Hỏi: Thày Giê-su và các chân sư khác có đề cập đến nhu cầu chia sẻ niềm tin của mình với người khác. Nhưng khi con làm vậy, thường khi con phải đối mặt với thái độ rất tiêu cực của người kia khi họ có vẻ cảm thấy bị đe doạ bởi những ý tưởng không phù hợp với niềm tin của họ. Con có thể hiểu được phản ứng đó từ những tín đồ Cơ đốc cực chính thống, nhưng thường khi con cũng gặp phản ứng này từ những người Thời Mới (New Age). Thậm chí con còn gặp cả những người nổi giận, hoặc họ chế nhạo và miệt thị niềm tin của con hay toàn bộ ý tưởng về các chân sư thăng thiên. Vì lý do này, con có một số bạn hữu không còn dám nói gì về niềm tin tâm linh của mình nữa vì không muốn đương đầu với loại năng lượng tiêu cực này. Liệu thày Giê-su có nhận xét gì về lý do tại sao chúng con lại gặp phản ứng như vậy, và chúng con có thể làm gì để khỏi cảm thấy bực bội hay bị ruồng bỏ?
Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 16/11/2012.
Đây là một vấn đề mà nhiều người tầm đạo chân thành gặp phải. Là một người tâm linh trong thế giới hiện đại tại phương Tây, con không thể nào tránh khỏi những kẻ sẽ thẳng thừng gạt bỏ niềm tin tâm linh của con. Con sẽ gặp sự chống đối từ những người vô thần hay duy vật, từ những tín đồ Cơ đốc chính mạch và thậm chí cả từ những người có vẻ là tâm linh cho rằng đạo sư của họ, học thuyết của họ hay tổ chức của họ mới là chân chính duy nhất.
Ta đã thấy biết bao nhiêu người tầm đạo chân thành, phản ứng lại một cách bực dọc khi họ gặp phải thái độ tiêu cực đối với niềm tin và cách sống của mình. Trong nhiều trường hợp, điều này đã dẫn tới những cuộc tranh luận vô bổ. Rất có thể cả hai bên sau đó đều nổi giận lên và làm tha hóa thêm năng lượng, nhưng họ vẫn không tìm được một điểm chung hay một cách giải quyết nào.
Là một người tầm đạo tâm linh chân thành, con cần nhận ra một sự thật cơ yếu về con đường tâm linh. Mục đích thực sự là để con vươn lên trên tâm thức nhị nguyên, như ta có giải thích trong các bài giảng về tự ngã. Khi con thực sự vươn lên cao hơn những ảo tưởng nhị nguyên của tâm phản Ki-tô, con sẽ đạt tới cái mà đức Phật gọi là giác ngộ, và trong trạng thái này, tâm con sẽ hoàn toàn an bình. Tuy nhiên như đức Phật cũng có dạy, chìa khóa để đạt được an bình nội tâm là vượt qua MỌI sự dính mắc với bất cứ điều gì trên địa cầu.
Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo tâm linh, con phải luôn luôn tìm xem mình còn dính mắc điều gì hay không. Như ta có nói cách đây 2000 năm: “Trước hết con phải lấy cái xà khỏi mắt con, rồi con mới thấy rõ và lấy hạt bụi khỏi mắt người anh em” (Matthew 7:5).
Cho nên khi con phát hiện bất kỳ dính mắc nào, con cần soi vào gương và khám phá ra cái tin tưởng nhị nguyên đã gây ra dính mắc. Sau đó con mới có thể với tới sự thật của Ki-tô sẽ giải phóng con khỏi ảo tưởng nhị nguyên, là điều mà Phật gọi là Maya. Bất cứ khi nào con nhận ra là con không an bình về một điều gì đó, con cần tìm ra nguyên nhân bên dưới và lấy cái xà ra khỏi mắt con. Nếu con bị bực dọc bởi phản ứng của người khác, điều này có nghĩa là con cần buông bỏ dính mắc đó.
