Lạm dụng tình dục trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng

Hỏi: Các chân sư thăng thiên đã giải thích cho chúng con cơ chế năng lượng của ấu dâm cùng những hành vi che giấu trong Giáo hội Công giáo. Việc sa nhân xâm hại tình dục không phải là chuyện lầm lỗi vì sa nhân rất lành nghề trong các kỹ thuật bòn rút năng lượng. Nhưng điều khiến con hoang mang là những vụ lạm dụng tình dục đã xảy ra với một số vị sư hàng đầu của Phật giáo Tây Tạng và những vụ này đã được che đậy trong nội bộ hay có khi bị truyền thông phơi bày.

Đã có rất nhiều bản tin về hành vi xâm phạm tình dục các nữ đệ tử bởi những nhà sư rất được kính trọng. Liệu việc tà dâm sẽ chẳng cản trở sự phát triển tâm linh cùng việc thăng thiên của các vị đó hay sao? Liệu chúng con có nên xem việc lạm dụng tình dục của các nhà sư Tây Tạng là hệ quả của một truyền thống tôn giáo trọng nam một cách độc đoán chăng? Hay chúng con nên giả sử là trong số các vị Rinpoche của Tây Tạng có thể có sa nhân? Con không nghĩ là một người đã đạt được một mức tâm thức cao cần đến chuyện đánh cắp năng lượng qua việc xâm hại tình dục, cho nên con hoàn toàn không hiểu nổi tại sao họ lại cư xử như vậy trong việc thể hiện tình dục của họ.


Trả lời của chân sư thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Hàn quốc 2023. Đăng ngày 7/7/2023.

Vấn đề thực sự trong tất cả những trường hợp đó là cho dù con có theo một truyền thống tâm linh nào – có thể là truyền thống đạo Phật, truyền thống đạo Cơ đốc, truyền thống đạo Ấn – con sẽ thiết lập một loại tổ chức nào đó, một giáo hội nào đó, một truyền thống tu viện nào đó. Con thiết lập một cấu trúc thứ bậc nhất định và luôn luôn sẽ có sự phóng chiếu là những ai đã đạt được một vị trí cao hơn trong tổ chức vỏ ngoài cũng phải đạt đến một mức tâm thức cao hơn. Đây là cạm bẫy tàn hại cho tất cả mọi người tâm linh trong mọi truyền thống tâm linh. Có lẽ sự lầm lẫn này là một cách phản ứng có thể thông cảm được – ít ra là thông cảm được trong quá khứ, nhưng không thể thông cảm hay bào chữa được trong thời đại hôm nay.

Thực tế là bất cứ khi nào con tạo ra một tổ chức có cấu trúc thứ bậc nơi người càng ở trên cao càng có nhiều quyền hành, thì tổ chức này sẽ thu hút những ai mong muốn quyền lực, hay địa vị, hay uy tín. Nhưng có thật khó lắm hay chăng để nhìn ra là những ai chạy theo quyền lực, địa vị và uy tín không thể là người có tâm thức cao? Bởi vì tại sao một người có tâm thức cao, một trạng thái tâm thức tâm linh, lại muốn quyền lực, địa vị và danh vọng trên trái đất chứ? Thật không khó lắm để con xoay chuyển và nhìn ra là không một truyền thống hay tổ chức tâm linh nào có thể thoát khỏi cơ chế này. Con tạo ra một số địa vị và các địa vị này sẽ hấp dẫn những ai muốn hưởng một điều gì đó từ địa vị. Và những người này có thể là sa nhân, nhưng họ cũng có thể là những người chưa sa ngã bị ảnh hưởng bởi tâm thức sa ngã, thậm chí bị chi phối bởi lời gian dối cho rằng nếu họ đạt được một chức vụ trong tổ chức tâm linh chân chính độc nhất này thì nhất định họ sẽ phải được nhận vào thiên đàng.

Quả thật là trong truyền thống Tây Tạng và các truyền thống Phật giáo khác có những sa nhân đã đạt đến các chức vụ cao cấp, và do đó họ đã lạm dụng những người thấp hơn họ, như sa nhân vẫn thường làm. Có một số người đã đạt được các chức vụ đó và mở ra cho các thế lực bóng tối từ cõi cảm xúc, và các thế lực này đã khiến họ xâm hại tình dục người khác để các sinh thể ở cõi cảm xúc có thế rút lấy năng lượng từ họ.

Hiển nhiên là con hoàn toàn chính xác khi con nói một người với trình độ tâm linh cao hơn sẽ không cần lấy năng lượng từ người khác, cho dù là qua sinh hoạt tình dục hay qua việc người khác kính trọng, thờ phượng hay đưa họ lên làm thần tượng. Cho nên khi con thấy người nào cần những thứ này thì con biết họ không ở trong một trạng thái tâm thức cao. Nhưng một lần nữa, vấn đề là các tổ chức tâm linh phóng chiếu ra là những ai ở các chức vụ lãnh đạo nhất định phải là người có tâm thức cao – và sự thật thường thường không là như vậy, bởi vì trong một truyền thống tâm linh hay một giáo hội được thành lập lâu đời với một guồng máy tổ chức to lớn, những ai bị thu hút vào các chức vụ lãnh đạo chính là những kẻ mong muốn một cái gì đó của thế gian mà họ nghĩ chức vụ sẽ cung cấp cho họ.

Đơn giản là con cần điều chỉnh lại cái nhìn của con. Nếu con biết Giáo hội Công giáo đã bị nạn ấu dâm và xâm hại tình dục lũng đoạn, tại sao con lại nghĩ là Phật giáo Tây Tạng hay bất kỳ truyềng thống tâm linh nào khác sẽ không bị lũng đoạn như vậy? Điều này cho thấy là con có một xu hướng thần tượng hóa nào đó đối với một truyền thống tâm linh đặc thù, vì một cách nào đó, con nghĩ là mặc dù truyền thống này do người phàm điều hành, nhưng những người phàm này sẽ không làm giống như những người phàm kia. Nhưng niềm tin này không thực tế đâu con.

Ta hoàn toàn không dung túng hay bào chữa sự lạm dụng tình dục cho dù trong một truyền thống Phật giáo hay bất kỳ truyền thống nào khác. Đương nhiên những người làm vậy sẽ tạo nghiệp cho chính họ, và sẽ không có cách nào họ thăng thiên được sau kiếp này hay có lẽ sau nhiều kiếp, hay có thể là không bao giờ.

Nhưng câu hỏi cũng cần được đặt ra trong bối cảnh này là liệu trong thế giới hiện đại có cần tiếp tục truyền thống độc thân cho những người tâm linh trong một tổ chức tâm linh không? Rõ ràng nạn ấu dâm và xâm phạm tình dục trong Giáo hội Công giáo liên hệ chặt chẽ với sự đòi hỏi là các linh mục phải sống độc thân, nhưng điều này cũng không khác gì bất kỳ truyền thống tâm linh nào khác nơi sự độc thân cũng là một yêu cầu. Nhưng liệu nó có còn cần thiết hay không? Trong quá khứ đã có lý do để đòi hỏi như vậy, nhưng liệu có cần thiết hay không trong thời đại hôm nay? Ta không cho con một câu trả lời dứt khoát là có hay không, mà ta chỉ nói rằng nếu con thực sự mong muốn khắc phục nạn lạm dụng tình dục thì con cần giải quyết vấn đề này. Việc sống độc thân có cần thiết trong thời hiện đại hay không, và nó có cần thiết hay không trong một truyền thống tâm linh?

Điều gì là cần thiết trong một truyền thống tâm linh? Đó là sự điều ngự các ham muốn tình dục. Nhưng mục tiêu này có nhất thiết đạt được một cách tự động qua việc phủ nhận các ham muốn tình dục? Hay thật ra mục tiêu sẽ đạt được hiệu quả hơn qua sinh hoạt tình dục trách nhiệm? Không có câu trả lời rõ rệt là có hay không cho những câu hỏi trên, nhưng đây là những câu hỏi cần được đặt ra để có thể khắc phục vấn đề.

Và tất nhiên, ta biết rất rõ là trong nhiều truyền thống đạo Phật sẽ có nhiều sự chống đối không muốn nhìn vào điểm này. Nhưng nếu thế thì vấn đề xâm phạm tình dục sẽ chỉ càng ngày càng trở nên tệ hơn để buộc mọi người phải xem xét vấn đề.

Ý nghĩa của trinh tiết

Hỏi: Mẹ Mary yêu dấu, xin thày vui lòng tiết lộ bí mật về mục đích của trinh tiết nơi các thiếu nữ trong đạo Cơ đốc. Người ta rất coi trọng trinh tiết và áp đặt nhiều cấm đoán, luật lệ đối với các cô gái ngay từ tuổi thơ ấu. Tại sao thiếu nữ bị phái nam dụ dỗ, bị thúc ép để có quan hệ tình dục trước hôn nhân?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Hội nghị Phục sinh 2023. Đăng ngày 15/5/2023.

Tùy vào tiền kiếp của mỗi người, nhưng hầu hết trẻ em đều sinh ra với một ân sủng trong sáng, ngây thơ nào đó. Nói cách khác, con có thể bảo là ở tuổi thơ ấu, có một phần nào đó của quá khứ, của nghiệp chướng, của năng lượng tha hóa, của động lượng mà con đem theo từ tiền kiếp sẽ được giữ lại, để trong tuổi thơ ấu con có cơ hội tạo ra một cách tiếp cận mới cho cuộc sống trong kiếp này. Nhìn từ nhãn quan này, con có thể nói là nhiều đứa trẻ khởi sự cuộc sống với một nét hồn nhiên, một năng lượng thuần khiết nào đó.

Không phải tất cả mọi trẻ em đều như vậy, tùy vào tiền kiếp và tùy vào tâm lý em bị thương tổn và phức tạp đến chừng nào, nhưng hầu hết các em đều như vậy. Có nghĩa là gì? Có nghĩa là em có một năng lượng nào đó, một ánh sáng tâm linh nào đó, và khi em lớn lên, có nhiều yếu tố có thể khiến em đánh mất năng lượng này, đánh mất sự hồn nhiên này. Trong số đó có quan hệ tình dục. Không có nghĩa là em phải mất sự hồn nhiên trong một quan hệ tình dục, nhưng đây là một trong những yếu tố sẽ lấy đi sự hồn nhiên của em. Một yếu tố khác là rượu, ma túy, thuốc lá, bạo hành cùng nhiều thứ nữa.

Trong số các sa nhân đầu thai và suốt một thời gian rất dài, người ta đã đề ra một khái niệm là việc quan hệ tình dục với trẻ em hay với thanh thiếu niên còn trinh trắng có thể đem lại nhiều ánh sáng hơn. Và tất nhiên, các sa nhân bị cắt đứt khỏi nguồn ánh sáng từ Hiện diện TA LÀ của chúng, sẽ phải đoạt ánh sáng theo chiều ngang từ một ai khác trong thế gian. Chúng tìm kiếm điều này qua quan hệ tình dục với trẻ em, và ngay cả trong số các trẻ em đó thì chúng tìm kiếm trẻ em còn trinh trắng vì ở lần đầu tiên sa nhân có thể cướp được nhiều ánh sáng hơn. À, ta không bảo là con sẽ tự động đánh mất tất cả hồn nhiên tuổi thơ của mình lần đầu tiên con quan hệ tình dục, nhưng nếu con quan hệ lần đầu với sa nhân thì xác suất rất cao là con sẽ mất đi phần lớn. Nếu con quan hệ với một người không phải là sa nhân thì sự thể không đến nỗi như vậy. Nhưng sa nhân rất lão luyện trong việc rút năng lượng của người khác, cho nên nếu đứa trẻ có quan hệ đầu tiên với một sa nhân thì em sẽ đánh mất hầu hết, nếu không nói là tất cả, sự ngây thơ và năng lượng của em.

Điều sa nhân đã làm suốt các thời đại là chúng xây dựng đủ loại chủ nghĩa kín đáo – nếu có thể gọi như vậy – nhằm mục đích tạo cơ hội cho chúng đoạt ánh sáng này qua quan hệ tình dục với trẻ em hay thanh thiếu niên, đặc biệt những em còn trinh trắng. Và chúng cũng đã cố dùng đủ mọi cách để truyền bá, biện minh cho cách hành xử này. Con có thể tự hỏi tại sao một số linh mục Công giáo đã mắc vào vòng xoáy lạm dụng tình dục trẻ em như vậy, và câu trả lời là cách hành xử này bắt nguồn từ sa nhân cùng cách rút năng lượng của chúng. Không có nghĩa là tất cả các linh mục Công giáo đã lạm dụng trẻ em đều là sa nhân, nhưng chắc chắn họ đã phần nào bị chiếm hữu bởi những sa nhân đang đánh cắp năng lượng của linh mục ngay trong khi chúng cũng đánh cắp năng lượng của trẻ em.

Trong nhiều tôn giáo suốt chiều dài lịch sử đã có khái niệm xem trinh tiết là hệ trọng. Con có thể nói là một đằng, có mong muốn bảo vệ trẻ em khỏi bị quan hệ tình dục quá sớm hay thậm chí có quan hệ với sa nhân. Có một khía cạnh nhân từ trong đó mà nhiều nước dân chủ thế tục hiện đại đã bỏ quên khi các nước này cho rằng việc cho trẻ em ở mọi lứa tuổi quyền tự do quan hệ tình dục nếu các em muốn, có thể đem ra bàn cãi– vì tất nhiên, đây là một điều mọi kẻ ấu dâm đều mơ ước.

Con thấy một phần trọng điểm của cái nhìn truyền thống là để bảo vệ trẻ em, nhưng đồng thời lại có một yếu tố khác xen vào ở đây là người ta đặt thêm trọng điểm vào việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn hầu sa nhân có cơ hội đoạt lấy. Và ở đây có sự phối hợp của cái lành mạnh lẫn cái không lành mạnh.

Điều chúng ta có thể nói là việc quan hệ tình dục quá sớm có thể tai hại cho đứa trẻ. Điều này cũng tùy thuộc phần nào vào người đối tác. Nếu có hai em quan hệ với nhau ở tuổi vị thành niên thì sự mất mát sẽ không đến nỗi nghiêm trọng nếu cả hai đều ở trong một trạng thái tâm thức tốt lành. Tuy nhiên, việc giữ gìn trinh tiết lâu hơn vẫn có giá trị, chẳng hạn nếu em trao trinh tiết cho một người yêu chân thành trong một mối quan hệ dài hạn nghiêm túc thay vì xem tình dục là một chuyện hời hợt như nhiều người thường làm. Và chắc chắn ta sẽ nói là tình dục trước tuổi vị thành niên thật không lành mạnh cho bất cứ ai.

Sa nhân tinh vi vô cùng. Trong một vài tôn giáo cổ xưa như đạo Cơ đốc, đạo Do Thái, đạo Hồi, xã hội do nam giới thống trị – một xã hội dựa trên người cha làm trưởng tộc. Như các thày đã giải thích nhiều lần, sa nhân tận dụng sự kiện này vì đối với sa nhân đàn ông dễ kiểm soát hơn phụ nữ. Và người ta tạo ra ý niệm: “Phái nữ có mặt là để phục vụ cho phái nam thỏa mãn tình dục, và người vợ luôn luôn phải quan hệ tình dục với chồng bất cứ khi nào chồng muốn, vân vân.” Một lần nữa điều này bắt nguồn từ sa nhân vì trong bất kỳ loại xã hội nào, các sa nhân đầu thai đều muốn chiếm lấy địa vị có quyền làm bất cứ gì chúng muốn, và sự thể này được xã hội chấp nhận và bào chữa. Đây là điểm mà con cần nhìn thấu suốt trong bất kỳ hoàn cảnh nào trong xã hội, cho dù đó là chuyện tôn giáo hay chuyện gì khác như một chế độ chính trị, bất kể.    

Con có thể nói là trong nhiều hoàn cảnh đã có một ý muốn tốt lành là bảo vệ con người, nhưng sa nhân sẽ luôn luôn tìm cách khuynh đảo ý muốn đó để phục vụ quyền lợi của chúng. Mục đích là để chúng có thể lạm dụng và trốn tránh hậu quả trong khi quần chúng nói chung thì không thể.

Tầm nhìn tâm linh về việc xâm hại tình dục trẻ em

Hỏi: Xin các chân sư cho biết tầm nhìn tâm linh về ấu dâm là gì? Tại sao ấu dâm lại hiện hữu? Chúng con có thể dùng bài thỉnh nào để loại bỏ ấu dâm khỏi trái đất?


Trả lời của chân sư thăng thiên Mẹ Mary qua trung gian Kim Michaels, nhân Webinar 2020 – Chọn tương lai cho Hoa Kỳ. Đăng ngày 19/10/2020.

Các thày đã dạy rằng nạn xâm hại tình dục trẻ em hiện diện chủ yếu là vì có nhiều sinh thể, đặc biệt là sa nhân, đã bị cắt đứt không nhận được ánh sáng trực tiếp từ cõi tâm linh. Vì vậy để có thể nuôi thân và thậm chí sống còn – và hơn nữa để có chút năng lực làm bất cứ việc gì – chúng phải đánh cắp năng lượng từ những ai vẫn còn nhận được năng lượng từ cõi tâm linh. Và một trong những phương cách để đánh cắp năng lượng từ người khác tất nhiên là qua việc cưỡng hiếp hay hành vi tình dục đồi bại nào khác.

Nhưng chúng chỉ có thể đánh cắp một lượng giới hạn nào đó tùy theo người kia mang bao nhiêu năng lượng. Và vấn đề là một số người lớn đã phung phí một phần năng lượng của mình.

Nhưng trẻ em thì khác. Nói chung, trẻ em vẫn còn nhiều năng lực sống trước khi các em bắt đầu hoạt động tình dục hay bắt đầu bước vào lối sống của giới thanh thiếu niên hay của người lớn khiến cho năng lượng bị phung phí. Đó là tại sao có một thành phần những sinh thể không có khả năng nhận ánh sáng từ cõi tâm linh tìm cách đánh cắp năng lượng qua việc quan hệ tình dục với các em. Đó chính là lý do thực sự của vấn đề.

Tất nhiên con có thể thỉnh cầu để loại bỏ tệ nạn này. Con có thể dùng các bải thỉnh cho Astrea, hay nhiều bài khác như bài nguyện cũ cho Đại thiên thần Michael, bài nguyện cho Ánh sáng Vô biên, vân vân. Nhưng con có thể thỉnh gọi sự phán xử đối với những kẻ ấu dâm cũng như các loài quỷ dữ cùng các tà thể đứng đằng sau chúng. Và con có thể thỉnh gọi xã hội sớm thức tỉnh để thực sự nhìn nhận tệ nạn này và ra tay làm nhiều hơn để hạn chế tệ nạn.

Một kỹ thuật thiết thực để nâng năng lượng tình dục lên tim

Hỏi: Giê-su yêu dấu, xin thày chỉ con một số kỹ thuật để chuyển hóa năng lượng tình dục. Chẳng hạn, để sử dụng năng lượng tình dục hầu mở tim.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Để mở đầu, ta xin nói là ngược với lời phán của rất nhiều giáo hội kể cả nhiều giáo hội Cơ đốc giáo, không có gì tội lỗi hay sai trái trong sự kết hợp tình dục giữa một người nam và một người nữ. Quan hệ tình dục trong tình yêu tinh khiết không phải là tội lỗi và cũng không làm tha hóa năng lượng của Thượng đế.

