13 | Nỗ lực cao hơn là ngừng nỗ lực

Bài truyền đọc của Chân sư Thăng thiên Phật Gautama qua trung gian Kim Michaels, ngày 8 tháng 1 năm 2023. Bài truyền đọc này được trao truyền nhân hội nghị qua mạng Internet mừng Năm mới 2023 – Là người tâm linh trong một thế giới hỗn loạn. 

TA LÀ Chân sư Thăng thiên Phật Gautama. Chủ đề kế tiếp là sự tinh tấn, hay nỗ lực. Một lần nữa như theo truyền thống, người ta đã quy định có nỗ lực đúng và có nỗ lực sai. Xong người ta đã cố tránh nỗ lực sai và trau dồi, thực hành nỗ lực đúng. Đối với nhiều người, chuyện này trở thành một chiếc áo tù bó tay bó chân, khiến họ cảm thấy gần như không thể làm bất cứ gì vì họ quá sợ những nỗ lực sai lầm sẽ tạo nghiệp. Cuối cùng họ cảm thấy chỉ còn một việc họ có thể làm là hạn chế tối đa các hoạt động thể chất và trong phần lớn thời gian, hoặc họ thiền định, hoặc họ thực hành những pháp tu khác. Thế là chuyện này trở thành một chứng ám ảnh cưỡng chế, và tuy họ cảm thấy mình rất tâm linh nhưng thật ra họ không tiến bộ chút nào trên con đường tâm linh. Họ không đang leo lên những tầng cao hơn. Họ chỉ dậm chân tại chỗ, càng ngày càng bất an, càng ngày càng lo sợ tất bật để cố nỗ lực làm sao cho đúng với những gì họ đã quy định.

Hiển nhiên, dựa trên những điều thày đã trao cho con trong những bài trước, giờ đây chúng ta có thể khá dễ dàng thẩm định nỗ lực của con một cách khác. Thày đã cố gắng rất nhiều để giải thích mục đích của Bát chánh đạo, mục đích của Trung đạo là gì. Đó chính là nâng cao tâm thức, và con nâng cao tâm thức bằng cách nào? Bằng một cách duy nhất: giải quyết tâm lý. Điều này sẽ mới lạ và gây sốc cho nhiều người, ngay cả nhiều người trong truyền thống Phật giáo. Họ đã bước vào một tâm thái nghĩ rằng nỗ lực đúng có nghĩa là làm một số thực tập tâm linh. Họ cho rằng những thực tập tâm linh này có khả năng hầu như thần diệu chuyển hóa tâm thức của họ, đưa họ đến gần hơn với giác ngộ, hay niết bàn, hay bất kỳ cách nào họ định nghĩa. 

13.1. Khắc phục ảo tưởng không phải là một việc làm máy móc

Thày đã nói là có những thực tập tâm linh có giá trị và hiệu quả, nhưng chúng mang lại hiệu quả như thế nào? Chúng hiệu quả bằng cách chuyển hóa những năng lượng dựa trên sợ hãi đã tích tụ trong các thể tình cảm, lý trí và bản sắc của con, thậm chí cả trong các tế bào vật lý ở một mức độ nào đó. Một kỹ thuật tâm linh có thể có tác dụng chuyển hóa năng lượng, nhưng không có thực tập tâm linh nào có thể chuyển hóa trạng thái tâm của con, các tin tưởng của con, các ảo tưởng của con, cho dù thực tập đó là gì, đến từ đâu, do ai định ra hay do ai ban ra.

Một ảo tưởng là một ảo tưởng. Nó không thật, nhưng ngày nào con còn nghĩ ảo tưởng là thật, ngày nào con chưa nhận biết mình đang có một ảo tưởng, thì con còn bị giam trong cách nhìn đời xuyên qua phin lọc của ảo tưởng đó. Làm sao con đã tới chỗ chấp nhận ảo tưởng đó? Có con quỷ dữ nào đã cấy ảo tưởng vào tâm con? Quả là có thể có một sinh thể thấp, một sinh thể với nhận biết thấp phóng chiếu một ảo tưởng nào đó vào tâm con. Thật ra tâm thức tập thể hiện đang phóng chiếu rất nhiều ảo tưởng vào tâm mọi người. Nhưng con là một sinh thể cá biệt. Con không phải là một sinh thể tách biệt, nhưng con là một sinh thể cá biệt, có nghĩa là con có thẩm quyền cho phép cái gì đi vào tâm con, cái gì ra khỏi tâm con, cái gì xảy ra trong tâm con. Có thể con đã quên mất là trong một tiền kiếp, con đã cho phép một ảo tưởng đi vào tâm con, nhưng cho dù con nhớ hay quên, đã có một thời điểm khi con quyết định chấp nhận một ảo tưởng nào đó là sự thật. 

Sau khi con bước vào tâm thức tách biệt, con đã cho phép vô số ảo tưởng xâm nhập tâm con. Chúng tạo nên tấm màn huyễn Maya khiến con đui mù không thấy được thực tại con là một biểu hiện của Phật tánh, và tất cả mọi thứ khác cũng là biểu hiện của Phật tánh cho dù hình tướng vỏ ngoài có là gì. Không có kỹ thuật tâm linh nào có thể thay đổi trạng thái tâm của con, thay đổi các tin tưởng của con, tự động giải thoát con khỏi các ảo tưởng. Con chỉ có thể thoát khỏi ảo tưởng khi con thấy một cách ý thức chúng là ảo tưởng, và do đó con buông bỏ chúng vì con thấy chúng là ảo tưởng.

Đây là tình trạng cách đây 2500 năm, đây là tình trạng kể từ đó cho tới nay, và đây sẽ vẫn là tình trạng trong tương lai. Sự tăng trưởng tâm linh đến các tầng tâm thức cao hơn là một tiến trình ý thức nhìn ra các ảo tưởng một cách ý thức. Một thực tập tâm linh có thể chuyển hóa các năng lượng được lưu trữ trong tâm tình cảm của con chẳng hạn, khiến tâm ý thức của con khó lòng thấy được các ảo tưởng. Không phải là thực tập tâm linh không hữu ích, nhưng nó không tự động vì nó không thể lấy quyết định thay con. Chính con, cái Ta Biết là cốt lõi của bản thể con, phải lấy quyết định, nhưng con lấy quyết định như thế nào? Bằng cách trở nên ý thức về những điều mà ngay bây giờ con chưa ý thức. Bằng cách moi ảo tưởng ra khỏi tâm tiềm thức, đem chúng vào nhận biết ý thức nơi con có thể thấy chúng, xem xét chúng, và một khi con nhận ra chúng là ảo tưởng thì con sa thải chúng.

13.2. Các ngã tiềm thức được tạo ra như thế nào

Các thày đã có đưa ra nhiều giáo lý dạy rằng ảo tưởng không chỉ là ảo tưởng. Không phải chỉ là chuyện con có hiểu biết hư giả. Không phải chỉ là chuyện con có tin tưởng mình đang cầm sợi dây khi thật sự đó là con rắn. Bất cứ điều gì xảy ra trong tâm con đều có ba yếu tố. Có năng lượng, có một hiểu biết hay tin tưởng nào đó, và có tâm thức. Khi con nhìn vào một ảo tưởng đặc trưng một cách ý thức và quyết định chấp nhận nó trong tâm mình, thì chuyện gì xảy ra lúc đó? Trước hết, cái Ta Biết mà con là, giờ đây bắt đầu nhìn thế giới xuyên qua ảo tưởng đó.

