng xem lại câu nói giản dị này và cho phép nó thấm đẫm vào bản thể con không? Vì nếu con muốn được chữa lành và toàn vẹn thì con phải nhận ra con không thể chữa lành bằng cách huỷ diệt. Con rời bỏ sự toàn vẹn qua việc phân chia. Con không thể quay trở lại sự toàn vẹn bằng việc dùng một nỗ lực phân chia để huỷ diệt một sự phân chia khác. Điều này chỉ khiến con gia tốc hành trình đi xuống, rời xa sự toàn vẹn. 

Con phải làm gì đây? Con phải kích hoạt lại khả năng sáng tạo của tâm. Sáng tạo không phải là tìm cách nhận diện một vấn đề và loại bỏ vấn đề đó. Sáng tạo là khi con nói: “A, khuôn đúc cũ kỹ này không còn hữu ích cho tôi nữa. Tôi không muốn nó nữa. Tôi đang tìm kiếm một khuôn đúc cao hơn. Tôi đang thăng vượt khuôn đúc cũ. Tôi đang tái tạo lại ý niệm bản sắc của tôi. Tôi đang tái tạo lại trí thể và những tư tưởng của tôi.” Con có thấy không? 

Bằng việc sáng tạo, con vượt thăng cái cũ. Con không hủy diệt cái cũ. Chẳng hạn làm sao con vượt qua được bệnh ung thư? Không phải bằng cách hủy diệt các tế bào đang biểu lộ bệnh ung thư, vì điều này chỉ làm tăng thêm lực phân chia, sự tự huỷ diệt và sự xung đột giữa các tế bào. Con vượt qua căn bệnh bằng cách yêu thương các tế bào. Con vượt qua căn bệnh bằng cách nhìn vượt quá xung đột vật lý bên ngoài để nhìn vào các bộ phận tình cảm, lý trí và bản sắc đã khiến con phóng chiếu những hình ảnh này lên các tế bào, mà giờ đây đang khiến chúng tự hủy diệt hay hủy diệt những tế bào khác nữa. 

Con có thấy không? Chỉ qua sự sáng tạo con mới thăng vượt các khuôn đúc bị phân chia đã gây nên bệnh tật và xung đột. Nhưng sự sáng tạo là tình thương: tình thương đối với cái hơn nữa, tình thương đối với cái mới, tình thương đối với sự thăng vượt cái cũ. 

2.8. Chọn hòa điệu với tâm nào

Con có thấy những gì thày đang cố nói ở đây? Con, một con người trên trái đất, có một chọn lựa: Con muốn hoà điệu tâm cá nhân con với tâm nào, tâm tập thể nào? Con có muốn hoà điệu tâm con với tâm đại chúng được tạo ra trên trái đất, hay con muốn hoà điệu tâm con với tâm tập thể vĩ đại hơn được tạo ra trong toàn thể vũ trụ? 

Tâm tập thể vĩ đại hơn – tức Thánh linh, Dòng sông sự Sống – là một tâm sáng tạo hướng thượng. Tâm tập thể được tạo ra trên trái đất là tâm phân rẽ có sự xung đột giữa các thành phần – như con cũng thấy biểu lộ qua các nhóm người liên tục tìm cách huỷ diệt lẫn nhau. 

Chừng nào con còn hoà điệu với tâm đó, con sẽ không dễ dàng tìm thấy sự chữa lành. Tất nhiên, con sẽ không tìm thấy sự toàn vẹn. Con có thể phủ lấp các triệu chứng vật lý trong một thời gian nhưng rồi con sẽ chỉ có thể che đậy chúng. Con sẽ không thật sự chữa lành, con sẽ không giải quyết được gì.

Những gì các thày đang trao cho con qua công cụ này của Bài ca sự Sống là một cách trong lọc các tầng của tâm con và do đó bắt đầu hoà điệu tâm cá thể của con với tâm vĩ đại hơn, với Dòng sông sự Sống. Các thày làm điều này bằng cách cho con công cụ này qua đó con có thể dùng uy lực giọng nói của con, uy lực của giọng đọc vần điệu, để cầu thỉnh ánh sáng tâm linh, cầu thỉnh các khuôn đúc âm thanh của Bài ca sự Sống. Điều này sẽ bắt đầu căn chỉnh thẳng hàng các khuôn đúc lặp đi lặp lại được tạo ra trong bốn thể phàm của con và được phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật tạo nên cơ thể vật lý của con. 

