Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Hiện diện Tình thương qua trung gian Kim Michaels, ngày 2 tháng 6 năm 2017. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân một hội nghị tại Hòa Lan.
TA LÀ Hiện diện Tình thương. Các con để ý là khi các con nhận một bài truyền đọc từ một chân sư thăng thiên, thì các vị ấy thường tự giới thiệu mình là: TA LÀ Chân sư Thăng thiên tên. Thày đương nhiên là một Sinh thể trên cõi thăng thiên, nhưng thày chọn không nhận diện mình như một chân sư thăng thiên, vì thày không thăng thiên từ trái đất và ngay cả từ bầu cõi trong đó con đang hiện hữu. Thày thăng thiên từ một bầu cõi trước, và do đó thày giữ một chức vụ trong thứ bậc hoàn vũ cao hơn các vị chân sư thăng thiên đã thuyết giảng cho các con từ trước tới nay.
Thày nói điều này để các con biết vị trí của thày trong thứ bậc hoàn vũ. Điều này giúp con hiểu rằng, trong khuôn khổ điều mà các thày gọi là tiết lộ tuần tự, sẽ có lúc một đợt truyền giáo đặc trưng nào đó, qua đó các chân sư thăng thiên trao truyền ánh sáng xuống trái đất, đã đạt được môt trình độ. Khi đó, các đệ tử của đợt truyền giáo đó đã học hỏi và áp dụng giáo lý tới mức họ có thể tiếp nhận giáo lý từ một tầng của thứ bậc hoàn vũ cao hơn những gì đã được trao truyền trước kia trên trái đất.
Thày tới đây như một sự công nhận là đã có rất nhiều người tiếp thu được giáo lý được truyền dạy trong đợt truyền giáo này về nhị nguyên và bất nhị, về tư duy cuồng đại, về tự ngã, về tình thương, về tình thương vô điều kiện và tình thương có điều kiện. Thày tới đây như một sự công nhận là đã có đủ số người áp dụng những giáo lý này, đã chân thành nhìn vào chính họ, đã nhìn vào những điều kiện mà họ đang có, đã vật lộn với những điều mà tất cả các sinh thể thăng thiên đã trải qua: tức là vật lộn để nhận ra cái gì thật, cái gì không thật, cái gì là tự ngã, cái gì không là tự ngã. Các sinh thể đặt ra các câu hỏi này là điều tự nhiên, nhất là trên một hành tinh tăm tối như trái đất.
7.1. Phản-tình thương là gì?
Vì sao trái đất lại tăm tối như vậy? Ấy, phần lớn là vì trái đất đã bị ảnh hưởng nhiều bởi phản-tình thương. Các con yêu dấu, vậy phản-tình thương là gì? Ta có thể nói là ở đây chúng ta chạm phải giới hạn của trái đất, các giới hạn này do trái đất đã xuống một tầng tâm thức thấp đến độ ngay cả ngôn ngữ cũng đã mang điện từ của nhị nguyên, cũng đã bị thấm đẫm bởi nhị nguyên. Khi con nghe cụm từ “phản-tình thương”, thì con nghĩ nó phải là đối ngược của tình thương.
Lẽ dĩ nhiên, không thể có gì đối ngược với tình thương thật sự. Nó không có đối ngược. Các chân sư thăng thiên đã dạy các con là quan niệm tình thương có đối ngược là một ảo tưởng. Sa nhân đã tạo ra nó vì họ muốn quy định một đối ngược của tình thương và họ gọi đó là phản-tình thương, nhưng “tình thương” là tình thương, là tình thương thật sự. Lẽ dĩ nhiên, khi con quy định một đối ngược, thì con không quy định một đối ngược mà con quy định hai đối ngược. Cái mà đa số con người, đại đa số con người trên trái đất, gọi là tình thương, không phải là Tình thương Thiêng liêng. Nó là đối ngược của phản-tình thương, và cả hai đều do tâm thức nhị nguyên và sa nhân quy định.
Thày tới đây không phải chỉ để trao truyền một giáo lý, mà còn trao truyền một dụng cụ tâm linh và một cách thực tập qua đó thày cống hiến sự trợ giúp của thày cho những ai hướng dẫn thực tập, nghe bài truyền đọc, đọc bài truyền đọc và làm thực tập. Thày sẽ có mặt bên con bất cứ lúc nào con làm những việc này, vì lẽ tự nhiên thày không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Mục đích của bài thực tập là giúp con chuyển hóa tâm mình để con thoát khỏi một vấn đề lớn mà con người gặp phải trên trái đất. Đây là một vấn đề phức tạp, nhưng nó xoay quanh tình thương của Thượng đế Cha.
7.2. Hình ảnh cha của Thượng đế
Nhiều người trong các con đã lớn lên trong một nước Tây phương nơi Thượng đế luôn luôn được mô tả như một người nam, thường là một ông già, thường là một nam nhân đầy giận dữ và phán xét ngồi trên một ngai trên trời, sẵn sàng xử tội con phải vĩnh viễn chịu cực hình trong địa ngục nếu con không vâng lệnh ngài. Con có thể nào thương yêu một vị Thượng đế như vậy với tất cả trái tim, tâm và hồn của mình? Ấy, có người trong phong trào Cơ đốc giáo tuyên bố là con phải thương yêu được Thượng đế đó, và nếu con không thể thương yêu Thượng đế đó, thì ngài có thể đày con xuống địa ngục.
Những người đó không chịu nhìn nhận là hình ảnh Thượng đế mà họ đưa ra không phải là hình ảnh mà Giê-su đã dạy họ. Hình ảnh đó đến từ sa nhân. Họ đã tạo ra hình ảnh một Thượng đế trên trời đầy giận dữ và phán xét như một phương tiện để khiến con người dưới trần gian tuân lệnh họ. Con người sợ bị Thượng đế đầy giận dữ trừng phạt đến độ họ sẵn sàng khuất phục sa nhân đang đầu thai và ngay cả những sa nhân trên ba cõi cao. Đó là lý do vì sao con có một hình ảnh hoàn toàn sai lạc về Thượng đế.
Con yếu dấu, sự thực là gì? Trong bài thỉnh tuyệt vời mà các con vừa đọc [INV05 Bài thỉnh thương yêu chính mình], con có khái niệm Thượng đế Cha và Thượng đế Mẹ. Như các chân sư thăng thiên đã giảng cho các con,Thượng đế Cha là đấng Sáng tạo, là Sinh thể đã tạo ra thế giới hình tướng này. Do đó, vì ngài là đấng Sáng tạo, là sinh thể từ đó toàn thể thế giới hình tướng nảy sinh, ngài là sinh thể đã để một phần Bản thể của ngài vào toàn thể thế giới hình tướng, nên ngài là nguyên lý sinh động theo nghĩa đấng Sáng tạo là vị đã khởi đầu toàn thể thế giới hình tướng. Do đó, khi con áp dụng quan niệm hai cực nam/nữ, là điều mà con người có thể hiểu được trên trái đất, thì Thượng đế Sáng tạo là nguyên lý cha.
7.3. Một cái nhìn thiết thực về Thượng đế
Đấng Sáng tạo có thương yêu con chăng? Ấy, chuyện đầu tiên là con cần nhận ra là đấng Sáng tạo không phải là vị Thượng đế được mô tả trong giáo lý chính thức của Ki-tô giáo, Do thái giáo hay Hồi giáo. Vị ấy cũng thực sự không phải là vị Thượng đế được mô tả trong bất cứ tôn giáo nào khác, kể cả Brahma của Ấn giáo. Tất cả các tôn giáo đều mô tả Thượng đế như một thần linh xa cách. Thượng đế có xa cách không? Có một nơi nào trên cõi cao nhất là nơi Thượng đế ngồi trên một ngai màu trắng và từ trên cao nhìn xuống tạo vật của ngài? Không có đâu, con yêu dấu. Làm sao lại có được? Thày là Hiện diện Tình thương. Thày hiện hữu trong một bầu cõi không những cao hơn trái đất, mà còn cao hơn tất cả mọi sắc thái của vũ trụ vật chất hay bốn cõi của bầu cõi này, là nơi con đang sống. Thày có thể nói với con là dưới mắt thày có một khoảng cách rộng lớn giữa độ rung của trái đất và độ rung của nơi thày ở, hay đúng hơn là bầu cõi nơi thày ở. Từ nơi thày ở cho tới đấng Sáng tạo, thì khoảng cách còn lớn hơn thế nữa.
