Về sự tương tác giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ

Hỏi: Mẹ Mary xin Mẹ cho chúng con một cảm nhận về Hiện diện TA LÀ trải nghiệm các diễn biến đương thời như thế nào.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua Kim Michaels. Câu trả lời này được trao truyền tại Hội nghị Kazakhstan 2023. Đăng ngày 6/11/2023.

Ấy, con phải cẩn thận ở đây. Các thày đã nói, và đây là điều một số các con chưa thực nhận ra hay chưa hoàn toàn nhìn nhận, là Hiện diện TA LÀ không phải là một sinh thể thăng thiên. Thày biết rất rõ nếu nói điều này cho các đệ tử của các đợt truyền giáo trước của chân sư thăng thiên, họ sẽ phản đối, vì trong các đợt truyền giáo đó, họ có quan điểm rằng Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh, do đó Hiện diện TA LÀ toàn hảo, và họ thực sự không có cái nhìn rõ ràng về thăng thiên nghĩa là gì, một phần là vì họ chưa có khái niệm về cái Ta Biết mà các thày đã trao truyền.

Đôi khi họ có khuynh hướng nhìn Hiện diện TA LÀ như một chân sư thăng thiên, nhưng Hiện diện TA LÀ đặc thù của con là một sinh thể chưa thăng thiên cho tới ngày con thăng thiên, và điều này nghĩa là Hiện diện TA LÀ không có cùng tầm nhìn của một chân sư thăng thiên. Một chân sư thăng thiên đã thăng thiên khi khắc phục mọi dính mắc với một số điều kiện trên trái đất, nhưng Hiện diện TA LÀ của con chưa thăng thiên, nó không có cùng tầm nhìn của một chân sư thăng thiên và quả thực nó có thể có một dính mắc nào đó với điều kiện trên trái đất mà cái Ta Biết sẽ giúp Hiện diện TA LÀ khắc phục khi cái Ta Biết tiến gần hơn tầng 144. Hiện diện TA LÀ của con vẫn có thể có một thành kiến nào đó, một hình tư tưởng nào đó về trái đất phải như thế nào. Và một phần lý do Hiện diện gửi cái Ta Biết xuống hiện thân là để nâng cao nhận biết của nó và khắc phục những thành kiến như thế. Ví dụ, các thày có nói là một số avatar tới trái đất vì họ chưa nắm bắt hoàn toàn quyền tự quyết và họ muốn nắm bắt quy luật này.

Đây là Hiện diện TA LÀ muốn trải nghiệm đời sống trên một hành tinh phi tự nhiên để có thể nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa của quyền tự quyết. Lẽ tất nhiên còn có nhiều ví dụ khác. Hiện diện TA LÀ của con không nhất thiết nhìn tình hình thế sự hiện nay với cùng tầm nhìn trung hòa của một chân sư thăng thiên. Các thày là chân sư thăng thiên và đã thăng vượt mọi thành kiến trên trái đất. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất cho các đệ tử chân sư thăng thiên. Nếu con có thể thấy vấn đề này với đợt truyền giáo đương thời, nhưng vấn đề còn hiện rõ hơn nhiều nơi các đợt truyền giáo trước. Để thày đơn cử một ví dụ, con thấy là Phong trào TA LÀ và Ngọn Hải đăng trên Đỉnh núi được bắt đầu ở Hòa kỳ và khi con đọc các bài truyền đọc, con có thể thấy rõ là các bài truyền đọc đặt trọng tâm nhiều hơn vào Hoa kỳ và tầm quan trọng của Hoa kỳ. Và điều này có nghĩa là nhiều đệ tử phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên là các thày nghĩ Hoa kỳ là quốc gia quan trọng nhất trên thế giới. Nhưng như các thày đã giải thích qua vị sứ giả này, các thày thực sự không có cái nhìn đó.

Lẽ tất nhiên, các thày xem Hoa kỳ là một quốc gia quan trọng, nhưng khái niệm quốc gia quan trọng “nhất” hoàn toàn vô nghĩa ở tầng thăng thiên. Các thày luôn luôn nhìn xem các thày có thể dùng ai trong các quốc gia khác nhau để giúp nâng cao tâm thức đại chúng và đưa ra ý tưởng mới và phát minh mới. Điều quan trọng không phải là nâng một quốc gia lên cao để nó trở thành cứu tinh cho thế giới. Các thày không nhìn sự việc theo cách đó.

Điều thày muốn nói ở đây là các đệ tử ở Hoa kỳ trong các đợt truyền giáo trước có một thành kiến quốc gia mà họ phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên. Và một số thậm chí còn chỉ trích vị sứ giả này vì ông không có cùng thành kiến giống họ và do đó họ cảm thấy ông không kết nối với các chân sư thực vì các chân sư thực hiển nhiên coi Hoa kỳ là quốc gia quan trọng nhất. Thậm chí có những đệ tử ở Nga nhìn người sứ giả này và xem xét một số điều mà các thày đã nói qua người sứ giả và các đệ tử Nga nói một chân sư thăng thiên sẽ không bao giờ nói như vậy về nước Nga vì họ phóng chiếu lên các chân sư thăng thiên rằng các thày nghĩ nước Nga quan trọng giống như các đệ tử này nghĩ. Đây là một trong những thách đố cho người đệ tử chân sư thăng thiên khi con đạt tới các tầng cao hơn và con cần nhìn vào các thành kiến cá nhân của mình và đừng phóng chiếu chúng lên các chân sư thăng thiên.

Liên quan tới câu hỏi về Hiện diện TA LÀ, Hiện diện TA LÀ vẫn có thể có một số thành kiến. Hiện diện TA LÀ của một số người có thành kiến quốc gia về Hoa kỳ, về nước Nga hay các quốc gia khác vì cái Ta Biết đã đầu thai nhiều kiếp trong một quốc gia nào đó và sự việc này có thể ảnh hưởng tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ. Khi con vươn lên cao, khi cái Ta Biết vươn lên về hướng tầng 144, trong tiến trình đó con nhận biết rõ hơn các thành kiến này và con bắt đầu chất vấn chúng. Con sẽ không thăng thiên như một người Hoa kỳ hay một người Nga. Nhiều năm trước đây, khi trang mạng Hỏi Giê-su Thật còn mới mẻ, thày Giê-su đã trả lời một câu hỏi về đồng tính luyến ái và thày trả lời là trên thiên đàng không có người đồng tính luyến ái và con cũng có thể nói là không có người Hoa kỳ trên thiên đàng, không có người Nga trên thiên đàng, không có người Cơ đốc giáo trên thiên đàng, không có người Phật tử trên thiên đàng.

Bởi vì để có thể thăng thiên con phải thăng vượt mọi nhãn hiệu, những thành kiến mà con tìm thấy trên trái đất. Con phải nhìn nhận con là một sinh thể tâm linh hoàn vũ. Con hãy xem bài truyền đọc của Giê-su về tâm thức Ki-tô. Điều chính yếu thày nói là tâm thức Ki-tô có tính hoàn vũ và không thể ép uổng nó vào bất cứ thành kiến nào. Rõ ràng là để có thể thăng thiên, con phải hợp nhất với tâm thức Ki-tô và con chỉ làm được điều này bằng cách trở nên hoàn vũ, không có thành kiến, trung hòa. Đó là lý do tại sao các thày thường xuyên nhấn mạnh nhu cầu vươn tới trạng thái tâm trung hòa.

Giờ đây các thày cũng có thể nói thêm là có một khuynh hướng trong các đệ tử chân sư thăng thiên nói rằng: “Hiện diện TA LÀ biết hết mọi chuyện, Hiện diện TA LÀ ở trên cõi tâm linh và tôi chỉ là một nối dài của nó và tôi quả thực không giúp gì cho Hiện diện TA LÀ.” Ngay cả trong đợt truyền giáo này khi các con có được khái niệm về cái Ta Biết, nhiều người nghĩ cái Ta Biết quả thực không giúp Hiện diện TA LÀ vì Hiện diện đã biết mọi thứ mà nó cần biết.

Nhưng không đúng thế. Nếu Hiện diện TA LÀ biết hết mọi chuyện thì nó không cần gửi cái Ta Biết xuống hiện thân. Có một sự tương tác giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Có một dòng chảy hình số tám và trước đây các thày có nói là các trải nghiệm của con được gửi lên căn thể của con. Nhưng chuyện gì xảy ra trước khi nó đi lên căn thể? Đó là Hiện diện TA LÀ nhìn vào trải nghiệm của cái Ta Biết và Hiện diện học hỏi từ trải nghiệm này và qua đó nó mở rộng ý niệm bản ngã của nó, nâng cao nhận biết của nó. Điều này có nghĩa là cái Ta Biết có thể giúp Hiện diện TA LÀ nhìn thấy một số điều mà Hiện diện không thể thấy dễ dàng ở tầng thăng thiên nhưng cái Ta Biết có thể thấy vì nó đang ở dưới này đối phó với các điều kiện đó. Có sự tương tác giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ – và cái Ta Biết, đặc biệt là khi con đi vào trạng thái tâm trung hòa, có thể giúp Hiện diện TA LÀ thấy một số điều, học hỏi từ một số trải nghiệm và nhờ đó nâng cao tâm thức của Hiện diện.

Sợ biểu lộ chính mình

Hỏi: Khi con nói chuyện với người khác, con cảm thấy khó mở lòng ra và nói về bản thân mình. Con không chắc chắn vấn đề này là do lòng sợ hãi và xấu hổ, sự thiếu tự tin do thiếu tình thương vào tuổi thơ ấu, những chấn thương trong khi lớn lên và trong tiền kiếp, hay là một sự đồng hóa sâu xa với ngã gốc của mình. Khi đụng tới chuyện phải bộc lộ và tự bày tỏ, con cảm thấy như thể giác quan của con bị tê liệt. Con xin hỏi Mẹ Mary làm thế nào con có thể giải quyết vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Một triệu chứng nghiêm trọng như thế bắt nguồn từ chấn thương nhập đời vũ trụ, chủ yếu là ngã gốc của con vì con đã bị tổn thương khi con biểu lộ bản thân mình. Ngã gốc suy luận là nếu con không bao giờ tự biểu lộ một cách tự do nữa thì con sẽ không bị tổn thương như vậy nữa.

Điều con cần làm là dùng giáo lý các thày đã trao truyền trong quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh cùng những quyển tiếp theo sau. Con dùng các giáo lý này để phơi bày các ngã đó mà con đang mang trong tiềm thức, và con làm việc ngược trở lại cho đến chấn thương nhập đời là điểm con có thể nhận ra, như các thày đã trình bày, là con sẽ không bao giờ bị tổn thương như con đã từng bị tổn thương trong chấn thương nhập đời. Kể từ thuở đó con đã có nâng cao tâm thức, cho nên con có khả năng đương đầu với các năng lượng đó, vượt qua chấn thương và tự đặt mình trên một con đường hướng thượng tích cực.

Điều ngự trọn vẹn cả bảy tia sáng

Hỏi: Paul người Venice trong quyển sách của thày “Những khai ngộ thần bí về tình thương” có nói: “Con yêu dấu, nếu con quan niệm tình thương là cái gì mềm mại, màu hồng và thụ động, thì câu nói ‘tình thương là tất cả những gì con cần’ không đúng. Nhưng nếu con nắm vững tất cả mọi khía cạnh của tình thương, thì con có thể nói là tình thương là tất cả những gì con cần, vì lúc đó tình thương bao gồm tất cả bảy tia sáng với các đặc tính của chúng. Tất cả những gì con cần trong thế giới vật chất là bảy tia sáng. Con có thể thăng thiên khi con điều ngự cả bảy tia sáng. Nếu con điều ngự Tia thứ Tám của Tổng hợp và một số các tia bí mật thì còn tốt hơn nữa, nhưng con có thể thăng thiên khi con đạt được sự điều ngự bảy tia sáng. Bảy tia sáng là tất cả những gì con cần.”

Câu hỏi của con là về câu trích vừa rồi, có vẻ như Paul người Venice nói rằng việc điều ngự bảy tia sáng là đủ để thăng thiên. Vậy có nghĩa chăng là việc đạt đến tầng tâm thức thứ 96 là đủ để thăng thiên? Con không hiểu chúng con phải diễn giải câu này như thế nào, vì theo đó, có vẻ như tia sáng thứ tám cùng các tia bí mật tùy ý và không cần thiết.


Trả lời của chân sư thăng thiên Paul người Venice qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Mặc dù ta hiểu cách diễn giải cũng như nỗi băn khoăn của con, ta sẽ nói là câu hỏi xuất phát từ tâm đường thẳng đang quá đường thẳng. Nếu con đọc thật kỹ, thật ra các thày không nói là khi con học hết khóa tự điều ngự và đạt đến tầng 96 thì con đã hoàn toàn điều ngự được bảy tia sáng. Con đạt được một mức độ điều ngự nào đó và việc này đã giúp con vượt lên khỏi tâm thức tập thể, nhưng tầng 96 mới là điểm con khởi sự bước vào các tầng quả vị Ki-tô cá nhân. Thực sự là chỉ thông qua sự hợp nhất với tâm thức Ki-tô mà con sẽ điều ngự được bảy tia sáng cùng các tia cao hơn một cách trọn vẹn.    

Đối với một số người, họ chỉ cần phải tập trung vào bảy tia sáng mà thôi, nhưng đối với một số người khác, Sứ vụ Thiêng liêng của họ bao gồm cả việc tập trung vào một hay nhiều tia sáng bí mật. Điều này cho họ một cảm nhận điều ngự cao hơn. Các thày đã có giải thích là thật ra không phải tự thân cái Ta Biết đạt được điều ngự. Cái Ta Biết đạt được trạng thái thuần khiết mà nó đã đi xuống thế gian, nó hợp nhất với tâm Ki-tô, nó hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, nhưng sự điều ngự mà con xây dựng khi con bước chân trên đường tu tâm linh được neo trụ trong Hiện diện TA LÀ cùng căn thể của con.

Con càng kinh qua nhiều trải nghiệm khác nhau trong khi đầu thai thì con càng điều ngự được tất cả các tia sáng, kể cả các tia bí mật, con càng điều ngự được các kỹ năng vật lý, con càng xây đắp nhiều ngộ đạt trong căn thể cùng Hiện diện TA LÀ của con, và trình độ điều ngự của con càng cao hơn sau khi con thăng thiên. Ta cũng biết là có vẻ như tất cả mọi người đều thăng thiên ở cùng một trình độ và do đó có cùng một mức độ điều ngự khi họ thăng thiên, nhưng thật sự không phải như vậy. Một người có thể thăng thiên bằng cách hội đủ một số yêu cầu cơ bản – và không ai có thể thăng thiên nếu chưa hội đủ các yêu cầu này – nhưng nhiều người vượt quá các yêu cầu cơ bản và chứng đạt một sự điều ngự cao hơn yêu cầu tối thiểu. Và điều này, tất nhiên, sẽ tác động đến những gì họ có thể làm sau khi thăng thiên cũng như những nơi họ có thể đi đến.

Về linh hồn của tổ tiên và phong thủy mồ mả

Hỏi: Ở Hàn quốc có một niềm tin là linh hồn của tổ tiên nơi cõi trung giới có thể gây bệnh tật cho con cháu hay có thể ảnh hưởng đến vận may của con cháu tùy theo địa thế phong thủy của ngôi mộ. Những hiện tượng này có đến từ các tổ tiên thực sự hay từ ma quỷ trá hình hay từ một loại thần linh nào đó? Các chân sư khuyên chúng con nên dùng các bài chú, bài thỉnh nào để cắt đứt những rung động hay sự can thiệp không cần thiết của tổ tiên? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 8/7/2023.

Một lần nữa, điều này tùy thuộc vào cách con sử dụng và định nghĩa các từ. Con định nghĩa “tổ tiên thực sự” như thế nào? Điều chúng ta có thể nói là nói chung khi một người qua đời, họ sẽ đi về một tầng cõi nơi họ có khả năng đi tới dựa trên mức tâm thức của họ. Ở nơi đó, họ sẽ kiểm điểm lại kiếp hiện thân đã qua, rồi họ bắt đầu chuẩn bị cho kiếp hiện thân kế tiếp. Trong nhiều trường hợp, kiếp đầu thai kế tiếp sẽ diễn ra trong một môi trường khác chứ không trong cùng một gia đình, thậm chí có thể không cùng một quốc gia.

Nói chung thì tổ tiên đều bước đi tiếp con đường riêng của họ. Và một khi họ đã rời khỏi xác thân, hầu hết mọi dòng sống không còn cùng sự gắn bó với gia đình như các thành viên của gia đình có thể cảm thấy đối với người quá cố. Hiển nhiên là có một số nền văn hóa duy trì sự gắn bó như vậy, hay có truyền thống thờ cúng tổ tiên đến mức nó có thể ngăn cản một số dòng sống bước đi tiếp. Họ trở thành cái được gọi là những hồn không xác, thường khi bị vướng kẹt nơi cõi trung giới và họ không thể bước đi tiếp. Những hồn không xác như vậy có thể ảnh hưởng đến thể cảm xúc, thể lý trí và thể bản sắc của những người đang hiện thân, nhưng họ không có khả năng ảnh hường cơ thể vật lý hay mang lại điều xui xẻo hay bệnh tật. Đây chỉ đơn giản là mê tín dị đoan.        

Một lần nữa, vấn đề là khi có chuyện gì xảy ra cho ai đó thì người ta muốn giải thích là chuyện này không phải là do lỗi mình, cho nên một số nền văn hóa phóng chiếu vấn đề vào tổ tiên. Nhưng điều này không thực tế.

Tuy nhiên có một số người có thể bị ảnh hưởng bởi một người thân quá cố đã trở thành một hồn không xác không thể bước đi tiếp, đặc biệt là – tất nhiên – nếu họ có sự dính mắc. Nếu con có dính mắc với bà ngoại của con và dính mắc này ngăn cản bà bước đi tiếp, thì bà ngoại con – như một hồn không xác – có thể tìm cách ảnh hưởng con để khiến con buông bỏ dính mắc hầu linh hồn có thể bước tiếp.

Các loại bài thỉnh, bài chú tốt nhất mà con có thể đọc là các bài cho Astrea để thày cắt đứt cho con được tự do, hay cắt đứt để tổ tiên con được tự do bước đi tiếp. Và tất nhiên, chính con cũng cần xét xem con có sự gắn bó, dính mắc nào đối với người thân trong gia đình hay không, xong con buông nó ra và cho phép họ bước tới.

Không dính mắc nhưng không thờ ơ

Hỏi: Câu này con xin hỏi Phật Gautama hay một vị chân sư nào khác. Xin thày vui lòng giải thích khác biệt giữa sự không dính mắc, sự vô cảm thờ ơ và trạng thái tâm thức trung hòa? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Không dính mắc chỉ là một từ khác cho trạng thái tâm thức trung hòa. Trung hòa có nghĩa là gì? Có nghĩa là không có gì có thể kéo con về bất cứ hướng nào. Con có thể chọn lựa đặt chú ý của mình về một hướng nào đó nhưng không có gì có thể lôi kéo được con. Tại sao không có gì lôi kéo được con? Vì con không có dính mắc. Tại sao con không có dính mắc? Vì con không có một ngã tách biệt, một ngã tiềm thức nào mong cầu một kết quả đặc thù hay tránh né một điều gì trên trái đất. Còn sự thờ ơ, tất nhiên, là khi con thụ động, tâm con thụ động.

Có lẽ chúng ta nên bước lui lại một chút và nhìn xem ta đã nói gì cách đây 2500 năm, Giê-su đã nói gì cách đây 2000 năm và các thày nói gì ngày hôm nay. Đúng thật là khi con nhìn vào, đặc biệt là những lời dạy ta đã trao truyền 2500 năm về trước trong kiếp hiện thân Phật Gautama, thì một số Phật tử đã diễn giải là nếu con đạt được trạng thái không dính mắc đó, cực lạc đó, tam muội đó (samadhi), niết bàn đó (nirvana) cho dù người ta gọi đó là gì, thì nói chung con trở nên vô cảm thờ ơ. Con không quan tâm đến bất cứ gì trên địa cầu. Không có chuyện gì con muốn làm, cho nên con rút ra khỏi xã hội, con ngồi trong tu viện hay hang đá và con thiền quán về Thượng đế bởi vì con không quan tâm bất cứ chuyện gì trong thế gian. Đây là một diễn giải sai lạc về những gì ta đã dạy, những gì Giê-su đã dạy, những gì các thày ngày nay giảng dạy.

Nói chung con có thể nói, con là một sinh thể tâm linh, Hiện diện TA LÀ của con là một sinh thể tâm linh. Hiện diện TA LÀ của con ở cõi thăng thiên, hay đúng hơn, nó không là một chân sư thăng thiên nhưng chắc chắn nó ở cõi tâm linh, cho nên Hiện diện TA LÀ của con có khả năng trải nghiệm cõi tâm linh. Tại sao nó lại muốn gửi một phần của nó – cái Ta Biết – xuống một thế giới hình tướng và đặc biệt một hành tinh như trái đất? Tại sao chứ?

À, Hiện diện TA LÀ không gửi con xuống thế gian để con có một trải nghiệm tâm linh vì nó có thể có trải nghiệm này ở ngay cõi tâm linh rồi, cho nên nó gửi con xuống thế gian để trải nghiệm thế gian. Nhưng làm thế nào con trải nghiệm được thế gian nếu con ngồi trong hang núi Himalaya, thiền quán về Thượng đế và bỏ mặc thế gian? Đó không phải là lý do con tồn tại, lý do con đang ở trong thế gian. Con ở trong thế gian là để có những trải nghiệm, và những trải nghiệm này bao gồm cả những công việc con làm, và chắc chắn con năng hoạt trong thế gian. Nếu Hiện diện TA LÀ không muốn trải nghiệm thế gian thì việc gì nó phải mất công đem một phần của nó vào một xác thân vật lý? Nó đã có thể rút lại phần này và tập trung vào việc tăng triển ở cõi tâm linh, và tất nhiên đây là điều con sẽ làm sau khi con thăng thiên, nhưng dù sao thì con cũng hiểu ý ta muốn nói.

Mục đích con hiện thân trong cõi vật lý là để tham gia vào lý duyên khởi, và thế gian chính là lý duyên khởi này. Con nếm nhiều trải nghiệm, con làm nhiều công việc, con nêu gương cho người khác thấy là mình có khả năng khắc phục sự dính mắc với thế gian, cho nên mình có thể ở trong thế gian mà vẫn an bình. Làm thế nào con ở trong thế gian mà vẫn an bình? Bằng cách vượt qua các dính mắc của mình và bước vào tâm thái trung hòa.

Nhưng trung hòa không có nghĩa là con không làm gì. Con vẫn có thể tham gia vào một hoạt động vỏ ngoài và đồng thời ở trong một tâm thái trung hòa. Chỉ có nghĩa là trải nghiệm của con sẽ khác hơn mà thôi. Kỳ thực con có thể vui hưởng hoạt động đó, bởi vì khi con ở trong một tâm thái dính mắc thì con không thể tận hưởng việc tham gia vào hoạt động vì con luôn luôn chú tâm vào thành quả của hoạt động – cho đến khi con biết rõ thành quả là gì thì con không thể thực sự vui hưởng hoạt động. Đây chính là câu ngạn ngữ quen thuộc khi người ta bảo rằng điểm đến không quan trọng mà là hành trình, kết quả không quan trọng mà là tiến trình.

Khi con bước vào tâm thái trung hòa, con có thể vui hưởng tiến trình sống trong kiếp hiện thân cho dù con có đạt được hay không đạt được thành quả vỏ ngoài. Con không có vai trong tấn tuồng muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra, con không ở trong tấn tuồng cuồng đại muốn cái này phải xảy ra hay cái kia không được xảy ra trong thế gian. Nhưng con không thờ ơ vô cảm, con không thụ động, con không chỉ ngồi đó mà không làm gì hết.

Nguyên nhân thực của sự cô đơn

Hỏi: Nhiều người trong xã hội ngày nay cảm thấy cô đơn và con là một trong những người đó. Mặc dù con có biết về ngã tách biệt và thỉnh thoảng con cũng nhận được sáng ngộ, nhưng con không thể không cảm thấy cô đơn. Đâu là cách hay nhất để cảm thấy gần gũi hơn với một chân sư khi giao tiếp với thế giới bên ngoài? Con muốn có một quan hệ chặt chẽ hơn với một vị chân sư.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 11/5/2023.

Câu hỏi của con cụ thể là về sự cô đơn, nhưng tại sao người ta lại cảm thấy cô đơn? Theo sự khôn ngoan thông thường – nếu có thể gọi như vậy – con cảm thấy cô đơn là vì hoặc con không có ai ở bên cạnh, hoặc con không có những người thích hợp mà con có thể cảm thấy gần gũi và do đó có thể giúp con tránh cảm giác cô đơn. Nhiều người có sự trợ giúp như vậy, và tất nhiên, có nguyên cả một ngành công nghiệp chuyên việc giúp người ta tìm được người thích hợp để không cảm thấy cô đơn.

Nhưng hiển nhiên, đó không phải là cách hiệu quả để vượt qua sự cô đơn vì sự thật, sự thật phũ phàng, là con không thể khắc phục cảm giác cô đơn qua trung gian một người khác. Con không thể khắc phục cảm giác cô đơn qua bất kỳ người nào hay bất cứ vật gì bên ngoài chính con.

Thêm vào đó – và điều này nghe cũng phũ phàng không kém – câu nói trên cũng áp dụng với một chân sư thăng thiên. Con có thể có chút kết nối với một chân sư thăng thiên, một sáng ngộ hay hướng dẫn trực giác nào đó từ một chân sư thăng thiên, nhưng điều này sẽ không giúp con khắc phục cô đơn của con. Nó có thể đánh lạc hướng mối bận tâm của con nhưng nó sẽ không giúp con khắc phục cô đơn.

Bởi vì, đâu là nền tảng của cô đơn? Đó là con, cái ta ý thức, cái Ta Biết, con không có một cảm giác kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Đây là nguyên nhân thực sự của cô đơn. Con không thể khắc phục cô đơn thông qua một người khác hay ngay cả một chân sư thăng thiên. Con chỉ khắc phục được bằng cách thiết lập một sự kết nối chặt chẽ hơn với Hiện diện TA LÀ của con. Tất nhiên đây là điều các thày sẽ trình bày nhiều hơn ở Hàn quốc vì đây sẽ là đề tài của hội nghị. Cách duy nhất để vượt qua sự cô đơn là sử dụng các lời dạy về ngã tách biệt và kiên trì làm việc với ngã tách biệt cho đến khi cái Ta Biết bắt đầu trải nghiệm Hiện diện TA LÀ một cách trực tiếp hơn. Đây là cách sẽ giúp con không còn cô đơn nữa.

Chắc chắn có những người đã bước chân trên đường tu được một thời gian, đã đạt được một cảm nhận kết nối hay hợp nhất sâu xa hơn và họ không cảm thấy cô đơn. Cho nên họ không cần ai khác đến khỏa lấp một lỗ hổng trong tâm lý họ, và chính lỗ hổng này còn khiến cho việc quan hệ với người khác trở nên khó khăn hơn vì con mang một số chờ đợi và đòi hỏi thiếu thực tế về những gì người khác phải làm cho con.

Khác biệt giữa tỏa rạng vào tâm thức tập thể và phóng chiếu tâm lý  

Hỏi: Các chân sư có thể vui lòng nhận xét về sự khác biệt giữa việc tỏa rạng vào tâm thức tập thể và việc phóng chiếu tâm lý.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. Đăng ngày 27/1/2023.

Có nhiều cách để mô tả sự việc này. Một sự phóng chiếu tâm lý có thể được xem là một phóng chiếu nhằm can thiệp vào tâm người khác hầu ảnh hưởng đến quyền tự quyết của họ. Có thể có những người – chẳng hạn thành viên trong gia đình con – phóng ra một số cảm xúc, một số ý tưởng hay ngay cả một ý niệm bản sắc vào tâm con, hầu khiến con tự đồng hóa với một nhóm người hay khiến con ở lại trong nhóm đó. Nếu vậy thì đó là một sự phóng chiếu tâm lý vì ý định là để ảnh hưởng tâm con, hạn chế quyền tự quyết của con và giữ con trong một tâm thái nhất định.

Khi các chân sư nói đến việc tỏa rạng vào tâm thức tập thể, chúng tôi không muốn nói đến việc ảnh hưởng đến những chọn lựa mà người khác có thể có. Chúng tôi muốn nói đến việc trao cho họ một chọn lựa, giải thoát họ để họ tự do lấy một chọn lựa mà hiện thời họ không thể lấy vì có những điều họ không thể nhìn thấy.

Khi chúng tôi toả rạng một ý tưởng, hay khi con đọc bài chú bài thỉnh, hay khi con lắng nghe một bài truyền đọc, thì chúng tôi không đang tìm cách ép buộc con người phải lấy một chọn lựa được định sẵn. Chúng tôi cố gắng toả rạng một ý tưởng khiến cho người đó nhìn ra là kỳ thực họ có một số tùy chọn mà họ không thể nhìn thấy trước đó.

Điều này không có nghĩa là chúng tôi đang ảnh hưởng những gì họ chọn lựa mà chỉ mở rộng các chọn lựa mà họ có thể nhìn thấy, và như vậy chúng tôi trao cho họ một sự chọn lựa tự do hơn. Đây là cách giản dị và cơ bản nhất để giải thích điều này.

Vật lý học của việc đọc chú

Hỏi: Trong thế giới ngày nay, nhiều người với đầu óc kỹ thuật không coi trọng những pháp tu dùng lời nói được phát âm. Đó là vì họ không thấy được làm thế nào việc phát âm một lời nói có thể thu hút ánh sáng tâm linh, tạo dễ dàng cho sự kết nối với những sinh thể ở cõi tâm linh. Các thày có thể nào mô tả tác động của pháp tu này về mặt vật lý học? Chúng con biết là các bài thỉnh bài chú không hoạt động một cách máy móc, nhưng các câu thần chú ở phương Đông tác dụng như thế nào? Các giáo lý phương Đông nhấn mạnh là việc phát âm thần chú phải đúng cách, và điều này tạo ra cảm giác là việc vận dụng câu thần chú một cách máy móc là quá đủ. Trong khi đó thì các đệ tử của chân sư thăng thiên lại đọc chú mà không chú trọng đặc biệt đến cách phát âm. Xin các thày vui lòng bình luận.


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Như con nói, những ai có đầu óc kỹ thuật nên mở tâm ra và nhìn nhận là từ năm 1905 khi Einstein công bố thuyết tương đối, người ta đã biết mọi thứ đều là năng lượng. Con sống trong một thế giới nơi tất cả đều là năng lượng. Con phải có thể nhận ra là có những năng lượng thấp cũng như những năng lượng cao, rằng những thứ đồng điệu với nhau sẽ thu hút lẫn nhau, rằng năng lượng có thể tích tụ lại. Những ai không mang đầu óc quá máy móc phải có thể cảm được là họ bị những loại năng lượng thấp kém xuất phát từ sợ hãi đè nặng lên mình, thậm chí họ phải có thể thấy được là năng lượng dựa trên sợ hãi có khả năng lan tỏa ra khắp quần chúng khiến cho ai nấy hành xử một cách phi lý chỉ vì sợ hãi.

Họ cũng phải có thể nhận ra là nếu họ thực sự muốn cải thiện hoàn cảnh cá nhân và cách họ cảm nhận mọi chuyện, thì họ cần nhận thức năng lượng. Họ cần nhận ra là họ có một trường năng lượng bao quanh cơ thể vật lý của họ, và năng lượng dựa trên sợ hãi có thể tích tụ ở đó khiến cho họ, chẳng hạn, bị lôi kéo vào vòng nghiện ngập để rồi khó lòng thoát ra. Và do đó họ cần làm một cái gì đó để khắc phục năng lượng thấp kém này, và họ làm vậy bằng cách thỉnh gọi và tiếp cận năng lượng có độ rung cao hơn.

Nói cách khác, các định luật của ngành cơ học mô tả cách thức hai làn sóng năng lượng tạo ra một mô thức giao thoa. Con có thể lấy một sóng năng lượng ở một tần số thấp, rồi phóng vào nó một sóng năng lượng ở tần số cao, và kết quả là một sóng năng lượng mới cao hơn cái sóng thấp nhất. Đây chính là cách thức con có thể biến hóa năng lượng và chuyện này chỉ đơn giản là vật lý học. Không có gì phản khoa học trong đó, mà là một tiến trình khá máy móc.

Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào con tiếp cận được nguồn năng lượng có tần số cao? Tất nhiên, những ai mang đầu óc kỹ thuật sẽ muốn dùng công nghệ để thực hiện điều này, nhưng câu hỏi là liệu cách này sẽ có khả thi hay không. Có lẽ điều con có thể giúp mọi người nhìn ra là theo truyền thống từ hàng ngàn năm qua, con người đã sử dụng những câu thần chú, những bài thỉnh, những bài chú, để thỉnh cầu năng lượng có tần số cao. Con không cần gọi đó là năng lượng tâm linh, mà chỉ đơn giản là một năng lượng cao tần phát xuất từ tình thương, và nó có khả năng tác động đời con một cách tích cực.

Và cách mà các thày cống hiến cho con là các thày chính là những sinh thể có nhiệm vụ giúp con người tự giải thoát khỏi năng lượng tiêu cực, cho nên khi con thỉnh gọi sự hiện diện của các thày, các thày sẽ cho con năng lượng để con tự giải thoát. Nhưng đây không phải là một tiến trình máy móc. Nó đòi hỏi một sự hòa điệu nào đó nơi tim con, một sự trực nhận nào đó. Sẽ có những người bị chìm đắm trong tư duy khoa học máy móc đến độ họ phủ nhận trực giác của họ, và những người này thì có lẽ con sẽ không thể giúp được họ nhìn ra bất cứ gì. Nhưng những ai có một chút trực giác, con sẽ có thể giúp họ nhìn ra, và con nói với họ: “Làm cách nào khoa học đã tiến bộ chứ? Bằng cách các nhà khoa học sẵn lòng thử nghiệm. Vậy bạn có sẵn lòng thử nghiệm hay không? Bạn có chịu làm thử cái này và nghiệm xem nó có hiệu quả gì không cho bạn? Bởi vì nó đã đem lại kết quả cho tôi. Tôi đã được hưởng lợi lạc khi làm vậy và bạn cũng có thể được hưởng giống như tôi.”    

Bây giờ đến câu hỏi về các câu thần chú ở phương Đông. Có một xu hướng rõ rệt với các thần chú phương Đông là người ta sử dụng một cách máy móc. Người ta nghĩ là tự thân câu thần chú đã quá quyền năng đến độ, nếu nó được đọc lên và đọc lên đúng cách, thì một cách máy móc nó sẽ đem xuống năng lượng. Các thày đã giải thích cho con là điều này không phải như thế, vì luôn luôn có một chân sư thăng thiên lượng định động cơ của người đọc. Nếu chuyện này máy móc thì trên lý thuyết, con đã có thể dùng thần chú để thỉnh cầu một năng lượng sẽ làm hại một ai đó, và hiển nhiên đây không phải là ý định.

Giờ đây các thày nói cho con là cách phát âm không quan trọng bằng sự hòa điệu trong tim con – cảm nhận hòa điệu với nguồn gốc của năng lượng cũng như sự hiện hữu của một dòng chảy đi xuyên qua con, như vị sứ giả này vừa trình bày hồi nãy. Con có thể đọc chú đọc thỉnh một cách máy móc. Nó sẽ có một chút tác động, nhưng thật là ít ỏi so với khi con đọc trong sự hòa điệu và con cảm thấy dòng chảy từ chân sư xuyên qua luân xa của con. 

Tâm thức quả cầu

Hỏi: Các chân sư yêu dấu, chúng con biết là các thày có tâm thức quả cầu (spherical consciousness) và con muốn hiểu tâm thức này biểu hiện thế nào trong hành động. Các thày nhìn trật tự thế giới như thế nào qua tâm thức quả cầu? Con cũng biết một tâm thức đường thẳng thật khó lòng nắm bắt được điều này. Có lẽ cũng giống như cố giải thích mạng internet là gì cho một người thời Trung cổ. Làm thế nào phát triển tâm thức quả cầu? Có thể nào so sánh nó với thần giao cách cảm, khả năng thấu thị, khả năng thông suốt mọi sự hay không? Có phải là khả năng cảm được người khác đang cảm thấy gì? Sự đồng cảm? Khả năng sáng tạo bằng tư tưởng để thay đổi diễn biến ngoại cảnh? Có thể nào phát triển tâm thức quả cầu trên trái đất một khi đạt đủ tâm thức Ki-tô hay tâm thức Phật?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su Ki-tô qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Tất cả những thứ con nói đến – những cái gọi là khả năng siêu nhiên – không thuộc về trạng thái tâm thức quả cầu. Như con cũng đoán, thực tế là con không thể nắm bắt tâm thức quả cầu với một tâm thái đường thẳng. Ngay cả con cũng không thể hiểu bằng tâm thái đường thẳng. Khi nói đến tâm thức quả cầu, hoặc con trải nghiệm được, hoặc con không trải nghiệm được. Nhưng nếu con cố hiểu nó là gì bằng tâm đường thẳng thì con sẽ không đến gần hơn với trải nghiệm đó. Kỳ thực trong nhiều trường hợp, làm như vậy đã cản trở nhiều người có được trải nghiệm, vì họ quá chú tâm vào việc cố hiểu nó với tâm đường thẳng phân tích, quá chú tâm vào việc dán nhãn và mô tả, đến độ họ không thể có được trải nghiệm. Và tất nhiên, chỉ sự trải nghiệm trực tiếp mới xoay chuyển được tâm thức của con.

Nói vậy rồi, thật ra nhiều người trên thế giới và nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã bắt đầu phát triển được tâm thức quả cầu. Có thể nói tâm thức quả cầu là một tiến trình lâu dài, và khởi đầu của tâm thức quả cầu thực sự là khi con nhìn nhận là có điều gì đó để hiểu hay nắm bắt vượt khỏi tầm hiểu hiện thời lẫn tầng tâm thức hiện thời của con. Nói cách khác, các thày đã có nói về tâm trở thành một hệ thống khép kín, tự củng cố, tự chứng thực. Và cách giản dị nhất để diễn tả là bảo rằng cái tâm đó hiển nhiên không phải là tâm thức quả cầu. Khi tâm con đóng chặt nhưng con tưởng là con biết mọi chuyện, con không mở tâm ra để nắm bắt nhiều hơn những gì con biết, thì con không đang trải nghiệm tâm thức quả cầu.

Nhưng một khi con xoay chuyển và nhận ra có gì đó vượt khỏi mức tâm hiện thời của con, vượt khỏi thế giới quan hiện thời của con, thì con đang bắt đầu tiến vào tâm thức quả cầu. Con đang khuếch lớn tâm thức của con để nhận biết có gì đó nằm ngoài tâm con. Ngay cả việc lượng định là con không được làm tới người khác những gì con không muốn người khác làm tới con, cũng là một phần trong các giai đoạn đầu của tâm thức quả cầu. Con có lòng trắc ẩn với người khác. Con công nhận quyền hạn của người khác. Có một số giai đọan khác nhau qua đó con nhận biết càng ngày càng rõ hơn là có gì đó vượt khỏi tâm con, và tất nhiên con có thể nhận biết như vậy khi con đang đầu thai.

Con không thể trải nghiệm hoàn toàn những gì một chân sư thăng thiên trải nghiệm, nhưng con có thể ngày càng đến gần hơn với sự nhận biết rộng lớn là có gì đó vượt khỏi bốn thể phàm, vượt khỏi tâm vỏ ngoài của con. Con nhận biết là có nhiều hơn để hiểu, và trên hết, con không ngừng mở rộng thêm ra, mở rộng nhận biết một cách lần hồi, từng bước một. Có thể nói là tất cả khởi sự với nhận biết đó, rằng có gì đó vượt khỏi mức hiện thời của con. Và sau đó, vấn đề chỉ còn là con sẵn lòng vươn lên cao đến đâu và mở rộng đến đâu để nhận biết những gì vượt khỏi tâm thức đường thẳng của con.  

Các thày có giảng là khi con hiện thân hay ngay cả khi con khởi sự như một dòng sống mới, con có một ý niệm nhận biết hạn hẹp, cục bộ, nhỏ như cái chấm. Con chỉ chú trọng đến chính mình và môi trường lân cận xung quanh con. Tâm thức quả cầu vượt quá sự tập trung vào bản thân, nó mở rộng ý niệm bản ngã của con, nhưng nó cũng nhận ra là luôn luôn sẽ có điều gì đó vượt khỏi ý niệm bản ngã mà con có khi chưa thăng thiên.

Tâm thức quả cầu không phải là một khả năng siêu nhiên nào đó, mà là một sự nhận biết rộng lớn hơn vượt khỏi bản ngã. Có nhiều người bước vào giáo lý tâm linh nghĩ rằng: “Ồ, tôi muốn có khả năng đó. Tôi muốn mình có thể thị hiện bất cứ gì mình muốn, mình có thể thay đổi thế giới, mình có thể hiểu biết mọi chuyện.” Nhưng đây không phải là tâm thức quả cầu, và việc gắng sức đạt được khả năng này thường sẽ chặn đứng người đệ tử, bởi vì tại sao họ lại muốn vậy chứ? Là vì họ vẫn tự xem mình là một sinh thể tách biệt, họ vẫn muốn sự nhận biết hay khả năng làm những chuyện siêu nhiên đó trong tư cách một sinh thể tách biệt, để họ có thể nâng bản thân họ lên như một sinh thể tách biệt trong tâm họ hay trong tâm người khác.

Nhưng chừng nào con còn cố đạt những khả năng đó như một sinh thể tách biệt thì thật vậy, đó không phải là quả vị Ki-tô. Đây là con đường tay trái khi con cố trở thành một pháp sư ma thuật đen với một vài kỹ năng thao tác sự vật. Nhưng đây không là quả vị Ki-tô và chắc chắn cũng không phải là nhận biết quả cầu. Con chỉ càng ngày càng bị kẹt hơn vào ý niệm bản ngã tách biệt cục bộ.

Về ngã tách biệt

Hỏi: Câu hỏi của con liên quan đến việc xử lý các ngã tách biệt khi con nhận diện chúng và làm cho chúng tan biến. Điều gì xảy ra cho năng lượng của ngã tách biệt khi con để cho nó chết đi hay con biến hóa nó đi? Năng lượng đó đi đâu? Khi con đến với ngã tách biệt với ý định để cho nó chết, có phải là con đã đến với nó với một cảm nhận là nó sai trái và cần phải thay đổi? Liệu nó sẽ tìm cách lẩn trốn nếu nó biết là con muốn nó chết? Và nếu vậy, làm thế nào con đến với nó trong tình thương trong khi con không ưa thích nó và muốn nó thay đổi? Con có phải làm bất cứ gì không, hay là con chỉ nhìn ngã tách biệt và nói: “Tôi không cần cái này nữa”? Con cũng biết thày đã giảng rất nhiều về đề tài này nhưng con vẫn chưa nắm được. Cảm ơn thày.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Trước hết, con cho ta bình luận về khía cạnh năng lượng của vấn đề này. Ngã cũng giống như một tạo dựng trong tâm vậy. Đó là một khuôn đúc trong tâm. Và khi năng lượng từ Hiện diện TA LÀ của con, hay ngay cả từ cõi vật chất, chảy xuyên qua ngã, thì năng lượng được ngã pha màu, phú cho một số đặc tính – hay chúng ta có thể nói, năng lượng bị ngã tha hóa, làm cho ô nhiễm.

Sau đó ngã này được lưu trữ trong cảm thể, trí thể, bản sắc thể của con. Và năng lượng này cũng được lưu trữ trong cảm thể, trí thể, bản sắc thể của con, và ở một mức độ nào đó, ngay cả trong cơ thể vật lý. Đó là tại sao chúng tôi đề nghị các con đọc các bài chú, bài thỉnh. Tác dụng của việc này là chuyển hóa năng lượng, khiến cho nó được nâng lên một rung động cao hơn, và nhờ vậy nó được đưa lên cõi tâm linh trong một chu kỳ nơi nó biến thành các ta-lăng, rồi ta-lăng được nhân thêm để con nhận được nó quay trở xuống dưới dạng năng lượng mới. Năng lượng từng bị tha hóa biến mất khi nó được chuyển hóa như vậy – nó được tái chế để trở về với dạng nguyên thủy, cao hơn của nó.

Bây giờ, về thái độ của con khi con đến với những cái ngã. Điều này tùy thuộc vào sự kiện con đã làm việc này được bao lâu. Ở khởi đầu, điều bình thường là con sẽ cảm nhận rằng ngã tách biệt đang hạn chế con, rằng con không muốn có chúng và con muốn chúng biến đi. Nhưng một khi con đã thực hành nhiều hơn và trở nên chín chắn hơn trong tiến trình, con sẽ chỉ bước vào một tâm thái trung hòa. Con không kháng cự lại việc xem xét chúng, con không mang bất kỳ cảm giác tiêu cực nào đối với việc xem xét. Con chỉ thỉnh cầu sự giúp đỡ của các chân sư, con làm các bài thực tập để nhận diện ngã, và khi con nhìn ra nó thì con để cho nó chết.  

Chúng tôi đã cho con công thức để con nhìn thấy: “Mi là một cái ngã. Mi không phải là ta, và ta không phải là mi. Ta không muốn có mi trong đời ta nữa, cho nên ta để cho mi chết đi.” Chắc chắn ngã sẽ chống cự lại để không bị phơi bày. Nhưng mặt khác, rất nhiều những cái ngã tách biệt đặc thù như vậy không thật sự có một tiến trình lý luận tinh xảo lắm đâu. Chúng tựa như những chương trình trong máy tính vậy. Bất cứ khi nào có một tình huống kích hoạt ngã thì nó thật sự không thể nào lẩn trốn.

Tự ngã thì tinh vi hơn một chút. Tự ngã có thể tìm cách lẩn trốn, hóa trang, vân vân.

Trực giác và trí thông minh

Hỏi: Xin các thày vui lòng giải thích tại sao con là một học trò của chân sư thăng thiên ở một mức tâm thức hay nhận biết tương đối, trong khi rất nhiều người khác trên thế giới không đặc biệt gì là người tâm linh nhưng trí thông minh cùng khả năng của họ lại cao hơn con nhiều? Làm thế nào một người có thể có mức nhận thức và nhận biết cao nhưng không nhất thiết một trí thông minh rộng lớn? Đâu là mối quan hệ giữa trí thông minh và tâm thức hay sự nhận biết? Và điều gì quy định trình độ thông minh của một người trong một kiếp sống nào đó? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có trình bày là không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa cái mà người đời gọi là trí thông minh và cái mà chúng tôi gọi là sự nhận biết tâm linh, hay chứng đạt tâm linh. Sự phát triển mức chứng đạt tâm linh vượt ra khỏi thế gian này. Quả ví Ki-tô vượt ra khỏi thế gian này. Và việc tăng trưởng các khả năng thế phàm không giống như việc bước chân trên đường tu tâm linh.      

Con sẽ thấy rất nhiều người trên thế giới có khả năng vượt bực, trí thông minh cao trội, hay có khả năng lãnh đạo quần chúng hay nắm giữ quyền bính trong tay, đều là sa nhân. Lý do là những người đó không có khả năng bước trên đường quả vị Ki-tô, cho nên thay vào đó, họ chú tâm vào việc phát triển các khả năng nhân phàm của họ, và họ sử dụng mọi phương tiện để đạt được điều này, kể cả cái mà chúng ta gọi là tà thuật.

Điều mà thế giới hiện nay – hay ít ra thế giới Tây phương – gọi là trí thông minh là việc sử dụng tâm trí thức, tâm phân tích đường thẳng có khả năng biện luận thuận hay chống bất kỳ vấn đề nào, như chúng tôi đã có nói. Hiển nhiên, nó cũng cho con một khả năng nào đó để hiểu biết một số lãnh vực như toán học hay các chủ đề khoa học nào khác. Nhưng đó là một khả năng thế phàm. Đó không phải là cái mà con cần thực sự để bước chân trên đường quả vị Ki-tô và hội đủ tư cách thăng thiên. Đây là lý do tại sao đối với hầu hết những người tâm linh, con đã không trở thành một người tâm linh chỉ trong kiếp này mà thôi, mà rất có thể con đã là một người tâm linh từ nhiều tiền kiếp rồi, cho nên con đã không thực sự cảm được từ trực giác sự thôi thúc để tập trung vào việc phát triển các loại khả năng thế phàm kia. Tại sao con lại phải làm vậy khi mục đích của con nằm vượt ngoài thế gian?

Con cần nhìn nhận khi con là một người tâm linh, việc phát triển các khả năng hay kỹ năng thế phàm không là chính yếu. Không có nghĩa là con không thể có những khả năng đó, và rất có thể con đã từng phát triển chúng trong các kiếp trước, nhưng đó không phải là mục tiêu chủ yếu của con. Mục tiêu chủ yếu của con như một người tâm linh trên đường quả vị Ki-tô là hòa điệu với tâm thức Ki-tô, với cõi tâm linh, với Hiện diện TA LÀ, và đây không phải là một khả năng phân tích trí thức. Đó là tại sao con chú tâm phát triển trực giác của con. Trong nhiều trường hợp, con càng có nhiều trực giác thì tư duy của con sẽ càng bớt phân tích trí thức đi. Và rất có thể con sẽ cảm thấy khó khăn khi phải nắm bắt các đề tài phân tích đường thẳng kia.

Điều có thể xảy ra là khi con còn trẻ, con đã khá thành thạo hiểu được các khái niệm khoa học, các khái niệm phân tích đường thẳng đó. Nhưng khi con càng tiến bước trên đường tu tâm linh thì con càng mất đi khả năng vận dụng trí năng để bao trùm các khái niệm đó – nếu có thể nói như vậy – vì con không thể thực sự tập trung tâm trí vào cấp độ tư duy đó nữa. Cách suy nghĩ của con, hay tâm con, không còn chú tâm hay không còn bị mắc kẹt trong cõi lý trí nữa. Con đang bước vào cõi bản sắc nơi con có một tầm nhìn trực giác hơn hẳn.

Các bộ kinh và khả năng thần thông

Hỏi: Gần đây con đã tham gia một khóa học video với một nhà chữa bệnh nổi tiếng sử dụng năng lượng. Bà ấy từng tổ chức rất nhiều khóa đào tạo tại Ấn Độ. Trong khóa học này, bà đã cho chúng con 20 bài kinh để tụng niệm và sử dụng cùng với thiền định. Bà tuyên bố là việc sử dụng như vậy sẽ giúp chúng con mở khả năng đặc biệt và dẫn đến sự thăng tiến tâm linh. Bà giảng rất nhiều về việc mở cửa cho 12 luân xa bên trên đầu chúng con và về các cuộc điểm đạo. Mặc dù con không tin các lời tuyên bố của bà rằng bộ kinh này sẽ đem lại khả năng đặc biệt, con đã cảm nhận được một năng lượng nào đó bên trên đầu con khi con sử dụng. Con tự hỏi không biết các chân sư có thể giải thích lịch sử của pháp môn này và liệu nó có hữu ích hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Phục sinh nền dân chủ. Đăng ngày 13/11/2022.

Có rất nhiều kỹ thuật và dụng cụ có giá trị, theo nghĩa là chúng có thể đem lại tác động tích cực. Tất nhiên là có nhiều cách để thỉnh năng lượng, những năng lượng cao hơn là các bài thỉnh, bài chú mà chúng tôi các chân sư thăng thiên đã ban cho con. Con có các truyền thống của Ấn độ giáo và Phật giáo cùng các truyền thống khác ở phương Đông với nhiều kỹ thuật có giá trị. Chính con cũng đang đọc một số những bài kinh này khi con đọc câu Om Mani Padme Hum, câu Om Ah Hum, Vajra Guru Padme Siddhi Hum cùng những câu tụng và thần chú khác, cho nên việc này có thể có giá trị.

Tuy nhiên, con hãy lưu ý rằng mục đích của một kỹ thuật tâm linh chính đáng không thực sự là để sản xuất ra những khả năng siêu nhiên hay khả năng thần thông. Bởi vì không một vị thày tâm linh chân chính nào sẽ khuyến khích học trò mình làm như vậy, và không một vị thày tâm linh chân chính nào sẽ tìm cách thu hút những học trò mong muốn như vậy.

Ngược lại là đằng khác, hầu hết mọi vị thày tâm linh chân chính sẽ cố tránh những loại học trò như thế vì các vị ấy biết rằng họ chỉ đến học do lòng mong cầu một số hiện tượng vỏ ngoài sẽ nâng cao tự ngã, sẽ khiến họ cảm thấy cao trội hơn người khác, và thường khi họ sẵn sàng cưỡng chiếm thiên đàng bằng vũ lực.

Nhiều vị thày tâm linh già dặn, tiến hóa hơn sẽ lánh xa các loại học trò đó bằng cách không đưa ra những lời lẽ bảo rằng con sẽ tự động hay hầu như bảo đảm đạt được một số khả năng đặc biệt nếu con tập tành một số kỹ thuật. Rất ít người có thể phát triển những khả năng thần thông chân chính, và rất ít người đã đặt công việc này vào Sứ vụ Thiêng liêng của mình. Đối với hầu hết mọi người, đây là một sự xao lãng trên con đường dẫn đến một trạng thái tâm thức cao hơn.

Pháp tu quan sát khách quan

Hỏi: Xin thày Giê-su cho biết ý kiến về các lời dạy của ông Michael Singer. Ông nói rằng một cách hiệu quả để phát triển tâm linh là tu tập sự quan sát khách quan và dần dần phóng thích các samskara (hành uẩn), các dấu chân (imprint) của lý trí và cảm xúc của chúng ta. Chẳng hạn khi một tình huống khó khăn khởi lên, chúng ta có thể thư giãn trong trạng thái quan sát khách quan và cho phép các năng lượng đó được phóng thích. Sự phóng thích này sẽ biến hóa năng lượng để cho năng lượng thấp ban đầu như sự tức giận hay sợ hãi có thể nâng lên thành năng lượng cao. Ông Singer trình bày cách này như một pháp tu thường nhật mà qua đó cuộc sống hàng ngày có thể trở thành một nguồn phát triển tâm linh phong phú. Liệu có hạn chế đáng kể nào hay cạm bẫy tiềm tàng nào liên quan đến phương pháp này, hay đây là một đường tu hiệu quả?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 12/11/2022.

Các chân sư xin không có ý kiến về một vị thày hay một giáo lý đặc thù. Nhưng điều ta sẽ nói ở đây là tất nhiên, có một số vị – cho dù họ là đạo sư tâm linh hay là chuyên gia trong ngành tâm lý – đã khám phá những kỹ thuật có giá trị, những ý tưởng có giá trị, và họ đã tìm ra cách biểu đạt các ý tưởng này cho hấp dẫn đối với một số người. Ý tưởng về hành uẩn hay tâm ảnh trở ngược về đạo Phật, và tất nhiên đây là một ý tưởng chính đáng. Đó cũng giống như khi các thày giảng về hình tư tưởng, về ngã tách biệt, về phin lọc nhận thức của con. Các thày cũng có giảng về việc bước vào một tâm thái trung hòa. Nhưng ta sẽ nói là việc nhận thức điều này và phóng thích các năng lượng tuy có hữu ích, nhưng nó sẽ hiệu quả hơn nếu con phối hợp với việc đọc thỉnh, đọc chú, qua đó con thỉnh gọi ánh sáng tâm linh để giải thể năng lượng.

Có những người đã đạt đến một mức nơi họ có khả năng – bằng cách tập trung vào một số năng lượng và phóng thích chúng – dùng tâm mình để biến hóa năng lượng, nhưng hầu hết mọi người khác thì không thể làm được vậy, và do đó sẽ hữu hiệu hơn cho họ nếu họ dùng bài thỉnh và bài chú để biến hóa năng lượng. Nếu không thì kỳ thực con có thể rơi vào cái bẫy là nghĩ rằng con đã phóng thích tất cả những năng lượng đó – và trong một số trường hợp người ta có khả năng làm vậy thật – nhưng con lại phóng thích chúng vào môi trường chung quanh nơi chúng sẽ ảnh hưởng đến người khác và góp phần vào tâm thức tập thể, thậm chí còn nuôi béo con quái vật tập thể. Điều này có thể trở thành một cái bẫy sẽ cản trở sự tăng triển tâm linh của con.

Điều con thấy trong một số trường hợp là có những vị thày tâm linh có thể đưa ra một ý tưởng có giá trị, nhưng họ không luôn luôn hiểu được đầy đủ làm thế nào đem ý tưởng này vào thực hành. Nhiều vị thày không thật sự nhận thức tầm quan trọng của các năng lượng trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc, cũng như những cách hiệu quả để biến hóa năng lượng.

Không phải là con không thể thay đổi năng lượng qua bốn tầng của tâm con, mà con không thể thực sự biến hóa năng lượng thành năng lượng cao hơn nếu con không tiếp cận một dạng năng lượng cao hơn. Và năng lượng này phải đến từ cõi thăng thiên, vì đây là cách duy nhất để nó đến với con. Con không thể chế tạo năng lượng này trong tâm con. Con có thể mở tâm ra tiếp nhận một dòng chảy từ cõi thăng thiên chứ con không thể chế tạo nó trong tâm con. Nếu con nghĩ con có thể thì đấy là một sự hiểu lầm.

Khía cạnh phân liệt của đường tu tâm linh

Hỏi: Các giai đoạn chót trước khi thăng thiên có vẻ như hơi mâu thuẫn vì chúng con vẫn còn tự ngã, và như Saint Germain có giảng, tự ngã có vẻ vẫn còn phục vụ như một cái neo hay một cơ chế an toàn để ngăn ngừa sự rút lui quá sớm của lực sống khi chúng con chưa sẵn sàng thăng thiên. Nhưng đồng thời, chúng con đang là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của mình biểu đạt trong thế giới, và chúng con sáng tạo xuyên qua Hiện diện TA LÀ. Điều này có vẻ hơi phân liệt tâm thần (schizophrenic) về mặt trải nghiệm. Câu hỏi của con là, liệu chúng con có biết chắc là mình đã sẵn sàng, hay khi nào mình sẽ sẵn sàng? Hay có thể chúng con bị lầm lạc trong phán đoán và làm sái hoàn toàn? Vì rốt cuộc, tự ngã vẫn còn đó.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Hãy cho ta trình bày theo cách thế này. Quyền tự quyết là quyền tự quyết. Trên lý thuyết, cho đến tầng 144 con vẫn có thể quyết định khởi sự một con đường đi xuống. Không có nhiều xác suất con sẽ làm vậy nhưng chuyện này vẫn có thể xảy ra. Con có thể bước vào một tâm thái cho rằng con đã sẵn sàng thăng thiên vì con đánh giá quá cao sự tiến bộ của mình. Nhưng một lần nữa, khả năng xảy ra như vậy không cao lắm. Nó có nhiều khả năng xảy ra hơn ở tầng 96, là khi con có thể nghĩ, hoặc con đã sẵn sàng thăng thiên, hoặc con đã có một trình độ quả vị Ki-tô nào đó và con bắt đầu sử dụng điều này để tự đề xướng mình như một sinh thể tách biệt, và do đó con bắt đầu đi xuống con đường tay trái, con đường hướng hạ.

Sự thật là khi con vươn lên cao hơn và vượt quá tầng 96, tự ngã ngày càng có ít ảnh hưởng trên con. Như các thày đã có nói, nó chỉ còn là một cái gì giữ con trong cơ thể vật lý, bởi vì nếu không có một loại ngã tách biệt nào đó thì con không thể hòa nhập với một cơ thể.

Con có thể nói theo một nghĩa nào đó – và các thày cũng đã đề cập – là khi con khởi sự ở tầng 144 và con đi xuống tầng 48, cứ mỗi tầng như thế con lại khoác vào một ảo tưởng, rồi lại thêm một ảo tưởng khi con cứ tiếp tục đi xuống. Những ảo tưởng đầu tiên mà con khoác vào thật ra là các ảo tưởng cho phép con, như cái Ta Biết, như một sinh thể vô hình tướng, hòa nhập với một cơ thể có hình tướng, và do đó con tới chỗ cảm thấy mình ở trong cơ thể và bốn thể phàm – không phải chỉ có cơ thể mà đầu tiên là thể bản sắc, xong thể lý trí, xong thể cảm xúc, rồi đến thể vật lý. Nhưng con phải khoác vào một số ảo tưởng để tự trải nghiệm mình đang ở trong cơ thể này, mình có một cảm giác nhận biết đã định vị chung quanh cơ thể – thật ra có thể nói là con có khả năng vận hành bộ máy của cơ thể.

Và cái này thì không thực sự gọi là tự ngã theo nghĩa truyền thống. Nó không khiến con ích kỷ mà nó chỉ khiến con hòa nhập với một cơ thể hầu con có thể thực sự xem mình như đang tồn tại trong cơ thể đó, đang nối kết với cơ thể đó, đang có khả năng điều khiển cơ thể và trải nghiệm thế giới xuyên qua cơ thể và hành động xuyên qua cơ thể. Đây không phải là cái gì con sẽ gọi là tự ngã theo nghĩa truyền thống, tức là ích kỷ và chỉ đặt trọng tâm vào chính nó.

Con càng vươn lên cao hơn thì con càng làm cho sự tập trung vào bản thân rơi rụng. Và cuối cùng con đạt tới điểm – và điểm này xảy ra trước tầng 144 – con không còn tập trung vào chính mình nữa, thậm chí con không tự xem mình là một sinh thể tách biệt đến độ con phải tự nâng mình lên, trở thành danh tiếng, hay muốn làm chuyện gì quan trọng, vân vân.

Con lần lần rũ bỏ cảm nhận tập trung vào chính mình, cho nên tất nhiên càng ngày con sẽ càng ít khả năng lầm lạc để mà bắt đầu đi trở xuống. Điều này cũng có nghĩa là khi con khởi sự rũ bỏ sự tập trung vào bản thân, khía cạnh tâm thần phân liệt cũng biến mất. Ta cũng hiểu tại sao con có cảm giác phần nào đây là một tiến trình phân liệt. Như các thày đã có nói, có một giai đọan trên đường tu tâm linh khi con cảm thấy phân liệt đôi chút. Nhưng con khắc phục nó, con thăng vượt nó khi con thăng vượt sự tập trung vào bản thân như một sinh thể tách biệt, và con bắt đầu hòa nhập nhiều hơn với Hiện diện TA LÀ của con, và sự phân liệt dường như tan biến mất.  

Làm thế nào cho tâm im lặng

Hỏi: Con có một câu hỏi cho các chân sư. Có cách nào hiệu quả để vượt qua thói quen không ngừng suy nghĩ, có khi nói nhảm cưỡng chế trong tâm? Con hiểu là con cần chấp nhận ngã tách biệt đó là không quan trọng, và con cần chấp nhận chính con như con đang là. Nhưng làm cách nào con có thể kéo sự chú ý của con ra khỏi đó một cách hiệu quả hơn, bởi vì nó đang lấy đi năng lượng của con?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 20/6/2022.

Có nhiều yếu tố gây ra thói quen lảm nhảm trong tâm mà nhiều người trong đạo Phật gọi là “tâm khỉ”. Nó không ngừng suy nghĩ, không ngừng nói chuyện, không ngừng phân tích, không ngừng tham gia vào chuyện này chuyện nọ hầu lôi kéo sự chú ý của con vào tiến trình không bao giờ ngưng nghỉ đó. Chắc chắn một trong các yếu tố có thể là sự phóng chiếu của những thế lực trong cõi trung giới hay cõi lý trí, là những thế lực chỉ đơn giản cố khiến cho con bị mất thăng bằng để chúng đoạt năng lượng của con. Cúng có thể là sự phóng chiếu từ tâm thức tập thể. Đối với vấn đề này, con cần dùng những bài chú, bài thỉnh của chân sư để kêu gọi Đại thiên thần Michael bảo vệ và niêm phong hào quang của con, và Elohim Astrea cắt đứt và giải thoát con khỏi các tà lực đó.

Hiển nhiên con cũng sẽ cần dùng các dụng cụ của chân sư để chữa lành nhiều loại ngã tách biệt hay nhiều khuôn nếp phản ứng khác nhau – chẳng hạn như khi con thấy nhiều người gặp phải xung đột hay bất đồng với ai đó, thì nó khiến cho tâm họ cứ mãi lặp đi lặp lại tình huống đó, họ không ngừng phân tích rồi bị cuốn hút vào đó. Họ không thể nào ngừng suy nghĩ về chuyện đó, và trong tâm họ mong muốn sửa đổi một tình huống mà họ không thể thay đổi ở mức vật lý. Con cần nhận ra là sự thể này khởi lên từ một số ngã tách biệt nhất định do con bị dính mắc vào tình huống, vào kết quả của tình huống, hoặc con có một cái ngã không sẵn lòng tha thứ cho người kia. Một lần nữa, bằng cách tha thứ cho người đó, con sẽ tìm được tự do. Vậy con có muốn được tự do hay không? Có rất nhiều những cái ngã tách biệt như vậy tạo ra những câu chuyện lảm nhảm liên tục trong tâm.

Nói cho cùng, không có cách nào khác hơn là con cần nhìn thấy chúng, cần giải quyết chúng và đơn giản để cho chúng ra đi. Và khi đó, những chuyện mà tâm con thường lôi kéo chú ý con vào, bỗng nhiên có vẻ như không còn gì quan trọng nữa đối với con. Con có khả năng nhìn chúng và nói: “À vậy sao? Có gì quan trọng đâu?”

Nhưng cho dù con giải quyết được thật nhiều ngã như vậy, con vẫn cần nhìn nhận là con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất hỗn tạp, với một tâm thức tập thể và biết bao nhiêu loại năng lượng vô cùng hỗn tạp. Có thể là khó tránh chuyện tâm con cứ nhặt nhạnh những thứ đó. Và như các chân sư thường giải thích, không phải con chỉ có một cái ngã tách biệt đâu, mà con có một cái ngã tách biệt to lớn hơn – nếu có thể nói như vậy – với nhiệm vụ chủ yếu là khiến cho tâm con làm việc. Đơn giản, ngã này sẽ không ngừng suy nghĩ, lượng định, phân tích.

Sứ giả này nhiều năm trước đây đã nhận ra là mình có một cái ngã cứ muốn giải quyết đủ mọi loại vấn đề. Và khi không có vấn đề nào để giải quyết thì nó sẽ chế ra vấn đề. Cho nên có thể con sẽ khó tránh việc tâm con cứ muốn hoạt động, cứ muốn suy nghĩ về chuyện này chuyện nọ. Có những thiền gia Phật giáo đã bỏ ra hàng chục năm trời trong thiền quán và thiền định mà vẫn cảm thấy rất khó làm yên tâm mình. Thậm chí một số còn bảo rằng việc làm cho tâm im lặng không quan trọng lắm miễn là mình vẫn tập trung vào một cái gì vượt khỏi tâm – là cái mà chúng ta có thể gọi là Hiện diện TA LÀ, hay cõi tâm linh, hay sự phát triển tâm linh.

Nhưng ta sẽ cho con một phương cách thiết thực sẽ có thể giúp được con. Nếu con quan sát tâm, điều con sẽ để ý thấy là có một ý nghĩ đi vào tâm con. Có một khoảnh khắc khi con có thể quyết định: “Tôi có nên đi theo ý nghĩ này hay không, tôi có nên nghĩ cái ý nghĩ này hay không?” Hầu hết mọi người không để ý đến sự kiện này. Nhưng khi con đặt chú ý của con vào đó, sẽ tới một điểm khi con nhận biết có một khoảnh khắc thời gian khi một ý nghĩ đến với con – có thể là từ ngoài hay từ ngay trong tâm con – nhưng cái Ta Biết, sự nhận biết thuần khiết của con có một khoảng thời gian rất ngắn để nó quyết định: “Liệu tôi sẽ bước theo cái này hay tôi sẽ không bước theo?”     

Thay vì quyết định “Tôi sẽ không bước theo cái này”, điều con làm là con chỉ nhận biết ý nghĩ đó – cho dù nó đã bắt đầu và đã tiếp diễn một chập rồi – xong con nói trong tâm: “Tôi buông bỏ. Tôi buông bỏ ý nghĩ này.” [trong tiếng Anh, surrender có mấy nghĩa: buông bỏ, hàng phục, trả lại]  

Trên căn bản, con đang ra hiệu là chuyện đó không quan trọng đối với con, rằng con sẽ không giao tiếp, không tương tác với nó, rằng con sẽ không đặt chú ý hay trao năng lượng của con cho nó. Con chỉ đơn giản buông nó ra, con để cho nó ra đi. Nó không quan trọng. Nó không có ý nghĩa. Nếu con cứ tiếp tục làm như vậy thì con sẽ đạt được một số thành quả.      

Bất cứ khi nào một ý tưởng xuất hiện thì con có thể làm như vậy, ngay cả khi con nằm trên giường buổi tối và đang cố chìm vào giấc ngủ. Con chỉ liên tục tự nhủ: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.” Có thể là sau một lúc vẫn có một ý tưởng bỗng nhiên thu hút sự chú ý của con và nó tiếp diễn một chập. Nhưng khi con nhận biết nó ở đó thì con lại nói: “Tôi buông bỏ, tôi buông bỏ.”

Ta không bảo là phương cách này sẽ hiệu quả đối với những người chưa làm những điều kia mà ta khuyên ở trên. Nhưng chắc chắn nó có thể hiệu nghiệm đối với những ai đã đạt được một độ trong sáng hơn, tinh khiết hơn nơi bốn thể phàm của mình.

Cách nhìn từ Phật về cuộc chiến tại Ukraine

Hỏi: Con là một người Nga và con đã xúc động sâu xa trước cuộc tấn công hung bạo của nước con trên người Ukraine là một dân tộc thật gần gũi với chúng con. Con cảm thấy đau đớn và cảm thương sâu sắc đối với những ai đang phải sống qua cuộc chiến khủng khiếp này. Và con không thể giữ nổi tâm trung hòa. Đối với con, trung hòa có vẻ như là mình ngừng thương cảm. Nói cho cùng, năng lượng của lòng từ bi tự nó đã mang màu sắc rồi, nó không trung lập. Về điểm này, con xin có một câu hỏi cho các chân sư thăng thiên. Không hiểu một dòng sống đã đạt đến một trình độ tâm thức Ki-tô đủ cao cảm nhận tình cảnh này như thế nào? Liệu dòng sống đó có một quan điểm nào về cuộc chiến này hay không? Và một dòng sống ở mức quả vị Phật nhìn tình thế này ra sao? Liệu dòng sống đó có cảm thấy lòng từ bi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 19/6/2022.

Trước tiên, con cần nhìn nhận rằng con là một con người đang hiện thân, và sự kiện con cảm thấy mình bị bận tâm bởi chiến tranh và sự tàn bạo của con người là một điều tự nhiên. Việc con thương xót những người đang chịu khổ đau cũng là một điều tự nhiên. Con không cần phải tự trách mình là mình đang có những xúc động như vậy.

Nhưng tất nhiên, con có thể vươn lên những tầng cao hơn của quả vị Ki-tô và nhờ đó con sẽ xoay chuyển. Như các chân sư đã giảng nhiều lần, một người đã đạt đến một mức quả vị Ki-tô nào đó sẽ nhận thức rằng trên cơ bản, địa cầu này là một cơ sở giáo dục, và sẽ có nhiều người chỉ có thể học hỏi qua Trường đời Cay đắng mà thôi. Họ chỉ có thể học hỏi khi những cú giáng của trường đời trở nên thật dữ dội. Điều này có nghĩa là con không thể cho phép mình cảm thấy lòng thương xót thường tình của một con người, bởi vì con sẽ không thể giữ được tâm trung hòa không dính mắc, và tâm đó chính là một khía cạnh của quả vị Ki-tô.

Hiển nhiên, quả vị Phật là một mức không dính mắc còn cao hơn nữa. Điều này không có nghĩa là đức Phật không có lòng từ bi, nhưng đó không phải là lòng thương xót của con người. Trên căn bản, con có thể nói là khi con đạt đến quả vị Ki-tô và quả vị Phật, con không còn lượng định mọi chuyện theo một cái nhìn nhị nguyên nữa – liệu chuyện này có phải hay trái, liệu chuyện này có nên xảy ra hay không được xảy ra? Con lui lại một bước, con nhìn một cách trung hòa và con nói: “Nếu đây là những gì người ta cần diễn bày ra để có thể xoay chuyển tâm thức của họ, thì tôi sẽ không chú tâm vào đó để mà phán xét là họ phải hay trái, mà tôi sẽ chú tâm vào những cách tôi có thể giúp những ai sẵn lòng xoay chuyển tâm thức mình.” Những người còn lại, thực sự con không thể làm gì được cho họ vì con không thể chạm được họ từ mức tâm thức của con. Chỉ có Trường đời Cay đắng mới chạm được họ mà thôi.

Có vẻ như tâm Ki-tô và tâm Phật lấy đi mất lòng từ bi, nhưng thực sự nó lấy đi lòng thương cảm phàm phu và con vươn lên một mức cao hơn. Lẽ tự nhiên, khi là chân sư thăng thiên thì mình không muốn nhìn thấy có ai phải đau khổ. Nhưng nếu con là một chân sư thăng thiên đang làm việc với địa cầu, thì con chấp nhận là sự đau khổ sẽ không tự dưng biến mất ngày mai hay ngày kia. Con cần chấp nhận đau khổ là một phần của cuộc sống trên hành tinh trong lúc này. Và con sử dụng mọi cơ hội trong tay để làm việc với nhân loại và giúp nâng cao tâm thức tập thể, hầu tâm thức nhân loại bước ra khỏi cái nhu cầu chỉ học được qua sự khổ đau.

“Sinh ra từ nước” và “Sinh ra từ lửa”

Hỏi: Trong cuốn sách “Tự do khỏi Phàm linh Nội tại”. Đại thượng sư có dạy về hai thời điểm quyết định trên đường tu trên địa cầu. Thời điểm thứ nhất là khi chúng con phải để cho ngã chết đi, là cái ngã tạo ra khi chúng con ở giữa mức tâm thức thứ 48 và 96. Và thời điểm thứ nhì khi chúng con ở mức 144 và phải chọn lựa, liệu chúng con sẽ vun bồi cho cái ngã đã tạo ra giữa mức 96 và 144, hay chúng con sẽ buông bỏ ngã này và cũng để nó chết hầu thăng thiên.

Ở mức 96 khi chúng con để cho ngã chết, là cái ngã chú tâm vào việc phát triển cá thể của mình, Đại thượng sư gọi đó là “sinh ra từ nước”. Và khi chúng con để cho cái ngã tạo ra từ mức 96 đến 144 chết đi, chúng con được “sinh ra từ lửa” và được gia tốc vào thăng thiên. Nhưng “sinh ra từ nước” nghĩa là gì? Chúng con biết đó là không còn chú tâm vào việc phát triển ngã cá nhân nữa, mà chúng trọng vào việc nâng cao toàn thể. Và chúng con thực hiện được điều này khi chúng con mở tim ra cho ngọn lửa thần thánh của tình thương. Con nói vậy có đúng không?

Và “sinh ra từ lửa” là thế nào? Có phải là khi chúng con hiểu rằng mặc dù cái ngã mình tạo ra rất đẹp và là một linh thể ánh sáng, đó vẫn chưa là bản sắc cuối cùng của mình, vì bản thể mình luôn lưu động, luôn thăng vượt. Chúng con phải buông bỏ mọi điều chinh phục được vì không có giai đọan nào gọi là tối hậu. Không có quyền năng nào tách biệt khỏi tình thương, không có quyền năng nào kiểm soát hoặc sở hữu – không có “cái tôi” nào tách biệt khỏi mọi sự sống?


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Ta có thể trả lời câu hỏi của con bằng một chữ giản dị là “Phải”, vì con đã hiểu được ý tưởng cơ bản. Con hiểu được là Đại thượng sư đã sử dụng những từ “sinh ra từ nước”, “sinh ra từ lửa” do ta cũng đã sử dụng 2000 năm trước đây mà con có thể tra cứu trong Kinh thánh. Điều mà ta ám chỉ thời đó, nhưng không thể trình bày một cách đầy đủ, là có hai cách để được tái sinh.

Cách thấp hơn, hoặc giai đoạn đầu tiên trên đường tu, là khi con tái sinh từ cái ngã mà con đã tạo ra – như chúng tôi đã có đề cập – để tự tách mình ra khỏi tâm thức tập thể. Cái ngã này được tạo ra như một sự phản ứng đối với tâm thức tập thể. Và đây là tâm thức mà ta đã ví như nước. Con cũng có thể gọi đó là cõi tình cảm, nhưng ta không xác định đó là cõi tình cảm, mà là tâm thức bình thường nhất của con người, là mức tập thể của tâm thức. Đây cũng chính là mặt nước mà ta đã đi bộ trên đó để chứng tỏ là ta đã vươn lên cao hơn mức tâm thức đó để đạt được tâm thức Ki-tô.     

Vậy thì trước tiên, con buông bỏ ngã đó, và con tái sinh vào một ý niệm bản sắc cao hơn, rồi khi con đi lên tới mức 144, con phải quyết định tái sinh từ lửa, tức là ngọn lửa của thăng thiên. Điều này không có nghĩa là con đã lập tức gỡ bỏ ngã – vì thật ra con đã lần hồi gỡ bỏ ngã này giữa hai mức tâm thức 96 và 144 – nhưng con lấy quyết định là dù con có chút ngã nào còn sót lại, dù con đã đạt được bất kỳ chứng ngộ nào trên đường tu tâm linh, dù con có được sự hiểu biết nào đi chăng nữa, thì con cũng sẵn sàng để cho ngọn lửa thăng thiên gia tốc nó, hầu con đạt tới một mức tâm thức cao hơn nữa.  

Nói cách khác, con có thể bảo rằng thử thách ở mỗi tầng tâm thức từ 96 đến 144 thật sự là liệu con có tin là con đã đạt được một điểm tối hậu nào đó, một mức tâm thức tối hậu nào đó hay chưa, hay là con nhìn nhận rằng có một cái gì đó cao hơn nữa. Điều này cũng liên hệ đến lời dạy của một vài chân sư khác, khi các thày nói rằng con không chấp nhận là con đã tới một mức tối thượng, hay con đã trở thành vô ngã, hay là bây giờ con đã giác ngộ.

Bởi vì khi nào con còn hiện thân trong thể xác, thì luôn luôn có một mức tâm thức cao hơn để đạt được – và đương nhiên là ở cõi thượng thăng cũng có những mức cao hơn, nhưng ở cõi thượng thăng con không cần bị tiêu hủy trong lửa để mà thăng lên. Trên cõi thượng thăng, thật sự không có gì để mà tiêu hủy, mà con chỉ đơn giản bước từ mức tâm thức này lên mức kế tiếp hoàn toàn không cố gắng, bởi vì không có gì cưỡng chống lại sự tăng trưởng của con.

Avatar và những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên

Hỏi: Trong một webinar trước, thày Saint Germain có đề cập đến những cái ngã tách biệt mà các avatar tạo ra trên hành tinh tự nhiên rồi đem xuống địa cầu. Xin các chân sư có thể triển khai hơn về điểm này? Những ngã tách biệt đó xuất xứ từ đâu so với những ngã tách biệt do chấn thương nhập đời tạo ra trên địa cầu? Và làm thế nào con có thể để cho chúng chết đi trên một hành tinh phi tự nhiên khi biết rằng chúng đã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên? Vì hai môi trường khác hẳn nhau như vậy, liệu công việc này có khả thi hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 28/10/2021.

Những cái ngã mà con tạo ra trên địa cầu do chấn thương nhập đời, đã được tạo ra như một phản ứng đối với các điều kiện mà con gặp trên địa cầu bởi các sa nhân, bởi tâm thức sa ngã và tâm thức tập thể của địa cầu, và hiển nhiên tâm thức này thấp hơn rất nhiều so với một hành tinh tự nhiên.

Những cái ngã mà con tạo ra trên một hành tinh tự nhiên không phải là để đáp ứng hay phản ứng lại bất cứ điều gì, và chắc chắn không phải để phản ứng lại những điều kiện nhị nguyên hay thấp kém. Nhưng con cần nhìn nhận là ngay cả trên một hành tinh tự nhiên, làm thế nào con tăng triển được chứ? Làm thế nào con có thể khởi sự với một ý niệm bản sắc nhỏ như cái chấm rồi mở rộng sự nhận biết của con ra? Con làm được vậy bằng cách trước tiên tạo ra một cái ngã dựa trên cái ta – hay cái ý niệm bản sắc – nhỏ như chấm đó, rồi con đồng sáng tạo qua ngã đó cho tới khi con sẵn sàng khuếch trương ngã đó. Đây là tiến trình mà con vẫn tiếp tục làm. Con không ngừng tạo ra những cái ngã, và đó là cách con tự nhìn mình trong quan hệ với môi trường chung quanh. Và cho dù con trưởng thành hơn trong trải nghiệm trên một hành tinh tự nhiên, con vẫn mang những ngã đó.    

Vấn đề đặt ra lúc đó là như sau: Liệu con ở lại trên hành tinh tự nhiên và cố khắc phục ngã ở đó, hay là con quyết định đi đến một hành tinh phi tự nhiên bởi nhiều lý do khác nhau? Trong nhiều trường hợp, điều đã đem con tới một hành tinh phi tự nhiên là vì con đã tạo ra một số ngã nào đó mà con không sẵn sàng hay chưa sẵn lòng buông bỏ. Đó có thể là một cái ngã khiến con cảm thấy mình phải giúp đỡ người khác – khi con chứng kiến người khác bị khổ đau, con muốn giúp họ. Đó cũng có thể là một cái ngã khiến con nghĩ mình có khả năng quyết định những gì sẽ thị hiện hay không được thị hiện trên một hành tinh, và khi con nhìn địa cầu thì con thấy rất nhiều điều mà theo ý con không nên có mặt, cho nên con mới quyết định đến đây để thay đổi chúng đi.

Những ngã này không được tạo ra do con phản ứng lại cái gì cả. Chúng được tạo ra trong khuôn khổ chính tiến trình tăng triển của bản thân con. Có thể nói chúng là một phần của tiến trình tăng triển đó, chúng xuất phát từ cách con tự nhìn mình như thế nào trên một hành tinh tự nhiên khi con trở nên trưởng thành hơn, nhận biết nhiều hơn, có nhiều khả năng đồng sáng tạo những thứ con muốn nhiều hơn. Cho dù những thứ đó được tạo ra trong một môi trường rất khác, nhưng chúng vẫn do con tạo ra trong tâm lý của con, và con đã đem theo tâm lý đó với con đến một hành tinh phi tự nhiên.

Con hoàn toàn có thể khắc phục được chúng tại đây, trên một hành tinh phi tự nhiên. Hơn vậy nữa, có thể nói là con có thể khắc phục chúng dễ dàng hơn ở đây trên một hành tinh phi tự nhiên, vì sự tương phản giữa môi trường ở đây với môi trường trên hành tinh tự nhiên to lớn đến độ nó bó buộc những ngã đó phải biểu lộ ra và nó bó buộc con phải phản ứng lại. Nó bó buộc con phải nhìn thấy chúng, và do đó nó khiến cho việc khắc phục dễ dàng hơn – nếu con sẵn lòng nhìn thay vì gạt bỏ chúng.

Nhưng để đương đầu với những cái ngã được tạo ra trên một hành tinh tự nhiên như thế, trước tiên con cần khắc phục cái ngã gốc [tức ngã nảy sinh từ chấn thương nhập đời trên địa cầu], bởi vì chừng nào con còn bị kẹt trong các khuôn nếp phản động đó, hay bị kẹt trong các vật trên điạ cầu, thì con sẽ không thể nhìn thấy những cái ngã mà con đã đem theo mình đến đây.  

Phật Gautama, giác ngộ và các tầng của tự ngã

Hỏi: Đức Phật kính quý, trong hội thảo trên mạng vừa qua, một trong các chân sư nói rằng khi con người còn có thân xác thì chưa thể thăng thiên được. Vị chân sư cũng nhấn mạnh với chúng con là đừng nên tin bất cứ ai tuyên bố là họ đã thăng thiên. Khi một người còn xác thân vật lý thì người đó vẫn còn tự ngã. Con hiểu lời dạy đó như sau: một người không thể nào đạt được toàn giác hay thăng thiên cho tới khi người đó chết và rời bỏ xác thân vật lý. Tuy thế, trong kinh điển Phật giáo đức Phật đã xác nhận thày đã đạt được toàn giác – anatta, vô ngã – ở tầng thiền cuối cùng là tầng thiền thứ tư, và đây chính là lúc đức Phật đạt được tuệ giác tối hậu. Xin thày vui lòng giảng cho con tại sao đức Phật có thể đạt được giác ngộ khi vẫn còn trong một xác thân vật lý? Và nếu điều này đúng với đức Phật, thì chúng con nên hiểu thế nào giáo lý của các chân sư thăng thiên nói rằng con người vẫn còn tự ngã khi vẫn còn xác thân vật lý?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels. Câu trả lời này được trao truyền trong hội nghị qua mạng năm 2021 – Là Cánh Cửa Mở cho Hành tinh Trái Đất. Đăng ngày 28/10/2021.

Con đang phải đối phó ở đây với vấn đề từ ngữ và cách mọi người dùng từ ngữ và giải thích từ ngữ. Tại hội nghị này, các thày có nói tới sự kiện là sau khi thày thăng thiên như là một vị Phật, những tín đồ của thày bắt đầu tạo ra một tinh thần sùng bái thày. Một số các vị này muốn đưa ra hình ảnh thày là vị đạo sư tâm linh tối hậu chưa từng xuất hiện trên hành tinh này và do đó, ngay từ khi chào đời thày đã là người khác thường và vân vân. Đúng thật là thày đã nói là thày đạt được một tầng nào đó và thày khắc phục được ngã phàm (not-self) và đạt được tuệ giác tối hậu.

Tuy nhiên, đấy là tuệ giác tối hậu mà thày thấy được ở điểm đó. Con cần nhận ra ở đây là khi con tới những tầng cao của con đường tâm linh, con bắt đầu có một số trải nghiệm tâm linh. Nhiều người từ những quá trình khác nhau đã có trải nghiệm tâm linh, ngay cả những người không tỏ lộ rõ ràng bên ngoài họ là người tâm linh. Và khi con có một trải nghiệm tâm linh con cảm thấy nó rất rất là thực đối với con. Và điều này có nghĩa là khi con trở về thân xác vật lý và tâm vỏ ngoài, con rất dễ lý giải cảm nhận thực này là trải nghiệm tối hậu. Đây chắc phải là giác ngộ tối hậu, tuệ giác tối hậu mà con người có thể đạt được. Nhưng ý nghĩa sâu xa giản dị là đây là điều con thấy được ở tầng đó. 

Như các thày đã giải thích trong hội nghị này, thày chưa đạt tầng giác ngộ tối hậu. Sau này thày Padmasambhava đã xuất hiện như một vị chân sư thăng thiên với tầng giác ngộ cao hơn. Và trên cõi thăng thiên có nhiều tầng giác ngộ cao hơn nữa lên suốt tới mức của đấng Sáng tạo.

Bây giờ, có thể có sự hiểu lầm chung quanh ý của con gán cho các từ “tự ngã” (ego) hay “ngã phàm” (not-self). Các thày đã trao cho các con giáo lý là lúc nào cũng còn một yếu tố nào đó của tự ngã (ego) mà các thày gọi là tự ngã hay ngã tách biệt (separate self) cho tới khi con thăng thiên, vì nếu không như thế thì con không thể giữ được thân thể vật lý. Khi thày trở lại từ Niết bàn và ở trong xác thân vật lý và sống tới tuổi 81, và được người đời cho là đã giác ngộ, thì thày vẫn còn đủ tự ngã đó để thày có thể giữ được thân vật lý. Tuy nhiên tự ngã mà thày có khi thày là Phật không phải là cái mà người ngày nay gọi là tự ngã. Tự ngã thời nay là khía cạnh ích kỷ của tâm lý khiến cho con người ích kỷ.

Như thày đã giảng trong bài truyền đọc, thày đã đạt được hợp nhất, thày đã khắc phục được tách biệt, và do đó thày đã khắc phục được ngã phàm. Có thể nói, dựa trên định nghĩa của nhiều người, thày đã không còn tự ngã nữa. Nhưng các thày đã trao truyền cho các con một giáo lý rộng hơn dạy rằng có tự ngã tách biệt tương ứng với mỗi tầng của 144 tầng tâm thức. Mỗi tự ngã dựa trên một ảo tưởng và con chỉ vứt bỏ cái ngã cuối cùng, ảo tưởng cuối cùng khi con sẵn sàng thăng thiên. Điều này đã áp dụng cho thày, cho Giê-su và cho tất cả những người khác đã thăng thiên từ trái đất.

Cho nên con cần cẩn thận đừng quá dính mắc vào từ ngữ và sự diễn giải từ ngữ. Và con cũng nên cẩn thận nhìn lên trên tinh thần sùng bái, bởi vì những giáo lý các thày hiện trao truyền cho các con không dựa trên sùng bái, các thày không phục vụ những người có cái nhìn sùng bái. Trên cơ bản, có thể nói là khi con đạt được khai ngộ ở tầng 96 –  đó là lúc, như các thày đã giảng, con vượt lên trên sự chú tâm vào cái ngã, con không còn tu tập để nâng mình lên như một ngã tách biệt, nhưng con làm việc để nâng cao toàn thể –  thì ở điểm đó, có thể nói là con không còn tự ngã, dựa theo định nghĩa phổ thông nhất về tự ngã trong nhân gian.

Tuy nhiên, tại sao con vẫn chưa thăng thiên ở tầng đó? Bởi vì con vẫn còn muốn trải nghiệm điều gì đó, con muốn hiểu điều gì đó, con muốn giải quyết điều gì đó, và khi làm vậy, con giúp nâng cao tập thể, con tạo ra động lượng trong tập thể khiến mọi người tăng triển dễ dàng hơn.

Trong tổ chức Summit Lighthouse (Ngọn Hải Đăng trên Đỉnh), có giáo lý nói rằng con có thể thăng thiên khi quân bình được 51% nghiệp quả của mình. Các thày đã nhiều lần giải thích là giáo lý này giới hạn, bởi vì con không thể thực sự thăng thiên cho tới khi con hoàn toàn giải quyết tâm lý mình. Nhưng giáo lý này muốn nói rằng con không cần phải trở lại đầu thai nhưng con có thể giải quyết phần còn lại của tâm lý, của nghiệp quả trên cõi bản sắc và thăng thiên từ cõi này. Nói cách khác, con không thăng thiên thẳng sau khi rời bỏ thân vật lý như thày hay Giê-su đã chứng minh, tuy rằng Giê- su có trở lại trong một xác thân vật lý và sống tới tuổi 81.

Có thể nói là khi con tới tầng 97, con đã trút bỏ tự ngã, hiểu theo định nghĩa phổ thông là tự ngã ích kỷ, nhưng con vẫn còn những ngã tách biệt. Đó là lý do tại sao con vẫn còn phải giải quyết thêm một số chuyện, và điều này cho phép con giữ lại thân vật lý, và cũng cho phép con ở lại trên trái đất và con vẫn thấy rằng chuyện sống trên trái đất là quan trọng, con vẫn còn việc phải làm ở đây, con vẫn còn chuyện tốt cần làm ở đây, điều này hoàn toàn chính đáng, vì con có thể kéo tập thể lên. Nếu con thăng thiên ngay ở tầng 97, con cũng sẽ kéo tâm thức tập thể lên, nhưng con sẽ không đi qua từng bước giải quyết tâm lý ở mức cao nhất trong thân vật lý và do đó con không phụng sự được ở mức tối đa có thể làm được trên trái đất.

Thay đổi tâm thức xảy ra như thế nào?

Hỏi: Nếu chúng ta đọc các tài liệu về trải nghiệm cận tử (near-death experience), những ai có trải nghiệm cận tử thường kể lại: “Khi tôi rời xác thân của tôi, tầm nhìn của tôi được mở rộng ra tứ phía, tôi có thể đi tới bất cứ nơi đâu tôi muốn và quan sát bất cứ chuyện gì mà tôi tò mò muốn biết. Hơn nữa, tôi có thể nhận được mọi kiến thức về bất cứ vấn đề nào, qua thần giao cách cảm, ngay cả về các vấn đề vũ trụ hay nguyên lý sự sống.” Và chúng ta có thể thấy được là sau một trải nghiệm cận tử, những người đó thường thay đổi cái nhìn cuả họ về cuộc sống và họ nâng cao tâm thức.

Tương tự như vậy, sau khi chết, chúng ta cũng học hỏi được nhiều chuyện mà không bị giới hạn trong cơ thể của mình cho đến khi mình tái đầu thai. Đặc biệt trong thời gian này, chúng ta có thể nhận ra là rất nhiều điều mình làm đều dựa trên ảo tưởng. Thế nhưng khi tái đầu thai trong kiếp mới, chúng ta lại lặp lại y những khuôn mẫu cũ rất nhiều lần. Tại sao sự hiểu biết học được trước khi tái đầu thai không được giữ lại trong cỗ xe linh hồn hầu chúng ta sử dụng trong kiếp kế tiếp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần thận trọng một chút trong cách con đánh giá các trải nghiệm cận tử. Hiện tượng trải nghiệm cận tử là một hiện tượng vô cùng sáng giá đã giúp cho nhiều người đạt được một cái nhìn và một thái độ tâm linh hơn về cuộc sống. Nhưng con cũng cần nhận ra là không phải tất cả những gì được trải nghiệm trong trải nghiệm cận tử đều áp dụng cho mọi người.

Rất, rất nhiều người biết đến trải nghiệm cận tử rồi thắc mắc tại sao mình lại cũng không trải nghiệm như vậy trong lúc thực hành tu tập tâm linh. Có những người đã từng có trải nghiệm cận tử mà lại không có những chiêm nghiệm tâm linh sâu xa như vậy, thì họ cũng tự hỏi tại sao. Con cần nhận ra rằng trong số những người có những trải nghiệm cận tử vô cùng sâu sắc, một số đã đạt đến một mức tâm thức khá cao rồi. Có thể họ không luôn luôn ý thức được chuyện đó, nhưng họ đã chứng đạt được mức này trong tiền kiếp của họ.

Điều này có nghĩa là họ không còn gắn bó nhiều với cơ thể vật lý nữa. Đó là tại sao họ đã rời được thân xác một cách dễ dàng mà vẫn giữ nguyên ý thức. Nhưng nhiều người khác sẽ cảm thấy việc rời thân xác khó khăn hơn gấp bội, dù là họ đang trong tình trạng bị đánh mê, hay trong khi ngủ, hay khi cơ thể đã thực sự chết. Đối với nhiều người, việc rời xác thân sẽ mất nhiều thời giờ hơn. Và đối với nhiều người, ngay cả sau khi họ rời thân xác, họ cũng sẽ chỉ đến được một cảnh giới phù hợp với trình độ tâm thức của họ mà thôi. Chỉ có một số ít có khả năng rời xa hẳn xác thân đến độ họ có được những trải nghiệm sâu xa nói trên.

Bây giờ, về câu hỏi là con học được gì khi con ở ngoài xác thân vật lý giữa hai kiếp đầu thai. Trước hết, khi con ở ngoài xác thân giữa hai kiếp đầu thai, con không ở ngoài bốn thể phàm của con. Con không còn trong xác thân vật lý nữa, nhưng con vẫn còn trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Đúng là có thể có những giai đoạn con có khả năng tách ra khỏi cả những thể đó, du hành tới cảnh giới khác và chiêm nghiệm ở đó. Nhưng khi con phải trở về chuẩn bị cho cuộc đầu thai tới của con và thảo ra sứ vụ thiêng liêng cho môi trường mới này, thì con sẽ phần lớn ở trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc, bởi vì kiếp đầu thai tới được hoạch định chính là để con khắc phục những vết thương, những ngã tách biệt, những chấn thương mà con mang trong các thể này.

Công việc khắc phục này không thể làm được, ít ra là không phải toàn bộ, trong thời gian con ở giữa hai kiếp đầu thai. Có những việc mà con phải làm, mà con phải khắc phục, khi con hiện thân trong cõi vật lý. Con đang học hỏi một số bài học cao hơn mức tâm thức của mình, nhưng không quá cao so với các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con. Khi con tái đầu thai, con quên mất những gì con học được khi con ở ngoài thân xác chính là vì việc khám phá những điều đó là một phần trong tiến trình học hỏi của con.

Trong số nhiều người tâm linh, có một sự hiểu lầm rất phổ biến trong cộng đồng Thời Mới. Nhiều người hiểu lầm rằng mục đích của phát triển tâm linh là để đạt được một mức tâm thức tối hậu nào đó. Con muốn gọi đó là sự giác ngộ hay là bất kỳ tên nào khác thì điều này không quan trọng lắm. Có một mục đích cần đạt được, và những người này cho rằng chỉ có vấn đề làm thế nào đạt được mục đích đó càng nhanh càng tốt. Và họ nghĩ: “Vậy tại sao các chân sư không chỉ giúp tôi khắc phục mọi vấn đề của tôi hầu tôi không phải trở lại đầu thai lần nữa?” Nhưng nghĩ vậy không đúng. Mục đích không phải là đạt được trạng thái thượng thăng càng nhanh càng tốt. Như các chân sư đã có giải thích, mục đích cuộc sống không phải là để đến đây đầu thai, tạo ra nghiệp, cân bằng nghiệp, rồi đi nơi khác. Muc đích là biến đổi tâm thức.     

Điều khiến cho nhiều người bị bối rối là sự biến đổi tâm thức xảy ra ở mức của Hiện diện TA LÀ, và nó cho Hiện diện cuả con những kinh nghiệm được cất giữ trong căn thể. Nhưng những kinh nghiệm này dựa trên những gì cái Ta Biết trải nghiệm được khi con đang đầu thai. Vấn đề ở đây không đơn giản là chuyện khắc phục một số vấn đề càng nhanh càng tốt, mà là con đi qua tiến trình gỡ bỏ một cách ý thức những chọn lựa mà con đã làm trong quá khứ. Và chỉ khi nào cái Ta Biết gỡ bỏ một chọn lựa mà cái Ta Biết đã làm trong quá khứ – khi nó còn ở một mức tâm thức thấp hơn – thì kinh nghiệm của Hiện diện TA LÀ mới đem đến sự tăng trưởng ở mức đó.

Thật là sẽ chẳng ích lợi gì nếu con được các chân sư thăng thiên giúp cho con đạt tới giải thoát trong vòng 5 phút. Con đã bỏ ra cả một thời gian, qua những chọn lựa tự quyết của con, để bước vào cung mê của chiếc máy giả thực tại này. Điều này hoàn toàn tốt thôi, vì đây là một phần của giai đọan trầm mình đã được con trù định từ trước. Nhưng khi tới giai đoạn thức tỉnh thì con phải đi trở ngược lại và giải hóa những chọn lựa đó. Và bằng cách làm điều này từng bước một, mỗi bước giải quyết một chuyện, thì con mới tăng trưởng được. Mà mục đích của Hiện diện TA LÀ của con khi nó gửi cái Ta Biết xuống thế gian là gì? Chính là để tăng trưởng. Nó không chỉ đơn giản xuống đây rồi bỏ đi cho thật lẹ. Mục đích của nó là để có càng nhiều kinh nghiệm càng tốt, càng nhiều tăng trưởng càng tốt, qua việc sinh sống trong một bầu cõi chưa thăng thiên hay một hành tinh phi tự nhiên.   

Cái Ta Biết kinh nghiệm thực tại như thế nào

Hỏi: Liệu cái Ta Biết của chúng ta có nhìn thấy, cảm thấy và suy nghĩ mà không cần có cơ thể, cảm thể và trí thể?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 22/10/2021.

Câu trả lời ngắn gọn là “Không”. Nhưng dĩ nhiên, trả lời như vậy thì không đủ. Khi con bảo “nhìn thấy, cảm thấy, suy nghĩ” thì con thực sự muốn nói gì? Nếu con nói đến sự nhìn thấy, cảm thấy và suy nghĩ mà một người bình thường gọi là như vậy, thì các hoạt động này gắn liền với cơ thể vật lý, cảm thể và trí thể. Con không thể kinh nghiệm, cái Ta Biết không thể kinh nghiệm, tình cảm con người mà không đi qua trung gian cảm thể, bởi vì đó là nơi tình cảm con người trú ngụ. Con không thể suy nghĩ những ý tưởng bình thường của con người mà không đi qua trí thể, vì đó là nơi ý tưởng trú ngụ trong bản thể của con. Và dĩ nhiên, con không thể có trải nghiệm vật lý mà không đi qua cơ thể vật lý.

Tuy nhiên như chúng tôi đã giải thích, cái Ta Biết có khả năng đi ra ngoài cơ thể vật lý hay bốn thể phàm. Có những người đã mở mang khả năng du hành – mà người ta gọi là xuất hồn – ví dụ họ tới được những nơi chốn khác và có trải nghiệm ở đấy mà không qua trung gian bốn thể phàm. Và tất nhiên là cũng có những cảm nhận khác mà con có thể chiêm nghiệm. Con có thể chiêm nghiệm cõi tâm linh, và điều này thì không qua trung gian bốn thể phàm. Hoặc ít ra, nó có thể xảy ra qua tầng cao của bản sắc thể, nhưng không qua trí thể, cảm thể hay cơ thể vật lý. Nhưng chiêm nghiệm này không thật là cái mà con thường gọi là suy nghĩ, cảm thấy, nhìn thấy và trải nghiệm vật lý.     

Các đạo sư nổi tiếng và tâm thức tập thể

Hỏi: Tại Hàn quốc có một số vị đạo sư độc lập nổi tiếng. Họ chỉ giảng dạy giáo lý tối thượng của họ về giác ngộ – tội lỗi – cho những ai quan tâm đến cách giải thích ngắn gọn của họ về tội lỗi mà không nhắc gì đến các chân sư thăng thiên, các sa nhân hay cả sự tái đầu thai của linh hồn con người. Là học trò của chân sư thăng thiên, đâu là quan điểm hay nhất và mối quan hệ tốt nhất với họ trong thời hoàng kim? Liệu chúng con xem họ là thày giả hay đạo sư chưa chứng đạt hay gì khác? Con mong được nghe ý kiến của thày Saint Germain về vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cửa mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Ta không thể cho con một câu trả lời tổng quát vì vấn đề này rất cá nhân: Đâu là vai trò của con, điều gì được thảo vào Sứ vụ Thiêng liêng của con? Điều ta có thể nói một cách chung chung là bất kỳ vị đạo sư nào có được một số tín đồ hay một tiếng tăm nào đó tại một quốc gia là vì vị đó đã tìm ra cách thu hút một điều gì trong tâm thức tập thể. Nói cách khác, một số người tại nước đó cần đến trải nghiệm đặc thù đó để có thể học hỏi bài học của họ, và may ra họ sẽ phát triển được khả năng phân biện sẽ dẫn đến một dạng đạo sư cao hơn.

Có rất nhiều người – và con sẽ tìm thấy họ không những tại Hàn quốc mà khắp mọi nơi – xem sự phát triển tâm linh như một phương cách để cất mình lên cao. Nói cách khác, họ chỉ tập trung vào chính họ, họ tự nhấc mình lên một mức tâm thức cao hơn hầu họ có thể hoặc cảm thấy mình trội hơn mọi người, hoặc họ đứng ra đằng trước và chứng tỏ tính ưu việt của mình hầu ai nấy phải kính trọng, hay thậm chí đi theo hay tôn thờ mình.

Có một nhóm người bị hấp dẫn bởi loại đạo sư này, là các đạo sư với những lời tuyên bố trau chuốt về trình độ tâm thức của mình hay mức hiểu biết cao cấp của mình. Đơn giản là các tín đồ đó cần đến trải nghiệm đó trong một thời gian trước khi may ra họ sẽ chán chê để vươn lên một mức phân biện cao hơn và nhận ra loại đạo sư nào có khả năng đưa họ lên một trạng thái tâm thức cao hơn, hay loại đạo sư sẽ giữ họ kẹt lại trong ngõ cụt tâm linh nơi họ có thể cảm thấy mình cao trội nhưng không thật sự tinh tấn.     

Là một học trò của chân sư thăng thiên, con có thể hỏi: “À cái đó là gì đối với con?” Hầu hết các con có thể an toàn mà bỏ qua những loại đạo sư này. Nhưng nếu con có liên hệ với những người đi theo một đạo sư như vậy hoặc nếu chính con đã từng đi theo, thì có thể việc tìm cách giúp họ nhìn thấy nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Nhưng trong đa số trường hợp, con sẽ không giúp được gì bằng cách chạm trán với loại đạo sư đó, mà trái lại con có thể giúp cá nhân từng người bước lên một tầm hiểu cao hơn về loại thày tâm linh mà họ thật muốn. Và con có thể giúp họ nhìn ra là nếu có ai tìm cách thổi phồng tư cách, sự chứng đạt hay sự cao trội của mình, thì người đó đã không thực sự đạt đến một tầng tâm thức cao lắm.

Bởi vì khi con đạt đến các tầng cao hơn trên đường tu tâm linh, con buông bỏ ngã tách biệt và con không tìm cách nhấc mình lên cao. Con tìm cách nâng người khác lên cao. Con tìm cách nâng toàn thể lên cao. Con tìm cách giúp đỡ người khác.

Một lần nữa, đây là một vấn đề cá nhân, tùy cá nhân con cảm thấy thế nào. Nhưng ta khuyến khích con không nên dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình phải làm gì, mà chỉ đơn giản tập trung vào việc nâng cao tâm thức của mình, rồi để yên cho trực giác thúc giục con từ bên trong. Nó có thể sẽ gợi ý con nên làm gì và làm cách nào.

Dùng trí năng để hiểu các khái niệm tâm linh xưa

Hỏi: Con xin được hỏi thày Gautama. Khi thày hiện thân trên trái đất, thày đã dạy các đệ tử về Niết bàn và các bậc A la hán. Các lời dạy thuở đó đưa ra khái niệm thế nào? Và có thật là thày đã dạy Vipassana và sự tĩnh lặng như một pháp tu của đạo Phật dẫn đến Niết bàn hay chăng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Đúng là ta đã dạy nhiều giáo lý khác nhau. Một số đã trở thành Vipassana hay các giáo lý tâm linh khác hay các phép tu của Phật giáo. Tất nhiên ta cũng đã dạy về các khái niệm Niết bàn, giác ngộ cùng những khái niệm khác. Điều quan trọng con cần hiểu ở đây là câu hỏi con vừa đặt ra được hỏi từ tầng cấp lý trí. Con đang tìm cách dùng trí năng để cố hiểu người ta trải nghiệm các khái niệm đó như thế nào 2500 năm về trước.

Trước hết, điều này không thể làm được vì tâm thức tập thể trên địa cầu đã được nâng cao trong suốt 2500 năm đó. Không có cách nào con có thể thực sự nắm bắt mà dựa trên trải nghiệm con đang có ngày hôm nay, con không thể nắm bắt bằng trí thức cách con người thời đó nhìn các khái niệm này như thế nào.

Nhưng hơn nữa vào thời đó, con người không hiểu khái niệm một cách trí thức. Họ trải nghiệm. Con cũng có tiềm năng trải nghiệm như vậy, nhưng điều này hầu như không thể vì tâm thức tập thể đã tiến bước rồi. Con không thể thực sự lĩnh hội cách người ta nhìn cuộc đời như thế nào vào thời đó.

Nhưng con muốn trải nghiệm chuyện đó để làm gì chứ? Thực tế là con người vào thời đó rất ít trí thức như bây giờ. Điều này không nhất thiết là một điều tích cực nhưng nó cũng có một vài khía cạnh tích cực, theo nghĩa họ là những sinh thể sống bằng trải nghiệm, cho nên họ có thể trải nghiệm một giáo lý hay một pháp tu dễ dàng hơn, họ không mang vào lớp phủ của lý trí – một lớp phủ mà quá nhiều người trong thế giới hiện đại, đặc biệt là tại phương Tây, khoác vào.

Thật sự điều quan trọng cho con trong thời đại này là con không nên cố gắng dùng trí năng để hiểu các lời dạy, cho dù đó là lời dạy của đạo Phật mà ta đã ban ra thuở đó hay là lời dạy của các chân sư thăng thiên ngày hôm nay. Mà con tìm cách trải nghiệm thực tại sâu xa đằng sau lời dạy.

Điều này không có nghĩa là con không sử dụng tâm suy luận để xây dựng một hiểu biết nào đó về đường tu tâm linh cũng như về vũ trụ, nhưng nếu đó là tất cả những gì con rút tỉa được từ lời dạy thì con đã không hoàn thành được tiềm năng đầy đủ của lời dạy.

Trò chơi “Bị chỉ trích và tự bào chữa”

Hỏi: Con thường hay gặp những người chuyên môn đi chỉ trích người khác thay vì chỉ dẫn người khác. Hồi này, con không còn phản ứng như thế nữa và con cố giơ má kia ra, vì con biết lối tranh cãi đó thật là vô nghĩa, và ở một mức độ nào đó, con biết người khác cũng chính là ánh phản chiếu của con. Nhưng trong những tình huống như thế, con vẫn nhận thấy là con còn chút tức giận và căng thẳng ở bên trong. Mặc dù con đã đương đầu với những hoàn cảnh này khá hơn xưa, con vẫn còn giận dữ và căng thẳng. Làm thế nào con có thể thanh lọc cơn giận và sự căng thẳng đã dồn nén? Và làm thế nào con có thể thoát ra khỏi tình trạng bị chỉ trích?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Trên một hành tinh như trái đất, con không thể tránh được tình trạng bị người khác chỉ trích. Có thể con chưa gặp ai chỉ trích con trong kiếp này, nhưng chắc chắn con đã gặp trong tiền kiếp. Con cần suy ngẫm sự kiện là tất cả mọi người đều gặp phải vấn đề mình bị chỉ trích. Trong quá khứ, con đã tạo ra một số ngã tách biệt để đương đầu với nó, cho nên cách thực tiễn duy nhất là con phải phơi bày những cái ngã này ra bằng cách sử dụng những dụng cụ của các chân sư, rồi để cho ngã chết đi.

Ở đây con cần nhận ra rằng sự chỉ trích là một trạng thái của tâm. Các chân sư đã nhắc đi nhắc lại điều gì? Rằng cái trí phân tích luôn luôn có thể tìm được một lập luận để hỗ trợ cho bất kỳ quan điểm nào mà nó muốn chứng minh. Nếu ai đó mang thái độ muốn chỉ trích con, họ sẽ luôn luôn tìm được một điều gì đó để chỉ trích cho dù con có làm gì hay nói gì. Cho dù sự chỉ trích của họ có căn bản hay không, họ cũng sẽ tìm ra một lý do chỉ trích hữu lý dưới mắt của họ.

Con cần nhìn rõ trong tâm con rằng nếu người ta chỉ trích, đó là vì họ đang ở trong thái độ, cái tâm trạng chỉ trích đó. Không ích gì mà con tranh luận với họ, bởi vì con không thể thuyết phục họ là họ sai và con đúng. Và đây không phải là vấn đề đúng hay sai. Bất kỳ tâm thức nào cũng có một đối cực. Và đối cực của tâm thức chỉ trích là tâm thức tự biện hộ, thường là bằng cách chứng minh là người kia sai.  

Rất nhiều người tâm linh không phải là loại người hay xông ra ngoài và hung hãn, và con không nhất thiết sẽ muốn đi chỉ trích người khác. Nhưng khi có ai đó chỉ trích con, con sẽ chui ngay vào trong cái thái độ muốn chứng minh là người đó sai. Khi làm như vậy, con đã cho phép con bị lôi kéo vào trò chơi nhị nguyên. Con cần lấy một quyết định ý thức rằng con sẽ không cho phép con làm điều đó nữa, rằng con sẽ phơi bày những cái ngã tách biệt đằng sau cách phản ứng như vậy, và con nhất quyết rằng: “Tôi sẽ không tìm cách thuyết phục người kia là họ sai hoặc tôi không phải là con người xấu xa mà họ bảo. Tôi sẽ chỉ giản dị để cho ngã tách biệt chết đi, hầu người kia không có ảnh hưởng gì trên tôi, và họ không thể cưỡng ép tôi phản ứng lại.”  

Chỉ khi nào con không còn có phản ứng nào khi mình bị chỉ trích thì con mới thực sự tự do khỏi tâm thức đó. Con hãy xem đó là một cơ hội để tự giải thoát và đạt được một cột mốc vô cùng quan trọng trên đường tu tâm linh. Thật là con không thể biểu thị hay dám thể hiện được quả vị Ki-tô của con trừ khi con đã vượt qua toàn bộ cái vũng lầy của sự chỉ trích và sự tự bào chữa, hoặc nhu cầu muốn chứng minh là người khác sai. Nguyên thái độ này phải ra đi. Con cần phải thăng vượt nó, buông nó ra để nó không thể chạm được vào con. Khi đó, con mới bắt đầu thể hiện được quả vị Ki-tô của con một cách tự do, không còn sợ hãi và cũng không còn giận dữ khi bị chỉ trích.    

Làm thế nào phân biện giữa tự ngã và lời gợi nhắc của trực giác

Hỏi: Do con bước đi trên đường tu tâm linh, con cảm thấy hơi bối rối trong tâm con. Con bối rối vì con không phân biện được tiếng nói ồn ào của tự ngã với giọng nói nhỏ nhẹ của tánh linh. Có lẽ chăng là con có thái độ sai lầm đối với đường tu? Để giảm bớt bối rối này, liệu con sẽ phải giải quyết bao nhiêu vấn đề tâm lý, sẽ phải có được bao nhiêu trải nghiệm trong tim về các chân sư thăng thiên?  


Trả lời của châng sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là Cánh cửa Mở cho Hành tinh Địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Vấn đề mà con mô tả có thể coi là khiá cạnh trung tâm của đường tu ở một tầng cấp nào đó. Cho tới khi con vươn lên cao hơn một mức tâm thức nào đó nơi trực giác của con rõ ràng hơn, con sẽ luôn luôn gặp thử thách làm thế nào phân biện giữa tự ngã cùng các ngã tách biệt, với những lời gợi nhắc trực giác đến từ cái ta cao hơn của con, từ Hiện diện TA LÀ hay từ các chân sư thăng thiên. Đó sẽ là một thách đố cho bất cứ ai.   

Điều con cần làm là sử dụng các dụng cụ mà các chân sư đã ban ra, và trong một trường hợp như của con, ta khuyên con nắm lấy những cuốn sách trong bộ “Con đường Tự điều ngự”, khởi đầu với sách của Đại thượng sư Maha Chohan, rồi bước lên từng cuốn một qua bảy tầng Thượng sư, và con đi qua toàn bộ tiến trình học tập những cuốn sách này. 

Sau đó nếu con vẫn còn cảm thấy mình chưa đạt được sự minh mẫn mong muốn, con hãy học tiếp những cuốn sách kia, “Chữa lành Chấn thương Tâm lý” cùng những cuốn khác* sẽ giúp con khắc phục ngã tách biệt.

[* Bộ sách này gồm có:

  • Healing Your Spiritual Traumas (Chữa lành Chấn thương Tâm lý)
  • Fulfilling Your Divine Plan (Hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng)
  • Fulfilling Your Highest Spiritual Potential (Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh Cao nhất)
  • Making Peace with Being on Earth (Làm hòa với việc Có mặt trên Địa cầu)]

Đau nhức cơ bắp sau khi đọc chú

Hỏi: Con bắt đầu đọc các bài chú 1.02 và 7.07 buổi sáng và 4.01 và 7.07, hay 7.02 buổi tối trong khoảng hai tháng. Gần đây con bị đau nhức rất nhiều cơ bắp sâu ở cổ, lưng và cánh tay. Đau nhức này có liên quan tới việc đọc chú chăng?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Khóa học trực tuyến năm 2021 – Tiến tới mối quan hệ của thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

À, nhìn theo một góc độ nào đó, đau nhức cơ bắp không trực tiếp liên quan gì tới việc đọc chú. Các bài chú không tạo nên đau nhức thân thể hay khó chịu trong thân thể. Nhưng con có thể chú ý để nhận biết hay con có thể tìm hiểu xem con có đọc chú trong một sự căng thẳng nào đó khiến con căng một số cơ bắp. Một số người có thể thấy hay trải nghiệm là đôi khi họ đọc chú, họ căng cơ bắp, hay họ ngồi trong một tư thế căng cơ bắp và điều này có thể khiến họ bị đau nhức.

Cũng có những lúc các bài chú bắt đầu giải tỏa điều gì đó trong ba thể phàm cao của con và điều này đi xuống thể vật lý của con cho nên con bị đau nhức hay khó chịu tạm thời. Nhưng đau nhức không thể nghiêm trọng hay không thể kéo dài được. Sau đó con cần có những biện pháp thích ứng như đi gặp bác sĩ hay con ngừng đọc chú hay con đừng đọc nhiều bài chú để con không nhận nhiều giải tỏa ở mức mà thân thể con không chịu được.

Nên nói hay không nên nói?

Hỏi: Đôi khi con cảm thấy như có một sự thôi thúc muốn nói hay muốn hỏi một điều gì đó, và sự thôi thúc này chỉ biến mất sau khi con nói ra. Có thể nào điều đó đến từ Hiện diện TA LÀ của con? Hay có nhiều xác suất hơn là nó đến từ một ngã tách biệt? Làm thế nào con có thể phân biệt nó đến từ đâu?   


Trả lời từ chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Bước tới Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 11/10/2021.

Con cần nhìn vào cái cảm giác tinh tế hơn ở đằng sau. Đôi khi con có thể nhận diện là gần như có một sự ép buộc muốn nói một điều gì đó. Gần như là con cảm thấy mình bắt buộc phải nói điều này. Thậm chí cũng có thể có một lời giải thích tại sao con phải nói ra điều đó. Trong trường hợp này, nó đến từ một ngã tách biệt.

Khi nó đến từ Hiện diện TA LÀ của con, con không hề có sự cưỡng bách, không hề có lý lẽ hay lập luận. Con có thể học cách nhận diện là khi đó, chỉ có một cảm nhận nội tâm, gần như là một sự an bình, hay bình thản, hay nhận biết nhạy cảm. Và một cái gì đó tự dưng nảy lên, gần như là con nhìn thấy một bọt nước dâng lên từ vùng sâu và hiện ra trên mặt nước, và nó xuất hiện trong tâm ý thức của con. Và con có thể học cách tới được điểm là mỗi khi điều này xảy ra, con tự nhiên phát biểu nó ra. Con không tranh cãi, lập luận, suy nghĩ hay lý luận, “Tôi có nên nói hay không nên nói?” Con chỉ nói nó ra mà thôi. Con chỉ diễn tả, thể hiện nó ra. Chứ nếu con cân nhắc là mình có nên nói hay không, thì con học được là con không nói, vì con biết nó đến từ một ngã tách biệt.    

Thiền tỉnh giác thuần khiết so với hòa điệu với chân sư

Hỏi: Liệu các chân sư thăng thiên có xem thiền quán, đặc biệt là thiền tỉnh giác thuần khiết, có là một dụng cụ hữu hiệu để hoà điệu với Hiện diện TA LÀ và các chân sư hay không? Liệu môt hành giả chưa quen với giáo lý của chân sư và cũng chưa quen với thiền quán, khởi sự học thiền như một phương tiện hòa điệu? Liệu một hành giả đã có kinh nghiệm thiền quán sử dụng thiền quán như một phương tiện hòa điệu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 20/6/2021.

Có rất nhiều hình thức thiền quán khác nhau. Có một số pháp thiền nhằm mục đích cho con một sự tỉnh thức mà con có thể gọi là trần truồng, hay tỉnh thức thuần khiết. Con đi vào một trạng thái của tâm mà chúng tôi đã có mô tả là cái Ta Biết bước ra ngoài phin lọc nhận thức bình thường của nó và chỉ trải nghiệm chính nó là sự tỉnh thức thuần khiết. Đây là một phương tiện hữu ích cho hầu hết mọi người. Có một số người không nên sử dụng vì họ chưa sẵn sàng, nhưng đối với nhiều người, đó có thể là một dụng cụ hữu ích.    