Cũng giống như con ở trong một căn nhà và căn nhà là các thể bản sắc, lý trí và cảm xúc của con. Căn nhà có cửa sổ, nhưng khi con chấp nhận một ảo tưởng thì con đặt một mảnh kính có màu trước một cửa sổ, hay ít nhất trước một phần của cửa sổ đó. Bây giờ con nhìn qua cửa sổ đó và những gì con nhìn thấy ở ngoài kia đã bị pha màu bởi mảnh kính, cho nên con sẽ thấy một hình ảnh méo mó. Điều này có nghĩa là giờ đây con thấy thế giới không như nó là, nghĩa là khi năng lượng từ cái ta cao của con chảy xuyên qua nhận biết ý thức của con và xuyên qua phin lọc đó, thì con phú cho nó một rung động dựa trên sợ hãi. Ảo tưởng khiến con nhìn đời dựa trên sợ hãi, bởi vì nếu con thấy mọi sự đều là Phật tánh thì đâu cần sợ hãi. Sau khi con đã chấp nhận một tin tưởng hư giả thì con bắt đầu tha hóa, hạ thấp rung động của năng lượng qua tin tưởng này. Một phần của năng lượng này được phóng chiếu ra ngoài, một phần khác tích tụ trong ba thể của con: bản sắc, lý trí và cảm xúc. 

Khi năng lượng tích tụ thì nó tạo một lực hút trên nhận biết ý thức của con, nghĩa là con dễ nổi giận hơn chẳng hạn. Khi con nhìn thế giới qua phin lọc của ảo tưởng, thật ra con đang thấm đẫm ảo tưởng đó với tâm thức của con. Bởi vì khi con tập trung chú ý vào bất cứ gì thì con cho phép tâm thức của con tuôn chảy vào đó và xuyên qua đó. Giờ đây con có ba yếu tố, con có một tin tưởng không thực tế và huyễn ảo, con có năng lượng tích tụ tạo nên lực hút từ tính, và con có sự thấm đẫm ảo tưởng với tâm thức của con. Nghĩa là con đang tạo tác điều mà thày đã gọi là hành uẩn (samskara), là các khuôn nếp mà chúng ta có thể gọi là “ngã” theo một cách diễn đạt hiện đại hơn. Con tạo tác một ngã tách biệt trong tâm bản sắc, lý trí và tình cảm của con, và điều quan trọng là ngã này có một mức tâm thức nào đó. Nó không có khả năng tự nhận biết của cái Ta Biết, cho nên ngã này đã không tạo ra chính nó. Cái Ta Biết có thể tạo ra một cái ngã, nhưng ngã thì không thể tạo ra chính nó.

Điều này có nghĩa là ngã cũng không thể thay đổi chính nó. Nó có thể tăng trưởng, theo nghĩa nó có thêm cường độ, nó có lực hút từ tính càng ngày càng mạnh hơn trên tâm ý thức của con, nhưng nó không thể thay đổi chính nó. Nếu con tạo ra một cái ngã dựa trên ảo tưởng là trong một số tình huống, việc nổi giận là một phản ứng chấp nhận được, thì ngã không thể nói: “Ồ đợi chút nhé, giận dữ là một chuyện không đúng với lời dạy tâm linh, cho nên tôi sẽ tự cho phép mình chết đi.” Ngã sẽ không bao giờ làm được như vậy. Ngã có cái mà chúng ta có thể gọi là bản năng sinh tồn. Nó có thể càng ngày càng nóng giận hơn chứ nó không thể bớt nóng giận, ít nhất là qua nỗ lực của chính nó. Nó có thể bớt nóng giận nếu con ngừng bơm năng lượng nuôi nó sống và dùng các dụng cụ tâm linh để chuyển hóa năng lượng đã tích tụ, nhưng ngã không thể tự nó làm chuyện này.

Thật vậy, ngã giống như một chương trình máy tính chỉ có thể làm những gì mà nó được lập trình để làm. Khi nó thêm cường độ thì lực hút của nó trên cái Ta Biết của con sẽ mạnh hơn. Con bị hút vào ngã đó, và chuyện xảy ra qua nhiều kiếp hiện thân là con dần dà tạo ra một tập đoàn những cái ngã đều dựa trên ảo tưởng tách biệt, và chúng lần hồi tạo thêm lực hút đến độ cái Ta Biết của con bị kéo vào tấm màn ảo tưởng. Con bị kéo ra đằng sau tấm màn ảo tưởng và bây giờ con nhìn mọi sự xuyên qua tấm màn ảo tưởng đó. Thậm chí con có thể tới mức quên khuấy mất là con đã từng ở bên ngoài tấm màn ảo tưởng. Đấy là cách con quên mình có sự nối kết với cái ta cao của con và con có Phật tánh và tiềm năng Phật trong con. Con đồng hóa mình là một con người thế trần – hoặc một kẻ có tội, hoặc một kẻ mang nghiệp rất lớn, hoặc một con vượn tiến hóa. Điều này chỉ có thể xảy ra khi con quên mình có sự kết nối với cái gì bên ngoài tâm con.

13.3. Ngã tách biệt chỉ có thể tạo thêm nghiệp quả

Nếu con muốn thẩm định nỗ lực một cách cao hơn, con có thể nói là nếu con hoàn toàn đồng hóa với tập đoàn ngã tách biệt đó và với tự ngã là cái bình chứa các ngã tách biệt đó – nếu có thể gọi như vậy – thì mọi chuyện con làm, mọi nỗ lực con bỏ ra qua ngã tách biệt sẽ tạo nghiệp quả. Nỗ lực đó sẽ tha hóa năng lượng. Nó sẽ chuyển năng lượng dựa trên tình thương thành năng lượng dựa trên sợ hãi, và nó sẽ chỉ buộc con chặt hơn vào ảo tưởng mình là một sinh thể tách biệt. Rõ ràng đây không phải là nỗ lực cao, đây là nỗ lực thấp.

Vậy thì nỗ lực cao hơn là gì? Đó là những hoạt động có tác dụng giải thoát con khỏi sự đồng hóa với các ngã tách biệt cùng tự ngã. Bây giờ con cần cẩn thận phân biện ở đây. Nhiều người trong truyền thống Phật giáo sẽ nói: “Nhưng Phật đã chối bỏ kịch liệt sự hiện hữu của một tự ngã tách biệt.” Đúng đấy, nhưng con hãy lắng nghe những gì thày đang nói. Phật chối bỏ sự hiện hữu, sự có thật của một tự ngã tách biệt. Tự ngã tách biệt không có thật, nó không hiện hữu trong Phật tánh, trong tâm Phật, nhưng không có nghĩa là nó không có hiện hữu tạm thời và phù du trong tâm con người. Như thày đã giảng, mọi thứ đều là năng lượng. Năng lượng có thể khoác lên bất kỳ hình tướng nào, nhưng nó khoác lên hình tướng xuyên qua tâm thức, khi tâm thức phóng chiếu một tâm ảnh lên năng lượng.

Đây là điều con làm khi hiện thân như một con người. Con đồng-sáng tạo bằng cách dùng khả năng của tâm để áp chồng hình tư tưởng lên trên năng lượng. Khi con làm chuyện này xuyên qua một trong những ảo tưởng tách biệt, thì con tạo ra một ngã tách biệt, thậm chí con tạo luôn ảo tưởng tổng quan rằng mình là một sinh thể tách biệt. Ngã này, tự ngã này, có một sự hiện hữu tạm bợ. Không có sinh thể cao nào tạo ra nó, nhưng con đã tạo ra nó và do đó nó hiện hữu trong tâm con. Nó không có một sự hiện hữu khách quan, và nói theo cách diễn đạt của khoa học thì nó có một sự hiện hữu chủ quan, nhưng chừng nào nó còn ở trong tâm con, chừng nào năng lượng, ảo tưởng và ý niệm bản ngã còn đó, thì nó sẽ ảnh hưởng tâm con. Điều này có nghĩa – trong số nhiều ý nghĩa khác – là tự ngã không thể được chuyển hóa. Quả vậy, có nhiều người đã xây đắp một ngã tách biệt dũng mãnh, họ đồng hóa với nó chặt chẽ đến độ họ nghĩ rằng mục đích của con đường tâm linh là chuyển hóa ngã tách biệt này cho tới khi nó đạt được một trạng thái khả dĩ đi vào thiên đàng hay giác ngộ.