Thày không muốn cho con cảm giác là đấng Sáng tạo rất xa cách con, nhưng thày muốn cho con một lượng định thiết thực là trái đất có một tâm thức tập thể rất thấp so với độ rung của đấng Sáng tạo. Do đó, nếu ánh sáng của đấng Sáng tạo tập trung thẳng vào trái đất, thì không những là trái đất sẽ nổ tung bởi cường độ của ánh sáng, mà cả vật chất, tức là các nguyên tử và phân tử của mọi thứ trên trái đất, đều bị tiêu hủy vì độ rung của chúng được tức khắc nâng lên. Tất cả những khuôn đúc đã được đặt lên trên Ánh sáng Mẫu-Vật để tạo ra trái đất trong hình thức hiện tại sẽ bị phá tan ngay tức khắc và ánh sáng sẽ được trả tự do.
Như vậy thì con hiểu là đấng Sáng tạo không thể tự biểu hiện trên trái đất. Điều này có nghĩa là con nên lượng định một cách thiết thực là tuyệt đối không có hình ảnh nào mà con có thể tạo ra trên trái đất có thể mô tả đấng Sáng tạo một cách chính xác và thích nghi. Con yêu dấu, đó là lý do vì sao thày nói là không có một nơi nào có đấng Sáng tạo ngồi với một hình tướng có thể nhận diện được. Đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng, do đó hoặc ngài không có hình tướng hoặc ngài có mọi hình tướng. Con có thể thấy nỗi khó khăn khi con mang tâm đường thẳng của trái đất áp dụng vào đấng Sáng tạo.
Con cảm nhận là có cái gì cao hơn trái đất. Con người đã phóng chiếu là phải có một tiến trình tuần tự nào đó, và tiến trình này chấm dứt ở điểm cao nhất, giống như hình ảnh một kim tự tháp. Phải có một điểm, một điểm duy nhất ở trên cao nhất, là nơi đấng Sáng tạo ngồi và từ đó nhìn xuống mọi thứ bên dưới. Thực sự thì đây chỉ là những hình ảnh mà con có thể hiểu được với tư duy đường thẳng đang ngự trị trái đất. Chúng hoàn toàn không dính dáng đến đấng Sáng tạo. Điều thày muốn các con chiêm nghiệm, không những chỉ ngay lúc này mà một cách chung chung, là đấng Sáng tạo không có hình tướng, và tuyệt đối không có hình tướng nào trên trái đất có thể mô tả được đấng Sáng tạo. Không có hình ảnh nào mà con có thể tưởng tượng với tâm thức mà con có trên trái đất có thể mô tả đấng Sáng tạo.
7.4. Đấng Sáng tạo hơn bất cứ mọi hình tướng
Thày cũng muốn các con chiêm nghiệm điều có thể coi là một bí ẩn, là đấng Sáng tạo là nguồn gốc của mọi hình tướng. Khi đấng Sáng tạo tạo ra một hình tướng, thì ngài không trở thành hình tướng đó, nhưng hình tướng được tạo ra từ Bản thể của ngài. Đấng Sáng tạo ở trong hình tướng. Mỗi hình tướng bắt buộc phải có giới hạn vì nó được quy định, và tuy rằng đấng Sáng tạo có thể tạo ra một hình tướng được quy định, nhưng điều này không có nghĩa là Bản thể của đấng Sáng tạo bị giới hạn bởi hình tướng đó. Vì đấng Sáng tạo là tất cả những gì đang là và vì đấng Sáng tạo đã tạo ra mọi chuyện từ Bản thể của ngài, do đó đấng Sáng tạo là hình tướng nhưng cũng hơn hình tướng. Ngài không bị quy định bởi hình tướng, tuy rằng ngài đã quy định hình tướng.
Con yêu dấu, đây chính là nguyên tắc cốt yếu của sự sáng tạo. Con tạo ra một hình tướng. Bản thể của con ở trong hình tướng nhưng bản thể của con không bị gò bó vào hình tướng vì bản thể của con hơn thế. Con yêu dấu, đây cũng là nguyên tắc cốt yếu của sự đồng-sáng tạo khi con là một dòng sống cá biệt được tạo ra từ Bản thể của đấng Sáng tạo. Tuy con không do đấng Sáng tạo trực tiếp tạo ra, nhưng con thuộc một dòng xuất phát từ Tâm Một của đấng Sáng tạo. Đó là lý do vì sao các thày nói là các con đồng-sáng tạo trong bầu cõi đã được đấng Sáng tạo quy định. Tuy con đồng-sáng tạo, nhưng nguyên tắc cũng áp dụng vào sự đồng-sáng tạo của con.
7.5. Con đã sáng tạo cái gì
Con quy định một hình tướng. Để thị hiện nó, con phải phú cho nó một phần bản thể của con. Do dó, con – bản thể của con – ở trong hình tướng nhưng bản thể của con hơn hình tướng. Nó không phải là hình tướng. Nó không bị gò bó vào hình tướng. Con yêu dấu, hình tướng mà con đã tạo ra là gì vậy? Nó có phải là xác thân vật lý của con chăng? Không phải đâu, nó là bốn thể phàm của con; không phải là phần vật lý mà là tâm. Tâm trong cõi bản sắc, tâm trong cõi lý trí, tâm trong cõi cảm xúc, và tâm dính liền với thể vật lý. Đó là tạo vật của con.
Con đã tạo ra nó trong nhiều kiếp sống. Nhiều người trong các con đã ở những nơi khác trái đất, nhưng nhiều người trong các con đã ở trên trái đất trong nhiều kiếp. Con đã tạo ra bốn thể phàm, cỗ xe hồn (soul vehicle), cái ta giúp con sinh hoạt trên trái đất, liên hệ với trái đất. Nó cũng giúp con ở đây mà không bị phát điên, vì đây là một hành tinh có thể khiến các sinh thể bị phát điên.
Thày muốn cho con hình ảnh là con đã tạo cỗ xe phàm của con từ bản thể của con. Bản thể của con ở trong nó, nhưng bản thể của con không phải chỉ là nó. Bản thể của con hơn thế. Con yêu dấu, điều đã xảy ra là với thời gian, và đặc biệt vì hành tinh này tăm tối, con đã bị sa nhân lừa đảo và thao túng.
Thày muốn cho con hình ảnh là khi con xuống đầu thai lần đầu tiên trên trái đất, toàn bộ bản thể của con không đổ dồn vào bốn thể phàm của con. Điều thày nói ở đây không áp dụng cho các dòng sống đã được tạo ra từ sơ thủy để đầu thai trên trái đất. Thày đặc biệt nói tới những dòng sống đã tới trái đất sau khi trái đất rơi vào nhị nguyên. Những dòng sống ở trên trái đất lúc đó đã trở nên đồng hóa với bốn thể phàm của họ. Hầu hết các con đã tới đây với cái mà ta có thể gọi là một nhiệm vụ cứu nguy, trong đó con tình nguyện tới đây để nâng trái đất lên.
Khi con tới đây, con tạo ra từ bản thể của con một cỗ xe là bốn thể phàm của con. Ta có thể nói là bản thể của con lúc đó có một lượng tâm thức, lượng này tùy thuộc các kinh nghiệm mà con có. Điều mà thày nói ở đây không phải là một khái niệm tuyệt đối; nó phần nào là một khái niệm giả tạo. Thày nói ra điều này để giúp con hiểu là khi con xuống trái đất lần đầu, con yêu dấu, con chỉ đầu tư một phần nhỏ của lượng tâm thức của bản thể của con vào việc tạo ra bốn thể phàm. Con phải đầu tư một phần của bản thể của con vào việc tạo dựng cỗ xe hồn vì con không thể tạo ra bất cứ gì mà không tạo từ bản thể của mình, và do đó con cần đầu tư một phần bản thể của mình trong hình tướng mà con tạo ra.
Khi một phần tương đối nhỏ của bản thể của con được đầu tư vào bốn thể phàm, thì con có thể dễ dàng nhận ra là con không phải là bốn thể phàm của mình. Con hơn bốn thể phàm của mình, và do đó con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với chúng. Con không hoàn toàn nhập vào việc trải nghiệm và coi trọng mọi chuyện xảy ra với bốn thể phàm, mọi chuyện xảy ra trên trái đất. Con ở trong thế gian, nhưng con không thuộc về thế gian. Con biết con ở đây và con biết là sa nhân không thể kiểm soát được con. Họ không thể tiêu diệt con. Con không thể bị tiêu diệt bởi bất cứ điều gì trên trái đất. Con biết sự kiện này.
