Về các dạng hình học thuần túy

Hỏi: Saint Germain thân kính, con nghe nói ở cõi thăng thiên có những hình dạng hình học thuần túy. Khi các dạng hình học này được vận chuyển qua bốn tầng của tâm, điều gì xảy ra cho chúng khi trên bảy tia sáng có những tạp chất ô nhiễm? Có sự liên hệ nào chăng giữa các dạng hình học này và một tầng nào đó của tâm? Liệu các tà lực có thể sử dụng một số dạng hình học nào đó trong vật chất, hay họ có thể hình dung ra để bòn rút năng lượng từ mọi người? Và nếu vậy thì liệu có những dạng hình học có thể được sử dụng để nâng cao con người hay chăng? Xin thày làm ơn đưa ra một ví dụ về một dạng hình học thuần túy?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels trong buổi Webinar 2121 – Chấm dứt Thời đại của Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Ồ, thật là không dễ mà dùng lời nói để mô tả các dạng hình học thuần túy có mặt nơi cõi tâm linh hay nơi các tầng cao của cõi bản sắc, bởi vì chúng vượt khỏi lời nói. Các dạng hình học này không được cấu tạo bằng từ ngữ. Đó là tại sao chúng tôi có nói là khi chúng tôi đưa ra một bài truyền đọc nào đó, thật sự là chúng tôi đang truyền rải một số dạng hình học. Khi các dạng hình học này vận động qua bốn tầng của vũ trụ vật chất hay bốn tầng của tâm sứ giả, chúng được chuyển thành lời nói. Và nếu con muốn thực biết các dạng này, con cần phải chiêm nghiệm trực tiếp bởi vì không có cách nào để mô tả bằng ngôn từ, và chúng sẽ chỉ là lời mô tả mà thôi. Nhưng đúng là có những dạng hình học như thế.

Ta biết là khi ta nói về dạng hình học, con sẽ nghĩ ngay đến hình tròn hay hình vuông hay hình tam giác, là những thứ người ta thường gọi là dạng hình học trên địa cầu. Sự thực là các dạng hình học ở cõi tâm linh phức tạp hơn rất nhiều.  Chúng không chỉ là các dạng đơn giản mà con thấy trên trái đất. Những gì con thấy trên trái đất chỉ là một số hình dạng tâm linh đã được chuyển dịch khi chúng đi xuống cõi vật chất xuyên qua bốn cõi.

Con có thể thấy được là ở cõi trần, các hình thể được kiến tạo dựa theo các dạng hình học đó. Nếu con nhìn thiên nhiên thay vì nhìn những đồ vật do con người chế tạo, con sẽ thấy có một sự khác biệt trong dạng hình học.

Dạng của thiên nhiên phức tạp hơn nhiều, mà có người gọi là bộ Mandelbrot (Mandelbrot sets), tức là một sự tạo dựng hình học hay toán học có khả năng tự nó lặp đi lặp lại, tự sinh sản nhiều lần – và tùy theo người nhìn đứng ở quy mô nào, to hay nhỏ, gần hay xa, người đó sẽ thấy chúng hiện ra khác nhau. Trên bản chất, người ta có thể gọi đó là những hình chụp ba chiều (holography). Nhưng con thấy không, tâm thức tập thể của loài người hiện nay còn thấp cho nên con người không có khả năng tạo ra những dạng hình học phức tạp như con có thể thấy trong thiên nhiên. Vì vậy, con người bắt buộc phải xây dựng nhà cửa hay vật dụng công nghệ dựa theo các dạng đơn giản của hình vuông, hình tam giác, hình tròn, vân vân, là những gì mà con người hiện thời có thể nắm bắt.

Nhưng con cũng thấy được điều này sẽ giới hạn như thế nào đối với những gì con người có thể xây cất, những loại máy móc mà con người có thể thiết kế, bởi vì tất cả chỉ dựa theo một số hình thể quá đơn sơ. Trong một nghĩa nào đó, cũng có thể nói đây là những hình dạng cố định. Đó là tại sao chúng tuân theo một số định luật toán học đơn giản. Tam giác luôn luôn có một dáng vóc nhất định, và góc tam giác cũng theo một quan hệ hình học nhất định. Hình vuông, hình tròn, vân vân, cũng tương tự như thế. Đây là những gì mà con người có thể nắm bắt được thời xưa, thậm chí cả các nhà hiền triết Hy lạp Cổ cũng phải đáp ứng với một tâm thức tập thể thô sơ hơn bây giờ.   

Nhưng những dạng hình học này, con người vẫn chưa hẳn thay thế được cho dù ngày nay đã tạo ra rất nhiều hình thức toán học phức tạp hơn. Điều ta muốn nói là mọi thứ mà con thấy trong cõi vật lý đều là, theo một nghĩa nào đó, sự thị hiện của một dạng hình học nào đó nơi cõi tâm linh – tất cả đều khởi nguồn là một dạng hình học nơi cõi tâm linh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là khi đi xuống cõi ether, sẽ có một liên hệ trực tiếp, một đối một, giữa “bản chính” và “bản dịch”. Và tương tự như thế, cũng không có sự liên hệ trực tiếp nào khi dạng tiếp tục đi xuống các cõi lý trí, tình cảm, vật lý. Đó là vì trong tiến trình chuyển dịch dạng nguyên thủy từ cõi tâm linh xuống cõi vật lý, hiển nhiên đã có sự tác động của toàn tâm thức nhân loại, của từng cá nhân lẫn của tâm thức tập thể.   

Do đó con không thể lấy một hình dạng trên địa cầu rồi cố đoán ngược lên xem hình dạng ở cõi tâm linh là thế nào, bởi vì đã có sự biến dạng, bóp méo. Và đó là lý do không có cách nào mô tả bằng lời nói những dạng hình học tâm linh. Nếu tâm con đủ cởi mở, con có thể hoà điệu với các dạng tâm linh và chiêm nghiệm chúng trong tâm thức con, nhưng con sẽ cần bước vượt ra ngoài ngay cả thể bản sắc của con.

Và điều xảy ra là khi dạng hình học bị chệch hướng thì chúng tạo ra nhiều sự tha hóa. Nói cách khác, tỷ như con lấy một hình dạng nào đó ở cõi tâm linh, con phóng chiếu nó xuống cõi lý trí hay cõi bản sắc, thì tuy nó có thay đổi chút đỉnh nhưng nó không bị bóp méo, và nếu nó được chiếu tiếp xuống để thị hiện trong cõi vật lý thì nó không đến nỗi quá hư hại. Tuy nhiên hiện nay, bởi vì tâm thức tập thể còn thấp cho nên gần như không có hình dạng nào trên địa cầu còn thuần tuý được nữa. Cách này hay cách khác, chúng đều đã bị méo mó.  

Một yếu tố nữa, tất nhiên, là các sa nhân sau khi sa ngã đã tạo ra một số hình dạng không dựa theo hình dạng tâm linh. Vừa rồi ta có nói là mọi hình dạng trên trái đất đều phát xuất từ một hình dạng tâm linh, nhưng điều này không hoàn toàn đúng, bởi vì có một số hình dạng là do sa nhân tạo ra từ tâm thức sa ngã, và những hình dạng này thì không xuất phát từ cõi tâm linh. Chúng không hẳn là hình tư tưởng tâm linh đã biến thái. Theo một nghĩa nào đó, chúng vẫn phát xuất từ tâm linh bởi vì sa nhân không có khả năng sáng tạo được bất cứ gì hoàn toàn mới mẻ, nhưng chúng đã bị tha hóa đến độ không còn gì giống nữa, và nhất định là con không thể suy ngược trở lên “nguyên bản” ở cõi tâm linh.  

Và hiển nhiên các sa nhân đã phóng chiếu những hình dạng này vào tâm thức tập thể trên địa cầu đến độ nhiều người lầm tưởng đó là những loại hình dạng tối thượng, hay hình dạng thiên nhiên, thậm chí còn do Thượng đế tạo ra nữa. Đây là trường hợp của các ý thức hệ, là nền tảng của hầu hết các loại chủ nghĩa, những loại dạng hình học đã bị tha hóa. Chúng định ra là xã hội phải vận hành thế nào, vật chất phải vận hành thế nào, các định luật thiên nhiên phải vận hành thế nào, con người phải vận hành ra làm sao và do đó bị hạn chế như thế nào. Thật rõ ràng các sa nhân đã sử dụng những dạng hình học như vậy để bòn rút năng lượng từ loài người. Những con “quái vật” tập thể này trong cõi vía của tình cảm đã có thể thu hút năng lượng từ những ai tin vào chúng hay đã nhập chúng vào tâm mình.       

Bây giờ để cho con một ví dụ cụ thể là âm nhạc. Trong cõi tâm linh có một số dạng hình học về một số loại nhạc, những loại nhạc đưa con người đi lên, nâng cao sự sống, phát huy tâm thức, những loại nhạc khiến cho cả vật chất cũng phải ca hát theo. Một số nhạc sĩ cổ điển đã có khả năng hòa điệu với những dạng hình học đó, đem chúng xuống dưới một hình thể tương đối thuần khiết rồi chất chứa vào nhạc mình viết. Đó là lý do tại sao ngay cả thời nay, người ta vẫn có thể trải nghiệm được một cảm nhận tâm linh nào đó khi thưởng thức loại nhạc này. Nhưng trong số các nhạc sĩ hiện đại, thật là hiếm có người nào đạt được một tầm mức thuần khiết tương tự.

Trong khi đó lại có vô số những nhạc sĩ hiện đại, nhạc sĩ rock, nhạc sĩ rap, nhạc sĩ jazz, đã sử dụng các hình tư tưởng tha hóa hay những dạng hình học tha hóa do sa nhân chế tạo ra. Đó là tại sao họ sáng tác những thể nhạc chói tai, không khiến cho vật chất hát theo mà chỉ khiến cho độ rung của vật chất bị kéo thấp xuống, thậm chí còn làm cho vật chất bắt đầu phân hủy. Đó là một ví dụ thiết thực.  

Và sau đây là một số ví dụ nữa. Trong số các loài thú vật, con có thể nhận thấy một số được tạo ra theo hình dạng thấp kém. Như con thấy các loại bệnh tật, virút và vi khuẩn, chúng thể hiện các dạng hình học thấp kém. Trong khi đó thì một số loài khác lại tương ứng hơn với hình dạng nơi cõi tâm linh, chủ yếu là các loài chim chóc. Cũng vậy trong cõi thực vật, một số cỏ cây có dạng cao hơn và một số khác có dạng thấp hơn. Thật sự con có thể nhìn bất cứ gì trên trái đất này và thấy có những thứ hiển thị được hình tư tưởng tâm linh nguyên thủy cho dù chúng đã bị phần nào bóp méo, và có một số khác là biểu hiện của các hình tư tưởng thấp kém, những dạng hình học do sa nhân sản xuất.

Sa nhân có thể dùng những dạng hình học này để gắn nhập vào một chủ nghĩa nào đó. Và con thấy như chủ nghĩa Mác-xít chẳng hạn, họ chủ trương một nền kinh tế nơi người dân sản xuất theo khả năng và tiêu thụ theo nhu cầu hay ham muốn của mình. Hình tư tưởng này là do sa nhân chế ra, nó không liên hệ với một hình tư tưởng nào nơi cõi tâm linh, bởi vì như thày Gautama có dạy, nền kinh tế tâm linh đích thực là khi mọi người sinh sôi tài năng của mình bằng cách giúp đỡ người khác, tức là mọi người tự phát triển và phát triển khả năng cùng tâm thức rồi nhận được sự đáp trả gấp bội từ cõi tâm linh. Đây mới là yếu tố thực sự tăng gia thịnh vượng và khiến cho nền kinh tế được vững bền.  

Thật không có cách này tạo dựng một nền kinh tế hoàn toàn dựa trên các sinh hoạt vật lý mà thôi, và đó là lý do khi con lấy những dạng hình học do sa nhân phóng ra rồi đặt nên tảng cả nền kinh tế trên đó, thì phải có lúc nó sẽ tự hủy hoại.

Các chân sư có một trạng thái tâm thức quả cầu, phi địa phương

Hỏi: Làm thế nào các chân sư thăng thiên nối kết với chúng con khi chúng con hòa điệu với các thày trong tim mình? Chẳng hạn, nếu con thiền quán và thỉnh cầu thày Giê-su, liệu thày có sẽ bị ngắt quãng trong công việc thường nhật của thày nơi cõi thăng thiên khi thày phải vội chạy đến với con? Hay là nơi nhiệm sở của thày có nhiều sinh thể khác giúp việc cho thày? Luôn luôn có rất nhiều người tìm cách hiệp thông với thày Giê-su, vậy làm thế nào thày xử lý được việc này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Câu hỏi được đặt ra từ mức tâm thức mà các con hiện có trên địa cầu này, tức là một trạng thái tâm thức rất đường thẳng. Sự kiện có người đặt và thắc mắc về câu hỏi này rất dễ thông cảm, nhưng nó dựa trên thực tế là khi con đầu thai trên một hành tinh dày đặc như địa cầu, con không thể làm sao tưởng tượng hay mường tượng được cuộc sống của một chân sư thăng thiên là như thế nào, con không thể tưởng tượng nổi trạng thái tâm thức của các chân sư. Con ở trong một trạng thái tâm thức cục bộ (localized) đặt trọng tâm chung quanh thân xác vật lý của mình, cho nên con nghĩ là nếu có ai gọi con đến giúp họ, thì con sẽ phải đến với họ trong thế giới vật lý và toàn bộ tâm thức của con cũng đi tới đó cùng với xác thân vật lý của con.

Ta không mang xác thân vật lý. Ta không có một ý thức tâm thức cục bộ. Ta có một trạng thái tâm thức quả cầu (spherical) hay phi địa phương (non-local) cho nên ta có thể ở hai nơi cùng một lúc. Đúng hơn, ta có thể ở 2 triệu nơi khác nhau cùng một lúc. Ta có thể ở mọi nơi trong bầu cõi cục bộ của trái đất hầu giúp đỡ hàng triệu người cùng một lúc.

Ta không cần có người trợ giúp để gửi người trợ giúp đến mỗi người cần trợ giúp, vì ta có thể ở tất cả những nơi đó cùng một lúc. Điều này không gây xao lãng trong công việc bình thường của ta, mà kỳ thực đó chính là một phần trong công việc bình thường của ta.

Điều này không phải để nói là bất cứ ai thiền quán hay cầu nguyện về Giê-su đều sẽ đạt tới chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô – một số sẽ đạt tới những sinh thể thấp hơn, một số sẽ đạt tới những kẻ mạo danh, điều này tùy thuộc rất nhiều vào mỗi cá nhân. Nhưng chắc chắn là có rất, rất nhiều người đã xây dựng được một mối nối kết nào đó với ta, trong số đó có những tín đồ Cơ đốc giáo và vì vậy họ có thể cảm nhận được sự hiện diện của ta. Và tất nhiên, ta có thể thị hiện sự hiện diện cuả ta với họ mà đồng thời vẫn có thể dành ra một phần hiện diện của ta để thực hiện những công việc khác trên cõi thăng thiên.

Có học được gì về cõi tâm linh bằng cách so sánh với địa cầu?

Hỏi: Con biết câu hỏi này của con gần như vô nghĩa đối với các chân sư thăng thiên, nhưng con cứ hỏi thử. Đối với một chân sư thăng thiên, một ngày bình thường, một tuần lễ bình thường, một năm bình thường diễn ra như thế nào? Các thày có làm việc 24/7 cho sự tiến hóa của hành tinh địa cầu? Thỉnh thoảng các thày có thời gian rảnh rỗi nào không? Chẳng hạn các thày Giê-su, Mẹ Mary và MORE có gặp nhau thân mật vào dịp cuối tuần, ví dụ tại nhà của thày Saint Germain, dùng cơm thăng thiên với nhau, nghe nhạc và bàn chuyện với nhau? Có lẽ kể chuyện khôi hài cho nhau nghe? Các thày có đi nghỉ hè, có du hành đến các bầu cõi khác? Hay các vũ trụ khác? Các thày có làm việc với các vị thày tâm linh của mình để tăng triển tâm linh, vân vân…?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary  qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

À, không một câu hỏi nào là vô nghĩa đối với các thày cả nếu nó có nghĩa cho con, vì vai trò của các thày tất nhiên là giúp con nâng cao tâm thức của con. Cho nên bất cứ gì có ý nghĩa với con ở tầng tâm thức hiện thời của con, các thày đều có thể trả lời và giúp con vươn lên một tầng cao hơn.

Một câu hỏi như thế này rất dễ thông cảm. Nhưng con cũng phải nhìn nhận là câu hỏi được đặt ra từ nhãn quan một người sống trên trái đất nhìn vào các điều kiện mà người đó thấy trên trái đất, như thể phóng chiếu nó ra, rồi hỏi xem liệu chúng có áp dụng cho cõi thăng thiên hay không. Một cách nào đó, con có thể đặt lại câu hỏi một cách khác và nói: “Liệu các điều kiện con thấy trên địa cầu có liên quan hay tác động gì đến các điều kiện trên cõi thăng thiên? Liệu con có học hỏi được gì về cõi thăng thiên bằng cách nhìn vào cac điều kiện trên địa cầu?”

Và câu trả lời cho câu đó là: Không. Mọi thứ trên cõi thăng thiên quá khác đến độ việc mô tả hầu như vô nghĩa, vì con không thể thực sự hiểu được từ mức tâm thức hiện thời của con. Và tất nhiên là con không cần hiểu. Con cần phải nhìn vào môi trường nơi con sống và tiếp tục thăng vượt tầng tâm thức của con cho đến khi con thăng thiên, và khi đó con sẽ trải nghiệm các điều kiện của cõi thăng thiên.

Tại sao con không thể trải nghiệm các điều kiện nơi cõi thăng thiên khi con còn ở trong trạng thái tâm thức chưa thăng thiên? Bởi vì các điều kiện ở cõi thăng thiên chỉ có thể được trải nghiệm từ một tâm thức thăng thiên. Nơi cõi thăng thiên không có thời gian đường thẳng như con có trên địa cầu. Không có một ngày giống như một ngày, vì không có ngày lẫn không có đêm. Không tuần lễ giống như tuần lễ, hay năm giống như năm, vì thời gian không được chia thành những đơn vị đường thẳng. Các thày không có một trạng thái tâm thức đường thẳng, cục bộ, địa phương.

Ta cũng biết là các chân sư có trao cho con lời dạy về các lớp nhập thất trên cõi ê-the. Nhưng các lớp đó nằm ở cõi ê-the là những tầng cao của bầu cõi chưa thăng thiên. Mục đích các khóa nhập thất này là tạo cho con một môi trường mà con có thể liên hệ ngay khi con còn hiện thân trên địa cầu và được dịp học hỏi một điều gì đó. Điều này không có nghĩa là các thày bị hạn chế trong các nơi nhập thất đó, và cũng không có nghĩa là các thày có lâu đài hay tu viện đồ sộ trên cõi thăng thiên, vì các thày không có nhu cầu như vậy. Các thày không ăn uống, không ngủ, không cần thú tiêu khiển, vì tất cả những gì các thày làm tự thân nó đã là một niềm vui toại nguyện. Các thày không xem đó là công việc mà mình cần phải nghỉ ngơi, hồi sức hay thư giãn. Các thày không cần thư giãn vì không hề căng thẳng.

Tâm thức và thực tại của một chân sư thăng thiên quá khác với những gì con thấy trên địa cầu đến độ thật khó lòng nào mô tả được bằng ngôn từ, vì con có xu hướng chỉ nắm bắt được ngôn từ, nắm bắt các hình ảnh, các khái niệm mà con quen thuộc trên địa cầu. Vấn đề là trên địa cầu hầu như không có gì giống như ở cõi thăng thiên. Đó là tại sao trên đường tu tâm linh, sẽ tới một điểm khi con có được những thoáng hiện, những trải nghiệm thần bí, những tia chớp về cõi thăng thiên hay tâm thức thăng thiên, nơi con nhận ra là nếu con cứ lấy những gì mình thấy trên địa cầu rồi phóng chiếu nó lên cõi thăng thiên, thì điều này thật không xây dựng. Và con ngừng làm chuyện đó.

Con sẽ nhận thấy, ví dụ trong các đợt truyền pháp trước, là đã có những hình ảnh của một số chân sư thăng thiên được nhiều đệ tử sử dụng. Nhưng đây chỉ là một giai đoạn. Một khi con tăng triển cao hơn một mức tâm thức nào đó, con không cần đến hình ảnh của vị chân sư thăng thiên nữa. Kỳ thực, con không muốn đặt chú ý vào một tấm hình của một vị chân sư vì con nhận ra rằng vị ấy không thể bị giới hạn trong hình tướng đó. Ở một mức nào đó trên đường tu thì việc nhìn bức tranh có thể giúp con hòa điệu với sự hiện diện của chân sư – chuyện này chấp nhận được. Nhưng vượt quá một mức tâm thức nào đó thì đấy không phải là điều con cần nữa, thậm chí không phải là điều mà con muốn làm.

Và tương tự như nhiều thứ khác, sẽ tới một điểm khi con ngừng suy đoán xem mọi chuyện trên cõi thăng thiên là như thế nào, con ngừng suy nghĩ về chuyện đó vì con nhận ra là con đang ở trên địa cầu, và công việc của con là thăng vượt mức tâm thức của con cho tới khi con thăng thiên. Và khi đó con sẽ có thể trải nghiệm cõi thăng thiên.

Giáo lý Advaita

Hỏi: Giáo lý của Advaita ở phương Đông gần gũi như thế nào với giáo lý cuả các chân sư thăng thiên về cái Ta Biết? Liệu có vị thày nào của Advaita đã thăng thiên trong 200 năm qua?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Các giáo lý của Advaita rất gần với giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng, không những về cái Ta Biết mà về cả nhị nguyên, bất nhị cũng như tư duy cuồng đại. Các giáo lý này không hẳn là đặc thù và cũng không liên hệ đến một số điều kiện cụ thể trên địa cầu như giáo lý mà chúng tôi đang giảng dạy. Tuy nhiên, các giáo lý này ngay từ đầu đã nhận được linh hứng từ các chân sư thăng thiên, và trong 200 năm qua, một số vị thày của Advaita đã thăng thiên, kể cả vị sau cùng là Ramana Maharshi.

Nhị nguyên không liên hệ hay tùy thuộc vào không gian

Hỏi: Con xin nói về nhị nguyên, không phải về ý niệm tốt xấu mà về ý niệm không gian. Đôi khi con có thể làm tan biến khoảng cách giữa chính mình và vật mình nhận thức – tức là tiến trình khách quan hóa, vật hóa (objectification) – và con thấy tất cả đều xảy ra trong khoảng không gian mà TA LÀ. Ngoài ra cũng có sự kiện con tách xa khỏi trải nghiệm qua việc cách ly và làm tan biến trải nghiệm, khi con nghiệm thấy là tất cả những gì ở trong con cũng là chính con như một tâm thức. Có rất nhiều lời dạy về làm thế nào chúng con có thể vượt khỏi thời gian bằng cách sống trong hiện tại vĩnh cửu. Vậy có lời dạy nào hay không để giúp chúng con xóa tan ảo tưởng không gian?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Nhị nguyên tự thân nó không dính dáng gì đến không gian. Nhị nguyên không liên hệ với không gian hay tùy thuộc vào không gian. Tự thân không gian không nhị nguyên. Hiển nhiên, theo một nghĩa nào đó, không gian có thể khuyến khích nhị nguyên vì không gian cho con trải nghiệm mình là một sinh thể địa phương cục bộ, nhìn mọi vật từ một góc nhìn đặc thù trong không gian. Thậm chí nó còn cho con một cảm giác vị trí vật lý nhất định khi con xoay 360 độ và nhìn quanh cơ thể vật lý của mình.

Điều này có thể cho con cảm giác: “Đây là tôi, và ở đó là cái gì khác. Cái đó nằm ở ngoài tôi,” khiến có nhiều xác suất con sẽ chấp nhận những quan điểm nhị nguyên, nhưng nền tảng của nhị nguyên là sự hiện hữu của hai đối cực rồi thêm vào đó một sự phán xét giá trị. Tự thân nó, không gian không mang một phán xét giá trị nào.

Các thày đã có trao truyền, đặc biệt là thày Gautama, nhiều lời dạy về không gian, và con có thể tìm các bài truyền đọc này để học hỏi. Đây là những giáo lý có thể giúp con có một tầm nhìn khác hơn về không gian.

Thập niên 2020 dành cho tình trạng của phụ nữ

Hỏi: Từ năm 2013, mỗi năm đã được dành riêng ra để học hỏi về một tia sáng tâm linh, bắt đầu từ tia sáng thứ nhất. Năm ngoái là năm của tự do, là tia sáng thứ bảy. Vậy năm nay 2020 là điểm đạo về đề tài gì, phải chăng là sự hội nhập cả bảy tia?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Là Mẹ Thiệng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Chúng tôi, các chân sư, đã không quyết định dành riêng năm nay cho một tia sáng nào vì chúng tôi muốn tập trung mười năm tới cho tình trạng của phụ nữ. Con có thể, nếu con muốn, tiếp tục và học hỏi tia sáng thứ tám cho năm nay, nhưng chúng tôi đã không chính thức dành hẳn toàn bộ sự tăng triển của hành tinh cho tia sáng này.

Đấng Sáng tạo có vô hạn?

Hỏi: Có ai nói rằng Đấng Sáng tạo vô hạn khi ngài chưa phân chia. Một khi ngài tự phân chia ở bên trong ra thành Alpha và Omega, ngài không còn vô hạn nữa. Có thể nào giải thích được điều này? Ý nghĩa điều này là gì và “vô hạn” là gì trong trường hợp này?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 cho Sự Giải phóng của Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Con yêu dấu, con cần hiểu ở đây – hay đúng hơn, con cần chiêm nghiệm thực tại – rằng tư duy đường thẳng có một số giới hạn. Tâm đường thẳng không làm sao hiểu được điều gì vượt ngoài thế giới đường thẳng. Trên địa cầu con có một số từ mà con không thể nắm bắt được với tâm đường thẳng. Một trong số những từ này là “vô hạn”, một từ nữa là “vô điều kiện”. Tâm đường thẳng chịu thua, không làm sao nắm bắt được.

Vậy Đấng Sáng tạo không thật sự vô hạn, nhưng vì phải dùng từ, cho nên “vô hạn” là một từ khả dĩ dùng được, vì nó ngụ ý một cái gì vượt khỏi cái có hạn, vượt khỏi thế giới hình tướng. 

Đấng Sáng tạo không tự phân chia ra để tạo ra tạo vật, để tạo ra Alpha và Omega. Đấng Sáng tạo vẫn là Đấng Sáng tạo, ngài vẫn không bị phân chia – vô hạn, nếu con muốn dùng từ này. Cho nên Đấng Sáng tạo có thể sáng tạo nhưng ngài không trở thành tạo vật của ngài.

Đây là một điểm khác biệt giữa đồng sáng tạo và sáng tạo. Là một vị đồng sáng tạo, con sáng tạo như thế nào? Con sáng tạo qua bốn tầng của tâm thức con và con sống bên trong bốn thể này. Do đó, trong một nghĩa nào đó, con trở thành cái mà con sáng tạo, con bị mắc kẹt lại trong tạo vật của con. Đấng Sáng tạo không như vậy, Đấng Sáng tạo vẫn là Đấng Sáng tạo.

Đưa má bên kia

Hỏi: Đưa má bên kia? Làm thế nào con đưa má bên kia ra trong một tình huống con bị người ta tấn công bằng lời nói hay đối xử vô lễ? Có phải đó là giữ im lặng trong hoàn cảnh đó và rút lui nếu có thể, và cứ để yên như vậy? Khi con không đáp trả lại thì con không tự bênh vực mình được chút nào.



Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Khi còn nhìn ngược dòng lịch sử, có lẽ ít lời dạy nào của ta đã bị hiểu lầm và bị diễn giải lầm như câu nói về “đưa má bên kia”. Câu hỏi đã được đặt ra bởi những người đã cố làm theo lẫn những người cho là họ không nên làm theo, và ở cả hai bên cuộc tranh luận, hầu hết ai ai cũng cho rằng việc đưa má bên kia có nghĩa là mình không làm gì cả, là mình thụ động, hay mình rút lui khỏi tình thế. Ở một mức tâm thức nào đó, cách diễn giải này quả là hữu lý.

Hãy thử nhìn thế này, con đang bị người ta tấn công qua lời nói và người kia phóng về phía con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Giả thử con ở một mức tâm thức với đủ loại ngã tách biệt trong con, nghĩa là cách đáp ứng tình thế duy nhất của con là gửi trả ngược về người kia những gì họ phóng tới con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc tranh cãi, con sẽ gây thêm tranh cãi thậm chí có thể dẫn đến xô xát tay chân. Cho nên đứng từ góc cạnh không muốn tạo nghiệp quả tiêu cực, sẽ tốt hơn nếu con rút lui khỏi tình thế thay vì leo thang. Ở một mức tâm thức nào đó, cách cư xử như vậy có thể là một cách diễn giải hữu lý – tốt hơn là con nên rút lui thay vì leo thang một tình huống chỉ có thể dẫn đến một phương trình với càng ngày càng nhiều năng lượng và nghiệp quả tiêu cực.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn trong một tình huống như vậy tất nhiên là con hãy tự xem xét mình, xem xét cách phản ứng của mình, và nếu con thấy mình đang có một phản ứng không bình an thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, cho nên con rút lui khỏi tình huống để làm việc trên ngã tách biệt đó. Nhưng sau khi con đã làm việc trên ngã tách biệt và để cho nó chết đi, con đạt tới điểm là tuy con bị người ta tấn công qua lời nói và bị xỉ vả, con vẫn không có phản ứng nào trong con, và ở điểm đó con sẽ không nên giữ im lặng, con không nên rút lui mà con nên lên tiếng. Nhưng con lên tiếng từ sự bình an nội tâm của con, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con sẽ chỉ đơn giản nói lên từ một nhãn quan trung hòa, và chính điều này sẽ cho phép con lên tiếng một cách hoàn toàn khác.

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không phản hồi lại theo cách họ chờ đợi. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, khi người ta tấn công ai đó dù bằng lời nói hay cách nào khác, người ta thường chờ đợi một sự phản ứng nào đó. Và điều xảy ra – và con có thể thấy được điều này điễn ra trong lịch sử thế giới, như tại vùng Trung đông chẳng hạn – là một phe tấn công phe kia, rồi phe kia tấn công lại, thế là giờ đây phe đầu tiên cảm thấy là mình đã rất chính đáng: “Việc chúng tôi tấn công họ là chuyện chính đáng bởi vì phản ứng của họ cho thấy họ là những kẻ bạo lực hung hãn, và do đó họ xứng đáng bị chúng tôi tấn công”. Đây là cách người ta thường phản ứng.

Do đó khi có ai xỉ vả con, họ chờ đợi là con sẽ phản bác lại, con sẽ tự bênh vực, con sẽ buộc tội ngược trở lại, và nếu con không làm vậy mà lại lên tiếng từ một góc độ trung hòa, thì người kia có thể được biến đổi và họ thay đổi cách cư xử của họ.

Trong một số trường hợp khác, cư xử của con sẽ không ảnh hưởng được họ, và họ tiếp tục hung hãn. Trong trường hợp này, con trở thành công cụ cho sự phán xử của Ki-tô, và bây giờ họ sẽ nhận được phán xử của Ki-tô về hành vi hung hãn của họ.

Có thể nói là nếu người kia không được biến đổi do con đã lên tiếng từ một nội tâm an bình và một nhãn quan trung hòa, thì con không cần phải tiếp tục cho phép họ miệt thị hay tấn công con nữa. Khi đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên nói cho thật rõ và thật bình tĩnh những gì con nghĩ về cách cư xử của họ, rằng con không chấp nhận cách cư xử đó, rằng con sẽ không chịu đựng chuyện đó, và vì vậy con sẽ rút về nếu họ cứ tiếp tục như vậy. Đó là ý nghĩa việc chìa má bên kia.

Và ý nghĩa đích thực là thay vì đáp trả lại trong tâm thức phàm phu qua ngã tách biệt, con hành động trong tâm thức Ki-tô từ nhãn quan Ki-tô. Cho dù con có thể rút lui khỏi tình thế hay con trở nên thụ động và người ta tiếp tục công hãm con, điều này vẫn có thể đem lại phán xử của Ki-tô, và do con trụ vững trong tâm an bình, con đem lại sự phán xử đó ở một mức cao hơn hẳn.

Về việc chìa má bên kia

Hỏi: Chìa má bên kia? Làm thế nào con chìa được má bên kia khi con bị người ta tấn công bằng lời nói hay bị làm nhục? Có phải là con nên giữ im lặng và rút ra khỏi tình huống nếu có thể, và để mặc cho nó như vậy? Con sẽ không tự vệ chút nào bằng cách không đáp trả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn trong lịch sử, có lẽ có ít lời phát biểu nào của ta mà lại bị hiểu lầm, bị diễn giải sai lạc như câu nói về việc chìa má bên kia. Vấn đề đã được đặt ra bởi cả những người chọn làm theo lẫn những người cãi lại không nên làm theo, và trong cả hai phe, hầu hết đều cho rằng chìa má bên kia có nghĩa là con không làm gì hết, con thụ động, hay con rút lui khỏi tình huống. Ở một mức tâm thức nào đó, đây quả là một cách diễn giải hợp lý.

Hãy thử nói thế này. Con bị người ta tấn công bằng lời nói và người kia đang phóng tới con rất nhiều năng lượng tiêu cực. Con ở một tầng tâm thức nào đó và con mang nhiều cái ngã tách biệt khác nhau. Có nghĩa là cách trả lời duy nhất mà con có thể đối với tình huống là gửi trả lại những gì người ta gửi cho con. Nói cách khác, con sẽ leo thang cuộc đối đáp, con sẽ phóng ra một lập luận có thể dẫn đến cả chuyện xô xát bằng tay chân. Cho nên từ một góc cạnh không muốn tạo nghiệp tiêu cực, tốt hơn là con nên rút lui khỏi tình huống thay vì leo thang. Ở tầng mức tâm thức này, đó có thể là một cách diễn giải hợp lý: Thà rút lui còn hơn là leo thang một tình thế chỉ có thể dẫn đến một phương trình mang nhiều năng lượng tiêu cực và nhiều nghiệp hơn.

Tuy nhiên, cách nhìn cao hơn tất nhiên là trong tình thế đó, con nhìn vào bản thân mình, con nhìn vào các phản ứng của mình, và nếu con tìm thấy một phản ứng không an bình thì con nhận ra là nó đến từ một ngã tách biệt, xong con rút lui khỏi tình huống để làm việc với ngã tách biệt này. Nhưng một khi con đã làm việc với các ngã tách biệt và để chúng chết đi, con sẽ đạt tới điểm con có khả năng bị người khác tấn công bằng lời nói, bị họ hiếp đáp, mà vẫn không có phản ứng nào bên trong con. Tới điểm đó, con không nên giữ im lặng, con không nên rút lui, mà con nên lên tiếng, nhưng con lên tiếng từ sự an bình, cho nên thay vì phản ứng lại người kia, con chỉ đơn giản lên tiếng từ nhãn quan trung hòa đó, và chính điều này cho phép con lên tiếng một cách hoàn toán khác lạ.   

Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là người kia sẽ thay đổi vì con đã không đáp trả theo cách họ chờ đợi con đáp trả. Con sẽ thấy là trong nhiều trường hợp, người ta thường tấn công người khác bằng lời nói hay bằng bất kỳ cách nào khác, và người ta chờ đời sẽ nhận được một phản ứng ngược lại. Điều này luôn luôn xảy ra, và con có thể thấy chuyện này trong lịch sử thế giới, chẳng hạn tại vùng Trung Đông khi một bên tấn công bên kia thì bên kia phản công lại, thế là bên đã khởi đánh cảm thấy mình thật có lý: “Thật là hữu lý chúng ta tấn công bọn chúng, vì sự phản công của chúng cho thấy chúng là loại người tàn bạo, cho nên chúng xứng đáng bị tấn công.” Đây là cách người đời đáp trả.

Cho nên khi có ai đó tấn công con bằng lời nói, họ chờ đợi là con sẽ cãi lại, con sẽ tự vệ, con sẽ tấn công ngược lại, và nếu con không làm vậy mà lại nói chuyện từ một nhãn quan trung hòa, thì đôi khi họ không biết phải làm gì. Trong một số trường hợp, có những người sẽ được biến đổi bởi cách cư xử của con và họ thay đổi cách cư xử của họ. Trong một số trường hợp khác, sẽ không có tác dụng gì trên họ và họ sẽ tiếp tục hung hãn. Nhưng trong trường hợp này, con trở thành dụng cụ cho sự phán xử của Ki-tô, tức là người kia bây giờ sẽ nhận được phán xử Ki-tô do cách hành xử hung hãn của họ.

Chúng ta có thể nói là nếu người kia không thay đổi khi con đã lên tiếng từ trạng thái an bình và nhãn quan trung hòa, thì con không cần tiếp tục cho phép họ tấn công hay hiếp đáp con nữa. Sau đó con có thể rút lui, nhưng trước tiên con nên phát biểu một cách thật rõ ràng và bình tĩnh cái nhìn của con về cách hành xử của họ, rằng con không chấp nhận cách hành xử đó, con sẽ không cho phép mình phải chịu đựng nó, và do đó con sẽ rút lui nếu họ cứ tiếp tục. Đây chính là ý nghĩa của việc chìa má bên kia.

Nó có nghĩa là thay vì phản ứng lại với tâm thức phàm phu, với ngã tách biệt, con hành động với tâm thức Ki-tô từ tầm nhìn của Ki-tô. Cho dù con có rút lui khỏi một tình thế hay trở nên thụ động trong tình thế đó và người ta tiếp tục tấn công con – và điều này cũng có thể đem lại phán xử Ki-tô – nhưng con đem lại phán xử này từ một tầng cao hơn vì con đến từ trạng thái an bình.

Làm thế nào học nhiều giáo lý cùng một lúc mà được ích lợi từ tất cả

Hỏi: Trong một đợt giáo lý trước của chân sư thăng thiên, chủ yếu là Thông thiên học (Theosophy) và Agni Yoga, có khái niệm Manvantara gốc từ Ấn độ giáo. Đó có phải là cùng một thứ với các bầu cõi trong giáo lý mới nhất cuả chân sư?

Theo Wikipedia, Manvantara là một từ Phạn, là từ ghép của manu và antara. Nghĩa đen là khoảng thời gian hay tuổi thọ của một vị Manu. Mỗi chu kỳ Manvantara được tạo ra và cai quản bởi một vị Manu đặc thù, và Manu thì được sinh tạo bởi Brahma, tức là chính đấng Sáng tạo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Đấy đấy, con yêu dấu, chúng ta đang gặp phải sự giới hạn của ngôn từ cũng như cách diễn giải mà người ta áp đặt lên ngôn từ. Con sẽ thấy là trong Thông thiên học chẳng hạn, đã có nhiều nối kết hơn giữa Đông và Tây, và vì thế, các chân sư đã mượn một số khái niệm từ các giáo lý và tôn giáo Đông phương để minh họa một số điều không dễ diễn tả trong giáo lý Tây phương vào thời điểm đó. Luôn luôn sẽ có giới hạn khi con cố làm điều này. Mặc dù con có thể bảo là có sự tương đồng giữa khái niệm Mantanvara và khái niệm chu kỳ, cách diễn tả đặc thù này như được hiểu trong Ấn giáo không hẳn ăn khớp với giáo lý mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã ban ra về các bầu cõi. Nói rộng ra thì tất nhiên có thể nói, bầu cõi cũng là một hình thức chu kỳ.

Tuy nhiên, con cần hiểu là luôn luôn có một bối cảnh văn hóa nhất định trong mỗi giáo lý được ban ra. Con nhìn xem giáo lý của Ấn giáo được đưa ra ở nơi đâu, xong con nhìn vào văn hóa phương Đông, tư duy của người phương Đông, thì con nhận thấy giáo lý đó được truyền giảng cách đây rất lâu khi tâm thức tập thể ở một trình độ thấp hơn bây giờ. Kiến thức con người cũng ở mức thấp hơn, cho nên những gì có thể được giảng dạy vào thời đó bắt buộc bị giới hạn.

Đó là tại sao – ta có thể nói thế này – có một số điểm tương đồng, nhưng con đừng nên dùng tâm phân tích đường thẳng để so sánh những lời dạy cũ với lời dạy mới, đừng tìm cách đối chiếu xem khái niệm đó trong Ấn giáo có ăn khớp hoàn toàn với khái niệm trong giáo lý hiện thời của chúng tôi hay không. Làm như vậy sẽ không đem lại kết quả đâu. Nếu con thực sự muốn so sánh như vậy, con sẽ cần thấu hiểu hoàn toàn bối cảnh văn hóa và ý nghĩa mà người dân trong nền văn hóa đó gói ghém trong ngôn từ được sử dụng. Tại sao con lại có nhu cầu làm chuyện đó khi con đã lớn lên tại phương Tây vào thời nay?

Giản dị là con hãy sử dụng các khái niệm mà con có ở đây, sử dụng các giáo lý mà chúng tôi ban ra lúc này, và tận dụng nó một cách tối ưu. Nếu con cởi mở với giáo lý mà chúng tôi đang giảng dạy, con cần nhận ra rằng tiết lộ tuần tự là một tiến trình tuần tự, và sẽ có những thời điểm khi chúng tôi phải thoát ra khỏi giáo lý cũ nếu muốn đưa giáo lý lên một mức cao hơn. Giáo lý cũ đó đã được đẩy xa tối đa trong khả năng hạn chế của ngôn từ cũng như của bối cảnh văn hóa. Và chúng tôi phải bắt đầu lại ở một mức cao hơn và không quan tâm đến những gì mình đã giảng dạy trước kia, như khi có người nhìn vào đó và diễn giải, “Đây hình như là một điểm khác biệt hay một điểm mâu thuẫn”.

Chúng tôi không thể đưa ra giáo lý ở mức cao hơn mà không đánh mất một số học trò cứ dùng tâm đường thẳng để tìm điểm mâu thuẫn. Chúng tôi đã quyết định là, giản dị, mình không thể lo lắng về chuyện đó. Con sẽ thấy là trong quá khứ, chúng tôi đã có xu hướng đưa một đợt truyền pháp đến một điểm khi hoặc vị sứ giả, hoặc các đệ tử, không thể thăng vượt được mức tâm thức đó nữa. Và như vậy, chúng tôi đã phải bỏ lại tổ chức đó và khởi sự một tổ chức mới có nhiều tự do hơn để vươn lên cao hơn. Đây là một điều mà chúng tôi vẫn có thể làm ngày hôm nay. Tuy nhiên, vì sứ giả này và rất nhiều đệ tử đã sẵn lòng bước lên cao hơn mấy lần rồi, cho nên chúng tôi đã không cần phải làm vậy.

Chúng tôi đã có thể bước lên một trình độ cao hơn, như vài năm trước đây với giáo lý về bất nhị, hay với giáo lý về cái Ta Biết, rồi giáo lý về phàm linh nội tại, giáo lý về ngã tách biệt cũng như quyển sách “Những cuộc đời của tôi”. Mỗi lần như vậy, sẽ có một số học trò sử dụng tâm đường thẳng để so sánh lời giảng mới với lời giảng cũ. Ho sẽ phát hiện những điều gì đó có vẻ là mâu thuẫn từ góc cạnh của tâm đường thẳng. Thay vì bước vào sâu hơn và nhìn vượt khỏi những mâu thuẫn bề ngoài để đạt được hiểu biết thâm sâu, thì họ lại dùng tâm vỏ ngoài chú mục vào những điểm mà họ xem là xung khắc, và họ phóng vào đó ý tưởng cho rằng những điểm này bắt buộc phải có vấn đề.

Lời khuyên của ta luôn luôn là như sau: Con hãy nhận ra là mặc dù giáo lý của các đợt truyền pháp trước vẫn có thể có giá trị, nhưng đó là kết quả của một tiến trình tiết lộ tuần tự. Cho nên ta sẽ nói với con, những giáo lý mới nhất mà con mở tâm ra để nhận lấy, chính là giáo lý mà con nên ôm lấy và tận dụng.

Con vẫn có thể tìm hiểu các lời dạy cũ bởi vì lời dạy đó vẫn còn chính đáng, tuy nhiên con đừng sử dụng tâm phân tích đường thẳng để tìm kiếm những sự khác biệt hay mâu thuẫn mà con cho là có thật. Thay vào đó, con hãy nhìn vượt khỏi tâm đường thẳng, hãy sử dụng trực giác để vươn tới một cách hiểu cao hơn về các vấn đề. Nếu con làm vậy, con sẽ có khả năng học hỏi nhiều giáo lý cùng một lúc mà vẫn rút tỉa lợi ích từ tất cả các giáo lý đó. Lợi ích này sẽ không đến qua tâm phân tích đường thẳng, mà qua tâm trực giác.

Liên lạc với các hồ sơ akasha

Hỏi: Có một số khóa học dạy cách liên lạc với các hồ sơ ở cõi akasha chỉ sau vài ngày. Có đúng chăng là bất cứ ai cũng có thể kết nối với hồ sơ akasha và nhận được lời giải đáp có giá trị từ nguồn đó mà không cần chuẩn bị gì hết?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 10/10/2019.

Không đâu con yêu dấu, điều này không đúng. Không hề có một cách giải quyết chớp nhoáng nào được quảng cáo ngoài kia mà đem lại hiệu quả, và chắc chắn không phải bất cứ ai cũng có khả năng liên lạc với các hồ sơ akasha. Trong nhiều trường hợp, người ta chỉ liên lạc được với cõi trung giới, với các loài quỷ hoặc tà thể ở đó chỉ muốn lợi dụng việc này để đánh cắp năng lượng của con người.

Nối kết với hồ sơ akasha không phải là điều các thày khuyến khích, hay ngay cả các thày cũng sẽ không giảng dạy điều này ở một mức có hệ thống. Đây là một điều có thể xảy ra một cách tự phát hơn một khi con đạt đến một tầng tâm thức nào đó. Có nhiều người hội đủ tư cách để thăng thiên mà không bao giờ kết nối với hồ sơ akasha.

Sinh thể nơi các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc

Hỏi: Các sinh thể nơi các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc trải nghiệm cuộc sống như thế nào? Hơn nữa, liệu chúng có thấy được loài người? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 11/9/2018.

Điều đó tùy thuộc vào loại sinh thể mà con đề cập, vì trong ba cõi đó có rất nhiều loại sinh thể khác nhau. Như các chân sư đã có nói, hiện có sinh thể sa ngã ở những tầng thấp của cõi bản sắc, ở mọi tầng của cõi lý trí, và ở hầu hết mọi tầng của cõi tình cảm.

Nhiều sinh thể sa ngã trong những cõi này có thể thấy được con người, và tất nhiên, chúng tìm cách chi phối và khuynh loát con. Chúng nhìn cuộc sống như thế nào? Điều này tùy thuộc nơi chúng cư ngụ. Nhiều sinh thể sa ngã hay ngay cả sinh thể bóng tối, chẳng hạn như quỷ hay tà thể nơi cõi trung giới và cõi tình cảm, có cái nhìn vô cùng đen tối, vô cùng tiêu cực về cuộc sống.

Chúng không có hiểu biết tinh xảo lắm đâu. Chắc chắn là chúng không có được sự hiểu biết của các con mà các chân sư thăng thiên đã trao cho con. Chúng vô cùng chú tâm vào bản thân, cho nên tầm nhìn của chúng vô cùng hẹp hòi. Chúng thường ở trong trạng thái cực kỳ bồn chồn khích động, cực kỳ nóng giận, thường xuyên rối loạn, đứng ngồi không yên, và luôn luôn tìm cách bộc lộ động cảm. Chúng ở những tầng thấp của cõi mà chúng tôi gọi là trung giới và nhiều người xem là địa ngục. Các sinh thể này không nhìn thấy con người vì chúng ở trong một tâm trạng quá tiêu cực, chỉ biết có chính mình, đến độ chúng chỉ nhìn thấy được ngay trước mắt.

Ở cõi lý trí thì khác, nhiều sinh thể sa ngã nơi đây có trải nghiệm về cuộc sống không đến nỗi tiêu cực như vậy, nhưng chúng vẫn có một tư duy vô cùng hạn hẹp. Chẳng hạn, chúng chỉ tập trung vào một vấn đề, một đề tài, một ý thức hệ hay một tôn giáo nhất định nào đó. Đây là trường hợp nhiều sinh thể sa ngã nơi cõi lý trí hoàn toàn chú tâm vào chủ nghĩa khoa học duy vật, luôn tìm cách truyền bá cái nhìn duy vật về cuộc sống. Trong thời kỳ cộng sản, nhiều sinh thể sa ngã nơi cõi lý trí đã tập trung vào chủ thuyết cộng sản hầu thúc đẩy người ta tin vào chủ thuyết này qua những cách giải thích, biện minh, bênh vực, v. v… 

Con sẽ thấy nhiều sinh thể sa ngã ở cõi lý trí rất, rất bận tâm với chuyện phải nghĩ ra những lập luận vô cùng công phu, phức tạp để biện minh cho tư duy duy vật. Thậm chí có nhiều người trong cõi vật lý đã bắt được những ý tưởng đó để viết thành sách, và trong sách, họ đưa ra những luận cứ cực kỳ rắc rối về lý do tại sao, ví dụ, tôn giáo là một lỗi lầm của dòng tiến hóa nhưng vẫn có khả năng sống sót tạm thời, và tại sao tôn giáo sẽ bắt buộc phải tiêu vong. Và còn nhiều đề tài và vấn đề khác như vậy nữa liên quan đến khoa học.

Rồi đến cõi bản sắc, thì ở đây con có một số sinh thể sa ngã sẽ cực lực phản đối con gọi chúng là sinh thể bóng tối hay tà ác, vì chúng tin chắc là chúng hiểu biết về vũ trụ cao trội hơn mọi người, và vũ trụ phải vận hành hay không được vận hành như thế nào. Theo một nghĩa nào đó và trong khuôn khổ tư duy của chúng, thì chúng có một cái nhìn tích cực nào đó về cuộc sống do chúng cho là mình đang hành xử rất đúng. Chúng tin là với thời gian, chúng sẽ chứng minh được là quyền tự quyết là một lỗi lầm, và Thượng đế sẽ phải nhìn nhận lỗi lầm đó rồi nâng chúng lên địa vị tân lãnh đạo, vân vân và vân vân. Đương nhiên, đây là một ảo ảnh, nhưng chúng đã đồng hoá với ảo ảnh này đến độ chúng thực sự rút ra được một trải nghiệm tương đối tích cực. 

Song song, như chúng tôi đã có đề cập nhưng chưa thực sự bàn rộng, cũng có rất nhiều Hiện diện TA LÀ đã gửi phần nối dài của mình vào các cõi tình cảm, lý trí và bản sắc. Rất nhiều sinh thể thường được người ta xem là thiên thần chính là những sinh thể này đây. Tất nhiên, thiên thần có thể nhìn thấy rõ con người, vì đó chính là những sinh thể đã được các Hiện diện TA LÀ tạo ra hay gửi vào ba cõi cao đó để phụng sự cho những con người đang hiện thân vật lý.

Trong một số trường hợp, một Hiện diện TA LÀ có thể gửi một phần nối dài vào ba cõi cao đó để trợ giúp cho chính phần nối dài của nó đang đầu thai trong cõi vật lý. Trong một số trường hợp khác, Hiện diện TA LÀ cũng gửi xuống những sinh thể với chức năng phụng sự rộng lớn hơn. Những sinh thể này, cũng như trên, có một cái nhìn tích cực về cuộc sống và cảm thấy mình đang phục vụ sự sống. Ở một mức độ nào đó, chúng vẫn nối kết với Hiện diện TA LÀ của chúng, và đôi khi chúng không có một hiểu biết tinh tường về cuộc sống như những giáo lý mà các chân sư đã trao truyền cho các con, vì chúng quan tâm nhiều hơn đến các trách vụ đặc thù mà chúng đã được gửi xuống để thực hiện. 

Con yêu dấu, đây là một đề tài thật phức tạp. Nhiều lời dạy khác nữa có thể được đưa ra. Có lẽ trong tương lai, một số giáo lý mới có thể được ban ra khi nào chúng tôi nhận thấy đến lúc con cần biết nhiều hơn về đề tài này. Nhưng thật sự con không cần đặt quá nhiều trọng tâm vào chuyện này vì nó có thể sẽ khiến tâm con bị choáng ngợp bởi lượng thông tin. Vậy xin con hiểu điều ta vừa nói, con đã sẵn bị quá tải thông tin từ thế giới vật chất rồi, và chúng tôi luôn luôn gặp phải thử thách là làm thế nào tránh cho con cũng bị quá tải bởi lượng giáo lý mà chúng tôi ban ra ngày càng nhiều hơn về những chủ đề ngày càng phức tạp hơn.

Khóa nhập thất của chân sư ở cõi ether

Hỏi: Xin các chân sư tiết lộ nhiều hơn về các khóa nhập thất ở cõi ether?


Trả lời của ông Kim Michaels. Đăng ngày 11/9/2018.

Tôi nghĩ tôi có thể cho bạn một ít dữ kiện về đề tài này vì các chân sư đã có giảng dạy cho tôi. Trên căn bản, các chân sư có mặt ở đây là để giúp chúng ta bằng nhiều cách. Nhưng trong hầu hết trường hợp, các thày không được phép đi xuống hiện thân vật lý hay đầu thai vật lý. Có những trường hợp hiếm hoi khi người ta đã trông thấy các thày, nhưng thật là hiếm có. Nói chung, các thày không được phép đi xuống thấp hơn tầng bản sắc, cũng được gọi là cõi ether trong một số giáo lý. Các chân sư khi phát biểu qua tôi thường gọi đó là cõi bản sắc để tương ứng với bốn thể của chúng ta. Nhưng cõi này cũng có thể gọi là cõi ether.

Các chân sư có cho biết cõi ether có tất cả 33 tầng, và trong 11 tầng thấp nhất có thể có sự hiện diện của các sinh thể sa ngã. Cho nên không có khóa nhập thất nào ở dưới tầng này. Các khóa tu của các thày diễn ra ở 22 tầng cao của cõi ether. Khoá học có nhiều mục đích, và một trong số đó là thật khó khăn cho chúng ta du hành trong các thể tinh tế của mình lên cõi tâm linh. Nhưng mỗi chúng ta đều có một thể bản sắc đã vốn nằm sẵn trong cõi bản sắc, và tùy theo chúng ta tập trung vào tầng bản sắc nào, việc du hành vào khoá tu của các thày không đến nỗi phải vượt qua một khoảng cách quá lớn.     

Chúng ta có thể đến đó và học hỏi một số bài học cụ thể. Chúng ta không cứ là sẽ nhớ được một cách ý thức, tuy rằng cũng có người nhớ được. Nhiều người chiêm nghiệm, ngay trước khi họ thức dậy, cái mà họ gọi là giấc mơ sáng suốt (lucid dream), một giấc mơ tương đối rõ ràng là họ đã tham gia vào một môi trường học hỏi nào đó. Tôi đã từng trải nghiệm điều này mấy lần trong đời tôi, một cảm giác mình đang đi học với một số người khác. Đó là một ví dụ nhớ lại một cách ý thức mình đã tham gia vào một khóa tu ở cõi ether. Nhưng ngay cả khi bạn không nhớ trong ý thức, bạn vẫn có thể đã ghi lại những bài học bạn đã học. Đôi khi bạn có thể thức dậy với một cái hiểu sâu sắc mà bạn không hề có khi đi ngủ tối hôm trước, và bạn chợt hiểu một điều gì đó. Hoặc trong ngày, bạn đột nhiên hiểu ra một điều gì, và đó có thể là kết quả của việc tham gia khoá học.  