Đây là ý nghĩa thật của giáo lý được truyền dạy 2500 năm trước. Tự ngã không có sự hiện hữu, cho nên nó không thể trở thành Phật, nó không thể đựợc nâng lên và đạt bất cứ tính trường tồn hay bất diệt nào. Có những người trong truyền thống Cơ đốc giáo tin rằng nếu họ là người Cơ đốc ngoan đạo và làm tròn mọi yêu cầu của đạo Cơ đốc thì sau khi chết, Giê-su sẽ hiện ra và đem nhân cách vỏ ngoài của họ, ý niệm bản ngã tách biệt của họ vào thiên đàng.

13.4. Giấc mơ bất khả thi của tự ngã

Đặc tính của thiên đàng, hay cõi tâm linh, hay bất cứ chữ nào con muốn dùng, là gì? Đặc tính ấy là nhận ra mọi sự sống là một, mọi thứ đều liên thông với nhau, tất cả là một tổng thể phụ thuộc lẫn nhau. Như thế thì làm sao một ngã tách biệt chối bỏ sự liên thông này, chối bỏ cái một, có thể đi vào cái một? Chuyện này không thể xảy ra, không thể làm được. Nó chỉ giản dị là một giấc mơ bất khả thi, là giấc mơ tối hậu của ngã tách biệt. Tại sao con người lại nảy ra giấc mơ đó? Ấy như thày đã nói, đó là vì khi con đi vào ảo tưởng tách biệt thì con cảm thấy mình đã mất mát cái gì đó. Con đã mất đi sự nối kết với cái ta cao của con. Con cảm thấy đó là một sự mất mát và con mong muốn bù đắp mất mát này, dù con không ý thức được điều này thực sự nghĩa là gì. Trong con có lòng khát khao một cái gì đó. Người ta có thể tạm thời phủ lấp khao khát này bằng cách chìm đắm trong sinh hoạt thế gian như nhiều người đã làm suốt nhiều kiếp sống, nhưng sẽ tới một điểm nỗi khao khát này – mà trên cơ bản là khao khát một cái gì ở ngoài chính tâm con, ở ngoài tâm tách biệt của con – sẽ trồi dậy và con không thể phủ nhận nó được nữa.

Tự ngã có một dạng nhận biết sơ đẳng. Nó muốn duy trì quyền lực của nó trên tâm con. Khi nỗi khao khát cái gì hơn nữa trồi lên thì tự ngã biết rõ nó không thể đáp ứng được, nhưng nó vẫn cố khiến con tin rằng con có thể thỏa mãn nỗi khao khát đó bằng cách hoàn thiện ngã tách biệt. Tỷ dụ như khi con tìm thấy một giáo lý tâm linh nói về nhu cầu nâng cao nhận biết của con, đạt đến một trạng thái cao hơn, nhập niết bàn, thiên đàng, cõi hỷ lạc hay giác ngộ, thì tự ngã sẽ nói: “Lẽ dĩ nhiên rồi! Tôi ủng hộ mong muốn tự cải thiện của bạn để đạt được trạng thái cao siêu này. Bạn có thể làm được điều này bằng cách nâng tôi lên trạng thái cao đó. Tôi có thể trở nên toàn hảo. Tôi có thể trở nên bất tử.” Đây là một lời nói dối hoàn toàn, một sự hiểu lầm hoàn toàn. Tự ngã sẽ không bao giờ đi vào thiên đàng, cõi tâm linh, niết bàn. Điều này – không – thể – làm – được.

Một ngã tách biệt không thể tự chuyển hóa thành một cái ta hợp nhất với cái một. Đây là điều mà nhiều người tâm linh thuộc nhiều truyền thống sẽ phủ nhận, nhưng đây là sự thực. Con đã sinh tạo những ngã này dựa trên ảo tưởng tách biệt. Mỗi ngã là một ảo tưởng đặc thù, nó có một số năng lượng nào đó và nó được thấm đẫm một ý niệm tâm thức thô sơ nào đó, cho nên nó nghĩ rằng nó có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó.

Giống như triết gia René Descartes đã nói: “Tôi nghĩ, do đó tôi là.” Nói cách khác, sự kiện tôi ý thức phải có nghĩa là tôi hiện hữu, và đấy là điều ngã tách biệt nghĩ. Tự ngã nghĩ rằng sự kiện tôi ý thức mình là một sinh thể tách biệt có nghĩa là tôi có một thực tại nào đó, một hiện hữu nào đó như một sinh thể tách biệt. Đây là ảo tưởng mà thày đã cố gắng giải thích 2500 năm về trước khi thày nói là không có tự ngã tách biệt nào có một sự hiện hữu thật. Lẽ tất nhiên, thày rất ý thức là ngã tách biệt có một sự hiện hữu tạm thời, và toàn bộ mục đích của Bát chánh đạo là giúp con người vượt qua sự đồng hóa với tự ngã này.

13.5. Buông bỏ từng ngã tách biệt một để khắc phục tự ngã

Con có thể làm gì để khắc phục tự ngã? Ấy, tự ngã là cốt lõi của ý niệm bản sắc tách biệt nhưng nó không phải là cái dễ khắc phục nhất. Con cần thực tiễn. Con bắt đầu bằng cách nhận ra tự ngã giống như cái thùng chứa trong đó có nhiều ngã tách biệt riêng lẻ khác nhau và mỗi ngã dựa trên một ảo tưởng đặc trưng. Con khắc phục từng ngã một, và cách dễ nhất để phơi trần ngã là con nhìn vào phản ứng của mình trong những tình huống đặc thù. Tỷ dụ, tại sao con phản ứng với lòng sợ hãi trong một số hoàn cảnh? Tại sao con đáp trả với sự nóng giận hay bực tức? Tại sao trong một số tình huống con nghi ngờ chính mình? Tại sao khi bị tấn công, con trở nên hung hãn hay con chịu thua?

Con làm việc với từng phản ứng cá biệt. Con nhận ra mình có một ngã tách biệt trong tâm tiềm thức. Một số hoàn cảnh nào đó kích hoạt ngã này hoạt động, và khi điều này xảy ra thì nó làm chủ phản ứng của con. Con đang không dùng tâm ý thức để quyết định cách phản ứng nào với hoàn cảnh đó. Giản dị là khi ngã tách biệt được kích hoạt, nó sẽ tiếp quản và điều khiển phản ứng của con. Điều này chỉ cho con thấy là có một ngã tách biệt lẩn trốn đằng sau khuôn nếp này. Bây giờ con có thể đi sâu vào trong nó. Con đi vào các cảm xúc của mình cho tới khi con đi xuyên suốt chúng, và con có thể tiếp tục quán xét và dùng trực giác cho tới khi con thấy được tin tưởng đằng sau chúng.

Có thể sẽ tới một điểm khi bỗng nhiên cái Ta Biết bước ra khỏi ngã tách biệt này và con nhìn nó từ bên ngoài. Nhiều người chưa từng nghe về giáo lý tâm linh và chắc chắn chưa nghe giáo lý về các ngã tách biệt, đã trải nghiệm điều này một cách tự phát trong suốt đời họ. Họ ở trong một tình huống nào đó, thường là một tình huống nghiêm trọng mà họ cảm nhận như một khủng hoảng, và đột nhiên họ cảm thấy tâm mình xoay chuyển. Thay vì phản ứng theo như họ vẫn thường làm, bỗng nhiên tâm họ trùng vào im lặng. Gần giống như trong một khoảnh khắc vượt thời gian, họ đã bước ra khỏi tình huống đó và bất giác họ thấy nó từ bên ngoài. 

