Cái ngã cho con cảm nhận liên tục

Hỏi: Con nhận ra là con có một cái ngã mà con gọi là “cái ngã tôi”. Nó không có đặc điểm nào cụ thể, nhưng nó cho con ý niệm rằng con là chính con chứ không phải là một ai khác hay một cái gì khác. Nó cho con một cảm nhận liên tục, tức là sau khi con đã thay đổi hình ảnh bản thân bao nhiêu lần, nó vẫn là con. Đã rất lâu con tin rằng đó là cái Ta Biết. Nhưng bỗng nhiên con nhận ra rằng ý niệm “mình là mình” chỉ là một cái ngã và nó cần chết đi. Và khám phá này khiến con kinh hãi suốt hai tuần lễ.

Thậm chí, con – hay đúng hơn, cái ngã đó – đã rất giận các chân sư thăng thiên. Con bị sốc bởi phản ứng của mình, bởi nỗi sợ và nỗi tức giận đó. Sau khi suy ngẫm về sự tình suốt mấy tuần, con nhận ra là điều con thấy rất có thể là tự ngã. Thưa nói vậy có đúng không? Phải chăng cảm nhận liên tục mà chúng ta có trên địa cầu phát xuất từ tự ngã? Con có cảm giác vấn đề này có gì nhiều hơn vậy, nhưng con không thấy rõ được. Xin thày vui lòng cho con một tầm nhìn cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Tự ngã có nhiều khía cạnh, và con sẽ nhận thấy là những giáo lý đầu tiên mà chúng tôi ban ra đã giảng dạy đặc biệt về tự ngã. Rồi sau đó chúng tôi đã chuyển sang việc giảng dạy về các ngã tách biệt. Lẽ tự nhiên, con có thể hỏi: Tự ngã là gì? À, đó là một tập hợp những cái ngã tách biệt. Nhưng đằng sau tất cả những cái ngã đó có cái ngã mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Điều con cần cẩn thận – khi con cảm thấy vấn đề này có gì nhiều hơn như vậy – là con phải nhận ra sự khác biệt giữa cái ngã đầu tiên mà con tạo ra sau khi con hiện thân vật lý trên một hành tinh như địa cầu, và cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên.

Ngã đầu tiên mà con tạo ra chỉ đơn giản là một cái ngã cho phép con tự biểu đạt qua bốn thể phàm của con. Đây là cái ngã cho con cảm nhận mình liên tục, để khi con tăng triển trên đường tâm linh, con vẫn có ý niệm con là cùng một con người đang tăng triển, và đó là tại sao con không đánh mất ý niệm bản sắc của mình. Một số người bị mất ý niệm bản sắc khi họ tìm cách cưỡng ép sự tăng triển, và họ có thể trải qua một cuộc khủng hoảng bản sắc.

Vấn đề tinh tế ở đây là cái ngã mà con tạo ra sau khi bước vào nhị nguyên cũng cho con một cảm giác liên tục như là một sinh thể tách biệt. Khi con trải nghiệm cái ngã tức giận, cái ngã sợ chết, cái ngã oán giận các chân sư thăng thiên, đó chính là cái ngã đầu tiên mà con tạo ra khi con bước vào nhị nguyên. Theo thuật ngữ được sử dụng trong phong trào Summit Lighthouse, con có thể nói đó là cốt lõi của “Kẻ ngụ trên Ngưỡng cửa” (Dweller on the Threshold). Nó muốn ngăn cản con tăng triển và cầm giữ con lại. Thật đúng là ngã này phải chết đi.

Bây giờ trở về với ngã kia, cái ngã chỉ đơn giản cho phép con đầu thai trên một hành tinh như địa cầu và mang một ý niệm liên tục, đúng là ngã đó không phải là cái Ta Biết, mà là ngã đầu tiên được cái Ta Biết tạo ra, cho nên nó cũng là cái ngã chót mà cái Ta Biết sẽ từ bỏ. Đây là cái ngã chỉ đơn giản cho con một cảm nhận liên tục. Cũng đúng là nó cần chết đi, nhưng nó là ngã cuối cùng cần chết đi. Nó là cái Hồn ma (the Ghost) mà ta đã từ bỏ trên thập tự giá, và chính con cũng sẽ từ bỏ ở tầng tâm thức 144 trước khi con thăng thiên.

Con có thể nói rằng tự ngã, cái ngã sinh ra từ nhị nguyên, chống đối sự tăng triển của con. Nhưng cái ngã kia mà con đề cập và đem lại cho con cảm nhận liên tục, kỳ thực nó là một phần của sự phát triển của con, thậm chí là yếu tố giúp cho con phát triển. Con cần nó để hội nhập với bốn thể phàm của con, con cần nó để có cảm giác sống liên tục trên địa cầu. Và nó cũng là loại ngã cho con cái góc nhìn độc nhất vô nhị của con.

Đây là điểm chúng tôi đã cố giải thích trong buổi hội nghị về quả vị Ki-tô khi chúng tôi nói rằng hai người đạt đến cùng một trình độ quả vị Ki-tô mà vẫn có thể có những quan điểm khác nhau trên một số vấn đề. Bởi vì người này nhìn vấn đề từ góc nhìn này, trong khi người kia nhìn từ góc nhìn kia. Không phải là một người đúng, người kia sai. Không phải một người tốt giỏi hơn người kia, mà chỉ là những cách nhìn khác nhau.

Ta không đang bàn đến những loại quan điểm nhị nguyên mà ta nói rằng ngay cả khi con đã đạt đến một trình độ quả vị Ki-tô nào đó, thì con vẫn mang một nhãn quan mà chúng tôi gọi là nhãn quan cục bộ, địa phương (localized). Cũng giống như tất cả các con đang thấy gì khi các con nhìn qua mắt vật lý của mình – người kia đang nhìn con và thấy con, nhưng con thì không thấy con mà lại thấy người kia. Chỉ là hai góc nhìn khác nhau chứ không có cái đúng cái sai – thật là vô nghĩa nếu áp dụng cách lượng định như vậy. Không có góc nhìn này tốt hơn góc nhìn kia, nhưng có một góc nhìn chỉ của riêng con.

Chừng nào con còn đầu thai trên một hành tinh phi tự nhiên, thậm chí cả trên một hành tinh tự nhiên, con bắt buộc phải nhìn cuộc sống từ một nhãn quan giới hạn, cục bộ. Và đó chính là cái ngã mà con đã tạo ra để cho con cái nhìn cục bộ đó khi con hiện thân. Đó là cái ngã chót mà con sẽ bỏ lại.

Con người máy móc và bản chất của cái Ta Biết

Hỏi: Vào thời tổ chức Summit Lighthouse có lời dạy về những người khổng lồ Nephilim đã kết hợp dòng giống của họ với dòng giống thú vật. Điều này có nghĩa gì? Nếu có thực, liệu họ cũng có một cái Ta Biết hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 28/5/2021.

Vào thời tổ chức Summit Lighthouse đã có đưa ra một số lời dạy về nhiều loại sa nhân đến từ nhiều gốc tích khác nhau, và các thày đã quyết định không lặp lại những lời dạy đó trong đợt truyền pháp này. Điều con hỏi có nghĩa đã có một thời trong quá khứ, vào thời Atlantis và ngay cả các nền văn minh trước đó, con người có khả năng thao tác gen – giống như loài người thời nay cũng làm được, tuy thật sự khả năng của họ trước kia có tinh xảo hơn.

Có một số sa nhân ở một trình độ tiến hóa nào đó đã tìm cách pha trộn DNA của họ với DNA của động vật để tạo ra một giống người nô lệ – hay nói cách khác, những “con người” không có hoàn toàn khả năng tự nhận biết. Ban đầu, các sinh thể này không có cái Ta Biết, vì tất nhiên sa nhân không có khả năng phú cái Ta Biết cho bất kỳ sinh thể nào. Chỉ có các chân sư thăng thiên mới có khả năng này.

Nhưng chuyện này đã xảy ra rất lâu rồi. Tuyệt đại đa số những sinh thể đó, hoặc không còn đầu thai nữa, hoặc đã nhận được một cái Ta Biết cùng ngọn lửa ba nhánh do họ đã tăng triển khi tham gia vào tâm thức tập thể trên địa cầu.

Vào thời Summit Lighthouse, các thày cũng đưa ra một số lời dạy về những “người máy móc”, là một giống người mà gen trong cơ thể đã bị biến đổi, và họ không mang ngọn lửa ba nhánh hay cái Ta Biết. Và họ cũng không có khả năng tự thăng vượt. Họ được tạo ra để trở thành những con ong thợ, một giống nô lệ cho sa nhân.