Nói như vậy nhưng ta cũng phải nhấn mạnh là trong thế giới ngày nay, thật là khó lòng giữ được cho quan hệ tình dục trong sạch. Đó là vì ngành quảng cáo mà một số tà lực ảnh hưởng và hỗ trợ mạnh mẽ, đã không ngừng tràn ngập nhân loại với những hình ảnh, những khêu gợi và ngay cả những năng lượng tinh vi nhằm gia tăng lòng ham muốn tình dục nơi con người. Hơn nữa, do hệ quả của sự lan tràn này cùng nhiều hình thức lâp trình xã hội khác, nhiều người đã nảy sinh ra thái độ cho rằng mình có quyền có quan hệ tình dục một cách vô giới hạn.    

Vì vậy, nếu con muốn giữ cho quan hệ tình dục của con được trong sạch, hay nếu con không có quan hệ tình dục, con cần phải tự vệ, con cần phải bảo vệ trường năng lượng của con cũng như trí thể và cảm thể của con chống lại chiến dịch công kích liên tục của năng lượng và khêu gợi tình dục.

Vòng đai phòng thủ của con phải bắt đầu với một quyết định. Con phải nhận ra là con đang bị công kich một cách dữ dội, thâm độc, bởi các khêu gợi tình dục, và con phải lấy quyết định là con sẽ không để cho người ta lập trình con bằng cách đó. Do đó, con phải quyết định là con sẽ lánh xa khỏi các khêu gợi đó khi có thể.  

Điều cực kỳ quan trọng là con sử dụng các dụng cụ tâm linh thích hợp để bảo vệ trường năng lượng cá nhân của con (trường năng lượng bao quanh cơ thể con) bằng cách xây dựng một lá chắn làm bằng năng lượng tâm linh cao tần bao quanh. Các chân sư đã có trao cho các con một số kỹ thuật bảo vệ, và có một kỹ thuật khác rất hữu hiệu là bài nguyện tràng hạt của Đại thiên thần Michael.

Khi ta bảo là tự thân tình dục không có gì sai trái, ta không hề muốn nói là người ta có thể có tình dục một cách vô hạn mà không phải trả giá. Sống trong vũ trụ vật chất, con phải quyết định sử dụng tốt nhất các nguồn năng lực luôn luôn giới hạn mà con có. Nếu con dành thời gian cho một hoạt động nào đó, con sẽ không thể dành cùng thời gian đó cho một hoạt động khác. Nếu con bỏ thời gian và sức lực vào tình dục, con sẽ không thể bỏ thời gian và sức lực vào những hoạt động nhằm tinh tấn tâm linh.

Một trong những nhìn nhận quan trọng nhất về tình dục là ham muốn tình dục gồm có hai loại. Cái tâm thấp kém, cũng gọi là tâm phàm phu hay tâm xác thịt, giống như một cái máy tính điều hành cơ thể vật lý. Một trong những chức năng của máy tính xác thịt này là bảo đảm sự sống còn của cơ thể, trong đó có cả việc truyền giống. Vì vậy, tâm xác thịt đã được lập trình để luôn luôn muốn quan hệ tình dục.

Nhiều người đã đầu hàng trước ham muốn này và nguyên cuộc đời của họ chỉ xoay quanh tình dục. Hoặc là họ đang có quan hệ tình dục, hoặc họ đang tìm cách có quan hệ, hoặc họ đang cảm thấy ham muốn quan hệ. Điểm mấu chốt là  ham muốn tình dục của tâm xác thịt là một ham muốn vô độ. Cho dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa thì vẫn không đủ cho nó.

Nếu con nhượng bộ ham muốn vô độ này, con sẽ mở toang cánh cửa trường năng lượng cá nhân của con ra cho những khêu gợi của thế giới bên ngoài. Con cũng sẽ làm mồi cho một số thế lực thấp kém đang tìm cách xâm nhập trường năng lượng của con. Ta đã mô tả chi tiết hơn những tà thể đó trong cuốn sách “Ki-tô sinh ra trong con” (The Christ is Born in You). Những thế lực này có những ham muốn tình dục không bao giờ có thể thỏa mãn và chúng sẽ cố phóng chiếu ham muốn này lên con. Nếu con nhượng bộ, đời con sẽ bị tiêu hao bởi ham muốn tình dục vô hạn.

Loại thứ hai, khi một dòng sống lần đầu tiên giáng xuống vũ trụ vật chất, con có mong muốn trải nghiệm rất nhiều thứ với thề xác vật lý của con, và điều này bao gồm cả tình dục. Tự thân nó, ham muốn này không có gì là sai trái hay tội lỗi. Tuy nhiên, điều thiết yếu cần nhận ra là ham muốn tình dục của dòng sống là một ham muốn khã dĩ thoả mán được. Nói cách khác, một dòng sống thực sự có thể cảm thấy mình đã đủ quan hệ tình dục và quyết định mình muốn dành ra thời gian và sinh lực để theo đuổi những mục đích tâm linh hơn.

Thật là bình thường nếu trong chiều dài cuộc đời, dòng sống dần dần mất đi khao khát tình dục của mình và bắt đầu chuyển trọng tâm vào các sinh hoạt tâm linh. Cũng có nhiều dòng sống đã vượt qua ham muốn tình dục trong những kiếp trước và vì vậy họ sẵn sàng từ bỏ một cách vĩnh viễn.

Điều quan trọng nhất trước khi con tìm cách chuyển hóa năng lượng tình dục là con phải lấy quyết định về thái độ của con trong vấn đề này. Một khi con đã có một quyết định nội tâm cương nghị về thái độ trước tình dục, cũng như con đã quyết định là con có muốn quan hệ hay không, thì con mới có hy vọng thoát được những công kích từ bên ngoài cùng những ham muốn vô hạn của tâm xác thịt.

Một trong những sai lầm to lớn mà quá nhiều người có đạo phạm phải, đặc biệt nhiều vị tu sĩ, nữ tu và linh mục của Giáo hội Công giáo, là họ không bao giờ có một quyết định tiên khởi như thế. Họ chỉ đơn giản suy nghĩ với cái tâm vỏ ngoài của họ là bởi vì giáo hội đã phán rằng tình dục là tội lỗi, cho nên họ sẽ phải cố gắng dồn nén mọi thèm muốn tình dục xuống. Đối với hầu hết mọi người, đây sẽ là một trận chiến cực kỳ cam go và một số sẽ bị đánh bại. Điều này được thể hiện rõ ràng qua các vụ lạm dụng tình dục của các linh mục Công giáo.

Điều ta muốn nói ở đây là trước khi con làm bất cứ gì để sử dụng một kỹ thuật chuyển hóa năng lượng tình dục, con phải nỗ lực đi đến một trạng thái minh mẫn nội tâm về thái độ của con đối với tình dục. Để đạt được minh mẫn nội tâm này, con hãy dùng kỹ thuật hòa điệu nội tâm mà ta đăng tải trên trang hộp dụng cụ tâm linh. Con hãy cố gắng bắt liên lạc với cái ta Ki-tô của con và với chính ta. Đừng sợ đến với ta và hỏi ta về tình dục. Ngược với những gì bao nhiêu tín đồ Cơ đốc có vẻ tin tưởng, thái độ của ta đối với tình dục hoàn toàn tự nhiên và thoải mái. Không có đề tài nào cấm kỵ đối với ta. Con có thể hỏi bất cứ điều gì và ta sẽ trả lời. Cái ta Ki-tô thiêng liêng của con, và chính ta, sẽ vô cùng vui mừng giúp con rọi sáng và giải quyết thái độ của con với tình dục.  

Một khi con đã sáng suốt trong nội tâm, con hãy áp dụng kỹ thuật sau đây để nâng năng lượng tình dục lên mức của trái tim.

Một kỹ thuật

Như đã nêu ở nhiều nơi trên trang web này, khoa học đã chứng minh là mọi thứ đều tạo bằng năng lượng. Trường năng lượng của con có một số trung tâm, thường gọi là luân xa. Khi con biểu hiện năng lượng lý trí hay tình cảm, con biểu hiện qua các trung tâm năng lượng này. Một trong các trung tâm nằm ở gốc cột sống ở cùng độ cao với bộ sinh dục, thường gọi là luân xa gốc trong các giáo lý bí truyền.

Khi con tiếp xúc với những năng lượng khêu gợi từ bên ngoài, năng lượng thường đi vào và làm ô nhiễm luân xa gốc của con. Cũng vậy, các ham muốn của tâm xác thịt cũng có thể làm ô nhiễm luân xa gốc. Điều này có thể khiến cho luân xa gốc bị đổi màu, và đối với nhiều người, luân xa sẽ phát ra ánh sáng màu đỏ hay màu cam. Khi luân xa gốc thuần khiết, nó phát ánh sáng trắng tinh.

Mỗi khi con cảm thấy có kích thích vật lý, kích thích này khởi đầu ở luân xa gốc. Nó khởi sự quay và phát ra năng lượng tình dục tha hóa, khiến cho các bộ phận vật lý bị kích động. Nói cách khác, sự kích động vật lý luôn luôn khởi sự với năng lượng ở luân xa gốc. Nếu con muốn chuyển hóa năng lượng tâm linh, con phải làm cho năng lượng dâng từ mức luân xa gốc lên đến trung tâm năng lượng ở giữa ngực, thường gọi là luân xa tim.  

Kỹ thuật hình dung:

Ngay sau khi con cảm thấy bất kỳ loại kích thích tình dục nào, con hãy lấy quyết định chặn đứng năng lượng chảy vào cơ quan sinh dục.

Tập trung sự chú ý vào luân xa gốc và hình dung nó bắt đầu quay nhanh hơn và ném bật ra mọi năng lượng bất toàn, và nó bắt đầu phát ra ánh sáng trắng tinh. Để giúp con hình dung, con có thể hình dung chính ta, hay Mẹ Mary, đứng trên luân xa gốc. Một số chân sư thăng thiên có liên hệ với một số loại ánh sáng tâm linh, và Mẹ Mary thì dụng công với ánh sáng màu trắng, cũng gọi là Ánh sáng Mẹ, của luân xa gốc. Cho nên Mẹ Mary sẽ vô cùng sẵn sàng giúp con hoán chuyển năng lượng tình dục.

Khi con cảm thấy luân xa gốc phát ra ánh sáng màu trắng, con hãy hình dung ánh sáng trắng này dâng lên tới luân xa tim, được biểu đạt qua luân xa này như là ánh sáng màu hồng của tình thương. Con có thể hình dung luăn xa tim như một đóa bông hồng với 12 cánh hoa. Bông hồng quay tròn, tỏa ra một ánh hồng dịu rất đẹp.

Con hãy chú tâm vào một đấng tâm linh, có thể là Thượng đế, Mẹ Mary, chính ta hoặc một đấng tâm linh nào khác tùy ý con, và con hãy gửi tình yêu mãnh liệt về đấng ấy.

Con hãy hình dung là con bắt liên lạc với vị thày tâm linh và thiết lập một dòng chảy hình số 8 giữa con và vị thày. Con đang nâng năng lượng từ luân xa gốc lên mức của luân xa tim, và con gửi năng lượng này lên vị thày. Vị thày sẽ gửi trả năng lượng lại xuống luân xa tim của con nơi nó sẽ nối kết thành một dòng chảy hình số 8 xuống đến luân xa gốc.

Con hãy hình dung dòng chảy hình số 8 này giữa con và vị thày cho tới khi con cảm thấy mọi năng lượng ô uế đã được thanh lọc.

Một khi con bắt đầu thực tập kỹ thuật này đều đặn, nó sẽ trở thành gần như tự động. Con sẽ có thể thực hiện ở mọi nơi chỉ trong vài giây, và con sẽ ngạc nhiên trước kết quả đạt được. Tuy nhiên, không một kỹ thuật tâm linh nào có thể đi ngược lại quyền tự quyết của con. Do đó, trước tiên con phải làm rõ thái độ của con đối với tình dục và có một quyết định nội tâm cương quyết đối với mối quan hệ của con với tình dục. Đây là một quyết định mà chỉ có con lấy được.

Giáo lý nền tảng về tình dục và đồng tính luyến ái

Hỏi (Kim Michaels): Thưa thày Giê-su, gần đây người ta chú ý rất nhiều đến vấn đề đồng tính luyến ái, kể cả sự kiện một số tiểu bang tại Hoa kỳ có thể công nhận hôn nhân đồng tính, giáo hội Episcopal có thể bầu lên một vị giám mục đồng tính và Tối cao Pháp viện có thể bác bỏ luật chống dâm loạn của tiểu bang Texas. Gần đây, có một tham dự viên đặt câu hỏi là liệu linh hồn của anh đã được Thượng đế sinh tạo ra như một linh hồn đồng tính hay không. Một số khuôn mặt đồng tính nổi tiếng có tuyên bố rằng Thượng đế đã sinh tạo ra họ như là người đồng tính. Thày có nhận xét gì về điều này?   


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đón nhận cơ hội được bình luận về một đề tài đã gây rất nhiều bối rối và chia rẽ trong xã hội. Sự chia rẽ và hiềm khích thật là không cần thiết và chỉ có thề xoa dịu được qua sự hiểu biết đúng đắn. Ta có thể nói với con một cách tuyệt đối chắc chắn là Thượng đế không bao giờ tạo ra linh hồn nào là một linh hồn đồng tính luyến ái. Lý do là vì Thượng đế không tạo ra linh hồn.

Để hiểu được điều này, con cần suy ngẫm những giáo lý của ta về mối quan hệ giữa Hiện diện TA LÀ, cái Ta Biết và cỗ xe 4 lớp hay cỗ xe linh hồn. Một khi con lãnh hội những giáo lý này, con sẽ thấy Hiện diện TA LÀ không chỉ là nam hay là nữ mà mang sẵn cả hai phẩm cách. Cũng vậy, cái Ta Biết không là nam hay nữ bởi vì nó là sự nhận biết thuần khiết, có nghĩa là nó không mang một sự phân biệt nào cả – nó đã được tạo ra để làm cánh cửa mở, làm tấm kính trong suốt cho Hiện diện TA LÀ.

Cho nên toàn bộ vấn đề tình dục của con người chỉ hiện diện ở cấp độ của cỗ xe linh hồn gồm có 4 lớp. Và như ta đã giải thích, cỗ xe này không do Thượng đế tạo ra: nó do cái Ta Biết tạo ra để làm phương tiện biểu đạt qua trung gian một thân xác vật lý. Hơn nữa, đối với hầu hết mọi người, cỗ xe linh hồn được con người tạo ra do họ đã chọn bước vào tâm thức xem mình là một sinh thể tách biệt. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con chỉ có thể xem mình là một sinh thể tách biệt bằng cách bước vào tấm màn của nhị nguyên – có nghĩa là bây giờ con nhìn mọi thứ như là những đối cực nhị nguyên hay những cặp đối lập với nhau.    

Ở đây con cần bén nhậy mà nhận ra một sự phân biệt vi tế. Chúng tôi đã có giảng rằng hầu tạo ra thế giới hình tướng khác biệt, Đấng Sáng tạo nhất nguyên đã tự biểu hiện thành hai thái cực. Chúng tôi đã gọi đó là lực lan ra và lực co lại, nhưng để mọi người có thể nắm bắt khái niệm này dễ dàng hơn, chúng tôi cũng có gọi đó là nam và nữ. Con cần lưu ý, ngôn từ trên địa cầu không phải lúc nào cũng có khả năng bộc lộ đầy đủ những khái niệm tâm linh như thế, có nghĩa là con không thể chuyển bừa bãi khái niệm tình dục của con người vào hai thái cực cơ bản của Thượng đế. Và đương nhiên, Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ hoàn toàn vượt khỏi mọi ý niệm giới tính của con người.       

Con cũng cần lưu ý rằng bản chất của tâm thức nhị nguyên và tự ngã là luôn luôn muốn ép uổng đặc tính của con người vào Thượng đế. Tự ngã sử dụng tâm thức nhị nguyên để xây dựng một tâm ảnh về thế giới, rồi phóng chiếu tâm ảnh đó lên mọi thứ. Tự ngã tìm kiếm sự minh chứng tối hậu cho tâm ảnh của nó bằng cách phóng chiếu tâm ảnh này lên Thượng đế, và nó bảo rằng chính Thượng đế đã tạo ra tâm ảnh đó, hay rằng tâm ảnh không phải là tâm ảnh mà chính là thực tại của Thượng đế. Đây chính là cơ sở của hầu hết mọi tôn giáo cũng như của mọi xung đột giữa các tôn giáo.

Cho nên quả thực là có hai thái cực, nhưng tự ngã và tâm thức nhị nguyên không thể nhìn ra được hai thái cực đó trong dạng thuần khiết. Tâm thức nhị nguyên chỉ làm được một chuyện là làm tha hóa hai phẩm cách đó, nghĩa là thay vì bổ sung cho nhau thì bây giờ cả hai có vẻ chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Rồi tự ngã phóng chiếu hai đối cực tha hóa này lên nguyên bản mà cứ tưởng đó thật sự là bản chất của Thượng đế.    

Vì vậy, đúng là có hai thái cức thiêng liêng, nhưng cả hai đều vượt khỏi và vượt lên trên mọi ý niệm giới tính của con người. Điều này có nghĩa là con không thể hiểu được trọn vẹn tình dục con người trừ khi con cũng hiểu biến cố sa ngã vào tâm thức nhị nguyên, và sự sa ngã này đã tác động sâu đậm như thế nào lên mọi khía cạnh của cuộc sống trên địa cầu.

Như chúng tôi có giảng dạy, ở nguyên thủy, địa cầu do các Elohim tạo ra vốn ở một trạng thái cao hơn, tinh khiết hơn so với bây giờ. Ngay cả vật chất cũng không dày đặc, nghĩa là những thể mà các con gọi là vật thể vật lý cũng không dày đặc như bây giờ. Khái niệm Vườn Eden biểu tượng cho một trạng thái nơi các dòng sống có thể đáp ứng mọi nhu cầu của mình duy qua quyền năng của tâm mình. 

Trong trạng thái nguyên thủy đó, xác thân không có bộ phận sinh dục. Xác thân nguyên thủy được tạo bằng năng lượng cao tần hơn cơ thể vật lý của các con, và xác thân được làm bằng năng lượng tuy là vẫn có thể chất. Vào thời đó không có nhu cầu tạo ra xác thân mới ở cùng một độ rung, bởi vì “vật chất” – hay thể chất – rất thanh nhẹ, và vì vậy chỉ cần vận dụng quyền năng tâm trí là có thể tạo ra xác thân mới. Các dòng sống trong Vườn Eden vẫn khác biệt trong phẩm cách nam và nữ, tuy nhiên điều này vượt ngoài mọi giới tính vật lý.    

Sau khi sa ngã vào nhị nguyên, vật chất đặc lại – theo đúng nghĩa đen như vậy. Cùng lúc, các dòng sống đi vào nhị nguyên cũng đánh mất quyền năng tâm trí đang cung ứng đầy đủ mọi nhu cầu sinh sống cho mình. Sự kiện này được phác họa qua câu chuyện của Adam và Eva bị đuổi ra khỏi Địa đàng, và thay vì được tha hồ hái quả trên cây thì bây giờ họ phải “đổ mồ hôi trán” mà tự nuôi lấy thân mình.      

Quá trình sa ngã này khá phức tạp, cho nên để khỏi lạc đề, ta sẽ nói giản dị là chỉ sau khi bị sa ngã vào nhị nguyên, con người mới phải khoác lấy cái xác thân dày đặc mà ngày nay các con gọi là cơ thể vật lý. Xác thân này có bộ phận sinh dục do quá trình tiến hóa, như thày Maitreya có giải thích tường tận trong sách của thày. Nói cách khác, chỉ do sự sa ngã vào tâm thức nhị nguyên mà cơ thể vật lý mới được tạo ra nơi cõi vật lý, và do đó sự sinh sản vật lý mới trở nên cần thiết.