Thêm vào đó, tất nhiên, các chân sư có thể truyền rải ánh sáng qua trung gian các lớp nhập thất này ở cõi ether vào các cõi khác: lý trí, cảm xúc, vật lý. Đây là một mục đích khác của khoá tu. Bạn có thể tìm thấy nhiều bài mô tả các khoá nhập thất đó trong giáo lý của những đợt truyền pháp trước. Có một phong trào có tên là “I AM Movement” có giữ một số bài tường thuật, chẳng hạn về Hang Biểu tượng (the Cave of Symbols) mà thày Saint Germain phụ trách trên tiểu bang Wyoming tại Hoa Kỳ. Có lời tường thuật rất tỉnh táo trong cuốn sách “Unveiled Mysteries”.

Cũng có một cuốn sách rất hay do Summit Lighthouse xuất bản tựa là “The Masters and their Retreats” với danh sách tất cả các chân sư, tất cả các khóa nhập thất cùng địa điểm vật lý với bài tường trình ngắn, hay có khi dài, về các khoá này. Nếu bạn muốn tìm hiểu đề tài này, cuốn sách đó là nguồn tài liệu hàng đầu cho bạn.

Phải chăng một số sinh thể tâm linh khi sinh ra đã đặc biệt?

Hỏi: Theo một số giáo lý, Mahavatar Babaji sinh ra duy bằng quyền năng của tâm, và Padma Sambhava sinh ra từ đóa Hoa Sen trong tâm. Những câu chuyện về đản sanh như vậy có thật hay chăng, hay đó chỉ là những biểu tượng với ý nghĩa khác hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc năm 2016. Đăng ngày 28/4/2017.

Con yêu dấu, có rất, rất nhiều giáo lý được tìm thấy khắp thế giới có khuynh hướng đặt riêng ra một số sinh thể, dựa trên sự kiện các vị đó được sinh ra một cách đặc biệt. Như con thấy, tất nhiên, có Giê-su được sinh hạ đồng trinh, có Phật Gautama cũng sinh ra một cách rất đặc biệt, và cũng có một số câu chuyện khác về những sinh thể sinh ra chỉ qua uy lực của tâm. Không có lời dạy nào trong số đó là đúng cả, con yêu dấu.

Khi một sinh thể tâm linh hiện thân hay thị hiện một sự hiện diện vật lý trên điạ cầu, thì toàn bộ mục đích của việc đó là gì? Không phải là để chứng minh là mình cao trội hơn người, mà để bày tỏ con đường mà tất cả mọi người đều có khả năng bước chân theo hầu đạt đến trạng thái thăng thiên. Sinh thể đó càng đặc biệt bao nhiêu, cho dù là qua cách sinh ra đời hay bất kỳ cách nào khác, thì mục đích nói trên càng mất đi hiệu nghiệm.    

Con thấy đó, toàn bộ ý tưởng cho rằng có một số sinh thể sinh ra một cách đặc biệt đến độ không ai khác có thể lặp lại được, thật là không đúng. Nó là con đẻ của tâm thức sa ngã, và mong muốn của tâm thức này là biến một ai đó thành một người đặc biệt, để những ai xem mình là người bình thường không tài nào bước chân theo được. Con hãy nhìn xem đạo Cơ đốc đã sử dụng khái niệm sinh nở đồng trinh như thế nào để biến Giê-su thành đặc biệt, khiến cho biết bao người tin rằng mình sẽ mang tội báng bổ nếu mình dám nghĩ mình có thể đi theo con đường quả vị Ki-tô.      

Con nhận ra là vấn đề ở đây không phải là không thể có sinh thể nào thị hiện trong một cơ thể vật lý qua uy lực của tâm. Chuyện đó khả thi, nhưng nó không ích lợi gì, và thật ra nó cũng không được Hội đồng Nghiệp quả – là hội đồng cai quản quá trình tiến hoá trên địa cầu – cho phép. Do đó, nó không xảy ra trong thực tế. Những ai muốn nhập vào một cơ thể vật lý trên địa cầu để đầu thai phải đi qua một tiến trình sinh nở gian nan theo cách bình thường như mọi người khác.    

Mẹ Mary trả lời thêm:

Tất nhiên quy luật nào cũng có ngoại lệ, như trường hợp những chân sư thăng thiên nhận được đặc miễn để thị hiện trong một xác thân vật lý trong một thời gian, mà không đi qua tiến trình sinh nở vật lý và khôn lớn đến tuổi trưởng thành. Điều này đã xảy ra cho Saint Germain cũng như cho Giê-su sau khi sứ vụ của thày tại Galilee kết thúc. Tuy nhiên đó là những ngoại lệ hiếm hoi.

Babaji đã sinh ra trong hoàn cảnh bình thường, nhưng ông đã duy trì được cơ thể vật lý của ông lâu dài hơn bình thường. Padma Sambhava sinh ra theo cách bình thường trong kiếp đầu thai chót của thày.

Các chân sư thăng thiên có xuất thân từ một số nước?

Hỏi: Không hiểu trong lịch sử Hàn quốc hay lịch sử châu Á có chân sư thăng thiên nào hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 19/4/2017.

Câu hỏi được đặt ra là liệu các thày, những sinh thể hiện là chân sư thăng thiên, đã từng đầu thai ở nhiều nước khác nhau hay không. Con cũng biết là các thày đã tiết lộ cho các con một số kiếp hiện thân của mình, và trong nhiều trường hợp, các thày đã tiết lộ như vậy qua trung gian các sứ giả ở phần Tây của thế giới. Các sứ giả này nhắm chủ yếu vào một cử tọa người phương Tây hầu thu hút và giúp họ hiểu là các thày cũng từng đầu thai y như họ. Ý định của các thày là cho con sự cảm nhận là chính các thày đây cũng đã từng đầu thai, cho nên cũng đã trải qua tất cả những gì con trải qua.

Tất nhiên, con không thể vô hiệu hóa ảnh hưởng của tự ngã con người, và điều này đã khiến nhiều người chụp lấy các kiếp hiện thân đó rồi thần tượng hóa các thày. Và họ tin rằng bởi vì các thày đã từng đầu thai là người đặc biệt như vậy trong quá khứ, cho nên các thày vượt xa hơn con, và ngay cả khi còn đầu thai thì các thày đã vượt xa hơn con rồi.

Điều ta mong muốn con nhận ra là mặc dù các thày đã nói cho con biết một vài tiền kiếp của mình, hầu hết các thày nay đang là chân sư thăng thiên đã hiện thân trên trái đất trong một thời gian rất dài, có khi đến cả hai triệu năm trên trái đất. Con yêu dấu, hiển nhiên là khi mình đã hiện thân từng nấy lần trên trái đất thì không phải lúc nào mình cũng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử. Con cần nhận ra là cho dù bây giờ các thày đã thăng thiên, nhưng đã có rất, rất nhiều kiếp các thày là người hoàn toàn vô danh hay tầm thường – tùy theo con muốn gọi là gì cũng được.

Điều vô cùng quan trọng là con không dùng những truyện kể về tiền kiếp để thần tượng hóa các thày và khiến con tin rằng con không thể thăng thiên sau kiếp này nếu ngay lúc này con không là một nhân vật lịch sử quan trọng, bởi vì con có khả năng thăng thiên sau kiếp này. Con hiểu chứ, rất nhiều nhân vật lịch sử quan trọng mà con đọc được khi con học lịch sử, thật ra đều là sa nhân đầu thai, vì chúng mới là những kẻ mang tham vọng giành lấy địa vị quan trọng trong xã hội. Con cần vô cùng cẩn thận để khỏi lẫn lộn mà cho rằng một người quan trọng trong xã hội cũng là một người chứng đạt tâm linh.

Có nhiều người trong số các con ngồi trong phòng này có sự chứng đạt tương tự như nhiều chân sư thăng thiên trong kiếp đầu thai chót của họ trên địa cầu. Cho nên con cũng có tiềm năng thăng thiên sau kiếp này, bất kể con có được người đời công nhận hay không, bất kể địa vị của con trong xã hội là gì. Đây không phải là yếu tố định đoạt tiềm năng thăng thiên của con, mà trạng thái tâm thức của con.

Nhưng như ta vừa nói, tất cả các thày đều đã sống rất rất nhiều kiếp, và trong nhiều kiếp như vậy, các thày không là người đặc biệt gì hay có địa vị đặc biệt gì. Nhiều các thày đã từng hiện thân ở nhiều quốc gia khác nhau trong nhiều nhóm người khác nhau. Chính ta đã từng đầu thai ở gần như mọi quốc gia đang hiện hữu ngày nay – mặc dù khi ta đầu thai ở đất hiện gọi là Hàn quốc chẳng hạn, thì Hàn quốc thuở đó không mang tên là Hàn quốc vì thời đó rất xa xưa. Dẫu sao thì ta muốn con hiểu rằng hầu hết mọi quốc gia trên địa cầu đều đã từng có người đầu thai ở đó trở thành chân sư thăng thiên ngày nay. Đây là điều con cần ghi nhớ, và chắc chắn đã có người từng đầu thai ở Hàn quốc hiện đã thăng thiên – cũng giống như hầu hết mọi nước khác.

Thực tế là khi một linh hồn đầu thai trên một hành tinh như địa cầu thì sẽ có một số giai đoạn. Đa số linh hồn đi qua một giai đoạn trầm mình vào cuộc sống trên trái đất, rồi sau một thời gian đồng hóa sâu đậm với cuộc sống trên trái đất, con bắt đầu nhận biết nhiều hơn, xong con cất bước trên con đường hướng thượng sẽ dẫn con đến thăng thiên. Khi con kinh qua giai đoạn tu tập này hướng đến thăng thiên, con thường hay chọn hiện thân ở nhiều khu vực khác nhau, nhiều loại xã hội và nền văn hóa khác nhau, vì điều này sẽ giúp con khắc phục sự đồng hóa với trái đất.

Nếu con chỉ đầu thai trong cùng một nền văn hóa, có thể với cùng một nhóm người mang cùng nghiệp chướng trong một thời gian dài, con sẽ bị kẹt hơn vào tư duy cho rằng đây là cách duy nhất để là một con người trên trái đất. Con trở nên đồng hóa nhiều hơn với văn hóa đó, với quốc gia đó. Khi con biết con đang nỗ lực tiến tới thăng thiên, con sẽ cố tình chọn đầu thai trong nhiều loại hoàn cảnh khác nhau để đập vỡ cảm nhận đồng hóa với mọi thứ trên trái đất.

Điều này cũng có nghĩa là trong nhiều trường hợp, con sẽ đầu thai như một người nam trong một vài kiếp, rồi một người nữ trong một vài kiếp. Ta cũng biết đề tài này sẽ khiến nhiều người cảm thấy bối rối, nhưng sự thật là trong nhiều trường hợp, những vị hiện đang là nam chân sư đã từng là người nữ trên địa cầu trong nhiều kiếp sống. Và những vị hiện là nữ chân sư đã sống nhiều kiếp như người nam khi còn hiện thân.

Con chỉ thăng thiên bằng cách khắc phục sự đồng hóa với bất kỳ vai trò nào trên trái đất. Con cũng hiểu là địa cầu không phải là một hành tinh cao lắm, mà là một hành tinh bị tâm thức nhị nguyên tác động dữ dội. Tất nhiên con không thể thăng thiên mà chưa tự giải thoát khỏi tâm thức nhị nguyên, và điều này có nghĩa là rất nhiều các vai trò, rất nhiều các bản sắc mà con người đã tạo dựng ở đây trên trái đất đều dựa trên nhị nguyên, đều bị tâm thức sa ngã ảnh hưởng. Hầu khắc phục sự đồng hóa với các vai trò này, sẽ vô cùng hữu ích nếu con đầu thai trong nhiều loại hoàn cảnh khác nhau.

Đó là tại sao các thày đã nói với con trong hội nghị này là các thày không nhìn con như là người Hàn quốc mà nhìn con như là sinh thể tâm linh. Các thày không nhìn người Mỹ như là người Mỹ, các thày nhìn họ như là những sinh thể tâm linh, và tất nhiên mọi người khác cũng vậy. Các thày không nhìn tấm áo choàng mà con đang mặc dưới dạng bản sắc quốc gia hay ngay cả bản sắc gia đình con. Các thày nhìn con như con là, một sinh thể tâm linh với một lịch sử lâu đời, và đồng thời cũng là một cá thể thiêng liêng. Và vì thế, đây là khía cạnh các thày cố tiếp cận làm việc hầu có thể giúp con vượt qua sự đồng hóa với môi trường chung quanh con.

Các thày đã từng nói điều này – và nó thật quan trọng để con ghi nhớ – là khi con đầu thai trên địa cầu, con không thể tránh khỏi quên mất Sứ vụ Thiêng liêng mà con đã lập ra trước khi đầu thai. Con quên mất con là ai như một sinh thể liên tục, không ngừng sống. Khi con sinh ra, con dần dần đồng hóa với gia đình, với văn hóa, với quốc tịch của con, nhưng để thực sự bước chân trên đường tu tâm linh, con cần kinh qua một giai đoạn xem xét và ngộ ra mình không phải là bản sắc vỏ ngoài đó. Con không phải là con người đó mà đó chỉ là một cỗ xe con đã chọn cho kiếp sống đặc thù này, và con cần nhìn xem yếu tố nào trong cỗ xe này có thể giúp con tăng triển.

Luôn luôn sẽ có một số điểm tích cực mà con có thể học hỏi từ nền văn hóa và dân tộc của con, nhưng cũng có một số điều con cần khắc phục, cần thăng vượt, cần lánh xa và nhận ra: “Ồ, thật sự tôi không phải là loại sinh thể hạn chế đó mà văn hoá của tôi bảo tôi là.” Bất kỳ nền văn hóa nào cũng có một số giới hạn mà nó áp đặt lên các thành viên. Hiển nhiên hầu hết mọi nền văn hóa trên địa cầu ngày nay khiến cho các thành viên đồng hóa thành những con người với khả năng rất hạn hẹp. Con cần nhận diện đây chỉ là một tấm áo choàng mà con đang mặc, và con cần cởi nó ra, nối kết lại với sinh thể mà con là với một lịch sử vô cùng lâu đời.

Tất cả các con đã hiện thân trên trái đất lâu đời hơn bất kỳ quốc gia nào đang có mặt ngày hôm nay. Cho nên nếu con đang sống kiếp hiện thân chót của mình, con không thể đồng hóa với một dân tộc hay một văn hóa đặc thù nào. Thậm chí cả giới tính của cơ thể, con cũng không thể đồng hóa với một sinh thể chỉ là nam hay chỉ là nữ. Con là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi đặc tính vỏ ngoài đó.

Cho nên đúng vậy, đúng là đã có những chân sư thăng thiên xuất thân từ lịch sử Hàn quốc, nhưng các vị đó không được biết đến dưới danh tính họ từng mang khi họ đầu thai ở Hàn quốc. Bây giờ họ được biết đến dưới một danh tính phổ quát hơn.

Làm thế nào biết các chân sư thăng thiên có thật

Hỏi: Nếu con được thấy các chân sư trong hiện thân vật lý – nếu có thể nói như vậy – thì con sẽ an tâm là các thày có thật, nhưng điều này cũng sẽ cản trở sự thật rằng chúng ta không chỉ là con người vật lý. Cho nên con phải vượt qua giác quan vỏ ngoài. Nhưng con sẽ an tâm biết mấy nếu con có thể nhìn thấy các thày tận mắt. Như con đây, con không nhìn thấy các thày. Con luôn tự hỏi là mọi người khác nhìn các thày như thế nào, và trong hội nghị này con nhất định sẽ mở mắt ra thật to để mà nhìn, nếu có thể nói như vậy.


Trả lời của ông Kim Michaels tại một hội nghị ở Hòa Lan. Đăng ngày 7/12/2016.

Vâng, tôi hiểu điều bạn nói. Khi bạn trở thành một học trò của chân sư thăng thiên, bạn đang đi ngược lại tâm thức tập thể vốn phủ nhận các chân sư thăng thiên hay cõi tâm linh là thực. Hoặc cũng có thể họ không phủ nhận nhưng họ bảo – như Giáo hội Công giáo chẳng hạn: “Người bình thường không thể nào có trải nghiệm đó. Chỉ có các tu sĩ và những bậc thật đặc biệt mới có thể nhìn thấy trực tiếp, cho nên bạn chỉ cần tin theo những gì chúng tôi nói với bạn.” Và đó là điều chúng ta đã lớn lên và được dạy dỗ.

Bạn đang thực sự đi ngược lại tâm thức tập thể, cho nên tất nhiên, sẽ rất tuyệt nếu bạn nhận được một sự chứng thực nào đó. Riêng tôi cảm thấy chính mình đã nhận được rất nhiều sự chứng thực là các chân sư thăng thiên có thật, nhưng không ở tầng cấp giác quan vật lý. Tôi nghĩ có lẽ hầu hết các bạn ở đây cũng đã nhận được một lời xác nhận nội tâm vượt khỏi giác quan vật lý mà các bạn vẫn biết rõ là thực. Tôi cảm thấy đây là một phần quan trọng trong giai đoạn của địa cầu mà chúng ta đang sống qua.

Tôi nghĩ có thể sẽ đến một thời trong tương lai khi các thày sẽ hiện thân vật lý hay có thể nhìn thấy trong cõi vật lý. Tuy nhiên, điều này sẽ xảy ra một khi hầu hết mọi người không còn cần đến nó nữa vì tâm thức loài người đã được nâng cao. Thử thách ngay bây giờ cho chúng ta những người tâm linh là chúng ta cần chứng tỏ là mình sẵn lòng đi xa hơn những loại chứng cớ vật lý, đi xa hơn giác quan vật lý mà vẫn chấp nhận được là có điều gì rất thực.

Điều này khiến tôi nhớ lại một câu chuyện cũng na ná như vậy. Tại Đan Mạch có một quyển sách vừa được phát hành vào mùa xuân năm nay, tựa đề là: “Tôi đã gặp Giê-su.” Đây là một phụ nữ Đan Mạch, một nhà báo. Bà đã lớn lên trong một gia đình theo chủ nghĩa Mác phủ nhận mọi điều tâm linh. Bà chưa bao giờ bước chân vào nhà thờ và cũng chưa bao giờ để ý đến tâm linh. Rồi trong một chuyến công tác tại Tây Ban Nha, bà bước vào một nhà thờ cổ, và đột nhiên bà thấy Giê-su hiện ra đứng ngay bên cạnh mình. Đó là một khải tượng. Giê-su không đang ở đó trong vật lý, nhưng thày rất thực. Như thể bà đang nhìn thấy thày tận mắt, giống như một cửa sổ mở ra và bà nhìn thấy thày đứng đó trên đất Israel trong trang phục của thời đó. Giê-su nói chuyện với bà bằng tiếng Aramaic. Chỉ sau này bà mới biết đó là tiếng Aramaic, và tuy bà không hiểu được ngôn ngữ nhưng bà vẫn nắm được những gì thày cố truyền đạt cho bà.

Mặc dù bà đã được nuôi dạy để chối bỏ mọi thứ tâm linh, nhưng bà không thể phủ nhận những gì mắt bà nhìn thấy. Trong mấy năm đầu, bà không thổ lộ với ai về trải nghiệm của mình. Là một ký giả, bà đi khắp mọi nơi phỏng vấn tất cả các chuyên gia về hóa học não bộ hay cách vận hành của bộ óc. Mặc dù bà không nói rõ trong sách của bà, cá nhân tôi cảm thấy là bà chỉ muốn tìm được ai đó sẽ nói với bà: “Ồ, đó chỉ hoàn toàn là một ảo giác. Hãy bỏ qua chuyện đó đi.” Nhưng bà ngạc nhiên không thấy ai nói với bà như vậy.

Mọi người đều nói là người ta chưa hiểu hết mọi điều về não lẫn về tâm. Một số còn bảo rằng trong tâm phải có nhiều hơn là những gì người ta có thể giải thích về bộ não vật lý. Dường như ai ai cũng đưa đẩy tới mức rốt cuộc bà nói: “Thôi được rồi, tôi phải viết trải nghiệm của tôi thành sách.” Thế là bà viết sách và được một nhà xuất bản nổi tiếng phát hành. Sách trở thành một cuốn bán chạy nhất.

Tôi thấy câu chuyện này rất thú vị ở chỗ nó mang cùng động lực như câu hỏi của bạn. Bà ấy đã có một trải nghiệm nội tâm nhưng nó quá thực đến độ bà không thể phủ nhận được. Bà đã cả gan đứng trước mặt tất cả những người hoài nghi. Bà chờ đợi là người ta sẽ tấn công mình, nhưng bà ngạc nhiên khi không ai tấn công. Tôi nghĩ lý do là vì bà quá thành thật về trải nghiệm của bà. Bà không cố giảng đạo cho bất cứ ai. Bà không nói gì về ý nghĩa trải nghiệm của bà, mà bà chỉ nói: “Tôi đã có trải nghiệm này và tôi không thể phủ nhận nó. Nó đã ảnh hưởng tôi như thế này và tôi đã cảm thấy như thế đó.” Bà mô tả nguyên quá trình mà bà kinh qua.

Tôi cho rằng, theo một nghĩa nào đó, đây cũng chính là những gì tất cả chúng ta đang kinh qua. Chúng ta ở đây để chứng tỏ cho người khác. Chúng ta không nhất thiết ở đây để thu hút, lôi kéo người khác vào giáo lý của chân sư thăng thiên hay vào một nhóm, một triết lý, một vị thày hay bất cứ gì khác. Nhưng chúng ta ở đây để làm chứng cho sự thật rằng vượt quá cõi vật lý có một cái gì rất thực, một cái gì quý báu đối với chúng ta.

Quan Âm sẽ ở lại với địa cầu

Hỏi: Đức Quan Âm sẽ ở lại với chúng con bao lâu nữa? Thày có thể đi nơi khác, nhưng thày có quyết định gì hay đã cân nhắc ở lại với chúng con hay không? Thày đã hứa là sẽ ở lại địa cầu và giúp chúng con.  


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels (tháng 7, 2013). Đăng ngày 10/11/2015.

Quan Âm sẽ ở lại với chúng ta trong tương lai tiên đoán được. Lý do duy nhất một sinh thể thăng thiên rời khỏi địa cầu là nếu không còn ai trên trái đất hiện thân được ngọn lửa, hay những đặc tính tâm linh, mà vị đó cầm giữ cho địa cầu. Cho nên khi nào mà còn người hòa điệu với trái tim của Quan Âm và nỗ lực làm cánh cửa mở cho ngọn lửa Từ bi và Tha thứ, thì hiển nhiên Quan Âm sẽ còn tác động được hành tinh một cách hữu ích.

Có những trường hợp khi một sinh thể thăng thiên nhận ra là không còn ai trên trái đất là cánh cửa mở cho mình nữa, thì vị đó có thể quyết định đi đến một hành tinh khác nơi vị đó có thể phụng sự các dòng sống ở đó nhiều hơn là các dòng sống trên trái đất. Nhưng trường hợp của Quan Âm thì khác. Thày có quá nhiều người theo thày ở phương Đông, và ngay cả ở phương Tây cũng vậy, đến độ thày sẽ ở lại địa cầu trong một thời gian rất dài.

Ánh sáng tâm linh và sự phán xét con người

Hỏi: Con muốn biết làm thế nào ánh sáng tâm linh đem lại sự phán xét đối với con người. Có thật là trong Thời đại Bảo bình, nhiều ánh sáng hơn sẽ được rải xuống để đem lại phán xét đối với một số người hầu loại trừ họ khỏi kiếp hiện thân?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE. Đăng ngày 7/8/2014.

Thật ra không phải là ánh sáng đem lại sự phán xét mà những chọn lựa của chính cá nhân dòng sống. Một lần nữa, chúng ta thấy ở đây cái tâm thức cũ cứ phóng chiếu lên hình ảnh một Thượng đế xa vời ở trên trời.

Từ bao nhiêu ngàn năm nay, con người cứ lý giải rằng nếu có điều gì xảy ra cho họ thì đó phải là sự trừng phạt của Thượng đế. Nhưng như chúng tôi, các chân sư, đã cố giảng giải, chúng tôi không trừng phạt hay phán xét một ai; chúng tôi chỉ để yên cho Luật Tự quyết đảm nhiệm công việc này tùy theo những chọn lựa của mỗi người.

Điều chúng tôi làm là chúng tôi có quyền thách thức những ai đã bước xuống một trạng thái tâm thức cực kỳ thấp kém. Một trong những cách mà chúng tôi thách thức nhân loại là phóng ánh sáng tâm linh xuống đến độ con người không thể làm ngơ được nữa và phải hoặc chấp nhận ánh sáng hoặc từ chối ánh sáng.

Điều hoàn toàn đúng là trong Thời đại Bảo bình, chúng tôi sẽ phóng ra một luồng ánh sáng gia tốc, nhưng việc này sẽ được thực hiện lần hồi một cách thận trọng hầu thích ứng với cách phản hồi của con người. Và thật vậy, đúng là ánh sáng của Thời đại Bảo bình sẽ thách thức rất nhiều cá nhân còn bám mắc vào cách xử sự của Thời đại Song ngư. Ánh sáng sẽ thách thức cả nhiều cấu trúc, và như luôn luôn, ngay cả trong thiên nhiên nữa, những ai không thể thích ứng với hoàn cảnh thay đổi sẽ phải tuyệt diệt.

Sẽ có những dòng sống rất có thể sẽ không chấp nhận ánh sáng của Bảo bình và do đó sẽ bị loại ra khỏi hiện thân. Hầu hết những dòng sống đó sẽ bị loại bỏ ở cuối kiếp sống bình thường của họ, nhưng một số khác sẽ bị lấy đi sớm hơn nếu họ lạm dụng nghiêm trọng quyền tự quyết của người khác.   

Tại sao gọi là trung đạo?

Hỏi: Chúng con biết rằng lời dạy của đức Phật về trung đạo không phải là trung điểm nằm giữa hai đối cực nhi nguyên. Con thắc mắc không hiểu tại sao lại gọi là trung đạo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Chúng tôi, các chân sư, có giải thích nhiều lần là khi giảng dạy, chúng tôi không tìm cách đưa ra lời dạy cao nhất có thể được. Lý do là vì chúng tôi không giảng dạy trong khuôn khổ cái cao nhất, bởi vì tất nhiên, đó là một khái niệm nhị nguyên có cao, có thấp và có sự so sánh. Điều chúng tôi đưa ra là một lời dạy thích hợp với những người mà chúng tôi cố chạm được. Và chúng tôi phải thích ứng lời dạy cho hợp với văn hóa của họ, với hệ thống tín ngưỡng của họ, với trạng thái tâm thức của họ.

Cho nên vào thời khi ta truyền giảng các giáo lý của đạo Phật, tình thế chung là xã hội Ấn giáo đã trở nên xơ cứng do bao nhiêu lớp xây dựng ngụy tạo của người Bà la môn được đúc lại thành một con đường vỏ ngoài đầy nghi thức. Nhưng song song, Ấn độ cũng có một truyền thống lâu đời các vị khổ hạnh rút lui khỏi xã hội, tu tập hành xác với đủ mọi cách thức tra tấn xác thân cực đoan, gần như là để trừng phạt cơ thể đã giam cầm tâm trí mình bên trong.    

Và như vậy mục đích của ta là thu hẹp khoảng cách, vì nhiều người tâm linh thời bấy giờ cho rằng họ phải lựa chọn đi theo hoặc cực đoan này hoặc cực đoan kia. Và như chính ta đã ngộ ra, cả hai cực đoan đều không dẫn tới giác ngộ. Nhưng giác ngộ phải tìm được ở đâu đó, không phải ở giữa, mà trong một hướng nhìn mới.  

Cho nên vào thời điểm đó, khái niệm trung đạo, nhất là trong văn hóa phương Đông, không mang cùng ý nghĩa mà con thấy thời nay tại phương Tây. Tâm trí người Tây phương suy nghĩ theo lối đường thẳng hơn, và vì thế họ nghĩ tưởng trung đạo là trung điểm, là điểm ở giữa hai đối cực. Nhưng đối với tâm người Đông phương, nhất là vào thời buổi đó, trung đạo mang một khái niệm khác, một sắc thái khác về một cái gì đó vượt ra ngoài, vượt khỏi mọi cái nhìn cũ.