Ngày nay, điều các thày ưa nói nhiều hơn về sự kiện có những người đã dựng lên quá nhiều lớp ngã tách biệt đến độ gần như họ hoạt động một cách máy móc, do họ không sử dụng khả năng tự xem xét bản thân, khả năng đứng lui lại và nói: “Tại sao tôi đang hành xử như thế này? Tại sao tôi phản ứng cách này? Liệu tôi có thể thay đổi phản ứng của tôi không?” Theo nghĩa đó, họ đang ở trong một trạng thái tâm thức máy móc.

Ngược lại với những gì sa nhân thường nghĩ, chính sa nhân cũng rơi vào hạng người này. Một sa nhân không dùng đến khả năng tự nhận biết của y để tự quan sát mình và tự hỏi: “Tại sao tôi đang làm chuyện này? Tại sao tôi cứ phản ứng như thế? Tôi có thay đổi được gì không?” Đó là cách vận hành máy móc. Nếu so với các sinh thể kia mà ta vừa đề cập ở trên, thì sa nhân có vẻ tinh xảo hơn nhiều do y đã tồn tại từ rất lâu đời, nhưng đây vẫn là cách vận hành máy móc vì y không tự thăng vượt.

Và đây là sự khác biệt thực sự: Liệu sinh thể đó có đang tự thăng vượt hay không bằng cách sử dụng khả năng nhận biết của mình, khả năng bước lui lại khỏi chính mình, tự nhìn vào mình và đặt câu hỏi? Đây chính là bản chất của cái Ta Biết.

Trên lý thuyết thì sa nhân có khả năng như thế, nhưng thường thường họ đã tạo ra quá nhiều lớp vỏ khi sa ngã, có lẽ qua mấy bầu cõi, đến độ khả năng này bị chôn vùi quá sâu khiến họ không thể dùng được trên thực tế.

Thật ra một số các con, kể cả vị sứ giả này, đã gặp những sa nhân giống y như vậy. Họ không có sự tự nhận biết bình thường. Họ nghĩ là mọi người khác nhìn vào bản thân giống như chính họ nhìn bản thân họ hay nhìn thế giới. Khi họ phát biểu, họ nghĩ là mọi người khác đều xem chuyện đó là quan trọng và tán thành lời nói của họ giống như chính họ đang tán thành. Họ không có khả năng – hay ít ra họ không sẵn lòng sử dụng khả năng – bước lui lại để nhận ra là thật sự không phải như thế. 

Đây cũng là lý do tại sao một số các con – kỳ thực nhiều người trong các con – có quen biết trong đời mình một số người mà con không thể nào chạm được, cho dù con đã cố nói chuyện rất nhiều lần để giải thích một điều gì đó với họ. Con không thể khiến họ nhìn ra vấn đề chỉ vì họ không thể, hay không sẵn lòng, kích hoạt khả năng nhìn vào bản thân họ từ bên ngoài. Khả năng này là tinh túy của cái Ta Biết.

Lỗ thủng trong hào quang thành hình thế nào?

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có đề cập đến lỗ hổng trong ba thể cao trong trường hợp chấn thương. Những lỗ hổng này thành hình như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 19/12/2019.

Nếu con nhìn vào hào quang, trường năng lượng của con, con có thể xem nó hơi giống cơ thể vật lý, chỉ không đến nỗi dày đặc như vậy. Con cũng biết, nếu có ai bắn một viên đạn vào cơ thể vật lý của con, viên đạn sẽ tạo ra một lỗ thủng trên cơ thể. Nếu người ta bắn viên đạn lớn, lỗ thủng cũng sẽ lớn. Cho nên điều mà các sa nhân, các tà lực, cố làm là chúng hướng nhắm một xung lực năng lượng về phía con. Chẳng hạn nếu chúng nhắm vào cảm thể, đó sẽ là một xung lực cảm xúc mạnh mẽ đập vào con, khiến hào quang con bị thủng một lỗ – trong nghĩa đen. 

Tuy nhiên chúng không thể làm được điều đó trừ khi, như chúng tôi đã có giải thích, con đã có một cái ngã nào đó trong con, có một tin tưởng nào đó trong con khiến con mang sẵn tiềm năng bị tổn thương. Nếu không, xung lực đó sẽ nẩy bật ra khỏi hào quang, hoặc nó sẽ bay xuyên thẳng qua. Điều thường xảy ra là các sa nhân cảm nhận được là con mang sẵn một nhược điểm tiềm tàng, rồi chúng khai thác điểm này để bắn năng lượng vào con, tạo ra một lỗ hổng trong hào quang, trong trường năng lực của con.    

Điều con có thể làm nếu con cảm thấy con có nhược điểm là con hãy đọc các bài cầu thỉnh sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, cầu thỉnh Astrea cắt đứt những sợi dây buộc con với sa nhân cũng như tất cả những cái móc mà chúng đã cài đặt trong hào quang của con. Nhưng cuối cùng thì con cũng phải đương đầu với cái ngã tách biệt đã tạo ra nhược điểm của con trước đó. Mục đích là để ông hoàng của thế gian không có chỗ nào để nắm được con hầu gây ra lỗ thủng trong hào quang của con.

Hồn là vật chất hay tâm linh, hay cả hai?

Hỏi: Liệu hồn (soul, linh hồn hay tâm hồn) là vật chất, tâm linh, hay cả hai? Hồn bao gồm năng lượng hay vật chất? Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương. Thế nào là cách hay nhất để giao tiếp với hồn? Xin thày giải nghĩa sự khác biệt giữa linh hồn và Tánh linh? Nhiều người có vẻ lẫn lộn cái này với cái kia, hoặc họ nghĩ cả hai chỉ là cùng một thứ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Nếu con nhìn vào lịch sử loài người, con sẽ thấy một chuỗi dài những xung đột gần như bất tận. Nếu con nhìn kỹ hơn vào các xung đột, con sẽ thấy rất nhiều những xung đột đó bắt nguồn từ những cách hiểu khác nhau về ngôn từ.  

Khi con phối hợp nhận xét đó với các giáo lý của chân sư về tâm thức nhị nguyên, con sẽ hiểu ra là tâm thức này dẫn đến hệ quả là người ta tưởng mình là những thượng đế có khả năng định đoạt cái gì đúng, cái gì sai. Nói cách khác, tâm thức nhị nguyên khiến mỗi người diễn giải ngôn từ theo cách của mình, Và họ cũng tin rằng cách diễn giải của họ là cách đúng duy nhất và mọi cách hiểu khác đều sai. Sự thể này gây ra hiện tượng mà ta gọi là tư duy bi kịch cuồng đại.

Tâm thức đó đem tới hệ quả là một số từ ngữ, với thời gian, đã trở thành gần như vô dụng cho vị thày tâm linh nào muốn sử dụng. Lý do là vì mỗi người gán cho từ ngữ những ý nghĩa khác nhau, và cuối cùng thì mọi người chỉ còn mức tranh cãi xem ai đúng ai sai. Do đó, thay vì lắng nghe một giáo lý cao hơn, họ chỉ lo bênh vực cho giáo lý họ, cho cách dùng từ của giáo lý họ. Và họ bị lôi cuốn vào vòng tranh luận về chữ nghĩa thay vì tìm sự chiêm nghiệm nội tâm vượt khỏi mọi chữ nghĩa. 

Con nhận xét thấy một số giáo lý tâm linh định nghĩa linh hồn một cách thế này trong khi một số khác định nghĩa thế khác. Một số giáo lý dùng từ “linh hồn” mà không có định nghĩa gì cụ thể vì họ cho rằng ai ai cũng đã biết linh hồn là gì rồi. Đó là lý do chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã quyết định đưa ra những giáo lý rõ ràng hơn về những thành phần mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn. Mục đích của chúng tôi không phải để quy cho mọi giáo lý khác là sai, mà để đưa ra một cách hiểu chi tiết hơn về các thành phần của cái ta, hầu các hành giả tầm đạo có thể vượt lên trên những cách diễn giải khác biệt về từ “linh hồn”.

Chúng tôi nay giảng dạy là cốt lõi của con người là cái Ta Biết. Như con có thể thấy qua cách trình bày này, cái Ta Biết là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Vì vậy, nó là tâm linh chứ không hề là vật lý. Cái Ta Biết có thể đi xuống vũ trụ vật chất, nhưng bất kỳ năng lượng nào của cõi này cũng không thể biến đổi nó được. Lý do là vì nó được cấu tạo bằng tâm thức chứ không bằng năng lượng. Như ta đã giải thích trong một câu trả lời khác, mọi thứ trong thế giới hình tướng được tạo ra TỪ năng lượng nhưng được sinh tạo BỞI tâm thức. Cái Ta Biết có khả năng hình thành một hình tư tưởng, phóng chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, khiến cho ánh sáng khoác lấy hình dạng của hình tư tưởng.