Khi nói vậy, ta không muốn nói là mọi học trò của chân sư đều phải tu tập cách này. Tuy nhiên theo như dụng ý của câu hỏi được đề ra, ta không cho là cách thiền này thích hợp cho sự hòa điệu. Mục đích của cách thiền này là để giúp con kinh nghiệm được sự tỉnh giác thanh tịnh, tỉnh giác trần truồng, tỉnh giác không có ý tưởng, không có bất kỳ cấu trúc nào. Điều này hữu ích ở chỗ con nhận ra là có một trạng thái khác hơn là trạng thái nhận biết bình thường của mình chứa đầy những ý tưởng, cảm xúc và cấu trúc. 

Nhưng để hòa điệu với chân sư thăng thiên, con không cần tỉnh giác thuần khiết, tỉnh giác trống không, mà con cần hòa điệu với rung động của chân sư. Và để làm vậy, ta khuyên con nên dùng các bài chú, bài thỉnh, đặc biệt là những người mới tu.

Con thường nhận thấy là nhiều người mới học giáo lý cần trải qua một giai đoạn để họ thiết lập sự bảo vệ tâm linh, biến đổi các năng lượng thiếu hài hòa trong bốn thể phàm của họ, và họ cầu thỉnh Astrea để cắt đứt mọi sợi dây ràng buộc với tâm thức tập thể hay các sinh thể thấp kém. Trong giai đoạn đó, việc hòa điệu có thể khó khăn, và việc chiêm nghiệm tỉnh giác thanh tịnh cũng có thể khó khăn. 

Nhưng nếu con vượt qua được giai đoạn này, con vẫn có thể sử dụng các bài thỉnh và bài chú. Chỉ thỉnh thoảng, con hãy tĩnh lặng. Con hãy ngồi đó và giữ cho tâm trí mình mở rộng, trung dung. Điều này không có nghĩa là con không có bất cứ ý tưởng nào, và chắc chắn con không cần phải cố sức kìm nén tư tưởng lại, mà con chỉ làm thế nào ở trong một trạng thái mở rộng, trung dung nhất. Sau khi con đọc xong bài chú, sau khi con nghe xong một bài truyền đọc, con chỉ cần dành ra một vài phút để ngồi đó và hòa điệu với sự hiện diện của chân sư. 

Tất nhiên, con cũng có thể dành hẳn ra một tuần cửu nhật để cầu nguyện. Chúng tôi có tuần cửu nhật cho vị Đại Chỉ đạo Thiêng liêng, và con đọc chú cho vị ấy mỗi ngày chín lần, và sau khi đọc chú, con có một quyển sổ để con ghi chép lại bất cứ ý tưởng nào hiện ra trong con mà không phê phán hay phân tích. Con cũng có thể làm điều tương tự với bất cứ vị chân sư nào có bài chú. Nếu con thích hơn, con thể làm điều đó sau khi nghe một bài truyền đọc, con thực tập với một cây bút với một quyển sổ tay, và con ghi xuống bất cứ ý nghĩ nào đến với con, không phán xét và không phân tích.

Quyết định với tâm vỏ ngoài hay được nhắc bởi trực giác

Hỏi: Con mong muốn phụng sự các chân sư thăng thiên. Hiện nay con đang giúp một nhóm người không nói tiếng Anh theo học giáo lý của các chân sư. Chúng con đến từ nhiều quốc gia và gặp nhau trực tuyến. Các thày có nghĩ là con nên mở rộng dịch vụ và gia nhập, hoặc gặp tận mặt, những nhóm học bằng Anh ngữ trong thành phố của con, hay một nhóm trực tuyến bằng Anh ngũ gồm người từ nhiều thành phố tại nước con? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 20/6/2021.

Nói chung, chúng tôi không bình luận về loại câu hỏi này vì chúng tôi không muốn nói riêng cho cá nhân con những gì con cần làm. Điều này phải đến từ bên trong và con có khả năng đạt được câu trả lời từ bên trong. Cho tới khi nào con cảm thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ từ nội tâm thì con hãy cứ tiếp tục những gì mình đang làm. Rồi con sử dụng trực giác để nhìn thấy đường đi. Đừng bước vào tâm vỏ ngoài và dùng tâm vỏ ngoài để tự ép mình mà bảo rằng đây là điều mình nên làm.     

Một điều chúng tôi thường thấy là có những học trò tìm được giáo lý, vô cùng tha thiết làm điều gì đó ích lợi cho địa cầu. Mong muốn này đặc biệt mạnh mẽ nơi các avatar, nhưng ngay cả một số dân cư nguyên thủy của địa cầu cũng có mong muốn đó. Các con tìm được giáo lý xong các con như thể bị choáng ngợp trong sự nhiệt tình, và các con dùng tâm vỏ ngoài để quyết định là tôi phải làm điều này, tôi phải làm điều kia.

Nhưng điều chúng tôi luôn khuyên nhủ là các con hãy sử dụng giáo lý để nhìn vào tâm lý mình, làm việc trên tâm lý mình, phát hiện những cái ngã đang chặn đường mình. Rồi con hãy sử dụng trực giác để quyết định – đúng hơn, không quyết định – mà chỉ đơn giản xuôi theo bất cứ gì đến với con từ bên trong, hầu con không có định kiến là con phải làm gì và con không tự ép mình làm như thế. Con hãy bỏ ra thời gian, dù là hàng năm trời, để bước vào bên trong nội tâm hầu tăng cường trực giác, giải quyết tâm lý của mình. Rồi khi mọi chuyện đến với con từ bên trong một cách tự nhiên, không cố gắng, con hãy theo đó mà hành động.   

Chấn thương nhập đời và cách tiếp cận trái đất

Hỏi: Con đã đi trên đường tu tâm linh một thời gian dài, và con hoàn toàn hiểu và chấp nhận khái niệm tự quyết cũng như những ngã tách biệt phản ứng. Nhưng con vẫn cảm thấy hoàn toàn yếu đuối trước những năng lượng và sự hung hãn của người khác. Cho dù con không chấp nhận những lời họ nói và những điều họ làm với con, con vẫn không thể thoát khỏi sự tấn công của họ. Nó giống như thể con đứng trước mặt họ hoàn toàn trần trụi và con không thể chống cự lại sự tấn công, con không thể tự vệ. Mặc dù con có một tâm thức khá phát triển, điều này không giúp ích cho con. Con vẫn cảm thấy nhiều đau đớn trong hầu hết mọi tương tác với thế gian. Con tương tác một cách rất tích cực và cố gắng biểu hiện tâm Ki-tô của mình, con cố tự biểu đạt trong tình thương, ánh sáng và tinh thần cống hiến. Con vẫn không thể thích nghi được với cách người ta hành xử và phản ứng hung hãn, cách người ta chối bỏ con, từ chối tình thương của con. Mặc dù con thông cảm, đó vẫn luôn luôn là một chấn động và một nỗi đau nhói. Xin thày chỉ cho con thấy những gì có thể con chưa thấy, những cái ngã nào có thể đang có mặt, và con có thể làm gì để tự giải thoát khỏi tính nhảy cảm và dễ tổn thương thái quá này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Con yêu dấu, những gì con mô tả là trải nghiệm mà hầu hết mọi avatar đến địa cầu đều trải nghiệm. Con đến đây với ý định giúp đỡ người khác. Con làm vậy do lòng yêu thương và ý muốn giải thoát họ. Thế rồi khi con cố bày tỏ hay giải thích cho họ thấy làm cách nào họ có thể tự do, thì hoặc họ làm ngơ, hoặc trong nhiều trường hợp họ chối bỏ con một cách hung hãn, họ muốn mạt sát con, bịt miệng con, chứng minh là con sai, hay thậm chí họ tấn công thể xác của con.

Đây là một trải nghiệm mà tất cả chúng ta đã đến đây như một avatar đều kinh qua, tức là ở một thời điểm, chúng ta phải chạm trán với cú sốc là mặc dù chúng ta ở đây để giúp mọi người nhưng người ta lại không muốn chúng ta trợ giúp, họ chối bỏ và tìm cách bịt miệng chúng ta rất hung hãn. Đối với hầu hết mọi người, đây là kinh nghiệm đã tạo ra cái mà các chân sư gọi là chấn thương nhập đời – chấn thương lớn đầu tiên mà con hứng chịu sau khi đến trái đất. Nó có thể mang những hình thức khác nhau đối với mỗi người, nhưng luôn luôn có sự chấn động khi con đến trong tinh thần thân thiện nhưng lại gặp một phản ứng hung dữ.

Điều con thật sự cần làm là sử dụng các giáo lý và dụng cụ các chân sư đã ban ra để con phát hiện chấn thương nhập đời, không phải theo nghĩa là con chỉ hiểu nó một cách trí thức mà con thực sự trải nghiệm nó. Và con đi thấu suốt tiến trình nhìn ra cái ngã được tạo ra do hệ quả của chấn thương nhập đời, và để cho ngã này chết đi. Và hơn thế, con còn nhìn ra những cái ngã khác cũng được tạo ra để con tự bảo vệ hay tránh né trải nghiệm đó tái diễn.

Đó là những dụng cụ quan trọng. Nhưng con cũng cần làm điều mà sứ giả này đã làm từ khi ông chạm mặt với chấn thương nhập đời nguyên thủy và buông bỏ nó. Ông đã nhận ra lý do khiến ông trải nghiệm chấn thương đó là vì ông đã đến địa cầu với một thái độ nào đó, một số kỳ vọng và một tư duy nào đó. Và đây chính là điều ông cần xem xét và thoát khỏi hầu được giải thoát khỏi địa cầu.

Ta khuyên con nên dùng các dụng cụ, đặc biệt là bài tập hình dung của ta để con đi xuyên qua các lớp vỏ và quay trở lại rạp hát đó nơi con đứng trên sân khấu và nhìn vào những cái ngã tách biệt đó. Nhưng con cũng yêu cầu ta trợ giúp và con quán chiếu trong tâm xem thái độ cơ bản của mình trên địa cầu là gì? “Tôi nghĩ tôi đang ở đây để làm gì, tôi muốn thực hiện những gì, tôi nghĩ những gì cần phải xảy ra trên địa cầu? Đâu là thái độ cơ bản của tôi đối với người khác? Tôi nghĩ họ phải làm gì hay không được làm gì? Tôi nghĩ họ phải hồi đáp tôi như thế nào?”

Sau đó con cần nhìn nhận là một avatar không cứ đang ở đây để đem lại một thay đổi tích cực trên địa cầu, mà một avatar cũng ở đây để học một điều gì đó từ địa cầu. Và điều con cần học từ địa cầu là những gì con chưa học hỏi trên một hành tinh tự nhiên, những gì con chưa nhìn thấy nơi chính mình trên một hành tinh tự nhiên, đặc biệt là liên quan đến quyền tự quyết. Nhiều avatar mang thái độ là mình thật sự tôn trọng quyền tự quyết vì mình không cưỡng ép ai hay không cư xử hung hãn với ai, và do đó con cho rằng mọi người khác cũng không được cư xử hung hãn với con.

Nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là trên một hành tinh như địa cầu, điều này không có gì bảo đảm. Thật là chí lý khi Giê-su dạy rằng: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn người khác làm cho con.” Nhưng thày không hề nói là nếu con không làm một số chuyện cho người ta thì người ta cũng không làm những chuyện đó cho con. Thày không bao giờ nói như vậy. Và lý do chính là quyền tự quyết – và với mức tâm thức thấp hơn trên địa cầu, không có gì bảo đảm là nếu con không đối xử hung hãn với người khác thì họ cũng sẽ không hung hãn với con. Con cần nhìn nhận điều này.

Và con cần hiểu ra và chấp nhận đây không chỉ là một vấn đề tự quyết, mà là vấn đề tình trạng tâm thức tập thể trên hành tinh này. Nếu con mang kỳ vọng trong con là con không được bị đối xử tệ mạt khi con không hung hãn, thì đây là một kỳ vọng không thực tế. Nó rất thực tế trên một hành tinh tự nhiên nhưng nó không thực tế trên một hành tinh phi tự nhiên.

Con cần xem xét: “Tại sao tôi có niềm tin đó? Nó đến từ đâu? Nó biểu lộ điều gì về thái độ thật sự của tôi liên quan đến tự quyết, tức là tôi không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết?” Bởi vì nếu con đã hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết thì con đã không mang kỳ vọng là người khác phải đối xử với con như thế nào. Con không thể chờ đợi như vậy nếu con hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết.

Sứ giả này đã kinh qua một tiến trình, một tiến trình lần hồi nhận ra là ông đã không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết khi ông đến đây. Ông không hung hăng và ông sẽ không cưỡng ép ai cả. Nhưng ông không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Và do đó ông đã có một số kỳ vọng. Và những kỳ vọng này đã khiến ông phản ứng lại một cách nhất định khi ông gặp sự chối bỏ và hung dữ trên địa cầu. Và để thoát khỏi khuôn nếp phản ứng đó, ông đã phải xem xét kỳ vọng cùng thái độ của mình đối với hành tinh, đối với con người, đối với những người sống trong nhị nguyên, đối với sa nhân, và ông phải khảo sát toàn bộ cái tư duy đã đưa ông đến địa cầu, đã khiến ông quyết định bước xuống một hành tinh như thế này.

Và đó là điều tất cả các con – các avatar – cần làm để được tự do khỏi hành tinh này, để vươn lên cao hơn tư duy đã đưa con đến đây. Bởi vì cái tư duy đã đưa con đến đây sẽ không thể đưa con rời khỏi nơi này, mà nó chỉ có thể giữ con lại ở đây cho tới khi con thăng vượt nó, vì đây chính là điều mà con thực sự mong muốn thực hiện khi con đến đây.

Phải, con đã mong muốn có tác động tích cực lên hành tinh này. Nhưng làm thế nào con tác động tích cực lên hành tinh chứ? Không phải bằng cách thay đổi người khác mà thay đổi chính con. Con tác động tích cực lên hành tinh bằng cách khắc phục mọi khuôn nếp trong tâm lý của mình, và khi làm vậy, con kéo cả tập thể đi lên và mở ra cơ hội cho người khác cũng thăng vượt tâm thực của họ.

Sẽ có những người không muốn thăng vượt tâm lý của họ và đó là những người sẽ hung hãn với con. Nhưng con không thể cho phép họ chi phối trải nghiệm của con trên địa cầu. Và do đó con cần tự giải thoát khỏi các khuôn nếp đó hầu con có thể đứng giáp mặt với sự hung hãn của họ, con có thể đứng trần trụi trước mặt họ mà họ vẫn không thể khiến con tê liệt hay làm con đau đớn.

Vị sứ giả này, từ tuổi thơ ấu trong kiếp này và chắc chắn trong những kiếp khác nữa, đã có cùng trải nghiệm đó, tức là ông đã cảm nhận một sự thôi thúc từ bên trong muốn thân thiện với mọi người, muốn sống năng động, bước vào xã hội và đóng góp tích cực. Nhưng gần như tất cả mọi tương tác của ông với người khác đều tạo ra một nỗi đau trong tim ông. Ông đã không vượt qua được tâm trạng này cho đến khi ông bắt đầu nhìn vào những vấn đề vô cùng thâm sâu đã đưa ông tới đây – là thái độ của ông đối với những gì ông nghĩ mình phải hoàn thành, những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho ông trên địa cầu.

Tất cả chúng ta cũng từng có cùng vấn đề đó. Chúng ta phải xem xét nó – cái gì đã đưa chúng ta đến đây và cái gì sẽ cho phép chúng ta thăng vượt nó, sẽ cho phép những cái ngã này chết đi, những niềm tin này chết đi, và giản dị chúng ta sẽ cảm thấy tự do, tự do để rời bỏ địa cầu mặc dù mình đã không thực hiện được gì trên địa cầu, mặc dù mình không hoàn thành được bất kỳ phần nào trong viễn kiến đã khiến mình muốn đến đây, bất kỳ những gì mình nghĩ có khả năng làm được ở đây. Nhưng con vẫn có thể bỏ lại địa cầu đằng sau trong an bình và nói: “Tôi đã quá đủ những trải nghiệm mà tôi có thể có trên hành tinh này rồi.” Đây là một điều khả thi.    

Nhiều người trong các con không xa điểm đó lắm như con nghĩ. Cho dù con có thể cảm thấy nỗi đau, và vẫn cảm thấy niềm tuyệt vọng tại sao nỗi đau không biến đi sau tất cả những gì mình đã làm để tu sửa bản thân, sau tất cả những cố gắng về tâm lý lẫn tâm linh, tại sao mình vẫn cảm thấy nỗi đau. Tại sao nó không ra đi?

Dẫu sao, nhiều người trong các con đã đến gần với điểm xoay chuyển hơn là mình tưởng, thường thường là một sự xoay chuyển tinh tế qua đó con thay đổi cách con nhìn cuộc sống trên địa cầu. Và con ngộ ra là trên một hành tinh phi tự nhiên, không có gì là quan trọng một cách tối hậu. Và nếu không có gì quan trọng tối hậu thì cũng không có gì quy định được con. Và nếu không gì quy định được con thì tại sao lại có bất cứ gì trên địa cầu quy định được cách con trải nghiệm sự hiện diện của mình trên địa cầu?

Và chỉ khi nào con có thể hiện diện trên địa cầu, có thể chạm trán với sự hung hãn của người khác, chạm trán với chính những điều đã cho con chấn thương nhập đời đó mà không phản ứng lại, thì con mới thực sự tự do.

Tất cả các con đều có khả năng làm được điều này. Con hãy tin ta, tất cả các con đều có thể làm được bằng cách sử dụng các dụng cụ, không phải một cách máy móc mà một cách sáng tạo, bằng cách kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư, bằng cách sẵn lòng tiếp tục nhìn ngày càng sâu hơn cho tới khi con đạt đến cốt lõi trong cách con nhìn sự có mặt của mình trên một hành tinh như địa cầu. Chỉ khi nào con tự giải thoát khỏi cách con tiếp cận địa cầu thì con mới có thể giã từ địa cầu.

Hiểu quyền tự quyết trọn vẹn

Hỏi: Nếu chúng con đã sống một thời gian rất dài trên hành tinh tự nhiên trước khi đến địa cầu, tại sao chúng con đã không học tất cả những gì cần học ngay trên hành tình tự nhiên và thăng thiên từ đó? Tại sao vẫn còn những khía cạnh của quyền tự quyết mà chúng con chưa hiểu trọn vẹn khiến chúng con quyết định đầu thai trên địa cầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 30/5/2021.

Phần nào đây là một vấn đề cá nhân. Mỗi người có những lý do khác nhau. Nhưng thực tế là có một số điều về quyền tự quyết mà có thể con sẽ khó lòng học được trên một hành tinh tự nhiên, vì ở đó con không trải nghiệm cách người ta lạm dụng quyền tự quyết như con thấy trên địa cầu.

Có một số dòng sống trên hành tinh tự nhiên bắt đầu cảm nhận được sự kiện này, họ bắt đầu nhận ra là phải có nhiều điều hơn để hiểu biết về quyền tự quyết so với những gì được trình chiếu trên một hành tinh tự nhiên. Xong có lẽ họ bắt đầu muốn nhận biết nhiều hơn. Và một số cảm nhận được là phải có những hành tinh khác. Thậm chí một số còn học được từ vị thày tâm linh của họ trên hành tinh tự nhiên về sự hiện hữu của những hành tinh phi tự nhiên. Và họ có thể từ đó hình thành mong muốn đến hành tinh phi tự nhiên để học hỏi trọn vẹn về quyền tự quyết, để trải nghiệm trực tiếp thế nào là cuộc sống trên những hành tinh nơi quyền tự quyết bị lạm dụng theo những cách sẽ hạn chế con người.

Phần lớn đây là chuyện một số dòng sống đơn giản lấy quyết định cá nhân muốn hiểu biết và trải nghiệm sự trọn vẹn của quyền tự quyết, không nhất thiết chỉ cho bản thân họ mà còn để giúp đỡ người khác, hay cũng có thể để thăng thiên với sự nhận biết và trải nghiệm này trong căn thể của họ. 

Con muốn thị hiện những gì trong kiếp này?

Hỏi: Kinh sách dạy rằng: “Hãy hỏi thì sẽ nhận được.” Con đã theo dõi một số đạo sư Thời mới và họ cũng dạy cách thị hiện bất cứ gì con muốn. Con xin hỏi làm thế nào con có thể thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con buông bỏ các ham muốn vị kỷ để thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con biết được ham muốn của con có phù hợp với quy luật thiêng liêng hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Ta biết rõ ở ngoài kia có nguyên một ngành công nghệ với những vị đạo sư tuyên bố là họ dạy cho học trò cách làm thế nào thị hiện bất cứ điều gì mình muốn trong đời. Ta không nói là việc thị hiện như vậy không thể hiệu quả ở một cấp độ nào đó cho một số người, bởi vì tất nhiên con có thể dùng quyền năng tâm linh để thị hiện một số điều kiện vật lý.

Nhưng vì con là người cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, câu hỏi thật sự cho con không phải là liệu con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn, mà là thị hiện một điều gì đồng hành với các mục tiêu tâm linh của con. Nếu mục tiêu của con là thăng thiên sau kiếp này thì chuyện thị hiện một mục tiêu vật chất sẽ quan trọng như thế nào? Con có thể xem việc trải nghiệm một số điều kiện là quan trọng, chẳng hạn như một căn nhà đẹp đẽ để con có thể thăng vượt ham muốn nhà đẹp, và chuyện này cũng ổn thôi. Nó có thể thẳng hàng với sự tăng triển tâm linh của con.

Nhưng cách thực sự để giải quyết vấn đề này, tất nhiên, là nhận ra rằng bất kỳ ham muốn thấp kém nào, bất kỳ ham muốn không chính đáng nào – nếu có thể gọi như vậy – hay bất kỳ ham muốn phản tâm linh nào cũng đều xuất phát từ một ngã tách biệt. Bằng cách dùng các dụng cụ của các thày để làm việc trên ngã tách biệt này, con sẽ có thể dần dần từ bỏ các ham muốn thấp kém đó.

Khi con là một người tâm linh muốn tiến bộ tối đa, đặc biệt nếu đây là kiếp đầu thai chót của con, con phải nhận ra là con có thể có nhiều ham muốn thấp kém mà con dư sức hoàn thành trong kiếp này, nhưng chúng sẽ khiến con bị xao lãng. Chúng sẽ tốn thời giờ, tốn năng lượng, tốn tài nguyên, và chúng khiến con đi chệch khỏi mục tiêu chủ yếu là việc tăng triển tâm linh.

Một phần của đường tu của con là kinh qua tiến trình xem xét ham muốn của mình, nhìn xem ham muốn có đến từ một ngã tách biệt, xong thay vì nghĩ rằng mình phải thực hiện mong muốn đó – một điều có thể mất rất nhiều thời gian – thì con để cho ngã đó chết đi. Việc này không nhất thiết sẽ tốn nhiều thời gian và con sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian trên đường tu của con.

Âm lượng khi đọc chú

Hỏi: Con phải đọc các bài chú và bài thỉnh to bao nhiêu? Nếu con đọc to đủ để con nghe thấy, liệu như vậy có đủ không, hay là cần to hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 cho nước Nga – Vượt qua tâm thức hơn trội và cảm nhận thiếu trọn vẹn, tổn thương và tập trung vào bên ngoài. Đăng ngày 28/5/2021.

Điều này tùy thuộc phần nào vào hoàn cảnh thực tế của con. Nếu trong hoàn cảnh của mình, con không thể có được một nơi riêng tư để người khác không nghe thấy con, và nếu đó là một vấn đề cho con, thì con có thể đọc vừa đủ to để một mình con nghe thấy và người khác không nghe thấy được. Như vậy chắc chắn còn tốt hơn là không đọc ra tiếng.

Nhưng lý tưởng là con ở một nơi riêng tư, nơi con không làm phiền ai và người khác cũng không làm phiền con. Khi đó, con có thể đọc to như con muốn, miễn là con thoải mái và giọng nói không bị gắng quá sức. Đối với sứ giả thì hơi khác, vì tất nhiên khi ông dẫn đầu buổi đọc chú trong một nhóm hay ngay cả trên internet, ông cần phát âm lớn hơn để mọi người có thể nghe được. Nhưng con không nhất thiết phải làm vậy khi con một mình.

Tuy nhiên, một khi con có kinh nghiệm đọc chú và đọc thỉnh nhiều hơn, con sẽ nhận ra là có một âm lượng cảm thấy thoải mái cho giọng con, trong khi vẫn đem lại uy lực nhiều hơn cho bài chú và bài thỉnh. Nói cách khác, con muốn đạt được một dòng chảy mà tốc độ lẫn âm lượng được định đoạt bởi Tánh linh. Giản dị là Thánh linh tuôn chảy qua con và ấn định tốc độ cùng âm lượng, và điều này cho con tác động tối đa. Đây không phải là một điều con quyết định với tâm vỏ ngoài, mà con chỉ để yên cho nó chảy. Khi con ngày càng kinh nghiệm hơn, con sẽ nhập vào dòng chảy này hầu như tức thì, ngay khi con bắt đầu.

Cái ngã cho con cảm nhận liên tục

Hỏi: Con nhận ra là con có một cái ngã mà con gọi là “cái ngã tôi”. Nó không có đặc điểm nào cụ thể, nhưng nó cho con ý niệm rằng con là chính con chứ không phải là một ai khác hay một cái gì khác. Nó cho con một cảm nhận liên tục, tức là sau khi con đã thay đổi hình ảnh bản thân bao nhiêu lần, nó vẫn là con. Đã rất lâu con tin rằng đó là cái Ta Biết. Nhưng bỗng nhiên con nhận ra rằng ý niệm “mình là mình” chỉ là một cái ngã và nó cần chết đi. Và khám phá này khiến con kinh hãi suốt hai tuần lễ.

Thậm chí, con – hay đúng hơn, cái ngã đó – đã rất giận các chân sư thăng thiên. Con bị sốc bởi phản ứng của mình, bởi nỗi sợ và nỗi tức giận đó. Sau khi suy ngẫm về sự tình suốt mấy tuần, con nhận ra là điều con thấy rất có thể là tự ngã. Thưa nói vậy có đúng không? Phải chăng cảm nhận liên tục mà chúng ta có trên địa cầu phát xuất từ tự ngã? Con có cảm giác vấn đề này có gì nhiều hơn vậy, nhưng con không thấy rõ được. Xin thày vui lòng cho con một tầm nhìn cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Tự ngã có nhiều khía cạnh, và con sẽ nhận thấy là những giáo lý đầu tiên mà chúng tôi ban ra đã giảng dạy đặc biệt về tự ngã. Rồi sau đó chúng tôi đã chuyển sang việc giảng dạy về các ngã tách biệt. Lẽ tự nhiên, con có thể hỏi: Tự ngã là gì? À, đó là một tập hợp những cái ngã tách biệt. Nhưng đằng sau tất cả những cái ngã đó có cái ngã mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Điều con cần cẩn thận – khi con cảm thấy vấn đề này có gì nhiều hơn như vậy – là con phải nhận ra sự khác biệt giữa cái ngã đầu tiên mà con tạo ra sau khi con hiện thân vật lý trên một hành tinh như địa cầu, và cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Ngã đầu tiên mà con tạo ra chỉ đơn giản là một cái ngã cho phép con tự biểu đạt qua bốn thể phàm của con. Đây là cái ngã cho con cảm nhận mình liên tục, để khi con tăng triển trên đường tâm linh, con vẫn có ý niệm con là cùng một con người đang tăng triển, và đó là tại sao con không đánh mất ý niệm bản sắc của mình. Một số người bị mất ý niệm bản sắc khi họ tìm cách cưỡng ép sự tăng triển, và họ có thể trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc.

Vấn đề tinh tế ở đây là cái ngã mà con tạo ra sau khi bước vào nhị nguyên cũng cho con một cảm giác liên tục như là một sinh thể tách biệt. Khi con trải nghiệm cái ngã tức giận, cái ngã sợ chết, cái ngã oán giận các chân sư thăng thiên, đó chính là cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên. Theo thuật ngữ được sử dụng trong phong trào Summit Lighthouse, con có thể nói đó là cốt lõi của “Kẻ ngụ trên Ngưỡng cửa” (Dweller on the Threshold). Nó muốn ngăn cản con tăng triển và cầm giữ con lại. Thật đúng là ngã này phải chết đi.

Bây giờ trở về với ngã kia, cái ngã chỉ đơn giản cho phép con đầu thai trên một hành tinh như địa cầu và mang một ý niệm liên tục, đúng là ngã đó không phải là cái Ta Biết, mà là ngã đầu tiên được cái Ta Biết tạo ra, cho nên nó cũng là cái ngã chót mà cái Ta Biết sẽ từ bỏ. Đây là cái ngã chỉ đơn giản cho con một cảm nhận liên tục. Cũng đúng là nó cần chết đi, nhưng nó là ngã cuối cùng cần chết đi. Nó là cái Hồn ma (the Ghost) mà ta đã từ bỏ trên thập tự giá, và chính con cũng sẽ từ bỏ ở tầng tâm thức 144 trước khi con thăng thiên.

Con có thể nói rằng tự ngã, cái ngã sinh ra từ nhị nguyên, chống đối sự tăng triển của con. Nhưng cái ngã kia mà con đề cập và đem lại cho con cảm nhận liên tục, kỳ thực nó là một phần của sự phát triển của con, thậm chí là yếu tố giúp cho con phát triển. Con cần nó để hội nhập với bốn thể phàm của con, con cần nó để có cảm giác sống liên tục trên địa cầu. Và nó cũng là loại ngã cho con cái góc nhìn độc nhất vô nhị của con.

Đây là điểm chúng tôi đã cố giải thích trong buổi hội nghị về quả vị Ki-tô khi chúng tôi nói rằng hai người đạt đến cùng một trình độ quả vị Ki-tô mà vẫn có thể có những quan điểm khác nhau trên một số vấn đề. Bởi vì người này nhìn vấn đề từ góc nhìn này, trong khi người kia nhìn từ góc nhìn kia. Không phải là một người đúng, người kia sai. Không phải một người tốt giỏi hơn người kia, mà chỉ là những cách nhìn khác nhau.

Ta không đang bàn đến những loại quan điểm nhị nguyên mà ta nói rằng ngay cả khi con đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô nào đó, thì con vẫn mang một nhãn quan mà chúng tôi gọi là nhãn quan cục bộ, địa phương (localized). Cũng giống như tất cả các con đang thấy gì khi các con nhìn qua mắt vật lý của mình – người kia đang nhìn con và thấy con, nhưng con thì không thấy con mà lại thấy người kia. Chỉ là hai góc nhìn khác nhau chứ không có cái đúng cái sai – thật là vô nghĩa nếu áp dụng cách lượng định như vậy. Không có góc nhìn này tốt hơn góc nhìn kia, nhưng có một góc nhìn chỉ của riêng con.

Chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên, thậm chí cả trên một hành tinh tự nhiên, con bắt buộc phải nhìn cuộc sống từ một nhãn quan giới hạn, cục bộ. Và đó chính là cái ngã mà con đã tạo ra để cho con cái nhìn cục bộ đó khi con hiện thân. Đó là cái ngã chót mà con sẽ bỏ lại.

Con người máy móc và bản chất của cái Ta Biết

Hỏi: Vào thời tổ chức Summit Lighthouse có lời dạy về những người khổng lồ Nephilim đã kết hợp dòng giống của họ với dòng giống thú vật. Điều này có nghĩa gì? Nếu có thực, liệu họ cũng có một cái Ta Biết hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Vào thời tổ chức Summit Lighthouse đã có đưa ra một số lời dạy về nhiều loại sa nhân đến từ nhiều gốc tích khác nhau, và các thày đã quyết định không lặp lại những lời dạy đó trong đợt truyền pháp này. Điều con hỏi có nghĩa đã có một thời trong quá khứ, vào thời Atlantis và ngay cả các nền văn minh trước đó, con người có khả năng thao tác gen – giống như loài người thời nay cũng làm được, tuy thật sự khả năng của họ trước kia có tinh xảo hơn.

Có một số sa nhân ở một trình độ tiến hóa nào đó đã tìm cách pha trộn DNA của họ với DNA của động vật để tạo ra một giống người nô lệ – hay nói cách khác, những “con người” không có hoàn toàn khả năng tự nhận biết. Ban đầu, các sinh thể này không có cái Ta Biết, vì tất nhiên sa nhân không có khả năng phú cái Ta Biết cho bất kỳ sinh thể nào. Chỉ có các chân sư thăng thiên mới có khả năng này.

Nhưng chuyện này đã xảy ra rất lâu rồi. Tuyệt đại đa số những sinh thể đó, hoặc không còn đầu thai nữa, hoặc đã nhận được một cái Ta Biết cùng ngọn lửa ba nhánh do họ đã tăng triển khi tham gia vào tâm thức tập thể trên địa cầu.

Vào thời Summit Lighthouse, các thày cũng đưa ra một số lời dạy về những “người máy móc”, là một giống người mà gen trong cơ thể đã bị biến đổi, và họ không mang ngọn lửa ba nhánh hay cái Ta Biết. Và họ cũng không có khả năng tự thăng vượt. Họ được tạo ra để trở thành những con ong thợ, một giống nô lệ cho sa nhân.

Ngày nay, điều các thày ưa nói nhiều hơn về sự kiện có những người đã dựng lên quá nhiều lớp ngã tách biệt đến độ gần như họ hoạt động một cách máy móc, do họ không sử dụng khả năng tự xem xét bản thân, khả năng đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi đang hành xử như thế này? Tại sao tôi phản ứng cách này? Liệu tôi có thể thay đổi phản ứng của tôi không?” Theo nghĩa đó, họ đang ở trong một trạng thái tâm thức máy móc.

Ngược lại với những gì sa nhân thường nghĩ, chính sa nhân cũng rơi vào hạng người này. Một sa nhân không dùng đến khả năng tự nhận biết của y để tự quan sát mình và tự hỏi: “Tại sao tôi đang làm chuyện này? Tại sao tôi cứ phản ứng như thế? Tôi có thay đổi được gì không?” Đó là cách vận hành máy móc. Nếu so với các sinh thể kia mà ta vừa đề cập ở trên, thì sa nhân có vẻ tinh xảo hơn nhiều do y đã tồn tại từ rất lâu đời, nhưng đây vẫn là cách vận hành máy móc vì y không tự thăng vượt.

Và đây là sự khác biệt thực sự: Liệu sinh thể đó có đang tự thăng vượt hay không bằng cách sử dụng khả năng nhận biết của mình, khả năng bước lui lại khỏi chính mình, tự nhìn vào mình và đặt câu hỏi? Đây chính là bản chất của cái Ta Biết.

Trên lý thuyết thì sa nhân có khả năng như thế, nhưng thường thường họ đã tạo ra quá nhiều lớp vỏ khi sa ngã, có lẽ qua mấy bầu cõi, đến độ khả năng này bị chôn vùi quá sâu khiến họ không thể dùng được trên thực tế.

Thật ra một số các con, kể cả vị sứ giả này, đã gặp những sa nhân giống y như vậy. Họ không có sự tự nhận biết bình thường. Họ nghĩ là mọi người khác nhìn vào bản thân giống như chính họ nhìn bản thân họ hay nhìn thế giới. Khi họ phát biểu, họ nghĩ là mọi người khác đều xem chuyện đó là quan trọng và tán thành lời nói của họ giống như chính họ đang tán thành. Họ không có khả năng – hay ít ra họ không sẵn lòng sử dụng khả năng – bước lui lại để nhận ra là thật sự không phải như thế. 

Đây cũng là lý do tại sao một số các con – kỳ thực nhiều người trong các con – có quen biết trong đời mình một số người mà con không thể nào chạm được, cho dù con đã cố nói chuyện rất nhiều lần để giải thích một điều gì đó với họ. Con không thể khiến họ nhìn ra vấn đề chỉ vì họ không thể, hay không sẵn lòng, kích hoạt khả năng nhìn vào bản thân họ từ bên ngoài. Khả năng này là tinh túy của cái Ta Biết.

Khác biệt giữa nhận trách nhiệm về bản thân và kiểm soát đời mình

Hỏi: Các thày yêu dấu, trong quyển sách về Trò chơi của Tự ngã, thày nói chúng con nên nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm về đời mình, sáng tạo đời mình, quản lý đời mình, nhưng trong các bài truyền đọc khác thày lại nói là ở các tầng tâm thức Ki-tô cao hơn, chúng con không nên dùng quyền năng tâm lý để tạo ra đời mình, mà chúng con nên buông bỏ chính mình, xuôi theo dòng chảy và chấp nhận mọi chuyện sẽ xảy ra. Làm thế nào con có thể nhận ra hay hiểu ra đã đến lúc con phải buông bỏ ý muốn kiểm soát đời mình? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 27/5/2021.

Điều quan trọng là con cần tách rời hai khái niệm đó để con không trộn lẫn với nhau. Tự ngã là phương tiện kiểm soát chủ yếu. Đó là yếu tố chủ yếu trong tâm lý con muốn kiểm soát mọi chuyện. Đó là tại sao tự ngã bày ra một số trò chơi kiểm soát. Nhưng việc nhận lãnh trách nhiệm về bản thân thì khác. Nhận lãnh trách nhiệm về bản thân không có nghĩa là con kiểm soát mọi khía cạnh cuộc đời con, mà có nghĩa là con nhận trách nhiệm về tâm lý của mình và nhận ra rằng rất nhiều khía cạnh trong đời mình chính là các khuôn nếp tâm lý chưa giải quyết của mình đang trình chiếu ra bên ngoài.

Nhưng đồng thời con cũng nhìn nhận là rất nhiều điều kiện của đời con không phải là do tâm lý hay những chọn lựa của con, mà do con đang sống trong một cộng đồng với nhiều người khác, trong một quốc gia hay thậm chí do con sống trên một hành tinh phi tự nhiên. Vì vậy con không thể chờ đợi là khi con tăng triển quả vị Ki-tô của mình, con sẽ có thể kiểm soát mọi khía cạnh của đời con. Chắc chắn chính ta đã không kiểm soát được mọi khía cạnh của đời ta vì ta đã không ép buộc bất cứ ai phải treo ta lên thập tự giá, mà ta đã cho phép điều này xảy ra do ta thấy đó là một phần trong quả vị Ki-tô của mình.

Và đây chính là những gì xảy ra khi con tăng triển quả vị Ki-tô của con. Con tăng triển khả năng phân biện để biết được trong trường hợp nào con có thể sử dùng uy lực của mình để thị hiện một số tình huống, và trong trường hợp nào con cần bước lui lại và cho phép các sự cố trải bày ra. Cũng có thể nói là sẽ có một tầng cao hơn nữa của quả vị Ki-tô khi con không xét đến cả tình huống đặc thù nào phải cần xuất hiện, mà con chỉ đơn giản xuôi theo Dòng sông sự Sống, con chỉ cho phép các hoàn cảnh trài bày ra một cách tự nhiên mà không trù liệu đời mình phải đi về đâu.

Ta không nói rằng việc có mục tiêu là sai. Ở các tầng thấp hơn trên đường tu, có mục tiêu là một điều quan trọng cho dù là mục tiêu vật lý hay mục tiêu tâm linh. Nhưng khi con vươn lên cao hơn và cao hơn nữa, con ngày càng hòa điệu hơn, con càng trở thành một cánh cửa rộng mở hơn cho Hiện diện TA LÀ. Và thay vì con dùng tâm vỏ ngoài để quyết định những gì con muốn thị hiện, con cho phép Hiện diện chảy xuyên qua con và thị hiện những gì nó muốn thị hiện cho dù con không biết cái đó sẽ là gì với tâm vỏ ngoài.

Các hình tư tưởng của Phật Gautama

Hỏi: Con xin hỏi về các hình tư tưởng của Phật Gautama. Hình tư tưởng là một sự truyền rải. Vậy có nghĩa chăng là hình tư tưởng chứa đựng năng lượng do Phật Gautama truyền rải? Liệu chúng con có nên đọc hình tư tưởng như một lời cầu nguyện? Cho năm nay 2021 [cũng như những năm kế tiếp] chúng con có hai hình tư tưởng: “Phật Gautama thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất, Saint Germain thày là tấm gương tuyệt hảo cho nền kinh tế”. Chúng con có thể nào viết lại với tên của các vị chân sư khác hay không? Chẳng hạn, Giê-su Ki-tô thày là tấm gương tuyệt hảo cho tâm thức tập thể trên trái đất, Mẹ Mary thày là tấm gương tuyệt hảo cho vương quốc tinh linh, Đại thiên thần Michael thày là tấm gương tuyệt hảo cho đại đoàn thiên thần, Đại thượng sư Maha Chohan thày là tấm gương tuyệt hảo cho các nỗi sợ hãi của con người, vân vân. Hay năng lượng chỉ được rải truyền qua các hình tư tưởng của Phật Gautama?

Elizabeth Prophet có nói là khi chúng con lặp lại đúng những lời nguyên thủy của hình tư tưởng, chúng con sẽ tiếp cận trực tiếp với sự bảo vệ, sự hướng dẫn cùng phước lành của các chân sư thăng thiên. Có lẽ từ thời đó có điều gì đã thay đổi, vì bây giờ chúng ta đang bước vào một thời đại mới, Thời đại Bảo bình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 27/5/2021.

Các hình tư tưởng được ta ban truyền một cách đặc biệt, cho nên khi con hình dung các hình tư tưởng này theo đúng lời ta đã ban ra hay khi con lặp lại câu nói mà ta đã cho con năm nay, con sẽ tiếp cận với năng lượng mà ta đã bỏ vào trong đó. Vì vậy con không cần viết lại với tên các vị chân sư khác.

Con cũng cần nhận ra là không có ích lợi gì mà đọc, chẳng hạn, “Đại thiên thần Michael thày là tấm gương tuyệt hảo cho đại đoàn thiên thần.” Đại đoàn thiên thần không cần đến một tấm gương. Ta cũng khuyên con cứ đơn giản sử dụng các hình tư tưởng mà ta đã trao cho năm nay và như vậy là đủ.

Hiển nhiên con có thể lặp lại lời nguyên thủy của hình tư tưởng, nhưng nếu hình tư tưởng là một bài hình dung thì điều quan trọng hơn là con hãy hình dung thay vì chỉ lặp lại lời mô tả. Tất nhiên, không có gì đã thay đổi, theo nghĩa là con vẫn có thể tiếp cận với năng lượng được rải truyền qua một đợt truyền pháp.


[Ghi chú: Xin nhắc lại lời dặn của Phật Gautama khi thày đưa ra hình tư tưởng nguyên thủy trong bài “Con đang chú tâm vào điều gì?” ngày 30/12/2020.

Ta khuyến khích con làm một việc vô cùng đơn giản, không có gì cầu kỳ. Mỗi ngày, con hãy tập trung vào mặt trời – dù nó có ở trên trời hay không thì hoàn toàn không quan trọng. Nhưng con hãy tập trung vào mặt trời trong tâm con, và nói lên lời xác định này. “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.” Giản dị, dễ nhớ, và chỉ mất một vài giây. “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất”.

Nếu con muốn, con có thể hình dung ta đang ngồi trong tư thế hoa sen ngay trên mặt trời, nhưng điều này không mấy cần thiết. Chỉ cần con nói lời xác định ngắn ngủi trên. Tập trung vào mặt trời, con không cần nói lớn, nhưng con có thể nếu con muốn. “Phật Gautama, thày là tấm gương tuyệt hảo cho trái đất.”

Khi con sử dụng hình tư tưởng này một cách đều đặn, con sẽ khiến cho hiệu quả tăng lên gấp bội.]

Đối phó với nỗi bất mãn sâu sắc về cuộc sống

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã đem lại giáo lý trong tư cách là sứ giả, nó đã giúp tôi rất nhiều. Tôi đã tìm thấy giáo lý của chân sư thăng thiên hơn 20 năm về trước. Tôi đã nỗ lực khám phá mục đích thực của mình là gì, sứ vụ thiêng liêng của mình là gì. Tôi đã thiết lập sự nối kết với cái ta cao hơn của mình, học cách nhận biết những thông điệp của cuộc sống, học cách tha thứ và yêu vô điều kiện. Nhờ quá trình này mà đời tôi đã thay đổi hoàn toàn. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại cảm thấy bất mãn, tôi đánh mất ý nghĩa của cuộc sống, tôi cảm thấy như mình không đang sống cuộc đời của mình. Và tôi phải mất một thời gian để tìm lại động lực giúp mình bước tới. Tôi muốn hiểu gốc rễ của nỗi bất mãn sâu xa này. Làm thế nào chữa lành những chấn thương tình cảm và lý trí đó? Làm thế nào giữ cho sự nối kết với cái ta cao hơn của tôi được thường trực và ổn định, hầu tôi có thể thị hiện một cách ý thức vương quốc của Thượng đế trên địa cầu và hoàn thành một cách ý thức sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Dựa trên kinh nghiệm bản thân, tôi xin nói là trong số những người tâm linh có một loại giấc mơ – chính tôi cũng đã mang giấc mơ này khi còn trẻ, và tôi đã thấy rất, rất nhiều người mang cùng giấc mơ đó như thế này: Nếu chúng ta tìm được giáo lý tâm linh đúng đắn, và nếu chúng ta tu học thật hăng say, thì nhất định chúng ta sẽ đạt tới điểm đột phá. Và khi chúng ta đột phá thì chúng ta sẽ giác ngộ – hay bất kỳ khái niệm nào khác mà người ta có về giác ngộ – và giờ đây mọi chuyện sẽ tuyệt vời.

Bản thân tôi đã mang giấc mơ này trong nhiều năm trời. Tôi còn nhớ vào thập niên 1990, tôi hay nghĩ: “Trời, mình đã giải quyết được quá nhiều thứ trong tâm lý mình rồi, không hiểu bây giờ còn bao nhiêu nữa?” Thế rồi sau khi nhận được tất cả các lời dạy về chấn thương nhập đời, về việc đi xuống từ một hành tinh tự nhiên đến trái đất, phải hứng chịu chấn thương nhập đời và sinh sống một thời gian rất dài trên địa cầu, cái nhìn của tôi đã đổi khác, vì tôi ngộ ra là trên một hành tinh như trái đất không hề có một trạng thái nào là vĩnh viễn, vì đây là một hành tinh phi tự nhiên.

Chừng nào còn đầu thai thì chúng ta sẽ còn kinh qua nhiều chuyện trong tâm lý mình, hoặc là tâm lý của riêng cá nhân mình, hoặc một điều gì đó mình đã lấy vào từ tâm thức tập thể và đang cố xử lý. Cho nên chúng ta đang  luôn luôn đối phó với một điều gì đó.

Tôi nghĩ bước đầu tiên – ít ra là điều mà tôi đã làm – là tôi đã từ bỏ ý tưởng mình sẽ đạt được một loại đột phá nào đó và thế là mình ở trong trạng thái tâm thức tối thượng, mình đã giác ngộ. Tôi nhận ra là luôn luôn sẽ có những chuyện khởi lên trong tâm lý mình.

Một điều nữa mà tôi thấy được khi tôi nhìn lại quá trình hơn 40 năm bước chân trên đường tâm linh, là có một số chu kỳ, một số giai đọan nhất định. Có những giai đọan mà chắc chắn chúng ta tăng triển.

Thông thường khi bạn tìm thấy một giáo lý mới, bạn rất hào hứng với nó, bạn cố gắng thực hành, nhưng bạn làm vậy với một viễn quan nhất định về những việc cần làm. Chẳng hạn khi tôi khám phá ra phong trào Summit Lighthouse thì tôi đang ở một mức tâm thức nào đó và tôi nhìn con đường tâm linh theo một cách nào đó, và vì vậy tôi tiếp cận nó theo cách đó. Nhưng tôi cũng có thể thấy là một vài lần tôi đã bước đến một bước ngoặt. Nơi đó là điểm mà đúng lý tôi cần bước lên một mức cao hơn trên đường tu, nhưng tôi lại mang một thái độ, một cách nhìn, một phin lọc nhận thức nào đó ngăn cản tôi bước tới. Như thể tôi bị dính mắc vào một cách nhìn nhất định về đường tu.

Đó là những giai đọan mà tôi có thể nhìn lại và thấy là mình không còn hào hứng nữa, có lẽ mình bất mãn, hay có lẽ như bạn vừa nói, tôi đã đánh mất ý nghĩa của cuộc sống vì nó không hẳn có ý nghĩa như trước nữa. Nó không khiến tôi phấn chấn. Tôi không cảm thấy có chuyện gì đang xảy ra vì tôi không đang tăng trưởng. Khi bạn không tăng trưởng thì bạn trở nên bất mãn.

Không chỉ là vấn đề những chấn thương cần chữa lành. Đó có thể là một chấn thương mà chúng ta cần đương đầu, tuy nhiên cũng có thể là chúng ta cần xoay chuyển thái độ của mình – như tôi vừa trình bày, chúng ta cần từ bỏ ý tưởng về một sự đột phá tối hậu. Như chẳng hạn, từ bỏ ý nghĩ là mình phải tinh tấn hơn hiện thời. Ý tôi muốn nói là tôi có thể nhìn lại và thấy rất nhiều người trong giáo lý của chân sư thăng thiên nghĩ rằng: “Tôi đã học các giáo lý này từ 10, 20 năm qua, tôi phải tiến hơn thế này chứ. Tôi phải an bình, tôi phải thế này, tôi phải thế kia, tôi phải nối kết được một cách thường trực với cái ta cao hơn của tôi. Tôi phải có khả năng thị hiện bất kỳ đời sống nào mà tôi muốn.”

Tôi nghĩ sẽ tới một điểm bạn cần xoay chuyển và bước ra khỏi tư duy đó, bạn cần buông các ý nghĩ đó và nhận diện đường tu là thực sự một tiến trình không ngừng, luôn luôn xem xét chính mình, luôn luôn nhìn vào tâm lý của mình để nhận ra một giới hạn nào đó, một cái ngã nào đó, rồi để cho nó ra đi.

Khi bạn từ bỏ mong muốn đạt được một sự đột phá tối hậu nào đó, thì tâm bạn sẽ an bình, vì bạn không còn luôn luôn cảm thấy mình phải tốt hơn, hay mình phải đạt tới một điểm nào khác, hay mình phải tinh tấn hơn nhiều. Bạn biết là bạn đang tăng triển mỗi ngày, đơn giản là bạn an bình là con người mà bạn là, ở nơi bạn đang đứng trên đường tu cho dù bạn chưa toàn hảo.

Tôi không lo lắng mình đang ở mức tâm thức nào. Bạn có thể bảo chuyện này dễ quá vì tôi biết mình ở mức cao hơn tầng 96, nhưng dù sao thì tôi không quan tâm đến chuyện đó. Tôi chỉ tiếp tục tìm kiếm điều kế tiếp mà tôi cần xử lý trong tâm lý của mình, và tôi xử lý nó. Tôi không mang cảm nhận là tôi phải ở một nơi nào khác. Tôi không còn cảm nhận này nữa. Thuở trước, tôi cứ cho rằng: “Ồ, tôi phải là một sứ giả toàn hảo, tôi không được lầm lỗi hay cái này cái nọ.”

Bây giờ nếu tôi làm lỗi, tôi sẽ học hỏi từ lỗi lầm xong tôi lại tiến tới. Nếu có điều gì khởi lên trong tâm lý, tôi sẽ xem xét nó xong tôi giải quyết nó. Tôi không kháng cự lại việc xem xét một vấn đề nào như nhiều năm về trước khi tôi cưỡng lại vì tôi không thể chịu nổi trong tâm lý mình có một loại vấn đề nào đó.

Tôi nghĩ đây chỉ là chuyện xoay chuyển, là nhận ra đường tu là một tiến trình không ngừng tiếp diễn. Chúng ta sẽ lần hồi tự cải thiện, rồi khi nào chúng ta đạt đến một trạng thái tâm thức tối thượng thì đó sẽ là lúc chúng ta không còn bám giữ cái thân xác vật lý này nữa. Chúng ta sẽ thăng thiên. Đó là cách nhìn của tôi, mong là nó đã hữu ích.

Thiền định có phải là cách hay nhất để trải nghiệm Thượng đế?

Hỏi: Kim, cảm ơn ông đã thiết lập trang mạng này. Tôi đã học hỏi các giáo lý tâm linh từ nhiều năm và cũng đã thiền tập, nhưng chỉ từ khi tôi khám phá ra trang mạng của ông mà tất cả như ăn khớp lại với nhau. Tôi đang thực hành rất nhiều những bài nguyện tràng hạt và lời xác định cùng với cầu nguyện và thiền định. Và sau đây là câu hỏi của tôi cho thày Giê-su.

Thưa thày, quan tâm của con là mặc dù con cảm nhận được sự hiện diện của Thượng đế, con vẫn chưa có được trải nghiệm tiếp xúc trực tiếp. Con vẫn nghĩ là sự tiếp xúc này có nhiều khả năng nhất xảy ra trong lúc thiền tập. Con đã đọc quyển sách “Tự truyện của một Yogi” (Autobiography of a Yogi) và từ đó có cảm hứng muốn học Kriya Yoga. Theo tổ chức RSF (Self-Realization Fellowship) Giê-su từng nhận được điểm đạo trong pháp yoga này. Khóa học của SRF kéo dài 3 năm rưỡi là lớp nhập môn vào Kriya Yoga. Tuy nhiên trên trang mạng này, Giê-su có vẻ như không khuyến khích con đường thiền tập cho những người sống trong nền văn hóa Tây phương, hay là con có hiểu lầm gì chăng? Xin Giê-su vui lòng hướng dẫn con về sự hữu ích của cách thiền tập này trong mục đích kết nối với cái Ta Thượng đế nơi nội tâm. Hoặc liệu là có những kỹ thuật tâm linh nào khác hữu hiệu hơn? Con đã cầu nguyện và thiền quán để tìm trả lời cho câu hỏi này nhưng cho tới giờ con vẫn chưa có lời giải đáp.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 2/9/2011.

Trong thời gian 17 năm mà người ta gọi là “những năm biệt tăm”, ta quả là có chu du ở phương Đông và đã thử nghiệm cũng như học hỏi một số kỹ thuật tâm linh của phương Đông. Thật vậy, ta đã vô cùng cởi mở để học hỏi bất cứ điều gì có thể trợ giúp sứ vụ của mình, cho dù thuở đó ta không hiểu được hay không “thấy” được hoàn toàn đó là gì.     

Ta có được học một điều tương tự như Kriya Yoga, tuy nhiên nếu bảo rằng điều ta học là cùng một thứ – hay được chỉ dạy trong cùng một cách thức – như khóa học hiện nay của SRF thì sẽ không đúng lắm. Con cũng cần nhớ là ta đã được học rất nhiều kỹ thuật khác của phương Đông và do đó ở đây ta không có ý định hỗ trợ hay khuyến cáo bất kỳ kỹ thuật nào.   

Tất cả mọi sự phải thay đổi và tiến hóa theo thời gian, bởi vì sự thay đổi là cách vận hành nền tảng của hành tinh này – và lý do là vì tâm thức tập thể trên địa cầu vẫn còn tụt hậu so với nhịp tăng trưởng của phần còn lại của vũ trụ. Vì vậy, cho dù các đạo sư Ấn độ có khuynh hướng bảo rằng họ đã tìm lại được một kỹ thuật bị thất lạc, thật không có cách chi tách rời một kỹ thuật tâm linh với bối cảnh của nó, tức là với xã hội nơi kỹ thuật đó được sử dụng cũng như mức tâm thức tập thể vào thời đó. Điều này giải thích tại sao, nói chung, chúng tôi là các chân sư thăng thiên thường không khuyên nhủ các học trò ở phương Tây sử dụng kỹ thuật thiền định của phương Đông.       

Ta cũng biết, một số người sẽ nắm ngay câu nói vừa rồi của ta để lý giải rằng ta không thật là Giê-su. Nhiều học trò của SRF có thể lý luận rằng bởi vì Yogananda đã từng làm việc với Giê-su đích thực, thì tất cả nội dung của trang mạng này cũng phải đồng ý hoàn toàn với những gì Yogananda đã nói – và nếu không, chỉ có nghĩa là trang mạng này không phải là do Giê-su đích thực. Và cũng vậy, tất nhiên, học trò của các phong trào khác hay đạo sư khác cũng sẽ làm y như thế.  

Tuy nhiên, cho những ai có tâm phân biện hơn, ta cần nói rõ là quả thực ta đã có làm việc với Yogananda. Nhưng những gì ta đã có thể truyền rải qua trung gian Yogananda phần lớn là kết quả của khả năng thăng vượt của chính ông đối với xuất xứ của ông, cũng không khác gì trang mạng này là kết quả của khả năng thăng vượt của sứ giả này đối với xuất xứ của Kim Michaels.      

Con thấy đó, một sinh thể thăng thiên đã thăng vượt MỌI xuất xứ trên địa cầu và luôn luôn tìm cách giúp cho mọi người làm tương tự, bắt đầu là với chính thế giới quan hiện thời của họ. Cho nên chúng tôi sẵn sàng làm việc với hầu hết những ai cũng sẵn lòng thăng vượt, và chúng tôi luôn luôn tìm cách trao truyền những điều khả dĩ giúp được một đoàn nhóm nào đó thăng vượt hệ tư tưởng hiện thời của họ.   

Điều khiến cho nhiều học trò tìm đạo chân thành không theo được sự hướng dẫn của chúng tôi gồm có hai điểm:

  • Niềm tin rằng chúng tôi trong Đại đoàn Thăng thiên có một chân lý toàn vũ, cố định và tuyệt đối ở trên đây mà chúng tôi đang cố gắng trao truyền dưới một dạng toàn vẹn, không pha loãng,
  • Niềm tin rằng trong quá khứ chúng tôi đã trao truyền nhiều phần của chân lý này, và do đó bất cứ gì mà một đạo sư hay một phong trào thốt ra sau này cũng nhất định PHẢI ăn khớp với những gì đã truyền dạy trước đây.   

Chính những điều tin tưởng đó đã khiến cho người ta bị kẹt lại trong lòng trung thành không đúng chỗ đối với một giáo lý vỏ ngoài, một đạo sư hay một phong trào vỏ ngoài. Điều này không những khiến cho sự tăng trưởng cá nhân của họ bị ngừng trệ, mà cả công việc toàn cầu nhằm nâng cao tâm thức nhân loại cũng phải chậm lại. 

Đó cũng là lý do có một xu hướng rõ rệt nơi các phong trào tâm linh mà bất cứ một học trò trung thực nào cũng nhận xét được, đó là hội chứng có thể gọi là “bùng lên rồi xẹp xuống”. Con có thể thấy một số phong trào tâm linh trải qua một giai đoạn bành trướng nhanh chóng đề rồi bị trì trệ, xong từ từ xẹp xuống. Giai đọan suy yếu này thường khởi sự khi người lãnh đạo qua đời hay rút lui, nhưng đôi khi nó bắt đầu ngay cả trước đó.  

Nguyên nhân hiện tượng suy yếu này nằm ở chỗ vị lãnh đạo hoặc đa số các học viên trong phong trào không có khả năng, hay không có ý muốn, sinh sôi các ta-lăng, nghĩa là nhân rộng các giáo lý và kỹ thuật được trao truyền. Con thấy không, có một định luật tâm linh dẫn dắt BẤT KỲ phong trào tâm linh nào.     

Ngược lại với sự suy nghĩ của nhiều học trò của chân sư thăng thiên, chúng tôi KHÔNG chỉ làm việc với một hoặc vài ba phong trào mà thôi. Chúng tôi làm việc với tất cả mọi học trò cho dù họ có ở đâu hầu gia tốc sự tăng trưởng nơi họ, và chúng tôi không có sự trung thành cố định với một giáo lý hay một phong trào nào. Có nghĩa là nếu quả thực một phong trào đang giúp được người ta thăng vượt các khuôn nếp tư duy cũ, thì chúng tôi sẽ trao một yếu tố nhân thêm cho phong trào đó.

Con lưu ý là điều này không có nghĩa là chúng tôi tán thành hay hỗ trợ bất cứ gì mà phong trào đó thực hiện hay giảng dạy. Đã từng có nhiều phong trào có giáo lý xa vời thực tế, thế nhưng nếu họ còn trợ giúp được người ta thăng vượt trình độ tâm thức cũ thì họ vẫn sẽ vẫn nhận được yếu tố nhân thêm – là yếu tố đã khiến cho phong trào đó tăng trưởng.  

Tuy nhiên, điều thường xảy ra là phong trào không thể duy trì mãi độ tăng trưởng, và lý do là vì quá nhiều học trò đã ngừng thăng vượt bản thân. Thay vào đó, họ sử dụng các giáo lý và các dụng cụ để củng cố cho thế giới quan của tự ngã, có nghĩa là bây giờ họ cảm thấy hơn trội người khác, họ cảm thấy họ sẽ được “cứu rỗi” mà không phải phơi bày tự ngã.  

Khi điều đó xảy ra, một đạo sư đích thực sẽ rời bỏ phong trào, và thậm chí trong nhiều trường hợp, sẽ bỏ cả hiện thân. Còn một đạo sư không mấy đích thực thì sẽ ở lại, nhưng phong trào nay rơi vào vòng chi phối của cái lực đứng đằng sau định luật thứ hai của nhiệt động học, cho nên sự hỗn loạn sẽ gia tăng cho đến khi phong trào bị tan vỡ hoặc từ từ suy thoái.

Cho nên điều ta muốn nói qua phần trình bày dài dòng này là cho con thấy tại sao một số đạo sư từ phương Đông đã thành công khi thiết lập phong trào tại Tây phương, và cũng vì lý do đó mà họ thường suy vi sau một thời gian. Lý do là vì trong đa số trường hợp, các đạo sư phương Đông không đủ thăng vượt xuất xứ của họ và không thể thích ứng giáo lý cùng kỹ thuật của họ với tư duy của người phương Tây.

Con thấy đó, trong hầu hết mọi trường hợp, một vị đạo sư Đông phương đến phương Tây với một cảm nhận vi tế về tính ưu việt của truyền thống tâm linh Đông phương. Vị đạo sư nghĩ rằng mình đến đây để đem lại một cái gì trội hơn, và do đó mình không có gì để học hỏi. Đó là tại sao con thấy các đạo sư phương Đông thường không mấy sẵn lòng thích nghi với tư duy người Tây phương.  

Thế nhưng khi một đạo sư phương Đông đến phương Tây, vị ấy gặp phải thử thách rất lớn trong khả năng thích ứng và linh động. Con thấy không, con sẽ không giúp ích cho bước tiến của nhân loại nếu con tìm cách biến các học trò tâm linh Tây phương thành những bản sao của học trò tâm linh Đông phương. Con sẽ CHỈ phát triển được nếu con rút tỉa những tinh túy thực sự phổ quát trong truyền thống tâm linh của mình, rồi biểu đạt nó trong một bối cảnh Tây phương. Trong số ít những kỹ thuật phương Đông đã chuyển giao thành công sang phương Tây thì có yoga, và lý do thành công của yoga là vì pháp môn này đã không nằm trong một khuôn khổ tập quyền mà trái lại được phép đa dạng hóa.      

Tình thế trở nên phức tạp hơn nữa do sự kiện hiện nay có nhiều học trò tâm linh đã chọn đầu thai tại phương Tây hầu trợ giúp sự thức tỉnh tâm linh của phương Tây. Nhưng suốt mấy tiền kiếp trước kiếp này, họ đã từng đầu thai tại phương Đông, và do đó chính họ đã chưa thăng vượt được truyền thống tâm linh của phương Đông. Họ bị thu hút bởi các đạo sư từ phương Đông, và một khi ở đây, họ cảm thấy không những truyền thống phương Đông quen thuộc hơn với họ mà lại còn cao trội hơn, và do đó không nên thay đổi.

Và như con thấy đó, mình thế nào thì mình sẽ thu hút thế nấy. Vị đạo sư nào mang sẵn niềm kiêu hãnh tâm linh về truyền thống phương Đông sẽ thu hút những học trò với cùng niềm kiêu hãnh đó, và cùng nhau họ sẽ củng cố lẫn nhau, và họ tạo ra một hệ thống khép kín bắt buộc phải suy thoái.

Trên căn bản, đây là cuộc thử thách vốn đã có từ ngàn đời, là làm thế nào cân bằng hai lực cơ bản của sáng tạo, tức là lực lan ra và lực co lại. Lực lan ra bảo con phải thăng vượt cái cũ, và lực co lại bảo con phải giữ đúng như truyền thống.     

Nếu con mất cân bằng trong sự lan ra, con sẽ mất hết phương hướng và mọi thứ sẽ vỡ tung trong một cuộc bành trướng vô kiểm soát. Nhưng nếu con mất cân bằng trong lực co lại, tất cả sẽ thu rút và sụp đổ từ bên trong.

Cho nên chìa khoá là cái nhìn Ki-tô, luôn luôn tìm cách vươn ra nhưng KHỒNG tìm cách khiến cho mọi người phải chấp nhận một chân lý tối cao. Ki-tô gặp gỡ mọi người ở chỗ họ đang đứng, rồi tìm cách giúp họ tăng triển từ đó. Và nếu ai đó không sẵn sàng thăng vượt cái cũ thì Ki-tô sẽ rút lui về – nếu họ không giết Ki-tô trước.

Điều này giải thích tại sao ta đã bỏ lại đệ tử của ta sau ba năm và tại sao Yogananda đã bỏ lại học trò của ông khi ông thấy rằng SRF đã đạt hết mức thăng vượt của nó. Đấng Ki-tô Hằng sống không hề trung thành với bất cứ cái gì trên địa cầu và luôn luôn hướng đến mức thăng vượt kế tiếp.

Bây giờ con đã có một nền tảng vững vàng hơn thì ta sẽ lần lượt trả lời câu hỏi của con:

“Tuy nhiên trên trang mạng này, Giê-su có vẻ như không khuyến khích con đường thiền tập cho những người sống trong nền văn hóa Tây phương, hay là con có hiểu lầm gì chăng?”

Ta không khuyến khích mọi người lao mình vào mà sử dụng thiền tập theo cách mà các đạo sư phương Đông thường trình bày, tức là xem đó là “giải pháp độc nhất cho mọi vấn đề”, là kỹ thuật tâm linh duy nhất mà họ sẽ sử dùng. Phương Tây là một môi trường vô cùng bận rộn, căng thẳng và hỗn loạn về mặt các năng lượng tâm lý mà con phải tiếp xúc trong đời sống hàng ngày. Ta KHÔNG khuyên bất cứ ai sử dụng một kỹ thuật nhằm làm cho tâm mình tĩnh lặng hay trống rỗng mà không đồng thời thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, chẳng hạn qua các bài chú, bài thỉnh của chúng tôi.

Con cần lưu ý là chúng tôi luôn luôn khuyến khích mọi người nên đi theo những thúc đẩy sáng ngộ nơi nội tâm mình. Nếu chẳng hạn con cảm thấy một sự thu hút mãnh liệt đối với Kriya Yoga, thì lý do là vì con có nhu cầu học hỏi một điều gì đó từ kinh nghiệm này. Có khi điều mà con cần học là pháp môn này không thích hợp với con, nhưng hầu hết mọi người sẽ không thể học được điều này nếu họ chỉ nghe theo người khác. Cho nên nếu con cảm thấy thu hút mãnh liệt thì con hãy bước theo – nhưng con cần tỉnh táo để tìm ra bài học tâm linh đích thực có thể nằm bên ngoài những gì ngoại tâm con có khả năng nghĩ tới ngay bây giờ.  

“Xin Giê-su vui lòng hướng dẫn con về sự hữu ích của cách thiền tập này trong mục đích kết nối với cái Ta Thượng đế nơi nội tâm. Hoặc liệu là có những kỹ thuật tâm linh nào khác hữu hiệu hơn?”

Con đang nói tới hai chuyện khác nhau ở đây – trước hết là một kỹ thuật có hệ thống, và sau đó là sự trải nghiệm Thượng đế vô hình tướng. Con hãy lưu ý con đã nói gì ngay trước đó:

“Quan tâm của con là mặc dù con cảm nhận được sự hiện diện của Thượng đế, con vẫn chưa có được trải nghiệm tiếp xúc trực tiếp. Con vẫn nghĩ là sự tiếp xúc này có nhiều khả năng nhất xảy ra trong lúc thiền tập.”

Vấn đề ở đây là nhiều người tìm kiếm một kinh nghiệm về Thượng đế, nhưng họ lại cho rằng họ phải sử dụng một cách tiếp cận có hệ thống đề sản xuất ra, hay thậm chí “ép uổng”, kinh nghiệm đó. Giản dị là điều này không thể làm được. Cái vô hình tướng KHÔNG BAO GIỜ bị cưỡng ép vào BẤT CỨ hình tướng nào, do đó con cần tra vấn bất kỳ hình ảnh nào cho rằng Thượng đế phải ra làm sao hay một kinh nghiệm thần bí phải như thế nào.

Nhiều người nghĩ rằng họ đã có một trải nghiệm về Thượng đế do sử dụng một kỹ thuật nào đó hay ngay cả do ma túy. Nhưng điều họ làm là họ đã buộc bộ não và hệ thống thần kinh của họ phải sản xuất ra một trải nghiệm vượt xa kinh nghiệm bình thường của họ đến độ họ cho đó là Thượng đế.

Con có thấy được sự khác biệt tinh tế ở đây? BẤT KỲ một trải nghiệm nào mà con ép buộc sẽ được bộ não sản xuất ra, và nó sẽ xảy ra TRONG tâm con – và như vậy nó KHÔNG THỂ VƯỢT RA NGOÀI tâm con. Nhưng một kinh nghiệm đích thực về Thượng đế sẽ hoàn toàn và tuyệt đối vượt ngoài tâm con.    

Con có thấy việc dùng tâm làm phương tiện thăng vượt tâm là một chuyện bất khả thi hay không? Chuyện đó KHÔNG BAO GIỜ làm được. Con càng tập trung vào việc sử dụng tâm con thì con càng buộc cái ta thực của con vào với tâm – bởi vì chính sự chú tâm của con đã tạo ra một sợi dây buộc năng lượng khiến CON bị giam cầm trong tâm, mà chức năng của tâm thì vỏn vẹn chỉ là phương tiện tương tác với thế giới vật chất. Làm thế nào con có thể dùng phương tiện này để vượt ra ngoài thế giới vật chất?  

Cho nên chìa khóa để có một kinh nghiệm về Thượng đế là ngộ ra rằng không có gì mà con có thể LÀM sẽ đem lại kinh nghiệm đó.

Điều này không có nghĩa là con không nên dùng một kỹ thuật nào hết. Một kỹ thuật đúng đắn có thể giúp con tăng trưởng bằng cách làm thông sạch tâm con và cân bằng luân xa của con, và điều này sẽ khiến con kinh nghiệm Thượng đế dễ dàng hơn. Con càng giảm bớt sự hỗn loạn trong tâm con thì CON sẽ càng dễ giải phóng sự nhận biết của con khỏi tình trạng đồng hóa với tâm.

Một trong số những kỹ thuật hữu hiệu nhất hiện có là các bài chú các Elohim. Mặc dù chúng tôi đã không công bố một cách rầm rộ – cố tình như vậy – nhưng các bài chú này là một phương tiện chủ yếu để thông sạch và cân bằng tất cả mọi luân xa của con. Nhưng một lần nữa, điều này không có nghĩa là việc đọc những bài chú đó sẽ bảo đảm cho con một kinh nghiệm về Thượng đế.

Một kinh nghiệm thần bí không thể tiên đoán trước được bởi vì nó vượt khỏi mọi hình tướng. Cho nên con không thể định trước một kinh nghiệm thần bí phải như thế nào – nó sẽ khoác những hình dạng khác nhau tùy theo mỗi người.

Cho nên điều quan trọng là tập trung vào một kỹ thuật mà con ưa thích, nhưng không bao giờ cho phép kỹ thuật này trở thành một thói quen, một thông lệ. Đừng bao giờ cho phép mình rơi vào cái khuôn nếp với quá nhiều phong trào, là nghĩ rằng mình phải tiếp tục sử dụng một kỹ thuật suốt đời và điều này sẽ bảo đảm thành quả. Con cần phải thật nhạy bén khi cái ta cao hơn của con nhắc con nên chuyển sang một kỹ thuật mới, hay sử dụng kỹ thuật hiện thời một cách cao hơn.   

Con cũng cần bước ra khỏi cái tư duy tìm kiếm hay ngay cả mong muốn một kinh nghiệm thần bí. Nếu con mong muốn một điều gì, đó là vì con có sẵn một tâm ảnh là kinh nghiệm đó phải như thế nào, và làm như vậy cũng giống như con muốn ép uổng Thượng đế phải hiện ra trước mặt con dưới một dạng nào đó. Đây chính là “hình tạc vào đá”, và nó sẽ gần như chắc chắn ngăn chặn con kinh nghiệm được Thượng đế vô hình tướng.

Thay vào đó, con hãy tập trung vào việc nâng cao tâm thức hầu con có thể đóng góp tốt hơn trong công cuộc nâng cao mọi sự sống. Nói cách khác, nhiều người tầm đạo có ý hướng tốt thiện đã quá tập trung vào chính mình cũng như vào việc đạt được trải nghiệm tột đỉnh, đến độ họ biến thành những hệ thống khép kín. Con cần bước ra khỏi cái tư duy chú tâm vào bản thân quá mức, và cách duy nhất là con hãy đặt trọng tâm vào việc phụng sự người khác hay một mục đích cao rộng hơn – nhưng con hãy làm vậy một cách vị tha, quên mình, chứ không nhằm tâng bốc tự ngã.

Vì vậy con cần nỗ lực đạt đến một trạng thái hoàn toàn không dính mắc vào hình dạng mà trải nghiệm thần bí cần phải mang – thậm chí con không dính mắc luôn cả chuyện trải nghiệm. Nếu con làm được vậy thì rất có thể con sẽ thăng vượt được ngoại tâm và TỰ DƯNG trải nghiệm. Nhưng cũng rất có thể là con sẽ không có trải nghiệm thần bí nào hết, bởi vì nhiều người vẫn tinh tấn mà không cần trải nghiệm thần bí, hoặc họ chỉ có một lần trải nghiệm mà thôi.

Con sống trên địa cầu để hoàn thành một sứ vụ và hội đủ điều kiện thăng thiên. Địa cầu này còn xa mới là một môi trường lý tưởng để trải nghiệm sự hợp nhất với Thượng đế, Con chỉ có một thời gian nhất định để hội đủ điều kiện thăng thiên, nhưng một khi con đã thăng thiên, con sẽ có thời gian bất tận để trải nghiệm sự hợp nhất với Thượng đế. Con hãy đặt ưu tiên của con cho đúng.

Một hiểu lầm về cách vận hành của các kỹ thuật tâm linh

Hỏi: Thày Giê-su thân yêu, con ngày càng bối rối bởi nghịch lý sau đây: Trong khi ông Kim, sứ giả của thày, tiết lộ những hiểu biết vô cùng sâu sắc về bản chất của cõi thiêng liêng và Ki-tô, thì cùng lúc ông lại đưa cho chúng con những bài đồng dao vườn trẻ như là bí quyết để đạt được trạng thái bất nhị. Con đã thử đọc những bài này nhưng con thật không nghĩ là các Elohim đang chú ý. Con biết, vì con đã từng đạt được trạng thái bất nhị, và con không thể đạt được trạng thái này khi sử dụng những bài đồng dao vườn trẻ. Vấn đề có phải là con chăng (đương nhiên rồi, con biết)?

Câu hỏi thực sự của con: Từ khi trang mạng của thày được thiết lập, đã có ai báo cáo là mình đã đạt được sự kết hợp bất nhị đích thực với đấng Ki-tô Toàn vũ hay chưa? Một lần nữa, với tất cả sự kính trọng và yêu thương. David.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Ta có thể hiểu được nếu có người xem các bài chú, bài thỉnh mà các chân sư đưa ra chỉ là những bài đồng dao cho vườn trẻ. Ta cũng hiểu được nếu có người sử dụng những kỹ thuật của chúng tôi với kỳ vọng đạt được một trải nghiệm tâm linh. Tuy nhiên, ta không thể hiểu làm thế nào một người có thể dùng những bài đó với thái độ là chúng chẳng hơn gì bài đồng dao vườn trẻ, và ĐỒNG THỜI chờ đợi đạt được một trải nghiệm tâm linh. Đây là một sự hiểu lầm về cách vận hành của các kỹ thuật tâm linh.

Một người có thể ghét xe ô tô và nghĩ rằng xe ô tô chịu trách nhiệm đâm chết người, cày nát đất đai hay làm hâm nóng khí hậu. Nhưng khi người đó bước vào xe, vặn chìa khóa lên thì chiếc xe sẽ phải nổ máy. Lý do là vì công nghệ là một bộ máy cơ học sẽ chạy tốt cho đù người sử dụng có nghĩ gì về nó. Trái lại, một kỹ thuật tâm linh KHÔNG PHẢI là một bộ máy cơ học.

Những gì con bỏ vào một kỹ thuật tâm linh sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những gì con lấy ra. Nếu con muốn một trải nghiệm thần thánh thì con hãy tiếp cận kỹ thuật đó với một thái độ tôn kính và thần thánh. Nếu con không làm được thì con hãy thừa nhận như vậy và không sử dụng kỹ thuật. Hãy tìm một kỹ thuật nào khác mà con có thể tiếp cận với một thái độ xây dựng hơn. Ngừng phóng chiếu nỗi nghịch lý nơi chính nội tâm con vào bất cứ gì ở ngoài con, và giải quyết vấn đề ở ngay gốc của nó. Con thử lắng nghe chính lời con nói: “Con ngày càng bối rối…” và sẵn lòng thừa nhận là nếu con không an bình, thì đây là vấn đề mà con cần giải quyết.

Các bài chú và bài thỉnh không được thảo ra đặc biệt để sản xuất những trải nghiệm bất nhị. Trải nghiệm bất nhị là một kinh nghiệm nội tâm. Một kinh nghiệm như thế xảy ra được là do cái Ta Biết được tạo bằng chính bản thể và tâm thức của Thượng đế. Vì vậy, cái Ta Biết không thể bao giờ đánh mất khả năng hòa điệu với một tầng thực tại vượt ngoài thế giới quan nhị nguyên của tâm phản-Ki-tô và giác quan vật lý.

Cái Ta Biết có thể có nhiều loại kinh nghiệm bất nhị, và không phải bất cứ ai đọc chú hay đọc thỉnh với thái độ đúng đắn cũng có được một hình thức kinh nghiệm tâm linh, dù là trong khi đang đọc hay khi thiền định sau khi đọc.

Tuy nhiên, bài thỉnh và bài chú là những kỹ thuật rất tích cực, hướng ra ngoài, ngược lại với các kỹ thuật trầm tư, hướng vào bên trong. Cho nên chúng không được thiết kế để cho con kinh nghiệm bất nhị, mà là một dụng cụ để giải quyết những tin tưởng nhị nguyên cũng như thỉnh cầu và điều hướng năng lượng tâm linh.

Đương nhiên, khi con làm thông sạch cả bốn tầng của tâm con, con sẽ đạt sự rõ ràng hơn, và điều này sẽ mở đường cho những kinh nghiệm tâm linh đủ loại. Tuy nhiên, việc này có thể tốn nhiều năm trời, tùy vào lượng rác rưởi được chất nơi gác thượng của tâm con. Cho nên điều khôn ngoan là con nên tiếp cận mọi kỹ thuật tâm linh một cách không những kiên nhẫn, mà còn hoàn toàn không dính mắc vào bất kỳ hình thức trải nghiệm nào mà con có thể có qua việc sử dụng kỹ thuật tâm linh.

Lý do là vì một kinh nghiệm bất nhị không thể được sản suất tùy ý. Đó không phải là một sản phẩm cơ học từ việc sử dụng một kỹ thuật thần diệu, và hương vị của thiên đàng không thể đoạt được bằng vũ lực. Một kinh nghiệm bất nhị nên được xem như một món quà có thể được trao ra hay là không. Con không thể ép buộc kinh nghiệm đó, cho nên điều duy nhất con có thể làm được là khiến cho tâm mình càng bén nhạy càng tốt để nó nhận được kinh nghiệm. Và chỉ khi nào con hoàn toàn không dính mắc là món quà sẽ có được trao tặng hay không, thì con mới nhạy bén tối đa. Đó là tại sao Thiền đạo Phật nói đến sơ tâm, là tâm mở rộng ra những trải nghiệm tự phát thay vì đòi hỏi trải nghiệm phải xảy ra. Và đó cũng là vì sao ta đã từng nói: “Ai không nhận lãnh Nước Trời như một trẻ nhỏ thì không thể vào được.” (Luke 18:17)

Nếu con dùng óc phân tích để thiết lập những điều kiện mà con nghĩ sẽ sản xuất ra trải nghiệm, con sẽ chỉ đẩy trải nghiệm đó đi xa khỏi con. Và nếu con dùng cảm xúc để thiết lập kỳ vọng là đúng lý con phải nhận được trải nghiệm – nghĩa là con sẽ cảm thấy bị thất vọng hay lừa bịp nếu nó không xảy ra – thì con đã ngăn chặn trải nghiệm trước khi nó có thể xảy ra.

Có nhiều người tầm đạo đã có những trải nghiệm bất nhị một cách tự nhiên khi lần đầu họ khám phá ra đường tu, hay ngay cả trước đó. Một số bị ám ảnh bởi chuyện trải nghiệm này, tưởng rằng mình phải có khả năng trải nghiệm mọi lúc. Điều này khiến họ không ngừng tìm kiếm những “trải nghiệm tột đỉnh”, không ngừng chạy đuổi theo một mục tiêu dường như vượt khỏi tầm tay. Và khi họ có được một số trải nghiệm, họ cảm thấy vẫn chưa đủ, và ngay lập tức họ lại bắt đầu thèm khát trải nghiệm tiếp theo sau. Thậm chí, một số bị còn mê mệt trong cuộc tìm kiếm trải nghiệm đến độ họ sử dụng những chất ma túy mà họ cho là sẽ giúp họ có trải nghiệm.

Con sẽ khôn ngoan nếu con nhìn trải nghiệm tâm linh như chỉ có một mục đích mà thôi, là chứng tỏ cho con rằng thật sự CÓ một trạng thái tâm thức vượt khỏi kinh nghiệm bình thường của con người phàm phu. Nó cho con thấy là con đường tâm linh là thực, và ở cuối đường có một phần thưởng. Do đó trải nghiệm tâm linh – ngay cả khi con chỉ có được một lần trong đời – cũng đủ là sự khích lệ để con tiếp tục bước đi trên đường tu suốt đời.

Một số người tầm đạo đã bị đánh lạc bởi một số đạo sư giả – và ngay cả một số đạo sư chân chính nhưng lầm lẫn – khi dựng lên kỳ vọng là mục đích của việc tu tập tâm linh là để luôn có những trải nghiệm bất nhị. Họ đã tạo dựng một hình ảnh của người thiền định ngồi trong một hang động trên núi Himalaya, không ngừng được hưởng cực lạc. Quả vậy, có một số ít vị với sứ mạng tâm linh trong hiện thân là cầm giữ sự cân bằng cho hành tinh địa cầu, và họ thiền định liên tục.

Nhưng đối với tuyệt đại đa số người tầm đạo – và chữ quan trọng ở đây là “tuyệt đại đa số” – đó không phải là Sứ vụ Thiêng liêng của họ. Con không ở đây để được trải nghiệm tâm linh cho thỏa thích. Con ở đây để biểu lộ quả vị Ki-tô của mình bằng cách phụng sự tha nhân và giúp cho người khác tăng triển tâm linh. Khi con làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức của người khác và trong lọc hành tinh, đó là một công việc quan trọng hơn gấp bội chuyện trải nghiệm tột đỉnh.

Con hãy lưu ý điều ta nói ở đây. Có một quan niệm sai lầm cho rằng những trải nghiệm tột đỉnh sẽ dẫn đến phát triển tâm linh và nâng cao tâm thức con một cách thường trực. Thế nhưng nhiều người có trải nghiệm như vậy rồi gặp khó khăn rất lớn để hòa nhập nó vào đời sống hàng ngày cũng như trạng thái tâm thức bình thường của mình. Một số người cứ lắc lư qua lại giữa cuộc sống bình thường và cuộc chạy đuổi điền cuồng những trải nghiệm tột đỉnh, và họ rất khổ tâm trong cả hai cực đoan đó.

Sự thật là trải nghiệm tột đỉnh có thể gây hại cho sự tinh tấn tâm linh nếu con không nhìn nó theo cách ta đã mô tả ở trên. Như ta vừa nói, một số người vô cùng tập trung vào bản thân và không ngừng tìm kiếm trải nghiệm tột đỉnh kế tiếp. Một số khác trở nên kiêu hãnh, tưởng mình chắc là người tiến bộ tâm linh cao lắm do mình đã trải nghiệm cao như vậy trong quá khứ. Họ cảm thấy mình có quyền chờ đợi thêm nhiều trải nghiệm nữa, rồi họ bực tức khi trải nghiệm đó không hiện ra. Một thái độ như vậy chỉ có thể ngăn chặn sự tăng triển của con.

Thực tế là tất cả mọi người tầm đạo sẽ CHỈ tiến bộ xa hơn một mức nào đó nếu họ khắc phục được tính vị kỷ phát xuất từ tự ngã và bắt đầu giúp tha nhân hay giúp hành tinh một cách vô vị lợi. Tất nhiên, mỗi người đều có những trách nhiệm hàng ngày, cho nên các bài thỉnh của Mẹ Mary được soạn thảo để giúp con nâng cao tâm thức của hành tinh ngay khi con ngồi trong phòng mình.

Mục đích của Mẹ Mary lẫn của ta là trao cho mọi người những dụng cụ để họ có thể nâng cao tâm thức một cách hệ thống và tiến bộ một cách bền vững. Các kỹ thuật này được thiết kế để nâng cao tâm thức của con lần hồi, thay vì cho con một trải nghiệm vượt hẳn tâm thức hàng ngày đến độ con không làm sao thể nhập được. Dĩ nhiên là khi sử dụng các dụng cụ này, con có thể có được trải nghiệm tâm linh, nhưng khôn ngoan nhất là con không nên chờ đợi gì cả.

Mục đích thực sự là nâng cao tâm thức một cách thường trực để toàn bộ tâm trí tỉnh giấc trở thành một kinh nghiệm bất nhị. Tuy nhiên con hãy lưu ý, khi điều này bắt đầu xảy ra, có vẻ như con không còn trải nghiệm tột đỉnh nữa. Theo định nghĩa, một trải nghiệm tột đỉnh là một cái gì vượt khỏi kinh nghiệm bình thường của con. Cho nên điều có thể xảy ra là con thường trực ở trong một trạng thái tâm thức cao hơn mà không hoàn toàn nhận thức có gì đang xảy ra. Con đã quá quen với trạng thái cao đó đến độ cái mà trước kia là một trải nghiệm tột đỉnh thì bây giờ con xem là bình thường, và dường như con không còn trải nghiệm tột đỉnh nữa. Vì vậy, nếu thỉnh thoảng con có thể nhìn lại bước tiến đáng kể mà mình đã đi qua so với tâm thức cũ, thì điều này sẽ rất hữu ích.

Nói cho cùng, trải nghiệm bất nhị nằm vượt khỏi nhị nguyên. Nếu sử dụng bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào mà lại chờ đợi hay đòi hỏi – thậm chí thèm khát – một trải nghiệm bất nhị, thì cái đó nằm trong phạm vi nhị nguyên. Làm sao con có thể dùng tâm nhị nguyên để sản xuất một trải nghiệm bất nhị? Cho nên con càng mong muốn trải nghiệm bất nhị thì xác suất xảy ra sẽ càng ít đi. Chỉ khi nào con bỏ sang một bên mọi kỳ vọng và đòi hỏi nhị nguyên của con, thì con mới có thể nhận được trải nghiệm bất nhị. Trong lãnh vực tâm linh, thái độ là tất cả. Những gì con gửi ra tấm gương vũ trụ sẽ là những gì được phản chiếu lại cho con.

[Ghi chú của Kim Michaels: Bản thân tôi đã có nhiều trải nghiệm bất nhị do đọc bài chú và bài thỉnh. Tôi đã thực tập những kỹ thuật này suốt hơn 25 năm qua và nhiều lần đã có trải nghiệm cao, đặc biệt khi tôi thiền định ngay sau khi thỉnh cầu năng lượng tâm linh. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi nhận thấy những bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary rất hiệu nghiệm để giúp tôi nhạy cảm hơn với trải nghiệm tâm linh, nhất là khi tôi đọc chầm chậm và trầm tư về lời đọc.]

Liệu con đang nghe thấy tự ngã hay cái ta cao của con?

Hỏi: Làm thế nào con biết được giọng nói con nghe thấy có thực sự là vị thày nội tâm của con? Đôi khi con lo rằng đó có thể là tự ngã đang cố gạt con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Một câu hỏi rất hay, không có câu trả lời trắng đen. Thực tế đơn giản là hầu hết mọi người vẫn còn bị bao trùm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên đến mức họ nghe thấy nhiều “giọng nói” đang cố đánh lừa họ. Đó có thể là tự ngã của họ, hay có thể là tà lực từ ngoài đang tìm cách kéo họ ra khỏi đường tu tâm linh.

Thực tế đơn giản là không có cách tuyệt đối và máy móc nào để xác định là sự hướng dẫn mà con nhận được có thực sự đến từ cái ta Ki-tô của con và Đại đoàn Thăng thiên hay từ các thế lực thấp kém. Con chỉ có thể xác định sự chính đáng của những lời hướng dẫn này bằng cách xây dựng dần dần khả năng phân biện của riêng con, hầu con có thể nhận ra sự khác biệt đó chỉ duy qua việc cảm nhận độ rung của thông điệp hay độ rung của nguồn gốc thông điệp.  

Nếu con chưa có nhiều kinh nghiệm, rất có thể con sẽ nghe thấy nhiều loại giọng nói khác nhau. Do đó, con không nên nghe theo mà không suy xét bất kỳ ý tưởng hay lời hướng dẫn nào. Con cần luôn luôn lượng định trên căn bản lẽ thường tình. Hãy để ta cho con một vài gợi ý hầu giúp mọi người học cách phân biện, lọc lựa giữa hạt với trấu khi nhận được lời chỉ dẫn trong nội tâm.

  • Con hãy khởi sự bằng cách nhìn nhận là có những tà lực sẽ vô cùng thích thú trao cho con những lời hướng dẫn dối trá sẽ đưa con vào ngõ cụt trên con đường tâm linh. Để giảm thiểu tối đa rủi ro nhận được loại chỉ dẫn này, con hãy quyết tâm nỗ lực sử dụng biện pháp bảo vệ tâm linh. Bài nguyện ROS08 cho Đại thiên thần Michael được thiết kế đặc biệt để bảo vệ con khỏi những nguồn đó.
  • Hãy tu học các lời dạy tâm linh để cảm nhận được điều gì là chân thực dựa theo cách Đại đoàn Thăng thiên đã dẫn dắt loài người suốt nhiều thiên niên kỷ. Điều này sẽ giúp con lượng định xem một lời chỉ dẫn nội tâm có đứng thẳng hàng, có tương hợp với sự dẫn dắt vượt thời gian đó hay là nó bị trệch đi quá xa.    
  • Cố gắng khiến cho trực giác của con nhạy bén hơn và hòa điệu với cái ta Ki-tô của con, chẳng hạn bằng cách sử dụng kỹ thuật hòa điệu.
  • Luôn luôn dùng lẽ thường tình để lượng định lời chỉ dẫn mà con nhận được. Đặc biệt con cần cảnh giác bất kỳ lời chỉ dẫn nào rơi vào hai loại cạm bẫy chủ yếu trên đường tu, cụ thể là lòng sợ hãi và lòng kiêu mạn. Nếu lời chỉ dẫn đánh vào những nỗi sợ của con và tìm cách đẩy con vào những hành vi dựa trên sợ hãi, thì đó không phải là Đại đoàn Thăng thiên hay cái ta Ki-tô của con. Cũng vậy, nếu lời chỉ dẫn vuốt ve lòng kiêu hãnh của con và bảo sao con giỏi và tuyệt vời đến thế, hay sự cứu rỗi của cả vũ trụ tùy thuộc vào một hành động nào đó của con, thì nó không phát xuất từ một nguồn gốc cao.
  • Cũng nên lưu ý là các tà lực sẽ hung hãn tìm cách xúi giục con làm một chuyện gì đó, và điều này thường biểu hiện như một cảm giác bị ép buộc, khiến con cảm thấy mình nhất định phải ra tay. Cái ta Ki-tô hay Đại đoàm Thăng thiên sẽ không bao giờ tìm cách khuynh đảo con như vậy mà chỉ nỗ lực trao cho con một sáng ngộ hiểu biết sẽ giúp con tự ý lấy quyết định và chọn lựa tốt nhất. Tà lực sẽ vô cùng sung sướng nếu chúng có thể điều khiển cuộc đời của con. Còn Đại đoàn Thăng thiên sẽ không điều khiển đời con vì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, biết rõ là con sẽ chỉ  có thể bước vào trạng thái thăng thiên bằng cách tinh lọc khả năng chọn lựa đúng đắn của mình.
  • Nếu con nhận được một lời hướng dẫn có vẻ không ổn, cho dù là do nội dung hay rung động của nó, thì con hãy đừng theo đó mà ra tay hành động. Con hãy chỉ đơn giản cất nó lên kệ và hoàn toàn không dính mắc về sự kiện là nó có chân thực hay không. Con cứ tiếp tục tu tập tâm linh và chờ xem có sự hướng dẫn hay xác nhận nào hay không.
  • Trong một số trường hợp, con có thể nhận thêm những lời chỉ dẫn rất dai dẳng thúc giục con làm một chuyện gì đó. Nếu những lời đó có vẻ hung hãn hay xâm lấn, nó không đến từ một nguồn gốc cao. Nhưng nếu con đã cất một lời hướng dẫn lên kệ và sau một thời gian con lại nhận được một lời gợi ý nội tâm hay một sự xác nhận bên ngoài rằng đó là một lời chân chính, thì nói chung con có thể xem là nó bắt nguồn từ một cõi cao hơn. Trong trường hợp một quyết định quan trọng có tiềm năng thay đổi đời con, có lẽ con sẽ muốn buông nó ra vài lần trước khi bước vào hành động.

Một lần nữa, thật sự không có một cách tuyệt đối hay máy móc nào để xác định xem một lời hướng dẫn xuất phát từ nguồn cao hay nguồn thấp. Đơn giản là con không thể làm như vậy với tâm phân tích hay với tình cảm của con, bởi vì tâm vỏ ngoài sẽ nói cho con nghe những gì con muốn nghe. Rốt cuộc thì con chỉ có thể cảm nhận sự rung động, và điều này đòi hỏi con đạt được một mức độ hòa điệu nào đó với cái ta Ki-tô của con cũng như với Đại đoàn Thăng thiên.

Một khi con có sự hòa điệu này, con sẽ cảm nhận được rung động của cái ta Ki-tô của con hay của một chân sư thăng thiên, và như vậy con có được một khung tham chiếu sẽ cho phép con so sánh rung động của một lời chỉ dẫn và biết được nó đến từ đâu. Đây không phải là một tiến trình máy móc mà một tiến trình nghệ thuật. Nó sẽ không xảy ra ngay lập tức, nhưng néu con kiên trì sử dụng các dụng cụ mà ta đã trao truyền trên trang mạng này, con sẽ từ từ khai triển khả năng phân biện của con.

Ta cũng biết là một số người sẽ cảm thấy như thể ta đã không đưa ra một lời dạy rõ ràng lắm, nhưng lý do là vì quả vị Ki-tô không có một con đường máy móc để đi tới đó. Con đường dẫn đến quả vị Ki-tô đòi hỏi con chọn lựa bằng cách sử dụng sự hiểu biết, phân biện và khả năng viễn kiến của riêng con. Trong đa số các trường hợp, con sẽ có nhiều hơn một chọn lựa đúng đắn duy nhất, cho nên chọn lựa “phải” nhất cho con sẽ là chọn lựa thể hiện đúng nhất cá thể độc đáo của con.

Các thế lực bóng tối sẽ tìm cách khiến con phủ nhận cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. Nhưng các uy lực của ánh sáng sẽ nỗ lực giúp con biểu lộ cá thể đó. Thế lực bóng tối muốn con chắp nhận cái bản sắc do tự ngã phàm phu của con quy định. Uy lực của ánh sáng sẽ nỗ lực giúp con từ bỏ cái bản sắc giả tạo đó để nhận lấy bản sắc chân thực của con như một sinh thể tâm linh độc đáo.

Con đã đọc tất cả các bài cầu nguyện nhưng chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con đã cầu nguyện thành tín suốt năm qua trong khả năng tối đa một người đàn ông bình thường có thể làm được trong một ngày. Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con. Hơn thế con đã giới thiệu các bài cầu nguyện này với vợ và các bạn của con và họ cũng trải nghiệm giống như con.

Bây giờ đã tới lúc chúng con bỏ cuộc chăng? Hay nghiệp quả của chúng con quá nặng nề cho nên chúng con phải bỏ ra thêm nhiều thì giờ để cải thiện hoàn cảnh sống của chúng con (con sống ở Mumbai, Ấn độ).

Nếu chúng con bỏ trang mạng này, con không nghĩ chúng con sẽ có thể tin tưởng bất cứ cái gì khác về sau nữa. Chúng con sẽ không là người đồng sáng tạo mà là người lang thang trong vũ trụ này.

Xin thày cho chúng con và những người như chúng con những lời khuyên đúng lúc bằng không chúng con chẳng có gì để hy vọng. Chúng con là người Công giáo nên chúng con sẽ quay về nếp cũ đi nhà thờ mỗi ngày chủ nhật và khi chúng con rời cõi đời này thì chúng con có thể gặp thày và nói rằng ít ra con đã cố gắng hết sức để theo con đường của thày trên trang mạng này.

Con đã đặt nhiều câu hỏi trước đây nhưng Michaels là một rào cản và nếu con từ bỏ thày và trang mạng này, ông sẽ một phần chịu trách nhiệm về quyết định của con.

Chào thày
Eugene


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/1/2021.

Con hỏi một câu hỏi quan trọng là khi nào thì ngừng dùng một kỹ thuật tâm linh. Câu trả lời ngắn gọn là không bao giờ bỏ, nghĩa là con không bao giờ để mình rơi vào khoảng trống. Con không bao giờ đi ngược lại, cảm thấy mình hoàn toàn đánh mất niềm tin và không còn hy vọng gì ở tương lai. Con chỉ ngừng một kỹ thuật khi con tìm ra một kỹ thuật tốt hơn thay thế nó.

D

Điều thày trình bày trên trang mạng này là một con đường tu có hệ thống dần dần dẫn con lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Khi con hoàn toàn thấu hiểu con đường này, con nhận ra là sự tiến triển không bao giờ ngừng. Khi con quyết tâm tăng triển liên tục, con nhận ra con không bao giờ bỏ cuộc. Con không bao giờ cho phép tự ngã hay các lực chống lại sự tiến triển của con khuynh loát con để con đi vào ngõ bí khiến con cảm thấy dường như cách duy nhất là con phải đi ngược lại.

Khi con quyết tâm tăng triển, con nhận ra con luôn luôn có lựa chọn tiến tới, tiến lên cao hơn. Cho nên khi con thấy một kỹ thuật không giúp ích cho con, thì con có hơn một cách để đáp ứng tình trạng này. Con không cần lý luận rằng con chỉ có một chọn lựa duy nhất là bỏ cuộc và trắng tay. Đấy chính thực là điều mà tự ngã của con và tà lực muốn con cảm thấy – chúng muốn ngừng sự tiến triển của con. Đây là lý do tại sao người ta nói nản chí là dụng cụ sắc bén nhất trong hộp dụng cụ của ma quỷ.

Cho nên, quy tắc thật giản dị. Nếu con có một xung lực mạnh trong nội tâm bảo con đã đến lúc ngừng một kỹ thuật tâm linh và tìm một kỹ thuật khác thì lẽ tất nhiên con hãy làm theo. Nếu con không nhận được một xung lực như thế – xung lực mà con biết đến từ cái ta Ki-tô của con – thì con đừng ngưng kỹ thuật con đang tập. Thay vào đó con tìm cách cải thiện cách con dùng kỹ thuật này, kể cả cách con tiếp cận kỹ thuật đó hay các kỹ thuật tâm linh nói chung.

Sau đây là những lý do chính tại sao một kỹ thuật tâm linh không hiệu quả đối với con:

  • Kỹ thuật này không giá trị. Ví dụ, kỹ thuật này do các lực muốn lừa gạt con người truyền ra. Một trong những bài học chính thày trao trong trang mạng này là con cần phát triển phân biện để nhận được lóe sáng trực giác từ cái Ta Ki-tô của con. Từ đó con học cách phơi trần các kỹ thuật gian dối.
  • Kỹ thuật này không hiệu lực cho con. Một lần nữa, cách hay nhất để biết là nhận được lóe sáng trực giác từ cái ta Ki-tô của con.
  • Con đã vượt quá sự hữu dụng của kỹ thuật và con cần tìm một kỹ thuật mới nhưng tâm vỏ ngoài của con chưa mở ra để đi tìm. Một lần nữa, cách duy nhất để con biết là qua cái Ta Ki-tô của con, nhưng rất ít người vượt quá sự hữu dụng của một kỹ thuật sau một năm.
  • Kỹ thuật có một thời có giá trị – có nghĩa là nó được Đại đoàn Thăng thiên bảo trợ – nhưng ngày nay không còn giá trị nữa. Một lần nữa, cái Ta Ki-tô là người hướng dẫn tốt nhất, tuy rằng nói chung các thày sẽ tìm được cách để thông báo điều này.
  • Kỹ thuật có giá trị đối với con, nhưng con chưa thực tập lâu đủ để nhận thấy kết quả.
  • Kỹ thuật có giá trị đối với con nhưng con không tiếp cận nó đúng cách khi thực tập.

Các kỹ thuật trình bày trên trang mạng này – đặc biệt là các bài nguyện của Mẹ Mary – đều có giá trị và rất hiệu năng. Không kỹ thuật nào có thể đem lại kết quả như nhau cho tất cả mọi người, nhưng con hãy ngẫm câu nói sau: “Khi người đệ tử sẵn sàng, người thày sẽ xuất hiện.” Có một lý do khiến con bị thu hút bởi trang mạng này khi con gặp nó và cảm thấy sự thôi thúc nội tâm muốn dùng những kỹ thuật được cống hiến trong đó. Do đó, ta có thể suy luận rằng các kỹ thuật đó sẽ hữu hiệu cho con. Thày tha thiết khuyến khích con đừng bỏ cuộc và thay vào đó con suy ngẫm xem làm sao con cải thiện cách con sử dụng các kỹ thuật. Để giúp con làm việc này, thày sẽ dùng lá thư của con để đưa ra một số gợi ý.

Ý 1

Con nói: “Con đã cầu nguyện thành tín suốt năm qua trong khả năng tối đa một người đàn ông bình thường có thể làm được trong một ngày. Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Có một lý do khi thày nói, “Nhờ sự kiên nhẫn mà giữ được linh hồn mình.” Tuy thày khen con đã đọc các bài cầu nguyện trong trang mạng này trong suốt một năm, thày phải nói rằng một năm không lâu đủ để đa số có thể thấy được chuyển đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của họ. Nhiều người đã thực tập những kỹ thuật tâm linh có giá trị suốt mấy chục năm mà không thấy kết quả bên ngoài (nhưng họ cảm thấy nhiều kết quả trong nội tâm).

Ý 2

Con nói: “Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Như thày đã nói ở trên, con luôn phải cảnh giác tự ngã khuynh loát con để con đi vào chỗ kẹt nơi con cảm thấy dường như con phải lấy một quyết định đen hay trắng hay quyết định có-không. Tự ngã không muốn con tiếp tục dùng một kỹ thuật tâm linh có giá trị, cho nên khi con bắt đầu dùng một kỹ thuật có giá trị, nó sẽ tìm cách đưa con vào một hoàn cảnh khiến con nản lòng.

Một cách tự ngã đạt được điều này là gieo vào trong tâm con sự mong chờ là kỹ thuật tâm linh phải đem lại kết quả vật lý và đem lại kết quả này trong một khoảng thời gian nhất định. Rồi khi tới thời hạn mà kết quả vẫn chưa hiện ra, thì tự ngã sẽ bảo con rằng kết luận khả thi duy nhất là kỹ thuật không hiệu quả do đó con phải bỏ cuộc. Đây là trò lừa gạt xưa cũ và nhiều người đã rơi vào bẫy. Con đừng nhập theo họ.

Ý 3

Con nói: “Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Không có lý do chính đáng nào để cho rằng thực tập một kỹ thuật tâm linh sẽ và phải đem lại kết quả vật lý. Đây là mong chờ do tự ngã và tà lực chế ra và nó đã khiến cả triệu tín đồ tôn giáo cảm thấy các lời cầu nguyện của họ không được đáp trả – thậm chí còn khiến nhiều người mất đức tin nơi tôn giáo của họ hay nơi mọi tôn giáo. 

Như thày đã giải thích trong suốt trang mạng này, vũ trụ là một tấm gương. Hoàn cảnh vật lý mà con gặp giản dị là hình ảnh của chính trạng thái tâm thức của con được phản chiếu lại từ tấm gương. Nói cách khác, nguyên nhân là trạng thái tâm thức của con và hoàn cảnh bên ngoài của con chỉ là kết quả. Thày tin tưởng con thấy điều hiển nhiên là nếu con muốn thay đổi điều gì, thì con phải thay đổi nguyên nhân thay vì làm việc ở tầng hậu quả. Nếu con muốn thay đổi phim được trình chiếu trên màn ảnh, con đừng tìm cách thay đổi màn ảnh. Con hãy đi vào phòng chiếu phim và thay đổi cuộn phim trong máy chiếu.

Ý thày muốn nói là cách duy nhất để con thực sự thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con là thay đổi tâm thức của con. Cho nên, nếu con cầu nguyện hay thực tập một kỹ thuật tâm linh với mong chờ nó sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài một cách tự động chỉ nhờ vào thực tập này, thì con đang tìm cách làm điều không thể làm được. TẤT CẢ các kỹ thuật tâm linh có giá trị đều được thiết kế để giúp con thay đổi trạng thái tâm thức của con. Và khi con thay đổi tâm thức mình, hoàn cảnh bên ngoài sẽ thay đổi – khi tới lúc, vì chúng phải đi qua bốn tầng của vũ trụ vật chất.

Ý 4

Con nói: “Con nhận thấy chẳng có gì thay đổi trong hoàn cảnh bên ngoài của con.”

Có một sự khác biệt cơ bản khi con bắt đầu một thực tập tâm linh với mục tiêu rõ rệt chuyển hóa tâm thức của mình thay vì mong chờ kết quả bên ngoài. Con sẽ thấy những kết quả tốt đẹp hơn hẳn. Những kết quả này là kết quả nội tâm nhưng chúng sẽ đáng kể đủ để con không còn nghĩ tới chuyện bỏ kỹ thuật này khi nó vẫn tiếp tục cải tiến trạng thái tâm của con.

Thực ra, tốt hơn là con thực tập một kỹ thuật mà không mong chờ kết quả vật lý. Chỉ khi nào con không dính mắc chuyện được hay không được kết quả vật lý thì kỹ thuật mới hoàn toàn hữu hiệu. Như vậy, chúng ta có thể nói là con chỉ đạt được kết quả vật lý tối đa khi con không còn mong chờ những kết quả này – con thực tập kỹ thuật với phần thưởng là nâng cao tâm thức của con.

Thày biết rất rõ là nhiều người bắt đầu cầu nguyện hay thực tập một kỹ thuật chính vì họ đau khổ do những hạn chế vật lý và điều thúc đẩy họ là thay đổi các hoàn cảnh này. Thày không tìm cách coi nhẹ đau khổ của con người hay coi thường động cơ của họ vì con phải bắt đầu với động cơ nào thích ứng với con. Nhưng nếu con thực sự muốn một kỹ thuật đạt hiệu quả, con phải muốn cải tiến động cơ của con khi con đã gia tăng nhận biết.

Cho nên, sau đây là một số động cơ cao hơn khi thực tập một kỹ thuật tâm linh:

  • Con nhận ra sự thật là tâm thức phải thay đổi trước khi hoàn cảnh bên ngoài có thể thay đổi. Do đó, con quyết định là mục đích chính của con khi dùng kỹ thuật là để nâng cao tâm thức.
  • Con cảm thấy an bình hơn, sáng suốt hơn và có nhiều năng lượng hơn sau khi thực tập một kỹ thuật và đây tự nó là phần thưởng rồi.
  • Khi con đọc một bài nguyện, con cảm nhận được ánh sáng của Thượng đế tuôn chảy từ cái ta cao của con xuyên qua bản thể của con và đây cũng quá đủ động cơ để con tiếp tục thực tập.
  • Con nhận ra ánh sáng sẽ dần dần thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con.
  • Con nhận ra ánh sáng mà con thỉnh gọi cũng sẽ thay đổi hoàn cảnh của hành tinh và con khởi lên tình thương muốn giúp người khác và giúp chính Trái đất.
  • Con cảm thấy tình yêu đậm đà với Mẹ Mary và với mục tiêu của Đại đoàn Thăng thiên nên con không thể nào không đọc bài nguyện.

Chắc con đã thấy là thày đang mô tả một sự chuyển hóa dần dần rời xa những động cơ chú trọng vào mình và hướng tới những động cơ muốn cải thiện điều kiện của mọi sự sống. Đây là chìa khóa cốt yếu để đạt được kết quả tối đa từ bất kỳ kỹ thuật tâm linh nào. Một kỹ thuật tâm linh có giá trị đơn giản sẽ không củng cố ham muốn của tự ngã của con. Kỹ thuật chỉ hữu hiệu khi con tách ra khỏi ham muốn của tự ngã và nối kết lại với ước muốn cao hơn của cái ta tâm linh của con.

Ý 5

Con nói: “Bây giờ đã tới lúc chúng con bỏ cuộc chăng? Hay nghiệp quả của chúng con quá nặng nề cho nên chúng con phải bỏ ra thêm nhiều thì giờ để cải thiện hoàn cảnh sống của chúng con (Con sống ở Mumbai, Ấn độ).”

Con phải luôn luôn nhận ra là khi con sống trong một vùng nào đó, không những con mang nghiệp quả cá nhân của mình mà còn mang thêm nghiệp quả của vùng. Có lý do vì sao con chọn đầu thai trong vùng đó và với nhiều người tâm linh một phần lý do là con muốn giúp cải thiện hoàn cảnh cho mọi nguời trong vùng đó. Nói cách khác, có thể con đã tình nguyện gánh bớt gánh nặng của nghiệp quả tập thể. Con đã thêm vào nghiệp quả cá nhân của con (nếu con có) một phần của nghiệp quả của vùng và chỉ khi nào nghiệp quả này được chuyển hóa con mới có thể cải thiện hoàn cảnh bên ngoài của con.

Do đó, có thể cần thời gian để chuyển hóa gánh nặng này. Có thể con cũng đã chọn không muốn mình hơn người khác trong vùng quá nhiều vì một phần của sứ vụ thiêng liêng của con là giúp họ bước lên bước kế tiếp. Điều này chỉ có thể tiết lộ ra khi con hòa điệu với cái Ta Ki-tô của con, để con bắt đầu nhớ lại sứ vụ thiêng liêng của mình.

Ý 6

Con nói: “Nếu chúng con bỏ trang mạng này, con không nghĩ chúng con sẽ có thể tin tưởng bất cứ cái gì khác về sau nữa.”

Đây chỉ có thể là tự ngã của con đang nói. Cái Ta Ki-tô của con không thể nào nói một câu như vậy. Đây đích thực là mưu đồ của tự ngã mà thày mô tả trong đoạn trước. Con giản dị nhận ra nó là mưu đồ của tự ngã và vứt nó đi như vứt một lời hoàn toàn gian dối.

Khi con thực sự dấn thân vào con đường tâm linh, con sẽ dần dần phát triển đức tin vào chính tiến trình tăng triển. Niềm tin bên trong này vượt quá kinh nghiệm của con với bất kỳ người thày, tổ chức, giáo lý hay kỹ thuật bên ngoài nào.

Nói cách khác, dù con thất vọng vì một kinh nghiệm bên ngoài, không có gì có thể lung lay niềm tin của con vào tiến trình tăng triển nội tâm. Nhiều người đã bị thất vọng bởi một số tổ chức bên ngoài và họ đã cho phép tự ngã dùng điều này làm cái cớ để bỏ chính con đường tu. Nhưng sự thật là chỉ có những chọn lựa của con mới có thể ngăn trở con tiến bộ trên con đường tu. Các người khác, tà lực hay tự ngã của con có thể ảnh hưởng các chọn lựa của con nhưng không ai có thể quyết định thay con.

Ý 7

Con nói: “Chúng con sẽ không là người đồng sáng tạo mà là người lang thang trong vũ trụ này.”

Đây là một phát biểu đáng chú ý phản ánh số phận của nhiều người tìm được một giáo lý hay kỹ thuật tâm linh và cho phép tự ngã của họ làm họ nản lòng. Quả thực có nhiều linh hồn là những kẻ lang thang – dù hoàn cảnh không giống y nhưng hậu quả lại tương tự – và họ từ chối không làm tròn vai trò được dự định là người đồng sáng tạo.

Thế nhưng đây là một chọn lựa họ đã chọn, và chọn lựa này phát sinh từ sự không muốn quyết tâm – một quyết tâm tuyệt đối mà tự ngã không thể lay chuyển nổi – quyết tâm tăng triển nội tâm không bị ảnh hưởng bởi điều kiện bên ngoài. Một ví dụ là không chịu tinh chỉnh cách mình tiếp cận kỹ thuật tâm linh, rồi tìm ra một cái cớ để buông bỏ thực tập thay vì thực tập cho tới khi tâm thức mình thật sự chuyển hóa và tự ngã bị thua, hay ít nhất tự ngã không còn là kẻ trị vì tối thượng cuộc đời của con.

Ý 8

Con nói: “Chúng con là người Công giáo nên chúng con sẽ quay về nếp cũ đi nhà thờ ngày Chủ nhật và khi chúng con rời cõi đời này thì chúng con có thể gặp thày và nói rằng ít ra con đã cố gắng hết sức để theo con đường của thày trên trang mạng này.”

Như thày đã nói, nếu con thực sự quyết tâm tăng triển, con không bao giờ đi lùi lại. Con không phải là người Công giáo vì không nhãn hiệu thế gian nào quy định được con. Con là con của Thượng đế, và con đường của con là vượt quá tất cả nhãn hiệu khiến con chối bỏ tiềm năng Ki-tô của con.

Nếu con nghĩ thày sẽ chấp nhận lời con tuyên bố rằng “ít ra con đã cố gắng hết sức để theo con đường của thày trên trang mạng này”, thì con không biết thày như một vị thày tâm linh. Con nghĩ xem, tại sao thày nói chỉ những ai sẵn sàng bỏ cuộc sống của họ để theo ta mới xứng đáng là học trò của ta?

Con có tiềm năng trở thành đệ tử của thày trong kiếp này. Nhưng để hoàn thành tiềm năng này, con phải từ bỏ tất cả ảo tưởng mà tự ngã của con dùng để giăng bẫy con chối bỏ tiềm năng Ki-tô của con. Cho tới khi con buông bỏ ảo tưởng cuối cùng, con chưa cố gắng hết sức mình.

Con hãy suy ngẫm hoàn cảnh người phú ông không chịu từ bỏ của cải để theo ta (Matthew 19:20-23). Điều này không chỉ áp dụng cho những ai có của cải vật chất. Nó áp dụng cho tất cả những ai có “của cải” trong tâm – nghĩa là dính mắc – mà họ chưa chịu từ bỏ. Và dính mắc đầu tiên hết là các ảo tưởng nhị nguyên của tự ngã khiến con người chối bỏ Ki-tô hay tiềm năng thăng vượt của họ bằng cách đi theo con đường nội tâm cho tới cuối. Mẹ Theresa từng nói, “Hãy cho cho tới khi đau đớn.” Ta nói, “Hãy buông bỏ cho tới khi không còn gì thế phàm để buông bỏ – và lúc đó buông bỏ luôn cả sự trống rỗng và để cho Ánh sáng Thượng đế lấp đầy con.”

Ý 9

Con nói: “Con đã đặt nhiều câu hỏi trước đây nhưng Michaels là một rào cản và nếu con từ bỏ thày và trang mạng này, ông sẽ một phần chịu trách nhiệm về quyết định của con.”

Một trong những ý mà ta cố truyền tải trên trang mạng này là ai cũng có một cái ta Ki-tô là cánh cửa mở giữa tâm ý thức của con và cõi tâm linh – kể cả Hiện diện TA LÀ của con và vị Chân sư Thăng thiên là người thày cá nhân của con. Khi con thật sự bắt đầu có sự liên lạc trực giác với cái ta Ki-tô của con, thì con thấy là không ai có thể đứng giữa con và Thượng đế. Đó là lý do vì sao ta nói vương quốc của Thượng đế ở trong con.

Khi con tăng triển trên con đường tâm linh, con cần chất vấn những giả định đến từ sự dạy dỗ của tôn giáo của con. Trong trường hợp của con là người gốc Công giáo, con cần vượt quá ý tưởng là chỉ có một người mới có thể giao tiếp với cõi tâm linh.

Thày đã cố gắng hết sức trên trang mạng Hãy hỏi Giê-su Thật để bảo đảm là mọi người không xem Kim như một thứ thay thế Giáo hoàng. Cho nên, ông không phải là rào cản giữa con và ta và ông không thể ngăn cản con tìm câu trả lời cho những câu hỏi của con ở bên trong con. Trên trang mạng này, ta trao truyền những giáo lý và dụng cụ thực tiễn để con mở rộng sự kết nối nội tâm của con – nếu con chưa có một sự kết nối nội tâm nào đó con sẽ không bao giờ nhận ra có điều gì có giá trị trên trang mạng này. Vậy con hãy chú tâm tìm câu trả lời bên trong con thay vì dùng người khác làm cái cớ để bỏ con đường tu.

Sự thật là con đường tu là con đường nội tâm – tất cả là giữa con và Thượng đế. Chìa khóa để đi trên con đường tu là con nhận ra con hoàn toàn chịu trách nhiệm các điều kiện bên trong của con, trạng thái tâm thức của con. Mọi chuyện đều là kết quả của những chọn lựa con đã lấy. Không ai có thể ép con lấy một số chọn lựa nào đó, nghĩa là không ai có thể ngăn cản con khắc phục những sai lầm quá khứ của con bằng cách lấy những chọn lựa tốt hơn thay thế chọn lựa cũ.

Chìa khóa thật của tăng triển là KHÔNG BAO GIỜ dùng bất kỳ điều kiện bên ngoài nào làm cái cớ để không tiến bước trên con đường tu – con phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cho hoàn cảnh và sự tăng triển của con. Nếu con cho phép tự ngã khiến con nghĩ rằng người khác chịu một phần trách nhiệm về quyết định CỦA CON, thì con chứng tỏ con chưa HOÀN TOÀN lãnh trách nhiệm cho con đường tu của mình. Như thế thì thái độ này trở thành chướng ngại lớn mà con phải vượt qua để có thể chọn một cách tiếp cận sẽ đem lại những kết quả con mong muốn.

Nghĩ rằng người khác phải chịu trách nhiệm cho sự cứu rỗi của mình là một ví dụ khác của di sản Công giáo, và ta đã trao rất nhiều giáo lý trên trang mạng này để giúp con buông bỏ gánh nặng đó, gánh nặng mà con không cần phải mang nữa.

Hãy bỏ lại lưới của con mà theo ta và ta sẽ biến con thành người chài con người.

Vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, hễ ai mà Ngài nhận làm con, thì cho roi cho vọt (Hebrews 12:6).

Ý 10

Như thày đã tìm cách giải thích trên khắp trang mạng Hãy Hỏi Giê-su Thật, không có con đường máy móc, tự động bảo đảm con được cứu rỗi. Lý do là sự cứu rỗi, đời sống trường tồn là một trạng thái tâm thức chỉ đạt được khi con ngừng đồng hóa mình với tự ngã và bắt đầu đồng hóa mình là Sinh thể tâm linh mà con thực sự là. Như thế, kết quả trên con đường tu hoàn toàn tùy thuộc vào những chọn lựa của con, nghĩa là không lực nào chọn cho con được và không lực nào có thể ngăn cản con lấy những chọn lựa của con. Giấc mơ của con đường giả đưa tới cứu rỗi cho rằng con có thể thực tập một kỹ thuật bên ngoài và đạt thành quả mà không cần thay đổi chính mình, giấc mơ này rất tràn lan và được tự ngã con người và tà lực củng cố mạnh mẽ với mục tiêu ngăn cản loài người thăng thiên. Giấc mơ này đã được nhiều giáo lý và tôn giáo vỏ ngoài cổ xúy, kể cả Giáo hội Công giáo.

Theo góc nhìn của một vị thày tâm linh, thật đáng buồn khi chứng kiến những người chân thành tầm đạo nhưng bị lừa rơi vào cạm bẫy muốn tìm một kết quả bảo đảm và chán nản khi không đạt kết quả. Thày quả thực mong muốn thày có thể giúp tất cả những ai đã mở tâm ra với trang mạng này hiểu rằng đằng sau những mong muốn và chờ đợi vỏ ngoài có một con đường thật, và con đường này tràn đầy niềm vui và sự an bình vô tận khi con biết con đang trôi theo chính Dòng sông Sự sống.

Ngày nào con còn đi tìm kết quả mà điều kiện bên ngoài không cho phép hay kết quả tùy thuộc vào điều kiện bên ngoài thì con chưa thực sự tìm thấy con đường bên trong. Với con đường bên trong, kết quả không tự động nhưng bảo đảm sẽ có, với điều kiện con sẵn sàng thăng vượt chính mình. Cho nên, chìa khóa thực là con sẵn lòng khám phá tất cả những giới hạn của con và con sẵn lòng vượt quá mỗi giới hạn mà con khám phá. Khi con tiếp cận đường tu như thế, con SẼ thấy ngay cả kết quả bên ngoài. Khi con sẵn lòng tìm kiếm trước tiên vương quốc của Thượng đế và sự công chính của Ngài, quả thực tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con, nếu con vẫn còn muốn chúng.

Chúng ta có thể nói rằng ngày nào còn cần thứ gì đó từ thế gian để cảm thấy mình trọn vẹn, thì con không thể có được điều đó. Nhưng ngay khi con hoàn toàn biết là trọn vẹn chỉ có thể đến từ bên trong, thì con có thể có bất cứ điều gì con muốn, bởi vì có hay không có một điều gì đó không ngăn cản con trọn vẹn. Kết quả quan trọng nhất của sự đeo đuổi một giáo lý tâm linh là nhận chân được rằng không điều gì trên thế gian này có thể ngăn cản con là cái con là.

Cái con là không tùy thuộc vào việc con có hay không có. Nó giản dị LÀ. Nhưng để LÀ, con phải ngừng quy định mình dựa trên những gì con có hay không có.

Thế thì các ngươi hãy nên LÀ trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn (Matthew 5:48).

Toàn hảo không có nghĩa là đứng yên, nó nghĩa là con trôi theo Dòng sông sự Sống luôn thăng vượt chính nó trong một vũ khúc hoàn vũ không bao giờ dứt, không đi theo vòng tròn mà theo một vòng xoáy đi lên. Con hãy tìm cách luôn tiến lên và con sẽ quên đi những ý tưởng bỏ cuộc. Giản dị là con BỎ đi ý muốn bỏ cuộc.

Lòng tốt không có nghĩa là con không bao giờ thách thức hay chống đối người khác

Hỏi: Bài truyền đọc của thày Maitreya có nói về lòng tốt và ý nghĩa của lòng tốt trên một hành tinh dày đặc như địa cầu. Con xin hỏi, làm sao chúng con có thể tốt mãi mà không trở thành tấm thảm chùi chân cho người khác?


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Đây quả thực là một câu hỏi khó trả lời trong cái nhìn đường thẳng. Đây là một thử thách mà mọi người cần phải trải qua. Chúng tôi, các chân sư, có nói là ở một điểm nào đó, con có sự mong muốn kiểm soát, có nhu cầu kiểm soát, và con sẵn sàng phóng chiếu ra người khác để có được cảm giác là con đang kiểm soát tình thế. Tất nhiên đây không phải là lòng tốt. Và khi con vượt qua được mong muốn kiểm soát cũng như mọi hình thức hung hãn đối với người khác, thì con bắt đầu biểu hiện được cái mà người ta thường gọi là lòng tốt.

Nhiều người sau đó sẽ trải qua một giai đoạn khi họ gần như đền bù quá độ cho cảm nhận là trước đó họ đã không tốt. Và như vậy họ bước vào một cái nhìn thụ động về lòng tốt, qua đó họ nghĩ rằng lòng tốt có nghĩa là họ không được thách thức hay chống đối một ai. Trên căn bản, họ cho rằng họ phải để yên cho người khác muốn làm gì thì làm, sau đó họ sẽ giơ má bên kia, và đó là lòng tốt. Nhưng khi chính ta tình nguyện xuống địa cầu ở ban đầu, ta có đặt câu hỏi là liệu cư dân trên địa cầu có thể được đánh thức qua lòng tốt hay không. Câu trả lời mà ta nhận được từ các vị hướng dẫn tâm linh của ta thuở đó là: chỉ khi nào ta điều ngự được cả 144 sắc thái của lòng tốt.

Nói cách khác, lòng tốt có một sắc thái đặc thù cho mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức. Khi con đi xuống các tầng tâm thức thấp hơn, hay khi con phải cư xử với một người ở những tầng tâm thức thấp kém, thì nếu con là một tấm thảm chùi chân và cho phép họ làm bất cứ gì họ muốn, đó không phải là lòng tốt đâu con. Đó không phải là cư xử tốt cho họ, bởi vì cách cư xử như vậy sẽ chỉ củng cố trạng thái tâm thức của họ là họ có thể xâm hại người khác mà vẫn không hề hấn chi.

Khi con tương tác với những người ở tâm thức thấp, những loại người hung dữ, thì lòng tốt không phải là để yên cho họ không bị hề hấn chi, mà thực sự là thách thức họ. Không phải thách thức trong nghĩa là con sẽ đánh nhau với họ hay tìm cách tiêu diệt họ, mà con tìm cách khiến cho hành vi của họ rõ ràng hơn cho mọi người, và cuối cùng thì có lẽ cũng rõ ràng hơn cho chính họ.   

Nói cách khác, con nỗ lực chất vấn họ, con đặt vấn đề là tại sao họ lại cư xử như thế, tại sao họ nghĩ đó là điều hợp lý, tại sao họ nghĩ đó là điều cần thiết, tại sao họ lại không quan tâm đến những hậu quả trên người khác, và một lô câu hỏi khác mà con có thể hỏi. Và dĩ nhiên, cũng có khi lòng tốt có nghĩa là nếu họ không nghe, con sẽ bước ra ngoài, lánh xa khỏi họ và để mặc cho họ một mình.   

Như con có thể thấy, đối với mỗi tầng tâm thức của cá nhân con, sẽ có một sắc thái của lòng tốt tương ứng với tầng đó. Đây là điều mà con có thể nhận thức và cố đạt được qua kinh nghiệm trực giác. Chắc chắn con có thể yêu cầu ta giúp, con hãy gọi ta qua bài chú của ta để ta có thể giúp con nắm được lòng tốt ở mức của con nghĩa là gì, và lòng tốt nghĩa là gì khi con phải cư xử với một người ở một mức nào đó. Vậy thì con hãy hỏi và ta sẽ trả lời con, với điều kiện là con có khả năng nhận được trong trạng thái lắng nghe trung dung, không thành kiến.   

Còn hay không còn tự ngã

Hỏi: Hình như 144 tầng tâm thức trên địa cầu có thể được chia ra làm ba cấp độ khác nhau: dưới tầng thứ 48, từ 48 đến 96, và từ 96 đến 144. Vậy nếu đúng như vậy, ở mỗi tầng mỗi chúng ta sẽ phải đối mặt với một mức điểm đạo tâm Ki-tô khác nhau. Trong lần điểm đạo về thử thách của Ki-tô, liệu chúng ta có thể đối mặt với sự thoáng hiện của toàn bộ cấu trúc của tự ngã thay vì chỉ thấy thêm một cái ngã phải cởi bỏ? Hay đây chỉ là thêm một ảo tưởng khiến chúng ta, sau khi đã nhìn thấy toàn cấu trúc của tự ngã, tin rằng chúng ta đã biết hết tất cả và không cần tiếp tục thách thức cái hộp tư duy của chúng ta về tâm thức Ki-tô?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/01/21.

Đây là ảo tưởng mà nhiều người đã rơi vào trong suốt thời gian qua, đặc biệt là những người đã đạt đến một địa vị nào đó là thày tâm linh, là thành viên của một tổ chức tâm linh, hay một địa vị trong một phong trào tâm linh, hoặc bất cứ gì khác. Có rất nhiều người như vậy tự cho mình, hoặc các môn đồ của họ hoặc chính họ cũng tin là họ không còn sót lại chút tự ngã nào. Đôi khi điều này không sai theo định nghĩa của họ về tự ngã, nhưng đó không có nghĩa là họ không còn chút tâm lý nào phải xem xét, bởi vì như chúng tôi có nói, cho mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức đều có một ảo tưởng, một cái ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng đó. Con cần phải tiếp tục xem xét khi nào con vẫn còn hiện thân.

Chúng tôi đã từng nói là con có khả năng vượt qua bất kỳ giới hạn nào miễn là con sẵn sàng xem xét nó. Nếu con khiến cho con tin rằng con không còn chút tự ngã nào hay tâm lý chưa giải quyết, và do đó con không cần phải xem đến tâm lý mình, thì con sẽ không vượt lên trên tầng tâm thức đó được. Con có thể đã đạt tới một tầng tâm thức khá cao, nhưng nếu con không vượt quá tầng này thì con sẽ không phát huy hết tiềm năng cao nhất của con. Rất có thể là con sẽ không thượng thăng đâu. Thực tế là khi con lên đến các tầng cao hơn của phân biện Ki-tô, con bắt đầu thấy rằng ở mỗi tầng có một cái ngã tách biệt nhất định cần được hóa giải. Con nhận ra là con vẫn còn sót lại một số ngã tách biệt. Điều này không làm con phiền hà; nó không có nghĩa là con cảm thấy con không thể biểu đạt được chính mình. Con nhận ra rằng luôn luôn có điều gì đó mà con cần xem đến – con luôn luôn xem xét cách phản ứng của con trước các tình huống. Nếu con sẵn lòng làm điều này, đó là lúc con sẽ thành công.

Bất cứ khi nào con ngừng lại ở một điểm, con sẽ không tiến xa hơn điểm đó. Chỉ giản dị vậy thôi.

Ta biết trên địa cầu có một giấc mơ rất xa xưa là con có thể đạt tới một trạng thái tâm thức cao tối hậu. Nhưng con yêu dấu, đó chỉ là một ảo tưởng mà các sinh thể sa ngã đã phóng chiếu lên, và được nhiều người tâm linh đầy thiện chí củng cố thêm vào. Con có thể thấy đa số các phong trào tâm linh hay tôn giáo đều có niềm tin như thế. Người đạo Cơ đốc sẽ bảo: “Giê-su không có tự ngã.” Người đạo Phật sẽ bảo: “Phật không có tự ngã.” Người đạo Hồi sẽ bảo: “Tiên tri của chúng tôi không có tự ngã.” Trong nhiều phong trào tâm linh khác cũng vậy – trong Summit Lighthouse, người ta tin rằng vị sứ giả không có tự ngã. Trong I AM Movement, người ta tin rằng các sứ giả không có tự ngã. Trong Thông thiên học, người ta tin rằng bà Blavatsky không có tự ngã, vân vân và vân vân.

Con hãy tự xem mình là may mắn khi con đang tham gia vào một sinh hoạt mà vị sứ giả ở đây không cảm thấy nhu cầu phải tuyên bố là mình không có tự ngã, và cũng không muốn người khác nghĩ như vậy. Đó là lý do chúng tôi mới có thể đưa ra những lời giáo lý này. Vì nếu không, con sẽ đến một điểm khi con không thể tiến xa hơn được nữa.

Sứ vụ thiêng liêng, hay tạo kết quả trong thế gian?

Hỏi: Có phải việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình trong kiếp này không là những việc mà mình phải hoàn thành trong thế gian? Nói cách khác, có sự khác biệt nào giữa việc muốn thực hiện một số thành quả trên địa cầu so với việc muốn làm tròn sứ vụ thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong Webinar 2020 – Tăng trưởng Phân biện Ki-tô của Bạn. Đăng ngày 13/1/2021.

Khi con hiểu một sứ vụ thiêng liêng là gì, con sẽ nhận ra rằng sứ vụ thiêng liêng quy định con sẽ thực hiện một số công việc và tạo ra một số thành quả trên địa cầu. Và đó là những điều mà con có khả năng thị hiện. Nếu không thì con đã không quy định những điều đó trong sứ vụ thiêng liêng của con, bởi vì không ai định ra mục tiêu thiếu thực tế cho mình trong kiếp sống này.

Nhưng ngoài điều đó ra, cũng có thể là sau khi con đầu thai, con quyết định bằng cái tâm vỏ ngoài là con muốn thực hiện một số kết quả vỏ ngoài nào đó. Và nếu điều này không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, nó sẽ trở thành một trở ngại cho việc hoàn thành sứ vụ, một trở ngại cho sự phát triển tâm thức của con, vá nó có thể trở thành một sao lãng dẫn con vào ngõ cụt. Sứ vụ thiêng liêng của con không đề ra những mục tiêu mà con không thể thực hiện được trong kiếp này. 

Sứ vụ thiêng liêng dành cho một kiếp sống nhất định. Trong đó cũng có thể có một số mục tiêu dài hạn, nhưng nó quy định mục tiêu cho một kiếp sống nhất định. Nó khả dĩ và thực tế. Nếu con quy định trong sứ vụ là con sẽ tự thăng vượt thì con sẽ muốn tự thăng vượt trong kiếp này.

144 tầng tâm thức và đầu thai

Hỏi: Khi xác thân vật lý của một dòng sống qua đời và vị đó tái đầu thai trong một xác thân mới và một đời sống mới, liệu vị đó sẽ bắt đầu ở cùng mức tâm thức trong số 144 mức như đạt được trong kiếp trước đó hay không? Lý do con hỏi là vì con nghĩ một dòng sống phải đi qua 144 tầng tâm thức nhiều lần chứ không phải một lần duy nhất.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Gia tăng phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Trong đa số trường hợp khi một sinh thể tái đầu thai, người đó sẽ trở lại ở cùng một tầng tâm thức như trong kiếp trước đó. Cũng có một số sinh thể bị suy kém đi trong khi họ ở ngoài xác thân vì họ bị kẹt lại nơi cõi trung giới và họ bị kéo xuống một tầng tâm thức thấp hơn.

Nhưng ngược lại cũng có một số lớn những sinh thể là học trò tâm linh – dù là học trò của chân sư thăng thiên hay là hành giả tu tập theo những giáo lý tâm linh khác – đạt được tăng trưởng giữa hai kiếp đầu thai. Họ giải quyết tâm lý của họ, nhận được sự trợ giúp của các chân sư, và họ vươn lên một mức tâm thức cao hơn. Kết quả là trong kiếp đầu thai mới, họ khởi sự ở một mức cao hơn kiếp trước có thể tới mấy bậc.

Ý tưởng rằng con phải kinh qua tất cả mọi tầng tâm thức nhiều lần như trên đường thẳng, không chính xác. Tất nhiên là sẽ có những người đạt đươc một mức nào đó rồi đứng yên ở đó một thời gian, hay họ bị tụt xuống trở lại. Đây không phải là một tiến trình đường thẳng mà qua đó một khi con đã đạt được một mức nào rồi thì con không thể đi xuống thấp hơn.

Có những người sẽ đi lên đi xuống nhiều lần, và vì vậy có những mức mà họ sẽ kinh qua nhiều lần. Tuy nhiên rất, rất hiếm khi những người đã đạt tới những tầng cao của quả vị Ki-tô mà đi ngược trở xuống.

Phật Thiền định là để bạn thiền quán

Hỏi: Trong bài thỉnh Đông Tây về việc tìm lại những mảnh hồn thất lạc và trong phần thỉnh Ratnasambhava, có đề cập đến Viên ngọc Toại ý tuyệt vời của các thày. Xin các thày vui lòng giải thích đó là gì? 


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Gia tăng Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 11/1/2021.

Thật sự tôi cảm nhận là các thày không muốn giải thích điều này vì các Phật Thiền định, ít nhất trong một số phong trào Phật giáo, được xem là những vị Phật để thiền quán. Nói cách khác, bạn cần thiền quán về các vị Phật này, và mặc dù chúng ta xem Phật Thiền định là chân sư thăng thiên – lả những sinh thể thăng thiên cụ thể – các thày không muốn cho chúng ta một cái gì cụ thể mà tâm đường thẳng có thể sử dụng để phân loại, hiểu biết hay lý giải.

Điều quan trọng về Phật Thiền định là bạn nên dùng các thày trong chức năng của các thày. Chúng ta có thể thiền quán về các thày, chúng ta có thể đọc những bài thỉnh nhắc đến các thày, và trong quyển sách “Hoàn thành Tiềm năng Tâm linh cao nhất” có nhiều bài thỉnh như vậy. Bạn cũng có thể nhìn vào các phẩm chất mà các vị Phật này biểu tượng cùng những mặt tha hóa khi chúng ta làm tha hóa các phẩm chất đó. Bạn có thể thiền quán và thỉnh cầu sáng ngộ trực tiếp từ các Phật Thiền định. Nhưng bạn phải vượt qua tâm đường thẳng và bỏ nó qua bên. Và đó là tại sao các thày không muốn trao truyền một lời dạy mà tâm đường thẳng có thể chụp lấy, vì làm như vậy kỳ thực có thể chặn nghẽn sự hòa điệu trực giác của bạn.  

Làm thế nào thoát khỏi bị choáng ngợp bởi đau khổ của người khác

Hỏi: Con có một độ nhạy cảm rất cao và con cảm nhận được nỗi khổ và nỗi đau của người khác như thể chính con đang trải nghiệm vậy. Nhiều khi con cảm thấy mình là cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện, nhưng thật ra con cũng là cánh cửa mở cho sự đau khổ mà con luôn luôn cảm thấu. Con có cảm giác giống như mình luôn luôn bị ướt đẫm trong nỗi khổ đó và con không thể sung sướng khi biết người ta đang đau khổ đến chừng nào. Con có cảm tưởng chuyện này đã xảy ra từ những kiếp hiện thân đầu tiên, nhưng con vẫn không hiểu được nó. Con tự hỏi làm thế nào người ta có thể nhạy cảm mà không đau khổ khi đầu thai ở đây?

Hơn nữa, con rất chú trọng đến việc tự biểu đạt ra ngoài – cuộc sống, ánh sáng, sức khỏe, phụng sự. Con ưa thích chuyện đó, nhưng gần như toàn bộ sự chú ý của con tập trung vào vấn đề là con có thể làm gì và đem lại những gì cho người chung quanh, và tất nhiên cho tâm lý của con nữa. Không có nó thì đời con trở nên trống trải, vô nghĩa. Có vẻ như hai trạng thái đó gắn liền với nhau, và con không thể phân biệt được cái nào đến từ Hiện diện TA LÀ và cái nào đến từ ngã tách biệt.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 9/1/2021.

Con yêu dấu, có những avatar đã đến địa cầu, thường khi là đã mang sẵn lòng trắc ẩn đối với nỗi đau khổ của con người trên trái đất, cũng như ý muốn đóng góp để giảm bớt nỗi đau khổ đó. Rồi khi con bước vào hiện thân, một trong những kiếp đầu thai đầu tiên của con, khi con phải chạm trán với một chấn thương vô cùng sâu sắc đã sinh tạo ra cái ngã gốc của con (primal self), thì lúc đó cảm thể con đã mở toang ra trước nỗi đau khổ của người khác. Con bị nỗi đau khổ này choáng ngợp đến độ nó trở thành khía cạnh áp đảo ngã gốc của con.

Gần như có thể nói là con đã rút lui khỏi việc hiện thân, và con quyết định là mình không muốn ở đây, mình đã không tới đây để thể hiện con người của mình hay để trải nghiệm bất cứ gì trên trái đất, mà mình đến đây chỉ để giúp đỡ nỗi đau khổ của tha nhân, và do đó nó trở thành điều hệ trọng duy nhất đối với con. Trong khi đó, chính con và tất cả những mục tiêu mà con đến đây để thực hiện, hay Hiện diện TA LÀ của con muốn con thực hiện ở đây, đều không quan trọng nữa. Và con phải kềm hãm khả năng sáng tạo của con cũng như ánh sáng được biểu đạt qua con.

Bây giờ, điều rất, rất quan trọng là nhìn nhận rằng tình trạng đó có mặt là vì con có những lỗ hổng trong cảm thể của con buộc chặt con vào những xoáy lốc tập thể của đau khổ. Thật sự con đang không giúp giảm bớt đau khổ trên hành tinh này bằng cách cho phép mình bị chúng choáng ngợp. Cho nên con có thể khởi sự đọc bài chú, bài thỉnh, để cầu thỉnh sự bảo vệ cho cảm thể của con, kêu gọi Astrea cắt đứt để con được giải thoát khỏi những sợi dây ràng buộc con vào tâm thức tập thể, vào cõi trung giới.

Nhưng dài hạn hơn, con cần phát hiện những cái ngã, con cần khám phá quyết định đã khiến con mở lớn cảm thể của mình và nghĩ mình phải làm chuyện đó. Con cũng sẽ cần đối phó với một số phóng chiếu, ngay cả một số ngã tách biệt, bảo con sẽ là người ích kỷ nếu con đóng cửa lòng nhạy cảm của mình lại đối với người khác. Nhưng như Giê-su vừa giải thích, con không hề ích kỷ khi con không cho phép mình bị cảm xúc của người khác kéo mình xuống. Và nếu con tới mức không còn vui hưởng cuộc đời được nữa, và nếu con không thể biểu hiện bản thân mình một cách tích cực, thì con không đang đem lại lợi ích cho hành tinh. Con không đang giúp cho tâm thức tập thể.

Cho nên con cần sử dụng những dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con để giải quyết những cái ngã này, giải quyết chấn thương nhập đời cùng cái ngã gốc, và đạt đến chỗ tìm lại thái độ tích cực khi sống trên trái đất. Con cũng cần nhận ra – như Giê-su cũng nói, nhưng trong một nghĩa hơi khác – là con phải cho phép quyền tự quyết trải bày ra. Loài người đã sử dụng quyền tự quyết của mình để tạo ra đau khổ hiện tại của mình. Con không thể kiểm soát được quyền tự quyết của người khác, do đó không có lý do gì con phải tạm dừng quyền tự do chọn lựa của con hầu cảm thấy nỗi đau khổ của người khác. Con có quyền vươn lên cao hơn nỗi đau khổ đó và đạt tới điểm chính cá nhân con có thể sông trên hành tinh này mà không bị đau khổ. Hơn thế, con có thể sống trên hành tinh này và thể hiện ánh sáng, thể hiện cá thể và sự sáng tạo tuôn chảy từ Hiên diện TA LÀ của con. Nói cho cùng, chính việc thể hiện khả năng sáng tạo này mới nâng tâm thức tập thể lên cao hơn và cải thiện các điều kiện trên hành tinh.

Con không giảm bớt nỗi khổ của con người bằng cách cho phép mình cảm thấy và bị choáng ngợp bởi nỗi bất hạnh của người khác. Ta biết, sự bất hạnh luôn tìm kiếm kẻ đồng hành, nhưng điều đó không giảm bớt sự bất hạnh. Cho nên một lần nữa, nếu con cho phép mình tiếp tục cảm thấy như hiện nay và tắt đi khả năng sáng tạo của mình, thì con là một phần của vấn đề chứ không là một phần của giải pháp. Con đã đến địa cầu vì con muốn là một phần của giải pháp, do đó con cần nối kết lại với động lực nguyên thủy của mình. Con cần nối kết lại với đấng đã tạo ra động lực đó tức là Hiện diện TA LÀ của con, hầu con biểu lộ được điều gì đó sáng tạo và tích cực cho hành tinh.

Các chân sư làm việc với con người ở mức trực giác

Hỏi: Con có một người bạn là học trò của chân sư, được chẩn đoán mắc bệnh tâm thần phân liệt. Đôi khi anh ấy nghe thấy giọng nói trong đầu mình. Trong phần lớn đời anh, anh không bị hiện tượng này. Chỉ từ khi quan tâm đến những vấn đề huyền bí, anh bị thu hút bởi ý tưởng rằng tâm con người giống như một chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được làn sóng của nhiều đài phát thanh, nhiều mức rung động hay tầng cõi khác nhau. Anh bị thu hút bởi ý tưởng anh có thể bắt liên lạc với những sinh thể phi vật chất.

Sau đó anh bắt đầu nghe thấy giọng nói trong đầu bảo anh phải làm gì. Đời anh xuống dốc từ dạo đó. Cho tới khi anh tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên và anh bắt đầu tập bài cầu nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael, anh cũng quyết định anh không muốn nghe thấy chúng nữa. Các giọng nói bặt hẳn, nhưng sau vài năm chúng lại trở lại. Con đoán là vì anh bắt đầu muốn giao tiếp với các chân sư, có thể vì anh cho rằng anh đã tiến đủ để nghe thấy chân sư.

Cá nhân con không nghĩ là anh đang giao tiếp với các chân sư đích thực, nhưng anh biết hơn con. Có thể đó chỉ là những lực tâm linh thấp kém mà anh đang liên lạc. Bạn con tin chắc là người ta có thể nghe được chân sư nói chuyện với mình y như giọng nói bình thường. Con không nghĩ như vậy, vì theo kinh nghiệm bản thân, con chỉ cảm được tình thương của chân sư trong tim con, đôi khi là sự thôi thúc nhè nhẹ chứ không bao giờ có giọng nói. Tất nhiên, kinh nghiệm của con rất hạn hẹp, Người ta có thể nào nghe thấy chân sư như giọng nói trong đầu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Không thể quả quyết rằng không ai có thể nghe được các chân sư theo như lời con, “một giọng nói trong đầu”. Có một số trường hợp con có thể nhận được một lời cảnh báo mà con nghe thấy như một giọng nói trong đầu. Nhưng tất nhiên, đó không phải là cách giao tiếp thông thường của các chân sư. Đó chỉ xảy ra trong một số tình thế nhất định, thường là một tình thế căng thẳng khi người ta nhận được cảnh báo rõ ràng là đừng làm chuyện này, phải làm chuyện kia. Khi đó, họ có thể cảm nhận đó là giọng nói trong đầu. Điều đó có thể xảy ra như vậy, hoặc cũng có thể cái ta Ki-tô của họ đang phóng chiếu ra một ý tưởng mà tâm họ biến đổi thành một giọng nói nghe được bằng tai.     

Rõ ràng là chúng tôi, các chân sư, không nói qua giọng nói như vậy, và đó là lý do chúng tôi phải nói qua trung gian một sứ giả để biến thành giọng mà con có thể nghe thấy. Và chúng tôi không nói chuyện trong đầu mọi người bởi vì – trên căn bản – đó là một sự vi phạm quyền tự quyết ngay cả khi người đó muốn vậy. Chúng tôi làm việc với con người trên một mức độ trực giác hơn, vì như vậy mỗi người sẽ nhiều tự do hơn trong chọn lựa.   

Ngắn gọn, chúng tôi có thể nói như sau: “Nếu con nghe thấy một giọng nói trong đầu bảo con phải làm một điều gì đó – hay không làm một điều gì đó – và nếu đó không phải là một tình huống khủng hoảng cấp bách, thì giọng đó không đến từ các chân sư thăng thiên.” Chúng tôi không tìm cách thiết lập quan hệ với con người mà cứ luôn luôn bảo họ phải làm điều này hay không làm điều kia. Chắc chắn chúng tôi không muốn, đặc biệt là trong những tình huống thường nhật, bảo con phải sống cuộc đời của con như thế nào. Chúng tôi không bảo con đi ra cửa hàng mua cái này hay không mua cái kia, bởi vì đó là trách nhiệm của con lấy những quyết định đó.

Tất nhiên là có những người mong muốn – có thể là một mong muốn có vẻ vô hại – giao tiếp với những sinh thể ở những cõi cao hơn. Trên thế giới có rất, rất nhiều người đồng bóng cũng có mong muốn có vẻ vô hại là giao tiếp với những sinh thể cao hơn, đem lại một số giáo lý có khả năng giúp ích nhân loại. Tuy nhiên nếu con đi vào sâu hơn trong tâm lý, những người đó có mong muốn làm người đặc biệt, mong muốn làm được những điều mà người khác không thể làm, mong muốn được người khác khâm phục và ngưỡng mộ. Có thể họ không ý thức được điều đó nhưng dù sao, đó cũng là một mong muốn không trong sáng.   

Hiển nhiên là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, sẽ không bao giờ đáp lại mong muốn đó. Nhưng trong các cõi bản sắc thấp, lý trí và ngay cả tình cảm, sẽ có những sinh thể sẵn sàng đáp lại nguyện vọng này. Và các sinh thể này sẽ cho người ta loại giao tiếp mà người ta mong muốn, bởi vì nhờ vậy mà các sinh thể này mới có thể bòn rút năng lượng của con người. Và nếu một người – chẳng hạn một người đồng bóng – được nhiều người hưởng ứng thì người đó cũng sẽ có thể khai thác năng lượng của những kẻ theo mình.

Trong trường hợp mà con đề cập, con có trực giác đúng đắn. Và cũng vậy, điều này nói chung cũng đúng đắn đối với nhiều người khác bảo rằng họ có kiểu giao tiếp này. Kiểu đó không đến từ các chân sư thăng thiên, bất kể họ tin tưởng như thế nào.

Tại sao một số phụ nữ cứ thu hút những đàn ông lạm dụng mình?

Hỏi: Từ khi còn nhỏ, con đã trải nghiệm rất nhiều sự hung hãn tình cảm từ cha con, rồi khi trưởng thành, con lại bị như vậy từ phái nam. Suốt đời con đã thu hút những người đàn ông khép kín về mặt tình cảm và chỉ chú trọng đến tình dục và dâm ô. Con đã kinh qua hai quan hệ lạm dụng vô cùng tồi tệ. Sau đó con tìm được con đường tâm linh và con đã nỗ lực rất nhiều để cải sửa bản thân cũng như tâm lý của con. Mặc dù con đã giải quyết được rất nhiều về mặt tâm lý nhưng con nghiệm ra là có một phần trong con vẫn muốn một điều gì đó từ loại đàn ông đó. Con ý thức được là loại đàn ông đó không tốt gì cho mình, nhưng con nghiệm thấy – mặc dù có những người đàn ông trìu mến cũng mong muốn con để ý tới họ – là có một phần trong con vẫn muốn nhận được sự chú ý và tiếp xúc từ những đàn ông mà con chỉ có thể có mối quan hệ độc hại.

Xin thày có thể giải thích cho con cơ chế đó vận hành như thế nào? Tại sao cái ngã đó, cái phần đó của con, lại muốn được những đàn ông đó chú ý và tiếp xúc đến như vậy, trong khi họ chỉ cốt ý lấy tất cả những gì họ có thể lấy mà không chia sẻ tình cảm? Cái gì ở trong con khiến con từ chối tình yêu từ những người đàn ông tốt bụng đang ở trong đời con và quan tâm đến con? Tại sao trong số tất cả những người đàn ông đó, con lại chỉ muốn đúng cái anh chàng không thích hợp với con? 

Con hiện không có quan hệ nào và con không dính dáng tới đàn ông nào, nhưng con nghiệm được điều gì xảy ra bên trong. Con nhìn thấy những thành phần trong con, và con muốn được thêm sáng ngộ về nguyên nhân tại sao nó lại xảy ra khi con còn tỉnh táo. Hiện tại, con đang làm thông sạch cả bốn thể phàm bằng cách bước trên con đường bảy tia sáng và con đọc bài thỉnh trong cuốn sách của Mẹ Mary “Course In Abundance” (Khóa tu về sự dồi dào). Xin thày cho con một chút sáng ngộ để con nhìn thấy rõ hơn.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Trước hết, con sẽ được ích lợi biết rằng con hoàn toàn không phải là người phụ nữ đầu tiên hay người phụ nữ duy nhất có cơ chế này. Rất, rất nhiều phụ nữ cũng từng có và đang có như vậy – thật ra người ta đã có viết sách về hiện tượng này mà con sẽ được lợi ích nếu con tìm đọc. Những cuốn sách đó có thể bổ sung cho những lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về tâm lý, và cũng sẽ giúp con nhận được nhiều nguồn sáng ngộ khác nhau. Bây giờ, hiện tượng mà con nói đến có thể có một số nguyên nhân riêng rẽ, nhưng ta sẽ tập trung vào ít nhất ba nguyên nhân.

Trước hết, một số phụ nữ có một mặc cảm thua kém, họ không cảm thấy là mình xứng đáng. Thường là vì họ không cảm thấy mình xứng đáng được người khác chú ý. Cho nên con thu hút những người đàn ông ngược đãi con, vì mặc dù họ ngược đãi con thật, nhưng ít ra họ chú ý đến con. Và sự chú ý này, cho dù là ngược đãi đi nữa, vẫn còn hơn là sự làm ngơ. Đây là một nguyên do – ta không bảo là nó áp dụng cho mọi phụ nữ, nhưng đó là một nguyên do.

Một lý do khác là trong một tiền kiếp, con đã bị tổn thương trầm trọng bởi phái nam, thường khi bởi một người đàn ông đã gần gũi với con suốt nhiều kiếp đầu thai. Cho nên con mang trong con một cảm nhận sâu xa là con không thể tin tưởng phái nam. Và hiện tượng lạ lùng xảy ra ở đây là sự cảm nhận mình không thể tin đàn ông thường bắt nguồn từ mối quan hệ với một người mà con tin tưởng đến độ con đã mở lòng ra với người đó. Rồi người đó đã lợi dụng sự cởi mở của con để làm hại và khiến con đau đớn. Do đó, con có một cái ngã đã quyết định là mình sẽ không bao giờ mở lòng ra với bất cứ đàn ông nào nữa. Đó là tại sao con đã từ chối những người đàn ông kia mà đáng lý con đã có thể nối kết sâu sắc hơn. Và con lại quan hệ với những người đàn ông này, cho dù là họ hiếp đáp con, nhưng đối với con, đó không phải là yếu tố quyết định. Vì yếu tố quyết định là con không bao giờ có thể có một mối liên hệ sâu xa gì với những người này cho nên không có nguy cơ con mở lòng ra với họ.

Bây giờ có một yếu tố thứ ba có thể xen vào. Đối với một số các con, chuyện này trở ngược về thời chấn thương nhập đời của con, trở ngược về lần đầu tiên con đầu thai trên địa cầu. Khi đó, con đã bị hiếp đáp nghiêm trọng bởi những khuôn mặt thẩm quyền thuộc phái nam. Và lý do con cứ thu hút những đàn ông loại đó có thể, phần nào, do hai nguyên nhân ta vừa đề cập ở trên – nó đã tác động đến tâm lý của con. Nhưng nguyên nhân thật sự là con muốn giải quyết chấn thương nhập đời của con. Do đó, con cứ không ngừng thu hút những đàn ông hiếp đáp con đến độ con khó lòng nào bỏ qua được vấn đề. Nói cách khác, nếu con có một mối quan hệ bình thường, thương yêu, với một người đàn ông, thì có thể con sẽ đẩy vấn đề đó sang một bên, tức là hoặc con sẽ dời chuyện giải quyết chấn thương nhập đời lại một thời gian sau, hoặc con sẽ không giải quyết cho đến hết kiếp này. Cho nên nếu có thể nói như vậy, trong tiềm thức con đã tự ép buộc mình phải đối đầu với vấn đề. 

Tất nhiên chúng tôi đã có giảng dạy về ngã tách biệt, và rõ ràng cơ chế nói trên dựa trên một cái ngã tách biệt, hoặc trong nhiều trường hợp, trên mấy cái ngã tách biệt mang sẵn một số niềm tin về bản thân con và về quan hệ của con với đàn ông. Có thể con tin là mình không thể tin tưởng đàn ông, có thể con tin là mình không thật sự xứng đáng sống với một người đàn ông cho nên mình phải chịu đựng sự lạm dụng của họ, có thể con tin là mình không xứng đáng được người khác chú ý. Và cũng có thể có những niềm tin khác nữa, vì mỗi cá nhân đều có những niềm tin khác nhau. 

Nhưng nếu con sử dụng những giáo lý mà chúng tôi đã ban ra trong sách “Healing Your Spiritual Traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) cũng như một số sách khác*, con sẽ có khả năng tiến bước. Một lần nữa, con có thể được ích lợi nếu con đọc thêm sách về đề tài này, vì nó có thể giúp con tìm cách trị liệu, hoặc có lẽ nó sẽ giúp con tìm ra một nhóm gặp gỡ của phụ nữ nơi con có thể tâm tình. Thật ra đang có một nhu cầu lập ra những nhóm hỗ trợ cho những phụ nữ đã có mối quan hệ lạm dụng với phái nam trong kiếp này. Con thử nhìn xem con có thể tìm được một nhóm như vậy hay không, hoặc con đứng ra thành lập một nhóm nếu con không thể tìm thấy.   

* [Những cuốn sách này gồm có 4 quyển: Healing Your Spiritual Traumas, Fulfilling Your Divine Plan, Fulfilling Your Highest Spiritual Potential, và Making Peace with Being on Earth]

Khi câu hỏi không còn thích đáng, đó là lúc con đã thoát khỏi nó

Hỏi: Trước khi trở thành một học trò của chân sư thăng thiên, con đã nỗ lực nhớ lại phần nào những kiếp trước của con và giải tỏa những cảm xúc gắn liền với chúng. Bây giờ con đã đọc quyển “Những kiếp của tôi” và “Chữa lành Chấn thương Tâm linh” thì con tự hỏi liệu con có cần nhớ lại vết thương nguyên thủy của mình để chữa lành hay không? Con có cảm nhận mang máng rằng con là một avatar, nhưng vì không có ký ức đặc trưng nào cho nên cảm nhận đó còn trừu tượng. Liệu một ngày kia con sẽ nhớ lại một cách tự nhiên hay sẽ hoàn toàn không nhớ? Con không lo lắng về chuyện này, đúng hơn là con mong muốn một sự hướng dẫn về cách con có thể tiếp tục làm việc trên nó. Làm thế nào con biết được khi nào con sẽ thoát khỏi nó?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Như ta có viết trong sách, con không tuyệt đối nhất thiết phải nhớ lại những chi tiết cụ thể của chấn thương nhập đời của con, hoàn cảnh mà nó đã xảy ra. Đối với một số người, việc nhớ lại có thể là một lợi điểm, và nếu vậy thì nó sẽ tự phát. Con không cần phải tìm cách ép buộc cho nó xảy ra, và con nghĩ rất đúng khi con không quan tâm đến chuyện đó. Cũng vậy, sẽ có một số người nhớ được cuộc sống của họ trên hành tinh tự nhiên trước khi họ đến địa cầu, nhưng điều này cũng không cần thiết cho mọi người. Một lần nữa, không có lý do gì để con phải bận tâm hay bị dính mắc.

Làm thế nào con biết được con đã thoát ra khỏi chấn thương? Con sẽ biết được phần nào là do con nhận ra chấn thương đã khiến con khoác vào một niềm tin nào đó, một tư duy nào đó. Như vị sứ giả này cho ví dụ, ông nhận ra là ông đã luôn luôn bị thúc đẩy bởi cảm nhận mình phải làm gì đó trên địa cầu. Và khi ông đạt tới điểm ông giải quyết được chấn thương, giải quyết được niềm tin đó, ông đã cảm thấy một sự giải toả tự phát vô cùng mạnh mẽ, qua đó ông nhận ra rằng: “Tôi không cần làm gì hết trên địa cầu.” Nhiều người trong số các con đã tạo dựng những niềm tin khác dựa trên chấn thương nhập đời của mình. 

Một khi con đạt tới điểm nhận ra điều đó, rằng niềm tin cơ bản đó đã tô màu, đã làm nền tảng cho mối quan hệ của con với địa cầu, đã làm nền tảng cho cách con tự nhìn mình trên địa cầu và những gì con nghĩ con đã đến đây để thực hiện hay không thực hiện, một khi con tới điểm nhìn thấy niềm tin đó, thì con sẽ cảm thấy một sự giải tỏa tự phát trong nội tâm, và trong sự giải tỏa đó con buông nó ra, thế rồi con biết là con đã giải thoát khỏi nó.

Con cũng có thể nói như chúng tôi đã từng nói: Khi câu hỏi không còn thích đáng nữa thì đó là lúc con đã thoát khỏi nó.

Đường tu thường là những chu kỳ có thể xem là thăng trầm

Hỏi: Thỉnh thoảng con nghĩ là chúng con, cac học trò của chân sư thăng thiên, trải qua một giai đọan ngắn mà con xin mô tả như sau. Con có cảm giác như con đi thụt lùi, con kinh qua một vòng xoáy hướng hạ, con bước vào trường đời cay đắng, nhưng sau đó con quay trở lại trải nghiệm cái ta mở rộng và biết một điều gì đó rõ ràng hơn. Cảm giác đó là một giai đoạn ngắn ngủi, ít đau đớn hơn trước. Con bắt đầu nghĩ là thực sự con đã không đi thụt lùi, mà con kinh qua một số thời kỳ trầm mình ngăn ngắn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Đấy, con đường tâm linh hẳn là có nhiều giai đoạn khác nhau, và việc chúng ta xem xét vấn đề này rất, rất quan trọng.

Một khía cạnh của vấn đề này là nhiều người tâm linh, khi họ tìm thấy phong trào tâm linh đầu tiên của họ, thường mang một cái nhìn phần nào thiếu thực tế về con đường tâm linh. Họ thường có xu hướng nghĩ rằng giờ đây họ đã tìm ra phong trào tâm linh này, và nó khác hẳn với những gì họ đã lớn lên và sống qua, thì một cách nào đó họ đã quẹo sang một con đường mới. Và từ giờ trở đi, họ chỉ có thể đi lên, mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, và họ không thể đi thụt lùi, cho nên họ không thể cho phép họ đi thụt lùi. Và do đó, một số người bị rơi vào phản ứng rất tiêu cực khi họ đi thụt lùi.

Nhưng điều con cần nhìn nhận ở đây là nhiều người trong các con đã lớn lên trong một xã hội phi tâm linh, thậm chí còn phản tâm linh. Rồi đến một thời điểm con tìm ra một giáo lý tâm linh thì con nhận ra là có một con đường tâm linh. Lúc đầu, con gần như ở trong một trạng thái phấn khích: con sẽ khám phá con đường tâm linh nghĩa là gì, có những giáo lý tâm linh nào và những giáo lý đó có ý nghĩa với con làm sao. Đại loại con ở trong một giai đoạn ngây thơ.  

Thực tế là trong nhiều trường hợp, chúng tôi các chân sư thăng thiên – ngay cả khi con không hay biết gì về chúng tôi – cũng sẽ giữ lại, hay gánh dùm cho con, một phần nghiệp của con. Và vì con đang cảm thấy phấn chấn cho nên theo một nghĩa nào đó, con cũng vươn lên xa hơn tâm lý bình thường của con. Điều này cũng phần nào tương tự như khi con đem lòng yêu thương một ai đó, con kinh qua giai đoạn hưng phấn đó khi con tưởng như mình là một con người khác, và người con yêu cũng là một con người khác, và mọi chuyện sẽ tuyệt vời, mãi mãi tuyệt vời. Con được phép có giai đoạn hưng phấn này.

Nhưng rồi sẽ tới một điểm khi giờ đây con cần khởi sự công việc khó khăn hơn. Con cần nhận lại một số nghiệp chướng của con, con cần bắt đầu làm công việc cải sửa tâm lý của con. Thường thường đây là khi con có thể trải nghiệm con đi giật lùi. Bỗng nhiên mọi chuyện trở nên nghiêm trọng hơn, nặng nề hơn, dường như khó khăn hơn. Có vẻ như con không tinh tấn nhiều như trước nữa. Đơn giản, đây chỉ là một giai đoạn tự nhiên.

Chúng ta có thể giải thích điều này một cách khác và nói rằng khi con tìm ra đường tu lần đầu, con đang cố cải sửa một vài vấn đề tương đối dễ giải quyết. Điều này cho con một cảm giác thăng tiến, và đây là một niềm khích lệ trên đường tu.

Nhưng điều không thể tránh khỏi là sau khi con làm xong việc đó, con sẽ bắt đầu phải giải quyết một số vấn đề sâu sắc hơn, nặng nề hơn, tốn nhiều thời gian hơn và không mấy dễ giải quyết. Và do đó con sẽ kinh qua một giai đoạn có vẻ nặng nhọc hơn.

Rồi khi con giải quyết được điều này thì một lần nữa, con lại có thể có một giai đoạn cảm thấy mọi chuyện nhẹ nhàng, dễ dàng hơn. Sau đó con lại có thể chạm trán với một số vấn đề nặng nề hơn mà con cần giải quyết. Thường khi đường tu của con sẽ là những chu kỳ mà con có thể xem là có lúc thăng, lúc trầm.

Nhưng rồi sẽ tới một điểm sau khi con đã bước trên đường đạo lâu đủ, con nhận ra tất cả chỉ là lẽ tự nhiên, con chấp nhận nó, con không tự dằn vặt mỗi khi còn tuột dốc nhất thời, hay mỗi khi con cảm thấy mình đang xuống dốc cho dù con không hề xuống dốc. Con chỉ chấp nhận đó là cách mọi chuyện trải ra. Con nỗ lực cải sửa, con sử dụng các dụng cụ để nhìn vào tâm lý mình và con giải quyết nó.

Cũng có thể có một số người khi họ tìm ra đường tu và trải qua giai đoạn phấn khích, thì họ cảm thấy họ đang tiến bộ kinh khủng nhưng trên thực tế, họ không tiến bộ nhiều đến vậy. Chỉ là bởi vì họ có một cảm giác tương phản rất lớn giữa thời họ chưa tìm ra giáo lý tâm linh và sau khi họ tìm ra, cho nên họ tưởng là họ đang tinh tấn nhưng kỳ thực thì không.

Lý do là vì họ chưa hiểu thấu đường tu tâm linh là gì. Họ nhìn vào đó như một con đường vỏ ngoài, và ngay cả một giáo lý của chân sư thăng thiên cũng có thể bị một số người cảm nhận như một con đường vỏ ngoài. Họ nghĩ là họ chỉ việc học hỏi giáo lý, gia nhập một tổ chức, đọc thỉnh đọc chú thì một ngày kia, đùng một cái, họ sẽ thăng thiên. Nhiều người từng nghĩ như vậy, và nhiều người vẫn còn nghĩ như vậy – tuy không nhiều lắm trong đợt truyền pháp này, nhờ các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về đề tài này cũng như nhờ các con đã sẵn lòng ôm lấy những lời dạy đó.

Có những người nghĩ rằng họ đang tiến bộ, nhưng không thật là vậy. Xong sẽ tới điểm họ bắt đầu nhận ra là họ không còn tiến bộ nữa. Không phải là họ không tiến bộ nữa mà kỳ thực họ chưa bao giờ tiến bộ, vì họ đã không hiểu đường tu là gì. Họ không bỏ công ra giải quyết tâm lý, họ cứ tưởng là họ có thể tiếp tục làm những chuyện vỏ ngoài mặt nổi kia thì sẽ đạt được kết quả. Cho nên nhiều người đã trở nên thất vọng, chán nản, tức giận, họ đổ lỗi cho vị đạo sư, đổ lỗi cho đường tu, đổ lỗi cho các chân sư thăng thiên, bất kể… thay vì nhận lấy trách nhiệm và sẵn lòng thay đổi chính bản thân họ.  

Cũng có một số người chiêm nghiệm mình đã có tinh tấn, họ đang giải quyết một số vấn đề trong tâm lý, nhưng rồi họ chạm trán với một vấn đề sâu xa hơn mà họ không sẵn lòng xem xét, ho không sẵn lòng nhìn nhận là họ có mang vấn đề đó. Điều này có thể khiến họ giậm chân tại chỗ trong một thời gian, có khi trong suốt phần đời còn lại của họ, nhưng trong một số trường hợp thì sau một thời gian, họ đột nhiên xoay chuyển. Và giờ đây họ sẵn sàng nhìn vào vấn đề, họ sẵn sàng giải quyết nó, và một lần nữa họ lại cảm thấy mình đang tinh tấn.

Thêm một vấn đề nữa là đối với nhiều người, Sứ vụ Thiêng liêng của con có trù liệu là con sẽ gặp một phong trào tâm linh nào đó, con sẽ tăng triển ở một vận tốc nào đó. Nhưng khi con tới điểm có những vấn đề mà con không sẵn sàng xem xét, không sẵn sàng giải quyết, thì con bắt đầu tụt hậu so với những gì con đã có thể đạt được nếu con đi theo con đường tối ưu. Và con có thể cảm thấy đó như một gánh nặng lớn hơn, như con không đang tiến triển đúng mức. Nhưng trong nhiều trường hợp, con sẽ không thể thực sự hiểu được nguyên do tại sao, ít ra với tâm vỏ ngoài. Đây là điểm mà một lần nữa, con có thể nhìn vào những gì con không sẵn sàng nhìn vào, những gì con không sẵn lòng nhìn nhận.

Điều sẽ giúp ích con rất nhiều là nhận ra rằng trên con đường tâm linh, tất cả chúng ta, tất cả các con đang còn đầu thai lẫn tất cả những ai đã từng đầu thai, sẽ có một số vấn đề mà chúng ta cưỡng lại không chịu xem xét. Chúng ta có một hình ảnh nào đó về chính mình như một đệ tử tâm linh tốt đẹp, và chúng ta thường có xu hướng nghĩ rằng mình không được có một số vấn đề tâm lý.

Vị sứ giả này đã nhìn thấy điều này một vài lần trong tâm lý của ông nhưng ông không sẵn sàng thừa nhận mình đang có một vấn đề tâm lý nhất định nào đó. Ông cho rằng ông không được có nó, cho nên xu hướng của ông là phớt lờ nó đi. Ông sẵn lòng cải sửa một số vấn đề khác, nhưng trong một thời gian, ông không chịu cải sửa vấn đề này. Cuối cùng thì cách đây ít lâu, ông xoay chuyển, ông ngộ ra là thật sự không có nghĩa lý gì mà phán xét giá trị kiểu đó và bảo rằng có những yếu tố trong tâm lý con người là tốt hay xấu hơn, vì tất cả chỉ là tâm lý con người và tất cả phải được loại bỏ. Cho nên không có gì phải xấu hổ, cũng không có chấn thương gây ra do mình mang một vấn đề tâm lý.

Khi con nhận xét địa cầu là loại hành tinh dày đặc đến chừng nào, khi con thấy biết bao nhiêu kiếp con đã sống trên hành tinh này, biết bao nhiêu cảnh huống khác nhau con đã trải qua, thì điều gần như chắc chắn là con đã từng mang tất cả mọi vấn đề tâm lý mà con người đã biết tới. Và đây không phải là chuyện lập ra một cách phán xét giá trị theo đó nếu con là một người tâm linh thì con không được có một vấn đề nào đó. Đây chỉ là chuyện nhìn vào tâm lý mình, nhìn ra các vấn đề trong đó, rồi ra tay giải quyết y như thể chúng là những chuyện phải được giải quyết và vượt qua. Điều này có thể giúp con tinh tấn vượt bực – khi con sẵn lòng nhìn vào tất cả mọi vấn đề bất kể chúng là gì.  

Trên cơ bản, chúng ta có thể nói là nếu con cảm thấy mình đi thụt lùi hay rơi vào một vòng xoáy hướng hạ, thì luôn luôn đó là vì có một cái gì đó mà con không sẵn lòng xem xét – và trong nhiều trường hợp, vì con cảm nhận là con không được có vấn đề đó. Cho nên thay vì giải quyết nó, con lại cố nhón bước đi vòng chung quanh, con chối bỏ nó, con giải thích như nó không có, hay con chú tâm vào những công việc khác, nhưng trong khi đó thì cách duy nhất để quay trở lại con đường tinh tấn tối đa là con chỉ nhìn vào vấn đề, giải quyết nó như con vẫn giải quyết mọi vấn đề khác, và vượt qua nó.

Bây giờ thì con đã có những lời dạy này – sách Chữa lành các Chấn thương Tâm linh và những quyển khác trong cùng bộ – con đã có các dụng cụ để không phải rơi vào những vòng xoáy đi xuống đó, con đã có các dụng cụ để không phải trải qua những bước thăng trầm trên đường tu, thì con có khả năng tiến bước một cách vững vàng hơn. Con vẫn sẽ gặp một số chuyện cần thời gian để giải quyết, nhưng con không phải cảm thấy đó là lùi bước hay rơi vào vòng xoáy hướng hạ. Con vẫn có thể nhìn thấy đó chỉ là một phần của đường tu, rằng con đang gặp một cái gì sẽ tốn thời gian hơn một chút, nhưng con vẫn thăng tiến, con vẫn đang bước tới trên đường đạo.

Cảm thấy hôn trầm và ngủ gà ngủ gật khi thực tập tâm linh

Hỏi: Các chân sư đã trao truyền những bài hình dung dùng làm dụng cụ tâm linh giống như bài hình dung Chữa lành các chấn thương tâm linh của con. Con muốn hỏi con làm được gì khi thực tập hình dung khiến con bị hôn trầm, ngủ gà ngủ gật và nhiều lần con không làm theo bài hình dung được. Khi thiền tập con cũng bị hôn trầm. Đôi khi đọc thỉnh con cũng hôn trầm. Nó xảy ra bất cứ lúc nào trong ngày, cho dù con đã có một giấc ngủ ngon đêm trước đó.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong dịp Khóa học trực tuyến 2020 – Chọn tương lai cho nước Mỹ. Đăng ngày 19/10/2020.

À, nếu chuyện này xảy ra nhiều lần, giản dị là con cần ngưng tập hình dung hay tập thiền định. Con sẽ phải tìm một thực tập tâm linh khác không làm con ngủ gà ngủ gật, ít ra là trong một thời gian. Lẽ tất nhiên, con có thể buồn ngủ khi con đọc bài thỉnh nhưng con có thể khắc phục điều này bằng cách thay đổi tốc độ đọc. Nếu con cảm thấy buồn ngủ, con hãy đọc một số câu thơ chậm hơn, đọc dõng dạc hơn, sau đó con trở lại tốc độ bình thường hay con cũng có thể đọc nhanh hơn. Hoặc nếu con không khắc phục được vấn đề với bài thỉnh, con hãy dùng bài chú. Đọc bài chú khó buồn ngủ hơn vì bài chú có tốc độ nhanh hơn và nhịp nhàng hơn, nhưng nếu con vẫn buồn ngủ, con hãy đọc chậm hơn, dõng dạc hơn, đọc theo nhịp điệu ngắt quãng (staccato rhythm), đọc như thế sẽ giúp con tỉnh thức.

Lẽ tất nhiên, con cũng có thể nhận ra rằng hôn trầm do một số ngã tách biệt gây ra hoặc có những tà thể tập thể phóng chiếu năng lượng tới con để làm con buồn ngủ và ngăn cản con làm bài tập tâm linh. Con có thể dùng bài thỉnh hay bài chú Astrea để kêu gọi thày trói buộc và tiêu hủy các tà lực này. Con cũng có thể giải quyết các ngã tách biệt và tìm cách phơi bày niềm tin đằng sau các ngã này.

Giáo lý của chân sư thăng thiên và các đạo sư Ấn độ

Hỏi: Con là người Ấn độ, và con rất lấy làm lạ con là người Ấn độ duy nhất mà con quen biết đang theo học giáo lý của chân sư thăng thiên. Đất nước này có 1,3 tỷ dân và đã sinh sản ra rất, rất nhiều người trưởng thành về mặt tâm linh. Điều gì đang khiến cho nước con tụt hậu tâm linh đến như vậy? Và đâu là cách tiếp cận tốt nhất để đánh thức dân tộc con dậy? Con biết chân sư MORE đã từng nói là chính các đạo sư đã từ chối thừa nhận các chân sư thăng thiên, chẳng hạn những vị như Satguru, Sri Sri Ravi Shankar và phong trảo của Brahma Kumaris đều có rất đông người đi theo. Nhưng thực sự họ đã giúp cho tín đồ của họ được bao nhiêu? Con muốn biết suy nghĩ của các thày về điều này.


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Trong quá khứ, các chân sư đã cố gắng với tay tới học trò tại Ấn độ qua phong trào Thông thiên học, nhưng kết quả đạt được khá giới hạn. Qua các đợt truyền pháp gần đây hơn là Phong trào I Am, Summit Lighthouse và đợt truyền pháp hiện thời, các thày lại đạt được kết quả ít hơn nữa khi cố mở ra với học trò tại Ấn độ. Tất nhiên, nguyên nhân phần nào là do Ấn độ có một truyền thống tâm linh vô cùng phong phú, phong phú hơn hầu hết mọi quốc gia phương Tây. Ở đây có một truyền thống đi tìm đạo sư. Tại Ấn độ vẫn còn một số đạo sư cá nhân chân chính, cho nên những ai cởi mở với đường tu tâm linh có thể tìm thấy những giáo lý này trong chính nền văn hóa của mình.

Ta cũng xin nói là tất nhiên, có một hàng ngũ những thày giả tà đạo tại Ấn độ, họ không chỉ tìm cách gạt gẫm người tầm đạo từ phương Tây mà ngay cả người Ấn nữa. Rõ ràng là trong tâm thức tập thể tại Ấn, có một sự tắc nghẽn chống lại việc thừa nhận các chân sư thăng thiên. Điều này không chỉ xảy ra tại Ấn mà con thấy nó xảy ra tại hầu hết mọi quốc gia. Ở hầu hết các nước chịu ảnh hưởng đạo Cơ đốc, đạo Cơ đốc đã tạo ra một sự tắc nghẽn chống lại việc chấp nhận chân sư thăng thiên, và ở Ấn độ cũng không khác gì. Tất nhiên, một phần là do truyền thống Ấn độ giáo không công nhận bất cứ gì vượt ra khỏi người Bà la môn cùng các vị thần của đạo Ấn, nhưng thôi…

Đây không phải là một vấn đề khiến cho chúng tôi quan tâm quá mức. Chúng tôi rất vui mừng có những học trò tại Ấn độ đang học hỏi giáo lý, nhưng thực sự chúng tôi không đang nỗ lực lôi cuốn một số đông đệ tử theo học đợt truyền pháp này tại Ấn độ.

Rõ ràng nếu con nhìn vào Ấn độ như một quốc gia, con sẽ thấy một số đạo sư đã trở nên danh tiếng hơn và quy tụ người theo học ngày càng đông đảo hơn. Nói chung, ta có thể nói là khi một đạo sư có rất nhiều người đi theo, thường đó là vì giáo lý của đạo sư không vượt lên trên một mức nào đó. Chính vì vậy mới có nhiều người cảm thấy tương hợp mà theo học. Một cách nào đó, vị đạo sư đã trao cho quần chúng những gì mà quần chúng mong muốn. Đạo sư cống hiến cho họ một con đường tiện lợi rất dễ theo, nhưng là một con đường không thực sự đòi hỏi họ phải nhìn vào chính bản thân mình, phải chữa lành tâm lý mình và nâng cao tâm thức.      

Bây giờ, nếu con nhìn rộng ra thế giới chứ không riêng gì Ấn độ, có một câu hỏi mà nhiều đệ tử của chân sư thăng thiên đã từng tự hỏi: “Nếu đúng là loài người đang nâng cao tâm thức và sự tăng trưởng tâm thức này là do các chân sư thăng thiên đang làm vị thày phổ quát cho cả nhân loại, thì tại sao người ta không ngày càng công nhận các chân sư thăng thiên nhiều hơn?” Chẳng hạn, nếu một đạo sư đã đạt đến một mức tâm thức rất cao, tại sao vị ấy lại không nhìn nhận chân sư thăng thiên? Tại sao Paramahansa Yogananda đã không viết nhiều hơn về các chân sư thăng thiên trong cuốn sách của mình, ngoại trừ một vài đoạn nói bóng gió mà con có thể tìm thấy?   

Giải đáp cho câu hỏi này là không chỉ có một giải đáp duy nhất. Mỗi đạo sư chân chính đều có một nhóm người nhất định mà vị ấy đã trù định sẽ hướng dẫn. Tùy theo mức tâm thức của nhóm này, rất có thể là họ chưa sẵn sàng chấp nhận chân sư thăng thiên. Có nghĩa là nhiệm vụ của đạo sư không phải là khiến cho họ chấp nhận chân sư thăng thiên, mà là nâng cao mức hiện thời của họ lên tới một mức tâm thức mà từ đó họ có thể tiến xa hơn. Không cứ là mọi đạo sư chân chính đều sẽ có ngày công nhận chân sư thăng thiên, bởi vì không phải ai ai cũng sẵn sàng cho chuyện đó.    

Nhưng hiển nhiên còn có vấn đề hàng ngũ tà đạo, các đạo sư giả, không những tại Ấn độ mà khắp mọi nơi khác, và những kẻ này thì sẽ không công nhận chân sư thăng thiên, vì dĩ nhiên, chúng tôi là những vị thày có khả năng giải phóng người tầm đạo khỏi sự chi phối của đạo sư giả.

Con hãy nhìn vào địa cầu thì con có thể thấy được là các đạo sư chân chính cần nâng cao tâm thức của đệ tử, và nếu đệ tử cứ tiếp tục nâng cao tâm thức, thì cuối cùng hầu hết sẽ tìm thấy các chân sư và giáo lý của chân sư. Nhưng tuy vậy, con không thể nói là tất cả mọi người tâm linh trên địa cầu sẽ cần phải tìm thấy chân sư thăng thiên. Có những đường tu khác. Và điều quan trọng là luôn luôn có những người thực chứng được mỗi đường tu chân chính đó để cho rất nhiều người còn ở mức tâm thức chưa cao có thể tìm ra một con đường hấp dẫn đối với họ.       

Như ta đã nói, không phải ai ai cũng sẵn sàng đi theo đường tu mà chúng tôi cống hiến. Nhưng điều cũng cần nói là tất nhiên có nhiều đạo sư giả, và các đạo sư giả này sẽ dẫn con người đi lạc lối bằng rất nhiều cách, và họ sẽ cài đặt những nút tắc nghẽn trong tâm con người khiến cho con người không thể vượt quá một mức nào đó trên đường đạo. Có những đạo sư giả sẽ khiến đệ tử tiến tới một mức nào đó nhưng rồi bị kẹt lại, và sẽ rất khó khăn vượt qua được mức đó.   

Đối với những đệ tử đã đi theo đạo sư giả, họ sẽ thấy rất, rất khó lòng tìm lại được con đường chân chính nếu họ không sử dụng giáo lý của chân sư thăng thiên. Đó là vì chúng tôi là những vị thày duy nhất có mức tâm thức và kinh nghiệm cần thiết để giúp học trò khắc phục sự tắc nghẽn khởi sinh từ việc đi theo đạo sư giả. Hiển nhiên, rất nhiều đệ tử trong số này sẽ được lợi ích nếu họ xem đến giáo lý của chúng tôi. Nhưng tiếc thay, điều này đòi hỏi họ phải cởi mở hơn rất nhiều, phải sẵn lòng hơn rất nhiều, để nhìn xa hơn các giáo lý trước đây của họ. Đó là vì đạo sư giả thường có những phương thức vô cùng tinh vi để cài đặt tắc nghẽn trong tâm họ, và điều này sẽ ngăn cản họ nhận ra chân sư thăng thiên.

Về khái niệm đồng sáng tạo

Hỏi: Qua từ “sáng tạo” và “đồng sáng tạo”, có phải các chân sư muốn nói đến các hậu quả mà chúng con học hỏi về bản thân mình hay là hậu quả bên ngoài? Thật là bối rối cho ngã vỏ ngoài phải học hỏi từ hậu quả khi thậm chí nó không thể nhìn thấy những gì nó đã tạo ra. Liệu chúng con tạo ra một vật, hay một hoàn cảnh được chia sẻ với những người đồng sáng tạo khác (tức quả báo), hay chỉ mt cái ngã khác, hay mt loại khuôn đúc năng lượng, hay tất cả nhng th đó? Liệu hình tướng mà chúng con đồng sáng tạo và hậu quả của nó sẽ khác đi tùy theo chúng con ở trong Trường đời Cay đắng hay trường của chân sư thăng thiên?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Phải, các con là người đồng sáng tạo. Điều này có nghĩa là con không thể sáng tạo một cái gì đó từ chính cái ta của con như Đấng Sáng tạo vốn làm. Trên cơ bản, tất cả chúng ta – ngay cả các chân sư thăng thiên của các bầu cõi trước – những sinh thể trong thế giới hình tướng của Đấng Sáng tạo, chúng ta đều đồng sáng tạo, vì chỉ có Đấng Sáng tạo mới tạo ra một thế giới hình tướng từ hư vô, từ chính bản thể của ngài, còn chúng ta thì đồng sáng tạo cùng với ngài.

Các con đang hiện thân trên địa cầu, con đang hiện thân trong một bầu cõi chưa thăng thiên. Con đang đồng sáng tạo cùng với các chân sư thăng thiên được giao nhiệm vụ giúp cho bầu cõi của con tăng triển. Hơn thế, con cũng đang hiện thân trên một hành tinh phi tự nhiên, có nghĩa là con đang đồng sáng tạo trong khuôn khổ các điều kiện của hành tinh này.

Điều này cũng đúng cho bất kỳ hành tinh nào khác, và ngay cả một hành tinh tự nhiên cũng có một khuôn đúc nào đó được quy định cho hành tình đó. Và con sẽ luôn luôn đồng sạng tạo trong khuôn khổ đó, và trong tư cách một cá nhân, con không thể đi ngược lại nó, không thể nào lật bỏ nó. Trên trái đất, con đồng sáng tạo trong khuôn khổ các điều kiện mà tâm thức tập thể đã tạo ra.

Bây giờ, thật dễ thông cảm khi con nói rằng ngã vỏ ngoài bị bối rối phải học hỏi từ hậu quả khi nó không thấy được những gì nó đã đồng sáng tạo trong quá khứ.

Nhưng con thấy đó, thật ra không phải ngã vỏ ngoài phải học hỏi từ hậu quả, mà cái Ta Biết mới có khả năng học hỏi từ hậu quả. Và cái Ta Biết chỉ học được nếu nó bước ra ngoài ngã vỏ ngoài rồi nhờ vậy ngộ ra rằng hoàn cảnh vỏ ngoài của con là sự phản ánh của chính hoàn cảnh nội tâm của con, tráng thái tâm thức của con.

Con đồng sáng tạo qua tâm thức của con, con là một người đồng sáng tạo cá biệt. Các hình ảnh mà con giữ trong các thể bản sắc, lý trí và tình cảm sẽ có tác động to lớn trên hoàn cảnh vật lý vỏ ngoài của con. Cho nên theo một nghĩa nào đó, con đang tạo ra tất cả những thứ mà con vừa liệt ra trong câu hỏi. Nhưng tất nhiên khi nói đến các tình huống vỏ ngoài, các tình huống vật lý, con không tạo ra chúng trong hư vô, mà con tạo ra chúng trong bối cảnh hành tinh nơi con sống và cái khuôn đúc do tâm thức tập thể thiết lập.

Băy giờ như các thày đã giải thích, bảy vị Elohim đã tạo ra hành tinh địa cầu trong hình dạng nguyên thủy thuần khiết của nó. Và nhân loại sau khi sa ngã vào nhị nguyên, đã thay đổi khuôn đúc ban đầu của địa cầu một cách đáng kể, đến độ khiến cho cả vật chất cũng dày đặc hơn. Có rất, rất nhiều điều kiện, rất nhiều điều kiện vật lý trên trái đất do tâm thức tập thể sinh ra trong một khoảng thời gian rất dài. Con đang đồng sáng tạo những hoàn cảnh vật lý trong môi trường đó. Như một cá nhân, tất nhiên sẽ có giới hạn cho những gì con có thể lật bỏ tùy theo tầng tâm thức của con, nhưng ngay cả khi con ở tầng cao nhất, tầng tâm thức thứ 144, vẫn có một giới hạn cho những gì con có thể lật bỏ trong tâm thức tập thể, bởi vì quyền tự quyết phải được phép trải bày ra.

Điều quan trọng nhất mà con cần hiểu về việc đồng sáng tạo là tâm thức của con, những gì nằm trong ba thể cao của con, có tác động cơ yếu trên hoàn cảnh vật lý, tình huống vật lý của con. Con đã không luôn luôn đồng sáng tạo các tình huống đó, nhưng trong nhiều trường hợp con đã tự thu hút mình vào các tình huống đó, và con đã làm vậy để học hỏi một số bài học.

Nhưng nếu con đi trở ngược lại xuyên qua rất nhiều kiếp đầu thai trên trái đất và giải quyết những cái ngã đủ loại mà con đang mang, con sẽ có thể vươn lên trên tình huống vỏ ngoài, và hoặc con sẽ tự thu hút mình vào một tình huống khác, hoặc con sẽ đồng sáng tạo, con sẽ tạo ra một tình huống mới. Nhưng đây không phải là điều mà ngã vỏ ngoài có thể làm.

Liệu có khác biệt gì chăng giữa việc ở trong Trường đời Cay đắng và việc bước chân trên đường tu với các chân sư thăng thiên? Tất nhiên là có, theo nghĩa là nếu con ở trong Trường đời Cay đắng thì con đã chưa hoàn toàn nhìn nhận rằng hoàn cảnh bên ngoài chỉ là sự phản ánh của hoàn cảnh bên trong, cho nên con không thể dễ dàng học hỏi từ những hoàn cảnh đó.

Tuy vậy, ta cũng phải nói là có những người đã học tập giáo lý của chân sư thăng thiên mà vẫn chưa hoàn toàn nhìn nhận điều đó, cho nên họ vẫn còn phần nào ở trong Trường đời Cay đắng. Nhưng khi con hoàn toàn nhận lãnh trách nhiệm về bản thân mình, thì khi đó sẽ có một sự khác biệt. Vì khi con còn trong Trường đời Cay đắng, con không cởi mở lắm với nhu cầu thay đổi nội dung trong ba thể cao của mình, và do đó con sẽ tiếp tục đồng sáng tạo dựa theo nội dung đó, con sẽ tiếp tục đồng sáng tạo cùng một thứ đó. 

Một khi con nhập trường chân sư thăng thiên và sẵn lòng buông bỏ những ngã đó từ quá khứ, thì con sẽ không lặp lại cùng những khuôn đúc đó, con sẽ không để cho ánh sáng chảy xuyên qua chúng, chúng sẽ không còn nữa và do đó con cũng tự do hơn để tạo ra một cái gì khác. Con có thể tạo ra những gì con xem là hoàn cảnh xây dựng hơn cho bản thân con.

Đừng suy nghĩ quá đáng mà hãy giải quyết từng cái ngã một

Hỏi: Dường như ngã gốc là một trong những điều cuối cùng con cần giải quyết. Nhưng trong bài tập hình dung của Mẹ Mary để đối phó với ngã gốc, thày nói thật ra đó là điều đầu tiên con cần giải quyết, và tất cả những cái ngã đến sau sẽ dễ tháo gỡ hơn sau khi con đã giải quyết ngã gốc.

Sau khi con nhận diện trong con rất nhiều ngã tách biệt chưa giải quyết, con bị khó khăn phân biệt một ngã chấm dứt ở chỗ nào và cái ngã sau bắt đầu ở chỗ nào. Con nhận ra chấn thương từ thời thơ ấu lẫn những chấn thương từ những chuyện con chưa thấy rõ. Con có cảm tưởng một số ngã không thể nào tháo gỡ được nếu con chưa giải quyết ngã gốc, vì ngay lúc con cố nhìn nó thì ngã gốc sẽ ngăn cản con thấy nó một cách khách quan.  

Thứ tự mà con nên giải quyết các ngã tách biết là gì? Con có lý hay chăng khi nghĩ rằng việc xem xét một số ngã tách biệt – chẳng hạn như các chấn thương thời thơ ấu – sẽ chỉ uổng phí thời gian nếu con chưa giải quyết ngã tách biệt? Hay liệu con phải làm ngược lại, tức là con sẽ không thể giải quyết ngã gốc nếu con chưa nhìn vào từng lớp một, bắt đầu từ cái ngã gần đây nhất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Con cần nhìn nhận ở đây là câu hỏi của con được đặt ra từ tâm phân tích đường thẳng. Con đang cố xếp loại và phân tích những ngã đó rồi con hỏi con phải giải quyết cái nào trước nhất. Nhưng đây là một vấn đề cá nhân. Một số người sẽ có thể đi tới ngã gốc tương đối nhanh chóng và giải quyết nó, và nếu con có thể làm điều này thì việc giải quyết các ngã được tạo ra sau ngã gốc sẽ dễ dàng hơn, vì những ngã này đặt nền tảng trên ngã gốc. Một khi con đã nhìn thấy ảo tưởng của ngã gốc, việc nhìn ra ảo tưởng của các ngã kia sẽ dễ dàng hơn.

Nếu con làm chuyện ngược lại và bắt đầu với những cái ngã mới nhất, con sẽ không thể nhìn thấu cái ảo tưởng làm cơ sở cho ngã gốc, có nghĩa là đối với từng ngã tách biệt, con sẽ phải phát hiện ảo tưởng riêng của nó. Việc làm này khó hơn, nhưng không phải là không thể.

Dù sao thì câu hỏi về thứ tự con phải bắt đầu với ngã nào, như ta vừa trình bày, là một vấn đề cá nhân. Và điểm mấu chốt là thế này: Dù ngã nào xuất hiện thì con cũng sẽ bắt đầu làm việc với ngã đó. Bất kỳ ngã nào con nhận biết được khi con học sách, bất cứ gì nổi bật trong tâm con, đó là cái con sẽ làm việc cho tới khi con giải quyết được nó, xong con lấy cái ngã tiếp theo rồi cái tiếp theo nữa. Con vẫn có thể dùng bài tập mà ta đã trao truyền để chữa lành chấn thương tâm linh của con, con đi qua các tầng lớp khác nhau trên đường vào rạp hát, và con làm việc với bất kỳ ngã nào xuất hiện trong tiến trình này.

Thậm chí con không cần nghĩ đó có phải là ngã gốc hay không, mà con chỉ nắm lấy từng cái ngã một, nỗ lực giải quyết nó, rồi xử lý cái tiếp theo và tiếp theo nữa như chúng xuất hiện. Đừng suy nghĩ quá đáng, đừng phân tích quá đáng, mà hãy đơn giản bắt đầu với cái ngã hiển nhiên nhất đang ló dạng và cứ làm tiếp như vậy.

Lập trình bộ não hay lập trình tâm?

Hỏi: Mặc dù các nhà khoa học tin rằng bộ não của chúng ta phát triển do những gì chúng ta trải nghiệm trong thế gian và là kết quả của lịch sử cá nhân mỗi người, nhưng họ cũng nói rằng bộ não hoạt động 90% một cách tự động. Chỉ có 10% hoạt động của não là ý thức. Điều này có nghĩa là trong thời gian còn lại, nó chạy các chương trình của nó nhưng nó khiến chúng ta tin rằng chính chúng ta là người lấy quyết định theo rất nhiều cách.

Câu hỏi của con cho các chân sư là việc lập trình bộ não đó có chỉ là kết quả của rất nhiều trải nghiệm mà nhân loại đã có trong lịch sử tiến hóa của giống loài (phylogenetic) hay không? Và nếu vậy, đó có phải là một lập trình ngẫu nhiên, kết quả của sự tình cờ? Hay đó là một lập trình có chủ ý, và do ai, ai đã tạo ra các cơ chế tương tự như bản năng sử dụng các chương trình sinh học? Việc này liên hệ thế nào với lịch sử cá nhân của mỗi người hết kiếp này đến kiếp khác? Và tất cả những cái ngã mà chúng ta mang theo do các trải nghiệm cá nhân thì sao? Làm cách nào bộ não vật lý liên lạc với ba thể cao?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Bộ não vật lý nối kết rất chặt chẽ với ba thể cao của con. Thật ra chúng ta có thể nói, bộ não vật lý một phần là cánh cửa thông thương để ba thể cao biểu đạt trong cõi vật lý, và phần khác là cánh cửa mà qua đó ba thể cao nhận được ấn tượng từ cõi vật lý.

Thật không đúng như các nhà khoa học nói rằng tất cả các lập trình đó nằm trong bộ não. Nhiều lập trình không nằm trong não vật lý. Có một số lập trình trong não vật lý nhưng chúng chỉ là các chương trình liên quan đến sự tồn tại của cơ thể cùng sự truyền giống. Những loại chương trình này cũng có thể tìm thấy ở các loài động vật. Và con có thể nói, đúng vậy, chúng được tạo ra bởi quá trình tiến hóa rất dài của động vật khi một số chương trình được thiết lập để đảm bảo sự sống còn của một giống loài. Những thứ đó được lập trình vào não vật lý cùng hệ thống thần kinh của con. Đây là cái người ta thường gọi là bản năng.

Nhưng ngoài bản năng ra và khi nói đến tâm lý con người, thì tâm lý này không nằm trong bộ não. Phần lớn tâm lý không tùy thuộc vào bộ não. Thỉnh thoảng não có thể ảnh hưởng nếu nó bị thương tích vật lý thì nó có thể ảnh hưởng đến tâm lý của con khi nó làm suy giảm các khả năng tâm lý. Tuy vậy khi nói đến các chương trình tâm lý thì các chương trình này nằm trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con dưới dạng những cái ngã tách biệt, hay dưới dạng một tư thế sẵn sàng đón nhận các tà thể đại chúng, các quỷ dữ tập thể đi vào. Các tà thể này có khả năng chiếm hữu tâm trí một người, và các thày đã có dạy rất nhiều về điều này trong các bài giảng.

Vấn đề là rất nhiều những lập trình này đã – nếu có thể nói như vậy – tiến hóa im ỉm trong tiềm thức khi rất nhiều người nếm những trải nghiệm đủ loại suốt một thời gian rất dài, dài hơn hẳn chiều dài lịch sử được ghi chép. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói là một số nhóm sắc tộc, một số dân tộc, một số chủng tộc đã mang một số lập trình nhất định từ thuở xa xưa.

Và tất nhiên còn có một loại lập trình do sa nhân tạo ra suốt một thời gian rất dài từ khi chúng được phép đầu thai trên trái đất. Sa nhân đã cố tình thiết lập vô số những chương trình như vậy nhằm suy đồi tâm lý con người, tạo ra những khuôn nếp phản ứng sẽ giúp chúng kiểm soát con người. Các thày đã giảng dạy rất nhiều về sự kiện này mà con có thể tìm thấy trong nhiều lời dạy.

Chọn lựa tự quyết của người khác có thể ảnh hưởng những gì xảy ra cho bạn

Hỏi: Có thật chúng ta là kẻ sáng tạo thực tại của mình đến độ mọi thứ chúng ta trải nghiệm trong thế giới hình tướng đều do chính mình tạo ra trong ba thể cao qua các tin tưởng, các ý nghĩ và các cảm xúc trước khi chúng ta trải nghiệm? Điều này bao gồm tất cả mọi trải nghiệm tiêu cực nhất của chúng ta, tất cả mọi thứ do sa nhân gây ra cho chúng ta, tất cả mọi chuyện đã xảy ra cho chúng ta trong khi đầu thai vật lý. Có phải là chúng ta đã tự điều chỉnh rung động cho xứng hợp với những gì sắp xảy ra cho mình? Hay có thể có điều gì xảy ra mà chúng ta đã không tạo ra và cũng không điều chỉnh rung động cho xứng hợp?


Trả lời của ông Kim Michaels nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Tôi xin trả lời câu hỏi này vì các chân sư đã ban ra một số bài truyền đọc trong mấy năm qua. Các thày nói rằng, trước hết, bạn đang sống trong một thế giới có những sinh thể tự nhận biết khác có quyền tự quyết, cho nên rất có thể một ai đó quyết định gây cho bạn một điều gì mà bạn đã không tạo ra. Vậy bạn cần nhìn nhận là bạn đang sống trên một hành tinh với rất nhiều người khác và các chọn lựa tự quyết của họ sẽ ảnh hưởng đến những gì xảy ra cho bạn. Không phải chỉ có những chọn lựa tự quyết của bạn mà thôi.

Thêm vào đó tất nhiên, bạn sống trên một hành tinh phi tự nhiên có rất nhiều người ở trong tâm thức nhị nguyên. Hành tinh này rất rất hỗn tạp và hiển nhiên nó còn bị sa nhân chi phối. Chẳng hạn bạn có thể thấy những gì các chân sư giảng dạy về các avatar. Bạn đã đến trái đất như một avatar, bạn hứng chịu một sự cố vô cùng đau thương khiến bạn bị chấn thương nhập đời và tạo ra ngã gốc. Bạn đâu có cái ngã này trong bản thể của bạn khi bạn đến đây như một avatar? Bạn đã không tạo ra một khuôn đúc rung động trong ba thể cao xứng hợp với những gì sa nhân gây cho bạn, cho nên cái này là do sa nhân áp đặt lên bạn.

Kể từ thuở đó, chúng ta đã tạo ra trong ba thể cao của mình tất cả những cái ngã tách biệt phản ứng lại những điều kiện trên trái đất. Sau khi tạo ra những ngã này, điều chúng ta có thể nói là trong nhiều trường hợp, chúng ta đều mang một cái ngã mang tin tưởng là những chuyện tệ hại có thể xảy ra cho mình, và rất có thể ngã này đã kết đọng những chuyện xảy ra đó vì chúng ta cần phải nhìn ra ngã này và buông nó ra.

Dẫu sao chúng ta vẫn phải sống trên một hành tinh hỗn tạp có quyền tự quyết, cho nên chúng ta phải tìm ra một thế cân bằng tế nhị, là nói rằng: “Tôi nhận trách nhiệm về trạng thái tâm thức của tôi. Tôi nhận ra là trạng thái tâm thức của tôi sẽ có ảnh hưởng trên những gì xảy ra cho tôi.” Nhưng sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi bạn nhận ra là không phải mọi thứ xảy ra cho mình đều có thể được giải thích bởi một điều gì đó trong trạng thái tâm thức của mình. Ở điểm này, bạn cần bắt đầu xem xét: “Thật ra không phải những gì xảy ra cho tôi là do tâm thức tôi định đoạt, mà phản ứng của tôi trước hoàn cảnh mới do tâm thức tôi định đoạt.”

Và đây chính là điểm bạn có thể tới mức nhận ra giai đoạn kế tiếp của bạn là tu tập để thay đổi cách phản ứng của mình trước mọi sự việc xảy ra trên địa cầu. Bạn khắc phục các khuôn nếp phản ứng và thấy chúng đều khởi lên từ một ngã tách biệt. Cho nên khi một điều gì xảy ra cho bạn, không cứ là bạn cần nói: “Liệu tôi có điểm gì tiêu cực trong tâm thức của tôi khế hợp với sự cố kia?” mà bạn có thể nhìn vào phản ứng của mình và nói: “Phản ứng của tôi nói lên điều gì về những ngã tách biệt mà tôi đang có?” Rồi bạn làm việc với điểm đó, bạn nhìn ra nó và bạn để cho ngã tách biệt chết đi. 

Bạn cần tới được một điểm trên đường tu khi có những chuyện không mấy tich cực xảy ra cho mình nhưng bạn không phản ứng lại nữa. Bạn không có phản ứng nào hết, bạn có càng ít phản ứng càng tốt. Đây là điều được minh họa qua câu nói của Giê-su: “Ông hoàng của thế gian này cứ việc đến nhưng không nắm được gì nơi ta,” hay là câu chuyện về đức Phật ngồi dưới cây Bồ đề có quỷ Mara đến đối đầu, cố khiến cho thày phản ứng lại.

Đây là một điểm có tính xây dựng trên đường tu khi bạn đã bước chân trên đường tâm linh được một thời gian và cảm nhận mình đã cân bằng phần lớn nghiệp chướng của mình, cho nên những gì xảy ra cho mình không phải là nghiệp quả hay một việc gì mình đã làm trong quá khứ, nhưng bạn vẫn có thể sử dụng nó như một cơ hội để xem xét phản ứng của mình. Chúng ta cần nhìn nhận là khi nào chúng ta còn sống trên trái đất – một hành tinh phi tự nhiên – thì chúng ta phải cho phép quyền tự quyết trải bày, và điều này có nghĩa là chúng ta rất có thể sẽ chạm trán với một số tình huống.

Như bạn có thể nói là nhiều người đã bị đại dịch corona tác động, nhiều người đã mất việc làm. Bạn có thể cũng bị như vậy và nói: “Ồ, chắc cá nhân mình có vấn đề gì tiêu cực đã khiến mình bị mất việc làm chăng?” Nhưng bạn cũng có thể nói: “Đơn giản đây có phải là sự trình chiếu của tâm thức tập thể đã gây ra cơn đại dịch này, và có lẽ vai trò của riêng tôi trong nguyên chuyện này là xem xét phản ứng của mình và nhìn ra cơ may mình có thể rút tỉa từ biến cố này? Có lẽ tôi có thể đưa đời mình vào một hướng đi mới chăng? Liệu tôi sẽ khắc phục được một số ngã tách biệt và điều này sẽ giúp tôi khắc phục phản ứng để tôi nhìn ra cơ hội này? Tôi có thể xem đây là một cơ hội, tôi có thể thấy được hướng đi mới để mà bước theo.”

Đó chỉ là một trong nhiều ví dụ bạn có thể xem xét khuôn nếp phản ứng của mình. Thường thường các khuôn nếp phản ứng sẽ ngăn bạn xem biến cố là một cơ hội. Chúng ta phải nhận thức là đôi khi sự việc xảy ra là một cơ hội. Chẳng hạn nếu bạn bị mất việc, rất có thể đã đến thời điểm trong Sứ vụ Thiêng liêng bạn cần tìm một cách kiếm sống khác, một ngành nghề khác. Và như vậy nếu bạn cho phép các ngã tách biệt khiến mình phản ứng lại tình huống, thì bạn sẽ không nhìn ra đó là một cơ hội. Bạn không thể thấy cánh cửa đang mở ra cho bạn. Nhưng nếu bạn khắc phục được các khuôn nếp phản ứng, bạn sẽ thấy đó là một cơ hội mới và bạn nói: “Đâu là hướng đi mới tôi có thể theo trong đời tôi? Và làm thế nào tôi có thể xoay chuyển hoàn cảnh hiện thời thành một cơ hội tăng triển?”

Làm thế nào sống mà không tạo nghiệp

Hỏi: Định luật toàn vũ của nghiệp quả là người bạn đồng hành tự nhiên của quyền tự quyết. Chúng ta chịu trách nhiệm về ánh sáng mà mình nhận được. Do đó nếu chúng ta làm tha hóa ánh sáng thì chúng ta phải phục hồi lại phẩm chất của ánh sáng. Đối với đa số chúng ta bị vướng mắc trong tâm thức nhị nguyên, chúng ta thường cho rằng toàn bộ nghiệp chướng của mình đều đến từ những quyết định sai lầm mà mình đã có qua tâm thức nhị nguyên, qua tâm phản Ki-tô. Nhưng chuyện gì xảy ra khi chúng ta chuyển vọt tâm thức và đồng hóa với cái Ta Biết và lần hồi hợp nhất với Hiện diện TA LÀ, phần lớn được tự do khỏi cấu trúc của tự ngã? Vì chúng ta vẫn tiếp tục có quyền tự quyết, chúng ta không thể nói là mình không còn tạo nghiệp nữa. Vậy thì điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể ở những giai đọan cao của quả vị Ki-tô, và điều gì có thể gây ra nghiệp quả đối với một sinh thể thăng thiên?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Trước hết, các chân sư đã có dạy là một chân sư thăng thiên không tạo nghiệp giống như con tạo nghiệp trên địa cầu. Là chân sư thăng thiên, chúng tôi có thể bộc lộ một số điều kiện, hoặc khiến mình gắn bó với một hành tinh nào đó, hoặc khiến mình cần chuyển khỏi một hành tinh để không bị gắn bó, tuy nhiên đó không phải là nghiệp.

Khi người ta bảo là mình đang tạo nghiệp, người ta thường muốn nói đến một việc gì đó mà mình làm trong trạng thái tâm thức nhị nguyên, từ một cái ngã tách biệt. Cái đó tạo ra nghiệp và làm tha hóa năng lượng. Nhưng con cần thận trọng và nhận ra quan niệm trong Ấn giáo bảo rằng nghiệp gắn liền với hành động, không phải là lời giải thích đầy đủ. Hành vi nhị nguyên dẫn đến nghiệp. Hành vi bất nhị không dẫn đến nghiệp. Thậm chí hành vi bất nhị cũng không dẫn đến cả nghiệp tốt. Kỳ thực trong cách hiểu cao hơn về nghiệp quả, con có thể nói là sự khác biệt giữa nghiệp tốt và nghiệp xấu hoàn toàn vô nghĩa, bởi vì bất kỳ nghiệp chướng nào cho dù được tạo ra bởi hành vi nào đi nữa, cũng sẽ buộc con lại với địa cầu và do đó sẽ ngăn cản không cho con thăng thiên.

Điều xảy ra là khi con bắt đầu đi đến quả vị Ki-tô, con có thể có những hành động sẽ không tạo nghiệp như trước kia con đã tạo nghiệp xuyên qua một cái ngã nhị nguyên. Con có thể vẫn còn một số ngã nhị nguyên, và nếu con hành động xuyên qua chúng thì con sẽ vẫn tạo nghiệp. Nhưng khi con không hành động qua một cái ngã nhị nguyên thì con không đang tạo nghiệp.

Con đang hành động, nhưng con không khiến cho năng lượng bị tha hóa bởi lòng sợ hãi. Khi con hành động không sợ hãi, và nếu con nhìn kết quả hành động mà không sợ hãi, thì con không làm tha hóa năng lượng với một rung động thấp kém. Con hoàn toàn có thể hiện thân trên địa cầu mà đã giải thoát khỏi tâm nhị nguyên, đến độ con không còn hành động qua sợ hãi nữa, và con không lượng định hành động của mình trong sợ hãi. Cho nên con không gán cho năng lượng một phẩm chất đến từ rung động thấp kém. Mà ngược lại, con ban cho năng lượng một rung động xuất phát từ tình thương, và như các chân sư đã có đề cập, điều này khiến cho năng lượng được nâng cao trong dòng chảy hình số 8 giữa Hiện diện TA LÀ và phàm nhân của con, và khi nó vươn lên cao, nó sẽ được nhân lên gấp bội rồi gửi trả xuống cho con để con nhận nhiều năng lượng sáng tạo hơn.

Đây là một lời dạy vô cùng tinh tế mà nhiều người sẽ khó lòng hiểu được, và ta có thể thấy trước là nhiều người sẽ diễn giải sai lạc lời dạy này từ quan điểm tâm đường thẳng. Nhưng sự thật là con có khả năng đạt đến một điểm khi những hành động mà con làm sẽ thực sự giúp con trở nên tự do hơn, sáng tạo hơn. Điều này không có nghĩa là những hành động đó nhất thiết phải cao nhất, hay phải là lý tưởng theo một chuẩn mực tâm linh hay một lượng định tâm linh nào đó.

Con có thể có một hành vi đôi khi có vẻ là vị kỷ, nhưng vì con không hành động trong tâm nhị nguyên, vì con không hành động trong sợ hãi, con không làm tha hóa năng lượng. Chẳng hạn, con có thể hành động với mục đích tạo cho mình một trải nghiệm mà mình muốn có trên trái đất. Có vẻ như con đang vị kỷ, nhưng nếu con làm với mục đích thỏa nguyện một mong muốn hầu con có thể buông bỏ mong muốn đó một khi nó được thỏa nguyện, thì có thể nó nằm trong hành trình tăng trưởng tâm linh của con, thậm chí trong sứ vụ thiêng liêng của con.

Ví dụ, việc có con có thể là một mong muốn tâm linh chính đáng. Không cứ là con sẽ tạo nghiệp khi con có con, cho dù là đôi khi con có thể bị cáu kỉnh hay choáng ngợp bởi nhiệm vụ làm cha mẹ. Con cũng có thể muốn theo đuổi một sự nghiệp, một việc làm nào đó. Ngay cả con cũng có thể theo đuổi một số mục tiêu vật chất, vì mong muốn trải nghiệm là một việc chính đáng, để sau đó con có thể cảm thấy chán ngấy và buông bỏ nó.

Con cũng nên biết là các chân sư đã có giảng dạy về một cõi giới nơi một số linh hồn đi đến sau khi thân xác vật lý chết đi, gọi là Devachan, là cõi hoàn thành ước nguyện. Nơi đây, con có cơ hội kinh qua một số mong muốn cho đến khi con chán ngán, và khi đó, con có thể buông nó ra và không còn nhu cầu phải tái đầu thai trong một kiếp sống bị ham muốn đó chi phối. Như con có thể thấy trong cuốn sách của Yogananda, ông có đưa ra ví dụ một kinh nghiệm mà ông trải qua khi thày của ông đã thị hiện một cung điện cho ông vì ông ham muốn cung điện đó. Bằng cách khiến cho cung điện thị hiện – không trong cõi vật lý, nhưng dù sao cũng đủ hiện thực để ông có thể chiêm nghiệm được – ông đã có thể buông được ham muốn đó mà không phải kinh qua trải nghiệm vật lý, một điều đã có thể ngăn ông trở thành bậc thày tâm linh trong kiếp đó.

“Có cảm xúc” so với “trải nghiệm cảm xúc”

Hỏi: Phải chăng các cảm xúc của chúng ta như vui sướng, giận dữ, lo lắng hay buồn rầu là kết quả của một cái ta tách biệt? Nói cách khác, phải chăng sự kiện chúng ta có cảm xúc là do một cái ngã tách biệt?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Con không cảm xúc do một cái ngã tách biệt. Ngã tách biệt có cảm xúc, và nếu con tự đồng hóa với ngã tách biệt – hay con tự đồng hóa là ngã tách biệt – thì con trải nghiệm cảm xúc đó. Ta cũng biết cách nói thường tình là bảo rằng: “Tôi đang có một cảm xúc”, nhưng con không cảm xúc đó. Con, trong tư cách là cái Ta Biết, không có một cảm xúc. Con đang trải nghiệm một cảm xúc.

Không phải là trong tư cách cái Ta Biết con không thể trải nghiệm một số cảm xúc, nhưng đó là những cảm xúc không nhị nguyên. Nói cách khác, chúng không có đối nghịch. Đức Phật có nói đến cực lạc, mà một số người diễn giải là sự hỉ lạc cùng cực, nhưng không phải vậy. Đó là một cảm xúc vượt ra khỏi các đối cực nhị nguyên như vui và buồn, tức giận, oán hận, tất cả những cảm xúc dựa trên sợ hãi đó, và tất cả các loại cảm xúc mà người ta có thể gán cho một đối nghịch. Tất cả các cảm xúc có đối nghịch đó, các cảm xúc nhị nguyên đó, các cảm xúc mà đức Phật gọi “các cặp”, đó là những cảm xúc mà một cái ngã tách biệt đang có. Khi con chưa nhận biết ngã tách biệt và chưa trải nghiệm mình là sự nhận biết thuần khiết, khi con chưa tự tách mình ra khỏi ngã tách biệt, thì con cho rằng con đang có cảm xúc đó. Con cảm thấy con đang có cảm xúc đó, nhưng kỳ thực con không đang có nó. Và chìa khóa ở đây là cái Ta Biết cần nhận biết điều này.

Điều này không có nghĩa là con sẽ nhất thiết khắc phục mọi cái ngã tách biệt, hay con phải khắc phục mọi cái ngã tách biệt, nhưng con có thể đạt tới sự nhận biết rằng mình là nhiều hơn ngã tách biệt. Do đó khi con đang “có” một cảm xúc nào đó, con nhận ra: “À, đây là một cái ngã tách biệt đang có cảm xúc này, nhưng tôi là nhiều hơn ngã tách biệt này.” Không có nghĩa là con có thể tức khắc vứt bỏ ngã tách biệt đi. Có thể ngã tách biệt vẫn có một cảm xúc.

Giả dụ con trải nghiệm một tình huống thật động cảm như khi có điều gì khó chịu xảy ra cho ngã tách biệt, một điều mà ngã tách biệt không muốn xảy ra. Do sự kiện này, ngã tách biệt có một cảm xúc nào đó, nhưng con nhận ra là con không phải là ngã tách biệt, cho nên mặc dù cảm xúc có mặt trong cảm thể của con, con không bị lôi cuốn vào đó. Con không bị đồng hóa với nó. Con trải nghiệm cảm xúc từ bên ngoài. Con không ở trong – nếu có thể nói như vậy – cái bình thủy tinh chứa đầy nước bị cảm xúc tô màu. Con không bị chết chìm trong cảm xúc. Con đứng bên ngoài. Con đang thấy có cái bình thủy tinh đó có nước đang xoáy xoáy đó, và nước thì đang bị một cảm xúc tô màu. Nhưng con để yên cho nó là một cảm xúc. Con không cần phản ứng lại.   

Điều này có nghĩa là con có khả năng phá vỡ vòng xoắn ốc cảm xúc mà trong nhiều trường hợp – khi một tình huống đau buồn xảy ra – có một cái ngã sẽ phản ứng lại tình huống qua cảm xúc: “Ồ, chuyện này đáng lý không được xảy ra.” Rồi một cái ngã khác bước vào và cảm thấy tức giận hay nuối tiếc, hay sẽ đổ lỗi cho con đã hành xử như vậy hay con không hành xử như đáng lý con phải hành xử. Thế là bỗng dưng có vòng xoắn ốc đó nổi lên, nó quay và nó quay như thể tất cả những cái ngã tách biệt kia đang khích động lẫn nhau, và toàn bộ sự nhận biết của con bị cuốn hút vào đó và con không thể gỡ mình ra khỏi nó. 

Một khi con đạt đến điểm nhìn nhận rằng con không phải là ngã tách biệt, con có thể cho phép các cảm xúc đó đơn giản có mặt, nhưng chúng không chiếm đoạt được tâm con. Thật ra con có thể bước ra ngoài cảm thể, có lẽ bước lên trí thể, thậm chí bước lên bản sắc thể, và con chỉ đơn giản trải nghiệm các cảm xúc đó từ bên ngoài thay vì từ bên trong, và điều này sẽ giúp con chịu được chúng dễ dàng hơn rất, rất nhiều.   

Về lòng gắn bó với người khác

Hỏi: Từ rất lâu, con đã cố gắng trừ bỏ những phàm linh đằng sau sự dính mắc của con đối với quá khứ, đặc biệt với những người mà còn từng có quan hệ hay những người đã khuất. Nhưng con không thể nào buông những phàm linh đó ra. Con đã chân thành sử dụng các dụng cụ được chỉ dạy và con đã cố tu sửa tâm lý của mình, nhưng con thấy rất ít tinh tấn. Xin thày vui lòng nhận xét về những niềm tin đứng đằng sau xu hướng khi chúng ta kháng cự lại không buông bỏ những người mà chúng ta đã từng có quan hệ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 5/9/2020.

Đây là một câu hỏi phức tạp vì nguyên nhân khiến con gắn bó với một số người thật là cá nhân. Nhưng chúng ta có thể nói đến một số nhóm chính. Nói cách khác, niềm tin cụ thể mà con có như một cá nhân có thể là một niềm tin rất đặc trưng, nhưng nó thuộc về một số loại người nhất định.

Một loại người là khi con có một cái ngã muốn tận tụy giúp đỡ những người đó. Một số avatar đã đầu thai cùng với sa nhân khi họ đến địa cầu lần đầu tiên, và họ đã hình thành một ý muốn mãnh liệt muốn cứu giúp sa nhân đó và đưa người đó vào con đường tích cực. Đối với loại tin tưởng này, ta khuyên con nên đọc quyển sách Những kiếp của tôi [My Lives with Lucifer, Satan, Hitler and Jesus], trong đó có mô tả nhân vật chính đã trải qua nguyên một tiến trình tự giải thoát khỏi mọi dính mắc với Lucifer, tức dòng sống mang tên Lucifer trong sách.

Con cũng có thể bị dính mắc với việc giúp đỡ các avatar khác hay giúp đỡ các dòng sống là cư dân nguyên thủy trên địa cầu. Và ở đây, con cần bắt đầu nhìn vào quyền tự quyết, hay ý chí tự do. Con cần bắt đầu nhìn nhận là mọi người khác đều có quyền tự quyết của họ, cho nên con không thể cứu được ai cả. Con không thể thay đổi được ai cả. Đây có thể là một cuộc khai ngộ khó khăn để con vượt qua. Vị sứ giả này đã bỏ ra bao nhiêu năm trời phấn đấu với vấn đề này trong nội tâm của ông cho đến khi ông ngộ ra là ông phải buông bỏ mọi mong muốn thay đổi người khác – bởi vì nếu không, nó sẽ giam ông trong một vòng luẩn quẩn cho đến hết kiếp này và có thể còn lâu hơn nữa.

Con cần nhận ra ở đây là con có quyền tự quyết cá nhân của con và người khác cũng có quyền tự quyết cá nhân của họ. Con cần giải thoát ý chí tự do của con ra khỏi ý chí tự do của người khác. Đây là cách duy nhất để con giúp cho ý chí tự do của con được thực sự tự do. Con cần nhìn nhận ở đây là nếu con là một học trò của chân sư thăng thiên và nếu con thành thật mong muốn hội đủ tư cách thăng thiên trong kiếp này, con không thể bị dính mắc vào những ai có thể sẽ không thăng thiên sau kiếp này. Do đó con phải gắng sức về điểm này, con cần nhìn ra những cái ngã đó và để cho chúng chết đi. Nếu con có dính mắc thì hiển nhiên cũng có một cái ngã mà con chưa nhìn thấy, vì vậy con cần nỗ lực cho tới khi con thấy được nó, và con cần tiếp tục sử dụng các dụng cụ cho tới khi con thấy được nó.

Một loại người khác là con có thể có một cái ngã mong muốn kiểm soát người khác, cho nên con sẽ không buông cho người đó ra đi, vì con cảm thấy con phải giữ lại một chút kiểm soát. Điều này lại có thể xuất phát từ một ý muốn lành mạnh muốn giúp đỡ người kia, nhưng đó vẫn là một cái ngã kiểm soát, nó muốn kiểm soát hay thậm chí muốn sở hữu người kia. Ta không nói đây là trường hợp của đa số những người tâm linh, nhưng tất cả các con đều có thể đang mang những cái ngã được tạo ra từ rất lâu về trước mà con chưa buông bỏ. Con cần sẵn lòng nhìn vào điều này.

Sự kiện cơ bản là như sau: Bất kỳ dính mắc nào cũng đến từ một cái ngã tách biệt. Nếu con vẫn còn một dính mắc thì con vẫn có một cái ngã tách biệt mà con chưa thấy. Cho nên con hãy dùng các dụng cụ mà các chân sư đã ban cho con, con hãy suy ngẫm các lời dạy, nhìn vào bản thân, xem xét các tin tưởng của mình. Tại sao con lại dính mắc với người đó, điều gì con cảm thấy mình phải làm, điều gì con thực sự cảm thấy đã phải xảy ra hay đã không được xảy ra? Và con hãy tiếp tục làm vậy cho đến khi con phơi bày được những niềm tin vi tế mà con mang đang giữ con dính chặt với người kia. Tất cả đều xoay quanh sự kiện là con tin rằng mình phải làm một việc gì đó trên địa cầu.

Như vị sứ giả này đã mô tả, một khi con giải quyết chấn thương nhập đời của con, ngã gốc của con cùng những cái ngã tách biệt khác, con sẽ tới điểm nhận ra điều này: rằng ở nơi đây trên trái đất, không có công việc gì mà con phải làm. Không có điều gì mà con bị bắt buộc phải làm, không có điều gì mà con bị ép buộc phải làm. Rất có thể con vẫn sẽ làm một số công việc vì con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng những việc này không xuất phát từ một cái ngã tách biệt.

Cái Ta Biết ở đâu vào ban đêm khi con ngủ?

Hỏi: Cái Ta Biết ở đâu vào ban đêm trong khi con ngủ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 10/7/2020.

Điều này tùy thuộc vào mức tâm thức của con. Nếu con bước chân trên đường tu tâm linh và có một mức tâm thức cao hơn, cái Ta Biết thường đi tới những nơi mà các thày gọi là các Lớp Nhập thất trên cõi ê-the của chân sư thăng thiên. Nơi đó, con sẽ nhận được nhiều loại hướng dẫn, và thỉnh thoảng khi tỉnh giấc, con có thể nhớ lại là mình đã tham dự nhập thất. Nhưng nhiều khi, con không giữ được ký ức này mặc dù con vẫn nhận được sự trợ giúp trong các lớp nhập thất đó.

Tất nhiên, đại đa số mọi người trên địa cầu không đang bước chân trên đường tu, cho nên cái Ta Biết của họ không thể thoát ra khỏi cơ thể và nó chỉ đơn giản ở lại với cơ thể vào ban đêm. Đôi khi nó không tập trung vào cơ thể vật lý mà nó có thể, chẳng hạn, bước vào cảm thể, và đây chính là tại sao người ta có ác mộng.

Cũng có một số ngươi mang lỗ hổng trong hào quang của mình, khiến cái Ta biết có thể rời xác thân vật lý để ngao du đến những vùng khác, hoặc trong cõi vật lý hoặc trong cõi trung giới, thậm chí đôi khi đến cả cõi lý trí. Ở đó, họ kinh qua một số trải nghiệm mà một số người có thể nhớ lại khi tỉnh dậy.

Đo mức độ tâm thức

Hỏi: Liệu có một chỉ số hay những chỉ dấu nào cho thấy mức độ tâm thức của một người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 8/10/2019.

Con yêu dấu, tất nhiên là người ta có thể lập ra đủ loại chỉ số khác nhau, nhưng có một cách thật giản dị, đó là nhìn vào mức độ vị kỷ của con người, mức độ xem mình là trung tâm cuộc sống. Một dấu hiệu khác là khi con đến gần hơn quả vị Ki-tô và đặc biệt là ở các tầng cao của tâm Ki-tô, tâm con sẽ ngày càng trung hòa hơn, an bình hơn.

Con ngày càng it bị thôi thúc phải làm những chuyện ngoài đời vì càng ngày con càng ít những cái ngã tách biệt áp lực con phải hành động hay phải phản ứng lại một cách nào đó. Cho nên con ngày càng phản ứng ít hơn trước các điều kiện của thế gian. Chúng không còn phiền hà con nữa, chúng không nhào nặn được con là ai. Điều này không có nghĩa là con không hành động, nhưng con hành động trong cái tâm an bình mà các thày đã gọi là không dính mắc, con hành động trong tâm trung dung thay vì luôn luôn bị thôi thúc phải làm một cái gì đó. Đây là những chỉ dấu rất tốt mà con có thể ghi nhớ.  

Con có thể nghĩ ra nhiều loại chỉ dấu khác. Đương nhiên, con có thể dựng ra cả một hệ thống đo đạc, nhưng các chân sư cảm thấy làm như vậy sẽ đẩy người ta vào một lối tư duy vô cùng trí thức và phân tích. Người ta sẽ dễ dàng có thái độ muốn so sánh, và người ta bắt đầu tự so mình với người khác, hay tự so sánh với nhau trong một nhóm, rồi lập ra những băng nhóm toàn những người cho mình là đã đạt một cấp độ chỉ số nào đó. Hiện tượng này đã xảy ra trong những tổ chức học giáo lý của chân sư trước đây, và chúng tôi thực sự không muốn khuyến khích sự thể này.

Trên căn bản, con hãy đừng lo lắng gì đến mức độ tâm thức của người khác. Con hãy lo tâm thức của con mà thôi, nhưng như vị sứ giả này có nói, sẽ đến một lúc khi thực sự con sẽ vượt quá cả nhu cầu muốn lượng định xem mình đang ở mức nào hoặc so sánh mình với bất cứ gì. Con chỉ tập trung vào việc tự biểu đạt chính mình ở mức mà mình đang ở, và con cố gắng bước lên những mức cao hơn. Con thực sự không quan tâm đến việc đánh giá, gán một con số cho cái này cái kia, hay bất kỳ một sự lượng định nào khác.

Trong một ý nghĩa nào đó, con có thể nói là con sẽ biết mình đang ở một mức cao hơn khi con cảm thấy mình tự do hơn để biểu đạt con người thực của mình, biểu đạt con người mà mình là, và tận hưởng sự kiện mình đang đầu thai.

Con đang ở tầng tâm thức nào?

Hỏi: Làm thế nào chúng con có thể xác định mình đang ở tầng tâm thức nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Con yêu dấu, cách duy nhất để con thực sự xác định là qua trực giác. Thật không xây dựng chút nào nếu có ai đó – ngoài con ra – bảo cho con chuyện đó, chẳng hạn như chúng tôi các chân sư thăng thiên nói cho con biết con đang ở tầng tâm thức nào. Con cần cảm nhận bằng trực giác. Tất nhiên, do sự kiện con đã mở tâm ra với các lời dạy này, con có thể nói là có xác suất rất cao là con ở trên tầng 48.

Đó mới là điều thực sự quan trọng cho con, vì khi đó con có thể theo học khóa Con đường Tự Điều ngự, để nâng cao tâm thức mình qua bảy tia sáng và đạt đến tầng 96, rồi con có thể tu tập tiếp với các quyển sách cùng giáo lý khác để vượt lên cao hơn tầng 96. 

Nếu chỉ quan sát cách con cư xử vỏ ngoài thì thật không dễ biết được con đang ở tầng nào. Nếu con đã mở tâm ra với các lời dạy này như ta vừa nói, hay thậm chí con có thể nhìn vào người khác và nói: Nếu người đó không hung hãn, nếu họ không cố tình muốn kiểm soát người khác, hay nếu họ không sẵn lòng dùng bạo lực, ngay cả bạo lực tâm lý, thì rất có thể họ ở trên tầng 48.

Giữa tầng 48 và 96, có thể con sẽ khó lòng xác định được mình ở tầng nào, nhưng liệu điều này có thực sự quan trọng hay không? Khi con đến tầng 96, con sẽ phần nào có cảm nhận trực giác là mình đã đạt tới mức đó, vì đó là tầng cấp nơi con cần lấy quyết định: “Liệu tôi sẽ tiếp tục con đường nâng cao ý niệm bản ngã tách biệt của tôi, hay giờ đây tôi sẽ bước lên con đường cao hơn dẫn đến quả vị Ki-tô, nơi tôi sẽ không tìm cách tôn vinh hay nâng mình lên cao mà sẽ tìm cách phụng sự tổng thể, tìm cách khắc phục mọi cái ngã tách biệt?”

Có những người có thể rất bận tâm với vị trí tâm thức của mình, thậm chí còn bị ám ảnh về chuyện này. Ta có thể cam đoan với con là những ai bị ám ảnh bởi việc đánh giá tầng cấp tâm thức của mình, hay những ai cứ không ngừng đánh giá tầng cấp của người khác, thì họ không phải là người ở mức tâm thức cao lắm.   

Kỳ thực, một số những người đó có thể ở tầng 96 nhưng họ đã không lấy quyết định bước vào đường tu thực sự. Họ vẫn chưa buông bỏ ngã tách biệt, và điều này có nghĩa là họ sẽ bắt đầu tuột trở xuống. Điều có thể xảy ra là họ không hề hay biết mình đã bắt đầu tuột từ tầng 96 đi xuống. Họ vẫn giữ ảo tưởng là mình chứng đạt cao siêu. Và tất nhiên, đó là tại sao họ không thể buông bỏ ham muốn tôn vinh bản thân và xây đắp khả năng của ngã tách biệt. Có những người bị đi vào những loại ngõ cụt như vậy.

Lại có những người khác đạt đến một mức tâm thức nào đó, rồi họ tự đặt mình vào địa vị một bậc thày tâm linh, có người còn tự xưng mình đã giác ngộ trong khi kỳ thực họ vẫn chưa đặt chân lên đường tu chân chính của quả vị Ki-tô. Thật ra họ đang đi trên con đường tay trái.

Như chúng tôi có nói, khi con theo đường tà đạo thì con có thể tạo ra một dáng vẻ tinh thông bề ngoài. Nếu đầu tiên con đến được tầng 96 rồi bị trượt xuống từ đó, con có thể có một số khả năng sẽ làm chóa mắt những ai ở mức tâm thức thấp hơn. Đó là cách mà một số người đã tự đặt mình vào địa vị một bậc thày hay một đạo sư. Điều họ thường làm là thu hút một đoàn tín đồ là những người mang sẵn nỗi bất an bên trong rồi bị quyến rũ đi theo vì họ thấy vị thày có vẻ rất tự tin, nhưng vị thày này sẽ kéo họ xuống hố theo thày. Sứ giả này đã từng gặp một vài người làm y như vậy. 

Điều con cần nhận thức khi con là một đệ tử tâm linh là con không nên bị ám ảnh, không nên quan tâm đến chuyện cấp bậc. Sẽ tới một điểm khi con thực sự bước vào con đường dẫn đến quả vị Ki-tô và con không quan tâm nữa. Con không quan tâm là con đang ở tầng 97 hay 120, mà con chỉ dõi tìm xem ảo tưởng kế tiếp, ngã tách biệt kế tiếp mà con cần giải quyết sẽ khởi lên ở đâu, và chuyện kia thì sẽ tan biến mất.

Tầng tâm thức nơi con đang đứng không có gì quan trọng. Vì khi con bước trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô, con không có bất kỳ nhu cầu nào đứng cao hơn người khác, đứng tách riêng khỏi người khác, hay cảm thấy minh vượt trội hơn người khác. Cho nên một chỉ dấu cảnh báo mà con cần để ý là nhìn xem liệu con có nhu cầu cảm thấy hơn người, cảm thấy mình đặc biệt. Và nếu con có cảm giác đó trong con, một lần nữa con không cần cảm thấy xấu hổ, bởi vì con đang ở trên hành tinh địa cầu. Thay vào đó, con hãy nhận ra là cảm giác đó đến từ một cái ngã tách biệt, con hãy bỏ công ra để phát hiện nó, chạm trán với nó và để cho nó chết đi. Rồi sau đó con có thể đặt chân lên đường tu đích thực.

Ngã tập thể

Hỏi: Con muốn hỏi về cái có thể gọi là “ngã của tổ chức” hay “ngã của ngành nghề”. Chẳng hạn con làm giáo viên, và ngay khi con bước qua ngưỡng cửa ngôi trường của con, con khoác vào vai trò nghề nghiệp của một thày giáo. Con sẽ nói hay làm những gì mà bình thường con không nói hay làm, vì có một sự chờ đợi là con phải làm tròn một vai trò định sẵn và con cũng cảm thấy bắt buộc phải làm tròn vai trò này. Xin các chân sư vui lòng bình luận làm thế nào con có thể đối phó một cách xây dựng với những loại ngã tổ chức hay ngã ngành nghề như thế mà không cưỡng lại chúng lẫn không bị chúng khuất phục.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 cho Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 6/7/2020.

Đây là một nhận thức quan trọng mà con đã đạt được. Như các thày có nói, bất kỳ công việc nào do con người tổ chức nói chung cũng sẽ tạo ra với thời gian một cái ngã tập thể nào đó, một tà thể đại chúng nào đó. Và tất nhiên, nhiều ngành nghề có ngã tập thể.

Thực tế là nếu con bước vào một môi trường như vậy, chẳng hạn như khi con trở thành một thày giáo, hay con bước vào một cơ sở kinh doanh, gia nhập quân đội hay bất cứ gì khác, con sẽ khoác vảo ngã này ở một mức độ nào đó, con sẽ cần làm tròn các yêu cầu để gia nhập và thực hiện chức năng ở đó. Chẳng có ích gì mà con phải nổi loạn chống lại, tạo ra căng thẳng và sự chống đối. Con cần tìm ra thế cân bằng cá nhân của mình, giống như khi Giê-su nói: “Cái gì của Cesar hãy trả cho Cesar, và cái gì của Thượng đế hãy trả cho Thượng đế.”

Con có thể nhận ra là có một môi trường, có một nét văn hoá, có một sự chờ đời nào đó, và đúng vậy, có một con quái vật tập thể. Để có thể làm việc trong môi trường đó, con cần tuân theo những luật lệ đó. Nhưng con cũng có thể không quy hàng và tuân thủ mọi luật lệ, chắc chắn con có thể không quy hàng để tự đồng hoá mình với môi trường cùng con quái vật tập thể. Để làm được như vậy một cách trọn vẹn, con cần nhìn lại chính mình, nhìn xem cách phản ứng của mình là gì, mình phản ứng thế nào đối với môi trường, thấy được nó xuất phát từ những cái ngã tách biệt, rồi con bắt đầu giải quyết những ngã tách biệt này.

Điều xảy ra trong nhiều trường hợp là nhiều người bị thu hút vào một ngành nghề, chẳng hạn, vì lý do họ muốn khắc phục những cái ngã mà họ biết sẽ kích hoạt khi họ đi vào môi trường đó. Cho nên con có thể nhìn sự việc này một cách tích cực, xem đó là một kinh nghiệm học hỏi, rồi sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con để giải quyết những cái ngã đã khiến con phản ứng lại môi trường đó – cho dù phản ứng của con là cưỡng chống hay khuất phục.

Một khi con đã giải quyết các ngã đó, một trong hai điều sẽ xảy ra. Hoặc con có thể ở lại trong môi trường mà đã thoát khỏi con quái vật tập thể, có nghĩa là con có thể làm gương cho người khác cũng thoát ra như con. Hoặc con đạt tới điểm nói rằng: “Thôi như vậy là đủ rồi. Bây giờ tôi cần bước tới và chuyển sang một môi trường khác, một nghề nghiệp khác, bất kể đó là gì.”

Về việc đốt nhang

Hỏi: Có rất nhiều người tâm linh đốt lá xô thơm (sage) hay thắp hương, thắp nhang để tẩy sạch những năng lượng tiêu cực hay những tà thể trong nhà ở và quanh cơ thể. Xin thày giúp con hiểu tại sao và làm thế nào hương khói có thể làm được chuyện đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 về Giải phóng Phụ nữ. Đăng ngày 5/7/2020.

Thật ra không phải là khói mà là sự rung động phát ra khi đốt các chất đó. Ta vừa trình bày về tinh thể (crystals) và ta có nói là con không thể để cho bước tăng triển tâm linh của con bị phụ thuộc vào một chất vật lý nào cả. Một lần nữa, có những người ở một mức tâm thức nào đó có thể hưởng lợi – hay ít ra hưởng một lợi ích mà họ cảm nhận – từ việc đốt nhang. Có một số loại nhang, chẳng hạn như nhang cây thông (pine) có thể xua đuổi tà thể, tương tự như chất thép không rỉ có thể đâm cắt vào tà thể khiến chúng bị khó chịu và phải rút lui.     

