Quyền tự quyết của con mình

Hỏi: Tôi là một người mẹ, và đôi khi tôi không rõ phải đối xử ra sao với quyền tự quyết của con tôi. Tôi phải tôn trọng quyền tự quyết của nó đến độ nào? Thí dụ như khi nó muốn xem truyền hình hay chơi trò chơi trên máy tính quá lâu. Tôi cần kiểm soát thời khóa biểu của nó. Tôi có thể làm điều này chăng mà vẫn tôn trọng quyền tự quyết của nó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, ngày 1/4/2024, nhân Khóa học trực tuyến Giải thoát Ki-tô vào dịp Lễ Phục sinh 2024.

Con không thể chỉ nhìn vấn đề dưới góc độ quyền tự quyết của con trai của con. Vì con trai của con sống trong nhà con và các con là một gia đình, nên quyền tự quyết của con trai của con phải quân bằng với quyền tự quyết của các người khác trong gia đình. Do đó, lúc nào cũng có vấn đề quân bằng quyền tự quyết của một cá nhân và quyền tự quyết của bất cứ nhóm nào mà cá nhân đó là một thành viên. Như các thày có nói, không có cá nhân nào là một ốc đảo, do đó ai nấy đều thuộc vào một nhóm.

Do đó, con có quyền định ranh giới cho các con của con, đúng thực là con có bổn phận định ranh giới cho chúng. Chúng có thể có lúc nổi loạn chống lại ranh giới do cha mẹ quy định, nhưng có ranh giới để chúng nổi loạn chống lại vẫn tốt cho chúng hơn là không có ranh giới. Các cha mẹ không chịu định ranh giới cho các con không thực sự tôn trọng quyền tự quyết của chúng, vì một đứa trẻ chưa đủ chín chắn để quyết định mình muốn làm gì. Một đứa trẻ cần liên hệ với một cái gì, và khi nó dần dần khôn lớn thì nó biết rõ hơn nó là ai và nó muốn gì.

Ngoài ra con cũng cần quan tâm là bất cứ người trưởng thành nào cũng cần sinh hoạt như một thành viên của một nhóm, và nếu người đó không học được điều này khi còn thơ ấu thì sẽ khó học hơn khi đã trưởng thành. Do đó, như một phụ huynh con có quyền và bổn phận định ranh giới cho các con của con để chúng biết cách sinh hoạt như một gia đình, và đây sẽ là nền tảng để chúng biết cách sinh hoạt trong xã hội. Nếu không thì chúng sẽ trở nên giống như những người cảm thấy rất khó sinh hoạt trong khung cảnh một nhóm người, và điều này không phục vụ quyền lợi của chúng.

Cơn hoảng loạn

Hỏi: Một vài năm trước đây, vợ con bị cơn hoảng loạn đầu tiên. Cơn ấy rất dữ dội. Con ở gần cô ta lúc đó. Cô không đụng đậy được, không giải thích được gì và kiệt sức. Con cảm thấy có cái gì trơn tuột và rất khó chịu chạy dọc xuống lưng con. Nó giống như nỗi kinh hãi mãnh liệt và nỗi sợ hãi thâm nhập.  Con bị cú sốc vì chưa bao giờ bị một cái gì giống như thế trước đây. Chúng con đã cố giải quyết vấn đề này nhiều năm nhưng con e rằng con không giúp được vợ bao nhiêu vì những điều kiện như thế không tự nhiên đối với con và đối với chúng con khó hiểu được nguyên nhân và khó tìm những phương pháp trị liệu hữu hiệu. Nhiều người dân Ukraine có những triệu chứng tương tự từ khi có chiến tranh. Xin các chân sư thăng thiên cho chúng con một cái nhìn bao quát về vấn đề này và phương thức giải quyết.


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Kazakhstan 2023. Đăng ngày 3/11/2023.

Tuy các cơn hoảng loạn (panic attack) luôn luôn do tà lực tạo ra, thày không nói là chúng luôn luôn do sa nhân trực tiếp tạo ra cho dù nếu con lần theo tà lực thì con cũng tới sa nhân. Nhưng có nhiều tà lực nơi cõi tình cảm liên tục tìm cách áp đảo tình cảm con người và khiến họ rơi vào trạng thái mà con có thể gọi là hoảng loạn. Với người trong thế gian thì không có cách hữu hiệu nào để giải quyết hoảng loạn. Nếu con mở tâm với con đường tâm linh và giáo lý chân sư thăng thiên, thì chắc chắn con có thể nhận ra đây là tà lực và con cần xem hoảng loạn là sự tấn công của tà lực và con đọc các bài thỉnh Đại thiên thần Michael và Astrea, Shiva và chính thày để kêu gọi các thày bảo vệ, trói buộc tà lực, bảo vệ người bị tấn công, bảo vệ hào quang và thể tình cảm của người đó. Sau đó, dài hạn hơn, con cần giải quyết tâm lý của người đó và hỏi tại sao người đó dễ bị tấn công kiểu đó?

Con có thể nói là tà lực liên tục phóng năng lượng thấp tới tất cả mọi người, nhưng không phải ai ai cũng bị choáng ngợp và bị hoảng loạn. Luôn có một nguyên nhân tâm lý giải thích tại sao một người nào đó dễ bị tà lực áp đảo. Lẽ tất nhiên có một ngã tách biệt được tạo ra trong một kiếp sống trước khi người đó gánh chịu một chấn thương tâm lý (trauma) nặng nề. Và khi con đã bị một chấn thương tâm lý rất nặng như thế thì con luôn lo sợ là một chuyện tương tự có thể xảy ra nữa. Và đấy là nguyên nhân tại sao con dễ bị tà lực dùng nỗi sợ của con để tìm cách khống chế con.

Con cần nhìn vào tâm lý mình để phơi bày tại sao con có ngã tách biệt này, đặc tính của nó là gì, niềm tin đằng sau ngã là gì và sau đó con làm việc để giải quyết ngã này. Ngay cả ngành tâm lý truyền thống cũng có thể giúp con thấy rõ những điều này nhưng quả thực con không thể giải quyết hữu hiệu cơn hoảng loạn trừ khi con dùng những phương tiện tâm linh để bảo vệ con và cắt đứt con khỏi các tà lực nơi cõi trung giới. Lẽ tất nhiên, những điều ở trên áp dụng không những cho người dân Ukraine mà cũng áp dụng cho bất cứ ai đã từng gánh chịu chấn thương tâm lý như thế. Nếu con là người thích tâm linh thì dứt khoát là con nên dùng các dụng cụ tâm linh để bảo vệ trường năng lượng của con khỏi sự tấn công dữ dội của các tà lực này. Nếu người tâm linh có thể chấp nhận những ý trên và chấp nhận giáo lý khá giản dị này, chúng có thể có tác động lớn đến sự tăng triển tâm linh của họ. Bởi vì tuy nhiều, nhiều người tâm linh không bị hoảng loạn hay cảm thấy bị choáng ngợp nhưng sự tăng triển tâm linh của họ vẫn bị trì hoãn bởi ảnh hưởng của tà lực có khả năng khiến họ rơi vào phản ứng mất quân bình. Một phản ứng mất quân bình không nhất thiết có nghĩa là con cảm thấy sợ. Nó có thể có nghĩa là con chối bỏ, con chối bỏ là không có lý do gì cho con sợ hãi bởi vì “Mọi chuyện đều tốt đẹp cả”, như rất nhiều người tâm linh thường nói. Nhưng con nhìn hành tinh đấy và con nhận ra rằng mọi chuyện không tốt đẹp trên trái đất. Và nếu con không có biện pháp gì để ngăn chặn tà lực, thày có thể bảo đảm với con là tà lực sẽ không tự ngăn chặn đâu.

Bài học đằng sau đại dịch COVID

Hỏi: Đâu là những bài học quan trọng mà đại dịch COVID đã dạy cho thế giới? Là học trò của chân sư thăng thiên, làm thế nào chúng con có thể tiếp tục nâng cao ý thức về đại dịch này?

Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.


À, thày đề nghị là chúng ta đổi lại câu hỏi: “Đâu là những bài học quan trọng mà đại dịch COVID đã có thể dạy cho thế giới?” Vì sự thật là đối với nhiều người trên thế giới, COVID đã không dạy cho họ bất cứ điều gì, và một trong những lý do lớn nhất là quá nhiều người đã trở thành nạn nhân của các thuyết âm mưu (conspiracy theory) cho nên họ đã chọn cách tiếp cận ý thức hệ thay vì cách tiếp cận trực giác. Ta không bảo là mọi người phải được chủng ngừa, mà ta sẽ nói là không ai nên từ chối chủng ngừa dựa trên cách tiếp cận ý thức hệ xuất phát từ một thuyết âm mưu hoàn toàn không có cơ sở.

Sẽ tốt hơn nhiều nếu mọi người hòa điệu với trực giác của mình, và như các thày đã có giảng, chỉ khi nào con ở trong một tâm thái trung hòa thì con mới có thể có được trực giác chính xác, và nếu mọi người đã làm vậy thì rất nhiều sinh mạng đã có thể được cứu sống.

Nhưng một trong những bài học quan trọng đã được rút tỉa, ít ra bởi một số người cả trong giới chính quyền lẫn tư nhân, là một tình thế như vậy thực sự đòi hỏi một ý thức cộng đồng và một ý thức trách nhiệm xã hội, qua đó mỗi cá nhân đóng góp phần mình để cải thiện tình thế bằng cách lấy những biện pháp thiết thực do chính quyền đề xướng, vì mặc dù các biện pháp này không hiệu quả 100%, chúng vẫn còn tốt hơn là không làm gì. Có những nước đã tăng cường ý thức trách nhiệm xã hội của mình, và có những nước chỉ có một số người làm được vậy, trong khi có những nước khác nơi ý thức trách nhiệm xã hội đã bị giảm sút. Đặc biệt đây là trường hợp ở Hoa Kỳ nơi quá nhiều người đã tin theo các thuyết âm mưu về bệnh này.

Nhưng nhiều nước cũng đã học được sự cần thiết phải hợp tác, và điều nhiều nước đã bắt đầu học được là trong những tình thế như thế này, họ cần phải có – và họ phải đòi hỏi – sự lương thiện, trung thực và trong sáng. Rõ ràng là nếu Trung quốc đã cởi mở hơn khi trận đại dịch bắt đầu bùng nổ thì rất nhiều đau khổ và chết chóc đã có thể tránh khỏi. Và có một nhu cầu hiện nay chưa biểu hiện là nhu cầu tạo thêm áp lực trên Trung quốc để chính quyền nước này thừa nhận là họ không thể cho phép một chuyện như vậy tái diễn.

Tất nhiên, Trung quốc cũng đang ở trong giai đoạn sơ khởi nhận ra là cách tiếp cận ý thức hệ dẫn tới chính sách zero-COVID là sai lầm và mất quân bình. Kỳ thực, chính sách này đã không cứu được mạng sống nhưng lại gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế. Có một tiềm năng là dần dần Trung quốc sẽ rốt cuộc nhận ra là mình cần phải chất vấn cách tiếp cận độc đoán này, và nhờ vậy tránh rơi ngày càng sâu hơn vào chủ nghĩa độc đoán do giới lãnh đạo hiện tại chủ trương.

Điều các học trò của chân sư thăng thiên có thể làm là, tất nhiên, thỉnh gọi qua các bài thỉnh, bài chú để thế giới học được các bài học và hòa điệu với các chân sư thăng thiên, nhưng hiện nay có quá nhiều ưu tiên khác cho nên mỗi các con cần lấy quyết định riêng của mình trong chuyện này.

Sợ biểu lộ chính mình

Hỏi: Khi con nói chuyện với người khác, con cảm thấy khó mở lòng ra và nói về bản thân mình. Con không chắc chắn vấn đề này là do lòng sợ hãi và xấu hổ, sự thiếu tự tin do thiếu tình thương vào tuổi thơ ấu, những chấn thương trong khi lớn lên và trong tiền kiếp, hay là một sự đồng hóa sâu xa với ngã gốc của mình. Khi đụng tới chuyện phải bộc lộ và tự bày tỏ, con cảm thấy như thể giác quan của con bị tê liệt. Con xin hỏi Mẹ Mary làm thế nào con có thể giải quyết vấn đề này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Một triệu chứng nghiêm trọng như thế bắt nguồn từ chấn thương nhập đời vũ trụ, chủ yếu là ngã gốc của con vì con đã bị tổn thương khi con biểu lộ bản thân mình. Ngã gốc suy luận là nếu con không bao giờ tự biểu lộ một cách tự do nữa thì con sẽ không bị tổn thương như vậy nữa.

Điều con cần làm là dùng giáo lý các thày đã trao truyền trong quyển sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh cùng những quyển tiếp theo sau. Con dùng các giáo lý này để phơi bày các ngã đó mà con đang mang trong tiềm thức, và con làm việc ngược trở lại cho đến chấn thương nhập đời là điểm con có thể nhận ra, như các thày đã trình bày, là con sẽ không bao giờ bị tổn thương như con đã từng bị tổn thương trong chấn thương nhập đời. Kể từ thuở đó con đã có nâng cao tâm thức, cho nên con có khả năng đương đầu với các năng lượng đó, vượt qua chấn thương và tự đặt mình trên một con đường hướng thượng tích cực.

Tại sao con lại chọn sinh con với nhu cầu đặc biệt?

Hỏi: Con trai của con năm nay 15 tuổi, nó mắc chứng tự kỷ (autism) và các chứng chậm phát triển liên quan đến tự kỷ. Điều này có nghĩa là nó hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình, chủ yếu là chính con để đáp ứng mọi nhu cầu của nó. Con cũng ở trong một cuộc hôn nhân độc hại, và suốt 17 năm chung sống, tình trạng của con với chồng con đã rất khó khăn. Con bị xâu xé giữa ý tưởng là con có thể trợ giúp con mình tốt nhất bằng cách ở lại trong hôn nhân và giữ cho gia đình bền chặt, và ý tưởng là con sẽ ra đi. Nhưng con lo sợ việc bỏ chồng sẽ khiến con trai con buồn khổ do gia đình đổ vỡ. Con cũng cảm thấy có lẽ đây là ngã gốc hay những ngã khác đang phóng chiếu là con phải thoát ra khỏi cuộc hôn nhân vì đôi khi có vẻ như con không thể chịu đựng được nữa.

Con đã cố tìm cách giải quyết tình trạng khó xử này từ khá lâu nay nhưng con đã không thành công, vì những điều con muốn cứ không ngừng chao đảo, và nỗi hoài nghi cứ khiến con day dứt vì con không chắc chắn sự hướng dẫn nội tâm mà con nhận được đến từ thày. Con muốn các thày cho con biết là con cần xem xét và tập trung vào đâu để con biết cách giải quyết tốt nhất cho hoàn cảnh của con.

Xin các thày cũng giải thích là chuyện này nói lên điều gì về quyền tự quyết. Con có thể học hỏi được gì về quyền tự quyết khi con chọn có một đứa con với nhu cầu đặc biệt? Có khía cạnh nào về quyền tự quyết mà con chưa xem xét đã khiến con bị bứt rứt quá đỗi và không biết làm sao bước đi tiếp trong đời?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 10/7/2023.

Bất cứ khi nào con cảm thấy cắn rứt, xâu xé và không chắc chắn về hướng đi của mình, thì đó là do một số ngã trong tiềm thức của con đang xung đột với nhau và cố kéo con về những hướng khác nhau. Lời khuyên hay nhất mà ta có thể cho con trong tư cách một đệ tử của chân sư thăng thiên là con hãy sử dụng sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh cùng các quyển khác trong cùng bộ. Mục đích là để phơi bày các ngã đó ra, làm việc xuyên thấu qua chúng cho đến khi con chạm được chấn thương nhập đời của con.

Trên thế giới có những người đã thảo trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình việc mang gánh nặng một người khuyết tật trong gia đình, và có nhiều lý do khiến họ đã quyết định như vậy. Trong một số trường hợp, đó là vì trong những kiếp trước họ đã có một quá trình từ chối lấy quyết định cho bản thân họ, luôn luôn mong mỏi có một thế lực nào đó từ ngoài sẽ bảo mình phải làm gì. Cho nên họ đã cố tình đặt mình vào một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn để khiến họ đến chỗ phải tự quyết định lấy, rồi phải giữ vững quyết định này cho dù đó là gì.

Cũng có những người chọn bước vào hoàn cảnh này vì hoàn cảnh sẽ dạy họ phân biệt được tự do vỏ ngoài với tự do nội tâm. Đã có ví dụ những người sống nhiều năm trong tù khám mà vẫn đạt được một trạng thái nội tâm tự do về mặt tâm lý hơn cả những người sống bên ngoài, và theo một nghĩa nào đó, con có thể nói là con đang sống trong một hình thức tù ngục. Con có thể xét xem con cần làm gì để đạt tới điểm con cảm thấy tự do hơn trong nội tâm, bất kể hoàn cảnh vỏ ngoài có là gì.

Dĩ nhiên, sự bất đồng trong hôn nhân cũng liên quan đến một số ngã mà con đang mang trong tiềm thức – và hiển nhiên chồng con cũng có một số ngã tiềm thức của anh ấy – nhưng đối với con, tất nhiên việc dễ làm hơn là con làm việc với chính tâm lý mình, rồi con nhìn xem làm như vậy có thay đổi cách cư xử trong quan hệ hay trong gia đình hay không.

Như một nhận xét tổng quát, con cũng có thể tìm xem ở nước con có những cơ quan nào có thể giúp con trong vấn đề này, hầu con không phải hứng chịu tất cả gánh nặng một mình. Chắc chắn ta có lòng từ bi đối với hoàn cảnh của con, nhưng để cho con một điều gì khả dĩ thay đổi được phương trình, gần như luôn luôn con sẽ cần tìm cách phơi bày các ngã tách biệt đang tạo ra phản ứng của con, đang khiến con hoài nghi, thì sau đó con sẽ nhìn thấy rõ hơn.  

Lạm dụng tình dục trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích cho chúng con cơ chế năng lượng của ấu dâm cùng những hành vi che giấu trong Giáo hội Công giáo. Việc sa nhân xâm hại tình dục không phải là chuyện lầm lỗi vì sa nhân rất lành nghề trong các kỹ thuật bòn rút năng lượng. Nhưng điều khiến con hoang mang là những vụ lạm dụng tình dục đã xảy ra với một số vị sư hàng đầu của Phật giáo Tây Tạng và những vụ này đã được che đậy trong nội bộ hay có khi bị truyền thông phơi bày.

Đã có rất nhiều bản tin về hành vi xâm phạm tình dục các nữ đệ tử bởi những nhà sư rất được kính trọng. Liệu việc tà dâm sẽ chẳng cản trở sự phát triển tâm linh cùng việc thăng thiên của các vị đó hay sao? Liệu chúng con có nên xem việc lạm dụng tình dục của các nhà sư Tây Tạng là hệ quả của một truyền thống tôn giáo trọng nam một cách độc đoán chăng? Hay chúng con nên giả sử là trong số các vị Rinpoche của Tây Tạng có thể có sa nhân? Con không nghĩ là một người đã đạt được một mức tâm thức cao cần đến chuyện đánh cắp năng lượng qua việc xâm hại tình dục, cho nên con hoàn toàn không hiểu nổi tại sao họ lại cư xử như vậy trong việc thể hiện tình dục của họ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 7/7/2023.

Vấn đề thực sự trong tất cả những trường hợp đó là cho dù con có theo một truyền thống tâm linh nào – có thể là truyền thống đạo Phật, truyền thống đạo Cơ đốc, truyền thống đạo Ấn – con sẽ thiết lập một loại tổ chức nào đó, một giáo hội nào đó, một truyền thống tu viện nào đó. Con thiết lập một cấu trúc thứ bậc nhất định và luôn luôn sẽ có sự phóng chiếu là những ai đã đạt được một vị trí cao hơn trong tổ chức vỏ ngoài cũng phải đạt đến một mức tâm thức cao hơn. Đây là cạm bẫy tàn hại cho tất cả mọi người tâm linh trong mọi truyền thống tâm linh. Có lẽ sự lầm lẫn này là một cách phản ứng có thể thông cảm được – ít ra là thông cảm được trong quá khứ, nhưng không thể thông cảm hay bào chữa được trong thời đại hôm nay.

Thực tế là bất cứ khi nào con tạo ra một tổ chức có cấu trúc thứ bậc nơi người càng ở trên cao càng có nhiều quyền hành, thì tổ chức này sẽ thu hút những ai mong muốn quyền lực, hay địa vị, hay uy tín. Nhưng có thật khó lắm hay chăng để nhìn ra là những ai chạy theo quyền lực, địa vị và uy tín không thể là người có tâm thức cao? Bởi vì tại sao một người có tâm thức cao, một trạng thái tâm thức tâm linh, lại muốn quyền lực, địa vị và danh vọng trên trái đất chứ? Thật không khó lắm để con xoay chuyển và nhìn ra là không một truyền thống hay tổ chức tâm linh nào có thể thoát khỏi cơ chế này. Con tạo ra một số địa vị và các địa vị này sẽ hấp dẫn những ai muốn hưởng một điều gì đó từ địa vị. Và những người này có thể là sa nhân, nhưng họ cũng có thể là những người chưa sa ngã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, thậm chí bị chi phối bởi lời gian dối cho rằng nếu họ đạt được một chức vụ trong tổ chức tâm linh chân chính độc nhất này thì nhất định họ sẽ phải được nhận vào thiên đàng.

Quả thật là trong truyền thống Tây Tạng và các truyền thống Phật giáo khác có những sa nhân đã đạt đến các chức vụ cao cấp, và do đó họ đã lạm dụng những người thấp hơn họ, như sa nhân vẫn thường làm. Có một số người đã đạt được các chức vụ đó và mở ra cho các thế lực bóng tối từ cõi cảm xúc, và các thế lực này đã khiến họ xâm hại tình dục người khác để các sinh thể ở cõi cảm xúc có thế rút lấy năng lượng từ họ.

Hiển nhiên là con hoàn toàn chính xác khi con nói một người với trình độ tâm linh cao hơn sẽ không cần lấy năng lượng từ người khác, cho dù là qua sinh hoạt tình dục hay qua việc người khác kính trọng, thờ phượng hay đưa họ lên làm thần tượng. Cho nên khi con thấy người nào cần những thứ này thì con biết họ không ở trong một trạng thái tâm thức cao. Nhưng một lần nữa, vấn đề là các tổ chức tâm linh phóng chiếu ra là những ai ở các chức vụ lãnh đạo nhất định phải là người có tâm thức cao – và sự thật thường thường không là như vậy, bởi vì trong một truyền thống tâm linh hay một giáo hội được thành lập lâu đời với một guồng máy tổ chức to lớn, những ai bị thu hút vào các chức vụ lãnh đạo chính là những kẻ mong muốn một cái gì đó của thế gian mà họ nghĩ chức vụ sẽ cung cấp cho họ.

Đơn giản là con cần điều chỉnh lại cái nhìn của con. Nếu con biết Giáo hội Công giáo đã bị nạn ấu dâm và xâm hại tình dục lũng đoạn, tại sao con lại nghĩ là Phật giáo Tây Tạng hay bất kỳ truyềng thống tâm linh nào khác sẽ không bị lũng đoạn như vậy? Điều này cho thấy là con có một xu hướng thần tượng hóa nào đó đối với một truyền thống tâm linh đặc thù, vì một cách nào đó, con nghĩ là mặc dù truyền thống này do người phàm điều hành, nhưng những người phàm này sẽ không làm giống như những người phàm kia. Nhưng niềm tin này không thực tế đâu con.

Ta hoàn toàn không dung túng hay bào chữa sự lạm dụng tình dục cho dù trong một truyền thống Phật giáo hay bất kỳ truyền thống nào khác. Đương nhiên những người làm vậy sẽ tạo nghiệp cho chính họ, và sẽ không có cách nào họ thăng thiên được sau kiếp này hay có lẽ sau nhiều kiếp, hay có thể là không bao giờ.

Nhưng câu hỏi cũng cần được đặt ra trong bối cảnh này là liệu trong thế giới hiện đại có cần tiếp tục truyền thống độc thân cho những người tâm linh trong một tổ chức tâm linh không? Rõ ràng nạn ấu dâm và xâm phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo liên hệ chặt chẽ với sự đòi hỏi là các linh mục phải sống độc thân, nhưng điều này cũng không khác gì bất kỳ truyền thống tâm linh nào khác nơi sự độc thân cũng là một yêu cầu. Nhưng liệu nó có còn cần thiết hay không? Trong quá khứ đã có lý do để đòi hỏi như vậy, nhưng liệu có cần thiết hay không trong thời đại hôm nay? Ta không cho con một câu trả lời dứt khoát là có hay không, mà ta chỉ nói rằng nếu con thực sự mong muốn khắc phục nạn lạm dụng tình dục thì con cần giải quyết vấn đề này. Việc sống độc thân có cần thiết trong thời hiện đại hay không, và nó có cần thiết hay không trong một truyền thống tâm linh?

Điều gì là cần thiết trong một truyền thống tâm linh? Đó là sự điều ngự các ham muốn tình dục. Nhưng mục tiêu này có nhất thiết đạt được một cách tự động qua việc phủ nhận các ham muốn tình dục? Hay thật ra mục tiêu sẽ đạt được hiệu quả hơn qua sinh hoạt tình dục trách nhiệm? Không có câu trả lời rõ rệt là có hay không cho những câu hỏi trên, nhưng đây là những câu hỏi cần được đặt ra để có thể khắc phục vấn đề.

Và tất nhiên, ta biết rất rõ là trong nhiều truyền thống đạo Phật sẽ có nhiều sự chống đối không muốn nhìn vào điểm này. Nhưng nếu thế thì vấn đề xâm phạm tình dục sẽ chỉ càng ngày càng trở nên tệ hơn để buộc mọi người phải xem xét vấn đề.

Ý nghĩa của trinh tiết

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, xin thày vui lòng tiết lộ bí mật về mục đích của trinh tiết nơi các thiếu nữ trong đạo Cơ đốc. Người ta rất coi trọng trinh tiết và áp đặt nhiều cấm đoán, luật lệ đối với các cô gái ngay từ tuổi thơ ấu. Tại sao thiếu nữ bị phái nam dụ dỗ, bị thúc ép để có quan hệ tình dục trước hôn nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Tùy vào tiền kiếp của mỗi người, nhưng hầu hết trẻ em đều sinh ra với một ân sủng trong sáng, ngây thơ nào đó. Nói cách khác, con có thể bảo là ở tuổi thơ ấu, có một phần nào đó của quá khứ, của nghiệp chướng, của năng lượng tha hóa, của động lượng mà con đem theo từ tiền kiếp sẽ được giữ lại, để trong tuổi thơ ấu con có cơ hội tạo ra một cách tiếp cận mới cho cuộc sống trong kiếp này. Nhìn từ nhãn quan này, con có thể nói là nhiều đứa trẻ khởi sự cuộc sống với một nét hồn nhiên, một năng lượng thuần khiết nào đó.

Không phải tất cả mọi trẻ em đều như vậy, tùy vào tiền kiếp và tùy vào tâm lý em bị thương tổn và phức tạp đến chừng nào, nhưng hầu hết các em đều như vậy. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là em có một năng lượng nào đó, một ánh sáng tâm linh nào đó, và khi em lớn lên, có nhiều yếu tố có thể khiến em đánh mất năng lượng này, đánh mất sự hồn nhiên này. Trong số đó có quan hệ tình dục. Không có nghĩa là em phải mất sự hồn nhiên trong một quan hệ tình dục, nhưng đây là một trong những yếu tố sẽ lấy đi sự hồn nhiên của em. Một yếu tố khác là rượu, ma túy, thuốc lá, bạo hành cùng nhiều thứ nữa.

Trong số các sa nhân đầu thai và suốt một thời gian rất dài, người ta đã đề ra một khái niệm là việc quan hệ tình dục với trẻ em hay với thanh thiếu niên còn trinh trắng có thể đem lại nhiều ánh sáng hơn. Và tất nhiên, các sa nhân bị cắt đứt khỏi nguồn ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của chúng, sẽ phải đoạt ánh sáng theo chiều ngang từ một ai khác trong thế gian. Chúng tìm kiếm điều này qua quan hệ tình dục với trẻ em, và ngay cả trong số các trẻ em đó thì chúng tìm kiếm trẻ em còn trinh trắng vì ở lần đầu tiên sa nhân có thể cướp được nhiều ánh sáng hơn. À, ta không bảo là con sẽ tự động đánh mất tất cả hồn nhiên tuổi thơ của mình lần đầu tiên con quan hệ tình dục, nhưng nếu con quan hệ lần đầu với sa nhân thì xác suất rất cao là con sẽ mất đi phần lớn. Nếu con quan hệ với một người không phải là sa nhân thì sự thể không đến nỗi như vậy. Nhưng sa nhân rất lão luyện trong việc rút năng lượng của người khác, cho nên nếu đứa trẻ có quan hệ đầu tiên với một sa nhân thì em sẽ đánh mất hầu hết, nếu không nói là tất cả, sự ngây thơ và năng lượng của em.

Điều sa nhân đã làm suốt các thời đại là chúng xây dựng đủ loại chủ nghĩa kín đáo – nếu có thể gọi như vậy – nhằm mục đích tạo cơ hội cho chúng đoạt ánh sáng này qua quan hệ tình dục với trẻ em hay thanh thiếu niên, đặc biệt những em còn trinh trắng. Và chúng cũng đã cố dùng đủ mọi cách để truyền bá, biện minh cho cách hành xử này. Con có thể tự hỏi tại sao một số linh mục Công giáo đã mắc vào vòng xoáy lạm dụng tình dục trẻ em như vậy, và câu trả lời là cách hành xử này bắt nguồn từ sa nhân cùng cách rút năng lượng của chúng. Không có nghĩa là tất cả các linh mục Công giáo đã lạm dụng trẻ em đều là sa nhân, nhưng chắc chắn họ đã phần nào bị chiếm hữu bởi những sa nhân đang đánh cắp năng lượng của linh mục ngay trong khi chúng cũng đánh cắp năng lượng của trẻ em.

Trong nhiều tôn giáo suốt chiều dài lịch sử đã có khái niệm xem trinh tiết là hệ trọng. Con có thể nói là một đằng, có mong muốn bảo vệ trẻ em khỏi bị quan hệ tình dục quá sớm hay thậm chí có quan hệ với sa nhân. Có một khía cạnh nhân từ trong đó mà nhiều nước dân chủ thế tục hiện đại đã bỏ quên khi các nước này cho rằng việc cho trẻ em ở mọi lứa tuổi quyền tự do quan hệ tình dục nếu các em muốn, có thể đem ra bàn cãi– vì tất nhiên, đây là một điều mọi kẻ ấu dâm đều mơ ước.

Con thấy một phần trọng điểm của cái nhìn truyền thống là để bảo vệ trẻ em, nhưng đồng thời lại có một yếu tố khác xen vào ở đây là người ta đặt thêm trọng điểm vào việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn hầu sa nhân có cơ hội đoạt lấy. Và ở đây có sự phối hợp của cái lành mạnh lẫn cái không lành mạnh.

Điều chúng ta có thể nói là việc quan hệ tình dục quá sớm có thể tai hại cho đứa trẻ. Điều này cũng tùy thuộc phần nào vào người đối tác. Nếu có hai em quan hệ với nhau ở tuổi vị thành niên thì sự mất mát sẽ không đến nỗi nghiêm trọng nếu cả hai đều ở trong một trạng thái tâm thức tốt lành. Tuy nhiên, việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn vẫn có giá trị, chẳng hạn nếu em trao trinh tiết cho một người yêu chân thành trong một mối quan hệ dài hạn nghiêm túc thay vì xem tình dục là một chuyện hời hợt như nhiều người thường làm. Và chắc chắn ta sẽ nói là tình dục trước tuổi vị thành niên thật không lành mạnh cho bất cứ ai.

Sa nhân tinh vi vô cùng. Trong một vài tôn giáo cổ xưa như đạo Cơ đốc, đạo Do Thái, đạo Hồi, xã hội do nam giới thống trị – một xã hội dựa trên người cha làm trưởng tộc. Như các thày đã giải thích nhiều lần, sa nhân tận dụng sự kiện này vì đối với sa nhân đàn ông dễ kiểm soát hơn phụ nữ. Và người ta tạo ra ý niệm: “Phái nữ có mặt là để phục vụ cho phái nam thỏa mãn tình dục, và người vợ luôn luôn phải quan hệ tình dục với chồng bất cứ khi nào chồng muốn, vân vân.” Một lần nữa điều này bắt nguồn từ sa nhân vì trong bất kỳ loại xã hội nào, các sa nhân đầu thai đều muốn chiếm lấy địa vị có quyền làm bất cứ gì chúng muốn, và sự thể này được xã hội chấp nhận và bào chữa. Đây là điểm mà con cần nhìn thấu suốt trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong xã hội, cho dù đó là chuyện tôn giáo hay chuyện gì khác như một chế độ chính trị, bất kể.    

Con có thể nói là trong nhiều hoàn cảnh đã có một ý muốn tốt lành là bảo vệ con người, nhưng sa nhân sẽ luôn luôn tìm cách khuynh đảo ý muốn đó để phục vụ quyền lợi của chúng. Mục đích là để chúng có thể lạm dụng và trốn tránh hậu quả trong khi quần chúng nói chung thì không thể.

Nguyên nhân thực của sự cô đơn

Hỏi: Nhiều người trong xã hội ngày nay cảm thấy cô đơn và con là một trong những người đó. Mặc dù con có biết về ngã tách biệt và thỉnh thoảng con cũng nhận được sáng ngộ, nhưng con không thể không cảm thấy cô đơn. Đâu là cách hay nhất để cảm thấy gần gũi hơn với một chân sư khi giao tiếp với thế giới bên ngoài? Con muốn có một quan hệ chặt chẽ hơn với một vị chân sư.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Phục sinh 2023. Đăng ngày 11/5/2023.

Câu hỏi của con cụ thể là về sự cô đơn, nhưng tại sao người ta lại cảm thấy cô đơn? Theo sự khôn ngoan thông thường – nếu có thể gọi như vậy – con cảm thấy cô đơn là vì hoặc con không có ai ở bên cạnh, hoặc con không có những người thích hợp mà con có thể cảm thấy gần gũi và do đó có thể giúp con tránh cảm giác cô đơn. Nhiều người có sự trợ giúp như vậy, và tất nhiên, có nguyên cả một ngành công nghiệp chuyên việc giúp người ta tìm được người thích hợp để không cảm thấy cô đơn.

Nhưng hiển nhiên, đó không phải là cách hiệu quả để vượt qua sự cô đơn vì sự thật, sự thật phũ phàng, là con không thể khắc phục cảm giác cô đơn qua trung gian một người khác. Con không thể khắc phục cảm giác cô đơn qua bất kỳ người nào hay bất cứ vật gì bên ngoài chính con.

Thêm vào đó – và điều này nghe cũng phũ phàng không kém – câu nói trên cũng áp dụng với một chân sư thăng thiên. Con có thể có chút kết nối với một chân sư thăng thiên, một sáng ngộ hay hướng dẫn trực giác nào đó từ một chân sư thăng thiên, nhưng điều này sẽ không giúp con khắc phục cô đơn của con. Nó có thể đánh lạc hướng mối bận tâm của con nhưng nó sẽ không giúp con khắc phục cô đơn.

Bởi vì, đâu là nền tảng của cô đơn? Đó là con, cái ta ý thức, cái Ta Biết, con không có một cảm giác kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Đây là nguyên nhân thực sự của cô đơn. Con không thể khắc phục cô đơn thông qua một người khác hay ngay cả một chân sư thăng thiên. Con chỉ khắc phục được bằng cách thiết lập một sự kết nối chặt chẽ hơn với Hiện diện TA LÀ của con. Tất nhiên đây là điều các thày sẽ trình bày nhiều hơn ở Hàn quốc vì đây sẽ là đề tài của hội nghị. Cách duy nhất để vượt qua sự cô đơn là sử dụng các lời dạy về ngã tách biệt và kiên trì làm việc với ngã tách biệt cho đến khi cái Ta Biết bắt đầu trải nghiệm Hiện diện TA LÀ một cách trực tiếp hơn. Đây là cách sẽ giúp con không còn cô đơn nữa.

Chắc chắn có những người đã bước chân trên đường tu được một thời gian, đã đạt được một cảm nhận kết nối hay hợp nhất sâu xa hơn và họ không cảm thấy cô đơn. Cho nên họ không cần ai khác đến khỏa lấp một lỗ hổng trong tâm lý họ, và chính lỗ hổng này còn khiến cho việc quan hệ với người khác trở nên khó khăn hơn vì con mang một số chờ đợi và đòi hỏi thiếu thực tế về những gì người khác phải làm cho con.

Rời xa gia đình

Hỏi: Con có câu hỏi này cho các chân sư. Con sống ở Trung Đông, và lý do con sống ở đây một phần là để luôn luôn có liên lạc và một số quan hệ với gia đình con. Sau khi đọc bài truyền đọc của Mẹ Mary “Cắt đứt quan hệ với thành viên gia đình,” con cảm thấy có đủ tự do để cuối cùng con có thể – hy vọng như vậy và ít ra trong tâm con – thoát khỏi gia đình hoàn toàn.

Đôi khi con cảm thấy kẹt cứng vì chồng con không tăng triển, và cha mẹ cùng anh chị em con cũng vậy. Chỉ có con gái con là tăng triển tâm linh và hai chúng con chia sẻ với nhau hành trình này. Cuộc sống ở bên họ có khi đem lại cảm giác nghẹt thở. Họ không cởi mở muốn thay đổi, và chính con cũng đã buông mọi dính mắc muốn thay đổi họ. Họ luôn luôn phóng chiếu ra những chờ đợi về con, và vấn đề là con luôn luôn phải tìm ra sự cân bằng để tiếp tục sống chung.

Thỉnh thoảng con cảm thấy mình muốn tự do để sau này dọn đi thật xa hầu con có thể là chính mình một cách tự do hơn, không những chỉ trong nội tâm mà cả ngoài đời. Con biết đây không nên là một quyết định dựa trên sợ hãi, nhưng việc ở lại có lẽ cũng là một quyết định dựa trên sợ hãi. Con biết có nhiều cách quyết định đúng đắn nhưng con xin cảm tạ bất kỳ ý kiến đóng góp nào về hoàn cảnh này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar Tân niên 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. Đăng ngày 27/1/2023.

Hiển nhiên điều này cần là một quyết định cá nhân của con. Và tất nhiên, có rất nhiều người ở trong hoàn cảnh tương tự như con, không chỉ tại Trung Đông mà thôi. Một trong những thử thách con phải đối mặt trên đường tâm linh, như chúng tôi đã có giảng, là nâng cao tâm thức con vượt lên trên tâm thức tập thể, và rõ ràng tâm thức này đang thể hiện trong mối quan hệ của con với gia đình. Gia đình con không ngừng nỗ lực níu kéo để con ở lại mức tâm thức của họ vì họ không muốn thay đổi. Con sẽ đối phó với sự thể này như thế nào?

Một lần nữa, đây phải là một quyết định cá nhân, và hoàn toàn đúng là quyết định này không nên xuất phát từ lòng sợ hãi. Cũng đúng là việc ở lại cũng rất có thể là một quyết định dựa trên sợ hãi, do con sợ chuyện gì sẽ xảy ra nếu con dọn đi, gia đình con sẽ phản ứng ra sao, và con sẽ cảm thấy thế nào nếu con không còn gần gũi với gia đình, nếu bỗng nhiên con sống một mình hay chỉ có một vài người chung quanh, không họ hàng trong một hoàn cảnh xa lạ.

Điều hay nhất mà con có thể làm là sử dụng các dụng cụ tâm linh và lời dạy của các chân sư về ngã tách biệt. Con có thể dùng các dụng cụ đó để nhận diện con đang có những ngã tách biệt nào liên quan đến gia đình con, hay ngay cả đi ngược trở về chấn thương nhập đời của con và nhận ra là nhiều người sau chấn thương nhập đời của họ đã cảm thấy cô đơn trong một thế giới hăm dọa. Và trong nhiều kiếp sống liên tiếp, con đã vun bồi ý muốn luôn luôn thuộc về một nhóm người nào đó để con không phải đứng một mình. Và thường khi, chính điều này là nền móng cho những dây nhợ gia đình khiến con cảm thấy gắn chặt với một gia đình – có lẽ không cùng những thành viên hiện tại – nhưng con mang một cái ngã cảm thấy con chỉ có thể an toàn trong một nhóm người.

Khi con đem những ngã đó vào nhận biết ý thức của con, con hãy nhìn chúng và để cho chúng chết đi, rồi sau đó con sẽ tự do hơn để lấy một quyết định không dựa trên sợ hãi. Chắc chắn có rất nhiều người có trù liệu trong Sứ vụ Thiêng liêng của mình việc dọn đến một môi trường khác hơn, không nhất thiết ở một nước khác nhưng chắc chắn dọn xa khỏi gia đình để họ có cơ hội làm lại một khởi đầu mới. Đức Phật cũng từng nói rằng những ai rời xa quê hương đã hoàn thành một nửa Dharma của mình rồi, và mặc dù câu này không là trường hợp của mọi người nhưng nó cũng chứa đựng chân lý trong đó.

Sứ giả này khi ông rời xa gia đình để sinh sống ở một nước khác nơi ông không có thân bằng quyến thuộc, đã chợt nhận ra là không có ai quen biết mình, không có ai chờ đợi gì ở mình. Và do đó, ông tự do tái tạo lại bản thân dựa trên con người mà ông muốn là.

Chắc chắn đó có thể là một cơ hội để con khởi đầu một giai đoạn mới trong đời con, một giai đoạn mới trên đường tu tâm linh của con. Đây là một điều con có thể cân nhắc, nhưng một lần nữa, con sẽ có khả năng lấy quyết định tốt nhất một khi con xem xét các ngã tách biệt và loại bỏ chúng, và thường thường khi đó, con sẽ không phải lấy quyết định nào bằng tâm vỏ ngoài. Bước kế tiếp của con sẽ chỉ hiện ra như là chuyện hiển nhiên.

Làm thế nào thoát khỏi một quan hệ đồng phụ thuộc

Hỏi: Con xin các chân sư thăng thiên giúp con hiểu rộng hơn về vấn đề như sau. Mẹ con là một người hà hiếp, và suốt đời con, con đã phải chịu đựng bà xâm hại con cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. Tất cả các thành viên khác trong gia đình đều đứng hẳn về phía bà và không ai ngờ được nỗi khổ của con, vì nói chung, kẻ bạo hành thường được mọi người chung quanh tin họ do họ hành xử khác nhau với từng người.

Nguyên do khiến bà ấy căm ghét con là vì cha con. Bà cho rằng cha con đã hà hiếp bà và làm tan nát đời bà. Vì một lý do nào đó, con biến thành một loại kẻ thù truyền kiếp của bà. Mặc dù mẹ con cũng biết đến giáo lý của chân sư thăng thiên, bà vẫn tìm được những luận cứ của riêng bà để kết án con là người đã khiến đời bà tan nát. Bà không chia tài sản thừa kế cho con để con có thể mua nhà riêng hầu con có thể dọn đi thật xa khỏi bà. Con đang rất đau khổ về mặt tâm lý do tất cả những chuyện xáo trộn trong gia đình. Xin các thày nói cho con biết làm cách nào con có thể thoát ra khỏi tình cảnh này. Xin giúp con thấy những gì con chưa thể thấy.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 về Ukraine. Đăng ngày 5/12/2022.

Trước hết, hãy để ta nói với con là đã có những ví dụ người ta sử dụng lời dạy của chân sư thăng thiên để biện minh cho việc tiếp tục lối sống từ chối trách nhiệm về bản thân mình. Nếu mẹ con đổ lỗi cho con về việc bà bị cha con hành hạ, thì hiển nhiển bà chưa nhận lãnh trách nhiệm về bản thân bà, và điều này có nghĩa là bà không thực sự là môt học trò nghiêm túc của chân sư thăng thiên, vì nếu có thì bà đã không hành xử như vậy.

Điều con có thể làm là nhận ra chìa khóa để thoát khỏi mẹ con không phải là chuyện nhận được gia tài hầu con có thể mua nhà riêng và dọn xa mẹ con. Chìa khóa nằm trong tâm lý của con. Con cần giải quyết cái gì ở trong tâm lý con đang khiến con nghĩ là con không thể rời đi xa. Những gì con mô tả là một mối quan hệ đồng phụ thuộc (co-dependent) điển hình, qua đó con đã trở nên lệ thuộc vào mẹ con và vì vậy con không thể tự giải thoát khỏi bà ấy cũng như sự hành hạ của bà ấy. Con có thể tìm đọc sách tâm lý học về các mối quan hệ đồng phụ thuộc, hay con có thể tìm đến các chuyên gia tâm lý có thể giúp được con, và ta khuyến khích con làm vậy. Nhưng con cũng có thể dùng các dụng cụ của các thày để chữa lành chấn thương tâm linh của con, để giải quyết các ngã tách biệt hầu con tự giải phóng ra khỏi tình trạng này.  

Đây không phải là vấn đề dọn đi xa về mặt vật lý, mà là việc rời xa về mặt tâm lý, với mục đích là cho dù mẹ con có tiếp tục cách hành xử đó thì nó không còn ảnh hưởng gì con nữa. Các thày đã cho con những dụng cụ để thực hiện công việc này, nhưng con phải sẵn lòng, con phải có quyết tâm vững mạnh muốn thoát ra – và điều này ta cũng biết là không dễ gì khi con đang ở trong một mối quan hệ đồng phụ thuộc.

Nhưng một cách nào đó, con có thể thấy được – nếu con chịu nhìn – là mẹ con đang phóng chiếu tới con là bà không thể thay đổi đời bà bởi vì con. Nhưng đồng thời, chính con cũng đang phóng chiếu tới bà là con không thể thay đổi đời con bởi vì bà. Đây là cơ chế tâm lý đồng phụ thuộc điển hình. Con cần quyết định liệu con có muốn thoát ra khỏi nó hay không, rồi sau đó con cần làm những việc cần thiết để thoát khỏi nó. Nhưng trước nhất, con cần nhận ra là không phải mẹ con đang ngăn cản con thoát ra, mà là một cơ chế trong chính tâm lý của con, những cái ngã tách biệt, đang ngăn cản con.

Những nguyên nhân của vô sinh

Hỏi: Xin thày giúp chúng con có tầm hiểu cao hơn về vô sinh (không có khả năng sinh sản) ở cả nam lẫn nữ? Xin thày chia sẻ một số lời khuyên thiết thực để đem lại quân bình cho bốn thể phàm, và làm cách nào hỗ trợ việc đồng sáng tạo một đứa bé cho cả nam lẫn nữ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, nhân Webinar 2022 cho Hoa kỳ – Hồi phục nền Dân chủ. Đăng ngày 14/11/2022.

Vô sinh có những nguyên nhân vật lý cũng như những nguyên nhân phi vật lý. Tất nhiên là có thể có những yếu tố di truyền gây ra vô sinh, có thể có những sự mất quân bình hóa học trong cơ thể, có thể có điều mà con gọi là bệnh tật trong cơ thể có thể gây ra vô sinh.

Ở mức sâu xa hơn, có thể có những lý do tâm linh mà chúng ta có thể gọi là lý do tâm lý cho vô sinh. Trong một vài trường hợp, lý do chỉ giản dị là vì việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của người muốn làm cha mẹ. Họ bị ngăn chặn trong việc thụ thai một đứa bé trong thể vật lý. Trong một số trường hợp – rất ít – họ có thể mong muốn có con trong tâm ý thức nhưng bị tâm tiềm thức ngăn chặn. Nhưng có rất nhiều trường hợp vô sinh đi ngược trở về những kiếp trước và một tâm lý chưa giải quyết.

Có những gia đình đã từng tái đầu thai cùng với nhau rất nhiều lần – cùng những linh hồn, cùng những dòng sống – nhưng họ lại không tăng trưởng khi đầu thai với nhau. Cho nên có thể có trường hợp càng ngày càng có tình trạng vô sinh trong các thế hệ mới để khiến họ không thể tiếp tục đầu thai trong cùng gia đình.

Cũng có trường hợp những người đã từng xâm hại trẻ em trong kiếp trước, và vì vậy họ bị nghiệp lực ngăn chặn không cho có con. Có những trường hợp cha mẹ không muốn có con vì đủ loại lý do khác nhau, cho nên ở tầng tiềm thức có một điểm nghẽn ảnh hưởng đến cơ thể vật lý cùng khả năng thụ thai.

Nếu con là một người tâm linh, tất nhiên con có thể sử dụng các dụng cụ của chân sư thăng thiên để chữa lành bất kỳ ngã tách biệt nào, bất kỳ tâm lý nào chưa được giải quyết từ tiền kiếp, và điều này sẽ hiệu quả trong một số trường hợp – nhưng không phải trong mọi trường hợp. Bởi vì như ta vừa nói, nếu việc có con không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con, thì con thật sự không thể làm được gì nhiều để tạo ra khả năng sinh sản vật lý.

Còn đối với những ai không tâm linh, họ không thể làm được gì nhiều, và ta cũng không thể khuyên nhủ được gì nhiều vì họ không cởi mở với một giải pháp tâm linh.

Họa sĩ Van Gogh có nhận cảm hứng từ các chân sư?

Hỏi: Phải chăng họa sĩ Van Gogh đã nhận được cảm hứng trực tiếp từ các chân sư thăng thiên để cho chúng ta thấy là toàn bộ thế giới hình tướng là sự tương tác quay cuồng giữa các sóng ánh sáng? Phải chăng cách vẽ này là cách các thày muốn nói lên là chúng con cần rèn luyện giác quan của mình nhận thức ánh sáng vật chất như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 13/11/2022.

Phải, chúng ta có thể nói là Van Gogh đã nhận được cảm hứng từ các chân sư thăng thiên. Câu hỏi đặt ra là cảm hứng này trực tiếp đến chừng nào vì tâm ông phần nào thiếu cân bằng. Nhưng rất đúng là các bức họa của ông có khả năng tạo cảm hứng cho con luyện tập cách nhìn ánh sáng vật chất để thấy nó được cấu tạo bởi năng lượng không ngừng chuyển động. Không nhất thiết là năng lượng chuyển động theo như con thấy trên các bức họa của ông, nhưng đó là những gì Van Gogh đã có thể nắm bắt. Chắc chắn ông cảm nhận được là thế giới được tạo bằng năng lượng. Và mặc dù ông không thể thực sự diễn tả bằng lời nói, thay vào đó ông đã minh họa qua hình vẽ.

Con cần nhìn nhận là rất nhiều người khắp thế giới có tầm nhìn, có viễn quan cao hơn bình thường, họ phần nào bị mất cân bằng về mặt tâm lý. Đây là một khuôn mẫu quen thuộc con có thể nhận thấy suốt chiều dài lịch sử, là những người mở ra một cách nhìn khác biệt về thực tại thường quá rộng mở. Và do đó họ bị choáng ngợp bởi các ấn tượng mà họ nhận được. Trong một số trường hợp, các ấn tượng này có thể đến từ cõi trung giới, như con thấy một số bức tranh vô cùng đen tối vào thời Trung cổ hay những truyện kể vô cùng đen tối được viết ra. Nhưng ấn tượng cũng có thể đến từ cõi cảm xúc cao, từ cõi lý trí, ngay cả từ cõi bản sắc, và trong một vài trường hợp từ cõi tâm linh. Nhiều người như vậy thấy được một khải tượng đích thực, họ có cảm nhận nối kết với một cái gì vượt khỏi cõi vật chất, chắc chắn là vượt khỏi tâm thức tập thể vào thời của họ. Nhưng họ lại không có khả năng sống một cuộc đời cân bằng.

Đây là một điều con cần suy ngẫm khi con là một đệ tử của chân sư thăng thiên, nghĩa là mặc dù việc nỗ lực đạt được một viễn quan nào đó là một điều tốt, nhưng con vẫn cần phải có một sự quân bình trong cuộc sống. Lý do duy nhất vị sứ giả này đã sống sót sau gần 20 năm trong cương vị của ông là vì hầu như từ tuổi niên thiếu, ông đã nhận biết là ông cần giữ một sự quân bình nào đó. Và mặc dù một số người sẽ nói đời ông đã không quân bình theo một tiêu chuẩn bình thường, ít ra ông đã đủ quân bình trong tâm lý để có thể tiếp tục công việc ông đang làm. Và đây là điều tất cả các con cần cố gắng làm.

Con cần tránh rơi vào hai đối cực. Con cần tránh có những nhu cầu ám ảnh cưỡng chế, như: “Có một chuyện cần phải xảy ra, một sự cố quan trọng cần phải xảy ra trong đời tôi, và nó phải xảy ra ngay tức khắc.” Và vì thế con trở nên mất cân bằng – con tìm cách chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực như nhiều người đã từng làm.

Cân bằng thực sự là bí quyết để bền vững – sự bền vững trong nỗ lực của con. Và điều này có nghĩa là con có thể tiếp tục làm cánh cửa mở, tiếp tục có được tầm viễn quan rộng lớn trong một thời gian dài hơn, thay vì rơi vào hội chứng sụp đổ toàn diện mà chúng ta hay thấy xảy ra với nhiều người cấp tiến đi tiên phong. Các thày không muốn nhìn thấy điều này nơi đệ tử của mình. Đó là vì sao các thày đã trao cho con một con đường cân bằng hơn nhiều, với những dụng cụ và kỹ thuật cân bằng mà con có thể dùng để giải quyết cái tâm lý khiến con mất cần bằng.

Vì tất nhiên, tại sao Van Gogh lại mất cân bằng? Là vì ông mang tất cả những cái ngã tách biệt được tạo ra trong tiền kiếp đi ngược trở về thuở lần đầu tiên ông đến địa cầu như một avatar và phải hứng chịu chấn thương nhập đời. Và như vậy, sự mất cân bằng của ông cứ ngày càng tồi tệ hơn trong mấy kiếp đầu thai, cho đến khi nó lên đến cực điểm như con thấy trong kiếp vừa rồi của ông.

Yếu tố hấp dẫn và sóng gió trong một quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Khi vũ trụ làm việc để ngăn trở con thì điều này có nghĩa gì? Lực của vũ trụ có vẻ như đang điều khiển các tiềm năng của con người lẫn những gì xảy ra cho con người, lực này là gì? Chẳng hạn gần đây, qua một loạt sự kiện ngẫu nhiên, con gặp được một người mà con cảm thấy một sự hấp dẫn rất mạnh, rất đặc biệt. Con nhận xét thấy có một lực cứ cố khiến chúng con phải ngăn cách, nó ngăn cản chúng con đến gần với nhau. Đây có phải là cõi của Mẹ đang dựng lên chướng ngại? Điều này hình như đi ngược lại quyền tự quyết. Xin thày giúp con nhìn ra một viễn quan cao hơn ở đây.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 cho Hoa Kỳ – Phục hồi nền dân chủ. Đăng ngày 12/11/2022.

Không, vũ trụ không đang làm việc chống lại con. Ta hiểu là nó có vẻ như vậy và nhiều người đã diễn giải theo cách đó. Các thày đã có giảng là con có thể tự xem mình đang sống trong một vũ trụ thân thiện hay một vũ trụ thù địch, và nhiều người thì lại cảm thấy họ đang sống trong một vũ trụ thù địch.

Hẳn là nhiều người đã sống qua câu chuyện của con, theo như con vừa kể là con gặp người kia, con cảm thấy có sự thu hút, nhưng hình như có một lực nào đó cứ khiến cho hai con bị ngăn cách. Ấy, lời giải thích cho sự thể này thật đơn giản: nghiệp quả. Con mang nghiệp từ những kiếp trước và nghiệp này cho con cảm giác bị người kia thu hút, nhưng nó cũng đẩy hai người xa nhau. Có thể là vì một đằng con mong muốn quân bình nghiệp chướng với người kia, nhưng đằng khác con thực sự không muốn đến gần họ vì con không ưa thích họ cùng những gì họ đã gây cho con trong một tiền kiếp. Có thể còn nhiều mối quan hệ nghiệp tạo phức tạp khác nữa cũng đóng một vai trò trong chuyện này.

Thật sự không phải là vũ trụ, cũng không phải là cõi của Mẹ, và nó cũng không đi ngược lại quyền tự quyết, vì đó là kết quả những chọn lựa mà các con – cả hai người – đã lấy trong một tiền kiếp. Đây đơn giản chỉ là vấn đề nhìn nhận là trong những trường hợp này, có một điều gì đó cần được giải quyết. Có nghĩa là con hãy đọc các bài chú để tiêu hủy hay biến hóa năng lượng đã tích tụ, xong con dùng các dụng cụ và kỹ thuật để phơi bày các ngã tách biệt mà con đem theo từ tiền kiếp, và con giải quyết các ngã này. Trong một số trường hợp, điều này có nghĩa là giờ đây con có thể có một mối quan hệ nào đó với người kia, hay cũng có nghĩa là con đi đến kết luận mình không cần thêm một mối quan hệ nữa vì con đã làm tan nghiệp chướng rồi. Vậy ta muốn nói gì ở đây?     

Một trong những hệ quả đáng tiếc mà các thày chứng kiến trong các phong trào tâm linh đủ loại là các phong trào tâm linh thường đem những người có nghiệp chướng từ tiền kiếp đến gần với nhau. Nếu tình cờ họ là người khác phái – hay ngay cả là người cùng phái trong một số trường hợp – họ có thể mang trong tâm ý tưởng là khi họ bị hấp dẫn bởi một ai đó thì họ cần có quan hệ tình dục với người này. Nhưng thường thường chính nghiệp chướng đã khiến con cảm thấy lực hấp dẫn đó vì con muốn giải quyết nghiệp chướng. Và cách hay nhất để giải quyết nghiệp chướng khi con là người tâm linh là dùng bất kỳ dụng cụ tâm linh nào mà con có – trong trường hợp của chúng ta, đó là các bài thỉnh, bài chú và việc giải quyết các ngã tách biệt. Nếu con làm vậy, con thường nhận ra là con không nhất thiết phải có một quan hệ vật lý với người kia, và kỳ thực điều này tốt hơn cho con vì nó giúp con tự do gặp gỡ một người mà Sứ vụ Thiêng liêng của con đã trù hoạch một mối quan hệ.

Nhiều người bị mắc bẫy trong các quan hệ nghiệp tạo này, có khi họ liên tiếp đi từ quan hệ này đến quan hệ khác, và điều này khiến họ bị sao lãng trong Sứ vụ Thiêng liêng của họ, đôi khi nó còn ngăn cản họ gặp một người mà đáng lý họ có thể có được một mối quan hệ tích cực hơn. Các quan hệ nghiệp tạo thường có thể rất mãnh liệt, ban đầu nó có thể cho con một cảm giác hấp dẫn vô cùng nồng nàn, nhưng sau một thời gian khi tuần trăng mật chấm dứt, đủ loại vấn đề có thể ngóc đầu lên và thường thường cả hai người nhận ra một cách hiển nhiên là họ không ưa thích gì nhau mà còn thù địch nhau một cách mãnh liệt. Tình trạng này có thể gây ra đủ loại xung đột trong quan hệ, đặc biệt là nếu giờ đây họ bị ràng buộc bởi hôn nhân hay họ có con với nhau, và vì vậy họ không thể dễ dàng bước ra khỏi mối quan hệ.

Đương đầu với tuổi già

Hỏi: Con có ý chí muốn sống, tuy vậy con không thích sống trong đau đớn thể xác cũng như trong nỗi sợ hãi những gì đi kèm với tiến trình chết trên trái đất. Những người đau ốm, làm thế nào họ bước chân được trên đường tu khi họ bị bệnh tật hay bệnh kinh niên, khi hầu hết nếu không muốn nói là tất cả sự chú ý của họ đều dồn vào việc điều trị cơ thể vật lý? Người ta bảo rằng lìa đời dễ hơn sinh ra đời. Thế nhưng nếu khi làm vậy, chúng con phải chịu nhiều năm trời đau đớn, làm thế nào chúng con có thể kiên trì để mà tinh tấn khi niềm an ủi duy nhất mà chúng con tìm cầu là thoát khỏi cơn đau và bước ra ngoài thân xác? Một số học trò của các chân sư thăng thiên đã lớn tuổi và không còn được hưởng sức khỏe tương đối nữa.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Sự phục sinh của dân chủ. Đăng ngày 11/11/2022.

Lẽ tự nhiên, ta hoàn toàn thông cảm hoàn cảnh của con và cũng là hoàn cảnh của nhiều người. Và lẽ tự nhiên, ta có lòng từ bi. Tuy nhiên, thực tế là trong hiện trạng của địa cầu với độ dày đặc hiện nay của vật chất lẫn độ dày đặc của tâm thức tập thể, sẽ có những người, kể cả những người tâm linh, phải chịu nhiều loại bệnh tật trong tuổi già.

Các chân sư đã đề cập đến điều này nhiều lần, rằng có thể có một số lý do – ngay cả không phải là do nghiệp chướng cá nhân của con – nhưng có một điều gì đó mà con đã nhận vào, và con đang giữ sự cân bằng tâm linh cho trái đất, vân vân.

Điều ta khuyên con làm là con hãy tự giải thoát ra khỏi một số chờ đợi mà có thể con đang có về thế nào là một người tâm linh. Một số các con đã tự đẩy mình vào tình cảnh cảm thấy mình phải nỗ lực thật nhiều, chẳng hạn phải đọc bao nhiều bài thỉnh bài chú, và càng ngày con sẽ càng cảm thấy khó lòng nào chu toàn được vì cơ thể của mình không cho phép.

Con hãy thoát ra khỏi những chờ đợi đó, hầu con làm tất cả mọi thứ con có thể làm mà không cảm thấy đó là gánh nặng. Con cũng có thể xoay chuyển và nhận ra rằng một căn bệnh, cho dù đau đớn hay khó chịu đến chừng nào, cũng có thể được xem là một cơ hội để giải quyết toàn bộ tâm thức của con chung quanh cơ thể vật lý. Khi con nhìn con người sống trên trái đất, con thấy nhiều người bị dính mắc vào thân xác của mình, dính mắc với sự kiện mình phải trẻ trung, phải mạnh khỏe, phải cường tráng và có khả năng làm được bất cứ gì mình muốn với một cơ thể. Và nếu con không thể làm được như vậy thì ta khuyên con nên xoay chuyển. Con có thể học các giáo lý mà các chân sư đã ban truyền. Con cũng có thể tìm đến những giáo lý khác nhấn mạnh đặc biệt đến cách khắc phục sự dính mắc với xác thân, sự lệ thuộc vào xác thân, xoay chuyển sự nhận biết của con về xác thân.

Ta cũng khuyên con nên sử dụng các dụng cụ mà các thày đã ban truyền về cách cải sửa tâm lý của mình trong các vấn đề sâu xa hơn. Những quyển sách mà con hiện đang dùng trong chương trình canh thức hiện nay, con hãy học hỏi từng quyển một. Hãy xem xét thái độ của mình đối với cơ thể, đối với cõi vật lý của con, và hãy nhìn ra rằng rốt cuộc, một khi con sẵn sàng thăng thiên thì không những con sẽ bỏ lại cái thân xác vật lý mà con đang có bây giờ, mà con cũng sẽ bỏ lại bất kỳ khả năng nào để bước vào một thân xác vật lý mới. Nếu con quyết tâm thăng thiên, điều sẽ vô cùng xây dựng cho con là con nỗ lực khắc phục mọi dính mắc đối với thân xác vật lý. Và tất nhiên, sự dính mắc này chỉ có thể ngụ trong những cái ngã tách biệt mà con đã tạo ra, thường thường trong nhiều tiền kiếp. Con hãy sử dụng tất cả thời gian con có, tất cả sự chú ý con có, để làm công việc này. Con hãy thỉnh sự giúp đỡ của các thày. Hãy sử dụng các dụng cụ để thỉnh cầu các thày giúp con nhìn ra những gì con có thể nhìn thấy về cơ thể vật lý.

Con hãy nỗ lực chuyển đổi thái độ của mình. Hãy tự hỏi: “Cái gì ngăn cản tôi bỏ lại không chỉ thân xác vật lý này mà cả mọi khả năng đầu thai trong vật lý? Liệu tôi có thực sự sẵn sàng thăng thiên hay không? Hay liệu tôi vẫn còn một cái ngã nào đó đang bám chặt lấy việc ngụ trong một xác thân vật lý, và ngã này có thể ngăn cản tôi bỏ lại địa cầu vĩnh viễn và toàn diện?”

Con hãy làm công việc này. Tìm cách phơi bày những cái ngã đó rồi giải thoát cho mình được tự do, không dính mắc với cơ thể càng nhiều càng tốt. Và chính khi con làm như thế thì việc đương đầu với bệnh tật, đương đầu với nỗi đau, cũng sẽ dễ dàng hơn. Và do đó nó sẽ cho con một cuộc sống thoải mái hơn trong những năm cuối cùng của kiếp sống này.

Các khả năng vỏ ngoài trên đường quả vị Ki-tô

Hỏi: Vì lý do gì mà một số chúng con không có nhiều khả năng vỏ ngoài trong kiếp này, khiến chúng con gặp nhiều khó khăn hơn khi đối phó với thế giới chung quanh, khi tiến bước trên đường đời hay khi giữ một công việc, v. v…? Có phải điều này liên hệ tới tiến trình gỡ bỏ khi chúng con bước gần hơn đến thăng thiên, hay có một lý do nào khác mà chúng con không biết?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và Quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Đây là một câu hỏi phức tạp vì có nhiều yếu tố cá nhân trong đó. Có nhiều người tâm linh suốt mấy kiếp qua đã xây dựng một thái độ mà chúng tôi đã có đề cập, là thái độ xem cõi vật chất, xem thế giới vật lý là kẻ thù trên đường phát triển tâm linh của mình. Sự kiện này khiến cho nhiều người tạo dựng một lực kháng cự nơi tiềm thức, có nghĩa là họ tạo ra nhiều cái ngã trong ba thể cao khiến họ cưỡng chống lại mọi công việc trong cõi vật lý. Và họ cho đó thực sự là một chỉ dấu tinh tấn tâm linh.

Họ mang lực kháng cự này trong tiềm thức, họ tự phá hoại bản thân vì họ thật sự không muốn làm công việc đó. Họ không nghĩ là họ phải cần có việc làm đó. Họ nghĩ là họ phải có thể là người tâm linh, phải có thể sinh sống làm người tâm linh, hay sống trong một tu viện như họ đã từng làm trong những kiếp trước. Đây không phải là một động lượng tích cực, không phải là một điều tích cực. Và nếu con cảm thấy đây là trường hợp của con thì đây là điều mà con nên cố gắng vượt qua.

Tất nhiên cũng có trường hợp khác là những người đã có trớn sẵn từ tiền kiếp để làm kinh doanh chẳng hạn, để theo đuổi một sự nghiệp, kiếm thật nhiều tiền, và giờ đây họ quyết định là họ muốn là người tâm linh hơn, và vì thế họ không muốn bị lôi kéo vào dòng động lượng cũ. Cho nên một lần nữa, họ cũng khởi lên một lực kháng cự nơi tiềm thức để mình không bị lôi cuốn vào vòng xoáy xây dựng sự nghiệp hay kiếm tiền mà họ đã nếm mùi trong những kiếp trước. Con có thể thấy là trong cả hai trường hợp, nguyên nhân là một sự cưỡng chống nơi tiềm thức. Và trong cả hai, đây không phải là cách tiếp cận tâm linh cao nhất, mặc dù đối với một số người, đó có thể là một trạng thái tạm thời cần thiết hầu khắc phục một số động lực của quá khứ.

Nhưng điều lý tưởng, điều lý tưởng hơn, là con có khả năng tham gia vào các sinh hoạt đời sống vật lý và thành công trong các sinh hoạt đó mà vẫn không bị chúng lôi cuốn mình vào. Con không bị lôi cuốn vào cuộc chạy đua sự nghiệp chẳng hạn, hay cuộc chạy đua làm giàu, nhưng con vẫn có khả năng giữ công việc làm của mình, kiếm tiền đủ sống cho một lối sống vừa phải, và vẫn còn thì giờ rảnh rang để tập trung vào sinh hoạt tâm linh của con. Các đệ tử của chân sư thăng thiên không nên đặt mục tiêu là mình sẽ sống nghèo, sẽ không có một cuộc sống tươm tất, sẽ không có khả năng mua một cuốn sách hay tham dự một hội nghị, vân vân.

Nếu con là một người đang trên đường đạt đến thăng thiên, một người có mục tiêu thể hiện quả vị Ki-tô hay những mức cao của quả vị Ki-tô, thì con sẽ có sẵn một số năng khiếu tự nhiên trong cõi vật lý. Con sẽ không kháng cự lại mà con sẽ nhìn vào năng khiếu đó rồi nói: “À, hẳn là tôi phải làm một số công việc để sinh sống, vậy thì tôi hãy làm cho tốt nhất.”

Và đó là cách con thị hiện các mục tiêu tâm linh của con. Nếu Giê-su đã là một người thụ động chẳng làm được chuyện gì thì thày sẽ có hoàn thành được những công việc của thày cách đây 2000 năm hay không? Cái đó cần một động lượng nào đó. Con sẽ có thể hỏi: “Nhưng Giê-su có những khả năng thực tiễn gì?” Chắc chắn Giê-su có một số khả năng phát biểu, khả năng tương tác với mọi người, vân vân. Hay con có thể nhìn vào vị sứ giả này. Ông không sống chạy theo vật chất nhưng ông đã từng giữ công việc làm khi cần thiết, ông đã thành công trong nhiều việc làm khác nhau và ông đã tự học được nhiều kỹ năng. Nếu ông không có khả năng làm việc vật lý thì làm thế nào ông đã hoàn thành được những việc ông đã hoàn thành, học hỏi kỹ năng mới để xuất bản sách, xuất bản trang mạng, vân vân?

Một khía cạnh tự nhiên ở các tầng cao của đường tu là con không bị dính mắc vào thành quả vật lý. Con không theo đuổi một sự nghiệp trong thế gian, nhưng con có khả năng thực hiện một số công việc thực tiễn, học hỏi kỹ năng, và tất cả những thứ đó là một phần của sinh hoạt tâm linh của con, một phần của Sứ vụ Thiêng liêng của con.

Khi người nữ tăng triển nhanh hơn người nam

Hỏi: Con nhận thấy xu hướng này nơi nhiều phụ nữ đã lập gia đình trong số họ hàng cũng như trong nhóm bạn bè của con, là các chị ấy dường như gặp khó khăn vì chồng mình không bước lên cao hơn. Thường thường, các chị không bằng lòng với cách chồng mình cư xử trong các tình huống. Chẳng hạn, các anh không đủ giao tiếp, không đủ chủ động hay không đủ sáng kiến, và các chị cảm thấy như thể mình luôn luôn là người phải đề nghị những việc cần làm, phải hoạch định và tổ chức các sinh hoạt, phải chăm lo nhà cửa, v. v… Rốt cuộc, dường như các chị cảm thấy vô cùng bực bội, bất mãn đối với chồng mình, và các chị tự hỏi không hiểu phái nam có vấn đề gì sai trái. Xin các thày vui lòng cho biết ý kiến để làm thế nào phụ nữ có thể hiểu rõ hơn về tình trạng này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2022 – Dân chủ và quả vị Ki-tô. Đăng ngày 24/6/2022.

Đây là một hiện tượng phổ biến được thấy ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt tại các quốc gia dân chủ nơi tâm thức của nhiều người đã tăng triển nhiều hơn. Con sẽ thấy, như chúng tôi đã có nói, một xu hướng chung chung là phái nữ cởi mở hơn phái nam trong sự phát triển cá nhân, thậm chí cả sự phát triển tâm linh hay sự chữa lành tâm lý. Điều này có nghĩa là trong nhiều mối quan hệ có sự phát triển không cân xứng, qua đó người nữ tăng trưởng nhanh hơn người nam, và do vậy sẽ tới một điểm khi người nữ không còn bằng lòng với mức độ tăng triển tâm linh cũng như các sinh hoạt của chồng mình nữa. Các anh không có bất kỳ hứng thú nào làm những việc mà các chị xem là quan trọng.

Hiển nhiên, đây là một tình huống rất cá nhân trong cách con sẽ xử lý như thế nào. Không có một cách thức độc nhất. Đối với một số chị, chị ấy sẽ cần phải ly thân khỏi anh ấy, hoặc sống một mình trong một thời gian, hoặc tìm một người phối ngẫu khác tương hợp hơn với mức tâm thức cùng sự tha thiết tăng triển của mình. Nhưng đối với một số khác, chị ấy có thể tìm ra cách chung sống với anh ấy mà vẫn đeo đuổi được con đường phát triển tâm linh của mình. Và lại có một số người khác nữa có khả năng tạo được cảm hứng nơi chồng mình để anh ấy tích cực hơn trong việc theo đuổi phát triển cá nhân.

Luôn luôn sẽ có những kịch bản cá nhân cho mỗi người, nhưng rõ ràng là nếu có khoảng cách quá lớn giữa hai người trong trình độ tâm thức cũng như trong cách trải nghiệm sự phát triển tâm thức, thì sẽ xảy ra căng thẳng, và rất có thể sẽ tới một điểm khi người phối ngẫu tha thiết phát triển hơn sẽ cảm thấy cần phải tự loại mình ra khỏi mối quan hệ. Ta không bảo là con nên làm vậy, và ta cũng không bảo là con không nên làm vậy.

Đó là sự cân nhắc của mỗi cá nhân, và ta khuyên con không nên vội vã mà nên nỗ lực chữa lành tâm lý của mình càng nhiều càng tốt, gia tăng khả năng trực giác của mình, hầu con không lấy quyết định với tâm vỏ ngoài mà con đạt tới điểm khi quyết định đó đến với con từ bên trong. Con trung hòa về vấn đề này, và quyết định đó hiện ra như một điều phải, một điều đúng lúc, đúng thời.

Tất nhiên, điều này đặc biệt áp dụng cho trường hợp con có con cái. Khi đó, có thể con sẽ cần xem xét kỹ lưỡng việc ở lại trong mối quan hệ để cho con mình một nền dạy dỗ bảo đảm hơn. Nhưng một lần nữa, có nhiều yếu tố cá nhân cho con cân nhắc khi con đơn giản cảm thấy mình cần phải bước tới để có thể trải nghiệm sự tăng triển tối đa. Điều này con sẽ có thể làm được khi con hòa điệu với Sứ vụ Thiêng liêng của con, khi con chữa lành tâm lý của con và cố gắng càng trung hòa càng tốt.

Có cần thay đổi quá khứ hay không?

Hỏi: Con biết là vũ trụ là một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu vậy thì con có thể nào đi ngược trở về cõi quá khứ và thay đổi nghiệp quả bằng cách tiếp cận với dải tần số trong vũ trụ đa chiều kích, hầu sửa chữa những sự việc trong quá khứ ảnh hưởng đến con trong hiện tại?


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Làm cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 27/10/2021.

Trước hết, con cần nhìn nhận ở đây là con người thời đại hôm nay có một lối suy nghĩ đặc thù. Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã gọi tư duy này là tâm phân tích, đường thẳng. Con người có xu hướng nhìn mỗi ý tưởng xuyên qua tư duy này, rồi diễn giải nó theo một cách mà tâm có thể nắm bắt. Và điều này đã khiến cho một số người – dựa trên các giáo lý tâm linh, dựa trên các trải nghiệm cận tử hay bất cứ gì khác mà họ đã sống qua – nảy sinh ra ý tưởng là họ đang sống trong một vũ trụ đa chiều kích nơi quá khứ, hiện tại và tương lai trải bày ra cùng một lúc. Nếu con xem xét ý tưởng này chặt chẽ một chút, nó thật sự có nghĩa là gì?

Nó có nghĩa là quá khứ, hiện tại và tương lai diễn ra cùng một lượt. Nhưng khái niệm thời gian chẳng phải là để chia trải nghiệm ra thành ba giai đoạn riêng rẽ hay sao: quá khứ, hiện tại, tương lai? Làm thế nào thời gian có thể trải ra cùng một lúc nếu thời gian là một tiến trình đường thẳng? Con có hiểu ta đang cố làm gì ở đây chăng? Ta đang cố vô hiệu hóa cái tâm đường thẳng đó.

Đúng vậy, có nhiều điều có thể được nắm bắt trong vũ trụ hơn là những gì tâm đường thẳng có thể nắm bắt. Nhưng vấn đề xảy ra cho nhiều người đang bước trên đường tu tâm linh là họ cố dùng tâm đường thẳng để vượt ra ngoài tâm đường thẳng. Họ đang cố diễn đạt bằng ngôn từ những gì không thể diễn đạt bằng ngôn từ mà chỉ có thể được trải nghiệm. Một số người đã có những trải nghiệm tâm linh. Một số người đã có trải nghiệm cận tử. Và khi họ trở về, họ mong muốn mãnh liệt chia sẻ những trải nghiệm đó với người khác. Và làm thế nào chia sẻ được đây? Bằng ngôn từ. Và ngôn từ được sử dụng thế nào trong thế giới hiện đại? Qua tâm đường thẳng. Thế là họ cố sức đem vào trong bối cảnh đường thẳng một cái gì vượt ra khỏi tâm đường thẳng, một trải nghiệm vượt ra khỏi tâm đường thẳng.

Để trả lời câu hỏi của con một cách cụ thể hơn là con có thể nào đi ngược trở về quá khứ để sửa chữa lỗi lầm của mình hay không. Chúng tôi đã từng bình luận trước đây về giả thuyết con có một cỗ máy thời gian và con có khả năng du hành ngược trở lại trong xác thân để sửa lỗi lầm trong quá khứ. Nhưng một lần nữa, đây là một khái niệm vô nghĩa. Quá khứ hoàn toàn không quan trọng. Những gì đã xảy ra trong quá khứ không có gì quan trọng đối với hiện tại. Điều quan trọng ngay bây giờ là những gì con đã mang theo con từ quá khứ. Và một phần, đó là năng lượng tha hóa mà người ta thường gọi là nghiệp chướng, và phần khác là một số niềm tin, một số ngã tách biệt trong bốn thể phàm của con.

Con không cần trở về quá khứ để thay đổi, biến hóa cái nghiệp đó của con. Con chỉ cần hành động trong hiện tại. Con cũng không cần trở về quá khứ để giải quyết tâm lý của mình. Con chỉ cần xem xét nó bây giờ, sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con, giải quyết nó và để cho những cái ngã tách biệt đó chết đi. Tại sao con lại cần trở về quá khứ chứ? Thật là không cần thiết.

Con có thể làm một điều xây dựng hơn, là con nói: “Ngay bây giờ, tôi đang mang quá khứ của tôi trong tôi, theo nghĩa là tôi đang mang cái nghiệp đó và những ngã tách biệt đó cùng những chấn thương và ảo tưởng mà trong quá khứ tôi đã cho phép đi vào ba thể cao của tôi. Và nếu tôi không thay đổi những gì đang nằm ở ngay đây, những gì tôi đang mang theo tôi từ quá khứ, thì không những nó sẽ tác động hiện tại của tôi mà nó cũng sẽ tác động tương lai của tôi.” Bởi vì ngay lúc này, con có thể nhìn vào những khuynh hướng mà con đã có trong quá khứ và từ đó con có thể phóng chiếu ra những gì sẽ diễn ra trong tương lai, bởi vì con sẽ lặp đi lặp lại hoài hoài cùng các khuôn nếp đó cho tới khi con khắc phục được ngã tách biệt. Và về điểm này, con có thể nói là con đang mang theo quá khứ của con với con, và nếu con không thay đổi nó thì con sẽ mang nó theo con vào tương lai. Và nó sẽ tác động con y như nó đang tác động con bây giờ.      

Ta cũng biết, nhiều người sẽ khó lòng nắm bắt được những khái niệm này. Nhưng như ta vừa trình bày, đó là vì họ cố dùng tâm đường thẳng để làm một chuyện mà tâm đường thẳng không thể làm. Và có lẽ đây chính là điểm bế tắc to lớn nhất tại các quốc gia tân tiến. Có quá nhiều người tập trung vào tầng mức của lý trí; họ đã sẵn sàng để bước lên và tập trung vào tầng mức của bản sắc, nhưng họ không thể nào bước lên cao hơn vì họ bị kẹt cứng, họ quá dính mắc vào tâm đường thẳng, vào tâm phân tích. Họ muốn tạo ra, và họ luôn luôn tạo ra một con đường thẳng tắp cho tất cả mọi chuyện, xong họ muốn đặt tất cả mọi thứ trên cái đường thẳng đó, và mọi thứ phải diễn ra ngăn nắp toàn hảo, hết cái này dẫn đến cái kia rồi đến cái nọ, để cuối cùng họ đạt được một kết quả ngon lành như trong một phương trình toán học.

Nhưng mặc dù trong đời sống cũng có một chút toán học và những con số, nhưng con đường tâm linh không phải là một tiến trình toán học. Đó là một tiến trình sáng tạo. Không có công thức nào cả. Không có công thức nào hết. Có những công thức sẽ giới hạn con người, như con có thể nói là nghiệp của con và tâm lý của con từ tiền kiếp hình thành những công thức. Và nếu con không thay đổi bất cứ gì trong phương trình đó, thì lời giải cho phương trình sẽ nằm sẵn ở một thời điểm trong quá khứ.

Ở bất cứ thời điểm nào trong quá khứ, con có thể nhìn vào điểm đó và nói là nếu con không thay đổi gì hết từ giờ trở đi, thì đó là kết quả mà con sẽ nhận được trong mười năm nữa. Nhưng con luôn luôn có một chọn lựa, đó là con thay đổi phương trình một cách sáng tạo, và điều này sẽ thay đổi kết quả đạt được. Đây là cách duy nhất mà bất cứ gì có thể được thay đổi, bởi vì nếu không, vũ trụ này sẽ chỉ là một cỗ máy – là cỗ máy mà các nhà vật lý đã mường tượng trong các thế kỷ trước, nơi điều kiện tiên khởi của cỗ máy hoàn toàn định đoạt kết quả chung cuộc của nó.

Cách xử lý các triệu chứng mãn kinh

Hỏi: Con xin hỏi thày về các triệu chứng mãn kinh. Con đang có triệu chứng mãn kinh và một vài người bạn của con cũng bị như vậy. Triệu chứng thay đổi tùy theo mỗi người. Liệu có một cách hiệu quả nào để khắc phục chúng hay không? Và xin thày có lời khuyên nhủ nào cho chúng con là những học trò của chân sư thăng thiên đang phải chịu một số triệu chứng mãn kinh, chẳng hạn như tâm tính thay đổi thất thường và giảm sút thể lực? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Là cánh cửa mở cho hành tinh địa cầu. Đăng ngày 26/10/2021.

Trước hết, hiện nay đang có một sự nhận thức ngày càng cao hơn, đặc biệt trong giới phụ nữ, về các triệu chứng mãn kinh cùng một số hình thức trị liệu khác nhau, bao gồm cả những cách trị liệu tự nhiên mà con có thể sử dụng để ít nhất làm dịu, giảm bớt các triệu chứng.

Con cần nhận ra là ở mức hiện thời của tâm thức tập thể, cơ thể vật lý con người có một độ dày đặc nào đó. Và vì vậy, đúng thực là phụ nữ phải chịu một số thay đổi khi họ trải qua giai đoạn gọi là mãn kinh. Có một số điều con có thể giảm thiểu hoặc tránh hẳn, nhưng cũng có một số điều con không thể làm gì được. Nhưng điều con có thể làm là dùng các dụng cụ mà các thày đã trao truyền để phơi bày bất kỳ ngã tách biệt nào liên quan đến sự kiện con là một phụ nữ sống trong một thân thể phụ nữ, có con, có lẽ còn bị ngược đãi hay xem thường như một phụ nữ, bị giới hạn như một phụ nữ, cùng bất kỳ cảm xúc và phản ứng nào mà con mang liên hệ đến sự việc này.  

Ta không nói đó là điều duy nhất con nên làm. Con cũng nên theo đuổi một số phương thức vật lý, nhưng nếu con là một đệ tử tâm linh thì con hãy dùng các dụng cụ cùng các lời dạy mà con đang có. Hãy nhìn vào những cái ngã tách biệt mà mọi người đều có liên quan đến cơ thể vật lý cũng như vai trò của mình, cho dù con là người nam hay người nữ.

Hiển nhiên khi con là phụ nữ đã có các triệu chứng mãn kinh này, con có nhiều động lực hơn để làm một cái gì đó, trong khi đàn ông sẽ có xu hướng phủ nhận làm ngơ trừ khi mọi chuyện trở nên thật nghiêm trọng. Là một phụ nữ, con nên xem đây là một lợi thế ở chỗ con có cơ hội xem xét vấn đề này, làm việc với các ngã tách biệt và dần dần khắc phục chúng.

Các kỹ thuật y khoa năng lượng và dòng chảy năng lượng

Hỏi: Hiện có nhiều kỹ thuật y khoa năng lượng đang xuất hiện và con tự hỏi chuyện gì xảy ra với khoa châm cứu (acupuncture) và bấm huyệt (acupressure hay tapping). Năng lượng chảy tự do trở lại nhưng chuyện gì xảy ra với một điểm nghẻn? Làm thế nào năng lượng bế tắc có thể lưu thông điều hòa trở lại do một động tác đâm kim hay thoa bóp?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tiến đến Quan hệ Thời Hoàng kim. Đăng ngày 14/10/2021.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có giảng dạy về một số đề tài này, nhưng điều ta muốn nói thật nhanh ở đây là khoa châm cứu là một khoa học rất cổ xưa dựa trên sự hiểu biết về các đường kinh, là đường chảy của khí hay năng lượng chảy qua trường năng lượng của một người. Và tất nhiên, người xưa cũng hiểu biết là dòng năng lượng có thể bị tắc nghẽn, và bằng cách kích thích một số điểm huyệt với một cây kim hay ngay cả bằng áp lực, người ta có thể mở lại những đường kinh này để năng lượng chảy tự do hơn. Điều chúng ta đang nói tới ở đây là dòng chảy năng lượng được mở ra trở lại, cũng phần nào tương tự như khi dòng tuần hoàn của máu bị tắc nghẽn trong tĩnh mạch, nếu con loại bỏ tắc nghẽn thì máu lại lưu thông tự do.  

Nhưng tất nhiên, con có thể đi xa hơn và sử dụng giáo lý của các chân sư, và nhận ra đường kinh không chỉ là chuyện cơ thể vật lý. Con cũng có những đường kinh cảm xúc, đường kinh lý trí, đường kinh ở mức bản sắc, và những đường kinh này cũng có thể bị tắc nghẽn. Khi đó, con không thể làm lưu thông trở lại qua sự nắn bóp vật lý hay sự kích thích cơ thể vật lý. Con cần đến một kỹ thuật khác hơn và hiện nay có một số kỹ thuật khác đang xuất hiện.   

Chúng tôi đang làm việc với một số nhà trị liệu để củng cố các kỹ thuật này, nhưng nói cho cùng, con sẽ không giải quyết được một vấn đề nào trong cảm thể mà không làm hai điều. Trước hết, con cần biến hóa năng lượng đang làm nghẽn dòng chảy, là năng lượng chồng chất trong cảm thể, để khiến nó có một độ rung cao hơn rồi nó chảy trở ngược lên qua các thể phàm cao của con, để sau đó Hiện diện TA LÀ của con có thể sinh sôi năng lượng này cho nó chảy trở xuống. Và thứ hai, con cũng phải giải quyết các niềm tin, cả trong cảm thể lẫn trí thể và bản sắc thể, đang ngăn chặn dòng chảy. Việc này đòi hỏi một hình thức chữa lành sâu xa hơn. Lẽ tự nhiên, cách mà người ta thường tiếp cận là họ cố làm sao đạt được kết quả nhanh chóng. Người ta muốn một kỹ thuật dễ sử dụng, một kỹ thuật vật lý để giúp người bệnh. Những kỹ thuật này có thể giúp ích, nhưng khả năng thì giới hạn vì người ta làm việc với cơ thể vật lý.

Rốt cuộc ra thì tất nhiên, con nhận ra là mặc dù con có thể bàn cãi về dòng chảy của năng lượng qua các đường kinh, mục đích thực sự của dòng chảy năng lượng này là để khi con sử dụng năng lượng đến từ cõi tâm linh trong sự yêu thương, và con giúp người khác cũng như chính con, thì năng lượng có khả năng chảy ngược lên lại cõi tâm linh. Nơi đó, năng lượng sẽ được nhân lên gấp mấy lần và con sẽ nhận được nhiều năng lượng hơn gửi trả về cho con. Đây là điều mà Giê-su đã mô tả qua chuyện ngụ ngôn về ba người đầy tớ nhận lại những số ta-lăng khác nhau [ta-lăng vừa có nghĩa là của cải, vừa có nghĩa là khả năng].   

Và đương nhiên, khi nhiều người sử dụng năng lượng đó với một nhãn quan xuất phát từ lòng sợ hãi, họ sẽ chôn vùi năng lượng dưới đất, có nghĩa là năng lượng sẽ tụ đọng lại rồi bắt đầu làm nghẽn dòng chảy, bởi vì không có bao nhiêu năng lượng có thể chảy ngược trở lên và vì thế cũng không có bao nhiêu năng lượng được gửi trở xuống. Nói cho cùng, đó mới là điều mà còn cần hồi phục, và dĩ nhiên, đó cũng là mục đích của đường tu tâm linh khi con tăng cường dòng chảy năng lượng bằng cách khởi sự xoay chuyển các hành động dựa trên sợ hãi sang các hành động dựa trên tình thương.

Vi-rút là gì?

Hỏi: Vi-rút là gì? Trong Bài thỉnh cho Thế giới số 38, “Thỉnh Astrea tiêu hủy vi-rút corona”, đoạn 6 của phần 4 viết: “Astrea yêu dấu, chúng con kêu gọi vòng tròn và thanh gươm của thày trói chặt các ma quỷ, hồn bóng và sinh thể sa ngã, và đập vỡ cái khuôn mẫu năng lượng đang ngăn cản bản chất của vi-rút được phơi bày, ngăn cản những cách sử dụng tần số năng lượng đặc thù để tiêu diệt mọi loại vi-rút”.  Vậy thì câu hỏi là, thực sự vi-rút là gì? Thày có cái nhìn nội giác nào sâu xa hơn về việc chúng ta có thể dùng một số tần số năng lượng nhất định để tiêu diệt bất kỳ loại vi-rút nào?”


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 19/6/2021.

Ta không muốn đi quá sâu vào một cuộc bàn luận kỹ thuật vì điều này vượt quá kiến thức của vị sứ giả này. Ông không nắm những khái niệm để có thể nhận được giáo lý này và chuyển thành lời nói. Nhưng chúng ta có thể nói được là vi-rút có thể được hiểu ở tầm mức năng lượng như là một dạng rung động đặc thù.   

Tất nhiên bất cứ gì, tất cả mọi thứ đều là năng lượng, cho nên mọi thứ đều có thể hiểu được ở mức độ năng lượng. Bất kỳ loại bệnh tật nào trong cơ thể cũng có thể được hiểu ở mức độ năng lượng. Và con đã nhận được giáo lý nói rằng con có khả năng biến đổi một dạng năng lượng thấp bằng cách hướng vào đó một sóng năng lượng cao tần hơn, hay một rung động cao hơn, và khi đó con có thể chuyển hóa năng lượng thấp.   

Có thể nói, vi-rút cũng như vi khuẩn và nhiều bệnh tật khác trong cơ thể là một khuôn đúc năng lượng đặc thù. Tất nhiên là đằng sau phải có một ý tưởng nào đó, nhưng cũng có một bộ phận năng lượng mà qua đó vi-rút có thể được bẻ nhỏ ra thành từng tần số năng lượng, thành từng sóng năng lượng nhất định. Và khi con có thể nhận diện các sóng năng lượng này, tần số của chúng, đặc tính rung động của chúng, thì con có thể thiết kế một sóng năng lượng sẽ chuyển hóa năng lượng của vi-rút cho cao hơn, tức là trong bản chất, con sẽ giải thoát năng lượng khỏi cái khuôn đúc sinh tạo vi-rút.

Kỹ thuật này từ rất lâu mang tên là ngành y học năng lượng. Một số người đã có dịp nghiên cứu và thử nghiệm ngành y học này từ thời trước Thế chiến Thứ hai, đặc biệt là một vị tên là Rife sáng chế ra máy phát tần số Rife. Đây là một phát minh phần nào có giá trị.

Tuy nhiên phát minh này đã bị cố tình bưng bít, một phần bởi công nghiệp dược phẩm khi họ hiểu ra là họ không thể kiếm được nhiều tiền với máy này so với các loại thuốc hóa học. Nhưng cũng có sự bưng bít bởi ý thức hệ duy vật vì họ không thể chấp nhận là mọi thứ đều là năng lượng cùng với những hệ quả của khám phá này, bởi nó sẽ làm lung lay lời quyết đoán của các nhà duy vật rằng không có bất cứ gì ngoài vũ trụ vật chất.  

Một khi con nhìn nhận, thực sự nhìn nhận, rằng mọi thứ đều là năng lượng thì con hiểu ra là phải có những rung động năng lượng vượt khỏi những gì hiện được coi là rung động vật chất. Và điều này, tất nhiên, chỉ ra mối liên hệ giữa vật chất và tâm thức, cũng như khả năng tâm thức có thể ảnh hưởng năng lượng. Và nếu vật chất được tạo bằng năng lượng thì tâm thức cũng có thể ảnh hưởng vật chất, và đây là điều tuyệt đối cấm kỵ trong ý thức hệ duy vật. 

Hiển nhiên là trên thế giới có những người hiểu biết về lãnh vực này nhiều hơn là sứ giả ở đây. Họ đã có thử nghiệm từ khá lâu và chỉ là một vấn đề thời gian trước khi có sự đột phá và một sự công nhận rộng rãi hơn.

Một lần nữa, vấn đề ở đây là cần nhận ra rằng cái nhìn ý thức hệ về y học đang chế ngự nền y học quy ước chỉ đơn giản là một cái nhìn ý thức hệ. Cái nhìn này đang hạn chế nền y học, giới hạn cách chữa trị rất nhiều loại bệnh tật. Đây là vấn đề phải quay trở về phương pháp tiếp cận thử nghiệm và nói rằng: chúng ta không nhất thiết cần đến một ý thức hệ về thế giới tâm linh hay về cách vận hành của năng lượng, mà chúng ta cần sẵn sàng thử nghiệm. Chúng ta chỉ cần hỏi: có thể nào phát ra những rung động năng lượng chữa lành một số bệnh tật hay không? Liệu nó có giúp được con người, và nếu nó giúp được thì mặc dù ý thức hệ là gì hay chúng ta chưa hiểu được hoàn toàn, chúng ta cũng phải thực hiện thử nghiệm và tìm ra những cách chữa trị giúp nhân loại.    

Chấn thương nhập đời và cách tiếp cận trái đất

Hỏi: Con đã đi trên đường tu tâm linh một thời gian dài, và con hoàn toàn hiểu và chấp nhận khái niệm tự quyết cũng như những ngã tách biệt phản ứng. Nhưng con vẫn cảm thấy hoàn toàn yếu đuối trước những năng lượng và sự hung hãn của người khác. Cho dù con không chấp nhận những lời họ nói và những điều họ làm với con, con vẫn không thể thoát khỏi sự tấn công của họ. Nó giống như thể con đứng trước mặt họ hoàn toàn trần trụi và con không thể chống cự lại sự tấn công, con không thể tự vệ. Mặc dù con có một tâm thức khá phát triển, điều này không giúp ích cho con. Con vẫn cảm thấy nhiều đau đớn trong hầu hết mọi tương tác với thế gian. Con tương tác một cách rất tích cực và cố gắng biểu hiện tâm Ki-tô của mình, con cố tự biểu đạt trong tình thương, ánh sáng và tinh thần cống hiến. Con vẫn không thể thích nghi được với cách người ta hành xử và phản ứng hung hãn, cách người ta chối bỏ con, từ chối tình thương của con. Mặc dù con thông cảm, đó vẫn luôn luôn là một chấn động và một nỗi đau nhói. Xin thày chỉ cho con thấy những gì có thể con chưa thấy, những cái ngã nào có thể đang có mặt, và con có thể làm gì để tự giải thoát khỏi tính nhảy cảm và dễ tổn thương thái quá này.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Con yêu dấu, những gì con mô tả là trải nghiệm mà hầu hết mọi avatar đến địa cầu đều trải nghiệm. Con đến đây với ý định giúp đỡ người khác. Con làm vậy do lòng yêu thương và ý muốn giải thoát họ. Thế rồi khi con cố bày tỏ hay giải thích cho họ thấy làm cách nào họ có thể tự do, thì hoặc họ làm ngơ, hoặc trong nhiều trường hợp họ chối bỏ con một cách hung hãn, họ muốn mạt sát con, bịt miệng con, chứng minh là con sai, hay thậm chí họ tấn công thể xác của con.

Đây là một trải nghiệm mà tất cả chúng ta đã đến đây như một avatar đều kinh qua, tức là ở một thời điểm, chúng ta phải chạm trán với cú sốc là mặc dù chúng ta ở đây để giúp mọi người nhưng người ta lại không muốn chúng ta trợ giúp, họ chối bỏ và tìm cách bịt miệng chúng ta rất hung hãn. Đối với hầu hết mọi người, đây là kinh nghiệm đã tạo ra cái mà các chân sư gọi là chấn thương nhập đời – chấn thương lớn đầu tiên mà con hứng chịu sau khi đến trái đất. Nó có thể mang những hình thức khác nhau đối với mỗi người, nhưng luôn luôn có sự chấn động khi con đến trong tinh thần thân thiện nhưng lại gặp một phản ứng hung dữ.

Điều con thật sự cần làm là sử dụng các giáo lý và dụng cụ các chân sư đã ban ra để con phát hiện chấn thương nhập đời, không phải theo nghĩa là con chỉ hiểu nó một cách trí thức mà con thực sự trải nghiệm nó. Và con đi thấu suốt tiến trình nhìn ra cái ngã được tạo ra do hệ quả của chấn thương nhập đời, và để cho ngã này chết đi. Và hơn thế, con còn nhìn ra những cái ngã khác cũng được tạo ra để con tự bảo vệ hay tránh né trải nghiệm đó tái diễn.

Đó là những dụng cụ quan trọng. Nhưng con cũng cần làm điều mà sứ giả này đã làm từ khi ông chạm mặt với chấn thương nhập đời nguyên thủy và buông bỏ nó. Ông đã nhận ra lý do khiến ông trải nghiệm chấn thương đó là vì ông đã đến địa cầu với một thái độ nào đó, một số kỳ vọng và một tư duy nào đó. Và đây chính là điều ông cần xem xét và thoát khỏi hầu được giải thoát khỏi địa cầu.

Ta khuyên con nên dùng các dụng cụ, đặc biệt là bài tập hình dung của ta để con đi xuyên qua các lớp vỏ và quay trở lại rạp hát đó nơi con đứng trên sân khấu và nhìn vào những cái ngã tách biệt đó. Nhưng con cũng yêu cầu ta trợ giúp và con quán chiếu trong tâm xem thái độ cơ bản của mình trên địa cầu là gì? “Tôi nghĩ tôi đang ở đây để làm gì, tôi muốn thực hiện những gì, tôi nghĩ những gì cần phải xảy ra trên địa cầu? Đâu là thái độ cơ bản của tôi đối với người khác? Tôi nghĩ họ phải làm gì hay không được làm gì? Tôi nghĩ họ phải hồi đáp tôi như thế nào?”

Sau đó con cần nhìn nhận là một avatar không cứ đang ở đây để đem lại một thay đổi tích cực trên địa cầu, mà một avatar cũng ở đây để học một điều gì đó từ địa cầu. Và điều con cần học từ địa cầu là những gì con chưa học hỏi trên một hành tinh tự nhiên, những gì con chưa nhìn thấy nơi chính mình trên một hành tinh tự nhiên, đặc biệt là liên quan đến quyền tự quyết. Nhiều avatar mang thái độ là mình thật sự tôn trọng quyền tự quyết vì mình không cưỡng ép ai hay không cư xử hung hãn với ai, và do đó con cho rằng mọi người khác cũng không được cư xử hung hãn với con.

Nhưng trên hết, con cần nhìn nhận là trên một hành tinh như địa cầu, điều này không có gì bảo đảm. Thật là chí lý khi Giê-su dạy rằng: “Hãy làm cho người khác những gì con muốn người khác làm cho con.” Nhưng thày không hề nói là nếu con không làm một số chuyện cho người ta thì người ta cũng không làm những chuyện đó cho con. Thày không bao giờ nói như vậy. Và lý do chính là quyền tự quyết – và với mức tâm thức thấp hơn trên địa cầu, không có gì bảo đảm là nếu con không đối xử hung hãn với người khác thì họ cũng sẽ không hung hãn với con. Con cần nhìn nhận điều này.

Và con cần hiểu ra và chấp nhận đây không chỉ là một vấn đề tự quyết, mà là vấn đề tình trạng tâm thức tập thể trên hành tinh này. Nếu con mang kỳ vọng trong con là con không được bị đối xử tệ mạt khi con không hung hãn, thì đây là một kỳ vọng không thực tế. Nó rất thực tế trên một hành tinh tự nhiên nhưng nó không thực tế trên một hành tinh phi tự nhiên.

Con cần xem xét: “Tại sao tôi có niềm tin đó? Nó đến từ đâu? Nó biểu lộ điều gì về thái độ thật sự của tôi liên quan đến tự quyết, tức là tôi không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết?” Bởi vì nếu con đã hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết thì con đã không mang kỳ vọng là người khác phải đối xử với con như thế nào. Con không thể chờ đợi như vậy nếu con hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết.

Sứ giả này đã kinh qua một tiến trình, một tiến trình lần hồi nhận ra là ông đã không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết khi ông đến đây. Ông không hung hăng và ông sẽ không cưỡng ép ai cả. Nhưng ông không hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Và do đó ông đã có một số kỳ vọng. Và những kỳ vọng này đã khiến ông phản ứng lại một cách nhất định khi ông gặp sự chối bỏ và hung dữ trên địa cầu. Và để thoát khỏi khuôn nếp phản ứng đó, ông đã phải xem xét kỳ vọng cùng thái độ của mình đối với hành tinh, đối với con người, đối với những người sống trong nhị nguyên, đối với sa nhân, và ông phải khảo sát toàn bộ cái tư duy đã đưa ông đến địa cầu, đã khiến ông quyết định bước xuống một hành tinh như thế này.

Và đó là điều tất cả các con – các avatar – cần làm để được tự do khỏi hành tinh này, để vươn lên cao hơn tư duy đã đưa con đến đây. Bởi vì cái tư duy đã đưa con đến đây sẽ không thể đưa con rời khỏi nơi này, mà nó chỉ có thể giữ con lại ở đây cho tới khi con thăng vượt nó, vì đây chính là điều mà con thực sự mong muốn thực hiện khi con đến đây.

Phải, con đã mong muốn có tác động tích cực lên hành tinh này. Nhưng làm thế nào con tác động tích cực lên hành tinh chứ? Không phải bằng cách thay đổi người khác mà thay đổi chính con. Con tác động tích cực lên hành tinh bằng cách khắc phục mọi khuôn nếp trong tâm lý của mình, và khi làm vậy, con kéo cả tập thể đi lên và mở ra cơ hội cho người khác cũng thăng vượt tâm thực của họ.

Sẽ có những người không muốn thăng vượt tâm lý của họ và đó là những người sẽ hung hãn với con. Nhưng con không thể cho phép họ chi phối trải nghiệm của con trên địa cầu. Và do đó con cần tự giải thoát khỏi các khuôn nếp đó hầu con có thể đứng giáp mặt với sự hung hãn của họ, con có thể đứng trần trụi trước mặt họ mà họ vẫn không thể khiến con tê liệt hay làm con đau đớn.

Vị sứ giả này, từ tuổi thơ ấu trong kiếp này và chắc chắn trong những kiếp khác nữa, đã có cùng trải nghiệm đó, tức là ông đã cảm nhận một sự thôi thúc từ bên trong muốn thân thiện với mọi người, muốn sống năng động, bước vào xã hội và đóng góp tích cực. Nhưng gần như tất cả mọi tương tác của ông với người khác đều tạo ra một nỗi đau trong tim ông. Ông đã không vượt qua được tâm trạng này cho đến khi ông bắt đầu nhìn vào những vấn đề vô cùng thâm sâu đã đưa ông tới đây – là thái độ của ông đối với những gì ông nghĩ mình phải hoàn thành, những gì phải xảy ra hay không được xảy ra cho ông trên địa cầu.

Tất cả chúng ta cũng từng có cùng vấn đề đó. Chúng ta phải xem xét nó – cái gì đã đưa chúng ta đến đây và cái gì sẽ cho phép chúng ta thăng vượt nó, sẽ cho phép những cái ngã này chết đi, những niềm tin này chết đi, và giản dị chúng ta sẽ cảm thấy tự do, tự do để rời bỏ địa cầu mặc dù mình đã không thực hiện được gì trên địa cầu, mặc dù mình không hoàn thành được bất kỳ phần nào trong viễn kiến đã khiến mình muốn đến đây, bất kỳ những gì mình nghĩ có khả năng làm được ở đây. Nhưng con vẫn có thể bỏ lại địa cầu đằng sau trong an bình và nói: “Tôi đã quá đủ những trải nghiệm mà tôi có thể có trên hành tinh này rồi.” Đây là một điều khả thi.    

Nhiều người trong các con không xa điểm đó lắm như con nghĩ. Cho dù con có thể cảm thấy nỗi đau, và vẫn cảm thấy niềm tuyệt vọng tại sao nỗi đau không biến đi sau tất cả những gì mình đã làm để tu sửa bản thân, sau tất cả những cố gắng về tâm lý lẫn tâm linh, tại sao mình vẫn cảm thấy nỗi đau. Tại sao nó không ra đi?

Dẫu sao, nhiều người trong các con đã đến gần với điểm xoay chuyển hơn là mình tưởng, thường thường là một sự xoay chuyển tinh tế qua đó con thay đổi cách con nhìn cuộc sống trên địa cầu. Và con ngộ ra là trên một hành tinh phi tự nhiên, không có gì là quan trọng một cách tối hậu. Và nếu không có gì quan trọng tối hậu thì cũng không có gì quy định được con. Và nếu không gì quy định được con thì tại sao lại có bất cứ gì trên địa cầu quy định được cách con trải nghiệm sự hiện diện của mình trên địa cầu?

Và chỉ khi nào con có thể hiện diện trên địa cầu, có thể chạm trán với sự hung hãn của người khác, chạm trán với chính những điều đã cho con chấn thương nhập đời đó mà không phản ứng lại, thì con mới thực sự tự do.

Tất cả các con đều có khả năng làm được điều này. Con hãy tin ta, tất cả các con đều có thể làm được bằng cách sử dụng các dụng cụ, không phải một cách máy móc mà một cách sáng tạo, bằng cách kêu gọi sự trợ giúp của các chân sư, bằng cách sẵn lòng tiếp tục nhìn ngày càng sâu hơn cho tới khi con đạt đến cốt lõi trong cách con nhìn sự có mặt của mình trên một hành tinh như địa cầu. Chỉ khi nào con tự giải thoát khỏi cách con tiếp cận địa cầu thì con mới có thể giã từ địa cầu.

Sức khỏe và năng lượng chống cự

Hỏi: Sau một công trình tìm hiểu dài  của bác sĩ của con về số lượng bạch cầu cao của con trong vòng hơn một năm, thì con mới khám phá là các bạch huyết cầu của con có thể phần nào đã đóng góp vào miễn dịch tự nhiên của con đối với vi rút Corona. Triệu chứng bệnh của con nhẹ và con phục hồi nhanh chóng. Điều duy nhất con trải qua là các hiệu ứng phụ sau khi hồi phục mà một số người gọi là hiệu ứng kéo dài của COVID. Điều đáng chú ý là mới đây con chích mũi vắc-xin mRNA đầu tiên sau khi con nhận được sự hướng dẫn nội tâm là vắc-xin an toàn. Sau đó, con cảm nhận ngay lập tức một sự an bình hoàn toàn và bao nhiêu sự căng thẳng mà con nắm giữ gần năm trời được giải ra hết. Cùng lúc, hiệu ứng tồn đọng của các triệu chứng kéo dài của COVID dần dà tan biến đi giống như bơ chảy khi gặp dao nóng.

Trước mũi vắc-xin, con đã dùng những hiểu biết có được từ khóa học chữa lành bằng năng lượng để giảm thiểu tình trạng viêm và hiệu ứng phụ của các triệu chứng kéo dài của COVID. Nhưng phải đợi tới khi con được mũi vắc-xin đầu thì con mới cảm thấy là các vấn đề sức khỏe của con được giải quyết lâu dài hơn. Phải chăng đó là vì con đã giải quyết tâm lý của con đối với thế giới vật chất, cụ thể là sự ngần ngại không muốn vắc-xin của con, và mặt khác giờ đây con nhìn nhận mình là một sinh thể tâm linh một cách sâu sắc hơn và mạnh mẽ hơn và do đó thế giới vật chất không thể hại con? Đúng hơn, thế giới vật chất có thể giúp con tăng triển tâm linh và vắc-xin mà con nhận được là biểu tượng của sự chấp nhận đó trong tâm con?


Trả lời của Chân sư Thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Trả lời trong dịp Hội thảo trên Mạng 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 18/6/2021.

Quả rất đúng là một số các vắc-xin này có thể giúp khắc phục các triệu chứng kéo dài sau khi bị COVID 19. Quả cũng đúng như con nói là tình trạng tâm lý-tâm linh của con có ảnh hưởng lớn tới sức khỏe, vì thái độ đối với thân vật lý của con chắc chắn ảnh hưởng tới hiệu quả làm việc của tinh linh thân thể của con. Khi con quyết định chấp nhận là vũ trụ vật lý, cõi mẹ không là kẻ thù của con, không là kẻ thù của sự tăng triển tâm linh của con, thì điều này sẽ tác dụng tốt đến thân thể con. Khi con quyết định chăm sóc cho thân và dùng các biện pháp thiết thực để bảo vệ và chữa lành thân, thì quyết định đó cũng có tác dụng quan trọng so với khi con chống cự lại điều gì đó.

Ở giai đoạn đầu của đại dịch nhiều người (thày không chỉ nói đến những người tâm linh mà nói đến nhiều người nói chung) cảm thấy bất lực, họ không thể chắc chắn rằng họ sẽ không bị vi-rút. Cho nên họ đi vào tâm thái chống cự. Và lẽ dĩ nhiên điều này tạo nên căng thẳng trong họ. Sau đó, khi một số biện pháp được đề nghị như giữ khoảng cách, đeo khẩu trang, không tương tác trong nhóm lớn và vân vân, một số người đã chịu theo các biện pháp đó nhưng một số khác chống cự lại. Sau đó vắc-xin được bào chế và lần nữa, một số người quyết định chích ngừa và một số người khác chống cự lại vắc-xin.

Nhưng khi con chống cự, thì cốt lõi thông điệp mà con gửi tới thân thể là gì? Thực sự thông điệp con gửi ra là con không tin tưởng cõi mẹ. Con không tin tưởng thân vật lý của con. Con không tin tưởng thân con sẽ không bị bệnh hay nó sẽ không ngăn trở sự tăng triển tâm linh của con. Nếu con có quá trình kháng cự đó và sau đó con quyết định lấy một số biện pháp để hỗ trợ thân thể mình, thì quyết định đó có thể có tác dụng tốt. Bỗng nhiên, tinh linh thân thể của con được giải thoát khỏi năng lượng chống cự mà con phóng chiếu lên nó. Và giờ đây nó có thể thực sự chữa lành cơ thể con nhanh chóng hơn.

Điều này không chỉ áp dụng cho vắc-xin mà còn áp dụng cho nhiều chuyện khác trong cuộc sống vì con cần nhìn vào thái độ của mình khi con có vấn đề sức khỏe. Con có đang chống cự điều gì chăng? Con gửi thông điệp gì đến thân thể, đến cõi vật chất. Con có tin tưởng cõi mẹ không? Con nghĩ rằng con đang sống trong một vũ trụ trên cơ bản là thân thiện hay một vũ trụ thù nghịch, như các thày đã từng đề cập. Đây là những điểm quan trọng con cần quan tâm khi nghĩ tới bất cứ vấn đề nào liên quan tới sức khỏe.

Ứng phó thế nào trước cái chết của người thân yêu

Hỏi: Xin các thày vui lòng cho chúng con một cái hiểu cao hơn về sự chết. Tại sao chúng con đau đớn đến như vậy khi mất đi một người thân yêu? Chúng con phải phản ứng thế nào khi mất đi một người mà chúng con yêu thương? Có khóc hay không? Làm thế nào chúng con thăng vượt được tất cả những cảm xúc tiêu cực khi mất đi một người thân yêu?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Chấm dứt Thời đại Ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Hiển nhiên đây là một vấn đề rất khó khăn cho hầu hết mọi người. Nó chứa đựng nguyên một chùm những cái ngã tách biệt liên quan đến sự thể này. Cho nên một lần nữa để ứng phó, con cần sử dụng các lời dạy cùng dụng cụ của chân sư thăng thiên về ngã tách biệt, tùy theo cá nhân con thấy thế nào là thích hợp.

Điều có thể nói được một cách chung chung là vấn đề cốt yếu ở đây là con có một cảm nhận sở hữu đối với một con người khác. Con cảm thấy đó là người thân yêu “của tôi”. Và con đã cho phép mình cảm thấy có một cái gì đó trong con, ý niệm bản sắc của con, cảm nhận trọn vẹn của con, cảm nhận ổn định của con, cảm nhận an toàn của con, tùy thuộc vào người khác đó.

Nhưng khi con nhìn vào thực tế của hành tinh địa cầu, con là một cá nhân biệt lập. Người thân yêu kia của con cũng là một cá nhân biệt lập. Cơ thể của người thân yêu đó có thể chết đi bất cứ lúc nào, và cơ thể của con cũng có thể chết đi bất cứ lúc nào. Làm sao con có thể cho phép mình cảm thấy là bản thân mình, trạng thái tâm mình, tùy thuộc vào một cái gì đó có thể bị mất đi bất cứ lúc nào? Thật là không minh triết nếu con để cho mình cảm thấy như vậy.

Ta cũng biết nói vậy sẽ không nhất thiết giúp ích cho con, bởi vì con cảm thấy như vậy chính là vì con đang mang những cái ngã tách biệt từ tiền kiếp gây ra cảm xúc đó trong con, hoặc chúng khiến con rơi vào trạng thái lệ thuộc đó. Nhưng dù sao thì con vẫn có khả năng sử dụng các lời dạy cùng dụng cụ của các thày để phát hiện những cái ngã đó, rồi con làm việc với chúng và để cho chúng chết đi.

Khi con cảm thấy đau đớn tột cùng khi có người thân qua đời, nỗi đau này luôn luôn chỉ biết có mình con thôi. Con chỉ chú tâm vào bản thân con chứ không chú tâm vào người thân. Có thể sẽ ích lợi cho con nếu con tìm đọc rất nhiều lời tường thuật về kinh nghiệm cận tử (near-death experience) mà nhiều người đã trải qua. Họ kể lại rằng sự chết không phải là một tiến trình khó chịu, họ không hề đau khổ mà lại được đi lên một cõi cao hơn nơi cuộc sống tốt đẹp hơn rất nhiều so với cuộc sống mà họ đã có trên trái đất.

Cho nên thật sự, con không đang cảm thấy buồn bã cho người thân quá cố, mà con đang buồn cho chính con. Hay đúng hơn, có một cái ngã đang cảm thấy buồn rầu cho chính nó. Vì thế con cần làm công việc phát hiện ra những cái ngã đang tạo ra tất cả những cảm xúc đó trong con, và con để cho chúng chết đi, từng cái một, hết cái này tới cái kia. Rồi thì con mới có thể được tự do khỏi cơn đau, và con có thể phản ứng một cách cân bằng hơn.

Điều này không có nghĩa là con không được khóc về sự mất mát. Nhưng có những cách khóc khác nhau. Có một cách khóc là sự giải tỏa cảm xúc, và sau khi giải tỏa, con sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn, tự do hơn. Và có một cách khóc buộc chặt con lại với tâm thức tập thể, với những con quái vật tập thể và những con quỷ đứng đằng sau. Khóc như vậy sẽ chỉ hút mất năng lượng của con, đẩy con vào một vòng xoáy hướng hạ khiến con càng cảm thấy tệ hơn và tệ hơn và tệ hơn nữa.

Nếu con trải nghiệm loại phản ứng này, con cần phải hết sức cương quyết sử dụng các bài chú Đại thiên thần Michael và Astrea, để cắt đứt cho con thoát khỏi các tà lực tập thể đó, thoát khỏi những con quỷ dữ đó, thoát khỏi toàn bộ động lượng tập thể đang phóng chiếu vào con ý tưởng là con phải cảm thấy buồn bã, vì nếu con không buồn thì con không thực sự yêu thương người thân của con. Nhưng nếu người thân của con đã bước sang một cuộc sống tốt đẹp hơn thì tại sao con lại cần buồn bã? Con có thấy không, chuyện này hoàn toàn vô lý. Có những cái ngã vô cùng dũng mãnh trong tập thể mà con đã mời vào, vậy thì bây giờ con cần để cho chúng chết đi ngay trong tâm mình hầu con được giải thoát khỏi chúng.

Câu hỏi về các nhạc sĩ rock

Hỏi: Rất nhiều nhạc sĩ nổi tiếng đã chết trẻ – rất nhiều ngôi sao nhạc rock trong thập kỷ trước và cả các ca sĩ nhạc rap trong thời hiện đại. Con không thể nào không nghĩ rằng một số nhạc sĩ này đã có mặt ở đây để tạo sự thay đổi tích cực, ít ra là ở mức tâm thức của họ. Không hiểu con có đang hoang tưởng không? Hay có thể một số là sa nhân?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 – Chấm dứt thời đại ý thức hệ. Đăng ngày 15/6/2021.

Đây là một trong những câu hỏi không có câu trả lời rõ ràng. Thày Giê-su đã trao cho con một số lời dạy rất quan trọng về sự kiện là đôi khi có những tình thế đi vào bế tắc – nghĩa là loài người bị giam chặt trong một tư duy nhất định nào đó – đến độ phải cần có những người đi tiên phong thách thức tư duy đó cùng các năng lượng đằng sau tư duy.

Cho nên rất có thể là trong một khoảng thời gian, cần có một người đứng ra làm một việc gì đó không thực sự xuất phát từ nhãn quan cao của tâm Ki-tô nhưng là một điều cần thiết để phá vỡ một tình trạng bế tắc. Các thày đã từng đề cập đến sự kiện là đôi khi người ta cần làm một cuộc cách mạng, và trong một thời gian ngắn, điều này có thể phù hợp với tâm Ki-tô theo nghĩa là nó phá vỡ một tình trạng bế tắc và đem lại sự thay đổi.

Một điều tương tự có thể xảy ra với âm nhạc. Có một số nhạc sĩ đã đem lại một loại nhạc mới vô cùng khiêu khích đối với nhiều người, nhưng sự khiêu khích này lại cần thiết để đập vỡ một lối tư duy cổ hủ, một khuôn đúc cố hữu trong xã hội. Ta không bảo là tất cả mọi nhạc sĩ rock hay ca sĩ rap đều không khế hợp với nhu cầu thay đổi này, vì một số trong giới đó, ít nhất là trong một thời gian, đã đồng thuận với nhu cầu đó. Nhưng điều này không có nghĩa là nhạc rock hay nhạc rap là loại nhạc hài hòa theo nghĩa là nó tạo ra những rung động hài hòa đem lại lợi ích cho hành tinh. Trái lại, nó có tác dụng gây rối loạn, hỗn tạp. Nhưng như ta vừa nói, nó có thể cần thiết trong một thời gian để đập đổ một số khuôn nếp cứng nhắc đã lâm vào bế tắc.

Nhưng này con, đa số các nhạc sĩ rock và rap kỳ thực là sa nhân – không phải là tất cả nhưng đa số. Và nói thật, xin con đừng bắt đầu hỏi thày ai là sa nhân hay không là sa nhân, vì đây không phải là một điều các thày muốn bỏ thời gian lẫn không gian để bàn đến.

Thực tế ở đây là rất nhiều nhạc sĩ rock và rap là sa nhân. Họ đã sống lâu hơn cái mà chúng ta có thể gọi là tuổi thọ tự nhiên của họ. Và họ chỉ được giữ cho sống còn do được người ta tiếp tế năng lượng khi người ta nghe nhạc của họ hay đi xem họ trình diễn. Khi làm vậy, quần chúng bị cưỡng ép vào một tâm thái đặc biệt phải nhả ra những khối năng lượng khổng lồ.

Con có thể thấy người ta đi xem trình diễn nhạc rock la hét cuồng loạn như thế nào, họ phóng ra những khối năng lượng to lớn mà các nhạc sĩ rock có thể hấp thụ – và ma quỷ núp sau họ cũng có thể hấp thụ – và đây là một trong những mục đích đằng sau các buổi chơi nhạc rock. Một khi hiện tượng này tan biến dần và sự nổi tiếng của họ cũng phai nhạt dần, thì một số trong giới đó không thể ở lại trong hiện thân được nữa, và họ phải rời xác thân vật lý.

Một khía cạnh khác, tất nhiên, là yếu tố thời gian. Đã có một thời vào các thập kỷ 1960 và 1970 khi rất nhiều ban nhạc rock mới xuất hiện. Thời đó họ thường trẻ trung nhưng giờ đây họ đã có tuổi. Một phần có thể là vì họ không nhận được đủ ánh sáng. Và phần khác, nhiều nhạc sĩ rock bị mất cân bằng đến độ họ có một lối sống vô cùng thiếu lành mạnh, và đơn giản lối sống này đã bắt kịp thân xác vật lý của họ.

Điều này đi đôi với toàn bộ văn hóa nhạc rock, đa phần là một loại văn hóa nổi loạn, nổi loạn chống lại các chuẩn mực của xã hội. Cho nên chuyện thường tình là họ lạm dụng rượu và ma túy, quan hệ tình dục bừa bãi và ăn chơi trác táng. Tất nhiên sẽ đến một điểm khi cơ thể vật lý không thể chịu đựng được nữa.

Một lần nữa, con có thể chỉ ra một vài trường hợp ngoại lệ là những người đã có thể kéo dài đời sống lâu hơn. Nhưng con hãy nhìn họ đi, con sẽ thấy những cái vỏ trống rỗng chỉ bám vào sự sống bằng một sợi chỉ. Kỳ thực trên phương diện tâm linh, họ không còn sống nữa.

Tình bạn và gia đình

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, tại sao chuyện xảy ra rất thường là có những người đầu thai trong cùng gia đình với chúng ta nhưng trên thực tế họ lại xa lạ với chúng ta, và họ không có điểm chung nào với chúng ta? Chẳng hạn, một người có thể có nhiều anh chị em nhưng lại không thể thiết lập mối quan hệ thân thiện nào. Mối thân thiện chỉ kéo dài một thời gian khi còn nhỏ nhưng khi lớn lên thì nó biến mất. Hoặc anh chị em chênh lệch tuổi tác tới 14 tuổi, vậy mà cha mẹ lại muốn con cái mình hòa thuận với nhau. Nhưng sự hòa thuận không xảy ra và mỗi đứa lớn lên cô độc một mình. Làm thế nào người ta có thể kết bạn được ở tuổi trưởng thành nếu người ta không thể kết bạn với chính những kẻ ruột thịt với mình?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức xem mình là vượt trội cùng cảm nhận không trọn vẹn, bị chấn thương và chú tâm bên ngoài. Đăng ngày 29/5/2021.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã có ban ra nhiều lời dạy là trong nhiều gia đình, có những người cứ đầu thai hết kiếp này tới kiếp khác trong cùng một gia đình với nhau. Lý do là vì họ có một số khuôn nếp nghiệp quả với nhau, nghĩa là trong quá khứ họ đã tạo ra những vòng xoáy xung đột với nhau, và cách duy nhất để họ có cơ hội giải quyết xung đột là đầu thai cùng với nhau hết kiếp này tới kiếp khác.

Hiển nhiên, vấn đề ở đây là tâm lý của họ đã không thay đổi từ kiếp này sang kiếp sau. Thậm chí, có thể họ tạo dựng một động lượng thù địch ngày càng mạnh mẽ hơn nữa, khiến cho họ rất khó lòng giao tiếp hay kết bạn với nhau. Tuy nhiên, đối với rất nhiều người còn chìm đắm trong Trường đời Cay đắng, đó vẫn là cách duy nhất để họ có hy vọng tiến triển, vì họ cần đạt tới điểm họ hoàn toàn chán ngán chuyện đó và mong muốn một cái gì khác hơn.

Trong một số gia đình, con có thể nhận thấy một số thành viên bị kẹt trong một khuôn nếp nhất định, nhưng trong số mấy đứa con lại có một đứa đứng ra được bên ngoài, từ chối rơi vào khuôn nếp đó, và nó rời bỏ gia đình ngay khi nó có cơ hội. Điều này có nghĩa là trong nhiều trường hợp, sẽ có người thoát ra được nhóm gia đình đó khi họ tái đầu thai trong kiếp sau. Và điều này có thể mang lại sự tiến bộ.

Tất nhiên, con nói rất đúng khi con bảo là nếu con không thể kết bạn với chính gia đình mình vào tuổi thơ ấu thì việc kết bạn sẽ càng khó khăn hơn vào tuổi trưởng thành. Nhưng chuyện này tùy thuộc vào chính con có chuyển đổi được thái độ của mình hay không. Con có cơ hội tìm kiếm những người mà con cảm thấy có cùng độ rung với con. Khi con đầu thai trong một gia đình thì con không thể rời xa các thành viên trong gia đình, nhưng khi con chọn bạn ở tuổi trưởng thành, con có khả năng tìm đến những người mà con có những điểm chung.

Chìa khóa thực sự để con thoát khỏi những khuôn nếp nghiệp quả đó là nỗ lực làm việc trên tâm lý của con chứ con không có ý muốn thay đổi các thành viên khác trong gia đình. Con tập trung vào việc thay đổi chính con, xong con tự hỏi: “Tại sao tôi lại đầu thai trong gia đình này? Nó cho tôi thấy điều gì trong tâm lý mình cần phải giải quyết?” Điều minh triết nhất mà con có thể làm trong một gia đình thiếu hài hòa, mất cân bằng và mang những khuôn nếp độc hại, là con lấy quyết định một cách ý thức là con sẽ không tập trung vào chuyện thay đổi các thành viên kia. Thay vào đó, con đặt trọng tâm thay đổi chính mình để con không còn phản ứng lại các thành viên kia. Trong tâm lý con, con đã giải thoát khỏi họ.

Niềm tin ảnh hưởng đến cơ thể như thế nào

Hỏi: Có những điểm nào trên cơ thể nơi con cất giữ một số niềm tin gây giới hạn hay không? Ví dụ, nếu con có niềm tin là mình không xứng đáng, liệu niềm tin này có nằm ở một chỗ đặc thù trong trường hào quang của con và do đó cũng có một dấu in ở một vị trí đặc thù trong cơ thể?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Như các thày có giải thích, cơ thể vật lý là kết quả của những gì xảy ra ở các tầng bản sắc, lý trí và cảm xúc – có thể nói đó là một sự phóng chiếu của những gì xảy ra ở các tầng đó. Rõ ràng con có thể nói là nếu con lấy cơ thể vật lý chẳng hạn, thì có một hình ảnh hay một dấu in của cơ thể vật lý ở tầng cảm xúc, ở tầng lý trí và ở tầng bản sắc. Tất nhiên là những hình ảnh này đều khác nhau.

Nhưng dẫu sao con có thể nói là trong cảm thể có một loại bản đồ của cơ thể tương ứng với cơ thể vật lý. Và trên bản đồ này có một số cảm xúc tương ứng với một số vị trí như các bộ phận trong cơ thể. Và thật vậy, rất đúng là con có thể lập ra một bản đồ như vậy. Hiện đã có nhiều thuyết, nhiều cách điều trị, nhiều phương pháp chữa bệnh khác nhau đang dùng theo cách này. Các thày đang làm việc với một số người để truyền đạt nhiều hiểu biết hơn trong lãnh vực đó, nhưng những điều này vượt khỏi những gì các thày đã quyết định đưa ra trong đợt truyền pháp này, ít ra vào thời điểm này.

Nếu con quan tâm đến lãnh vực này, con sẽ cần đi ra ngoài và tìm kiếm một hệ thống hay một niềm tin hay một lý thuyết đáp ứng với con, đánh động được tâm con. Và khi đó tất nhiên, con sẽ có thể dùng nó song song với giáo lý của các thày. Chắc chắn khi con nhận biết có một bộ phận cơ thể nào đó đang phải gánh chịu một năng lượng cảm xúc, con có thể dùng bài chú và bài thỉnh thích hợp để tiêu hủy năng lượng này. Và con cũng có thể dùng kỹ thuật của các thày để nhận diện các ngã tách biệt hầu chữa lành một bộ phận nơi con cảm thấy có gánh nặng.

Hoàn toàn không có chuyện giáo lý của các thày gạt bỏ mọi hệ thống khác, hay con cần phải chấp nhận vị sứ giả này hay phải sử dụng những lời dạy này. Tất nhiên là con được tự do sử dụng giáo lý trong những bối cảnh khác, sử dụng đồng hành với các phương thức chữa lành khác, có lẽ thậm chí con có thể giới thiệu cho người khác sử dụng như một cách hiệu quả để giải quyết các điều kiện đang tạo gánh nặng cho họ.

Như Saint Germain, ta cũng sẽ nói là khi loài người tiến sâu hơn vào Thời Hoàng kim, tất cả những mối phân rẽ giữa con người sẽ bắt đầu mờ nhạt đi. Và điều này cũng có nghĩa là trong lãnh vực chữa lành, càng ngày sẽ càng bớt tư duy độc quyền đòi hỏi người ta phải gia nhập một phong trào nhất định, một hệ thống nhất định, và phải chấp nhận nó hoàn toàn và không được chấp nhận bất cứ gì khác. Điều tương tự cũng sẽ xảy ra chẳng hạn với các giáo lý của chân sư thăng thiên – các giáo lý này cũng sẽ bớt rõ nét, và con người sẽ học nhiều loại lời dạy khác nhau từ các chân sư thăng thiên. 

Và sẽ có những tổ chức được hình thành cởi mở với nhiều lời dạy khác nhau của chân sư thăng thiên. Sẽ có những tổ chức, như hiện đã có ở một mức độ nào đó, cởi mở với nhiều loại dụng cụ tâm linh, nhiều kỹ thuật, nhiều phương thức chữa lành, qua đó vấn đề không còn là: “Bạn có tin cái này hay bạn tin cái kia?” mà câu hỏi đặt ra sẽ là: “Cái gì hiệu quả? Cái gì đem lại kết quả? Cái gì thực sự giúp ích con người?”

Một lời cảnh báo mà ta sẽ đưa ra ở đây: điều rất quan trọng cần ghi nhớ là cơ thể chỉ là một sự phóng chiếu khởi sự ở tầng bản sắc, đi vào tầng lý trí rồi mới vào tầng cảm xúc. Nhưng có một số phương thức chữa bệnh lại đi ngược chiều. Họ tin rằng bí quyết chữa trị hay tăng trưởng tâm linh là phải làm gì đó ở tầng cơ thể vật lý, và đó là cách duy nhất hay cách hiệu quả nhất để chữa trị các thể kia.

