Giáo lý nền tảng về Tình thương Thiêng liêng, đối chiếu với tình yêu người phàm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, chúng con đã nhận được nhiều lời dạy về các đức tính của Thượng đế, cho dù đó là Cha, Mẹ, Minh triết hay Tình thương. Nhưng con thường nghe bạn bè bảo rằng Tình thương là đức tính cao nhất và cũng là điều duy nhất mà con người cần đến. Tình thương có thật sự là đủ để đạt được quả vị Ki-tô và quả vị Phật hay không? Hay có một đức tính cơ bản hơn nữa của Thượng đế – như sự Tự thăng vượt – mà Tình thương chỉ là một phần bổ sung?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Một câu hỏi rất hay – và con đang đi đúng hướng khi con nhắc tới đặc tính tự thăng vượt. Tuy nhiên, tất cả tùy thuộc vào cách con sử dụng ngôn từ. Con thấy không, từ một góc độ nào đó, con có thể bảo tình thương là phẩm cách cốt lõi của đường tu tâm linh, nhưng điều này chỉ đúng nếu con hiểu sự khác biệt giữa tình yêu của người phàm và Tình thương Thiêng liêng, hay Siêu việt.

Phẩm chất thiết yếu của Tình thương Thiêng liêng chính LÀ sự tự thăng vượt – động lực để LÀ HƠN NỮA. Chính phẩm chất này đã là động lực cho Đấng Sáng tạo sáng tạo, hầu ngài trở thành nhiều hơn chính ngài bằng cách tự biểu hiện trong hình tướng cũng như trong hình tướng của các sinh thể đồng sáng tạo có tự nhận biết. Cho nên nếu không có dạng tình thương này thì sẽ không có gì được sinh tạo. Và con cũng có thể nói, chìa khóa chủ yếu để đạt quả vị Ki-tô và quả vị Phật cũng chính là Tình thương Thiêng liêng này, và con chỉ có thể đạt được nó bằng cách trở thành một với dòng chảy của tình thương, Dòng sông sự Sống.

Ngược lại, tình yêu con người, tình yêu phàm phu là loại tình yêu sở hữu. Nó tập trung vào một đối tượng yêu thương và nó muốn chiếm giữ đối tượng đó. Để thực hiện điều đó, nó tìm cách kiểm soát, và điều này chỉ có thể xảy ra bằng cách ngừng tự thăng vượt và do đó bước ra ngoài Dòng sông sự Sống. Tình yêu phàm phu mang kỳ vọng, thậm chí nó còn đòi hỏi là đối tượng phải đón nhận nó, và nó cũng đòi hỏi một sự hồi đáp. Nó chỉ biểu lộ được khi nào một số điều kiện được hội đủ, và điều này chứng tỏ là nó không tự đủ, nó không tồn tại được một mình. Bất cứ gì mà không tự đủ thì sẽ không Thiêng liêng mà khởi lên từ tâm thức tách biệt và thiếu thốn.

Tình thương Thiêng liêng không cần đến đối tượng nào mà được biểu lộ cho mọi sự sống, giống như mặt trời tỏa sáng ra cho tất cả. Nó không cần sở hữu một đối tượng nào và nó luôn luôn tuôn chảy, nó tự biểu lộ một cách hoàn toàn vô điều kiện và trong bất kể điều kiện nào. Nó bằng lòng tự biểu lộ mà không đòi hỏi hay chờ đợi bất cứ sự hồi đáp nào, ngay cả sự đón nhận nào. Nó nhận được niềm vui từ việc nó tuôn chảy, niềm vui từ việc nó là cái nó là.

Điều ta muốn nói là nếu con nỗ lực làm cánh cửa mở cho Tình thương Thiêng liêng – và chân thành cố gắng thăng vượt mọi sự biểu lộ phàm phu của cái gọi là tình yêu – thì quả thực con có khả năng đạt đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra là Tình thương Thiêng liêng có rất nhiều cách biểu lộ, nhiều cách thể hiện, và để có được Tình thương Thiêng liêng, con phải điều ngự những cách đó và đạt được khả năng biểu lộ chúng.

Hãy để ta nhắc cho con bốn phẩm cách cơ bản của Tình thương Thiêng liêng. Như Mẹ Mary có giải thích, mọi thứ được sinh tạo do sự tương tác giữa hai lực lan ra và co lại. Tuy nhiên để tạo vật được bền vững, phải có sự cân bằng giữa hai lực đó, và chính tâm Ki-tô là chìa khóa cho thế cân bằng này. Khi có cân bằng, tình thương sẽ tuôn chảy từ Cha xuyên qua Thánh linh và áp chồng niệm tinh khôi lên Ánh sáng Mẹ. Cũng vì vậy mà con có truyền thống ba ngôi trong đạo Cơ đốc – Cha, Con và Thánh linh – với sự bổ sung của Mẹ Thiêng liêng. Mỗi ngôi như vậy biểu tượng cho một phẩm cách của Tình thương Thiêng liêng:

  • Cha tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như quyền năng hay ý chí.
  • Con tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như minh triết hay quân bình.
  • Thánh linh tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như tình thương, nhưng một tình thương tự thăng vượt, giải thoát sự sống khỏi mọi ràng buộc.
  • Mẹ tượng trưng cho Tình thương Thiêng liêng biểu hiện như sự thanh tịnh trinh nguyên, hay niệm tinh khôi.