Trong một số trường hợp con có thể có một ý tưởng ý thức như sau: “Tại sao tôi cứ phản ứng cùng kiểu này vậy?” Đây là một ví dụ con tới được điểm cái Ta Biết bước ra ngoài một ngã tách biệt đặc thù, và một khi đứng ra ngoài, con có thể thấy được ngã đó. Con có thể thấy ngã này dựa trên ảo tưởng gì. Con có thể thấy ngã đang hạn chế con như thế nào, nó đang hạn chế phản ứng của con, tước đi quyền tự do phản ứng một cách ý thức của con. Đấy là lúc con có thể lấy quyết định: “Tôi không muốn phản ứng kiểu này nữa. Tôi không muốn điều này trong đời tôi nữa. Tôi không muốn nhìn đời qua phin lọc này nữa.” Sau đó con làm được gì? Ấy, không phải là con cần giải quyết một vấn đề gì, không phải là con cần làm gì với ngã này. Một khi con thấy ảo tưởng, con chỉ giản dị bước tới buông ngã ra, thải ngã ra, cho ngã chết đi.

Con không thể hoàn thiện một ngã tách biệt. Con không thể chuyển hóa nó lên một trạng thái cao hơn. Giản dị con chỉ cần để cho nó chết đi. Trên cơ bản một ngã tách biệt là một dính mắc, và con khắc phục dính mắc như thế nào? Bằng cách để nó ra đi. Bằng cách buông bỏ bất kỳ ảo tưởng và ham muốn nào đằng sau sự dính mắc. Con nghĩ con phải thành tựu một điều gì đó trên thế gian này – nói chung là để khỏa lấp cảm giác là mình không trọn vẹn. Khi nhận ra điều này, con có thể buông nó và hiểu ra con không cần thành tựu bất cứ gì trong thế gian để trở nên trọn vẹn. Con cần buông bỏ ý tưởng con phải làm gì đó trong thế gian thì con sẽ tự nhiên cảm thấy trọn vẹn hơn.

Tại sao như vậy? Con hãy nhớ lại điều thày đã nói. Ở ban đầu, con có cảm nhận mình kết nối với cái ta cao của mình. Rồi con đã che phủ cảm nhận này bằng một ảo tưởng, nhưng trạng thái mặc định của con vẫn là cảm nhận kết nối. Một khi con buông bỏ ảo tưởng thì con sẽ trở về cảm nhận kết nối. Lẽ tất nhiên con có thể khuếch trương cảm nhận kết nối, và đó là kết quả tự nhiên khi con tiến bước trên Bát chánh đạo. Trạng thái mặc định của con người là cảm thấy mình kết nối với cái ta cao của mình. Con có thể biết điều này một cách ý thức hơn, con có thể mở rộng sự kết nối hơn, nhưng con không thể hoàn toàn mất đi tiềm năng trở về kết nối. Theo một nghĩa nào đó, sự kết nối luôn luôn có đó. Cái ta cao của con luôn luôn ở đó, nó luôn luôn hướng năng lượng về phía con. Chỉ có điều là trong tâm con, con đã bước vào một ảo tưởng cho nên con không ý thức được sự kết nối đó. Đây không phải là chuyện nghĩ rằng ngã tách biệt đã ngăn con trải nghiệm kết nối cần phải được hoàn thiện rồi khi đó con mới lại cảm thấy kết nối. Không đâu, con chỉ cần buông ngã ra và trở về trạng thái kết nối tự nhiên.

13.6. Tăng triển không có gì bí mật

Điều này nghĩa là gì? Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào củng cố cho cảm nhận tách biệt sẽ không giúp con tiến bước trên đường tu. Bất kỳ cố gắng nào giảm thiểu tấm màn huyễn Maya sẽ tái lập sự kết nối hay mở rộng sự kết nối, và đây là điều sẽ đưa con xa hơn trên đường tu. Có nghĩa là bất kỳ cố gắng nào giúp con trở về với kết nối là cố gắng cao hơn. Như thày có giảng, không phải là con chỉ cần có hành động hay nỗ lực vật lý. Một thực tập tâm linh tự nó không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức. Học hỏi một giáo lý tâm linh không tự động đem lại sự chuyển hóa tâm thức.

Có rất rất nhiều người, rất nhiều người tâm linh qua các thời đại trong truyền thống Phật giáo lẫn các truyền thống khác tin rằng có một bí quyết đem lại sự tăng triển tâm linh. Họ nghĩ rằng có một giáo lý cao nào đó mà họ có thể tìm được. Chẳng hạn nhiều người tin rằng có giáo lý công truyền dành cho đại chúng, nhưng có giáo lý bí truyền chỉ dành cho giới ưu tú được tuyển chọn đã đạt tới tầng cao hơn trên con đường tâm linh. Họ nghĩ các giáo lý này được cất giấu đâu đó, và họ bỏ ra cả cuộc đời cố đi tìm các giáo lý này, vì họ nghĩ rằng một khi tìm ra họ sẽ tự động giác ngộ bằng cách chỉ giản dị đọc giáo lý đó. Làm sao chuyện này xảy ra được? Đúng, một giáo lý tâm linh có thể giúp con thấy một ảo tưởng, nhưng không bảo đảm là đọc một giáo lý đặc trưng sẽ giúp con thấy ra ảo tưởng của con.

Có thể có hai người có cùng ảo tưởng, cùng ngã tách biệt. Họ đọc cùng một giáo lý tâm linh. Một người có thể nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ nó, nhưng người kia không nhìn ra ảo tưởng. Tại sao không? Ấy, vấn đề là con có nhận ra tinh túy của con đường tâm linh không? Có phải tinh túy là nhìn ra ảo tưởng và buông bỏ ngã tách biệt, hay là bằng cách nào đó nâng cao và hoàn thiện ngã tách biệt? Chúng ta cũng có thể nói vấn đề là con tập trung chú ý nơi nào? Con nhìn ra bên ngoài con hay con nhìn vào trong con? Con có sẵn lòng nhìn vào chính tâm lý mình, nhìn vào các ảo tưởng của mình, vật lộn với chúng cho tới khi con nhìn xuyên thấu chúng? Hay liệu con nghĩ có cái gì thần diệu ở ngoài con có thể làm giùm cho con? Hay đúng hơn, thậm chí con không nghĩ là điều đó bên ngoài sẽ giải quyết tâm lý của con, mà con nghĩ có vị đạo sư bên ngoài kia sẽ đem cho con sự giác ngộ một cách thần diệu nào đó. 

13.7. Những gì một đạo sư không làm được cho con

Ở phương Đông có một truyền thống lâu đời về quan hệ giữa đạo sư và đệ tử. Nhiều, rất nhiều người tin rằng – và có nhiều đạo sư cũng sẽ xác nhận – là một vị đạo sư chân chính (và họ hầu hết thuộc nam giới) có khả năng thần diệu nâng đệ tử lên một trạng thái cao, giác ngộ, niết bàn hay bất kỳ con gọi là gì. Điều này không thể làm được. Không ai có thể gỡ bỏ quyết định của con hộ con. Con phải sẵn lòng nhìn một cách ý thức vào những quyết định mà con đã lấy trong quá khứ khi con chấp nhận một ảo tưởng và tạo ra một ngã tách biệt, và con phải muốn lấy quyết định một cách ý thức để cho ngã tách biệt này chết đi.

Một vị đạo sư có thể giúp con thấy ngã tách biệt. Vị ấy có thể khiến con phải đối mặt tự ngã của con. Vị ấy có thể hành xử thế nào để phơi bày, kích hoạt một trong những khuôn nếp phản ứng mà con mang. Nhưng vị ấy không thể quyết định hộ con, vì quyết định được tạo ra trong tâm con và chỉ có thể gỡ bỏ trong chính tâm con. Có thể con không ý thức mình đã lấy quyết định đó nhiều kiếp trước, nhưng con vẫn có thể trở nên ý thức là mình đã từng lấy quyết định, hậu quả của nó là gì và do đó con buông bỏ nó. Không có cố gắng bên ngoài, sức mạnh bên ngoài hay đạo sư bên ngoài nào có thể làm hộ con. Ngày nào con còn nghĩ con có thể hướng chú ý ra ngoài và cố gắng thay đổi điều gì đó bên ngoài, thì con sẽ dậm chân tại chỗ trên con đường tâm linh. Con sẽ chẳng đi tới đâu. Một lần nữa, con có thể tạo cảm tưởng mình đang tiến tới, nhưng con thật sự làm gì khi con làm vậy? 