Ta không bảo là con không nên làm gì với cơ thể vật lý khi nào cần thiết. Nhưng khi con nói tới việc chữa lành tâm linh hay tâm lý, con cần khởi đầu ở các thể cao. Trong một số trường hợp, có thể con sẽ cần bắt đầu với cảm xúc rồi đi lên các tầng lý trí và bản sắc. Những lúc khác, con có thể đi vào tầng lý trí hay có khi tầng bản sắc.

Nhưng con đừng bắt đầu tin là chìa khóa của sự tăng trưởng tâm linh chẳng hạn, là phải làm gì đó với cơ thể vật lý hay làm gì cho cơ thể vật lý. Bởi vì đó không phải là cách hiệu quả nhất để theo đuổi tăng triển tâm linh. Ta biết rất rõ là nhiều người đang làm theo cách này. Ví dụ, nhiều người tin rằng yoga như một phương pháp thực tập vật lý là một cách tăng trưởng tâm linh hiệu quả. Ta không bảo là nó không giúp gì cho sự tăng trưởng tâm linh, nhưng đó không phải là cách tăng trưởng tâm linh hiệu quả nhất. Bởi vì cách hiệu quả nhất là làm việc trực tiếp với các thể cao.

Con muốn thị hiện những gì trong kiếp này?

Hỏi: Kinh sách dạy rằng: “Hãy hỏi thì sẽ nhận được.” Con đã theo dõi một số đạo sư Thời mới và họ cũng dạy cách thị hiện bất cứ gì con muốn. Con xin hỏi làm thế nào con có thể thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con buông bỏ các ham muốn vị kỷ để thị hiện những gì con muốn? Làm thế nào con biết được ham muốn của con có phù hợp với quy luật thiêng liêng hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 29/5/2021.

Ta biết rõ ở ngoài kia có nguyên một ngành công nghệ với những vị đạo sư tuyên bố là họ dạy cho học trò cách làm thế nào thị hiện bất cứ điều gì mình muốn trong đời. Ta không nói là việc thị hiện như vậy không thể hiệu quả ở một cấp độ nào đó cho một số người, bởi vì tất nhiên con có thể dùng quyền năng tâm linh để thị hiện một số điều kiện vật lý.

Nhưng vì con là người cởi mở với giáo lý của chân sư thăng thiên, câu hỏi thật sự cho con không phải là liệu con có thể thị hiện bất cứ gì con muốn, mà là thị hiện một điều gì đồng hành với các mục tiêu tâm linh của con. Nếu mục tiêu của con là thăng thiên sau kiếp này thì chuyện thị hiện một mục tiêu vật chất sẽ quan trọng như thế nào? Con có thể xem việc trải nghiệm một số điều kiện là quan trọng, chẳng hạn như một căn nhà đẹp đẽ để con có thể thăng vượt ham muốn nhà đẹp, và chuyện này cũng ổn thôi. Nó có thể thẳng hàng với sự tăng triển tâm linh của con.

Nhưng cách thực sự để giải quyết vấn đề này, tất nhiên, là nhận ra rằng bất kỳ ham muốn thấp kém nào, bất kỳ ham muốn không chính đáng nào – nếu có thể gọi như vậy – hay bất kỳ ham muốn phản tâm linh nào cũng đều xuất phát từ một ngã tách biệt. Bằng cách dùng các dụng cụ của các thày để làm việc trên ngã tách biệt này, con sẽ có thể dần dần từ bỏ các ham muốn thấp kém đó.

Khi con là một người tâm linh muốn tiến bộ tối đa, đặc biệt nếu đây là kiếp đầu thai chót của con, con phải nhận ra là con có thể có nhiều ham muốn thấp kém mà con dư sức hoàn thành trong kiếp này, nhưng chúng sẽ khiến con bị xao lãng. Chúng sẽ tốn thời giờ, tốn năng lượng, tốn tài nguyên, và chúng khiến con đi chệch khỏi mục tiêu chủ yếu là việc tăng triển tâm linh.

Một phần của đường tu của con là kinh qua tiến trình xem xét ham muốn của mình, nhìn xem ham muốn có đến từ một ngã tách biệt, xong thay vì nghĩ rằng mình phải thực hiện mong muốn đó – một điều có thể mất rất nhiều thời gian – thì con để cho ngã đó chết đi. Việc này không nhất thiết sẽ tốn nhiều thời gian và con sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian trên đường tu của con.

Tai nạn và nghiệp quả

Hỏi: Khi máy bay bị rớt thì đó là một tai nạn hay chỉ là một điều tất yếu? Các tai nạn có tùy thuộc vào trạng thái nội tâm của phi hành đoàn hoặc người chỉ huy máy bay ở một giây phút nhất định hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga – Khắc phục tâm thức thượng tôn và cảm nhận bất toàn, thương tổn, tập trung ra bên ngoài. Đăng ngày 26/5/2021.

Ta sẽ nói về đủ các loại tai nạn. Ta cũng biết một tai nạn hàng không luôn luôn gây ấn tượng rất mạnh vì nó thường gây thiệt mạng cho mọi người trên chiếc máy bay. Nó cũng là một sự cố rất đột ngột. Nhưng hiển nhiên, con cũng thấy là số người bị thiệt mạng trong tai nạn xe cộ nhiều hơn gấp bội tai nạn hàng không.  

Vậy đâu là nguyên do xảy ra tai nạn? Trong nhiều trường hợp, vấn đề khá phức tạp. Nếu con nói đến một chiếc xe có một người hay ngay cả một vài người bị thương tích hay tử vong, thường thường đó là do nghiệp chướng của những người đó. Và tất nhiên cũng do trạng thái tâm thức của họ.

Trong nhiều trường hợp, sự khác biệt giữa một tai nạn xảy ra hay một tai nạn được tránh khỏi, có thể rất nhỏ. Có thể chỉ là một giây phút lơ đãng dẫn đến tai nạn, và điều này có thể tránh khỏi cho dù nghiệp chướng là gì.

Khi con nói đến trường hợp một chiếc máy bay với hàng trăm hành khách thì ở một mức độ nào đó, đây là nghiệp chướng không nhất thiết của mọi người mà của đa số. Tất nhiên là có phi hành đoàn, các kiểm soát viên không lưu, có thể cả các toán bảo trì, toán sửa chữa, liệu họ đã bảo trì máy bay đầy đủ hay không. Vấn đề có thể nằm ở tầng cao hơn trong công ty hàng không, liệu chủ trương bảo trì của công ty là gì, hay họ có xu hướng chấp nhận rủi ro khi phi cơ không được bảo trì nghiêm ngặt theo đúng quy chuẩn. Cho nên nhiều vấn đề phức tạp có thể góp phần vào tai nạn, và khi càng có nhiều người dính dấp vào thì vấn đề sẽ càng phức tạp hơn.

Phật Gautama đã có giảng về lý duyên khởi. Vậy con có thể nhìn vào một tai nạn hàng không và bảo rằng có một bộ phận của chiếc máy bay bị mỏi mệt khiến cho động cơ ngừng chạy và máy bay rớt xuống. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất.

Có nguyên một loạt những yếu tố khác mà ta vừa mô tả sẽ góp phần vào kịch bản. Và như ta vừa trình bày, càng có nhiều người liên lụy vào thì bức tranh sẽ càng phức tạp hơn. Nếu con có khả năng nhìn từ nhãn quan thăng thiên, con sẽ thấy, chẳng hạn, đây là một chiếc phi cơ đang bay cao trên bầu trời với 300 hành khách trên đó. Con có thể nhận thấy những sợi dây năng lượng, những sợi chỉ năng lượng đang nối liền hào quang những người đó với quê hương của họ, với gia đình, với công việc làm ăn của họ.

Các sợi dây này kéo dài vào tận tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc. Và con có thể nhìn ra một mạng lưới vô cùng phức tạp những mối ràng buộc năng lượng. Đó có thể là sự ràng buộc vào nơi họ đang bay tới, ràng buộc vào nơi họ vừa rời khỏi, thậm chí cả ràng buộc vào những vùng họ đang bay qua. Đây là một mạng nhện vô cùng phức tạp với những tuyến đường năng lượng chằng chịt, và không những thế, là một mạng nhện năng động thay đổi không ngừng.

Trong một số trường hợp, con có thể thấy là ngay thời điểm chiếc phi cơ cất cánh, tai nạn đã được quyết định rồi. Nhưng có những lần khác, đó có thể là một khuôn đúc vẫn đang trong tiến trình chuyển đổi dẫn đến tai nạn, nhưng đôi khi một cách thật sát nút, tai nạn lại có thể được ngăn chặn. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, và việc bảo rằng chỉ có một nguyên nhân cụ thể duy nhất thật là vô nghĩa.

Điều con có thể làm khi con lấy máy bay là, tất nhiên, thỉnh cầu cho chức năng kỹ thuật và cơ học của chiếc máy bay được bảo đảm, sự an toàn của phi hành đoàn, của mọi người trên máy bay, cùng những điều kiện bao quanh máy bay chẳng hạn như thời tiết, các chuyến bay khác và sự an toàn của chuyến bay của con.

Con cũng có thể thỉnh gọi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ chỉ đạo con không nên đáp một chuyến bay nếu chuyến này có tiềm năng tai nạn và nếu tai nạn này không nằm trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Cho nên con có thể có một vài biện pháp cá nhân để sự an toàn được tối đa khi con du lịch.

Chữa lành tâm lý là một tiến trình kéo dài suốt đời

Hỏi: Con đã mất nhiều người thân thiết mà con rất gắn bó. Trong suốt một năm trời, con đã rất chăm chỉ sử dụng các dụng cụ tâm linh được các chân sư thăng thiên trao truyền để chữa lành, để buông bỏ các chấn thương của quá khứ và khắc phục chấn thương nhập đời của con. Có những lúc con cảm thấy mình không còn dính mắc với quá khứ nữa và con có thể nhớ lại quá khứ một cách trung hòa, không động cảm. Nhưng gần đây, tới một điểm mọi chuyện lại lặp lại và con lại cảm thấy nỗi đau trong cảm xúc. Con rất bối rối, tại sao chuyện này lại xảy ra? Con cố nhìn vào bên trong, bước vào bên trong tâm lý mình một cách thật chân thành, và con tránh cach tiếp cận máy móc. Có lẽ chăng con chưa nhìn ra ảo tưởng của mình hay những tin tưởng đằng sau dính mắc này? Hay phải chăng con rất thiếu kiên nhẫn, và một năm trời thật là ngắn ngủi cho tiến trình này? Xin các chân sư thăng thiên vui lòng bình luận.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2021 cho nước Nga. Đăng ngày 26/5/2021.

Con yêu dấu, khi con đọc quyển sách Những kiếp của tôi cùng các giáo lý về chấn thương nhập đời, con sẽ thấy là rất nhiều người trong các con có thể đã ở trên trái đất này một thời gian rất dài. Các con đã sống qua rất, rất nhiều kiếp sống, cho nên mặc dù các thày đã cho con những dụng cụ dũng mãnh, thật không thực tế chút nào nếu con nghĩ con có thể giải quyết tất cả chỉ trong một năm. Đơn giản là con cần kiên nhẫn hơn và tự cho mình nhiều thời gian hơn.

Con cũng cần nhận biết là bởi vì con đã gây dựng những khuôn nếp này suốt nhiều kiếp sống, cho nên sẽ tới một điểm khi con đã nỗ lực giải quyết một điều gì đó – và con cảm thấy mình đã giải quyết nó xong xuôi – nhưng thật ra con mới giải quyết được cho một kiếp đặc thù. Nhưng khi con cứ tiếp tục làm việc với tâm lý của con, cuối cùng con sẽ giáp mặt với một điều gì đến từ một tiền kiếp trước đó, nó sâu thẳm hơn, hay nó không hẳn là cùng một vấn đề tuy rằng nó có một số nét giông giống.

Con cần kiên nhẫn và nhận ra là sẽ có một số chu kỳ, qua đó con sẽ đào sâu xuống một vấn đề nào đó, con giải quyết nó, xong nếu có thể nói như vậy, con bơi trở lên mặt nước để lấy hơi và nhận được chút khuây khỏa. Rồi con lại lặn sâu xuống vùng nước của tiềm thức để đương đầu với cùng vấn đề đó ở một cấp độ sâu sắc hơn hay một vấn đề liên hệ mà con chưa giải quyết được lần đầu tiên.

Cho nên đơn giản, con cần kiên nhẫn hơn với chính mình, con cần chuyển đổi thái độ của mình để con có thể nhìn tiến trình này – như vị sứ giả này có nói – như một tiến trình chữa lành tâm lý sẽ kéo dài suốt đời con. Thẳng thắn mà nói, một kiếp sống là một thời gian rất ngắn để chữa lành tâm lý của con so với bao nhiêu kiếp sống mà con đã bỏ ra để xây đắp các chấn thương.

Ý thức sở hữu liên quan tới gia đình

Hỏi: Con nghĩ là khắp nơi trong xã hội, người ta thường tin chắc rằng khi một người thân, một người mà chúng ta yêu thương qua đời, thì đó là một nỗi đau buồn lớn lao, không thể bù đắp được. Chúng ta cần học cách tách mình ra khỏi tin tưởng này để thay thế tin tưởng sai lầm bằng tin tưởng đúng đắn. Ngoài ra cũng có sự mất mát những người họ hàng hay bạn bè còn đang hiện thân. Bản thân con đã trải nghiệm nỗi sợ hãi và đau đớn này. Khi học tập giáo lý của các chân sư thăng thiên, con vẫn không có khả năng đương đầu với hoàn cảnh này, do một tin tưởng nào đó mà con vẫn chưa thể nhìn thấy. Con không sẵn sàng trực diện với hoàn cảnh đó, và khi nó xảy ra, con không hòa hợp và yêu thương. Niềm tin nào nằm đằng sau nỗi đau khổ khủng khiếp đó mà con người phải trải qua trên hành tinh địa cầu dày đặc này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2021 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 13/1/2021.

Một lần nữa, đây là một niềm tin bắt nguồn từ sa nhân. Và con có thể thấy nó diễn bày ra ở nơi rất nhiều lãnh tụ trong quá khứ. Con thấy những lãnh tụ đã tự đặt mình vào vị thế quyền lực tối cao của một nhà độc tài, được dân chúng tôn thờ gần như là một vị thần. Thế nhưng họ biết rõ là mặc dù quần chúng xem mình là thần, khi nào họ còn ở trong một xác thân sinh diệt thì cũng sẽ đến lúc xác thân đó không thể duy trì sự sống, và họ sẽ phải chết. Nhưng họ không thỏa mãn với chuyện đạt được danh vọng tuyệt đỉnh chỉ trong một kiếp sống. Họ muốn để lại một sự nghiệp, một di sản. Và trong phần di sản đó, họ muốn mọi người vẫn phải gắn bó với họ, đến độ cảm thấy cái chết của họ là một mất mát không thể bù đắp. Họ muốn mọi người phải đau buồn thật lâu dài sau khi họ chết. Tất cả chỉ là chuyện xây đắp tự ngã mà thôi, xây đắp ý thức mình là một người thật đặc biệt. Chuyện đó khởi sự như thế đó.

Nhưng nó cũng đã được củng cố bởi một niềm tin khác, một lần nữa cũng do sa nhân truyền bá, mà con có thể tìm thấy trong câu nói thường tình: “Cha mẹ tôi là ông này bà nọ”, “Con cái tôi đã thực hiện được chuyện này chuyện kia”. Tất cả các con đều nói “cha mẹ của tôi, con cái của tôi, anh chị em của tôi”. Có một ý thức sở hữu nào đó liên quan đến gia đình. Và khi con lớn lên trên một hành tinh dày đặc như thế này, phần nào con cũng không thể tránh khỏi hấp thụ tinh thần đó. Tất nhiên, có một số nền văn hóa đưa cường độ sở hữu lên cao hơn nữa, khi người ta gần như thờ phụng gia đình của mình, và cấu trúc gia đình được xem là khía cạnh quan trọng nhất trong cuộc sống con người.

Giờ đây khi con bước đi trên đường tu tâm linh và đạt tới những mức cao hơn của quả vị Ki-tô, đương nhiên con nhận ra con là một sinh thể tâm linh. Con đã sống rất, rất nhiều kiếp sống trên địa cầu này. Không phải lúc nào con cũng đã có cùng cha mẹ hay cùng anh chị em mà con đang có trong kiếp này, hay cùng những đứa con mà con có trong kiếp này. Đó không phải là cha mẹ của con, con cái của con – con không thuộc về họ và họ không thuộc về con. Đây chính là ý thức sở hữu mà con có thể bắt đầu tra vấn. Rồi con có thể nhận ra là gia đình không thể định nghĩa được con, và tất nhiên, con có quyền vượt ra khỏi gia đình con. Và con sẽ phải làm vậy hầu thể hiện và biểu lộ quả vị Ki-tô. Con không thể ở lại trong vòng giới hạn của những gì mà gia đình xem là bình thường.

Hiển nhiên còn có một yếu tố khác nữa, đặc biệt là ở phương Tây nơi luân hồi đã bị phủ nhận từ khi Giáo hội Công giáo tuyên bố vào năm 553 rằng luân hồi là tà giáo. Cho nên đã có một chấn thương vô cùng sâu đậm đối với cái chết, khi người ta cho rằng con người chỉ có một kiếp sống mà thôi, một cơ hội duy nhất để bảo đảm sự cứu rỗi của mình. Sau khi con chết, con sẽ ra đi khỏi hành tinh này vĩnh viễn, hoặc con sẽ lên thiên đàng hoặc con sẽ xuống địa ngục. Điều này phóng chiếu ra ý tưởng là khi cha mẹ con qua đời, con sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ nữa. Và dĩ nhiên, trong nền văn hóa duy vật đã khởi lên, cha mẹ con sẽ ngừng tồn tại khi qua đời – con sẽ ngừng tồn tại khi con qua đời. Như vậy thì làm sao không cảm thấy mất mát cho được? Nó đi kèm với mất mát trong nhận biết cũng như mất mát về bản sắc. Mà sự nhận biết cá nhân chính là năng khiếu quý giá nhất mà con có được. Cho nên, một lần nữa, nếu con thấy cần, con nên tìm đọc một số cuốn sách đã được viết ra về trải nghiệm cận tử.

Qua trải nghiệm cận tử, rất nhiều người đã chứng kiến xác thân mình chết đi nhưng chính mình thì không ngừng hiện hữu, và họ đã tiếp tục có một cuộc sống ở một cõi khác. Nhiều người như vậy đã trở về, đã “sống trở lại”, và họ giải thích là không hề có đau buồn đối với người kinh qua cái chết. Họ không đau buồn do mình không sống nữa, mà ngược lại, họ thường cảm thấy nhẹ nhõm thanh thản. Họ được bao bọc trong tình thương, họ gặp lại những người thân trong quá khứ hoặc những vị hướng dẫn tâm linh của họ, và họ ở trong một cõi cao hơn, thú vị, khoan khoái hơn khi họ còn ở trên trái đất. Con thật không cần đau buồn giùm họ đâu, vì họ chẳng mất mát gì khi họ không còn sống trong cõi này.

Và khi con nhận ra điều đó, con cũng nhận ra: “Ừ nhỉ, mình đang đau buồn chuyện gì đây?” Trong nhiều trường hợp, con đau buồn không phải vì bản thân con cảm thấy đau buồn, cũng không phải vì cha mẹ con sẽ được khuây khỏa nhờ con đã đau buồn, mà bởi vì nền văn hóa của con đã tạo ra cái ý tưởng là con phải biểu lộ sự đau buồn vì như vậy sẽ chứng tỏ là con yêu thương cha mẹ con đến chừng nào. Và nếu con không làm vậy thì người ta sẽ chê trách con.

Vậy thì tại sao con đau buồn? Là để bảo vệ một bộ mặt mà văn hóa của con đòi hỏi nơi con. Và khi con bắt đầu nhìn ra điều này, con cũng có thể bắt đầu buông nó ra. Con có thể dùng các dụng cụ tâm linh của chân sư để phơi bày những cái ngã đó nơi chính con, và con chỉ cần nói: “Thôi vậy là đủ rồi. Tôi cho nó chết đi.” 

Tương tác với người không tâm linh

Hỏi: Con thấy là các chân sư đang khuyến khích một thời đại cộng đồng, vậy làm thế nào chúng con có thể cân bằng một đằng là sự kiện chúng con tu tập một giáo lý có vẻ rất cách mạng so với các hệ tư tưởng phổ thông đã có từ lâu hơn, và đằng khác là nhu cầu giao tiếp với những người không dính dáng gì đến những điều chúng con tin? Đôi khi con cảm thấy là khi con một mình, con biểu lộ nhiều năng lượng “tốt” hơn. Nhưng vì con luôn luôn có xu hướng hướng nội, cho nên con cũng cảm thấy sự thôi thúc bên trong là con cần giao tiếp xã hội nhiều hơn. Tuy vậy khi con tương tác với xã hội thì con lại cảm thấy hầu như con bị các tương tác này hủy diệt. Đôi khi con thực sự cảm thấy mình là cây ô-liu độc nhất giữa một rừng cây keo.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển phân biện Ki-tô. Đăng ngày 12/1/2021.

Đây là một trong những bí ẩn trên đường tu là cách ứng phó với sự kiện con là một người tâm linh tương tác với những người không tâm linh. Điều quan trọng là con cần xây dựng một cách tương tác nào đó với những người không theo cùng giáo lý tâm linh với con, vì đây là cách duy nhất để con không rơi vào điều mà các thày đã chứng kiến trong quá nhiều tổ chức tâm linh, là người ta tạo ra một vòng xoáy hướng hạ khiến mình bị mù không thấy được nhiều chuyện.

Một tổ chức có thể dựng nên một tâm thức tập thể, một nét văn hóa, cuốn hút mọi người vào trong đó với nhiều hậu quả không mấy xây dựng. Chẳng hạn nó có thể khiến cho toàn nhóm cảm thấy là mình vô cùng đặc biệt, và điều này sẽ khuyến khích một lòng kiêu mạn tâm linh nào đó. Mọi người có thể dựng lên một ý niệm tôn sùng đối với người lãnh đạo hay đối với tổ chức, cùng với nhiều sự việc không xây dựng khác.

Cho nên điều quan trọng là con có liên hệ với những người không tâm linh, ít nhất là để có được một khung tham chiếu. Tất nhiên khi con giải quyết đặc tính mà các thày đã nói đến trong hội nghị này, đặc biệt là mong muốn cảm thấy mình đặc biệt, thì con sẽ dễ tương tác với người khác hơn.

Điều này không có nghĩa là con cần phải tham gia vào mọi loại tương tác xã hội. Thật không có lý do gì con phải đi chơi hộp đêm, phải khiêu vũ nhạc rock và phải uống rượu để có thể tham gia xã hội. Con có thể có những loại tương tác xã hội khác, như sứ giả này đã suốt đời tham gia vào các loại hội họp xã hội mà không bao giờ uống rượu.

Và con vẫn có thể nói chuyện với người khác về những gì họ thường nói chuyện mà không mang ý định nào trong tâm vỏ ngoài là con cần phải thay đổi họ hay cải đạo họ. Con trung hòa và con hòa điệu, và thỉnh thoảng con có thể nhận được một gợi ý từ cái ta cao của con là con có thể biểu đạt một ý tưởng nào đó sẽ hoặc giúp người khác, hoặc thách thức một số niềm tin của người khác. Không phải là con phải cải hóa họ mà con chỉ gieo một hạt mầm. Con cho họ một ý tưởng nào đó mà với thời gian, họ có thể nghiền ngẫm, tiêu hóa, và nó sẽ giúp họ xoay chuyển sự nhận biết của họ. 

Làm thế nào thoát khỏi bị choáng ngợp bởi đau khổ của người khác

Hỏi: Con có một độ nhạy cảm rất cao và con cảm nhận được nỗi khổ và nỗi đau của người khác như thể chính con đang trải nghiệm vậy. Nhiều khi con cảm thấy mình là cánh cửa mở cho tình thương vô điều kiện, nhưng thật ra con cũng là cánh cửa mở cho sự đau khổ mà con luôn luôn cảm thấu. Con có cảm giác giống như mình luôn luôn bị ướt đẫm trong nỗi khổ đó và con không thể sung sướng khi biết người ta đang đau khổ đến chừng nào. Con có cảm tưởng chuyện này đã xảy ra từ những kiếp hiện thân đầu tiên, nhưng con vẫn không hiểu được nó. Con tự hỏi làm thế nào người ta có thể nhạy cảm mà không đau khổ khi đầu thai ở đây?

Hơn nữa, con rất chú trọng đến việc tự biểu đạt ra ngoài – cuộc sống, ánh sáng, sức khỏe, phụng sự. Con ưa thích chuyện đó, nhưng gần như toàn bộ sự chú ý của con tập trung vào vấn đề là con có thể làm gì và đem lại những gì cho người chung quanh, và tất nhiên cho tâm lý của con nữa. Không có nó thì đời con trở nên trống trải, vô nghĩa. Có vẻ như hai trạng thái đó gắn liền với nhau, và con không thể phân biệt được cái nào đến từ Hiện diện TA LÀ và cái nào đến từ ngã tách biệt.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 9/1/2021.

Con yêu dấu, có những avatar đã đến địa cầu, thường khi là đã mang sẵn lòng trắc ẩn đối với nỗi đau khổ của con người trên trái đất, cũng như ý muốn đóng góp để giảm bớt nỗi đau khổ đó. Rồi khi con bước vào hiện thân, một trong những kiếp đầu thai đầu tiên của con, khi con phải chạm trán với một chấn thương vô cùng sâu sắc đã sinh tạo ra cái ngã gốc của con (primal self), thì lúc đó cảm thể con đã mở toang ra trước nỗi đau khổ của người khác. Con bị nỗi đau khổ này choáng ngợp đến độ nó trở thành khía cạnh áp đảo ngã gốc của con.

Gần như có thể nói là con đã rút lui khỏi việc hiện thân, và con quyết định là mình không muốn ở đây, mình đã không tới đây để thể hiện con người của mình hay để trải nghiệm bất cứ gì trên trái đất, mà mình đến đây chỉ để giúp đỡ nỗi đau khổ của tha nhân, và do đó nó trở thành điều hệ trọng duy nhất đối với con. Trong khi đó, chính con và tất cả những mục tiêu mà con đến đây để thực hiện, hay Hiện diện TA LÀ của con muốn con thực hiện ở đây, đều không quan trọng nữa. Và con phải kềm hãm khả năng sáng tạo của con cũng như ánh sáng được biểu đạt qua con.

Bây giờ, điều rất, rất quan trọng là nhìn nhận rằng tình trạng đó có mặt là vì con có những lỗ hổng trong cảm thể của con buộc chặt con vào những xoáy lốc tập thể của đau khổ. Thật sự con đang không giúp giảm bớt đau khổ trên hành tinh này bằng cách cho phép mình bị chúng choáng ngợp. Cho nên con có thể khởi sự đọc bài chú, bài thỉnh, để cầu thỉnh sự bảo vệ cho cảm thể của con, kêu gọi Astrea cắt đứt để con được giải thoát khỏi những sợi dây ràng buộc con vào tâm thức tập thể, vào cõi trung giới.

Nhưng dài hạn hơn, con cần phát hiện những cái ngã, con cần khám phá quyết định đã khiến con mở lớn cảm thể của mình và nghĩ mình phải làm chuyện đó. Con cũng sẽ cần đối phó với một số phóng chiếu, ngay cả một số ngã tách biệt, bảo con sẽ là người ích kỷ nếu con đóng cửa lòng nhạy cảm của mình lại đối với người khác. Nhưng như Giê-su vừa giải thích, con không hề ích kỷ khi con không cho phép mình bị cảm xúc của người khác kéo mình xuống. Và nếu con tới mức không còn vui hưởng cuộc đời được nữa, và nếu con không thể biểu hiện bản thân mình một cách tích cực, thì con không đang đem lại lợi ích cho hành tinh. Con không đang giúp cho tâm thức tập thể.

Cho nên con cần sử dụng những dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con để giải quyết những cái ngã này, giải quyết chấn thương nhập đời cùng cái ngã gốc, và đạt đến chỗ tìm lại thái độ tích cực khi sống trên trái đất. Con cũng cần nhận ra – như Giê-su cũng nói, nhưng trong một nghĩa hơi khác – là con phải cho phép quyền tự quyết trải bày ra. Loài người đã sử dụng quyền tự quyết của mình để tạo ra đau khổ hiện tại của mình. Con không thể kiểm soát được quyền tự quyết của người khác, do đó không có lý do gì con phải tạm dừng quyền tự do chọn lựa của con hầu cảm thấy nỗi đau khổ của người khác. Con có quyền vươn lên cao hơn nỗi đau khổ đó và đạt tới điểm chính cá nhân con có thể sông trên hành tinh này mà không bị đau khổ. Hơn thế, con có thể sống trên hành tinh này và thể hiện ánh sáng, thể hiện cá thể và sự sáng tạo tuôn chảy từ Hiên diện TA LÀ của con. Nói cho cùng, chính việc thể hiện khả năng sáng tạo này mới nâng tâm thức tập thể lên cao hơn và cải thiện các điều kiện trên hành tinh.

Con không giảm bớt nỗi khổ của con người bằng cách cho phép mình cảm thấy và bị choáng ngợp bởi nỗi bất hạnh của người khác. Ta biết, sự bất hạnh luôn tìm kiếm kẻ đồng hành, nhưng điều đó không giảm bớt sự bất hạnh. Cho nên một lần nữa, nếu con cho phép mình tiếp tục cảm thấy như hiện nay và tắt đi khả năng sáng tạo của mình, thì con là một phần của vấn đề chứ không là một phần của giải pháp. Con đã đến địa cầu vì con muốn là một phần của giải pháp, do đó con cần nối kết lại với động lực nguyên thủy của mình. Con cần nối kết lại với đấng đã tạo ra động lực đó tức là Hiện diện TA LÀ của con, hầu con biểu lộ được điều gì đó sáng tạo và tích cực cho hành tinh.

Không tức giận trước những chuyện chướng mắt

Hỏi: Trong cuốn sách “Christ is Born in You” (Ki-tô sinh ra trong con) có viết là con cần từ bỏ lòng tức giận khi bước chân trên con đường quả vị Ki-tô. Nhưng làm sao con có thể không tức giận khi con trông thấy người ta hiếp đáp trẻ nhỏ hay thú vật? Làm thế nào con có thể giải quyết được chuyện này trong tâm thức cao hơn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Tăng triển Phân biện Ki-tô. Đăng ngày 8/1/2021.

Con phải khởi đầu bằng cách nhìn nhận con đang sống trên loại hành tinh nào. Con đang sống trên một hành tinh rất dày đặc, rất khó khăn. Quyền tự quyết đã được phép trải bày ra trên địa cầu, và nó đã trải bày ra ở một mức độ thật là cùng cực. Con cần nhìn vào thực tế này, và con cần lấy quyết định mình sẽ chấp nhận đây là loại hành tinh nơi mình sinh sống. Có rất nhiều chuyện xảy ra trên trái đất mà lẽ ra không nên xảy ra, cho nên nếu con tức giận mỗi khi con phải đối mặt với một chuyện như thế, con sẽ không thể bước chân trên đường tu Ki-tô. Cơn tức giận sẽ kéo con vào một phản ứng xúc cảm. 

Hiện có rất nhiều những lốc xoáy tình cảm ở quy mô của hành tinh và những lốc xoáy này sẽ chỉ đơn giản đánh bẫy con mắc kẹt vào đó, và con sẽ không thể tinh tấn. Sẽ tới một điểm khi con phải lấy quyết định trong ý thức: “Tôi không thể cho phép mình nổi giận vởi tất cả mọi chuyện đang xảy ra trên địa cầu.” Trên cơ bản, con cần làm việc với tâm lý con để đạt tới điểm con quyết định: “Tôi không muốn tức giận vì bất cứ chuyện gì trên địa cầu.” Và để làm được vậy, con cần nhận ra là trong kiếp này cũng như trong tiền kiếp, con đã có một số ngã tách biệt tin rằng sự tức giận là cần thiết và chính đáng.   

Con cần dùng các dụng cụ tâm linh từ sách “Healing your Spiritual Traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) cùng những cuốn sách khác* để nhận diện những ngã tách biệt đó, cho tới khi con đạt tới điểm con có thể để cho chúng chết đi. Sau đó con sẽ cảm thấy quyết định đó dễ hơn hẳn, nhưng dù sao thì con cũng cần lấy quyết định. Giản dị, con cần nói: “Tôi cần gì phải tức giận tất cả những chuyện xảy ra trên địa cầu? Làm thế nào cơn giận có thể giúp cho một tình trạng nào đó? Làm thế nào cơn giận có thể cải thiện được những điều kiện đó?”  

Thực tế là khi con tức giận, con sẽ tạo ra năng lượng tình cảm phát xuất từ sợ hãi, con sẽ bồi thêm sức cho các vòng lốc xoáy của hành tinh, và trong nhiều trường hợp, chính những lốc xoáy này áp đảo con người khiến cho họ hiếp đáp người khác, hiếp đáp thú vật hay làm nhiều hành vi khác rõ ràng là bất nhân. Con có muốn đóng góp vào vấn đề hay con muốn đóng góp vào giải pháp? Nếu con muốn đóng góp vào giải pháp, con cần sử dụng những dụng cụ mà các chân sư đã ban ra đễ khắc phục nỗi giận của mình và vươn lên khỏi tức giận.   

* [Những cuốn sách này gồm có: Healing Your Spiritual Traumas, Fulfilling Your Divine Plan, Fulfilling Your Highest Spiritual Potential, Making Peace with Being on Earth]

Tại sao một số phụ nữ cứ thu hút những đàn ông lạm dụng mình?

Hỏi: Từ khi còn nhỏ, con đã trải nghiệm rất nhiều sự hung hãn tình cảm từ cha con, rồi khi trưởng thành, con lại bị như vậy từ phái nam. Suốt đời con đã thu hút những người đàn ông khép kín về mặt tình cảm và chỉ chú trọng đến tình dục và dâm ô. Con đã kinh qua hai quan hệ lạm dụng vô cùng tồi tệ. Sau đó con tìm được con đường tâm linh và con đã nỗ lực rất nhiều để cải sửa bản thân cũng như tâm lý của con. Mặc dù con đã giải quyết được rất nhiều về mặt tâm lý nhưng con nghiệm ra là có một phần trong con vẫn muốn một điều gì đó từ loại đàn ông đó. Con ý thức được là loại đàn ông đó không tốt gì cho mình, nhưng con nghiệm thấy – mặc dù có những người đàn ông trìu mến cũng mong muốn con để ý tới họ – là có một phần trong con vẫn muốn nhận được sự chú ý và tiếp xúc từ những đàn ông mà con chỉ có thể có mối quan hệ độc hại.

Xin thày có thể giải thích cho con cơ chế đó vận hành như thế nào? Tại sao cái ngã đó, cái phần đó của con, lại muốn được những đàn ông đó chú ý và tiếp xúc đến như vậy, trong khi họ chỉ cốt ý lấy tất cả những gì họ có thể lấy mà không chia sẻ tình cảm? Cái gì ở trong con khiến con từ chối tình yêu từ những người đàn ông tốt bụng đang ở trong đời con và quan tâm đến con? Tại sao trong số tất cả những người đàn ông đó, con lại chỉ muốn đúng cái anh chàng không thích hợp với con? 

Con hiện không có quan hệ nào và con không dính dáng tới đàn ông nào, nhưng con nghiệm được điều gì xảy ra bên trong. Con nhìn thấy những thành phần trong con, và con muốn được thêm sáng ngộ về nguyên nhân tại sao nó lại xảy ra khi con còn tỉnh táo. Hiện tại, con đang làm thông sạch cả bốn thể phàm bằng cách bước trên con đường bảy tia sáng và con đọc bài thỉnh trong cuốn sách của Mẹ Mary “Course In Abundance” (Khóa tu về sự dồi dào). Xin thày cho con một chút sáng ngộ để con nhìn thấy rõ hơn.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Trước hết, con sẽ được ích lợi biết rằng con hoàn toàn không phải là người phụ nữ đầu tiên hay người phụ nữ duy nhất có cơ chế này. Rất, rất nhiều phụ nữ cũng từng có và đang có như vậy – thật ra người ta đã có viết sách về hiện tượng này mà con sẽ được lợi ích nếu con tìm đọc. Những cuốn sách đó có thể bổ sung cho những lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về tâm lý, và cũng sẽ giúp con nhận được nhiều nguồn sáng ngộ khác nhau. Bây giờ, hiện tượng mà con nói đến có thể có một số nguyên nhân riêng rẽ, nhưng ta sẽ tập trung vào ít nhất ba nguyên nhân.

Trước hết, một số phụ nữ có một mặc cảm thua kém, họ không cảm thấy là mình xứng đáng. Thường là vì họ không cảm thấy mình xứng đáng được người khác chú ý. Cho nên con thu hút những người đàn ông ngược đãi con, vì mặc dù họ ngược đãi con thật, nhưng ít ra họ chú ý đến con. Và sự chú ý này, cho dù là ngược đãi đi nữa, vẫn còn hơn là sự làm ngơ. Đây là một nguyên do – ta không bảo là nó áp dụng cho mọi phụ nữ, nhưng đó là một nguyên do.

Một lý do khác là trong một tiền kiếp, con đã bị tổn thương trầm trọng bởi phái nam, thường khi bởi một người đàn ông đã gần gũi với con suốt nhiều kiếp đầu thai. Cho nên con mang trong con một cảm nhận sâu xa là con không thể tin tưởng phái nam. Và hiện tượng lạ lùng xảy ra ở đây là sự cảm nhận mình không thể tin đàn ông thường bắt nguồn từ mối quan hệ với một người mà con tin tưởng đến độ con đã mở lòng ra với người đó. Rồi người đó đã lợi dụng sự cởi mở của con để làm hại và khiến con đau đớn. Do đó, con có một cái ngã đã quyết định là mình sẽ không bao giờ mở lòng ra với bất cứ đàn ông nào nữa. Đó là tại sao con đã từ chối những người đàn ông kia mà đáng lý con đã có thể nối kết sâu sắc hơn. Và con lại quan hệ với những người đàn ông này, cho dù là họ hiếp đáp con, nhưng đối với con, đó không phải là yếu tố quyết định. Vì yếu tố quyết định là con không bao giờ có thể có một mối liên hệ sâu xa gì với những người này cho nên không có nguy cơ con mở lòng ra với họ.

Bây giờ có một yếu tố thứ ba có thể xen vào. Đối với một số các con, chuyện này trở ngược về thời chấn thương nhập đời của con, trở ngược về lần đầu tiên con đầu thai trên địa cầu. Khi đó, con đã bị hiếp đáp nghiêm trọng bởi những khuôn mặt thẩm quyền thuộc phái nam. Và lý do con cứ thu hút những đàn ông loại đó có thể, phần nào, do hai nguyên nhân ta vừa đề cập ở trên – nó đã tác động đến tâm lý của con. Nhưng nguyên nhân thật sự là con muốn giải quyết chấn thương nhập đời của con. Do đó, con cứ không ngừng thu hút những đàn ông hiếp đáp con đến độ con khó lòng nào bỏ qua được vấn đề. Nói cách khác, nếu con có một mối quan hệ bình thường, thương yêu, với một người đàn ông, thì có thể con sẽ đẩy vấn đề đó sang một bên, tức là hoặc con sẽ dời chuyện giải quyết chấn thương nhập đời lại một thời gian sau, hoặc con sẽ không giải quyết cho đến hết kiếp này. Cho nên nếu có thể nói như vậy, trong tiềm thức con đã tự ép buộc mình phải đối đầu với vấn đề. 

Tất nhiên chúng tôi đã có giảng dạy về ngã tách biệt, và rõ ràng cơ chế nói trên dựa trên một cái ngã tách biệt, hoặc trong nhiều trường hợp, trên mấy cái ngã tách biệt mang sẵn một số niềm tin về bản thân con và về quan hệ của con với đàn ông. Có thể con tin là mình không thể tin tưởng đàn ông, có thể con tin là mình không thật sự xứng đáng sống với một người đàn ông cho nên mình phải chịu đựng sự lạm dụng của họ, có thể con tin là mình không xứng đáng được người khác chú ý. Và cũng có thể có những niềm tin khác nữa, vì mỗi cá nhân đều có những niềm tin khác nhau. 

Nhưng nếu con sử dụng những giáo lý mà chúng tôi đã ban ra trong sách “Healing Your Spiritual Traumas” (Chữa lành chấn thương tâm linh) cũng như một số sách khác*, con sẽ có khả năng tiến bước. Một lần nữa, con có thể được ích lợi nếu con đọc thêm sách về đề tài này, vì nó có thể giúp con tìm cách trị liệu, hoặc có lẽ nó sẽ giúp con tìm ra một nhóm gặp gỡ của phụ nữ nơi con có thể tâm tình. Thật ra đang có một nhu cầu lập ra những nhóm hỗ trợ cho những phụ nữ đã có mối quan hệ lạm dụng với phái nam trong kiếp này. Con thử nhìn xem con có thể tìm được một nhóm như vậy hay không, hoặc con đứng ra thành lập một nhóm nếu con không thể tìm thấy.   

* [Những cuốn sách này gồm có 4 quyển: Healing Your Spiritual Traumas, Fulfilling Your Divine Plan, Fulfilling Your Highest Spiritual Potential, và Making Peace with Being on Earth]

Khi câu hỏi không còn thích đáng, đó là lúc con đã thoát khỏi nó

Hỏi: Trước khi trở thành một học trò của chân sư thăng thiên, con đã nỗ lực nhớ lại phần nào những kiếp trước của con và giải tỏa những cảm xúc gắn liền với chúng. Bây giờ con đã đọc quyển “Những kiếp của tôi” và “Chữa lành Chấn thương Tâm linh” thì con tự hỏi liệu con có cần nhớ lại vết thương nguyên thủy của mình để chữa lành hay không? Con có cảm nhận mang máng rằng con là một avatar, nhưng vì không có ký ức đặc trưng nào cho nên cảm nhận đó còn trừu tượng. Liệu một ngày kia con sẽ nhớ lại một cách tự nhiên hay sẽ hoàn toàn không nhớ? Con không lo lắng về chuyện này, đúng hơn là con mong muốn một sự hướng dẫn về cách con có thể tiếp tục làm việc trên nó. Làm thế nào con biết được khi nào con sẽ thoát khỏi nó?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai Hoa kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Như ta có viết trong sách, con không tuyệt đối nhất thiết phải nhớ lại những chi tiết cụ thể của chấn thương nhập đời của con, hoàn cảnh mà nó đã xảy ra. Đối với một số người, việc nhớ lại có thể là một lợi điểm, và nếu vậy thì nó sẽ tự phát. Con không cần phải tìm cách ép buộc cho nó xảy ra, và con nghĩ rất đúng khi con không quan tâm đến chuyện đó. Cũng vậy, sẽ có một số người nhớ được cuộc sống của họ trên hành tinh tự nhiên trước khi họ đến địa cầu, nhưng điều này cũng không cần thiết cho mọi người. Một lần nữa, không có lý do gì để con phải bận tâm hay bị dính mắc.

Làm thế nào con biết được con đã thoát ra khỏi chấn thương? Con sẽ biết được phần nào là do con nhận ra chấn thương đã khiến con khoác vào một niềm tin nào đó, một tư duy nào đó. Như vị sứ giả này cho ví dụ, ông nhận ra là ông đã luôn luôn bị thúc đẩy bởi cảm nhận mình phải làm gì đó trên địa cầu. Và khi ông đạt tới điểm ông giải quyết được chấn thương, giải quyết được niềm tin đó, ông đã cảm thấy một sự giải toả tự phát vô cùng mạnh mẽ, qua đó ông nhận ra rằng: “Tôi không cần làm gì hết trên địa cầu.” Nhiều người trong số các con đã tạo dựng những niềm tin khác dựa trên chấn thương nhập đời của mình. 

Một khi con đạt tới điểm nhận ra điều đó, rằng niềm tin cơ bản đó đã tô màu, đã làm nền tảng cho mối quan hệ của con với địa cầu, đã làm nền tảng cho cách con tự nhìn mình trên địa cầu và những gì con nghĩ con đã đến đây để thực hiện hay không thực hiện, một khi con tới điểm nhìn thấy niềm tin đó, thì con sẽ cảm thấy một sự giải tỏa tự phát trong nội tâm, và trong sự giải tỏa đó con buông nó ra, thế rồi con biết là con đã giải thoát khỏi nó.

Con cũng có thể nói như chúng tôi đã từng nói: Khi câu hỏi không còn thích đáng nữa thì đó là lúc con đã thoát khỏi nó.

Tầm nhìn tâm linh về việc xâm hại tình dục trẻ em

Hỏi: Xin các chân sư cho biết tầm nhìn tâm linh về ấu dâm là gì? Tại sao ấu dâm lại hiện hữu? Chúng con có thể dùng bài thỉnh nào để loại bỏ ấu dâm khỏi trái đất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Các thày đã dạy rằng nạn xâm hại tình dục trẻ em hiện diện chủ yếu là vì có nhiều sinh thể, đặc biệt là sa nhân, đã bị cắt đứt không nhận được ánh sáng trực tiếp từ cõi tâm linh. Vì vậy để có thể nuôi thân và thậm chí sống còn – và hơn nữa để có chút năng lực làm bất cứ việc gì – chúng phải đánh cắp năng lượng từ những ai vẫn còn nhận được năng lượng từ cõi tâm linh. Và một trong những phương cách để đánh cắp năng lượng từ người khác tất nhiên là qua việc cưỡng hiếp hay hành vi tình dục đồi bại nào khác.

Nhưng chúng chỉ có thể đánh cắp một lượng giới hạn nào đó tùy theo người kia mang bao nhiêu năng lượng. Và vấn đề là một số người lớn đã phung phí một phần năng lượng của mình.

Nhưng trẻ em thì khác. Nói chung, trẻ em vẫn còn nhiều năng lực sống trước khi các em bắt đầu hoạt động tình dục hay bắt đầu bước vào lối sống của giới thanh thiếu niên hay của người lớn khiến cho năng lượng bị phung phí. Đó là tại sao có một thành phần những sinh thể không có khả năng nhận ánh sáng từ cõi tâm linh tìm cách đánh cắp năng lượng qua việc quan hệ tình dục với các em. Đó chính là lý do thực sự của vấn đề.

Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để loại bỏ tệ nạn này. Con có thể dùng các bải thỉnh cho Astrea, hay nhiều bài khác như bài nguyện cũ cho Đại thiên thần Michael, bài nguyện cho Ánh sáng Vô biên, vân vân. Nhưng con có thể thỉnh gọi sự phán xử đối với những kẻ ấu dâm cũng như các loài quỷ dữ cùng các tà thể đứng đằng sau chúng. Và con có thể thỉnh gọi xã hội sớm thức tỉnh để thực sự nhìn nhận tệ nạn này và ra tay làm nhiều hơn để hạn chế tệ nạn.

Chỉ có tha thứ toàn diện mới dẫn đến tự do toàn diện

Hỏi: Làm thế nào mà những ai đã phải sống qua sự hà hiếp vào tuổi thơ ấu – dù là tình dục, thể chất, lời nói hay nhiều cách khác – có thể tiến bước trong quá trình chữa lành? Làm thế nào họ có thể thăng vượt vĩnh viễn tâm lý tiêu cực, như tức giận, tự ti, thù hằn, oán hận,… và tiếp tục bước tới trong cuộc sống? Trong những trường hợp như vậy, liệu có chuyện tha thứ và bỏ qua hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa Tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Lẽ tự nhiên, nếu con đã biết tới các chân sư thăng thiên, con có thể sử dụng tất cả các giáo lý mà chúng tôi đã ban ra về tiến trình chữa lành tâm lý của con, kể cả về ngã tách biệt và chấn thương trong quá khứ, để mà vượt qua. Nhưng để trình bày một cách tổng quát hơn cho mọi người, thực tế của cuộc sống là nếu con đã phải chịu một hành vi xâm hại, con sẽ không được giải thoát hoàn toàn khỏi trải nghiệm đó cho tới khi con tha thứ cho những người đã lạm dụng con, và đồng thời con cũng tha thứ cho chính mình đã phản ứng lại sự lạm dụng theo cách đó. Sự tha thứ toàn diện dẫn đến tự do toàn diện, như các chân sư đã có nói. Không có cách nào khác đâu con.

Chúng tôi đã ban ra lời dạy về cách giúp cho một người vươn lên khỏi quá khứ, và ở đây những lời dạy đó sẽ có thể hữu ích, tuy nhiên nói chung, cho tới khi con tha thứ thì con sẽ không thể quên được và không thể bước tới. Vậy làm thế nào con có thể tha thứ đây? Con chỉ có thể tha thứ một khi con đạt tới điểm con lấy quyết định là mình sẽ không để cho hành vi lạm dụng của quá khứ xác định mình là con người như thế nào ngày hôm nay, cũng như xác định mình là con người như thế nào trong tương lai cho tới hết kiếp này. Con phải quyết định là con sẽ không cho phép những kẻ đã xâm phạm con tiếp tục ảnh hưởng đến tâm thức và tâm trạng của con.

Con chỉ có thể làm vậy khi con trả tự do cho họ, khi con tha thứ họ và nhận rõ là họ đã hành xử cách đó để thể hiện mức tâm thức mà họ trải bày ra vào lúc đó, và con nhận rõ là hành vi của họ không trực tiếp nhắm vào cá nhân con, và do đó, con có thể dần dần đạt tới mức con ngừng xem đó là một chuyện cá nhân, rồi con cho phép nguyên cái đó ra đi.

Ta không bảo là chuyện này dễ làm, đặc biệt là nếu con không có giáo lý của các chân sư thăng thiên. Nhưng nếu con đã có giáo lý của chân sư và sử dụng các bài chú cùng bài thỉnh để biến hoá năng lượng đang ngăn cản con buông bỏ, thì thực sự con có thể đạt tới mức con giải phóng khỏi lực kéo của các năng lượng giận hờn và thù oán.

Khi đó, con sẽ có thể tự do lấy quyết định để cho nó ra đi. Rất có thể con sẽ phải nỗ lực làm việc trên bản thân mình, làm việc trên những cái ngã và nhận ra là mặc dù con đã bị xâm hại trong kiếp này, rất có thể đây cũng không phải là lần đầu tiên. Rất có thể chuyện đó trở ngược về một số kiếp trước, hay trở ngược về chấn thương nhập đời của con khi con đầu thai lần đầu. Con cần giải quyết những cái ngã này trước khi con hoàn toàn tự do mà có được quyết định: “Ta cho mi ra đi.”

Con không thể thực sự có được quyết định đó với tâm vỏ ngoài. Nhưng một khi con đã làm việc trên bản thân mình thì sẽ tới một điểm khi bỗng dưng con sẽ có một cảm giác buông xả nhẹ nhõm. Con sẽ cảm thấy như có cái gì bị gẫy, một cái gì nhả con ra, và con nhận ra trong ý thức là giờ đây con đã tha thứ, con đã để cho nó chết đi, và sau đó con cảm thấy tự do.

Tha thứ không có nghĩa là phủ nhận

Hỏi: Con đã từng bị tổn thương và con không thể tìm thấy sức mạnh để tha thứ và bước tới về phía trước. Trong một thời gian dài, con đã không muốn tha thứ. Nhưng bây giờ thì con đã quá mệt mỏi với những hạn chế mà con phải đối mặt và con muốn biết con phải bắt đầu ở đâu trên con đường tha thứ. Tha thứ là gì? Tha thứ có phải là quên hết và cư xử như thể không có chuyện gì xảy ra?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa kỳ. Đăng ngày 16/10/2020.

Hiển nhiên những điều ta vừa trình bày trong câu trả lời trước cũng áp dụng ở đây. Nhưng điều vô cùng quan trọng mà con cần ngộ ra là tha thứ không phải là giả vờ như không có chuyện gì xảy ra. Cái đó trong tâm lý học gọi là phủ nhận. Không phải là chuyện con quên đi bằng cách đẩy nó ra khỏi tâm trí của mình, mà như ta vừa trả lời trong câu trước, là chuyện đạt tới điểm con thoát ra khỏi tất cả những gì trong tâm lý đang níu kéo con lại, những cái ngã tach biệt, những năng lượng đã tích tụ khởi lên từ lòng sợ hãi, và nhờ vậy con có tự do để lấy quyết định tha thứ.

Một lần nữa, câu hỏi chỉ đơn giản là như sau: Con có muốn tự do hay không? Và nếu con muốn tự do thì con phải nhận ra là bằng cách tha thứ cho người khác, con đang tự giải phóng chính con.

Như các chân sư đã có đề cập, có sự hiểu lầm xảy ra thông thường là khi con tha thứ cho ai đó thì con để cho người đó thoát thân. Nhưng thực tế là khi con tha thứ, con cho phép chính con được thoát thân, vì con quyết định là cho dù người kia đã có làm gì tới con thì điều đó sẽ không quy định được con nữa.

Con sẽ không bám giữ chuyện đó nữa. Con sẽ không tìm cách quy trách nhiệm cho họ. Con sẽ không tìm cách thay đổi họ. Con sẽ không tìm cách trừng phạt họ. Chuyện đó không quan trọng gì nữa. Con chỉ muốn giải thoát khỏi họ. Con không muốn làm gì tới họ. Và con cũng không muốn họ làm gì tới con, hay làm gì cho con. Con chỉ muốn tự do. Đó là quyết định mà con phải lấy.

Nhưng như ta có nói, có thể con sẽ cần làm việc khá nhiều trên bản thân mình trước khi con có tự do lấy được quyết định đó.

Sa nhân và nghệ thuật

Hỏi: Xin các chân sư cho ý kiến về vai trò của sa nhân trong nghệ thuật. Phải chăng họ chỉ biểu đạt tình trạng tâm thức của họ, hay là họ có một ý đồ nào đó? Khi con nghe nhạc rap, con nhận thấy mặc dù có thể có sự vô cảm đối với sự sống, con vẫn tìm thấy một chút tính nhân bản trong cách đặt lời. Ngay cả những nghệ sĩ có vẻ như không có chút tình người trong âm nhạc của họ, nhưng họ dường như vẫn hiền lành, hầu như vô hại nếu so với những sa nhân như Hitler. Phải chăng con chưa được nghe loại nhạc có rung động đủ thấp để mà nhận thấy điều gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho nước Mỹ. Đăng ngày 15/10/2020.

Có những nhà ngoại cảm có khả năng nhìn vào một bức họa chẳng hạn. hay một tác phẩm nghệ thuật nào đó, và thấy được nó có tác dụng cài đặt một cái móc hay một ống hút vào hào quang của người đang ngắm nhìn, hầu bòn rút năng lượng của người đó. Cũng có một số tác phẩm nghệ thuật có khả năng tải xuống một số hình ảnh hoặc ma trận năng lượng vào các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của những ai đặt chú ý vào tác phẩm. Nghệ thuật không hoàn toàn trong trắng, vô hại như nhiều người tưởng. Nhưng điều này không có nghĩa là bây giờ con phải sợ ngắm nhìn mọi tác phẩm nghệ thuật, bởi vì tất cả tuỳ thuộc phần lớn vào cách con nhìn tác phẩm hay cách con nghe bản nhạc – liệu con có mở toang ra để cho nó nhập vào mình hay không. 

Tất nhiên, điều này có thể khó biết được đối với nhiều người vì họ không ý thức được những lỗ hổng mà họ đang có trong hào quang của mình, cho nên họ sẽ dễ bị tổn thương hơn như khi họ thâu nhập, hay để cho người khác bòn rút năng lượng từ cảm thể của họ chẳng hạn. Đối với những ai nhậy bén hơn, họ có khả năng học rất nhanh cách cảm nhận độ rung trong tim họ, tức là liệu bức tranh mà họ đang ngắm có nâng cao hay kéo thấp độ rung, có nâng cao hay kéo thấp cảm giác trong tim họ. Chẳng hạn có người học được cách nhận thấy năng lượng bị hút ra khỏi họ khi họ đang lắng nghe một loại nhạc nào đó. Ai ai cũng có thể học được khả năng này nếu mình sẵn sàng học hết tiến trình, nhưng để thực sự học được thì mình phải trung hoà.

Con không thể thiếu trung hoà như rất nhiều người khi họ không sẵn lòng cảm nhận xem năng lượng của họ có bị đánh cắp hay không, bởi vì họ quá ham nghe một loại nhạc nào đó do một quyết định của ngoại tâm, hoạc vì họ quá muốn xem một tác phẩm nào đó, hoặc nữa, vì họ tin – như một số người tâm linh hay muốn tin như thế – rằng mọi loại nghệ thuật “đều tốt thôi”.     

Sự phân biện đòi hỏi một sự sẵn sàng muốn biết – và trên căn bản, điều này đòi hỏi là con ở trong một trạng thái trung hoà hầu con tự do cảm nhận: “Tác phẩm này đang tác động tôi như thế nào? Nó có kéo thấp năng lượng của tôi? Nó có lấy mất năng lượng hay nó nâng cao năng lượng của tôi? Liệu tôi có nhận được năng lượng tích cực từ nó hay không?”

Lập trình bộ não hay lập trình tâm?

Hỏi: Mặc dù các nhà khoa học tin rằng bộ não của chúng ta phát triển do những gì chúng ta trải nghiệm trong thế gian và là kết quả của lịch sử cá nhân mỗi người, nhưng họ cũng nói rằng bộ não hoạt động 90% một cách tự động. Chỉ có 10% hoạt động của não là ý thức. Điều này có nghĩa là trong thời gian còn lại, nó chạy các chương trình của nó nhưng nó khiến chúng ta tin rằng chính chúng ta là người lấy quyết định theo rất nhiều cách.

Câu hỏi của con cho các chân sư là việc lập trình bộ não đó có chỉ là kết quả của rất nhiều trải nghiệm mà nhân loại đã có trong lịch sử tiến hóa của giống loài (phylogenetic) hay không? Và nếu vậy, đó có phải là một lập trình ngẫu nhiên, kết quả của sự tình cờ? Hay đó là một lập trình có chủ ý, và do ai, ai đã tạo ra các cơ chế tương tự như bản năng sử dụng các chương trình sinh học? Việc này liên hệ thế nào với lịch sử cá nhân của mỗi người hết kiếp này đến kiếp khác? Và tất cả những cái ngã mà chúng ta mang theo do các trải nghiệm cá nhân thì sao? Làm cách nào bộ não vật lý liên lạc với ba thể cao?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn lựa tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 15/10/2020.

Bộ não vật lý nối kết rất chặt chẽ với ba thể cao của con. Thật ra chúng ta có thể nói, bộ não vật lý một phần là cánh cửa thông thương để ba thể cao biểu đạt trong cõi vật lý, và phần khác là cánh cửa mà qua đó ba thể cao nhận được ấn tượng từ cõi vật lý.

Thật không đúng như các nhà khoa học nói rằng tất cả các lập trình đó nằm trong bộ não. Nhiều lập trình không nằm trong não vật lý. Có một số lập trình trong não vật lý nhưng chúng chỉ là các chương trình liên quan đến sự tồn tại của cơ thể cùng sự truyền giống. Những loại chương trình này cũng có thể tìm thấy ở các loài động vật. Và con có thể nói, đúng vậy, chúng được tạo ra bởi quá trình tiến hóa rất dài của động vật khi một số chương trình được thiết lập để đảm bảo sự sống còn của một giống loài. Những thứ đó được lập trình vào não vật lý cùng hệ thống thần kinh của con. Đây là cái người ta thường gọi là bản năng.

Nhưng ngoài bản năng ra và khi nói đến tâm lý con người, thì tâm lý này không nằm trong bộ não. Phần lớn tâm lý không tùy thuộc vào bộ não. Thỉnh thoảng não có thể ảnh hưởng nếu nó bị thương tích vật lý thì nó có thể ảnh hưởng đến tâm lý của con khi nó làm suy giảm các khả năng tâm lý. Tuy vậy khi nói đến các chương trình tâm lý thì các chương trình này nằm trong các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con dưới dạng những cái ngã tách biệt, hay dưới dạng một tư thế sẵn sàng đón nhận các tà thể đại chúng, các quỷ dữ tập thể đi vào. Các tà thể này có khả năng chiếm hữu tâm trí một người, và các thày đã có dạy rất nhiều về điều này trong các bài giảng.

Vấn đề là rất nhiều những lập trình này đã – nếu có thể nói như vậy – tiến hóa im ỉm trong tiềm thức khi rất nhiều người nếm những trải nghiệm đủ loại suốt một thời gian rất dài, dài hơn hẳn chiều dài lịch sử được ghi chép. Chẳng hạn, chúng ta có thể nói là một số nhóm sắc tộc, một số dân tộc, một số chủng tộc đã mang một số lập trình nhất định từ thuở xa xưa.

Và tất nhiên còn có một loại lập trình do sa nhân tạo ra suốt một thời gian rất dài từ khi chúng được phép đầu thai trên trái đất. Sa nhân đã cố tình thiết lập vô số những chương trình như vậy nhằm suy đồi tâm lý con người, tạo ra những khuôn nếp phản ứng sẽ giúp chúng kiểm soát con người. Các thày đã giảng dạy rất nhiều về sự kiện này mà con có thể tìm thấy trong nhiều lời dạy.

Chuyển nghiệp cho con cái

Hỏi: Với tư cách là một người mẹ, con có thể nào dùng ngọn lửa tím để làm tiêu nghiệp cho một đứa con đã trưởng thành hay không? Hay đó là vi phạm quyền tự quyết của nó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 9/9/2020.

Nghiệp có hai khía cạnh. Một khía cạnh chỉ đơn thuần giống như một cơ chế máy móc: Năng lượng tha hóa có thể đã tích tụ lại trong ba thể cao của một người và đang là một gánh nặng cho người đó. Con có thể dùng các bài thỉnh gọi để tiêu hủy khía cạnh này cho người khác.

Nhưng cũng có một phần của nghiệp đòi hỏi chính người đó phải thấy được một điều gì đó và thăng vượt một trạng thái tâm thức nào đó. Điều này, hiển nhiên, con không thể làm thế cho người khác. Không phải là chuyện vi phạm quyền tự quyết của họ, mà đơn giản là con không thể làm được chuyện đó. Con không thể khiến cho họ nhìn ra một điều gì mà họ không sẵn lòng nhìn thấy.

Cho nên một lần nữa, việc thình gọi cho người khác có thể có tác dụng tích cực, vì bằng cách chuyển hóa năng lượng, họ sẽ dễ dàng hơn thấy được những gì họ cần thấy. Nhưng không có bảo đảm là họ sẽ thấy được điều đó vì sự thể tùy thuộc vào ý chí tự quyết của họ.

Ca khúc “Let it be” của The Beatles

Hỏi: Có phải ca khúc “Let it be” của The Beatles lấy cảm hứng từ Mẹ Mary không? Lời ca có vẻ cho thấy điều đó: “Khi tôi gặp khó khăn, Mẹ Mary đến với tôi để nói những lời trí tuệ, Hãy buông và để yên cho họ…vân vân và vân vân”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Vâng, Mẹ Mary vừa nói: “Không. Ban nhạc The Beatles không có khả năng hòa điệu với tâm thức của ta hay tâm thức của bất kỳ chân sư thăng thiên nào khác.”

Làm thế nào ứng phó với một người không muốn sống

Hỏi: Con gái của con bị chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nó không muốn sống nữa. Làm thế nào con có thể làm việc trên tâm lý của chính con? Và làm thế nào con có thể giúp tâm lý con gái của con? Chấn thương nào là chấn thương mấu chốt ở đây? Và điều gì cần được giải quyết trước tiên? Con đã thử nhiều phương thức khác nhau, kể cả cầu nguyện, đọc thỉnh, xua đuổi các tà thể bệnh tật nhân danh Giê-su Ki-tô và cái Ta Là, cũng như nhiều cách khác, nhưng vẫn không đủ. Con có cảm giác là khi con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng của con gái con càng trầm trọng hơn.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 8/9/2020.

Con cần nhìn ra ở đây là không một lời cầu nguyện, một lời chú, một lời thỉnh nào có khả năng đi ngược lại quyền tự quyết của một người. Đó là vì sao trong một số hoàn cảnh, con càng thỉnh cầu ánh sáng thì tình trạng dường như lại càng tệ hơn, vì ánh sáng đang tác dụng trên người đó nhưng họ lại không muốn quyết định xoay chuyển để trở về một thái độ tích cực hơn đối với sự sống. Và do đó, ánh sáng khiến họ bị dao động xốn xang, hay làm dao động những con quỷ hay tà thể đang xâm chiếm họ, khiến họ xử sự càng cực đoan hơn nữa.

Có thể điều cần thiết trong những cảnh huống như vậy là con hãy tạm ngừng thỉnh cầu ánh sáng thay mặt cho người đó. Điều có thể cần thiết trong trường hợp như thế này – và ta đang trình bày một cách tổng quát về những ai đang ở trong một hoàn cảnh tương tự – là con nên ngừng chú tâm vào người kia, và thay vào đó, con chú tâm vào chính con cũng như tâm lý của con, và con tìm cách giải quyết tâm lý của mình. Con cũng có thể tập trung và thỉnh cầu việc hóa giải mọi nghiệp chướng mà con còn mang với người kia.

Ta cũng biết đây là một thông điệp mà một số người sẽ rất khó lòng lắng nghe, nhưng con sống trong một thế giới nơi quyền tự quyết là định luật tối cao. Có thể có những hoàn cảnh mà một người không muốn sống, và đương nhiên con cảm thấy bắt buộc phải giải cứu họ khỏi tình trạng của họ để họ có thể tiếp tục sống, bởi vì con không muốn một người thương yêu phải qua đời. Nhưng có thể có những trường hợp mà con cần cho phép người đó qua đời, vì đó là cách duy nhất để dòng sống của họ học được bài học cần học – cụ thể là sự tự vẫn, hay thậm chí cả cái chết, sẽ không giải thoát họ khỏi tình trạng mà họ đang mang, vì con người luôn luôn mang theo tâm lý của mình với mình.

Ở đây ta không đang khuyến khích bất cứ ai hãy cứ để yên cho người khác tự vẫn hay để yên cho họ qua đời. Nhưng ta muốn nói là tới một điểm con cần ngừng sử dụng các dụng cụ tâm linh. Ta không đang đề cập tới chuyện vi phạm luật pháp, mà ta chỉ nói là nếu các bài thỉnh, bài chú, khiến cho tình trạng càng thêm bất ổn, thì rất có thể con cần ngừng sử dụng và cho phép tình hình trải bày ra cho đến kết cuộc.

Điều con có thể làm là con nỗ lực cải thiện tâm lý của con, tìm cách giải quyết những phản ứng mà toàn bộ cảnh huống đó khơi lên nơi bản thân con. Đây có thể là những điều vô cùng vi tế, sâu sắc, về cách con nhìn người khác, cách con nhìn chính mình cũng như trách nhiệm của con đối với người khác. Con cần nhận diện ở đây là con đang sống trên một hành tinh rất tăm tối, rất hỗn loạn. Con chỉ cần nhìn lại lịch sử và nhận ra biết bao người phải gặp chấn thương trầm trọng trong tiền kiếp của họ. Ngày nay có những người bước vào đầu thai đã mang sẵn những chấn thương vô cùng sâu đậm như vậy từ một tiền kiếp không xa.

Trách nhiệm của con có thể không phải là cứu sống người đó hay chữa lành chấn thương đó, vì chuyện này không thể. Mà trách nhiệm của con là trao cho người đó cơ hội tìm kiếm sự chữa lành. Nhưng nếu họ không muốn sử dụng cơ hội thì điều này có thể có nghĩa là trách nhiệm của con đối với họ đã chấm dứt. Ta nói ra điều này để con có thể đương đầu với những cảm giác trách nhiệm, tội lỗi, vô vọng và tuyệt vọng khi con không có khả năng giúp đỡ người đó.

Có những thời điểm trong đời khi con không thể giúp đỡ một người thân thuộc hay ngay cả một người con gặp trong việc làm. Và vì thế, con chỉ có thể đứng quan sát họ tiếp tục hành xử theo cách hành xử tự hủy diệt của họ. Một lần nữa, ta không đang nói tới chuyện vi phạm luật pháp. Nhưng sẽ tới một điểm khi con cần buông bỏ trách nhiệm của con đối với người kia và cho phép quyền tự quyết tự trải bày ra.

Ta cũng không đang bảo đây là việc đầu tiên mà con cần làm, bởi vì hiển nhiên con đã làm tất cả các biện pháp khác rồi. Điều con phải làm là đứng lui lại một bước khỏi tình thế trước mặt và tự nhủ: “Tôi sẽ tập trung vào việc cải sửa tâm lý của tôi”. Và khi con làm vậy, đôi khi một sáng ngộ trực giác có thể bật lên từ nội tâm, rằng giờ đây con đã giải quyết được một điều gì đó trong bản thân mình và con có thể tiếp cận người kia một cách khác hơn. Và điều này có thể giúp con giúp đỡ họ theo một chiều hướng mà trước đây con không thể làm được khi tâm lý của con tạo ra những phản ứng ngăn cản con giúp họ.

“Có cảm xúc” so với “trải nghiệm cảm xúc”

Hỏi: Phải chăng các cảm xúc của chúng ta như vui sướng, giận dữ, lo lắng hay buồn rầu là kết quả của một cái ta tách biệt? Nói cách khác, phải chăng sự kiện chúng ta có cảm xúc là do một cái ngã tách biệt?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 6/9/2020.

Con không cảm xúc do một cái ngã tách biệt. Ngã tách biệt có cảm xúc, và nếu con tự đồng hóa với ngã tách biệt – hay con tự đồng hóa là ngã tách biệt – thì con trải nghiệm cảm xúc đó. Ta cũng biết cách nói thường tình là bảo rằng: “Tôi đang có một cảm xúc”, nhưng con không cảm xúc đó. Con, trong tư cách là cái Ta Biết, không có một cảm xúc. Con đang trải nghiệm một cảm xúc.

Không phải là trong tư cách cái Ta Biết con không thể trải nghiệm một số cảm xúc, nhưng đó là những cảm xúc không nhị nguyên. Nói cách khác, chúng không có đối nghịch. Đức Phật có nói đến cực lạc, mà một số người diễn giải là sự hỉ lạc cùng cực, nhưng không phải vậy. Đó là một cảm xúc vượt ra khỏi các đối cực nhị nguyên như vui và buồn, tức giận, oán hận, tất cả những cảm xúc dựa trên sợ hãi đó, và tất cả các loại cảm xúc mà người ta có thể gán cho một đối nghịch. Tất cả các cảm xúc có đối nghịch đó, các cảm xúc nhị nguyên đó, các cảm xúc mà đức Phật gọi “các cặp”, đó là những cảm xúc mà một cái ngã tách biệt đang có. Khi con chưa nhận biết ngã tách biệt và chưa trải nghiệm mình là sự nhận biết thuần khiết, khi con chưa tự tách mình ra khỏi ngã tách biệt, thì con cho rằng con đang có cảm xúc đó. Con cảm thấy con đang có cảm xúc đó, nhưng kỳ thực con không đang có nó. Và chìa khóa ở đây là cái Ta Biết cần nhận biết điều này.

Điều này không có nghĩa là con sẽ nhất thiết khắc phục mọi cái ngã tách biệt, hay con phải khắc phục mọi cái ngã tách biệt, nhưng con có thể đạt tới sự nhận biết rằng mình là nhiều hơn ngã tách biệt. Do đó khi con đang “có” một cảm xúc nào đó, con nhận ra: “À, đây là một cái ngã tách biệt đang có cảm xúc này, nhưng tôi là nhiều hơn ngã tách biệt này.” Không có nghĩa là con có thể tức khắc vứt bỏ ngã tách biệt đi. Có thể ngã tách biệt vẫn có một cảm xúc.

Giả dụ con trải nghiệm một tình huống thật động cảm như khi có điều gì khó chịu xảy ra cho ngã tách biệt, một điều mà ngã tách biệt không muốn xảy ra. Do sự kiện này, ngã tách biệt có một cảm xúc nào đó, nhưng con nhận ra là con không phải là ngã tách biệt, cho nên mặc dù cảm xúc có mặt trong cảm thể của con, con không bị lôi cuốn vào đó. Con không bị đồng hóa với nó. Con trải nghiệm cảm xúc từ bên ngoài. Con không ở trong – nếu có thể nói như vậy – cái bình thủy tinh chứa đầy nước bị cảm xúc tô màu. Con không bị chết chìm trong cảm xúc. Con đứng bên ngoài. Con đang thấy có cái bình thủy tinh đó có nước đang xoáy xoáy đó, và nước thì đang bị một cảm xúc tô màu. Nhưng con để yên cho nó là một cảm xúc. Con không cần phản ứng lại.   

Điều này có nghĩa là con có khả năng phá vỡ vòng xoắn ốc cảm xúc mà trong nhiều trường hợp – khi một tình huống đau buồn xảy ra – có một cái ngã sẽ phản ứng lại tình huống qua cảm xúc: “Ồ, chuyện này đáng lý không được xảy ra.” Rồi một cái ngã khác bước vào và cảm thấy tức giận hay nuối tiếc, hay sẽ đổ lỗi cho con đã hành xử như vậy hay con không hành xử như đáng lý con phải hành xử. Thế là bỗng dưng có vòng xoắn ốc đó nổi lên, nó quay và nó quay như thể tất cả những cái ngã tách biệt kia đang khích động lẫn nhau, và toàn bộ sự nhận biết của con bị cuốn hút vào đó và con không thể gỡ mình ra khỏi nó. 

Một khi con đạt đến điểm nhìn nhận rằng con không phải là ngã tách biệt, con có thể cho phép các cảm xúc đó đơn giản có mặt, nhưng chúng không chiếm đoạt được tâm con. Thật ra con có thể bước ra ngoài cảm thể, có lẽ bước lên trí thể, thậm chí bước lên bản sắc thể, và con chỉ đơn giản trải nghiệm các cảm xúc đó từ bên ngoài thay vì từ bên trong, và điều này sẽ giúp con chịu được chúng dễ dàng hơn rất, rất nhiều.   

Về lòng gắn bó với người khác

Hỏi: Từ rất lâu, con đã cố gắng trừ bỏ những phàm linh đằng sau sự dính mắc của con đối với quá khứ, đặc biệt với những người mà còn từng có quan hệ hay những người đã khuất. Nhưng con không thể nào buông những phàm linh đó ra. Con đã chân thành sử dụng các dụng cụ được chỉ dạy và con đã cố tu sửa tâm lý của mình, nhưng con thấy rất ít tinh tấn. Xin thày vui lòng nhận xét về những niềm tin đứng đằng sau xu hướng khi chúng ta kháng cự lại không buông bỏ những người mà chúng ta đã từng có quan hệ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Là Mẹ Thiêng liêng. Đăng ngày 5/9/2020.

Đây là một câu hỏi phức tạp vì nguyên nhân khiến con gắn bó với một số người thật là cá nhân. Nhưng chúng ta có thể nói đến một số nhóm chính. Nói cách khác, niềm tin cụ thể mà con có như một cá nhân có thể là một niềm tin rất đặc trưng, nhưng nó thuộc về một số loại người nhất định.

Một loại người là khi con có một cái ngã muốn tận tụy giúp đỡ những người đó. Một số avatar đã đầu thai cùng với sa nhân khi họ đến địa cầu lần đầu tiên, và họ đã hình thành một ý muốn mãnh liệt muốn cứu giúp sa nhân đó và đưa người đó vào con đường tích cực. Đối với loại tin tưởng này, ta khuyên con nên đọc quyển sách Những kiếp của tôi [My Lives with Lucifer, Satan, Hitler and Jesus], trong đó có mô tả nhân vật chính đã trải qua nguyên một tiến trình tự giải thoát khỏi mọi dính mắc với Lucifer, tức dòng sống mang tên Lucifer trong sách.

Con cũng có thể bị dính mắc với việc giúp đỡ các avatar khác hay giúp đỡ các dòng sống là cư dân nguyên thủy trên địa cầu. Và ở đây, con cần bắt đầu nhìn vào quyền tự quyết, hay ý chí tự do. Con cần bắt đầu nhìn nhận là mọi người khác đều có quyền tự quyết của họ, cho nên con không thể cứu được ai cả. Con không thể thay đổi được ai cả. Đây có thể là một cuộc khai ngộ khó khăn để con vượt qua. Vị sứ giả này đã bỏ ra bao nhiêu năm trời phấn đấu với vấn đề này trong nội tâm của ông cho đến khi ông ngộ ra là ông phải buông bỏ mọi mong muốn thay đổi người khác – bởi vì nếu không, nó sẽ giam ông trong một vòng luẩn quẩn cho đến hết kiếp này và có thể còn lâu hơn nữa.

Con cần nhận ra ở đây là con có quyền tự quyết cá nhân của con và người khác cũng có quyền tự quyết cá nhân của họ. Con cần giải thoát ý chí tự do của con ra khỏi ý chí tự do của người khác. Đây là cách duy nhất để con giúp cho ý chí tự do của con được thực sự tự do. Con cần nhìn nhận ở đây là nếu con là một học trò của chân sư thăng thiên và nếu con thành thật mong muốn hội đủ tư cách thăng thiên trong kiếp này, con không thể bị dính mắc vào những ai có thể sẽ không thăng thiên sau kiếp này. Do đó con phải gắng sức về điểm này, con cần nhìn ra những cái ngã đó và để cho chúng chết đi. Nếu con có dính mắc thì hiển nhiên cũng có một cái ngã mà con chưa nhìn thấy, vì vậy con cần nỗ lực cho tới khi con thấy được nó, và con cần tiếp tục sử dụng các dụng cụ cho tới khi con thấy được nó.

Một loại người khác là con có thể có một cái ngã mong muốn kiểm soát người khác, cho nên con sẽ không buông cho người đó ra đi, vì con cảm thấy con phải giữ lại một chút kiểm soát. Điều này lại có thể xuất phát từ một ý muốn lành mạnh muốn giúp đỡ người kia, nhưng đó vẫn là một cái ngã kiểm soát, nó muốn kiểm soát hay thậm chí muốn sở hữu người kia. Ta không nói đây là trường hợp của đa số những người tâm linh, nhưng tất cả các con đều có thể đang mang những cái ngã được tạo ra từ rất lâu về trước mà con chưa buông bỏ. Con cần sẵn lòng nhìn vào điều này.

Sự kiện cơ bản là như sau: Bất kỳ dính mắc nào cũng đến từ một cái ngã tách biệt. Nếu con vẫn còn một dính mắc thì con vẫn có một cái ngã tách biệt mà con chưa thấy. Cho nên con hãy dùng các dụng cụ mà các chân sư đã ban cho con, con hãy suy ngẫm các lời dạy, nhìn vào bản thân, xem xét các tin tưởng của mình. Tại sao con lại dính mắc với người đó, điều gì con cảm thấy mình phải làm, điều gì con thực sự cảm thấy đã phải xảy ra hay đã không được xảy ra? Và con hãy tiếp tục làm vậy cho đến khi con phơi bày được những niềm tin vi tế mà con mang đang giữ con dính chặt với người kia. Tất cả đều xoay quanh sự kiện là con tin rằng mình phải làm một việc gì đó trên địa cầu.

Như vị sứ giả này đã mô tả, một khi con giải quyết chấn thương nhập đời của con, ngã gốc của con cùng những cái ngã tách biệt khác, con sẽ tới điểm nhận ra điều này: rằng ở nơi đây trên trái đất, không có công việc gì mà con phải làm. Không có điều gì mà con bị bắt buộc phải làm, không có điều gì mà con bị ép buộc phải làm. Rất có thể con vẫn sẽ làm một số công việc vì con là cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ của con, nhưng những việc này không xuất phát từ một cái ngã tách biệt.

Tâm lý chưa giải quyết đằng sau sự bùng phát coronavirus

Hỏi: Xin Elohim Cyclopea hay một vị chân sư nào khác có thể vui lòng bình luận về tâm lý chưa giải quyết đằng sau sự bùng phát của vi-rút corona? Và xin các thày chia sẻ với chúng con những lời dạy sẽ giúp chúng con thăng vượt tâm lý này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar vào tháng 5, 2020 cho sự Giải phóng của Phụ nữ. Đăng ngày 3/7/2020.

Con yêu dấu, con hãy biết vi-rút không thực sự là một dạng sống, ít ra không phải là cái mà bình thường con gọi là dạng sống. Vi-rút là một loại ký sinh trùng (parasite), và để sống còn, nó phải lệ thuộc vào một tế bào chủ (host cell) mà nó đã xâm nhập.

Dựa trên đó, con có thể thấy vi-rút không phải là một sự kiện tự nhiên, theo nghĩa nó không là kết quả của quá trình tiến hóa bình thường. Bởi vì ngay cả trên một hành tinh như địa cầu với vật chất dày đặc như thế này, quá trình tiến hóa bình thường vẫn tạo ra những dạng sống tự thân có khả năng sống còn và sinh sản – và nhờ vậy chúng có thể tăng trưởng, chúng có thể tự thăng vượt, tiến hóa thành những dạng sống khác, và trong quá trình tiến hóa đó có một hướng phát triển tuần tự. Nhưng với một số dạng sống như vi-rút, ký sinh trùng, thú vật độc hại v.v… con thấy là chúng không thể tồn tại một cách tự lực. Và khi con gặp những loại dạng sống đó thì con biết chúng không phải là kết quả của một quá trình tiến hóa tự nhiên trơn tru, mà là kết quả của một ảnh hưởng đến từ sa nhân cùng tâm thức sa ngã.

Trong các đợt truyền pháp trước, chúng tôi đã có đề cập đến các vi-rút cũng như cách thức mà chúng đã được sa nhân tạo ra bằng gen hoặc biến đổi gen nơi phòng thí nghiệm của các nền văn minh trong quá khứ. Nhưng ở đây ta không đặc biệt muốn đi sâu vào vấn đề này. Điều ta muốn nói là, vi-rút là sự biểu hiện, sự phóng diễn của tâm thức sa ngã trong cõi vật lý. Tâm thức sa ngã và các sinh thể sa ngã là một loại vi-rút, một loại ký sinh trùng vì chúng không có khả năng tồn tại một mình. Do chúng không còn nhận được năng lượng từ cõi tâm linh, từ Hiện diện TA LÀ của chúng hay từ các chân sư thăng thiên, cho nên để có thể sống còn, chúng phải xâm chiếm tâm của người khác và ép buộc những người này tha hóa năng lượng mà họ nhận được từ cõi tâm linh qua một độ rung thấp hơn.

Đây thực sự là cái tư duy đứng đằng sau một vi-rút – sự từ chối tự thăng vượt, từ chối thay đổi, vươn lên cao hơn, tiến hóa, phát triển. Và tất nhiên là có một mối liên hệ giữa tâm thức cùng tâm thức tập thể, và những khu vực nơi vi-rút có thể nhảy vào cõi vật lý, hay nhảy từ động vật sang con người.

Không phải ngẫu nhiên mà sự kiện này đã xảy ra tại Trung quốc, vì Trung quốc là một trong những quốc gia trên thế giới ngày nay còn bị mắc kẹt trong một trạng thái tâm thức nơi người ta không muốn, hay không có khả năng, tự thăng vượt. Tâm thức này mang nhiều khía cạnh, trong đó phải kể đến cách người ta đối đãi với động vật, cách người ta đối xử với động vật ở chợ bán động vật, nhưng thêm vào đó cũng có cách người ta đối xử với con người. Và vấn đề hiển nhiên nhất ở Trung quốc ngày nay, tất nhiên, là việc từ chối thăng vượt chủ nghĩa cộng sản cùng ý thức hệ cộng sản.

Ở đây con có một quốc gia tư bản, nếu không nói là còn tư bản hơn cả Hoa Kỳ, với số nhà triệu phú cùng tỷ phú tăng nhanh chóng, thế nhưng họ vẫn khăng khăng tìm cách duy trì bộ mặt một thể chế cộng sản do một đảng cộng sản cai trị. Để dùng một câu nói quen thuộc, họ đang muốn phỉnh gạt ai đây? Họ chỉ gạt được chính họ thôi, phải không con? Tất nhiên đặc tính này đã hiện hữu từ hàng ngàn năm qua tại Trung quốc – và ngay cả trong vùng châu Á rộng lớn hơn – là xu hướng muốn đưa ra một bộ mặt. Bằng mọi cách, họ muốn duy trì bộ mặt đó. Họ muốn giữ thể diện.

Tất nhiên con cũng tìm thấy vấn đề này ở nhiều nơi khác trên thế giới, và ta không bảo là ở những xứ khác không thể có vi-rút bùng phát. Nhưng dù sao thì con thấy nó xảy ra rất nhiều tại Trung quốc. Và đây chính là nguyên nhân của vụ bùng phát này, sự biểu hiện của một tâm thức, là tâm thức không chịu thăng vượt chính nó, và con người thì không chịu tự thăng vượt chính mình.

Và thực sự, đây cũng là sự biểu hiện của tâm thức không chịu đứng lên đối mặt với sa nhân. Vì ai là những kẻ đang duy trì bộ mặt một đảng cộng sản nắm trọn quyền kiểm soát tại Trung quốc chứ? Đó là các sa nhân, vì chính sa nhân không những đã tạo ra chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa Mác mà chắc chắn cả đảng cộng sản Trung quốc cùng toàn bộ guồng máy quyền lực ở đó.

Khi con người không chịu đứng lên đối đầu với sa nhân thì cần phải có một cái gì khác sẽ lay chuyển tư duy đó, sẽ thách thức tư duy đó theo một cách khó phủ nhận hơn. Và ở đây con có một sự biểu hiện vật lý rất khó phủ nhận. Ta biết rất rõ Trung quốc đã phủ nhận điều này từ ít lâu nay, và nếu họ cởi mở và thẳng thắn hơn với WHO [Tổ chức Sức khỏe Thế giới] cùng với phần còn lại của thế giới, thì họ đã có thể giảm thiểu tác động của vi-rút này. Nhưng một lần nữa, đây lại là vấn đề xem trọng chuyện giữ thể diện cho đảng cộng sản một cách cuồng tín. Họ nghĩ là họ kiểm soát được tình hình, nhưng liệu họ có kiểm soát được vi-rút hay không? Không, và sự kiện này đã có một tác động trên tâm thức tập thể tại Trung quốc rồi. Trong tương lai, tác động này sẽ còn lớn hơn nữa. Tất nhiên các quốc gia Tây phương cũng bị tác động, vì hiển nhiên tại một số quốc gia Tây phương, người ta cũng bị rơi vào tâm trạng không chịu tự thăng vượt.

Con thử nhìn quanh nhiều nước mà xem và con có thể tìm thấy ít nhất một sự tương ứng hợp lý giữa số người bị nhiễm bệnh, số người bị tử vong do COVID-19, và tâm thức tập thể không sẵn lòng thăng vượt một điều gì đó tại nước đó. Con có thể nhìn tại Ý chẳng hạn, có sự kiện Giáo hội Công giáo đã được thiết lập và vẫn còn đặt tòa thánh tại đó, nhưng liệu nhân dân Ý đã có thực sự thách thức Giáo hội Công giáo hay chưa? Và tại Tây ban nha cũng vậy? Ở Anh, con thấy dân chúng rời khỏi Liên Âu vì họ muốn đi con đường riêng, nhưng họ không đang thách thức lớp thượng lưu quyền lực đang cai trị nước Anh từ đằng sau hậu trường – một lần nữa, một sự không sẵn lòng thăng vượt.

Con nhìn xem tại Hoa Kỳ, nơi như chúng tôi đã từng nói, lớp thiểu số độc tôn quyền lực trở nên ngày càng giàu hơn trong khi giới trung lưu thì ngày càng nghèo đi và người nghèo thì trở nên cùng khốn. Nhưng người dân Mỹ vẫn không sẵn lòng thay đổi sự thể này. Họ không sẵn sàng đòi hỏi chính quyền của họ, tổng thống của họ, có những biện pháp để thay đổi sự thể, mặc dù đó chính là điều ông ấy đã phần nào hứa hẹn khi ông được bầu lên bởi một phong trào gọi là dân túy (populist). Nhưng ngày hôm nay, dân túy ở đâu để thách thức bàn tay sắt đá của lớp thượng lưu quyền lực đang cầm chặt nền kinh tế cùng hệ thống tái chánh Hoa Kỳ? Chắc chắn con có thể nhìn vào thế giới và tìm thấy một sự tương ứng nào đó. Không nhất thiết là con cần diễn giải phân tích quá đáng, nhưng sự tương ứng nằm ở đó.

Bây giờ nói đến các dụng cụ tâm linh mà con có thể dùng cho vấn đề này. Chắc chắn con có thể dùng các dụng cụ mà chúng tôi đã ban ra nhằm nâng cao tâm thức của con, và con có thể thỉnh gọi sự bảo vệ tâm linh cho con, thỉnh gọi để con được cắt đứt khỏi các mối ràng buộc. Và con có thể nỗ lực cải sửa chính mình và con sẵn lòng tự thăng vượt. Nhưng con cần nhìn nhận ở đây là những gì người tâm linh có thể làm được để thỉnh gọi cho đại dịch COVID-19 giảm bớt, cũng chỉ giới hạn mà thôi. Lý do là vì, giản dị, đây là một trong những bài học mà nhân loại cần học qua, vì khi con người không sẵn lòng học hỏi từ sự chỉ đạo tâm linh cao hơn thì con người phải học từ Trường đời Cay đắng. Và hiển nhiên, con có thể nói là trong thời gian vừa qua, đây chắc chắn là một trong những biến cố đã thu hút sự chú ý của mọi người, thậm chí còn thu hút hơn cả cuộc khủng hoảng tài chánh năm 2008, và một cách nào đó, hơn cả vụ khủng bố 9/11.  Con phải chú ý vì con nhìn thấy tận mắt những biện pháp hạn chế được ban hành, và con thấy các chính phủ đã phản ứng như thế nào.

Và như vậy con thấy, cho dù cuộc khủng hoảng này có khó khăn biết mấy, it ra nó đá khiến cho người ta chú ý. Và người ta bị lung lay không còn dám nghĩ: “Ồ, chắc rồi chuyện này cũng sẽ trôi qua. Chúng ta không phải làm gì nhiều để đối phó với nó.” Người ta đã được đánh thức bởi sự kiện là mình phải làm một cái gì đó, vì nếu không, mình sẽ phải trải qua một thảm họa thực sự. Cho nên một lần nữa, đây là một sự thức tỉnh có thể dẫn đến một nhận thức sâu sắc hơn về nhu cầu phải thăng vượt tư duy cũ và tiến tới theo nhiều cách khác nhau.

Làm thế nào giúp một người không tâm linh

Hỏi: Liệu các lời dạy về tâm lý tâm linh có thể giúp được một người không tâm linh, không tin là có tiền kiếp và không muốn sử dụng các dụng cụ tâm linh? Nếu người ấy yêu cầu sự giúp đỡ, liệu con có cách nào giải thích cho anh ấy là anh đã cho phép tà lực xâm nhập vào tâm anh cũng như vào trường năng lượng của anh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Câu trả lời là có lẫn không – theo nghĩa là điều đó có thể hữu ích, và ngay cả khi người đó không tâm linh một cách ý thức hay ở một mức ý thức, thì họ vẫn có thể sẵn lòng lắng nghe một số ý tưởng. Nhưng cũng có những người sẽ gạt bỏ bất cứ gì đi ra ngoài hộp tư duy hiện thời của họ, và có thể là họ không thể được giúp đỡ. Tuy nhiên, con có thể cố diễn tả giáo lý bằng những ngôn từ trung dung hơn, và con có thể cố nhìn xem khoa học đã khám phá những gì. Con có thể trình bày về năng lượng, về những năng lượng phải có mặt ở những tần số thấp hơn hay cao hơn. Thay vì nói về tà thể, con có thể chỉ nói đến những năng lượng thấp phát xuất từ lòng sợ hãi, và điều này có thể sẽ giúp ích cho họ.

Nhưng có một số người sẽ không thể được giúp đỡ qua tâm lý tâm linh. Bởi vì nếu con nhìn vào bất kỳ hệ thống nào, ngay cả ngành tâm lý trị liệu truyền thống, mọi lời dạy mà con tạo ra đều dựa trên một số khái niệm nhất định. Đó là cái sẽ quy định lời dạy. Trong bất kỳ lời dạy nào cũng có một số khái niệm quy định nó. Nếu người ta cởi mở với các khái niệm thì lời dạy sẽ có khả năng giúp đỡ họ. Nhưng nếu họ bác bỏ các khái niệm, tranh cãi và từ chối đặt lòng tin vào khái niệm, thì làm thế nào lời dạy sẽ giúp được họ đây? Và nguyên tắc này cũng áp dụng cho mọi thứ khác. 

Ngay cả ngành y khoa hiện đại, ngành y khoa vật lý liên hệ đến cơ thể vật lý, cũng dựa trên một số khái niệm. Nếu người ta chấp nhận các khái niệm đó thì đôi khi chỉ qua hiệu ứng giả dược – placebo effect, tức là khi họ tin tưởng một loại thuốc sẽ có khả năng giúp họ lành bệnh – thì họ cũng có thể được giúp đỡ. Nhưng nếu họ bác bỏ tất cả thì đôi khi họ không thể được giúp đỡ. 

Con cần nhìn nhận là có những người con không thể giúp đỡ vì những chọn lựa tự quyết của họ đã khiến họ bác bỏ những gì con muốn cống hiến. Và khi con là một người tâm linh – một điều mà vị sứ giả này đã từng vật lộn nhiều năm trời vì ông mang cái ý tưởng rằng ông phải có thể giúp được mọi người – khi con là người tâm linh thì con có quyền nói: “Tôi có những niềm tin này, tôi có thế giới quan này và do đó tôi có thể giúp đỡ những ai chấp nhận thế giới quan đó, hay ít ra một số khía cạnh của thế giới quan đó. Nhưng tôi không cần phải bận tâm với những ai khác. Những người đó, họ phải tìm kiếm những cách khác để được giúp đỡ.” Con không cần cảm thấy là mình mang trách nhiệm phải giúp tất cả mọi người mà mình gặp.

Ta biết điều này có thể khó khăn đối với con khi người đó là một người thân, gần gũi với con. Nhưng một lần nữa, sẽ tới một điểm khi con cần nhìn nhận quyền tự quyết, chấp nhận là mọi người đều có quyền tự quyết của mình, và con không thể làm gì được ngoại trừ con tôn trọng quyền tự quyết của con và nói: “Liệu tôi có muốn ở gần vị này nữa hay không? Liệu tôi có muốn liên hệ mật thiết với những ai bác bỏ tất cả mọi thứ mà tôi hỗ trợ và tin tưởng?” Con có quyền làm chọn lựa đó.

Làm thế nào ngừng phản ứng qua một ngã tách biệt

Hỏi: Khi con có phản ứng động cảm qua một ngã tách biệt, khi có một lỗ hổng mở ra một phàm linh tập thể và năng lượng của nó rất mãnh liệt, tràn ngập sợ hãi, giận dữ và hoảng hốt, thì đâu là cách hay nhất để đối phó với tình huống ngay lúc đó? Phản ứng đó đến từ tầng tâm thức nào? Có thể nào là con ở một mức tâm thức cao hơn các phản ứng đến từ ngã tách biệt cùng phàm linh tập thể đang củng cố cho phản ứng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Điều con có thể làm là dùng các lời dạy mà chúng tôi các chân sư thăng thiên đã ban ra về ngã tách biệt, và con có thể quyết định là mình sẽ sẵn sàng, một cách ý thức, nhìn ra các ngã tách biệt của mình, và con tách rời khỏi chúng. Và nếu con lấy thái độ tổng quát đó, con cũng sẽ rút được kết luận là bất cứ khi nào con có phản ứng khiến mình bị bối rối và mất an bình, thì cái đó đến từ một ngã tách biệt. Tùy theo cường độ của cảm xúc khởi lên, con có hai cách đối phó mà ta đề nghị như sau.

Nếu cảm xúc vô cùng mãnh liệt, con có thể quyết định: “Tôi sẽ không cho phép cảm xúc này kéo dài thêm nữa, tôi sẽ không cho phép nó tạo ra một vòng xoắn ốc đi xuống. Cho nên tôi sẽ ngừng ngay việc tôi đang làm. Tôi sẽ ngừng không phản ứng lại tình huống này. Tôi sẽ bước ra khỏi tình huống. Và tôi sẽ vào phòng riêng của mình để gửi lời thỉnh lên các chân sư thăng thiên, như Shiva, như Astrea, để các thày giúp tôi cắt đứt sợi dây đang kéo buộc tôi vào năng lượng đó.” Nếu năng lượng rất mạnh, con biết là con đang bị nối chặt với một phàm linh tập thể nào đó. Cho nên con có thể kêu gọi để mình được cắt đứt ra khỏi nó, và con khiến cho vòng xoắn ốc ngừng lại. Đây chính là nguyên tắc cơ bản của ngành cấp cứu là ngăn không cho tai nạn tiếp tục gia tốc và kéo thêm nhiều người vào trong cuộc hay trở nên nghiêm trọng hơn.

Thứ hai, nếu năng lượng không đến nỗi mạnh mẽ, con có thể lần hồi lấy trớn, lần hồi xây dựng một động lượng là con nhận diện mình đang phản ứng lại trong một trạng thái bất an. Và một lần nữa, con tự ngừng lại trong tâm, và cũng trong tâm, con chỉ giản dị bước ra khỏi ngã đó. Con nhận ra đó là một cái ngã tách biệt. Và một khi con có trớn và xây dựng được động lượng, con có khả năng tự ngừng lại – trong ngay tình huống đó chứ không cần phải bước ra khỏi tình huống – con ngừng lại mà không phản ứng qua ngã tách biệt. Có thể không có nghĩa là con sẽ tức khắc giải quyết được tình huống, nhưng con có thể tách mình ra khỏi ngã đó, vừa đủ để con khỏi tiếp tục khuôn nếp phản ứng. Con có thể tiếp cận trung hòa hơn. Con có thể ngưng nói chuyện với người kia, hay con có thể tạm ngưng một lúc để cố gắng hồi đáp trong một nhãn quan trung hòa hơn.

Về lâu về dài, tất nhiên con sẽ muốn tự hỏi: “Đâu là cái ngã tách biệt đã khiến tôi phản ứng trong tình huống đó?” Rồi một khi con có thì giờ thiền quán về vấn đề này, con có thể học tập một cuốn sách hay một bài truyền đọc giảng dạy về đề tài này, con có thể đọc một bài thỉnh để sáng nghĩa hơn về ngã đó cũng như về niềm tin đứng đằng sau ngã đó, cho tới khi con có thể buông nó ra và để cho nó chết đi.

Làm thế nào ngừng cãi vặt

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có thể vui lòng nói rộng hơn về đề tài cãi vặt giữa các cặp vợ chồng? Đó nhiều phần có là một phàm linh tập thể hay một phàm linh cá nhân? Đâu là những yếu tố chính yếu để thăng vượt thói này?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Điều tạo ra hiện tượng cãi vặt là một con quái vật, một con quỷ, một phàm linh tập thể vô cùng mạnh mẽ. Thật ra cãi vặt không chỉ xảy ra giữa các cặp nam nữ mà còn trong nhiều loại quan hệ khác giữa con người. Gần như thể người ta bị rơi vào cái mà chúng ta có thể gọi là một trạng thái thôi miên, qua đó người ta bị thôi miên, như thể cái nhìn của một người về người kia bị khoá cứng. Nhưng có một điều khác cũng bị khóa cứng là cái nhìn của họ về chính họ trong mối tương quan với người kia. Chẳng hạn con có thể có một cặp vợ chồng không ngừng cằn nhằn với nhau, và cả hai người đều có cùng ý nghĩ. Họ nghĩ: “Ồ, chồng tôi hay vợ tôi cứ như vậy đó, cho nên tôi không thể là gì khác hơn đối với anh ấy hay cô ấy.”

Ấy, nếu cả hai đều cùng nghĩ như vậy thì làm thế nào họ sẽ có thể bước ra khỏi tình trạng đó đây? Bởi vì điều mà cả hai đều đang bảo là: “Tôi không thể thay đổi vì người phối ngẫu của tôi không chịu thay đổi.” Đây chính là trạng thái bất lực cùng cực. Khi con cho rằng con không thể thay đổi gì trừ khi một cái gì ở ngoài con thay đổi, thì con đang tỏ ra bất lực một cách tột cùng. Không có gì trong đời con mà con có thể làm chủ được – đấy là điều con đang nói. Và đó là tại sao người ta mở tâm thức của họ ra cho những quái vật hay những con quỷ tập thể kia. Họ kỳ thực bảo rằng: “Tôi không muốn thay đổi chính tôi, tôi không muốn lãnh trách nhiệm thay đổi chính tôi. Do đó tôi muốn con quỷ kia chiếm lĩnh đời tôi để tôi không phải lấy bất kỳ quyết định thay đổi nào.” Đương nhiên, họ không nói vậy một cách ý thức nhưng họ nói vậy trong tiềm thức.

Khi cả hai đều rơi vào trạng thái đó thì mối quan hệ có thể đi tới đâu? Nó không thể đi tới đâu ngoài chuyện càng ngày càng cãi vặt nhiều hơn nữa. Điều con thấy trong một số cặp là sự cằn nhằn trách móc nhau lên tới một mức độ nào đó nhưng nó không tồi tệ hơn. Nó không biến thành một mối xung đột có thể dẫn tới ly dị, mà nó chỉ khiến cho cả hai dừng lại ở mức đó suốt 10, 20, 30, 40, 50 năm trời. Và họ đang làm gì chứ? Họ đang lấy năng lượng của họ đem nuôi béo cho con quỷ cứ ngồi yên đó ngày càng béo phì hơn nữa. Con có muốn xem hình con quỷ giống gì không? Con vào xem các bộ phim Star Wars đầu tiên có nhân vật tên là Jabba the Hutt thì con sẽ có một chút ý niệm về hình dạng của những con quỷ hay quái vật đó. Chúng chỉ mê mải hút hết năng lượng của người ta và càng ngày càng béo hơn, và thực sự chúng còn xấu xí hơn cả những gì được miêu tả trong phim.

Vậy thì họ có thể làm gì để phá vỡ tình trạng này? Buồn thay, khi người ta bị rơi vào tình cảnh đó, thật khó lòng nào mà thoát ra được. Một cách để phá vỡ là họ leo thang xung đột rồi quyết định ly dị nhau. Điều này ít ra sẽ phá vỡ khuôn nếp. Còn cách kia, tất nhiên, là cả hai người có thể quyết định bước theo con đường tâm linh. Hoặc nếu họ đã có biết về con đường tâm linh thì họ có thể nhìn vào hiện tượng cãi vặt này và nói: “Này, liệu chúng ta có muốn tiếp tục như thế này hay không?”

Ở đây có cái bẫy sẽ ngăn cản rất nhiều sự thay đổi trong mối quan hệ, khi cả hai người quyết định: “Tôi không thể thay đổi mối quan hệ trừ khi phối ngẫu của tôi cũng sẵn lòng thay đổi. Vì phối ngẫu của tôi không sẵn lòng thay đổi, cho nên tôi không thể làm gì hết.” Một lần nữa, đây là sự từ chối nhận lãnh trách nhiệm.

Nhưng luôn luôn có cái gì đó mà con có thể làm. Con có thể thay đổi tâm thức của con. Con có thể nhìn nhận là thói cãi vặt đó đến từ một ngã tách biệt. Con có thể sử dụng các dụng cụ của chúng tôi để nhận diện ngã này, để nhìn ra nó là gì, nhìn ra niềm tin nào đang đứng đằng sau nó trong trường hợp cá nhân của con. Nó liên quan đến cách con nhìn chính con cũng như cách con nhìn người khác phái. Cách con nhìn các mối quan hệ. Cách con nhìn chính con trong một mối quan hệ. Khi con nhận diện niềm tin đó, con có thể để cho ngã chết đi. Con không cố thay đổi người phối ngẫu của con. Con không cố thay đổi ngay cả tình huống vỏ ngoài. Con không cố giải quyết một vấn đề. Con chỉ để cho ngã đó chết đi, cái ngã đã khiến con tham gia vào quá trình cãi vã.

Con yêu dấu, có thể nào chỉ có một người cãi nhau hay không? Thế nào là âm thanh của một người cãi nhau chứ? Nó giống như âm thanh của một bàn tay – im phăng phắc. Bởi vì không có gì được gửi trả về. Nếu con không gửi trả về cái gì cho phối ngẫu của con, liệu người ấy có thể tiếp tục cãi vã được không? À, một số người sẽ bảo là có thể chứ, trong một thời gian. Nhưng cuối cùng thì chuyện cãi vặt có vui thú gì không khi người kia không đáp lại?

Nhưng thật không quan trọng chút nào nếu người kia có ngừng cằn nhằn hay không, vì như chúng tôi đã có nói, nếu con thay đổi chính con, nếu con thay đổi trạng thái tâm thức của con, một trong hai chuyện sẽ xảy ra. Hoặc người phối ngẫu của con cũng sẽ thay đổi, hoặc con sẽ thay phối ngẫu.

Trong cả hai trường hợp, nó vẫn tốt hơn là con ở lại trong một quan hệ không đi tới đâu, ít nhất nếu con là một người đang bước chân trên đường tu tâm linh. Bởi vì nếu con thực sự nghiêm túc muốn tinh tấn tối đa trên đường tu và hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của mình, con không thể cho phép mình ở lại trong một quan hệ không đem lại tăng triển tâm linh. Con không thể ở lại trong một quan hệ bị khóa chặt vào một khuôn nếp nhất định. Con không thể ở lại với một người phối ngẫu không sẵn lòng nhận trách nhiệm bản thân mình, không sẵn lòng tăng trưởng, xem xét tâm lý mình và cải sửa tâm lý đó. Con yêu dấu, con không thể. Con không thể tinh tấn tối đa và hoàn thành Sứ vụ Thiêng liêng của con nếu con bị khóa chặt trong một mối quan hệ bế tắc. Có thể con sẽ tiếp tục một thời gian nếu con có con cái và không muốn khiến gia đình bị đổ vỡ. Nhưng con không thể làm vậy suốt đời nếu con có ý định tăng triển tối đa.

Câu hỏi về chủ nghĩa tối giản (minimalism)

Hỏi: Con muốn biết là chủ nghĩa tối giản (minimalism) hay chủ nghĩa tối thiểu, có nhận được cảm hứng từ các chân sư thăng thiên hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Saint Germain qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 17/12/2019.

Không. Và lý do là vì tất nhiên trong Thời đại Hoàng kim, con người sẽ không tối giản. Họ sẽ muốn hơn nữa, họ sẽ nỗ lực để có hơn nữa, họ sẽ không ngừng tìm cách thăng vượt và tăng triển. Bởi vì đó là cách xã hội phát triển.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một tâm thức rất quỷ quyệt, rất tinh tế – hay ta có thể nói – tâm thức gian xảo của rắn, đã được cài đặt vào thế giới phương Tây. Tâm thức này được tạo ra phần nào bởi chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa tư bản không kềm chế của những người tìm cách làm giàu ngày càng giàu hơn, sở hữu ngày càng nhiều hơn cùng một thứ. Và tâm thức này bảo rằng việc con muốn hơn nữa là chuyện sai trái, vì con đang dùng hết tài nguyên của hành tinh, hay ở phương Tây người ta tiêu thụ quá đáng trong khi ở các nước thế giới thứ ba thì người ta đói nghèo. Rõ ràng là trong Thời Hoàng kim, rất nhiều tình trạng như vậy sẽ chuyển đổi. 

Nhưng một trong những chuyển đổi lớn nhất sẽ xảy đến là trong Thời Hoàng kim sẽ có thêm rất nhiều tài nguyên. Có nghĩa là mọi người khắp thế giới sẽ đều có thể có một mức sống vật chất tươm tất. Đương nhiên, điều này không có nghĩa là ai ai cũng sẽ sống như vua chúa, mà có nghĩa là mọi người sẽ không chỉ có đủ mà sẽ có nhiều hơn là đủ.

Và đó là tại sao chủ nghĩa tối thiểu không đến từ các chân sư thăng thiên. Đó là một hình thức tự phủ nhận, nó rất dễ khiến cho con người phủ nhận tiềm năng tiến bộ tâm linh của mình. Bởi vì trên thực tế, khi con tiến bộ tâm linh, khi con nâng cao tâm thức của mình đến tầng 96 và cao hơn nữa, con sẽ muốn hơn nữa. Không nhất thiết con sẽ muốn có nhiều hơn cùng một thứ, nhưng con sẽ muốn có nhiều hơn những gì con đang có.

Con có thể nói là sẽ có một dạng cao hơn của chủ nghĩa tối thiểu, qua đó con người không còn chú tâm vào khía cạnh vật chất của cuộc sống. Họ sẽ chú tâm vào các khía cạnh tâm linh của cuộc sống, cho nên họ sẽ chỉ cần của cải vật chất vừa đủ để có lối sống mà họ mong muốn rồi tập trung vào sự tìm kiếm tâm linh. Họ sẽ không dành quá nhiều thời gian và nỗ lực để kiếm tiền, để mua thêm nhiều đồ dùng, hay có nhà lầu xe hơi hay cái này cái nọ. Nhưng họ sẽ có đủ và không cảm thấy thiếu thốn bất cứ gì.

Nhưng điều đó khác hẳn chủ nghĩa tối thiểu, vì chủ nghĩa tối thiểu muốn tạo ra một triết lý, rồi phóng chiếu ra là con người phải bước vào một vai trò và cứ theo đó mà hành xử. Đây chủ yếu cũng là những gì chủ nghĩa cộng sản từng làm. Trong bài truyền đọc hồi nãy, ta có nói là chủ nghĩa đó cố tạo dựng một lý tưởng quy định con người Sô viết phải như thế nào. Và sa nhân thì mê làm chuyện này lắm. Chúng đã làm chuyện này suốt chiều dài lịch sử, như ý tưởng một người đạo Cơ đốc phải hành xử ra sao. Hiện còn rất nhiều người vẫn cố sống làm sao cho đúng với một lý tưởng bảo rằng: đây là cách sống mà một tín đồ ngoan đạo Cơ đốc, hay đạo Hồi, hay đạo Phật, hay đạo Ấn, hay đạo Sikh hay bất cứ gì khác, phải sống như thế nào. Ngoài ra còn có đại nghĩa bảo vệ môi trường, nó định ra những gì con phải làm để giữ cho dấu chân cacbon được tối thiểu. Người ta dựng lên tất cả những lý tưởng đó.

Nhưng thực sự, điều các chân sư khuyến khích con làm là con hãy nâng cao tâm thức của mình, con tập trung vào việc tăng triển tâm linh. Và khi con tập trung vào việc tăng triển tâm linh thì con sẽ tự nhiên tìm được một sự quân bình trong lối sống vật chất của con, chứ không phải vì con tự ép buộc mình phải sống theo một lý tưởng giả tạo được người ta lập ra.

Đơn giản là con tự nhiên không chú tâm vào các khía cạnh vật chất của cuộc sống, cho nên liệu sẽ quan trọng lắm không nếu con lái loại xe nào, hay chiếc xe sẽ cho con địa vị nào trong xã hội, hay nó sẽ vượt tốc độ quy định bao nhiêu cây số, hay động cơ của nó sẽ to đến chừng nào, hay điều này điều nọ? Tất cả những thứ đó không ăn nhập gì với con nữa.

Cho nên đó là một hình thức quân bình mà con tự tìm ra, trong khi chủ nghĩa tối thiểu không phải là một lối sống quân bình. Các chân sư luôn luôn khuyến khích sự quân bình trong mọi khía cạnh của đời con.

Câu hỏi về tóc, lông và đầu hói

Hỏi: Không hiểu có cách giải thích tâm linh nào cho việc có nhiều lông trên cơ thể? Và ngược lại, việc rụng tóc hay hói đầu cũng có nguyên nhân tâm linh nào không? Và có cách chữa trị tâm linh nào không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C., Hoa Kỳ, năm 2019. Đăng ngày 11/12/2019.

Con có để ý câu trả lời của Giê-su về việc con không nên xem mình quá hệ trọng? Trên đường tu tâm linh, con cần duy trì một khoảng cách nào đó, một sự quân bình nào đó. Các thày đã quá nhiều lần nhìn thấy học trò của mình đâm đầu vào lối suy đoán trí thức vô cùng chi tiết về vấn đề này hay vấn đề nọ. Cho nên con mới thấy rất nhiều người khi họ tìm thấy đường tu tâm linh lần đầu tiên, họ muốn giải thích mọi chuyện trong đời họ như thể nó có ý nghĩa quan trọng gì đó. Có thể là số tử vi của họ, thần số học của họ, màu mắt của họ, cái này của họ, cái kia của họ, qua đó họ thỏa mãn nhu cầu cảm thấy là mình đặc biệt. Cho nên họ tìm xem có điểm gì độc đáo nơi bản thân sẽ cho họ cảm giác đặc biệt. Thế là họ dựng lên đủ cách giải thích tỉ mỉ tại sao đặc tính này cho thấy nguyên nhân này, và họ là thế này, họ là thế kia.

Thật sự sẽ tới một điểm khi con trưởng thành hơn, con bỏ lại tất cả những thứ đó và con nói: “Cho dù chuyện có lông trên cơ thể mang ý nghĩa tâm linh gì đi nữa thì nó có quan trọng gì không? Nó có hệ trọng gì không? Tôi có cơ thể mà tôi đang có, tôi sử dụng cơ thể tốt nhất, tôi không để nó quy định tôi, tôi không để nó điều khiển đời tôi. Cho nên tôi sẽ làm những gì tôi cần làm để chăm sóc nó, xong tôi tập trung chú ý vào việc phát triển tâm linh của tôi.”

Thực tế ở đây là một khi con nhìn vào, con bắt đầu suy ngẫm lời dạy của đức Phật về lý duyên khởi, con sẽ thấy là mọi sự việc trên trái đất đều nối kết và đan chéo với nhau thành một tổng thể phức tạp không sao tả xiết, ít ra đối với tâm con người. Cho nên cái ý tưởng bảo rằng việc hói đầu, chẳng hạn, có một nguyên nhân tâm linh, cho thấy là con chưa nắm bắt được những sợi dây kết nối kia phức tạp đến chừng nào và mọi thứ gắn liền với nhau đến chừng nào. Đơn giản là con không thể nghĩ ra một cách giải thích đơn giản nào với một nguyên nhân độc nhất cho rất nhiều hiện tượng của thế giới vật lý.  

Chẳng hạn, chỉ để nói qua, và mặc dù các thày tất nhiên đã nhìn nhận là ngành di truyền học không toàn hảo và chưa đầy đủ, nhưng có chút chứng cớ là cơ thể của con mang sẵn một di sản gen nhất định. Cho nên nếu con sinh ra trong một gia đình đặc thù thì chứng hói đầu đã nằm trong gen con rồi. Thật chỉ có vậy thôi. Chuyện này không liên hệ gì với con, với dòng sống của con, với quá trình của con. Giản dị đó chỉ là nơi con đã có cơ hội sinh ra trong kiếp này.

Cho nên điều lành mạnh là con hãy bước lui lại một chút và đừng lo đến chuyện tìm kiếm những lời giải thích sơ sài quá đáng – một nhân độc nhất cho một quả độc nhất – về từng hiện tượng trong đời sống. Nếu con mang xu hướng này thì nó đến từ một ngã tách biệt. Và con sẽ được lợi lạc nếu con sử dụng các dụng cụ tâm linh để xem xét và khắc phục ngã này. Và con sẽ cảm thấy thoải mái, tự do hơn hẳn về cơ thể của mình cũng như về việc con ở trong cơ thể.

Hiệu ứng giả dược (placebo)

Hỏi: Các chân sư thăng thiên có thể nào nói nhiều hơn một chút về hiệu ứng giả dược (placebo), và hiệu ứng này thâm nhập qua bốn thể phàm như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C. (Hoa Kỳ) năm 2019. Đăng ngày 6/12/2019.

Toàn bộ quan niệm hiệu ứng giả dược thật ra là một điều rất đáng tiếc. Nó do sa nhân giàn dựng. Nó được mô tả như là một hiệu ứng phụ, một chuyện gì bất thường không có tác dụng nào – hay  không được có tác dụng nào – trong lãnh vực y tế. Nhưng thực tế thì khác. Cái mà người ta gọi là hiệu ứng giả dược thật ra là tác nhân chữa bệnh chủ yếu, nó chính là hệ thống chữa bệnh của bốn thể phàm con người.

Con có thể nhìn thấy thực tế này một cách rất đơn giản qua sự kiện nhiều bác sĩ và chuyên gia y tế công nhận rằng hầu hết mọi bệnh đều là bệnh tâm lý mang triệu chứng vật lý (psychosomatic) hay là bệnh có một thành phần tâm lý. Và con cần nhận ra đây chỉ đơn giản là một sự bất nhất nhận thức (cognitive dissonance) khi ngành y khoa quá tập trung vào việc tìm kiếm những cách chữa trị vật chất cho một chứng bệnh tâm lý.

Làm thế nào con có thể một mặt thừa nhận rằng hầu hết mọi bệnh đều là tâm lý, trong khi mặt khác con lại nghĩ rằng một bệnh tâm lý chỉ có cách trị liệu vật chất mà thôi, rằng con có thể trị liệu mà không cần giải quyết tâm lý? Đây là sự bất nhất nhận thức, và trong các thập niên sắp tới, người ta sẽ nhìn ra đó là một trong những lối mòn quanh co nhất mà nhân loại đã bước lầm vào, đặc biệt trong lãnh vực điều trị. Hiệu ứng giả dược, như người ta gọi như vậy, cần được nghiên cứu và tìm hiểu, và người ta cần nhìn nhận rằng tâm con người, bốn thể phàm của con người, có khả năng tự chữa lành.

Và khi một người uống một viên thuốc rồi cảm thấy thuốc có tác động vật lý, thì điều thực sự xảy ra hoàn toàn ngược lại. Chính phương pháp trị liệu vật lý mới là giả dược vì nó đã kích hoạt ý tưởng trong tâm nghĩ rằng: “Tôi sẽ lành bệnh do tôi đã uống viên thuốc này.” Cho nên chuyện xảy ra hoàn toàn ngược lại: yếu tố trị bệnh là niềm tin rằng con sẽ được trị bệnh.

(Tất nhiên là có một số ngoại lệ như khi con bị té gẫy xương thì xương cần được chỉnh lại – ít ra ở mức tâm thức tập thể hiện tại.)

Sẽ tới một thời điểm trong thời đại hoàng kim khi bất kỳ bệnh tật nào cũng sẽ có thể được chữa lành qua những cách khác, những phương cách tâm lý hay rung động. Nhưng cốt lõi của vấn đề là tất cả đều xoay quanh quyền tự quyết. Cho nên câu hỏi đặt ra là: Cái gì sẽ đánh lừa tâm con người tin rằng nó có thể được chữa lành và sự chữa lành đó xảy ra qua trung gian một phương thức nào đó? Do đó nếu con định nghĩa hiệu ứng giả dược là một cách để đánh lừa tâm trí chấp nhận nó được chữa lành, thì con phải nói rằng ngành y khoa đối chứng* cũng là một giả dược. Phép chữa đó chỉ đánh lừa tâm con người tin và chấp nhận rằng nó có thể được chữa lành. Rồi sau đó điều này sẽ tác động lên cơ thể vật lý vì cơ thể vật lý là sự phóng chiếu của những gì xảy ra trong ba thể cao hơn.

* Y khoa đối chứng: allopathic medicine, tức ngành y khoa quy ước dùng dược phẩm có tác dụng đối nghịch với các triệu chứng.

Cơ thể và cái chết của một ngã tách biệt

Hỏi: Chuyện gì xảy ra trong cơ thể vật lý khi con để cho một cái ngã tách biệt chết đi?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Washington D.C. năm 2019. Đăng ngày 5/12/2019.

Điều này tùy thuộc vào bản chất của ngã tách biệt đó. Có một số ngã tách biệt liên quan tới một căn bệnh vật lý. Nếu con để cho ngã đó chết đi, nó có thể gỡ bỏ căn bệnh đó, thậm chí nó có thể chữa khỏi bệnh hoàn toàn.

Con cũng biết có một số ví dụ điển hình những người mắc phải một số triệu chứng nào đó, rồi khi họ chuyển sang một nhân cách khác thì các triệu chứng này biến mất. Trường hợp này có tên là hội chứng phân rẽ nhân cách (split personality syndrome), nhưng kỳ thực họ chuyển từ một ngã này sang một ngã khác và họ hoàn toàn đồng hóa với một cái ngã nào đó.

Khi con để cho một cái ngã chết đi, điều này có thể gỡ bỏ một chứng bệnh, nhưng thêm vào đó, nó cũng trao cho cơ thể vật lý nhiều năng lượng hơn, và trong nhiều trường hợp, nó sẽ khiến cho cơ thể thoải mái, thư giãn hơn. Chẳng hạn khi con khắc phục một cái ngã không ngừng đặt cơ thể vào trạng thái báo động do nó lo sợ một mối đe dọa nào đó ập tới bất cứ lúc nào, thì điều này có thể giúp con ngủ ngon hơn. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến rất nhiều triệu chứng mất ngủ hay nhiều vấn đề liên quan đến giấc ngủ.

Có rất nhiều tác dụng như vậy, nhưng một số ngã liên quan nhiều hơn đến các thể cao là thể bản sắc, lý trí và tình cảm, và do đó không ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể vật lý.

Một người thương cảm có thể đối phó với năng lượng của người khác như thế nào

Hỏi: Khi con ở gần một số người hay khi con đến một số nơi, con cảm thấy hơi bị choáng ngợp bởi những gì người ta đang làm hay phải chịu đựng. Làm cách nào con có thể biết đâu là năng lượng của con và đâu là năng lượng mà con tiếp thu từ người khác? Làm thế nào một người thương cảm, hay đồng cảm (empath), có thể học cách lèo lái trong những tình huống rất đau buồn nhưng không phải là tình huống của mình? Làm thế nào đem lại ánh sáng mà không cảm thấy kiệt lực?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Washington D.C., Hoa kỳ, năm 2019. Đăng ngày 4/12/2019.

Khi con ở gần người khác, đặc biệt khi họ vô cùng động cảm, năng lượng mà con cảm thấy luôn luôn là năng lượng của họ, hay đó là phản ứng của con trước năng lượng của họ. Điều con cần xem xét trong cả hai trường hợp là tại sao con lại phản ứng. Con cần nhìn vào khuôn nếp phản ứng của con và nhìn ra tại sao con lại bị cuốn hút vào khuôn nếp đó hết lần này đến lần khác. Con sẽ phát hiện đằng sau những khuôn nếp như vậy là, tất nhiên, có một cái ngã. Và đằng sau mỗi cái ngã là một loại tin tưởng nào đó cho rằng, chẳng hạn, trong tư cách là một người tâm linh thì con phải có lòng thương xót đối với người khác, và cách để thương xót là con cảm được năng lượng, hay con hứng lấy năng lượng của họ để họ nhẹ bớt gánh nặng.  

Nhiều người tâm linh có một tin tưởng rất giống như vậy, tuy không nhất thiết được diễn tả với những từ đó. Con cần sử dụng lời dạy của chân sư thăng thiên về quyền tự quyết, cho tới mức con nhận ra là con không đang giúp cho người khác tăng triển bằng cách khoác vào năng lượng của họ, mà thật ra con đang giúp họ giữ nguyên trạng thái tâm thức cũ do con đã làm dịu gánh nặng của họ. Chính điều này cho phép họ cứ tiếp tục ở lại trong trạng thái tâm thức đó.

Tất nhiên con có thể thỉnh sự bảo vệ tâm linh để niêm phong trường năng lượng của con khỏi mọi sự xâm nhập. Nhưng thực tế là con cần giải quyết cái khuôn nếp phản ứng đó, cái ngã tách biệt đó khiến con cảm thấy mình phải phản ứng lại những người đó. Con có thể nói định nghĩa của người thương cảm là một người cảm thấy mình phải phản ứng lại cảm xúc của người khác thay vì có cảm xúc của riêng mình.

Rất, rất nhiều người tâm linh đã bước vào động lượng mong muốn giúp đỡ người khác đến độ họ phủ nhận cảm xúc của mình. Gần như thể họ đẩy cảm xúc của họ sang một bên, và họ cảm thấy họ không có những cảm xúc đó. Họ không nhận diện được cảm xúc riêng của họ. Điều này, tất nhiên, không có gì lành mạnh và không phải là điều sẽ dẫn con lên các tầng tâm thức cao hơn.

Con cần sẵn lòng nhìn vào cảm xúc của mình và biết mình đang cảm thấy gì. Tất nhiên là khi con vươn lên tâm thức Ki-tô, vượt qua ngã gốc và ngừng cá nhân hóa trong cuộc sống, thì con sẽ không còn loại tình cảm thấp kém đó nữa. Nhưng con vẫn có những tình cảm cao hơn. Bởi nếu không có tình cảm, con sẽ không thể thị hiện được điều gì trong bát cung vật lý, vì tiến trình thị hiện chính là khi năng lượng cùng các tâm ảnh đi xuống từ tầng bản sắc qua tầng lý trí vào tầng tình cảm rồi mới xuống đến tầng vật lý.

Thời nay, rất nhiều người tâm linh đã trở thành quá trí thức đến độ họ cố nhảy qua giai đoạn cảm xúc để đem thẳng từ tâm lý trí xuống vật lý, nhưng chuyện này không thể làm được.

Mục đích của giấc ngủ

Hỏi: Đâu là mục đích của giấc ngủ? Chúng ta biết rằng cơ thể chúng ta nếu thiếu ngủ sẽ suy yếu và cuối cùng sẽ chết. Nhưng điều đó chỉ giải thích hậu quả của sự thiếu ngủ. Mục đích của giấc ngủ là gì? Đó có phải là một phần trong thiết kế của các Elohim khi tạo dựng hành tinh này hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Hoà Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Như con nói, mục đích của giấc ngủ là để sống còn, bởi vì cơ thể cần ngủ để sống còn. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu sâu hơn. Giấc ngủ không nằm trong kế hoạch ban đầu của các Elohim bởi vì trên một hành tinh tự nhiên, người ta không cần ngủ. Lý do phần nào là vì người ta không có một xác thân dày đặc như cơ thể vật lý của các con hiện nay trên địa cầu. Nơi đây, các cơ thể vật lý dày đặc hơn và do đó cần đến sự nghỉ ngơi đó.

Nhưng giấc ngủ cũng mang một khía cạnh tâm linh – bởi vì khi con ngủ, con thoát ra khỏi tâm ý thức.Và khi chúng ta biết rằng trên địa cầu có nhiều yếu tố căng thẳng đến chừng nào, thì rất, rất nhiều người thực sự có nhu cầu thoát khỏi tâm ý thức một vài tiếng đồng hồ mỗi đêm, vì nếu không thì họ sẽ phát điên – trong nghĩa đen của từ này. Và con cũng thấy được điều này ngay cả khi con là người tâm linh, con có thể bị cuốn trôi vào một tâm trạng nào đó, một cảm giác bực dọc nào đó, và nếu cảm giác này cứ kéo dài 24 tiếng một ngày, bảy ngày trên bảy, thì nó có thể leo thang đến mức biến thành một vòng xoáy ngày càng cuồng nhiệt khó lòng nào thoát khỏi. Thật là quan trọng con có được thời gian nghỉ ngơi đó.  

Đương nhiên giấc ngủ cũng quan trọng vì khi ngoại tâm được vô hiệu hóa, con có thể dùng các thể thanh cao của con, hoặc chính cái Ta Biết của con, để chu du vào cõi ether nơi các chân sư thăng thiên mở lớp nhập thất nơi con có thể học hỏi, tìm hiểu, nhận sự hướng dẫn cũng như sự chữa lành. Cho nên trong khi ngủ, con cũng có khả năng tinh tấn trên đường tu tâm linh.  

Rất nhiều người trong số các con thức dậy với một sáng ngộ hay một hiểu biết mà con không hề có trước khi đi ngủ và con cũng không nhất thiết đã suy nghĩ về đề tài đó vào ngày hôm trước. Đây là một ví dụ cho thấy là con vẫn đem theo trong tâm ý thức của con một số điều nhận biết mà con đã học hỏi nơi các khóa nhập thất tâm linh vào ban đêm.

Nếu con chưa chán trải nghiệm mà ngã cho con, con sẽ chưa bỏ được ngã

Hỏi: Có người bảo là con có thể gạt bỏ ngã tách biệt khi con thấy nó, nhưng nó vẫn có thể ở lại trong tâm tiềm thức của con, và các chân sư sẽ không thể loại nó ra khỏi con nếu con còn bám lấy nó trong tiềm thức. Làm thế nào con có thể khiến cho tâm tiềm thức nhả ngã tách biệt ra, để nó được lấy đi? Làm thế nào con có thể ngăn tâm tiêm thức phóng chiếu ra những hình ảnh bất toàn?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Ta ưa cách nói thế này hơn: Con hãy từ bỏ ý tưởng cho rằng tâm tiềm thức của con đang có một sự sống riêng biệt nào đó. Cái có sự sống riêng biệt là những cái ngã tách biệt. Chúng có thể ngụ trong tiềm thức của con. Không phải tâm tiềm thức con phóng chiếu những hình ảnh đó vào tâm ý thức của con, mà là ngã tách biệt.

Điều xảy ra là con có thể đạt tới mức khi con có thể nhìn thấy một ngã tách biệt nào đó, và con thấy một số hậu quả mà nó gây ra, nhưng rất có thể con không sẵn sàng nhìn vào nó và loại bỏ nó đi. Lý do phần nào có thể là cái ngã đó đã cho con một loại trải nghiệm nào đó và con chưa cảm thấy chán chê trải nghiệm đó.

Cho nên con làm ngơ không nhìn ngã, hay con đẩy nó vào tiềm thức hầu con không phải nhìn nó hoài hoài. Điều này có thể xảy ra cho một số người, và trong trường hợp này, giản dị con chỉ cần nói: “À, mình chưa chán ngấy những trải nghiệm mà cái ngã cho mình, vậy tại sao phải lo lắng về ngã? Tại sao lại cố vứt bỏ nó đi? Hãy trải nghiệm nó cho tới khi mình chán ngấy.”

Để loại trừ một ngã tách biệt, không những con phải nhìn thấy nó, nhìn thấy nó đang làm gì, mà con cũng phải nhìn ra được niềm tin hay quyết định đã tạo ra ngã tách biệt. Con phải nhìn thấy những hạn chế của nó, thấy nó đang giới hạn con ra sao, thấy nó xa rời thực tại như thế nào, và nó xuất phát từ một cái nhìn giới hạn và ảo tưởng tới đâu. Và một khi con thấy được ảo tưởng đó, cái niềm tin đứng đằng sau ngã tách biệt, đó là lúc con sẽ tự nhiên buông nó ra. Con không cần phải quyết định buông bỏ với tâm vỏ ngoài của con. Con chỉ cần cảm nhận được nhãn quan của con đã thay đổi, và con thả cho ngã ra đi.

Tất nhiên, con có thể nói là có những cái ngã tách biệt trong tiềm thức đang phóng chiếu hình ảnh vào tâm ý thức của con. Trong nhiều trường hợp, điều đó cũng có thể là những lỗ hổng trong các thể tình cảm và lý trí của con mà qua đó các tà lực đang phóng hình ảnh vào tâm ý thức của con. Nếu thế, cách hay nhất để giải quyết vấn đề này là kêu gọi sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, và kêu gọi Astrea cắt đứt mọi dây buộc con vào tà lực. Làm như vậy có thể sẽ đem lại cho con sự nhẹ nhõm tạm thời, nhưng hiển nhiên, cái đã tạo ra lỗ hổng ngay từ đầu là ngã tách biệt, và do đó cho tới khi con loại bỏ được ngã tách biệt thì con sẽ không thể hoàn toàn thoát ra được.