Sự thay đổi này tác động sâu xa đến tình trạng của cái Ta Biết, bởi vì bây giờ nó phải tạo ra một cỗ xe linh hồn thì nó mới hội nhập được với cơ thể vật lý dày đặc đó. Trước khi sa ngã, hoàn toàn không có nhu cầu một cỗ xe linh hồn mang giới tính nam hay nữ. Nhưng sau cuộc sa ngã thì sự phân biệt thành cơ thể nam hay nữ trở thành yếu tố định đoạt cơ thể con người.    

Như ta có giảng dạy, con có bốn tầng của tâm, bốn thể phàm. Thể cao nhất là thể bản sắc nơi con xác định ý niệm cơ bản về cái ta của con trong thế giới vật chất. Cho nên sau khi sa ngã, sự phân biệt giữa nam và nữ đã nằm sẵn ngay nơi tầng bản sắc. Hệ quả là ngay khi dòng sống bước vào hiện thân vật lý, nó bắt đầu tự nhận diện nó thuộc về giới tính nào rồi. Chẳng hạn, một dòng sống có thể sống nhiều kiếp trong một cơ thể nam giới. Có nghĩa là đối với một dòng sống tương đối “mới”, giới tính sẽ trở thành một thành phần chủ yếu trong bản sắc của nó, và nó thường sẽ tự nhận mình là một linh hồn có giới tính nam hay nữ.

Con hãy ghi nhận một điểm sâu sắc ở đây. Sự kiện cơ thể có sự khác biệt giữa nam và nữ có thể là một điểm gợi ý cho con về tâm thức nhị nguyên. Như ta đã nói, tâm thức nhi nguyên đã làm tha hóa hai thái cực thiêng liêng nguyên thủy, tạo ra sự mất cân bằng. Sự tha hóa này được thể hiện trong cơ thể qua bộ phận sinh dục nam và nữ, và sự sống mới chỉ có thể ra đời khi cả hai cơ thể nam lẫn nữ kết hợp với nhau. Ý nghĩa sâu kín là khi con bước vào tâm thức nhị nguyên, con trở thành một sinh thể không trọn vẹn. Trong nhị nguyên, con sẽ không bao giờ được trọn vẹn, và đó là lý do người ta luôn luôn cảm thấy lẻ loi, thiếu sót. Sự kiện con phải kết hợp với một cơ thể khác phái để tạo ra sự sống mới là biểu tượng cho con thấy con phải tìm được một sự cân bằng thiêng liêng giữa hai phẩm cách nam và nữ hầu đạt đến trạng thái viên mãn tạo sinh ra sự sống mới trong tâm thức Ki-tô. Con cần kết hợp lại hai thứ mà con hiện xem là đối cực và giải quyết sự xung đột giữa cả hai. Cho tới khi nào con còn thiếu cân bằng thì con sẽ không thể thăng vượt đươc cõi vật lý, là nơi con phải làm lụng “đổ mồ hôi trán”.

Mục đích cuộc sống là tăng trưởng tâm thức, dẫn đến những tầng ngày càng cao hơn trong tâm thức Ki-tô, cho đến khi con sẽ thượng thăng vĩnh viễn khỏi địa cầu. Một khía cạnh của tiến trình tăng trưởng này là con phải thăng vượt ý niệm bản sắc thế phàm, tất nhiên kể cả tình dục con người. Ta cũng biết chúng tôi thường hay hiện ra là chân sư thăng thiên nam hay nữ, và nói chung chúng tôi hay chọn biểu hiện những đặc tính chủ yếu là nam hay nữ. Tuy nhiên những đặc tính này của chúng tôi vượt khỏi mọi giới tính nơi trần thế, và điều này có nghĩa là con phải thăng vượt tình dục nhị nguyên của con người thì con mới thăng thiên được.

Nói cách khác, con có thể khoác một cơ thể nam trong kiếp chót của con trước khi thăng thiên, nhưng con sẽ không thăng thiên được nếu con tự xem mình là một linh hồn phái nam. Con sẽ chỉ thăng thiên khi nào con đạt được sự cân bằng hoàn hảo giữa hai phẩm cách thiêng liêng nam và nữ hầu con không đồng hóa với một phẩm cách nào. Vậy thì làm thế nào con sẽ đạt được sự cân bằng này? Phải rồi, bằng cách con thăng vượt mọi khái niệm nhị nguyên thế phàm của nam lẫn nữ.

Khi dòng sống trưởng thành hơn, y sẽ phải tu thân để khắc phục sự đồng hóa nguyên thủy của y với một giới tính. Có nghĩa là một dòng sống đang trưởng thành sẽ sống qua một giai đoạn khi y sẽ luân phiên đầu thai trong cơ thể nam và nữ. Một số dòng sống sẽ thay đổi giới tính mỗi kiếp đầu thai, trong khi đó thì một số khác sẽ đầu thai ba kiếp liền trong một giới tính rồi mới thay đổi. Nhưng con nắm được vấn đề chứ, phải không? Mục đích là để giúp con vượt qua sự tự đồng hóa với tình dục con người hầu con không định nghĩa bản sắc của mình dựa trên giới tính nữa, mà con xem mình là một sinh thể tâm linh vượt khỏi mọi giới tính con người – mặc dù con vẫn tự biểu đạt qua trung gian một cơ thể nam hay nữ.  

Vấn đề là đối với một số dòng sống, việc vượt qua giới tính của mình tương đối dễ dàng, trong khi đối với một số khác, việc này khó hơn nhiều. Thật ra đối với một số dòng sống, đó sẽ là việc cuối cùng họ sẽ phải vượt qua trước khi thăng thiên. Có nghĩa là, chẳng hạn, sẽ có khả năng một dòng sống khoác lấy một cơ thể nam trong khi chưa buông bỏ được sự đồng hóa với một linh hồn nữ. Nói cách khác, họ mang cơ thể nam nhưng vẫn duy trì sự hấp dẫn tình dục đối với cơ thể nam mà họ đem theo từ tiền kiếp. Điều này dẫn đến một số vấn đề mà họ gặp phải trong tình dục, từ lưỡng tính (bisexuality), đổi giới tính (transsexuality) cho đến đồng tính (homosexuality).    

Điều khiến cho toàn bộ cuộc tranh luận về đồng tính luyến ái trở nên rắc rối là vì trong một thời gian rất dài, những người theo tôn giáo đã định nghĩa đồng tính là một tội lỗi. Điều này khiến cho một số dòng sống phải cố bênh vực sự đồng tính của mình, một phần vì họ nhận ra là họ đã sinh ra với khuynh hướng đó, và phần khác là do lòng tự ái không muốn buông bỏ tình trạng này. Nhưng điều ta muốn nói ở đây là để tăng trưởng tâm linh và thăng thiên, con phải vượt lên trên TẤT CẢ mọi loại tình dục của con người. Cho dù con đồng tính hay dị tính (heterosexual), thì con vẫn phải bỏ lại đằng sau cái xu hướng tự nhận diện mình theo giới tính của cơ thể vật lý. Và khi nào con còn tìm cách biện hộ cho tình dục của con trong một cuộc tranh cãi nhị nguyên chống lại người khác – và những người này thì cũng bị kẹt trong nhị nguyên y như con – con sẽ không thể bỏ nó lại đằng sau.  

Con không thể thăng vượt một cái gì mà con cố bênh vực. Con chỉ có thể thăng vượt được một cách mà thôi, là buông bỏ tất cả mọi sự đồng hóa với một điều kiện nào đó. 

Kim Michaels: Đây là một lời giải thích vô cùng thâm sâu về một vấn đế đã khiến cho rất nhiều người đạo Cơ đốc bị bối rối. Vì họ nghĩ rằng linh hồn là do Thượng đế tạo ra, cho nên họ không thể hiểu được tại sao họ lại đồng tính nếu quả thật ngài đã không tạo ra người đồng tính? Điều này cũng giải thích tại sao nhiều người tin rằng họ có thể sinh ra là người đồng tính.

Giê-su: Sự lầm lẫn này bắt nguồn từ sự kiện giáo hội Cơ đốc chính thống cách đây 1500 năm đã quyết định nghiêm cấm và xem là tà giáo ý tưởng bảo rằng linh hồn đã tồn tại từ trước. Cho nên suốt 1500 năm trời, nền văn hóa phương Tây đã bị chi phối bởi một hệ tư tưởng, một hệ tín ngưỡng, bác bỏ luân hồi và đầu thai. Như ta có giải thích ở nhiều nơi trên trang mạng này, đây là một quyết định chính trị sai lầm đã gây ra biết bao nhầm lẫn trong thế giới phương Tây. Sự thật giản dị là nếu con không chấp nhận linh hồn đã tồn tại rất lâu trước khi nó hiển thị trong kiếp đầu thai này, thì sẽ có rất nhiều câu hỏi mà con không thể tìm được lời giải đáp ổn thỏa. Đồng tính luyến ái chỉ là một trong vô số những câu hỏi như thế.

Có một sự hiểu lầm rất phổ biến về đồng tính cũng như về rất nhiều điều kiện khác của con người, cho rằng – trong một nghĩa nào đó – con người là nạn nhân của các điều kiện đó. Quá nhiều người tin rằng điều kiện đó là kết quả của một số yếu tố vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, là điều kiện bị áp đặt từ bên ngoài, và bây giờ mình không có chọn lựa nào khác hơn là phải chung sống với nó.

Đây là một lời ngụy biện. Đây là một lời gian dối. Đây là một trong những lời gian dối hiểm độc nhất có thể tìm thấy trên địa cầu – là lời gian dối rằng con người là nạn nhân của một số thế lực vượt ngoài tầm kiểm soát của mình, thay vì chính mình là tác giả của số phận của mình.   

Một trong những điểm chủ yếu mà ta cố gắng trình bày trên trang mạng này là chính con người do sự chọn lựa của mình đã tạo ra những điều kiện hiện tại. Vì Thượng đế tôn trọng Luật Tự quyết, đơn giản là ngài sẽ không thể thay đổi được tình trạng khốn khổ hiện nay trên địa cầu. Nổi khốn khổ này chỉ có thể được xóa bỏ một khi con người, một cách ý thức và cố tình, khởi sự có được những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ.

Rõ ràng, hầu hết mọi người đều không ý thức được những chọn lựa mà mình đã có trong quá khứ, và do đó họ không thấy được là họ đã tạo ra hoàn cảnh hiện thời của họ. Ta vô cùng thương cảm loài người và ta hiểu rõ tại sao con người lại cảm thấy mình là nạn nhân. Tuy nhiên mục đích của trang web này – cũng như của mọi giáo lý tâm linh chân truyền khác – là để giúp con người bước lên cao hơn trong tâm thức. Sự thật tàn bạo là con không thể tăng triển tâm linh khi nào con vẫn còn xem con là nạn nhân.    

Con chỉ có thể tăng triển bằng cách nhận ra rằng con có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Nhưng sự công nhận này chỉ đến được khi nào con chấp nhận rằng hoàn cảnh của con là kết quả những lựa chọn đã qua bởi cái Ta Biết của con. Chỉ khi nào con chấp nhận điều này thì con mới có quyền năng thay đổi hoàn cảnh của con. Con có thể làm được chuyện này bằng cách lựa chọn tốt hơn, và chìa khóa để chọn lựa tốt hơn là giải quyết những tin tưởng lầm lạc cùng những vết thương tâm lý đã khiến con có những chọn lựa gây giới hạn trong quá khứ.  

Kim Michaels: Như vậy có phải chăng là thày nói rằng nếu không chấp nhận luân hồi và đầu thai thì sẽ không thể giải thích được nguyên nhân của đồng tính?

Giê-su: Đồng tính luyến ái phát xuất từ một lựa chọn của cái Ta Biết. Lựa chọn này đã không xảy ra trong bụng mẹ hay ngay cả trong kiếp này, mà đã xảy ra cách đây rất lâu, và đối với hầu hết mọi dòng sống, lựa chọn đó đã xảy ra ngay sau khi dòng sống nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn luôn luôn là một tiến trình lần hồi. Nó lần hồi đến độ đa số dòng sống không nhận thức được là nó đang diễn ra. Thực tế là một số dòng sống hiện vẫn chưa nhận ra là mình đã rơi vào một trạng thái tâm thức thấp hơn. Tuy nhiên, nhiều dòng sống sẽ trải qua một giây phút sáng ngộ khi họ nhận ra rằng họ đã đánh mất một cái gì đó mà trước kia họ vốn có. Họ có một “kinh nghiệm chấn động” khi họ nhận ra là họ đã bị rớt khỏi trạng thái ân sủng, và vấn đề giờ đây là họ phải cần làm gì để đáp ứng lại trải nghiệm đó.     

Khi một dòng sống nhận ra làm mình đã sa ngã, y có thể phản ứng nhiều cách. Một số dòng sống sẽ nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình và họ cất bước trên con đường tâm linh sẽ dẫn họ tới một trạng thái tâm thức cao hơn nơi họ bắt được liên lạc ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đây chính là con đường tâm linh mà ta mô tả suốt trang mạng này.

Một số dòng sống khác sẽ từ chối nhận trách nhiệm về hoàn cảnh của mình, khiến họ phản ứng lại bằng hai cách, và cả hai cách đều có thể dẫn đến đồng tính luyến ái. Trong cách thứ nhất, một số đổ lỗi cho khía cạnh nữ trong bản chất của mình đã khiến cho mình sa ngã. Một trong những đặc tính của khía cạnh nữ là giúp con thích ứng với nhiều tình huống khác nhau, thế nhưng khi con thích nghi quá trớn, con có thể làm tổn hại đến cá thể thiêng liêng của con, và đây chính là lý do khiến cho nhiều dòng sống rơi vào nhị nguyên. Sự thể này phát triển thành sự thù ghét khía cạnh nữ của Thượng đế, thù ghét Mẹ, và được trình chiếu ra thành sự thù ghét phụ nữ nói chung, hay một hình thức nhẹ hơn là sự cảm nhận tiêu cực về phụ nữ.

Sự thù ghét khía cạnh nữ này khiến cho cỗ xe linh hồn bị vỡ đôi. Linh hồn không thể viên mãn và quân bình được nếu không có sự phân cực đúng đắn giữa hai yếu tố nam và nữ trong bản chất của nó.   

Một số dòng sống dần dần cảm thấy ghê tởm nữ giới và họ thường chọn đầu thai làm người nam giới đồng tính. Một số khác nảy sinh mong muốn trừng phạt hay khuất phục nữ giới, và họ thường đầu thai làm những người nam dị tính có khuynh hướng săn lùng tình dục hoặc đề cao phái nam quá đáng. Trong những trường hợp cùng cực, họ có thể trở thành kẻ hiếp dâm hay thậm chí kẻ giết người hàng loạt. Hoặc đỡ hơn một chút, họ trở thành những kẻ săn lùng tình dục, sử dụng phụ nữ làm nô lệ cho mình – không cứ là để thoả mãn tình dục tức thì mà để trừng phạt phụ nữ. Xuyên qua các thời đại, tệ trạng này đã gây ra không biết bao nhiêu sự lạm đụng đối với phụ nữ.    

Trong cách thứ nhì, một số dòng sống cũng nhận ra rằng chính khía cạnh nữ của họ đã sa ngã, nhưng họ lại đổ lỗi cho khía cạnh nam của họ. Họ cho rằng khía cạnh nam này đáng lý đã phải ngăn chặn được khía cạnh nữ chạy theo thế gian. Và họ trở nên căm thù Cha, hay khía cạnh nam củaThượng đế. Họ đeo đuổi mong muốn trừng phạt khía cạnh nam, và điều này thường biểu hiện qua ý muốn trừng phạt phái nam hay bắt đàn ông phải nhận lỗi.

Một số những dòng sống này chọn đầu thai trong một cơ thể nữ và trở thành đồng tính nữ. Họ biểu lộ lòng căm thù đối với phái nam bằng cách quan hệ tình dục với phái nữ. Nhưng cũng có một số khác chọn đầu thai làm người nữ dị tính, và họ bỏ ra cả đời tìm cách trừng phạt hoặc khuất phục đàn ông. Họ thường sử dụng tình dục hay một số phương thức tâm lý nào khác để khiến cho đàn ông cảm thấy mình thấp kém hơn, hay mình có lỗi. Suốt dòng lịch sử, tệ trạng này đã gây ra rất nhiều thù nghịch giữa hai phái cũng như rất nhiều lạm dụng, chủ yếu là sự lạm dụng tâm lý đối với phái nam.     

Con cần lưu ý là nhiều dòng sống đã cư ngụ trên địa cầu này từ rất lâu đời, cho nên họ đã cơ hội phát triển những nét tâm lý vô cùng phức tạp, qua đó họ đã chôn vùi phản ứng của họ đối với biến cố sa ngã dưới nhiều lớp tin tưởng và vết thương tâm lý. Cho nên khi một người tự xem mình là đồng tính thì điều này cũng có thể mang nhiều yếu tố khác nữa. Và như ta giải thích ở trên, yếu tố thông thường nhất là sự bối rối, lầm lạc của dòng sống đối với bản sắc giới tính của mình, phát xuất từ một bản sắc đã bị đông cứng lại từ nhiều tiền kiếp.   

Nguyên nhân của đồng tính phức tạp hơn mọi điều có thể được trình bày trừ khi viết ra thành nguyên một bộ sách. Cho nên mục đích chính của ta ở đây là chỉ ra cho con thấy rằng cái tiến trình khiến cho một dòng sống tự xem mình là đồng tính đã khởi đầu từ rất lâu trước kia khi y lần đầu tiên phản ứng lại sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.   

Kim Michaels: Vậy có vẻ như đồng tính luyến ái đã không do Thượng đế sinh tạo và do đó không phải là một điều tự nhiên. Thày nghĩ gì khi nhiều người theo Cơ đốc giáo chính thống gán cho đó là một tội lỗi, một chuyện ghê tởm, và họ còn cố khiến cho người đồng tính cảm thấy mình có tội?

Giê-su: Một trong những diễn biến đáng buồn nhất trong 2000 năm qua là sự kiện có quá nhiều giáo hội Cơ đốc đã quên mất – và rời bỏ – một trong những tinh túy trong giáo lý tâm linh của ta, đó là tình thương vô điều kiện. Ta đã chẳng bảo mọi người đạo Ki-tô phải yêu thương kẻ lân cận như chính mình hay sao? Ta đã chẳng khuyên họ hãy đừng phán xét? Vậy thì tại sao nhiều tín hữu Cơ đốc lại phán xét anh chị em của mình và gán cho họ một tội nặng hơn cả mọi tội khác?    

Như ta đã giải thích khắp trang mạng này, Giáo hội Công giáo sơ khai đã không đi đúng chủ ý cùng giáo lý nguyên thủy của ta. Vì lý do chính trị, rất nhiều điểm đã bị loại bỏ khỏi giáo lý nguyên thủy của ta, và vì thế Giáo hội không còn khả năng giải đáp rất nhiều câu hỏi mà các tín hữu đặt ra về cuộc sống tâm linh. Các giáo điều chính thống, tự nhận là không thể sai sót, thật sự đã không đem lại được nhiều câu trả lời cho người tầm đạo. Vì lý đo đó, Giáo hội đã rời xa viễn kiến ban đầu của ta về một giáo hội sẽ đem lại những lời giải xác thực và chân chính cho mọi người. Thay vào đó, Giáo hội chỉ đưa ra được một số giáo điều, rồi lại tìm cách doạ nạt để không ai còn dám đặt ra những câu hỏi mà giáo điều chính thức không có khả năng giải thích.