Bốn phẩm cách này tương ứng với những lời dạy của các chân sư về ngọn lửa ba nhánh. Như Mẹ Mary có giải thích, năng lượng từ Hiện điện TA LÀ của con đi xuống trước tiên vào Căn phòng Mật thất của tim con nằm sau luân xa tim. Nó đi xuống dưới dạng ánh sáng thuần khiết được biểu tượng qua màu trắng, tương ứng với Mẹ và Trinh nguyên Thượng đế. Sau đó nó chia làm ba chùm lửa tâm linh, gọi là ngọn lửa ba nhánh. Một nhánh màu xanh, tượng trưng cho Cha và Quyền năng Thượng đế. Một nhánh màu hoàng kim, tượng trưng cho Con và Minh triết Thượng đế. Và nhánh thứ ba màu hồng, tượng trưng cho Thánh linh và Tình thương Thượng đế.

Điểm quan trọng là kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh của con sẽ định đoạt khả năng sáng tạo của con – nó định đoạt bao nhiêu ánh sáng có thể chảy xuống từ Hiện diện TA LÀ vào bốn thể phàm. Nếu một trong bốn khía cạnh của ngọn lửa nơi tim trở nên mất cân bằng, con sẽ có xu hướng dùng sai khả năng sáng tạo của mình, và điều này sẽ giảm kích cỡ của ngọn lửa ba nhánh, tức là giảm kích thước của ống dẫn mà ánh sáng phải đi qua. Vì vậy, con sẽ nhận được ít ánh sáng sáng tạo hơn, và điều này sẽ kéo thấp tâm thức con xuống và hướng sự chú ý xa khỏi cái ta cao hơn của con.

Cách duy nhất để lật ngược xu hướng này và thực sự tăng triển tâm linh là tạo quân bình trong ngọn lửa ba nhánh để cả bốn khía cạnh của nó tuyệt đối hài hòa, nghĩa là chúng sẽ biểu hiện Tình thương Thiêng liêng trong thị hiện thay vì thị hiện sự mất cân bằng qua quyền năng phàm phu, khôn ngoan phàm phu, tình yêu phàm phu hay cái mà con người phàm phu định nghĩa là thanh khiết. Điều này chỉ thực hiện được bằng cách đạt tới phân biện Ki-tô, tức chìa khóa hiểu biết đâu là sự biểu hiện cân bằng, đâu là sự biều hiện mất cân bằng của bốn phẩm cách vừa kể. Đó là tại sao ta thường hay nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cân bằng trên trang mạng này.

Một khi con đã cân bằng ngọn lửa ba nhánh của con, con có thể bắt đầu cố gắng đạt cân bằng trên mỗi tia sáng trong số bảy tia sáng tâm linh cấu tạo vũ trụ vật chất. Mỗi tia sáng tương ứng với một trong bảy luân xa chính, và các tia sáng được liệt ra như sau:

  • Tia thứ nhất: quyền năng và ý chí Thượng đế.
  • Tia thứ hai: minh triết và cân bằng Thượng đế.
  • Tia thứ ba: tình thương và sự hiến tặng vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ tư: thuần khiết và hợp nhất với mục địch cùng định luật cao hơn của Thượng đế.
  • Tia thứ năm: sự thật và khả năng chữa lành của Thượng đế, phục hồi cho tất cả trở về niệm tinh khôi.
  • Tia thứ sáu: phụng sự và sáng tạo vô vị lợi của Thượng đế.
  • Tia thứ bảy: tự do và độc lập của Thượng đế.

Chìa khoá để điều phục mỗi tia sáng là trở thành một với Dòng sông sự Sống, hầu Tình thương Thiêng liêng có thể tự biểu lộ qua mỗi luân xa của con theo nhu cầu. Và như vậy con đạt được sự điều ngự cả bảy tia sáng – một giai đọan chủ yếu trong quả vị Ki-tô.

Con đã nhận xét khá đúng về nhiều người tầm đạo thời nay, là họ không nhận ra bản chất cùng các phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng. Cho nên họ đã nhầm lẫn nghĩ rằng họ chỉ cần tình yêu mà thôi, nhưng họ không thấy điều họ cần là Tình thương Thiêng liêng trong đủ cả bảy cách biểu hiện chính yếu của nó. Thay vào đó, họ tìm cách biểu lộ tình yêu của người phàm, thường được ngụy trang là tình thương tâm linh.

Về điểm này, ta cần chỉ ra cho con là thập niên 1960 được nhiều người tâm linh xem là thập niên quyết định, đánh dấu một bước ngoặt trong bước tiến hóa tâm linh của nhân loại. Điểm này có chút sự thật trong đó, nhưng không nhiều như người ta thường nghĩ. Thực tế là trong thập niên 1960, một số năng lượng và lời dạy tâm linh đã được truyền rải vào bốn thể phàm của năng trường trái đất cũng như vào tâm thức tập thể của nhân loại. Các năng lượng và lời dạy này nhằm giúp con người khắc phục các điểm nghẽn trong dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng, và quả thực, tiềm năng vào lúc đó rất lớn.