Nhưng khi con đã mở tâm ra để nhận giáo lý của đợt truyền pháp này, con không nên tin rằng làm như vậy tự nó là đủ. Con đã có những lời dạy, con có những bài chú cho Astrea và Đại thiên thần Michael, con có lời kêu gọi Shiva – vậy con hãy dùng đi. Nhưng xa hơn nữa, con hãy sử dụng các dụng cụ để chữa lành tâm lý của mình, hầu các tà thể đó không còn xâm nhập được vào tâm thức mình. Con không còn chấn thương nào để chúng có thể sử dụng mà ảnh hưởng được con nữa. Và như vậy, con sẽ thực hiện được yêu cầu của Giê-su là: “Ông hoàng của thế gian có thể đến nhưng y chẳng nắm được gì trong tôi”.  

Lỗ thủng trong hào quang thành hình thế nào?

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có đề cập đến lỗ hổng trong ba thể cao trong trường hợp chấn thương. Những lỗ hổng này thành hình như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn vào hào quang, trường năng lượng của con, con có thể xem nó hơi giống cơ thể vật lý, chỉ không đến nỗi dày đặc như vậy. Con cũng biết, nếu có ai bắn một viên đạn vào cơ thể vật lý của con, viên đạn sẽ tạo ra một lỗ thủng trên cơ thể. Nếu người ta bắn viên đạn lớn, lỗ thủng cũng sẽ lớn. Cho nên điều mà các sa nhân, các tà lực, cố làm là chúng hướng nhắm một xung lực năng lượng về phía con. Chẳng hạn nếu chúng nhắm vào cảm thể, đó sẽ là một xung lực cảm xúc mạnh mẽ đập vào con, khiến hào quang con bị thủng một lỗ – trong nghĩa đen. 

Tuy nhiên chúng không thể làm được điều đó trừ khi, như chúng tôi đã có giải thích, con đã có một cái ngã nào đó trong con, có một tin tưởng nào đó trong con khiến con mang sẵn tiềm năng bị tổn thương. Nếu không, xung lực đó sẽ nẩy bật ra khỏi hào quang, hoặc nó sẽ bay xuyên thẳng qua. Điều thường xảy ra là các sa nhân cảm nhận được là con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng, rồi chúng khai thác điểm này để bắn năng lượng vào con, tạo ra một lỗ hổng trong hào quang, trong trường năng lực của con.    

Điều con có thể làm nếu con cảm thấy con có nhược điểm là con hãy đọc các bài cầu thỉnh sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, cầu thỉnh Astrea cắt đứt những sợi dây buộc con với sa nhân cũng như tất cả những cái móc mà chúng đã cài đặt trong hào quang của con. Nhưng cuối cùng thì con cũng phải đương đầu với cái ngã tách biệt đã tạo ra nhược điểm của con trước đó. Mục đích là để ông hoàng của thế gian không có chỗ nào để nắm được con hầu gây ra lỗ thủng trong hào quang của con.

Làm thế nào ngừng phản ứng qua một ngã tách biệt

Hỏi: Khi con có phản ứng động cảm qua một ngã tách biệt, khi có một lỗ hổng mở ra một phàm linh tập thể và năng lượng của nó rất mãnh liệt, tràn ngập sợ hãi, giận dữ và hoảng hốt, thì đâu là cách hay nhất để đối phó với tình huống ngay lúc đó? Phản ứng đó đến từ tầng tâm thức nào? Có thể nào là con ở một mức tâm thức cao hơn các phản ứng đến từ ngã tách biệt cùng phàm linh tập thể đang củng cố cho phản ứng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Điều con có thể làm là dùng các lời dạy mà chúng tôi các chân sư thăng thiên đã ban ra về ngã tách biệt, và con có thể quyết định là mình sẽ sẵn sàng, một cách ý thức, nhìn ra các ngã tách biệt của mình, và con tách rời khỏi chúng. Và nếu con lấy thái độ tổng quát đó, con cũng sẽ rút được kết luận là bất cứ khi nào con có phản ứng khiến mình bị bối rối và mất an bình, thì cái đó đến từ một ngã tách biệt. Tùy theo cường độ của cảm xúc khởi lên, con có hai cách đối phó mà ta đề nghị như sau.

Nếu cảm xúc vô cùng mãnh liệt, con có thể quyết định: “Tôi sẽ không cho phép cảm xúc này kéo dài thêm nữa, tôi sẽ không cho phép nó tạo ra một vòng xoắn ốc đi xuống. Cho nên tôi sẽ ngừng ngay việc tôi đang làm. Tôi sẽ ngừng không phản ứng lại tình huống này. Tôi sẽ bước ra khỏi tình huống. Và tôi sẽ vào phòng riêng của mình để gửi lời thỉnh lên các chân sư thăng thiên, như Shiva, như Astrea, để các thày giúp tôi cắt đứt sợi dây đang kéo buộc tôi vào năng lượng đó.” Nếu năng lượng rất mạnh, con biết là con đang bị nối chặt với một phàm linh tập thể nào đó. Cho nên con có thể kêu gọi để mình được cắt đứt ra khỏi nó, và con khiến cho vòng xoắn ốc ngừng lại. Đây chính là nguyên tắc cơ bản của ngành cấp cứu là ngăn không cho tai nạn tiếp tục gia tốc và kéo thêm nhiều người vào trong cuộc hay trở nên nghiêm trọng hơn.

Thứ hai, nếu năng lượng không đến nỗi mạnh mẽ, con có thể lần hồi lấy trớn, lần hồi xây dựng một động lượng là con nhận diện mình đang phản ứng lại trong một trạng thái bất an. Và một lần nữa, con tự ngừng lại trong tâm, và cũng trong tâm, con chỉ giản dị bước ra khỏi ngã đó. Con nhận ra đó là một cái ngã tách biệt. Và một khi con có trớn và xây dựng được động lượng, con có khả năng tự ngừng lại – trong ngay tình huống đó chứ không cần phải bước ra khỏi tình huống – con ngừng lại mà không phản ứng qua ngã tách biệt. Có thể không có nghĩa là con sẽ tức khắc giải quyết được tình huống, nhưng con có thể tách mình ra khỏi ngã đó, vừa đủ để con khỏi tiếp tục khuôn nếp phản ứng. Con có thể tiếp cận trung hòa hơn. Con có thể ngưng nói chuyện với người kia, hay con có thể tạm ngưng một lúc để cố gắng hồi đáp trong một nhãn quan trung hòa hơn.

Về lâu về dài, tất nhiên con sẽ muốn tự hỏi: “Đâu là cái ngã tách biệt đã khiến tôi phản ứng trong tình huống đó?” Rồi một khi con có thì giờ thiền quán về vấn đề này, con có thể học tập một cuốn sách hay một bài truyền đọc giảng dạy về đề tài này, con có thể đọc một bài thỉnh để sáng nghĩa hơn về ngã đó cũng như về niềm tin đứng đằng sau ngã đó, cho tới khi con có thể buông nó ra và để cho nó chết đi.

Làm thế nào vượt qua khó khăn hòa điệu với chân sư

Hỏi: Con nhận thấy là khi con cố hòa điệu trực tiếp với một vị chân sư đặc thù, điều này đôi khi rất khó khăn. Chẳng hạn, kỹ thuật do thày Guru Ma đưa ra để hòa điệu với thày rất hữu ích, là hình dung ra một cánh đồng hoa cúc bất tận xong tập trung vào điểm vô tận. Xin các thày vui lòng khai triển đề tài này về những khó khăn hòa điệu tâm mình với các chân sư, và liệu có những kỹ thuật nào để việc đó dễ dàng hơn?


Kim Michaels: Đúng vậy, lời dạy đó được đưa ra trong cuốn sách “Don’t drink your own Kool Aid”. Nếu tôi nhớ không lầm, lời dạy mà ông đề cập về hoa cúc, đó là kỹ thuật đặc thù của thày Guru Ma.

Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Trước hết, đây là câu trả lời “mẫu” cho câu hỏi này. Hãy tìm xem có ngã tách biệt nào đang ngăn chặn sự hòa điệu của con, xong tìm cách khắc phục ngã tách biệt đó. Rất, rất nhiều người tâm linh – và điều này cũng liên hệ tới những gì chúng tôi vừa trình bày về tư duy thần tượng hóa con đường tâm linh, thần tượng hóa chân sư thăng thiên – nhiều người đã dựng các chân sư lên thành thần tượng và nghĩ sao chúng tôi quá toàn hảo. Chúng tôi như cao chót vót ở trên các con đến độ để các con hòa điệu được với chúng tôi, nó gần như đòi hỏi một nỗ lực siêu phàm hầu nâng tâm thức mình lên một mức tối thượng.

Nhưng như ta đã nói trong câu trả lời về quả vị Ki-tô, mỗi tầng trong số 144 tầng tâm thức đều có một cách biểu hiện quả vị Ki-tô.

Ta là ai? Ta là vị đại diện của tâm thức Ki-tô cho trái đất. Có nghĩa là ta có khả năng tự biểu lộ ra cho mỗi tầng tâm thức trong số 144 tầng. Cho nên dù con có ở mức tâm thức nào đi nữa, ta cũng có thể – nếu con muốn dùng hình ảnh này – đi xuống tới mức của con, và do đó, con chỉ cần với lên tầng ở ngay trên con để nối kết với ta. Không như là con phải với lên nhiều tầng cao hơn, mà con chỉ cần vượt lên khỏi mức hiện thời của con thì con sẽ liên lạc được với ta. Và điều này, con đầy đủ khả năng làm được.

Câu hỏi đặt ra là liệu con có một cái ngã tách biệt đang ngăn chặn con không? Có thể đó là cái ngã tách biệt cho rằng con phải nâng cao tâm thức lên rất nhiều, nhưng cũng có thể là một ngã tách biệt nào khác liên quan đến cách con nhìn chân sư thăng thiên hay một vị chân sư cụ thể nào đó. Cũng có thể là một ngã tách biệt không muốn con nối kết, vì nó lo sợ chân sư sẽ phơi bày ra một khía cạnh của tự ngã của con. Trong một tổ chức trước của chân sư thăng thiên, biết bao nhiêu người đã sợ hãi “kẻ ngụ trên ngưỡng cửa” của mình bị vạch trần vì họ tưởng đó là điều mà các chân sư luôn luôn làm. Nhưng đó không phải là điều chúng tôi làm luôn luôn. Chúng tôi tỏ lộ qua rất nhiều cách khác nhau cho nhiều người khác nhau, tùy theo cách nào sẽ giúp người đó tăng trưởng lên mức tâm thức kế tiếp.

Chúng tôi không bao giờ tìm cách trừng phạt con. Chúng tôi không bao giờ tìm cách khiến con hổ thẹn. Chúng tôi không bao giờ muốn con cảm thấy mình tắc trách. Chúng tôi chỉ muốn giúp con tiến lên mức kế tiếp. Cho nên ta xin nói, con hãy xem xét mối quan hệ của con với các chân sư, xem xét cách con nhìn các chân sư và đặc biệt cách con nhìn chính con trong quan hệ với chân sư. Hãy nhìn xem con có cảm thấy miễn cưỡng điều gì không, có cảm thấy mình bất xứng, rồi con hãy làm việc trên cái ngã tách biệt đó, và mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn cho con.

Ngoài ra còn có một loại ngã tách biệt khác mà nhiều người mắc phải liên quan đến các sinh thể tâm linh. Và đây là toàn bộ cái tâm thức đã được nhiều tôn giáo dựng lên, cho rằng bất kỳ sinh thể tâm linh nào, bất kỳ vị thần nào, cũng đều phải là phiên bản của ông già Nô-en – hay nói cách khác, là một vị Thượng đế có khả năng thỏa nguyện mọi điều ước. Đây là Thượng đế mà nhiều người hoàn toàn phớt lờ trong đời sống hàng ngày, nhưng khi họ gặp phải vấn đề thì bỗng nhiên, đó là Thượng đế mà họ sẽ cầu nguyện, hay họ cầu nguyện đức Mẹ Mary, hay họ đi lễ và thắp nến ở nhà thờ. Và giờ đây họ cho rằng Mẹ Mary sẽ giải quyết vấn đề đó cho họ như trong phép lạ, để sau đó họ có thể phớt lờ tiếp. Đây không phải là cách hòa điệu với các chân sư thăng thiên. Nếu con mang loại ngã tách biệt này, hay có lẽ đã lớn lên trong một môi trường như thế, thì đây cũng là một điều mà con phải cải sửa.    

Rồi đến lúc con phải tự hỏi: “Tại sao tôi lại cố hòa điệu với chân sư? Ý định của tôi là gì? Tôi muốn đạt được điều gì?” Và ở đây con có thể học từ những gì vị sứ giả này đã nói về bản thân khi ông nhận các bài truyền đọc từ chân sư. Ông có nói mấy lần là để nhận được bài truyền đọc, ông bước vào một trạng thái trung hòa. Ông không có ý định muốn chúng tôi làm gì hay nói gì đặc biệt. Ông không chờ đợi là chúng tôi sẽ làm bất cứ gì cho ông, ca ngợi ông, tâng bốc ông, hay bất cứ gì khác. Ông chỉ bước vào tâm trung hòa. Nếu con thực sự muốn hòa điệu với một chân sư thăng thiên, con cần làm việc trên ý định của con. Con đang cố đạt được gì đây?

Có thể có một ngã tách biệt muốn con được thêm vị thế, như được chân sư vỗ vai nếu chúng tôi hiện ra cho con hay nếu con nối kết được với chúng tôi. Con có thể dùng chuyện đó để khoe khoang với người khác. Chúng tôi đã chứng kiến bao học trò của chân sư làm chuyện này rất nhiều lần. Nó có thể cho con một cảm giác quan trọng, rằng con quan trọng hơn những người chưa bao giờ có được trải nghiệm nào với chân sư.

Nếu con có những loại ý định đó, nó sẽ ngăn chặn con trải nghiệm sự hiện diện của chúng tôi, vì nếu chúng tôi cho con trải nghiệm đó thì hóa ra nó chỉ củng cố cho ngã tách biệt, có phải vậy không? Tất nhiên cũng có những học trò mang ý định đó và cảm thấy là mình đã có một trải nghiệm với chân sư, nhưng kỳ thực trải nghiệm của họ là với những kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá. Bởi vì nếu con có bất kỳ ý định kiêu hãnh nào, con sẽ không thể nối kết được với chúng tôi, vì chúng tôi sẽ cản trở sự phát triển của con nếu chúng tôi cho con một trải nghiệm về sự hiện diện của chúng tôi. Đã có những lần chúng tôi trực tiếp rút lui khỏi một đệ tử vì đó là cách duy nhất để giúp cho đệ tử đó tăng trưởng. Cho nên đây cũng là một điều mà con có thể xem xét. Nhưng nếu con có thể đạt tới điểm con không còn muốn chúng tôi làm bất cứ điều gì, không muốn chúng tôi trả lời một câu hỏi nào, thì con có thể trung hòa.  

Ý tưởng muốn chúng tôi trả lời một câu hỏi cá nhân cho con, đặc biệt là muốn chúng tôi bảo con phải làm gì trong một tình huống nào đó, cũng là một điều thường khi sẽ chặn đứng sự hòa điệu của con. Không phải là chúng tôi không sẵn lòng giúp con trong một số hoàn cảnh, nhưng trong nhiều trường hợp, chúng tôi không muốn bảo con phải làm gì bởi vì đó chính là trách nhiệm của con phải quyết định lấy.

Đó là điều mà vị sứ giả này cũng đã học được trong những bước đầu trên đường tu, khi ông nhận ra là có những tình huống trong đời ông mà ông có trách nhiệm phải tự lấy quyết định. Chúng tôi sẽ không bảo con phải làm gì. Chúng tôi có thể cho con một khung tham chiếu, chỉ ra cho con một cách nhìn khác về tình huống. Nhưng chúng tôi chỉ có thể làm vậy khi con ở trong một trạng thái tâm trung hòa.

Cho nên một lần nữa con hãy nhìn đây, hãy khắc phục cái ngã đang muốn con được chỉ bảo mình phải làm gì, thường thường là vì nó sợ lầm lỗi. Vậy con sẽ nghĩ gì nếu một chân sư hiện ra trước mắt con và bảo con làm điều gì đó, chẳng hạn rút ra một con dao và cứa cổ đứa con của mình như đã xảy ra cho Abraham? Và cho dù con có làm gì thì con cũng sẽ không có lỗi vì chuyện đó là do một sinh thể tâm linh? Nếu có một bài học trong câu chuyện của Abraham, thì bài học đó đã không được Kinh thánh thuật lại chính xác, bởi vì không phải Thượng đế đã ra lệnh cho ông làm vậy, mà là một kẻ mạo danh trong hàng ngũ giả trá đã bảo ông giết con ông. Và khi ông không nghe theo, đó chính là vì cái ta Ki-tô của ông hay Hiện diện TA LÀ của ông đã khuyên ông đừng làm theo. Nhưng ông đã chỉ có thể nghe được lời khuyên đó là vì ông sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài lệnh ban đầu.

Cho nên một lần nữa, nếu con muốn nghe thấy một giọng nói ầm ầm từ trên trời bảo con phải làm gì vì con sợ lầm lỗi, thì chúng tôi không thể hiện ra cho con, vì làm như vậy sẽ chỉ tăng cường cái tâm thức đó mà thôi. Cho nên nếu con đạt tới điểm con có thể nói thật giản dị là con muốn trải nghiệm sự hiện diện của một chân sư thăng thiên, hay có lẽ một chân sư đặc thù nào đó, thì con hãy đọc bài chú cho vị chân sư đó. Nhưng ngay sau khi con đọc xong, con hãy bước vào tâm trung hòa, nằm xuống, nhắm mắt lại, thư giãn ra và trung hòa – một trạng thái tâm trung hòa. Con càng trung hòa bao nhiêu thì xác suất sẽ càng lớn để con trải nghiệm một cái gì đó vượt khỏi mức tâm thức hiện thời của con.

Đó sẽ không phải là sự thị hiện tối hậu của vị chân sư đó. Đó sẽ là trải nghiệm mà con có khả năng chịu được ở mức tâm thức của con. Chúng tôi không thị hiện trong trải nghiệm tối hậu vì con người sẽ không chịu nổi. Nếu ta thị hiện trọn vẹn sự Hiện diện của ta ở đây ngay bây giờ, tất cả các luân xa của con sẽ thiêu cháy, kể cả luân xa của vị sứ giả này. Chúng tôi luôn luôn giảm bớt Hiện diện của mình xuống một mức mà con người có thể chịu được. Và đây là thêm một cạm bẫy nữa cho những ai mong muốn trải nghiệm tâm linh – nếu con luôn tìm cầu một trải nghiệm tột đỉnh, một trải nghiệm tối hậu nào đó, thì đó cũng là một điều sẽ ngăn cản con, và ngăn chặn chúng tôi thị hiện cho con. Không hẳn là nó ngăn chặn chúng tôi thị hiện, mà nó ngăn chặn con nhận ra là chúng tôi đang ở ngay đây, vì con không thể cảm thấy Hiện diện của chúng tôi khi con đang tìm cầu một cái gì khác. Cho nên nếu mọi chuyện chưa thành công, con hãy bước vào trung hòa, con hãy trung hòa. Và con sẽ chiêm nghiệm được một cái gì vượt khỏi mức tâm thức hiện thời của con.

Quan hệ giữa phàm linh tập thể và phàm linh nội tại cá nhân

Hỏi: Đôi khi con cảm thấy sự chống đối từ một phàm linh nội tại. Nhưng có thể nào con có một lỗ hổng mà qua đó một phàm linh tập thể đang ảnh hưởng con? Làm thế nào con phân biện được điều này? Đó là phàm linh nội tại của con hay là phàm linh tập thể?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Trên cơ bản, con có thể nói là một phàm linh tập thể không có khả năng xâm nhập bốn thể phàm của con, hay ảnh hưởng bốn thể phàm của con, trừ khi có một lỗ hổng để nó đi vào. Và lỗ hổng này được tạo ra bởi một phàm linh nội tại. Đó là cách duy nhất mà các phàm linh tập thể đó có đường xâm nhập vào tâm thức của con. Con đã tạo ra phàm linh tập thể đó hay ngã tách biệt đó bằng cách lấy một quyết định. Đó là vì sao chúng tôi, các chân sư thăng thiên, nhấn mạnh lại nhiều lần là con cần phát hiện ra cái ngã tách biệt, nhìn thấy quyết định đằng sau nó, xong con thay đổi nó một cách ý thức.

Có thể là trong một tiền kiếp chẳng hạn, như chúng tôi đã có đề cập qua chấn thương nhập đời, con đã phải chạm trán với một cảnh huống gây chấn thương đến độ con đã không lấy quyết định hoàn toàn ý thức hay tỉnh thức để tạo ra một phàm linh nội tại hay một ngã tách biệt. Cho nên có thể một cách vô thức, con quyết định tạo ra một ngã tách biệt, nhưng con không thể nào khắc phục được ngã đó bằng những quyết định vô thức. Con phải quyết định ý thức là con sẽ để cho ngã đó chết đi, hay giải thể ngã đó đi. Một lần nữa, cách hay nhất là con hãy nhìn vào chính mình, sử dụng các dụng cụ để phơi bày ngã tách biệt, cho tới khi con nhìn ra loại quyết định nào mà con đã có.

Điều này không có nghĩa là con không cần đọc những lời thỉnh gọi để bảo vệ tâm linh chẳng hạn, thỉnh gọi Astrea cắt đứt cho con giải thoát khỏi phàm linh tập thể, vì một khi con bị một phàm linh tập thể chi phối thì việc nhìn ra và giải quyết phàm linh cá nhân sẽ trở nên khó khăn hơn.

Con hãy hiểu ở đây là có nhiều loại phàm linh nội tại hay ngã tách biệt khác nhau. Chúng có mức độ trầm trọng khác nhau, qua đó ta muốn nói là có những phàm linh sẽ khiến con bị hở rất ít hay chỉ thỉnh thoảng hở ra với phàm linh tập thể. Trong khi đó thì một số ngã hay phàm linh nội tại khác có khả năng tạo ra lỗ hổng lớn hơn, khiến con chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ phàm linh tập thể. Một khi con mang một phàm linh nội tại đã tạo ra một lỗ hổng to lớn cho phàm linh tập thể đi vào, thì con có thể bị phàm linh tập thể áp đảo đến độ con thực sự không có cách nào đối phó với phàm linh nội tại cá nhân đó nữa. Điều con cần làm trong những trường hợp như vậy là nỗ lực một cách vô cùng chân thành để thỉnh gọi và sử dụng các bài thỉnh cho Đại thiên thần Michael và Astrea, hầu con được cắt đứt khỏi phàm linh tập thể.

Mục đích các bài thỉnh đó là để niêm phong bốn thể phàm của con khỏi ảnh hưởng của các phàm linh hầu con có một cơ hội – không phải là cơ hội sống một cuộc đời thoải mái như một số người lầm tưởng, nghĩa là họ cầu nguyện hay họ dùng một số kỹ thuật tâm linh để được nhẹ gánh khỏi phàm linh tập thể và giờ đây họ nói: “À, thế là bây giờ tôi có thể thảnh thơi vui hưởng cuộc đời và tiệc tùng thỏa thích.” Nhưng đúng thực, cơ hội ở đây là con có dịp làm việc trên phàm linh nội tại đó. Và một khi con loại trừ được nó, con tự ý niêm phong năng trường của con lại, thì phàm linh bên ngoài sẽ không thể ảnh hưởng được con nữa.

Việc biết rõ một phàm linh là nội tại từ bên trong hay đến từ bên ngoài, không nhất thiết là quan trọng. Chúng ta có thể nói là nếu con có một vấn đề thật nghiêm trọng qua đó con cảm thấy rất nhiều năng lượng, rất nhiều gánh nặng năng lượng phóng về phía con, thì con biết nó đến từ một phàm linh bên ngoài. Khi đó, con cần nỗ lực đóng kín con lại cho nó không xâm nhập, xong con làm việc trên cái phàm linh nội tại.

Nhưng nếu con không cảm thấy luồng năng lượng mạnh đến như vậy – và đối với nhiều các con bắt đầu lên tới những tầng cao hơn và đã khắc phục được một số phàm linh dữ dằn nhất – thì con chỉ phải đối phó với những thứ vi tế hơn không bị phàm linh tập thể ảnh hưởng nhiều. Đó là lúc con bắt đầu nhìn vào các phàm linh nội tại đó, các ngã tách biệt đó, và thấy chúng là gì.

Trên cơ bản, con có thể nói là nếu con cảm thấy một năng lượng rất mãnh liệt thì năng lượng này đến từ một phàm linh tập thể. Đối với một phàm linh nội tại, con sẽ không cảm thấy cường độ năng lượng lớn đến vậy, giản dị là vì nó đến từ bên trong và con đã quen với nó rồi. Khi con cảm nhận một cái gì thực sự đè nặng lên con, một cái gì thực sự mạnh mẽ, thì con biết nó đến từ ngoài, vì nếu không, có thể con đã quen nó rồi.

Và đó tất nhiên chính là nguy cơ của những phàm linh nội tại, con có thể trở nên quá quen thuộc với năng lượng mà chúng phóng chiếu tới con. Một số người, nhiều người thậm chí, bị năng lượng đó khống chế và họ nghĩ sống như vậy là chuyện bình thường: “Ôi cuộc đời là như thế đấy” hoặc “Tôi là con người như vậy đó.” Và điều này hiển nhiên không phải là điều con muốn làm trong tư cách một người tâm linh. Hầu hết các con khi thành thực gắng sức bước chân trên đường tu, không rơi vào mô thức đó. Khi con đã khắc phục được một phàm linh thì chỉ một thời gian ngắn sau, con lại sẵn sàng tìm kiếm cái phàm linh kế tiếp, và đó chính là điều con cần làm.

Câu hỏi về căn thể

Hỏi: Con bị bối rối bởi căn thể (causal body), là nơi các động lượng tích cực từ các kiếp đầu thai vật lý được lưu trữ trong kho trên thiên đàng. Có cách mô tả nào chi tiết hơn không? Chính xác những thứ được tích tụ trong căn thể là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 9/12/2019.

Cách đơn giản nhất để mô tả là nói rằng bất kỳ trải nghiệm nào con sống qua khi con đang hiện thân vật lý, thì con sẽ có trải nghiệm đó qua những ngã tách biệt của con, và do đó trong nhiều trường hợp, con có thể trải nghiệm một điều kiện nào đó như một kinh nghiệm tiêu cực. Con không thấy bất cứ gì tích cực trong đó vì nó khó chịu và con chỉ muốn tránh nó thôi. Nhưng Hiện diện TA LÀ của con thì lại nhìn cùng điều đó từ bên ngoài. Hiện diện không đứng bên trong những ngã tách biệt hay ngã vỏ ngoài này, cho nên chiêm nghiệm của nó hoàn toàn khác. Dù trải nghiệm của con có là thế nào, Hiện diện TA LÀ cũng có thể rút tỉa từ đó một bài học tích cực hay chiêm nghiệm tích cực, và chính chiêm nghiệm này được lưu trữ trong căn thể.

Vậy có thể con sẽ muốn hỏi: “Nhưng chuyện gì xảy ra nếu con, tức cái Ta Biết, có một trải nghiệm tích cực, hay một trải nghiệm mở rộng tâm thức, mở rộng hiểu biết và thăng vượt, liệu cái đó cũng được lưu trữ trong căn thể hay không?” Trả lời cho câu này phức tạp hơn một chút, vì cái đó có thể được lưu trữ trong căn thể nhưng không hoàn toàn giống như cách con nhìn từ mức độ của cái Ta Biết, mà từ mức độ của Hiện diện TA LÀ. Cho nên con có thể nói, Hiện diện TA LÀ là đấng trông coi những gì đi vào căn thể, chứ không phải cái Ta Biết. Hiện diện TA LÀ nhìn vào mỗi trải nghiệm của cái Ta Biết, rồi nó quyết định xem có nên cho vào căn thể hay không.

Xong có thể con lại muốn hỏi thêm: “Nếu con đã có rất, rất nhiều kiếp sống, và trong nhiều kiếp như vậy, con đã đau khổ, nghèo khó, con đã sống một cuộc đời vô vị không có chuyện gì xảy ra, thì liệu Hiện diện TA LÀ sẽ rút tỉa được những gì?” Một phần nào đó, con có thể nói, nếu con sống qua bấy nhiêu kiếp sống mà cứ mãi lặp đi lặp lại cũng một khuôn nếp, thì đúng là Hiện diện TA LÀ không có kinh nghiệm mới nào để tích tụ. Nó đã trông thấy những gì nó cần thấy tử loại kinh nghiệm đó rồi, nhưng tuy vậy, nó có thể tích lũy những trải nghiệm này trong căn thể để chúng lần hồi hình thành mốt khối đủ lớn để giúp con có thể, từ mức độ cái Ta Biết, hòa điệu dễ dàng hơn và tiếp cận cái mà chúng ta có thể gọi là ký ức tích lũy, bộ nhớ tích lũy. Chính điều này sẽ giúp con quyết định là con không cần lặp lại trải nghiệm đó nữa. Con đã đủ chán chê rồi. Và nó có thể giúp con lấy quyết định ý thức sẽ nâng con lên một mức cao hơn, và ở mức cao hơn này, con sẽ có chiêm nghiệm khác, kiếp sống khác.

Phí phạm thời gian trên đường tu tâm linh

Hỏi: Trong một kiếp sống nào đó, tại sao nhiều đệ tử phải mất quá nhiều thời gian để tìm thấy các chân sư thăng thiên? Rồi một khi chúng con tìm được các thày, tại sao lại khó khăn và mất nhiều thì giờ đến vậy để phát hiện và kích hoạt Sứ vụ Thiêng liêng của mình? Tại sao mất nhiều thời gian như thế? Tại sao quá nhiều thời gian bị phí phạm qua cách đó trong một kiếp người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C, Hoa kỳ, năm 2019. Đăng ngày 9/12/2019.

Cách thực sự để nhìn vấn đề này là không có thời gian nào bị đánh mất. Con phải kinh qua một số trải nghiệm trước khi con sẵn sàng tìm ra giáo lý trong tâm thức vỏ ngoài của con. Cách nhìn thực tế là con nói: “Tôi đã cần đến những trải nghiệm mà tôi đã có trước khi tôi tìm thấy các lời dạy, đó là để tôi mở tâm ra cho việc tìm thấy lời dạy.” Đây là cách tiếp cận thực tiễn.  

Bây giờ nếu con đi trở ngược lại trước thời internet, thì từ một góc nhìn thực tế, việc tìm kiếm giáo lý của chân sư thăng thiên từng khó khăn hơn rất nhiều. Vào thời đó, việc tìm kiếm có thể tốn nhiều thời gian hơn đến độ con có thể đã sẵn sàng phát hiện giáo lý nhưng con vẫn không tìm thấy giáo lý trong cõi vật lý. Thời nay với mạng internet, chuyện này ít là vấn đề hơn nhưng tất nhiên vẫn có thể xảy ra. Nhưng nói chung, con vẫn cần nói: “Tôi đã cần đến trải nghiệm đó để tôi có thể sẵn sàng, cho nên tôi sẽ không lo lắng là mình đã phí phạm thời gian hay không.”

Giờ đây con đã tìm ra giáo lý, một lần nữa con lại cần nhận ra là không có thời gian bị lãng phí ở đây. Việc phát hiện giáo lý chỉ là bước đầu của một tiến trình rất dài. Con cần thời gian để thể nhập các lời dạy, để chữa lành bốn thể phàm của con, để khắc phục mọi ngã tách biệt, để thanh lọc các luân xa và bao nhiêu việc nữa. Thẳng thắn mà nói, khi con tìm ra giáo lý, con đã hoàn thành một yếu tố quan trọng trong Sứ vụ Thiêng liêng của con rồi. Rất có thể là những gì con từng làm trước khi con tìm ra giáo lý cũng nằm trong Sứ vụ của con.

Con không thể giản dị bảo rằng chỉ khi nào con nhìn thấy Sứ vụ Thiêng liêng của con trong ý thức thì con mới bắt đầu thực hiện Sứ vụ. Con đã bắt đầu từ tuổi thơ ấu rồi, vì con mang sẵn một cảm nhận nội tâm về Sứ vụ của con gồm có những gì, cho dù con không nhận biết ý thức hay con không thể diễn tả bằng lời nói.

Đa số những sự kiện xảy ra cho con trong kiếp này là một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con, vì Sứ vụ của con không chỉ là những gì con phải làm, mà còn là những trải nghiệm mà con có, cũng như bằng cách nào các trải nghiệm đó sẽ giúp con tăng triển. Điều quan trọng là con nên tránh bất kỳ cảm giác thất vọng nào là con đã tốn quá nhiều thời gian cho nên bây giờ con bị chậm trễ. Bởi vì cảm giác này thường khiến cho người ta rơi vào phản ứng mất cân bằng – mà sứ giả này đã mô tả – là con trở nên quá háo hức giành lại thời gian đã mất, con cố đền bù, thế là bỗng nhiên con phải đi cứu cả thế giới hay tự cứu chính mình trong vòng năm phút. Chuyện nó không xảy ra như vậy. Con vẫn cần kinh qua một tiến trình, và một phần của tiến trình này là nếm mùi một số trải nghiệm nào đó.

Các thày đã cố nói điều này nhiều lần: Không thể có chuyện tạo ra một chương trình hay ban ra một kiến thức nhất định sẽ lập tức thay đổi một con người. Ngay cả nếu con tưởng tượng các chân sư thăng thiên có thể thiết lập một khóa tu vật lý ở đâu đó, và giả dụ ta là vị thày trong khóa tu đó, vẫn không thể có chuyện con chỉ cần bước vào lớp học và ta ngồi đó dạy học, ta trao cho con kiến thức cùng hiểu biết, rồi sau một thời gian con bỗng giác ngộ.

Bởi vì để có thể thể nhập hiểu biết đó, con sẽ cần đến một số trải nghiệm nhất định, và trải nghiệm này sẽ tốn thời gian, nó là một tiến trình. Để khắc phục những cái ngã, con cần đến một trải nghiệm sẽ giúp con nhìn thấy ngã và nhìn thấy các khuôn nếp phản ứng của mình. Đây chính là hai khía cạnh Alpha và Omega: con nhận được giáo lý, nhưng cũng cần có trải nghiệm.

Một lần nữa, tại sao con lại nghĩ con đã phí thời gian? Thay vào đó, điều xây dựng hơn là nói rằng: “Tất cả chỉ là một phần của những trải nghiệm mà tôi cần. Làm thế nào tôi có thể sử dụng các lời dạy này tốt hơn từ giờ trở đi?”

Làm cách nào đi đến khóa nhập thất tâm linh?

Hỏi: Khâu hậu cần của việc đi tới các khóa nhập thất tâm linh là như thế nào? Có phải là có thiên thần đến mời con đi, hay thể bản sắc của con tách rời ra khỏi cơ thể vật lý?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 4/12/2019.

Không có thiên thần nào đến mời con đi dự khoá nhập thất tâm linh, mà con tự mời chính mình – con đi một mình. Đó là một điều con có thể làm một cách ý thức khi con là đệ tử cùa một chân sư thăng thiên, nhưng không có nghĩa là con phải làm ý thức để đi dự khóa nhập thất. Thường chuyện này đã khởi sự từ nhiều kiếp trước, khi con dần dần xây đắp một động lượng hòa điệu với một thực tại cao hơn, cho dù con xem thực tại đó là gì. Điều này có nghĩa là con mong muốn học hỏi, rồi con có thể đi học ban đêm, con đi học và con bắt đầu du hành. Thường khi con đi học trong thể bản sắc, có nghĩa là thể bản sắc của con đi tới khóa nhập thất. Khi con nói là thể bản sắc tách rời khỏi cơ thể vật lý thì điều này không nhất thiết là xây dựng.

Con cần thận trọng ở đây và nhận ra là chúng tôi các chân sư đã đưa ra một số hình ảnh nói rằng khóa học nằm trong cõi ether bên trên một số địa điểm vật lý. Lý do là vì lời dạy này đã được đưa ra vào một thời mà mọi người có tâm thức đường thẳng hơn nhiều. Nhưng tất nhiên, khoảng cách và địa điểm vật lý chỉ có ý nghĩa trong cõi vật lý mà thôi, chứ trong cõi bản sắc thì nó không ý nghĩa gì nhiều lắm.

Không đúng hẳn là thể bản sắc của con phải tách rời khỏi cơ thể vật lý, như chẳng hạn con ở Hoa Kỳ mà phải đi đến đảo Crete để nhập khóa học của thày Hilarion. Nói đúng hơn, con cần hòa điệu với độ rung của khóa nhập thất.

Sau đó con có thể tham gia khóa nhập thất trong thể bản sắc của mình mà không phải thật sự rời xác thân vật lý. Bởi vì, một lần nữa, trong cõi bản sắc không thật có địa điểm vật lý đó. Nhưng nếu một số người cảm thấy việc hình dung thể bản sắc của mình tách ra khỏi cơ thể và du hành đến địa điểm nhập thất là chuyện hữu ích, thì đó cũng là một cách chính đáng để hình dung. Con nên nghĩ là một khi con tiến xa hơn trên đường tu, con sẽ có thể bỏ lại những hình ảnh như vậy.

Đó cũng là cùng lý do tại sao trong đợt truyền pháp này, chúng tôi đã không trao truyền bất cứ chân dung mới nào của các chân sư thăng thiên, và chúng tôi cũng không khuyến khích các con sử dụng. Nếu có ai cảm thấy nhu cầu dùng chân dung thì tất nhiên, họ có thể tự do làm điều đó. Chúng tôi không muốn đề xướng chuyện này vì sẽ tới một điểm khi con cần có khả năng hòa điệu với sự hiện diện của chúng tôi mà không cần nhìn vào một bức chân dung, hoặc nghe thấy nốt nhạc đặc biệt của chân sư, hay bất kỳ phương cách vỏ ngoài nào khác. Không phải là nó sai trái, mà nó đặc thù với một giai đọan trên đường tu. Chúng tôi mong có thể giúp được nhiều người trong số các con vươn lên cao hơn giai đoạn đó để không còn cần đến nữa.

Nếu con chưa chán trải nghiệm mà ngã cho con, con sẽ chưa bỏ được ngã

Hỏi: Có người bảo là con có thể gạt bỏ ngã tách biệt khi con thấy nó, nhưng nó vẫn có thể ở lại trong tâm tiềm thức của con, và các chân sư sẽ không thể loại nó ra khỏi con nếu con còn bám lấy nó trong tiềm thức. Làm thế nào con có thể khiến cho tâm tiềm thức nhả ngã tách biệt ra, để nó được lấy đi? Làm thế nào con có thể ngăn tâm tiêm thức phóng chiếu ra những hình ảnh bất toàn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Ta ưa cách nói thế này hơn: Con hãy từ bỏ ý tưởng cho rằng tâm tiềm thức của con đang có một sự sống riêng biệt nào đó. Cái có sự sống riêng biệt là những cái ngã tách biệt. Chúng có thể ngụ trong tiềm thức của con. Không phải tâm tiềm thức con phóng chiếu những hình ảnh đó vào tâm ý thức của con, mà là ngã tách biệt.

Điều xảy ra là con có thể đạt tới mức khi con có thể nhìn thấy một ngã tách biệt nào đó, và con thấy một số hậu quả mà nó gây ra, nhưng rất có thể con không sẵn sàng nhìn vào nó và loại bỏ nó đi. Lý do phần nào có thể là cái ngã đó đã cho con một loại trải nghiệm nào đó và con chưa cảm thấy chán chê trải nghiệm đó.

Cho nên con làm ngơ không nhìn ngã, hay con đẩy nó vào tiềm thức hầu con không phải nhìn nó hoài hoài. Điều này có thể xảy ra cho một số người, và trong trường hợp này, giản dị con chỉ cần nói: “À, mình chưa chán ngấy những trải nghiệm mà cái ngã cho mình, vậy tại sao phải lo lắng về ngã? Tại sao lại cố vứt bỏ nó đi? Hãy trải nghiệm nó cho tới khi mình chán ngấy.”

Để loại trừ một ngã tách biệt, không những con phải nhìn thấy nó, nhìn thấy nó đang làm gì, mà con cũng phải nhìn ra được niềm tin hay quyết định đã tạo ra ngã tách biệt. Con phải nhìn thấy những hạn chế của nó, thấy nó đang giới hạn con ra sao, thấy nó xa rời thực tại như thế nào, và nó xuất phát từ một cái nhìn giới hạn và ảo tưởng tới đâu. Và một khi con thấy được ảo tưởng đó, cái niềm tin đứng đằng sau ngã tách biệt, đó là lúc con sẽ tự nhiên buông nó ra. Con không cần phải quyết định buông bỏ với tâm vỏ ngoài của con. Con chỉ cần cảm nhận được nhãn quan của con đã thay đổi, và con thả cho ngã ra đi.

Tất nhiên, con có thể nói là có những cái ngã tách biệt trong tiềm thức đang phóng chiếu hình ảnh vào tâm ý thức của con. Trong nhiều trường hợp, điều đó cũng có thể là những lỗ hổng trong các thể tình cảm và lý trí của con mà qua đó các tà lực đang phóng hình ảnh vào tâm ý thức của con. Nếu thế, cách hay nhất để giải quyết vấn đề này là kêu gọi sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, và kêu gọi Astrea cắt đứt mọi dây buộc con vào tà lực. Làm như vậy có thể sẽ đem lại cho con sự nhẹ nhõm tạm thời, nhưng hiển nhiên, cái đã tạo ra lỗ hổng ngay từ đầu là ngã tách biệt, và do đó cho tới khi con loại bỏ được ngã tách biệt thì con sẽ không thể hoàn toàn thoát ra được.

Một lần nữa, có rất, rất nhiều người trên thế giới, không nhất thiết là người tâm linh nhưng trong số đó có cả người tâm linh, đang có một ngã tách biệt nào đó đem lại cho họ một trải nghiệm mà họ chưa sẵn sàng buông bỏ. Điều này tạo ra một lỗ hổng mà qua đó các tà lực có thể phóng chiếu hình ảnh vào tâm họ, nhưng họ không thể làm gì được trừ khi họ sẵn lòng buông bỏ ngã.

Các bài thỉnh vận hành như thế nào ở mức tâm lý?

Hỏi: Các bài thỉnh vận hành như thế nào ở mức độ tâm lý? Thày đã có đề cập đến việc thỉnh cầu năng lượng cao, và những làn sóng của bài thỉnh tác dụng trên năng lượng thấp như thế nào. Nhưng xin thày giải thích bài thỉnh vận hành như thế nào về mặt tâm lý? Chẳng hạn, việc lặp lại các từ ngữ trong khi mình tập trung vào chúng có khiến cho ý nghĩa đằng sau từ ngữ thâm nhập vào tâm tiềm thức, tạo ra những thay đổi ở mức sâu xa, hay là có tiến trình nào khác hơn nữa?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Trong các đợt truyền pháp trước, chúng tôi tập trung chủ yếu vào các bài chú (decrees) vì đó là nhu cầu vào thời buổi đó, đặc biệt là cho tâm thức tập thể. Bài chú có tác dụng thỉnh cầu năng lượng một cách vô cùng cô đặc, nhưng nó chỉ đơn giản thỉnh cầu năng lượng. Cho nên câu hỏi đặt ra là, con làm gì với năng lượng đó? Và chúng tôi đã thấy nhiều đệ tử quá tập trung vào việc đọc chú đến độ họ không làm việc trên tâm lý của họ. Đó là lý do tại sao lúc đầu ta đã thảo ra những bài nguyện tràng hạt (rosaries) sau này trở thành những bài mà chúng tôi gọi là bài thỉnh (invocations). Trong bài thỉnh, con có sự phối hợp của bài chú nhằm thỉnh cầu ánh sáng, đi đôi với những lời khẳng định xen vào giữa để chuyển đổi cách nhìn của con về các sự việc.

Và đúng vậy, nếu con cởi mở, nếu con chú tâm vào ý nghĩa lời đọc chứ không chỉ lặp lại một cách máy móc, thì những lời khẳng định đó trong bài thỉnh có thể có tác dụng thách đố những cái ngã mà con đang có.  Và nó cũng sẽ thách đố những tin tưởng đằng sau ngã đó. Và điều này lần hồi có thể đưa con tới một điểm khi con có khả năng nhìn ra ngã đó, nhìn ra tin tưởng đó, nhìn ra ảo tưởng, và con tự tách mình ra khỏi nó. Đây là một điều mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã phát triển trước khi chúng tôi cảm thấy sẵn sàng đưa ra lời dạy về ngã tách biệt, nhưng nó vẫn giúp cho người đọc làm việc trên ngã tách biệt của mình cùng những tin tưởng đằng sau ngã tách biệt.

Bây giờ nói đến những bài thỉnh về những điều kiện xảy ra trên thế giới. Khi con đọc những lời khẳng định đó, và bởi vì con là người đang hiện thân, cho nên con phóng chiếu những lời đó vào tâm thức tập thể. Và chúng có khả năng thách đố những ảo tưởng mà nhiều người đang cầm giữ – không phải tất cả mọi người vì một số có tâm quá khép kín. Nhưng đối với những ai cởi mở, họ sẽ bỗng nhiên cảm thấy như thể mình bị xáo trộn trong tâm khảm, nếu có thể gọi như vậy. Và nếu họ sẵn lòng, sau một thời gian, các ý tưởng đó có thể tuần hoàn xuống tâm ý thức, và đột nhiên họ nhìn ra một ao tưởng. Giống như khi con bừng tỉnh dậy và nhìn ra một điều gì đó mà trước kia con không thể nhìn thấy. Và giờ đây họ sẽ nói: “Ử nhỉ, chuyện này thật là hiển nhiên. Tại sao suốt bao nhiêu lâu mình không nhìn ra được?”

Có điều gì nữa xảy ra khi đọc con đọc bài thỉnh hay chăng? Có, có chứ, theo nghĩa là mọi con người đều nối kết với nhau. Thay vì nói như câu hỏi vừa rồi rằng tất cả chúng ta đều là một, ta thích bảo rằng mọi con người đều nối kết với nhau. Bởi vì nói như vậy thì ngụ ý là khi con đọc một bài thỉnh, con có khả năng tác động lên tập thể bằng cách kéo nó lên cao hơn. Nói cách khác, con đang nâng cao tâm thức cá nhân của con, và mặc dù con không cần làm gì hung hãn trên tâm thức mọi người, con vẫn kéo được tâm thức tập thể đi lên vì con là một thành phần của tập thể. Và vì thế con kéo nó đi lên.

Con sẽ có thể nói: “Nhưng tác dụng là gì khi con chỉ là một người đơn độc trong khi cả hành tinh có đến bảy tỳ người?” Ấy nhưng nó vẫn có tác dụng, và càng nhiều người làm thì tác dụng sẽ càng lớn. Và một lần nữa, con hãy nhìn lại lịch sử mà xem, làm thế nào thay đổi đã xảy ra? Làm thế nào các thể chế dân chủ đã ra đời? Là bởi vì một số người đã nâng cao nhận biết của mình, và sự nâng cao này đã kéo theo cả tập thể đến một điểm đột pha khi bấy giờ việc thiết lập một quốc gia dân chủ trở thành một khả năng hiện thực. Mỗi lần một sự thay đổi tích cực đã xảy ra suốt chiều dài lịch sử thì một tiến trình tương tự đã có mặt. Nó khởi đầu với một số cá nhân nâng cao tâm thức mình, rồi lần hồi nó đạt đến túc số cần thiết khi nó tác động ở mức tập thể, ngay cả trong cõi vật lý.  

Nếu trong con có căng thẳng thì con biết có ngã tách biệt hoành hành

Hỏi: Trong tâm con có một ý nghĩ đang lớn dậy, và con hơi lo ngại không hiểu đó có phải là một ảo ảnh. Nội dung của ý nghĩ đó là làm cách nào cải thiện môi trường trên địa cầu và cải thiện hệ thống giáo dục. Sự thôi thúc muốn thực hiện ý nghĩ đó cứ xảy ra đều đặn, nhưng đồng thời con lại không chắc chắn con có khả năng làm được. Con rất muốn biết đó có phải là viễn quan mà tâm thức con đang có, hay đó chỉ là một ảo ảnh tình cờ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Nhiều người ngày nay cũng như suốt các thời đại đã từng có một khuôn nếp tương tự. Và một lần nữa, hình như ta cứ lặp lại điều này, vì câu trả lời là mỗi khi con có một sự căng thẳng, thì căng thẳng đó đến từ một trong số những ngã tách biệt, hay trong đa số trường hợp, từ hai cái ngã tách biệt đang chống đối nhau. Cho nên như ta vừa trả lời trong câu hỏi trước, có một ngã tách biệt khiến con bị thôi thúc phải đạt được điều gì đó, rồi có một ngã tách biệt khác khiến con ngờ vực, hoặc con tự phê bình là liệu mình có khả năng thực hiện được hay không. Cho nên điều cần làm là con làm việc trên những ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu có sự căng thẳng thì con biết là có những cái ngã tách biệt đang hoành hành. Và như vậy con cần dọn sách chúng đi, hầu con có được một viễn quan sáng rõ hơn về nội dung của sứ vụ thiêng liêng của con.

Chúng tôi đã thấy suốt các thời đại, hay ít ra trong những thập niên qua, rất, rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã nắm lấy các giáo lý của chúng tôi rồi trở nên vô cùng nóng lòng – nếu có thể nói như vậy – muốn xông ra ngoài và thay đổi thế giới, có thể là thay đổi hệ thống giáo dục hay môi trường hay cái này cái nọ. Và như thế họ gần như bị ám ảnh bởi động lực muốn cải sửa thế giới. Nhưng động lực này thường do một cái ngã tách biệt muốn đánh lạc hướng họ khỏi con đường đích thực, là con đường nhìn vào chính bản thân mình. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã quá tập trung vào chuyện cứu nguy thế giới để giúp thày Saint Germain đến độ họ nghĩ rằng: “Ồ, tôi không cần phải xem xét tâm lý của mình bởi vì nếu tôi cầu thỉnh đủ Lửa Tím, nó sẽ làm tiêu sạch nghiệp quả của tôi, và khi đó tâm lý tôi sẽ được giải quyết.” Và đó là tại sao giờ đây các chân sư đang kêu gọi các con hãy nhận ra là điều này hoàn toàn không đúng.

Con sẽ không thăng thiên nếu con không nhìn vào tâm lý của con. Cho nên một lần nữa, con hãy tự xét xem, mỗi khi có sự căng thẳng, mỗi khi có áp lực, mỗi khi con không thoải mái, mỗi khi con có sự thôi thúc ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) muốn làm một điều gì đó, thì con phải tìm xem những ngã tách biệt nào đang gây ra tình trạng đó. Và khi nào chúng chết đi, thì khi đó con có thể theo đuổi những gì thực sự nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con sẽ có được viễn quan về nội dung của sứ vụ thiêng liêng, xong con có thể thực hiện từ một trạng thái nội tâm an bình. 

Liên lạc với phàm linh nội tại

Hỏi: Câu hỏi này là về việc giao tiếp với các phàm linh. Chúng con cần bốn thể phàm hiện thân trong vũ trụ vật chất để có thể tăng triển. Con được biết là trong bốn thể phàm này có một số phàm linh nội tại (internal spirits) cũng được tạo ra để giúp mình tăng triển và trải nghiệm trong kiếp hiện thân. Ở một điểm nào đó trong tiến trình tăng triển tâm linh này, liệu chúng con sẽ giao tiếp với các phàm linh này qua một số tín hiệu như ngôn ngữ hay cảm xúc trong một số tình huống cụ thể? Liệu chúng con có thể liên lạc với các phàm linh được tạo ra để phản ứng lại một số tình huống trong kiếp hiện thân? Và con có thể giao tiếp với Hiện diện TA LÀ của con theo cùng cách đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Câu hỏi được đặt ra dựa trên một sự hiểu lầm. Điều các thày gọi là phàm linh nội tại không được tạo ra để giúp con tăng triển tâm linh. Chúng được tạo ra để phản ứng lại những tình huống mất cân bằng, thiếu hài hòa mà con gặp trên địa cầu. Có một sự tương đồng rất lớn giữa những gì các thày gọi là phàm linh và ngã tách biệt. Cho nên việc giao tiếp với phàm linh không mang tính xây dựng nào vì chúng sẽ chỉ đơn giản giữ chặt con lại, khiến con phải dính dấp với chúng để chúng đoạt năng lượng của con, để con phải tập trung chú ý vào đó thay vì chú tâm vào việc giải thể phàm linh.

Nếu con cố liên lạc với chúng, gần như chắc chắn con sẽ tự buộc mình vào những phàm linh có cùng bản chất hiện diện trong cõi trung giới hay cõi lý trí, thậm chí cả cõi bản sắc thấp, và điều này có thể khiến con bị mắc bẫy vĩnh viễn. Con tưởng là con đang giao tiếp với một thực thể thiện lành nào đó nhưng đơn giản chúng chỉ đang kéo con xa khỏi điều sẽ thực sự giúp con tăng triển tâm linh, là việc giải thể các phàm linh, giải thể các ngã tách biệt.

Tiến trình giao tiếp với Hiện diện TA LÀ của con không giống như vậy. Như các thày đã có đề cập, tất nhiên có những người nghĩ rằng Hiện diện TA LÀ của họ là một sinh thể bên ngoài mà họ có thể liên lạc, giống như khi con gọi điện thoại cho ai đó. Con cho rằng Hiện diện TA LÀ của con ở đâu đó ngoài kia và con cần tìm số điện thoại của Hiện diện TA LÀ của con, con cần gọi số này và nói chuyện với Hiện diện từ xa. Như các thày đã giảng, nếu Hiện diện TA LÀ làm vậy, nó sẽ chỉ củng cố cảm nhận tách biệt của con đối với Hiện diện mà thôi. Cho nên con không liên hệ với Hiện diện TA LÀ của con theo cách đó.

Và hiển nhiên, các thày không khuyến khích con giao tiếp với các linh thể trong ba cõi phàm – cõi cảm xúc, cõi lý trí và cõi bản sắc – vì trong bản chất các cõi này không phải là cõi thăng thiên, cho nên các linh thể này chưa thoát khỏi ý muốn tư lợi. Chúng có thể tương đối vô hại và không nhất thiết là xấu ác, nhưng dẫu sao chúng rất dễ biến thành một ngõ cụt cho con. Và rõ ràng các phàm linh con đang mang trong bốn thể phàm của con cũng chưa thăng thiên, cho nên chúng bị buộc chặt với những tà thể khác nằm ngoài tâm thức con, những tà thể trong tâm thức tập thể, trong cõi trung giới.

Và một lần nữa, đây chỉ là một ngõ cụt không lối thoát. Nó có thể giữ chặt sự chú ý và năng lượng của con trong một thời gian vô hạn định cho đến khi con quyết định là con đã chán chê và muốn thực sự tiến bộ tâm linh qua việc giải thể phàm linh, giải thể các ngã tách biệt. Nhưng điều này đòi hỏi con lấy một quyết định là con sẽ sẵn lòng bỏ ra công sức, sẵn lòng nỗ lực làm công việc nội tâm, thay vì đi theo con đường có vẻ an nhàn là giao tiếp theo một cách mà con quen thuộc.

Nhận biết cao là một trạng thái tâm thức trung hòa hơn

Hỏi: Khi mình đạt được một mức độ nhận thức cao hơn, điều này có luôn luôn đi đôi với một cảm nhận hạnh phúc cực lạc lớn hơn không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Nhưng con yêu dấu, con muốn nói gì khi con nói hạnh phúc cực lạc? Sự nhận biết cao hơn không luôn luôn dẫn đến loại hạnh phúc mà con có thể thấy trong phim Hollywood, và cũng không dẫn đến loại cực lạc mà nhiều Phật tử, chẳng hạn, mơ ước. Họ đã lấy một hình ảnh của thế gian mà phóng chiếu lên những khái niệm đó.

Có một số người chán nói về kundalini dâng lên và họ đã giải thích theo cách đó. Con thấy một số khác có những trải nghiệm tâm linh lạ lùng khi họ cảm giác một trạng thái ngất ngây. Và con cũng thấy một số nhà thần bí Cơ đốc giáo, chẳng hạn, kể lại họ đã chiêm nghiệm một trạng thái dạt dào kéo dài.

Nhưng làm thế nào con sinh hoạt được bình thường trong đời sống hàng ngày nếu con ở trong trạng thái như vậy? Câu trả lời là không thể được. Con không có mặt nơi đây để có một trạng thái cực lạc bởi vì, như các thày vừa mới nói, con có thể chứng nghiệm trạng thái đó khi con ở cõi thăng thiên.

Nhưng đấy không phải là mục đích ở địa cầu. Mục đích là con trải qua những kinh nghiệm mà địa cầu cho con cơ hội trải qua. Khi con đạt tới một mức nhận biết cao hơn, thật sự tâm con sẽ trở nên trung hòa hơn. Điều này thật sự là điều mà Phật gọi là cực lạc nhưng rất ít Phật tử hiểu được như thế. Họ hiểu trong nghĩa gần hơn với hạnh phúc con người.

Thực tế là hạnh phúc con người là một trạng thái tương đối của tâm, có tính chất nhị nguyên. Nó có một đối cực, là khổ sở, và cả hai chỉ có thể hiện hữu trong thế đối nghịch với nhau. Con cảm thấy hạnh phúc đối chiếu với cảm giác khổ sở; đây là tâm nhị nguyên. Khi con nâng cao sự nhận thức, con vượt ra khỏi đối cực nhị nguyên và con có một cảm nhận an bình, phúc lạc, nhưng đây không phải là hạnh phúc trong nghĩa phàm phu vì hoàn toàn không có tương phản.

Con càng lên cao hơn trong nhận biết thì con càng cảm thấy ít tương phản trong tâm thức. Do đó con không nghiệm thấy cái hạnh phúc phàm phu luôn có đối nghịch, hoặc luôn cần phải được so sánh với một cái gì khác. Con chứng nghiệm một tâm thức không có cách nào diễn tả bằng lời vì nó thực sự không thể so sánh với bất cứ gì trong trải nghiệm con người.

Đó là lý do đức Phật đã sử dụng từ “cực lạc” bởi vì vào thời đó từ này không thực sự mang một ý nghĩa nào cả. Đó là một từ mới. Ngày nay chúng ta cũng có thể phát minh ra một từ mới như vậy để mô tả cảm nhận này, nhưng chẳng bao lâu người đời sẽ bắt đầu phóng chiếu những hình ảnh phàm phu vào đó. Cho nên, tốt hơn hết là ta cứ giảng dạy và nói rằng con cần vượt qua các đối cực nhị nguyên. Không có tương phản nào giữa tâm thức của con và một tâm thức ngược lại. Con ở trong một trạng thái trung dung hơn, bình đẳng hơn, quân bình hơn.

Và đó cũng là điều Phật muốn nói khi thày dùng từ “trung đạo”. Trung đạo không phải là điểm đứng giữa hai đối cực mà nó vượt hẳn lên trên toàn bộ cái thang nơi đối cực hiện hữu.

Thời nay, tâm thức Ki-tô là sống xây dựng trong hoàn cảnh hàng ngày

Hỏi: Một khía cạnh của tâm thức Giê-su Ki-tô là làm phép lạ như biến nước thành rượu và đi bộ trên mặt nước. Tại sao thời nay không có ai làm những việc này? Chẳng phải đó là một khía cạnh quan trọng của tâm thức Ki-tô, là quyền năng của tâm trên vật chất hay sao?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 9/10/2019.

Ta đã từng nói là cách đây 2000 năm tâm thức con người dày đặc hơn, cho nên mới có nhu cầu thực hiện những việc làm mà con gọi là phép lạ hầu đánh động sự chú ý của mọi người. Trong thời đại hôm nay, tâm thức đã cao hơn cho nên điều đó không còn cần thiết nữa. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thật sự không ưng thuận những cách biểu đạt đó nữa vì nó thường dẫn đến hiểu lầm. Thường khi nó khiến cho người ta sùng bái người có khả năng thực hiện “phép lạ”, và chính người đó thường bị rơi vào cảm tưởng mình là hơn người, hay bất cứ cảm giác nào khác. Ngoài ra cũng có một số pháp sư ma thuật có một khả năng nào đó sử dụng tâm để điều khiển vật chất – nếu con có thể gọi như vậy – nhưng họ lại dùng quyền năng này cho những mục tiêu vị kỷ.

Vì vậy ngày nay, các chân sư chủ trương một cách tiếp cận khác hẳn, qua đó việc thực hiện phép lạ không phải là trọng tâm. Kỳ thực, phép lạ mà chúng tôi mong muốn loài người thị hiện là sống một cuộc sống xây dựng trong hoàn cảnh hàng ngày của mình. Chúng tôi không tìm kiếm những việc làm phi thường, mà tìm kiếm những việc làm có vẻ bình dị nhưng lại được thực hiện với một tầm mức nhận biết phi thường. Ngày nay, chúng tôi không hề mong muốn giúp cho một ai đó thực hiện những loại phép lạ đó vì người đó sẽ được thần tượng hóa và sùng bái. Và chuyện này sẽ dẫn đến kết quả ngược lại những gì chúng tôi mong muốn, vì chúng tôi mong muốn khuyến khích cho thật thật nhiều người đạt được và biểu lộ được quả vị Ki-tô của mình. Đó là tại sao chúng tôi rất quan tâm khi có người sùng bài các vị thày tâm linh vì việc này thật không lành mạnh.

Khi kundalini thức giấc tự phát

Hỏi: Thày Giê-su có dạy về con đường tuần tự nâng cao nhận biết, và thày cũng nói rằng tiến trình kundalini phải chậm và tuần tự. Khi kundalini thức dậy một cách tự phát, nó có thể gây ra nhiều triệu chứng nghiêm trọng. Tại sao có một số người trải nghiệm kundalini một cách tự phát khi họ chưa chuẩn bị và sẵn sàng? Các chân sư thăng thiên khuyến cáo họ làm gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 6/10/2019.

Con yêu dấu, mặc dù đây có thể là chuyện bẻ cong ngôn từ, nhưng không có gì gọi là một sự thức dậy tự phát, theo nghĩa là mọi người đã từng sống qua nhiều kiếp đầu thai, và tuy con có thể không làm gì đặc biệt trong kiếp này để đánh thức nó dậy, nhưng chắc chắn con đã làm một điều gì đó trong tiền kiếp đưa con đến điểm con trải nghiệm một sự thức dậy trong kiếp này.

Tất nhiên là có những người đã từng có một trải nghiệm mà chúng ta có thể gọi là “thức dậy tự phát” – hay kundalini tự động khởi dậy – và trải nghiệm này đã khiến họ vô cùng lo lắng. Đâu là mục đích của trải nghiệm này? Trong một số trường hợp, chẳng có mục đích gì đặc biệt ngoài sự kiện là những người đó đã, trong một tiền kiếp, toan chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực khi họ sử dụng một loại phương pháp nào đó, hay thậm chí sử dụng cả ma thuật đen chẳng hạn, để cưỡng ép kundalini dâng lên hay để ép buộc sự tăng triển tâm linh của mình. Có nghĩa là trong kiếp trước, họ đã không có được sự đột phá mà họ mong muốn, và trong kiếp sau thì sự đột phá xảy ra cho dù họ đã quên mất mình làm gì trước đây.

Mục đích duy nhất của sự kiện này là họ cần trải nghiệm những gì có thể xảy ra khi họ chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực. Có thể họ không có được trải nghiệm đó trong tâm ý thức, nhưng ít ra sau kiếp đầu thai này, họ sẽ có thể làm việc với các vị hướng dẫn tâm linh của họ và họ suy ngẫm, rút tỉa bài học về trải nghiệm này.

Cũng có một số người đã cố gắng phát triển tâm linh trong một tiền kiếp và đạt đến một mức nào đó, rồi trong kiếp này họ quyết định sẽ đầu thai trong những hoàn cảnh hoàn toàn thiếu vắng yếu tố kích động sự phát triển tâm linh. Cho nên họ không sinh ra trong một môi trường tâm linh, họ không được tu học tâm linh, không nhận được bất kỳ hướng dẫn tâm linh nào, rồi đùng một cái, như thể một cách vô cớ, họ có một sự thức dậy tự phát hay một trải nghiệm tâm linh vô cùng mạnh mẽ. Giờ đây vấn đề là làm thế nào xử lý được tình trạng này. Trong trường hợp này, mục đích có thể là họ đã chọn làm như vậy vì họ muốn chứng tỏ là cho dù họ đã lớn lên trong một môi trường phi tâm linh, ho vẫn có khả năng xoay chuyển để trở thành một con người nhận thức tâm linh hơn.

Vị sứ giả này có biết đến một người phụ nữ tại Đan mạch lớn lên với cha mẹ hoàn toàn phủ nhận mọi con đường tâm linh, thậm chí còn có lối sống rất duy vật. Bà đã tự đào tạo thành một ký giả, viết nhiều bài từ một nhân sinh quan duy vật. Thế rồi một hôm khi đến thăm một nhà thờ ở Tây ban nha, bà bỗng chiêm nghiệm thấy được Giê-su – như thể bà nhận thức được chính ta đang đứng bên cạnh bà. Kinh nghiệm này xoay chuyển tâm thức bà một cách mãnh liệt đến độ bà bỏ ra nhiều năm trời để lãnh hội. Kỳ thực, bà có trải nghiệm kundalini thức dậy và điều này khiến bà rất bối rối. Bà nghĩ mình bị bệnh tâm thần, nhưng rốt cuộc bà viết một cuốn sách về kinh nghiệm này. Cho đến nay, cuốn sách đã tác động tích cực đến rất nhiều độc giả, khiến độc giả hiểu ra là thật sự người ta có thể lớn lên trong một nền văn hóa và một môi trường vô cùng duy vật, nhưng người ta vẫn có thể xoay chuyển để nhận thức tâm linh hơn. Đây có thể là trường hợp của một số người.  

Tất nhiên cũng có một số người chứng nghiệm kundalini thức dậy là vì trong sứ vụ thiêng liêng của họ có ghi là họ sẽ trở thành một vị thày tâm linh, cho nên con thấy có một số người đã viết sách, đã là thày tâm linh, và dưới mắt họ thì họ đã có một sự thức tỉnh tâm linh tự phát. Một lần nữa, đây lại là một sự hiểu lầm vì họ không ý thức được là trong những kiếp trước, chắc chắn họ đã làm một điều gì đó để nâng cao tâm thức, dẫn họ tới điểm họ có khả năng “thức dậy tự phát”.

Trong một vài trường hợp, điều này có thể đem lại một hậu quả đáng tiếc là họ cho rằng thật sự họ không cần dạy cho đệ tử một con đường thức tỉnh tâm linh lần hồi, tuần tự từng bước một. Trên cơ bản, họ bảo con là con không thể làm bất cứ gì để thúc ép sự thức tỉnh tâm linh mà con chỉ cần ngồi chờ cho tới khi nó xảy đến. Hiển nhiên, nói như vậy sẽ không hữu ích lắm cho nhiều người, bởi vì nếu con không thức tỉnh tâm linh trong kiếp này thì không lẽ con cứ ngồi đó, hoàn toàn thoả mãn với tình trạng vô minh của mình và hy vọng rằng một ngày kia sự thức tỉnh sẽ ập tới?

Đa số những ai sẵn sàng tăng triển tâm linh sẽ cảm thấy là con đường tuần tự là con đường xây dựng hơn. Có một điểm vi tế ở đây, theo nghĩa là có một số vị thày tâm linh phủ nhận sự hiện hữu của một con đường tâm linh. Các vị thày đó nói rằng con không thể tạo ra một con đường máy móc sẽ dẫn con tới giác ngộ. Một số thày tâm linh đó là những sinh thể sa ngã chỉ đơn giản muốn ngăn cản không cho người ta cất bước trên đường tu. Nhưng một số vị thày đó không phải là sa nhân, và quả thực họ có lý từ một quan điểm nào đó.

Không có cách nào tạo ra một con đường máy móc để con – nếu con theo đúng một số bước chỉ dạy – sẽ được bảo đảm đạt đến thức tỉnh hay giác ngộ hay quả vị Ki-tô. Các chân sư thăng thiên đã nói nhiều lần đường tu không tự động, không máy móc. Tuy nhiên vẫn có khả năng tạo ra một con đường đưa con đến những tầng tâm thức cao hơn miễn là con không đi theo nó một cách máy móc, mà con nhận ra nhu cầu sử dụng và phát triển các khả năng trực giác của mình và nhìn xa hơn các giáo lý công truyền. Con không máy móc trong cách tu tập vỏ ngoài, mà trái lại con sẵn sàng mở tâm ra những chứng nghiệm tâm linh nhỏ hơn, lần hồi hơn, sẽ dẫn con đến những đột phá ngày càng lớn hơn.

Có một số người đã trải qua một chứng nghiệm thật dữ dội đưa đến một bước đột phá thật to lớn, nhưng đối với hầu hết mọi người, điều thực tiễn và xây dựng hơn hẳn là con có được rất nhiều những đột phá nho nhỏ, những chứng nghiệm “à ra thế” nho nhỏ, những trải nghiệm thần bí nho nhỏ sẽ lần lần dẫn con lên những tầng tâm thức ngày càng cao hơn.

Cũng có một số người khác đã phát triển tâm linh phần nào trong một tiền kiếp, nhưng khi bước vào kiếp này, họ lại phủ nhận khả năng tăng triển tâm linh. Cho nên con sẽ thấy một số người sống mấy chục năm trời trong sự phủ nhận tâm linh, rồi bỗng nhiên họ đột phá vì họ đã từng đạt đến mức này trong một tiên kiếp, và ngay cả sự phủ nhận cũng không đủ mạnh để trấn áp nó được. Mục đích ở đây, một lần nữa, có thể là để chứng tỏ là người ta vẫn có khả năng chuyển sang một nhận thức tâm linh hơn ngay cả khi người ta đã phủ nhận.

Điều quan trọng là con nhận ra đường tu không máy móc chút nào. Tuy nhiên điều cũng không kém quan trọng là con nhận ra đường tu có thật, và nếu con không tiếp cận nó một cách máy móc thì nó sẽ đem lại kết quả cho con.

Điều không xây dựng là con cứ ngồi đó mà chờ đơi một sự thức dậy tự phát, trong khi khắp bát cung vật lý đã có rất nhiều giáo lý và dụng cụ chỉ dẫn con tiến bước một cách tuần tự có hệ thống.

[Bài đọc thêm: Hiểu rõ năng lượng kundalini – một lời giải đáp của chân sư Giê-su]

Điểm đạo không phải là kết quả tự động của tu tập vỏ ngoài

Hỏi: Thày có điều gì cần nói với một học trò của chân sư không chịu đọc một bài thỉnh đủ 33 ngày liền bởi vì có lẽ cô ấy cần một chút mới mẻ và muốn tiến nhanh hơn nhưng rồi lại bị mất chân đứng vì chưa đạt được điểm đạo nào hết? Tuy nhiên, cô ấy có tu sửa tâm lý một cách siêng năng và đã tinh tấn, nhưng cô ấy cảm thấy mình hơi bừa bộn với sách vở. Cô ấy có điểm đạo được không?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 2/10/2019.

Lời hướng dẫn mà chúng tôi trao cho con về việc cầu thỉnh trong 9 ngày hay 33 ngày chỉ là lời hướng dẫn. Con cần để ý tới nhu cầu riêng của con, và con không thể suy luận rằng con không điểm đạo được chỉ vì con đã không theo đúng các quy định. Các chân sư không bao giờ hứa hẹn là nếu con đọc bài thỉnh đủ 33 ngày thì con sẽ điểm đạo.

Điểm đạo không phải là kết quả tự động của sự tu tập vỏ ngoài bởi vì điều cần thiết là phải có một sự chuyển vọt tâm thức. Các bài thỉnh được thảo ra với mục đích giúp con chuyển vọt tâm thức, nhưng cuối cùng thì điều này tuỳ thuộc vào quyết định của con, một quyết định trong ý thức khi con ngộ được một điều gì mà trước đó con không thấy, rồi con chuyển vọt. Không có gì bảo đảm điều đó sẽ xảy ra, và đây là một trong các lý do có người đạt được kết quả khi sử dụng các bài thỉnh và có những người thì không.

Nhưng nếu con không chắc là con đã điểm đạo hay chưa thì điều này thật sự cho thấy con đã chưa điểm đạo, bởi vì tâm thức của con vẫn chưa chuyển vọt. Nếu con đã chuyển vọt thì con cũng đã chiêm nghiệm được sự thay đổi, và con đã không cần đặt vấn đề điểm đạo hay chưa điểm đạo. Nếu con chuyển vọt thì con sẽ ung dung bước tới, tìm xem trong tâm lý mình còn điều gì khác nữa cần giải quyết hay không. Một lần nữa, con không thể lý luận rằng, “Ồ, tôi đã không làm đủ 33 ngày liền, vậy thì bây giờ tôi phải làm lại từ đầu cho đủ 33 ngày và sau đó tôi sẽ điểm đạo.”

Như ta vừa nói, điều này đòi hỏi con ngộ được cái gì đó, rồi con lấy một quyết định và sau đó con chuyển vọt. Nếu con cảm thấy mình chưa qua được một cuộc điểm đạo, con hãy đừng quá khắt khe với chính mình. Đừng cuống cuồng lên mà nghĩ, “Ồ bây giờ tôi nhất định phải tập trung vào chuyện này. Thay vì đọc một lần mỗi ngày trong 33 ngày, tôi sẽ đọc 3 lần mỗi ngày”. Làm vậy sẽ không nhất thiết giúp con đâu. Có những khi con sẽ cần tự nhủ, “Không sao cả, tôi sẽ tạm thời để chuyện điểm đạo này sang một bên. Tôi sẽ tu tập những thứ khác.” Và sau đó một thời gian, rất có thể con bỗng ngộ được một điều gì đó và con chuyển vọt trong tâm thức.    

Con không thể ép buộc một sự chuyển vọt tâm thức nếu con chưa sẵn sàng. Con yêu dấu có thấy không, chuyển vọt tâm thức rất có thể xảy ra trong tầng cõi vật lý, nhưng trước khi con chuyển vọt được trong cõi vật lý, thường thường con cần giải quyết được phần nào trong các cõi cao hơn, là cõi bản sắc, lý trí, tình cảm. Cho nên khi con đọc một bài thỉnh, con cầu thỉnh năng lượng sẽ giải quyết, hay sẽ biến hóa những năng lượng ở ba thể cao này, và sẽ cần một thời gian trước khi con nhận thấy sự chuyển đổi trong tâm ý thức của con. Do đó tiến trình có thể kéo dài hơn 33 ngày, và vì thế, một lần nữa, con đừng quá nóng lòng về chuyện này. Đừng cố ép uổng nó mà hãy cho nó một chút thời gian và chuyển sang làm chuyện khác. Hãy đừng lo lắng, đừng căng thẳng về nó mà hãy để yên cho nó chín muồi.

Hối tiếc quá khứ và ngã gốc

Hỏi: Làm thế nào con có thể vượt qua một vấn đề choáng ngợp do tâm cảm xúc của con tạo ra, khi ngay cả tâm lý luận cũng biết một cách trí thức là nó thật không khôn ngoan khi nó khắc khoải về vấn đề đó? Chẳng hạn, con biết là chẳng ích gì mà nuối tiếc một mối quan hệ đã qua và tình yêu là một nguồn năng lượng không ngừng chảy, nhưng con không khỏi cảm thấy tức giận vì mối tình của con đã chấm dứt. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ. năm 2018. Đăng ngày 2/10/2019.

Con yêu dấu, ta không muốn có vẻ lặp đi lặp lại, nhưng câu trả lời hiển nhiên là: Hãy dùng các dụng cụ. Trong mọi trường hợp khi con cảm thấy mình phải đương đầu với một cảm xúc choáng ngợp, vấn đề ngay trước mắt là có một số tà lực đang phóng đại hay đang kiểm soát cảm xúc của con, và chúng đang sử dụng các tình cảm này để kéo con ra khỏi trạng thái bình an. Con có thể giảm bớt sự thể này bằng cách thỉnh gọi sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, thỉnh Astrea giải vây con và ngọn lửa tím để chuyển hóa mọi năng lượng tha hóa mà con có trong cảm thể.

Nhưng trên dài hạn, vấn đề là con cần giải quyết một điều gì đó trong tâm lý của con. Thật sự điều này trở ngược về tận chấn thương nhập đời vũ trụ, vì tất cả các con khi hứng chịu chấn thương nhập đời đó và tạo ra ngã gốc, đã mang vào một cảm nhận hối tiếc, không những về những gì đã xảy ra trong chấn thương nhập đời mà cả về sự việc trước đó khi con đến hành tinh này. Bất cứ khi nào con thấy mình khó lòng buông bỏ và bị khắc khoải tại sao mình đã làm một chuyện gì đó, tại sao chuyện đó đã xảy ra và con căm giận về một sự việc đã xảy ra trong quá khứ, thì cái đó thật sự đi trở ngược về cảm nhận hối tiếc nói trên khi con hối tiếc đã đến hành tinh này, hay con hối tiếc cách phản ứng của mình đối với sa nhân.

Trong trường hợp các cư dân nguyên thủy của trái đất cũng vậy, các con cũng có thể cảm thấy hối tiếc, không phải tại sao mình đã đến hành tinh này mà tại sao mình đã phản ứng cách như vậy với sa nhân khi lần đầu tiên con phải chạm trán với chúng. Vấn đề sẽ không được giải quyết hoàn toàn cho đến khi con trở về chấn thương đó, giải quyết ngã gốc cùng những cái ngã khác, và thấy được tại sao con đã đến hành tinh này. Con giải quyết nó và học hỏi những gì con cần học, con thoát ra khỏi cái khuôn đúc đã đưa con đến đây rồi con làm hòa với sự kiện con đang ở đây, làm hòa với việc con đang sống, làm hòa với việc mình là một người đồng sáng tạo không cần phải luôn luôn toàn hảo.

Con đang thử nghiệm cuộc sống và con chỉ đang quan sát kết quả ra sao, rồi con hỏi: “Liệu tôi có muốn tiếp tục thế này hay tôi muốn làm gì khác?” Xong con chuyển đổi tâm thức để gửi ra một thông điệp khác vào tấm gương vũ trụ, và con cứ tiếp tục như vậy.

Các dụng cụ đã sẵn đó để con dùng. Ta cũng nói thêm là quyển sách Các Kiếp của Tôi thật ra được thiết kế để giúp con người vượt qua cơ chế hối tiếc quá khứ, vì khi con nhìn nhận là mình đã ở trong hiện thân trong rất nhiều kiếp sống, đã phải chạm trán với rất nhiều sự việc, đã có nhiều kiếp mình làm những chuyện tồi tệ hơn cả kiếp này, hay mình đã trải nghiệm những chuyện đau đớn hơn kiếp này, thì sự nhìn nhận đó sẽ giúp con bước lui ra một chút và thấy rằng những gì con đã trải nghiệm kiếp này thật chẳng quan trọng gì một cách quyết định. Nó chẳng quan trọng gì một cách vĩ đại.     

Con có khả năng bước sang một bên và nói: “À, so với tất cả những chuyện tôi đã từng trải suốt biết bao kiếp sống, liệu điều này có thật quan trọng lắm không? Nó có thật khủng khiếp đến vậy không? Liệu tôi có cần khắc khoải vì nó, hay là tôi có thể tách mình ra khỏi nó, bớt xem nó là chuyện cá nhân và nói, Aaa! Chuyện này có to lớn gì đâu? Tôi chỉ việc bước đi tiếp.”

Thẳng thắn mà nói, một khi con giải quyết ngã gốc đó, con sẽ cảm thấy những hối tiếc này sẽ chỉ tan biến mất. Một số hối tiếc có thể đòi hỏi con nỗ lực đôi chút vì có thể con đã tạo ra một cái ngã khác để phản ứng lại tình huống đó, cho nên có thể con sẽ cần xem xét khuôn nếp phản ứng này và dần dần nhận diện ra ngã đó, xong một cách ý thức, con quyết định để cho nó chết đi.

Khi con cảm được sự buông bỏ này thì con sẽ giải thoát khỏi nó. Điều này sẽ dễ thực hiện hơn hẳn một khi con đã giải quyết được ngã gốc.  

Kỹ thuật thiền Vipassana

Hỏi: 2600 năm trước đây, đức Phật Gautama đã phát minh kỹ thuật thiền Vipassana. Không hiểu các chân sư có nhận xét gì về kỹ thuật này trong thế giới Tây phương hiện đại hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ, năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Con yêu dấu, ta đã không phát minh mà đã nhận được từ một cõi cao hơn, từ các chân sư thăng thiên. Thuở đó chưa có khái niệm chân sư thăng thiên, và các chân sư cũng chưa nhận thấy đến lúc tiết lộ được khái niệm đó. Cho nên lẽ tự nhiên, các Phật tử cho rằng ta đã nghĩ ra, đã phát minh ra kỹ thuật này.

Về mặt nó có thích hợp với thế giới Tây phương hiện đại hay không, thì đối với một số người, nó sẽ thích đáng bởi vì họ là những người mà trong tiền kiếp đã có dùng nó rồi theo truyền thống đạo Phật. Tuy nhiên các chân sư đã lượng định là trong thế giới Tây phương hiện đại, nếu người tu tập sử dụng một kỹ thuật phát tỏa ra ngoài – như các bài thỉnh, bài chú – thì sẽ xây dựng hơn. Làm như vậy sẽ phù hợp hơn với tư duy người phương Tây đặt trọng tâm nhiều hơn vào thành quả, vào việc thực hiện một công việc.

Ví dụ, nhiều người phương Tây không có nhiều sự chú tâm hướng nội, không thiên về thiền định nhiều lắm, không kiên trì ngồi thiền được lâu lắm, và họ cần cảm thấy là mình đang tích cực làm một công việc nào đó. Nhưng một lần nữa, nếu ở mức độ cá nhân có ai cảm thấy đây là một kỹ thuật hữu ích cho mình, chắc chắn họ có thể sử dụng được. Tuy nhiên xét về tầm ảnh hưởng to lớn trên thế giới Tây phương, thì ta không lượng định chuyện đó có thể xảy ra thời nay. Có những dụng cụ khác mà các chân sư ban ra thời nay phù hợp hơn với thế giới Tây phương.

Lẽ tự nhiên, con cần nhận thức, như tất cả các con cũng đều đã biết, là chúng ta cần có một tiến trình tiết lộ tuần tự, nghĩa là nói chung trên một hành tinh thay đổi nhanh chóng như địa cầu, một lời dạy được đưa ra cách đây 2600 năm không nên được xem là có giá trị muôn đời. Điều này không có nghĩa là không có một số ý tưởng phổ quát có thể áp dụng được ở mọi thời đại. Theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là những ý tưởng được biểu đạt ngày hôm nay bởi các chân sư thăng thiên cũng là cùng những ý tưởng đã được biểu đạt trong nhiều thời đại trước, nhưng sự biểu đạt luôn luôn phải phù hợp với bối cảnh khác nhau hầu có thể thích đáng và áp dụng được cho những người sống trong thời đại đó.

Làm thế nào xử lý những lỗi lầm ảnh hưởng đến người khác

Hỏi: Đây là kinh nghiệm cá nhân của con nhưng có lẽ nhiều người sẽ thấy nó quen thuộc. Con trải qua kinh nghiệm này khi con phạm một lỗi lầm liên quan đến một người. Làm xong, con nhận thấy có điều gì không phải, và con quyết định là mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Con bỏ chuyện đó lại đằng sau. Khi cuốn sách “Các cuộc đời của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Jesus” được xuất bản, con mới thực sự nhận ra sự việc mình đã gây ra, và trong một giây phút con đã nghĩ: “Trời, tôi vừa nhận ra là tôi đã làm một chuyện sai trái mà tôi không muốn”, cho nên phần nào con bằng lòng là mình đã nhận ra lỗi lầm và mình đã có thể điều chỉnh lại cách hành xử của mình.

Tuy con biết là sự kiện con đã học xong bài học sẽ hóa giải được nghiệp quả – nghĩa là sự việc đã xong và mình không còn mang vấn đề đó trong tâm nữa – nhưng đối với người kia thì sao? Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đối với người kia, dòng sống kia, mà con đã có tương tác? Theo một nghĩa nào đó, con không muốn họ phải trải qua bất cứ điều gì tiêu cực hay bất kỳ hậu quả nào quay ngược trở lại, đặc biệt là vì người đó còn trẻ tuổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Đây là một tình huống mà tất cả các con đều đã và đang đối mặt rất, rất nhiều lần khi con sống trên địa cầu này. Và nói thật, tình huống này là một trong những vũ khí lợi hại nhất của sa nhân để khiến con bị mắc vào những dây nhợ nghiệp chướng hay những khuôn nếp phản ứng rất khó lòng thoát ra khỏi.

Con sống trong một môi trường vô cùng khó khăn trên hành tinh này, trong một nền văn hóa cũng vô cùng khó khăn, cho nên khi con làm điều gì tác động lên người khác thì con rơi vào một khuôn nếp phản ứng do hành động đó gây ra. Hoặc con sẽ phủ nhận nó, hoặc con sẽ tìm cách đền bù, hay con cảm thấy là mình thật đáng trách về chuyện này hay chuyện nọ. Cho nên đây là lời đề nghị của ta.

Có những hoàn cảnh mà con có thể làm điều gì đó ở mức vật lý để bù đắp cho những gì con đã gây ra cho người khác qua cách hành xử hay quyết định của mình. Con nên hòa điệu trong tim, cố gắng bước vào một trạng thái tâm trung hòa và nhận sự hướng dẫn từ nội tâm để xét xem điều này có áp dụng cho con hay không, xem xét con có thể làm được gì ở mức vật lý. Rồi nếu con cảm thấy nó đến từ bên trong, con có thể hành động theo đó ở mức vật lý. Con không nên lấy quyết định này với tâm vỏ ngoài dựa trên mặc cảm tội lỗi mà con đang có.

Rồi sau đó tất nhiên, con có thể bước vào công việc tu sửa tâm linh, con có thể thỉnh cầu cho nghiệp quả được hóa giải, thỉnh cầu cho người kia được tự do khỏi các hậu quả trong cõi bản sắc, lý trí lẫn tình cảm, và con có thể tu sửa chính tâm lý mình để nhìn xem cái ngã nào đã khiến con hành xử như thế, xong con giải quyết nó và để cho nó chết.

Ở điểm này, con đã làm tất cả những gì con có thể làm được cho người kia. Và cũng ở điểm này, con cần dùng các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về quyền tự quyết và nhìn nhận rằng con đang sống trên một hành tinh thấp kém về trạng thái tâm thức. Con không đang sống trên một hành tinh tự nhiên. Không thể tránh được chuyện ai ai cũng sẽ phạm phải lỗi lầm vì đủ loại lý do khác nhau. Thật sự con không cần phân tích quá đáng mà con chỉ cần công nhận là mình đã lỗi lầm. Con đã dùng quyền tự quyết của con để nhìn nhận lỗi lầm, để cố gắng vươn lên cao hơn tâm thức đó và tìm cách đền bù cho những hậu quả của việc làm.

Đây là điểm mà con cần nhìn nhận là người kia cũng có quyền tự quyết của họ, và con cần cho phép họ tự do quyết định cách phản ứng của họ trước tình thế, bất kể cách họ muốn phản ứng thế nào. Nếu họ giận dữ với con, con hãy cho phép họ chọn lựa như vậy, nhưng khi đó, con cần làm một việc khó khăn bậc nhất đối với hầu hết mọi người tâm linh: đó là con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Vì khi con nhìn nhận là mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức vật lý, đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức tâm linh, thì con cũng cần nhìn nhận một điều: Nếu người kia giận con hay trách móc con thì con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải tự trách mình, con không cần cảm thấy mình có tội, con không cần cảm thấy là mình phải tiếp tục cố gắng đền bù cho tới khi người kia hết giận. Con cần nhận ra là con đang sống trên một hành tinh phi tự nhiên, và trên một hành tinh phi tự nhiên thì không có gì lý tưởng.

Cho nên con không thể chờ đợi mọi chuyện sẽ lý tưởng, mà con cần nhìn nhận là con có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền có trạng thái tâm thức hiện thời của con, con có quyền lấy quyết định và hành xử dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời đó, bởi vì con không thể làm bất cứ gì khác.

Sẽ có những tình huống khiến con làm một điều gì đó sẽ tác động lên người khác, và người kia có quyền bị người khác tác động y như con cũng có quyền bị người khác tác động. Nói cách khác, người đó không có quyền nói: “Đáng lẽ bạn không bao giờ được hành xử như vậy. Đáng lẽ bạn không được có trạng thái tâm thức đó. Đáng lẽ bạn không được sống trên hành tinh này.” Con có quyền sống ở đây trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con có quyền làm những điều sẽ ảnh hưởng đến người khác – khi con lầm lỗi một cách trung thực và không hành xử với ác ý. Chính người kia cũng đang ở trong một trạng thái tâm thức nào đó, họ có quyền ở trong tâm thức đó, và con cần nhìn nhận là cách phản ứng của họ đối với con là kết quả của tâm thức đó. Con không cần can thiệp vào chuyện này, nhưng mặt khác, con cũng không cần cho phép nó can thiệp vào đường tu của con – một khi con đã làm tất cả những gì có thể làm để nâng cao tâm thức của con.

Đây là một điều rất, rất khó khăn cho nhiều người tâm linh, và đó là lý do tại sao ta vừa nói đó là một vũ khí hữu hiệu của sa nhân để chúng cầm giữ con trong các mối dây nhợ đó. Tác động tổn hại nhất của sự thể này là khi con sống gần một số sa nhân trong cõi vật lý và con đã làm điều gì đó mà họ xem là sai trái, họ có thể trở nên rất hung hãn, rất cố chấp, và họ sẽ đổ lỗi cho con.

Nhiều người trong số các con đã có tương tác với sa nhân trong tiền kiếp, và một số các con đã tương tác trong kiếp này. Họ đã tỏ ra vô cùng tiêu cực đối với con và con đã quyết định: “Ồ, tôi phải giải quyết cho chuyện này tốt đẹp trở lại.” Nói cách khác, con quyết định: “Tôi cần thay đổi những sa nhân đó để họ không còn tâm trạng tiêu cực đó nữa.” Con yêu dấu, đây là công thức dẫn đến thảm họa, vì trong vũ trụ ít điều gì khó khăn hơn là khiến cho sa nhân đổi ý hầu họ nhìn con với con mắt tích cực, tha thứ cho con và bỏ qua. Cho nên con cần nhìn nhận điều này, liệu người kia có phải là một sa nhân hay không. Thật ra con cũng không cần đánh giá như vậy, mà con chỉ cần nhận rõ trong tâm là nếu họ không để cho quá khứ là quá khứ, nếu họ không buông ra, nếu họ không bỏ qua, thì điều này sẽ không có nghĩa là con không có quyền buông ra, bởi vì chính con có quyền buông ra.

Con có quyền cảm thấy ở bên trong là mình đã làm những gì mình có thể làm cho người đó, và bây giờ mình sẽ bỏ họ lại đằng sau để tiếp tục sống đời mình. Con không chạy trốn bất cứ gì bởi vì con đã giải quyết vấn đề tâm lý nội tâm, con đã làm những gì con có thể làm, và sau đó thì con có quyền bước đi tiếp.

Điều này áp dụng cho mọi người trong đời con, con yêu dấu: cho cha mẹ, cho con cái, cho thân nhân, cho bất cứ ai, tuyệt đối bất cứ ai. Con tôn trọng quyền tự quyết của họ nhưng con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Họ có quyền phản ứng lại với con bất cứ cách nào họ muốn, nhưng con cũng có quyền không bị phản ứng đó của họ tác động lên mình, vì tâm lý của con thì chính con phải giải quyết lấy. Con không phải giải quyết tâm lý của người khác vì đó là trách nhiệm của họ.

Làm thế nào kéo dài trạng thái an bình nội tâm

Hỏi: Sau khi đọc bài chú hay bài thỉnh, con cảm thấy an bình và con cũng cảm được năng lượng tâm linh. Nhưng khi con đi làm những hoạt động khác trong ngày, cảm giác này bắt đầu trôi đi mất. Nếu con không có dịp đọc một bài chú khác, liệu có một cách nào thực tiễn để kéo dài cảm giác an bình này không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Có một cách thực tiễn nhưng nó sẽ không có hiệu quả ngay lập tức. Ta không thể cho con một lời dạy sẽ giúp con xoay chuyển tức thì vì thực tế là khi con đọc thỉnh, con cũng thỉnh cầu ánh sáng. Con cũng tự nâng mình lên cao hơn trạng thái nhận biết bình thường của con, vượt quá các khuôn nếp phản ứng bình thường của con. Đó là tại sao con cảm thấy an bình. Nhưng sau đó tất nhiên, khi con làm các hoạt động thường nhật và tùy theo con gặp những công việc gì trong ngày hôm đó, con quay trở về một số khuôn nếp phản ứng. Con có thể quay trở về cách nhìn cố hữu của con về cuộc đời nói chung. Nói cách khác, con lại bắt đầu phản ứng dựa theo ngã gốc chẳng hạn, và đó là yếu tố làm tiêu tan năng lượng và lấy đi an bình của con. Cho nên không có cách nào thực sự sẽ giúp con quay trở về tức thì với trạng thái an bình cho đến khi con bắt đầu giải quyết cái ngã gốc đó và làm hoà với việc con hiện diện trên địa cầu.

Khi con làm hoà với việc mình hiện diện trên địa cầu thì ngay lúc đó, con sẽ có khả năng mang trạng thái an bình này theo con. Một số các con sẽ thấy là một khi con làm hoà được như vậy, con không cần đọc thỉnh để đạt được trạng thái an bình này. Đơn giản là con có nó rồi. Điều này không có nghĩa là con không thể đọc thỉnh, nhưng con không đọc thỉnh vì lý do đó.

Cho nên đây là vấn đề xem xét: “Đâu là phản ứng cơ bản của tôi – hay như Giê-su nói, đâu là cách vận hành thường lệ (modus operandi) của tôi? Tôi quan hệ thế nào với cuộc sống trên trái đất? Cái gì lấy đi an bình của tôi? Cái gì làm tôi xáo trộn?” Sau đó con hãy dùng các dụng cụ trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh để nhìn tận đáy vấn đề này. Ngay cả nếu con là một dân cư nguyên thủy của địa cầu, thì khi sa nhân đến trái đất, con đã tạo ra một cái ngã phản ứng lại chúng, và đây chính là điều tước mất an bình của con. Tất nhiên, thật khó lòng an bình trên một hành tinh có sa nhân, nhưng một khi con khắc phục được khuôn nếp phản ứng đó, con sẽ có thể thực sự cảm thấy an bình.

Không có chất nào, thiết bị nào, kỹ thuật nào trong cõi vật lý sẽ bảo đảm tăng triển tâm linh

Hỏi: Con có một câu hỏi về cần sa (marijuana). Con được đọc nhiều lần là người thổ dân sử dụng các loại ma túy như peyote marijuana để khai mở tâm linh trong bộ lạc của họ. Con xin các thày vui lòng cho ý kiến về cách đó liên hệ tới sa nhân. Đó có phải là một ảo ảnh hay là một phương thức cân bằng?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ, năm 2018. Đăng ngày 30/9/2019.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã nói con điều gì trong các lời dạy được trao truyền? Rằng trong vũ trụ vật chất có bốn tầng. Trong một hoàn cảnh lý tưởng, năng lượng tuôn xuống từ tầng bản sắc vào tầng lý trí, rồi vào tầng cảm xúc, rồi vào tầng vật lý. Chúng tôi đã dạy con điều gì trong sách Những kiếp của tôi? Rằng sa nhân đã thiết lập một hệ thống trên địa cầu, qua đó chúng tước mất quyền làm chủ của con bằng cách bắt con trải qua trong bát cung vật lý một biến cố sẽ tạo ra một dòng năng lượng chảy nghịch hướng. Trong lý tưởng, không có gì xảy ra trong cõi vật lý sẽ ảnh hưởng được các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tuy nhiên các sa nhân rất giỏi tạo ra dòng chảy nghịch hướng đó khi con phải đối mặt với một sự kiện trong cõi vật lý sẽ tác động ngược lên ba thể cao của con – như tra tấn, chấn thương, bất kể…

Cho nên điều ta muốn nói ở đây là thế này: Chìa khóa thực sự của sự phát triển tâm linh là con tái lập dòng chảy năng lượng tự nhiên, nơi không có gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng ba thể cao của con, mà ngược lại mọi hành động của con trong cõi vật lý đều là sự biểu hiện của những gì phát xuất từ Hiện diện TA LÀ chảy xuyên qua ba thể cao của con. Nếu có một chất vật lý – bất kỳ loại chất vật lý nào – hay bất kỳ thiết bị nào, bất kỳ kỹ thuật nào trong cõi vật lý mà có thể bảo đảm cho sự tăng triển tâm linh, thì chúng tôi đã nói với con rồi. Nhưng do dòng chảy năng lượng tự nhiên, cái đó không hề có.

Không có gì con có thể làm trong cõi vật lý sẽ bảo đảm sự tăng triển tâm linh cho con, đơn giản là vì sự điều ngự tâm linh cũng có nghĩa là sự điều ngự cả bốn thể phàm của con. Có nghĩa là con điều ngự thể bản sắc để bản sắc của con là thể sẽ gửi khuôn đúc xuống trí thể, rồi trí thể gửi khuôn đúc xuống cảm thể, rồi cảm thể gửi khuôn đúc xuống cơ thể vật lý. Không có gì xuất phát từ cơ thể vật lý sẽ tác động lên cách con biểu đạt tâm linh. Đây chính là ý nghĩa của câu “làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ”. Đây cũng là ý nghĩa của sự điều ngự tâm linh. 

Cho nên con yêu dấu, con thử trả lời câu hỏi này của ta: Làm thế nào con sẽ đạt được sự điều ngự đó bằng cách sử dụng một chất vật lý? Cho dù chất đó có là gì thì chuyện đó cũng không thể làm được.

Và sau đây là điểm phức tạp hơn một chút, vì như ta có nói, trong tình trạng rối mù của trái đất thì không có gì là giải pháp hay lời giải thích trắng-đen. Như Giê-su đã trình bày, con có một tình trạng khi ý nghĩa, khái niệm của đường tu tâm linh đã bị người ta xóa bỏ khỏi văn hóa, ít ra trong các nền văn hóa phương Tây. Rất, rất nhiều người lớn lên mà không nghe biết gì về đường tu này. Tuy nhiên họ vẫn mang trong họ một cái biết nội tâm, một cảm giác nội tâm, là có một cái gì đó vượt lên khỏi mức tâm thức hiện tại của họ.

Vào thập niên 1960 đã có một túc số những người, cũng như một sự xoay chuyển tâm thức với ngày càng nhiều người hơn bắt đầu bác bỏ nền văn hóa duy vật. Thật ra họ mong muốn có được một cách nhận biết tâm linh hơn, một nền văn hóa tâm linh hơn. Chuyện này trở thành một mối đe dọa cho sa nhân đến độ chúng phải cố tìm đủ mọi cách để đánh lạc hướng nhu cầu tâm linh đó, để nó không thể thực sự tác động xã hội. Và một trong những phương thức của chúng là tạo ra toàn bộ nền văn hóa ma túy, khi chúng khiến cho biết bao người tâm linh nghĩ rằng ma túy là một con đường tắt dẫn đến sự tăng triển tâm linh. Rốt cuộc thì nó dẫn những người này vào nghiện ngập; họ bị dẹp yên và đã không đạt được tầm ảnh hưởng mà đúng lý họ đã có thể có trên xã hội.

Con có thể nhìn một số những người đó và bảo rằng, đúng thật là một số đã rơi vào nghiện ngập và một số đã sử dụng ma túy suốt đời khiến họ bị dẹp yên, nhưng cũng có được một số ít nhận ra rằng: “Ma túy đã giúp tôi bước ra ngoài trạng thái tâm thức bình thường của tôi, và điều này chứng tỏ là có một cái gì đó vượt ra ngoài trạng thái tâm thức bình thường đó.” Và điều này cũng khiến họ tự hỏi: “Vậy làm thế nào tôi có thể đạt tới trạng thái tâm thức đó mà không dùng ma túy?” 

Nếu con sử dụng theo cách đó thì, thôi cũng được, ma túy không đến nỗi tai hại cho con và con có thể tiếp tục tăng triển trở lại. Nhưng ta xin nói để con suy ngẫm, tất cả những ai làm vậy đã có thể đạt tới cùng điểm đó mà không cần đến ma túy, nếu họ chịu khó kiên nhẫn hơn một chút, nếu họ cởi mở hơn một chút để tìm kiếm con đường. Trong quá khứ, việc tìm kiếm con đường tâm linh khó hơn bây giờ, nhưng ngày nay thì nó dễ hơn, và hy vọng thay, càng ngày nó sẽ càng dễ hơn nữa, hầu nhu cầu sử dụng bất kỳ loại ma túy nào sẽ dần dần giảm bớt.  

Sự thật trong vấn đề này là nhiều người thổ dân, các pháp sư, đã sử dụng peyote, ayahuasca hay một chất nào khác, đã không hề nâng cao tâm thức của họ đến mức họ có thể bắt liên lạc với các chân sư thăng thiên. Nhiều người trong số đó đang cộng tác với một số sinh thể trong các cõi tình cảm hay lý trí. Cho nên con có thể nói: “Tôi sẽ muốn hòa điệu tâm tôi với ai đây? Tôi muốn đi về hướng nào? Liệu tôi muốn các chân sư thăng thiên hay tôi muốn một cái gì thấp hơn?”

Đây cũng là cùng một vấn đề với những người đồng bóng. Có những người đồng bóng liên lạc với cõi lý trí, thậm chí một số còn liên lạc với cõi tình cảm, một số ít với phần thấp của cõi bản sắc. Con muốn gì đây? Con muốn loại thày nào đây? Nếu con đã dùng ma túy thì con đừng tự lên án mình, mà con hãy nhận ra đó là một giai đoạn cần thiết trên con đường của con, tuy nhiên con hãy sẵn lòng tự nhủ: “Điều này không có nghĩa là tôi phải bênh vực cho những ai dùng ma túy.” Đừng cố xuất khẩu kinh nghiệm chủ quan của con và cố biến nó thành một cái gì phổ quát. Đừng bào chữa cho ma túy hay tìm cách ngụy biện như thể nó không có mặt, mà con chỉ cần nói: “Đúng vậy, tôi đã sử dụng, tôi đã cần đến nó. Nó đã có giúp tôi nhưng giờ đây nó đã đi vào quá khứ.” Xong thay vì khuyên người khác dùng ma túy, con hãy khuyên họ sử dụng một lời dạy tâm linh. Ít nhất con đã có một lời dạy mà ta có thể khuyên con rồi đó, nhưng có nhiều lời dạy khác nữa.

Tại sao các chân sư không dạy thiền dưới dạng truyền thống

Hỏi: Tại sao các chân sư thăng thiên không giảng dạy nhiều hơn về thiền quán và kỹ thuật thiền quán? Hình như các thày hiện không dạy về thiền quán, nhưng không phải thiền quán là phương tiện chủ yếu để đạt được Hợp nhất với Thượng đế hay sao? Hay là chúng con bước vào Hợp nhất với Thượng đế một cách tự nhiên bằng cách chữa lành tâm lý, nâng cao tâm thức, giải thoát khỏi tự ngã, v.v…? Liệu kỹ thuật hình dung (visualisation) hay tiến trình hòa điệu (attunement) cũng có thể được xem là thiền quán?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Kazakhstan năm 2018. Đăng ngày 12/9/2019.

Câu hỏi này ngụ ý một cách nhìn đặc thù về thiền quán, nhưng thiền quán trong nghĩa rộng nhất của nó cũng có thể được mô tả bằng một từ đã trở nên phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, đó là tỉnh thức. Làm thế nào con đọc được một bài thỉnh hiệu quả nhất? Bằng cách con tỉnh thức trong nguyên tiến trình – tất cả đều có thể là một hình thức thiền quán. Thiền quán không nhất thiết có nghĩa là con ngồi đó tĩnh lặng và tập trung vào một câu thần chú hay một kỹ thuật nào khác. Cách đó là cái nhìn cố hữu trong đạo Phật và đạo Ấn truyền thống, nhưng nhìn như vậy quá hạn hẹp.  

Chúng tôi, các chân sư, không dạy thiền quán trong hình thức đó bởi vì đối với nhiều người sống trong thế giới ngày nay, họ rất nên có một cuộc sống năng động và vì vậy họ cần tu tập qua hình thức những bài thỉnh và bài chú. Tiến trình phóng ra ngoài hiệu quả hơn cho con người sống trong thời đại hôm nay với lối sống bận rộn hơn trước. Tuy nhiên cũng cần nói thêm, tất nhiên, là thiền quán không phải là phương tiện chủ yếu để đạt được hợp nhất với Thượng đế và chưa bao giờ từng là như vậy. Phương tiện chủ yếu là sự nâng cao nhận biết, và điều này chỉ đến được từ sự giải tỏa tâm lý. Thời xưa, con người đã có thể thực hiện được điều này, nhưng ngày nay hiển nhiên con có cơ hội lớn hơn bao giờ hết để giải tỏa tâm lý của mình, không những với những kiến thức và lời dạy tổng quát về tâm lý học, mà cả với những giáo lý mà các chân sư đã trao cho con về ngã gốc và các loại ngã tách biệt khác.  

Sự hợp nhất với Thượng đế sẽ không tự động thực hiện được qua sự giải hóa mọi cái ngã, nhưng một khi con giải hóa được chúng, đặc biệt khi con không còn cá nhân hóa con đường của con – như thày More vừa giảng dạy – thì cái Ta Biết của con sẽ được giải thoát để nó nhận diện nó là một sinh thể vô hình tướng. Chỉ khi nào là một sinh thể vô hình tướng thì con mới đạt được hợp nhất với Thượng đế. Đã có một quan niệm sai lầm rất lâu đời và rất phổ biến trong số những người tâm linh rằng con có thể khoác cái bản sắc mà con đang có bây giờ khi con cất bước trên đường đạo, rồi con sẽ hoàn thiện nó để bản sắc này hợp nhất với Thượng đế. Điều này đơn giản là không thể xảy ra, chưa bao giờ từng xảy ra và sẽ không bao giờ xảy ra.    

Cách đích thực duy nhất để hợp nhất với Thượng đế – mà cũng chính là sự hợp nhất với Hiện diện TA LÀ của con – là làm tan biến một cách lần hồi và có hệ thống mọi cái ngã mà con đã tạo ra trong bốn thể phàm của con, hầu cái Ta Biết không còn bị kéo vào mà tự đồng hóa với chúng nữa. Khi đó, cái Ta Biết sẽ tìm được chỗ đứng chính đáng của nó ở ngay điểm gặp gỡ của hình số 8 nối kết Hiện diện TA LÀ của con với bốn thể phàm của con.

Và như vậy con sẽ là cánh cửa mở, không hơn không kém, và đó là trạng thái hợp nhất với Thượng đế. Điều này sẽ không tự động xảy ra bởi vì cái Ta Biết cần có một sự chọn lựa, nó cần lấy quyết định tự đặt mình vào điểm đó, nhưng nó sẽ không thể làm được cho tới khi mọi cái ngã đã tan biến.

Mặc cảm cứu tinh của các avatar

Hỏi: Trong quyển sách “Những kiếp của tôi” (My Lives), nhân vật chính kể rằng khi ông ta tham khảo các cố vấn tâm linh của ông về quyết định sẽ đến hành tinh địa cầu, sự suy nghĩ của ông phần nào không minh mẫn và điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình quyết định. Phần nào ông đã hình thành một mặc cảm rằng mình là cứu tinh. Con chỉ thắc mắc không biết tiến trình của Giê-su là thế nào khi thày tham khảo các cố vấn của thày để lấy quyết định tới địa cầu? Lúc đó thày có minh mẫn hơn nhân vật trong sách hay không, hay là thày cũng bị bối rối khi phải cân nhắc việc đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu? Ngoài ra, liệu Giê-su có tính viết một cuốn sách kể lại hành trình cư ngụ trên trái đất cùng những biến cố chính trong suốt các kiếp sống mà thày đã sống qua kể từ khi thày hiện thân lần đầu tiên cho tới khi thày thăng thiên?      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Điều ta muốn con rút tỉa từ cuốn sách “Những kiếp của tôi” và cũng là điều ta muốn nói ở đây, đó là: Hành tinh địa cầu là một phương tiện giáo dục. Có nghĩa là tất cả mọi người đã hiện thân vào cõi vật lý đã có nhu cầu học hỏi một điều gì đó qua sự kiện họ đến đây. Những chuyện kể về nhân vật chính trong sách không chỉ là câu chuyện về một dòng sống, mà là một tập hợp những suy nghĩ trăn trở của nhiều avatar về những động lực đã thúc đẩy họ đến địa cầu. Con cũng hiểu là một avatar không bắt buộc phải đến địa cầu bởi bất kỳ một nguyên do nghiệp chướng nào, mà đã chọn lựa đến đầu thai ở đây. Tất cả chúng ta, kể cả chính ta, là avatar đến đây đã mang một động lực mà chúng ta coi là hoàn toàn nhân từ, mà thật vậy trong một nghĩa nào đó, động lực đó hoàn toàn nhân từ.  

Tuy nhiên chúng ta cũng có một cái nhìn có phần thiếu cân bằng, chúng ta có một số khía cạnh của mặc cảm cứu tinh. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần phải học hỏi như nhân vật trong sách mô tả, là ông ta nhận ra rằng ông phải buông bỏ mặc cảm đó và hiểu rằng ông không đến đây để thay đổi một ai. Tất cả chúng ta phải kinh qua tiến trình này để rốt cuộc nhìn trái đất với tất cả những khuyết điểm, tất cả những khổ đau của nó để ngộ ra là mình sẽ hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Con nhận ra là con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, con chỉ ở đây để thay đổi chính con mà thôi. Tất nhiên, con cũng nhận ra là khi con ở đây và làm tất cả những chuyện này, khi con thay đổi chính mình, thì con cũng làm gương cho người khác noi theo nếu họ muốn.

Con phải đạt tới một điểm khi mà để thăng thiên, con phải làm hòa với quyền tự quyết, với khái niệm tự quyết, với cách quyền tự quyết được phép tương tác và diễn ra trên một hành tinh như địa cầu. Con có khả năng nhìn thẳng vào tất cả sự đau khổ mà không bước vào một phản ứng động cảm, và con nhìn xa hơn những nỗi đau khổ để thấy rằng đó là cách duy nhất mà quyền tự quyết có thể diễn ra. Vì khi con người xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, họ sẽ phải trình diễn tâm thức đó cho tới khi họ chán ngấy. Không những chỉ chán ngấy sự đau khổ (điều này nhiều người chán ngấy rất nhanh) mà họ chán ngấy cả cái tâm thức đã đem lại đau khổ.

Vậy con đạt đến một điểm khi con thực sự làm hòa với địa cầu như địa cầu đang là, và con thực sự cảm nhận được cho dù con đã đến địa cầu để đem lại thay đổi tích cực, bây giờ con có thể rời địa cầu cho dù con chưa đem lại được thay đổi đó.

Đây là một tiến trình mà tất cả chúng ta đều phải kinh qua. Trong một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả chúng ta đều có một phiên bản riêng về mặc cảm cứu tinh, bởi vì nếu không thì chúng ta đã không tình nguyện đầu thai ở đây. Cho nên tất cả chúng ta phải học cách vượt qua, và nhìn thấy điều gì đã thúc đẩy mỗi chúng ta đi đến phán đoán là trên địa cầu có những điều không ổn cần thay đổi.  

Một lần nữa, đây là một vấn đề tế nhị vì hiển nhiên trên địa cầu có rất nhiều khổ đau. Đương nhiên nhiều người bị cuốn trôi vào trong đó và đã không chọn lựa bước vào đó một cách ý thức – họ đã chọn lựa một cách vô thức. Dù sao thì quyền tự quyết vẫn là quyền tự quyết. Cho nên mặc dù chúng ta có thể đến đây và thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối, nhưng chúng ta không thể thao túng người khác để họ phải chấp nhận ngọn đèn của chúng ta vì lợi ích của họ.      

Về việc viết một cuốn sách kể ra chi tiết mọi kiếp đầu thai của ta, ta không có ý định này ngay bây giờ, một phần là vì tất nhiên ta đã sống qua rất nhiều kiếp và kể lại hết sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể làm được trong một cuốn sách. Phần khác là vì ta không muốn đặt quá nhiều trọng tâm vào bản thân mình ngoài những điều đã làm. Thật sự mục đích của cuốn sách “Những kiếp của tôi” là để làm xẹp bớt sự sùng bái thần tượng chung quanh con người của ta mà các giáo hội Cơ đốc giáo và ngay cả nhiều người trong các cộng đồng Thời mới vẫn có. Chúng tôi muốn đưa ra cho mọi người một lời dạy để giúp họ ngưng sùng bái chứ không sùng bái nhiều hơn.   

Nhiều người tâm linh chối bỏ hoặc trốn tránh cuộc sống

Hỏi: Nếu chúng con có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, tại sao nhiều người tâm linh lại gặp nhiều khó khăn để xoay xở trong thế giới bên ngoài và lo liệu cuộc sống như người ta thường sống bên ngoài? Cuộc đời làm việc của nhiều người tâm linh vô cùng hỗn độn và họ rất khó khăn kiếm tiền và giữ tiền? Và người tâm linh nói chung hình như cũng kém khả năng nhất để đối phó với những thử thách của thế giới vật chất – tại sao vậy? Tại sao lại có sự chênh lệch này? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Con yêu dấu, câu trả lời nằm trong quyển sách đó. Trong sách, chúng tôi có mô tả nhiều avatar đến địa cầu đã bị cú sốc và chấn thương rất nặng bởi các điều kiện trên địa cầu. Hệ quả là các con đã dựng lên một nỗi căm giận nào đó, một nỗi phẫn uất nào đó, một sự miễn cưỡng không muốn tham gia vào cuộc sống trong cõi vật lý. Điều này phần nào có thể là do cú sốc và chấn thương mà con đã trải nghiệm ở đây. Đó cũng có thể là do con cảm nhận rằng mọi chuyện đã có thể khác hơn, rằng con đã từng kinh nghiệm một thế giới nơi mọi chuyện đều khác. Và do đó trong tiềm thức, nhiều người trong các con có khuynh hướng chối bỏ địa cầu nói chung. Trên căn bản, con nghĩ: “Tôi sẽ không tham gia hoàn toàn vào cuộc sống ở đây. Tôi sẽ chỉ làm tối thiểu tuyệt đối để bảo đảm sinh nhai mà thôi.”  

Và do đó nhiều lần con đã để mặc cho hoàn cảnh quyết định việc làm cho con cũng như thời gian con làm việc. Nhiều người trong số các con cũng có một cách trốn tránh nỗi đau bắt nguồn từ thuở chấn thương nguyên thủy khi con mới đến đây. Để trốn tránh nỗi đau nguyên thủy này, con đã lập ra một cơ năng bù đắp, là khi có một tình huống nào đó có vẻ khơi lại vết thương cũ, con liền tìm cách rút lui khỏi tình huống. Cho nên mỗi khi con có việc làm nào khả dĩ sẽ khơi lại vết thương, con sẽ lánh xa ra và tìm công việc khác. Cho nên cả đời con trở thành một cuộc rượt đuổi để tìm ra một nơi nào không có ai sẽ nhấn vào chỗ đau và khuấy lên vết thương của con. 

Con làm một chuyện mà chúng tôi gọi là những quyết định trốn tránh. Thay vì con lấy quyết định về những điều gì mà con muốn trong cuộc sống, con lại bị thúc đẩy bởi những gì con không muốn, và con lấy những quyết định mà con nghĩ sẽ khiến con tránh được những điều con không muốn.  

Cho nên lối thoát duy nhất khỏi tình trạng này là con thực sự xem xét những gì được viết trong sách, nhìn vào toàn bộ tiến trình và quyết định xem con có đang ở điểm con sẵn sàng rời bỏ địa cầu hay chưa, và sau đó con tập trung vào việc hội đủ các điều kiện để thăng thiên. Nhưng hầu hết các con chưa hẳn tới được điểm đó bởi vì con còn cần đi qua một giai đọan đặc thù trước khi con sẵn sàng rời khỏi trái đất. Và giai đoạn này là con thực sự chấp nhận cuộc sống trên trái đất và con tham gia vào đó một cách tích cực. Điều này không có nghĩa là con phải làm giống như những người không tâm linh, mà chỉ có nghĩa là con chấp nhận con ở đây. Con chấp nhận hành tinh này là như vậy. Và sau đó con tự nhủ: “Đằng nào tôi cũng ở đây rồi – tại sao tôi lại không có cuộc sống tốt đẹp nhất? Tại sao không thực sự thưởng thức đời sống ở đây? Tại sao không cảm thấy hài lòng về chính mình như một người trên địa cầu? Tại sao không hài lòng về đời mình? Tại sao không hài lòng về hành tinh, về người khác, về thế giới vật lý?” Hãy ôm lấy cuộc sống thay vì cố trốn chạy nó.

Và nếu con nhảy được bước nhảy vọt này, thì trước hết phần đời còn lại của con sẽ thú vị hơn, nhưng ngoài ra đó cũng sẽ là một chuẩn bị cần thiết cho việc thăng thiên thực thụ, bởi vì có một số người kể cả những học trò của chân sư tưởng rằng thăng thiên có nghĩa là rút lui khỏi mọi khía cạnh của đời sống. Nhưng rất hiếm khi là như vậy.

Một số người có thể có nhu cầu rút lui trong một chu kỳ nào đó, nhưng trong hầu hết trường hợp con không thể thực sự thăng khỏi địa cầu, con không thể trở nên không dính mắc với địa cầu cho tới khi con ôm lấy cuộc sống ở đây. Cho nên có một sự cân bằng tế nhị mà con phải bước. Một đằng, con không muốn bị lôi cuốn vào những ham muốn không thể thoả mãn là luôn kiếm nhiều tiền hơn, nhiều danh vọng hơn hay bất cứ gì khác. Nhưng đằng khác, con không muốn từ chối những mong muốn của con và quyết định rằng không có gì thú vị trên trái đất này, và với tư cách là một người tâm linh, con sẽ bước trên con đường khổ ải, luôn luôn cảm thấy bất mãn về địa cầu bởi vì sự bất mãn là một cách để khắc phục vướng mắc. Nhưng con yêu dấu, cảm thấy bất mãn không phải là cách để vượt qua vướng mắc. Cảm thấy hài lòng về chính mình mới là cách nhanh hơn và thú vị hơn để vượt qua vướng mắc.   

Trong nhiều trường hợp, con càng bất mãn thì con sẽ càng khó vượt qua vướng mắc vì con dựng lên một vướng mắc mới đối với sự bất mãn. Như nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đã từng bước trên con Đường Thương khó, tuy họ có bỏ được một số vướng mắc đối với một vài khiá cạnh của cái gọi là “đời sống trần tục” hay “đời sống xác thịt”, nhưng họ lại vừa dựng lên một phàm linh nội tại mới, một vướng mắc to lớn mới với điều mà họ xem là đau khổ.    

Vì vậy, một lần nữa, con hãy quyết định xem con muốn làm gì trong phần đời còn lại của mình. Con có muốn tiếp tục khuôn nếp cũ là con sống trên hành tinh này, con không thể tránh khỏi phải ở đây, nhưng trong tiềm thức con lại chối bỏ cuộc sống ở đây, khiến cho đời con khó khăn hơn? Hay con muốn làm sự chuyển vọt mà quyển sách đó – cùng nhiều giáo lý khác của các chân sư – sẽ giúp con làm, tức là con ôm lấy ít nhất một số khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu và hài lòng về bản thân, hài lòng về tất cả những sinh hoạt đó, hài lòng về sự có mặt của con trên địa cầu?   

Sẽ dễ dàng hơn nếu con có một kinh nghiệm tích cực và sau đó vượt qua các dính mắc một cách tự nhiên, hơn là cố ép mình khắc phục các dính mắc. Con có thể ép mình khắc phục một dính mắc đặc thù nào đó nhưng cái giá con phải trả là con dựng lên một dính mắc mới, và điều này sẽ không giúp con thăng thiên.