***
Ở giai đoạn đầu của đường tu tâm linh, con thường rất dễ bị tác động bởi phản ứng tiêu cực của những người đặt vấn đề, chỉ trích niềm tin của con. Điều này cũng dễ hiểu, và lý do sâu xa là vì con chưa trụ neo vững chắc vào các niềm tin tâm linh. Con cảm thấy bất an vì ở một mức độ nào đó, con nhận ra là con còn một số mâu thuẫn trong thế giới quan của mình, con còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, và con chưa thể nhập các giáo lý vào đời sống hàng ngày của mình.
Hệ quả là con vẫn mang một nỗi sợ hãi tiềm ẩn rằng con có thể bị sai, rằng con có thể đang đi theo một giáo lý giả trá, hoặc toàn bộ con đường tu tâm linh có thể chỉ là ảo ảnh. Cho nên con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng đối với những người có thái độ cực kỳ phê phán, và điều đáng buồn là đã có nhiều người bị những kẻ tiêu cực như vậy khiến họ bỏ đường tu.
Thật ra, có hẳn cả một băng đảng những tà thể gọi là Đám Phá rối (the Spoilers) luôn luôn tìm kiếm những người mà chúng có thể kéo ra khỏi đường tu. Những tà thể này thường làm việc qua trung gian những người chưa vượt qua được nghi vấn của mình. Và những người này trở thành những nhà “phản truyền giáo”, chuyên môn đi bới móc những gì họ xem là khuyết điểm trong niềm tin của người khác. Người nào mà rơi vào cám đỗ này cũng sẽ trở thành công cụ cho tà thể, và họ lại bắt đầu đi ảnh hưởng người khác, và đây là cách mà chúng có thể lan rộng ra như vòng nước trên mặt hồ. Có những tổ chức tâm linh – hoàn toàn chính đáng, và trong một số trường hợp, được các chân sư thăng thiên hỗ trợ – đã bị kéo sập toàn diện bởi những kẻ làm cánh tay nối dài cho Đám Phá rối.
Nhưng những ai sống sót được đợt tấn công tiên khởi đó, cuối cùng sẽ trở nên neo chặt vào bản thân. Khi con dần dần trưởng thành trên đường tu, con sẽ bắt đầu vượt qua những giới hạn của mình và tự nhiên con sẽ chú tâm vào những cách giúp đỡ người khác. Tuy nhiên, điều này sẽ khiến con đối mặt với một tầng cấp khai ngộ cao hơn liên quan đến cách phản ứng của con khi người khác có thái độ tiêu cực đối với nỗ lực trợ giúp trong sáng nhất của con.
***
Trong bối cảnh này, điều quan trọng là nhận ra rằng nhiều người chín chắn về mặt tâm linh thường mang một ký ức nội tâm về cách tương tác nơi cõi tâm linh. Đã có một thời kỳ khi một số sinh thể tâm linh đã trở nên tiêu cực, phán xét và hay buộc tội, như được mô tả trong kinh Khải huyền: “Tôi lại nghe có tiếng nói lớn trên trời rằng: Bây giờ sự cứu rỗi và sức mạnh đã đến, cùng với vương quốc Thượng đế chúng ta và quyền năng đấng Ki-tô của ngài, vì kẻ buộc tội anh em chúng ta, kẻ đã ngày đêm buộc tội anh em trước mặt Thượng đế, nay đã bị quăng xuống rồi.” (Revelation 12:10)
Như chúng tôi đã giải thích, cuối cùng thì những sinh thể phán xét đó đã được gửi xuống cõi vật chất, một phần như là những linh thể không hồn, và một phần như những con người đầu thai. Và chúng vẫn cứ tiếp tục lên án mọi người như trước, chỉ khác một điều là bây giờ chúng không còn buộc tội trước mặt Thượng đế đích thực mà trước một thượng đế giả hiệu mà chúng đã tạo ra. Điều quan trọng ở đây là tất cả những ai đã chín chắn tâm linh cần phải vươn lên khỏi nhu cầu phán xét và buộc tội người khác. Và như vậy, họ mới có được một lối tương tác văn minh khi họ không cảm thấy một hệ thống tín ngưỡng hay một tổ chức nào phải vượt trội hơn hay phải là tổ chức đúng đắn duy nhất.