Dần dà, tình trạng này dẫn đến một không khí sợ hãi đầy mặc cảm tội lỗi trong giáo hội. Hiển nhiên điều này đã có nhiều tác dụng tiêu cực, và trong bối cảnh đó, hậu quả là các giáo hội Cơ đốc đã không có phương cách hữu hiệu nào để giúp đỡ người đồng tính. Thay vào đó, giáo hội chỉ còn cách gắn một cái nhãn tội lỗi tày trời cho họ, rồi tìm cách dùng sợ hãi và mặc cảm tội lỗi để khiến họ phải bỏ đi những hành vì đồng tính vỏ ngoài của mình. Tất nhiên, cách trấn áp như vậy không làm gì để giúp cho người đồng tính giải quyết sự mất cân bằng nội tâm đã gây ra đồng tính.

Như ta trình bày ở trên, vấn đề chủ yếu với đồng tính luyến ái là dòng sống không đạt được sự quân bình đúng đắn, sự phân cực đúng đắn, giữa hai khía cạnh nam và nữ, và như vậy, y tự nhận diện mình dựa trên giới tính của cơ thể vật lý. Đúng là đồng tính là một tình trạng bất thường không được Thượng đế tạo ra, và do đó, việc lợi ích nhất cho dòng sống là cố gắng chữa lành. Tuy nhiên sự chữa lành đích thực chỉ có thể xảy ra một khi có sự hiểu biết, tức là khi dòng sống khởi sự tìm hiểu quá trình đã dẫn đến trạng thái tâm thức hiện tại rồi lấy một quyết định ý thức rằng mình sẽ nhận trách nhiệm về tình trạng đó và có những chọn lựa để mà cải thiện tình trạng.   

Ngược lại với chủ ý nguyên thủy của ta, hầu hết mọi giáo hội Cơ đốc đã không có khả năng đem lại được một sự hiểu biết cao hơn về cuộc sống tâm linh, do đó đã không làm sao giúp chữa lành tín hữu của mình, cho dù là trong vấn đề đồng tính hay bất cứ một vấn đề mất cân bằng nào khác gây đau khổ cho con người – kể cả những khổ đau nơi những người bị mất cân bằng trong tình dục dị tính. Thay vào đó, các giáo hội Cơ đốc đã tung đòn sợ hãi pha trộn với mặc cảm tội lỗi, khiến cho con người phải kìm nén sự mất cân bằng của mình, hay thậm chí phủ nhận cả sự mất cân bằng đó.    

Hãy cho phép ta nói thật rõ như ta vẫn làm suốt trang mạng này: con đường duy nhất dẫn đến cứu rỗi là dòng sống phải đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn, tức là tâm thức Ki-tô. Để đạt được tâm thức này, y phải vượt qua những vết thương tâm lý cùng những tin tưởng sai lầm đã tạo ra vết thương đó ở ban đầu. Công việc này chỉ có thể hoàn thành qua sự hiểu biết ý thức, mà nhờ đó y có thể có những chọn lựa tốt đẹp hơn là trong quá khứ. Sự hiểu biết ý thức này, tiến trình chữa lành ý thức này, không có hy vọng nào xảy ra khi nào y vẫn còn làm ngơ hay phủ nhận những mất cân bằng của mình.

Hàng triệu tín đồ đạo Cơ đốc đã khiến mình tin rằng họ sẽ tự động được cứu rỗi bằng cách gia nhập một hội thánh vỏ ngoài, tin tưởng vào một giáo lý vỏ ngoài và tuân thủ các lề lối của giáo hội. Đây là một lời gian dối. Như ta đã giải thích nhiều lần, không hề có sự cứu rỗi nào xảy ra một cách tự động.  

Thực tế đáng buồn là hàng triệu tín đồ Cơ đốc cũng mang cùng những mất cân bằng giữa khía cạnh nam và nữ y hệt như những người công khai đồng tính luyến ái. Rất nhiều những tín đồ này đã chỉ đơn giản dồn nén hay phủ nhận những mất cân bằng đó. Ta đã nhìn thấy quá nhiều nam tín hữu đạo Cơ đốc lên án kịch liệt sự đồng tính nơi người khác, nhưng chính họ lại không nhận ra sự căm ghét phụ nữ ở nơi họ khiến họ đã lấn át hay thậm chí ngược đãi vợ mình. Họ cho rằng bởi vì họ có một đời sống ngoan đạo bề ngoài thì họ không hề mang tội lỗi. Nhưng sự thật là chính họ cũng mang cùng sự mất quân bình như những người mà họ lên án.   

Ta thấy nhiều phụ nữ đạo Cơ đốc cũng công khai lên án người đồng tính, thế nhưng họ cũng bị mất quân bình khi họ khuynh đảo chồng mình qua mặc cảm tội lỗi hay sự từ chối chiếu cố tình dục. Quả thật đây là một ví dụ của những kẻ không thấy được cái xà trong mắt mình.

Kim Michaels: Còn phe bên kia cuộc tranh luận thì thế nào, chẳng hạn như phong trào đòi quyền cho người đồng tính, hay người tranh đấu để xã hội công nhận đồng tính luyến ái là bình thường, hợp pháp?

Giê-su: Ta đã nỗ lực giảng giải qua sự hiểu biết cao hơn và không sử dụng sợ hãi hay mặc cảm tội lỗi, rằng đồng tính không phải là do Thượng đế tạo ra. Vì vậy, đồng tính không là chuyện tự nhiên, và sẽ thật là đáng tiếc nếu đồng tính trở thành một chuyện bình thường trong xã hội, hay xã hội xem đó là chuyện bình thường.

Sự thật đơn giản, một sự thật mà không một luận lý nào của con người có thể thay đổi được, là dòng sống sẽ được lợi ích nhất nếu y chữa lành sự mất cân bằng đã tạo ra tình trạng đồng tính (cũng như mọi sự mất cân bằng khác).

Việc tranh đấu cho đồng tính luyến ái được công nhận là một lối sống bình thường hay tự nhiên, sẽ không giúp cho dòng sống chữa lành. Nó sẽ chỉ khiến cho y càng trở nên cố định trong lối sống của mình và đi giật lùi trên con đường tâm linh. Ta là một vị thày tâm linh, và ta không tán thành bất kỳ biện pháp nào sẽ ngăn trở bước tiến tâm linh của con người.

Kim Nichaels: Thày nghĩ gì về lời tuyên bố của một số tín hữu Cơ đốc cho rằng đồng tính là một cái tội sẽ bị Thượng đế trừng phạt?

Giê-su: Nếu con đọc kinh Cựu ước, con sẽ tìm thấy trong đó có những nhóm người đã đánh mất sự hiểu biết và nhận thức rõ ràng về các Quy luật của Thượng đế. Trong nhiều trường hợp, Thượng đế đã phải phái xuống một vị tiên tri để đánh thức họ dậy hầu họ nhìn thấy cách cư xử điên rồ của họ, nhưng bởi vì trạng thái tâm thức của con người thời Cựu ước không cao lắm, cho nên vị tiên tri thường phải bảo rằng nếu họ không thay đổi cách sống thì họ sẽ bị Thượng đế trừng phạt.

Như ta có giải thích ở nơi khác, đời sống tâm linh trên hành tinh này đã có tiến bộ, và con người thời nay lẽ ra phải hiểu biết rành mạch hơn về các quy luật tâm linh cũng như vật chất mà Thượng đế đã sử dụng để sinh tạo vũ trụ. Nếu con người phát triển được hiểu biết này thì họ cũng sẽ nhận ra rằng Thượng đế không hề trừng phạt con người. Chính con người tự trừng phạt mình do đã vi phạm luật của ngài. Và con người vi phạm các quy luật này vì họ đã bước xuống một trạng thái tâm thức nhị nguyên nơi họ không còn nhận rõ được các quy luật này nữa. Họ không thấy được là lợi ích lớn nhất cho họ – là chính tư lợi của họ nếu họ sáng suốt – là họ cần tuân thủ các quy luật đó.

Nhưng vì họ đã bước xuống nhị nguyên, họ cứ tưởng rằng họ có thể định đoạt mọi thứ theo cách nhìn tương đối của họ. Họ mất hẳn liên lạc với các quy luật thiêng liêng mà cứ đinh ninh rằng mình sẽ không bị hề hần gì khi mình vi phạm luật của Thượng đế. Khi con người chìm sâu hơn vào trạng thái tâm thức này, họ thường bắt đầu dựng lên một hệ tư tưởng đi ngược lại quy luật Thượng đế, và họ cảm thấy hệ tư tưởng này cũng hữu lý lắm chứ. Nhưng hệ quả cùng cực là khi họ khiến cho xã hội phải chính thức công nhận một hệ tư tưởng không phù hợp với quy luật Thượng đế.   

Con cần lưu ý, chuyện này có thể xảy ra cho bất kỳ nhóm người nào. Chẳng hạn, một quy luật của Thượng đế là luật yêu thương. Như ta trình bày ở trên, nhiều tín hữu Cơ đốc đã quên mất và đi lạc khỏi quy luật này, và vì vậy họ đã dựng lên một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, mặc cảm và xét đoán. Nhưng ở phía bên kia cũng có một nhóm người tuy hiểu được quy luật yêu thương, nhưng lại không hiểu rõ một số quy luật khác, để rồi nhân danh tình thương, họ bắt đầu tin rằng xã hội phải dung thứ hầu hết mọi loại hành vi cư xử.  

Điểm ta muốn nói là đồng tính luyến ái không phải là tự nhiên, và do đó nó không phù hợp với các quy luật củaThượng đế. Hiển nhiên, một xã hội có thể đi ra ngoài quy luật Thượng đế để mà ban hành những đạo luật dân sự vi phạm trực tiếp luật của Thượng đế. Phải, điều này đã từng xảy ra với rất nhiều xã hội trong quá khứ, tuy nhiên ta cần nói rõ với con rằng tất cả mọi xã hội làm như vậy đã đều tự hủy diệt. Con không thể xây dựng một xã hội ổn định và lâu dài trừ khi xã hội đó hòa hợp với quy luật của Thượng đế. Nếu con đi ngược lại thì chắc chắn có ngày con sẽ phải thức tỉnh để đối mặt với một sự thật phũ phàng, và xã hội của con sẽ bắt đầu tự hủy – hoặc từ bên trong, hoặc từ bên ngoài do kẻ ngoại xâm. Đây chính là lý do mà nhiều xã hội chẳng hạn như Đế quốc La Mã, đã phải sụp đổ dưới sức nặng của chính nó khi nó lạm dụng quy luật và năng lượng của Thượng đế.   

Tuy nhiên con cũng cần lưu ý quy luật cơ bản nhất của Thượng đế, là quyền tự quyết. Mọi dòng sống đều bước đi trên con đường trở về với Thượng đế. Họ bước đi bằng cách thực hiện quyền tự quyết của mình, và đối với một số dòng sống, họ đã dùng quyền tự quyết để tự nhận mình là người đồng tính. Như ta đã giải thích, đây là một tình trạng mất quân bình, nhưng hầu hết mọi người khác cũng đều ở trong một tình trạng mất quân bình nào đó. Cho nên ta sẽ không như hầu hết người đạo Cơ đốc định nghĩa đồng tính luyến ái là một tội lỗi – chứ chưa nói đến một tội tày trời.

Một lần nữa, mọi người đều có toàn quyền đi những bước mà họ cần đi để vượt thăng một trạng thái tâm thức nào đó. Nếu một dòng sống cần xem mình là người đồng tính trong một hay vài ba kiếp, thì điều này không có gì tệ hơn hay tốt hơn rất nhiều những sự mất cân bằng khác của con người. Tự ngã luôn luôn định nghĩa những ai khác mình đều là xấu cả, và cho tới khi mình nhìn thấu được và vượt qua xu hướng này thì con người không thể biểu hiện quả vị Ki-tô. Đó là tại sao ta bảo mọi người đừng nên xét đoán dựa trên vẻ ngoài. Đồng tính luyến ái chỉ đơn giản là một vẻ ngoài mà cái Ta Biết đã chọn khoác lên, và rốt cuột thì hầu hết mọi dòng sống cũng sẽ có ngày chọn cởi nó ra.   

Kim Michaels: Vậy thì hình như thày đang nói rằng cả hai bên đều không nắm được sự thật trọn vẹn trong vấn đề này?

Giê-su: Như ta có giải thích trong bài giảng về sự tách biệt giữa tôn giáo và nhà nước, gần như bất kỳ cuộc tranh luận nào cũng bị phân ra làm hai đối cực. Trong nhiều trường hợp, cả hai đối cực đều do các thế lực muốn thao túng xã hội định đoạt. Vấn đề là rất nhiều người tốt lành lại bị rơi vào bẫy của một trong hai đối cực, và điều quan trọng là con cần hiểu tại sao.

Ta muốn nói thật rõ là ta không hề lên án hay xét đoán một ai cho dù cách cư xử bề ngoài hay những tin tưởng của họ có là gì đi nữa. Do đó ta không lên án hay phán xét những ai tham gia vào cuộc tranh luận này, bất kể họ đứng bên phe nào. Nhưng ta cũng thấy rất rõ rằng cả hai bên đều tiếp cận vấn đề này một cách mất quân bình. Sự thể này xảy ra là vì có quá nhiều người không đạt được sự quân bình đúng đắn giữa ba phẩm cách cơ bản của Thượng đế, là quyền năng, minh triết và tình thương.

Ta đã có nói về sự kiện nhiều tín hữu đạo Cơ đốc đi trệch ra ngoài quy luật của tình thương. Điều xảy ra cho nhiều người là họ đã phát triển một sự hiểu biết và một lòng tôn sùng khía cạnh quyền năng của Thượng đế. Họ tôn sùng các quy luật của Thượng đế và họ mong muốn xã hội phải tuân thủ các quy luật này y như cách của họ nhìn xuyên qua giáo lý hiện thời của đạo Cơ đốc. Nhưng tiếc thay, họ không nhận ra là giáo lý này thật thiếu sót, và trong nhiều trường hợp lại còn không phù hợp cả với quy luật của Thượng đế, mà rõ ràng nhất là tình yêu của Thượng đế. Những tín hữu này thấy rõ đồng tính vi phạm luật Thượng đế – một quan điểm đúng đắn – nhưng bởi vì họ không đủ tôn sùng tình yêu Thượng đế, cho nên họ biến quan điểm của họ thành một thái độ phán xét đối với những ai công khai nhìn nhận xu hướng đồng tính của mình.

Ở bên kia cuộc tranh luận, con cũng tìm thấy nhiều người tốt lành đã phát triển một sự hiểu biết sâu xa và sự tôn sùng khía cạnh tình yêu Thượng đế. Họ thực sự hiểu được nhu cầu phải yêu thương người lận cận như chính mình. Thế nhưng vì không đủ lãnh hội khía cạnh quyền năng của Thượng đế, cho nên họ cũng rơi vào cái bẫy là cứ đinh ninh rằng tình thương vô điều kiện có nghĩa là sự chấp nhận bừa bãi mọi cách hành xử trong đời. Họ nghĩ rằng họ phải dung thứ mọi người cho dù người đó đang rõ ràng vi phạm quy luật Thượng đế.

Cách duy nhất có tiềm năng kéo cuộc tranh luận ra khỏi hai đối cực nói trên và đưa trở về điểm thăng bằng là phải có nhiều người hơn phát triển được sự tôn sùng đối với khía cạnh minh triết của Thượng đế. Chính qua khía cạnh này mà con người mới có khả năng phát triển một sự hiểu biết cho phép họ đứng ngoài cả hai cực đoan. Vì thế mới có câu vô cùng quan trọng: “Hãy sử dụng mọi thứ mà con có để được sự hiểu biết” (Proverbs 4:7).

Một cách tiếp cận cân bằng cho vấn đề này là nhìn nhận đồng tính luyến ái là một điều không tự nhiên. Đó là một tình trạng gây ra bởi sự mất quân bình nơi dòng sống. Không một dòng sống nào có thể đạt được hạnh phúc tối hậu và sự viên mãn tâm linh khi còn duy trì sự mất quân bình đó. Vì vậy, một dòng sống chân thành nỗ lực phát triển tâm linh cần phải nhìn nhận là mình có nhu cầu chữa lành sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ của mình. Một khi đã nhìn nhận và chấp nhận, con cũng sẽ nhận ra cùng sự mất quân bình đó nơi nhiều dòng sống khác chứ không cứ chỉ nơi những người đồng tính công khai. Thật ra, nhiều dòng sống không có khuynh hướng đồng tính cũng bị mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ.   

Một khi con hiểu ra điều này, con cũng sẽ hiểu là việc kiến tạo một xã hội nơi đồng tính luyến ái được công nhận hay hợp pháp hóa, không phải là việc đúng đắn. Tuy nhiên con cũng nhận ra rằng một xã hội phán xét, lên án hay phân biệt đối xử đối với các xu hướng tình dục của con người, cũng không đúng đắn. Nói cách khác, một xã hội lý tưởng sẽ không hợp pháp hóa và cũng không phân biệt đối xử người đồng tính.  

Ta thừa biết việc kiến tạo một xã hội như vậy có vẻ rất khó khăn. Nhưng nó khó khăn chỉ vì còn quá nhiều người bị mắc kẹt trong cái nhìn tương đối của tâm thức nhị nguyên. Vì vậy, là một vị thày tâm linh, ta phải chỉ ra cho con thấy rằng giải pháp đích thực duy nhất cho các vấn đề mà nhân loại đang phải đối diện là phải phát triển một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sự sống cũng như về bản chất tâm linh của mỗi con người. Sự hiểu biết cao hơn này là hy vọng duy nhất để xây dựng một thời đại tốt đẹp hơn, và đồng thời cũng ngăn cản nhân loại hủy diệt chính mình.

Kim Michaels: Con hiểu được quan tâm của thày là nhiều người bị rơi kẹt vào hai cực đoan. Tuy nhiên đối với con, dường như vấn đề trong cuộc tranh luận này không chỉ là vấn đề thiếu hiểu biết. Hình như có những người trong cả hai phe đều không sẵn lòng muốn đạt được hiểu biết cao hơn.

Giê-su: Đúng là như vậy. Quả thực là có những người không muốn thay đổi quan điểm cũng như lối sống của mình. Một số người sùng đạo không sẵn lòng thay đổi ý muốn phán xét mọi người theo tiêu chuẩn mà họ đã định ra. Họ tin như đinh đóng cột rằng tiêu chuẩn của họ là tiêu chuẩn của Thượng đế, vì thế cho nên họ hoàn toàn có lý khi phán xét mọi người theo tiêu chuẩn đó. Đây là cùng những người đã đóng đinh ta 2000 năm trước đây. Họ là những kẻ đặt luật không chịu bước vào con đường trung đạo của tâm thức Ki-tô, đồng thời lại muốn ngăn cản người khác bước vào.

Ta có thể nói cho con là có một số dòng sống đã từng giữ những chức vụ quyền lực trong đạo Do thái cách đây 2000 năm và đã sử dụng quyền lực nảy để đóng đinh ta. Ngày nay, cùng những dòng sống đó đang giữ chức vụ quyền lực trong các giáo hội Cơ đốc, và bây giờ họ sử dụng cách diễn giải của họ về giáo lý của ta để biện luận cho thái độ phán xét của họ.