Con hãy suy ngẫm những gì thày nói ở đây. Con có một số ngã tách biệt dựa trên ảo tưởng. Chúng giam con trong tấm màn huyễn Maya. Giờ đây con tìm thấy đường tâm linh, một giáo lý tâm linh. Đấy là một giáo lý tâm linh có giá trị. Nó có tiềm năng giúp con tăng triển khi con dấn thân theo Bát chánh đạo, nhưng liệu nó sẽ làm được hay chăng? Kết quả không thể nào bảo đảm, bởi vì cốt lõi của đường tu chân chính là con khắc phục các ngã tách biệt, con đưa chúng lên tâm ý thức và con thải bỏ chúng một cách ý thức. Nếu con không chịu làm hay không nắm bắt được điều này, thì con sẽ làm gì thay vào đó? Con sẽ lấy giáo lý tâm linh và dùng nó để xây dựng một ngã tách biệt mới. Ngã tách biệt này sẽ dựa trên ảo tưởng là nếu con chăm chỉ học giáo lý, nếu con chăm chỉ thực hành các pháp tu, thì con sẽ trở nên một học trò ngày càng cao cấp qua việc chứng tỏ những thứ vỏ ngoài đó và vì thế con đang tiến bộ trên đường tu.

Nhiều, rất nhiều người qua các thời đại có thiện ý muốn tiến bộ tâm linh nhưng lại không nắm được bản chất cốt yếu của con đường tâm linh, và do đó họ chỉ giản dị tạo ra một số ngã tách biệt dựa trên giáo lý tâm linh. Họ đã củng cố cho tự ngã vốn tin là nó tách biệt và luôn cố gắng cao trội. Một lần nữa, tại sao tự ngã lại cố gắng cao trội? À, tự ngã có đủ nhận biết để biết là nó không trọn vẹn. Nó không thật sự hiểu là nó không bao giờ có thể vào được thiên đàng nhưng nó biết là nó không trọn vẹn. Nó biết là con cảm thấy không trọn vẹn và nó liên tục tìm cách che phủ hay bù đắp cho sự thiếu trọn vẹn này. Tự ngã liên tục tìm cách cao trội theo một kiểu nào đó vì nó nghĩ, tự ngã nghĩ, là nếu nó trở nên đủ tinh xảo lịch duyệt trong thế gian này thì nó bắt buộc phải được phép lên cõi cao.

13.8. Tự ngã được tâm linh hóa

Rất nhiều người tin vào một Thượng đế tối cao đã, trên cơ bản, tạo ra một tự ngã nghĩ rằng nếu tôi làm hết mấy chuyện vỏ ngoài kia đúng theo quy định của tôn giáo, thì đơn giản Thượng đế phải cho phép tôi vào thiên đàng. Thượng đế phải ban cho tôi đời sống bất tử. Và như vậy tự ngã đang thương thảo với Thượng đế: “Con làm mấy chuyện vỏ ngoài này thì ngài phải cho con lên thiên đàng.” Vấn đề là tất cả những thứ này là chuyện tưởng tượng. Trước hết, hình ảnh mà tự ngã tạo ra về Thượng đế chẳng dính dáng gì đến thực tại của cõi tâm linh. Chẳng hạn con có thể nhìn lại ba tôn giáo độc thần đặt căn bản trên hình ảnh của kinh Cựu ước về một Thượng đế giận dữ trên trời, và con có thể nói: “Có chăng một Thượng đế như thế trên trời phù hợp với hình ảnh này hay không?” Sự thực là không có thượng đế nào như thế trên trời, nhưng có một sinh thể được tạo ra bởi tâm thức đại chúng và nó có sự hiện hữu tạm bợ ở các tầng cảm xúc, lý trí và bản sắc của vũ trụ vật chất và tâm thức tập thể. Đây là một thượng đế do con người tạo ra, dựa trên hình ảnh của tự ngã và giống như tự ngã. Đây là một thượng đế thiên vị tưởng thưởng những ai làm theo mệnh lệnh của ông nhưng trừng phạt những ai không vâng lời ông. Thượng đế này chỉ có thể là một thượng đế nhị nguyên, và do đó ông ấy không thể nào có chút thực tại nào một khi con nắm bắt nhị nguyên và bất nhị là gì.

Tự ngã đang cố làm một chuyện không thể làm được. Nó cố gắng quy định những tiêu chuẩn thế gian sẽ bảo đảm cho nó vào cõi cao. Tự ngã sinh ra từ ảo tưởng tách biệt, nó không bao giờ thấu rõ được cái một. Vậy tự ngã làm gì? Nó quy định những tiêu chuẩn dựa trên ảo tưởng tách biệt, có nghĩa là không thật. Sự thật là cái một, còn sự không thật là tách biệt và phân chia. Con nghĩ, hay tự ngã nghĩ, là con có thể rời cái một và đi vào tách biệt, và dựa trên ảo tưởng tách biệt con có thể trở về với cái một. Điều này không khả thi. Làm sao có bao giờ khả thi được?

Con có thể thấy nhiều người sùng đạo hay tâm linh tìm được một giáo lý tâm linh hay một lời dạy tôn giáo. Giờ đây họ tạo ra – hay đúng hơn, thường thường họ chụp lấy những gì đã được tập thể tín đồ của tôn giáo này tạo ra – một cái nhìn phức tạp về những gì họ phải làm và không được làm. Họ xả thân siêng năng thực tập như vậy, tuyệt đối tin chắc là mình đang tiến bộ và một ngày kia một chuyện gì đó sẽ xảy ra. Giê-su sẽ hiện ra trên trời, dẫn người Cơ đốc lên thiên đàng, cuộn thế giới lại như cuộn giấy và xử phạt mọi người khác xuống địa ngục. Phật sẽ hiện ra cho con người, ban cho họ giác ngộ và bỏ mặc những người còn lại. Một giáo lý thần diệu sẽ hiện ra cho họ và khi họ đọc giáo lý đó, họ sẽ giác ngộ.

Nhiều người mang niềm tin là việc bước chân trên đường tâm linh là một cuộc mạo hiểm đầy vinh quang dẫn họ đến những mức tinh xảo càng ngày càng cao, những địa vị và ca ngợi của thế gian theo các tiêu chuẩn được quy định trong thế gian. Các tiêu chuẩn này là do tự ngã quy định dựa trên tách biệt. Làm sao chúng có thể dẫn con đến cái một được đây? Con đường tâm linh thật sự không vinh quang chút nào. Đó là con đường liên tục nhìn vào chính mình, phản ứng của mình, phơi bày phản ứng trong tâm lý mình và để chúng chết đi. Vạch trần các ngã tách biệt và để chúng chết đi. Đó chính là ý nghĩa của con đường tâm linh. Ngày nào con còn đầu thai thì con sẽ còn ngã tách biệt nào đó mà con chưa phát hiện, bởi vì nếu con không có ngã tách biệt nào nữa thì con không thể ở lại trong một xác thân vật lý trên một hành tinh dày đặc như trái đất.

13.9. Giác ngộ nghĩa là như thế nào

Có một tin tưởng rất lâu đời trong các đệ tử tâm linh bảo rằng: “Ồ, người này đã giác ngộ, vị đạo sư kia đã giác ngộ.” À, ở đây có một sự thật và cũng có một ảo tưởng. Một mặt, rõ ràng là có những người đã đạt đến một tầng nhận biết cao hơn người trung bình. Chắc chắn là với những ai hiểu cách vận hành của con đường tâm linh mà thày đã giảng ở đây, các con đều có thể tu tập và dần dần tiến lên những tầng tâm thức cao hơn so với khi con mới cất bước, và chắc chắn cũng cao hơn một người trung bình. Tuy nhiên, nếu con nghĩ giác ngộ có nghĩa là con không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa thì con không có cái hiểu cao nhất.