***
Trên đường tu tâm linh, có một số bước ngoặt. Một bước ngoặt quan trọng là khi con sẵn sàng nhìn xa hơn những tin tưởng hiện tại của mình và xét đến một số ý tưởng mới. Đối với một số người, điều này có nghĩa là họ sẽ rời bỏ tôn giáo mà họ đã lớn lên và tìm kiếm một giáo lý và một tổ chức tâm linh mới. Một số khác sẽ ở lại với tôn giáo của mình nhưng họ sẽ đổi mới cách tiếp cận với tôn giáo đó. Dù bằng cách nào đi nữa thì trong những bước đầu của giai đoạn này, họ sẽ có niềm tin mạnh mẽ rằng phải có một đạo sư/giáo lý/tổ chức đích thực duy nhất mà thôi, và tất cả mọi con đường khác đều sai lầm.
Nằm bên dưới niềm tin này là sự cảm nhận rằng con không thể tự mình cứu rỗi chính mình, cho nên con cần sự giúp đỡ từ ngoài. Nếu con có niềm tin này thì chẳng có gì sai trái (cho dù chính niềm tin đó thì sai lầm), bởi vì đây là một giai đoạn bắt buộc mà ai ai cũng đi qua. Vấn đề là khi con suy nghĩ như thế, con cũng sẽ có một cái nhìn trắng đen về thế giới. Và điều này khiến con cho rằng con hoàn toàn có lý và bất cứ ai không đồng ý với con đều sai lầm – có thể là họ đang a dua với tà lực, hoặc bất cứ cách diễn tả nào khác.
Điều thực sự xảy ra trong giai đoạn này là con không sẵn sàng nhận trách nhiệm toàn diện về đường tu và sự cứu rỗi của con. Cho nên con vẫn phóng chiếu trách nhiệm đó ra cho ai khác. Đó là tại sao con sẽ nghĩ rằng một kỹ thuật tâm linh nào đó sẽ giải quyết mọi vần đề của con như trong phép lạ. Con chưa có khả năng chấp nhận sự thật rằng trước khi hoàn cảnh vỏ ngoài của con thay đổi thì con phải thay đổi hoàn cảnh nội tâm của con trước đã.
Bước ngoặt kế tiếp trên đường tu sẽ đến khi con đủ trưởng thành để bắt đầu tìm kiếm cái xà trong mắt mình thay vì nhìn thấy, hay phóng chiếu ra, những cái giằm trong mắt người khác. Trước điểm quẹo này thì con vẫn còn học hỏi qua giáo lý vỏ ngoài cùng những trải nghiệm trong đời – nói cách khác, đó là trường đời cay đắng. Trong tư cách là một thày tâm linh, ta chờ đón thời điểm khi một dòng sống trở thành “dạy dỗ được” – khả huấn – nghĩa là dòng sống nay đã sẵn sàng có sự liên hệ nội tâm trực tiếp với vị thày tâm linh. Đây là điểm khi con gia nhập trường học chỉ đạo nội tâm thay vì trường đời vỏ ngoài.
Yếu tố chủ yếu của con đường tâm truyền này là con luôn luôn soi gương và tìm xem có cách nào con cải thiện được chính mình. Con ngừng không tìm kiếm lầm lỗi nơi người khác để làm cái cớ cho mình khỏi phải cải thiện bản thân. Chính sự sẵn lòng tự thay đổi này khiến con trở thành khả huấn, cho nên đây là một đức tính tuyệt vời mà ta hoàn toàn không có ý chê bai.