Tiếc thay, như xảy ra quá thường trên trái đất, tiềm năng cao nhất đó đã không thành hình. Lý do là vì tất cả các thày giả trên hành tinh đã nỗ lực chống lại sự truyền rải của các chân sư, và do khuynh hướng của tự ngã con người, các thày giả đã tương đối thành công. Quả là đã có nhiều người nhạy cảm được các năng lượng mới đánh thức dậy, nhưng thế rồi họ lại bị các thày giả cùng tự ngã của họ đánh lừa, khiến họ biểu lộ tình thương dưới dạng tình yêu phàm phu, thay vì thăng vượt trạng thái tâm thức cũ để biểu hiện Tình thương Thiêng liêng.

Chẳng hạn, một điểm tắc nghẽn đã cản trở dòng chảy tự do của Tình thương Thiêng liêng là khi con người không sẵn sàng biểu lộ tình cảm của mình cho nhau, mà một cách biểu hiện là thái độ dồn nén của nhiều người không chịu bày tỏ tình thương của mình qua thân thể vật lý, từ việc ôm ấp cho đến tình dục. Các thày giả đã thành công biến nhiều người thức tỉnh đó thành những kẻ nổi loạn chống lại các chuẩn mực tình dục của xã hội – một sự nổi loạn thật vô nghĩa – để họ tưởng rằng muốn biểu lộ tình thương nhiều hơn thì họ phải tình dục tự do. Thế là tự ngã con người – vốn không bao giờ thấy đủ khi nó tìm cầu bất kỳ loại khoái cảm nào của thế gian – trở thành một đồng minh đưa đẩy nhiều người tâm linh vào con đường quanh co của phong trào “tình yêu tự do”, thay vì bước vào phong trào giải phóng tình yêu để nó thăng vượt tình dục phàm phu.

Một ví dụ điển hình cho sự thể này là bài hát nổi tiếng của ban nhạc The Beatles với điệp khúc “Tất cả điều bạn cần là tình yêu, tình yêu là tất cả điều bạn cần.” Thật ra bài hát này được thiết kế – không phải một cách ý thức bởi người viết nhạc, mà bởi một thày giả đã phóng nó ra từ một cõi thấp – để cài đặt một cái móc tâm lý vào tâm thức mọi người. Cùng với nhiều ca khúc khác của The Beatles và các ban nhạc khác, cái móc này đã đẩy nhiều người tâm linh chân thành vào con đường lòng vòng khi họ nổi loạn chống lại xã hội, hay họ rút ra khỏi xã hội qua việc sử dụng ma túy, tình dục vô độ, nhạc rock và lối sống lập dị – thay vì thay đổi trong nội tâm để giúp xã hội thăng vượt đi lên.

Và như vậy, tiềm năng của thập niên 1960 đã không thành hình và một phần của tiềm năng đó vẫn chưa thành hình cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên trong những năm sau đó, tình trạng này đã được sửa chữa phần nào nhờ sự xuất hiện của một nhóm người tầm đạo tâm linh trưởng thành hơn với khả năng phân biện Ki-tô sâu sắc hơn.

Tiếc thay, nhiều người tâm linh ngày nay vẫn tin rằng tất cả những gì mà họ cần để tăng triển tâm linh là biểu lộ tình yêu, nhưng họ lại định nghĩa tình yêu này theo cách người phàm. Thường thường đó là một dạng tình yêu nhu mì, dịu dàng và hiền từ không bao giờ thách thức một ai, và do đó cũng không thể giải thoát được một ai khỏi dây buộc của tự ngã. Như ta vừa giải thích, nếu con muốn tăng triển tâm linh đích thực, trước tiên con phải điều ngự – và phải làm cánh cửa mở để biểu hiện – bốn phẩm chất cơ bản, rồi sau đó bảy phẩm chất của Tình thương Thiêng liêng trong tất cả mọi cách biểu hiện của nó. Quả thực đây mới là tất cả những gì con cần.

Tình yêu phàm phu sẽ không đưa con tới đâu, cho dù có biết bao người đã tự lừa dối mình rằng tình yêu phàm phu sẽ dẫn họ lên thiên đàng hay một trạng thái tâm thức cao vời vợi. Một lần nữa, đây là một mưu toan có chủ ý làm chậm bước cuộc đột phá có tiềm năng xảy ra trong thời đại này. Để tránh không lại bị lầm lẫn bước vào con đường lòng vòng của tình yêu phàm phu, con cần hiểu tự ngã của con đang tìm cách đánh lừa con như thế nào. Con hãy khởi sự bằng cách hiểu tư duy xám (gray thinking) của tự ngã là thế nào, xong con hãy tìm hiểu tất cả các bài giảng của ta về tự ngã. Nếu con không vươn lên khỏi tình yêu của tự ngã – là tình yêu đặt mình ở trung tâm, mặc dù nó ngụy trang rất giỏi – thì con sẽ không có hy vọng bước vào dòng chảy của Tình thương Thiêng liêng.