7.6. Chấn thương nhập đời hoàn vũ
Khi con trải qua điều mà Mẹ Mary đã goi là chấn thương nhập đời hoàn vũ (cosmic birth trauma) thì con bị một cú sốc lớn, vì sa nhân đã hành hạ con một cách quá khắc nghiệt, và để đói phó với cú sốc đó, con đã phải tạo ra bốn thể phàm phức tạp hơn. Con đã phải tạo ra một số cấu trúc trong thể bản sắc của con. Con đã phải tạo ra một số cấu trúc trong thể lý trí và thể xúc cảm của con. Điều đó cũng đã ảnh hưởng cách con liên hệ với thân thể vật lý, và đã khiến con, trong các kiếp sống kế tiếp, thấy nhu cầu tạo ra một thân thể vật lý dày đặc hơn để có thể chịu đựng các năng lượng trên trái đất. Sau chấn thương nhập đời đó, con bắt đầu tạo ra một cỗ xe hồn phức tạp hơn để phản ứng lại những điều mà con phải trải qua trên trái đất.
Con yêu dấu, không ai chê trách con cả. Các thày hiểu đó là một phản ứng không thể tránh được trước những gì con phải trải qua. Điều thày muốn chỉ cho con thấy là để tạo ra cỗ xe hồn phức tạp đó, con đã phải đầu tư vào đó một phần lớn hơn của bản thể của mình. Khi con đầu tư càng nhiều bản thể của mình vào cỗ xe hồn, thì ý niệm bản sắc của con bị chú tâm vào đó nhiều hơn. Con càng ngày càng tự đồng hóa mình hơn với cỗ xe hồn, và do đó, so với trước kia, con không còn nhận ra, con không còn ý thức là con không phải là cỗ xe hồn, con hơn cỗ xe hồn, con là một sinh thể tâm linh đến từ một cõi cao hơn. Tức là con không bị mắc kẹt vào trái đất, con không bị mắc kẹt vào nhị nguyên, và con không bắt buộc phải phản ứng lại nhị nguyên. Con yêu dấu, con có thấy chăng là sa nhân đã cố ý và dần dần hành hạ con đến độ, để đối phó với tình trạng này, con đã phải tạo ra một cỗ xe hồn càng ngày càng phức tạp.
Các thày đã cho con hình ảnh, hay đúng hơn các chân sư thăng thiên đã cho con hình ảnh, là có một lằn ranh phân chia vũ trụ vật chất và cõi tâm linh. Ở trên lằn ranh đó là Hiện diện TA LÀ của con, và ngay lằn ranh là một điểm chấm duy nhất. Có một dòng chảy năng lượng hình số tám từ phần phía trên, tức là Hiện diện TA LÀ, xuyên qua điểm chấm đó và xuống bốn thể phàm. Khi con nhân năng lượng lên bằng tình thương, thì dòng năng lượng chảy ngược trở lên và do đó, con nhận được nhiều hơn.
Điều mà các thày đã trao truyền là con có một cái Ta Biết. Ý nghĩa thực của giáo lý đó là để giúp con thấy được là, bất kể cỗ xe hồn mà con đã tạo ra có phức tạp đến đâu, thì con vẫn có khả năng bước ra ngoài nó và nối kết lại với Hiện diện TA LÀ của con. Cái Ta Biết là điểm nối kết mà con không bao giờ mất. Bây giờ, con có thể nói là với nhiều người trên trái đất, cái Ta Biết chỉ là một cái chấm nhỏ. Nó là một điểm nhận biết, môt điểm nối kết, nhưng đó là vì con đã tạo ra cỗ xe hồn rất phức tạp đã thu hút mọi sự chú ý của con, mọi ý niệm bản sắc của con, nên chẳng còn lại bao nhiêu sự chú ý để dành cho Hiện diện TA LÀ.
7.7. Hiểu rõ dòng chảy hình số tám
Bây giờ, con yêu dấu, con có thể nói là lúc đầu tiên khi con xuống trái đất và tạo ra bốn thể phàm (trước khi con bị sa nhân hành hạ), thì dòng chảy hình số tám giữa Hiện diện TA LÀ và bản thể thấp của con đã thấp hơn hiện nay. Có một phần của Hiện diện TA LÀ của con, một phần của cái ta cao của con, ở trong bát cung bản sắc. Nó gần con hơn nhiều, và do đó con có thể kết nối với nó dễ dàng hơn nhiều. Con dễ biết là con hơn bốn thể phàm của mình. Khi con tạo ra cỗ xe hồn phức tạp hơn và bắt đầu tự đồng hóa mình nhiều hơn với nó, thì con mất mối liên lạc có ý thức với Hiện diện TA LÀ. Đó là lý do vì sao ta có thể nói là Hiện diện TA LÀ đã phải rút lui trở lên để nó không bị ảnh hưởng bởi những gì xảy ra cho con trên trái đất. Đó là lý do vì sao trung tâm điểm của dòng chảy hình số tám ngày nay ở ngay lằn ranh giữa cõi tâm linh và bầu cõi nơi con đang chú tâm.
Điều thực sự có thể xảy ra là, khi con đi trên con đường tu, con mở ra lối để Hiện diện TA LÀ có thể bắt đầu đưa một phần của nó xuống các tầng cao của thể bản sắc của con, và ngay cả dần dần xuống sâu hơn nữa. Đó là cách để con trở thành một với Hiện diện TA LÀ của mình. Thày biết là các chân sư thăng thiên đã truyền cho các con một số hình ảnh trong quá khứ, nói rằng con trở thành một cánh cửa mở cho Hiện diện TA LÀ và Hiện diện TA LÀ biểu lộ chính nó qua con. Khái niệm này có giá trị, nhưng nó vẫn là một khái niệm đường thẳng. Con cũng có thể nói là vì con là cánh cửa mở, nên Hiện diện TA LÀ có thể đưa một phần của nó xuống bốn thể phàm, càng lúc càng xuống sâu hơn cho tới khi nó phần nào điều khiển được cả xác thân vật lý.
Con yêu dấu, các cách mô tả tiến trình này không mâu thuẫn nhau. Đây chỉ là những cách khác nhau, một cách thì thích ứng hơn cho tư duy đường thẳng, trong khi cách thày trình bày có tính cách quả cầu hơn, ít đường thẳng hơn. Do đó, con cần chiêm nghiệm một chút nếu con vẫn còn dính vào lối nhìn mọi chuyện một cách đường thẳng.
Con yêu dấu, con thấy chăng là khi các thày tiết lộ một giáo lý, các thày cần thích nghi nó cho trình độ tâm thức và điều này có nghĩa là các thày phải tiết lộ giáo lý cho tư duy đường thẳng đang ngự trị trái đất. Khi các thày tiến triển việc tiết lộ tuần tự, thì các thày sẽ càng ngày càng dùng ít khái niệm đường thẳng, và nhiều khái niệm quả cầu hơn. Các giáo lý này hướng về những ai đã bắt đầu bước ra khỏi khuynh hướng tự đồng hóa với tư duy đường thẳng và nhận ra rằng họ không phải là tâm đường thẳng, và không phải mọi chuyện đều có thể được giải thích bằng một kiểu mà tâm đường thẳng có thể hiểu.
7.8. Hiện diện TA LÀ là gì?
Nó quả thực là môt bí ẩn. Quả thực là khái niệm Hiện diện TA LÀ là một thách đố. Hiện diện TA LÀ chính xác là gì? Nó liên hệ với con ra sao? Ta có thể đem hình ảnh của Thượng đế xa cách và chuyển nó sang Hiện diện TA LÀ, như nhiều đệ tử chân sư thăng thiên đã làm. Ta cũng có thể vượt qua hình ảnh này và nhận ra là ta không thể thật sự hiểu Hiện diện TA LÀ với tâm đường thẳng. Con yêu dấu, tại sao lại như vậy? Đó là vì tâm đường thẳng tạo ta hình tư tưởng và phóng chiếu các hình này lên hiện tượng mà con đang tìm hiểu. Khi con muốn hiểu Hiện diện TA LÀ thì tâm đường thẳng của con tạo ra một hình tư tưởng. Nó chỉ biết có cách đó mà thôi. Tâm vỏ ngoài của con, tâm đường thẳng của con, tạo ra một hình tư tưởng và sau đó phóng chiếu hình này lên Hiện diện TA LÀ và nói: “Hiện diện phải như thế này.”
Đây là cách con người và sa nhân hành xử với ý tưởng. Con tạo ra một ý tưởng và phóng chiếu nó lên thực tại. Sau đó, con tìm hiểu thực tại qua phin lọc của ý tưởng, như vậy thực sự có nghĩa là con muốn thực tại phải tuân theo viễn quan của con, phải chứng thực viễn quan của con. Con yêu dấu, các thày không trao truyền cho các con khái niệm Hiện diện TA LÀ để các con tìm hiểu nó từ bên ngoài và tìm cách hiểu nó bằng tâm đường thẳng. Các thày đã trao truyền khái niệm đó với mục đích giúp các con tới điểm có thể trực tiếp trải nghiệm Hiện diện TA LÀ và giải tỏa bí ẩn của tâm đường thẳng.