Tuy nhiên khi trưởng thành tâm linh hơn, con cần nhận ra rằng cái khuynh hướng luôn muốn tự cải tạo có thể đi quá đà, và điều này đặc biệt đúng trong quan hệ với người khác. Là người tầm đạo chân thành, con có xu hướng nghĩ rằng nếu con có bất đồng, xung đột hay thậm chí một sự khác biệt quan điểm với ai khác, thì con là người cần phải tự cải thiện. Điều này chỉ đúng cho tới một điểm nào đó thôi, bởi vì cho tới khi nào con còn dính mắc và chưa bình an, thì đúng là con cần tự cải thiện.
Tuy nhiên, cái mà con cần cải thiện KHÔNG phải là khả năng lý luận thuyết phục người khác, mà là khả năng phân biện xem người đó có khả huấn hay không. Và khi con nhận ra là người đó không khả huấn, con cần buông bỏ mọi ham muốn giáo huấn họ, và con hoàn toàn an bình với sự kiện họ tin chắc tuyệt đốt là con sai lầm, và con cũng tuyệt đối không thể làm gì được để khiến họ thay đổi ý kiến. Con chỉ cần buông chuyện đó ra và bước đi.
***
Ta hoàn toàn hiểu được là nhiều người tầm đạo chín chắn đã trau dồi một lòng chân thành muốn giúp người, và điều này chính là điều đánh gạt họ. Nếu cá nhân con đã vượt lên trên tư duy trắng đen thì con dễ dàng thấy được người kia đang bị kẹt trong lối tư duy này. Con biết tư duy này sẽ chỉ khiến cho người kia bị đau khổ, con biết họ cần thoát ra, và con vô cùng mong muốn họ tăng trưởng càng nhanh càng tốt hầu tránh khỏi mọi đau khổ. Nhưng con cần nhận ra là khi nào họ còn bị kẹt trong tư duy đen trắng thì họ không là người khả huấn. Họ chưa cởi mở ra để nhận được giáo lý tâm linh cao hơn mà con thấy được.
Ta thông cảm được sự cám dỗ của con. Con thấy rõ sự ngụy biện trong lập luận của người kia. Và con dư sức nghĩ ra môt lập luận hoàn toàn hữu lý mà con cho là sẽ chứng minh những thiếu sót trong niềm tin của họ. Và con nghĩ rằng nếu con đưa ra lập luận này cho họ, ho sẽ phản ứng y như là con sẽ phản ứng. Thế nhưng con cần hiểu là chính vì người đó không ở cùng mức tâm thức như con, cho nên họ sẽ KHÔNG phản ứng lại giống như con!
Lập luận của con sẽ hoàn toàn không có ký gì hết đối với họ khi nào họ chưa vượt lên khỏi tầm mức suy nghĩ trắng đen. Cho nên điều tốt nhất mà con có thể làm là chấp nhận những người như thế cần phải ở lại trong trường đời cay đắng cho tới khi họ bị cay đắng quá nhiều lần đến độ họ phát ớn. Và cuối cùng họ sẽ thốt lên: “Ủa, có ai đang gõ cửa vậy? Có ai đang muốn nói với tôi điều gì và đang gõ cửa kia kìa?”
Con cần phải nhận ra rằng hành tinh này là một lớp học, và lớp học đã được thiết kế khôn ngoan để nhận đủ mọi loại học sinh. Các hoc sinh vỡ lòng đang học trường đời cay đắng, và họ cần ở lại đó cho tới khi họ sẵn sàng lên lớp. Cho nên nếu con là một người tầm đạo đã chín chắn hơn, con nên tránh có những sự tương tác nơi con tìm cách lý luận với trạng thái tâm thức của họ. Thay vào đó, con nên tập trung sự chú ý của con vào những người đã leo lên tới mức khả huấn.