Như ta đã cố gắng giải thích khắp trang mạng này, tâm thức Ki-tô không phải là một lực thụ động sẽ bỏ con lại trong một trạng thái giới hạn. Đó là một lực chủ động, tích cực, xông vào trong thế gian, gặp gỡ mọi người ở ngay đó, và nếu cần, nó sẽ thách thức ảo tưởng của họ để trao cho họ một sự chọn lựa – là hoặc đi theo Ki-tô Hằng sống, hoặc cứ tiếp tục đi theo phản-Ki-tô. Đây là một chọn lựa mà họ sẽ không có cho đến khi họ gặp được Ki-tô Hằng sống hay Sự Thật của Ki-tô. Cho nên Tình thương Thiêng liêng không chấp nhận để cho một điều kiện nào ngăn chặn dòng chảy của nó, và nó tìm cách giúp mọi người vượt qua mọi điều kiện của họ. Tuy nhiên, tình thương vô điều kiện cũng không dính mắc với cách phản ứng của con người, cho nên nó sẽ thách thức rồi để cho họ tự do quyết định, ngược hẳn với tình yêu phàm phu cần phải kiểm soát.

Cách hay nhất để khắc phục các điểm nghẽn cho Tình thương Thiêng liêng là sử dụng các bài nguyện của Mẹ Mary. Tất cả những bài đó sẽ tháo gỡ những điểm đang ngăn chặn tình thương, nhưng ta đặc biệt khuyên con nên dùng bài Thỉnh thanh tẩy trái tim và bài Thỉnh thương yêu chính mình.

Để điều ngư tình thương trên bảy tia sáng, con phải quán chiếu đặc tính của mỗi tia sáng và làm việc với vị chân sư trong mỗi tia. Cách hay nhất để làm điều này là sử dụng các bài chú cho bảy tia sáng.

Chìa khóa để yêu bản thân

Hỏi: Khi linh hồn lần đầu tiên tách rời khỏi Hiện diện TA LÀ, nó tạo dựng một tự ngã chung quanh nó. Làm sao nó có thể học cách yêu thương chính nó để nó có thể trở về hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của nó? Tại sao tất cả chúng ta con người lại khó học cách yêu thương bản thân trước khi chúng ta yêu thương người khác?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Điều sẽ rất hữu ích cho con là phân biệt linh hồn và chính con. Linh hồn là một phương tiện nhằm giúp con đi vào vũ trụ vật chất. Linh hồn cho phép con tương tác với cơ thể vật lý và những năng lượng dày đặc của cơ thể. Nhưng trong nhiều giáo lý trước đây và nhiều lời dạy về tâm linh và tâm lý, từ “linh hồn” được sử dụng một cách rất tổng quát, và đôi khi người ta cứ cho là ai ai cũng đã hiểu bản chất của linh hồn rồi. Nhưng linh hồn có nhiều khía cạnh khác nhau, và chính con là nhiều hơn linh hồn của con, mặc dù nhiều người – thậm chí cả nhiều người tâm linh – cũng tưởng rằng linh hồn là toàn thể con người họ.

Con đã quen với khái niệm Hiện diện TA LÀ như là cái ta cao hơn, và một số người cho rằng Hiện diện TA LÀ là một phần của linh hồn họ, nhưng thật không phải là vậy. Linh hồn được cấu tạo bằng những năng lượng thấp kém của cõi vật chất, trong khi Hiện diện TA LÀ được cấu tạo bằng rung động cao tần của cõi tâm linh, và nó không bao giờ đi xuống thấp hơn cõi tâm linh. Vì vậy khi con hiểu được khái niệm Hiện diện TA LÀ, con sẽ hiểu ra rằng Hiện diện TA LÀ ở cao hơn và vượt khỏi linh hồn. Hiện diện TA LÀ không đi xuống các rung động thấp. Hiện diện TA LÀ đã không rơi xuống tâm thức nhị nguyên, và kỳ thực, trước thời điểm sa ngã xuống tâm thức nhị nguyên, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn vẫn chưa xuất hiện – bởi vì linh hồn chỉ xuất hiện để trợ giúp cho cuộc hành trình của con vào các rung động thấp của vũ trụ vật chất cũng như vào tâm thức nhị nguyên.  

Vậy thì cái gì đã quyết định cắn vào quả trái của sự hiểu biết về thiện và ác? Đó không phải là Hiện diện TA LÀ, bởi vì làm sao Hiện diện TA LÀ sa ngã được? Cũng không phải là cái ta Ki-tô, vì Ki-tô luôn luôn là một với Cha. Cho nên phải có một thành phần nào khác của bản thân con, không phải là cỗ xe thấp kém của linh hồn, và cũng không phải là Hiện diện TA LÀ. Và thực sự, thành phần này chính là cái đang cho con ý thức bản ngã của con. Mẹ Mary có giải thích điều này rất chi tiết trong các cuốn sách của thày về sự sống dồi dào, và thày gọi thành phần đó của con đang có những chọn lựa ý thức, là cái “Ta Biết”. Đó là trụ sở của ý chí tự quyết của con, và đó cũng là thành phần của con đã quyết định thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. 