Còn ở phe bên kia cuộc tranh luận, con sẽ tìm thấy những người biết rõ rằng đồng tính vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng họ không hề có ý muốn thay đổi lối sống hay đạt được sự hiểu biết cao hơn. Ngược lại là đằng khác, họ chọn lối sống đống tính như một hành vi thách thức Thượng đế, và họ muốn tiếp tục lối sống đó. Họ còn tuyển mộ thêm người mới vào làm miếng mồi ngon cho cuộc săn lùng tình dục của họ. Rồi họ muốn xã hội phải công nhận là họ được quyền sống công khai như vậy và trưng bày sự đồi trụy tình dục của họ.

Ta dư biết có những người như vậy, và ta dư biết tâm lý cùng phương thức hoạt động của họ. Ta cũng biết rõ ta không có nhiều hy vọng chạm được những người đó qua trang mạng này. Cho nên quan tâm lớn nhất của ta qua trang mạng này là cố chạm được những dòng sống có thể chạm được, là những dòng sống sẵn lòng đi tìm một sự hiểu biết cao hơn.  

Kim Michaels: Luật Tự quyết liên quan thế nào đến điều đó? Ý con muốn nói là, liệu một linh hồn có được quyền do Thượng đế ban cho để chọn lối sống đồng tính luyến ái?

Giê-su: Ta có nói suốt trang mạng này rằng Luật Tự quyết là định luật tối thượng cho vũ trụ vật chất. Thượng đế đã ban quyền tự quyết cho mọi người, và do đó họ có quyền làm bất cứ gì họ muốn, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.

Con chỉ có quyền tự quyết nếu con có thể hoàn toàn tự do chọn lựa bất cứ điều gì mà con có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, Luật Tự quyết không đứng một mình. Luật Tự quyết được ban ra trong thế thái cực với một định luật khác, là Luật Nhân quả. Đây là quy luật mà trong Kinh thánh có nói đến qua câu “người nào gieo gì thì sẽ gặt nấy”. Trong các tôn giáo phương Đông, luật này có tên là luật nghiệp quả.  

Theo Luật Tự quyết, một người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Theo Luật Nhân quả, không một người nào có thể thoát khỏi hậu quả do hành vi của mình gây ra. Như ta vẫn cố giải thích trên trang mạng này, mọi hành vi con làm đều được làm với năng lượng của Thượng đế. Mỗi khi con bước vào một ý tưởng, một cảm xúc hay một hành động, thì con cũng đang thay đổi phẩm chất, con đang tô màu năng lượng thuần khiết đó, con đang thay đổi độ rung của năng lượng Thượng đế.

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình” (Save Yourself), ta có giảng dạy sâu sắc hơn về ý nghĩa thực sự của tội lỗi. Ta khuyên con nên tìm hiểu lời dạy đó. Ở đây, ta sẽ chỉ giải thích ngắn gọn rằng ý nghĩa nguyên thủy của từ “tội lỗi” là “bắn hụt đích, thiếu tiêu chuẩn” (missing the mark). Có nghĩa là nếu con thay đổi năng lượng Thượng đế khiến cho độ rung xuống thấp hơn một mức nào đó, thì năng lượng sẽ “bắn hụt”, sẽ không đủ tiêu chuẩn, và không thể thăng vượt để trở về Thượng đế. Bất kỳ một năng lượng nào đi xuống thấp hơn một độ rung nhất định đều là một “tội lỗi”, cho dù năng lượng đó được tạo ra do đồng tính luyến ái hay bất kỳ loại hành vi nào khác của con người.

Cho nên một dòng sống được quyền – là quyền do Thượng đế ban cho – để thực hành đồng tính luyến ái. Tuy nhiên điều không thể tránh được là y sẽ làm tha hóa năng lượng của Thượng đế và sẽ gặt hái hậu quả, tức là nghiệp quả của hành động của y. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng đồng tính là một việc đúng đắn hay có thể chấp nhận. Đồng tính là một vi phạm quy luật Thượng đế, nhưng bởi vì dòng sống có quyền tự quyết, y vẫn có quyền vi phạm luật Thượng đế và trải nghiệm hậu quả của chọn lựa đó.

Kim Michaels: Vậy xã hội có nên công nhận quyền thực hành đồng tính luyến ái hay không?

Giê-su: Đây là một câu hỏi phức tạp. Trong một xã hội lý tưởng, đồng tính luyến ái sẽ được nhìn nhận là một tình trạng mất cân bằng. Tuy nhiên xã hội đó cũng sẽ có một nền văn hóa cho phép người ta công khai nhìn nhận khuynh hướng đồng tính của mình mà không bị lên án. Song song, những người này cũng sẽ được giúp đỡ để đạt sự hiểu biết và giải quyết khuynh hướng của mình hầu tiến bước trên con đường phát triển tâm linh cá nhân. Họ cũng sẽ nhận được giúp đỡ để hiểu rõ hậu quả của sự chọn lựa lối sống đồng tính, trên phương diện nghiệp quả cũng như tác động tâm lý và tâm linh. Nếu họ từ chối được giúp đỡ thì họ vẫn được phép thực hành đồng tính trong nhà riêng của họ, miễn là họ không vi phạm quyền tự quyết của người khác.   

Một xã hội lý tưởng sẽ không công nhận trong luật pháp quyền thực hành đồng tính. Đó sẽ chỉ là một điều mà người ta có thể làm nơi nhà riêng của mình, và xã hội sẽ không can thiệp vào đời sống riêng tư đó miễn là nó diễn ra trong sự đồng ý của những người trưởng thành. Miễn là nó được giữ trong phạm vi nhà riêng, xã hội sẽ cho phép lối sống đồng tính mà sẽ không lên án cũng như không công nhận trong luật pháp.   

Nhưng tất nhiên, không một quốc gia nào trên thế giới hiện là một xã hội lý tưởng, cho nên không thể có giải đáp dứt khoát nào cho từng quốc gia trong từng thời điểm để giải quyết vấn đề đồng tính. Giải pháp này sẽ được định đoạt trong khuôn khổ nền văn hóa của xã hội đó, bởi vì không một xã hội nào có khả năng nhìn ra ngoài nền văn hóa hiện tại của mình.   

Nhưng quan tâm hàng đầu của ta không phải là định ra cho xã hội phải giải quyết vấn đề đồng tính như thế nào. Quan tâm hàng đầu của ta là giúp cho mọi xã hội đạt đến một nền văn hóa tâm linh, mà qua đó xã hội sẽ dễ dàng giải quyết được mọi vấn đề trong sự hài hòa với quy luật của Thượng đế. Điều mà ta mong muốn được thấy là mọi xã hội đều tiến tới một sự hiểu biết sân sắc hơn về bình diện tâm linh của cuộc sống, rồi sử dụng sự hiểu biết này để ảnh hưởng cách giải quyết bất kỳ vấn đề nào gặp phải.     

Kim Michaels: Xin thày giải thích đồng tính luyến ái làm tha hóa năng lượng như thế nào?

Giê-su: Thượng đế đã tạo ra hai thái cực cơ bản, là hai yếu tố lan ra và co lại, nam và nữ, dương và âm. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hoà, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh này của Thượng đế. Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự biểu đạt của một nguyên lý tâm linh.

Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của chúng ta đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.   

Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ. Ta cũng biết là một số cặp đồng tính có cảm giác là họ đạt được kết hợp như thế, và ta cũng biết là một số cặp đồng tính yêu thương nhau thanh khiết. Nhưng ta phải nói với con rằng tình dục đồng tính không bao giờ có thể tạo được kết hợp tâm linh đích thực. Cho nên điều không thể tránh được là tình dục đồng tính sẽ bắt buộc làm tha hóa năng lượng Thượng đế.

Đương nhiên, nếu hai người đồng tính thương yêu nhau thanh khiết, độ tha hóa sẽ không đến nỗi nghiêm trọng như trong một quan hệ với lý do thấp kém. Tuy vậy, nếu hai người đồng tính thực sự yêu nhau thì có thật là họ cần đến quan hệ tình dục vật lý để biểu lộ tình yêu đó hay không? Quan hệ khác giới có khả năng sử dụng đúng đắn năng lượng của Thượng đế, nhưng quan hệ đồng tính sẽ đơn giản không có tiềm năng đó, tương tự như hai cơ thể cùng phái không thể nào sinh tạo một đứa bé. Sự sáng tạo chỉ có thể xảy ra trong kết hợp hài hoà giữa hai thái cực nam và nữ. Điều này cũng giải thích tại sao một dòng sống không thể đạt được phát triển tâm linh tối đa cho đến khi y cân bằng được hai yếu tố nam và nữ.

Kim Michaels: Một số người cho rằng người đồng tính thường là người tâm linh hơn. Một số cũng nói rằng chỉ khi nào họ nhìn nhận sự đồng tính thì họ mới có thể tinh tấn tâm linh. Một số còn cho rằng nhiều nhà thần bí vĩ đại nhất khắp các thời đại đều là người đồng tính. Thậm chí một số vị thày tâm linh còn bảo rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn, và là một chặng đường cần thiết trên hành trình tâm linh của linh hồn. Xin thày có bình luận gì không?

Giê-su: Nếu con lãnh hội những gì ta đã giải thích ở đầu lời giải đáp này, thì rõ ràng đồng tính không phải là một giai đoạn phải có trên hành trình phát triển tâm linh. Ta cũng biết là có những giáo lý tâm linh tìm cách tôn vinh hay biện minh cho đồng tính. Nhưng đó chỉ là một sự hiểu lầm vô tình họăc là một âm mưu cốt ý để đánh lừa mọi người.

Như ta giải thích ở trên, một dòng sống tân lập thường hiện thân trong những cơ thể cùng giới tính suốt nhiều kiếp sống, và điều này có nghĩa là y sẽ lần hồi tự nhận diện là một dòng sống nam hay nữ. Khi dòng sống già dặn hơn, y có nhu cầu phải vượt qua sự đồng hoá đó, có nghĩa là y sẽ bắt đầu hiện thân trong cả hai loại cơ thể nam và nữ. Cho nên nếu chỉ dựa trên nhận xét này thì quả thực cũng đúng là nhiều người đồng tính là những dòng sống già dặn hơn người bình thường.

Tuy nhiên, điều cũng đúng không kém là một dòng sống không cần phải trở thành đồng tính để thăng vượt sự đồng hóa với giới tính của cơ thể. Thật ra, hầu hết dòng sống đều có thể thực hiện việc này mà không cần trở thành đồng tính. Ta cũng biết là có một số vị thày tâm linh dạy rằng đồng tính luyến ái là điều tự nhiên, hoặc là một giai đoạn cần thiết trên đường phát triển của dòng sống, tuy nhiên đây đơn giản là một lời dạy sai lầm.

Mặc dù thật là không sai khi nói rằng nhiều người đồng tính trưởng thành hơn những kẻ lên án đồng tính, tuy nhiên họ không thật sự trưởng thành trong ý nghĩa là họ vẫn còn mang một sự mất quân bình giữa hai khía cạnh nam và nữ. Thật ra, nếu một người đồng tính thật sự trưởng thành tâm linh, thì người đó sẽ cố gắng thăng vượt mọi tình dục thay vì bênh vực đồng tính. Con cần lưu ý là ta không hề nói rằng người ta không nên cố giúp xã hội vượt qua nạn kỳ thị đồng tính. Tuy nhiên, một dòng sống già dặn tâm linh sẽ nỗ lực đem lại sự khoan dung đối với người đồng tính chứ sẽ không cố tâng bốc đồng tính lên địa vị cao thượng.       

Trong cuốn sách “Hãy tự cứu mình”, chúng tôi có giảng rất chi tiết về lý do một dòng sống thường chọn đầu thai trong những hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Lý do chính là vì những tình huống như vậy có thể bắt buộc y phải đương đầu với một số bế tắc tâm lý. Chỉ bằng cách giải quyết các bế tắc này mà y mới có thể tinh tấn tâm linh. Ta có giải thích là đồng tính luyến ái là một sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ của dòng sống. Một số dòng sống đã đạt đến một điểm khi họ không thể tiến thêm cho tới khi họ giải quyết được sự mất cân bằng này. Do đó, đúng là một số dòng sống sẽ chọn đầu thai làm người đồng tính để tự buộc mình phải giải quyết vấn đề tình dục và sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ. Tuy nhiên, họ làm điều này không phải vì họ tin rằng đồng tính là một hình thức tình dục cao hơn hay tâm linh hơn. Họ làm như vậy giản dị như là một phương cách để giúp mình giải quyết các mối mất cân bằng và nhờ vậy vượt qua mọi ý niệm tình dục con người.

Ta có thể nói thật rõ ràng là trên thiên đàng không có người đồng tính nào cả – mặc dù một số người có vẻ tin như vậy. Con không thể bước lên thiên đàng khi con vẫn còn sự mất cân bằng giữa hai khiá cạnh nam và nữ trong dòng sống của con. Khi nào còn đạt được sự cân bằng đúng đắn, con sẽ vượt thăng mọi ý niệm tình dục phàm thế.

Cho nên cũng đúng là một số người đồng tính là người tâm linh hơn bình thường. Tuy nhiên, họ không là người tâm linh bởi vì họ đồng tính. Họ đã chọn đầu thai làm người đồng tính vì ý chí mãnh liệt muốn tiến bước trên đường tu tâm linh, và họ nhìn ra điều đang ngăn chặn bước tiến của họ là sự mất cân bằng giữa hai khía cạnh nam và nữ.

Điều này cũng đúng cho những nhà thần bí đã bước vào đời như người đồng tính. Con sẽ thấy đa số những nhà thần bí này rốt cuộc đã tiến vượt khỏi mọi vấn đề tình dục. Đơn giản, nhu cầu biểu hiện tình dục vật lý dần dần tan biến và họ khởi sự tập trung toàn bộ sự chú ý vào phương diện tâm linh của cuộc sống.

Và cũng đúng là nếu dòng sống đã đầu thai làm người đồng tính với mục đích dứt khoát chữa lành, thì y sẽ không thể chữa lành bằng cách làm ngơ hay phủ nhận khuynh hướng đồng tính của mình. Chỉ khi nào mình nhìn nhận vấn đề một cách ý thức thì mình mới có hy vọng giải quyết được. Tuy nhiên ta cũng phải đưa ra một lời cảnh báo về điểm này.

Trong thế giới ngày nay, con tìm thấy một số địa hạt, lãnh vực hay nền văn hóa xem đồng tính là một chuyện bình thường hay tự nhiên. Có những thế lực rất hùng hậu đang tìm cách đưa đẩy xã hội công nhận đồng tính là chuyện bình thường, và cho tới nay họ đã xâm nhập sâu rộng vào giới truyền thông. Vấn đề với hoạt động này là những dòng sống đã đầu thai với ý định chữa lành có thể bị lôi kéo vào văn hóa đó. Và họ có thể cho rằng khuynh hướng đồng tính của họ là bình thường và do đó họ nên thực hành đồng tính thay vì cố giải quyết.

Nói cách khác, một nền văn hóa chấp nhận đồng tính một cách thiếu phân biện và thiếu sự hiểu biết về nguyên nhân tâm linh của đồng tính, có rủi ro làm thui chột cơ may của dòng sống đạt được mục tiêu tăng trưởng tâm linh. Y có thể bắt đầu tự nhận mình là một linh hồn đồng tính, rồi từ chối đương đầu với sự mất cân bằng của mình. Nói cách khác, thay vì tăng trưởng tâm linh, dòng sống ngày càng chai cứng hơn trong sự mất cân bằng. Và dưới góc nhìn của một vị thày tâm linh, điều này là điều đáng tiếc hơn cả.

Mặc dù cũng đúng là một số dòng sống sẽ tăng triển tâm linh khi nào đã nhìn nhận một cách ý thức khuynh hướng đồng tính của mình, nhưng thật là không đúng khi bảo rằng y nhất thiết phải hành sự đồng tính. Con hoàn toàn có khả năng giải quyết sự mất cân bằng đã gây ra đồng tính mà không cần đeo đuổi lối sống đồng tính.   

Thật ra, nếu con thật muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con tránh hẳn bước vào một quan hệ đồng tính. Nếu con có quan hệ đồng tính, con sẽ khiến cho năng lượng Thượng đế bị tha hóa, và nó sẽ tạo ra một từ lực – trong nghĩa đen – lôi con ra khỏi sự tăng trưởng tâm linh của con. Việc bước vào một mối quan hệ đồng tính cũng khiến con càng mong muốn bênh vực cách hành xử cuả mình rồi càng lún sâu vào một trạng trái tâm thức mất quân bình.  

Cho nên lời khuyên của ta là nếu con có những khuynh hướng đồng tính, con nên nhìn nhận khuynh hướng này. Tuy nhiên, thay vì tìm cách tự biện minh hay tham gia vào một quan hệ đồng tính, con nên tìm cách giải quyết qua những phương tiện tâm lý và tâm linh.

Có nhiều kỹ thuật tâm lý có thể giúp con giải quyết sự mất cân bằng trong cỗ xe linh hồn. Trong những thập niên qua, nhiều kỹ thuật mới đã được trao truyền nhưng chưa được giới chức năng trong ngành tâm lý chính thống công nhận. Thế nhưng bất cứ ai với tâm mở rộng cũng sẽ tìm được những kỹ thuật sáng giá có khả năng thực sự chữa trị sự mất quân bình tâm linh. Đối với những người thiên về tâm linh, có nhiều kỹ thuật tâm linh có thể trợ giúp họ, chẳng hạn cụ thể là kỹ thuật hoà điệu nội tâm với cái ta Ki-tô của mình.  

Có một nguyên tắc giá trị rộng khắp là nếu con muốn tinh tấn tâm linh tối đa, con phải thăng vượt khuynh hướng của tâm phàm là biện hộ cho những điều bất toàn, mà ngược lại con hãy nương theo chân tâm để nâng mình lên sự toàn vẹn.   

Kim Michaels: Con chắc chắn sẽ có một số người đặt vấn đề là làm thế nào thày có thể dạy về tình thương vô điều kiện mà đồng thời lại có lập trường kiên quyết như vậy chống lại đồng tính luyến ái. Họ sẽ cảm thấy rằng nếu thày yêu thương người đồng tính một cách vô điều kiện thì thày cũng nên thể hiện sự khoan dung đối với hoạt động tình dục của họ.

Giê-su: Tất nhiên là sẽ có những người nghĩ như vậy, và lý do là bởi vì họ bị kẹt trong sự tương đối và những điều kiện của tâm thức nhị nguyên. Kết quả là họ không lãnh hội, không thể nhập được tình thương vô điều kiện.  

Yêu thương vô điều kiện không có nghĩa là chấp nhận mọi điều kiện một cách mù quáng. Ta yêu thương mọi dòng sống trên địa cầu với một tình yêu vô điều kiện. Bởi vì tình yêu của ta vô điều kiện cho nên ta muốn thấy mọi dòng sống đều trở về nhà cùng Thượng đế. Tuy nhiên, bởi vì ta không mắc kẹt trong sự tương đối của tâm nhị nguyên, ta thấy rõ vô số những điều kiện đang ngăn cản dòng sống trở về nhà Thượng đế. Hơn vậy nữa kìa, ta thấy rõ những điều kiện này là mối đe doạ đem lại cái chết cho rất nhiều dòng sống trên trái đất.  

Liệu đó có phải là tình thương vô điều kiện nếu ta cứ đứng dõi nhìn một dòng sống bước tới hủy diệt mà không tìm cách báo động? Ta không nghĩ vậy. Làm thế nào ta có thể báo động dòng sống đó mà không chỉ rõ cho y thấy được những điều kiện sẽ dẫn đến hủy diệt? Làm thế nào ta có thể yêu thương vô điều kiện mà đồng thời lại dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống?