Để giúp con làm được điều này, ta gửi con câu sau đây để con suy ngẫm: “Vì mục đích đó mà ta đã sinh ra, và vì công cuộc đó mà ta đã giáng thế, đó là để làm chứng cho sự thật. Hễ ai thuộc về sự thật thì hãy nghe giọng ta.” (John 18:37)
Đây là vai trò của của những ai đại diện cho tâm thức Ki-tô trên địa cầu, và mọi người tầm đạo chân thành đều nên nỗ lực trở thành một người trong số đó. Tuy nhiên, để thực sự đại diện được Ki-tô, con phải cố gắng đạt được sự không dính mắc.
***
Con đạt được sự không dính mắc bằng cách suy ngẫm về luật tự quyết. Thượng đế đã ban cho mọi người quyền tự quyết. Điều này có nghĩa là khi con gặp gỡ một người phán xét, buộc tội con hay niềm tin của con, con hoàn toàn chấp nhận cho người đó có quyền có quan điểm đó cũng như bày tỏ quan điểm đó. Nếu quan điểm của họ phát xuất từ một tư duy đen trắng, rõ ràng là thiên vị hoặc thiếu chính xác, con hoàn toàn chấp nhận là họ có quyền ở mức tâm thức của họ.
Nhưng sau đó con cũng nhận ra là con có quyền tự quyết của con, nghĩa là con có quyền có những niềm tin mà con có, và sống cuộc đời của con mà hoàn toàn không bị những người bất đồng ảnh hưởng. Khi con thực sự chấp nhận quyền tuyệt đối của con để sống theo niềm tin của mình, thì con mới có thể tránh khỏi bị những người bất đồng đe dọa mình. Con cũng tránh khỏi cảm giác mình bị bó buộc phải cứu họ ra khỏi chính họ. Và như thế, con nay có khả năng nói lên sự thật cao nhất mà con thấy được mà đồng thời hoàn toàn không dính mắc vào phản ứng của người kia, thậm chí con còn không có bất kỳ mong muốn họ sẽ phản ứng ra sao.
Con có thấy được điều ta muốn nói? Có một sự khác biệt vi tế nhưng cơ yếu giữa việc nói lên sự thật với ý định thuyết phục người khác và việc nói lên cùng sự thật đó một cách hoàn toàn không dính mắc. Trong cả hai trường hợp, con có thể nói lên cùng một sự thật, ngay cả dùng cùng những từ ngữ, nhưng ý định của con thì khác hẳn. Và khi ý định của con hoàn toàn tinh khiết, con không vướng mắc vào kết quả. Con chỉ làm hành động chính đáng mà không bám mắc vào quả trái của hành động.
Ta muốn nói rõ, đây là một mục tiêu để con cố đạt được, cho nên con không nên tự chê trách mình nếu con không đạt được ngay lập tức. Khi con sống trong thế giới vật chất, con rất dễ bị choáng ngợp bởi những áp lực đủ kiểu. Chính ta cũng không luôn luôn bình thản khi ta bước chân trên địa cầu cách đây 2000 năm, và đó là tại sao ta đã nóng giận khi ta lật bàn ghế của bọn đổi tiền, hay khi ta gay gắt một cách không cần thiết với các thày thông giáo và người Pha-ri-si, hay cả khi ta thường hay cáu kỉnh với các môn đồ của ta. Dù sao đi nữa, điều quan trọng cho người tầm đạo trưởng thành là nhận ra tầm quan trọng của sự không dính mắc toàn diện, và cố gắng đạt được sự không dính mắc thay vì nghĩ rằng mình phải cố gắng thuyết phục người khác giỏi hơn.
***
Ta không muốn người đọc bài này lý luận rằng mình không bao giờ được đáp trả lại những người có tư duy đen trắng. Có nhiều trường hợp mà sự trả lời sẽ hoàn toàn vô ích và chỉ lãng phí thời gian lẫn sức lực của con. Nhưng trong một số trường hợp, việc trả lời sẽ là điều thích đáng hầu con làm chứng cho sự thật cao hơn mà con nhìn thấy. Và khi con vượt lên trên nỗi bực đọc, con sẽ có tự do để trực nhận lúc nào mình cần trả lời và lúc nào mình bước đi.