Loại bỏ cái ác khỏi địa cầu mà không giao chiến với nó

Hỏi: Giê-su Ki-tô yêu dấu, con hoàn toàn yêu thích tất cả những gì con đọc được trong sách của ông Kim cho tới nay, nhưng con có câu hỏi về cái ác. Trong quyển “Ki-tô sinh ra trong bạn” (The Christ is Born in You) trang 214, có viết rằng con người không thể loại bỏ cái ác khỏi địa cầu. Con hiểu được sự so sánh với một căn phòng nơi mình không thể loại bỏ bóng tối khỏi phòng mà chỉ có thể đem ánh sáng vào phòng (thật là chí lý). Tuy nhiên, không phải là một số phong trào tâm linh cũng nói một điều tương tự về cái ác hay sao? Hay là chúng con (những con người) không thể loại bỏ cái ác khỏi địa cầu, mà những bài chú và tâm thức nâng cao của chúng con sẽ đem lại ánh sáng cũng như cơ hội cho các chân sư loại bỏ cái ác khỏi cõi trung giới, và như vậy cũng loại bỏ khỏi cõi vật lý, để lại một khoảng trống mà chúng ta cần lấp đầy với ánh sáng?

Ngoài ra thày cũng có nói là không một hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra trên hành tinh này. Con thắc mắc về sự Sa ngã của Lucifer cùng những thiên thần khác đã hiện thân làm người. Không phải là họ có ý định ngăn cản những Đứa con của Thượng đế hoàn thành quả vị Ki-tô và đạt được hợp nhất với Hiện dịên TA LÀ của mình hay sao? Rồi âm mưu đánh phá, không những giới trẻ, mà mọi đứa con của Thượng đế, hình như là một chọn lựa ý thức để sử dụng quyền tự quyết hầu cố tình làm ác (tức là đi ngược lại quy luật của Thượng đế) chứ không nhất thiết là hành vi thiếu hiểu biết. Có vẻ là các Thiên thần Sa ngã đã biết rõ, và bây giờ vẫn biết, họ đang làm gì, và không phải sự vô minh do tâm nhị nguyên đã khiến họ hành xử như vậy. Hiển nhiên là sự suy luận của con có điều gì không đúng, bởi vì thày có nói là không một hành vi xấu ác nào đã xảy ra trên địa cầu. Vậy sự hiểu biết của con thiếu sót chỗ nào trong vấn đề này? Xin cảm ơn thày rất nhiều đã dành thì giờ để làm rõ điều này cho con, con thật biết ơn.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một trong những thông điệp chính trên trang mạng của ta là con người đã rơi vào một trạng thái tâm thức nơi họ nhìn mọi sự qua phin lọc của những đối cực tương đối. Một cặp đối cực đã khiến con người nhìn thực tại một cách méo mó là cặp đối cực thiện và ác.

Như đã giải thích ở nhiều nơi trên trang web này, có những tà lực đang tìm cách đánh lừa nhân loại. Một vũ khí chủ yếu mà tà lực sử dụng là tạo ra hai lực lượng  chống đối lẫn nhau, một tượng trưng cho cái thiện tương đối, và một tượng trưng cho cái ác tương đối. Rồi chúng tìm cách lừa gạt cho con người ủng hộ cái này hay cái kia.

Vì vậy mà con người đã cống hiến cả mạng sống lẫn sức lực của mình để chiến đấu cho những sự nghiệp không bao giờ là chính nghĩa của Thượng đế. Ngay từ buổi đầu đã có một sự nghiệp khởi lên từ hai đối cực tương đối là thiện và ác, và vì vậy không liên quan gì tới chính nghĩa của cái thiện tuyệt đối mà các chân sư thăng thiên theo đuổi.

Vấn đề con thấy suốt các thời đại là nhiều người tâm linh có thiện chí đã cho phép mình bị lôi cuốn vào cuộc xung đột giữa thiện tương đối và ác tương đối. Nhiều người vô cùng tha thiết phụng sự Thượng đế, và họ thấy trên hành tinh có một thế lực đang chống lại ý muốn Thượng đế. Họ suy ra rằng việc chiến đấu chống lại cái ác là một tiếng gọi cao thượng, thánh thiện, và khi làm vậy họ sẽ thăng tiến chính nghĩa của Thượng đế trên địa cầu. Vấn đề ở đây là họ dễ dàng bị đánh lừa khiến họ rơi vào hệ thuyết căn bản của tà lực, đó là: cứu cánh biện minh cho phương tiện.

Những người này thường hay trở nên cuồng tín, họ phẫn nộ và thù ghét xấu ác. Khi làm vậy, họ khiến cho năng lượng của Thượng đế bị tha hóa. Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, các tà lực chỉ có thể sống sót khi chúng lừa gạt cho con người làm tha hóa năng lượng Thượng đế hầu chúng đánh cắp năng lượng đó. Cho nên ngay cả khi con người tưởng rằng mình đang chiến đấu cho chính nghĩa của cái thiện, thì sự tha hóa năng lượng đã thực sự hỗ trợ sự nghiệp của cái ác.

Ta mong rằng qua chuyện ngụ ngôn về việc loại bỏ bóng tối khỏi căn phòng, con người sẽ nhìn xuyên thấu sự lừa bịp này. Sự thật đơn giản là con người là nô lệ của sự chú tâm. Bất kỳ con chú tâm vào điều gì, điều đó sẽ nhận được dòng năng lượng xối qua tâm thức con. Ta không đang nói là con phải nhắm mắt bỏ qua cái ác. Điều ta muốn nói là nếu con tập trung sự chú tâm quá mức vào cái ác, đặc biệt là nếu con giận dữ hay sợ hãi, con đang làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và như vậy con củng cố cho chính những lực lượng mà con đang chiến đấu. Điều này cũng liên quan tới câu nói của ta là con phải khôn ngoan như rắn nhưng hiền lành như bồ câu.

Câu nói đó chỉ ra rằng con người không thể chiến đấu chống xấu ác mà không bị liên lụy vào xấu ác. Vì thế, con người không thể loại bỏ xấu ác khỏi địa cầu. Tuy nhiên, con người có thể ủy quyền cho các chân sư thăng thiên loại bỏ xấu ác. Chìa khóa để thực hiện điều này là con không bám mắc vào xấu ác, và đây là ý nghĩa thực sự của lời dạy về việc giơ má bên kia. Nếu có ai làm hại con và con đáp lại với những cảm xúc tiêu cực hay con tìm cách trả đòn, con sẽ tạo nghiệp chướng với người đó. Khi con chọn lựa như vậy, con khiến cho các chân sư bó tay, không thể nhập cuộc. Nhưng nếu con giữ cho tâm mình không bám mắc và giơ má bên kia, con cho phép chân sư đem lại sự phán xét trên người kia. Như vậy cuối cùng sẽ loại bỏ được bóng tối khỏi địa cầu, trong khi không một nỗ lực nào với cái tâm nhị nguyên sẽ loại bỏ được bóng tối mà sẽ chỉ tăng cường thêm bóng tối.

Một trong những cách hay nhất để trở thành hiền lành như bồ câu là nhận ra rằng cái mà người ta nhanh nhẩu gán cho là xấu ác, thật sự khởi lên từ vô minh. Một lần nữa, có sự khác biệt rất tinh tế ở đây. Một đằng, con nói khá đúng khi con bảo rằng có nhiều tà lực cũng như nhiều người đã cố tình nổi loạn chống lại quy luật và ý muốn của Thượng đế. Họ biết rõ họ đang vi phạm quy luật Thượng đế và họ cũng vi phạm luật tự quyết khi họ thao túng con người.   

Từ một góc độ nào đó, thật không sai khi gọi các hành vi này là xấu ác. Thật ra, ta cũng đã dùng thuật ngữ này ở một vài nơi trên trang web này. Dùng từ “xấu ác” không sai vì nó phản ánh một mức hiểu biết, một mức tâm thức nhất định. Nó cũng phản ánh sự kiện ngôn ngữ vốn là một phương tiện tương đối và do đó có thể mang nhiều ý nghĩa.

Tuy nhiên, có một cách hiểu vấn đề cao hơn. Khi Lucifer nổi loạn chống lại quy luật Thượng đế, hiển nhiên là y tự xem mình là đối nghịch của Thượng đế. Nói cách khác, y đã tạo ra một ý thức khoảng cách  giữa y và Thượng đế. Đây là định nghĩa cao nhất của vô minh. Vô minh là một trạng thái tâm thức nơi con không nhận ra rằng con đã được Thượng đế sinh tạo, sinh tạo từ bản chất, từ bản thể và từ tâm thức của Thượng đế.

Vô minh gây ra cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế, và ý thức tách biệt này luôn luôn là một ảo ảnh. Không có ngài thì không tạo vật nào được tạo ra. Không có gì được tạo ra mà tách biệt khỏi Thượng đế, và do đó, không một thành phần nào của Thượng đế có thể đứng riêng ra khỏi Thượng đế. Ý thức tách biệt là hình thức vô minh tối hậu.

Một khi con hiểu điều này, con nhìn ra là cuối cùng, ngay cả việc nổi loạn của Lucifer cũng khởi lên từ vô minh. Trong ý nghĩa tối hậu, vô minh không xấu ác. Đó là tại sao người ta có thể nói – mặc dù ta đồng ý đây là một câu nói khích đối với nhiều người – rằng không có hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra.  

Khi con ngộ ra rằng con là một với Thượng đế và mọi người khác cũng là một với Thượng đế, con thấy dù con có làm gì thì con cũng đang làm trên chính con. Nếu con nhận thấy một hành vi sẽ làm hại con, tự động con sẽ không làm điều đó. Vì vậy, nếu con thực sự thể nhập với thực tế rằng tất cả đều là Thượng đế, con sẽ không bao giờ làm bất cứ điều gì mà con người gọi là xấu ác. Không một sinh thể nào có thể cố tình làm hại chính mình. Cho nên việc làm hại mình, hay làm hại một thành phần của mình, chỉ có thể xảy ra trong vô minh. Nói cách khác, con không thể nào biết rõ sự thật của Thượng đế mà lại có hành vi xấu ác.   

Ta hiểu là những câu nói của ta trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong bạn” sẽ có vẻ khiêu khích đối với nhiều người. Ta nói ra những câu này với mục đích rõ ràng nhằm lay chuyển những định kiến của con người về xấu ác. Có thể nói, đáng lẽ ta nên đưa ra nhiều chi tiết hơn trong sách, nhưng một trong những kỹ thuật mà chúng tôi sử dụng là viết sách về một đề tài nào đó nhưng lại chèn vào một vài nhận xét đây đó để giúp cho những học trò bén nhậy bắt ý mà vượt ra ngoài chủ đề của sách. Nhận xét của ta rằng không một hành vi xấu ác nào đã từng xảy ra trên địa cầu là một lời gợi ý loại đó, và sự kiện con đã bắt được cho thấy con là một học trò nhạy bén đã sẵn sàng hiểu sâu hơn.   

Như ta có nói trước đó, nhiều người bị lừa gạt vào cuộc chiến đấu cho một sự nghiệp mà họ tưởng là chính nghĩa của Thượng đế nhưng thật sự chỉ là sự nghiệp của những kẻ chống đối Thượng đế. Người ta thường xét đoán người khác một cách quá vội vã dựa trên một cái chuẩn vỏ ngoài. Trong nhiều trường hợp, chuẩn vỏ ngoài này khởi lên từ sự tương đối của tâm nhị nguyên, và do đó nó có thể khác xa, hay hoàn toàn đối nghịch, với chuẩn đích thực của tâm thức Ki-tô. Chỉ có tâm thức Ki-tô toàn vũ mới phán xét công minh. Tâm này không phán xét dựa trên dáng vẻ bề ngoài như con người còn kẹt trong tâm nhị nguyên tương đối vẫn làm.

Ki-tô không phán xét con người và gán cho họ là xấu hay ác. Tâm thức Ki-tô biết rõ mọi con người đều là con của Thượng đế và vì vậy đều có tiềm năng tìm lại bản sắc chân thực của mình. Một sinh thể Ki-tô hoá sẽ không bao giờ phán xét bất cứ ai. Con có thể phán xét một hành vì hay một quan điểm là nó thuộc về Thượng đế hay đối nghịch lại Thượng đế. Đó là phán xét công minh, khác hẳn với những định giá mà con người thường làm.

Để thực sự phụng sự chính nghĩa của ánh sáng, con phải vươn lên khỏi các phán xét tương đối phát xuất từ tâm nhị nguyên. Con làm vậy bằng cách trở nên khôn ngoan như rắn và hiền lành như bồ câu. Một dụng cụ hữu ích để vươn khỏi tâm nhị nguyên tương đối chính là giáo lý nói rằng mọi hành vi mà con người gọi là xấu ác đều khởi lên từ vô minh. Thật ra, rất nhiều hành vi mà con người gọi là tốt thiện cũng khởi lên từ vô minh.

Một lần nữa, chìa khóa cho tinh tấn tâm linh đích thực là vươn lên trên tâm nhị nguyên tương đối và thấy đước sự thật của tâm thức Ki-tô. Sự thật này sẽ không làm sao để vừa vào bất cứ cái hộp tư duy nào do con người tạo ra.  Trong nhiều trường hợp, sự thật của Ki-tô sẽ không để vừa trong hộp tư duy mang nhãn hiệu “ác” lẫn hộp tư duy mang nhãn hiệu “thiện”. Cho nên cách duy nhất để biết sự thật của Ki-tô là bước ra ngoài cái hộp!

Ghi chú: Bạn cũng có thể ủy quyền cho các chân sư thăng thiên loại bỏ cái ác bằng cách sử dụng các bài chú và bài thỉnh được đăng tải trên trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt.

Khái niệm “tánh không” và “vô ngã” trong đạo Phật

Hỏi: Xin thày giải thích ý nghĩa thực sự của các khái niệm trong Phật giáo về “tánh không” và “vô ngã”. Đó có thật là những điều đức Phật Gautama đã dạy?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Cả hai khái niệm mà con nói đến đã được khai triển sau khi đức Phật Gautama nhập diệt. Vì vậy không hoàn toàn chính xác là đức Phật đã giảng dạy những khái niệm này như được tìm thấy hiện nay trong rất nhiều giáo lý của đạo Phật. Tuy nhiên, đức Phật có giảng dạy những khái niệm tương tự như tánh không và vô ngã.

Như ta có trình bày suốt trang mạng này, vấn đề thực sự trên hành tinh địa cầu là con người đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn. Con người bị rơi xuống tâm thức này vì đã ăn phải trái cấm, là biểu tượng cho một trạng thái tâm thức nơi tất cả đều có vẻ tương đối. Điển hình là khái niệm thiện và ác, có nghĩa là thiện và ác tương đối với nhau. Ở cốt lõi tâm thức này là cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn của mình, cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế.

Chính cảm nhận tách biệt khỏi cội nguồn tâm linh của mình là nguyên nhân thực sự của mọi khổ đau. Khi dòng sống bắt đầu mất liên lạc với cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, nó đã phải dựng lên một loại ngã mới, một giả ngã, để lấp đầy khoảng trống vừa được tạo ra. Giả ngã này, thường được gọi là tự ngã hay tâm nhị nguyên, là nguyên nhân của mọi khổ đau mà dòng sống kinh nghiệm. Cũng chính cái ngã này đã làm nẩy sinh rất nhiều ý nghĩ và cảm xúc mâu thuẫn, phiền não, dẫn đến đau khổ cho dòng sống.  

Mục đích của đường tu tâm linh là vượt qua giả ngã hầu dòng sống có thể tự do hợp nhất với cái ta tâm linh. Và đây là ý nghĩa thực sự của khái niệm vô ngã. Khi dòng sống đạt được trạng thái tâm thức này, nó đã vượt qua và bỏ lại cái giả ngã đã khiến nó cảm thấy tách rời khỏi cội nguồn tâm linh của nó.  

Trong trạng thái tâm thức cao hơn này, dòng sống nhận ra là nó được cấu tạo bằng chất liệu cơ bản của Thượng đế, hoặc như đức Phật sẽ nói, tất cả đều là Phật tánh. Dòng sống nhận ra sự vô nghĩa khi nghĩ rằng mình có thể có sự hiện hữu, hay một ý thức bản ngã tách biệt khỏi nguồn cội tâm linh.    

Khi đó, dòng sống không còn ý thức bản sắc như bị tách rời khỏi nguồn cội, và đây là trạng thái vô ngã. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi ý thức cá thể (individuality) hay bản sắc (identity). Cá thể đích thực của dòng sống được trụ neo nơi cái ta tâm linh, và cá thể đích thực này sẽ không mất đi khi giả ngã được từ bỏ. Kỳ thực, chỉ sau khi dòng sống đã vượt qua tự ngã phàm nhân thì nó mới có thể bắt đầu biểu hiện được cá thể đích thực của nó.

Ngoài ra còn có một khái niệm cao hơn nữa về vô ngã, là khi dòng sống cá biệt sẽ cuối cùng đạt tới hợp nhất với Thượng đế, một sự hợp nhất cao độ đến nỗi dòng sống chọn trở về tâm thức mà đạo Phật gọi là Niết bàn (Nirvana), mà ta gọi là cái Tất Cả. Dòng sống cá biệt lúc đó sẽ tự nguyên buông bỏ cả cá thể của mình để trở về trạng thái Là thuần khiết mà từ đó nó đã tuôn ra. Tuy nhiên, đây là một khái niệm không mấy hữu ích đối với hầu hết mọi người đang đầu thai trên địa cầu vì họ còn rất xa mới có được lựa chọn hợp nhất với Tất Cả.  

Khái niệm về tánh không cũng có thể được hiểu ở những mức độ khác nhau. Cao hơn cả, tánh không có nghĩa là trạng thái Là thuần khiết, cái Tất Cả, cái không thị hiện nơi không còn bất cứ hình tướng hay biểu hiện nào.

Ở tầm mức cá nhân, tánh không có nghĩa là trạng thái tâm thức khi mình đã vượt qua tự ngã phàm nhân. Bằng cách vượt qua tự ngã, dòng sống chiêm nghiệm mọi ý tưởng và cảm xúc phiền não nẩy ra từ tự ngã đều trở nên im lặng.  Như vậy, dòng sống chứng nghiệm một trạng thái tự do, giải thoát khỏi tiếng ồn của trí thể và cảm thể, một trạng thái trống rỗng không còn tiếng ồn của tự ngã.

Một lần nữa, đây không có nghĩa là dòng sống đã mất hết mọi cá thể, mọi nhận biết hay thậm chí cả những ý tưởng và cảm xúc. Chỉ đơn giản có nghĩa là dòng sống không còn những ý tưởng và cảm xúc mâu thuẫn dẫn đến khổ đau. Dòng sống nay được tự do chiêm nghiệm những ý tưởng và cảm xúc đích thực nẩy lên từ cá thể mà Thượng đế đã ban cho mình, dẫn đến sự an lạc tối hậu khi mình biểu hiện chính mình, tức là biểu hiện cái ta đích thực.

Ta cũng đã giảng dạy về trạng thái tâm thức này khi ta nói về Nước Trời ở trong con, và khi ta bảo mọi người đừng phán xét. Trong tâm nhị nguyên, con luôn nghĩ là con cần phán xét và dán nhãn mọi thứ theo tiêu chuẩn tương đối của con. Tất nhiên, tự ngã sẽ cả quyết rằng tiêu chuẩn này là một chân lý tuyệt đối, và đây chính là ảo tưởng nằm ở ngay trung tâm tự ngã. Nó khiến cho tâm con luôn luôn phán đoán, là trạng thái ồn ào nội tâm mà đức Phật gọi là cốt lõi của đau khổ. Tánh không thì ngược lại.

Con nên học tập những giáo lý của các chân sư về cái Ta Biết. Các chân sư giảng dạy về tỉnh giác thuần khiết, tức là khi con không còn tiêu chuẩn phán xét nào. Cái Ta Biết chiêm nghiệm mọi thứ như nó là – không có bất cứ phán đoán nhị nguyên nào về giá trị. Và như thế cái Ta Biết nhìn qua tâm Ki-tô. Cái Ta Biết có thể nhìn cuộc sống cách như thế – qua tâm thức Ki-tô – hoặc có thể nhìn cuôc sống xuyên qua phin lọc của tự ngã và ngã vỏ ngoài.

Thế nhưng như ta có nói, không một “người” nào có thể thăng trở lại thiên đàng trừ khi “người” đó đã đi xuống từ thiên đàng, có nghĩa là cái Ta Biết không thể thăng thiên cho tới khi nó trở về trạng thái tỉnh giác thuần khiết mà nó đã đi xuống ở khởi đầu.

Là sứ giả trong Thời đại Bảo bình

Hỏi: Con ngạc nhiên khi được biết là các chân sư thăng thiên đôi khi nói cho người nghe những gì họ muốn nghe, thay vì thách đố các tin tưởng của họ. Thày có thể cho con một tầm hiểu sâu hơn về lý do tại sao như vậy? Hơn nữa, các giáo lý về bất nhị liên hệ thế nào với cái nhìn đó? Liệu một người ở trong tư duy nhị nguyên có thể nào trở thành sứ giả?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một trong những sự thật cơ bản về việc khải thị hay truyền đạt từ cõi tâm linh là người giữ vai trò sứ giả sẽ chỉ hữu dụng cho các chân sư thăng thiên khi người đó trung hòa về một đề tài nào đó. Cho nên nếu người truyền đạt có một ham muốn hay một quan điểm mạnh mẽ, thì người đó sẽ dễ dàng bắt sóng từ những sinh thể nơi các cõi thấp. Sẽ có những sinh thể sẵn sàng nói bất cứ gì người ta muốn nghe để thu hút sự chú ý và do đó cũng thu hút ánh sáng tâm linh của những người này. Ý ta muốn nói là một người với tư duy đen trắng hay một người với tư duy xám đều không thích hợp để làm sứ giả.

Là một người tầm đạo, con cần quyết định liệu con có muốn nhận thông điệp từ những sinh thể nói cho con nghe những gì con muốn nghe – và như vậy cũng sẽ xác nhận hộp tư duy của con và khiến con khó nhìn vượt ra ngoài – hay con sẽ muốn nhận thông điệp từ những sinh thể nói với con những gì con cần nghe hầu con thăng vượt hộp tư duy của con. Chỉ các chân sư thăng thiên mới tự do nói cho con những điều con cần nghe vì các thày không cần bất cứ gì từ con. Các thày tự đủ về mặt tâm linh và không cần đến ánh sáng của con.

Tuy nhiên các thày, các chân sư thăng thiên, thỉnh thoảng cũng đã nói cho người ta nghe những gì họ muốn nghe, vì một khi họ đóng chặt tâm họ lại về một tình trạng nào đó – chẳng hạn như lòng kiêu mạn tâm linh – thì chọn lựa duy nhất còn lại cho các thày là đưa ra những lời sẽ khuếch đại tình trạng đó lên để khiến nó lộ ra rõ hơn và họ sẽ dễ nhìn thấy hơn. Ví dụ trong quá khứ, các thày đã có đưa ra những lời lẽ nhằm khuếch đại tư duy cuồng đại nơi một số người, khiến họ cảm thấy họ là đệ tử cao cấp nhất trên hành tình này. Tuy thế, các thày đã không bao giờ làm vậy mà không đồng thời ban truyền những lời dạy nhằm thách đố tình trạng đó và trao cho họ một phương cách thăng vượt tình trạng đó. Cho nên thử thách của họ là liệu họ sẽ chỉ bắt lấy những gì họ muốn nghe và bỏ qua những gì họ không muốn nghe.

Tuy nhiên với Thời đại Bảo bình vừa khai mạc, một sự xoay chuyển đã xảy ra. Do đó các thày sẽ không còn dùng cách thức đó nữa và sẽ chỉ nói cho mọi người những gì họ cần nghe, hầu họ có được một khung tham chiếu để thách đố các ảo tưởng của tự ngã. Đồng thời, điều này cũng có nghĩa là các thày không còn có thể sử dụng bất kỳ sứ giả nào không trung hòa.

Nếu có ai vô cùng mong muốn thấy một quan điểm là đúng thì người đó không thể giúp được các thày nữa. Nếu họ có những dính mắc cá nhân kiên cố, đặc biết nếu họ tự cho mình là tốt đẹp hơn người hay không thể sai lầm, thì họ không thể làm sứ giả cho các thày được nữa. Nếu họ có những ác cảm cá nhân, không hoàn toàn trung hòa và không khoan dung đối với mọi người, thì họ không thể được dùng làm sứ giả nữa. Nói cách khác, trong thời đại của tự do, các thày cần đến những sứ giả đủ tự do để nhận được thông điệp mà không thêm vào bất cứ màu sắc nhị nguyên nào. Tất nhiên, luôn luôn sẽ có một sự tô màu nào đó do cá tính cùng gốc gác văn hóa của người đó, nhưng màu sắc này không giống như màu sắc nhị nguyên.      

Con thấy đó – phải không con? – điều hợp lý là muốn trở thành một sứ giả chính đáng trong thời đại tự do, con phải trước tiên đạt được một trình độ tự do bản thân cao độ. Con cần nhìn nhận là trong Thời đại Song ngư vừa qua, tư duy cuồng đại là một trong những thách đố lớn nhất mà con người cần vượt qua. Cho nên các thày đã, và đã có thể, ủy nhiệm một số vị sứ giả vẫn còn trong tư duy đó. Những vị đó đã được phép “tô màu” giáo lý của tổ chức họ với tư tưởng cuồng đại cho rằng có một cuộc chiến giữa thiện và ác. Nhưng đồng thời, tổ chức đó cũng đã đưa ra những lời dạy hướng đến một tâm thức vượt khỏi đấu tranh nhị nguyên.

Thời đại Bảo bình này sẽ chỉ biến thành một Thời đại Hoàng kim nếu đại đa số người tâm linh thăng vượt tư duy cuồng đại. Cho nên các thày sẽ không còn dùng bất kỳ sứ giả nào chưa thăng vượt được tư duy đó hay chưa có nỗ lực chân thành để thăng vượt nó. Bất cứ ai nhấn mạnh đến tranh đấu nhị nguyên và khuyến khích người khác tự xem mình là người tranh đấu cho cái thiện để chống lại cái ác, không phải là một sứ giả chân chính. Con không thể là một sứ giả trong Thời đại Bảo bình nếu con nghĩ con chống lại bất cứ ai hay bất cứ gì. Con cần thuận theo sự thật thay vì chống lại những gì con định nghĩa là dối trá bằng tư duy nhị nguyên.

Trong quá khứ, các chân sư thăng thiên đã ban ra nhiều giáo lý được thích ứng với những người còn trong tư duy nhị nguyên, và vì vậy các thày sẽ ngừng không đặt trọng điểm vào đó nữa mà sẽ tập trung vào giáo lý cho tư duy Thời đại Bảo bình dựa trên hợp nhất. Bởi vì chỉ trong hợp nhất mới có tự do, trong khi trong tách biệt chỉ có thể có giam hãm.

Nhưng tư duy cuồng đại cũng không thể được khắc phục bằng cách bước vào tư duy xám. Cho nên bất cứ sứ giả nào nhấn mạnh sự đồng đều mà không có phân biện Ki-tô thì, tương tự như trên, cũng sẽ không hữu dụng trong vai trò một sứ giả chân chính. Phân biện Ki-tô là một thế cân bằng tinh tế giữa hai yêu cầu: vừa không rơi vào một đối cực nhị nguyên, vừa không đứng giữa. Phân biện Ki-tô là thăng vượt nguyên cái thang điểm nhị nguyên và trải nghiệm một sự thật vượt ra ngoài ngôn từ. Nhưng một khi con biết sự thật đó rồi, con sẽ có khả năng nhận được những ngôn từ ít nhất không mang màu sắc nhị nguyên khi chúng đi qua tâm con.