Làm sao biết được mình là avatar

Hỏi: Làm sao một người có thể tìm ra mình là một avatar, hay một cư dân nguyên thủy của địa cầu, hay một loại gì khác nữa?


Trả lời của ông Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Không hiểu bạn có đọc quyển sách mới hay chưa? Tôi xin trả lời câu hỏi này, và quyển sách mới đó là “My Lives with Lucifer Satan Hitler and Jesus”. Từ “avatar” đã được sử dụng trong một số giáo lý trước đây – một số là của các chân sư thăng thiên và một số giáo lý tâm linh khác nữa. Tôi không chắc chắn 100% nhưng tôi nghĩ từ này có thể đã được bà Blavatsky và giáo lý Thông thiên học đề xướng. Không hiểu trong số các bạn có ai biết rõ hơn không?

Và tất nhiên, từ này được dùng trong phim Avatar. Trong các trò chơi máy tính cũng có khái niệm avatar. Nhưng trong nhiều giáo lý của các chân sư thăng thiên, một avatar được xem là một sinh thể vô cùng tiến hóa đã đến trái đất. Cũng có một số giáo lý nói rằng, chẳng hạn, Giê-su là một avatar, và đó là lý do thày đặc biệt đến như vậy.

Điều này trớ trêu, vì như tôi vừa nói chuyện với một vị hồi nãy, giáo lý của các chân sư dạy rằng Giê-su không phải là đứa con duy nhất của Thượng đế, rằng thày đã từng có nhiều kiếp đầu thai, và trong một số kiếp này, thày không nhất thiết là đã luôn luôn làm điều phải. Cho nên có một phần giáo lý kéo Giê-su xuống khỏi bệ, nhưng có một phần giáo lý khác lại vẫn duy trì quan điểm thờ thần tượng và bảo rằng khi thày xuống thế gian, thày đã rất đặc biệt rồi. Sự thể này tất nhiên là phản tác dụng.

Cho nên cuốn sách này (My Lives with Lucifer, Hitler and Jesus) cố gắng vượt quá việc huyền thoại hóa và thần tượng hóa tất cả các khái niệm đó, kể cả về Giê-su. Nó cố gắng đưa ra quan niệm một avatar là một người không là dân cư nguyên thủy của địa cầu, không là một sa nhân, và cũng không là một người đã phải đến đây do nghiệp quả.

Có những người, những dòng sống đã đầu thai ở đây từ những hành tinh khác và đã tạo nghiệp nơi những hành tinh đó, chẳng hạn khi hành tinh đó được thăng lên thì họ đã không đủ nâng tâm thức, nên đã phải chuyển tới địa cầu nơi mức tâm thức thấp hơn. Nhưng một avatar không đến đây đầu thai vì lý do đó, mà đã lựa chọn đến đây với một mục đích trong tâm là, trên cơ bản, tham gia vào một sứ mạng cứu nguy và nâng cao địa cầu lên một tầng tâm thức cao hơn.

Trong cuốn sách mới này có nói rằng, trên cơ bản, hầu hết những người rất tâm linh và cởi mở đối với các giáo lý tâm linh – kể cả giáo lý của chân sư thăng thiên nhưng không chỉ của chân sư thăng thiên – đều là avatar. Giả thuyết hợp lý là nếu bạn là một người rất tâm linh từ rất lâu và cũng rất cởi mở, thì rất có thể bạn đã tới đây như một avatar.

Trong sách nói rằng Giê-su đã từng là một avatar, nhưng có rất nhiều vị khác nữa, hay đúng hơn, có hàng triệu người là avatar đã đến địa cầu. Điều mà các chân sư mong muốn chúng ta làm là xóa bỏ khoảng cách mà chúng ta thường đã dựng lên giữa chúng ta và các chân sư, là khi chúng ta đặt chân sư lên một cái bệ không thể nào với tới. Các chân sư mong muốn chúng ta nhận ra là rất nhiều người đã đến địa cầu với một mục đích giúp cho điạ cầu thức tỉnh, và để đánh thức địa cầu thì chúng ta phải đánh thức chính mình. Đấy là không muốn nói tới một số cư dân nguyên thủy của trái đất cũng là người tâm linh.

Làm thế nào bạn có thể tìm ra nguồn gốc của mình là thế này hay thế kia? Bạn chỉ có thể biết được trong nội tâm qua trực giác. Nhưng như một giả định chung chung, tôi sẽ nói rằng bạn là avatar nếu bạn có tâm cởi mở đối với những giáo lý này, trừ khi bạn có trực nhận mạnh mẽ bạn là thế khác. Cuốn sách này là một cuốn tiểu thuyết, và nó được viết ở ngôi thứ nhất, tức là “tôi đã trải nghiệm điều này”, “tôi đã làm công việc kia”. Tất nhiên, tên tôi được in ngay trên bìa sách, nhưng không có nghĩa cuốn sách là một tự truyện. Tôi không xem là mình đã trải qua tất cả mọi điều mô tả trong sách, nhưng tôi cảm thấy tôi đã trải qua một số, và quyển sách là một bản trích yếu tất cả những trải nghiệm của nhiều avatar khi họ đến đây.

Trong sách có mô tả một số hành tinh nơi không hề có chiến tranh, bạo động hay đủ loại thị hiện khác, cho nên chúng có tên là hành tinh “tự nhiên”. Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên như thế, trực tiếp xuống một hành tinh như địa cầu. Cho nên như tôi vừa nói, có một số người khác từ một số hành tinh không phải là hành tinh tự nhiên cũng đã đầu thai ở đây. Nói cách khác, nếu hành tinh đó ở một mức thấp hơn hành tinh tự nhiên, và khi hành tinh đó thăng lên, người đó đã được chuyển sang địa cầu vì đã không nhảy vọt lên theo, thì những người như vậy không phải là avatar. Họ đến từ hành tinh khác nhưng không phải là avatar.

Một avatar là một sinh thể đến từ một hành tinh tự nhiên nơi không có chiến tranh, bạo lực, sát hại hay hỗn loạn. Điểm này vô cùng quan trọng, vì như các chân sư đã giảng qua những bài truyền đọc và bây giờ qua sách, bạn không thể nhảy thẳng từ một hành tinh tự nhiên xuống một hành tinh như địa cầu mà không trải nghiệm khủng hoảng và chấn thương. Cho nên để chữa lành, nhiệm vụ của mỗi avatar bây giờ là: thứ nhất, hoàn thành sứ mạng mà bạn đã đến đây để thực hiện, và thứ hai, rời khỏi nơi đây.

Chúng ta phải nhìn nhận là chấn thương có đó, rồi chúng ta phải chữa lành. Bởi vì nếu không, chúng ta sẽ bị kẹt mãi trong khuôn nếp đó. Như được mô tả trong cuốn sách, nhân vật chính phải chạm trán với sa nhân, bị sa nhân đối xử tệ hại, và rồi anh ta đã bắt đầu phản ứng lại sa nhân, rơi vào chu kỳ phản ứng khi anh giao chiến với sa nhân, và với ý định cao thượng nhất, anh đã cố gắng ngăn cản chúng giết hại và gây đau khổ cho người khác. Anh ta tưởng rằng cách duy nhất để ngăn chặn chúng là phải tiêu diệt chúng.

Nhưng ngay cả khi chúng ta không chiến đấu trực diện với sa nhân, thì cũng có một số khuôn nếp phản ứng khác mà chúng ta có thể mắc phải. Chẳng hạn như khi chúng ta nghĩ mình không thể thách đố chúng, rằng mình phải quy phục chúng, hay đứng ngoài và im miệng không thốt lên lời nào có thể khiến chúng nổi giận. Và còn có nhiều khuôn nếp phản ứng khác nữa, và khi nào chúng ta còn khuôn nếp phản ứng lại sa nhân thì chúng ta sẽ không thể thăng thiên. Và bởi chúng ta đến từ mức đó cho nên chúng ta phải ý thức được khuôn nếp, phải giải quyết và thăng vượt khuôn nếp.

Khác biệt trong tiến trình thăng thiên giữa các avatar và cư dân nguyên thủy của địa cầu

Hỏi: Xin có câu hỏi về sự khác biệt trong tiến trình thăng thiên giữa các avatar và các cư dân nguyên thủy của địa cầu.


Trả lời của chăng sư thăng thiên Serapis Bey qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 6/9/2019.

Chỉ có khác biệt nhỏ giữa tiến trình thăng thiên của các cư dân nguyên thủy của địa cầu với tiến trình của các avatar, nhưng đó là một sự khác biệt rất phức tạp, theo nghĩa là các cư dân nguyên thủy cảm thấy gắn bó hơn với địa cầu, và do đó việc rời bỏ địa cầu trong tình trạng tối tăm, dày đặc hiện nay sẽ thực sự khó khăn hơn đối với họ.

Nói vậy không có nghĩa là không có một cư dân nguyên thủy nào đã thăng thiên, nhưng có rất nhiều người hơn đã đạt đến một mức phát triển tâm linh nào đó rồi lại không sẵn lòng thăng thiên bởi vì họ cảm thấy trọng trách đối với trái đất và không thể bỏ nó lại đằng sau.

Chúng tôi đã có giải thích là khi thăng thiên, con người bỏ lại địa cầu cũng như mọi thứ trên địa cầu một cách vĩnh viễn. Tất nhiên, con có thể trở thành một chân sư thăng thiên để tiếp tục làm việc với trái đất nhưng con phải thực sự buông bỏ mọi mong muốn nhìn thấy bất kỳ thay đổi nào trên trái đất. Điều này khó hơn cho các cư dân nguyên thủy do tinh thần trách nhiệm của họ.

Đối với một avatar, con đến địa cầu như chúng tôi đã giải thích, với một ý muốn cụ thể muốn nhìn thấy thay đổi. Nhưng con cũng nhìn nhận rằng đây không phải là một hành tinh mà con đã góp phần đồng sáng tác ngay từ buổi đầu. Không phải con đã góp phần đưa địa cầu xuống mức thấp kém hiện tại, và do đó con không cảm thấy cùng gánh nặng trách nhiệm hay gắn bó đối với trái đất.   

Và đó là tại sao con thực sự nhìn ra rằng ý muốn nguyên thủy của con không phải là cao nhất có thể có. Nhưng con có thể từ bỏ ý muốn này và sau đó con có thể ra đi, khi con nhận ra là con muốn bước tới trên đường phát triển của con, hay thậm chí là con thực sự có thể đóng góp cho địa cầu từ cõi thượng thăng nhiều hơn là trong kiếp đầu thai. Nhưng ngay cả khi con có khả năng thăng thiên như một avatar, tất nhiên là con vẫn có thể quyết định ở lại trong đầu thai, vì ở đây con có thể neo trụ ánh sáng và là một cánh cửa mở, và con có thể nêu gương cho người khác.

Cho nên tiến trình thăng thiên không khác nhau trên bản chất, nhưng nói thật, một lần nữa, con cần hiểu rõ thế nào là tiết lộ tuần tự. Trong quyển sách của đợt truyền pháp trước, những lời dạy được đưa ra đã được điều chỉnh để thích nghi với trình độ tâm thức tập thể thời đó cũng như trình độ của các học trò, và do đó lời dạy đã đơn giản hóa tiến trình thăng thiên phần nào.    

Con cũng có thể nói là những lời dạy hôm nay về sự thăng thiên cũng đã được điều chỉnh cho phù hợp với tâm thức tập thể và trình độ học trò ngày hôm nay, và do đó cũng đã được đơn giản hóa. Điều này không có nghĩa là lời dạy cũ hay lời dạy hôm nay là sai lầm, mà chỉ có nghĩa là nhiều chi tiết hơn có thể được cung cấp do hành tinh đã tiến bước. Những gì được đưa ra bây giờ sẽ tạm đủ cho một số học trò thăng thiên, và khi hành tinh được nâng lên cao hơn nữa, một số lời dạy khác sẽ được đưa ra để giúp cho một số đông học trò hơn cũng thăng thiên. 

Ta cần nói thêm ở đây là đối với các cư dân nguyên thủy của địa cầu, có một yếu tố phức tạp phụ trội. Nếu con là một avatar, con xuống hành tinh này, con tương tác với sa nhân khiến con rơi vào nhị nguyên. Nhưng bởi vì sa nhân biểu lộ một hình thức cùng cực của nhị nguyên, cho nên phần nào con sẽ dễ dàng hơn thấy được cách hành xử của họ là xấu xa, và con biết nhất định phải có một cách hành xử cao hơn. Trong nghĩa đó đối với một avatar, việc rút ra khỏi tình trạng nhị nguyên và thăng thiên sẽ dễ dàng hơn.

Đối với một cư dân nguyên thủy của địa cầu, cũng tương đối dễ dàng để họ thấy được cách cư xử của sa nhân là không tốt. Nhưng con hãy nhớ những gì chúng tôi đã giải thích, trước khi sa nhân được phép xuống địa cầu thì các cư dân ở đây đã tạo ra một vòng xoáy hướng hạ rồi, và đã trở nên đui mù do tâm thức nhị nguyên rồi. Họ đã tự làm chuyện đó chứ không phải sa nhân đã hướng dẫn hay ép buộc họ làm. Đó là sự lựa chọn của các cư dân nguyên thủy, và chính vì vậy mà việc thấy được và vượt qua các chọn lựa hạn chế của mình là điều khó khăn gấp bội.

Trong tương lai tất nhiên, đến lúc chúng tôi sẽ đưa ra một số lời dạy mới, qua vị sứ giả này hay một sứ giả nào khác, tùy theo thời điểm, để giúp cho các dòng sống trên địa cầu thăng hoa dễ dàng hơn. Chúng tôi đã có gợi ý về điều này nhưng cho tới giờ vẫn chưa thực sự đưa ra lời dạy nào đầy đủ để đáp ứng nhu cầu đặc biệt của họ.

Làm thế nào nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình

Hỏi: Maitreya có đề cập trong cuốn sách của thày, “Chìa khoá chỉ đạo cho tự do tâm linh” (Master keys to spiritual freedom), rằng chúng con bị chứng mất trí nhớ khiến chúng con quên mất Sứ vụ Thiêng liêng của mình khi đầu thai. Chúng con có thể làm gì để khắc phục bệnh này và nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình?


Trả lời của chân sư thăng thiên Maitreya qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 5/9/2019.

Con hãy đọc hết cuốn sách đi. Hiển nhiên các thày đã trao cho các con rất, rất nhiều dụng cụ tu tập, và có nhiều việc các con cần làm để nhớ lại Sứ vụ Thiêng liêng của mình, trong đó tất nhiên có việc cầu thỉnh nhằm biến hóa năng lượng nơi bốn thể phàm của con đang ngăn chặn sự liên lạc thông suốt với Hiện diện TA LÀ của con, việc học hỏi các giáo lý hầu con ngày càng lãnh hội sâu sắc hơn, việc tăng triển khả năng trực giác của con, vân vân… Nhưng điều vô cùng quan trọng mà con cần nhận ra là trong khi con còn hiện thân, sẽ không bao giờ có một điểm con bỗng nhiên đứng đó và thấy rõ Sứ vụ Thiêng liêng của mình hiện ra toàn bộ trước mắt. Đó chính là mục đích mà con phải hiện thân.

Sứ vụ Thiêng liêng không hề được khắc trên đá, nó không định ra từng bước bất di bất dịch mà con phải đi qua trong kiếp đầu thai. Trong Sứ vụ Thiêng liêng có rất, rất nhiều hoàn cảnh mà con cần phải lấy quyết định lựa chọn bởi vì chỉ như vậy con mới tăng trưởng được. Vì vậy đó không phải là một bản hoạch định đường thẳng vạch ra từng bước mà con phải đi, hết bước này rồi tới bước sau.

Sứ vụ Thiêng liêng của con dẫn con tới một tình huống nào đó nơi con có một loạt những chọn lựa mở ra cho con. Con chọn một trong số chọn lựa đó – và nó dẫn con tới một tình huống mới nơi Sứ vụ Thiêng liêng lại đưa ra một loạt chọn lựa trong tình thế mới. Điều này có nghĩa là khi con có những chọn lựa trong đời, Sứ vụ Thiêng liêng của con sẽ lần hồi chuyển mình, để khi con có chọn lựa cao thì đường con đi sẽ cao hơn, và nếu con có chọn lựa thấp thì đường con đi sẽ không thể cao được như vậy.

Cho nên Sứ vụ Thiêng liêng không được khắc trên đá mà có thể nói đó là một loại kế hoạch tác động qua lại, tương tự như khi con chơi một trò chơi trên máy tính, những quyết định của con ở một tầng dưới sẽ định đoạt con sẽ được chơi tiếp ở tầng nào sau đó. Sứ vụ Thiêng liêng của con không ngừng chuyển đổi, và tất nhiên, nếu con biết trước đâu là chọn lựa cao nhất trong một hoàn cảnh nào đó thì con sẽ không thể học hỏi bằng cách đi theo Sứ vụ Thiêng liêng.   

Con sẽ tăng trưởng khi con chọn lựa dựa theo tình thế trước mặt, dựa theo những gì con có thể nhìn thấy rồi con học hỏi từ đó và con nâng cao tâm thức của con. Nếu con cứ nhắm mắt đi theo một kế hoạch sẵn có, con sẽ không tăng trưởng và con sẽ trải qua nguyên một kiếp sống mà không tăng trưởng. Đây là điều xảy ra cho nhiều người mà các chân sư khác có nói đến và ta cũng đã có đề cập trước đó. Những người này rơi vào một trạng thái hôn mê tâm linh khi họ không phát triển trong nguyên một kiếp đầu thai. Lý do là vì họ không dám chọn lựa dựa trên sự hiểu biết hạn hẹp mà họ đang có.

Thậm chí còn có những hành giả tâm linh, ngay cả các học trò của chân sư thăng thiên, cũng đã sử dụng giáo lý của các thày để lý giải tại sao họ phải đi theo một chương trình vỏ ngoài nào đó mà không cần lấy những chọn lựa sẽ giúp họ tăng trưởng tâm Ki-tô. Và điều này, tất nhiên, không phải là điều các thày mong muốn chứng kiến. Các thày mong muốn học trò của mình ngày càng sẵn sàng chọn lựa – không xem sự chọn lựa như một tiến trình phải chọn giữa đen và trắng, mà đơn giản học hỏi từ mỗi chọn lựa, và mỗi lần như vậy, bước lên cao hơn trong tâm thức.

Buông bỏ sự vướng mắc vào những quyết định sai lầm quá khứ

Hỏi: Con đang đau khổ vì những quyết định sai lầm của con trong quá khứ nhưng con vẫn không từ bỏ được sự vướng mắc cứ mãi ám ảnh con. Con muốn biết làm thế nào con có thể buông bỏ các vướng mắc này một cách hiệu quả.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, ta hiểu đây quả thật là khiá cạnh khó khăn nhất trên đường tu tâm linh, cho nên ta sẽ không coi nhẹ vấn đề của con. Ta hiểu rất rõ sự khó khăn của tất cả chúng ta khi mình còn đầu thai để buông bỏ bám mắc. Đáng tiếc thay, con yêu dấu, chỉ có một cách để buông bỏ bám mắc mà thôi, đó là… buông bỏ, thế thôi. Con thấy không, con yêu dấu, nếu có ai ném cho con một quả bóng và con chụp lấy nó, con nắm quả bóng trong tay và có thể con sẽ cầm lấy nó thật chặt. Và con có thể có ý tưởng nảy ra trong đầu là vì con đã nắm quả bóng thật chặt rồi, nên con sẽ phải ra sức cố gắng thì mới nhả được nó ra. Và có thể con phải tập trung vào động tác nhả bóng đến độ, trong tiềm thức, con đã bóp chặt quả bóng mạnh hơn nữa. Rồi sau đó con nghĩ rằng con sẽ cần một nỗ lực siêu phàm, một sức mạnh cơ bắp phi thường để con có thể buông bóng ra.  

Nhưng tất nhiên, con càng siết chặt cơ bắp lại thì con sẽ càng khó mở tay ra để đánh rơi quả bóng. Bây giờ nếu con bỗng nhận ra là người ta không ném một quả bóng cho con mà một cục than nóng đỏ, thì ngay khoảnh khắc con cảm thấy tay con bị cháy bỏng, con sẽ – do bản năng và trong tiềm thức – con sẽ mở tay ra và buông cục than xuống. Đây thực sự là cách duy nhất mà con có thể buông bỏ một sự bám mắc. Đó không phải là một quyết định của cái tâm vỏ ngoài. Đó là cái mà chúng ta có thể gọi là một quyết định tự phát, hay một quyết định nội tâm. Con không cưỡng ép con từ bỏ, và con không cố tình quyết định với cái tâm vỏ ngoài rằng con phải từ bỏ.  

Động tác đó trở nên tự phát, nó tự nhiên vì con thấy được là sự bám mắc đang làm hại con, nó không đem lại ích lợi gì cho con. Cho nên khi con có điều gì mà con không thể buông bỏ, thực sự cách duy nhất là con phải bắt đầu làm việc trong con để đạt tới điểm con nhìn thấy được rõ ràng hơn. Con thấy được vấn đề tâm lý sâu xa bên dưới, con thấy được khuôn nếp của nó, con thấy được quyết định mà con đã lấy. Con thấy được nó đang hạn chế con như thế nào, và khi con thấy được hạn chế đó, con sẽ tự động buông bám mắc.

Đó là lý do chúng tôi, các chân sư, đã trao cho con tất cả những dụng cụ mà chúng tôi đã trao. Luôn luôn có một lượng năng lượng tha hóa nào đó trong bất cứ bám mắc nào. Nó khởi lên một phản ứng động cảm sẽ lôi kéo cảm thể của con, cho nên con có thể sử dụng những bài chú và bài thỉnh của chúng tôi để làm tan biến năng lượng tình cảm này. Và một khi con cảm thấy phản ứng cảm xúc đã bớt đi, con có thể bắt đầu nhìn thấy rõ hơn với lý trí của con, hầu con thấy được những mô thức cứ lặp đi lặp lại. Và con thấy được là con phải lấy một quyết định sâu hơn nữa trong nội tâm.

Và khi con giải tỏa được các năng lượng trong cõi lý trí và thấy được rõ ràng trong cõi đó, thì con có thể đi vào cõi bản sắc. Khi đó, con sẽ có thể tìm ra là có một thời điểm khi con đã quyết định trở thành một loại người nào đó, và chính quyết định này đã hình thành bám mắc – bởi vì chính con đã khiến cho con tin là mình bị hạn chế. Và khi con nhìn thấy được điều này, khi con thấy được nó đang hạn chế con như thế nào, đó là lúc con có thể tự động buông bỏ bám mắc. Nhưng việc này thường đòi hỏi con đã có một nỗ lực thật cố tình, thật ý thức thì con mới đến được điểm đó.   

Điều mà ta muốn chỉ ra cho con thấy ở đây là việc này không phải là một nỗ lực của trí óc, không phải là sự cưỡng ép tâm trí, mà là chính con làm việc trong con để giải thoát con khỏi năng lượng và đạt được sự minh mẫn, hầu con tự phát thấy được tại sao con muốn buông bỏ, và sau đó thì con tự phát buông bỏ bám mắc. Cuối cùng thì không tốn sức gì đâu.  

Bốn thể phàm và quả vị Ki-tô

Hỏi: Có đúng là bốn thể phàm của dòng sống luôn luôn hiện hữu cùng một lượt, ngay cả khi dòng sống không đang hiện thân trong cõi vật lý? Khi dòng sống bắt đầu ngừng đồng hóa với bốn thể phàm của mình, liệu bốn thể này có ngừng hiện hữu hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Novosibirsk, Nga, năm 2017. Đăng ngày 4/9/2019.

Con yêu dấu, con cần phân biệt giữa xác thân vật lý như một vật thể, và khía cạnh đó của tâm kết nối chặt chẽ nhất với xác thân. Các chân sư giảng là khi con bước vào một kiếp hiện thân vật lý, con khoác vào một thân xác vật lý được tạo ra đặc biệt cho kiếp sống đó. Nhưng con đã mang sẵn trong bốn thể phàm của con một khía cạnh của tâm được thiết kế để nối kết trực tiếp với thân xác vật lý mà con mặc vào trong kiếp đó, và tất nhiên khía cạnh này của tâm thì con mang từ kiếp này sang kiếp khác.

Khi con bước ra khỏi kiếp đầu thai, hiển nhiên thân xác vật lý của con sẽ giải thể, cho nên con không mang thân xác này theo con. Nhưng con mang theo khía cạnh của cái mà chúng ta có thể gọi là tâm vật lý, tức khía cạnh vật lý của tâm, cùng một lúc với các khía cạnh khác ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Như vậy cả bốn tầng này của tâm – chứ không phải thân xác vật lý – đi cùng với nhau khi con bước ra ngoài hiện thân, và tùy theo mức tâm thức của con, con vẫn làm việc với chúng khi con ở ngoài hiện thân.

Trên địa cầu có nhiều dòng sống chưa thức tỉnh đường tu tâm linh, cho nên họ không thể thực sự làm việc một cách ý thức với bốn thể phàm khi ở ngoài hiện thân. Họ thường bỏ hết thì giờ của họ ngoài hiện thân để nghỉ ngơi, hay để kinh qua một số trải nghiệm tác động đến sự tăng triển liên tục của họ. Nhưng đối với những ai đang bước chân trên đường tu tâm linh, đặc biệt nếu con đã đi vào các giai đoạn quả vị Ki-tô, thì con có khả năng làm việc ý thức với bốn thể phàm của con giữa hai kiếp đầu thai. Con có thể làm nhiều việc khác nhau. Con có thể thanh lọc chúng, con có thể chữa lành chấn thương hay thương tích ở nơi chúng, và tùy theo mức chứng đạt của con, con có thể tạo ra một số mô thức trong bốn thể phàm.

Cách mô tả hay nhất không phải là bảo rằng một khi con bắt đầu đạt đến quả vị Ki-tô thì bốn thể phàm không còn hiện hữu nữa, bởi vì chừng nào con còn hiện thân thì con vẫn cần đến chúng. Con nối kết trực tiếp với thân xác vật lý qua khía cạnh thấp nhất là tâm vật lý, nhưng Hiện diện TA LÀ của con, ánh sáng của Hiện diện TA LÀ vẫn tuôn chảy qua mọi tầng, từ tầng bản sắc vào lý trí, rồi vào cảm xúc, rồi vào tầng vật lý. Cho nên con luôn luôn cần đến bốn thể phàm khi con còn đầu thai.

Điều xảy ra khi con gần đến quả vị Ki-tô là tất nhiên, con đã thanh lọc bốn thể đó, con đã nâng cao nhận biết, nên như các thày có nói nhiều lần, con đã bỏ ý thức cá nhân khỏi đời con, và điều này có nghĩa là con không còn cho phép chúng giới hạn chính con lẫn cách biểu đạt của con. Con không bị lôi kéo vào các khuôn nếp thương tích trong bốn thể phàm.

Cho nên có thể nói, khi con đến gần hơn với quả vị Ki-tô, bốn thể phàm sẽ càng ngày càng ít những tác động giới hạn con trên cách con cảm giác, cách con nhìn cuộc sống cũng như khả năng con biểu đạt chính mình. Nói cách khác, chúng sẽ không còn kháng cự lại như khi con ở mức thấp hơn.

Nhiều người mang nhiều khuôn nếp, nhiều năng lượng tích tụ, đến độ có một lực cản trong bốn thể phàm. Và khi con cố gắng, chẳng hạn, hình dung ra một ý tưởng để thay đổi đời mình và con muốn dồn chú tâm cùng năng lực vào đó, thì bốn thể phàm sẽ phản kháng lại, khiến nỗ lực sáng tạo của con bị suy giảm. 

Khi con tiến gần hơn với quả vị Ki-tô, lực kháng cự này ngày càng ít đi, và sẽ tới một điểm khi đơn giản con không còn giới hạn nào nữa. Thật sự con rất ít chú ý đến bốn thể phàm, hoặc đôi khi con nhận thấy một phản ứng từ cảm thể trước một sự cố hay một phóng chiếu từ ngoài, nhưng con đủ ý thức để quyết định mình sẽ không bị lôi kéo vào với nó, sẽ không nuôi nó bằng năng lượng của mình, sẽ không để nó lớn mạnh thành một sinh thể riêng rẽ rồi biến thành một xoáy ốc tự lực tự cường, lấy đi mất năng lượng của mình.

Cũng tương tự như vậy trong trí thể của con: Trong tâm thức tập thể có thể có một số tin tưởng , và con có thể ở trong tình huống phải giáp mặt với những tin tưởng đó, hoặc tin tưởng đó được phóng chiếu vào con, ví dụ bởi một nhóm người, nhưng con đủ ý thức để nhìn ra đó không thực là điều mình muốn tin hay là cách mình muốn nhìn cuộc sống, và do đó con tránh nuôi sống nó bằng năng lượng của con. Con không bắt buộc phải chạy theo ý tưởng đó, hay kéo dài ý tưởng đó, hay nghĩ rằng nó có ý nghĩa gì đối với con.

Tất nhiên ở tầng bản sắc cũng vậy: Biết bao nhiêu lần người ta phóng chiếu vào con, bảo con phải xử sự giống như mọi người hay phải là một người bình thường, nhưng khi con tiến gần hơn với quả vị Ki-tô, con sẽ ngày càng ít chú ý hơn đến những chuyện đó. Con tập trung để là con người mà con là, tập trung vào sứ vụ thiêng liêng của mình, vào Hiện diện TA LÀ của mình. Con tập trung để làm cánh cửa mở hầu con có thể sống tự nhiên thanh thoát trong mỗi khoảnh khắc.

Đương nhiên, nếu con có rất nhiều khuôn nếp trong bốn thể phàm cứ lôi kéo con vào đủ loại phản ứng khác nhau, thì con không thể là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ hay cho các chân sư thăng thiên. Cho nên đây là một phần của công việc từ bỏ ý thức cá nhân trong đời con, khi con không còn lực kháng cự này trong con nữa, hay con không còn bị bốn thể phàm đánh lạc hướng khỏi những gì con đã đến đây để thực hiện.

Liệu con sẽ chết nếu tự ngã chết?

Hỏi: Con yêu Thượng đế và các chân sư thăng thiên hơn nữa, và con hoàn toàn hàng phục Thượng đế. Khi con thiền quán và cảm thấy năng lượng dâng lên trong thân con, con bỗng lo sợ tự ngã con sẽ chết. Con lo sợ điều gì sẽ xảy ra nếu tự ngã của con chết hoàn toàn. Nhưng con muốn khắc phục nỗi sợ hãi này và hoàn toàn yêu thương Thượng đế cùng các chân sư. Con có nghe nói là nếu tự ngã của con chết, con sẽ không chết mà sẽ nở rộng ra. Nhưng con không thể buông nỗi sợ hãi của con. Xin thày khuyên con như thế nào.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2017. Đăng ngày 19/12/2017.

Nỗi sợ hãi liên quan đến sự phát triển tâm linh luôn luôn là một sự cấy ghép hay một cái móc trong hào quang của con mà các sa nhân và tà lực đã cài đặt nơi cõi tình cảm. Trước tiên, con phải lấy quyết định nhìn ra là con đang bị tà lực tấn công. Con cần kêu gọi sự bảo vệ tâm linh từ Đại thiên thần Michael, con cần kêu gọi Astrea chặt đứt mọi sợi dây ràng buộc con với các thế lực này. 

Sau đó, con cũng cần làm điều mà chúng tôi, các chân sư, đã dặn bao nhiêu lần: nhìn vào các khuôn nếp tâm lý của con. Vào một thời điểm nào đó, con đã quyết định một điều gì đó sẽ xảy ra nếu tự ngã con chết. Con có một lý do nào đó để nghĩ rằng con không thể sống còn mà không có tự ngã, và con cần khám phá quyết định này. Có nghĩa là trước hết, con phải giải hóa cái gánh nặng năng lượng sợ hãi khiến con bị đau đớn hay bị khó khăn khi con xem xét quyết định đó. Sau đó, con cần nỗ lực đạt sự minh mẫn hầu con nhìn thấy quyết định và tháo gỡ nó ra. Đây KHÔNG phải là một điều sẽ xảy ra tự động, nhưng tất nhiên, những bài thỉnh mà chúng tôi đã ban ra chắc chắn sẽ giúp con về mặt này.

Con có những cuốn sách đã được dịch sang Hàn ngữ, chẳng hạn cuốn sách về sự giao tiếp từ trái tim, cuốn này nói về cả bảy tia sáng và đây là cuốn sách đầu lòng rất tốt. Nếu không, có nhiều cuốn sách khác của chúng tôi có kèm theo bài chú cũng sẽ rất hữu ích để con tự chữa lành. Sẽ cần một thời gian để giải quyết một vấn đề như thế này, bởi vì con cần khám phá ra cái quyết định sâu xa đã khiến con hoài nghi là con không thể sống sót nếu tự ngã của con chết đi.  

Điều con cũng cần suy xét là toàn bộ tự ngã của con sẽ không thể tự dưng chết ngay lập tức. Nó chỉ có thể chết đi từng phần. Không một ai trong chúng ta có thể nhảy một bước khổng lồ đến độ toàn bộ tự ngã chết đi trong một tình cảnh duy nhất. Ta biết có một số người bảo rằng họ trải qua một sự chứng nghiệm to lớn và sau đó thì họ giác ngộ, và họ diễn giải là họ không còn tự ngã nào nữa. Nhưng ta chỉ muốn chỉ ra cho con một sự thật rất đơn giản, con yêu dấu. Nếu con còn đang đầu thai, nếu con còn đang hiện thân trong một thể xác vật lý, thì con vẫn còn sót lại một số phần tử của tự ngã, bởi vì nếu không thì con đã không thể cầm giữ được xác thân con.

Con không nên ngây thơ nghĩ rằng con có thể chứng ngộ vượt bực đến mức toàn thể tự ngã của con tan mất và con giải thoát khỏi mọi tự ngã và được giác ngộ cho tới cuối đời. Chỉ có một mảnh của tự ngã chết đi mà thôi. Nếu con cho phép con tưởng rằng con không còn tự ngã, gần như chắc chắn con đã tệ hơn sau khi con có trải nghiệm đó. Con nên nghĩ rằng chỉ một phần nhỏ của tự ngã của con chết đi, và điều này sẽ giúp con tránh được nỗi sợ hãi dễ dàng hơn.

Nhà thơ Rumi có đã thăng thiên?

Hỏi: Nhà thơ của phái Sufi, Jalal ad-Din Rumi, có đã thăng thiên và đạt đến hợp nhất với Thượng đế hay chưa? Ông có viết một bài về cái Một và tình yêu Thượng đế.


Trả lời của chân sư thăng thiên Kuthumi qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc, năm 2016. Đăng ngày 22/4/2017.

Nhà thơ Rumi đã không thăng thiên nhưng không phải vì ông không có khả năng thăng thiên, mà vì ông đã chọn tái đầu thai.

Có một số lý do phức tạp, nhưng trên hết, ông đã tăng triển tới mức ông có khả năng cầm giữ một sự cân bằng tâm linh cho địa cầu, và do đó ông đã quyết định duy trì một xác thân vật lý.

Ông chọn không là một người được công chúng biết đến, mà ông sống ẩn danh, hay sống ẩn dật, để ông có thể cầm giữ một sự cân bằng tâm linh trong khi thế giới bên ngoài hoàn toàn không biết đến ông. 

Giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ

Hỏi: Con tò mò muốn khám phá chấn thương nhập đời đầu tiên của con là gì, và như một trong các chân sư có đề cập hồi nãy, đôi khi có điều gì đó xảy ra trên thế giới làm mình xao động. Riêng con, hình như tình hình tại Do thái – cách đối xử đối với người Palestine – khiến con chú ý nhiều hơn hầu hết mọi vấn đề khác. Khi các chân sư trình bày về việc trở ngược lại chấn thương nhập đời và nhìn lại nó, nhưng giữa việc ở đây và trở lại với chấn thương nhập đời, con cần tìm lòng can đảm để đối diện với nó. Lý tưởng nhất con nên đi theo quy trình nào vì con muốn giải quyết chấn thương nhập đời đó?  


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2016. Đăng ngày 11/2/2017.

Đây là một tiến trình tế nhị vì đối với đa số các con, chấn thương nhập đời đã xảy ra rất lâu trước đây. Nó cũng bị chôn vùi tận đáy tiềm thức của con vì nỗi đau quá dữ dội đến nỗi con phải che phủ nó dưới hết lớp này tới lớp khác.

Có một loại cơ chế kỳ lạ xảy ra khi con phải đối diện với nỗi đau toàn diện của chấn thương nhập đời. Nó giống như con tự nhủ: “Tôi không bao giờ muốn trải qua nỗi đau toàn diện như thế này nữa.” Bỗng nhiên điều này có nghĩa là bất kỳ nỗi đau nào nhẹ hơn một nỗi đau toàn diện đều có thể chịu được so với nỗi đau toàn diện. Và con nghĩ: “Tôi thà kinh qua nỗi đau này còn hơn là nỗi đau nguyên thủy.”

Điều này có nghĩa là có thể có nhiều lớp chấn thương khác nhẹ hơn đang che phủ chấn thương nhập đời. Tất nhiên, tiến trình thật sự để làm điều này là bước theo đường tu tâm linh và sử dụng những dụng cụ và những giáo lý mà chúng tôi đã ban ra. Con có một số bài cầu thỉnh được thảo ra đặc thù để làm việc này. Khuôn Hàn gắn của Bài ca Sự sống (The Song of Life Healing Matrix) cũng rất hiệu nghiệm.

Như ta có nói, các sa nhân rất tài giỏi bắt sóng bản thân con để thấy đâu là trường hợp xấu nhất mà con có thể hình dung trên trái đất. Chẳng hạn, điều gì sẽ mang lại cho con cảm giác bất công lớn nhất, điều gì không được quyền xảy ra và không một ai phải chịu đựng.

Nếu trên thế giới có một tình trạng nào khiến con phản ứng thật mạnh mẽ, thì con cần nhận ra là chấn thương nhập đời nguyên thủy của con, tất nhiên, không do tình trạng này tạo ra, chẳng hạn giữa người Do thái và người Palestine, là một tình trạng của thế giới hiện đại. Chấn thương đó có thể là do một tình trạng tương tự trong quá khứ xa xôi, chẳng hạn như khi con chứng kiến một nhóm người bị đàn áp thô bạo.

Sau đó con cần khám phá ra chính xác điều gì là thành tố tâm lý đã làm con xao động. Rồi con tìm xem khía cạnh tổng quát nhất trong đó. Con cần lánh xa những chi tiết quá cụ thể, vì nếu con tập trung vào chi tiết cụ thể (và nghĩ rằng con phải đi giải quyết tình huống vỏ ngoài đang xảy ra ngày hôm nay) thì con sẽ không phát hiện được chấn thương nhập đời.

Chấn thương nhập đời đã xảy ra quá lâu trước đây trong một hoàn cảnh khác. Con cần nhìn xa hơn sự kiện cụ thể và khám phá cơ chế phổ quát trong tâm lý của con đã khiến con phản ứng lại. Đó đã là chấn thương tồi tệ nhất mà con có thể trải nghiệm, là chứng kiến một tình thế như vậy mà cảm thấy mình bất lực không làm được gì.

Rất nhiều khi, chấn thương hiện ra là vì con đã đến địa cầu với ý định cao thượng nhất muốn tạo thay đổi tích cực cho địa cầu. Khi con trải nghiệm tất cả những chuyện trên hành tinh này, con rất dễ bị kéo hút và tập trung vào những điểm tiêu cực, và con tưởng con có thể tạo thay đổi tích cực bằng cách loại bỏ tiêu cực, rất có thể là giao chiến với những kẻ đang tạo ra tiêu cực.

Trong nhiều trường hợp, điều xảy ra ở ban đầu là con không tính giao tranh với ai hết. Con chỉ tính bảo vệ những người mà con thấy đang phải chịu sự bất công. Nhưng rồi các sa nhân rất tài tình đặt con vào một tình thế nơi chúng tạo ra sự bất công tối đa dưới mắt con. Rồi con cảm thấy mình hoàn toàn bó tay bất lực. Con gần như cảm thấy chuyện xảy ra là lỗi của con, rằng con đã có thể ngăn cản được hay đáng lý con đã phải ra tay ngăn cản.

Đây là điều đem lại nỗi đau lớn nhất cho con: Một sự thể đã xảy ra và con bó tay không làm gì được. Đó là lúc con cần thực sự làm việc để nhận ra quyền tự quyết, nhận ra loại hành tinh nơi con đang sinh sống. Con cũng cần nhận ra là điều đã gây ra chấn thương nhập đời chính là phản ứng của con, nhưng con đã phản ứng lại một tình thế do sa nhân cố tình tạo ra để phá hỏng mục đích đến địa cầu của con.

Cho nên con cần cương quyết không để chúng làm chuyện đó, không để chúng thành công. Con sẵn sàng xem xét chấn thương nhập đời và tìm xem con đã có thể phản ứng cách nào khác hay không. Ta không nói là con đã có thể phản ứng cách khác vào lúc đó – con đã không thể, và vì vậy con đã phản ứng như vậy. Nhưng ngày hôm nay, với kinh nghiệm mà con đã thu thập trên hành tinh này, với sự tinh tấn trong tâm thức mà con đã gặt hái, con có thể phản ứng một cách khác.

Đó là tại sao con có thể cho phép con trải nghiệm lại tình huống đó. Giờ đây, con chọn lựa trong ý thức một cách phản ứng khác sẽ không gây chấn thương cho con, vì con thấy được đây chỉ là một khía cạnh trong vô vàn khía cạnh khác của quyền tự quyết đang trải bày. Điều này đang diễn ra ở mọi nơi và mọi lúc trên hành tinh này. Con không thể giải quyết mọi vấn đề trên hành tinh, bởi vì nếu con cố giải quyết, con sẽ phát điên. Đây là điều con phải nhìn nhận.

Tất cả chúng tôi, các chân sư, đều đã thăng thiên vì tới một điểm, chúng tôi đã nhận ra mình không thể giải quyết mọi vấn đề trên hành tinh này. Thật ra chúng tôi không phải giải quyết bất kỳ vấn đề nào xuất phát từ tiến trình trải bày quyền tự quyết. Vì vậy, chúng tôi nhìn nhận là tất cả những gì mình có thể làm được là nâng cao tâm thức của mình và làm gương. Sau đó, chúng tôi tới điểm nhận ra là đã đến lúc chúng tôi có thể bước lên một mức phụng sự cao hơn nữa, là phụng sự từ cõi thăng thiên (ta không bảo là con không thể phụng sự khi còn đầu thai).

Con thăng thiên khi con đạt tới điểm nhận ra là con không còn muốn phụng sự bằng cách là người hiện thân. Con muốn phụng sự hết sức mình từ cõi thăng thiên. Và đó là khi con thăng thiên, nhưng tất nhiên, con không thể thăng thiên trước khi con giải quyết chấn thương nhập đời. Điều này thực sự có nghĩa là con phải có khả năng nhìn vào tình trạng đó, hay một tình trạng tương tự đang diễn ra ngày nay trên thế giới, và con hoàn toàn không có phản ứng nào.

Con tự nhủ: “Tôi đã không tạo ra nó, tôi đã không thể ngăn cản nó, tôi không ở đây để giải quyết nó.” Con thấy rõ đó là quyền tự quyết đang trải bày ra, và ngay cả những người có vẻ là nạn nhân cũng vẫn trải bày quyền tự quyết của mình, bởi vì nếu không, chuyện đó đã không thể xảy đến cho họ. Khi con thấy được điều này, con có thể quyết định là con không còn muốn bị ràng buộc bởi chuyện đó nữa. Con chỉ được tự do khỏi nó khi con không còn mong muốn giải quyết vấn đề đó nữa.

Rồi khi con thăng thiên, con có nguyên một loạt những chọn lựa khác nhau để gửi năng lượng của ánh sáng xuống hành tinh và làm việc với loài người đang đầu thai. Lúc đó con có thể làm một cái gì, không phải giải quyết vấn đề đặc thù đó, mà làm một cái gì với tâm thức nằm ở đằng sau, hầu con nâng cao tâm thức tập thể để những loại thị hiện đó không thể tiếp tục xảy ra.

Ta có thể nói với con là rất nhiều người trong số các con – đa số các con – đã hiện thân trên trái đất rất, rất lâu. Con có thể nhìn vào thế giới ngày nay và thấy một số điều kiện vô cùng khủng khiếp. Đối với các con đã hiện thân từ một hai triệu năm trên hành tinh này, ta có thể cam đoan là trong những thời đại trước (mà lịch sử chính thức đã lãng quên từ lâu), con đã chứng kiến những điều kiện còn tồi tệ hơn gấp bội hiện nay.

Điều này có nghĩa là những gì đã gây ra chấn thương nhập đời nguyên thủy của con còn tồi tệ gấp bội những gì con đang chứng kiến hôm nay. Hành tinh đã có tiến bộ, có nghĩa là con có thể tới mức nhận ra là con không phải giải quýêt chính cái vấn đề đã gây chấn thương nhập đời cho con. Vì vậy, con không phải giải quyết mọi vấn đề tương tự đã khiến con có phản ứng. Con không phải giải quyết mọi vấn đề khiến con phản ứng. Kỳ thực, con không bao giở giải quyết được vấn đề gì bằng cách phản ứng lại. Con chỉ có thể làm một cái gì đó khi con không còn phản ứng.

Thật là một điều tự nhiên, gần như không thể tránh được, khi con xuống đầu thai và trải nghiệm các điều kiện trên trái đất, và con phản ứng lại lúc ban đầu. Mọi người trong chúng ta đều đã từng làm y như vậy khi xuống đầu thai, kể cả Giê-su. Không một ai từng hiện thân ở đây mà đã không phản ứng lại các điều kiện đó vì chúng thật là khủng khiếp. Tiến trình thăng thiên là khi con đạt tới điểm nơi con không còn cho phép bất cứ gì trên địa cầu quy định con là gì hay phải phản ứng lại điều gì.

Quá khắt khe với bản thân

Hỏi: Nếu mình quá khe khắt với bản thân, nếu mình tự phê phán quá mức, liệu mình có phải hoá giải sự tự phán này nếu mình muốn tiến bước? 


Trả lời của ông Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan. Đăng ngày 14/12/16.

Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều quá khắt khe với chính mình vì chúng ta đã lớn lên như vậy. Hãy nhìn vào hình ảnh Thượng đế mà chúng ta đã được dạy dỗ, một vị quan tòa ở trên trời, và nếu chúng ta phạm phải lỗi lầm, chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục mãi mãi. Rồi chúng ta bị trừng phạt và phải chịu đau khổ đời đời.

Rất nhiều người đã được nuôi lớn trong hình ảnh đó. Ngay cả khi không bị vậy thì cũng có một tâm thức tập thể khiến chúng ta tự phán xét gay gắt khi mình phạm lỗi. Khi tôi mới cất bước trên con đường tâm linh và ngay cả khi tôi đã tìm thấy giáo lý của các chân sư thăng thiên, tâm thức này vẫn bám theo tôi. Tôi mường tượng các chân sư giống như Thượng đế nóng giận trên trời. Các thày không nóng giận tuy nhiên dường như các thày vẫn phán xét. Tôi phải toàn hảo. Tôi phải làm mọi công tác vỏ ngoài cho tươm tất, và trong một tổ chức mà tôi là thành viên, người ta đặt trọng tâm to lớn trên những công tác vỏ ngoài, như phải mặc đúng loại quần áo nào, không được lái xe màu đỏ, tất cả những chuyện vỏ ngoài như thế. 

Tôi đã nhận ra là thử thách thực sự trên đường tâm linh là mình tự chấp nhận mình là phần nối dài của Thượng đế. Làm thế nào chấp nhận được điều này? Bạn tự chấp nhận bằng cách nhận ra là Thượng đế thương yêu bạn vô điều kiện. Thế gian thì bảo rằng có thể có một Thượng đế và Thượng đế này có thể thương yêu bạn nếu bạn hội đủ một số điều kiện nào đó. Đó thật là một năng lượng ác ý và hăm doạ của thế gian muốn chúng ta phải tin vào điều đó. Điều này cũng gắn liền với chủ đề của hội nghị về phản tình thương, bởi vì thế gian nhất định muốn chúng ta tin là chúng ta phải hội đủ một số điều kiện.

Đó là lý do tôi nghĩ mình hay tự phán xét – vì chúng ta cho rằng mình không toàn hảo, và nếu mình không hội được những điều kịên đó, Thượng đế sẽ không còn thương yêu mình nữa, hoặc bất kỳ biện pháp nào mà mình có thể tưởng tượng. Tôi nghĩ thử thách lớn nhất trên đường tu là mình thực sự chấp nhận tình thương vô điều kiện. Tôi đã từng chứng nghiệm điều này một lần, và tôi đã viết lại câu chuyện đó. Một lần tôi chứng nghiệm được sự hiện diện của Thượng đế, và có lẽ tôi mất thêm ba năm trời để nghiền ngẫm và thể nhập chứng nghiệm đó. Cuối cùng một hôm, một ý nghĩ bỗng lóe ra trong tôi: Nếu tình thương Thượng đế vô điều kiện thì tôi phải hội những điều kiện gì để xứng đáng với tình yêu đó? Câu trả lời thật hiển nhiên – không thể nào có điều kiện gì mà tôi phải hội được hầu nhận được tình thương vô điều kiện. 

Chỉ có một điều kiện thôi, đó là tôi phải đón nhận tình thương đó. Tôi phải chấp nhận tình thương đó. Và tôi phải nhìn lại chính mình và tự hỏi: “Tin tưởng nào trong tôi đang ngăn cản tôi đón nhận món quà mà Thượng đế đang cho tôi một cách vô điều kiện bất cứ lúc nào?” Tôi thiển nghĩ, cho tới khi nào mình chưa thấy được điều này một cách ý thức, chưa thấy được sự lừa dối và ngụy biện của thái độ phán xét thì mình chưa được giải thoát khỏi nó. Mình sẽ vẫn tiếp tục đuổi theo đống vàng ở cuối cầu vòng, và càng đuổi thì cầu vòng sẽ càng chạy đi xa hơn. Chúng ta sẽ không bao giờ tới được cho đến khi chúng ta nhận ra là cuộc chạy đuổi này hoàn toàn vô ích.  

Liệu ngày nay vẫn có người thăng thiên?

Hỏi: Liệu ngày nay có ai đạt được mức sẵn sàng thăng thiên hay không? Chúng con biết qua một đợt truyền pháp trước là những người đạt được mức thăng thiên rất hiếm hoi. Thời nay có ai thăng thiên hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels, tháng 7 năm 2013. Đăng ngày 25/10/2015.

Nếu con nhìn vào dân số trên địa cầu và con số những người thăng thiên, thì quả thực con có thể nói việc hội đủ tư cách để thăng thiên là một điều rất hiếm hoi. Nhưng con cũng biết trong thời gian qua đã có một yêu cầu là mỗi năm phải có ít nhất một người thăng thiên từ địa cầu.

Trong khoảng hai hay ba thập niên vừa qua, số người thăng thiên đã gia tăng. Một phần là bởi vì vào thời đại này – khi chúng ta đang chuyển tiếp tâm thức từ Thời đại Song ngư sang Thời đại Bảo bình – nhiều người ở những mức trưởng thành tâm thức cao độ đã tình nguyện đầu thai trong lúc này để tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển tiếp.

Vì vậy trong những năm qua đã có nhiều người thăng thiên hơn, và cũng có nhiều người hơn trên điạ cầu đã đạt đến một mức tâm thức hội đủ tư cách cho họ thăng thiên, hoặc họ có khả năng hội đủ trong kiếp này. Quả thực có khá nhiều người đã theo giáo lý của các chân sư thăng thiên từ mấy thập niên rồi và cũng đã siêng năng tu tập và đọc chú – và trên hết, họ đã sử dụng giáo lý để chuyển vọt tâm thức của họ – thì những người này cũng đã hội đủ, hoặc gần đủ, điều kiện để thăng thiên.   

Cho phép tự ngã lừa mình chối bỏ lời dạy sẽ giải thoát mình khỏi tự ngã

Hỏi: Một người tầm đạo chín chắn cần đáp ứng thế nào khi gặp những lời dạy trên trang mạng này thách đố các niềm tin sẵn có của mình và người đó không đồng ý với lời dạy? Con nhận thấy là những người bạn mà con đã giới thiệu trang mạng này, thường chụp lấy một chi tiết nhỏ nhặt nào đó mà họ không thích rồi sử dụng để bác bỏ toàn bộ trang mạng. Xin thày vui lòng bình luận về cách hành xử này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Con hãy cho phép ta nói thật rõ là những ai đọc trang mạng này KHÔNG NÊN hiểu lầm những lời giảng của ta ở đây là những điều mà họ phải chấp nhận không suy xét, và họ cũng không nên đọc từng chữ như thể đó là thánh thư bất khả sai lầm. Như ta đã cố giải thích, mục đích của bất kỳ lời dạy chân truyền nào cũng là trao cho học trò một bàn đạp để giúp họ vươn lên trên giáo lý vỏ ngoài hầu chạm được Tánh linh của Sự Thật – các chân sư thăng thiên – mà từ đó lời dạy đã đi ra. Lời dạy tựa như một sợi dây cứu sinh nhằm dẫn con đến cội nguồn của lời dạy.

Ý ta muốn nói là con nên luôn luôn cố gắng vượt xa hơn từ ngữ vỏ ngoài của lời dạy để chạm được một hiểu biết nội tâm sẽ đưa con lên cao hơn lời dạy. Nhiệm vụ của một vị sứ giả là truyền đạt một lời dạy thuần khiết nhất có thể. Còn nhiệm vụ của đệ tử là vượt ra khỏi lời dạy vỏ ngoài, và khi làm vậy, đệ tử cũng thăng vượt những nét thiếu thuần khiết trong lời dạy. Chừng nào con nối kết với nguồn cội thì tất cả những bất toàn đó trong lời dạy đều không quan trọng. Nhưng nếu con không tìm đến nguồn cội thì ngay cả một lời dạy toàn hảo – nếu có gì có thể toàn hảo được – cũng sẽ không đảm bảo được sự cứu rỗi của con.

Như luôn luôn, nguy cơ tiềm tàng cho con chính là hai đối cực của tự ngã:

  • Một là đệ tử với tư duy đen-trắng sẽ thần tượng hóa sứ giả cũng như giáo lý, cho rằng đó là giáo lý cao nhất và luôn luôn đúng. Vì vậy họ không bao giờ được cả gan nghĩ xa hơn những gì được trình bày trong giáo lý.   
  • Hai là đệ tử vẫn còn bị chi phối bởi lối tư duy xám. Họ sẽ bảo rằng không một lời dạy nào có thẩm quyền gì đặc biệt, cho nên họ sẽ nghĩ ra một cách diễn giải riêng của họ để khiến lời dạy có vẻ nói lên những gì họ muốn nghe.  

Cách thoát ra khỏi hai đối cực đó là nhận ra điều mà ta vừa nói ở trên. Con phải sử dụng lời dạy duy như một bàn đạp, một bực thang để với lên nguồn cội của lời dạy. Các chân sư thăng thiên đứng trên tư duy đen-trắng lẫn tư duy xám. Cho nên nếu con không nhìn xa hơn trạng thái tâm thức hiện thời của con, thì đơn giản con sẽ không thể nào liên lạc được với chúng tôi. Con sẽ bị kẹt lại trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con sẽ dùng cách diễn giải của con về lời dạy vỏ ngoài để biện minh tại sao con đã không bước lên cao hơn.

Về điểm này, con hãy cho phép ta nói lên một điều thật rõ ràng. Nếu con thấy mình cứ phân tích, xét đoán hay chỉ trích một giáo lý hoặc vị sứ giả truyền đạt giáo lý đó – đặc biệt nếu con cứ nghĩ là mình biết rõ giáo lý phải được trình bày ra sao – thì ngay lập tức con nên xem đó là một dấu hiệu hiểm nghèo. Con có thể LUÔN LUÔN chắc chắn là những ý tưởng như vậy xuất phát từ tự ngã của con cùng các tà thể mà ta đã mô tả trong một câu trả lời khác, tức bọn Phá rối (the Spoilers). Cho nên con cần nhận ra yếu tố khiến con dễ bị năng lượng của bọn Phá rối tấn công chính là một số tin tưởng nhị nguyên mà con có. Con càng dính mắc vào các tin tưởng này thì phản ứng động cảm của con đối với lời dạy sẽ càng dữ dội.

Người đệ tử thiếu minh triết sẽ sử dụng các điểm bất toàn mà họ thấy nơi người khác (thật ra là những điều mà chính tự ngã của họ đã phóng chiếu lên người khác) để không thay đổi bản thân. Còn đệ tử minh triết sẽ luôn luôn tìm kiếm cái xà trong mắt mình, chào đón bất kỳ cơ hội nào để nhìn thấy nó và nhổ nó ra. Cho nên khi người đệ tử minh triết tìm thấy một lời dạy trên trang mạng này hay bất kỳ một giáo lý tâm linh nào khác thách đố niềm tin cố hữu của mình, thì người đó sẽ cân nhắc câu hỏi: “Có phải sự kháng cự của tôi đối với lời dạy này phát xuất từ sự dính mắc vào một ảo tưởng nào hay chăng?” Nếu phát hiện được một dính mắc như vậy thì người đó sẽ luôn luôn phơi bày nó rồi buông nó ra. Nhưng một đệ tử thiếu minh triết sẽ tim thấy sai khuyết nơi sứ giả cùng thông điệp của sứ giả để rồi sử dụng như một lý cớ mà bỏ qua dính mắc của mình.

Là một đệ tử minh triết, con cần luôn luôn cố gắng phơi bày tự ngã, và một trong những cách tốt nhất là xét xem có những mâu thuẫn hay bất nhất nào trong các niềm tin, lời nói hay hành động của mình. Lý do là vì tự ngã luôn luôn phóng chiếu quan điểm của nó lên người khác, và do vậy, nó thường hay chỉ trích sai lầm mà nó thấy nơi người khác chính vì nó đang mang sai lầm đó nơi nó. Tự ngã sẽ buộc tội người khác có những hành xử mà chính nó đang hành xử với người khác – cũng như với con.   

Chẳng hạn, có một số đệ tử tâm linh đã tập trung vào một hình ảnh sai lầm về tình thương khi xem tình thương là phải luôn luôn dịu dàng nhu hòa, và họ nghĩ họ không bao giờ được thách đố một ý tưởng hay quan điểm nào. Thế nhưng họ không nhìn ra là họ đã trở nên phê phán đối với những người thẳng thắn hơn họ.

Những ai bị mù quáng bởi tư duy xám rất dễ rơi vào kiểu phê phán đó. Chẳng hạn, họ khoác vào thái độ cho rằng một vị thày tâm linh chân chính phải tỏ ra yêu thương độ lượng đối với mọi hoàn cảnh con người. Họ thật sự tin rằng cách duy nhất để là một người yêu thương là không bao giờ được thách thức một ai vì làm như vậy là phê phán. Nhưng điều mà họ không nhìn thấy là chính họ mới đang vô cùng phê phán đối với những ai không tuân theo cách định nghĩa của họ về thế nào là thương yêu. Nói cách khác, nhiều người tầm đạo chân thành cho rằng họ hoàn toàn yêu thương, nhưng họ lại rất phê phán đối với những ai họ dán nhãn là không yêu thương.

Đây rõ ràng là một sự mâu thuẫn, và một người đang bắt đầu vượt lên trên tư duy xám sẽ phải có khả năng sử dụng những lời dạy này để nhanh chóng buông bỏ các trò chơi đó của tự ngã. Do đó, những người tầm đạo già dặn hơn phải có khả năng vượt trên xu hướng của tự ngã vốn cứ chọn ra một chi tiết mà nó không ưa, rồi sử dụng như cái cớ để khiến con bác bỏ toàn bộ giáo lý.

Trang web của chúng tôi thực sự có những lời dạy có thể giúp mọi người thoát tự ngã của mình. Nhưng nếu con cho phép tự ngã đánh lừa con gạt bỏ lời dạy thì hiển nhiên lời dạy không thể giải thoát được con. Ta đã chứng kiến những người tâm linh làm vậy từ thời ta bước trên địa cầu 2000 năm trước đây. Riêng bản ngã thì con không lạ gì nó. Các luận cứ mà nó dùng có thể thế này hay thế khác, nhưng cái cơ chế thì luôn luôn không thay đổi.

Nguyên nhân tâm linh của bệnh trầm cảm và cách chữa trị

Hỏi: Con tưởng con đã chiến thắng được chứng trầm cảm nhưng hình như con vẫn chưa làm được. Không phải là con muốn tự vận hay con thèm hút thuốc, dùng ma tuý hay uống rượu đâu. Đơn giản là con chỉ mệt mỏi. Con đã chán ngấy tất cả mọi thứ. Con chán chường thế gian này. Nhiều khi con không muốn gì khác hơn là nổ tung ra để nhập vào cái Tất cả. Nếu Thượng đế là đại dương và con là giọt nước thì con muốn trở về trong đó. Con biết là con còn một phần vụ mà con phải hoàn tất trước khi con được phép VỀ NHÀ nghỉ ngơi, nhưng đơn giản là con chán ghét chuyện phải quay trở về nơi đây. Cho nên con tự hỏi, không hiểu thày có thể nói cho con biết chuyện gì đang xảy ra? Liệu thày có biết tại sao con phải phấn đấu như thế này? Con không muốn ai thông cảm hay thương xót con mà con chỉ muốn hiểu những căng thẳng đang giằng xé con. Con luôn cảm thấy niềm thôi thúc muốn bỏ đi đâu thật xa, và y như thày đã từng đi vào vùng hoang vắng, con cũng bị thu hút đi vào rừng rậm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đệ yêu dấu, con chỉ đang mô tả tiến trình mà hầu hết mọi dòng sống đều đi qua khi họ đạt đến những mức cao của đường tu tâm linh. Tới một lúc dòng sống bắt đầu nhận ra là y khao khát một cái gì cao hơn các thú vui của cuộc sống. Dòng sống bắt đầu nhận chân được thực tại nằm sau những câu sau đây trong Kinh thánh:

  • Phù phiếm của mọi phù phiếm – vị thày nói như thế – hư ảo của mọi hư ảo, tất cả đều là hư ảo. (Ecclesiastes 1:2)
  • Ta đã thấy mọi sự xảy ra dưới mặt trời, và kìa, tất cả đều là hư ảo, là sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 1:14)
  • Ta nhủ trong lòng rằng: Hãy đến, ta sẽ vui mừng thử xem có hưởng được thú vui, và kìa, cái đó cũng hư ảo. (Ecclesiastes 2:1)
  • Xong ta nhìn tất cả mọi việc mà tay mình đã làm cùng mọi lao khổ mà mình đã bỏ ra để hoàn thành, và kìa, tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh, chẳng có ích lợi gì dưới mặt trời. (Ecclesiastes 2:11)
  • Xong ta nhủ trong lòng rằng: Như chuyện xảy đến cho người vô minh, chuyện này cũng xảy đến cho ta, và làm sao ta lại khôn ngoan hơn được? Xong ta nhủ trong lòng rằng: Cái đó cũng là hư ảo. (Ecclesiastes 2:15)
  • Cho nên ta chán ghét đời sống, vì mọi sự dưới mặt trời đều nhức nhối cho ta, vì tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 2:17)

Đây là trạng thái tâm thức mà ta đã từng mô tả như sau: “Nếu có ai theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và ngay chính đời sống của mình, thì người đó không thể là môn đồ của ta.” (Luke 14:26)

Khi con leo đường tu tâm linh, không thể tránh được là con sẽ đạt tới điểm không có đường quay trở lại, khi con nhận ra là con không thể tiếp tục sống như một người bình thường cứ đắm chìm trong các nỗi vui buồn của thế gian. Con muốn bỏ thế gian lại đằng sau, nhưng động lực nằm bên dưới cảm nhận này là con muốn bỏ lại cái tâm thức thấp kém của tâm nhị nguyên. Đó chính là tâm thức khiến cho mọi sự trong thế gian này hiện ra là hư ảo. Và thật vậy, chừng nào một người còn bị kẹt trong tâm nhị nguyên thì mọi sự sẽ đều là hư ảo. 

Cho nên sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi dòng sống bắt đầu “ghét” tất cả những phần của đời sống dựa trên tâm nhị nguyên, và chính ở điểm này y mới có thể thực sự vươn lên tâm thức Ki-tô. Như ta đã giảng, dòng sống không thể nào phục vụ hai vị chủ, cho nên khi nào y chưa quyết định bỏ lại tâm nhị nguyên thì y sẽ không thể là một đệ tử đích thực của tâm thức Ki-tô.

Từ rất lâu, trạng thái tâm thức này rất phổ biến trong số những dòng sống đã đầu thai trên địa cầu. Tuy họ tham gia vào đủ loại sinh hoạt mà địa cầu cống hiến, nhưng trong thâm tâm họ có phản ứng: “Tôi đã bước chân tới đây rồi, tôi đã làm chuyện này rồi.” Họ cảm thấy không còn gì thêm trên hành tinh này mà họ muốn thực hiện, và họ muốn bước đi tiếp, muốn bước ra khỏi những giới hạn bắt buộc của thế gian.

Ta có thể hiểu được lý do tại sao nhiều người lại cảm thấy như vậy vì chính ta cũng đã trải qua tiến trình này 2000 năm trước đây. Hẳn con cũng biết giữa thời điểm ta xuất hiện tại Nhà thờ vào tuổi 12 và thời điểm ta xuất hiện ở tiệc cưới tại Cana, kinh Tân ước đã không ghi lại bất cứ gì về những nơi ta đã đến cũng như những việc ta đã làm. Suốt 17 năm “biệt tăm” này, quả là ta đã trải qua một giai đoạn trầm cảm sâu sắc, và ta đã phải đương đầu với chính cái tâm thức mà con vừa mô tả.

Điều đã giúp ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm đó của dòng sống – và cũng là điều đã giúp cho tất cả mọi dòng sống khác đã từng đối mặt với vấn đề này – là rốt cuộc ta đạt tới điểm nhận ra là mặc dù không còn công việc nào mình muốn làm cho cá nhân mình trên hành tinh này, nhưng vẫn còn nhiều công việc mà ta có thể làm cho tha nhân. Ta cũng có thể giúp Thượng đế đem lại vương quốc của ngài trên địa cầu.

Bạn yêu dấu, con thấy đó, như ta có mô tả trong một bài giảng khác, sẽ tới một điểm khi một dòng sống không thể tiếp tục học hỏi nếu y không bắt đầu chỉ dạy cho người khác. Và như Mẹ Mary giải thích trong bài giảng tuyệt vời của thày, một dòng sống có thể đạt tới điểm khi cách duy nhất để y tiến xa hơn là trở thành người đày tớ cho mọi người.

Khi một dòng sống lần đầu tiên bước xuống địa cầu, công việc của y là đặt trọng tâm vào bản thân mình. Đó là công việc thu thập nhiều trải nghiệm, xây dựng một ý niệm bản sắc mạnh mẽ, vững vàng. Nói cách khác, dòng sống cần tập trung vào chính mình hầu trau dồi một ý niệm bản sắc vững vàng. Quả vậy, có nhiều dòng sống trên địa cầu đang hoàn toàn chú tâm vào công việc này, và mặc dù họ có vẻ vị kỷ hay chỉ biết lo cho mình, nhưng họ đang làm đúng điều mà họ cần làm trong giai đoạn phát triển tâm linh hiện thời của họ.

Tuy nhiên khi dòng sống tiếp tục tăng triển, sẽ tới một điểm khi y đã tạo dựng được một nền tảng vững chắc, một ý niệm bản sắc vững mạnh – có thể nói là y đã lấp đầy cái khuôn đúc của cỗ xe bốn tầng, đã neo chặt vào ý niệm bản sắc của mình – thì ở điểm đó, dòng sống thật sự không có cách nào tăng triển được nếu y cứ mãi tập trung vào chính mình. Cho nên có hai chọn lựa mà y có thể đi theo:

  • Nếu dòng sống tiếp tục chú tâm vào bản thân, y sẽ không tránh khỏi chìm vào một sự vô vọng, tuyệt vọng, một cảm giác mất hết mục đích hay ý nghĩa, và điều này chắc chắn sẽ dẫn đến trầm cảm. Nhiều người, đặc biệt trong các giới Thời mới, đã đạt tới điểm này rồi, và họ bước vào một vòng xoắn ốc dường như bất tận luôn luôn tìm kiếm cho bản thân mình một trải nghiệm tâm linh tối hậu, khiến họ không ngừng đi theo các lớp tu học hay tìm cách trị liệu tâm lý. Nhưng cho dù họ có cố gắng đến đâu, họ vẫn không làm sao trải nghiệm được niềm thỏa nguyện cá nhân đó. Lý do là vì họ tìm kiếm cái đó trong một tinh thần vị kỷ thay vì vượt ra ngoài phàm ngã con người để vươn tới cái ta thần thánh – tức là cái ta hợp nhất với mọi sự sống và do đó cũng tìm được sự thỏa nguyện trong việc giúp đỡ tha nhân. 
  • Chọn lựa kia là dòng sống có thể thăng vượt ý niệm bản ngã hạn hẹp của mình và nhận ra là không một dòng sống nào là một hòn đảo. Một khi con đã xây dựng được một ý niệm bản sắc mạnh mẽ – tức là con biết rõ mình là ai như một dòng sống cá biệt – thì bước kế tiếp lô-gíc là con sẽ tiếp tục bồi đắp cái nền tảng đó, phát triển một ý niệm mạnh mẽ rằng con là ai trong sự nối kết với Thượng đế, cũng như trong sự nối kết với thế giới nơi con đang sống. Đó là điểm mà con có thể với tới tâm thức Ki-tô, và cuối cùng nó sẽ giúp con thấy được Thượng đế trong tất cả mọi vật đã từng được sinh tạo. Nó sẽ đem lại cho con một cảm nhận nối kết mạnh mẽ với mọi người cũng như với Mẹ địa cầu. 

Chính cảm nhận từ bi ngày càng sâu đậm này đã giúp cá nhân ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm, sống không mục đích. Chính lòng từ bi đã khiến ta trở về đất Israel và nhận lấy vai trò thể hiện Ki-tô Hằng sống trên trái đất. Chính lòng từ bi đã khiến ta sẵn lòng đi muốt con đường và dâng hiến cả mạng sống của mình cho công cuộc đánh thức loài người về sự thực của tâm thức Ki-tô.

Bạn yêu dấu, con – cũng như nhiều dòng sống khác giống như con – đã bước đến một ngã ba trên con đường tiến hóa của dòng sống của con. Con có thể tiếp tục sống trong trạng thái hiện thời của mình là chỉ chú tâm vào bản thân mình rồi trở nên vô vọng, hay con có thể tìm kiếm chính con một cách nghiêm túc để khám phá ra cái điểm trong nội tâm nơi con đã lấy quyết định ngăn cản bước tiến của con. Một khi con phát hiện được quyết định đó, con sẽ có thể thay thế nó với một quyết định khác là tìm cầu tâm thức Ki-tô, vượt ra khỏi ý niệm bản ngã hạn hẹp, ý niệm bản sắc giới hạn của mình, để con thấy mình là thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

Nếu con thực tâm bước vào tiến trình này, con sẽ có thể nhanh chóng trải nghiệm một sự quay đầu toàn diện trong đời con, và con sẽ chứng được một lòng từ bi cũng như một mục đích sống vô cùng mạnh mẽ. Khi đó, con có thể trở thành một trong số những sinh thể Ki-tô mà ta luôn nói tới trên trang mạng này. Con có thể đóng góp phần mình để đem lại vương quốc Thượng đế trên địa cầu, nâng nhân loại lên một tầng tâm thức cao hơn. Bạn yêu dấu, đó chẳng phải là một mục đích đáng theo đuổi hay sao?

Con hãy nhìn quanh trên hành tinh này có bao nhiêu người bị nghèo đói tâm linh, bao nhiêu người cần có người hướng dẫn mà không cưỡng ép họ gia nhập một tôn giáo vỏ ngoài nào đó. Nếu điều này không động viên tinh thần của con thì con hãy nhìn xem có bao nhiêu vấn đề vật lý đang chờ người đứng ra giải quyết. Thật không thiếu gì những việc lành mà con có thể tham gia để giúp người khác, và ta có thể cam đoan với con rằng làm việc lành và giúp tha nhân là cách nhanh nhất – và nhiều khi là cách duy nhất – để chữa trị chứng trầm cảm.

Con hãy bỏ công ra tìm kiếm cái điểm bên trong dòng sống của con nơi con yêu thương mục đích của Thượng đế thật tha thiết. Xong con hãy cho phép tình thương đó tiêu hủy mọi cảm nhận cuộc đời này là vô nghĩa. Hãy cho phép tình thương đó đánh thức con người thực của con và lý do con đã chọn đến địa cầu này ở thời điểm mấu chốt hiện nay. Hãy cho phép tình thương đó đốt sạch mọi bợn nhơ của lòng vị kỷ và trầm cảm đã ngăn cản con là con người mà con thực là.

Ta cần đến con và những người như con – những người cảm thấy mình đã làm mọi chuyện có thể làm trên hành tinh này, những người sẵn lòng gạt sang một bên các thú vui của thế gian để phục vụ cho một mục đích cao hơn. Ta cần đến con. Thượng đế cần đến con. Hành tinh cần đến con. Mọi người khác cần đến con. Và chính con cũng cần khắc phục sự chú tâm vào bản thân, con cần tự giúp mình tiến lên để giúp đỡ người khác. Bạn yêu dấu, liệu con sẽ cần nhiều khích lệ hơn thế hay sao? Vậy thì chúng ta hãy chú tâm vào công việc của Cha chúng ta!

Ki-tô và Phật

Hỏi: Con biết là Giê-su hiện thân cho nguyên lý Ki-tô và con cũng biết là thày mong muốn mọi người nối kết với đấng Ki-tô trong chính mình. Con xin hỏi có phải thày đang nói là chúng con không thể tìm Phật? Theo những gì con hiểu, cả Ki-tô lẫn Phật đều thuộc về tia sáng thứ hai của Tình thương và Trí tuệ. Tình thương do Ki-tô biểu tượng và Trí tuệ do Phật biểu tượng.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Không có mâu thuẫn hay sự cạnh trạnh nào giữa hai con đường quả vị Ki-tô và quả vị Phật. Tuy nhiên, những dòng sống khác nhau sẽ cần những phương tiện, những cỗ xe khác nhau, và do đó một tôn giáo duy nhất không thích hợp cho mọi người. 

Con đường của Phật thường thích hợp hơn cho người phương Đông, còn đường của Ki-tô thích hợp hơn cho người phương Tây. Có thể nói là tâm thức Ki-tô chỉ đơn giản là những giai đoạn giác ngộ tiên khởi hơn, và vì vậy, quả vị Phật là một dạng tâm thức cao hơn quả vị Ki-tô, hay một giai đoạn cao hơn quả vị Ki-tô.

Khi con đạt đến tâm Ki-tô, con nhận ra rằng con là một với nguồn cội của con (Thượng đế) và qua đó con có được tánh phân biện giữa những gì thuộc về Thượng đế và những gì không thuộc về Thượng đế. Con nhìn thấy rõ ràng là rất nhiều biểu hiện trong thế gian đi ngược lại quy luật của Thượng đế cũng như ý định của ngài cho vũ trụ này. Cho nên con nhìn thấy tính không thực của tất cả mọi điều phản-Ki-tô, và nhiệm vụ của con là giải phóng các dòng sống khỏi ảo tưởng của phản-Ki-tô.

Khi con đạt đến quả vị Phật, con nhận ra rằng tất cả đều là Phật tánh, có nghĩa là tất cả đều được tạo bằng bản chất của Thượng đế. Những biểu hiện của thế gian này chỉ đơn giản là ảo ảnh, là Maya. Chúng có thể hiện ra như là tách biệt, hay đối lập lại Thượng đế, nhưng chúng chỉ đơn giản là bản chất cuả Thượng đế đã khoác lấy một lớp ngụy trang tạm thời, thoáng vụt qua. Cho nên con xác nhận thực tại của Thượng đế đằng sau mọi dáng vẻ bề ngoài.

Cả đức Phật lẫn ta đều là những vị thày tâm linh và chúng tôi thuộc cùng một êkíp. Đức Phật đã được các chân sư thăng thiên phái xuống để truyền dạy các pháp về quả vị Phật, nhưng tiếc thay, không mấy người có khả năng nắm được giáo lý của thày. Vì vậy mà ta đã được phái xuống để bắc một nhịp cầu hầu giúp con người bước sang bến giác ngộ. Đối với hầu hết mọi người, việc hiện thân các giáo lý của Ki-tô sẽ dễ hơn giáo lý của Phật, với điều kiện là họ hiều được giáo lý đích thực của Ki-tô chứ không phải cái phiên bản đã bị pha loãng, chứa đầy xương người chết, do đạo Cơ đốc chính thống cống hiến.

Làm thế nào nói chuyện với tín hữu Cơ đốc

Hỏi; Con đã tìm thấy trong Kinh thánh có nhiều đoạn trái ngược nhau. Có những phiên bản của Kinh thánh hỗ trợ cho những quan điểm giáo lý trái ngược nhau. Đó là lý do tại sao thế giới Cơ đốc bị chia rẽ. Con đã cố hết sức để chỉ cho mọi người thấy Kinh thánh không phải là trọn vẹn lời của Thượng đế, nhưng có người Cơ đốc vẫn như mù loà không thấy được Sự thật.

Hơn thế nữa, họ đã nhiều lần thay đổi lời lẽ của Kinh thánh mỗi khi họ tái xuất bản. Điều này gây ra bối rối khắp thế giới về lời lẽ trong Kinh thánh.

Con muốn tiến về phía trước và con đang vượt qua những nỗi sợ hãi của con. Con có cảm tưởng con đang ở một mức trên đường đạo như khi Giê-su thách thức các lãnh đạo tôn giáo vào thời của thày. Bởi thế mới có câu: “Sự thật là lời biện hộ cho chính nó.” Xin thày Giê-su cho biết quan điểm của thày về sự thể này và lời biện hộ tốt nhất cho con là gì. Con đang tìm kiếm sự thật. Con phải tìm được lời giải đáp cho câu hỏi của con trước khi tiến bước trên con đường đời sống.    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Con nói chính xác là trong Kinh thánh có những đoạn có vẻ trái ngược nhau, nhất là khi người ta suy diễn theo tâm thức tương đối của thế phàm. Nhưng thế giới Cơ đốc không bị chia rẽ do những mâu thuẫn như vậy trong Kinh thánh đâu. Thế giới Cơ đốc bị chia rẽ là do con người bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức thấp kém mà ta gọi là tâm thức nhị nguyên, và do đó con người nhìn vào mọi chuyện qua một phin lọc khiến cho thế giới hiện ra tương đối. Khi người ta bị kẹt trong trạng thái tâm thức đó, họ không thể thấy được sự thật của Thượng đế. Họ chỉ thấy một hình ảnh trong tâm mà chính họ đã tạo ra trong tâm họ. Bởi vì mỗi người có những tâm ảnh khác nhau cho nên không thể tránh khỏi có chia rẽ và xung đột.  

Như ta có giải thích ở nơi khác, Kinh thánh không phải là lời nói thuần túy của Thượng đế. Và dù cho đó là lời nói thuần túy của Thượng đế thì nó vẫn tạo ra xung đột giữa mọi người. Giản dị là không thể có cách nào để diễn đạt chân lý của Thượng đế mà con người không thể hiểu lầm và diễn giải sai lạc đi để rồi biến nó thành một sự thật tương đối chỉ xác nhận những điều mà họ muốn tin tưởng.

Cho nên ta phải nói với con là không có gì mà ta nói có thể giúp con thuyết phục những ai đang bị mù quáng bởi những sự diễn giải tương đối của họ về chân lý. Ta có thể nói với con là ngay cả nếu cá nhân ta xuất hiện trước mặt họ trong một khải tượng – một điều mà ta quả thực đã từng làm trước nhiều người suốt 2000 năm qua – đa số họ vẫn sẽ chối bỏ ta, hay thậm chí họ sẽ gọi sự xuất hiện của ta là màn hỏa mù của Ác quỷ.

Có quá nhiều người bị mắc kẹt trong trạng thái tâm thức tương đối của họ, và họ chỉ đơn giản không sẵn lòng nghe thấy hay nhìn thấy chân lý của Thượng đế. Không có gì ta có thể làm được để thay đổi sự thể này, và do đó cũng không có gì mà con có thể làm được. Điều con làm được là nói lên sự thật với tất cả đức tin trong tim con, nhưng sau đó con hãy đừng bị dính mắc vào cách phản ứng của người khác. Con chỉ nói lên sự thật với tất cả khả năng của con. Hãy nói lên sự thật như con hiểu được trong lúc này, và hãy tiếp tục tăng trưởng khả năng hiểu biết của con về sự thật.   

Ta không hề yêu cầu con đi cải đạo người khác, bởi vì thật sự không có cách nào cải đạo bất cứ ai mà chưa mở tâm và mở tim ra cho một sự thật cao hơn những gì họ đang nhìn thấy. Ta chỉ yêu cầu con nỗ lực tìm hiểu và hiện thân sự thật của Ki-tô, rồi sau đó hãy diễn đạt sự thật đó mà không có bất cứ kỳ vọng nào hay bất cứ quan tâm nào về cách phản ứng của người khác. Đó là điều con đã thấy ta làm cách đây 2000 năm, và đó là tất cả những gì có thể làm được. Duy chỉ có Thánh linh mới cải đạo được người ta. Thế nhưng ngay cả Thánh linh cũng không thể cải đạo một người ngược với quyền tự quyết của người đó.

Ta khen ngợi con nỗ lực khắc phục nỗi sợ hãi của con. Con hãy giản dị nói ra sự thật và đừng quan tâm gì cả về sự phản hồi của người khác. Khi con nói ra sự thật mà không có chút chờ đợi nào về cách phản hồi của họ, con sẽ cảm thấy một niềm tự do rất mới. Và sự thật sẽ là lời biện hộ cho chính nó, và nó sẽ biện hộ cho con đối lại tất cả mọi phản ứng tiêu cực của người khác. Ta cũng bảo đảm với con là khi con nhân danh ta nói ra sự thật thì ta cũng đang đứng ngay bên cạnh con đây. Ta là sự thật, cho nên ta ở bất cứ nơi nào sự thật được biểu lộ. Hãy đi vào trong tim con và cảm được sự Hiện diện của ta với con.  

Cư xử thế nào khi có người cố đánh phá niềm tin tâm linh của mình

Hỏi: Thày Giê-su và các chân sư khác có đề cập đến nhu cầu chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Nhưng khi con làm vậy, thường khi con phải đối mặt với thái độ rất tiêu cực của người kia khi họ có vẻ cảm thấy bị đe doạ bởi những ý tưởng không phù hợp với niềm tin của họ. Con có thể hiểu được phản ứng đó từ những tín đồ Cơ đốc cực chính thống, nhưng thường khi con cũng gặp phản ứng này từ những người Thời Mới (New Age). Thậm chí con còn gặp cả những người nổi giận, hoặc họ chế nhạo và miệt thị niềm tin của con hay toàn bộ ý tưởng về các chân sư thăng thiên. Vì lý do này, con có một số bạn hữu không còn dám nói gì về niềm tin tâm linh của mình nữa vì không muốn đương đầu với loại năng lượng tiêu cực này. Liệu thày Giê-su có nhận xét gì về lý do tại sao chúng con lại gặp phản ứng như vậy, và chúng con có thể làm gì để khỏi cảm thấy bực bội hay bị ruồng bỏ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Đây là một vấn đề mà nhiều người tầm đạo chân thành gặp phải. Là một người tâm linh trong thế giới hiện đại tại phương Tây, con không thể nào tránh khỏi những kẻ sẽ thẳng thừng gạt bỏ niềm tin tâm linh của con. Con sẽ gặp sự chống đối từ những người vô thần hay duy vật, từ những tín đồ Cơ đốc chính mạch và thậm chí cả từ những người có vẻ là tâm linh cho rằng đạo sư của họ, học thuyết của họ hay tổ chức của họ mới là chân chính duy nhất.

Ta đã thấy biết bao nhiêu người tầm đạo chân thành, phản ứng lại một cách bực dọc khi họ gặp phải thái độ tiêu cực đối với niềm tin và cách sống của mình. Trong nhiều trường hợp, điều này đã dẫn tới những cuộc tranh luận vô bổ. Rất có thể cả hai bên sau đó đều nổi giận lên và làm tha hóa thêm năng lượng, nhưng họ vẫn không tìm được một điểm chung hay một cách giải quyết nào.

Là một người tầm đạo tâm linh chân thành, con cần nhận ra một sự thật cơ yếu về con đường tâm linh. Mục đích thực sự là để con vươn lên trên tâm thức nhị nguyên, như ta có giải thích trong các bài giảng về tự ngã. Khi con thực sự vươn lên cao hơn những ảo tưởng nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, con sẽ đạt tới cái mà đức Phật gọi là giác ngộ, và trong trạng thái này, tâm con sẽ hoàn toàn an bình. Tuy nhiên như đức Phật cũng có dạy, chìa khóa để đạt được an bình nội tâm là vượt qua MỌI sự dính mắc với bất cứ điều gì trên địa cầu.  

Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo tâm linh, con phải luôn luôn tìm xem mình còn dính mắc điều gì hay không. Như ta có nói cách đây 2000 năm: “Trước hết con phải lấy cái xà khỏi mắt con, rồi con mới thấy rõ và lấy hạt bụi khỏi mắt người anh em” (Matthew 7:5).

Cho nên khi con phát hiện bất kỳ dính mắc nào, con cần soi vào gương và khám phá ra cái tin tưởng nhị nguyên đã gây ra dính mắc. Sau đó con mới có thể với tới sự thật của Ki-tô sẽ giải phóng con khỏi ảo tưởng nhị nguyên, là điều mà Phật gọi là Maya. Bất cứ khi nào con nhận ra là con không an bình về một điều gì đó, con cần tìm ra nguyên nhân bên dưới và lấy cái xà ra khỏi mắt con. Nếu con bị bực dọc bởi phản ứng của người khác, điều này có nghĩa là con cần buông bỏ dính mắc đó.  

***

Ở giai đoạn đầu của đường tu tâm linh, con thường rất dễ bị tác động bởi phản ứng tiêu cực của những người đặt vấn đề, chỉ trích niềm tin của con. Điều này cũng dễ hiểu, và lý do sâu xa là vì con chưa trụ neo vững chắc vào các niềm tin tâm linh. Con cảm thấy bất an vì ở một mức độ nào đó, con nhận ra là con còn một số mâu thuẫn trong thế giới quan của mình, con còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, và con chưa thể nhập các giáo lý vào đời sống hàng ngày của mình.

Hệ quả là con vẫn mang một nỗi sợ hãi tiềm ẩn rằng con có thể bị sai, rằng con có thể đang đi theo một giáo lý giả trá, hoặc toàn bộ con đường tu tâm linh có thể chỉ là ảo ảnh. Cho nên con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng đối với những người có thái độ cực kỳ phê phán, và điều đáng buồn là đã có nhiều người bị những kẻ tiêu cực như vậy khiến họ bỏ đường tu.

Thật ra, có hẳn cả một băng đảng những tà thể gọi là Đám Phá rối (the Spoilers) luôn luôn tìm kiếm những người mà chúng có thể kéo ra khỏi đường tu. Những tà thể này thường làm việc qua trung gian những người chưa vượt qua được nghi vấn của mình.  Và những người này trở thành những nhà “phản truyền giáo”, chuyên môn đi bới móc những gì họ xem là khuyết điểm trong niềm tin của người khác. Người nào mà rơi vào cám đỗ này cũng sẽ trở thành công cụ cho tà thể, và họ lại bắt đầu đi ảnh hưởng người khác, và đây là cách mà chúng có thể lan rộng ra như vòng nước trên mặt hồ. Có những tổ chức tâm linh – hoàn toàn chính đáng, và trong một số trường hợp, được các chân sư thăng thiên hỗ trợ – đã bị kéo sập toàn diện bởi những kẻ làm cánh tay nối dài cho Đám Phá rối.

Nhưng những ai sống sót được đợt tấn công tiên khởi đó, cuối cùng sẽ trở nên neo chặt vào bản thân. Khi con dần dần trưởng thành trên đường tu, con sẽ bắt đầu vượt qua những giới hạn của mình và tự nhiên con sẽ chú tâm vào những cách giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, điều này sẽ khiến con đối mặt với một tầng cấp khai ngộ cao hơn liên quan đến cách phản ứng của con khi người khác có thái độ tiêu cực đối với nỗ lực trợ giúp trong sáng nhất của con.   

***

Trong bối cảnh này, điều quan trọng là nhận ra rằng nhiều người chín chắn về mặt tâm linh thường mang một ký ức nội tâm về cách tương tác nơi cõi tâm linh. Đã có một thời kỳ khi một số sinh thể tâm linh đã trở nên tiêu cực, phán xét và hay buộc tội, như được mô tả trong kinh Khải huyền: “Tôi lại nghe có tiếng nói lớn trên trời rằng: Bây giờ sự cứu rỗi và sức mạnh đã đến, cùng với vương quốc Thượng đế chúng ta và quyền năng đấng Ki-tô của ngài, vì kẻ buộc tội anh em chúng ta, kẻ đã ngày đêm buộc tội anh em trước mặt Thượng đế, nay đã bị quăng xuống rồi.” (Revelation 12:10)

Như chúng tôi đã giải thích, cuối cùng thì những sinh thể phán xét đó đã được gửi xuống cõi vật chất, một phần như là những linh thể không hồn, và một phần như những con người đầu thai. Và chúng vẫn cứ tiếp tục lên án mọi người như trước, chỉ khác một điều là bây giờ chúng không còn buộc tội trước mặt Thượng đế đích thực mà trước một thượng đế giả hiệu mà chúng đã tạo ra. Điều quan trọng ở đây là tất cả những ai đã chín chắn tâm linh cần phải vươn lên khỏi nhu cầu phán xét và buộc tội người khác. Và như vậy, họ mới có được một lối tương tác văn minh khi họ không cảm thấy một hệ thống tín ngưỡng hay một tổ chức nào phải vượt trội hơn hay phải là tổ chức đúng đắn duy nhất.    

***

Trên đường tu tâm linh, có một số bước ngoặt. Một bước ngoặt quan trọng là khi con sẵn sàng nhìn xa hơn những tin tưởng hiện tại của mình và xét đến một số ý tưởng mới. Đối với một số người, điều này có nghĩa là họ sẽ rời bỏ tôn giáo mà họ đã lớn lên và tìm kiếm một giáo lý và một tổ chức tâm linh mới. Một số khác sẽ ở lại với tôn giáo của mình nhưng họ sẽ đổi mới cách tiếp cận với tôn giáo đó. Dù bằng cách nào đi nữa thì trong những bước đầu của giai đoạn này, họ sẽ có niềm tin mạnh mẽ rằng phải có một đạo sư/giáo lý/tổ chức đích thực duy nhất mà thôi, và tất cả mọi con đường khác đều sai lầm.

Nằm bên dưới niềm tin này là sự cảm nhận rằng con không thể tự mình cứu rỗi chính mình, cho nên con cần sự giúp đỡ từ ngoài. Nếu con có niềm tin này thì chẳng có gì sai trái (cho dù chính niềm tin đó thì sai lầm), bởi vì đây là một giai đoạn bắt buộc mà ai ai cũng đi qua. Vấn đề là khi con suy nghĩ như thế, con cũng sẽ có một cái nhìn trắng đen về thế giới. Và điều này khiến con cho rằng con hoàn toàn có lý và bất cứ ai không đồng ý với con đều sai lầm – có thể là họ đang a dua với tà lực, hoặc bất cứ cách diễn tả nào khác.

Điều thực sự xảy ra trong giai đoạn này là con không sẵn sàng nhận trách nhiệm toàn diện về đường tu và sự cứu rỗi của con. Cho nên con vẫn phóng chiếu trách nhiệm đó ra cho ai khác. Đó là tại sao con sẽ nghĩ rằng một kỹ thuật tâm linh nào đó sẽ giải quyết mọi vần đề của con như trong phép lạ. Con chưa có khả năng chấp nhận sự thật rằng trước khi hoàn cảnh vỏ ngoài của con thay đổi thì con phải thay đổi hoàn cảnh nội tâm của con trước đã.  

Bước ngoặt kế tiếp trên đường tu sẽ đến khi con đủ trưởng thành để bắt đầu tìm kiếm cái xà trong mắt mình thay vì nhìn thấy, hay phóng chiếu ra, những cái giằm trong mắt người khác. Trước điểm quẹo này thì con vẫn còn học hỏi qua giáo lý vỏ ngoài cùng những trải nghiệm trong đời – nói cách khác, đó là trường đời cay đắng. Trong tư cách là một thày tâm linh, ta chờ đón thời điểm khi một dòng sống trở thành “dạy dỗ được” – khả huấn – nghĩa là dòng sống nay đã sẵn sàng có sự liên hệ nội tâm trực tiếp với vị thày tâm linh. Đây là điểm khi con gia nhập trường học chỉ đạo nội tâm thay vì trường đời vỏ ngoài.

Yếu tố chủ yếu của con đường tâm truyền này là con luôn luôn soi gương và tìm xem có cách nào con cải thiện được chính mình. Con ngừng không tìm kiếm lầm lỗi nơi người khác để làm cái cớ cho mình khỏi phải cải thiện bản thân. Chính sự sẵn lòng tự thay đổi này khiến con trở thành khả huấn, cho nên đây là một đức tính tuyệt vời mà ta hoàn toàn không có ý chê bai.

Tuy nhiên khi trưởng thành tâm linh hơn, con cần nhận ra rằng cái khuynh hướng luôn muốn tự cải tạo có thể đi quá đà, và điều này đặc biệt đúng trong quan hệ với người khác. Là người tầm đạo chân thành, con có xu hướng nghĩ rằng nếu con có bất đồng, xung đột hay thậm chí một sự khác biệt quan điểm với ai khác, thì con là người cần phải tự cải thiện. Điều này chỉ đúng cho tới một điểm nào đó thôi, bởi vì cho tới khi nào con còn dính mắc và chưa bình an, thì đúng là con cần tự cải thiện.

Tuy nhiên, cái mà con cần cải thiện KHÔNG phải là khả năng lý luận thuyết phục người khác, mà là khả năng phân biện xem người đó có khả huấn hay không. Và khi con nhận ra là người đó không khả huấn, con cần buông bỏ mọi ham muốn giáo huấn họ, và con hoàn toàn an bình với sự kiện họ tin chắc tuyệt đốt là con sai lầm, và con cũng tuyệt đối không thể làm gì được để khiến họ thay đổi ý kiến. Con chỉ cần buông chuyện đó ra và bước đi.

***

Ta hoàn toàn hiểu được là nhiều người tầm đạo chín chắn đã trau dồi một lòng chân thành muốn giúp người, và điều này chính là điều đánh gạt họ. Nếu cá nhân con đã vượt lên trên tư duy trắng đen thì con dễ dàng thấy được người kia đang bị kẹt trong lối tư duy này. Con biết tư duy này sẽ chỉ khiến cho người kia bị đau khổ, con biết họ cần thoát ra, và con vô cùng mong muốn họ tăng trưởng càng nhanh càng tốt hầu tránh khỏi mọi đau khổ. Nhưng con cần nhận ra là khi nào họ còn bị kẹt trong tư duy đen trắng thì họ không là người khả huấn. Họ chưa cởi mở ra để nhận được giáo lý tâm linh cao hơn mà con thấy được.  

Ta thông cảm được sự cám dỗ của con. Con thấy rõ sự ngụy biện trong lập luận của người kia. Và con dư sức nghĩ ra môt lập luận hoàn toàn hữu lý mà con cho là sẽ chứng minh những thiếu sót trong niềm tin của họ. Và con nghĩ rằng nếu con đưa ra lập luận này cho họ, ho sẽ phản ứng y như là con sẽ phản ứng. Thế nhưng con cần hiểu là chính vì người đó không ở cùng mức tâm thức như con, cho nên họ sẽ KHÔNG phản ứng lại giống như con!

Lập luận của con sẽ hoàn toàn không có ký gì hết đối với họ khi nào họ chưa vượt lên khỏi tầm mức suy nghĩ trắng đen. Cho nên điều tốt nhất mà con có thể làm là chấp nhận những người như thế cần phải ở lại trong trường đời cay đắng cho tới khi họ bị cay đắng quá nhiều lần đến độ họ phát ớn. Và cuối cùng họ sẽ thốt lên: “Ủa, có ai đang gõ cửa vậy? Có ai đang muốn nói với tôi điều gì và đang gõ cửa kia kìa?”

Con cần phải nhận ra rằng hành tinh này là một lớp học, và lớp học đã được thiết kế khôn ngoan để nhận đủ mọi loại học sinh. Các hoc sinh vỡ lòng đang học trường đời cay đắng, và họ cần ở lại đó cho tới khi họ sẵn sàng lên lớp. Cho nên nếu con là một người tầm đạo đã chín chắn hơn, con nên tránh có những sự tương tác nơi con tìm cách lý luận với trạng thái tâm thức của họ. Thay vào đó, con nên tập trung sự chú ý của con vào những người đã leo lên tới mức khả huấn.  

Để giúp con làm được điều này, ta gửi con câu sau đây để con suy ngẫm: “Vì mục đích đó mà ta đã sinh ra, và vì công cuộc đó mà ta đã giáng thế, đó là để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì hãy nghe giọng ta.” (John 18:37)  

Đây là vai trò của của những ai đại diện cho tâm thức Ki-tô trên địa cầu, và mọi người tầm đạo chân thành đều nên nỗ lực trở thành một người trong số đó. Tuy nhiên, để thực sự đại diện được Ki-tô, con phải cố gắng đạt được sự không dính mắc.

***

Con đạt được sự không dính mắc bằng cách suy ngẫm về luật tự quyết. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết. Điều này có nghĩa là khi con gặp gỡ một người phán xét, buộc tội con hay niềm tin của con, con hoàn toàn chấp nhận cho người đó có quyền có quan điểm đó cũng như bày tỏ quan điểm đó. Nếu quan điểm của họ phát xuất từ một tư duy đen trắng, rõ ràng là thiên vị hoặc thiếu chính xác, con hoàn toàn chấp nhận là họ có quyền ở mức tâm thức của họ.

Nhưng sau đó con cũng nhận ra là con có quyền tự quyết của con, nghĩa là con có quyền có những niềm tin mà con có, và sống cuộc đời của con mà hoàn toàn không bị những người bất đồng ảnh hưởng. Khi con thực sự chấp nhận quyền tuyệt đối của con để sống theo niềm tin của mình, thì con mới có thể tránh khỏi bị những người bất đồng đe dọa mình. Con cũng tránh khỏi cảm giác mình bị bó buộc phải cứu họ ra khỏi chính họ. Và như thế, con nay có khả năng nói lên sự thật cao nhất mà con thấy được mà đồng thời hoàn toàn không dính mắc vào phản ứng của người kia, thậm chí con còn không có bất kỳ mong muốn họ sẽ phản ứng ra sao.  

Con có thấy được điều ta muốn nói? Có một sự khác biệt vi tế nhưng cơ yếu giữa việc nói lên sự thật với ý định thuyết phục người khác và việc nói lên cùng sự thật đó một cách hoàn toàn không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, con có thể nói lên cùng một sự thật, ngay cả dùng cùng những từ ngữ, nhưng ý định của con thì khác hẳn. Và khi ý định của con hoàn toàn tinh khiết, con không vướng mắc vào kết quả. Con chỉ làm hành động chính đáng mà không bám mắc vào quả trái của hành động.  

Ta muốn nói rõ, đây là một mục tiêu để con cố đạt được, cho nên con không nên tự chê trách mình nếu con không đạt được ngay lập tức. Khi con sống trong thế giới vật chất, con rất dễ bị choáng ngợp bởi những áp lực đủ kiểu. Chính ta cũng không luôn luôn bình thản khi ta bước chân trên địa cầu cách đây 2000 năm, và đó là tại sao ta đã nóng giận khi ta lật bàn ghế của bọn đổi tiền, hay khi ta gay gắt một cách không cần thiết với các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay cả khi ta thường hay cáu kỉnh với các môn đồ của ta. Dù sao đi nữa, điều quan trọng cho người tầm đạo trưởng thành là nhận ra tầm quan trọng của sự không dính mắc toàn diện, và cố gắng đạt được sự không dính mắc thay vì nghĩ rằng mình phải cố gắng thuyết phục người khác giỏi hơn.       

***

Ta không muốn người đọc bài này lý luận rằng mình không bao giờ được đáp trả lại những người có tư duy đen trắng. Có nhiều trường hợp mà sự trả lời sẽ hoàn toàn vô ích và chỉ lãng phí thời gian lẫn sức lực của con. Nhưng trong một số trường hợp, việc trả lời sẽ là điều thích đáng hầu con làm chứng cho sự thật cao hơn mà con nhìn thấy. Và khi con vượt lên trên nỗi bực đọc, con sẽ có tự do để trực nhận lúc nào mình cần trả lời và lúc nào mình bước đi.   

Ta cũng muốn nói rõ là con không nên sử dụng tâm trí vỏ ngoài để lượng định xem người kia có khả huấn hay không. Đừng rơi vào cám dỗ đánh giá theo bề ngoài. Chẳng hạn, khi người kia cởi mở với những tư tưởng mới, điều này không có nghĩa là họ đã nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân họ, hay ngay cả đã hiểu được rằng chìa khóa của sự thay đổi ngoại cảnh chính là sự thay đổi nội cảnh. Có những người cứ nhảy từ đạo sư này tới đạo sư kia, từ giáo lý này sang giáo lý kia, mà vẫn không đạt tới cái nhận biết sẽ biến họ thành người khả huấn. Thậm chí có cả những người đã theo học các chân sư thăng thiên từ hàng thập niên mà vẫn không khả huấn, bởi vì đơn giản họ vẫn chưa sẵn lòng soi mình trong gương. Cho nên, con phải đi xa hơn cái trí vỏ ngoài và bước theo sự hướng dẫn bên trong của con.

***

Ở cấp độ thấp nhất của tư duy đen trắng là những người tin rằng tôn giáo mà họ đã lớn lên là tôn giáo chân chính duy nhất. Nói cách khác, họ đã không chọn gia nhập tôn giáo đó và cũng chưa từng chất vấn xem nó có căn cứ đến đâu. Ở mức này, sẽ có rất ít tăng trưởng vì họ không mở tâm ra cho ý tưởng mới.  

Ở cấp độ kế tiếp là những người đã cởi mở ra với ý tưởng mới. Đây là những người thường rời bỏ tôn giáo của tuổi thơ để đón nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên họ vẫn chưa thoát ra khỏi tư duy đen trắng, và bây giờ họ phải dán nhãn cho tôn giáo cũ là hoàn toàn sai lầm và tôn giáo mới là hoàn toàn đúng đắn. Đây là một bước tiến tiềm năng, bởi vì ít ra họ đã khởi sự chuyển bước. Tuy nhiên, hiểm họa nằm sẵn bên trong là tự ngã sẽ đưa họ vào một con đường quanh co sẽ tốn họ rất nhiều thời gian. Có một cơ chế tâm lý là để rời bỏ một hệ thống tín ngưỡng và chấp nhận một hệ thống mới, người ta phải chấp nhận là cái cũ sai lầm, tức là mình đã bị những ý tưởng sai lầm lừa dối.

Trong hầu hết trường hợp, người ta sẽ tránh né chuyện này ở mức ý thức bằng cách quy tất cả trách nhiệm cho tôn giáo cũ và bảo rằng mình đã bị đánh lừa, thao túng, ép buộc, tẩy não hay bất cứ lý do nào khác. Nhưng ở mức tiềm thức, họ biết rằng nếu họ đã bị đánh lừa một lần rồi thì họ có thể bị đánh lừa một lần nữa. Cho nên mặc dù họ đã có tiến bộ, tư duy đen trắng của họ có nghĩa là họ đã phải mua sự tiến bộ đó với giá cao, là cái giá của sự bất an nội tâm sâu sắc.

Để đối phó với sự bất an này, việc thấy mình đang làm đúng trở thành vô cùng quan trọng. Nói cách khác, họ phải có lý khi họ vạch trần tín ngưỡng cũ, và họ cũng phải có lý khi họ trình bày tín ngưỡng mới là hoàn toàn đúng. Tự ngã sử dụng nỗi bất an này để kiểm soát họ và ngăn cản họ vươn lên mức cao hơn nơi họ nhận trách nhiệm về bản thân và do đó bỏ lại đằng sau lối suy nghĩ đen trắng.    

Như ta đã giải thích trong các bài giảng về tự ngã, phương thức vận hành của tự ngã là nó nâng một ý tưởng nào đó lên địa vị không thể sai lầm, tức là không bao giờ được phép chất vấn. Thế là tự ngã nay thuyết phục những người đó là họ không bao giờ được cho phép mình bị chứng minh là sai lầm, bởi vì nếu họ sai lầm, một điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra. Cho nên họ bước vào một tư duy thường xuyên cảm thấy mình bị đe dọa, và họ không ngừng tìm cách bác bỏ mọi ý tưởng hay quan điểm nào có thể cho thấy là mình sai. Tất nhiên, điều này sẽ khiến họ không thể nhìn nhận lỗi lầm, và nếu không thể nhìn nhận lỗi lầm thì làm thế nào họ sẽ học hỏi và tăng trưởng được đây?

***

Thế là bây giờ họ bước vào một lối tư duy nơi họ dồn mọi nỗ lực tâm trí để chứng minh là mình đúng. Và một khía cạnh của tâm lý này là họ cảm thấy một nhu cầu muốn đi truyền giáo. Vì thật vậy, nếu họ có thể cải đạo cả thế giới vào hệ thống tín ngưỡng của họ thì tự ngã sẽ cảm thấy là nó đúng. Và họ bắt đầu đi cổ võ cho tín ngưỡng của họ một cách hung hăng, nhưng vì họ vẫn suy nghĩ đen trắng cho nên họ không thể chỉ tập trung vào chuyện nói tốt về tín ngưỡng của mình, mà họ cũng phải nói xấu về tín ngưỡng của người khác. Cách lý luận của tự ngã là nếu có thể phá hủy được niềm tin của người khác, thì rồi người đó sẽ phải chấp nhận hệ thống của mình là hệ thống đúng đắn độc nhất.     

Trên cơ bản khi làm như vậy, những người như thế đã tự đặt mình vào một tâm trạng không ngừng xung đột với tất cả những ai không đồng ý với mình. Họ phải bác bỏ tất cả những gì có vẻ đe dọa niềm tin của họ, và họ phải tiêu diệt niềm tin của người khác. Kỳ thực, đây chính là chủ trương của tự ngã cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Mặc dù họ thường biện hộ là họ chỉ đang cố cứu cho người khác khỏi rơi vào địa ngục, nhưng thực tế là họ đã bị tự ngã hoàn toàn khống chế, và thường khi họ cũng bị khống chế bởi những tà thể mà ta gọi là Đám Phá rối. Và như vậy, họ sẵn lòng phá nát tín ngưỡng của người khác hầu bảo tồn tín ngưỡng của mình.      

Thật ra, tự ngã của những người như thế không có chủ ý muốn chứng minh một hệ thống tin tưởng nào là hệ thống đúng đắn duy nhất. Đơn giản, tự ngã chỉ đang cố đánh lạc hướng sự chú ý của họ để họ không phát hiện ra tự ngã và bắt đầu gỡ cái xà khỏi mắt mình. Cũng vậy, các tà thể không hề có ý muốn chứng minh sự vượt trội của bất kỳ hệ thống tin tưởng nào. Chúng chỉ cố lừa gạt người ta nhảy vào những trận chiến tín ngưỡng bất tận, để họ làm tha hóa năng lượng mà các tà thể rất cần hầu sống sót.   

Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo đã chín chắn, con cần nhận ra là nếu con đối thoại với ai đó để cố thuyết phục họ là niềm tin của họ sai lầm, thì con đang đe dọa nền tảng cái nhìn của họ về cuộc sống. Đối với họ, việc không bao giờ bị chứng tỏ là sai chính là một vấn đề sinh tử. Chẳng hạn, nếu con cố sửa sai một điều gì mà họ đã nói – cho dù là họ sai trái rành rành – thì họ sẽ tức khắc bác bỏ mọi điều con nói mà không thực sự suy nghĩ sâu hơn. Họ sẽ đơn giản không đếm xỉa gì tới ý kiến của con, bởi vì họ đã quyết định là những điều con nói không thể nào đúng, và họ sẽ chỉ tìm cách bác bỏ cho bằng được. Tư duy đen trắng sẽ LUÔN LUÔN tìm ra cách bác bỏ bất cứ lập luận nào mà con đưa ra từ một mức tâm thức cao hơn.      

Một khía cạnh khác là khi con đe dọa niềm tin của những người như thế, họ sẽ trả đũa bằng cách tấn công ngược lại. Nếu họ thực sự bị mắc kẹt trong sợ hãi, họ sẽ sẵn sàng tiêu diệt con hầu bảo toàn cái ảo tưởng là họ có lý. Nếu họ ít mắc kẹt hơn trong sợ hãi, họ sẽ tìm cách đánh phá niềm tin hay tín ngưỡng của con một cách chung chung. Con cũng cần nhận ra là rất nhiều người như vậy không có khả năng tự chủ. Cho nên con không đang đối thoại với một người mà con có thể lý luận. Con đang phải đối đãi với tự ngã của một người, hay những tà thể bóng tối đang tác động qua người đó. Đó là lý do tại sao con gặp phải những sự tấn công vô cùng hung hãn và độc địa. Ta không đang cố bênh vực cho những tấn công đó, mà ta đang chỉ ra cho con rằng họ không hoàn toàn tự kiểm soát được chính họ. Do đó, con cần nhận rõ là nếu con bước đến gần một con chó dại, con không nên ngạc nhiên nếu nó cắn con. Và con thực sự không nên trách cứ họ, vì con phải biết là con đang bước vào tình huống như thế nào.     

***

Khi con đối xử với những người có tư duy đen trắng, con cần lưu ý là họ sẽ phóng chiếu trạng thái tâm thức của họ lên con, tức là con không được ngạc nhiên nếu họ buộc tội cho CON là con đang làm chính điều mà họ đang làm. Ta cần nói lên điều này cho con, bởi vì khi con biết trước chuyện gì sẽ xảy ra, con có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận vô nghĩa khi con cố bác bỏ những gì không thể bác bỏ được nếu người kia cứ khăng khăng giữ lấy tư duy trắng đen của họ.

Điều này không có nghĩa là đôi khi con không thể giúp cho những người như thế vươn lên trên tâm trạng của họ. Nhưng để làm được điều này, con phải tạo sự bất ngờ bằng cách không làm những gì họ chờ đợi. Những người như vậy sẽ chờ đợi là khi họ kết án con, con sẽ tìm cách bác bỏ lời kết án của họ và kết án ngược lại. Nếu con muốn có chút hy vọng chạm được con người thực của họ đằng sau hàng rào phòng thủ kiên cố, con cần gây cú sốc bằng cách không phản ứng như họ chờ đợi. Đó là một lý do tại sao ta dạy rằng con không nên cưỡng lại cái ác mà nên chìa má kia ra. Có khi cách hồi đáp này sẽ khiến họ bị sốc đến độ họ sẽ suy nghĩ lại cách cư xử cũng như tư duy của họ.

Điều ta muốn nói là nếu một người tầm đạo trưởng thành quyết định đối thoại với những người mang tư duy đen trắng, con nên biết rõ con đang bước vào một tình huống như thế nào. Thường khi, đây là một công việc vô ơn, mà xác suắt thay đổi tích cực thì khá thấp. Cho nên điều xây dựng là con nên xem đó chủ yếu là một cách thử thách xem ý định của con tinh khiết đến đâu, và mức độ không dính mắc của con cao như thế nào. Con hãy xem đó là một kinh nghiệm học hỏi để con tăng trưởng. Còn việc tăng trưởng của người kia thì con hãy để mặc cho quyền tự quyết của họ.

Nếu con đã đến đây với Sanat Kumara, bây giờ đã đến lúc con thăng thiên

Hỏi: Con đã được đọc chút đỉnh về lịch sử của thày Sanat Kumara đến địa cầu. Lần đầu tiên khi con nghe bài truyền đọc do thày Sanat Kumara về đề tài này, con gần như khóc oà mà không làm sao cầm lại được. Con đã phải cố gắng lắm mới không bị ướt đẫm nước mắt lẫn nước mũi. Trong một số bài truyền đọc khác của thày Sanat Kumara, con cũng đã có một kinh nghiệm tương tự. Con không thể tìm ra lý do chính xác tại sao con lại phản ứng như vậy. Con nghi là con có liên hệ gì đó với 144,000 dòng sống và Sanat Kumara. Xin thày chỉ dẫn cho con, con nên nhìn trải nghiệm đó như thế nào, tại sao nó lại xảy ra và con rút tỉa được điều gì từ đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Tuyệt đại đa số các dòng sống trong số 144,000 dòng sống đã xuống địa cầu cùng với Sanat Kumara, hiện vẫn chưa thăng thiên. Họ đã chờ đợi thời điểm thuận lợi để làm việc đó, chờ cho đến khi địa cầu được nâng lên đủ cao thì họ mới có thể rời hành tinh này. Quả thực thời điểm đó đã đến, cho nên điều quan trọng đối với tất cả các dòng sống đó là họ cần nối kết lại với con người thực mà họ là, và lấy quyết định ý thức là mình sẽ làm tất cả để đạt đến quả vị Ki-tô và thực hiện cuộc thăng thiên nội trong kiếp này hay kiếp tới.

Khi quyết định ở lại với hành tinh này lâu đến như vậy, thật sự các dòng sống đó đã sẵn lòng dâng hiến và hy sinh tột cùng. Nhưng giờ đây đã đến điểm các con sẽ giúp ích hành tinh này nhiều hơn bằng cách thăng thiên, và khi làm vậy, các con sẽ để lại một dấu đường cho mọi người khác bước theo, và con sẽ đóng góp phần động lượng của con vào ngọn lửa thăng thiên trên hành tinh.

Con phải hiểu rằng hầu hết mọi người trên hành tinh này đều hoàn toàn thờ ơ đối với sứ mạng của Sanat Kumara. Cho dù họ có nghe nói về sứ mạng đó, họ cũng không có mảy may quan tâm nào. Họ không có căn bản nào để thực sự hiểu được là nếu sứ mạng của 144,000 dòng sống từ Kim tinh không xảy ra, thì trái đất này đã không thể tồn tại, còn họ thì đã phải sống ở những nơi còn tồi tệ hơn cả địa cầu.

Điều ta muốn nói là hầu hết con người đều không mang cảm xúc sâu xa nào đối với câu chuyện của Sanat Kumara, cho nên nếu con có phản ứng như trên thì đó là dấu hiệu chắc chắn con thuộc về một trong những thành phần sau đây:

  • Con có thể là một trong số 144,000 dòng sống đã xuống đây từ Kim tinh.
  • Con có thể là một trong số các dòng sống đã tình nguyện đến địa cầu sau Sanat Kumara hầu hỗ trợ cho sứ mạng của thày.
  • Con có thể là một dòng sống đã hiện thân trên hành tinh này từ ban đầu, nhưng giờ đây con đã đạt đến mức trưởng thành tâm linh khi con có khả năng hiểu được tầm quan trọng của sứ mạng của Sanat Kumara. Cho nên dòng sống của con hiểu được tầm quan trọng của chính mình nơi các tầng cõi nội tâm, và đó là tại sao con đã đáp ứng khi tâm vỏ ngoài ý thức được điều đó.

Cái ta Ki-tô của con sẽ nói cho con biết con thuộc thành phần nào, nhưng điểm quan trọng đối với tất cả các dòng sống đó là: Đã đến lúc con nỗ lực hết mình để thể hiện quả vị Ki-tô của mình và thăng thiên. Hành tinh này cần được gia tốc một cách đáng kể, và điều này chỉ làm được khi con biểu hiện quả vị Ki-tô của con và như vậy con cũng gia tốc tâm thức của nhân loại vượt xa hơn tất cả mọi thứ mà nhân loại đã chứng kiến từ khi Sanat Kumara giáng thế. Đó chính là mục đích của con khi đến hành tinh này, và bây giờ đã đến lúc con hoàn thành mục đích đó.

Nói chuyện với người khác nhưng để ý phản ứng của mình

Hỏi: Nếu con có bạn bè cũng bước trên đường tu tâm linh và nếu con nhận ra là họ có một điều gì họ không thể buông bỏ, thì liệu con có trách nhiệm nêu vấn đề ra để họ chú ý? Hay con phải làm việc trên tự ngã của con trước khi đặt vấn đề với họ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.

Trách nhiệm của con luôn luôn là soi gương, là nhìn vào bản thân mình trước tiên. Hẳn con cũng biết lời ẩn dụ của ta về những người nhìn thấy trước tiên cái giằm trong mắt người khác mà không nhìn thấy cái đà trong mắt mình. Cho nên khi con là người tầm đạo tâm linh, con nên luôn luôn dõi nhìn những gì xảy ra trong chính mình.

Tuy nhiên khi con bước trên đường tu, sẽ tới một điểm khi con nhìn ra được một số điều trong bản thân mình và do đó con cũng thấy rõ hơn những gì xảy ra trong tâm lý người khác. Cho nên sẽ tới lúc con có trách nhiệm nêu vấn đề cho họ chú ý, hầu họ có cơ hội nhìn thấy những gì mà tự họ không thể thấy được.

Thật sự, những người tầm đạo nếu ở trong một trạng thái tâm thích hợp có thể giúp đỡ lẫn nhau rất nhiều, bởi vì mỗi người đều có những điểm mù, là những điểm mà họ không thể nhìn thấy nhưng lại thật hiển nhiển đối với người khác. Cho nên bằng cách đưa vấn đề đó ra trong tình thương yêu, các con có thể giúp đỡ nhau rất nhiều trên đường tu.

Câu hỏi mấu chốt mà con cần đặt ra cho chính con là liệu con có cảm thấy dính mắc bởi điều con vừa phát hiện nơi người kia hay không. Liệu nó có làm phiền con không? Liệu nó có khiến con bực bội, nóng giận hay không? Liệu con có sợ nó không? Liệu con có cảm thấy bó buộc phải cho người kia nhìn thấy tính xấu của họ, như thể con sẽ bị mất một cái gì đó hay con bị tổn thương hoặc bị chối bỏ nếu họ không nhìn ra? Nếu con có thể nhận diện các loại cảm xúc này trong bản thân con, thì con nên coi như là mình vẫn chưa chữa lành được tâm lý mình hoàn toàn.

Trong trường hợp đó, rất có thể sẽ tốt hơn nếu con không nói gì với người kia, bởi vì chừng nào con còn mang những dính mắc và cảm xúc tiêu cực như vậy thì con có thể chắc chắn là các cảm xúc đó sẽ ngăn cản không cho con thấy rõ những gì đang xảy ra trong tâm lý họ. Nếu vậy, con sẽ cần làm việc trên chính mình – cho đến khi con cảm được sự minh mẫn luôn đi kèm theo sự không dính mắc – rồi sau đó con mới hãy nói chuyện với người kia.

Chúng ta cũng có thể nói được là nếu con có thể nêu lên vấn đề từ nhãn quan của tình thương tinh khiết, thì con rất nên làm chuyện đó. Nhưng nếu con nhận diện những loại cảm xúc khác thì con nên hoãn lại một thời gian, soi vào gương, và tìm xem có thể nào là người kia đang phơi bày ra một điểm gì đó trong tâm lý con hay chăng, và liệu con sẽ được ích lợi chữa lành nó, hầu con được giải thoát khỏi nó và bước đi tiếp trong cuộc sống.