Ta cũng muốn nói rõ là con không nên sử dụng tâm trí vỏ ngoài để lượng định xem người kia có khả huấn hay không. Đừng rơi vào cám dỗ đánh giá theo bề ngoài. Chẳng hạn, khi người kia cởi mở với những tư tưởng mới, điều này không có nghĩa là họ đã nhận trọn vẹn trách nhiệm về bản thân họ, hay ngay cả đã hiểu được rằng chìa khóa của sự thay đổi ngoại cảnh chính là sự thay đổi nội cảnh. Có những người cứ nhảy từ đạo sư này tới đạo sư kia, từ giáo lý này sang giáo lý kia, mà vẫn không đạt tới cái nhận biết sẽ biến họ thành người khả huấn. Thậm chí có cả những người đã theo học các chân sư thăng thiên từ hàng thập niên mà vẫn không khả huấn, bởi vì đơn giản họ vẫn chưa sẵn lòng soi mình trong gương. Cho nên, con phải đi xa hơn cái trí vỏ ngoài và bước theo sự hướng dẫn bên trong của con.
***
Ở cấp độ thấp nhất của tư duy đen trắng là những người tin rằng tôn giáo mà họ đã lớn lên là tôn giáo chân chính duy nhất. Nói cách khác, họ đã không chọn gia nhập tôn giáo đó và cũng chưa từng chất vấn xem nó có căn cứ đến đâu. Ở mức này, sẽ có rất ít tăng trưởng vì họ không mở tâm ra cho ý tưởng mới.
Ở cấp độ kế tiếp là những người đã cởi mở ra với ý tưởng mới. Đây là những người thường rời bỏ tôn giáo của tuổi thơ để đón nhận một tôn giáo mới. Tuy nhiên họ vẫn chưa thoát ra khỏi tư duy đen trắng, và bây giờ họ phải dán nhãn cho tôn giáo cũ là hoàn toàn sai lầm và tôn giáo mới là hoàn toàn đúng đắn. Đây là một bước tiến tiềm năng, bởi vì ít ra họ đã khởi sự chuyển bước. Tuy nhiên, hiểm họa nằm sẵn bên trong là tự ngã sẽ đưa họ vào một con đường quanh co sẽ tốn họ rất nhiều thời gian. Có một cơ chế tâm lý là để rời bỏ một hệ thống tín ngưỡng và chấp nhận một hệ thống mới, người ta phải chấp nhận là cái cũ sai lầm, tức là mình đã bị những ý tưởng sai lầm lừa dối.
Trong hầu hết trường hợp, người ta sẽ tránh né chuyện này ở mức ý thức bằng cách quy tất cả trách nhiệm cho tôn giáo cũ và bảo rằng mình đã bị đánh lừa, thao túng, ép buộc, tẩy não hay bất cứ lý do nào khác. Nhưng ở mức tiềm thức, họ biết rằng nếu họ đã bị đánh lừa một lần rồi thì họ có thể bị đánh lừa một lần nữa. Cho nên mặc dù họ đã có tiến bộ, tư duy đen trắng của họ có nghĩa là họ đã phải mua sự tiến bộ đó với giá cao, là cái giá của sự bất an nội tâm sâu sắc.
Để đối phó với sự bất an này, việc thấy mình đang làm đúng trở thành vô cùng quan trọng. Nói cách khác, họ phải có lý khi họ vạch trần tín ngưỡng cũ, và họ cũng phải có lý khi họ trình bày tín ngưỡng mới là hoàn toàn đúng. Tự ngã sử dụng nỗi bất an này để kiểm soát họ và ngăn cản họ vươn lên mức cao hơn nơi họ nhận trách nhiệm về bản thân và do đó bỏ lại đằng sau lối suy nghĩ đen trắng.