Bây giờ ta trở lại câu hỏi của con. Có thể nói, linh hồn sẽ không bao giờ thực sự học được cách yêu thương chính nó, bởi vì linh hồn chỉ là cỗ xe cho cuộc hành trình của con vào cõi thấp, và trong cõi thấp không có gì có thể tiếp nhận được hoàn toàn tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Linh hồn không có khả năng thấu hiểu được khái niệm tình yêu vô điều kiện. Nhưng cái Ta Biết thì có khả năng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện.

Con cần suy ngẫm xem cái Ta Biết là gì. Nếu con suy ngẫm, con sẽ dần dần hiểu ra nó là gì, và con sẽ nhìn ra rằng con là nhiều hơn linh hồn của con. Đặc tính độc đáo của cái Ta Biết là nó có khả năng tự đồng hóa với bất cứ gì nó chọn. Nó là trụ sở của ý chí tự quyết, cho nên nó có thể chọn đồng hóa với con người thật của nó, tức là một đứa con của Thượng đế, một vị đồng sáng tạo với Thượng đế. Hoặc nó có thể chọn tự đồng hóa như là một con người sinh diệt, thậm chí là một con người tội lỗi không xứng đáng đến gần Thượng đế.

Thật sự cái Ta Biết có thể tự đồng hóa như là một hòn đá hay một gốc cây. Hoặc nó có thể tự cho nó là Giê-su Ki-tô hay Napoleon hay bất kỳ ai khác. Và thật vậy nơi các bệnh viện tâm thần, con sẽ tìm thấy những người tự đồng hóa hoàn toàn với một người mà họ không thật là, và điều này cho con thấy khả năng của cái Ta Biết có thể tự đồng hóa với bất kỳ thứ gì, bởi vì nó có quyền tự quyết và một trí tưởng tượng vô hạn.

Cho nên con không thể dạy cho linh hồn của con yêu thương chính nó, hay yêu thương chính con. Con cần phải tiếp xúc với cái Ta Biết. Nhưng làm thế nào con tiếp xúc với cái Ta Biết đây? Chính con là cái Ta Biết đó, và đây là điều con cần nhìn thấy. Con thấy không, mỗi khi chúng tôi cho con một khái niệm, chẳng hạn Hiện diện TA LÀ, thật dễ cho con nhìn thấy được rằng Hiện diện TA LÀ nằm ở trên và vượt khỏi con, tách rời khỏi con. Trong một nghĩa nào đó, điều này không sai, bởi vì khi con còn ở trong tâm thức nhị nguyên, con cũng ở một mức rung động thấp hơn Hiện diện TA LÀ của con. Nhưng cái Ta Biết có khả năng tự đồng hóa hoàn toàn với Hiện diện TA LÀ. Và đó là lúc con nói: “Ta và Cha ta là một!”

Cho nên điều ta muốn nói là, trước khi con học được cách yêu thương chính con, con phải biết được bản thân con cái đã. Con phải biết được cái Ta Biết. Và sau đó con phải nhận ra là cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết của con và con phải chọn lựa con sẽ tự đồng hóa như thế nào.

Nếu con tự đồng hóa với linh hồn, tức là cỗ xe thấp, con sẽ không thể yêu thương được chính con, bởi vì linh hồn, như ta đã nói, không thể nắm bắt tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Và chỉ có tình yêu này, tình yêu toàn hảo tống khứ mọi sợ hãi, mới có thể cho con cảm nhận là con xứng đáng với tình yêu Thượng đế, và do đó, chỉ khi đó con mới đón nhận được tình yêu Thượng đế.

Vì vậy khi con suy ngẫm điều này và bắt đầu nhận ra rằng con thật là một sinh thể có ý thức đang lựa chọn, con mới dần dần nhìn ra là để yêu thương chính mình, con phải chọn là con người thật của con, tức là một cá thể của Thượng đế. Chỉ qua sự chọn lựa làm con người thật của mình mà con mới chấp nhận rằng, vì con đã được sinh tạo ra từ Bản thể Thượng đế, con xứng đáng với tình yêu của Thượng đế. Chỉ khi đó con mới tách ra khỏi mọi sự đồng hóa với các cỗ xe thấp kém, cho dù đó là linh hồn, là tự ngã, tâm nhị nguyên hay thể xác vật lý, hay thậm chí cả những đồ vật của thế gian này.

Ta khuyến khích con hãy học hỏi toàn bộ lời dạy của Mẹ Mary đã trình bày một cách sâu xa và chi tiết vượt hẳn tất cả những gì đã được truyền giảng trước đây về đề tài này – và do đó nó quá phức tạp đề ta trình bày ở đây.

Ghi chú: Bạn cũng có thể đọc Bài thỉnh để Yêu Chính mình.