Tình thương vô điều kiện hoàn toàn không nhân nhượng khi tận tụy lo cho sự tăng triển và cứu rỗi của dòng sống. Chỉ có tình thương có điều kiện mới rơi vào một trong hai cực đoan. Cực đoan thứ nhất là định ra một loạt những lề lối vỏ ngoài rồi bảo rằng bất cứ ai không làm đúng lề lối đó không xứng đáng được yêu thương. Và cực đoan thứ hai là dung thứ những điều kiện sẽ hủy diệt dòng sống mà lại gọi sự thông đồng đó là tình yêu đích thực. Cả hai cực đoan này chính là tình thương có điều kiện, và nó khởi lên từ sự tương đối của trạng thái tâm thức thấp kém. Chỉ một tình thương dựa trên nền tảng của phân biện Ki-tô mới có thể vô điều kiện.

Tình yêu vô điều kiện có nghĩa là ta yêu thương dòng sống cho dù y đã có làm gì hay đang có trạng thái tâm thức như thế nào. Nhưng chính vì yêu thương mà ta không muốn nhìn thấy dòng sống cứ mắc kẹt hoài trong trạng thái tâm thức đó. Ta muốn thấy dòng sống tiến bước về phía tâm thức Ki-tô bởi vì đó là cách duy nhất để dòng sống đạt đến cứu rỗi.

Bởi vì ta yêu thương vô điều kiện cho nên ta mới tận tụy một cách không nhân nhượng đối với sự tăng trưởng của dòng sống. Và do đó ta cũng không nhân nhượng đối với bất kỳ điều kiện nào sẽ khiến cho sự phát triển của dòng sống bị thui chột.

Thượng đế không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta không lên án bất kỳ dòng sống nào. Ta hoàn toàn không muốn thấy dòng sống nào xem mình là người có tội, hay có mặc cảm tội lỗi về một số chọn lựa mà y đã có trong quá khứ. Chúng tôi chỉ có một mong muốn là nhìn thấy dòng sống rời khỏi tình trạng tâm thức hiện tại và tiến bước về một thế cân bằng, toàn vẹn.

Chúng tôi không lên án người đồng tính. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng tôi sẽ chấp nhận đồng tính là bình thường hay tự nhiên. Chúng tôi nhìn thấy đó là một trong rất nhiều sự mất cân bằng đang ngăn cản dòng sống trở về nhà. Chúng tôi mong muốn mọi dòng sống giải quyết được những điều mất cân bằng đang ngăn cản họ trở về căn nhà nơi họ sẽ ôm chầm lấy vòng tay yêu thương của Thượng đế Cha/Mẹ.

Chính vì yêu thương vô điều kiện mà ta mới phân biện rõ ràng giữa dòng sống và hiện trạng tình dục nhất thời của dòng sống. Cho nên ta sẽ không bao giờ rơi vào lỗi lầm đồng hóa dòng sống với hiện trạng tình dục của y – cho dù là đồng tính hay dị tính. Yếu tố đã khiến cho dòng sống tự đồng hóa với tình dục của mình là vì y đã đánh mất tình yêu vô điều kiện. Và trong tình yêu có điều kiện của y, dòng sống thường sẽ phóng chiếu ra là tình yêu của ta đang đặt ra một số điều kiện bởi vì tình yêu của ta không ăn khớp với hình ảnh nhị nguyên mà y có về tình yêu. Thế nhưng là một vì thày tâm linh, ta không thể giúp cho mọi người giải thoát bằng cách chiều theo tâm ảnh của họ – ta chỉ có thể giúp họ bằng cách thách thức tâm ảnh của họ.

[Đọc thêm về bài giảng về cách thức thăng hoa năng lượng tình dục]

Giáo lý nền tảng về các khía cạnh tâm linh của tình dục

Hỏi: Giê-su thân yêu, sự sa ngã của loài người đã xảy ra khi giống dân gốc thứ tư hiện thân, tức là luân xa gốc trên sống lưng. Rõ ràng hành tinh này đang gặp rất nhiều vấn đề với tình dục bị lạm dụng. Không hiểu thày có lời khuyên gì về việc khắc phục các năng lượng bị lạm dụng? Làm thế nào con người có thể khắc phục sự nghiện ngập tình dục, đặc biệt là khi nó quá phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Ta đã có nhận xét về vấn đề này khi trả lời một số câu hỏi khác trong phần này, và lời nhận xét của ta vẫn xác đáng. Ta cũng khuyên con nên xem câu trả lời của ta về cách chiến đấu một chứng nghiện kéo dài suốt đời. Tuy nhiên, ta muốn nhân cơ hội này giảng dạy sâu xa hơn về vấn đề tình dục. Ta hiểu rõ đây là một vấn đề cho nhiều người thực sự tâm linh, cho nên hãy để ta cho con một số lời giảng có thể giúp con hiểu sâu hơn.

Như ta đã giải thích ở nơi khác, dòng sống của con được sinh tạo ở ban đầu bởi cha mẹ tâm linh của con. Con được tạo ra là một cá thể của Thượng đế, và cá thể độc đáo của con được biểu lộ và neo trụ nơi cái ta tâm linh của con, hay Hiện diện TA LÀ. Ở một thời điểm nào đó, dòng sống của con đã quyết định là nó muốn trải nghiệm vũ trụ vật chất từ bên trong, và nó muốn đóng góp vào việc đồng sáng tạo khía cạnh này của tạo vật Thượng đế. Sau đó dòng sống của con đã tạo ra một phần nối dài của chính nó, là cái Ta Biết.

Điều quan trọng cần hiểu trong bối cảnh này là cái Ta Biết không bao giờ được tạo ra để lẻ loi một mình. Nó được tạo ra như là một phần nối dài của cái ta tâm linh, và trong nghĩa đen, nó được trù hoạch là một hành tinh quay quanh mặt trời của cái ta tâm linh của con. Tuy nhiên, cái Ta Biết được phú cho một ý niệm hiện hữu cá nhân, và cái Ta Biết có quyền tự quyết. Do đó, cái Ta Biết có thể thay đổi ý niệm bản sắc hầu nó không tự xem mình là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Đây chính là điều đã xảy ra trong tiến trình mà Kinh thánh mô tả là sự Sa ngã của con Người, và như ta có giải thích khắp trang mạng này, đó là sự sa ngã vào một trạng thái tâm thức thấp hơn.

Để dùng một ẩn dụ thiên văn, người ta có thể ví như hành tinh của cái Ta Biết đã ngừng quay trên trục của nó. Con cũng biết là nếu trái đất ngừng quay, có một mặt của trái đất sẽ luôn luôn ở trong bóng tối. Nếu con sống trên mặt đó của hành tinh, rất có thể con sẽ không có ý niệm gì về ánh sáng mặt trời chiếu trên mặt kia. Đây chính là điều đã xảy ra trong nghĩa đen cho hầu hết mọi dòng sống trên địa cầu. Họ đã quên mất mặt trời của cái ta tâm linh.

Tuy nhiên, sự lãng quên này chỉ hiện hữu trên bề mặt của tâm thức. Cái Ta Biết không bao giờ có thể quên được là nó đã được tạo ra như là một phần nối dài của Hiện diện TA LÀ. Cho dù cái Ta Biết có thể xây dựng một ý niệm bản sắc tách biệt, nó không bao giờ có thể cảm thấy trọn vẹn và toàn vẹn trong ý niệm bản sắc đó. Cái Ta biết chỉ có thể cảm thấy trọn vẹn khi nó nối kết với Hiện diện TA LÀ một cách ý thức. Do đó, cho dù cái Ta Biết đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, nơi sâu thẳm nó vẫn khát khao được trọn vẹn, nó vẫn mang một cảm giác sâu sắc là cuộc sống của nó thiếu sót một cái gì.

Khi con hiểu điều này, con nhận ra là hầu hết ý nghĩ, cảm xúc và hành vi mà con người khoác vào trong cuộc sống, đều liên quan đến cảm nhận sâu sắc của cái Ta Biết là mình lẻ loi, hay mình thiếu sót, thiếu trọn vẹn. Nếu con xem bài giảng của ta về các trình độ phát triển tâm linh, con có thể nói là khi con người càng xuống thấp trong tâm thức bao nhiêu thì họ sẽ càng cảm thấy lẻ loi bấy nhiêu. Thế nhưng vì họ không thể, hay không muốn, nhìn nhận đời sống tâm linh của mình, họ không có cách nào giải quyết cảm nhận lẻ loi này. Thay vào đó, họ chỉ có chọn lựa duy nhất là che đậy cảm nhận lẻ loi và thiếu sót đó.   

Và điều này dẫn đến đủ loại niềm tin và hành vi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý của mình khỏi cảm giác trống rỗng sâu sắc bên trong. Nó cũng dẫn đến một số tin tưởng được trù liệu để khiến cho con người cảm thấy mình không cần thay đổi đời mình, rằng mình vẫn yên ổn, tốt đẹp, hay mình không có cách nào thoát ra khỏi cảm giác trống rỗng đó. Những tin tưởng và hành vi như vậy có thể rất nhanh chóng dẫn đến đủ loại những chứng nghiện ngập đủ thứ đồ vật của thế gian, từ chất hóa học cho đến của cải, quyền lực và tình dục.

Nhân tiện cũng cần nói là rất nhiều những chứng nghiện này được khuyến khích, thậm chí được bày ra, bởi một số tín ngưỡng chính thống hay cực chính thống. Những hệ thống tín ngưỡng khép kín như vậy được thiết kế để ngăn cản con người không thể nhận ra và giải quyết sự trống rỗng nội tâm của mình, để giữ cho con người bị kẹt lại trong thế giới vật chất thay vì thăng vượt thế gian và kết hợp lại với cái ta tâm linh của mình.

Bất cứ loại hệ thống tín tưởng hay hệ thống hành xử nào mà đưa con người vào một tình trạng nghiện ngập, dù là về mặt tình cảm hay vật lý, luôn luôn nhận được sự hỗ trợ và củng cố từ các thế lực bóng tối đang tìm cách kiểm soát loài người. Đó là tại sao việc phá bỏ một chứng nghiện thật là một trận chiến sống còn – sống còn tâm linh – của dòng sống. Điều ta cố giải thích ở đây là đối với những ai đã rơi sâu xuống tư duy nhị nguyên, nghiện ngập như vậy chủ yếu là do đã từ chối không chịu đối mặt với nhu cầu tái nối kết cái Ta Biết với Hiện diện TA LÀ. Người đó cố gạt sang một bên nhu cầu cải sửa bản thân một cách đích thực và biến đổi tâm linh.

Khi con người vươn lên những tầng nhận biết cao hơn, họ sẽ bắt đầu nhìn nhận khía cạnh tâm linh của cuộc sống. Họ ý thức hơn là dòng sống của mình không trọn vẹn và cần phải tìm lại trọn vẹn. Kết quả là họ bắt đầu nhận ra là thế gian này không giúp cho mình cảm thấy trọn vẹn. Lần hồi, điều này giúp họ khắc phục sự nghiện ngập đối với những thứ vỏ ngoài, và họ bắt đầu chú tâm hơn vào các nhu cầu tâm linh của dòng sống. Họ không còn cảm thấy phải che đậy cảm nhận lẻ loi nữa, mà cảm được nhu cầu phải thật sự giải quyết nỗi lẻ loi đó. Thế nhưng ở những bước đầu của tiến trình tăng trưởng này, gần như không thể tránh được là dòng sống sẽ lý luận rằng vì mình cảm thấy không trọn vẹn, cho nên mình phải cần đến một thứ gì đó từ ngoại cảnh, từ bên ngoài mình, để trở thành trọn vẹn. Vì vậy, dòng sống sẽ xả thân đi tìm một thứ gì đó màu nhiệm sẽ tự dưng biến mình thành toàn vẹn.

Một trong những tìm kiếm này là đi tìm một người bạn đời toàn hảo, kể cả một người bạn tình toàn hảo. Trong giao phối tình dục, nhiều người trải nghiệm được những thoáng hiện của sự trọn vẹn nội tâm. Đây là một tiến trình tự nhiên, và nếu sử dụng đúng đắn, nó có thể giúp cho dòng sống hàn gắn cảm nhận lẻ loi của mình. Rất tiếc, như ta đã có giải thích trong một bài giảng khác, bất cứ gì trong thế gian này cũng là con dao hai lưỡi. Cho nên điều gì có thể là một dụng cụ giải thoát dòng sống cũng có thể trở thành một cái bẫy cho dòng sống, và điểm này đặc biệt đúng trong vấn đề tình dục.

Vấn đề sẽ xảy ra khi người tầm đạo bắt đầu tin rằng sự kết hợp tình dục là cần thiết cho trải nghiệm trọn vẹn. Nó có thể dẫn tới sự dính mắc tình cảm đối với tình dục, và nó có thể trở thành một bệnh nghiện tâm linh. Ta cũng biết đây là một sự phân biệt tinh tế, nhưng cái mà ta gọi là nghiện ngập vỏ ngoài là một hành vi nhằm che đậy cảm nhận thiếu toàn vẹn của dòng sống. Nói cách khác, nó khiến dòng sống bị tê cóng, mất cảm giác. Còn nghiện ngập tâm linh là khi dòng sống cảm thấy sự toàn vẹn của mình tùy thuộc vào một hoạt động nào đó. Nhân tiện, hoạt động tôn giáo cũng có thể trở thành một loại nghiện ngập tâm linh như thế, nhưng vì chủ đề ở đây là tình dục cho nên ta sẽ không bàn thêm về chuyện này.

Ý ta muốn nói là đối với rất nhiều người thật sự tâm linh, tình dục trở thành một chứng nghiện tâm linh. Họ thực sự bắt đầu tin rằng chìa khóa cho sự trọn vẹn nội tâm là tìm ra người bạn đời toàn hảo, và điều này khiến cho nhiều người suốt đời đi tìm một người phối ngẫu toàn hảo và tình dục toàn hảo. Hầu hết những người này không bị nghiện tình dục theo nghĩa nghiện vật lý. Họ không thật sự nghiện tình dục theo nghĩa truyền thống. Tuy nhiên, họ có ham muốn sâu sắc được cảm thấy trọn vẹn, nối kết, và họ tin tình dục là phương cách – có lẽ phương cách duy nhất – để thực hiện ham muốn này.

Đây là một điểm tinh tế có thể cần chút suy ngẫm. Khi dòng sống tăng trưởng tỉnh giác tâm linh, y sẽ ngày càng nhận biết rõ hơn là mình không trọn vẹn, và y sẽ phát triển ý muốn khắc phục cảm giác này. Nếu y chưa hiểu được hoàn toàn là sự trọn vẹn tối hậu chỉ có thể trải nghiệm trong kết hợp với Hiện diện TA LÀ, thì y có thể tin rằng bí quyết để trọn vẹn là trải nghiệm kết hợp với một phần khác của sự sống, tức là với một người khác.

Hiển nhiên, kết hợp tình dục là một cách mãnh liệt để trải nghiệm hợp nhất với một người khác. Vì dòng sống mong muốn trọn vẹn rất mạnh mẽ, y có thể phát triển mong muốn kết hợp tình dục cũng mạnh mẽ như vậy. Những người như vậy muốn càng nhiều tình dục càng tốt, có khi với nhiều bạn tình khác nhau. Có những người mong muốn kết hợp với sự sống mạnh mẽ đến độ họ muốn kết hợp với bất cứ ai có vẻ hấp dẫn đối với họ. Họ tin rằng tình dục sẽ đưa họ đến gần hơn với trọn vẹn. Nói cách khác, tình dục không được dùng để che đậy hay đánh lạc hướng mong muốn trọn vẹn, mà bây giờ nó được dùng như một công cụ để tạo ra cảm giác trọn vẹn.

Và sau đây là điểm thực sự tinh tế. Ở một số giai đoạn trên đường tu tâm linh, điều này có thể đem lại một số tác dụng hữu ích. Nếu dòng sống tham gia vào tình dục với ý muốn chân chính đạt được trạng thái trọn vẹn, thì tình dục quả là có thể giúp cho y chữa lành. Qua kết hợp tình dục, đặc biệt là trong tình yêu và quan tâm đích thực đối với người bạn tình, dòng sống có thể được chữa lành và vượt qua cảm giác lẻ loi. Y cũng có thể bớt tập trung vào bản sắc nhị nguyên đã được xây dựng sau cuộc sa ngã. Đây thật sự là tiềm năng có được một hôn nhân thành công, qua đó cả vợ lẫn chồng đều đạt đến kết hợp tâm linh cao nhất.

Tuy nhiên khi dòng sống tiến xa hơn trên đường tu tâm linh, sẽ tới một điểm khi y cần thăng vượt cách hiểu và sử dụng tình dục như một công cụ kết hợp. Như ta đã nói, ở những giai đọan đầu tiên của đường tu, gần như không thể tránh khỏi dòng sống sẽ tin là mình cần một điều gì đó từ bên ngoài để trở thành trọn vẹn. Điều này có phần đúng theo nghĩa là dòng sống sẽ chỉ đạt được trọn vẹn qua sự kết hợp với Hiện diện TA LÀ. Ảo tưởng vô cùng tình tế ở đây khiến cho nhiều người thực sự tâm linh bị mắc bẫy là họ tin rằng Thượng đế, hay cái ta tâm linh, nằm ở đâu đó bên ngoài bản thân họ. Ảo tưởng này chính là ảo tưởng khó khắc phục nhất đối với bất kỳ người tầm đạo nào.

Nhiều dòng sống đã tinh tấn rất nhiều trên đường tu tâm linh, nhưng tiếc thay, họ tới một ngưỡng cửa mà nếu không vượt qua thì họ sẽ rất khó lòng bước tiếp. Cách duy nhất để vượt xa hơn ngưỡng cửa này là phải ngừng tìm kiếm cái gì đó bên ngoài chính mình. Con cần khắc phục mọi sự dính mắc, mọi ràng buộc, mọi lệ thuộc vào bất cứ gì mà con nhận thức là ở ngoài con. Con cần nhận ra bí quyết của sự trọn vẹn được tìm thấy bên trong chính con.  

Như ta đã nói ở trên, cái Ta Biết được tạo ra như phần nối dài của cái ta tâm linh. Một phần nối dài của cái ta tâm linh không đứng riêng rẽ, không tách biệt khỏi cái ta tâm linh. Đây là vấn đề của thế giới hình tướng, vì trong thế gian này, con thấy hình tướng khác nhau là tách biệt. Ngay cả ẩn dụ mà ta vừa cho con về cái Ta Biết như một hành tinh quay quanh mặt trời cũng đề cao cái nhìn tách biệt này. Cho nên chúng ta có thể nghĩ đến một mô thức khác hơn, là cái Ta Biết được xem như một con sóng trên đại dương của cái ta tâm linh. Nói cách khác, cái Ta Biết không bị tách rời khỏi cái ta tâm linh y như con sóng không thể tách rời khỏi đại dương.