Như ta đã chỉ ra nhiều lần, sự cân bằng và không dính mắc chính là chìa khóa. Nếu con cân bằng, cái nhìn của con sẽ rõ ràng và con không cảm thấy bị bó buộc bởi những cảm xúc vị kỷ. Nếu con không dính mắc, con sẽ có khả năng nói chuyện với người kia mà không bị phiền lòng nếu họ không đồng ý hay không thay đổi. Luôn luôn con hãy nhớ tôn trọng định luật tự quyết của Thượng đế. Trách nhiệm của con CHÍNH LÀ cho người kia cơ hội thay đổi bằng cách nói ra những gì con thấy, chứ KHÔNG PHẢI là chọn lựa dùm họ những gì họ phải làm với điều con vừa nói với họ.

Con hãy nói chuyện với người kia, xong con hãy giữ mình không bị dính mắc vào cách phản hồi của họ. Nếu con phát hiện trong con bất kỳ dính mắc nào liên quan đến phản hồi của họ, thì con hãy sử dụng nó để phát hiện cái đà trong mắt con. Khi con phản ứng lại người khác – ngược với khi con tự do chọn lựa cách mình đáp ứng trước một tình huống – thì phản ứng đó của con luôn luôn là vì ở trong con có điều gì đó mà con cần giải quyết. Cho nên từ nhãn quan này, con không bao giờ mất gì khi con nêu vấn đề ra cho người kia chú ý. Con chỉ mở tâm ra để khám phá vận hành trong con, và con quyết tâm nắm lấy cơ hội học hỏi từ tình huống ngay cả khi người kia không nắm lấy cơ hội.

Ngày nay, con cần hội nhập tâm linh với cuộc sống thực tiễn

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thuở xưa thày có dạy chúng con phải buông bỏ tất cả ngoại trừ thày. Điều quan trọng là phải luôn luôn ý thức thày và ý thức Hiện diện TA LÀ. Thế nhưng công việc kinh doanh và các vấn đề thế gian luôn lôi kéo chúng con. Liệu con có an toàn nếu con tiếp tục công việc kinh doanh, hay là con từ bỏ kinh doanh và làm việc như một sinh thể tâm linh?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Một lần nữa, những lời dạy của ta 2000 năm trước đây phải thích ứng với tình trạng tâm thức của nhân loại thời đó. Thuở đó, con người bị kẹt nhiều hơn trong cảm nhận tách biệt khỏi Thượng đế. Khi họ bị mắc trong trạng thái tâm thức như vậy, quả thật họ cần phải lánh xa các công việc thế gian trong một thời gian trước khi họ có khả năng thể hiện tính buông bỏ sẽ giúp họ phụng sự Thượng đế nội tâm thay vì phục vụ thế gian.

Đó là tại sao suốt 2000 năm qua đã có truyền thống những tu viện nơi người tầm đạo tâm linh có thể lui về đó, rút hẳn khỏi thế giới bên ngoài và hoàn toàn tách mình khỏi mọi quan tâm trần thế. Tuy nhiên trong thế giới ngày nay, đó không phải là mục tiêu cao nhất. Ta không nói là con không thể, hoặc không nên, xuất thế trong một thời gian nếu con cảm thấy cần phải làm như vậy. Nhưng lý tưởng trong Thời đại Bảo bình, là thay vì con rút lui khỏi xã hội để tìm kiếm tâm linh, con đi vào nội tâm của con để tìm tâm linh rồi con đem nó trở ra bên ngoài để biểu hiện trong sinh hoạt đời sống. Điều này áp dụng cho gia đình, học vấn, kinh doanh hay bất kỳ sinh hoạt nào khác.   

Cho nên câu hòi đặt ra thật sự là như sau: con có không dính mắc, con có buông bỏ hay không? Liệu con có thể làm kinh doanh trong tình thương? Và nếu con thấy việc kinh doanh làm xáo trộn sự an bình nội tâm của con, khiến con bị vướng mắc hay nó lôi kéo con vào những tình huống nơi con không thể cảm thấy tình thương, thì con có một sự chọn lựa. Và con có thể bắt đầu xét xem liệu con có khả năng khám phá cái gì đó trong tâm lý của con khiến con bị vướng mắc như thế, rồi con có thể chữa lành vết thương đó hầu con thoát ra khỏi.

Tuy nhiên trong một số trường hợp, cũng có thể con phải nhìn nhận rằng hình thức kinh doanh của con không thuận lợi cho một lối sống tâm linh, hoặc là vì bản chất của doanh nghiệp, hoặc vì nó đòi hỏi quá nhiều thì giờ và chú ý, và do đó con không có được sự quân bình đúng mức giữa các sinh hoạt tâm linh hướng nội và các sinh hoạt đời sống hướng ngoại. Một lần nữa, đây sẽ là điểm cân bằng cá nhân mà mỗi người phải tìm ra.

Chìa khóa là sự buông bỏ. Nếu con không dính mắc, con sẽ cảm nhận tình thương của Thượng đế tuôn tràn xuyên qua con, và khi đó con sẽ có thể, và con phải, tương tác với thế giới bằng nhiều cách hầu nuôi sống chính con và gia đình của con – và quan trọng hơn nữa, hầu con có thể biểu thị Ngọn lửa Thượng đế của con cho những người mà con gặp trong kinh doanh. Nhưng nếu con nhận thấy doanh nghiệp của con kéo con đi quá xa, thì việc rời bỏ doanh nghiệp rất có thể là một quyết định đúng đắn. Và đối với một số người khác, có thể con nên rời bỏ công việc đời sống để, thay vào đó, đặt trọng tâm vào công việc tâm linh. Điều này, một lần nữa, là một chọn lựa rất cá nhân.  

Quả là trong thời đại này có nhiều người tầm đạo tâm linh đầu thai trong thế gian với một sứ vụ thiêng liêng rất đặc thù là giúp đánh thức nhân loại. Nhiều người trong số đó là những linh hồn rất có năng lực và thông minh. Và nhiều người cũng dư khả năng điều hành một doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc điều khiển một doanh nghiệp thành công có thể không nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con, và nếu vậy thì con phải đi vào bên trong, bắt liên lạc với cái Ta Ki-tô của con, với Hiện diện TA LÀ của con và với sứ vụ thiêng liêng của con, hầu con có thể chọn lựa đích đáng thời điểm nào tốt nhất để con rời bỏ doanh nghiệp hoặc con đi theo một con đường nào khác, với mục đích là con sẽ dành ra được thì giờ và sự chú ý để thực hiện công việc thật của con – tức là công việc của Thượng đế mà con phải làm vì nó đem lại cho con hạnh phúc và thoả mãn đích thực.    

Nếu con là một dòng sống tâm linh, không có thành công thế gian nào, không có tiền bạc hay danh giá nào sẽ thực sự thỏa mãn được cảm giác thâm sâu là con có mặt ở đây vì một mục đích. Chỉ khi nào con khám phá ra sứ vụ thiêng liêng của con và con hoàn thành sứ vụ này, thì con mới biết là con đang ở đúng nơi chỗ của con – là nơi chỗ thích đáng trong tâm thức. Và như vậy, nếu điều này đúng với con, rất có thể là con sẽ cần – và một lần nữa đây là một vấn đề hoàn toàn cá nhân – rất có thể con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước theo đấng Ki-tô nội tâm cho đến khi con leo được lên đỉnh núi của Thượng đế nơi con sẽ nhìn thấy rõ ràng con đường mà con cần bước đi trong đời.

Một số người có thể bị lôi cuốn vào những vấn đề thế gian của mình đến độ họ không còn sót lại thời gian hay chú ý nào để thấy rõ sứ vụ thiêng liêng của mình. Và vì vậy trong một số trường hợp, con sẽ cần bỏ lại lưới chài và bước vào vùng xa lạ trước khi con biết được con đường đích thực của con là gì. Và trong một số trường hợp khác nữa, con sẽ có thể trải qua nguyên một cuộc đời để nuôi nấng gia đình, kinh doanh, đi làm hay có sự nghiệp.

Con hãy luôn ghi nhớ là con không thể phục vụ hai người chủ, con không thể phục vụ Thượng đế lẫn thế gian. Cho nên nếu con cảm thấy con quá gắn bó với thế gian, con cần dành ra chút thì giờ và nhận ra rằng cái Ta Biết là một Sinh thể tâm linh, và con cần ngừng đồng hóa với thế gian để con hòa điệu với con người thực của con.

Nền tảng của tăng triển là biến hóa năng lượng do các tin tưởng nhị nguyên tạo ra

Hỏi: Nếu chúng ta tạo ra thực tại qua những tin tưởng của chúng ta, vậy thì làm thế nào thay đổi những tin tưởng hiện tại và điều chỉnh những tin tưởng mới trong thực hành?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su quan trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để làm nền cho câu trả lời của ta, hay cho phép ta trích một đoạn giáo lý trong quyển sách “Hãy cứu lấy bản thân” (Save Yourself).

[bắt đầu trích] Giê-su: Ta biết có nhiều tổ chức quảng bá những kỹ thuật tâm linh như thể là thuốc chữa bách bệnh cho mọi vấn đề, nhưng thật là con không thể chữa lành các vết thương tâm lý của con duy bằng nghi thức mà thôi. Lý do là vì tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con. Nguyên nhân khiến con tạo ra năng lượng độc hại là con đã chọn tham gia vào những tư tưởng hay cảm xúc bất toàn. Chọn lựa này thường hay khởi lên do con hiểu biết thiếu sót về cuộc sống hoặc do con đã chấp nhận một số tin tưởng sai lầm. Rất có thể việc chấp nhận tin tưởng sai lầm này đã xảy ra trong tiền kiếp, cho nên những tin tưởng này có thể đã ăn sâu vào tâm lý con. Thế nhưng chấp nhận tin tưởng sai lầm luôn luôn bắt đầu với một chọn lựa, và do đó, nó có thể được gỡ bỏ qua một chọn lựa tốt hơn. 

Hãy để ta cho con một ví dụ minh họa. Ta có nói là yếu tố giữ cho linh hồn sống còn là một dòng năng lượng chảy xuống liên tục từ cái ta tâm linh. Con có thể so sánh tâm thức con như một dòng sông. Nếu tư tưởng và cảm xúc của con tinh khiết, Nước của Sự sống sẽ chảy thoải mái tự do. Con cảm thấy kết nối chặt chẽ với cái ta tâm linh của con và con dồi dào năng lượng. Khi con chấp nhận một ý tưởng hay tin tưởng sai lầm, nó giống như con ném một hòn đá xuống sông. Nếu con ném đá xuống một dòng suối, con ngăn cản dòng nước chảy. Nước phải tránh hòn đá mà chảy, tạo ra một dòng xoáy phiá sau nơi đất cát sẽ tụ lại. Một khi con quyết định chấp nhận một ý tưởng sai lầm, tin tưởng đó sẽ ngăn chặn ánh sáng từ cái ta tâm linh. Tin tưởng sai lầm sẽ khiến cho ánh sáng bị tha hóa, và năng lượng tha hóa sẽ bắt đầu tích tụ lại nơi “hạ nguồn” do tin tưởng sai lầm, không khác gì phù sa tích tụ lại đằng sau hòn đá trong dòng sông.   

Bây giờ hãy tưởng tượng một dòng sống đã có nhiều kiếp sống khi nó đã đón nhận những tin tưởng sai lầm. Mỗi tin tưởng tựa như ném đá xuống sông. Năng lượng tha hóa bắt đầu tụ lại đằng sau hòn đá, lấp đầy lòng sông. Dòng nước chảy sẽ bị ngăn trở, tạo nên một cái đập nhỏ. Khi dòng sông hoàn toàn tắc nghẽn với đất bùn, con người sẽ mất hoàn toàn mọi nhận biết về đời sống tâm linh. Họ quên mất nguồn cội tâm linh của mình và bắt đầu tin rằng họ là những con người vật chất. Vì tâm ý thức (và mọi tầng cấp của linh hồn) nằm ở dưới hạ nguồn của cái ta tâm linh, các chướng ngại trong dòng sông ngăn cản tâm ý thức thấy được Hiện diện TA LÀ.

Làm thế nào con có thể cải thiện tình thế? Con phải khởi sự lấy đi bùn đất đã tích tụ lại đằng sau hòn đá. Bùn đất chính là năng lượng tha hóa. Con cầu thỉnh năng lượng tâm linh cao tần và hướng nó về năng lượng tha hóa và như vậy con nâng cao rung động của năng lượng tha hóa. Khi con dọn sạch năng lượng tha hóa, con bắt đầu nhìn thấy hòn đá, tức là cái tin tưởng sai lầm, đã kích hoạt sự tồn đọng. Một khi con phơi bày tin tưởng sai lầm, con phải tháo gỡ quyết định ban đầu đã khiến con chấp nhận tin tưởng đó. Đây phải là một tiến trình ý thức vì con phải lấy một quyết định mới hầu thay thế quyết định nguyên thủy. [hết trích]

Như con có thể thấy, cách thực tiễn để thay thế các tin tưởng hiện hữu của con là bước vào một tiến trình gồm hai phần. Ở nền tảng – và là một yếu tố thường bị hành giả tầm đạo lãng quên – là biến hóa năng lượng do những tin tưởng sai lầm tạo ra. Những năng lượng này ngăn cản con nhìn thấy tin tưởng nằm bên dưới. Hoặc chúng tạo ra một sự bám mắc tình cảm khiến con cảm thấy con không thể, hoặc không phải, hoặc không muốn thay thế điều tin tưởng gây giới hạn. Bằng cách biến hóa các năng lượng này, con sẽ giúp con dễ dàng hơn phơi bày và thay thế những tin tưởng thường nằm tận trong tiềm thức đang kềm giữ con trên đường đạo của con.  

Công đoạn thứ nhì là con phải phơi bày những điều tin tưởng sâu xa và thay thế bằng những quyết định ý thức tốt hơn. Khi con bước trên tiến trình này, con có thể lần hồi thay thế mọi tin tưởng gây giới hạn cho tới khi toàn bộ thế giới quan của con dựa thên sự thật Ki-tô. Điều này sẽ không xảy ra một sớm một chiều, và đối với nhiều người nó sẽ kéo dài suốt đời. Thế nhưng suốt dọc đường, con sẽ nhận được nhiều phần thưởng dưới hình thức một cảm giác tự do tâm linh và an bình nội tâm. 

Để phát hiện các tin tưởng gây giới hạn, điều vô cùng hữu ích là con mài giũa khả năng trực giác và mở rộng mối liên hệ ý thức của con với cái ta Ki-tô. Bằng cách sử dụng trực giác khi học hỏi giáo lý tâm linh, cái ta Ki-tô của con sẽ sử dụng các giáo lý vỏ ngoài này để khơi dậy trong con những nội giác sẽ giúp con thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Tuy nhiên, con có thể đạt kết quả tốt hơn nữa bằng cách cố tình đi vào tiềm thức qua một số hình thức trị liệu nhằm phát hiện những tin tưởng gây giới hạn.

Như một biện pháp thực tiễn, con hãy dùng các bài chú và bài thỉnh mà chúng tôi đã đăng tải. Các bài thỉnh nhằm biến hóa các năng lượng bất toàn và giúp con giải quyết những tin tưởng nhị nguyên đã khiến con làm tha hóa năng lượng. Khi con sử dụng tất cả các dụng cụ có sẵn trong thế giới hiện nay, con có thể nhanh chóng tiến tới một trạng thái tự do hơn. Ta có thể cam đoan với con là mặc dù con sẽ cần nỗ lực, nhưng nỗ lực đó sẽ vô cùng bõ công.

Có thể nói là sự thăng tiến tâm linh và cứu rỗi duy chỉ là vấn đề thay thế các điều tin tưởng nhị nguyên của con mà thôi. Thực sự, chính những tin tưởng nhị nguyên của con, những tin tưởng cấu tạo ý thức bản sắc con người con, đã giữ con bên ngoài thiên đường. Như ta đã nói, “Vương quốc Thượng đế ở bên trong con”, có nghĩa là chìa khóa để vào được vương quốc Thượng đế là đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Chìa khóa đạt tâm thức Ki-tô là thăng vượt tất cả mọi tin tưởng bất toàn.

Hãy bảo vệ sự thức tỉnh tâm linh của con

Hỏi: Xin cảm ơn, cảm ơn, cảm ơn… quý vị đã lập ra trang mạng này và viết sách. Con đang đọc quyển “Ki-tô đã sinh ra trong bạn” (The Christ is Born in You). Con cảm thấy cuộc sống của con thay đổi bên trong nhờ những chân lý mở ra cho con từ hai nguồn đó. Con đã từng là tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch từ hơn 20 năm qua, và trong 2 năm gần đây, nói chung con đã bất mãn với giáo hội vì con cảm thấy quá nhiều sự đạo đức giả và thiếu nhất quán trong các giáo lỹ của giáo hội cũng như trong thái độ của các tín hữu đối với nhau. Tất cả đều không đúng với những gì mà con cảm nhận thày Giê-su đã cố giảng dạy cách đây 2000 năm. Vì vậy con đã tìm kiếm tâm linh được một hồi rồi.

Bây giờ con nhận ra là phần lớn những gì dòng sống nội tâm của con đang tìm kiếm và thắc mắc đã được trang mạng này và các cuốn sách trả lời. Con hoàn toàn thấy được con là một đứa con của Thượng đế (cha/mẹ), con là một sinh thể Ki-tô, con có một tâm thức Ki-tô bên trong con. Tuy nhiên, con là một sinh thể Ki-tô còn rất non nớt (trên phương diện tâm linh), và con đang cố gắng phát triển tâm thức Ki-tô của con sâu sắc hơn bao giờ hết.

Con chỉ muốn dành chút thời gian để thực sự cảm ơn hai vị. Con biết con có thể cảm ơn thày Giê-su trong nội tâm của con như con đã làm và vẫn làm, vì con biết là thày đã biết rồi. Nhưng con xin nói lên một cách công khai là con cũng cảm ơn ông Kim, vì ông đã sẵn lòng làm phương tiện để thày có thể sử dụng và nói xuyên qua ông. Xin cảm ơn ông rất, rất, rất nhiều.

Con càng đọc trang mạng và sách vở nhiều hơn thì con càng muốn đọc nhiều hơn. Hình như con sẽ không bao giờ đọc đủ. Con không muốn đặt sách xuống. Con có một cuốn khác, “Con đường ánh sáng nội tâm” (The Inner Path of Light) và con quá nóng lòng muốn bắt đầu đọc ngay. Con cảm thấy tinh thần của con đang thực sự giải thoát. Con hiện 47 tuổi và lần đầu tiên trong đời, con cảm thấy con thực sự đang sống. Có lẽ con đang được tái sinh trong nghĩa tâm linh đích thực nhất. Thưa thày Giê-su, có phải đây là ý nghĩa của sự tái sinh không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trái tim yêu dấu của ta, ta có thể cam đoan với con là không gì sưởi ấm trái tim của một chân sư hơn là được thấy một người chứng nghiệm biến đổi như con vừa mô tả. Đây thực sự là phần thưởng mà chúng tôi ở thiên đàng vẫn hằng mong muốn cho công việc mà chúng tôi đang làm với các anh chị em vẫn còn trên địa cầu. Ta chỉ mong ước mỗi người trên địa cầu cũng được trải qua cùng sự biến đổi của sự tái sinh tâm linh.

Con thấy đấy, khi thăng hoa lên thiên đàng, chúng tôi không còn cảm giác sự chia rẽ và tranh đua thường tình trên địa cầu nữa. Chúng tôi nhận lấy bản sắc đích thực của mình là một sinh thể tâm linh, và chỉ mong sao tất cả mọi anh chị em mình chưa thăng thiên cũng nhận lấy bản sắc chân thực là con của Thượng đế.  

Mặc dù có rất nhiều tín hữu đạo Cơ đốc còn bám mắc vào hình ảnh thần tượng của ta như là đứa Con duy nhất của Thượng đế, ta không hề có ý muốn được xem là một ngoại lệ. Ta chỉ mong muốn mọi con người sẽ chấp nhận mình là những đứa con của Thượng đế mà các con thực sự vốn là. Việc sùng bái ta làm thần tượng xuất phát từ cái tâm nhị nguyên tương đối, và chính cái tâm này đã làm nảy sinh tư duy cạnh tranh và độc quyền. Tín đồ Cơ đốc muốn tôn ta lên thành đứa Con độc nhất của Thượng đế để họ có thể cảm thấy cao thượng hơn những tín đồ của mọi tôn giáo khác. Thế nhưng khi con nhận lấy bản chất Ki-tô của con, tinh thần tranh đua đó sẽ tan biến mất, và con sẽ cất bước đi theo lời gọi của ta là yêu thương người lân cận của con như chính con. Và cuối cùng, con sẽ nhìn ra người lận cận ấy cũng là một đứa con của cùng Thượng đế là cha mẹ tâm linh của con.

Thực tế đáng buồn của tình trạng địa cầu là tuyệt đại đa số con người bị kẹt trong một nhà tù tình cảm, lý trí và tâm linh. Họ bị đóng hộp trong những tín ngưỡng của họ về Thượng đế và về chính họ đến độ họ trở thành mù lòa tâm linh – trong nghĩa đen. Nhiều người không hề nhận thức là có một Thượng đế, hay cuộc sống có một khía cạnh tâm linh. Cho nên họ không có khả năng đặt ra những câu hỏi sâu sắc về Thượng đế hay về đời sống tâm linh, và cứ thế họ sống qua ngày chìm đắm trong trạng thái hôn mê – một loại hôn mê tâm linh.

Là một người thày tâm linh, ta luôn hy vọng là con người sẽ thức tỉnh khỏi cơn hôn mê và nhận ra mình không phải là những con người có sinh có diệt, mà những sinh thể tâm linh. Đây chính là mục tiêu thực sự của công việc của ta, trong hiện tại cũng như suốt mấy ngàn năm qua.

Vậy ta chúc mừng con đã thức tỉnh tâm linh, và ta khuyên con hãy giữ vững sự tỉnh thức này cho dù điều gì có xảy ra. Thật sự, ta muốn đưa ra một lời cảnh báo là con phải vô cùng cẩn trọng hầu bảo vệ sự hồi sinh tâm linh của con khỏi những tấn công tới tấp mà các thế lực của thế gian sẽ tung ra về phía con. Con có thể đọc trong Kinh thánh là cuộc bôn ba 40 ngày của ta nơi hoang vắng đã đưa ta đến một mức thức tỉnh tâm linh mới. Lập tức sau khi trở về từ vùng hoang vắng, ta đã bị ác quỷ cám dỗ, và ngay cả ở mức tâm thức của ta, ác quỷ đó có thể xem là biểu tượng cho những thế lực đang thống trị thế gian.

Tâm thức tập thể của nhân loại sẽ chống đối kịch liệt sự thức tỉnh tâm linh của con, bởi vì sẽ có những người quanh con không muốn con vượt lên trên họ, họ không muốn con chứng tỏ rằng việc thức dậy khỏi cơn mê muội là điều khả dĩ.

Vậy ta mạnh mẽ khuyên con nên tiếp tục học hỏi các giáo lý, kể cả những giáo lý mà ta đã giảng dạy vể sự bảo vệ tâm linh. Điều vô cùng quan trọng là người tầm đạo phải bảo toàn những tinh tấn của mình trên đường tu bằng cách sử dụng những dụng cụ che chở tâm linh thích hợp. Tuy nhiên, điều thiết yếu hơn cả là con phải nhận thức là có những thế lực, kể cả những thế lực trong chính tâm lý của con, sẽ đối đầu và cản trở bước tiến tâm linh của con. Con hãy dùng những dụng cụ được đăng tải ở đây.

Khi con nhận thức được những thế lực đó, con có thể làm theo lời dạy của ta là “trở nên khôn ngoan như rắn nhưng hiền lành như bồ câu”, và đó là nửa đường dẫn đến thành công. Thực tế không thể tránh khỏi là con không thể phòng vệ một cuộc công kích nếu con không biết nó sắp đến. Nhưng ngay sau khi con nhận ra mối đe dọa, con sẽ có thể lập tức tự vệ.

Con không nên để cho lời cảnh báo này làm giảm nhiệt huyết của con trong niềm tự do mới khám phá. Đơn giản, con chỉ cần tỉnh táo, tỉnh thức, và giữ vững cảm giác vui mừng và nhiệt tình của con. Và con cũng nên biết rằng niềm vui mừng ấy không đến từ sự kiện con đã tìm thấy trang mạng này cùng các quyển sách. Những thứ đó chỉ là giáo lý vỏ ngoài, phương tiện vỏ ngoài. Nỗi vui mừng đích thực đến từ thực tế là con giờ đây đã bắt đươc liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô cá nhân của con, cũng như với chính ta qua trung gian cái ta Ki-tô đó.

Đây là sự kết nối mà con cần gìn giữ và mở rộng. Chính sự kết nối với vị thày nội tâm mới là chìa khóa cốt yếu để con tăng triển tâm linh và tìm được tự do tâm linh. Con hãy giữ thật chặt sợi dây nối kết này, và đừng để cho bất cứ thế lực nào của thế gian lấy mất nó đi. Đừng để cho bất cứ thế lực nào của thế gian lấy mất vương miện của sự kết nối nội tâm với cái ta Ki-tô của con.

Con không thể vượt qua tự ngã tức khắc, nhưng con có thể ngừng đồng hóa với nó

Hỏi: Trong tâm ý thức điều khiển mọi thứ, làm thế nào chúng con có thể hướng cho nó luôn ở trong Tâm Thượng đế và luôn là cá thể đó của Thượng đế?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tất cả khởi đầu với sự nhìn nhận rằng con là một sinh thể tự nhận biết có ý chí tự quyết, có quyền tự do chọn lựa bản sắc mà con tự đồng hóa. Sau đó con phải tỉnh thức xem con hướng sự chú ý của con về đâu. Một lần nữa, điều này được đề cập chi tiết hơn trong sách của Mẹ Mary. Khái niệm mà Mẹ Mary giảng dạy là cái Ta Biết cư ngụ trong một quả cầu, trong bình chứa cái ta. Trong bình chứa này có Hiện diện TA LÀ của con, và khi bản thân con được sinh tạo lần đầu tiên, chỉ có Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết trong bình chứa cái ta đó của con.

Nhưng khi con thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con cho phép một số phần tử có rung động thấp hơn, những phần tử nhị nguyên, xâm nhập vào bình chứa cái ta. Và lần hồi, qua nhiều kiếp sống, con đã xây dựng một ý thức bản ngã sinh diệt chống đối lại – hay có vẻ chống đối lại – Hiện diện TA LÀ của con. Đây là cái mà chúng ta cũng gọi là tự ngã.

Ngã sinh tử này được tạo bằng những quyết định mà con đã lấy, những tin tưởng mà con đã chấp nhận, và rất nhiều tin tưởng trong số đó là về bản thân con. Con có thể tin rằng con là một người tội lỗi. Con có thể tin rằng con là một con người sinh tử sẽ qua đời khi thể xác vật lý của con chết đi. Con có thể tin rằng con được làm chuyện này mà không được làm chuyện khác. Con tin rằng con không thể liên lạc trực tiếp với Thượng đế trong tim con mà cần đến những lãnh đạo vỏ ngoài của giáo hội, hay bất kỳ một tin tưởng nhị nguyên nào khác.

Khi những tin tưởng này xâm nhập vào quả cầu của cái ta, chúng bắt đầu hình thành một lực hút kéo cái Ta Biết xuống. Nó lôi kéo sự chú ý của con. Nó gần giống như trọng lực của quả đất ngăn cản con bay bổng lên không trung mà lại kéo con xuống đất. Tương tự như vậy, tâm con bị lôi kéo bởi lực hút của tự ngã đã nhập vào quả cầu cái ta của con. Khi nào ngã sinh tử này còn ở lại trong đó, nó sẽ còn khả năng lôi kéo chú ý của con, và đó là vì sao ý tưởng của con luôn bị kéo ngược trở về những thói quen, những khuôn nếp suy nghĩ cũ. Và có vẻ như dù con có làm gì đi nữa, con cũng không thể loại bỏ được chúng, và chúng tiếp tục lôi kéo con xuống.       

Khi con sử dụng những dụng cụ tâm linh thích hợp, con có khả năng dần dần loại bỏ ngã sinh tử, và điều này sẽ giảm bớt lực hút của nó. Nhưng một khi con hiểu rõ phương trình của ngã sinh tử – tức nó là một ảnh hưởng ngoại lai trong quả cầu cái ta, và cái Ta Biết có khả năng ngừng tự đồng hóa với ngã đó – thì con đã bước một bước rất dài để tránh bị kéo trở lại những khuôn nếp cũ này.

Khi con sử dụng các bài chú và bài thỉnh, hay khi con giải quyết những vấn đề trong tâm lý con qua các dụng cụ khác, con sẽ lần hồi giảm thiểu lực hút cho đến khi nó chỉ còn là một tiếng ồn ào ở hậu cảnh. Tiếng ồn này có thể sẽ tồn tại một thời gian, nhưng rốt cuộc con sẽ đạt tới một điểm khi ông hoàng của thế gian này cứ việc xông tới nhưng y không thể nắm được gì của con nữa bởi vì ngã sinh tử đã chết.

Tuy nhiên, ý tưởng chủ yếu ở đây là cái Ta Biết không phải là ngã sinh tử. Chính nó đã tạo ra ngã sinh tử và nó không thể trong phút chốc loại bỏ tự ngã, bởi vì con đã làm vậy trong một thời gian rất dài, và những quyết định mà con đã lấy cần phải được thay thế bằng những quyết định tốt hơn.

Nhưng con có thể trong phút chốc ngừng đồng hóa với ngã sinh tử đó. Khi con lấy quyết định này, ngã sinh tử sẽ mất hẳn quyền lực trên con, và ngay cả khi nó lôi kéo con, con có thể lập tức nhận diện nó và nói: “Ồ, đó chỉ là cái ngã sinh tử, đó chỉ là tự ngã. Tôi quyết định không đồng hóa với nó. Tôi tách khỏi tâm thức đó và tôi nâng sự chú ý của tôi lên Hiện diện TA LÀ, lên Cha tôi ở thiên đàng.” 

Tránh sử dụng một giáo lý tâm linh chân truyền để ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng của mình

Hỏi: Thày yêu dấu, con là một hành giả chuyên cần, như người ta gọi như vậy, trên đường tu tập nội tâm. Con thành tâm đối với thày là Chân sư con cùng hai vị chân sư nữa mà con có liên hệ chặt chẽ hơn bình thường. Con đã phục vụ các chân sư một cách trực tiếp với tư cách là nhân viên của một vị sứ giả của các chân sư khi vị ấy còn họat động. Và con cũng đã nhiệt thành tu tập Ngọn lửa Linh thiêng cùng các giáo lý liên hệ. Ngay lúc này, con cảm thấy bối rối vì con biết trong nội tâm, con cần mở rộng việc phụng sự của con ra thế giới qua ngành phim ảnh. Là một diễn viên, con mong muốn thể hiện Chân ngã của con qua cách đó, cũng như người anh em họ của con cũng sẽ làm tương tự trong vai trò đạo diễn. Nhiều năm trước đây, một đồng sự của thày là thày Saint Germain dũng mãnh, có gọi dự án bộ phim này là “nhằm cách mạng hóa các khuôn nếp tư duy trên thế giới” và chỉ đạo chúng con liên lạc trước tiên với một số người có ảnh hưởng và quyền thế để chúng con có đường vào, rồi sau đó mới tiếp xúc với quần chúng. Chúng con đã phấn đấu và kiên trì hết sức mình, thế nhưng giờ đây chúng con có vẻ đã tiến xa hơn nhưng vẫn thiếu phần tài trợ, thậm chỉ thiếu cả tiền chờ sống qua ngày.

Vậy con xin hỏi, con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú bị cấm không được làm? Con tin rằng có một bài học nào đó cho mọi người qua kinh nghiệm mà con đã phải bỏ qua, khiến con giờ đây lại bị suy sụp, nhiều khi không còn biết nhờ ai và làm gì, nhưng cũng có những lúc khác con lại nhìn thấy thiên đàng ngay trước cửa.

Con cần sự hướng dẫn thưa thày, và dù có tu tập mỗi ngày, con vẫn chưa phát triển được khả năng nghe được thày rõ ràng trực tiếp trong tim con.


Trả lời của chân sư Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đệ yêu dấu, ta vô cùng thương xót con cũng như rất nhiều dòng sống chân thật khác đã luôn trung thành với các giáo lý của chân sư thông qua một số tổ chức mà các chân sư đã cộng tác trong thế kỷ qua và lâu hơn thế nữa. Con có lý khi nói rằng kinh nghiệm bản thân của con mang một bài học quý giá cho mọi hành giả tìm đạo tâm linh, đặc biệt là các học trò của các chân sư thăng thiên.

Nhiều dòng sống đã được trao cho viễn kiến về mục đích sống cao hơn của họ trong đời, là sứ vụ thiêng liêng của họ, nhưng khi phải đem viễn kiến này vào thực tế vật lý, họ thường tự cảm thấy thiếu sót, hoặc họ cảm thấy thế gian đáp ứng thiếu sót đối với họ. Điều này khiến một số bị nản lòng hay trở nên bối rối. Ta có thể bảo đảm với con rằng con không phải là người duy nhất trong số các học trò của chân sư lâm vào tình trạng khó khăn như thế. Trên thực tế, có quá nhiều người đang gặp bế tắc, và thực sự ta ước gì có thể giúp họ tiến tới.

Thật không may, một số đã không sẵn sàng lắng nghe những gì ta đã nói qua sứ giả này, và ta khen con đã sẵn lòng hỏi ta câu hỏi trên. Thật sự ta có thể cam đoan rằng một số các chân sư khác mà trong quá khứ đã đỡ đầu một số tổ chức khác nhau, rất mong muốn tiếp cận với các thành viên của các tổ chức này để trao cho họ những tiết lộ tuần tự ở mức kế tiếp. Vậy hãy để ta nói với con, cùng mọi người khác có tai để mà nghe, một số ý tưởng để con suy ngẫm.

Ý thứ nhất

Ý tưởng chủ yếu mà con cần suy ngẫm là: Hãy bước tiếp tới. Khi con thấy mình bị kẹt cứng trong chán nản hay bối rối – hoặc trong bất kỳ loại giới hạn nào khác của con người – thường chỉ có một lối thoát duy nhất, đó là thăng vượt trạng thái tâm thức hiện thời để đạt tới một sự hiểu biết cao hơn và một cái nhìn quân bình về tâm Ki-tô. Điều giản dị là khi con đã làm cùng một chuyện trong một thời gian mà vẫn chưa đạt được mục tiêu, thì đã đến lúc con nên thử một phương cách khác. Sự bướng bỉnh và thiếu mềm dẻo sẽ không đưa con lên thiên đàng, nhưng sự linh động uyển chuyển của tâm Ki-tô – là sự linh động không làm sự thật tổn thương – sẽ giúp con đạt được mục tiêu thực sự của mình.

Vấn đề là trước khi con có thể có được tầm nhìn quân bình, con phải sẵn sàng buông bỏ những tin tưởng và kỳ vọng hiện thời của con về cách cuộc sống hoặc đường tu tâm linh phải trải ra làm sao. Và đây chính là điểm mà nhiều hành giả chân thành bị mắc kẹt trong một thời gian, có khi kéo dài cả mấy kiếp sống. Và tiếc thay, họ thường hay sử dụng chính những lời dạy của chân sư để khiến mình kẹt cứng không biết đến bao giờ.

Như ta cố giải thích suốt trang mạng này, mọi giáo lý tâm linh đều có thể trở thành một cái bẫy cho tâm con. Cho nên ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể được dùng để xây một cái hộp tư duy ngăn chặn con thăng lên mức kế tiếp của đường tu cá nhân của con. Có thể nói, cốt lõi của đường tâm linh là làm sao thăng vượt cái hình tư tưởng mà con có về con người mà con là, về Thượng đế là gì, và về cách vận hành của thế gian. Tất cả mọi hành giả đều khởi đầu với một cái nhìn và hiểu biết giới hạn. Nhiều người lớn lên và được dạy dỗ một thế giới quan vô cùng hạn hẹp, chẳng hạn như thế giới quan do đạo Cơ đốc chính thống và khoa học duy vật đưa ra.

Nhiều hành giả tìm thấy một giáo lý hay một tổ chức tâm linh có khả năng mở rộng thế giới quan của mình, giúp họ tự phát triển cao hơn rất nhiều. Và bởi vì các giáo lý đó giúp họ tăng trưởng đến như thế, họ nghĩ rằng đó là chân lý tuyệt đối, hoặc là giáo lý tối thượng trên địa cầu, và bởi thế họ sẽ không bao giờ cần bất cứ điều gì khác. Thế là họ dựng lên một hình tư tưởng, một sự chờ đợi, một kỳ vọng rằng nếu họ cứ tiếp tục trên con đường này như họ đã được chỉ dẫn, thì họ sẽ tự động chứng đạt tâm thức Ki-tô.      

Thế nhưng như ta giảng giải suốt trang mạng của ta, không một tổ chức công truyền nào có thể bảo đảm con sẽ đạt được tâm thức Ki-tô bằng cách tuân thủ giáo lý hay tu tập. Lý do là vì tâm thức Ki-tô chỉ có thể thực hiện qua một tiến trình nội tâm, tâm truyền. Dĩ nhiên, một giáo lý công truyền sẽ giúp con rất nhiều, nhưng không một giáo lý hay một sự tu tập công truyền nào có thể tự động sản xuất ra tâm thức Ki-tô. Buồn thay, một giáo lý công truyền còn có thể ngăn cản con đạt được tâm thức Ki-tô, thậm chí một giáo lý chân truyền, kể cả giáo lý được đăng tải công khai trên trang mạng này, cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một hộp tư duy sẽ trói con lại ở một trình độ nào đó trên đường tu của con.  

Ý thứ 2

Ở một mức nào đó trên đường tu, việc đi theo một giáo lý công truyền cũng có ích lợi, nhưng con phải luôn luôn cảnh giác để không rơi vào cạm bẫy tinh vi biến giáo lý công truyền đó thành một cái hộp đóng kín. Chẳng hạn, ở những giai đoạn đầu của đường tu, con phải đương đầu với nhiều sự chống đối từ các tà lực, cho nên con cần phải kiên định, thậm chí còn phải như là cứng ngắc. Nhưng một khi lên những mức cao hơn, chính cái đức tính đã giúp con tới được mức này sẽ mau chóng trở thành một trở ngại.

Các tà lực hoàn toàn hiểu được là bất kỳ giáo lý nào cũng có thể khiến con lạc lối nếu con sử dụng một cách cực đoan. Chúng nhìn thấy một hành giả tu tập rất chăm chỉ, và chúng thì thầm vào tai anh ta, đây là tất cả những gì anh ta cần làm cho đến cuối đời. Và như vậy, hành giả cứ cắm đầu làm đúng một điều đó lâu hơn là anh cần làm, và điều này bắt buộc khiến anh cứng ngắc. Rồi một khi anh đi quá một điểm nào đó, anh sẽ không thể tiến cao hơn bằng sự cứng ngắc được nữa, và sự phát triển của anh ngừng lại. Thế nhưng anh quá tin tưởng anh đi đúng đường nên anh tưởng anh vẫn đang tinh tấn. Chuyện này cứ thế tiếp diễn cho tới khi anh bắt đầu tự hỏi tại sao – nếu anh vẫn làm tất cả mọi điều đúng đắn – tại sao sứ vụ thiêng liêng của anh lại không đang trên đà hoàn thành.

Con cần biết rằng ở những giai đoạn đầu của đường tu, con cần phải kiên trì ra sức vượt qua các tà lực chống đối. Nhưng khi chúng thấy chúng không thể giữ con lại bằng mãnh lực, chúng sẽ thay đổi chiến lược, và bây giờ chúng sẽ dụ dỗ con với những ý tưởng rất tinh tế. Ở những mức cao hơn của đường tu, con cần phải linh động để khôn ngoan hơn các lực chống đối. Trên cơ bản, con cần tiến nhanh đến nỗi các tà lực hay chính tự ngã của con không thể nắm được con. Để làm điều này, con cần sẵn sàng làm theo chỉ thị của cái ta Ki-tô của con từng phút một. Đơn giản, con không thể cho phép tà lực tiên đoán được bước tới của con. Một hành giả quá dễ đoán sẽ là một mục tiêu quá dễ cho tà lực. Nói cách khác, ở những mức cao của đường tu, không có gì sẽ hiệu nghiệm mãi mãi, và vì thế con không thể bám chặt vào bất kỳ quy tắc công truyền nào.  

Nếu một lời dạy công truyền có giá trị, nó sẽ giúp con tăng trưởng, và mục đích thực sự của một giáo lý công truyền là giúp con tinh tấn tới một mức con có thể nhận được sự hướng dẫn trực tiếp từ cái ta Ki-tô và các vị thày tâm linh của con. Vấn đề là những chờ đợi, định kiến cùng hình tư tưởng của con đã tạo thành một bức tường ngăn cản con nghe được sự hướng dẫn từ chân sư, hoặc nó khiến con không tin tưởng những gì con nghe thấy bên trong.

Hộp tư duy của con càng đóng chặt – và nếu tình cảm con càng bám mắc vào giáo lý cùng tổ chức công truyền – thì cái hộp sẽ càng trở nên kín mít đối với sự chỉ dẫn của chân sư. Thực tế đáng buồn là các thày không thể giao tiếp với nhiều học trò của mình, cho dù nhiều người đã theo học giáo lý công truyền của chân sư từ nhiều thập niên. Những người này đã sử dụng giáo lý của chân sư để bịt lỗ tai lại, không nghe sự hướng dẫn tâm truyền, tương tự như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở xưa đã dùng kinh Torah để bịt tai không nghe những lời dạy cập nhật mới mẻ của ta.

Khi con thấy mình bị bế tắc, không thấy được phải đi đường nào, thì con phải coi như con đang bị ngăn chặn bởi các kỳ vọng và hình tư tưởng mà ngoại tâm con (ngoại tâm gồm cả tự ngã) đang cầm giữ. Cho nên nếu con thực sự muốn tinh tấn, con cần phải lùi lại và có một nỗ lực ý thức để nhìn ra ngoài hộp tư duy của con. Để làm điều này, con phải sẵn sàng tra vấn hay buông bỏ bất kỳ – và tất cả – tin tưởng hiện thời của mình. Ta không bảo con phải bỏ mọi tin tưởng – ít ra là không phải tất cả cùng một lúc – mà ta bảo con phải sẵn sàng từ bỏ chúng. Nếu con không sẵn sàng từ bỏ thì con đang bám mắc, và sự bám mắc là nguyên nhân của mọi khổ đau, như đức Phật đã chỉ ra hàng ngàn năm trước.  

Ý thứ 3

Ở các cấp thấp trên đường tâm linh, hành giả bắt buộc bị kẹt trong tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, cho dù hành giả tìm được và đi theo một giáo lý tâm linh chân truyền, người đó sẽ tạo dựng một hình tư tưởng của giáo lý cũng như cách đúng đắn để tuân thủ giáo lý. Nhưng hình tư tưởng này bắt buộc sẽ, ít nhất một phần, dựa trên tâm thức nhị nguyên. Khi con phát triển tâm Ki-tô, con sẽ đến một điểm mà con không thể tiến xa hơn cho tới khi con sẵn sàng bỏ lại hộp tư duy của con. Con phải giải thoát cái nhìn của con về đường tâm linh khỏi các yếu tố nhị nguyên.

Một đặc điểm của trạng thái tâm nhị nguyên là nó giam giữ con trong cái nhìn đen trắng về đường đạo. Nói cách khác, con sẽ nghĩ rằng cái này hoàn toàn đúng và cái kia hoàn toàn sai, và nếu con cứ tiếp tục làm những gì được xác định là đúng thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Cho nên cái khung tư duy nhị nguyên thật là xơ cứng, bởi thế cho nên cách duy nhất để phát triển quá một mức nào đó trên đường tu là phải buông bỏ tư duy nhị nguyên bằng cách trở nên linh động. Nhưng sự linh động này không được xây trên bãi cát luôn di động của tâm thức phàm phu, mà phải dựa trên tảng đá của Ki-tô, vì Ki-tô biết rõ làm sao uyển chuyển từng lúc mà không nguy hại đến các nguyên lý vượt thời gian.

Để tiến xa hơn một mức nào đó, con phải sẵn sàng đánh mất đời sống của mình – tức là ý niệm cuộc sống phải như thế nào – để giành được cách sống cao hơn của quả vị Ki-tô cá nhân của mình. Đây là một cuộc điểm đạo rất tinh tế mà mọi hành giả cao cấp sẽ phải đối mặt, và con sẽ không ngừng đối mặt với sự khai ngộ này khi nào con vẫn còn đầu thai làm người. Và như ta từng nói, ai tìm cách cứu đời sống mình – tức là cái hộp tư duy hiện thời của mình – sẽ đánh mất nó, tức là sẽ đánh mất sự sống trong hướng phát triển liên tục. Điều khôn ngoan là nên suy ngẫm về sự kiện một hành giả có thể thất bại ở bất cứ một trình độ nào trên đường tu. Thất bại trên đường tâm linh có nghĩa là con trở nên bám mắc đối với trình độ tinh tấn hiện thời của con và từ chối vượt thăng nó, từ chối vượt thăng cái hình ảnh mà con có về con người con là.     

Có một sự cám dỗ tinh tế khi nghĩ rằng nếu mình càng bước lâu trên đường tu, nếu mình càng thực hiện được nhiều công việc vỏ ngoài trên đường tu, thì mình sẽ càng ít rủi ro thất bại. Nhưng nhiều hành giả cao cấp vẫn thất bại vì họ nghĩ họ không thể thất bại, và do đó họ nghĩ họ không còn cần phải thăng vượt. Tuy nhiên, ta nói với con là trên con đường cá nhân của con, có những điểm mấu chốt mà con phải sẵn sàng chết trên thập tự giá, nghĩa là con sẵn sàng  buông bỏ mọi mong đợi và định kiến về đời mình, hay đường tu của mình phải trải ra như thế nào. Nếu con không chịu để cho tiêu đi ý niệm phàm phu này về đời sống, con sẽ không thể tái sinh trong ý thức sống cao hơn của tâm thức Ki-tô. Lý do là vì con cố bám giữ một cái nhìn nhị nguyên do ngoại tâm tạo ra, và con từ chối đứng thẳng hàng với cái nhìn cao hơn cũng như ý chí của dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ.  

Con có thấy điều ta muốn nói không? Có bao nhiêu hành giả tìm được một giáo lý hay tổ chức tâm linh, nhờ đó mà họ nhảy một bước khổng lồ trên đường tu. Nhưng một cách vô ý thức, họ lại dùng cùng những giáo lý đó để tạo ra một hộp tư duy, và khi đến lúc phải để cho con bê vàng chết đi thì họ lại không thể buông nó ra. Một số thì quá sợ hãi để cho nó ra đi, một số khác thì quá tự kiêu, còn một số thì quá lười biếng. Ta sẽ nói lại một lần nữa.

Một số người tìm thấy đường tu và họ dùng một giáo lý hay tổ chức công truyền để nặn ra một cái khuôn mà mọi hành giả chính trực phải rập theo. Họ tự hào họ hội đủ mọi tiêu chuẩn vỏ ngoài, và họ sẽ nhất định sẽ cứ như thế mãi mãi. Họ thường dùng quan điểm của mình để phán xét những ai không thể làm đúng theo các chuẩn mực cao cả của họ, và như thế họ dựng lên một ý niệm vi tế là họ thuộc về một giai cấp các đệ tử cao minh nhất.

Nhưng khi tới lúc phải bước lên những cấp độ cao hơn trên đường tu, cách nhìn của họ trở thành một cái bẫy. Những hành giả này cảm thấy nếu họ thay đổi cách tu tập thì họ sẽ chểnh mảng, và niềm tự hào của họ bị sứt mẻ. Và nếu họ không chịu bỏ niềm tự hào đó thì họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải tiếp tục làm y như vậy hoài hoài. Đáng buồn thay, họ sẽ bị kẹt lại ở mức này, hoặc họ tuột xuống hố thẳm của sự mù quáng tâm linh là hậu quả đương nhiên của tự hào. Họ có thể hoàn toàn tin chắc là họ cao hơn mọi người khác, thế nhưng họ không có khả năng nhận ra đấng Ki-tô Hằng sống, y như các thày thông giáo và người Pha-ri-si thuở trước. Đó là lý do ta từng gọi là đạo đức giả.  

Một số người tìm ra một giáo lý và cảm thấy giáo lý đó là một ốc đảo an toàn giữa một thế gian đầy bất an. Khi theo giáo lý công truyền, họ tin rằng mình sẽ được cứu rỗi, và vì vậy họ sẽ lánh xa loài ma quỷ của sợ hãi đã từng ám ảnh họ. Việc tuân theo một giáo lý chân truyền cũng là một thành trì chống lại sợ hãi. Vấn đề là con không thể vào được nước Trời bằng cách tự cách ly khỏi những nỗi sợ hãi của con. Con chỉ vào được nước Trời bằng cách chinh phục sợ hãi, và để chinh phục, con phải sẵn sàng đối mặt với chúng.

Mục đích của một giáo lý chân truyền không bao giờ là để mãi mãi cách ly con khỏi sợ hãi. Mục đích là cho con một bờ bến an toàn để con có thể bồi sức hầu đối mặt với sợ hãi. Nhưng nếu con không hiểu được điều này, hoặc nếu con không chịu đối diện với sợ hãi, thì con sẽ bám víu vào sự yên trí của giáo lý công truyền rồi dùng đó để biện minh cho sự từ chối đối mặt. Tiếc thay, tuy rằng chiến lược này có giá trị trong các giai đoạn đầu, nó sẽ không bao giờ đưa con xa hơn những bước đầu này. Vấn đề là các hành giả này sợ làm lỗi đến nỗi họ không dám thử một cái gì mới. Nhưng nếu không thử thì con không thể tiến bước. Nếu con không chịu nhận rủi ro lầm lỗi thì con không thể thành công.  

Một số người tìm thấy một giáo lý công truyền xong nhận thấy mình theo nó quá dễ dàng thay vì mình phải cố gắng tự suy nghĩ một mình. Họ sẵn lòng để cho một đạo sư hay một tổ chức bên ngoài suy nghĩ dùm họ, và lần hồi họ nghiện ngập cái cảm giác an toàn đó, y hệt như người nghiện ma túy vậy.  

Nhưng một lần nữa, một giáo lý chân truyền nhằm cho con một thời gian nghỉ ngơi để con có thể bồi dưỡng sức lực cũng như khả năng phân biện sự thật bên trong mình. Khi con đạt tới một mức nào đó trên đường tu, con sẽ không thể tiến thêm cho đến khi con sẵn sàng bắt tay vào công việc khó khăn là phân biện sự thật trong nội tâm, thay vì trông chờ một giáo huấn hay một vị thày bên ngoài.

Thông thường đối với các hành giả này, họ muốn bám vào ý tưởng là họ có thể tiếp tục tin, hoặc làm, cùng những chuyện đó suốt đời. Đại khái, họ nói với cái ta Ki-tô của họ cũng như với các chân sư: “Đừng làm phiền tôi với sự hướng dẫn tâm truyền. Tôi đã có giáo lý và tổ chức vỏ ngoài này rồi, nó cho tôi tất cả mọi thứ tôi cần”. Và cứ thế, họ tiếp tục nhảy múa chung quanh con bê vàng thay vì để cho những kỳ vọng phàm phu của họ bị tiêu hủy trong ngọn lửa của Thượng đế – là ngọn lửa thiêu rụi mọi thứ không phải là chính nó.

Thực tế đơn giản – một thực tế mà nhiều hành giả không thấy – là ngay cả một giáo lý chân truyền cũng có thể bị lạm dụng để tạo ra một cái hộp đóng kín. Cho nên nhiều học trò chân thành của chân sư đã dùng giáo lý chân sư để đi theo con đường tuy “đúng đắn với con người nhưng lại là con đường chết”. Thật là một điều đáng buồn khi nhiều người cầu tìm tâm linh đã dùng một giáo lý chính đáng để tự đóng hộp mình, để rồi cuối cùng họ bắt đầu đi theo con đường tay trái. Đây là sự phản bội hoàn toàn đối với lòng tin của các chân sư đã đỡ đầu công bố một giáo lý nào đó. Nếu con nghĩ rằng ta cùng các chân sư khác hài lòng về sự thể này thì rõ ràng con không biết chân sư mà chỉ tưởng là mình biết.

Sự thật mà con không thể tránh khỏi là thực chất của đường tâm linh là sự tự thăng vượt. Bất cứ khi nào con dùng một giáo lý vỏ ngoài để tự biện minh rằng mình không cần thăng vượt thì ngay lúc đó con đang theo tà đạo. Như thế con không còn là một đệ tử thực sự của chân sư. Con đã trở thành một người phản-đệ tử, và con sẽ bắt buộc cất bước đi theo một người phản-thày. Ta có thể chắc chắn với con là ta không nói quá đáng hay ta ra vẻ cường điệu đâu. Thực tế trần truồng là nhiều đệ tử lâu năm đang đi sai đường, nhưng họ lại dùng giáo lý vỏ ngoài để ru ngủ cho mình là những hành giả có trình độ cao nhất trên địa cầu. Và các chân sư thì hầu như không có cách nào đánh thức họ về sự điên rồ của họ.  

Cách duy nhất để phá vỡ khuôn nếp này là phải sẵn sàng biết khiêm tốn mà tra vấn những tin tưởng lâu đời của mình về đường tâm linh. Ta không bảo con phải bỏ một lời dạy cố hữu và đi theo lời dạy mới như trang mạng này. Ta bảo con phải bỏ những tin tưởng đang làm nghẽn sự tiếp xúc của con với cái ta Ki-tô của con hầu con nhận được sự hướng dẫn từ bên trong.

Và ta có thể bảo đảm với con là nếu con đã đi theo và tu tập một giáo lý tâm linh chân truyền trong một thời gian dài mà vẫn không có sự liên lạc rõ ràng với cái ta Ki-tô của mình, thì chỉ có một lý do mà thôi. Con có một số tin tưởng và chờ đợi đang chặn nghẽn sự hướng dẫn nội tâm. Cho nên con hãy cần sẵn sàng để cho những giới hạn này ra đi; hãy vui lòng để chúng chết đi hầu con có thể sống đời đời trong ánh sáng của Sự thật Ki-tô.  

Ý thứ 4

Sự khác biệt vi tế mà nhiều hành giả thường bỏ qua là một giáo lý vỏ ngoài quả là có khả năng giúp họ tiến bước. Nhưng điều này chỉ hiệu nghiệm một thời gian và sau đó thì nó sẽ cản trở bước tiến. Cách duy nhất thoát khỏi ngõ cụt này – cũng là cách duy nhất để không trượt lùi trên đường đạo – là mình thăng vượt hình tư tưởng của mình. Và để làm điều này, con phải sẵn sàng để cho mọi thành phần của hình tư tưởng đó chết đi khi con nhận được sự thúc giục của hướng dẫn nội tâm. Và như ta đã nói, con càng bám giữ hình tư tưởng thì con sẽ càng khiến cho sự hướng dẫn nội tâm bị tắc nghẽn – và nó tạo ra một tình trạng tiến thoái lưỡng nan.   

Cho nên ta đề nghị một điều giản dị. Ở cuối quyển sách “The Christ is born in you” (Ki-tô ra đời trong con), ta có đưa ra một bài tập mà qua đó ta giúp hành giả không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ ý niệm nghĩa vụ, bất kỳ cảm nhận nào là mình phải làm điều gì, hay phải làm theo một cách nào đó. Đây là một bài tập hữu ích bởi vì chỉ bằng cách buông bỏ định kiến mà con mới làm cho ngoại tâm tĩnh lặng hầu nghe được cái ta Ki-tô của con. Vì vậy con hãy sẵn sàng từ bỏ mọi ý tưởng rằng con phải làm điều gì đó cho chân sư, và hoàn toàn sẵn lòng từ bỏ luôn mọi ý tưởng về cách thực hiện điều đó.  

Ta có thể nói với con là một trong những vấn đề phổ biến nhất mà ta thấy là một hành giả nhận được viễn kiến đúng đắn về những việc mà người đó phải làm trong kiếp này, nhưng lại dùng một giáo lý công truyền – hay đúng hơn, một cách hiểu nhị nguyên về giáo lý đó – để dựng lên một kỳ vọng không thực tế về cách thực hiện. Và như thế con rơi vào tình trạng “một ngôi nhà bị chia rẽ chống lại mình”. Dòng sống của con biết viễn kiến đó là gì và cũng biết mình phải thực hiện làm sao, nhưng ngoại tâm thì lại dựng lên một viễn kiến khác bởi vì nó đã dùng một giáo lý vỏ ngoài – hay một số quy tắc cứng ngắc do giáo lý này vạch ra – để xác định cách thực hiện mục tiêu.     

Điều này chắc chắn sẽ làm tắt đi khả năng sáng tạo thực sự của dòng sống, và vì vậy dòng sống sẽ từ chối làm theo. Con thấy không, sứ vụ thiêng liêng của con chỉ có thể được hoàn thành khi con thể hiện sắc tính thiêng liêng của mình – được neo giữ nơi Hiện diện TA LÀ của con – qua công việc mình làm. Nếu con dùng một giáo lý công truyền để thiết lập những luật lệ hay chờ đợi cứng ngắc về cách thực hiện mục tiêu mình, thì con sẽ tước mất cơ hội cho sắc thái con được thể hiện qua công việc của con.

Cho nên ngoại tâm sẽ đánh nhau với cái Ta Biết của con – con sẽ đánh nhau để bóp nghẹt khả năng sáng tạo là chìa khóa cho con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của mình – và như thế mục tiêu sẽ không đạt được. Hành giả nỗ lực đạt tới một mục tiêu rất đáng làm, nhưng lại cố gắng làm với một cách thức mà cả cái ta Ki-tô lẫn cái Ta Biết của con không thể chấp nhận, và do đó nó phá hoại chính những nỗ lực vỏ ngoài của nó. Cái ta Ki-tô biết rõ hành giả sẽ không bao giờ đạt tới mục tiêu qua khả năng của ngoại tâm, cho nên cái ta Ki-tô thực sự đang tìm cách gửi một thông điệp đến ngoại tâm.  

Lối thoát duy nhất khỏi bế tắc này là vượt qua sự chia rẽ trong ngã bằng cách buông bỏ hình tư tưởng được giữ trong ngoại tâm. Và điều này thường đòi hỏi hành giả buông bỏ một số – hay có lẽ tất cả – những kỳ vọng đã được xây đắp khi mình dấn thân vào giáo lý hay tổ chức công truyền. Ít nhất, hành giả phải sẵn sàng buông bỏ mọi kỳ vọng. Chìa khóa là cái Ta Biết chứng thực được mình là sự tỉnh giác thuần khiết.

Ý thứ 5

Con hỏi: “Con có phạm luật lệ gì không nếu con sử dụng quyền năng ánh sáng mà con đã học hỏi như một đứa con của Thượng đế, và chuyển nó sang một thế giới đang cần đến điện ảnh và xử sự một cách mà một người Lãnh đạo Đọc bài chú chú bị cấm không được làm?”

Trước hết, việc sử dụng thành tựu của mình để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng luôn luôn hợp luật – đó chính là chức năng của thành tựu tâm linh. Thế nhưng con phải bảo đảm rằng ngoại tâm con nằm thẳng hàng với viễn kiến về mục tiêu mà cái Ta Biết và cái ta Ki-tô cất giữ.

Có hợp luật không khi con theo đuổi mục tiêu bằng cách đi ngược lại các luật lệ vỏ ngoài của một cộng đồng tâm linh? Chắc chắn là có – với điều kiện cái ta Ki-tô của con bảo con làm vậy và con chắc chắn không phải tự ngã đang dụ dỗ con. Thế nhưng trong hầu hết trường hợp, chính ngoại tâm con bảo con mù quáng tuân thủ luật lệ công truyền mà không lắng nghe cái ta Ki-tô. Con cần suy ngẫm lời dạy của ta về ngày sa-bát và câu ta từng nói, “Sa-bát được tạo ra cho con người, chứ con người không được tạo ra cho sa-bát.” Câu này cũng áp dụng cho mọi luật lệ do bất kỳ tôn giáo nào đặt ra. Để biểu lộ và thể hiện quả vị Ki-tô của con, con phải sẵn sàng thăng vượt mọi giới hạn do con người đặt ra. Con phải sẵn lòng để cho chúng chết đi hầu giải thoát dòng sống của con khỏi gông cùm của chúng và vượt lên trên. Dòng sống của con, trong nghĩa đen, đang bị đóng đinh trên thập tự giá của những mong muốn phàm phu, nhị nguyên, mà ngoại tâm con đã chấp nhận. Cho nên ngoại tâm con và các thế lực của thế gian này đã đóng đinh dòng sống của con vào cây thập tự.

Điều này bao gồm cả những hạn chế nội tâm được tạo ra bởi ngoại tâm và tự ngã của con. Và nó cũng bao gồm những hạn chế vỏ ngoài tạo ra bởi thế gian, kể cả bởi một cộng đồng tôn giáo nào đó. Tất nhiên, con cần tìm thấy một sự quân bình, và ở các mức thấp của đường tu, con có thể cảm thấy luật lệ vỏ ngoài rất hữu ích. Nhưng sẽ tới lúc con không thể phát triển thêm cho đến khi con vượt qua cuộc điểm đạo và con sẵn sàng bước theo hướng dẫn của nội tâm thay vì luật lệ, quy tắc vỏ ngoài.

Ý thứ 6

Việc hoàn thành sứ vụ thiêng liêng không thể đo được bằng các chuẩn mực thành công của thế gian. Nhìn từ thế gian, sứ mạng của ta thời ta hiện thân là một thất bại, nhưng nhìn từ góc độ tâm linh, đó là một sự thành công. Vì vậy con không nên rơi vào cạm bẫy nghĩ rằng thành công cá nhân của con có thể đo bằng chuẩn của thế gian – đăc biệt là chuẩn của các giới làm phim điện ảnh.

Một khía cạnh khác nữa của vấn đề này là con không được để cho mình cảm thấy sự tiến triển của sứ mạng mình có thể bị thế gian giới hạn. Để biểu lộ quả vị Ki-tô, con phải đạt tới mức con quyết định rằng con sẽ KHÔNG để cho bất cứ gì – ở trong cũng như ở ngoài – ngăn cản mình bước đi bước kế tiếp của mình trên đường tu. Nói cách khác, nếu con có một viễn kiến thì con cứ việc đi tới mục tiêu với bất kỳ phương tiện hợp pháp nào mà con có. Con không để cho sự thiếu hụt tài chánh ngăn con làm những gì con có thể làm – và luôn luôn có những điều con có thể làm – kể cả là con có thể tự tu sửa.

Con hãy nhớ câu phương châm này của một vị đồng sự quý mến của ta, “Hãy làm đúng (chánh nghiệp) mà không vướng mắc thành quả việc làm”.

Ý thứ 7

Ta xin nhắc lại lần nữa, mỗi khi con thấy bế tắc thì đó là vì có một điều gì đó con chưa buông bỏ, một điều gì đó con chưa hàng phục. Và lý do con chưa buông bỏ là một hình tư tưởng về đường tu phải như thế nào – một hình ảnh mà cho tới giờ con chưa chịu chất vấn, hay con nghĩ nó không cần chất vấn. Như ta nói với con, khi con tiến tới tâm Ki-tô, con phải sẵn sàng chất vấn và nhìn xa hơn bất kỳ, và mọi, tin tưởng, quan điểm, chờ mong của mình. Bất cứ điều gì mà con không sẵn sàng nhìn xa hơn sẽ tự động trở thành cái hộp tư duy giam cầm tâm con.

Cho nên con hãy lùi lại, buông bỏ sự cảm nhận về những điều con cần làm cũng như cách làm.  Hãy buông ý niệm rằng con phải cứu nguy thế giới, rằng số phận thế giới tùy thuộc vào hành động của con, hay đại nghĩa của các chân sư nằm trên vai con. Hãy suy ngẫm về sự kiện Thượng đế đã cho mọi người quyền tự quyết. Vì thế con không trách nhiệm về sự cứu rỗi của người khác. Nhưng ngược lại, chỉ có con mới trách nhiệm về sự cứu rỗi của con.

Xin con hiểu rằng có sự phân biệt vi tế ở đây. Các chân sư không đang đầu thai trong thế gian, cho nên để địa cầu thay đổi, chỉ những ai đang đầu thai mới có thể đem lại thay đổi. Nhưng sự thay đổi cần thiết không thể do ngoại tâm đem lại. Khi con vướng mắc vào một hình tư tưởng nào đó, con bắt đầu nghĩ rằng con là người hành động, người hoàn thành. Và chính những người tưởng mình phải cứu nguy thế giới mới khiến cho người ta có câu, “Con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý muốn tốt”. Kỳ thực, con đường dẫn đến địa ngục được lát bằng ý muốn của con người, những ý muốn nhị nguyên.

Chìa khóa là con cần bỏ lại mọi kỳ vọng phàm phu và khiến cho ngoại tâm đứng đồng điệu với dòng sống và cái ta Ki-tô của con. Khi đó, con sẽ có thể nói, “Ta và Cha ta – nghĩa là Hiện diện TA LÀ – là một” và “Cha ta làm việc cho đến bây giờ, ta cũng làm việc như vậy”. Đây là cách duy nhất để đem lại thay đổi thực sự cho địa cầu. Nếu con muốn đem giáo lý của chân sư vào thế giới, bước đầu tiên là con phải thể nhập với giáo lý và bước đi trên đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Con không thể dạy về quả vị Ki-tô cho tới khi con đạt được một mức độ nào đó của quả vị Ki-tô. Con chỉ có thể dạy về quả vị Ki-tô qua sự làm gương.

Ý thứ 8

Đối với các chân sư thăng thiên, việc cứu vớt địa cầu không quan trọng bằng việc cứu vớt dòng sống của con. Và cách duy nhất để cứu dòng sống của con là giúp con đạt được tâm Ki-tô. Cho nên mục đích chủ yếu của con là đạt được tâm thức Ki-tô – thậm chí sự hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con hay cứu nguy thế giới cũng chỉ là thứ yếu so với mục đích đó. Ở những mức cao trên đường tu, con phải đặt ưu tiên cho thật rõ ràng. Con phải trước hết sẵn sàng tìm nước Trời, tức là tâm thức Ki-tô. Và tất nhiên, một khi con đặt việc tìm nước Trời lên hàng đầu thì mọi thứ khác, tức là sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới, sẽ được bồi thêm vào cho con.

Con có thấy được sự khác biệt vi tế? Ngay cả mục đích rất đáng làm là bước đi trên đường tâm linh, hoàn thành sứ vụ thiêng liêng hay cứu nguy thế giới cũng có thể trở thành cái bẫy nếu con đặt những thứ đó lên trên việc chứng đạt tâm thức Ki-tô. Khi nào con còn điều gì quan trọng hơn tâm thức Ki-tô thì con không thể đạt tâm thức Ki-tô. Và khi nào con chưa đạt tâm thức Ki-tô thì con không thể hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con và cứu nguy thế giới. Cho nên con phải để cho mọi mục tiêu khác chết đi – con phải sẵn sàng mất ý niệm sống của mình – để đạt được sự sống vĩnh hằng của tâm thức Ki-tô. Đây là tiến trình mà Kim Michaels đã đi qua trước khi đủ tư cách để làm sứ giả cho ta.

Một khi con chứng đạt quả vị Ki-tô cá nhân của con, con sẽ không bị ràng buộc bởi bất cứ luật lệ hay mong chờ nào nữa. Con sẽ để cho sắc thái thiêng liêng của con biểu hiện qua con, bởi vì con sẽ biết rằng, “Đứa Con chẳng tự mình làm được việc gì, chỉ làm điều chi mà Con thấy Cha làm; vì mọi điều Cha làm, Con cũng làm y như vậy” (John 5:19). Đứa con ở đây là dòng sống đứng thẳng hàng với Hiện diện TA LÀ của nó.

Ý thứ 9

Con không thể đem các mong muốn, quan điểm hay hình tư tưởng phàm phu của con lên thiên đàng. Cho nên con không thể vào được thiên đàng cho đến khi con bỏ chúng lại. Bám giữ chúng sẽ khiến con không vào được thiên đàng. Con không thể tìm thấy chìa khóa vào thiên đàng nếu con bám giữ những gì con có. Con chỉ tìm thấy chìa khóa nếu con buông bỏ mọi điều giả. Và trước khi con có đủ phân biện để biết chân giả khác nhau thế nào, con nên khôn ngoan đặt thành mục tiêu là không bao giờ tạo ra một cái hộp tư duy đóng kín.

Để tránh tạo ra hộp đóng kín chung quanh tâm mình – một chiếc hộp mà cái ta Ki-tô của con không thể thâm nhập vào – con phải sẵn sàng luôn luôn vươn tới hiểu biết cao hơn, nghĩa là con không bao giờ cho phép mình tưởng rằng sự tin tưởng của mình có thể là tuyệt đối, tức là không thể mở rộng ra qua sự hướng dẫn nội tâm. Nói cách khác, đừng bao giờ để cho một giáo lý, một vị thày hay một tổ chức công truyền đứng chắn ngang giữa con và vị thày nội tâm của cái ta Ki-tô.

Ta thực sự mong ước những học trò lâu năm của các chân sư suy ngẫm những ý tưởng này, cho nên ta hy vọng mọi người sẽ cảm thấy thoải mái khi chia sẻ với người khác. Ta xin xác nhận với con là các chân sư thăng thiên vô cùng quan tâm khi thấy quá nhiều học trò lâu năm của mình đã sử dụng giáo lý của chân sư – được ban cho các con một cách vô giới hạn – để tạo ra những hộp tư duy đóng kín. Điều này không những sẽ ngăn họ hoàn tất sứ vụ thiêng liêng, mà còn ngăn họ đạt được quả vị Ki-tô. Chỉ vì lý do này thôi mà các giáo lý được truyền đạt suốt thế kỷ qua đã không tác động được hành tinh này như mong muốn.  

Tình trạng này có thể chỉnh sửa, và có thể chỉnh sửa nhanh chóng. Nhưng nó sẽ chỉ xảy ra khi các học trò lâu năm của các chân sư sẵn sàng để cho các kỳ vọng trước đây chết đi rồi sống lại trong ngọn lửa của Sự thật Hằng sống – là phép báp-têm bằng lửa – mà họ chỉ có thể nhận được từ chính cái ta Ki-tô của họ.

Ý thứ 10

Ta mong các học trò lâu năm sẽ suy ngẫm những lời giảng của ta về nguồn gốc của cái ta Ki-tô và thiền quán về ý nghĩa sâu thẳm của lời giảng đó. Nó chứa đựng một lời dạy chưa từng được ban truyền trong quá khứ, và đây là một ví dụ điển hình tại sao giáo lý chân sư cần được tiết lộ một cách tuần tự theo nhịp tiến của nhân loại.

Rõ ràng, bài giảng vừa rồi của ta nhân dịp Giáng sinh nhắm đến người đạo Cơ đốc, vì vậy ta chỉ có thể đưa ra những lời dạy cơ bản. Tuy nhiên đối với các học trò lâu năm, các con cần hiểu rõ là nhiều vị chân sư thăng thiên đã “bẻ thành từng mảnh” Tánh linh của mình để hình thành những cái ta Ki-tô của các anh em chưa thăng thiên. Vì vậy không phải mọi hành giả đều có cái ta Ki-tô là thành phần của Tánh linh của ta. Điều quan trọng là hành giả cần hòa điệu tâm thức mình với vị chân sư đã ban cho mình món quà sự sống dưới hình thức cái ta Ki-tô.

Cho nên nếu con là một học trò lâu năm của các chân sư, con nên xét xem con sẽ trung thành với một giáo lý vỏ ngoài hay là với nguồn gốc của giáo lý đó. Ta không bảo rằng con cần phải rời bỏ một tổ chức con đã tham gia. Nhưng ta nói rằng con cần sẵn sàng rời bỏ tổ chức đó nếu con nhận được chỉ thị từ bên trong. Và nếu con đã sử dụng các giáo lý cũ để xây dựng một hộp tư duy đóng kín, thì làm sao con sẽ nghe được sự hướng dẫn nội tâm này đây?

Ta cũng muốn nói rằng tất cả mọi học trò lâu năm của chân sư có thể hưởng lợi rất nhiều khi sử dụng các bài chú và bài thỉnh để bổ sung cho những kỹ thuật mà họ đã từng dùng trong những tổ chức trước. Tại sao con lại đi máy bay cánh quạt khi máy bay phản lực đã được đem vào thế gian? Với tình hình nghiêm trọng trên địa cầu hiện nay, các chân sư cần tất cả mọi học trò của mình sử dụng các kỹ thuật mạnh mẽ nhất hiện có.

Thành thật mà nói, ta còn rất nhiều điều muốn nói với các học trò lâu năm, nhưng nếu những gì ta vừa nói ở đây không mở tai họ để họ nghe được ta là ai, thì ta ngờ rằng sẽ chẳng có gì khác làm được chuyện đó. Một lời nói thôi cũng đủ cho người trí tuệ – hoặc những ai coi mình là trí tuệ.

Quyền tự quyết của con tự quyết đến mức nào?

Nghe bài thu âm

Hỏi: Liệu ý chí tự quyết của tâm thức của con ngay bây giờ có tách rời khỏi linh hồn con, như linh hồn tách rời khỏi Hiện điện TA LÀ? Chẳng hạn, nhiều khi con cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, nhiều khi khác con lại quyết định mình sẽ không là. Nhiều lúc khác nữa, con cảm thấy rất thành tâm, cả quyết và háo hức về con đường tâm linh của mình. Có phải là linh hồn con hiểu điều này rõ hơn cái ta đường thẳng của con, hay là nó cũng bị ràng buộc tương tự như Hiện diện TA LÀ bị ràng buộc bởi quyền tự quyết của linh hồn con?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nghiên cứu một số sách về trải nghiệm cận tử (near-death experience) hay những người nhớ lại tiền kiếp, nhớ lại cách dòng sống của mình hoạch định những kiếp đầu thai như thế nào, con sẽ thấy đối với hầu hết mọi người, toàn bộ dòng sống không chỉ là những điều mình nhận biết một cách ý thức, mà là nhiều hơn vậy. Nói cách khác, trước khi con đi vào hiện thân, con có khả năng nhìn lại toàn diện hành trình tiến hóa của con, và con làm điều này một cách không dính mắc. Nhờ vậy, con có thể hoạch định một cách thật hữu lý và chi tiết về những điều con muốn thực hiện trong kiếp kế tiếp.

Khi dòng sống đi vào một xác thân vật lý, nó mất hết ký ức về cái nhìn bao quát này, tức sự nhận biết toàn bộ của nó. Một số người khi còn nhỏ có thể nhớ lại một vài trải nghiệm hay ký ức, nhưng sau đó họ thường quên đi khi họ đâm đầu vào cuộc sống hàng này trong vũ trụ vật chất. Chỉ có những dòng sống đã trưởng thành cao độ về tâm linh trong những kiếp trước mới giữ được phần lớn sự nhận thức và ký ức đó. Tuy vậy, đa số hành giả tầm đạo thường có một trực nhận mạnh mẽ về những điều họ muốn đạt đến trong cuộc đời.

Cho nên có thể nói, khi dòng sống của con đi vào thân xác, ý niệm bản sắc và sự nhận biết của nó trở nên hạn chế hơn rất nhiều so với trước khi hiện thân. Vậy điều gì định đoạt mức nhận biết ý thức của con? 

Như chúng tôi có giải thích, cốt lõi của con là cái Ta Biết. Cái Ta biết khởi đầu với một ý niệm cái ta nhỏ như cái chấm, và khi nó có thêm trải nghiệm trong vũ trụ vật chất, nó sẽ mở rộng ý niệm cái ta này, mở rộng phạm vi nhận biết toàn diện của nó. Nó mở rộng cả chiều dọc lẫn chiều ngang. Chiều dọc là khi nó tăng cường sự kết nối với Hiện diện TA LÀ, tiến tới sự hợp nhất hoàn toàn với Hiện diện (quả vị Ki-tô cá nhân). Và chiều ngang là khi nó bành trướng tầm hiểu biết về thế giới vật chất cùng sự vận hành của thế giới vật chất. 

Cho nên, tầm nhận biết mà con có trước khi con đầu thai được định đoạt bởi cái Ta Biết đã bành trướng phạm vi cái ta của nó nhiều hay ít. Phạm vi này càng rộng – tức là sự nhận biết càng nhiều – thì con càng thấy nhiều chọn lựa mở ra cho con. Nói cách khác, cái Ta Biết là trung tâm của ý chí tự quyết của con. Cái Ta Biết dù có toàn quyền tự quyết nhưng nó chỉ có thể chọn trong số các chọn lựa mà nó thấy hay tưởng tượng được mà thôi. Và những chọn lựa mà con thấy tùy thuộc vào phạm vi nhận biết của con rộng tới đâu. Hay nói cách khác nữa, khi con hoạch định sứ vụ thiêng liêng cho kiếp kế tiếp, con có thể truy cập toàn bộ tầm nhận biết mà con đã đạt được qua tất cả các kiếp sống.

Vậy điều gì xảy ra khi con đầu thai? Như ta đã giải thích ở nơi khác, cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn thật ra chỉ là cỗ xe gồm bốn thể phàm mà cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu hiện trong bốn tầng cõi của vũ trụ vật chất. Cỗ xe 4 tầng này được tạo dựng suốt nhiều kiếp sống, và như ta giải thích, đại đa số con người trên địa cầu đã rơi xuống tâm thức nhị nguyên. Có nghĩa là cỗ xe linh hồn được cấu tạo bằng rất nhiều ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên, và nó cũng tồn trữ rất nhiều năng lượng tha hóa. Tất cả những thứ này sẽ giới hạn tầm nhận biết của cỗ xe linh hồn. 

Trong khoảng chuyển tíếp giữa hai kiếp đầu thai, con có thể – nếu con có chút trưởng thành tâm linh – nhìn vào hoàn cảnh của mình với sự nhận biết toàn diện của cái Ta Biết. Nhưng khi con đi vào xác thân, con sẽ bắt đầu nhìn cuộc sống xuyên qua cỗ xe linh hồn, nghĩa là tầm nhận biết của con bây giờ bị hạn chế bởi phin lọc của cỗ xe 4 tầng. Cũng tựa như con đang đứng trên khoang tàu nhìn rộng thênh thang tứ phía, rồi khi con đầu thai con phải mặc vào một bộ đồ lặn chỉ có một lỗ cửa sổ nhỏ xíu để nhìn ra thế giới.   

Vậy giờ con thấy là có hai điều con cần xem xét. Trước hết là mức nhận biết mà cái Ta Biết đã xây dựng suốt nhiều kiếp sống. Con sẽ sử dụng tầm nhận thức này để họach định kiếp kế tiếp của con. Tuy nhiên khi con giáng thế vào một thân xác, con thường đánh mất nhận thức này. Rất nhiều trẻ nhỏ vẫn giữ được một nhận thức nào đó về thời điểm giữa hai cuộc đầu thai, nhưng khi nó lớn lên nó thường sẽ quên mất hết. Cho nên điều xảy ra là tầm nhận biết của con nay bị giới hạn trong những gì con thấy được qua phin lọc của cỗ xe 4 tầng.

Một lần nữa, cái Ta Biết là trụ sở của ý chí tự quyết, và về mặt kỹ thuật, ý chí của con luôn hoàn toàn tự do. Nhưng trên thực tế, cái Ta Biết chỉ có thể chọn một trong số những chọn lựa mà nó nhìn thấy, và đó là tại sao con cảm thấy bị giới hạn bởi cỗ xe linh hồn. Nhiều người tâm linh cảm nhận được mình là nhiều hơn cái linh hồn này, và họ cảm thấy họ có khả năng chọn lựa tốt hơn, tuy nhiên họ không thể – trong ý thức – hình dung hay chấp nhận các chọn lựa mở ra cho họ, và vì thế họ bị kẹt lại. Điều này có thể khơi lên một cảm giác vô vọng. 

Nhưng cái hay của giáo lý Ta Biết là cái Ta Biết KHÔNG phải là linh hồn. Cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là nó có khả năng tự phóng chiếu ra bất cứ nơi đâu nó muốn. Bất kể trình độ nhận biết của linh hồn là gì, cái Ta Biết luôn luôn có sự lựa chọn là nó có thể ngưng tự đồng hóa toàn diện – một cách cố tình – với cỗ xe 4 tầng. Lúc đó con sẽ có thể tự chiêm nghiệm mình là sự nhận biết thuần khiết, nghĩa là tuy con có ý thức, nhưng con không chiêm nghiệm thế giới qua phin lọc của cỗ xê linh hồn nữa. Con nay chiêm nghiệm rằng con là nhiều hơn linh hồn.  

Một khi con bắt đầu có khung sườn đó, con sẽ ngừng tự đồng hóa với cỗ xe 4 tầng. và điều này sẽ giúp con gạt bỏ nhiều ảo tưởng của tâm thức linh hồn.  Khi con cũng vứt bỏ năng lượng của cỗ xe linh hồn, con sẽ làm sáng tỏ và mở rộng tầm nhìn của con, có nghĩa là con sẽ lần hồi nhìn thấy được sứ vụ thiêng liêng mà cái Ta Biết đã thảo ra trước khi đầu thai. Nói cách khác, cho dù linh hồn con có nhận biết thấp đến đâu đi nữa trong những kiếp trước, con sẽ luôn luôn có sự chọn lựa để vươn lên tới mức nhận biết toàn diện mà cái Ta Biết đã đạt được. Nghĩa là con sẽ luôn luôn có khả năng khám phá và hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con – nếu con áp dụng các giáo lý và dụng cụ tâm linh mà chúng tôi đã cho con.   

Điều ta muốn nói là khi con phân biệt được cái Ta Biết với cỗ xe 4 tầng, con sẽ thấy rằng chính cái Ta Biết mới là “người” chọn lựa. Cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn thực sự không phải là trụ sở của quyền tự quyết (trừ khi con định nghĩa linh hồn bao gồm cả cái Ta Biết), và chức năng của linh hồn là để hạn chế các chọn lựa mà cái Ta Biết có thể thấy hay mường tượng trong khi đầu thai.

Cũng giống như con đang bước đi trong một toà nhà tối om với một chiếc đèn pin nhỏ xíu và con bước tới hai cánh cửa. Tất nhiên con sẽ nghĩ con phải đi qua cửa này hay cửa kia. Nhưng giả sử có một cánh cửa thứ ba và một cánh cửa thứ tư mà con không nhìn thấy. Chỉ khi nào con mở rộng tầm chiếu của đèn pin thì con mới sẽ thấy được hai cánh cửa kia.

Cho nên khi con khám phá con đường tâm linh, nhiệm vụ đầu tiên của con là sắp đặt lại nhân cách vỏ ngoài và ý thức tự quyết của con cho đứng thẳng hàng với sự nhận biết rộng lớn hơn và sự chọn lựa sâu xa hơn của cái Ta Biết. Một khi nhân cách và nhận biết đã phù hợp với cá thể đích thực của Ta Biết, con mới có thể bắt đầu xây tiếp để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng và thể hiện khả năng sáng tạo mà Thượng đế đã ban cho con. Cũng có thể nói, nhiệm vụ hàng đầu của con là khiến cho cái Ta Biết ý thức được nó thực là ai, thay vì cứ tưởng nó bị giới hạn bởi cỗ xe 4 tầng của nó.   

Con có đề cập đến cảm giác vô vọng và con đã nhiều lần chọn là con sẽ “không là”. Đây là điều mà nhiều người tầm đạo cũng gặp phải, bởi vì đó là một phần không thể thiếu của con đường tâm linh. Ta sẽ giải thích tại sao.

Trong suốt nhiều kiếp trước, đa số con người đã tạo ra một động lượng mỗi khi mình chọn lựa. Nếu con đã chọn một cách phản ứng trong một tình huống nào đó, và nếu con cứ tăng cường chọn lựa này suốt nhiều kiếp, con sẽ tạo ra một khuôn nếp phản ứng. Như thày Gautama có giải thích trong một bài giảng then chốt, bất cứ gì mà con tập trung chú ý vào sẽ thấm nhuần một dạng tâm thức nào đó, và nó có thể tạo dựng ra một con “quái vật”. Điều này trong một số giáo lý huyền bí được gọi là “kẻ ngụ trên ngưỡng cửa”. Lý do có cái tên này là vì quái vật ngụ trên ngưỡng cửa của một mức tâm thức mới. Cho nên để vượt lên khỏi mức tâm thức hiện thời, con sẽ phải đối mặt và khắc phục kẻ ngụ trong những lực đẩy cũ của con, là những lực tàn dư đã buộc chặt con với mức tâm thức hiện thời.

Nếu con so sánh điều này với câu hỏi muôn thuở của Hamlet: “Là hay không là”, chúng ta có thể nói rằng trong những kiếp trước con đã xây dựng một động lượng khi chọn không-là. Để vượt lên mức cao hơn, con phải khắc phục những động lượng này. Hầu hết những người không tâm linh có thể sống cả đời mà không gặp những lực cũ đó, tức “kẻ ngụ” đang chắn ngưỡng cửa. Nhưng đối với người tâm linh thì khác, nếu mình muốn thăng tiến thì nhất định sẽ phải gặp mặt một hay nhiều “kẻ ngụ” của mình. Và khi con làm vậy, trong một thời gian con sẽ cảm thấy sức nặng của động lượng không-là mà kẻ ngụ được tạo ra từ đó.

Động lượng này được tạo bằng những tin tưởng nhị nguyên của tự ngã lẫn những động lượng của năng lượng thấp, và nó sẽ cho con cảm giác là con không thể sống mà không có nó, và con – tức là sự tự nhận biết của con – sẽ chết nếu con “giết con rồng của kẻ ngụ”. Chìa khóa để vượt qua cảm giác vô vọng này là chiêm nghiệm cái biết thuần khiết. Qua đó, con sẽ nhận ra rằng điều tự ngã vừa nói với con là thật. Thật thế, sự tự nhận biết do tự ngã và kẻ ngụ dựng lên sẽ chết đi, nhưng điều này không có nghĩa là CON sẽ chết, bởi vì con không là cỗ xe 4 tầng, mà con là cái TA Biết, tức là cái biết thuần khiết, và con không thể chết khi kẻ ngụ chết.     

Đây là cách đích thực duy nhất để con tách con ra khỏi kẻ ngụ và buông bỏ nó, dù là nó có thể chết vì đói hay nó bị trói lại và được Đại thiên thần Michael hóa giải. Và một khi một kẻ ngụ nào đó bị giết chết, con sẽ cảm thấy một niềm tự do mới sẽ kéo dài cho tới khi con vượt lên tầng kế tiếp và gặp mặt kẻ ngụ kế tiếp. Tuy nhiên, một khi con ý thức được tiến trình này rồi, càng ngày con sẽ càng thấy dễ tránh khỏi sự đồng hóa với kẻ ngụ. Con chỉ đơn giản thấy nó là như thế và buông bỏ nó một cách vô điều kiện.  

Một lần nữa, tự ngã và kẻ ngụ sẽ có tác dụng giới hạn những chọn lựa mà con thấy được, hoặc giới hạn khả năng/ý muốn của con để chọn lựa tốt hơn quá khứ. Cho nên chúng ta có thể nói, cho tới khi nào con vượt qua những động lượng cũ, con sẽ không có tự do chọn lựa. Điều ta muốn nói là mặc dù ta không ngừng bảo con là con có quyền tự quyết, nhưng con nên xét xem quyền tự quyết của con thật sự tự quyết đến mức nào. Và tất nhiên, tự do chọn lựa của con sẽ tùy thuộc vào tầm nhìn, tầm nhận biết và ý niệm cái ta của con.   

Võ thuật và sự phát triển tâm linh

Hỏi: Con xin có một câu hỏi về võ thuật. Việc học võ có chính đáng hay không, nghĩa là không phải để ra tay giết người mà để tự vệ và điều hướng nội khí. Con thắc mắc là khi thày sang phương Đông, thày có học võ thuật hay không. Có lẽ là không, nhưng thày có thể đã gặp các vị sư sử dụng võ thuật như trong phái Thiếu Lâm. Con cũng thắc mắc không hiểu Kung Fu và Tai Chi có phải là những cách chính đáng để sử dụng năng lượng của Thượng đế hay không.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung giam Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Chắc chắn là có nhiều sự thật và nhiều giá trị trong một vài hình thức võ thuật. Hẳn là đã có nhiều người tìm được đường tu tâm linh phổ quát bằng cách sử dụng võ thuật như một nấc thang để bước vào một con đường vượt khỏi mọi nhãn hiệu lẫn mọi sự chia rẽ vỏ ngoài như nhu cầu tự vệ, làm chủ xác thân vật lý hay ngay cả điều ngự luồng Khí.    

Nhưng như mọi lãnh vực khác trên địa cầu, võ thuật cũng có thể bị biến chất. Con thấy được hiện tượng này tại cả phương Đông lẫn phương Tây, đặc biệt là tại phương Tây bởi vì hai lý do. Một là võ thuật đã đặt quá nhiều trọng tâm vào nhu cầu tự vệ. Nếu con tiếp cận võ thuật trong tinh thần sợ hãi thì việc tập tành võ thuật có thể khuếch đại nỗi sợ hãi đó và cuối cùng dẫn đến chứng hoang tưởng.  

Thật vậy, một số người đã chuyển dòng khi của họ đi sai hướng và trở nên hoang tưởng, luôn luôn nghĩ rằng có ai đó muốn làm hại mình. Điều này có thể  đẩy ý muốn tự vệ của họ đến cực điểm, khiến họ cho rằng việc tập tành để giết chết một đối thủ qua kỹ thuật võ công là một chuyện chính đáng và cần thiết. Kỳ thực, môn võ thuật không bao giờ được lập ra để gây chết người. Các vị sáng lập chỉ có ý giúp người ta tự phòng thủ mà không giết người, và phương thức này đã vô cùng hiệu nghiệm trước khi có người sáng chế ra súng ống là một phương tiện giết người từ xa.  

Ta mạnh mẽ khuyên nhủ mọi người nên lánh xa các môn võ thuật chỉ dạy kỹ thuật giết người. Một số thày võ đã chụp lấy lời dạy nguyên thủy của võ thuật rồi biến chế thành một phương thức cực đoan. Những người thày như vậy thường bị thúc đẩy bởi sợ hãi, và học trò thì khó lòng nào vượt lên cao hơn tâm thức của thày.  

Lý do thứ hai đã làm tha hóa võ thuật là lòng kiêu hãnh. Điều này thường xảy ra tại phương Tây nhiều hơn là phương Đông mặc dầu ở phương Đông cũng không phải là không có. Tại phương Tây, người ta thường bị cuốn hút vào tinh thần tranh đua hão huyền, và võ thuật bỗng nhiên trở thành một cách tranh đua với người khác để chứng tỏ là mình hơn người. Luồng Khí bị hướng đi sai lối và mọi khía cạnh tiêu cực trong tâm thức người đó bị khuếch đại, đặc biệt là lòng kiêu hãnh và kiêu ngạo như trong trường hợp này. Rất nhiều người tập võ bị làm mồi cho cám dỗ tinh tế này, và rốt cuộc họ sử dụng năng lượng trinh nguyên của Thượng đế để phóng đại ham muốn hư danh của tự ngã. Giản dị, đây không phải là mục đích thực sự của những hình thức võ thuật chân chính.   

Nếu con đi ngược trở về nguồn gốc của bất kỳ phong trào võ thuật nào, con cũng sẽ tìm thấy muc tiêu thực sự của võ thuật không phải là tự vệ. Đó chỉ là một khía cạnh thực tiễn của võ thuật, khởi sinh từ những thời buổi bạo lực và sơ khai hơn. Nhưng mục đích thật của võ thuật là sự tăng trưởng tâm linh qua việc điều ngự các năng lượng của thế giới vật chất và sự hướng dẫn năng lượng tâm linh xuyên qua tâm thân. Mục tiêu thật của võ thuật không bao giờ là làm cho cơ thể trở nên toàn hảo mà là biến cơ thể thành người đầy tớ khiêm nhu, vâng lời, của tâm. Đây mới chính là muc tiêu thực sự của mọi cách tiếp cận võ thuật.

Trong thế giới ngày nay, có rất nhiều người chưa sẵn sàng ôm lấy con đường tu tâm linh qua những giáo lý thuần túy tâm linh. Đối với những người như thế, đặc biệt là giới trẻ, võ thuật có thể là một lối vào khả dĩ sẽ dẫn họ đến việc khám phá ra đường tu tâm linh một khi họ già dặn hơn. Tất nhiên, điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ không bị cuốn vào hai đối cực của sợ hãi và kiêu ngạo.  

Riêng ta đã được học hỏi nhiều giáo lý của phương Đông khi ta du hành đến đó, nhưng ta chỉ tập trung vào các giáo lý tâm linh thuần túy chứ không được học võ thuật.

Giáo lý nền tảng về sứ vụ thiêng liêng và quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Giê-su thân kính, con đang cố tìm hiểu xem sứ vụ thiêng liêng nghĩa là gì, chứa đựng những chi tiết gì và liên quan thế nào với quyền tự quyết. Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là con rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến và sử dụng quyền tự quyết của mình?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Con vừa đặt một câu hỏi từng làm bối rối rất nhiều người tầm đạo khi lần đầu tiên họ nghe nói về sự kiện là họ có một sứ vụ thiêng liêng hoặc một mục tiêu cao cả hơn. Câu hỏi của con đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi cái nhìn của các tôn giáo truyền thống – kể cả đạo Cơ đốc – mô tả Thượng đế như là một sinh thể nóng giận ở trên trời đang áp đặt ý muốn của ngài lên trên con và phán xét con một cách nghiêm khắc nếu con không tuân theo lời ngài như một con rô-bót.   

Để giải quyết bí ẩn, con cần suy ngẫm sự kiện Thượng đế đích thực không hề là một sinh thể nóng giận trên trời. Tuy nhiên, con cũng nên soi gương và nhận ra rằng hầu hết mọi người đều mang một sự mâu thuẫn nội tâm về sứ vụ thiêng liêng của mình. Chẳng hạn, con hãy đọc lại chính câu hỏi của con:

“Con được hiểu rằng tất cả chúng con đều đã thảo ra một sứ vụ cá nhân trước khi hiện thân trên địa cầu. Vậy liệu chúng con sẽ phải tuân thủ sứ vụ này từng điểm y như là rô-bót, hay là còn chỗ cho chúng con tùy cơ ứng biến bằng cách sử dụng quyền tự quyết?” 

Con thấy chăng là có nhị nguyên được ngụ ý trong đó, tức là có một tin tưởng vi tế rằng nếu con tuân thủ sứ vụ thiêng liêng của con thì nó sẽ tước mất quyền tự quyết của con và biến con thành rô-bót? Nhưng ai đã thảo ra sứ vụ thiêng liêng chứ? Tất nhiên là con đó! Làm thế nào con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con? Bằng cách con chọn lựa với toàn quyền tự quyết của con!

Đồng ý là con có nhận được sự trợ giúp của các vị thày tâm linh của con, nhưng thày tâm linh đích thực không bao giờ ép buộc con chọn lựa như thế nào. Các thày chỉ trình bày cho con một số sáng ngộ có thể giúp con chọn lựa tốt nhất mà thôi. Cho nên sứ vụ thiêng liêng của con hoàn toàn thể hiện quyền tự quyết của con, vậy thì làm sao việc tuân theo có thể biến con thành người máy rô-bót được đây? Nhưng điều mà câu hỏi của con bộc lộ ra một cách trung thực là, cũng như đối với rất nhiều người khác, có một sự mâu thuẫn giữa ý muốn cao xa và ý muốn trước mắt của con. Vì vậy, câu hỏi thực sự mà con cần suy ngẫm là liệu cái ý muốn mà con có ngay bây giờ – ý muốn ý thức của con – có thật tự do, có thật tự quyết hay không?

Đối với hầu hết mọi người khi đi xuống hiện thân, họ quên hết tất cả cuộc sống của họ trước đó, kể cả về sứ vụ thiêng liêng. Khi lớn lên, họ chịu ảnh hưởng của gia đình và xã hội khiến họ xây dựng một số kỳ vọng về cuộc đời, và những kỳ vọng này có thể đi ngược lại sứ vụ thiêng liêng của họ. Chẳng hạn, đa số phải chịu áp lực từ bên ngoài khi có người chung quanh, kể cả chính gia đình họ cũng như một số cơ chế trong xã hội, muốn kiểm soát và kềm giữ họ trong những khuôn khổ nhất định. Ta có thể bảo đảm với con rằng sứ vụ thiêng liêng của con không hề định ra là mục đích tối thượng trong kiếp này của con là trở thành một kẻ tiêu thụ gương mẫu, luôn luôn muốn có nhiều sở hữu hơn, nhiều thoả mãn tình dục hơn, nhiều danh giá hơn từ một xã hội vốn ưa chuộng sự hời hợt. Và sứ vụ thiêng liêng của con cũng không hề bảo con phải ở lại trong nhà tù mà giai cấp thượng lưu cai trị đã định ra cho con – hay ngay cả giai cấp cai trị của tôn giáo bảo con là một kẻ tội lỗi khốn nạn sẽ không bao giờ thực hiện được những việc mà Giê-su đã làm.

Trái lại, đa số người tâm linh đều có một sứ vụ thiêng liêng nói rằng mình sẽ thách thức hiện trạng của mình bằng cách chứng tỏ là mình có thể sống tâm linh hơn ngay cả trong một xã hội hiện đại, khoa học, duy vật và hoài nghi. Vậy thì cái gì thực sự thúc đẩy con chạy theo một tiêu chuẩn vỏ ngoài như rô-bót chứ? Phải chăng đó là sứ vụ thiêng liêng hay là tiêu chuẩn của xã hội, tiêu chuẩn của thế gian – mà ta từng gọi là “Ma-môn”? Hẳn con có nhớ, ta từng nói rõ là con không thể phục vụ hai chủ, con không thể cùng một lúc phục vụ Thượng đế – như là biểu tượng của sứ vụ thiêng liêng – lẫn Ma-môn – như là biểu tượng cho các tiêu chuẩn mà thế gian áp đặt lên con. Có thể nói, sứ vụ thiêng liêng của con không phải là một tiêu chuẩn vỏ ngoài mà là một chuẩn mực nội tâm, trong khi tiêu chuẩn của xã hội thì rõ ràng đến từ ngoài.

Hầu hết mọi người đều từng trải nghiệm một số tình huống khi họ bị cảm xúc choáng ngợp đến độ họ không thể suy nghĩ tỉnh táo, rồi họ lấy những quyết định mà sau này họ hiểu ra là không tối ưu. Lý do là vì sự dính líu, sự dính mắc của con đối với tình huống đó đã dựng lên một bức màn che phủ tâm con và ngăn cản con suy nghĩ tỉnh táo. Y như thế, việc bước vào xác thân vật lý cũng giống như con bước ra đằng sau một bức màn vậy, khiến con không thể nhìn cuộc sống một cách khách quan và tỉnh táo như khi con còn ở ngoài thân xác. Điều ta muốn nói là vào lúc con thảo ra sứ vụ thiêng liêng của con, con không bị bức màn hiện thời của con che chắn.    

Chắc chắn việc sử dụng quyền tự quyết phải dựa trên nền tảng một viễn kiến tối ưu về mọi chọn lựa và mọi hậu quả có thể có. Vì vậy khi con thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã chọn lựa một cách tự do hơn so với ngay bây giờ, bởi vì giờ đây con bị che chắn phần nào bởi bức màn mà con đã dựng lên trong kiếp này. Khi nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con như có trong tay cái kim chỉ nam sẽ giúp con nhìn xa hơn những dính mắc tình cảm cùng kỳ vọng ngắn hạn, hầu con quyết định tốt hơn trong một viễn quan tổng thể rộng lớn. Ngược lại, nếu con chỉ hành xử theo ý thích nhất thời mà không suy xét đến hậu quả dài hạn, thì thật sự con không đang sử dụng quyền tự quyết của con, bởi vì nếu viễn kiến của con bị che lấp, làm sao con có thể thực sự tự quyết?

Nói vậy rồi thì ta cũng phải nói rõ rằng sứ vụ thiêng liêng KHÔNG PHẢI là cái áo tù bó chặt tay chân con. Đi theo sứ vụ thiêng liêng không có nghĩa là toàn bộ đời con được vạch sẵn trong từng chi tiết nhỏ nhặt. Trái lại, mọi sự việc trong đời con đều xoay quanh quyền tự quyết của con, cho nên sứ vụ không được thảo ra để bảo con phải làm gì. Con chỉ có thể phát triển qua những quyết định mà con lấy, và toàn bộ mục đích của sứ vụ là đưa con vào một số tình huống sẽ giúp con lấy những quyết định tốt nhất, tức là những quyết định sẽ cho con quyền năng khắc phục những tin tưởng gây giới hạn của con để tự do biểu đạt tiềm năng vô biên của con trong một thế giới đầy hạn chế.    

Ở trung tâm sứ vụ thiêng liêng là những bài học mà con cần học trong kiếp này, là những bài học thích ứng với cả sứ mạng dài hạn khi con bước vào vũ trụ vật chất, lẫn sứ mạng ngắn hạn khi con vươn lên trên những hạn chế nhị nguyên mà con đã chấp nhận cho con. Mục đích tổng thể là giúp con đạt được tự do biểu đạt cá thể và tiềm năng thiêng liêng của con. Tuy nhiên để thực hiện điều này, con phải vượt qua các hạn chế hiện thời của con, và con sẽ chỉ làm được chuyện này khi con nhìn ra một cách ý thức rằng các hạn chế đó đều không thực, và con quyết định buông bỏ chúng.

Bất cứ hành giả tâm linh trung thực nào cũng biết là có một thế lực trong tâm lý mình luôn kháng cự lại tăng trưởng, kháng cự lại thay đổi – mà người ta thường gọi là tự ngã. Thế lực này sẽ tìm cách khiến con né tránh mọi công việc khó khăn, nó sẽ muốn con đi theo con đường trơn tuột, dễ dãi nhất. Con đường này ta từng gọi là con đường rộng dẫn đến hủy diệt, và đó không là con đường hẹp dẫn đến phát triển tâm linh. Cho nên khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng, con đã dự tính xu hướng này, kể cả những lần trong tiền kiếp con từng rơi vào bẫy của nó. Vì thế nhiều người thiết lập sứ vụ thiêng liêng của mình với ý định tự buộc mình phải kinh qua một số tình cảnh – và phải kinh đi kinh lại nhiều lần – hầu ép mình phải đối mặt với những bài học mà mình cần học.

Hiển nhiên những điều này sẽ không dễ chịu chút nào một khi con đầu thai trong thân xác và quên mất là chính mình đã mong muốn những hoàn cảnh khó khăn đó. Con sẽ thường tự hỏi tại sao con cứ thu hút cùng những vấn đề hoài hoài, và con sẽ có xu hướng tin theo tự ngã bảo rằng các vấn đề đó không phải là lỗi con, và con phải trốn né thay vì đương đầu và học bài học. Cho nên đúng là trong sứ vụ thiêng liêng của nhiều người có một yếu tố bó buộc, bởi vì khi con đứng cao hơn tấm màn của thế gian, con thừa biết rằng chuyện trốn chạy thật quá dễ dàng khi mình bị tấm màn che mắt. Tuy nhiên, một khi con đã hiểu được cốt lõi vấn đề, liệu con còn nói được là sứ vụ thiêng liêng đi ngược lại quyền tự quyết của con không? Hay là sứ vụ thiêng liêng thật ra đang cố ngăn con bị khuất phục bởi ý muốn nhất thời, nhị nguyên và ích kỷ của tự ngã?   

Vậy sứ vụ thiêng liêng gồm chứa những chi tiết gì? Đây là một chuyện rất cá nhân, nhưng đối với hầu hết mọi người, phần lớn sứ vụ là nhằm quân bình những nghiệp quả mà con mang với một số người. Cho nên sứ vụ nêu rõ con sẽ đầu thai với những ai trong gia đình, những ai làm phối ngẫu và những ai mà con sẽ gặp trong kiếp này. Nhưng con cần lưu ý, mục đích chủ yếu ở đây là cân bằng nghiệp quả, tức là trên hết con cần tha thứ hoàn toàn cho những người đó và thiết lập một mối quan hệ yêu thương. Nói cách khác, mục đích thực sự là bằng cách giải thoát người khác, chính con cũng sẽ tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc nghiệp tạo với họ.

Cho nên mục đích khi con gặp một người nào đó là để học hỏi một bài học và quân bình nghiệp quả với họ. Sứ vụ thiêng liêng không nhất thiết sẽ nói rõ con phải quân bình thế nào, phải có loại quan hệ nào với họ, hay liệu quan hệ đó có phải kéo dài suốt đời hay không. Chẳng hạn, điều rất thường xảy ra là khi hai người gặp nhau, sự ràng buộc nghiệp tạo mà họ có với nhau sẽ khiến họ bị thu hút mạnh mẽ – và điều này chỉ cho thấy cả hai đều mong muốn giải quyết nghiệp quả và được tự do. Nhưng nếu hai người đó khác giới tính – hay cùng giới tính trong thời buổi này –họ thường cho rằng lực hấp dẫn đó có nghĩa là họ phải có quan hệ tình dục với nhau.

Trong chiều dài lịch sử, chuyện này đã gây ra không biết bao nhiêu khổ đau khi nó tạo ra những mối quan hệ nơi cả hai người đều cảm thấy mình bị kẹt cứng. Nó cũng đã khiến cho vô số quan hệ bền vững bị đổ bể chỉ vì một bên cảm thấy mình phải chạy theo đối tượng cám dỗ nghiệp tạo mới nhất. Con có thấy chuyện gì xảy ra khi con người bị đui mù bởi tấm màn của hiện thân vật lý rồi cứ thế chạy theo những kỳ vọng phàm phu của mình và khởi sự những quan hệ mới trong khi mình có thể cân bằng nghiệp quả của mình một cách khác? Con có thấy là một số người cứ nhảy từ quan hệ này sang quan hệ kia mà không thực sự học được bài học mà đáng lý họ phải học? Trong mỗi quan hệ mới, họ cắm đầu đuổi theo giấc mộng quan hệ lý tưởng, nhưng thực tế là họ sẽ không bao giờ có được quan hệ lý tưởng khi nào họ chưa học được bài học mà họ cần học.  

Điều ta muốn nói ở đây là sứ vụ thiêng liêng của con có thể định rõ con sẽ gặp và quan hệ với ai đó để cân bằng nghiệp quả, nhưng sứ vụ có thể không nói rõ là con phải có quan hệ vật lý, tình dục với họ. Ngược lại là đằng khác, quan hệ tình dục nhiều khi lại khiến con gây thêm nghiệp quả, bởi vì ngay sau khi tuần trăng mật chấm dứt, nghiệp quả cũ sẽ khiến cho cả hai người khó lòng thuận hòa với nhau trong một quan hệ truyền thống. Rất có thể cả hai sẽ cảm thấy mình bị kẹt cứng rồi đổ lỗi cho nhau, và điều này đi ngược lại đòi hỏi là phải tha thứ và giải phóng cho nhau. Và như vậy, một quan hệ được dự định là sẽ giải phóng cả hai bỗng nhiên trở thành một sợi dây buộc cả hai lại chặt hơn nữa.

Đương nhiên là giữa con người với nhau có rất nhiều hình thức quan hệ khác nhau, và có khi con sẽ cần kết hôn với một ai đó để cân bằng nghiệp quả với họ – bởi vì trong một mối quan hệ cam kết với nhau, con sẽ khó lòng hơn trốn chạy bài học của con. Tuy nhiên, ta muốn đưa ra hai điểm này cho con suy ngẫm:

  • Trong sứ vụ thiêng liêng luôn luôn có chỗ để con chọn lựa. Con có thể mang nghiệp với một người nào đó nhưng thường con sẽ có nhiều cách để cân bằng nghiệp quả với họ. Thật sự là nếu ngay khi gặp họ mà con tha thứ một cách toàn diện, thì rất có thể con sẽ không cần tiếp tục quan hệ với họ nữa.
  • Bằng cách bước ra khỏi các kỳ vọng thế phàm của con – là tấm màn đang che mắt con – và kết nối lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ có được một tầm nhìn sáng rõ hơn sẽ giúp con tránh được rất nhiều lỗi lầm trong thế giới vật lý. Con có thể tránh một số hành vi mang nặng hậu quả vật lý, và thay vào đó, con học bài học và cân bằng nghiệp quả trước khi nghiệp chướng thị hiện qua hình thức một tình huống vật lý mà con sẽ khó lật ngược hơn nếu nó đã lỡ thị hiện. Và con sẽ tránh được chuyện phải kinh đi kinh lại cùng một vấn đề hoài hoài.    

Một cách thiết thực để tránh lao vào những tình huống mà người khôn ngoan sẽ tránh như đỉa, là học được thói quen lùi lại một bước trước khi lấy những quyết định quan trọng. Con hãy xem xét những dính mắc của con đối với một tình thế nào đó – liệu con có cảm thấy mình bị thôi thúc giống như mình bị bó buộc phải làm một điều gì, như mình không có chọn lựa nào khác? Thường là sau khi phạm lỗi lầm to lớn, người ta hay thốt lên: “Nhưng tôi không có chọn lựa nào khác!” Sự thật là con LUÔN LUÔN có nhiều hơn là một chọn lựa, nhưng vì con đã cho phép tình thế choáng ngợp con, con chỉ thấy được một chọn lựa mà thôi.

Bằng cách lùi lại một bước trước tình huống trong ý thức và nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng, con sẽ tránh được hình thức mù quáng tâm linh đó. Chỉ khi nào con thấy rõ là con có nhiều hơn một chọn lựa thì con mới có thể chọn lựa tự do. Con KHÔNG THỂ chọn lựa tự do nếu con nghĩ con chỉ có một chọn lựa duy nhất.

Thật ra nếu con khôn ngoan, con sẽ không bao giờ bước vào một mối quan hệ mật thiết mà không thỉnh cầu trước tiên cho mọi nghiệp chướng được cân bằng và hết sức cố gắng vượt qua mọi dính mắc ràng buộc mà con cảm nhận được. Nếu con cảm thấy không sẵn lòng từ bỏ một mối quan hệ, thì đây là dấu hiệu chắc chắn cho thấy còn có điều gì đó chưa được giải quyết, và nếu con cứ bước tới mà không giải quyết nó thì rất có thể nó sẽ phá hỏng mối quan hệ của con. Người nào tìm cách cứu lấy đời mình sẽ đánh mất nó, nhưng người nào sẵn lòng từ bỏ đời mình để đổi lấy sự tăng trưởng sẽ tìm được một sự sống cao hơn.

Thật ra, chuyện xảy ra rất thường là một mối quan hệ nghiệp tạo có thể ngăn con gặp được người mà con có thể có quan hệ sâu xa hơn. Nhiều người đã chiêm nghiệm chuyện này: khi họ từ bỏ một quan hệ nghiệp tạo – bằng cách hoàn toàn tha thứ cho người kia – thì cơ hội sẽ mở ra để họ tìm được một mối quan hệ tâm linh hơn, sâu sắc hơn. Tất nhiên, điều này không chỉ áp dụng cho các mối quan hệ, bởi vì khi con sẵn sàng buông bỏ bất cứ dính mắc nào với một loại hoàn cảnh nào đó, thì rất thường khi con sẽ mở cửa cho một tình huống tốt đẹp hơn thị hiện. 

Sứ vụ thiêng liêng của con gồm có hai yếu tố chính. Một là những công việc cần phải thực hiện, cụ thể là cân bằng nghiệp quả từ những kiếp trước, và hai là phần hứng thú của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh, là những việc làm, là món quà mà con muốn dâng hiến cho thế gian này. Nhiều người tâm linh cố tình đương đầu với các thử thách nghiệp quả của mình thật sớm trong đời mình, rồi họ cố trả cho xong để được tự do bắt tay vào phần vụ thần thánh của mình, là phần việc sẽ chỉ được mở khóa khi nghiệp quả được cân bằng.  

Vấn đề, dĩ nhiên, là rất nhiều người bị kẹt lại trong phần quan hệ nghiệp tạo – nghĩa là họ gây thêm nghiệp thay vì cân bằng nghiệp – và vì vậy họ không bao giờ tới được giai đọan đóng góp thần thánh. Con có khả năng gia tốc rất mạnh tiến trình trả quả của con bằng cách áp dụng điều ta dạy ở đây, đặc biệt là sự tha thứ đối với tất cả những ai mà con cảm thấy có dây buộc nghiệp quả, tức là tất cả những ai mà con có mối quan hệ không mấy hài hòa. Con hãy tiếp cận mỗi mối quan hệ với thái độ là nó chỉ nhằm giúp con – lẫn người kia – được giải phóng khỏi dây nghiệp hầu cả hai có thể bước tới trong cuộc đời. Và con hãy đừng bao giờ quan tâm nếu người kia không đáp ứng tương tự đối với con. Bởi vì nếu con đã thực sự tha thứ cho họ – nếu con thực sự chìa má kia cho họ – thì con sẽ được giải thoát khỏi quan hệ nghiệp tạo cho dù người kia vẫn khăng khăng bám lấy.  

Con có thể nhanh chóng học cách nhận diện những tình huống gò bó, thiếu tự do khi con muốn đi theo sứ vụ thiêng liêng, và dấu hiệu rõ nhất là khi con cảm thấy căng thẳng và dính mắc. Và mặc dù những dính mắc này luôn luôn đến từ tự ngã, nếu con tự xét trung thực thì con sẽ nhận ra là dính mắc chỉ có quyền năng trên con bởi vì cái Ta Biết của con đã không sẵn sàng nhận trách nhiệm trọn vẹn về đời con. Con cần nhận ra là một mục đích chủ yếu của sứ vụ thiêng liêng là giải phóng con khỏi sự kiểm soát của tự ngã cũng như các thế lực của thế gian. Cho nên tất nhiên, tự ngã sẽ không muốn con phát hiện sứ vụ thiêng liêng của con, và nó tìm đủ mọi cách khôn khéo để cố tránh né chuyện đó. Và đây là những mánh lới thông thường nhất mà nó dùng:

  • Tự ngã cố khiến con bị dính chặt vào các kỳ vọng đời sống mà con đã dựng lên trong kiếp này, hầu con để cho kỳ vọng đó phản lệnh sứ vụ thiêng liêng của con. Có vô số cách để nó ngụy trang mánh này, chẳng hạn khi nó bảo con phải sống đời con theo tiêu chuẩn của gia đình và xã hội.
  • Tự ngã cố khiến con chấp nhận một loạt những hạn chế về những gì mà con người có thể làm, mà qua đó con phủ nhận con là một sinh thể tâm linh. Con phủ nhận con có tiềm năng vươn lên khỏi nghiệp quả cùng các vấn đề tâm lý hầu thể hiện tiềm năng Ki-tô của con.
  • Tự ngã cố khiến con bị vướng mắc vào quan hệ nghiệp tạo đến độ con không thể tha thứ cho người khác hầu con được tự do bước tới và khởi sự phần vụ thần thánh của con.
  • Tự ngã cố khiến con tin rằng các quan hệ khó khăn của con đều do lỗi của người khác, hầu nó có thể ngăn con học được bài học mà CON cần học.
  • Tự ngã cố đánh lạc hướng sự chú ý của con để con đeo đuổi những chuyện của thế gian và không còn thì giờ và chú ý để ngó tới sứ vụ thiêng liêng của con.

Bây giờ chúng ta đã thấy được hai điểm chính đang ngăn chặn con khám phá và đi theo sứ vụ thiêng liêng:

  • Nghiệp quả từ tiền kiếp,
  • Các vấn đề tâm lý chưa giải quyết khiến con cảm thấy dính mắc.

Điều đó có khả năng biến cuộc đời của con – cũng như nhiều kiếp sống sắp tới – thành một cái máy chạy bộ trên đó con sẽ chạy hoài mà không tới đích, và con sẽ không bao giờ khởi sự thực hiện sứ vụ thiêng liêng của con. Để phá vỡ chu kỳ này, con hãy làm như sau:  

  • Hãy nhìn trung thực vào đời con và xem xét những vấn đề mà con cứ gặp đi gặp lại hoài hoài. Hãy sẵn sàng nhìn nhận là các vấn đề này đang che giấu một bài học mà con chưa học. Xong hãy quyết tâm học bài học đó.
  • Học một bài học thường có nghĩa là phát hiện một vấn đề tâm lý đang kềm giữ con lại. Vấn đề đó chưa giải quyết vì cho tới giờ con không sẵn lòng xem xét nó. Cho nên hãy xem xét nó ngay bây giờ và làm mọi điều cần thiết để vượt qua, kể cả những hình thức trị liệu thích hợp.
  • Hãy xem xét các niềm hy vọng và giấc mơ cao nhất của con, rồi lượng định xem những giới hạn đang gò bó con trong kiếp này đã khiến con bác bỏ những giấc mơ đó như thế nào, có khi trước cả khi con dám nghĩ tới chúng. Con hãy cả gan vượt qua các giới hạn đó và kết nối với giấc mơ cao nhất của con.
  • Hãy quyết tâm sử dụng ngọn lửa tím cùng các bài thỉnh và bài nguyện tràng hạt để thiêu hủy mọi nghiệp quả liên quan đến những tình cảnh cụ thể hay đời con nói chung.
  • Lùi lại và tìm kiếm tầm nhìn cao hơn vượt lên trên mọi dính mắc. Hãy sẵn sàng nhìn vào những gì tự ngã con không muốn con nhìn và những gì chính con cũng không sẵn sàng nhìn. Hãy sẵn sàng nhìn thấy một điều gì đó cho dù nó đòi hỏi con phải thay đổi đáng kể trong lối sống hay cách nhìn của con về cuộc đời. Con có thể sử dụng kỹ thật hoà điệu của ta để có được viễn kiến sáng rõ hơn.

Có thể nói, đời con có hai giai đoạn riêng biệt. Một giai đoạn là cân bằng nghiệp quả, và điều này đòi hỏi con phải sống một cách nào đó – một cách sống chịu ảnh hưởng nặng nề của những tiêu chuẩn trong gia đình lẫn xã hội bởi vì con đã đầu thai trong hoàn cảnh đó do nghiệp quả của con. Một khi con đã đi muốt phần nghiệp chướng nói trên, con mới có thể khởi sự giai đoạn hứng thú hơn của sứ vụ thiêng liêng, tức là phần vụ thần thánh. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, con thường phải kinh qua một sự chuyển vọt ngoạn mục trong cách nhìn cuộc sống cũng như lối sống vật lý. Và nếu con còn dính mắc bất kỳ điều kiện nào của giai đoạn trước, thì con sẽ đơn giản không sẵn lòng thay đổi, và như thế tâm ý thức của con sẽ ngăn chặn sứ vụ thiêng liêng khỏi tầm nhìn của con.

Để tránh cái bẫy này, con cần đánh giá lại cuộc đời con và nỗ lực nhìn xa hơn mọi dính mắc. Một khi con lùi lại một bước để mở rộng tầm nhìn, con sẽ thấy tầm nhìn của con về đời sống cũng như về một hoàn cảnh nào đó thay đổi như trong phép lạ. Đám mây mù bỗng nhiên chẻ đôi ra và con nhìn thấy rõ hơn. Thường khi, cái mà trước kia con tưởng là chọn lựa duy nhất bây giờ hiện ra là chọn lựa dở nhất trong hoàn cảnh đó. Và những chọn lựa mới mà bây giờ con thấy được đều dẫn đến kết quả tốt đẹp hơn. Hoặc nữa, con thấy cái mà con tưởng là cách sống duy nhất thật ra không thể đem lại cho con sự tràn đầy mà con thực sự mong muốn. Bây giờ con thấy được nhiều cách khác để đạt sự tràn đầy đó, và do đó con sẵn lòng thay đổi lối sống trong chiều hướng đó.      