Có câu truyện về Phật nói rằng khi thày giác ngộ, thày nhập Niết bàn rồi quyết định thay vì ở lại Niết bàn, thày sẽ trở về trái đất và giảng dạy, và do đó thày đã trở về trong trạng thái giác ngộ. Nhiều người đã phóng chiếu ra là thày, một cách nào đó, là một sinh thể toàn hảo, thày không còn ảo tưởng, không còn ngã tách biệt nào nữa. Sự thật là thày đã khắc phục hầu hết các ảo tưởng có thể có khi là một con người hiện thân. Nhưng thày vẫn chưa khắc phục tất cả mọi ảo tưởng, vì nếu được vậy thì thày đã không thể ở lại trong một cơ thể vật lý. Điều này không có nghĩa là thày không đạt được một tầng tâm thức cao hơn người trung bình – thày có đạt được như vậy. Mà điều này có nghĩa là thày có một sự thẩm định thực tế, hay con có thể nói là thẩm định khiêm tốn về chính mình. Thày không xem mình là một sinh thể toàn hảo như nhiều môn đồ của thày thời đó nghĩ, và đặc biệt sau này vẫn tiếp tục nghĩ.

Có một hiện tượng trong các phong trào tâm linh mà chúng ta có thể gọi là “hội chứng đạo sư chết”. Một khi vị đạo sư qua đời, người ta bắt đầu phóng chiếu ước mơ và ảo tưởng của mình lên đạo sư – vị ấy đặc biệt như thế nào, vị ấy toàn hảo như thế nào. Tại sao họ lại làm vậy? Bởi vì đạo sư càng đặc biệt bao nhiêu thì các đệ tử cũng đặc biệt bấy nhiêu. Qua cách này, họ xây đắp tự ngã, xây đắp ảo tưởng là bằng cách đi theo vị thày hoàn hảo này, và bởi vì thày quá đỗi hoàn hảo, thày sẽ có quyền năng thần diệu biến đổi họ mà họ không cần nhìn vào chính trạng thái nhận biết và tâm lý của họ.

Thày đang nói gì ở đây? Giản dị thày đang nói là khi con còn đầu thai trong thân thể vật lý thì con vẫn có một số ảo tưởng đặc thù mà con cần khắc phục. Nghĩa là con phải khiêm tốn, con phải thực tế và không tuyên bố mình đã đạt được một sự toàn thiện nào đó. Có những người tuyên bố họ là hiện thân của một vị thần hay họ đã đạt được một trạng thái giác ngộ nào đó. Có những người không tự mình tuyên bố như vậy nhưng họ cho phép những ai theo họ tin vào điều này mà không cải chỉnh. Đây không phải là cách nhìn cao nhất.

Ngày nào con còn trong thân vật lý, con vẫn còn ít nhất một ảo tưởng phải khắc phục, và khi con khắc phục nó thì con không thể ở lại trong thân vật lý được nữa. Giản dị như thế. Con có thể chế ra đủ loại truyền thuyết và ý tưởng về những sinh thể toàn hảo sống trên núi Himalaya đã duy trì được thân vật lý của họ suốt hàng thế kỷ. Không phải là không có phần nào sự thật trong đó, nhưng các sinh thể này không nhìn họ như con nhìn họ từ trạng thái tách biệt. Họ đã đạt được một tầng nhận biết cao độ nhưng họ thực tế nhận rằng vẫn còn điều gì đó giữ họ trong thân vật lý, và để vĩnh viễn thoát khỏi thân ấy họ phải khắc phục ảo tưởng đó. Họ thực tế trong sự đánh giá chính mình bởi vì con không thể đạt được một trạng thái tâm thức cao hơn mà không khắc phục sự tách biệt, ý niệm tách biệt. Chỉ trong ý niệm tách biệt mới có người cao trội hơn người khác. Việc tôn thờ một vị thày tâm linh chỉ có thể phát xuất từ ý niệm tách biệt. Nếu vị đạo sư tuyên bố là mình cao trội, hoặc nếu ông cho phép người theo ông nâng ông thành người cao trội, thì ông vẫn chưa khắc phục được tách biệt. Làm sao ông đã có thể làm được?

13.10. Nỗ lực giả hiệu khi nâng mình cao hơn người khác

Một thẩm định thực tế hơn là khi con đã khắc phục tất cả ngã tách biệt đó, con là sự biểu hiện của tâm một và mọi người cũng vậy. Ấy, làm thế nào một biểu hiện của tâm một có thể tinh xảo hơn, hoàn hảo hơn một biểu hiện khác? Mọi sự đều là Phật tánh. Mỗi sinh thể có tự nhận biết là một biểu hiện của Phật tánh. Làm sao trên cơ bản một sinh thể có thể đặc biệt hơn những sinh thể khác? Tuyên ngôn Độc lập của Hoa kỳ nói: “Mọi con người được tạo ra bình đẳng.” À theo một nghĩa nào đó, đây là sự công nhận tất cả là biểu hiện của Phật tánh. Trong Phật tánh không có phán xét giá trị. Chỉ trong màn huyễn Maya, trong ảo tưởng tách biệt mới có phán xét giá trị nói rằng một người đặc biệt hơn người khác.

Những lời này liên quan gì tới nỗ lực? Ấy, bất kỳ nỗ lực nào để nâng con lên cao hơn so với người khác không phải là nỗ lực cao hơn. Làm sao có thể được? Khi con bước lên cao hơn và thoát khỏi càng ngày càng nhiều ảo tưởng tách biệt, con bắt đầu nhận ra tổng thể, cho nên mỗi nỗ lực của con có mục đích nâng cao tổng thể, chứ con không nâng cao chính mình như một cá nhân tách biệt.

Mong muốn nâng mình lên cao như một cá nhân tách biệt phát xuất từ ảo tưởng tách biệt và chỉ có thể buộc chặt con vào ảo tưởng đó. Nếu con nâng mình lên để là một đạo sư hoàn hảo và con khiến những người theo con tin điều này, mọi nỗ lực con bỏ ra chỉ làm cho chính con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt, đồng thời giữ những người theo con mắc bẫy sâu hơn trong ảo tưởng tách biệt. Nếu con đọc kỹ những ghi chép, thành thực mà nói khá rời rạc và không đầy đủ, về cuộc đời của Phật và con đọc giữa hai hàng chữ, thì con sẽ thấy điều này – rằng thày không dựng mình lên trong vị thế một sinh thể hoàn thiện. Tuy nhiên con có thể tìm thấy những giáo lý dựng thày lên như vậy, nhưng đây là những giáo lý được thêm vào sau này bởi những người nhìn cuộc đời và giáo lý của Phật qua màn huyễn Maya. Họ đã áp chồng các niềm tin tách biệt của họ lên đó, niềm tin của họ vào sự tách biệt. Và vì vậy họ đã thần tượng hóa Phật, bảo Phật thật quá đặc biệt, cách Phật sinh ra đời đặc biệt đến nỗi Phật là vị đạo sư hoàn hảo duy nhất và độc nhất đã từng xuất hiện trên mặt đất. Đó là lý do tại sao thày có khả năng thần diệu dẫn họ tới giác ngộ mà không cần họ phải bỏ ra nỗ lực vừa khó khăn vừa khó chịu để nhìn vào chính tâm lý mình và khắc phục các dính mắc của mình.

Tất cả đều là ảo tưởng do ngã tách biệt tạo ra. Con không thể khắc phục tách biệt bằng tách biệt. Con không thể tạo ra một ngã tách biệt nắm được cái một, trải nghiệm cái một, nhập vào cái một. Con không thể lấy một ngã tách biệt và hoàn thiện nó để nó đi vào hợp nhất. Con không thể khắc phục một trạng thái tâm thức, khắc phục một vấn đề với cùng trạng thái tâm thức đã tạo ra vấn đề.