Cái Ta Biết cũng là một khái niệm mà các thày đã trao truyền. Nó cũng là một bí ẩn. Cái Ta biết chính xác là gì? Khi ta nói nó là nhận biết thuần khiết thì có nghĩa gì? Ấy, nói một cách giản dị, thì có nghĩa là nó không nhị nguyên. Nó không phải lúc nào cũng quan niệm có hai đối cực và do đó phải giải thích mọi chuyện với tư duy nhị nguyên. Nó có tiềm năng nối kết với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, với tâm không đường thẳng, với tâm không nhị nguyên. Nó có thể trực tiếp trải nghiệm điều này – và con có thể trực tiếp trải nghiệm thực tại không đường thẳng.
Các con đã nói đến điều gì khi đề cập đến giao tiếp từ trái tim? Nó không phải là giao tiếp đường thẳng. Nó không đường thẳng. Nó có tính chất quả cầu vì nó kết nối thay vì chia rẽ. Suy nghĩ đường thẳng chỉ có thể chia rẽ vì suy nghĩ đường thẳng muốn quy định một hình tướng bằng cách tách nó ra khỏi các hình tướng khác.
7.9. Suy nghĩ đường thẳng và đồng-sáng tạo
Vậy khác biệt giữa suy nghĩ đường thằng và đồng-sáng tạo là gì? Có phải chăng là thày đã nói ở trên là con đồng-sáng tạo bằng cách hình dung một hình tướng và phú cho nó một phần của bản thể của mình? Có khác biệt gì chăng? Ấy, có đó. Khác biệt có vi tế chăng? Có. Nó có dễ hiểu chăng? Không, nếu ta dùng tâm đường thẳng! Con không thể hiểu nó. Nhưng tuy con tạo ra một hình tướng hiện hữu trong không gian và thời gian và do đó bị giới hạn vào một cái gì có vẻ đường thẳng đối với con, nhưng hình tướng không được tạo ra bởi tâm đường thẳng. Con yêu dấu, con thấy chăng là con có một thể lý trí. Hầu hết các con cho rằng mình suy nghĩ với thể lý trí. Do đó, con sẽ nói là tâm đường thẳng của con là một phần tự nhiên của thể lý trí. Đó là giới hạn. Tâm đường thẳng không phải là một phần tự nhiên của thể lý trí. Tâm đường thẳng là một sản phẩm của việc sa ngã vào nhị nguyên. Tâm đường thẳng chỉ có thể thấy thời gian và không gian như hiện tượng đường thẳng. Đó là lý do vì sao con thấy thời gian vận chuyển từng phần một theo một hướng nhất định không đảo ngược được. Đó là lý do vì sao con thấy không gian, và con có thể đi từ một nơi này tới một nơi khác trong không gian. Bây giờ, tâm đường thẳng không tà ác. Chỉ duy có điều là tâm đường thẳng bị giới hạn vào lối suy nghĩ đường thẳng, và do đó, nó xếp mọi thứ tách biệt khỏi mọi thứ khác. Nó chỉ có thể quy định hình tướng bằng sự khác biệt.
Bây giờ, con hãy nghe kỹ điều thày nói ở đây. Tâm đường thẳng cần thấy sự khác biệt giữa một hình tam giác và một hình tròn để có thể tách hai hình đó ra và nhận diện chúng. Cho tới đây thì mọi chuyện vẫn tốt. Vốn dĩ không có vấn đề gì với tiến trình này. Khi con tạo ra một hình tướng, con cần tách hình tướng đó ra khỏi các hình tướng khác và phú cho nó một phần bản thể của mình. Con thấy chăng, khi con không ở trong nhị nguyên thì con biết là hình tướng đã được tạo ra từ bản thể của mình, và bản thể này là một phần của Bản thể rộng lớn hơn của Tâm Một của đấng Sáng tạo và của mọi sự sống. Do đó, hình tướng không tách biệt khỏi cội nguồn của nó. Đối với tâm đường thẳng, cội nguồn duy nhất, tâm một không có, và do đó, tâm đường thẳng thấy hình tướng khác biệt.
Con yêu dấu, khi con đồng-sáng tạo lần đầu, con không tạo ra từ tâm đường thẳng. Thể lý trí của con, trước khi con rơi vào nhị nguyên, không suy nghĩ theo lối đường thẳng, không có cái mà bây giờ con gọi là tâm đường thẳng. Tâm đường thẳng hiện ra sau khi con rơi vào nhị nguyên, và điều này có nghĩa là có nhiều hiện tượng trên trái đất đã bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng. Thày không nói là chúng do tâm đường thẳng tạo ra, vì không phải như vậy. Tâm đường thẳng không thể sáng tạo, nhưng nó có thể là một phin lọc mà con dùng để hình dung một số hình tướng, sau đó con phú cho chúng một phần bản thể của mình và khiến chúng thị hiện trong cõi vật lý.
Nhân loại đã tạo ra một số hiện tượng bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng. Lẽ dĩ nhiên, đây là điều, như các chân sư thăng thiên đã giảng cho các con, đã khiến vật chất dày đặc hơn – đã tạo ra rất nhiều biểu hiện bất hài hòa, bất quân bình đấu đá lẫn nhau, phá vỡ lẫn nhau – sinh ra bệnh tật và cái con người gọi là thiên tai. Tất cả những biểu hiện bất quân bình này đều bị ảnh hưởng bởi tâm đường thẳng, nhưng tại sao vậy? Vì sao có xung đột giữa một số hình tướng trên trái đất? Vì sao có xung đột giữa các nhóm người? Đó là vì tâm đường thẳng chỉ thấy được sự khác biệt, và sau đó nó quy định là một hình tướng tách biệt khỏi hình tướng khác. Cái tâm cao, tâm quả cầu, lẽ đương nhiên thấy sự khác biệt giữa các hình tướng. Trên cõi thăng thiên, các thày có thấy sự khác biệt giữa một hình tam giác và một hình tròn. Các thày cũng thấy là chúng không phải là hình tướng tách biệt bay lơ lửng trong không gian, vì chúng có cùng nguồn cội. Chúng được phú cho cùng một tâm thức, và đây là điều kết hợp mọi chuyện.
7.10. Đồng hóa mình với cỗ xe hồn
Khi con người bắt đầu tạo ra những cỗ xe hồn phức tạp hơn, thì họ đầu tư càng ngày càng nhiều bản thể của họ vào trong những cỗ xe hồn đó, và bỗng nhiên họ tự đồng hóa họ với cỗ xe hồn. Các cỗ xe hồn bị ảnh hưởng bởi tư duy đường thẳng vì sa nhân đã thành công trong việc khiến tư duy dường thẳng ngự trị trái đất. Con tạo ra cỗ xe hồn để đáp ứng lại tư duy đường thẳng của sa nhân, và đó là lý do vì sao khi cỗ xe hồn đã trở nên phức tạp (khi phần lớn lượng bản thể của con được đầu tư vào đó), con đã chuyển hóa và bắt đầu tự coi mình là một sinh thể đường thẳng.
Đó là lý do vì sao con người đã tự đồng hóa mình với những phân chia mà con thấy trên trái đất: hai giới tính, nam và nữ, các chủng tộc, các nhóm sắc tộc, các tôn giáo, các đảng phái chính trị, các quốc gia. Đó là lý do vì sao con người đã đầu tư quá nhiều vào các phân chia vỏ nên không thể giao tiếp ở tầng trái tim. Họ không thể hiểu nhau; họ không thể chấp nhận được nhau. Họ chỉ có thể thấy xung đột, và do đó không thể có sự hợp nhất thực sự.
Vậy, đâu là yếu tố duy nhất có thể bắc nhịp cầu, có thể vượt qua trạng thái đó? Đó là tình thương. Đó là tình thương theo nghĩa Thiêng liêng. Các thày đã gọi nó là tình thương vô điều kiện để phân biện nó với tình thương nhị nguyên của tâm nhị nguyên, tình thương nhị nguyên do sa nhân quy định. Họ đã quy định nó khi họ nói: “Đây là tình thương thật sự.” Và sau đó: “Đây là cái đối ngược của tình thương, đây là phản-tình thương.” Đây là tình thương, và đối ngược là gì? Là hận thù. Ấy, cả hai tình thương và hận thù do sa nhân quy định từ tâm thức nhị nguyên không dính dáng gì đến Tình thương Thiêng liêng.