Một lần nữa, có rất, rất nhiều người trên thế giới, không nhất thiết là người tâm linh nhưng trong số đó có cả người tâm linh, đang có một ngã tách biệt nào đó đem lại cho họ một trải nghiệm mà họ chưa sẵn sàng buông bỏ. Điều này tạo ra một lỗ hổng mà qua đó các tà lực có thể phóng chiếu hình ảnh vào tâm họ, nhưng họ không thể làm gì được trừ khi họ sẵn lòng buông bỏ ngã.

Cách đối phó với lời chỉ trích của người khác

Hỏi: Con có một câu hỏi về cách đáp ứng và chìa má bên kia khi có đồng nghiệp nơi sở làm chỉ trích và xem thường con. Con thường phản ứng với cảm giác xấu hổ, xong con cố biện minh và tự bào chữa. Con nhận ra chính là cái ngã cảm thấy xấu hổ và muốn tự bào chữa. Thật là khó để con bỏ qua mà không có bất kỳ phản ứng nào. Làm thế nào con có thể đáp ứng lại mà không kích hoạt một phản ứng “chiến hay chạy”?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2019. Đăng ngày 17/10/2019.

Ta đề nghị con nên khởi sự bằng cách nhìn vào tình huống và lượng định xem cái giá phải trả trong cách cư xử hiện thời của con là gì cũng như lợi ích mà con gặt hái. Con sẽ thấy là cách tiếp cận đó kéo con vào một phản ứng qua đó con luôn luôn bị mất an bình, rồi càng ngày con càng khó lòng hòa hợp với người khác do con kháng cự lại những gì họ nói với con. Con có thể thấy được cách phản ứng của mình mang một cái giá, xong con thử nhìn xem giá đó là gì rồi quyết định con có muốn trả tiếp hay không, hay là con muốn bước ra khỏi nó. Nếu con bước ra khỏi nó, con sẽ thấy có tới mấy cái ngã đang hiện diện ở đây.

Thường thường có một cái ngã cưỡng chống lại việc con tự xem xét mình, nó kháng cự không muốn nhìn vào bản thân vì có một cái ngã thứ nhì muốn khiến con xấu hổ hay muốn phán xét khi con nhìn vào một điều gì đó chưa giải quyết. Có thể con sẽ tới một điểm khi con sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã ban truyền để nhận diện và tách mình ra khỏi những cái ngã đó, và con ngộ ra là con không có vấn đề gì cần giải quyết, và con để cho những ngã đó chết đi.

Con cũng sẽ khám phá có một cái ngã sâu hơn đứng đằng sau, gắn liền với toàn bộ quan điểm cho rằng con phải là người toàn hảo, hay là người không bao giờ lầm lỗi. Đây chính là cái ngã đã tạo ra – nếu có thể nói như vậy – hai ngã kia, nhưng nó nằm ẩn sâu đằng sau hai ngã kia do con bị bận tâm trong phản ứng “kéo và đẩy” khi con kháng cự lại lời phát biểu của người khác. Con có thể đạt tới điểm là con phát hiện cái ngã nằm sâu ở dưới đó và nhận ra là nó hoàn toàn không thực.

Trước hết, không hề có trạng thái nào là toàn hảo. Thứ hai, đó là một sự lập trình rất sâu kín trong tâm lý tập thể do các sa nhân tạo dựng; nó quy định rằng con phải sống đúng theo một chuẩn mực toàn hảo mà không một ai có thể đạt được. Con có thể nhìn ra ngã đó, và một lần nữa, con nhìn ra là nó không thực. Con không phải sống theo một chuẩn mực toàn hảo khi không một ai có thể định nghĩa chuẩn mực đó là gì. Trong tư cách một con người, con không phải toàn hảo mà chỉ cần liên tục tăng triển. Cho đến hết phần còn lại của cuộc sống trong hiện thân, con sẽ tiếp tục tăng triển.

Một khi con thấy được điều này, con nhận ra là việc nhìn thấy một cá tính nào đó trong bản thân mình, hay việc người khác chỉ ra một điểm gì đó nơi mình, thật sự không là cái gì con cần kháng cự lại, bởi vì chính nó sẽ giúp con tăng triển. Một khi con vứt bỏ những ngã đó đi, con sẽ thấy là con có thể hoàn toàn trung hòa khi người khác nói gì về con. Trong nhiều trường hợp, con thấy được là rất có thể điều họ nói không hợp lý chút nào, và nó dựa trên một nhận thức thiên vị hay thiếu khách quan. Nếu đó là một cấp trên tại sở làm, thì thay vì con phản bác lại hay tự bào chữa hay chứng minh là họ sai lầm, con có thể thoát ra nhẹ nhàng và thích ứng với người đó, hầu con có mối quan hệ tốt đẹp hơn với họ, xong con chỉ việc tiếp tục công việc của mình.

Một lần nữa, vấn đề chính ở đây là con xem xét những cái ngã đó đang kéo con vào phản ứng. Trên cơ bản, như chúng tôi đã có giảng trước đây, mỗi khi con cảm thấy một sự xáo trộn bên trong, con sẽ biết ngay sự xáo trộn đó đến từ một ngã tách biệt. Khi cái Ta Biết biết rõ nó là ai và nó là gì, thì con chỉ đơn giản là một người quan sát trung dung. Trong cái Ta Biết không hề có phản ứng đó.

Nếu trong con có căng thẳng thì con biết có ngã tách biệt hoành hành

Hỏi: Trong tâm con có một ý nghĩ đang lớn dậy, và con hơi lo ngại không hiểu đó có phải là một ảo ảnh. Nội dung của ý nghĩ đó là làm cách nào cải thiện môi trường trên địa cầu và cải thiện hệ thống giáo dục. Sự thôi thúc muốn thực hiện ý nghĩ đó cứ xảy ra đều đặn, nhưng đồng thời con lại không chắc chắn con có khả năng làm được. Con rất muốn biết đó có phải là viễn quan mà tâm thức con đang có, hay đó chỉ là một ảo ảnh tình cờ?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 16/10/2019.

Nhiều người ngày nay cũng như suốt các thời đại đã từng có một khuôn nếp tương tự. Và một lần nữa, hình như ta cứ lặp lại điều này, vì câu trả lời là mỗi khi con có một sự căng thẳng, thì căng thẳng đó đến từ một trong số những ngã tách biệt, hay trong đa số trường hợp, từ hai cái ngã tách biệt đang chống đối nhau. Cho nên như ta vừa trả lời trong câu hỏi trước, có một ngã tách biệt khiến con bị thôi thúc phải đạt được điều gì đó, rồi có một ngã tách biệt khác khiến con ngờ vực, hoặc con tự phê bình là liệu mình có khả năng thực hiện được hay không. Cho nên điều cần làm là con làm việc trên những ngã tách biệt đó. Và một lần nữa, nếu có sự căng thẳng thì con biết là có những cái ngã tách biệt đang hoành hành. Và như vậy con cần dọn sách chúng đi, hầu con có được một viễn quan sáng rõ hơn về nội dung của sứ vụ thiêng liêng của con.

Chúng tôi đã thấy suốt các thời đại, hay ít ra trong những thập niên qua, rất, rất nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã nắm lấy các giáo lý của chúng tôi rồi trở nên vô cùng nóng lòng – nếu có thể nói như vậy – muốn xông ra ngoài và thay đổi thế giới, có thể là thay đổi hệ thống giáo dục hay môi trường hay cái này cái nọ. Và như thế họ gần như bị ám ảnh bởi động lực muốn cải sửa thế giới. Nhưng động lực này thường do một cái ngã tách biệt muốn đánh lạc hướng họ khỏi con đường đích thực, là con đường nhìn vào chính bản thân mình. Nhiều học trò của chân sư thăng thiên đã quá tập trung vào chuyện cứu nguy thế giới để giúp thày Saint Germain đến độ họ nghĩ rằng: “Ồ, tôi không cần phải xem xét tâm lý của mình bởi vì nếu tôi cầu thỉnh đủ Lửa Tím, nó sẽ làm tiêu sạch nghiệp quả của tôi, và khi đó tâm lý tôi sẽ được giải quyết.” Và đó là tại sao giờ đây các chân sư đang kêu gọi các con hãy nhận ra là điều này hoàn toàn không đúng.

Con sẽ không thăng thiên nếu con không nhìn vào tâm lý của con. Cho nên một lần nữa, con hãy tự xét xem, mỗi khi có sự căng thẳng, mỗi khi có áp lực, mỗi khi con không thoải mái, mỗi khi con có sự thôi thúc ám ảnh cưỡng chế (obsessive compulsive) muốn làm một điều gì đó, thì con phải tìm xem những ngã tách biệt nào đang gây ra tình trạng đó. Và khi nào chúng chết đi, thì khi đó con có thể theo đuổi những gì thực sự nằm trong sứ vụ thiêng liêng của con. Con sẽ có được viễn quan về nội dung của sứ vụ thiêng liêng, xong con có thể thực hiện từ một trạng thái nội tâm an bình. 

Về việc sử dụng lò vi sóng

Hỏi: Câu hỏi của con là về việc sử dụng lò vi sóng (microwave oven). Một số người tin rằng việc sử dụng lò vi sóng có hại cho sức khỏe vì cấu trúc của thức ăn bị phá vỡ, cho dù là thức ăn được nấu chín hay được hâm nóng trong lò. Có thật vậy không? Và có phải công nghệ này là do thày Saint Germain truyền rải xuống?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 14/10/2019.

Phải, công nghệ đằng sau lò vi sóng được Saint Germain truyền rải vì nó là một phần của sự tăng triển không ngừng của mức nhận thức về nhiều dạng sóng năng lượng khác nhau. Nhưng ta xin nói thế này, ta không khuyên các đệ tử của chân sư thăng thiên sử dụng lò vi sóng một cách thường xuyên.

Không nhất thiết là vì nó có hại đến độ nó khiến cho sức khỏe của con bị suy giảm trong ngắn hạn. Nhưng sức nóng từ lò cũng có một tác động nội tại bên trong thức ăn sẽ giảm thiểu không những giá trị dinh dưỡng mà cả các năng lượng vi tế trong thực phẩm. Trong triết học phương Đông có khái niệm về khí, hay khái niệm prana, được xem là một năng lượng vi tế vượt khỏi cõi vật lý nhưng vẫn là một thành phần của thức ăn. Và tất nhiên cũng có các kỹ thuật tu tập yoga nhằm dùng hơi thở để tiếp nhận prana.

Trong thức ăn có rất nhiều loại năng lượng vi tế vượt khỏi những gì con người thời nay xem là chất dinh dưỡng vật lý. Ta cũng biết là đã có những nghiên cứu được các nhà khoa học duy vật thực hiện trong cõi vật lý cho thấy việc sử dụng lò vi sóng không có hại, nhưng nó vẫn có một tác dụng vi tế hơn, theo nghĩa là nó lấy đi các năng lượng tinh tế hơn trong thức ăn. Do đó mặc dù nó không có tác động vật lý, nhưng khi con là người tâm linh thì con cần nhận biết về tác động vi tế này của nó.

Tuy nhiên còn có một khía cạnh phần nào tâm lý hơn. Nếu con nhìn cách người ta sử dụng lò vi sóng khắp thế giới, con sẽ thấy người dùng lò chủ yếu là những người cảm thấy vô cùng bận bịu cho nên không có thì giờ nấu ăn theo cách thông thường. Vậy họ làm gì? Họ phải làm vội một bữa ăn, và loại món ăn nào nấu nhanh nhất với lò vi sóng? Đúng vậy, một bữa ăn được làm sẵn ở nhà máy, được đóng gói trong gói bịt kín mà họ có thể ném vào lò vi sóng, hâm lên rồi cứ thế mà ăn.

Rõ ràng loại thức ăn này không có cùng chất lượng, cùng giá trị dinh dưỡng như những món ăn con tự nấu lấy và bỏ ra nhiều thời gian hơn để chuẩn bị. Cho nên rõ ràng là từ góc độ tâm linh, việc dùng thức ăn được nấu nướng theo cách truyền thống sẽ tốt lành hơn loại thực phẩm được nấu hay được hâm lại trong lò vi sóng.

Một lần nữa, ta không nói là con không bao giờ được nấu với lò vi sóng, vì con không cần phải cực đoan về vấn đề này. Nhưng đằng khác, ta không khuyên con dùng lò vi sóng một cách thường xuyên – chắc chắn không phải như là công cụ nấu nướng chính yếu của con.

Câu hỏi về thuốc ngủ

Hỏi: Câu hỏi này là về dược phẩm Propofol. Propofol được phép sử dụng hợp pháp trong mục đích y tế, và người ta dùng loại thuốc này vì nó có tác dụng gây mê, gây ngủ mạnh mẽ. Tuy nhiên một số người lại lo rằng Propofol cũng có tác dụng gây nghiện. Loại thuốc này ảnh hưởng bốn thể phàm của con người như thế nào? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hàn quốc năm 2019. Đăng ngày 13/10/2019.

Như một nguyên tắc chung chung khi con là một học trò của chân sư thăng thiên, con sẽ cố tránh bất kỳ loại thuốc nào không chỉ nhằm mục đích khiến con đi vào giấc ngủ, mà cả những loại thuốc ảnh hưởng đến tâm con.

Ta không bảo là không có một số trường hợp bệnh tâm thần mà việc dùng dược phẩm có thể thích hợp trong một thời gian. Nhưng trong tư cách là học trò của chân sư thăng thiên, con nên vô cùng thận trọng khi sử dụng những loại thuốc đó vì con đã có các dụng cụ tâm linh mà chúng tôi ban truyền cho con.

Sự bảo vệ của Đại thiên thần Michael, việc Astrea cắt đứt các sợi dây ràng buộc để con được tự do, hay việc sử dụng ngọn lửa tím để tiêu hủy những gì đã nằm trong năng trường của con, những dụng cụ ấy thường sẽ có khả năng giúp con tránh chuyện phải sử dụng những loại thuốc đó.   

Rõ ràng bất cứ gì làm cho cơ thể vật lý của con chìm vào giấc ngủ, hay đưa cơ thể vào trạng thái yên tĩnh, cũng sẽ có một tác dụng tương tự trên ba thể cao hơn của con – nó sẽ khiến cho các thể này đờ đẫn, kém linh hoạt, kém tỉnh thức, và do đó nó có thể dẫn đến một hình thức nghiện ngập. Tốt hơn con nên sử dụng các dụng cụ mà chúng tôi đã cho con, không chỉ để tự bảo vệ và thỉnh cầu năng lượng, mà cũng để nhìn xem con đang có những loại triệu chứng nào.

Ví dụ, tại sao con lại mất ngủ? Cái ngã nào đang khiến con không thể đi vào giấc ngủ? Xong con hãy làm việc trên điểm đó. Ta cũng biết rằng điều này sẽ không giúp cho những ai không phải là học trò của chân sư thăng thiên, nhưng một lần nữa, chúng tôi không thể giảng dạy cho mọi người.

Một cái nhìn tâm linh về sẩy thai

Hỏi: Con có xem một cuốn phim đưa ra quan điểm là khi một người mẹ bị sẩy thai, việc đứa bé có sinh ra hay không không tùy thuộc vào người mẹ. Nếu linh hồn của đứa bé không muốn đầu thai vào thế gian, nó có thể ngừng tiến trình vật lý trong thai mẹ. Xin chân sư vui lòng bình luận về đề tài này. Việc sẩy thai có phải là sự chọn lựa của người mẹ hay có điều gì nữa mà con cần biết, và sự kiện này liên hệ đến quyền tự quyết như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2018. Đăng ngày 7/10/2019.

Sẩy thai có thể do nhiều yếu tố. Tất nhiên có thể có một lý do vật lý trong cơ thể người mẹ, trong gen của đứa bé, trong sự phát triển của đứa bé. Người mẹ có thể, đặc biệt trong trường hợp một cái thai không hoạch định, gây ra sẩy thai do không muốn có con – không nhất thiết là không muốn đứa đó mà không muốn có con một cách chung chung, hay không muốn có con vào thời điểm đó. Cho nên sự lựa chọn của người mẹ có khả năng gây ra sẩy thai – thậm chí điều này có thể nằm sâu trong tiềm thức khi người mẹ không sẵn sàng nhìn nhận những cảm xúc của mình về việc mang thai.

Tất nhiên cũng có thể đứa bé quyết định nó không muốn sinh ra. Điều này có thể xảy ra khi nó cảm nhận được độ dày đặc của cõi vật lý. Có thể đứa bé cảm được trường năng lượng của người mẹ, chẳng hạn trong trường hợp tiền kiếp đã có một nghiệp chướng gay gắt hay một mối xung khắc kéo dài với người mẹ. Khi nó đi xuống bào thai và cảm nhận trường năng lượng của mẹ, nó có thể quyết định là nó không muốn phải đối diện với vấn đề đó và nó không muốn sinh ra.  

Có thể có những lý do khác nữa khi đứa bé cảm được sự dày đặc của cõi vật lý hay nó nhận biết một số vấn đề khó khăn mà nó sẽ phải đối mặt trong kiếp sống sắp tới và nó từ chối đương đầu.

Cho đến nay, chúng tôi đã cho con một bức tranh hơi lý tưởng về sứ vụ thiêng liêng của con, nhưng những lời dạy đó nhắm đến những người tâm linh là những người sẵn sàng nắm lấy trách niệm bản thân và tự thay đổi chính mình. Đối với người tâm linh như vậy, mục đích là để cho con sẵn lòng hoàn thành sứ vụ thiêng liêng của con cho dù con sẽ gặp một số hoàn cảnh khó khăn bởi vì con biết nó sẽ dẫn tới tăng trưởng, dẫn tới cái mà chúng tôi gọi là giai đọan sáng tạo hơn của sứ vụ thiêng liêng. Con sẵn lòng đi muốt giai đoạn thực hiện của sứ vụ thiêng liêng để bước vào giai đoạn sáng tạo.  

Nhưng có những linh hồn không ở mức tiến hóa như vậy. Sứ vụ thiêng liêng của chúng chủ yếu là nhằm quân bình nghiệp quả, và vì thế chúng cần sống bên một số người mà chúng đang mang nghiệp từ tiền kiếp hầu chúng có thể – nếu có thể nói như vậy – tự buộc mình phải giải quyết nghiệp quả. Nhưng có những trường hợp linh hồn đó không đủ tiến hóa để giữ vững quyết định của mình khi gần đến ngày đầu thai hơn và chúng cảm được độ dày đặc của cõi vật lý. Cho nên khi thảo ra sứ vụ thiêng liêng ở một cõi tâm thức cao hơn, một linh hồn có thể thảo sứ vụ và quyết định “phải, tôi sẵn lòng đối đầu và giải quyết những khó khăn này”, nhưng khi nó phải trực diện với việc đi vào cơ thể và cảm nhận các năng lượng thì nó quyết định “không, tôi không sẵn sàng làm chuyện này.”

Một lần nữa, đây là một trong những trường hợp quyền tự quyết cần được tôn trọng. Con có thể nói là trong mọi trường hợp, quyền tự quyết phải được tôn trọng, nghĩa là nếu linh hồn quyết định nó không muốn sinh ra thì nó sẽ được tôn trọng. Nhưng tất nhiên có những trường hợp linh hồn có một ý chí thấp muốn trốn chạy khó khăn, và đồng thời nó cũng có một ý chí cao muốn đương đầu khó khăn, thì ý chí cao sẽ bác bỏ ý chí thấp.

Ta biết chuyện này nghe có vẻ hơi tối nghĩa nhưng sự thật là y như vậy. Quyền tự quyết là tiêu chuẩn tối hậu, tuy nhiên câu hỏi đặt ra là thế nào là tự quyết. Con có thể nói là khi một linh hồn trải nghiệm sự dày đặc của cõi vật lý thì ý chí của nó không còn tự do nữa và nó không thể đi ngược lại những gì đã được hoạch định trong sứ vụ thiêng liêng. Và thật vậy, nhiều linh hồn đã quyết định bác bỏ cái ý chí thấp đó, cái con người vỏ ngoài đó, để tự bắt buộc mình bước vào hiện thân và đối phó với khó khăn vì nó biết điều này sẽ dẫn đến phát triển dài hạn.

Nguyên nhân tâm linh của chứng mất ngủ

Hỏi: Những nguyên nhân tâm linh của chứng mất ngủ là gì? Liệu có biện pháp nào để giải quyết hay quản lý chứng mất ngủ hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa Kỳ, năm 2018. Đăng ngày 5/10/2019.

Bước đầu tiên để tiến tới việc giải quyết vấn đề mất ngủ là khởi sự đọc các bài chú, bài thỉnh cho Đại thiên thần Michael và Astrea một cách đầy nhiệt huyết. Con có thể dùng bài chú, con có thể dùng bài thỉnh, và con có thể kêu gọi sự bảo vệ cho chính mình cũng như bảo vệ bốn thể phàm của con, hay ba thể cao của con – là tâm bản sắc, lý trí và tình cảm.

Con kêu gọi Astrea cắt đứt mọi dây buộc vào cõi trung giới, vào bất kỳ tà lực, ma quỷ hay tà thể nào, v. v… Thường chứng mất ngủ do các tà lực đó gây ra khi chúng phóng chiếu năng lượng hay ý tưởng và cảm xúc vào tâm con, rồi cuốn lấy tâm con khiến con không thể đi vào giấc ngủ.   

Về lâu dài, tất nhiên, vấn đề là phải giải toả tâm lý khiến con cảm thấy mình có điều gì đó phải giải quyết, điều gì đó phải làm, điều gì đó phải suy nghĩ. Vấn đề này gắn liền với những lời dạy về ngã gốc, ngã tách biệt, và đây là cơ hội để con sử dụng những lời dạy trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh (Healing your Spiritual Traumas).

Làm thế nào xử lý những lỗi lầm ảnh hưởng đến người khác

Hỏi: Đây là kinh nghiệm cá nhân của con nhưng có lẽ nhiều người sẽ thấy nó quen thuộc. Con trải qua kinh nghiệm này khi con phạm một lỗi lầm liên quan đến một người. Làm xong, con nhận thấy có điều gì không phải, và con quyết định là mình sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Con bỏ chuyện đó lại đằng sau. Khi cuốn sách “Các cuộc đời của tôi với Lucifer, Satan, Hitler và Jesus” được xuất bản, con mới thực sự nhận ra sự việc mình đã gây ra, và trong một giây phút con đã nghĩ: “Trời, tôi vừa nhận ra là tôi đã làm một chuyện sai trái mà tôi không muốn”, cho nên phần nào con bằng lòng là mình đã nhận ra lỗi lầm và mình đã có thể điều chỉnh lại cách hành xử của mình.

Tuy con biết là sự kiện con đã học xong bài học sẽ hóa giải được nghiệp quả – nghĩa là sự việc đã xong và mình không còn mang vấn đề đó trong tâm nữa – nhưng đối với người kia thì sao? Điều này sẽ ảnh hưởng thế nào đối với người kia, dòng sống kia, mà con đã có tương tác? Theo một nghĩa nào đó, con không muốn họ phải trải qua bất cứ điều gì tiêu cực hay bất kỳ hậu quả nào quay ngược trở lại, đặc biệt là vì người đó còn trẻ tuổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Đây là một tình huống mà tất cả các con đều đã và đang đối mặt rất, rất nhiều lần khi con sống trên địa cầu này. Và nói thật, tình huống này là một trong những vũ khí lợi hại nhất của sa nhân để khiến con bị mắc vào những dây nhợ nghiệp chướng hay những khuôn nếp phản ứng rất khó lòng thoát ra khỏi.

Con sống trong một môi trường vô cùng khó khăn trên hành tinh này, trong một nền văn hóa cũng vô cùng khó khăn, cho nên khi con làm điều gì tác động lên người khác thì con rơi vào một khuôn nếp phản ứng do hành động đó gây ra. Hoặc con sẽ phủ nhận nó, hoặc con sẽ tìm cách đền bù, hay con cảm thấy là mình thật đáng trách về chuyện này hay chuyện nọ. Cho nên đây là lời đề nghị của ta.

Có những hoàn cảnh mà con có thể làm điều gì đó ở mức vật lý để bù đắp cho những gì con đã gây ra cho người khác qua cách hành xử hay quyết định của mình. Con nên hòa điệu trong tim, cố gắng bước vào một trạng thái tâm trung hòa và nhận sự hướng dẫn từ nội tâm để xét xem điều này có áp dụng cho con hay không, xem xét con có thể làm được gì ở mức vật lý. Rồi nếu con cảm thấy nó đến từ bên trong, con có thể hành động theo đó ở mức vật lý. Con không nên lấy quyết định này với tâm vỏ ngoài dựa trên mặc cảm tội lỗi mà con đang có.

Rồi sau đó tất nhiên, con có thể bước vào công việc tu sửa tâm linh, con có thể thỉnh cầu cho nghiệp quả được hóa giải, thỉnh cầu cho người kia được tự do khỏi các hậu quả trong cõi bản sắc, lý trí lẫn tình cảm, và con có thể tu sửa chính tâm lý mình để nhìn xem cái ngã nào đã khiến con hành xử như thế, xong con giải quyết nó và để cho nó chết.

Ở điểm này, con đã làm tất cả những gì con có thể làm được cho người kia. Và cũng ở điểm này, con cần dùng các lời dạy mà chúng tôi đã ban ra về quyền tự quyết và nhìn nhận rằng con đang sống trên một hành tinh thấp kém về trạng thái tâm thức. Con không đang sống trên một hành tinh tự nhiên. Không thể tránh được chuyện ai ai cũng sẽ phạm phải lỗi lầm vì đủ loại lý do khác nhau. Thật sự con không cần phân tích quá đáng mà con chỉ cần công nhận là mình đã lỗi lầm. Con đã dùng quyền tự quyết của con để nhìn nhận lỗi lầm, để cố gắng vươn lên cao hơn tâm thức đó và tìm cách đền bù cho những hậu quả của việc làm.

Đây là điểm mà con cần nhìn nhận là người kia cũng có quyền tự quyết của họ, và con cần cho phép họ tự do quyết định cách phản ứng của họ trước tình thế, bất kể cách họ muốn phản ứng thế nào. Nếu họ giận dữ với con, con hãy cho phép họ chọn lựa như vậy, nhưng khi đó, con cần làm một việc khó khăn bậc nhất đối với hầu hết mọi người tâm linh: đó là con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Vì khi con nhìn nhận là mình đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức vật lý, đã làm tất cả những gì mình có thể làm ở mức tâm linh, thì con cũng cần nhìn nhận một điều: Nếu người kia giận con hay trách móc con thì con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải phản ứng lại. Con không cần phải tự trách mình, con không cần cảm thấy mình có tội, con không cần cảm thấy là mình phải tiếp tục cố gắng đền bù cho tới khi người kia hết giận. Con cần nhận ra là con đang sống trên một hành tinh phi tự nhiên, và trên một hành tinh phi tự nhiên thì không có gì lý tưởng.

Cho nên con không thể chờ đợi mọi chuyện sẽ lý tưởng, mà con cần nhìn nhận là con có quyền sống trên hành tinh này, con có quyền có trạng thái tâm thức hiện thời của con, con có quyền lấy quyết định và hành xử dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời đó, bởi vì con không thể làm bất cứ gì khác.

Sẽ có những tình huống khiến con làm một điều gì đó sẽ tác động lên người khác, và người kia có quyền bị người khác tác động y như con cũng có quyền bị người khác tác động. Nói cách khác, người đó không có quyền nói: “Đáng lẽ bạn không bao giờ được hành xử như vậy. Đáng lẽ bạn không được có trạng thái tâm thức đó. Đáng lẽ bạn không được sống trên hành tinh này.” Con có quyền sống ở đây trong trạng thái tâm thức hiện thời của con, và con có quyền làm những điều sẽ ảnh hưởng đến người khác – khi con lầm lỗi một cách trung thực và không hành xử với ác ý. Chính người kia cũng đang ở trong một trạng thái tâm thức nào đó, họ có quyền ở trong tâm thức đó, và con cần nhìn nhận là cách phản ứng của họ đối với con là kết quả của tâm thức đó. Con không cần can thiệp vào chuyện này, nhưng mặt khác, con cũng không cần cho phép nó can thiệp vào đường tu của con – một khi con đã làm tất cả những gì có thể làm để nâng cao tâm thức của con.

Đây là một điều rất, rất khó khăn cho nhiều người tâm linh, và đó là lý do tại sao ta vừa nói đó là một vũ khí hữu hiệu của sa nhân để chúng cầm giữ con trong các mối dây nhợ đó. Tác động tổn hại nhất của sự thể này là khi con sống gần một số sa nhân trong cõi vật lý và con đã làm điều gì đó mà họ xem là sai trái, họ có thể trở nên rất hung hãn, rất cố chấp, và họ sẽ đổ lỗi cho con.

Nhiều người trong số các con đã có tương tác với sa nhân trong tiền kiếp, và một số các con đã tương tác trong kiếp này. Họ đã tỏ ra vô cùng tiêu cực đối với con và con đã quyết định: “Ồ, tôi phải giải quyết cho chuyện này tốt đẹp trở lại.” Nói cách khác, con quyết định: “Tôi cần thay đổi những sa nhân đó để họ không còn tâm trạng tiêu cực đó nữa.” Con yêu dấu, đây là công thức dẫn đến thảm họa, vì trong vũ trụ ít điều gì khó khăn hơn là khiến cho sa nhân đổi ý hầu họ nhìn con với con mắt tích cực, tha thứ cho con và bỏ qua. Cho nên con cần nhìn nhận điều này, liệu người kia có phải là một sa nhân hay không. Thật ra con cũng không cần đánh giá như vậy, mà con chỉ cần nhận rõ trong tâm là nếu họ không để cho quá khứ là quá khứ, nếu họ không buông ra, nếu họ không bỏ qua, thì điều này sẽ không có nghĩa là con không có quyền buông ra, bởi vì chính con có quyền buông ra.

Con có quyền cảm thấy ở bên trong là mình đã làm những gì mình có thể làm cho người đó, và bây giờ mình sẽ bỏ họ lại đằng sau để tiếp tục sống đời mình. Con không chạy trốn bất cứ gì bởi vì con đã giải quyết vấn đề tâm lý nội tâm, con đã làm những gì con có thể làm, và sau đó thì con có quyền bước đi tiếp.

Điều này áp dụng cho mọi người trong đời con, con yêu dấu: cho cha mẹ, cho con cái, cho thân nhân, cho bất cứ ai, tuyệt đối bất cứ ai. Con tôn trọng quyền tự quyết của họ nhưng con cũng tôn trọng quyền tự quyết của con. Họ có quyền phản ứng lại với con bất cứ cách nào họ muốn, nhưng con cũng có quyền không bị phản ứng đó của họ tác động lên mình, vì tâm lý của con thì chính con phải giải quyết lấy. Con không phải giải quyết tâm lý của người khác vì đó là trách nhiệm của họ.

Làm thế nào kéo dài trạng thái an bình nội tâm

Hỏi: Sau khi đọc bài chú hay bài thỉnh, con cảm thấy an bình và con cũng cảm được năng lượng tâm linh. Nhưng khi con đi làm những hoạt động khác trong ngày, cảm giác này bắt đầu trôi đi mất. Nếu con không có dịp đọc một bài chú khác, liệu có một cách nào thực tiễn để kéo dài cảm giác an bình này không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque (Hoa Kỳ) năm 2018. Đăng ngày 1/10/2019.

Có một cách thực tiễn nhưng nó sẽ không có hiệu quả ngay lập tức. Ta không thể cho con một lời dạy sẽ giúp con xoay chuyển tức thì vì thực tế là khi con đọc thỉnh, con cũng thỉnh cầu ánh sáng. Con cũng tự nâng mình lên cao hơn trạng thái nhận biết bình thường của con, vượt quá các khuôn nếp phản ứng bình thường của con. Đó là tại sao con cảm thấy an bình. Nhưng sau đó tất nhiên, khi con làm các hoạt động thường nhật và tùy theo con gặp những công việc gì trong ngày hôm đó, con quay trở về một số khuôn nếp phản ứng. Con có thể quay trở về cách nhìn cố hữu của con về cuộc đời nói chung. Nói cách khác, con lại bắt đầu phản ứng dựa theo ngã gốc chẳng hạn, và đó là yếu tố làm tiêu tan năng lượng và lấy đi an bình của con. Cho nên không có cách nào thực sự sẽ giúp con quay trở về tức thì với trạng thái an bình cho đến khi con bắt đầu giải quyết cái ngã gốc đó và làm hoà với việc con hiện diện trên địa cầu.

Khi con làm hoà với việc mình hiện diện trên địa cầu thì ngay lúc đó, con sẽ có khả năng mang trạng thái an bình này theo con. Một số các con sẽ thấy là một khi con làm hoà được như vậy, con không cần đọc thỉnh để đạt được trạng thái an bình này. Đơn giản là con có nó rồi. Điều này không có nghĩa là con không thể đọc thỉnh, nhưng con không đọc thỉnh vì lý do đó.

Cho nên đây là vấn đề xem xét: “Đâu là phản ứng cơ bản của tôi – hay như Giê-su nói, đâu là cách vận hành thường lệ (modus operandi) của tôi? Tôi quan hệ thế nào với cuộc sống trên trái đất? Cái gì lấy đi an bình của tôi? Cái gì làm tôi xáo trộn?” Sau đó con hãy dùng các dụng cụ trong sách Chữa lành Chấn thương Tâm linh để nhìn tận đáy vấn đề này. Ngay cả nếu con là một dân cư nguyên thủy của địa cầu, thì khi sa nhân đến trái đất, con đã tạo ra một cái ngã phản ứng lại chúng, và đây chính là điều tước mất an bình của con. Tất nhiên, thật khó lòng an bình trên một hành tinh có sa nhân, nhưng một khi con khắc phục được khuôn nếp phản ứng đó, con sẽ có thể thực sự cảm thấy an bình.

Không có chất nào, thiết bị nào, kỹ thuật nào trong cõi vật lý sẽ bảo đảm tăng triển tâm linh

Hỏi: Con có một câu hỏi về cần sa (marijuana). Con được đọc nhiều lần là người thổ dân sử dụng các loại ma túy như peyote marijuana để khai mở tâm linh trong bộ lạc của họ. Con xin các thày vui lòng cho ý kiến về cách đó liên hệ tới sa nhân. Đó có phải là một ảo ảnh hay là một phương thức cân bằng?    


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Albuquerque, Hoa kỳ, năm 2018. Đăng ngày 30/9/2019.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã nói con điều gì trong các lời dạy được trao truyền? Rằng trong vũ trụ vật chất có bốn tầng. Trong một hoàn cảnh lý tưởng, năng lượng tuôn xuống từ tầng bản sắc vào tầng lý trí, rồi vào tầng cảm xúc, rồi vào tầng vật lý. Chúng tôi đã dạy con điều gì trong sách Những kiếp của tôi? Rằng sa nhân đã thiết lập một hệ thống trên địa cầu, qua đó chúng tước mất quyền làm chủ của con bằng cách bắt con trải qua trong bát cung vật lý một biến cố sẽ tạo ra một dòng năng lượng chảy nghịch hướng. Trong lý tưởng, không có gì xảy ra trong cõi vật lý sẽ ảnh hưởng được các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của con, tuy nhiên các sa nhân rất giỏi tạo ra dòng chảy nghịch hướng đó khi con phải đối mặt với một sự kiện trong cõi vật lý sẽ tác động ngược lên ba thể cao của con – như tra tấn, chấn thương, bất kể…

Cho nên điều ta muốn nói ở đây là thế này: Chìa khóa thực sự của sự phát triển tâm linh là con tái lập dòng chảy năng lượng tự nhiên, nơi không có gì trong cõi vật lý có thể ảnh hưởng ba thể cao của con, mà ngược lại mọi hành động của con trong cõi vật lý đều là sự biểu hiện của những gì phát xuất từ Hiện diện TA LÀ chảy xuyên qua ba thể cao của con. Nếu có một chất vật lý – bất kỳ loại chất vật lý nào – hay bất kỳ thiết bị nào, bất kỳ kỹ thuật nào trong cõi vật lý mà có thể bảo đảm cho sự tăng triển tâm linh, thì chúng tôi đã nói với con rồi. Nhưng do dòng chảy năng lượng tự nhiên, cái đó không hề có.

Không có gì con có thể làm trong cõi vật lý sẽ bảo đảm sự tăng triển tâm linh cho con, đơn giản là vì sự điều ngự tâm linh cũng có nghĩa là sự điều ngự cả bốn thể phàm của con. Có nghĩa là con điều ngự thể bản sắc để bản sắc của con là thể sẽ gửi khuôn đúc xuống trí thể, rồi trí thể gửi khuôn đúc xuống cảm thể, rồi cảm thể gửi khuôn đúc xuống cơ thể vật lý. Không có gì xuất phát từ cơ thể vật lý sẽ tác động lên cách con biểu đạt tâm linh. Đây chính là ý nghĩa của câu “làm cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ”. Đây cũng là ý nghĩa của sự điều ngự tâm linh. 

Cho nên con yêu dấu, con thử trả lời câu hỏi này của ta: Làm thế nào con sẽ đạt được sự điều ngự đó bằng cách sử dụng một chất vật lý? Cho dù chất đó có là gì thì chuyện đó cũng không thể làm được.

Và sau đây là điểm phức tạp hơn một chút, vì như ta có nói, trong tình trạng rối mù của trái đất thì không có gì là giải pháp hay lời giải thích trắng-đen. Như Giê-su đã trình bày, con có một tình trạng khi ý nghĩa, khái niệm của đường tu tâm linh đã bị người ta xóa bỏ khỏi văn hóa, ít ra trong các nền văn hóa phương Tây. Rất, rất nhiều người lớn lên mà không nghe biết gì về đường tu này. Tuy nhiên họ vẫn mang trong họ một cái biết nội tâm, một cảm giác nội tâm, là có một cái gì đó vượt lên khỏi mức tâm thức hiện tại của họ.

Vào thập niên 1960 đã có một túc số những người, cũng như một sự xoay chuyển tâm thức với ngày càng nhiều người hơn bắt đầu bác bỏ nền văn hóa duy vật. Thật ra họ mong muốn có được một cách nhận biết tâm linh hơn, một nền văn hóa tâm linh hơn. Chuyện này trở thành một mối đe dọa cho sa nhân đến độ chúng phải cố tìm đủ mọi cách để đánh lạc hướng nhu cầu tâm linh đó, để nó không thể thực sự tác động xã hội. Và một trong những phương thức của chúng là tạo ra toàn bộ nền văn hóa ma túy, khi chúng khiến cho biết bao người tâm linh nghĩ rằng ma túy là một con đường tắt dẫn đến sự tăng triển tâm linh. Rốt cuộc thì nó dẫn những người này vào nghiện ngập; họ bị dẹp yên và đã không đạt được tầm ảnh hưởng mà đúng lý họ đã có thể có trên xã hội.

Con có thể nhìn một số những người đó và bảo rằng, đúng thật là một số đã rơi vào nghiện ngập và một số đã sử dụng ma túy suốt đời khiến họ bị dẹp yên, nhưng cũng có được một số ít nhận ra rằng: “Ma túy đã giúp tôi bước ra ngoài trạng thái tâm thức bình thường của tôi, và điều này chứng tỏ là có một cái gì đó vượt ra ngoài trạng thái tâm thức bình thường đó.” Và điều này cũng khiến họ tự hỏi: “Vậy làm thế nào tôi có thể đạt tới trạng thái tâm thức đó mà không dùng ma túy?” 

Nếu con sử dụng theo cách đó thì, thôi cũng được, ma túy không đến nỗi tai hại cho con và con có thể tiếp tục tăng triển trở lại. Nhưng ta xin nói để con suy ngẫm, tất cả những ai làm vậy đã có thể đạt tới cùng điểm đó mà không cần đến ma túy, nếu họ chịu khó kiên nhẫn hơn một chút, nếu họ cởi mở hơn một chút để tìm kiếm con đường. Trong quá khứ, việc tìm kiếm con đường tâm linh khó hơn bây giờ, nhưng ngày nay thì nó dễ hơn, và hy vọng thay, càng ngày nó sẽ càng dễ hơn nữa, hầu nhu cầu sử dụng bất kỳ loại ma túy nào sẽ dần dần giảm bớt.  

Sự thật trong vấn đề này là nhiều người thổ dân, các pháp sư, đã sử dụng peyote, ayahuasca hay một chất nào khác, đã không hề nâng cao tâm thức của họ đến mức họ có thể bắt liên lạc với các chân sư thăng thiên. Nhiều người trong số đó đang cộng tác với một số sinh thể trong các cõi tình cảm hay lý trí. Cho nên con có thể nói: “Tôi sẽ muốn hòa điệu tâm tôi với ai đây? Tôi muốn đi về hướng nào? Liệu tôi muốn các chân sư thăng thiên hay tôi muốn một cái gì thấp hơn?”

Đây cũng là cùng một vấn đề với những người đồng bóng. Có những người đồng bóng liên lạc với cõi lý trí, thậm chí một số còn liên lạc với cõi tình cảm, một số ít với phần thấp của cõi bản sắc. Con muốn gì đây? Con muốn loại thày nào đây? Nếu con đã dùng ma túy thì con đừng tự lên án mình, mà con hãy nhận ra đó là một giai đoạn cần thiết trên con đường của con, tuy nhiên con hãy sẵn lòng tự nhủ: “Điều này không có nghĩa là tôi phải bênh vực cho những ai dùng ma túy.” Đừng cố xuất khẩu kinh nghiệm chủ quan của con và cố biến nó thành một cái gì phổ quát. Đừng bào chữa cho ma túy hay tìm cách ngụy biện như thể nó không có mặt, mà con chỉ cần nói: “Đúng vậy, tôi đã sử dụng, tôi đã cần đến nó. Nó đã có giúp tôi nhưng giờ đây nó đã đi vào quá khứ.” Xong thay vì khuyên người khác dùng ma túy, con hãy khuyên họ sử dụng một lời dạy tâm linh. Ít nhất con đã có một lời dạy mà ta có thể khuyên con rồi đó, nhưng có nhiều lời dạy khác nữa.

Mặc cảm cứu tinh của các avatar

Hỏi: Trong quyển sách “Những kiếp của tôi” (My Lives), nhân vật chính kể rằng khi ông ta tham khảo các cố vấn tâm linh của ông về quyết định sẽ đến hành tinh địa cầu, sự suy nghĩ của ông phần nào không minh mẫn và điều này đã ảnh hưởng đến tiến trình quyết định. Phần nào ông đã hình thành một mặc cảm rằng mình là cứu tinh. Con chỉ thắc mắc không biết tiến trình của Giê-su là thế nào khi thày tham khảo các cố vấn của thày để lấy quyết định tới địa cầu? Lúc đó thày có minh mẫn hơn nhân vật trong sách hay không, hay là thày cũng bị bối rối khi phải cân nhắc việc đầu thai lần đầu tiên trên địa cầu? Ngoài ra, liệu Giê-su có tính viết một cuốn sách kể lại hành trình cư ngụ trên trái đất cùng những biến cố chính trong suốt các kiếp sống mà thày đã sống qua kể từ khi thày hiện thân lần đầu tiên cho tới khi thày thăng thiên?      


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels trong một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Điều ta muốn con rút tỉa từ cuốn sách “Những kiếp của tôi” và cũng là điều ta muốn nói ở đây, đó là: Hành tinh địa cầu là một phương tiện giáo dục. Có nghĩa là tất cả mọi người đã hiện thân vào cõi vật lý đã có nhu cầu học hỏi một điều gì đó qua sự kiện họ đến đây. Những chuyện kể về nhân vật chính trong sách không chỉ là câu chuyện về một dòng sống, mà là một tập hợp những suy nghĩ trăn trở của nhiều avatar về những động lực đã thúc đẩy họ đến địa cầu. Con cũng hiểu là một avatar không bắt buộc phải đến địa cầu bởi bất kỳ một nguyên do nghiệp chướng nào, mà đã chọn lựa đến đầu thai ở đây. Tất cả chúng ta, kể cả chính ta, là avatar đến đây đã mang một động lực mà chúng ta coi là hoàn toàn nhân từ, mà thật vậy trong một nghĩa nào đó, động lực đó hoàn toàn nhân từ.  

Tuy nhiên chúng ta cũng có một cái nhìn có phần thiếu cân bằng, chúng ta có một số khía cạnh của mặc cảm cứu tinh. Đây là điều mà mỗi chúng ta cần phải học hỏi như nhân vật trong sách mô tả, là ông ta nhận ra rằng ông phải buông bỏ mặc cảm đó và hiểu rằng ông không đến đây để thay đổi một ai. Tất cả chúng ta phải kinh qua tiến trình này để rốt cuộc nhìn trái đất với tất cả những khuyết điểm, tất cả những khổ đau của nó để ngộ ra là mình sẽ hoàn toàn chấp nhận quyền tự quyết. Con nhận ra là con không ở đây để thay đổi bất cứ ai, con chỉ ở đây để thay đổi chính con mà thôi. Tất nhiên, con cũng nhận ra là khi con ở đây và làm tất cả những chuyện này, khi con thay đổi chính mình, thì con cũng làm gương cho người khác noi theo nếu họ muốn.

Con phải đạt tới một điểm khi mà để thăng thiên, con phải làm hòa với quyền tự quyết, với khái niệm tự quyết, với cách quyền tự quyết được phép tương tác và diễn ra trên một hành tinh như địa cầu. Con có khả năng nhìn thẳng vào tất cả sự đau khổ mà không bước vào một phản ứng động cảm, và con nhìn xa hơn những nỗi đau khổ để thấy rằng đó là cách duy nhất mà quyền tự quyết có thể diễn ra. Vì khi con người xuống thấp hơn một mức tâm thức nào đó, họ sẽ phải trình diễn tâm thức đó cho tới khi họ chán ngấy. Không những chỉ chán ngấy sự đau khổ (điều này nhiều người chán ngấy rất nhanh) mà họ chán ngấy cả cái tâm thức đã đem lại đau khổ.

Vậy con đạt đến một điểm khi con thực sự làm hòa với địa cầu như địa cầu đang là, và con thực sự cảm nhận được cho dù con đã đến địa cầu để đem lại thay đổi tích cực, bây giờ con có thể rời địa cầu cho dù con chưa đem lại được thay đổi đó.

Đây là một tiến trình mà tất cả chúng ta đều phải kinh qua. Trong một nghĩa nào đó, con có thể nói rằng tất cả chúng ta đều có một phiên bản riêng về mặc cảm cứu tinh, bởi vì nếu không thì chúng ta đã không tình nguyện đầu thai ở đây. Cho nên tất cả chúng ta phải học cách vượt qua, và nhìn thấy điều gì đã thúc đẩy mỗi chúng ta đi đến phán đoán là trên địa cầu có những điều không ổn cần thay đổi.  

Một lần nữa, đây là một vấn đề tế nhị vì hiển nhiên trên địa cầu có rất nhiều khổ đau. Đương nhiên nhiều người bị cuốn trôi vào trong đó và đã không chọn lựa bước vào đó một cách ý thức – họ đã chọn lựa một cách vô thức. Dù sao thì quyền tự quyết vẫn là quyền tự quyết. Cho nên mặc dù chúng ta có thể đến đây và thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối, nhưng chúng ta không thể thao túng người khác để họ phải chấp nhận ngọn đèn của chúng ta vì lợi ích của họ.      

Về việc viết một cuốn sách kể ra chi tiết mọi kiếp đầu thai của ta, ta không có ý định này ngay bây giờ, một phần là vì tất nhiên ta đã sống qua rất nhiều kiếp và kể lại hết sẽ rất khó khăn, thậm chí không thể làm được trong một cuốn sách. Phần khác là vì ta không muốn đặt quá nhiều trọng tâm vào bản thân mình ngoài những điều đã làm. Thật sự mục đích của cuốn sách “Những kiếp của tôi” là để làm xẹp bớt sự sùng bái thần tượng chung quanh con người của ta mà các giáo hội Cơ đốc giáo và ngay cả nhiều người trong các cộng đồng Thời mới vẫn có. Chúng tôi muốn đưa ra cho mọi người một lời dạy để giúp họ ngưng sùng bái chứ không sùng bái nhiều hơn.   

Người tâm linh và quan hệ cá nhân

Hỏi: Trong đời con – và con biết cũng là trường hợp của những người tâm linh khác mà con quen biết – chúng con không có nhiều quan hệ, nếu không muốn nói là không có quan hệ nào. Xin các chân sư cho biết cảm nghĩ về điều này – về các quan hệ tình cảm cá nhân cũng như bất kỳ mối quan hệ nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2018. Đăng ngày 11/9/2019.

Con yêu dấu, như người ta thường nói, thói quen cũ rất khó bỏ. Hiển nhiên nhiều người tâm linh hôm nay đã từng là người tâm linh trong nhiều kiếp trước. Nếu con nhìn trở ngược thời gian, con thấy người tâm linh ngày xưa thường làm gì? Phải, họ rút khỏi xã hội, họ sống trong một hang đá trên núi Himalaya, nơi một trường bí giáo hay một tu viện. Thật sự có nhiều người tâm linh đã sống ẩn dật suốt nhiều kiếp, hoặc trong những khung cảnh im lặng, thanh vắng, ngăn nắp nơi họ không phải tiếp xúc với những vấn đề của cuộc sống năng động ngoài đời.    

Nhiều người trong số các con đã chọn đầu thai trong kiếp này nhưng các con đem theo mình một xu hướng lâu đời, theo một nghĩa nào đó, muốn sống trong một môi trường nơi mình cảm thấy thoải mái. Con có nhu cầu mọi thứ phải trong tầm kiểm soát và có một số thử thách của thế gian mà con không muốn phải đương đầu. Con đem xu hướng này với con tới độ con trở thành người hướng nội, thích lẻ loi. Ta không nói là nhất thiết có điều gì không ổn trong mọi trường hợp, hay là con không nên cư xử như vậy. Đối với một số người, đây có thể là một điều thích hợp cho họ, ít nhất trong một thời gian cho đến khi họ đạt được một giải pháp nội tâm.

Con cần hết sức thận trọng và con nên dùng những dụng cụ và giáo lý tâm linh để hòa điệu với sứ vụ thiêng liêng của con, và xét xem con đã quyết định mình phải có nhiều tương tác hơn với người khác hay không. Hiển nhiên, điều nguy hiểm khi con tự cô lập là tâm con có thể trở thành một căn phòng khép kín vì con không nhận được phản hồi từ bên ngoài để dùng làm khung chuẩn.  

Con cần nhận ra ở đây là ngay cả một người có trình độ phân biện Ki-tô và hòa điệu Ki-tô cao độ với Hiện diện TA LÀ, vẫn có thể được nhiều lợi ích khi tương tác với người khác – it nhất là vì việc biều lộ quả vị Ki-tô của mình phần nào là phải giúp đỡ người khác. Làm sao con có thể giúp được nếu con không cảm nhận được họ đang ở mức tâm thức nào? Nói cách khác, nếu sứ vụ thiêng liêng của con (như đối với hầu hết các con) phần nào là phải chứng tỏ tâm Ki-tô và đóng góp những ý tưởng có thể giúp người khác chuyển đổi tâm thức họ, làm thế nào con sẽ làm tròn được nếu con không hòa điệu với trình độ tâm thức của họ?  

Đó là lý do con cần phải sẵn sàng xét xem: Phải chăng tôi đang tự cô lập hầu tránh né một điều gì đó? Trong trường hợp này, con đã có những dụng cụ để nhìn vào “điều gì trong chấn thương nhập đời của tôi đã khiến tôi quyết định là bởi vì người khác đã hại tôi cho nên tôi không muốn đối đãi với người khác”, rồi từ đó con vượt qua chấn thương của con. Nói cách khác, con cần đi tới một điểm nơi con có thể xác định rằng lý do con không có nhiều quan hệ không phải là một phương cách tránh né hay trốn chạy sự đối mặt, bởi vì con đã khắc phục được những vết thương tâm lý khiến con cảm thấy cần tháo chạy.

Một khi con làm được điều đó, con sẽ thấy được: Liệu sứ vụ thiêng liêng của tôi định rằng tôi phải tiếp tục sống tương đối cô đơn, hay liệu sứ vụ của tôi định rằng tôi phải vào đời và tương tác nhiều hơn với người khác? Nói cách khác, ta muốn con đạt đến một điểm khi con nhận biết trong thâm tâm của con vấn đề này có ý nghĩa gì với con, và liệu con cần tiếp tục sống cô độc hay đã đến lúc con cần tương tác nhiều hơn với người khác.   

Nhiều người tâm linh chối bỏ hoặc trốn tránh cuộc sống

Hỏi: Nếu chúng con có một trình độ tâm thức cao hơn trung bình, tại sao nhiều người tâm linh lại gặp nhiều khó khăn để xoay xở trong thế giới bên ngoài và lo liệu cuộc sống như người ta thường sống bên ngoài? Cuộc đời làm việc của nhiều người tâm linh vô cùng hỗn độn và họ rất khó khăn kiếm tiền và giữ tiền? Và người tâm linh nói chung hình như cũng kém khả năng nhất để đối phó với những thử thách của thế giới vật chất – tại sao vậy? Tại sao lại có sự chênh lệch này? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Con yêu dấu, câu trả lời nằm trong quyển sách đó. Trong sách, chúng tôi có mô tả nhiều avatar đến địa cầu đã bị cú sốc và chấn thương rất nặng bởi các điều kiện trên địa cầu. Hệ quả là các con đã dựng lên một nỗi căm giận nào đó, một nỗi phẫn uất nào đó, một sự miễn cưỡng không muốn tham gia vào cuộc sống trong cõi vật lý. Điều này phần nào có thể là do cú sốc và chấn thương mà con đã trải nghiệm ở đây. Đó cũng có thể là do con cảm nhận rằng mọi chuyện đã có thể khác hơn, rằng con đã từng kinh nghiệm một thế giới nơi mọi chuyện đều khác. Và do đó trong tiềm thức, nhiều người trong các con có khuynh hướng chối bỏ địa cầu nói chung. Trên căn bản, con nghĩ: “Tôi sẽ không tham gia hoàn toàn vào cuộc sống ở đây. Tôi sẽ chỉ làm tối thiểu tuyệt đối để bảo đảm sinh nhai mà thôi.”  

Và do đó nhiều lần con đã để mặc cho hoàn cảnh quyết định việc làm cho con cũng như thời gian con làm việc. Nhiều người trong số các con cũng có một cách trốn tránh nỗi đau bắt nguồn từ thuở chấn thương nguyên thủy khi con mới đến đây. Để trốn tránh nỗi đau nguyên thủy này, con đã lập ra một cơ năng bù đắp, là khi có một tình huống nào đó có vẻ khơi lại vết thương cũ, con liền tìm cách rút lui khỏi tình huống. Cho nên mỗi khi con có việc làm nào khả dĩ sẽ khơi lại vết thương, con sẽ lánh xa ra và tìm công việc khác. Cho nên cả đời con trở thành một cuộc rượt đuổi để tìm ra một nơi nào không có ai sẽ nhấn vào chỗ đau và khuấy lên vết thương của con. 

Con làm một chuyện mà chúng tôi gọi là những quyết định trốn tránh. Thay vì con lấy quyết định về những điều gì mà con muốn trong cuộc sống, con lại bị thúc đẩy bởi những gì con không muốn, và con lấy những quyết định mà con nghĩ sẽ khiến con tránh được những điều con không muốn.  

Cho nên lối thoát duy nhất khỏi tình trạng này là con thực sự xem xét những gì được viết trong sách, nhìn vào toàn bộ tiến trình và quyết định xem con có đang ở điểm con sẵn sàng rời bỏ địa cầu hay chưa, và sau đó con tập trung vào việc hội đủ các điều kiện để thăng thiên. Nhưng hầu hết các con chưa hẳn tới được điểm đó bởi vì con còn cần đi qua một giai đọan đặc thù trước khi con sẵn sàng rời khỏi trái đất. Và giai đoạn này là con thực sự chấp nhận cuộc sống trên trái đất và con tham gia vào đó một cách tích cực. Điều này không có nghĩa là con phải làm giống như những người không tâm linh, mà chỉ có nghĩa là con chấp nhận con ở đây. Con chấp nhận hành tinh này là như vậy. Và sau đó con tự nhủ: “Đằng nào tôi cũng ở đây rồi – tại sao tôi lại không có cuộc sống tốt đẹp nhất? Tại sao không thực sự thưởng thức đời sống ở đây? Tại sao không cảm thấy hài lòng về chính mình như một người trên địa cầu? Tại sao không hài lòng về đời mình? Tại sao không hài lòng về hành tinh, về người khác, về thế giới vật lý?” Hãy ôm lấy cuộc sống thay vì cố trốn chạy nó.

Và nếu con nhảy được bước nhảy vọt này, thì trước hết phần đời còn lại của con sẽ thú vị hơn, nhưng ngoài ra đó cũng sẽ là một chuẩn bị cần thiết cho việc thăng thiên thực thụ, bởi vì có một số người kể cả những học trò của chân sư tưởng rằng thăng thiên có nghĩa là rút lui khỏi mọi khía cạnh của đời sống. Nhưng rất hiếm khi là như vậy.

Một số người có thể có nhu cầu rút lui trong một chu kỳ nào đó, nhưng trong hầu hết trường hợp con không thể thực sự thăng khỏi địa cầu, con không thể trở nên không dính mắc với địa cầu cho tới khi con ôm lấy cuộc sống ở đây. Cho nên có một sự cân bằng tế nhị mà con phải bước. Một đằng, con không muốn bị lôi cuốn vào những ham muốn không thể thoả mãn là luôn kiếm nhiều tiền hơn, nhiều danh vọng hơn hay bất cứ gì khác. Nhưng đằng khác, con không muốn từ chối những mong muốn của con và quyết định rằng không có gì thú vị trên trái đất này, và với tư cách là một người tâm linh, con sẽ bước trên con đường khổ ải, luôn luôn cảm thấy bất mãn về địa cầu bởi vì sự bất mãn là một cách để khắc phục vướng mắc. Nhưng con yêu dấu, cảm thấy bất mãn không phải là cách để vượt qua vướng mắc. Cảm thấy hài lòng về chính mình mới là cách nhanh hơn và thú vị hơn để vượt qua vướng mắc.   

Trong nhiều trường hợp, con càng bất mãn thì con sẽ càng khó vượt qua vướng mắc vì con dựng lên một vướng mắc mới đối với sự bất mãn. Như nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đã từng bước trên con Đường Thương khó, tuy họ có bỏ được một số vướng mắc đối với một vài khiá cạnh của cái gọi là “đời sống trần tục” hay “đời sống xác thịt”, nhưng họ lại vừa dựng lên một phàm linh nội tại mới, một vướng mắc to lớn mới với điều mà họ xem là đau khổ.    

Vì vậy, một lần nữa, con hãy quyết định xem con muốn làm gì trong phần đời còn lại của mình. Con có muốn tiếp tục khuôn nếp cũ là con sống trên hành tinh này, con không thể tránh khỏi phải ở đây, nhưng trong tiềm thức con lại chối bỏ cuộc sống ở đây, khiến cho đời con khó khăn hơn? Hay con muốn làm sự chuyển vọt mà quyển sách đó – cùng nhiều giáo lý khác của các chân sư – sẽ giúp con làm, tức là con ôm lấy ít nhất một số khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu và hài lòng về bản thân, hài lòng về tất cả những sinh hoạt đó, hài lòng về sự có mặt của con trên địa cầu?   

Sẽ dễ dàng hơn nếu con có một kinh nghiệm tích cực và sau đó vượt qua các dính mắc một cách tự nhiên, hơn là cố ép mình khắc phục các dính mắc. Con có thể ép mình khắc phục một dính mắc đặc thù nào đó nhưng cái giá con phải trả là con dựng lên một dính mắc mới, và điều này sẽ không giúp con thăng thiên.

Tầm nhìn tâm linh về phương pháp thụ tinh nhân tạo IVF

Hỏi: Thưa thày Giê-su, con xin hỏi thày về phương pháp thụ tinh nhân tạo (IVF – in-vitro fertilisation). Xin thày giảng điều gì xảy ra trong quy trình này từ một quan điểm tâm linh? Với phương pháp này, có mấy cái phôi được tạo ra một cách nhân tạo, xong một số phôi không cần thiết sẽ bị loại bỏ. Điều gì xảy ra cho các tế bào khi các phôi đó bị giết chết? Có sinh thể nào khác đi vào hiện thân qua quy trình này không? Liệu chúng có mang ngọn lửa ba nhánh? Các đệ tử cả nam lẫn nữ trên đường tu tâm linh có nên chấp nhận quy trình này không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 9/9/2019.

Con yêu dấu, có một sự hiểu lầm trong câu hỏi về IVF hay ngay cả về việc mang thai nói chung. Con yêu dấu, không phải là với mỗi quả trứng được sinh sản trong cơ thể người mẹ thì sẽ có một linh hồn được chỉ định cho quả trứng đó. Chỉ sau khi sự thụ tinh đã thành công và có triển vọng sống còn thì một linh hồn mới được chỉ định. Thậm chí điều này có thể không xảy ra ngay sau khi trứng thụ tinh mà có thể xảy ra chậm hơn. Có nhiều lý do khiến cho một linh hồn có thể muốn chờ thêm trước khi lấy quyết định có đầu thai hay không trong lần thụ thai này.

Cho nên không có vấn đề gì khi có mấy phôi được tạo ra rồi một số bị loại bỏ, vì vào thời điểm đó chưa có linh hồn nào được chỉ định, và vì vậy điều này không tạo ra vết thương hay gánh nặng cho linh hồn. Nhưng này con, một linh hồn bước vào hiện thân qua phương pháp IVF không khác gì một linh hồn bước vào hiện thân qua sự thụ tinh tự nhiên. Thật không có gì quan trọng vì như ta vừa trình bày, linh hồn chỉ được chỉ định sau khi thai có triển vọng sống còn.

Vậy thì IVF chỉ đơn giản là một kỹ thuật được cống hiến cho rất nhiều phụ nữ không thể thụ thai vì một số lý do thể chất. Cho nên đây là một kỹ thuật đã đơn giản phát xuất từ nền công nghệ mà Saint Germain đang truyền rải trong khuôn khổ Thời Hoàng kim.

Con cần nhận ra ở đây là sa nhân – ít ra một số sa nhân – đã quyết định hạn chế dân số loài người. Và chúng đã đưa ra đủ mọi cách để giảm mức sinh, giảm khả năng sinh nở của phụ nữ hầu giảm dân số và ngăn cản trẻ em được chào đời. Cho nên có một số phụ nữ vì lý do thể chất – có thể do một số thực phẩm mà họ ăn vào hay bất kỳ vấn đề nào khác – đã không thể thụ thai một cách tự nhiên. Và vì vậy đây chỉ là một phương thức để vượt qua trở ngại này và giúp cho trẻ em ra đời.

Tuy nhiên, những điều nói trên không áp dụng cho phôi được nuôi trong ống nghiệm vì ống nghiệm là một môi trường hoàn toàn nhân tạo không có sự tham gia của con người. Cho nên tuy ta sẽ không nói một cách tuyệt đối là sẽ không bao giờ có tình trạng trẻ em được sinh ra trong một môi trường hoàn toàn nhân tạo, nhưng trong hiện tại thì điều này không được các thày hỗ trợ. Đó là vì, do nhiều lý do khác nhau, sự tương tác giữa trường năng lượng của đứa bé sắp ra đời với trường năng lượng của người mẹ là một điều thật quan trọng. Cho nên đây không phải là lời nói cuối về những em bé được gọi là “em bé ống nghiệm”, nhưng trong hiện tại thì các thày có sự phân biệt rõ ràng giữa IVF và ống nghiệm.

Tầm nhìn tâm linh về cái chết tự nguyện

Hỏi: Con xin hỏi về cái chết tự nguyện (euthanasia)


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 6/9/2019.

Một lần nữa, con yêu dấu, một đề tài phức tạp với nhiều khía cạnh tinh tế. Nếu con muốn đơn giản hóa, con có thể nói là con đang sống trên một hành tinh nơi quyền tự quyết ngự trị tối cao. Cho nên một người có quyền quyết định là mình muốn chấm dứt đời mình và không trải qua một quá trình bệnh tật quá đau đớn. Điều này dựa trên ý chí tự do là tối thượng, nhưng tất nhiên câu hỏi luôn luôn đặt ra là chọn lựa mà họ lấy sẽ tự do đến chừng nào. Và đây chính là điểm chúng ta chạm đến những khía cạnh tế nhị hơn, khi trong hoàn cảnh lý tưởng, người bệnh có biết đến một số sự thật về bản chất tâm linh của mình.

Họ sẽ biết đến luân hồi, biết đến nhu cầu giải quyết tâm lý của họ, nhu cầu khắc phục một tầng tâm thức nào đó, và biết đến sự kiện một chứng bệnh vật lý có thể là cách biểu hiện của một trình độ tâm thức đặc thù. Họ sẽ biết là thật ra khi một người mắc bệnh vật lý, họ có khả năng trải qua một sự xoay chuyển tâm thức, và vì vậy, có thể sẽ lợi lạc cho sự phát triển dài hạn nếu họ trải nghiệm căn bệnh cho đến giờ phút chót. Bởi vì chính bằng cách trải qua tiến trình nhận biết là cơ thể mình đang chết, họ có thể giải quyết được nhiều câu hỏi, nhiều suy nghĩ, nhiều quan điểm mà họ chưa từng nghĩ đến trong đời.

Cho nên con thấy ở đây là từ một góc độ đơn giản, con có thể nói là một người có quyền tự do quyết định, nhưng một lần nữa, trong nhiều trường hợp nếu họ chỉ quyết định là họ muốn tránh đau đớn thì kỳ thực họ đang cản trở sự tăng triển của họ, và họ đang tạo ra một tình trạng sẽ đem lại nhiều giới hạn hơn trong kiếp sống tới. Và họ có thể mắc phải cùng chứng bệnh sẽ tái phát, và họ cũng có thể bước vào kiếp tới mà chưa giải quyết xong vấn đề mà họ đã có thể giải quyết nếu họ sống tiếp cho đến cuối.

Tất nhiên, một trong những khó khăn xuất hiện gần đây là ngành y học hiện đại đã chế tạo một số công nghệ cho phép con người – cho phép cơ thể vật lý – được duy trì sự sống một cách nhân tạo. Cho nên nếu con nhìn vào tình huống cách đây một trăm năm chẳng hạn khi người ta không có công nghệ hiện đại, nếu có ai đó bị mắc bệnh thì họ sẽ bước vào một tiến trình mà chúng ta có thể gọi là tự nhiên – cho dù không bệnh nào đúng nghĩa là tự nhiên – nhưng họ kinh qua một tiến trình có thể vô cùng cá nhân, họ được trao cho một cơ hội để xoay chuyển tâm thức của họ.

Con sẽ thấy là chẳng hạn, có những người bệnh đạt tới điểm họ có thể nói: “Tôi an bình rồi, tôi có thể ra đi bây giờ”, và trong một số trường hợp họ vui lòng bỏ lại thân xác đằng sau vì họ đã đạt đến một sự giải quyết nội tâm là họ muốn ra đi – tuy rằng cũng có những người không đạt được điểm đó. Nhưng một chứng bệnh có thể là một cơ hội cho con người giáp mặt với những vấn đề mà họ chưa từng giáp mặt trước đó. Cho nên có thể nói là thuở trước, tiến trình bệnh tật gọi là tự nhiên được thích ứng để trao cho người bệnh cơ hội tối đa để họ xoay chuyển tâm thức.

Như vậy con có thể nói là nếu không có sự can thiệp của y học hiện đại thì người đó đã có một thời điểm tự nhiên để qua đời. Điều chúng ta chứng kiến ngày nay là trong ngành y khoa hiện đại, có một tư duy cho rằng việc quan trọng nhất là phải bảo tồn sự sống vật lý, cho nên người ta chế tạo ra đủ loại quy trình và công nghệ nhằm kéo dài tuổi thọ vật lý càng lâu càng tốt. Và điều này có nghĩa là có những trường hợp tuổi thọ kéo dài hơn tự nhiên. Nói cách khác, lý tưởng nhất từ một góc độ tâm linh là người đó chết sớm hơn, nhưng bây giờ y học nhân tạo lại giữ họ lại – giữ cơ thể vật lý lại – cho sống lâu hơn để họ tiếp tục bị ràng buộc với cơ thể.

Điều này cũng có nghĩa là trong một số trường hợp khi người bệnh bị giữ trong một tình trạng đau đớn lâu hơn bình thường, điều xây dựng hơn là họ có được sự hòa điệu trực giác để nói: “Tôi cảm thấy đã đến lúc ra đi, tôi không muốn cơ thể của tôi bị giữ sống lâu hơn, tôi không cảm thấy mình cần trải nghiệm cơn đau này, hay tôi không muốn được an thần với thuốc giảm đau, vậy hãy để yên cho xác thân tôi ra đi.” Đây là một cách ứng xử hoàn toàn có giá trị, và khi đó, họ không tìm cách trốn chạy khỏi nỗi đau hay tránh né không đương đầu với các vấn đề của nỗi đau. Vậy một lần nữa trong hoàn cảnh lý tưởng, người đó biết đến đời sống tâm linh, họ đã giải quyết được nhiều vấn đề trong đời mình, đã phát triển trực giác của mình, và giờ đây họ biết: “Đã đến lúc tôi ra đi, hãy để yên cho chuyện này xảy ra.”

Nhưng nếu mọi người không có được tầm nhìn như vậy về cái chết tự nhiên, nhiều vấn đề sẽ ngóc đầu lên, và một câu hỏi khó hơn hẳn sẽ được đặt ra: “Xã hội có nên hợp pháp hóa cái chết tự nguyện hay không?” Và đây là một vấn đề phải được mỗi quốc gia quyết định vì nó tùy vào tâm thức quần chúng của nước đó. Nó trở thành một thách thức cho tâm thức quần chúng vì cách ứng phó với những vấn đề sống chết như vậy luôn luôn là một thách thức cho xã hội.

Lý tưởng là mỗi xã hội nên đối mặt với nhiều vấn đề, nhưng luôn luôn có xu hướng là người ta muốn chọn con đường dễ dãi và làm ngơ các vấn đề. Nhưng có một số vấn đề sống chết mà hầu hết ai ai cũng cảm thấy không thể làm ngơ được, và thường thường đây là nguồn tăng trưởng lớn nhất – không phải vì nó cần phải như vậy mà là vì người ta hay trốn tránh. Cho nên điều quan trọng trong thời buổi này là mỗi quốc gia nên có một cuộc thảo luận về vấn đề này và những việc gì có thể được cho phép.

Ngay bây giờ chúng ta đang ở đất Hòa Lan, có lẽ là nơi có luật pháp tự do nhất trên hành tinh về vấn đề này, và ta có thể nói với con là trong trường hợp này, Hòa Lan quá tự do về nhiều mặt, quá ít tôn trọng sự sống do thiếu hẳn sự nhận biết tâm linh. Cho nên người Hoà Lan vun bồi một tâm thức xem mình là đi tiên phong, là vô cùng cấp tiến. Nhưng các con không tiến bộ như các con tưởng vì các con không coi trọng cái nhìn tâm linh, vì vậy mới có xu hướng muốn đóng vai Thượng đế. Và điều này con thấy rõ nhất trong giới thẩm quyền y học tại Hoà Lan khi nhiều bác sĩ cảm thấy họ phải được quyền quyết định khi nào một người nên qua đời, bởi vì họ có khả năng lấy quyết định đó.

Nhưng con yêu dấu, nếu con tiếp cận cuộc sống một cách duy vật, con không thể có khả năng – dù dưới hình thức hay cách thức nào – quyết định khi nào một người phải chết. Con hãy tin ta, con yêu dấu, con có thể tạo ra nghiệp chướng to lớn khi làm vậy, và các thày thì không muốn bất cứ ai tạo nghiệp một cách không cần thiết. Cho nên đây là một vấn đề mà thực sự các thày không thể đưa ra một câu trả lời rõ ràng về những gì một quốc gia nên làm, và lý do là vì cho dù các nhà lập pháp của nước đó sẵn lòng lắng nghe các chân sư thăng thiên đi nữa, thì các thày cũng sẽ không muốn đưa ra trả lời vì các thày muốn nước đó kinh qua tiến trình thảo luận rồi tự đi đến kết luận của mình.

Và như vậy, nếu các thày có được sự lắng nghe của quần chúng tại một quốc gia, các thày sẽ vẫn để yên cho họ thảo luận, xong ở một thời điểm nào đó có thể các thày sẽ nhập cuộc và đưa ra một số hướng dẫn nếu các thày thấy họ gặp khó khăn và có tiềm năng vươn lên cao hơn. Và đó là những nhận xét ta muốn trao cho con lúc này, vì tất nhiên đây không phải là lời cuối về vấn đề này.

Trẻ em nghiện trò chơi máy tính

Hỏi: Về câu hỏi hôm qua liên quan đến công nghệ, chúng con muốn hỏi thêm về vấn đề con em chúng con nghiện chơi công nghệ này. Chúng chơi trò chơi trên máy tính kể cả những hình thức dữ tợn hơn. Chúng chơi suốt ngày suốt đêm thay vì các trò chơi hoạt động cơ thể. Chúng bị nghiện máy tính.


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân dịp một hội nghị tại Hàn quốc năm 2017. Đăng ngày 3/9/2019.

Lẽ tự nhiên, con yêu dấu, đây là một mối quan tâm chính đáng khắp thế giới. Quả thật, ngành công nghệ mới này đang đẩy rất nhiều trẻ em vào một thế giới ảo giác nơi chúng bị cắt đứt khỏi cái mà chúng ta thường gọi là thế giới “thật”. Vấn đề này thật ra đã đẩy mạnh khuynh hướng của nhiều người không chịu nhận trách nhiệm về đời mình, bởi vì họ sẵn có một lối thoát quá dễ dàng để không phải lấy những quyết định khó khăn cho bản thân.

Vậy con có thể làm được gì đây? Tất nhiên, con có thể cầu thỉnh về chuyện này. Con có thể đặt ra giới hạn cho con cái về thời gian mà chúng được dành ra cho công nghệ đó. Con cũng có thể dùng lý lẽ với chúng về vấn đề sử dụng công nghệ, nhưng ta phải nói với con là hiện nay có một thế hệ trẻ em đã đầu thai cùng thời điểm khi công nghệ này xuất hiện. Và đối với rất nhiều đứa trong số đó, giản dị là chúng có một nhu cầu muốn trải nghiệm tối đa công nghệ giả tạo này cho tới khi chúng chán ngấy, thì lúc đó chúng mới sẽ tự ý bắt đầu mong muốn một cái gì cao hơn là cái thế giới nhân tạo mà chúng đã bỏ gần hết thời gian ra để trầm mình trong đó.

Cho nên điều ta muốn nói là con có thể có một số biện pháp. Con có thể cố giúp con mình bằng nhiều cách, nhưng nếu con không thể giúp chúng bằng lý lẽ thì con không nên tìm cách ép buộc chúng quá đáng, bởi vì làm như vậy sẽ chỉ tạo thêm xung đột giữa cha mẹ và con cái. Và điều đó sẽ khiến chúng càng rút xa hơn khỏi con và do đó cũng rút xa hơn khỏi thế giới thật.

Nói cách khác, nếu con thấy con không thể ngăn cản chúng đi vào đường này, điều quan trọng đối với con là cần giữ vững mối quan hệ với con cái, hầu ít ra chúng còn có một điểm tựa, một điểm neo trong thế giới thật – để chúng không rút lui khỏi con rồi bị cuốn hút thêm vào thế giới ảo mộng do mong muốn trốn thoát khỏi con. Cho nên con sẽ muốn duy trì một quan hệ và sự nối kết tối đa, để đến khi nào chúng hoàn toàn chán ngấy thì chúng còn một điểm tựa có khả năng kéo chúng ra khỏi thế giới ảo mộng và trở về.

Trẻ em bị chứng dị ứng

Hỏi: Ở khắp mọi nơi đột nhiên có nhiều trẻ nhỏ mắc phải các triệu chứng dị ứng đủ loại. Người ta bảo đó là do chích ngừa, nhưng có lẽ chăng các chứng bệnh tương tự xuất hiện do một tâm thức tập thể nào đó?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị ở Hòa Lan năm 2017. Đăng ngày 17/9/2018.

Việc nâng cao tâm thức là một tiến trình qua đó con càng ngày càng nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm về bản thân mình. Nhiều người chưa đạt tới mức có ý muốn hay có khả năng làm được điều này. Khi con không nhận trách nhiệm về bản thân thì khi có chuyện gì xảy ra mà con không ưa, mà con không chấp nhận, mà con không muốn, cách phản ứng tự động của con là tìm xem con có thể đổ lỗi cho một ai khác hay một lý cớ nào khác. Con tìm kiếm một cách giải thích tương đối giản dị là có một lực bên ngoài nào đó đã gây ra chuyện này và do đó con không cần phải sửa đổi chi hết.

Đây là cơ chế tâm lý chính yếu khi người ta nhận thấy càng ngày càng có nhiều trẻ em bị dị ứng thế rồi họ nghĩ nhất định phải có một thủ phạm để họ đổ tội, và kìa, đúng rồi! thủ phạm chính là việc chích ngừa cùng tất cả những thuyết âm mưu (conspiracy theory) mà họ có thể tin theo. Và các thuyết âm mưu làm gì chứ? Chúng bảo rằng có một thủ phạm bên ngoài với một âm mưu bí mật, chứ chính con thì không có lỗi gì hết cho nên con không cần phải xem xét lại bản thân. Sự thật ở đây là hiện nay đang có nhiều trẻ em đầu thai với cả bệnh tật lẫn dị ứng.      

Dị ứng là gì, con yêu dấu? À, nó có thể là hai thứ. Nó có thể do con ở một trạng thái tâm thức thấp hơn, con không có mức nhận biết để tránh khỏi tác động của một điều kiện vật lý nhất định. Có một số khía cạnh của thế giới vật lý ảnh hưởng đến con do tâm thức con không đủ cao. Những ai không bị dị ứng có thể là vì họ đã thăng vượt tâm thức gây ra chứng đó, cho nên mặc dù họ tiếp xúc với cùng loại phấn hoa chẳng hạn, họ không bị phấn hoa này ảnh hưởng. Đây là một trường hợp.

Trường hợp kia là nhiều trẻ em đang bước vào hiện thân vì chúng có mức tâm thức cao hơn, cho nên chúng cũng nhạy cảm hơn. Trong kịch bản lý tưởng nếu muốn tránh hiện tượng trẻ em đầu thai với dị ứng, thì tâm thức tập thể tại một số khu vực cần được nâng cao. Nhưng vì điều này đã không xảy ra, cho nên các dòng sống tiên tiến này khi bước vào đầu thai bị nhạy cảm đến độ chúng phản ứng lại, không phải với một chất vật lý, mà thật ra với mức tâm thức chưa nâng cao. Chẳng hạn có những em được chẩn đoán là dị ứng với phấn hoa, nhưng kỳ thực các em không dị ứng với phấn hoa, mà có một khía cạnh nào đó của tâm thức tập thể đúng lý đã phải được chuyển hóa nhưng chưa chuyển hóa.

Lý tưởng thì khía cạnh này cần được chuyển hóa trước khi các em đầu thai để các em không bị dị ứng. Nhưng vì điều này đã không xảy ra cho nên mới có tình trạng này, qua đó các dòng sống đó vẫn sẵn lòng đầu thai mặc dù phải chịu gánh nặng này trong cơ thể mình.

Căng thẳng và áp lực trong trí thể

Hỏi: Câu hỏi là liệu có bao nhiêu người thời nay cảm thấy một áp lực tinh thần rất lớn và khó lòng giữ được sự bình tĩnh, an bình của mình. Người đặt câu hỏi cho biết là anh thường nghe nhạc hay theo dõi chương trình phát thanh để ”kềm chế” áp lực tinh thần dồn dập. Câu hỏi của anh cho các chân sư thăng thiên là liệu đây có chỉ là một vấn đề cá nhân hay là một vấn đề phổ biến trong xã hội gắn liền với sự bất an trong trí thể.   


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2017. Đăng ngày 11/9/2018.

Chúng tôi các chân sư thăng thiên đã có đề cập đến vấn đề mà chúng tôi gọi là sự quá tải trong trí thể, hay quá tải thông tin. Hiển nhiên có rất nhiều nguyên do khiến cho con người cảm thấy căng thẳng nhiều hơn trong trí thể của mình, nhưng một nguyên do chủ yếu là cái thiết bị nho nhỏ mà tất cả các con đều mang trong túi cho phép con truy cập tức thì tin tức từ khắp mọi nơi trên thế giới. Bỗng nhiên trí thể của con bị yêu cầu phải đối phó với một khối lượng thông tin và một chiều rộng thông tin to lớn mà con không hề có trong các thời đại trước. Chỉ riêng việc phân loại và cất giữ thông tin này thôi cũng đã là một nỗ lực đáng kể cho tâm trí.

Thêm vào đó tất nhiên, còn có một lý do chung chung là thế giới trong thế kỷ qua đã trở nên ngày càng duy lý, ngày càng tập trung vào nhiững chuyện đầu óc. Mọi người đều biết nhiều hơn và họ cũng đòi hỏi muốn biết nhiều hơn. Thế giới say mê nền công nghệ dựa trên việc tiếp cận kiến thức một cách đường thẳng và khoa học, đến độ trí thể con người bị tràn ngập bởi thông tin.

Nếu chẳng hạn con thử nhìn một người trung bình cách đây một trăm năm phải biết bao nhiêu điều so với ngày nay, thì con sẽ thấy khối lượng thông tin bây giờ nhiều hơn gấp bội. Ngoài ra, người ta chú trọng nhiều hơn đến cách suy nghĩ duy lý trí, và điều này một lần nữa là một thách đố mà trí thể phải đương đầu.

Có biết bao người thời nay đặt câu hỏi về cuộc sống. Có những câu hỏi cơ bản sâu xa về cuộc sống, nhưng cũng có nhiều câu hỏi khác về đời sống thực tiễn thường nhật. Vì con người không được dạy dỗ hay không được chỉ bảo về khả năng trực giác của mình, cho nên họ không thể sử dụng trực giác để tìm ra câu trả lời, vì thế họ phải cố tìm trả lời qua trí thể. Và như chúng tôi đã từng đề cập, có một giới hạn nào đó cho những gì họ có thể hiểu được về sự sống qua tâm đường thẳng phân tích.

Có nhiều người đã nâng cao tầm nhận biết của mình đến một mức nơi một số câu hỏi về sự sống trở nên quan trọng đối với họ. Họ không thể bác bỏ hay làm ngơ trước những câu hỏi này. Họ không thể dồn nén chúng xuống, gạt chúng sang một bên hay hoàn toàn không để ý đến chúng. Cho dù họ không hẳn ý thức là họ đang suy nghĩ về chúng, trí thể của họ vẫn không ngừng xử lý những câu hỏi như thế, cố sức tìm ra một lời giải đáp duy lý, đường thẳng. Nhưng vì không thể có một lời giải đáp như vậy, cho nên một sự căng thẳng liên tục được tạo ra trong trí thể.

Tất nhiên có một số cách thức để đối phó với vấn đề này. Một cách là qua sự tỉnh thức – một phong trào đã trở nên thịnh hành trong những năm gần đây. Một cách khác là yoga. Và hiển nhiên, một cách khác nữa là các giáo lý của chân sư thăng thiên, các bài thỉnh, bài chú. Nhưng thật sự, cách hay nhất để con giải quyết vấn đề này là ngộ ra rằng có những câu hỏi mà lý trí không thể trả lời, nhưng nếu con có khả năng trực giác thì con có thể nhận được trả lời từ một tầng mức cao hơn.

Con thấy đó, con yêu dấu, có một số câu hỏi về sự sống, tựa như “Tôi là ai?” không thể nhận được trả lời ổn thỏa từ lý trí, từ tâm trí thức đường thẳng. Con có thể cảm nhận được phần nào con là ai qua thể bản sắc của con, nhưng thể bản sắc này không đến nỗi đường thẳng, duy lý, phân tích như trí thể. Con cần vô hiệu hóa tâm phân tích thì con mới có thể nối kết với thể bản sắc, và tất nhiên là cuối cùng, con sẽ cần nhận được lời giải đáp từ một cõi vượt khỏi vật chất để biết được mình là ai, tại sao mình lại ở đây. Và một lần nữa, điều này có nghĩa là con cần sử dụng các khả năng trực giác của con, các khả năng không đường thẳng, không phân tích của con.

Trên cơ bản, khi con không làm được vậy thì con sẽ cảm thấy sự căng thẳng gia tăng. Nhiều người đã nâng tầm nhận biết của mình đến một mức họ có thể – một cách tự nhiên – đương đầu với các câu hỏi đó và tìm được lời giải đáp, nhưng nếu họ không thể làm được thì đúng vậy, chỉ còn lại sự căng thẳng mà thôi.

Tầm quan trọng của sức khỏe thể xác đối với người tầm đạo

Hỏi: Xin các chân sư cho ý kiến về tầm quan trọng của tuổi thọ. Người ta có cần quan tâm nhiều hơn, đặt trọng tâm nhiều hơn đến tuổi thọ của cơ thể vật lý trong Thời Hoàng kim? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2017. Đăng ngày 18/11/2017.

Khi con bước trên con đường tâm linh và mong muốn nâng cao tâm thức, con đang làm điều quan trọng nhất mà con có thể làm cho tuổi thọ của cơ thể vật lý. Hiển nhiên điều này không có nghĩa là chúng tôi bảo con bỏ qua mọi lời khuyên về sức khỏe hay con không nên chú ý đến cơ thể mình. Đó không phải là điều chúng tôi muốn nói, nhưng chúng tôi xin nói, điều quan trọng là con nên có một ý niệm ưu tiên khi con bước trên đường tu. Tất nhiên, con có thể dùng nhiều phương thức mà con cảm thấy hấp dẫn dựa trên trực giác của con.

Con yêu dấu, chúng tôi đã không đưa ra nhiều lời khuyên về sức khỏe và lý do rất giàn dị. Mỗi con người là một cá nhân với một cơ thể cá nhân. Hơn thế nữa, cơ thể vật lý của con là sự biểu hiện của ba thể cao của con, và tất cả các con đều là những cá nhân trong ba thể cao này.

Cơ thể vật lý không phải là một thiết bị máy móc mặc dù chủ nghĩa duy vật có tuyên bố thế nào đi nữa. Con không thể đơn giản nói rằng giờ đây chúng ta đã khám phá phương pháp chữa trị này sẽ chữa bệnh cho nhiều người và do đó nó cũng phải hiệu nghiệm cho tất cả mọi người. Cũng vậy, con không thể bảo rằng việc ăn hoặc không ăn một loại thực phẩm nào đó có tác dụng đối với nhiều người cho nên nó cũng phải có cùng tác dụng đối với mọi người.

Thật sự đó là trách nhiệm của con khi con dùng trực giác của mình để hòa điệu với những gì quan trọng đối với con. Con nên đặt bao nhiêu chú ý vào cơ thể của mình? Một số các con sẽ cần chú ý nhiều hơn đến cơ thể và điều này sẽ là điều phải cho con, trong khi đối với người khác, con không nên chú ý nhiều như vậy đến cơ thể mà nên dành nhiều chú ý hơn cho tâm lý và sự tăng triển tâm linh.

Đó là một vấn đề rất cá nhân, nhưng nếu con đang bước trên đường tu tâm linh và đang chuyên cần tu tập, thì con đang làm công việc quan trọng nhất mà con có thể làm cho tuổi thọ của cơ thể. Ngoài chuyện đó ra, tất nhiên con cũng nhận ra là khi trực giác của con nhạy bén hơn, con sẽ nhận được lời nhắc nhở từ trực giác về những việc cụ thể mà con cần làm. 

Con cũng cần lưu ý rằng tuổi thọ của cơ thể vật lý tự nó không thực sự là một mục tiêu hay một mục đích. Cơ thể của con có mặt ở đây để hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con. Sự tập trung vào việc sống lâu một cách nhân tạo trong thân xác không thật là cách tiếp cận cao nhất. Tương tự như vậy, có một số người rất tâm linh đã dồn hết tâm trí vào khái niệm bất tử, hay tìm cách sống đời đời trong cơ thể vật lý hiện tại của họ. Đây cũng không phải là điều chúng tôi giảng dạy, bởi vì ngay cả khi con đạt đến quả vị Ki-tô trọn vẹn, vẫn không có nghĩa là con có thể duy trì cơ thể một cách vô hạn định. Có một vài nhà yoga đã có thể duy trì cơ thể rất lâu, họ đã làm vậy cho một mục đích đặc thù, và điều này không có nghĩa là mọi người nên nỗ lực làm theo hoặc tất cả mọi sinh thể Ki-tô cũng nên làm theo như vậy.  

Một lần nữa, có một thời điểm là thời điểm tự nhiên để con bỏ lại đằng sau xác thân vật lý. Khi con đạt đến một mức quả vị Ki-tô cao hơn, con có thể thực sự hòa điệu với điều đó và con sẽ biết được khi nào là thời điểm của con. Ta cũng nói thêm rằng con hiểu là chúng tôi luôn luôn tìm cách giúp con đạt được sự quân bình. Ta không đang bảo con bỏ bê thân xác của mình, nhưng ta thực sự muốn lưu ý con rằng nhiều người, kể cả rất nhiều người tâm linh, đã tập trung một cách mất quân bình trên cơ thể.

Những người đó đã bước vào tư duy cho rằng một cơ thể mạnh khỏe là điều kiện cần thiết để tiếp tục tăng triển tâm linh. Điều này không nhất thiết là đúng. Không phải là một cơ thể mạnh khỏe sẽ cản trở sự phát triển tâm linh, nhưng con yêu dấu, nếu con đặt quá nhiều trọng tâm vào cơ thể, đó chính là mất quân bình. Một hậu quả có thể xảy ra là vì họ chú tâm quá nhiều vào cơ thể cho nên họ sẽ không nhìn vào tâm lý của họ. Tất nhiên, việc xem xét tâm lý của mình là chìa khóa đích thực cho tăng triển tâm linh. Một hậu quả khác là họ có thể bước vào tư duy đặt trọng tâm trên cơ thể, dựa trên niềm tin tiềm thức cho rằng cơ thể có thể cản trở bước tiến tâm linh, hoặc cơ thể có thể trợ giúp bước tiến tâm linh, nghĩa là bước tiến tâm linh của họ tùy thuộc vào tình trạng của cơ thể.

Hẳn là có những tầng cấp thấp hơn trên đường tu nơi hiển nhiên con cần chú ý đến cơ thể nếu con mang một tình trạng vật lý đặc thù, chẳng hạn như bệnh tật. Nhưng khi đạt đến một tầng cao hơn của đường tu, con nhận ra là kỳ thực con bước vào một trạng thái có thể gọi là sự “hờ hững nhân từ đối với cơ thể” (benevolent neglect of the body) qua đó con nhận ra cơ thể có những ý muốn riêng của nó. Nếu con cho nó sự chú ý của con, nó có thể giống như một đứa trẻ nhỏ: nó chỉ muốn được thêm chú ý. Thật ra trong tâm con có thể có một khía cạnh sẽ chế tạo ra nhiều vấn đề thể xác hơn vì nó biết nó có thể thu hút sự chú ý của con theo cách đó. Dĩ nhiên cũng có đủ loại ma quỷ và tà thể tìm cách phóng chiếu những vấn đề vật lý vào bốn thể phàm của con hầu bòn rút năng lượng của con. Trên đường tu sẽ tới một điểm khi con cần quyết định rằng cơ thể không điều khiển được cuộc sống của con. Cơ thể không điều khiển con đường tâm linh của con, mà người cầm trịch là chính con.

Cho nên con bước vào tư duy là con sẽ không chấp nhận cho cơ thể cản trở bước tiến tâm linh của mình cho dù tình trạng sức khỏe có thế nào đi nữa. Khi con xoay chuyển như vậy trong tâm, cơ thể vật lý dần dần sẽ bắt đầu tuân theo. Có thể sẽ cần một thời gian, sẽ đòi hỏi một số nỗ lực, những nỗ lực chữa lành đủ loại. Nhưng sự xoay chuyển trong tâm có thể đưa con đến một điểm khi các vấn đề thể xác không cản trở bước tiến tâm linh hay sự thoải mái dễ chịu của con, chỉ vì con đã quyết định – nếu có thể nói như vậy – đặt cơ thể vào vị trí xứng đáng của nó là người phục vụ chứ không là người chủ.

Quan hệ nghiệp tạo với cha mẹ

Hỏi: Liệu trong đời con có một số mạng mà con phải sống qua? Chẳng hạn, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái có phải là một thành phần của số mạng, và ý nghĩa của mối quan hệ này là gì? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Seoul, Hàn quốc năm 2016. Đăng ngày 10/4/2017.

“Số mạng” là một từ đã bị lạm dụng bởi nhiều nền văn hóa và nhiều dân tộc. Không hề có số mạng theo cách hiểu bình thường mà nhiều người vẫn có về số mạng, tức là một điều gì đã được sắp đặt sẵn, hoặc là không thể tránh khỏi, hoặc là đã được hoạch định phải xảy ra như vậy. Trong bát cung vật lý, khi con đi vào hiện thân ở nơi đây, tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con người.

Đương nhiên, chúng tôi các chân sư thăng thiên đã giảng dạy là con có một Sứ vụ Thiêng liêng mà con đã chọn trước khi đầu thai. Rõ ràng điều con mong muốn là tăng triển sự hòa điệu của con với Sứ vụ Thiêng liêng hầu con có thể nhớ nó lại một cách ý thức.

Nhưng có rất ít người có thể nhớ được Sứ vụ Thiêng liêng của mình sau khi sinh ra đời trong một thân thể vật lý, vì độ dày đặc của cõi vật lý (cùng với độ dày đặc của cả bốn cõi trong vũ trụ vật chất) khiến cho việc ghi nhớ vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, sự khác biệt ở đây là Sứ vụ Thiêng liêng của con, như chúng tôi giảng dạy, là một điều mà con đã tự ý chọn lựa khi con đi vào đầu thai. Con không hề bị Sứ vụ bắt buộc con phải làm gì, mặc dù tất nhiên khi con lập ra Sứ vụ của mình, con đã xem xét nghiệp cũ và các tiền kiếp mà con đã sống qua, con đã xem xét tâm lý mình cùng những động lực mà con đem theo, và con đã quyết định mình sẽ khắc phục những gì, sẽ muốn tăng trưởng như thế nào trong kiếp này. Con cũng đã quyết định con sẽ đem lại món quà gì cho địa cầu.  

Đó là những điều mà con đã tự ý chọn lựa chứ không được áp đặt lên con. Các chân sư không bao giờ ép buộc con chọn lựa Sứ vụ của con mà chỉ hướng dẫn và trợ giúp con quyết định những gì tốt nhất cho con. Thật vậy, rõ ràng là trong Sứ vụ của con có việc chọn lựa cha mẹ cùng những người thân, như anh chị em và có khi cả những người mà con sẽ gặp, chắc chắn cả những người mà con sẽ kết hôn cùng những đứa con mà con có thể sẽ có.

Con có thể nói là khi con hiện thân, tất nhiên là các mối quan hệ với những người đó mang sẵn một tiềm năng nào đó. Về phần cha mẹ, đa số mọi người đang đầu thai hiện nay đã chọn cha mẹ của mình dựa theo nghiệp chướng mà họ mang với cha mẹ. Điều này có nghĩa là con không cần nhìn cha mẹ mình như là những sinh thể sẽ có mối liên hệ lâu dài với con, theo nghĩa là con sẽ muốn ở lại với các vị đó sau kiếp này. Trong nhiều trường hợp, tiềm năng cao nhất của con là con biến hóa nghiệp chướng trong kiếp này để con không còn phải tái đầu thai với cùng những vị đó nữa.

Ta không bảo rằng tất cả mọi người đều chọn cha mẹ mình dựa theo nghiệp quả. Chắc chắn có những trường hợp mà con đã quen biết các dòng sống đó trong quá khứ và giữ được một động lượng tích cực với họ, cho nên trong kiếp này con chọn làm con trai hay con gái của họ. Nhưng nói chung, điều gần như chắc chắn là con mang một số nghiệp nào đó với cha mẹ cũng như với thân nhân. Do đó, điều quan trọng là con sử dụng ngọn lửa tím cùng các bài thỉnh khác của chân sư để tiêu hủy nghiệp chướng này hầu con được tự do – hoặc là con không phải tái đầu thai với họ trong tương lai, hoặc là con đầu thai nhưng không còn nghiệp chướng và nhờ vậy con có khả năng quan hệ với họ một cách tích cực hơn.

Điều cũng có thể xảy ra là con sẽ cân bằng nghiệp quả với cha mẹ trong kiếp này, và như vậy con không còn liên quan gì đến các vị ấy nữa, theo nghĩa là con không còn nghiệp chướng nào phải cân bằng. Khi đó, con hoàn toàn có thể thay đổi mối quan hệ của con với họ, con nhìn cha mẹ con một cách khác và con quyết định là con muốn quan hệ với họ tích cực như thế nào. Điều cũng có thể xảy ra là con nhìn vào mối quan hệ và con cảm nhận trong trực giác là mình đã cân bằng xong nghiệp quả với cha mẹ, cho nên bây giờ con có thể tự do bước tới trong cuộc đời. Khi đó, điều có thể chấp nhận là con quyết định không còn mối quan hệ mật thiết với cha mẹ cho hết phần còn lại của kiếp này.

Ta đặc biệt nói điều này là vì có biết bao người lớn lên tại Á châu đã được dạy dỗ để nghĩ rằng mình phải giữ hiếu với cha mẹ mãi mãi, ít ra là cho đến hết kiếp này, hay có thể cả nhiều kiếp sau nữa. Điều quan trọng mà con cần nhận ra là nhiều khi con đầu thai với những người mà con có một vòng xoắn ốc nghiệp tạo, nhưng bằng cách sử dụng các dụng cụ tâm linh, con có khả năng biến hóa năng lượng đó và vòng xoắn ốc đó. Khi làm vậy, con sẽ đạt được tự do để bước tới và đầu thai với những người mà con không mang nghiệp. Hay con có thể tự do thăng thiên sau kiếp này, và nếu vậy thì tất nhiên, điều cần thiết là con phải cân bằng nghiệp quả mà con đang có với tất cả những người thân đó.

Thực phẩm và chế độ ăn uống

Hỏi: Thực phẩm và chế độ ăn uống quan trọng như thế nào, và ảnh hường cơ thể chúng ta như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2016. Đăng ngày 17/3/2017.

Điều mà chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã thấy rất nhiều lần trong nhiều năm từ các học trò tâm linh, là các con lớn lên trong một xã hội không đặc biệt biết đến nhiều vấn đề. Thực phẩm và việc ăn uống chỉ là một trong những vấn đề đó. Xong các con trải qua một giai đoạn thức tỉnh, các con biết đến đường tu tâm linh và khám phá nhiều thứ khác. Rồi các con bước vào giai đoạn chú ý rất nhiều đến một số khía cạnh của đường tu, và tất nhiên một trong những khía cạnh này là ăn uống những gì và thực phẩm ảnh hưởng cơ thể mình ra sao. Nhiều người đi qua giai đoạn tập trung vào cơ thể, tập thể dục, điều chỉnh chế độ ăn uống, làm này làm nọ. Tất cả những thứ đó đều hoàn toàn chính đáng và là một giai đoạn tự nhiên trên đường tu. Nếu con đang ở trong giai đoạn này, con nên chú tâm vào những gì trực giác con cảm hứng.

Vấn đề mà chúng tôi thấy liên tục nơi nhiều đệ tử khi họ thức tỉnh và tìm được một giáo lý cụ thể, là họ sử dụng giáo lý đó để quyết định, với tâm vỏ ngoài, là họ sẽ sống đời mình như thế nào. Chẳng hạn trong vấn đề ăn uống. Có nhiều giáo lý tâm linh khuyến cáo một chế độ ăn uống nhất định, và họ quyết định: “À, tôi sẽ theo cách ăn uống này.” Chuyện này chính đáng trong một thời gian, vì khi con là người tương đối mới trên đường đạo, con có nhu cầu thử nghiệm nhiều thứ và tích tụ kinh nghiệm để từ đó trau dồi tính phân biện.

Trong các tổ chức trước của chân sư thăng thiên, chúng tôi có đưa ra hướng dẫn về ăn uống. Hiện nay như con đã để ý, chúng tôi không còn làm vậy nữa. Lý do là vì trên đường tu, sẽ tới một điểm khi con cần hòa điệu với cơ thể của mình, cơ thể của chính cá nhân mình. Con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài: “Tôi sẽ theo cách ăn uống này, và tôi sẽ theo nó suốt đời vì thày tâm linh của tôi bảo như vậy.” Điều này có thể hữu ích trong một thời gian, nhưng sẽ đến lúc con cần nói: “Nhưng cơ thể đặc thù này đang cần gì vào điểm đặc thù này của hành trình tăng trưởng của tôi?”

Trong số các con, hầu như không có ai mà có thể bảo rằng, ví dụ, “Vào tuổi 20 tôi sẽ chọn một chế độ ăn uống và nó sẽ ích lợi cho tôi cho đến chết.” Gần như không ai có thể làm được vậy bởi vì khi con là đệ tử tâm linh, con nâng cao tâm thức mình nhanh đến nỗi sẽ tới lúc cơ thể của con cần đến một chế độ ăn uống khác, hầu thích ứng với sự phát triển tâm linh của con. Ở giai đoạn truyền pháp hiện tại, chúng tôi mong muốn các đệ tử sử dụng giáo lý của chúng tôi để cải sửa tâm lý và đạt đến sự hòa điệu nội tâm. Vậy thì con hãy sử dụng hòa điệu đó để quyết định cách ăn uống nào thích hợp nhất cho mình – hoặc con không cần gì cả, vì một số trong các con không cần một chế độ ăn uống nào đặc biệt.     

Ta muốn đề cập đến một đề tài mà chúng tôi đã có nói tới, là lòng căm thù Mẹ. Chúng tôi có nói là nhiều đệ tử tâm linh đã không hoàn toàn chấp nhận là mình đang hiện thân trong cõi vật lý. Con đã không làm hoà hoàn toàn với sự kiện là con đang trong hiện thân vật lý do chấn thương nhập đời, do cơn sốc khi chạm trán với những gì xảy ra trên hành tinh này. Chúng tôi hiểu rõ điều này, chúng tôi thông cảm nỗi khó khăn đó, nhưng khi con làm việc với chấn thương nhập đời của mình, làm việc với tâm lý mình, sẽ tới một điểm khi con cần làm hòa với xác thân vật lý của con. Con cần thực sự chấp nhận là con đang ở trong xác thân vật lý. Con cần nhận ra là con chỉ ở trong xác thân này một thời gian mà thôi. Thời gian có vẻ rất dài, nhưng ta có thể cam đoan với con là một khi con đứng ngoài xác thân và nhìn từ góc độ đó – ở ngoài xác thân, dù con vẫn chưa thăng thiên – thì con sẽ thấy một kiếp sống thật sự chỉ rất ngắn ngủi trong tiến trình liên tục là bản thể của con.

Con có thể nhìn bao quát hơn và nói: “Tôi chấp nhận là tôi đang ở trong cơ thể này, và chỉ một thời gian thôi. Nhưng trong khi tôi ở đây, tôi sẽ chấp nhận nó. Tôi sẽ dùng cơ thể mà tôi hiện có tốt nhất, vì tôi muốn tiến bộ tâm linh tối đa trong kiếp này, và tôi cũng muốn thị hiện sứ vụ thiêng liêng của tôi.” Thật là quan trọng khi con đạt tới điểm con hoàn toàn chấp nhận cơ thể của con. Và cũng quan trọng là con vượt xa hơn điểm đó, và con đạt tới mức con thực sự yêu thương cơ thể của mình. Liệu con có thể yêu thương mỗi phần trong cơ thể? Liệu con có thể yêu thương mỗi tế bào trong cơ thể của con?

Con yêu dấu, tại sao thời nay bệnh ung thư lại gia tăng? Đó là các tế bào đang tự hủy diệt, nhưng đó là vì tế bào không cảm thấy nó được thương yêu bởi người đó, bởi sinh thể đang cư ngụ trong thân xác. Con có nhu cầu thương yêu cơ thể của mình, và con yêu dấu, con hãy lưu ý, vấn đề không phải là con chỉ thương yêu nó khi nó hoàn toàn mạnh khỏe và không làm phiền con chút nào.

Thử thách thực sự là nếu con đau ốm, nếu con bị bệnh kinh niên. Nhưng con vẫn hãy cứ yêu cơ thể! Con yêu các tế bào, yêu các bộ phận, yêu thân xác này. Thật sự điều này quan trọng hơn chuyện ăn uống vật lý rất nhiều. Khi con tới mức chấp nhận và yêu thương cơ thể, con sẽ dễ hòa nhập hơn hẳn với nó. Khi con không chấp nhận cơ thể, nó gần như một cái gì mà con kháng cự lại, và con không thể nào hòa nhập với cái mà con kháng cự. Kháng cự và hòa nhập đối nghịch với nhau, cho nên khi con tới mức chấp nhận và yêu thương cơ thể, con sẽ có thể hòa điệu và hỏi: “Cơ thể của tôi đang cần gì?”

Ta cũng khuyến khích con cố gắng đạt tới điểm khi con nhận ra là, tất nhiên, trên thế giới có rất nhiều vấn đề có thể làm hại cơ thể của con, có rất nhiều loại thực phẩm, hóa chất và ô nhiễm có thể làm hại cơ thể, và con cần ý thức điều này phần nào. Con cần không dùng một số chất độc và một số chất ô nhiễm nếu con có thể tránh được. Ta muốn chỉ ra cho con là khi hoạt động ở mức công suất đáng lý bình thường, cơ thể vật lý thật sự là một dụng cụ giả kim (alchemical). Nó có khả năng hấp thụ một số chất mà không bị ảnh hưởng, vì nó có thể biến hóa những chất đó.

Điều ta muốn nói không phải là con không nên thận trọng. Ta không đang bảo con ăn bất cứ thứ gì con muốn, cho dù những nhà du già (yogi) ở một mức chứng đạt nào đó có thể ăn bất cứ gì mà vẫn không hại đến cơ thể. Ta không nói như vậy, mà ta nói: “Con hãy cẩn thận, nhưng con đừng cẩn thận quá đáng. Đừng cực đoan về chuyện ăn uống.” Trên hết, ta muốn con xem xét câu hỏi sau đây: “Con đang sống trong một vũ trụ thù địch hay một vũ trụ thân thiện?”

Con có thể nhìn vào hành tinh địa cầu, con có thể nhìn thấy tất cả những điểm bất toàn cuả nó, con có thể nhìn thấy vấn đề này hay ô nhiễm kia hay độc chất nọ, và con có thể rơi vào một tâm trạng cho rằng cõi vật chất, cõi của Mẹ, là kẻ thù địch của con. Nó đang tìm cách hãm hại con, nó cố tình muốn làm hại cơ thể của con.

Điều ta khuyến khích con nên làm là đi theo lời dạy của thày Saint Germain để chuyển hóa tâm thức mình như trong thuật giả kim, chấp nhận Thời đại Hoàng kim, chấp nhận cách Thời đại Hoàng kim sẽ thị hiện như thế nào. Con hãy tự hỏi: “Thời Hoàng kim có thể nào thị hiện trong một vũ trụ thù địch?” Không, nó cần một vũ trụ thân thiện. Rồi con có thể chuyển hóa giả kim trong tâm thức như thế này: “Tôi đang sống trong một vũ trụ thân thiện. Tôi đang sống trong cõi của Mẹ, và cõi Mẹ sẽ không làm hại tôi khi tôi cẩn trọng. Có thể có một số thức mà một số người ăn vào sẽ bị tổn hại, nhưng tôi không cần quan tâm quá đáng vì cơ thể của tôi có khả năng biến hóa thức ăn đó.”

Con thấy đó, con bước vào một trạng thái của tâm không dựa trên sợ hãi, không dựa trên ngờ vực, nhưng con bước vào một trạng thái sống thênh thang trong một vũ trụ thân thiện. Con xuôi chảy với Dòng sông sự Sống, và con cho phép mình thật sự tận hưởng cuộc sống. Thậm chí con có thể bước vào một trạng thái nơi con bắt đầu có khả năng lượng định – khi con gặp một cách ăn uống hay một quan điểm về thức gì nên ăn hay không nên ăn – con có khả năng trụ nơi trái tim, hòa điệu với Bản thể của ta, và con có thể hỏi ta một câu rất đơn giản: “Mẹ Mary, liệu thức ăn này có tốt cho con hay không?” Nếu con hòa điệu, con sẽ biết được nó sẽ tác động con tốt như thế nào, con sẽ cảm thấy luân xa nơi tim con như dâng lên. Còn nếu không, con sẽ có một cảm giác chìm nghỉm nơi luân xa tim. Nếu một việc gì đó không có tác động nào thì con lo lắng làm gì?

Con cũng có thể đạt tới một điểm khi con hòa điệu với cơ thể đến độ con không cần đến tâm vỏ ngoài, con không cần một chương trình cứng nhắc để quyết định mình nên ăn gì hay không được ăn gì. Con chỉ giản dị hòa nhập: “Cơ thể tôi đang muốn ăn gì đây?” Như con cũng biết, nhiều phụ nữ khi mang thai, thèm ăn một số loại thức ăn. Trong một số trường hợp, đó có thể chỉ là một thèm khát thấp kém, nhưng trong đa số trường hợp, đó là vì người mẹ hòa điệu với linh hồn đứa con đang nhập vào. Linh hồn, để hội nhập nhiều hơn vào cõi vật lý, cần đến sự rung động của một số loại thực phẩm. Và điều này cũng xảy ra ở mọi lúc. Có những giai đọan khi vì một lý do mà con không nhất thiết biết rõ bằng tâm ý thức, con cần ăn một loại thực phẩm nào đó vì cơ thể con đang cần đến nó để phát triển tới một mức nào đó.

Con yêu dấu, con có hiểu không, nguyên nhân của sự lão hóa là do cơ thể không tuân thủ tiến trình tự nhiên. Chúng tôi có giảng là lý tưởng nhất, tiến trình tự nhiên cho tâm con, cho tâm hồn của con, phải là chính con nâng cao tâm thức của mình trong suốt đời mình. Trạng thái tự nhiên của cơ thể con cũng vậy, cơ thể luôn luôn cần được biến hóa vào trạng thái ngày càng cao hơn. Trong một thế giới lý tưởng – mà hiện nay việc thị hiện vẫn còn rất xa – nhưng trong một thế giới lý tưởng, cơ thể của con sẽ không lão hóa một chút nào. Không nhất thiết là nó sẽ trẻ ra, nhưng nó luôn luôn được biến hóa một cách tích cực suốt đời con, đồng bộ nhịp nhàng với sự nâng cao tâm thức của con.

Thay vào đó, mọi người lại đi tin vào ảo tưởng do sa nhân tạo ra là cơ thể bắt buộc phải già đi và phải chết do bệnh tật hay già yếu. Rất nhiều khi, con không ý thức được là cơ thể con không phải là một đơn vị cố định bắt buộc phải hư hỏng đi, mà cơ thể thực sự là một tiến trình có khả năng tăng trưởng không ngừng. Nó sẽ đi qua một số giai đoạn, và ở một giai đoạn nào đó, con có thể cần đến một loại thực phẩm hay một chế độ ăn uống nào đó. Cho nên con hãy cho nó thức ăn đó, thay vì dùng tâm bác bỏ chiều hướng của nó.

Con có thể đạt tới điểm khi con nhận ra là đôi khi, vì một lý do mà con không cần phân tích, con cảm thấy muốn ăn một thức nào đó. Rồi con ăn và cảm thấy thú vị. Điều gì khiến cho con thú vị rất ít khi làm hại cơ thể của con trừ khi nó chứa độc chất mà con không ý thức. Chúng tôi khuyến khích con nên tiếp cận chế độ ăn uống cho bớt cứng nhắc, trực giác nhiều hơn. Quá nhiều người nhìn chuyện ăn uống một cách trí thức, phân tích. Khi con nâng cao nhận biết, con có thể có được một cái nhìn trực giác về ăn uống, và điều này chúng tôi biết con có khả năng làm được khi con sử dụng các dụng cụ và giáo lý mà chúng tôi đã trao cho con.

Tại sao bệnh tâm thần ngày một gia tăng

Hỏi: Con có một câu hỏi về bệnh tâm thần trong thế giới hiện đại. Chúng ta sống trong một thế giới mà hậu quả của chứng trầm cảm và rối loại tâm lý là một căn bệnh vô hình ảnh hưởng rất nhiều người, và nó dường như đang xảy ra với những người ngày càng trẻ hơn. Y học hiện đại hình như chỉ làm được rất ít để giúp những người gặp vấn đề và mang triệu chứng. Con tự hỏi liệu có hy vọng nào cho những người mắc bệnh trầm cảm và tâm thần ngoại trừ phải lặng lẽ đau khổ suốt đời?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân một hội nghị tại Hoà Lan năm 2016. Đăng ngày 21/2/2017.

Những chữ chủ yếu trong câu hỏi của con là “căn bệnh vô hình”. Nhưng con có thấy không, con yêu dấu, bệnh tâm thần chỉ vô hình bởi vì khoa học muốn nhìn mọi chuyện từ một góc độ duy vật. Từ góc độ của ta là đại diện cho Mẹ Thiêng liêng, bệnh tâm thần vô cùng hữu hình, và ta có thể dễ dàng thấy được khi nào hiện ra những mô thức trong các thể tình cảm, lý trí hay bản sắc đang tạo điều kiện cho người ta mắc bệnh tâm thần.

Đáng lý ra khoa học cũng có thể nhìn thấy được như thế nếu khoa học nhìn xa hơn hệ tư tưởng duy vật và khám phá ra công nghệ đã sẵn có ở đó để nhìn thấy các thể cao hơn. Người ta có thể khiến cho những thể này hiện ra trên một màn ảnh máy tính, học hỏi cách chẩn bệnh và nhìn xem khi nào cảm thể có những vấn đề cần được chữa trị. Nhưng tất nhiên, muốn làm điều này thì khoa học phải vượt ra ngoài hệ tư tưởng máy móc cứ cho rằng mỗi hiệu ứng hữu hình đều phải có một nguyên nhân cơ học cần phát hiện, và phải dùng thuốc hóa học để thay đổi nguyên nhân cơ học đó hầu đạt được kết quả cơ học, vật lý trên cơ thể.  

Con yêu dấu, có nghĩa lý gì khi người ta bàn chuyện bệnh tâm thần mà chỉ thấy được giải pháp duy nhất là một nguyên liệu hoá học, vật chất? Điều này chẳng hợp lý chút nào. Cũng không hợp lý chút nào khi có một hình thức tâm lý học chối bỏ bất cứ điều gì vượt khỏi thế giới vật chất, và cứ cắm đầu tìm cách chữa trị một căn bệnh trong tâm tiềm thức duy bằng những phương tiện trong tâm ý thức. Rồi lại cố làm cho tiềm thức hiện ra, mà trong nhiều trường hợp là điều không thể thực hiện nếu trước đó đã không giải tỏa năng lượng trong các thể cảm xúc hay lý trí.    

Điều khiến cho ngày càng nhiều người hơn không thoát được bệnh tâm thần là sự bướng bỉnh của khoa học cứ cố bám mãi vào hệ thuyết duy vật. Sự gia tăng của bệnh tâm thần, sự gia tăng trong giới trẻ ngày càng bị nhiều hơn, là kết quả trực tiếp của hệ thuyết duy vật đã đi quá thời điểm hữu dụng của nó. Con cũng hiểu là khi con đi ngược trở lại thời Trung cổ mê tín dị đoan, thì quả thật tinh thần khoa học đã là một bước tiến đáng kể giúp cho con người vượt qua tình trạng trì trệ, đặc biệt là tại Âu châu. Nhưng điều đó đáng lý không được khiến cho tinh thần khoa học bị biến thành hệ tư tưởng duy vật ngày hôm nay, cũng đàn áp sự tiến bộ không kém gì hệ tư tưởng của giáo hội Công giáo vào thời Trung cổ.      

Nhưng ngay cả thái độ đó cũng có thể dung thứ được trong một thời gian bởi vì nó cũng vẫn đem lại một số tíến bộ. Cho nên chúng tôi, các chân sư thăng thiên, vẫn thường nói khi có tư tưởng mới hoặc xu hướng mới xuất hiện trong xã hội: “Thôi được, chúng tôi sẽ để cho con người thử nếm mùi trải nghiệm này một thời gian nữa”, và chúng tôi đã cố kềm giữ lại một số hậu quả do thái độ đó tạo ra, và nhờ vậy con người đã chứng kiến những tiến bộ công nghệ lớn lao. Nhưng tới một điểm thì chúng tôi phải nói: “Không, như vậy là đủ rồi, nhân loại đã có đủ thì giờ sống qua trải nghiệm cụ thể này là muốn ép uổng mọi thứ vào trong cái quan điểm duy vật đòi hỏi mọi vấn đề phải có một giải pháp cơ học. Đã đến lúc người ta phải hiểu ra là thái độ đó có giới hạn, đã đến lúc phải bắt đầu nhìn xem bước kế tiếp là gì. Và nếu họ không chịu bước tới, chúng tôi sẽ không thể kềm giữ hậu quả mãi mãi.”      

Và như vậy, những hậu quả sẽ bắt đầu biểu hiện phần nào qua điều mà con chứng kiến là sự tăng gia trong độ trầm trọng và số người mắc bệnh tâm thần. Và con sẽ thấy điều này đặc biệt xảy ra ở những vùng phát triển trên địa cầu, vì đó là nơi có những con người đầu thai đã đạt tới một mức tâm thức khiến họ không còn đi tìm thách thức trong thế giới vật chất hay trong cuộc sống kiếm kế sinh nhai và sống còn nữa. Thay vào đó, thách thức chủ yếu của họ bây giờ là khởi sự làm việc trên tâm lý họ vì họ nay có dư thì giờ rảnh rỗi để cải sửa tâm lý.         

Nhưng vì không ai trao cho họ sự hiểu biết này suốt những năm tháng lớn lên, họ không đang tự nguyện cải sửa tâm lý của họ. Có nghĩa là con sẽ chứng kiến những biểu hiện của bệnh tâm thần bắt buộc họ phải có biện pháp gì đó cho tâm lý họ. Tất nhiên họ đã không tự nguyện cải sửa tâm lý họ do ý thức hệ duy vật, và bây giờ chính ý thức hệ này đang ngăn cản họ giải quyết bệnh tâm thần của họ. 

Ta hoàn toàn hiểu được là điều này gây ra muôn vàn đau khổ. Ta sẵn lòng giúp đỡ mọi người giảm dịu đau khổ này, nhưng ta không thể làm được nếu họ không chịu nhìn xa hơn hệ tư tưởng duy vật, nhận lấy trách nhiệm cho bản thân và nhìn nhận mình là những sinh thể tâm linh. Tất nhiên là mọi loại vấn đề tâm lý đều có hy vọng giải quyết được và đó là mục đích những giáo lý mà chúng tôi đã truyền giảng và những dụng cụ tâm linh mà chúng tôi đã ban ra.

Chúng tôi không hề nói là các giáo lý và dụng cụ cùng các kỹ thuật mà chúng tôi đã phổ biến qua trung gian sứ giả này là cách duy nhất để đối phó với vấn nạn này. Còn nhiều thứ khác là những phương thức mà chúng tôi đã đưa ra, nhưng còn rất nhiều điều nữa vẫn đang chờ dịp thuận tiện khi ngày càng có nhiều người khởi sự nhìn xa hơn mô hình duy vật. Nếu mọi chuyện diễn ra như ta trù liệu, sẽ cần đến hai hay ba thập niên nữa, và khi đó bệnh tâm thần sẽ trở thành một chuyện hiếm hoi. Nhưng nó sẽ chỉ hiếm hoi, tất nhiên, khi hầu hết mọi người được dạy dỗ ngay từ khi còn nhỏ để nhìn cuộc sống như một tiến trình liên tục cải sửa tâm lý mình. Miễn là mọi người đều lo cải sửa tâm lý thì cuộc khủng hoảng mà con gọi ngày nay là bệnh tâm thần sẽ không còn nhu cầu xuất hiện nữa.

Trong thực tế, đó không phải là bệnh tâm thần. Phần lớn những gì ngày nay con coi là bệnh tâm thần là vì con có cái nhìn méo mó về bệnh tật. Con nghĩ là người ta có một trạng thái bình thường, và khi có điều gì xảy ra ngoài bình thường, con coi đó là một bệnh tật cần phải giao chiến với nó. Nhưng kỳ thực, rất nhiều chứng bệnh thể xác, và chắc chắn đa số những bệnh tâm thần, đều là dấu hiệu nói cho con biết là đã tới lúc con phải thay đổi tâm thức của con. Vì con không thay đổi, càng ngày con càng nhận được lời nhắc nhở nghiêm khắc hơn là đã đến lúc con phải bước lên một mức tâm thức cao hơn.  

Đó thực sự là một cơ chế mà nhiều người đã tự mình tạo ra, để nếu họ quên mất chuyện phát triển tâm linh khi họ đầu thai, thì họ muốn có một cơ chế để nhắc nhở về nhu cầu theo đuổi đường tu. Điều con thấy được là rất nhiều người trẻ đã tham gia vào cơ chế này, phần nào vì họ muốn tinh tấn bản thân, phần khác vì họ mong muốn thúc đẩy sư thay đổi trong xã hội hầu xã hội từ bỏ hệ thuyết duy vật. Một cách cho điều này xảy ra là bệnh tâm thần sẽ lan tràn thành dịch bệnh rộng lớn đến độ xã hội cuối cùng phải thấy rõ là không thể đối phó với vấn nạn này mà vẫn duy trì mô hình duy vật. Và như vậy điều tuyệt đối cần thiết là xã hội phải tìm kiếm một giải pháp mới lạ.     

Và đây cũng là một điểm chúng ta đã từng bàn đến: Sự tiến bộ có thể xảy ra qua đổ vỡ khi con người phải đối diện với một cuộc khủng hoảng bắt buộc mình phải tìm cách thay đổi. Hoặc tiến bộ cũng có thể xảy ra một cách tự nguyện khi ngày càng có nhiều người thức tỉnh và khởi sự làm gì đó để sửa đổi hiện trạng. Chính các con, trong nhiều trường hợp, cũng là ví dụ những người đã từng có vấn đề tâm lý, nhưng các con đã đủ can đảm để sử dụng đường tu tâm linh, sử dụng các giáo lý tâm linh, để giải tỏa tâm lý. Các con có thể là những tấm gương và những người thày cho người khác, thậm chí còn có thể phụng sự một cách trực tiếp như những nhà trị liệu hầu giúp cho người khác đối phó với những vấn đề này. Một số các con cũng có thể giúp cho xã hội hiểu biết hơn về nhu cầu phải chuyển hướng, rời khỏi hệ tư tưởng duy vật và tìm kiếm một cách tiếp cận hoàn toàn mới.   

Giải quyết chấn thương nhập đời vũ trụ

Hỏi: Con tò mò muốn khám phá chấn thương nhập đời đầu tiên của con là gì, và như một trong các chân sư có đề cập hồi nãy, đôi khi có điều gì đó xảy ra trên thế giới làm mình xao động. Riêng con, hình như tình hình tại Do thái – cách đối xử đối với người Palestine – khiến con chú ý nhiều hơn hầu hết mọi vấn đề khác. Khi các chân sư trình bày về việc trở ngược lại chấn thương nhập đời và nhìn lại nó, nhưng giữa việc ở đây và trở lại với chấn thương nhập đời, con cần tìm lòng can đảm để đối diện với nó. Lý tưởng nhất con nên đi theo quy trình nào vì con muốn giải quyết chấn thương nhập đời đó?  


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Hòa Lan năm 2016. Đăng ngày 11/2/2017.

Đây là một tiến trình tế nhị vì đối với đa số các con, chấn thương nhập đời đã xảy ra rất lâu trước đây. Nó cũng bị chôn vùi tận đáy tiềm thức của con vì nỗi đau quá dữ dội đến nỗi con phải che phủ nó dưới hết lớp này tới lớp khác.

Có một loại cơ chế kỳ lạ xảy ra khi con phải đối diện với nỗi đau toàn diện của chấn thương nhập đời. Nó giống như con tự nhủ: “Tôi không bao giờ muốn trải qua nỗi đau toàn diện như thế này nữa.” Bỗng nhiên điều này có nghĩa là bất kỳ nỗi đau nào nhẹ hơn một nỗi đau toàn diện đều có thể chịu được so với nỗi đau toàn diện. Và con nghĩ: “Tôi thà kinh qua nỗi đau này còn hơn là nỗi đau nguyên thủy.”

Điều này có nghĩa là có thể có nhiều lớp chấn thương khác nhẹ hơn đang che phủ chấn thương nhập đời. Tất nhiên, tiến trình thật sự để làm điều này là bước theo đường tu tâm linh và sử dụng những dụng cụ và những giáo lý mà chúng tôi đã ban ra. Con có một số bài cầu thỉnh được thảo ra đặc thù để làm việc này. Khuôn Hàn gắn của Bài ca Sự sống (The Song of Life Healing Matrix) cũng rất hiệu nghiệm.

Như ta có nói, các sa nhân rất tài giỏi bắt sóng bản thân con để thấy đâu là trường hợp xấu nhất mà con có thể hình dung trên trái đất. Chẳng hạn, điều gì sẽ mang lại cho con cảm giác bất công lớn nhất, điều gì không được quyền xảy ra và không một ai phải chịu đựng.

Nếu trên thế giới có một tình trạng nào khiến con phản ứng thật mạnh mẽ, thì con cần nhận ra là chấn thương nhập đời nguyên thủy của con, tất nhiên, không do tình trạng này tạo ra, chẳng hạn giữa người Do thái và người Palestine, là một tình trạng của thế giới hiện đại. Chấn thương đó có thể là do một tình trạng tương tự trong quá khứ xa xôi, chẳng hạn như khi con chứng kiến một nhóm người bị đàn áp thô bạo.

Sau đó con cần khám phá ra chính xác điều gì là thành tố tâm lý đã làm con xao động. Rồi con tìm xem khía cạnh tổng quát nhất trong đó. Con cần lánh xa những chi tiết quá cụ thể, vì nếu con tập trung vào chi tiết cụ thể (và nghĩ rằng con phải đi giải quyết tình huống vỏ ngoài đang xảy ra ngày hôm nay) thì con sẽ không phát hiện được chấn thương nhập đời.

Chấn thương nhập đời đã xảy ra quá lâu trước đây trong một hoàn cảnh khác. Con cần nhìn xa hơn sự kiện cụ thể và khám phá cơ chế phổ quát trong tâm lý của con đã khiến con phản ứng lại. Đó đã là chấn thương tồi tệ nhất mà con có thể trải nghiệm, là chứng kiến một tình thế như vậy mà cảm thấy mình bất lực không làm được gì.

Rất nhiều khi, chấn thương hiện ra là vì con đã đến địa cầu với ý định cao thượng nhất muốn tạo thay đổi tích cực cho địa cầu. Khi con trải nghiệm tất cả những chuyện trên hành tinh này, con rất dễ bị kéo hút và tập trung vào những điểm tiêu cực, và con tưởng con có thể tạo thay đổi tích cực bằng cách loại bỏ tiêu cực, rất có thể là giao chiến với những kẻ đang tạo ra tiêu cực.

Trong nhiều trường hợp, điều xảy ra ở ban đầu là con không tính giao tranh với ai hết. Con chỉ tính bảo vệ những người mà con thấy đang phải chịu sự bất công. Nhưng rồi các sa nhân rất tài tình đặt con vào một tình thế nơi chúng tạo ra sự bất công tối đa dưới mắt con. Rồi con cảm thấy mình hoàn toàn bó tay bất lực. Con gần như cảm thấy chuyện xảy ra là lỗi của con, rằng con đã có thể ngăn cản được hay đáng lý con đã phải ra tay ngăn cản.

Đây là điều đem lại nỗi đau lớn nhất cho con: Một sự thể đã xảy ra và con bó tay không làm gì được. Đó là lúc con cần thực sự làm việc để nhận ra quyền tự quyết, nhận ra loại hành tinh nơi con đang sinh sống. Con cũng cần nhận ra là điều đã gây ra chấn thương nhập đời chính là phản ứng của con, nhưng con đã phản ứng lại một tình thế do sa nhân cố tình tạo ra để phá hỏng mục đích đến địa cầu của con.

Cho nên con cần cương quyết không để chúng làm chuyện đó, không để chúng thành công. Con sẵn sàng xem xét chấn thương nhập đời và tìm xem con đã có thể phản ứng cách nào khác hay không. Ta không nói là con đã có thể phản ứng cách khác vào lúc đó – con đã không thể, và vì vậy con đã phản ứng như vậy. Nhưng ngày hôm nay, với kinh nghiệm mà con đã thu thập trên hành tinh này, với sự tinh tấn trong tâm thức mà con đã gặt hái, con có thể phản ứng một cách khác.

Đó là tại sao con có thể cho phép con trải nghiệm lại tình huống đó. Giờ đây, con chọn lựa trong ý thức một cách phản ứng khác sẽ không gây chấn thương cho con, vì con thấy được đây chỉ là một khía cạnh trong vô vàn khía cạnh khác của quyền tự quyết đang trải bày. Điều này đang diễn ra ở mọi nơi và mọi lúc trên hành tinh này. Con không thể giải quyết mọi vấn đề trên hành tinh, bởi vì nếu con cố giải quyết, con sẽ phát điên. Đây là điều con phải nhìn nhận.

Tất cả chúng tôi, các chân sư, đều đã thăng thiên vì tới một điểm, chúng tôi đã nhận ra mình không thể giải quyết mọi vấn đề trên hành tinh này. Thật ra chúng tôi không phải giải quyết bất kỳ vấn đề nào xuất phát từ tiến trình trải bày quyền tự quyết. Vì vậy, chúng tôi nhìn nhận là tất cả những gì mình có thể làm được là nâng cao tâm thức của mình và làm gương. Sau đó, chúng tôi tới điểm nhận ra là đã đến lúc chúng tôi có thể bước lên một mức phụng sự cao hơn nữa, là phụng sự từ cõi thăng thiên (ta không bảo là con không thể phụng sự khi còn đầu thai).

Con thăng thiên khi con đạt tới điểm nhận ra là con không còn muốn phụng sự bằng cách là người hiện thân. Con muốn phụng sự hết sức mình từ cõi thăng thiên. Và đó là khi con thăng thiên, nhưng tất nhiên, con không thể thăng thiên trước khi con giải quyết chấn thương nhập đời. Điều này thực sự có nghĩa là con phải có khả năng nhìn vào tình trạng đó, hay một tình trạng tương tự đang diễn ra ngày nay trên thế giới, và con hoàn toàn không có phản ứng nào.

Con tự nhủ: “Tôi đã không tạo ra nó, tôi đã không thể ngăn cản nó, tôi không ở đây để giải quyết nó.” Con thấy rõ đó là quyền tự quyết đang trải bày ra, và ngay cả những người có vẻ là nạn nhân cũng vẫn trải bày quyền tự quyết của mình, bởi vì nếu không, chuyện đó đã không thể xảy đến cho họ. Khi con thấy được điều này, con có thể quyết định là con không còn muốn bị ràng buộc bởi chuyện đó nữa. Con chỉ được tự do khỏi nó khi con không còn mong muốn giải quyết vấn đề đó nữa.