Như ta đã giải thích trong các bài giảng về tự ngã, phương thức vận hành của tự ngã là nó nâng một ý tưởng nào đó lên địa vị không thể sai lầm, tức là không bao giờ được phép chất vấn. Thế là tự ngã nay thuyết phục những người đó là họ không bao giờ được cho phép mình bị chứng minh là sai lầm, bởi vì nếu họ sai lầm, một điều gì đó khủng khiếp sẽ xảy ra. Cho nên họ bước vào một tư duy thường xuyên cảm thấy mình bị đe dọa, và họ không ngừng tìm cách bác bỏ mọi ý tưởng hay quan điểm nào có thể cho thấy là mình sai. Tất nhiên, điều này sẽ khiến họ không thể nhìn nhận lỗi lầm, và nếu không thể nhìn nhận lỗi lầm thì làm thế nào họ sẽ học hỏi và tăng trưởng được đây?
***
Thế là bây giờ họ bước vào một lối tư duy nơi họ dồn mọi nỗ lực tâm trí để chứng minh là mình đúng. Và một khía cạnh của tâm lý này là họ cảm thấy một nhu cầu muốn đi truyền giáo. Vì thật vậy, nếu họ có thể cải đạo cả thế giới vào hệ thống tín ngưỡng của họ thì tự ngã sẽ cảm thấy là nó đúng. Và họ bắt đầu đi cổ võ cho tín ngưỡng của họ một cách hung hăng, nhưng vì họ vẫn suy nghĩ đen trắng cho nên họ không thể chỉ tập trung vào chuyện nói tốt về tín ngưỡng của mình, mà họ cũng phải nói xấu về tín ngưỡng của người khác. Cách lý luận của tự ngã là nếu có thể phá hủy được niềm tin của người khác, thì rồi người đó sẽ phải chấp nhận hệ thống của mình là hệ thống đúng đắn độc nhất.
Trên cơ bản khi làm như vậy, những người như thế đã tự đặt mình vào một tâm trạng không ngừng xung đột với tất cả những ai không đồng ý với mình. Họ phải bác bỏ tất cả những gì có vẻ đe dọa niềm tin của họ, và họ phải tiêu diệt niềm tin của người khác. Kỳ thực, đây chính là chủ trương của tự ngã cho rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện. Mặc dù họ thường biện hộ là họ chỉ đang cố cứu cho người khác khỏi rơi vào địa ngục, nhưng thực tế là họ đã bị tự ngã hoàn toàn khống chế, và thường khi họ cũng bị khống chế bởi những tà thể mà ta gọi là Đám Phá rối. Và như vậy, họ sẵn lòng phá nát tín ngưỡng của người khác hầu bảo tồn tín ngưỡng của mình.
Thật ra, tự ngã của những người như thế không có chủ ý muốn chứng minh một hệ thống tin tưởng nào là hệ thống đúng đắn duy nhất. Đơn giản, tự ngã chỉ đang cố đánh lạc hướng sự chú ý của họ để họ không phát hiện ra tự ngã và bắt đầu gỡ cái xà khỏi mắt mình. Cũng vậy, các tà thể không hề có ý muốn chứng minh sự vượt trội của bất kỳ hệ thống tin tưởng nào. Chúng chỉ cố lừa gạt người ta nhảy vào những trận chiến tín ngưỡng bất tận, để họ làm tha hóa năng lượng mà các tà thể rất cần hầu sống sót.
Điều ta muốn nói là với tư cách một người tầm đạo đã chín chắn, con cần nhận ra là nếu con đối thoại với ai đó để cố thuyết phục họ là niềm tin của họ sai lầm, thì con đang đe dọa nền tảng cái nhìn của họ về cuộc sống. Đối với họ, việc không bao giờ bị chứng tỏ là sai chính là một vấn đề sinh tử. Chẳng hạn, nếu con cố sửa sai một điều gì mà họ đã nói – cho dù là họ sai trái rành rành – thì họ sẽ tức khắc bác bỏ mọi điều con nói mà không thực sự suy nghĩ sâu hơn. Họ sẽ đơn giản không đếm xỉa gì tới ý kiến của con, bởi vì họ đã quyết định là những điều con nói không thể nào đúng, và họ sẽ chỉ tìm cách bác bỏ cho bằng được. Tư duy đen trắng sẽ LUÔN LUÔN tìm ra cách bác bỏ bất cứ lập luận nào mà con đưa ra từ một mức tâm thức cao hơn.