Cái Ta Biết của con có thể trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, bất kể cỗ xe hồn của con phức tạp thế nào, bất kể con đã đầu tư bao nhiêu phần bản thể của mình vào nó, bất kể con đã tự đồng hóa bao nhiêu với nó. Con có thể bước ra ngoài cỗ xe hồn, dù chỉ là trong một khoảnh khắc, và trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng. Khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì nó sẽ chuyển hóa con. Nó sẽ chuyển hóa cách con nhìn mọi chuyện, con yêu dấu.
7.11. Sự tương đồng giữa tất cả mọi người
Cách duy nhất giúp Châu Âu đạt được hợp nhất cao (là hợp nhất thực sự, chứ không phải hợp nhất ép buộc mà các con đang cố tạo ra), là càng ngày càng có nhiều người nối kết được với tình thương đó. Qua đó, họ nhận ra rằng: “Tuy chúng ta đã lớn lên trong những quốc gia khác nhau, chúng ta có những điểm tương đồng. Chúng ta cùng có một cái gì tương đồng.” Nhiều người gọi đó là “nhân tính” (humanity). Ấy, bất kể con người gọi nó là gì, điều quan trọng là họ nhận ra: “Chúng ta có điểm tương đồng, và cái tương đồng đó quan trọng hơn những phân chia vỏ ngoài.” Tại sao vậy? Vì khi con trải nghiệm cội nguồn bên trong mình, khi con đã chính mình kết nối với cội nguồn đó, và khi con gặp một người đã kết nối với cội nguồn của người đó, thì con sẽ cảm thấy có cái gì xảy ra giữa hai người khi các con hội tụ. Đột nhiên, có cái gì hơn nữa.
Có một câu ngạn ngữ cổ nói rằng khi con người gặp nhau, thì một bản nhạc êm ái trổi lên. Con nhận ra là khi con hiệp lại với nhau thì trong sự hiệp nhất đó có cái gì nhiều hơn so với khi các con đơn lẻ. Tác dụng là gì? Con cảm thấy thoải mái hơn và con cảm giác thoải mái hơn về chính mình. Đó là lý do vì sao con người muốn trải nghiệm nó. Như Mẹ Mary đã nói, càng lúc càng có nhiều người nhận ra giá trị của điều này, nhận ra nó một cách có ý thức. Họ muốn sự kết nối chân thực với cái gì cao hơn, bất kể họ thấy hay gọi cái đó là gì. Họ muốn nó, và quả thực đây là một sự biểu hiện tình thương: đây là tình thương biểu lộ. Nó vượt quá tầng của tâm thức, của ý niệm bản ngã mà con người đang có, và bỗng nhiên họ trải nghiệm cái gì hơn nữa. Đây là điều con trải nghiệm khi con mở lòng ra với Hiện diện của các chân sư thăng thiên và của các thành viên khác tại một hội nghị như thế này.
7.12. Trải nghiệm tình thương của Thượng đế
Khi con nối kết với tình thương đó, thì con vượt lên trên tâm đường thẳng, và do đó con không cần phải nhìn đấng Sáng tạo xuyên qua tâm đường thẳng. Con không cần nhìn tình thương xuyên qua tâm đường thẳng. Do đó, con có thể bắt đầu giải tỏa các bí ẩn mà thày đã nói ở trên. Đấng Sáng tạo có thương yêu con không? À, con yêu dấu, đấng Sáng tạo có thương yêu con với tình thương vô điều kiện và vô hạn, nhưng con thấy chăng, đấng Sáng tạo đã ban cho con quyền tự quyết và đấng Sáng tạo tuyệt đối tôn trọng quyền tự quyết của con. Do đó, đấng Sáng tạo sẽ không bao giờ áp đặt ý chí của ngài lên con. Con có thể trải nghiệm Bản thể của đấng Sáng tạo, tình thương yêu của đấng Sáng tạo, nhưng con phải mở lòng ra đón nhận nó.
Vị sứ giả này đã trải nghiệm điều này, như ông có mô tả, và đó là vì ông đã mở lòng ra đón nhận trải nghiệm. Sau đó, ông đã thấm nhập trải nghiệm đó và tới điểm vượt qua được cái nhìn đường thẳng về Thượng đế, cái nhìn đường thẳng về tình thương, và do đó chấp nhận được là điều ông trải nghiệm là tình thương yêu của đấng Sáng tạo. Qua đó, ông cũng hiểu và trải nghiệm là tình thương yêu của đấng Sáng tạo là tình thương yêu mình, nhưng từ tầm nhìn của con, con sẽ trải nghiệm nó như một tình thương không có cá nhân tính. Không phải là đấng Sáng tạo không chú ý tới từng cá nhân, nhưng đó là cách duy nhất mà con có thể trải nghiệm tình thương yêu của Thượng đế khi con còn ở trong môi trường dày đặc và trong bốn thể phàm trên trái đất.
Tuy rằng con có thể trải nghiệm Bản thể của đấng Sáng tạo và trải nghiệm là con nối kết với đấng Sáng tạo (con từ đấng Sáng tạo sinh ra và đấng Sáng tạo thương yêu con), nhưng vì những hạn chế của trái đất nên con sẽ trải nghiệm là tình thương của Thượng đế không có cá nhân tính. Đó là lý do vì sao, như có ghi trong bài Cầu thỉnh thương yêu chính mình, các thày đã cho con hình ảnh là Thượng đế Mẹ ban tình thương cho cá nhân con, tình thương nuôi dưỡng. Lẽ dĩ nhiên, Thượng đế Mẹ là gì? Ấy, ta có thể nói là tất cả là Mẹ, là phân cực của đấng Sáng tạo là nguyên lý Cha. Đối với con, tuy con là một sắc thái của tính Mẹ, nguồn của Tình thương Thiêng liêng cho con trước hết và chủ yếu nhất là các chân sư thăng thiên đang làm việc với trái đất. Các vị đó sẵn sàng ban cho con Tình thương Thiêng liêng, có nghĩa là một Ngọn lửa Mẹ là tình thương cá nhân cho con, một tình thương nuỗi dưỡng cho cá nhân con. Như thày có nói, vì những hạn chế của trái đất nên con không thể trải nghiệm tình thương của đấng Sáng tạo như cái gì dành cho cá nhân con, cho cá nhân con, nhưng con có thể trải nghiệm tình thương của một vị chân sư thăng thiên như một tình thương rất cá nhân, gửi cho chính con. Như một người đã phát biểu ngày hôm qua, con có thể tạo một mối liên hệ như vậy với một vị chân sư thăng thiên, và vị chân sư này sẽ trở nên như một người tâm lý trị liệu của riêng con. Con có thể nói chuyện với vị chân sư về mọi vấn đề và đặt đủ loại câu hỏi. Con sẽ có một câu trả lời, nhưng con phải nhớ rằng vị chân sư sẽ không trả lời câu hỏi đúng y như câu con hỏi, vì con thường đặt câu hỏi với tâm đường thẳng. Mục đích của vị chân sư là giải thoát con khỏi tâm đường thẳng và sự tự đồng hóa với bốn thể phàm. Đây là những loại trả lời mà con sẽ nhận được: những câu trả lời giải thoát con. Những câu đó không nhất thiết trả lời câu con hỏi một cách đường thẳng. Nhiều khi, khi vị chân sư thăng thiên trả lời câu hỏi một cách đường thẳng, thì câu trả lời chỉ củng cố tư duy đường thẳng và sự tự đồng hóa với bốn thể phàm của con.
7.13. Khái niệm tâm linh không theo đường thẳng
Có lẽ điều quan trọng là nhiều người trong các con nên hiểu là mục đích tìm hiểu giáo lý tâm linh không phải là để mình hiểu các khái niệm tâm linh với tâm đường thẳng. Rất, rất, rất nhiều đệ tử chân sư thăng thiên trong nhiều thập niên vừa qua đã bị mắc kẹt trong ý nghĩ cho rằng họ cần học giáo lý với tâm đường thẳng để họ có thể hiểu, phân loại và dán nhãn giáo lý. Họ lúc nào cũng có thể nhớ lại một câu trong các bài giảng và đọc ra cho các bạn nghe, và câu này dường như thích hợp với mọi hoàn cảnh. Đây chính thực là một ngõ cụt trên con đường tâm linh. Lối tu này không giúp con và thực sự lại có thể dẫn con vào đường tu giả, tức là khiến con nối kết với các thày giả trên cõi tư tưởng. Các thày giả này sẽ rất hoan hỷ cho con cảm giác con là một trong những đệ tử tâm linh xuất sắc nhất trên trái đất vì con có khả năng hiểu các khái niệm đó với tâm đường thẳng.