Tình yêu Ki-tô vô điệu kiện nhưng phân biện

Hỏi: Chữ “tình yêu” bị rất nhiều người sử dụng bừa bãi (bất kể tín ngưỡng hay tôn giáo của người đó) đến độ nó mang nhiều ý nghĩa và định nghĩa hơn bất cứ chữ nào khác! Trong Mười Điều răn trong Kinh thánh, “yêu Chúa, yêu chính mình, yêu là chìa khóa”… thật là mơ hồ! Thật là quá dễ nói rằng “Yêu Thượng đế, yêu bản thân, yêu người lận cận của mình”. Làm sao chúng con biết được chúng con có yêu thương thật sự như Thượng đế yêu thương không? Và nếu “Tình yêu là chìa khoá” thì nhất định chúng con muốn biết yêu cách nào đúng nhất! Xin thày làm ơn chia sẻ với chúng con định nghĩa của Thượng đế về Tình yêu và tất cả mọi điều khác để giúp chúng con là Tình yêu mà Thượng đế luôn muốn chúng con là?  


Trả lời cuả chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Cảm ơn con đã hỏi một câu vô cùng quan trọng. Con hoàn toàn đúng khi con nói rằng có nhiều định nghĩa về tình yêu và nhiều sự hoang mang về tình yêu.

Hãy cho ta nói trước tiên về tình yêu nhân thế. Như ta có giảng trong trang mạng của ta, vấn đề thật sự trên trái đất là con người đã bước xuống một tình trạng tâm thức thấp hơn, và đã đánh mất liên lạc với nguồn cội tâm linh của mình. Đặc điểm của tâm thức này là khiến cho con người tưởng rằng tất cả đều tương đối. Trong trạng thái tâm thức đó, họ định ra một hình ảnh của thực tại, một thần tượng, rồi họ tìm cách ép uổng thực tại phải nằm gọn trong hệ thống tín ngưỡng của họ, hay trong thế giới quan của họ. Họ cố dựng lên một thế giới theo kiểu cách họ muốn. Đương nhiên, điều này cũng áp dụng cho tình yêu.

Khi con người định nghĩa tình yêu, họ định nghĩa một cách tương đối. Chẳng hạn, nhiều người định nghĩa tình yêu là đối nghịch của thù hận. Tuy nhiên, hận thù là một tình cảm hoàn toàn tương đối, một tình cảm hoàn toàn phàm phu. Vậy nếu con định nghĩa tình yêu là đối nghịch của một tình cảm tương đối gọi là thù hận, thì con cũng định nghĩa tình yêu là một tình cảm tương đối. Hệ quả là tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Con người có khuynh hướng định nghĩa tình yêu dựa trên bản thân mình, dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của mình. Có nghĩa là mỗi người định nghĩa tình yêu theo cách như sau: tình yêu là bất cứ điều gì làm cho tôi vui lòng – nếu bạn nói hay làm điều gì đó không làm tôi vui lòng thì bạn không thương yêu tôi.  

Tất nhiên, định nghĩa này hoàn toàn vị kỷ, nó xoay quanh bản thân mình và lấy bản thân làm trung tâm. Hay đúng hơn, nó lấy tâm trí thấp, cái tâm nhị nguyên, làm trung tâm. Và vì thế, nó xa rời thực tại của tình yêu siêu phàm.

Như ta có giải thích ở nơi khác, tình yêu siêu phàm, tình yêu của Thượng đế, hoàn toàn và tuyệt đối vô điều kiện. Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và xét đoán. Thượng đế là một Thượng đế của tình yêu vô điều kiện, và đối với những đứa con của ngài, ngài không có gì khác hơn là tình yêu. Bất kể con là ai hay đã làm gì, Thượng đế sẽ yêu con với cùng một tình yêu vô điều kiện, vô hạn, như khi ngài sinh tạo dòng sống của con ở ban đầu. Con không thể làm điều gì để làm giảm đi tình yêu của ngài đối với con. Con không thể làm gì để khiến con không xứng đáng nhận được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế.  

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu của Thượng đế vô điều kiện chính là vì mắt ngài không thể nhìn thấy sự bất chính. Thượng đế là quyền năng sáng tạo lớn nhất trong vũ trụ. Bất cứ gì mà ngài nhìn vào sẽ được khuếch đại, tăng cường do quyền năng sáng tạo vĩ đại của ngài. Cho nên ngài giản dị sẽ không nhìn vào những bất toàn của con. Ngài đã ban cho con quyền tự quyết, và hệ quả của quyền tự quyết là con có thể quyết định bước vào một trạng thái tâm thức thấp hơn cái trạng thái toàn hảo mà Thượng đế đã mường tượng cho con. Trong tâm thức này, con có thể tạo ra đủ thứ bất toàn, nhưng ngài sẽ không nhìn thấy bất cứ thứ nào. Thượng đế chỉ nhìn thấy sự toàn hảo mà ngài đã sinh tạo ở ban đầu. Khi con chìm vào bất toàn, con cũng chìm xuống dưới chân trời của tầm nhìn Thượng đế. Nhưng chúng tôi, các chân sư thăng thiên, chúng tôi nhìn thấy được những bất toàn cuả con, và đó là tại sao chúng tôi có thể giúp con thăng vượt được.