Điểm cốt yếu ở đây là con không thể đạt tới sự trọn vẹn tối hậu khi nào con còn nghĩ sự trọn vẹn tùy thuộc vào một cái gì bên ngoài chính con. Chìa khóa của trọn vẹn là ngừng xem mình tách biệt khỏi nguồn cội của mình, nghĩa là cả cái ta tâm linh lẫn Thượng đế. Cảm nhận tách biệt chỉ hiện hữu trong tâm con, cho nên nơi duy nhất mà con khắc phục được nó là trong tâm con. Con phải vượt qua ảo tưởng là mình đã từng tách rời khỏi cái ta tâm linh của mình. Con phải nhìn ra chìa khóa để tiếp xúc với cái ta tâm linh, chìa khóa để đạt đến kết hợp với cái ta tâm linh đó, là hướng sự chú tâm vào bên trong chính mình và ngừng hướng nó ra ngoài. Con phải ngừng đi tìm hòn đá giả kim, hay chiếc gậy thần sẽ bỗng nhiên khiến con cảm thấy mình là một với Thượng đế. Hòn đá giả kim không hiện hữu bên ngoài con, nó nằm ngay trong con – đó là cái ta Ki-tô của con.

Cho nên điều ta muốn nói là đối với nhiều người thực sự tâm linh, kết hợp tình dục rốt cuộc có thể trở thành một cái bẫy ngăn cản họ nhìn vào bên trong chính họ, vì sự chú ý của họ luôn hướng về người bạn đời. Nhiều người tâm linh trực nhận một mục đích chính đáng đằng sau ham muốn kết hợp tình dục, và điều này khiến họ rất khó lòng khắc phục ham muốn tình dục. Họ cảm thấy là họ sẽ đánh mất một cái gì đó thật quan trọng nếu họ bỏ hẳn, và điều này tạo ra một xung đột nội tâm khiến cho chuyện khắc phục ham muốn tình dục gần như là vô phương.

Con hãy lưu ý một điểm thiết yếu. Khi nào mà con còn một mâu thuẫn nội tâm về bất cứ khía cạnh nào của đường tu tâm linh, con sẽ không thể bước tới trên đường tu. Con sẽ kẹt lại ở bước đó cho tới khi con giải tỏa mâu thuẫn và đạt được sự rõ ràng bên trong và mục đích nhất quán. Điều này chỉ có thể đạt được qua viễn quan của con mắt đơn thuần trong tâm Ki-tô. Hẳn con có nhớ lời nói của ta là nếu mắt con đơn nhất thì toàn thân con tràn đầy ánh sáng. Một nhà bị phân rẽ lẫn nhau không thể tiến bước trên đường tu.

Để vượt qua bế tắc, con cần đạt tới điểm nhận ra là việc từ bỏ tình dục không phải là một mất mát, vì thay vào đó, con sẽ thu được một cái gì quan trọng và thoả nguyện hơn gấp bội. Con cần xem xét nội tâm và quyết định ưu tiên thực sự của mình là gì. Con mong muốn sự toàn vẹn bên trong của cái Ta Biết đến chừng nào? Con cần quyết định là cho dù tình dục có tuyệt vời đến đâu thì con vẫn muốn một cái gì khác nhiều hơn. Con khao khát một điều gì sâu xa hơn, đó là cảm giác hòa nhập với cái ta tâm linh của mình, và ta có thể cam đoan với con là nó tuyệt diệu và đầy ắp hơn tất cả những gì con có thể trải nghiệm trong tình dục. Con phải ngừng săn đuổi theo hũ vàng ở cuối cầu vồng, và thay vào đó, hướng chú tâm vào bên trong.

Đây là điểm mà ta đã cố giảng trong câu nói thuở trước, là trước tiên con hãy tìm kiếm vương quốc của Thượng đế và sự công chính của ngài, thì sau đó mọi thứ khác sẽ được bồi thêm cho con. Vương quốc Thượng đế chính là tâm thức Ki-tô, mà con sẽ chỉ đạt được qua sự kết hợp với cái ta Ki-tô của con, là vị trung gian giữa cái Ta Biết và Hiện diện TA LÀ. Cái ta Ki-tô nằm bên trong chính con, và bí quyết để giữ liên lạc với cái ta Ki-tô là hướng chú ý của mình vào trong. Khi con bắt được liên lạc với cái ta Ki-tô cùng sự công chính – có nghĩa là sử dụng đúng đắn quyền tự quyết và sự chú ý của mình – thì tất cả mọi thứ khác, có nghĩa là ý thức kết hợp tối thượng với cái ta Ki-tô, sẽ được bồi thêm cho con. Thật sự đó là niềm vui của Thượng đế ban cho con vương quốc của sự hợp nhất tâm linh. Nhưng chìa khóa của vương quốc là ở trong con.

Cho nên điểm cơ bản của bài giảng dài dòng này là cách tối hậu để khắc phục nghiện ngập tình dục là một chiến lược gồm hai mũi dùi:

  • Con hãy sử dụng mọi dụng cụ mà con có để tự giải phóng khỏi các thế lực bên ngoài đang tìm cách đánh bẫy con vào chứng nghiện tình dục, như được mô tả ở nơi khác.
  • Một khi con đã có nỗ lực chân thành để vươn lên khỏi sức kéo hướng hạ của các tà lực và tâm thức tập thể, con hãy nhìn nhận rằng mong muốn kết hợp tình dục của mình khởi lên từ mong muốn toàn vẹn của cái Ta Biết. Nhìn nhận rằng mong muốn đó không thể được thỏa mãn qua kết hợp tình dục, và do đó, con hãy hướng chú ý tìm kiếm sự kết hợp với cái ta Ki-tô, thay vì kết hợp với một người khác.

Sự nghiện ngập tình dục có thể khởi lên từ một mong muốn đích thực, là mong muốn toàn vẹn nội tâm, thế nhưng vì con tìm nó trong tình dục, con sẽ bảo đảm mục tiêu đó sẽ không bao giờ hiện thực. Không một người nào – không một cái gì từ thế gian này – có thể thay thế được cái ta tâm linh của con. Có rất nhiều vật thay thế có thể che đậy cảm giác thiếu trọn vẹn, nhưng không một vật thay thế nào có thể thực sự đem lại cho con sự trọn vẹn. Do đó, con hãy tìm trước tiên vương quốc của Thượng đế.

Con không là một sinh thể tình dục mà một sinh thể tâm linh

Câu hỏi 1: Giê-su thân yêu, con biết không có đề tài nào là cấm đoán và thày sẵn sàng trả lời về bất cứ vấn đề nào,,, cho nên con mới xin hỏi… một số người bảo rằng thủ dâm là một tội lỗi (vì đó là một dạng dục vọng, điều thày gọi là ngoại tình) trong khi có người lại bảo rằng chuyện đó tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng… Con sẽ biết ơn nếu thày có thể cho con biết quan điểm của thày từ góc cạnh một vị thày tâm linh. Vậy thủ dâm có ích lợi, hay ngay cả cần thiết, cho sự tăng triển của dòng sống hay không? Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào để loại bỏ căng thẳng? Con sẽ rất mừng nếu thày vui lòng nhận xét về chủ đề gây tranh cãi này.

Câu hỏi 2: Xin thày giúp chúng con với vấn đề sau đây vì con chưa rõ ràng về một khía cạnh của tình dục là thủ dâm. Con xin có câu hỏi này: Có thật là khi thủ dâm, năng lượng bị làm cho tha hóa hay không? Nếu như con có quan hệ tình dục trong hôn nhân và có quan hệ trong sự yêu thương, con được học là trong trường hợp này, con không làm tha hóa năng lượng. Vậy đâu là sự khác biệt? Xin thày giải thích tại sao một dòng sống lại bị thu hút bởi cách thỏa mãn này đến như vậy? Xin thày cho chúng con một lời dạy cặn kẽ sẽ làm rõ toàn bộ vấn đề này cùng những sáng ngộ để giúp chúng con giải quyết khía cạnh này của cuộc sống.


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Chắc chắn không có câu hỏi nào là cấm kỵ, mặc dù có những người sẽ muốn ta không đề cập đến một số đề tài. Việc không sẵn lòng xem xét một đề tài nào đó thường là do người đó không sẵn sàng xét lại quan điểm của mình về đề tài đó. Trong bài giảng của ta về nguyên nhân tâm linh của đồng tính luyến ái, ta đã có đưa ra lời dạy sau đây:

[bắt đầu trích dẫn] “Thượng đế có một bản chất kép, tức là yếu tố nam và nữ, âm và dương. Mọi sự trong toàn bộ vũ trụ được tạo ra trong sự tương tác hài hòa, sự kết hợp hài hòa, của hai thái cực nam và nữ của Thượng đế. Khi cả hai đến với nhau trong sự kết hợp hài hòa, sự sống mới được tạo ra.

“Mọi thứ trong vũ trụ này đều là biểu hiện của hai khía cạnh đó của Thượng đế. Điều này thấm xuống tới cõi vật chất, và đó là tại sao một dòng sống con người có một khía cạnh nam và một khía cạnh nữ, và tại sao cơ thể con người có nam và nữ.

“Con nhận thấy khi một cơ thể nam và một cơ thể nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự sống mới được sinh tạo. Tuy nhiên nếu hai cơ thể cùng giới tính tìm cách kết hợp tình dục thì không thể tạo ra đời sống mới. Những gì con thấy trong vũ trụ vật chất chỉ đơn giản là sự trải bày của một nguyên lý tâm linh.

“Điều này gắn liền với sự kiện mọi hành động của con đều tô màu năng lượng của Thượng đế. Khi một người nam và một người nữ đến với nhau trong kết hợp tình dục, sự kết hợp này có khả năng tô màu năng lượng Thượng đế trong một sắc thuần khiết, có thể nói là thánh thiện. Do đó, năng lượng do sự kết hợp tình dục tạo ra có khả năng thăng lên trở lại cõi tâm linh. Khi điều này xảy ra, cả hai người đều cảm nhận một kinh nghiệm kết hợp sâu xa, không những giữa hai người với nhau mà vượt ra ngoài dòng sống của họ. Quả thật là họ có thể trải nghiệm một sự kết hợp tâm linh nơi cái ta cao hơn.  

“Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết. Ngược lại là đằng khác, tuyệt đại đa số các quan hệ tình dục đều rơi xuống thấp hơn độ rung cần thiết và làm tha hóa năng lượng Thượng đế. Điều này sẽ không thể tránh được nếu các đương sự có quan hệ chỉ vì muốn thoả mãn các đòi hỏi của cơ thể hay của giác quan vật lý. Nếu thiếu vắng một tình yêu chân thực, thanh khiết cũng như một mong muốn kết hợp tâm linh, quan hệ tình dục gần như chắc chắn sẽ khiến cho năng lượng tha hóa.

“Trong trường hợp quan hệ giữa hai cơ thể cùng giới tính, thì hai thái cực nam và nữ không hiện hữu. Do đó, không có khả năng sự tương tác này sẽ tạo ra kết hợp đích thực giữa hai khía cạnh nam và nữ.” [kết thúc trích dẫn]

Ta nghĩ, điều hiển nhiên trong những lời nói trên cũng áp dụng cho việc thủ dâm. Khi không có hai thái cực nam và nữ, sẽ không có khả năng cho năng lượng tuôn ra có thể được phú cho một rung động cao hơn. Nói cách khác, thủ dâm luôn luôn làm tha hóa năng lượng.

Thêm vào đó ta cũng có nói: “Tuy nhiên, ta cũng phải cảnh báo là không có gì bảo đảm mọi quan hệ khác giới sẽ luôn luôn tạo ra một cảm nhận kết hợp, hoặc nó sẽ giữ cho năng lượng được thuần khiết.” Yếu tố quyết định ở đây là liệu hai đương sự đang cố nhận vào hay là cho ra? Liệu họ có tìm cách thỏa mãn cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên, hay là họ tìm cách thỏa nguyện dòng sống? Liệu họ tìm sự thoả mãn cho phàm ngã hay cho cái ta rộng lớn hơn?

Một dòng sống có thể mong muốn kết hợp tình dục một cách chính đáng. Tuy nhiên, mong muốn này không tập trung vào cơ thể vật lý và không bị kích động bởi tâm nhị nguyên. Đó thực sự là một mong muốn kết hợp với cái gì đó ở ngoài nó, và để trải nghiệm kết hợp này, dòng sống phải nhìn ra ngoài bản thân.

Điều ta muốn nói là mặc dù dòng sống có thể mong muốn kết hợp với một người khác phái, mong muốn này sẽ không biểu đạt qua ham muốn thủ dâm. Do đó, thủ dâm luôn luôn bị kích động bởi cơ thể vật lý và tâm nhị nguyên. Nó luôn luôn là một mong muốn tập trung vào chính mình, tìm thỏa mãn cho chính mình mà không có sự hiến dâng của cái ta. Có thể nói là dòng sống không hề có mong muốn thủ dâm, nghĩa là khi một người cảm thấy mong muốn như vậy, đó là vì dòng sống đã rút đi và tâm ý thức của người đó đã đầu hàng dục vọng của cơ thể và cảm thể.

Trên thế giới có nhiều người gần như sống trọn đời chỉ để đi tìm thỏa mãn cho các ham nuốn thấp kém. Nhưng đối với người bước trên đường tu tâm linh, điều quan trọng là vươn lên trên ham muốn thấp kém đó. Con phải làm im bặt tíếng gọi inh ỏi của ham muốn trần tục và nhị nguyên để con nghe được giọng nói nhỏ nhẹ của mong muốn đích thực của dòng sống.

Hãy để ta nói thật rõ là thủ dâm không cần thiết, và nó không lành mạnh cho sự tăng triển của dòng sống. Vấn đề ở đây là khi con nhượng bộ các ham muốn nhị nguyên, con tự đặt mình trên một cầu tuột, và trọng lực của tâm thức tập thể sẽ không ngừng kéo con tuột xuống thấp hơn. Nhiều người cứ tuột xuống ngày càng sâu hơn trong suốt một kiếp, nhưng con là người tầm đạo tâm linh, con không thể cho phép mình làm điều đó. Cốt lõi của phát triển tâm linh là con đi lên hướng kia, con khắc phục trọng lực của tâm thức tập thể. Tâm thức này vô cùng mạnh mẽ về mặt tình dục, và con người có thể làm gần như bất cứ gì để biện minh cho ham muốn tình dục của mình.

Ý tưởng bảo rằng thủ dâm là “tốt cho sức khỏe và giảm bớt căng thẳng” là một ví dụ điển hình của loại “biện minh” đó khởi lên từ tâm thức tập thể. Cách nó lý luận là bảo rằng vì Thượng đế đã sinh tạo chúng ta với bộ phận sinh dục, thì sẽ chỉ là tự nhiên nếu chúng ta bày tỏ dục tính của mình, và nếu mình không có bạn tình thì thủ dâm là một cách tự nhiên để giải tỏa căng thẳng. Lời gian dối ở đây là sự kiện ham muốn nhị nguyên sẽ không bao giờ chấm dứt, nó giống như một lỗ đen không bao giờ có thể lấp đầy. Cho nên con có thể bỏ ra nguyên một kiếp người để cố thỏa mãn ham muốn nhị nguyên mà vẫn không làm được. Đó là một cuộc tìm cầu vô vọng rốt cuộc sẽ nuốt trọn sự sống của con.

Thật ra thủ dâm có thể giảm căng thẳng một cách nhất thời, nhưng về lâu về dài, nó sẽ chỉ củng cố chính cái ham muốn nhị nguyên đã tạo ra căng thẳng. Nói cách khác, một khi con nhượng bộ ham muốn nhị nguyên, thì con tạo ra một vòng xoáy tự nó bồi thêm sức mạnh sẽ kéo con đi xuống tới mức mà con cho phép nó kéo con xuống. Nếu nỗ lực giảm bớt căng thẳng của con chỉ dẫn đến nhiều căng thẳng hơn thì sự giải tỏa nằm ở đâu? Trên thực tế, nó dẫn đến nghiện ngập thay vì tự do.

Ta cũng biết hầu hết người trẻ đều có thời điểm khi họ bắt đầu khám phá cơ thể của mình, và họ rơi vào thủ dâm. Đây không nhất thiết là một quan tâm lớn của ta, nhưng vấn đề là một khi con bắt đầu trượt xuống cầu tuột, thủ dâm sẽ nhanh chóng trở thành một chứng nghiện. Cơ thể con bắt đầu bảo con là nó không thể sống tiếp mà không có tình dục, và nó làm đời con khốn khổ nếu nó không được thỏa mãn.

Thực tế sinh học là nếu con không ăn, không uống hay không ngủ, cơ thể con sẽ chết. Nhưng con có khả năng sống nguyên một kiếp mà không có quan hệ tình dục. Điều ta muốn nói là tình dục không phải là một nhu cầu sinh tồn, và quả thật con có thể sống mà không có chút nào. Ta chỉ muốn nói là khi con là người tâm đạo tâm linh, con cần nhìn thật rõ là con không được cho phép các ham muốn tình dục khởi lên từ tâm nhị nguyên cai quản đời con. Con cần điều ngự cơ thể và tâm nhị nguyên thay vì để cho chúng điều khiển đời con.

Công việc này bắt đầu với một quyết định cương quyết, và con đã từng có nhiều quyết định có thể giúp con. Chẳng hạn, ta tin tưởng là đối với những ai cởi mở với trang mạng này, việc cưỡng dâm không phải là một cách chính đáng để giảm bớt căng thẳng của ham muốn tình dục. Cho nên con đã từng có những quyết định cương quyết về những cách cư xử mà con không thể chấp nhận để thỏa mãn tình dục. Đơn giản, con chỉ cần thêm thủ dâm vào danh sách đó. Ta không có vấn đề gì với những cặp sống với nhau trong một mối quan hệ cam kết, nơi cả hai người đều thoả mãn ham muốn tình dục của nhau một cách yêu thương và cân bằng. Do đó, ta khuyến khích mọi người hãy quyết định cách đó là cách duy nhất có thể chấp nhận được để toại nguyện ham muốn tình dục của mình.

Hậu quả của quyết định này là nếu con không đang ở trong một mối quan hệ bền chặt thì con sẽ không thể toại nguyện ham muốn tình dục của con, và do đó con cần tìm những cách khác để giải quyết các ham muốn đó – và ta sẽ nhận xét về điểm này trong phần sau. Điểm ta muốn nói ở đây là một khi con lấy được quyết định chắc chắn thì con đã đi được hơn nửa đường. Lý do hầu hết mọi người không ngừng bị quấy rầy bởi cám dỗ tình dục là vì họ chưa lấy quyết định chắc chắn, cho nên thật là quá dễ cho tâm nhị nguyên và tà lực cám dỗ họ. Và một khi ho mở tâm ra cho cám dỗ ấy, áp lực sẽ không ngừng gia tăng cho đến khi họ không thể chịu được nữa. Một cái gì đó bị gẫy, và thường thường đó là ý chí của họ. Con cần tránh đến gần điểm đó, điểm không thể quay trở về.

Điều này dẫn đến môt câu hỏi khác của con: “Nếu thủ dâm không ích lợi cho dòng sống thì làm thế nào loại bỏ căng thẳng?” Cách tốt nhất để đối phó với căng thẳng là không để nó tăng trưởng tới điểm tới hạn – có nghĩa là khi đó, con không thể kiểm soát được nó nữa. Như ta có giải thích khắp trang mạng này, con sống được là vì con nhận được một dòng năng lượng tâm linh từ Hiện diện TA LÀ của con. Năng lượng này, sinh lực này, nhập vào trường năng lượng của con qua Căn phòng Mật thất ở luân xa trái tim. Từ đó nó được phân phối ra các luân xa khác, kể cả trung tâm năng lượng thường gọi là luân xa gốc.    