Mục đích thật của giáo lý chân sư thăng thiên không phải là để cho con hiểu biết, mà là để giúp con có một trải nghiệm trực tiếp: trải nghiệm trực tiếp Hiện diện TA LÀ, Hiện diện của một chân sư thăng thiên hay Hiện diện của đấng Sáng tạo, trải nghiệm thực tại không đường thẳng vượt lên trên trái đất. Trải nghiệm đó chính là tình thương. Đó là một trải nghiệm khiến con chuyển hóa. Con có thể thấy là khi một số người gặp gỡ và cảm thấy có tình thương với nhau, thì họ chuyển hóa và bỗng nhiên họ có thể giải quyết các vấn đề và xung đột bên ngoài mà trước kia họ không giải quyết được.
7.14. Một thực tập để chữa lành
Các con yêu dấu, thày biết là thày đã thử thách sức chịu đựng của các con, nhưng thày vẫn chưa xong bài giảng. Thày tin rằng các con sẽ có thể tiếp tục chú tâm khi thày trình bày một thực tập mà thày thực sự muốn trao truyền cho các con. Thày sẽ có mặt bên con mỗi khi con làm thực tập này. Con có thể được kết quả tốt hơn nếu, trước khi con bắt đầu thực tập, con đọc lại bài truyền đọc này vì những khái niệm mà thày trình bày trong đó, lẽ dĩ nhiên, không phải là chuyện tình cờ. Các khái niệm đó là bối cảnh để con thực tập thành công.
Con yêu dấu, thày muốn con suy ngẫm là mục đích của con là cảm thấy thoải mái với chính mình. Lẽ tự nhiên, con có thể nhìn vào trái đất và áp dụng một số mô thức mô tả hiện trạng của trái đất. Con có thể áp dụng một mô thức và nói rằng nguyên do của tất cả mọi vấn đề trên trái đất, tất cả mọi xung đột giữa con người, đều do con người không cảm thấy thoải mái với chính họ. Và để bù đắp lại cảm giác đó, thay vì sửa đổi chính họ và bản thể nội tại của họ, thì họ lại tìm cách thay đổi thế gian và thay đổi người khác. Khi con người khẩn thiết muốn được thoải mái với chính họ bằng cách kiểm soát môi trường, thì đó là đầu mối của tất cả mọi xung đột.
Con cũng thể nói là điều này cũng áp dụng cho sa nhân, vì khi họ sa ngã, họ không cảm thấy thoải mái với chính họ tuy một số trong họ có lòng kiêu hãnh tâm linh lạ thường. Nếu con thực sự nhìn vào một sa nhân, thì con thấy là họ không thoải mái với chính họ. Họ đã thành công trong việc chế ngự trái đất bằng cách khiến con người cảm thấy không thoải mái với chính mình. Nhìn từ góc độ nào đó thì đây là vấn đề duy nhất trên trái đất.
Mục đích của bài này là giúp con cảm thấy thoải mái với chính mình và mục đích của bài thực tập là giúp con trải nghiệm phần quả cầu của bản thể của con. Làm sao con thực sự cảm thấy thoải mái với chính mình? Không phải bằng cách hoàn thành một điều kiện nào đó trên trái đất, nhưng bằng cách nối kết với con người thật của mình, với cái ta cao của mình. Hiện diện TA LÀ của con không thể nào khiến con cảm thấy không thoải mái với chính mình. Con không thể nào cảm thấy không thoải mái với chính mình khi con trải nghiệm Hiện diện của một chân sư thăng thiên. Con không thể nào cảm thấy không thoải mái với chính mình khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng. Con có thể sau đó có một phản ứng, và nó khuấy động điều gì đó trong tâm lý của con, và điều này được phơi bày ra khiến con cảm thấy không thoải mái với chính mình, nhưng đó không do sự trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, vì khi con ở trong đó thì con cảm thấy thoải mái vì cái ta vỏ ngoài tan biến đi. Mục tiêu là con cảm thấy thoải mái hơn với chính mình, hơn những gì con đang cảm thấy hiện nay.
7.15. Một bài hình dung
Thày muốn con hình dung là con đang đi xuyên qua một khu rừng. Có nhiều cây rậm rạp hai bên nhưng con không để ý đến chúng. Có một con đường mòn trước mặt con. Con đi xuyên qua khu rừng. Con tới một khoảng trống trong khu rừng và ở đó có một cái tháp quan sát giống như con có thể thấy ở một số nơi, con có thể trèo lên đỉnh tháp đó và con sẽ ở cao hơn các ngọn cây và có thể nhìn phong cảnh khắp chung quanh. Con bây giờ đang đứng ở dưới chân tháp và tháp đó có nhiều tầng. Có những bậc thang dẫn tới một mặt phẳng. Từ mặt phẳng đó, có những bậc thang khác đi lên trên. Con hiện đang đứng trên mặt đất. Trước mặt con là những bậc thang đưa lên mặt phẳng thứ nhất. Con đừng nên quan tâm tới đỉnh tháp. Con chỉ nhìn lên mặt phẳng thứ nhất. Có một vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng đó. Vị chân sư đó là ai tùy theo mỗi cá nhân con. Vị nào mà con cảm thấy gần gũi nhất với tim mình, thì vị ấy đang đứng trên mặt phẳng thứ nhất. Vị chân sư đang mở hai vòng tay chào đón con. Con biết là nếu con bước lên mặt phẳng đó, thì vị chân sư sẽ ôm con và con biết con sẽ cảm thấy thoải mái hơn với chính mình khi con được một vị chân sư thăng thiên ôm vào lòng.
Vì lý do nào đó, con không nâng bàn chân lên khỏi mặt đất được. Con cố gắng hết sức, nhưng hai bàn chân vẫn dính chặt vào mặt đất. Con nhận ra lý do là vì con đang mang trên mình một gánh nặng. Con đang mang trên mình một gánh nặng và nó đang ngăn cản con bước lên bậc thang. Thày không muốn con nhìn vào chi tiết của gánh nặng đó. Con có thể có một ý niệm nó là cái gì, hay con không có; nhưng con đừng tốn năng lượng tư tưởng cố tìm hiểu nó là cái gì. Con chỉ giản dị hòa điệu với sự kiện có một cái bị đeo trên vai đang khiến con bị nặng chĩu.
Con yêu dấu, bây giờ thì con nhìn lên vị chân sư và con phải lấy một quyết định: “Tôi có muốn bước lên cầu thang và ôm vị thày chăng? Vì nếu vậy thì tôi cần lấy cái bị trên vai tôi và giản dị để nó tuột khỏi vai tôi và rơi xuống mặt đất.”
Bây giờ thì con nhận ra là con quả thực có đủ uy lực để làm chuyện này. Con có thể đẩy cái bị ra, trùng vai xuống, đẩy quai bị và để nó tuột xuống cánh tay của con và nó rơi xuống mặt đất. Bây giờ thì con có thể bước lên cầu thang thứ nhất.
Nếu con muốn thì con có thể cảm thấy đã trút bỏ gánh nặng, và con nắm thành cầu thang và bước lên những bậc thang, và trên đầu cầu thang có vị chân sư ôm chầm lấy con. Con ôm vị thày và con cảm thấy tình thương của vị thày. Con cảm thấy tình thương đó bao phủ toàn thân con, và ngay lúc này, không có chuyện gì hệ trọng nữa.
Nếu con làm thực tập này ở một lúc khác, thì con có thể chọn ở lại tầng này. Không có gì sai trái với việc ở lại tầng thứ nhất này, và ôm vị thày bao lâu cũng được. Con có thể làm thực tập này nhiều lần và vẫn đi tới tầng thứ nhất và ôm vị thày này.
Để tiếp tục bài thực tập, thày bây giờ muốn con nhận ra là con đang ở trên mặt phẳng và có một cầu thang khác dẫn tới mặt phẳng thứ hai bên trên con. Khi con bước tới cầu thang này, thì con thấy có một vị chân sư thăng thiên khác, một lần nữa vị này là ai tùy theo mỗi người trong các con, đang mở rộng vòng tay chờ đón con. Một lần nữa, con cảm thấy bị dính vào mặt phẳng nơi con đang đứng vì con có một cái bị khác đang đè lên vai con.