Tất nhiên, điều này không đảm bảo là những ngôn từ đó sẽ không khoác vào một màu sắc nhị nguyên khi chúng đi qua tâm của người đọc. Tuy nhiên, đó không là mối quan tâm cho các thày vì các thày tôn trọng quyền tự quyết và không bị dính mắc vào cách người ta tiếp nhận giáo lý của các thày như thế nào. Các thày chỉ đơn giản cố tìm cách làm cho con đường thật dễ hiểu, và các thày mãn nguyện khi biết rằng mình đã trao cho mọi người một cơ hội để vượt thăng nhị nguyên. Nếu người ta thích đi rong thêm một vòng, hoặc trong một cực đoan phán xét nhị nguyên dựa trên hình dạng vỏ ngoài, hoặc trong cực đoan ngược lại là lòng hòa hoãn thiếu hẳn tính phân biện, thì cũng chịu thôi.   

Con có thực sự thấy những gì ta nói? Câu hỏi cơ yếu là liệu con – bất kể con là sứ giả hay đệ tử – con có hiểu được là sự thật Ki-tô vượt khỏi bất kỳ hệ thống nào tìm thấy trên trái đất, thậm chí vượt khỏi cả sự diễn tả của ngôn từ hay không? Cho nên nếu con có bất kỳ thành kiến nào muốn chứng thực một hệ thống, một triết lý hay ngay cả một thái độ nhất định, thì con sẽ không cởi mở với lời dạy của chân sư thăng thiên. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra với các sinh thể chưa thăng thiên, và quả vậy, họ sẽ xác nhận hệ thống của con.

Họ làm vậy chính là vì họ chưa đạt đến một trình độ điều ngự cho phép họ nhìn vượt quá nhị nguyên và thoát khỏi tâm phán xét – hay cái tâm thiếu phán xét – không có khả năng trực tiếp biết được sự thật. Cho nên các sinh thể này vẫn tin vào ảo tưởng cốt lõi cho rằng sự thật có thể được nhận biết qua ý tưởng và khái niệm thay vì bằng chứng ngộ (gnosis). Họ vẫn tin là con – như một chủ thể – có thể biết một khách thể, một đối tượng, qua một khái niệm trong tâm con. Kỳ thực, con sẽ chỉ thực sự biết được một khi cái Ta Biết của con hòa nhập với tâm thức đã kết đọng (precipitate) đối tượng đó, để hàng rào giữa chủ thể và khách thể tan biến.

Ai ai cũng có thể đạt đến sự chứng ngộ đó, nhưng đối với hầu hết mọi người, làm vậy sẽ tốn thời gian. Tuy nhiên, điều hầu hết mọi người có thể đạt được rất nhanh chóng là một cái hiểu về hai đối cực nhị nguyên cùng nhu cầu không để chúng lừa dối mình. Khi con bắt đầu hiểu bằng cách nào tâm nhị nguyên đã đánh lừa loài người từ hằng hà thiên kỷ, thì con sẽ khó lòng nào đưa một hệ thống thế gian lên địa vị cao trội rồi dùng hệ thống đó để phán xét người khác. Thay vào đó, con sẽ bắt đầu nhìn xa hơn những loại hệ thống vỏ ngoài như vậy, thậm chí vượt xa hơn cả ngôn từ. Và khi học trò sẵn sàng cho một lời dạy cao hơn, thì đúng vậy, vị thày sẽ xuất hiện dưới dạng này hay dạng khác.

Đối với một học trò bị tâm nhị nguyên làm cho mù quáng, một vị thày bất nhị sẽ hiện ra như một con kiến, vì vị thày này sẽ không xác chứng cho cái nhìn cuồng đại của học trò. Vì vậy mới có lời khuyên muôn đời: “Nếu vị thày là một con kiến, con hãy lắng nghe!”

Giê-su giảng về đồng bóng

Hỏi: Thưa thày Giê-su, quan điểm của thày về đồng bóng (channeling, hay truyền kênh) là như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Giáo lý trên trang web này giải thích rằng tạo vật của Thượng đế được tạo bằng năng lượng. Các tạo vật của Thượng đế có nhiều tầng lớp chỉ phân biệt qua rung động. Tâm con người có khả năng hoà điệu với những tầng khác nhau của tạo vật Thượng đế. Bằng cách điều chỉnh rung động bắt sóng trong tâm thức mình, một người có thể nhận được những ý tưởng hay thông điệp từ những cõi khác.

Có một vài cõi tuy vượt ngoài vũ trụ vật lý nhưng lại có rung động quá thấp để thuộc về thế giới tâm linh. Một trong những cõi đó được các thày gọi là cõi cảm xúc hay cõi tình cảm. Có rất nhiều sinh thể cư ngụ trong cõi này. Trên địa cầu, con có thể thấy nhân loại có nhiều trạng thái tâm thức khác nhau thì ở cõi cảm xúc cũng như vậy.

  • Ở các tầng thấp nhất của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể rõ ràng có ý đồ xấu xa. Chúng cố tình tìm cách thao túng con người cho đủ loại mục đích khác nhau, kể cả đánh cắp năng lượng tâm linh của con người.
  • Ở các tầng giữa của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể không có ý định xấu xa nhưng chỉ đơn giản hành động do vô minh. Ở những tầng cao hơn của cõi cảm xúc, con tìm thấy những sinh thể đã đạt được một mức hiểu biết tâm linh nào đó. Chúng có thể có vẻ thông thái hay tiến hóa cao siêu đối với một người trong thế giới vật chất.
  • Những sinh thể này có thể không có ý gì xấu xa và chúng cũng có thể đưa ra những lời chỉ dẫn hay giảng dạy chứa đựng một chút yếu tố chân lý. Tuy nhiên, con phải tự đặt câu hỏi tại sao chúng lại cư ngụ trong cõi cảm xúc và tại sao chúng chưa thăng thiên lên cõi tâm linh. Lý do là do một số nguyên nhân tâm lý, chúng đã bị kẹt lại ở tầng mức này của tạo vật Thượng đế. Do đó, nếu con tiếp tục hiệp thông với những sinh thể loại này, con có nguy cơ bị kẹt lại ở cùng một mức như chúng.  
  • Khi đã là học trò thì con khó lòng vươn cao hơn tâm thức của thày mình. Cho nên khi con chọn vị thày tâm linh của con, con muốn chọn ra một vị là chân sư thăng thiên. Nếu con muốn phát triển tâm linh tối đa và cũng thăng thiên lên cõi tâm linh, tại sao con lại chọn thày cư ngụ ở một cõi thấp hơn? Tất nhiên, nếu con chỉ muốn “giải trí tâm linh” thì rất nhiều sinh thể ở cõi cảm xúc sẽ là những tay lão luyện để nói cho con nghe đúng những lời mà tự ngã của con muốn nghe.

Ta không có ý muốn đưa ra một lời khẳng định tuyệt đối để lên án đồng bóng hay truyền kênh là luôn luôn nguy hiểm. Tuy nhiên, ta biết có một số hành giả Thời mới ưa nghĩ rằng việc liên hệ với đồng bóng không có gì nguy hiểm. Ta phải nói thẳng thắn với con là nghĩ như vậy không đúng. 

Trong ý nghĩa rộng nhất, đồng bóng có thể mô tả như một tiến trình trong đó một người bật máy thu thanh của tâm thức mình lên và bắt sóng một tầng nào đó trong số các tầng của tạo vật Thượng đế ở ngoài vũ trụ vật lý. Tuy nhiên nếu con nghĩ rằng tất cả mọi thứ ở ngoài vũ trụ vật lý đều là tốt và tâm linh thì con đang mắc vào một ảo tưởng vô cùng nguy hiểm.

Để thấy ảo tưởng này nguy hiểm thế nào, con chỉ cần nhìn vào hành vi của con người. Tại sao con nghĩ có những người hành động xấu ác rõ ràng? Lý do là vì họ đã hòa điệu tâm thức của họ vào một tầng thấp của tạo vật Thượng đế. Chẳng hạn con cũng biết Adolf Hitler say mê huyền bí như thế nào. Kỳ thực ông là cái kênh cho những tà lực thao túng và sử dụng ông ta cho mục đích của chúng. Chỉ cần nhìn vào cuộc đời và cái chết của Hitler, con sẽ thấy hiển nhiên đồng bóng không phải là một hoạt động an toàn. 

Một số người đã cho phép tà lực từ cõi trung giới ảnh hưởng, thậm chí chiếm hữu tâm thức của mình. Những người như thế thường làm công cụ cho tà lực, dù cố ý hay vô tình, dù biết rõ hay là không biết.

Điều ta đang cố giải thích là nếu con cho rằng đồng bóng là an toàn, con đã rơi vào một cực đoan. Cực đoan đối nghịch là những người không bao giờ dám bật máy thu thanh của tâm thức họ để bắt sóng ở ngoài vũ trụ vật chất. Cả hai loại người này đều tiếp cận sự phát triển tâm linh một cách thiếu cân bằng.  

Nếu con nhìn vào hầu hết người tâm linh trên địa cầu, con sẽ thấy chỉ có một lý do duy nhất tại sao họ lại tâm linh. Đó là vì họ đã bật tâm thức họ lên để hòa điệu với cõi tâm linh. Qua sự hòa điệu này, họ nhận được tuệ giác, sự hiểu biết và đôi khi nhiều loại thông điệp từ cõi tâm linh.

Nhiều người trên địa cầu đã mở tâm ra, hoà điệu với cái gì đó vượt khỏi vũ trụ vật chất, và trong những thập niên sắp tới, số người này sẽ ngày càng đông đảo hơn. Tâm cởi mở này là một phần rất lớn trong kế hoạch tâm linh nhằm nâng cao tâm thức nhân loại. Nói chung, ta không muốn con người đóng chặt tâm mình lại, thế nhưng ta cũng khuyên mọi người cân nhắc xem mình muốn liên lạc với tầng cõi nào, với đài phát thanh nào.

Ta khuyến khích mọi người hãy học cách mở tâm thức ra và hòa điệu với bên ngoài thế giới vật chất, nhưng tất nhiên ta chỉ muốn mọi người học cách hòa điệu với thế giới tâm linh mà không bắt lầm sóng của bất cứ cõi nào thấp hơn. Để làm vậy, con cần đạt được sự phân biện, hầu con biết được cái gì thuộc về thế giới tâm linh và cái gì thuộc về những thế giới thấp kém. Khả năng phân biện này chỉ đạt được bằng cách con khoác vào quả vị Ki-tô cá nhân của con, và vì vậy ta đã cho con thật nhiều dụng cụ và lời dạy để giúp con thực hiện được.

Ta phải thành thực với con là ta nhìn thấy nhiều con người tuyệt vời trong phong trào Thời mới, họ rất cởi mở với ý tưởng rằng nhân loại có khả năng giao tiếp với thế giới tâm linh. Nhưng một số lại cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực và họ cố hiệp thông bằng động lực không trong sáng. Trong số những động lực này, có niềm kiêu hãnh, có nhu cầu muốn tự cao, nhu cầu quyền lực và kiểm soát, hay lòng ham muốn nếm thử một hiện tượng lạ lẫm. Nếu con đi tìm sự hiệp thông nội tâm từ một lòng ham muốn quá độ hay với những động lực không trong sạch như thế, con sẽ có nhiều khả năng hòa điệu với một tầng tâm thức thấp hơn cõi tâm linh.

Cho nên con nên vô cùng tỉnh thức về các động lực của con. Cách hay nhất để vượt qua động lực bất toàn là thực tâm nỗ lực bước đi trên con đường xây dựng quả vị Ki-tô cá nhân của con. Trước tiên hãy đi tìm vương quốc của Thượng đế, đi tìm tâm thức Ki-tô, và mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.

Sự quân bình luôn luôn là chìa khóa của phát triển tâm linh. Có những người sẽ nói, do rủi ro khi liên hệ với tà lực nơi cõi cảm xúc, con không bao giờ được thử nghiệm bất kỳ một hình thức hiệp thông cá nhân nào. Nếu con chấp nhận ý tưởng này, làm sao con sẽ vươn lên được cao hơn một mức nào đó trên đường tu? Nhưng mặt khác, rõ ràng cũng sẽ nguy hiểm nếu con bảo rằng bất cứ ai cũng nên hiệp thông và mọi chuyện sẽ tuyệt đối an toàn.   

Ở một mức nào đó trên đường tu, một người sẽ cần phát triển khả năng vượt ra khỏi vũ trụ vật chất và hòa điệu với cõi tâm linh. Tuy nhiên hoà điệu này chỉ nên xảy ra qua cái ta Ki-tô của người đó. Qua cái ta Ki-tô, con có thể chạm các linh thể và biết được nó có thuộc về Thượng đế hay không.

Nếu con không bao giờ cố hoà điệu, chắc chắn con sẽ không thể thăng tiến quá một mức nào đó, nhưng nếu con cố hoà điệu mà không có phân biện, con sẽ gặp rủi ro. Vì vậy, con hãy tập trung vào việc phát triển tâm Ki-tô và đừng cố ép uổng sự hoà điệu nội tâm. Con chỉ đơn giản xây dựng quả vị Ki-tô và để yên cho vị thày tâm linh của con tìm thấy con khi con sẵn sàng.

Đây là ý niệm mà ta đã mô tả trong chuyện ngụ ngôn về những nữ đồng trinh chuẩn bị để sẵn sàng đón tiếp chú rể. Nếu dòng sống cố cưỡng ép tiến trình này, rất có thể nó sẽ nhận lộn chú rể và cuộc hôn nhân sẽ không còn gì thần thánh nữa đâu.

Một số người bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức duy vật đến nỗi họ không thể hoà điệu với bất cứ gì bên ngoài thế giới vật chất. Nếu con đã vượt lên trên mức đó và đạt tới một mức hoà điệu nào đó, tại sao con không nỗ lực thêm để đạt phân biện Ki-tô? Tại sao con không đảm bảo sự hiệp thông với các chân sư đích thực ở cõi tâm linh thay vì một số sinh thể ở những cõi thấp?

Các chân sư khác và chính ta đều sẵn sàng và mong muốn hiệp thông với bất cứ ai đạt được một mức tâm Ki-tô nào đó. Con hãy tìm các thày với sự phân biện và động lực trong sạch, và con sẽ tìm thấy các thày.

Thiên thần không được tạo ra để hiện thân vật lý

Hỏi: Nếu là một thiên thần đang hiện thân, liệu thiên thần đó khi thăng thiên có sự chọn lựa giữa việc gia nhâp cõi thiên thần và việc trở thành một chân sư thăng thiên hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Đại thiên thần Michael qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Như thày Maitreya có giải thích trong sách của thày (Master Keys to Spiritual Freedom), các thiên thần không được sinh tạo ra để mang hiện thân trong cõi vật lý. Nếu điều này xảy ra, họ sẽ phải khoác lấy tâm thức nhị nguyên và do đó sẽ phải đi theo con đường trở về Thượng đế, là cùng con đường đã được hoạch định cho những vị đồng sáng tạo đầu thai trong thân xác và phải thượng thăng trở lên.

Tuy nhiên, con yêu dấu, trong một nghĩa nào đó, câu hỏi này gần như không hiệu lực. Bởi vì khi con thăng thiên, con thực sự không thể nói được con là thiên thần hay là chân sư. Trong nghĩa đó, chúng tôi, những thiên thần, không xem mình là như vậy ngoại trừ khi nào giao tiếp với con người trên địa cầu.

Điều ta muốn giải thích là trên thiên đàng không có sự phân chia giữa cõi giới thiên thần và chân sư thăng thiên như con thấy trên địa cầu – trong ý nghĩa là chúng tôi đều tự xem mình là những phần thân thể của Thượng đế. Nhưng trong nhãn quan trần thế của con, đúng là khi đã đi từ cõi thiên thần xuống hiện thân thì sẽ thăng thiên trở lại với tư cách là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. 

Tuy nhiên trên thiên đàng có nhiều linh động đến độ sau khi thăng thiên, chúng tôi vẫn có thể đảm nhiệm một trách vụ thiên thần. Bởi vì một lần nữa, thật sự có khác gì đâu nhỉ? Con người ưa thích phân chia một cách đường thằng rạch ròi, nhưng trên thiên đàng chúng tôi không có tâm thức đường thẳng như vậy, và do đó một chân sư hoàn toàn có thể đảm nhiệm công việc của một thiên thần, thậm chí một thiên thần có thể đảm nhiệm một trách vụ tâm linh khác như của Elohim chẳng hạn.

Vậy một lần nữa, trên địa cầu con nhìn mọi chuyện qua phin lọc thẳng hẹp của tâm thẳng hẹp. Nhưng con sẽ vượt lên trên địa cầu bằng cách vượt lên trên cái tâm đó, và con thực sự chứng nghiệm được thực tế là cái Ta Biết có khả năng là bất cứ gì mà nó nghĩ nó là.

Và bởi vì nó là phần nối dài của bản thể Thượng đế – và vì nó mong muốn là phần nối dài và đóng góp vào mục đích sáng tạo của Thượng đế – cho nên cái Ta Biết đủ linh động để khoác lấy bất kỳ trách vụ tâm linh nào và làm tròn bất kỳ chức năng tâm linh nào mà nó muốn trải nghiệm.

Vai trò của Saint Germain và Giê-su

Hỏi: Thày có xem Saint Germain là vị lãnh đạo của Thời đại Mới, và nếu vậy, sứ mạng của thày trong Kế hoạch này sẽ là thế nào? Bởi vì nếu TẤT CẢ các chân sư thăng thiên đều là MỘT, thì các chân sư thực sự phải đóng góp vào Kế hoạch Vũ trụ này hầu cải sửa địa cầu cùng dân cư trên đó.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Saint Germain là vị lãnh đạo tâm linh của Thời đại Bảo bình như ta đã từng giữ vai trò này trong Thời đại Song ngư. Điều này không có nghĩa là Saint Germain đã thay thế ta, mà ta đã chuyển sang một trách vụ khác cao hơn. Nay ta đảm nhiệm trách vụ Thế sư cho hành tinh địa cầu và Cứu tinh cho nhân loại.   

Hoàn toàn không có sự cạnh tranh hay ganh đua trên thiên đàng. Saint Germain từng hiện thân là cha của ta tức Joseph, và ta tôn kính và yêu quý thày như người anh em tinh thần thực sự. Điều quả thực sẽ hữu ích và quan trọng cho tất cả những ai mở tâm ra cho nguồn năng lượng của Thời đại Bảo bình là nên làm quen với sự Hiện diện, giáo lý cùng rung động của Saint Germain yêu dấu của ta. Thày đã giảng dạy rất nhiều từ thập niên 1930 và mọi hành giả tầm đạo sẽ nhận thấy việc học hỏi giáo lý của thày vô cùng quý báu.

Liên quan đến nhiệm vụ của ta, con có thể tham khảo những nhận xét của ta ở nơi khác trên trang mạng này.

Ghi chú: Sau đây là lời của Giê-su nói về Saint Germain trong quyển sách “Ki-tô sinh ra trong bạn” (The Christ Is Born in You):

Ta đã từng nói với con là cha ta, thánh Joseph yêu dấu, nay là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên. Danh tính của thày là Saint Germain và thày đã được giao phó trách vụ lãnh đạo tâm linh cho Thời đại Bảo bình. Ta có thể xác nhận với con là ta có sự tôn kính và ngưỡng mộ to lớn đối với người Anh em Ánh sáng của ta, Saint Germain. Ta vô cùng vui mừng là thày đã được giao phó trách nhiệm lãnh đạo tâm linh trong 2000 năm tới.

Khi Saint Germain được bổ làm vị kế nhiệm cho ta, thày đã nhận ra rõ ràng tình trạng khó khăn của nghiệp chướng nhân loại đang quay trở lại, như ta đã có mô tả cho con. Vì vậy, thày thấy được nhu cầu phải truyền bá một kỹ thuật tâm linh hữu hiệu hơn mọi điều đã từng được giảng dạy trên địa cầu. Đây không phải là một vấn đề đơn giản vì con người đã tỏ ra vô cùng sốt sắng lạm dụng bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào được trao cho họ. Tương tự như con người đã sẵn sàng lạm dụng năng lượng nguyên tử thì họ cũng sẵn sàng lạm dụng năng lượng tâm linh. 

Cho nên Saint Germain đã phải xin phép đặc biệt từ các vị lãnh đạo tâm linh vũ trụ, và sau nhiều tham khảo, các vị ấy đã bằng lòng. Saint Germain đã được phép công bố một kỹ thuật tâm linh mà trong hàng ngàn năm chỉ được biết tới trong số một nhóm nhỏ những dòng sống tiên tiến. Trong quá khứ, kỹ thuật này được biết đến dưới nhiều tên. Saint Germain đã chọn truyền giảng kỹ thuật tâm linh này dưới tên “Ngọn lửa Tím”. Tên này liên quan đến việc cầu thỉnh một dạng ánh sáng tâm linh rung động ở những tần số nằm ngay trên vũ trụ vật chất (ánh sáng màu tím có tần số cao nhất trong số ánh sáng nhìn thấy).

Để tham khảo thông tin về cách cầu thỉnh Ngọn lửa Tím, xin xem trang Dụng cụ tu tập tâm linh.

Chân sư John Yêu dấu

Hỏi: Tông đồ John (sứ đồ Giăng hay Gioan) có đang bước chân trên địa cầu hay không, và nếu có, tìm đâu ra những nguồn giáo lý hiện đại đáng tin cậy của ngài?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tông đồ John hiện không đang bước trên mặt trái đất trong một xác thân vật lý. Thày hiện là một sinh thể thăng thiên, một chân sư thăng thiên, và danh hiệu cuả thày là John Yêu dấu (John the Beloved).

Như mọi chân sư thăng thiên khác, John yêu dấu của ta làm việc với một số cá nhân trong nhiều khả năng khác nhau. Vào thế kỷ qua, chúng tôi, các chân sư, có đỡ đầu cho một vài tổ chức cùng những cá nhân để truyền bá một số giáo lý tâm linh.

Mục đích của trang web này là để khuyến khích con người bước đi trên con đường quả vị Ki-tô cá nhân. Khi con bắt đầu khoác lên quả vị Ki-tô của con, con đạt được khả năng phân biện giữa những gì đáng tin cậy, nghĩa là thuộc về ánh sáng và đến từ các chân sư thăng thiên, và những gì không đáng tin cậy, là những gì đến từ những nguồn thấp hơn.

Một trong những vấn đề lớn nhất mà chúng tôi phải đối mặt là có quá nhiều người mang xu hướng dính mắc với những giáo lý vỏ ngoài. Thật là quá hấp dẫn khi nghĩ rằng mình sẽ tự động được cứu rỗi nếu mình đi theo một tổ chức nhất định, tin vào mọi học thuyết của tổ chức đó và thực hành các nghi lễ. Nhưng việc khoác lên quả vị Ki-tô cá nhân đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn, và lần hồi qua thử nghiệm và sửa sai, con sẽ rèn giũa khả năng phân biện tự mình con.

Bởi thế nên điều cuối cùng mà ta muốn chứng kiến là trang mạng này trở thành một cái phòng kiểm tra nơi mọi người vào hỏi thông tin đáng tin cậy thay vì sử dụng tánh phân biện của riêng mình. Cho nên ta mong con sẽ hiểu là ta sẽ không trả lời câu hỏi của con về những nguồn giáo lý đáng tin cậy từ John Yêu dấu.   

Sự kiện con đặt câu hỏi này cho thấy dòng sống của con có một mối liên hệ tâm linh với John Yêu dấu. Dòng sống của con mong muốn tái lập mối liên lạc ý thức với vị thày tâm linh đó. Có một chân lý rất quan trọng trong câu nói: “ Hãy hỏi và con sẽ nhận được.”

Con hãy nỗ lực hòa điệu tâm thức con với tâm thức của John Yêu dấu. Sẽ hữu ích cho con nếu con nghiên cứu các thông tin về cuộc đời của thày và những giáo lý mà thày đã truyền giảng qua các sứ giả vỏ ngoài. Tuy nhiên những nguồn vỏ ngoài này sẽ không bảo đảm là con sẽ liên lạc trực tiếp được với thày. Sự liên lạc đó phải đến từ bên trong.

Ta đã có đăng tải một bài tập để giúp những ai muốn thiết lập mối liên hệ bên trong. Ta đề nghị con sử dụng bài tập đó cũng như bài tập để bảo vệ tâm linh. Con hãy hình dung sinh thể tâm linh mà con gặp trong khu vườn xinh đẹp đó là John Yêu dấu.

Ta có thể cam đoan với con là nếu con mở tim con ra một cách chân thành, thày John sẽ trả lời tiếng gọi của con. Ta có thể xác nhận rằng tình thương thanh khiết mà thày John dành cho dòng sống của con sẽ là sự trợ giúp vô cùng hữu ích cho đường phát triển tâm linh của con. John yêu dấu của ta chỉ đang chờ con gõ cửa trong tim con. Nếu con gõ cửa, thày sẽ trả lời con. 

Nhìn thấy tận mắt Thiên thần và Chân sư

Hỏi: Khi nào tấm màn sẽ được vén lên để con người nhìn thấy tận mắt các Thiên thần và các Chân sư?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tấm màn sẽ không bao giờ được rỡ lên chung cả cho mọi người mà chỉ với tư cách cá nhân. Nếu rỡ màn lên để mọi người nhìn thấy được thiên thần và chân sư, đó sẽ là sự vi phạm quyền tự quyết của con người. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết và do đó họ có cơ hội bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn khiến họ không thể nhìn thấy thiên thần và chân sư tâm linh.

Cách duy nhất để vén tấm màn lên cho những ai ở trong trạng thái tâm thức như vậy là cưỡng ép họ rời khỏi trạng thái tâm thức đó, và như vậy quả là sự vi phạm Luật Tự quyết. Các chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ làm điều đó.

Điều quan trọng là cần hiểu rằng Thượng đế đã không tạo ra tấm màn. Cái đang ngăn cản mọi người thấy được cõi tâm linh là một tấm màn năng lượng tha hóa, và năng lượng này là do chính những người đã lạm dụng quyền tự quyết tạo ra. Tất nhiên là Thượng đế có khả năng tiêu hủy tấm màn, nhưng như ta đã nói, điều này sẽ không xảy ra. 

Con người có thể “rỡ tấm màn” trong từng trường hợp cá nhân bằng cách nâng cao tâm thức của mình. Chính vì vậy mà tấm màn chỉ được rỡ lên một cách cá nhân. Tuy nhiên, ta hy vọng là trong một tương lai không quá xa, sẽ có nhiều người có khả năng đạt được trạng thái tâm thức trong đó họ có được một hình thức trực nhận nào đó về thế giới tâm linh, kể cả việc nhìn thấy hay nghe thấy các thiên thần và các chân sư tâm linh.

Thượng đế có nghe thấy mọi lời cầu nguyện?

Hỏi: Tại sao một người phải tìm những câu trả lời trên máy tính hay trong thư viện khi Thượng đế nghe thấy mọi lời cầu nguyện của chúng ta?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày ngày 14/11/2012.

Mọi sự trên hành tinh này đều tùy thuộc vào ý chí tự quyết của con người. Đúng là các thiên thần của Thượng đế nghe được tất cả mọi lời cầu nguyện nhưng các thiên thần không thể trả lời mọi lời cầu nguyện bởi vì có những điều mà con người phải làm lấy. Chính con người đã tạo ra những điều kiện hiện tại trên hành tinh bằng cách lạm dụng quyền tự quyết của mình, thì bây giờ con người phải tháo gỡ những điều kiện đó bằng cách sử dụng quyền tự quyết một cách đúng đắn.