Rồi khi con thăng thiên, con có nguyên một loạt những chọn lựa khác nhau để gửi năng lượng của ánh sáng xuống hành tinh và làm việc với loài người đang đầu thai. Lúc đó con có thể làm một cái gì, không phải giải quyết vấn đề đặc thù đó, mà làm một cái gì với tâm thức nằm ở đằng sau, hầu con nâng cao tâm thức tập thể để những loại thị hiện đó không thể tiếp tục xảy ra.

Ta có thể nói với con là rất nhiều người trong số các con – đa số các con – đã hiện thân trên trái đất rất, rất lâu. Con có thể nhìn vào thế giới ngày nay và thấy một số điều kiện vô cùng khủng khiếp. Đối với các con đã hiện thân từ một hai triệu năm trên hành tinh này, ta có thể cam đoan là trong những thời đại trước (mà lịch sử chính thức đã lãng quên từ lâu), con đã chứng kiến những điều kiện còn tồi tệ hơn gấp bội hiện nay.

Điều này có nghĩa là những gì đã gây ra chấn thương nhập đời nguyên thủy của con còn tồi tệ gấp bội những gì con đang chứng kiến hôm nay. Hành tinh đã có tiến bộ, có nghĩa là con có thể tới mức nhận ra là con không phải giải quýêt chính cái vấn đề đã gây chấn thương nhập đời cho con. Vì vậy, con không phải giải quyết mọi vấn đề tương tự đã khiến con có phản ứng. Con không phải giải quyết mọi vấn đề khiến con phản ứng. Kỳ thực, con không bao giở giải quyết được vấn đề gì bằng cách phản ứng lại. Con chỉ có thể làm một cái gì đó khi con không còn phản ứng.

Thật là một điều tự nhiên, gần như không thể tránh được, khi con xuống đầu thai và trải nghiệm các điều kiện trên trái đất, và con phản ứng lại lúc ban đầu. Mọi người trong chúng ta đều đã từng làm y như vậy khi xuống đầu thai, kể cả Giê-su. Không một ai từng hiện thân ở đây mà đã không phản ứng lại các điều kiện đó vì chúng thật là khủng khiếp. Tiến trình thăng thiên là khi con đạt tới điểm nơi con không còn cho phép bất cứ gì trên địa cầu quy định con là gì hay phải phản ứng lại điều gì.

Cách cầu nguyện cho người thân

Hỏi: Khi cầu nguyện sự phù hộ cho người khác, các chân sư có thể giúp người đó tới mức nào? Quyền tự quyết của người đó sẽ tác dụng thế nào khi họ không biết họ đang chịu sự ảnh hưởng của các thế lực ma quỷ? Nói cách khác, làm thế nào người thân của chúng con có thể thoát khỏi những hồn bóng không xác, những tà thể và ma quỷ khi chúng con cầu nguyện để họ được chữa lành?


Trả lời của chân sư thăng thiên Astrea, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles. Đăng ngày 28/9/2016.

Quyền tự quyết là bảng chỉ dẫn tối hậu cho mọi sự xảy ra trên địa cầu. Con không thể đọc bài nguyện, bài thỉnh hay bài chú mà đi ngược lại quyền tự quyết của người thân. Con cần phải rất thận trọng khi cầu gọi để không phóng chiếu vào người thân một điều gì vi phạm quyền tự quyết của ho. Tất nhiên chúng tôi, các chân sư, sẽ không làm điều gì để vi phạm quyền tự quyết của những người con cầu nguyện, mà rất có thể chính con, khi con có ý định khiến họ thay đổi đời họ, đã phóng chiếu năng lượng lên họ, gây gánh nặng cho họ và cũng gây nghiệp cho con. 

Đúng như con nói, tất nhiên là khi một người bị các tà thể hay ma quỷ ám, người đó sẽ không còn khả năng tự quyết và không thể có chọn lựa tự quyết. Điều con có thể làm là kêu gọi chính ta hay các chân sư khác để buộc và cắt đứt – buộc các tà thể và ma quỷ đó lại, và cắt đứt những sợi dây đang trói buộc người đó. Điều này sẽ cho người đó một khoảng thời gian để sử dùng quyền tự quyết của họ.  

Tuy nhiên con cần lưu ý rằng trong nhiều trường hợp khi họ ở trong tình trạng khó khăn, chẳng hạn như nghiện ngập, họ sẽ không sẵn sàng chọn lựa một cách tự quyết, cho nên mặc dù họ được giải phóng trong chốc lát, họ sẽ không sử dụng cơ hội này để lựa chọn tốt hơn. Họ sẽ chỉ thu hút thêm tà thể hay ma quỷ khác mà thôi. Đây là điều mà thày Giê-su đã chứng tỏ khi thày xua đuổi ma quỷ khỏi một người rồi nói rằng thày chỉ đuổi được một con nhưng lại có thêm bảy con nữa kéo tới, còn tệ hơn con đầu. Bởi vì thiên nhiên – trong đó có cả cõi trung giới – không thích sự trống vắng.

Vậy con có thể làm gì cho người thân của con? Con có thể cầu gọi, và con nên cầu gọi. Nhưng con cần phải hoàn toàn tôn trọng quyền tự quyết của họ. Ta biết điều này rất khó khăn đối với người mà con thương yêu, nhưng đây là một yếu tố cần thiết trên con đường sẽ đưa con vượt qua những trò chơi điều khiển người khác vốn là phản tình yêu. Như Đại thiên thần Michael có nói, những gì mà con người phải đương đầu để thức tỉnh đến một mức tâm thức cao hơn có thể cực kỳ phức tạp. Con có thể nhìn vào một người và nghĩ: “Những gì mà họ phải trải qua, những đau khổ mà họ phải chịu đựng lúc này, không thể nào giúp ích cho sự phát triển tâm linh của họ.” Và trong nhiều trường hợp, điều con nghĩ rất đúng bởi vì chuyện nghiện ngập không thể nào giúp ích gì cho sự phát triển tâm linh của họ ngay lúc này. 

Nhưng mặt khác, rất có thể người đó cần trải nghiệm tình cảnh đó để – như Mẹ Mary có nói – biết rõ những gì những người trong tình cảnh này trải qua để rồi minh chứng cách thăng vượt hầu giúp được người khác. Hay cũng có thể người thân của con bị kẹt trong nghiện ngập và sẽ không thoát ra được trong kiếp này vì họ chưa sẵn sàng lấy những quyết định để nhận trách nhiệm tăng trưởng tâm thức mình. 

Ta hoàn toàn hiểu được điều này rất khó khăn để con nhìn vào. Nhưng một lần nữa, đây là lúc con bước lên một hình thức yêu thương cao hơn và con hoàn toàn chấp nhận cách vận hành của quyền tự quyết. Con có thể nhìn vào hoàn cảnh và nói: “Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể làm cho người này”, cả việc đọc bài nguyện và bài chú, và cả những cách thức khác để cố giúp họ. Nhưng con thấy con đã làm hết sức con và con cần phải hàng phục mà buông nó ra.

Thậm chí con có thể cần quyết định xem con có muốn người này trong đời con nữa không, bởi vì đó không là điều xây dựng cho đường tu của con. Nhưng con hãy cẩn thận khi lấy quyết định này. Con cần tự xem xét mình, con cần xét xem con có dính mắc với ý muốn thay đổi người đó hay không, hay là con có một vết thương mà hành vi của họ đang khấy động lên và con muốn thay đổi họ để khỏi phải đương đầu với chính vết thương của con. Trong trường hợp đó, con cần bước lên cao hơn và sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý con, bởi vì dù con có giảm bớt căng thẳng khi con lánh xa họ, điều này sẽ không giúp con tăng trưởng. 

Một lần nữa, toàn là những vấn đề tế nhị. Không có câu trả lời hay giải pháp trắng đen nào mà chỉ có, như Mẹ Mary nói rất nhân từ, một cơ hội để con xin sự hướng dẫn thiêng liêng, sự giúp đỡ, sự dẫn dắt, để con sử dụng khả năng trực giác của con và để con hòa điệu. Và luôn luôn cũng có cơ hội để con tự hỏi: “Tôi có đang đáp ứng trong một tâm thức yêu thương hay một tâm thức sợ hãi, một vết thương?”

Cần tránh loại nhạc nào?

Hỏi: Làm thế nào chúng con định được loại nhạc nào cần tránh? Phải chăng chỉ là vấn đề tránh loại nhạc khiến mình buồn bã hay xao động, hay chúng con cần xem đến cách hòa âm, nhịp điệu, phong cách hay cách trình bày – chẳng hạn nhạc điện tử hay nhạc cực lớn như trong rạp chiếu phim? Liệu có tiêu chuẩn nào không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary, ngày 18/7/2015, qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Los Angeles.

Con yêu dấu, cách giản dị nhất để lượng định âm nhạc là rèn luyện khả năng cảm nhận trong tim mình, xem tiếng nhạc có nâng cao năng lượng của con hay kéo năng lượng xuống thấp. Con có thể xác định được điều này bằng cách hòa điệu vào luân xa tim của con. Điểm này không chỉ áp dụng cho âm nhạc mà nói chung, con có thể phát triển khả năng nhạy cảm đủ để cảm nhận mọi điều mà con gặp trong cõi vật lý. Con có thể đi vào một nhà hàng, và nếu con hoà điệu với luân xa tim, con có thể xem qua thực đơn và cảm được món nào nâng lên hoặc kéo xuống rung động của con. Nếu không có món nào nâng cao rung động của con, con có thể bước ra và tìm một nhà hàng khác. Với âm nhạc cũng vậy.

Nhiều người có quan điểm là họ bắt buộc phải nghe nhạc, nhưng quan điểm này đến từ đâu nếu không từ ngành công nghiệp muốn bán nhạc nhiều hơn? Con không bắt buộc phải nghe nhạc. Con chắc chắn không bắt buộc phải nghe nhạc một cách liên tục. Tại sao con lại sợ im lặng? Im lặng có thể là bối cảnh mà con đang cần để nghe thấy cái ta tâm linh của con hay các chân sư. Nhưng thôi được, nếu âm nhạc và một số loại nhạc nào đó tạo cảm hứng cho con và nâng cao năng lượng của con, mở rộng tâm thức của con, thì bằng mọi cách con hãy lắng nghe. Nhưng con có thể dễ dàng cảm được nhạc đó tác động thế nào trên con. Và cũng tùy theo mỗi người, mỗi người nghe nhạc với tâm thức khác nhau.

Ta cũng biết trong quá khứ, chúng tôi đã nói một số loại nhạc cần tránh. Lời dạy này, phần lớn, vẫn còn giá trị và giá trị cho nhiều người. Tuy nhiên, bất cứ gì cũng có ngoại lệ, cho nên vào thời buổi hôm nay, chúng tôi không muốn đưa ra những lời dạy cứng nhắc, cố định, về những điều cần tránh hay cần nghe. Tất nhiên có những loại nhạc mà hầu hết mọi người phải tránh: tất cả những gì kéo thấp năng lượng, có nhịp giựt lệch lạc khiến năng lượng bị đẩy xuống luân xa gốc và do đó khuấy động luân xa đó lên, làm phát sinh mơ tưởng và ham muốn tình dục quá độ.

Nhưng cũng có một số loại nhạc mà nhiều người tâm linh gọi là âm nhạc tích cực, hưng phấn, không nhất thiết sẽ đưa năng lượng xuống thấp và cũng không đưa lên cao. Rất có thể loại nhạc này sẽ kéo sự chú ý của con khỏi việc lắng nghe trái tim. Vậy điều quan trọng là như sau: Con hãy cảm nhận âm nhạc đang tác động thế nào trên năng lượng của con, liệu nó nâng cao hay kéo thấp, và con hãy quyết định dành ra một thời gian để con lắng nghe sự im lặng.

Đau đớn khi sinh nở

Hỏi: Vì lý do gì mà người mẹ, và đứa bé cũng vậy, cảm thấy đau đớn đến thế khi sinh nở?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 5/8/2014.

Có thể con đã nghe từ các đợt truyền pháp trước là đã có một thời khi hành tinh địa cầu thanh khiết đến độ con người không cần có quan hệ tình dục vật lý, hay không cần dùng đến thể xác vật lý để sinh con, vì trẻ em có thể được sinh tạo bằng tâm. Tuy nhiên, từ khi con người sa ngã xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, vật chất đã bị cứng đặc lại cho nên việc mang thai và sinh nở qua thể xác vật lý mới trở nên cần thiết.

Điều đó đã cần thiết vì nhiều lý do. Một lý do là vì cách duy nhất để tăng trưởng dân số loài người đến mức hoạch định là thiết lập một cách thức để cho một người nam và một người nữ có thể có con mà không cần có sự hài hòa với nhau. Con thấy đó, để sinh ra một đứa bé hoàn toàn do uy lực của tâm, vẫn cần phải có hai đối tác, một sinh thể đại diện cho thái cực nam và một sinh thể cho thái cực nữ. Nhưng để sinh ra một đứa bé qua uy lực của tâm, cả hai người cần ở trong một trạng thái hài hòa toàn diện với nhau.

Tất nhiên, con biết rõ là với xác thân vật lý của con người ngày nay, sinh nở vẫn có thể xảy ra cho dù người nam và người nữ không trong trạng thái hài hòa. Điều này có nghĩa là nếu phải hài hòa để có con thì hiển nhiên sẽ có rất ít trẻ em ra đời, nhất là trong các thời đại đã qua. Hầu bảo đảm dân số sẽ tăng trưởng, việc sinh nở qua thân xác vật lý trở thành một điều cần thiết.

Hiển nhiên, sự thể này có liên quan đến vòng xoáy ốc nghiệp chướng hướng hạ mà loài người đã tạo ra sau lần sa ngã đầu tiên. Sự đau đớn đã hiện diện suốt nhiều ngàn năm trời, và đã không có phương cách nào từ công nghệ để làm dịu cơn đau. Vì vậy chúng ta có thể nói là nỗi đau thể xác mà cả người mẹ lẫn đứa trẻ phải chịu đựng là một lời nhắc nhở về một thuở khi con người hoàn toàn có khả năng thụ thai và sinh con một cách khác.

Có những cách để sinh con qua cơ thể vật lý với đau đớn tối thiểu. Điều này đòi hỏi một cách tiếp cận khác hơn trong việc mang thai và sinh nở – khác hơn với cách tiếp cận của xã hội hiện đại sau khi xã hội trở nên duy vật và công nghệ hơn. Đây là một điều mà các chân sư sẽ giảng dạy trong tương lai, nhưng tốt hơn là ta nhường lại phần này cho các nữ chân sư. Việc giảng dạy cũng sẽ cần đến một vị sứ giả phái nữ, vì sứ giả hiện tại trong kiếp này không có khung nền cần thiết để đưa ra lời dạy.

Đau đớn có mục đích tâm linh nào không?

Hỏi: Mục đích của đau đớn là gì? Đau đớn có mục đích tâm linh nào không? Đó có phải là một lời cảnh báo rằng chúng ta đang không đi theo đúng hướng tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên MORE. Đăng ngày 5/8/2014.

Hãy để ta bắt đầu với đau đớn thể xác. Tất nhiên, đó là tín hiệu cho thấy cơ thể, các dây thần kinh trong cơ thể, cảm nhận được khi một bộ phận nào đó của cơ thể bị tổn thương. Dây thần kinh sau đó sẽ gửi lên bộ não một tín hiệu, và đây là tín hiệu cho thấy tâm ý thức của con cần chú ý tới khu vực đau đớn và cần làm gì đó để né tránh nguyên nhân cơn đau hoặc chữa lành. Vì vậy, ở cấp độ thể chất, đau đớn chỉ đơn giản là một tín hiệu cảnh báo của cơ thể.

Ở cấp độ cảm xúc, đúng là đau đớn cảm xúc là một tín hiệu cho thấy con đã mất quân bình và do đó con đang không đi đúng hướng. Tuy nhiên cũng phải nhìn nhận quyền tự quyết vận hành như thế nào trong cõi vật lý. Thật vậy, người khác có thể vi phạm cơ thể vật lý của con cũng như các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con.

Trong trường hợp đó, đau đớn không luôn luôn có nghĩa là con đang đi sai hướng. Con có thể hoàn toàn vô tội trong một tình huống và con đang bị đối xử tồi tệ bởi những người lạm dụng quyền tự quyết của họ. Điều này vẫn có thể khiến tình cảm con bị đau đớn và cảm giác này là lẽ tự nhiên. Tuy nhiên, khi con khởi lên cảm xúc tiêu cực, một cái nhìn tiêu cực về tình huống thay vì đáp ứng một cách chấp nhận hơn, thì con sẽ khuếch đại nỗi đau. Và điều này có thể gây sự tổn thương cho linh hồn mà con sẽ đem theo từ kiếp này sang kiếp khác.

Con nhận thấy là khi con bỏ lại xác thân vật lý trong cái mà hầu hết mọi người gọi là cái chết, khi con bước vào kiếp sống kế tiếp, con sẽ gần như luôn luôn không còn giữ lại vết tích gì trên cơ thể mới của con về nỗi đau mà con đã cảm nhận trên cơ thể cũ. Điều này có nghĩa là dù con có phải đau đớn trong cảm thể trong kiếp này, nếu con phản ứng một cách vô tư và chấp nhận, thì con cũng sẽ không tạo ra trong cảm thể một vết hằn nào mà con sẽ mang từ kiếp này sang kiếp khác. Nhưng nếu con không thể phản ứng được như vậy, con có thể sẽ tạo ra một vết hằn trong cảm thể sẽ gây đau đớn trên cơ thể vật lý ngay cả trong kiếp tới. Cơ thể sắp tới mà con khoác vào sẽ phần nào phóng hiện ra những vết hằn trong ba thể cao hơn.  

Đau đớn không có một chức năng hay một giá trị gì cao cả hơn. Chúng tôi không xem đau đớn là một phương tiện giáo dục mà chúng tôi sẽ sử dụng. Con hoàn toàn có khả năng bước đi trên đường tâm linh và hội đủ tư cách để thăng thiên mà không phải cảm thấy đau đớn, dù là đau đớn trên phương diện tình cảm, lý trí hay bản sắc. Đau đớn chỉ là dấu hiệu cho thấy con đã bước vào Trường đời Cay đắng trong kiếp này hay trong một tiền kiếp.

Điều ta muốn nói là đau đớn không phải là điều gì chúng tôi muốn, hoặc sẽ muốn bắt các học trò chúng tôi phải chịu đựng. Chúng tôi không sử dụng đau đớn như một phương tiện dạy dỗ. Tuy nhiên, con phải cẩn trọng và nhìn nhận một thực tế khó thấy là khi con mang những vết thương và vết hằn từ những kiếp trước mà con chưa giải quyết, rất có thể một vị thày tâm linh đích thực – dù là thày đang hiện thân hay chân sư thăng thiên – sẽ phải thách thức những ảo tưởng đã gây ra vết thương đó. Và tất nhiên, điều này có thể khiến con cảm nhận nỗi đau khi con mang theo những năng lượng mà con chưa biến hóa. 

Vì vậy có rất nhiều người, trong quan điểm của họ, đã trải qua kinh nghiệm cảm xúc bị đau đớn do chúng tôi, các chân sư thăng thiên, hoặc do một đạo sư hiện thân như Guru Ma. Nhưng con hãy lưu ý, đó chỉ là kinh nghiệm của họ. Không phải chúng tôi đã cố tình hay cố ý gây ra đau đớn, cũng không phải chúng tôi xem đó là một phương tiện giáo dục, mà đó chỉ đơn giản là khi con bắt đầu xem xét một ảo tưởng, con sẽ chạm vào năng lượng chưa biến hóa mà ảo tưởng đã tạo ra và do đó con cảm thấy nỗi đau.

Nếu có thể, chúng tôi sẵn lòng giúp mọi người tránh được nỗi đau. Với mục đích đó, chúng tôi đã ban ra những bài nguyện tràng hạt và bài chú để con có thể biến hóa phần lớn năng lượng của con trước khi con xem xét đến ảo tưởng. Chúng tôi chỉ có tình thương vô bờ bến đối với học trò chúng tôi và chúng tôi sẽ vui mừng biết mấy nếu các con có thể đối mặt với những động lực và ảo tưởng của quá khứ mà không cảm thấy đau đớn. Đây là điều khả dĩ nếu các con đã chuyển hóa đủ số năng lượng và chuyển vọt tâm thức mình, như chúng tôi đã chỉ dạy nhiều lần.

Lời dạy của Eckhart Tolle về tự ngã

Hỏi: Con muốn biết thày Giê-su nghĩ gì về những lời dạy của Eckhart Tolle. Con cũng hiểu có lẽ thày đã nhận được rất nhiều câu hỏi về vị thày này hay giáo lý kia, nhưng con xin hỏi cụ thể vì trong thông điệp thày Giê-su gửi ra tại Thụy điển, thày có khuyên chúng con học tập những giáo lý khác về tự ngã. Và Eckhart Tolle đã viết hai cuốn sách, “Quyền nâng của Ngay bây giờ” (The Power of Now) và “Một Địa cầu Mới” (A New Earth). Cả hai quyển đều nói rất nhiều về tự ngã và tâm thức nhị nguyên.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta xem Eckhart là một vị thày tâm linh đích thực. Ông đang làm những gì mà ông rất nên làm, tức là giảng dạy dựa trên xuất thân, kinh nghiệm và trạng thái tâm thức của ông. Nếu độc giả của trang mạng này cảm thấy có sự nhắc nhở nội tâm muốn tìm hiểu sách của ông thì tất nhiên các con nên đi theo tiếng gọi đó. Tuy nhiên, sẽ không tới mức ta khuyên nhủ mọi người đọc sách của ông, và ta sẽ trình bày tại sao một số người cần tiếp cận sách một cách thận trọng.

Eckhart mô tả khi ông có một sự chứng ngộ tâm linh tự dưng phóng ông vào một trạng thái tâm thức cao hơn. Ông giảng dạy dựa theo kinh nghiệm này, và trên căn bản, ông bỏ qua nhu cầu phải đi theo một con đường tuần tự, có hệ thống. Ông cố gắng đưa độc giả của ông kinh qua một trải nghiệm giống như ông, và ông làm vậy bằng cách chia sẻ những sáng ngộ mà ông đã có sau trải nghiệm đột phá của ông.

Giả thuyết cơ bản là nếu mọi người nhận được những sáng ngộ đúng đắn, họ cũng sẽ có một sự tỉnh ngộ tự phát như ông đã có. Điều này quả là có thể xảy ra, nhưng chỉ với những người đã đạt gần tới mức tâm thức mà Eckhart đã có trước khi ông ngộ. Nhưng đại đa số con người trên hành tinh này chưa ở mức đó, và vì vậy không có khối lượng sáng ngộ nào có thể đánh thức họ một cách “tự phát”.

Hãy cho ta nói rõ là ta không bảo mọi người đừng đọc sách của Eckhart. Đơn giản, ta chỉ nói rằng ta chờ đợi các độc giả của trang mạng này sẽ sử dụng những nội giác mà họ nhận được ở đây khi họ tìm hiểu bất cứ giáo lý tâm linh nào. Và ta chờ đợi mọi người sẽ cố gắng hết sức để lắng nghe lời dạy của ta về nhu cầu giữ sự cân bằng. Nếu con chưa thấy được là ta rất thường giảng về cân bằng thì ta khuyên con nên đọc lại trang mạng này và lưu ý ta thường mô tả cân bằng là điều kiện tiên quyết để thực sự phát triển tâm linh. Ta đặc biệt khuyên con đọc hai bài giảng của ta về tự ngã, có nói đến tư duy trắng đen và tư duy xám.   

Nói vậy rồi, thật không thể chối cãi Eckhart đã ban ra nhiều hiểu biết rất giá trị về tự ngã và tâm thức nhị nguyên. Các hành giả ở mọi trình độ có thể được lợi ích từ những hiểu biết này, nhưng con cần thực tế và đừng bỏ dở cách phát triển tâm linh có hệ thống, hơn là đuổi theo một chứng ngộ kỳ diệu sẽ thình lình biến con thành một sinh thể giác ngộ. Tốt hơn con nên tiếp tục tu tập cho có phương pháp rồi để mặc cho sự khai ngộ tự dưng xảy đến – tự dưng. Cố gắng chiếm đoạt thiên đàng bằng vũ lực chưa bao giờ đưa ai ra khỏi tầm tay của tự ngã.

Sách “Bắt chước Ki-tô” của Thomas a Kempis

Hỏi: Giê-su yêu dấu, con đang đọc quyển “Bắt chước Ki-tô” (The Imitation of Christ) của Thomas a Kempis và con xin thày vui lòng cho biết quyển sách này có còn xác đáng trong bối cảnh những giáo lý mà thày ban ra hiện nay.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Đây là một quyển sách tuyệt diệu, và thực sự Thomas a Kempis đã là một trong những sứ giả của ta. Trong sách có quá nhiều lời dạy vượt thời gian đến mức nó vẫn xác đáng cao độ ngay cả ngày hôm nay.

Một trong những chủ đề chính của quyển sách là bất cứ ai cũng đều có khả năng hiệp thông trực tiếp với Thượng đế. Đây chính là thông điệp mà ta đang nỗ lực trình bày trên trang mạng của ta. Hiển nhiên đó không phải là điều ngẫu nhiên. Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã cố gắng giúp con người hiểu được cùng thông điệp đó từ hàng ngàn năm rồi. Trong Thời đại Bảo bình, điều quan trọng hơn bao giờ hết là con người cần hiểu thông điệp này, bởi vì con người trong thời đại mới có cơ hội lớn hơn bao giờ hết để hiệp thông trực tiếp với Thượng đế.

Khi con đọc “Bắt chước Ki-tô”, con hãy đừng quên rằng sách đã được viết cách đây sáu thế kỷ. Sách được viết ra vào một thời kỳ chủ yếu Công giáo và được viết cho nền văn hóa đó. Vì vậy trong sách có nhiều điều không thể nói ra được vì sẽ vượt quá xa học thuyết của giáo hội. Vào thời điểm đó, làm như vậy đã có thể khiến cho tác giả bị đàn áp và nhiều người quá sợ hãi sẽ không dám đọc. Thật ra, hồi đó đã có một số người cho rằng quyển sách cấp tiến quá mức. Và ngày nay một số người đạo Cơ đốc vẫn còn nghĩ như vậy.

Và con cũng nên nhớ là sách được viết vào thời gọi là Thời đại Đen tối. Đó là một thời kỳ khi cuộc sống khó khăn hơn nhiều so với hầu hết mọi người đang sống tại phương Tây ngày nay. Vì thế, sách có xu hướng tập trung vào sự khổ đau và những vất vả trong đời sống nhiều hơn là thời nay.

Dù sao đi nữa, quyển sách là một ví dụ cho thấy một người có khả năng nâng cao tâm thức mình và phụng sự trong vai trò sứ giả cho các chân sư thăng thiên. Đó là một nguồn cảm hứng tuyệt vời sẽ giúp cho bất cứ ai hiệp thông với Thượng đế.

Âm nhạc để phát huy tâm linh

Hỏi: Con đang có chút mâu thuẫn về nhạc rock. Con chơi đàn guitar và thấy đó là một phương tiện biểu đạt rất sáng tạo. Con vẫn vô cùng thích thú khi chơi những bản nhạc nổi tiếng như của The Who, Led Zeppelin, The Rolling Stones, The Doors và Kiss. Con thấy khi chơi, con cảm thấy vui sướng và hạnh phúc. Con chỉ thắc mắc làm thế nào việc liên tục lắng nghe những ban nhạc này sẽ giúp con phát triển tâm linh (qua Ki-tô). Thày có cảm nghĩ gì về nhóm nào hay loại nhạc nào có thể làm trì trệ sự tăng trưởng tâm linh của con?


Trả lời từ chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Con nói là con có mâu thuẫn về nhạc rock. Lý do là vì khả năng trực giác của con đang nói với con rằng có điều gì đó mà con chưa hiểu hay chưa nhìn thấy về loại nhạc này cũng như về tác động của âm nhạc nói chung. Ta thực sự khuyên con nên lắng nghe sự nhắn nhủ nội tâm này. Con hãy nỗ lực mở rộng trực giác của con và tham gia học hỏi về âm nhạc và sự tác động của âm nhạc.

Nhiều nền văn hóa cổ xưa có lời dạy về tác động của âm nhạc, cả tốt lẫn xấu. Một số văn hóa cổ xưa tin rằng cách nhanh chóng nhất để phá nát một xã hội là chơi loại nhạc sai lầm. Ngay cả khoa học hiện đại cũng bắt đầu hiểu ra là âm nhạc có tác động sâu xa trên con người. Nghiên cứu khoa học cho thấy trong khi nhạc cổ điển có thể giúp cây cối phát triển tốt hơn thì nhạc rock lại có tác đụng ngược lại. Con cũng có thể tìm thấy những nghiên cứu về tác dụng của âm nhạc trên việc học vấn.

Bằng cách tìm hiểu về các loại tác động của âm nhạc, con sẽ cho trực giác của con cơ hội hoạt động và đó sẽ là nền tảng để con nhận được thêm trực nhận từ bên trong.  

Tuy nhiên ta sẽ cho con mốt số gợi ý để con suy ngẫm. Như được trình bày khắp trang mạng này, ngay cả khoa học hiện đại cũng công nhận rằng mọi thứ đều là năng lượng. Như chúng tôi mô tả, chung quanh cơ thể con người có một trường năng lượng. Trường năng lượng này được kết nối với tâm. Thật không khó khăn gì để thấy được là sóng âm thanh do âm nhạc phát ra là những sóng năng lượng và chúng có thể ảnh hưởng lên trường năng lượng của con người.

Trong trường năng lượng của con người có một số trung tâm năng lượng, thường gọi là luân xa. Có cả thảy bảy trung tăm năng lượng chính, nằm dọc theo cột sống. Trung tâm năng lượng thấp nhất là luân xa gốc, cao nhất là luân xa đỉnh đầu, và ở giữa là luân xa tim.

Dòng sống của con, và ngay cả cơ thể vật lý, được nuôi dưỡng bởi một dòng năng lượng chảy xuống từ cái ta tâm linh vào trường năng lượng. Năng lượng này đi vào trường qua luân xa tim và một phần năng lượng chảy xuống luân xa gốc. Điều gì xảy ra cho năng lượng sau đó được định đoạt do sự chú ý của con. Chính sự chú ý hướng dẫn dòng chảy của năng lượng qua năng trường của con.

Cái gì kiểm soát sự chú ý của con? Chú ý bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những sở thích cá nhân của con. Nói cách khác, con yêu thích gì nhất thì con sẽ tập trung chú ý vào đó nhiều nhất, và vì thế nó sẽ nhận được nhiều năng lượng nhất của con. Hiển nhiên luân xa tim là trung tâm tình yêu trong con người con. Do đó, luân xa tim của con là chìa khóa kiểm soát năng lượng sẽ đi về đâu. Con cần phải bảo đảm con yêu thích những thứ sẽ giúp con tăng triển. 

Nếu con yêu thích những đồ vật của thế gian, năng lượng của con sẽ biểu đạt chủ yếu qua ba luân xa thấp, qua đó con sẽ trao cho năng lượng một rung động gần với độ rung của vũ trụ vật chất. Điều này cuối cùng sẽ tạo ra một vòng xoáy năng lượng mà từ lực sẽ lôi kéo các ý nghĩ và cảm xúc của con về đó. Nói cách khác, con càng đổ nhiều năng lượng vào những ham muốn đồ vật thế gian thì năng lượng đó sẽ càng kéo mạnh ý nghĩ và cảm xúc, buộc chặt con hơn với đồ vật thế gian.  

Ta không nói rằng điều này nhất thiết là sai trái. Một dòng sống có thể có ham muốn chính đáng trải nghiệm những sinh hoạt của vũ trụ vật chất. Tuy nhiên chúng ta đều biết nhiều người bị mê mải trong đủ loại ham muốn vật chất đến độ cả đời họ bị tiêu hao trong nghiện ngập.

Một dòng sống thường trải qua nhiều kiếp sống đeo đuổi các ham muốn đồ vật thế gian. Tuy nhiên hầu hết mọi dòng sống cuối cùng đều sẽ đạt tới một điểm khi họ cảm thấy cuộc đời không chỉ là chuyện hưởng thụ thế giới vật chất mà phài là gì nhiều hơn. Đây là điểm khi nhiều dòng sống khởi sự tiến trình thức tỉnh tâm linh. Và ở điểm đó, con có thể đẩy mạnh sự tăng trưởng tâm linh của con bằng cách nhận thức rõ hơn con sử dụng năng lượng như thế nào. Nói cách khác, nếu con tiếp tục đổ năng lượng vào vòng xoáy đang buộc chặt con vào thế giới vật chất, con sẽ làm trì trệ bước tiến tâm linh của con. 

Nếu con muốn đẩy mạnh phát triển tâm linh, con cần khởi sự yêu thích những thứ của Tánh linh. Khi yêu thích những “đồ” tâm linh, con sẽ hình thành một cục nam châm trong luân xa tim, và nó sẽ lôi kéo năng lượng lên qua luân xa tim và biểu đạt những năng lượng này qua ba luân xa cao. Điều này cuối cùng có thể sẽ mở luân xa đỉnh đầu, là chìa khóa cho sự giác ngộ tâm linh.

Khi con bắt đầu hiểu hơn về dòng năng lượng, con thấy rõ là nếu con thực sự muốn tăng trưởng tâm linh, con cần nghe và chơi những loại nhạc sẽ khiến năng lượng con chảy qua các luân xa cao thay vì các luân xa thấp. Ta nghĩ hầu hết mọi người, bằng cách nỗ lực gia tăng trực giác và nhậy cảm, sẽ có khả năng cảm nhận được năng lượng của mình đang chảy về đâu khi họ nghe hay chơi nhạc. Ta nghĩ đại đa số sẽ nhanh chóng nhận ra là nhạc rock, nhạc jazz, nhạc rap và những hình thức nhạc nghịch tai khác sẽ ép buộc năng lượng chảy xuống các luân xa thấp, đặc biệt là luân xa gốc.    

Xin con hiểu một điểm quan trọng. Biểu đạt năng lượng qua các luân xa thấp sẽ dễ dàng mang lại cho con một cảm giác thích thú. Tuy nhiên, việc mang lại cảm giác vui sướng và sảng khoái không nhất thiết có nghĩa là sinh hoạt đó đang gia tăng sự phát triển tâm linh. Điều làm con cảm thấy dễ chịu chỉ là năng lượng tuôn qua luân xa. Cho nên cảm giác dễ chịu không nhất thiết có nghĩa là con đang thăng tiến tâm linh. Nói cách khác, con cần mở mang một khả năng phân biện nào đó hầu con có thể xác định xem năng lượng đang chảy lên luân ca cao hay chảy xuống luân xa thấp. 

Về mặt này, ta phải nói là tại hầu hết các quốc gia Tây phương, có một thành kiến cho rằng nếu có điều gì cảm thấy dễ chịu thì điều đó không thể sai trái. Ta hy vọng là con thấy điều này không cứ là đúng đối với một người quan tâm đến phát triển tâm linh. Nói cách khác, sự kiện một số loại nhạc khiến con vui vẻ hạnh phúc không nhất thiết có nghĩa là nhạc đó sẽ giúp con tiến triển tâm linh. Cho nên nếu sự phát triển tâm linh là quan tâm chủ yếu của con, con cần phải tìm những loại nhạc đưa năng lượng con đi lên thay vì đi xuống.

Ví dụ loại âm nhạc đó là rất nhiều các soạn giả cổ điển, như Mozărt, Beethoven và Handel. Cũng có một số loại nhạc Thời mới nâng năng lượng lên cao. Ấn độ có một truyền thống âm nhạc cổ xưa nhằm giúp hành giả có trải nghiệm tâm linh.

Ta có thể nói với con là chúng tôi, các chân sư thăng thiên, vô cùng mong muốn mang đến những thể nhạc mới sẽ hấp dẫn giới trẻ như nhạc rock ngày nay nhưng lại khiến cho năng lượng của con người chảy lên thay vì tập trung xuống các luân xa thấp.

Ta khuyên con nên gia nhập một chương trình tìm hiểu âm nhạc và tăng trưởng khả năng nhậy cảm của con. Nếu con có thắc mắc gì thêm, con hãy cứ tự nhiên hỏi ta vì đây là một chủ đề rất quan trọng, không những cho cá nhân con mà cho nhân loại nói chung. Con nên cần nhắc xem con có thể hướng dòng sáng tạo của con về loại âm nhạc giúp nâng năng lượng vào các luân xa ở trên.

Một kỹ thuật thiết thực để nâng năng lượng tình dục lên tim

Hỏi: Giê-su yêu dấu, xin thày chỉ con một số kỹ thuật để chuyển hóa năng lượng tình dục. Chẳng hạn, để sử dụng năng lượng tình dục hầu mở tim.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Để mở đầu, ta xin nói là ngược với lời phán của rất nhiều giáo hội kể cả nhiều giáo hội Cơ đốc giáo, không có gì tội lỗi hay sai trái trong sự kết hợp tình dục giữa một người nam và một người nữ. Quan hệ tình dục trong tình yêu tinh khiết không phải là tội lỗi và cũng không làm tha hóa năng lượng của Thượng đế.

Nói như vậy nhưng ta cũng phải nhấn mạnh là trong thế giới ngày nay, thật là khó lòng giữ được cho quan hệ tình dục trong sạch. Đó là vì ngành quảng cáo mà một số tà lực ảnh hưởng và hỗ trợ mạnh mẽ, đã không ngừng tràn ngập nhân loại với những hình ảnh, những khêu gợi và ngay cả những năng lượng tinh vi nhằm gia tăng lòng ham muốn tình dục nơi con người. Hơn nữa, do hệ quả của sự lan tràn này cùng nhiều hình thức lâp trình xã hội khác, nhiều người đã nảy sinh ra thái độ cho rằng mình có quyền có quan hệ tình dục một cách vô giới hạn.    

Vì vậy, nếu con muốn giữ cho quan hệ tình dục của con được trong sạch, hay nếu con không có quan hệ tình dục, con cần phải tự vệ, con cần phải bảo vệ trường năng lượng của con cũng như trí thể và cảm thể của con chống lại chiến dịch công kích liên tục của năng lượng và khêu gợi tình dục.

Vòng đai phòng thủ của con phải bắt đầu với một quyết định. Con phải nhận ra là con đang bị công kich một cách dữ dội, thâm độc, bởi các khêu gợi tình dục, và con phải lấy quyết định là con sẽ không để cho người ta lập trình con bằng cách đó. Do đó, con phải quyết định là con sẽ lánh xa khỏi các khêu gợi đó khi có thể.  

Điều cực kỳ quan trọng là con sử dụng các dụng cụ tâm linh thích hợp để bảo vệ trường năng lượng cá nhân của con (trường năng lượng bao quanh cơ thể con) bằng cách xây dựng một lá chắn làm bằng năng lượng tâm linh cao tần bao quanh. Các chân sư đã có trao cho các con một số kỹ thuật bảo vệ, và có một kỹ thuật khác rất hữu hiệu là bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael.

Khi ta bảo là tự thân tình dục không có gì sai trái, ta không hề muốn nói là người ta có thể có tình dục một cách vô hạn mà không phải trả giá. Sống trong vũ trụ vật chất, con phải quyết định sử dụng tốt nhất các nguồn năng lực luôn luôn giới hạn mà con có. Nếu con dành thời gian cho một hoạt động nào đó, con sẽ không thể dành cùng thời gian đó cho một hoạt động khác. Nếu con bỏ thời gian và sức lực vào tình dục, con sẽ không thể bỏ thời gian và sức lực vào những hoạt động nhằm tinh tấn tâm linh.

Một trong những nhìn nhận quan trọng nhất về tình dục là ham muốn tình dục gồm có hai loại. Cái tâm thấp kém, cũng gọi là tâm phàm phu hay tâm xác thịt, giống như một cái máy tính điều hành cơ thể vật lý. Một trong những chức năng của máy tính xác thịt này là bảo đảm sự sống còn của cơ thể, trong đó có cả việc truyền giống. Vì vậy, tâm xác thịt đã được lập trình để luôn luôn muốn quan hệ tình dục.

Nhiều người đã đầu hàng trước ham muốn này và nguyên cuộc đời của họ chỉ xoay quanh tình dục. Hoặc là họ đang có quan hệ tình dục, hoặc họ đang tìm cách có quan hệ, hoặc họ đang cảm thấy ham muốn quan hệ. Điểm mấu chốt là  ham muốn tình dục của tâm xác thịt là một ham muốn vô độ. Cho dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa thì vẫn không đủ cho nó.

Nếu con nhượng bộ ham muốn vô độ này, con sẽ mở toang cánh cửa trường năng lượng cá nhân của con ra cho những khêu gợi của thế giới bên ngoài. Con cũng sẽ làm mồi cho một số thế lực thấp kém đang tìm cách xâm nhập trường năng lượng của con. Ta đã mô tả chi tiết hơn những tà thể đó trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is Born in You). Những thế lực này có những ham muốn tình dục không bao giờ có thể thỏa mãn và chúng sẽ cố phóng chiếu ham muốn này lên con. Nếu con nhượng bộ, đời con sẽ bị tiêu hao bởi ham muốn tình dục vô hạn.

Loại thứ hai, khi một dòng sống lần đầu tiên giáng xuống vũ trụ vật chất, con có mong muốn trải nghiệm rất nhiều thứ với thề xác vật lý của con, và điều này bao gồm cả tình dục. Tự thân nó, ham muốn này không có gì là sai trái hay tội lỗi. Tuy nhiên, điều thiết yếu cần nhận ra là ham muốn tình dục của dòng sống là một ham muốn khã dĩ thoả mán được. Nói cách khác, một dòng sống thực sự có thể cảm thấy mình đã đủ quan hệ tình dục và quyết định mình muốn dành ra thời gian và sinh lực để theo đuổi những mục đích tâm linh hơn.

Thật là bình thường nếu trong chiều dài cuộc đời, dòng sống dần dần mất đi khao khát tình dục của mình và bắt đầu chuyển trọng tâm vào các sinh hoạt tâm linh. Cũng có nhiều dòng sống đã vượt qua ham muốn tình dục trong những kiếp trước và vì vậy họ sẵn sàng từ bỏ một cách vĩnh viễn.

Điều quan trọng nhất trước khi con tìm cách chuyển hóa năng lượng tình dục là con phải lấy quyết định về thái độ của con trong vấn đề này. Một khi con đã có một quyết định nội tâm cương nghị về thái độ trước tình dục, cũng như con đã quyết định là con có muốn quan hệ hay không, thì con mới có hy vọng thoát được những công kích từ bên ngoài cùng những ham muốn vô hạn của tâm xác thịt.

Một trong những sai lầm to lớn mà quá nhiều người có đạo phạm phải, đặc biệt nhiều vị tu sĩ, nữ tu và linh mục của Giáo hội Công giáo, là họ không bao giờ có một quyết định tiên khởi như thế. Họ chỉ đơn giản suy nghĩ với cái tâm vỏ ngoài của họ là bởi vì giáo hội đã phán rằng tình dục là tội lỗi, cho nên họ sẽ phải cố gắng dồn nén mọi thèm muốn tình dục xuống. Đối với hầu hết mọi người, đây sẽ là một trận chiến cực kỳ cam go và một số sẽ bị đánh bại. Điều này được thể hiện rõ ràng qua các vụ lạm dụng tình dục của các linh mục Công giáo.

Điều ta muốn nói ở đây là trước khi con làm bất cứ gì để sử dụng một kỹ thuật chuyển hóa năng lượng tình dục, con phải nỗ lực đi đến một trạng thái minh mẫn nội tâm về thái độ của con đối với tình dục. Để đạt được minh mẫn nội tâm này, con hãy dùng kỹ thuật hòa điệu nội tâm mà ta đăng tải trên trang hộp dụng cụ tâm linh. Con hãy cố gắng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và với chính ta. Đừng sợ đến với ta và hỏi ta về tình dục. Ngược với những gì bao nhiêu tín đồ Cơ đốc có vẻ tin tưởng, thái độ của ta đối với tình dục hoàn toàn tự nhiên và thoải mái. Không có đề tài nào cấm kỵ đối với ta. Con có thể hỏi bất cứ điều gì và ta sẽ trả lời. Cái ta Ki-tô thiêng liêng của con, và chính ta, sẽ vô cùng vui mừng giúp con rọi sáng và giải quyết thái độ của con với tình dục.  

Một khi con đã sáng suốt trong nội tâm, con hãy áp dụng kỹ thuật sau đây để nâng năng lượng tình dục lên mức của trái tim.

Một kỹ thuật

Như đã nêu ở nhiều nơi trên trang web này, khoa học đã chứng minh là mọi thứ đều tạo bằng năng lượng. Trường năng lượng của con có một số trung tâm, thường gọi là luân xa. Khi con biểu hiện năng lượng lý trí hay tình cảm, con biểu hiện qua các trung tâm năng lượng này. Một trong các trung tâm nằm ở gốc cột sống ở cùng độ cao với bộ sinh dục, thường gọi là luân xa gốc trong các giáo lý bí truyền.

Khi con tiếp xúc với những năng lượng khêu gợi từ bên ngoài, năng lượng thường đi vào và làm ô nhiễm luân xa gốc của con. Cũng vậy, các ham muốn của tâm xác thịt cũng có thể làm ô nhiễm luân xa gốc. Điều này có thể khiến cho luân xa gốc bị đổi màu, và đối với nhiều người, luân xa sẽ phát ra ánh sáng màu đỏ hay màu cam. Khi luân xa gốc thuần khiết, nó phát ánh sáng trắng tinh.

Mỗi khi con cảm thấy có kích thích vật lý, kích thích này khởi đầu ở luân xa gốc. Nó khởi sự quay và phát ra năng lượng tình dục tha hóa, khiến cho các bộ phận vật lý bị kích động. Nói cách khác, sự kích động vật lý luôn luôn khởi sự với năng lượng ở luân xa gốc. Nếu con muốn chuyển hóa năng lượng tâm linh, con phải làm cho năng lượng dâng từ mức luân xa gốc lên đến trung tâm năng lượng ở giữa ngực, thường gọi là luân xa tim.  

Kỹ thuật hình dung:

Ngay sau khi con cảm thấy bất kỳ loại kích thích tình dục nào, con hãy lấy quyết định chặn đứng năng lượng chảy vào cơ quan sinh dục.

Tập trung sự chú ý vào luân xa gốc và hình dung nó bắt đầu quay nhanh hơn và ném bật ra mọi năng lượng bất toàn, và nó bắt đầu phát ra ánh sáng trắng tinh. Để giúp con hình dung, con có thể hình dung chính ta, hay Mẹ Mary, đứng trên luân xa gốc. Một số chân sư thăng thiên có liên hệ với một số loại ánh sáng tâm linh, và Mẹ Mary thì dụng công với ánh sáng màu trắng, cũng gọi là Ánh sáng Mẹ, của luân xa gốc. Cho nên Mẹ Mary sẽ vô cùng sẵn sàng giúp con hoán chuyển năng lượng tình dục.

Khi con cảm thấy luân xa gốc phát ra ánh sáng màu trắng, con hãy hình dung ánh sáng trắng này dâng lên tới luân xa tim, được biểu đạt qua luân xa này như là ánh sáng màu hồng của tình thương. Con có thể hình dung luăn xa tim như một đóa bông hồng với 12 cánh hoa. Bông hồng quay tròn, tỏa ra một ánh hồng dịu rất đẹp.

Con hãy chú tâm vào một đấng tâm linh, có thể là Thượng đế, Mẹ Mary, chính ta hoặc một đấng tâm linh nào khác tùy ý con, và con hãy gửi tình yêu mãnh liệt về đấng ấy.

Con hãy hình dung là con bắt liên lạc với vị thày tâm linh và thiết lập một dòng chảy hình số 8 giữa con và vị thày. Con đang nâng năng lượng từ luân xa gốc lên mức của luân xa tim, và con gửi năng lượng này lên vị thày. Vị thày sẽ gửi trả năng lượng lại xuống luân xa tim của con nơi nó sẽ nối kết thành một dòng chảy hình số 8 xuống đến luân xa gốc.

Con hãy hình dung dòng chảy hình số 8 này giữa con và vị thày cho tới khi con cảm thấy mọi năng lượng ô uế đã được thanh lọc.

Một khi con bắt đầu thực tập kỹ thuật này đều đặn, nó sẽ trở thành gần như tự động. Con sẽ có thể thực hiện ở mọi nơi chỉ trong vài giây, và con sẽ ngạc nhiên trước kết quả đạt được. Tuy nhiên, không một kỹ thuật tâm linh nào có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Do đó, trước tiên con phải làm rõ thái độ của con đối với tình dục và có một quyết định nội tâm cương quyết đối với mối quan hệ của con với tình dục. Đây là một quyết định mà chỉ có con lấy được.

Những ham muốn chính đáng không dẫn đến nghiện ngập

Hỏi: Thưa Giê-su, xin thày vui lòng nhận xét về những ích lợi sức khỏe tiềm tàng của việc uống rượu đỏ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta có biết về một số nghiên cứu khoa học cho thấy uống rượu vang đỏ có thể ngăn ngừa bệnh tim. Tuy nhiên, những nghiên cứu đó có xem xét đến hậu quả tiêu cực của việc uống nhiều rượu trên cơ thể trong những khía cạnh khác hay không?

Trên địa cầu có rất nhiều loại thực vật được Thượng đế đặt sẵn ở đây để con người dùng làm thuốc. Con người sẽ được ích lợi rất nhiều nếu sử dụng những phương thuốc tự nhiên này để chữa bệnh và chấm dứt sự tham lam của ngành dược phẩm.

Điều ta muốn nói là trong nho đỏ có những chất hóa học rất lợi ích cho sức khỏe. Vấn đề là để hưởng những ích lợi này, con phải tiêu thụ thật nhiều nho đỏ. Nếu con uống rượu để cung cấp đủ lượng nho, chất rượu sẽ làm hại sức khỏe của con. Nó cũng có thể gây ra nghiện ngập và chắc chắn sẽ tác động tiêu cực trên những khả năng tâm linh của con. Vì vậy, ta thực sự khuyên con nên ăn nho tươi, nho khô hay uống nước ép nho.

Ta biết là một số người đã ham uống rượu từ lâu và họ luôn tìm những lý do chính đáng để có thể thoả mãn ham muốn của họ. Xu hướng con người nói chung là luôn tìm cách bào chữa cho những việc mình làm do lòng ham muốn. Và những người đó sẽ dùng các nghiên cứu khoa học để biện minh cho việc uống rượu của mình.

Lời khuyên của ta là nếu con ham muốn uống rượu, con nên công nhận lòng ham muốn này thay vì tìm cách che đậy và nói rằng con chỉ uống bởi vì lợi ích cho sức khỏe. Một khi con nhìn nhận ham muốn uống rượu thì con mới có thể khởi sự có được những sự chọn lựa trí tuệ về lòng ham muốn đó.

Một chọn lựa mà con có là nhìn nhận rằng có nhiều ham muốn không phải là của con. Những ham muốn này đã được phóng chiếu vào tâm và cảm thể của con bởi những thế lực của thế gian, với động lực không trong sáng trong nhiều trường hợp. Ta có thể cam đoan với con là Thượng đế đã không đặt rượu vào hành tinh này. Ngược với sự cả quyết của một số người, rượu không bao giờ có thể phát huy sự phát triển tâm linh của con. Thật ra, ngay cả một lượng rượu rất nhỏ cũng sẽ làm cùn các khả năng tâm linh. Nó sẽ làm giảm trực giác của con, khiến con khó chiêm nghiệm nội giác và cảm quan tâm linh.

Cho nên một người tầm đạo thực tâm sẽ khôn ngoan kiêng cữ tất cả mọi loại rượu. Điểm này cũng áp dụng cả cho việc dùng rượu thánh trong nghi lễ. Thuở xưa, người ta thật khó bảo quản nước nho ngoài mùa nho, và do đó rượu là cách thực tiễn duy nhất. Thời nay nhờ công nghệ, nước ép nho có thể được dọn ra bất cứ khi nào trong năm, và do đó không còn lý do gì để dùng rượu trong những lễ thánh.

Ta không đang nói là mọi người phải kiêng rượu. Nhiều người có mong muốn trải nghiệm một số thú vui của thế gian, kể cả thức ăn ngon kẻm với rượu vang. Đây có thể là một ham muốn chính đáng. Nhưng ta phải nói với con là một ham muốn như vậy không bao giờ dẫn đến nghiện ngập. Không ai có mong muốn say túy lúy rồi thức dậy với cơn đau đầu, hay lãng phi đời mình trong nghiện ngập. Vì vậy, nếu con uống rượu vì lòng ham muốn, con sẽ uống chừng mực.

Một khi con vượt qua lằn ranh vi tế giữa việc thưởng thức rượu và nghiện rượu, con có thể chắc chắn là con không còn đi theo một ham muốn đích thực ở bên trong nữa. Thay vào đó, dòng sống của con đang bị lợi dụng bởi những thế lực của thế gian muốn ngăn cản sự phát triển tâm linh của con.

Một ham muốn đích thực là một ham muốn có thể thỏa mãn. Con có thể cảm thấy thoả thuê, no đủ, khi con thưởng thức rượu trong một bữa cơm mà không bị xỉn. Và ham muốn này cũng có thể thỏa mãn trong dài hạn bằng cách vĩnh viễn bỏ lại mọi ham muốn uống rượu một khi con đã ngộ ra là việc gìn giữ khả năng tâm linh cho nhậy bén quan trọng hơn là việc hưởng thụ những thú vui giác quan.

Điều ta muốn nói là ở một mức nào đó trên đường phát triển của dòng sống, việc thưởng thức rượu một cách chừng mực có thể chấp nhận được. Nhưng khi dòng sống trưởng thành hơn, điều tự nhiên là nó sẽ bắt đầu tập trung chú ý nhiều hơn vào thế giới tâm linh. Và khi làm vậy, nó sẽ buông bỏ một cách tự nhiên mọi ham muốn dùng rượu.

Nguyên nhân tâm linh của béo phì

Hỏi: Người béo sẽ có xuống địa ngục không? Tham ăn là gì? Con biết tham ăn là sai trái, một cái tội, nhưng một người tham ăn cụ thể là gì?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Một số người béo sẽ xuống địa ngục, và một số người béo sẽ lên thiên đàng. Hay nói cách khác, số cân của một người không phải là yếu tố quyết định người đó sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục.

Và nhân tiện đang nói, địa ngục không phải như đa số các tín hữu đạo Cơ đốc hình dung. Địa ngục là một trạng thái tâm thức phát xuất từ ảo tưởng cho rằng người ta có thể tạo ra một nơi tách biệt khỏi Thượng đế. Vì vậy địa ngục không có thực. Nó chỉ có thực cho tới khi nào dòng sống còn tiếp tục làm tha hóa năng lượng của Thượng đế nhằm duy trì ảo tưởng rằng mình tách biệt khỏi Thượng đế.  

Ta định nghĩa tham ăn là một chứng rối loạn, là một sự mất cân bằng tâm lý nằm ở mép ranh giới với bệnh tâm thần, và có khả năng trở thành bệnh tâm thần thực thụ. Cho nên người tham ăn là một người đã mất kiểm soát việc ăn uống và không thể ngừng ăn, ngay cả khi nó tàn phá cơ thể vật lý của mình.

Ngược với kiến thức thông thường, bệnh béo phì hay tham ăn không phải là một tình trạng di truyền, mặc dù một người có thể có khuynh hướng béo phì do di truyền. Tất cả mọi sự xảy ra trong cơ thể vật lý đều có một đối tác tâm lý, vì thế tham ăn cũng có một nguyên nhân tâm lý. Có hai lý do chính khiến một người có xu hướng ăn quá nhiều.

Một lý do là vì người đó mang những vết thương tình cảm và vì vậy cảm thấy mình có nhược điểm dễ bị ngoài đời tấn công. Trong một nỗ lực của tiềm thức nhằm cách ly bản thân khỏi thế gian, dòng sống thầm mong mình lên cân trong tiềm thức. Thêm cân tạo ra một lớp cách nhiệt và trong tiềm thức dòng sống cảm thấy an toàn. Điều này khiến cho dòng sống đó cảm thấy như mình có thể chui vào trong vỏ của mình và ẩn nấp khỏi thế gian.  

Dạng béo phì này, hay tham ăn, có thể được khắc phục qua việc trị liệu tâm lý, qua những hình thức trị liệu truyền thống, hoặc một số liệu pháp mới vừa xuất hiện trong mấy thập niên qua. Nếu nỗ lực một cách nghiêm túc, bệnh nhân có thể khắc phục ý muốn cách ly bản thân với thế giới, dẫn đến sự giảm cân đáng kể. Một kết quả khác là chế độ ăn uống sẽ lành mạnh hơn, hỗ trợ cho tiến trình giảm cân.     

Tuy nhiên, những trường hợp tham ăn nghiêm trọng là một hình thức nghiện ngập. Như bất cứ bệnh nghiện hóa học nào khác, nó rất khó bỏ. Một lần nữa, một bệnh nghiện, ngay cả hóa học, cũng không khởi đầu do một nguyên nhân vật lý mà một nguyên nhân tâm lý, và khi bệnh nghiện hóa học đã bám chắc thì nó mới tràn xuống cơ thể vật lý.  

Trong bệnh tham ăn, nó bắt đầu với mong muốn được bảo vệ như ta vừa mô tả ở trên. Tuy nhiên trong những trường hợp nghiêm trọng, nó không chỉ là dòng sống mang vết thương tâm lý. Điều có thể xảy ra là những vết thương tâm lý này đã khiến cho dòng sống kéo hút những tà thể ở bên ngoài, có thể dưới dạng những hồn không xác – tức là những người đã qua đời nhưng dòng sống chưa bước vào cõi ánh sáng như hầu hết các dòng sống khác. Con có thể tìm thấy một số cuốn sách mô tả hiện tượng này, như một số sách về các trải nghiệm cận tử (near-death experiences). Dòng sống cũng có thể bị ám bởi một tà thể ác ý, chẳng hạn như một con quỷ.  

Đối với những người mắc bệnh tham ăn trầm trọng, hay béo phì trầm trọng, ta khuyên họ nên tìm hiểu hiện tượng này một cách sâu xa và khách quan, và áp dụng những kỹ thuật đúng đắn để khắc phục mọi sự can thiệp từ bên ngoài cũng như những vết thương của mình. Việc này gồm có cả việc bảo vệ tâm linh, như được trình bày trong trang Hộp Dụng cụ. 

Giáo lý nền tảng về tình dục và đồng tính luyến ái

Hỏi (Kim Michaels): Thưa thày Giê-su, gần đây người ta chú ý rất nhiều đến vấn đề đồng tính luyến ái, kể cả sự kiện một số tiểu bang tại Hoa kỳ có thể công nhận hôn nhân đồng tính, giáo hội Episcopal có thể bầu lên một vị giám mục đồng tính và Tối cao Pháp viện có thể bác bỏ luật chống dâm loạn của tiểu bang Texas. Gần đây, có một tham dự viên đặt câu hỏi là liệu linh hồn của anh đã được Thượng đế sinh tạo ra như một linh hồn đồng tính hay không. Một số khuôn mặt đồng tính nổi tiếng có tuyên bố rằng Thượng đế đã sinh tạo ra họ như là người đồng tính. Thày có nhận xét gì về điều này?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đón nhận cơ hội được bình luận về một đề tài đã gây rất nhiều bối rối và chia rẽ trong xã hội. Sự chia rẽ và hiềm khích thật là không cần thiết và chỉ có thề xoa dịu được qua sự hiểu biết đúng đắn. Ta có thể nói với con một cách tuyệt đối chắc chắn là Thượng đế không bao giờ tạo ra linh hồn nào là một linh hồn đồng tính luyến ái. Lý do là vì Thượng đế không tạo ra linh hồn.

Để hiểu được điều này, con cần suy ngẫm những giáo lý của ta về mối quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và cỗ xe 4 lớp hay cỗ xe linh hồn. Một khi con lãnh hội những giáo lý này, con sẽ thấy Hiện diện TA LÀ không chỉ là nam hay là nữ mà mang sẵn cả hai phẩm cách. Cũng vậy, cái Ta Biết không là nam hay nữ bởi vì nó là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không mang một sự phân biệt nào cả – nó đã được tạo ra để làm cánh cửa mở, làm tấm kính trong suốt cho Hiện diện TA LÀ.

Cho nên toàn bộ vấn đề tình dục của con người chỉ hiện diện ở cấp độ của cỗ xe linh hồn gồm có 4 lớp. Và như ta đã giải thích, cỗ xe này không do Thượng đế tạo ra: nó do cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu đạt qua trung gian một thân xác vật lý. Hơn nữa, đối với hầu hết mọi người, cỗ xe linh hồn được con người tạo ra do họ đã chọn bước vào tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con chỉ có thể xem mình là một sinh thể tách biệt bằng cách bước vào tấm màn của nhị nguyên – có nghĩa là bây giờ con nhìn mọi thứ như là những đối cực nhị nguyên hay những cặp đối lập với nhau.    

Ở đây con cần bén nhậy mà nhận ra một sự phân biệt vi tế. Chúng tôi đã có giảng rằng hầu tạo ra thế giới hình tướng khác biệt, Đấng Sáng tạo nhất nguyên đã tự biểu hiện thành hai thái cực. Chúng tôi đã gọi đó là lực lan ra và lực co lại, nhưng để mọi người có thể nắm bắt khái niệm này dễ dàng hơn, chúng tôi cũng có gọi đó là nam và nữ. Con cần lưu ý, ngôn từ trên địa cầu không phải lúc nào cũng có khả năng bộc lộ đầy đủ những khái niệm tâm linh như thế, có nghĩa là con không thể chuyển bừa bãi khái niệm tình dục của con người vào hai thái cực cơ bản của Thượng đế. Và đương nhiên, Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ hoàn toàn vượt khỏi mọi ý niệm giới tính của con người.       

Con cũng cần lưu ý rằng bản chất của tâm thức nhị nguyên và tự ngã là luôn luôn muốn ép uổng đặc tính của con người vào Thượng đế. Tự ngã sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng một tâm ảnh về thế giới, rồi phóng chiếu tâm ảnh đó lên mọi thứ. Tự ngã tìm kiếm sự minh chứng tối hậu cho tâm ảnh của nó bằng cách phóng chiếu tâm ảnh này lên Thượng đế, và nó bảo rằng chính Thượng đế đã tạo ra tâm ảnh đó, hay rằng tâm ảnh không phải là tâm ảnh mà chính là thực tại của Thượng đế. Đây chính là cơ sở của hầu hết mọi tôn giáo cũng như của mọi xung đột giữa các tôn giáo.

Cho nên quả thực là có hai thái cực, nhưng tự ngã và tâm thức nhị nguyên không thể nhìn ra được hai thái cực đó trong dạng thuần khiết. Tâm thức nhị nguyên chỉ làm được một chuyện là làm tha hóa hai phẩm cách đó, nghĩa là thay vì bổ sung cho nhau thì bây giờ cả hai có vẻ chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Rồi tự ngã phóng chiếu hai đối cực tha hóa này lên nguyên bản mà cứ tưởng đó thật sự là bản chất của Thượng đế.    

Vì vậy, đúng là có hai thái cức thiêng liêng, nhưng cả hai đều vượt khỏi và vượt lên trên mọi ý niệm giới tính của con người. Điều này có nghĩa là con không thể hiểu được trọn vẹn tình dục con người trừ khi con cũng hiểu biến cố sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, và sự sa ngã này đã tác động sâu đậm như thế nào lên mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu.

Như chúng tôi có giảng dạy, ở nguyên thủy, địa cầu do các Elohim tạo ra vốn ở một trạng thái cao hơn, tinh khiết hơn so với bây giờ. Ngay cả vật chất cũng không dày đặc, nghĩa là những thể mà các con gọi là vật thể vật lý cũng không dày đặc như bây giờ. Khái niệm Vườn Eden biểu tượng cho một trạng thái nơi các dòng sống có thể đáp ứng mọi nhu cầu của mình duy qua quyền năng của tâm mình. 

Trong trạng thái nguyên thủy đó, xác thân không có bộ phận sinh dục. Xác thân nguyên thủy được tạo bằng năng lượng cao tần hơn cơ thể vật lý của các con, và xác thân được làm bằng năng lượng tuy là vẫn có thể chất. Vào thời đó không có nhu cầu tạo ra xác thân mới ở cùng một độ rung, bởi vì “vật chất” – hay thể chất – rất thanh nhẹ, và vì vậy chỉ cần vận dụng quyền năng tâm trí là có thể tạo ra xác thân mới. Các dòng sống trong Vườn Eden vẫn khác biệt trong phẩm cách nam và nữ, tuy nhiên điều này vượt ngoài mọi giới tính vật lý.    

Sau khi sa ngã vào nhị nguyên, vật chất đặc lại – theo đúng nghĩa đen như vậy. Cùng lúc, các dòng sống đi vào nhị nguyên cũng đánh mất quyền năng tâm trí đang cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu sinh sống cho mình. Sự kiện này được phác họa qua câu chuyện của Adam và Eva bị đuổi ra khỏi Địa đàng, và thay vì được tha hồ hái quả trên cây thì bây giờ họ phải “đổ mồ hôi trán” mà tự nuôi lấy thân mình.      

Quá trình sa ngã này khá phức tạp, cho nên để khỏi lạc đề, ta sẽ nói giản dị là chỉ sau khi bị sa ngã vào nhị nguyên, con người mới phải khoác lấy cái xác thân dày đặc mà ngày nay các con gọi là cơ thể vật lý. Xác thân này có bộ phận sinh dục do quá trình tiến hóa, như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày. Nói cách khác, chỉ do sự sa ngã vào tâm thức nhị nguyên mà cơ thể vật lý mới được tạo ra nơi cõi vật lý, và do đó sự sinh sản vật lý mới trở nên cần thiết.

Sự thay đổi này tác động sâu xa đến tình trạng của cái Ta Biết, bởi vì bây giờ nó phải tạo ra một cỗ xe linh hồn thì nó mới hội nhập được với cơ thể vật lý dày đặc đó. Trước khi sa ngã, hoàn toàn không có nhu cầu một cỗ xe linh hồn mang giới tính nam hay nữ. Nhưng sau cuộc sa ngã thì sự phân biệt thành cơ thể nam hay nữ trở thành yếu tố định đoạt cơ thể con người.    

Như ta có giảng dạy, con có bốn tầng của tâm, bốn thể phàm. Thể cao nhất là thể bản sắc nơi con xác định ý niệm cơ bản về cái ta của con trong thế giới vật chất. Cho nên sau khi sa ngã, sự phân biệt giữa nam và nữ đã nằm sẵn ngay nơi tầng bản sắc. Hệ quả là ngay khi dòng sống bước vào hiện thân vật lý, nó bắt đầu tự nhận diện nó thuộc về giới tính nào rồi. Chẳng hạn, một dòng sống có thể sống nhiều kiếp trong một cơ thể nam giới. Có nghĩa là đối với một dòng sống tương đối “mới”, giới tính sẽ trở thành một thành phần chủ yếu trong bản sắc của nó, và nó thường sẽ tự nhận mình là một linh hồn có giới tính nam hay nữ.

Con hãy ghi nhận một điểm sâu sắc ở đây. Sự kiện cơ thể có sự khác biệt giữa nam và nữ có thể là một điểm gợi ý cho con về tâm thức nhị nguyên. Như ta đã nói, tâm thức nhi nguyên đã làm tha hóa hai thái cực thiêng liêng nguyên thủy, tạo ra sự mất cân bằng. Sự tha hóa này được thể hiện trong cơ thể qua bộ phận sinh dục nam và nữ, và sự sống mới chỉ có thể ra đời khi cả hai cơ thể nam lẫn nữ kết hợp với nhau. Ý nghĩa sâu kín là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con trở thành một sinh thể không trọn vẹn. Trong nhị nguyên, con sẽ không bao giờ được trọn vẹn, và đó là lý do người ta luôn luôn cảm thấy lẻ loi, thiếu sót. Sự kiện con phải kết hợp với một cơ thể khác phái để tạo ra sự sống mới là biểu tượng cho con thấy con phải tìm được một sự cân bằng thiêng liêng giữa hai phẩm cách nam và nữ hầu đạt đến trạng thái viên mãn tạo sinh ra sự sống mới trong tâm thức Ki-tô. Con cần kết hợp lại hai thứ mà con hiện xem là đối cực và giải quyết sự xung đột giữa cả hai. Cho tới khi nào con còn thiếu cân bằng thì con sẽ không thể thăng vượt đươc cõi vật lý, là nơi con phải làm lụng “đổ mồ hôi trán”.

Mục đích cuộc sống là tăng trưởng tâm thức, dẫn đến những tầng ngày càng cao hơn trong tâm thức Ki-tô, cho đến khi con sẽ thượng thăng vĩnh viễn khỏi địa cầu. Một khía cạnh của tiến trình tăng trưởng này là con phải thăng vượt ý niệm bản sắc thế phàm, tất nhiên kể cả tình dục con người. Ta cũng biết chúng tôi thường hay hiện ra là chân sư thăng thiên nam hay nữ, và nói chung chúng tôi hay chọn biểu hiện những đặc tính chủ yếu là nam hay nữ. Tuy nhiên những đặc tính này của chúng tôi vượt khỏi mọi giới tính nơi trần thế, và điều này có nghĩa là con phải thăng vượt tình dục nhị nguyên của con người thì con mới thăng thiên được.

Nói cách khác, con có thể khoác một cơ thể nam trong kiếp chót của con trước khi thăng thiên, nhưng con sẽ không thăng thiên được nếu con tự xem mình là một linh hồn phái nam. Con sẽ chỉ thăng thiên khi nào con đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa hai phẩm cách thiêng liêng nam và nữ hầu con không đồng hóa với một phẩm cách nào. Vậy thì làm thế nào con sẽ đạt được sự cân bằng này? Phải rồi, bằng cách con thăng vượt mọi khái niệm nhị nguyên thế phàm của nam lẫn nữ.

Khi dòng sống trưởng thành hơn, y sẽ phải tu thân để khắc phục sự đồng hóa nguyên thủy của y với một giới tính. Có nghĩa là một dòng sống đang trưởng thành sẽ sống qua một giai đoạn khi y sẽ luân phiên đầu thai trong cơ thể nam và nữ. Một số dòng sống sẽ thay đổi giới tính mỗi kiếp đầu thai, trong khi đó thì một số khác sẽ đầu thai ba kiếp liền trong một giới tính rồi mới thay đổi. Nhưng con nắm được vấn đề chứ, phải không? Mục đích là để giúp con vượt qua sự tự đồng hóa với tình dục con người hầu con không định nghĩa bản sắc của mình dựa trên giới tính nữa, mà con xem mình là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi giới tính con người – mặc dù con vẫn tự biểu đạt qua trung gian một cơ thể nam hay nữ.  

Vấn đề là đối với một số dòng sống, việc vượt qua giới tính của mình tương đối dễ dàng, trong khi đối với một số khác, việc này khó hơn nhiều. Thật ra đối với một số dòng sống, đó sẽ là việc cuối cùng họ sẽ phải vượt qua trước khi thăng thiên. Có nghĩa là, chẳng hạn, sẽ có khả năng một dòng sống khoác lấy một cơ thể nam trong khi chưa buông bỏ được sự đồng hóa với một linh hồn nữ. Nói cách khác, họ mang cơ thể nam nhưng vẫn duy trì sự hấp dẫn tình dục đối với cơ thể nam mà họ đem theo từ tiền kiếp. Điều này dẫn đến một số vấn đề mà họ gặp phải trong tình dục, từ lưỡng tính (bisexuality), đổi giới tính (transsexuality) cho đến đồng tính (homosexuality).    

Điều khiến cho toàn bộ cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái trở nên rắc rối là vì trong một thời gian rất dài, những người theo tôn giáo đã định nghĩa đồng tính là một tội lỗi. Điều này khiến cho một số dòng sống phải cố bênh vực sự đồng tính của mình, một phần vì họ nhận ra là họ đã sinh ra với khuynh hướng đó, và phần khác là do lòng tự ái không muốn buông bỏ tình trạng này. Nhưng điều ta muốn nói ở đây là để tăng trưởng tâm linh và thăng thiên, con phải vượt lên trên TẤT CẢ mọi loại tình dục của con người. Cho dù con đồng tính hay dị tính (heterosexual), thì con vẫn phải bỏ lại đằng sau cái xu hướng tự nhận diện mình theo giới tính của cơ thể vật lý. Và khi nào con còn tìm cách biện hộ cho tình dục của con trong một cuộc tranh cãi nhị nguyên chống lại người khác – và những người này thì cũng bị kẹt trong nhị nguyên y như con – con sẽ không thể bỏ nó lại đằng sau.  

Con không thể thăng vượt một cái gì mà con cố bênh vực. Con chỉ có thể thăng vượt được một cách mà thôi, là buông bỏ tất cả mọi sự đồng hóa với một điều kiện nào đó. 

Kim Michaels: Đây là một lời giải thích vô cùng thâm sâu về một vấn đế đã khiến cho rất nhiều người đạo Cơ đốc bị bối rối. Vì họ nghĩ rằng linh hồn là do Thượng đế tạo ra, cho nên họ không thể hiểu được tại sao họ lại đồng tính nếu quả thật ngài đã không tạo ra người đồng tính? Điều này cũng giải thích tại sao nhiều người tin rằng họ có thể sinh ra là người đồng tính.

Giê-su: Sự lầm lẫn này bắt nguồn từ sự kiện giáo hội Cơ đốc chính thống cách đây 1500 năm đã quyết định nghiêm cấm và xem là tà giáo ý tưởng bảo rằng linh hồn đã tồn tại từ trước. Cho nên suốt 1500 năm trời, nền văn hóa phương Tây đã bị chi phối bởi một hệ tư tưởng, một hệ tín ngưỡng, bác bỏ luân hồi và đầu thai. Như ta có giải thích ở nhiều nơi trên trang mạng này, đây là một quyết định chính trị sai lầm đã gây ra biết bao nhầm lẫn trong thế giới phương Tây. Sự thật giản dị là nếu con không chấp nhận linh hồn đã tồn tại rất lâu trước khi nó hiển thị trong kiếp đầu thai này, thì sẽ có rất nhiều câu hỏi mà con không thể tìm được lời giải đáp ổn thỏa. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong vô số những câu hỏi như thế.

Có một sự hiểu lầm rất phổ biến về đồng tính cũng như về rất nhiều điều kiện khác của con người, cho rằng – trong một nghĩa nào đó – con người là nạn nhân của các điều kiện đó. Quá nhiều người tin rằng điều kiện đó là kết quả của một số yếu tố vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, là điều kiện bị áp đặt từ bên ngoài, và bây giờ mình không có chọn lựa nào khác hơn là phải chung sống với nó.

Đây là một lời ngụy biện. Đây là một lời gian dối. Đây là một trong những lời gian dối hiểm độc nhất có thể tìm thấy trên địa cầu – là lời gian dối rằng con người là nạn nhân của một số thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thay vì chính mình là tác giả của số phận của mình.   

Một trong những điểm chủ yếu mà ta cố gắng trình bày trên trang mạng này là chính con người do sự chọn lựa của mình đã tạo ra những điều kiện hiện tại. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết, đơn giản là ngài sẽ không thể thay đổi được tình trạng khốn khổ hiện nay trên địa cầu. Nổi khốn khổ này chỉ có thể được xóa bỏ một khi con người, một cách ý thức và cố tình, khởi sự có được những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ.

Rõ ràng, hầu hết mọi người đều không ý thức được những chọn lựa mà mình đã có trong quá khứ, và do đó họ không thấy được là họ đã tạo ra hoàn cảnh hiện thời của họ. Ta vô cùng thương cảm loài người và ta hiểu rõ tại sao con người lại cảm thấy mình là nạn nhân. Tuy nhiên mục đích của trang web này – cũng như của mọi giáo lý tâm linh chân truyền khác – là để giúp con người bước lên cao hơn trong tâm thức. Sự thật tàn bạo là con không thể tăng triển tâm linh khi nào con vẫn còn xem con là nạn nhân.    

Con chỉ có thể tăng triển bằng cách nhận ra rằng con có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Nhưng sự công nhận này chỉ đến được khi nào con chấp nhận rằng hoàn cảnh của con là kết quả những lựa chọn đã qua bởi cái Ta Biết của con. Chỉ khi nào con chấp nhận điều này thì con mới có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Con có thể làm được chuyện này bằng cách lựa chọn tốt hơn, và chìa khóa để chọn lựa tốt hơn là giải quyết những tin tưởng lầm lạc cùng những vết thương tâm lý đã khiến con có những chọn lựa gây giới hạn trong quá khứ.  

Kim Michaels: Như vậy có phải chăng là thày nói rằng nếu không chấp nhận luân hồi và đầu thai thì sẽ không thể giải thích được nguyên nhân của đồng tính?

Giê-su: Đồng tính luyến ái phát xuất từ một lựa chọn của cái Ta Biết. Lựa chọn này đã không xảy ra trong bụng mẹ hay ngay cả trong kiếp này, mà đã xảy ra cách đây rất lâu, và đối với hầu hết mọi dòng sống, lựa chọn đó đã xảy ra ngay sau khi dòng sống nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn luôn luôn là một tiến trình lần hồi. Nó lần hồi đến độ đa số dòng sống không nhận thức được là nó đang diễn ra. Thực tế là một số dòng sống hiện vẫn chưa nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên, nhiều dòng sống sẽ trải qua một giây phút sáng ngộ khi họ nhận ra rằng họ đã đánh mất một cái gì đó mà trước kia họ vốn có. Họ có một “kinh nghiệm chấn động” khi họ nhận ra là họ đã bị rớt khỏi trạng thái ân sủng, và vấn đề giờ đây là họ phải cần làm gì để đáp ứng lại trải nghiệm đó.     

Khi một dòng sống nhận ra làm mình đã sa ngã, y có thể phản ứng nhiều cách. Một số dòng sống sẽ nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và họ cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn họ tới một trạng thái tâm thức cao hơn nơi họ bắt được liên lạc ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đây chính là con đường tâm linh mà ta mô tả suốt trang mạng này.

Một số dòng sống khác sẽ từ chối nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình, khiến họ phản ứng lại bằng hai cách, và cả hai cách đều có thể dẫn đến đồng tính luyến ái. Trong cách thứ nhất, một số đổ lỗi cho khía cạnh nữ trong bản chất của mình đã khiến cho mình sa ngã. Một trong những đặc tính của khía cạnh nữ là giúp con thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, thế nhưng khi con thích nghi quá trớn, con có thể làm tổn hại đến cá thể thiêng liêng của con, và đây chính là lý do khiến cho nhiều dòng sống rơi vào nhị nguyên. Sự thể này phát triển thành sự thù ghét khía cạnh nữ của Thượng đế, thù ghét Mẹ, và được trình chiếu ra thành sự thù ghét phụ nữ nói chung, hay một hình thức nhẹ hơn là sự cảm nhận tiêu cực về phụ nữ.

Sự thù ghét khía cạnh nữ này khiến cho cỗ xe linh hồn bị vỡ đôi. Linh hồn không thể viên mãn và quân bình được nếu không có sự phân cực đúng đắn giữa hai yếu tố nam và nữ trong bản chất của nó.   

Một số dòng sống dần dần cảm thấy ghê tởm nữ giới và họ thường chọn đầu thai làm người nam giới đồng tính. Một số khác nảy sinh mong muốn trừng phạt hay khuất phục nữ giới, và họ thường đầu thai làm những người nam dị tính có khuynh hướng săn lùng tình dục hoặc đề cao phái nam quá đáng. Trong những trường hợp cùng cực, họ có thể trở thành kẻ hiếp dâm hay thậm chí kẻ giết người hàng loạt. Hoặc đỡ hơn một chút, họ trở thành những kẻ săn lùng tình dục, sử dụng phụ nữ làm nô lệ cho mình – không cứ là để thoả mãn tình dục tức thì mà để trừng phạt phụ nữ. Xuyên qua các thời đại, tệ trạng này đã gây ra không biết bao nhiêu sự lạm đụng đối với phụ nữ.    

Trong cách thứ nhì, một số dòng sống cũng nhận ra rằng chính khía cạnh nữ của họ đã sa ngã, nhưng họ lại đổ lỗi cho khía cạnh nam của họ. Họ cho rằng khía cạnh nam này đáng lý đã phải ngăn chặn được khía cạnh nữ chạy theo thế gian. Và họ trở nên căm thù Cha, hay khía cạnh nam củaThượng đế. Họ đeo đuổi mong muốn trừng phạt khía cạnh nam, và điều này thường biểu hiện qua ý muốn trừng phạt phái nam hay bắt đàn ông phải nhận lỗi.

Một số những dòng sống này chọn đầu thai trong một cơ thể nữ và trở thành đồng tính nữ. Họ biểu lộ lòng căm thù đối với phái nam bằng cách quan hệ tình dục với phái nữ. Nhưng cũng có một số khác chọn đầu thai làm người nữ dị tính, và họ bỏ ra cả đời tìm cách trừng phạt hoặc khuất phục đàn ông. Họ thường sử dụng tình dục hay một số phương thức tâm lý nào khác để khiến cho đàn ông cảm thấy mình thấp kém hơn, hay mình có lỗi. Suốt dòng lịch sử, tệ trạng này đã gây ra rất nhiều thù nghịch giữa hai phái cũng như rất nhiều lạm dụng, chủ yếu là sự lạm dụng tâm lý đối với phái nam.     

Con cần lưu ý là nhiều dòng sống đã cư ngụ trên địa cầu này từ rất lâu đời, cho nên họ đã cơ hội phát triển những nét tâm lý vô cùng phức tạp, qua đó họ đã chôn vùi phản ứng của họ đối với biến cố sa ngã dưới nhiều lớp tin tưởng và vết thương tâm lý. Cho nên khi một người tự xem mình là đồng tính thì điều này cũng có thể mang nhiều yếu tố khác nữa. Và như ta giải thích ở trên, yếu tố thông thường nhất là sự bối rối, lầm lạc của dòng sống đối với bản sắc giới tính của mình, phát xuất từ một bản sắc đã bị đông cứng lại từ nhiều tiền kiếp.   

Nguyên nhân của đồng tính phức tạp hơn mọi điều có thể được trình bày trừ khi viết ra thành nguyên một bộ sách. Cho nên mục đích chính của ta ở đây là chỉ ra cho con thấy rằng cái tiến trình khiến cho một dòng sống tự xem mình là đồng tính đã khởi đầu từ rất lâu trước kia khi y lần đầu tiên phản ứng lại sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.   

Kim Michaels: Vậy có vẻ như đồng tính luyến ái đã không do Thượng đế sinh tạo và do đó không phải là một điều tự nhiên. Thày nghĩ gì khi nhiều người theo Cơ đốc giáo chính thống gán cho đó là một tội lỗi, một chuyện ghê tởm, và họ còn cố khiến cho người đồng tính cảm thấy mình có tội?

Giê-su: Một trong những diễn biến đáng buồn nhất trong 2000 năm qua là sự kiện có quá nhiều giáo hội Cơ đốc đã quên mất – và rời bỏ – một trong những tinh túy trong giáo lý tâm linh của ta, đó là tình thương vô điều kiện. Ta đã chẳng bảo mọi người đạo Ki-tô phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình hay sao? Ta đã chẳng khuyên họ hãy đừng phán xét? Vậy thì tại sao nhiều tín hữu Cơ đốc lại phán xét anh chị em của mình và gán cho họ một tội nặng hơn cả mọi tội khác?    

Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, Giáo hội Công giáo sơ khai đã không đi đúng chủ ý cùng giáo lý nguyên thủy của ta. Vì lý do chính trị, rất nhiều điểm đã bị loại bỏ khỏi giáo lý nguyên thủy của ta, và vì thế Giáo hội không còn khả năng giải đáp rất nhiều câu hỏi mà các tín hữu đặt ra về cuộc sống tâm linh. Các giáo điều chính thống, tự nhận là không thể sai sót, thật sự đã không đem lại được nhiều câu trả lời cho người tầm đạo. Vì lý đo đó, Giáo hội đã rời xa viễn kiến ban đầu của ta về một giáo hội sẽ đem lại những lời giải xác thực và chân chính cho mọi người. Thay vào đó, Giáo hội chỉ đưa ra được một số giáo điều, rồi lại tìm cách doạ nạt để không ai còn dám đặt ra những câu hỏi mà giáo điều chính thức không có khả năng giải thích.

Dần dà, tình trạng này dẫn đến một không khí sợ hãi đầy mặc cảm tội lỗi trong giáo hội. Hiển nhiên điều này đã có nhiều tác dụng tiêu cực, và trong bối cảnh đó, hậu quả là các giáo hội Cơ đốc đã không có phương cách hữu hiệu nào để giúp đỡ người đồng tính. Thay vào đó, giáo hội chỉ còn cách gắn một cái nhãn tội lỗi tày trời cho họ, rồi tìm cách dùng sợ hãi và mặc cảm tội lỗi để khiến họ phải bỏ đi những hành vì đồng tính vỏ ngoài của mình. Tất nhiên, cách trấn áp như vậy không làm gì để giúp cho người đồng tính giải quyết sự mất cân bằng nội tâm đã gây ra đồng tính.

Như ta trình bày ở trên, vấn đề chủ yếu với đồng tính luyến ái là dòng sống không đạt được sự quân bình đúng đắn, sự phân cực đúng đắn, giữa hai khía cạnh nam và nữ, và như vậy, y tự nhận diện mình dựa trên giới tính của cơ thể vật lý. Đúng là đồng tính là một tình trạng bất thường không được Thượng đế tạo ra, và do đó, việc lợi ích nhất cho dòng sống là cố gắng chữa lành. Tuy nhiên sự chữa lành đích thực chỉ có thể xảy ra một khi có sự hiểu biết, tức là khi dòng sống khởi sự tìm hiểu quá trình đã dẫn đến trạng thái tâm thức hiện tại rồi lấy một quyết định ý thức rằng mình sẽ nhận trách nhiệm về tình trạng đó và có những chọn lựa để mà cải thiện tình trạng.   

Ngược lại với chủ ý nguyên thủy của ta, hầu hết mọi giáo hội Cơ đốc đã không có khả năng đem lại được một sự hiểu biết cao hơn về cuộc sống tâm linh, do đó đã không làm sao giúp chữa lành tín hữu của mình, cho dù là trong vấn đề đồng tính hay bất cứ một vấn đề mất cân bằng nào khác gây đau khổ cho con người – kể cả những khổ đau nơi những người bị mất cân bằng trong tình dục dị tính. Thay vào đó, các giáo hội Cơ đốc đã tung đòn sợ hãi pha trộn với mặc cảm tội lỗi, khiến cho con người phải kìm nén sự mất cân bằng của mình, hay thậm chí phủ nhận cả sự mất cân bằng đó.    

Hãy cho phép ta nói thật rõ như ta vẫn làm suốt trang mạng này: con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi là dòng sống phải đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Để đạt được tâm thức này, y phải vượt qua những vết thương tâm lý cùng những tin tưởng sai lầm đã tạo ra vết thương đó ở ban đầu. Công việc này chỉ có thể hoàn thành qua sự hiểu biết ý thức, mà nhờ đó y có thể có những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ. Sự hiểu biết ý thức này, tiến trình chữa lành ý thức này, không có hy vọng nào xảy ra khi nào y vẫn còn làm ngơ hay phủ nhận những mất cân bằng của mình.

Hàng triệu tín đồ đạo Cơ đốc đã khiến mình tin rằng họ sẽ tự động được cứu rỗi bằng cách gia nhập một hội thánh vỏ ngoài, tin tưởng vào một giáo lý vỏ ngoài và tuân thủ các lề lối của giáo hội. Đây là một lời gian dối. Như ta đã giải thích nhiều lần, không hề có sự cứu rỗi nào xảy ra một cách tự động.  

Thực tế đáng buồn là hàng triệu tín đồ Cơ đốc cũng mang cùng những mất cân bằng giữa khía cạnh nam và nữ y hệt như những người công khai đồng tính luyến ái. Rất nhiều những tín đồ này đã chỉ đơn giản dồn nén hay phủ nhận những mất cân bằng đó. Ta đã nhìn thấy quá nhiều nam tín hữu đạo Cơ đốc lên án kịch liệt sự đồng tính nơi người khác, nhưng chính họ lại không nhận ra sự căm ghét phụ nữ ở nơi họ khiến họ đã lấn át hay thậm chí ngược đãi vợ mình. Họ cho rằng bởi vì họ có một đời sống ngoan đạo bề ngoài thì họ không hề mang tội lỗi. Nhưng sự thật là chính họ cũng mang cùng sự mất quân bình như những người mà họ lên án.   

Ta thấy nhiều phụ nữ đạo Cơ đốc cũng công khai lên án người đồng tính, thế nhưng họ cũng bị mất quân bình khi họ khuynh đảo chồng mình qua mặc cảm tội lỗi hay sự từ chối chiếu cố tình dục. Quả thật đây là một ví dụ của những kẻ không thấy được cái xà trong mắt mình.

Kim Michaels: Còn phe bên kia cuộc tranh luận thì thế nào, chẳng hạn như phong trào đòi quyền cho người đồng tính, hay người tranh đấu để xã hội công nhận đồng tính luyến ái là bình thường, hợp pháp?

Giê-su: Ta đã nỗ lực giảng giải qua sự hiểu biết cao hơn và không sử dụng sợ hãi hay mặc cảm tội lỗi, rằng đồng tính không phải là do Thượng đế tạo ra. Vì vậy, đồng tính không là chuyện tự nhiên, và sẽ thật là đáng tiếc nếu đồng tính trở thành một chuyện bình thường trong xã hội, hay xã hội xem đó là chuyện bình thường.

Sự thật đơn giản, một sự thật mà không một luận lý nào của con người có thể thay đổi được, là dòng sống sẽ được lợi ích nhất nếu y chữa lành sự mất cân bằng đã tạo ra tình trạng đồng tính (cũng như mọi sự mất cân bằng khác).

Việc tranh đấu cho đồng tính luyến ái được công nhận là một lối sống bình thường hay tự nhiên, sẽ không giúp cho dòng sống chữa lành. Nó sẽ chỉ khiến cho y càng trở nên cố định trong lối sống của mình và đi giật lùi trên con đường tâm linh. Ta là một vị thày tâm linh, và ta không tán thành bất kỳ biện pháp nào sẽ ngăn trở bước tiến tâm linh của con người.

Kim Nichaels: Thày nghĩ gì về lời tuyên bố của một số tín hữu Cơ đốc cho rằng đồng tính là một cái tội sẽ bị Thượng đế trừng phạt?

Giê-su: Nếu con đọc kinh Cựu ước, con sẽ tìm thấy trong đó có những nhóm người đã đánh mất sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng về các Quy luật của Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, Thượng đế đã phải phái xuống một vị tiên tri để đánh thức họ dậy hầu họ nhìn thấy cách cư xử điên rồ của họ, nhưng bởi vì trạng thái tâm thức của con người thời Cựu ước không cao lắm, cho nên vị tiên tri thường phải bảo rằng nếu họ không thay đổi cách sống thì họ sẽ bị Thượng đế trừng phạt.

Như ta có giải thích ở nơi khác, đời sống tâm linh trên hành tinh này đã có tiến bộ, và con người thời nay lẽ ra phải hiểu biết rành mạch hơn về các quy luật tâm linh cũng như vật chất mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo vũ trụ. Nếu con người phát triển được hiểu biết này thì họ cũng sẽ nhận ra rằng Thượng đế không hề trừng phạt con người. Chính con người tự trừng phạt mình do đã vi phạm luật của ngài. Và con người vi phạm các quy luật này vì họ đã bước xuống một trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi họ không còn nhận rõ được các quy luật này nữa. Họ không thấy được là lợi ích lớn nhất cho họ – là chính tư lợi của họ nếu họ sáng suốt – là họ cần tuân thủ các quy luật đó.

Nhưng vì họ đã bước xuống nhị nguyên, họ cứ tưởng rằng họ có thể định đoạt mọi thứ theo cách nhìn tương đối của họ. Họ mất hẳn liên lạc với các quy luật thiêng liêng mà cứ đinh ninh rằng mình sẽ không bị hề hần gì khi mình vi phạm luật của Thượng đế. Khi con người chìm sâu hơn vào trạng thái tâm thức này, họ thường bắt đầu dựng lên một hệ tư tưởng đi ngược lại quy luật Thượng đế, và họ cảm thấy hệ tư tưởng này cũng hữu lý lắm chứ. Nhưng hệ quả cùng cực là khi họ khiến cho xã hội phải chính thức công nhận một hệ tư tưởng không phù hợp với quy luật Thượng đế.   

Con cần lưu ý, chuyện này có thể xảy ra cho bất kỳ nhóm người nào. Chẳng hạn, một quy luật của Thượng đế là luật yêu thương. Như ta trình bày ở trên, nhiều tín hữu Cơ đốc đã quên mất và đi lạc khỏi quy luật này, và vì vậy họ đã dựng lên một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, mặc cảm và xét đoán. Nhưng ở phía bên kia cũng có một nhóm người tuy hiểu được quy luật yêu thương, nhưng lại không hiểu rõ một số quy luật khác, để rồi nhân danh tình thương, họ bắt đầu tin rằng xã hội phải dung thứ hầu hết mọi loại hành vi cư xử.  

Điểm ta muốn nói là đồng tính luyến ái không phải là tự nhiên, và do đó nó không phù hợp với các quy luật củaThượng đế. Hiển nhiên, một xã hội có thể đi ra ngoài quy luật Thượng đế để mà ban hành những đạo luật dân sự vi phạm trực tiếp luật của Thượng đế. Phải, điều này đã từng xảy ra với rất nhiều xã hội trong quá khứ, tuy nhiên ta cần nói rõ với con rằng tất cả mọi xã hội làm như vậy đã đều tự hủy diệt. Con không thể xây dựng một xã hội ổn định và lâu dài trừ khi xã hội đó hòa hợp với quy luật của Thượng đế. Nếu con đi ngược lại thì chắc chắn có ngày con sẽ phải thức tỉnh để đối mặt với một sự thật phũ phàng, và xã hội của con sẽ bắt đầu tự hủy – hoặc từ bên trong, hoặc từ bên ngoài do kẻ ngoại xâm. Đây chính là lý do mà nhiều xã hội chẳng hạn như Đế quốc La Mã, đã phải sụp đổ dưới sức nặng của chính nó khi nó lạm dụng quy luật và năng lượng của Thượng đế.   

Tuy nhiên con cũng cần lưu ý quy luật cơ bản nhất của Thượng đế, là quyền tự quyết. Mọi dòng sống đều bước đi trên con đường trở về với Thượng đế. Họ bước đi bằng cách thực hiện quyền tự quyết của mình, và đối với một số dòng sống, họ đã dùng quyền tự quyết để tự nhận mình là người đồng tính. Như ta đã giải thích, đây là một tình trạng mất quân bình, nhưng hầu hết mọi người khác cũng đều ở trong một tình trạng mất quân bình nào đó. Cho nên ta sẽ không như hầu hết người đạo Cơ đốc định nghĩa đồng tính luyến ái là một tội lỗi – chứ chưa nói đến một tội tày trời.

Một lần nữa, mọi người đều có toàn quyền đi những bước mà họ cần đi để vượt thăng một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu một dòng sống cần xem mình là người đồng tính trong một hay vài ba kiếp, thì điều này không có gì tệ hơn hay tốt hơn rất nhiều những sự mất cân bằng khác của con người. Tự ngã luôn luôn định nghĩa những ai khác mình đều là xấu cả, và cho tới khi mình nhìn thấu được và vượt qua xu hướng này thì con người không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là tại sao ta bảo mọi người đừng nên xét đoán dựa trên vẻ ngoài. Đồng tính luyến ái chỉ đơn giản là một vẻ ngoài mà cái Ta Biết đã chọn khoác lên, và rốt cuột thì hầu hết mọi dòng sống cũng sẽ có ngày chọn cởi nó ra.   

Kim Michaels: Vậy thì hình như thày đang nói rằng cả hai bên đều không nắm được sự thật trọn vẹn trong vấn đề này?

Giê-su: Như ta có giải thích trong bài giảng về sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, gần như bất kỳ cuộc tranh luận nào cũng bị phân ra làm hai đối cực. Trong nhiều trường hợp, cả hai đối cực đều do các thế lực muốn thao túng xã hội định đoạt. Vấn đề là rất nhiều người tốt lành lại bị rơi vào bẫy của một trong hai đối cực, và điều quan trọng là con cần hiểu tại sao.

Ta muốn nói thật rõ là ta không hề lên án hay xét đoán một ai cho dù cách cư xử bề ngoài hay những tin tưởng của họ có là gì đi nữa. Do đó ta không lên án hay phán xét những ai tham gia vào cuộc tranh luận này, bất kể họ đứng bên phe nào. Nhưng ta cũng thấy rất rõ rằng cả hai bên đều tiếp cận vấn đề này một cách mất quân bình. Sự thể này xảy ra là vì có quá nhiều người không đạt được sự quân bình đúng đắn giữa ba phẩm cách cơ bản của Thượng đế, là quyền năng, minh triết và tình thương.

Ta đã có nói về sự kiện nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đi trệch ra ngoài quy luật của tình thương. Điều xảy ra cho nhiều người là họ đã phát triển một sự hiểu biết và một lòng tôn sùng khía cạnh quyền năng của Thượng đế. Họ tôn sùng các quy luật của Thượng đế và họ mong muốn xã hội phải tuân thủ các quy luật này y như cách của họ nhìn xuyên qua giáo lý hiện thời của đạo Cơ đốc. Nhưng tiếc thay, họ không nhận ra là giáo lý này thật thiếu sót, và trong nhiều trường hợp lại còn không phù hợp cả với quy luật của Thượng đế, mà rõ ràng nhất là tình yêu của Thượng đế. Những tín hữu này thấy rõ đồng tính vi phạm luật Thượng đế – một quan điểm đúng đắn – nhưng bởi vì họ không đủ tôn sùng tình yêu Thượng đế, cho nên họ biến quan điểm của họ thành một thái độ phán xét đối với những ai công khai nhìn nhận xu hướng đồng tính của mình.

Ở bên kia cuộc tranh luận, con cũng tìm thấy nhiều người tốt lành đã phát triển một sự hiểu biết sâu xa và sự tôn sùng khía cạnh tình yêu Thượng đế. Họ thực sự hiểu được nhu cầu phải yêu thương người lận cận như chính mình. Thế nhưng vì không đủ lãnh hội khía cạnh quyền năng của Thượng đế, cho nên họ cũng rơi vào cái bẫy là cứ đinh ninh rằng tình thương vô điều kiện có nghĩa là sự chấp nhận bừa bãi mọi cách hành xử trong đời. Họ nghĩ rằng họ phải dung thứ mọi người cho dù người đó đang rõ ràng vi phạm quy luật Thượng đế.

Cách duy nhất có tiềm năng kéo cuộc tranh luận ra khỏi hai đối cực nói trên và đưa trở về điểm thăng bằng là phải có nhiều người hơn phát triển được sự tôn sùng đối với khía cạnh minh triết của Thượng đế. Chính qua khía cạnh này mà con người mới có khả năng phát triển một sự hiểu biết cho phép họ đứng ngoài cả hai cực đoan. Vì thế mới có câu vô cùng quan trọng: “Hãy sử dụng mọi thứ mà con có để được sự hiểu biết” (Proverbs 4:7).

Một cách tiếp cận cân bằng cho vấn đề này là nhìn nhận đồng tính luyến ái là một điều không tự nhiên. Đó là một tình trạng gây ra bởi sự mất quân bình nơi dòng sống. Không một dòng sống nào có thể đạt được hạnh phúc tối hậu và sự viên mãn tâm linh khi còn duy trì sự mất quân bình đó. Vì vậy, một dòng sống chân thành nỗ lực phát triển tâm linh cần phải nhìn nhận là mình có nhu cầu chữa lành sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ của mình. Một khi đã nhìn nhận và chấp nhận, con cũng sẽ nhận ra cùng sự mất quân bình đó nơi nhiều dòng sống khác chứ không cứ chỉ nơi những người đồng tính công khai. Thật ra, nhiều dòng sống không có khuynh hướng đồng tính cũng bị mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ.   

Một khi con hiểu ra điều này, con cũng sẽ hiểu là việc kiến tạo một xã hội nơi đồng tính luyến ái được công nhận hay hợp pháp hóa, không phải là việc đúng đắn. Tuy nhiên con cũng nhận ra rằng một xã hội phán xét, lên án hay phân biệt đối xử đối với các xu hướng tình dục của con người, cũng không đúng đắn. Nói cách khác, một xã hội lý tưởng sẽ không hợp pháp hóa và cũng không phân biệt đối xử người đồng tính.  

Ta thừa biết việc kiến tạo một xã hội như vậy có vẻ rất khó khăn. Nhưng nó khó khăn chỉ vì còn quá nhiều người bị mắc kẹt trong cái nhìn tương đối của tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, là một vị thày tâm linh, ta phải chỉ ra cho con thấy rằng giải pháp đích thực duy nhất cho các vấn đề mà nhân loại đang phải đối diện là phải phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự sống cũng như về bản chất tâm linh của mỗi con người. Sự hiểu biết cao hơn này là hy vọng duy nhất để xây dựng một thời đại tốt đẹp hơn, và đồng thời cũng ngăn cản nhân loại hủy diệt chính mình.

Kim Michaels: Con hiểu được quan tâm của thày là nhiều người bị rơi kẹt vào hai cực đoan. Tuy nhiên đối với con, dường như vấn đề trong cuộc tranh luận này không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết. Hình như có những người trong cả hai phe đều không sẵn lòng muốn đạt được hiểu biết cao hơn.

Giê-su: Đúng là như vậy. Quả thực là có những người không muốn thay đổi quan điểm cũng như lối sống của mình. Một số người sùng đạo không sẵn lòng thay đổi ý muốn phán xét mọi người theo tiêu chuẩn mà họ đã định ra. Họ tin như đinh đóng cột rằng tiêu chuẩn của họ là tiêu chuẩn của Thượng đế, vì thế cho nên họ hoàn toàn có lý khi phán xét mọi người theo tiêu chuẩn đó. Đây là cùng những người đã đóng đinh ta 2000 năm trước đây. Họ là những kẻ đặt luật không chịu bước vào con đường trung đạo của tâm thức Ki-tô, đồng thời lại muốn ngăn cản người khác bước vào.

Ta có thể nói cho con là có một số dòng sống đã từng giữ những chức vụ quyền lực trong đạo Do thái cách đây 2000 năm và đã sử dụng quyền lực nảy để đóng đinh ta. Ngày nay, cùng những dòng sống đó đang giữ chức vụ quyền lực trong các giáo hội Cơ đốc, và bây giờ họ sử dụng cách diễn giải của họ về giáo lý của ta để biện luận cho thái độ phán xét của họ.

Còn ở phe bên kia cuộc tranh luận, con sẽ tìm thấy những người biết rõ rằng đồng tính vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng họ không hề có ý muốn thay đổi lối sống hay đạt được sự hiểu biết cao hơn. Ngược lại là đằng khác, họ chọn lối sống đống tính như một hành vi thách thức Thượng đế, và họ muốn tiếp tục lối sống đó. Họ còn tuyển mộ thêm người mới vào làm miếng mồi ngon cho cuộc săn lùng tình dục của họ. Rồi họ muốn xã hội phải công nhận là họ được quyền sống công khai như vậy và trưng bày sự đồi trụy tình dục của họ.

Ta dư biết có những người như vậy, và ta dư biết tâm lý cùng phương thức hoạt động của họ. Ta cũng biết rõ ta không có nhiều hy vọng chạm được những người đó qua trang mạng này. Cho nên quan tâm lớn nhất của ta qua trang mạng này là cố chạm được những dòng sống có thể chạm được, là những dòng sống sẵn lòng đi tìm một sự hiểu biết cao hơn.  

Kim Michaels: Luật Tự quyết liên quan thế nào đến điều đó? Ý con muốn nói là, liệu một linh hồn có được quyền do Thượng đế ban cho để chọn lối sống đồng tính luyến ái?

Giê-su: Ta có nói suốt trang mạng này rằng Luật Tự quyết là định luật tối thượng cho vũ trụ vật chất. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho mọi người, và do đó họ có quyền làm bất cứ gì họ muốn, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con chỉ có quyền tự quyết nếu con có thể hoàn toàn tự do chọn lựa bất cứ điều gì mà con có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, Luật Tự quyết không đứng một mình. Luật Tự quyết được ban ra trong thế thái cực với một định luật khác, là Luật Nhân quả. Đây là quy luật mà trong Kinh thánh có nói đến qua câu “người nào gieo gì thì sẽ gặt nấy”. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả.  

Theo Luật Tự quyết, một người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Theo Luật Nhân quả, không một người nào có thể thoát khỏi hậu quả do hành vi của mình gây ra. Như ta vẫn cố giải thích trên trang mạng này, mọi hành vi con làm đều được làm với năng lượng của Thượng đế. Mỗi khi con bước vào một ý tưởng, một cảm xúc hay một hành động, thì con cũng đang thay đổi phẩm chất, con đang tô màu năng lượng thuần khiết đó, con đang thay đổi độ rung của năng lượng Thượng đế.

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình” (Save Yourself), ta có giảng dạy sâu sắc hơn về ý nghĩa thực sự của tội lỗi. Ta khuyên con nên tìm hiểu lời dạy đó. Ở đây, ta sẽ chỉ giải thích ngắn gọn rằng ý nghĩa nguyên thủy của từ “tội lỗi” là “bắn hụt đích, thiếu tiêu chuẩn” (missing the mark). Có nghĩa là nếu con thay đổi năng lượng Thượng đế khiến cho độ rung xuống thấp hơn một mức nào đó, thì năng lượng sẽ “bắn hụt”, sẽ không đủ tiêu chuẩn, và không thể thăng vượt để trở về Thượng đế. Bất kỳ một năng lượng nào đi xuống thấp hơn một độ rung nhất định đều là một “tội lỗi”, cho dù năng lượng đó được tạo ra do đồng tính luyến ái hay bất kỳ loại hành vi nào khác của con người.

Cho nên một dòng sống được quyền – là quyền do Thượng đế ban cho – để thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên điều không thể tránh được là y sẽ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và sẽ gặt hái hậu quả, tức là nghiệp quả của hành động của y. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng đồng tính là một việc đúng đắn hay có thể chấp nhận. Đồng tính là một vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng bởi vì dòng sống có quyền tự quyết, y vẫn có quyền vi phạm luật Thượng đế và trải nghiệm hậu quả của chọn lựa đó.

Kim Michaels: Vậy xã hội có nên công nhận quyền thực hành đồng tính luyến ái hay không?

Giê-su: Đây là một câu hỏi phức tạp. Trong một xã hội lý tưởng, đồng tính luyến ái sẽ được nhìn nhận là một tình trạng mất cân bằng. Tuy nhiên xã hội đó cũng sẽ có một nền văn hóa cho phép người ta công khai nhìn nhận khuynh hướng đồng tính của mình mà không bị lên án. Song song, những người này cũng sẽ được giúp đỡ để đạt sự hiểu biết và giải quyết khuynh hướng của mình hầu tiến bước trên con đường phát triển tâm linh cá nhân. Họ cũng sẽ nhận được giúp đỡ để hiểu rõ hậu quả của sự chọn lựa lối sống đồng tính, trên phương diện nghiệp quả cũng như tác động tâm lý và tâm linh. Nếu họ từ chối được giúp đỡ thì họ vẫn được phép thực hành đồng tính trong nhà riêng của họ, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.   

Một xã hội lý tưởng sẽ không công nhận trong luật pháp quyền thực hành đồng tính. Đó sẽ chỉ là một điều mà người ta có thể làm nơi nhà riêng của mình, và xã hội sẽ không can thiệp vào đời sống riêng tư đó miễn là nó diễn ra trong sự đồng ý của những người trưởng thành. Miễn là nó được giữ trong phạm vi nhà riêng, xã hội sẽ cho phép lối sống đồng tính mà sẽ không lên án cũng như không công nhận trong luật pháp.   

Nhưng tất nhiên, không một quốc gia nào trên thế giới hiện là một xã hội lý tưởng, cho nên không thể có giải đáp dứt khoát nào cho từng quốc gia trong từng thời điểm để giải quyết vấn đề đồng tính. Giải pháp này sẽ được định đoạt trong khuôn khổ nền văn hóa của xã hội đó, bởi vì không một xã hội nào có khả năng nhìn ra ngoài nền văn hóa hiện tại của mình.   

Nhưng quan tâm hàng đầu của ta không phải là định ra cho xã hội phải giải quyết vấn đề đồng tính như thế nào. Quan tâm hàng đầu của ta là giúp cho mọi xã hội đạt đến một nền văn hóa tâm linh, mà qua đó xã hội sẽ dễ dàng giải quyết được mọi vấn đề trong sự hài hòa với quy luật của Thượng đế. Điều mà ta mong muốn được thấy là mọi xã hội đều tiến tới một sự hiểu biết sân sắc hơn về bình diện tâm linh của cuộc sống, rồi sử dụng sự hiểu biết này để ảnh hưởng cách giải quyết bất kỳ vấn đề nào gặp phải.     

Kim Michaels: Xin thày giải thích đồng tính luyến ái làm tha hóa năng lượng như thế nào?

Giê-su: Thượng đế đã tạo ra hai thái cực cơ bản, là hai yếu tố lan ra và co lại, nam và nữ, dương và âm. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hoà, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh này của Thượng đế. Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự biểu đạt của một nguyên lý tâm linh.

Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của chúng ta đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.   

Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ. Ta cũng biết là một số cặp đồng tính có cảm giác là họ đạt được kết hợp như thế, và ta cũng biết là một số cặp đồng tính yêu thương nhau thanh khiết. Nhưng ta phải nói với con rằng tình dục đồng tính không bao giờ có thể tạo được kết hợp tâm linh đích thực. Cho nên điều không thể tránh được là tình dục đồng tính sẽ bắt buộc làm tha hóa năng lượng Thượng đế.

Đương nhiên, nếu hai người đồng tính thương yêu nhau thanh khiết, độ tha hóa sẽ không đến nỗi nghiêm trọng như trong một quan hệ với lý do thấp kém. Tuy vậy, nếu hai người đồng tính thực sự yêu nhau thì có thật là họ cần đến quan hệ tình dục vật lý để biểu lộ tình yêu đó hay không? Quan hệ khác giới có khả năng sử dụng đúng đắn năng lượng của Thượng đế, nhưng quan hệ đồng tính sẽ đơn giản không có tiềm năng đó, tương tự như hai cơ thể cùng phái không thể nào sinh tạo một đứa bé. Sự sáng tạo chỉ có thể xảy ra trong kết hợp hài hoà giữa hai thái cực nam và nữ. Điều này cũng giải thích tại sao một dòng sống không thể đạt được phát triển tâm linh tối đa cho đến khi y cân bằng được hai yếu tố nam và nữ.

Kim Michaels: Một số người cho rằng người đồng tính thường là người tâm linh hơn. Một số cũng nói rằng chỉ khi nào họ nhìn nhận sự đồng tính thì họ mới có thể tinh tấn tâm linh. Một số còn cho rằng nhiều nhà thần bí vĩ đại nhất khắp các thời đại đều là người đồng tính. Thậm chí một số vị thày tâm linh còn bảo rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn, và là một chặng đường cần thiết trên hành trình tâm linh của linh hồn. Xin thày có bình luận gì không?

Giê-su: Nếu con lãnh hội những gì ta đã giải thích ở đầu lời giải đáp này, thì rõ ràng đồng tính không phải là một giai đoạn phải có trên hành trình phát triển tâm linh. Ta cũng biết là có những giáo lý tâm linh tìm cách tôn vinh hay biện minh cho đồng tính. Nhưng đó chỉ là một sự hiểu lầm vô tình họăc là một âm mưu cốt ý để đánh lừa mọi người.

Như ta giải thích ở trên, một dòng sống tân lập thường hiện thân trong những cơ thể cùng giới tính suốt nhiều kiếp sống, và điều này có nghĩa là y sẽ lần hồi tự nhận diện là một dòng sống nam hay nữ. Khi dòng sống già dặn hơn, y có nhu cầu phải vượt qua sự đồng hoá đó, có nghĩa là y sẽ bắt đầu hiện thân trong cả hai loại cơ thể nam và nữ. Cho nên nếu chỉ dựa trên nhận xét này thì quả thực cũng đúng là nhiều người đồng tính là những dòng sống già dặn hơn người bình thường.

Tuy nhiên, điều cũng đúng không kém là một dòng sống không cần phải trở thành đồng tính để thăng vượt sự đồng hóa với giới tính của cơ thể. Thật ra, hầu hết dòng sống đều có thể thực hiện việc này mà không cần trở thành đồng tính. Ta cũng biết là có một số vị thày tâm linh dạy rằng đồng tính luyến ái là điều tự nhiên, hoặc là một giai đoạn cần thiết trên đường phát triển của dòng sống, tuy nhiên đây đơn giản là một lời dạy sai lầm.

Mặc dù thật là không sai khi nói rằng nhiều người đồng tính trưởng thành hơn những kẻ lên án đồng tính, tuy nhiên họ không thật sự trưởng thành trong ý nghĩa là họ vẫn còn mang một sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ. Thật ra, nếu một người đồng tính thật sự trưởng thành tâm linh, thì người đó sẽ cố gắng thăng vượt mọi tình dục thay vì bênh vực đồng tính. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng người ta không nên cố giúp xã hội vượt qua nạn kỳ thị đồng tính. Tuy nhiên, một dòng sống già dặn tâm linh sẽ nỗ lực đem lại sự khoan dung đối với người đồng tính chứ sẽ không cố tâng bốc đồng tính lên địa vị cao thượng.       

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình”, chúng tôi có giảng rất chi tiết về lý do một dòng sống thường chọn đầu thai trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Lý do chính là vì những tình huống như vậy có thể bắt buộc y phải đương đầu với một số bế tắc tâm lý. Chỉ bằng cách giải quyết các bế tắc này mà y mới có thể tinh tấn tâm linh. Ta có giải thích là đồng tính luyến ái là một sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống. Một số dòng sống đã đạt đến một điểm khi họ không thể tiến thêm cho tới khi họ giải quyết được sự mất cân bằng này. Do đó, đúng là một số dòng sống sẽ chọn đầu thai làm người đồng tính để tự buộc mình phải giải quyết vấn đề tình dục và sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ. Tuy nhiên, họ làm điều này không phải vì họ tin rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn hay tâm linh hơn. Họ làm như vậy giản dị như là một phương cách để giúp mình giải quyết các mối mất cân bằng và nhờ vậy vượt qua mọi ý niệm tình dục con người.

Ta có thể nói thật rõ ràng là trên thiên đàng không có người đồng tính nào cả – mặc dù một số người có vẻ tin như vậy. Con không thể bước lên thiên đàng khi con vẫn còn sự mất cân bằng giữa hai khiá cạnh nam và nữ trong dòng sống của con. Khi nào còn đạt được sự cân bằng đúng đắn, con sẽ vượt thăng mọi ý niệm tình dục phàm thế.

Cho nên cũng đúng là một số người đồng tính là người tâm linh hơn bình thường. Tuy nhiên, họ không là người tâm linh bởi vì họ đồng tính. Họ đã chọn đầu thai làm người đồng tính vì ý chí mãnh liệt muốn tiến bước trên đường tu tâm linh, và họ nhìn ra điều đang ngăn chặn bước tiến của họ là sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ.

Điều này cũng đúng cho những nhà thần bí đã bước vào đời như người đồng tính. Con sẽ thấy đa số những nhà thần bí này rốt cuộc đã tiến vượt khỏi mọi vấn đề tình dục. Đơn giản, nhu cầu biểu hiện tình dục vật lý dần dần tan biến và họ khởi sự tập trung toàn bộ sự chú ý vào phương diện tâm linh của cuộc sống.

Và cũng đúng là nếu dòng sống đã đầu thai làm người đồng tính với mục đích dứt khoát chữa lành, thì y sẽ không thể chữa lành bằng cách làm ngơ hay phủ nhận khuynh hướng đồng tính của mình. Chỉ khi nào mình nhìn nhận vấn đề một cách ý thức thì mình mới có hy vọng giải quyết được. Tuy nhiên ta cũng phải đưa ra một lời cảnh báo về điểm này.

Trong thế giới ngày nay, con tìm thấy một số địa hạt, lãnh vực hay nền văn hóa xem đồng tính là một chuyện bình thường hay tự nhiên. Có những thế lực rất hùng hậu đang tìm cách đưa đẩy xã hội công nhận đồng tính là chuyện bình thường, và cho tới nay họ đã xâm nhập sâu rộng vào giới truyền thông. Vấn đề với hoạt động này là những dòng sống đã đầu thai với ý định chữa lành có thể bị lôi kéo vào văn hóa đó. Và họ có thể cho rằng khuynh hướng đồng tính của họ là bình thường và do đó họ nên thực hành đồng tính thay vì cố giải quyết.

Nói cách khác, một nền văn hóa chấp nhận đồng tính một cách thiếu phân biện và thiếu sự hiểu biết về nguyên nhân tâm linh của đồng tính, có rủi ro làm thui chột cơ may của dòng sống đạt được mục tiêu tăng trưởng tâm linh. Y có thể bắt đầu tự nhận mình là một linh hồn đồng tính, rồi từ chối đương đầu với sự mất cân bằng của mình. Nói cách khác, thay vì tăng trưởng tâm linh, dòng sống ngày càng chai cứng hơn trong sự mất cân bằng. Và dưới góc nhìn của một vị thày tâm linh, điều này là điều đáng tiếc hơn cả.

Mặc dù cũng đúng là một số dòng sống sẽ tăng triển tâm linh khi nào đã nhìn nhận một cách ý thức khuynh hướng đồng tính của mình, nhưng thật là không đúng khi bảo rằng y nhất thiết phải hành sự đồng tính. Con hoàn toàn có khả năng giải quyết sự mất cân bằng đã gây ra đồng tính mà không cần đeo đuổi lối sống đồng tính.   

Thật ra, nếu con thật muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con tránh hẳn bước vào một quan hệ đồng tính. Nếu con có quan hệ đồng tính, con sẽ khiến cho năng lượng Thượng đế bị tha hóa, và nó sẽ tạo ra một từ lực – trong nghĩa đen – lôi con ra khỏi sự tăng trưởng tâm linh của con. Việc bước vào một mối quan hệ đồng tính cũng khiến con càng mong muốn bênh vực cách hành xử cuả mình rồi càng lún sâu vào một trạng trái tâm thức mất quân bình.  

Cho nên lời khuyên của ta là nếu con có những khuynh hướng đồng tính, con nên nhìn nhận khuynh hướng này. Tuy nhiên, thay vì tìm cách tự biện minh hay tham gia vào một quan hệ đồng tính, con nên tìm cách giải quyết qua những phương tiện tâm lý và tâm linh.

Có nhiều kỹ thuật tâm lý có thể giúp con giải quyết sự mất cân bằng trong cỗ xe linh hồn. Trong những thập niên qua, nhiều kỹ thuật mới đã được trao truyền nhưng chưa được giới chức năng trong ngành tâm lý chính thống công nhận. Thế nhưng bất cứ ai với tâm mở rộng cũng sẽ tìm được những kỹ thuật sáng giá có khả năng thực sự chữa trị sự mất quân bình tâm linh. Đối với những người thiên về tâm linh, có nhiều kỹ thuật tâm linh có thể trợ giúp họ, chẳng hạn cụ thể là kỹ thuật hoà điệu nội tâm với cái ta Ki-tô của mình.  

Có một nguyên tắc giá trị rộng khắp là nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con phải thăng vượt khuynh hướng của tâm phàm là biện hộ cho những điều bất toàn, mà ngược lại con hãy nương theo chân tâm để nâng mình lên sự toàn vẹn.   

Kim Michaels: Con chắc chắn sẽ có một số người đặt vấn đề là làm thế nào thày có thể dạy về tình thương vô điều kiện mà đồng thời lại có lập trường kiên quyết như vậy chống lại đồng tính luyến ái. Họ sẽ cảm thấy rằng nếu thày yêu thương người đồng tính một cách vô điều kiện thì thày cũng nên thể hiện sự khoan dung đối với hoạt động tình dục của họ.

Giê-su: Tất nhiên là sẽ có những người nghĩ như vậy, và lý do là bởi vì họ bị kẹt trong sự tương đối và những điều kiện của tâm thức nhị nguyên. Kết quả là họ không lãnh hội, không thể nhập được tình thương vô điều kiện.  

Yêu thương vô điều kiện không có nghĩa là chấp nhận mọi điều kiện một cách mù quáng. Ta yêu thương mọi dòng sống trên địa cầu với một tình yêu vô điều kiện. Bởi vì tình yêu của ta vô điều kiện cho nên ta muốn thấy mọi dòng sống đều trở về nhà cùng Thượng đế. Tuy nhiên, bởi vì ta không mắc kẹt trong sự tương đối của tâm nhị nguyên, ta thấy rõ vô số những điều kiện đang ngăn cản dòng sống trở về nhà Thượng đế. Hơn vậy nữa kìa, ta thấy rõ những điều kiện này là mối đe doạ đem lại cái chết cho rất nhiều dòng sống trên trái đất.  

Liệu đó có phải là tình thương vô điều kiện nếu ta cứ đứng dõi nhìn một dòng sống bước tới hủy diệt mà không tìm cách báo động? Ta không nghĩ vậy. Làm thế nào ta có thể báo động dòng sống đó mà không chỉ rõ cho y thấy được những điều kiện sẽ dẫn đến hủy diệt? Làm thế nào ta có thể yêu thương vô điều kiện mà đồng thời lại dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống?

Tình thương vô điều kiện hoàn toàn không nhân nhượng khi tận tụy lo cho sự tăng triển và cứu rỗi của dòng sống. Chỉ có tình thương có điều kiện mới rơi vào một trong hai cực đoan. Cực đoan thứ nhất là định ra một loạt những lề lối vỏ ngoài rồi bảo rằng bất cứ ai không làm đúng lề lối đó không xứng đáng được yêu thương. Và cực đoan thứ hai là dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống mà lại gọi sự thông đồng đó là tình yêu đích thực. Cả hai cực đoan này chính là tình thương có điều kiện, và nó khởi lên từ sự tương đối của trạng thái tâm thức thấp kém. Chỉ một tình thương dựa trên nền tảng của phân biện Ki-tô mới có thể vô điều kiện.

Tình yêu vô điều kiện có nghĩa là ta yêu thương dòng sống cho dù y đã có làm gì hay đang có trạng thái tâm thức như thế nào. Nhưng chính vì yêu thương mà ta không muốn nhìn thấy dòng sống cứ mắc kẹt hoài trong trạng thái tâm thức đó. Ta muốn thấy dòng sống tiến bước về phía tâm thức Ki-tô bởi vì đó là cách duy nhất để dòng sống đạt đến cứu rỗi.

Bởi vì ta yêu thương vô điều kiện cho nên ta mới tận tụy một cách không nhân nhượng đối với sự tăng trưởng của dòng sống. Và do đó ta cũng không nhân nhượng đối với bất kỳ điều kiện nào sẽ khiến cho sự phát triển của dòng sống bị thui chột.

Thượng đế không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta hoàn toàn không muốn thấy dòng sống nào xem mình là người có tội, hay có mặc cảm tội lỗi về một số chọn lựa mà y đã có trong quá khứ. Chúng tôi chỉ có một mong muốn là nhìn thấy dòng sống rời khỏi tình trạng tâm thức hiện tại và tiến bước về một thế cân bằng, toàn vẹn.

Chúng tôi không lên án người đồng tính. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi sẽ chấp nhận đồng tính là bình thường hay tự nhiên. Chúng tôi nhìn thấy đó là một trong rất nhiều sự mất cân bằng đang ngăn cản dòng sống trở về nhà. Chúng tôi mong muốn mọi dòng sống giải quyết được những điều mất cân bằng đang ngăn cản họ trở về căn nhà nơi họ sẽ ôm chầm lấy vòng tay yêu thương của Thượng đế Cha/Mẹ.

Chính vì yêu thương vô điều kiện mà ta mới phân biện rõ ràng giữa dòng sống và hiện trạng tình dục nhất thời của dòng sống. Cho nên ta sẽ không bao giờ rơi vào lỗi lầm đồng hóa dòng sống với hiện trạng tình dục của y – cho dù là đồng tính hay dị tính. Yếu tố đã khiến cho dòng sống tự đồng hóa với tình dục của mình là vì y đã đánh mất tình yêu vô điều kiện. Và trong tình yêu có điều kiện của y, dòng sống thường sẽ phóng chiếu ra là tình yêu của ta đang đặt ra một số điều kiện bởi vì tình yêu của ta không ăn khớp với hình ảnh nhị nguyên mà y có về tình yêu. Thế nhưng là một vì thày tâm linh, ta không thể giúp cho mọi người giải thoát bằng cách chiều theo tâm ảnh của họ – ta chỉ có thể giúp họ bằng cách thách thức tâm ảnh của họ.

[Đọc thêm về bài giảng về cách thức thăng hoa năng lượng tình dục]

Giáo lý nền tảng về các khía cạnh tâm linh của tình dục

Hỏi: Giê-su thân yêu, sự sa ngã của loài người đã xảy ra khi giống dân gốc thứ tư hiện thân, tức là luân xa gốc trên sống lưng. Rõ ràng hành tinh này đang gặp rất nhiều vấn đề với tình dục bị lạm dụng. Không hiểu thày có lời khuyên gì về việc khắc phục các năng lượng bị lạm dụng? Làm thế nào con người có thể khắc phục sự nghiện ngập tình dục, đặc biệt là khi nó quá phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đã có nhận xét về vấn đề này khi trả lời một số câu hỏi khác trong phần này, và lời nhận xét của ta vẫn xác đáng. Ta cũng khuyên con nên xem câu trả lời của ta về cách chiến đấu một chứng nghiện kéo dài suốt đời. Tuy nhiên, ta muốn nhân cơ hội này giảng dạy sâu xa hơn về vấn đề tình dục. Ta hiểu rõ đây là một vấn đề cho nhiều người thực sự tâm linh, cho nên hãy để ta cho con một số lời giảng có thể giúp con hiểu sâu hơn.

Như ta đã giải thích ở nơi khác, dòng sống của con được sinh tạo ở ban đầu bởi cha mẹ tâm linh của con. Con được tạo ra là một cá thể của Thượng đế, và cá thể độc đáo của con được biểu lộ và neo trụ nơi cái ta tâm linh của con, hay Hiện diện TA LÀ. Ở một thời điểm nào đó, dòng sống của con đã quyết định là nó muốn trải nghiệm vũ trụ vật chất từ bên trong, và nó muốn đóng góp vào việc đồng sáng tạo khía cạnh này của tạo vật Thượng đế. Sau đó dòng sống của con đã tạo ra một phần nối dài của chính nó, là cái Ta Biết.

Điều quan trọng cần hiểu trong bối cảnh này là cái Ta Biết không bao giờ được tạo ra để lẻ loi một mình. Nó được tạo ra như là một phần nối dài của cái ta tâm linh, và trong nghĩa đen, nó được trù hoạch là một hành tinh quay quanh mặt trời của cái ta tâm linh của con. Tuy nhiên, cái Ta Biết được phú cho một ý niệm hiện hữu cá nhân, và cái Ta Biết có quyền tự quyết. Do đó, cái Ta Biết có thể thay đổi ý niệm bản sắc hầu nó không tự xem mình là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Đây chính là điều đã xảy ra trong tiến trình mà Kinh thánh mô tả là sự Sa ngã của con Người, và như ta có giải thích khắp trang mạng này, đó là sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Để dùng một ẩn dụ thiên văn, người ta có thể ví như hành tinh của cái Ta Biết đã ngừng quay trên trục của nó. Con cũng biết là nếu trái đất ngừng quay, có một mặt của trái đất sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Nếu con sống trên mặt đó của hành tinh, rất có thể con sẽ không có ý niệm gì về ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt kia. Đây chính là điều đã xảy ra trong nghĩa đen cho hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu. Họ đã quên mất mặt trời của cái ta tâm linh.

Tuy nhiên, sự lãng quên này chỉ hiện hữu trên bề mặt của tâm thức. Cái Ta Biết không bao giờ có thể quên được là nó đã được tạo ra như là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Cho dù cái Ta Biết có thể xây dựng một ý niệm bản sắc tách biệt, nó không bao giờ có thể cảm thấy trọn vẹn và toàn vẹn trong ý niệm bản sắc đó. Cái Ta biết chỉ có thể cảm thấy trọn vẹn khi nó nối kết với Hiện diện TA LÀ một cách ý thức. Do đó, cho dù cái Ta Biết đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi sâu thẳm nó vẫn khát khao được trọn vẹn, nó vẫn mang một cảm giác sâu sắc là cuộc sống của nó thiếu sót một cái gì.

Khi con hiểu điều này, con nhận ra là hầu hết ý nghĩ, cảm xúc và hành vi mà con người khoác vào trong cuộc sống, đều liên quan đến cảm nhận sâu sắc của cái Ta Biết là mình lẻ loi, hay mình thiếu sót, thiếu trọn vẹn. Nếu con xem bài giảng của ta về các trình độ phát triển tâm linh, con có thể nói là khi con người càng xuống thấp trong tâm thức bao nhiêu thì họ sẽ càng cảm thấy lẻ loi bấy nhiêu. Thế nhưng vì họ không thể, hay không muốn, nhìn nhận đời sống tâm linh của mình, họ không có cách nào giải quyết cảm nhận lẻ loi này. Thay vào đó, họ chỉ có chọn lựa duy nhất là che đậy cảm nhận lẻ loi và thiếu sót đó.   

Và điều này dẫn đến đủ loại niềm tin và hành vi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của mình khỏi cảm giác trống rỗng sâu sắc bên trong. Nó cũng dẫn đến một số tin tưởng được trù liệu để khiến cho con người cảm thấy mình không cần thay đổi đời mình, rằng mình vẫn yên ổn, tốt đẹp, hay mình không có cách nào thoát ra khỏi cảm giác trống rỗng đó. Những tin tưởng và hành vi như vậy có thể rất nhanh chóng dẫn đến đủ loại những chứng nghiện ngập đủ thứ đồ vật của thế gian, từ chất hóa học cho đến của cải, quyền lực và tình dục.

Nhân tiện cũng cần nói là rất nhiều những chứng nghiện này được khuyến khích, thậm chí được bày ra, bởi một số tín ngưỡng chính thống hay cực chính thống. Những hệ thống tín ngưỡng khép kín như vậy được thiết kế để ngăn cản con người không thể nhận ra và giải quyết sự trống rỗng nội tâm của mình, để giữ cho con người bị kẹt lại trong thế giới vật chất thay vì thăng vượt thế gian và kết hợp lại với cái ta tâm linh của mình.

Bất cứ loại hệ thống tín tưởng hay hệ thống hành xử nào mà đưa con người vào một tình trạng nghiện ngập, dù là về mặt tình cảm hay vật lý, luôn luôn nhận được sự hỗ trợ và củng cố từ các thế lực bóng tối đang tìm cách kiểm soát loài người. Đó là tại sao việc phá bỏ một chứng nghiện thật là một trận chiến sống còn – sống còn tâm linh – của dòng sống. Điều ta cố giải thích ở đây là đối với những ai đã rơi sâu xuống tư duy nhị nguyên, nghiện ngập như vậy chủ yếu là do đã từ chối không chịu đối mặt với nhu cầu tái nối kết cái Ta Biết với Hiện diện TA LÀ. Người đó cố gạt sang một bên nhu cầu cải sửa bản thân một cách đích thực và biến đổi tâm linh.