Nếu con muốn có những chọn lựa tốt nhất cho đời con, con hãy luôn luôn tìm cách nối kết lại với sứ vụ thiêng liêng của con. Hãy chắc chắn rằng con không bị kẹt lại trong giai đoạn “công việc” của sứ vụ thiêng liêng để rồi không bao giờ vào được giai đoạn hứng thú nhất. Sứ vụ thiêng liêng quả thực là người bạn tốt nhất của con, là kim chỉ nam tốt nhất để con tận dụng tối đa kiếp đầu thai này. Và khi nào con còn coi sứ vụ thiêng liêng là một chuyện ép buộc từ một thế lực ở ngoài thì con vẫn chưa thực sự kết nối với nó. Cho nên con hãy lùi lại một bước và nhìn lại một lần nữa – con hãy gõ cửa mà không dính mắc thì cánh cửa sẽ mở ra cho con.

Ghi chú: Sách của Mẹ Mary và quyển sách về sứ vụ thiêng liêng (Fulfilling your Divine Plan) chứa đựng rất nhiều lời dạy về sứ vụ thiêng liêng. Con cũng có thể thực hiện tuần cầu nguyện chín ngày với Đại Chỉ đạo Thiêng liêng để có viễn kiến rõ hơn về sứ vụ thiêng liêng của mình.

Lựa chọn không tạo ra thực tại thay thế

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con chỉ tò mò không biết có hay không những thực tại thay thế (alternative realitites)? Chẳng hạn, con hiện đang làm việc như một nhân viên an ninh, nhưng trong một thực tại thay thế, con có thể là tổng thống. Những thực tại này có thật hay không? Nếu thực tại thay thế có thật, vậy con thực là cái nào? Trong mỗi thực tại thay thế, liệu con có một dòng sống khác, hay là có một dòng sống khác đang sống cuộc đời với tư cách là con?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Tất cả tùy thuộc vào con định nghĩa thực tại thay thế là thế nào. Nếu con định nghĩa giống như trong phim hay trong truyện khoa học giả tưởng, câu trả lời sẽ là: nó không có thật. Ngay cả giả thuyết mà một số nhà vật lý lượng tử đưa ra về thực tại thay thế cũng không chính xác. Nói cách khác, nếu con ở trong một tình huống với 10 lựa chọn khác nhau và tình huống này tạo ra 10 thực tại thay thế trong đó có con – hay một hình thức nào đó của con – hiện hữu trong mỗi thực tại, thì điều này cũng không đúng.  

Con thử tưởng tượng trên địa cầu có bao nhiêu người, mỗi người có bao nhiêu lựa chọn mỗi ngày và có bao nhiêu thực tại thay thế được tạo ra chỉ trong một ngày? Mọi thứ trong vũ trụ vật chất đều có hạn. Một dòng sống được tạo ra với một tâm thức và sự chú ý có hạn. Nếu thực tại thay thế có thực, mỗi thực tại sẽ phải chứa một phần tâm thức và một phần chú ý của con, có nghĩa là dòng sống của con sẽ nhanh chóng hao tổn chất sống đến độ nó sẽ mất hết ý thức bản sắc lẫn cá thể.

Như ngành vật lý lượng tử giải thích, trước khi một nhà khoa học thực hiện một cuộc quan sát, một hạt hạ nguyên tử hiện hữu trong cõi xác suất. Có thể có rất nhiều xác suất khác nhau, thế nhưng khi ông ta thực hiện quan sát, chỉ có một xác suất trở thành hiện thực mà ông nhận biết là một hạ nguyên tử. Ở điểm này, tất cả các xác suất khác đều biến mất (sóng lượng tử co sụp) và thế gian chuyển sang một trạng thái mới. Bây giờ vẫn có một cõi xác suất, tuy nhiên cõi này không còn chứa những xác suất cũ nữa. Thay vào đó có một bộ xác suất mới dựa trên những thay đổi mà cuộc quan sát đã tạo ra.

Một điều rất tương tự như vậy cũng xảy ra trong hoàn cảnh đời sống hàng ngày khi con chọn lựa. Trong một tình huống nào đó, con có thể có 10 lựa chọn mà con có thể chọn. Nhưng khi con chọn rồi, chỉ có một trong số 10 cái đó mới trở thành thực tại được hiển thị, và những chọn lựa kia không còn nữa. Con nay đã tạo ra một hoàn cảnh mới với một số chọn lựa mới mở ra cho con.

Con có thể hiểu điều này khi con suy ngẫm về tầm quan trọng của quyền tự quyết. Con ở trên địa cầu để học hỏi và con học hỏi bằng cách chọn lựa rồi gặt hái hậu quả của những chọn lựa đó. Một trong những hậu quả là nếu chọn lựa của con không phù hợp với quy luật của Thượng đế, con sẽ khiến cho chọn lựa tương lai của con bị hạn hẹp lại. Nếu mà như con nói, tất cả mọi chọn lựa đều tạo ra những thực tại thay thế, thì một chọn lựa sẽ không làm những cái kia biến mất, vậy làm sao dòng sống của con học hỏi được gì?

Sự thật đơn giản là chỉ có một người duy nhất là con, có nghĩa là chỉ có một sinh thể tự nhận biết duy nhất với ý niệm bản sắc đặc biệt mà con đang có ngay lúc này. Đúng là con là nhiều hơn những gì con đang trải nghiệm trong nhận biết ý thức, tuy nhiên cái nhiều-hơn đó không hiện hữu trong một loại thực tại thay thế được mô tả trong phim viễn tưởng. 

Cái nhiều-hơn đó hiện hữu trong một cõi khác, như ta đã giải thích trước đây. Cái Ta Biết của con là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và Hiện diện này cư ngụ trong cõi tâm linh. Hiện diện TA LÀ cũng chính là con, mặc dù trong lúc này con có thể xem mình là cái gì khác hay tách rời khỏi Hiện diện. Dù sao đi nữa, một phần lớn của con đang hiện hữu nơi cõi tâm linh cùng một lúc với cái Ta Biết đang cư ngụ trong thể xác vật lý của con.  

Điều có thể xảy ra là Hiện diện TA LÀ của con có một số cái Ta Biết đang đầu thai cùng một lúc trên địa cầu. Có những cái Ta Biết khác có thể đang hiện thân ở những nơi khác trong vũ trụ vật chất. Vậy trong cái nhìn này, có thể nói là có những phần khác của “bản thân lớn” của con đang hiện hữu trong những thực tại thay thế. Tuy nhiên, những phần khác này là những dòng sống độc lập, và chúng mang những ý niệm bản sắc riêng biệt. Và con thì không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những chọn lựa của chúng trong thế gian này.   

Sự thật căn bản là con chỉ có một, tức là chỉ có một sinh thể với một ý niệm bản sắc đặc biệt của con. Con có khả năng mở rộng ý niệm bản sắc này và kết hợp với phần cao thượng của bản thân con, và điều này sẽ thay đổi lớn lao cách con nhìn chính con. Nhưng trong hiện tại và ở ngay đây, con thực sự là con người mà con nghĩ con là – con là con người mà con xem con là.   

Lệ thuộc vào một vị thày tâm linh

Hỏi: Con nghe có người đồng bóng kia bảo rằng học trò tâm linh không nên bước vào một quan hệ thày/đệ tử bởi vì đệ tử sẽ bị lệ thuộc vào thày. Xin thày cho biết ý kiến?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Về vấn đề con không nên bước vào một mối quan hệ thày/đệ tử, ý tưởng đó cũng có phần giá trị bởi vì một số học trò có thể trở nên lệ thuộc vào vị thày, và ngược lại. Trong cõi vật lý, bất cứ gì cũng là con dao hai lưỡi. Như Thánh kinh được trao cho con người để làm phương tiện phát triển tâm linh, thế nhưng hàng triệu người lại bám chặt vào một cách diễn giải nhất định khiến cho sự phát triển của họ bị chậm lại hay bị thui chột. Điều không thể tránh khỏi trong cuộc đời là ngay cả các dụng cụ mà các chân sư thăng thiên ban cho con làm phương tiện giải thoát, cũng có tiềm năng trở thành một ngõ cụt nơi con bị kẹt lại ở một mức nào đó thay vì tiến bước kế tiếp trên đường tu.

Nhiều học trò trở thành lệ thuộc vào vị đạo sư của mình. Điều này không bao giờ đem lại kết quả. Tuy nhiên, nếu đệ tử có được một đạo sư chân chính, đạo sư đó sẽ luôn luôn tìm cách giúp đệ tử vượt khỏi mối lệ thuộc. Cho nên ta không đồng ý với lời nhận định chung chung rằng con không bao giờ nên bước vào một quan hệ thày/đệ tử. Sự kiện một dụng cụ có thể bị lạm dụng không có nghĩa là con phải vứt bò dụng cụ đó.

Con hãy tưởng tượng có chiếc máy bay trực thăng bay đến để cấp cứu con. Chiếc trực thăng đã đáp xuống mái một toà cao ốc ở gần đó. Tuy nhiên để lên được mái nhà, con phải leo hết cái cầu thang. Mặc dù đúng là con không được lệ thuộc vào cầu thang, nhưng cũng đúng không kém là nếu con không leo cầu thang thì con sẽ không thể lên được mái nhà và được cấp cứu. Quan hệ đạo sư/đệ tử quả thực là một cách khả thi để đạt được phát triển tâm linh nhanh chóng, và rất nhiều người sẽ khó lòng đạt được mức tinh tấn đó nếu họ không có một vị thày bên ngoài hay một vị thày nội tâm.        

Chìa khoá cho vấn đề lệ thuộc là cần nhận ra rằng vị thày bên ngoài chỉ đơn giản là một phương tiện sẽ giúp con thiết lập mối liên hệ ý thức với vị thày bên trong, tức cái ta Ki-tô của con.

Hồn là vật chất hay tâm linh, hay cả hai?

Hỏi: Liệu hồn (soul, linh hồn hay tâm hồn) là vật chất, tâm linh, hay cả hai? Hồn bao gồm năng lượng hay vật chất? Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương. Thế nào là cách hay nhất để giao tiếp với hồn? Xin thày giải nghĩa sự khác biệt giữa linh hồn và Tánh linh? Nhiều người có vẻ lẫn lộn cái này với cái kia, hoặc họ nghĩ cả hai chỉ là cùng một thứ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nhìn vào lịch sử loài người, con sẽ thấy một chuỗi dài những xung đột gần như bất tận. Nếu con nhìn kỹ hơn vào các xung đột, con sẽ thấy rất nhiều những xung đột đó bắt nguồn từ những cách hiểu khác nhau về ngôn từ.  

Khi con phối hợp nhận xét đó với các giáo lý của chân sư về tâm thức nhị nguyên, con sẽ hiểu ra là tâm thức này dẫn đến hệ quả là người ta tưởng mình là những thượng đế có khả năng định đoạt cái gì đúng, cái gì sai. Nói cách khác, tâm thức nhị nguyên khiến mỗi người diễn giải ngôn từ theo cách của mình, Và họ cũng tin rằng cách diễn giải của họ là cách đúng duy nhất và mọi cách hiểu khác đều sai. Sự thể này gây ra hiện tượng mà ta gọi là tư duy bi kịch cuồng đại.

Tâm thức đó đem tới hệ quả là một số từ ngữ, với thời gian, đã trở thành gần như vô dụng cho vị thày tâm linh nào muốn sử dụng. Lý do là vì mỗi người gán cho từ ngữ những ý nghĩa khác nhau, và cuối cùng thì mọi người chỉ còn mức tranh cãi xem ai đúng ai sai. Do đó, thay vì lắng nghe một giáo lý cao hơn, họ chỉ lo bênh vực cho giáo lý họ, cho cách dùng từ của giáo lý họ. Và họ bị lôi cuốn vào vòng tranh luận về chữ nghĩa thay vì tìm sự chiêm nghiệm nội tâm vượt khỏi mọi chữ nghĩa. 

Con nhận xét thấy một số giáo lý tâm linh định nghĩa linh hồn một cách thế này trong khi một số khác định nghĩa thế khác. Một số giáo lý dùng từ “linh hồn” mà không có định nghĩa gì cụ thể vì họ cho rằng ai ai cũng đã biết linh hồn là gì rồi. Đó là lý do chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã quyết định đưa ra những giáo lý rõ ràng hơn về những thành phần mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn. Mục đích của chúng tôi không phải để quy cho mọi giáo lý khác là sai, mà để đưa ra một cách hiểu chi tiết hơn về các thành phần của cái ta, hầu các hành giả tầm đạo có thể vượt lên trên những cách diễn giải khác biệt về từ “linh hồn”.

Chúng tôi nay giảng dạy là cốt lõi của con người là cái Ta Biết. Như con có thể thấy qua cách trình bày này, cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Vì vậy, nó là tâm linh chứ không hề là vật lý. Cái Ta Biết có thể đi xuống vũ trụ vật chất, nhưng bất kỳ năng lượng nào của cõi này cũng không thể biến đổi nó được. Lý do là vì nó được cấu tạo bằng tâm thức chứ không bằng năng lượng. Như ta đã giải thích trong một câu trả lời khác, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng nhưng được sinh tạo BỞI tâm thức. Cái Ta Biết có khả năng hình thành một hình tư tưởng, phóng chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, khiến cho ánh sáng khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Như ta cũng giải thích trong một giải đáp khác, khi cái Ta Biết đồng sáng tạo như vậy, nó có thể mang bản sắc một sinh thể nối kết, hay nó có thể tự xem nó là một sinh thể tách biệt. Nếu nó đồng sáng tạo với cảm nhận tách biệt, những hình tư tưởng và năng lượng thấp kém mà nó tạo ra sẽ không thể đi lên cõi tâm linh. Vì thế chúng sẽ tích tụ lại trong cái ta thấp, hay phàm ngã, và phàm ngã này với thời gian có thể trở thành một ý thức bản ngã vô cùng tinh xảo và mạnh mẽ. Nếu cái Ta Biết tự đồng hóa với ngã tách biệt mà nó đã tạo ra, nó sẽ không thể buông ngã ra khi xác thân vật lý qua đời. Và như vậy, việc tái đầu thai sẽ trở thành chuyện bắt buộc, vì với đầu thai, cái Ta Biết sẽ có thêm một cơ hội để tự tháo gỡ khỏi ngã tách biệt và đạt được tâm thức Ki-tô – và trong tâm thức Ki-tô đó, nó sẽ tự thấy nó đúng là một phần nối dài của Bản thể Thượng đế. 

Vậy khi con nhìn vào một dòng sống đang đầu thai, con sẽ thấy một tổng hợp của cái Ta Biết với ngã tách biệt. Quả là tổng hợp này sẽ đi xuống xác thân vật lý từ một cõi có rung động cao hơn cõi vật chất. Và đó là tại sao một số giáo lý nói rằng cái đang đầu thai chính là linh hồn, và bởi vì nó đã đi xuống xác thân vật lý từ một cõi cao hơn, họ cho rằng nó xuống từ cõi tâm linh và như thế linh hồn phải được sinh tạo nơi cõi tâm linh.

Con có thể hiểu sâu hơn về điều này bằng cách phối hợp với giáo lý của các chân sư về bốn tầng của cõi vật chất. Điều con hiểu ra bây giờ là cái Ta Biết đi xuống từ Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Cái Ta Biết tạo ra, hay khoác lên, một ngã tách biệt trong cõi bản sắc, rồi nó tạo ra những hình tư tưởng dựa trên ngã này trong cõi lý trí và phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua cõi cảm xúc. Do đó, ngã tách biệt hoàn toàn không tâm linh vì nó đã được tạo dựng trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm.

Vậy khi xác thân vật lý chết đi, ngã tách biệt hiển nhiên không thể đi lên cõi tâm linh vì nó đã được cấu tạo bằng năng lượng của các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc. Và khi cái Ta Biết đồng hóa hoàn toàn với ngã tách biệt, chính nó cũng sẽ không thể vượt lên cao hơn, có nghĩa là giữa hai kiếp hiện thân, cái Ta Biết sẽ “cư ngụ ” – tức là sẽ tập trung khả năng tự nhận biết của nó – ở một trong ba thể phàm nói trên. Vì thế, cái mà con thấy đi xuống đã không đi xuống từ cõi tâm linh – trừ khi con định nghĩa “cõi tâm linh” là bất cứ gì vượt trên cõi vật lý và con không nhận diện rõ ràng ba cõi bản sắc, lý trí với xúc cảm. 

Cho nên con có thấy điểm tổng quát mà ta muốn nói? Phần lớn sự lầm lẫn về linh hồn khởi lên từ sự kiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau, hay không có định nghĩa nào rõ ràng, về linh hồn. Nếu con nói rằng linh hồn được tạo ra nơi cõi tâm linh và vì thế nó là Tánh linh, thì lẽ ra linh hồn phải có thể thăng thiên, và sự đầu thai phải không cần thiết. Và nếu con nói rằng linh hồn là vật lý, thì làm thế nào nó có thể thượng thăng lên cõi tâm linh?

Chúng tôi là các chân sư thăng thiên mong muốn đưa ra một cái nhìn chính xác hơn, đó là: cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn được cấu tạo bởi những thành phần khác nhau – trong đó một số là tâm linh, và một số thì cư ngụ nơi các tầng khác nhau của cõi vật chất. Một khi con hiểu điều này, con sẽ tránh khỏi lẫn lộn.

Vậy dựa trên những điều ta vừa nói, chúng ta có thể thấy cái phần thấp kém của dòng sống của con có mấy tầng lớp. Ở mỗi tầng lớp, con có thể tích tụ một số tin tưởng cùng tâm ảnh dựa trên ý thức tách biệt. Sự tích tụ này đã tiếp diễn từ nhiều tiền kiếp khi con phải phản ứng lại các điều kiện mà con gặp trên địa cầu. Và bởi vì hành tinh này đã bị tác động sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên cũng như các sa nhân đã đầu thai ở đây, có thể con đã bị tổn thương trầm trọng, bị chấn thương trong tiền kiếp. Cho nên con có thể mang theo nhiều năng lượng tha hóa và nhiều tin tưởng gây giới hạn được tích lũy trong bốn “thể” phàm của con.

Hầu cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi phàm ngã – tức là nó ngưng tự đồng hoá với phàm ngã – nó sẽ phải biến hóa các năng lượng thấp và thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Những tâm ảnh và tin tưởng này đều là ảo tưởng, và hầu cái Ta Biết tự giải phóng khỏi chúng, nó sẽ phải ý thức về chúng và lấy quyết định loại bỏ và thay thế chúng bằng những hình ảnh xuất phát từ phân biện Ki-tô. Tuy nhiên, thường thường con sẽ phải khởi đầu bằng cách giảm thiểu khối năng lượng tha hóa, vì chính năng lượng này sẽ gây ra nhiều đau đớn tình cảm đến độ con sẽ không thể phơi bày các tin tưởng nằm bên dưới. Trong trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt, chúng tôi có giải thich điểm này chi tiết hơn và cũng cung cấp những dụng cụ thực tiễn.

Tiến trình mà qua đó cái Ta Biết ý thức được nội dung của tâm tiềm thức (các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc) có thể được xem là một tiến trình của chính con đang giao tiếp với linh hồn.

Có nhiều cách để biến tiềm thức trở thành ý thức, chẳng hạn như thiền định hay ghi nhật ký. Con có thể sử dụng một vài kỹ thuật điều trị tâm lý, và trong số này có một kỹ thuật gọi là “làm việc với đứa bé bên trong”. Một số khác là liệu pháp Gestalt hay liệu pháp EMDR. Kỹ thuật của ta nhằm hòa điệu nội tâm có thể được dùng để giao tiếp với linh hồn. Giản dị, con hãy tưởng tượng con đang sử dụng chính ta hay cái ta Ki-tô của con để làm sợi dây giao tiếp với linh hồn của con, xong con ghi xuống những ý tưởng đến với con trong lúc thiền tập.

Bây giờ ta xem đến câu hỏi này của con: 

“Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương.”

Như ta đã trình bày, con có bốn “thể” phàm hay bốn tầng lớp của tâm. Chúng tạo thành trường năng lượng của con, thường gọi là hào quang. Ta cũng biết là nhiều người tin rằng hào quang bao quanh xác thân vật lý, và có cả những người tin rằng hào quang là do xác thân vật lý tạo ra, tương tự như từ trường do một thỏi nam châm vật lý sản xuất ra – họ tin như vậy một cách sai lầm. Khi con hiểu rõ giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy hào quang không phải do xác thân sản xuất, mà trái lại, trường năng lượng mới sản xuất ra xác thân. Xác thân vật lý chỉ đơn giản là khía cạnh dày đặc nhất của toàn bộ trường năng lượng của con.    

Hiểu vậy rồi thì con thấy rằng chuyện gán ghép linh hồn vào một nơi chỗ cụ thể nào đó trong cơ thể vật lý là hoàn toàn vô nghĩa. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” một cách nào đó thì tất nhiên, con sẽ có thể lý giải nó nằm ở đâu đó, nhưng điều ta muốn nói là không hề có một địa điểm vật lý nào là điểm đi vào hoặc điểm trụ neo giữa ba thể cao hơn của con và xác thân vật lý của con.  

Chúng tôi có giảng dạy về các luân xa, và tất cả bảy luân xa chính yếu đều là những tụ điểm nơi các thể cao hơn của con tương giao với xác thân vật lý của con. Chúng tôi dạy rằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đi vào trước hết một luân xa gọi là Mật thất của Tim, được cho là nằm ngay sau luân xa tim nhưng lại có độ rung cao hơn. Từ đó, năng lượng đi vào luân xa tim trước khi nó lan tỏa ra các luân xa khác.

Chúng tôi cũng có nói là luân xa thứ nhì từ dưới đi lên có tên là luân xa hồn, nhưng điều này không có nghĩa là tất cả bốn thể phàm của con đều neo trụ ở đây. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” theo một cách nào đó thì con sẽ bảo là linh hồn trụ nơi luân xa này.

Nhưng nếu con cố gắng vươn lên hiểu biết cao hơn, con sẽ thấy rằng tất cả mọi luân xa đều quan trọng cho sự biểu đạt sáng tạo của con trong thế giới vật chất. Mỗi luân xa có những chức năng khác nhau, và mỗi luân xa liên hệ đến những gì con có thể làm với cơ thể vật lý và tâm ý thức của con. Tâm phân tích đường thẳng ham chuộng chuyện phân chia mọi thứ ra thành từng loại riêng biệt, nhưng trên thực tế, tất cả đều chỉ là một, một tổng thể nối kết. Cho nên vừa rồi ta đã cố gắng đưa ra cho con một cái nhìn bớt đường thẳng, bớt phân rẽ và nối kết hơn về toàn bộ bản thể của con.

Tại sao không có bằng chứng là linh hồn tồn tại sau khi chết?

Hỏi: Tại sao không có bằng chứng không thể chối cãi 100% rằng linh hồn tồn tại sau khi chết, mặc dù các nhà khoa học và tâm lý ngoại cảm đã cố chứng minh từ nhiều năm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Lý do là vì hành tinh địa cầu hiện đang vận hành như là nơi trú ngụ cho nhiều dòng sống với một trạng thái tâm thức nhất định nào đó. Những dòng sống này muốn phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, hoặc họ muốn phủ nhận Thượng đế đang ở ngay đây với họ. Nói cách khác, họ muốn tiếp tục sống trong ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình.

Luật Tự quyết cho phép họ sống trong ảo tưởng này trong một thời gian, và đó là tại sao họ không bị ép buộc phải chấp nhận một thực tại cao hơn qua một bằng chứng bất khả phản bác (plausible deniability). Vì vậy, sẽ không có một bằng chứng tuyệt đối nào được đưa ra về sự hiện hữu của Thượng đế, về thực tế của cõi tâm linh, về sự tồn tại của linh hồn sau cái chết vật lý và nhiều câu hỏi khác tương tự.

Chừng nào mà con người còn ở trong tâm thức tách biệt thì họ sẽ còn nhìn cuộc sống qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên, và do đó sẽ không có bằng chứng nào 100% không thể chối cãi được. Cách đây 2000 năm khi ta bước chân trên địa cầu, ta đã từng làm cho người chết sống lại, đã chữa lành cho người bệnh tật, đã đi bộ trên mặt nước, đã biến nước thành rượu, thế mà vẫn có những người không tin ta là Đấng Cứu thế.

Sự thật đơn giản là tâm nhị nguyên luôn luôn có khả năng đặt vấn đề và nghi hoặc bất kỳ bằng chứng nào. Bởi vì tâm nhị nguyên tương đối, nó luôn tìm cách tạo ra một khuôn khổ cho phép nó tin những gì nó muốn tin, vì vậy nó cũng không tin những gì nó không muốn tin.

Cho dù ta đã làm nhiều phép lạ, ta vẫn không thuyết phục nổi các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đốc, các luật sĩ và thày tế lễ nơi nhà thờ đạo Do thái. Ta có thể cam đoan với con, dù có đưa ra bằng chứng nào đi nữa thì cũng không thể thuyết phục được những thày thông giáo, những người Pha-ri-si, người Sa-đốc, luật sĩ cùng các thày tế lễ của đền thờ khoa học ngày nay, thậm chí cả đạo Cơ đốc chính thống.  

Con thấy đó, một khi một lớp người thượng lưu quyền lực đã chế ngự một lãnh vực nào đó, thì họ sẽ sử dụng một quy tắc mà chúng ta có thể gọi là đặc quyền đặt vấn đề, đặc quyền nhào nặn các vấn đề theo ý mình. Khi họ chiếm hữu được độc quyền này, và nếu họ chỉ biết suy nghĩ trong tâm nhị nguyên tương đối, thì họ sẽ quy định một khung chuẩn trong đó tất cả mọi tin tưởng căn bản của họ không thể bị bác bỏ. Lý do không thể bác bỏ được là vì các tin tưởng đó đã được định ra để luôn luôn cung cấp cho họ một lối thoát. Họ luôn luôn có cách bác bỏ bất cứ bằng chứng nào đi ngược lại các niềm tin căn bản của họ, đi ngược lại hệ tư tưởng của họ.

Chẳng hạn, đa số người đạo Cơ đốc chính thống sẽ kịch liệt phủ nhận thực tại của luân hồi, và do đó họ tin vào giáo điều rằng linh hồn không hiện hữu trước khi xác thân vật lý được thụ thai. Thật vậy, nếu con không tin là linh hồn có trước khi thụ thai, con sẽ không thể đưa ra được một chứng cớ không thể chối cãi nào về sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết. Nếu linh hồn có thể tồn tại độc lập với thể xác thì nó có thể tồn tại cả trước khi thể xác thụ thai lẫn sau khi chết.

Tương tự như vậy, giới lãnh đạo khoa học cũng quy định rằng bất cứ gì mà không thể được chứng minh qua dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, thì không thể hiện hữu. Nhưng linh hồn là một thực thể phi vật chất, vậy thì làm thế nào linh hồn có thể được phát hiện bởi một dụng cụ làm bằng vật chất đây? Con cũng biết là một kính hiển vi thông thường không thể phát hiện được hạt hạ nguyên tử cho dù ống kính có mạnh đến đâu. Lý do giản dị là vì kính hiển vi phải sử dụng ánh sáng thấy được, nhưng độ dài của sóng ánh sáng khiến cho hạt hạ nguyên tử không thể nào nhìn thấy được một cách trực tiếp.     

Các dụng cụ mà khoa học đã phát minh ra cho tới giờ không có khả năng phát hiện linh hồn. Có một số dụng cụ phát hiện được năng lượng của linh hồn, tuy nhiên cho tới giờ vẫn chưa được giới khoa học chính mạch chấp nhận.

Như ta vừa trình bày, Thượng đế đơn giản không muốn nhân loại có bằng chứng không thể chối cãi về hiện hữu của ngài hay của cõi tâm linh. Thượng đế muốn đó là một vấn đề đức tin, bởi vì nó sẽ vận hành như một phin lọc, để lọc lựa ra những ai không sẵn sàng nhìn xa hơn tâm nhị nguyên và tự ngã của mình. Dù sao thì đây chính là những người sẽ không thể bước vào Nước Trời, bởi vì khi nào họ còn nhìn với tâm nhị nguyên và tự ngã thì họ không có hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô. Vậy sẽ ích gì để mà chứng minh sự thật của thiên đường cho những người không có hy vọng vào được thiên đường?  

Người ta có thể bảo: “Nhưng nếu có bằng chứng không chối cãi, thì những người đó sẽ đổi ý chứ.” Tiếc thay, điều này không đúng, như được minh chứng qua việc các lãnh đạo tôn giáo đã chối bỏ ta. Đã từng có vô số ví dụ mà qua đó các chân sư thăng thiên đã đưa ra bằng chứng được nhiều người chấp nhận nhưng lại bị một số người khác bác bỏ. Giản dị, những kẻ bác bỏ bằng chứng như vậy vẫn chưa thật sẵn sàng cho con đường dẫn đến quả vị Ki-tô.

Nếu con đọc Kinh thánh, con sẽ thấy ta thường hay nói rằng những ai có tai để mà nghe thì hãy cố nghe. Có tai có nghĩa là mình cởi mở với Sự thật Hằng sống chỉ có thể biết được qua chiêm nghiệm trực tiếp trong tim. Nếu con không cởi mở thì sẽ không có một bằng chứng vỏ ngoài nào có thể mở được tâm con và tim con ra với chân lý. Và khi con không mở tâm với chân lý, thì con sẽ có khả năng, và con sẽ, chất vấn và xé bỏ mọi bằng chứng khả dĩ có được.   

Ta đã thấy những người đứng chứng kiến ta khiến cho một người chết sống lại. Họ biết rõ và tin chắc là người đó đã chết. Họ thấy rõ người đó đứng dậy và bước đi trước mắt họ. Ấy vậy mà họ vẫn không tin là ta có điều gì đáng giá để mà dạy họ. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn, tâm nhị nguyên của họ lại khiến họ ngờ vực, khiến họ lý giải đủ cách, rồi họ phủ nhận điều mà chính họ vừa chứng kiến với đầy đủ giác quan của họ. Người Tây phương có câu tục ngữ “Thấy thì sẽ tin”, nhưng câu này chỉ đúng cho những ai có tâm mở và tim mở. Còn những ai đóng chặt sẽ nhanh chóng tìm được đủ mọi lý lẽ để bác bỏ điều mắt họ vừa nhìn thấy.

Đó là vì sao ta từng nói: “Tô-ma, vì người đã thấy ta, nên người tin. Phúc cho những ai chẳng từng thấy mà đã tin” (John 20:29)

Sự thật phũ phàng là với tư cách là người tầm đạo tâm linh, con cần nhận ra là có những người hiện không ở trong một trạng thái tâm thức khiến họ có thể được đánh thức về con đường tâm linh, như ta có giải thích ở nơi khác. Vì vậy, con nên thận trọng để không lãng phí thời gian cùng sức lực với những người như thế. Như ta có nói:

“Đừng đem đồ thánh cho chó, cũng đừng ném ngọc quý trước mặt heo, kẻo nó đạp dưới chân và quay lại cắn xé các người.” (Matthew 7:6)

Câu này nghe thật tàn nhẫn, nhưng thực tế là cuộc sống quá ngắn ngủi để mà lo chuyện giúp đỡ những ai không muốn tự giúp mình. Có quá nhiều người khác có tâm cởi mở, và đó là những người mà ta nói đến khi ta bảo các môn đệ của ta hãy lo nuôi nấng đàn chiên của ta. Những người còn lại, đơn giản là con sẽ phải bỏ họ lại đằng sau, như ta đã nói: “Hãy theo ta, và để cho kẻ chết đi chôn kẻ chết.” (Matthew 8:22)

Phật giáo Tây Tạng nói không có hồn, chỉ có tâm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, Phật giáo Tây Tạng nói là không có hồn (soul) mà chỉ có tâm (mind). Cho nên con không hiểu. Có hồn nghĩa là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để bắc chiếc cầu băng qua hàng rào ngôn ngữ giữa các tôn giáo hay các truyền thống tâm linh khác nhau, con cần rất nhiều tế nhị và tâm không dính mắc. Điều được một tôn giáo mô tả bằng một từ có thể chính là điều mà một tôn giáo khác sẽ mô tả bằng một từ khác. Cho nên thật sự, con có thể nói rằng tất cả đều là tâm, vì hồn phát xuất từ đâu chứ? À, nó phát xuất từ tâm. Nó phát xuất từ cái tâm rộng lớn hơn của con, cái Ta Biết, và nó được tạo ra sau khi cái Ta Biết bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Cho nên con có thể nói rằng hồn được tạo ra từ tâm của con.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo là Phật giáo Tây Tạng nói chính xác, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là các truyền thống tâm linh khác khi nói về hồn đều nói sai. Các truyền thống đó chỉ sử dụng một từ khác cho cùng một thứ. Bởi vì thật sự ngay cả trong đạo Phật, cũng phải có một cỗ xe cho tâm đi xuống cơ thể vật lý và tương tác với cơ thể vật lý.

Chân ngã hay đức Thánh linh?

Hỏi: Thế nào là đấng Quan sát Im lặng (Silent Observer), là đấng bay lơ lửng trên bản thân mình, có vẻ tách biệt khỏi mình nhưng lại là toàn bộ con người mình? Đó có phải chăng là Chân ngã, cái Ta cao hơn hay là sự thể hiện của Thánh linh? Làm thế nào tìm lại kinh nghiệm sống này đã bị đánh mất hoặc có vẻ như ẩn giấu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đó là một cách mô tả thật thi vị về một kinh nghiệm tâm linh mà nhiều hành giả chân thành đã có và mọi hành giả chân thành nên cố gắng có. Mỗi tôn giáo hay triết lý tâm linh đều tìm cách mô tả kinh nghiệm này, và có nhiều cách để diễn tả kinh nghiệm này thành lời. Hãy cho phép ta gợi cho con một trong số rất nhiều cách diễn đạt đó.

Như đã giải thích ở nhiều nơi khác trên trang mạng này, bản thể của con là một sự cá thể hóa (individualization) của bản thể Thượng đế. Con được sinh tạo theo hình ảnh của Thượng đế và giống như Thượng đế, có nghĩa là bậc cha mẹ tâm linh của con đã lập ra cá thể từ chính bản thể mình, đó là Hiện diện TA LÀ của con. Tuy nhiên, Thượng đế có hai khía cạnh như được diễn đạt qua biểu tượng Thái cực của Đạo giáo. Hiện diện TA LÀ của con là thái cưc Dương hay nam của dòng sống của con, và cái Ta Biết là thái cực Âm hay nữ.   

Hiện diện TA LÀ của con được tạo bằng năng lượng với một độ rung động rất cao, cao hơn nhiều so với năng lượng trong vũ trụ vật chất. Vì vậy, Hiện diện TA LÀ không thể đi xuống vũ trụ vật chất. Cái đi xuống vũ trụ này là cái Ta Biết, và để làm điều này, cái Ta Biết khoác vào những chiếc áo vỏ ngoài là phàm ngã và xác thân vật lý. Tuy nhiên, thử thách lớn đối với cái Ta Biết là làm thế nào duy trì được sự tiếp xúc với Hiện diện TA LÀ khi đang chìm đắm trong năng lượng dày đặc của vũ trụ vật chất.   

Nếu cái Ta Biết đi xuống thấp hơn tầng tâm thức thứ 48, nó sẽ chỉ duy trì được mối liên lạc này qua trung gian một khía cạnh khác của chính con, là cái mà nhiều giáo lý tâm linh gọi là cái ta cao hơn (higher self). Ta sẽ gọi phần này của con là cái ta Ki-tô (Christ self), bởi vì ta là Ki-tô đã được phái xuống với con để chứng tỏ cho con thấy là mỗi con người đều có tiềm năng kết hợp với cái ta Ki-tô này ngay cả khi cư ngụ trong một thân xác vật lý.   

Chìa khóa cho mọi loại kinh nghiệm tâm linh là con phải bước vào bên trong nội tâm và tìm cách liên lạc với cái ta Ki-tô của con. Hầu hết mọi người đều có một mức độ liên lạc nào đó với cái ta này – thường được gọi là trực giác. Tuy nhiên khi con mở rộng mối liên lạc với cái ta Ki-tô, con có khả năng chứng nghiệm Hiện diện TA LÀ của con. Lúc đầu, Hiện diện TA LÀ sẽ có vẻ như một vị quan sát im lặng. Nhưng khi con mở rộng mối liên lạc hơn nữa, con có thể “nghe” thấy cái ta Ki-tô hay Hiện diện TA LÀ của con đang nói chuyện với con dưới dạng lời nói, ý tưởng, hình ảnh hay ngay cả rung động.

Hiện dịên TA LÀ của con là một cá thể của Bản thể lớn hơn mà loài người gọi là Thượng đế. Con có khả năng có được một trải nghiệm trực tiếp về Bản thể của Thượng đế. Điều này đã xảy ra cho rất nhiều người tâm linh khắp các thời đại. Thậm chí chứng nghiệm đó đã xảy ra một cách tự phát nơi một số người không tự xem mình là tâm linh.

Cho nên, từ “quan sát im lặng” có thể chỉ Hiện diện TA LÀ cá nhân của con tức là cá thể của Thượng đế, hoặc nó cũng có thể chỉ bản thể rộng lớn hơn của Thượng đế.

Làm thế nào con có thể tìm lại kinh nghiệm này? Bằng cách tăng trưởng trực giác của mình và nhờ đó tăng trưởng mối liên lạc ý thức với cái ta Ki-tô. Và khi con bắt đầu tăng trưởng liên lạc đó và bắt đầu chuyển dời ý niệm bản sắc của mình ra khỏi tâm nhị nguyên để hướng về tâm Ki-tô, con sẽ liên lạc mật thiết hơn với cái ta tâm linh của con.

Đâu là những bước thực tiễn để tiến tới mục tiêu này? Trên cơ bản, mọi triết lý hay hệ thống tâm linh đều nhắm đến mục tiêu này đây. Con hãy sử dùng trực giác, kỹ thuật hòa điệu, cùng các bài chú, bài thỉnh mà chúng tôi đã trao truyền.

Con hãy chuyên cần sử dụng một hệ thống hay một kỹ thuật trong một thời gian. Khi con cảm thấy đến lúc chín muồi, con hãy thỉnh cầu sự hướng dẫn nội tâm xem con có cần tìm một hệ thống cao hơn hoặc tinh luyện, cải tiến cách tu tập hệ thống hiện thời cuả con. Con đừng trở nên cứng nhắc và rơi vào cái bẫy cho rằng nếu cứ áp dụng mãi một kỹ thuật hay hệ thống suốt đời thì con sẽ tự động được cứu rỗi. Mục đích của bất kỳ hệ thống nào là để tăng triển độ nối kết của con với cái ta Ki-tô hầu con nhận được một sự tiết lộ tuần tự và hằng sống về đường tu cá nhân của con dẫn tới Thượng đế.  

Đâu là cái ta đích thực của con?

Hỏi: Con xin hỏi là khi con muốn tăng trưởng tâm linh nhưng lại bị rối trí, liệu việc kêu gọi sự phán xét của Ki-tô trên chính con có là một việc làm đúng hay không?   


Trả lời từ chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta không khuyến khích con kêu gọi sự phán xét trên chính con bởi vì cái “chính con” đó là gì? Con yêu dấu, con có thể kêu gọi sự phán xét của Ki-tô trên tự ngã của con và con người phàm phu mà con đã tạo dựng. Nhưng con không muốn phán xét của Ki-tô trên chính con bởi vì con có thể – trong tâm trí con – nghĩ rằng “chính con” bao gồm tất cả những gì mà con là. Và thật là không cần thiết để kêu gọi phán xét của Ki-tô trên cái ta ý thức của con, vì cái Ta Biết là một phần nối dài của chính bản thể của Thượng đế và không cần phán xét.   

Sự phán xét đúng lý là một biện pháp nhắm vào trạng thái tâm thức thấp kém. Cho nên mặc dù đúng là cái Ta Biết phải quyết định bỏ lại đằng sau tâm thức nhị nguyên, con vẫn không cần phải kêu gọi phán xét cái Ta Biết. Con có thể kêu gọi phán xét tự ngã để cái Ta Biết nhìn ra được tự ngã là gì, vì sự phán xét sẽ phân biện giữa chân và giả.    

Nhưng không có lý do gì con phải kêu gọi phán xét cái chân, bởi vì – mặc dù các thày dạy rằng cái Ta Biết luôn luôn là cái mà nó nghĩ nó là – sự thật xâu xa hơn là cái Ta Biết sẽ luôn luôn là sự nối dài của Thượng đế. Và vì vậy, cái Ta Biết là thật, cho dù nó có thể tự đồng hóa với một bản sắc không thật.  

Ta hiểu, đây là một sự phân biệt rất vi tế có thể khiến con suy ngẫm. Nhưng ta không muốn con bước vào bất cứ tư duy nào cho rằng cái Ta Biết là không thật, ngay cả khi nó tự đồng hóa với tự ngã. Và do đó, ta muốn con luôn luôn giữ vững viễn kiến rằng cái Ta Biết là thật, và chỉ có cái ý niệm bản sắc vỏ ngoài, cá tính vỏ ngoài, là không thật mà thôi.

Ta mong muốn con suy ngẫm về sự khác biệt vi tế này, và nhận ra là mặc dù cái Ta Biết tự đồng hóa với tự ngã và với một bản sắc sinh diệt, rốt cuộc chỉ có bản sắc này mới không thật, còn cái Ta Biết thì luôn luôn thật. Và cách duy nhất để cái Ta Biết thoát khỏi bản sắc sinh diệt là nhận ra rằng bản sắc đó là không thật, trong khi tự thân cái Ta Biết thì LÀ thật. Cho dù nó đã sa ngã vào tách biệt và nhị nguyên, nó vẫn không đánh mất thực tại cốt lõi của nó nơi Thượng đế.

Và chắc chắn, con sẽ không kêu gọi sự phán xét trên Thượng đế được. Và bởi vì cái Ta Biết là một cá thể của Thượng đế cho nên con cũng sẽ không kêu gọi phán xét trên nó. Vì vậy con nên suy ngẫm là con đang nhìn chính mình như thế nào, con đang thấy CÁI TA của con là gì. Bởi vì rõ ràng, thế gian này đang lập trình để khiến con nghĩ rằng mọi thứ trong con đều là những thành phần của cái ta của con. Nhưng dĩ nhiên không phải vậy.

Quả thực, đây là một trong những ảo tưởng mà con cần phải lột bỏ trên đường tu, là khi con bắt đầu nhận ra có thể có nhiều yếu tố thuộc bản thân con mà không nhất thiết thuộc về cái ta của con, thuộc về chính con. Thật sự, không có một khía cạnh nào của phàm nhân của con là một thành phần của cái Ta Biết – đó chỉ là một cái phin lọc, một dụng cụ mà qua đó cái Ta Biết tự biểu đạt trong thế gian này. Nhưng cái Ta Biết là NHIỀU HƠN.

Bước trên đường tu mà không đau khổ

Hỏi: Các chân sư nói đau khổ là không cần thiết, nhưng các chân sư cũng nói là chúng con không nên chờ đợi mọi chuyện sẽ dễ dàng – liệu có sự mâu thuẫn nào ở đây?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Chỉ có thể có mâu thuẫn trong tâm thức nhị nguyên mà thôi. Tâm thức nhị nguyên có khả năng diễn giải bất kỳ câu nói nào trong cách đối nghịch với một câu nói khác. Điều này, tâm đường thẳng vẫn làm và sẽ luôn luôn làm.

Đau khổ không cần thiết vì đau khổ đến từ dính mắc. Cái khiến cho đường tu của con khó khăn là những dính mắc của con. Cho nên theo một nghĩa nào đó – nếu con sẵn sàng buông bỏ mọi dính mắc – con có thể bước trên đường tu mà không đau khổ chút nào.

Khi chúng tôi nói đường tu không dễ dàng và con không nên mong đợi là nó dễ dàng, đó là vì chúng tôi rất thiết thực và đã nhận ra – qua kinh nghiệm bản thân – rằng việc buông bỏ mọi dính mắc cùng một lượt là một chuyện hầu như bất khả. Và do đó, chúng tôi đã phải đi theo một con đường tuần tự. Chúng tôi đã phải bước đi từng bước một, buông bỏ từng dính mắc một, hầu duy trì một cảm giác liên tục nào đó cho bản thân.

Tuy nhiên, những khó khăn trên đường tu xuất phát từ sự kiện con không có khả năng – hay trong một số trường hợp, không sẵn lòng – nhìn thấy những điều mà mình cần nhìn thấy khi mình muốn bỏ một ảo tưởng nào đó. Và chúng tôi biết – một lần nữa qua kinh nghiệm bản thân – rằng việc nhìn thấy những gì mình không thể thấy được là một chuyện khó khăn. Đối với nhiều người trong số các con, khó khăn của con không khác gì chính bản thân ta khi ta còn hiện thân. Khi con còn đầu thai thì con còn ở trong hộp tư duy hiện hữu của con. Con sẽ luôn luôn khó lòng xem xét tình trạng của mình từ bên ngoài chiếc hộp. Và nhân tiện, đây cũng chính là lý do tại sao con cần sự hướng dẫn của những vị thày tâm linh, từ người khác và từ giáo lý tâm linh.

Tuy vậy, con vẫn có khả năng đạt được một trạng thái buông bỏ, và mặc dù trên đường tu có những giai đoạn khó khăn, những khó khăn này vẫn không gây đau khổ cho con. Nói cách khác, cõi vật lý, cõi vật chất, rất dày đặc. Thật không dễ gì để mà bước trên đường tu giữa lớp dày đặc của tâm thức tập thể. Tuy nhiên, một khi con đạt được một trạng thái buông bỏ nào đó, những khó khăn mà con gặp sẽ không tạo đau khổ cho con nữa. Và lý do là vì con đã làm điều mà Mẹ Mary đã đề cập hôm qua, là con đã buông bỏ những chờ đợi, những kỳ vọng, con đã buông bỏ những điều kiện của con.

Có rất nhiều người tìm ra đường tu rồi họ nghĩ rằng để cất bước, họ cần phải làm một số chuyện mà họ xem là hy sinh – vì họ phải từ bỏ một phần nếp sống cũ, một phần những hoạt động cũ mà thế gian thường hay mê đắm, như rượu chè, chất kích thích, những đeo đuổi vật chất đủ loại và nhiều thứ khác nữa lôi kéo mình ra khỏi đường đạo. Cho nên họ vô cùng háo hức, sẵn lòng bỏ lại một số những sinh hoạt đó, nhưng khi làm vậy, họ vẫn cảm thấy là mình đang phải hy sinh. Và tự ngã của họ sẽ lừa gạt họ, khiến họ dựng lên một kỳ vọng tinh tế là một khi họ đã hy sinh cho đường tu hay hy sinh cho Thượng đế, thì sau đó mọi chuyện sẽ phải trơn tru. Và đơn giản là Thượng đế sẽ phải lát đường cho họ đi, để họ không còn phải gặp thêm thử thách hay khó khăn nào nữa.

Điều này, tất nhiên, chính là tự ngã đang tìm cách lừa gạt con người để họ dựng lên một kỳ vọng không thực tế sẽ chắc chắn gây ra thất vọng, và khi đó thì họ sẽ nản chí và ngừng bước tới. Hay thậm chí, có thể là họ sẽ oán giận, như nhiều người đã oán giận là mình bị một tổ chức hay một vị thày hứa hẹn suông. Và tự ngã đánh gạt họ để họ bỏ đường tu.

Khi con buông bỏ mọi điều kiện của con, con không còn kỳ vọng nào nữa là đường tu sẽ phải ra sao. Và do đó, làm thế nào điều gì xảy ra cho con có thể gây đau khổ cho con? Con thấy không, đau khổ được gây ra bởi một điều kiện tâm lý, và điều kiện này khiến con nổi loạn trong cảm thể và trí thể chống lại một trải nghiệm trong thế giới vật lý.

Con sẽ thấy nhiều người gặp phải những khó khăn vật lý to lớn trong đời họ, nhưng họ đã đạt được một trạng thái buông bỏ an bình, đã chấp nhận– cho dù các điều kiện vỏ ngoài có khó khăn đến đâu đi nữa – là họ có thể sống tốt nhất và vẫn vui hưởng cuộc đời. Con hãy nhìn những người bị khuyết tật về thể chất, như phải ngồi xe lăn chẳng hạn. Nhiều người mà phải sống như vậy sẽ vô cùng khổ sở phiền muộn, nhưng lại có một số ít vẫn vươn được lên cao hơn, vẫn vui vẻ an bình giữa hoàn cảnh đó, vẫn chấp nhận và sống tốt nhất.

Cho nên con thấy đó, đau khổ không do điều kiện vỏ ngoài tạo ra, mà do điều kiện tâm lý bên trong khi con nổi loạn, chống đối lại điều kiện vật lý bên ngoài. Và đó là tại sao, như chúng tôi đã nỗ lực giải thích trong mấy ngày qua – qua bài giảng của các thày Patrick, Mẹ Mary và Saint Germain – rằng khi con bước đi trên đường tu, con nên bỏ lại mọi điều kiện vỏ ngoài cùng kỳ vọng là đường tu phải như thế nào. Vì con phải biết trong tư cách là người tâm linh, cõi vật lý này dày đặc, tâm thức tập thể dày đặc đến chừng nào, và do đó con không được chờ đợi nó sẽ dễ dàng, êm thắm.

Tuy nhiên, chắc chắn con cũng không nên rơi vào cực đoan ngược lại mà cho rằng mình phải chịu đựng thì mới là người tâm linh – như thể mình phải đi chân đất leo lên đỉnh núi hầu trả giá cho tội lỗi của mình vì Thượng đế sẽ vui sướng khi thấy mình đau đớn. Và như vậy mình càng đau đớn bao nhiêu thì ngài sẽ càng tha tội cho mình bấy nhiêu.

Một lần nữa, có một con đường Trung đạo. Và khi con tìm ra Trung đạo, con sẽ vượt qua mọi khó khăn và giữ trọn niềm vui. Khi con quyết định gặp gỡ mọi khó khăn trong niềm vui và sẵn lòng thăng vượt, những khó khăn đó sẽ không mấy khó khăn nữa, Chúng sẽ chỉ đơn giản là một số sự kiện trong cõi vật lý. Con sẽ bước vượt qua chúng, vì con có một viễn kiến rõ ràng về mục đích của mình.

Con biết rõ là con muốn đi về đâu, và không còn chuyện nghĩ ngợi là mình sẽ chỉ tới đó được nếu không có trở ngại nào. Con dư biết là sẽ có trở ngại, và con chỉ việc khắc phục, vượt qua, vượt lên trên, bước xuyên qua. Như vậy con sẽ tìm được con đường vui mừng. Nó độc lập khỏi mọi điều kiện vì nỗi vui mừng của con ngập tràn.

Phong thủy dựa trên một hiểu biết xác đáng về năng lượng

Hỏi: Con đang tính xây một căn nhà mới mà con sẽ cần sắp đặt và trang trí. Xin thày vui lòng cho biết quan điểm và hướng dẫn về khoa phong thủy, chẳng hạn như sử dụng số học, màu sắc và vị trí các phòng? Con đã đọc một hai cuốn sách của Lillian Too, rất thú vị, nhưng một số thông tin có vẻ mê tín dị đoan, chẳng hạn như số nhà đặt theo một hướng nào đó sẽ đem lại “xui xẻo”. Con muốn nhà con đặt theo vị trí tốt. Con cũng biết là việc thỉnh cầu Ánh sáng là cách bảo vệ cao nhất, và có lẽ đây là cách hay nhất để con tiến hành thay vì cứ lo lắng về phong thủy. 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trong mấy thế kỷ vừa qua, thế giới Tây phương đã chứng kiến sự thành công ngoạn mục mà khoa học và công nghệ đã đem lại. Một tác dụng phụ của thành quả này là nhiều người đã trở nên kiêu ngạo và cho rằng bất cứ gì không được nền văn hóa khoa học hiện đại đem đến đều không thể có giá trị. Nhiều người cảm thấy là nếu một lời dạy không được biểu đạt bằng thuật ngữ khoa học, hoặc không được xác nhận bằng thí nghiệm khoa học, thì không có cách chi đó là lời dạy có giá trị. Một số người còn cho rằng bất cứ gì đã được phát minh trước khi thời đại khoa học thăng hoa cũng không thể có giá trị. Những quan điểm như vậy là thiển cận và phần nào kiêu ngạo.

Thực tế đơn giản là nền văn hóa khoa học hiện đại chỉ mới hiện hữu trong một thời gian rất ngắn, thế mà nó đã gây ra một số vấn nạn có khả năng đe dọa sự tồn tại lâu dài của nó. Ngược lại có một số nền văn hiến, trong đó có văn minh Trung quốc cổ đại, đã tồn hữu hàng thiên niên kỷ. Đáng lý sự kiện này phải khiến cho người ta ngẫm nghĩ liệu những nền văn minh lâu đời đó có thể đã có những phát minh giá trị, ngay cả khi chưa được khoa học hiện đại thông hiểu hay xác nhận.

Như con cũng biết, cách đây 500 năm nhiều người nghĩ rằng trái đất này bằng phẳng, thế nhưng trái đất thời đó đã tròn y hệt như bây giờ. Chưa đầy một thế kỷ trước, Albert Einstein khám phá mọi vật đều được cấu tạo bằng năng lượng, thế nhưng vũ trụ đã được cấu tạo bằng năng lượng ngay từ buổi đầu rồi. Nhiều nền văn minh cổ đại đã hiểu bằng trực giác là mọi vật đều cấu tạo bằng năng lượng, và do đó họ cũng hiểu là năng lượng ảnh hưởng đến mọi thành phần của cuộc sống. Chẳng hạn, văn minh Trung quốc cổ đại đã đưa ra một số lời dạy về năng lượng và dòng chảy năng lượng, và những ví dụ được người ta biết đến nhiều nhất là Thái cực, châm cứu và phong thủy. 

Điều ta muốn nói ở đây là phong thủy dựa trên một sự hiểu biết xác đáng về năng lượng, về dòng chảy của năng lượng, về cách năng lượng ảnh hưởng đến trường năng lượng của con người cũng như sức khỏe toàn diện của con người. Quả thật, giáo lý tâm linh làm nền tảng cho khoa phong thủy đã được các chân sư thăng thiên ban truyền cho con người, và đó là những giáo lý chính đáng. Giáo lý đã được diễn tả một cách giản dị trong ngôn ngữ của thời đó, một ngôn ngữ không hề thô sơ mà chỉ khác biệt so với ngôn ngữ khoa học hiện đại.

Tiếc thay, như ta đã giải thích suốt trang mạng này, điều xảy ra cho hầu hết các giáo lý tâm linh nguyên thủy là với thời gian, giáo lý đã bị biến đổi bởi những người không hiểu thấu. Trong nhiều trường hợp, mối liên kết trực giác ban đầu với các chân sư thăng thiên đã bị cắt đứt, và từ đó trở đi, người ta đã bắt đầu thêm vào những cách diễn giải dựa trên trí thức phàm phu, thường khi là tâm nhị nguyên. Điều này thường dẫn đến những phát triển sau này khác xa, thậm chí còn trực tiếp đi ngược lại những giáo lý tâm linh ban đầu. Phong thủy là một ví dụ của sự kiện đó, và đạo Cơ đốc cũng vậy.

Như con chỉ ra rất xác đáng, một số lời dạy được tìm thấy trong ngành phong thủy hiện nay rõ ràng là chuyện mê tín dị đoan, trái với lẽ thường. Việc sử dụng phong thủy trong thế giới hiện đại là hữu lý, nhưng con sẽ được hưởng lợi muôn phần nếu con biết sử dụng trực giác và khả năng phân biện Ki-tô của con.

Con cũng cần lưu ý rằng phong thủy không bao giờ là một bộ môn khoa học chính xác. Nó không bao giờ được ban truyền để bị biến thành một tiến trình máy móc giống như nền công nghệ hiện đại. Phong thủy luôn luôn được hiểu là một giáo lý trực giác, có nghĩa là các lời dạy vỏ ngoài chỉ được dùng như lời hướng dẫn được trực nhận, và được diễn giải cho thích hợp với từng cá nhân, từng hoàn cảnh riêng biệt. Đó là tại sao một nhà phong thủy tài ba không chỉ đơn giản là một chuyên viên, mà là một người có nhiều trực quan.

Sự quan tâm của con về đề tài này cho thấy là con đã nhận được sáng ngộ trực giác từ cái ta Ki-tô của con rằng phong thủy là một lời dạy hữu lý và quan trọng mà con có thể đưa vào thiết kế căn nhà mới của con. Điều con cần làm là học hỏi lời dạy của phong thủy, hoặc có lẽ tham khảo một nhà phong thủy lành nghề, và sau đó suốt tiến trình thiết kế, con hãy sử dụng trực giác và phân biện Ki-tô của mình, như con đang làm. Hãy cho phép cái ta Ki-tô hướng dẫn con đến lời dạy hữu ích nhất cho con, và bỏ qua những lời dạy không hợp lý đối với con. Khi con xây một căn nhà và tham gia vào việc thiết kế, căn nhà của con nên là sự biểu hiện con người của con cũng như mức phát triển tâm linh hiện thời của con. Cho nên con đừng lo ngại sử dụng các nguyên tắc của phong thủy làm chỉ đạo, rồi con diễn giải những nguyên tắc đó dựa theo phân biện Ki-tô. 

Như con đã chỉ ra, việc thỉnh cầu ánh sáng trong suốt tiến trình cũng quan trọng, và chắc chắn con không được sao lãng. Tuy nhiên, không có lý do gì mà con không thể phối hợp lời day của phong thủy với việc thỉnh cầu ánh sáng. Làm như vậy có thể đem lại cho con một căn nhà sẽ hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. 

Tuy nhiên, hãy cho ta nhắc nhở thêm một điều quan trọng, là con cần giữ cân bằng trong mọi chuyện. Phần quan trọng nhất trong việc phát triển tâm linh là con tiếp xúc trong nội tâm với cái ta Ki-tô. Mọi chuyện vỏ ngoài phải là phụ thuộc so với mối liên lạc nội tâm đó, kể cả căn nhà con ở hay thực phẩm con ăn. Đó là tại sao ta có nói rằng, điều làm con ô uế không phải là cái con bỏ vào miệng mà là cái đi ra khỏi miệng. Câu nói đó có mục đích minh họa ý tưởng mà ta đưa ra ở đây, là những thứ vỏ ngoài trong thế giới vật chất luôn luôn là thứ yếu so với những điều nội tâm trong chính tâm lý con, cũng như sự nối kết của con với cái ta Ki-tô. Cho nên con hãy để cho phong thủy làm đầy tớ cho con, chứ đừng để nó trở thành chủ. 

Làm thế nào chuyển tập trung từ tâm vào tim?

Hỏi: Xin thày giảng thêm về cách làm thế nào mở tim ra, làm thế nào chuyển sự tập trung từ tâm trí vào con tim? Theo con hiểu, trụ nơi tim là một phần quan trọng của tâm thức Ki-tô.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trụ nơi tim CHÍNH LÀ tâm thức Ki-tô chứ không phải là một phần. Bởi vì theo một nghĩa nào đó, loài người có xu hướng – ngay cả trong số những người tâm linh và thậm chí học trò của chân sư thăng thiên – muốn cắt nhỏ mọi chuyện ra thành nhiều phần rồi bảo: “À, đầu tiên có phần này, và tôi phải thỏa mãn yêu cầu này, rồi tôi mới có thể xem tới yêu cầu kế tiếp.”

Theo nghĩa đó thì đấy là một giai đoạn cần thiết trên đường tu, vì như các chân sư đã nói, đường tu ngụ ý là con phải bước đi từng bước một. Tuy nhiên, nếu con có khuynh hướng, nếu con thấy trong bản thân con có khuynh hướng là mình quá phân tích, mình quá tập trung vào lý trí, thì con hãy lấy một quyết định có ý thức, và con có một nỗ lực ý thức để vượt xa hơn cái nhìn cho rằng đường tu là những bước rời, những thành phần có thể chia ra làm đơn vị riêng rẽ.

Con hãy ngừng xem quả vị Ki-tô là những phần riêng lẻ tách biệt phải được hoàn thành, và thay vào đó, con hãy nỗ lực lùi về một bước trong ý thức, nhìn vào toàn cảnh để tập trung vào tổng thể. Con hãy bắt đầu xem quả vị Ki-tô là một tiến trình, một dòng chảy không bao giờ ngừng.

Nếu con trầm mặc nhìn dòng nước chảy, con không thể tách nó ra thành nhiều phần. Chắc chắn con có thể có một cái xô nhỏ khi hồi con còn bé, con có thể nhúng xô xuống dòng nước, kéo nó lên bờ rồi ngồi đó ngắm nghía khối nước trong xô mà con đã lấy ra khỏi dòng nước khiến nó giờ đây bị tách biệt khỏi dòng sông.

Nhưng con vẫn không ngưng được dòng nước. Con đã lấy ra một phần của dòng nước và đã chặn dòng chảy trong phần nước đó. Nhưng dòng sông vẫn chảy tiếp. Dòng Sông sự Sống luôn luôn tuôn chảy.

Cho nên ta muốn nói với con, con hãy thôi đừng là đứa bé bên bờ sông ngồi nhìn khối nước im lìm trong xô. Thay vào đó, con hãy đứng dậy, cầm lấy xô ném nó trở lại xuống lòng sông, rồi con hãy nhảy theo, và con không còn tách biệt nữa.

Bởi vì con thấy đó, luôn luôn sẽ có những người đứng trên bờ sông, và có thể họ sẽ chỉ nhúng một đầu ngón chân xuống nước. Nhưng đã từ rất lâu rồi, ta đã nhảy xuống dòng nước, và ta có thể nói với con: “Nước tốt lắm con ơi!”

[Ghi chú của Kim Michaels: Có hai dụng cụ thiết thực để mở tim là bài Thỉnh Làm Thông sạch Trái tim, và bài Thỉnh Yêu thương Bản thân]

Nhiều tôn giáo có thể làm nền tảng cho quả vị Ki-tô

Hỏi: Giê-su thân yêu, thày công nhận là có những vị thánh… là những người đã đạt tới mức tâm linh để trở thành những sinh thể Ki-tô. Nhưng họ đã đạt đến mức đó qua một tôn giáo giả trá… Giáo hội Công giáo. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Không có một tôn giáo nào trên địa cầu chứa đựng 100% chân lý, và không có tôn giáo nào trên địa cầu chứa đựng 100% sai lầm. Cho dù Giáo hội Công giáo đã làm tha hóa giáo lý đích thực của ta theo nhiều cách, đặc biệt đã biến ta thành một thần tượng, vẫn có những yếu tố chân lý trong đạo Công giáo.

Khi con tăng triển trên đường tu tâm linh, con sẽ rèn giũa khả năng phân biện đâu là sự thật và đâu là sai lầm, đâu là Chân lý Hằng sống của Thượng đế và đâu là giáo điều do con người dựng ra.  Khi con nhận diện một mảnh sự thật, con có thể tham thiền về sự thật đó cho đến khi con thể nhập – qua đó, mảnh sự thật đó có thể trở thành chất men làm nở nguyên ổ bánh là tâm thức của con, và toàn bộ tâm thức con vươn lên đến tận tầng cấp mà sự thật đã được ban ra.

Mong muốn ban đầu của ta cho đạo Ki-tô là nó sẽ trở thành một phong trào mà qua đó đại đa số loài người có thể rút tỉa uy lực để trụ neo vững chắc vào con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Do giáo lý nguyên thủy của ta bị tha hóa, phần lớn bởi Giáo hội Công giáo, điều đó đơn giản đã không thể thực hiện cho hầu hết mọi người. Đó là tại sao tuyệt đại đa số các tín hữu Cơ đốc đã đi theo con đường có vẻ đúng cho con người phàm phu, nhưng cuối cùng sẽ là con đường của sự chết. Con đường đó là ý tưởng cho rằng mình phải chờ đợi một vị cứu tinh sẽ đến từ ngoài để giải cứu mình.

Nhưng dù sao, vẫn có những mảnh sự thật còn sót lại trong đạo Cơ đốc mà một dòng sống trưởng thành có thể sử dụng để nâng cao tâm thức mình. Nếu con tìm hiểu cuộc đời của một số vị thánh, và con đọc được giữa hai hàng chữ để nhận ra những gì không nhất thiết được viết ra trong tiểu sự hay tự truyện của họ, con sẽ thấy là nhiều vị thành cuối cùng đã trở thành những nhà thần bí. Họ đã nhìn xa hơn các giáo điều vỏ ngoài do con người tạo ra, và họ đã khám phá chân lý nội tâm vẫn nằm ở đó, cho dù là nằm đằng sau giáo lý công truyền. Họ đã thể nhập chân lý nội tâm đó và ngộ ra là ta đã đến để kêu gọi loài người khoác vào tâm Ki-tô.

Bằng cách tham thiền về cuộc đời của ta, các dòng sống trưởng thành có thể thể nhập lời dạy của ta cũng như Bản thể của ta, đến độ dòng sống đó đạt được quả vị Ki-tô. Thậm chí con có thể đạt quả vị Ki-tô bằng cách tham thiền về Tim Thánh của ta cho đến khi con hoàn toàn thể nhập rung động Tim Thánh.

Điều ta nói ở đây là không có một tôn giáo vỏ ngoài nào có thể đưa con đến quả vị Ki-tô một cách máy móc. Cho dù tôn giáo mà con theo có cho con một mức độ chân lý rất cao, vẫn không bảo đảm là con sẽ đạt được quả vị Ki-tô. Con chỉ đến được quả vị Ki-tô bằng cách bước xa hơn chân lý đã được viết xuống và biểu đạt thành lời. Con chỉ đạt được quả vị Ki-tô bằng cách thể nhập rung động của chân lý, tức là nhiều hơn những từ ngữ, những giáo điều và nghi lễ vỏ ngoài.

Vì vây, đối với một dòng sống trưởng thành, việc đạt được quả vị Ki-tô là một điều khả thi qua trung gian bất kỳ tôn giáo nào trên trái đất – hay bằng cách không theo một tôn giáo nào. Tuy nhiên, đây không phải là cái cớ cho tôn giáo làm tha hóa lời dạy đích thực của ta.

Như ta đã trình bày, ta muốn mọi người – chứ không chỉ các dòng sống trưởng thành – trụ vững trên con đường dẫn đến quả vị Ki-tô. Vì vậy, Giáo hội Công giáo đã thiếu sót một cách tệ hại trong việc cống hiến con đường Ki-tô cho mọi người. Giáo hội đã làm y như các thày thông giáo thuở xưa, là tước đi chìa khóa của hiểu biết, bởi vì chính các lãnh đạo của giáo hội này không muốn bước vào, cho nên họ mới tìm cách cản trở những ai muốn bước vào. Khốn cho những thày thông giáo vẫn tiếp tục tước mất chìa khóa của hiểu biết cho tới ngày nay.

Lòng biết ơn giúp con nhận ra vật chất không sai khiến được tánh linh

Hỏi: Xin thày nhắc nhở chúng con tại sao lòng biết ơn lại quan trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Con vừa được nhắc nhở rồi đó, con yêu dấu!

Không có cách nào khác hơn là cá nhân con lấy quyết định một cách ý thức là con sẽ tự nhắc nhở mình về sức mạnh của lòng biết ơn. Để làm vậy, con sẽ phải quyết định phương cách thích hợp nhất để cá nhân con tự nhắc nhở mình. Liệu con sẽ có một thiết bị nào đó để giúp con nhớ? Liệu con sẽ quyết định là mỗi ngày con sẽ tự nhủ một lời khẳng định ngắn gọn về lòng biết ơn? Liệu con sẽ suy ngẫm về một đoạn của bài truyền đọc hay về Bài nguyện Tràng hạt Biết ơn [ROS03 Mother Mary’s Miracle Gratitude Rosary]? Hay liệu con sẽ đọc bài nguyện đó đều đặn?

Tất nhiên, điều quan trọng là con tự nhắc nhở về quyền năng của lòng biết ơn vì như con biết, vũ trụ là một tấm gương được thiết kế để cho con bất kỳ trải nghiệm nào mà con mong muốn. Cho nên nếu con không biết ơn, điều này chỉ có nghĩa là con cảm thấy thiếu thốn, con cảm thấy mình không có đủ – và do đó con không có lý do gì để mà biết ơn.

Vì vậy, đâu là thông điệp tiềm thức mà con đang gửi vào tấm gương vũ trụ? Thông điệp đó là: “Tôi muốn trải nghiệm sự thiếu thốn, tôi muốn trải nghiệm là tôi không đủ, hầu tôi có lý do để cảm thấy vô ơn vì tôi muốn cảm thấy vô ơn. Cho nên hãy cho tôi một lý do vỏ ngoài để tôi cảm thấy vô ơn.” Và vũ trụ trả lời: “Được rồi, con yêu dấu, nếu đó là điều con thực sự mong muốn, hợp đồng của ta ghi rõ là ta có bổn phận cho con những gì con bảo là con muốn.”

Và tất nhiên, khi con đổi ý định và quyết định là con muốn nắm lấy quyền chỉ huy cảm xúc của mình, chỉ huy thế giới cảm xúc, và con cho phép mình cảm thấy biết ơn, thì… BẤY GIỜ thông điệp con đang gửi vào tấm gương sẽ là gì? Đó là thông điệp nói rằng con cảm thấy mình quá đầy đủ – hay ít ra là con cảm thấy biết ơn về tất cả những gì con đang có – cho nên kỳ thực con đang gửi ra thông điệp nói rằng “Con muốn trải nghiệm cảm giác biết ơn, cảm giác càng ngày càng có nhiều hơn nữa.”

Thế là vũ trụ sẽ trả lời: “Ồ con yêu dấu, rốt cuộc con cho phép ta làm tròn tiềm năng cao nhất của ta là ban cho con cuộc sống dồi dào, cho nên nhất định ta sẽ cho con nhiều hơn những gì con đang có. Và vì con cảm thấy biết ơn hơn nữa về những gì con đang có, ta có thể cho con nhiều hơn nữa – bởi vì quả thực, ta có khả năng nhân lên gấp bội những vốn liếng, những ta-lăng, mà chính con đã nhân lên, con yêu dấu.”

Cho nên con thấy đó, cốt lõi của cuộc sống là nhận ra vũ trụ là một tấm gương và đường tu là sự khắc phục ảo tưởng cho rằng thế giới vật chất có quyền lực trên con như một sinh thể tâm linh. Bởi vì khi một người cho phép mình tin rằng mình không có đủ trong thế giới vật chất, thì người đó tin gì? Chẳng phải là người đó tin rằng hoàn cảnh vật chất có quyền lực trên cảm xúc của họ hay sao? Và do đó họ nói: “Tôi không thể cảm thấy biết ơn khi tôi không có cái này hay cái kia, tôi không có điều kiện vật chất này hay điều kiện nọ.” Và như vậy họ cũng bảo rằng thế giới vật chất, thế giới bên ngoài, đang có quyền năng trên thế giới bên trong, tức là tâm lý, cảm thể của họ.

Thế nhưng đường tu tâm linh là sự khắc phục ảo tưởng đó, khi con nhận ra rằng cảm xúc phải nằm dưới quyền điều khiển có ý thức của trí thể, và trí thể phải nằm dưới quyền điều khiển có ý thức của bản sắc thể, hầu con ngộ ra mình là một sinh thể tâm linh. Và do đó, con cho phép bản sắc đó chỉ huy trí thể, chỉ huy các ý tưởng của con, để con nhận ra là con có khả năng cảm được bất cứ gì con muốn cảm thấy – cho dù các điều kiện vật lý mà con đang đối mặt có là gì.

Cho nên con có quyền năng – nếu con có ý chí đó – để nắm quyền chỉ huy thế giới cảm xúc của con và cảm thấy biết ơn, bất kể những gì con có hay không có trong thế giới vật chất. Và thế giới vật chất này được thiết kế để là đầy tớ cho thế giới tâm linh, là sự trải bày của thế giới tâm linh, hầu nó thực hiện được câu: “Ở Trên thế nào, ở dưới thế nấy.” Và như vậy cuộc sống dồi dào mới có thể được thị hiện trên địa cầu cũng như trong đời sống cá nhân của con, con yêu dấu.

Vui hưởng cuộc đời mà không dính mắc

Hỏi: Thày Giê-su, xin thày định nghĩa thế nào là chủ nghĩa duy vật. Làm thế nào chúng con có thể tránh được nó và giữ cho mình không bị dính mắc vào vật chất? Chúng con sống trong một đất nước với nhiều thứ tươi đẹp, và nếu con muốn một ngôi nhà đẹp đẽ mà không bị dính mắc thì liệu điều này có chấp nhận được không? Hoặc con có thể muốn bất cứ gì khác mà không bị dính mắc một cách nào đó? Có phải là chúng con không được ham muốn gì cả ngoại trừ Thượng đế? Đây có phải là cuộc chiến giữa tự ngã với Thượng đế? Chuyện này khiến con bối rối.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Không dính mắc là một khái niệm không thể hiểu được bằng trí năng của người phàm. Đó là một khái niệm không đường thẳng vượt khỏi trí thức đường thẳng cũng như tâm nhị nguyên.

Một người tầm đạo sẽ được rất nhiều lợi lạc nếu ngộ ra là có nhiều khái niệm tâm linh không thể nào diễn đạt bằng lời nói. Lý do là vì ngôn từ là một phương tiện đường thẳng có thể dễ dàng được suy diễn, hay bị diễn giải lầm lạc, bởi tâm nhị nguyên. Cho nên để nắm bắt trọn vẹn – có nghĩa là thể nhập – một khái niệm, con cần sử dụng giáo lý vỏ ngoài duy như là một bàn đạp để đạt đến một trải nghiệm nội tâm, trực nhận, về chân lý.

Ý nghĩa của sự thật nói trên là khi chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đưa ra một lời dạy tâm linh, chẳng hạn những lời dạy của ta cách đây 2000 năm, ý định của chúng tôi không bao giờ là ban ra một lời chân lý bất khả sai lầm. Chúng tôi dư biết là không có một lời dạy nào được diễn tả qua ngôn từ có thể là chân lý viên mãn. Đơn giản, chân lý không thể được biểu đạt bằng ngôn từ. Chân lý chỉ có thể được trải nghiệm và thể nhập. Có thể nói là con không thể biết hay hiểu được chân lý, mà con chỉ có thể trở thành chân lý. Đó là tại sao ta đã dạy: “Giê-su nói với người đó: Ta là con đường, sự thật và sự sống. Không một ai đến được cùng Cha mà không bởi ta.” (John 14:6)

Câu nói trên là ví dụ điển hình về điều ta vừa trình bày. Quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc – bị mắc kẹt trong tâm nhị nguyên – đã diễn giải câu đó nghĩa là con người vỏ ngoài của Giê-su Ki-tô, hay đạo Cơ đốc, là con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi. Ý nghĩa thực là tâm thức Ki-tô – vượt khỏi tâm đường thẳng nhị nguyên – mới là cách duy nhất để biết Thượng đế cùng sự thật của Thượng đế. Và con chỉ có thể biết được sự thật bằng cách hợp nhất, trở thành, tâm Ki-tô đó. Và không một ai dù là nam hay nữ cũng không thể đến được với Cha ngoại trừ qua sự hợp nhất với cái ta Ki-tô của người đó.

Bằng cách trở thành một với cái ta Ki-tô, con sẽ lần hồi trở nên không dính mắc đối với mọi thứ của thế gian. Điều này sẽ không xảy ra nếu con cố tình kìm nén ham muốn của mình đối với những vật của thế giới này, mà nó sẽ xảy ra bởi vì cái ta Ki-tô của con sẽ giúp con ngộ được rằng sự sống là nhiều hơn vui thú vật chất. Khi đó, con sẽ bắt đầu ham muốn những thứ của tánh linh nhiều hơn những thứ của thế gian.

Đó là một tiến trình lần hồi. Con hấp thụ một mảnh nhỏ của chân lý, xong con cho phép nó nâng cao tâm thức của con. Đó là vì sao ta đã dạy: “Nước thiên đàng giống như chất men mà người đàn bà kia trộn vào trong ba đấu bột, cho đến khi bột nở dậy cả lên.” (Matthew 13:33)

Con cũng biết là khi con cho men vào bột, men cần thời gian để làm việc. Nếu con cứ không ngừng lấy bột nhào đi nhào lại thì con sẽ ngăn trở men làm việc. Cho nên con cần để bột sang một bên cho nó nghỉ. Cũng vậy, con lấy một mảnh chân lý tâm linh, xong con cho phép nó dần dần nâng cao tâm thức của con.   

Tiếc thay, quá nhiều người – đặc biệt trong thời đại hôm nay chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn tức thì – sử dụng trí năng của mình để tìm cách ép buộc tiến trình đó. Điều này đặc biệt nguy hiểm khi người ta tìm cầu những loại hiện tượng hay trải nghiệm tột đỉnh. Những người như thế rốt cuộc thường chỉ có được một trải nghiệm giả hiệu đem lại cho họ một cách hiểu sai lầm về khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Thế nhưng họ cứ tưởng là do những trải nghiệm mà họ đã có, sự hiểu biết của họ chính là chân lý tuyệt đối. Đấy là vì sao ta đã dạy: “Nước thiên đàng không được hãm ép, và những kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực.” (Matthew 11:12)

Ý của ta là con không thể cưỡng ép một cách hiểu trí thức lên sự không dính mắc – con không thể bắt ép mình cho không dính mắc. Con cần suy ngẫm điều này và dần dần thể nhập sự thật sâu xa đằng sau khái niệm không dính mắc. Con cần trở thành chính sự thật đó thì khi đó con sẽ không dính mắc.

Khi điều này xảy ra, con sẽ tự nhiên tìm được một thế cân bằng sẽ cho phép con vui hưởng những thứ của thế gian này mà không bị dính mắc với chúng. Nói cách khác, lý tưởng là con có khả năng thưởng thức và vui hưởng trọn vẹn sự tươi đẹp của thế giới này. Con nghĩ tại sao ta đã nói câu này: “Ta đã đến để các con được sự sống, và các con được sự sống dồi dào hơn nữa.” (John 10:10)

Thượng đế không hề mong muốn thấy người tâm linh phải từ bỏ mọi khía cạnh của thế giới vật chất. Cho nên con đường từ bỏ – mà quá nhiều hội thánh Cơ đốc cùng các tôn giáo khác đã đi theo – không phải là con đường hay nhất. Kỳ thực, khi con từ bỏ mọi thứ của thế gian thì con cũng không tránh được sự chối bỏ một số khía cạnh trong thiết kế của Thượng đế, chối bỏ một số món quà mà Ngài đã dành cho những người con trai và con gái của Ngài. Chừng nào sự chối bỏ món quà của Thượng đế còn tiếp diễn thì vương quốc của Ngài sẽ không thể nào thị hiện trên trái đất.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con đường từ bỏ là hoàn toàn sai lầm, mà đó là một cách ứng phó đối với một cuộc khủng hoảng – cụ thể là có quá nhiều người đã trở nên dính chặt với đồ vật thế gian đến độ họ đã tự đồng hóa làm sinh thể vật chất thay vì là những sinh thể tâm linh. Họ nghĩ là họ không thể nào sống được mà không có đồ vật của thế gian, hay họ nghĩ họ không thể nào trọn vẹn được nếu họ không mang một khía cạnh nào đó của đời sống thế gian. Chính thái độ này ngăn chặn họ bước vào vương quốc Thượng đế bởi vì: “Và khi người Pha-ri-si hỏi Giê-su là vương quốc Thượng đế bao giờ sẽ đến, thì Giê-su trả lời: Vương quốc Thượng đế không đến khi con quan sát và thốt lên, Kìa ở đây! Kìa ở đó! Vì con nhìn này, vương quốc Thượng đế ở ngay trong con.” (Luke, 17:20-21)

Nói cách khác, con không thể thực sự chiếm đoạt nước thiên đàng bằng vũ lực, cho dù nhiều người tưởng họ có thể làm vậy. Quá nhiều người mộ đạo tin rằng bằng cách tuân thủ các quy tắc vỏ ngoài và vững tin vào học thuyết của tôn giáo mình – bằng cách tuân thủ luật lệ của thế gian – họ sẽ có thể tự động tìm đường xông lên thiên đàng. Không phải vậy đâu con. Nước thiên đàng là một trạng thái tâm thức. Chìa khóa để đạt được trạng thái tâm thức này là trở nên không dính mắc với mọi thứ trong thế gian. Trở nên không dính mắc là một tiến trình có mấy giai đoạn, và ở đây chúng ta có thể đề cập đến một vài giai đoạn chính yếu, măc dù chúng ta có thể định ra nhiều giai đoạn hơn nữa:   

  • Con nhận ra sự sống là nhiều hơn thế giới vật chất.
  • Con quyết định là con muốn một tầm hiểu về khía cạnh tâm linh của cuộc sống nhiều hơn là một số thú vui vật chất, cho nên con sẵn lòng gạt sang một bên một số đeo đuổi thế gian để có thể dành thời gian cùng sự chú ý cho việc đạt hiểu biết tâm linh.
  • Con nhận ra chìa khóa của phát triển tâm linh là thể nhập chân lý và hòa nhập vào thành phần cao hơn của bản thể con, mà ta gọi là cái ta Ki-tô của con.
  • Con nhận ra là một số sinh hoạt trong thế gian kéo con xa khỏi việc hòa nhập với cái ta Ki-tô của con. Rồi con quyết định từ bỏ các sinh hoạt như vậy mà không cảm thấy có gì mất mát. Cái ta Ki-tô cho con một cái gì sáng giá và thỏa nguyện hơn so với các thú vui thế phàm.
  • Con nhận ra là rất nhiều thứ trong thế gian chính là sự biểu đạt của viễn quan Thượng đế. Đó là những món quà của Ngài. Cho nên việc vui hưởng các món quà đó – mà không trở nên dính mắc với chúng – không khiến con xao lãng quả vị Ki-tô của mình. Giờ đây con có thể thưởng thức món quà của Thượng đế mà không nghĩ rằng con không thể sống được nếu thiếu chúng.  

Khi con kinh qua tiến trình nói trên, tiến trình lần hồi trở nên không dính mắc với mọi thứ của thế gian, con bắt đầu ngộ ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp. Cho nên để sinh sống và vui hưởng, con không còn hướng mắt nhìn về những nguồn cung ứng, những yếu tố thế phàm nữa. Con hướng nhìn về Thượng đế cho mọi chuyện, và khi con làm vậy với một đức tin trọn vẹn hoàn toàn không dính mắc, Thượng đế sẽ toại nguyện mọi nhu cầu của con một cách đích thực. Ta đã từng diễn tả ý này trong câu sau đây: “Nhưng trên hết, hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế cùng sự công chính của Ngài, thì mọi thứ đó sẽ được bồi thêm cho con.” (Matthew 6:33)    

Điều quan trọng đối với người tầm đạo tâm linh là nhận ra rằng trước khi dòng sống của con bước vào kiếp đầu thai, con đã lập ra một kế hoạch cho đời mình để đem lại sự tăng triển tâm linh tối đa. Nói cách khác, dòng sống của con muốn tăng triển tối đa và nó đã xin Thượng đế giúp nó đạt được tăng triển này. Ngay lúc này, có thể tâm vỏ ngoài của con đã quên mất sự kiện đó và đã xây dựng một lòng ham muốn mãnh liệt đối với một số vật trong thế gian. Con có thể nghĩ là con không thể sống mà thiếu chúng, con có thể nghĩ là con sẽ không trọn vẹn nếu con không có chúng, hay con không thể tinh tấn tâm linh mà không có chúng. Thậm chí con còn có thể nghĩ – và đây là ảo tưởng lớn nhất trong số đó – rằng con không thể biểu hiện được quả vị Ki-tô của mình mà không có những thứ vỏ ngoài đó.

Cho nên nếu Thượng đế ban cho con những thứ đó thì điều này sẽ chỉ tăng cường niềm tin của con vào sự bất toàn, thiếu trọn vẹn của mình mà thôi – nó đối lập trực tiếp với sự tăng triển của con.

Cốt lõi của quả vị Ki-tô chính là khi con ngộ ra là con không cần bất cứ gì của thế gian này, bất cứ gì bên ngoài cái ta của con (cái ta Ki-tô) để có thể thị hiện quả vị Ki-tô.

Con có thấy chăng điều ta muốn nói? Nếu con chưa nhìn ra, con hãy dành thời gian để suy ngẫm về lời dạy mà ta vừa trao cho con. Tinh túy của lời dạy này là điều ta đã giảng dạy cho ông Kim khi ông được đào tạo để trở thành vị sứ giả của ta. Ta có nói với ông: “Nếu con nghĩ con cần đến cái gì đó, thì con không thể có cái đó!” Ý nghĩa là chừng nào con cho rằng mình chưa trọn vẹn – rằng mình không thể là Ki-tô – nếu con còn thiếu một cái gì đó của thế gian, thì Thượng đế sẽ không thể cho con cái đó. Làm như vậy sẽ vi phạm những chọn lựa sâu thẳm của dòng sống của con là mong muốn tăng trưởng tâm linh tối đa.

Tuy nhiên, Thượng đế cũng không muốn thấy con sống một cuộc đời thiếu thốn. Ngài muốn con có một đời sống dồi dào: “Hỡi bầy nhỏ, đừng sợ chi, vì Cha của các người đã bằng lòng cho các người nước thiên đàng.” (Luke 12:32)

Cho nên ngay lúc con đạt đến sự không dính mắc cuối cùng đối với mọi thứ của thế gian và nhận ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp, thì tức thì Ngài có thể và sẽ cho con sự sống dồi dào.  

Liên quan đến việc định nghĩa chủ nghĩa duy vật, có mấy giai đoạn như sau tượng trưng cho những độ chối bỏ Thượng đế ngày càng bớt đi:

  • Một số người cho rằng ngoài thế giới vật chất không có gì khác cả. Thượng đế không hiện hữu và trong con người của họ không có thành phần nào vượt khỏi thế giới vật chất. Chỉ những gì có thể được phát hiện bằng giác quan vật lý hay dụng cụ khoa học mới có thật. Đây là loại chối bỏ Thượng đế của nhiều nhà duy vật khoa học.  
  • Những người nhận ra rằng sự sống là nhiều hơn thế giới vật chất, nhưng họ không nối kết được sự sống đó với chính họ. Họ xem Thượng đế vượt quá tầm của họ. Họ nghĩ họ tách biệt khỏi Thượng đế và chỉ được cứu vớt bởi ai đó bên ngoài bản thân họ. Đây là sự chối bỏ Thượng đế của nhiều tín đồ chính thống trong bất kỳ tôn giáo nào, kể cả đạo Cơ đốc. Họ nhìn nhận là Thượng đế có hiện hữu nhưng họ chối bỏ là Thượng đế hiện hữu ngay nơi họ.
  • Những người đã bắt đầu nhận ra là mọi thứ đều được tạo ra từ năng lượng của Thượng đế, nhưng họ vẫn thấy một sự tách biệt giữa thế giới vật chất và Thượng đế. Cho nên họ nghĩ là Ngài không thể làm được một số chuyện – chẳng hạn chữa lành bệnh tật – hay cho họ những thứ của thế giới vật chất. Họ nghĩ là họ phải lệ thuộc vào thế giới vật chất để sống còn và vui hưởng. Sự chối bỏ này là của nhiều người tâm linh chưa hoàn toàn thể nhập được lời dạy tâm linh chân truyền. Do đó họ chưa chứng được sự không dính mắc đích thực.  

Con nói đúng, tiến trình đạt tới sự không dính mắc là một tiến trình khắc phục tự ngã. Tuy nhiên, đó không phải là một cuộc chiến giữa tự ngã với Thượng đế, vì Thượng đế không có đối nghịch. Đó là một cuộc chiến giữa dòng sống với tự ngã, và vấn đề đặt ra là liệu dòng sống có cho phép nó bị tự ngã kiểm soát, hay nó thấy nó là một vị đồng sáng tạo cùng với Hiện diện TA LÀ của nó. Con hãy nhớ rằng tự ngã được tạo ra trong sự tách biệt với Thượng đế, cho nên tự ngã là “người” duy vật tối hậu. Khi con đạt được sự không dính mắc hoàn toàn, tự ngã của con sẽ chết đi. Vì vậy có thể nói rằng nguồn gốc của mọi chủ nghĩa duy vật chính là tự ngã, cùng với các thế lực – ông hoàng của thế gian này – sử dụng tự ngã để kiểm soát dòng sống của con.

Một điểm chót. Khi con nhận ra Thượng đế là nguồn cội của mọi điều tốt đẹp, con cũng nhận ra khái niệm thiếu thốn và khan hiếm là một ảo tưởng. Thượng đế không có giới hạn, và trong Ngài không hề có thiếu thốn. Đây chính là ý nghĩa thực sự của sự sống dồi dào. Khi con suy ngẫm nguyên nhân của dính mắc, con sẽ thấy là nó khởi lên từ ảo tưởng thiếu thốn – con tin rằng nguồn cung cấp không thể vô hạn, cho nên con cố bám giữ những gì con có. Một khi con thăng vượt ảo tưởng này, con sẽ nhận ra là nguồn cung cấp của mọi thứ tốt đẹp đều vô hạn, và do đó con có thể bắt đầu cho người khác những gì con có một cách tự do – con cho không – vì con biết là Thượng đế sẽ nhân lên những gì con hiến tặng. “Các con đã được lãnh không thì hãy cho không” (Matthew 10:8).

Và khi trên địa cầu có một số lượng tới hạn (critical mass) những người bắt đầu cho ra thay vì bám giữ những gì mình có, thì con sẽ thấy sự sống dồi dào thị hiện trên trái đất.   

Khác biệt giữa nỗi giận nhân thế và sự thịnh nộ thần thánh

Hỏi: Có lời ghi chép cho thấy là ngay cả thày, Giê-su, cũng đã từng nổi giận. Nếu thày, một vị chân sư thăng thiên, mà cũng biểu lộ giận dữ thì làm sao có thể chờ đợi là chúng con sẽ không nổi giận? Liệu thày có suy nghĩ hay sáng ngộ gì để chúng con suy ngẫm hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Trong một câu trả lời khác, ta đã có chia sẻ một số suy nghĩ về cách giải quyết nỗi giận nhân thế.

Khi con vượt lên khỏi nỗi giận nhân thế, con sẽ không nhất thiết luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ trong mọi hoàn cảnh. Trên hành tinh này có biết bao chuyện xảy ra hiển nhiển là không ăn khớp với định luật tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Cho nên việc thách thức các hành vi sai trái của con người là một điều hoàn toàn thích hợp, kể cả việc biểu lộ những cảm xúc mạnh mẽ mà hầu hết mọi người sẽ coi là sự tức giận. Tuy nhiên khi con bắt đầu đạt tới một mức quả vị Ki-tô nào đó, con có khả năng phát biểu một cách nghiêm nghị và thẳng thắn mà không bị rơi vào độ rung động thấp kém của nỗi giận nhân thế. Con không đang bày tỏ một số cảm xúc mãnh liệt nhằm chê trách, đổ lỗi cho người khác, mà con bày tỏ cảm xúc mạnh mẽ để khiến cho người kia bị chấn động, bị lay chuyển ra khỏi trạng thái tâm thức cố hữu của họ. Mục đích là để họ có thể thấy được hành vi của họ là không phù hợp với các định luật của Thượng đế và do đó sẽ chỉ có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực cho họ mà thôi.

Ta cũng biết là chừng nào một người còn bị mắc kẹt trong rung động thấp kém của tâm nhị nguyên thì người đó sẽ không thể hiểu nổi điểm khác biệt này. Thế nhưng có sự khác biệt rất rõ rệt giữa độ rung của nỗi giận nhân thế và độ rung của cái mà chúng ta có thể gọi là sự thịnh nộ thần thánh (holy wrath). Làm thế nào con phân biệt được thịnh nộ thần thánh với nỗi giận nhân thế? Thịnh nộ thần thánh có thể vô cùng quyền oai, nhưng nó sẽ tức khắc biến mất một khi nó đã hoàn thành mục đích, và nó sẽ không ảnh hưởng vĩnh viễn đến cách nhìn hay tình cảm của con đối với người kia. Trong khi đó, nỗi giận nhân thế sẽ vương vấn ở lại với con một thời gian sau khi nó được biểu lộ, tựa nhưng một ngọn lửa cứ cháy âm ỉ thật lâu trước khi tàn lụi. Nó sẽ tô màu các ý nghĩ và cảm xúc của con đối với người kia trong suốt đời con, hay ít ra cho tới khi con hoàn toàn tha thứ cho người đó. 

Thịnh nộ thần thánh thực sự là một biểu lộ của tình thương vô điều kiện của Thượng đế; nó không phải là loại tình yêu ủy mị, mềm mỏng mà hầu hết mọi người thường nghĩ. Tình thương vô điều kiện sẽ không để yên cho con đứng mãi trong một ý niệm bản sắc giới hạn. Cho nên nếu con cứ khăng khăng ôm giữ các giới hạn đó, thì một người đã đạt được một mức quả vị Ki-tô nào đó sẽ có thể trở thành một cánh cửa mở để cho tình thương vô điều kiện tỏ lộ. Tình thương vô điều kiện này có thể diễn đạt một cách rất nghiêm nghị hầu gây sốc khiến con phải bước ra khỏi trạng thái tâm thức hiện thời của con, và ở cùng cực, trạng thái tâm thức này sẽ dẫn con đến sự tự hủy diệt. Đương nhiên tình thương vô điều kiện sẽ không muốn con tự hủy dịêt, cho nên nó sẵn lòng bày tỏ một cách vô cùng thẳng thắn để con hiểu rõ là con đang đứng ở bở bên kia của quy luật Thượng đế.

Điều ta cũng muốn nói là trong một vài dịp đã được thuật lại trong kinh thánh, cá nhân ta đã từng trở thành công cụ cho tình thương vô điều kiện đó của Thượng đế. Những dịp đó thường bị hiểu lầm là nỗi giận nhân thế, và suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã lấy chuyện đó làm cái cớ để họ bộc lộ sự nóng giận phàm phu của họ. Điều này thật đáng tiếc, vì nó ngăn cản họ giải quyết căn nguyên của sự nóng giận phàm phu để mà vươn lên một mức tâm thức cao hơn.

Ta cũng nhìn nhận là có những lúc ta đã biểu lộ một nỗi giận nhân thế, và có một ví dụ là khi ta nguyền rủa cây sung, như ta đã từng giải thích. Con thấy đó, ngược hẳn với các niềm tin sùng bái thần tượng của bao tín đồ Cơ đốc giáo, ta đã không hề là một con người toàn hảo, và trước khi lên thập tự giá, ta cũng chưa giải quyết xong mọi khía cạnh tâm lý của mình. Ta đã có thể đạt tới điểm đó nếu ta có thêm chút thời gian, nhưng do các biến cố dồn dập xảy đến, ta đã chưa giải quyết xong mọi khía cạnh của các vết thương lẫn các điểm tắc nghẽn trong tâm lý trước khi bị đóng đinh.

Tuy nhiên, con hãy cảnh giác xu hướng của các thày giả muốn con nghĩ rằng nếu con là người tâm linh thì con phải toàn hảo theo một chuẩn mực mà không ai có thể định nghĩa rõ ràng là gì. Sứ vụ của ta cách đây 2000 năm thật không dễ dàng. Ta đã sống qua những thời buổi khó khăn, ta đã cảm xúc, và ta đã biểu lộ những cảm xúc của con người nhân thế. Tương tự như vậy, sứ vụ của các con ngày nay cũng không dễ dàng, cho nên nếu có lúc con có cảm xúc nhân phàm thì điều này cũng là bình thường, tự nhiên.

Nhưng một khi hoàn cảnh trôi qua thì ta buông bỏ các cảm xúc đó. Nói cách khác, trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô, có thể con sẽ vẫn còn một số cảm xúc nhân thế. Chỉ dấu của một người đang tiến lên quả vị Ki-tô không phải là người đó toàn hảo, người đó không bao giờ cảm thấy hay không bao giờ biểu lộ cảm xúc nhân thế. Mà chỉ dấu là người đó có khả năng buông bỏ cảm xúc nhanh chóng để bước đi tiếp trong sứ vụ của mình. Con không cho phép cảm xúc của mình điều khiển cuộc đời mình, mà con để yên cho cảm xúc xuôi chảy tự nhiên, rồi sau đó con quay trở lại với bước đường của con.

Maitreya có phải là đấng cứu tinh đích thực?

Hỏi: Có đúng chăng đức Maitreya [Phật Di Lặc] là vị cứu tinh sắp tới sẽ xuất hiện trong một biểu hiện không thể phủ nhận và sẽ đưa địa cầu cùng nhân loại vào một thời đại hoàng kim? Có đúng chăng đức Maitreya đã hiện thân trong cõi vật lý?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 23/11/2010. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con đọc các bài giảng của ta về con đường chân chính của Ki-tô, con sẽ thấy là chúng tôi các chân sư thăng thiên có mục đích đánh thức tất cả mọi người về nguồn gốc và tiềm năng thần thánh của mình bằng cách giúp con người khắc phục ảo tưởng tách biệt, ảo tưởng của phản-Ki-tô. Điều này có nghĩa là chúng tôi sẽ không đến “cứu nhân loại” và cũng sẽ không xuất hiện trong một biểu hiện ngoạn mục mà không ai có thể chối cãi. Làm như vậy sẽ chỉ củng cố thêm cho ảo tưởng tách biệt, và điều này sẽ đi ngược lại sứ vụ thực sự của chúng tôi.

Nếu muốn hành tinh này được nâng lên để bước vào một Thời đại Hoàng kim, thì điều này sẽ không xảy ra do một thế lực bên ngoài – cho dù đó là chính ta, là Maitreya hay là một UFO (vật thể bay không xác định) nào đó sẽ ra tay làm mọi chuyện dùm cho loài người. Mà điều đó sẽ xảy ra do có một túc số tới hạn (critical mass) những con người trên hành tinh này phát hiện và nhận diện chính tiềm năng Ki-tô của mình. Thượng đế sẽ không giải cứu địa cầu qua trung gian của ta, mà Thượng đế sẽ giải cứu thế giới qua trung gian chính con cùng rất nhiều người giống như con – nếu các con trở thành những cánh cửa mở.

Cho nên lập luận cho rằng Maitreya sẽ hiện ra trong một biểu hiện thật ngoạn mục và sẽ giải quyết mọi vấn đề của nhân loại, là hoàn toàn không phù hợp với các chân sư thăng thiên cũng như với thời đại Bảo bình. Đó là một biểu hiện của tâm thức tha hóa thời Song ngư và từ lâu nay đã lỗi thời rồi. Đây là cùng cái tâm thức của các sinh thể sa ngã khi chúng tâng bốc ta lên thành một ngoại lệ để khiến mọi người không thể nào nắm bắt được thông điệp đích thực của ta rằng ai ai cũng đều có một tiềm năng Ki-tô.

Tương tự, lời cả quyết rằng Maitreya đã hiện thân vật lý cũng không phù hợp với lời dạy của đạo Phật về đức Phật tương lai. Maitreya sẽ không hiện thân như một người độc nhất. Maitreya sẽ có thể “hiện thân” qua nhiều người, là những người đã trở thành cánh cửa mở cho thày cùng ánh sáng và sự thật của thày. Tuy nhiên, điều này sẽ không hoàn toàn là một sự hiện thân, không hơn gì khi bảo rằng Thượng đế đã hiện thân qua chính bản thân ta khi ta đầu thai là một con người. Nói cách khác, sự viên mãn của một sinh thể thăng thiên sẽ không hiện thân qua một cá nhân hay ngay cả một nhóm người.

Nhịn ăn có là cách gia tốc sự tăng triển tâm linh?

Hỏi: Giê-su yêu dấu, thày có ý kiến gì về việc nhịn ăn – theo nghĩa là kiêng hẳn mọi loại thức ăn – như một cách để gia tốc sự tăng triển tâm linh của một người? Ý nghĩ rằng con có thể sống 40 ngày nhịn ăn hoàn toàn như thày đã từng làm khi thày đi vào vùng hoang dã – cũng tương tự như nhiều người tầm đạo khác, những người tu khổ hạnh cùng những vị ẩn sĩ – đã gây rất nhiều cảm hứng cho con. Cho nên câu hỏi của con là như sau: Làm vậy có thể đem lại ích lợi hay tổn hại gì không? Làm thế nào một người có thể nhịn ăn mà không gây tổn hại cho bản thân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 26/5/2011. Đăng ngày 15/11/2012.

Ta thực sự không khuyến khích bất cứ ai tính chuyện nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày liền. Đơn giản là không có cách nào làm vậy mà không gây hại cho cơ thể của con, và làm vậy cũng không đem lại lợi ích tâm linh nào.

Đây là một hiểu lầm về câu chuyện ta đã sống 40 ngày trong sa mạc mà không ăn uống gì. Đối với bất kỳ khía cạnh nào của đời ta, con có thể có hai cách tiếp cận cơ bản. Một là cách tiếp cận hoàn toàn theo nghĩa đen, tức là con cho rằng Kinh thánh là lời của Thượng đế đúng từng chữ một, cho nên bất cứ gì ghi chép trong kinh sách đều đã xảy ra y như mô tả. Với cách tiếp cận này, con sẽ không bao giờ hiểu được ý nghĩa chân thực của các lời dạy cùng tấm gương của ta. Còn cách thứ hai là con nhận ra là ngay cả những sự việc gọi là cụ thể trong kinh sách cũng có ý nghĩa sâu xa hơn, và vì vậy con phải luôn luôn nhìn xa hơn cách diễn giải theo nghĩa đen. Vậy đâu là ý nghĩa sâu xa của việc ta sống 40 ngày ở vùng hoang dã?

Con có thể coi chuyện này minh họa cho sự tương phản giữa hai loại môi trường. Một đằng con có xã hội loài người, một môi trường nơi hầu như mọi thứ đều nằm dưới sự kiểm soát của luật lệ và tư duy con người. Đằng khác, con có “vùng hoang dã”, một môi trường không do con người điều khiển và gần gũi hơn với trạng thái tự nhiên. Cho nên đây là biểu tượng cho sự kiện ta đã rút lui trong một thời gian ra khỏi thế giới của các quy luật, các tín điều, các niềm tin cùng tư tưởng do con người tạo ra. Tuy nhiên, làm vậy không nhất thiết có nghĩa là ta đi vào thiên nhiên, vì con có thể làm vậy gần như ở mọi nơi miễn là con ở một nơi yên tĩnh và con tắt bớt các loại phiền nhiễu bên ngoài. Thậm chí con có thể ở ngay giữa thành phố, mặc dù điều này sẽ khó hơn một chút do tâm thức tập thể náo nhiệt hơn.

“Nhịn ăn” không nhất thiết liên quan gì đến thức ăn. Ta đã “nhịn ăn” bằng cách làm rỗng tâm mình cho không còn những ý tưởng nhân tạo, và như vậy ta đã tạo ra một khoảng trống giúp tâm mở ra đón nhận những ấn tượng trực giác từ một nguồn cao hơn, tức là từ Hiện diện Ta Sẽ Là và các vị thày tâm linh của ta.

Con có thấy điều ta muốn nói? Đâu là mục đích của con khi con muốn nhịn ăn? Nếu đó là để đạt đến một trạng thái tâm thức tâm linh hơn thì con đâu cần gì phải kiêng ăn. Con sẽ cần kiêng một vài loại thực phẩm nặng nề như thịt chẳng hạn, và con cần không ăn quá nhiều. Nhưng không nhất thiết con phải nhịn tất cả mọi thức ăn – và quả thực, làm vậy còn có thể phản tác dụng.

Con sẽ cần gì để có trải nghiệm tâm linh hơn? Tất cả mọi thứ trong đời con đều xoay quanh sự chú ý. Nếu chú ý của con tập trung vào việc thế gian thì con sẽ khó lòng hơn có được trải nghiệm tâm linh. Cho nên để có những trải nghiệm cao hơn, con cần hướng chú ý ra khỏi những chuyện nhân thế, kể cả cơ thể vật lý.

Thế nhưng thực tế đơn giản là việc nhịn ăn không phải là cách hay nhất để hướng chú ý ra khỏi cơ thể. Hầu hết những ai đã nhịn ăn toàn diện đều nghiệm được là việc nhịn ăn thật khó thực hành đến độ họ sẽ càng chú ý nhiều hơn đến cơ thể nếu họ nhịn ăn càng lâu. Cho nên ý nghĩa thực sự của “nhịn ăn” là con quay chú ý ra khỏi các vấn đề thế gian để tập trung vào những việc tâm linh. Nhưng ngay cả điều này cũng cần được hiểu một cách sâu sắc hơn. Bởi vì nhiều người nghĩ rằng tập trung vào chuyện tâm linh có nghĩa là họ phải dùng trí năng để tìm hiểu một giáo lý tâm linh hay tu tập một kỹ thuật tâm linh nào đó.

Điều này, ở một mức nào đó trên đường tu, không cứ là vô giá trị, nhưng một khi con đạt đến những tầng cao hơn thì “nhịn ăn” thực sự có nghĩa là làm rỗng tâm mình và hòa điệu tâm với Hiện diện của con. Nhịn ăn có nghĩa là tập trung vào việc trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết để con thực sự trở thành cánh cửa mở cho Hiện diện, có nghĩa là không có định kiến nào sẽ pha màu các ấn tượng từ Hiện diện gửi xuống. Con không thể làm được điều này ở các tầng thấp hơn trên đường tu, nhưng ở các tầng cao hơn, đây chính là mục tiêu chủ yếu của con.

Có hai điều đã xảy ra trong nhiều thế kỷ đã qua. Trước hết, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng đoạt bởi những kẻ chỉ biết hiểu theo nghiã đen, họ cho rằng mọi thứ phải được diễn giải theo nghĩa đen, theo định nghĩa của họ về nghĩa đen. Và thứ nhì, vào thời Trung cổ, đạo Cơ đốc đã bị cưỡng chiếm bởi những kẻ chỉ biết coi cuộc sống là sự khổ đau.

Nếu con nhìn hầu hết các tác phẩm nghệ thuật vào thời đó, con sẽ thấy người ta vẽ hình ta bị treo thân trên thập tự giá, đang đau đớn vô cùng tận. Cho nên thay vì chú tâm vào lời dạy tích cực của ta – tức là ta đến đây để ban sự sống cho con người cùng sự sống dồi dào hơn nữa – thì đạo Cơ đốc đã chú tâm vào mấy tiếng đồng hồ ta bị khổ nạn trên thập tự giá. Thế rồi khởi lên niềm tin cho rằng chính khổ nạn của ta trên thập tự giá đã “mua chuộc” được sự cứu rỗi cho loài người qua việc, một cách nào đó, ta đã đền bù cho tội lỗi của mọi người.

Con dễ dàng thấy được là điều này đã bị ảnh hưởng bởi niềm tin lâu đời cho rằng khi người ta hiến tế một con vật – bằng cách để nó chảy máu cho đến chết – thì người ta có thể trả tội cho chính mình. Niềm tin này ngược hẳn với lời dạy chân chính của ta, thế nhưng nó đã dần dần chi phối cái nhìn của con người về sứ mạng của ta. Kết quả là người ta dần dần tin rằng Thượng đế – mà ai nấy đều xem là thiện lành – đòi hỏi con phải đau khổ trước khi con có thể rửa sạch tội lỗi của con. Con có thể thấy được sự điên rồ của niềm tin này khi con xem xét điều sau đây. Con đã làm một việc gì khiến ai đó bị đau khổ. Con nhìn nhận sự kiện này, thế là bây giờ con tự nguyện đặt mình vào một tiến trình tạo đau khổ cho chính mình, vì con nghĩ cái khổ thứ nhì này sẽ một cách nào đó đền bù cho cái khổ đầu tiên kia.

Thế nhưng trong thế giới ngày nay, con biết rõ là mọi thứ đều là năng lượng. Con gây cho ai điều gì thì nó sẽ tạo ra một khối năng lượng tha hóa. Và khi con khiến con cũng phải đau khổ thì con lại tạo thêm năng lượng tha hóa nữa. Hai cái sai không tạo thành một cái đúng, vì năng lượng tha hóa không thể loại trừ năng lượng tha hóa. Cách duy nhất để bù lại tội lỗi của mình là tạo năng lượng tích cực, và quả vậy năng lượng tích cực có khả năng biến hóa năng lượng tha hóa. Nhưng nó chỉ làm được chuyện này nếu cả hai bên đều thực sự tha thứ cho nhau. Đây chính là tại sao ta nhấn mạnh đến việc tha thứ cho tất cả những ai đã làm hại con.

Cho nên ý ta muốn nói là suốt nhiều thế kỷ, chính sự tập trung vào khổ đau đã khiến con người nghĩ rằng, bởi vì việc nhịn ăn tạo ra đau đớn, cho nên đó là một cách để con trả tội. Xong lại có thêm niềm tin bảo rằng con đau đớn càng nhiều thì con càng trả được nhiều tội. Rồi giờ đây người ta nối liền niềm tin này với quan niệm là ta đã nhịn đói suốt 40 ngày, thế là một số người tưởng rằng đó là phương cách tối hậu để đạt được đau đớn qua nhịn ăn. Thậm chí một số còn nghĩ là nếu họ bỏ mạng sau khi nhịn đói 40 ngày, nhất định họ sẽ được tưởng thưởng trên cõi thiên đàng. Họ nghĩ: “Chắc chắn tôi sẽ không chết.”

Con có thấy chăng đây là một sự hiểu lầm toàn diện? Trước hết, việc cố nhịn ăn hoàn toàn trong 40 ngày sẽ khiến cho nhiều người bỏ mạng, và hiển nhiên việc tự vận không phải là cách đạt đến một trạng thái tâm thức cao hơn. Thứ nhì, những ai sống sót sau khi nhịn đói từng nấy ngày sẽ rốt cuộc tập trung gần như toàn bộ chú ý của mình vào nỗi đau của cơ thể, và điều này sẽ tước mất khả năng chú ý của họ ra khỏi việc làm cánh cửa mở cho Hiện diện. Vậy con được lợi gì khi làm vậy chứ? Thứ ba, việc cố tình gây ra đau khổ cho chính mình sẽ sản xuất năng lượng tha hóa sẽ không giúp con tăng triển tâm linh.

Về con số 40 ngày, con cần suy xét sự kiện là cách đây 2000 năm, con người không có cùng khái niệm về con số như ngày nay. Trong thế giới hôm nay, hầu hết mọi học sinh đều hiểu được là người ta có thể đếm tới những con số rất cao. Chính các con đây khi còn nhỏ, có bao nhiêu người đã thử đếm đến một ngàn? Thế nhưng cách đây 2000 năm, đa số người lớn còn không biết đếm đến một ngàn chứ đừng nói tới chuyện hình dung ra con số này. Cho nên vào thời đó, người ta đơn giản không thể hiểu được những loại số mà ngày nay con thường dùng để tính toán món nợ quốc gia. Và ngay cả ngày nay, con sẽ thấy nhiều người khó lòng nào hình dung được số nợ khổng lồ của một quốc gia như nước Mỹ – vì đơn giản, con số quá lớn để có thể so sánh với bất cứ gì trong cuộc sống hàng ngày.

Có lẽ con có nghe nói là một số loài động vật không thể đếm nhiều hơn hai. Cũng giống như một số người thổ dân có thể phân biệt một với hai, nhưng bất cứ gì nhiều hơn hai thì họ sẽ gọi là “nhiều”. Cách đây 2000 năm có một cơ chế gần giống như vậy. Người ta có thể đếm đến một chục, nhưng bất cứ gì nhiều hơn đều được xem là “nhiều”. Từ được dùng vào thời đó nay được phương Tây dịch là “vô khối”, nhưng ngay cả từ “vô khối” cũng được dùng ban đầu để chỉ một số lượng không xác định, và chỉ ngày nay người ta mới gắn liền với một con số chính xác.

Cho nên khi Kinh thánh bảo rằng ta đã nhịn ăn 40 ngày thì con số thật sự không phải là 40. Đơn giản đó chỉ là một con số “nhiều” – ta đã trải qua nhiều ngày trong sa mạc.

Và sau đây là một điểm nữa. Ta đã đi vào vùng hoang dã – ta đã thật sự đi xa khỏi những nơi có người sinh sống – để có một trải nghiệm tâm linh, và ta đã chỉ ở đó vừa đủ lâu để có được trải nghiệm này. Và trong thời gian đó, ta đã ăn bất cứ thức ăn nào ta có thể tìm thấy để giữ cho cơ thể vừa đủ thoải mái mà không phải chú tâm đến cơ thể. Trái lại, ta giữ trọn sự chú ý xa khỏi mọi xao lãng bên ngoài để tập trung vào bên trong.

Cho nên nếu con cố bắt chước ta bằng cách cưỡng ép mình nhịn ăn 40 ngày liền, điều con thực sự làm là tự đặt mình vào một tâm trạng sẽ cản trở con đạt đến một trải nghiệm tâm linh đích thực. Bởi vì đơn giản, con sẽ không mở tâm ra và để yên cho trải nghiệm đó xảy ra theo nhịp riêng của nó, mà con sẽ tìm cách cưỡng ép nó. Và cái gì con cưỡng ép thì con cũng sẽ đẩy nó về phía trước mặt, giống như con lừa đẩy củ cà-rốt treo trên cái gậy trước mũi nó.

Bất cứ khi nào – ta nói rõ, BẤT CỨ khi nào – con tìm cách cưỡng ép một trải nghiệm tâm linh, thì con sẽ không có một trải nghiệm đích thực. Thay vào đó, con sẽ mở tâm ra cho các thế lực thấp kém, và quả thực chúng có khả năng cho con một trải nghiệm vượt trội trạng thái tâm thức bình thường của con, nhưng đó không phải là một trải nghiệm tâm linh đích thực vì nó không biến con thành cánh cửa mở cho Hiện diện của con hay cho các sinh thể thăng thiên. Suốt nhiều thế kỷ, nhiều người đã toan tính cưỡng đoạt thiên đàng bằng vũ lực và họ đã mở ra với các thế lực thấp kém mà cứ tưởng là mình vừa có một trải nghiệm tâm linh chân chính. Đó là tại sao những ai chưa quân bình, chưa có sự bảo vệ cá nhân cùng khả năng phân biện tâm linh (chưa phân biện được các linh thể), không nên toan tính chuyện nhịn ăn.

Con có thấy chăng là nhịn ăn có thể rất dễ dàng trở thành một trò chơi của tự ngã? Tự ngã muốn làm một chuyện gì đó cực đoan, vì hoặc nó muốn cao trội hơn người khác, hoặc thậm chí nó nghĩ nó có thể ghi điểm trước mắt Thượng đế.

Vì vậy để kết luận, cách nhịn ăn đúng đắn là con quay sự chú ý của con khỏi những gì đang kéo chú ý ra bên ngoài. Con cần làm rỗng tâm mình để con có thể là cánh cửa mở cho Hiện diện.

Cách duy nhất để thực hiện điều này là tiếp cận vịêc nhịn ăn y như con tiếp cận mọi chuyện khác trên đường tu: luôn luôn cố đạt được sự cân bằng. Đơn giản, đây là cách duy nhất để con vượt qua khai ngộ chạm trán với kẻ cám dỗ, như con sẽ làm mỗi khi con vươn lên một tầng tâm thức cao hơn, hay như con cũng thấy khi ta từng bị ác quỷ cám dỗ sau “nhiều” ngày ở vùng hoang dã.

Con cũng cần nhìn ra là sẽ không xây dựng cho con nếu con chụp lấy những điều ta vừa nói ở đây để rút lui khỏi xã hội và tự cô lập mình. Việc rút lui trong một thời gian để thiết lập sự kết nối nội tâm với Hiện diện của con là một chuyện chính đáng, nhưng một khi con đã bắt đầu kết nối thì con có thể tham gia vào xã hội mà không đánh mất sự kết nối. Trong Thời Hoàng kim, các thày sẽ cần đến những người có khả năng tham gia vào xã hội mà đồng thời làm cánh cửa mở cho các tư tưởng từ cõi thăng thiên.

Thời nay, ta sẽ nói là cách quan trọng nhất để nhịn ăn KHÔNG PHẢI là từ chối ăn uống. Cách nhịn ăn tốt nhất là ăn đủ để cơ thể không là một vấn đề, và sau đó giữ cho tâm lánh xa khỏi toàn bộ hiện tượng “ô nhiễm thông tin” đang tấn công tới tấp con người hiện đại. Đối với con người hiện đại, trở ngại lớn nhất không phải là cơ thể vật lý, mà là tâm con bị kích thích quá đáng bởi đủ loại nguồn thông tin phóng tới con từ mọi phía.

Cho nên cách tốt nhất để nhịn ăn là tắt luồng thông tin đến từ ngoài. Sau đó con tắt sự oanh tạc nội tâm bởi chính tâm con, nó tạo ra đủ loại vấn đề để nó cố thuyết phục con phải giải quyết các vấn đề. Tất cả chỉ là chuyện theo dõi xem chú ý của con đang hướng về đâu. Vương quốc Thượng đế nằm ngay trong con, cho nên con sẽ không thể bước vào đó chừng nào con còn tập trung chú ý ra ngoài điểm tĩnh lặng bên trong con.

Vậy con hãy cố nhịn “thức ăn thông tin” trong một thời gian. Tin mừng là khi con nhịn không theo dõi những gì nhóm bạn của con đang làm trên Facebook, thì con sẽ không chết đâu con – cho dù là sau 40 ngày.

Đốn ngộ và tiệm ngộ

Hỏi: Một số vị thày tâm linh, đặc biệt trong số những vị dạy về bất nhị (non-duality), dường như bác bỏ hay thậm chí xem thường nhu cầu bước theo một con đường tu. Các vị đó dựa trên sự kiện là họ đã có chứng ngộ tự phát (spontaneous awakening) hay đốn ngộ, và một số dạy rằng đây là cách duy nhất và không có gì chúng con có thể làm để ngộ đạt. Một số cũng nói là việc duy nhất chúng con cần làm là sống trong giây phút hiện tại. Xin thày chia sẻ cảm nghĩ của thày vì thày thường hay nhắc đến một con đường tu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nhận xét đầu tiên của ta là không có giáo lý tâm linh nào có thể thích hợp với mọi người. Bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng bắt buộc phải được điều chỉnh để phù hợp với một tầng tâm thức nào đó. Khi con thấy các tầng tâm thức trên địa cầu này trải rộng trên một phạm vi rộng lớn như thế nào, thì thật không thể đưa ra một giáo lý thích hợp cho tất cả mọi người. Khi một vị thày tâm linh làm việc với các chân sư thăng thiên, vị ấy thường có thể đưa ra một giáo lý vượt quá kinh nghiệm riêng của mình. Nhưng khi một vị thày đứng riêng một mình thì giáo lý hầu như sẽ luôn luôn dựa trên kinh nghiệm cá nhân của vị ấy.

Việc này không có gì sai trái, nhưng con phải nhìn nhận là một giáo lý như vậy sẽ hiệu quả đối với những ai ở gần mức tâm thức của thày chứ không hiệu quả đối với người khác. Để ta lấy một ví dụ. Một vị thày có thể đã trải qua một bước đột phá tâm linh tự phát đưa ông lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Thế rồi ông giảng dạy dựa trên trải nghiệm này, và nói chung ông bỏ qua nhu cầu phải đi theo một con đường tu tuần tự có hệ thống. Ông cố đưa đệ tử đi vào một trải nghiệm tương tự như trải nghiệm của chính ông, và ông làm vậy bằng cách chia sẻ các sáng ngộ mà ông đã nhận được sau khi đột phá.