Một lần nữa, con nhận ra là nếu con muốn, con có uy lực để nhẹ nhàng đẩy nó ra để nó tuột xuống cánh tay con, rơi xuống mặt đất, và con lại tự do đi lên cầu thang. Ở trên đó, có vị chân sư thăng thiên thứ hai ôm chầm lấy con. Một lần nữa, con cảm nhận tình thương của vị thày. Con cảm thấy thoải mái với chính mình. Con cảm thấy tình thương nuôi dưỡng của Mẹ tỏa ra từ vị thày và bao trùm toàn thân con. Dù con thấy vị thày là vị thày nam hay nữ, thì vẫn là tình thương nuôi dưỡng của Mẹ đang tỏa tới con. Con cảm thấy tình thương này dành cho cá nhân con.
Vị thày này biết con, thương yêu con, không phán xét hay chỉ trích con, thương yêu con đúng như con là ngay lúc này. Không có điều kiện nào, ngoại trừ con có ý muốn ôm chầm vị thày của con, và con muốn, ít nhất là trong một khoảng thời gian ngắn, trút bỏ gánh nặng mà con vẫn thường mang theo mình, để con có thể mở lòng ra cho vị thày ôm mình. Vì sao con lại cần mở lòng mình ra? Bởi vì nếu không, thì con không thể cảm thấy tình thương yêu của vị thày. Không phải là vị thày không tỏa ra tình thương, mà chỉ vì con không thể cảm được nó.
Một lúc sau thì con nhận ra có một cầu thang nữa, dẫn tới một mặt phẳng thứ ba và một vị chân sư khác. Một lần nữa. có một gánh nặng mà con có thể trút xuống. Thày không nói các gánh nặng này là gì vì chúng tùy mỗi cá nhân các con. Khi con làm thực tập này, gánh nặng cũng có thể chuyển đổi. Nó có thể khác đi. Con có thể có một viễn quan ngày càng rõ hơn, hay cũng có thể một viễn quan khác. Đó là lý do thày không cho con một viễn quan rõ rệt về nó. Nó chỉ giản dị là một gánh nặng mà con cảm thấy ngay lúc này, và nó ngăn cản con không bước lên được cầu thang thứ ba, và con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang, và một lần nữa con ôm chầm vị thày ở đó.
Sau một thời gian trong vòng tay vị thày, thì con lại nhận thấy có một cầu thang thứ tư dẫn tới một mặt phẳng thứ tư và nơi đó có vị thày thứ tư đang đợi con. Một lần nữa, con nhận ra là con có một gánh nặng và con chỉ giản dị để nó rơi xuống, vì nay việc này đã dễ làm hơn. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày. Đúng, nếu con muốn, con có thể xem các vị thày này tương ứng với các tia ánh sáng, nhưng con không cần phải đi theo đường thẳng như vậy.
Một lần nữa, tùy con cảm thấy thế nào lúc thực tập (và cũng có thể là vị thày khác nhau mỗi lần thực tập), con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày thứ tư và cảm thấy tình thương yêu của vị thày đó. Con bắt đầu nhận ra là mỗi vị thày có một đặc tính riêng của Tình thương Thiêng liêng. Mỗi vị thày cho con một cái gì khác, mỗi thứ này đúng những gì con cần để chữa lành một sắc thái nào đó của tâm lý của con. Trong một lúc, con cảm thấy hạnh phúc trong vòng tay ôm của vị thày; và khi con tự mình thực tập, thì con có thể ở mỗi tầng bao lâu con muốn.
Sẽ có một lúc con nhận ra là có một cầu thang khác dẫn lên tầng thứ năm. Một lần nữa, con có một gánh nặng. Con nhận ra nó. Con để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang và con ôm chầm vị thày. Một lần nữa, vị thày này cho con một tính chất hơi khác của Tình thương Thiêng liêng, một hình thức nuôi dưỡng hơi khác. Một lần nữa con cảm thấy thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, được thương yêu nhiều hơn, được chăm lo nhiều hơn.
Sau một thời gian ở tầng thứ năm, thì lại có cầu thang thứ sáu, và con lại có một gánh nặng. Con để cho nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang. Bây giờ thì con ở trên tầng thứ sáu, con ôm chầm vị thày đang cho con một tính chất độc đáo của tình thương nuôi dưỡng của Mẹ Thiêng liêng. Con cảm thấy được thương yêu nhiều hơn nữa, trọn vẹn hơn nữa, đang được ôm chặt hơn nữa trong cảm nhận là không những chỉ có một người chăm lo cho con, mà thực sự là cả vũ trụ đang chăm lo cho con, cho riêng cá nhân con.
Con bắt đầu cảm thấy là toàn thể vũ trụ, toàn thể cõi Mẹ muốn nuôi dưỡng con, cá nhân con, và cho con điều con thực sự cần để con đi con đường mà con đã vạch ra cho mình trong Sứ vụ Thiêng liêng của con. Con cảm thấy sự nuôi dưỡng đó.
Con cảm thấy Mẹ không phải là địch thủ của mình. Mẹ đích thực muốn cho con những gì con cần. Vũ trụ muốn cho con những gì con cần – không nhất thiết là những gì tự ngã hay cái ta vỏ ngoài của con nghĩ nó cần, tỷ dụ như một chiếc xe mới bóng nhoáng, hay điều này điều nọ – nhưng vũ trụ muốn cho con những gì con cần để tăng trưởng.
Sau một thời gian chấp nhận là con thực sự đang sống trong một vũ trụ thân thiện, con nhận ra là có một cầu thang thứ bảy. Con lại cảm thấy có một gánh nặng, và con lại để nó rơi xuống. Con bước lên cầu thang. Có một vị chân sư đang đợi con, nhưng vị thày không đứng ở ngay trên bực thềm cuối vì nay mặt phẳng rộng lớn hơn. Khi con lên tới tầng này, con bỗng nhiên nhận ra là con đã ở cao hơn các ngọn cây. Con ở trên tất cả những chuyện trên trái đất có vẻ khiến con quan tâm. Con gần như có cảm tưởng là con không còn ở trên trái đất. Con đang ở trong một cõi hoàn toàn khác.
Con nhìn xuống trái đất từ rất cao và con thấy trái đất bên dưới. Con thấy bốn thể phàm của mình. Con thấy cuộc đời của mình. Con thấy tất cả những người và những hoàn cảnh chung quanh con từ quãng xa. Con bỗng nhiên nhận ra: “Ồ, có đúng là những người và chuyện này không có tầm quan trọng gì cả nếu ta nhìn từ góc độ hoàn vũ? Có đúng chăng là mọi chuyện con đang trải qua và đang đè nặng lên vai con, và có vẻ rất quan trọng đối với con – có đúng chăng là chúng không quan trọng gì cả nếu nhìn từ góc độ cao này?”
Nếu con muốn, con có thể cho phép mình cảm thấy bỗng nhiên có vô số làn sóng năng lượng đang lớp lớp tràn lên con, và tâm thức của con được mở rộng và mở rộng và mở rộng ra thêm nữa. Con nhận ra là những gì xảy ra trên trái đất – những chuyện có vẻ rất quan trọng đối với con nhìn từ góc độ thường nhật của con – chẳng quan trọng gì cả khi nhìn từ góc độ hoàn vũ. Chúng không quan trọng một cách lạ thường. Không phải là chúng không có nghĩa lý gì, nhưng chúng không quan trọng khi so sánh với cái con là thực sự. Các điều kiện trên trái đất có quá ít ảnh hưởng trên Bản thể thực của con, trên con người mà con thực sự là. Chỉ vì con tự đồng hóa mình với hoàn cảnh nên chúng mới trở nên quan trọng và chúng mới có quyền lực trên con. Nhìn từ góc độ của Hiện diện TA LÀ thì chúng hoàn toàn không có quyền lực gì hết trên Hiện diện TA LÀ. Chúng hoàn toàn không quan trọng, chúng hoàn toàn không có khả năng quy định con.
Sau đó, con nhận ra là có một khoảng cách khủng khiếp giữa tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ và tầm nhìn của con khi con ở trong bốn thể phàm. Con nhận ra là Hiện diện TA LÀ cảm thấy rất thoải mái với chính nó và với con. Con cảm thấy rất thoải mái với chính mình khi con nhìn sự việc từ tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ. Con muốn cảm giác đó. Con thực sự muốn giữ được ít nhất là một phần của cảm giác đó khi con trở về bốn thể phàm của mình, và con nghĩ: “Làm sao tôi làm được chuyện này? Làm sao tôi có thể bắc nhịp cầu qua khoảng cách? Làm sao tôi có thể có được một chút cảm giác mà Hiện diện TA LÀ có, khi tôi ở trong thân thể của tôi?”