Như ta cũng giải thích trong một giải đáp khác, khi cái Ta Biết đồng sáng tạo như vậy, nó có thể mang bản sắc một sinh thể nối kết, hay nó có thể tự xem nó là một sinh thể tách biệt. Nếu nó đồng sáng tạo với cảm nhận tách biệt, những hình tư tưởng và năng lượng thấp kém mà nó tạo ra sẽ không thể đi lên cõi tâm linh. Vì thế chúng sẽ tích tụ lại trong cái ta thấp, hay phàm ngã, và phàm ngã này với thời gian có thể trở thành một ý thức bản ngã vô cùng tinh xảo và mạnh mẽ. Nếu cái Ta Biết tự đồng hóa với ngã tách biệt mà nó đã tạo ra, nó sẽ không thể buông ngã ra khi xác thân vật lý qua đời. Và như vậy, việc tái đầu thai sẽ trở thành chuyện bắt buộc, vì với đầu thai, cái Ta Biết sẽ có thêm một cơ hội để tự tháo gỡ khỏi ngã tách biệt và đạt được tâm thức Ki-tô – và trong tâm thức Ki-tô đó, nó sẽ tự thấy nó đúng là một phần nối dài của Bản thể Thượng đế. 

Vậy khi con nhìn vào một dòng sống đang đầu thai, con sẽ thấy một tổng hợp của cái Ta Biết với ngã tách biệt. Quả là tổng hợp này sẽ đi xuống xác thân vật lý từ một cõi có rung động cao hơn cõi vật chất. Và đó là tại sao một số giáo lý nói rằng cái đang đầu thai chính là linh hồn, và bởi vì nó đã đi xuống xác thân vật lý từ một cõi cao hơn, họ cho rằng nó xuống từ cõi tâm linh và như thế linh hồn phải được sinh tạo nơi cõi tâm linh.

Con có thể hiểu sâu hơn về điều này bằng cách phối hợp với giáo lý của các chân sư về bốn tầng của cõi vật chất. Điều con hiểu ra bây giờ là cái Ta Biết đi xuống từ Hiện diện TA LÀ ở cõi tâm linh. Cái Ta Biết tạo ra, hay khoác lên, một ngã tách biệt trong cõi bản sắc, rồi nó tạo ra những hình tư tưởng dựa trên ngã này trong cõi lý trí và phóng chiếu vào Ánh sáng Mẫu-Vật xuyên qua cõi cảm xúc. Do đó, ngã tách biệt hoàn toàn không tâm linh vì nó đã được tạo dựng trong các cõi bản sắc, lý trí và tình cảm.

Vậy khi xác thân vật lý chết đi, ngã tách biệt hiển nhiên không thể đi lên cõi tâm linh vì nó đã được cấu tạo bằng năng lượng của các cõi bản sắc, lý trí và cảm xúc. Và khi cái Ta Biết đồng hóa hoàn toàn với ngã tách biệt, chính nó cũng sẽ không thể vượt lên cao hơn, có nghĩa là giữa hai kiếp hiện thân, cái Ta Biết sẽ “cư ngụ ” – tức là sẽ tập trung khả năng tự nhận biết của nó – ở một trong ba thể phàm nói trên. Vì thế, cái mà con thấy đi xuống đã không đi xuống từ cõi tâm linh – trừ khi con định nghĩa “cõi tâm linh” là bất cứ gì vượt trên cõi vật lý và con không nhận diện rõ ràng ba cõi bản sắc, lý trí với xúc cảm. 

Cho nên con có thấy điểm tổng quát mà ta muốn nói? Phần lớn sự lầm lẫn về linh hồn khởi lên từ sự kiện có nhiều cách định nghĩa khác nhau, hay không có định nghĩa nào rõ ràng, về linh hồn. Nếu con nói rằng linh hồn được tạo ra nơi cõi tâm linh và vì thế nó là Tánh linh, thì lẽ ra linh hồn phải có thể thăng thiên, và sự đầu thai phải không cần thiết. Và nếu con nói rằng linh hồn là vật lý, thì làm thế nào nó có thể thượng thăng lên cõi tâm linh?

Chúng tôi là các chân sư thăng thiên mong muốn đưa ra một cái nhìn chính xác hơn, đó là: cái mà hầu hết mọi người gọi là linh hồn được cấu tạo bởi những thành phần khác nhau – trong đó một số là tâm linh, và một số thì cư ngụ nơi các tầng khác nhau của cõi vật chất. Một khi con hiểu điều này, con sẽ tránh khỏi lẫn lộn.

Vậy dựa trên những điều ta vừa nói, chúng ta có thể thấy cái phần thấp kém của dòng sống của con có mấy tầng lớp. Ở mỗi tầng lớp, con có thể tích tụ một số tin tưởng cùng tâm ảnh dựa trên ý thức tách biệt. Sự tích tụ này đã tiếp diễn từ nhiều tiền kiếp khi con phải phản ứng lại các điều kiện mà con gặp trên địa cầu. Và bởi vì hành tinh này đã bị tác động sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên cũng như các sa nhân đã đầu thai ở đây, có thể con đã bị tổn thương trầm trọng, bị chấn thương trong tiền kiếp. Cho nên con có thể mang theo nhiều năng lượng tha hóa và nhiều tin tưởng gây giới hạn được tích lũy trong bốn “thể” phàm của con.

Hầu cái Ta Biết có thể thoát ra khỏi phàm ngã – tức là nó ngưng tự đồng hoá với phàm ngã – nó sẽ phải biến hóa các năng lượng thấp và thay thế các tin tưởng gây giới hạn. Những tâm ảnh và tin tưởng này đều là ảo tưởng, và hầu cái Ta Biết tự giải phóng khỏi chúng, nó sẽ phải ý thức về chúng và lấy quyết định loại bỏ và thay thế chúng bằng những hình ảnh xuất phát từ phân biện Ki-tô. Tuy nhiên, thường thường con sẽ phải khởi đầu bằng cách giảm thiểu khối năng lượng tha hóa, vì chính năng lượng này sẽ gây ra nhiều đau đớn tình cảm đến độ con sẽ không thể phơi bày các tin tưởng nằm bên dưới. Trong trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt, chúng tôi có giải thich điểm này chi tiết hơn và cũng cung cấp những dụng cụ thực tiễn.

Tiến trình mà qua đó cái Ta Biết ý thức được nội dung của tâm tiềm thức (các tầng vật lý, cảm xúc, lý trí và bản sắc) có thể được xem là một tiến trình của chính con đang giao tiếp với linh hồn.

Có nhiều cách để biến tiềm thức trở thành ý thức, chẳng hạn như thiền định hay ghi nhật ký. Con có thể sử dụng một vài kỹ thuật điều trị tâm lý, và trong số này có một kỹ thuật gọi là “làm việc với đứa bé bên trong”. Một số khác là liệu pháp Gestalt hay liệu pháp EMDR. Kỹ thuật của ta nhằm hòa điệu nội tâm có thể được dùng để giao tiếp với linh hồn. Giản dị, con hãy tưởng tượng con đang sử dụng chính ta hay cái ta Ki-tô của con để làm sợi dây giao tiếp với linh hồn của con, xong con ghi xuống những ý tưởng đến với con trong lúc thiền tập.

Bây giờ ta xem đến câu hỏi này của con: 

“Hồn có cư ngụ trong xác thân vật lý, và nếu vậy thì ở đâu? Con có nghe một số người nói rằng nó nằm trong tim, và người khác thì bảo nó nằm trong bụng, trong khu vực đám rối dương.”

Như ta đã trình bày, con có bốn “thể” phàm hay bốn tầng lớp của tâm. Chúng tạo thành trường năng lượng của con, thường gọi là hào quang. Ta cũng biết là nhiều người tin rằng hào quang bao quanh xác thân vật lý, và có cả những người tin rằng hào quang là do xác thân vật lý tạo ra, tương tự như từ trường do một thỏi nam châm vật lý sản xuất ra – họ tin như vậy một cách sai lầm. Khi con hiểu rõ giáo lý về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy hào quang không phải do xác thân sản xuất, mà trái lại, trường năng lượng mới sản xuất ra xác thân. Xác thân vật lý chỉ đơn giản là khía cạnh dày đặc nhất của toàn bộ trường năng lượng của con.    

Hiểu vậy rồi thì con thấy rằng chuyện gán ghép linh hồn vào một nơi chỗ cụ thể nào đó trong cơ thể vật lý là hoàn toàn vô nghĩa. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” một cách nào đó thì tất nhiên, con sẽ có thể lý giải nó nằm ở đâu đó, nhưng điều ta muốn nói là không hề có một địa điểm vật lý nào là điểm đi vào hoặc điểm trụ neo giữa ba thể cao hơn của con và xác thân vật lý của con.  