Khi con người vươn lên những tầng nhận biết cao hơn, họ sẽ bắt đầu nhìn nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Họ ý thức hơn là dòng sống của mình không trọn vẹn và cần phải tìm lại trọn vẹn. Kết quả là họ bắt đầu nhận ra là thế gian này không giúp cho mình cảm thấy trọn vẹn. Lần hồi, điều này giúp họ khắc phục sự nghiện ngập đối với những thứ vỏ ngoài, và họ bắt đầu chú tâm hơn vào các nhu cầu tâm linh của dòng sống. Họ không còn cảm thấy phải che đậy cảm nhận lẻ loi nữa, mà cảm được nhu cầu phải thật sự giải quyết nỗi lẻ loi đó. Thế nhưng ở những bước đầu của tiến trình tăng trưởng này, gần như không thể tránh được là dòng sống sẽ lý luận rằng vì mình cảm thấy không trọn vẹn, cho nên mình phải cần đến một thứ gì đó từ ngoại cảnh, từ bên ngoài mình, để trở thành trọn vẹn. Vì vậy, dòng sống sẽ xả thân đi tìm một thứ gì đó màu nhiệm sẽ tự dưng biến mình thành toàn vẹn.

Một trong những tìm kiếm này là đi tìm một người bạn đời toàn hảo, kể cả một người bạn tình toàn hảo. Trong giao phối tình dục, nhiều người trải nghiệm được những thoáng hiện của sự trọn vẹn nội tâm. Đây là một tiến trình tự nhiên, và nếu sử dụng đúng đắn, nó có thể giúp cho dòng sống hàn gắn cảm nhận lẻ loi của mình. Rất tiếc, như ta đã có giải thích trong một bài giảng khác, bất cứ gì trong thế gian này cũng là con dao hai lưỡi. Cho nên điều gì có thể là một dụng cụ giải thoát dòng sống cũng có thể trở thành một cái bẫy cho dòng sống, và điểm này đặc biệt đúng trong vấn đề tình dục.

Vấn đề sẽ xảy ra khi người tầm đạo bắt đầu tin rằng sự kết hợp tình dục là cần thiết cho trải nghiệm trọn vẹn. Nó có thể dẫn tới sự dính mắc tình cảm đối với tình dục, và nó có thể trở thành một bệnh nghiện tâm linh. Ta cũng biết đây là một sự phân biệt tinh tế, nhưng cái mà ta gọi là nghiện ngập vỏ ngoài là một hành vi nhằm che đậy cảm nhận thiếu toàn vẹn của dòng sống. Nói cách khác, nó khiến dòng sống bị tê cóng, mất cảm giác. Còn nghiện ngập tâm linh là khi dòng sống cảm thấy sự toàn vẹn của mình tùy thuộc vào một hoạt động nào đó. Nhân tiện, hoạt động tôn giáo cũng có thể trở thành một loại nghiện ngập tâm linh như thế, nhưng vì chủ đề ở đây là tình dục cho nên ta sẽ không bàn thêm về chuyện này.

Ý ta muốn nói là đối với rất nhiều người thật sự tâm linh, tình dục trở thành một chứng nghiện tâm linh. Họ thực sự bắt đầu tin rằng chìa khóa cho sự trọn vẹn nội tâm là tìm ra người bạn đời toàn hảo, và điều này khiến cho nhiều người suốt đời đi tìm một người phối ngẫu toàn hảo và tình dục toàn hảo. Hầu hết những người này không bị nghiện tình dục theo nghĩa nghiện vật lý. Họ không thật sự nghiện tình dục theo nghĩa truyền thống. Tuy nhiên, họ có ham muốn sâu sắc được cảm thấy trọn vẹn, nối kết, và họ tin tình dục là phương cách – có lẽ phương cách duy nhất – để thực hiện ham muốn này.

Đây là một điểm tinh tế có thể cần chút suy ngẫm. Khi dòng sống tăng trưởng tỉnh giác tâm linh, y sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn là mình không trọn vẹn, và y sẽ phát triển ý muốn khắc phục cảm giác này. Nếu y chưa hiểu được hoàn toàn là sự trọn vẹn tối hậu chỉ có thể trải nghiệm trong kết hợp với Hiện diện TA LÀ, thì y có thể tin rằng bí quyết để trọn vẹn là trải nghiệm kết hợp với một phần khác của sự sống, tức là với một người khác.

Hiển nhiên, kết hợp tình dục là một cách mãnh liệt để trải nghiệm hợp nhất với một người khác. Vì dòng sống mong muốn trọn vẹn rất mạnh mẽ, y có thể phát triển mong muốn kết hợp tình dục cũng mạnh mẽ như vậy. Những người như vậy muốn càng nhiều tình dục càng tốt, có khi với nhiều bạn tình khác nhau. Có những người mong muốn kết hợp với sự sống mạnh mẽ đến độ họ muốn kết hợp với bất cứ ai có vẻ hấp dẫn đối với họ. Họ tin rằng tình dục sẽ đưa họ đến gần hơn với trọn vẹn. Nói cách khác, tình dục không được dùng để che đậy hay đánh lạc hướng mong muốn trọn vẹn, mà bây giờ nó được dùng như một công cụ để tạo ra cảm giác trọn vẹn.

Và sau đây là điểm thực sự tinh tế. Ở một số giai đoạn trên đường tu tâm linh, điều này có thể đem lại một số tác dụng hữu ích. Nếu dòng sống tham gia vào tình dục với ý muốn chân chính đạt được trạng thái trọn vẹn, thì tình dục quả là có thể giúp cho y chữa lành. Qua kết hợp tình dục, đặc biệt là trong tình yêu và quan tâm đích thực đối với người bạn tình, dòng sống có thể được chữa lành và vượt qua cảm giác lẻ loi. Y cũng có thể bớt tập trung vào bản sắc nhị nguyên đã được xây dựng sau cuộc sa ngã. Đây thật sự là tiềm năng có được một hôn nhân thành công, qua đó cả vợ lẫn chồng đều đạt đến kết hợp tâm linh cao nhất.

Tuy nhiên khi dòng sống tiến xa hơn trên đường tu tâm linh, sẽ tới một điểm khi y cần thăng vượt cách hiểu và sử dụng tình dục như một công cụ kết hợp. Như ta đã nói, ở những giai đọan đầu tiên của đường tu, gần như không thể tránh khỏi dòng sống sẽ tin là mình cần một điều gì đó từ bên ngoài để trở thành trọn vẹn. Điều này có phần đúng theo nghĩa là dòng sống sẽ chỉ đạt được trọn vẹn qua sự kết hợp với Hiện diện TA LÀ. Ảo tưởng vô cùng tình tế ở đây khiến cho nhiều người thực sự tâm linh bị mắc bẫy là họ tin rằng Thượng đế, hay cái ta tâm linh, nằm ở đâu đó bên ngoài bản thân họ. Ảo tưởng này chính là ảo tưởng khó khắc phục nhất đối với bất kỳ người tầm đạo nào.

Nhiều dòng sống đã tinh tấn rất nhiều trên đường tu tâm linh, nhưng tiếc thay, họ tới một ngưỡng cửa mà nếu không vượt qua thì họ sẽ rất khó lòng bước tiếp. Cách duy nhất để vượt xa hơn ngưỡng cửa này là phải ngừng tìm kiếm cái gì đó bên ngoài chính mình. Con cần khắc phục mọi sự dính mắc, mọi ràng buộc, mọi lệ thuộc vào bất cứ gì mà con nhận thức là ở ngoài con. Con cần nhận ra bí quyết của sự trọn vẹn được tìm thấy bên trong chính con.  

Như ta đã nói ở trên, cái Ta Biết được tạo ra như phần nối dài của cái ta tâm linh. Một phần nối dài của cái ta tâm linh không đứng riêng rẽ, không tách biệt khỏi cái ta tâm linh. Đây là vấn đề của thế giới hình tướng, vì trong thế gian này, con thấy hình tướng khác nhau là tách biệt. Ngay cả ẩn dụ mà ta vừa cho con về cái Ta Biết như một hành tinh quay quanh mặt trời cũng đề cao cái nhìn tách biệt này. Cho nên chúng ta có thể nghĩ đến một mô thức khác hơn, là cái Ta Biết được xem như một con sóng trên đại dương của cái ta tâm linh. Nói cách khác, cái Ta Biết không bị tách rời khỏi cái ta tâm linh y như con sóng không thể tách rời khỏi đại dương.

Điểm cốt yếu ở đây là con không thể đạt tới sự trọn vẹn tối hậu khi nào con còn nghĩ sự trọn vẹn tùy thuộc vào một cái gì bên ngoài chính con. Chìa khóa của trọn vẹn là ngừng xem mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình, nghĩa là cả cái ta tâm linh lẫn Thượng đế. Cảm nhận tách biệt chỉ hiện hữu trong tâm con, cho nên nơi duy nhất mà con khắc phục được nó là trong tâm con. Con phải vượt qua ảo tưởng là mình đã từng tách rời khỏi cái ta tâm linh của mình. Con phải nhìn ra chìa khóa để tiếp xúc với cái ta tâm linh, chìa khóa để đạt đến kết hợp với cái ta tâm linh đó, là hướng sự chú tâm vào bên trong chính mình và ngừng hướng nó ra ngoài. Con phải ngừng đi tìm hòn đá giả kim, hay chiếc gậy thần sẽ bỗng nhiên khiến con cảm thấy mình là một với Thượng đế. Hòn đá giả kim không hiện hữu bên ngoài con, nó nằm ngay trong con – đó là cái ta Ki-tô của con.

Cho nên điều ta muốn nói là đối với nhiều người thực sự tâm linh, kết hợp tình dục rốt cuộc có thể trở thành một cái bẫy ngăn cản họ nhìn vào bên trong chính họ, vì sự chú ý của họ luôn hướng về người bạn đời. Nhiều người tâm linh trực nhận một mục đích chính đáng đằng sau ham muốn kết hợp tình dục, và điều này khiến họ rất khó lòng khắc phục ham muốn tình dục. Họ cảm thấy là họ sẽ đánh mất một cái gì đó thật quan trọng nếu họ bỏ hẳn, và điều này tạo ra một xung đột nội tâm khiến cho chuyện khắc phục ham muốn tình dục gần như là vô phương.

Con hãy lưu ý một điểm thiết yếu. Khi nào mà con còn một mâu thuẫn nội tâm về bất cứ khía cạnh nào của đường tu tâm linh, con sẽ không thể bước tới trên đường tu. Con sẽ kẹt lại ở bước đó cho tới khi con giải tỏa mâu thuẫn và đạt được sự rõ ràng bên trong và mục đích nhất quán. Điều này chỉ có thể đạt được qua viễn quan của con mắt đơn thuần trong tâm Ki-tô. Hẳn con có nhớ lời nói của ta là nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con tràn đầy ánh sáng. Một nhà bị phân rẽ lẫn nhau không thể tiến bước trên đường tu.

Để vượt qua bế tắc, con cần đạt tới điểm nhận ra là việc từ bỏ tình dục không phải là một mất mát, vì thay vào đó, con sẽ thu được một cái gì quan trọng và thoả nguyện hơn gấp bội. Con cần xem xét nội tâm và quyết định ưu tiên thực sự của mình là gì. Con mong muốn sự toàn vẹn bên trong của cái Ta Biết đến chừng nào? Con cần quyết định là cho dù tình dục có tuyệt vời đến đâu thì con vẫn muốn một cái gì khác nhiều hơn. Con khao khát một điều gì sâu xa hơn, đó là cảm giác hòa nhập với cái ta tâm linh của mình, và ta có thể cam đoan với con là nó tuyệt diệu và đầy ắp hơn tất cả những gì con có thể trải nghiệm trong tình dục. Con phải ngừng săn đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng, và thay vào đó, hướng chú tâm vào bên trong.

Đây là điểm mà ta đã cố giảng trong câu nói thuở trước, là trước tiên con hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài, thì sau đó mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con. Vương quốc Thượng đế chính là tâm thức Ki-tô, mà con sẽ chỉ đạt được qua sự kết hợp với cái ta Ki-tô của con, là vị trung gian giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô nằm bên trong chính con, và bí quyết để giữ liên lạc với cái ta Ki-tô là hướng chú ý của mình vào trong. Khi con bắt được liên lạc với cái ta Ki-tô cùng sự công chính – có nghĩa là sử dụng đúng đắn quyền tự quyết và sự chú ý của mình – thì tất cả mọi thứ khác, có nghĩa là ý thức kết hợp tối thượng với cái ta Ki-tô, sẽ được bồi thêm cho con. Thật sự đó là niềm vui của Thượng đế ban cho con vương quốc của sự hợp nhất tâm linh. Nhưng chìa khóa của vương quốc là ở trong con.

Cho nên điểm cơ bản của bài giảng dài dòng này là cách tối hậu để khắc phục nghiện ngập tình dục là một chiến lược gồm hai mũi dùi:

  • Con hãy sử dụng mọi dụng cụ mà con có để tự giải phóng khỏi các thế lực bên ngoài đang tìm cách đánh bẫy con vào chứng nghiện tình dục, như được mô tả ở nơi khác.
  • Một khi con đã có nỗ lực chân thành để vươn lên khỏi sức kéo hướng hạ của các tà lực và tâm thức tập thể, con hãy nhìn nhận rằng mong muốn kết hợp tình dục của mình khởi lên từ mong muốn toàn vẹn của cái Ta Biết. Nhìn nhận rằng mong muốn đó không thể được thỏa mãn qua kết hợp tình dục, và do đó, con hãy hướng chú ý tìm kiếm sự kết hợp với cái ta Ki-tô, thay vì kết hợp với một người khác.

Sự nghiện ngập tình dục có thể khởi lên từ một mong muốn đích thực, là mong muốn toàn vẹn nội tâm, thế nhưng vì con tìm nó trong tình dục, con sẽ bảo đảm mục tiêu đó sẽ không bao giờ hiện thực. Không một người nào – không một cái gì từ thế gian này – có thể thay thế được cái ta tâm linh của con. Có rất nhiều vật thay thế có thể che đậy cảm giác thiếu trọn vẹn, nhưng không một vật thay thế nào có thể thực sự đem lại cho con sự trọn vẹn. Do đó, con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế.

Con không là một sinh thể tình dục mà một sinh thể tâm linh

Câu hỏi 1: Giê-su thân yêu, con biết không có đề tài nào là cấm đoán và thày sẵn sàng trả lời về bất cứ vấn đề nào,,, cho nên con mới xin hỏi… một số người bảo rằng thủ dâm là một tội lỗi (vì đó là một dạng dục vọng, điều thày gọi là ngoại tình) trong khi có người lại bảo rằng chuyện đó tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng… Con sẽ biết ơn nếu thày có thể cho con biết quan điểm của thày từ góc cạnh một vị thày tâm linh. Vậy thủ dâm có ích lợi, hay ngay cả cần thiết, cho sự tăng triển của dòng sống hay không? Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào để loại bỏ căng thẳng? Con sẽ rất mừng nếu thày vui lòng nhận xét về chủ đề gây tranh cãi này.

Câu hỏi 2: Xin thày giúp chúng con với vấn đề sau đây vì con chưa rõ ràng về một khía cạnh của tình dục là thủ dâm. Con xin có câu hỏi này: Có thật là khi thủ dâm, năng lượng bị làm cho tha hóa hay không? Nếu như con có quan hệ tình dục trong hôn nhân và có quan hệ trong sự yêu thương, con được học là trong trường hợp này, con không làm tha hóa năng lượng. Vậy đâu là sự khác biệt? Xin thày giải thích tại sao một dòng sống lại bị thu hút bởi cách thỏa mãn này đến như vậy? Xin thày cho chúng con một lời dạy cặn kẽ sẽ làm rõ toàn bộ vấn đề này cùng những sáng ngộ để giúp chúng con giải quyết khía cạnh này của cuộc sống.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Chắc chắn không có câu hỏi nào là cấm kỵ, mặc dù có những người sẽ muốn ta không đề cập đến một số đề tài. Việc không sẵn lòng xem xét một đề tài nào đó thường là do người đó không sẵn sàng xét lại quan điểm của mình về đề tài đó. Trong bài giảng của ta về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái, ta đã có đưa ra lời dạy sau đây:

[bắt đầu trích dẫn] “Thượng đế có một bản chất kép, tức là yếu tố nam và nữ, âm và dương. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hòa, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

“Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh đó của Thượng đế. Điều này thấm xuống tới cõi vật chất, và đó là tại sao một dòng sống con người có một khía cạnh nam và một khía cạnh nữ, và tại sao cơ thể con người có nam và nữ.

“Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự trải bày của một nguyên lý tâm linh.

“Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của con đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng lên trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

“Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.

“Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ.” [kết thúc trích dẫn]

Ta nghĩ, điều hiển nhiên trong những lời nói trên cũng áp dụng cho việc thủ dâm. Khi không có hai thái cực nam và nữ, sẽ không có khả năng cho năng lượng tuôn ra có thể được phú cho một rung động cao hơn. Nói cách khác, thủ dâm luôn luôn làm tha hóa năng lượng.

Thêm vào đó ta cũng có nói: “Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết.” Yếu tố quyết định ở đây là liệu hai đương sự đang cố nhận vào hay là cho ra? Liệu họ có tìm cách thỏa mãn cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên, hay là họ tìm cách thỏa nguyện dòng sống? Liệu họ tìm sự thoả mãn cho phàm ngã hay cho cái ta rộng lớn hơn?

Một dòng sống có thể mong muốn kết hợp tình dục một cách chính đáng. Tuy nhiên, mong muốn này không tập trung vào cơ thể vật lý và không bị kích động bởi tâm nhị nguyên. Đó thực sự là một mong muốn kết hợp với cái gì đó ở ngoài nó, và để trải nghiệm kết hợp này, dòng sống phải nhìn ra ngoài bản thân.

Điều ta muốn nói là mặc dù dòng sống có thể mong muốn kết hợp với một người khác phái, mong muốn này sẽ không biểu đạt qua ham muốn thủ dâm. Do đó, thủ dâm luôn luôn bị kích động bởi cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên. Nó luôn luôn là một mong muốn tập trung vào chính mình, tìm thỏa mãn cho chính mình mà không có sự hiến dâng của cái ta. Có thể nói là dòng sống không hề có mong muốn thủ dâm, nghĩa là khi một người cảm thấy mong muốn như vậy, đó là vì dòng sống đã rút đi và tâm ý thức của người đó đã đầu hàng dục vọng của cơ thể và cảm thể.

Trên thế giới có nhiều người gần như sống trọn đời chỉ để đi tìm thỏa mãn cho các ham nuốn thấp kém. Nhưng đối với người bước trên đường tu tâm linh, điều quan trọng là vươn lên trên ham muốn thấp kém đó. Con phải làm im bặt tíếng gọi inh ỏi của ham muốn trần tục và nhị nguyên để con nghe được giọng nói nhỏ nhẹ của mong muốn đích thực của dòng sống.

Hãy để ta nói thật rõ là thủ dâm không cần thiết, và nó không lành mạnh cho sự tăng triển của dòng sống. Vấn đề ở đây là khi con nhượng bộ các ham muốn nhị nguyên, con tự đặt mình trên một cầu tuột, và trọng lực của tâm thức tập thể sẽ không ngừng kéo con tuột xuống thấp hơn. Nhiều người cứ tuột xuống ngày càng sâu hơn trong suốt một kiếp, nhưng con là người tầm đạo tâm linh, con không thể cho phép mình làm điều đó. Cốt lõi của phát triển tâm linh là con đi lên hướng kia, con khắc phục trọng lực của tâm thức tập thể. Tâm thức này vô cùng mạnh mẽ về mặt tình dục, và con người có thể làm gần như bất cứ gì để biện minh cho ham muốn tình dục của mình.

Ý tưởng bảo rằng thủ dâm là “tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng” là một ví dụ điển hình của loại “biện minh” đó khởi lên từ tâm thức tập thể. Cách nó lý luận là bảo rằng vì Thượng đế đã sinh tạo chúng ta với bộ phận sinh dục, thì sẽ chỉ là tự nhiên nếu chúng ta bày tỏ dục tính của mình, và nếu mình không có bạn tình thì thủ dâm là một cách tự nhiên để giải tỏa căng thẳng. Lời gian dối ở đây là sự kiện ham muốn nhị nguyên sẽ không bao giờ chấm dứt, nó giống như một lỗ đen không bao giờ có thể lấp đầy. Cho nên con có thể bỏ ra nguyên một kiếp người để cố thỏa mãn ham muốn nhị nguyên mà vẫn không làm được. Đó là một cuộc tìm cầu vô vọng rốt cuộc sẽ nuốt trọn sự sống của con.

Thật ra thủ dâm có thể giảm căng thẳng một cách nhất thời, nhưng về lâu về dài, nó sẽ chỉ củng cố chính cái ham muốn nhị nguyên đã tạo ra căng thẳng. Nói cách khác, một khi con nhượng bộ ham muốn nhị nguyên, thì con tạo ra một vòng xoáy tự nó bồi thêm sức mạnh sẽ kéo con đi xuống tới mức mà con cho phép nó kéo con xuống. Nếu nỗ lực giảm bớt căng thẳng của con chỉ dẫn đến nhiều căng thẳng hơn thì sự giải tỏa nằm ở đâu? Trên thực tế, nó dẫn đến nghiện ngập thay vì tự do.

Ta cũng biết hầu hết người trẻ đều có thời điểm khi họ bắt đầu khám phá cơ thể của mình, và họ rơi vào thủ dâm. Đây không nhất thiết là một quan tâm lớn của ta, nhưng vấn đề là một khi con bắt đầu trượt xuống cầu tuột, thủ dâm sẽ nhanh chóng trở thành một chứng nghiện. Cơ thể con bắt đầu bảo con là nó không thể sống tiếp mà không có tình dục, và nó làm đời con khốn khổ nếu nó không được thỏa mãn.

Thực tế sinh học là nếu con không ăn, không uống hay không ngủ, cơ thể con sẽ chết. Nhưng con có khả năng sống nguyên một kiếp mà không có quan hệ tình dục. Điều ta muốn nói là tình dục không phải là một nhu cầu sinh tồn, và quả thật con có thể sống mà không có chút nào. Ta chỉ muốn nói là khi con là người tâm đạo tâm linh, con cần nhìn thật rõ là con không được cho phép các ham muốn tình dục khởi lên từ tâm nhị nguyên cai quản đời con. Con cần điều ngự cơ thể và tâm nhị nguyên thay vì để cho chúng điều khiển đời con.

Công việc này bắt đầu với một quyết định cương quyết, và con đã từng có nhiều quyết định có thể giúp con. Chẳng hạn, ta tin tưởng là đối với những ai cởi mở với trang mạng này, việc cưỡng dâm không phải là một cách chính đáng để giảm bớt căng thẳng của ham muốn tình dục. Cho nên con đã từng có những quyết định cương quyết về những cách cư xử mà con không thể chấp nhận để thỏa mãn tình dục. Đơn giản, con chỉ cần thêm thủ dâm vào danh sách đó. Ta không có vấn đề gì với những cặp sống với nhau trong một mối quan hệ cam kết, nơi cả hai người đều thoả mãn ham muốn tình dục của nhau một cách yêu thương và cân bằng. Do đó, ta khuyến khích mọi người hãy quyết định cách đó là cách duy nhất có thể chấp nhận được để toại nguyện ham muốn tình dục của mình.

Hậu quả của quyết định này là nếu con không đang ở trong một mối quan hệ bền chặt thì con sẽ không thể toại nguyện ham muốn tình dục của con, và do đó con cần tìm những cách khác để giải quyết các ham muốn đó – và ta sẽ nhận xét về điểm này trong phần sau. Điểm ta muốn nói ở đây là một khi con lấy được quyết định chắc chắn thì con đã đi được hơn nửa đường. Lý do hầu hết mọi người không ngừng bị quấy rầy bởi cám dỗ tình dục là vì họ chưa lấy quyết định chắc chắn, cho nên thật là quá dễ cho tâm nhị nguyên và tà lực cám dỗ họ. Và một khi ho mở tâm ra cho cám dỗ ấy, áp lực sẽ không ngừng gia tăng cho đến khi họ không thể chịu được nữa. Một cái gì đó bị gẫy, và thường thường đó là ý chí của họ. Con cần tránh đến gần điểm đó, điểm không thể quay trở về.

Điều này dẫn đến môt câu hỏi khác của con: “Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào loại bỏ căng thẳng?” Cách tốt nhất để đối phó với căng thẳng là không để nó tăng trưởng tới điểm tới hạn – có nghĩa là khi đó, con không thể kiểm soát được nó nữa. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con sống được là vì con nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Năng lượng này, sinh lực này, nhập vào trường năng lượng của con qua Căn phòng Mật thất ở luân xa trái tim. Từ đó nó được phân phối ra các luân xa khác, kể cả trung tâm năng lượng thường gọi là luân xa gốc.    

Dòng chảy tự nhiên của năng lượng là dòng sinh lực dâng lên qua cả bảy luân xa chính, nhưng năng lượng có thể được chuyển hướng tới bất kỳ luân xa nào. Chẳng hạn khi một người có một ham muốn tình dục trụ vào bản thân và cơ thể, một phần sinh lực sẽ được đưa về luân xa gốc. Một ham muốn vị kỷ luôn luôn khiến cho luân xa quay ngược chiều và năng lượng bị giảm độ rung, dẫn đến năng lượng bị tồn đọng trong luân xa. Đó chính là cảm giác kích thích nơi các cơ quan sinh dục, nhưng khi năng lượng tích tụ thêm, cảm giác kích thích biến thành sự căng thẳng, và căng thẳng có thể trở nên rất khó chịu.

Khi năng lượng dồn thêm, luân xa bị đổi màu sắc, và đó là tại sao con thấy nhiều giáo lý tâm linh và Thời mới vẽ hình luân xa gốc màu vàng cam hay đỏ sẫm. Khi luân xa gốc quay đúng chiều và tinh khiết, nó tỏa ra ánh sáng màu trắng.

Là người tầm đạo tâm linh, con cần học cách nhận diện cảm giác khi năng lượng tích tụ trong các luân xa của mình, và đối với luân xa gốc, điều này rất dễ học hỏi vì nó có triệu chứng vật lý. Bước đầu tiên dẫn đến việc kiểm soát trường năng lượng của mình là tránh mọi chuyện có thể dẫn đến kích thích tình dục. Nói cách khác, nếu con là người tầm đạo tâm linh, con không vui thú trong phim ảnh khiêu dâm và con tránh những trò chuyện lộ liễu tình dục. Ta phải nhìn nhận là trong xã hội Tây phương ngày nay, con liên tục bị truyền thông và quảng cáo dội bom với những hình ảnh khiêu dâm lộ liễu, thế nhưng con có thể học cách để cho chúng lướt bay qua mà không ảnh hưởng được con. Đơn giản là con từ chối cho chúng sự chú ý trực tiếp, vì chính sự chú ý của con sẽ phóng đại ham muốn tình dục. Điều ta muốn nói là nếu con muốn tránh bị phỏng thì con không cố tình đổ dầu vào lửa.

Con cũng sẽ đạt được nhiều kết quả bằng cách thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, và bài chú Đại thiên thần Michael là đề nghị hàng đầu của ta. Con hãy kêu gọi sự bảo vệ cho cảm thể và luân xa gốc của con. Có vô số thế lực bóng tối tìm cách thổi phồng ham muốn tình dục của con để lừa gạt con vào chuyện làm tha hóa năng lượng. Các thế lực này đứng trực tiếp sau lưng toàn bộ ngành công nghiệp tình dục, kể cả ngành làm phim và quảng cáo. Cho nên con cần kiên quyết bảo vệ trường năng lượng của con chống lại mọi xâm phạm của chúng.

Ta cũng khuyên con dùng bài chú để Astrea để cắt con ra khỏi mọi ràng buộc với tà lực và thanh tẩy luân xa gốc của con. Tất nhiên, con cũng có thể dùng các bài thỉnh Mẹ Mary hay ngọn lửa tím để biến hóa mọi năng lượng tha hóa đã sẵn tồn đọng trong luân xa gốc và cảm thể. Có thể con cũng muốn xem lại những bài giảng của ta về cách làm thế nào đương đầu với nghiện ngập, bởi vì đối với nhiều người, ham muốn tình dục đã trở thành một chứng nghiện suốt đời.

Bước kế tiếp là không những con học cách cảm thấy dòng chảy của năng lượng qua các luân xa, mà con cũng học cách kiểm soát dòng năng lượng đó. Đây là một khả năng thiết yếu cho mọi người tâm đạo nghiêm túc, và một lần nữa, năng lượng tình dục là cách tu tập toàn hảo. Con cần học cách ngăn chặn một cách ý thức để không cho sinh lực chảy xuống luân xa gốc và các cơ quan tình dục. Và con cần học cách lật ngược dòng chảy sau khi nó đã bắt đầu chảy sai chiều.

Đối với một người có trực giác, việc trên không khó khăn như nó có vẻ. Nhưng sẽ hữu ích cho hầu hệt mọi người nếu họ sử dụng một kỹ thuật, và ta đã ban truyền một kỹ thuật như vậy ở một nơi khác. Tuy nhiên, con cũng có thể dùng nhiều hình thức của Yoga và Tai Chi cho mục tiêu này.

Hãy để ta kết thúc và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lấy quyết định rõ ràng. Hầu hết mọi người đều lớn lên với một cái nhìn mơ hồ và mâu thuẫn về tình dục. Nếu con có thể giải tỏa phần nào sự bối rối đó – và trong bài này ta đã cho con một số lời dạy có thể giúp con – con có thể đạt tới mức là con lấy quyết định cương quyết mình sẽ biểu lộ tình dục như thế nào. Một khi con nối kết với mong muốn của dòng sống về tình dục, con sẽ có nền tảng tốt đẹp nhất để làm chủ những ham muốn tình dục khởi lên từ cơ thể và cảm thể.

Như luôn luôn, ta khuyến khích con có một thái độ sống tích cực. Đối với nhiều người tâm linh, tình dục đã là một nguồn hổ thẹn, bối rối và nhiều cảm xúc tiêu cực khác, và thường khi điều này ngăn trở phát triển tâm linh. Thay vào đó, con hãy dùng tình dục để phát huy sự tăng trưởng tâm linh và học cách điều khiển năng lượng chảy qua các luân xa. Một khi con điều ngự được các năng lượng đó, con sẽ nhận chân được cái đẹp của cơ thể con người mà không cảm thấy ham muốn tình dục. Nói cách khác, tình dục không còn sai khiến đời con nữa. Cái hướng dẫn đời con là cuộc tìm kiếm tâm linh của con. Con đã quyết định là đối với con, sự tinh tấn tâm linh quan trọng hơn nhiều so với sự thỏa mãn tình dục. Con đã khám phá ra rằng con không phải là một sinh thể tình dục mà là một sinh thể tâm linh.

Nhận xét của Giê-su về phim của Mel Gibson “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”

Hỏi: Thưa thày Giê-su, thày có thể cho con sáng ngộ gì về bộ phim mới của Mel Gibson được phát hành năm 2004 “Cuộc Khổ nạn của Chúa Giê-su”? Liệu thày có xem phim này là một cản trở cho thông điệp của thày vì thày sẽ trở thành thần tượng cho hàng triệu người? Hay liệu phim này cần thiết để tăng cường cho thông điệp của thày? Đây có phải là một mô tả chính xác về sự Đóng đinh của thày hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Nếu ta được yêu cầu làm cố vấn cho một bộ phim về đời ta, điều đầu tiên ta sẽ làm là đổi tiêu đề từ “Khổ nạn” thành “Phục sinh”. Chắc chắn ta không hài lòng là đạo Cơ đốc chính thống đã đặt chú ý và trọng tâm quá đáng như vậy vào sự kiện ta bị đóng đinh, và do đó đã bỏ qua sự kiện quan trọng hơn rất nhiều là ta đã phục sinh.

Phải, ta đã bị đóng đinh và hành quyết. Tuy nhiên, hàng ngàn người khác cũng đã bị hành quyết tương tự như vậy mà hầu như chẳng có ai chú ý. Lý do là vì, tất nhiên, việc một người bị đóng đinh chẳng quan trọng gì trong lịch sử thế giới. Vậy tại sao lại xem trọng sự kiện ta bị đóng đinh? Nó thật chẳng quan trọng gì hơn việc đóng đinh một người nào khác bị hành quyết theo lối ác độc này. “Hễ các người đã làm chuyện này cho một kẻ hèn mọn này là anh em của ta, thì các người cũng đã làm cho chính ta” (Matthew 25:40). Cho nên khi con bỏ qua sự hành quyết ác độc đối với từng nấy người, thì con cũng bỏ qua nỗi khổ của họ, là chính nỗi khổ của ta.

Điều ta cố giúp mọi người nhìn ra ở đây là việc ta bị đóng đinh không quan trọng hơn, hay kém quan trọng hơn, hàng ngàn người khác bị đóng đinh. Trải nghiệm của ta chỉ khác hơn ở chỗ là ta đã được phục sinh sau khi bị đóng đinh và ta đã hiện ra trước mặt các tông đồ trong một cơ thể phục sinh. Điều này quan trọng vì khi được hiểu chính xác, nó chứng minh là mọi người đều có thể bước trên một con đường sẽ dẫn họ đến tâm thức Ki-tô. Và khi họ đạt đến tâm thức Ki-tô đó, họ có thể chiến thắng mọi thế lực của vũ trụ vật chất, kể cả chính cái chết.

Thông điệp chủ yếu của đời ta không phải là lời tuyên bố được nhắc đi nhắc lại là ta đã chết trên thập tự giá để trả thay cho tội lỗi loài người, mà thông điệp chủ yếu là mặc dù người ta đã giết chết thân thể vật lý của ta, họ đã không thể giết được ta vì ta là nhiều hơn cơ thể và ta có thể sống còn sau khi cơ thể qua đời. Đây quả thực là thông điệp đáng lý phải được “hô lớn từ mọi mái nhà” cũng như trên màn hình chiếu phim.

Mọi con người đều có tiềm năng bước theo chân ta và làm những công việc ta đã làm. Và chìa khóa để bước theo chân ta là áp dụng cùng một cách tiếp cận đối với tôn giáo mà ta đã chứng tỏ trong suốt đời mình, là đi muốt tiến trình biến hóa tâm thức mà ta đã trải nghiệm. Đó mới đúng là thông điệp chủ yếu của đạo Cơ đốc, và như ta đã từng nói, ta mong muốn mọi hình ảnh của Ki-tô bị đóng đinh được gỡ bỏ khỏi các nhà thờ Cơ đốc và được thay thế bằng hình ảnh của Ki-tô phục sinh.

Cho nên đúng vậy, bộ phim này có tiềm năng là một cản trở cho thông điệp mà ta muốn gửi ra trong thời đại này. Nếu phim này trở nên thịnh hành trong quần chúng, quả là nó có thể tăng cường cho sự trọng tâm quá mức dành cho việc ta bị đóng đinh và đau đớn trên thập tự giá, một trọng tâm đã được củng cố suốt 2000 năm qua. Ta đã có bình luận về chủ đề “Chúa hiến thân cho loài người” ở một nơi khác cho nên như vậy cũng đủ rồi.

Khi con xem một bộ phim, con rất nên chú ý đến mức độ năng lượng của mình trước và sau khi xem phim. Nếu con nhận thấy mức năng lượng giảm xuống, con có thể chắc chắn là phim đã hút cạn năng lượng tích cực của con. Đại đa số các nhà làm phim không nhận thức rõ về sản phẩm của mình, nhưng những loại phim như vậy luôn luôn bị tà lực ảnh hưởng vì tà lực dùng bộ phim để đánh cắp năng lượng tích cực của người xem. Điều này đặc biệt đúng với các loại phim gây sốc cho khán giả qua các hình ảnh khủng khiếp, tình dục hay bạo lực.

Ta nghĩ người xem phim “Cuộc Khổ nạn” nếu họ chú ý đến mức năng lượng của mình, sẽ nhận thấy họ bị rút cạn hết năng lượng sau khi xem phim. Lý do thật đơn giản. Phim này chú tâm quá đáng vào nỗi đau đớn của ta trước và trong khi bị đóng đinh. Nói thật, ta thà không có tín hữu Cơ đốc nào nhìn thấy những hình ảnh của một người bị đóng đinh với thân thể đầy máu được trình bày là Giê-su Ki-tô.

Đó thật không phải là một cách mô tả chính xác về cách hành quyết này. Hiển nhiên là có chút máu nhưng không nhiều lắm. Những hình ảnh như vậy chỉ nhằm tạo chấn động cho người xem khiến họ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, rồi năng lượng này bị bọn quỷ dữ, tà thể cùng các linh hồn không xác hút lấy, vì chúng sống còn nhờ năng lượng tha hóa. Thẳng thắn mà nói, các rạp chiếu phim thường là vùng sinh sôi cho những loại sinh thể thấp kém đó, đặc biệt những rạp chiếu các bộ phim kinh hoàng, phim khiêu dâm và phim bạo lực giết chóc. Ta lượng định phim này là một loại phim nửa chừng giữa phim bạo lực và phim kinh hoàng.

Cho nên, không, bộ phim này không phải là một mô tả xác thực về sự đóng đinh. Đương nhiên, việc ta bị xét xử công khai và bị đóng đinh không là một trải nghiệm thú vị gì. Chính vì vậy mà vào buổi tối trước đó, ta đã băn khoăn đến độ xin Thượng đế lấy chén khỏi tay ta. Dẫu sao thì khi ta quy phục Thượng đế qua những lời: “Dẫu vậy, xin ý Cha được thành, chứ không phải ý con,” (Luke 22:42) thì ta đạt được một trạng thái an bình nội tâm sẽ theo ta trong suốt trải nghiệm.

Con sẽ nhận thấy là những ai trải qua hoàn cảnh khắc nghiệt tột cùng thường có một cảm giác bình an nội tâm với rất ít đau đớn, khó chịu. Các nhà khoa học giải thích sự kiện này là do các hóa chất trong bộ não tạo ra. Đúng là hóa chất có một vai trò nào đó, nhưng điều quan trọng hơn nhiều là trạng thái an bình nội tâm của dòng sống. Chính sự an bình nội tâm giúp cho hóa chất được phóng thích, chứ không phải hoá chất chế tạo được sự an bình nội tâm. Cho nên ta ở trong một trạng thái an bình như vậy trong toàn bộ cuộc trải nghiệm, và vì vậy ta đã không đến nỗi bị đau đớn như nhiều tín hữu Cơ đốc tưởng tượng. Chắc chắn ta đã không đau đớn như được mô tả trong phim.

Trong thời gọi là Thời kỳ Tăm tối [khoảng từ năm 500 đến 1000 SCN], việc người ta đồng cảm với nỗi khổ của Ki-tô là một chuyện tự nhiên, vì đời sống của họ thật cùng khốn, đau khổ. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, các chân sư thăng thiên luôn luôn cố gắng tiếp cận con người qua một thông điệp tâm linh có khả năng giúp họ vươn lên cao hơn, và để chạm được họ, các thày phải đến gần họ với một thông điệp phù hợp với trạng thái tâm thức của họ lúc đó. Nếu họ đang trải qua nhiều đau khổ và nếu họ thấy được một vị sáng lập tôn giáo cũng phải nếm đau khổ, thì điều này quả thực có thể giúp họ mở tim ra nhận lấy thông điệp tâm linh.

Đó là một cách phải chăng để con người mở tim ra với Ki-tô trong những thời kỳ họ phải chịu rất nhiều khổ đau. Tất nhiên trong thế giới ngày nay vẫn còn những người bị khổ suốt đời, và họ có thể được giúp qua việc nếm trải khổ nạn của ta trên thập tự giá. Nhưng dẫu sao, thông điệp chính yếu vẫn nên là: qua việc nỗ lực đạt tâm thức Ki-tô, con sẽ vượt qua đau khổ, sẽ thay đổi hoàn cảnh bên ngoài của con và đem lại vương quốc Thượng đế trên trái đất. Không bao giờ thông điệp của các chân sư là con người phải tiếp tục đau khổ cả đời mình rồi sau đó mới được hưởng vương quốc Thượng đế sau khi chết. Mục đích của các thày là chấm dứt đau khổ ngay trên trái đất và đem Nước Trời vào thế gian này.

Ta hoàn toàn thông cảm là trong thế giới hôm nay có nhiều người đã trải qua rất nhiều đau khổ, kể cả chính Mel Gibson. Rồi điều này khiến họ nhận diện chính họ trong ta, vì ta cũng đã đau khổ. Tuy nhiên, điều xảy ra cho nhiều người là đau khổ tạo ra những vết thương cảm xúc trong cỗ xe linh hồn. Cho nên nếu họ tập trung vào khổ nạn của ta trên thập tự giá mà không hiểu thông điệp rằng họ có khả năng vươn lên khỏi đau khổ, thì việc tham gia đạo Cơ đốc sẽ không giúp họ tăng triển tâm linh.

Trái lại, việc tham gia vào đạo Cơ đốc có thể làm thui chột sự tăng triển tâm linh của họ, khiến họ cảm thấy mình phải chịu khổ đau vì chính ta đã khổ đau. Thật là một cách suy luận méo mó xuyên tạc đến độ nó thách thức khả năng hiểu của ta. Vậy mà vẫn có những dòng sống bị thương tích quá nặng đến mức họ không chịu buông những vết thương đó ra. Họ bám lấy vết thương vì vết thương đã trở thành một phần trong ý niệm bản sắc của họ, và họ không thể tưởng tượng là họ có thể được chữa lành khỏi vết thương. Cho nên một cách nào đó, họ biến khổ nạn của ta trên thập tự giá cùng cái chết của ta do khổ nạn đó thành một lời biện minh là họ không được chữa lành vết thương và bước lên một tầng cao hơn. Thậm chí họ còn cố dùng tấm gương của ta để xúi giục người khác thương xót họ, thương xót nỗi đau của họ.

Như ta vừa nói, thông điệp ở trung tâm cuộc đời của ta là: Con không phải khổ đau. Khi con bước theo chân ta và để cho cái tâm ở trong Giê-su Ki-tô bước vào trong con, con có thể khắc phục đau khổ con người và đạt được an bình nội tâm. Thậm chí con có thể thay đổi cả những hoàn cảnh vỏ ngoài đã tạo vết thương trong con. Con nghĩ tại sao ta đã chữa lành người bệnh tật và vực người chết sống lại nếu không phải là để minh chứng tâm thức Ki-tô có quyền năng trên mọi điều kiện vật lý? Con nghĩ tại sao ta đã chứng tỏ là một người với tâm thức Ki-tô có thể chinh phục chính cái chết nếu không để minh chứng là mọi người đều có tiềm năng chinh phục cái chết?

Cho những ai đang đọc dòng chữ này, hãy để ta đưa ra một lời khuyên nhủ. Xin con đừng cảm thấy mình có nghĩa vụ đi xem phim này chỉ vì dường như đây là một bộ phim về Giê-su Ki-tô và con cảm thấy mình phải biết rõ ta đã phải khổ đến chừng nào vì con. Con tuyệt đối không có bổn phận đi xem một bộ phim trưng bày nỗi khổ mà ta không hề trải nghiệm, một bộ phim mô tả việc ta bị đóng đinh thật thiếu chính xác. Và như vậy ta cho phép con được tự do không có bất kỳ cảm giác nghĩa vụ nào mà con có thể có.

Ta làm vậy vì ta biết rõ nhiều tín hữu Cơ đốc sẽ cảm thấy mình có bổn phận phải xem phim này chỉ vì bộ phim nói về ta. Nhưng như ta đang cố giải thích, phim này thực sự không phải về ta. Phim này là về một hình ảnh sai lạc đã được đạo Cơ đốc truyền thống củng cố từ 2000 năm qua. Và những hình ảnh được trình chiếu suốt bộ phim không phát xuất từ một viễn quan chân chính mà từ sự hư cấu của những người mang một quan niệm mất cân bằng về đau khổ.

Ta cũng biết là nhiều vị lãnh đạo Cơ đốc, kể cả Tòa thánh Vatican, sẽ tuyên bố là phim này trình bày sự kiện đóng đinh đúng y như thực. Một số sẽ nói như vậy vì họ tin thật như thế. Một số sẽ nói như vậy vì họ nhìn thấy một cơ hội chính trị để quay sự chú ý của mọi người về cái họ tin là quan điểm đúng đắn duy nhất về Ki-tô, tức chính quan điểm của họ.

Ta buồn là Vatican đã bày tỏ sự ủng hộ thận trọng đối với bộ phim, nhưng ta không ngạc nhiên. Rõ ràng, như đã được giải thích nơi khác, là Giáo hội Công giáo đã che khuất thông điệp đích thực của ta cho nên ta không ngạc nhiên khi chính đức Giáo hoàng cầm giữ một hình ảnh không thật về việc ta bị đóng đinh. Dù sao thì ta cũng không thấy được lý do tại sao người Công giáo phải có bổn phận đi xem phim này.

Ta không đang nói là con không nên xem phim, mà ta nói là con nên thoát ra khỏi mọi bó buộc phải xem phim. Con cần lắng nghe các sáng ngộ từ cái ta Ki-tô của con. Nếu con cảm thấy một sự thôi thúc nội tâm muốn xem phim, bằng mọi cách con hãy làm theo.

Tuy nhiên, ta rất khuyên con nên sử dụng các bài tập về sự bảo vệ tâm linh trước khi xem phim. Ta cũng rất khuyên con nên hình dung một quả cầu ánh sáng trắng tinh bao bọc con trong suốt thời gian xem phim, và con rất cẩn thận để không rơi vào những loại cảm xúc tiêu cực do xem phim.

Con hãy quan sát thật kỹ bộ phim làm thế nào để gia tăng tác động gây hết cơn sốc này đến cơn sốc khác cho đến khi người xem không còn khả năng giữ được tâm an bình nữa. Họ bị rơi vào một trạng thái chấn động lẫn chấn thương khiến họ mở toang ra với các thế lực muốn đánh cắp năng lượng của họ.

Con hãy dùng sự nhận biết của mình để tránh trở thành một nạn nhân cho sự thao túng tinh vi của phim này. Hãy tránh bị làm mồi cho mong muốn thương xót ta – vì nói cho cùng, dường như ta đang làm tất cả những chuyện này vì con – đến độ con bị đánh lừa và cảm thấy con phải mở tâm ra cho các hình ảnh hung bạo trong phim. Đây rõ ràng là một mưu toan lợi dụng tình yêu chân thực mà một số người có đối với ta, cùng ý thức bổn phận sai lạc mà nhiều người hơn nữa có đối với ta. Nó đánh lừa con để con mở tâm tiềm thức ra đón nhận thông điệp ẩn giấu bên dưới của bộ phim, và ta khuyên con chú ý đến thông điệp này. Con sẽ ngạc nhiên trước những tiết lộ mà cái ta Ki-tô của con có thể cho con nếu con lắng nghe nó với tâm cởi mở.

Ta không bảo là Mel Gibson đã làm việc này một cách ý thức. Ông chỉ đơn giản chạm vào mạch, và bị mắc bẫy, cái động lượng từ ngàn năm nhằm đưa ra một hình ảnh sai lạc về Ki-tô hầu ngăn cản mọi người bước theo gương của ta. Kết quả là bộ phim mang một thông điệp rất phá hoại. Đó là một thông điệp giả dối, và ta khuyên con nên coi chừng nó và tránh bị nó đánh bẫy.

Cho nên nếu con muốn coi phim này, con hãy xem đó như một trải nghiệm giáo dục. Con lắng nghe cái ta Ki-tô của con để học được bài học cụ thể mà cái ta Ki-tô muốn con học từ việc xem phim. Bài học này sẽ hơi khác đối với mỗi người.

“Khóa học về Phép lạ” có đến từ các chân sư?

Hỏi: Cách đây vài năm, con bắt đầu quan tâm đến việc đọc và tìm hiểu quyển Khóa học về Phép lạ (A Course in Miracles), rồi đột nhiên con mất hứng thú và quyết định không theo đuổi lời dạy này nữa. Về sau có một đệ tử của chân sư thăng thiên nói cho con biết là lời dạy đó chỉ chính xác (hay xác thực) được 90%. Vậy trên thực tế, liệu khóa học đó có chứa đựng những lời dạy chân truyền của các chân sư thăng thiên không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Khóa học về Phép lạ (KHPL) quả thực có chứa đựng những ý tưởng chân chính, tương tự như rất nhiều lời dạy tâm linh hay tôn giáo khác. Nhiều người, đặc biệt trong phong trào Thời Mới, đã dùng khóa học này để phát triển một tầm hiểu biết sâu sắc hơn về con đường tâm linh cũng như về các giáo lý tâm truyền đích thực của ta. “Nhờ trái mà con biết được cây”, và KHPL đã có giúp được nhiều người.

Con nói đúng, khóa học không chính xác 100 %, nhưng ta có thể nói với con là không một giáo lý tâm linh nào được tìm thấy trong thế giới vật chất chính xác 100 %.

Môt lời dạy tâm linh luôn luôn được ban ra qua trung gian tâm thức của một người đang đầu thai. Cho nên không thể tránh khỏi lời dạy sẽ bị ảnh hưởng bởi tâm thức của người giữ vai sứ giả. Trong một số trường hợp như đã giải thích ở nơi khác, ý định cá nhân của sứ giả có thể tô màu lời dạy tâm linh hay thậm chí bẻ cong thông điệp. Tuy nhiên, ngay cả khi sứ giả không mang hậu ý thì nội dung của tâm thức người đó cũng sẽ ảnh hưởng đến lời dạy.

Chẳng hạn khi ta phát biểu qua trung gian ông Kim Michaels, ta phải dùng những từ cùng khái niệm có sẵn trong vốn từ vựng và tâm thức của ông. Ta sẽ rất khó lòng ban ra xuyên qua ông một bài giảng đầy ý nghĩa về một đề tài mà ông không hiểu biết gì. Nói cách khác, sứ giả càng hiểu rõ một đề tài thì lời dạy tâm linh được truyền đạt qua sứ giả sẽ càng sâu sắc và phong phú. Và sứ giả càng không có ý định cá nhân thì lời dạy sẽ càng thuần khiết.

Vị sứ giả đã truyền đạt Khóa học về Phép lạ không phải là một người quan tâm đến tâm linh. Hệ thống tin tưởng của bà dựa trên chủ nghĩa duy vật khoa học. Đây không nhất thiết là một bất lợi vì nó khiến cho khóa học hấp dẫn hơn đối với những người trong cùng tâm thái đó. Tuy nhiên vì sứ giả không có kiến thức vỏ ngoài, hay một tầm hiểu biết nội tâm sâu xa về các khái niệm tâm linh, cho nên bà bị giới hạn trong những gì có thể truyền đạt. Ta không hề nói điều này để chỉ trích vị sứ giả, bởi vì bà thực sự xứng đáng được khen ngợi do đã cống hiến khóa học này, đã sẵn sàng bỏ qua một bên lòng hoài nghi của mình để vẫn đưa ra tài liệu này. Ta chỉ đơn giản nói lên một sự thật hiển nhiên.

Mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng là đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Nếu sứ giả KHPL đã hoàn toàn đón nhận sự chuyển hóa tâm thức này, thì khóa học đã có thể sâu sắc và thuần khiết hơn. Cho nên điều quan trọng cho những ai học KHPL là nhận ra sự cần thiết phải vượt xa hơn KHPL – như nhiều người quả thực đã làm.

Điều ta muốn nói ở đây là một số ý tưởng trong KHPL không hoàn toàn chính xác hay đầy đủ. Có một số phần thiếu sót có thể gây bối rối nơi các học trò thiếu kinh nghiệm. Thêm vào đó, điều quan trọng là phải nhận ra rằng KHPL tự thân nó không hoàn chỉnh. Đây chỉ là thêm một trường hợp tiết lộ tuần tự, và các học trò KHPL có thể sẽ được lợi lạc nếu họ học hỏi từ những nguồn khác.

Lấy ví dụ một ý tưởng không mấy chính xác khi KHPL nói rằng thế giới vật chất không có thật, rằng nó không do Thượng đế tạo ra vì Thượng đế vượt khỏi thời gian lẫn không gian. Vì vậy theo KHPL, thế giới là sản phẩm của nhận thức, của tự ngã tin rằng mình tách biệt khỏi Thượng đế. Mặc dù có một sự thật trong ý kiến bảo rằng thế giới bị chi phối bởi nhận thức con người, nhưng thật không chính xác khi nói rằng thế giới hoàn toàn do nhận thức của tự ngã tạo ra.

Hành tinh địa cầu đã được bảy sinh thể tâm linh tạo dựng, mà Kinh thánh gọi là các Elohim. Các Elohim đã tạo ra một hành tinh cân bằng hoàn hảo, và khuôn đúc cơ bản của các Elohim đã không hề suy xuyển trong bản chất. Tuy nhiên sau khi loài người rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn thì con người – qua trung gian quyền năng sáng tạo của tâm – đã tạo ra một lớp phủ bất toàn che lấp phần lớn khuôn đúc nguyên thủy của các Elohim.

Nói cho cùng, lớp phủ này không thực, vì nó không khế hợp với các định luật của Thượng đế cho nên nó không thể bền vững. Nhưng trong tạm thời, nó vẫn thực theo nghĩa là nó được tạo ra từ năng lượng tha hóa. Năng lượng này sẽ không tự dưng biến mất cho dù mọi người đột nhiên đạt được tâm thức Ki-tô. Các điều kiện bất toàn hiện thời đã được dựng lên qua thời gian bởi việc tha hóa năng lượng và vì vậy cũng sẽ cần thời gian lẫn nỗ lực để thay đổi độ rung của năng lượng và trở về trạng thái thuần khiết nguyên thủy.

Nói cách khác, mặc dù điều thiết yếu cho mọi người là thoát khỏi cảm nhận tách biệt khởi lên từ tự ngã, nhưng điều này sẽ không khiến cho thế giới vật lý biến mất, và tự thân nó sẽ không đưa địa cầu trở về trạng thái thuần khiết ban đầu. Thế giới vật lý đã được Thượng đế sinh tạo như phần nối dài của Bản thể ngài. Nó được trù hoạch để trở thành phần nối dài của Vương quốc Thượng đế, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra khi các cá thể của ngài – chẳng hạn như con người – trở nên hoàn toàn ý thức về vai trò dự trù của mình là đồng sáng tạo cùng với Thượng đế. Nói cách khác, mục đích của sự tăng triển tâm linh không phải để khiến thế gian biến mất mà là nâng cao thế gian – bằng cách nâng cao sự rung động – để nó trở thành một cơ ngơi xứng đáng trong căn nhà của Cha.

Về phần sau trong câu hỏi của con, mục đích thực sự của một lời dạy tâm linh là giúp con thiết lập mối liên lạc với vị thày nội tâm của con, cái Ta Ki-tô của con. Một khi con bắt được liên lạc, con nên cho phép cái Ta Ki-tô hướng dẫn con đến những giáo lý tâm linh khác sẽ giúp con tiến bước. Chừng nào con bước theo sự chỉ đạo nội tâm thì con sẽ tiến bộ tối đa. Chỉ khi nào con cho phép mình dính mắc với một giáo lý vỏ ngoài thì bước tiến của con sẽ chậm lại hay thậm chí dừng lại.

Con mô tả là đầu tiên con đã quan tâm đến KHPL xong con đã mất hứng thú. Câu hỏi cốt yếu ở đây là liệu sự quan tâm sơ khởi của con đến từ nội tâm hay từ một ảnh hưởng bên ngoài, và sự mất hứng thú đó của con đến từ chỉ đạo nội tâm hay từ một ảnh hưởng bên ngoài? Như ta vừa nói, con hãy luôn luôn cố gắng bước theo sự thôi thúc từ bên trong.

Cũng hãy cho phép ta nói rằng việc gán ghép một con số chắc nình nịch để lượng định độ thuần khiết hay độ xác thực của một lời dạy tâm linh là một chuyện rất khó khăn. Nó tùy thuộc phần lớn vào tiêu chuẩn mà con sử dụng để đánh giá lời dạy. Dẫu sao thì một học trò chưa kinh nghiệm sẽ lợi lạc hơn nếu học hỏi một giáo lý có độ thuần khiết và xác thực cao. Lý do là vì người đó chưa phát triển đủ khả năng phân biện để có thể phân biệt giữa một tư tưởng chân chính với một quan điểm đã bị bóp méo hay sai lạc. Cho nên giáo lý càng thuần khiết bao nhiêu thì nó sẽ càng hữu ích bấy nhiêu cho học trò.

Đến khi học trò đã chín chắn hơn và bắt đầu phát triển được khả năng hòa điệu nội tâm, vấn đề giáo lý thuần khiết cũng bớt quan trọng. Giờ đây học trò đã phát triển phần nào sự phân biện nội tâm, cho nên có khả năng học hỏi một lời dạy mà vẫn tách ra được những lời chân lý, rút tỉa ra các ý tưởng chân chính hữu dụng trong khi bỏ lại mọi ý kiến không xác thực.

Tà lực dùng tình dục ngoài hôn nhân như thế nào để đánh cắp năng lượng?

Hỏi: Thày và huynh yêu dấu, tình dục ngoài hôn nhân có hậu quả như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Như ta có giải thích ở một nơi khác, hôn nhân là một lời hứa thiêng liêng với sự chứng giám của Thượng đế và do đó cần được coi trọng. Khi con kết hôn, con hứa là mình sẽ chung thủy với người bạn đời của mình, và chỉ với người đó mà thôi – hay ít ra đó là ý nghĩa lời hứa mà con cần hứa. Nếu con có quan hệ tình dục bên ngoài hôn nhân thì rõ ràng con đang bội ước, và do đó con sẽ tạo ra nghiệp quả.

Như ta giải thích trong câu trả lời trước, hầu hết mọi người không hiểu rõ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, kể cả về những điều xảy ra ở mức năng lượng khi con có quan hệ tình dục. Suốt trang mạng này, ta đã giải thích rằng trong mọi việc mà con làm, con đều sử dụng năng lượng, cho nên mọi khía cạnh đời sống cần được hiểu như là một sự trao đổi năng lượng. Ai ai cũng biết là quan hệ tình dục có tiềm năng lây truyền bệnh tật như thế nào, thế nhưng tiềm năng trao truyền năng lượng còn lớn hơn như vậy nữa.  

Khi có quan hệ tình dục, trường năng lượng của cả hai người trở nên hòa quyện với nhau rất chặt chẽ. Ở điểm cực khoái, ánh sáng được phóng ra từ các trung tâm năng lượng trong năng trường của con, đặc biệt là từ trung tâm năng lượng thấp, thường được gọi là luân xa gốc. Con cảm thấy khoái lạc vì luân xa được thiết kế đề truyền năng lượng. Cảm giác thích thú thường khiến cho khả năng trực giác bị cùn nhụt đi, và nó ngăn cản con nhận thấy hai năng trường gắn chặt với nhau đang mở cửa ra để con nhận năng lượng từ người kia, thậm chí nhận cả năng lượng từ bên ngoài. Cảm giác thích thú có thể khiến con đui mù trước những nguy cơ tiềm tàng, hay nó khiến con không muốn thừa nhận những nguy cơ đó.    

Ai ai cũng biết là nếu con có quan hệ tình dục chỉ với một người duy nhất, con sẽ ít khả năng lây nhiễm bệnh tật hơn là khi con quan hệ với nhiều người, và điều tương tự cũng xảy ra đối với năng lượng. Nếu con có quan hệ với nhiều hơn một người, nguy cơ nhận năng lượng ô uế sẽ nhân lên. Đương nhiên khi hai người đều chung thủy với nhau, nguy cơ truyền nhiễm bệnh tật sẽ tối thiểu, và năng lượng ô uế cũng thế. Trong một hôn nhân chung thủy, cả hai người đều có khả năng xây dựng một bức tường năng lượng bao bọc quanh mình, và điều này giúp cho hai vợ chồng có thể có quan hệ mà không tạo sơ hở cho các năng lượng ô nhiễm từ ngoài.    

Tuy nhiên nếu con không giữ được lời hứa của con, có nhiều xác suất con sẽ đem năng lượng ô uế vào hôn nhân, và điều này sẽ phá vỡ vòng đai bảo vệ hôn nhân. Năng lượng đó cũng có thể được truyền sang người phối ngẫu của con, và nếu người đó tin rằng con chung thủy, người đó sẽ không đề phòng và, trong tiềm thức, sẽ mở cửa ra để nhận lấy năng lượng đó. Đây là một sự xâm phạm quyền tự quyết của người phối ngẫu, và khi làm vậy, con sẽ tạo nghiệp. Thêm vào đó, trong tiềm thức, người bạn đời của con sẽ cảm thấy có điều gì không ổn, dẫn đến những hậu họa phức tạp khi lòng tin cậy là nền tảng của mọi quan hệ thành công bị phá vỡ.    

Cũng trong câu trả lời trước, ta có giải thích là hôn nhân có tiềm năng tạo ra sự kết hợp thiêng liêng giữa vợ chồng. Nhưng khi con phá vỡ lòng tin cậy qua một cuộc ngoại tình và cài đặt những năng lượng “ngoại lai”, con tiêu diệt tiềm năng này. Giản dị là con không thể có sự kết hợp cao nhất với hai đối tác cùng một lúc, cho nên rất có thể con sẽ không có kết hợp tối ưu với cả hai người.  

Con cũng nên khôn ngoan nhìn nhận là con đang sống trong một thế giới chất chứa năng lượng ô uế khắp chung quanh. Con hãy hình dung năng trường của con như một quả cầu ánh sáng bảo vệ con khỏi năng lượng ô uế đó. Nếu năng trường con có lỗ hổng, năng lượng chung quanh sẽ được dịp xối vào trong năng trường. Có nhiều loại sinh hoạt có khả năng mở năng trường con ra, đặc biệt là quan hệ tình dục. Điều phải hiển nhiên với con là khi hai năng trường được hòa quyện vào nhau trong hành động tình dục, nó có thể khiến cho con mở cửa ra để tiếp nhận năng lượng từ ngoài, với hệ quả nhiều hay ít tùy theo thái độ và cảm xúc của con khi con có quan hệ.

Khi con quan hệ ngoài hôn nhân, gần như bắt buộc con sẽ có những cảm xúc ô uế – có thể là trong tiềm thức mà con không nhận ra. Con dư biết là con đang vi phạm lời hứa hôn nhân của con, và điều này sẽ mở trường năng lượng của con ra cho năng lượng ô uế. Sẽ tồi tệ hơn nữa nếu con có quan hệ chỉ để thỏa mãn một thèm muốn thể xác, hay vì con đang bực dọc người phối ngẫu và đổ lỗi cho người đó không đáp ứng được nhu cầu của con. Sự thật đơn giản là ngoại tình luôn luôn khiến con trở thành con mồi cho năng lượng ô uế. Gần như ai ai cũng đều biết rõ – ở mức nội tâm – rằng việc bội ước lời hứa hôn nhân là sai trái, cho nên để có thể bội ước, con phải bịt miệng tiếng nói của cái ta Ki-tô của con, và hành động này sẽ vô hiệu hóa sự bảo vệ mà cái ta Ki-tô bình thường cung cấp cho con.       

Tất nhiên, nó sẽ khiến con dễ bị các thế lực bóng tối thao túng. Các tà lực này tìm cách đánh cắp năng lượng tích cực của con, và chúng sẽ cố gắng cài đặt năng lượng tiêu cực vào năng trường của con hầu khuynh loát con thêm nữa. Con cần biết sự thật đơn giản là hầu hết mọi người sẽ không bội ước hôn nhân của mình trừ khi bị tà lực thao túng.

Như ta đã giải thích trong bài giảng về các tầng cõi của vũ trụ, các tà lực hoạt động ráo riết nhất ở mức độ cảm thể con người. Tình cảm con người thường rất linh hoạt và do đó việc thao túng cảm thể là chuyện dễ dàng. Con thấy rõ, giữa cảm thể và thèm khát tình dục, có một sự nối kết rất sâu xa.

Ta có thể cam đoan với con là các tà lực trên hành tinh này sử dụng rất nhiều phương thức để kích động thèm muốn tình dục một cách giả tạo. Điều này được chúng ra tay thực hiện, một cách công khai và ngang nhiên, trong nhiều hình thức quảng cáo cũng như nhiều lãnh vực khác của đời sống. Mục đích của chúng là khuynh loát cho con người luôn luôn thèm khát và không bao giờ no đủ. Trước tiên, tà lực sẽ đưa vào trí thể con niềm tin rằng mình có quyền có quan hệ tình dục và những quan hệ này hoàn toàn không mang hậu quả tiêu cực nào hết. Một khi con tin vào điều này rồi thì thật quá dễ dàng để hướng năng lượng tình dục vào cảm thể của con và tạo ra một ham muốn tình dục vô độ không bao giờ thỏa mãn được.

Ta cũng có giải thích khắp trang mạng này là hầu hết mọi người trên địa cầu đều đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và ở mức đó, mọi thứ đều có vẻ tương đối. Điều này phát sinh ra một loạt những ham muốn nhị nguyên mà bản chất khác hẳn với những mong muốn đích thực của dòng sống. Nói cách khác, dòng sống có thể có mong muốn chính đáng được trải nghiệm sinh hoạt của thế gian, kể cả tình dục. Tuy nhiên, các mong muốn của dòng sống luôn luôn có hạn và do đó có thể được thỏa mãn trọn vẹn, có nghĩa là việc kết hôn và quan hệ tình dục với người phối ngẫu có khả năng đáp ứng hoàn toàn nhu cầu tình dục của dòng sống.  

Nhưng rõ ràng đây không phải là điều mà các tà lực muốn chứng kiến. Chúng không muốn con được thỏa mãn trong hôn nhân vì như vậy chúng sẽ không thể thao túng con. Cho nên chúng sẽ khơi dậy trong cảm thể con những thèm khát nhị nguyên vô độ không thể thỏa mãn. Những thèm khát này, trong nghĩa đen, là những cái hố không đáy, không thể nào đổ đầy. Con có thể hình dung thèm khát nhị nguyên giống như một cơn bão xoáy trong cảm thể đang cuốn hút tất cả vào với nó. Dù cho con có đổ bao nhiêu năng lượng vào bão xoáy, con cũng không bao giờ lấp đầy nó được. Nói cách khác, một khi con cho phép sự thèm khát tình dục tích tụ và bành trướng trong năng trường của con, con sẽ không bao giờ có được cảm giác con đã thỏa mãn. Dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa, con vẫn sẽ luôn luôn cảm thấy mình cần nhiều hơn. Nhiều người đã bỏ ra cả đời và sinh lực của mình để chạy đuổi theo trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh.

Tất nhiên, đây chính là điều mà tà lực mong muốn vì bây giờ chúng có thể thao túng con và bòn rút năng lượng của con. Điều ta muốn nói là con bị các tà lực liên tục dội bom với đủ loại kích thích tố nhằm tạo ra cơn bão xoáy tình dục trong cảm thể của con. Con hẳn cũng biết câu nói quen thuộc rằng “tình dục bán hàng rất chạy”, và thật vậy, tình dục được ngành quảng cáo sử dụng một cách thiện nghệ và vô lương tâm để bán sản phẩm đủ mọi loại. Nhưng đằng sau hoạt động kinh doanh là thực tế phức tạp của những tà lực sử dụng sự thèm khát tình dục vô độ để thao túng loài người.

Chính sự thèm khát tình dục vô độ này, một sự thèm khát giả tạo được dựng lên qua sự khuynh loát, khiến cho nhiều người cảm thấy nhu cầu tình dục của mình không được người bạn đời của mình thỏa mãn. Và điều này phát sinh ra ham muốn ngoại tình. Và như ta đã cố giải thích, nếu con nhượng bộ ham muốn này, con sẽ mở cửa ra cho tà lực vào thao túng con, và chúng sẽ không ngừng vắt kiệt năng lượng của con cho tới khi con không còn một giọt, hoặc cho tới khi con quyết định là con đã chán ngấy.     

Đâu là cách hay nhất để con tự bảo vệ khỏi hình thức bóc lột này? Đó là quyết định kiên quyết rằng khi con kết hôn với người bạn đời của con, con đã có một lời hứa thiêng liêng là mình sẽ chung thủy với người đó. Nếu quyết định của con kiên quyết, các tà lực sẽ khó lòng tìm được một lối vào trong tâm thức của con. Quyết định này sẽ thiết lập một vòng đai bảo vệ tâm linh chung quanh hôn nhân của con khiến cho tà lực rất khó lòng thao túng con lẫn người phối ngẫu của con. Và tất nhiên khi con làm vậy, con cũng sẽ gia tăng xác suất cuộc hôn nhân của con sẽ hạnh phúc.

Ta không nói rằng tự thân quyết định chung thủy sẽ đủ để bảo vệ hoàn toàn cho con khỏi tà lực, nhưng đó là một bước vô cùng quan trọng để con thiết lập sự bảo vệ này. Thêm vào đó, con nên sử dụng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh, như được đăng tải trong phần dụng cụ tâm linh của trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng có thể được dùng để bảo vệ hôn nhân của con. Trong thế giới ngày nay, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con xem như mọi khía cạnh đời sống của con đều đang bị các tà lực tấn công, trong đó có hôn nhân của con. Do đó điều thận trọng là con nên kêu gọi sự bảo vệ cho con, người bạn đời của con cùng sự kết hợp thiêng liêng là hôn nhân của con.  

Tất nhiên, dù con có kêu gọi bất kỳ sự bảo vệ tâm linh nào, thì việc ngoại tình sẽ phá vỡ ngay lớp bảo vệ đó. Do đó, ta hết sức khuyến khích con hãy chung thủy với lời hứa của mình. Sẽ thật là đáng tiếc nếu con phá vỡ cuộc hôn nhân chỉ vì một ham muốn tình dục nhị nguyên. Con hãy bảo vệ quyền có mối quan hệ thiêng liêng với người bạn đời của con mà không bị tấn công bởi các thế lực cám dỗ bên ngoài. Con hãy sử dụng các dụng cụ tâm linh để không cho phép các ham muốn tình dục sai khiến đời mình, như ta chỉ dẫn ở đây.  

Ăn thịt có sai quấy không?

Hỏi: Ăn thịt có sai quấy không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/20212.

Như ta có giải thích ở nơi khác, sẽ có một ngày khi tâm thức tập thể của nhân loại tăng triển tới một mức độ chỉ còn một số ít người dùng thịt mà thôi. Tuy nhiên, điều kiện này còn lâu nữa mới đạt được. Do đó ngay bây giờ, điều không thể tránh khỏi và cũng là điều cần thiết, là một phần lớn của nhân loại tiếp tục dùng thịt. Vậy nếu nhìn lý tưởng thì phải nói ăn thịt là điều sai trái. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện tại, việc ăn chay không thích hợp cho mọi người.   

Chế độ ăn uống là một vấn đề rất cá nhân. Đối với một số người, ăn chay là đúng đắn, nhưng đối với những người khác, việc ăn chay có thể là một chế độ ăn uống quá khắt khe cho mức phát triển tâm linh hiện thời của họ. Đối với một số người đã tiến cao về tâm linh, điều này có thể phản tác dụng và ngăn cản họ hoàn thành một cách hữu hiệu những công việc mà họ đã đến đây để thực hiện.   

Một cái nhìn xây dựng hơn về sự tức giận

Hỏi: Con đã đi trị liệu để chữa lành một số sự việc đau buồn mà con đã trải qua khi còn nhỏ. Con đi khám một bác sĩ trị liệu gestalt rất giỏi. Cũng như con, bác sĩ này đồng ý với rất nhiều giáo lý trên trang mạng này. Gần đây, con đã nhận được một số thông điệp lẫn lộn từ vũ trụ. Rất nhiều những kỹ thuật hiện đại được dùng để chữa trị tâm lý khuyến khích người bệnh đi vào bên trong và cảm nhận sự giận dữ đã bị kìm nén trong nhiều năm. Con nghe nói, đôi khi sự tức giận là điều lành mạnh, đó là một phần của cuộc sống làm người. Cũng có sự cần thiết cho những người đã làm mình tổn thương biết rằng mình tức giận về hành vi của họ một cách lành mạnh. Nhận thức hiện tại của con hoàn toàn phù hợp với điều đó. Tực giận thực sự là gì? Nếu tức giận không lành mạnh thì tại sao cảm xúc này lại “dính chặt” vào bản thể mình? Nói cách khác, tại sao chúng ta là con người lại có tức giận nếu đó là một cảm xúc không lành mạnh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Hãy cho ta bắt đầu với lời khen ngợi con đã đi trị liệu. Như ta đã nói trước đây, nếu những hình thức trị liệu hiện đại đã có 2000 năm trước đây thì ta đã bảo tất cả các môn đệ của ta gia nhập một hình thức trị liệu nào đó rồi. Những chướng ngại và vết thương trong tâm lý là một trong những cản trở chính yếu trong việc phát triển tâm linh, cho nên nếu mình đã có sẵn các phương tiện để chữa lành những vết thương đó thì tại sao lại không dùng? Không dùng cũng giống như từ chối uống thuốc penicillin để chữa bệnh viêm phổi vậy. 

Ta hiểu sự bối rối của con về sự tức giận, vì vậy hãy để ta chia sẻ một số suy nghĩ về đề tài này với con. Trước hết, các kỹ thuật trị liệu hiện đại khuyến khích người bệnh đi vào bên trong và tiếp xúc với nỗi tức giận bị kềm nén, đó là một điều đúng đắn. Tuy nhiên, điều quan trọng là cần nhớ rằng tất nhiên mục đích để làm như vậy không phải là để khiến cho người đó trút giận lên người khác. Nói cách khác, mục đích của các hình thức trị liệu này không phải để khiến con nổi cơn thịnh nộ và hành hung bất cứ ai con gặp, mà để giúp con chạm được những cảm xúc bị đè nén bên trong hầu con nhận diện chúng và từ đó giải quyết chúng một cách xây dựng. Có một sự khác biệt hiển nhiên giữa việc trút giận lên đầu người khác và việc cho họ biết là mình tức giận hành vi của họ.

Cảm giác, hay cảm xúc, có thể được mô tả như là năng lượng đang chuyển động. Nếu con học tập bài giảng của ta về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy ta nói về cảm thể. Cảm thể có chức năng lấy xuống những ý tưởng được hình thành trong trí thể và khiến chúng chuyển động hầu chúng có thể thị hiện trong cõi vật chất. Do đó, chức năng của cảm xúc là tuôn chảy, và nếu con cố kềm nén cảm xúc lại, con sẽ làm nghẽn dòng chảy tự nhiên của năng lượng qua tâm thức con. Điều này sẽ chắc chắn tạo ra một số vấn đề tâm lý khác nhau, và người bệnh sẽ hưởng lợi rất nhiều nếu sử dụng kỹ thuật trị liệu để bước vào bên trong và giải hóa những điểm tắc nghẽn hầu năng lượng cảm xúc tuôn chảy lại tự nhiên. 

Vấn đề với cảm xúc là chúng chỉ đơn giản tạo ra sự chuyển động cho bất cứ gì đi vào cảm thể từ trí thể. Nói cách khác, cảm thể không phân biệt, nó không phân biện là điều đó có tốt hay xấu, đúng hay sai, xây dựng hay hủy hoại bản thân. Cảm xúc chỉ đơn giản tác động bất cứ gì đi vào cảm thể từ trí thể. Đó là tại sao con cần phải có một sự kiểm soát nào đó, bằng cái tâm ý thức, trên cảm xúc của con.

Trong một số tình huống, sự biểu lộ tức giận có thể dẫn đến những hậu quả tiêu cực, và do đó việc kềm chế tức giận trong trường hợp này là giải pháp ít tệ hơn. Vấn đề xuất hiện khi người ta liên tục kềm chế tức giận thay vì tìm cách giải quyết nguyên nhân của tức giận trong trí thể, và có thể cả trong bản sắc thể là thể ether nơi neo giữ bản sắc của con.

Sự thật đơn giản là cho dù tức giận là một cảm xúc nhưng tức giận không phát xuất từ cảm thể. Nó phát xuất dưới hình thức những ý tưởng trong trí thể, đặc biệt là những ý tưởng khiến con nghĩ rằng cuộc sống phải như thế này hay như thế khác, và nếu tình huống bên ngoài không đúng như mong đợi thì nhất định phải có điều gì đó không ổn. Những ý tưởng này có thể khiến con nghĩ rằng nếu thế gian không đối xử với con theo cách mà con nghĩ con phải được đối xử, thì một sự bất công đã xảy ra và có ai đó phải là người đáng trách. Rồi điều này tạo ra ý tưởng là có người nọ là người đáng trách, và cảm xúc tức giận được xối ra khiến con muốn trừng phạt hay tìm cách trả đũa người đó.    

Vấn đề là hầu hết mọi người không hiểu cảm xúc xuất phát từ ý tưởng như thế nào. Họ chưa học cách tiếp cận với trí thể và khám phá tiến trình hình thành ý tưởng. Họ chưa nỗ lực xem xét những tin tưởng và thái độ nền tảng của họ đối với đời sống và nhìn xem những thái độ này khởi sinh ra ý tưởng cụ thể như thê nào, là những ý tưởng sẽ gây ra một số cảm xúc nhất định, ví dụ như tức giận. Nói cách khác, hầu hết mọi người đều không hiểu rõ những gì xảy ra ở mức tiềm thức trong tâm mình, mà cả cảm thể lẫn trí thể thì đều nằm bên dưới mức nhận biết ý thức của đa số con người. Cho nên điều xảy ra cho hầu hết mọi người là khi họ trải nghiệm một tình huống đi ngược lại sự chờ đợi của mình, họ sẽ không thấy được những ý tưởng đã kích hoạt cảm xúc. Họ chỉ đơn giàn trải nghiệm cảm thể của họ nổi lên đùng đùng và họ cảm thấy tức giận.  

Nhưng ngay lúc đó, cơn giận đã được sản sinh, ngọn lửa đã bùng lên và con chỉ còn cách cố gắng dập tắt ngọn lửa. Tâm ý thức của con nay sẽ phải chọn lựa nó sẽ làm gì với cơn tức giận. Một số người không đủ tự chủ để tránh khỏi bộc lộ cơn tức giận qua hành vi, vì vậy họ sẽ phản ứng đủ mọi cách. Hành vi của họ sẽ gây ra phản ứng tiêu cực từ người khác, phản hồi lại trên họ. Điều này có thể tạo ra một vòng xoáy tiêu cực ngày càng tạo thêm tức giận. Khi năng lượng động cảm không ngừng chồng chất, một xoắn ốc năng lượng hình thành trong trường năng lượng của con, trong cảm thể của con. Rốt cuộc, xoắn ốc này có thể mãnh liệt đến nỗi nó sẽ áp đảo mọi nỗ lực của con nhằm kiểm soát nó, và đó là khi con hoàn toàn mất tự chủ. Đây là nguyên nhân khiến cho một số người mắc phải bệnh tức giận kinh niên mà họ không làm sao kềm giữ.    

Một số người khác, thường noi theo lời dạy và thái độ của tôn giáo mình, tin rằng việc có cảm xúc hay biểu lộ cảm xúc tức giận luôn luôn là điều sai trái. Do đó họ vận dụng tất cả sức mạnh ý chí của họ để cố kìm nén tức giận. Một số sẽ làm điều này thành công trong một thời gian, nhưng một lần nữa, một xoắn ốc năng lượng lại bắt đầu hình thành trong tâm tiềm thức và cuối cùng nó sẽ trở nên mãnh liệt đến độ chính ý chí có ý thức của họ cũng không thể cầm giữ được. Một số người có khả năng tự chủ mạnh mẽ đến mức họ có thể kềm nén sự tức giận suốt một đời người, thế nhưng làm như vậy sẽ tác động lên tinh thần và cơ thể họ bằng nhiều cách. Rất nhiều bệnh tật chỉ đơn giản là hiệu ứng vật lý của những cảm xúc bị đè nén, kể cả tức giận. Điều ta muốn nói là cách đối phó của nhiều tín hữu Cơ đốc giáo, cụ thể là kềm chế mọi sự tức giận, không phải là cách lành mạnh nhất. 

Có hai điều con có thể làm để có được một cách tiếp cận xây dựng đối với sự tức giận. Điều đầu tiên là sử dụng một số kỹ thuật trị liệu hiện đại để phơi bày nỗi tức giận bị kềm nén và giải tỏa những cảm xúc này vĩnh viễn. Điều này có nghĩa là con biểu lộ tức giận cách nào để không gây ra vòng xoáy tiêu cực giữa con và người khác. Nói cách khác, trút giận lên người khác thật là không lành mạnh, trong khi điều lành mạnh là bày tỏ niềm tức giận trong một khung cảnh được quản lý. Một số kỹ thuật chữa bệnh hiện đại, kể cả trị liệu gestalt, có thể giúp con chạm được nỗi tức giận của mình và bày tỏ ra trong một cách khả dĩ tái lập lại dòng chảy năng lượng xuyên qua cảm thể của con.    

Vấn đề với những kỹ thuật trị liệu đó là mặc dù việc biểu lộ tức giận có thể giúp con tái lập một dòng chảy năng lượng đúng đắn, nỗi tức giận vẫn phóng ra một khối năng lượng tha hóa. Như ta có giải thích suốt trang mạng này, có một dòng năng lượng xối chảy liên tục từ cái ta tâm linh của con xuống các tầng cấp của tâm con. Khi con bước vào những ý tưởng và cảm xúc tiêu cực, con làm cho năng lượng bị tha hóa và năng lượng này sẽ ở lại trạng thái tha hóa này cho tới khi con làm gì đó để khiến nó thanh khiết trở lại.    

Chính năng lượng tha hóa này tích tụ trong trường năng lượng của con tạo ra cái xoắn ốc tiêu cực khiến cho dòng chảy năng lượng bị tắc nghẽn. Vì vậy khi việc điều trị giải toả được chỗ nghẽn này thì đó là một điều rất tốt, tuy nhiên việc biểu lộ tức giận không hề biến hóa năng lượng tiêu cực. Do đó, điều sẽ vô cùng ích lợi cho con, cho nhân loại nói chung và cả cho toàn thể hành tinh, nếu các nhà trị liệu hiện đại hiểu biết hơn về nhu cầu phải biến hóa năng lượng tiêu cực. Đây chính là lý do tại sao các chân sư thăng thiên đã ban ra một số kỹ thuật tâm linh để biến hóa năng lượng, kể cả Ngọn lửa Tím và những bài cầu nguyện tràng hạt mà con có thể tìm thấy trong trang dụng cụ tâm linh. Do đó ta mạnh mẽ khuyến cáo mọi người nên phối hợp việc trị liệu với các kỹ thuật nhằm biến hóa năng lượng. Làm vậy sẽ đẩy nhanh rất nhiều tiến trình chữa lành bệnh và đem lại kết quả tốt đẹp hơn.    

Bây giờ ta sẽ nói đến bước thứ nhì của tiến trình chữa lành bệnh. Như ta đã trình bày, cảm xúc của con phát xuất từ ý tưởng. Nếu con thực sự muốn chữa lành tâm lý mình, thật là không đủ nếu con chỉ chạm được nỗi tức giận, biểu lộ tức giận và biến hóa năng lượng tiêu cực do tức giận sản sinh ra. Sau khi con đã đi qua tiến trình giải quyết nỗi tức giận và tái lập một dòng chảy năng lượng đúng đắn xuyên qua cảm thể, con cần bước lên tầng mức kế tiếp, đó là đi vào trí thể và phát hiện những ý tưởng và thái độ đã dẫn tới tức giận. Xong con cần nhận ra là những ý tưởng đó khởi lên từ một số quyết định mà con đã từng có về cách con nhìn bản thân mình, về cách con nhìn Thượng đế và cách con nhìn quan hệ của con với Thượng đế. Khi con phơi bày những ý tưởng này, con mới có thể khởi sự thay thế các quyết định đã gây ra giới hạn và dẫn tới tức giận bằng những quyết định tốt hơn.  

Những điều ta đang nói ở đây là một tiến trình để làm chủ moi bộ phận của bản thân con, kể cả trí thể và ý thức bản sắc của con. Tiến trình này thực sự là con đường đưa đến quả vị Ki-tô cá nhân, và khi con bước đi trên con đường này, con sẽ lần hồi thay thế mọi thái độ và tin tưởng gây giới hạn bằng những tin tưởng cao hơn. Ở cuối tiến trình đó, con sẽ hoàn toàn điều ngự được bản thân, hầu con có thể đáp ứng bất cứ điều gì xảy ra trong thế gian mà không phản ứng theo cách sai khiến của những bế tắc trong cảm thể, những quyết định gây giới hạn trong trí thể hay ngay cả cái ý thức bản sắc hạn hẹp trong thể ether. Khi đó, con sẽ thực sự sống đúng với câu nói rằng ông hoàng của thế gian cứ việc tới nhưng y sẽ không cầm được bất cứ gì nơi con hầu thao túng hay kiểm soát được con.    

Khi con đạt được sự tự do nội tại này, con sẽ không bao giờ cảm thấy tức giận phàm phu mà hầu hết mọi người đều trải qua. Đó là một hình thức tức giận luôn luôn xuất phát từ một cảm nhận bất công hay một cảm nhận trách móc. Phải có ai đó đã làm điều gì sai trái và họ xứng đáng bị trách cứ về hành vi của họ, và con sẽ cho họ biết điều đó một cách không chối cãi. Hình thức tức giận này luôn luôn nẩy sinh từ một ý muốn trừng phạt một ai đó, qua một biện pháp vật lý hay một biện pháp tình cảm để khiến họ phải đau khổ vì cách họ đã đối xử với con – kể cả việc con tự trừng phạt và tự khiến mình đau khổ vì những lỗi lầm mà dường như con đã phạm vào.     

Nhân tiện đây cũng nói thêm, nếu một nỗi tức giận không nhắm vào một người nào nhất định (chẳng hạn như vì sợ hãi) cuối cùng nó sẽ chĩa trở về con. Đó là tại sao nhiều người đã từng bị lạm dụng hồi còn nhỏ thường hay cảm thấy một niềm tức giận – thường che giấu – đối với chính mình. Những người này cần nỗ lực tha thứ bản thân mình và biến hóa nỗi tức giận.

Quả thật, con hoàn toàn có khả năng thoát khỏi sự tức giận phàm phu. Nhưng con cũng nên biết tới những nhận xét của ta về sự khác biệt giữa tức giận phàm phu và sự thịnh nộ thần thánh.

Cuối cùng, hãy cho ta nói rằng sự tức giận không “dính chặt” vào con người tâm linh của con hay vào cái Ta Biết. Nó chỉ dính chặt vào tâm nhị nguyên mà thôi. Cho nên chìa khóa để vượt qua tức giận phàm phu là vươn lên khỏi trạng thái tâm thức đó, gạt bỏ con người cũ của tâm nhị nguyên và bước vào con người mới của tâm Ki-tô. Đó chính là tiến trình mà ta giảng dạy suốt trang web này.

Điều thiết yếu trong lành bệnh và cầu nguyện là sự chấp nhận

Hỏi: Con có thấy nhiều người cầu nguyện đạt được kết quả kỳ diệu cho người mà họ cầu nguyện. Tuy nhiên họ vẫn theo các tổ chức truyền thống và những tư tưởng mà thày nói là lầm lạc. Có thể nào họ vẫn nối kết được với cái ta Ki-tô bất chấp những lời dạy sai lầm, và chúng con có nên đối chất họ với những ý tưởng mới hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Nếu con nhìn vào những phép lạ của ta như được mô tả trong thánh thư, con sẽ thấy ta đã chữa lành cho những người xuất thân từ nhiều thành phần và nhiều tín ngưỡng khác nhau. Con cũng sẽ thấy rằng yếu tố chính trong việc chữa lành bệnh mà ta đã thực hiện là đức tin của người được chữa lành. Con sẽ thấy có những trường hợp ta không chữa được ai cả hoặc chỉ chữa được một vài người. Lý do là vì những người này không có đủ đức tin để đem lại sự lành bệnh trong họ.   

Điều này sẽ giúp con hiểu rằng yếu tố thiết yếu để thấy thành quả chữa bệnh là đức tin của riêng con nơi Thượng đế hay một sinh thể tâm linh nào khác. Đức tin là một trạng thái nội tâm, một phẩm chất của trái tim. Đức tin không nhất thiết liên quan tới tư cách là thành viên của một tổ chức vỏ ngoài hay sự tuân thủ những tin tưởng vỏ ngoài là những tin tưởng được lưu giữ chủ yếu trong tâm. Chắc chắn có nhiều người thuộc các giáo phái đạo Cơ đốc hay những đạo khác đã cổ xúy cho những tín điều thiếu sót, sai lầm, thậm chí giả trá. Tuy nhiên nếu họ có phẩm chất đức tin bên trong, là đức tin như trẻ thơ mà ta đã nói là chìa khoá để bước vào Nước trời, thì lời cầu nguyện của họ có thể được hồi đáp và thực sự đem lại kết quả kỳ diệu.

Hẳn con có nhớ câu trong Kinh thánh nói rằng đức tin là thực chất của những điều trông mong, là bằng cớ của những điều chưa thấy (Hebrews 11:1). Sự thật đằng sau câu đó là kết quả kỳ diệu luôn luôn đã sẵn hiện hữu như một tiềm năng tâm linh. Tuy nhiên để trở thành một hiện thực, tiềm năng tâm linh phải được đem vào vũ trụ vật chất từ cõi tâm linh. Để thị hiện trong vũ trụ này, kết quả cụ thể phải đi qua một ngưỡng cửa giữa thế giới tâm linh và thế giới vật chất. Ngưỡng cửa này chính là tâm thức Ki-tô, nhưng đối với một người chưa đạt quả vị Ki-tô, việc chữa lành bệnh có thể thông qua tâm Ki-tô của ta, của Mẹ Mary hay một vị thánh mà người đó đang cầu nguyện. Tuy nhiên, để cho thành quả được thị hiện, người đó phải giữ vai trò làm neo trong vũ trụ vật chất, và điều này có thể xảy ra qua trái tim người đó có đức tin hồn nhiên như trẻ nhỏ.

Trong mọi lãnh vực của đời sống đều có những con người nối kết chặt chẽ với cái ta Ki-tô của mình. Con có thể tìm thấy họ trong rất nhiều tôn giáo không phải là đạo Cơ đốc, thậm chí cả trong số những người theo thuyết vô thần hay bất khả tri. Như ta có trình bày khắp trang mạng của ta, tâm thức Ki-tô không phải là kết quả máy móc của việc gia nhập một giáo hội nào hay tin vào một tín điều vỏ ngoài nào. Đó là một phẩm chất bên trong, phẩm chất của trái tim. 

Chúng ta có thể mô tả đức tin một cách khác. Như các chân sư giảng dạy, quy luật cơ bản của vũ trụ vật chất là quyền tự quyết. Do đó, ta không thể chữa lành cho một người nếu người đó không muốn, tức là không những ta không thể đi ngược lại ý chí có ý thức của họ – bởi vì có ai mà không muốn mình hết triệu chứng bệnh tật? – mà cả ý chí trong tiềm thức họ nữa. Nhiều người giống như một căn nhà bị phân rẽ, nghĩa là họ có những tin tưởng trong tiềm thức ngăn cản họ lành bệnh.   

Cho nên chúng ta có thể nói, đức tin là khi con đã khắc phục sự phân rẽ bên trong này để tim con được thuần khiết. Và từ đó con nhận biết – là sự nhận biết nội tâm vượt khỏi mọi lý luận của lý trí – rằng Tánh linh có quyền năng trên vật chất, có nghĩa là Thượng đế hay các chân sư thăng thiên thực sự có quyền năng thay đổi bất cứ điều kiện nào trên địa cầu.

Câu hỏi cốt lõi trong việc chữa lành là liệu con có thực sự và hoàn toàn tin rằng những gì con cầu nguyện có thể thị hiện và được thị hiện hay không. Con sẽ thấy là đôi khi ta hỏi một người: “Con có tin là ta có quyền năng làm chuyện này không?” Và chỉ khi nào họ tin như vậy thì họ mới có khả năng chấp nhận việc chữa lành có thể thành công. Ta không có thẩm quyền đi ngược lại ý chí tự quyết của con. Cho nên nếu con xin lành bệnh mà không hoàn toàn chấp nhận điều đó là khả dĩ, tâm tiềm thức của con sẽ vô hiệu hóa những lời cầu nguyện ý thức của con. Thật ra, lời cầu nguyện từ một cái tâm phân rẽ sẽ không tới được cõi tâm linh bởi vì lời đó đã bị tâm của họ bác bỏ.

Con có hỏi liệu con có nên đối chất người ta với những lời day của ta trên trang mạng này. Đây là một câu hỏi không có câu trả lời chung chung. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào trạng thái tâm thức của cá nhân người đó. Một số người có đức tin hồn nhiên như trẻ nhỏ khiến sự kiện họ tin vào một vài giáo điều sai lầm cũng không quan trọng lắm. Tuy nhiên đối với nhiều người khác, họ sẽ được lợi ích rất nhiều nếu họ được khai sáng và nhận được một hiểu biết sâu sắc hơn về thế giới tâm linh.

Khi giao tiếp với người khác, ta khuyên con nên nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của con. Điều ta muốn nói ở đây là con không bao giờ được quyết định với tâm vỏ ngoài rằng con có nhu cầu phải cải đạo bất cứ ai để họ theo một tín ngưỡng nào đó. Thay vào đó, con hãy đặt trung tâm vào tim con, và nếu con nhận được lời nhắc nhở từ bên trong là con nên chia sẻ một ý tưởng nào đó với họ, thì bằng mọi cách, con hãy làm, và làm trong tình thương.

Nếu con quan tâm đến việc quảng bá giáo lý, ta thực sự khuyên con nên học tập quyển “Cái đến huyền bí của Ki-tô” (The Secret Coming of Christ). Quyển sách giải thích một cách tường tận sự khác biệt giữa việc tiếp cận tôn giáo trong sợ hãi hay trong tình thương. Con sẽ thấy nhiều nhà truyền giáo, kể cả những nhà truyền giáo đạo Cơ đốc, có cách rao giảng phúc âm dựa trên sợ hãi. Họ tìm cách cải đạo người khác bằng cách đánh vào nỗi sợ hãi của con người là mình sẽ bị đày xuống địa ngục hay không được cứu rỗi. Cách đó không phải là cách của ta. Ta tiếp cận trong tình yêu thương. Khi con làm như ta, con sẽ không bị thúc đẩy bởi động lực sợ hãi và do đó con không quyết định với tâm vỏ ngoài những gì người khác phải tin hay không tin. 

Con không tìm cách thuyết phục họ là con có lý. Thay vào đó, con hòa điệu với cái ta Ki-tô của con, và mục đích của con là giúp họ đạt được bước kế tiếp trên con đường tâm linh của họ, bất kể bước đó là gì. Con chỉ cố giúp họ có được một hiểu biết cao hơn vượt khỏi mọi quan điểm vỏ ngoài, trí thức, phát xuất từ sợ hãi, về những điều mà họ cần hiểu. 

Rốt cuộc thì một đức tin nội tâm nơi Thượng đế phát xuất từ tình thương quan trọng hơn nhiều so với việc tuân thủ một số ý tưởng vỏ ngoài phát xuất từ sợ hãi, bất kể những ý tưởng này có đúng đến đâu. Và tất nhiên, nếu con có được cả đức tin lẫn cái hiểu đúng đắn, thì đó là điều lý tưởng cho một người tầm đạo tâm linh.

Chữa lành bằng Thánh linh hay phàm linh thấp kém?

Hỏi: Thày Giê-su có thể vui lòng cho con biết những hiện tượng chữa lành bệnh được chiếu trên truyền hình trong các chương trình Tin Lành (evangelistic) có phải là do thày chữa lành? Những sự việc đó có thật không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta không thể cho con một câu trả lời chung cho câu hỏi này. Sự thật là chính ta và một số các chân sư thăng thiên khác sẽ hợp tác với bất cứ cá nhân nào đạt được một trình độ tâm thức Ki-tô nào đó. Do đó, chúng tôi có làm việc với một số nhà truyền giáo và người chữa bệnh truyền giáo, nhưng chúng tôi không làm việc với tất cả. Ngay cả khi chúng tôi cộng tác với một người, chúng tôi cũng không nhất thiết cộng tác luôn luôn.

Ở vài nơi trên trang mạng này, ta có so sánh tâm con người như nút quay trên máy thu thanh. Con có thể quay nút và điều chỉnh tần số các đài phát thanh mà con muốn bắt, thì cũng như vậy, con có khả năng quay nút trong tâm con và hòa điệu với những tầng mức thực tại khác nhau. Một số tầng mức này ở trong cõi tâm linh, và khi con hòa điệu vào đó, con trở thành một phương tiện của các chân sư thăng thiên và có thể phụng sự các thày trong một số khả năng. Tuy nhiên, tâm con cũng có thể đồng điệu với những tầng mức thấp kém hơn không ở trong cõi tâm linh. Ở những tầng này là các sinh thể thấp kém và khi con mở cửa tâm thức con cho chúng, con có thể trở thành công cụ của chúng, như ta đã có dịp trình bày chi tiết hơn nơi khác. 

Vấn đề khiến cho nhiều người bị gạt gẫm là các sinh thể ở các cõi thấp kém dư khả năng tạo ra nhiều hiện tượng, chẳng hạn như nói ngữ kỳ lạ (speaking in tongues) hoặc chữa bệnh. Đây là một sự kiện nói chung không được các tín hữu Cơ đốc Tin lành (evangelistic Christians) biết đến hay nhìn nhận. Nhiều người trong số những tín hữu đó tin rằng bất cứ điều gì họ làm trong buổi lễ nhà thờ, bất cứ gì họ làm nhân danh ta, đều thuộc về ánh sáng. Họ tin rằng bất cứ khi nào có hiện tượng xảy ra thì đó phải là biểu hiện của một thực tại tâm linh chân chính. Không nhất thiết là như vậy.

Có một số nhà thờ truyền giáo sử dụng những kỹ thuật khác nhau, kể cả nhạc rock, để đưa hội chúng vào một trạng thái tâm thức biến đổi. Như ta đã nói, tâm con người tương tự như chiếc máy thu thanh có khả năng bắt được nhiều đài khác nhau. Cho nên thật là không khó gì quay nút của tâm và sản xuất ra một trạng thái tâm thức biến đổi. Câu hỏi đặt ra là liệu người đó hòa điệu tâm mình với cõi tâm linh hay với một cõi thấp kém.

Nếu người đó không có một trình độ phân biện Ki-tô nào đó, họ sẽ vô cùng khó khăn lượng định được mình đang hòa điệu với cõi tâm linh hay một cõi thấp hơn. Sự khó khăn này càng tăng lên gấp bội nếu họ tin rằng bất cứ một trạng thái tâm thức biến đổi nào cũng đều phải thuộc về ánh sáng. Sự chấp nhận mù quáng kiểu đó thật là nguy hiểm và có khả năng tạo ra những trải nghiệm và hiện tượng không thuộc về ánh sáng. Có những nhà truyền giáo là kẻ lãnh đạo mù cho những hội thánh mù.

Hãy cho phép ta chia sẻ quan tâm chính yếu của ta về đạo Cơ đốc truyền giáo Tin Lành. Có rất nhiều giáo hội truyền giáo tuyên bố làm việc với Thánh linh (Holy Spirit), Họ tuyên bố trải nghiệm nhiều trạng thái tâm thức và hiện tượng hữu hình khác nhau và đó là biểu hiện của Thánh linh. Sự thật quan trọng nhất  mà con có thể hiểu được về Thánh linh là câu, “Thánh linh muốn thổi đâu thì thổi”.

Sự thật đằng sau câu này là Thánh linh không tôn trọng những tin tưởng và quan điểm của con người khi các tin tưởng và quan điểm này không đứng thẳng hàng với thực tại và chân lý của Thượng đế. Và con nay đã thấy được, có hai điều kiện phải hội đủ trước khi một người có thể tiếp xúc thực sự với Thánh linh. Người đó cần có chút thông hiểu về sự thật để có khả năng phân biện giữa Thánh linh và các loại linh thể thấp kém – ta muốn nói một sự thông hiểu chân lý đích thực chứ không phải một cách diễn giải nhân tạo nào đó. Và người đó cũng phải có tâm trí và con tim mở rộng hầu sẵn sàng nhập vào dòng Tánh linh. Nếu con đã có sẵn một số tin tưởng chắc nịch và cố định về Thượng đế và nếu con tìm cách ép uổng Thánh linh vào cái hộp tư duy của con, thì con không có hy vọng làm việc với Thánh linh chân thực đâu.      

Khi con áp dụng vào đạo Cơ đốc Tin Lành, con sẽ thấy nhiều người trong số đó cả quyết là họ làm việc với Thánh linh, thế nhưng đồng thời họ lại có một cách tiếp cận đạo Ki-tô vô cùng cứng nhắc, cực chính thống (fundamentalist) và hiểu kinh điển theo nghĩa đen (literal). Họ tin rằng Thánh kinh là lời Thượng đế sát từng chữ – điều này không nhất thiết là đúng đắn như ta đã có dịp trình bày ở nơi khác. Điều ta muốn nói là nhiều người trong phong trào truyền giáo đã tạo ra những cái hộp hẹp hòi trong tâm họ đến độ không còn chỗ nào cho Thánh linh thổi vào nữa.  

Nhiều người trong số đó tin mình đang làm việc với Thánh linh và họ có thể chỉ ra đủ loại hiện tượng để làm bằng chứng. Vấn đề là do những cái hộp tư duy hạn hẹp mà họ đã dựng lên chung quan tâm họ, họ không cởi mở với sự phân biện đích thực chỉ có thể đến được từ tâm Ki-tô. Vì thế họ không có phân biện chân chính và không làm sao phân biệt được Thánh linh với một phàm linh thấp kém hơn. Kết quả là rất nhiều những hiện tượng mà họ rao giảng, kể cả việc chữa bệnh, không là việc làm của Thánh linh mà của các phàm linh thấp kém đội lốt Thánh linh. 

Điều này khiến ta rất quan tâm. Lý do là vì có rất nhiều người trong phong trào truyền giáo là những người tâm linh có thiện chí thực sự và là người tìm kiếm Thượng đế. Tiếc thay, phong trào này cũng như tư duy cực chính thống của nó, khiến cho họ bị kẹt vào một hộp tư duy xơ cứng, và do những giới hạn của hộp tư duy, họ không làm sao tiếp xúc được với Thánh linh. Trong mong muốn rạo rực muốn trải nghiệm Tánh linh, họ mở cửa ra cho các loại phàm linh thấp kém. Vì họ quá ước ao Tánh linh, họ dùng vũ lực để cố chiếm thiên đàng, nhưng họ lại không chịu trải qua một tiến trình buông bỏ mọi định kiến và mọi điều tin tưởng sẵn có. Sự buông bỏ này, sự quy hàng này trước sự thật của Ki-tô – đối lại với “sự thật” nhân tạo của phàm phu – mới là điều thiết yếu để nhận được quyền năng của Thánh linh. Nếu con không để cho Thánh linh thổi nơi nào nó muốn, con không thể nhận được trọn vẹn quyền năng của Tánh linh.        

Nói vậy rồi, ta xin nói rõ thêm là trong phong trào tuyền giáo Tin Lành có rất nhiều người có một mức độ tâm Ki-tô và phân biện Ki-tô nào đó. Những người này đã có làm việc với Thánh linh và có thể thị hiện một số hiện tượng chân thực, kể cả chữa lành bệnh. Cũng có một số người có khả năng hòa điệu với Thánh linh trong một thời gian ngắn nhưng chưa hẳn phát triển được tánh phân biện đích thực. Cho nên thật là hên xui may rủi với họ. Đôi khi họ làm việc với Thánh linh, và có những lúc khác họ làm việc với các phàm linh thấp kém.

Ta có thể xác nhận với con là trong phong trào truyền giáo Tin Lành có một tiềm năng rất lớn. Tuy nhiên, để tiềm năng này trở thành hiện thực và phong trào trở thành một công cụ chân chính cho Thánh linh và các chân sư thăng thiên, cần có một túc số những người sẵn lòng từ bỏ cách tiếp cận tôn giáo vỏ ngoài, từ bỏ cách tiếp cận cực chính thống. Họ cần nỗ lực sốt sắng đạt được phân biện Ki-tô sẽ cho phép họ gạt bỏ các làn sóng của phàm linh thấp kém để bắt được làn sóng của Thánh linh đích thực.

Nếu điều này xảy ra, con sẽ thấy luồng Thánh linh tuôn trào xuống mạnh mẽ, và các chân sư thăng thiên sẽ làm việc được với nhiều người trong phong trào truyền giáo. Sự thể ngày hôm nay là phong trào này mới thể hiện được khoảng 5% tiềm năng của họ để làm công cụ cho Thánh linh. Vậy con có thể phỏng đoán 95% những sự việc chữa bệnh và hiện tượng mà phong trào truyền giáo rao truyền là không xác thực và không đến từ Thánh linh. Ta mong muốn nhìn thấy con số này lật ngược, nhưng điều đó sẽ đòi hỏi một sự thay đổi tâm thức, một sự thay đổi con tim trong số các thành viên và lãnh đạo của phong trào. Có sẽ xảy ra hay không? Ta không trả lời được câu hỏi này.

Liên quan đến câu hỏi liệu việc chữa lành bệnh có thật hay không, ta xin nói là sự chữa lành đích thực đòi hỏi hai điều. Trước tiên phải có sự can thiệp của Thánh linh đích thực chứ không phải của một phàm linh thấp kém. Có thể là một phàm linh thấp hơn có khả năng loại bỏ những triệu chứng thể chất khỏi một người, nhưng theo mực của ta, đó không phải là chữa lành thực sự, Yếu tố thứ hai của việc chữa trị, người bệnh phải nâng cao tâm thức mình lên một mức cao hơn. Khi ta chữa bệnh cách đây 2000 năm, con có thể đọc trong kinh điển rằng chính đức tin của bệnh nhân đã là yếu tố quyết định trong việc chữa bệnh. Một số người được chữa khỏi chính vì họ có đức tin rất cao.      

Nhưng như được giải thích ở một nơi khác, chu kỳ tâm linh đã quay sang một chu kỳ mới. Ngày nay, đức tin vào một quyền năng bên ngoài không còn đủ nữa. Điều cần thiết thời nay là phải hiểu biết rằng mọi điều kiện trong cuộc sống đều phản ánh những điều kiện trong tâm thức. Nói cách khác, một căn bệnh thể chất bắt nguồn từ một tình trạng trong tâm thức, và tình trạng này phát xuất từ một tin tưởng sai lầm về chính bản thân mình và Thượng đế. Để thực sự chiêm nghiệm sự lành bệnh vật lý, lành lặn các triệu chứng trong thể xác, con phải đi sâu vào tiềm thức cuả con và giải quyết tin tưởng sai lầm ở đó.  

Đây là thêm một lý do khiến cho phong trào truyền giáo Tin lành gặp phải vấn đề. Để thật sự giải tỏa tin tưởng sai lầm về Thượng đế, con phải nhìn vượt ra khỏi hầu hết những cái hộp tư duy đang trổi nổi quanh khắp thế giới ngày nay, kể cả những hộp tư duy do đạo Cơ đốc Tin lành hoặc đạo Cơ đốc cực chính thống sản xuất ra. Nếu con không sẵn lòng nhìn vượt ra ngoài những hộp đó, con sẽ không thể chữa lành thật sự và rất có thể con cũng không mở tâm ra được với Thánh linh. Thay vào đó, nhiều người mở tâm ra với các phàm linh thấp kém, và các phàm linh này chẳng có vấn đề gì tạo ra một sự lành bệnh vật lý mà không giải quyết tâm thức. Lý do chỉ là vì các phàm linh thấp kém muốn giữ con người kẹt cứng vào những tin tưởng giới hạn của họ.

Sự thiếu vắng giải pháp nội tâm sẽ giúp con hiểu tại sao con thường thấy những người vừa được chữa bệnh trong buổi lễ nhà thờ lại bị bệnh tái phát ngay sau đó. Nếu con không đi vào tâm lý và giải tỏa các tin tưởng giả tạo đã gây bệnh thì việc chữa lành sẽ không thể lâu dài. Đây là một sự thật thường không được các tín hữu Cơ đốc giáo nhìn thấy, và lý do là vì họ không sẵn sàng nhìn xa hơn hộp tư duy của họ.

Cũng cho phép ta nói thêm, nhiều người mang bệnh tật như là một cách để giữ quân bình cho các điều kiện của thế giới. Một căn bệnh như vậy sẽ không nhất thiết được chữa lành, ngay cả khi người đó có liên hệ đích thực với Thanh linh và đã giải quyết mọi tin tưởng sai lầm của mình. Sự giải thích nằm ở chỗ dòng sống đó đã tình nguyện mang vào mình một số năng lượng tiêu cực của thế giới (như ta đã từng mang tội lỗi cho thế giới) và do đó căn bệnh sẽ không chữa lành qua Thánh linh. Nó có thể được chữa lành qua một số kỹ thuật tâm linh, chẳng hạn như cầu thỉnh Ngọn lửa Tím như được mô tả ở nơi khác. Khi một căn bệnh bắt nguồn từ sự tình nguyện của một dòng sống nhằm gánh vác năng lượng tha hóa cho thế gian, cách duy nhất để chữa lành là biến hóa năng lượng tha hóa trở về sự tinh khiết nguyên thủy.

Giáo lý nền tảng về nuôi con

Hỏi: Con đã nghiên cứu những cách hiểu khác nhau về cách nuôi nấng, sửa đổi, trừng phạt trẻ con. Kinh Cựu ước trong Thánh kinh chủ trương hình phạt bằng roi gậy hay thể xác. Con không tìm thấy điều gì trong Tân ước. Thưa Giê-su, lời dạy của thày về đề tài này là thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Hãy làm cho con cái của con như con muốn con cái của con làm cho con. Đó là câu trả lời từ Tân ước.

Câu trên liên quan thế nào với hình phạt thể xác? Thực tế đơn giản là một trong những bổn phận của cha mẹ là dạy cho con mình thiết lập ranh giới trong cách cư xử của chúng. Nếu con suy ngẫm điều này, con sẽ nhận ra là một trong những đặc điểm của trẻ con là chúng phải học cách tìm sự quân bình đúng mức giữa các thèm muốn ngắn hạn vị kỷ của chúng với những ham muốn dài hạn mà sự thực hiện tùy thuộc vào khả năng hòa nhập của chúng với người chung quanh. Điều này có nghĩa là trẻ con cần học cách hạn chế ham muốn ngắn hạn hầu tránh cho ham muốn dài hạn không thể thành hình. Có thể nói đó là bài học căn bản của cuộc sống – con có muốn một phần thưởng tạm thời trong thế gian hay là phần thưởng vĩnh hằng ở thiên đàng?

Khi trẻ con còn nhỏ, chúng không thể học được bài học này qua khả năng lý luận vì các khả năng này chưa phát triển đầy đủ. Vì vậy chúng cần học hỏi nhờ cha mẹ giữ vai trò người hướng dẫn thương yêu lập ra những hạn chế nghiêm minh và thích hợp cho những cư xử ích kỷ của chúng. Con thử nghĩ xem, đây chính là điều mà con mong muốn cha mẹ mình đặt ra cho mình và vì vậy đó cũng là điều mà con cần làm đối với con cái của con.   

Sự dạy dỗ về các giới hạn phải khởi sự thật sớm, ngay từ khi đứa trẻ còn bú sữa. Con cần dạy trẻ thơ là mẹ nó không thể phục dịch cho nó 24 tiếng mỗi ngày. Tuy nhiên, cái khó là làm như vậy một cách yêu thương để đứa trẻ không bao giờ cảm thấy bị bỏ rơi. Ta hiểu đây là một điểm quân bình rất tế nhị và không thể áp dụng một quy tắc trắng đen nào được. 

Điều quan trọng nhất mà cha mẹ cần hiểu về con mình là mỗi đứa trẻ là một cá thể độc nhất. Đứa trẻ không phải là một dòng sống non nớt mà là một dòng sống đã già tuổi với một tâm lý vô cùng phức tạp được nhào nặn suốt rất nhiều kiếp sống. Do đó, con không thể đặt ra một hệ thống nuôi nấng con cái hay những quy luật trắng đen áp dụng cho mọi đứa trẻ. Đây là điều sai lầm to lớn của một số nhà giáo dục và tâm lý hiện đại về trẻ em. Họ cố đeo đuổi mục đích hão huyền để tìm ra một hệ thống giáo dục tối hậu, một loại máy điều khiển tâm trí trong đó họ có thể nhét mọi trẻ em ở đầu này rồi biến chúng thành những công dân mẫu mực ở đầu bên kia. Một hệ thống như vậy thật sự không thể có, và lý do là vì Thượng đế đã ban cho mỗi dòng sống một sắc thái độc nhất vô nhị.

Cho nên mỗi đứa trẻ phải được đối xử như một cá thể độc đáo, và lý tưởng điều này chỉ có thể làm được khi cha mẹ có khả năng trực giác nhậy bén, nghĩa là cha mẹ đã đạt được một trình độ tâm Ki-tô tương đối. Và qua đó, cha mẹ có khả năng hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình và nhận được sự hướng dẫn nội tâm về cách đối xử với một đứa trẻ đặc thù trong một hoàn cảnh đặc thù. Như vậy cha mẹ mới làm tròn được chức năng của mình là trở thành người thày tâm linh dẫn dắt sự tiến hoá của con mình một cách trìu mến, cho tới khi nó có thể bắt đầu làm như vậy qua sự hòa điệu nơi chính nội tâm của nó.

Về vấn đề hình phạt thể xác, điều quan trọng là cha mẹ cần thiết lập những giới hạn phù hợp cho cách cư xử ích kỷ của con mình. Đối với một số đứa trẻ, hình phạt thể xác sẽ cần thiết trong khi rất nhiều đứa khác thì sẽ không bao giờ cần phải đánh đòn. Nếu cần thiết, việc này có thể làm từ 2 tuổi trở đi, có khi phải sớm hơn một chút. Đây là lý do tại sao người ta hay nói đến tuổi lên 2 “khủng khiếp”, vì ở tuổi này đứa trẻ phải học cách thiết lập những giới hạn cho hành vi của nó. Nếu nó không học ở tuổi này, nó sẽ vô cùng khó khăn thiết lập ranh giới vào tuổi dậy thì – và ở tuổi đó, cha mẹ đã mất đi cơ hội dạy con về giới hạn. Một thiếu niên khó khăn ở tuổi dậy thì thường sinh ra ở tuổi lên 2.

Hiển nhiên, ta không chủ trương đánh đòn mạnh tay khi đứa trẻ còn nhỏ. Đúng hơn, ta không chủ trương trừng phạt gay gắt đối với bất cứ tuổi nào, dù là thể xác hay là không. Điều quan trọng cần hiểu rõ là vai trò của cha mẹ là thiết lập giới hạn cho cách cư xử ích kỷ của con mình. Mục đích cha mẹ không được bao giờ là trừng phạt đứa trẻ.

Có sự khác biệt căn bản giữa việc thiết lập giới hạn nghiêm minh với việc trừng phạt. Việc thiết lập giới hạn đến từ một động lực trong sáng, thương yêu hầu giúp đứa trẻ phát triển. Nhưng trừng phạt đến từ một động lực không trong sáng, không thương yêu, khi cha mẹ trút hết những bực bội của mình lên đầu đứa trẻ. Điều này không bao giờ chính đáng, và ta nói rõ: KHÔNG BAO GIỜ. Cá nhân con có trách nhiệm phải học cách đương đầu với sự bực bội của chính con mà không trút lên người khác.

Ta công nhận việc nuôi dạy con cái không phải là một chuyện dễ dàng và nó thường hay gây ra bực bội. Tuy nhiên khi con đảm nhận trách nhiệm có con, con phải xem đó là một cơ hội đặc biệt để con đẩy mạnh sự phát triển tâm linh của con. Hiếm có hoạt động nào của con người mà đem lại cho con một cơ hội phát triển tâm linh lớn hơn việc nuôi con. Lý do là việc nuôi con tạo cho con một cơ hội độc đáo để con học cách bỏ tự ngã sang một bên và đặt mình vào vai trò làm kẻ phục dịch cho người khác. Đây thật sự là một cơ hội độc nhất để con tự giải phóng khỏi vòng nô lệ của tự ngã phàm phu và vươn lên quả vị Ki-tô. Ta có nói đến điều này trong những câu sau:

“Các môn đồ tranh cãi với nhau xem ai là người lớn hơn hết trong số mình. Và Giê-su biết ý trong lòng họ, bèn dẫn một đứa trẻ đến gần mình, nói rằng: Ai nhân danh ta nhận đứa trẻ này thì cũng nhận chính ta, và ai nhận chính ta thì cũng nhận Đấng đã sai ta, vì kẻ nào hèn mọn nhất trong số các người thì mới là kẻ lớn.” (Luke 9)  

Điều ta muốn nói là người ở mức tâm Ki-tô cá nhân cao nhất luôn tự xem mình là đầy tớ của mọi người, kể cả con cái của mình. Sẽ quý giá biết mấy cho các bậc cha mẹ thời nay nếu họ có những nỗ lực chân thành để bỏ hẳn cách suy nghĩ lâu đời là cha mẹ sở hữu con mình. Con cái của con không phải là tài sản của con và con không thể đối xử với chúng bất cứ cách nào.

Tuy nhiên, chúng là trách nhiệm của con. Hầu làm tròn trách nhiệm đối với con mình cũng như đối với chính mình như một hành giả tâm linh, con cần học bài học mà ta vừa đề cập là dạy dỗ con cái. Con cần học cách gạt bỏ những ham muốn ích kỷ của con và đặt ranh giới cho tự ngã của con. Hiển nhiên, điều này không có nghĩa là con tự biến mình thành nô lệ cho tự ngã của chúng, và đó là tại sao con cũng cần đặt ranh giới cho chúng. Con có thể làm được điều này bằng cách nhận ra là con sẽ phục vụ con mình tốt nhất nếu con phụng sự Thượng đế ở trong con lẫn ở trong chúng. Cho nên mục đích trong quan hệ của con với đứa trẻ phải là sự tăng trưởng tâm linh của tất cả mọi người. Người chủ của gia đình thực sự phải là tâm Ki-tô.

Nếu con có thể nuôi dạy con cái trong cách nhìn này, con sẽ tránh được rất nhiều sự bực bội của nghề làm cha mẹ. Con sẽ có thể tránh được cái bẫy nguy hiểm nhất là tích tụ những tình cảm và năng lượng tiêu cực trong mối quan hệ với con mình. Khía cạnh độc hại nhất của việc nuôi con là tạo ra một vòng xoáy ốc suy bại với đứa con, khiến con lần hồi tích tụ quá nhiều năng lượng tình cảm tiêu cực đến độ con không làm sao vượt qua được nữa để mà quan hệ bình thường với con mình.

Nhưng nếu con có thể đứng ở bên trên vòng xoáy tiêu cực – và con chỉ có thể làm được bằng cách giữ sự tỉnh thức tâm linh và sử dụng những dụng cụ bảo bọc tâm linh thích hợp cho con và con cái – thì việc nuôi con có thể là một cơ hội tuyệt vời để tăng trưởng. Hầu tận dụng cơ hội này, con cần bắt đầu với kỷ luật bản thân và học cách đặt ranh giới cho những ham muốn ích kỷ của mình. Sau đó con cần dùng nền tảng đó để thiết lập những lằn ranh cho con cái. Khi con làm được điều này thành công, con sẽ có thể tận hưởng một mối quan hệ tích cực với con mình gần như suốt đời.    

Ta không nói là người ta có thể làm cha mẹ mà không có những bực bội. Đòi hỏi như vậy quả là không thực tế trong thời đại hôm nay khi mà quá ít bậc cha mẹ đạt được quả vị Ki-tô cá nhân và hầu hết trẻ con sinh ra với những vết thương tâm lý từ nhiều tiền kiếp. Cho nên ta không đang cố thiết lập một lý tưởng cao vời vợi mà không ai có thể theo kịp. Ta chỉ đơn giản cố gợi ý cho con để giúp con đáp ứng các thử thách của việc nuôi con. Ta cũng xin nói là quá nhiều tín đồ Cơ đốc giáo đã tìm cách dùng cuộc đời của ta để dựng lên một thần tượng về một gia đình lý tưởng mà không một người nào có thể sánh bằng. Ta không mong muốn thần tượng này tồn tại vì ta không muốn cuộc đời của ta bị sử dụng để khiến cho nhiều người cảm thấy thiếu sót hay tội lỗi.      

Cha mẹ của ta không phải là cha mẹ toàn hảo, và ta thì không là đứa con toàn hảo. Làm cha mẹ là một kinh nghiệm học hỏi, và nếu ngay từ đầu con đã toàn hảo rồi thì còn cần học gì nữa đây? Do đó con cần bước vào việc nuôi con với thật nhiều lòng tha thứ đối với chính mình và đối với con mình. Đừng kỳ vọng là mình sẽ là bậc cha mẹ toàn hảo và đừng kỳ vọng con mình sẽ là đứa con toàn hảo. Thật ra, nếu con có thể vứt bỏ mọi tiêu chuẩn nhân tạo về cách làm cha mẹ hay cách làm con, thì con sẽ khiến cho công việc của con dễ dàng hơn gấp bội, cho con và cho con cái của con. Sự kỳ vọng chính là mầm mống của bực bội.

Cuối cùng, ta muốn nói là nhiều bậc cha mẹ chọn sinh ra đời những dòng sống mà họ đã mang nghiệp nặng từ những kiếp trước. Chính nghiệp chướng này khiến cho vòng xoáy tiêu cực có nhiều xác suất thành hình và con thấy được điều này trong rất nhiều gia đình ngày nay. Để vượt qua nghiệp quả giữa cha và mẹ cũng như giữa cha mẹ và con cái, tất cả các bậc cha mẹ cần siêng năng nỗ lực biến hóa năng lượng tiêu cực trong gia đình. Cách hữu hiệu nhất để làm điều này là sử dụng các bài thỉnh và bài chú Mẹ Mary trong trang mạng này.

Cũng cần lưu ý là trong thế giới ngày nay, gia đình đang bị công hãm một cách tới tấp tại hầu hết các quốc gia, đặc biệt là ở phương Tây. Cuộc tấn công này là mưu mô của các tà lực. Chúng muốn hủy diệt gia đình mà trong hàng ngàn năm đã là cột trụ của xã hội. Vì vậy, điều vô cùng quan trọng đối với tất cả các bậc cha mẹ là cầu thỉnh sự bảo vệ tâm linh cho bản thân lẫn cho con cái.

Tại sao con cái hư hỏng mặc dù được chăm sóc yêu thương?

Hỏi: Tại sao một số đứa trẻ trở nên hư hỏng bất kể sự chăm sóc, sự dạy dỗ tôn giáo và đạo đức cũng như tình yêu mà chúng nhận được trong đời chúng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Một câu hỏi rất quan trọng với những hệ quả thật sâu xa. Câu trả lời đơn giản cho câu hỏi của con là một đứa trẻ là nhiều hơn một thân xác vật lý. Mỗi đứa trẻ là một dòng sống, và dòng sống đó không tự dưng xuất hiện từ hư vô vào lúc thụ thai hay khi thân thể chào đời. Như ta có giải thích ở nơi khác, dòng sống thật ra đã hiện hữu từ rất lâu bởi vì luân hồi và đầu thai là một thực tế – bất kể sự lên án của đạo Cơ đốc chính thống.  

Khi con chấp nhận thực tế của luân hồi, con hiểu ra là dòng sống của đứa con của con có thể đã rất lớn tuổi. Dòng sống này có thể đã sống rất nhiều kiếp và đã xây dựng một tâm lý vô cùng phức tạp cũng như một mạng lưới chằng chịt những nghiệp quả và năng lượng tha hóa. Con nhìn ra là dòng sống của đứa con có thể đã đầu thai trong kiếp này với một hành trang nặng trĩu những vấn đề chưa giải quyết từ tiền kiếp. Trong một số trường hợp, một dòng sống có thể nặng gánh và bị tổn thương bởi trải nghiệm quá khứ đến độ không một tình yêu nào, không sự chăm sóc và hướng dẫn nào từ cha mẹ hay từ cộng đồng xã hội sẽ hoàn toàn chữa lành được nó.

Có nhiều người hiện thân trong kiếp này với những vết thương trầm trọng đến nỗi họ có rất ít hy vọng hoàn toàn chữa lành trong một kiếp sống. Tuy nhiên, họ vẫn có cơ hội để thăng tiến và điều hay nhất con có thể làm để giúp đỡ dòng sống là tiếp tục biểu hiện tình yêu thương, tìm cách giúp nó chữa lành các vết thương tâm lý cũng như mở rộng sự hiểu biết của nó về cuộc sống. Sẽ đặc biệt hữu ích nếu dòng sống hiểu ra rằng mỗi người, rốt cuộc, là người trách nhiệm về hoàn cảnh của mình vì chính mình đã tạo ra thực tế đó. Tuy nhiên con sẽ khó lòng khiến cho một dòng sống đã tổn thương chấp nhận sự thật này như ta đã từng trình bày trong một bài giảng quan trọng trước đây.  

Điều quan trọng là phải thực tế và nhận ra rằng một số dòng sống bị tổn thương  đến mức chúng sẽ chỉ đạt được tiến bộ hạn chế hoặc không tiến bộ gì hết. Thật ra, một số dòng sống sẽ còn tăng cường thêm cái vòng xoáy đã kéo chúng đi xuống từ nhiều kiếp đã qua, và chúng sẽ không ngóc đầu thoát ra nổi cho tới khi chúng chạm tới một cái đáy. Ta hoàn toàn thông cảm những cha mẹ cảm thấy vô cùng chán nản và vô vọng khi con mình gạt bỏ mọi cố gắng giúp đỡ và hàn gắn của mình. Ta thấu cảm nỗi đau đớn của hàng triệu bậc cha mẹ đã đem đứa bé vào đời với niềm kỳ vọng to lớn nhất, đã cố hết sức thương yêu và chữa lành cho nó. Ta hiểu rõ những cha mẹ phải trải qua nỗi đau khổ nhìn thấy con mình đập tan những kỳ vọng này và không ngừng chọn con đường thấp nhất trong mỗi tình huống.

Ta cảm được điều này đã làm cho cha mẹ vô cùng đau đớn, buồn nản. Tuy nhiên, ta phải nói một điều vô cùng quan trọng là cha mẹ phải vượt qua nỗi buồn khổ này về con mình cũng như sự thất vọng khi con mình chối bỏ mình. Để vượt qua hoàn toàn sẽ đòi hỏi hai nhận thức.

Nhận thức thứ nhất là hầu hết mọi nền văn hoá thời nay đều có một sự hiểu biết hạn chế về thực tại của Thượng đế. Nếu con đã lớn lên trong một văn hóa không nhìn nhận thực tế của luân hồi, điều gần như không thể tránh khỏi là con đã được dạy dỗ một số chờ đợi và thái độ vô cùng thiếu thực tế về việc có con và nuôi con. Tại Tây phương, người ta thường cho rằng bậc cha mẹ phải yêu thương con mình bất kể đứa con xử sự thế nào.

Nói chung thì điều này cũng đúng thôi, nhưng nó chỉ đúng nếu con nhận ra tình thương đích thực là tình thương vô điều kiện của Thượng đế. Tình thương này không phải là tình thương chiếm hữu và vị kỷ mà hầu hết mọi người có khả năng cảm được và thể hiện. Khi con chỉ cảm thấy tình thương vị kỷ, cha mẹ sẽ không thể tránh khỏi khởi lên một ý thức sở hữu về con mình. Từ đó dẫn đến một loạt những sự chờ đợi rằng con mình phải sống theo những tiêu chuẩn của mình và của xã hội.    

Sự thể này dẫn đến những cố gắng không cần thiết nhằm kiểm soát con mình, gây ra nhiều sự xung đột giữa cha mẹ và con cái do đứa con nổi loạn chống lại sự kềm chế của cha mẹ, với hệ quả là càng có thêm nhiều sự bực dọc và đau lòng cho cha mẹ và sự giận dữ cho con cái. Đây là một môi trường mất cân bằng và tồi tệ mà những người tâm linh phải cố thoát ra, thăng vượt.  

Điều này dẫn đến nhận thức thứ hai. Để thăng vượt môi trường tồi tệ trong quan hệ với con cái, con cần nhận ra và chấp nhận rằng đứa trẻ không phải là con của mình. Con đã không sinh tạo đứa trẻ đó ra từ chính con hay từ hư vô. Con không có quyền sở hữu nào trên dòng sống của nó. Đứa con của con là một cá nhân hoàn toàn biệt lập, và với tư cách đó, nó có quyền – là quyền tuyệt đối do Thượng đế ban cho nó – để sử dụng quyền tự quyết của nó theo cách hiểu của nó và gặt hái hậu quả từ những chọn lựa của nó. 

Khi con có thái độ sở hữu đối với con cái, con sẽ tìm cách kiểm soát những chọn lựa của dòng sống đó và con còn có thể ngăn cản nó trải nghiệm hậu quả những chọn lựa này. Khi con vượt lên trên tình yêu chiếm hữu và ôm lấy tình yêu của Thượng đế, con sẽ không cố kiểm soát đứa trẻ nữa mà chỉ cố giáo dục, hướng dẫn đứa trẻ. Nhưng con làm điều này trong tinh thần tôn trọng không khoan nhượng đối với quyền tự quyết của nó, và nếu nó không nghe theo lời khuyên của con, con sẽ cho phép nó trải nghiệm hậu quả chọn lựa của nó.

Ta không đang nói là con phải để yên cho nó làm điều gì có thể đe dọa mạng sống hay sự an toàn của nó. Điều ta muốn nói là khi đứa trẻ lớn lên, con sẽ cho nó ngày càng nhiều tự do hơn, và sẽ đến một lúc con sẽ chỉ giản dị để cho nó sống cuộc đời nó muốn. Điểm này đặc biệt quan trọng đối với một dòng sống bị tổn thương.

Điều này dẫn chúng ta đến khái niệm là với tư cách cha mẹ, con không có bổn phận phải dành toàn bộ đời mình xoay quanh con mình. Một bậc cha mẹ không bắt buộc phải chăm sóc con mình suốt đời của nó. Để hoàn toàn nắm được điều này, con cần nhận ra hai lý do căn bản vì sao cha mẹ lại chọn đem vào đời một dòng sống nào đó. 

Trước khi dòng sống của con bước vào kiếp hiện thân này của con, con đã gặp gỡ các vị cố vấn tâm linh của con nơi một cõi cao hơn và con đã lên kế hoạch cho kiếp sống tới. Trong kế hoạch này, con hoạch định những dòng sống nào mà con muốn trao cho cơ hội sống bằng cách cho chúng trở thành con mình. 

Tất nhiên, hầu hết mọi cha mẹ đều muốn nghĩ rằng con mình là đứa trẻ toàn hảo. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều cha mẹ sẽ chọn, trước khi mình đầu thai, sinh ra một hay nhiều đứa trẻ đã bị tổn thương trầm trọng. Có hai lý do căn bản tại sao cha mẹ lại chọn sinh con là một dòng sống tổn thương:

  • Một lý do là vì cha mẹ có nghiệp quả với đứa trẻ trong tiền kiếp. Cha mẹ chọn đứa này như một cách để trả nợ dòng sống đó.
  • Lý do kia là cha mẹ đã từng có sự nối kết tích cực rất lâu đời với đứa trẻ. Vì vậy cha mẹ chọn sinh ra dòng sống tổn thương này vì yêu thương và muốn giúp nó. 