Một khía cạnh khác là khi con đe dọa niềm tin của những người như thế, họ sẽ trả đũa bằng cách tấn công ngược lại. Nếu họ thực sự bị mắc kẹt trong sợ hãi, họ sẽ sẵn sàng tiêu diệt con hầu bảo toàn cái ảo tưởng là họ có lý. Nếu họ ít mắc kẹt hơn trong sợ hãi, họ sẽ tìm cách đánh phá niềm tin hay tín ngưỡng của con một cách chung chung. Con cũng cần nhận ra là rất nhiều người như vậy không có khả năng tự chủ. Cho nên con không đang đối thoại với một người mà con có thể lý luận. Con đang phải đối đãi với tự ngã của một người, hay những tà thể bóng tối đang tác động qua người đó. Đó là lý do tại sao con gặp phải những sự tấn công vô cùng hung hãn và độc địa. Ta không đang cố bênh vực cho những tấn công đó, mà ta đang chỉ ra cho con rằng họ không hoàn toàn tự kiểm soát được chính họ. Do đó, con cần nhận rõ là nếu con bước đến gần một con chó dại, con không nên ngạc nhiên nếu nó cắn con. Và con thực sự không nên trách cứ họ, vì con phải biết là con đang bước vào tình huống như thế nào.
***
Khi con đối xử với những người có tư duy đen trắng, con cần lưu ý là họ sẽ phóng chiếu trạng thái tâm thức của họ lên con, tức là con không được ngạc nhiên nếu họ buộc tội cho CON là con đang làm chính điều mà họ đang làm. Ta cần nói lên điều này cho con, bởi vì khi con biết trước chuyện gì sẽ xảy ra, con có thể tránh khỏi bị lôi cuốn vào những cuộc tranh luận vô nghĩa khi con cố bác bỏ những gì không thể bác bỏ được nếu người kia cứ khăng khăng giữ lấy tư duy trắng đen của họ.
Điều này không có nghĩa là đôi khi con không thể giúp cho những người như thế vươn lên trên tâm trạng của họ. Nhưng để làm được điều này, con phải tạo sự bất ngờ bằng cách không làm những gì họ chờ đợi. Những người như vậy sẽ chờ đợi là khi họ kết án con, con sẽ tìm cách bác bỏ lời kết án của họ và kết án ngược lại. Nếu con muốn có chút hy vọng chạm được con người thực của họ đằng sau hàng rào phòng thủ kiên cố, con cần gây cú sốc bằng cách không phản ứng như họ chờ đợi. Đó là một lý do tại sao ta dạy rằng con không nên cưỡng lại cái ác mà nên chìa má kia ra. Có khi cách hồi đáp này sẽ khiến họ bị sốc đến độ họ sẽ suy nghĩ lại cách cư xử cũng như tư duy của họ.
Điều ta muốn nói là nếu một người tầm đạo trưởng thành quyết định đối thoại với những người mang tư duy đen trắng, con nên biết rõ con đang bước vào một tình huống như thế nào. Thường khi, đây là một công việc vô ơn, mà xác suắt thay đổi tích cực thì khá thấp. Cho nên điều xây dựng là con nên xem đó chủ yếu là một cách thử thách xem ý định của con tinh khiết đến đâu, và mức độ không dính mắc của con cao như thế nào. Con hãy xem đó là một kinh nghiệm học hỏi để con tăng trưởng. Còn việc tăng trưởng của người kia thì con hãy để mặc cho quyền tự quyết của họ.