Chúng tôi có giảng dạy về các luân xa, và tất cả bảy luân xa chính yếu đều là những tụ điểm nơi các thể cao hơn của con tương giao với xác thân vật lý của con. Chúng tôi dạy rằng năng lượng từ Hiện diện TA LÀ đi vào trước hết một luân xa gọi là Mật thất của Tim, được cho là nằm ngay sau luân xa tim nhưng lại có độ rung cao hơn. Từ đó, năng lượng đi vào luân xa tim trước khi nó lan tỏa ra các luân xa khác.

Chúng tôi cũng có nói là luân xa thứ nhì từ dưới đi lên có tên là luân xa hồn, nhưng điều này không có nghĩa là tất cả bốn thể phàm của con đều neo trụ ở đây. Một lần nữa, nếu con định nghĩa “linh hồn” theo một cách nào đó thì con sẽ bảo là linh hồn trụ nơi luân xa này.

Nhưng nếu con cố gắng vươn lên hiểu biết cao hơn, con sẽ thấy rằng tất cả mọi luân xa đều quan trọng cho sự biểu đạt sáng tạo của con trong thế giới vật chất. Mỗi luân xa có những chức năng khác nhau, và mỗi luân xa liên hệ đến những gì con có thể làm với cơ thể vật lý và tâm ý thức của con. Tâm phân tích đường thẳng ham chuộng chuyện phân chia mọi thứ ra thành từng loại riêng biệt, nhưng trên thực tế, tất cả đều chỉ là một, một tổng thể nối kết. Cho nên vừa rồi ta đã cố gắng đưa ra cho con một cái nhìn bớt đường thẳng, bớt phân rẽ và nối kết hơn về toàn bộ bản thể của con.

Tại sao không có bằng chứng là linh hồn tồn tại sau khi chết?

Hỏi: Tại sao không có bằng chứng không thể chối cãi 100% rằng linh hồn tồn tại sau khi chết, mặc dù các nhà khoa học và tâm lý ngoại cảm đã cố chứng minh từ nhiều năm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Lý do là vì hành tinh địa cầu hiện đang vận hành như là nơi trú ngụ cho nhiều dòng sống với một trạng thái tâm thức nhất định nào đó. Những dòng sống này muốn phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế, hoặc họ muốn phủ nhận Thượng đế đang ở ngay đây với họ. Nói cách khác, họ muốn tiếp tục sống trong ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình.

Luật Tự quyết cho phép họ sống trong ảo tưởng này trong một thời gian, và đó là tại sao họ không bị ép buộc phải chấp nhận một thực tại cao hơn qua một bằng chứng bất khả phản bác (plausible deniability). Vì vậy, sẽ không có một bằng chứng tuyệt đối nào được đưa ra về sự hiện hữu của Thượng đế, về thực tế của cõi tâm linh, về sự tồn tại của linh hồn sau cái chết vật lý và nhiều câu hỏi khác tương tự.

Chừng nào mà con người còn ở trong tâm thức tách biệt thì họ sẽ còn nhìn cuộc sống qua phin lọc của tâm thức nhị nguyên, và do đó sẽ không có bằng chứng nào 100% không thể chối cãi được. Cách đây 2000 năm khi ta bước chân trên địa cầu, ta đã từng làm cho người chết sống lại, đã chữa lành cho người bệnh tật, đã đi bộ trên mặt nước, đã biến nước thành rượu, thế mà vẫn có những người không tin ta là Đấng Cứu thế.

Sự thật đơn giản là tâm nhị nguyên luôn luôn có khả năng đặt vấn đề và nghi hoặc bất kỳ bằng chứng nào. Bởi vì tâm nhị nguyên tương đối, nó luôn tìm cách tạo ra một khuôn khổ cho phép nó tin những gì nó muốn tin, vì vậy nó cũng không tin những gì nó không muốn tin.

Cho dù ta đã làm nhiều phép lạ, ta vẫn không thuyết phục nổi các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đốc, các luật sĩ và thày tế lễ nơi nhà thờ đạo Do thái. Ta có thể cam đoan với con, dù có đưa ra bằng chứng nào đi nữa thì cũng không thể thuyết phục được những thày thông giáo, những người Pha-ri-si, người Sa-đốc, luật sĩ cùng các thày tế lễ của đền thờ khoa học ngày nay, thậm chí cả đạo Cơ đốc chính thống.  

Con thấy đó, một khi một lớp người thượng lưu quyền lực đã chế ngự một lãnh vực nào đó, thì họ sẽ sử dụng một quy tắc mà chúng ta có thể gọi là đặc quyền đặt vấn đề, đặc quyền nhào nặn các vấn đề theo ý mình. Khi họ chiếm hữu được độc quyền này, và nếu họ chỉ biết suy nghĩ trong tâm nhị nguyên tương đối, thì họ sẽ quy định một khung chuẩn trong đó tất cả mọi tin tưởng căn bản của họ không thể bị bác bỏ. Lý do không thể bác bỏ được là vì các tin tưởng đó đã được định ra để luôn luôn cung cấp cho họ một lối thoát. Họ luôn luôn có cách bác bỏ bất cứ bằng chứng nào đi ngược lại các niềm tin căn bản của họ, đi ngược lại hệ tư tưởng của họ.

Chẳng hạn, đa số người đạo Cơ đốc chính thống sẽ kịch liệt phủ nhận thực tại của luân hồi, và do đó họ tin vào giáo điều rằng linh hồn không hiện hữu trước khi xác thân vật lý được thụ thai. Thật vậy, nếu con không tin là linh hồn có trước khi thụ thai, con sẽ không thể đưa ra được một chứng cớ không thể chối cãi nào về sự hiện hữu của linh hồn sau khi chết. Nếu linh hồn có thể tồn tại độc lập với thể xác thì nó có thể tồn tại cả trước khi thể xác thụ thai lẫn sau khi chết.

Tương tự như vậy, giới lãnh đạo khoa học cũng quy định rằng bất cứ gì mà không thể được chứng minh qua dụng cụ khoa học làm bằng vật chất, thì không thể hiện hữu. Nhưng linh hồn là một thực thể phi vật chất, vậy thì làm thế nào linh hồn có thể được phát hiện bởi một dụng cụ làm bằng vật chất đây? Con cũng biết là một kính hiển vi thông thường không thể phát hiện được hạt hạ nguyên tử cho dù ống kính có mạnh đến đâu. Lý do giản dị là vì kính hiển vi phải sử dụng ánh sáng thấy được, nhưng độ dài của sóng ánh sáng khiến cho hạt hạ nguyên tử không thể nào nhìn thấy được một cách trực tiếp.     

Các dụng cụ mà khoa học đã phát minh ra cho tới giờ không có khả năng phát hiện linh hồn. Có một số dụng cụ phát hiện được năng lượng của linh hồn, tuy nhiên cho tới giờ vẫn chưa được giới khoa học chính mạch chấp nhận.

Như ta vừa trình bày, Thượng đế đơn giản không muốn nhân loại có bằng chứng không thể chối cãi về hiện hữu của ngài hay của cõi tâm linh. Thượng đế muốn đó là một vấn đề đức tin, bởi vì nó sẽ vận hành như một phin lọc, để lọc lựa ra những ai không sẵn sàng nhìn xa hơn tâm nhị nguyên và tự ngã của mình. Dù sao thì đây chính là những người sẽ không thể bước vào Nước Trời, bởi vì khi nào họ còn nhìn với tâm nhị nguyên và tự ngã thì họ không có hy vọng đạt được tâm thức Ki-tô. Vậy sẽ ích gì để mà chứng minh sự thật của thiên đường cho những người không có hy vọng vào được thiên đường?  

Người ta có thể bảo: “Nhưng nếu có bằng chứng không chối cãi, thì những người đó sẽ đổi ý chứ.” Tiếc thay, điều này không đúng, như được minh chứng qua việc các lãnh đạo tôn giáo đã chối bỏ ta. Đã từng có vô số ví dụ mà qua đó các chân sư thăng thiên đã đưa ra bằng chứng được nhiều người chấp nhận nhưng lại bị một số người khác bác bỏ. Giản dị, những kẻ bác bỏ bằng chứng như vậy vẫn chưa thật sẵn sàng cho con đường dẫn đến quả vị Ki-tô.

Nếu con đọc Kinh thánh, con sẽ thấy ta thường hay nói rằng những ai có tai để mà nghe thì hãy cố nghe. Có tai có nghĩa là mình cởi mở với Sự thật Hằng sống chỉ có thể biết được qua chiêm nghiệm trực tiếp trong tim. Nếu con không cởi mở thì sẽ không có một bằng chứng vỏ ngoài nào có thể mở được tâm con và tim con ra với chân lý. Và khi con không mở tâm với chân lý, thì con sẽ có khả năng, và con sẽ, chất vấn và xé bỏ mọi bằng chứng khả dĩ có được.   