Trong trường hợp đầu, có thể nói là quan hệ giữa cha mẹ và đứa trẻ xem như một quan hệ trao đổi. Cha mẹ mang nợ nghiệp quả đối với đứa trẻ gần giống như nợ tiền ngân hàng vậy. Khi nợ trả xong, cha mẹ đã làm tròn bổn phận của mình với đứa con.

Điều ta muốn nói ở đây là trong một mối quan hệ như vậy, không nhất thiết phải có tình thương giữa dòng sống của cha mẹ và dòng sống của đứa con. Thật ra có thể có rất nhiều tình cảm tiêu cực mang theo từ tiền kiếp. Tiềm năng cao nhất cho tình cảnh này là cả đứa con lẫn cha mẹ đều vượt qua được những tình cảm tiêu cực đối với nhau, làm việc để giải quyết tâm lý bị tổn thương, cân bằng nghiệp quả với nhau và xây dựng một mối quan hệ tích cực, yêu thương.

Tiếc thay, điều này hiếm khi xảy ra khi đứa con là một dòng sống tổn thương. Lý do chính là sự thiếu vắng hiểu biết tâm linh trong nền văn hóa Tây phương. Vì không nhìn cuộc sống như là một cơ hội tăng triển tâm linh, cả đứa con lẫn cha mẹ thường hay tăng cường, củng cố tình cảm tiêu cực của mình. Điều này thật đáng tiếc vì nó có thể ngăn cản mọi người cân bằng nghiệp quả với nhau.

Là một bậc cha mẹ tỉnh thức tâm linh, điều tốt nhất mà con có thể làm trong tình cảnh này là con thay đổi thái độ của con đối với con cái, quyết tâm nỗ lực hàn gắn các tình cảm tiêu cực của mình cũng như những vết thương tình cảm của mình đối với nó. Rồi con cố hết sức giúp đỡ nó hầu con cân bằng nghiệp quả của con đối với nó. Việc này có thể gồm cả sự thực tập tâm linh, chẳng hạn đọc các bài chú và bài thỉnh nhằm biến hóa nghiệp chướng.

Nếu con khắc phục được các tình cảm tiêu cực của mình và cân bằng mọi nghiệp quả với đứa con, thực sự con đã làm tròn bổn phận tâm linh của con đối với nó. Nếu nó vẫn không phản hồi một cách tích cực đối với con, điều hợp lý nhất có thể là con chỉ đơn giản cắt đứt quan hệ với đứa con.

Xin con đừng hiểu lầm điều ta đang nói. Ta biết rõ có nhiều cha mẹ trốn tránh trách nhiệm đối với con mình. Xin con đừng hiểu sai và diễn giải rằng ta dung túng lối hành xử như thế. Ta không tán thành bất cứ ai trốn chạy trách nhiệm của mình trong đời sống. Điều ta muốn nói ở đây là con có thể thực sự đạt tới một điểm khi trách nhiệm của con đối với con cái đã làm xong và tốt hơn hết mỗi người nên đi đường riêng của mình.   

Nếu đứa trẻ không tỏ ra sẵn sàng bỏ lại đằng sau những tình cảm tiêu cực của nó đối với con, không chịu học hỏi từ con hay được bổ ích từ bất cứ điều gì con cho nó, thì điều hợp lý là con có thể nói: “Con hãy tự lo lấy. Bố mẹ phải sống tiếp cuộc đời bố mẹ, và nếu con không chịu bỏ những chuyện đó lại, bố mẹ sẽ bỏ con lại đằng sau.” Điểm này chính là phần nào ý nghĩa một số lời ta dạy cách đây 2000 năm khi ta đưa ra những câu nói thật thẳng thắn mà quá nhiều người lại hiểu lầm: 

“Ta đến để phân rẽ con trai với cha của nó, và con gái với mẹ của nó, và con dâu với mẹ chồng của nó” (Matthew 10:35).

“Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không xứng đáng với ta, và ai yêu con trai hay con gái hơn ta thì không xứng đáng với ta” (Matthew 10:37).

Ý nghĩa đằng sau hai câu trên là mục đích cuộc đời con là bước tiếp con đường tâm linh và thể hiện tâm Ki-tô của con. Nếu con đã trả hết món nợ nghiệp chướng và nếu con cái đã trở thành một gánh nặng ngăn trở đường tâm linh của con, điều hợp lý có thể là con phải bỏ con cái lại đằng sau và tiếp tục đường con.

Ta cũng hiểu nhiều người sẽ thấy những câu trên rất khiêu khích, thế nhưng đó là sự thực. Một người tỉnh thức tâm linh sẽ không bỏ rơi một đứa trẻ. Tuy nhiên, con có thể bước đi khi con đã làm tròn trách nhiệm của con với nó vì con nay nhận ra là con cũng có một trách nhiệm đối với dòng sống của con. Nếu đứa con không sẵn lòng tiến bước về phía trước thì có ích gì con ngừng tiến bước trên đường tâm linh của con vì một ý thức giả tạo về nghĩa vụ của con với đứa trẻ? Tại sao con lại kềm hãm tiến bộ của con nếu con không giúp gì được nó? Hai điều sai không tạo nên một điều đúng.     

Để hiểu điều này hoàn toàn, một lần nữa con cần nhìn vào sự kiện đứa con là một dòng sống hoàn toàn biệt lập có ý chí tự do của nó. Khi con đem nó vào đời, con có một số trách nhiệm cho nó một khởi đầu tốt đẹp nhất trong cuộc đời. Nhưng sẽ đến một điểm khi đứa con phải rời tổ và nhận lấy trách nhiệm đời nó. Khi nó đủ lớn để tự quyết định, hoặc khi nó đạt đến điểm hoàn toàn nổi loạn hay chối bỏ con là cha mẹ nó, con không còn trách nhiệm về những chọn lựa của nó nữa. Về điểm này thì thật sự con chưa bao giờ trách nhiềm về chọn lựa của nó mặc dù khi nó còn nhỏ, con có trách nhiệm giúp nó có những chọn lựa cao nhất.

Điều ta nói với con ở đây là đối với một người tầm đạo, điều tuyệt đối thiết yếu là con phải nhận ra được, và hoàn toàn chấp nhận, rằng con không chịu trách nhiệm về chọn lựa của bất cứ ai. Con trách nhiệm về cuộc đời của con và những chọn lựa của con. Con không trách nhiệm những chọn lựa của người khác. Con có thể cố giúp họ lấy những chọn lựa tốt nhất nhưng con không được rơi vào cái bẫy tìm cách chọn lựa cho họ.    

Nếu tất cả mọi người đều hiểu được chân lý sâu xa của câu trên, khoảng 80 phần trăm mọi cuộc xung đột và vấn nạn mà chúng ta đang chứng kiến trên hành tinh này sẽ được giải quyết vô cùng nhanh chóng, bởi vì những vấn đề đó thật sự khởi lên do cảm nhận sai lầm là mình chịu trách nhiệm những chọn lựa của người khác. 

Trước khi ta đi lạc đề, hãy cho phép ta trở về với tình cảnh khi con chọn đưa vào đời một dòng sống bị tổn thương do lòng yêu thương dòng sống đó. Trong trường hợp này, con đã có sẵn tình yêu thắm thiết đối với nó, và điều quan trọng là con nuôi dưỡng tình yêu này cho dù đứa con bị tổn thương tới mức nó không có khả năng đáp lại trọn vẹn tình yêu của con. Trong một mối quan hệ như vậy, điều quan trọng là con không cho phép tình yêu của con biến thành ý thức trách nhiệm giả tạo mà ta vừa mô tả. Thay vào đó, con hãy cảm nhận lòng từ bi và nhận ra được là các vết thương của đứa con có thể gây ra một số hạn chế cho mối quan hệ.   

Như ta có giải thích ở trên, đứa con của con có thể quá tổn thương đến nỗi nó không có triển vọng được chữa lành hoàn toàn trong một kiếp sống. Vì vậy, rất có thể nó sẽ không có khả năng trở thành một công dân mẫu mực trong tiêu chuẩn của xã hội và nền văn hóa của con. Nếu con có thể tránh được ý thức trách nhiệm giả tạo, con có thể để yên cho nó sống cách sống hay nhất của nó mà không đòi hỏi hay kỳ vọng bất cứ gì mà nó không thể làm được do vết thương mà nó mang.  

Nhờ vậy con có thể tránh được cảm giác buồn lòng hay bị hất hủi, và thay vào đó, nhìn con mình như một dòng sống bị thương tích mà con cố yêu thương và giúp đỡ trong khả năng đón nhận của nó. Nói cách khác, con không cố ép buộc tình yêu hay sự giúp đỡ của con lên nó, mà ngược lại con chỉ ban ra những gì phù hợp với khả năng tiếp nhận hạn chế của nó.

Nếu con giữ được thái độ này, con sẽ có thể bồi đắp một mối quan hệ xây dựng với con mình kéo dài suốt cuộc đời của nó. Trong trường hợp này, con sẽ có thể lần hồi giúp nó hàn gắn vết thương và tinh tấn vượt bực trong kiếp này. Đây quả thực sẽ là một thành quả vô cùng tốt đẹp cho dù đời nó vẫn kém rất xa những tiêu chuẩn của xã hội hay mực thước tâm linh. Con thấy đó, con người không cần phải sống một cuộc đời toàn hảo để tinh tấn về tâm linh. Thượng đế không phán xét như con người phán xét.

Vượt qua nỗi ân hận đã phá thai – hoặc bất kỳ lỗi lầm nào khác

Hỏi: Xin Thượng đế phù hộ cho thày. Con đã làm theo lời dạy của Joel Goldsmith đã dẫn đường con trở về với con người thật của con – đó là một ơn phúc đã đem lại cho con một chút an bình. Tuy nhiên khi con còn trẻ, con đã một lần phá thai. Con đã cầu nguyện rất nhiều, nhưng con vẫn cảm thấy tội lỗi vô cùng về quyết định đó. Làm thế nào con có thể tha thứ cho chính mình và được tha thứ? Có thêm điều gì nữa mà con có thể làm để ăn năn?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Trái tim yêu dấu của thày, cảm ơn con đã cho ta cơ hội để bình luận về cách thức vượt qua sự ân hận khi mình phạm phải bất kỳ lầm lỗi nào. Lời dạy sau đây có thể áp dụng cho mọi người cũng như bất kỳ loại lỗi lầm nào.

Quả là có thêm một điều nữa mà con có thể làm, đó là chấp nhận rằng Thượng đế thương yêu con với một tình thương vô điều kiện, và do đó ngài đã tha thứ cho con rồi!

Điều đang cản trở con trải nghiệm sự tha thứ đó là vì con đã không hoàn toàn chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế. Cho nên điều con có thể làm là chấp nhận rằng ngài đã tha thứ con, và ta, Giê-su Ki-tô, cũng đã tha thứ con. Vì vậy, việc còn lại là con cần tha thứ cho chính con.

Ta biết, bảo một ai đó phải tha thứ chính mình cũng gần giống như bảo một người mù phải mở mắt ra mà nhìn. Tuy nhiên, sự thật sẽ giải phóng con, cho nên con hãy để ta chia sẻ một số ý nghĩ để con suy ngẫm, vì điều này có thể giúp con tha thứ cho bản thân.

Nếu con đọc bài giảng của mẹ yêu dấu của ta, con sẽ thấy Mẹ Mary giải thích là trên địa cầu có một thế lực thèm khát chứng minh là Thượng đế sai trái, chứng minh là Thượng đế đã sai lầm khi ban cho loài người quyền tự quyết. Thế lực này – đúng hơn, một trạng thái tâm thức – sẽ làm đủ mọi cách để khiến cho người ta lạm dụng quyền tự quyết của mình hầu tách mình ra khỏi Thượng đế.

Con thấy đó, khi Thượng đế ban quyền tự quyết cho các dòng sống, ngài cũng phải cho họ cơ hội đề họ vi phạm quy luật của ngài – vì nếu không thì đâu phải là quyền tự quyết thực sự? Khi trao cơ hội này cho họ, ngài mong họ sẽ thử nghiệm quyền tự quyết của mình, sẽ dần dần hiểu ra lợi ích lớn nhất của họ, và cũng là tình thương cao nhất của họ, là góp phần đồng sáng tạo vũ trụ trong khuôn khổ viễn quan và hoạch định tổng thể của ngài. Quả thực, Thượng đế mong rằng sau khi gửi các dòng sống vào thế giới hình tướng, họ sẽ tự nguyện quyết định xây dựng sự hợp nhất với ngài.

Cho nên mục tiêu hàng đầu của các thế lực chống đối hoạch định của Thượng đế là khiến cho con người tách mình ra khỏi Thượng đế và bị kẹt lại trong một trạng thái tâm thức xem mình là tách biệt khỏi Thượng đế. Để thực hiện ý đồ này, chúng đã gài vô số những cái bẫy trên hành tinh địa cầu. Những cái bẫy này nhắm vào mục tiêu trên hết là khiến cho con người thấy mình tách biệt khỏi Thượng đế.

Rất nhiều cái bẫy là để khiến con người vi phạm quy luật Thượng đế. Chúng thực hiện chuyện này qua vô số những lời gian dối tạo ra cảm giác rằng chuyện vi phạm quy luật Thượng đế là cần thiết, chính đáng hay có thể chấp nhận được. Chính trạng thái tâm thức này là thế lực ẩn núp đằng sau việc hợp pháp hóa phá thai. Chủ ý là tạo ra một tư duy lôi kéo giới phụ nữ tin rằng mình có quyền quyết định vận mạng của mình, và để có thể tự quyết định, việc lấy đi mạng sống của đứa con trong bụng là một điều có thể chấp nhận được. Như ta đã giải thích trong bài giảng về phá thai, việc phụ nữ quyết định vận mạng của mình quả là một điều chấp nhận được, nhưng không đến mức lấy đi mạng sống của một thai nhi.

Một trong những lập luận tinh vi được sử dụng bởi các thế lực tìm cách gài bẫy con người là bảo rằng một thai nhi chẳng qua chỉ là một cục mô. Nhưng như con đã trải qua ngay trong bản thân, rất nhiều phụ nữ đã phá thai đều trải nghiệm nhiều mức độ đau buồn, hối hận và mất mát khác nhau. Sự kiện này chứng minh một cách không thể nghi ngờ rằng một thai nhi không chỉ là một cục mô, và đó là tại sao một người mẹ nhạy cảm biết rõ việc phá thai đã lấy mất cơ hội cho một dòng sống được hiện thân.

Con có thấy được âm mưu vi tế ở đây? Mặc dù trong cuộc tranh luận về phá thai có nhiều ý đồ đen tối, nhưng chủ ý ở đây là đánh lừa người mẹ lấy đi mạng sống của đứa trẻ trong bụng qua sự thiếu hiểu biết hoặc thiếu mẫn cảm. Vậy bây giờ chúng ta hãy xét xem chuyện gì xảy ra cho một phụ nữ đã phá thai. Trên cơ bản, có hai cách phản ứng.

Ta có thể cam đoan với con là mỗi phụ nữ đã phá thai sẽ đều kinh nghiệm một giây phút sự thật khi cô ấy nhận ra là mình đã lầm lỗi. Tuy nhiên cũng có những phụ nữ hầu như không nhận ra giây phút sự thật này, hoặc họ nhanh chóng gạt nó sang một bên đến độ họ bảo là không thể nhớ rõ. Nhưng ta có thể bảo đảm với con là nếu chân thành xem xét nội tâm, bất kỳ người mẹ nào cũng sẽ nhận ra là mình quả thực đã có một giây phút sự thật trước khi, hay sau khi, phá thai. Điều tương tự cũng xảy ra cho bất kỳ loại lầm lỗi nào mà một người có thể phạm vào. Luôn luôn có một giây phút sự thật.

Khi một phụ nữ chối bỏ giây phút sự thật đó, cô ấy chỉ có thể làm vậy bằng cách khoác lấy một tư duy vô cảm đối với sự sống. Cô ấy chỉ có thể làm vậy bằng cách chối bỏ sự nối kết của mình với đứa thai nhi trong bụng mình. Cô ấy chỉ có thể chối bỏ sự nối kết này bằng cách chối bỏ nối kết với mọi sự sống, đặc biệt là với chính Mẹ Thiêng liêng. Cho nên điều ta muốn nói là qua sự chối bỏ nối kết với sự sống, cô ấy đã tách mình ra khỏi Thượng đế. Cô ấy nghĩ là mình tách biệt khỏi Thượng đế và do đó cũng tách biệt khỏi mọi sự sống. Đó là tại sao cô ấy mới có thể chối bỏ ý tưởng rằng việc phá thai lấy đi sự sống.

Một khi một phụ nữ chấp nhận phản ứng này, các thế lực bóng tối đã chiến thắng, vì cô ấy đã tự tách mình ra khỏi Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, cô ấy sẽ cố gắng bào chữa cho quyết định phá thai, và khi làm vậy, cô ấy càng khiến cho ý niệm tách biệt khỏi Thượng đế trở nên kiên cố hơn. Thậm chí cô ấy có thể bỏ sức ra để thuyết phục người khác rằng việc phá thai là phải lẽ, và như vậy cô ấy sẽ khiến cho những người này xem mình là tách biệt với Thượng đế. Giản dị là cô ấy chỉ đang nuôi sống lời dối trá đã khiến mình phạm lỗi ngay từ đầu.

Bây giờ hãy nhìn đến cách phản ứng thứ nhì, là người phụ nữ quyết định nhìn nhận giây phút sự thật của mình. Cô ấy thừa nhận mình đã lầm lỗi, và đây là cơ hội cho cô ấy tự giải thoát khỏi lời gian dối cùng các tà lực. Hiển nhiên, một phụ nữ chỉ có thể quyết định như thế nếu đã nhận ra là mình có sự nối kết với sự sống. Khi công nhận sự nối kết này thì cô ấy cũng công nhận nối kết của mình với Thượng đế. Và tất nhiên, điều này hoàn toàn trái ngược với mong muốn của các tà lực. Tuy vậy. chúng chưa thua trận trong cuộc chiến giành lấy dòng sống của cô ấy đâu, mà chỉ có nghĩa là các tà lực bây giờ phải tung ra Kế 2.

Kế hoạch chủ yếu của tà lực là khiến cho con người chối bỏ sự nối kết của mình với Thượng đế và từ đó phủ nhận là mình đã từng sai lầm. Nếu tà lực không thể ngăn cản con nhìn nhận mình đã lầm lỗi, thì chúng phải thay đổi kế sách. Kế sách mới là tạo cho con một cảm giác tội lỗi, cảm nhận mình là người có tội khủng khiếp đến độ mình sẽ không bao giờ hàn gắn lại được với Thượng đế.

Đối với con là một bà mẹ đã phá thai, tà lực sẽ phóng chiếu vào tâm trí và cảm thể của con ý tưởng và cảm giác là con đã phạm một tội lỗi nghiêm trọng đến nỗi con sẽ không bao giờ, không bao giờ bù đắp được. Chúng cố tình làm vậy để khiến con cảm thấy con sẽ không bao giờ có thể được chấp nhận trong mắt Thượng đế, để con tự tách ra khỏi ngài do thấy mình không xứng đáng được kết nối với ngài. Nói cách khác, chúng cố đảm bảo rằng mặc dù con đã nhìn nhận lỗi lầm, con vẫn không bao giờ thoát ra được lỗi lầm đó.

Con có thấy điều ta nói chăng? Kế đầu của chúng là khiến cho con phạm lỗi rồi phủ nhận mình phạm lỗi, và như vậy con sẽ không bao giờ thoát ra khỏi lỗi lầm bởi mình bị kẹt cứng trong tâm thức đã khiến mình phạm lỗi. Nếu kế đó không thành công vì con đã nhìn nhận mình phạm lỗi, thì tà lực sẽ ra tay để bảo đảm là con cảm thấy tội lỗi đến mức con vẫn không thể thoát khỏi lỗi lầm của con. Chúng sẽ khiến cho con cảm thấy con không bao giờ có thể chuộc lại tội của con. Nói cách khác, âm mưu của chúng ở đây là đánh lừa con khiến con lầm lỗi và vi phạm quy luật của Thượng đế, xong rồi chúng lại đánh lừa con để con không thể thoát khỏi lầm lỗi, thoát khỏi cái tâm thức, cái lời gian dối đứng đằng sau.

Con có thấy âm mưu này tinh vi, nham hiểm đến mức nào không? Con có thấy hàng tỷ người đã bị chúng lừa gạt qua âm mưu này cùng vô số những biến thể của nó hay không? Con có thấy đây không bao giờ là hoạch định của Thượng đế khi ngài ban quyền tự quyết cho những đứa con của ngài?

Thượng đế hoàn toàn không mong muốn nhìn thấy con bị lạc lối trong một trạng thái tâm thức chối bỏ sự hợp nhất với ngài. Ngài chỉ có một mong muốn là thấy con nhận ra sự trọn vẹn của con là đứa con của ngài, một đứa con luôn mang tiềm năng là một với ngài, là người đồng sáng tạo với ngài, và là chính ngài trong vũ trụ vật chất này. Cho nên Thượng đế không bao giờ muốn con rơi vào tâm thức thấp kém xem mình tách biệt với ngài. Vì vậy, một khi con rơi vào trạng thái tâm thức đó thì ngài chỉ có một mong muốn duy nhất, đó là nhìn thấy con vươn lên khỏi tâm thức đó và chấp nhận bản sắc đích thực của mình là một đứa con hoàn toàn vô tội trước Thượng đế.

Con thấy đó, khi Thượng đế ban cho con quyền tự quyết, ngài cũng ban cho con quyền được thử nghiệm trong khuôn khổ những quy luật tự nhiên đang giữ vững vũ trụ. Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, mọi thứ trong thế giới này đều được tạo bằng năng lượng. Năng lượng là một hình thức rung động, và rung động thì có thể được biến đổi dễ dàng. Vũ trụ vật chất giống như một bãi chơi vũ trụ bằng cát nơi con có quyền xây bất kỳ lâu đài nào con muốn. Một số lâu đài bằng cát đó sẽ không đẹp lắm, nhưng con đâu có thay đổi chất cát, con chỉ đơn giản cho nó một hình dạng xấu xí. Để xóa bỏ lỗi lầm đó, con chỉ cần san bằng lâu đài đã xây và khởi sự xây đắp một lâu đài mới đẹp hơn.

Khi con có một chọn lựa bất toàn và vi phạm quy luật Thượng đế, con đã kéo thấp rung động của một phần năng lượng của ngài xuống. Con làm chuyện này qua quyền năng của tâm con. Nhưng chính sự kiện tâm con đã có quyền năng kéo thấp độ rung của năng lượng Thượng đế cũng chứng minh cho con thấy là tâm con cũng có quyền năng nâng cao độ rung của năng lượng Thượng đế.

Nói cách khác, không có một lỗi lầm nào con có thể làm trong vũ trụ này mà không thể được xóa bỏ toàn diện. Một lỗi lầm chỉ giản dị là năng lượng bị dùng sai, và một khi con nâng độ rung của năng lượng đó lên, lỗi lầm của con được xóa sạch vĩnh viễn. Con có hiểu điều ta nói chăng? Ta đang thực sự nói rằng con người không thể nào gây ra một lỗi lầm vĩnh viễn. Mọi việc con làm trong vũ trụ tạm bợ này cũng sẽ chỉ là một thị hiện tạm bợ, và vì vậy nó có thể được xóa bỏ.

Nếu con làm lỗi, Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi vì đã mắc lỗi. Ngài muốn con nhìn nhận và thừa nhận là con đã làm lỗi, rồi con học được bài học để chọn lựa tốt hơn trong tương lai. Có nghĩa là con phải học cách nhìn thấu và vứt bỏ lời gian dối nham hiểm đã khiến con lầm lỗi.

Một khi con đã học được bài học đó và thật sự vứt bỏ niềm tin hoặc tâm thức đã khiến con làm lỗi, thì việc cảm thấy mình tội lỗi hoàn toàn không mang mục đích xây dựng nào nữa. Thượng đế đã ban cho con sự tự quyết. Ngài đã trao cho con quyền thử nghiệm sự tự quyết đó, ngay cả đến mức vi phạm những quy luật tự nhiên. Ngài làm vậy vì muốn con có cơ hội học được rằng lợi ích lớn nhất cho con là tuân theo quy luật của ngài, và thật ra đó cũng là điều mà dòng sống của con ưa thích làm. Cho nên Thượng đế không muốn con cảm thấy tội lỗi sau khi mình phạm lỗi. Ngài chỉ đơn giản muốn con cứ tiến bước và học được bài học của lỗi lầm, hầu con vươn lên cao hơn trong tâm thức.

Các tà lực đang cố sức đánh bẫy con vào một trạng thái tâm thức khiến con xem mình tách biệt khỏi Thượng đế. Một cách mà chúng sử dụng là tạo ra toàn bộ cái tâm thức tội lỗi và cảm thấy tội lỗi. Cái tâm thức bảo rằng con không bao giờ có thể được cứu chuộc sau khi đã phạm lỗi không đến từ Thượng đế, và trong bản chất, nó rõ ràng là phản-Ki-tô. Một thông điệp quan trọng nhất của sự đầu thai trên địa cầu là con người có thể được cứu chuộc và sạch mọi lỗi lầm. Con có thể sạch lỗi lầm tới độ lỗi lầm như chưa từng xảy ra bao giờ. Tiếc thay, nhiều người đã làm mồi cho tâm thức của rắn cho nên họ tưởng là mình không thể thật sự được cứu chuộc, và điều này sẽ ngăn chặn họ thực sự chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Một lần nữa, sự quỷ quyệt của tà lực vô cùng to lớn. Nếu chúng không thể gài bẫy con bằng một cách, thì chúng sẽ cố gài bẫy con bằng cách khác. Cho nên điều ta nói ở đây không có nghĩa là con người không nên xem nhẹ khi mình phạm lỗi, hoặc gạt nó sang một bên như là chuyện không đáng kể. Nếu con làm vậy, con sẽ phạm thêm nhiều sai lầm nữa, và cái tâm thức đã gây ra sai lầm sẽ chỉ ăn sâu hơn thêm. Nhưng chính đó là tâm thức đã khiến con mất liên lạc với cái ta tâm linh của con. Vì vậy, mọi người cần cảnh giác là có những chọn lựa đúng đắn cũng như có những chọn lựa không mấy đúng đắn.

Khi con chọn vi phạm quy luật Thượng đế, con đang thực sự làm hại chính con đó. Khi người ta hiểu thực sự mình đang làm gì thì không có ai lại cố tình làm hại chính mình. Thật là không có cách chi con sẽ làm hại chính con nếu con thật biết con đang làm gì. Đó là tại sao con cần cảnh giác và cần thẩm định mọi chọn lựa của mình. Con cần liên tục cố gắng mở rộng tầm hiểu biết – “Hãy dùng hết sức mình để lấy được sự thông sáng” – hầu con có thể nhận ra bằng trực giác một chọn lựa bất toàn.

Hãy cho ta phác họa kịch bản lý tưởng khi con phải đối phó với một lỗi lầm. Mỗi lần con có chọn lựa bất toàn, luôn luôn sẽ có một giây phút sự thật. Con hãy tỉnh giác và nhìn nhận là con đã làm lỗi, xong con cố đạt tới sự hiểu biết sáng suốt nhất là lỗi lầm đã xảy ra như thế nào và tại sao. Con hãy học cách nhìn thấu lời gian dối đứng đằng sau lỗi lầm. Rồi con quyết định con sẽ không lặp lại lỗi lầm. Lý tưởng là con quyết định bỏ lại phiá sau cái tâm thức, lời nói dối đã khiến con phạm lỗi.

Khi con làm như vậy, mỗi lỗi lầm của con trở thành một bực thang dẫn con đến gần hơn với tâm thức Ki-tô. Đây là điều mà Thượng đế muốn xảy ra cho con. Đây là điều chính ta cũng muốn xảy ra cho con. Ta vẫn biết, hầu hết mọi người đều đã bước xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và họ cần đi theo một con đường tuần tự dẫn họ tới tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Vì vậy, ta vô cùng mong muốn thấy mọi người có thái độ đúng đắn, nghĩa là mỗi lỗi lầm sẽ đưa họ xích lại gần hơn với tâm thức Ki-tô. Và như vậy, con sẽ chỉ có thể thắng lợi, và tà lực sẽ không còn nắm giữ được con nữa. Ông hoàng của thế gian này cứ việc đến nhưng không thể nắm được gì nơi con.

Quá nhiều người đã hiểu lầm câu nói đó của ta. Câu đó không có nghĩa là con phải là người toàn hảo hay phải đạt được trọn vẹn tâm thức Ki-tô thì ác quỷ mới không nắm được gì nơi con. Nó có nghĩa là con cần giữ một thái độ sẵn lòng học hỏi từ lỗi lầm và vứt bỏ lời gian dối, vứt bỏ tâm thức thấp kém là nguồn gốc của mọi lỗi lầm. Con sẵn lòng nhìn nhận lầm lỗi mà không cảm thấy tội lỗi. Giản dị là con học bài học của lầm lỗi và tức khắc bước lên cao hơn trên đường tu tâm linh. Mỗi ngày con để cho một phần của ngã pham phu chết đi, như Paul đã nói. Con bỏ lại con người cũ là tâm nhị nguyên, và con khoác vào tâm Ki-tô. Khi con giữ được thái độ này, ác quỷ sẽ không thể nắm được gì nơi con khi nó lợi dụng lỗi lầm của con để đánh lừa con. Rất có thể là con vẫn còn sót lại một số tin tưởng sai lạc sẽ khiến con lầm lỗi, nhưng mỗi lầm lỗi là một bàn đạp, một bực thang để con tinh tấn.

Con có thấy được điểm quan trọng ở đây chăng? Ta không hề nói rằng việc phá thai là một chuyện đúng đắn. Ta nói rằng phá thai là một lỗi lầm, nhưng đó không phải là một lỗi lầm mà con không bao giờ có thể thoát ra khỏi. Quả thực là con có khả năng tự giải thoát, và bước đầu tiên là nhìn nhận mình đã làm lỗi. Bước thứ nhì là thực sự từ bỏ cái tâm thức đã khiến con làm lỗi. Con thực sự vứt lại niềm tin sai lầm, lời gian dối đã khiến con làm lỗi. Một khi con đã nhìn thấu và bỏ lại lời gian dối đó, con phải biết rằng ngay lúc đó, Thượng đế đã tha thứ cho con rồi. Hiểu được vậy sẽ dẫn con tới bước kế tiếp, là con cần quyết định một cách ý thức là mình hoàn toàn chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế. Mình sẽ bước tới mà không còn bị cảm giác tội lỗi cầm chân lại.

Sau khi đi qua tiến trình biến đổi nội tâm nói trên, con sẽ cần nhận ra là một số lầm lỗi cũng mang một số hậu quả vượt ngoài tâm con. Nếu lầm lỗi đã ảnh hưởng đến những thành phần khác của sự sống, con đã tạo nghiệp dưới dạng năng lượng tha hóa. Để con thực sự thoát khỏi lỗi lầm đó, các hậu quả của hành động của con cần được hóa giải. Nói cách khác, việc phá thai mang những hậu quả cho dòng sống đã có thể được hiện thân khi con có mang. Con có khả năng bù đắp cho sự thể này bằng nhiều cách, như ta đã có giải thích trong bài giảng về phá thai.

Có thể con sẽ mất thời gian để hóa giải những hậu quả tiêu cực đó, và một phụ nữ nhạy cảm sẽ biết được trong trực giác là mình chưa trả được món nợ của mình đối với sự sống. Điều này có thể khiến con vẫn bám lấy một cảm giác tội lỗi cho dù điều này thật là không cần thiết. Như ta đã cố giải thích, con không cần phải cảm thấy tội lỗi một khi con đã từ bỏ tâm thức, lời gian dối, đã gây ra lỗi lầm.

Một khi con đã làm vậy, con cần cho phép mình cảm thấy mình đã sạch tội. Nếu con chưa cảm thấy mình sạch tội thì điều này cho thấy con đang bị các tà lực công hãm, và chúng đang phóng chiếu cảm giác tội lỗi vào tâm trí và cảm thể của con. Nếu con tìm hiểu bài giảng của ta về bốn tầng của vũ trụ vật chất, con sẽ thấy trong cảm thể của nhân loại có rất nhiều lực tha hóa. Vì thế, thật là dễ dàng cho tà lực sử dụng lỗi lầm của con để phóng chiếu cảm giác tội lỗi vào cảm thể con.

Lời khuyên của ta cho con cũng như cho tất cả những ai đã lầm lỗi và tưởng không có lối thoát, là suy ngẫm những điều ta vừa nói ở đây. Ta mạnh mẽ khuyên con nên sử dụng các dụng cụ bảo vệ tâm linh trên trang mạng này để kêu gọi cho tâm trí cùng cảm thể của mình được niêm phong khỏi mọi tà lực đang phóng chiếu tội lỗi, sợ hãi cùng đủ loại cảm xúc tiêu cực khác vào con. Ta khuyên con nên sử dụng lời thỉnh cầu phán xét tà lực, và con nên kêu gọi Đại thiên thần Michael trói chặt và tiêu hủy các tà lực đang tấn công cá nhân con. Ta cũng khuyên con nên sử dụng ngọn lửa tím để tiêu hủy mọi nghiệp chướng cùng mọi năng lượng tha hóa phát sinh từ lỗi lầm.

Chót hết, ta khuyên con nên sử dụng kỹ thuật hòa điệu nội tâm để hiểu biết sâu sắc về lời gian dối đã khiến con phạm lỗi. Con cũng có thể dùng kỹ thuật đó để trao cảm giác tội lỗi của con cho ta. Giản dị là con hãy hình dung con bước vào khu vườn và ngồi xuống đối diện ta. Xong hình dung con nắm lấy cảm giác tội lỗi của mình, hoặc bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào khác, rồi nhồi nhét nó vào một quả bóng thật chặt. Rồi con hãy hình dung con cầm bóng ném nó vào trái Tim Thánh của ta, nơi nó lập tức được tình thương vô điều kiện và vô bờ bến của ta tiêu hủy. Con hãy thực tập như thế mỗi ngày một lần, cho đến khi con hết hẳn mọi cảm giác tội lỗi. Ta cam đoan với con là việc đọc nhiều bài thỉnh Mẹ Mary cũng là một cách hữu hiệu để cân bằng nghiệp quả, biến hóa năng lượng tiêu cực, kể cả năng lượng tội lỗi.

Để kết luận, con hãy luôn luôn ghi nhớ rằng con đang sống trong thế giới là một bãi chiến trường giữa hai thế lực đối nghịch. Dòng sống của con là sợi dây thừng mà cả hai bên đều đang cố sức kéo để giành chiến thắng về phe mình. Một bên sợi dây thừng là tất cả những tà lực của địa ngục và sự chết, đang lôi kéo dòng sống của con, ngăn không cho con tăng trưởng. Bên kia là toàn thể các chân sư thăng thiên đang kéo dòng sống của con lên ngày càng cao hơn để con tăng trưởng.

Tuy nhiên, khác với trò chơi kéo co bình thường, rõ ràng có một đội mạnh hơn đội kia vô hạn. Đội của chân sư thăng thiên có năng lực kéo con lên cao bất cứ lúc nào. Vấn đề là các chân sư có một điểm bất lợi thường khiến cho sức mạnh của mình bị vô hiệu hóa, và điểm bất lợi này là những quyết định mà con lấy trong cách con nhìn bản thân con. Nếu con rơi vào lời gian dối của tà lực bảo con là một đứa tội lỗi đốn mạt phải bị dằn vặt đời đời, thì con sẽ trao cho đội kia một lợi thế thái quá cho phép chúng lôi con xuống.

Cho nên con hãy quyết định là con sẽ học cách nhìn thấu lời gian dối của chúng và cho phép các chân sư thăng thiên là anh chị của con kéo con lên cao hơn. Ta chẳng có nói là nếu ta được thăng lên, ta sẽ kéo tất cả mọi người lên với ta hay sao? Con nghĩ là ta nói đùa? Ta có uy lực kéo con lên vào vương quốc của Cha chúng mình miễn là con cho phép ta. Đơn giản, con hãy buông bỏ cảm giác tội lỗi đang buộc chặt con vào tâm thức địa ngục.

Giải thích khái niệm Thượng đế cho trẻ nhỏ

Hỏi: Thế nào là cách giản dị nhất để giải thích khái niệm Thượng đế cho một đứa trẻ nhỏ hay một người không tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Có sự khác biệt khá lớn giữa một trẻ nhỏ và một người lớn không mấy tâm linh. Khác biệt chính là hầu hết mọi đứa trẻ đều rất tâm linh, một thực tế mà, buồn thay, hầu hết người lớn đều không nhìn thấy. Nhiều người lớn thường nghĩ rằng vì trẻ nhỏ không hiểu được các khái niệm và ngôn ngữ của người lớn, chúng không có khả năng tâm linh tinh tế. Đây là một sự hiểu lầm đáng buồn mà ta đã cố chỉnh lại qua câu nói rằng trừ khi con trở thành một trẻ nhỏ, con không thể bước vào vương quốc Thượng đế.

Hầu hết trẻ nhỏ đều mang sẵn một tinh thần tâm linh khiến chúng rất dễ hiểu được và chấp nhận Thượng đế như một Hiện diện luôn luôn ở bên chúng. Cho nên ta sẽ nói thế này cho một đứa bé:

“Con hãy nhắm mắt lại và con sẽ cảm thấy Thượng đế ở với con trong tim con. Khi con đi vào trong tim con, con sẽ luôn luôn cảm được sự hiện diện của Thượng đế bên con. Thượng đế ở đây để bảo vệ con. Thượng đế ở đây để dỗ dành con. Thượng đế ở đây để chỉ cho con làm gì. Con luôn luôn tìm được Thượng đế trong tim con và ngài sẽ luôn luôn hướng dẫn bước con đi trong đời. Vậy Thượng đế giống như một người con không nhìn thấy, luôn luôn ở bên con.”

Khi con cố giải thích Thượng đế cho một người lớn không có khuynh hướng tâm linh, con đối mặt với một tình thế hoàn toàn khác. Do nhu cầu, cách diễn đạt của con phải phù hợp với những tin tưởng, hoặc sự thiếu vắng tin tưởng,  của người đó. Tuy nhiên nói chung, ta sẽ sử dụng những ý tưởng sau đây.  

Hãy đơn giản nhìn vào khoa học. Albert Einstein đã chứng minh là mọi thứ đều được tạo bằng năng lượng. Năng lượng là một rung động và khoa học đã cho chúng ta thấy có nhiều mức độ rung động khác nhau. Chẳng hạn, chúng ta biết có ánh sáng mà mắt có thể nhìn thấy và cũng có nhiều loại tia sáng khác mà mắt không thể nhìn thấy. Einstein đã giúp chúng ta hình dung vũ trụ là một tấm thảm liên tục những tần số năng lượng khác nhau, trong đó có một số mà chúng ta không thể phát hiện được bằng giác quan hay bằng dụng cụ khoa học. 

Thật là thú vị khi nhận thấy thế giới quan này ăn khớp với những gì những người tâm linh đã nói từ hàng ngàn năm trước đây, cụ thể là có cái gì đó vượt khỏi vũ trụ vật chất. Họ gọi đó là thế gới tâm linh, hay cõi tâm linh, nhưng con cũng có thể dễ dàng gọi đó là một dải tần số nơi có những độ rung cao hơn năng lượng của thế giới vật chất. 

Nói cách khác, ngay cả khoa học hiện đại cũng đang chỉ ra một cái gì đó có thể hiện hữu vượt ngoài vũ trụ vật chất. Khoa học đã mở ra khả năng có thể có những sinh thể trí tuệ hiện hữu nơi một cõi cao hơn. Những sinh thể này có thể là những gì mà người tâm linh thường gọi là Thượng đế hay thiên thần.

Con có thể tiến thêm một bước nữa và nhìn vào các khám phá của cơ học lượng tử. Ngành vật lý này đã chứng minh là mỗi khi chúng ta quan sát điều gì, chẳng hạn một hạt hạ nguyên tử, điều mà chúng ta quan sát sẽ bị tâm thức của chính chúng ta ảnh hưởng một cách cơ bản. Nói cách khác, các nhà khoa học nay đã chứng minh là mọi điều chúng ta quan sát đều bị tâm thức chúng ta ảnh hưởng.

Thậm chí có cả những nhà khoa học tin rằng tâm thức chúng ta giúp tạo ra thực tại vật lý. Nói cách khác, một số khoa học gia suy đoán rằng nếu không có ai đang đứng nhìn thì mặt trăng không có ở đó. Họ bắt đầu hiểu ra là tâm thức của một người có khả năng ảnh hưởng vũ trụ vật chất. Lý do là vì tâm thức là năng lượng mà vật chất cũng là năng lượng. Tuy nhiên, lỡ năng lượng là một dạng của tâm thức thì sao?

Điều này không khó hiểu lắm đâu khi chúng ta nhận ra rằng tất cả đều là năng lượng. Sự kiện mọi thứ đều là năng lượng đã lật đổ cái hàng rào ngăn chia vật chất với tâm thức. Có nghĩa là cái khái niệm bảo rằng tâm ở trên vật nay đã mang một ý nghĩa mới, một ý nghĩa được ngành vật lý tân tiến nhất hỗ trợ.

Hầu hết mọi người không thể hoàn toàn chấp nhận ý tưởng đó vì họ không thể chấp nhận tâm thức con người có thể tạo ra toàn bộ vũ trụ, và do đó, hầu hết đều gạt bỏ hệ quả triết lý của các khám phá của ngành vật lý. Thế nhưng có một giải pháp khác ngoài việc gạt bỏ các ý tưởng đó. Giải pháp này là nhận ra rằng tâm thức chỉ đơn giản là một hình thức năng lượng, và do đó tâm thức đã phải đóng góp trong việc tạo ra vũ trụ vật chất. 

Tất nhiên, toàn bộ vũ trụ không thể chỉ do tâm thức con người tạo ra. Bởi vì nói cho cùng, làm thế nào con người có thể tạo ra được một hành tinh đã hiện hữu hàng tỷ năm trước khi con người đầu tiên xuất hiện? Một cách giải thích khả dĩ là vũ trụ được tạo ra bởi những sinh thể trí tuệ không hề bị giới hạn trong một thân xác vật lý. Những sinh thể này cư ngụ nơi một cõi cao hơn, một dải tần số cao hơn. Đó là những sinh thể tâm linh mà một số người gọi là Thượng đế.

Những sinh thể trí tuệ đó đã có thể dùng tâm thức của họ để tạo ra vũ trụ vật chất kể cả xác thân vật lý của con người. Những dòng sống của chúng ta sau đó đã đi vào những xác thân này và sử dụng làm phương tiện để trải nghiệm cuộc sống, học hỏi nhiều hơn về chính chúng ta cũng như mối liên hệ của chúng ta với cội nguồn tâm linh chúng ta.

Vì thế Thượng đế là một dạng trí tuệ cao hơn, một dạng tâm thức cao hơn. Tâm thức Thượng đế có thể không khác gì tâm thức chúng ta trên căn bản, nhưng Thượng đế có sự nhận biết rộng lớn hơn về bản thể của ngài và một khả năng sáng tạo rộng lớn hơn chúng ta hiện thời.

Giáo lý nền tảng về các quan hệ nghiệp tạo

Hỏi: Con xin thày Giê-su giúp con hiểu rõ hơn về nghiệp quả mà vợ con phải gánh chịu khi cô ấy bị chứng bệnh tâm thần được mô tả là rối loạn lưỡng cực – tên gọi chính thức là bệnh trầm cảm cuồng điên. Con cho rằng cũng có phần nào nghiệp quả của con vì con đã quyết định chăm lo cho cô ấy trong những lúc rất khó khăn… Nhiều khi con cảm thấy bất lực đến độ con không còn cách nào khác hơn là trao hết mọi tình cảm của con cho Thượng đế, và vững tin là con sẽ có dịp hiểu sâu hơn tại sao chứng bệnh đôi khi tàn hại này lại đến với gia đình con… chúng con đã quá mệt mỏi… về lý trí lẫn tình cảm… nhưng về tinh thần thì cảm ơn Chúa… có cái gì đó mà chúng con chưa hiểu được… con có thể cảm được nhưng không biết đó là gì…   

Suốt 23 năm chung sống với nhau, cô ấy đã phải nhập viện mấy lần… có lúc phải buộc chặt cả hai chân hai tay, và có những lúc con không còn nhận ra cô ấy, dường như cô ấy không còn là chính mình… không còn đối xử với chúng con như khi còn thực là cô ấy… yêu thương và từ bi… đúng hơn, cô ấy có thể đổi ngược lại hoàn toàn chỉ trong phút chốc…

Chúng con có thể làm gì để giúp cô ấy, và cô ấy có thể làm gì để tự giúp mình thoát khỏi cái vòng độc hại này? Con biết là ông (Kim Michaels) quen biết Giê-su, và con xin lỗi nếu dạo sau này con đã yếu đuối… nhưng con muốn bỏ lại và bước đi đường con… trừ khi kinh nghiệm này là để nhằm đào tạo lòng kiên nhẫn, sự kiên trì, đức tin cho những công việc lớn hơn sau này… Con chỉ mong ước được hiểu sâu sắc hơn hầu con có thể giúp ích một cách tối ưu mà không khiến cho căn bệnh trầm trọng hơn… con cảm thấy là chúng con đang làm điều đó để giữ sự bình an… nhưng điều này thực sự không phải lẽ. Bao nhiêu năm trời đi khám bác sĩ đã không giúp được gì nhiều vì bác sĩ thấy rõ tình trạng ngày sẽ càng tồi tệ hơn với tuổi tác, và họ cũng tin rằng chỉ có dược phẩm mới giữ được cho cô ấy tương đối “bình thường”… cô ấy vẫn uống thuốc đấy… nhưng thuốc lại khiến cho có lúc lên lúc xuống, chưa kể những vấn đề khác do phản ứng phụ gây ra… Con xin cảm ơn mọi sự giải thích…  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ta cảm ơn sự thành thực và cởi mở của con và ta cũng cảm ơn con đã đặt một câu hỏi chạm đến rất nhiều đề tài quan trọng.

Hãy để ta bắt đầu với vấn đề nghiệp quả. Như ta có giải thích ở một nơi khác, điều quan trọng đối với tất cả mọi người tầm đạo thời nay là phải hiểu rõ thực tế của luân hồi và nghiệp quả. Nếu con không hiểu quá khứ ảnh hưởng hiện tại của con như thế nào, làm sao con có thể vượt qua quá khứ và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn? Nhưng cũng không kém quan trọng là con cần có hiểu biết đúng đắn về nghiệp quả, và điều đặc biệt quan trọng là tránh rơi vào cái bẫy xem nghiệp quả là một hình phạt hay một điều gì không thể tránh khỏi.  

Một số người đã kết hợp hai ý tưởng lại với nhau, một là những giáo lý từ phương Đông về định mệnh và nghiệp quả, và hai là ý tưởng rằng con người phải hy sinh hay đau khổ để trả giá cho tội lỗi mà mình đã phạm. Và như vậy, họ lý giải rằng nếu có điều gì không hay xảy ra cho họ thì nhất định lý do phải là nghiệp xấu từ những kiếp trước. Và nếu họ cứ ráng chịu đựng khổ đau thì họ sẽ trả hết nghiệp và cuối cùng sẽ được giải thoát. Đây là một ngụy biện thật nguy hại đã khiến cho biết bao hành giả tầm đạo chân thành kéo dài đau khổ của mình một cách vô ích.

Mọi thứ trong vũ trụ đều có mục đích và một mục đích duy nhất mà thôi, là giúp con tăng triển. Thượng đế không hề có ý muốn trừng phạt các lỗi lầm đã qua của con, cho nên điều vô cùng quan trọng là con cần nhận ra sự thật rằng nghiệp quả không phải là một hình thức trừng phạt. Nghiệp quả là một cơ hội để tăng triển và con luôn luôn phải nhìn vấn đề như thế. Con thử nghĩ xem, tại sao một Thượng đế yêu thương lại muốn con đau khổ, và làm thế nào đau khổ lại có thể bù đắp cho những lỗi lầm đã qua? Thượng đế chỉ mong muốn con bỏ lại những lỗi lầm này đằng sau để con được tự do trở về nhà là vương quốc của ngài.

Con đã từng tạo ra nghiệp khi con có những quyết định bất toàn, và những quyết định này là kết quả của một trạng thái tâm thức giới hạn. Những quyết định đó đã tạo ra một khối lượng năng lượng tha hóa nào đó, và để tái lập quân bình cho vũ trụ, năng lượng phải được tái chế để trở lại thuần khiết như ban đầu. Trước khi con có thể thượng thăng vĩnh viễn vào cõi tâm linh, con phải phục hồi tất cả mọi năng lượng mà con đã làm cho tha hóa trong mọi kiếp sống của con. Con cũng sẽ phải giải quyết mọi điều tin tưởng nhị nguyên trong tâm lý con – những tin tưởng đã khiến con làm nhơ năng lượng. Cho tới khi điều này xảy ra, nghiệp của con – gồm cả năng lượng tha hóa lẫn tâm lý chưa giải quyết – sẽ giống như một sợi dây cao su kéo buộc dòng sống của con về trái đất.

Do đó, việc hồi trả một phần nghiệp của con là một cơ hội cho dòng sống của con được giải thoát. Công việc này gồm hai phần, một là con phải thăng vượt trạng thái tâm thức đã khiến con tạo nghiệp, và hai là con phải thanh lọc năng lượng.

Vượt qua trạng thái tâm thức cũ thường là công việc khó khăn nhất vì nhiều người có khuynh hướng trốn tránh trách nhiệm phải thực sự thay đổi chính mình từ bên trong. Họ thường đặt trọng tâm vào cái giằm trong mắt người khác thay vì tìm kiếm cái xà trong mắt mình. Đúng ra, nếu con thăng vượt được tâm thức cũ của con trước khi nghiệp quả quay trở lại thì con sẽ rất dễ dàng thanh lọc năng lượng và tránh được xáo trộn trong đời mình. Thậm chí còn có thể nói, chỉ khi nào một người không tỏ dấu hiệu gì muốn thăng vượt một tâm thức nhất định thì nghiệp quả mới đập trở lại với nguyên mãnh lực của nó. Điều này xảy ra như một lời cảnh tỉnh đối với những dòng sống mà không một cách nào khác có thể với tới. Khi quả báo xảy ra thì đó là nỗ lực cuối cùng để đánh thức dòng sống về sự cần thiết phải khắc phục một khiếm khuyết nào đó trong tâm lý mình.   

Về thanh lọc năng lượng, đây là một tiến trình cơ học không khó thực hiện, đặc biệt là khi con đã thăng vượt tâm thức cũ và do đó con không còn làm tha hóa thêm năng lượng. Để biến hóa năng lượng ô nhiễm, con chỉ cần đơn giản cầu thỉnh năng lượng tâm linh có tần số cao từ trên xuống hầu nó nâng cao độ rung của năng lượng ô nhiễm. Điều này có thể thực hiện qua một số nghi thức tâm linh, như được giải thích trên trang Hộp Dụng cụ Thăng vượt. Tuy nhiên, con cũng có thể đạt được nhiều kết quả duy chỉ bằng cách đáp lại nghiệp quả với một thái độ tích cực, xem nghiệp quả là một cơ hội để con tăng triển và sửa đổi.

Bây giờ con có thấy được làm thế nào người ta có thể khiến cho mọi chuyện khó khăn hơn hay không? Nếu họ không sẵn sàng thăng vượt tình trạng tâm thức cũ – đặc biệt là nếu họ không xem cuộc đời là một cơ hội tăng triển – thì rất có thể họ sẽ không thấy quả báo là một lời cảnh tỉnh. Họ sẽ cưỡng lại nghiệp quả, có lẽ họ sẽ xem đó là một sự trừng phạt, hay họ có thể phản ứng tiêu cực bằng nhiều cách, và những cách phản ứng này sẽ dễ dàng trở thành cái cớ để họ không nhìn vào tâm lý của mình.

Điều này sẽ khiến cho họ đau khổ, và khi làm vậy thì họ lại tha hóa thêm năng lượng, tạo thêm nghiệp chướng trong khi không làm gì để thanh lọc năng lượng của nghiệp báo. Con có thấy điều ta muốn nói không? Hai điều sai không tạo nên một điều đúng. Con không thể quân bình nghiệp cũ bằng cách cảm thấy đau khổ do nghiệp quả. Làm vậy sẽ chỉ tạo thêm nghiệp, và cứ thế nó trở thành một vòng xoáy tự bồi thêm sức mạnh, kéo con ngày càng xa hơn khỏi tâm thức Ki-tô.

Mục đích của ta khi ta dẫn con qua nguyên phần trình bày ở trên là chỉ ra cho con tầm quan trọng là con không bao giờ được nghĩ rằng con phải chịu đựng lâu dài một tình huống nào đó vì con đã mang nghiệp với một người. Cũng không kém quan trọng là con phải tránh rơi vào cái bẫy mà nghĩ rằng qua sự khổ đau, cuối cùng con sẽ trả hết nghiệp và được tự do bước đi tiếp. Ngược lại là đằng khác, con sẽ tự giam mình chặt chẽ hơn trong một trạng thái giới hạn, thường con sẽ gây thêm nghiệp mới với một người mà con đang có sẵn mối quan hệ nghiệp tạo. Mục đích của mọi tình huống là giúp con tăng trưởng qua sự thăng vượt bản thân. Do đó con hãy đừng cố chịu đựng mà con hãy cố học hỏi bài học và bước tới trong tâm thức. Chịu đựng không có ích gì. Toàn bộ mục đích là để con học được bài học.     

Bây giờ ta sẽ nói tới các mối quan hệ. Mục đích của mọi thứ trong thế gian là để tăng triển và đây cũng là trường hợp của các mối quan hệ. Vậy thì nếu một quan hệ không đem lại tăng triển ít nhất cho một bên, thì thử hỏi tiếp tục quan hệ có được mục đích gì hay không? Nếu đó là một mối quan hệ nghiệp tạo thì hai người đã ở bên nhau trong những kiếp trước. Họ tạo nghiệp với nhau do một người, hay cả hai người, ở trong một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu quan hệ hiện tại không tăng trưởng, đó là vì một hay cả hai người đã không thăng vượt tâm thức cũ. Do đó, rất có thể là cả hai sẽ tạo thêm nghiệp thay vì quân bình nghiệp. Điều ta muốn chỉ ra qua lời giải thích này là sự sai lầm của lối suy nghĩ cho rằng một mối quan hệ phải kéo dài suốt đời, hay con phải chịu đựng một mối quan hệ đã mất hết chức năng (có nghĩa là không còn tăng trưởng nữa) hầu con có thể quân bình nghiệp quả. Thật là sai lầm khi lý luận rằng con sẽ tự động quân bình nghiệp quả bằng cách kiên nhẫn và nhịn nhục lâu dài.

Nhưng ta cũng xin nói rõ là con không bao giờ được dùng lời dạy này để trốn chạy một mối quan hệ. Lời dạy này không được là cái cớ để con không chịu tu sửa bản thân hầu giúp cho mối quan hệ thành công. Nếu con đang ở trong một mối quan hệ khó khăn, con có thể chắc chắn là con đã mang nghiệp với người đó, và điều này bao gồm cả năng lượng bị tha hóa lẫn những vấn đề chưa giải quyết trong tâm lý của con.  

Cho nên con phải xem đây là một cơ hội để tăng triển. Muốn sử dụng cơ hội này, con phải nỗ lực một cách chân thành để khám phá ra tâm thức nào đã khiến con tạo nghiệp với người đó trong một tiền kiếp. Điều này thường tương đối dễ dàng nếu con xét xem điều gì về người đó đang làm cho con bực bội nhiều nhất – mặc dù ta luôn luôn cảnh giác mọi người là phải đi tìm những nguyên nhân sâu xa đằng sau các vẻ ngoài. Con hãy tự hỏi tại sao cách cư xử của người kia khiến con bực bội đến như vậy. Đâu là cơ chế tâm lý trong con khiến con bực bội. Đâu là cái thông điệp ẩn giấu mà đúng lý con phải học được về chính con qua việc xem xét cách phản ứng của con đối với người kia?

Một khía cạnh nữa của việc quân bình nghiệp quả là con phải cư xử với người kia với một thái độ tích cực để con không tạo thêm năng lượng tha hóa, cho dù mối quan hệ có khó khăn đến chừng nào. Nếu con đã thành thật cố hết sức để đáp ứng những yêu cầu này – như người đặt câu hỏi này rõ ràng đã chứng tỏ được – thì con cần phải xem xét sâu hơn nữa.   

Đến đây ta sẽ nói chung chung về những người đang gặp khó khăn trong quan hệ vì người bạn đời của mình mắc bệnh tâm thần trầm trọng. Bất kỳ một chứng bệnh tâm thần nào, kể cả rối loạn lưỡng cực (bipolar disorder), cũng liên quan đến một sự phân chia trong linh hồn (soul division), có nghĩa là một cái gì ngoại lai đã xâm nhập vào trường năng lượng của dòng sống. Đó có thể là một tà thể ngoại lai (outside entity) hay một bản sắc giả hiệu (pseudo identity) do dòng sống tạo ra trong tiền kiếp. Ta đã có giải thích về điều này trong câu trả lời của ta về phân chia linh hồn cũng như những giáo lý về tâm thần phân liệt (schizophrenia) và nghiện ngập.   

Tuy nhiên, trách nhiệm của cái Ta Biết là phải cai quản trường năng lượng của chính nó, cho nên lý do duy nhất một tà thể ngoại lai có thể xâm nhập vào dòng sống là vì cái Ta Biết đã từ bỏ trách nhiệm của nó. Nguyên nhân có thể rất dễ hiểu, chẳng hạn một chấn thương trầm trọng trong một tiền kiếp, nhưng cũng có thể là một lỗi lầm nghiêm trọng hay một sự nổi loạn chống lại Thượng đế mà cái Ta Biết không sẵn sàng nhìn nhận. Dù nguyên nhân là gì, vấn đề đang ngăn cản dòng sống trở lại toàn vẹn là cái Ta Biết đã rút lui, đã bỏ rơi trách nhiệm cai quản của nó, và đã cho phép một tà thể khác tiếp quản, ít ra là đôi khi.

Điều ta muốn nói ở đây là ta vô cùng thương xót những người gặp phải vấn đề này, tuy nhiên sự thương xót không thể biến thành sự đồng tình, bởi vì như vậy sẽ chỉ giúp cho người đó tiếp tục duy trì tình trạng bất toàn của họ. Lòng từ bi đích thực là sự kêu gọi hành động, để con làm hết sức con hầu giúp cho người kia khắc phục được tâm trạng tê liệt, giành lại quyền ngự trị trên trường năng lượng của mình và do đó tống khứ kẻ ngoại xâm.

Nếu con ở trong mối quan hệ với một người mang bệnh tâm thần, có thể đó là do một số nguyên nhân:

  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã gây chấn thương trầm trọng cho người đó.
  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã làm công cụ khiến cho người đó phạm vào lỗi lầm nghiêm trọng.
  • Con mang nghiệp với người đó vì trong một tiền kiếp con đã làm công cụ khiến cho người đó nổi loạn chống lại Thượng đế hay quy luật của Thượng đế.
  • Con không có nghiệp với người đó nhưng con đã đi vào quan hệ này để tạo cơ hội tăng triển cho người đó. Con muốn giúp người đó và động lực của con là tình thương.
  • Con không có nghiệp với người đó nhưng con đã đi vào quan hệ này để học hỏi một số bài học mà con muốn học. Thường con có thể trực nhận được nguyên do tại sao như thế, nhưng điều này không thật sự quan trọng. Bất kỳ quan hệ nào cũng là một cơ hội tăng trưởng, và đối với con điều này có thể mang hai ý nghĩa:
  • Con đang có cơ hội phát triển bản thân. Do đó con phải nỗ lực học hỏi mọi bài học mà con có thể học được từ quan hệ này. Nó bao gồm việc khám phá và chữa lành những sự mất quân bình trong linh hồn con do người kia làm cho hiển hiện lên. Nhưng nó cũng bao gồm con học cách cư xử với người khác để giúp họ có năng lực tăng trưởng thay vì giúp họ cứ giữ nguyên như cũ.
  • Người kia đang có cơ hội phát triển bản thân. Nhưng sự khác biệt ở đây là con không thể ép buộc người khác phải học một bài học. Con chỉ có thể tìm cách giúp cho người đó học hỏi dễ dàng hơn mà thôi. Con có thể làm hết sức mình để tạo cơ hội cho người kia học hỏi, nhưng nếu họ bỏ qua mọi cơ hội thì sẽ tới một điểm khi mối quan hệ không còn phục vụ mục đích xây dựng nào nữa. Có thể đã đến lúc con phải bước ra đi, và nếu con là một người tầm đạo chân thành đang trung thực muốn học những bài học của mình, trực giác của con sẽ nói cho con biết đó là lúc nào. Để được trợ giúp về điểm này, con hãy nỗ lực hòa điệu với cái ta Ki-tô của con.

Khi con ở trong mối quan hệ với một người mang bệnh tâm thần, con cần luôn luôn lưu ý điều sau đây. Người đó bị bệnh do một sự thiếu toàn vẹn trong dòng sống. Nhưng nguyên nhân là vì họ đã không sẵn sàng nhận lãnh trọn vẹn trách nhiệm cho hoàn cảnh của mình và giành lại chủ quyền mà mình đã đánh mất trong quá khứ. Con không thể ép buộc một người như thế trở nên toàn vẹn. Họ chỉ có thể phục hồi sự toàn vẹn qua một quyết định ý thức của ý chí. Nếu họ khăng khăng từ chối không chịu sử dụng sức mạnh ý chí của mình thì rất có thể không gì sẽ giúp họ được nữa.  

Tuy nhiên, liệu con đã làm hết sức mình để giúp người kia đạt đến bước ngoặt để họ sẵn sàng sử dụng ý chí và giành lại chủ quyền hay không? Con cần luôn nhớ rằng một người đã mất đi sự toàn vẹn sẽ dùng đủ mọi cái cớ để trốn tránh trách nhiệm và trốn tránh sử dụng ý chí. Một người như vậy thường hay dùng ý chí mạnh mẽ để tránh phải sử dụng ý chí hầu thay đổi tình trạng của mình. Nói cách khác, họ sẽ nỗ lực nhiều hơn để biện minh cho những cái cớ họ không thể tự chủ thay vì họ nỗ lực tự chủ. Trong tình trạng hiện nay của khoa học còn hiểu biết giới hạn, việc đưa ra chẩn đoán rằng đây là bệnh tâm thần có thể trở thành một cái cớ toàn hảo để họ không nỗ lực tự chủ. Người ta quá dễ dàng chấp nhận căn bệnh vượt ngoài vòng kiểm soát của bệnh nhân, và vì vậy sẽ uống thuốc để làm tê căn bệnh mà không đối diện với vấn đề cơ bản nằm bên dưới.

Điều ta muốn nói là nếu con thật sự muốn giúp người đó, có thể con sẽ cần bắt buộc họ phải đối diện với vấn đề. Con có thể làm bằng nhiều cách, nhưng tất cả mọi cách đều liên quan đến quyền của con trong việc thiết lập ranh giới cho những gì con có thể chấp nhận trong một mối quan hệ. Tùy hoàn cảnh cụ thể, một điều chính đáng là con nói rõ những gì con có thể, hay không thể, dung thứ trong cách cư xử của người kia. Con có quyền yêu cầu họ làm hết sức mình, kể cả việc sử dụng những dụng cụ tâm linh mà khoa học chưa công nhận để thay đổi tình trạng này. Con có quyền yêu cầu người đó chứng tỏ là họ sẵn sàng thay đổi và sẽ nỗ lực thay đổi.

Tuy nhiên để điều này thực sự có hiệu quả, rất thường khi con không được cho người kia một lối thoát mà qua đó họ có thể trốn tránh nhận lấy trách nhiệm, lấy lại tự chủ. Cho nên nhiều khi con sẽ phải nói rõ là nếu con không thấy động thái nào giải quyết được vấn đề, kể cả phải ngừng hẳn một số hành vi cụ thể nào đó, thì con sẽ chấm dứt quan hệ và bước đi đường con.   

Ta cũng biết là trong một số trường hợp, điều này vẫn không đủ để người đó thức tỉnh, và vì thế khi con chọn cách này, có thể con sẽ phải kết thúc mối quan hệ. Nhưng nếu con đã làm tất cả những gì con có thể làm để học hỏi chính những bài học của con và giúp cho người kia học hỏi bài học của họ, thì có thể đây là kết qủa tốt nhất trong hoàn cảnh đó. Ngay cả nếu người kia không tăng trưởng qua kinh nghiệm này, riêng con vẫn có thể bước vào những cơ hội tăng trưởng mới. Và trong một số trường hợp, cách hành xử thẳng thắn này nhằm thiết lập ranh giới có thể là cách duy nhất để đánh thức một người, giúp người đó thực sự đối phó với vấn đề thay vì tìm cách che giấu các triệu chứng.  

Một số người có thể bảo rằng hành động cứng rắn như vậy là vi phạm quyền tự quyết của người kia. Tuy nhiên đó là một cách lý luận thô sơ, bởi vì người mắc bệnh tâm thần đã trao quyền tự quyết của họ cho một tà thể ngoại xâm rồi. Con không tìm cách kiểm soát người đó như tà thể ngoại xâm kia đang làm. Con chỉ cố xóc nảy lên để họ bước ra khỏi tình trạng tê liệt tâm linh hầu họ có thể tự do sử dụng quyền tự quyết của họ như trước. Thêm vào đó, chính con cũng có quyền tự quyết của con mà con có bổn phận phải sử dụng. Nếu con ở lại trong một quan hệ với một người bệnh tâm thần mà không bao giờ đặt ra ranh giới cho những gì con sẽ, hay không thể, dung thứ thì chính con đang đình chỉ quyền tự quyết của con.  

Người kia đã làm vậy rồi, thế nhưng nếu con cho phép quyết định đó của họ khiến con cũng đình chỉ quyền tự quyết của con thì con sẽ tạo nghiệp. Con không chịu trách nhiệm về những chọn lựa của người kia, nhưng con sẽ chịu trách nhiệm khi con để cho chọn lựa của họ tác động lên chọn lựa của con như thế nào. Cho nên con hãy cẩn thận đừng sử dụng tâm trạng tê liệt của người kia làm cái cớ để con bước vào, hay ở lại, trong tâm trạng tê liệt của con. Đừng bao giờ cho phép tự ngã của con sử dụng một người từ chối tăng trưởng làm cái cớ để con không tăng trưởng. Con chịu trách nhiệm về cuộc đời của con, kể cả khi con cho phép người khác tác động lên con.  

Ta cũng xin nói thêm là đối với nhiều người tâm linh, cách giao tiếp trực tiếp, thẳng thắn cũng chính là bài học mà họ đã đến đây để học trong kiếp này. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con đã đầu thai ở một thời điểm quyết định trong lịch sử địa cầu. Chúng ta đang chuyển tiếp từ thời đại Song ngư cũ sang thời đại Bảo bình mới. Để chuyển tiếp thành công, mỗi người cần tỉnh giấc để nhận ra tiềm năng tâm linh của mình. Thế nhưng nhiều người lại không chịu thức giấc bởi vì làm vậy sẽ đòi hỏi họ nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm về cuộc đời cũng như về hành tinh của họ – nó sẽ đòi hỏi họ phải thay đổi. Họ thường hay cưỡng lại một cách tích cực và vì thế, cách duy nhất để đánh thức họ dậy là biểu đạt một cách trực tiếp, có khi khích động. Đó là tại sao con đã thấy ta có cách hành xử rất thẳng thừng, sống sượng đối với loại người từ chối không chịu thức giấc như các thày thông giáo và người Pha-ri-si chẳng hạn.

Có rất nhiều người tâm linh đã hiện thân trong thời điểm này vì mong muốn đánh thức con người, nhưng họ lại không hoàn thành được vai trò này chính vì họ ngại nói thẳng với những người còn đang ngủ yên về mặt tâm linh. Điều này cũng bình thường thôi. Nếu con là người tâm linh thì bình thường con rất tôn trọng người khác cũng như quyền tự quyết của họ, cho nên con ngại nói thẳng. Tuy nhiên, nói thẳng để đánh thức họ mở mắt ra với sự sống vĩnh hằng thì không phải là vi phạm quyền tự quyết. Trái lại, đó là một bước cần thiết để ngăn chặn các dòng sống bị lạc đường.

Nhiều người tâm linh có vai trò quan trọng trong sự thức tỉnh sắp tới cần học cách cư xử thẳng thắn hầu đáp ứng được lý do họ có mặt ở đây. Và điều này có nghĩa là họ phải khắc phục xu hướng nhượng bộ người khác hầu giữ hòa khí và yên ổn. Thật sự, có cả những dòng sống mong muốn học hỏi bài học này đến độ họ sẽ cố tình bước vào những quan hệ vô cùng khó khăn để buộc mình phải đối mặt với bài học đó. Đối với người hiểu biết thì một lời nói như vậy cũng đủ rồi.

Tại sao hầu hết quan hệ tình yêu lại tan vỡ

Hỏi: Chúng ta chứng kiến hầu hết quan hệ tình yêu đều thất bại. Tại sao con số thất bại lại lớn đến thế và đâu là những nguyên lý mà quan hệ trong thời đại mới nên theo?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đây là một chủ đề rất rộng lớn, bao quát, và các chân sư sẽ từ từ đưa ra thêm lời dạy cụ thể về các mối quan hệ. Nhưng điều có thể nói được ở thời điểm này là sự thất bại của mọi mối quan hệ con người đều do sự mất cân bằng giữa các yếu tố nam và nữ nơi mỗi người trong quan hệ.

Vì vậy con thường thấy người ta – trong sự mù quáng của mình – bước vào phản ứng của tự ngã là đổ lỗi cho người kia. Và điều này liên quan đến những điều phải có và những điều không được có. Bởi vì khi con có sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ trong bản thân con, con cũng có một hình ảnh sai lệch về những gì phải có mặt hay không được có mặt trong mối quan hệ cũng như trong đời con.

Con tạo ra một chiếc hộp tư duy, và người đầu tiên mà con đặt vào hộp tư duy này là chính con. Do sự mất cân bằng đó, con cảm nhận là con không toàn vẹn, phần nào thiếu hụt. Và như vậy khi con bước vào một mối quan hệ, con cũng bước vào với tâm thức khiếm khuyết, thiếu sót một thứ gì đó, và con cần phải đạt được thứ đó từ mối quan hệ. Con tìm kiếm một người có thể khiến cho con toàn vẹn, để họ bù đắp cho điều mà con cảm thấy thiếu sót, khiếm khuyết nơi bản thân con. Và do đó, con dựng lên một sự chờ đợi rằng người kia phải làm hay không được làm một điều gì đó, hầu tự ngã của con cảm thấy nó trọn vẹn và an toàn.     

Thế nhưng khi con học hỏi giáo lý về tự ngã, con sẽ thấy rõ đây là một cuộc tìm kiếm vô vọng. Vì tự ngã sẽ không bao giờ cảm thấy trọn vẹn và an toàn được – chỉ có cái Ta Biết của con mới có thể cảm thấy trọn vẹn và an toàn. Bởi vì con chỉ có thể cảm thấy mình trọn vẹn và an toàn khi con ngừng tìm kiếm bất cứ thứ gì, kể cả người khác, trong cõi vật chất để bổ sung cho mình đầy đủ. Thay vào đó, con yêu dấu, con hãy chuyển sự chú ý của mình để nhìn ra sự trọn vẹn đến từ chính cái Ta cao hơn của con, và cái Ta này thì đã sẵn viên mãn trong cách Thượng đế tạo lập ra nó như là sự nối dài của chính ngài.

Và như vậy, con có thấy chăng là khi con cho phép con bước vào cái trường bóp méo thực tại của tự ngã, con sẽ tưởng là con bất toàn, con tưởng là người kia sẽ phải bổ sung cho con, và do đó họ phải làm chuyện này và không được làm chuyện nọ hầu con cảm thấy trọn vẹn, làm chủ được mọi chuyện. Thế nhưng trong sự mù quáng, con không thấy được là những người mà con thu hút cũng bị mắc kẹt trong tự ngã như con – bởi vì nếu con hoàn toàn trụ vững nơi cái Ta cao hơn thì con đã không thu hút những loại quan hệ như thế.

Cho nên khi con bị tự ngã làm cho đui mù, con sẽ thu hút những người cũng bị đui mù bởi tự ngã, cho nên hoặc là họ sẽ khuếch đại sự mất cân bằng nơi con – để nó hiện ra rõ hơn – hoặc họ sẽ rơi vào cực đoan đối nghịch với cực đoan của con, và như vậy sự mất cân bằng của con cũng sẽ hiện ra rõ hơn.

Một mối quan hệ dựa trên sự khiếm khuyết gần như bắt buộc phải gập ghềnh, gai góc ngay từ đầu. Và thật vậy, con sẽ thấy nhiều mối quan hệ kết thúc rất nhanh chóng khi cả hai bên đổ lỗi cho bên kia là đã không làm đủ những gì đáng lý phải làm. Và do đó, họ đã có lý khi họ cắt đứt quan hệ và đổ lỗi cho cái giằm trong con mắt của người kia thay vì nhìn vào cái đà trong mắt mình.   

Một số quan hệ đạt được một thế quân bình nào đó khi cả hai người đều học được cách không nhấn trúng cái nút của tự ngã nơi người kia, và như vậy họ bước vào một tư thế có thể gọi là thỏa hiệp đình chiến, coi như là một nền hòa bình tương đối cho phép cả hai người duy trì một mối quan hệ với nhau. Tuy nhiên, đây là loại quan hệ không đem lại tăng trưởng tâm linh, hay ít ra đem lại tăng trưởng rất chậm. Sau cả một đời quan hệ với nhau, rất có thể họ chỉ tăng triển được một phần rất nhỏ tiềm năng phát triển của họ, là tiềm năng mà họ có trong kiếp này nếu họ đã sẵn lòng hơn nhìn vào cái đà trong mắt mình.

Con là một người tâm linh cần nhận ra là khi con có xung đột trong quan hệ với người khác, con cần tìm kiếm cái đà trong mắt con. Con cần xem xét tình trạng cân bằng giữa nam và nữ trong chính con.   

Con cần sử dụng những giáo lý cùng những dụng cụ mà chúng tôi đã trao cho con, như các bài nguyện tràng hạt và các bài thỉnh khác, về sự cân bằng hai khía cạnh nam và nữ nơi bản thân con, hầu con có thể tìm thấy một quan hệ quân bình với người bạn của con, cho dù đó là một mối quan hệ thông thường giữa người nam và người nữ, hay ngay cả quan hệ với cha mẹ, anh chị em, đồng nghiệp hoặc bất cứ ai mà con quan hệ một cách chung chung.

[Ghi chú: Bạn cũng có thể dùng Bài thỉnh để yêu thương mình, hầu chữa lành cảm giác không toàn vẹn.]

Giáo lý nền tảng về hôn nhân và ly dị

Hỏi: Liệu chế độ một vợ một chồng có thích hợp cho xã hội chúng ta? Trong quá khứ, người ta thường giữ đúng lời hứa hôn nhân, nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu sự hiệp thông tâm linh giữa vợ chồng phai nhạt đi theo thời gian hoặc không thể gắn bó được – hoặc thậm chí, nếu một trong hai người vẫn cảm thấy gắn bó nhưng người kia thì không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như con nói, xưa kia việc giữ lời hứa sống chung với nhau là điều thông thường hơn bây giờ. Ngày nay điều này không đúng nữa và nhiều tín hữu Cơ đốc giáo xem đây là một dấu hiệu đạo đức đã suy đồi. Tuy nhiên, vấn đề không giản dị như vậy.   

Như ta có giải thích, nhân loại đang được nâng lên một tầng tâm thức cao hơn. Trong thời đại hôm nay, lý tưởng là con người nên có sự hiểu biết hợp lý hơn về các quy luật của Thượng đế hầu họ sử dụng các quy luật này một cách ý thức và tự nguyện đứng thẳng hàng với mục đích của Thượng đế.   

Tiếc thay, đạo Cơ đốc chính thống đã không đáp ứng được tiềm năng cao nhất của mình và đã không đem lại cho con người sự hiểu biết sâu sắc về quy luật Thượng đế. Các giáo hội Cơ đốc đã đặt trọng tâm vào cái nhìn đầy sợ hãi về sự sống và cố gắng bênh vực những giáo điều của quá khứ thay vì truyền rải sự hiểu biết cao hơn cần thiết cho tương lai.

Kết quả là tình trạng hiện tại và ngày càng có nhiều người không còn thỏa mãn với sự tin tưởng mù quáng nữa. Họ không thể mù quáng tuân theo quy luật của Thượng đế vì họ không bao giờ được trao sự hiểu biết đích thực về con đường dẫn tới quả vị Ki-tô. Kết cuộc là họ thường nổi loạn, bác bỏ giáo lý và luật lệ của giáo hội mà không thay thế bằng một hiểu biết cao hơn do đã đích thân bước đi trên con đường Ki-tô.   

Nhiều người bây giờ rơi vào trạng thái tâm thức chối bỏ luật lệ cũ, chẳng hạn như lời thề hôn nhân, và họ cho rằng thế nào cũng được. Nói cách khác, nếu mình thích thì cứ việc làm, không có gì sai trái hết. Điều này khiến cho nhiều người, kể cả một số người thật sự tâm linh có tiềm năng biểu hiện tâm Ki-tô, trụ neo trong tâm nhị nguyên và tự ngã phàm phu thay vì nơi cái Ta Ki-tô và Hiện diện TA LÀ. Do đó họ không thấy được một ý nghĩa tâm linh nào trong hôn nhân và thường chấm dứt cuộc hôn nhân từ một động cơ thấp kém. Sau đây ta sẽ cố cho con một cái nhìn cao hơn về hôn nhân và giá trị của lời thề hôn nhân.    

Như ta giải thích khắp trang mạng này, cuộc sống có thể được xem như một con đường tâm linh dẫn về tâm thức Ki-tô. Khi con chấp nhận quan điểm này về đời sống, con nhận ra là tất cả mọi sự xảy đến cho con đều là một cơ hội để con tăng triển. Mỗi hoàn cảnh mà con gặp, mỗi chọn lựa mà con có, sẽ đưa con hoặc một bước gần hơn tâm thức Ki-tô, hoặc một bước xa hơn tâm thức Ki-tô.

Trong mọi hoàn cảnh thường có hai yếu tố. Một là hoàn cảnh sẽ cho con một cơ hội để cân bằng nghiệp quả từ quá khứ và nhờ vậy con thoát khỏi gánh nặng của năng lượng tha hóa đó. Yếu tố kia là hoàn cảnh cho con một cơ hội để học hỏi một điều gì đó về chính con và những trở ngại trong tâm lý con đang ngăn cản con biểu hiện quả vị Ki-tô.

Khi con áp dụng những điều trên vào hôn nhân, con sẽ thấy hôn nhân là một cơ hội tuyệt diệu để quân bình nghiệp quả với một người khác. Hôn nhân cũng là một cơ hội rất tốt để học hỏi về những giới hạn cá nhân của con, hầu con có thể giải phóng tâm lý con khỏi những chướng ngại đang ngăn con khỏi tâm Ki-tô. Nếu con thật sự nhất quyết phát triển tâm linh, con sẽ thấy hôn nhân không chỉ là một chuyện vui thú hay thiết thực, mà thực sự là một cơ hội để khắc phục nghiệp quả cũ cùng những hạn chế tâm lý của mình, hầu con bước một bước dài về hướng quả vị Ki-tô cá nhân.

Ta có thể xác nhận với con là gần như không có cuộc hôn nhân nào trên địa cầu mà hai người không có nghiệp quả với nhau. Nói cách khác, con phải coi như là con đang có nghiệp quả với người phối ngẫu, và do đó hôn nhân của con là một cơ hội để con cân bằng nghiệp quả đó và giành được tự do của con. Ta cũng có thể xác nhận là tuyệt đối không có hôn nhân nào mà không cho con cơ hội để con phơi bày những bế tắc tâm lý hầu con giải quyết một cách ý thức và bỏ lại đằng sau vĩnh viễn.

Thật ra ta cũng có thể xác nhận với con là hầu hết ai ai cũng đều chọn người phối ngẫu của mình trước khi đầu thai. Mỗi dòng sống chọn vợ hay chồng mình là người sẽ đem lại cho mình cơ hội tốt nhất để cân bằng nghiệp quả và cởi sửa những nút thắt trong tâm lý mình. Nói cách khác, sự hấp dẫn bên ngoài với nhau giản dị chỉ là sự phản ánh một nhận biết sâu xa trong nội tâm rằng con thực sự muốn cân bằng nghiệp quả với người đó, và con thực sự muốn học những bài học mà con có thể học khi sống chung với người đó.    

Khi áp dụng cái nhìn này về hôn nhân, con nhận ra là điều cuối cùng mà con muốn làm là chấm dứt cuộc hôn nhân trước khi con hoàn thành mục đích tâm linh mà con đã đề ra cho cuộc hôn nhân. Nói cách khác, con không muốn chấm dứt hôn nhân trước khi con cân bằng mọi nghiệp quả với người phối ngẫu. Và con không muốn chấm dứt hôn nhân trước khi con học xong mọi bài học tâm lý con có thể học được từ người đó. Nếu con chấm dứt quá sớm, tất cả những vấn đề này sẽ chỉ giản dị bám theo con trong quan hệ kế tiếp.

Khi con hiểu sâu sắc ý nghĩa tâm linh của hôn nhân như vậy, con sẽ thấy là rất nhiều người quyết định chấm dứt hôn nhân trước khi họ cân bằng nghiệp quả và học xong bài học. Thật ra, nhiều người còn tạo ra thêm nghiệp chướng và củng cố những bế tắc tâm lý thay vì giải tỏa.   

Điều này xảy ra một phần là vì người ta không hiểu một bên của phương trình hôn nhân là tâm linh, và cũng vì họ bị neo cứng trong ngã thấp kém cũng như những nhu cầu ham muốn ích kỷ của ngã. Điều này khiến họ có nhiều tình cảm tiêu cực đối với người phối ngẫu. Một trong những tình cảm thông thường nhất là cảm thấy người kia có nợ gì đó đối với mình. Điều này không sai, vì con có quyền chờ đợi một quyền lợi gì đó từ người phối ngẫu, cụ thể là một cơ hội cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý của con. Nhưng món quà này hiện diện trong mỗi cuộc hôn nhân, với điều kiện là con sẵn lòng đón nhận nó. 

Tiếc thay, điều xảy ra cho nhiều người là họ trụ neo vào những ham muốn thấp kém của tự ngã phàm phu, và họ bắt đầu cảm thấy mình phải được hưởng một số quyền lợi vỏ ngoài từ người kia, và khi người kia không chu toàn được, họ cảm thấy bị dối gạt, đối xử tệ bạc. Và thay vì nhận trách nhiệm về con đường riêng của mình, họ đổ lỗi cho người kia. Tất nhiên, ngay khi con bắt đầu đổ lỗi cho người khác thì sự phát triển tâm linh của con sẽ dừng lại.

Như ta giải thích suốt trang mạng này, mọi thứ đều xoay quanh quyền tự quyết của con. Điều duy nhất có thể đưa con tiến thêm một bước trên đường cá nhân của con là con nhận trách nhiệm về hoàn cảnh hiện tại của con và con có sự chọn lựa cao nhất trong hoàn cảnh đó. Khi con đổ lỗi cho người phối ngẫu về sự trì trệ hay bất mãn của con, tức khắc con cũng từ chối nhận trách nhiệm và do đó con không thể có những chọn lựa sẽ giúp con thăng tiến.

Con không thể có những chọn lựa này vì con đã đẩy con vào một trạng thái tâm thức nơi con cho rằng chỉ người kia mới cần chọn lựa. Và chừng nào người kia không thay đổi, con cũng nghĩ là con không thể thay đổi. Tất nhiên đây là sự dối gạt lớn nhất của tự ngã phàm phu, vả đó chính là dối gạt mà tự ngã của con, như kẻ thù bên trong, và các tà lực như kẻ thù bên ngoài, sẽ sử dụng để đánh bẫy con vào trạng thái tâm thức hiện thời và ngăn cản con bước được bước kế tiếp trên con đường cá nhân.

Điều ta đang cố giải thích ở đây là bất kỳ hôn nhân nào, cho dù nó có vẻ không như ý thế nào đi nữa đối với tự ngã, nó vẫn tạo cơ hội cho dòng sống của con tăng triển. Nếu con đã quyết định cưới một người, con phải chấp nhận rằng dòng sống của con có một lý do tâm linh vô cùng chính đáng để thúc đẩy tâm vỏ ngoài của con lấy quyết định đó.

Con nên tin rằng dòng sống của con thực sự muốn cân bằng nghiệp quả và học hỏi một số bài học từ hôn nhân này. Do đó khi nào những mục đích tâm linh sâu xa này chưa thực hiện, con sẽ làm hại sự phát triển tâm linh của con nếu con chấm dứt hôn nhân. Điều đặc biệt nguy hiểm là nếu con chấm dứt hôn nhân do tự ngã bị thất vọng với những thiếu sót gán cho người phối ngẫu. Điều này sẽ chỉ cột con chặt hơn vào gọng kềm của tự ngã, khiến con khó phát triển hơn. Điều ta muốn nói là nếu con đã có lời thề hôn nhân, con nên giữ đúng lời thề đó bằng cách trung thành với người phối ngẫu, tận tụy nỗ lực để cân bằng nghiệp quả và học xong bài học. 

Con có hỏi điều gì sẽ xảy ra khi sự hiệp thông tâm linh giữa hai người bị phai nhạt hay không còn nữa. Như ta đã nói, luôn luôn có một mục đích tâm linh trong một hôn nhân. Điều này không nhất thiết có nghĩa là hai người phải cảm thấy hiệp thông tâm linh hoặc ngay cả thương yêu và tôn trọng lẫn nhau. Cuộc hôn nhân có thể vô cùng không như ý từ một quan điểm vỏ ngoài, nhưng đó vẫn có thể là cơ hội để cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý.

Vì vậy con nên tiếp cận hôn nhân với ý định rõ ràng là con sẽ thực hiện hai mục đích nói trên. Nó sẽ giúp con chịu đựng dễ dàng hơn mọi hoàn cảnh hôn phối và những điều không như ý không thể tránh khỏi trong bất cứ mối quan hệ nào giữa con người. Nó cũng sẽ gia tăng xác suất cả hai người sẽ dần dần cân bằng nghiệp quả và giải quyết tâm lý mình. Và như thế, hai con sẽ bắt đầu hỗ trợ cho nhau và tìm được sự hiệp thông tâm linh. Nói cách khác, không một hôn nhân nào sẽ thành công nếu con không thành tâm nỗ lực để nó thành công.

Sau khi trình bày những điều trên, phải công nhận là một hôn nhân có thể đi tới một điểm không còn đáp ứng được mục đích tâm linh nữa. Trong trường hợp này, việc chia tay và đi theo hướng mới có thể là điều có lợi cho sự phát triển tâm linh của cả hai người. Ta biết điều này sẽ làm cho nhiều tín hữu đạo Cơ đốc kinh ngạc vì họ còn nhớ những lời dạy của ta trong Kinh thánh. Hãy cho phép ta giải thích tường tận hơn.   

Trước hết, bất kỳ giáo lý tâm linh nào cũng phải thích ứng với tâm thức những người nhận giáo lý. Khi ta hiện thân 2000 năm trước đây, nhiều người đàn ông thường ly dị vợ mình khi người vợ không còn trẻ trung, đẹp đẽ nữa. Họ sẽ cưới vợ trẻ mới để thỏa mãn các đòi hỏi dục vọng. Do điều kiện xã hội vào thời đó, một phụ nữ gần như không thể tự lo liệu được kế sinh nhai của mình, và do đó nhiều phụ nữ trong hoàn cảnh đó không còn chọn lựa nào khác hơn là bán thân mình, một nghề bị xã hội cực kỳ lên án và xem là tội lỗi.  

Tình trạng này phản ánh rõ rệt thái độ ngược đãi phụ nữ trong nhiều nền văn hóa suốt bao nhiêu ngàn năm. Nhiều người đàn ông xem phụ nữ như một món hàng mà họ có thể vứt bỏ khi không còn hữu dụng. Trong khuôn khổ nỗ lực của ta nhằm phục hồi một vai trò xứng đáng cho phụ nữ – như được giải thích ở nơi khác – ta thấy cần phải lên tiếng thật mạnh mẽ chống lại ly dị. Điều này một phần là để bảo vệ phụ nữ, phần khác để giúp đàn ông tránh khỏi nghiệp quả hành hạ phụ nữ, vì điều này sẽ gia tăng sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ trong chính bản thể họ và chặn đứng sự tăng trưởng tâm linh của họ.  

Thời nay, một người nữ có khả năng chu toàn cuộc sống của mình mà không cần đến chồng. Xã hội cũng có pháp luật bảo về quyền lợi của phụ nữ sau khi ly dị cũng như nhiều dịch vụ xã hội hơn. Cho nên sẽ không đúng nữa khi nói rằng ly dị đi ngược lại quy luật của Thượng đế hay lời dạy của ta. Con có thể ly dị một cách hợp pháp khi cuộc hôn nhân không còn đáp ứng mục đích tâm linh nữa. Điều này đặc biệt hữu lý khi trong hôn nhân có sự lạm dụng thể xác hay tình cảm. Về mặt này, phải nói là việc phá hoại hay ngăn trở sự phát triển tâm linh của một người khác là hình thức lạm dụng nghiêm trọng nhất.

Tuy nhiên, ta phải cảnh giác mọi người là hầu hết mọi vụ ly dị xảy ra thời nay không hợp lệ trong nghĩa tâm linh. Đa số người ta ly dị vì tự ngã mình cảm thấy bị bất mãn, tổn thương trong hôn nhân, như giải thích ở trên. Cho nên ly hôn là một quyết định nghiêm trọng chỉ nên thực hiện sau khi đã cân nhắc lâu dài, kỹ lưỡng, và tốt hơn hết nên đến từ một mặc khải trực giác từ cái ta Ki-tô.   

Ta thực sự khuyên những ai đang nghĩ tới việc ly hôn nên trước hết có những nỗ lực để bảo đảm mục đích tâm linh cuả hôn nhân được thực hiện – trong đó gồm cả việc sử dụng Ngọn lửa Tím để tiêu hủy nghiệp chướng và làm hết sức để học được bài học về tâm lý. Phần khác nữa là con nên xem đến việc tham khảo những dịch vụ tư vấn hoặc liệu pháp hôn nhân và thành tâm nỗ lực để cải tiến cuộc hôn nhân. Trước khi con lấy đuyết định dứt khoát, ta cũng khuyến cáo con nên thực hiện kinh cầu 33 ngày và cố hòa điệu với cái ta Ki-tô của con.   

Bây giờ cho phép ta nhận xét về đoạn này trong Matthew 19:

3 Người Pharisi cũng đến gần để thử ngài, nói rằng: Một người đàn ông đuổi vợ mình vì bất cứ lý do gì có đúng luật không? 4 Và ngài trả lời và nói; các người chưa đọc hay sao, rằng đấng đã tạo ra họ ở ban đầu đã tạo họ là nam và nữ, 5 Và vì lý do đó mà một người nam phải lìa cha mẹ, phải kết hợp với vợ mình, và hai người sẽ cùng là một thịt? 6 Qua đó họ không còn là hai mà chỉ là một thịt. Vậy điều gì Thượng đế đã kết hợp với nhau, đừng để con người phân rẽ.   

Câu chủ yếu là không người nào được phân rẽ điều gì mà Thượng đế đã kết hợp với nhau. Ý nghĩa nội tâm của câu này là con không được cho phép tự ngã và tâm nhị nguyên của con khiến con ly dị người phối ngẫu trước khi cuộc hôn nhân hoàn thành mục đích tâm linh mà dòng sống của con đã quyết định. Nói cách khác, một uy quyền cao hơn (mà ta gọi là “Thượng đế” trong câu nói) – nghĩa là dòng sống của con với sự hội ý của các vị thày tâm linh của con – đã kết hợp con với người phối ngẫu để thực hiện một mục đích nhất định. Con nên giữ lòng thủy chung với mục đích này cho tới khi nó hoàn thành. Và con không được cho phép cái tâm thấp kém và những ham muốn của tâm thấp kém (mà ta gọi là “con người” trong câu nói) khiến con đi chệch khỏi mục đích tâm linh của cuộc hôn nhân.

Con cũng hãy ghi nhận rằng chồng và vợ có thể trở thành cùng một thịt. Ý nghĩa tâm linh thực sự của câu đó là vợ chồng có tiềm năng bước lên một mức kết hợp cao hơn, một sự kết hợp tâm linh nội tại. Nếu cả hai người nỗ lực siêng năng để giải hóa nghiệp quả và tâm lý, họ sẽ có thể giúp nhau đạt được cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của bản thể họ. Khi thực hiện được cân bằng này trên phương diện cá nhân, hai người sẽ vươn lên một mức kết hợp cao hơn rất nhiều so với những gì có thể. Sự kết hợp này giữa vợ và chồng là biểu tượng cho kết hợp giữa dòng sống và cái ta tâm linh. Quả thật, nó sẽ giúp cả hai người đạt đến kết hợp nội tâm đó, và do đó một cuộc hôn nhân phát huy được tiềm năng cao nhất có thể là một lực đẩy tâm linh tuyệt vời cho cả hai người.    

Ta cần nói rõ là không phải cuộc hôn nhân nào cũng sẽ đạt được sự kết hợp cao độ đó. Nhưng ta cũng cảnh giác con là đa số các cuộc hôn nhân đều có tiềm năng này. Nói cách khác, điều xảy ra rất thường là người ta hay gặp điều bất mãn trong những năm đầu mới lấy nhau. Bất mãn là do mỗi người đều không không trọn vẹn và họ kỳ vọng người kia sẽ giúp mình cảm thấy trọn vẹn. Khi cảm giác trọn vẹn không ở đó, thật là dễ rơi vào lời dối trá của tự ngã bảo con rằng con đã chưa tìm được người phối ngẫu thích hợp, và con chỉ cần tìm được người đó thì con sẽ tức khắc được hưởng hạnh phúc tràn trề.    

Nhưng đó là lời gian dối. Dù con có cưới người tâm đầu ý hợp – ngọn lửa song sinh của con – thế nhưng chừng nào nghiệp quả và những vấn đề tâm lý chưa giải tỏa thì hạnh phúc đó cũng sẽ không có được. Hầu hết các cuộc hôn nhân đều có tiềm năng kinh nghiệm được sự trọn vẹn đích thực, nhưng trọn vẹn này chỉ có thể đến khi cả hai người có sự trọn vẹn cá nhân, có nghĩa là đã giải quyết một số nghiệp quả và tâm lý nào đó.   

Điều ta muốn nói là có những hoàn cảnh khi con cần phải chấm dứt một cuộc hôn nhân hầu thăng tiến sự phát triển tâm linh của cả hai người, hoặc ít nhất một trong hai người mong muốn phát triển tâm linh. Tuy nhiên, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con có một nỗ lực chân thành và hết mình để giúp cho cuộc hôn nhân thực hiện được tiềm năng cao nhất của nó trước khi con quyết định ly dị. Nếu con lià bỏ người phối ngẫu trước khi giải quyết tâm lý con, có nhiều xác suất con sẽ thu hút một người phối ngẫu khác cũng lại khơi lên cùng những vấn đề tâm lý nơi con. Vậy thì tại sao con không cố giải quyết với người đầu tiên? Một khi con đã giải quyết tâm lý mình thì điều thận trọng là con có thể chia tay. Tuy nhiên, nếu con đã giải quyết tâm lý thì rất có thể cuộc hôn nhân đầu đã trở thành toại nguyện đến độ con không có lý do để chia tay nữa.  

Nói cách khác, con không bao giờ được ly dị vì tự ngã con muốn chạy trốn khỏi những điều không vừa ý. Thật là không có ích gì đeo đuổi một cái cầu vòng gọi là hôn nhân, bởi vì ta cam đoan với con là ở cuối cầu vòng không có hũ vàng nào cả. Con chỉ nên ly dị khi con biết – cái biết sâu thẳm ở bên trong – rằng đã tới lúc con phải chọn một hướng đi mới tốt đẹp hơn trong nghĩa tâm linh đích thực.

Con không cần phải đau khổ để được Thượng đế tha thứ

Hỏi: Về sự tha thứ, liệu một người có cần phải hướng về Thượng đế để được tha thứ hay không? Con biết là trong các quan hệ cá nhân của con, con cố tha thứ cho những ai đã làm hại con cho dù họ không bao giờ xin con tha thứ, hầu con có thể rửa sạch tim con khỏi mọi hiềm khích. Cho nên hình như tình thương vô điều kiện của Thượng đế cũng tha thứ chúng con trước cả khi chúng con xin ngài. Vậy thì liên quan đến câu trả lời của thày về tội lỗi không thể tha thứ, hình như chính con người mới tự giam mình trong một trạng thái không thể tha thứ khi y không cố vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn, nhưng tình thương của Thượng đế thì luôn luôn đứng ở đó chờ y quay đầu về hướng ngài. Đây có phải là cách hiểu đúng đắn hay không? 


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con đã thấu hiểu tinh túy của tha thứ và con đã diễn tả một cách hùng hồn. Tình thương của Thượng đế vô điều kiện, và do đó sự tha thứ của ngài tức khắc. Con không cần phải xin, bởi vì sự tha thứ rơi xuống như hạt mưa trên người công chính lẫn kẻ bất công.

Trong một nghĩa nào đó, con không bao giờ cần được Thượng đế tha thứ, mà con chỉ cần chấp nhận rằng con đã được ngài tha thứ. Vấn đề là cho tới khi con từ bỏ cái tâm thức đã khiến con hành động sai trái, con sẽ không có khả năng chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Cho nên có thể nói rằng tiến trình cứu rỗi một dòng sống là tiến trình giúp cho y vươn lên trên tâm thức đã khiến y làm tha hóa năng lượng của Thượng đế. Và khi vươn lên tâm thức đó, bước cuối cùng mà dòng sống phải bước là chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế đối với mọi hành động đã qua, hầu y có thể hoàn toàn chấp nhận là mình đã giải phóng khỏi quá khứ. Tuy nhiên, dòng sống sẽ cần làm gì để chấp nhận sự tha thứ này? Nhiều dòng sống cho rằng mình cần phải hướng về Thượng đế và xin được tha thứ, và làm vậy cũng hoàn toàn chính đáng thôi.

Khi xin được Thượng đế tha thứ, dòng sống thừa nhận mọi hành động sai trái của mình. Hiển nhiên, y không làm vậy vì lợi ích của Thượng đế, bởi vì y không thể che giấu bất kỳ hành động nào khỏi mắt ngài. Cho nên sự lợi ích ở đây là tâm lý. Bằng cách nhìn nhận hành động của mình trước Thượng đế, dòng sống cũng nhìn nhận với chính mình rằng hành động đó sai trái. Và đây là bước khởi đầu mà y phải bước để tự tách mình ra khỏi tâm thức đã khiến mình hành động như thế. Tiếc thay, việc thừa nhận lầm lỗi lại có thể làm nảy sinh ý niệm tội lỗi, và ý niệm này có thể ngăn chặn khả năng chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế.

Vấn đề trên địa cầu là hiện có quá nhiều những lời gian dối đã khiến cho con người tin rằng mình khó lòng hoặc không thể vượt qua quá khứ – từ sự tin tưởng rằng Thượng đế là một đấng nóng giận và phán xét ở trên trời, qua tin tưởng rằng có những tội tày trời không thể tha thứ được, cho đến tin tưởng rằng để giải thoát khỏi tội lỗi, con người phải kinh qua đủ số lượng đau khổ và đau đớn nào đó.

Nhiều người tin rằng nếu mình đã gây đau khổ cho người khác, thì sự trải nghiệm khổ đau sẽ phần nào đền bù cho lỗi lầm của mình, như thể hai cái sai sẽ tạo ra một cái đúng. Suốt các thời đại, cơ năng tâm lý đã khiến cho con người cảm thấy mình phải đền đáp tội lỗi của mình qua sự khổ đau, đã làm nảy sinh một số giáo lý và nghi thức tôn giáo. Những giáo lý và nghi thức này đã được các chân sư thăng thiên trao truyền với mục đích giúp con người đánh gạt tâm trí mình hầu chấp nhận sự tha thứ của Thượng đế và giải thoát khỏi quá khứ.  

Rất tiếc là con người đã quá nhanh nhẩu tạo dựng thêm nhiều giáo điều cùng nghi lễ khác nhiều khi rất kỳ lạ. Một ví dụ là cho rằng bằng cách tự trừng phạt thân xác cho nó thật đau đớn thì mình sẽ phần nào bù đắp được phần tội của mình. Hoặc nữa, họ tự giáng lên mình những nỗi khổ tinh thần hầu đền bù cho tội lỗi đã qua. Sự thật đơn giản là cả hai cách phản ứng này sẽ đều làm tha hóa năng lượng của Thượng đế, vậy thì làm thế nào con có thể bù đắp cho năng lượng tha hóa của quá khứ bằng cách tha hóa thêm năng lượng trong hiện tại? Năng lượng tha hóa có bù trừ cho nhau đâu? Bởi vì chỉ có năng lượng tâm linh mới có thể xóa bỏ được năng lượng thấp kém.

Tuy nhiên có một cơ năng tinh vi ở đây khiến cho một dòng sống nhạy cảm biết được là mình đã làm cho vũ trụ bị mất cân bằng. Cho dù nhiều tín hữu Cơ đốc không hiểu khái niệm nghiệp quả, hay khái niệm năng lượng tha hóa, họ vẫn cảm nhận được là họ đã phạm tội, và dòng sống của họ cảm thấy mình sẽ không thoát được tội đó cho tới khi mình phục hồi cân bằng của vũ trụ. Ta vẫn biết là đa số người đạo Cơ đốc không ý thức rõ khái niệm nghiệp quả, nhưng đây chính là một lý do khiến họ khó lòng tự tha thứ. 

Trong sâu xa, nhiều người tâm linh muốn sòng phẳng với Thượng đế và tái lập cân bằng của vũ trụ. Cho nên họ trực nhận được là họ đã chưa hoàn toàn cân bằng mọi nghiệp quả, vì thế họ chưa tự do đối với quá khứ. Mặc dù sự trực nhận này là một dấu hiệu trưởng thành tâm linh, nhưng những tin tưởng sai lầm về tội lỗi đang lưu hành đầy rẫy trên thế giới thường khiến cho người tầm đạo cảm thấy là cho tới khi mình tái lập được cân bằng, thì mình phải tiếp tục cảm thấy có tội.

Như ta giải thích ở đầu bài, điều này thật sự không cần thiết. Nếu con đã từ bỏ cái tâm thức đã khiến con phạm lỗi, thì con không còn cần phải cảm thấy mình có tội. Nào có ích gì nếu con cứ cảm thấy tội lỗi về một chuyện mà con đã bỏ lại đằng sau? Nó sẽ chỉ buộc chặt con hơn vào trạng thái tâm thức đó và khiến con không thể buông ra hoàn toàn.  

Điều ta muốn nói là nếu con thật sự thấu hiểu sự tha thứ, con sẽ nhận ra rằng việc cân bằng nghiệp quả là một tiến trình máy móc. Nếu con trả nợ đều đặn thì tại sao con phải cảm thấy tội lỗi đối với ngân hàng đã cho con vay tiền? Tương tự như thế, miễn là con tiếp tục nỗ lực cân bằng nghiệp quả thì không có lý do gì con phải cảm thấy tội lỗi do đã gây ra nghiệp quả, ít nhất khi con đã vượt qua cái tâm thức đã khiến con lầm lỡ.

Ta hiểu rằng một số dòng sống cảm thấy mình cần duy trì ý niệm tội lỗi cho đến khi nghiệp được trả hết, vì họ cho rằng làm như vậy sẽ thôi thúc họ tiến bước nhanh hơn. Tuy nhiên ta luôn mong rằng các dòng sống trưởng thành hơn sẽ thấy rõ là điều này không cần thiết. Ta mong mọi người tầm đạo sẽ chấp nhận được sự tha thứ của Thượng đế, cũng như thoát khỏi mọi ý niệm rằng mình là người có tội hay là người không xứng đáng trong mắt của Thượng đế.     

Bệnh nặng có do nghiệp cá nhân hay không?

Hỏi: Giê-su yêu mến, khi một người bị bệnh nặng liên tục, có phải đó là kết quả của nghiệp quả cá nhân hay là người đó đang gánh chịu nghiệp quả của hành tinh? Khi chuyện này xảy ra, có hy vọng nào thay đổi được hay không?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như ta có giải thích suốt trang mạng này, mọi thứ đều được cấu tạo bằng năng lượng, và năng lượng thì chỉ giản dị là ánh sáng thuần khiết của Thượng đế rung động ở một tần số thấp hơn tiềm năng cao nhất của nó. Hệ quả là bất kỳ điều kiện bất toàn nào cũng được cấu tạo bởi năng lượng có tần số thấp, và vì thế mọi điều kiện có thể được thay đổi bằng cách nâng cao tần số của năng lượng. Chân sư Hiện diện của Ánh sáng Vô tận đã giải thích điều này cặn kẽ hơn trong bài giảng của thày.

Con nói đúng, có nhiều dòng sống đã tình nguyện hứng chịu một phần gánh nặng nghiệp quả của thế giới. Và rất nhiều trong số các dòng sống đó đã làm điều này bằng cách tự chuốc vào mình một căn bệnh hiểm nghèo. Tuy nhiên, không có người nào phải gánh chịu toàn bộ sức nặng của nghiệp quả thế gian. Một người chỉ gánh một phần thôi, và nếu phần này được hóa giải qua những phương cách khác, thì một căn bệnh – mà tựu trung chỉ là nghiệp quả đang trải bày ra – có khả năng được chữa lành.

Cho nên ta thật khuyên những ai bị bệnh nặng hãy sử dụng các bài nguyện tràng hạt và bài chú của Mẹ Mary mỗi ngày. Ta không nói là bệnh nặng sẽ nhất thiết được chữa khỏi. Thật vậy, nhiều dòng sống mong muốn đóng góp vào bước tiến của nhân loại mạnh mẽ đến độ họ sẽ gánh thêm nghiệp quả của thế giới sau khi một số nghiệp đã được chuyển hóa. Tuy nhiên, bằng cách sử dụng các dụng cụ tâm linh, một người sẽ có thể tiêu hủy nhiều nghiệp của thế giới hơn là qua căn bệnh của mình.

Một trường hợp khác có thể xảy ra là căn bệnh hiểm nghèo là kết quả của nghiệp riêng của người đó. Một số dòng sống nhận ra là họ đang có một phần nghiệp nặng nề sắp sửa kết tụ trong một tương lai gần kề. Cho nên họ quyết định đầu thai trong những hoàn cảnh khiến họ mắc phải một chứng bệnh hiểm nghèo. Mục đích mắc bệnh là để trả nghiệp trong một kiếp thay vì kéo dài ra trong nhiều kiếp.

Con có thể so sánh chuyện này với một người có một khoản nợ rất lớn. Một số người sẽ chọn cách trả lần hồi, mỗi tháng một chút cho tới cuối đời, trong khi một số người khác sẽ muốn đi làm hai việc một lúc trong một vài năm để sạch nợ cho nhanh, rồi được rảnh rang hưởng thụ cuộc đời sau đó. Có nhiều dòng sống trưởng thành tâm linh sẽ hy sinh nguyên một kiếp sống để tiến bộ trong chỉ một kiếp, hầu họ có thể thăng thiên vào cuối kiếp đó hoặc kiếp kế tiếp. Quả thật những dòng sống như vậy có thể gánh lấy một căn bệnh ngặt nghèo hoặc một điều kiện nào khác suốt nhiều thập niên hay thậm chí suốt đời.

Hiển nhiên, mục tiêu của dòng sống là trả cho hết nghiệp, chứ không phải là chịu khổ vì căn bệnh. Cho nên nếu dòng sống có thể tìm ra cách nào khác để trả quả thì căn bệnh rất có thể sẽ được chữa lành. Một lần nữa, ta khuyến cáo việc sử dụng cac dụng cụ tâm linh để làm tiêu sạch mọi nghiệp chướng và năng lượng tiêu cực. Và đương nhiên, nếu người bệnh nặng là một người thân của con, con cũng có thể dùng dụng cụ tâm linh để chuyển hóa nghiệp đó cho người ấy.

Tuy nhiên cũng có một kịch bản thứ ba cần được xem xét. Trong nhiều trường hợp, một chứng bệnh nặng không chỉ do nghiệp của người đó, mà là hậu quả của một số tin tưởng sai lầm hoặc vết thương tình cảm nơi dòng sống. Và trong trường hợp này, việc sử dụng kỹ thuật tâm linh để chuyển hóa nghiệp quả thật là không đủ. Việc cần thiết là phải dùng những dụng cụ thích hợp để chữa lành tâm lý một cách thực sự. Rất nhiều khi, một căn bệnh không thể chữa khỏi cho tới khi vấn đề tâm lý nằm bên dưới được giải quyết hoàn toàn.

Điều ta muốn nói là có rất nhiều người phải chịu bệnh tật nghiêm trọng do tâm lý họ chưa giải quyết. Cho nên mặc dù họ phải chịu khổ cả đời nhưng họ không thật sự trả được chút nghiệp nào, và do đó họ không tiến bộ về mặt tâm linh. Đó chỉ đơn giản là sự khổ đau không cần thiết chẳng đem lại ích lợi cho bất cứ ai.

Trong một số trường hợp, một dòng sống lại có thể sử dụng căn bệnh như cái cớ để không chịu giải quyết các giới hạn tâm lý của mình. Một chứng bệnh nặng khiến mình bị mất khả năng cơ thể xem ra có thể là cái cớ tuyệt hảo để mình bỏ rơi mọi trách nhiệm về cuộc sống, không chịu giải quyết tâm lý hay không lấy những biện pháp cần thiết để tiến bộ trên đường tâm linh. Cho nên điều ta muốn nói là có những người mắc phải vấn đề này từ hai khía cạnh.

Khía cạnh thứ nhất của vấn đề là sự hạn chế tâm lý nằm tiềm ẩn bên dưới. Khía cạnh thứ nhì là, thêm vào sự hạn chế tâm lý tiềm ẩn, còn có một thái độ thâm căn cố đế không muốn đương đầu với vấn đề tiềm ẩn. Thậm chí dòng sống còn sẵn sàng hứng chịu và duy trì một căn bệnh trầm trọng hầu tránh không phải đương đầu với vấn đề. Giản dị, những dòng sống như vậy không chịu thay đổi chính mình cũng như cách mình nhìn cuộc sống. Họ có thể rất khó tiếp cận, và vì vậy căn bệnh có thể rất khó chữa. Cho dù họ có đọc vô số bài nguyện hay bài cầu tràng hạt thì sẽ vẫn không hết bệnh, cho tới khi họ quyết định nhận hoàn toàn trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và làm một điều gì đó để giải quyết các nguyên nhân bên dưới. 

Những dòng sống như vậy rất nên suy ngẫm về định nghĩa của Albert Einstein về sự điên rồ: Điên rồ là khi con cứ làm mãi cùng một chuyện mà lại mong kết quả sẽ khác đi.

Tha thứ là hình thức tư lợi cao nhất

Hỏi: Xin thày chia sẻ ý nghĩ của thày về sự tha thứ. Chúng ta có thể tha thứ cho người khác hay không? Hay tha thứ chỉ nhắm vào bản thân mình, vì tội lỗi duy nhất là nhận thức sợ hãi thay vì tình thương?

Sự tha thứ đứng yên
và lặng lẽ không làm gì
nó chỉ đứng nhìn
và đợi
và không phán xét.  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Tha thứ là một trong những khái niệm bị hiểu lầm nhiều nhất. Ý nghĩa thực sự của tha thứ là “giải phóng”, nhưng hầu hết mọi người không hiểu ai là người được giải phóng khi mình tha thứ. Họ cho rằng khi họ tha thứ cho ai đó đã làm hại mình, thì họ đã giải phóng người đó khỏi trách nhiệm, họ đã giải thoát cho người đó khỏi bị mắc tội. Điều này đơn giản là không đúng.

Trong Kinh thánh, con tìm thấy câu sau đây: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, hãy đừng tự mình trả thù ai, mà hãy dành cho cơn thịnh nộ của Thượng đế; vì có chép lời Thượng đế phán rằng: Sự báo đền thuộc về ta, ta sẽ đáp trả.” (Romans 12:19).

Câu nói đơn giản ở trên đề cập đến một định luật của vũ trụ mà Kinh thánh chỉ giải thích phần nào. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả, và trong khoa học, đây là luật hành động và phản ứng. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, tất cả những gì con làm đều làm với năng lượng của Thượng đế. Khi con làm hại một ai đó, con làm tha hóa một lượng năng lượng nào đó của Thượng đế. Thượng đế đã lập ra một quy luật khách quan để bảo đảm rằng bất kỳ năng lượng tha hóa nào mà con từng phóng ra vũ trụ sẽ được gửi trả về cho dòng sống của con. Nói cách khác, không một dòng sống nào có thể thoát khỏi hậu quả của hành động của mình. Đa số người theo đạo Cơ đốc không hiểu những hệ quả sâu rộng của luật này, và lý do chính là vì các lời dạy của ta về nghiệp quả và luân hồi đã bị cố tình xóa bỏ khỏi đạo Cơ đốc.

Đó là một trong những lý do chính yếu tại sao ngay cả nhiều tín đồ Cơ đốc không thể hoàn toàn tha thứ cho những người đã làm hại mình – cho dù ta đã dạy mọi người hãy tha thứ bảy mươi lần bảy. Họ không thể buông bỏ ý muốn trừng phạt người khác hay bắt người khác phải chịu trách nhiệm, và lý do là vì họ không hiểu bằng cách nào Thượng đế có thể đáp trả cho con người. Hầu hết đều nhận xét thấy có một số người đã làm những hành vi tàn ác tày trời mà dường như vẫn sống trọn kiếp mà không bị trừng phạt. Tất nhiên, đó là vì năng lượng tha hóa, tức nghiệp quả, không phải lúc nào cũng quay trở lại trong kiếp này, nhưng con sẽ không thể tránh trải nghiệm sự trở lại của năng lượng đó. Định luật khách quan của Thượng đế sẽ đáp trả.

Khi con hiểu định luật khách quan của nghiệp quả, con sẽ nhìn ra là Thượng đế không phải là một thượng đế nóng giận và phán xét, luôn dõi nhìn từng hành vi của con và cố trừng phạt con bằng cách đày con xuống địa ngục. Nếu người đạo Cơ đốc thực sự hiểu được luật vũ trụ quy định rằng không ai có thể thoát khỏi hậu quả của hành động của mình, thì họ sẽ có những bước tiến khổng lồ để khắc phục hình ảnh sai lầm và thần tượng về một thượng đế nóng giận.

Cũng quan trọng không kém, họ sẽ tiến bước vượt bực để khắc phục những khái niệm vô minh về sự tha thứ. Khi con nhận ra cách vận hành của luật Thượng đế, con thấy rõ là con tuyệt đối không có nhu cầu phải trừng phạt bất cứ ai, hay bắt họ phải chịu trách nhiệm một cách nào đó. Nói cách khác, nhiều người cho rằng bằng cách oán trách một ai đó thì chừng như họ đang buộc người đó phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Một khi con hiểu luật Thượng đế thì con thấy điều này hoàn toàn không cần thiết. Thượng đế hoàn toàn có khả năng khiến cho một dòng sống phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình, và ngài không cần con giúp ngài làm chuyện đó. (Nhiệm vụ bảo vệ con người khỏi những kẻ liên tục có hành động sai trái là một vấn đề riêng biệt, và ta đã có trình bày về vấn đề này ở một nơi khác).

Ý thày ở đây là nếu con tin rằng Thượng đế không có khả năng khiến cho một dòng sống phải chịu trách nhiệm và do đó con cần phải oán trách người đó hay thậm chí có biện pháp để trừng phạt người đó, thì thật sự con đang cho rằng con hiểu rõ hơn ngài, hay con đang thay mặt ngài để đóng vai “thiên thần báo thù”. Những tin tưởng đó đều sai lầm và nguy hiểm cho sự phát triển tâm linh của con.

Sự thật đơn giản là khi con giữ một hình ảnh hay một tình cảm tiêu cực đối với một người khác, con đang tạo ra một sợi dây liên kết năng lượng với người đó. Nếu con suy nghĩ một cách lôgíc, con có thể tự hỏi tại sao một người có suy nghĩ lại muốn tạo ra một sợi dây liên kết năng lượng giữa mình và người đã làm hại mình. Hiển nhiên, không một người sáng suốt nào sẽ muốn làm chuyện đó. Con sẽ muốn mình hoàn toàn tự do, giải phóng khỏi người đó chứ, hầu con còn bước tới trước mặt và đưa đời mình về một hướng tích cực. Chìa khóa cho tự do của con là hoàn toàn tha thứ cho người đó. Thật ra khi con tha thứ, con đang giải phóng chính con.    

Ta cũng biết rõ là có một số người bị người khác làm tổn thương đến độ họ đã phân mảnh cỗ xe tâm hồn của họ, hay họ phải mang những vết thương tâm lý trầm trọng. Như ta đã có giải thích ở nơi khác, những vết thương như vậy nơi dòng sống, hay những vết thương tâm lý như vậy không thể bỗng chốc được chữa lành. Cho nên ta không bảo là ai ai đã từng bị tổn thương cũng có khả năng tha thứ tức thì cho người đã làm hại mình.

Nếu con đã bị tổn thương nghiêm trọng, con cần dùng những dụng cụ thích hợp để chữa lành dòng sống hay cảm thể của con cho không còn vết thương. Nhưng điều ta muốn chỉ rõ là khi tiến trình hàn gắn này tiến triển, sẽ đến một điểm không thể hàn gắn thêm được nữa cho tới khi con hoàn toàn tha thứ cho người kia. Có thể nói sự tha thứ toàn diện là kết quả tối hậu của tiến trình hàn gắn. Tuy nhiên, đối với những ai có khả năng tha thứ ngay từ đầu – dù là chỉ một phần – thì đó có thể là khởi sự tốt nhất cho tiến trình chữa lành.

Cho nên tóm lại, nếu con thực sự quan tâm đến sự tinh tấn tâm linh của mình, quả thật con nên tha thứ cho người khác. Con cũng nên tha thứ chính mình, và con nên tha thứ cả Thượng đế của con về bất kỳ tổn thương nào đã gây cho con, cho dù là bởi Thượng đế hay bởi các tổ chức tôn giáo hay bởi những kẻ nhân danh Thượng đế.

Con nói rằng “tội lỗi duy nhất là nhận thức sợ hãi thay vì tình thương”. Con đang đi đúng hướng với câu nói đó, nhưng ta thích nói thế này hơn: tội lỗi duy nhất là ý niệm tách biệt khỏi nguồn cội của mình, ý niệm rằng mình tách biệt khỏi tình thương. Chính sự tách biệt này đã nảy sinh ra lòng sợ hãi, và từ sợ hãi nảy sinh ra mọi tội lỗi.

Bài thơ của con thật hay, nhưng sự tha thứ cũng có một khía cạnh tích cực. Giản dị là con không thể ngồi đó chờ sự tha thứ xảy ra như trong phép lạ. Con cần tạo ra tiền đề cho tha thứ xảy ra bằng cách chữa lành những vết thương và nâng cao hiểu biết của mình. Con hãy tiếp tục tìm kiếm sự hiểu biết cho đến khi con nhận được sáng ngộ trực giác sẽ khiến con nhận ra trong loé sáng rằng tha thứ thật là hình thức tư lợi cao nhất. Con bỗng thấy được khi con tha thứ mọi người và mọi việc, con đang tự giải phóng khỏi những dây nhợ đã buộc con vào một nhà tù mà con đã tự tạo ra trong tâm mình, cũng như một nhà tù vật chất ngay trên hành tinh địa cầu này.

Tạo cảm hứng cho trẻ em

Hỏi: Làm thế nào chúng ta có thể tạo cảm hứng cho trẻ em thể nhập những giáo lý tâm linh mà chúng ta trình bày cho chúng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Trước tiên hết, qua gương của chính con. Cho nên con hãy đảm bảo là chính con đã thể nhập các khái niệm tâm linh trước khi con trình bày cho con trẻ. Nhưng con cũng cần làm thế nào mở tâm ra để khám phá những khía cạnh mới của khái niệm tâm linh.

Tiếc thay, nhiều bậc cha mẹ có thái độ xem mình là người phải dạy dỗ cho trẻ con và mình không có gì học hỏi từ con cái. Điều này đặc biệt đúng đối với những người đã lớn lên trong một văn hóa tôn giáo chính thống và có cách tiếp cận vỏ ngoài về tôn giáo. Họ có thái độ độc đoán đối với trẻ em và cho rằng con mình phải chấp nhận những tin tưởng tôn giáo của mình.

Nếu con là người đi tìm chân lý, con không phải tự xưng là người có thẩm quyền về những đề tài tâm linh, ít ra là không trong ý nghĩa truyền thống. Thay vì cảm thấy mình phải áp đặt một số niềm tin lên con mình, con hãy tự đặt mình vào vai trò một nguồn tài nguyên giúp chúng tìm ra lời giải đáp.

Con cái của con sẽ tìm đến con một cách tự nhiên với những thắc mắc về tâm linh, đặc biệt khi chúng thấy là con sẵn lòng giúp chúng mà không ép buộc bất cứ điều gì. Nhân tiện, khi con có thái độ và xây dựng mối quan hệ với con mình như vậy, con sẽ thấy với tâm hồn ngây thơ của chúng, chúng có thể dạy con nhiều điều về tâm linh đích thực. Chúng đặc biệt có thể giúp con tìm lại cách tiếp cận Thượng đế hồn nhiên và vô điều kiện.

Một cách rất hay khác để giúp trẻ em thể nhập các khái niệm tâm linh là không bao giờ cho chúng những câu trả lời đã xác định hay hoàn chỉnh. Ngược với thái độ của nhiều người lớn đối với trẻ con, các em có dư khả năng suy luận và tự tìm hiểu mọi thứ. Không phải tâm trí các em kém khả năng hơn tâm trí người lớn, mà giản dị tâm các em nói một loại ngôn ngữ khác người lớn, cả về mặt hình ảnh, khái niệm lẫn từ ngữ.

Vì vậy cách tốt nhất để trình bày một khái niệm tâm linh cho trẻ em là luôn luôn khởi đầu bằng cách để cho đứa trẻ đặt câu hỏi. Con có thể dẫn nhập một khái niệm nào đó rồi hỏi xem nó có thắc mắc gì về khái niệm đó không. Sau đó con tìm cách giúp nó tự phát triển tiến trình suy luận và hiểu biết của nó. Nói cách khác, con cố giúp nó tự tìm lấy câu trả lời thay vì cho nó những lời giải đáp định sẵn.  

Một điều quan trọng khác con cần hiểu là khi con là người tầm đạo, con đã trải qua một tiến trình rất dài để đạt đến niềm tin và hiểu biết mà con hiện có. Thật là tự nhiên khi cha mẹ cũng muốn con mình đạt được cùng hiểu biết đó trong vòng năm phút, nhưng đương nhiên điều này không thể làm được. Vì vậy, con em của con không cần phải đạt được hiểu biết mà con đang có như một người trưởng thành. Điều hoàn toàn chấp nhận được là đứa trẻ sẽ có một cách hiểu phần nào khác lạ hay giản dị hơn về một khái niệm tâm linh, rồi khi nó lớn lên, nó sẽ lần hồi khám phá ra một cách hiểu cao hơn.

Khi con là người đi tìm chân lý, con nhận rõ tâm linh là một tiến trình. Điều quan trọng nhất mà con có thể hiểu về trẻ em là tuổi thơ cũng là một tiến trình. Điều tốt nhất con có thể giúp con cái là tăng cường khả năng của chúng tham gia vào tiến trình của cuộc sống và tự tìm lấy câu trả lời, thay vì chỉ nhắm mắt đi theo những lời giải đã định sẵn mà chính con, giáo hội hay xã hội của con xem là cách hành xử duy nhất.

Hãy cho phép con mình kinh qua tiến trình của cuộc sống. Hỗ trợ và hướng dẫn nó, nhưng đừng đóng hộp nó lại trong những giáo điều đã định sẵn. Hãy tin tưởng tiến trình cuộc sống. Giúp con mình trụ neo trên con đường tâm linh đi tìm sự thật, rồi tin tưởng là cái ta Ki-tô của nó sẽ hướng dẫn nó đến những lời giải đáp thích hợp ở thời điểm thích hợp.

Về mặt này ta cũng xin nói, một trong những cách hay nhất để giúp trẻ em thể nhập các khái niệm tâm linh là sử dung xu hướng vui chơi tự nhiên của chúng. Nếu con có thể biến khái niệm tâm linh thành một trò chơi, thì xác suất thành công của con sẽ lớn hơn rất nhiều để giúp chúng thể nhập khái niệm đó.   

Hãy dạy dỗ con em qua truyện kể, trào phúng hay kịch ngắn. Bày ra trò chơi dựa trên khái niệm tâm linh. Sự sáng tạo không hề có giới hạn, và nhiều người cũng đã dùng óc sáng tạo của mình để hoàn thành những chương trình như vậy cho trẻ em. Một số những chương trình có sẵn này rất hữu ích cho dù là được thực hiện trong khuôn khổ một tôn giáo hay một giáo hội đặc thù. Cho nên, hiện đang có một nhu cầu vô bờ bến những loại tài liệu giáo dục cho trẻ em về con đường tâm linh toàn vũ vượt trên mọi tôn giáo.    

Sẵn lòng học hỏi từ một căn bệnh

Hỏi: Câu hỏi này liên quan đến câu hỏi trước về bệnh tật. Tại sao có những người mắc bệnh nan y ở giai đoạn cuối đã có thể chữa lành một cách tự nhiên ở mọi mức độ, vật lý, cảm xúc, lý trí và tâm linh, trong khi có những người khác, có lẽ bởi lý do nghiệp quả, đã không thể khỏi bệnh cho dù họ cố gắng thế nào đi nữa?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Có hai lý do chính yếu, con yêu dấu. Nếu con không thể chữa lành một chứng bệnh bằng đủ mọi cách, có thể là vì có một điều kiện tâm lý nằm bên dưới chưa được giải quyết – vì con chưa nhìn ra điều mà con cần nhìn thấy. Con chưa lấy quyết định mà con cần lấy để vượt lên trên điều kiện đó.

Nhưng như Giê-su cũng giải thích trong câu trả lời trước, đôi khi con chọn mang bệnh tật thể xác để trả nghiệp cho phần còn lại của kiếp sống này. Thậm chí, có khi người ta còn chuốc lấy bệnh tật hầu trả nghiệp cho nhân loại ngoài nghiệp cá nhân của mình. Và như vậy, căn bệnh sẽ không chữa lành vì trong cái ta cao hơn của con, con biết rõ là căn bệnh không mang mục đích chữa lành – ít ra là cho đến khi có một sự giải quyết, hoặc mọi nghiệp quả được trả xong.

Cho nên một lần nữa, ta cũng biết việc mắc phải một chứng bệnh vật lý ngặt nghèo luôn luôn vô cùng khó khăn, nhưng lời dạy của Giê-su lúc nãy cũng áp dụng ở đây. Một khi con chấp nhận căn bệnh và quyết định chung sống với nó cho tốt nhất, thì niềm đau khổ sẽ giảm đi rất nhiều. Và con yêu dấu, ta cần phải nói với con là có những khi con cần phải chấp nhận một căn bệnh vật lý trước khi con có thể thực sự chữa lành. Nói cách khác, có những người chiến đấu với căn bệnh bằng tất cả nghị lực và phương thức vỏ ngoài – cho dù là qua cách trị liệu tự nhiên hay y khoa truyền thống – vì họ không thực sự chấp nhận nguyên nhân căn bệnh là do chính tâm thức mình gây ra.

Và vì vậy, họ đã không khởi đầu tiến trình lượng định lại cuộc đời mình cũng như những tin tưởng của mình. Họ đã không thực sự soi vào trong gương. Cho nên họ chỉ đơn giản cố sức loại bỏ các triệu chứng vỏ ngoài thay vì xem xét đến nguyên nhân tâm linh. Và như thế, nếu chứng bệnh là do nghiệp quả, thì đúng vậy, con cần phải học được bài học, con cần học từ nghiệp chướng đó trước khi bệnh có thể chữa lành.

Cũng có những người đã chuốc lấy một chứng bệnh hầu bắt buộc chính mình phải học hỏi một bài học nào đó. Và một lần nữa, con lại gặp tình trạng tâm vỏ ngoài của con nổi lên chống chọi lại căn bệnh và tìm cách chữa lành bằng mọi cách mà nó có trong tay, trong khi cái ta cao hơn của con thì lại không muốn chữa trị căn bệnh cho tới khi tâm vỏ ngoài đã học xong bài học.

Cho nên con càng chống chọi mãnh liệt thì căn bệnh sẽ càng kéo dai dẳng hơn. Thay vào đó, sao con không chỉ buông bỏ và nói, “Bài học con phải học từ bệnh này là gì? Cái ta Ki-tô yêu dấu, Mẹ Mary yêu dấu, hãy chỉ cho con thấy con phải làm gì để học hỏi từ căn bệnh này. Hãy chỉ cho con thấy con phải thay đổi những gì hầu vượt ra khỏi trạng thái tâm thức đã làm thị hiện chứng bệnh vật lý này.”

Tu tập quả vị Ki-tô trong khi có gia đình

Hỏi: Con tự hỏi, có thể nào theo đuổi quả vị Ki-tô cá nhân khi mình thành hôn và chăm lo cho gia đình? Con bị giằng xé bởi câu hỏi này vì một phần trong con vẫn giữ hình ảnh là mình phải rời bỏ cách sống của mình trong xã hội hiện đại, thế nhưng khi con cầu nguyện và thiền định thì dòng sống của con lại cảm thấy an bình nhất khi ý nghĩ lập gia đình đến với con. Xin thày có ý nghĩ gì cho con suy ngẫm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Như ta đã có giải thích trên trang mạng này, hầu hết mọi người đều bị kẹt trong tâm nhị nguyên dựa trên sự tách biệt và tương đối. Kết quả là nhiều người đã tạo ra một hình tư tưởng cho rằng nếu mình là một người thực sự tâm linh thì mình phải sống theo một cách nhất định nào đó – như phải rút hẳn ra khỏi xã hội và sống trong tu viện, hay tuân thủ một số luật lệ vỏ ngoài mà tôn giáo đó đã thiết lập. Cho nên ta hiểu được tại sao nhiều người lại nghĩ rằng để theo đuổi con đường quả vị Ki-tô cá nhân, mình phải sống như một vị sư nam hay sư nữ.

Tuy nhiên như ta cũng đã cố giải thích khắp trang mạng này, không một hộp tư duy nào do tâm con người tạo ra có thể chứa được, hay giam giữ được Ki-tô Hằng sống. Thật ra, một trong những công việc chủ yếu của một sinh thể Ki-tô là chứng tỏ cho mọi người là con có thể có cách sống vượt ra khỏi những chiếc hộp tư duy của họ. 

Cho nên thật sự không có một cách sống chuẩn mực nào cho một người bước đi trên con đường Ki-tô, hay một cách chuẩn mực để biểu hiện tâm Ki-tô. Mỗi con đường đều là một con đường cá nhân, và khi con càng ngày càng đạt thêm phẩm chất Ki-tô, con sẽ bắt đầu thể hiện cá thể tâm linh chân thực của con nhiều hơn. Con sẽ bắt đầu là con người thật của mình cho dù người đời có muốn con là như thế nào.