Một số người sẽ bảo sao thày cứ lặp đi lặp lại. Khi con đọc lại một số giáo lý nguyên thủy, con sẽ thấy thường có một câu truyện được kể ra để minh họa một điểm nào đó. Sau đó truyện này được kể một lần rồi lần nhì rồi lần ba, trong một số trường hợp còn kể nhiều hơn ba lần. Tại sao vậy? Bởi vì hầu hết những người nghe không nắm bắt được giáo lý lần đầu tiên họ nghe. Con có thể cảm xúc, lý trí và bản sắc. Khi con học một giáo lý thì con nắm bắt nó ở tầng cảm xúc, rồi con học lại và nắm bắt ở tầng lý trí, và con học lại và nắm bắt ở tầng bản sắc. Nếu như con không nắm bắt được ở tầng cảm xúc thì sao? Con có thể dễ dàng đọc giáo lý mà nó không chuyển hóa tâm thức của con. Con hiểu giáo lý qua trí năng và con dùng hiểu biết trí năng này để tạo ra một loại tâm ảnh về giáo lý. Đó không phải là nắm bắt giáo lý.

Nắm bắt giáo lý thật sự nghĩa là gì? Con ghi nhớ ở đây là thày không nói “hiểu biết” mà thày nói “nắm bắt,” thể nhập. Khi con lấy một giáo lý tâm linh đặc trưng và con dùng giáo lý như một tấm gương để soi chính mình, soi phản ứng của mình, soi chính tâm lý mình, và khi con thấy điều gì đó trong mình, con ý thức về nó và buông bỏ nó, thì lúc ấy con đã sử dụng giáo lý, lúc ấy con nắm bắt giáo lý. Con đã đưa giáo lý vào hành động.

13.11. Mục đích thật của một giáo lý tâm linh

Thậm chí còn hơn thế, mục đích của một giáo lý vỏ ngoài là gì? Đó là nối kết con với cội nguồn của giáo lý. Con làm sao nối kết với cội nguồn của giáo lý? À, không phải là qua tâm tách biệt. Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với bất cứ gì vượt quá sự tách biệt? Làm sao tâm tách biệt có thể kết nối với cái một?

Đây con nhìn Phật. Thày đi trên con đường tâm linh nhiều năm. Thày đạt được một tầng nhận biết cao và thày có một chọn lựa. Thày có thể bỏ trái đất lại đằng sau vĩnh viễn và nhập niết bàn. Thày sẽ không mô tả điều gì xảy ra ở niết bàn, nó không liên quan đến cuộc thảo luận ở đây. Thày có chọn lựa bỏ lại trái đất đằng sau. Thay vào đó, thày chọn trở lại một cơ thể vật lý để giáo huấn. Thày muốn thực hiện điều gì? Ấy, thày biết là cơ thể của thày có tuổi thọ giới hạn. Thày biết việc giảng dạy trực tiếp và tương tác với đệ tử chỉ có thể kéo dài một thời gian, do đó mục đích của thày là trao truyền một giáo lý có thể tồn tại lâu hơn thân vật lý của thày và giúp những thế hệ tương lai bước trên đường đạo, chính con đường mà thày đã đi qua để tới được những tầng nhận biết cao hơn.

Có những tầng khác của con đường, như thày đã mô tả, có thể giúp con đi một số bước khác. Cốt lõi của đường tu, mụch đích thật của giáo lý là gì? Ấy, thày đã đạt được một tầng nhận biết cao như thế nào? Thày đạt được bằng cách khắc phục các ảo tưởng, vứt bỏ chúng từng cái một. Sau khi thày bắt đầu khắc phục những ảo tưởng này, chuyện gì bắt đầu xảy ra?  Chuyện bắt đầu xảy ra là thày kết nối với cái ta cao của thày, với Phật tánh trong thày. Thày kết nối với tâm một và thày không làm thế qua trí năng. Thày không làm thế từ một khoảng cách, thày không làm thế bằng cách tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Thày không làm thế bằng cách dùng tâm tách biệt để tạo ra một hình tư tưởng về tâm một. Không đâu, thày làm thế bằng cách bước ra ngoài tâm tách biệt và trải nghiệm trực tiếp tâm một. Đây là mục đích nội tại thật sự của một giáo lý – kết nối con với tâm một bên trong con để con không phóng chiếu là tâm một ở ngoài con.

Đâu là sự thật đằng sau giáo lý nói rằng mọi sự đều là Phật tánh? Con có Phật tánh trong con. Làm thế nào con sẽ tìm thấy Phật tánh? Làm thế nào con tìm được Phật? Chỉ bằng cách nhìn vào bên trong con. Tâm tách biệt, tự ngã không thể nào nắm bắt được điều này. Nó sẽ mãi mãi đi tìm ở ngoài con, ở ngoài chính nó. Con tìm thấy một giáo lý Phật giáo nói về Phật, thế là tâm tách biệt phóng chiếu: “À Phật ở bên ngoài mình. Phật ở kia. Phật ở kia. Phật ở đằng sau tảng đá kia. Phật ở trong hang đá kia trên núi Himalaya. Phật ở trong quyển kinh kia. Phật ở trong pháp tu này.” Có một vị thiền sư Phật giáo đưa ra ý tưởng là nếu con gặp Phật trên đường thì con cần giết Phật. Tại sao thế? Bởi vì nếu con gặp một người và nhận diện người đó là Phật, thì khi làm vậy con sẽ ngăn cản mình nhìn thấy Phật tánh bên trong mình, và điều này sẽ chặn đứng bước tiến của con trên đường đạo. Tốt hơn là con giết con người vỏ ngoài kia – không phải là giết thân vật lý của họ mà giết cái hình tư tưởng trong tâm con – để con còn có cơ hội khám phá Phật tánh trong chính con.

Làm thế nào con khám phá được Phật tánh trong chính con? Không qua hiểu biết trí năng mà qua một trải nghiệm trực tiếp. Điều gì có thể cho con trải nghiệm này? Ấy, thày đã giảng cốt lõi bản thể con là cái Ta Biết, cái ta ý thức. Nó tạo ra nhân cách vỏ ngoài. Nó tạo ra nội dung của tâm cảm xúc, lý trí và bản sắc, nhưng nó không trở thành những nội dung đó. Con đã tạo ra tự ngã nhưng con không trở thành tự ngã. Con chỉ chui vào tự ngã giống như con mặc vào một bộ áo giáp. Con không thể mất đi khả năng bước ra ngoài tự ngã và tâm vỏ ngoài. Khi con ý thức về khả năng này, khi con trau dồi nó, khi con dùng nó, khi con giảm thiểu lực hút của tâm vỏ ngoài trên tâm ý thức của con, thì con sẽ đạt tới một điểm con tự nhiên có trải nghiệm bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình, và do đó con kết nối với cái gì lớn hơn, cái gì vượt quá ý niệm bản ngã bình thường của con. Đây là trải nghiệm tâm một, trải nghiệm Phật tánh trong con.

Đây là mục đích của bất kỳ giáo lý tâm linh đích thực nào. Đây là mục đích của Bát chánh đạo.

13.12. Mục đích của các nỗ lực của con

Cho nên bây giờ con có thể lượng định các nỗ lực của mình. Nỗ lực của con nhắm tới mục đích gì? Phải chăng mục đích là nâng con lên một vị thế nào đó dựa trên những tiêu chuẩn do thế gian quy định? Hay mục đích là cho con trải nghiệm kết nối, trải nghiệm hợp nhất với tâm một, với Phật tánh? Thấy Phật tánh trong con thay vì thấy nó ngoài con. Mục đích của Phật khi trở về từ niết bàn để giáo huấn là gì? Phải chăng là để đời đời nâng mình lên cao khiến cho mọi người trên trái đất phải trầm trồ: “Ồ, ngày xửa ngày xưa, có sinh thể kia toàn hảo tuyệt vời đã bước chân trên mặt đất. Chúng ta phải tôn thờ ngài, chúng ta phải đi theo ngài và một ngày kia ngài sẽ nâng chúng ta lên chỗ toàn hảo?” Có thật chăng là Phật đã chạy theo một cái tôi vĩ đại muốn nâng mình lên trên tất cả mọi người đời đời kiếp kiếp? Nếu con tin như vậy thì con đang ở trong trạng thái tách biệt và con đang phóng chiếu giấc mơ của chính tự ngã của con lên Phật. Thà là con giết ông Phật này đi vì làm vậy còn có thể giúp con tiến bộ, bởi vì việc thờ phượng Phật đó dứt khoát không giúp con tiến bộ.