Ta đã thấy những người đứng chứng kiến ta khiến cho một người chết sống lại. Họ biết rõ và tin chắc là người đó đã chết. Họ thấy rõ người đó đứng dậy và bước đi trước mắt họ. Ấy vậy mà họ vẫn không tin là ta có điều gì đáng giá để mà dạy họ. Và chỉ sau một thời gian rất ngắn, tâm nhị nguyên của họ lại khiến họ ngờ vực, khiến họ lý giải đủ cách, rồi họ phủ nhận điều mà chính họ vừa chứng kiến với đầy đủ giác quan của họ. Người Tây phương có câu tục ngữ “Thấy thì sẽ tin”, nhưng câu này chỉ đúng cho những ai có tâm mở và tim mở. Còn những ai đóng chặt sẽ nhanh chóng tìm được đủ mọi lý lẽ để bác bỏ điều mắt họ vừa nhìn thấy.

Đó là vì sao ta từng nói: “Tô-ma, vì người đã thấy ta, nên người tin. Phúc cho những ai chẳng từng thấy mà đã tin” (John 20:29)

Sự thật phũ phàng là với tư cách là người tầm đạo tâm linh, con cần nhận ra là có những người hiện không ở trong một trạng thái tâm thức khiến họ có thể được đánh thức về con đường tâm linh, như ta có giải thích ở nơi khác. Vì vậy, con nên thận trọng để không lãng phí thời gian cùng sức lực với những người như thế. Như ta có nói:

“Đừng đem đồ thánh cho chó, cũng đừng ném ngọc quý trước mặt heo, kẻo nó đạp dưới chân và quay lại cắn xé các người.” (Matthew 7:6)

Câu này nghe thật tàn nhẫn, nhưng thực tế là cuộc sống quá ngắn ngủi để mà lo chuyện giúp đỡ những ai không muốn tự giúp mình. Có quá nhiều người khác có tâm cởi mở, và đó là những người mà ta nói đến khi ta bảo các môn đệ của ta hãy lo nuôi nấng đàn chiên của ta. Những người còn lại, đơn giản là con sẽ phải bỏ họ lại đằng sau, như ta đã nói: “Hãy theo ta, và để cho kẻ chết đi chôn kẻ chết.” (Matthew 8:22)

Phật giáo Tây Tạng nói không có hồn, chỉ có tâm

Hỏi: Thày Giê-su yêu dấu, Phật giáo Tây Tạng nói là không có hồn (soul) mà chỉ có tâm (mind). Cho nên con không hiểu. Có hồn nghĩa là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Để bắc chiếc cầu băng qua hàng rào ngôn ngữ giữa các tôn giáo hay các truyền thống tâm linh khác nhau, con cần rất nhiều tế nhị và tâm không dính mắc. Điều được một tôn giáo mô tả bằng một từ có thể chính là điều mà một tôn giáo khác sẽ mô tả bằng một từ khác. Cho nên thật sự, con có thể nói rằng tất cả đều là tâm, vì hồn phát xuất từ đâu chứ? À, nó phát xuất từ tâm. Nó phát xuất từ cái tâm rộng lớn hơn của con, cái Ta Biết, và nó được tạo ra sau khi cái Ta Biết bắt đầu thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên. Cho nên con có thể nói rằng hồn được tạo ra từ tâm của con.

Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể bảo là Phật giáo Tây Tạng nói chính xác, nhưng điều này không nhất thiết có nghĩa là các truyền thống tâm linh khác khi nói về hồn đều nói sai. Các truyền thống đó chỉ sử dụng một từ khác cho cùng một thứ. Bởi vì thật sự ngay cả trong đạo Phật, cũng phải có một cỗ xe cho tâm đi xuống cơ thể vật lý và tương tác với cơ thể vật lý.

Lời dạy căn bản về phân mảnh linh hồn và bệnh tâm thần

Hỏi: Có những lời dạy tâm linh và tâm lý cho rằng linh hồn có thể bị phân rẽ, chia cắt hay phân mảnh. Thày có đề cập đến điều này trong câu trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều gì xảy ra cho các mảnh vụn của linh hồn bị đánh mất? Có kỹ thuật tâm linh hay tâm lý nào để hồi lại những mảnh đó? Đó có phải là một điều khả thi hay cần thiết để chữa lành các chứng tâm thần nghiêm trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đề tài linh hồn phân mảnh (soul fragmentation) hay phân chia (soul division) có thể khá phức tạp. Tuy nhiên vì tính cách câu hỏi, ở đây ta sẽ chú trọng đến khía cạnh thiết thực nhiều hơn là khía cạnh triết lý, hay nói cách khác, là những gì con cần biết về linh hồn phân mảnh để con tự bảo vệ lấy bản thân hay chữa lành một chứng bệnh tâm thần.

Trong câu trả lời sau đây, ta xem như con đã quen thuộc với các giáo lý về bốn tầng của cõi vật chất cũng như về các thành phần của tâm, đặc biệt là quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Ta cũng coi như con đã đọc câu trả lời trước của ta về đề tài: linh hồn là vật lý hay tâm linh.

Chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét Hiện diện TA LÀ. Hiện hữu nơi cõi tâm linh, nó có rung động cao hơn hẳn thế giới vật chất, có nghĩa là Hiện diện không thể nào bị các rung động thấp kém của thế giới vật chất hủy diệt hay phân cắt – đồng thời cũng có nghĩa là Hiện diện không thể trực tiếp đi xuống thế giới vật chất. Hiện diện TA LÀ có một cá thể rõ rệt mà nó mong muốn biểu đạt trong thế giới vật chất, và để làm vậy, nó tạo ra một phần nối dài của chính nó có khả năng xuống được thế giới vật chất. Phần nối dài này là cái Ta Biết.

Cái Ta Biết là phần nối dài của tâm thức của Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ không “cài đặt” cá thể của nó vào Ta Biết. Cái Ta Biết giống như cái lăng kính qua đó Hiện diện có thể tự biểu đạt và đồng thời có thể chiêm nghiệm thế giới vật chất. Và như thế, cái Ta Biết là cái gì đi xuống những rung động thấp kém của thế giới vật chất, nhưng vì nó là sự nhận biết thuần khiết – và nó là nhận biết thuần khiết vì nó không có cá thể – cho nên nó cũng không thể bị hủy diệt hay phân cách bởi các rung động thấp của thế giới vật chất.

Tuy nhiên – và đây là cốt lõi của vấn đề – ngay cả cái Ta Biết cũng không thể hành động trực tiếp trong thế giới vật chất. Để làm vậy, nó phải tạo ra, hay khoác lấy, một “thân thể” được cấu tạo bằng rung động trong dải tần số vật chất. Như các thày đã có giải thích, cõi vật chất có bốn tầng, cho nên khi nó tạo “thân thể”, điều này có nghĩa là nó tạo ra “bốn thể phàm”, cụ thể là “thể” bản sắc, “thể” lý trí, “thể” cảm xúc và sau cùng là cơ thể vật lý. 

Khi cái Ta Biết được sinh tạo lần đầu, nó thật sự không đủ khả năng tạo ra bốn thể phàm. Nó chưa từng có kinh nghiệm đồng sáng tạo và nó cũng không có kinh nghiệm về rung động của bốn tầng. Cho nên một cái Ta Biết tân lập sẽ phải khởi đầu nơi một trường học, gọi là trường bí giáo được biểu tượng qua Vườn Eden. Đó là một môi trường học hỏi ở cõi bản sắc, ở đó nó sẽ có thể thử nghiệm khoác lên những cái “thể” do vị thày tâm linh tạo ra cho cõi bản sắc.

Đặc tính cơ bản của cái Ta Biết là bởi vì nó là nhận biết thuần khiết, nó có khả năng tự phóng chiếu vào bất cứ điều gì mà nó hình dung, và chính đặc tính này giúp nó đi xuống đầu thai. Nói cách khác, cái Ta Biết không trở thành một thể bản sắc hay một xác thể vật lý, mà nó tự phóng chiếu vào một ý niệm cái ta, một ý niệm bản ngã. Cũng y như một diễn viên mặc vào trang phục trình diễn và hóa trang để đóng một vai tuồng trong vở kịch vậy.

Như vậy cái Ta Biết khởi sự học trường bí giáo khi nó tự phóng chiếu vào một “cái ta bản sắc” do vị thày tâm linh tạo ra. Chúng ta có thể so sánh với một học viên phi công bước vào một cái máy giả lái phi cơ hầu có được cảm giác y như mình đang lái một chiếc phi cơ mà không sợ gây ra tai nạn.

Khi cái Ta Biết bắt đầu thông thạo hơn với một cái ta bản sắc, nó sẽ khoác vào một cái ta bản sắc/lý trí và lại thử nghiệm thêm. Sau đó nó sẽ khoác lên một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc, và cuối cùng là một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý mà không bao giờ nó phải thực sự bước xuống dải tần số vật chất. Nó vẫn còn ở trong một môi trường mô phỏng thế gian.