Cho nên thật là không thể đặt ra một tiêu chuẩn rồi bảo rằng chỉ những người nào sống theo tiêu chuẩn đó mới là người có tâm Ki-tô, hay là người thật sự tu theo con đường quả vị Ki-tô. Có rất nhiều người, để đạt được và biểu hiện tâm Ki-tô của mình, đã từng phải vượt ra ngoài sự mong đợi của thế gian hoặc những quy ước của xã hội. Đó là tại sao ta đã từng thách đố rất nhiều khuôn phép, tục lệ trong xã hội nước Israel thuở trước, chẳng hạn như khi ta chữa bệnh cho một người đàn ông vào ngày sa-bát và tuyên bố là ngày sa-bát phải phục vụ con người chứ con người không phục vụ ngày sa-bát.

Một điều cần cân nhắc nữa là để thực sự đạt được quả vị Ki-tô, con cần cân bằng nghiệp quả mà con đã tạo ra trong tiền kiếp. Nghiệp quả có thể khiến cho một số người cần phải lập gia đình và nuôi con. Con cũng cần giải quyết mọi tắc nghẽn trong tâm lý mình, và cũng thế, việc lập gia đình có thể là cách hiệu quả nhất để thực hiện điều này. Hay là có thể trong sứ mạng tâm linh của con, con đã thề nguyện là mình sẽ đưa một số dòng sống nào đó đi vào hiện thân như là con mình. Nói cách khác, con đường dẫn con đến quả vị Ki-tô có thể đòi hỏi con phải tham gia vào xã hội theo rất nhiều cách khác nhau.

Cho nên điểm mấu chốt về quả vị Ki-tô là con không thể nào đặt ra một chuẩn mực vỏ ngoài nào. Vì vậy, con không thể quyết định với tâm vỏ ngoài, phân tích, nhị nguyên của con là con phải bước đi như thế nào trên đường tu cá nhân của mình. Nếu con tạo ra chuẩn mực vỏ ngoài đó, như nhiều người sùng đạo thường làm, con sẽ đi theo con đường có vẻ đúng đắn dưới mắt thế gian nhưng cuối cùng sẽ là con đường chết.

Con chỉ có thể bước theo quả vị Ki-tô bằng cách vượt ra ngoài tâm nhị nguyên và nhận được sự chỉ đạo nội tâm từ cái ta Ki-tô. Để nhận được chỉ đạo rõ ràng nhất, sẽ vô cùng ích lợi cho con nếu con dùng các kỹ thuật đăng tải trên trang dụng cụ, như những bài chú để cầu thỉnh sự bảo vệ đối với những can thiệp từ ngoài, kỹ thuật biến hóa năng lượng bất toàn trong năng trường của mình, cũng như một kỹ thuật hòa điệu với cái ta Ki-tô của mình.

Trong những giai đoạn khởi đầu trên đường tu quả vị Ki-tô, thường con sẽ nhận được chỉ đạo nội tâm dưới dạng những sáng ngộ trực giác. Một cách để lượng định xem những sáng ngộ này có đúng đắn hay không là nhìn xem liệu sáng ngộ đó có đem lại cho con một cảm nhận an bình hay một cảm giác mâu thuẫn, xung đột trong tâm. Mỗi khi con nhận thấy mâu thuẫn nội tâm, con biết là con đã không nhận được sáng ngộ cao nhất, và do đó con không nên lấy quyết định dựa trên tâm trạng giằng xé này, mà thay vào đó, con nên quyết tâm để có được cái nhìn trực quan rõ ràng hơn. Khi con có sáng ngộ đúng đắn, con sẽ cảm thấy nội tâm mình an bình – không giống như cảm giác là mình có thể làm những gì mà tâm nhị nguyên muốn mình làm. Con sẽ đạt được một cái biết mạnh mẽ nơi nội tâm là mình cần làm gì.

Con nên luôn luôn nhớ rằng tâm nhị nguyên là nhị nguyên, và nó dẫn đến xung đột, phân rẽ. Còn tâm Ki-tô thì đơn nhất, và nó loại trừ xung đột, đem lại an bình cho con.  Cho nên con hãy đi tìm viễn quan hợp nhất của tâm Ki-tô. Hãy nhớ lời ta nói, rằng nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con sẽ tràn ngập ánh sáng. Ý nghĩa là khi con đạt được viễn quan đơn nhất của tâm Ki-tô, con sẽ tràn ngập ánh sáng của Thượng đế. Ánh sáng này không bao giờ thất bại!

Với địa cầu bước vào Thời đại Bảo bình, một điều sẽ ngày càng quan trọng hơn là đưa tôn giáo ra khỏi những nơi thờ phượng và hội nhập nó vào cuộc sống hàng ngày của mọi người. Vì vậy có nhiều dòng sống đã có lời nguyện là mình sẽ bước trên con đường quả vị Ki-tô trong khi vẫn nuôi nấng gia đình hay tham gia vào xã hội. Hiển nhiên, sống như vậy sẽ khó khăn hơn là sống trong một môi trường bảo bọc, nhưng đây chính là một phần quan trọng của đời sống tâm linh trong thời đại mới.    

Con sẽ thành công hơn rất nhiều nếu con làm hòa với việc nuôi nấng gia đình và khắc phục sự xung đột nội tâm khi con cảm thấy đời sống gia đình cản trở sự phát triển tâm linh của con. Thay vào đó, con hãy nhìn xem tại sao con lại cảm thấy như vậy và nhận ra rất có thể đó chỉ là tàn tích của nền văn hóa Thời đại Song ngư, hoặc là tàn tích từ một tiền kiếp khi con sống đời ẩn dật hơn. Quả thực, làm thế nào con có thể đạt được quả vị Ki-tô mà không khắc phục những phân rẽ đó? Liệu một tâm lý phân rẽ với chính nó sẽ có bao giờ là Ki-tô Hằng sống được?

Khi con có thể ôm trọn ý tưởng rằng đời sống gia đình là chìa khóa cho quả vị Ki-tô của con, con sẽ tiến bước nhanh hơn đến Ki-tô trong khi vẫn có thể vui hưởng cuộc sống gia đình – và qua đó con cũng sẽ giúp cho gia đình con vui hưởng cuộc sống đó. Quá nhiều người tâm linh đã khiến cho bản thân mình cùng gia đình mình bị khổ sở khi mình sống với gia đình mà cứ nghĩ mình phải đang ở trong tu viện. Con hãy buông bỏ những ý nghĩ đó đi và hãy an bình với cuộc sống cùng nơi mình đang sống.

Đa số cần chữa lành trước khi thể hiện được quả vị Ki-tô cá nhân

Hỏi: Nhiều người đã chữa trị tâm lý qua những kỹ thuật như hơi thở toàn diện (holotropic breathwork) hay trị liệu tổng thể (gestalt therapy), cho biết là họ cảm thấy niềm vui bên trong và sự tự tin của họ gia tăng, và những hệ quả tiêu cực của chấn thương được tẩy sạch. Những liệu pháp này gọi mở trải nghiệm nội tâm, cho nên con tự hỏi, không hiểu điều đó có giúp cho người ta đến gần hơn với tâm thức Ki-tô?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Câu trả lời ngắn gọn là có. Như ta có giải thích trong bài giảng về phát triển tâm linh, trên địa cầu có rất nhiều dòng sống đã mang vết thương sâu xa và cần được chữa lành trước khi có thể thể hiện quả vị Kitô cá nhân. Tất nhiên, cho tới khi dòng sống đạt đến sự điều ngự toàn diện, người đó vẫn còn nhiều vết thương khiến việc sử dụng các loại điều trị hàn gắn tâm lý vô cùng hữu ích.

Như ta có trình bày khi trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia), chấn thương có thể khiến cho dòng sống bị phân chia hay vỡ ra thành từng mảnh. Chính sự thiếu trọn vẹn này là cản trở chính yếu cho việc thị hiện tâm thức Ki-tô. Vì vậy, bằng cách sử dụng những kỹ thuật thích hợp để chữa lành vết thương, một người có thể thực sự có những bước dài tiến về việc thể hiện tâm thức Ki-tô.

Bởi vì mọi sự đều xoay quanh những chọn lựa tự quyết của cái Ta Biết, sự phân chia thành từng mảnh của dòng sống khởi đầu bằng một quyết định. Quyết định này thường xuất phát từ sợ hãi, là sợ hãi phải kinh qua một hoàn cảnh đau thương. Cho nên cái Ta Biết quyết định nó không muốn trải nghiệm chấn thương, và nó rút lui khỏi tình huống. Như khoa học hiện đại đã khám phá, mọi thứ trong vũ trụ đều nối kết chặt chẽ với nhau, kể cả thời gian. Do đó, rất có thể dòng sống có khả năng phân chia ra, và một mảnh của dòng sống bị kẹt lại ở một thời điểm nào đó trong thời gian.

Để đem mảnh đó về, cái Ta Biết cần có một trải nghiệm nội tâm nối kết nó lại với quyết định nguyên thủy đã gây ra sự phân rẽ của dòng sống. Điều này không nhất thiết có nghĩa là cái Ta Biết cần đi ngược trở lại và tái trải nghiệm chính tình huống đã gây ra chấn thương. Điều cái Ta Biết có thể làm là nó có một trải nghiệm nội tâm chứa đựng những thành phần chính yếu của chấn thương, và trải nghiệm này giúp cho cái Ta Biết quyết định mở cửa ra cho mảnh vỡ trở về.

Hiển nhiên, nếu việc vỡ ra thành mảnh nhỏ là hệ quả của chấn thương, cái Ta Biết sẽ lo sợ phải sống lại tình huống đó. Do đó, nó cần một môi trường an toàn nơi nó có thể vượt qua nỗi sợ hãi này. Sẽ rất hữu ích nếu cái Ta Biết có thể được sự hướng dẫn của một nhà chuyên nghiệp lành nghề và trải nghiệm một tình huống ít đe dọa hơn tình huống nguyên thủy đã gây ra chấn thương. Đó là tại sao một dòng sống thường có thể chữa lành bằng cách giải quyết trong kiếp này một vấn đề đã xảy ra thời thơ ấu. Vấn đề này có thể trở thành một biểu tượng hay một mối liên kết với chấn thương nguyên thủy xảy ra trong một tiền kiếp. Chẳng hạn, bằng cách để cho một tình huống trong kiếp này trải bày ra qua cách trị liệu tổng thể gestalt, cái Ta Biết có thể gắn kết lại với những “hồ sơ” cũ và mở rộng ra để một mảnh vỡ bị đánh mất trong một kiếp trước trở lại.

Như ta có giải thích trong một câu trả lời khác, điều vô cùng khôn ngoan là sử dụng các dụng cụ tâm linh để củng cố tác dụng của các loại liệu pháp. Khi dòng sống vỡ ra thành mảnh, trong cấu trúc tinh thể của cỗ xe 4 thể sẽ có một khoảng trống, và khoảng trống này có thể dễ bị các loại năng lượng bất toàn hay sinh thể thấp kém xâm chiếm. Các bài thỉnh thích hợp cho Đại thiên thần Michael có khả năng tẩy sạch những tà thể như vậy, và bằng cách sử dụng đúng đắn Ngọn lửa Tím hay các bài thỉnh Mẹ Mary, con có thể biến hóa năng lượng tiêu cực đang tràn ngập khoảng trống trong cỗ xe 4 thể. Điều này có thể đẩy nhanh rất nhiều tiến trình chữa lành. Tuy nhiên nói cho cùng, một kỹ thuật tâm linh tự thân nó không thể bảo đảm các mảnh vỡ sẽ trở lại, vì điều này chỉ có thể xảy ra do một quyết định có ý thức.

Trong vài thập niên vừa qua, nhiều hình thức trị liệu khả thi đã được phát triển, và nhiều phương pháp nữa sẽ được các chân sư thăng thiên ban truyền trong những thập niên tới. Tuy vậy, không phải tất cả mọi hình thức trị liệu đều an toàn hay thích hợp. Ta thực sự khuyên con không bao giờ cho phép mình bị lâm vào thôi miên sâu, qua đó ta muốn nói đến một buổi trị liệu nơi con không có ký ức gì về những gì đã xảy ra, nơi con không có khả năng ngừng buổi trị liệu bất cứ lúc nào, hay khi nhà trị liệu đặt ý tưởng vào tâm con. Ta cũng khuyên là trước khi trị liệu, con nên thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh cho con cũng như cho người trị liệu. Đã từng xảy ra nhiều trường hợp bi thảm khi người trị liệu đã chuyển tải ý tưởng cùng cảm xúc từ chính tâm tiềm thức của mình vào tiềm thức của bệnh nhân. Tất nhiên, điều này sẽ không giúp ích cho sự tăng triển tâm linh của con.

Với biện pháp phòng ngừa thích hợp, ta đặc biệt khuyên mọi người tầm đạo nghiêm túc nên xem xét đến việc sử dụng một số hình thức trị liệu. Thật là đáng buồn khi có nhiều người được dạy dỗ là mình phải trở nên khùng điên trước khi mình bắt đầu bất cứ loại trị liệu nào. Đó là một thái độ vô cùng thiếu hiệu quả, cũng gíống như con bảo là con không cần bổ sung vitamin trước khi con bị đau ốm.

Thực tế đơn giản là con đang sinh sống trên một hành tinh với rất nhiều điều kiện tiêu cực, và gần như con không thể lớn lên ở bất cứ nơi đâu trên trái đất mà không gặp phải một loại chấn thương nào đó. Và bởi vì hầu hết mọi người trên hành tinh này đều đã sống qua nhiều kiếp rồi, cho nên gần như ai ai cũng có nhu cầu chữa lành dòng sống của mình. Do đó, đúng vậy, những hình thức trị liệu thích hợp có thể là phương thức hiệu nghiệm nhất để giúp con đạt được quả vị Ki-tô cá nhân của mình.

Nguyên nhân tâm linh của sự mệt mỏi

Hỏi: Đâu là nguyên nhân của sự mệt mỏi mà con đã trải nghiệm trong mấy năm qua? Con sẽ vui mừng xem xét bất cứ điều gì thày tỏ lộ hay khuyên con làm. Con xin cảm tạ và cũng xin Thượng đế phù hộ cho cả hai [thày Giê-su và ông Kim Michaels].


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Khi có vấn đề về thể chất, con luôn luôn nên tìm đến chuyên gia y tế để cung cấp khuyến cáo thích hợp. Về vấn đề này, ta sẽ nói là hầu hết mọi chứng bệnh thể xác đều có liên hệ tương ứng về mặt tâm lý, và trong nhiều trường hợp, một nguyên nhân tâm lý.

Sự mệt mỏi luôn luôn là chỉ dấu năng lượng của con không đang tuôn chảy một cách tự do. Điều này thường do một xung đột trong tâm lý con liên quan đến sứ vụ của con trong cuộc sống. Các xung đột phổ biến nhất gồm có:

  • Thiếu rõ ràng về sứ vụ của con thực sự là gì.
  • Một thành phần của tâm tiềm thức bị thu hút bởi một khía cạnh của sứ vụ của con, trong khi một thành phần khác trong tâm con bị thu hút bởi một khía cạnh khác.
  • Một phần của con bị thu hút bởi sứ vụ tâm linh của con, và một phần khác bị thu hút bởi những thứ thuộc về thế gian.

Khi con bị phân rẽ giữa hai phương hướng khác nhau và không thể tập trung năng lượng của mình, con lâm vào bế tắc tâm linh. Điều này sẽ ngăn cản năng lượng của con tuôn chảy tự do và do đó nó sẽ tích tụ lại trong cơ thể vật lý, dẫn đến mệt mỏi. Con hãy dùng các dụng cụ tâm linh trên trang mạng này để biến hóa năng lượng tồn đọng.

Con có thể sử dụng kỹ thuật hòa điệu nội tâm để đạt được nhiều minh mẫn hơn. Nếu con nhận biết một nỗi xung đột nhất định trong tâm lý, có thể là một vết thương, một vết sẹo tình cảm từ thuở thơ ấu hoặc trước đó nữa, con hãy đi gặp một chuyên gia để tìm cách chữa lành tâm lý.

Tất nhiên sự mệt mỏi cũng có thể xuất phát từ một lực bên ngoài khiến cho năng lượng bị tiêu hao. Điều này có thể xảy ra do một số sinh hoạt như uống rượu hay sử dụng ma túy, do chấn thương hay hoạt động gây căng thẳng. Tuy nhiên, đó cũng có thể là một sự tấn công từ tà lực không nhất thiết sẽ mang triệu chứng hay có nguồn gốc vật lý. Con hãy dùng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh mà các chân sư đã ban truyền.    

Ta khen con sẵn sàng xem xét bất cứ điều gì có thể cản đường tinh tấn tâm linh của con. Chính sự sẵn lòng này để nhìn vào bất kỳ chướng ngại nào là khí giới lớn nhất của con, và nếu con dùng những phương tiện thích hợp, con sẽ phát hiện nguyên nhân gây ra chứng mệt mỏi của con.

Một cách tiếp cận không nhằm làm nguôi bệnh tật và cái chết

Hỏi: Con xin hỏi về ý nghĩa của một cái chết kéo dài đau đớn. Người bạn của con vừa mất hôm qua do một khối u trong não. Anh ấy phát hiện ra căn bệnh cách đây bảy tuần và trong suốt thời gian đó anh đã đau đớn rất nhiều. Anh mất hết nhân tính và trở thành giống như loài thực vật. Đâu là ý nghĩa của một cái chết như vậy đối với chúng con? Và làm thế nào chúng con có thể giúp một người thân trong hoàn cảnh như vậy?     


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đây là một câu hỏi chạm đến rất nhiều đề tài khác nhau. Một phần rất lớn của câu trả lời luôn luôn nằm trong vấn đề nghiệp quả. Có những người là những dòng sống can đảm muốn tiến triển nhanh chóng, và ở những tầng nội tâm của họ hoặc trước khi họ đầu thai, họ đã tình nguyện chuốc lấy một chứng bệnh trầm trọng để cân bằng càng nhiều nghiệp quả càng tốt trong phần đời còn lại, hầu trong kiếp tới họ gặp được một hoàn cảnh tốt hơn. Thậm chí còn có những người chịu đựng một căn bệnh như vậy để cân bằng nghiệp quả một lần chót và hội đủ tư cách thăng thiên.    

Tuy vậy cũng có nhiều yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng, như có những người tình nguyện nhận lấy một căn bệnh ngặt nghèo để phần nào giúp người khác khởi lên lòng từ bi hay mong muốn cứu giúp. Kẻ thù lớn nhất của sự phát triển tâm linh thực sự là lòng vị kỷ, bởi vì khi tự ngã hoàn toàn tập trung vào chính nó, nó biến thành một lỗ đen. Nó biến thành một hệ thống khép kín mà Saint Germain đã có đề cập trong bài giảng tuyệt vời của thày về định luật thứ hai của nhiệt động học.

Và do đó, các vị thày tâm linh của nhân loại đã đề ra rất nhiều phương thức để giúp con người khắc phục tính vị kỷ qua lòng trắc ẩn đối với người khác – họ bị khuấy động đến độ họ sẽ dang tay giúp đỡ người khác thay vì chỉ chú trọng đến bản thân mình. Cho nên quả thực là có những người đã tình nguyện chuốc lấy đủ loại bệnh tật – như trong trường hợp nói trên – hầu khơi lên lòng vị tha nơi người khác. 

Hiển nhiên cũng có những người đã không tình nguyện chuốc lấy bất cứ gì hết, và đơn giản nghiệp quả của họ đã trở nên nặng nề đến độ nó phải bộc lộ ra dưới hình thức một căn bệnh lấy đi mọi khả năng thân xác của họ. Những người như vậy đã không sẵn lòng lắng nghe lời dạy tâm linh – thường là suốt nhiều kiếp qua – và do đó nghiệp quả đã phải giáng xuống để trao cho họ thêm một cơ hội thay đổi hướng đi trong cuộc sống. Chúng tôi là các vị thày của nhân loại, phụng sự địa cầu phần lớn để đưa ra cho mọi người một chọn lựa khác hơn là phải học hỏi qua nghiệp quả. Tiếc thay, chúng tôi chẳng làm được gì nhiều khi người ta cứ nhất định ghi danh theo học Trường đời Cay đắng. 

Cũng có một yếu tố tâm lý nhằm chỉ ra cho mọi người thấy được sự sống là nhiều hơn cuộc sống vật lý. Và đây là một điểm tác dụng trên xã hội hiện đại. Vì con thấy gì trong ngành y khoa hiện đại? Con thấy một cố gắng nhằm tạo ra tình trạng nơi bệnh tật và đau khổ bị cất giấu khỏi con mắt người đời. Gần như con thấy chuyện này ở hai đầu của kiếp người. Đã có những xã hội xem hành vi sinh sản là một đề tài cấm kỵ – đến độ người ta tin rằng trẻ sơ sinh được cò bay đến giao tận nhà, và ngay cả thời nay vẫn có nhiều trẻ em không biết gì về chuyện sinh nở. Nói cách khác, con người bỗng dưng hiện ra trong đời, rồi một ngày kia khi họ chết đi, họ cũng bỗng dưng biến mất khỏi đời.

Nhưng thực tế, tất nhiên, là những gì con tạo ra trong tâm thức thì con cũng phải trải nghiệm trong thế giới vật lý. Bởi vì vũ trụ là một tấm gương. Và điều mà ngành y khoa hiện đại đã làm là cố tạo ra một tình trạng nơi họ có thể chữa trị mọi bệnh tật hay giảm bớt mọi cơn đau để con người không phải trải nghiệm hậu quả trạng thái tâm thức của mình. Bất kỳ chứng bệnh nào cũng là sự hiển thị của một điều kiện nào đó trong tâm thức. Và trong nhiều trường hợp, quả thực bệnh tật có khả năng đưa người bệnh tới điểm nhận ra là mình cần thay đổi, mình cần lượng định lại cuộc sống của mình. Nó có thể kích hoạt sự tăng trưởng tâm linh mà bình thường sẽ không xảy ra nếu họ vẫn luôn mạnh khỏe và chỉ lo thụ hưởng đời sống vật chất bề ngoài. 

Cho nên câu hỏi này gắn liền với một câu hỏi khác về đau khổ. Bởi vì có những người sẽ không chịu học hỏi một cách nào khác. Họ sẽ không học hỏi từ giáo lý tâm linh hay những lời gợi nhắc từ cái ta Ki-tô của họ. Và trong trường hợp đó, cõi vật lý, năng lượng của Mẹ, sẽ trở thành vị thày của họ. Và đó là tại sao cơ thể vật lý của họ bắt đầu biểu lộ ra những điều kiện tâm lý bất toàn ở bên trong.

Đối với một số người chứng kiến người khác phải trải qua sự đau đớn của một căn bệnh ngặt nghèo, họ cũng có thể nhận được ích lợi tâm lý. Hiển nhiên, chúng tôi thà là mọi người học hỏi qua lời dạy tâm linh thay vì phải thấy chính tâm thức mình trình chiếu ra một cách quá khắc nghiệt. Nhưng khi con người không sẵn lòng học hỏi thì chúng tôi phải cho phép Luật Tự quyết trải bày ra để họ thấy được cuộc sống không phải lúc nào cũng dễ dàng và họ không thể thực sự trốn tránh những hậu quả của chọn lựa của mình. Con không thể luôn luôn dùng thuốc giảm đau để làm cho mình tê dại và không còn cảm giác gì nữa.

Về câu hỏi là con có thể làm gì để giúp đỡ những người như vậy, thì câu trả lời là con hãy an bình – để khi con ở bên họ, con không rơi vào cả hai cái bẫy của nhị nguyên, một là nỗi thương xót phàm phu, và hai là niềm tê dại để mình không cảm thấy gì.

Con hãy cho phép mình cảm thấy một niềm an bình nội tâm đem lại cho con lòng trắc ẩn đích thực. Rồi con có thể giúp họ, tạo cảm hứng cho họ lượng định lại cuộc sống, miễn là họ đủ tỉnh táo để làm chuyện đó. Nếu họ đã đi quá mức để có thể tỉnh táo, con có thể, một lần nữa, giữ tâm an bình và giữ sự cân bằng tâm linh cho họ.

Và tất nhiên, chắc chắn con có thể đọc các bài thỉnh và bài chú, để nơi nội tâm, dòng sống đó có thể thức tỉnh mà học được bài học – cho dù tâm vỏ ngoài không còn khả năng học hỏi do đã mất tỉnh táo. Con cũng có thể làm việc với những người chung quanh người bệnh và tìm cách giúp họ lượng định lại đời sống của họ và có được một tầm nhìn tâm linh hơn về cuộc sống.

Khi con trải qua một trận ốm nặng hay con chứng kiến cảnh người thân phải chịu một chứng bệnh hay đau đớn tột cùng – có khi người thân của con suy yếu tới mức con không còn nhận ra họ là con người, hay chắc chắn không phải là con người mà con đã từng quen biết – thì lẽ tự nhiên cảm xúc của con sẽ bị tác động. Nhiều người bị kinh nghiệm đó gây chấn thương, đến độ họ không còn chọn lựa nào khác hơn là đóng chặt cảm xúc mình lại, và mình bị tê đi để không phải chịu đựng nỗi khổ sống qua căn bệnh hay nhìn thấy người thân đau đớn. Điều không thể tránh khỏi là khả năng suy nghĩ minh mẫn của họ sẽ bị che phủ như trong mây mù. 

Một phản ứng thông thường khác là cảm giác vô cùng mạnh mẽ, cảm giác bao trùm lên tất cả rằng mình bị bất lực, mình bị tê liệt không thể làm gì để đem lại thay đổi tích cực – cảm giác rằng chuyện này thật là bất công. Rồi tình trạng bất lực trước hoàn cảnh vỏ ngoài đó thường chuyển thành một nỗi oán hờn bên trong, hay một cơn giận ngày càng dữ dội đến độ cuối cùng nó phải trào ra ngoài và hướng về một ai đó. Một số bệnh nhân đâm ra tức giận đối với người thân hay ngay cả với những người chăm sóc cho mình. Một số khác trút nỗi giận lên Thượng đế, và trong sự phẫn nộ tột cùng, họ thường chất vấn tại sao Ngài lại để cho chuyện đó xảy ra cho họ.

Điều thày muốn nói là mặc dù cả hai loại phản ứng đều có thể hiểu được, nhưng câu hỏi thật sự là liệu cách phản ứng như vậy sẽ có giảm bớt nỗi đau và cải thiện tình trạng thể chất của mình hay không, hay nó sẽ chỉ khiến cho mọi sự tồi tệ hơn?

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, không hề vô cảm trước nỗi thống khổ của loài người. Kỳ thực, trong cương vị đại diện đấng Ki-tô Toàn vũ cho địa cầu, quả thực là ta cảm được – ở một tầng nhất định trong bản thể của ta – niềm khổ đau của từng con người trên trái đất. Như ta đã nói cách đây 2000 năm: “Hễ các người làm điều gì cho một ai hèn mọn nhất trong anh em của ta, thì các người đã làm điều đó cho chính ta” (Matthew 25:40).

Nhưng ta cũng nhận biết trọn vẹn rằng ta là nhiều hơn nỗi đau khổ, và mỗi người trên địa cầu cũng nhiều hơn nỗi đau khổ. Cho nên ta thấy được rõ ràng là để con người trên trái đất thoát khỏi khổ đau, họ cần kết nối lại với thực tại rằng họ cũng là nhiều hơn vậy – một thực tại mà ta từng mô tả: “Và họ sẽ không bảo, Kìa ở đây! hay kìa ở đó! Bởi vì con hãy nhìn, vương quốc Thượng đế ở ngay trong con.” (Luke 17:21)

Vì vậy, tuy rằng các chân sư có lòng từ bi siêu phàm đối với mọi con người đang đau khổ, nhưng chúng tôi không bao giờ bị chìm đắm trong lòng trắc ẩn và luôn luôn cầm giữ niệm tinh khôi rằng con người sẽ nâng cao tâm thức và khăc phục được những giới hạn vỏ ngoài của mình.

Chỉ bằng cách đi vào bên trong mà con mới có thể kết nối với cái ta toàn vẹn của con. Cái ta này là nhiều hơn cái ngã giới hạn bị kẹt trong thân xác vật lý, là cái thân xác đang trải qua một cơn bệnh hay đang chứng kiến một thân xác khác trải qua cơn bệnh. Đạt đến sáng ngộ này là một vấn đề nâng cao tâm thức, nâng cao tầm hiểu của con về cuộc sống. Và nó đòi hỏi một mức suy luận sáng suốt về sự tình – một điều con không thể làm được khi tinh thần con bị suy sụp về cả mặt lý trí lẫn tình cảm, hay khi con cho phép cảm xúc của mình trào ra điên cuồng trong sự nóng giận và đổ lỗi. Ta hoàn toàn hiểu được là lời dạy này sẽ không giúp được mọi người, nhưng con hãy cho phép ta gợi ra một phương thức cho những ai vẫn còn khả năng suy nghĩ thấu đáo. 

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, cảm xúc của con ở một tầng thấp hơn thể lý trí. Cho nên khi con đóng chặt cảm xúc mình lại, hay con để mặc cho nó chạy cuồng loạn, nguyên nhân thực sự nằm trong trí thể của con. Và nguyên nhân là vì con không thể nhìn ra ý nghĩa của tình huống, con không thể hiểu được – và do đó con không thể chấp nhận – tại sao nó lại xảy ra. Con cảm thấy tình huống bị áp đặt lên con một cách bất công bởi một thế lực bên ngoài, cho dù đó là cuộc sống, là số mạng hay Thượng đế.  

Hãy để ta gợi ý nguyên do tại sao quá nhiều người trong xã hội hiện đại không thể hiểu và không thể chấp nhận đau khổ, đó là vì cả hai hệ tư tưởng đang thống trị xã hội này – ta muốn nói là cả đạo Cơ đốc chính mạch lẫn nền khoa học duy vật – không có khả năng đem lại cho họ câu trả lời xác đáng. Vì họ không có câu trả lời cho nên trí thể của họ bị tê liệt và họ không thể kiểm soát cảm thể của họ.

Do đó, mặc dù họ có thể đang rất xúc động và khó lòng kểm chế cơn xúc động một khi nó đã vượt ngoài tầm kiểm soát, câu trả lời thực tiễn duy nhất là họ phải bắt đầu thay đổi cái nhìn của mình về bệnh tật và đau đớn. Nó đòi hỏi họ phải vượt xa hơn cái nhìn về cuốc sống mà cả tôn giáo lẫn khoa học đang đưa ra.

Bắt đầu ở đâu đây? À, không có cách bắt đầu nào hay hơn là quyển sách của Mẹ Mary nơi thày giải thích thực tại cơ bản của cuộc sống:

  • Tâm con có khả năng hình thành tâm ảnh.
  • Con đã được ban cho quyền tự quyết hình thành bất cứ tâm ảnh nào con muốn.
  • Vũ trụ được cấu tạo bằng một chất gọi là Ánh sáng Mẫu-Vật. Chất này có khả năng khoác vào bất kỳ hình dạng nào.
  • Ánh sáng Mẫu-Vật tạo thành một loại gương vũ trụ. Bất cứ tâm ảnh nào con giữ trong tâm – ngay cả ở dưới mức ý thức – cũng sẽ được áp chồng lên Ánh sáng Mẫu-Vật, và ánh sáng sẽ khoác vào hình dạng vật chất tương ứng với tâm ảnh của con.
  • Cho dù con cầm giữ tâm ảnh nào trong tâm đi nữa, cuối cùng con sẽ trải nghiệm nó dưới hình thức những hoàn cảnh vật chất trong đời con.
  • Chìa khóa để thay đổi hoàn cảnh vật chất của con là thay đổi tâm ảnh trong tâm, nghĩa là trong cả bốn tầng của tâm con.

Ta cũng biết thế giới quan nói trên thật là đối chọi với thế giới quan mà cả tôn giáo lẫn khoa học đều đưa ra cho nhân loại. Thế giới quan mà con đã được dạy dỗ khi lớn lên đã được thiết kế để trấn an con và khiến con nghĩ rằng con không có quyền làm chủ vận mạng cũng như các hoàn cảnh vật lý của mình. Điểm này đã được giải thích tường tận hơn ở những nơi khác và ta sẽ không bàn sâu hơn ở đây.

Nếu con bị bệnh và đến tham vấn một vị tu sĩ, vị đó sẽ bảo con cầu nguyện, và nếu cầu nguyện không đem lại kết quả thì dường như con không có cách nào khác nữa. Nếu con đi tham vấn một bác sĩ, vị ấy sẽ bảo con sử dụng y học hiện đại, và nếu y học không đem lại kết quả thì con cũng không có cách nào khác. Cả hai hệ thống tín ngưỡng đều nhằm trấn an con, khiến cho con nguôi dịu, bằng cách bác bỏ sự kiện con chính là kẻ mang trách nhiệm bệnh tình của mình, bác bỏ bệnh tật là cách thức mà các điều kiện trong tâm con trình chiếu ra ngoài, và con có khả năng thay đổi điều kiện vật lý bằng cách thay đổi điều kiện nội tâm.

Vấn đề là cả hai nền triết lý đó đã dạy con người rằng họ không mang trách nhiệm tối hậu về đời họ, và đây là một thông điệp mà tự ngã con người rất thích nghe. Cho nên ta hiểu rõ là nhiều người sẽ khó lòng xoay chuyển và công nhận rằng BẤT KỲ tình huống vật chất nào cũng đều do tâm tự tạo ra và do đó cũng có thể được tâm tháo gỡ bằng cách thay đổi tâm.

Con có thấy điều ta nói ở đây? Tôn giáo bảo con rằng bệnh tật là do hoàn cảnh bên ngoài gây ra và nếu cầu nguyện không đem lại kết quả, con sẽ không còn chọn lựa nào khác. Khoa học bảo con rằng bệnh tật là do hoàn cảnh bên ngoài gây ra và nếu y học không đem lại kết quả, con cũng không có chọn lựa nào khác. Cả hai đều dẫn đến sự tê liệt, và như ta vừa giảng ở trên, đau khổ là do sự tê liệt như vậy gây ra.

Thế giới quan mà ta gợi ý ở đây loại bỏ tình trạng tê liệt đó bằng cách chủ trương bất kỳ hình thức khổ đau nào cũng mang sẵn tiềm năng học hỏi một bài học quan trọng trong đời, một bài học sẽ hữu ích cho con xa hơn cả kiếp này cùng tâm trạng đau khổ hiện thời của con. Tất nhiên, cái giá con phải trả là con phải chấp nhận mình mang trách nhiệm tối hậu về cuộc đời mình. Nhưng một khi con làm điều đó, con sẽ không bao giờ cảm thấy bất lực, tê liệt nữa. Và như thế, khổ đau hoặc sẽ giảm bớt, hoặc sẽ được thay thế bởi niềm vui khi con chú tâm vào tăng trưởng tâm linh.

Hơn thế nữa, khi con chuyên tâm học hỏi và khám phá bài học ẩn giấu sau mỗi tình huống vỏ ngoài, rất có thể con sẽ khắc phục được nguyên nhân đã tạo ra căn bệnh vật chất. Và điều này có thể khiến cho căn bệnh dù trầm trọng đến đâu cũng biến mất – trong nghĩa đen – như trong phép lạ. Kỳ thực chẳng có phép lạ gì cả, mà chỉ là sự ứng dụng những định luật tự nhiên vượt ngoài mức hiểu biết hiện thời của cả khoa học lẫn tôn giáo.   

Thực tế là khi người bệnh chấp nhận một trong hai hệ thống tín ngưỡng đang thống trị xã hội hiện đại, kết quả tất yếu sẽ là sự tê liệt. Điều này sẽ ngăn chặn mọi cách giải quyết điều kiện nội tâm đã tạo ra căn bệnh, và do đó nó sẽ ngăn chặn việc chữa trị. Con thử nhìn xem biết bao người tin vào bác sĩ khi họ nghe tin bệnh tình của mình không có cách chữa. Và khi họ chấp nhận như vậy, họ cũng chặn đứng khả năng giải quyết nguyên nhân căn bệnh.

Con cần hiểu rõ là ở đây ta không nói đến niềm hy vọng hão huyền mà quá nhiều nhà truyền đạo Cơ đốc cổ võ. Việc cầu nguyện – ngay cả khi toàn thể họ đạo cầu nguyện cho con – cũng không đủ đâu. Liệu con có thấy việc đó chỉ thể hiện hệ thống tín ngưỡng nhằm trấn an con và làm cho con nguôi dịu khi bảo rằng đức Chúa Trời, đức Mẹ Mary hay chính thày sẽ phải chữa bệnh cho con qua một phép lạ? Kỳ thực, chính con mới là người đem đến “phép lạ”, tức là phép lạ của tâm khi một chuyển đổi của tâm cũng chuyển đổi các điều kiện vật chất.

Con có thấy chăng là cả khoa học lẫn tôn giáo đều bảo con thế giới vật chất là thực, và các điều kiện vật chất có một thực tại tối hậu hay chăng? Nhưng điều thày nói với con là thế giới vật chất chỉ mang một sắc diện tạm thời, và thực tại của nó không hơn gì chính thực tại mà con đã trao cho nó trong tâm con. Mọi đau khổ trên địa cầu là do tâm con người tạo ra. Và cái do tâm tạo ra có thể được tâm gỡ bỏ – nhưng chỉ khi nào tâm con chuyển hóa thành tâm Ki-tô. Điều này sẽ chỉ xảy ra khi con khám phá và chấp nhận trọn vẹn vương quốc Thượng đế nằm bên trong chính con, và vương quốc này nằm trong tầm tay của con, nghĩa là con có khả năng nâng cao tâm thức ngay bây giờ và thay đổi các điều kiện vỏ ngoài của con ngay bây giờ.

Khi đó, con sẽ có khả năng giữ lấy niệm tinh khôi, hoặc cho con, hoặc cho người khác – như Mẹ Mary có giải thích trong sách của thày. Đây là điều dũng mãnh nhất mà con có thể làm cho người khác, và nó đòi hỏi con không bao giờ chấp nhận bất kỳ giới hạn vật lý nào là thực, mà ngược lại con luôn luôn trụ tâm trong viễn quan tích cực và hiểu biết tuyệt đối – vượt khỏi mọi tín ngưỡng bình thường – rằng Ánh sáng Mẫu-Vật rốt cuộc sẽ trải bày ra hình ảnh toàn hảo mà con đã phóng chồng lên nó. Tuy nhiên, muốn giữ được niệm tinh khôi một cách trọn vẹn, con không thể là một ngôi nhà phân rẽ, và đó là tại sao con phải gắng sức giải quyết các điều kiện tâm lý đã tạo ra căn bệnh ở khởi thủy. Một khi con ngộ được điều ta mô tả ở đây – một sự chứng ngộ vượt khỏi tín ngưỡng, vì nó sử dụng chìa khóa của hiểu biết đích thực – con sẽ nắm được chân lý trong câu nói của ta, rằng đối với con người thì việc đó không thể, nhưng đối với Thượng đế thì tất cả mọi việc đều có thể. Nguyên trang mạng này chỉ nhắm mục đích giúp con khám phá và chấp nhận thực tại đó. Vậy con hãy học hỏi và đem ra áp dụng

AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế không?

Hỏi: AIDS có phải là hình phạt của Thượng đế đối với người đồng tính hay không, như một số nhà truyền đạo cực chính thống tuyên bố? Con không nghĩ đó có thể là hình phạt, nhưng phải chăng Hội đồng Nhân quả đã quyết định để cho AIDS thị hiện hầu dạy cho con người một bài học về tình dục?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Con nói đúng khi con bảo AIDS không phải là hình phạt của Thượng đế. Hình ảnh một Thượng đế nóng giận và trừng phạt là một thần tượng đã được phóng chiếu vào Thượng đế vào thời Kinh Cựu ước, như ta đã giải thích ở một nơi khác. Đó là một hình ảnh giả dối, và do đó nó cũng vi phạm điều răn thứ nhì. Thượng đế chân thực là một Thượng đế của tình thương vô điều kiện. Ta đã đến địa cầu một phần là để trao cho loài người một hình ảnh mới về ngài, tức là hình ảnh một người Cha nhân từ mà mọi người đều có khả năng tiếp xúc trực tiếp.

Khi ta nói mọi người “Hãy yêu thương Chúa, Thượng đế của con, với trọn con tim, trọn tâm hồn và trọn tâm trí” (Matthew 22:37), trong cốt yếu ta muốn bảo mọi người hãy bỏ lại đằng sau hình ảnh cũ về một Thượng đế nóng giận. Làm sao con có thể yêu được một Thượng đế nóng giận sẵn sàng trừng phạt con vì một lỗi lầm dù nhỏ nhặt nhất?

Chẳng phải nói, ta buồn vì có quá nhiều tín hữu đạo Cơ đốc ngày nay vẫn còn bám giữ một hình ảnh về Thượng đế đã lỗi thời từ 2000 năm qua, lại còn đối nghịch trực tiếp với hình ảnh mà ta giảng dạy. Ta càng buồn hơn khi thấy quá nhiều tín hữu Cơ đốc sử dụng hình ảnh giả dối này để phán xét và lên án đồng loại của mình. Và ta buồn hơn nữa vì ta biết Luật của Thượng đế không thể bị nhạo báng, cho nên các tín hữu đó sẽ không tránh khỏi bị phán xét theo cùng tiêu chuẩn mà họ đã phán xét người khác.

Như ta đã giải thích suốt trang mạng này, Thượng đế đã tạo ra một quy luật cơ học sẽ gửi trả lại cho con mọi năng lượng mà con gửi vào vũ trụ. Điều này được ghi rõ trong Kinh thánh: “Con đừng bị dối gạt; Thượng đế sẽ không bị nhạo báng, vì người ta gieo gì thì sẽ gặt nấy” (Galatians 6:7). Có thể nói vũ trụ vận hành như một tấm gương phản chiếu lại cho con bất cứ điều gì con làm cho người khác. Đó chính là lý do ta đã dạy con: Hãy làm cho người khác những gì con muốn vũ trụ làm cho con.

Do đó, AIDS là một sản phẩm của nghiệp quả loài người, kết quả của việc họ không ngừng tha hóa năng lượng của Thượng đế. Trong trường hợp ở đây, sự tha hóa năng lượng xảy ra qua tình dục, và đó là tại sao nó được phản chiếu lại dưới hình thức một chứng bệnh lây truyền qua đường tình dục. Đặc biệt, việc tha hóa năng lượng dẫn tới bệnh AIDS đã xảy ra qua sự chung chạ bừa bãi, qua đó ta muốn nói đến quan hệ tình dục hoàn toàn với mục đích thỏa mãn các loại cảm xúc thấp kém (vị kỷ) mà không dựa trên cảm xúc sâu xa hơn là tình thương (vị tha).

Thật ra, dạng sinh hoạt tình dục này xuất phát từ lòng khinh rẻ đối với thánh đường xác thân, không xem đó là món quà của Thượng đế, một cỗ xe để giúp dòng sống giải thoát khỏi vũ trụ vật chất. Nó sẽ chỉ buộc chặt dòng sống hơn vào vũ trụ vật chất. Kỳ thực, nhiều người tham gia vào sinh hoạt tình dục thiếu tình thương như vậy mang một nỗi oán giận đối với xác thân mà thường thường họ không nhận ra. Và bởi vì xác thân con người được tạo bằng năng lượng của Mẹ – Ánh sáng Mẫu-Vật – cho nên đó cũng là nỗi oán giận đối với Mẹ. Đây là cùng nỗi oán giận đã khởi đầu với sự sa ngã của Lucifer, như Mẹ Mary đã giải thích trong bài giảng của thày.

Khi thật nhiều người không ngừng tham gia vào một sinh hoạt tha hóa năng lượng, sự căng thẳng sẽ ngày càng chồng chất. Con có thể so sánh với nước dâng lên đằng sau con đập. Nước tạo áp lực trên đập và cuối cùng đập sẽ vỡ ở điểm yếu nhất của nó. Đây chỉ đơn giản là một tiến trình cơ học, và nếu con biết rõ áp suất cùng các nhược điểm trên đập, con có thể tính trước khi nào và ở điểm nào nước sẽ xối vào.

Sức căng thẳng của nghiệp quả cũng giống như vậy, nó gia tăng và chồng chất khi có nhiều người sống chung chạ. Hiển nhiên chuyện này đã tiếp diễn ra từ rất lâu, cho nên có một lượng nghiệp quả to lớn đã tới hạn xuất hiện vào cuối Thời đại Song ngư. Nghiệp quả phải được cân bằng trước khi nhân loại có thể nhảy vọt vào tâm thức của Thời đại Bảo bình, và đó là tại sao bệnh AIDS đã xuất hiện vào thời điểm đó. Trong mấy chục năm qua và bắt đầu từ thập niên 1960, đã có một sự gia tăng trong tình dục chung chạ cùng nhiều hình thức đồi bại tình dục, như hình ảnh khiêu dâm, nô lệ tình dục, xâm hại tình dục trẻ em, v. v…

Tất cả những thứ đó đã tạo sự căng thẳng, bắt đầu trong cõi cảm xúc ở ngay trên cõi vật lý về độ rung. Ta đã giải thích điều này chi tiết hơn ở một nơi khác. Khi căng thẳng đạt đến mức tới hạn, nó bắt đầu đột nhập vào cõi vật chất, và đó là khi con chứng kiến một số sự kiện vật lý, như trong trường hợp này là các đợt bùng phát đầu tiên của virus AIDS. Đương nhiên, cũng giống như đập nước, đợt bùng phát đầu tiên xảy ra nơi những điểm yếu nhất, và trong trường hợp này, đó là những khu vực nơi năng lượng tình dục đang bị lạm dụng.

Ta chắc chắn hầu hết những ai không thiên vị đều biết là lối sống chung chạ khá phổ biến trong cộng đồng người đồng tính nam cũng như tại nhiều vùng châu Phi, Sự thật là Thượng đế không hề có ý định trừng phạt một nhóm người nào, và cũng không hề có sự phán xử dựa trên chủng tộc hay xu hướng tình dục. Đơn giản chỉ có một tác động máy móc khi căng thẳng nghiệp quả đạt tới một cường độ nào đó thì nó sẽ xuất hiện trong đời sống những ai dễ bị tổn thương nhất bởi dạng quả báo này. Trong trường hợp ở đây, nguyên nhân gây ra tiềm năng tổn thương là sự từ chối hạn chế các sinh hoạt tình dục chung chạ. Tại châu Phi lẫn trong cộng đồng người đồng tính nam, có những tin tưởng văn hóa cho rằng tình dục chung chạ không mang hậu quả tiêu cực nào. Người ta bịt tai không chịu lắng nghe nhiều lời cảnh báo từ cả khoa học lẫn tôn giáo cho thấy mọi hành động đều mang hậu quả.

Con có đề cập đến Hội đồng Nhân quả. Đây là nhóm các sinh thể thăng thiên trông coi sự phát triển tâm linh của nhân loại với nhiệm vụ giúp cho con người giải thoát khỏi lực kéo hướng hạ do nghiệp quả của họ. Con nên cẩn thận đừng ghép hình ảnh Thượng đế nóng giận cho Hội đồng Nhân quả. Kỳ thực, các thành viên của Hội đồng không định đọat ai sẽ là người nhận nghiệp quả nào và vào thời điểm nào. Điều đó do một định luật hoàn toàn cơ học quy định.

Điều Hội đồng Nhân quả có thể làm là gác lại một phần nghiệp của một cá nhân hay một nhóm người để tạo cơ hội cho họ phát triển tâm linh. Nói cách khác, nếu có ai đó tỏ ra thật sự sẵn lòng cải hóa trong chiều hướng tích cực nhưng lại có nghiệp báo sắp sửa cản trở bước tiến của họ, thì Hội đồng Nhân quả có khả năng gác lại nghiệp đó cho tới mùa sau. Điều này sẽ cho phép người đó tích tụ nghiệp tốt – là điều mà ta gọi là “cất giữ của cải trên trời” (Matthew 6:19-20) – để giúp họ trả quả dễ dàng hơn. 

Thế nhưng Hội đồng Nhân quả không quyết định điều này một cách tùy tiện. Tất cả được định đoạt dựa trên khả năng của dòng sống có sử dụng được cơ hội đó hay không. Nói cách khác, Hội đồng Nhân quả lượng định xem đâu là tiềm năng lớn nhất để trợ giúp sự phát triển tâm linh của dòng sống. Nếu họ sẵn sàng thay đổi thì việc gác lại một phần nghiệp chướng thường là cách tốt nhất để giúp họ. Nhưng nếu họ không sẵn lòng thay đổi, việc cho phép họ trải nghiệm hậu quả của nghiệp chướng thường là giải pháp duy nhất để đánh thức cho họ mở mắt ra với thực tại cuộc sống, tức là để họ hiểu ra là họ sẽ gặt hái những gì họ gieo.

Trong trường hợp bệnh AIDS, chuyện đơn giản xảy ra là đã không có đủ túc số những người sẵn lòng thay đổi thái độ của mình để dẫn đến quyết định gác lại nghiệp quả. Sự thể này cũng tương tự như khi Sodom và Gomorra bị hủy diệt (Sáng thế 18). Câu chuyện này trong Kinh thánh kể lại sự kiện có dân tộc kia gây ra một nghiệp chướng rất nặng nề do lạm dụng năng lượng tình dục – năng lượng này chính là lực sống, cho nên nó tạo nghiệp to lớn khi bị lạm dụng. Nghiệp mãnh liệt đến độ nó chực tràn vào cõi vật chất.

Abraham được Hội đồng Nhân quả giao trách nhiêm làm sứ giả. Ông khẩn khoản Hội đồng hãy gác lại nghiệp quả cho thành phố nếu ông tìm được đủ số người công chính. Như con có thể đoán được từ câu chuyện, Hội đồng Nhân quả đã có thể “tha thứ” cho thành phố đó nếu có đủ túc số người công chính. Nhưng khi không tìm ra số người đó thì Hội đồng không có lý do gì đình chỉ nghiệp báo. Định luật nghiệp quả – định luật của hành động và phản ứng – đòi hỏi năng lượng phải được phép chảy theo dòng tự nhiên của nó, và các thành phố đó đã bị thiên tai tiêu diệt tan tành. Ta không nói là mọi khía cạnh của câu chuyện trên đều chính xác trong nghĩa đen, nhưng nó chứa đựng một sự thật tiềm ẩn về cách nghiệp quả phản hồi như thế nào.    

Thời nay, một lần nữa lại có nghiệp quả được phản hồi do việc lạm dụng năng lượng tình dục. Tuy nhiên nó không tập trung tại một hai thành phố mà là một vấn nạn toàn cầu. Cho nên lực nghiệp phản hồi đã khoác vào hình dạng một chứng bệnh lan truyền qua đường tình dục – và tất nhiên, nó chỉ có thể lây truyền bởi những ai chung chạ tình dục.

Ta cũng muốn nói thêm rằng virus thật ra không phải là một tạo vật của Thượng đế. Thượng đế không bao giờ tạo ra bất kỳ loại virus nào. Mọi virus đều được tạo ra một cách “nhân tạo” trong các phòng thí nghiệm của tà lực ngụ nơi cõi cảm xúc hay cõi trung giới. Rồi virus có thể được chuyển vào cõi vật chất tại những khu vực nơi độ rung đã xuống thấp đến nỗi cả khu vực rung động ở cùng tần số với cõi trung giới – và đó là một số vùng ở châu Phi cùng một số thành phố lớn nơi năng lượng tình dục bị lạm dụng trầm trọng. Một khi virus đã xâm nhập vào cõi vật chất, nó có thể lây lan qua các phương tiện vật chất, mặc dù chỉ những ai mang nghiệp lực tiềm tàng mới mắc bệnh.

Tuy nhiên trong trường hợp AIDS, ta phải nói với con là virus đã băng qua lằn ranh vật lý trước tiên tại một số phòng thí nghiệm bí mật, sau đó nó đã lây lan phần nào do một cuộc thử nghiệm không kiểm soát. Hiển nhiên, những người làm chuyện này bị đui mù bởi nghiệp chướng và lòng kiêu hãnh cho nên họ dễ rơi vào vòng khuynh đảo của tà lực. Nguyên vụ này sẽ không xảy ra nếu nhân loại đã không tạo ra nhược điểm nghiệp quả, nghĩa là không có lý do gì để đổ lỗi cho những ai đã trở thành công cụ cho virus AIDS vượt hàng rào. Họ chỉ là điểm hội tụ của nghiệp chung, và con virus đã có thể băng qua bất kể. Kỳ thực, virus đã băng qua và xâm nhập vào cõi vật chất ở nhiều địa điểm khác nhau, có nghĩa là toàn bộ dịch bệnh này không khởi phát từ một nguồn gốc vật lý duy nhất.      

Vậy làm thế nào để tự bảo vệ khỏi virus này? Rõ ràng, thay đổi cách hành xử của mình là cách bảo vệ tốt nhất. Chấm dứt mọi quan hệ tình dục chung chạ, sau đó vươn lên và thay đổi thái độ của mình đối với tình dục, tìm cách chữa lành tâm lý cho không còn bất kỳ nỗi oán giận vô thức nào đối với ánh sáng của Mẹ. Như ta vừa nói, virus lây lan là một tiến trình cơ học khi lực căng thẳng nghiệp chướng điều khiển cơ chế virus tìm ra điểm yếu nhất trong xã hội. Cho nên con cần chắc chắn con không là một trong số các điểm yếu đó qua cách hành xử và thái độ tình dục của mình.

Tất nhiên, con cũng có thể dùng bài nguyện tràng hạt cho Đại thiên thần Michael để tự niêm mình lại khỏi các năng lượng tình dục tha hóa, và bài nguyện tràng hạt cho Mẹ Mary để tẩy sạch trường năng lượng của con và biến hóa các nghiệp chướng cũ. Tuy nhiên, những biện pháp đó chỉ hiệu quả tối đa nếu con thực lòng muốn cải sửa cách hành xử và thái độ của con. Nói cách khác, con hãy cho Hội đồng Nhân quả lý do tốt nhất để Hội đồng gác lại bất kỳ nghiệp quả nào có thể khiến con mắc bệnh AIDS. Các biện pháp nói trên cũng có thể giúp cho những ai đã nhiễm HIV tránh không biểu hiện các triệu chứng của căn bệnh, và nó cũng có thể giảm bớt các triệu chứng đã mắc phải. Điều ta muốn nói là – như mọi chứng bệnh khác – quả là có một cách trị liệu tâm linh cho bệnh AIDS.

Nguyên nhân tâm linh của bệnh trầm cảm và cách chữa trị

Hỏi: Con tưởng con đã chiến thắng được chứng trầm cảm nhưng hình như con vẫn chưa làm được. Không phải là con muốn tự vận hay con thèm hút thuốc, dùng ma tuý hay uống rượu đâu. Đơn giản là con chỉ mệt mỏi. Con đã chán ngấy tất cả mọi thứ. Con chán chường thế gian này. Nhiều khi con không muốn gì khác hơn là nổ tung ra để nhập vào cái Tất cả. Nếu Thượng đế là đại dương và con là giọt nước thì con muốn trở về trong đó. Con biết là con còn một phần vụ mà con phải hoàn tất trước khi con được phép VỀ NHÀ nghỉ ngơi, nhưng đơn giản là con chán ghét chuyện phải quay trở về nơi đây. Cho nên con tự hỏi, không hiểu thày có thể nói cho con biết chuyện gì đang xảy ra? Liệu thày có biết tại sao con phải phấn đấu như thế này? Con không muốn ai thông cảm hay thương xót con mà con chỉ muốn hiểu những căng thẳng đang giằng xé con. Con luôn cảm thấy niềm thôi thúc muốn bỏ đi đâu thật xa, và y như thày đã từng đi vào vùng hoang vắng, con cũng bị thu hút đi vào rừng rậm.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Đệ yêu dấu, con chỉ đang mô tả tiến trình mà hầu hết mọi dòng sống đều đi qua khi họ đạt đến những mức cao của đường tu tâm linh. Tới một lúc dòng sống bắt đầu nhận ra là y khao khát một cái gì cao hơn các thú vui của cuộc sống. Dòng sống bắt đầu nhận chân được thực tại nằm sau những câu sau đây trong Kinh thánh:

  • Phù phiếm của mọi phù phiếm – vị thày nói như thế – hư ảo của mọi hư ảo, tất cả đều là hư ảo. (Ecclesiastes 1:2)
  • Ta đã thấy mọi sự xảy ra dưới mặt trời, và kìa, tất cả đều là hư ảo, là sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 1:14)
  • Ta nhủ trong lòng rằng: Hãy đến, ta sẽ vui mừng thử xem có hưởng được thú vui, và kìa, cái đó cũng hư ảo. (Ecclesiastes 2:1)
  • Xong ta nhìn tất cả mọi việc mà tay mình đã làm cùng mọi lao khổ mà mình đã bỏ ra để hoàn thành, và kìa, tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh, chẳng có ích lợi gì dưới mặt trời. (Ecclesiastes 2:11)
  • Xong ta nhủ trong lòng rằng: Như chuyện xảy đến cho người vô minh, chuyện này cũng xảy đến cho ta, và làm sao ta lại khôn ngoan hơn được? Xong ta nhủ trong lòng rằng: Cái đó cũng là hư ảo. (Ecclesiastes 2:15)
  • Cho nên ta chán ghét đời sống, vì mọi sự dưới mặt trời đều nhức nhối cho ta, vì tất cả đều là hư ảo và sự tha hóa của tánh linh. (Ecclesiastes 2:17)

Đây là trạng thái tâm thức mà ta đã từng mô tả như sau: “Nếu có ai theo ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và ngay chính đời sống của mình, thì người đó không thể là môn đồ của ta.” (Luke 14:26)

Khi con leo đường tu tâm linh, không thể tránh được là con sẽ đạt tới điểm không có đường quay trở lại, khi con nhận ra là con không thể tiếp tục sống như một người bình thường cứ đắm chìm trong các nỗi vui buồn của thế gian. Con muốn bỏ thế gian lại đằng sau, nhưng động lực nằm bên dưới cảm nhận này là con muốn bỏ lại cái tâm thức thấp kém của tâm nhị nguyên. Đó chính là tâm thức khiến cho mọi sự trong thế gian này hiện ra là hư ảo. Và thật vậy, chừng nào một người còn bị kẹt trong tâm nhị nguyên thì mọi sự sẽ đều là hư ảo. 

Cho nên sẽ tới một điểm trên đường tu tâm linh khi dòng sống bắt đầu “ghét” tất cả những phần của đời sống dựa trên tâm nhị nguyên, và chính ở điểm này y mới có thể thực sự vươn lên tâm thức Ki-tô. Như ta đã giảng, dòng sống không thể nào phục vụ hai vị chủ, cho nên khi nào y chưa quyết định bỏ lại tâm nhị nguyên thì y sẽ không thể là một đệ tử đích thực của tâm thức Ki-tô.

Từ rất lâu, trạng thái tâm thức này rất phổ biến trong số những dòng sống đã đầu thai trên địa cầu. Tuy họ tham gia vào đủ loại sinh hoạt mà địa cầu cống hiến, nhưng trong thâm tâm họ có phản ứng: “Tôi đã bước chân tới đây rồi, tôi đã làm chuyện này rồi.” Họ cảm thấy không còn gì thêm trên hành tinh này mà họ muốn thực hiện, và họ muốn bước đi tiếp, muốn bước ra khỏi những giới hạn bắt buộc của thế gian.

Ta có thể hiểu được lý do tại sao nhiều người lại cảm thấy như vậy vì chính ta cũng đã trải qua tiến trình này 2000 năm trước đây. Hẳn con cũng biết giữa thời điểm ta xuất hiện tại Nhà thờ vào tuổi 12 và thời điểm ta xuất hiện ở tiệc cưới tại Cana, kinh Tân ước đã không ghi lại bất cứ gì về những nơi ta đã đến cũng như những việc ta đã làm. Suốt 17 năm “biệt tăm” này, quả là ta đã trải qua một giai đoạn trầm cảm sâu sắc, và ta đã phải đương đầu với chính cái tâm thức mà con vừa mô tả.

Điều đã giúp ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm đó của dòng sống – và cũng là điều đã giúp cho tất cả mọi dòng sống khác đã từng đối mặt với vấn đề này – là rốt cuộc ta đạt tới điểm nhận ra là mặc dù không còn công việc nào mình muốn làm cho cá nhân mình trên hành tinh này, nhưng vẫn còn nhiều công việc mà ta có thể làm cho tha nhân. Ta cũng có thể giúp Thượng đế đem lại vương quốc của ngài trên địa cầu.

Bạn yêu dấu, con thấy đó, như ta có mô tả trong một bài giảng khác, sẽ tới một điểm khi một dòng sống không thể tiếp tục học hỏi nếu y không bắt đầu chỉ dạy cho người khác. Và như Mẹ Mary giải thích trong bài giảng tuyệt vời của thày, một dòng sống có thể đạt tới điểm khi cách duy nhất để y tiến xa hơn là trở thành người đày tớ cho mọi người.

Khi một dòng sống lần đầu tiên bước xuống địa cầu, công việc của y là đặt trọng tâm vào bản thân mình. Đó là công việc thu thập nhiều trải nghiệm, xây dựng một ý niệm bản sắc mạnh mẽ, vững vàng. Nói cách khác, dòng sống cần tập trung vào chính mình hầu trau dồi một ý niệm bản sắc vững vàng. Quả vậy, có nhiều dòng sống trên địa cầu đang hoàn toàn chú tâm vào công việc này, và mặc dù họ có vẻ vị kỷ hay chỉ biết lo cho mình, nhưng họ đang làm đúng điều mà họ cần làm trong giai đoạn phát triển tâm linh hiện thời của họ.

Tuy nhiên khi dòng sống tiếp tục tăng triển, sẽ tới một điểm khi y đã tạo dựng được một nền tảng vững chắc, một ý niệm bản sắc vững mạnh – có thể nói là y đã lấp đầy cái khuôn đúc của cỗ xe bốn tầng, đã neo chặt vào ý niệm bản sắc của mình – thì ở điểm đó, dòng sống thật sự không có cách nào tăng triển được nếu y cứ mãi tập trung vào chính mình. Cho nên có hai chọn lựa mà y có thể đi theo:

  • Nếu dòng sống tiếp tục chú tâm vào bản thân, y sẽ không tránh khỏi chìm vào một sự vô vọng, tuyệt vọng, một cảm giác mất hết mục đích hay ý nghĩa, và điều này chắc chắn sẽ dẫn đến trầm cảm. Nhiều người, đặc biệt trong các giới Thời mới, đã đạt tới điểm này rồi, và họ bước vào một vòng xoắn ốc dường như bất tận luôn luôn tìm kiếm cho bản thân mình một trải nghiệm tâm linh tối hậu, khiến họ không ngừng đi theo các lớp tu học hay tìm cách trị liệu tâm lý. Nhưng cho dù họ có cố gắng đến đâu, họ vẫn không làm sao trải nghiệm được niềm thỏa nguyện cá nhân đó. Lý do là vì họ tìm kiếm cái đó trong một tinh thần vị kỷ thay vì vượt ra ngoài phàm ngã con người để vươn tới cái ta thần thánh – tức là cái ta hợp nhất với mọi sự sống và do đó cũng tìm được sự thỏa nguyện trong việc giúp đỡ tha nhân. 
  • Chọn lựa kia là dòng sống có thể thăng vượt ý niệm bản ngã hạn hẹp của mình và nhận ra là không một dòng sống nào là một hòn đảo. Một khi con đã xây dựng được một ý niệm bản sắc mạnh mẽ – tức là con biết rõ mình là ai như một dòng sống cá biệt – thì bước kế tiếp lô-gíc là con sẽ tiếp tục bồi đắp cái nền tảng đó, phát triển một ý niệm mạnh mẽ rằng con là ai trong sự nối kết với Thượng đế, cũng như trong sự nối kết với thế giới nơi con đang sống. Đó là điểm mà con có thể với tới tâm thức Ki-tô, và cuối cùng nó sẽ giúp con thấy được Thượng đế trong tất cả mọi vật đã từng được sinh tạo. Nó sẽ đem lại cho con một cảm nhận nối kết mạnh mẽ với mọi người cũng như với Mẹ địa cầu. 

Chính cảm nhận từ bi ngày càng sâu đậm này đã giúp cá nhân ta thoát ra khỏi tình trạng trầm cảm, sống không mục đích. Chính lòng từ bi đã khiến ta trở về đất Israel và nhận lấy vai trò thể hiện Ki-tô Hằng sống trên trái đất. Chính lòng từ bi đã khiến ta sẵn lòng đi muốt con đường và dâng hiến cả mạng sống của mình cho công cuộc đánh thức loài người về sự thực của tâm thức Ki-tô.

Bạn yêu dấu, con – cũng như nhiều dòng sống khác giống như con – đã bước đến một ngã ba trên con đường tiến hóa của dòng sống của con. Con có thể tiếp tục sống trong trạng thái hiện thời của mình là chỉ chú tâm vào bản thân mình rồi trở nên vô vọng, hay con có thể tìm kiếm chính con một cách nghiêm túc để khám phá ra cái điểm trong nội tâm nơi con đã lấy quyết định ngăn cản bước tiến của con. Một khi con phát hiện được quyết định đó, con sẽ có thể thay thế nó với một quyết định khác là tìm cầu tâm thức Ki-tô, vượt ra khỏi ý niệm bản ngã hạn hẹp, ý niệm bản sắc giới hạn của mình, để con thấy mình là thành phần của một tổng thể rộng lớn hơn.

Nếu con thực tâm bước vào tiến trình này, con sẽ có thể nhanh chóng trải nghiệm một sự quay đầu toàn diện trong đời con, và con sẽ chứng được một lòng từ bi cũng như một mục đích sống vô cùng mạnh mẽ. Khi đó, con có thể trở thành một trong số những sinh thể Ki-tô mà ta luôn nói tới trên trang mạng này. Con có thể đóng góp phần mình để đem lại vương quốc Thượng đế trên địa cầu, nâng nhân loại lên một tầng tâm thức cao hơn. Bạn yêu dấu, đó chẳng phải là một mục đích đáng theo đuổi hay sao?

Con hãy nhìn quanh trên hành tinh này có bao nhiêu người bị nghèo đói tâm linh, bao nhiêu người cần có người hướng dẫn mà không cưỡng ép họ gia nhập một tôn giáo vỏ ngoài nào đó. Nếu điều này không động viên tinh thần của con thì con hãy nhìn xem có bao nhiêu vấn đề vật lý đang chờ người đứng ra giải quyết. Thật không thiếu gì những việc lành mà con có thể tham gia để giúp người khác, và ta có thể cam đoan với con rằng làm việc lành và giúp tha nhân là cách nhanh nhất – và nhiều khi là cách duy nhất – để chữa trị chứng trầm cảm.

Con hãy bỏ công ra tìm kiếm cái điểm bên trong dòng sống của con nơi con yêu thương mục đích của Thượng đế thật tha thiết. Xong con hãy cho phép tình thương đó tiêu hủy mọi cảm nhận cuộc đời này là vô nghĩa. Hãy cho phép tình thương đó đánh thức con người thực của con và lý do con đã chọn đến địa cầu này ở thời điểm mấu chốt hiện nay. Hãy cho phép tình thương đó đốt sạch mọi bợn nhơ của lòng vị kỷ và trầm cảm đã ngăn cản con là con người mà con thực là.

Ta cần đến con và những người như con – những người cảm thấy mình đã làm mọi chuyện có thể làm trên hành tinh này, những người sẵn lòng gạt sang một bên các thú vui của thế gian để phục vụ cho một mục đích cao hơn. Ta cần đến con. Thượng đế cần đến con. Hành tinh cần đến con. Mọi người khác cần đến con. Và chính con cũng cần khắc phục sự chú tâm vào bản thân, con cần tự giúp mình tiến lên để giúp đỡ người khác. Bạn yêu dấu, liệu con sẽ cần nhiều khích lệ hơn thế hay sao? Vậy thì chúng ta hãy chú tâm vào công việc của Cha chúng ta!

Xâm mình không đem lại quyền năng tâm linh

Hỏi: Con có 6 cái hình xăm trên người, một con rồng, một con rắn hổ mang, một con báo, một con cá mập, một nàng tiên cá và vị thần Ai Cập Anubis. Hình xăm sắp tới sẽ là một nàng tiên. Chẳng phải là người ta nhận được quyền năng từ hình xăm hay sao? Và lý do gì khiến cho người ta chọn một hình xăm nào đó? Liệu trong tiềm thức có một lý do sâu xa hơn là ý nghĩa thông thường của hình xăm?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Ngược với sự suy nghĩ của nhiều người, kể cả những người đi theo phong trào tâm linh thổ dân (native spirituality), con sẽ không nhận được quyền năng tâm linh nào từ một hình xăm. Con có thể nhận được năng lượng từ một hình xăm, nhưng đó không phải là năng lượng tâm linh.

Rất nhiều thứ mà người ta làm để tô điểm, trang sức cho cơ thể vật lý kỳ thực thể hiện một thái độ xem thường thánh đường xác thân. Những thứ đó bao gồm hình xăm, xâu khuyên trên cơ thể, thậm chí cả những cách trang điểm thái quá. Những cách như vậy xuất phát ở nguyên thủy từ lòng oán hận đối với Mẹ, bởi vì chính năng lượng của Mẹ được sử dụng để tạo ra thánh đường xác thân.

Vì vậy ta thật khuyên mọi người không nên làm theo những cách đó. Ta cũng biết là hầu hết các bạn trẻ trong thế giới ngày nay sẽ bỏ ngoài tai lời khuyên này của ta. Nhưng ta có thể cam đoan với con rằng việc làm ô uế thánh đường xác thân dù bằng cách nào đi nữa, kể cả việc sử dụng ma túy, sẽ không giúp cho con tăng triển tâm linh. Nó sẽ chỉ khiến cho sự tăng triển bị trì trệ, và đối với nhiều người, nó có thể chặn đứng sự tăng triển.

Bất cứ việc gì con làm đều có một lý do tâm lý. Con bị thu hút bởi một hình xăm nào đó do nó diễn bày ra những gì đang xảy ra trong tâm tiềm thức của con. Hình ảnh tác động rất mạnh mẽ trên tâm con người, và suốt lịch sử, hình ảnh đã được sử dụng để nâng cao tâm thức con người hay bị lạm dụng để kiểm soát tâm thức con người.

Trong thế giới ngày nay, hình ảnh đang bị lạm dụng nhiều hơn tất cả mọi thời kỳ khác trong quá khứ. Chuyện này đặc biệt đúng cho các hình ảnh tình dục, hình ảnh chết chóc, hay bất kỳ loại hình ảnh phản hài hòa nào khác với đường nét nhọn hoắt, lởm chởm, những hình dạng mất cân đối, những màu sắc tối tăm hay đối chọi.

Như ta đã giải thích ở một nơi khác, thế giới được sinh tạo từ những hình ảnh được giữ trong tâm Ki-tô toàn vũ. Trên hành tinh này, loài người đã tác động lên sự sáng tạo ban đầu của Thượng đế, phần lớn do những hình ảnh bất toàn mà con người cầm giữ trong tâm mình. Cho nên những thế lực muốn ngăn trở kế hoạch của Thượng đế và biến loài người thành nô lệ, đã khôn khéo sử dụng hình ảnh bất toàn để kiểm soát con người, khiến con người đồng sáng tạo một thế giới cũng bất toàn như thế.

Nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con nên vô cùng thận trọng với những loại hình ảnh mà con cho phép đi vào tâm con. Tâm con là một thánh đường bên trong, cho nên con đừng đem vào đó bất cứ gì không đồng nhịp với mức tâm thức tâm linh mà con muốn đạt được. Cơ thể của con là thánh đường bên ngoài, cho nên con đừng làm điều gì trên cơ thể mà không hỗ trợ sự tăng triển tâm linh của con.

Nguyên nhân tâm linh của chứng dị ứng

Hỏi: Con nghĩ đây có thể xem là một câu hỏi chung chung, không mang tính cá nhân. Sữa đậu nành và các sản phẩm đậu nành có phải là loại thức ăn lành mạnh, hay các phyto-estrogen có gây vấn đề gì cho trẻ em? (Con trai và con gái của con uống sữa gạo và ăn một ít đậu nành do bị dị ứng thực phẩm)


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/12.

Gần như không có câu hỏi nào về sức khỏe mà là câu hỏi chung chung, con ạ. Tự thân các chứng dị ứng đều là những trường hợp cá nhân. Một số trẻ em có thể dị ứng các sản phẩm đậu nành, nhưng một số trẻ em khác thì dùng đậu nành mà không bị tác dụng tiêu cực nào. Điều này cũng áp dụng cho sữa bò và các sản phẩm chế tạo từ sữa, cho dù chưa được ngành y tế công nhận đầy đủ.   

Nói chung, gạo là một trong những loại thực phẩm ít gây dị ứng nhất trên trái đất. Tuy nhiên, như trong mọi vấn đề liên quan đến ăn uống, điều quan trọng là cần giữ sự cân bằng, tránh ăn một thứ quá nhiều. Cho nên ta khuyên con nên tìm đến một cơ quan thử nghiệm xem hai đứa con của con dị ứng những loại thực phẩm nào. Việc này không cứ là phải do một chuyên gia y tế thực hiện mà có thể là một nhà chuyên môn lành nghề trong ngành thử nghiệm cơ bắp.

Một điều nữa ta muốn nói là ngược với các lý thuyết y học hiện nay, dị ứng bắt nguồn từ những điều kiện tâm lý. Và nếu con không công nhận thực tế của luân hồi và đầu thai thì đơn giản con sẽ không thể có được một hiểu biết đúng đắn về dị ứng.

Con người có thể mắc chứng dị ứng đối với gần như mọi thứ trong vũ trụ vật chất. Một chứng dị ứng thường khởi đầu với một trải nghiệm chấn thương tâm lý khiến cho một dòng sống biểu lộ và củng cố lòng sợ hãi đối với một chất hoặc một điều kiện đặc thù nào đó. Nếu chấn thương đủ mạnh, hay nếu nó được tăng cường suốt mấy kiếp đầu thai, nó sẽ biểu hiện dưới hình thức một dị ứng vật lý trong kiếp đầu thai sau đó.

Sợ hãi là một cảm xúc kháng cự và đẩy lui, cho nên dòng sống sẽ tìm cách trốn chạy điều mà nó sợ hãi. Khi sự kiện này hiển thị ra dưới dạng một chứng dị ứng, cơ thể sẽ từ chối bất kỳ thức ăn nào hay điều kiện nào có liên quan tới nỗi sợ hãi của chấn thương ban đầu. Đó là tại sao cơ thể sẽ biểu hiện các loại triệu chứng như thế. Các triệu chứng đó chỉ đơn giản là cách cơ thể gửi ra thông điệp là nó không muốn tiếp xúc với chất đó hay điều kiện đó.

Mặc dù con có thể dùng những phương thức vật lý để giảm bớt tác dụng của dị ứng, cách duy nhất để giải quyết chứng bệnh là sử dụng những kỹ thuật tâm lý thích hợp để đi sâu vào trong tâm lý của dòng sống và giải quyết chấn thương nguyên thủy. Đã từng có nhiều trường hợp người bệnh bước vào tiến trình chữa lành nội tâm này và đã khắc phục được ngay lập tức chứng dị ứng lâu năm của mình.

Giáo lý nền tảng về việc chữa lành tâm lý

Hỏi: Đâu là những kỹ thuật hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý cho một người?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 13/10/2010. Đăng ngày 17/11/2012.

Kỹ thuật hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý của con là kỹ thuật nào phù hợp nhất cho con.

Ý ta muốn nói là mỗi con người đều là một cá nhân độc đáo. Có thể nói là khi con khởi sự thử nghiệm với tâm thức nhị nguyên, con đã tạo ra cái mê cung hay mê lộ đặc thù cho riêng mình. Và tại mỗi khúc quẹo hay ngã rẽ đã đưa con sâu hơn vào mê cung, con đã lấy một quyết định dựa trên một niềm tin hay một ảo tưởng đặc thù. Con đường cá nhân của con để bước ra khỏi nhị nguyên và tìm lại tự do đòi hỏi con phải tháo gỡ những chọn lựa đã qua bằng cách nhìn thấy chúng như chúng là, một cách ý thức, xong lấy quyết định thăng vượt chúng.

Nói cách khác, cốt lõi của đường tu cá nhân của con là con đạt tới điểm nhìn thấy một quyết định gây giới hạn từ quá khứ, nhận ra là nó xuất phát từ một ảo tưởng, rồi chấp nhận một tầm hiểu cao hơn sẽ giải thoát con khỏi ảo tưởng đó – sự thật sẽ giải thoát con. Cho nên các dụng cụ và kỹ thuật sẽ hiệu quả nhất cho con chính là những dụng cụ giúp con đạt tới điểm con nhìn ra những gì đã bị ẩn giấu khỏi con, có lẽ suốt nhiều tiền kiếp. Vì mỗi cá nhân có mê cung đặc thù của mình, cho nên không thể nào thiết kế một dụng cụ duy nhất sẽ hiệu quả một cách đồng đều cho mọi người. Nếu chuyện này có thể làm được thì chúng tôi, các chân sư thăng thiên, đã ban truyền dụng cụ này cho nhân loại từ lâu rồi.

Đúng là có nhiều người đã chấp nhận cùng một ảo tưởng nhị nguyên, tuy nhiên họ thường chấp nhận ảo tưởng đó vì những lý do khác nhau đôi chút. Vì thế cho dù họ đều phải khắc phục cùng một ảo tưởng, nhưng cùng một cách diễn đạt chân lý sẽ không nhất thiết hiệu nghiệm đồng đều cho mọi người. Đó là tại sao cần có nhiều lời dạy khác nhau để trình bày về cùng một đề tài từ những góc nhìn hơi khác một chút. Rất có thể là con cần tu học một số giáo lý khác nhau trước khi con tìm thấy sự phối hợp thích hợp nhất cho con – là sự phối hợp giữa ngôn từ cùng khái niệm sẽ mở khóa ở con khả năng nhìn xuyên thấu một ảo ảnh nào đó. Đây cũng là tại sao lòng trung thành đối với một giáo lý nhất định hay một đạo sư nhất định không phải là điều xây dựng. Điều con cần trung thành là trung thành với con đường nội tâm của riêng con. 

Con cũng nên lưu ý là mê lộ đặc thù của con có nhiều lớp vỏ hay nhiều đoạn đường. Nếu con nhìn vào nhân loại, con sẽ thấy ai nấy đều ở những giai đoạn phát triển khác nhau, như ta đã từng đề cập trước đây. Các kỹ thuật sẽ giúp con nhìn xuyên thấu ảo tưởng trong một giai đoạn nào đó sẽ không nhất thiết hiệu nghiệm trong một giai đoạn khác.

Điều ta muốn nói là nếu con muốn tìm ra cách hiệu quả nhất để chữa lành tâm lý của mình, con cần bắt đầu bằng cách phát triển cách tiếp cận xây dựng nhất cho công việc này. Bước đầu tiên mà ta khuyên con là chấp nhận rằng không có cách giải quyết nào nhanh chóng.

Việc chữa lành tâm lý cần được xem như một công việc kéo dài suốt đời, ít ra cho tới khi con còn đang đầu thai. Thêm vào đó, đây không phải là một công việc máy móc mà con có thể hoàn thành bằng cách đem ra áp dụng những chiêu thức được người ta gọi là kỹ thuật tối ưu hay dụng cụ tối hảo. Thật sự không hề có một hệ thống nào sẽ tự động chữa lành tâm lý của con, bởi vì tất cả tùy thuộc vào những quyết định mà con đã lấy cũng như sự sẵn lòng của con để nhân lên các ta-lăng, các khả năng, các vốn liếng của con.

Tuy nhiên, như ta đã mô tả trong quyển sách Hãy cứu lấy bản thân, sự tiến bộ của con dựa trên hai cột trụ. Một là con cần chuyển hóa năng lượng tha hóa đã tích tụ trong trường năng lượng của mình, và hai là con cần nhìn xuyên thấu các ảo tưởng của mình, và như vậy con thay thế các chọn lựa gây giới hạn bằng những chọn lựa giải thoát.  

Vậy trước tiên chúng ta hãy nhìn vào việc chuyển hóa năng lượng. Hiển nhiên nếu con đã mở tâm ra cho trang mạng này, ta khuyên con nên dùng các bài thỉnh và bài chú mà các chân sư đã đặc biệt ban truyền cho mục đích này. Nhưng ta không bảo là không có kỹ thuật nào khác cũng sẽ hiệu nghiệm cho mục đích này, và nếu con nhận được sự gợi ý mãnh liệt từ nội tâm để dùng một kỹ thuật nào khác, thì bằng mọi cách con hãy làm điều đó. Con cũng cần lưu ý là ở những giai đoạn khác nhau trên đường tu, con sẽ cần đến những kỹ thuật khác nhau.

Một khía cạnh khác là con cần ngừng tạo thêm năng lượng tha hóa, và tuy việc này chỉ có thể làm được đến nơi đến chốn bằng cách giải quyết các vết thương (tức khắc phục các ảo tưởng) đã khiến con rơi vào một số khuôn nếp phản ứng, con vẫn có thể tinh tấn khá nhiều bằng cách tự kiểm tra cho trung thực, song song với việc kỷ luật bản thân. Nếu con thấy mình có xu hướng nổi giận chẳng hạn, con có thể tinh tấn bằng cách nhất quyết không chấp nhận bộc lộ sự giận dữ, xong con tự kỷ luật để kềm chế mình lại. Trong ngắn hạn, làm vậy sẽ ngăn con tạo thêm nghiệp chướng và củng cố một vòng xoáy tiêu cực. Nhưng trong dài hạn, cách thức này sẽ không hiệu quả trừ khi con cũng có những nỗ lực chân thành để phát hiện lý do tại sao con lại nổi giận, xong con thăng vượt các ảo tưởng đã khiến con nghĩ rằng tức giận là một phản ứng có thể chấp nhận được hay không thể tránh khỏi.

Và điều này dẫn chúng ta đến yếu tố tiếp theo, đó là tìm ra những cách để làm hiển lộ các yếu tố trong tâm lý đang giới hạn con, đang “ép buộc” con bước vào những khuôn nếp phản ứng mà con không thể phá vỡ hay không thấy cần phải phá vỡ. Để đạt mục tiêu này, con có thể tinh tấn đáng kể bằng cách học hỏi các lời dạy tâm linh và sách vở tổng quát về tâm lý học. Hiển nhiên các bài giảng của ta về tự ngã cùng nhiều lời dạy khác trên trang mạng này và trong sách của chân sư thăng thiên được phát hành với mục đích này. Nhưng một lần nữa, ta không nói là con chỉ nên tự hạn chế vào bất kể một nguồn độc nhất nào. Ngược lại là đằng khác, con cần cho phép mình nhận được sự hướng dẫn về những gì mình cần học hỏi, đăc biệt con nên có thói quen hòa điệu với cái ta cao hơn của con, hay với vị thày tâm linh của con, xong con làm theo những gợi ý mà con nhận được, ngay cả từ người khác hay từ cảnh huống vỏ ngoài. Nếu một quyển sách bỗng thu hút sự chú ý của con, con hãy tìm hiểu nó.

Nhưng cho dù những điều trên có thể giúp con tinh tấn đáng kể, sẽ tới một điểm khi con không thể tiến thêm trừ khi con nhận được sự phản hổi trực tiếp về tâm lý của con từ một người không đứng ở trong hộp tư duy của con và do đó có khả năng nhìn thấy những gì con không thể nhìn thấy. Đây chính là điểm con cần suy ngẫm câu này của chân sư MORE: “Nếu đạo sư là một con kiến, con hãy lắng nghe nó.” Trong nhiều trường hợp, con sẽ nhận được phản hồi như vậy từ những người xung quanh con, thường khi từ những người mà con coi là thấp hơn con hay không trong vị thế có thể khuyên nhủ con. Tất nhiên, con không nhất thiết phải nghe theo bất cứ gì người ta nói, đặc biệt nếu con thấy là họ có ý định tiêu cực hay ích kỷ.  

Nếu con thật sự muốn tiến bộ nhanh chóng, điều có thể sẽ vô cùng hữu ích là con áp dụng một trong rất nhiều những kỹ thuật được thiết kế nhằm giúp con làm hiển lộ những gì đang được ẩn giấu trong tâm tiềm thức của con. Một lần nữa, không có một kỹ thuật độc nhất sẽ giúp tất cả các con. Con hãy khởi sự ngay điểm tâm thức hiện thời của mình và nhìn xem con đang nhận biết những gì. Xong con hòa điệu vào đó và nhìn xem kỹ thuật nào thu hút con nhiều nhất trong lúc này. Khi con đã có được một cảm nhận rõ rệt, con hãy áp dụng kỹ thuật đó và cứ tiếp tục áp dụng cho tới khi nó đem lại cho con một sự đột phá cùng nhu cầu đi tìm một cái gì khác hơn.

Xong con tin tưởng là nếu con cứ giữ cả tâm lẫn tim mình cởi mở đối với sự hướng dẫn nội tâm, thì y vậy, con sẽ nhận được sự hướng dẫn đó. Đột nhiên, một quyển sách sẽ đi vào vòng chú ý của con, hay con đọc được điều gì đó trên báo, trên mạng. Hay con gặp một người đề cập đến một kỹ thuật nào đó với con. Ta không bảo là con phải thử tất cả mọi thứ hay thử bất cứ điều gì lôi kéo sự chú ý của con. Con luôn luôn cần tham khảo sự hướng dẫn nội tâm và cảm nhận những gì đang rung động đồng điệu với con ở mức trái tim.

Một khi con đã chọn một kỹ thuật, con hãy thực hành nó với tất cả khả năng của mình và không ngừng lại cho đến khi con trải nghiệm một loại đột phá nào đó. Quá nhiều người thử nghiệm một lần, hai lần, xong bỏ cuộc vì nó không đem lại cho họ thành quả tức thì. Ta không có vấn đề gì nếu con thích mì ăn liền, nhưng hoàn toàn không có chuyện tâm lý ăn liền đâu con.

Trong một số trường hợp, một dụng cụ nhất định sẽ chỉ đem lại cho con một đột phá đáng kể duy nhất mà thôi, nhưng trong đa số các trường hợp, một dụng cụ có thể cho con một loạt đột phá sẽ đưa con lên một tầng cao hơn. Con đừng phân tích thái quá bằng tâm vỏ ngoài, mà hãy tin tưởng là nếu con đã được hướng dẫn để dùng một dụng cụ nào đó, thì nó có một điều gì đó để chỉ cho con. Và đừng quyết định bằng tâm vỏ ngoài là con sẽ ngưng dùng dụng cụ, mà hãy cho phép sự hướng dẫn nội tâm dẫn con lên bước kế tiếp. Nếu con thật sự cởi mở và sẵn lòng nhìn thấy bất cứ điều gì trong tâm lý đang chặn nghẽn sự phát triển của mình, sự hướng dẫn này sẽ đưa con tới nơi mà con cần tới.  

Và điểm này, tất nhiên, khơi lên câu hỏi đáng giá 64,000 đô, cụ thể là con sẵn lòng tới đâu để nhìn ra cái xà trong mắt con. Tuyệt đại đa số những người tự xem mình là người tầm đạo tâm linh đều có một hay nhiều lãnh vực trong tâm lý mà họ không sẵn lòng nhìn vào, thường khi bởi vì họ nghĩ rằng nếu họ nhìn vào thì nỗi đau đớn sẽ khiến họ bị choáng ngợp, hay trong một số trường hợp nó sẽ làm tan vỡ lòng kiêu mạn của họ.

Trong những giai đoạn tiên khởi, việc xem xét các vết thương sâu xa có thể không khôn ngoan lắm. Tuy nhiên khi con bước lên cao hơn trên đường tu thì dần dần có sự cần thiết phải nhìn vào tất cả mọi thứ, bất kể thứ gì. Chỉ những gì con tìm cách che giấu khỏi Thượng đế mới giữ con ở ngoài vương quốc của Thượng đế, bởi vì trong ánh sáng không có gì có thể tiếp tục ẩn giấu. Cho nên khi con tiến bước, con cần phải nhìn xem liệu có lãnh vực nào mà con cảm thấy miễn cưỡng hay kháng cự lại không muốn nhìn. Bất cứ gì con tránh nhìn vào sẽ là yếu tố cho phép tự ngã của con tiếp tục lẩn trốn, và chừng nào tự ngã còn lẩn trốn thì nó còn tiếp tục bắt giữ con.

Cho nên nói cho cùng, tất cả đều tùy thuộc vào động cơ, sự sẵn lòng của con bỏ lại cuộc sống thế phàm để đi theo Ki-tô, bước vào sự sống vĩnh hằng thoát ra khỏi tự ngã. Theo một cách nào đó, việc chữa lành tâm linh của con có thể xem như một cuộc giằng co giữa tự ngã và chính con – với tự ngã cứ kéo con ra để con không nhìn vào các vết thương sâu thẳm cùng các ảo tưởng to lớn kia. Yếu tố quyết định là liệu động cơ giải thoát của con có lớn hơn động cơ sống còn của tự ngã hay không. Liệu mong muốn giành được sự sống vĩnh hằng của con có lớn hơn nỗi sợ chết của tự ngã hay cuộc tìm kiếm kiêu ngạo của nó để đạt được bất tử trong thế gian.  

Ta cũng biết là một số người sẽ bảo rằng ta chưa trả lời câu hỏi của con vì ta đã không nói tới một kỹ thuật đặc thù nào cả. Tuy nhiên ta cố tình không đi vào chi tiết vì ta không muốn mọi người chọn một kỹ thuật nhất định do ta đã khuyến cáo, rồi nghĩ rằng đó là kỹ thuật thích hợp cho họ trong giai đoạn này. Có thể nói, một phần sự chữa lành là con trở nên tự đủ (self-sufficient) trên phương diện tâm linh, có nghĩa là con sẵn lòng lắng nghe hướng dẫn rồi lấy quyết định và học hỏi từ kết quả đạt được.

Trong một số trường hợp, có thể con sẽ nhận được hướng dẫn để áp dụng một kỹ thuật nào đó, nhưng với lý do là con cần học bài học tại sao kỹ thuật đó sẽ không đem lại kết quả hứa hẹn. Điều này không có nghĩa là con đã bị sự hướng dẫn đó gạt gẫm, bởi vì quả thực con cần kinh qua một số trải nghiệm để có thể nhìn ra những gì con chưa nhìn thấy. Và trong một số trường hợp, con thật sự cần phải đập đầu vào tường đá một số lần trước khi con ngộ ra đó không phải là trải nghiệm mà con muốn trong đời mình. Và như vậy, con quyết định xem xét bản thân thay vì cứ nghĩ rằng bức tường kia phải thay đổi.  

Ai thay đổi chính mình vĩ đại hơn ai thay đổi thế giới.

Con cho phép ta kết thúc và nói rằng ta rất hiểu là đối với nhiều người, việc chữa lành tâm lý có vẻ như một công việc quá sức to tát. Và thật vậy, nó dường như choáng ngợp con trong một thời gian. Tuy nhiên nếu con thực sự học hỏi các lời dạy mà các chân sư đã ban ra trên trang mạng công phu này cũng như thực hành một số dụng cụ thực tiễn, ta có thể cam đoan với con là bất cứ ai sẵn lòng soi mình trong gương sẽ đạt được tiến bộ. Và một khi con nhận ra là mình có tiến bộ, công việc chữa lành tâm lý sẽ không còn có vẻ quá sức nữa. Kỳ thực, nó sẽ trở thành một công việc con xem là một phần tự nhiên của cuộc sống, và đồng thời con cũng không để cho nó kéo con ra khỏi các khía cạnh thực tiễn và thú vị trong đời con. Cầu mong con sẽ nhanh chóng đạt đến điểm đó, hầu con có thể tìm thấy niềm vui đang chờ đón những ai có can đảm nhìn vào và chữa lành vết thương tâm lý của mình.

Khai tâm cho trẻ em về con đường và các khái niệm tâm linh

Hỏi: Thày có lời khuyên nào về cách giới thiệu các khái niệm tâm linh và con đường tâm linh cho trẻ em?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Cách hay nhất để dạy trẻ em về bất cứ điều gì là làm gương. Trẻ em bắt chước một cách tự nhiên và chúng theo gương người lớn chung quanh chúng. Cho nên cách hay nhất để dạy trẻ em về các khái niệm tâm linh là con cần chắc chắn là chính con đang sống với thái độ của một người đi tìm sự thật chứ không phải một người đi theo giáo điều. Con cần tiếp cận đời sống tâm linh theo cách mà trang mạng này gọi là con đường nội tâm. Con cần lánh xa cách tiếp cận vỏ ngoài nặng về giáo điều cùng học thuyết.

Nói cách khác, con cần liên tục tìm kiếm sự hiểu biết cao hơn về các chủ đề tâm linh so với hiểu biết hiện thời của con. Con cần tò mò và sẵn lòng đặt những câu hỏi khó giải đáp. Con cần nhận ra là cách hiểu hiện thời của con không phải là cách hiểu tối hậu hay bất khả sai lầm, mà chỉ đơn giản là một bực thang dẫn đến một cách hiểu thâm sâu hơn nữa. Con cần sẵn sàng xem xét và thảo luận về bất kỳ đề tài tâm linh nào mà không cảm thấy là có những đề tài cấm kỵ, hay đi quá xa so với một giáo điều hay chuẩn mực được người đời chấp nhận.

Chỉ khi nào con có cách tiếp cận cởi mở như thế đối với đời sống tâm linh thì con mới tránh làm cho trẻ em bị tổn thương, tránh hủy hoại xu hướng tâm linh tự nhiên của chúng. Thật là đáng buồn khi bao triệu người mộ đạo – cho dù là người đạo Cơ đốc hay tín đồ một tôn giáo khác – tưởng mình đang hành xử đúng đắn khi cho con em mình một nền giáo dục tôn giáo. Nhưng thực tế là những phụ huynh đó, cùng các vị tu sĩ hướng dẫn họ, đang hủy hoại xu hướng tâm linh tự nhiên của trẻ em. Vấn đề này có hai khía cạnh.

Trong Tân ước, con thấy ta đã quở trách các tông đồ của ta ngăn cản không cho con trẻ đến gần ta. Ta cũng có dạy là trừ khi con trở thành một trẻ thơ thì con không thể bước vào Nước Trời. Điều ta thực sự muốn nói qua câu đó là trừ khi con phát triển cách tiếp cận Thượng đế y như trẻ nhỏ, thì con không thể khoác vào trạng thái tâm thức sẽ cho phép con bước vào vương quốc thiên đàng.

Hai khía cạnh quan trọng nhất trong cách trẻ em tiếp cận Thượng đế là bản chất tò mò của chúng và sự ngây thơ trong trắng, hay sự vô điều kiện của chúng.

Con sẽ thấy trẻ em tò mò một cách tự nhiên về Thượng đế và khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Đó là vì khi đứa trẻ còn nhỏ, nó thường có một trải nghiệm nội tâm trực tiếp về đời sống tâm linh. Nhiều trẻ em thực sự trải nghiệm sự hiện diện của thiên thần hay của các sinh thể thăng thiên như những đấng trợ giúp ở ngay bên cạnh chúng. Vì vậy chúng biết cuộc sống là nhiều hơn vũ trụ vật chất này và chúng tò mò một cách tự nhiên.

Đáng tiếc thay, đa số người lớn có khuynh hướng bỏ qua hay phủ nhận thẳng cánh đời sống nội tâm tâm linh của trẻ em. Nhiều người lớn cư xử như vậy vì ngành tâm lý học hiện đại đã dán nhãn đời sống tâm linh của trẻ em là một chỉ dấu non nớt thiếu trưởng thành hay là chuyện tin bậy vào những “đấng trợ giúp” tưởng tượng. Một số khác làm vậy là vì trẻ em có xu hướng tự nhiên hay đặt câu hỏi về những chuyện mà người lớn không dễ dàng trả lời dựa trên các giáo điều mà họ đã chấp nhận là đầy đủ hay bất khả sai lầm.

Thực tế đơn giản là bởi vì trẻ em kinh nghiệm trực tiếp thực tại của cõi tâm linh, cho nên chúng không thấy lý do gì mà phải ép uổng thực tại đó vào trong khuôn khổ một bộ học thuyết do con người tạo dựng, cho dù đó là trong lãnh vực khoa học hay lãnh vực tôn giáo. Vì vậy chúng sẵn lòng đặt lên bất cứ câu hỏi nào mà chúng nghĩ đến, và đây chính là dấu ấn của mọi người tầm đạo chân chính. Nói cho cùng, loại câu hỏi mà con sẵn sàng đặt ra sẽ quy định loại trả lời mà con có thể nhận được. Chẳng phải là Kinh thánh đã nói, “Hãy hỏi thì sẽ được nhận” hay sao? Do đó nếu con sợ không dám đặt những câu hỏi vượt xa hơn các niềm tin hiện thời của con, làm thế nào con sẽ nhận được những lời giải đáp thâm sâu hơn đây?

Về vấn đề giới thiệu các khái niệm tâm linh cho trẻ em, điều vô cùng quan trọng là con cần làm thế nào để không gây nản lòng hay hủy hoại sự tò mò của con trẻ về Thượng đề cùng các vấn đề tâm linh. Do đó, sẽ thật quan trọng nếu con không trình bày các khái niệm tâm linh dưới hình thức những giáo điều khép kín hay không thể tranh cãi. Hãy cho phép chúng hỏi bất kỳ câu hỏi nào xuất hiện trong tâm trí ngây thơ của chúng. Hãy khuyến khích chúng hỏi rồi hãy thảo luận với chúng.

Khía cạnh kia của đời sống tâm linh của trẻ em là cách tiếp cận hồn nhiên, hay vô điều kiện, của chúng đối với các đề tài tâm linh cũng như đối với Thượng đế. Vì chúng kinh nghiệm cõi tâm linh là thực, và vì chúng xem cõi tâm linh là một lực thiện lành luôn ở đó để giúp chúng, cho nên chúng không hề đem lòng sợ hãi Thượng đế. Chúng không sợ đến gần Thượng đế, và quả thực tại sao chúng lại phải sợ chứ?

Vào thời kinh Cựu ước, dân Israel đã tạo dựng một hình ảnh về Thượng đế là một đấng nóng giận, phán xét. Một phần sứ vụ của ta thuở trước là đưa ra một hình ảnh mới về Thượng đế, cụ thể là hình ảnh một người cha yêu thương. Đây là hình ảnh mà hầu hết trẻ em đều mang về Thượng đế một cách tự nhiên. Rất tiếc, nhiều tín đồ Cơ đốc ngày nay đã quay trở về với hình ảnh giận dữ, phán xét của Cựu ước, và họ không tránh khỏi truyền lại hình ảnh này cho con cái họ. Bởi vậy cho nên ngay khi các em bắt đầu theo học các lớp đào tạo tôn giáo thì tính ngây thơ và vô điều kiện của chúng bị tàn phá thật nhanh chóng.

Thế là các em học cách xem Thượng đế là một hiểm họa, một cái gì đáng sợ. Chúng học cách suy nghĩ là chúng chỉ có thể đến gần Thượng đế theo một số phương thức nhất định được quy định bởi nền văn hóa tôn giáo của chúng. Chúng học cách suy nghĩ là chúng chỉ xứng đáng đến gần Thượng đế nếu chúng tuân theo một số điều kiện do giáo điều và luật lệ của giáo hội đặt ra.

Đây là một sự lập trình hoàn toàn nhân tạo mà người ta không bao giờ được áp đặt lên trẻ em. Tại sao con nghĩ ta lại nói rằng trừ khi con trở thành giống như trẻ nhỏ thì con không thể bước vào Nước Trời được chứ? Đó là vì một thực tế thật đơn giản. Tình thương là một lực hấp dẫn và sợ hãi là một lực đẩy ra. Nếu con sợ Thượng đế, con sẽ không bao giờ muốn đến gần ngài hay tiếp cận với ngài. Nếu vậy thì làm thế nào con vào được vương quốc của ngài đây? Tất cả mọi thứ đều tùy thuộc vào quyền tự quyết của con và Thượng đế sẽ không ép con bước vào vương quốc của ngài. Con phải bước vào với ý chí tự quyết của con, nhưng làm sao con có thể làm được nếu con sợ Thượng đế?

Trẻ em yêu Thượng đế một cách tự nhiên. Và tình yêu Thượng đế này chính là cái vốn quan trọng nhất mà bất kỳ dòng sống nào có thể sở hữu trên đường tu tâm linh. Do đó, tội ác lớn nhất đối với trẻ em là hủy hoại tình thương tự nhiên của chúng đối với Thượng đế, hủy hoại cảm nhận tự nhiên rằng chúng được chào đón khi chúng đến với Thượng đế mà không cần đi theo bất kỳ điều kiện vỏ ngoài nào.

Khi ta cho phép trẻ nhỏ đến gần ta, ta đã không đặt ra bất kỳ điều kiện nào. Chỉ có các tông đồ của ta mới toan đặt ra điều kiện. Nếu ta không đặt điều kiện thì tại sao ngày nay quá nhiều tín đồ Cơ đốc lại cho rằng con cái của họ phải tuân theo một số điều kiện trước khi được lại gần Thượng đế, lại gần Ki-tô hay tiếp cận các đề tài tâm linh?

Hãy để cho con trẻ đến với ta với sự tò mò, ngây thơ cùng thái độ vô điều kiện của chúng. Hãy để cho các phụ huynh đứng lui lại, xem xét lại hồn mình hầu nhận ra là họ cần đi theo lời dạy của ta mà trở nên tò mò, hồn nhiên y như trẻ nhỏ. Và khi đó, người lớn cũng sẽ có thể đến gần với ta, và họ cũng sẽ được đón nhận với cùng tình thương vô điều kiện mà ta dang trải cho trẻ nhỏ.

Trên thực tế, bất cứ ai đến với Thượng đế cũng đều được đón nhận với tình thương vô điều kiện. Vấn đề là hầu hết mọi người không cảm nhận được, hay không chấp nhận, tình thương vô điều kiện đó. Hầu hết đã dựng lên một số điều kiện trong chính tâm họ khiến họ cho rằng trừ khi họ tuân thủ một số luật lệ và quy tắc vỏ ngoài thì họ sẽ không xứng đáng nhận được tình thương của ngài. Bởi vì tất cả đều tùy thuộc vào quyền tự quyết, cho nên Thượng để không thể ép buộc con nhận tình thương của ngài. Chính con phải nhận lấy nó, và con chỉ có thể làm vậy khi con chấp nhận con xứng đáng được nhận tình thương đó.

Đại đa số trẻ em đã mang sẵn cảm nhận xứng đáng này, cảm nhận vô điều kiện này ngay từ khi sinh ra, và đó chính là một trong những tài sản lớn nhất của chúng. Xin đừng hủy hoại cảm nhận đó khi con quá nhiệt thành dạy dỗ tôn giáo cho con mình.

Giáo lý căn bản về cách ứng phó với người tiêu cực

CHỦ ĐỀ: Tránh đối cực nhị nguyên của sợ hãi hoặc thụ động – không chịu phân biện – người trưởng thành có thể đối phó với những người tiêu cực – không cho phép người khác kéo con xuống – một số người tiêu cực vượt quá sự giúp đỡ của con người – một số người có thể được giúp đỡ thông qua tình thương – vượt lên trên tình con người – không thương cảm tà lực đen tối – tự hào nghĩ mình có thể cứu người khác – nhận ra những phản ứng không mang tính xây dựng – sử dụng trực giác thay vì trí năng – nhận ra chấp trước của mình – dính mắc với người tiêu cực mở con ra với tà lực đen tối – tình thương thách thức – giúp con người lựa chọn thật sự – tránh tranh luận – ba lý do khiến mọi người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực – lòng tốt không có tác dụng với những tà linh đen tối –  bước đi tiếp.


Câu hỏi 1: Xin chào Giêsu- Con thật may mắn khi có thể liên lạc với thày. Cảm ơn thày. Câu hỏi của con là về việc tránh “tà” linh (những tà linh ô uế có thể xâm nhập vào chúng con nếu chúng con không lấp đầy bản thân với tánh linh của thày). Trên trang mạng có viết rằng chúng con phải cố gắng giữ năng lượng tích cực và tránh những linh thể tiêu cực có thể kéo chúng con xuống. Con thấy những người như vậy ở đây trong văn phòng của con – đầy tiêu cực và rung động xấu – con có nên tránh họ không? Hay con nên tiếp cận với họ và thử thương yêu họ? Có thể họ đầy sự tiêu cực vì họ chưa bao giờ được yêu thương? hay họ là những tà linh? làm thế nào để con biết sự khác biệt? Con cảm thấy họ là những người bị tổn thương và con nên tiếp cận, yêu thương và giúp họ được chữa lành.

Câu hỏi 2: Con cố gắng không kết giao với những người có thói quen mà con không ủng hộ, như uống rượu quá mức, chửi thề, v.v. Tuy nhiên, con nhận thấy rằng mình không đi chơi với nhiều người và có nhiều khả năng ngồi ở nhà. cảm thấy tội nghiệp mình. Vì vậy, tốt hơn là con nên bảo vệ bản thân và không giao tiếp với những người như vậy hay chỉ giao tiếp với những người có tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012:

Đây là những câu hỏi rất quan trọng, và chúng quan trọng vì một số lý do. Một trong những chủ đề lặp đi lặp lại trên trang mạng này là con người đã rơi vào trạng thái tâm thức bị mắc kẹt trong cái nhìn nhị nguyên về thế giới. Khi con suy xét chủ đề về người tiêu cực và tà linh với tâm nhị nguyên, con có xu hướng bị thu hút bởi một trong hai đối cực:

  • Một cực đoan là cách tiếp cận dựa trên sợ hãi, khiến con cảm thấy rằng con nên làm mọi cách để tránh những người tiêu cực hoặc những người có thể bị ảnh hưởng bởi tà linh. Điều này chắc chắn sẽ khiến con có cái tâm rất là phán xét, bởi vì con phải thiết lập một tiêu chuẩn để xác định ai là tiêu cực và ai là không. Tiêu chuẩn đó chắc chắn là biểu hiện của sự sợ hãi và hệ thống niềm tin của con. Đó là lý do tại sao con thấy rất nhiều người Cơ đốc chính mạch phán xét mạnh mẽ những ai không sống theo lý tưởng hoặc tiêu chuẩn được xác định bởi giáo hội của họ.
  • Một đối cực ngược lại là con lý luận rằng con chỉ đơn giản thương yêu tất cả mọi người hoặc thương tất cả mọi người theo cùng một cách. Điều này có nghĩa là con không đánh giá theo tiêu chuẩn của con người. Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa là con không phân biện theo tiêu chuẩn thiêng liêng. Điều này có thể dễ dàng khiến con mở mình ra với những người hoặc thế lực muốn thao túng con để đánh cắp ánh sáng tâm linh của con. Những lực này là một hố sâu không đáy và không có tình thương thương nào lấp đầy được chúng. Vì vậy, khi con cho họ tình thương và ánh sáng của con, con chỉ lãng phí ánh sáng đó giống như con rải ngọc trai của con cho lợn. Thật không may, ta thấy nhiều người trong phong trào Thời đại mới đang áp dụng cách tiếp cận này.
    Nếu con lùi lại và nhìn vào cả hai cách tiếp cận này, con sẽ thấy rằng chúng xuất phát từ cùng một trạng thái tâm thức, cụ thể là từ chối phân biện điều gì là của Thượng đế và điều gì không phải của Thượng đế. Nhiều người Cơ đốc từ chối làm điều này bằng cách bám vào các học thuyết vỏ ngoài. Họ nghĩ rằng họ không cần phải sử dụng sự phân biện cá nhân của mình bởi vì họ chỉ cần tuân theo một cách máy móc các giáo lý và quy tắc do nhà thờ của họ xác định. Đây là tư duy trắng đen. Nhiều người theo phong trào Thời đại mới cũng từ chối sử dụng sự phân biện cá nhân của mình vì họ nghĩ rằng họ nên hành động yêu thương đối với tất cả mọi người mà không cần cân nhắc. Đây là suy nghĩ màu xám.

Như thày đã cố gắng giải thích trên toàn bộ trang mạng này, có một cách khác thay vì đi vào một trong hai đối cực này. Cách khác là vươn tới tâm thức Ki-tô, điều này cho phép con vượt lên trên tâm thức nhị nguyên. Một khía cạnh quan trọng của tâm Ki-tô là khả năng phân biện điều gì là của Thượng đế và điều gì không thuộc về Thượng đế. Khi con đi theo quan điểm của tâm Ki-tô, con nhận ra rằng không thể đưa ra một câu trả lời chung cho những câu hỏi được hỏi ở trên. Chỉ có những câu trả lời riêng lẻ bởi vì mỗi người là một cá thể duy nhất.

Ý của thày là con cần phải xác định theo cá nhân của con về cách thức và mức độ con sẽ tương tác với những người tiêu cực. Hãy để thày cho con một vài ý tưởng có thể giúp con tìm được sự cân bằng cá nhân của mình.

Ý tưởng 1.

Câu hỏi cơ bản về cách ứng phó với những người tiêu cực có thể được chia thành hai câu hỏi sau:

• Con có nên tránh những người tiêu cực không?

• Con có nên cho họ tình thương và qua đó có thể giúp họ vượt qua sự tiêu cực của họ không?

Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên chủ yếu phụ thuộc vào con là ai, hay đúng hơn là mức độ trưởng thành về tâm linh của con. Nếu con đã kêu gọi sự bảo vệ tâm linh ở mức độ cao và con cảm thấy mình có thể tránh không mang vào từ trường mình sự tiêu cực của người khác, thì con không cần phải tránh những người tiêu cực. Nếu con đã đạt được ý thức rõ ràng về con là ai và ý thức rõ ràng về giá trị bản thân, con có thể tương tác với những người tiêu cực mà không để họ ảnh hưởng đến cảm nhận về bản sắc và giá trị bản thân. Nếu con đã đạt được mức độ phân biện cao của Tâm Ki-tô, con có thể tiếp xúc với những người tiêu cực mà không bị sa ngã trước những nỗ lực tinh vi của họ để kéo con vào vòng xoáy tiêu cực của họ và kiểm soát con.

Vì vậy, có thể nói rằng đối mỗi người cần tìm ra sự cân bằng của mình. Mức độ bảo vệ tâm linh mà con có, giá trị bản thân và sự phân biện bằng Tâm Ki-tô của con sẽ xác định mức độ của những người tiêu cực mà con có thể tiếp xúc mà con không bị họ kéo xuống. Và điểm mấu chốt ở đây là nếu con muốn kéo người khác lên, trước tiên hết là con không thể cho phép họ kéo con xuống.

Liên quan đến câu hỏi thứ hai, điều này phụ thuộc phần lớn vào những người kia. Một số người đã bị bao phủ quá nhiều bởi những năng lượng tiêu cực hoặc những tà lực đen tối đến độ không có người nào có thể giúp được họ. Chỉ có quyền năng của Đức Thánh Linh mới có cơ hội kéo những người này ra khỏi sự tiêu cực của họ, nhưng ngay cả quyền năng của Đức Thánh Linh cũng không thể chống lại ý chí tự do của con người. Vì vậy, thực sự là có một số người mà con không nên cố gắng giúp đỡ trừ khi con có động lực để trở thành cánh cửa rộng mở cho quyền năng của Thượng đế hoạt động qua con. Những người như vậy không thể giúp được dù có thương yêu họ, tốt với họ hay thương cảm họ bao nhiêu chăng nữa. Đơn giản là họ sẽ lấy ánh sáng của con và ngay lập tức lạm dụng nó để duy trì hoặc củng cố sự tiêu cực của họ.

Tuy nhiên, cũng đúng là có rất nhiều người đã bị tổn thương về mặt tình cảm, và do đó họ bị bao trùm trong một vòng xoáy tiêu cực. Những người như vậy có thể được giúp đỡ bằng cách bày tỏ tình thương với họ, mặc dù tình thương của Tâm Ki-tô thật sự hiệu quả hơn nhiều so với bất kỳ tình thương nào của con người.

Bây giờ con thấy sự cân bằng cơ bản mà con phải tìm thấy. Mức độ trưởng thành về tâm linh của con quyết định mức độ con có thể ứng phó với những người tiêu cực mà không bị kéo xuống. Tuy nhiên, con cũng cần nhận ra rằng không thể kéo một số người lên được cho đến khi họ sẵn sàng thay đổi cách họ tiếp cận cuộc sống. Để biết thêm về điều này, hãy xem bài giảng của thày về các giai đoạn phát triển tâm linh.

Ý tưởng 2.

Nếu con đang tiếp xúc với người tiêu cực với hy vọng giúp họ và kéo họ ra khỏi sự tiêu cực của họ, con cần phải chịu được những nỗ lực của họ đang kéo con xuống. Nhiều người tiêu cực sẽ cố gắng kéo mọi người khác xuống mức của họ một cách vô thức. Nếu con cho phép mình bị kéo xuống, con không giúp đỡ người đó, mà con đã tự tạo ra rắc rối cho chính mình. Đây không phải là một hành động của tình thương thật của Tâm Ki-tô. Đây có thể là một hành động của tình người ngây thơ, nhưng thày khuyến khích con hãy vượt lên trên tình người đó. Đơn giản là có quá nhiều người và thế lực trên thế giới này sẽ lợi dụng tình người và sự thương cảm của con người. Thày có thể đảm bảo với con rằng nhiều người đi tìm tâm linh chân chính đã bị lừa khi cho phép bản thân bị kéo xuống thấp vì sự thương cảm sai lầm với những người tiêu cực, thế lực đen tối hoặc thậm chí là vì thương cảm ma quỷ.

Hoàn toàn không có lý do gì để thương cảm những thế lực đen tối hay những người đã để cho mình bị những thế lực đen tối như vậy chiếm hữu. Con cần tôn trọng Quyền Tự quyết và chấp nhận rằng những người này có quyền tạo ra một vòng xoáy tiêu cực xung quanh họ. Tuy nhiên, con cũng cần tôn trọng quyền tự quyết của mình và quyền tránh xa vòng xoáy tiêu cực của họ. Là một người đi tìm tâm linh, con có quyền xây dựng một vòng xoáy tích cực trong cuộc sống của mình và bảo vệ mình không cho bất kỳ ai hay bất kỳ thế lực nào tìm cách kéo mình vào vòng xoáy tiêu cực.

Quá nhiều người tìm kiếm tâm linh đã cho phép mình cảm thấy – thường là thông qua niềm tự hào được ngụy trang – rằng họ có thể thay đổi hoặc cứu một người khác. Một số người đã dành cả cuộc đời để tìm cách cứu một người khác, có thể là vợ / chồng, bạn bè hoặc thành viên gia đình, chỉ để nhận ra rằng mình không thể giúp những người không sẵn lòng giúp đỡ mình.

Ý tưởng 3.

Thày biết thày đã ném vào con những khái niệm có vẻ hoàn toàn khó hiểu. Làm thế nào để con biết khi nào nên thương và khi nào không nên thương? Đây là gợi ý của thày. Tránh đừng xét đoán với tâm vỏ ngoài của con. Quan sát phản ứng của con với người khác và để ý những phản ứng sau:

• Đôi khi con cảm thấy có sự thôi thúc mạnh mẽ để làm điều gì đó cho người khác, nhưng nếu con để ý kỹ hơn, con sẽ thấy rằng sự thôi thúc này đến từ thể cảm xúc của con. Hãy chống lại sự thôi thúc đó.

• Có lúc con gặp một người, và ấn tượng đầu tiên của con là tránh người đó. Sau đó, trí năng của con bắt đầu tranh luận qua lại, và khá nhanh chóng con lý luận rằng sự tương tác với người đó là ổn. Tránh rơi vào cái bẫy dùng trí năng rồi vứt bỏ những cái biết trực giác và ấn tượng đầu tiên của con.

Thày khuyến khích con cố gắng tạo được sự cân bằng trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nói cách khác, tránh rơi vào bất kỳ đối cực nào trong hai đối cực mà thày đã mô tả ở trên. Cách để làm điều này là làm theo trực giác của con thay vì đi theo trí năng và cảm xúc. Thày đã đưa ra một số kỹ thuật trên trang mạng về Hộp Dụng cụ Tâm linh (cái bài chú và bài thỉnh) để tăng cường sự kết nối của con với Tâm Ki-tô của con để con có thể có được những cái biết trực giác chính xác hơn. Điều quan trọng là phải duy trì một sự bảo vệ tâm linh mạnh mẽ vì điều này sẽ giúp con tiếp xúc với những người tiêu cực mà không bị sự tiêu cực của họ kéo con xuống.

Con có thể nhận ra rằng con đã có một trực giác mạnh mẽ. Nếu con không có trực giác, con đã không mở lòng đón nhận những lời dạy trên trang mạng này. Vì vậy, điểm mấu chốt ở đây là tránh để thể cảm xúc hoặc thể lý trí của con kiểm soát sự tương tác của con với người khác. Cố gắng vượt lên trên nó và cho phép chính Tâm Ki-tô của con hướng dẫn con về những người con nên tương tác và hình thức tương tác nên như thế nào. Nếu con luôn làm theo trực giác của mình, con sẽ không bao giờ sai.

Sẽ có những trường hợp con cố gắng giúp đỡ ai đó và sau một thời gian, con phải thừa nhận rằng nỗ lực của mình đã không mang lại kết quả. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con đã sai khi cố gắng. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là cho dù con làm gì, con không thể đi ngược lại quyền tự quyết của họ. Một số người đã quyết định rằng họ sẽ không bị lôi ra khỏi sự tiêu cực của họ. Thày có thể đảm bảo với con rằng thày biết điều này với tư cách là một người thầy tâm linh, người đã cố gắng giúp con người vượt lên trên vòng xoáy tiêu cực do chính họ tạo ra trong một thời gian dài.

Ý tưởng 4.

Khi con tương tác với người khác với tâm thức đến từ sự thương cảm của con người hoặc tình thương con người, con sẽ nhận thấy rằng con bị dính mắc với kết quả của sự tương tác. Vì vậy, bất cứ khi nào con cảm thấy một sự dính mắc như vậy, con cần phải tỉnh táo và nhận ra rằng con đã rơi xuống thấp hơn mức độ yêu thương của Tâm Ki-tô. Sau đó, con cần phải buông bỏ chấp trước này bằng cách vượt lên trên nó. Người đi tìm tâm linh bị dính mắc về mặt tình cảm với những người tiêu cực là điều không nên. Đây là một lời mời gọi các thế lực đen tối sử dụng những người tiêu cực  để kéo con ra khỏi con đường tâm linh của con.

Con có thể sử dụng những ràng buộc tình cảm của mình để khám phá những lỗ hổng cá nhân của con trước những thế lực đen tối. Sau đó, con có thể sử dụng các dụng cụ trên trang mạng Hộp Dụng cụ Tâm linh (các bài chú và bài thỉnh) hoặc các dụng cụ thích hợp khác để chữa lành tâm lý của mình nhằm vượt qua những dính mắc này và tiến nhanh hơn trên con đường tu của con.

Ý của thày là khi con tiếp xúc với những người tiêu cực, điều cực kỳ quan trọng là không dính mắc vào họ hoặc phản ứng của họ với con. Con càng không bị dính mắc, con càng có thể trở thành công cụ cho ánh sáng và tình thương của Thượng đế để giúp những người như vậy chữa lành vết thương tình cảm của họ và vượt lên trên tiêu cực. Con càng dính mắc, con càng dễ bị sự tiêu cực của họ kéo con xuống thấp, theo đó con sẽ chỉ củng cố thêm cái nhìn tiêu cực của họ về cuộc sống và khiến họ càng bị neo vào vòng xoáy tiêu cực.

Điều thày muốn nói ở đây là chính tình người mới khiến con bị dính mắc, và tình thương này sẽ không kéo người kia ra khỏi tiêu cực. Chỉ có tình thương hoàn hảo gạt bỏ mọi sợ hãi mới có thể làm được điều này, và khi con trụ vào tình thương thiêng liêng, con không bị dính mắc. Tình thương thiêng liêng vô điều kiện, nghĩa là con sẽ thương yêu người khác vô điều kiện. Khi con thương yêu người khác vô điều kiện, con không bị dính mắc bởi các phản ứng của người kia đối với tình thương của mình, và do đó con không thể bị người khác kéo xuống.

Ý tưởng 5.

Điều quan trọng là thấy rằng tình thương thiêng liêng không giống như những gì mà hầu hết mọi người xem là tình thương. Nhiều người có ấn tượng rằng nếu mình thương thì mình phải luôn nhẹ nhàng, dịu dàng và tốt. Điều này không đúng. Nếu ai đó bịt mắt và đang đi về phía một vách đá,  đâu phải là mình chỉ nói nói nhẹ nhàng và yêu cầu người đó dừng lại. Như thế chưa đủ. Có thể là con phải hét lên, và nếu anh ta vẫn không nghe, có thể là con phải xé miếng vải bịt mắt anh và chỉ xuống vực thẳm.

Đây là những gì con đã thấy thày làm rất nhiều lần khi thày thách thức mọi người cách đây 2.000 năm. Khi thày thách thức các thầy thông giáo, người Pha-ri-si, thầy tế lễ trong đền thờ, những người đổi tiền và các luật sư, thày rất cứng rắn và nói thẳng. Nhiều người nghĩ rằng thày đang tức giận và hành vi đó không phù hợp với đấng Cứu thế hay một nhà tiên tri. Tuy nhiên, trên thực tế, thày đang thể hiện khía cạnh nam của tình thương thiêng liêng, đó là sự kiên quyết không muốn người khác tự hủy hoại.

Tình thương của Thượng đế sẽ không ngăn cản con hủy hoại bản thân nếu con thực sự kiên quyết làm như vậy. Tuy nhiên, tình thương của Thượng đế muốn đảm bảo rằng trước khi lựa chọn tự hủy hoại bản thân, con biết chính xác mình đang làm gì và hậu quả là gì. Nói cách khác, tình thương của Thượng đế sẽ không để bất cứ ai hủy hoại bản thân mà không biết họ đang làm gì. Nếu họ biết và vẫn khăng khăng tiếp tục ở trong vòng xoáy tiêu cực của mình, thì Thượng đế sẽ lùi bước — như người đại diện của Thượng đế đã làm trong Vườn Địa Đàng.

Bất kỳ vị thầy tâm linh chân chính nào cũng sẽ tìm cách soi sáng cho mọi người về các lựa chọn của họ và hậu quả của những lựa chọn đó. Và sau đó vị thày sẽ cho phép mọi người lựa chọn. Nếu mọi người chọn đi ngược lại lời khuyên của vị thày, thì hậu quả của hành động của họ sẽ là người thầy mới của họ.

Ý của thày là khi con tiếp xúc với những người tiêu cực, điều cần thiết và thích hợp là con phải rất cứng rắn và nói thẳng khi con thách thức cái nhìn tiêu cực của họ về cuộc sống. Nếu con chưa sẵn sàng làm điều này, tốt hơn là con nên tránh những người như vậy và tập trung vào việc xây dựng mối liên hệ của con với chính cái Ta Ki-tô của con. Khi đạt được liên hệ đó, con có thể cho phép cái Ta Ki-tô của mình thách thức niềm tin tiêu cực của mọi người thông qua con.

Nói cách khác, nếu con sử dụng trí óc con người của mình để thách thức niềm tin của người khác thì kết quả không tốt đâu. Con nên luôn luôn để cho cái Ta Ki-tô của con làm việc xuyên qua con để hoàn thành nhiệm vụ này. Đừng để bản thân bị mắc kẹt trong vòng xoáy tranh cãi và xung đột của con người. Con chỉ cần cho phép chính cái Ta Ki-tô của con nói qua con và nói lên sự thật. Sau đó, con không dính mắc và cho phép mọi người phản ứng lại sự thật đó theo cách nào phù hợp với họ. Nếu họ khăng khăng bác bỏ sự thật, thì con hãy rút lui và để họ gánh chịu hậu quả từ những lựa chọn tự do của họ.

Ý tưởng 6.

Con cần biết rằng có ba lý do cơ bản khiến mọi người bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực. Một là sự thiếu hiểu biết, hai là thói quen và những động lực cũ và ba là những tà linh đen tối. Con có thể giúp những người trong hai trường hợp đầu bằng cách đối xử tốt và nhẹ nhàng với họ. Con có thể cho họ sự hiểu biết và cứ tốt với họ hoài để chứng minh rằng có một cách sống tốt hơn là bị mắc kẹt trong vòng xoáy tiêu cực.

Tuy nhiên, lòng tốt sẽ không có tác dụng đối với những người bị tà linh đen tối ám. Cách duy nhất để giúp những người này là giải thoát họ khỏi những tà linh đen tối. Thật không may, những người như vậy thường không cởi mở để đón nhận cái biết sáng tỏ về tình trạng của họ. Không nhiều người trong thế giới ngày nay sẽ phản ứng tích cực đâu nếu con nói với họ rằng họ bị tà linh đen tối ám. Vậy, con có thể làm gì đây?

Trừ khi con đạt được mức độ cao của quả vị Ki-tô, con nên tránh giao dịch trực tiếp với bất kỳ loại tà linh đen tối nào. Họ có khả năng ăn cắp năng lượng của con hoặc hướng năng lượng hoặc suy nghĩ tiêu cực vào con. Vì vậy, con có thể yêu cầu Đại thiên thần Michael trói những tà linh đó và cắt người kia thoát khỏi các tà linh, để họ có thể lấy quyết định của riêng họ mà không bị áp đảo bởi những tà linh đen tối. Dụng cụ hiệu quả nhất cho mục đích này là bài Nguyện Archangel Michael (Rosary). Bằng cách đọc bài Nguyện này trong một thời gian cho những người tiêu cực, con có thể giúp họ thoát khỏi những tà linh đen tối, và điều này có thể khiến họ cởi mở hơn với những cách sống khác.

Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng không có nghi thức tâm linh nào sẽ vi phạm quyền tự quyết của con người. Nếu người đó không sẵn sàng buông bỏ những tà linh đen tối, Đại thiên thần Michael không thể gỡ chúng đi. Vì vậy, có thể sẽ có lúc con phải để những người này đi theo con đường của họ và dành năng lượng và sự chú ý của con cho những người sẵn sàng phát triển. Hãy cho phép chính cái Ta Ki-tô của con hướng dẫn con khi nào là lúc con phải bỏ lại chuyện này và bước đi tiếp.

Liệu chúng con có phải ưa thích mọi người?

Hỏi: Thày nói chúng con phải yêu thương mọi người, nhưng con thắc mắc vì con nghe người ta nói: “Nhưng bạn không cần phải ưa thích mọi người”.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012.

Khi con yêu thương ai đó với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, con giải thoát cho người đó được tự do để là con người mà họ là. Và khi làm vậy, con cũng giải thoát cho con để là con người mà con là. Khi ta nói con phải yêu thương mọi người, ta muốn nói là con phải yêu thương mọi người với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế. Tình yêu đó vô điều kiện, tức là ở trên và vượt khỏi mọi ưa thích hay không ưa thích của con người.  

Khi con thực sự hiện thân tình yêu vô điều kiện của Thượng đế, con không còn cân nhắc xem mình có ưa thích người đó hay không. Con chỉ đơn giản biểu hiện tình yêu cho mọi người con gặp mà không chờ đợi một sự hồi đáp nào cả. Khi con không còn những chờ đợi của phàm nhân, con đạt được sự tự do tâm linh, là tự do mà ta đã chứng tỏ.

Tuy nhiên, con hãy lưu ý, tình yêu vô điều kiện không phải lúc nào cũng mềm yếu. Khi ta quở trách những thày dạy luật, ta đã làm vậy với tình yêu vô điều kiện của Thượng đế không cho phép họ cứ kẹt mãi trong tâm trạng vị kỷ của họ. Cho nên sự thách thức của ta – biểu lộ trong sự cứng rắn của tình yêu thay vì trong cơn giận xung khắc – đã trao cho những dòng sống này một cơ hội để họ chọn Ánh sáng Ki-tô thay vì bóng tối mà họ đã tự giam mình vào.

Giáo lý căn bản về cách đáp ứng khi bị người khác hà hiếp

CHỦ ĐỀ: Trong các mối quan hệ, hãy tạo cơ hội để phát triển – kết quả thực tế của một tình huống ít quan trọng hơn sự phát triển – ý nghĩa thực sự của việc chìa má kia ra – giữ sự trong sáng của con – đừng thụ động – tình thương của Mẹ và của Cha – ngưng hành vi hà hiếp lại – giải quyết nghiệp chướng hoặc vết thương của riêng con – các bước thực tiễn để ứng phó với sự hà hiếp – cho mọi người và cho chính con cơ hội để phát triển – hướng tới sự không dính mắc – khi không dính mắc, tình hình sẽ thường được cải thiện hoặc con sẽ bước tiếp – một viên đá lót trên con đường tu của con.


Câu hỏi: Xin chào, Đầu tiên, cảm ơn quý vị về trang mạng khai sáng tâm tuyệt vời này. Nó đã nâng cao nhận thức tâm linh và sự phát triển tâm linh của tôi. Câu hỏi của tôi: Tôi biết trách nhiệm của tôi là phải tha thứ và cầu nguyện cho những người làm tổn hại đến tôi, vậy việc nộp đơn tố cáo những người phân biệt đối xử và sách nhiễu tại nơi làm việc có được chấp nhận về mặt tâm linh không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua Kim Michaels. Đăng ngày 17/11/2012:

Một câu hỏi tuyệt vời, chạm đến một trong những tình huống chính khó xử của đời sống con người và cũng cho thày cơ hội để bình luận về một sự hiểu lầm phổ biến về lời kêu gọi chìa má bên kia của thày. Hãy để thày giảng cho con về cách chúng ta những chân sư thăng thiên nhìn những tình huống như thế này.

Đầu tiên thày xin nói rằng trong bất kỳ sự tương tác nào giữa con người với nhau, mối quan tâm của các chân sư thăng thiên là luôn tạo cho tất cả mọi người liên hệ được cơ hội phát triển tối đa. Chúng tôi không quan tâm nhiều đến kết quả cụ thể của một tình huống, mà chúng tôi quan tâm đến sự phát triển của tất cả những người có liên quan đến tình huống đó. Vì vậy, với suy nghĩ đó, hãy để thày nhận xét về tình huống này và hàng triệu tình huống tương tự xảy ra hàng ngày trên khắp thế giới. Bản chất của tình huống là một người đang vi phạm Luật Tình thương, thay vì làm cho người khác điều mà họ muốn người khác làm cho mình, thì họ không hành xử như vậy. Câu hỏi bây giờ trở thành: người phải gánh chịu hành động này nên phản ứng như thế nào với tình huống đó.

Mối quan tâm đầu tiên và quan trọng nhất của con là tránh tạo ra những hậu quả tiêu cực cho bản thân. Để đạt được mục tiêu này, con cần phải làm theo lời kêu gọi của thày là chìa má bên kia. Khi con hiểu được ý nghĩa thực sự của việc chìa má bên kia, con sẽ thấy rằng nó có nghĩa là con đáp lại mọi tình huống bằng tình yêu thương vô điều kiện. Khi đáp lại với tình yêu thương này, con có thể tránh rơi vào cái bẫy bị rơi vào những cảm xúc tiêu cực của con người, chẳng hạn như cảm giác mình là nạn nhân, cảm giác sợ hãi, cảm giác tức giận hoặc mong muốn trả thù. Khi con né tránh được những cảm xúc như vậy, Hoàng tử của thế giới này sẽ đến và không tìm thấy  được gì trong con để ảnh hưởng con. Do đó, con sẽ không tạo ra hậu quả tiêu cực, có nghĩa là năng lượng tha hóa hoặc nghiệp quả, từ hoàn cảnh này. Con thực sự có thể vượt qua tình huống và duy trì sự trong sáng và ngây thơ của mình mà không bị hành động của người kia làm vấy bẩn. Điều này giúp con không bị kéo vào một vòng xoáy tiêu cực thực sự trói buộc con với kẻ đang hà hiếp con, thay vì buộc con với chính cái Ta Ki-tô bên trong con.