Dòng chảy tự nhiên của năng lượng là dòng sinh lực dâng lên qua cả bảy luân xa chính, nhưng năng lượng có thể được chuyển hướng tới bất kỳ luân xa nào. Chẳng hạn khi một người có một ham muốn tình dục trụ vào bản thân và cơ thể, một phần sinh lực sẽ được đưa về luân xa gốc. Một ham muốn vị kỷ luôn luôn khiến cho luân xa quay ngược chiều và năng lượng bị giảm độ rung, dẫn đến năng lượng bị tồn đọng trong luân xa. Đó chính là cảm giác kích thích nơi các cơ quan sinh dục, nhưng khi năng lượng tích tụ thêm, cảm giác kích thích biến thành sự căng thẳng, và căng thẳng có thể trở nên rất khó chịu.

Khi năng lượng dồn thêm, luân xa bị đổi màu sắc, và đó là tại sao con thấy nhiều giáo lý tâm linh và Thời mới vẽ hình luân xa gốc màu vàng cam hay đỏ sẫm. Khi luân xa gốc quay đúng chiều và tinh khiết, nó tỏa ra ánh sáng màu trắng.

Là người tầm đạo tâm linh, con cần học cách nhận diện cảm giác khi năng lượng tích tụ trong các luân xa của mình, và đối với luân xa gốc, điều này rất dễ học hỏi vì nó có triệu chứng vật lý. Bước đầu tiên dẫn đến việc kiểm soát trường năng lượng của mình là tránh mọi chuyện có thể dẫn đến kích thích tình dục. Nói cách khác, nếu con là người tầm đạo tâm linh, con không vui thú trong phim ảnh khiêu dâm và con tránh những trò chuyện lộ liễu tình dục. Ta phải nhìn nhận là trong xã hội Tây phương ngày nay, con liên tục bị truyền thông và quảng cáo dội bom với những hình ảnh khiêu dâm lộ liễu, thế nhưng con có thể học cách để cho chúng lướt bay qua mà không ảnh hưởng được con. Đơn giản là con từ chối cho chúng sự chú ý trực tiếp, vì chính sự chú ý của con sẽ phóng đại ham muốn tình dục. Điều ta muốn nói là nếu con muốn tránh bị phỏng thì con không cố tình đổ dầu vào lửa.

Con cũng sẽ đạt được nhiều kết quả bằng cách thỉnh cầu sự bảo vệ tâm linh, và bài chú Đại thiên thần Michael là đề nghị hàng đầu của ta. Con hãy kêu gọi sự bảo vệ cho cảm thể và luân xa gốc của con. Có vô số thế lực bóng tối tìm cách thổi phồng ham muốn tình dục của con để lừa gạt con vào chuyện làm tha hóa năng lượng. Các thế lực này đứng trực tiếp sau lưng toàn bộ ngành công nghiệp tình dục, kể cả ngành làm phim và quảng cáo. Cho nên con cần kiên quyết bảo vệ trường năng lượng của con chống lại mọi xâm phạm của chúng.

Ta cũng khuyên con dùng bài chú để Astrea để cắt con ra khỏi mọi ràng buộc với tà lực và thanh tẩy luân xa gốc của con. Tất nhiên, con cũng có thể dùng các bài thỉnh Mẹ Mary hay ngọn lửa tím để biến hóa mọi năng lượng tha hóa đã sẵn tồn đọng trong luân xa gốc và cảm thể. Có thể con cũng muốn xem lại những bài giảng của ta về cách làm thế nào đương đầu với nghiện ngập, bởi vì đối với nhiều người, ham muốn tình dục đã trở thành một chứng nghiện suốt đời.

Bước kế tiếp là không những con học cách cảm thấy dòng chảy của năng lượng qua các luân xa, mà con cũng học cách kiểm soát dòng năng lượng đó. Đây là một khả năng thiết yếu cho mọi người tâm đạo nghiêm túc, và một lần nữa, năng lượng tình dục là cách tu tập toàn hảo. Con cần học cách ngăn chặn một cách ý thức để không cho sinh lực chảy xuống luân xa gốc và các cơ quan tình dục. Và con cần học cách lật ngược dòng chảy sau khi nó đã bắt đầu chảy sai chiều.

Đối với một người có trực giác, việc trên không khó khăn như nó có vẻ. Nhưng sẽ hữu ích cho hầu hệt mọi người nếu họ sử dụng một kỹ thuật, và ta đã ban truyền một kỹ thuật như vậy ở một nơi khác. Tuy nhiên, con cũng có thể dùng nhiều hình thức của Yoga và Tai Chi cho mục tiêu này.

Hãy để ta kết thúc và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lấy quyết định rõ ràng. Hầu hết mọi người đều lớn lên với một cái nhìn mơ hồ và mâu thuẫn về tình dục. Nếu con có thể giải tỏa phần nào sự bối rối đó – và trong bài này ta đã cho con một số lời dạy có thể giúp con – con có thể đạt tới mức là con lấy quyết định cương quyết mình sẽ biểu lộ tình dục như thế nào. Một khi con nối kết với mong muốn của dòng sống về tình dục, con sẽ có nền tảng tốt đẹp nhất để làm chủ những ham muốn tình dục khởi lên từ cơ thể và cảm thể.

Như luôn luôn, ta khuyến khích con có một thái độ sống tích cực. Đối với nhiều người tâm linh, tình dục đã là một nguồn hổ thẹn, bối rối và nhiều cảm xúc tiêu cực khác, và thường khi điều này ngăn trở phát triển tâm linh. Thay vào đó, con hãy dùng tình dục để phát huy sự tăng trưởng tâm linh và học cách điều khiển năng lượng chảy qua các luân xa. Một khi con điều ngự được các năng lượng đó, con sẽ nhận chân được cái đẹp của cơ thể con người mà không cảm thấy ham muốn tình dục. Nói cách khác, tình dục không còn sai khiến đời con nữa. Cái hướng dẫn đời con là cuộc tìm kiếm tâm linh của con. Con đã quyết định là đối với con, sự tinh tấn tâm linh quan trọng hơn nhiều so với sự thỏa mãn tình dục. Con đã khám phá ra rằng con không phải là một sinh thể tình dục mà là một sinh thể tâm linh.

Tà lực dùng tình dục ngoài hôn nhân như thế nào để đánh cắp năng lượng?

Hỏi: Thày và huynh yêu dấu, tình dục ngoài hôn nhân có hậu quả như thế nào?


Trả lời của chân sư thăng thiên Giê-su qua trung gian Kim Michaels. Đăng ngày 18/11/2012.

Như ta có giải thích ở một nơi khác, hôn nhân là một lời hứa thiêng liêng với sự chứng giám của Thượng đế và do đó cần được coi trọng. Khi con kết hôn, con hứa là mình sẽ chung thủy với người bạn đời của mình, và chỉ với người đó mà thôi – hay ít ra đó là ý nghĩa lời hứa mà con cần hứa. Nếu con có quan hệ tình dục bên ngoài hôn nhân thì rõ ràng con đang bội ước, và do đó con sẽ tạo ra nghiệp quả.

Như ta giải thích trong câu trả lời trước, hầu hết mọi người không hiểu rõ về khía cạnh tâm linh của cuộc sống, kể cả về những điều xảy ra ở mức năng lượng khi con có quan hệ tình dục. Suốt trang mạng này, ta đã giải thích rằng trong mọi việc mà con làm, con đều sử dụng năng lượng, cho nên mọi khía cạnh đời sống cần được hiểu như là một sự trao đổi năng lượng. Ai ai cũng biết là quan hệ tình dục có tiềm năng lây truyền bệnh tật như thế nào, thế nhưng tiềm năng trao truyền năng lượng còn lớn hơn như vậy nữa.  

Khi có quan hệ tình dục, trường năng lượng của cả hai người trở nên hòa quyện với nhau rất chặt chẽ. Ở điểm cực khoái, ánh sáng được phóng ra từ các trung tâm năng lượng trong năng trường của con, đặc biệt là từ trung tâm năng lượng thấp, thường được gọi là luân xa gốc. Con cảm thấy khoái lạc vì luân xa được thiết kế đề truyền năng lượng. Cảm giác thích thú thường khiến cho khả năng trực giác bị cùn nhụt đi, và nó ngăn cản con nhận thấy hai năng trường gắn chặt với nhau đang mở cửa ra để con nhận năng lượng từ người kia, thậm chí nhận cả năng lượng từ bên ngoài. Cảm giác thích thú có thể khiến con đui mù trước những nguy cơ tiềm tàng, hay nó khiến con không muốn thừa nhận những nguy cơ đó.    

Ai ai cũng biết là nếu con có quan hệ tình dục chỉ với một người duy nhất, con sẽ ít khả năng lây nhiễm bệnh tật hơn là khi con quan hệ với nhiều người, và điều tương tự cũng xảy ra đối với năng lượng. Nếu con có quan hệ với nhiều hơn một người, nguy cơ nhận năng lượng ô uế sẽ nhân lên. Đương nhiên khi hai người đều chung thủy với nhau, nguy cơ truyền nhiễm bệnh tật sẽ tối thiểu, và năng lượng ô uế cũng thế. Trong một hôn nhân chung thủy, cả hai người đều có khả năng xây dựng một bức tường năng lượng bao bọc quanh mình, và điều này giúp cho hai vợ chồng có thể có quan hệ mà không tạo sơ hở cho các năng lượng ô nhiễm từ ngoài.    

Tuy nhiên nếu con không giữ được lời hứa của con, có nhiều xác suất con sẽ đem năng lượng ô uế vào hôn nhân, và điều này sẽ phá vỡ vòng đai bảo vệ hôn nhân. Năng lượng đó cũng có thể được truyền sang người phối ngẫu của con, và nếu người đó tin rằng con chung thủy, người đó sẽ không đề phòng và, trong tiềm thức, sẽ mở cửa ra để nhận lấy năng lượng đó. Đây là một sự xâm phạm quyền tự quyết của người phối ngẫu, và khi làm vậy, con sẽ tạo nghiệp. Thêm vào đó, trong tiềm thức, người bạn đời của con sẽ cảm thấy có điều gì không ổn, dẫn đến những hậu họa phức tạp khi lòng tin cậy là nền tảng của mọi quan hệ thành công bị phá vỡ.    

Cũng trong câu trả lời trước, ta có giải thích là hôn nhân có tiềm năng tạo ra sự kết hợp thiêng liêng giữa vợ chồng. Nhưng khi con phá vỡ lòng tin cậy qua một cuộc ngoại tình và cài đặt những năng lượng “ngoại lai”, con tiêu diệt tiềm năng này. Giản dị là con không thể có sự kết hợp cao nhất với hai đối tác cùng một lúc, cho nên rất có thể con sẽ không có kết hợp tối ưu với cả hai người.  

Con cũng nên khôn ngoan nhìn nhận là con đang sống trong một thế giới chất chứa năng lượng ô uế khắp chung quanh. Con hãy hình dung năng trường của con như một quả cầu ánh sáng bảo vệ con khỏi năng lượng ô uế đó. Nếu năng trường con có lỗ hổng, năng lượng chung quanh sẽ được dịp xối vào trong năng trường. Có nhiều loại sinh hoạt có khả năng mở năng trường con ra, đặc biệt là quan hệ tình dục. Điều phải hiển nhiên với con là khi hai năng trường được hòa quyện vào nhau trong hành động tình dục, nó có thể khiến cho con mở cửa ra để tiếp nhận năng lượng từ ngoài, với hệ quả nhiều hay ít tùy theo thái độ và cảm xúc của con khi con có quan hệ.

Khi con quan hệ ngoài hôn nhân, gần như bắt buộc con sẽ có những cảm xúc ô uế – có thể là trong tiềm thức mà con không nhận ra. Con dư biết là con đang vi phạm lời hứa hôn nhân của con, và điều này sẽ mở trường năng lượng của con ra cho năng lượng ô uế. Sẽ tồi tệ hơn nữa nếu con có quan hệ chỉ để thỏa mãn một thèm muốn thể xác, hay vì con đang bực dọc người phối ngẫu và đổ lỗi cho người đó không đáp ứng được nhu cầu của con. Sự thật đơn giản là ngoại tình luôn luôn khiến con trở thành con mồi cho năng lượng ô uế. Gần như ai ai cũng đều biết rõ – ở mức nội tâm – rằng việc bội ước lời hứa hôn nhân là sai trái, cho nên để có thể bội ước, con phải bịt miệng tiếng nói của cái ta Ki-tô của con, và hành động này sẽ vô hiệu hóa sự bảo vệ mà cái ta Ki-tô bình thường cung cấp cho con.       

Tất nhiên, nó sẽ khiến con dễ bị các thế lực bóng tối thao túng. Các tà lực này tìm cách đánh cắp năng lượng tích cực của con, và chúng sẽ cố gắng cài đặt năng lượng tiêu cực vào năng trường của con hầu khuynh loát con thêm nữa. Con cần biết sự thật đơn giản là hầu hết mọi người sẽ không bội ước hôn nhân của mình trừ khi bị tà lực thao túng.

Như ta đã giải thích trong bài giảng về các tầng cõi của vũ trụ, các tà lực hoạt động ráo riết nhất ở mức độ cảm thể con người. Tình cảm con người thường rất linh hoạt và do đó việc thao túng cảm thể là chuyện dễ dàng. Con thấy rõ, giữa cảm thể và thèm khát tình dục, có một sự nối kết rất sâu xa.

Ta có thể cam đoan với con là các tà lực trên hành tinh này sử dụng rất nhiều phương thức để kích động thèm muốn tình dục một cách giả tạo. Điều này được chúng ra tay thực hiện, một cách công khai và ngang nhiên, trong nhiều hình thức quảng cáo cũng như nhiều lãnh vực khác của đời sống. Mục đích của chúng là khuynh loát cho con người luôn luôn thèm khát và không bao giờ no đủ. Trước tiên, tà lực sẽ đưa vào trí thể con niềm tin rằng mình có quyền có quan hệ tình dục và những quan hệ này hoàn toàn không mang hậu quả tiêu cực nào hết. Một khi con tin vào điều này rồi thì thật quá dễ dàng để hướng năng lượng tình dục vào cảm thể của con và tạo ra một ham muốn tình dục vô độ không bao giờ thỏa mãn được.

Ta cũng có giải thích khắp trang mạng này là hầu hết mọi người trên địa cầu đều đã rơi xuống một trạng thái tâm thức thấp hơn, và ở mức đó, mọi thứ đều có vẻ tương đối. Điều này phát sinh ra một loạt những ham muốn nhị nguyên mà bản chất khác hẳn với những mong muốn đích thực của dòng sống. Nói cách khác, dòng sống có thể có mong muốn chính đáng được trải nghiệm sinh hoạt của thế gian, kể cả tình dục. Tuy nhiên, các mong muốn của dòng sống luôn luôn có hạn và do đó có thể được thỏa mãn trọn vẹn, có nghĩa là việc kết hôn và quan hệ tình dục với người phối ngẫu có khả năng đáp ứng hoàn toàn nhu cầu tình dục của dòng sống.  

Nhưng rõ ràng đây không phải là điều mà các tà lực muốn chứng kiến. Chúng không muốn con được thỏa mãn trong hôn nhân vì như vậy chúng sẽ không thể thao túng con. Cho nên chúng sẽ khơi dậy trong cảm thể con những thèm khát nhị nguyên vô độ không thể thỏa mãn. Những thèm khát này, trong nghĩa đen, là những cái hố không đáy, không thể nào đổ đầy. Con có thể hình dung thèm khát nhị nguyên giống như một cơn bão xoáy trong cảm thể đang cuốn hút tất cả vào với nó. Dù cho con có đổ bao nhiêu năng lượng vào bão xoáy, con cũng không bao giờ lấp đầy nó được. Nói cách khác, một khi con cho phép sự thèm khát tình dục tích tụ và bành trướng trong năng trường của con, con sẽ không bao giờ có được cảm giác con đã thỏa mãn. Dù con có quan hệ nhiều đến đâu đi nữa, con vẫn sẽ luôn luôn cảm thấy mình cần nhiều hơn. Nhiều người đã bỏ ra cả đời và sinh lực của mình để chạy đuổi theo trải nghiệm tình dục tuyệt đỉnh.

Tất nhiên, đây chính là điều mà tà lực mong muốn vì bây giờ chúng có thể thao túng con và bòn rút năng lượng của con. Điều ta muốn nói là con bị các tà lực liên tục dội bom với đủ loại kích thích tố nhằm tạo ra cơn bão xoáy tình dục trong cảm thể của con. Con hẳn cũng biết câu nói quen thuộc rằng “tình dục bán hàng rất chạy”, và thật vậy, tình dục được ngành quảng cáo sử dụng một cách thiện nghệ và vô lương tâm để bán sản phẩm đủ mọi loại. Nhưng đằng sau hoạt động kinh doanh là thực tế phức tạp của những tà lực sử dụng sự thèm khát tình dục vô độ để thao túng loài người.

Chính sự thèm khát tình dục vô độ này, một sự thèm khát giả tạo được dựng lên qua sự khuynh loát, khiến cho nhiều người cảm thấy nhu cầu tình dục của mình không được người bạn đời của mình thỏa mãn. Và điều này phát sinh ra ham muốn ngoại tình. Và như ta đã cố giải thích, nếu con nhượng bộ ham muốn này, con sẽ mở cửa ra cho tà lực vào thao túng con, và chúng sẽ không ngừng vắt kiệt năng lượng của con cho tới khi con không còn một giọt, hoặc cho tới khi con quyết định là con đã chán ngấy.     

Đâu là cách hay nhất để con tự bảo vệ khỏi hình thức bóc lột này? Đó là quyết định kiên quyết rằng khi con kết hôn với người bạn đời của con, con đã có một lời hứa thiêng liêng là mình sẽ chung thủy với người đó. Nếu quyết định của con kiên quyết, các tà lực sẽ khó lòng tìm được một lối vào trong tâm thức của con. Quyết định này sẽ thiết lập một vòng đai bảo vệ tâm linh chung quanh hôn nhân của con khiến cho tà lực rất khó lòng thao túng con lẫn người phối ngẫu của con. Và tất nhiên khi con làm vậy, con cũng sẽ gia tăng xác suất cuộc hôn nhân của con sẽ hạnh phúc.

Ta không nói rằng tự thân quyết định chung thủy sẽ đủ để bảo vệ hoàn toàn cho con khỏi tà lực, nhưng đó là một bước vô cùng quan trọng để con thiết lập sự bảo vệ này. Thêm vào đó, con nên sử dụng các kỹ thuật bảo vệ tâm linh, như được đăng tải trong phần dụng cụ tâm linh của trang mạng này. Các bài nguyện tràng hạt của Mẹ Mary cũng có thể được dùng để bảo vệ hôn nhân của con. Trong thế giới ngày nay, con sẽ vô cùng khôn ngoan nếu con xem như mọi khía cạnh đời sống của con đều đang bị các tà lực tấn công, trong đó có hôn nhân của con. Do đó điều thận trọng là con nên kêu gọi sự bảo vệ cho con, người bạn đời của con cùng sự kết hợp thiêng liêng là hôn nhân của con.  

Tất nhiên, dù con có kêu gọi bất kỳ sự bảo vệ tâm linh nào, thì việc ngoại tình sẽ phá vỡ ngay lớp bảo vệ đó. Do đó, ta hết sức khuyến khích con hãy chung thủy với lời hứa của mình. Sẽ thật là đáng tiếc nếu con phá vỡ cuộc hôn nhân chỉ vì một ham muốn tình dục nhị nguyên. Con hãy bảo vệ quyền có mối quan hệ thiêng liêng với người bạn đời của con mà không bị tấn công bởi các thế lực cám dỗ bên ngoài. Con hãy sử dụng các dụng cụ tâm linh để không cho phép các ham muốn tình dục sai khiến đời mình, như ta chỉ dẫn ở đây.