Đây là một phương pháp chữa lành khác. Đây là một phương pháp chữa lành khả dĩ. Có thể không chữa lành ngay lập tức, nhưng rồi lần nữa, nếu con chuyển đổi đủ tâm mình, việc chữa lành có thể xảy ra ngay lập tức. Ngay khi tâm con chuyển tới điểm con không còn phóng chiếu các khuôn đúc gây ra bệnh tật trong cơ thể vật lý, thì ngay lúc đó, cơ thể vật lý của con có thể được tái tạo tức khắc. 

Đó chẳng phải là kết quả hợp lý của lời dạy mà thày đã cho con là mọi thứ trong vũ trụ vật chất đang được phóng chiếu nhiều lần mỗi giây lên Ánh sáng Mẫu-Vật hay sao? Rồi con chẳng thấy hay sao là một khi con thay đổi khuôn đúc thì biểu lộ vật lý sẽ thay đổi ngay lập tức?  

Đây chính là những gì thày Giê-su đã biết khi thày chữa cho người đàn ông có cánh tay bị teo, khi thày thực hiện nhiều việc chữa lành khác được gọi là phép lạ. Đó không phải là phép lạ gì cả. Thày đã có khả năng dùng sự chứng đạt của mình để giúp họ vượt qua khuôn đúc – bước ra ngoài khuôn đúc – mà họ đã phóng chiếu lên thể vật lý. Đó là lý do vì sao Giê-su đã hỏi họ: “Các con có tin ta có quyền năng chữa lành không?” Và khi họ tin thì họ có thể được chữa lành. 

Giờ đây, mặc dù điều này không được ghi lại trong Kinh Thánh nhưng thày phải nói với con, vài người trong số họ lại sa ngã và sau một thời gian, căn bệnh cũ tái phát vì họ đã không thể vun bồi ân sủng mà Ki-tô đã ban phát và tái tạo lại một cách ý thức ý niệm bản ngã của mình. Do đó, sau một khoảng thời gian ngắn, họ lại tái tạo cùng khuôn mẫu và lại phóng chiếu căn bệnh lên thể vật lý. 

Dẫu sao, thày đang nói cho con sự thật này, đó là sự thật Ki-tô. Ki-tô trong con có quyền năng chữa lành ngay tức khắc cơ thể vật lý, cảm thể, trí thể và bản sắc thể của con. 

“Con có tin không?” Vì khi con tin, việc chữa lành sẽ xảy ra y như con tin. Đây là Luật Tự quyết, con yêu dấu. Đây không phải là mơ tưởng. Đây là quy luật. 

2.9. Thách thức tin tưởng

Tuy nhiên, khi nói câu: “Con nên tin điều này” với một ai đó thì tất nhiên không xây dựng lắm. Nhiều người không thể tin vì họ mang quá nhiều hành lý trong bốn tầng của tâm. Họ có quá nhiều năng lượng tha hoá. Họ có quá nhiều tin tưởng nhị nguyên. Và mặc dù thày muốn con biết sự thật này, nhưng đó là lý do thày không muốn con cảm thấy buồn phiền nếu con không thể tin ngay. 

Tuy nhiên, thày biết một số người có thể tin ngay và có thể thay đổi ngay. Và chắc chắn thày sẽ muốn chọn lựa này mở ra cho những ai có khả năng tận dụng cơ hội đó. Nhưng với những ai không thể tin ngay, hãy dùng những dụng cụ mà các thày đã trao truyền. Không chỉ là Bài ca sự Sống, mà nhiều dụng cụ khác mà các thày đã ban ra như: các bài chú, các bài thỉnh, các giáo lý mà con đã học – đặc biệt là các giáo lý của Bảy Thượng sư – rồi con hãy tinh tấn chuyển đổi ý niệm bản ngã của con. Vì chẳng phải là con đang bắt đầu nhận ra bằng việc lắng nghe những lời này và bằng việc đọc các bài thỉnh của Bài ca sự Sống, con có thể chuyển đổi ý niệm bản ngã của mình, và chỉ có con mới có thể làm được điều này hay sao? 