Nói thế nhưng điều cần thiết là phải nhận ra rằng chìa má bên kia không có nghĩa là con trở thành người theo chủ nghĩa hòa bình và con thụ động cho phép người khác hà hiếp mình. Đây là một điểm tế nhị đã bị hiểu lầm bởi nhiều người Cơ đốc, những người thấy tầm quan trọng của việc ứng phó với tình thương nhưng lại không hiểu rằng tình thương thiêng liêng có hai khía cạnh. Như Mẹ Mary giải thích trong bài diễn văn của mình, Thượng đế có hai khía cạnh, đó là lực lan ra của Cha và lực co lại của Mẹ.

Khi con chìa má bên kia và tránh rơi vào những cảm xúc tiêu cực, con đang sử dụng khía cạnh Mẹ của tình thương  thiêng liêng. Đây là ngọn lửa truyền sức mạnh cho con để con luôn trong sáng và không bị dính mắc khi đối mặt với bất kỳ sự tàn bạo nào được tìm thấy trên thế giới này. Tuy nhiên, điều quan trọng là con cũng phải sử dụng ngọn lửa tích cực hơn của Cha thiêng liêng. Đây là ngọn lửa truyền sức mạnh cho con để thực hiện hành động thích hợp sẽ mang lại cho cả bản thân và những người khác cơ hội tốt nhất để phát triển từ hoàn cảnh này.

Khi con hiểu được hai khía cạnh của tình thương thiêng liêng, con không thể cho phép người đang hà hiếp con tiếp tục làm như vậy, vì con biết rằng điều đó sẽ gây hại cho người đó về lâu dài. Vì vậy, chính vì tình thương vô điều kiện dành cho người kia, con sẽ hành động một cách tự nhiên để ngăn chặn sự hà hiếp. Đây là những gì con đã thấy thày làm khi thày thách thức các thày thông giáo, người Pha-ri-si, người Sa-đu-sê, thầy tu trong đền thờ và bất kỳ ai khác khuyến khích mọi người đến với tôn giáo trong sự sợ hãi.

Trong tình huống cụ thể của con, thày muốn khuyên con những điều sau:

  • Trước tiên, hãy nhìn lại bản thân và đảm bảo rằng con hoàn toàn không bị dính mắc. Nếu cần, hãy sử dụng Bài Nguyện Tha Thứ để vượt qua mọi cảm giác tiêu cực đối với người kia. Sử dụng Bài Nguyện của Archangel Michael (Archangel Michael Rosary) để bảo vệ bản thân khỏi mọi tà lực đen tối có thể khiến con có cảm xúc tiêu cực hoặc cảm thấy mình là nạn nhân.
  • Khi con nhận thức được khía cạnh tâm linh của cuộc sống, con có một cơ hội đặc biệt để giải quyết tình huống bằng cách sử dụng các công cụ tâm linh mà chúng tôi cung cấp trên trang mạng. Ví dụ: thày khuyên con nên đọc Bài Nguyện đại thiên thần Michael và đặc biệt kêu gọi  Thày Michael trói lại tất cả các phàm linh đen tối đang sử dụng người kia và khiến người đó có những hành vi không yêu thương. Con cũng nên kêu gọi Thày trói lại những lực chống lại cái Ta cao của người đó, khiến y không thấy được hành vi của mình là sai. Con cũng có thể sử dụng bài Thỉnh Mẹ Mary hoặc các bài chú của Ngọn lửa Tím để tiêu trừ tất cả nghiệp chướng mà con có thể có với người đó. Hãy để thày giúp con đồng đo lường với thày. Nếu con cảm thấy bất kỳ cảm giác tiêu cực nào đối với người kia, thì con có thể có một số tắc nghẽn trong tâm lý của chính mình hoặc con đã có nghiệp quả với người kia từ những kiếp trước. Do đó, con phải cực kỳ thận trọng chờ con giải quyết xong các tắc nghẽn này trước khi con đi xa hơn.
  • Khi con đã đạt được sự không dính mắc, hãy nhẹ nhàng nhưng quả quyết cho người kia biết rằng con coi hành vi của họ là không thể chấp nhận được và con muốn hành vi đó dừng lại. Nếu người đó phản ứng tích cực và có vẻ thực sự sẵn sàng dừng hành vi đó, điều này có thể là đủ. Nếu người đó có vẻ không thành thật hoặc phản ứng tiêu cực, hãy bình tĩnh nói với người đó rằng con sẽ thông báo cho bộ phận có thẩm quyền về chuyện này trong công ty của con và nếu cần sẽ nộp đơn kiện về hành vi sách nhiễu tình dục.
  • Sau khi con đã nói chuyện với người đó, hãy đến gặp người thích hợp trong công ty của con và thông báo cho họ biết về tình hình mà không cần nộp đơn khiếu nại chính thức. Đơn giản là con cho họ cơ hội phát triển bằng cách để họ quyết định ứng phó với tình huống theo cách mà họ thấy phù hợp. Con cho họ biết rằng con đã nói chuyện với người đó và yêu cầu hành vi dừng lại, và nếu hành vi này dừng lại, thì con không muốn có biện pháp gì thêm nữa. Tuy nhiên, hãy cho họ cơ hội có biện pháp nếu người sách nhiễu con cũng đã làm như vậy với người khác.
  • Nếu hành vi không dừng lại, hãy quay lại với bộ phận có thẩm quyền trong công ty của con và nộp đơn khiếu nại chính thức. Yêu cầu họ đảm bảo rằng hành vi này không tiếp tục.
  • Nếu bộ phận thẩm quyền của công ty con không làm gì để ngăn chặn hành vi có vấn đề, thì hãy quay lại với họ và nói rằng trừ phi hành vi đó dừng lại, con sẽ nộp đơn kiện.
  • Nếu công ty của con vẫn không làm gì để ngưng hành vi đó, thì lúc đó và chỉ lúc đó, con hãy đến tòa án và nộp đơn kiện chính thức chống lại người sách nhiễu con và chống lại công ty đã không làm gì để ngăn chặn hành vi đó.
  • Con có thể điều chỉnh cách giải quyết dần dần từng bước này cho hầu hết các tình huống khác. Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng trong bất kỳ tình huống nào liên quan đến người khác, con phải luôn tôn trọng quyền tự quyết của họ. Do đó, con phải làm những gì đúng, theo sự hiểu biết tốt nhất của con, và sau đó con không vướng mắc đến kết quả của hành động. Nếu mọi người không phản ứng như con chờ đợi, con đừng rơi vào cảm xúc tiêu cực. Thay vào đó, con hãy sử dụng các công cụ tâm linh để kêu gọi sự bảo vệ cho họ và kêu gọi cho tâm họ ngộ ra. Nếu họ không thay đổi, hãy kêu gọi sự phán xét của Thượng đế.

Nếu vẫn không có gì thay đổi, hãy giữ nguyên thái độ không dính mắc. Trong một số trường hợp, con người từ chối mọi lời kêu gọi thay đổi, nhưng khi con đã có hành động thích hợp để cho họ cơ hội thay đổi, sẽ đến lúc con đã hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với họ. Sau đó, con có thể cảm thấy đã đến lúc con phải tiếp tục bước tới trước. Khi điều đó xảy ra, con chỉ cần buông bỏ  hoàn cảnh này hoặc bỏ lại phía sau tất cả các chấp trước dính vào tình huống này hoặc chấp trước mong muốn một kết quả nào đó.

Nếu con có thể giữ cho mình không bị dính mắc, con sẽ luôn phát triển từ hoàn cảnh sống, và nếu con phát triển, kinh nghiệm của con về hoàn cảnh sẽ cải thiện, ngay cả khi hoàn cảnh bên ngoài không thay đổi. Tuy nhiên, khi con thay đổi, con thường sẽ thấy rằng các tình huống bên ngoài tự giải quyết và con thấy mình đã vươn lên một mức tâm thức cao hơn trước.

Con có thể thấy rằng bằng cách giải quyết dần dần từng bước này, con cho tất cả những người có liên hệ được cơ hội tối đa để phát triển từ hoàn cảnh đó mà không rơi vào bẫy phản ứng bằng sự tức giận hoặc tìm cách trả thù.Trước hết, con cho mình cơ hội phát triển từ hoàn cảnh này thay vì cho phép mình trở thành nạn nhân hoặc tìm cách trả thù. Bất cứ khi nào con cảm thấy dính mắc muốn đạt một kết quả cụ thể trong môt tình huống, con biết rằng con đã gặp phải một trong những chỗ tắc nghẽn trên con đường đi tới quả vị Ki-tô cá nhân của con. Do đó, hãy tận dụng cơ hội để loại bỏ khối tắc nghẽn đó và thực hiện một bước nhảy vọt vĩ đại để trở thành con người thật của con, thay vì cho phép Hoàng tử của thế gian này quy định con là ai thông qua sự tấn công của những kẻ yếu đuối.

Thày xin nói lại rằng chìa khóa của quả vị Ki-tô cá nhân là đáp ứng mọi tình huống bằng tình yêu thương. Và chìa khóa để đáp ứng bằng tình thương là nhận ra rằng tình thương có hai khía cạnh. Một là khía cạnh Mẹ trao quyền cho con để con chìa má bên kia và không bị dính mắc. Khía cạnh kia là khía cạnh Cha cho phép con hành động giống như Đấng Ki-tô, (trái ngược với hành động của con người theo quan điểm nhị nguyên), để ngưng tình huống hà hiếp và ngăn nó leo thang thành một vòng xoáy đi xuống cho tất cả những người liên hệ.

Thày thực sự đã đưa ra lời dạy này cách đây 2000 năm, nhưng nó không bao giờ được các tác giả Phúc Âm ghi lại đầy đủ vì họ không hoàn toàn hiểu lời dạy. Và một số đoạn được ghi lại trong thánh thư gốc kể từ đó đã bị bóp méo hoặc bị chỉnh sửa vứt đi, khiến người Cơ đốc ngày nay có cái nhìn một chiều về những lời dạy của thày về tình thương thiêng liêng. Do đó, rất nhiều người Cơ đốc có cách đối phó thụ động với cuộc sống và tin rằng họ nên chìa má bên kia và cho phép tình trạng hà hiếp tiếp tục. Mặt khác, nhiều người phản ứng với những tình huống như vậy với sự tức giận, thay vì hiểu rằng muốn thực sự chìa má bên kia, con phải không dính mắc để Hoàng tử của thế gian này không tìm thấy gì trong con để ảnh hưởng con.

 Thày biết rằng đáp ứng trước mọi tình huống bằng tình yêu thương là một sự cân bằng tế nhị và là một thách thức lớn đối với những người lớn lên trong thế giới phân cực ngày nay. Tuy nhiên, đây cũng là một cơ hội tuyệt vời để phát triển vì nó cho phép con biến mọi tình huống thành những viên đá lót trên con đường dẫn tới quả vị Ki-tô cá nhân của con.

Lời dạy căn bản về phân mảnh linh hồn và bệnh tâm thần

Hỏi: Có những lời dạy tâm linh và tâm lý cho rằng linh hồn có thể bị phân rẽ, chia cắt hay phân mảnh. Thày có đề cập đến điều này trong câu trả lời về bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia). Điều gì xảy ra cho các mảnh vụn của linh hồn bị đánh mất? Có kỹ thuật tâm linh hay tâm lý nào để hồi lại những mảnh đó? Đó có phải là một điều khả thi hay cần thiết để chữa lành các chứng tâm thần nghiêm trọng?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 15/11/2012.

Đề tài linh hồn phân mảnh (soul fragmentation) hay phân chia (soul division) có thể khá phức tạp. Tuy nhiên vì tính cách câu hỏi, ở đây ta sẽ chú trọng đến khía cạnh thiết thực nhiều hơn là khía cạnh triết lý, hay nói cách khác, là những gì con cần biết về linh hồn phân mảnh để con tự bảo vệ lấy bản thân hay chữa lành một chứng bệnh tâm thần.

Trong câu trả lời sau đây, ta xem như con đã quen thuộc với các giáo lý về bốn tầng của cõi vật chất cũng như về các thành phần của tâm, đặc biệt là quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ và cái Ta Biết. Ta cũng coi như con đã đọc câu trả lời trước của ta về đề tài: linh hồn là vật lý hay tâm linh.

Chúng ta hãy khởi sự bằng cách xem xét Hiện diện TA LÀ. Hiện hữu nơi cõi tâm linh, nó có rung động cao hơn hẳn thế giới vật chất, có nghĩa là Hiện diện không thể nào bị các rung động thấp kém của thế giới vật chất hủy diệt hay phân cắt – đồng thời cũng có nghĩa là Hiện diện không thể trực tiếp đi xuống thế giới vật chất. Hiện diện TA LÀ có một cá thể rõ rệt mà nó mong muốn biểu đạt trong thế giới vật chất, và để làm vậy, nó tạo ra một phần nối dài của chính nó có khả năng xuống được thế giới vật chất. Phần nối dài này là cái Ta Biết.

Cái Ta Biết là phần nối dài của tâm thức của Hiện diện TA LÀ, nhưng Hiện diện TA LÀ không “cài đặt” cá thể của nó vào Ta Biết. Cái Ta Biết giống như cái lăng kính qua đó Hiện diện có thể tự biểu đạt và đồng thời có thể chiêm nghiệm thế giới vật chất. Và như thế, cái Ta Biết là cái gì đi xuống những rung động thấp kém của thế giới vật chất, nhưng vì nó là sự nhận biết thuần khiết – và nó là nhận biết thuần khiết vì nó không có cá thể – cho nên nó cũng không thể bị hủy diệt hay phân cách bởi các rung động thấp của thế giới vật chất.

Tuy nhiên – và đây là cốt lõi của vấn đề – ngay cả cái Ta Biết cũng không thể hành động trực tiếp trong thế giới vật chất. Để làm vậy, nó phải tạo ra, hay khoác lấy, một “thân thể” được cấu tạo bằng rung động trong dải tần số vật chất. Như các thày đã có giải thích, cõi vật chất có bốn tầng, cho nên khi nó tạo “thân thể”, điều này có nghĩa là nó tạo ra “bốn thể phàm”, cụ thể là “thể” bản sắc, “thể” lý trí, “thể” cảm xúc và sau cùng là cơ thể vật lý. 

Khi cái Ta Biết được sinh tạo lần đầu, nó thật sự không đủ khả năng tạo ra bốn thể phàm. Nó chưa từng có kinh nghiệm đồng sáng tạo và nó cũng không có kinh nghiệm về rung động của bốn tầng. Cho nên một cái Ta Biết tân lập sẽ phải khởi đầu nơi một trường học, gọi là trường bí giáo được biểu tượng qua Vườn Eden. Đó là một môi trường học hỏi ở cõi bản sắc, ở đó nó sẽ có thể thử nghiệm khoác lên những cái “thể” do vị thày tâm linh tạo ra cho cõi bản sắc.

Đặc tính cơ bản của cái Ta Biết là bởi vì nó là nhận biết thuần khiết, nó có khả năng tự phóng chiếu vào bất cứ điều gì mà nó hình dung, và chính đặc tính này giúp nó đi xuống đầu thai. Nói cách khác, cái Ta Biết không trở thành một thể bản sắc hay một xác thể vật lý, mà nó tự phóng chiếu vào một ý niệm cái ta, một ý niệm bản ngã. Cũng y như một diễn viên mặc vào trang phục trình diễn và hóa trang để đóng một vai tuồng trong vở kịch vậy.

Như vậy cái Ta Biết khởi sự học trường bí giáo khi nó tự phóng chiếu vào một “cái ta bản sắc” do vị thày tâm linh tạo ra. Chúng ta có thể so sánh với một học viên phi công bước vào một cái máy giả lái phi cơ hầu có được cảm giác y như mình đang lái một chiếc phi cơ mà không sợ gây ra tai nạn.

Khi cái Ta Biết bắt đầu thông thạo hơn với một cái ta bản sắc, nó sẽ khoác vào một cái ta bản sắc/lý trí và lại thử nghiệm thêm. Sau đó nó sẽ khoác lên một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc, và cuối cùng là một cái ta bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý mà không bao giờ nó phải thực sự bước xuống dải tần số vật chất. Nó vẫn còn ở trong một môi trường mô phỏng thế gian.

Sau khi nó tương đối lành nghề với tiến trình này, cái Ta Biết bước vào một giai đoạn mới khi nó sẽ bắt đầu định đoạt cái ta riêng của nó thay vì sử dụng cái ta do thày định ra cho nó. Làm thế nào nó thiết kế cái ta đó? Dựa theo sự liên hệ của nó với Hiện diện TA LÀ và những kinh nghiệm của nó về bốn tầng, cái Ta Biết khởi đầu như một ý niệm bản ngã chỉ to bằng đầu cái kim, qua đó nó biết là nó vẫn kết nối với một cái gì rộng lớn hơn nhưng nó không trực tiếp kinh nghiệm được Hiện diện TA LÀ, và như vậy, nó không thể biểu hiện một cách trọn vẹn cá thể của Hiện diện.

Khi cái Ta Biết thử nghiệm, nó sẽ mở rộng ý niệm bản ngã của nó. Chừng nào nó còn đi theo sự hướng dẫn của vị thày, nó sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn nó là cánh cửa mở cho Hiện diện. Và cứ thế, cá thể của Hiện diện ngày càng tỏa sáng mãnh liệt hơn qua nó. Nói cách khác, cái Ta Biết không khoác lấy hay trở thành cá thể của Hiện diện, nó chỉ ngày càng là một cánh cửa mở rộng hơn cho Hiện diện. Điều này có nghĩa là khi cái Ta Biết tạo ra một bản ngã, bản ngã này sẽ phản ánh cá thể của Hiện diện.  

Trong trường hợp lý tưởng, cái Ta Biết sẽ tiếp tục tuân theo sự hướng dẫn của vị thày cho tới khi nó sẵn sàng tạo ra một thể bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý cụ thể và nó tự phóng chiếu vào đó. Bây giờ nó hết còn trong một môi trường mô phỏng mà nó đã giáng xuống thế gian “thực thụ”.  

Mục đích lời trình bày dài dòng ở trên là để giải thích cho con hiểu là cái mà nhiều người xem là hồn thật ra chỉ là một thể gồm bản sắc/lý trí/cảm xúc/vật lý do cái Ta Biết tạo ra. Trong điều kiện lý tưởng, cỗ xe 4 lớp này – ta sẽ tránh gọi là hồn từ điểm này trở đi – là sự phản ánh của cá thể của Hiện diện TA LÀ. Lúc đầu, cá thể này sẽ không biểu thị một cách trọn vẹn nhưng sẽ ngày càng rõ nét hơn khi cái Ta Biết có thêm kinh nghiệm tự biểu đạt. Và như vậy, con đường dẫn tới quả vị Ki-tô sẽ lý tưởng là con đường của cái Ta Biết trở thành cánh cửa mở hầu cá thể và quyền năng của Hiện diện TA LÀ được thể hiện hoàn toàn. “Ta và Cha ta là một” trong nghĩa đó.

Làm thế nào cá thể của Hiện diện được phản ánh trong thiết kế của cỗ xe 4 lớp? Chúng ta có thể so sánh với một máy chiếu phim và cá thể của Hiện diện như là cuộn phim. Cá thể đó giống như một hình ảnh được phóng chiếu lên màn ảnh của bốn thể phàm. Tại sao điều này quan trọng? Là vì nó giải thích tại sao trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không thể bị chia cắt hay phá hủy.

Hiện nay thế giới vật chất – ít nhất trên hành tinh địa cầu – là một môi trường bị ảnh hưởng sâu xa bởi tâm thức nhị nguyên và các sinh thể sa ngã. Cho nên khi con xuống hiện thân ở đây, rất có thể con sẽ bị chấn thương bằng rất nhiều cách, và chấn thương này có thể khiến cho cỗ xe 4 lớp của con bị hư hại. Trong những điều kiện của thế gian, thật con không có cách nào tránh khỏi điều đó. Tuy nhiên trong trường hợp lý tưởng khi con được vị thày hướng dẫn, chấn thương có thể được chữa lành hầu như tức thì nếu con quyết định trong ý thức là con sẽ không phản ứng lại. Trong trường hợp này, chấn thương xảy ra giống như có ai lấy tay đập vào nước. Nước sẽ văng lên tung tóe nhưng chỉ một lát sau, nước sẽ nhanh chóng bình phẳng trở lại và một tấm gương toàn hảo sẽ lại hình thành trên mặt nước, phản ánh cá thể do Hiện diện TA LÀ phóng chiếu ra.

Nói cách khác, khi cỗ xe 4 lớp của con được chế tạo khi con thấy con là phần nối dài cho Hiện diện TA LÀ, vấn đề phân cách hay phân mảnh linh hồn không hề đặt ra. Chỉ trong trường hợp không lý tưởng thì mới có vấn đề, và bây giờ chúng ta hãy nhìn xem điều gì xảy ra.

Như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày, trong trường bí giáo có một số dòng sống đã quyết định khai mở tâm thức nhị nguyên trước khi họ sẵn sàng. Họ bị tâm nham hiểm của rắn lừa gạt để họ tưởng rằng họ đã đủ trình độ bước xuống hiện thân vật lý – dẫu rằng vị thày nói rõ là họ chưa sẵn sàng. Như vậy họ đã quyết định cố chiếm lấy “thiên đàng” – hay đúng hơn, chiếm lấy sự hiện thân – bằng vũ lực.

Trên thực tế, các dòng sống này chưa có khả năng định hình cỗ xe 4 lớp của họ. Khả năng của họ bị giới hạn ở mức mà họ đã đạt được khi họ quay lưng lại thày mình. Và vì thế, họ khoác vào một cỗ xe 4 lớp gồm một phần do họ tạo dựng và phần kia do các sa nhân tạo dựng. Làm sao đi nữa thì cỗ xe này cũng không phản ánh cá thể của Hiện diện: nó đã được tạo ra dựa trên ảo tưởng tách biệt.

Điều này có hai hệ quả. Một là các ý tưởng, các tâm ảnh và các tin tưởng cấu tạo cá thể của cỗ xe 4 lớp đều bị ảnh hưởng bởi tâm thức nhị nguyên. Những tin tưởng này phần nào dựa trên cá thể của Hiện diện TA LÀ của dòng sống, nhưng cá thể này đã bị biến thái bởi tâm thức nhị nguyên. Như ta đã giải thích, mọi thứ trong tâm thức nhị nguyên phải có một đối cực, nghĩa là khi một đặc tính nhị nguyên gặp đặc tính đối cực của nó, có vẻ như nó sẽ bị đối cực kia triệt tiêu.

Bây giờ con có thể thấy được tại sao khi cỗ xe 4 lớp của con được xây bằng tâm thức nhị nguyên, nó luôn luôn ở trong trạng thái bị đối cực nhị nguyên đe doạ. Ý niệm bản sắc, ý niệm cái ta trong lý trí và ý niệm cái ta trong tình cảm luôn luôn bị đe dọa bởi đối cực nhị nguyên của những tin tưởng cấu tạo các cỗ xe của con.

Bây giờ chúng ta thấy có bốn cách cỗ xe 4 lớp của con – tức hồn của con – có thể bị phân mảnh. Ở tầng vật lý, sự kiện cơ thể con bị giết hại hay bị đau đớn có thể dẫn đến chấn thương trầm trọng đến độ “thể” cảm xúc của con bị phân mảnh. Việc trải nghiệm những xúc động mãnh liệt từ người khác cũng có thể gây ra chấn thương. Con thử nhìn xem con có thể bị tác động dễ dàng thế nào khi người ta giận dữ đối với con hay có ác ý muốn tiêu diệt con. Ở tầng lý trí, khi con thấy những tin tưởng sâu xa của mình bị lật bỏ, con có thể bị chấn thương. Ví dụ như nhiều tín đồ Cơ đốc giáo chính mạch đã cảm thấy niềm tin của mình nơi đạo mình bị khoa học phá tan tành, và điều này có thể gây ra một rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp. Tất cả những trải nghiệm đó cũng có thể tạo rạn nứt ở tầng bản sắc khi con cảm thấy chính ý niệm bản sắc của mình bị đe dọa. Và điều này cũng có thể xảy ra khi sa nhân buộc oan con – như chúng thường hay làm – khiến tin tưởng của con về bản chất tốt thiện của con bị đe dọa.

Bây giờ chúng ta hãy đào sâu hơn và thấy rằng cỗ xe 4 lớp gồm có hai thành phần. Một là những tâm ảnh và tin tưởng, và thành phần kia là năng lượng vận động tất cả mọi thứ trong thế giới hình tướng. Các tâm ảnh và tin tưởng hình thành một cái gì có thể so sánh như một cấu trúc tinh thể (crystalline structure). Con cũng biết có những đồ chơi làm bằng mảnh nhựa hay kim khí mà con có thể lắp lại thành cái hộp có khoảng trống bên trong, giống như cái lồng. Thành phần năng lượng là những gì được đặt vào trong cấu trúc đó, gần giống như những quả bóng mà con đặt vào trong lồng.

Trong trường hợp lý tưởng, cỗ xe 4 lớp của con không có bất cứ hình ảnh hay tin tưởng nào dựa trên nhị nguyên. Kết quả là ngay cả khi con bị tấn công, con cũng sẽ không xem đó là một sự tấn công cá nhân, bởi vì con không hề cảm thấy cá nhân mình bị đe dọa. Cho nên mặc dù cấu trúc tinh thể bị hư hại, con có thể, gần như lập tức, chữa lành lặn bằng cách buông bỏ chuyện đó và trở về nhận biết thuần khiết. Đây là ý nghĩa thâm sâu của lời dạy về việc chìa má bên kia. Khi con thực sư chìa má bên kia, không một thế lực thấp kém nào có thể làm hại các thể cao của con.

Trước khi con đạt được quả vị Ki-tô hoàn toàn, con có thể bị tác động tạm thời, và điều này có thể khiến con mất đi một phần năng lượng trong cấu trúc. Nhưng khi con trở về với sự nhận biết thuần khiết, con sẽ từ hóa (magnetize) năng lượng đó trở lại trong con. Nói cách khác, con có thể học cách chữa lành nhanh chóng bất kỳ chấn thương nào mà con phải kinh qua khi đầu thai. Khi con đạt được quả vị Ki-tô, ngay cả xác thân vật lý của con cũng không thực sự là vật lý nữa, và như vậy con có thể hiện thân trong một thể xác trông như là vật lý nhưng không một thế lực nào trên địa cầu có thể giết hại.

Nhưng nếu cỗ xe 4 lớp của con được làm bằng tâm thức nhị nguyên, cấu trúc tinh thể sẽ dễ dàng bị hư hại hoặc vỡ ra thành từng mảnh do các điều kiện trong thế gian, như được mô tả ở trên. Hơn nữa, năng lượng bên trong cấu trúc sẽ rung động ở một độ thấp hơn, có nghĩa là năng lượng dễ dàng bị cuốn hút ra ngoài hay bị mất mát khi có lỗ hổng trong cấu trúc. Cho nên khi cỗ xe bị phân mảnh, đó là vì có cái gì đó đã làm nổ tung và thổi bay một phần cấu trúc tinh thể cùng với năng lượng trong đó. Bây giờ chỉ còn sót lại một cấu trúc khiếm khuyết với một lỗ hổng to tướng, và con cảm nhận điều này như một chấn thương trầm trọng.

Nếu mảnh cấu trúc và năng lượng bị mất đủ lớn, con sẽ cảm thấy mình bị chia cắt – một căn nhà bị chia cắt khỏi chính mình – đến độ con không thể chịu đựng được nữa, và đây là nguyên nhân thực sự của tất cả mọi chứng bệnh tâm thần trầm trọng. Nỗi đau và mất mát to lớn đến độ con không thể sinh hoạt bình thường được, và con nhất định phải làm gì đó để khắc phục cảm giác trống trải, mất mát, đau đớn đó. Nhưng vấn đề là con sẽ làm gì đây? Và đây là lúc chúng ta thấy hiện ra tình thế tiến thoái lưỡng nan quen thuộc, khiến con người bị đóng đinh – trong nghĩa đen – trên cây thập tự của chính cỗ xe 4 lớp của mình.   

Có mấy cách cơ bản để con cố chịu đựng sự phân mảnh của hồn:

  • Con tìm cách khiến mình tê dại để có thể chịu đựng cơn đau, có thể qua chất hóa học hay ma túy, chắc chắn sẽ dẫn đến nghiện ngập. Sự nghiện ngập kéo theo một số biến động khác trong đời con gây thêm chấn thương, khiến hồn bị phân mảnh nhiều hơn nữa. Kết quả là một vòng xoắn ốc hướng hạ sẽ không ngừng kéo con xuống cho đến khi con chạm đáy và quyết định mình phải thay đổi hoàn toàn cách sống. Nhân tiện xin nói thêm là cách sử dụng dược phẩm của khoa tâm thần học hiện đại cũng tương tự như cách trên. Nếu không phối hợp với phép trị liệu đối thoại thì dược phẩm sẽ không giải quyết được sự phân rẽ của hồn. Nhưng con cũng lưu ý là đối với những người bị phân rẽ trầm trọng, rất có thể họ sẽ cần trị liệu tâm thần, và vì vậy ta sẽ không lên án trị liệu và cũng không khuyên ngăn người bệnh đi tìm sự giúp đỡ.
  • Con tìm cách mau chóng chiếm đoạt năng lượng của người khác hầu giảm thiểu nỗi trống trải của mình. Một phương cách là quan hệ tình dục, khi con đoạt lấy năng lượng của người giao phối. Điều này phần nào giải thích những trường hợp hiếp dâm và ấu dâm. Tất nhiên, làm vậy cũng không giải quyết được sự phân chia. Một cách khác nữa là tạo ra tranh cãi, gây ra ẩu đả hay hành hạ người khác bằng đủ mọi cách. Những kẻ tra tấn hay giết người hàng loạt làm như vậy để đánh cắp năng lượng hầu che đậy những phân chia trầm trọng trong hồn mình.
  • Con mời một tà thể ngoại lai vào cỗ xe 4 lớp của con để lấp đầy lỗ hổng. Tà thể này có thể là một hồn bóng không xác, một con quỷ, hay như Phật Gautama có gọi, một con quái vật. Điều này có nghĩa là, trong nghĩa đen, có một sinh thể ngoại lai vào sinh sống trong không gian của cỗ xe 4 lớp của con, và hiển nhiên nó gây ra những chứng bệnh gọi là rối loạn lưỡng cực (bipolar), phân chia nhân cách (split personality), đa nhân cách (multiple personality) hay tâm thần phân liệt (schizophrenia). Có lúc tà thể ngoại lai sẽ chiếm lãnh tâm trí con và có lúc con sẽ giữ được chủ quyền.
  • Con cố tránh cho vết thương con khởi phát bằng cách lánh xa mọi người khác hay lánh xa đời sống. Trong quá khứ, nhiều người đã lui vào tu viện vì lý do này, và ngày nay có nhiều người cũng tìm cách che giấu sự phân chia nội tâm nơi các cộng đồng tâm linh. Tiện đây cũng xin nói, một giáo lý tâm linh quả là có thể bị lạm dụng cho mục đích này.  
  • Con cố tránh cho vết thương khởi phát bằng cách kiểm soát môi trường chung quanh con. Trường hợp này bao gồm nhiều loại người, từ gia chủ của một gia đình đổ vỡ cho đến giám đốc điều hành của một tập đoàn hay nhà độc tài của một quốc gia. Hitler, Stalin, Mao và các nhà độc tài khác đều sẵn sàng giết hại vô số sinh mạng hầu trấn áp môi trường chung quanh, và tất cả đều bị thúc đẩy bởi một linh hồn bị phân rẽ trầm trọng.  
  • Con tìm cách sửa chữa sự rạn nứt trong cỗ xe 4 lớp của con. Điều này có thể thực hiện bằng nhiều cách, nhưng thường con dùng tâm thức nhị nguyên để dựng lên một cấu trúc mới rồi đổ đầy với năng lượng thấp kém. Vết gãy rách đã khiến cho cấu trúc linh hồn nguyên thủy của con bị hư hại và vì vậy con cảm thấy mình khiếm khuyết, không trọn vẹn. Việc đóng lại lỗ hổng có thể cho con cảm giác toàn vẹn hơn. Nói cách khác, dù cỗ xe của con được tạo bằng tâm thức nhị nguyên, nhưng một cấu trúc liền lặn sẽ cho con một cảm giác tương đối toàn vẹn, tự chủ hơn. Một cách sửa chữa hư hại là để cho tự ngã của con tạo ra những tâm ảnh mới phát xuất từ chấn thương. Điều này có thể khiến con xem mình là một nạn nhân, hay khiến con tìm kiếm một con dê tế thần để con đánh nhau với nó hầu tiêu diệt nó. Như thế con sẽ chám được lỗ hổng với một cấu trúc mới phát sinh từ chấn thương mà con đổ đầy với năng lượng sợ hãi hay giận dữ. Tất nhiên, con sẽ không chữa lành được phân chia nội tâm của con nhưng nhiều người đã dựng lên nhiều lớp kiểu này đến độ họ cũng cảm được một chút toàn vẹn và chủ động.

Bây giờ thì con thấy được một số những hành động tàn bạo nhất trong lịch sử loài người là do những kẻ bị phân mảnh linh hồn gây ra. Một số những lạm dụng tồi tệ nhất ở mức cá nhân hay gia đình cũng là do chứng này gây ra. Hầu hết các bệnh tâm thần và các vấn đề tâm lý nghiêm trọng nhất là do sự phân mảnh của cỗ xe 4 lớp. Một khi con nhìn nhận điều này thì các thày mới có thể gợi ra một số cách đối phó.

Trước hết, chúng ta có một nhóm những người bị phân rẽ trầm trọng đến độ họ bị kẹt trong một khuôn nếp độc hại. Chừng nào họ còn bị vòng xoáy hướng hạ cuốn họ đi xuống như thế, thường không có cách gì giúp được họ. Không có cách nào để giao tiếp với họ, và con không thể nói gì với họ để thay đổi tình thế. Họ sẽ phải tiếp diễn khuôn nếp này cho tới khi họ chạm đáy và quyết định làm một điều mà họ chưa từng làm cho tới giờ, đó là nhận lấy trách nhiệm về bản thân mình, nhìn nhận là mình đã tạo ra ngã tách biệt và bây giờ mình chính là người phải gỡ nó đi.

Sau đó chúng ta có một nhóm những người bị phân mảnh nghiêm trọng đến độ họ khó lòng nào, hoặc không thể, chữa lành một mình. Ta thực sự khuyên những người như vậy hãy tìm kiếm sự trợ giúp chuyên nghiệp mà họ có thể. Con đang sống trong một thời kỳ mà sự kỳ thị đối với bệnh tâm thần đã phai nhạt đi và vì vậy, giống như với các bệnh thể xác, không ai phải xấu hổ với bệnh tâm thần nữa. Ngoài các bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học, con cũng có thể chiếu cố các nhà trị liệu không chính mạch, tuy nhiên với hầu hết những cách trị liệu truyền thống, điều quan trọng là tìm được người thích hợp để trợ giúp mình. Thật vậy, người chữa trị quan trọng hơn cách chữa trị. Một khuyến cáo chung chung là con nên xem xét hai cách trị liệu Gestalt và EMDR. Về liệu pháp giải thoát tánh khí (spirit release therapy) hoặc phương pháp của thày cúng (shaman) nhằm phục hồi linh hồn, ta xin nhắc lại một lần nữa: mức độ già dặn của người chữa trị là điều tối quan trọng. Song song, một điều nữa cũng vô cùng quan trọng là cần phối hợp pháp trị liệu với những dụng cụ tâm linh mà ta khuyến cáo ở bên dưới.    

Chúng ta cũng có một nhóm thứ ba, là những người chưa bị phân chia đến độ cần phải điều trị, tuy rằng sự điều trị vẫn có thể ích lợi. Nếu con trong số này, con có thể tự lo lấy một số điều, là những điều gì?

Điều đầu tiên cần làm là nhận ra rằng khi cỗ xe 4 lớp của con bị phân mảnh, nó dễ bị ảnh hưởng bởi những thế lực ngoại lai, chẳng hạn những sinh thể bóng tối hay năng lượng thấp kém. Cho nên con cần trước hết thiết lập một lá chắn bảo vệ tâm linh chung quanh trường năng lượng của con. Cách thực hiện dễ nhất là sử dụng các dụng cụ mà các thày đã trao cho con, như bài nguyện của Đại thiên thần Michael và những bài chú Đại thiên thần Michael và Hercules.

Không phải là chuyện lâu lâu đọc chơi một lần mà con phải cam kết một cách chân thành là con sẽ tuân thủ một chương trình đều đặn mỗi ngày. Nỗ lực của con cần tùy thuộc vào độ trầm trọng của sự phân mảnh và mong muốn chữa lành của con. Ta đề nghị con dành ra khoảng nửa giờ hoặc hơn nữa mỗi ngày cho việc bảo vệ tâm linh.

Bước tiếp theo là nhận ra là rất có thể con đã bị xâm nhập, hoặc ít nhất đã tạo ra một mối ràng buộc với những sinh thể hay năng lượng thấp kém. Cách tuyệt đối hiệu quả nhất để cắt đứt các mối ràng buộc đó và tự giải thoát là bài chú Elohim Astrea. Một lần nữa, con sẽ cần nửa giờ đồng hồ hay hơn nữa, thêm vào những bài chú bảo vệ ở trên.

Bước kế tiếp là nhận ra là có thể con đã tiếp nhận một số năng lượng thấp kém và chúng đang lôi kéo con từ bên trong. Cách đối phó là con cầu thỉnh năng lượng tâm linh hầu chuyển hóa năng lượng thấp kém. Ở đây, những bài chú của cả bảy tia sáng sẽ đều hữu dụng, nhưng ta khuyên con nên khởi đầu với các bài chú ngọn lửa tím. Một lần nữa, nửa giờ đồng hồ thêm vào các bài chú ở trên.

Việc đọc chú cùng với những bản ghi âm mà vị sứ giả này đã chuẩn bị có thể sẽ rất hữu ích. Làm vậy không những sẽ giúp con học cách đọc chú, mà qua bản ghi âm, sẽ còn có ánh sáng được truyền rải xuống mà nhiều người bị phân mảnh không có khả năng tự cầu thỉnh một mình.

Một khi con đã cầu thỉnh được tạm đủ ánh sáng để cảm thấy nhẹ nhõm hơn, con có thể bắt đầu sử dụng các dụng cụ khác được đăng tải ở đây. Con có thể bắt đầu với Hộp Dụng cụ cho Khủng hoảng Tâm linh, và sau đó chuyển sang nhiều bài thỉnh khác. Bài thỉnh Đông-Tây đặc biệt nhằm kêu gọi các mảnh linh hồn thất lạc trở về với con.  Tuy nhiên còn có nhiều bài chú khác nhằm giúp con đương đầu với một số vấn đề đặc thù, và một khi con vượt qua được tâm trạng rối loạn nhất, con sẽ nhận được hướng dẫn từ bên trong.

Thật ra những gì ta vừa trình bày cho tới giờ chỉ là một chương trình cấp tốc để giúp con vượt qua những hiệu ứng nghiêm trọng nhất của sự phân mảnh. Trong giai đoạn tiếp theo sau, con phải nhận ra là việc hồi phục sự toàn vẹn tâm linh thực sự là một nỗ lực dài hạn, thậm chí có thể kéo dài suốt đời. Vì vậy con cần có cái nhìn là con đang đi trên một hành trình tâm linh sẽ lần hồi dẫn con từ mức tâm thức hiện thời của con đến tâm thức Ki-tô trọn vẹn. Đó là tiềm năng cao nhất của con nhưng cũng là một mục tiêu thực tế mà con có khả năng đạt được.

Điều này có nghĩa là con hãy nắm lấy con đường tâm linh mà con có thể thấy và hiểu được trong hiện tại, rồi con hãy cứ theo đó mà tiến bước hết sức mình. Nhưng con cũng phải hiểu đó là một con đường tự thăng vượt, tức là có nhiều cấp độ. Sẽ có những lúc con cần bước hẳn lên một bực cao hơn trong viễn quan lẫn cách thực hành.

Trong các giai đọan sau đó, con sẽ thấy lời dạy sau đây của ta có thể hữu dụng, cụ thể là cỗ xe 4 lớp của con – mà hầu hết mọi người gọi là hồn – không phải do Thượng đế tạo ra, và trong hiện tại nó không phản ánh cá thể của Hiện diện TA LÀ của con. Cho nên đối với những ai đã bước xuống tách biệt, con đường dẫn đến quả vị Ki-tô gồm có ba giai đoạn rõ rệt:

  • Trong giai đoạn thấp sơ khởi, con sẽ cần tìm cách chám lại mọi lỗ hổng trong linh hồn hay hồi lại những mảnh đã thất lạc. Đây chỉ là một biện pháp tạm thời để giúp con bước vào con đường thực sự.
  • Trong giai đoạn thứ nhì, con không thực sự tìm cách chữa lành hay hoàn thiện linh hồn con, bởi vì nó đã được tạo ra từ các ảo tưởng của tâm thức nhị nguyên. Do đó thực sự nó không bao giờ có thể được nâng lên tới mức vào được cõi tâm linh. Điều con thực sự cần làm là tháo gỡ cái Ta Biết khỏi sự đồng hóa với hồn phát xuất từ nhị nguyên. Để làm điều này, con thỉnh ánh sáng tâm linh để chuyển hóa các năng lượng thấp trong cỗ xe 4 lớp, và con sử dụng các giáo lý tâm linh để thay thế mọi ảo tưởng nhị nguyên trong cỗ xe của con. Tuy nhiên, điều thiết yếu mà con phải nhận rõ là giai đọan này sẽ không thực sự đưa con tới quả vị Ki-tô, và nó cũng sẽ không tạo đủ điều kiện cho con thăng thiên. Nó sẽ chỉ đơn giản dẫn con trở lại đúng tình trạng của con trước khi con rơi vào vòng nhị nguyên. Nói cách khác, điều con làm trong giai đoạn này KHÔNG PHẢI là hoàn thiện hồn mà là thăng vượt hồn. Con để cho hồn chết đi từng chút và từng chút, như ta đã từng nói là nếu con cố cứu lấy mạng sống – tức là cái linh hồn xuất phát từ nhị nguyên – thì con sẽ đánh mất sự sống. Nhưng nếu con sẵn sàng bỏ mạng sống cho ta – tức là để cho linh hồn nhị nguyên chết đi – con sẽ tìm được sự sống vĩnh hằng qua tâm thức Ki-tô.
  • Trong giai đoạn thứ ba, con mới bắt đầu thực hiện những gì con đã thực sự xuống đây để thực hiện, tức là trở thành cánh cửa mở cho cá thể của Hiện diện TA LÀ được biểu hiện trong thế gian. Con sẽ đạt được tâm Ki-tô trọn vẹn khi con trở thành cánh cửa mở – và không có gì hơn.

Sự thật về Chén Thánh – Giê-su bình luận về sách The Da Vinci Code

Câu hỏi của Kim Michaels: Thưa Giê-su, con vừa đọc xong quyển sách The Da Vinci Code (Mt mã Da Vinci) của Dan Brown, và con muốn hỏi thày về Chén Thánh (Holy Grail). Trong sách đưa ra luận thuyết rằng thật ra, Chén Thánh chính là Mary Magdalene, lúc đó đang mang thai đứa con của thày khi thày bị đóng đinh trên thập tự giá. Mary Magdalene sau đó thoát được sang Pháp, nơi bà khởi đầu một dòng dõi hậu bối sau này có nối kết với một số hoàng tộc tại Âu châu. Liệu luận thuyết này có phần thực nào trong đó hay không?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Trước hết, ta rất vui được thấy sách The Da Vinci Code đã được nhiều người chú ý và tìm đọc đến như vậy. Điều này cho thấy rất nhiều người sẵn lòng nhìn xa hơn những học thuyết của đạo Cơ đốc chính thống, và khao khát một hiểu biết cao hơn. Điều này cũng chứng tỏ là phần lớn sự hiểu biết tâm linh, mà trong các thời đại trước chỉ được truyền bí mật cho một số vị điểm đạo ở một cấp nào đó, bây giờ có thể được phổ biến rộng rãi hơn, và thật sự nó có thể trở thành sự hiểu biết chính mạch. Đó là một tin vui, và sự ưa chuộng quyển sách này là một trong số nhiều dấu hiệu cho thấy tâm thức loài người đang có sự chuyển đổi.

Bây giờ đến lượt tin buồn. Không có sự thật nào trong giả thuyết mà quyển sách đã đưa ra. Mary Magdalene không mang thai đứa con của ta khi ta bị đóng đinh. Cô ấy đã không đến Pháp, và do đó đã không khởi sự một dòng dõi được tiếp nối cho tới ngày nay.

Kim Michaels: Vậy có phải thày nói là truyền thuyết Mary Magdalene là Chén Thánh là một tin vịt? Thuyền thuyết đó ra đời như thế nào và tại sao?

Giê-su: Phải, truyền thuyết đó là hư cấu, nhưng nó không chủ ý là chuyện hư cấu. Những người đặt ra và lan truyền giả thuyết đó thật sự tin rằng có một số sự thật trong đó. Con phải hiểu là trong những thế kỷ sau khi ta bị đóng đinh, đã có rất nhiều huyền thoại và truyện kể được lưu truyền về ta. Một số truyện kể này bắt nguồn từ những truyền thống cổ xưa về Ki-tô hay về một Thượng đế hiện thân làm người, và các truyền thống đó thì bắt nguồn từ những tôn giáo ngày nay bị xem là tôn giáo đa thần, tôn giáo ngoại đạo, trong khi kỳ thực đó là những lời dạy tâm linh phổ quát đã hiện hữu trong thế giới cổ đại song song với các tôn giáo chính mạch được biết đến nhiều hơn.

Giáo lý của môn phái Ngộ giáo (Gnostics) cũng chứa đựng một số truyền thuyết, và con sẽ thấy là phái này cũng có một số sách Phúc âm hay học thuyết mà họ bảo là đã nhận được từ nguồn gốc khải huyền thiêng liêng. Ta có thể nói với con là một số sách Phúc âm và giáo lý Ngộ giáo đã được tiếp nhận như là sự tiết lộ tuần tự đích thực đến từ uy lực của Thánh linh. Tuy nhiên, cũng có một số tín đồ Ngộ giáo đã nhận được những lời tiết lộ giả hiệu, y như ngày nay cũng có nhiều kẻ đồng bóng tiếp xúc với các linh thể thấp kém, hay thậm chí những tà thể độc hại, cố tình đánh lừa quần chúng bằng cách lan truyền những ý tưởng sai lầm.

Kim Michaels: Quyển sách cũng nói rằng Chén Thánh biểu tượng cho khiá cạnh nữ thiêng liêng, và thày đã hiện thân để nâng cao giới phụ nữ cũng như nữ tính thiêng liêng lên vị thế xứng đáng trong xã hội. Liệu có chút sự thật nào trong thuyết đó?

Giê-su: Có, quả là có phần nào sự thật trong đó, theo nghĩa là ta đã đến với niềm hy vọng đem lại sự bình đẳng tâm linh giữa hai phái, bằng cách nâng cao phụ nữ lên vai trò xứng đáng của mình. Ta đã có giải thích điều này một cách khá chi tiết trong câu trả lời về Mary Magdalene.

Tuy nhiên, ta đã không hiện thân chỉ để đem lại những thay đổi vỏ ngoài cho xã hội. Ta cũng đã đến để giúp con người hiểu ra cách duy nhất để trở thành một con người trọn vẹn và cân bằng là đạt được quan hệ đúng đắn giữa nam tính và nữ tính của dòng sống. Ta đã giải thích điều này tường tận trong bài giảng về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái. Tuy nhiên, một lần nữa, ta phải nói với con, Chén Thánh không phải là một người phụ nữ, không phải là Mary Magdalene và cũng không phải là nữ tính thiêng liêng.

Kim Michaels: Còn về Tu viện Scion (Priory of Scion) thì sao? Có thật là có một hội bí mật lưu giữ các tài liệu về đạo Cơ đốc ban sơ và nữ tính thiêng liêng?

Giê-su: Đã có một số hội kín, hay tổ chức bí mật, mọc lên trong thời kỳ Tòa án Dị giáo (Inquisition). Bất cứ khi nào có tình trạng một nhà cầm quyền độc tài trấn áp quyền tự do ngôn luận, thì con sẽ thấy xuất hiện một số hội kín nhằm bảo vệ những ai không chịu tuân theo đường lối cầm quyền.

Chúng tôi, các chân sư thăng thiên, thuở đó đã bảo trợ một vài hội kín dưới thời Tòa án Dị giáo, kể cả hội Chữ thập Hồng (Rosicrucians), hội Tam Điểm (Freemasons) cùng một số phường hội đã xây cất các nhà thờ lớn tại châu Âu.

Ta không nói ở đây là các hội này vẫn được bảo trợ ngày nay. Con cần hiểu là nếu một hội kín đã được thành lập vào thời Tòa án Dị giáo, thì có ích gì mà tiếp tục hoạt động này ngày hôm nay khi quyền tự do ngôn luận đã có mặt? Vào thời đó, một điều tương đối chính đáng đối với một hội kín là không rải truyền toàn bộ giáo lý tâm linh của mình cho quần chúng, mà chỉ trao một số giáo lý cao cấp cho một số đệ tử quyết tâm hơn trên đường tu tâm linh. Tuy nhiên chúng ta đã bước vào một thời đại khi giáo lý tâm linh có thể, và nên, được truyền đạt rộng rãi cho tất cả những ai sẵn lòng học hỏi.

Một hội kín dành một phần giáo lý cho đệ tử cấp cao là một chuyện, còn một hội kín cứ nhất định giữ kín mãi mãi là một chuyện khác hẳn. Chúng tôi các chân sư thăng thiên có thể đã bảo trợ một số hội kín do tình thế đòi hỏi, nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi ưa gì hội kín. Kỳ thực, chúng tôi thà là không có hội kín bởi vì trong những hội như vậy, sự kín đáo luôn luôn mời mọc sự lạm dụng quyền hành. Thật là quá dễ cho một nhóm ưu tú nhỏ hẹp, là nhóm chóp bu đứng đầu tổ chức bí mật đó, lạm dụng quyền lực của mình. Thật sự, các thành viên của một tổ chức như vậy không có cách chi phản đối giới lãnh đạo lạm dụng, bởi vì mọi chuyện có thể được giấu giếm, viện cớ là tổ chức hay giáo lý phải tiếp tục được giữ bí mật.

Xét về Tu viện Scion như được mô tả trong sách The Da Vinci Code, đâu là ích lợi của một hội kín cứ giữ bí mật giáo lý hay tài liệu môt cách vĩnh viễn? Con có thể hiểu được sự ích lợi của việc giữ bí mật để thoát khỏi sự đàn áp của Giáo hội Công giáo và nhờ vậy lưu giữ được thông tin cho hậu thế. Nhưng nếu thông tin đó cứ giữ hoài hoài vĩnh viễn thì mục đích của hội là để làm gì? Tại sao không chỉ tiêu hủy các tài liệu đó đi thì có phải bí mật đó sẽ không bao giờ lọt được vào tay kẻ xấu? Một trong những vấn đề của một hội kín là nó dễ dàng đánh mất mục đích nguyên thủy của nó và chỉ cốt tồn tại hầu tồn tại. Nói cách khác, mục đích duy trì hội kín trở thành quan trọng hơn là việc bảo tồn những giáo lý tâm linh mà nó tưởng là nó nắm giữ.

Ta đồng ý với lập luận đưa ra trong sách rằng nếu một hội kín đang nắm giữ một giáo lý bí mật về Ki-tô, thì bí mật đó cần được tiết lộ trong thời đại hôm nay, vì giờ đây đã có tự do ngôn luận cũng như những phương tiện truyền thông tốt hơn bao giờ hết. Còn cách nào hay hơn để bảo tồn một giáo lý là đưa nó lên internet nơi mọi người có thể đọc được? Nếu để một giáo lý quý giá trong tay một nhóm nhỏ bé thì luôn luôn có hiểm họa nó sẽ bị đánh mất, y như những gì cốt truyện trong sách mô tả.

Kim Michaels: Thế còn các giáo phái tôn thờ sinh sản cùng những nghi lễ tình dục được mô tả trong sách thì sao? Những loại nghi lễ đó hay những giáo lý đằng sau nghi lễ có giá trị gì hay không?

Giê-su: Có sự mâu thuẫn cốt lõi khi một tổ chức tuyên bố là mình bảo tồn bí mật về Ki-tô mà lại đồng thời cử hành những nghi lễ tình dục không bao giờ xuất phát từ bản thân ta, và cũng chẳng bao giờ liên quan gì đến đạo Cơ đốc. Đây là cùng một loại mâu thuẫn như khi bảo rằng Leonardo da Vinci là người cầm đầu bí mật của một tổ chức thờ phượng nữ tính thiêng liêng, trong khi ông là một người đồng tính.

Đã từng có một số tôn giáo cổ xưa có truyền thống thờ phượng nữ tính thiêng liêng, và trong khuôn khổ sự thờ phượng đó, một số giáo phái đã có những nghi lễ tình dục. Nhưng những loại nghi lễ này không bao giờ nằm trong đạo Cơ đốc, cũng như không bao giờ được ta khoan thứ. Trước khi đạo Cơ đốc ra đời, có những lời dạy phổ quát đã có mặt rồi, trong đó một số có giá trị. Một số lời dạy thờ phượng nữ tính thiêng liêng có giá trị. Tuy nhiên, chuyện cử hành nghi thức tình dục như được mô tả trong sách The Da Vinci Code (hoặc một số biến thể của các nghi thức đó), thì không có giá trị tâm linh nào cả. Tác dụng thật sự của những nghi thức đó là lấy ánh sáng của các tham dự viên, đưa nó qua trung gian những người làm chủ lễ để nuôi béo những con quỷ hay tà thể đứng đằng sau.

Lực tình dục, hay ánh sáng Kundalini theo tên gọi tại phương Đông, là một dạng năng lượng vô cùng mạnh mẽ. Vì vậy các tà lực đã nghĩ ra nhiều phương cách để khiến cho con người dùng sai năng lượng này rồi trao ánh sáng cho tà lực. Một trong những cách thức trắng trợn nhất là kỹ nghệ quảng cáo và giải trí thời nay. Có nhiều hình thức tự xưng là giải trí nhưng chỉ là những loại nghi thức tình dục trá hình không hơn không kém, nhằm đánh cắp lực sống của những ai ham mê chuyện này mà hoàn toàn không biết mình đang bị cưỡng hiếp tâm linh.

Kim Michaels: Một truyền thuyết nữa về Chén Thánh đã sống sót suốt bao nhiêu thế kỷ nói rằng Chén Thánh chính là cái ly mà thày đã dùng trong bữa tối cuối cùng. Người ta cho là cái ly này có quyền năng kỳ diệu đem lại sự sống vĩnh hằng cho bất cứ ai uống vào. Truyền thuyết có gì là thật hay không?

Giê-su: Huyền thọai này cũng khởi đầu trong mấy thế kỷ tiếp theo sau việc ta bị hành quyết, và những người loan truyền nó cũng tin là nó có phần sự thật trong đó. Một lần nữa, đây là kết quả của một trí tưởng tượng quá năng động, không hoàn toàn hiểu được những bí ẩn của Ki-tô, cho nên đã cố tạo ra một hình dạng cụ thể cho những bí ẩn này qua cái Chén của Ki-tô.

Quả thật là ta có dùng một cái ly vào buổi ăn tối cuối cùng. Cái lý đó, mẹ yêu dấu của ta đã mang đến Glastonbury tại Anh quốc và cất giấu ở đó. Bây giờ xin con đừng hỏi là nó được cất giấu ở đâu và làm thế nào mà tìm lại được, bởi vì sự thật là nó không tồn tại nữa.

Tuy nhiên, cái ly đó không có quyền năng phép lạ như người ta gán cho nó. Con chi cần dùng chút lôgíc thì đã có thể phát hiện ra sự thật. Tất cả các môn đệ của ta đã uống từ ly đó trong bữa tối cuối cùng. Vậy tại sao người ta lại nghĩ rằng, nếu “Chén Thánh” đó đã không đem lại sự sống vĩnh hằng cho môn đệ của ta – là những người đã uống từ ly đó tận tay ta – thì làm sao nó có thể đạt được quyền năng kỳ diệu bao nhiêu lâu sau?

Kim Michaels: Vậy nếu Chén Thánh không phải là Mary Magdalene, không phải là nữ tính thiêng liêng, cũng không phải là cái chén cụ thể nào cả, thì đó là cái gì? Có sự thật nào đằng sau truyền thuyết Chén Thánh hay không? Bởi vì nói thật, những truyền thuyết này đã sống rất dai dẳng khiến nhiều người bị ám ảnh phải đi tìm Chén Thánh. Liệu tất cả những người đó chỉ chạy theo bóng ảo ảnh, hay là có một thực tại ẩn giấu mà người ta chưa hiểu ra?

Giê-su: Trong ý tưởng Chén Thánh có một thực tại, một thực tại đã được giữ kín khỏi mắt quần chúng từ nhiều thế kỷ, vì chúng tôi các chân sư thăng thiên thấy rằng con người chưa sẵn sàng nắm bắt được chân lý đó – như được chứng tỏ qua sự kiện biết bao người đã đi theo giáo điều vỏ ngoài của đạo Cơ đốc chính thống thay vì nhìn vào ý nghĩa tâm linh nội tâm của Cơ đốc giáo. Vì vậy chúng tôi đã vui lòng để cho người ta tìm kiếm Chén Thánh như một đồ vật bằng vật chất, một cái Chén của Ki-tô.

Như ta đã giải thích trên trang mạng của ta, và đặc biệt trong bài giảng về các chu kỳ tâm linh, nhân loại ngày nay đã vươn lên một trạng thái tâm thức cao hơn. Cho nên đã đến lúc tiết lộ bí mật thực sự của Chén Thánh, và ta vui lòng làm điều đó ở ngay đây. Con có nhớ chăng là trong sách The Da Vinci Code có nói đến sự kiện là con không tìm thấy Chén Thánh mà Chén Thánh tìm thấy con?

Kim Michaels: Con nghĩ đó là một câu nói vô cùng thâm sâu. Con cũng giật mình là câu đó nghe khá giống một câu rất quen thuộc là, khi đệ tử sẵn sàng thì vị thày xuất hiện.

Giê-su: À ngay đó con có bí mật của Chén Thánh. Kỳ thực, Chén Thánh là cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu, giữa cõi tâm linh và cõi vật chất. Cho nên Chén Thánh là yếu tố cho phép một người, một đứa con của loài người, nâng cao tâm thức mình lên đến mức tâm thức của Ki-tô và trở thành một đứa con của Thượng đế.

Về mặt cá nhân, Chén Thánh chính là cái ta Ki-tô của con. Chỉ qua cái ta Ki-tô con mới có thể thị hiện tâm thức Ki-tô, và chỉ qua tâm thức Ki-tô con mới có thể đạt được sự sống vĩnh hằng bằng cách trở thành một sinh thể thăng thiên.

Chén Thánh cũng có thể là một vị thày tâm linh. Một vị thày như thế có thể là một sinh thể thăng thiên, hay một người đang đầu thai tạm thời phụng sự như một vị thày thế chân cho cái ta Ki-tô cho đến khi đệ tử sẵn sàng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của mình. Tuy nhiên, điều cực kỳ quan trọng là nhận ra vị thày vỏ ngoài đó không bao giờ được trở thành một thần tượng thay thế vị thày nội tâm là cái ta Ki-tô.

Nếu con cho phép một vị thày vỏ ngoài hay, như nhiều người đã làm, một đồ vật, một hoc thuyết hay một giáo hội vỏ ngoài thay thế vị thày nội tâm, thì con đã đi theo “con đường có vẻ đúng cho con người nhưng thực sự là con đường của sự chết.” Và cái đó trở thành con đường vỏ ngoài mà ta đã mô tả rất tường tận trong các bài giảng của ta.

Con có thể nhận thấy là ta đã giảng day cho số đông quần chúng qua những chuyện ngụ ngôn, và lý do là vì họ chưa sẵn sàng nhận giáo lý nội tâm của ta. Đó chính là những người đã bị cuốn hút vào ý tưởng Chén Thánh là một cái chén, một đồ vật vật lý. Và họ nghĩ, ước gì mình tìm được chén đó thì chỉ cần uống vào là sẽ tự động có sự sống vĩnh hằng và không phải mất công tu tập công phu trên con đường khai ngộ tâm linh. Đó thực sự là giấc mơ được cứu rỗi một cách tự động, bảo đảm – giấc mơ viển vông vĩ đại nhất trên hành tinh này.

Cho dù một số người tìm cách đoạt thiên đường bằng vũ lực, thật là không có con đường tắt. Con sẽ không bao giờ nhập được thiên đàng mà không đi theo con đường nội tâm dẫn đến tâm thức Ki-tô. Nếu con không mặc vào bộ áo cưới, con sẽ không thể ngồi vào bữa tiệc cưới, và con sẽ thấy mình trong bóng tối bên ngoài, chân tay bị trói chặt lại bởi những vết thương tâm lý và tin tưởng sai lầm của con.

Ngay cả quan niệm cho rằng Chén Thánh là một người nữ, và một người nam có thể đạt được kết hợp với Thượng đế qua sự kết hợp tình dục với một người nữ, cũng là giấc mơ cứu rỗi tự động. Tuy nhiên, có một chút sự thật ở đây, theo nghĩa là khi một người đạt được sự cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống, người đó – dù là nam hay nữ – cũng sẽ bắt đầu thoáng nhìn thấy tâm thức Ki-tô, và điều này sẽ dẫn đến hợp nhất với Thượng đế. Giấc mộng rằng sự hợp nhất với Thượng đế có thể được sản xuất một cách tự động và đảm bảo qua kết hợp tình dục, là lời gian dối đằng sau cách thực hành tình dục Tantra đã đặc biệt phổ biến tại phương Đông. Con hãy lưu ý là ta không hề nói triết lý đánh thức Kundalini là sai trái, hoặc điều này không thể thực hiện qua tình dục, mà ta nói rằng đó không phải là một kết quả tự động của kết hợp tình dục.

Trên hành tinh này luôn luôn đã có những kẻ muốn chiếm đoạt thiên đường bằng vũ lực, muốn sản xuất sự giác ngộ tâm linh mà không chịu làm công việc chữa lành tâm lý của mình cũng như thanh lọc tâm trí lẫn con tim. Đây là những người không sẵn sàng nhận sự thật về Chén Thánh. Đây là những người đã đeo đuổi từ hàng bao thế kỷ một đồ vật vỏ ngoài hay một bí mật huyền bí nào đó sẽ tự động cho họ sự sống vĩnh hằng. Bí mật của sự sống vĩnh hằng là kết hợp với cái ta Ki-tô của con, nhưng sự kết hợp này sẽ không bao giờ là kết quả tự động của những hành vi vỏ ngoài. Kết hợp đó là sự kết hợp thần bí nội tâm mà biết bao triết lý tâm linh chân thực khắp thế giới đã nói tới.

Khi ta ở một mình với các môn đệ, ta thường giảng dạy nhiều điều, kể cả sự kiện mỗi con người đều có một cái ta Ki-tô và đều có khả năng hợp nhất với cái ta Ki-tô đó. Thế nhưng ngay cả các môn đệ của ta cũng không thể nắm được hoàn toàn chân lý đằng sau lời dạy này. Đó là tại sao ta đã ban cho họ một nghi lễ vỏ ngoài gọi là nghi lễ Bẻ bánh của sự Sống để họ tưởng nhớ đến ta. Ý nghĩa nội tâm chân chính của nghi lễ này là Bánh của sự Sống chính là tâm thức Ki-tô toàn vũ đã được bẻ ra cho mỗi người dưới dạng cái ta Ki-tô cá nhân nơi mỗi người.

Khi đó, cái ta Ki-tô cá nhân trở thành cái chén chứa đựng huyết – huyết là biều tượng cho dòng tâm thức của tâm Ki-tô toàn vũ. Khi dòng sống của con hợp nhất với cái ta Ki-tô, con nâng chén lên – là cái chén của toàn bộ tâm trí và toàn bộ dòng sống – và như vậy, dòng tâm thức Ki-tô toàn vũ sẽ bắt đầu tuôn chảy xuyên qua con. Mọi ý tưởng, cảm xúc và hành động của con giờ đây được xây dựng trên tảng đá của Ki-tô, tức tâm thức Ki-tô, thay vì trên bãi sa lầy của tâm thức phàm phu.

Do đó chúng ta có thể nói là khi con thật sự tìm ra Chén Thánh trong kết hợp thần bí với cái ta Ki-tô, con cũng đã trở thành chính Chén Thánh vậy. Con trở thành cái chén của Ki-tô mà qua đó tâm thức Ki-tô toàn vũ có thể giảng dạy và trao ánh sáng cho người khác. Và chúng ta cũng có thể nói, con không thể tìm thấy Chén Thánh, mà con có thể trở thành Chén Thánh. Con trở thành cánh cửa mở giữa thiên đàng và địa cầu như ta đã từng là như vậy khi ta còn hiện thân.

Đó là bí mật đích thực của Chén Thánh mà người ta đã đi tìm suốt 2000 năm qua. Nếu họ để ý đến một trong những lời dạy quan trọng nhất của ta, thì họ đã không đi tìm bên ngoài chính họ. Lời dạy đó là, Nước Trời ở ngay trong con. Nó chứng tỏ cho con thấy Chén Thánh phải tìm kiếm bên trong con, bên trong tâm con, bên trong tâm thức của con.

Ta cũng xin nói là truyền thuyết Chén Thánh cũng đã thật có ích lợi ở chỗ nó đã giúp cho nhiều dòng sống giữ được tập trung vỏ ngoài vào một niềm khao khát bên trong đích thực hầu đạt tâm thức Ki-tô. Cho nên ta không bảo là có gì sai trái khi người ta ao ước Chén Thánh. Vấn đề xảy ra là nhiều người đã chú mục vào một đồ vật bên ngoài thay vì tìm kiếm một cách hiểu thâm sâu hơn.   

Ta cũng biết nhiều người sẽ thấy lời giải thích của ta không được lãng mạn và màu mè bằng truyền thuyết. Nhưng nếu họ chuyển dời tâm thức khỏi trọng tâm vào thế giới vật chất để tập trung vào thế giới nội tâm, thì họ sẽ khám phá ra cuộc hành trình nội tâm cùng với Ki-tô sẽ lãng mạn, hứng thú và thỏa nguyện hơn gấp bội việc đeo đuổi một cái chén.

Ta chính là Chén Thánh.
Hãy bước vào trong tim và tìm ta.
Nếu con tìm ta với tim tinh khiết và tâm cởi mở, con sẽ tìm thấy ta.
Khi đó, chắc chắn ta sẽ cho con sự sống vĩnh hằng.

Hiện tượng troll trên internet

Hỏi: Tại sao trong các mục bình luận, chẳng hạn như trên các diễn đàn internet hay trang mạng hay Facebook, nhiều người lại cảm thấy mình bị đe dọa về mặt lý trí khi nói chuyện với người khác? Con cũng hiểu đây là phản ứng của tự ngã, là những cái ngã tách biệt đang phản ứng với nhau. Tuy nhiên con xìn thày – bất kỳ vị chân sư nào cũng được – nói rộng hơn về đề tài này. Đâu là cơ chế tâm lý ở đây? Điều gì xảy ra ở mức thể lý trí khi người ta nói chuyện với nhau? Và làm thế nào họ gửi năng lượng cho nhau khi họ nói chuyện với nhau qua thể trí?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels nhân một hội nghị tại Estonia năm 2019. Đăng ngày 18/12/2019.

Mạng internet đã tạo ra cơ hội mới cho con người. Con thấy là trước khi có internet, phần lớn mọi người chỉ giao tiếp giới hạn với những ai mình gặp tận mặt hay tiếp xúc trong vật lý. Bây giờ cơ hội mở ra để con có thể ngồi trước máy tính, vào xem một trang web nào đó và nhìn người khác phát biểu quan điểm của họ. Và chính con cũng có thể gõ một vài câu để bày tỏ quan điểm của con. Thậm chí con còn có thể làm vậy một cách dường như nặc danh vì con không trực diện với những người kia.

Nếu con muốn nhìn sự thể này một cách tích cực, con có thể nói là nó cho người ta cơ hội tương tác với nhiều người hơn so với việc gặp tận mặt, có nghĩa là họ thật sự có cơ hội nhận được nhiều phản hồi hơn về ý kiến của mình, về cách cư xử của mình, về cách mình diễn đạt hay quan hệ với người khác. Chúng ta có thể nói, cơ hội tích cực ở đây là họ sẽ kinh qua một giai đoạn bày tỏ bất cứ gì họ muốn bày tỏ rồi nhận được phản hồi. Tất cả đều dựa trên tự ngã và được một số ngã tách biệt phát động, đun đẩy.

Nhưng có thể rốt cuộc sẽ tới một điểm – và đối với nhiều người, điểm này đã tới rồi – khi con chán ứ chuyện này. Giống như con đã bày tỏ tất cả những gì con muốn bày tỏ, con đã phơi ra hết cả rồi, và bây giờ con nhìn vào chuyện đó và nói: “Nhưng thật sự đây không phải là con người mà tôi là. Điều này không thực sự phản ánh con người mà tôi là. Cho nên tôi sẽ đi tìm một cách tương tác nào khác, trưởng thành hơn, với người chung quanh.”  

Con cũng có thể nhìn sự thể này một cách không mấy tích cực và thấy rằng tất cả những gì con làm đều được làm với năng lượng, cho nên lẽ tự nhiên, ai nấy sẽ phóng năng lượng của mình để tạo dựng và nuôi béo những con quái vật trong tâm thức tập thể. Và đây là trường hợp một số diễn đàn internet nơi hầu hết các tham dự viên đều bị những con quái vật tập thể đó chiếm lấy tâm trí. Đơn giản mà nói, quái vật chỉ muốn mọi người xung đột, cãi vã với nhau hầu chúng có thể đánh cắp năng lượng của họ mà thôi.  

Con có thể nói, tiềm năng tích cực của sự thể này là, bằng cách trao cho mọi người quyền tự do phát biểu bất cứ gì họ muốn, thì cuối cùng họ sẽ kinh qua và vượt lên trên nguyên tiến trình đó. Tuy nhiên, một khi họ đã bị các tà thể và quỷ dữ đó đánh bẫy, thì nó trở thành giống như một cơn nghiện. Nó biến thành một vòng xoáy bất tận mà họ không tài nào thoát ra được. Họ cảm thấy bắt buộc phải lên diễn đàn, phải thoả mãn cơn ghiền mỗi ngày hay thậm chí nhiều lần mỗi ngày ngay cả khi họ đang lái xe. Họ phải gửi bài đăng lên cho bằng được cho dù làm như vậy sẽ nguy hiểm cho tính mạng họ. Cho nên đó là phần không mấy tích cực trong vấn đề này, nhưng một lần nữa, con làm gì được đây?

Tiềm năng tích cực của internet là mọi người có thể kết nối với khắp mọi nơi trên thế giới từ nhiều vùng khác nhau và nhiều nền văn hóa khác nhau. Và điều này mang tiềm năng giảm thiểu những khác biệt giữa con người. Ai nấy thấy được là con người cho dù ở nơi đâu cũng có những điểm tương đồng, có cùng một tâm lý cơ bản, cùng cách nhìn cơ bản về cuộc sống. Và điều này có thể tạo ra một tinh thần kết hợp rộng lớn hơn.

Nhưng tất nhiên, các thế lực bóng tối sẽ làm tất cả những gì chúng có thể để chống lại tiềm năng đó, và đó là tại sao chúng đã xâm chiếm tâm trí của một số người khiến họ bắt đầu làm chuyện gọi là troll [troll là hành vi gây rối, làm xáo trộn, phá vỡ các quy tắc hành xử trong các cộng đồng mạng]. Rất nhiều người trong số đó bị ghiền chuyện này và tâm trí họ hoàn toàn bị nó chiếm lĩnh. Và câu hỏi đặt ra là đến bao giờ họ mới cảm thấy đủ cho bằng được? Đến bao giờ những con quỷ đó mới cảm thấy chúng đã đánh cắp đủ năng lượng của người khác? Có thể là cho tới khi những người troll đó bị cạn kiệt năng lượng đến độ – giống như người ta thường nói về các loại ghiền khác – họ chạm tới đáy tận cùng và thấy rằng họ đơn giản không thể tiếp tục như vậy được nữa.

Là một người tâm linh tỉnh thức hơn, điều con có thể làm được là con thử cảm nhận năng lượng đó bằng trực giác của con. Và nếu con cảm thấy đó là năng lượng rất thấp – khi tất cả chỉ là xung đột, tất cả chỉ là luân xa rối dương (solar plexus) và mọi người chỉ lo đổ lỗi cho nhau với những phát biểu vô cùng tiêu cực về nhau – thì con chỉ cần lánh xa khỏi diễn đàn đó, rút lui khỏi đó, và không bỏ chút năng lượng nào của con vào đó. Con sẽ có thể tìm kiếm những loại diễn đàn khác, vì hiển nhiên ai nấy đều có nhu cầu tạo ra những diễn đàn không hoạt động ở tầng cấp tệ hại đó.

Con sẽ thấy là ở một mức độ nào đó, những chuyện như vậy đang hiện diện trên internet đã bị hiện tượng troll kéo thấp xuống tới mức không một người bình thường nào sẽ muốn tham gia vào đó. Nhưng điều này có nghĩa là có sự mong mỏi tạo ra một hình thức internet khác hơn, nơi ai nấy con thể giao tiếp với nhau ở mức cao hơn. Và một trong những cách để thực hiện điều này là tạo ra một mạng internet hay một diễn đàn nơi người tham dự không còn ẩn danh, nơi mọi người phải đăng ký và chứng thực danh tính của mình – con đăng ký với hình chụp của con và do đó con nhận lãnh trách nhiệm về những gì con phát biểu, y hệt như khi con nói chuyện tận mặt với một ai đó.

Đang có một nhu cầu tạo ra một hệ thống như vậy, và ngay bây giờ đã có một số sáng kiến đang đi về hướng đó, nhưng với thời gian, điều này sẽ ngày càng trở thành cần thiết hơn khi mọi người thấy được nhu cầu tìm ra một con đường văn minh và nhân bản hơn để tương tác trên internet.

Thay đổi ngoại hình có là tội lỗi hay không, như các thủ thuật thẩm mỹ hay nhuộm tóc?

Hỏi: Cắt tóc hay nhuộm tóc có phải là tội lỗi không? Hay nhổ lông trên cơ thể (như người Sikh dạy như vậy)? Còn các thủ thuật thẩm mỹ thì sao? Con nghe nói là mọi điều gì liên quan đến ngoại hình đều là nghiệp quả. Có thật vậy không? Một số giáo lý nói rằng màu đen là tà ác và nó sẽ buộc con vào cõi trung giới, vậy liệu những người tóc đen có tà ác không? Con nghĩ tóc đen là màu tóc đẹp nhất. Có nghĩa chăng là con có liên hệ gì với sa nhân trong quá khứ? 

Khi con 25 tuổi, con nhuộm tóc màu vàng tự nhiên thành màu đen, bà nội con hoảng loạn luôn, bà nói con nhuộm tóc đen là có tội vì Thượng đế đã sinh con ra là cô gái tóc vàng đẹp đẽ. Hồi đó con nghĩ bà con điên rồ và có nhiều thành kiến, nhưng bây giờ thì con không chắc nữa. Có vẻ như người ta ưa thích tóc vàng hơn rất nhiều, không hiểu có lý do tâm linh nào hay không? Màu nhạt có đặc tính tâm linh tốt hơn (chẳng hạn màu nhạt có tần số rung động cao hơn, v.v…), có nghĩa chăng là da, tóc và mắt màu nhạt có tần số cao hơn màu đậm? Liệu con có thể nhuộm tóc nếu tóc con màu bạc, như tóc con đang bạc đây? Con sắp sửa nhuộm tóc lại, nhưng con không muốn làm tha hóa năng lượng nhiều hơn những gì con đã tha hóa.

Liệu hút mỡ có là một tội lỗi nếu cơ thể con hoàn toàn thiếu cân đối, dù con béo hay gầy (con gầy)? Hoặc nếu con sửa mũi vì mũi hếch hay quá xấu xí? Hoặc ghép vú nếu vú quá nhỏ hoặc đã bị cắt vú? Con không nói tới những thứ kiểu Heidi Montag viển vông, nhưng nếu thực sự cần thiết thì có được không? Hay con phải sống với cơ thể con có cho dù nó xấu xí đến chừng nào?  


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels ngày 17/11/2010.

Để hiểu đầy đủ câu trả lời của ta, ta khuyên con nên học bài giảng của ta về “Con đường của Ki-tô so với con đường phản Ki-tô”. Trong bài giảng đó, ta có nói rõ là toàn bộ ý tưởng tội lỗi là do các sinh thể sa ngã tạo ra hầu kiểm soát nhân loại.

Thế nào là dụng ý tâm lý của khái niệm tội lỗi và phán xét? Đó là để khiến con chú tâm vào một cái chuẩn vỏ ngoài thay vì con chú tâm vào việc thiết lập hay mở rộng sự kết nối với Hiện diện TA LÀ của con. Những người thày giả muốn con tưởng là con cần một khung chuẩn vỏ ngoài do họ định ra trong thế gian này. Nhưng các vị thày chân chính thì muốn chính con đạt được khung chuẩn nội tâm để con biết được từ Hiện diện của con điều gì là điều mình nên làm tùy theo từng tình huống. Các thày giả muốn con quyết định làm hay không làm  dựa theo cái dàn tiêu chuẩn vỏ ngoài bất di bất dịch của họ. Còn các vị thày chân chính thì không có chuẩn tuyệt đối hay toàn vũ nào, mà chỉ muốn mỗi người đi theo những hướng dẫn nội tâm mà mình nhận được từ Hiện diện TA LÀ hay vị thày tâm linh của mình.

Lý do các thày giả đã thành công để khiến con người chấp nhận ý tưởng tội lỗi là vì nó cho con một công thức có vẻ quá giản tiện để lấy quyết định. Một khi con chấp nhận là giáo hội của con đã có sẵn một cái chuẩn và một giáo lý bất khả sai lầm, thì con sẽ không còn nhu cầu tham khảo Hiện diện TA LÀ của con mỗi khi con quyết định nữa. Vì vậy nếu ta đã trả lời câu hỏi của con và bảo là những việc làm đó của con không phải là tội lỗi, thì có người sẽ lý giải ngay là ta bảo con có thể làm bất cứ gì con muốn. Tuy nhiên, câu trả lời của ta sẽ tinh tế và sâu sắc hơn, dành cho những ai sẵn lòng sử dụng khả năng trực giác của mình.  

Bây giờ con hãy nhìn xem một tác dụng tâm lý còn vi tế hơn nữa của ý tưởng tội lỗi. Nó khiến con trở nên vô cùng chú tâm, vô cùng quan tâm đến những gì con làm ngoài đời. Nó khiến con chú tâm vào cách hành xử của con thay vì vào trạng thái tâm thức của con. Điều ta muốn giải thích trong bài giảng là không phải hành vì của con sẽ định đoạt con lên được thiên đàng hay không, mà là tâm thức con.

Hiển nhiên, hành vi là sản phẩm của trạng thái tâm thức. Tuy nhiên con có thể cố tình kềm chế một số hành vi mà không thay đổi tâm thức. Chẳng hạn, một số người đã tập được cách kềm chế những hành vi bạo lực nhưng họ vẫn cảm thấy giận dữ đối với người khác. Và nhiều hành giả tầm đạo đã tập được cách luôn luôn ăn nói nhỏ nhẹ, tử tế, trong khi họ vẫn chưa giải quyết được tình cảm trong tâm tiềm thức của họ. Tất cả những cách thức đó sẽ không giúp con đạt tới tâm thức thăng thiên.

Việc nỗ lực thăng thiên bằng việc làm, hay không làm, chỉ là hệ quả của con đường cứu rỗi giả trá. Các thày giả sẽ muốn con tin rằng nếu con làm những gì họ định nghĩa là đúng, và không làm những gì họ định nghĩa là sai, thì Thượng đế sẽ bắt buộc phải nhận con vào thiên đường. Đây là ảo tưởng cho rằng nếu con có thể đánh lừa được mọi người trên địa cầu thì con cũng sẽ đánh lừa được Thượng đế. Tất nhiên, không gì xa hơn sự thật. Không gì có thể bị che giấu khỏi những vị đại diện của Thượng đế bởi vì không gì có thể bị che giấu khỏi tâm Ki-tô. Thượng đế sẽ không đem con vào vương quốc của ngài. Con phải nâng trạng thái tâm thức của con cho tới khi con đạt được chính cái trạng thái tâm thức LÀ Nước Trời.    

Con có thấy điều ta nói? Những việc làm của con sẽ không đưa con vào thiên đường, cũng như nó sẽ không ngăn con vào thiên đường. Yếu tố quyết định là trạng thái tâm thức của con, là lý do sâu xa tại sao con làm hay không làm một việc nào đó. Cho nên kết luận là những việc làm con vừa mô tả không phải là tội lỗi. Dù con có làm hay không làm cũng không quan trọng gì cả, chỉ có trạng thái tâm thức của con mới là quan trọng.

Cho nên lý tưởng nhất, con nên lấy quyết định dựa theo sự hướng dẫn nội tâm mà con nhận được từ Hiện diện TA LÀ của con. Tuy nhiên trong khi chờ đợi con có được hướng dẫn rõ ràng hơn, ta sẽ trao cho con một cái “chuẩn” để con lượng định cách cư xử của con. “Chuẩn” này có mấy yếu tố:

  • Con có quyền tự quyết, nhưng mọi người khác cũng vậy. Nếu con vi phạm quyền tự quyết của người khác, rõ ràng con đã bước qua một lằn ranh. Tuy nhiên, nếu con làm điều gì chỉ ảnh hưởng đến bản thân con, đó thật sự là chọn lựa của con. Cho nên con có một phạm vi rất rộng để con chọn lựa theo ý con. Tuy nhiên để tinh tấn tối đa, con cần nhìn vào những chọn lựa đó và xét xem nó thể hiện tinh trạng tâm thức nào của con ở bên dưới. Tại sao con lại cảm thấy mình phải chọn lựa như vậy, và đâu là những lý lẽ mà con sử dụng để biện minh cho chọn lựa đó?
  • Như ta trình bày trong bài giảng, nhiệm vụ quan trọng nhất của con là con cất bước trên một con đường sẽ giúp con lần hồi tháo gỡ sự đồng hóa của con với vai trò con đang đóng. Nói cách khác, nếu con tiến bước trên Đạo của Ki-tô, con sẽ chiêm nghiệm thấy con ngày càng ít quan tâm hơn – ít vướng mắc hơn – với những điều kiện của thế giới vật chất. Con sẽ không cho phép những điều kiện này đánh cắp sự chú tâm của con, kéo con ra khỏi sự tiếp cận nội tâm với Hiện diện của con. Như vậy, trọng tâm chủ yếu của con sẽ chuyển từ việc xem sự vật bên ngoài tự thân là quan trọng, sang việc xem ngoại cảnh chỉ là một phương tiện mà thôi. Nói cách khác, con hãy lượng định xem việc đó sẽ tăng hay giảm sự căng thẳng hay sự quân bình trong đời con. Khi con làm hay không làm, nó có khiến con bớt bám mắc, hay thêm bám mắc, vào thế gian? Liệu hoạt động đó có lấy đi sự an bình nội tâm của con hay không?
  • Khi con đã thiết lập liên lạc với Hiện diện, nhiệm vụ của con là trở thành cánh cửa mở để Hiện diện tự biểu hiện trong thế gian, và con làm tròn sứ vụ thiêng liêng của con. Cho nên khi con làm việc gì, đó là để con hoàn thành sứ vụ thiêng liêng chứ không phải vì sợ hãi hay kiêu kỳ đã thúc đẩy con làm. Nghĩa là con không quyết định với cái óc phân tích vỏ ngoài. Con sử dụng khả năng trực giác và các quyết định của con chỉ dựa trên cái biết nội tâm bên trong, chứ không phải các lập luận của lý trí hay nặng phần tình cảm. Nếu con phải bước vào những tranh luận ngoài đời hay trong nội tâm hầu biện hộ cho hành vi của con thì con hãy đừng bước vào.
  • Một điều nữa là con hãy luôn luôn tìm sự quân bình trong đời con. Điểm này có liên hệ với những điểm trên, nhưng nó mang một khía cạnh đặc biệt. Làm thế nào con đạt được quân bình? Bằng cách con có tầm nhìn từ bên ngoài cái hộp tư duy của con, bên ngoài ngay cả hộp tư duy tập thể của nhân loại. Về mặt này, sẽ rất hữu ích nếu con suy ngẫm sự kiện Thượng đế không nhìn cuộc đời theo cách con người. Một trong những tác động tâm lý tinh vi nhất của đường tu giả trá là nó khiến cho con cảm thấy mình vô cùng quan trọng, thậm chí quan trọng cả đối với Thượng đế. Con tưởng rằng Thượng đế vô cùng quan tâm đến con cùng từng điều nhỏ nhặt mà con làm. Cho nên con cần suy ngẫm xem Thượng đế có thật quan tâm đến chuyện nhuộm tóc hay trang điểm của con hay không. Việc “cứu vớt” vũ trụ có thật tùy thuộc vào tóc con màu đen hay màu vàng?    

Khi con bắt đầu suy ngẫm các yếu tố này, con sẽ bắt đầu nhận thấy góc nhìn của mình chuyển hướng. Con sẽ cảm thấy sự căng thẳng từ từ tan biến và con bắt đầu có những quyết định thoái mái – cân bằng – hơn, thay vì cứ tưởng là những chuyện mình làm có tầm quan trọng to lớn cho vận mạng của mình hay vận mạng vũ trụ. Với những suy nghĩ đó, bây giờ ta sẽ nhận xét về các đề tài con vừa đề cập.

“Cắt hay nhuộm tóc, nhổ lông trên người, dùng trang điểm.”

Miễn là con giữ được quân bình trong chuyện này, bất cứ gì con làm cũng sẽ không cản trở phát triển tâm linh của con. Nếu con làm việc trong một môi trường chuyên nghiệp và cảm thấy con cần ở đó để hoàn thành sứ vụ thiêng liêng, con có thể – nếu con cho là thích hợp – hòa mình vào khung cảnh qua cách trang điểm hay quần áo màu đen. Nhưng con hãy làm vậy mà không quan tâm đến nó. Nếu con thích cắt tóc hay nhuộm tóc, con cứ việc làm mà đừng quan tâm gì cả. Nhiều phụ nữ cảm thấy mình sạch sẽ và tinh khiết hơn khi nhổ lông trên người. Một lần nữa, đó không phải là vấn đề mà con cần quan tâm. Nếu con làm được một cách thanh thản thì con cứ việc làm. Còn nếu con căng thẳng thì con hãy nhìn lại tâm lý mình và tìm xem lý do sự căng thẳng là gì.

“Các thủ thuật thẩm mỹ như hút mỡ, sửa mũi hay ghép ngực”.

Đây là một số thủ thuật y tế có rủi ro vật lý hay có thể gây ra biến chứng lâu dài. Vì vậy con cần lượng định rủi ro cẩn thận trước khi quyết định, và con nên cẩn trọng hơn bình thường. Hút mỡ là một thủ thuật mạnh bạo, và nếu con có thể ăn kiêng thì sẽ tốt hơn rất nhiều mà lại đạt được kết quả lâu bền hơn. Cách tốt nhất để giảm cân luôn là giảm lượng ăn và lượng calo nạp vào cơ thể. Đại đa số phụ nữ không nên – nếu họ thực hành những gì ta vừa nói ở trên – cảm thấy nhu cầu ghép ngực. Tuy nhiên, có những trường hợp ghép ngực có thể giảm thiểu sự căng thẳng trong đời sống hầu giúp con không còn chú ý vào cơ thể vật lý của mình nữa. Đối với các thủ thuật khác cũng vậy.  

Điểm mấu chốt là nếu con cảm thấy căng thẳng hay bó buộc phải làm điều gì đó thì con cần phải xem xét tâm lý mình. Tại sao mình lại quá quan tâm tới ngoại hình của mình đến thế? Mình sợ điều gì sẽ xảy ra nếu ngoại hình không đạt được tiêu chuẩn nào đó?

Ta thừa hiểu nhiều người đã từng bị trêu chọc, bài bác, chế giễu tàn nhẫn vì ngoại hình của mình từ khi còn nhỏ. Ta cũng hiểu là điều đó có thể gây ra tổn thương tình cảm và lòng thiếu tự tin. Tuy nhiên, con cũng có thể xem đó là một cơ hội để khám phá những vướng mắc của mình và vĩnh viễn vượt lên trên. Con hãy tự hỏi tại sao con lại chọn đầu thai trong một tình cảnh phải chịu đựng điều đó? Con đã mong muốn học hỏi điều gì từ tình cảnh này? Có thể chăng là để con chứng tỏ cho người khác là con có khả năng vươn lên trên và sống một cuộc đời yên bình, thỏa nguyện? Hay để con chứng tỏ là con vẫn có thể là một con người yêu thương, tốt đẹp, cho dù con phải chịu đựng sự đối xử không đẹp của người khác? Nếu vậy thì con hãy bắt đầu vươn lên ngay bây giờ đi!

Có thể con không thể thay đổi ngoại hình của con hay cách phản ứng của người khác, tuy nhiên con đường điều ngự tâm linh của con sẽ khởi đầu khi con nhận ra rằng không một điều kiện nào trong thế giới vật chất có thể có quyền năng trên Tánh linh của con. Do đó, không một điều kiện nào có thể ngăn cản con tự thay đổi để con không còn bị các điều kiện vật chất đó quấy rầy con nữa.

Bây giờ ta sẽ trả lời một số những câu hỏi khác của con.

Con nghe nói là mọi điều gì liên quan đến ngoại hình đều là nghiệp quả.”

Mọi điều liên quan đến ngoại hình của con đều là kết quả của một trạng thái tâm thức nào đó. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, đó không phải là tâm thức của riêng con mà tâm thức tập thể của nhóm người nơi con đầu thai. Trong một số trường hợp, con đầu thai trong một nhóm đặc thù là vì con chia sẻ cùng trạng thái tâm thức với nhóm đó. Tuy nhiên cũng có những trường hợp khác khi một người tình nguyện khoác lấy một tâm thức đặc thù để chứng tỏ cho các thành viên của nhóm là họ cũng có khả năng vượt lên trên tâm thức đó.  

Sự dày đặc cũng như xu hướng bệnh tật của cơ thể vật lý con người là kết quả của tâm thức nhân loại đã bị hạ xuống thấp hơn hẳn mức tâm thức của địa cầu vào thời sinh tạo. Sự hiện diện của tất cả những người tâm linh là minh chứng hùng hôn là con người có khả năng nâng cao tâm thức mình vượt lên trên mẫu số chung thấp nhất. Vì vậy, con hãy đừng cho phép mình nghĩ rằng một số đường nét ngoại hình là chỉ dấu cho thấy con đã làm điều gì sai quấy trong quá khứ. Thay vào đó, con hãy xem xét tâm thức mình và thăng vượt mức hiện tại của mình.

“Một số giáo lý nói rằng màu đen là tà ác và nó sẽ buộc con vào cõi trung giới”

Màu đen không xấu ác. Sau khi loài người sa ngã, màu đen đã bị gắn liền với cái mà ta gọi trong bài giảng của ta là “tà ác”, hay các sinh thể sa ngã. Tự thân nó, màu đen không có gì tà ác. Khi Đấng Sáng tạo ở ban đầu tạo ra khoảng trống thì trong đó không có ánh sáng, và vì vậy nó không có màu – gọi là tối đen. Khi con nhìn lên trời vào một đêm đầy sao, khoảng không trung trống trơn đó màu đen, nhưng đâu có nghĩa không trung tà ác.

Tuy nhiên, đúng là nếu con bao quanh mình với toàn những vật màu đen, con sẽ khiến tâm thức con đồng điệu dễ dàng hơn với các tà lực nơi cõi trung giới. Ngay cả các tâm lý gia cũng đã chỉ ra rằng những người bao quanh với màu đen có rủi ro mắc bệnh trầm cảm cao hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là con không bao giờ được mặc quần áo đen, chỉ có điều ta không khuyên con mặc độc là màu đen. Nhưng khi con nâng cao tâm thức và thể hiện tính không dính mắc, con có thể mặc đồ đen mà không mở cửa con ra cho cõi trung giới. Một lần nữa, không có luật lệ vỏ ngoài nào có thể áp dụng trong mọi trường hợp được.   

“Con nghĩ tóc đen là màu tóc đẹp nhất. Có nghĩa chăng là con có liên hệ gì với sa nhân trong quá khứ?”

Con đang cố diễn giải quá đáng. Sở thích cá nhân của con thường là sản phẩm của những đặc điểm di truyền và ảnh hưởng văn hóa. Có rất nhiều nền văn hoá mà màu đen không bị xem là tà ác, thậm chí có cả những nền văn hóa nơi người ta mặc đồ trắng khi để tang và màu đen khi ăn mừng. Rất có thể nó không liên quan gì tới tiền kiếp của con, hay nó có thể bắt nguồn từ một số ảnh hưởng văn hóa trong những tiền kiếp đó. Hiện diện TA LÀ của con hoàn toàn không có sở thích gì đối với màu này hay màu kia. Thật là không quan trọng con ưa thích màu nào, miễn là con không bị dính mắc với màu đó.

“… liệu những người tóc đen có tà ác không? Màu nhạt có đặc tính tâm linh tốt hơn (chẳng hạn màu nhạt có tần số rung động cao hơn, v.v…), có nghĩa chăng là da, tóc và mắt màu nhạt có tần số cao hơn màu đậm?

Con người không chỉ là cơ thể vật lý, mà là linh hồn hay dòng sống. Chắc chắn là các dòng sống đầu thai từng nhóm, nhưng thật không đúng khi bảo rằng tất cả những ai mang da đen hay tóc đen đều tà ác, hoặc có tiến hoá tâm linh thấp kém. Trong mỗi nhóm đều có những dòng sống với tâm thức cao lẫn thấp, kể cả những nhóm tóc vàng da trắng. Không phải mọi người tóc vàng đều tốt đẹp, và không phải mọi người tóc vàng đều ngu dốt.

Đúng là trong cõi ether (cõi bản sắc) và cõi tâm linh, các màu sắc đều trong suốt hơn và do đó có màu nhạt hơn. Tuy nhiên, đây chỉ là kết quả sự khác biệt về độ dày đặc của “chất liệu” trên các cõi đó khiến cho ánh sáng có thể rọi xuyên qua mọi hình thể. Trong khi đó nơi cõi vật lý, một vật màu xanh có thể mờ đục y như một vật màu đen. Như ta có trình bày trong bài giảng, vũ trụ vật chất được tạo ra với một mức độ dày đặc nhất định, và điều này không có gì là tà ác.

Điều ta muốn nói là màu sắc chỉ đơn giản là một đặc tính vật lý, và tự thân nó, màu sắc không tốt cũng không xấu. Chỉ có tâm thức sa ngã mới đem bực thang giá trị ra để xét đoán màu sắc và từ đó mới dán nhãn màu này là ác, màu kia là thiện. Adolph Hitler rõ ràng đã đẩy vấn đề này tới sự cùng cực và chúng ta đều biết rõ hậu quả do cái nhìn mất quân bình này của ông ta. Vì vậy, ta mạnh mẽ khuyên nhủ các hành giả tâm linh hãy vượt lên trên mọi phán xét giá trị về màu da hay màu tóc. Hơn thế nữa, ta khuyến cáo con hãy vượt lên trên mọi xu hướng đánh giá cả người khác lẫn chính con. Đây chính là điều ta đã cố giảng dạy 2000 năm trước đây qua câu: “Không phải cái gì đi vào cửa miệng khiến cho người ta dơ dáy, mà cái đi ra từ cửa miệng mới khiến người ta dơ dáy” (Matthew 15:11). Trạng thái tâm thức quan trọng hơn những việc làm của con.

“Hay con phải sống với cơ thể con có cho dù nó xấu xí đến chừng nào?”  

Đây là một câu hỏi thú vị. Trong Thời đại Hoàng kim, càng ngày sẽ càng có nhiều người đạt được nhận biết rằng tâm có quyền năng trên vật. Điều này sẽ tạo khả năng cho con người thay đổi ngoại hình của mình qua quyền năng của tâm mà thôi – ít nhất là trong một số giới hạn nào đó.

Sự chuyển đổi tâm thức đem lại Thời đại Hoàng kim chính là khi con người nhận ra là mình không bắt buộc phải sống với những gì mình đang có, kể cả những gì mà con đang thấy trên toàn thể hành tinh. Vì vậy Thời Hoàng kim sẽ chỉ thị hiện nếu có đủ túc số những con người sống với tâm thức: “Chúng tôi không bắt buộc phải sống trong tình trạng hiện tại, và chúng tôi có quyền hạn lẫn quyền năng để thay đổi.”

Sự chuyển đổi tâm thức này đã khởi sự, mặc dù cho đến nay chủ yếu được thực hiện qua công nghệ. Tuy vậy, nó đã kích hoạt một chuyển đổi trong tâm thức tập thể, mở ra trong tâm trí mọi người tiềm năng thực hiện những sự thay đổi mà chỉ một thế hệ trước đây còn bị coi là quá sức loài người. Một khi con người bắt đầu nhận thức được là quyền năng của tâm thức còn lớn hơn cả công nghệ thì con sẽ thấy những thay đổi nhanh chóng.

Về mặt này, ngay cả các thủ thuật thẩm mỹ cũng đã có tác dụng hữu ích, như môn thể dục thể hình chẳng hạn. Ta không bảo là học trò của chân sư phải mua tạ về tập tành, phải bắt đầu ăn thịt sống hay thoa dầu lên thân thể sạch nhẵn không lông. Ta chỉ nói rằng bất cứ một hoạt động nào thách thức niềm tin cho rằng không có gì có thể thay đổi, đều có tác dụng – mặc dù đôi khi một cách kỳ lạ – giúp cho tâm thức tập thể mở ra với những tiềm năng của Thời đại Hoàng kim.

Vì vậy, không con ạ, con không bắt buộc phải sống với những gì con có. Tuy nhiên, những gì con làm để thay đổi cái con có luôn luôn phải tuân theo những ý tưởng mà ta vừa chia sẻ với con vừa rồi. Và như mọi khi, ta khuyên con nên khởi sự bằng cách thay đổi chính tâm con trước khi cố thay đổi bất cứ gì khác. Không dính mắc là một đức tính mà con nên trau dồi.

Làm thế nào tìm được người bạn đời “thích hợp”

Hỏi: Làm thế nào tìm được người bạn đời thích hợp? Liệu người ta nên không làm gì hết và chờ cho đến khi có người thích hợp bước vào đời mình, hay người ta nên tìm kiếm một cách tích cực cho dù không biết rõ tìm ở đâu hay tìm ai?

Có câu thành ngữ này giông giống nhất với một lời khuyên là câu: “Bạn phải hôn một trăm con cóc thì mới tìm ra một con biến thành hoàng tử (hay công chúa), nhưng trong tâm con lại bị dội bởi câu đó. Đâu là cách tiếp cận đúng đắn nhất từ một góc cạnh tâm linh?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 26/10/2010.

Từ một khía cạnh tâm linh, cả hai cách tiếp cận thụ động và năng động như con vừa mô tả đều không xây dựng lắm. Thay vào đó, ta sẽ khuyên một cách tiếp cận chủ động, theo nghĩa là con tập trung vào sự tăng trưởng tâm linh của chính con. Con hãy lưu ý câu ta từng nói cách đây 2000 năm nhưng vẫn còn áp dụng được cho mọi điều con mong muốn trong cuộc sống: “Trước tiên hãy tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của Thượng đế, thì tất cả những thứ kia sẽ được bồi thêm cho con.” (Matthew 6:33)

Thay vì mang trong tâm ý tưởng “tìm kiếm” người bạn đời thích hợp, con hãy thay đổi cái nhìn đó thành “từ hóa” [thu hút qua từ trường] người bạn đời thích hợp. Như chúng tôi, các chân sư thăng thiên, giảng dạy suốt trang mạng này, mọi thứ con nhìn thấy trên địa cầu là sự trải bày của tâm thức loài người. Mọi sự xảy ra trong đời con là sự trải bày của trạng thái tâm thức của chính con.

Tìm kiếm Nước Trời là ẩn dụ cho sự tìm kiếm tâm thức Ki-tô. Cho nên thay vì tập trung vào những gì con muốn từ ngoại cảnh, con hãy tập trung vào việc nâng cao tâm thức của mình, rồi qua đó con sẽ thu hút một cách không khó nhọc những gì con thực sự mong muốn.

Hầu hết mọi người đều bị lạc đường khi đi tìm người bạn đời “thích hợp” ở điểm là họ cho rằng người “thích hợp” đó là một người không khiến cho họ phải cải sửa bản thân. Họ tìm kiếm một người bạn đời sẽ bù đắp cho những khía cạnh chưa giải quyết trong tâm lý họ, hầu họ có thể cảm thấy mình trọn vẹn hay hạnh phúc mà không cần phải xem xét cái xà trong mắt mình. Nếu thật sự họ có thể tìm được một người như vậy, cuộc sống có thể sẽ thoải mái thật, nhưng sự tăng trưởng tâm linh sẽ bị thiệt hại.

Nếu con tìm người bạn đời dựa trên trạng thái tâm thức hiện thời của con, kết quả tất yếu sẽ là gì? Con sẽ thu hút một người bạn đời tương ứng với mức tâm thức hiện thời của con. Điều này không có gì là dở – nếu con xem mọi chuyện như là cơ hội để tăng trưởng.

Nói cách khác, con đã thu hút người bạn đời đó vì tính tình của họ có thể làm nổi bật ra trong con chính xác những đặc điểm mà con cần thăng vượt để tiến về quả vị Ki-tô. Cho nên nếu con sử dụng quan hệ này như một cơ hội để tự thăng vượt, thì đây sẽ là một bước tiến trên đường tu của con. Tuy nhiên, nếu con rời bỏ “con cóc” đó và bắt đầu chạy đi tìm “con cóc đặc biệt trong số một trăm con”, thì con sẽ không tiến bộ mà sẽ chỉ thu hút cùng một loại người bạn đời như thế. Ta cam đoan với con là chuyện đó có thể lặp lại hơn một trăm lần qua nhiều kiếp đầu thai. Và tất nhiên, hoàn toàn không có gì bảo đảm là sau khi hôn một trăm con cóc, sẽ có một con biến thành hoàng tử hay công chúa. Nếu con nghi ngờ lời ta nói, con thử ra cái ao gần nhà nhất và khởi sự hôn cóc mà xem.

Điều ta muốn nói là hầu hết mọi người đều cho rằng mình đã sẵn sàng cho người bạn đời “thích hợp”. Thế nhưng đối với tuyệt đại số, điều này không đúng. Đa số sẽ phải đi qua một hoặc nhiều mối quan hệ cũng như một tiến trình tự thăng vượt chân thành, hầu có thể đạt đến một trạng thái tâm thức khả dĩ từ hóa được một người bạn đời “thích hợp” cho mình trong kiếp này.

Vậy chúng tôi muốn nói gì qua chữ “người bạn đời thích hợp” chứ? Đúng vậy, con có một Sứ vụ Thiêng liêng cho kiếp này, và trong sứ vụ có hoạch định là con sẽ đạt được một mức tâm thức nào đó, rồi sẽ phụng sự đời sống ở mức tâm thức đó. Cho nên người bạn đời “thích hợp” cho con là người có khả năng giúp con đi bước chót dẫn con đến mức tâm thức mà con đã hoạch định cho kiếp này, và cũng là người sẽ giúp con phụng sự cuộc sống trong khả năng cao nhất của con. Thay vì chữ “thích hợp” với ý nghĩa tương đối, ta ưa dùng chữ “người bạn đời tâm linh” nhiều hơn.

Tuy nhiên, do con cần phải kinh qua một tiến trình để có thể từ hóa người bạn đời tâm linh của con – và do điều này thường đòi hỏi con sống qua mấy mối quan hệ – con cũng có thể nói là người bạn đời hiện tại của con luôn luôn là người bạn đời “thích hợp” cho con. Con đã từ hóa, đã thu hút, người đó vì họ là cơ hội lý tưởng để con đi bước kế tiếp trên đường tu cá nhân, và nếu con học được bài học cao nhất mà con có thể học từ mối quan hệ này, thì con đã tiến gần hơn đến việc từ hóa người bạn đời tâm linh của con. Vậy thì có gì dở đâu?

Cho nên nếu con cảm thấy con chưa tìm thấy người bạn đời “thích hợp”, con hãy nhận ra là con cần nhiều nỗ lực hơn để cải sửa tâm lý của mình. Xong con hãy ngừng mơ mộng mình sẽ tìm thấy hũ vàng ở cuối cầu vồng của trò chơi hẹn hò. Con hãy xắn tay áo lên và dồn hết nỗ lực để chữa lành tâm lý mình, để con tìm ra chính con. Tuyệt đối không có cách nào để con tìm được người bạn đời tâm linh cho đến khi con đã tìm ra chính con, cho đến khi con gần thể hiện được tiềm năng cao nhất của con trong kiếp này. Cho tới khi con tìm được Nước Trời trong bản thân con, cũng như sự công chính khi con mở khóa tiềm năng cao nhất trong kiếp này, thì cuộc tìm kiếm người bạn đời “thích hợp” sẽ không thu hút được người bạn đời tâm linh.

Đi tìm người bạn đời “thích hợp” mà không cố tự cải sửa cũng tựa như con cố đặt xe ngựa trước con ngựa vậy. Điều này không thể làm được. Điều CÓ THỂ làm được là con sử dụng những dụng cụ tâm linh nhằm chữa lành tâm lý được đăng tải trên trang mạng này và ở những nơi khác.

Tất nhiên, cách này sẽ chỉ hiệu quả nếu con thực sự sẵn lòng đi tìm người bạn đời “thích hợp” của con, có nghĩa là con sẵn lòng thực hiện những thay đổi cần thiết trên bản thân trước khi con thu hút được người bạn đời tâm linh thay vì một người chỉ phản ánh lại tâm lý chưa giải quyết của con. Dạng quan hệ cao nhất sẽ không xuất hiện trừ khi con làm việc trên tâm tính của mình. Nhiều người không sẵn lòng làm công việc này, cho nên họ tiếp tục mơ mộng một người bạn đời toàn hảo đến độ họ không phải tu sửa tâm tính. Khi nào con còn mơ mộng, thì con sẽ còn phóng chiếu những đức tính y như con tưởng là mình mong muốn mà không bao giờ có dịp đối chiếu với thực tế.

Đương nhiên, nếu ĐÓ là kinh nghiệm mà con muốn có cho tới hết kiếp này, ta sẽ không phản đối, vì ta tôn trọng Luật Tự quyết. Và trong trường hợp đó, con sẽ không cần lời khuyên của ta, và ta cũng không có lời khuyên nào cho con. Nhưng nếu ngược lại, con muốn chiêm nghiệm sự sống trong tiềm năng cao nhất của con – trong đó có việc thu hút người bạn đời tâm linh, và nhiều hơn thế nữa – ta có thể cống hiến rất nhiều cho con, bởi vì một trong những mục đích của Thời đại Bảo bình là nối kết những ai với tiềm năng cao nhất để họ hợp lại và chứng tỏ rằng một mối quan hệ tâm linh đích thực có thể thành công. Trong một quan hệ như thế, cả hai người đều nhân ta-lăng của mình lên cũng như nhân ta-lăng của người phối ngẫu, và họ đạt đươc một sự kết hợp cao hơn đa số người khác cho tới giờ.

Khi nào thời điểm thích hợp, Mary Magdalene – giờ đây là chân sư thăng thiên Magda – và chính ta sẽ ban ra những lời dạy mới về các mối quan hệ cao hơn. Nhưng không có lý do gì con phải chờ cho tới khi đó, vì hiện nay có nhiều lời dạy đã được ban ra về cách nâng cao tâm thức. Cho nên con hãy nỗ lực trở nên một người bạn đời tiềm năng tốt nhất, thì ta tin rằng rốt cuộc con sẽ thu hút được người bạn đời tâm linh của con. Hãy tìm thì con sẽ tìm thấy – câu này thật chí lý, nhưng chỉ khi nào con tìm kiếm ở trong chính mình.

Giáo lý nền tảng về quan hệ khi người bạn đời chống đối niềm tin tâm linh của bạn

Hỏi: Con cầu xin thày giúp con. Hoặc nếu chân sư hay Kim có thể trả lời thì con sẽ vô cùng biết ơn. Con là một người làm vợ và làm mẹ với mấy đứa con nhỏ, con đã đi trên hành trình tâm linh từ nhiều năm nay. Đã có một thời con tin đạo Cơ đốc Phúc âm (evangelical Christianity) là câu trả lời cho con. Con được “cứu rỗi”, gặp chồng con ở đó, kết hôn và sinh con. Con vẫn yêu chồng con tha thiết và con không có ý muốn sống xa anh ấy. Tuy nhiên, sự thức tỉnh nội tâm đã dẫn con đến giáo lý này, và con biết sâu trong tim mình đây là chân lý. Con không đang cố thuyết phục chồng con về lẽ thật trong những lời dạy này vì anh ấy là một tín đồ Cơ đốc đã “tái sinh”, một người đàn ông tốt, nhưng anh ấy không thực sự cởi mở và sẵn sàng chấp nhận bất kỳ loại giáo lý nào không ăn khớp với kinh điển trong sách. Con cố sống trọn với tình thương vô điều kiện và lời dạy chân thực của Giê-su trong khi con bước đi trên đường tu riêng của con dẫn đến tâm Ki-tô.

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chúng con đang gây ra cãi vã trầm trọng mỗi ngày. Chồng con nay đã hiểu là con không còn là người tin đạo theo đúng Kinh thánh nữa. Con hoàn toàn không muốn nói dối hay giữ bí mật nào đối với anh ấy – nhưng càng ngày con càng bị anh ấy tra khảo về niềm tin của con y như ở trạm công an vậy. Con tuyệt vọng, con không thể sống như thế này. Con sẽ không từ bỏ Chân lý để mong được chấp thuận và yêu thương, nhưng con yêu chồng và yêu con của con tha thiết, và con khiếp sợ là con sẽ mất cả chồng lẫn con, hoặc chồng con của con sẽ mất con, nhất là nếu gia đình chồng, một gia đình theo đạo Tin lành cực chính thống, cũng hùa theo anh ấy mà tra khảo con.

Hiện con không còn gia đình phía bên con nữa. Con lớn lên trong Giáo hội Lã mã và từ rất lâu con đã rời khỏi cách thờ phượng thần tượng đó, cho nên con đã mất đi sự hỗ trợ và tình thương của gia đình con. Con cảm thấy mình giống như Peter đi bộ trên mặt nước và chìm nghỉm. Con sợ hãi và cô đơn, rất nhiều ý nghĩ đen tối đang xâm nhập tâm con mà không phải là từ Thượng đế. Con không biết phải làm gì và phản ứng thế nào, nói làm sao. Con đã tìm xem thày Giê-su từng phản ứng như thế nào trước những lời buộc tội như khi thày phải đứng trước mặt Pilate, nhưng con thật sự không biết phải cư xử thế nào trong tình huống ngặt ngèo như thế này. Xin, xin thày giúp con. Làm thế nào con yêu được chồng con, làm thế nào sống an bình và biểu lộ an bình của Thượng đế giữa tình trạng này? Con phải làm gì đây?

Hiện giờ con kiệt quệ đến nỗi ngay cả chuyện thiền định và tìm kiếm câu trả lời trong tâm thức Ki-tô của con, con cũng không làm nổi.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels, ngày 17/9/2010.

Trước tiên, con cần phải có quyết định chắc chắn là con sẽ không bao giờ lấy một quyết định có thể thay đổi đời mình trong khi con đang ở trong một tâm trạng rối loạn. Một khi con quyết định như thế rồi, con sẽ cảm thấy cường độ rối loạn của mình giảm xuống phần nào.

Việc tiếp theo mà con cần làm là nhìn nhận rằng trong bất kỳ tình huống nào mà con cảm thấy tê liệt và mất hết phương hướng nội tâm, cốt lõi của vấn đề nằm ở chỗ có một điều gì đó trong tình huống đó mà con không sẵn lòng nhìn vào.

Khi nào còn có điều gì mà con không sẵn lòng nhìn vào, thì con không thể nhận được sự chỉ đạo nội tâm rõ ràng. Có nghĩa là mức rối loạn của con sẽ chỉ gia tăng, cho đến khi nó dẫn đến môt cuộc khủng hoảng hay sụp đổ nào đó. Do đó, con cần nhìn ra đây là một vòng xoắn ốc đi xuống, và để phá vỡ vòng đi xuống này, con cần làm một điều gì đó mà con chưa làm cho tới nay.

Làm sao con phá vỡ được? Bằng cách lấy quyết định ý thức là con sẵn sàng nhìn vào mọi khía cạnh của tình huống. Cho nên, thay vì cưỡng lại sự chỉ đạo nội tâm, giờ đây con sẽ mở tâm trí và trái tim ra để nhận chỉ đạo nội tâm. Và khi đó, cái ta Ki-tô và các vị thày hướng dẫn con sẽ có căn bản để làm việc, thay vì trong lúc này phải tôn trọng quyền tự quyết của con và lui ra.

Làm thế nào con có thể tìm ra điều gì mà con chưa sẵn lòng nhìn vào? Trong mọi tình huống, hiển nhiên và trước nhất, con cần nhìn vào các nỗi sợ hãi của mình. Mọi sợ hãi là sợ hãi cái chưa biết, và cái chưa biết là cái mà con chưa sẵn lòng nhìn vào. Nếu con đã nhìn vào nó và đã tìm kiếm sự chỉ đạo Ki-tô, thì nó đã là cái biết rồi, và con đã giải quyết được nỗi sợ hãi của con.

Như luôn luôn, ta sẽ sử dụng câu hỏi đặc thù của con để đưa ra một lời dạy có thể hữu ích cho nhiều người, cho nên một vài điều ta nói ở đây sẽ không áp dụng trực tiếp cho người đặt câu hỏi. Tuy nhiên có một điều sẽ áp dụng được, đó là khi lá thư của con chứng tỏ rõ ràng con đang bị tê liệt vì con đang có hai nỗi sợ trái ngược nhau: Con sợ làm hại đến đường tu quả vị Ki-tô của con, và con sợ quan hệ của mình sẽ chấm dứt. Cho nên, hai nỗi sợ phối hợp lại có nghĩa là không có cách nào để con vừa bước trên đường tu mà vừa tiếp tục mối quan hệ.

Lý do con có nỗi sợ hãi đó là vì con tin rằng câu trả lời tùy thuộc vào thái độ cùng quyết định của chồng con. Vì thế con đã tự cho phép mình tin rằng kết cục của tình trạng này nằm ngoài tầm tay con, và không có gì mà con chọn làm sẽ thay đổi được tình thế. Thế nhưng ta muốn mọi người hiểu là con KHÔNG BAO GIỜ ở trong một tình thế mà con không có chọn lựa.

LUÔN LUÔN có điều gì đó mà con có thể làm, và đó là giành lấy quyền kiểm soát hoàn toàn trên cách phản ứng của mình đối với tình huống. Một khi con kiểm soát được phản ứng của con, con sẽ thấy là các nỗi sợ của con không còn nữa, và cách con tiếp cận tình huống sẽ hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách tự giải phóng mình để tìm ra một cách đáp ứng tình huống cao hơn, rất có thể – không chắc chắn nhưng rất có thể – là con cũng sẽ giải phóng chồng con để anh ấy tìm ra một cách đáp ứng cao hơn. Con ở trong một quan hệ và trong quan hệ luôn luôn có hai người. Cho nên cách phản ứng của chồng con không chỉ là sản phẩm của tâm lý anh ấy, mà cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi phản ứng của con, và phản ứng này đến từ tâm lý con.

Điều kế tiếp con cần làm là xem xét nghiêm túc cách con nhìn đường tu cá nhân của mình. Liệu con có, giống như nhiều người khác, nhìn nó như là một con đường vỏ ngoài, qua đó con mở mang kiến thức rồi chấp nhận và tin tưởng một số ý tưởng, chẳng hạn như những giáo lý được tìm thấy trên trang mạng này. Hay liệu con, như ta đã mô tả suốt trang mạng này, bắt đầu nhìn ra cốt lõi đích thực của đường tu cá nhân là một tiến trình xảy ra bên trong con. Nói cách khác, con có thấy một phần cơ yếu của con đường quả vị Ki-tô là đạt được kiểm soát toàn diện trên cách phản ứng của mình trước những điều kiện của thế gian? Đây là thông điệp nền tảng mà các chân sư thăng thiên đã giảng dạy từ thời đức Phật.

Thể hiện quả vị Ki-tô có nghĩa là gì? Có nghĩa là ông hoàng của thế gian không nắm được gì nơi con, vì cho dù y có ném gì vào con, y cũng không thể buộc con có một phản ứng thấp kém hơn tình thương. Tình thương là phương thuốc sẽ tống khứ mọi sợ hãi. Khi con có thể đáp ứng bằng tình thương, con giải phóng cho người bạn đời lẫn chính con tìm ra một cách đáp ứng cao hơn – nếu người kia chọn làm như vậy.

Con có thấy điều ta đang nói không? Một mối quan hệ là một trong những cách hiệu quả nhất để dạy con người kiểm soát phản ứng của mình. Cho nên khi con quan hệ với một người chống đối niềm tin tâm linh của mình, điều này không nhất thiết là một trở ngại trên con đường quả vị Ki-tô của con. Nó có thể – nếu con chọn cách tiếp cận như vậy – là một cơ hội tuyệt diệu để kiểm soát phản ứng của mình và tự dạy mình phản ứng lại mọi tình huống với tình thương. Nói cách khác, con hoàn toàn có khả năng ở lại trong một quan hệ mà vẫn bước đi tiếp trên con đường quả vị Ki-tô. Có thể con còn tinh tấn nhanh chóng hơn trong một quan hệ khó khăn thay vì dễ dàng.

Lý do ta nói điều này là để cho con niềm hy vọng là quả thực con có thể tiếp tục mối quan hệ mà vẫn theo đuổi quả vị Ki-tô. Điều đó sẽ giảm bớt nỗi sợ hãi của con, hầu con có thể xem xét sợ hãi này kỹ lưỡng hơn. Thực tế là nếu con sợ quan hệ sẽ chấm dứt, chính sợ hãi đó có thể khiến con làm tổn hại đến đường tu của con, qua đó ta muốn nói là việc mình cam chịu do mình sợ hãi KHÔNG giống như việc nắm lấy kiểm soát phản ứng. Nhiều người đã cho phép nỗi sợ hãi khiến mình khuất phục, và có người còn nghĩ rằng bởi vì thái độ này không hung hãn cho nên nó giống như một đức tính Ki-tô, nó tâm linh và yêu thương. Nó không phải là cả hai.       .

Cho nên con cần đạt tới một điểm khi con không khuất phục do sợ hãi, và cách duy nhất để làm điều này là nhìn vào nỗi sợ hãi. Vậy thì chúng ta hãy thử xem xét nỗi sợ hãi là mối quan hệ có thể chấm dứt.

Thực tế – một thực tế phũ phàng nhưng không thể tránh được – là hầu hết những người bước đi trên đường tâm linh sẽ trải qua một cuộc khủng hoảng quan hệ. Điều này đặc biệt đúng cho những mối quan hệ đã khởi đầu trước khi con tìm thấy đường tu hoặc trước khi con tiến một bước dài. Lý do là vì khi con tiến một bước dài, người bạn đời của con sẽ cảm được điều đó. Và nếu người đó không sẵn sàng cùng tiến bước với con thì nó sẽ hiện ra như là mối đe dọa. Khi đó sẽ có nguy cơ là người đó lo sợ đánh mất con, khiến họ tìm cách hạn chế các hoạt động tâm linh của con.

Có nhiều người tầm đạo đã trải qua kinh nghiệm này, và nhiều người cũng đã cho phép nó chấm dứt quan hệ của mình. Tuy nhiên trong tuyệt đại đa số trường hợp, việc chấm dứt như vậy hoặc là không cần thiết, hoặc là quá vội vàng. Hãy cho ta giải thích.

Là một người tầm đạo, điều hoàn toàn hợp lý là con có thể kết thúc một mối quan hệ để nhảy một bước tiến thật dài, hay do hệ quả của một bước tiến thật dài. Ta từng cư xử như vậy khi ta đang thuyết giảng trước đám đông thì mẹ và anh chị em của ta đã bước vào bảo ta nên ngừng lại và xử sự như người bình thường. Ta đã trả lời, những ai lắng nghe và làm y theo lời của Thượng đế là gia đình thực sự của ta. Điều này phần nào cũng sẽ đúng cho bất kỳ người tầm đạo nào – vì sẽ có những thời điểm trên hành trình tâm linh khi con cần bước tới và bỏ lại đằng sau một số người.

Tuy nhiên – và đây là chữ TUY NHIÊN thật lớn – điểm này không bao giờ được sử dụng như một cái cớ để tháo chạy một tình thế khó khăn. Sự thật là nhiều người tầm đạo đã dùng gương của ta để bào chữa cho việc mình kết thúc một mối quan hệ. Họ muốn bước ra khỏi mối quan hệ nhưng lại không sẵn sàng thừa nhận chuyện đó, cho nên khi người bạn đời bắt đầu phản đối hoạt động tâm linh của họ (thường là những hoạt động không cân bằng), thì điều này trở thành một cái cớ thuận tiện để chấm dứt mối quan hệ. Thật là quá dễ đổ lỗi việc đổ vỡ cho người kia đã không chịu chấp nhận các hoạt động tâm linh của mình. Hiển nhiên, đây chỉ đơn giản là ngón bịp bợm cố hữu của tự ngã quy trách nhiệm cho một ai khác, và điều này sẽ không đem lại tinh tấn tâm linh cho dù con có tìm cách biện minh đến đâu.

Nếu con muốn rời khỏi một mối quan hệ, tất nhiên là con có quyền chọn lựa như vậy, nhưng con hãy công nhận đó là chọn lựa của con và đừng quy trách nhiệm cho ai khác.

Vậy con có thấy điều ta muốn nói? Một đằng, con cần giữ trong tâm khả năng là mối quan hệ có thể sẽ kết thúc, nhưng đằng khác con cũng cần tránh quyết định với tâm vỏ ngoài và khiến cho quan hệ chấm dứt quá vội vàng. Làm thế nào tìm ra thế cân bằng đây? Trước hết, con hãy quyết định là con sẽ không có quyết định nào để chấm dứt quan hệ, và sau đó con hãy quyết định là con sẽ ngừng đặt trọng tâm vào việc thay đổi người bạn đời của con, và thay vào đó, con sẽ tập trung tất cả sự chú ý của mình vào việc điều ngự cách phản ứng của chính mình trong quan hệ.

Điểm con muốn hướng tới là đối với con, dù mối quan hệ có tiếp tục hay chấm dứt cũng không quan trọng gì nữa. Bởi vì con đã hoàn toàn làm chủ được phản ứng của mình, cho nên con tìm được sự an bình và hạnh phúc nội tâm một cách độc lập khỏi người kia.

Một khi con tìm được an bình nội tâm này và học được cách chỉ đáp ứng bằng tình thương, rất có thể người bạn đời của con cũng sẽ thay đổi và cuộc khủng hoảng sẽ đi qua. Tuy nhiên, vì tất cả mọi chuyện đều phụ thuộc vào quyền tự quyết, cho nên người kia vẫn có thể không muốn thay đổi. Như vậy, chính người đó sẽ có thể chấm dứt quan hệ, hoặc mối quan hệ sẽ giải thể một cách có vẻ tự nhiên. Điều ta muốn nói ở đây là con hãy đặt trọng tâm vào cách phản ứng của mình và tránh lấy quyết định với tâm vỏ ngoài. Con nỗ lực tìm an bình nội tâm và mặc cho mọi chuyện tự nó trải bày ra.

Điều này có nghĩa là cho dù quan hệ có kết thúc, con sẽ vẫn an bình. Và để đạt tới điểm đó, có thể con sẽ cần nhìn vào nỗi sợ hãi của mình và vượt xuyên qua nó. Cách hay nhất là con hãy tự hỏi, “Điều gì là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra cho tôi?” Xong con hãy để cho kịch bản đó trình diễn trong tâm con cũng như cách con sẽ đối phó về mặt lý trí lẫn xúc cảm. Bằng cách cho phép con sống qua nỗi sợ hãi, cuối cùng con sẽ đi xuyên qua nó và nhận ra là kịch bản tồi tệ nhất vẫn không đến nỗi đáng sợ như con tưởng. Quả thật, con có khả năng sống sót qua cơn sợ, thậm chí con sẽ vẫn tiến bước nếu nó xảy ra.

Trở về với trường hợp mô tả trong thư, điều cũng cần thiết là xem xét một yếu tố khác nữa mà nhiều người có thể không sẵn lòng nhìn nhận. Thực tế phũ phàng là đạo Cơ đốc cực chính thống (fundamentalist Christianity) hoàn toàn xa cách với thực tại của Ki-tô. Ít phong trào tôn giáo nào trên hành tinh mà lại phán xét một cách hung hãn đến như vậy, có nghĩa là nhiều tín đồ cực chính thống đã mở tâm mình ra cho quỷ địa ngục xâm nhập vào. Những con quỷ này hoạt động ráo riết thông qua nhiều tín đồ cực chính thống, thậm chí cả nhiều nhà thuyết giáo, và thực sự họ bị sử dụng làm công cụ để khuấy động xung đột. Do đó, một điều cần thiết và chính đáng là con sử dụng các bài thỉnh và bài chú mà chúng tôi đã đăng tải trên trang dụng cụ để cầu thỉnh cho chồng con được giải vây khỏi những con quỷ này và được bảo vệ.

Một lần nữa, điều quan trọng là con làm những việc trên mà không sợ hãi, và con có khả năng khắc phục nỗi sợ bằng cách con nhận ra là những con quỷ đó không có quyền năng gì trên con một khi con làm chủ được phản ứng của mình. Tuy nhiên cho tới khi đó, điều quan trọng là con cũng cầu gọi sự bảo vệ và sự cắt đứt những sợi dây buộc trói con, buộc trói con cái, chồng và gia đình của con. Con cũng có thể kêu gọi ta đến phán xét những thế lực đã lạm dụng danh ta hầu biện minh cho những hành vi không Ki-tô. Con hãy sử dụng bài thỉnh Đại thiên thần Michael và bài thỉnh cho kẻ tố cáo người anh em. Nhưng con cũng hãy dùng những bài thỉnh nhẹ nhàng hơn như bài thông sạch con tim, và bài về tình thương vô điều kiện.

Bây giờ đến bước chót. Một khi con đã cầu thỉnh sự bảo vệ và con đã đạt được một khả năng kiểm soát nào đó trên phản ứng của mình, con sẽ cần nói chuyện với chồng con. Tuy nhiên, con cần lưu ý là chuyện này sẽ không khả thi hay sẽ không xây dựng cho tới khi con kiểm soát được phần nào phản ứng của con. Vì nếu không, rất có thể nó sẽ biến thành một cuộc đối đầu khiến cho khủng hoảng chỉ càng leo thang.

Vậy khi tình thế có vẻ mang tính xây dựng, con hãy nói chuyện với chồng con về hai điều. Trước hết, hãy thử hỏi anh ấy xem liệu anh có nghĩ là cách hành xử của anh đối với con phù hợp với lý tưởng của Ki-tô hay không. Liệu anh có thực sự chìa má kia ra, hay anh lại là người cứ đánh con tới tấp trên một má trong khi con chìa má kia? Con hãy cho anh thấy là con không tìm cách thay đổi niềm tin của anh, nhưng anh lại không làm vậy đối với con.

Có thể anh sẽ trả lời là bởi vì con sẽ bị xuống địa ngục do không có đức tin, cho nên anh ấy đang làm y như Giê-su muốn anh làm. Con thử hỏi anh ấy xem liệu anh nghĩ Giê-su có tôn trọng quyền tự quyết của con người hay không? Liệu anh thực sự tin là Ki-tô muốn anh coi thường quyền tự quyết của con? Thử hỏi anh xem anh sẽ cảm thấy thế nào nếu có ai đó hung hãn bắt anh phải chối bỏ niềm tin Cơ đốc giáo của anh? Liệu anh sẽ coi đó là một việc phải? Nếu không thì liệu anh có thấy là nếu anh không muốn ai buộc anh phải thay đổi niềm tin, thì anh cũng nên làm cho người khác những gì anh muốn người khác làm cho anh. Và khi anh tấn công niềm tin của con hung hãn, anh không đang tuân thủ điều răn của ta.

Con cũng hãy hỏi, liệu Ki-tô có muốn anh trù rủa vợ anh, hay là Ki-tô muốn anh tìm ra cách sống chung hòa bình cho dù không cùng chung tín ngưỡng? Con có thể nhắc anh là ta đã dạy mọi tín đồ Cơ đốc hãy thương yêu nhau như ta thương yêu họ, và ta thương yêu mọi người bất kể tôn giáo, và đó là tại sao ta đã dang rộng vòng tay với người Samaritan, người La mã, những người thu thuế và đủ loại người tội lỗi.

Điểm tiếp theo mà con đề cập là tình cảm của anh ấy đối với con. Trước hết, con hãy nói rõ tình cảm của con đối với anh, như con đã mô tả trong thư. Rồi con xin anh thành thật nói cho con biết tình cảm của anh đối với con như thế nào. Hồi đó có thể là hai con đã không bao giờ kết hôn nếu cả hai không được “cứu rỗi”, nhưng bây giờ thì tình cảm của anh ra sao? Liệu anh có yêu con người của con, hay anh yêu con với điều kiện con được “cứu rỗi”? Liệu anh có thể tách rời con người của con và tư cách tín đồ của con? Liệu anh còn yêu con như con thực là, và liệu tình yêu của anh có đủ sâu đậm để cho phép con đi theo một con đường sống mà anh không hiểu? Liệu anh có yêu con đủ để cho con tự do đi theo con đường nội tâm của con, y như con cũng yêu anh đủ để cho anh đi theo con đường của anh?

Nếu anh trả lời là anh yêu con vì con người của con, thì kết luận hiển nhiên là cả hai cần cố gắng tìm ra cách sống với nhau trong tình yêu và tôn trọng, thay vì cứ liên tục cãi vã và đổ lỗi cho nhau. Nếu anh thành thật nói rằng anh không còn yêu con nữa vì con không được “cứu rỗi”, thì hiển nhiên hai con cần nói chuyện xem mối quan hệ này còn ý nghĩa gì nữa không.

Ta cũng hiểu là một cuộc đối thoại mang tính quyết định như vậy có thể khiến con lo lắng, căng thẳng. Đó là tại sao ta đã khuyên con hãy cố gắng điều ngự phản ứng của mình, hầu con có thể nói chuyện với chồng con mà vẫn hoàn toàn an bình cho dù kết cục có như thế nào. Con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài – có nghĩa là an bình nội tâm và làm chủ phản ứng – và tất cả mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con.