Sau khi nó tương đối lành nghề với tiến trình này, cái Ta Biết bước vào một giai đoạn mới khi nó sẽ bắt đầu định đoạt cái ta riêng của nó thay vì sử dụng cái ta do thày định ra cho nó. Làm thế nào nó thiết kế cái ta đó? Dựa theo sự liên hệ của nó với Hiện diện TA LÀ và những kinh nghiệm của nó về bốn tầng, cái Ta Biết khởi đầu như một ý niệm bản ngã chỉ to bằng đầu cái kim, qua đó nó biết là nó vẫn kết nối với một cái gì rộng lớn hơn nhưng nó không trực tiếp kinh nghiệm được Hiện diện TA LÀ, và như vậy, nó không thể biểu hiện một cách trọn vẹn cá thể của Hiện diện.

Khi cái Ta Biết thử nghiệm, nó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó. Chừng nào nó còn đi theo sự hướng dẫn của vị thày, nó sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn nó là cánh cửa mở cho Hiện diện. Và cứ thế, cá thể của Hiện diện ngày càng tỏa sáng mãnh liệt hơn qua nó. Nói cách khác, cái Ta Biết không khoác lấy hay trở thành cá thể của Hiện diện, nó chỉ ngày càng là một cánh cửa mở rộng hơn cho Hiện diện. Điều này có nghĩa là khi cái Ta Biết tạo ra một bản ngã, bản ngã này sẽ phản ánh cá thể của Hiện diện.  

Trong trường hợp lý tưởng, cái Ta Biết sẽ tiếp tục tuân theo sự hướng dẫn của vị thày cho tới khi nó sẵn sàng tạo ra một thể bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý cụ thể và nó tự phóng chiếu vào đó. Bây giờ nó hết còn trong một môi trường mô phỏng mà nó đã giáng xuống thế gian “thực thụ”.  

Mục đích lời trình bày dài dòng ở trên là để giải thích cho con hiểu là cái mà nhiều người xem là hồn thật ra chỉ là một thể gồm bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý do cái Ta Biết tạo ra. Trong điều kiện lý tưởng, cỗ xe 4 lớp này – ta sẽ tránh gọi là hồn từ điểm này trở đi – là sự phản ánh của cá thể của Hiện diện TA LÀ. Lúc đầu, cá thể này sẽ không biểu thị một cách trọn vẹn nhưng sẽ ngày càng rõ nét hơn khi cái Ta Biết có thêm kinh nghiệm tự biểu đạt. Và như vậy, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô sẽ lý tưởng là con đường của cái Ta Biết trở thành cánh cửa mở hầu cá thể và quyền năng của Hiện diện TA LÀ được thể hiện hoàn toàn. “Ta và Cha ta là một” trong nghĩa đó.

Làm thế nào cá thể của Hiện diện được phản ánh trong thiết kế của cỗ xe 4 lớp? Chúng ta có thể so sánh với một máy chiếu phim và cá thể của Hiện diện như là cuộn phim. Cá thể đó giống như một hình ảnh được phóng chiếu lên màn ảnh của bốn thể phàm. Tại sao điều này quan trọng? Là vì nó giải thích tại sao trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không thể bị chia cắt hay phá hủy.

Hiện nay thế giới vật chất – ít nhất trên hành tinh địa cầu – là một môi trường bị ảnh hưởng sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên và các sinh thể sa ngã. Cho nên khi con xuống hiện thân ở đây, rất có thể con sẽ bị chấn thương bằng rất nhiều cách, và chấn thương này có thể khiến cho cỗ xe 4 lớp của con bị hư hại. Trong những điều kiện của thế gian, thật con không có cách nào tránh khỏi điều đó. Tuy nhiên trong trường hợp lý tưởng khi con được vị thày hướng dẫn, chấn thương có thể được chữa lành hầu như tức thì nếu con quyết định trong ý thức là con sẽ không phản ứng lại. Trong trường hợp này, chấn thương xảy ra giống như có ai lấy tay đập vào nước. Nước sẽ văng lên tung tóe nhưng chỉ một lát sau, nước sẽ nhanh chóng bình phẳng trở lại và một tấm gương toàn hảo sẽ lại hình thành trên mặt nước, phản ánh cá thể do Hiện diện TA LÀ phóng chiếu ra.

Nói cách khác, khi cỗ xe 4 lớp của con được chế tạo khi con thấy con là phần nối dài cho Hiện diện TA LÀ, vấn đề phân cách hay phân mảnh linh hồn không hề đặt ra. Chỉ trong trường hợp không lý tưởng thì mới có vấn đề, và bây giờ chúng ta hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

Như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày, trong trường bí giáo có một số dòng sống đã quyết định khai mở tâm thức nhị nguyên trước khi họ sẵn sàng. Họ bị tâm nham hiểm của rắn lừa gạt để họ tưởng rằng họ đã đủ trình độ bước xuống hiện thân vật lý – dẫu rằng vị thày nói rõ là họ chưa sẵn sàng. Như vậy họ đã quyết định cố chiếm lấy “thiên đàng” – hay đúng hơn, chiếm lấy sự hiện thân – bằng vũ lực.

Trên thực tế, các dòng sống này chưa có khả năng định hình cỗ xe 4 lớp của họ. Khả năng của họ bị giới hạn ở mức mà họ đã đạt được khi họ quay lưng lại thày mình. Và vì thế, họ khoác vào một cỗ xe 4 lớp gồm một phần do họ tạo dựng và phần kia do các sa nhân tạo dựng. Làm sao đi nữa thì cỗ xe này cũng không phản ánh cá thể của Hiện diện: nó đã được tạo ra dựa trên ảo tưởng tách biệt.

Điều này có hai hệ quả. Một là các ý tưởng, các tâm ảnh và các tin tưởng cấu tạo cá thể của cỗ xe 4 lớp đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Những tin tưởng này phần nào dựa trên cá thể của Hiện diện TA LÀ của dòng sống, nhưng cá thể này đã bị biến thái bởi tâm thức nhị nguyên. Như ta đã giải thích, mọi thứ trong tâm thức nhị nguyên phải có một đối cực, nghĩa là khi một đặc tính nhị nguyên gặp đặc tính đối cực của nó, có vẻ như nó sẽ bị đối cực kia triệt tiêu.

Bây giờ con có thể thấy được tại sao khi cỗ xe 4 lớp của con được xây bằng tâm thức nhị nguyên, nó luôn luôn ở trong trạng thái bị đối cực nhị nguyên đe doạ. Ý niệm bản sắc, ý niệm cái ta trong lý trí và ý niệm cái ta trong tình cảm luôn luôn bị đe dọa bởi đối cực nhị nguyên của những tin tưởng cấu tạo các cỗ xe của con.

Bây giờ chúng ta thấy có bốn cách cỗ xe 4 lớp của con – tức hồn của con – có thể bị phân mảnh. Ở tầng vật lý, sự kiện cơ thể con bị giết hại hay bị đau đớn có thể dẫn đến chấn thương trầm trọng đến độ “thể” cảm xúc của con bị phân mảnh. Việc trải nghiệm những xúc động mãnh liệt từ người khác cũng có thể gây ra chấn thương. Con thử nhìn xem con có thể bị tác động dễ dàng thế nào khi người ta giận dữ đối với con hay có ác ý muốn tiêu diệt con. Ở tầng lý trí, khi con thấy những tin tưởng sâu xa của mình bị lật bỏ, con có thể bị chấn thương. Ví dụ như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch đã cảm thấy niềm tin của mình nơi đạo mình bị khoa học phá tan tành, và điều này có thể gây ra một rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp. Tất cả những trải nghiệm đó cũng có thể tạo rạn nứt ở tầng bản sắc khi con cảm thấy chính ý niệm bản sắc của mình bị đe dọa. Và điều này cũng có thể xảy ra khi sa nhân buộc oan con – như chúng thường hay làm – khiến tin tưởng của con về bản chất tốt thiện của con bị đe dọa.

Bây giờ chúng ta hãy đào sâu hơn và thấy rằng cỗ xe 4 lớp gồm có hai thành phần. Một là những tâm ảnh và tin tưởng, và thành phần kia là năng lượng vận động tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng. Các tâm ảnh và tin tưởng hình thành một cái gì có thể so sánh như một cấu trúc tinh thể (crystalline structure). Con cũng biết có những đồ chơi làm bằng mảnh nhựa hay kim khí mà con có thể lắp lại thành cái hộp có khoảng trống bên trong, giống như cái lồng. Thành phần năng lượng là những gì được đặt vào trong cấu trúc đó, gần giống như những quả bóng mà con đặt vào trong lồng.

Trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không có bất cứ hình ảnh hay tin tưởng nào dựa trên nhị nguyên. Kết quả là ngay cả khi con bị tấn công, con cũng sẽ không xem đó là một sự tấn công cá nhân, bởi vì con không hề cảm thấy cá nhân mình bị đe dọa. Cho nên mặc dù cấu trúc tinh thể bị hư hại, con có thể, gần như lập tức, chữa lành lặn bằng cách buông bỏ chuyện đó và trở về nhận biết thuần khiết. Đây là ý nghĩa thâm sâu của lời dạy về việc chìa má bên kia. Khi con thực sư chìa má bên kia, không một thế lực thấp kém nào có thể làm hại các thể cao của con.

Trước khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn, con có thể bị tác động tạm thời, và điều này có thể khiến con mất đi một phần năng lượng trong cấu trúc. Nhưng khi con trở về với sự nhận biết thuần khiết, con sẽ từ hóa (magnetize) năng lượng đó trở lại trong con. Nói cách khác, con có thể học cách chữa lành nhanh chóng bất kỳ chấn thương nào mà con phải kinh qua khi đầu thai. Khi con đạt được quả vị Ki-tô, ngay cả xác thân vật lý của con cũng không thực sự là vật lý nữa, và như vậy con có thể hiện thân trong một thể xác trông như là vật lý nhưng không một thế lực nào trên địa cầu có thể giết hại.

Nhưng nếu cỗ xe 4 lớp của con được làm bằng tâm thức nhị nguyên, cấu trúc tinh thể sẽ dễ dàng bị hư hại hoặc vỡ ra thành từng mảnh do các điều kiện trong thế gian, như được mô tả ở trên. Hơn nữa, năng lượng bên trong cấu trúc sẽ rung động ở một độ thấp hơn, có nghĩa là năng lượng dễ dàng bị cuốn hút ra ngoài hay bị mất mát khi có lỗ hổng trong cấu trúc. Cho nên khi cỗ xe bị phân mảnh, đó là vì có cái gì đó đã làm nổ tung và thổi bay một phần cấu trúc tinh thể cùng với năng lượng trong đó. Bây giờ chỉ còn sót lại một cấu trúc khiếm khuyết với một lỗ hổng to tướng, và con cảm nhận điều này như một chấn thương trầm trọng.

Nếu mảnh cấu trúc và năng lượng bị mất đủ lớn, con sẽ cảm thấy mình bị chia cắt – một căn nhà bị chia cắt khỏi chính mình – đến độ con không thể chịu đựng được nữa, và đây là nguyên nhân thực sự của tất cả mọi chứng bệnh tâm thần trầm trọng. Nỗi đau và mất mát to lớn đến độ con không thể sinh hoạt bình thường được, và con nhất định phải làm gì đó để khắc phục cảm giác trống trải, mất mát, đau đớn đó. Nhưng vấn đề là con sẽ làm gì đây? Và đây là lúc chúng ta thấy hiện ra tình thế tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, khiến con người bị đóng đinh – trong nghĩa đen – trên cây thập tự của chính cỗ xe 4 lớp của mình.   

Có mấy cách cơ bản để con cố chịu đựng sự phân mảnh của hồn:

  • Con tìm cách khiến mình tê dại để có thể chịu đựng cơn đau, có thể qua chất hóa học hay ma túy, chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện ngập. Sự nghiện ngập kéo theo một số biến động khác trong đời con gây thêm chấn thương, khiến hồn bị phân mảnh nhiều hơn nữa. Kết quả là một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ không ngừng kéo con xuống cho đến khi con chạm đáy và quyết định mình phải thay đổi hoàn toàn cách sống. Nhân tiện xin nói thêm là cách sử dụng dược phẩm của khoa tâm thần học hiện đại cũng tương tự như cách trên. Nếu không phối hợp với phép trị liệu đối thoại thì dược phẩm sẽ không giải quyết được sự phân rẽ của hồn. Nhưng con cũng lưu ý là đối với những người bị phân rẽ trầm trọng, rất có thể họ sẽ cần trị liệu tâm thần, và vì vậy ta sẽ không lên án trị liệu và cũng không khuyên ngăn người bệnh đi tìm sự giúp đỡ.
  • Con tìm cách mau chóng chiếm đoạt năng lượng của người khác hầu giảm thiểu nỗi trống trải của mình. Một phương cách là quan hệ tình dục, khi con đoạt lấy năng lượng của người giao phối. Điều này phần nào giải thích những trường hợp hiếp dâm và ấu dâm. Tất nhiên, làm vậy cũng không giải quyết được sự phân chia. Một cách khác nữa là tạo ra tranh cãi, gây ra ẩu đả hay hành hạ người khác bằng đủ mọi cách. Những kẻ tra tấn hay giết người hàng loạt làm như vậy để đánh cắp năng lượng hầu che đậy những phân chia trầm trọng trong hồn mình.
  • Con mời một tà thể ngoại lai vào cỗ xe 4 lớp của con để lấp đầy lỗ hổng. Tà thể này có thể là một hồn bóng không xác, một con quỷ, hay như Phật Gautama có gọi, một con quái vật. Điều này có nghĩa là, trong nghĩa đen, có một sinh thể ngoại lai vào sinh sống trong không gian của cỗ xe 4 lớp của con, và hiển nhiên nó gây ra những chứng bệnh gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar), phân chia nhân cách (split personality), đa nhân cách (multiple personality) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Có lúc tà thể ngoại lai sẽ chiếm lãnh tâm trí con và có lúc con sẽ giữ được chủ quyền.
  • Con cố tránh cho vết thương con khởi phát bằng cách lánh xa mọi người khác hay lánh xa đời sống. Trong quá khứ, nhiều người đã lui vào tu viện vì lý do này, và ngày nay có nhiều người cũng tìm cách che giấu sự phân chia nội tâm nơi các cộng đồng tâm linh. Tiện đây cũng xin nói, một giáo lý tâm linh quả là có thể bị lạm dụng cho mục đích này.  
  • Con cố tránh cho vết thương khởi phát bằng cách kiểm soát môi trường chung quanh con. Trường hợp này bao gồm nhiều loại người, từ gia chủ của một gia đình đổ vỡ cho đến giám đốc điều hành của một tập đoàn hay nhà độc tài của một quốc gia. Hitler, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác đều sẵn sàng giết hại vô số sinh mạng hầu trấn áp môi trường chung quanh, và tất cả đều bị thúc đẩy bởi một linh hồn bị phân rẽ trầm trọng.  
  • Con tìm cách sửa chữa sự rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp của con. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng thường con dùng tâm thức nhị nguyên để dựng lên một cấu trúc mới rồi đổ đầy với năng lượng thấp kém. Vết gãy rách đã khiến cho cấu trúc linh hồn nguyên thủy của con bị hư hại và vì vậy con cảm thấy mình khiếm khuyết, không trọn vẹn. Việc đóng lại lỗ hổng có thể cho con cảm giác toàn vẹn hơn. Nói cách khác, dù cỗ xe của con được tạo bằng tâm thức nhị nguyên, nhưng một cấu trúc liền lặn sẽ cho con một cảm giác tương đối toàn vẹn, tự chủ hơn. Một cách sửa chữa hư hại là để cho tự ngã của con tạo ra những tâm ảnh mới phát xuất từ chấn thương. Điều này có thể khiến con xem mình là một nạn nhân, hay khiến con tìm kiếm một con dê tế thần để con đánh nhau với nó hầu tiêu diệt nó. Như thế con sẽ chám được lỗ hổng với một cấu trúc mới phát sinh từ chấn thương mà con đổ đầy với năng lượng sợ hãi hay giận dữ. Tất nhiên, con sẽ không chữa lành được phân chia nội tâm của con nhưng nhiều người đã dựng lên nhiều lớp kiểu này đến độ họ cũng cảm được một chút toàn vẹn và chủ động.

Bây giờ thì con thấy được một số những hành động tàn bạo nhất trong lịch sử loài người là do những kẻ bị phân mảnh linh hồn gây ra. Một số những lạm dụng tồi tệ nhất ở mức cá nhân hay gia đình cũng là do chứng này gây ra. Hầu hết các bệnh tâm thần và các vấn đề tâm lý nghiêm trọng nhất là do sự phân mảnh của cỗ xe 4 lớp. Một khi con nhìn nhận điều này thì các thày mới có thể gợi ra một số cách đối phó.

Trước hết, chúng ta có một nhóm những người bị phân rẽ trầm trọng đến độ họ bị kẹt trong một khuôn nếp độc hại. Chừng nào họ còn bị vòng xoáy hướng hạ cuốn họ đi xuống như thế, thường không có cách gì giúp được họ. Không có cách nào để giao tiếp với họ, và con không thể nói gì với họ để thay đổi tình thế. Họ sẽ phải tiếp diễn khuôn nếp này cho tới khi họ chạm đáy và quyết định làm một điều mà họ chưa từng làm cho tới giờ, đó là nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận là mình đã tạo ra ngã tách biệt và bây giờ mình chính là người phải gỡ nó đi.