Làm thế nào con học cách sử dụng quyền tự quyết đúng đắn? Bằng cách tìm ra câu trả lời cho rất nhiều câu hỏi mà con đặt ra về sự sống cũng như về mặt tâm linh của sự sống. Nhiều người đã đi xuống một trạng thái tâm thức nơi họ không thể nhận được câu trả lời trực tiếp từ cái ta Ki-tô của họ. Do đó họ phải đi tìm trả lời từ những giáo lý vỏ ngoài. Khi con tìm hiểu những giáo lý vỏ ngoài này với tâm trí và trái tim cởi mở, câu trả lời sẽ được thể nhập và trở thành một phần của chính con. Từ đó con sẽ vượt lên một tâm thức cao hơn, con ngừng lạm dụng quyền tự quyết và học cách sử dụng quyền tự quyết cho phù hợp với các quy luật của Thượng đế.

Chính vì Thượng đế đã ban cho con quyền tự quyết cho nên ngài không thể ép buộc con phải học những bài học đó. Con phải tự nguyện học lấy. Đó là tại sao con mới có nhu cầu tìm kiếm câu trả lời ở bất cứ nơi nào có thể. Tuy nhiên, như ta có giải thích khắp trang mạng này, những câu trả lời vỏ ngoài như vậy chỉ nhằm làm phương tiện cho con sử dụng để giúp con thiết lập mối liên lạc với cái ta Ki-tô của con hầu con tìm được trả lời sâu xa hơn trong nội tâm con.

Để nhận được trả lời rõ ràng như vậy, con hãy sử dụng một số dụng cụ tâm linh được đăng tải trên trang Hộp Dụng cụ. Hãy thiết lập sự bảo vệ tâm linh của con. Giải tỏa tâm con bằng cách biến hoá năng lượng tiêu cực. Và nỗ lực thiết lập sự hòa điệu với cái ta Ki-tô. Một khi con đã thiết lập được sự hòa điệu này, con sẽ không cần câu trả lời từ bên ngoài con nữa. Con sẽ nghe thấy Thượng đế trả lời những lời cầu nguyện của con trực tiếp trong con tim.

Giáo lý nền tảng về Tình thương Thiêng liêng, đối chiếu với tình yêu người phàm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, chúng con đã nhận được nhiều lời dạy về các đức tính của Thượng đế, cho dù đó là Cha, Mẹ, Minh triết hay Tình thương. Nhưng con thường nghe bạn bè bảo rằng Tình thương là đức tính cao nhất và cũng là điều duy nhất mà con người cần đến. Tình thương có thật sự là đủ để đạt được quả vị Ki-tô và quả vị Phật hay không? Hay có một đức tính cơ bản hơn nữa của Thượng đế – như sự Tự thăng vượt – mà Tình thương chỉ là một phần bổ sung?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi rất hay – và con đang đi đúng hướng khi con nhắc tới đặc tính tự thăng vượt. Tuy nhiên, tất cả tùy thuộc vào cách con sử dụng ngôn từ. Con thấy không, từ một góc độ nào đó, con có thể bảo tình thương là phẩm cách cốt lõi của đường tu tâm linh, nhưng điều này chỉ đúng nếu con hiểu sự khác biệt giữa tình yêu của người phàm và Tình thương Thiêng liêng, hay Siêu việt.

Phẩm chất thiết yếu của Tình thương Thiêng liêng chính LÀ sự tự thăng vượt – động lực để LÀ HƠN NỮA. Chính phẩm chất này đã là động lực cho Đấng Sáng tạo sáng tạo, hầu ngài trở thành nhiều hơn chính ngài bằng cách tự biểu hiện trong hình tướng cũng như trong hình tướng của các sinh thể đồng sáng tạo có tự nhận biết. Cho nên nếu không có dạng tình thương này thì sẽ không có gì được sinh tạo. Và con cũng có thể nói, chìa khóa chủ yếu để đạt quả vị Ki-tô và quả vị Phật cũng chính là Tình thương Thiêng liêng này, và con chỉ có thể đạt được nó bằng cách trở thành một với dòng chảy của tình thương, Dòng sông sự Sống.

Ngược lại, tình yêu con người, tình yêu phàm phu là loại tình yêu sở hữu. Nó tập trung vào một đối tượng yêu thương và nó muốn chiếm giữ đối tượng đó. Để thực hiện điều đó, nó tìm cách kiểm soát, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách ngừng tự thăng vượt và do đó bước ra ngoài Dòng sông sự Sống. Tình yêu phàm phu mang kỳ vọng, thậm chí nó còn đòi hỏi là đối tượng phải đón nhận nó, và nó cũng đòi hỏi một sự hồi đáp. Nó chỉ biểu lộ được khi nào một số điều kiện được hội đủ, và điều này chứng tỏ là nó không tự đủ, nó không tồn tại được một mình. Bất cứ gì mà không tự đủ thì sẽ không Thiêng liêng mà khởi lên từ tâm thức tách biệt và thiếu thốn.

Tình thương Thiêng liêng không cần đến đối tượng nào mà được biểu lộ cho mọi sự sống, giống như mặt trời tỏa sáng ra cho tất cả. Nó không cần sở hữu một đối tượng nào và nó luôn luôn tuôn chảy, nó tự biểu lộ một cách hoàn toàn vô điều kiện và trong bất kể điều kiện nào. Nó bằng lòng tự biểu lộ mà không đòi hỏi hay chờ đợi bất cứ sự hồi đáp nào, ngay cả sự đón nhận nào. Nó nhận được niềm vui từ việc nó tuôn chảy, niềm vui từ việc nó là cái nó là.

Điều ta muốn nói là nếu con nỗ lực làm cánh cửa mở cho Tình thương Thiêng liêng – và chân thành cố gắng thăng vượt mọi sự biểu lộ phàm phu của cái gọi là tình yêu – thì quả thực con có khả năng đạt đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là Tình thương Thiêng liêng có rất nhiều cách biểu lộ, nhiều cách thể hiện, và để có được Tình thương Thiêng liêng, con phải điều ngự những cách đó và đạt được khả năng biểu lộ chúng.

Hãy để ta nhắc cho con bốn phẩm cách cơ bản của Tình thương Thiêng liêng. Như Mẹ Mary có giải thích, mọi thứ được sinh tạo do sự tương tác giữa hai lực lan ra và co lại. Tuy nhiên để tạo vật được bền vững, phải có sự cân bằng giữa hai lực đó, và chính tâm Ki-tô là chìa khóa cho thế cân bằng này. Khi có cân bằng, tình thương sẽ tuôn chảy từ Cha xuyên qua Thánh linh và áp chồng niệm tinh khôi lên Ánh sáng Mẹ. Cũng vì vậy mà con có truyền thống ba ngôi trong đạo Cơ đốc – Cha, Con và Thánh linh – với sự bổ sung của Mẹ Thiêng liêng. Mỗi ngôi như vậy biểu tượng cho một phẩm cách của Tình thương Thiêng liêng:

  • Cha tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như quyền năng hay ý chí.
  • Con tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như minh triết hay quân bình.
  • Thánh linh tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như tình thương, nhưng một tình thương tự thăng vượt, giải thoát sự sống khỏi mọi ràng buộc.
  • Mẹ tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như sự thanh tịnh trinh nguyên, hay niệm tinh khôi.

Bốn phẩm cách này tương ứng với những lời dạy của các chân sư về ngọn lửa ba nhánh. Như Mẹ Mary có giải thích, năng lượng từ Hiện điện TA LÀ của con đi xuống trước tiên vào Căn phòng Mật thất của tim con nằm sau luân xa tim. Nó đi xuống dưới dạng ánh sáng thuần khiết được biểu tượng qua màu trắng, tương ứng với Mẹ và Trinh nguyên Thượng đế. Sau đó nó chia làm ba chùm lửa tâm linh, gọi là ngọn lửa ba nhánh. Một nhánh màu xanh, tượng trưng cho Cha và Quyền năng Thượng đế. Một nhánh màu hoàng kim, tượng trưng cho Con và Minh triết Thượng đế. Và nhánh thứ ba màu hồng, tượng trưng cho Thánh linh và Tình thương Thượng đế.

Điểm quan trọng là kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh của con sẽ định đoạt khả năng sáng tạo của con – nó định đoạt bao nhiêu ánh sáng có thể chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ vào bốn thể phàm. Nếu một trong bốn khía cạnh của ngọn lửa nơi tim trở nên mất cân bằng, con sẽ có xu hướng dùng sai khả năng sáng tạo của mình, và điều này sẽ giảm kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh, tức là giảm kích thước của ống dẫn mà ánh sáng phải đi qua. Vì vậy, con sẽ nhận được ít ánh sáng sáng tạo hơn, và điều này sẽ kéo thấp tâm thức con xuống và hướng sự chú ý xa khỏi cái ta cao hơn của con.

Cách duy nhất để lật ngược xu hướng này và thực sự tăng triển tâm linh là tạo quân bình trong ngọn lửa ba nhánh để cả bốn khía cạnh của nó tuyệt đối hài hòa, nghĩa là chúng sẽ biểu hiện Tình thương Thiêng liêng trong thị hiện thay vì thị hiện sự mất cân bằng qua quyền năng phàm phu, khôn ngoan phàm phu, tình yêu phàm phu hay cái mà con người phàm phu định nghĩa là thanh khiết. Điều này chỉ thực hiện được bằng cách đạt tới phân biện Ki-tô, tức chìa khóa hiểu biết đâu là sự biểu hiện cân bằng, đâu là sự biều hiện mất cân bằng của bốn phẩm cách vừa kể. Đó là tại sao ta thường hay nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân bằng trên trang mạng này.

Một khi con đã cân bằng ngọn lửa ba nhánh của con, con có thể bắt đầu cố gắng đạt cân bằng trên mỗi tia sáng trong số bảy tia sáng tâm linh cấu tạo vũ trụ vật chất. Mỗi tia sáng tương ứng với một trong bảy luân xa chính, và các tia sáng được liệt ra như sau:

  • Tia thứ nhất: quyền năng và ý chí Thượng đế.
  • Tia thứ hai: minh triết và cân bằng Thượng đế.
  • Tia thứ ba: tình thương và sự hiến tặng vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ tư: thuần khiết và hợp nhất với mục địch cùng định luật cao hơn của Thượng đế.
  • Tia thứ năm: sự thật và khả năng chữa lành của Thượng đế, phục hồi cho tất cả trở về niệm tinh khôi.
  • Tia thứ sáu: phụng sự và sáng tạo vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ bảy: tự do và độc lập của Thượng đế.

Chìa khoá để điều phục mỗi tia sáng là trở thành một với Dòng sông sự Sống, hầu Tình thương Thiêng liêng có thể tự biểu lộ qua mỗi luân xa của con theo nhu cầu. Và như vậy con đạt được sự điều ngự cả bảy tia sáng – một giai đọan chủ yếu trong quả vị Ki-tô.

Con đã nhận xét khá đúng về nhiều người tầm đạo thời nay, là họ không nhận ra bản chất cùng các phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng. Cho nên họ đã nhầm lẫn nghĩ rằng họ chỉ cần tình yêu mà thôi, nhưng họ không thấy điều họ cần là Tình thương Thiêng liêng trong đủ cả bảy cách biểu hiện chính yếu của nó. Thay vào đó, họ tìm cách biểu lộ tình yêu của người phàm, thường được ngụy trang là tình thương tâm linh.

Về điểm này, ta cần chỉ ra cho con là thập niên 1960 được nhiều người tâm linh xem là thập niên quyết định, đánh dấu một bước ngoặt trong bước tiến hóa tâm linh của nhân loại. Điểm này có chút sự thật trong đó, nhưng không nhiều như người ta thường nghĩ. Thực tế là trong thập niên 1960, một số năng lượng và lời dạy tâm linh đã được truyền rải vào bốn thể phàm của năng trường trái đất cũng như vào tâm thức tập thể của nhân loại. Các năng lượng và lời dạy này nhằm giúp con người khắc phục các điểm nghẽn trong dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng, và quả thực, tiềm năng vào lúc đó rất lớn.

Tiếc thay, như xảy ra quá thường trên trái đất, tiềm năng cao nhất đó đã không thành hình. Lý do là vì tất cả các thày giả trên hành tinh đã nỗ lực chống lại sự truyền rải của các chân sư, và do khuynh hướng của tự ngã con người, các thày giả đã tương đối thành công. Quả là đã có nhiều người nhạy cảm được các năng lượng mới đánh thức dậy, nhưng thế rồi họ lại bị các thày giả cùng tự ngã của họ đánh lừa, khiến họ biểu lộ tình thương dưới dạng tình yêu phàm phu, thay vì thăng vượt trạng thái tâm thức cũ để biểu hiện Tình thương Thiêng liêng.

Chẳng hạn, một điểm tắc nghẽn đã cản trở dòng chảy tự do của Tình thương Thiêng liêng là khi con người không sẵn sàng biểu lộ tình cảm của mình cho nhau, mà một cách biểu hiện là thái độ dồn nén của nhiều người không chịu bày tỏ tình thương của mình qua thân thể vật lý, từ việc ôm ấp cho đến tình dục. Các thày giả đã thành công biến nhiều người thức tỉnh đó thành những kẻ nổi loạn chống lại các chuẩn mực tình dục của xã hội – một sự nổi loạn thật vô nghĩa – để họ tưởng rằng muốn biểu lộ tình thương nhiều hơn thì họ phải tình dục tự do. Thế là tự ngã con người – vốn không bao giờ thấy đủ khi nó tìm cầu bất kỳ loại khoái cảm nào của thế gian – trở thành một đồng minh đưa đẩy nhiều người tâm linh vào con đường quanh co của phong trào “tình yêu tự do”, thay vì bước vào phong trào giải phóng tình yêu để nó thăng vượt tình dục phàm phu.

Một ví dụ điển hình cho sự thể này là bài hát nổi tiếng của ban nhạc The Beatles với điệp khúc “Tất cả điều bạn cần là tình yêu, tình yêu là tất cả điều bạn cần.” Thật ra bài hát này được thiết kế – không phải một cách ý thức bởi người viết nhạc, mà bởi một thày giả đã phóng nó ra từ một cõi thấp – để cài đặt một cái móc tâm lý vào tâm thức mọi người. Cùng với nhiều ca khúc khác của The Beatles và các ban nhạc khác, cái móc này đã đẩy nhiều người tâm linh chân thành vào con đường lòng vòng khi họ nổi loạn chống lại xã hội, hay họ rút ra khỏi xã hội qua việc sử dụng ma túy, tình dục vô độ, nhạc rock và lối sống lập dị – thay vì thay đổi trong nội tâm để giúp xã hội thăng vượt đi lên.

Và như vậy, tiềm năng của thập niên 1960 đã không thành hình và một phần của tiềm năng đó vẫn chưa thành hình cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên trong những năm sau đó, tình trạng này đã được sửa chữa phần nào nhờ sự xuất hiện của một nhóm người tầm đạo tâm linh trưởng thành hơn với khả năng phân biện Ki-tô sâu sắc hơn.

Tiếc thay, nhiều người tâm linh ngày nay vẫn tin rằng tất cả những gì mà họ cần để tăng triển tâm linh là biểu lộ tình yêu, nhưng họ lại định nghĩa tình yêu này theo cách người phàm. Thường thường đó là một dạng tình yêu nhu mì, dịu dàng và hiền từ không bao giờ thách thức một ai, và do đó cũng không thể giải thoát được một ai khỏi dây buộc của tự ngã. Như ta vừa giải thích, nếu con muốn tăng triển tâm linh đích thực, trước tiên con phải điều ngự – và phải làm cánh cửa mở để biểu hiện – bốn phẩm chất cơ bản, rồi sau đó bảy phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng trong tất cả mọi cách biểu hiện của nó. Quả thực đây mới là tất cả những gì con cần.

Tình yêu phàm phu sẽ không đưa con tới đâu, cho dù có biết bao người đã tự lừa dối mình rằng tình yêu phàm phu sẽ dẫn họ lên thiên đàng hay một trạng thái tâm thức cao vời vợi. Một lần nữa, đây là một mưu toan có chủ ý làm chậm bước cuộc đột phá có tiềm năng xảy ra trong thời đại này. Để tránh không lại bị lầm lẫn bước vào con đường lòng vòng của tình yêu phàm phu, con cần hiểu tự ngã của con đang tìm cách đánh lừa con như thế nào. Con hãy khởi sự bằng cách hiểu tư duy xám (gray thinking) của tự ngã là thế nào, xong con hãy tìm hiểu tất cả các bài giảng của ta về tự ngã. Nếu con không vươn lên khỏi tình yêu của tự ngã – là tình yêu đặt mình ở trung tâm, mặc dù nó ngụy trang rất giỏi – thì con sẽ không có hy vọng bước vào dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng.

Như ta đã cố gắng giải thích khắp trang mạng này, tâm thức Ki-tô không phải là một lực thụ động sẽ bỏ con lại trong một trạng thái giới hạn. Đó là một lực chủ động, tích cực, xông vào trong thế gian, gặp gỡ mọi người ở ngay đó, và nếu cần, nó sẽ thách thức ảo tưởng của họ để trao cho họ một sự chọn lựa – là hoặc đi theo Ki-tô Hằng sống, hoặc cứ tiếp tục đi theo phản-Ki-tô. Đây là một chọn lựa mà họ sẽ không có cho đến khi họ gặp được Ki-tô Hằng sống hay Sự Thật của Ki-tô. Cho nên Tình thương Thiêng liêng không chấp nhận để cho một điều kiện nào ngăn chặn dòng chảy của nó, và nó tìm cách giúp mọi người vượt qua mọi điều kiện của họ. Tuy nhiên, tình thương vô điều kiện cũng không dính mắc với cách phản ứng của con người, cho nên nó sẽ thách thức rồi để cho họ tự do quyết định, ngược hẳn với tình yêu phàm phu cần phải kiểm soát.

Cách hay nhất để khắc phục các điểm nghẽn cho Tình thương Thiêng liêng là sử dụng các bài nguyện của Mẹ Mary. Tất cả những bài đó sẽ tháo gỡ những điểm đang ngăn chặn tình thương, nhưng ta đặc biệt khuyên con nên dùng bài Thỉnh thanh tẩy trái tim và bài Thỉnh thương yêu chính mình.

Để điều ngư tình thương trên bảy tia sáng, con phải quán chiếu đặc tính của mỗi tia sáng và làm việc với vị chân sư trong mỗi tia. Cách hay nhất để làm điều này là sử dụng các bài chú cho bảy tia sáng.

Sự thật về thiên đàng và địa ngục

Hỏi: Thế nào là sự thật về thiên đàng và địa ngục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Trên trang mạng này, con sẽ tìm thấy nhiều lời dạy là tất cả mọi thứ đều được tạo ra bằng năng lượng và năng lượng là rung động. Năng lượng có nhiều mức độ rung động khác nhau, và có thể nói có ba mức độ chính. Mức độ mà mọi người đều nhận thức được qua giác quan là cái mà chúng ta gọi là thế giới vật chất. Cõi này được tạo bằng năng lượng rung động trong một dải tần số nhất định như được giải thích ở những nơi khác.   

Vượt trên cõi vật chất là cõi tâm linh, làm bằng năng lượng rung động ở những tần số cao hơn cõi vật chất. Trong cõi tâm linh cũng có nhiều tầng cấp, đi lên mãi cho tới rung động tối hậu là tầng cấp của Đấng Sáng tạo.

Con cần hiểu rằng mô hình “đường thẳng” cố hữu dựa trên giác quan con người không còn đáp ứng được một thế giới nơi tất cả mọi thứ đều được tạo bằng năng lượng. Thiên đàng không nằm ở một nơi nào đó trên trời, mà thiên đàng được tạo bằng những rung động hiện hữu ngay trong cùng khoảng không gian với những rung động của cõi vật chất.

Căn phòng mà con đang ngồi có rất nhiều làn sóng vô tuyến với tần số khác nhau xâm nhập vào, nhưng vì sóng có nhiều tần số khác nhau, cho nên chúng có thể cùng hiện hữu trong một khoảng không gian mà không triệt tiêu lẫn nhau. Cũng vậy, năng lượng của hai cõi tâm linh và vật chất có thể tồn tại trong cùng một không gian. Đó là tại sao có những nơi trên trái đất mà nhiều người cảm thấy độ rung cao hơn những nơi khác. Và thật vậy, có những khu vực nơi rung động được nâng lên cao đến độ gần như không còn khoảng cách nào giữa hai thế giới vật chất với tâm linh. Có thể nói là cả hai thế giới đã trùng lấp lên nhau – một loại thiên đàng hạ giới. Và cũng có thể nói người ở đó như là ở thiên đàng vậy – họ chỉ đơn giản không biết mà thôi vì tâm thức họ đã điều chỉnh theo các tần số thấp của cõi vật chất.  

Cũng thế, địa ngục chỉ đơn giản là một cõi được tạo bằng những năng lượng thấp hơn cõi vật chất. Tương tự như cõi tâm linh, con có thể tìm thấy những nơi trên địa cầu với độ rung thấp hơn trung bình thật là đáng kể. Đây là những nơi mà cõi vật chất trùng lấp với cõi thấp hơn, và quả thật trên địa cầu có những nơi là địa ngục trần gian.

Trong thực tế, cái mà các khoa học gia thời nay gọi là năng lượng thật sự là tâm thức. Phúc âm của John ghi rằng ở ban đầu có Ngôi Lời và tất cả được tạo ra từ Lời hay Logos. Lời tức là tâm thức Ki-tô toàn vũ, là tâm Ki-tô toàn vũ. Tâm thức này là nhân tố sáng tạo đầu tiên, cho nên có thể gọi đó là đứa Con đầu lòng của Thượng đế hay đứa Con Một của Cha. Hiển nhiên những từ này chỉ là những biểu tượng mà ta đã sử dụng, bởi vì 2000 năm trước đây, con người chưa có hiểu biết về năng lượng. Thuở đó ta đã không thể giải thích cho họ như ta đang giải thích cho con.

Tâm thức Ki-tô toàn vũ là chất liệu cơ bản mà từ đó mọi thứ khác đều được sinh tạo. Do đó tâm thức Ki-tô hiện thân trong tất cả mọi thứ, và đó là lý do mỗi con người đều có tiềm năng bước đi theo ta và trở thành một đấng Ki-tô.

Nói ngắn gọn, thiên đàng là một trạng thái tâm thức, địa cầu là một trạng thái tâm thức và địa ngục cũng là một trạng thái tâm thức. Sự khác biệt nằm ở chỗ cõi tâm linh là do Thượng đế sáng tạo, và mọi điều ở cõi tâm linh đều hoàn toàn phù hợp với các quy luật và viễn quan nguyên thủy của Thượng đế.

Địa cầu cũng do Thượng đế sáng tạo. Tuy nhiên, vì cư dân trên địa cầu được ban cho quyền tự quyết, họ đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn và quên mất nguồn cội tâm linh của mình. Vì thế mà không phải tất cả mọi thứ trên địa cầu đều phù hợp với các quy luật và viễn quan của Thượng đế. Loài người đã đồng sáng tạo một trạng thái tạm thời thấp hơn trạng thái nguyên thủy mà các Elohim đã tạo dựng.

Sự khác biệt chủ yếu giữa địa cầu và địa ngục là sự kiện địa ngục không bao giờ do Thượng đế sáng tạo. Ta hiểu là điều này trái ngược với niềm tin của hầu hết các tín hữu tôn giáo, nhưng đó là vì các tín hữu này còn giữ chặt một hình ảnh về địa ngục được đưa ra vào một thời kỳ sơ khai hơn. Như ta giải thích ở trên, trước khi con người có sự hiểu biết về năng lượng thì không có cách nào giản dị để giải thích địa ngục chính xác.

Địa ngục là một trạng thái tâm thức được tạo ra bởi một nhóm sinh thể phi vật chất đã nghịch lại viễn quan của Thượng đế, mục đích của Thượng đế và quy luật của Thượng đế. Trong niềm tự kiêu và đối nghịch, họ đã tìm cách tạo dựng một nơi chỗ mà Thượng đế có vẻ như không hiện hữu. Con thấy không, Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho một số sinh thể. Dù họ làm bất cứ gì thì họ cũng sử dụng năng lượng của Thượng đế, có nghĩa là họ biến đổi tần số rung động của năng lượng đó. Trong viễn quan nguyên thủy của Thượng đế, các cư dân của cõi vật chất sẽ không bao giờ tha hóa năng lượng xuống thấp hơn một độ rung nào đó. Nếu viễn quan của ngài được tuẩn thủ thì cả hành tinh này đã bước lên một vòng xoáy ốc hướng thượng nơi không có gì bị hủy diệt hay tan rã.

Nhưng khi các sinh thể phi vật chất kia bắt đầu thay đổi năng lượng, làm cho nó bị hạ xuống dưới một mức then chốt, thì họ cũng khởi sự một xoắn ốc, một cơn lốc xoáy tiêu cực. Ở một thời điểm trong tiến trình này, có những người đã bị họ lừa gạt nhập vào tâm thức thấp kém đó, khiến cho những người này cũng hạ thấp năng lượng. Cho nên mỗi lần con người tham gia vào năng lượng bất toàn thì cơn lốc xoáy năng lượng của địa ngục sẽ được tăng cường mạnh mẽ hơn.

Địa ngục có nhiều mức độ rung động, và có những mức độ mới luôn luôn được chế tạo ra bởi những sinh thể không ngừng nổi loạn chống lại Thượng đế, và họ cố gắng tạo thêm những rung động thấp hơn. Sự thể này có thể tiếp diễn rất lâu và độ rung thì có thể kéo xuống mức rất thấp. Tuy nhiên, xuống thấp cũng có hạn vì đến một mức thì năng lượng sẽ tự hủy diệt.    

Có thể nói, “ngọn lửa” mà người ta hay kết hợp với địa ngục là biểu tượng cho những năng lượng vô cùng thấp kém, dày đặc này. Nếu con nén ép vật chất thật chặt thì nó sẽ nóng lên và tới lúc con sẽ có một phản ứng hạt nhân. Tương tự như vậy, khi con không ngừng hạ thấp rung động của năng lượng Thượng đế, cuối cùng con sẽ khiến cho nó bùng nổ, các năng lượng tha hóa bị “thiêu hủy” và được giải thoát khỏi tất cả những hình tư tưởng đã giữ chặt nó ở độ rung đó. Khi điều này xảy ra, năng lượng được nâng lên một độ rung cao hơn và được “tái chế”.  

Kỳ thực, những sinh thể đã tạo ra địa ngục sống trong giả dối, ho sống trong ảo ảnh. Như ta vừa nói, tâm thức Ki-tô toàn vũ ở trong mọi thứ. Con không thể sáng tạo bất cứ gì mà không sử dụng tâm thức Ki-tô toàn vũ. Các tà lực đã có thể tạo ra một tầm mức hoàn toàn làm bằng năng lượng thấp kém đến độ Thượng đế không bao giờ có thể tạo ra. Nghĩa là từ một khiá cạnh nào đó, có thể nói là họ đã thành công tạo ra một thế giới nơi Ánh sáng và sự thật của Thượng đế không có mặt. Tuy nhiên sự vắng mặt này của Ánh sáng Thượng đế chỉ là một ảo tưởng nhất thời, nó sẽ chỉ tiếp tục hiện hữu khi nào con người còn làm tha hóa Ánh sáng của Thượng đế và dùng ánh sáng này để nuôi sống các tà lực không có khả năng nhận lãnh ánh sáng.

Tóm lại, có thể nói là thiên đàng là do Thượng đế sáng tạo và tuân theo hoạch định ban đầu của Thượng đế. Địa cầu cũng là do Thượng đế sáng tạo nhưng hiện không còn đáp ứng hoạch định thiêng liêng. Tuy vậy, địa cầu có tiềm năng trở lại trong quy luật Thượng đế và nhờ thế được nâng lên trở lại vào thuần khiết nguyên thủy. Khi đó, thiên đàng, tức là tâm thức thiên đàng, sẽ được đem trở lại trái đất.

Còn địa ngục thì không bao giờ được Thượng đế tạo ra. Địa ngục không có tiềm năng trở về với quy luật và sự thật của Thượng đế. Năng lượng có thể được tẩy uế để trở về độ rung nguyên thủy, tuy nhiên khi điều này xảy ra thì địa ngục sẽ đương nhiên biến mất và không còn nữa.