Thật sự Phật đã muốn gì? Phật muốn đưa ra một tấm gương là bất kỳ người nào cũng có thể đạt một tầng nhận biết cao hơn. Như thế khi nhìn vào Phật như một tấm gương, họ có thể nói: “Điều gì một người làm được thì mọi người cũng đều làm được. Nếu Phật có thể đạt được một trạng thái nhận biết cao thì tôi cũng có thể làm được.” Làm thế nào Phật đạt được nhận biết cao? Bằng cách tìm lại Phật tánh trong chính mình. Phật nói mọi sự đều là Phật tánh, nghĩa là tôi có Phật tánh trong tôi, nghĩa là tôi có thể tìm lại Phật tánh trong tôi bằng cách theo gương và giáo lý của Phật. Nếu tôi phóng chiếu là Phật tánh chỉ có thể hiện ra trong Phật, thì tôi không thật sự là người theo Phật. Tôi không đang dùng giáo lý và tấm gương của Phật. Tôi đang dựng lên một thần tượng và tôn thờ thần tượng đó.

Một lần nữa, nỗ lực của con phải nhắm tới gì? À, mục đích của con trên con đường tâm linh phải là trải nghiệm hợp nhất, trải nghiệm nối kết. Ngay đây con hãy quan sát tâm vỏ ngoài của con đang phản ứng thế nào. Tâm vỏ ngoài của con sẽ nói: “Ồ, để tạo ra trải nghiệm này, để bảo đảm có trải nghiệm này, hẳn tôi phải nỗ lực một cách đặc biệt nào đó.” Nếu con nắm những gì thày nói ở đây, con sẽ thấy sự ngớ ngẩn của lối tiếp cận đó. Không có nỗ lực nào dựa trên ảo tưởng tách biệt mà có thể bảo đảm sản xuất ra trải nghiệm hợp nhất. Điều con cần làm là không nỗ lực, không cố gắng tốt hơn, không cố gắng mãnh liệt hơn. Con cần ngưng cố gắng. Con cần ngưng những nỗ lực của ngã tách biệt muốn chế tạo tiến bộ tâm linh.

Nhưng này con, thày đã nói có những nỗ lực con có thể làm để khắc phục các ảo tưởng, tuy nhiên không có nỗ lực nào con có thể làm để trải nghiệm cái một. Để trải nghiệm cái một, con phải ngưng nỗ lực. Con thật sự phải cho tâm con im lặng, nhưng làm thế nào con làm cho tâm im lặng? Tâm con sẽ hỏi, tôi phải nỗ lực thế nào để tôi im lặng? Chẳng có nỗ lực nào con có thể làm được.

13.13. Nỗ lực để ngừng tâm lại

Nhiều người, thật nhiều người trong truyền thống Phật giáo đã thiền quán và thấy rõ tâm họ luôn xen vào. Tâm khỉ luôn xẹt ra ý tưởng, nên họ nghĩ họ phải tìm ra một nỗ lực cao hơn để khiến tâm im bặt. Con càng nỗ lực làm cho tâm im lặng thì kỳ thực con càng dùng tâm nhiều hơn, do đó con càng kẹt hơn trong tâm mình. Nghĩ rằng con có thể dùng tâm để làm cho tâm im lặng chỉ biến thành một cái bẫy, một cái bẫy khác. Vậy con làm được gì đây? À, con có thể tiến bước trên đường tu, con có thể dùng những giáo lý mà thày cho con ở đây. Và khi con khắc phục những ngã tách biệt, sẽ có những lúc con trải nghiệm một cách tự phát là mình đang bước ra ngoài ý niệm bản ngã bình thường của mình và nối kết với cái gì vượt lên trên chính tâm mình.

Trải nghiệm hợp nhất không phải là điều gì con có thể chế tạo, mà đó là một điều con nhận được. Con có thể xem đó như một món quà hay một hồng ân, nhưng con hãy cẩn thật đừng nghĩ là có một lực bên ngoài nào đó ban cho con hồng ân này. Nó chỉ xảy ra một cách tự phát khi con bước trên đường tu. Cho nên con cần kiên nhẫn với chính mình, tiếp tục bước đi trên đường tu và chờ nó xảy ra. Nói theo một khía cạnh nào đó, con đừng dính mắc là nó có xảy ra hay không xảy ra, bởi vì nếu con muốn nó xảy ra thì con đang làm gì? Con đang dùng tâm vỏ ngoài để cố gắng cho nó xảy ra, và điều này sẽ đẩy nó xa hơn khỏi con. Nhiều, rất nhiều người tâm linh quả thực đã đạt đến một mức loại bỏ dược nhiều chướng ngại trong tâm. Họ có khả năng trải nghiệm sự kết nối với tâm cao của họ vì các thể cảm xúc, lý trí và bản sắc của họ đã đủ thông thoáng. Họ có khả năng làm được, nhưng trong tâm ý thức họ quá mức tập trung vào nỗ lực, cho nên họ đẩy trải nghiệm này xa khỏi họ.

Không có nỗ lực nào con có thể bỏ ra. Con chỉ có thể từ bỏ nỗ lực. Con có thể xả bỏ. Con có thể buông bỏ. Buông bỏ sự dính mắc. Nhiều người tâm linh bị dính mắc muốn có những trải nghiệm tột đỉnh này, và sự dính mắc ngăn cản tâm họ buông bỏ và do đó đẩy trải nghiệm ra xa. Nhiều người đã làm chuyện này hàng chục năm trời, thậm chi cả nhiều kiếp, liên tục tập trung quá đỗi trong tâm thay vì buông ra. Hầu hết những ai cởi mở với giáo lý này đều đã có một mức thông thoáng nào đó trong tâm mình. Cho nên con có thể ngay lúc này trải nghiệm sự kết nối, nhưng con sẽ chỉ trải nghiệm kết nối khi con có thể buông bỏ. Thay vì ở trong trạng thái tâm bình thường của con hay ở trong tâm muốn có một trải nghiệm nào đó, con đi vào trạng thái tâm hoàn toàn trung hòa. Bất cứ chuyện gì cứ việc xảy ra. Nếu con có trải nghiệm thì con có trải nghiệm. Nếu con không có trải nghiệm thì con cứ tiếp tục bước trên đường tu.

Trên đường tâm linh con có thể có những nỗ lực sẽ giúp con tăng triển. Có những nỗ lực con có thể áp dụng sẽ dần dần đưa con lên những tầng cao hơn và cao hơn nữa. Sẽ tới một tầng trên đường tu khi con cũng cần suy ngẫm xem là vượt quá nỗ lực – và thày không nói là con phải ngừng nỗ lực – nhưng vượt quá nỗ lực, liệu con có cần vun trồng khả năng không nỗ lực. Con buông bỏ, con phó thác, con xả bỏ để xuôi theo dòng sông sự sống, cho dù con muốn nhìn cách nào. Con không nỗ lực. Nỗ lực tối cao là không nỗ lực.

Với những lời này, thày niêm con. Đối với thày, bài giảng thật dài này được trao truyền hoàn toàn không cố gắng. Liệu con đã có cố gắng khi học bài giảng này hay chăng? Ấy, vậy thì con hãy suy ngẫm những gì thày vừa nói về buông bỏ, vì con có thể đạt tới điểm khi việc học hỏi và thể nhập bài giảng trở nên không cố gắng, và đó là lúc con đã nắm được nỗ lực cao hơn một cách trọn vẹn.