Vấn đề khi cố giải thích tình yêu của Thượng đế là khi con người còn bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối, họ có khuynh hướng rơi vào một trong hai cực đoan. Một cực đoan là phóng chiếu phẩm chất con người lên Thượng đế rồi tưởng tượng rằng ngài sẽ phán xét những phán xét của con người. Họ tưởng tượng ngài sẽ phán xét con người như con người vẫn phán xét nhau. Họ cũng tưởng tượng ngài sẽ nổi giận và muốn trừng phạt những ai đã vi phạm quy luật của ngài, hay đúng hơn vi phạm định nghĩa của họ về quy luật của ngài. 

Thời nay, ngày càng có nhiều người bắt đầu nhìn thấu qua ảo ảnh một Thượng đế nóng giận và xét đoán. Họ bỏ lại sợ hãi và bước vào một trạng thái tâm thức nơi họ có thể tiếp cận Thượng đế như một Thượng đế yêu thương. Ta rất hoan nghênh tiến triển này vì thật sự đây là một bước đi đúng hướng. Tiếc thay, nhiều người trong số đó lại rơi vào cực đoan ngược lại và bắt đầu tin rằng tình yêu vô điều kiện của Thượng đế có nghĩa là cái gì cũng được. Họ tin – và một số còn dựng lên những lập luận trau chuốt để hỗ trợ niềm tim này – rằng không có gì thực sự là xấu, không có gì thực sự là ác. Từ đó, họ cho rằng con người có thể làm bất cứ gì mình muốn, và dưới mắt Thượng đế đều có thể chấp nhận được.

Ta phải nói với con là cả hai cực đoan mà ta vừa mô tả đều nguy hiểm như nhau cho dòng sống của con. Điểm nay khiến ta cần nói tới những loại tình yêu khác nhau. Chúng ta đã nói tới tình yêu con người luôn luôn có điều kiện. Chúng ta đã nói tới tình yêu Thượng đế luôn luôn vô điều kiện nhưng không bao giờ nhìn thấy bất toàn. Bây giờ chúng ta cần nói tới một loại tình yêu thứ ba, mà ta muốn gọi là tình yêu Ki-tô.

Tình yêu Ki-tô hoàn toàn vô điều kiện y hệt như tình yêu của Thượng đế. Tuy nhiên, tình yêu Ki-tô có thể nhìn thấy những điều bất chính. Như ta có nói cách đây 2000 năm rằng Cha không phán xét vì Cha đã trao cho Con quyền phán xét. Đứa con của Thượng đế, đứa con đích thực, chính đáng và duy nhất của Thượng đế, là tâm thức Ki-tô. Ta hiện thân cho trạng thái này của tâm, nhưng tâm thức Ki-tô là nhiều hơn rất nhiều mọi sinh thể cá nhân nào, kể cả chính ta.

Chức năng của tâm thức Ki-tô là phục vụ như một trung gian giữa con người và Thượng đế. Vì vậy tâm thức Ki-tô – kể cả một người đã đạt được tâm thức Ki-tô – có khả năng phán xét công chính. Một người như vậy sẽ biết sự thật và thực tại của Thượng đế là gì, đồng thời cũng biết điều gì không nằm thẳng hàng với thực tại đó.

Chức năng của tình yêu Ki-tô là mặc dù nó yêu thương mọi con người một cách vô điều kiện, đó không phải là tình yêu mù quáng. Tình yêu Ki-tô nhìn thấy rõ khi nào một người bị vướng kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém dựa trên sự không thực. Bản chất của tình yêu Ki-tô là không bỏ rơi những người như vậy một mình. Tình yêu vô điều kiện của Ki-tô đơn giản sẽ không để cho người đó bị kẹt lại trong tâm thức thấp kém. Nó muốn mọi người vươn lên cao hơn để chiêm nghiệm được sự sống dồi dào của Thượng đế.

Cho nên, ngược lại với niềm tin phổ biến của rất nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, tình yêu của Ki-tô không theo chủ nghĩa hòa bình, nó không yếu mềm, nó không cảm tính, nó không ủy mị. Tình yêu của Ki-tô sẽ không làm cho con vui thích trong nghĩa thế phàm. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên cho con đứng một chỗ. Tình yêu Ki-tô sẽ thúc ép con vươn lên cao hơn, phải thay đổi tâm thức của con hầu con đặt nó thẳng hàng với sự thật và thực tại của Thượng đế. Tình yêu Ki-tô sẽ không để yên con một mình trong trạng thái tâm thức thấp kém. Nó sẽ không để con một mình cho tới khi con thay đổi tâm thức và con vươn lên cao hơn hầu con có được sự sống, và cả sự sống dồi dào.    

Hầu hết mọi người bị kẹt trong một trạng thái tâm thức tương đối đến độ họ chỉ có thể trải nghiệm tình yêu tương đối, có điều kiện, của con người. Khi một người chuyên cần bước đi trên đường tâm linh, người đó có khả năng nâng cao tâm thức mình cho tới khi mình chứng nghiệm được tình yêu thuần khiết, vô điều kiện của Thượng đế. Quả thực, ta khuyến khích mọi người tầm đạo hãy nỗ lực có được chứng nghiệm này bởi vì không có gì thay đổi cuộc sống bằng chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện mà Thượng đế đã dành cho dòng sống của con.