Trong khi thiên đàng và trái đất là có thực, địa ngục chỉ là điều bịa đặt của một trí tưởng tượng méo mó. Nhưng vậy tại sao khái niệm địa ngục lại trở thành một sức mạnh hàng đầu trong tôn giáo? Đúng vậy, như ta vừa nói, địa ngục có sự hiện hữu và một thực tế tạm thời. Nếu một người chọn hòa nhập tâm thức mình vào tâm thức của địa ngục thì khi rời xác thân vật lý, dòng sống của người đó sẽ bị từ trường của địa ngục cuốn hút, và do đó việc rơi xuống địa ngục là một khả năng có thực.   

Tuy nhiên, sẽ vô cùng hữu ích nếu mọi người hiểu được và chấp nhận được là các dòng sống không hề bị đày xuống địa ngục do sự trừng phạt của Thượng đế. Chính mỗi dòng sống mới tự đày mình xuống địa ngục khi mình hạ thấp tâm thức của mình. Chính trạng thái tâm thức của con mới quyết định con sẽ bị từ hoá bởi rung động của địa ngục hay của cõi tâm linh.    

Những câu chuyện về địa ngục mà con có thể tìm thấy trong hầu hết các tôn giáo đều có một thực tế nào đó, cho dù chỉ tạm thời. Nhưng ta là người đầu tiên phải nhìn nhận là hầu hết các tôn giáo đều đã hiểu lầm và dùng lầm khái niệm địa ngục để gây ra nỗi sợ hãi nơi các tín đồ của mình, hầu khiến họ đi theo những quy luật và giáo điều vỏ ngoài mà không đặt vấn đề thẩm quyền của giáo hội.

Hiển nhiên, đây là một sự lạm dụng trách nhiệm mà các chức sắc đó đã phạm vào, thậm chí còn có một số lãnh đạo tôn giáo đã lạm dụng quyền hành của mình tới độ chính họ bị sa vào cái địa ngục mà họ đã quá khôn khéo sử dụng để khuất phục tín đồ của họ qua sự doạ nạt, áp chế và kiểm soát.

Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô

Hỏi: Chúa Thánh thần và Hiện diện TA LÀ là gì và nằm ở cấp độ nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Chúa Thánh thần (Holy Christ), hay tâm thức Ki-tô toàn vũ, là Đứa con Một của Thượng đế Cha/Mẹ. Đó là Lời đã hiện thân, có nghĩa là nguyên tố căn bản, là chất liệu, được sử dụng để tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng. Vì thế, tâm thức Ki-tô toàn vũ có mặt, trong nghĩa đen, ở khắp mọi nơi không trừ một nơi nào. Ngay cả trong tận cùng của địa ngục, con cũng sẽ tìm thấy tâm thức Ki-tô toàn vũ.

Mỗi dòng sống trong vũ trụ vật chất cũng có một tâm thức Ki-tô đã cá thể hóa, là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô đóng vai trò trung gian giữa cái Ta Biết và cái ta tâm linh, gọi là Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô luôn luôn có mặt với dòng sống, có nghĩa là dù cho dòng sống có ở đâu, có đi xuống tới mức tâm thức thấp thế nào đi nữa, cái Ta Biết luôn luôn có thể chọn lựa bắt liên lạc với cái ta Ki-tô. Thực sự, cái ta Ki-tô là cánh cửa mở mà không một người nào có thể đóng lại. Đó cũng là ánh sáng thắp sáng mọi dòng sống khi mới bước vào thế gian.

Cho nên con không bao giờ có thể xa rời khỏi cái ta Ki-tô. Đó là con chó săn của thiên đàng sẽ luôn luôn theo dõi dòng sống của con ở bất cứ nơi đâu, không ngừng tìm cách tạo linh hứng cho cái Ta Biết quay đầu lại và cất bước trên con đường trở về nhà.

Còn cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, là cốt lõi của bản sắc và cá thể của con. Cá thể của con do Thượng đế ban cho con được lưu giữ trong cái ta tâm linh này. Hiện diện TA LÀ không bao giờ đi xuống thấp hơn tầng cao nhất của cõi ether. Nói cách khác, nó cư ngụ liên tục trong cõi tâm linh, và vì thế nó không thể bị ô nhiễm bởi bất kỳ năng lượng nào trong thế gian. Cho dù con có làm gì đi nữa, trong kiếp này hay trong một tiền kiếp, con không thể làm ô nhiễm hay tổn hại sự thuần khiết của Hiện diện TA LÀ của con cũng như cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. 

Tại sao khó mô tả cõi tâm linh

Hỏi: Xin cảm tạ những câu trả lời soi sáng trên trang mạng này. Xin thày vui lòng trình bày chi tiết cho chúng con từ quan điểm của chân sư thăng thiên về các cõi bên trong? Đặc biệt, có những tầng cấp nào ở trên cõi ether lên mãi cho tới Tuyệt đối và ý nghĩa của mỗi tầng cấp? Những sinh thể nào cư ngụ ở đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi thật giản dị với câu trả lời phức tạp vô hạn. Con có nhớ trong kinh Tân ước có một đoạn văn nói rằng, nếu tất cả mọi điều mà ta đã nói và đã làm được ghi chép xuống, cả thế giới này cũng không thể chứa hết sách được viết ra? Câu này cũng áp dụng cho việc mô tả cõi tâm linh vượt khỏi và ở bên trên cõi ether. Hãy để cho ta giải thích tại sao việc trả lời chi tiết câu hỏi của con thật là khó khăn.

Như giải thích trong bài giảng vừa đề cập, con sống trong cái mà ta gọi là thế giới hình tướng. Thế giới này đặc trưng ở chỗ nó có hình thể. Thế giới này tương phản với khiá cạnh không biểu hiện của Thượng đế mà ta gọi là Bản thể thuần khiết hay cái Tất Cả. Ở đó không có hình thể, không có phân chia và không có tách biệt.

Vũ trụ vật chất gồm có một số tầng cấp có thể chia thành bốn phần. Tầng thấp nhất là tầng vật chất, còn gọi là cõi vật lý. Cao hơn về mặt rung động là cõi cảm xúc, mà giáo lý huyền bí gọi là cõi trung giới. Ở trên nữa là cõi lý trí, và ở trên nữa là cõi ether.

Khi con vượt lên cao hơn cõi ether, con bước vào cõi tâm linh. Vấn đề khi mô tả cõi tâm linh là cõi này ở trên và vượt khỏi vũ trụ vật chất. Do đó nó rất khác với vũ trụ vật chất. Nó tràn ngập một tâm thức khác rất xa trạng thái tâm thức mà con thấy được trên hành tinh địa cầu hiện nay.

Trong trạng thái tâm thức hiện thời, con người có xu hướng nhìn mọi thứ trong sự phân chia và tách biệt. Họ bị ảnh hưởng bởi các loại hình tướng mà họ nhìn thấy chung quanh họ trên trái đất. Cho nên họ có xu hướng phóng chiếu những hình tướng đó, kể cả khái niệm phân chia và tách biệt, vào cõi tâm linh. Điều này bắt buộc sẽ tác động lên cách nhìn và cách hiểu của họ về các cõi cao.

Con người có thói quen suy nghĩ theo lối đường thẳng về vũ trụ vật chất. Trong cõi tâm linh, chúng tôi có tâm thức quả cầu, và chúng tôi không phân chia cõi này ra thành từng ngăn riêng biệt. Tuy cõi tâm linh có nhiều cấp độ, nhưng nếu mô tả theo lối đường thẳng hầu con người hiểu được, điều này sẽ chi gây ra lầm lẫn. 

Trong quyển sách “Hãy tự cứu” (Save Yourself) có một cuộc thảo luận rất dài về ảnh hưởng của những tin tưởng của con người trên cái nhìn tâm linh. Ta có giải thích là ngay cả khi có cái nhìn tâm linh đích thực, người ta thường hay phóng chiếu những tin tưởng hiện thời của mình lên trên tầm nhìn đó rồi diễn giải theo cách tin tưởng của mình. Kết quả là cái nhìn về cõi tâm linh luôn luôn bị ít nhiều méo mó.   

Vì vậy sự thật ngắn gọn về cõi tâm linh là con phải chứng nghiệm thì mới có thể biết được nó trọn vẹn, mới thấy được nó khác thế nào với địa cầu. Do đó, việc mô tả cõi tâm linh gần như là phản tác dụng, và đó là lý do tại sao nhiều tôn giáo phải trùm lên một tấm màn biểu tượng. Thật không có gì sai trái khi mô tả cõi tâm linh qua biểu tượng, miễn là người ta không nắm lấy những biểu tượng đó trong nghĩa đen. Tiếc thay, do trạng thái tâm thức còn thấp cho nên nhiều người sử dụng biểu tưởng trong nghĩa đen, dẫn đến vô số những cuộc xung đột và cách diễn giải sai lầm.       

Trong thời điểm này, ta không mong muốn thêm vào một lời mô tả khác về cõi tâm linh ngoài những gì ta đã đưa ra trong sách và trên trang mạng này. Muốn mô tả một cách đúng đắn và chi tiết sẽ đòi hỏi quá nhiều thời giờ của sứ giả này, và hiện nay ta coi đó là một ưu tiên thấp. Điều này có thể thay đổi trong tương lai, nhưng ngay bây giờ thì ta không muốn trình bày dài dòng về cõi tâm linh, vả lại ta cũng không muốn trình bày quá sơ sài. 

[Ghi chú: Từ khi có câu trả lời này, một lời mô tả chi tiết hơn đã được đưa ra trong quyển sách “Master Keys to Spiritual Freedom” do thày Maitreya truyền đọc]

Ta cũng xin nói thêm là ngay cả nếu việc mô tả chính xác cõi tâm linh là điều khả dĩ trong cõi vật lý, sự mô tả đó cũng sẽ mất chính xác ngay khi nó được phát ra trong vũ trụ vật chất. Lý do là vì cõi tâm linh không đứng yên. Thượng đế là Đấng Sáng tạo và ngài không bao giờ ngừng sáng tạo. Điều này cũng đúng cho tất cả các sinh thể trong cõi tâm linh. Do đó, cõi tâm linh không bao giờ ngừng tăng triển, nó luôn luôn thăng vượt chính nó và luôn luôn khai mở thêm. Nói cách khác, có những cấp độ mới liên tục được thêm vào, và vì vậy, không một lời mô tả nào có thể hoàn toàn chính xác.

Chìa khóa để yêu bản thân

Hỏi: Khi linh hồn lần đầu tiên tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, nó tạo dựng một tự ngã chung quanh nó. Làm sao nó có thể học cách yêu thương chính nó để nó có thể trở về hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của nó? Tại sao tất cả chúng ta con người lại khó học cách yêu thương bản thân trước khi chúng ta yêu thương người khác?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Điều sẽ rất hữu ích cho con là phân biệt linh hồn và chính con. Linh hồn là một phương tiện nhằm giúp con đi vào vũ trụ vật chất. Linh hồn cho phép con tương tác với cơ thể vật lý và những năng lượng dày đặc của cơ thể. Nhưng trong nhiều giáo lý trước đây và nhiều lời dạy về tâm linh và tâm lý, từ “linh hồn” được sử dụng một cách rất tổng quát, và đôi khi người ta cứ cho là ai ai cũng đã hiểu bản chất của linh hồn rồi. Nhưng linh hồn có nhiều khía cạnh khác nhau, và chính con là nhiều hơn linh hồn của con, mặc dù nhiều người – thậm chí cả nhiều người tâm linh – cũng tưởng rằng linh hồn là toàn thể con người họ.

Con đã quen với khái niệm Hiện diện TA LÀ như là cái ta cao hơn, và một số người cho rằng Hiện diện TA LÀ là một phần của linh hồn họ, nhưng thật không phải là vậy. Linh hồn được cấu tạo bằng những năng lượng thấp kém của cõi vật chất, trong khi Hiện diện TA LÀ được cấu tạo bằng rung động cao tần của cõi tâm linh, và nó không bao giờ đi xuống thấp hơn cõi tâm linh. Vì vậy khi con hiểu được khái niệm Hiện diện TA LÀ, con sẽ hiểu ra rằng Hiện diện TA LÀ ở cao hơn và vượt khỏi linh hồn. Hiện diện TA LÀ không đi xuống các rung động thấp. Hiện diện TA LÀ đã không rơi xuống tâm thức nhị nguyên, và kỳ thực, trước thời điểm sa ngã xuống tâm thức nhị nguyên, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn vẫn chưa xuất hiện – bởi vì linh hồn chỉ xuất hiện để trợ giúp cho cuộc hành trình của con vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất cũng như vào tâm thức nhị nguyên.  

Vậy thì cái gì đã quyết định cắn vào quả trái của sự hiểu biết về thiện và ác? Đó không phải là Hiện diện TA LÀ, bởi vì làm sao Hiện diện TA LÀ sa ngã được? Cũng không phải là cái ta Ki-tô, vì Ki-tô luôn luôn là một với Cha. Cho nên phải có một thành phần nào khác của bản thân con, không phải là cỗ xe thấp kém của linh hồn, và cũng không phải là Hiện diện TA LÀ. Và thực sự, thành phần này chính là cái đang cho con ý thức bản ngã của con. Mẹ Mary có giải thích điều này rất chi tiết trong các cuốn sách của thày về sự sống dồi dào, và thày gọi thành phần đó của con đang có những chọn lựa ý thức, là cái “Ta Biết”. Đó là trụ sở của ý chí tự quyết của con, và đó cũng là thành phần của con đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. 

Bây giờ ta trở lại câu hỏi của con. Có thể nói, linh hồn sẽ không bao giờ thực sự học được cách yêu thương chính nó, bởi vì linh hồn chỉ là cỗ xe cho cuộc hành trình của con vào cõi thấp, và trong cõi thấp không có gì có thể tiếp nhận được hoàn toàn tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Linh hồn không có khả năng thấu hiểu được khái niệm tình yêu vô điều kiện. Nhưng cái Ta Biết thì có khả năng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện.

Con cần suy ngẫm xem cái Ta Biết là gì. Nếu con suy ngẫm, con sẽ dần dần hiểu ra nó là gì, và con sẽ nhìn ra rằng con là nhiều hơn linh hồn của con. Đặc tính độc đáo của cái Ta Biết là nó có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì nó chọn. Nó là trụ sở của ý chí tự quyết, cho nên nó có thể chọn đồng hóa với con người thật của nó, tức là một đứa con của Thượng đế, một vị đồng sáng tạo với Thượng đế. Hoặc nó có thể chọn tự đồng hóa như là một con người sinh diệt, thậm chí là một con người tội lỗi không xứng đáng đến gần Thượng đế.

Thật sự cái Ta Biết có thể tự đồng hóa như là một hòn đá hay một gốc cây. Hoặc nó có thể tự cho nó là Giê-su Ki-tô hay Napoleon hay bất kỳ ai khác. Và thật vậy nơi các bệnh viện tâm thần, con sẽ tìm thấy những người tự đồng hóa hoàn toàn với một người mà họ không thật là, và điều này cho con thấy khả năng của cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với bất kỳ thứ gì, bởi vì nó có quyền tự quyết và một trí tưởng tượng vô hạn.

Cho nên con không thể dạy cho linh hồn của con yêu thương chính nó, hay yêu thương chính con. Con cần phải tiếp xúc với cái Ta Biết. Nhưng làm thế nào con tiếp xúc với cái Ta Biết đây? Chính con là cái Ta Biết đó, và đây là điều con cần nhìn thấy. Con thấy không, mỗi khi chúng tôi cho con một khái niệm, chẳng hạn Hiện diện TA LÀ, thật dễ cho con nhìn thấy được rằng Hiện diện TA LÀ nằm ở trên và vượt khỏi con, tách rời khỏi con. Trong một nghĩa nào đó, điều này không sai, bởi vì khi con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, con cũng ở một mức rung động thấp hơn Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa hoàn toàn với Hiện diện TA LÀ. Và đó là lúc con nói: “Ta và Cha ta là một!”

Cho nên điều ta muốn nói là, trước khi con học được cách yêu thương chính con, con phải biết được bản thân con cái đã. Con phải biết được cái Ta Biết. Và sau đó con phải nhận ra là cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết của con và con phải chọn lựa con sẽ tự đồng hóa như thế nào.

Nếu con tự đồng hóa với linh hồn, tức là cỗ xe thấp, con sẽ không thể yêu thương được chính con, bởi vì linh hồn, như ta đã nói, không thể nắm bắt tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Và chỉ có tình yêu này, tình yêu toàn hảo tống khứ mọi sợ hãi, mới có thể cho con cảm nhận là con xứng đáng với tình yêu Thượng đế, và do đó, chỉ khi đó con mới đón nhận được tình yêu Thượng đế.

Vì vậy khi con suy ngẫm điều này và bắt đầu nhận ra rằng con thật là một sinh thể có ý thức đang lựa chọn, con mới dần dần nhìn ra là để yêu thương chính mình, con phải chọn là con người thật của con, tức là một cá thể của Thượng đế. Chỉ qua sự chọn lựa làm con người thật của mình mà con mới chấp nhận rằng, vì con đã được sinh tạo ra từ Bản thể Thượng đế, con xứng đáng với tình yêu của Thượng đế. Chỉ khi đó con mới tách ra khỏi mọi sự đồng hóa với các cỗ xe thấp kém, cho dù đó là linh hồn, là tự ngã, tâm nhị nguyên hay thể xác vật lý, hay thậm chí cả những đồ vật của thế gian này.

Ta khuyến khích con hãy học hỏi toàn bộ lời dạy của Mẹ Mary đã trình bày một cách sâu xa và chi tiết vượt hẳn tất cả những gì đã được truyền giảng trước đây về đề tài này – và do đó nó quá phức tạp đề ta trình bày ở đây.

Ghi chú: Bạn cũng có thể đọc Bài thỉnh để Yêu Chính mình.

Tình yêu Ki-tô vô điệu kiện nhưng phân biện

Hỏi: Chữ “tình yêu” bị rất nhiều người sử dụng bừa bãi (bất kể tín ngưỡng hay tôn giáo của người đó) đến độ nó mang nhiều ý nghĩa và định nghĩa hơn bất cứ chữ nào khác! Trong Mười Điều răn trong Kinh thánh, “yêu Chúa, yêu chính mình, yêu là chìa khóa”… thật là mơ hồ! Thật là quá dễ nói rằng “Yêu Thượng đế, yêu bản thân, yêu người lận cận của mình”. Làm sao chúng con biết được chúng con có yêu thương thật sự như Thượng đế yêu thương không? Và nếu “Tình yêu là chìa khoá” thì nhất định chúng con muốn biết yêu cách nào đúng nhất! Xin thày làm ơn chia sẻ với chúng con định nghĩa của Thượng đế về Tình yêu và tất cả mọi điều khác để giúp chúng con là Tình yêu mà Thượng đế luôn muốn chúng con là?  


Trả lời cuả chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi một câu vô cùng quan trọng. Con hoàn toàn đúng khi con nói rằng có nhiều định nghĩa về tình yêu và nhiều sự hoang mang về tình yêu.

Hãy cho ta nói trước tiên về tình yêu nhân thế. Như ta có giảng trong trang mạng của ta, vấn đề thật sự trên trái đất là con người đã bước xuống một tình trạng tâm thức thấp hơn, và đã đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Đặc điểm của tâm thức này là khiến cho con người tưởng rằng tất cả đều tương đối. Trong trạng thái tâm thức đó, họ định ra một hình ảnh của thực tại, một thần tượng, rồi họ tìm cách ép uổng thực tại phải nằm gọn trong hệ thống tín ngưỡng của họ, hay trong thế giới quan của họ. Họ cố dựng lên một thế giới theo kiểu cách họ muốn. Đương nhiên, điều này cũng áp dụng cho tình yêu.

Khi con người định nghĩa tình yêu, họ định nghĩa một cách tương đối. Chẳng hạn, nhiều người định nghĩa tình yêu là đối nghịch của thù hận. Tuy nhiên, hận thù là một tình cảm hoàn toàn tương đối, một tình cảm hoàn toàn phàm phu. Vậy nếu con định nghĩa tình yêu là đối nghịch của một tình cảm tương đối gọi là thù hận, thì con cũng định nghĩa tình yêu là một tình cảm tương đối. Hệ quả là tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Con người có khuynh hướng định nghĩa tình yêu dựa trên bản thân mình, dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của mình. Có nghĩa là mỗi người định nghĩa tình yêu theo cách như sau: tình yêu là bất cứ điều gì làm cho tôi vui lòng – nếu bạn nói hay làm điều gì đó không làm tôi vui lòng thì bạn không thương yêu tôi.  

Tất nhiên, định nghĩa này hoàn toàn vị kỷ, nó xoay quanh bản thân mình và lấy bản thân làm trung tâm. Hay đúng hơn, nó lấy tâm trí thấp, cái tâm nhị nguyên, làm trung tâm. Và vì thế, nó xa rời thực tại của tình yêu siêu phàm.

Như ta có giải thích ở nơi khác, tình yêu siêu phàm, tình yêu của Thượng đế, hoàn toàn và tuyệt đối vô điều kiện. Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và xét đoán. Thượng đế là một Thượng đế của tình yêu vô điều kiện, và đối với những đứa con của ngài, ngài không có gì khác hơn là tình yêu. Bất kể con là ai hay đã làm gì, Thượng đế sẽ yêu con với cùng một tình yêu vô điều kiện, vô hạn, như khi ngài sinh tạo dòng sống của con ở ban đầu. Con không thể làm điều gì để làm giảm đi tình yêu của ngài đối với con. Con không thể làm gì để khiến con không xứng đáng nhận được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế.  

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu của Thượng đế vô điều kiện chính là vì mắt ngài không thể nhìn thấy sự bất chính. Thượng đế là quyền năng sáng tạo lớn nhất trong vũ trụ. Bất cứ gì mà ngài nhìn vào sẽ được khuếch đại, tăng cường do quyền năng sáng tạo vĩ đại của ngài. Cho nên ngài giản dị sẽ không nhìn vào những bất toàn của con. Ngài đã ban cho con quyền tự quyết, và hệ quả của quyền tự quyết là con có thể quyết định bước vào một trạng thái tâm thức thấp hơn cái trạng thái toàn hảo mà Thượng đế đã mường tượng cho con. Trong tâm thức này, con có thể tạo ra đủ thứ bất toàn, nhưng ngài sẽ không nhìn thấy bất cứ thứ nào. Thượng đế chỉ nhìn thấy sự toàn hảo mà ngài đã sinh tạo ở ban đầu. Khi con chìm vào bất toàn, con cũng chìm xuống dưới chân trời của tầm nhìn Thượng đế. Nhưng chúng tôi, các chân sư thăng thiên, chúng tôi nhìn thấy được những bất toàn cuả con, và đó là tại sao chúng tôi có thể giúp con thăng vượt được.

Vấn đề khi cố giải thích tình yêu của Thượng đế là khi con người còn bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối, họ có khuynh hướng rơi vào một trong hai cực đoan. Một cực đoan là phóng chiếu phẩm chất con người lên Thượng đế rồi tưởng tượng rằng ngài sẽ phán xét những phán xét của con người. Họ tưởng tượng ngài sẽ phán xét con người như con người vẫn phán xét nhau. Họ cũng tưởng tượng ngài sẽ nổi giận và muốn trừng phạt những ai đã vi phạm quy luật của ngài, hay đúng hơn vi phạm định nghĩa của họ về quy luật của ngài. 

Thời nay, ngày càng có nhiều người bắt đầu nhìn thấu qua ảo ảnh một Thượng đế nóng giận và xét đoán. Họ bỏ lại sợ hãi và bước vào một trạng thái tâm thức nơi họ có thể tiếp cận Thượng đế như một Thượng đế yêu thương. Ta rất hoan nghênh tiến triển này vì thật sự đây là một bước đi đúng hướng. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại rơi vào cực đoan ngược lại và bắt đầu tin rằng tình yêu vô điều kiện của Thượng đế có nghĩa là cái gì cũng được. Họ tin – và một số còn dựng lên những lập luận trau chuốt để hỗ trợ niềm tim này – rằng không có gì thực sự là xấu, không có gì thực sự là ác. Từ đó, họ cho rằng con người có thể làm bất cứ gì mình muốn, và dưới mắt Thượng đế đều có thể chấp nhận được.

Ta phải nói với con là cả hai cực đoan mà ta vừa mô tả đều nguy hiểm như nhau cho dòng sống của con. Điểm nay khiến ta cần nói tới những loại tình yêu khác nhau. Chúng ta đã nói tới tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Chúng ta đã nói tới tình yêu Thượng đế luôn luôn vô điều kiện nhưng không bao giờ nhìn thấy bất toàn. Bây giờ chúng ta cần nói tới một loại tình yêu thứ ba, mà ta muốn gọi là tình yêu Ki-tô.

Tình yêu Ki-tô hoàn toàn vô điều kiện y hệt như tình yêu của Thượng đế. Tuy nhiên, tình yêu Ki-tô có thể nhìn thấy những điều bất chính. Như ta có nói cách đây 2000 năm rằng Cha không phán xét vì Cha đã trao cho Con quyền phán xét. Đứa con của Thượng đế, đứa con đích thực, chính đáng và duy nhất của Thượng đế, là tâm thức Ki-tô. Ta hiện thân cho trạng thái này của tâm, nhưng tâm thức Ki-tô là nhiều hơn rất nhiều mọi sinh thể cá nhân nào, kể cả chính ta.

Chức năng của tâm thức Ki-tô là phục vụ như một trung gian giữa con người và Thượng đế. Vì vậy tâm thức Ki-tô – kể cả một người đã đạt được tâm thức Ki-tô – có khả năng phán xét công chính. Một người như vậy sẽ biết sự thật và thực tại của Thượng đế là gì, đồng thời cũng biết điều gì không nằm thẳng hàng với thực tại đó.

Chức năng của tình yêu Ki-tô là mặc dù nó yêu thương mọi con người một cách vô điều kiện, đó không phải là tình yêu mù quáng. Tình yêu Ki-tô nhìn thấy rõ khi nào một người bị vướng kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém dựa trên sự không thực. Bản chất của tình yêu Ki-tô là không bỏ rơi những người như vậy một mình. Tình yêu vô điều kiện của Ki-tô đơn giản sẽ không để cho người đó bị kẹt lại trong tâm thức thấp kém. Nó muốn mọi người vươn lên cao hơn để chiêm nghiệm được sự sống dồi dào của Thượng đế.

Cho nên, ngược lại với niềm tin phổ biến của rất nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, tình yêu của Ki-tô không theo chủ nghĩa hòa bình, nó không yếu mềm, nó không cảm tính, nó không ủy mị. Tình yêu của Ki-tô sẽ không làm cho con vui thích trong nghĩa thế phàm. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên cho con đứng một chỗ. Tình yêu Ki-tô sẽ thúc ép con vươn lên cao hơn, phải thay đổi tâm thức của con hầu con đặt nó thẳng hàng với sự thật và thực tại của Thượng đế. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên con một mình trong trạng thái tâm thức thấp kém. Nó sẽ không để con một mình cho tới khi con thay đổi tâm thức và con vươn lên cao hơn hầu con có được sự sống, và cả sự sống dồi dào.    

Hầu hết mọi người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối đến độ họ chỉ có thể trải nghiệm tình yêu tương đối, có điều kiện, của con người. Khi một người chuyên cần bước đi trên đường tâm linh, người đó có khả năng nâng cao tâm thức mình cho tới khi mình chứng nghiệm được tình yêu thuần khiết, vô điều kiện của Thượng đế. Quả thực, ta khuyến khích mọi người tầm đạo hãy nỗ lực có được chứng nghiệm này bởi vì không có gì thay đổi cuộc sống bằng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện mà Thượng đế đã dành cho dòng sống của con.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không thể biểu hiện trong thế gian này khi nào thế gian còn bất toàn. Cho nên, cái có thể biểu hiện trong thế gian là tình yêu Ki-tô. Nếu một người là một hành giả tầm đạo chân thành và chứng tỏ minh sẵn lòng vươn lên cao hơn trong tâm thức (tức là bỏ lại trạng thái tâm thức giới hạn và nhận lấy một góc cạnh khác của sự thật và thực tại Thượng đế), tình yêu Ki-tô quả thật có thể là cái mà đa số con người sẽ gọi là yêu thương. Nhưng nếu người đó không thẳng hàng với sự thật của Thượng đế, thì tình yêu Ki-tô sẽ không hiện ra là “thương yêu” trong ý nghĩa thế phàm nữa. Thay vào đó, sẽ là một tình yêu năng động không để cho người đó đứng yên.