Giả định nằm sâu bên dưới là nếu đệ tử nhận được sáng ngộ đúng đắn thì đệ tử cũng sẽ có được đốn ngộ giống như ông đã trải nghiệm. Đúng là điều này có thể xảy ra, nhưng chỉ với những ai đã gần đạt đến mức tâm thức mà ông đã có trước khi ngộ. Thế nhưng tuyệt đại đa số mọi người trên hành tinh này thì chưa đạt đến mức đó, cho nên không có một khối lượng sáng ngộ nào sẽ có thể đánh thức họ dậy một cách “tự phát” được. 

Nhiều vị thày tâm linh đã có một đột phá tự phát và tìm cách truyền đạt nó cho người khác. Một số vị như Krishnamurti chẳng hạn đã đi xa đến mức phủ nhận cả sự cần thiết của một con đường tâm linh lẫn của một vị thày tâm linh, cho dù là thày đang hiện thân hay đã thăng thiên. Tuy nhiên đối với những ai chưa đến gần được trình độ tâm thức của thày, kết quả cũng giống như thể con cầm một viên kẹo ngọt trước mặt một đứa bé trong khi con lại lái xe đi mất.

Hầu hết mọi người sẽ cần đi theo một đường tu tuần tự, có hệ thống, trước khi họ vươn đến một tầng tâm thức nơi họ có thể đột phá. Và điều này đòi hỏi một nỗ lực chuyên cần, bao gồm cả một số kỹ thuật tâm linh như các bài thỉnh, bài nguyện. Nếu họ cứ tin rằng tất cả những gì họ cần là một sáng ngộ đem lại cho họ một đột phá huyền diệu, thì điều này có thể làm chậm đáng kể bước tiến của họ. Con hãy tưởng tượng con đang bị lạc giữa rừng rậm. Bỗng nhiên ở trên cao con nghe thấy có tiếng máy bay trực thăng và có giọng ai đó vọng xuống: “Bạn hãy lên đây thì bạn sẽ thấy được lối ra khỏi khu rừng!” Nhưng nếu trên trực thăng không ném xuống một cái thang để con leo lên từng bước một thì làm thế nào con sẽ lên được tới mức đó?

Ý ta muốn nói là nhiều người gọi trải nghiệm của họ là đốn ngộ nhưng thật ra họ đã theo một con đường tu tuần tự, tiệm ngộ, trong những kiếp trước. Bây giờ họ có thể không còn nhớ, nhưng ở một thời điểm họ đã từng làm công việc này. Cho nên ta khuyên các đệ tử đừng bỏ các dụng cụ tâm linh, đừng bỏ đọc thỉnh đọc chú chẳng hạn.

Nhưng ở đây có một sự phân biện tinh tế mà con cần làm. Theo một nghĩa nào đó, thật là không sai khi bảo rằng con không thể LÀM gì để đạt đến giác ngộ. Bước đột phá chót của con phải xảy ra và sẽ xảy ra một cách tự phát qua một hồng ân được ban phát từ trên. Con không thể ép buộc nó xảy ra cho dù con có làm gì. Đây là tại sao ta thường hay nói đường tu không phải là một con đường vỏ ngoài máy móc và không có sự cứu rỗi nào là tự động hay bảo đảm.

Có thể nói là không có gì con có thể LÀM để đạt giác ngộ, vì điều ngăn cản con giác ngộ chính là cái tâm thức phải LÀM gì đó thay vì chỉ LÀ mà thôi. Tuy nhiên, điều ngăn cản con LÀ lại là sự phối hợp những niềm tin sai lạc với những năng lượng tha hóa được tích tụ trong bốn thể phàm của con. Nếu bỗng chốc có ai lột mất tất cả các niềm tin sai lạc này thì con sẽ phát điên, vì con sẽ không còn biết mình là ai nữa. Đó là vì sao cách duy nhất để tăng triển là bước theo một con đường tuần tự qua đó con biến hóa các năng lượng tha hóa và nhìn thấu các niềm tin bất toàn.

Và khi con làm sạch tâm con cho không còn các năng lượng và niềm tin này nữa, con sẽ giảm bớt từ lực đang cuốn hút con vào cái làm và cái nghĩ. Và điều này sẽ đưa con đến gần hơn với trạng thái mà Thiền gia gọi là “sơ tâm” – và ta thì gọi là trở thành giống như trẻ nhỏ. Thật không khó lắm để thấy được là hầu hết ai ai cũng đều bị vướng kẹt trong những vòng xoáy bất tận của hành động và phản ứng. Tâm thức tập thể này hình thành một cái gì giống như một thỏi nam châm khổng lồ. Con hãy tưởng tượng con đang đi ngang qua một thỏi nam châm to lớn mà trong túi lại có nhiều cục sắt. Nam châm sẽ hút lấy sắt và con sẽ bị cuốn hút theo. Tuy nhiên nếu con tuần tự vứt bỏ những cục sắt này đi thì lực hút kia sẽ giảm dần cho đến khi con có thể bước sát thỏi nam châm mà nó vẫn không thể nắm được gì ở con.

Cho nên có thể nói giác ngộ là trạng thái tự nhiên của tâm. Vấn đề xảy ra là tâm đã bị kẹt vào một mô thức làm và nghĩ, và mô thức này khiến nó luôn luôn bị bận rộn đeo đuổi một mục tiêu mà nó chưa nắm được. Cho nên nếu giác ngộ cũng trở thành một mục tiêu khác mà con cố đạt được bằng cách làm và nghĩ, thì đúng vậy, chính nỗ lực này sẽ kéo con xa khỏi giác ngộ. Tuy nhiên, điều kéo con vào cái làm và cái nghĩ chính là các niềm tin cùng các năng lượng kia. Nếu con vứt bỏ chúng đi, con sẽ dần dần đến gần hơn trạng thái tự nhiên. Và khi tâm đủ sạch không còn nhiều chướng ngại nữa, nó sẽ trở về trạng thái tự nhiên của nó một cách tự phát, không cần chút nỗ lực nào.

Và như vậy con sẽ có một bước đột phá tự phát có vẻ giống như đốn ngộ vậy, và theo một nghĩa nào đó, đó là đốn ngộ. Nhưng nếu con đã không đi theo con đường tiệm ngộ để làm sạch tâm con thì có bao giờ con có được cái ngộ này?

Một số vị thày nói rằng đa số người phương Tây suy nghĩ quá nhiều về quá khứ và tương lai. Tự ngã dùng quá khứ và tương lai để khuynh loát con người, nhưng tự ngã không thể hoạt động trong giây phút hiện tại, cho nên các vị thày khuyên đệ tử tập trung nhiều hơn vào hiện tại. Cách tiếp cận này không có gì sai vì quá nhiều người vẫn mang xu hướng chú tâm quá nhiều vào quá khứ lẫn tương lai. Đây là tại sao ta đã từng nói: “Vậy chớ lo lắng chi về ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai. Sự khó nhọc ngày nào đủ cho ngày nấy.” (Matthew 6:34)

Ta đồng ý là tự ngã cảm thấy rất khó hoạt động trong giây phút hiện tại, và nếu con thực sự tỉnh thức trong hiện tại vĩnh cửu thì tự ngã sẽ không có chút ảnh hưởng nào trên con. Tuy nhiên, khi bảo đệ tử nên tập trung vào hiện tại thì điều này sẽ chỉ hữu ích cho những ai đã đạt đến một tầng tâm thức nào đó. Con cần một trình độ trưởng thành tâm linh cao để thực sự LÀ trong hiện tại, và cho đến khi con đạt đến mức này thì con sẽ không có khả năng LÀ.

Cho nên khi một đệ tử được dạy là họ phải ở trong hiện tại, kỳ thực họ không thể nào trải nghiệm cái LÀ trong hiện tại. Thay vào đó, họ sẽ hình thành một khái niệm trong lý trí về thế nào là ở trong hiện tại – dựa trên sự hướng dẫn của vị thày thay vì dựa trên kinh nghiệm cá nhân của họ. Và ở đây tự ngã sẽ dư sức khuynh đảo bất kỳ khái niệm tư tưởng nào mà con người tạo ra. Điều này sẽ dễ dàng dẫn một số người bước vào một cách tiếp cận mất quân bình về cái là trong hiện tại. Thật ra khái niệm LÀ trong hiện tại không mới mẻ gì, vì đức Phật đã đầu tiên dạy về khái niệm này, rồi suốt bao nhiêu thế kỷ nhiều người đã đi theo một cách tiếp cận mất quân bình khiến họ rơi vào một trong hai cực đoan:

  • Một số người suy luận, LÀ trong hiện tại có nghĩa là họ có thể làm ngơ quá khứ. Bằng cách đốn ngộ, họ sẽ khắc phục được quá khứ mà không phải đương đầu với nghiệp quả hay các vết thương tâm lý. Cho nên họ bắt đầu tìm kiếm một sáng ngộ thần diệu sẽ làm mọi chuyện giùm họ. Một lần nữa, một sự đột phá có thể xảy ra nếu trong kiếp trước họ đã khắc phục nghiệp chướng cùng các vết thương của họ, nhưng đối với hầu hết mọi người thì không như vậy. Cho nên đối với đa số, việc làm ngơ quá khứ sẽ khiến cho bước tiến của họ bị chậm lại. Họ có thể tiến nhanh hơn rất nhiều nếu họ dùng tất cả các phương tiện có sẵn để giải quyết tâm lý của họ, khắc phục các niềm tin nhị nguyên và thanh tẩy mọi năng lượng tha hóa – tức là nghiệp – từ những kiếp trước.
  • Một số người suy luận là họ có thể ngừng suy nghĩ về tương lai, kể cả việc hoạch định cuộc đời của họ. Một số còn đi xa tới mức cho rằng Thượng đế sẽ chăm lo mọi chuyện một cách mầu nhiệm, và điều này đã khiến một vài người tầm đạo chân thành tự vận qua sự buông xuôi. Đây chính là cái chiêu mà ác quỷ đã sử dụng để cám dỗ ta sau khi ta trở về từ đồng vắng: “Và y nói rằng: Nếu ngươi là Con của Thượng đế thì hãy gieo mình xuống đi. Vì có lời chép rằng: Ngài sẽ truyền các thiên sứ gìn giữ cho ngươi, để các thiên sứ nâng ngươi lên trong tay, kẻo chân ngươi khỏi vấp phải đá. Giê-su bảo y: Cũng có lời chép rằng: Ngươi đừng cám dỗ đức Chúa là Thượng đế của ngươi.” (Matthew 4:6-7)     

Ý ta muốn nói là con nên có một cách tiếp cận cân bằng cho mọi chuyện trong đời. Con hãy biết là tự ngã sẽ luôn luôn tìm cách đẩy con vào cực đoan dù là bên này hay bên kia.

Một điểm chót mà ta muốn trình bày là một số vị thày đưa ra lời dạy về tâm có thể dễ dàng bị người ta ngộ nhận, rằng tâm là kẻ thù của đường tăng triển tâm linh. Quả là không sai khi nói rằng một tâm trí năng động quá mức, đặc biệt một trí thông minh đã nẩy nở sành điệu, có thể là một trở ngại cho sự phát triển tâm linh, vì tâm linh vốn là một tiến trình trực giác nhiều hơn là trí năng. Tuy nhiên, nếu con tin chính tâm con là một kẻ thù thì cách tiếp cận này không xây dựng, vì nó sẽ chỉ khiến con trở thành một căn nhà phân rẽ với chính nó.

Cách nhìn đúng đắn là tâm giống như một căn nhà có đầy tớ phục vụ. Nó chỉ trở thành một kẻ thù nếu chủ nhà không chịu chủ động trong nhà mình. Chủ nhà này chính là con – cụ thể là cái Ta Biết – có nghĩa là con đã hoạch định mình sẽ điều phục phàm ngã của mình bằng cách nhận lấy trách nhiệm trở thành Ki-tô. Khi con tìm được con đường Trung đạo của Ki-tô, con sẽ không để cho tâm con sai khiến con, nhưng đồng thời con cũng không sai khiến tâm con đến độ dập tắt mọi tiềm năng sáng tạo. Thật vậy, nhiều người tâm linh đã sử dụng kỷ luật nghiêm ngặt để kiểm soát tâm mình đến độ họ quên mất là họ đã không đến trái đất để ngồi trong một hang đá thiền quán về Thượng đế, mà để là một người đồng sáng tạo hầu đem lại vương quốc của Thượng đế đến hành tinh này.

Tâm con có tiềm năng trở thành một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ của con, và điều này biến tâm con thành một phần nối dài của tâm Thượng đế. Mọi thứ đều được tạo ra từ tâm thức Thượng đế, có nghĩa là mọi thứ đều được cấu tạo từ tâm của Thượng đế. Cho nên khi tâm con đảm nhận vai trò đích thực của nó như một cá thể của tâm Thượng đế – thay vì như một tâm tách biệt khỏi nguồn cội của nó – thì tâm con cũng trở thành một cỗ xe để thực hiện những gì con đã đến đây để thực hiện, tức là ngự trị trên trái đất.

Ta cũng muốn nói rõ ở đây là ta không bảo con không nên đọc các giáo lý nói trên. Ta chỉ đơn giản xin nói là ta chờ đợi những ai đến thăm trang mạng này sử dụng những sáng ngộ mà họ nhận được ở đây khi họ tìm hiểu, học hỏi bất kỳ loại giáo lý tâm linh nào. Và ta chờ đợi mọi người sẽ gắng hết sức lắng nghe lời dạy của ta về nhu cầu phải quân bình. Nếu con chưa nhận ra là ta thường hay nói về quân bình thì ta khuyên con nên đọc trang mạng này một lần nữa và ghi nhận bao nhiêu lần ta đã nhắc đến quân bình như là yêu cầu quan trọng nhất trong sự phát triển tâm linh chân chính. Ta đặc biệt khuyên con nên đọc hai bài giảng của ta về tự ngã cùng tư duy đen trắng và tư duy xám.

Nếu điều này đã rõ, thật không ai chối cãi là một số vị thày đã trao truyền nhiều sáng ngộ có giá trị về tự ngã và tâm thức nhị nguyên. Hành giả ở mọi tầng tâm thức đều có thể được lợi lạc từ những sáng ngộ đó, nhưng con cần thực tế và đừng bỏ rơi con đường tăng triển tâm linh tuần tự để chạy theo một sáng ngộ thần diệu nào đó sẽ bỗng chốc biến con thành một sinh thể giác ngộ. Điều tốt hơn hẳn là con nên tiếp tục tu tập có phương pháp, rồi để yên cho cái ngộ tự phát xảy ra – một cách tự nhiên. Việc tìm cách chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực chưa bao giờ đưa bất cứ ai ra khỏi tầm tay của tự ngã.

“Dấu hiệu từ Trời” có nghĩa là cái Ta Ki-tô đang cố liên lạc với con

Hỏi: Thưa thày Giê-su, không hiểu có chuyện “dấu hiệu từ Trời” hay không? Nếu con nhận xét thấy một số hiện tượng trong đời con, ví dụ như “thú vật quyền năng” [power animal, tức năng lượng tâm linh trong một vài truyền thống pháp sư shaman], hay liên tục nhận thấy một con số nhất định, hay như trong trường hợp của con nhận xét thấy những chiếc lông vũ, liệu đây có phải là sự xác nhận là con đang đi đúng đường? Khi một chiếc lông vũ hiện ra ở một nơi bất thường, điều này dường như đem lại an bình cho con.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Phải, đó đúng là dấu hiệu “từ Thượng đế”. Các dấu hiệu này có thể mang nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cần hiểu tự thân dấu hiệu đó không phải là thông điệp. Cho nên con sẽ không bắt được thông điệp bằng cách cố diễn giải ý nghĩa của thông điệp là gì, và điểm này đã khiến cho nhiều người bị lầm lạc suốt các thời đại.

Con sẽ thấy một số người gần như bị ám ảnh phải cố tìm cho bằng được một dấu hiệu vỏ ngoài nào đó, và họ sẽ không lấy quyết định quan trọng nào nếu không nhận được dấu hiệu. Con thấy một số nền văn hóa đã đưa chuyện này đến mức cùng cực, chẳng hạn họ cố phỏng đoán ý muốn của thần linh qua việc đọc ruột những con vật được hiến tế. Thậm chí một số kẻ tầm đạo ngày nay cũng đi quá đà khi họ cố dùng tâm phân tích để bói toán qua thuật chiêm tinh, hay bói bài, hay một số biểu hiện ngoại cảnh nào đó.   

Ý ta muốn nói là điều thật quan trọng con cần hiểu là khái niệm “dấu hiệu từ Thượng đế” đã mang sẵn một sự mâu thuẫn nội tại, và nếu con không hiểu điều này thì sẽ thật dễ diễn giải sai lạc một dấu hiệu, thậm chí con còn chế tạo ra dấu hiệu trong tâm con. Ta đã có giải thích ở một nơi khác về tâm con người có xu hướng luôn tìm kiếm những khuôn mẫu quen thuộc trong những gì họ nhìn thấy.

Như ta giải thích khắp trang mạng này, con có một cái Ta Ki-tô đóng vai trò một vị thày tâm linh. Đa số mọi người không thể trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô của mình – mặc dù khả năng này có thể được trau dồi – cho nên họ nghe cái Ta Ki-tô của họ dưới hình dạng những sáng ngộ trực giác. Tiếc thay, hầu hết mọi người trong thế giới phương Tây đã không được nuôi dạy với hiểu biết về cái Ta Ki-tô hay giá trị của trực giác. Hậu quả là cái Ta Ki-tô rất khó lòng liên lạc với tâm ý thức của họ.

Nhiều người sống cả đời mà gần như không nhận được một thông điệp nào từ cái Ta Ki-tô của mình, và điều này khiến họ bỏ lỡ nhiều cơ hội quan trọng để tăng triển. Tuy nhiên khi một dòng sống bắt đầu thức tỉnh về khía cạnh tâm linh của cuộc sống thì họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn. Nếu họ chưa mài sắc khả năng trực giác đến mức có thể tiếp xúc rõ ràng với cái Ta Ki-tô, thì quả thực cái Ta Ki-tô có thể tìm cách liên lạc với tâm ý thức của họ qua một số dấu hiệu ngoại cảnh.

Nhưng con hãy lưu ý là cái Ta Ki-tô luôn sẵn lòng cho con một sáng ngộ trực giác không tùy thuộc hay không cần đến một dấu hiệu bên ngoài. Ý ta muốn nói là nếu con có sự kết nối trực giác rõ ràng rồi thì dấu hiệu bên ngoài thật không cần thiết. Tâm ý thức của con có thể nhận được sự hướng dẫn của cái Ta Ki-tô mà không có dấu hiệu nào từ ngoài. Cho nên khi con nhận được một dấu hiệu từ ngoài, rất có thể đó là vì con chưa phát triển trực giác đến mức trực tiếp nghe thấy cái Ta Ki-tô, cho nên cái Ta Ki-tô phải dùng một dấu hiệu bên ngoài để thu hút sự chú ý của con.

Con có thấy sự phân biệt quan trọng này không? Kỳ thực cái Ta Ki-tô không đang cố gửi cho con một thông điệp qua một dấu hiệu bên ngoài, mà nó đang cố thu hút sự chú ý của con để khiến con nhận biết là con cần dùng trực giác của con hòa điệu với nó. Cái Ta Ki-tô không đang dùng dấu hiệu để bảo con: “Hãy làm chuyện này đi!” Nó dùng dấu hiệu để nói: “Hãy thức dậy và lắng nghe ta trong tim con, vì đó là nơi ta sẽ nói cho con biết những gì con cần biết!” Trong nhiều trường hợp, sự hướng dẫn mà con cần phức tạp hơn rất nhiều những gì có thể được phát biểu qua một dấu hiệu bên ngoài.

Khác biệt này thật là cơ yếu, vì giờ đây con thấy rõ là thật vô ích mà cố gắng diễn giải dấu hiệu đó bằng cái tâm vỏ ngoài phân tích hay bằng cảm xúc. Con sẽ không bao giờ có thể dùng tâm vỏ ngoài để đến được thông điệp ở đằng sau dấu hiệu. Và đây là vấn đề cốt lõi. Dấu hiệu sẽ cần thiết khi người đó bị cuốn hút quá mức vào tâm phân tích hay bị choáng ngợp bởi cảm xúc tiêu cực, và vì vậy, cái Ta Ki-tô không tài nào chạm được tâm ý thức của họ một cách trực tiếp. Phương cách duy nhất còn lại là cái Ta Ki-tô sẽ cố trao cho họ một dấu hiệu bên ngoài mà tâm ý thức để ý thấy. Tuy vậy, cái tâm phân tích năng động quá đáng của họ, hay các cảm xúc mất thăng bằng của họ, sẽ dễ dàng chụp lấy rồi cố sức diễn giải thông điệp đằng sau dấu hiệu. Điều này đã khiến cho rất nhiều người hiểu sai một dấu hiệu và sử dụng nó để biện minh cho những gì lý trí hay cảm xúc muốn nghe.

Cho nên nếu con nhạy cảm với các loại dấu hiệu, con hãy biết rõ xu hướng này và nỗ lực vượt ra khỏi tâm vỏ ngoài. Trong dài hạn, con hãy dùng các dụng cụ ta ban truyền trên trang mạng này để xây dựng sự hòa điệu của con với cái Ta Ki-tô.

Con cũng lưu ý là lời dạy này áp dụng cho mọi phương thức bói toán. Khi nào con hòa điệu thì cái Ta Ki-tô luôn luôn sẵn lòng nói cho con biết những gì con cần biết. Cho nên con thực sự không cần sử dụng bất kỳ hình thức bói toán nào để phát hiện ý muốn của Thượng đế, hay bất cứ điều gì con người có thể muốn biết.

Trong giai đoạn chuyển tiếp, việc sử dụng một số cách bói toán có thể có chút giá trị nào đó trong việc kích hoạt sáng ngộ trực giác. Nhưng con luôn luôn cần biết rằng không có một hình thức bói toán nào có thể cho con một kết quả đúng đắn qua tâm vỏ ngoài. Thay vì tìm cách mài giũa khả năng dùng bói toán, con sẽ đạt được kết quả lớn hơn gấp bội nếu con dành cùng nỗ lực này để thiết lập mối liên lạc rõ ràng với cái Ta Ki-tô của con. Ta mong lời này đã đủ cho những người khôn ngoan.

Khác biệt giữa cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ

Hỏi: Khi tu tập về viễn kiến và hòa điệu nội tâm, làm thế nào biết được sự khác biệt giữa cái ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ? Con hiểu rằng cái ta Ki-tô là trung gian giữa phàm ngã và Hiện diện TA LÀ. Một số người xem cái ta Ki-tô là cái ta cao hơn. Điều này có đúng không? Và nếu vậy thì chúng con gọi Hiện diện TA LÀ là gì, cái Ta Thượng đế? Xin thày vui lòng giúp con rõ hơn về hai khai niệm này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Sẽ chính xác nếu con gọi cái ta Ki-tô của con là cái ta cao hơn (higher self) và Hiện diện TA LÀ của con là cái ta Thượng đế (God self) hoặc cái ta tâm linh (spiritual self).

Khi cha mẹ tâm linh của con tạo ra dòng sống của con, các vị ấy tạo ra Hiện diện TA LÀ của con. Đây là thành phần của con neo trụ cái cá thể độc đáo mà cha mẹ tâm linh của con đã phú cho con. Nó có tên là Hiện diện TA LÀ vì nó neo trụ cá thể của con và tạo nên sinh thể mà con là.

Hiện diện TA LÀ của con có thể được xem là ngọn lửa tâm linh của con, nhưng nó giống một ngọn lửa điện tử hơn là một ngọn lửa bình thường. Ngọn lửa Thượng đế của con có một cấu trúc độc nhất tương tự như một tinh thể (crystal), duy nó không được tạo bằng vật chất mà bằng năng lượng rung động nhịp nhàng. Khi ánh sáng thanh khiết của Thượng đế chiếu xuyên qua cấu trúc tinh thể của ngọn lửa Thượng đế, nó được cá thể độc đáo của con tô màu và uốn nắn. Tiến trình này không làm suy giảm phẩm chất của ánh sáng Thượng đế mà chỉ khiến ánh sáng đó mang cá thể.

Hiện diện TA LÀ của con luôn luôn neo trụ nơi các tầng cao của cõi tâm linh. Từ mức của Hiện diện TA LÀ, con có khả năng trải nghiệm các cõi thấp hơn, kể cả thế giới vật chất, với tư cách một đấng quan sát từ ngoài. Tuy nhiên, đa số dòng sống do Thượng đế tạo ra không chỉ bằng lòng quan sát suông cuộc sống từ bên ngoài mà lại cũng muốn trải nghiệm cuộc sống từ bên trong. Thật ra, đó là lý do tại sao Thượng đế đã tạo ra những cá thể từ chính bản thể của ngài. Thượng đế mong muốn trải nghiệm tạo vật của ngài từ bên trong, ngài muốn tham gia vào tiến trình sáng tạo thế giới và bành trướng thế giới đó từ bên trong. Ngài làm vậy qua trung gian những đứa con của ngài.

Đã có một thời điểm khi Hiện diện TA LÀ của con quyết định đi xuống một tầng thấp hơn của tạo vật Thượng đế và trải nghiệm cuộc sống ở tầng mức này. Để thực hiện điều đó, Hiện diện tạo ra một phần nối dài của chính nó, mà chúng tôi gọi là cái Ta Biết. Sau đó cái Ta Biết tạo ra cái mà nhiều người gọi là linh hồn, nhưng chúng tôi ưa gọi là cỗ xe 4 lớp, hay cỗ xe linh hồn. Đây chính là phương tiện mà cái Ta Biết sử dụng để tương tác với xác thân vật lý.

Nhiều dòng sống đã đi xuống các tầng thấp hơn của cõi tâm linh và vẫn còn ngụ ở đó. Tuy nhiên một số dòng sống can đảm đã quyết định bước xuống cõi thấp nhất mà Thượng đế đã tạo ra, tức là vũ trụ vật chất. Khi con đi vào cõi vật chất, con cũng bước vào một cõi với rung động thấp hơn cõi tâm linh. Trên cõi tâm linh, thật là dễ nhìn thấy tất cả mọi thứ đều bắt nguồn từ một thực tại cao hơn. Nhưng vì cõi vật chất là phần tạo dựng chót hết của Thượng đế, nó chưa được nâng lên một độ rung đủ cao để nhìn thấy năng lượng vật chất cũng là một phần nối dài của Thượng đế. Vì vậy khi dòng sống đi xuống cõi vật chất, y có nguy cơ quên mất nguồn gốc tâm linh của mình.

Một dòng sống trong cõi vật chất sẽ chỉ có thể nhớ lại nguồn gốc tâm linh qua một kinh nghiệm nội tâm trực tiếp, bởi vì nơi thế giới bên ngoài thật sự chẳng có gì để nhắc lại cho y cái thực tại tâm linh nằm đằng sau vỏ ngoài vật chất. Kinh nghiệm này chỉ có thể xảy ra khi cái Ta Biết bước ra ngoài cỗ xe 4 lớp của nó và chứng nghiệm trực tiếp rằng nó là sự nhận biết thuần khiết, và như thế nó nhận ra là nó không hề là cỗ xe thấp kém.

Như được giải thích suốt trang mạng này, quả thật là nhiều dòng sống đã đi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và nơi đó họ đã quên mất nguồn cội tâm linh của mình. Để giup cho họ khỏi bị lạc đường, các chân sư thăng thiên đã phái xuống cho mỗi dòng sống môt vị trung gian, một vị thày, một vị an ủi, và đây là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô có thể được xem như một thiên thần được đặc nhiệm với mỗi con người để giúp con nối kết lại với Hiện diện Ta Là trong sự ý thức. Nói cách khác, cái ta Ki-tô không là một thành phần của dòng sống của con ở khởi đầu. Cái ta Ki-tô là một vị trợ giúp đến với con từ ngoài, và sinh thể đó có một cá tính (personality) lẫn một cá thể (individuality) khác với cái cá thể trụ neo nơi Hiện diện Ta Là của con. Hiển nhiên, cái ta Ki-tô tương hợp với cá thể của con nhưng nó không hoàn toàn giống y hệt.

Khi con bắt đầu đạt được sự hòa điệu nội tâm, trước tiên con sẽ hòa điệu với cái ta Ki-tô của con. Lúc đầu, con sẽ trải nghiệm dưới dạng những sáng ngộ trực giác. Trực giác thường đến như khi con đang đọc một quyển sách và cảm nhận có điều gì rất đúng áp dụng cho con. Khi sự hòa điệu này ngày càng rõ rệt hơn, con sẽ nghe thấy – hay cảm thấy – giọng nói nhỏ nhẹ, tĩnh lặng của cái ta Ki-tô trong tim con. Đây không phải là một giọng nói vật lý mà tai nghe thấy được, mà là một giọng nói nội tâm. Nhưng con vẫn sẽ nhận ra đó là một giọng nói thì thầm với con đến từ ngoài tâm ý thức của con.

Khi con tăng trưởng trên đường tu tâm linh, con sẽ bước qua tiến trình gọi là lễ thành hôn thần bí gọi là giả kim (alchemical marriage) mà qua đó con đạt được sự kết hợp tâm linh với cái ta Ki-tô của con. Tuy nhiên, cái ta Ki-tô này vẫn tách biệt khỏi con, y như trong hôn nhân, người phối ngẫu của con vẫn không phải là con tuy rằng con có thể đạt được một mức kết hợp cao độ.

Tự thân cái ta Ki-tô có khả năng hướng dẫn con, hoặc nó có thể trao truyền cho con những hướng dẫn từ Hiện diện TA LÀ. Có thể nói, cái ta Ki-tô đóng vai trò một vị dịch thuật các chỉ dẫn từ Hiện diện mà ngoại tâm của con không thể nghe thấy hay hiểu được trực tiếp. Và như vậy khi sự hiệp thông của con ngày càng sắc bén, con sẽ có khả năng nhận diện một chỉ đạo đến từ cái ta Ki-tô hay là từ Hiện diện. Điều này sẽ cho con cảm nhận là con đang nghe thấy giọng nói của chính Hiện diện TA LÀ.

Khi con bước lên những tầng cao hơn trên đường tu, rốt cuộc con sẽ đạt tới sự hòa điệu trực tiếp với Hiện diện TA LÀ của con. Nhiều người đã đạt được một mức hoà điệu nào đó với Hiện diện, nhưng hầu hết không nhận diện ra đó là gì. Một lý do là vì việc nhận diện giọng nói của cái ta Ki-tô khá dễ dàng bởi vì giọng nói đó đến từ bên ngoài con. Nhưng sự hoà điệu với Hiện diện TA LÀ không phải là một giọng nói đến từ ngoài. Hiện diện TA LÀ không ở ngoài con và cũng không khác gì với con, ví nó chính là con đó. Nó là cái Ta của con.

Cũng có thể nói rằng con không thể nhận được sự giao tiếp trực tiếp từ Hiện diện TA LÀ bởi vì khi nói đến giao tiếp thì phải có sự ngăn cách. Để bắt được liên lạc với Hiện diện, con phải buông bỏ và vượt qua ý niệm bản sắc sinh diệt của con. Con từ bỏ cái cá tính vỏ ngoài đã được tạo dựng suốt bao nhiêu kiếp đầu thai trong vũ trụ vật chất. Con khắc phục ý niệm ngăn cách hầu con có thể bắt đầu tự đồng hóa với Hiện diện. Và như vậy, Hiện diện bây giờ có khả năng hành động xuyên qua con. Trong nghĩa đen, con trở thành Hiện diện hoạt động trong thế gian. Và khi đó con có thể nói: “Ta và Cha ta là một”. Khi con chứng đạt sự hợp nhất này, con thật sự không còn giao tiếp với Hiện diện nữa, bởi vì con chính là Hiện diện đó.

Cũng có thể nói là khi cái ta Ki-tô hướng dẫn con, con trải nghiệm chuyện đó như một cái gì đến từ ngoài, và con phải lấy quyết định là liệu con sẽ nghe theo lời hướng dẫn đó hay không. Nhưng xung lực đến từ Hiện diện TA LÀ thì không có nguồn gốc ở ngoài con, và do đó không còn chỗ nào để mà con lấy quyết định. Nghĩa là giữa con và cái ta Ki-tô có một khoảng cách, nhưng giữa con và Hiện diện TA LÀ thì không có khoảng cách nào cả. Con không thể quyết định là con sẽ nghe theo giọng nói của Hiện diện hay không, mà con chỉ có thể là, hoăc không là, Hiện diện TA LÀ trong hành động mà thôi. Để là Hiện diện trong hành động, con phải dâng hiến ý chí của tự ngã và của cá tính vỏ ngoài cho ý chí cao hơn của cái Ta Thượng đế của con. Con phải quyết định con thực sự là gì, thay vì quyết định xem cái tâm vỏ ngoài của con nghĩ con là gì.

Ta cũng biết những lời này sẽ rất khó hiểu bằng trí thức, và lý do là vì trí thức luôn luôn suy nghĩ một cách đường thẳng. Vì thế mà nó muốn nhìn thấy một sự ngăn cách hoặc một khoảng cách giữa dòng sống của con và Hiện diện TA LÀ của con. Khi nào con còn tư duy đường thẳng và còn suy luận trong hướng tách biệt, con sẽ gặp trở ngại trong việc hiệp thông với Hiên diện của con. Con cần tư duy theo một lối khác, và nhìn thấy dòng sống và Hiện diện của con không hề tách biệt trong không gian. Dòng sống của con phần nào giống như một làn sóng không thể tách rởi khỏi đại dương bởi vì nó giản dị chỉ là một sự biểu hiện của đại dương.

Hiểu rõ năng lượng kundalini

Hỏi 1: Thày Giê-su yêu dấu, con đang bối rối. Thày có bao giờ dạy về kundalini? Có phải kundalini và dòng năng lượng tâm linh liên tục giúp chúng ta sống còn là hai loại năng lượng khác nhau, hay đó là cùng năng lượng? Con sẽ rất biết ơn nếu thày giải tỏa được phần nào bối rối này của con. Cảm ơn thày.

Hỏi 2: Nhiều người thời nay, trong đó có con, trải nghiệm kundalini thức dậy. Xin thày cho biết bản chất của năng lượng kundalini là gì và sự thức dậy của nó tác động con người như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đây là những câu hỏi rất hay về một chủ đề rất ích lợi cho người tầm đạo muốn tìm hiểu. Ta quả là đã có dạy về năng lượng kundalini nhưng ta chỉ dạy cho đệ tử của ta bởi vì quần chúng thời đó chưa sẵn sàng nhận giáo lý này. Ta được học về kundalini trong chuyến du hành sang Ấn độ, và ta có thử nghiệm một số hình thức yoga nhằm khơi dậy kundalini. Tuy nhiên, ta nhận ra là những kỹ thuật này không thích hợp cho mọi người, vì thế ta đã không dạy các kỹ thuật đó kể cả cho đệ tử của ta.   

Từ “kundalini” chỉ giản dị là một cái tên khác cho dòng năng lượng tâm linh giữ cho con sống còn. Ta từng đề cập đến năng lượng này trước công chúng, và con vẫn có thể tìm thấy trong Tân ước một số lời gợi ý như thế. Bình thường ta gọi đó là “nước của Sự sống” hay “nước hằng sống”. Năng lượng là một khía cạnh của Thánh linh, và con nhớ rằng Thánh linh có chức năng giúp con tăng trưởng tâm linh hầu con vượt qua các giới hạn của con. Đây là một chìa khóa quan trọng để hiểu được bản chất của năng lượng kundalini và tác động của nó trên con người.

Điều quan trọng nhất con có thể hiểu về năng lượng kundalini là nó cho con sự sống. Định nghĩa tâm linh của “sự sống” là cái gì tăng trưởng và tự thăng vượt. Do đó, năng lượng của sự sống, năng lượng kundalini, nước hằng sống của sự sống, luôn luôn tuôn chảy để đưa con vượt qua mọi ranh giới và mọi hạn chế. Trạng thái tự nhiên của một người hòa điệu với Hiện diện TA LÀ của mình là chảy theo Dòng sông của Sự sống và không ngừng thăng vượt sự tự nhận biết của mình cũng như ý niệm cái ta của mình.

Có thể nói vấn đề cốt lõi trên hành tinh này là hầu hết mọi người đều đã dựng lên một số điều kiện trong tâm mình khiến mình đóng chặt dòng chảy tự nhiên của năng lượng kundalini xuyên qua các trường năng lượng của mình. Dòng sống của con người được thiết kế để làm ống dẫn cho tình thương vô điều kiện của Thượng đế xối xuống. Tình thương vô điều kiện sẽ không bao giờ đứng yên một chỗ. Khi con đứng trong dòng chảy của tình thương, con không chấp nhận cho bất cứ một điều kiện nào trên địa cầu có thể khiến con đóng lại dòng tình thương này chảy xuyên qua con.

Điều xảy ra cho hầu hết mọi người là họ đã dựng lên đủ loại điều kiện trong tâm họ, nghĩa là họ bảo rằng trong hoàn cảnh này hay tình huống kia, họ sẽ không cho phép tình thương vô điều kiện chảy qua họ. Họ sẽ không thể biểu hiện tình thương trong những hoàn cảnh đó. Bởi vì dòng chảy của tình thương chính là năng lực của sự sống cho nên điều tự nhiên là nó phải chảy. Con chỉ có thể đóng nó lại bằng vũ lực mà thôi. Và thật vậy, hầu hết mọi người đều sử dụng vũ lực của lý trí và tình cảm để ngăn chặn sự sống chảy qua trường năng lượng và dòng sống của họ. Nói cách khác, họ đã dùng vũ lực để hạn chế dòng chảy của sự sống, năng lượng kundalini.   

Đây là một nhận thức vô cùng quan trọng, đặc biệt khi nhiều người tầm đạo bị quyến rũ vào việc sử dụng đủ loại kỹ thuật nhằm ép buộc cho năng lượng kundalini phải dâng lên. Những kỹ thuật như thế thường đến từ phương Đông nơi người ta đã sử dụng từ hàng ngàn năm qua. Có một số kỹ thuật có giá trị nhưng chỉ khi nào do một đạo sư dồi dào kinh nghiệm chỉ dẫn cho những đệ tử chân truyền nhất của mình – và chỉ khi nào đệ tử đó được bao bọc trong một môi trường có sự trông coi liên tục của đạo sư. Con hãy lưu ý là ta đang nói về những kỹ thuật nhằm ép buộc kundalini, chứ không nói về nhiều kỹ thuật đúng đắn nhằm giúp con có sự tăng trưởng quân bình.   

Thật không may là đã có một loạt những người tự xưng là đạo sư từ Ấn độ đến đây chỉ dạy những kỹ thuật này cho bất cứ ai muốn học – và trong một số trường hợp, người học phải trả cả lệ phí. Đây là một vấn đề, vì nó dối gạt  người ta vào con đường chiếm lấy thiên đường bằng vũ lực. Đó là phần nào những gì ta nói đến trong câu: “Và từ ngày John the Baptist (Giăng Báp-tít) đến nay, nước thiên đàng đã bị hãm ép, và kẻ hãm ép cố chiếm thiên đàng bằng vũ lực” (Matthew 11;12)  

Con hãy ngừng một lúc để xem xét vấn đề cốt lõi ở đây. Năng lượng kundalini sẽ chảy tự nhiên xuyên qua con – con không cần làm bất cứ gì để ép nó phải chảy qua con. Nếu nó bị chặn lại thì là do nó đã bị chặn lại bằng vũ lực. Con đã tạo ra những chướng ngại trong tiềm thức và trường năng lượng của con, cụ thể là nơi bảy trung tâm năng lượng chính gọi là luân xa, và những chướng ngại này đã hạn chế dòng chảy của sự sống. Vậy thử hỏi con có khôn ngoan lắm hay không khi con tìm cách dùng một kỹ thuật nào đó để ép uổng kundalini phải dâng lên qua các luân xa?

Thật sự không có gì khôn ngoan, bởi con đang cố dùng lửa để chữa lửa. Chính vũ lực đã khiến cho dòng chảy tự nhiên của năng lượng bị nghẽn lại, thì cách giải quyết hợp lý là con phải loại bỏ các chướng ngại đang làm nghẽn năng lượng để nó lại chảy tự nhiên. Thật là không hợp lý khi con muốn dùng vũ lực để tái lập dòng chảy, và điều này chẳng có gì là khó hiểu.

Ở một con người thuần khiết nơi dòng sông của sự sống tuôn chảy tự do, năng lượng kundalini đi vào luân xa tim, rồi nó chảy vào luân xa nằm ở đáy cột sống. Từ đó nó sẽ chảy xuyên qua cả bảy luân xa cho đến luân xa đỉnh đầu. Nếu dòng chảy được duy trì, người đó sẽ ở trong trạng thái quân bình toàn hảo và sẽ chiêm nghiệm dạng cao nhất của tâm thức Ki-tô. Trong trạng thái đó, tất cả các luân xa đều quân bình, đứng thẳng hàng với nhau và quay theo cùng một chiều.

Khi con dùng vũ lực để đóng chặt hay hạn chế dòng chảy của ánh sáng qua các luân xa, luân xa sẽ bị ô nhiễm do năng lượng tiêu cực tích tụ lại ở đó. Điều này sẽ nhanh chóng khiến cho các luân xa quay với tốc độ khác nhau và vì vậy không còn phối hợp với nhau nữa. Thậm chí, điều đó có thể khiến cho một số luân xa bị tắc nghẽn đến độ không cho phép bất kỳ ánh sáng nào đi qua. Hoặc nó khiến cho luân xa quay ngược chiều quay bình thường, gây cho con cảm giác sôi động tột độ. Chẳng hạn, nhiều người có luân xa gốc quay sai chiều và vì vậy họ ham muốn tình dục một cách vô độ. Và tương tự như thế, nhiều người có luân xa đám rối dương quay sai hướng, khiến họ luôn luôn căng thẳng và phản ứng lại nhiều tình huống trong sự cáu kỉnh, giận dữ.

Điều gì sẽ xảy ra khi một người mất quân bình sử dụng một kỹ thuật nhằm cưỡng ép năng lượng kundalini dâng lên xuyên qua luân xa đang bị nghẽn và mất quân bình? Kundalini là một khía cạnh của Thánh linh và mục đích của nó là giúp con thăng vượt các giới hạn của con. Vì lý do này mà nó sẽ khuếch đại bất cứ gì nó chạm vào. Khi con ép buộc kundalini chảy qua luân xa, nó sẽ đẩy tất cả mọi thứ bất toàn và mất quân bình trong luân xa ra bên ngoài rồi khuếch đại lên. Những thứ ấy nổi lên dưới hình thức những ý nghĩ và cảm xúc có thể vô cùng mãnh liệt.   

Trên thực tế, nhiều người thiếu quân bình mà dùng các kỹ thuật cưỡng ép kundalini như vậy đã nhận thấy là hệ thần kinh và trường năng lượng của mình không thể chịu đựng nổi luồng chảy của ánh sáng. Cũng y hệt như con nối điện 220 volt vào một cái máy được chế tạo để chạy với điện 110 volt vậy. Tất nhiên là máy sẽ bị cháy, và thật vậy, nhiều người đã làm cháy một phần hệ thần kinh và phá vỡ trường năng lượng của mình. Điều này dẫn đến nhiều hình thức rối loạn tình cảm khác nhau, thậm chí cả bệnh tâm thần lẫn khùng điên. Ta không thể nào nhấn mạnh đủ về tầm quan trọng của việc con phải tránh cưỡng ép năng lượng kundalini của con dâng lên trước khi con sẵn sàng.

Đâu là chìa khóa để con sẵn sàng? Đó là con thanh lọc các luân xa và trường năng lượng của con cho đến khi con đạt được một mức quân bình và hài hòa thật cao độ. Quân bình và hài hòa thực sự là chìa khóa cho một sự phát triển tâm linh thành công. Hai đức tính này chỉ có thể đạt được qua sự không dính mắc, và khi con thực sự không còn dính mắc, con sẽ không còn cố chiếm hữu thiên đường bằng vũ lực nữa.

Một trong những vấn đề lớn nhất với sự bùng nổ của các phong trào phát triển bản thân và phát triển tâm linh là nền văn hóa Tây phương thường hay chú trọng thành quả. Trong những thập niên vừa qua, điều này đã dẫn đến một tinh thần sùng bái, tôn thờ sự thoả mãn tức thì. Cho nên khi người ta lớn lên trong một nền văn hóa như vậy và bỗng nhiên cảm thấy nhu cầu tăng trưởng tâm linh, thường người ta muốn ngay kết quả tức thì. Người ta không chịu nỗ lực một cách chân thành để từ từ xây dựng nền tảng vững bền cho những kết quả đó.

Người ta chỉ đơn giản muốn ngay cái hiện tượng vỏ ngoài, muốn được nếm mùi những kinh nghiệm tột đỉnh, muốn được hưởng lợi từ phát triển tâm linh, mà không cần phải đi qua nguyên tiến trình vun trồng các kết quả đó. Điều này đã khiến cho nhiều người tầm đạo phương Tây tìm kiếm những kỹ thuật hữu hiệu nhất nhằm sản xuất ra những cảm giác và hiện tượng mà mình tìm. Và nhiều người trong số đó đã bị cám dỗ sử dụng những kỹ thuật nhằm cưỡng ép cho kundalini phải dâng lên. Tất nhiên đó là điều khả dĩ, và tác động thì vô cùng mãnh liệt, nhưng kết quả thì y như những gì ta vừa trình bày ở trên.  

Thế nào là cách đúng đắn để năng lượng kundalini đi lên? Đó là đầu tiên phải tìm Nước Trời và sự công chính của Nước Trời, rồi sau đó tất cả những thứ khác sẽ được ban thêm cho con. Nước Trời là tâm thức Ki-tô, và “công chính” là cách dùng năng lượng một cách công chính, có nghĩa là một dòng năng lượng quân bình và hài hòa tuôn qua con người của con.

Như ta vừa nói, bản chất của kundalini là tuôn chảy. Nó chỉ ngừng tuôn chảy qua con vì con đã ngăn chặn dòng chảy của nó. Do đó nếu con nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, nghĩa là con tìm cách loại bỏ tất cả mọi chướng ngại và thiếu quân bình trong tâm lý và trường năng lượng của con, con sẽ lần hồi mở rộng ra để dòng năng lượng chảy qua con. Và như thế, dòng sông của sự sống sẽ tự nhiên bắt đầu tuôn chảy qua con mà không có chút gì thiếu quân bình.

Điều đó sẽ xảy ra một cách cân bằng, và con sẽ không trải nghiệm một sự thức giấc của kundalini cho tới khi nào con sẵn sàng. Nói thật, nếu con thực sự tiến bước cân bằng, con sẽ chứng nghiệm một sự phát triển bền vững, điều hòa thay vì những cơn bừng phát tâm linh dữ dội được nối tiếp bởi những cơn trầm cảm cũng không kém dữ dội. Nhiều người thiếu quân bình quả thật đã phải trải qua những chao đảo tột cùng như thế từ cao xuống thấp, và đó nhất định không phải là con đường hài hòa, con đường trung đạo của Ki-tô và của Phật.

Vì vậy, điều ta muốn nói là ta không ủng hộ bất kỳ một người tầm đạo tâm linh nào đặt trọng tâm vào việc khơi dậy năng lượng kundalini một cách cố tình và mạnh bạo. Ta không ủng hộ việc người ta dùng các loại kỹ thuật để cưỡng ép cho kundalini dâng lên.

Thay vào đó, con nên sử dụng kỹ thuật nào? Con có thể dùng tất cả mọi kỹ thuật trong Hộp Dụng cụ Tu tập trên trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt và bài thỉnh của Mẹ Mary đã được soạn thảo đặc biệt để loại bỏ một cách hệ thống các chướng ngại trong trường năng lượng của con đang ngăn cản dòng chảy tự do của năng lượng kundalini qua con. Các bài chú bảy tia sáng cũng vậy. Khi con dùng những dụng cụ này, con sẽ lần hồi cảm thấy dòng chảy của sự sống qua con, nhưng điều này sẽ diễn ra một cách quân bình, hài hòa, không gây tổn hại cho hệ thần kinh tinh nhậy của con hoặc tạo ra lỗ hổng trong trường năng lượng của con. Thay vào đó, con sẽ thực sự cảm thấy như những nữ đồng trinh khôn ngoan đã biết giữ cho ngọn đèn của mình được trong sáng – tức là luân xa được quân bình – trong khi chờ đón chàng rể của cái ta Ki-tô:

“1 Khi ấy, nước thiên đàng sẽ giống như mười người nữ đồng trinh kia cầm đèn đi rước chàng rể. 2 Trong các nàng đó, có năm người khôn và năm người dại. 3 Người dại cầm đèn đi mà không đem theo dầu với mình. 4 Nhưng người khôn khi cầm đèn đi thì đem dầu theo trong bình của mình. 5 Vì chàng rể đến trễ, các nàng đều buồn ngủ và ngủ gục.

6 Đến nửa đêm, có tiếng kêu rằng: Kìa, chàng rể đang đến, hãy đi ra mà rước. 7 Các nữ đồng trinh đều thức dậy và sửa soạn đèn mình. 8 Các nàng dại nói với các nàng khôn: Xin cho chúng em chút dầu vì đèn chúng em đã tắt. 9 Nhưng các nàng khôn trả lời: Không, vì e sẽ chẳng đủ cho chúng em và các chị, tốt hơn các chị hãy đi đến người bán dầu mà mua.

10 Trong khi họ đang đi mua thì chàng rể đến; kẻ nào sẵn sàng thì đi với chàng vào tiệc cưới, và cánh cửa đóng lại. 11 Lúc sau, các nữ đồng trinh kia về đến và nói: Hỡi Chúa, hỡi Chúa, xin mở cho chúng tôi. 12 Nhưng người đáp rằng: Quả thật ta nói cùng các người, ta không biết các người đâu. 13 Vậy hãy tỉnh thức, vì các người không biết ngày, cũng không biết giờ mà Đứa con của người sẽ tới. (Matthew 25)”

Lời dạy căn bản về phân mảnh linh hồn và bệnh tâm thần

Hỏi: Có những lời dạy tâm linh và tâm lý cho rằng linh hồn có thể bị phân rẽ, chia cắt hay phân mảnh. Thày có đề cập đến điều này trong câu trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều gì xảy ra cho các mảnh vụn của linh hồn bị đánh mất? Có kỹ thuật tâm linh hay tâm lý nào để hồi lại những mảnh đó? Đó có phải là một điều khả thi hay cần thiết để chữa lành các chứng tâm thần nghiêm trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đề tài linh hồn phân mảnh (soul fragmentation) hay phân chia (soul division) có thể khá phức tạp. Tuy nhiên vì tính cách câu hỏi, ở đây ta sẽ chú trọng đến khía cạnh thiết thực nhiều hơn là khía cạnh triết lý, hay nói cách khác, là những gì con cần biết về linh hồn phân mảnh để con tự bảo vệ lấy bản thân hay chữa lành một chứng bệnh tâm thần.

Trong câu trả lời sau đây, ta xem như con đã quen thuộc với các giáo lý về bốn tầng của cõi vật chất cũng như về các thành phần của tâm, đặc biệt là quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Ta cũng coi như con đã đọc câu trả lời trước của ta về đề tài: linh hồn là vật lý hay tâm linh.

Chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét Hiện diện TA LÀ. Hiện hữu nơi cõi tâm linh, nó có rung động cao hơn hẳn thế giới vật chất, có nghĩa là Hiện diện không thể nào bị các rung động thấp kém của thế giới vật chất hủy diệt hay phân cắt – đồng thời cũng có nghĩa là Hiện diện không thể trực tiếp đi xuống thế giới vật chất. Hiện diện TA LÀ có một cá thể rõ rệt mà nó mong muốn biểu đạt trong thế giới vật chất, và để làm vậy, nó tạo ra một phần nối dài của chính nó có khả năng xuống được thế giới vật chất. Phần nối dài này là cái Ta Biết.

Cái Ta Biết là phần nối dài của tâm thức của Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ không “cài đặt” cá thể của nó vào Ta Biết. Cái Ta Biết giống như cái lăng kính qua đó Hiện diện có thể tự biểu đạt và đồng thời có thể chiêm nghiệm thế giới vật chất. Và như thế, cái Ta Biết là cái gì đi xuống những rung động thấp kém của thế giới vật chất, nhưng vì nó là sự nhận biết thuần khiết – và nó là nhận biết thuần khiết vì nó không có cá thể – cho nên nó cũng không thể bị hủy diệt hay phân cách bởi các rung động thấp của thế giới vật chất.

Tuy nhiên – và đây là cốt lõi của vấn đề – ngay cả cái Ta Biết cũng không thể hành động trực tiếp trong thế giới vật chất. Để làm vậy, nó phải tạo ra, hay khoác lấy, một “thân thể” được cấu tạo bằng rung động trong dải tần số vật chất. Như các thày đã có giải thích, cõi vật chất có bốn tầng, cho nên khi nó tạo “thân thể”, điều này có nghĩa là nó tạo ra “bốn thể phàm”, cụ thể là “thể” bản sắc, “thể” lý trí, “thể” cảm xúc và sau cùng là cơ thể vật lý. 

Khi cái Ta Biết được sinh tạo lần đầu, nó thật sự không đủ khả năng tạo ra bốn thể phàm. Nó chưa từng có kinh nghiệm đồng sáng tạo và nó cũng không có kinh nghiệm về rung động của bốn tầng. Cho nên một cái Ta Biết tân lập sẽ phải khởi đầu nơi một trường học, gọi là trường bí giáo được biểu tượng qua Vườn Eden. Đó là một môi trường học hỏi ở cõi bản sắc, ở đó nó sẽ có thể thử nghiệm khoác lên những cái “thể” do vị thày tâm linh tạo ra cho cõi bản sắc.

Đặc tính cơ bản của cái Ta Biết là bởi vì nó là nhận biết thuần khiết, nó có khả năng tự phóng chiếu vào bất cứ điều gì mà nó hình dung, và chính đặc tính này giúp nó đi xuống đầu thai. Nói cách khác, cái Ta Biết không trở thành một thể bản sắc hay một xác thể vật lý, mà nó tự phóng chiếu vào một ý niệm cái ta, một ý niệm bản ngã. Cũng y như một diễn viên mặc vào trang phục trình diễn và hóa trang để đóng một vai tuồng trong vở kịch vậy.

Như vậy cái Ta Biết khởi sự học trường bí giáo khi nó tự phóng chiếu vào một “cái ta bản sắc” do vị thày tâm linh tạo ra. Chúng ta có thể so sánh với một học viên phi công bước vào một cái máy giả lái phi cơ hầu có được cảm giác y như mình đang lái một chiếc phi cơ mà không sợ gây ra tai nạn.

Khi cái Ta Biết bắt đầu thông thạo hơn với một cái ta bản sắc, nó sẽ khoác vào một cái ta bản sắc/lý trí và lại thử nghiệm thêm. Sau đó nó sẽ khoác lên một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc, và cuối cùng là một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý mà không bao giờ nó phải thực sự bước xuống dải tần số vật chất. Nó vẫn còn ở trong một môi trường mô phỏng thế gian.

Sau khi nó tương đối lành nghề với tiến trình này, cái Ta Biết bước vào một giai đoạn mới khi nó sẽ bắt đầu định đoạt cái ta riêng của nó thay vì sử dụng cái ta do thày định ra cho nó. Làm thế nào nó thiết kế cái ta đó? Dựa theo sự liên hệ của nó với Hiện diện TA LÀ và những kinh nghiệm của nó về bốn tầng, cái Ta Biết khởi đầu như một ý niệm bản ngã chỉ to bằng đầu cái kim, qua đó nó biết là nó vẫn kết nối với một cái gì rộng lớn hơn nhưng nó không trực tiếp kinh nghiệm được Hiện diện TA LÀ, và như vậy, nó không thể biểu hiện một cách trọn vẹn cá thể của Hiện diện.

Khi cái Ta Biết thử nghiệm, nó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó. Chừng nào nó còn đi theo sự hướng dẫn của vị thày, nó sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn nó là cánh cửa mở cho Hiện diện. Và cứ thế, cá thể của Hiện diện ngày càng tỏa sáng mãnh liệt hơn qua nó. Nói cách khác, cái Ta Biết không khoác lấy hay trở thành cá thể của Hiện diện, nó chỉ ngày càng là một cánh cửa mở rộng hơn cho Hiện diện. Điều này có nghĩa là khi cái Ta Biết tạo ra một bản ngã, bản ngã này sẽ phản ánh cá thể của Hiện diện.  

Trong trường hợp lý tưởng, cái Ta Biết sẽ tiếp tục tuân theo sự hướng dẫn của vị thày cho tới khi nó sẵn sàng tạo ra một thể bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý cụ thể và nó tự phóng chiếu vào đó. Bây giờ nó hết còn trong một môi trường mô phỏng mà nó đã giáng xuống thế gian “thực thụ”.  

Mục đích lời trình bày dài dòng ở trên là để giải thích cho con hiểu là cái mà nhiều người xem là hồn thật ra chỉ là một thể gồm bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý do cái Ta Biết tạo ra. Trong điều kiện lý tưởng, cỗ xe 4 lớp này – ta sẽ tránh gọi là hồn từ điểm này trở đi – là sự phản ánh của cá thể của Hiện diện TA LÀ. Lúc đầu, cá thể này sẽ không biểu thị một cách trọn vẹn nhưng sẽ ngày càng rõ nét hơn khi cái Ta Biết có thêm kinh nghiệm tự biểu đạt. Và như vậy, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô sẽ lý tưởng là con đường của cái Ta Biết trở thành cánh cửa mở hầu cá thể và quyền năng của Hiện diện TA LÀ được thể hiện hoàn toàn. “Ta và Cha ta là một” trong nghĩa đó.

Làm thế nào cá thể của Hiện diện được phản ánh trong thiết kế của cỗ xe 4 lớp? Chúng ta có thể so sánh với một máy chiếu phim và cá thể của Hiện diện như là cuộn phim. Cá thể đó giống như một hình ảnh được phóng chiếu lên màn ảnh của bốn thể phàm. Tại sao điều này quan trọng? Là vì nó giải thích tại sao trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không thể bị chia cắt hay phá hủy.

Hiện nay thế giới vật chất – ít nhất trên hành tinh địa cầu – là một môi trường bị ảnh hưởng sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên và các sinh thể sa ngã. Cho nên khi con xuống hiện thân ở đây, rất có thể con sẽ bị chấn thương bằng rất nhiều cách, và chấn thương này có thể khiến cho cỗ xe 4 lớp của con bị hư hại. Trong những điều kiện của thế gian, thật con không có cách nào tránh khỏi điều đó. Tuy nhiên trong trường hợp lý tưởng khi con được vị thày hướng dẫn, chấn thương có thể được chữa lành hầu như tức thì nếu con quyết định trong ý thức là con sẽ không phản ứng lại. Trong trường hợp này, chấn thương xảy ra giống như có ai lấy tay đập vào nước. Nước sẽ văng lên tung tóe nhưng chỉ một lát sau, nước sẽ nhanh chóng bình phẳng trở lại và một tấm gương toàn hảo sẽ lại hình thành trên mặt nước, phản ánh cá thể do Hiện diện TA LÀ phóng chiếu ra.

Nói cách khác, khi cỗ xe 4 lớp của con được chế tạo khi con thấy con là phần nối dài cho Hiện diện TA LÀ, vấn đề phân cách hay phân mảnh linh hồn không hề đặt ra. Chỉ trong trường hợp không lý tưởng thì mới có vấn đề, và bây giờ chúng ta hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

Như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày, trong trường bí giáo có một số dòng sống đã quyết định khai mở tâm thức nhị nguyên trước khi họ sẵn sàng. Họ bị tâm nham hiểm của rắn lừa gạt để họ tưởng rằng họ đã đủ trình độ bước xuống hiện thân vật lý – dẫu rằng vị thày nói rõ là họ chưa sẵn sàng. Như vậy họ đã quyết định cố chiếm lấy “thiên đàng” – hay đúng hơn, chiếm lấy sự hiện thân – bằng vũ lực.

Trên thực tế, các dòng sống này chưa có khả năng định hình cỗ xe 4 lớp của họ. Khả năng của họ bị giới hạn ở mức mà họ đã đạt được khi họ quay lưng lại thày mình. Và vì thế, họ khoác vào một cỗ xe 4 lớp gồm một phần do họ tạo dựng và phần kia do các sa nhân tạo dựng. Làm sao đi nữa thì cỗ xe này cũng không phản ánh cá thể của Hiện diện: nó đã được tạo ra dựa trên ảo tưởng tách biệt.

Điều này có hai hệ quả. Một là các ý tưởng, các tâm ảnh và các tin tưởng cấu tạo cá thể của cỗ xe 4 lớp đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Những tin tưởng này phần nào dựa trên cá thể của Hiện diện TA LÀ của dòng sống, nhưng cá thể này đã bị biến thái bởi tâm thức nhị nguyên. Như ta đã giải thích, mọi thứ trong tâm thức nhị nguyên phải có một đối cực, nghĩa là khi một đặc tính nhị nguyên gặp đặc tính đối cực của nó, có vẻ như nó sẽ bị đối cực kia triệt tiêu.

Bây giờ con có thể thấy được tại sao khi cỗ xe 4 lớp của con được xây bằng tâm thức nhị nguyên, nó luôn luôn ở trong trạng thái bị đối cực nhị nguyên đe doạ. Ý niệm bản sắc, ý niệm cái ta trong lý trí và ý niệm cái ta trong tình cảm luôn luôn bị đe dọa bởi đối cực nhị nguyên của những tin tưởng cấu tạo các cỗ xe của con.

Bây giờ chúng ta thấy có bốn cách cỗ xe 4 lớp của con – tức hồn của con – có thể bị phân mảnh. Ở tầng vật lý, sự kiện cơ thể con bị giết hại hay bị đau đớn có thể dẫn đến chấn thương trầm trọng đến độ “thể” cảm xúc của con bị phân mảnh. Việc trải nghiệm những xúc động mãnh liệt từ người khác cũng có thể gây ra chấn thương. Con thử nhìn xem con có thể bị tác động dễ dàng thế nào khi người ta giận dữ đối với con hay có ác ý muốn tiêu diệt con. Ở tầng lý trí, khi con thấy những tin tưởng sâu xa của mình bị lật bỏ, con có thể bị chấn thương. Ví dụ như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch đã cảm thấy niềm tin của mình nơi đạo mình bị khoa học phá tan tành, và điều này có thể gây ra một rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp. Tất cả những trải nghiệm đó cũng có thể tạo rạn nứt ở tầng bản sắc khi con cảm thấy chính ý niệm bản sắc của mình bị đe dọa. Và điều này cũng có thể xảy ra khi sa nhân buộc oan con – như chúng thường hay làm – khiến tin tưởng của con về bản chất tốt thiện của con bị đe dọa.

Bây giờ chúng ta hãy đào sâu hơn và thấy rằng cỗ xe 4 lớp gồm có hai thành phần. Một là những tâm ảnh và tin tưởng, và thành phần kia là năng lượng vận động tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng. Các tâm ảnh và tin tưởng hình thành một cái gì có thể so sánh như một cấu trúc tinh thể (crystalline structure). Con cũng biết có những đồ chơi làm bằng mảnh nhựa hay kim khí mà con có thể lắp lại thành cái hộp có khoảng trống bên trong, giống như cái lồng. Thành phần năng lượng là những gì được đặt vào trong cấu trúc đó, gần giống như những quả bóng mà con đặt vào trong lồng.

Trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không có bất cứ hình ảnh hay tin tưởng nào dựa trên nhị nguyên. Kết quả là ngay cả khi con bị tấn công, con cũng sẽ không xem đó là một sự tấn công cá nhân, bởi vì con không hề cảm thấy cá nhân mình bị đe dọa. Cho nên mặc dù cấu trúc tinh thể bị hư hại, con có thể, gần như lập tức, chữa lành lặn bằng cách buông bỏ chuyện đó và trở về nhận biết thuần khiết. Đây là ý nghĩa thâm sâu của lời dạy về việc chìa má bên kia. Khi con thực sư chìa má bên kia, không một thế lực thấp kém nào có thể làm hại các thể cao của con.

Trước khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn, con có thể bị tác động tạm thời, và điều này có thể khiến con mất đi một phần năng lượng trong cấu trúc. Nhưng khi con trở về với sự nhận biết thuần khiết, con sẽ từ hóa (magnetize) năng lượng đó trở lại trong con. Nói cách khác, con có thể học cách chữa lành nhanh chóng bất kỳ chấn thương nào mà con phải kinh qua khi đầu thai. Khi con đạt được quả vị Ki-tô, ngay cả xác thân vật lý của con cũng không thực sự là vật lý nữa, và như vậy con có thể hiện thân trong một thể xác trông như là vật lý nhưng không một thế lực nào trên địa cầu có thể giết hại.

Nhưng nếu cỗ xe 4 lớp của con được làm bằng tâm thức nhị nguyên, cấu trúc tinh thể sẽ dễ dàng bị hư hại hoặc vỡ ra thành từng mảnh do các điều kiện trong thế gian, như được mô tả ở trên. Hơn nữa, năng lượng bên trong cấu trúc sẽ rung động ở một độ thấp hơn, có nghĩa là năng lượng dễ dàng bị cuốn hút ra ngoài hay bị mất mát khi có lỗ hổng trong cấu trúc. Cho nên khi cỗ xe bị phân mảnh, đó là vì có cái gì đó đã làm nổ tung và thổi bay một phần cấu trúc tinh thể cùng với năng lượng trong đó. Bây giờ chỉ còn sót lại một cấu trúc khiếm khuyết với một lỗ hổng to tướng, và con cảm nhận điều này như một chấn thương trầm trọng.

Nếu mảnh cấu trúc và năng lượng bị mất đủ lớn, con sẽ cảm thấy mình bị chia cắt – một căn nhà bị chia cắt khỏi chính mình – đến độ con không thể chịu đựng được nữa, và đây là nguyên nhân thực sự của tất cả mọi chứng bệnh tâm thần trầm trọng. Nỗi đau và mất mát to lớn đến độ con không thể sinh hoạt bình thường được, và con nhất định phải làm gì đó để khắc phục cảm giác trống trải, mất mát, đau đớn đó. Nhưng vấn đề là con sẽ làm gì đây? Và đây là lúc chúng ta thấy hiện ra tình thế tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, khiến con người bị đóng đinh – trong nghĩa đen – trên cây thập tự của chính cỗ xe 4 lớp của mình.   

Có mấy cách cơ bản để con cố chịu đựng sự phân mảnh của hồn:

  • Con tìm cách khiến mình tê dại để có thể chịu đựng cơn đau, có thể qua chất hóa học hay ma túy, chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện ngập. Sự nghiện ngập kéo theo một số biến động khác trong đời con gây thêm chấn thương, khiến hồn bị phân mảnh nhiều hơn nữa. Kết quả là một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ không ngừng kéo con xuống cho đến khi con chạm đáy và quyết định mình phải thay đổi hoàn toàn cách sống. Nhân tiện xin nói thêm là cách sử dụng dược phẩm của khoa tâm thần học hiện đại cũng tương tự như cách trên. Nếu không phối hợp với phép trị liệu đối thoại thì dược phẩm sẽ không giải quyết được sự phân rẽ của hồn. Nhưng con cũng lưu ý là đối với những người bị phân rẽ trầm trọng, rất có thể họ sẽ cần trị liệu tâm thần, và vì vậy ta sẽ không lên án trị liệu và cũng không khuyên ngăn người bệnh đi tìm sự giúp đỡ.
  • Con tìm cách mau chóng chiếm đoạt năng lượng của người khác hầu giảm thiểu nỗi trống trải của mình. Một phương cách là quan hệ tình dục, khi con đoạt lấy năng lượng của người giao phối. Điều này phần nào giải thích những trường hợp hiếp dâm và ấu dâm. Tất nhiên, làm vậy cũng không giải quyết được sự phân chia. Một cách khác nữa là tạo ra tranh cãi, gây ra ẩu đả hay hành hạ người khác bằng đủ mọi cách. Những kẻ tra tấn hay giết người hàng loạt làm như vậy để đánh cắp năng lượng hầu che đậy những phân chia trầm trọng trong hồn mình.
  • Con mời một tà thể ngoại lai vào cỗ xe 4 lớp của con để lấp đầy lỗ hổng. Tà thể này có thể là một hồn bóng không xác, một con quỷ, hay như Phật Gautama có gọi, một con quái vật. Điều này có nghĩa là, trong nghĩa đen, có một sinh thể ngoại lai vào sinh sống trong không gian của cỗ xe 4 lớp của con, và hiển nhiên nó gây ra những chứng bệnh gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar), phân chia nhân cách (split personality), đa nhân cách (multiple personality) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Có lúc tà thể ngoại lai sẽ chiếm lãnh tâm trí con và có lúc con sẽ giữ được chủ quyền.
  • Con cố tránh cho vết thương con khởi phát bằng cách lánh xa mọi người khác hay lánh xa đời sống. Trong quá khứ, nhiều người đã lui vào tu viện vì lý do này, và ngày nay có nhiều người cũng tìm cách che giấu sự phân chia nội tâm nơi các cộng đồng tâm linh. Tiện đây cũng xin nói, một giáo lý tâm linh quả là có thể bị lạm dụng cho mục đích này.  
  • Con cố tránh cho vết thương khởi phát bằng cách kiểm soát môi trường chung quanh con. Trường hợp này bao gồm nhiều loại người, từ gia chủ của một gia đình đổ vỡ cho đến giám đốc điều hành của một tập đoàn hay nhà độc tài của một quốc gia. Hitler, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác đều sẵn sàng giết hại vô số sinh mạng hầu trấn áp môi trường chung quanh, và tất cả đều bị thúc đẩy bởi một linh hồn bị phân rẽ trầm trọng.  
  • Con tìm cách sửa chữa sự rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp của con. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng thường con dùng tâm thức nhị nguyên để dựng lên một cấu trúc mới rồi đổ đầy với năng lượng thấp kém. Vết gãy rách đã khiến cho cấu trúc linh hồn nguyên thủy của con bị hư hại và vì vậy con cảm thấy mình khiếm khuyết, không trọn vẹn. Việc đóng lại lỗ hổng có thể cho con cảm giác toàn vẹn hơn. Nói cách khác, dù cỗ xe của con được tạo bằng tâm thức nhị nguyên, nhưng một cấu trúc liền lặn sẽ cho con một cảm giác tương đối toàn vẹn, tự chủ hơn. Một cách sửa chữa hư hại là để cho tự ngã của con tạo ra những tâm ảnh mới phát xuất từ chấn thương. Điều này có thể khiến con xem mình là một nạn nhân, hay khiến con tìm kiếm một con dê tế thần để con đánh nhau với nó hầu tiêu diệt nó. Như thế con sẽ chám được lỗ hổng với một cấu trúc mới phát sinh từ chấn thương mà con đổ đầy với năng lượng sợ hãi hay giận dữ. Tất nhiên, con sẽ không chữa lành được phân chia nội tâm của con nhưng nhiều người đã dựng lên nhiều lớp kiểu này đến độ họ cũng cảm được một chút toàn vẹn và chủ động.

Bây giờ thì con thấy được một số những hành động tàn bạo nhất trong lịch sử loài người là do những kẻ bị phân mảnh linh hồn gây ra. Một số những lạm dụng tồi tệ nhất ở mức cá nhân hay gia đình cũng là do chứng này gây ra. Hầu hết các bệnh tâm thần và các vấn đề tâm lý nghiêm trọng nhất là do sự phân mảnh của cỗ xe 4 lớp. Một khi con nhìn nhận điều này thì các thày mới có thể gợi ra một số cách đối phó.

Trước hết, chúng ta có một nhóm những người bị phân rẽ trầm trọng đến độ họ bị kẹt trong một khuôn nếp độc hại. Chừng nào họ còn bị vòng xoáy hướng hạ cuốn họ đi xuống như thế, thường không có cách gì giúp được họ. Không có cách nào để giao tiếp với họ, và con không thể nói gì với họ để thay đổi tình thế. Họ sẽ phải tiếp diễn khuôn nếp này cho tới khi họ chạm đáy và quyết định làm một điều mà họ chưa từng làm cho tới giờ, đó là nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận là mình đã tạo ra ngã tách biệt và bây giờ mình chính là người phải gỡ nó đi.

Sau đó chúng ta có một nhóm những người bị phân mảnh nghiêm trọng đến độ họ khó lòng nào, hoặc không thể, chữa lành một mình. Ta thực sự khuyên những người như vậy hãy tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ có thể. Con đang sống trong một thời kỳ mà sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần đã phai nhạt đi và vì vậy, giống như với các bệnh thể xác, không ai phải xấu hổ với bệnh tâm thần nữa. Ngoài các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học, con cũng có thể chiếu cố các nhà trị liệu không chính mạch, tuy nhiên với hầu hết những cách trị liệu truyền thống, điều quan trọng là tìm được người thích hợp để trợ giúp mình. Thật vậy, người chữa trị quan trọng hơn cách chữa trị. Một khuyến cáo chung chung là con nên xem xét hai cách trị liệu Gestalt và EMDR. Về liệu pháp giải thoát tánh khí (spirit release therapy) hoặc phương pháp của thày cúng (shaman) nhằm phục hồi linh hồn, ta xin nhắc lại một lần nữa: mức độ già dặn của người chữa trị là điều tối quan trọng. Song song, một điều nữa cũng vô cùng quan trọng là cần phối hợp pháp trị liệu với những dụng cụ tâm linh mà ta khuyến cáo ở bên dưới.    

Chúng ta cũng có một nhóm thứ ba, là những người chưa bị phân chia đến độ cần phải điều trị, tuy rằng sự điều trị vẫn có thể ích lợi. Nếu con trong số này, con có thể tự lo lấy một số điều, là những điều gì?

Điều đầu tiên cần làm là nhận ra rằng khi cỗ xe 4 lớp của con bị phân mảnh, nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thế lực ngoại lai, chẳng hạn những sinh thể bóng tối hay năng lượng thấp kém. Cho nên con cần trước hết thiết lập một lá chắn bảo vệ tâm linh chung quanh trường năng lượng của con. Cách thực hiện dễ nhất là sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con, như bài nguyện của Đại thiên thần Michael và những bài chú Đại thiên thần Michael và Hercules.

Không phải là chuyện lâu lâu đọc chơi một lần mà con phải cam kết một cách chân thành là con sẽ tuân thủ một chương trình đều đặn mỗi ngày. Nỗ lực của con cần tùy thuộc vào độ trầm trọng của sự phân mảnh và mong muốn chữa lành của con. Ta đề nghị con dành ra khoảng nửa giờ hoặc hơn nữa mỗi ngày cho việc bảo vệ tâm linh.

Bước tiếp theo là nhận ra là rất có thể con đã bị xâm nhập, hoặc ít nhất đã tạo ra một mối ràng buộc với những sinh thể hay năng lượng thấp kém. Cách tuyệt đối hiệu quả nhất để cắt đứt các mối ràng buộc đó và tự giải thoát là bài chú Elohim Astrea. Một lần nữa, con sẽ cần nửa giờ đồng hồ hay hơn nữa, thêm vào những bài chú bảo vệ ở trên.

Bước kế tiếp là nhận ra là có thể con đã tiếp nhận một số năng lượng thấp kém và chúng đang lôi kéo con từ bên trong. Cách đối phó là con cầu thỉnh năng lượng tâm linh hầu chuyển hóa năng lượng thấp kém. Ở đây, những bài chú của cả bảy tia sáng sẽ đều hữu dụng, nhưng ta khuyên con nên khởi đầu với các bài chú ngọn lửa tím. Một lần nữa, nửa giờ đồng hồ thêm vào các bài chú ở trên.

Việc đọc chú cùng với những bản ghi âm mà vị sứ giả này đã chuẩn bị có thể sẽ rất hữu ích. Làm vậy không những sẽ giúp con học cách đọc chú, mà qua bản ghi âm, sẽ còn có ánh sáng được truyền rải xuống mà nhiều người bị phân mảnh không có khả năng tự cầu thỉnh một mình.

Một khi con đã cầu thỉnh được tạm đủ ánh sáng để cảm thấy nhẹ nhõm hơn, con có thể bắt đầu sử dụng các dụng cụ khác được đăng tải ở đây. Con có thể bắt đầu với Hộp Dụng cụ cho Khủng hoảng Tâm linh, và sau đó chuyển sang nhiều bài thỉnh khác. Bài thỉnh Đông-Tây đặc biệt nhằm kêu gọi các mảnh linh hồn thất lạc trở về với con.  Tuy nhiên còn có nhiều bài chú khác nhằm giúp con đương đầu với một số vấn đề đặc thù, và một khi con vượt qua được tâm trạng rối loạn nhất, con sẽ nhận được hướng dẫn từ bên trong.

Thật ra những gì ta vừa trình bày cho tới giờ chỉ là một chương trình cấp tốc để giúp con vượt qua những hiệu ứng nghiêm trọng nhất của sự phân mảnh. Trong giai đoạn tiếp theo sau, con phải nhận ra là việc hồi phục sự toàn vẹn tâm linh thực sự là một nỗ lực dài hạn, thậm chí có thể kéo dài suốt đời. Vì vậy con cần có cái nhìn là con đang đi trên một hành trình tâm linh sẽ lần hồi dẫn con từ mức tâm thức hiện thời của con đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đó là tiềm năng cao nhất của con nhưng cũng là một mục tiêu thực tế mà con có khả năng đạt được.

Điều này có nghĩa là con hãy nắm lấy con đường tâm linh mà con có thể thấy và hiểu được trong hiện tại, rồi con hãy cứ theo đó mà tiến bước hết sức mình. Nhưng con cũng phải hiểu đó là một con đường tự thăng vượt, tức là có nhiều cấp độ. Sẽ có những lúc con cần bước hẳn lên một bực cao hơn trong viễn quan lẫn cách thực hành.

Trong các giai đọan sau đó, con sẽ thấy lời dạy sau đây của ta có thể hữu dụng, cụ thể là cỗ xe 4 lớp của con – mà hầu hết mọi người gọi là hồn – không phải do Thượng đế tạo ra, và trong hiện tại nó không phản ánh cá thể của Hiện diện TA LÀ của con. Cho nên đối với những ai đã bước xuống tách biệt, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô gồm có ba giai đoạn rõ rệt:

  • Trong giai đoạn thấp sơ khởi, con sẽ cần tìm cách chám lại mọi lỗ hổng trong linh hồn hay hồi lại những mảnh đã thất lạc. Đây chỉ là một biện pháp tạm thời để giúp con bước vào con đường thực sự.
  • Trong giai đoạn thứ nhì, con không thực sự tìm cách chữa lành hay hoàn thiện linh hồn con, bởi vì nó đã được tạo ra từ các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên. Do đó thực sự nó không bao giờ có thể được nâng lên tới mức vào được cõi tâm linh. Điều con thực sự cần làm là tháo gỡ cái Ta Biết khỏi sự đồng hóa với hồn phát xuất từ nhị nguyên. Để làm điều này, con thỉnh ánh sáng tâm linh để chuyển hóa các năng lượng thấp trong cỗ xe 4 lớp, và con sử dụng các giáo lý tâm linh để thay thế mọi ảo tưởng nhị nguyên trong cỗ xe của con. Tuy nhiên, điều thiết yếu mà con phải nhận rõ là giai đọan này sẽ không thực sự đưa con tới quả vị Ki-tô, và nó cũng sẽ không tạo đủ điều kiện cho con thăng thiên. Nó sẽ chỉ đơn giản dẫn con trở lại đúng tình trạng của con trước khi con rơi vào vòng nhị nguyên. Nói cách khác, điều con làm trong giai đoạn này KHÔNG PHẢI là hoàn thiện hồn mà là thăng vượt hồn. Con để cho hồn chết đi từng chút và từng chút, như ta đã từng nói là nếu con cố cứu lấy mạng sống – tức là cái linh hồn xuất phát từ nhị nguyên – thì con sẽ đánh mất sự sống. Nhưng nếu con sẵn sàng bỏ mạng sống cho ta – tức là để cho linh hồn nhị nguyên chết đi – con sẽ tìm được sự sống vĩnh hằng qua tâm thức Ki-tô.
  • Trong giai đoạn thứ ba, con mới bắt đầu thực hiện những gì con đã thực sự xuống đây để thực hiện, tức là trở thành cánh cửa mở cho cá thể của Hiện diện TA LÀ được biểu hiện trong thế gian. Con sẽ đạt được tâm Ki-tô trọn vẹn khi con trở thành cánh cửa mở – và không có gì hơn.

Hiện diện TA LÀ và cái ta Ki-tô

Hỏi: Chúa Thánh thần và Hiện diện TA LÀ là gì và nằm ở cấp độ nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 14/11/2012.

Chúa Thánh thần (Holy Christ), hay tâm thức Ki-tô toàn vũ, là Đứa con Một của Thượng đế Cha/Mẹ. Đó là Lời đã hiện thân, có nghĩa là nguyên tố căn bản, là chất liệu, được sử dụng để tạo ra toàn bộ thế giới hình tướng. Vì thế, tâm thức Ki-tô toàn vũ có mặt, trong nghĩa đen, ở khắp mọi nơi không trừ một nơi nào. Ngay cả trong tận cùng của địa ngục, con cũng sẽ tìm thấy tâm thức Ki-tô toàn vũ.

Mỗi dòng sống trong vũ trụ vật chất cũng có một tâm thức Ki-tô đã cá thể hóa, là cái ta Ki-tô. Cái ta Ki-tô đóng vai trò trung gian giữa cái Ta Biết và cái ta tâm linh, gọi là Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô luôn luôn có mặt với dòng sống, có nghĩa là dù cho dòng sống có ở đâu, có đi xuống tới mức tâm thức thấp thế nào đi nữa, cái Ta Biết luôn luôn có thể chọn lựa bắt liên lạc với cái ta Ki-tô. Thực sự, cái ta Ki-tô là cánh cửa mở mà không một người nào có thể đóng lại. Đó cũng là ánh sáng thắp sáng mọi dòng sống khi mới bước vào thế gian.

Cho nên con không bao giờ có thể xa rời khỏi cái ta Ki-tô. Đó là con chó săn của thiên đàng sẽ luôn luôn theo dõi dòng sống của con ở bất cứ nơi đâu, không ngừng tìm cách tạo linh hứng cho cái Ta Biết quay đầu lại và cất bước trên con đường trở về nhà.

Còn cái ta tâm linh, hay Hiện diện TA LÀ, là cốt lõi của bản sắc và cá thể của con. Cá thể của con do Thượng đế ban cho con được lưu giữ trong cái ta tâm linh này. Hiện diện TA LÀ không bao giờ đi xuống thấp hơn tầng cao nhất của cõi ether. Nói cách khác, nó cư ngụ liên tục trong cõi tâm linh, và vì thế nó không thể bị ô nhiễm bởi bất kỳ năng lượng nào trong thế gian. Cho dù con có làm gì đi nữa, trong kiếp này hay trong một tiền kiếp, con không thể làm ô nhiễm hay tổn hại sự thuần khiết của Hiện diện TA LÀ của con cũng như cá thể mà Thượng đế đã ban cho con. 

Mọi thứ đều là khái niệm cho tới khi nó trở thành trải nghiệm

Hỏi: Câu trả lời hôm 16/11/2010 của thày Giê-su, hay hình như của ông Kim Michaels, có liệt ra 19 khái niệm. Thày mô tả các bầu cõi và cái Ta Biết như là những khái niệm. Điều này khiến con bị bối rối.

Những lời dạy trước đây nhắm vào việc thay đổi khung tham chiếu về mặt trí thức, và quan trọng hơn cả, về mặt nội tâm tâm linh. Ngôn từ được sử dụng càng ngày càng ít đi để làm điểm đo, hầu tập trung vào cái TA LÀ bên trong.

Như Shakespeare có nói “Cuộc sống là một sân khấu.” Cuộc sống trong thế giới vật chất chẳng phải là một khái niệm về các bầu cõi cá nhân lẫn tâm linh hay sao, trong khi cái Ta Biết là sự thật và cội nguồn của Duy nhất? Phải chăng thày đang nói rằng bầu cõi của Đấng Sáng tạo của chúng ta là một khái niệm về tạo vật của ngài?

Cho đến nay, con đã học được từ thày rằng cái ta đích thực của con nằm trong cái Ta Biết. Nếu cái Ta Biết là một khái niệm nằm trong bầu cõi, thì ái chà! Xin thày nói rõ cho con và mọi người rằng chúng con là nhiều hơn một khái niệm về một sinh thể tự quyết.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/12/2010.

Mọi thứ đều là khái niệm cho tới khi nó trở thành trải nghiệm. Con liên hệ với một vật nào đó bằng cách trước tiên cho phép nó đi vào tâm vỏ ngoài, hay tâm ý thức của con, như một khái niệm.

Khái niệm là một ý tưởng mà con giữ trong tâm. Ý tưởng đó có liên hệ tới một vật mà con chưa nhìn thấy, nhưng ý tưởng và vật không là cùng một thứ.

Chẳng hạn, nếu con cầm một tờ quảng cáo du lịch về một địa điểm nghỉ mát ở nước ngoài, cái mà con nhận được từ tờ quảng cáo là một khái niệm về địa điểm du lịch. Khái niệm có thể khởi lên trong con ý muốn đi du lịch ở đó, nhưng chỉ khi nào con bước chân đến đó thì khái niệm mới được thay thế bằng trải nghiệm trực tiếp.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên trải nghiệm tất cả mọi thứ mà chúng tôi đã nói với con về cõi thăng thiên, nhưng chúng tôi không thể nào cho con trải nghiệm đó. Cách duy nhất để giao tiếp với con – trong trạng thái tâm thức hiện thời của con – là cho con một số khái niệm, rồi hy vọng những khái niệm này sẽ đánh thức trong con ý muốn trải nghiệm trực tiếp.

Con có khả năng nắm được trải nghiệm trực tiếp này khi con ngộ ra là cốt lõi của bản thể con là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là con có khả năng tự phóng chiếu mình vào cõi tâm linh – y như con đã tự phóng chiếu vào thân xác cùng kinh nghiệm sống hiện thời của con.

Chúng tôi đã giảng dạy về Hiện diện TA LÀ từ thập niên 1930, nhưng tất cả những gì chúng tôi đã trao cho mọi người đều là khái niệm. Một số học trò đã dùng các khái niệm đó để tạo ra một “lối mòn” trong tâm họ, và sau đó cái Ta Biết đã đi theo lối mòn đó cho tới khi nó trải nghiệm được sự hợp nhất với Hiện diện.

Một số học trò khác đã không sẵn lòng làm chuyện đó, cho nên đối với họ, Hiện diện TA LÀ tiếp tục là một khái niệm. Nhóm thứ nhất đã liên hệ với Hiện diện TA LÀ của họ trực tiếp qua trải nghiệm. Nhóm thứ nhì không liên hệ với Hiện diện của họ mà chỉ liên hệ với một hình tư tưởng – một khái niệm – về Hiện diện mà họ đã tạo ra trong tâm.

Khi chúng tôi trao cho con người trên địa cầu bất kỳ khái niệm nào về cõi tâm linh, luôn luôn có rủi ro là họ sẽ dùng khái niệm đó để ngăn chặn trải nghiệm. Tuy nhiên, đó chỉ là bản chất của công việc mà chúng tôi phải đương đầu.

Tất cả các con đều là những sinh thể tâm linh không bị mắc kẹt hay bị quy định trong bất kỳ hình tướng nào. Thế nhưng trong cái ngay bây giờ và ngay đây, con chính “là” cái mà con nghĩ con là. Đó là vì con đã quên mất con là sự nhận biết thuần khiết, và thay vào đó, con đã tạo ra một khái niệm về con người mà con là.

Con bị kẹt trong “thế gian” này nơi con liên hệ với hầu hết mọi thứ như là khái niệm. Cho nên cách duy nhất mà chúng tôi có thể chạm được con là qua nhiều khái niệm hơn nữa – với niềm hy vọng rằng một vài khái niệm trong số đó sẽ đánh thức trong con ý muốn trải nghiệm nhiều hơn khái niệm.

Nếu con chưa trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết thì cái Ta Biết sẽ chỉ đơn giản là thêm một khái niệm. Nhưng khi con trải nghiệm nhận biết thuần khiết, con thấy rõ cái Ta Biết chỉ là một cái tên. Theo một nghĩa nào đó, thật là vô nghĩa gán cho nhận biết thuần khiết một cái tên, vì nhận biết thuần khiết không thể được mô tả chính xác qua bất kỳ cái tên hay khái niệm nào. Nó chỉ có thể được trải nghiệm. Nhưng chừng nào con còn bị kẹt trong thế giới của khái niệm trí thức, thì…!

Về câu hỏi chót của con: “Xin thày nói rõ cho con và mọi người rằng chúng con là nhiều hơn một khái niệm về một sinh thể tự quyết.”

Con là nhiều hơn một sinh thể khái niệm, theo nghĩa là con vượt khỏi hình tướng. Tuy nhiên, con chính là người đã đè chồng một số khái niệm về con người của con lên trên sự nhận biết thuần khiết mà Hiện diện TA LÀ của con đã gửi vào vũ trụ vật chất như phần nối dài của nó. Cho nên con cũng là người duy nhất có khả năng gỡ con ra khỏi cái hình ảnh đó về bản thân, bằng cách con tái trải nghiệm nhận biết thuần khiết. Chừng nào con chưa tái nối kết với nhận biết thuần khiết thì trên thực tế, con không là gì hơn một sinh thể khái niệm.

Nếu con liên hệ với ý niệm bản sắc của con ở mức khái niệm, con sẽ chỉ đơn giản tạo ra thêm một khái niệm. Đó là tại sao chúng tôi đã trao cho con “khái niệm” rằng cái Ta Biết là sự nhận biết thuần khiết và do đó nó không thể bị giam hãm trong bất kỳ khái niệm nào.

Con thấy đó, sau khi chúng tôi bắt đầu ban truyền giáo lý về tự ngã, điều rõ ràng là nhiều học trò đã tìm cách khắc phục tự ngã của mình ở mức khái niệm. Nhưng như con thấy, tự ngã cũng chỉ là một khái niệm. Cho nên khi tìm cách loại bỏ khái niệm tự ngã bằng cách tạo ra một khái niệm khác – tâm linh hơn, hay ho hơn – con sẽ chỉ khiến cho tự ngã biến thái sang một hình dạng khác.

Đó là tại sao nhiều người đã đi trên đường tu tâm linh nhiều chục năm trời mà không đến gần hơn với trạng thái vô ngã. Đơn giản là họ đã tạo ra một tự ngã mới rất tài tình hiện ra như người tốt lành hay tâm linh. Những người như vậy cho rằng tự ngã này tâm linh đến độ nó chắc chắn sẽ được phép lên thiên đàng – nhưng họ lầm lẫn hoàn toàn. Ta đã có mô tả sự thể này trong câu chuyện ngụ ngôn về tiệc cưới.

Cho nên cách duy nhất để vượt qua tự ngã là tìm được một khung tham chiếu vượt khỏi thế giới khái niệm nơi tự ngã hiện hữu. Và cách duy nhất để vượt xa hơn khái niệm là tận dụng khả năng trở về với nhận biết thuần khiết của con, là nơi mà con ngộ ra là mọi khái niệm tìm thấy trên địa cầu – tất cả mọi khái niệm cấu tạo nên tự ngã của con – chỉ là không thực.

Con cũng trải nghiệm cái TA của con – tức nhận biết thuần khiết – là thực. Nó là phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Và đó là điều duy nhất sẽ giúp con tháo gỡ tình trạng đồng hóa của con với tự ngã.

Thật không có cách nào khác. Và mặc dù đã mô tả nó bằng nhiều cách khác nhau, các nhà thần bí thuộc mọi thời đại đã trải nghiệm sự nhận biết thuần khiết. Họ đã sử dụng nhận biết thuần khiết để đánh thức mình khỏi giấc mộng cho rằng một sinh thể tâm linh có thể bị mắc kẹt hay bị quy định bởi hình tướng.

Nếu con đối xử với cái Ta Biết như một khái niệm khác, nó sẽ chỉ giam cầm con nhiều hơn nữa. Nếu con cho phép mình trải nhiệm nhận biết thuần khiết, đó sẽ có thể là sự thức tỉnh tối hậu.

Như luôn luôn, chúng tôi chỉ có thể cống hiến một dụng cụ rồi để yên cho mọi người tự do lựa chọn cách sử dụng như thế nào. Đó là vì sao chúng tôi không ngừng nỗ lực đưa ra những dụng cụ mới để nói lên cùng một nguyên lý dưới một hình thức khác hơn, với niềm hy vọng là mỗi cách biểu đạt mới như vậy sẽ đánh thức nhiều người hơn.

Con cần buông những cái ngã đã đem lại thành tựu cho con

Hỏi: Câu hỏi này của con là về những nỗi khắc khoải nội tâm. Con tự hỏi tại sao con không thể nhìn thấy chính mình như mình là. Con cảm thấy có những chướng ngại tinh thần đang ngăn chặn con lượng định bản thân mình một cách khách quan. Chẳng hạn, mặc dù con đã đạt được một số thành tựu trong đời, con luôn bị áp lực bởi những ý tưởng bảo rằng con thật kém cỏi so với tiềm năng thực sự của con. Làm thế nào con có thể vượt qua những day dứt nội tâm này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Con yêu dấu, ta biết lời giải đáp của các thày đôi khi có vẻ lặp lại, nhưng câu trả lời thật sự ở đây là con có hai cái ngã tách biệt. Một cái luôn thúc đẩy con thành tựu, và cái kia không ngừng chỉ trích và hạ thấp con, thậm chí còn dùng cái ngã muốn thành tựu để kéo con vào vòng xoắn ốc bất tận nơi con không bao giờ cảm thấy nhiều đủ cũng như tốt đủ. Khắp thế giới con thấy rất, rất nhiều người, ví dụ như trong kinh doanh, trong thể thao và nhiều nghề nghiệp khác, luôn luôn bị thúc đẩy để thực hiện nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Cho dù họ có hoàn thành được việc gì hay kiếm được bao nhiêu, họ vẫn không bao giờ thấy đủ.

Giải pháp thực sự duy nhất cho sự thể này dĩ nhiên là con phải cố giải quyết tâm lý của mình cho đến khi con thấy được những ngã đó và để cho chúng chết đi. Trong ngắn hạn, con sẽ được khuây khỏa phần nào bằng cách đọc các bài thỉnh, bài chú, để kêu gọi sự bảo vệ và được cắt khỏi tất cả những sợi dây ràng buộc con vào cõi trung giới, nơi có những loài quỷ chuyên môn bơm phồng những nỗi khắc khoải như vậy. Một điều quan trọng nữa là con có thể sử dụng giáo lý mà các chân sư đã ban ra, cả trong sách “Những kiếp sống của tôi” và những quyển thực tập tiếp theo đó, hầu con hiểu ra là các sa nhân đã tạo ra tiêu chuẩn toàn hảo này để con cảm thấy bắt buộc phải tuân thủ.

Nhưng thực tế thì tiêu chuẩn đó hoàn toàn không thực. Điều duy nhất mà con cần làm là trở về trạng thái nhận biết thuần khiết mà các chân sư gọi là cái Ta Biết. Bất kỳ thành tựu nào trong nhân thế, cho dù nó to lớn biết mấy, cũng không thể mở cửa cõi thăng thiên cho con bước vào. Thật ra, có khi hoặc thường khi, nó còn tạo cản trở cho con nếu con cảm thấy con đã hoàn thành những chuyện to lớn trong thế gian. Nó khiến cho con càng khó lòng hơn buông bỏ cái ngã đã đem lại thành tựu đó để quay trở về với trạng thái nhận biết thuần khiết nguyên thủy.

Cho dù con đã xây dựng ngã đó công phu và tinh xảo đến đâu để đạt thành tựu trong thế gian, nó vẫn là một sinh thể sinh diệt, và nó sẽ không được cứu rỗi. Khi nào con còn dính mắc với một cái ngã như thế, con sẽ không thể thăng thiên – cái Ta Biết của con sẽ không thể thăng thiên.

Cho nên ngược lại với sự tin tưởng của nhiều người tâm linh, kể cả học trò của các chân sư thăng thiên, đây không phải là chuyện hoàn thiện cái ngã vỏ ngoài và khi con đạt một mức hoàn thiện nào đó thì con sẽ đủ tư cách thăng thiên. Tiến trình thăng thiên đích thực là gỡ bỏ cái ngã vỏ ngoài, từng bước gỡ bỏ từng cái ngã riêng biệt và để cho chúng chết đi, để rốt cuộc cái Ta Biết có thể trở về trong trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Chỉ có những thành tựu mà con tích tụ nơi căn thể của con mới được con đem theo sau khi thăng thiên.

Khái niệm tự ngã, phàm linh nội tại và ngã tách biệt

Hỏi: Hồi đầu, chúng con được trao cho lời dạy về tự ngã (ego), rồi sau đó đến lời dạy về phàm linh nội tại (internal spirits), ngã tách biệt (separate selves) và ngã gốc (primal self). Vậy con xin có câu hỏi: Khái niệm tự ngã đứng ở đâu so với các giáo lý mới hơn, hay là bây giờ nó đã trở thành một khái niệm it hữu ích hay ít quan trọng hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Lời dạy của các chân sư được truyền giảng cho những cấp độ khác nhau, hầu hành giả ở mọi mức nhận thức có thể tìm được điều gì đó liên quan đến trạng thái tâm thức hiện tại của mình cũng như giai đoạn mà mình đang đi qua. Cho nên trong một nghĩa nào đó, giáo lý về tự ngã đã được đưa ra trước nhất vì đó là một giáo lý rộng rãi, phổ quát hơn. Trong các sách vở tâm linh và ngành tâm lý học ngoại mạch, khái niệm tự ngã đã được biết tới khá rộng rãi, cho nên được các chân sư đưa ra trước tiên để các con có thể khởi sự ngay tiến trình nhìn vào chính mình.

Sau đó chúng tôi đã quyết định nâng lên một bực, không phải là thay thế hẳn giáo lý về tự ngã, mà đưa ra một giáo lý đặc thù hơn để cho thấy tự ngã không chỉ là một vật mơ hồ, không có đường nét. Thường khi, sách vở hay nói đến tác động của tự ngã chứ ít nói đến tự ngã là gì. Chúng tôi đã quyết định đưa ra khái niệm phàm linh nội tại để cho thấy tự ngã có sự sống riêng của nó, và nó không phải là một vật đồng nhất. Nó bao gồm tất cả những phàm linh nội tại nói trên.

Nhưng nhìn từ một góc cạnh thì khái niệm phàm linh nội tại cũng phần nào là một quan niệm rộng rãi vì nó áp dụng cho nhiều người trên địa cầu. Và cuối cùng chúng tôi đã đưa ra khái niệm về chấn thương nhập đời và ngã tách biệt. Giáo lý này nhắm đặc biệt đến các avatar – những dòng sống từ hành tinh khác tới địa cầu – nhưng nó cũng có thể áp dụng cho các cư dân nguyên thủy của địa cầu, vì mặc dù cư dân nguyên thuỷ không bị chấn thương nhập đời khi đầu thai lần đầu ở đây, họ đã phải hứng chịu chấn thương khi gặp gỡ sa nhân (fallen beings).

Đơn giản là chúng tôi đã cố gắng giảng dạy ở nhiều cấp độ khác nhau cho nhiều người có mức nhận thức khác nhau. Con phải ở một mức nhận thức cao hơn thì mới thực sự nắm bắt được và thực hành giáo lý về chấn thương nhập đời và ngã tách biệt.

Trên cơ bản, con phải ở một mức nhận thức nào đó thì mới có thể chấp nhận cuốn sách “Các kiếp sống của tôi” (My Lives), là cuốn sách nhắm chủ yếu vào việc chuẩn bị cho tiến trình chữa lành nội tâm, hầu giúp con khắc phục cái ngã gốc và mọi cái ngã khác mà con đã tạo ra do phản ứng lại biến cố đến địa cầu hiện thân, hay phản ứng lại việc sinh sống trên hành tinh này. Theo một nghĩa nào đó, chúng tôi có thể nói là tất cả các giáo lý trên vẫn đều xác đáng, vì giáo lý được thảo ra cho nhiều mức nhận thức khác nhau, và khái niệm tự ngã vẫn còn xác đáng vì ngã gốc và mọi ngã tách biệt khác cũng là những thành phần của tự ngã.

Con có thể hỏi: “Nhưng có một tự ngã hay không? Có một thực thể đơn độc nào có thể gọi là tự ngã?” và nói thật, con có thể mô tả chuyện này nhiều cách khác nhau. Con có thể nói, đúng vậy, có một cái ngã là ngã đầu tiên do con tạo ra, gọi là ngã gốc hay một danh từ nào khác, và đó là tinh túy của tự ngã.

Hoặc con có thể nói là, không, không có một ngã nào thống nhất vì tất cả chỉ là những cái ngã tách biệt và phàm linh nội tại. Và trong số đó, có cả những cái ngã chống đối lẫn nhau, và do đó con không thể tìm ra một nút bật, để khi con tắt nút đi thì tự ngã biến mất. Con phải giải quyết từng thành phần của tự ngã để khắc phục nó.

Thậm chí, con còn có thể nói rằng khi con là avatar mới đến địa cầu và con mong muốn thay đổi nhiều chuyện trên địa cầu, thì đại loại đó cũng là nguồn gốc của tự ngã đối với một avatar. Con đến đây để thay đổi người khác và lúc đó con chưa hoàn toàn thể nhập được quyền tự quyết là gì và vận hành như thế nào.

Đó là lý do tại sao, như sứ giả này có mô tả cho con, tới một lúc ông đã hiểu ra là ông không ở trên địa cầu để thay đổi người khác, mà ông ở trên địa cầu là để tự giải thoát chính mình khỏi mong muốn thay đổi người khác. Con có thể nói rằng là một avatar thì con đã đem theo hạt giống, đem theo căn nguyên của tự ngã với con khi con đến đây, trong khi các cư dân nguyên thủy thì đã phát triển tự ngã ngay trên hành tinh này. Trong nhiều trường hợp, các cư dân này đã có tự ngã trước khi các sa nhân tới đây, nhưng tự ngã của họ đã khoác lấy một sắc thái rất khác khi họ tương tác với sa nhân.

Và đó cũng là tại sao con có thể đi ngược dòng thời gian và bảo rằng tự ngã đã có mặt trên hành tinh này trước khi sa nhân đến đây, tuy nhiên sau khi chúng đến thì tự ngã đổi hẳn phẩm chất. Sa nhân là những kẻ sử dụng tâm thức nhị nguyên, tư duy cuồng đại, và vì thế đã ảnh hưởng lên tự ngã của phần lớn nhân loại trên địa cầu.

Phản ứng thế nào khi tu tập tâm linh không đem lại kết quả vật lý mong muốn?

Hỏi: Trong suốt lịch sử, nhiều người có đạo và hành giả tầm đạo đã từng cầu nguyện, đọc bài chú hay thỉnh cầu tràng hạt để đem lại những thay đổi vật lý cụ thể trên địa cầu hay trong xã hội. Trong nhiều trường hợp, những thay đổi này đã không xảy ra. Làm thế nào chúng con có thể tránh được tâm trạng nản chí, vì cá nhân con có quen biết một số người đã bỏ cuộc khi Thượng đế không ban cho họ những gì họ cầu nguyện? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 8/12/2007.

Các học trò yêu dấu của ta cùng mọi người đã đọc những bài nguyện tràng hạt của ta để đem lại thay đổi trên thế giới, hãy đừng rơi vào sự cám dỗ luôn luôn có mặt mà trở nên chán nản vì con đã không nhìn thấy kết quả cụ thể của công việc tâm linh của con. Hãy luôn luôn nhớ rằng các con đang làm công việc TÂM LINH, và vì thế, con có thể thấy hay không thấy những kết quả trong cõi vật lý, hoặc con có thể không thấy kết quả nhanh chóng như con mong đợi. 

Tại sao vậy? Trước hết vì Luật Tự quyết. Nếu chỉ cần một số ít người đọc bài nguyện tràng hạt để “bắt buộc” hàng trăm triệu người khác phải hành xử một cách nào đó, thì các con đã kiểm soát được số người to lớn kia rồi, và điều này đã vi phạm Luật Tự quyết. Học trò của chân sư thăng thiên tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết và KHÔNG BAO GIỜ tìm cách ép buộc người khác. Chỉ có những kẻ theo hàng ngũ phản-Ki-tô – cho dù họ có biết hay không biết – mới tìm cách cưỡng ép người khác qua công việc tâm linh.

Không có gì ban ra cho địa cầu này mà không thể bị lạm dụng bởi những người bị mù quáng bởi tâm thức nhị nguyên. Ta đã nỗ lực rất nhiều để khiến cho việc lạm dụng những bài nguyện tràng hạt của ta vô cùng khó khăn, nhưng người ta vẫn lạm đụng được dù với ý định tốt đẹp nhất. Nếu con đọc bài nguyện với tâm bám mắc của tự ngã để đạt được một số kết quả nhất định, con sẽ gửi một xung lượng nhị nguyên của sợ hãi vào tâm thức tập thể, và đây là một hình thức tà thuật nhằm bắt ép người khác.

Con hãy lưu ý, ngay cả khi con tìm cách ép buộc người khác phải làm những điều có vẻ lợi lộc cho họ, con vẫn đang làm chuyện tà thuật vì con đang vi phạm Luật Tự quyết. Tà thuật là bất kỳ hoạt động nào sử dụng sức mạnh tâm linh để ảnh hưởng hay lật ngược quyền tự quyết của người khác – ngay cả khi thực hiện với ý định có vẻ nhân từ. Con thấy đấy, mục đích của hành tinh địa cầu là một phòng học vũ trụ – KHÔNG PHẢI để sản xuất ra những kết quả vật lý nhất định. Mọi thứ đều tùy thuộc vào con người sử dụng quyền tự quyết của mình, và điều mà Thượng đế muốn thấy là con người sẽ học hỏi, ngay cả khi họ phải học qua sự trải nghiệm hậu quả đau đớn do chọn lựa của họ. 

Ta không có ý nói là những ai đọc bài nguyện tràng hạt của ta đều đang làm trò ma thuật – ta chỉ muốn nhấn mạnh một điểm. Sự thật là mọi người tâm linh đều phải đối mặt với thử thách mình sẽ phản ứng thế nào khi mình không đạt được kết quả mong muốn trong công việc tâm linh. Có hai cám dỗ chính. Một là dùng sức mạnh tâm linh để ảnh hưởng người khác, và điều này là tà thuật. Hầu hết mọi người tâm linh đều không dùng tà thuật, nhưng nhiều người sẽ rất dễ rơi vào cám dỗ thứ hai sau đây, là trở nên chán nản khi không nhìn thấy kết quả cụ thể từ công việc tâm linh của mình. Đây hiển nhiên là trường hợp của nhiều tín đồ các tôn giáo truyền thống, những người cầu nguyện Thượng đế để đời sống mình thay đổi nhưng mình lại không sẵn lòng, hay không có khả năng, thay đổi tâm thức mình – như ta đã giải thích trong sách của ta.         

Con cần nhìn nhận rằng mọi công việc tâm linh chân chính là một mối đe doạ cho các tà lực. Tuyến phòng thủ đầu tiên của chúng là ngăn cản con tham gia vào việc tâm linh. Khi không thành công, tuyến phòng thủ thứ hai của chúng là gây chán nản trong lòng con để con buông xuôi không cố tạo sự thay đổi, đặc biệt những thay đổi trên tầm vóc thế giới. 

Để làm điều này, chúng chỉ cần sử dụng chính cái tâm lý đã khiến con quyết định tham gia vào việc tâm linh. Con thấy đó, người tâm linh biết rõ là có những điều không ổn trên hành tinh và họ thấy nhu cầu phải làm việc tâm linh để cải thiện tình thế. Thật là điều tự nhiên khi những người ở một mức tâm thức nào đó tham gia vào việc tâm linh vì họ muốn đóng góp đem lại thay đổi tích cực cho thế giới. Đây chính là động cơ – nếu có thể nói như vậy – thúc đẩy những người đó đã hy sinh thời gian của mình để cầu nguyện, lần tràng hạt hay sử dụng một số kỹ thuật khác.

Con cần lưu ý, điều này không có gì sai trái – ở một mức nào đó trên con đường tâm linh. Tuy nhiên, điều không tránh được là khi con bước vào tiến trình, con sẽ phải đối mặt với cám dỗ của chán nản. Con càng bám mắc vào những kết quả cụ thể trong cõi vật lý bao nhiêu thì cám dỗ sẽ càng mạnh mẽ bấy nhiêu.

Chúng tôi đã chứng kiến rất nhiều học trò chân thành đã đảo lộn cuộc sống mình và nỗ lực lớn lao để đem lại một thay đổi nhất định trong đời mình hay, trên một bình diện rộng lớn hơn, cho quốc gia hay cho toàn cầu. Và khi sự thay đổi mong muốn không thành hình vào ngày dự kiến, họ bắt đầu lắng nghe kẻ cám dỗ, kẻ luôn luôn ở đó tìm cách lợi dụng tình thế để khiến họ uống ly thuốc độc của chán nản – là một loại rung động rất đặc thù sẽ sinh sôi một cách hung hãn trong trường năng lượng của họ một khi họ mở cửa cho nó vào.     

Nhưng cũng có một số người sẽ cưỡng lại được cám dỗ, và họ sẽ tiếp tục công việc tâm linh suốt mấy chục năm trời và có khi cả đời. Tuy nhiên, ta không cho đây là cách phản ứng hay nhất. Vì con thấy đó, nhiều người sẽ vẫn tiếp tục đeo đuổi một số thay đổi vỏ ngoài nhất định – giống như là họ cứ đẩy nó tiếp về phía trước như con lừa đẩy củ cà-rốt treo lủng lẳng trước mũi nó. 

Vậy đâu là cách phản ứng mà ta đang cố giúp con thấy được? Đó là con phải nhận ra là đường tu tâm linh có nhiều giai đoạn, và những gì phù hợp với một giai đọan sẽ không phù hợp với một giai đoạn cao hơn. Khi con lần đầu tiên nhận thức nhu cầu làm việc tâm linh, thật là điều tự nhiên nếu con bị thúc đẩy bởi mong muốn đóng góp đem lại những thay đổi vật lý. Nhưng một khi con đã trưởng thành hơn trên đường tu, con cần phải xét lại động cơ của mình và bước lên một động cơ cao hơn. Như Albert Einstein có nói, thật là điên rồ nếu con cứ tiếp tục làm một điều gì đó mà lại kỳ vọng một kết quả khác hơn. 

Sau một thời gian làm việc tâm linh – mà chiều dài tùy theo từng người – với động lực muốn giúp thay đổi cụ thể trong cõi vật lý, con cần xét lại cách tiếp cận của con và bước lên một động lực cao hơn. Động lực đó là con phải ngừng tập trung vào những kết quả bên ngoài mà nhận ra rằng bất cứ thay đổi nào trong cõi vật lý cũng PHẢI bắt đầu với một sự thay đổi trong ba cõi cao của tâm con hay của vũ trụ. Cho nên cách thật sự để thay đổi vật lý là đầu tiên con phải làm việc để thay đổi tâm thức con người.

Khi con ngộ ra điều này, con hiểu ra là địa cầu là một phòng học vũ trụ. Ở đây, tiến trình học hỏi không bao giờ ngừng lại vì các dòng sống trên hành tinh ở nhiều tầng tâm thức khác nhau. Điều này dẫn đến hai kết luận quan trọng. Một là việc làm tâm linh của con không bao giờ kết thúc, vì luôn luôn có khả năng tâm thức tập thể lẫn cá nhân đã tăng trưởng. Và hai là công việc tâm linh của con sẽ không bao giờ uổng phí.

Bởi vì, cho dù con không thấy một thay đổi nhất định trong cõi vật lý, SẼ có một thay đổi xảy ra trong các cõi cao của vũ trụ vật chất. Công việc tâm linh của con SẼ mang lại kết quả tích cực trong các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc và biến hóa tâm thức tập thể. Người ta SẼ dễ dàng hơn có được những chọn lựa tốt đẹp hơn trong tâm ý thức, và chính những chọn lựa này bởi tâm ý thức sẽ định đoạt điều gì sẽ thị hiện ra trong vật lý và khi nào nó thị hiện.

Nói cách khác, con không thể kiểm soát, và không nên có bất kỳ ý định nào để kiểm soát những chọn lựa của người khác. Vì vậy con không thể có bám mắc vào những thay đổi vật lý vì con để đó cho mọi người chọn lựa. Con thấy rõ là vai trò của con là làm nhẹ bớt tâm thức hành tinh hầu mọi người có nền tảng để chọn lựa tốt hơn. Và một khi con làm điều đó, con hãy để mặc phần còn lại cho sự tự quyết.

Điều này cũng có nghĩa là con ngừng định ra một thời điểm nhất định mà thay đổi phải xảy đến, vì con hiểu là ngày giờ cũng tùy thuộc vào quyền tự quyết của người khác. Mọi người không ở cùng mức tâm thức với con, cho nên những thay đổi hiển nhiên đối với con có thể hoàn toàn vô hình cho người ở tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên con biết chắc là nếu con cứ tiếp tục làm việc tâm linh, nếu con cứ làm nhẹ gánh tâm thức tập thể, sẽ chỉ là một vấn đề thời gian khi một sự khai ngộ xảy đến trong tâm ý thức của một túc số cần thiết những con người trên hành tinh.  

Con có thấy điều ta nói? Công việc tâm linh KHÔNG BAO GIỜ bị uổng phí! Sẽ chì là một vấn đề thời gian trước khi túc số đó sẽ đạt được và con sẽ thấy được kết quả trong cõi vật lý – nhưng chính xác sẽ bao lâu nữa thì đây là một phương trình thật phức tạp vì nó hoàn toàn tùy thuộc vào cách con người sử dụng quyền tự quyết của mình.

Cho nên khi con làm bất kỳ công việc tâm linh nào, con luôn phải nhớ rằng con KHÔNG tìm cách ép buộc bất cứ ai chọn lựa, mà con chỉ tìm cách CHO HỌ MỘT NỀN TẢNG ĐỂ HỌ CHỌN LỰA TỐT HƠN bằng cách họ nâng cao tâm thức và sự nhận thức về một số vấn đề đặc thù.

Vì vậy, mặc dù nhiều bài nguyện tràng hạt có đề cập đến một số vấn đề cụ thể và những thay đổi cần thiết, con cần nhớ rõ là con KHÔNG tìm cách “ép buộc” người khác phải thực hịên thay đổi. Con đang nói chuyện với tâm thức tập thể lẫn cá nhân để nâng cao nhận thức của mọi người hầu họ thấy được những gì họ không thể thấy được hiện thời, rồi họ chọn lựa theo sự hiểu biết cao nhất của họ. 

Chúng tôi, các chân sư, KHÔNG tìm cách cưỡng ép sự thay đổi trên nhân loại – chúng tôi để chuyện đó cho các thế lực phản-Ki-tô. Chúng tôi tìm cách giúp nhân loại chọn lựa tốt hơn, giúp họ thay đổi khi chính họ đã thực sự hiểu được quyền lợi của họ một cách sáng suốt. Nhưng để chuyển đổi cái nhìn như vậy, con cần vượt khỏi hình ảnh một Thượng đế nóng giận mà các tôn giáo truyền thống đã vẽ lên – bởi vì loại thượng đế này thật sự đang tìm cách ép uổng con người thay đổi.

Khi con nhìn ngược lại lịch sử, con sẽ thấy các thay đổi tích cực đã đến chính vì một túc số nhân loại đã thay đổi tâm thức và bắt đầu hành xử theo cách hiểu mới. Đó là lý do tại sao người ta không còn tin là địa cầu này bằng phẳng, và con sẽ thấy là CÓ một chiều hướng tổng quát hướng thượng, là dấu hiệu rõ ràng tâm thức nhân loại đang nở rộng.

Tất nhiên, con cũng thấy một số giai đoạn ngưng trệ hay thậm chí lùi bước. Nhưng khi con vươn lên động lực cao hơn, con thấy được là ngay cả những giai đoạn này cũng chỉ đơn giản là bước đệm cho những bước đột phá mở mang hiểu biết.

Hình ảnh ta muốn trao cho con ở đây là như sau: sự kiện con có niệm tinh khôi KHÔNG có nghĩa là con có viễn quan về một kết quả vật lý nhất định và nếu kết quả không thành thì con nghĩ ngay là có điều gì khổng ổn – và con đánh rơi viễn quan. Cầm giữ niệm tinh khôi có nghĩa là con sẽ giữ viễn quan là chiều hướng đi lên vẫn tiếp diễn bất kể điều gì xảy ra trong ngắn hạn. Bởi vì dáng vẻ vật lý chỉ là hệ quả của những nguyên nhân ở ba tầng cao của vũ trụ cũng như ở cõi tâm linh.    

Nó giống như một làn sóng hình sin, thăng trầm lúc cao lúc thấp, chỉ khác là thay vì cứ chạy ngang như hình sin, làn sóng tâm thức đi lên cái dốc. Mặc dù có những lúc suy yếu tạm thời nhưng hướng chung vẫn là đi lên. Tương tự như vậy, mặc dù hoàn cảnh thế giới có thăng có trầm, nhưng cử động chung là trong chiều hướng đi lên, bởi vì chính Dòng sông của Sự sống luôn tiến lên cao hơn, và không một thế lực nào trên địa cầu sẽ đủ mạnh để ngăn chặn lại.      

Trong phần chót cuốn sách của thày Maitreya (Master Keys to Spiritual Freedom) có một lời dạy vô cùng quan trọng về nhu cầu phải tách rời công việc tâm linh khỏi lòng mong muốn thấy kết quả cụ thể, và tại sao đây là cái bẫy thật nguy hiểm cho những người trưởng thành tâm linh hơn. Đó là một lời giải thích rất bao quát mà ta sẽ không lặp lại ở đây, và ta sẽ chỉ khuyên tất cả các học trò trưởng thành tâm linh hãy học tập sách này và cố gắng nhập tâm bài học.  

Bởi vì, con yêu dấu, khi con mới bước đi trên đường tâm linh, con vẫn nhìn phat triển tâm linh qua phin lọc của nhị nguyên. Trong con vẫn còn sự sợ hãi, khiến con sợ cây gậy và ham củ cà-rốt. Con làm việc tâm linh để trốn tránh địa ngục hay để ngăn chặn thảm họa cho hành tinh. Hoặc con làm việc tâm linh để nhận được phần thưởng cá nhân hay phần thưởng của một hành tinh địa đàng. Khi con tiến xa hơn, con cần vượt lên trên động lực nhị nguyên đó và ôm lấy động lực cao hơn, tức là mọi điều con làm đều phát xuất từ mong muốn thể hiện bản sắc tâm linh của con – con để cho mặt trời tâm linh của con tỏa chiếu vào thế giới vật chất. Con chuyển từ một động lực sợ hãi sang động lực tình thương, là tình thương toàn hào đánh bay mọi sợ hãi.   

Rồi sẽ tới một điểm khi con không còn làm việc tâm linh với kỳ vọng nhìn thấy kết quả cụ thể nữa. Con làm vì đó là sự thể hiện con người của con. Sự thay đổi thái độ này – bước ra ngoài nhị nguyên và bước vào bất nhị – được mô tả thật rõ ràng và ngắn gọn trong cuốn sách mới, “Nghệ thuật bất chiến” (The Art of Non-war).

Ở dưới, hãy là tất cả những gì ở Trên. Đây là điều tất nhiên sẽ đem lại những thay đổi to lớn nhất, bởi vì bây giờ con nhận ra là không phải cái ngã vỏ ngoài của con đang làm việc, mà là Cha của con ở trong con – cái ta tâm linh – đang làm việc qua trung gian con. Ngã ý thức của con bây giờ thấy nó là một phần nối dài của Thượng đế, như Giê-su từng bày tỏ, “Cho đến nay Cha ta làm việc và ta làm việc.” Và đây là bước tiến mà các học trò ở Nga cũng như ở mọi nơi khác có thể làm để đưa công việc phụng sự của mình lên một mức cao hơn gấp bội.