7.16. Hãy mở lòng ra đón nhận
Lúc đó, con nhận ra là có một vị chân sư thăng thiên đang đứng trên mặt phẳng, giơ ngón tay và nói: “Thày có thể giúp con chăng? Con có cho phép thày giúp con giải tỏa bí ẩn này chăng?” Nếu con muốn, thì con có thể quay về phía vị thày và nói: “Xin thày giúp con thấy những gì trong tâm lý của con, trong thái độ của con, trong các niềm tin của con, trong bốn thể phàm của con, đang ngăn cản không cho con mang theo một phần nào những cảm nhận, tầm nhìn, của Hiện diện TA LÀ khi con trở về bốn thể phàm của con.” Tùy theo con mở lòng tới mức nào, vị thày sẽ cho con một xung lực. Có thể nó không phải là một hiểu biết trí năng, đường thẳng, dùng lý trí. Tùy con mở lòng tới mức nào, vị thày sẽ cho con một xung lực.
Bất cứ điều gì con nhận được từ vị thày, thì lúc ban đầu con khó hiểu thấu. Chắc chắn là tâm đuờng thẳng của con sẽ khó hiểu thấu vì vị thày đang tìm cách giúp con trải nghiệm tầm nhìn từ Hiện diện TA LÀ, và Hiện diện TA LÀ không nhìn cuộc đời với tâm đường thẳng. Vị thày không thể cho con hiểu biết hay khái niệm đường thẳng vì tâm đường thẳng, khi con trở về bốn thể phàm của mình, sẽ chỉ dùng nó để tạo ra một hình tư tưởng khác. Vị thày đang tìm cách trao cho con một cái gì mà con có thể hiểu và có thể mang theo mình. Thày muốn con mở lòng ra đón nhận bất cứ điều gì vị thày trao cho con, và gìn giữ nó, và mang nó theo con khi con đi trở xuống các bậc cầu thang.
Lúc ban đầu, con có thể chỉ muốn đi xuống các bậc thang mà không chú ý đến các vị thày, và trở về bốn thể phàm của mình. Khi con đã quen thuộc hơn với thực tập này, thì con có thể khám phá ra là con có thể ngừng ở mỗi tầng và mỗi vị thày sẽ cho con một cái gì sẽ giúp con.
Con đang đi xuống những bậc thang của tháp, và nay con đã xuống tới mặt đất. Bây giờ thì con đã trở về bốn thể phàm của mình. Con bước trở ra về phía khu rừng, và khi con bước xuyên qua khu rừng thì con dần dần trở về bốn thể phàm của mình, và bây giờ thì con đang ngồi trong chiếc ghế với tâm ý thức bình thường của mình.
7.17. Một tầm nhìn khác
Thày mong rằng con giữ được điều gì đó từ thực tập vừa rồi, và nó sẽ giúp con có được một tầm nhìn khác. Nó sẽ giúp con bắt đầu tiến trình giải quyết vướng mắc trong tâm lý để con dần dần tới điểm con có được tầm nhìn của Hiện diện TA LÀ khi con còn đang sống trong bốn thể phàm của mình. Qua đó, không có gì trên trái đất có uy quyền trên con nữa. Không có gì quy định được con. Con không hoàn toàn tự đồng hóa mình với bất cứ gì. Không có gì con thấy quan trọng đến độ con cảm thấy bị bó buộc phải phản ứng lại nó, và lúc nào cũng phải phản ứng cùng một kiểu.
Con nhận ra con có thể chọn lựa phản ứng của mình. Con có thể chọn lựa không phản ứng. Con có thể tới điểm con đã vượt thăng những yếu tố trong tâm thức khiến con phản ứng lại một số người hay một số hoàn cảnh. Thày bảo đảm với con là một khi con đã thăng vượt một tầng tâm thức nào đó, con sẽ không còn thu hút những người hay hoàn cảnh khiến con phản ứng. Lúc đó, vì con không còn bị mắc kẹt trong những khuôn nếp phản ứng nên con sẽ dễ dàng hơn hòa điệu với Hiện diện TA LÀ, với các chân sư thăng thiên, và cảm thấy tình thương vượt lên trên trái đất, và do đó, thực sự khiến mọi chuyện trên trái đất trở nên không quan trọng bằng trải nghiệm và biểu lộ tình thương đó.
7.18. Tình thương Thiêng liêng là tầm nhìn tối hậu
Một khi con đã thoáng thấy Tình thương Thiêng liêng, thì không có gì trên trái đất có thể quan trọng khi so sánh với Tình thương Thiêng liêng. Không phải là có điều gì trên trái đất có thể so sánh với Tình thương Thiêng liêng, nhưng cảm giác mà con có khi con trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng vượt lên trên bất cứ điều gì con có thể trải nghiệm trên trái đất. Điều này sẽ lôi kéo con muốn trải nghiệm nó càng ngày càng nhiều hơn, và con càng trải nghiệm Tình thương Thiêng liêng, thì con càng tách mình ra, không còn tự đồng hóa mình với bốn thể phàm nữa.
Điều này có nghĩa gì? Điều này có nghĩa là lúc đó con đã rút một phần bản thể của mình không đầu tư vào bốn thể phàm nữa, vì con đang làm tan đi cái ta mà con đã tạo ra khi con phản ứng lại thế gian, khiến một phần của bản thể của con bị mắc kẹt trong bốn thể phàm. Khi con rút một phần bản thể của mình ra khỏi bốn thể phàm, thì con bắt đầu có nhận biết rõ hơn rất nhiều về Hiện diện TA LÀ. Con bắt đầu có một mối liên hệ hoàn toàn khác với Hiện diện TA LÀ. Hiện diện TA LÀ không còn ở trên kia và con thì ở dưới này, nhưng chắc chắn là đôi khi con có cảm tưởng mình bay bổng lên và đôi khi con cảm thấy Hiện diện TA LÀ đi xuống nơi con ở. Bỗng nhiên những hàng rào chắn bắt đầu rơi xuống, và ngay cả khái niệm dòng chảy hình số tám không còn là dòng chảy từ cõi này xuống cõi khác nữa. Nó thực sự còn không phải là một dòng chảy nữa. Nó giản dị là một nhận biết, ý niệm là một. Dòng chảy chỉ hiện ra khi con là cánh cửa mở để năng lượng chảy tới người khác, và do đó, con là Tình thương Thiêng liêng đang hành động.
Con yêu dấu, thày biết chắc là con nhận ra là khi một sinh thể ở tầng của thày phát biểu, thì thày không có giới hạn không gian và thời gian. Thày không để ý đến những giới hạn của thân thể vật lý của các con và thày biết là bài giảng này đã rất dài. Thày biết ơn là các con đã sẵn sàng chịu đựng, là các con đã sẵn sàng là cánh cửa mở tỏa chiếu năng lượng và khái niệm từ Bản thể của thày, từ Hiện diện của thày, đến tâm thức đại chúng. Thực sự, điều này đang đặt nền móng cho một sự hợp nhất lớn hơn giữa con người và giữa các dân tộc.
Chắc chắn đây là một điều kiện để mang lại Thời Hoàng kim của Saint Germain. Chắc chắn là thời hoàng kim mà Saint Germain hình dung không thể bị áp đặt. Nó chỉ có thể được đem tới bằng tình thương. Nó chỉ có thể được đem tới khi con người chọn lựa nó vì nó khiến con người thoải mái hơn tình trạng hiện nay.
Quả thực là có bao nhiêu người cảm thấy thoải mái với tình trạng chính trị và kinh tế hiện hành? Mục đích thực sự là gì? Có phải chăng là thay đổi các điều kiện bên ngoài? Không đâu, mục đích là thay đổi cảm giác nội tâm để con người nhận ra là có những điều kiện, có những viễn quan có thể khiến họ cảm thấy thoải mái hơn. Điều này trở nên động cơ thúc đẩy – không phải là một động cơ thúc đẩy đường thẳng, vỏ ngoài, vị kỷ. Nó trở thành động cơ thúc đẩy để: “Tôi muốn cảm thấy thoải mái với chính mình và tôi muốn người khác cũng cảm thấy như vậy. Khi tất cả chúng tôi đều cảm thấy thoải mái với chính mình và chúng tôi hiệp lại, thì chúng tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn là khi chúng tôi riêng rẽ.” Đó chính là cách chân thực để thể hiện một thời đại hoàng kim.
Thày biết ơn và thày chấp nhận từng cá nhân các con, bất kể con là ai, bất kể con ở đâu, bất kể con nhìn mình như thế nào. Thày không thấy con như con thấy chính mình. Thày thấy toàn bộ bản thể của con và thày chấp nhận mỗi sắc thái của bản thể của con, mỗi sắc thái của con người con ngay lúc này và tiềm năng trở nên hơn nữa của con.