Sau đó chúng ta có một nhóm những người bị phân mảnh nghiêm trọng đến độ họ khó lòng nào, hoặc không thể, chữa lành một mình. Ta thực sự khuyên những người như vậy hãy tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ có thể. Con đang sống trong một thời kỳ mà sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần đã phai nhạt đi và vì vậy, giống như với các bệnh thể xác, không ai phải xấu hổ với bệnh tâm thần nữa. Ngoài các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học, con cũng có thể chiếu cố các nhà trị liệu không chính mạch, tuy nhiên với hầu hết những cách trị liệu truyền thống, điều quan trọng là tìm được người thích hợp để trợ giúp mình. Thật vậy, người chữa trị quan trọng hơn cách chữa trị. Một khuyến cáo chung chung là con nên xem xét hai cách trị liệu Gestalt và EMDR. Về liệu pháp giải thoát tánh khí (spirit release therapy) hoặc phương pháp của thày cúng (shaman) nhằm phục hồi linh hồn, ta xin nhắc lại một lần nữa: mức độ già dặn của người chữa trị là điều tối quan trọng. Song song, một điều nữa cũng vô cùng quan trọng là cần phối hợp pháp trị liệu với những dụng cụ tâm linh mà ta khuyến cáo ở bên dưới.    

Chúng ta cũng có một nhóm thứ ba, là những người chưa bị phân chia đến độ cần phải điều trị, tuy rằng sự điều trị vẫn có thể ích lợi. Nếu con trong số này, con có thể tự lo lấy một số điều, là những điều gì?

Điều đầu tiên cần làm là nhận ra rằng khi cỗ xe 4 lớp của con bị phân mảnh, nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thế lực ngoại lai, chẳng hạn những sinh thể bóng tối hay năng lượng thấp kém. Cho nên con cần trước hết thiết lập một lá chắn bảo vệ tâm linh chung quanh trường năng lượng của con. Cách thực hiện dễ nhất là sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con, như bài nguyện của Đại thiên thần Michael và những bài chú Đại thiên thần Michael và Hercules.

Không phải là chuyện lâu lâu đọc chơi một lần mà con phải cam kết một cách chân thành là con sẽ tuân thủ một chương trình đều đặn mỗi ngày. Nỗ lực của con cần tùy thuộc vào độ trầm trọng của sự phân mảnh và mong muốn chữa lành của con. Ta đề nghị con dành ra khoảng nửa giờ hoặc hơn nữa mỗi ngày cho việc bảo vệ tâm linh.

Bước tiếp theo là nhận ra là rất có thể con đã bị xâm nhập, hoặc ít nhất đã tạo ra một mối ràng buộc với những sinh thể hay năng lượng thấp kém. Cách tuyệt đối hiệu quả nhất để cắt đứt các mối ràng buộc đó và tự giải thoát là bài chú Elohim Astrea. Một lần nữa, con sẽ cần nửa giờ đồng hồ hay hơn nữa, thêm vào những bài chú bảo vệ ở trên.

Bước kế tiếp là nhận ra là có thể con đã tiếp nhận một số năng lượng thấp kém và chúng đang lôi kéo con từ bên trong. Cách đối phó là con cầu thỉnh năng lượng tâm linh hầu chuyển hóa năng lượng thấp kém. Ở đây, những bài chú của cả bảy tia sáng sẽ đều hữu dụng, nhưng ta khuyên con nên khởi đầu với các bài chú ngọn lửa tím. Một lần nữa, nửa giờ đồng hồ thêm vào các bài chú ở trên.

Việc đọc chú cùng với những bản ghi âm mà vị sứ giả này đã chuẩn bị có thể sẽ rất hữu ích. Làm vậy không những sẽ giúp con học cách đọc chú, mà qua bản ghi âm, sẽ còn có ánh sáng được truyền rải xuống mà nhiều người bị phân mảnh không có khả năng tự cầu thỉnh một mình.

Một khi con đã cầu thỉnh được tạm đủ ánh sáng để cảm thấy nhẹ nhõm hơn, con có thể bắt đầu sử dụng các dụng cụ khác được đăng tải ở đây. Con có thể bắt đầu với Hộp Dụng cụ cho Khủng hoảng Tâm linh, và sau đó chuyển sang nhiều bài thỉnh khác. Bài thỉnh Đông-Tây đặc biệt nhằm kêu gọi các mảnh linh hồn thất lạc trở về với con.  Tuy nhiên còn có nhiều bài chú khác nhằm giúp con đương đầu với một số vấn đề đặc thù, và một khi con vượt qua được tâm trạng rối loạn nhất, con sẽ nhận được hướng dẫn từ bên trong.

Thật ra những gì ta vừa trình bày cho tới giờ chỉ là một chương trình cấp tốc để giúp con vượt qua những hiệu ứng nghiêm trọng nhất của sự phân mảnh. Trong giai đoạn tiếp theo sau, con phải nhận ra là việc hồi phục sự toàn vẹn tâm linh thực sự là một nỗ lực dài hạn, thậm chí có thể kéo dài suốt đời. Vì vậy con cần có cái nhìn là con đang đi trên một hành trình tâm linh sẽ lần hồi dẫn con từ mức tâm thức hiện thời của con đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đó là tiềm năng cao nhất của con nhưng cũng là một mục tiêu thực tế mà con có khả năng đạt được.

Điều này có nghĩa là con hãy nắm lấy con đường tâm linh mà con có thể thấy và hiểu được trong hiện tại, rồi con hãy cứ theo đó mà tiến bước hết sức mình. Nhưng con cũng phải hiểu đó là một con đường tự thăng vượt, tức là có nhiều cấp độ. Sẽ có những lúc con cần bước hẳn lên một bực cao hơn trong viễn quan lẫn cách thực hành.

Trong các giai đọan sau đó, con sẽ thấy lời dạy sau đây của ta có thể hữu dụng, cụ thể là cỗ xe 4 lớp của con – mà hầu hết mọi người gọi là hồn – không phải do Thượng đế tạo ra, và trong hiện tại nó không phản ánh cá thể của Hiện diện TA LÀ của con. Cho nên đối với những ai đã bước xuống tách biệt, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô gồm có ba giai đoạn rõ rệt:

  • Trong giai đoạn thấp sơ khởi, con sẽ cần tìm cách chám lại mọi lỗ hổng trong linh hồn hay hồi lại những mảnh đã thất lạc. Đây chỉ là một biện pháp tạm thời để giúp con bước vào con đường thực sự.
  • Trong giai đoạn thứ nhì, con không thực sự tìm cách chữa lành hay hoàn thiện linh hồn con, bởi vì nó đã được tạo ra từ các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên. Do đó thực sự nó không bao giờ có thể được nâng lên tới mức vào được cõi tâm linh. Điều con thực sự cần làm là tháo gỡ cái Ta Biết khỏi sự đồng hóa với hồn phát xuất từ nhị nguyên. Để làm điều này, con thỉnh ánh sáng tâm linh để chuyển hóa các năng lượng thấp trong cỗ xe 4 lớp, và con sử dụng các giáo lý tâm linh để thay thế mọi ảo tưởng nhị nguyên trong cỗ xe của con. Tuy nhiên, điều thiết yếu mà con phải nhận rõ là giai đọan này sẽ không thực sự đưa con tới quả vị Ki-tô, và nó cũng sẽ không tạo đủ điều kiện cho con thăng thiên. Nó sẽ chỉ đơn giản dẫn con trở lại đúng tình trạng của con trước khi con rơi vào vòng nhị nguyên. Nói cách khác, điều con làm trong giai đoạn này KHÔNG PHẢI là hoàn thiện hồn mà là thăng vượt hồn. Con để cho hồn chết đi từng chút và từng chút, như ta đã từng nói là nếu con cố cứu lấy mạng sống – tức là cái linh hồn xuất phát từ nhị nguyên – thì con sẽ đánh mất sự sống. Nhưng nếu con sẵn sàng bỏ mạng sống cho ta – tức là để cho linh hồn nhị nguyên chết đi – con sẽ tìm được sự sống vĩnh hằng qua tâm thức Ki-tô.
  • Trong giai đoạn thứ ba, con mới bắt đầu thực hiện những gì con đã thực sự xuống đây để thực hiện, tức là trở thành cánh cửa mở cho cá thể của Hiện diện TA LÀ được biểu hiện trong thế gian. Con sẽ đạt được tâm Ki-tô trọn vẹn khi con trở thành cánh cửa mở – và không có gì hơn.