Nếu còn mắc kẹt trong tâm thức thấp, người đó sẽ không trải nghiệm tình yêu Ki-tô như một cảm giác dễ chịu, mà trái lại, như một cảm giác phiền hà, như thể có điều gì không cho phép mình tiếp tục yên thân, thoải mái trong trạng thái tâm thức thấp.    

Vì vậy, cách yêu thương đúng đắn là nỗ lực chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện của Thượng đế rồi bày tỏ tình yêu đó trong thế gian dưới dạng tình yêu Ki-tô. Khi một người bị kẹt trong tâm thức thấp, họ đơn giản không thể trải nghiệm hay biểu lộ tình yêu Ki-tô, họ chỉ có thể bày tỏ tình yêu thế phàm có điều kiện.

Có nhiều người tầm đạo thực tâm đã hé cảm thấy được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, nhưng chưa hiểu rõ sự khác biệt giữa tình yêu vô điều kiện của Thượng đế và tình yêu Ki-tô. Vì thế, họ cho rằng họ phải yêu một cách vô điều kiện bất cứ ai mà họ gặp, bất kể người đó đang làm gì hay bị kẹt trong tâm thức gì. Đây là một sai lầm, và như ta đã nói, họ đã nhảy từ cực đoan tình yêu đầy phán xét và điều kiện của hầu hết mọi người sang cực đoan đối nghịch. 

Cho nên chìa khóa là cần nỗ lực tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con, cái ta này sẽ cho con sự phân biện Ki-tô để con có những phán xét công chính. Khi con cho phép cái ta Ki-tô ban cho con sự phân biện này, con sẽ biết cách biểu lộ tình yêu Ki-tô hầu đạt được kết quả tối đa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Con thấy đó, đối với người bị kẹt trong tâm thức phàm phu, mục đích của họ trong mọi hoàn cảnh là đem lại vui sướng lớn nhất cho bản thân. Nhưng đối với tâm thức Ki-tô, mục đích trong mọi hoàn cảnh là đưa đến sự phát triển tâm linh tối đa cho mỗi người. Điều này không thể thực hiện qua một loại tình yêu mềm yếu, ủy mị, mà chỉ qua tâm thức Ki-tô sẽ không để yên cho người ta đứng mãi trong một tâm trạng giới hạn. 

Cho nên để thực sự hiểu được lời dạy của ta là phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình, con cần hiểu bản chất của tình yêu Ki-tô. Khi con yêu chính mình với tình yêu Ki-tô, con liên tục cố gắng vươn lên tâm thức cao hơn. Con sẽ không chỉ chấp nhận mình cứ mãi đứng yên trong tâm thức thấp. Do đó, con cũng sẽ áp dụng cùng tình yêu Ki-tô đó đối với kẻ lân cận của con, và con sẽ không cho phép người đó bị kẹt mãi trong tâm thức thấp.

Yêu thực sự là cam kết luôn luôn tạo ra sự tăng triển tâm linh tối đa trong mọi hoàn cảnh. Yêu thực sự bản thân và kẻ lân cận là liên tục nỗ lực để đưa mọi người gần hơn với Thượng đế, gần hơn sự kết hợp với cội nguồn. Kết hợp này chỉ có thể đạt được qua tâm thức Ki-tô.  Do đó, tình yêu thực sự là nỗ lực đem mọi người đến gần hơn tâm thức Ki-tô, ngay cả khi tâm thức phàm nhân của họ khiến họ cảm thấy con không thoả mãn được định nghĩa của họ về tình yêu. Con sẽ nhận thấy nhiều người không thích bị lay động, và họ sẽ không vui lòng đón nhận một phần tình yêu của Ki-tô. Tuy nhiên, đây là tình yêu đích thực của Ki-tô – tức là không bao giờ để cho một ai đó bị mắc kẹt trong tâm thức phàm thế.

Các chân sư có cảm thấy bất mãn không?

Hỏi: Chắc trong suốt 2000 năm qua, các chân sư thăng thiên đã nhìn thấy địa cầu bỏ qua hết cơ hội bằng vàng này tới cơ hội bằng vàng khác để thăng vượt lên những tầng cõi năng lượng cao hơn. Làm thế nào các thày có thể không mất kiên nhẫn với địa cầu, hay không căm ghét những tà lực đã không ngừng làm hỏng những cơ hội bằng vàng mà các thày đã sắp đặt cho chúng con? Con hiểu được là các thày quá tôn trọng quyền tự quyết để cho phép mình cảm thấy bất mãn, nhưng các thày có khi nào tự hỏi với lòng kinh ngạc bực bội là tại sao có những người có thể sống hết kiếp này tới kiếp khác mà không tăng triển?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 22/8/2011.

Câu hỏi của con thông cảm được, nhưng nó cũng dựa trên một cách phỏng đoán rất xa sự thật về bản chất của các chân sư.

Chúng tôi thấy rõ sự thật rằng mục đích của thế gian là để tạo điều kiện cho tất cả mọi sinh thể tự biết có thể tăng triển khả năng tự nhận biết của mình. Và cách thức mà Đấng Sáng tạo đã chọn để thực hiện điều này là ban quyền tự quyết cho các sinh thể tự nhận biết và cho phép họ thử nghiệm cho tới khi họ học được cách chọn lựa để làm sao nâng cao Tất Cả.

Cho nên khi chúng tôi nhìn vào địa cầu, chúng tôi không nhìn với tâm thức cho rằng có một cái chuẩn tối thượng để đánh giá sự sống trên địa cầu. Nói cách khác, chúng tôi không có tiêu chuẩn đúng-sai để mà kết luận rằng mọi chuyện hiện đang diễn ra sai trái.

Ngược lại là đằng khác. Điều gì sẽ giúp cho khả năng tự nhận biết tăng trưởng? Đó là khi các sinh thể phóng chiếu toàn bộ tâm thức của mình – những cái ngã của mình – lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật và trải nghiệm sự phản ánh dội ngược lại về mình. Họ sẽ tiếp tục làm như vậy cho đến khi họ chán ngấy kinh nghiệm đó và họ quyết định: “Tôi muốn là nhiều hơn cái ý thức bản ngã hiện thời của tôi.” 

Vậy hiện tại các điều kiện trên địa cầu ra sao? Các điều kiện này chỉ đơn giản là sự phóng hình của tình trạng tự nhận biết hiện thời của nhân loại. Do đó, các điều kiện hiện tại là cơ hội toàn hảo để mọi người thăng vượt ý thức bản ngã của mình. Điều này đã luôn luôn là như vậy và sẽ luôn luôn như thế.

Hiển nhiên, vai trò của chúng tôi là nắm giữ niệm tinh khôi cho mọi người, có nghĩa là chúng tôi mang bản mẫu cho tiềm năng cao nhất của nhân loại dựa trên mức độ hiện nay của tâm thức tập thể. Nhưng nắm giữ niệm tinh khôi có nghĩa là gì? Lả chúng tôi nắm giữ viễn quan mà không phán xét dưới bất kỳ hình thức nào.

Con có thấy được tầm quan trọng không? Cầm giữ niệm tinh khôi KHÔNG có nghĩa là mình có một cái chuẩn đã được định trước về cách con người phải sử dụng quyền tự quyết của họ như thế nào. Chuẩn LUÔN LUÔN được tạo ra từ tâm thức nhị nguyên, như chúng tôi có giải thích trong sách “Chữa lành Mẹ Địa cầu” (Healing Mother Earth). Chúng tôi không nhìn vào nhân loại rồi nói: “Ồ, điều này hoặc điều kia đáng lẽ đã phải xảy ra, cho nên thật là bực mình khi con người một lần nữa lại chọn con đường thấp kém.” Thay vào đó, chúng tôi chỉ nhìn cái gì đang là, và chúng tôi cầm giữ viễn quan về cách con người có thể bước đi bước kế tiếp. 

Có một sự hiểu lầm phổ biến nơi các học trò của chân sư là tâm thức Ki-tô có nghĩa là một cái chuẩn cao hơn mà theo đó chúng tôi sẽ phán xét mọi người. Kỳ thực, tâm thức Ki-tô có nghĩa là không có chuẩn gì hết – ít nhất không có chuẩn nào mà một người bị kẹt trong nhị nguyên có thể hiểu được.

Thế nào là ý nghĩa của sự hiện thân của ta cách đây 2000 năm? Đó là Ki-tô LUÔN LUÔN đứng ngay nơi con đang đứng. Thực sự có nghĩa là con không thể bao giờ đi xuống một tầng tâm thức nơi Ki-tô không có mặt. “Không có ngài thì không có tạo vật nào được tạo ra”, thực sự có nghĩa là ngay cả những điều kiện hay hình tướng có vẻ thấp kém nhất cũng mang sẵn hạt mầm tâm thức Ki-tô bên trong. Có nghĩa là bất kỳ điều kiện nào trong thế gian hình tướng cũng mang sẵn trong nó chìa khóa cho sự thăng vượt cái tầng tâm thức nơi hình tướng đã được tạo ra. Không thể khác được.

Ki-tô không đến với con người với một cái chuẩn cao siêu, đòi hỏi người ấy phải bước lên mấy bước một lượt. Ki-tô không nhìn con người và bảo: “Này, khi nào con xứng đáng hơn thì lúc đó ta sẽ giúp con thăng vượt tâm thức đó.” Không, Ki-tô đến với con người với một cái khung nền để con có quyền năng tự tiến lên một bước trên con đường cá nhân của con. Ki-tô LUÔN LUÔN sẵn sàng giúp bất cứ ai thăng vượt tầng tâm thức hiện tại của mình và tiến gần hơn với sự hợp nhất. (Xin con lưu ý, một chân sư đặc thù có thể từ chối làm việc với học trò dưới một mức tâm thức nào đó, tuy nhiên tâm Ki-tô toàn vũ thì sẽ luôn tìm ra cách để làm việc với bất cứ ai, và điểm này được minh họa qua hình ảnh ta bước xuống địa ngục).

Khi một người đi một bước, chúng tôi xem đó là một chiến thắng. Khi một người không đi bước kế tiếp, chúng tôi biết là theo quy luật, người đó sẽ chỉ gia tăng áp lực buộc mình phải thăng vượt ý thức bản ngã hiện tại, và do đó dù không bước nhưng vẫn tiến gần hơn sự thăng tiến. Điều tương tự cũng xảy ra cho những nhóm người và nhân loại nói chung. Khi là một chân sư thăng thiên, chúng tôi học cách nhìn dài hạn và thấy rằng con đường thăng tiến thường có những khúc quanh co, nhưng cuối cùng thì vẫn dẫn đến mục tiêu nâng cao khả năng tự nhận biết. Nếu con không học được bài học này, con sẽ “rơi” trở xuống hiện thân và một lần nữa lại phải tham gia vào cuộc tranh đấu nhị nguyên để “ép buộc người khác làm điều lợi ích cho họ”. Con thấy đó, bất kỳ chọn lựa nào cũng có hậu quả. Và hậu quả càng khó chịu bao nhiêu, nó sẽ càng đưa con tới điểm nhanh bấy nhiêu, tức là điểm khi con sẵn sàng thăng vượt ý thức bản ngã hiện thời của con.

Một khi con buông bỏ lời gian dối cho rằng con phải phán xét cách người khác sử dụng quyền tự quyết của họ, con sẽ thoát khỏi cảm giác bất mãn mà trong suốt chiều dài lịch sử đã khiến bao người cho rằng mình phải cải sửa người khác bằng vũ lực. Và sự buông bỏ này sẽ thực sự đóng góp cho sự thăng tiến của hành tinh nhiều hơn bất cứ gì khác mà cá nhân con có thể làm.

Về vấn đề con đặt ra là liệu chúng tôi có thắc mắc người ta sống hết kiếp này tới kiếp khác mà không tăng trưởng, đôi khi chúng tôi cũng đặt ra câu hỏi đó để khiến cho mọi người suy nghĩ. Nhưng trong tâm chúng tôi, chúng tôi không thắc mắc, vì chúng tôi nhớ rõ trong khiêm nhu là chính chúng tôi cũng đã từng đầu thai và không phải lúc nào cũng đã lấy con đường thẳng nhất dẫn đến thăng thiên.  

Khi con từ bỏ nhu cầu đánh giá người khác, rất nhiều những câu hỏi như vậy tự dưng tan biến. Đó là một cảm giác tự do vô cùng. Và thật sự, con phải thử thì con mới biết như thế nào. Tất nhiên, nếu con quyết định tiếp tục trong cái ý thức bản ngã chỉ đem lại khổ não, ta sẽ tôn trọng chọn lựa của con. Và ta sẽ luôn đứng đó sẵn sàng để trao cho con một chọn lựa cao hơn bất cứ lúc nào con muốn.   

Con thấy đó, ta có thời gian về phía ta, bởi vì ta biết là thời gian không hề có. Thật ra, chính cái ý thức về chuẩn và những điều không đạt chuẩn đã nuôi mãi ảo tưởng của thời gian trong tâm mọi người trên địa cầu. Và điều này cũng giải thích tại sao có người lại sống hết kiếp này tới kiếp sau mà không tăng triển – đó là vì họ chỉ lo ép người khác phải tuân theo tiêu chuẩn của họ.  

Bất kỳ đối thủ nào cũng là sản phẩm của trạng thái tâm con

Hỏi: Con có một câu hỏi rất quan trọng. Khi nhìn ngược về lịch sử, chúng ta thấy nhiều lần con người bị tấn công dữ dội do niềm tin của mình. Chẳng hạn hàng ngàn hay hàng triệu người đã bị thiêu sống. Nước Đức của Hitler có hàng triệu người bị giết hại. Và cả trại tập trung nữa. Và bây giờ có thể trong thế giới văn minh hơn, chúng ta có bác sĩ tâm thần? Bác sĩ tâm thần có phải là mối đe doạ cho chúng ta không?

Con gặp một tình huống vô cùng khó chịu khi con nói chuyện về những phép lạ mà con chiêm nghiệm khi sử dụng các giáo lý, kỹ thuật của thày cùng các chân sư khác. Có một người ghét con đến độ họ bảo con bị bệnh tâm thần và người ta phải nhốt con vào bệnh viện tâm thần… và con bắt đầu nghĩ có lẽ sắp tới lúc mình phải gặp bác sĩ tâm thần. Có lẽ chúng con là học trò tâm linh phải sẵn sàng trước tình thế này?

Và đây là câu hỏi quan trọng: Liệu bác sĩ tâm thần có phải là mối đe doạ cho chúng ta? Việc họ nhốt người ta vào bệnh viện tâm thần do niềm tin tâm linh vào phép lạ có hợp lý không? Đối với nhiều người, việc đó thật kỳ lạ, thậm chí đáng tởm. Và chúng ta phải đối phó thế nào với đe dọa đó, nếu đó là một đe dọa?

Vậy làm thế nào để hét to cho mọi người nghe được khi chúng ta bị đe dọa như vậy? Làm thế nào chúng con nói lớn về Nước Trời như thày? Thượng đế có phải là người bảo vệ an toàn cho chúng con? Hay có lẽ đó là rủi rỏ và cái giá mà chúng con phải chịu vì Nước Trời và cứu rỗi? Chắc hẳn là có nhiều rủi ro và đe dọa như vậy? Và làm thế nào vượt qua sợ hãi? Xin thày giải thích. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 10/8/2010.

Chúng ta hãy nhìn vấn đề này ở mức độ cá nhân và mức độ xã hội, trước hết là cá nhân. Nếu con, với tư cách một người tâm linh, muốn các bác sĩ tâm thần là mối đe dọa cho con, thì theo Luật Tự quyết, con hoàn toàn có quyền có trải nghiệm đó. Bất kỳ hình tư tưởng nào mà con phóng ra tấm gương vũ trụ cuối cùng sẽ được phản chiếu trở về con dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất.

Như chúng tôi, các chân sư, đã đề cập nhiều lần và từ nhiều khía cạnh khác nhau, một số hành giả tầm đạo vẫn bị mắc kẹt, hoặc it nhất bị phần nào mù quáng, trong tư duy cuồng đại. Trong khung tư duy này, con cố tình – nhưng tâm ý thức của con không hề hay biết – tìm kiếm một đối thủ, một kẻ thù mà con có thể chỉ định làm mối đe dọa, để con có cái cớ mà không nhận lấy hoàn toàn trách nhiệm về trạng thái tâm con. Chẳng hạn, con có thể trong tiềm thức tin rằng con không thể bình an hoặc biểu đạt được tâm Ki-tô của con bởi vì một số điều kiện ngoại cảnh không hội đủ. Những điều kiện này không hội đủ là vì có một đối thủ đang chống lại những điều kiện “toàn hảo” sẽ cho con sự an bình hay tâm Ki-tô mà con đang thiếu. Và như vậy, con có cái cớ để tập trung vào việc giao chiến với đối thủ đó thay vì thể hiện tâm Ki-tô của con – là điều mà đáng lý con phải làm bất kể mọi điều kiện ngoại cảnh, vì TẤT CẢ mọi điều kiện vật chất đều chống lại sự biểu hiện tâm Ki-tô.     

Kỳ thực, đối thủ đó không hề có, nhưng vì thế gian đang bị tác động quá nặng bởi tư duy nhị nguyên, nên con luôn luôn có thể tìm thấy một ai đó có vẻ là đối thủ của con. Lý do là vì chính con là người đã tạo ra hình tư tưởng về một đối thủ nguyên mẫu. Và bởi vì con không chịu nhận trách nhiệm về tình trạng tâm con, con tự thuyết phục là thật sự có một đối thủ đang sẵn sàng nhảy bổ vào con bất cứ lúc nào, không liên quan gì tới trạng thái trong tâm con.  

Khi con phóng chiếu hình tư tưởng này vào xã hội nơi con sinh sống, thế nào cũng có một ai đó có vẻ như xác nhận hình tư tưởng của con là đúng – và như vậy con chỉ định người đó, hay nhóm người đó, là đối thủ cá nhân của con. Con càng “đánh nhau” với đối thủ bao nhiêu thì hình như đối thủ càng đánh lại bấy nhiêu (và trong một số trường hợp, đối thủ sẽ đánh lại thật do chính họ cũng có người bị kẹt trong tư duy nhị nguyên). Như vậy, mọi hành động của đối thủ dường như xác nhận hình tư tưởng là người đó thực sự là đối thủ của con.

Cuộc vật lộn này sẽ kéo dài bao lâu? Đúng vậy, do phần vật lộn của con thực sự diễn ra trong tâm con, cho nên nó sẽ phải tiếp diễn cho tới khi con quyết định con đã chán ngấy trải nghiệm đó và con quyết định xét lại những hình tư tưởng mà con phóng ra. Như ta có trình bày trong một câu trả lời khác, một số người đã biến chính quyền của họ thành đối thủ, và cuộc vật lộn này sẽ không bao giờ đem lại Thời Hoàng kim.

Không một vị thày tâm linh nào sẽ có thể thuyết phục được con là cuộc giao chiến của con chỉ xảy ra trong tâm con cho tới khi con sẵn lòng xem xét cách con nhận thức cuộc sống, là cách con nhìn cuộc sống xuyên qua cái tư duy nhị nguyên cho rằng phải có một đối thủ. Việc xem xét này có thể khiến con nhận ra là nhận thức về cuộc sống không phải là một sinh hoạt thụ động, qua đó con đứng nhìn ngoại cảnh như một cái gì hiện hữu độc lập với tâm con. Kỳ thực, đó là một sinh hoạt tích cực qua đó con phóng chiếu hình tư tưởng vào tấm gương vũ trụ, và tấm gương này chỉ phản chiếu lại dưới một hình thức trông như ngoại cảnh. Điều này đã được cơ học lượng tử chứng minh – cho những ai sẵn sàng “nhìn” vượt khỏi nhận thức của mình.

Tất nhiên, như được giải thích ở nơi khác, nhận thức được sinh ra từ một trạng thái nào đó của tâm, và một khi cái Ta Biết tự đồng hóa với trạng thái này, nó sẽ “nhìn” xuyên qua phin lọc của tự ngã. Còn tự ngã thì không bao giờ có khả năng chất vấn trạng thái đã sinh ra nó. Và như vậy, tự ngã sẽ không bao giờ thăng vượt được tâm thức mong muốn một đối thủ. Điều này có nghĩa, lối thoát duy nhất là cái Ta Biết phải tự nhận diện nó là tỉnh giác thuần khiết, không những đứng vượt ngoài nhận thức của tự ngã, mà vượt ngoài cả trạng thái nơi tự ngã khởi lên.  

Nếu con nghiên cứu trạng web này kỹ lưỡng, con sẽ thấy ta đã nhiều lần cảnh báo các hành giả tầm đạo là phải cố gắng cân bằng, tránh cực đoan. Nếu con nghe theo lời khuyên này, các bác sĩ tâm thần sẽ không trở thành mối đe dọa cho con đâu, và con sẽ không có nguy cơ bị “nhốt trong bệnh viện tâm thần”. Lý do thật giản dị. Một bác sĩ tâm thần làm đúng theo khoa mình sẽ không đánh giá tín ngưỡng tâm linh hay tôn giáo của con, bởi vì bác sĩ tâm thần được huấn luyện để coi mọi tin tưởng là sản phẩm của tâm (điều này không sai, như ta vừa giải thích, đối với một người chưa đạt được tâm thức Ki-tô).

Cho nên, dù con hay những người quanh con có thể xem niềm tin tâm linh của con là kỳ lạ, một nhà chuyên nghiệp về tâm thần sẽ không nhìn vào những niềm tin đó mà sẽ tập trung vào cách cư xử của con. Chỉ khi nào có mối liên hệ rõ ràng giữa niềm tin và cách cư xử mất quân bình hay cực đoan, thì niềm tin của con mới được xét đến. Và ngay cả khi đó, bác sĩ tâm thần cũng sẽ không có vấn đề gì với niềm tin của con mà sẽ chỉ xem xét nó hầu hạn chế cách cư xử mất quân bình.

Tất nhiên ở đây, ta chỉ nói tới các bác sĩ tâm thần đúng đắn với nghề nghiệp, và đối với họ, mọi tín ngưỡng đều là sản phẩm của tâm, thậm chí cả tín ngưỡng cho rằng không có Thượng đế cũng là sản phẩm của tâm. Đương nhiên, sẽ có một số bác sĩ tâm thần không giữ được khoảng cách nghề nghiệp đó khi họ tin rằng niềm tin vào chủ nghĩa duy vật không phải là một niềm tin mà là thực tại. Và những kẻ duy vật “ngoan đạo” này có thể trở thành cuồng tín không khác gì những tín đồ “ngoan đạo” trong tôn giáo.

Nhưng điều ta muốn nói ở đây là khuyên mọi hành giả tầm đạo nên cố gắng cân bằng, và điều này thực sự có nghĩa là thăng vượt tư duy nhị nguyên cũng như cuộc tranh đấu cuồng đại. Nếu con cho phép con giữ mãi tư duy cuồng đại thì ở buổi bình minh của Thời đại Bảo bình, con sẽ bị tâm thức tập thể đang tăng mạnh “bắt buộc” tư duy cuồng đại đó ngày càng trở nên cực đoan thì mới duy trì được, với kết quả là hành vi của con sẽ mất quân bình hơn nữa, thu hút sự chú ý của các nhà tư vấn, tâm lý, tâm thần, thậm chí cả nhân viên pháp luật.      

Rồi nếu con phản ứng lại tình thế đó trong tư duy cuồng đại, con sẽ chỉ định những nhà chuyên nghiệp đó – là những người nói chung chỉ cố làm phận sự của mình – là những đối thủ mới của con, và con sẽ lại dùng các niềm tin cuồng đại để biện minh cho những hành vi cực đoan hơn. Điều này hẳn sẽ đưa con vào một cơn xoắn ốc tiêu cực có thể đem con vào trại tâm thần hay nhà tù (trong những trường hợp cùng cực, nó có thể dẫn đến tự vận mà người ta gọi là “tự vận do cảnh sát phụ lực”). Ta mong là những học trò chân chính của trang web này sẽ tránh khỏi cơn xoáy lốc đó. Tất nhiên, ta cúi đầu trước Luật Tự quyết cũng như sự kiện con cần trải nghiệm mọi chuyện con muốn hầu vượt qua tư duy cuồng đại. Một số người thực sự phải đưa tư duy này cho đến cùng cực trước khi ngộ ra là họ không còn muốn vật lộn với một đối thủ nào nữa, và khi đó, họ sẽ quyết định từ bò cái tư duy đã tạo ra đối thủ (và do đó đã “bắt buộc” tấm gương vũ trụ phải gửi về họ một đối thủ bằng xương băng thịt).  

Ta cũng thấy được là một số người có thể chỉ vào cuộc đời của ta, hoặc tiền kiếp của một số chân sư khác, và bảo rằng đã là Ki-tô thì phải có lập trường không khoan nhượng. Nhưng giữ vững lập trường cho sự thật KHÔNG đồng nghĩa với hành vi mất quân bình hay cực đoan. Quả là đã có rất nhiều người đã giữ lập trường cương quyết rồi bị bức hại, nhưng nếu con nhìn kỹ hơn, con sẽ thấy họ không giữ vững một lập trường phát xuất từ tâm trạng mất quân bình. Tương tự, con cũng tìm thấy nhiều người tin chắc là mình ùng hộ những nguyên lý cao cả, nhưng kỳ thực họ bị sai khiến bởi nhu cầu của tự ngã muốn chiến đấu hoặc muốn tâng mình lên cao hơn mọi người.     

Nói cách khác, hành động bên ngoài nhằm giữ vững lập trường có thể mang động cơ là tâm Ki-tô hay tâm vị kỷ. Và chỉ những ai cố giữ quân bình mới có thể tránh rơi vào cái bẫy mà tự ngã đã cài đặt, là “giữ vững lập trường” cho hình tư tưởng của mình thay vì cho sự thật cao cả. Đâu là sự khác biệt? Một điểm sẽ giúp con lượng định là sự sẵn lòng tha thứ những ai đã hành hạ mình. Người bị tự ngã sai khiến sẽ nhảy vào đấu tranh nhị nguyên, sẽ quy trách nhiệm và đổ lỗi cho bên ngoài, và do đó sẽ không sẵn lòng tha thứ (thật vậy, chính mong muốn quy trách nhiệm của tự ngã đã khiến người đó giữ vững lập trường). Ngược lại, người thực sự đến từ tâm Ki-tô sẽ sẵn sàng tha thứ, như trong câu ta đã nói: “Thưa Cha, xin tha thứ cho họ vì họ không biết họ làm gì”. Con cũng có thể nghiên cứu cuộc đời của Thomas More đã hoàn toàn tha thứ nhà vua ích kỷ đã kết án ông tử hình.    

Ngày nay chúng ta đang đi vào một thời đại khi con người ngày càng có thể giữ vững lập trường của mình mà không rơi vào lối cư xử quá khích. Nói cách khác, cho dù người ta, hay thậm chí cả xã hội rộng lớn, có thể xem quan điểm của con là cực đoan, cách cư xử của con không bắt buộc phải cực đoan. Đúng hơn, thời nay con sẽ có tác động lớn lao hơn nếu con giữ vững lập trường một cách quân bình, và con dạy dỗ một cách tiếp cận tâm linh quân bình – thay vì một cách có thể bị xem là cuồng tín. Lịch sử đã chứng kiến quá nhiều người cuồng tín theo đạo. Điều cần thiết trong thời đại Bảo bình là có những con người có khả năng làm sáng tỏ các nguyên lý tâm linh để quần chúng có thể hiểu và liên hệ được – do nó vang dội và đánh thức một cái gì đó trong lòng quần chúng.