Ki-tô không thể xoay chuyển bản ngã của con giùm con. Chỉ có cái Ta Biết mới có thể xoay chuyển ý niệm bản ngã của con. Nhưng Ki-tô có thể giúp con làm việc thay đổi này dễ dàng hơn khi con quyết định buông bỏ bản ngã cũ. Con là người duy nhất có thể buông bỏ vì con có quyền tự quyết. Con là người duy nhất có thể dùng khả năng của mình – khả năng quay trở lại nhận biết thuần khiết – để nhìn vào trí thể từ bên ngoài và nói: “A, tôi thấy tâm mình đang làm gì. Tôi thấy tâm mình như một cái máy điện toán. Nó được lập trình để thực hiện một số chức năng và nó sẽ tiếp tục mãi việc này một cách vô ý thức cho đến tương lai vô định, trừ khi tôi nhấc chuột lên và bấm vào nơi khác, hay tôi ra khỏi chương trình đã chạy suốt nhiều kiếp sống trong trí thể của tôi. Bây giờ tôi thấy tâm mình đã được lập trình để giải quyết một số vấn đề. Nhưng tôi biết Tôi, cái Ta Biết, không cần giải quyết những vấn đề này. Chúng không cần được giải quyết. Chúng cần được thăng vượt. Chúng cần được bỏ lại đằng sau”. 

Đây là chìa khoá để chữa lành: Đó là con chuyển đổi ý niệm bản ngã ở tầng bản sắc, tầng lý trí, tầng tình cảm và tầng vật lý. Con có tin mình có uy lực làm được điều này không? Vậy thì Bài ca sự Sống và giáo lý của các chân sư thăng thiên có thể giúp con. Nếu con không tin con có uy lực thay đổi ý niệm bản ngã của mình thì các thày không thể giúp con, thày rất tiếc phải nói vậy. 

Nếu vậy con sẽ phải học từ Trường đời Cay đắng cho đến khi con gặp quá nhiều khổ đau đến mức con mở tâm ra và nói: “Chắc chắn phải có một cách sống tốt hơn thế này”. Rồi con bắt đầu tự hỏi mình những khổ đau này đến từ đâu – chúng đến từ sự phân chia trong bản thể của con. Con có thể nhận ra con đã tạo ra những phân chia này, và mặc dù thoạt tiên con khó nhận ra chúng, nhưng con yêu dấu, điều tài tình là những gì con đã tạo ra thì con cũng có uy lực tháo gỡ và hoàn nguyên. 

Con có tin không? Vậy hãy nắm lấy công cụ các thày đã trao cho con. Hãy nắm lấy các giáo lý và chuyển đổi ý niệm bản sắc của mình. Hãy chuyển ra khỏi cái tâm đã nghĩ nó phải làm tất cả những thứ đó, nghĩ nó phải giải quyết tất cả vấn đề đó, nghĩ nó cần cứu người khác hay cứu hành tinh này. Thay vì vậy, hãy tập trung vào việc cứu lấy chính mình bằng cách quay lại sự nhận biết thuần khiết. Vậy con hãy dùng Bài ca sự Sống, nhưng con đừng nghĩ chỉ một công cụ có thể làm tất cả mọi thứ cho con vì nó sẽ không xảy ra một cách tự động. 

Con có tin không? Vậy con hãy nhận mãnh lực của niềm vui, mãnh lực của tình thương, mãnh lực chữa lành từ trái tim thày Nada, Thượng sư của tia Thứ Sáu và cũng là đại diện của Mẹ Thiêng liêng. Vì TA LÀ, TA LÀ chữa lành, TA LÀ toàn vẹn, TA LÀ tâm an bình. Con có tin không? Vì chỉ có vậy thày mới là tất cả những điều đó cho con. 

Lưu ý: Bài thỉnh đi kèm với chương này là Bài ca sự Sống 2 – Một tâm trí mới