Tuy nhiên, điều quan trọng cần hiểu là tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không thể biểu hiện trong thế gian này khi nào thế gian còn bất toàn. Cho nên, cái có thể biểu hiện trong thế gian là tình yêu Ki-tô. Nếu một người là một hành giả tầm đạo chân thành và chứng tỏ minh sẵn lòng vươn lên cao hơn trong tâm thức (tức là bỏ lại trạng thái tâm thức giới hạn và nhận lấy một góc cạnh khác của sự thật và thực tại Thượng đế), tình yêu Ki-tô quả thật có thể là cái mà đa số con người sẽ gọi là yêu thương. Nhưng nếu người đó không thẳng hàng với sự thật của Thượng đế, thì tình yêu Ki-tô sẽ không hiện ra là “thương yêu” trong ý nghĩa thế phàm nữa. Thay vào đó, sẽ là một tình yêu năng động không để cho người đó đứng yên.

Nếu còn mắc kẹt trong tâm thức thấp, người đó sẽ không trải nghiệm tình yêu Ki-tô như một cảm giác dễ chịu, mà trái lại, như một cảm giác phiền hà, như thể có điều gì không cho phép mình tiếp tục yên thân, thoải mái trong trạng thái tâm thức thấp.    

Vì vậy, cách yêu thương đúng đắn là nỗ lực chứng nghiệm tình yêu vô điều kiện của Thượng đế rồi bày tỏ tình yêu đó trong thế gian dưới dạng tình yêu Ki-tô. Khi một người bị kẹt trong tâm thức thấp, họ đơn giản không thể trải nghiệm hay biểu lộ tình yêu Ki-tô, họ chỉ có thể bày tỏ tình yêu thế phàm có điều kiện.

Có nhiều người tầm đạo thực tâm đã hé cảm thấy được tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, nhưng chưa hiểu rõ sự khác biệt giữa tình yêu vô điều kiện của Thượng đế và tình yêu Ki-tô. Vì thế, họ cho rằng họ phải yêu một cách vô điều kiện bất cứ ai mà họ gặp, bất kể người đó đang làm gì hay bị kẹt trong tâm thức gì. Đây là một sai lầm, và như ta đã nói, họ đã nhảy từ cực đoan tình yêu đầy phán xét và điều kiện của hầu hết mọi người sang cực đoan đối nghịch. 

Cho nên chìa khóa là cần nỗ lực tiếp xúc với cái ta Ki-tô của con, cái ta này sẽ cho con sự phân biện Ki-tô để con có những phán xét công chính. Khi con cho phép cái ta Ki-tô ban cho con sự phân biện này, con sẽ biết cách biểu lộ tình yêu Ki-tô hầu đạt được kết quả tối đa trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Con thấy đó, đối với người bị kẹt trong tâm thức phàm phu, mục đích của họ trong mọi hoàn cảnh là đem lại vui sướng lớn nhất cho bản thân. Nhưng đối với tâm thức Ki-tô, mục đích trong mọi hoàn cảnh là đưa đến sự phát triển tâm linh tối đa cho mỗi người. Điều này không thể thực hiện qua một loại tình yêu mềm yếu, ủy mị, mà chỉ qua tâm thức Ki-tô sẽ không để yên cho người ta đứng mãi trong một tâm trạng giới hạn. 

Cho nên để thực sự hiểu được lời dạy của ta là phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình, con cần hiểu bản chất của tình yêu Ki-tô. Khi con yêu chính mình với tình yêu Ki-tô, con liên tục cố gắng vươn lên tâm thức cao hơn. Con sẽ không chỉ chấp nhận mình cứ mãi đứng yên trong tâm thức thấp. Do đó, con cũng sẽ áp dụng cùng tình yêu Ki-tô đó đối với kẻ lân cận của con, và con sẽ không cho phép người đó bị kẹt mãi trong tâm thức thấp.

Yêu thực sự là cam kết luôn luôn tạo ra sự tăng triển tâm linh tối đa trong mọi hoàn cảnh. Yêu thực sự bản thân và kẻ lân cận là liên tục nỗ lực để đưa mọi người gần hơn với Thượng đế, gần hơn sự kết hợp với cội nguồn. Kết hợp này chỉ có thể đạt được qua tâm thức Ki-tô.  Do đó, tình yêu thực sự là nỗ lực đem mọi người đến gần hơn tâm thức Ki-tô, ngay cả khi tâm thức phàm nhân của họ khiến họ cảm thấy con không thoả mãn được định nghĩa của họ về tình yêu. Con sẽ nhận thấy nhiều người không thích bị lay động, và họ sẽ không vui lòng đón nhận một phần tình yêu của Ki-tô. Tuy nhiên, đây là tình yêu đích thực của Ki-tô – tức là không bao giờ để cho một ai đó bị mắc kẹt trong tâm thức phàm thế.